"Các ngươi sẽ thấy các thiên thần Chúa lên xuống trên Con Người".
* Chúng ta mừng các vị tổng lãnh thiên thần, nhưng đồng thời cũng mừng tất cả các thiên sứ được nhắc tới từ sách Sáng Thế cho tới sách Khải Huyền. Các vị hiện diện cách vô hình để hướng dẫn dòng lịch sử cứu độ.
Tuy các vị là những sứ giả của Chúa, có nhiệm vụ bộc lộ cho con người biết các kế hoạch của Chúa và mang tới lệnh Người truyền, nhưng trước hết các vị là cộng đoàn đông đảo những vị thờ lạy Thiên Chúa hằng sống.
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy Nathanael đi tới Mình, thì nói về ông rằng: "Ðây thật là người Israel, nơi ông không có gì gian dối". Nathanaen đáp: "Sao Ngài biết tôi?" Chúa Giêsu trả lời rằng: "Trước khi Philipphê gọi ngươi, lúc ngươi còn ở dưới cây vả, thì Ta đã thấy ngươi". Nathanael thưa lại rằng: "Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel". Chúa Giêsu trả lời: "Vì Ta đã nói với ngươi rằng: Ta đã thấy ngươi dưới cây vả, nên ngươi tin. Ngươi sẽ thấy việc cao trọng hơn thế nữa". Và Người nói với ông: "Thật, Ta nói thật với các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và các thiên thần Chúa lên xuống trên Con Người".
Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng dựng nên muôn vật hữu hình cùng vô hình. Các thụ tạo vô hình ở đây chính là chư vị thiên thần. Chư vị này sống gần bên Thiên Chúa để phục vụ Ngài và nhân loại. Hơn nữa, các thiên thần là những người đã phục vụ Đức Giêsu Kitô, từ khi Ngài chào đời đến khi Ngài quang lâm. Sứ thần Gabrien được Thiên Chúa sai đến với trinh nữ Maria để loan báo về sự hạ sinh của Đấng Cứu Độ (Lc 1, 26). Ta nghe tiếng ngợi khen của muôn vàn thiên binh cùng với sứ thần trong đêm Con Thiên Chúa giáng sinh trên trái đất (Lc 2, 13). Ta cũng thấy các thiên thần hiện ra để phục vụ Đức Giêsu (Mt 4, 11), sau khi Ngài chiến thắng những cám dỗ của quỷ dữ nơi hoang địa. Khi Đức Giêsu bị xao xuyến trước cái chết sắp đến, một thiên thần từ trời đã đến tăng sức cho Ngài (Lc 22, 43). Ngài đã không tránh né cái chết bằng cách xin Cha cấp cho mình mười hai đạo binh thiên thần (Mt 26, 53). Tin Vui Phục sinh được loan báo bởi các thiên thần từ mộ trống (Lc 24, 6). Vào ngày tận thế, các thiên thần của Đức Giêsu sẽ đi theo Ngài khi Ngài trở lại trong vinh quang để phán xét cả thế giới (Mt 16, 27). Đức Giêsu nay ngự bên hữu Thiên Chúa trên trời, trổi vượt trên các thiên thần và được các thiên thần thờ lạy (Dt 1, 4. 6). Câu cuối của bài Tin Mừng hôm nay cũng nói đến tương quan giữa Đức Giêsu và các thiên thần. Trong lần gặp gỡ với Nathanaen và các bạn của ông Đức Giêsu đã long trọng hứa là họ sẽ thấy trời rộng mở, và “các thiên thần lên lên xuống xuống trên Con Người” (c. 51). Trong một giấc mộng, Giacóp đã chiêm bao thấy “một chiếc thang dựng dưới đất, đầu thang chạm tới trời, trên đó có các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống” (St 28, 12). Đức Giêsu nhận mình chính là chiếc thang đó, là Đấng Trung Gian nối đất với trời, nối Thiên Chúa với nhân loại. Các thiên thần cũng phải qua Ngài mà đến phục vụ con người. Các thiên thần cũng là những đấng trung gian được sai đi, nhưng họ phải qua Đấng Trung Gian duy nhất và đích thực, vì Đấng đó vừa trọn vẹn là người, vừa trọn vẹn là Thiên Chúa. Lên lên xuống xuống trên thang Giêsu là việc của các thiên thần. Lên với Thiên Chúa để dâng cho Ngài nỗi thống khổ của nhân loại. Xuống với nhân loại để mang cho họ ân lộc và sứ điệp từ trời. Thiên thần vừa gần với con người, vừa gần với Thiên Chúa, vừa tựa trên đất, vừa đụng tới trời, nên kéo trời xuống đất và đưa đất lên trời. Xin được quyền năng của Sứ thần Micae: Ai bằng Thiên Chúa. Xin được sức mạnh của Sứ thần Gabrien: Thiên Chúa hùng dũng. Xin được ơn lành mạnh của Sứ thần Raphaen: Thiên Chúa chữa lành. Kitô hữu là người hạnh phúc vì biết mình được nâng đỡ chở che. Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng con tôn thờ, xin giúp con quên mình hoàn toàn để ở lại trong Chúa, lặng lẽ và an bình như thể hồn con đã sống trong vĩnh cửu.
Lạy Đấng thường hằng bất biến, mong sao không gì có thể khuấy động sự bình an của con, hay làm cho con ra khỏi Chúa; nhưng ước chi mỗi phút lại đưa con tiến xa hơn vào chiều sâu của mầu nhiệm Chúa! Xin làm cho hồn con bình an thanh thản, xin biến hồn con thành chốn trời cao, thành nơi cư ngụ dấu yêu của Chúa, nơi Chúa nghỉ ngơi. Ước chi con không bao giờ để Chúa ở đó một mình nhưng con luôn có mặt, với trọn cả con người, với thái độ nhạy bén trong đức tin, cung kính tôn thờ và phó mình cho Chúa sáng tạo. (Lời nguyện của chân phước Elisabeth de Trinité)
Sứ điệp: Thiên thần và loài người đều có bổn phận và quyền lợi là phụng sự Thiên Chúa. Chính việc phụng sự Thiên Chúa đem lại hạnh phúc đời đời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên các thiên thần là loài thiêng liêng luôn chiêm ngưỡng, thờ lạy, tôn vinh Chúa. Các ngài còn được sai đi thi hành lệnh truyền của Chúa để giúp đỡ loài người.
Hôm nay, con mừng kính ba vị: Mi-ca-en, Gáp-ri-en và Ra-pha-en với tước vị cao trọng Tổng Lãnh Thiên Thần. Các Ngài đã tuyệt đối trung thành yêu mến và triệt để thi hành lệnh truyền của Chúa. Nhờ lòng yêu mến và trung thành trọn vẹn với Chúa, Chúa đã cho các Ngài được nâng lên và sáng láng trong vinh quang nước Chúa. Hợp với các thiên thần, con xin dâng Chúa lời chúc tụng, tôn vinh và cảm tạ Chúa.
Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa đã thương ban cho con có các thiên thần. Các ngài luôn giúp con sống yêu mến, trung thành và mau mắn làm theo Ý Chúa. Các ngài vẫn luôn đồng hành và phù trợ con để con được sống bằng an trong tình yêu Chúa. Xin Chúa soi sáng để con ghi nhớ hồng ân trọng đại này và cộng tác với các thiên thần để phụng thờ Chúa suốt cả đời sống con. Và con sẽ luôn giúp đỡ, yêu thương mọi người để nên giống các thiên thần. Xin đừng bao giờ để con ghen ghét, thù hằn anh em như loài quỷ dữ.
Lạy Chúa, cuộc sống con luôn bị quỉ dữ tấn công. Đó là các thiên thần phản loạn, chống lại Chúa và rình rập loài người. Xin Chúa luôn sai các thiên thần đến giúp con chiến đấu chống lại ma quỉ, để con trung thành, yêu mến và phụng sự Chúa mà thôi. Xin Chúa chúc lành cho ước nguyện chân thành của con. Amen.
Ghi nhớ: ”Các ngươi sẽ thấy các thiên thần Chúa lên xuống trên Con Người”.
Tại Tây phương, nhiều cuộc hiển linh của Tổng lãnh Thiên thần Micae càng làm cho việc sùng kính khởi sắc hơn, như tại núi Gargano miền Nam nước Ý, dưới thời Đức Gelase (192 - 196).
Tại Pháp, Tổng lãnh Thiên thần Micae cũng đã hiện ra với nhiều người, đặc biệt năm 708, ngài hiện ra với Ðức Giám mục thành Arranche và Ðức Giám mục đã xây một thánh đường nguy nga để kính dâng Ðức Micae tại Mont Saint Michel. Từ đó, nơi đây đã trở nên một vị trí hành hương lớn. Theo thánh nữ Gioanne d’Arc, Tổng lãnh Thiên thần Micae đã thúc giục bà đi gặp vua Charles VII để lên đường đi cứu nước.
Suy niệm
Micae, danh từ Hêbrơ có nghĩa “ai bằng Thiên Chúa” ám chỉ sự siêu việt của Thiên Chúa, được nói đến trong sách Đanien (10,13-21) và trong sách Khải huyền của thánh Gioan (12,7) như vị chiến thắng ma quỷ.
Tổng lãnh Thiên thần Micae đã chống lại thần dữ để bênh vực quyền tối cao của Thiên Chúa. Giáo hội nhận thiên thần Micae như Ðấng bảo trợ và tin rằng ngài vẫn dâng lời cầu nguyện của chúng ta lên ngai tòa Chúa.
Raphael tiếng Hêbrê có nghĩa là “Thiên Chúa chữa lành” hoặc “thầy thuốc của Thiên Chúa”. Sách Tôbia cho biết, chính ngài đã được Thiên Chúa sai đến giúp đỡ gia đình ông Tôbit trong cơn hoạn nạn. Trong câu chuyện này, ngài xuất hiện để dẫn dắt con ông Tôbit là Tôbia qua những cuộc mạo hiểm dị thường mà sau cùng dẫn đến một kết quả thật tốt đẹp: Tôbia kết hôn với Sarah, ông Tôbit được chữa khỏi mù mắt và tài sản của gia đình ông được hồi phục. Người đã cho hai cha con biết: “Ta là Raphael, một trong bảy khâm sai của Thiên Chúa hằng ở bên cạnh Ngài trong huy hoàng của Ngài hiện diện”. Thiên Chúa quan phòng hằng hoạt động trong đời con người và hằng nghe lời cầu xin. Raphael là đấng được nhiều người đến cầu xin cho thể xác khang an, linh hồn khỏe mạnh và là quan thầy người đi đường.
Gabriel, danh xưng Hêbrê có nghĩa là “Thiên Chúa là sức mạnh”, cũng còn được gọi là “Sứ thần truyền tin”, được gửi đến để báo tin Thiên Chúa can thiệp vào việc cứu rỗi nhân loại và Đấng Mêssia sẽ đến thực hiện. Gabriel được gửi đến với ngôn sứ Đanien (x. Đn 8,16; 9,21-27), với ông Dacaria và Đức Maria (x. Lc 1,11-38). Đây cũng là sứ thần đã nhiều lần hiện ra báo mộng cho thánh Giuse. Thánh Bernarđô nhận định: “Trong tất cả các thiên thần, đức Gabriel đã được thấy là vị xứng đáng loan báo những chương trình của Thiên Chúa cho Đức Mẹ và đón nhận lời fiat (xin vâng) của Mẹ”.
Chiêm ngưỡng ba vị Tổng lãnh Thiên thần Micae, Raphael và Gabriel trong chương trình của Thiên Chúa uỷ thác, như Chúa Giêsu nói bằng hình ảnh: “Các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và các thiên thần Chúa lên xuống trên Con Người” (Ga 1,51), Thiên Chúa cũng có chương trình tốt đẹp nhất dành cho chúng ta, Ngài luôn là Đấng lên tiếng mời gọi chúng ta tham gia: “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con”.
Chúng ta hãy xin ba Đức Tổng Thiên thần luôn hướng dẫn chúng ta giữa những quyết định cần phải thực hiện trong cuộc sống: Luôn tìm ra thánh ý Thiên Chúa.
Ý lực sống
“Hãy chúc tụng Chúa đi, chư binh toàn thể,
chư vị thần hạ thừa hành ý muốn của Chúa” (Tv 103,21).
Theo sách thánh thì Thiên Chúa đã dựng nên một loài thần đông vô số, và các thánh tiến sĩ thì nói có lẽ các thần này được dựng nên trong ngày thứ nhất khi bắt đầu công việc tạo dựng.
Thiên Chúa dựng nên loài thiên thần để chầu chực hầu hạ Đức Chúa Trời, giúp đỡ loài người và gìn giữ vũ trụ.
Theo như các lần các ngài hiện ra thì ta thấy các ngài là đấng thiêng liêng, tốt lành, quyền phép, mạnh mẽ và mau lẹ.
Trước khi các ngài được tiếp nhận vào trong nước của Thiên Chúa thì các ngài đã phải trải qua một cuộc thử thách. Trong cuộc thử thách này có một số đông đã tỏ ra không chịu phục tùng Thiên Chúa. Đứng đầu là Luxiphe.
MICAE
Theo sách Khải huyền của thánh Gioan thì khi ấy trên trời có một trận chiến to tát. Một bên do Đức Micae lãnh đạo, bên kia là do Luciphe. Micae là thiên thần dũng mãnh đã anh dũng tống cổ Luciphe và bè lũ theo hắn ra khỏi thiên đàng dưới khẩu hiệu: “AI BẰNG THIÊN CHÚA”. Khẩu hiệu này sau đã trở thành tên của ngài.
Hôm nay Giáo hội mừng kính thánh Micae vị thủ lãnh các thiên thần lành trên trời và còn là bổn mạng của Giáo hội dưới thế. Chính Ngài đã nhiều lần hiện xuống trần gian với nhiều nhiệm vụ khÿc nhau để thực hiện sứ mạng cao cả của Ngài.
Chúng ta hãy bắt chước Ngài: luôn trung thành với Chúa. Mỗi khi chúng ta bị thế gian xác thịt cám dỗ muốn xa lìa Chúa, chúng ta hãy lập lại lời của Ngài: Ai bằng Thiên Chúa? Vâng! Chẳng ai bằng Thiên Chúa cả. Tiền bạc, vui sướng xác thịt, chức quyền không có gì sánh được với Thiên Chúa cả.
Không có một ai, một vật nào được phép đứng ngang hàng với Thiên Chúa của chúng ta. Chỉ có Thiên Chúa mới là đấng tốt lành, thánh thiện, mạnh mẽ phép tắc vô cùng. Người nhân từ vô biên, hiểu biết mọi sự, làm được mọi sự. Ngài là cội rễ mọi sự, là cùng đích của mọi loài. Không ai bằng Thiên Chúa.
RAPHAE
Raphael xuất hiện ở trong Cựu Ước. Cựu Ước nói về Raphael như thế này:
“Ông Tobia người Do thái thuộc chi họ Neptali bị bắt làm tôi mọi bên nước Assyria vì dân Do thái bị bại trận. Thời gian ở đất khách quê người Tobia luôn giữ lòng trung thành làm tôi Chúa. Ông bị tai nạn làm cho đôi mắt bị mù hoàn toàn. Gia đình ông túng đói quá không có cách nào xoay trở. Lúc đó ông nhớ đến món tiền trước kia ông đã cho nhà Gabelo mượn. Ông sai người con của ông cũng có tên là Tobia -để khỏi lầm lẫn sau này người ta gọi là Tobia-con- đến nhà Gabelo để xin lại món tiền đã cho vay. Tobia-con sẵn sàng vâng lời những Tobia-con không biết đường đi. Tổng lãnh Raphael đã hiện ra dưới hình dạng một người thanh niên để đẫn đường. Dọc đàng Raphael cứu Tobia-con khỏi bị cá nuốt. Tới nơi Raphael còn giúp cho Tobia-con cưới được vợ là Sara và đồng thời còn đòi nợ giùm Tobia.
Công việc xong, Tobia-con cùng với vợ trở về nhà. Raphael bảo cho Tobia-con lấy mật cá mà xức vào mắt cho Tobia cha. Tobia cha được khỏi mù. mắt được sáng trở lại, cha con Tobia hết sức vui mừng. Đứng trước những ơn mà cả nhà vừa mới được: đòi được nợ, cưới được vợ, lại khỏi bị mù cha con ông Tobia muốn lấy phân nửa số tiền đòi được để gọi là đền ơn đáp nghĩa đối với người thanh niên đã tận tình giuó đỡ gia đình mình. Khi ấy “người thanh niên” tốt lành đó mới tỏ ra cho cha con Tobia biết mình là thiên thần của Thiên Chúa đã được sai đến để giúp đỡ gia đình ông. Nói xong điều đó thiên thần liền biến đi.
Câu truyện của cha con Tobia cho chúng ta thấy Thiên Chúa hằng yêu thương chăm sóc những kẻ kính sợ Người. Raphael có nghĩa là “THẦY THUỐC CỦA THIÊN CHÚA”
GABRIE
Tên Gabriel có nghĩa là “Sức mạnh của Thiên Chúa”.
Chính đức Gabriel đã hiện ra với tiên tri Đaniel để cho Đaniel biết Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra.
Chính đức Gabriel đã hiện ra với Giacaria báo tin cho ông biết ông sẽ sinh được một người con trai và đặt tên là Gioan.
Luca ghi lại quang cảnh cảm động này như sau: “Khi ấy ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong đền thờ của Đức Chúa. Sứ thần của Chúa hiện ra với ông...thấy vậy ông bối rối. Sự sợ hãi ập xuống trên ông. Những sứ thần bảo ông: “Này ông Giacaria, đừng sợ vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin. Bà Elidabeth vợ của ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai và ông phải đặt tên cho con là Gioan”
Ông thưa lại: “Dựa vào đâu mà tôi biết được điêu ấy? Vì tôi đã già và bà nhà tôi cũng đã lớn tuổi.?
Sứ thần đáp lại: “Tôi là Gabriel, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa. Tôi được sai đến với ông và loan báo Tin vui đó cho ông. Và này đây ông sẽ bị câm không nói được cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không chịu tin lời tôi là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi” (Lc 1,1-20) vv. Và sau đó mọi việc xẩy ra như thế nào thì chúng ta đều đã được biết.
Rồi cũng theo Tin Mừng của Luca, sau sáu tháng, sứ thần Gabriel còn được Thiên Chúa gửi đến trần gian với một sứ mạng còn cao trọng hơn nhiều: Đó là sứ mạng truyền tin cho Đức Maria. Nếu Giacaria đã ngỡ ngàng thì Đức Mẹ còn ngỡ ngàng hơn. Việc của Giacaria với bà Elidabeth chỉ là việc giữa con người với con người. Còn việc của Đức Maria là việc của Thiên Chúa: “Thánh thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng đấng tối cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế người con do bà sinh ra sẽ là thánh và được gọi là con Thiên Chúa”
Sau tiếng Xin vâng của Đức Mẹ, cả vũ trụ đều phải nhảy mừng.
Thi sĩ Hàn mặc Tử chỉ nghĩ đến biến cố này thôi cũng đã phải run rảy mà thốt lên như sau:
“Hỡi sứ thần Thiên Chúa Gabriel. Khi người xuống truyền tin cho thánh nữ Người có nghe xôn xao muôn tinh tú Người có nghe náo động cả muôn loài?”
Chúng ta hãy cám ơn Chúa vì Chúa đã thực hiện những việc lạ lùng trước mắt chúng ta.
Thuật ngữ Thánh Kinh dùng để gọi các thiên thần đều có nghĩa là “sứ giả”. Theo thư Do Thái 1,14, các thiên thần là những thần linh phục vụ cho Thiên Chúa, và Thiên Chúa sai họ đến với những người cần được cứu giúp.
Cựu Ước cũng gọi họ là “Các Thánh” hay là “những người con của Thiên Chúa”. Nổi bật nhất giữa các thiên thần là các đấng Michael, Kêrubim và Sêraphim.
Michael, có nghĩa: “Ai ví bằng Thiên Chúa”
Gabriel, có nghĩa: “Sức Mạnh của Thiên Chúa” hay là “Anh hùng của Thiên Chúa”
Rafael, có nghĩa: “Thiên Chúa cứu giúp”
Thánh lễ hôm nay bắt nguồn từ lễ thánh hiến Đền thờ Michael trên đường Via Salaria ở Rôma. Ngày hôm nay cùng với Tổng lãnh thiên thần Michael, Hội Thánh cũng mừng chung hai tổng lãnh thiên thần Gabriel và Rafael. Theo lịch xưa, các ngài được mừng vào những ngày 24.3 và 24.10. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
B. Ý NGHĨA...
Thánh Kinh cách chung và Tân Ước cách riêng tương đối nói ít về các thiên thần. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay chỉ có một câu “Các thiên thần của Thiên Chúa lên xuống trên Con Người”. Đây là sự tích lấy lại hình ảnh chiếc thang Giacóp, như một nhịp cầu nối trời và đất, Thiên Chúa và loài người. Chúa Giêsu áp dụng hình ảnh này vào bản thân Ngài: Ngài cũng là trung gian giữa Thiên Chúa với loài người. Các thiên thần góp phần tích cực vào sứ mạng trung gian ấy.
1. Micae là tổng lãnh tất cả các thiên thần. Ngài đã lãnh đạo các thiên thần khác chiến đấu với Luxiphe. Nhắc tới Ngài là người ta nhớ lại câu Ngài nói “Ai bằng Thiên Chúa?”.
Theo sách Khải huyền của thánh Gioan thì khi ấy trên trời có một trận chiến to tát. Một bên do Đức Micae lãnh đạo, bên kia là do Luciphe. Micae là thiên thần dũng mãnh đã anh dũng tống cổ Luciphe và bè lũ theo hắn ra khỏi thiên đàng dưới khẩu:”AI BẰNG THIÊN CHÚA”. Khẩu hiệu này sau đã trở thành tên của ngài.
Chúng ta hãy bắt chước Ngài: luôn trung thành với Chúa. Mỗi khi chúng ta bị thế gian xác thịt cám dỗ muốn xa lìa Chúa, chúng ta hãy lập lại lời của Ngài: Ai bằng Thiên Chúa? Vâng! Chẳng ai bằng Thiên Chúa cả. Tiền bạc, vui sướng xác thịt, chức quyền không có gì sánh được với Thiên Chúa cả.
2. Gabriel là thiên thần truyền tin (Lc 1,19: Truyền tin cho ông Dacaria; Lc 1,26: truyền tin cho Đức Mẹ). Ngài tuân lệnh Thiên Chúa mang sứ điệp Thiên Chúa đến cho loài người.
Tên Gabriel có nghĩa là “Sức mạnh của Thiên Chúa”.
Chính đức Gabriel đã hiện ra với tiên tri Đaniel để cho Daniel biết Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra.
Chính đức Gabriel đã hiện ra với Giacaria báo tin cho ông biết ông sẽ sinh được một người con trai và đặt tên là Gioan.
Luca ghi lại quang cảnh cảm động này như sau: “Khi ấy ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong đền thờ của Đức Chúa. Sứ thần của Chúa hiện ra với ông ...thấy vậy ông bối rối. Sự sợ hãi ập xuống trên ông. Những sứ thần bảo ông: “Này ông Giacaria, đừng sợ vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin. Bà Elizabeth vợ của ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai và ông phải đặt tên cho con là Gioan”
Ông thưa lại: “Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã già và bà nhà tôi cũng đã lớn tuổi.?
Sứ thần đáp lại: “Tôi là Gabriel, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa. Tôi được sai đến với ông và loan báo Tin vui đó cho ông. Và này đây ông sẽ bị câm không nói được cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không chịu tin lời tôi là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi. (Lc 1,1-20) vv. Và sau đó mọi việc xảy ra như thế nào thì chúng ta đều đã được biết.
Rồi cũng theo Tin Mừng của Luca, sau sáu tháng, sứ thần Gabriel còn được Thiên Chúa gửi đến trần gian với một sứ mạng còn cao trọng hơn nhiều: Đó là sứ mạng truyền tin cho Đức Maria. Nếu Giacaria đã ngỡ ngàng thì Đức Mẹ còn ngỡ ngàng hơn. Việc của Giacaria với bà Elizabeth chỉ là việc giữa con người với con người. Còn việc của Đức Maria là việc của Thiên Chúa: “Thánh thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng đấng tối cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế người con do bà sinh ra sẽ là thánh và được gọi là con Thiên Chúa”
Sau tiếng Xin vâng của Đức Mẹ cả vũ trụ đều phải nhảy mừng. Thi sĩ Hàn mặc Tử chỉ nghĩ đến biến cố này thôi cững đã phải run rẩy mà thốt lên như thế này:
“Hỡi sứ thần Thiên Chúa Gabriel. Khi người xuống truyền tin cho thánh nữ Người có nghe xôn xao muôn tinh tú Người có nghe náo động cả muôn loài?”
Chúng ta hãy cám ơn Chúa vì Chúa đã thực hiện những việc lạ lùng trước mắt chúng ta.
3. Raphael là vị thiên thần đã đưa đường dẫn lối cho Tôbia con, nhờ đó Tôbia bình an trong cuộc hành trình nhiều nguy hiểm, cưới được vợ hiền và chữa được bệnh cho cha già. Trước khi từ biệt gia đình Tôbia, Ngài cho biết thêm là Ngài luôn ở trước mặt Chúa để dâng những công nghiệp của loài người lên cho Thiên Chúa.
Cựu Ước nói về Raphael như thế này:
“Ông Tobia người Do thái thuộc chi họ Neptali bị bắt làm tôi mọi bên nước Assyria vì dân Do thái bị bại trận. Thời gian ở đất khách quê người Tobia luôn giữ lòng trung thành làm tôi Chúa. Ông bị tai nạn làm cho đôi mắt bị mù hoàn toàn. Gia đình ông túng đói quá không có cách nào xoay trở. Lúc đó ông nhớ đến món tiền trước kia ông đã cho nhà Gabelo mượn. Ông sai người con của ông cũng có tên là Tobia - Để khỏi lầm lẫn sau này người ta gọi là Tobia-con- đến nhà Gabelo để xin lại món tiền đã cho vay. Tobia-con sẵn sàng vâng lời những Tobia-con không biết đường đi. Tổng lãnh Gabriel đã hiện ra dưới hình dạng một người thanh niên để dẫn đường. Dọc đàng Raphael cứu Tobia-con khỏi bị cá nuốt. Tới nơi Gabriel còn giúp cho Tobia-con cưới được vợ là Sara và đồng thời còn đòi nợ giùm cho Tobia.
Công việc xong,Tobia-con cùng với vợ trở về nhà. Raphael bảo cho Tobia-con lấy mật cá mà xức vào mắt cho Tobia cha. Tobia cha được khỏi mù, mắt được sáng trở lại, cha con Tobia hết sức vui mừng. Đứng trước những ơn mà cả nhà vừa mới được: đòi được nợ, cưới được vợ, lại khỏi bị mù cha con ông Tobia muốn lấy phân nửa số tiền đòi được để gọi là đền ơn đáp nghĩa đối với người thanh niên đã tận tình giúp đỡ gia đình mình. Khi ấy “người thanh niên” tốt lành đó mới tỏ ra cho cha con Tobia biết mình là thiên thần của Thiên Chúa đã được sai đến để giúp đỡ gia đình ông. Nói xong điều đó thiên thần liền biến đi.
Câu chuyện của cha con Tobia cho chúng ta thấy Thiên Chúa hằng yêu thương chăm sóc những kẻ kính sợ Người. Raphael có nghĩa là “THẦY THUỐC CỦA THIÊN CHÚA”
Xin được kết thúc bằng câu chuyện thật đẹp này:
Một tu sĩ sống cuộc đời hạnh phúc và an vui trong bốn bức tường của Tu viện. Đời sống tu trì đã biến đổi cuộc đời và tâm hồn của ông trở nên tốt lành, đến nỗi mọi người đều gọi ngài là ông thánh nhỏ.
Ngày nọ, đang lúc ngài đang bắt tay vào rửa chén dĩa, thì một Thiên thần hiện ra và nói:
- Thiên Chúa sai ta đến là để báo cho ngươi là giờ ngươi lìa đời đã đến.
Tu sĩ vẫn điềm nhiên và vui vẻ trả lời:
- Tạ ơn Chúa đã thương nghĩ đến tôi, nhưng như ngài thấy đó, tôi còn phải rửa hàng chồng chén dĩa, tôi không muốn tỏ ra vô ơn với Thiên Chúa, nhưng liệu giờ tôi được hưởng nhan thánh của Người có thể hoãn lại sau khi làm xong bổn phận rửa chén dĩa này không? .
Nói xong, Thiên thần biến đi. Tu sĩ trở lại công việc bổn phận một cách hăng say như quên hẳn việc gặp gỡ Thiên thần.
Bẵng đi một thời gian, trong lúc vị tu sĩ đang làm cỏ ngoài vườn, Thiên thần hiện ra. Như đoán trước ý nghĩ của Thiên thần, vị tu sĩ giơ tay chỉ mảnh đất trong vườn và nói:
- Đây ngài xem, cỏ dại mọc đẩy vườn, liệu giờ tôi vào cõi đời đời có thể hoãn lại cho đến khi tôi làm xong cỏ không?.
Cũng như lần trước, Thiên thần chỉ mỉm cười rồi biến mất.
Một ngày nọ, trong lúc vị tu sĩ đang chăm sóc các bệnh nhân, thì Thiên thần hiện ra. Lần này vị tu sĩ không nói một lời, nhưng chỉ giơ tay chỉ vào các bệnh nhân nằm trên giường. Thiên thần biến đi không nói một lời nào. Chiều đến, vị tu sĩ trở lại căn phòng nhỏ bé đơn sơ của mình, bỗng chốc, ông cảm thấy mình đã già nua, mệt mỏi; ông thốt lên lời cầu nguyện:
- Lạy Chúa, xin sai Thiên thần Chúa đến, con sẽ sẵn sàng theo Ngài
Lời cầu nguyện vừa dứt, Thiên thần Chúa hiện đến; vị tu sĩ mừng rỡ:
- Lần này, nếu Thiên thần mang tôi đi, tôi sẵn sàng theo ngài về thiên quốc.
Thiên thần nhìn tu sĩ với tất cả âu yếm và nói:
- Này ông thánh nhỏ ơi, sao còn mơ ước về thiên quốc, những ngày tháng vừa qua, ông nghĩ là mình đã ở đâu?
Hôm nay toàn thể Giáo Hội mừng lễ kính các tổng lãnh thiên thần Micaen, Gabrien và Raphaen. Xin được gợi ý suy niệm ba điểm sau đây: Sự hiện diện của các thiên thần; sứ mạng của các ngài; nhiệm vụ của chúng ta đối với các thiên thần.
Sự hiện diện của các thiên thần
Là người Kitô hữu, chúng ta xác tín về sự hiện diện của các thiên thần. Có vô số các thiên thần. Có các tổng lãnh thiên thần. Có các thiên thần bản mệnh. Đó là chân lý đức tin. Sách Giáo lý Giáo Hội Công Giáo số 328 dạy rằng: “Sự hiện hữu của các hữu thể thiêng liêng, không có thân xác mà Thánh Kinh thường gọi là các thiên thần, là một chân lý đức tin. Chứng từ của Thánh Kinh cũng rõ ràng như toàn thể Thánh Truyền.”
Thật vậy, từ Cựu Ước sang Tân Ước, nơi này nơi khác làm chứng cho chúng ta về sự hiện diện của các Thiên Thần. Xin được đơn cử một vài dẫn chứng: Thánh vịnh 103 diễn tả:
“Chúc tụng Chúa đi, hỡi muôn vì thiên sứ
Bậc anh hùng dũng mãnh thực hiện lời Người
Luôn sẵn sáng phụng lệnh” (Tv 103,20)
Các Thiên Thần hát mừng Chúa trong đêm Giáng Sinh: “Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,13-14)
Trong ba năm giảng đạo, Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắc đến các Thiên Thần. Ngài cho biết rằng, dù là kẻ bé mọn thì cũng có các Thiên Thần đồng hành, gìn giữ: “Anh em coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy nói cho anh em biết: các Thiên Thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 18,10). Ngài cho biết thêm: trong cuộc phán xét chung, khi Con Người đến trong vinh quang, có các thiên thần theo hầu (x. Mt 25,31). Và Sau khi sống lại, con người giống như các thiên thần (x.Lc 20,36). Và trong đoạn tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói với ông Nathanaen rằng: “Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người (Ga 1,51).
Thỉnh thoảng các tông đồ cũng nhắc tới sự hiện diện của các thiên thần. Thánh Phêrô nhắc đến các thiên thần dữ: “Thiên Chúa sẽ không dung thứ cho các thiên thần có tội, nhưng đã đẩy họ vào hố địa ngục tối tăm giữ họ để chờ chuộc phán xét” (2 Pr 2,4). Trong bài đọc thứ nhất, sách Khải huyền nói đến sự giao chiến giữa thiên thần Micaen với Con Mãng Xà (Kh 12,17). Thánh Phaolô nhắc đến tên tổng lãnh thiên thần, Ngài nói: “Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Ki-tô sẽ sống lại trước tiên” (1Tx 4,16).
Như vậy, niềm tin vào sự hiện diện của các thiên thần là niềm tin chắc chắn, vì có nền tảng từ Thánh Kinh và Thánh Truyền.
Sứ mệnh của các thiên thần
‘’Ngay từ khi Chúa sáng tạo trời đất, các thiên thần luôn có mặt, và suốt lịch sử cứu độ, các ngài đã hoặc xa hoặc gần loan báo ơn cứu độ và phục vụ việc thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa” (x.Giáo lý HTCG số 332).
Thánh Augustinô nói rằng: “Tên các thiên thần là danh xưng chỉ các chức phận chứ không chỉ bản tính.” Thường chúng ta nghe kể đến ba Tổng lãnh thiên thần mà Giáo Hội mừng kính hôm nay: Micaen, Gabrien và Raphaen. Tổng lãnh thiên thần Micaen với danh hiệu là “Ai bằng Thiên Chúa” Tổng lãnh Thiên thần Gabrien với danh hiệu là “Sức mạnh của Thiên Chúa” Tổng lãnh thiên thần Raphaen với danh hiệu là “Linh dược của Thiên Chúa” Ngoài ra, còn có vô số các thiên thần: “Các Ngài đã đóng lại vườn địa đàng, bảo vệ ông Lót, cứu chữa Agar và con bà này, ngăn lại bàn tay của ông Abraham, Lề Luật cũng đã được thông ban nhờ thừa tác vụ của các ngài. Các ngài đã dẫn đưa Dân Thiên Chúa. Các ngài đã loan báo những sự sinh con, và những ơn gọi, đã trợ tá cho các tiên tri” (x. Giáo lý GHCG số 332).
Sách Isaia diễn tả các thiên thần Xê-ra-phim đứng chầu: “Phía bên trên Người, có các thần Xê-ra-phim đứng chầu. Mỗi vị có sáu cánh: hai cánh để che mặt, hai cánh để che chân và hai cánh để bay” (Is 6,2).
Các thiên thần luôn luôn chiêm ngưỡng thánh nhan của Cha Thầy trên trời (x. Mt 18,10). Các thiên thần là những người làm theo lời Thiên Chúa, luôn chú ý nghe lời Ngài, sẵn sàng để chờ lệnh của Thiên Chúa.
Các thiên thần là những sứ giả của Thiên Chúa. Thiên thần Gabrien truyền tin cho Đức Mẹ (x.Lc 1,26-38) và ông Giacaria (Lc 1,5-25). Thiên thần Raphaen được sai đến với ông Tôbia để thi hành nhiệm vụ: dẫn đường, cưới vợ, chữa mắt và dâng những lời cầu nguyện của ông Tôbia và cô Sara lên trước nhan Thiên Chúa (x. Tb 12,12). Thiên Thần Micaen giao chiến với con Mãng Xà.
Các thiên thần có sứ mạng bảo vệ Chúa Giêsu và thờ lạy Ngài. Từ khi sinh ra ở hang đá Bêlem, các thiên thần hát lời ngợi khen “Vinh danh Thiên Chúa trên trời” (Lc 2,14). Các thiên thần đã bảo vệ tuổi thơ của Chúa Giêsu, phục vụ Ngài trong hoang địa, an ủi Ngài trong lúc hấp hối. Cũng chính các thiên thần đã “loan báo tin mừng” (Lc 2,10) khi đưa tin mừng của việc Nhập thể và của sự Sống lại của Chúa Kitô. Và cũng các thiên thần sẽ loan báo cuộc trở lại của Chúa Kitô, phục vụ cho cuộc thẩm phán (x. Giáo lý HTCG số 333).
Các thiên thần không những có sứ mạng phục vụ Chúa mà còn có sứ mạng phù hộ loài người. “Từ tuổi thơ cho đến chết, cuộc sống con người được các ngài bảo vệ và được các ngài cầu bầu cho. Mỗi tín hữu có bên cạnh mình một thiên thần như vị bảo vệ và như mục tử để hướng dẫn mình tới sự sống” (x. Giáo lý HTCG số 336). Các Giáo phụ không ngừng lặp lại rằng: “Thiên Chúa yêu thương chúng ta dường nào, Ngài sai các thiên thần là một loài cao cả hơn chúng ta, để giúp đỡ chúng ta trên đường lữ hành. Các thiên thần biểu lộ lòng thương yêu săn sóc của người Cha đối với từng người chúng ta”.
Nói tóm lại, sứ mệnh của các thiên thần là phụng thờ Thiên Chúa và phù hộ loài người.
Nhiệm vụ của chúng ta đối với các thiên thần
Từ nhỏ tôi rất ấn tượng về bức tranh “chết lành” Trong bức tranh đó: Kẻ hấp hối là một người chồng đang âu yếm nhìn vào thánh giá Chúa. Có linh mục đang ban các bí tích sau hết. Có vợ con bên cạnh. Có Chúa ngự trên cao đang chờ đón. Đặc biệt, có các thiên thần. Một thiên thần đang ở bên cạnh giường để an ủi. Một thiên thần đang xua đuổi ma quỷ. Còn bức tranh “chết dữ”: Kẻ hấp hối cũng là một người chồng. Ông không nhìn thánh giá, không chịu lắng nghe linh mục khuyên bảo, không để ý đến người vợ yêu quý của mình. Ông chỉ nhìn vào bức hình của một cô gái đang còn trong tay ma quỷ (có lẽ là người tình). Vợ khóc lóc. Ma quỷ vây xung quanh giường, rắn rết, lửa hoả ngục … Còn thiên thần đang khóc và bỏ đi.
Sứ điệp của hai bức tranh đó mời gọi chúng ta: Hãy nghe theo sự hướng dẫn, thúc giục của các thiên thần. Hãy liên kết với các thiên thần, nhất là tổng lãnh thiên thần Micaen để đẩy lùi quỹ dữ dưới mọi hình thức đang vây bủa chúng ta: Vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé (x.1Pr 5,8). Hãy xin thiên thần Gabrien giúp chúng ta biết mau mắn thưa xin vâng những sứ điệp mà Thiên Chúa muốn gửi đến trong cuộc sống hằng ngày. Hãy xin thiên thần Raphaen đồng hành với chúng ta, nhắc nhở chúng ta làm nhiều việc thiện. Xin Ngài dâng lên trước toà Chúa tất cả các việc lành chúng ta làm.
Ước gì, chúng ta luôn biết cộng tác với các thiên thần sống lành để được chết lành, đừng để thiên thần phải khóc khi nhìn thấy chúng ta sa hoả ngục như trong bức tranh “chết dữ” kia. Amen
Micae, danh từ Hêbrô có nghĩa “Ai bằng Thiên Chúa” ám chỉ sự siêu việt của Thiên Chúa, được nói đến trong sách Đamien (10, 13-21) và trong sách Khải Huyền của Thánh Gioan (12,7) như vị chiến thắng ma quỷ.
Thánh Micae đã chống lại thần dữ để bênh vực quyền tối cao của Thiên Chúa. Giáo Hội nhận thánh Micae như Ðấng bảo trợ và tin rằng ngài vẫn dâng lời cầu nguyện của chúng ta lên ngai tòa Chúa. Ngài được tôn kính ngay từ những ngày xa xưa bên Đông phương. Tại Tây phương, nhiều cuộc hiển linh của thánh Micae càng làm cho việc sùng kính khởi sắc hơn, như tại núi Gargano miền nam nước Ý, dưới thời đức Gelase (192-196).
Tại Pháp, thánh Thiên Thần là một thánh quan thầy. Tổng Lãnh Thiên Thần Micae cũng đã hiện ra với nhiều người, đặc biệt năm 708, ngài hiện ra với Ðức Giám Mục thành Arranche và Ðức Giám Mục đã xây một thánh đường nguy nga để kính dâng Ðức Micae tại Mont Saint Michel. Từ đó, nơi đây đã trở nên một vị trí hành hương lớn.
Theo thánh nữ Jeanne d’Arc, Thánh Micae đã thúc dục bà đi gặp vua Charles VII để lên đường đi cứu nước
Thánh Micae là quan thầy những người làm nghề phải dùng đến lò nung như người làm bánh, người thợ rèn,… Thánh Thiên Thần cũng là quan thầy đoàn lính dù. Nhiều thành phố đã mang tên Người. Thánh Micae cũng được cầu khi giúp bệnh nhân sắp chết.
Tổng Lãnh Thiên Thần Raphael
Danh xưng Raphael tiếng Hêbrô có nghĩa là “Thiên Chúa chữa lành” hoặc “Thầy thuốc của Thiên Chúa”.
Sách Tobia cho biết, chính ngài đã được Thiên Chúa sai đến giúp đỡ gia đình ông Tobit trong cơn hoạn nạn. Trong câu chuyện này, ngài xuất hiện để dẫn dắt con ông Tobit là Tobia qua những cuộc mạo hiểm dị thường mà sau cùng dẫn đến một kết quả thật tốt đẹp: Tobia kết hôn với Sarah, ông Tobit được chữa khỏi mù mắt và tài sản của gia đình ông được hồi phục. Người đã cho hai cha con biết: “Ta là Raphael, một trong bảy khâm sai của Thiên Chúa hằng ở bên cạnh Ngài trong huy hoàng của Ngài hiện diện.”
Mục đích của câu chuyện là để minh chứng sự Thiên Chúa quan phòng hằng hoạt động trong đời con người và hằng nghe lời cầu xin. Raphael được cầu xin cho thể xác khang an, linh hồn khỏe mạnh và là quan thầy người đi đường.
Trước đây, Thánh Raphael được giáo hội kính nhớ vào ngày 24 tháng 10 hằng năm. Điều này đã được thêm vào niên lịch Giáo Hội La Mã trong những năm 1921. Vào năm 1970, khi duyệt lại niên lịch, Giáo Hội đã đưa ngày lễ kính thánh Raphael vào chung một ngày với thánh Micae và thánh Gabriel.
Tổng Lãnh Thiên Thần Gabiriel
Gabriel, danh xưng Hêbrô có nghĩa là “Thiên Chúa là sức mạnh”, cũng còn được gọi là “Sứ thần truyền tin”, được gửi đến để báo tin Thiên Chúa can thiệp vào việc cứu rỗi nhân loại và đấng Messia sẽ đến thực hiện. Gabriel được gửi đến với ngôn sứ Danien (Dn 8, 16;9,21-27), với ông Giacaria và Đức Mẹ (Lc 1,11-38;8,16-27;9,21-27). Đây cũng là sứ thần đã nhiều lần hiện ra báo mộng cho Thánh Giuse.
Việc tôn sùng thánh Gabriel nổi bật vào thế kỷ X. Năm 1951, đức Piô XII đặt làm quan thầy các chuyên viên truyền thông (truyền thanh, truyền hình, điện thoại).
Thánh Bernard nhận định: Trong tất cả các thiên thần, đức Gabriel đã được thấy là vị xứng đáng loan báo những chương trình của Thiên Chúa cho Đức Mẹ và đón nhận lời fiat (xin vâng) của Mẹ
Từ những thế kỷ đầu của kỷ nguyên Kitô Giáo, đức tổng thần Gabriel đã được phụng vụ tôn kính. Vào thế kỷ IX, tên ngài đã thấy xuất hiện trong danh bộ các thánh, được mừng vào ngày 24 tháng 3, gắn liền với lễ Truyền Tin. Vào năm 1921, Đức Biển Đức XV tuyên bố một ngày lễ kính tổng thần Gabriel trong toàn thể Giáo Hội. Hiện nay, ngài được mừng chung với tổng thần Micae và tổng thần Raphael vào ngày 29 tháng 9
Cả 3 vị tổng lãnh thiên thần: Micae, Raphael, Gabriel đều được Giáo Hội mừng kính vào ngày 29 tháng 9 hằng năm (lễ kính các tổng lãnh thiên thần)
Ngoài ra, theo một số tài liệu, có tất cả 7 thiên thần quyền quý thường hầu cận bên Thiên Chúa. Sau 3 tổng lãnh thiên thần nêu trên, các vị còn lại là Uriel, Selphiel, Jegudiel, và Barachiel
Hôm nay Giáo hội mừng kính tổng lãnh các Thiên Thần Micae, Gabriel và Raphael, đây là tên tuổi của ba vị Thiên Thần đã được Kinh thánh nhắc đến nhiều lần, và khi nói đến các Thiên Thần là nói đến vô số. Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu xác quyết với các môn đệ của Ngài về sự hiện hữu của các Thiên Thần, đây chính là mầu nhiệm gắn liền với những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Khi tự tỏ bày cho loài người, Thiên Chúa cũng một trật mạc khải cho chúng ta về thế giới của các Thiên Thần.
Một trong những dấu chỉ thời đại mang nhiều ý nghĩa, là hiện nay tại những nước văn minh như Hoa Kỳ, sách vở liên quan đến các thiên thần được xếp vào một trong những loại bán chạy nhất, ngày càng có nhiều người tin tưởng vào sự hiện diện chở che của thiên thần trong cuộc sống của họ.
Vào tháng 12 năm 1993, một cuộc thăm dò được tờ báo Time và đài truyền hình thực hiện, cho thấy rằng có đến 69% người dân Mỹ tin sự hiện hữu của các Thiên Thần. Một cuộc thăm dò khác được thực hiện trước đó cũng tìm thấy rằng, 75% dân Mỹ tin có thiên thần.
Ðầu thập niên 1970, một nhà giảng thuyết nổi tiếng của Hoa Kỳ được tạp chí Time cho vào danh sách một trong 20,000 những tư tưởng nổi bật nhất của thế kỷ XX đã viết một cuốn sách có tựa đề: "Các Thiên Thần và Nhân Viên Mật Vụ của Thiên Chúa". Trong cuốn sách được xem là bán chạy nhất này, tác giả đã viết: "Các Thiên Thần là một chủ đề mang lại niềm an ủi và phấn khởi lớn lao cho những người tin Chúa, đồng thời cũng là một thách đố để cho những người không tin phải tin".
Thật thế, nếu Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta sự hiện hữu và hoạt động của các thiên thần, hẳn Ngài cũng muốn cho chúng ta cảm nghiệm hơn về mầu nhiệm tình yêu của Ngài. Dù chúng ta có thấy các thiên thần hay không, dù các ngài có đến với chúng ta như thần linh hay dưới hình bóng người phàm, thì lời cầu xin của chúng ta luôn được đáp trả. Thiên Chúa hằng can thiệp vào cuộc sống của chúng ta cách diệu kỳ, niềm tin nơi sự hiện diện và hoạt động của các thiên thần luôn nhắc nhở chúng ta điều đó. Quả thật, cuộc sống của chúng ta được dệt bằng phép lạ từ giây phút đầu tiên được tạo thành trong lòng mẹ cho đến lúc chào đời rồi lớn lên, mỗi một nhịp đập của trái tim, mỗi một hơi thở của chúng ta không là phép lạ sao?
Với mỗi người Chúa âu yếm nói: "Ta đã gọi con bằng tên con, con thuộc về Ta". Chúa Giêsu đã có lý khi mời gọi chúng ta nên giống như trẻ thơ, bởi vì trẻ thơ không ngừng ngây ngất trước những điều kỳ diệu và những phép lạ của cuộc sống. Người lớn thì trái lại thường bị cuốn xoáy trong dòng đời nên dễ đánh mất khả năng chiêm ngắm trước những điều kỳ diệu và các phép lạ của cuộc sống.
Thiên Chúa yêu thương mỗi người, Thiên Chúa không ngừng bao bọc che chở chúng ta bằng sự hiện diện của vô số các thiên thần. Ðó phải là niềm tin hôm nay khi mừng kính các thiên thần Micae, Gabriel và Raphael, Giáo hội muốn mời gọi chúng ta hâm nóng lại. Thiên Chúa đã ban cho cuộc sống chúng ta như một phép lạ, nhờ các sứ thần của Ngài, Ngài hướng dẫn và che chở chúng ta trong từng đường đi nước bước của chúng ta.
Nguyện xin các thiên thần nhất là thiên thần bản mệnh của mỗi người luôn nhắc nhở ta, để ta luôn tiến bước trong tin yêu và hy vọng nơi Thiên Chúa là tình yêu. (Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – R. Veritas
Thuật ngữ thánh kinh dùng để gọi các thiên thần đều có nghĩa là “sứ giả”; theo thư Do Thái 1,14, các thiên thần là những thần linh phục vụ cho Thiên Chúa, và Thiên Chúa sai họ đến với những người cần được cứu giúp.
Cựu Ước cũng gọi họ là “Các Thánh” hay là “những người con của Thiên Chúa”. Nổi bật nhất giữa các thiên thần là các đâng Kêrubim và Sêraphim (số ít là Kêrub và Seraf). Vài đấng được gọi tên là:
Michael, có nghĩa: “Ai ví bằng Thiên Chúa” Gabriel, có nghĩa: “Sức Mạnh của Thiên Chúa” hay là “Anh hùng của Thiên Chúa” Rafael, có nghĩa: “Thiên Chúa cứu giúp”
Thánh lễ hôm nay bắt nguồn từ lễ thánh hiến Đền thờ Michael trên đường Via Salaria ở Rôma. Ngày hôm nay cùng với Tổng lãnh thiên thần Michael, Hội Thánh cũng mừng chung hai tổng lãnh thiên thần Gabriel và Rafael, theo lịch xưa, các ngài được mừng vào những ngày 24.3 và 24.10. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
Thánh Kinh cách chung và Tân Ước cách riêng nói tương đối ít về các thiên thần. Trong đoạn Tin Mừng này chỉ có một câu “Các thiên thần của Thiên Chúa lên xuống trên Con Người”. Đây là lấy lại hình ảnh chiếc thang Giacóp, như một nhịp cầu nối trời và đất, Thiên Chúa và loài người. Chúa Giêsu áp dụng hình ảnh này vào bản thân Ngài: Ngài cũng là trung gian giữa Thiên Chúa với loài người. Các thiên thần góp phần tích cực vào sứ mạng trung gian ấy.
B.... nẩy mầm.
1. Micae là tổng lãnh tất cả các thiên thần. Ngài đã lãnh đạo các thiên thần khác chiến đấu với Luxiphe. Nhắc tới Ngài là người ta nhớ lại câu Ngài nói “Ai bằng Thiên Chúa?”.
Xin Thánh thiên thần Micae trợ lực để chúng con chiến đấu và chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ. Xin Ngài luôn nhắc chúng con biết đặt Thiên Chúa ở vị trí cao cả nhất trong cuộc đời chúng con.
2. Gabriel là thiên thần truyền tin (Lc 1,19: Truyền tin cho ông Dacaria; Lc 1,26: truyền tin cho Đức Mẹ). Ngài tuân lệnh Thiên Chúa mang sứ điệp Thiên Chúa đến cho loài người.
Xin Thánh thiên thần Gabriel giúp con mau mắn đón nhận những sứ điệp Chúa gởi đến chúng con, và mau mắn thưa lời “Xin vâng” như Đức Mẹ.
3. Raphael là vị thiên thần đã đưa đường dẫn lối cho Tôbia con, nhờ đó Tôbia bình an trong cuộc hành trình nhiều nguy hiểm, cưới được vợ hiền và chữa được bệnh cho cha già. Trước khi từ biệt gia đình Tôbia, Ngài cho biết thêm là Ngài luôn ở trước mặt Chúa để dâng những công nghiệp của loài người lên cho Thiên Chúa.
Xin Thánh thiên thần Raphael là bạn đồng hành của chúng con trong cuộc hành trình dương thế nhiều cạm bẫy. Xin Ngài nhắc nhở chúng con làm việc thiện, vì luôn biết rằng từng việc thiện âm thầm nhỏ bé cũng là những làn hương thơm tho bay lên toà Thiên Chúa.
Hôm nay toàn thể Giáo hội hân hoan mừng lễ các Tổng lãnh Thiên Thần Micaen, Gáprien và Raphaen. Trong niềm vui lớn lao được các Thiên Thần hộ phù, nâng đỡ, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về vai trò của các Thiên Thần trong đời sống Giáo Hội và con người.
THIÊN THẦN LÀ GÌ ?
Theo điển ngữ Thần Học Thánh Kinh, tên các Thiên Thần không do bản tính mà do chức vụ. Thiên Thần là sứ giả. Các Ngài là” những thần khí chuyên lo phục vụ, được sai đi giúp ích những người sẽ thừa hưởng phần rỗi( Dt 1, 14 ). Các Ngài lập thành một thế giới huyền nhiệm ở ngoài lãnh vực tri giác thông thường của chúng ta.
Cựu Ước thường diễn tả Thiên Chúa như một Đế Vương phương Tây. Những phần tử của triều đình cũng là những tôi tớ Ngài. Người ta còn gọi Ngài là Thánh hoặc Con của Thiên Chúa. Trong số các thần Kêrubim đỡ nâng ngai tòa Chúa, kéo xa giá Ngài, làm xa giá cho Ngài hoặc giữ lối vào thánh địa của Ngài không cho kẻ phàm tục vào; các thần sêraphim chúc tụng vinh quang Chúa và chính một vị trong các thần ấy đã thanh tẩy môi miệng ngôn sứ Isaia trong thị kiến đầu tiên. Người ta còn gặp thấy các thần Kêrubim trong những bức tượng nơi Đền Thờ làm cánh che hòm bia. Như thế, cả một đạo binh thiên quốc ca ngợi vinh quang Thiên Chúa, và tuân phục ý Ngài trong việc điều hành vũ trụ cũng như thi hành các mệnh lệnh của Ngài, đạo binh ấy lập thành một mối liên lạc giữa trời và đất( Stk 28, 12 ).
Tuy nhiên, bên cạnh những sứ giả huyền bí trên, có những đoạn Thánh Kinh đề cập đến một sứ thần của Giavê Thiên Chúa. Nhưng với đà tiến của mạc khải, vai trò sứ thần Giavê dần dần được trao cho các Thiên Thần, những sứ giả thông thường của Thiên Chúa. Vai trò của các Thiên Thần cũng tiến triển đều đều. Lúc đầu người ta xếp lẫn lộn vai trò của các Thiên Thần, họ gán cho các Thiên Thần những phận sự xấu tốt lẫn lộn. Tuy nhiên, sau cuộc lưu đầy ở Babylon về, các phận vụ của các Thiên Thần được phân loại rõ ràng hơn và các Thiên Thần có được một phẩm tính luân lý tương ứng với vai trò của mình. Sau này, các Thiên Thần nhận được tên tương ứng với chức vụ:” Raphaen”Thiên Chúa chữa lành”, Gáprien” Anh hùng của Thiên Chúa”, Micaen” Ai được như Chúa”. Chính Thiên Thần Micaen, thủ lãnh các Thiên Thần, được trao nhiệm vụ coi sóc cộng đoàn Do Thái. Như vậy, gíao lý Cựu Ước đã luôn khẳng định sự hiện hữu của các Thiên Thần và sự hiện diện của họ trong thế giới nhân loại.
Tân Ước cũng liệt kê các Tổng Lãnh Thiên Thần (1 Thes 4); các thần Kêrubim (Dt 9, 5), các Ngai Thần, Quản thần, Lãnh Thần, Uy Thần (Colosê 1, 16), các Dũng Thần (Eph. 1, 21). Với nhiều cấp bậc thay đổi tùy theo kiểu nói, phẩm trật này không có tính cách một giáo lý nhất định mà chỉ là một yếu tố phụ thuộc và mềm dẻo.
Chính Chúa Giêsu còn minh định địa vị các Thiên Thần đối với con người, hình ảnh huyền bí của Người, nhất là trong vinh quang của Người sau này: tháp tùng Chúa ngày quang lâm (Mt 25, 31), lên xuống quanh Chúa (Ga 1, 51), Chúa sai các Thiên Thần đi tụ tập những kẻ được chọn, xua đuổi những kẻ bị luận phạt khỏi Nước Trời. Ngay lúc chịu thương khó, Đức Giêsu đã có thể đòi hỏi sự can thiệp của các Thiên Thần hằng theo phục vụ Người. Như vậy, thế giới Thiên Thần lệ thuộc vào Đức Kitô và chiêm ngưỡng mầu nhiệm của Người.
Đối với con người, các Thiên Thần có một mối giây liên lạc mật thiết. Thiên Thần Gáprien mang hai sứ điệp truyền tin (Lc 1, 19.26); cả một đạo binh Thiên Quốc hát mừng trong đêm giáng sinh (Lc 2, 9-14), các Thiên Thần còn báo tin Chúa phục sinh (Mt 28, 5) và loan báo cho các môn đệ ý nghĩa cuộc Thăng Thiên (Cv 1, 10t…), phụ tá Đức Kitô trong việc cứu rỗi nhân loại (Dt 1, 14 ). Các Thiên Thần chăm sóc giữ gìn loài người (Mt 18, 10), dâng lên Thiên Chúa lời kinh của các Thánh (Kh.5, 8), dẫn đưa linh hồn người công chính vào Thiên Đàng (Lc 16, 22). Để nâng đỡ Giáo Hội, các Thiên Thần sát cánh với thủ lãnh của mình là Micaen, tiếp tục cuộc chiến với satan, được khai diễn ngay từ nguyên thủy(Kh 12, 1-9).
LỄ HÔM NAY CÓ Ý NGHĨA GÌ ?
Mừng lễ các Tổng Lãnh Thiên Thần hôm nay, chúng ta toàn thể dân Chúa được hiểu rõ hơn vai trò, chức vụ, phẩm trật của các Thiên Thần, được hiểu rõ hơn về sự duy nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúng ta hãy khắc ghi vào tâm hồn sứ điệp của Tin Mừng đem đến: Đức Kitô đến để làm chứng cho sự thật, sự cứu rỗi. Ngài đến để làm cho vai trò của Chúa Cha nổi bật và Ngài trở về trời để Chúa Thánh Thần tác động trong lịch sử nhân loại. Ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô đã được tràn đầy Chúa Thánh Thần và các môn đệ cũng được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần. Nên cả Phêrô lẫn các môn đệ đều can đảm, hăng say làm chứng cho Chúa Giêsu chết và sống lại. Chính nhờ có Chúa Thánh Thần xuống, các môn đệ đã rút ra khỏi vỏ ốc sợ sệt của mình để hăng say, kiên trung làm chứng cho sự thật. Một sự thật đã bị con người cố tình làm cho lu mờ và muốn chối bỏ nó. Nhờ Chúa Thánh Thần mà Giáo Hội sơ khai đã đứng vững trong lòng tin. Nhờ Chúa Thánh Thần, Giáo hội hôm nay cũng kiên trì bền trí, đương đầu với những khó khăn thử thách và luôn đứng vững trước ba đào, thử thách, sóng gió.
Mừng lễ các Tổng Lãnh Thiên Thần: Micaen, Gáprien và Raphaen, chúng ta hãy khẩn khoản nài xin các Ngài chuyển cầu cùng Chúa để chúng ta cùng với Tổng Lãnh
Thiên Thần Micaen oai dũng làm chứng cho sự thật, cho công bình và bác ái, để chúng ta cùng với Tổng Lãnh Thiên Thần Gáprien tung hô mầu nhiệm cao cả của Thiên Chúa mỗi khi đọc kinh”kính mừng”, để chúng ta cùng với Tổng Lãnh Thiên Thần Raphaen cứu chữa phần xác và phần hồn mọi người.
Lạy Chúa là Đấng thượng trí vô song, Chúa đã muốn cho Thiên Thần và người thế cộng tác vào chương trình cứu độ. Xin cho các Thiên Thần đang phục vụ Chúa trên trời cũng luôn luôn phù hộ chúng con ở dưới đất (Lời nguyện nhập lễ, lễ Các Tổng Lãnh Thiên Thần Micaen, Gáprien, Raphaen).
Bài trình thuật Phúc Âm theo thánh Gioan hôm nay diễn tả sự kiện tông đồ Philipphê muốn thuyết phục người bạn của mình là Nathanaen rằng ông đã tìm thấy Ðấng cứu thế mà Lề Luật và các ngôn sứ đã tiên đoán trước, đó là Chúa Giêsu thành Nazareth, con ông Giuse. Nhưng Nathanaen là người công chính và có lòng tôn kính Thiên Chúa, và cũng như nhiều người Do Thái thời đó ông đang trông chờ Ðấng cứu thế đến. Chính lòng khao khát được trông thấy Ðấng cứu thế đã thúc đẩy ông nghe theo lời của Philipphê mà tới gặp Chúa Giêsu. Ông gặp và tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa vì Ngài đã nhìn thấu được những khát vọng sâu xa trong tâm hồn của ông, đó là lòng ao ước được nhận biết Thiên Chúa và được hiệp thông với Ngài trong sự vinh hiển muôn đời.
Chúa Giêsu đã ban cho Nathanaen một niềm tin mới vào Ðấng cứu thế mà dân tộc Do Thái đã chờ đợi từ lâu là Ngài chính là chiếc thang nối kết giữa Nước Trời với trần gian, như Thiên Chúa đã mở rộng cánh cửa cho tổ phụ Giacóp để đưa ông và dân tộc Do Thái vào Nước Trời với Thiên Chúa hằng sống. Chúa Giêsu cũng mạc khải cho Nathanaen thấy rằng Ngài chính là Ðấng sẽ phải đến để hoàn tất các lời hứa của Thiên Chúa cho tổ phụ Giacóp.
Qua mầu nhiệm nhập thể, Con Một Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm cho sự cứu rỗi của nhân loại và thông qua sự cứu rỗi và mầu nhiệm Phục Sinh đã mở rộng con đường cho tất cả nhân loại bước vào một mối liên hệ mới là trở nên các con cái của Ngài. Con Một Thiên Chúa đã mở rộng con đường cho nhân loại đi vào Nước Trời cũng như mang Nưới Trời vào thế gian và vào trong đời sống mỗi ngày của chúng ta, điều đó có nghĩa là Nước Trời hiện diện ở những ai đi tìm kiếm và thực hiện thánh ý của Thiên Chúa.
Mười hai môn đệ ở kề cận với Chúa Giêsu để được dịp chứng kiến sự kiện Chúa Cha tác động và ngự trên Chúa Con. Sự kết hợp được biểu lộ một cách trọn vẹn nhất qua mầu nhiệm khổ nạn của Chúa Giêsu. Chính vào giây phút Ngài được nâng lên trên thập giá để bước vào sự vinh hiển muôn đời của Chúa Cha, tất cả chúng ta cũng được gọi để dự phần vào sự mạc khải này và mỗi lần chúng ta cử hành mầu nhiệm hy tế là chúng ta sống lại mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu, là vị thượng tế và là con chiên hiến tế trong giao ước mới giữa Chúa Cha và nhân loại.
Lạy Chúa Cha trên trời,
Qua Con Một của Ngài là Chúa Giêsu, Cha đã chỉ đường cho chúng con bước vào Nước Trời như chính Cha đã mạc khải cho các tổ phụ và các tông đồ. Xin Cha cũng tỏ lộ Cha cho tất cả chúng con để chúng con biết làm sáng Danh Cha qua cuộc sống chứng tá hằng ngày. Xin cho chúng con luôn tìm thấy niềm hân hoan trong sự hiện diện của Cha để tận hưởng niềm hạnh phúc và sự sống muôn đời nơi Nước Trời.
Nathanael ngạc nhiên khi thấy Đức Giê-su biết rõ ông dù hai người chưa gặp nhau bao giờ, thế mà lần thứ nhất thấy ông, Người đã thấu suốt mọi bí ẩn trong tâm tư ông: “Lòng dạ ông không có gì gian dối”.
“Tôi đã thấy anh rồi”
Chúng ta ở với Đức Giê-su Ki-tô nhiều hơn chúng ta tưởng. Trong những cơn gian nan khốn khó suốt trên đường đời, Đức Giê-su luôn nhìn chúng ta, theo dõi chúng ta. Nathanael, trong ông: “không có gì gian dối”. Ông đã nhận được ơn mặc khải về tình yêu của Chúa đang hoạt động trong ông. “Tôi đã thấy anh trước rồi” nhưng “Anh sẽ còn thấy những điều lớn lao hơn thế nữa”... Ông đã tin và được hứa cho thấy rõ ràng, sáng suốt một viễn tượng mới về các thực thể với muôn vật. Và “Anh sẽ thấy trời mở rộng”. Đức Giê-su đã đến: và từ nay trời với đất được hiệp thông với nhau. “Thiên Thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên con người”
Những sứ giả của Thiên Chúa
Ngày nay chúng ta không còn quen nhiều với các Thiên Thần nữa, ngay cả tên các Tổng Lãnh Thiên Thần Mi-ca-e, Gabriel và Raphael. Chúng ta nhưng hơn cả là Thiên Thần Gabriel trong việc truyền tin: Ngài đã được sai đến với Đức Ma-ri-a để báo tin đầy ơn phúc cho Đức Ma-ri-a, theo Kinh Thánh, các Thiên Thần được dựng lên để chầu chung quanh Thiên Chúa và đưa lời Chúa. Các Thiên Thần còn hướng dẫn chúng ta ngợi khen Thiên Chúa và vâng lời Thiên Chúa, Đấng tạo thành chúng ta, các Ngài can ngăn chúng ta khỏi co dúm, cuộn mình lại trong chiều kích thấp hèn hư nát của tạo vật, nhắc nhở chúng ta thuộc một cộng đồng siêu việt cao cả, hoàn toàn hướng lên Đức Ki-tô, trong ngôi vị của Con Người là đường dẫn lên Thiên Chúa, đang mở ra trước mắt chúng ta một trời mới, đất mới lớn lao vô cùng: chúng ta có biết lắng nghe tiếng các thiên thần tuyên dương ca tụng Thiên Chúa không?
Một liên kết mới giữa chúng ta và Thiên Chúa, phúc cho ai thấy và sống trong tình liên kết đó.
Tôi yêu chuộng một thứ vũ trụ đông đảo các Thiên Thần hơn cả cái vũ trụ trống rỗng và lạnh ngắt đang ở trước mắt chúng ta. Các Thiên Thần sống hòa hợp với Thiên Chúa tuyệt vời hơn là loài người được Đức Ki-tô đưa về sống với Thiên Chúa.
Hôm nay Giáo Hội mừng kính tổng lãnh các Thiên Thần Micae, Gabriel và Raphael, đây là tên tuổi của ba vị Thiên Thần đã được Kinh Thánh nhắc đến nhiều lần, và khi nói đến các Thiên Thần là nói đến vô số. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu xác quyết với các môn đệ của Ngài về sự hiện hữu của các Thiên Thần, đây chính là mầu nhiệm gắn liền với những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Khi tự tỏ bày cho loài người, Thiên Chúa cũng một trật mạc khải cho chúng ta về thế giới của các Thiên Thần.
Một trong những dấu chỉ thời đại mang nhiều ý nghĩa, là hiện nay tại những nước văn minh như Hoa Kỳ, sách vở liên quan đến các thiên thần được xếp vào một trong những loại bán chạy nhất, ngày càng có nhiều người tin tưởng vào sự hiện diện chở che của thiên thần trong cuộc sống của họ.
Vào tháng 12 năm 1993, một cuộc thăm dò được tờ báo Time và đài truyền hình thực hiện, cho thấy rằng có đến 69% người dân Mỹ tin sự hiện hữu của các Thiên Thần. Một cuộc thăm dò khác được thực hiện trước đó cũng tìm thấy rằng, 75% dân Mỹ tin có thiên thần.
Ðầu thập niên 1970, một nhà giảng thuyết nổi tiếng của Hoa Kỳ được tạp chí Time cho vào danh sách một trong 20,000 những tư tưởng nổi bật nhất của thế kỷ XX đã viết một cuốn sách có tựa đề: "Các Thiên Thần và Nhân Viên Mật Vụ của Thiên Chúa". Trong cuốn sách được xem là bán chạy nhất này, tác giả đã viết: "Các Thiên Thần là một chủ đề mang lại niềm an ủi và phấn khởi lớn lao cho những người tin Chúa, đồng thời cũng là một thách đố để cho những người không tin phải tin".
Thật thế, nếu Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta sự hiện hữu và hoạt động của các thiên thần, hẳn Ngài cũng muốn cho chúng ta cảm nghiệm hơn về mầu nhiệm tình yêu của Ngài. Dù chúng ta có thấy các thiên thần hay không, dù các ngài có đến với chúng ta như thần linh hay dưới hình bóng người phàm, thì lời cầu xin của chúng ta luôn được đáp trả. Thiên Chúa hằng can thiệp vào cuộc sống của chúng ta cách diệu kỳ, niềm tin nơi sự hiện diện và hoạt động của các thiên thần luôn nhắc nhở chúng ta điều đó. Quả thật, cuộc sống của chúng ta được dệt bằng phép lạ từ giây phút đầu tiên được tạo thành trong lòng mẹ cho đến lúc chào đời rồi lớn lên, mỗi một nhịp đập của trái tim, mỗi một hơi thở của chúng ta không là phép lạ sao?
Với mỗi người Chúa âu yếm nói: "Ta đã gọi con bằng tên con, con thuộc về Ta". Chúa Giêsu đã có lý khi mời gọi chúng ta nên giống như trẻ thơ, bởi vì trẻ thơ không ngừng ngây ngất trước những điều kỳ diệu và những phép lạ của cuộc sống. Người lớn thì trái lại thường bị cuốn xoáy trong dòng đời nên dễ đánh mất khả năng chiêm ngắm trước những điều kỳ diệu và các phép lạ của cuộc sống.
Thiên Chúa yêu thương mỗi người, Thiên Chúa không ngừng bao bọc che chở chúng ta bằng sự hiện diện của vô số các thiên thần. Ðó phải là niềm tin hôm nay khi mừng kính các thiên thần Micae, Gabriel và Raphael, Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta hâm nóng lại. Thiên Chúa đã ban cho cuộc sống chúng ta như một phép lạ, nhờ các sứ thần của Ngài, Ngài hướng dẫn và che chở chúng ta trong từng đường đi nước bước của chúng ta.
Nguyện xin các thiên thần nhất là thiên thần bản mệnh của mỗi người luôn nhắc nhở ta, để ta luôn tiến bước trong tin yêu và hy vọng nơi Thiên Chúa là tình yêu.
Khi Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn đầu tiên, các môn đệ can ngăn. Lần thứ hai thì không ai dám nói gì. Tuy nhiên, vì biết Thầy sắp ra đi, vị trí lãnh đạo sẽ khuyết, nên các ông bắt đầu nẩy sinh chuyện tranh dành xem ai là người lớn nhất trong anh em. Biết được tâm tưởng của các môn đệ, nhân cơ hội này, Đức Giêsu đã ban nhiều huấn dụ cho các ông để các ông hiểu và đi theo đúng con đường mà Đức Giêsu mong muốn nơi môn sinh của mình.
Huấn giáo của Đức Giêsu đã gây nên một ấn tượng mạnh nơi các môn đệ khi Ngài dùng hình ảnh một em nhỏ dẫn đến bên cạnh và nói: “Hễ ai đón nhận trẻ nhỏ này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy: mà hễ ai đón nhận Thầy, tức là đón nhận Ðấng đã sai Thầy. Vì kẻ nào bé nhỏ nhất trong tất cả các con, đó là người cao trọng nhất”. Qua đó, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ phải từ bỏ tính tham quyền cố vị. Tránh đi thái cực muốn được người khác ca tụng, hay thích ăn trên ngồi trước. Cần loại bỏ sự mong muốn được người khác phục vụ, rồi thích thống trị thiên hạ bằng quyền lực.
Ngày nay, hình ảnh và lối suy nghĩ của các môn đệ khi xưa vẫn thường diễn ra trong cuộc sống của chúng ta!
Thật vậy, vẫn còn đó những người kitô hữu có suy nghĩ và hành xử bè phái, cục bộ, không phục vụ vì Chúa và các linh hồn, nhưng là vì mình. Không quy về Đức Giêsu mà lôi kéo để mình có ảnh hưởng. Tính háo danh và ham địa vị, cũng như tính hay ghen tỵ cũng diễn ra thường xuyên.
Tất cả những thứ đó làm nguy hại đến tinh thần hiệp nhất và sứ mạng loan báo Tin Mừng rất lớn.
Vì thế, sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:
Luôn sống kết hiệp với Thiên Chúa qua việc lắng nghe Lời Ngài dạy dỗ, bảo ban. Cần trở nên như trẻ nhỏ trong thái độ đơn sơ, chân thành và phục vụ cách vô vị lợi. Khiêm tốn và từ bỏ ham quyền, cố vị. Sẵn sàng cộng tác với hết mọi người để ra đi loan báo Tin Mừng cách trung thành.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống tinh thần của Chúa là trở nên như hạt lúa, chấp nhận chôn vùi đi để sinh nhiều bông hạt khác. Xin cho chúng con có được tinh thần của trẻ thơ, để không màng chi đến danh vọng, nhưng chỉ một lòng yêu mến Chúa và yêu người tha thiết. Amen.
Tên các TLTT đều có tiếp vĩ ngữ “el”: Michael (Việt ngữ là Micael), Raphael, Gabriel. “El” nghĩa là “trong Thiên Chúa” còn Angel là Thiên thần. Tổng lãnh Thiên thần có thể xuất hiện cùng lúc ở nhiều nơi.
Trong các Tổng lãnh Thiên thần có 3 vị “nổi tiếng” là Micael, Raphael, và Gabriel được mô tả trong Kinh thánh. Có thể nhiều người chưa biết rằng TLTT Micael còn được gọi là Beshter, Mika'il và Sabbathiel; TLTT Raphael còn được gọi là Labbiel; TLTT Gabriel còn được gọi là Abruel, Jibril, Jiburili và Serafili. Thế kỷ VIII, Kitô giáo đã biết tôn sùng các Thiên thần.
1. MICHAEL (chúng ta quen gọi là Micae) nghĩa là “Người Giống Thiên Chúa” hoặc “Giống Như Thiên Chúa”.
Micael là Thiên thần đầu tiên được Thiên Chúa tạo dựng, là vị trưởng trong các TLTT, có nhiệm vụ bảo vệ, khuyến khích, về sức mạnh, sự thật và chính trực. TLTT Micael bảo vệ chúng ta về thể lý, tâm lý và tình cảm. Ngài cũng giám sát mục đích sống của chúng ta. Chức năng chính của ngài là loại bỏ những điều xấu. TLTT Micael cầm gươm lửa để bảo vệ chúng ta khỏi Satan và những điều tiêu cực.
Khi có ngài ở bên, bạn có thể thấy lấp lánh ánh sáng xanh hoặc đỏ. Hãy cầu xin TLTT Micael nếu bạn thấy mình bị tấn công về tâm lý hoặc thiếu can đảm giữ lời hứa, thiếu động lực, thiếu lòng tin, thiếu can đảm, mất phương hướng, thiếu nghị lực, thiếu sức sống, thiếu tự tin, và cảm thấy bất xứng. TLTT Micael giúp chúng ta nhận biết mục đích sống và giúp bảo vệ.
Micael đã chiến thắng Satan (thiên thần sa ngã Luxiphe) ở trong Vườn Địa Đàng, dạy cho Adam cách gieo trồng và chăm sóc gia đình, nói với Môsê trên Núi Sinai, và năm 1950 ngài được tôn vinh là Thánh Micael, “bổn mạng của cảnh sát”, vì ngài giúp can đảm và anh dũng. Ngài cũng có “bí quyết lạ” về sửa các thiết bị điện và máy móc, kể cả máy tính và xe cộ. Nếu xe bị hư, hãy cầu xin TLTT Micael!
Ngài giúp chúng ta hành động theo sự thật mà không thỏa hiệp với tính lim chính và giúp chúng ta tìm ra bản chất và vẫn là chính mình. Ngài hay giúp đỡ nên khi gặp khó khăn trong công việc, khi bị chứng nghiện nào đó, khi bị bệnh, khi đau khổ, hoặc gặp ác mộng, hãy cầu xin TLTT Micael!
2. RAPHAEL nghĩa là “Sức Mạnh Chữa Lành của Thiên Chúa” hoặc “Thiên Chúa Chữa Lành”.
Chữ Raphael trong tiếng Do Thái nghĩa là “bác sĩ” hoặc “người chữa lành”. TLTT Raphael giúp chúng ta mau lành bệnh về thể lý và tinh thần nếu chúng ta cầu xin ngài. Kinh thánh kể chuyện ông Abraham khỏi đau sau khi ông chịu phép cắt bì. Bạn cũng có thể cầu xin TLTT Raphael thay cho người khác.
TLTT Raphael là người dễ gần gũi và vui vẻ nhất trong các Thiên thần. Ngài thường được vẽ là người vui vẻ nói chuyện với người khác. Ngài rất ngọt ngào, yêu thương, tử tế và hiền từ, khi bạn thấy những tia sáng xanh là ngài đang ở gần bạn.
Ngài thường hoạt động với TLTT Micael để trừ các thực thể xấu và luôn “hộ tống” mọi người ở khắp nơi.
Là người chữa lành, TLTT Raphael là “bổn mạng của các du khách” vì ngài đã giúp ông Tôbia trong các hành trình. Hãy cầu xin TLTT Raphael khi bạn đi du lịch hoặc đi đây đi đó để được bình an trong chuyến đi. Ngoài ra, ngài còn giúp việc chuyên chở, cư trú và đồ đạc an toàn. Ngài cũng nâng đỡ các chuyến hành trình tâm linh, giúp tìm kiếm chân lý và hướng dẫn.
TLTT Raphael dạy ông Tôbia cách làm hương liệu và dầu thơm bằng cá và đã chữa khỏi mù cho người cha của ông Tôbia. Ngài được cầu xin giúp các y bác sĩ, các thầy thuốc, các nhà trị liệu và các bác sĩ phẫu thuật. Hãy cầu xin ngài nếu bạn là sinh viên trường y hoặc đang học chữa bệnh và xin ngài giúp bạn học tập tốt. Ngài không chỉ giúp chữa lành về thể lý và tâm lý, mà ngài còn chữa lành các vết thương lòng từ quá khứ.
Trong các lĩnh vực khác, TLTT Raphael còn giúp tìm lại những thứ bị thất lạc, giúp cai nghiện, giúp sáng suốt, tạo tình đoàn kết. Hãy cầu xin TLTT Raphael!
3. GABRIEL nghĩa là “Sức Mạnh của Thiên Chúa” hoặc “Thiên Chúa là Sức Mạnh của Tôi”.
Chỉ có TLTT Gabriel được mô tả là nữ giới trong nghệ thuật và văn chương, ngài là “sứ giả” và là một trong các TLTT có tên trong truyền thống Do Thái, được coi là một trong hai Thiên thần cao cấp theo truyền thuyết Do Thái giáo và Hồi giáo. Ngoài TLTT Micael, TLTT Gabriel là Thiên thần duy nhất được nhắc đến trong Cựu ước. Ngài là TLTT quyền thế và mạnh mẽ, những ai kêu cầu ngài sẽ cảm thấy muốn hành động và sẽ có kết quả tốt.
TLTT Gabriel là người đã truyền sứ điệp cho Thánh Êlidabét và Đức Mẹ Maria về việc thụ thai và sinh con, là Thánh Gioan Tẩy giả và Chúa Giêsu thành Nadarét. Nếu bạn sắp lập gia đình, hãy cầu xin TLTT Gabriel giúp bạn trong việc thụ thai, sinh sản và dạy dỗ con cái.
TLTT Gabriel có thể giúp chúng ta về nghệ thuật và giao tiếp. Ngài sẽ hành động như một huấn luyện viên, gợi cảm hứng và kích thích các nghệ sĩ, các nhà báo và những người làm việc về truyền thông, ngài giúp hành động một cách can đảm và mau mắn.
Ngài cũng giúp chúng ta nhận biết ơn gọi đích thực của mình. Hãy cầu xin ngài hướng dẫn nếu bạn đi không đúng đường tâm linh, nếu bạn muốn hiểu cuộc sống và mục đích sống. Nếu bạn dự định chuyển nhà, mua bán công to việc lớn hoặc muốn đổi nghề, hãy cầu xin TLTT Gabriel!
Cũng hãy cầu xin ngài nếu cơ thể bạn bị ngộ độc hoặc đầu óc nghĩ về những chuyện xấu, ngài sẽ giúp bạn thanh tẩy hồn xác. Các phụ nữ bị hãm hiếp hoặc bị quấy rối tình dục, rồi cảm thấy mình ô uế, bị dằn vặt, hãy cầu xin TLTT Gabriel!
“Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người.” (Ga 1,51)
Suy niệm: Giáo huấn của Giáo Hội dạy rằng có một thế giới thần thiêng trong đó gồm có thần lành thần dữ là thiên thần và ma quỷ ảnh hưởng đến thế giới chúng ta. Thiên thần là sứ giả, là những thần linh phục vụ Thiên Chúa. Thánh Kinh chỉ nêu tên ba vị Tổng lãnh thiên thần là Mi-ca-en, Gáp-ri-en và Ra-pha-en với ý nghĩa:
Mi-ca-en là “Ai bằng Thiên Chúa”. Gáp-ri-en là “Uy lực của Thiên Chúa” Ra-pha-en là “ Thiên Chúa cứu giúp”
Mi-ca-en là Đấng bảo trợ đặc biệt Hội Thánh, Gáp-ri-en là sứ giả được sai đến với Đức Maria và Ra-pha-en là vị tổng lãnh hầu cận Thiên Chúa.
Mời Bạn: Mi-ca-en giục chúng ta lòng tin Thiên Chúa là Chúa duy nhất để nhờ đó chúng ta biết quy hướng mọi sự về Chúa. Ga-bri-en giục chúng ta có lòng trông cậy vào Thiên Chúa quyền năng để nhờ đó chúng ta biết lệ thuộc vào Chúa trong mọi sự. Ra-pha-en giục chúng ta có lòng mến Chúa nhờ đó chúng ta gắn bó với Chúa trong mọi việc.
Sống Lời Chúa: Theo gương và lời chỉ dẫn của các vị tổng lãnh thiên thần, tôi chỉ tin vào một mình Thiên Chúa vì không ai bằng Ngài. Tôi luôn cậy trông vào Chúa, dù khó khăn thử thách đến đâu cũng không ngã lòng vì Chúa có uy lực vô biên có thể giúp bạn vượt qua bất cứ mọi khó khăn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa không bao giờ thất vọng về chúng con, vì thế xin cho chúng con cũng không bao giờ thất vọng về chính mình, nhưng luôn tin tưởng vào tình yêu của Chúa.
“Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người.” (Ga 1,51)
Suy niệm: Mừng lễ các tổng lãnh thiên thần là dịp để về vai trò của các ngài trong phụng vụ, cách riêng trong thánh lễ. Khi Giáo Hội cử hành thánh lễ, không chỉ loài người chúng ta mà cả triều thần thiên quốc cùng tham dự vào hiến tế này: “Vì thế, hiệp với toàn thể thiên thần và các thánh, chúng con không ngừng hát bài ca chúc tụng Chúa…” (Lời cuối các kinh tiền tụng).
Ngay đầu lễ, chúng ta xin các thiên thần chuyển cầu cho chúng ta: “Vì vậy, tôi xin… các thiên thần… khẩn cầu cho tôi trước tòa Thiên Chúa…” (Kinh Tôi Thú Nhận). Các thiên thần đem của lễ chúng ta dâng “lên bàn thờ thiên quốc, trước tôn nhan uy linh cao cả Chúa…” (Kinh nguyện tạ ơn II). Khi rước lễ, ta được lãnh nhận “bánh của các thiên thần”.
Mời Bạn: Hiến tế Thánh Thể cao cả, vì là cử hành của toàn thể Giáo Hội nơi trần thế cũng như trên thiên quốc và cả trong luyện ngục. Nếu bạn ý thức điều đó, hẳn là bạn sẽ phấn khởi khi tham dự thánh lễ, bởi vì mình chẳng là gì, thế mà được mời “đến dự tiệc vui, dự đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa” (Dt 12,23).
Chia sẻ với người thân và bè bạn về sự cao cả của Thánh lễ, và cùng rủ nhau đến tham dự thánh lễ.
Sống Lời Chúa: Khi thánh lễ bắt đầu, đặc biệt hôm nay, bạn hãy dành ít phút cầu nguyện với các thiên thần, xin các ngài giúp bạn dọn lòng tham dự thánh lễ tốt đẹp.
Cầu nguyện: ”Lạy Chúa, giữa chư vị thiên thần, này con xin đàn ca kính Chúa; hướng về đền thánh, con phủ phục tôn thờ.” (Tv 137)
Đoạn Tin Mừng này nằm trong bối cảnh các môn đệ bước theo Chúa (Ga 1, 35-51), cách đặc biệt Philipphê và Natanaen. Có những điểm khác biệt với các Tin Mừng Nhất Lãm: sự kiện không xảy ra tại sông Giođan nơi Gioan làm phép rửa, nhưng xảy ra khi Chúa Giêsu trên đường đi Galilê. Chúa Giêsu đang trong cuộc đời công khai, và Ngài quy tụ các môn đệ lại để ở lại với Ngài, cùng chia sẻ cuộc sống và sứ mệnh của Ngài.
Natanaen (theo truyền thống là Bartôlômêô) là môn đệ thứ tư được Chúa Giêsu gọi. Khi Philipphê nói với Natanaen rằng Đức Giêsu chính là Đấng Messia, Natanaen tỏ vẻ hoài nghi, bởi vì theo ông, Đấng Messia không thể xuất thân từ một nơi mà Thánh Kinh không bao giờ nói tới như Nadarét. Nhưng khi được Philiphê nói "hãy đến mà xem", thì Natanaen sẵn sàng gặp Chúa, đó là dấu chỉ của sự tìm kiếm chân thành và ước muốn đón nhận Chân Lý.
Thấy Natanaen mở rộng cõi lòng đến với mình một cách sẵn sàng, Chúa Giêsu đến và nói về ông như một người Israel chân chính. Natanaen ngạc nhiên: "Sao Thầy lại biết tôi?" Chúa Giêsu biết Natanaen bởi vì Ngài biết chúng ta từng người một và biết tận sâu thẳm tâm hồn chúng ta. "Trước khi Philipphê gọi ngươi, lúc ngươi còn ở dưới cây vả, thì Ta đã thấy ngươi". Natanaen có thể là một nhà thông luật, am hiểu Kinh Thánh; đó là hình ảnh của người yêu mến Lời Chúa, ngồi dưới gốc cây Thánh Kinh để biết về Đấng Messia. Người môn đệ cũng được Chúa nhìn bằng một cặp mắt yêu thương và dần dần họ sẽ cảm nghiệm tình yêu này cách mạnh mẽ.
Lời của Chúa Giêsu khiến Natanaen xúc động đến nỗi ông thốt lên: "Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel". Natanaen tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, tước hiệu nói đến thần tính của Chúa Giêsu. Chỉ một cuộc gặp gỡ với Chúa đã biến đổi Natanaen. Một khi cảm nghiệm được tình yêu của Chúa Giêsu, người môn đệ sẽ biết Ngài một cách sâu xa hơn; và khi biết Ngài một cách sâu xa thì sẽ yêu mến Ngài cách mãnh liệt hơn.
Mỗi người chúng ta cũng được kêu mời khám phá hành trình đức tin của mình: được Chúa Giêsu kêu gọi, các môn đệ đáp trả, trong một kinh nghiệm cá nhân với Ngài, và sau cùng niềm tin vào Chúa Giêsu, Đấng là lý lẽ và là vinh quang của người môn đệ.
Cuối đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có hình ảnh liên hệ đến các vị tổng lãnh Thiên Thần chúng ta mừng kính hôm nay: "các thiên thần Chúa lên xuống trên Con Người".
Hình ảnh này liên hệ đền tổ phụ Giacóp xưa, khi ra khỏi Bơ-e Se-va và đi về Kha-ran, "đến một nơi kia và nghỉ đêm tại đó vì mặt trời đã lặn. Cậu lấy một hòn đá ở nơi đó để gối đầu và nằm ngủ ở đó. Cậu chiêm bao thấy một chiếc thang dựng dưới đất, đầu thang chạm tới trời, trên đó có các sứ thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống" (St 28, 10-12). Thiên Chúa dựng nên các thiên thần để chầu chực hầu hạ Đức Chúa Trời, giúp đỡ loài người và gìn giữ vũ trụ. Micae có nghĩa là ai bằng Thiên Chúa, được sai đi để gìn giữ và bảo vệ các tín hữu, như câu chuyện trong sách khải huyề; Raphael có nghĩa là thầy thuốc của Thiên Chúa được sai để giúp đỡ con người như câu chuyện trong sách Tôbia, và Gabriel có nghĩa là sức mạnh của Thiên Chúa được sai đi truyền tin cho Đức Trinh Nữ Maria.
Các thiên thần nêu gương cho chúng ta: trung thành với Chúa, phụng sự Chúa và chăm sóc con người. Người môn đệ sẽ được Thiên Chúa tỏ lộ vinh quang, mặc khải cho những mầu nhiệm cao cả. Đây là niềm hy vọng của chúng ta. Chúa Giêsu hứa cho Nathanaen sẽ “được thấy những điều cao trọng hơn thế nữa”, thấy vinh quang của Thiên Chúa, thấy tầng trời mở ra và "các thiên thần Chúa lên xuống trên Con Người". Trời đất giao duyên: Chúa Giêsu là cầu nối giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và loài người, là Đấng mặc khải Thiên Chúa tình yêu và giàu lòng thương xót cho nhân loại.
Giáo huấn của Giáo hội về thế giới thần thiêng rất giản dị và không thay đổi, là có một thế giới như vậy, trong đó gồm có cả thần lành và thần dữ và ảnh hưởng đến thế giới chúng ta. Trong kinh Tin Kính, chúng ta vẫn tuyên xưng rằng việc tạo dựng được thể hiện gồm có "muôn vật hữu hình và vô hình".
Còn về ảnh hưởng của thế giới vô hình, của các thần thiêng đối với chúng ta, chỉ cần nhớ lại biến cố cám dỗ Eva tại vườn địa đàng và biến cố truyền tin cho Đức Mẹ. Trong lịch sử như Thánh Kinh trình bày, thế giới thần thiêng được tỏ lộ trong bối cảnh những thiên thể đến thế giới này để thi hành thánh ý Thiên Chúa hay để truyền đạt lời Chúa cho loài người. Thiên thần theo nguyên ngữ là sứ giả. Thánh Grêgôriô thu nhặt nhiều đoạn khác nhau để xếp các thiên thần thành 9 phẩm.
Riêng phẩm tổng lãnh được 1Tx 4,16 nhắc đến. Nhưng Thánh Kinh chỉ nêu tên 3 vị tổng lãnh là: Micae, Gabriel, và Raphael mà thôi. Nhắc đến tên các ngài, chúng ta cũng cần phải ghi nhớ lời dặn dò của thánh Grêgôriô Cả: "tên các thiên thần là danh xưng chỉ các chức phận chứ không chỉ bản tính". Micae để có nghĩa là "ai bằng Thiên Chúa". Gabriel có nghĩa là "uy lực của Thiên Chúa". Raphel có nghĩa là "thầy thuốc của Thiên Chúa". Lần dở lại Thánh Kinh, chúng ta sẽ thấy rõ phận vụ mỗi đấng thực hiện và dĩ nhiên các phận vụ ấy liên quan đặc biệt đối với loài người chúng ta.
Người Do thái vẫn coi tổng lãnh thiên thần Micae là đấng bảo trợ đặc biệt. Trong Kitô giáo, ngài cũng là đấng bảo trợ đặc biệt Giáo Hội. Chúng ta coi ngài là đấng thống soái đạo binh trên trời, dựa theo lời kể của thánh Gioan: "Một cuộc chiến dữ dội xảy ra trên trời, tổng lãnh thiên thần Micae cùng với các đồng bạn giao chiến cùng con rồng, con rồng và các đồng đảng chống lại mãnh liệt. Song chúng không sao thắng nổi và chúng mất địa vị trên trời. Con rồng lớn tức là con rắn xưa kia, thường gọi là ma quỉ hay là Satan. Kẻ lừa dối thiên hạ, bị quăng xuống đất cùng với đồng đảng của nó" (Kh 12,7-9).
Tổng lãnh thiên thần Gabriel được sai đến với Đức Trinh Nữ Maria ở Nazareth để nói rõ cho Mẹ biết định mệnh của mẹ (Lc 1,23). Ngài cũng đến với Zacaria để nói cho biết việc sinh hạ của Gioan Tẩy giả (Lc 1,11-19). Chính Ngài đã tiên báo cho Daniel biết việc Đấng Thiên Sai đến (Dn 9,21). Nay ngài được nhận làm đấng bảo trợ của nhân viên bưu điện và điện thoại.
Tổng lãnh thiên thần Raphael là một trong bảy vị tổng lãnh hầu cận trước nhan Thiên Chúa. Ngài đã thực hiện phận vụ này trong câu chuyện Tobia sau khi ngài giữ gìn trẻ Tobia trong một cuộc hành trình xa và khi được chữa lành cho Tobia cha được sáng mắt. Trong Tân ước, tổng lãnh thiên thần Raphael được đồng hoá với vị thiên thần đã khuấy nước trong hồ gần Giêrusalem và lại xuống hồ trước tiên khi nước mới sủi lên, thì bất cứ mắc bệnh tật gì đều được khỏi cả (Ga 5,1-4).
Hằng năm ngày 29.09. Giáo Hội mừng lễ kính Tổng lãnh Thiên Thần Michael cùng với hai vị Tổng lãnh Thiên Thần Gabriel và Raphael.
Tổng lãnh Thiên Thần Michael là ai và có liên quan gì với đời sống đức tin và con người?
Quis ut Deus?
Tổng lãnh Thiên Thần Michael được xưng tụng với danh xưng bằng tiếng Latinh: Quis ut Deus? – Ai bằng Thiên Chúa?.
Theo tương truyền:
- Thiên Thần Michael được liệt vào hàng Thiên Thần quân đội chiến đấu đã đánh thắng Thiên Thần quỉ dữ Lucifer.
- Thiên Thần Michael đã vâng lệnh Thiên Chúa cầm gươm đuổi Ông Bà nguyên tổ Adong-Evà ra khỏi vườn địa đàng, sau khi Ông bà phạm tội bất phục tùng Thiên Chúa.
– Thiên Thần Michael cũng là vị Thiên Thần thổi kèn Posaune đánh thức gọi những người đã qua đời sống lại ra khỏi mồ.
Hình ảnh cùng tượng Thiên Thần Michael được vẽ phác họa hay khắc chạm là một người mặc quân phục thời cổ Lamã có hai cánh bay sau lưng với bắp thịt gân cốt dũng mãnh, một tay cầm gươm như vũ khí, một tay cầm chiếc lá chắn, và chân đứng đạp trên con khủng long hình ảnh của qủi dữ.
Hình ảnh chiếc gươm trên tay Tổng lãnh Thiên Thần Michael là hình ảnh nói lên sức mạnh của tình yêu trong ý nghĩa cánh tay của Thiên Chúa được dương ra. Tổng lãnh Thiên Thần Michael giúp đỡ chỉ cho chúng ta tìm lại nẻo chính đường ngay, khi tầm nhìn con mắt chúng ta lạc mất hướng về trời cao.
Theo Kinh Thánh cựu ước Michael là vị Thiên Thần có đẳng cấp cao nhất trong các Thiên Thần bên ngai Thiên Chúa (Danien 10,13; 12, 1) có nhiệm vụ che chở bảo vệ dân Israel trước các quân thù địch, cùng cho khỏi cảnh khó khăn thử thách.
Thiên Thần Michael vào thời cựu ước ngày xưa được trình bày là một vị Thiên Thần trong sáu hay bảy vị Thiên Thần đẳng cấp chỉ huy cai trị, được Thiên Chúa tin tưởng các đặc biệt trao cho nhiệm vụ giữ chìa khóa nuớc trời, cùng là vị Thiên Thần chỉ huy tối cao các Thiên Thần.
Theo Kinh Thánh tân ước, Michael là Tổng lãnh Thiên Thần chống lại ma qủi.
‘‘Cả những người mê sảng kia cũng vậy, họ làm cho thân xác ra ô uế, khinh dể chủ quần của Chúa, nói phạm đến các Bậc uy linh. Khi bàn cãi và tranh luận vói quỷ về thi hài ông Môsê, ngay cả tổng lãnh thiên thần Micaen cũng không dám đưa ra một phán quyết nào phạm đến nó, mà chỉ nói: Xin Chúa trừng phạt ngươi!” (Giuda 8-10)
‘‘Bấy giờ, có giao chiến trên trời: thiên thần Micaen và các thiên thần của người giao chiến với Con Mãng Xà. Con Mãng Xà cùng các thiên thần của nó cũng giao chiến. Nhưng nó không đủ sức thắng được, và cả bọn không có chỗ trên trời nữa.” (Kh 12, 7-8)
Trong thời tân ước, Tổng lãnh Thiên Thần Michael được trình bày là sứ gỉa của Thiên Chúa với uy quyền sức mạnh đặc biệt, như người cầu khẩn phù hộ cho con người bên ngai Thiên Chúa, như Thiên Thần của dân Chúa Kitô, như người cùng đồng hành với người đang hấp hối, với linh hồn những người đã qua đời.
Đó đây trong các nghĩa trang, tượng Tổng lãnh Thiên Thần Michael được xây dựng trên nấm mồ hay tường thành, tay cầm loa thổi kèn gọi người qua đời chỗi dậy ra trình diện Thiên Chúa. Đây là hình ảnh nói lên niềm hy vọng và sự công bằng cùng lòng thương xót trứơc mặt Thiên Chúa, khi con người trong giờ phút lịch sử ra trước thánh nhan Ngài.
Hình ảnh Tổng lãnh Thiên Thần trên tay cầm chiếc cân đo lường nói lên vị Thiên Thần này quan tâm săn sóc về luật pháp, về sự công bằng chính trực. Trong nhiệm vụ này Tổng lãnh Thiên Thần Michael là người phục vụ đi tìm chân lý sự thật, sự công bằng.
Năm 1947 những cuộn giấy sách chép Kinh Thánh được tìm thấy ở bờ Biển Chết bên Israel, trong đó có đoạn ghi lại coi Thiên Thần Michael là ‘‘vị thần ánh sáng”, chỉ huy đoàn quân của Thiên Chúa chống lại thần dữ. Và Thiên Thần Michael được mang tước hiệu ‘‘Phó vương trên trời”.
Danh xưng của Tổng lãnh Thiên Thần Michael ‘‘Quis ut Deus? – Ai bằng Thiên Chúa? –‘‘có lẽ cần được dịch sang ngôn ngữ con người ngày hôm nay: „ Có điều gì khác hơn thay thế Thiên Chúa được không?”.
Câu trả lời theo lương tâm nghiêm chỉnh sẽ là: Tất cả đều có giới hạn, không có ai, không có sự gì như Thiên Chúa là Đấng hòan hảo toàn năng được!
Trong bức tranh vẽ trên trần nhà, tường vách thánh đường kính các Thiên Thần ở Palermo có hình cùng tên và chức vị của bảy vị Tổng lãnh Thiên Thần:
1. Michael - Victoriosus - Người chiến thắng 2. Gabriel – Nuntius - Sứ gỉa 3. Raphael – Medicus - Thầy thuốc 4. Uriel – Fortis Socius – Người đồng hành mạnh mẽ 5. Jehudiel – Remunerator - Người làm ơn 6. Barachiel – Adjutor - Người trợ giúp 7. Sealthiel – Oarator - Người bầu cử
Tổng lãnh Thiên Thần Michael
Tổng lãnh Thiên Thần Michael đứng đầu bảy vị Tổng lãnh Thiên Thần của Thiên Chúa. Tiên Tri Daniel đã diễn tả Tổng lãnh Thiên Thần Michael đứng về phía Thiên Chúa: “Thời đó, Michael là đấng vẫn thường che chở dân người.” ( Daniel 12,1).
Tổng lãnh Thiên Thần Michael được xưng tụng với danh xưng bằng tiếng Latinh: Quis ut Deus? – Ai bằng Thiên Chúa?
Theo tương truyền:
-Thiên Thần Michael được liệt vào hàng Thiên Thần quân đội chiến đấu đã đánh thắng Thiên Thần quỉ dữ Lucifer.
-Thiên Thần Michael đã vâng lệnh Thiên Chúa cầm gươm đuổi Ông Bà nguyên tổ Adong-Evà ra khỏi vườn địa đàng, sau khi Ông bà phạm tội bất phục tùng Thiên Chúa.
- Thiên Thần Michael cũng là vị Thiên Thần thổi kèn Posaune đánh thức gọi những người đã qua đời sống lại ra khỏi mồ.
Tổng lãnh Thiên Thần Michael là vị Thiên Thần có sức mạnh khả năng đi đến quyết định dứt khoát lại mang chiến thắng cho Thiên Chúa, khi giết chết con rồng mãng xà ma qủi, như sách Kinh Thánh thuật lại: “Bấy giờ, có giao chiến trên trời: thiên thần Mi-ca-en và các thiên thần của người giao chiến với Con Mãng Xà. Con Mãng Xà cùng các thiên thần của nó cũng giao chiến. Nhưng nó không đủ sức thắng được, và cả bọn không còn chỗ trên trời nữa. Con Mãng Xà bị tống ra, đó là Con Rắn xưa, mà người ta gọi là ma quỷ hay Xa-tan, tên chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ; nó bị tống xuống đất, và các thiên thần của nó cũng bị tống xuống với nó. ” (Khải Huyền 12, 7-9).
Tổng lãnh Thiên Thần Michael, theo vâng mệnh Thiên Chúa, đã quyết định lằn ranh giữa Trời và hỏa ngục. Vì thế, Vị Tổng lãnh Thiên Thần Michael được chọn là quan thầy bầu cử cho những người trong giờ phút cơn hấp hối.
Tổng lãnh Thiên Thần Gabriel
Tên Gabriel có ý nghĩa “sức mạnh của Thiên Chúa”. Là vị sứ giả của Thiên Chúa được sai đến báo tin cho thiếu nữ Maria ở Nazareth rằng: Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa sẽ đầu thai làm người trong cung lòng Maria: “Sức mạnh của Thiên Chúa, Đấng Toàn Năng sẽ phủ rợp bóng trên chị…” (Lc 1,26-38).
Khi hiện ra với Ngôn sứ Dacharia trong đền thờ, vị Tổng lãnh Thiên Thần đã nói: “Tôi là Gabriel, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông.” (Lc 1,19).
Hằng ngày trong đời sống đức tin của Hội Thánh, vào lúc 12 giờ trưa chuông thánh đường đổ hồi, kinh tuyền tin được xướng đọc lên. Như vào mỗi ngày Chúa Nhật lúc 12 giờ trưa, Đức Thánh Cha từ trên cửa sổ văn phòng làm việc cùng đọc kinh truyền tin với mọi người Gíao dân đứng tụ tập ở quảng trường Thánh Phêrô bên Vatican.
Tiếng chuông lúc 12 giờ trưa và Kinh Truyền tin nhắc nhớ đến Tổng lãnh Thiên Thần Gabriel, là Sứ giả của Thiên Chúa mang loan báo tin vui Chúa Giêsu Con Thiên Chúa xuống trần gian làm người.
Tổng lãnh Thiên Thần Raphael
Tên Raphael mang ý nghĩa ‘‘Thiên Chúa chữa lành”. Trong Kinh Thánh sách Tobia thuật lại Thiên Thần Raphael vâng mệnh Thiên Chúa chữa lành bệnh mắt cho Tobia:
“Ngay lúc ấy, lời cầu xin của hai người là Tô-bít và Xa-ra đã được đoái nghe trước nhan vinh hiển của Thiên Chúa. Và thiên sứ Ra-pha-en được sai đến chữa lành cho cả hai. Ông Tô-bít thì được khỏi các vết sẹo trắng ở mắt, để ông được ngắm nhìn tận mắt ánh sáng của Thiên Chúa.” (Tobia 3, 16)
Thiên Thần Raphael luôn đồng hành che chở Tobia trên đường đi. (Tobia 6, 10)
Tổng lãnh Thiên Thần Raphael trở thành bổn mạng phù hộ cho con người đi xa du lịch
Ông Bà Cha Mẹ nào ngay từ lúc con cháu còn nhỏ thơ bé cũng đều to nhỏ âm thầm cầu xin với các Thiên Thần phù hộ cho đời sống thể xác lẫn tinh thần của chúng. Bằng an hồn xác là nhu cầu căn bản rất cần thiết cho đời sống.
Sống lòng bác ái giúp đỡ nhau, kính trọng sự sống, điều chân thật lẽ phải luôn là nhu cầu làm nên khung nền kiến tạo đường đời sống tình liên đới con người với nhau trong xã hội.
Sống thể hiện một đời sống trong tương quan tình liên đới với Đấng là nguồn đời sống, nguồn tình yêu và ơn tha thứ, luôn là nhu cầu khát vọng của tinh thần con người ở đời.
Nhu cầu tinh thần này không chỉ là nhu cầu thiêng liêng đạo giáo, nhưng đó là nhu cầu đời sống văn hóa của con người ở vào mọi thời đại. Nhu cầu tinh thần văn hóa này cùng với những nhu cầu khác cho sự sống thể xác giúp đời sống có đầy đủ ý nghĩa, triển nở cùng mang đến niềm vui hạnh phúc.
Các Thiên Thần của Thiên Chúa là Sứ giả được Thiên Chúa gửi sai đến cùng đồng hành trợ giúp con người trong mọi hoàn cảnh đời sống thể hiện tình lòng thương xót bác ái vị tha.
Với người tín hữu Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa là Đấng của sự chân thật, sự tốt lành thiện hảo, là Thiên Chúa của lòng khoan dung tha thứ qua Thánh Gía Chúa Giêsu Kitô.
Lòng tin vào Thiên Thần vượt quá khỏi sự suy hiểu cùng thắc mắc của trí khôn con người. Thắc mắc thuộc về đời sống con người. Và thắc mắc giúp con người tỉnh thức thêm ra.
Hôm nay, ngày 29.9, cùng Hội Thánh, chúng ta mừng lễ ba Tổng lãnh thiên thần: Gabriel, Michael và Raphael.
1. Tổng lãnh Michael.
Ngài xuất hiện trong Kinh thánh bốn lần: hai lần trong sách Đanien, một lần trong thư thánh Giuđa và một lần trong sách Khải huyền.
Chẳng hạn trong sách tiên tri Đaniel: “Này Michael, một trong các tướng hàng đầu đã đến trợ lực với ta…. Và không có một ai tăng sức cho ta đấu với các vị ấy, trừ phi là Michael, (thần sứ) tướng của các ngươi” (10,13. 22).
Còn sách Khải huyền: “Bấy giờ, có giao chiến trên trời: thiên thần Michael và các thiên thần của người giao chiến với Con Mãng Xà. Con Mãng Xà cùng các thiên thần của nó cũng giao chiến” (12, 7).
Hình ảnh của thiên thần Michael trong Khải huyền rất đẹp: hoàng tử của các thiên thần; chiến thắng vang dội trước sức mạnh càn quét hiểm ác của ma quỷ trong thời kỳ cuối để bảo vệ toàn thể loài người.
Qua đó, ta được biết về trận chiến trên thiên đường: Tổng lãnh Michael và các thiên thần của ngài chiến đấu với Lucifer và các thiên thần sa ngã khác là bè lũ ác quỷ đi theo Lucifer.
Từ hình ảnh oai phong bên trên, thiên thần Michael thường được hình dung để tạc tượng, vẽ tranh như một chiến binh mạnh mẽ, mặc áo giáp, đi dép, cầm gươm đâm vào đầu ma quỷ và ma quỷ phải khuất phục dưới chân ngài.
Tên của tổng lãnh Michael, tiếng Do thái có nghĩa "Ai giống như Thiên Chúa?".
2. Tổng lãnh Gabriel.
Trong Kinh thánh, ngài xuất hiện ba lần với tư cách là sứ giả:
- Đến với tiên tri Đaniel. Tiên tri cho biết, có lệnh từ giữa sông Ulai, đó là một tiếng gọi lớn: “Gabriel, hãy cho người này hiểu thị kiến!” (Daniel 8,16). Đó là thị kiến liên quan đến Đấng Mêsia mà tiên tri nhìn thấy.
Tiên tri nói tiếp:”Trong lúc cầu kinh, tôi còn đang nói, thì Gabriel, người mà tôi đã thấy trong thị kiến ban đầu, đã vụt bay đến kề bên tôi vào lúc dâng của lễ ban chiều” (9, 21). Chính thiên thần Gabriel đã giải thích thị kiến.
- Đến với tư tế Dacaria khi ông đang dâng hương trong Đền thờ, để báo trước sự ra đời của con trai ông, thánh Gioan Tẩy giả. Thiên thần xưng danh: “Ta là Gabriel, kẻ chầu hầu trước mặt Thiên Chúa, ta đã được sai đến nói với ngươi và đem tin mừng này cho ngươi!” (Lc 1,11-19).
- Đến với Đức Maria. Tổng lãnh Gabriel được biết đến nhiều nhất trong lần báo tin mầu nhiệm Nhập thể: “Tháng thứ sáu, thiên thần Gabriel được Thiên Chúa sai đến một thành xứ Galilê, tên là Nazarét, tới cùng một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc nhà Ðavít, và tên trinh nữ là Maria” (Lc 1, 26-27).
Lời chào của Tổng lãnh Gabriel đối với Đức Mẹ, đơn giản nhưng đầy ý nghĩa, “Vui lên! Hỡi Ðầy ơn phúc! Chúa ở cùng người!” (Lc 1, 28), trở thành lời cầu nguyện "Kính mừng Maria" thường xuyên và quen thuộc của mọi người Kitô hữu.
Tên của Tổng lãnh thiên thần Gabriel có nghĩa là “Chúa là sức mạnh của tôi”.
3. Tổng lãnh Raphael.
Hiểu biết của chúng ta về thiên thần Raphael đến từ sách Tôbia: “Raphael đã được sai đến chữa lành cả hai: giựt khỏi mắt Tôbit những vệt trắng, để ông được thấy tận mắt ánh sáng của Thiên Chúa – và ban Sara, con gái Raguel cho Tôbia, con của Tôbit làm vợ và giải thoát nàng khỏi quỉ dữ Asmôđê” (Tb 3, 17).
Chính Tổng lãnh Raphael xưng danh mình: "Thiên Chúa đã sai ta đến chữa lành ngươi và Sara con dâu ngươi. Ta là Raphael, một trong bảy vị thần sứ hằng túc trực để vào trước vinh quang Chúa” (Tb 12,15).
Bởi nhiệm vụ của thiên thần Raphael như một người chữa bệnh tuyệt vời và đồng hành cùng Tôbia trẻ, vì thế, các Kitô hữu thường cầu khẩn ngài trong những lúc đau ốm bệnh tật, những thời điểm quan trọng của đời mình hoặc trong những chuyến hành trình gian nan nguy hiểm.
Do lời tự giới thiệu: "Ta là Raphael, một trong bảy vị Thần sứ...", khiến nhiều người tin rằng có bảy tổng lãnh thiên thần.
Vì thế một số giáo hội Kitô giáo khác, ví dụ Chính thống giáo, chấp nhận bảy tổng lãnh thiên thần: Michael, Gabriel, Raphael, và đặt tên cho bốn vị còn lại là: Uriel, Salathiel, Jébudiel và Barachiel.
Tuy nhiên, Hội Thánh Công giáo không chấp nhận niềm tin này và cho biết: Việc tin như vậy và đặt thêm tên cho các thiên thần "là nguy hiểm về mặt tâm linh".
Tên của ngài có nghĩa là “Chúa đã chữa lành”. Đức giáo hoàng Gregorio Cả giải thích: Micael - Ai bằng Thiên Chúa - chiến thắng ác thần Gabriel - Sức mạnh của Thiên Chúa - truyền tin cho Đức Maria Rafael - Linh dược của Thiên Chúa - chữ mù mắt cho Tobia.
Trong sách Sáng Thế, tổ phụ Giacóp đã mơ thấy một chiếc thang, nối liền giữa Trời và Đất, trên chiếc thang có các thiên sứ của Thiên Chúa lên lên xuống xuống. Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, khi Chúa Giêsu nói “Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người” đã cho chúng ta thấy Chúa Giêsu chính là chiếc thang nối liền giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người. Thật vậy, với mầu nhiệm Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể thì Thiên Chúa từ trời cao đã đến với con người, và với mầu nhiệm cứu chuộc thì con người đã được đem lên đến tận trời cao với tước vị là con Thiên Chúa.
Mặc dù Chúa Giêsu là chiếc thang duy nhất, trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, nhưng do tình thương và sự thánh thiện vô cùng của Thiên Chúa mà các thiên thần được tham dự vào vai trò trung gian của Chúa Kitô, nhất là các tổng lãnh Thiên Thần. Thiên Chúa vô cùng thánh thiện và vinh quang, vì thế, con người phàm hèn tội lỗi không thể gặp trực tiếp Thiên Chúa, nên cần qua trung gian là các Thiên Thần, và ngay cả khi tiếp xúc với các Thiên Thần thì các thánh cũng còn phải run sợ chứ đừng nói là tiếp xúc với Thiên Chúa. Trong trường hợp Chúa Giêsu Kitô thì Người đã che dấu vinh quang của Thiên Chúa nơi thân xác phàm nhân, nếu không thì con người cũng không thể đến gần Người được.
Chúng ta cần phân biệt rõ giữa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Ba, và các Thiên Thần là những thụ tạo vô hình. Các ngài được Thiên Chúa dựng nên để thờ phượng ngợi khen Thiên Chúa; soi sáng cho con người biết và thực thi thánh ý Thiên Chúa; gìn giữ, hướng dẫn, bảo vệ con người trước sực quấy phá của ma quỷ; dâng lời khẩn nguyện, những hy sinh, cùng với Hy lễ Duy Nhất của Chúa Giêsu lên Thiên Chúa Cha.
Tổng lãnh thiên thần Micae là lãnh đạo của tất cả các thiên thần, chiến đấu để bảo vệ Dân Chúa, bảo vệ những người công chính chống lại Satan và bè lũ của nó, như Sách Khải Huyền chúng ta vừa nghe. Micae có nghĩa là “Ai Bằng Thiên Chúa”, ngài cho thấy không ai có thể sánh với Thiên Chúa, không ai đáng tôn thờ bằng Thiên Chúa, không ai tốt lành thánh thiện bằng Thiên Chúa, không ai quyền năng bằng Thiên Chúa, không ai có thể chống lại Thiên Chúa. Cuộc đời mỗi người chúng ta là một cuộc chiến không ngừng với Satan và bè lũ của nó, tự sức mình chúng ta không thể nào chiến thắng được, vì thế, chúng ta hãy cầu Thiên Chúa sai Tổng lãnh thiên thần Micae trợ lực giúp chúng ta chiến đấu và chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ. Xin ngài luôn nhắc chúng con biết đặt Thiên Chúa ở vị trí cao cả nhất trong cuộc đời chúng ta.
Raphael có nghĩa là “Thần dược của Thiên Chúa” hay “Thầy thuốc của Thiên Chúa”, ngài được Thiên Chúa sai đến săn sóc, dẫn dắt và chữa lành cho con người. Trình thuật của Sách Tôbia cho chúng ta thấy, Raphael là vị thiên thần đã đưa đường dẫn lối cho Tôbia con, nhờ đó Tôbia bình an trong cuộc hành trình nhiều nguy hiểm, cưới vợ hiền và chữa được bệnh cho cha già. Trước khi từ biệt gia đình Tôbia, ngài cho biết thêm là ngài luôn ở trước mặt Chúa để dâng những công nghiệp của loài người lên cho Thiên Chúa. Và ngài đến trợ giúp Tôbia không phải do lòng tốt của ngài, mà là do lòng tốt của Thiên Chúa. Chúa ta hãy xin Tổng lãnh thiên thần Raphael luôn là bạn đồng hành của chúng ta trong cuộc hành trình dương thế nhiều cảm bẫy, xin ngài săn sóc, dẫn dắt và chữa lành cho chúng ta và nhắc nhở chúng ta làm việc thiện.
Garbiel có nghĩa là “Sức mạnh của Thiên Chúa”, ngài được Thiên Chúa sai đến truyền tin cho ông Giacaria và Đức Maria, qua đó cho thấy sự can thiệp kỳ diệu của Thiên Chúa nhằm cứu độ loài người, ngài cho chúng ta thấy rằng với sức mạnh quyền năng vô cùng của Thiên Chúa thì không gì là Thiên Chúa không làm được. Xin Tổng lãnh Thiên thần Gabriel giúp chúng ta mau mắn đón nhận những sứ điệp Chúa gửi đến cho mình, và mau mắn thưa lời "Xin vâng" như Đức Mẹ.
Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa đã sai các thiên thần và các tổng lãnh thiên thần đến trợ giúp và bảo vệ chúng ta trong cuộc chiến chống lại ma quỷ, sự hiện diện của các ngài cho thấy tình yêu quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa. Đồng thời, chúng ta cũng hãy năng tưởng nhớ và chạy đến tìm sự trợ giúp nơi các ngài, nhất là vâng theo sự soi dẫn của các ngài vì các ngài có nhiệm vụ truyền lệnh của Thiên Chúa cho chúng ta.
Vào cuối tháng 9, Giáo hội mời gọi chúng ta mừng lễ các vị thánh không giống như những thánh khác.
Vào ngày 29 tháng 9, Giáo hội mừng kính các thánh Tổng lãnh thiên thần Michael, Gabriel và Raphael. Những thiên thần siêu phàm! Giống như các thiên thần khác, các vị được Thiên Chúa sai đến với loài người: “Chúc tụng Chúa đi hỡi muôn ngàn thiên sứ, bậc anh hùng dũng mãnh thực hiện lời Người, luôn sẵn sàng phụng lệnh” (Ca nhập lễ).
Các Tổng lãnh thiên thần là những thụ tạo thiêng liêng, tuyên bố điều lạ thường của Thiên Chúa, họ luôn ở trước thiên nhan Chúa và phụng sự Ngài suốt cả ngày đêm. Thường các vị được giao cho những nhiệm vụ bất khả thi. Khi ẩn danh, họ mang tên của con người, và mỗi tên mang một chức năng.
Chiến binh, nhà ngoại giao và lòng nhân ái
Đầu tiên là Tổng lãnh thiên thần Michael, “Ai bằng Thiên Chúa”, một chiến binh chống lại con rồng. Michael là thiên thần mạnh mẽ nhất trong số các thiên thần. Ngài là chiến binh xuất sắc chống lại thế lực của quỷ thần. Khi Thiên Chúa cần một sứ thần mạnh mẽ và nhanh nhẹn, Ngài sai gửi Tổng lãnh thiên thần Michael.
Và đây là nhà ngoại giao Gabriel, nghĩa là "Người của Thiên Chúa". Sách Đanien trình bày Gabriel như một thiên thần phụng lệnh. Trước hết, chúng ta biết ngài trong Tân Ước qua những lần hiện ra với Đức Maria và ông Zacaria. Khi Thiên Chúa muốn loan báo tin trọng đại, Ngài đã sai gửi Tổng lãnh thiên thần Gabriel.
Cuối cùng là Raphael từ nhân, nghĩa là “Thiên Chúa cứu chữa”. Thiên thần hay làm việc thiện này đồng hành với anh bạn trẻ Tobia trong một hành trình tuyệt vời. Cảnh báo cho khách hành hương và những người bộ hành: ngài cũng giải thoát họ khỏi thần khí sự ác. Raphael tự giới thiệu mình là một trong 7 thiên thần chầu chực trước mặt Thiên Chúa, dâng lên Chúa những lời cầu khẩn của chúng ta. Khi Chúa muốn hướng dẫn ai đó trên bước đường của cuộc sống, Ngài sai gửi Tổng lãnh thiên thần Raphael.
Khi các Tổng lãnh thiên thần gửi cho chúng ta những tín hiệu kín đáo
Các Tổng lãnh thiên thần ánh sáng này nói cho chúng ta biết Thiên Chúa tuyệt vời như thế nào. Còn các thiên thần vô danh khác, gửi đến cho chúng ta những tín hiệu kín đáo, mà không ép buộc bất kỳ ai: họ cho chúng ta trực giác để làm điều thiện, cho chúng ta sự giúp đỡ để biện phân, để trở thành chính mình, can ngăn chúng ta vấp ngã, cho chúng ta một dấu chỉ đúng lúc, một niềm vui sống cho hiện tại.
Khi cử hành lễ các Tổng lãnh thiên thần, Giáo hội nói cho chúng ta biết rằng chúng ta không cô đơn trên trần đời này. Thực vậy, các thiên thần cùng chiến đấu với chúng ta, chống lại quyền lực tối tăm. Trên hết, họ mời gọi chúng ta ngợi khen Thiên Chúa và tạm dừng để tôn thờ Chúa, và trong những lúc như vậy, đôi khi chúng ta cảm thấy họ đi qua, dù có cánh hay không, trong thinh lặng dịu êm của lời cầu nguyện.
Chúa nói với thánh Batôlômêô tông đồ ngày xưa và chúng ta ngày hôm nay rằng là chúng ta sẽ thấy việc rất là cao trọng: “Thật, Ta nói thật với các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và các Thiên Thần Chúa lên xuống trên Con Người”.
- “Con Người” đó chính là Chúa, Chúa là Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người, Đấng nối kết đất với trời. Chúa ví Chúa như một chiếc thang để qua đó trời mở ra, Thiên Chúa xuống với loài người và loài người lên với Thiên Chúa.
Qua Chúa và nhờ Chúa mà chúng ta biết được các Thiên Thần Chúa lên xuống trên Con Người, nghĩa là chúng ta hiểu biết được sứ mạng của các Thiên Thần và Tổng lãnh Thiên Thần là:
Công việc của các Tổng lãnh Thiên Thần: + Tổng lãnh Thiên Thần Micae: Đánh đuổi Satan (xKhải Huyền).
+ Tổng lãnh Thiên Thần Gabriel: Truyền tin cho Đức Mẹ và ông Zacaria (xLc 1).
+ Tổng lãnh Thiên Thần Raphael: Giúp Tôbia cưới Sara làm vợ và tìm ra thuốc chữa bệnh mù lòa của ông Tôbia-cha (xTôbia).
Các thánh Tổng lãnh Thiên Thần vâng lời Chúa, thực hiện sứ mạng Chúa giao phó một cách mỹ mãn, làm đẹp lòng Chúa trong mọi sự là bài học cho chúng ta noi theo.
Chúng ta là thụ tạo của Chúa, chỉ đứng sau các Thiên Thần (Các Thiên Thần cũng là thụ tạo của Chúa), các ngài vâng lời Chúa một cách tuyệt đối như vậy, cho nên chúng ta cũng vâng lời Chúa tuyệt đối từ chuyện nhỏ nhất đến chuyện lớn nhất thì Chúa mới tin tưởng chúng ta, cho chúng ta của lớn lao hơn, đó là Nước Trời.
Lạy Chúa, hôm nay chúng con mừng lễ kính các thánh Tổng lãnh Thiên Thần Micae, Gabriel, Raphael, xin các ngài cầu thay nguyện giúp cho chúng con trước tòa Chúa để chúng con sống trọn đạo làm con Chúa. Xin các ngài gìn giữ chúng con khỏi mọi hiểm nguy, sự dữ trên đường đời. Xin cho chúng con biết luôn nghe lời các ngài để làm lành, lánh dữ và luôn làm đẹp lòng Chúa trong mọi sự. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Các Tổng Lãnh Thiên Thần Micaen, Gáprien, Raphaen, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa là Đấng thượng trí vô song, Chúa đã muốn cho thiên thần và người thế cộng tác vào chương trình cứu độ, xin Chúa cho các thiên thần đang phục vụ Chúa trên trời, cũng luôn luôn phù hộ chúng ta ở dưới đất. Chúng ta mừng các vị tổng lãnh thiên thần, nhưng đồng thời, cũng mừng tất cả các thiên sứ được nhắc tới từ sách Sáng Thế cho tới sách Khải Huyền. Các vị hiện diện cách vô hình để hướng dẫn dòng lịch sử cứu độ. Tuy các vị là những sứ giả của Chúa, có nhiệm vụ bộc lộ cho con người biết các kế hoạch của Chúa và mang tới lệnh Người truyền, nhưng trước hết, các vị là cộng đoàn đông đảo những vị thờ lạy Thiên Chúa hằng sống.
Các thiên thần luôn phù hộ chúng ta, giúp ta giao chiến với quyền lực sự dữ, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Khải Huyền: Tổng lãnh thiên thần Micaen giao chiến với con Mãng Xà… Bấy giờ, cả trời cao thinh lặng: Tổng lãnh thiên thần Micaen giao chiến với con Mãng Xà, và có tiếng hô to: Thiên Chúa ta thờ là Đấng Cứu Độ, Đấng uy quyền vinh hiển. Giờ đây Người ban ơn cứu độ, và biểu dương uy lực với vương quyền.
Các thiên thần luôn phù hộ chúng ta, giúp ta chuyển lời cầu nguyện lên Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích bài giảng của thánh Ghêgôriô Cả: Các tổng lãnh thiên thần Micaen, Raphaen và Gáprien… Một thiên thần đến đứng trước bàn thờ, tay cầm bình hương vàng có nhiều hương thơm. Từ tay thiên thần, khói hương quyện theo lời cầu nguyện của các thánh bay lên trước nhan Thiên Chúa. Ngàn ngàn hầu hạ Chúa, vạn vạn túc trực trước Thánh Nhan.
Các thiên thần luôn phù hộ chúng ta, giúp ta hầu hạ Chúa cách xứng đáng, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách ngôn sứ Đanien: Ngàn ngàn hầu hạ Người. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 137 cho thấy: Lạy Chúa, giữa chư vị thiên thần, này con xin đàn ca kính Chúa. Xin cảm tạ danh Chúa, vì Ngài vẫn thành tín yêu thương, đã đề cao danh thánh và lời hứa của Ngài trên tất cả mọi sự. Ngày con kêu cứu, Chúa đã thương đáp lại, đã gia tăng nghị lực cho tâm hồn.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúc tụng Chúa đi, toàn thể thiên binh hằng hầu cận và tuân hành thánh ý. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Các anh sẽ thấy các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người. Vì Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô là Người đã thấy ông ở dưới cây vả, nên ông tin. Nếu tin, chúng ta sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa: Các thiên thần lên lên xuống xuống trên Con Người, và hằng hầu cận, tuân hành ý Chúa; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Chúa; muôn ngàn thiên sứ chúc tụng Chúa, bậc anh hùng dũng mãnh thực hiện lời Người, luôn sẵn sàng phụng lệnh; mọi đế vương dưới trần đều cảm tạ, khi nghe những lời miệng Người phán ra. Vì kiêu ngạo, kẻ cựu thù xưa đã muốn bằng Thiên Chúa, trong ngày tận thế, lúc còn được thi thố sức mạnh của mình, trước khi chịu khổ hình đời đời kiếp kiếp, nó sẽ giao chiến với tổng lãnh thiên sứ Micaen. Con Mãng Xà nổi giận với người Phụ Nữ và đi giao chiến với những người còn lại trong dòng dõi bà, là những người tuân theo các điều răn của Thiên Chúa và giữ lời chứng của Đức Giêsu, nhưng, Thiên Chúa ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người, giờ đây cũng biểu dương quyền bính. Chúa là Đấng thượng trí vô song, Chúa đã muốn cho thiên thần và người thế cộng tác vào chương trình cứu độ, ước gì các thiên thần đang phục vụ Chúa trên trời, cũng luôn luôn phù hộ chúng ta ở dưới đất. Ước gì được như thế!
Kinh thánh chỉ nêu tên Gabriel, Michael và Raphael. Từ Tổng lãnh Thiên thần (archangel) bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp αρχάγγελος. Archangelos = αρχ– (arch-) (“đầu tiên, bậc nhất, thủ lĩnh”) và άγγελος (angelos) (“người đưa tin”).
Thế giới thiên thần rất bí ẩn và có thể gây nhầm lẫn cho con người chúng ta. Chúng ta thường không nhìn thấy các thiên thần bằng mắt của mình, mặc dù nhiều nhân vật trong Kinh thánh được ghi lại là đã nhìn thấy các vị ở dạng có thân xác.
Đặc biệt, nhiều người hỏi: “Có bao nhiêu tổng lãnh thiên thần trong Kinh thánh?”
Kinh thánh chỉ cho biết tên của ba thiên thần thuộc hạng “tổng lãnh thiên thần.”
Đó là:
Michael “Bấy giờ, có giao chiến trên trời: thiên thần Michael và các thiên thần của người giao chiến với Con Mãng Xà. Con Mãng Xà cùng các thiên thần của nó cũng giao chiến” (Khải huyền 12:7).
Gabriel “Tôi là Gabriel, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông.” (Luca 1:19).
Tuy nhiên, trong sách Tôbia, khi thánh Raphael tiết lộ danh tính của mình, tổng lãnh thiên thần nói,“Tôi là Raphael, một trong bảy thiên thần đứng và phục vụ trước Vinh quang của Thiên Chúa” (Tôbia 12:15).
Điều này khiến nhiều người tin rằng có bảy vị tổng lãnh thiên thần. Con số này cũng xuất hiện trong Sách Hípri, một văn bản cổ của người Do Thái không được chấp nhận là kinh điển trong cả Kinh thánh Do Thái hay Kinh thánh Công giáo.
Vì một số giáo hội Kitô giáo, ví dụ như Chính thống giáo, chấp nhận bảy tổng lãnh thiên thần: Michael, Gabriel, Raphael, Uriel, Salathiel, Jébudiel và Barachiel là “chính thức,” nên một số người Công giáo cũng có lòng sùng kính đối với cả bảy vị tổng lãnh thiên thần kể cả bốn vị ngoài Kinh thánh này. Giáo hội Công giáo đã nói rất rõ ràng rằng điều này là nguy hiểm về mặt tâm linh.
Trong Danh mục về lòng đạo đức bình dân, Giáo hội tuyên bố, “Việc gán tên cho các Thánh Thiên Thần không nên được khuyến khích, ngoại trừ trường hợp của Gabriel, Raphael và Michael, là những vị có tên trong Kinh Thánh.”
Kinh thánh là danh sách cuối cùng của chúng ta về các tổng lãnh thiên thần. Là người Công giáo, chúng ta chỉ biết đến ba tên nhất định của các thiên thần của Thiên Chúa. Bất kỳ tên nào khác đều bị nghi ngờ vì nó không phải là một phần của sự mặc khải thần linh.
Điều này không có nghĩa là chỉ có ba tổng lãnh thiên thần. Kinh thánh nói rõ rằng có thể có “hàng ngàn” thiên thần hoặc “vô số” thiên thần, như Thánh Luca đã đề cập lúc Chúa Giêsu giáng sinh,“Và bỗng đâu đến hợp đoàn với thiên thần, có đoàn lũ cơ binh trên trời ngợi khen Thiên Chúa” (Luca 2:13).
Sự sáng tạo của Thiên Chúa không chỉ giới hạn trong ba vị tổng lãnh thiên thần, nhưng đồng thời chúng ta cũng không nên phát triển lòng sùng kính đối với các thiên thần không được Lời Chúa xác nhận.
Phụng vụ mừng lễ ba vị tổng lãnh thiên thần được tôn kính theo truyền thống của Giáo hội. Theo Nghi thức Đặc biệt trong Sách Lễ Rôma năm 1962 của Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII, 29 tháng 9 là lễ Thánh Micae. Trước khi cải tổ phụng vụ theo Công Đồng Vaticanô II, Lễ Thánh Gabriel được cử hành vào ngày 24 tháng 3 và lễ Thánh Raphael vào ngày 24 tháng 10.(1) Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng đã dạy một bài giáo lý về các Thiên thần trong các buổi Tiếp kiến Chung của ngài từ ngày 9 tháng 7 đến ngày 20 tháng 8 năm 1986. Thánh Giáo Hoàng nói: “Theo sách Khải Huyền, các thiên thần tham gia vào sự sống của Ba Ngôi trong ánh sáng vinh quang cũng được kêu gọi để đóng vai trò của họ trong lịch sử cứu rỗi con người, trong những khoảnh khắc được Thiên Chúa Quan phòng thiết lập. Tác giả của Thư Hípri (1:14) hỏi: “Hết thảy họ lại không phải là những thần phục dịch được sai đi giúp đáp vì phần ích những kẻ thừa hưởng ơn cứu rỗi đó sao?”
Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo số 328 – 330 dạy chúng ta rằng, “Sự hiện hữu của các hữu thể thiêng liêng, không có thể xác, mà Thánh Kinh quen gọi là các thiên thần, là một chân lý đức tin. Thánh Kinh và Thánh Truyền đều nhất trí như thế.”
Thánh Augustinô nói: “Thiên thần” chỉ chức năng chứ không chỉ bản tính. Xét về bản tính là “thuần linh.” Xét về chức năng là “thiên thần.” Theo hữu thể, là thuần linh; theo hành động, là thiên thần; được tạo ra, ở một thứ bậc cao hơn con người, thiên thần không có cơ thể và không phụ thuộc vào vật chất để tồn tại hoặc hoạt động. Các vị khác với những vị thánh, mà con người có thể trở thành.
Tự bản thể, các thiên thần là những tôi tớ và sứ giả của Thiên Chúa. Vì các ngài hằng chiêm ngưỡng “Thánh Nhan Cha Ta ở trên trời” (Mt 18,10), nên các vị là “những người đi thực hiện Lời Chúa, sẵn sàng phụng lệnh Người,” “Hãy chúc tụng Yavê, hỡi các thần sứ của Người, những anh hùng dũng mạnh làm theo lời Người, sẵn vâng tiếng Người phán ra. Hãy chúc tụng Yavê, hỡi các cơ binh của Người, tôi trung tùng phục ý Người” (Thánh vịnh 103,1,15). Với tư cách là thụ tạo thuần linh, các ngài là những thụ tạo có ngôi vị creaturae personalis (Piô XII: Denzinger 3891) (2) có trí năng, ý chí và bất tử, “Vì chưng họ không thể chết nữa, bởi họ được như thiên thần và nên con cái Thiên Chúa, một khi đã là con cái của sự sống lại” (Luca 20, 36). Các ngài hoàn hảo hơn mọi thụ tạo hữu hình. Vinh quang rực rỡ của các ngài minh chứng điều ấy, “Tôi nghe tiếng lời ngài. Vừa nghe tiếng lời ngài, tôi đã chết điếng, dập mặt xuống đất. Và này, một bàn tay đụng đến mình tôi, tôi giật nảy, tôi chỗi dậy trên đầu gối... Trong khi ngài nói với tôi lời ấy, thì tôi đã đứng dậy mà cứ run cầm cập.” (Đaniel 10,9-11).
Tổng lãnh thiên thần Michael
Tổng lãnh thiên thần Michael, được đề cập trong Sách Đanien, “Và này Michael, một trong các tướng hàng đầu đã đến trợ lực với ta…. Và không có một ai tăng sức cho ta đấu với các vị ấy, trừ phi là Michael, (thần sứ) tướng của các ngươi” (Đaniel 10,13.22) và trong Khải huyền của Thánh Gioan (Khải huyền 12.7), là hoàng tử của các thiên thần, chiến thắng Satan trong trận chiến của thời kỳ cuối cùng.
Tên của tổng lãnh thiên thần Michael, trong tiếng Do Thái có nghĩa là ai giống như Thiên Chúa? Ngài thường được hình dung như một chiến binh mạnh mẽ, mặc áo giáp và đi dép.
Tên của ngài xuất hiện trong Kinh thánh bốn lần, hai lần trong Sách Đanien, một lần trong Thư thánh Giuđa và một lần Sách Khải huyền. Từ sách Khải Huyền, chúng ta biết về trận chiến trên thiên đường, Thánh Michael và các thiên thần của ngài chiến đấu với Lucifer và các thiên thần sa ngã khác (hoặc ác quỷ).
Tổng lãnh thiên thần Gabriel
Tên của Tổng lãnh thiên thần Gabriel có nghĩa là “Chúa là sức mạnh của tôi.” Trong Kinh thánh, ngài xuất hiện ba lần với tư cách là một sứ giả. Ngài đã được cử đến Đaniel để giải thích thị kiến liên quan đến Đấng Mêsia, và tôi nghe có tiếng người giữa (sông) Ulai; tiếng ấy gọi lớn và nói: “Gabriel, hãy cho người này hiểu thị kiến!” (Daniel 8:16), “trong lúc cầu kinh, tôi còn đang nói, thì Gabriel, người mà tôi đã thấy trong thị kiến ban đầu, đã vụt bay đến kề bên tôi vào lúc dâng của lễ ban chiều (9:21). Ngài hiện ra với ông Dacaria khi ông đang dâng hương trong Đền thờ, để báo trước sự ra đời của con trai ông, thánh Gioan Tẩy giả, “Thiên thần Chúa đã hiện ra cho ông, đứng bên hữu hương án…. Ta là Gabriel, kẻ chầu hầu trước mặt Thiên Chúa, ta đã được sai đến nói với ngươi và đem tin mừng này cho ngươi!” (Luca 1,11-19). Tổng lãnh Gabriel được biết đến nhiều nhất là thiên thần được Thiên Chúa chọn làm sứ giả Truyền tin, loan báo cho nhân loại biết mầu nhiệm Nhập thể, “Tháng thứ sáu, thiên thần Gabriel được Thiên Chúa sai đến một thành xứ Galilê, tên là Nazarét, tới cùng một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Yuse, thuộc nhà Ðavít, và tên trinh nữ là Maria” (Luca 1, 26-27).
Lời chào của Tổng thiên thần Gabriel đối với Đức Mẹ, đơn giản nhưng đầy ý nghĩa, “Vui lên! Hỡi Ðầy ơn phúc! Chúa ở cùng người!” (Luca 1, 28), đã trở thành lời cầu nguyện Ave Maria, Kính mừng Maria, thường xuyên và quen thuộc của mọi người Kitô hữu.
Tổng lãnh thiên thần Raphael
Hiểu biết của chúng ta về Tổng lãnh thiên thần Raphael đến từ sách Tôbia, “Và Raphael đã được sai đến chữa lành cả hai: giựt khỏi mắt Tôbit những vệt trắng, để ông được thấy tận mắt ánh sáng của Thiên Chúa – và ban Sara, con gái Raguel cho Tôbia con của Tôbit làm vợ và giải thoát nàng khỏi quỉ dữ Asmôđê” (3, 17). “Và cũng vậy, Thiên Chúa đã sai ta đến chữa lành ngươi và Sara con dâu ngươi. Ta là Raphael, một trong bảy vị Thần sứ hằng túc trực để vào trước vinh quang Chúa” (12,15).
Nhiệm vụ của ngài như một người chữa bệnh tuyệt vời và đồng hành cùng Tôbia trẻ đã khiến ngài được mời gọi cho những cuộc hành trình và vào những thời điểm quan trọng trong cuộc sống. Truyền thống cũng cho rằng Raphael là thiên thần khuấy động nước tại hồ nước nuôi cừu chữa bệnh ở Bethesda. Tên của ngài có nghĩa là “Chúa đã chữa lành.”
Không giống như chúng ta, các thiên thần là những đấng thiêng liêng thuần khiết và không có bất cứ gì là vật chất. Các ngài không có cánh, thân xác hoặc gươm kiếm. Các Tổng Lãnh Thiên Thần được giao phó công việc giao tiếp và đưa những sứ điệp quan trọng cho con người. Các Tổng Lãnh Thiên Thần có thể bảo vệ chúng ta khỏi sự dữ. Thánh Micae và các thiên thần có quyền lực trục xuất Satan ra khỏi một nơi chốn.
Các Tổng Lãnh Thiên Thần vẫn hiện hữu ngày nay. Thiên Chúa đã tạo dựng các thiên thần bất tử và các vị sẽ không bao giờ ngưng hiện hữu, cho đến muôn đời.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc cực thánh của chúng con, chúng con xin Chúa ban phúc cho ngôi nhà của chúng con, gia đình chúng con, mọi người trong gia đình chúng con. Xin bảo vệ chúng con khỏi mọi sự dữ.
Thánh Thiên Thần Michael, xin hãy bảo vệ chúng con chống lại tất cả những kẻ xấu xa của địa ngục.
Thánh Thiên Thần Gabriel, xin hãy ban cho chúng con sự khôn ngoan để chúng con có thể hiểu được thánh ý Thiên Chúa.
Thánh Thiên Thần Raphael, hãy bảo vệ chúng con khỏi bệnh tật và mọi nguy hiểm đến tính mạng.
Xin các thiên thần hộ mệnh thánh thiện gìn giữ chúng con ngày đêm trên con đường dẫn đến ơn cứu độ. Amen!
(1) Năm 745, tại công đồng Latêranô, Đức Giáo Hoàng Zacharia đã tuyên bố: “Giáo hội Công Giáo chỉ nhìn nhận ba tên gọi chính thức của các thiên thần: Michael, Gabriel và Raphael”.
Phụng vụ theo Công Đồng Vaticanô II mừng chung các tổng lãnh thiên thần Michael, Gabriel và Raphael vào ngày 29 tháng chín, ngày kỷ niệm lễ cung hiến một đại giáo đường kính thánh Michael ở thế kỷ IV, trong một miền quê Rôma nhưng ngày nay không còn.
(2) Enchiridion Symbolorum, definitionum et declarationum de rebus fidei et morum: Tuyển tập các tín biểu, định tín và tuyên bố về các vấn đề đức tin và luân lý.
Phụng vụ hôm nay cử hành lễ tôn kính ba vị Tổng Lãnh Thiên Thần, những vị đã được tôn kính trong suốt lịch sử Giáo Hội.
* Thứ nhất là Đức Micae (Mica-el), nghĩa là “Ai bằng Thiên Chúa”.
* Tổng lãnh Thiên thần thứ hai là Gabriel, một vị có liên hệ gần với mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa (Lc 1, 19 - 26). Danh xưng của Ngài có nghĩa là “Sức mạnh của tôi là Thiên Chúa”.
* Tổng lãnh Thiên Thần thứ ba là Raphael, có nghĩa là “Thiên Chúa chữa lành” (linh dược của Thiên Chúa). Ngài chăm lo cho Tôbia con, trong cuộc hành trình đi kiếm người bạn trăm năm là Sara. Khi suy tư về sứ mạng của Raphael đối với Tôbia, chúng ta hiểu về câu Kinh Thánh trong thư Do-thái nói về các Thiên thần mà chúng ta tôn kính hôm nay: Nào tất cả các vị đó, không phải là những bậc thiêng liêng chuyên lo phụng thờ Thiên Chúa, được sai đi phục vụ mưu ích cho những kẻ sẽ được hưởng ơn cứu độ sao? (Hip 1, 14).
Các thiên thần gần gũi với chúng ta nên trong phụng vụ hôm nay, oremus: Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, Chúa đã hướng dẫn công việc của các thiên thần và người ta một cách kỳ diệu, xin cho những vị hằng phụng sự Chúa trên trời, cũng gìn giữ đời sống chúng con được an toàn khỏi mọi nguy hại ở đời này (lời nguyện nhập lễ).
Chúng ta nhận được vô vàn phù trợ từ các Tổng Thần và các Thiên Thần bản mệnh (những vị mà chúng ta mừng kính tôn vinh vào ngày 02.10): Sự hiện hữu của các thiên thần là một chứng cứ về sự quan tâm hiền phụ của Thiên Chúa dành cho chúng ta là con cái của Người.
1. Tổng lãnh Thiên Thần Micae giúp chống lại quỉ dữ
Bài đọc I trong thánh lễ mô tả cuộc giao chiến giữa Tổng Thần Micae với con mãng xà. Con mãng xà bị thua và bị tống ra ngoài. Đó là con rắn xưa, mà người ta gọi là satan hay ma quỉ. Tên chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ. Các giáo phụ giải thích và hiểu đó là cuộc chiến satan dấy lên chống lại Thiên Chúa và Giáo Hội. Cuộc chiến ấy kéo dài cho đến ngày tận thế (Thánh Gregorio Cả, Moralia 31, 12).
Thời Chúa Giêsu, đã xuất hiện một quyền lực vô hình rất mạnh. Nó khống chế nhiều người. Nó biến chất các lề luật đạo đức. Nó đối đầu với chính Chúa Giêsu. Nó cản phá công trình cứu chuộc của Đấng Cứu Thế. Nó ngăn chặn việc phát triển Nước Trời.
Quyền lực vô hình đó là satan và bè lũ. Quỷ satan là một quyền lực hung dữ, thông minh, mưu kế giỏi. Ta hãy xem nó cám dỗ Chúa một cách khôn khéo, vừa dựa vào Thánh Kinh vừa rất hợp lý… Nó ranh ma lôi kéo được mấy nhà lãnh đạo tôn giáo vàâ cả quần chúng có đạo nhất trí đồng tâm xin giết Chúa Giêsu (Lc 23, 13 - 25).
Quỉ satan cũng là một quyền lực phá hoại bền vững, ráo riết, luôn gieo cỏ lùng, sự ác… Nó đào tạo nhiều kẻ thông luật nên người đạo đức, nhưng đạo đức giả. Làm các việc đạo đức bình thường nhưng với mục đích phô trương… Quỉ xúi những người nổi tiếng làm những việc phi thường, nhưng do ý riêng mình. Quyền lực của quỉ như thế là cực kỳ mạnh. Chính Chúa Giêsu cũng đã nói với thượng tế, lãnh binh đền thờ… đến bắt Người một câu, như khẳng định quyền lực của satan đã đến giờ thắng thế: “Đây là giờ của các ông và quyền lực của tối tăm” (Lc 22, 53) (ĐGM. Bùi Tuần, tuần báo CGDT số 1927. tr. 12).
2. Tổng Lãnh Thiên thần Gabriel
Danh xưng Gabriel có nghĩa là “Đầy tớ của Thiên Chúa”, hoặc “Thiên Chúa đã tỏ sức mạnh”. Ngài xuất hiện như nhân vật đem Tin Mừng (J Dheilly, Biblical Dict. 1970).
Trước tiên, Ngài đã được Thiên Chúa ủy thác sứ mạng đem Tin Mừng trọng đại nhất, đó là Tin Mừng Ngôi Lời nhập thể. Thánh Bernađô nhận định: trong tất cả các Thiên Thần, Gabriel đã được coi là vị xứng đáng loan báo những chương trình của Thiên Chúa cho Đức Mẹ, và đón nhận lời Fiat của Mẹ. Lời chào của Đức Tổng Thần rất giản dị và đầy ý nghĩa. Lời chào: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, đã trở nên quen thuộc và lâu đời nhất của các tín hữu. Tổng Thần Gabriel có liên hệ với các sứ điệp về Đấng Cứu Thế, và sự xuất hiện của Ngài trong Thánh Kinh, là dấu chỉ thời gian đến hồi viên mãn. Trước đó, Ngài đã được sai đến với ngôn sứ Daniel để tiên báo thời kỳ Đâng Cứu Thế sẽ đến (Dn 8, 1 5-26); 9, 20-27), và đến với ông Giacaria để tiên báo Gioan Tẩy giả chào đời.
Tổng Lãnh Thiên thần Gabriel đã nêu lên ba lý do cho ông Giacaria để vui mừng khi vị Tiền Hô chào đời.
- Thiên Chúa ban cho con trẻ ấy ân sủng và sự thánh thiện phi thường. - Con trẻ ấy sẽ là khí cụ cho ơn Cứu độ. - Toàn bộ cuộc đời con trẻ sẽ được hiến dâng để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến.
Với ba lý do đó, Tổng Thần Gabriel đã nói với ông Giacaria: Ta là Gabriel đứng chầu trước nhan Chúa. Ta được sai đến để nói với ngươi và đem cho ngươi tin vui này…” (Lc 1, 19-20). Từ hai trường hơp tiên báo ông Gioan Tẩy giả chào đời và Hài Nhi Giêsu sinh ra, đem niềm vui tràn đây đến cho gia đình Glacaria, và Đức Mẹ, ta có thể nói rằng: Tin báo các con trẻ chào đời, bao giờ cũng là tin vui. Lý do là vì Thiên Chúa trực tiếp can thiệp vào sự tạo dựng con ngươi, bằng cách ban cho họ một linh hồn bất tử. Tổng Thần Gabriel đã nói với ông Giacaria: Ngươi sẽ vui mừng hoan hỉ, và nhiều người cũng sẽ vui mừng vì con trẻ được sinh ra… Thánh Ambrôsiô đã chú giải trình thuật rất hay: Qua bản văn này, các bậc cha mẹ được nhắc bảo cho biết bổn phận của họ là phải tạ ơn Thiên Chúa, và các Thánh cũng được mời gọi hãy vui mừng vì con cháu các Đấng được chào đời… (Thánh Ambrôsiô, in catena aurea V p. 22). Đàng khác, mỗi con trẻ chào đời đều mang theo một mục đích linh thánh.
3. Tổng Lãnh Thiên thần Raphael
Chúng ta biết về Đức Tổng Thần Gabriel chủ yếu là nhờ câu chuyện ông Tobia, một trình thuật rất có ý nghĩa về việc Thiên Chúa ủy thác cho các Thiên Thần trong việc chăm sóc loài người. Bởi vì chúng ta lúc nào cũng cần sự canh chừng, săn sóc và bảo vệ.
Thánh Kinh kể lại Tôbia con chuẩn bị lên đường: ông đã gặp được người bạn là Raphael. Trong cuộc hành trình gian khổ, Tôbia đã cảm nghiệm được sự bảo vệ của người bạn ấy. Raphael đã dẫn người thanh niên tốt phúc ấy đến nhà người thân là Raguel. Ông này có một ái nữ xinh đẹp tên là Sara, mà sau đó, Tôbia đã lấy làm vợ. Người bạn đồng hành ấy còn xua trừ ác quỉ cho cô dâu. Về sau, còn chữa chứng mù lòa cho ông Tôbia cha nữa. Vì vậy, Đức Tổng Thần Raphael được tôn nhận là quan thầy của những người lữ hành, và những người yếu bệnh hồn xác.
Cuộc đời là một hành trình mà đích đến là Thiên Chúa. Để đạt đến đích điểm ấy, chúng ta cần sự trợ giúp, bảo vệ vâ chỉ dẫn. Bởi vì chúng ta sẽ gặp nhiều nguy hiểm… Vì thế, chúng ta nên cầu xin và tin tưởng vào sự phù trợ của Tổng Thần Raphael, Đấng sẽ chỉ dẫn cho những ai muốn tìm biết những gì Thiên Chúa đang trông chờ nơi họ. Điều đó có nghĩa là mỗi người có một ơn gọi, và chúng ta phải sáng suốt quyết định, nhờ sự hướng dẫn của Tổng Thần Raphael, người bạn đồng hành thân thiết ân cần.
4. Ba Tổng Lãnh Thiên thần có mối quan hệ nào với công tác Truyền Thông? Hay là tại sao ta nhận Ba Tổng Thiên Thần làm bổn mạng?
Như chúng ta đã biết, các hoạt động của ma quỉ núp dưới các hình thức và phương tiện truyền thông đại chúng hôm nay, như: Sách báo, phát thanh, truyền hình, điện thoại, fax (phát nhanh) các trang điện tử (wesite), quảng cáo, hội họa, âm nhạc, kịch nghệ, sân khấu, v.v… Các phương tiện truyền thông xã hội này mỗi ngày được cập nhật hóa, tinh vi, mau lẹ và rất hiệu quả, để phổ biến những điều gian dối, phi luân, bạo lực... Nội dung là sự ác dưới mọi hình dáng xinh đẹp, lôi cuốn, làm băng hoại nhiều thế hệ thanh thiếu niên và cộng đồng... Các phương tiện ấy do các thế lực ma quỉ điều khiển, sử dụng để chống lại Thiên Chúa và các giáo huấn của Giáo Hội. Phổ biến, tuyên truyền một thứ luân lý đạo đức tương đối... không dựa vào một tiêu chuẩn, nguyên tắc luân lý thường hằng nào.
Tổng lãnh Thiên thần Micae sẽ đứng về phía đội ngũ những chiến sĩ chống lại sự ác. Và tương kế tựu kế, chúng ta cũng sẽ dùng các phương tiện xã hội của thời đại hôm nay để đánh phá, hóa giải ảnh hưởng của sự ác, và mạnh dạn công bố Tin Mừng Cứu độ.
Như Tổng lãnh Thiên thần Gabriel, chúng ta cũng là những “thiên thần” đem tin vui cho gia đình và thế giới từ chỗ đứng của chúng ta trong xã hội.
Cùng với Ngài, ta mạnh dạn loan báo văn hóa sự sống. Vì sự sống là quà tặng Chúa ban. Trong nền văn minh hưởng thụ, người ta tôn sùng thân xác, đề cao những tiện nghi vật chất hơn là niềm vui đưa thêm những con trẻ vào cuộc sống, và giáo dục chúng trở nên những công dân Nước Trời.
Đứng trước thực trạng xã hội có nhiều dấu chỉ bi quan, tiêu cực, chúng ta là con cái sự sáng cương quyết không để bị thua trước tấn công của các thế lực tối tăm.
Còn Tổng lãnh Thiên thần Raphael? Ngài là bạn của những người lữ hành, là thày thuốc chữa bệnh tật hồn xác. Như trường hợp ông Tôbia cha, bị mù, Ngài đã lấy gan cá đốt thành than, chữa cho ông sáng mắt. Chung quanh chúng ta, rất nhiều người, tuy có hai con mắt sáng, nhưng lại mù lòa về chân lý, về đức tin... do cố chấp, kiêu căng, ngạo mạn, cuồng tín nô lệ vào một hệ ý thức, một tôn giáo. Tiêu biểu là những biệt phái mà Chúa đã phiền trách nặng nề... “Các ông thấy cái rác nơi con mắt người khác, còn cái xà trong con mắt các ông, các ông lại không thấy?”
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà môi trường bị ô nhiễm trầm trọng. Không chỉ ô nhiễm môi trường vật chất, mà nhất là ô nhiễm môi trường tinh thần, gây nên nhiều bệnh tật thể lý cũng như tâm linh... Những người là công tác Văn Hóa Truyền thông có trách nhiệm giải độc, chữa trị bằng ngòi bút và các phương tiện truyền thông đại chúng của thời đại hôm nay.
Các bạn thân mến,
Mọi thụ tạo do Chúa dựng nên, kể cả những sản phẩm con người sáng chế, phát minh đều tốt đẹp. Nhưng chúng cũng mang tính lưỡng diện: tích cực và tiêu cực, tốt và xấu; vì con người sử dụng và điều khiển có tự do.
Nhờ ơn phù trợ của ba Tổng lãnh Thiên thần và Chân phước Joan Paulo II - vị Giáo hoàng truyền thông của “thời đại mới” (Novae Eatatis) sẽ được tôn phong hiển thánh nay mai, chúng ta hiên ngang đứng trong hàng ngũ đội quân đối đầu với các thế lực ma quỷ, núp dưới hình hài các phương tiện khoa học kỹ thuật, chống lại Thiên Chúa và Giáo hội. Hơn bao giờ hết, chúng ta ý thức tầm quan trọng và sự lợi hại của các phương tiện truyền thông hiện đại, để biết khôn ngoan sử dụng, nhằm xây dựng vương quốc công chính, bình an và hoan lạc (Rm 14, 17).
Con Người đến không phải để giết, nhưng để cứu chữa.
Thứ Ba tuần 26 thường niên. – 30/09 Thánh Giêrônimô, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ. “Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem”.
* Thánh nhân sinh quãng năm 340 tại Xơtriđôn, Đanmaxia. Người đến Rôma học văn chương và đã lãnh bí tích Thánh Tẩy tại đó. Người sang Đông phương và làm linh mục. Trở lại Rôma, người làm thư ký cho Đức Giáo Hoàng Đamaxô. Thời gian này, người bắt đầu dịch Sách Thánh sang tiếng La tinh và cổ võ nếp sống đan tu. Nhưng nhất là người đã sống 35 năm cuối đời ở Bêlem, gần cái hang nơi Đức Giêsu ra đời. Ở đây, người cầu nguyện hãm mình, chăm chỉ nghiên cứu, dịch và chú giải Kinh Thánh. Người qua đời ở Bêlem năm 420.
Vì gần tới thời gian Chúa Giêsu phải cất khỏi đời này, Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem, và sai những người đưa tin đi trước Người. Những người này lên đường vào một làng Samaria để chuẩn bị mọi sự cho Người. Nhưng ở đó người ta không đón tiếp Người, bởi Người đi lên Giêrusalem. Thấy vậy, hai môn đệ Giacôbê và Gioan thưa Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy muốn chúng con khiến lửa bởi trời xuống thiêu huỷ chúng không?” Nhưng Người quay lại, quở trách các ông rằng: “Các con không biết thần trí nào xúi giục mình. Con Người đến không phải để giết, nhưng để cứu chữa người ta”. Và các Ngài đi tới một làng khác.
Sống là lên đường. Hai lần tiên báo về cái chết sắp đến cho thấy Đức Giêsu biết rõ con đường mình sắp đi, và những gì sẽ xảy ra ở cuối đường (Lc 9, 22. 44). Bị bắt, bị nộp, bị loại bỏ, bị giết chết, là những điều tự nhiên ai cũng gớm ghét, sợ hãi và muốn né tránh. Đức Giêsu cũng vậy, vì Ngài mang trọn phận người như ta. “Đức Giêsu nhất quyết đi lên Giêrusalem” (c. 51). Lên Giêrusalem là một quyết định đắn đo và nghiêm túc, cũng là một chọn lựa tự do và can đảm của Đức Giêsu, bởi lẽ lên đó là chấp nhận đối diện với cái chết bi đát. Giêrusalem là trung tâm hoạt động của các nhà lãnh đạo Do Thái giáo, những người đang âm mưu bắt được Đức Giêsu để thủ tiêu. Muốn được sống yên thân, Đức Giêsu chỉ cần đừng lên thành đô ấy, chỉ cần giới hạn hoạt động của mình ở Galilê. Lên Giêrusalem trong tình thế dầu sôi lửa bỏng như bây giờ là làm một cuộc Xuất Hành mới (Lc 9, 31), đầy bất trắc hiểm nguy. Nhưng Đức Giêsu không sợ đến với nơi Cha muốn mình đến: “Hôm nay, ngày mai và ngày mốt, tôi phải tiếp tục đi, vì một ngôn sứ mà chết ngoài thành Giêrusalem thì không được” (Lc 13, 33). Giêrusalem là nơi Đức Giêsu hiến mình qua cái chết vì vâng phục, nhưng Giêrusalem cũng là nơi Ngài được phục sinh và rước lên trời (c. 51). Tin Mừng Luca coi việc lên Giêrusalem như một hành trình dài (9, 51-19, 27). Ngài cố ý đi ngang qua vùng đất của người Samari. Giữa người Do Thái và người Samari có sự xung khắc. Người Do Thái khinh người Samari, người Samari thù người Do Thái. Chính vì thế khi biết nhóm Thầy trò lên đường đi Giêrusalem dự lễ, người dân một ngôi làng Samaria đã từ chối tiếp đón. Giacôbê và Gioan, từng được Thầy gọi là con của thiên lôi (Mc 3, 17), đã muốn xin cho mình được chia sẻ quyền năng trừng phạt của Thầy. Họ muốn làm như ngôn sứ Êlia ngày xưa (2 V 1, 10. 12), “khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy bọn chúng” (c. 54). Nhưng Thầy Giêsu, người dẫn đầu, đã quay lại quở mắng hai ông. Ngài chẳng bao giờ dùng quyền lực để trừng phạt kẻ từ chối mình. Ngài sống điều Ngài đã giảng cho các môn đệ (Lc 6, 29). Làm sao có thể giết người khác chỉ vì họ không đón nhận mình? Quyền lực của Thiên Chúa không đe dọa, không áp đặt, cũng không bóp chết tự do mà Ngài đã ban cho con người. Sự bao dung của Đức Giêsu cho ta thấy sự bao dung của Thiên Chúa. Chúng ta có thể học được nhiều điều từ thái độ này. Như các môn đệ, chúng ta cũng thích thi thố quyền lực. Chúng ta cũng thích dùng lửa khi có lửa trong tay. Chúng ta không chấp nhận một Kitô giáo có vẻ yếu đuối, chịu lép vế. Thầy Giêsu và các học trò đã đi sang làng khác (c. 56). Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng trước mọi biến cố của cuộc sống, khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm, hay gặp sự bất trung, bất tín nơi những người con tin tưởng cậy dựa. Xin giúp con gạt mình sang một bên để nghĩ đến hạnh phúc người khác, giấu đi những nỗi phiền muộn của mình để tránh cho người khác phải đau khổ. Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời, để đau khổ làm con thêm mềm mại, chứ không cứng cỏi hay cay đắng, làm con nhẫn nại chứ không bực bội, làm con rộng lòng tha thứ, chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ. Ước gì không ai sút kém đi vì chịu ảnh hưởng của con, không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật, lòng cao thượng, tử tế, chỉ vì đã là bạn đồng hành của con trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu. Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối, xin cho con có lúc thì thầm với Chúa một lời yêu thương. Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên, tràn trề sức mạnh để làm việc thiện, và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh. Amen. (dịch theo Learning Christ) ---------------------------------
Chúa Giê-su rao giảng tại Ga-li-lê. Người lên Giê-ru-sa-lem để hoàn tất quãng đời dương thế. Đó là cao điểm. Lu-ca nói Người đi về trời để được vinh quang. Da-ca-ri-a đã loan báo trước vinh quang của Chúa. Mọi dân tộc sẽ nhận biết Chúa. Sẽ trở về với Chúa. Sẽ đi theo con đường của Chúa: “Các nước và dân cư trong các thành phố lớn vẫn còn tuôn đến. Dân thành này sẽ đến thành khác mà nói rằng: “Nào ta cùng đi làm cho nét mặt Đức Chúa dịu lại và tìm kiếm Đức Chúa các đạo binh; cả tôi nữa, tôi cũng đi!...Trong những ngày ấy, mười người đàn ông thuộc mọi ngôn ngữ trong các dân tộc sẽ níu lấy áo của một người Giu-đa mà nói: “Chúng tôi muốn đi với anh em, vì chúng tôi đã nghe biết rằng Thiên Chúa ở với anh em”(năm lẻ).
Nhưng con đường vinh quang phải trải qua đau khổ. Đau khổ lớn lao chưa từng có ai chịu nổi. Đau khổ không ai có thể chịu đựng được. Chúa bị phản bội, bị bỏ rơi bởi các môn đệ. Bị xét xử nhiều lần. Bị kết án. Bị nhục mạ. Bị đánh đòn. Bị vác thánh giá. Bị đóng đinh. Chết giữa những tên trộm cướp. Đau đớn nhất là Người cảm thấy như bị Chúa Cha ruồng bỏ. Thánh Gióp là người chịu đau khổ phần nào giống Chúa. Ông trong sạch. Ông trung thành thờ phượng Chúa. Nhưng ông bị thử thách. Mất hết của cải, con cái. Bản than bị lở loét, sâu bọ đục khoét. Vừa đau đớn vừa hôi thối. Nhưng đau đớn hơn nữa ông bị bạn bè kết án. Và nhất là người vợ thân thương cũng khinh khi miệt thị. Và nhất là ông cảm thấy như bị Chúa ruồng bỏ. Nên ông đau buồn than khóc. “Bấy giờ, ông Gióp mở miệng nguyền rủa ngày ông chào đời. Ông Gióp lên tiếng nói: “Phải chi đừng xuất hiện ngày tôi đã chào đời…Sao lại ban ánh sang và sự sống cho kẻ chẳng biết mình đi đâu, cho kẻ bị Thiên Chúa giam hãm tư bề?”(năm chẵn).
Việc người Sa-ma-ri không đón tiếp Chúa chỉ là bắt đầu. Rồi Chúa sẽ chịu nhiều đau khổ nhục nhã lớn lao hơn nữa. Cho đến chết. Các tông đồ muốn trừng phạt họ. Nhưng Chúa mắng các ông. Vì các ông không hiểu. Chính Chúa tự nguyện đi vào con đường đau khổ để được vinh quang. Chấp nhận chịu bạc đãi để đem lại yêu thương. Chấp nhận thân phận tội lỗi để qui tụ muôn người về với Chúa Cha. Chấp nhận chết đi để được sống lại.
Các môn đệ tuy chưa hiểu. Nhưng vì yêu mến Chúa, các ngài sẵn sang đi vào con đường của Chúa. Xin cho chúng ta cũng biết noi gương các ngài. Gắn bó với Chúa. Đi theo Chúa. Cùng chịu đau khổ để cùng vinh quang với Chúa. Cùng chịu chết để được sống lại với Chúa.
Ðể lại một tên tuổi, có được một danh thơm tiếng tốt, đó vốn là ước mơ chung của mọi người. Tuy nhiên, được người khác trân trọng nhắc nhớ và mến thương hay không là tùy cách sống của mỗi người. Nói chung, cuộc đời hy sinh cho người khác, dù chỉ là hy sinh âm thầm cũng luôn được nhớ đến. Phải chăng đó không là ao ước của cố nhạc sĩ Văn Cao khi ông nói: "Tôi không đi qua tôi, tôi để lại gì? Tôi sẽ để lại gì nếu tôi chỉ khư khư giữ cho riêng mình? Nhưng nếu tôi có ra khỏi tôi, có trao ban chính mình, thì điều tôi để lại chính là bản thân tôi; bản thân tôi tìm gặp đã đành, mà đó cũng là quà tặng tôi để lại cho đời".
Có thể đó cũng là ý nghĩa chúng ta tìm thấy trong Tin Mừng hôm nay. Nếu mỗi tác giả Tin Mừng có một sợi chỉ xuyên suốt nối kết các biến cố trong cuộc đời Chúa Giêsu, thì theo sự trình bày của thánh Luca, sợi chỉ xuyên suốt cuộc đời Chúa Giêsu chính là cuộc hành trình lên Giêrusalem. Với thánh Luca, cuộc đời Chúa Giêsu là một hành trình ra đi không ngừng để đạt tới đích điểm là Giêrusalem, nơi gặp gỡ chung cục giữa Chúa Giêsu và các nhà lãnh đạo Do thái cũng như chính quyền Roma. Giêrusalem là cao điểm của cuộc song đấu giữa quyền lực sự dữ và tình yêu diễn ra trong con người Chúa Giêsu. Giêrusalem, xét cho cùng, chính là cái chết đang chờ đợi Chúa Giêsu; đi lên Giêrusalem có nghĩa là giáp mặt với cái chết, là đi đến tận cùng của thân phận làm người.
Nếu đã đón nhận cái chết như tột đỉnh của cuộc hành trình, thì dĩ nhiên điều kiện tiên quyết của người ta ra đi là phải kiên nhẫn trước thất bại. Chúa Giêsu muốn dạy các môn đệ của Ngài bài học về sự kiên nhẫn trước thất bại ấy khi các ông bị những người Samari khước từ. Giacôbê và Gioan tưởng có thể sai khiến lửa từ trời xuống để tiêu diệt những kẻ chống các ông; tuy nhiên, trung thành với giáo huấn của Ngài, Chúa Giêsu nhắc nhở cho các ông bài học về yêu thương nhẫn nại mà họ phải có ngay cả với kẻ thù của mình.
Ra đi, hay nói theo ngôn ngữ của Văn Cao "đi qua khỏi mình" chính là biết thắng vượt những chướng ngại do lòng ích kỷ và hận thù có thể giăng mắc trên lối đi. Cái chết chỉ thực sự có ý nghĩa và giá trị khi nó là một cái chết vì yêu thương; cuộc hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu như vậy cũng là một cuộc hành trình của yêu thương. Chỉ có yêu thương mới giúp con người thắng vượt được chính mình, chỉ có yêu thương mới giúp con người nhìn xuyên suốt qua bên kia thất bại, khổ đau.
Cuộc sống của người môn đệ Chúa Giêsu là một cuộc hành trình không ngừng. Cùng với Ngài, chúng ta luôn được mời gọi từ giã con người cũ tội lỗi và ích kỷ để tiến về con người mới của ân sủng và yêu thương. Chông gai thử thách vẫn luôn có đó, nhưng chúng ta tin rằng có Chúa Giêsu đồng hành với chúng ta và phần thưởng đang chờ đợi chúng ta chính là niềm vui được lớn lên và tìm gặp lại bản thân mỗi ngày một cách sung mãn hơn.
Tin Mừng hôm nay hẳn mời gọi chúng ta lặp lại niềm tín thác của chúng ta vào sự quan phòng kỳ diệu của Chúa. Thánh Luca, tác giả của đoạn Tin Mừng hôm nay nhìn cuộc đời của Chúa Giêsu như một cuộc hành trình tiến về Giêrusalem mà cao điểm là cái chết trên thập giá. Tiến về Giêrusalem để chịu tử nạn cho nên có gặp thù nghịch chống đối trong suốt cuộc hành trình cũng là chuyện bình thường đối với Chúa Giêsu, nhưng các môn đệ của Chúa Giêsu chưa thể hiểu tại sao Thầy mình phải gặp phải những chống đối như thế. Phản ứng của hai thánh Gioan và Giacôbê là điển hình, hai vị thánh này không thể chấp nhận được sự kiện người dân tại một làng Samaria nọ không đón tiếp Ngài. Các ngài chỉ mong cho lửa từ trời xuống để tiêu diệt cái dân phản nghịch này. Chúa Giêsu quở trách các ngài, Chúa Giêsu muốn nhắc nhở cho các môn đệ biết rằng điều kiện đầu tiên để làm môn đệ Ngài là phải có thái độ kiên nhẫn trước sự chống đối, thù nghịch và thẳng thắn nói chung. Ðây là dịp để các môn đệ hiểu được ý nghĩa của những bài dụ ngôn về nước Trời, đặc biệt là các bài dụ ngôn về hạt giống, về cỏ lùng và lúa tốt. Hạt giống được gieo vãi ngay cả trên đất xấu, hạt giống được gieo vãi ngay cả trên cỏ lùng, hạt giống phải chịu thối đi trong lòng đất; dù có được gieo vãi trong những điều kiện không thuận lợi, hạt giống vẫn mọc lên và sinh nhiều bông hạt.
Hình ảnh của hạt giống gợi lên cho chúng ta lịch sử của Giáo Hội. Giáo Hội được tẩy trần và sinh hoa kết trái ngay giữa những cơn bách hại đẫm máu nhất. Giáo Hội từng được thanh luyện và trưởng thành khi gặp chống đối và thù nghịch. Thái độ thỏa hiệp có thể mang lại cho Giáo Hội một vài đặc ân và dễ dãi, nhưng chắc chắn những thiệt hại và mất mát mà Giáo Hội phải chịu thì không gì có thể bù lại được. Giáo Hội có đáng tin hay không? Giáo Hội có thật sự đi lại cuộc hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu hay không? Hay giữa những chống đối, thù nghịch và thử thách, Giáo Hội vẫn tỏ ra trung thành với Ðấng khi bị treo trên thập giá đã lặng thinh và phó thác cho Thiên Chúa. Hạt lúa có gieo vào lòng đất mới thối đi và lớn lên sinh nhiều bông hạt, đó là định luật của cuộc sống Giáo Hội và của người môn đệ Chúa Kitô.
Ước gì giữa những khổ đau, chống đối và thù nghịch, chúng ta vẫn luôn nhận ra được bàn tay quan phòng kỳ diệu của Chúa, đó là ơn trọng đại mà chúng ta phải không ngừng cầu xin Chúa ban cho chúng ta.
Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem. Người sai mấy sứ giả đi trước, họ lên đường và vào một làng người Sa-ma-ri để chuẩn bị cho Người đến. (Lc. 9, 51-52)
Với lòng quả cảm, Đức Giêsu nhất quyết lên Giê-ru-sa-lem, vì Người biết rõ sắp tới ngày chịu nạn chịu chết. Người sẵn sàng vâng theo thánh ý Cha Người, nên không bao giờ lùi bước. Người không sống cho chính mình, trái lại sống phụng vụ thánh ý Cha với tấm lòng vui vẻ của người con thảo. Người gởi sứ giả đi trước dọn đường đi qua Sa-ma-ri-a, họ hận thù với dân Do-thái.
Dân Sa-ma-ri-a bị coi là kẻ ly giáo đối với thành thánh Giê-ru-sa-lem kể từ khi họ xây đền thờ trên núi Ga-ri-dim. Cả hai dân tộc đều khinh ghét nhau, nên những đoàn hành hương khi đi ngang qua ranh giới, đều phải chịu những quẫy nhiễu đủ thứ. Những Tông Đồ bị từ chối không cho qua làng Sa-ma-ri-a để lên Giê-ru-sa-lem.
Gia-cô-bê và Gio-an nổi khùng, muốn dùng biện pháp mạnh thiêu đốt làng đó ngay lập tức. Các ông nói với Đức Giêsu: “Lạy Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không”. Người ta có thể nghĩ xem Đức Kitô, Đấng nhân lành xử thế nào đối với sự chống đối của các môn đệ. Người cần cho các ông một bài học nhân lành về thái độ ngạo ngược này, và chỉ cho các ông phải lấy lửa nào mà đốt tật xấu của mình đi. Đức Kitô đã nhìn Gia-cô-bê và Gio-an với giọng khiển trách ngay thẳng, hẳn tâm can Người khá thất vọng không biết đến chừng nào các ông hiểu được một chút lời dạy của Người: cần kiên trì đến bao giờ đối với các ông và với mọi người khác. Dầu đang sống với chính Người, đang nghe chính Người nói, đang nhìn thấy chính Người hành động, các ông vẫn chưa nuốt được ý nghĩa cần thiết phải có thời giờ chờ đợi cho mọi thứ ăn năn trở về, không nên dùng sức mạnh cưỡng bách Thiên Chúa xâm nhập vào những con tim loài người. Chúng ta cũng giống như các môn đệ đó, muốn một Giáo Hội bị xé nát do nhiều Kitô hữu tự lên án phạt vạ tuyệt thông nhau, đối xử tệ với những người trễ nải, hay bất mãn với những gánh nặng của Giáo Hội đề ra. Họ còn chống đối cả sự kiên nhẫn của Thiên Chúa.
Đức Kitô chỉ nói đơn giản rằng: “Chúng ta đi sang làng khác”.
Hành trình cứu độ của Đức Giêsu là một hành trình tiến về Giêrusalem để chịu chết trong chương trình cứu độ mà Thiên Chúa muốn. Trên hành trình ấy, Đức Giêsu đã tìm dịp thuận tiện để Thầy trò tâm tư về sứ mạng.
Thật vậy, một trong những điều mà Đức Giêsu quan tâm, đó là làm sao để cho các môn đệ có được tinh thần hy sinh, thái độ kiên trì trước nghịch cảnh và thử thách, cần khiêm tốn và phải có tấm lòng bao dung, vị tha.
Tại sao vậy? Thưa! Người môn đệ của Đức Giêsu phải là người phản chiếu tình thương của Thầy cho anh chị em mình một cách trung thực, mà sự thật về Đức Giêsu là gì nếu không phải là một vị Thiên Chúa, Đấng nhân từ và hiền hậu, khiêm nhường và hay thương xót, Đấng đến để phục vụ thay cho được phục vụ, hy sinh và sẵn sàng chết cho người mình yêu...!
Vì thế, Đức Giêsu đã không chấp nhận thái độ trả thù của hai môn đệ Gioan và Giacôbê khi các ông xin Ngài cho phép khiến lửa từ trời xuống thiêu đốt dân làng Samaria vì họ không cho Thầy trò đi qua. Nhân đây Đức Giêsu đã dạy cho các ông bài học về sự bao dung, tha thứ và biết đón nhận thử thách vì lòng yêu mến Chúa. Đồng thời cũng dạy cho các ông bài học về sự kiên trì và trung thành.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có thái độ cảm thông cho những nghi kỵ, khinh khi và cự tuyệt của người đời, ngay cả những sự vu khống, bắt bớ vì Đạo. Noi gương Đức Giêsu, sẵn sàng đón nhận đau khổ vì sứ vụ: "Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao" (Mt 5,11-12). Biết chấp nhận những sự giới hạn của con người, và ý thức rằng: chúng ta đi đến đâu cũng có một số người sống chết với ta, một số người quyết loại bỏ ta và số còn lại thì chẳng cần quan tâm đến chúng ta cũng như công việc của ta. Đây cũng chính là thân phận của Thầy Chí Thánh Giêsu đã trải qua.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn có tấm lòng bao dung như Chúa. Luôn hiểu và thông cảm cho những bất toàn của anh chị em mình. Đồng thời, xin cho chúng con biết đón nhận mọi thử thách, nghịch cảnh xảy đến trong đời và nơi sứ vụ vì lòng yêu mến Chúa. Amen.
Sứ điệp: Chúa là Đấng khoan dung nhân từ. Dù những người Sa-ma-ri không tiếp đón Chúa, nhưng Chúa không muốn tiêu diệt họ. Chúa vẫn tha thứ và chờ đợi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa là Đấng giàu lòng thương xót nhân từ. Biết bao lần con cũng sống như người Samari, đã không tiếp đón Chúa, đã từ chối Chúa, đã xúc phạm đến Chúa, nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ cho con. Chúa chấp nhận bị từ chối vì Chúa tôn trọng tự do của con. Chúa muốn đến cứu con chứ không đến để tiêu diệt con. Nếu con có phải bị phạt thì cũng đáng, vì con đã phạm đến Chúa và Chúa có quyền phạt con. Nhưng lạy Chúa, Chúa không xử với con như con đáng tội. Chúa không phải là Thiên Chúa báo oán, nhưng là Thiên Chúa tình yêu giàu lòng nhân ái. Con được sống đến ngày hôm nay là do Chúa nhân từ xót thương. Con tạ ơn Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con nhận ra tình thương của Chúa để con sống xứng đáng với tình thương bao la ấy. Không phải vì Chúa thương con mà con lạm dụng tình thương ấy. Nhất là xin Chúa giúp con biết sống hiền lành và khiêm nhường theo gương Chúa. Mỗi lần nghe một lời nói mất lòng, một câu chướng tai, mỗi lần thấy một việc gai mắt, mỗi lần gặp những điều trái ý, mỗi lần bị xúc phạm, xin Chúa giúp con biết kiên nhẫn nhịn nhục và chấp nhận. Xin cho con biết hãm dẹp tự ái, biết kềm hãm tính nóng nảy để chịu đựng những sự buồn phiền trái ý. Con đã kinh nghiệm rằng mắng chửi, quát tháo, đánh đập đã đem lại những hậu quả không tốt. Chỉ có tình thương mới có sức cảm hoá và đem lại niềm vui cho cuộc sống. Xin Chúa ban cho con một quả tim mới, một quả tim biết yêu thương. Amen.
Ghi nhớ: “Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem”.
1. Đức Giêsu cương quyết lên Giêrusalem qua xứ Samaria cho gần, nhưng dân làng không chấp nhận vì họ thù nghịch với dân Do thái mà Đức Giêsu là người Do thái. Thấy vậy, hai ông Giacôbê và Gioan nổi giận xin Chúa cho phép lấy lửa trên trời xuống đốt cháy tụi này. Nhưng Đức Giêsu quở trách tính hung hãn của hai ông và nói cho hai ông biết: “Con Người đến không phải để giết chết nhưng để cứu sống”. Thật vậy, bài học này đã làm cho các môn đệ và mỗi người chúng ta phải xét lại thái độ của chúng ta đối với anh em.
2. Nên biết, giữa người Do thái và Samaria có một sự xung khắc về quốc gia và tôn giáo. Người Samaria bị những người Do thái giáo coi như những kẻ ly giáo, từ khi họ đã xây dựng một ngôi đền thờ trên đỉnh núi Garizim để cạnh tranh với đền thờ Giêrusalem. Phải tránh tiếp xúc với những kẻ “lầm lạc” (Ga 4,9-20). Bị những người Do thái khinh bỉ, họ trả đũa lại bằng cách gây ra mọi phiền nhiễu cho các đoàn hành hương mượn con đường ngắn nhất để đi từ Galilêa về Giêrusalem.
Trước thái độ từ chối của dân làng Samaria, hai ông Giacôbê và Gioan, với biệt hiệu “Con trai Thiên lôi”: muốn xin lửa từ trời xuống thiêu đốt những kẻ nghịch này. Hai ông có thái độ như thế vì nhớ lại trường hợp tiên tri Êlia xưa (2V1,10) và nghĩ rằng dân làng Samaria làm như thế là đã làm nhục cho Chúa. Đây là thái độ còn nhiều tinh thần Cựu Ước, tinh thần báo thù.
3. Nhưng ở đây, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ một hình ảnh đích thực về Thiên Chúa, Ngài vốn là Đấng toàn năng nhưng không can thiệp như một ông vua chuyên chế bắt các bề tôi và kẻ thù phải quỳ mọp dưới chân, nhưng Ngài chờ đợi họ hoán cải như người cha, người mẹ đối với con cái: ”Con Người đến không phải để giết, nhưng để cứu chữa”.
Các môn đệ được hiểu rằng việc báo thù là việc của tà thần chứ không phải là việc của Thiên Chúa. Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa báo oán, mà là Thiên Chúa tình thương. Đức Giêsu muốn dạy cho các ông con đường đi theo Chúa không luôn thẳng tắp, không gặp trắc trở. Vậy những ai muốn theo Chúa phải nhẫn nại hiền lành để đối xử lại, để chinh phục lại các linh hồn. Thánh Phanxicô Salêsiô nói: “Một thìa mật lôi kéo nhiều ruồi hơn một thùng giấm”.
4. Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy lối suy nghĩ của các môn đệ khi chưa hiểu và thấm nhuần giáo huấn của Chúa. Lối suy nghĩ và lối thích sử dụng quyền lực để răn đe hay trấn áp người khác là cách hành xử hoàn toàn trái với tinh thần Tin Mừng. Nên Chúa Giêsu đã cảnh cáo các ông. Thái độ của các môn đệ ngày xưa cũng chính là thái độ của chúng ta ngày hôm nay. Tôi tôn thờ một Thiên Chúa nào? Phải chăng là một Thiên Chúa tình yêu, nhân từ, quảng đại hay tha thứ... hay là một Thiên Chúa mà chúng ta cố giải thích méo mó để phục vụ cho ý muốn của riêng ta (5 phút Lời Chúa)?
5. Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có thái độ cảm thông cho những nghi kỵ, khinh khi và cự tuyệt của người đời, ngay cả những sự vu khống, bắt bớ vì Đạo. Noi gương Đức Giêsu, sẵn sàng đón nhận đau khổ vì sứ vụ: “Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu không đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao”(Mt 5,11-12).
Biết chấp nhận những sự giới hạn của con người, và ý thức rằng: chúng ta đi đến đâu cũng có một số người sống chết với ta, một số người quyết loại bỏ ta và số còn lại thì chẳng cần quan tâm đến chúng ta cũng như công việc của ta. Đây cũng chính là thân phận của Thầy Chí Thánh Giêsu đã trải qua trong cuộc đời của Ngài.
6. Truyện: Tấm lòng nhân ái tuyệt vời.
Nhiều năm về trước – một ủy viên chấp hành khá cao tuổi của một tập đoàn dầu lửa Rochefeller ở Mỹ - đã đưa ra một quyết định sai lầm làm công ty thiệt hại hơn hai triệu đôla. John D. Rochefeller lúc đó là người đứng đầu công ty.
Bedford được Rochefeller mời lên văn phòng. Bedford đến rất đúng giờ và sẵn sàng để nghe những lời chỉ trích có thể nặng nề của Rochefeller.
Khi Bedford bước vào phòng, ông vua dầu hỏa đang ngồi cạnh bàn, chăm chú viết bằng bút chì lên một tờ giấy. Bedford đứng yên lặng, không muốn phá ngang. Sau vài phút, Rochefeller ngẩng lên.
- A, anh đấy à, Bedford – Rochefeller nói rất chậm rải – Anh đã nghe tin những tổn thất của công ty chúng ta rồi chứ?
Bedford đáp rằng tôi đã biết rồi.
- Tôi đã suy nghĩ rất nhiều về điều này, - Rochefeller nói,- Và trước khi nói chuyện với anh, tôi đã ghi ra đây vài dòng.
Sau này, Bedford kể lại cuộc nói chuyện của ông với Rochefeller như sau: Tôi thấy rõ dòng đầu tiên của tờ giấy mà ông chủ đã “ghi vài dòng” là “những ưu điểm cùa Bedford”. Sau đó là một loạt những đức tính của tôi, kèm theo là miêu tả vắn tắt rằng tôi đã giúp công ty, đưa ra quyết định đúng đắn được ba lần, giúp công ty kiếm được gấp nhiều lần số tiền tổn thất lần này.
Bedford không bao giờ quên bài học ấy. Ông đã ghi khắc những điều đó trong lòng và đem ra áp dụng trong những ngày làm việc còn lại của ông.
Thánh Giacôbê khuyên mọi người: “Phải mau nghe, đừng vội nói, và khoan giận”(Gc 1,20-21).
Một lần nữa, Gioan (và Giacôbê) biểu lộ những thói xấu rất tầm thường của con người:
1. Tính nóng nảy: hễ gặp chuyện không vừa ý là lập tức muốn trừng phạt.
2. Óc bè phái: phân biệt bạn thù và hở một chút là muốn tiêu diệt kẻ thù.
3. Lạm dụng quyền hành: ỷ mình là môn đệ Chúa Giêsu nên muốn dùng lửa trời để thỏa mãn tính nóng giận cá nhân.
Thái độ Chúa Giêsu dạy hai bài học:
1. Xác định ý hướng căn bản của sứ mệnh: Con Người đến không phải để giết chết mà để cứu sống.
2. Nhường nhịn: làng này không tiếp mình thì sang làng khác.
B.... nẩy mầm.
1. Không nên phản ứng theo cảm xúc tự phát, nhất là cảm xúc nóng giận. Phải phản ứng theo định hướng căn bản của sứ mệnh của mình: không nhằm giết chết mà nhằm cứu chữa.
2. Quyền hành không phải để trừng trị kẻ không làm đúng ý mình, mà để phục vụ.
3. Theo suy nghĩ của loài người, nhường là thiệt thòi, nhịn là nhục. Nhưng theo suy nghĩ của Chúa, nhịn nhục là biểu lộ một nhân cách rất vững vàng và một tấm lòng rất khoan dung.
4. Một Cha sở già kia có nhiều kinh nghiệm thường khuyên các đôi tân hôn như sau: “Khi các con thấy trong nhà sắp xảy ra cãi vã, các con hãy nói với nhau: “Để sáng mai rồi hãy gây gỗ”. Sáng hôm sau các con sẽ thấy rằng việc hôm qua thật là nhỏ nhoi không đáng gây gỗ chút nào. Khi các con sắp có chuyện cãi vã, chúng con hãy ngậm hoài một ngụm nước lạnh cho đến khi ngụm nước nóng lên. Rồi cứ tiếp tục ngậm ngụm nước khác. Làm như thế các con sẽ bớt được những xô xát đổ vỡ trong gia đình. (Trích ”Phúc”)
Một lần nữa, Gioan và Giacôbê biểu lộ những thói xấu rất thông thường của con người:
* Tính nóng nảy: hễ gặp chuyện không vừa ý là lập tức muốn trừng phạt.
* Thích sử dụng quyền hành: ỷ mình là môn đệ Chúa Giêsu nên muốn dùng lửa trời để thỏa mãn tính nóng giận cá nhân.
1. Theo Chúa, quyền hành không phải để trừng trị nhưng để phục vụ. Chính vì thế mà ta phải biết kiềm chế cơn nóng giận của mình.
Ở Tây Tạng xưa kia có một người tên là Ái Địa Ba, mỗi khi tức giận tranh chấp với người khác, anh đều chạy về nhà với tốc độ rất nhanh, chạy xung quanh ngôi nhà và mảnh đất của mình ba vòng, sau đó ngồi xuống bờ ruộng thở dốc.
Ái Địa Ba làm việc vô cùng siêng năng. Nhà của anh ta càng ngày càng to, đất đai của anh ta càng ngày càng rộng lớn, nhưng cho dù nhà có to và đất có rộng bao nhiêu đi nữa, thì nhưng khi tức giận với một người nào đó, anh vẫn chạy quanh nhà và mảnh đất của mình ba vòng.
Tại sao Ái Địa Ba mỗi lần tức giận đều chạy quanh nhà và mảnh đất ba vòng? Tất cả những người quen biết anh đều cảm thấy nghi hoặc, nhưng cho dù hỏi gì, anh đều không muốn giải thích.
Cho đến một ngày nọ, Ái Địa Ba đã trở thành một ông cụ rất già, ngôi nhà và mảnh đất của ông bây giờ cũng đã quá rộng lớn, khi tức giận, ông vẫn chống gậy vất vả đi xung quanh ngôi nhà và mảnh đất của mình, sau khi hoàn thành ba vòng một cách khó khăn, mặt trời cũng đã lặn xuống núi, Ái Địa Ba một mình ngồi trên bờ ruộng thở dốc, cháu ông đến bên cạnh nài nỉ:
- Ông ơi, tuổi ông đã cao, những người hàng xóm quanh đây cũng không có ai có đất đai rộng lớn bằng ông, ông không thể giống như lúc trước được, mỗi khi tức giận đều chạy quanh mảnh đất! Ồng có thể nói cho cháu biết bí mật này không, tại sao mỗi khi tức giận ông đều chạy quanh mảnh đất ba vòng?
Trước sự nài nỉ của đứa cháu, Ái Địa Ba cuối cùng cũng phải nói ra bí mật trong lòng mình suốt nhiều năm nay:
- Khi trẻ, mỗi khi ông cãi cọ, tranh luận, tức giận một ai đó ông đều chạy ba vòng quanh mảnh đất của mình, vừa chạy vừa suy nghĩ, ngôi nhà của mình nhỏ như vậy, đất đai của mình nhỏ như vậy, mình làm gì có thời gian và tư cách để tức giận mọi người. Khi nghĩ đến đây, bao nhiều tức giận đều tan biến hết, ông dành tất cả thời gian nỗ lực làm việc.
Đứa cháu hỏi:
- Ông à, vậy bây giờ ông đã lớn tuổi rồi, cũng đã trở thành một người giàu có, tại sao ông vẫn còn chạy như thế?
Ái Địa Ba cười nói:
- Phải. Bây giờ, tuy ta đã già nhưng nhiều khi vẫn có thể tức giận, khi tức giận thì chạy ba vòng, vừa chạy vừa suy nghĩ, nhà của ta thật to, đất đai của ta thật rộng lớn, ta hà tất tính toán với người khác làm gì cho mệt? Nghĩ đến đây, bao nhiêu tức giận đều tan biến cả.
2. Hiền lành quảng đại sẽ mang lại cho cuộc sống nhiều thành công hơn.
Nhiều năm về trước, Bedford - một ủy viên chấp hành khá cao tuổi của một tập đoàn dầu lửa Rockefeller ở Mỹ - đã đưa ra một quyết định sai lầm làm công ty thiệt hại hơn hai triệu đô la. John D. Rockefeller lúc đó là người đứng đầu công ty.
Bedford được Rockefeller mời lên văn phòng. Bedford đến rất đúng giờ và đã sẵn sàng nghe những lời chỉ trích nặng nề trong cơn nóng giận của Rockefeller.
Khi Bedford bước vào phòng, ông vua dầu lửa đang ngồi cạnh bàn, chăm chú viết bằng bút chì lên một tờ giấy. Bedford đứng yên lặng, không muốn phá ngang. Sau vài phút, Rockefeller ngẩng lên.
- A, anh đấy hả, Bedford. - Rockefeller nói rất chậm rãi. - Anh đã nghe tin những tổn thất của công ty chúng ta rồi chứ?
Bedford đáp rằng ông đã biết rồi.
- Tôi đã suy nghĩ rất nhiều về điều này. - Rockefeller nói. - Và trước khi tôi nói chuyện với anh, tôi đã ghi ra đây vài dòng.
Sau này, Bedford kể lại cuộc nói chuyện của ông với Rockefeller như sau: Tôi thấy rõ dòng đầu tiên của tờ giấy mà ông chủ đã “ghi vài dòng” là “Những ưu điểm của Bedford”. Sau đó là một loạt những đức tính của tôi, kèm theo là miêu tả vắn tắt rằng tôi đã giúp công ty, đưa ra quyết định đúng đắn được ba lần, giúp công ty kiểm được gấp nhiều lần số tiền tổn thất lần này.
Bedford không bao giờ quên bài học ấy. Ông đã ghi khắc những điều đó trong lòng và đem ra áp dụng trong những ngày làm việc còn lại của ông. (Internet)
Thánh Giacôbê khuyên mọi người: “Phải mau nghe, đừng vội nói, và khoan giận, vì khi nóng giận, con người không thực thi được đường lối công chính của Thiên Chúa (Gc 1, 20-21).
Và đây là Lời Sách Châm ngôn: “Ðừng bè bạn với người hay nóng giận, chớ giao du với kẻ dễ nổi xung, kẻo con lại học đòi lối sống của chúng” (Cn 22.24-25).
Giả như lời nói của hai môn đệ của Chúa là ông Giacôbê và Gioan: “Lạy Thầy, Thầy muốn chúng con khiến lủa từ trời xuống thiêu hủy chúng không?” (Lc 9, 54), mà trở thành hiện thực thì có lẽ rất là khủng khiếp cho dân thành Samaria về cái tội không biết tiếp đón Chúa của họ.
Lời nói của hai người môn đệ Giacôbê và Gioan cho chúng ta thấy các ngài nóng nảy, tự ái, đi kèm theo một chút có vẻ như kiêu căng, hóng hách khi thấy người khác không làm theo ý mình. Đàng khác, chúng ta cũng thấy được các ngài cậy thế dựa quyền vào Chúa. Các ngài chưa biết kiềm chế bản thân, vẫn còn buông theo cơn nóng nảy giận ghét người khác của mình.
Chúa không bao giờ chiều theo những điều cầu xin không tốt của các tông đồ ngày xưa cũng như của chúng ta hôm nay. Chúa không muốn chúng ta làm điều xấu, điều ác, điều dữ cho anh chị em của chúng ta. Chúa muốn chúng ta làm điều tốt, điều lành, điều thiện cho họ. Bởi vì Chúa đến trần gian, Chúa làm nhiều điều tốt đẹp, lành thánh cho con người. Chúa cứu chữa chứ Chúa không giết chết, do đó Chúa mới cương quyết lên đường đi Giêrusalem. Đi Giêrusalem có nghĩa là Chúa đi đến đấy để Chúa chịu chết trên thánh giá cứu chuộc chúng ta: “Thiên chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ” (Ga 3, 16).
Chúa không muốn các tông đồ bị cuốn hút vào việc có tiếp đón hay không tiếp đón Chúa. Chúa dẫn các ngài đi tới các làng khác để Chúa tiếp tục rao giảng Tin Mừng và làm phép lạ cứu giúp con người. Qua đó Chúa muốn nói với chúng ta, dù điều kiện có thuận lợi hay không thuận lợi, điều ấy không ảnh hưởng đến sứ mạng rao truyền Lời Chúa của người môn đệ Chúa. Do đó, chúng ta hãy cộng tác với Chúa để thực hiện sứ mạng rao truyền Lời Chúa cho mọi người, không ngại gian lao, khó khăn phía trước mặt: “Nhưng Người quay lại quở trách các ông rằng: Các con không biết thần trí nào xúi giục mình. Con Người đến không phải để giết, nhưng để cứu chữa người ta . Và các ngài đi tới một làng khác” (Lc 9, 56).
Lạy Chúa, xin Chúa giúp chúng con biết bỏ đi tính tự ái, kiêu ngạo, nóng giận và biết sống khiêm hạ, yêu thương, cảm thông, tha thứ để cho cuộc sống chung mỗi ngày tốt đẹp và chúng con dễ dàng loan báo Tin Mừng Chúa hơn, như vậy Chúa sẽ hài lòng và thương chúng con nhiều hơn. Amen
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Thánh Giêrônimô hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã ban cho thánh linh mục Giêrônimô trí thông hiểu và lòng mến yêu Kinh Thánh, xin Chúa cho chúng ta hằng thiết tha tìm đến Lời Chúa là nguồn mạch ban sức sống dồi dào. Thánh nhân sinh quãng năm 340 tại Xơtriđôn, Đanmaxia. Người đến Rôma học văn chương và đã lãnh Bí Tích Thánh Tẩy tại đó. Người sang Đông Phương và làm linh mục. Trở lại Rôma, người làm thư ký cho Đức Giáo Hoàng Đamaxô. Người dịch Sách Thánh sang tiếng Latinh và cổ võ nếp sống đan tu, nhất là, người đã sống ba mươi lăm năm cuối đời ở Bêlem, gần cái hang nơi Đức Giêsu ra đời. Ở đây, người cầu nguyện hãm mình, chăm chỉ nghiên cứu, dịch và chú giải Kinh Thánh. Người qua đời ở Bêlem năm 420.
Hằng thiết tha tìm đến Lời Chúa, sống mầu nhiệm tự hủy mỗi ngày, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích thư của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Philípphê: Phải ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng, luôn đứng vững, đoàn kết với nhau, theo gương Đức Giêsu Kitô là Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang… Tội lỗi của chúng ta, chính Đức Kitô đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Như vậy, nhờ cái chết của Người, Người đã tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ. Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin. Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá.
Hằng thiết tha tìm đến Lời Chúa, sống bằng sức mạnh và quyền năng của Lời Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích lời tựa sách chú giải ngôn sứ Isaia của thánh Giêrônimô: Không biết Kinh Thánh là không biết Đức Kitô… Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, giáo dục để trở nên công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn, và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành. Ai tuân giữ lề luật ấy là đứa con khôn.
Hằng thiết tha tìm đến Lời Chúa, sống bên Chúa trong Thánh Đô của Người, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách ngôn sứ Dacaria: Các dân đông đảo sẽ đến tìm kiếm Đức Chúa tại Giêrusalem. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 86 cho thấy: Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thành Xion được lập trên núi thánh. Chúa yêu chuộng cửa thành hơn mọi nhà của dòng họ Giacóp. Thành của Thiên Chúa hỡi, thiên hạ nói bao điều hiển hách về thành.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Con Người đến để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người. Trong bài Tin Mừng, thánh Luca tường thuật: Đức Giêsu nhất quyết đi lên Giêrusalem. Con Người đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người, do đó, Đức Giêsu nhất quyết lên Giêrusalem, bởi vì, nói về Xion, thiên hạ bảo: Người người sinh tại đó. Xion hỡi, mọi nguồn gốc của tôi ở nơi thành. Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin. Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá. Tội lỗi của chúng ta, chính Đức Kitô đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Bởi vì, người Dothái đã lầm vì không biết Kinh Thánh, cũng chẳng biết quyền năng Thiên Chúa, nên, Đức Giêsu đã truyền: Hãy nghiên cứu Kinh Thánh và cứ tìm thì sẽ thấy. Vì thế, không biết Kinh Thánh là không biết Đức Kitô. Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, giáo dục để trở nên công chính. Ai tuân giữ lề luật ấy là đứa con khôn. Chúa đã ban cho thánh linh mục Giêrônimô trí thông hiểu và lòng mến yêu Kinh Thánh, ước gì chúng ta cũng bắt chước người hằng thiết tha tìm đến Lời Chúa. Ước gì được như thế!
Con đường thơ ấu thiêng liêng. 01/10 – Thứ Tư tuần 26 thường niên. – Thánh TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU, trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ kính. Bổn mạng các xứ truyền giáo.
"Nếu không hoá nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời".
* Thánh nữ sinh năm 1873 tại A-lăng-xông, nước Pháp. Người nhập đan viện Cát Minh ở Li-di-ơ, lúc tuổi còn rất trẻ, và nhận tên là Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Chị đã sống đời khiêm tốn, đơn sơ theo tinh thần Tin Mừng và hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa theo “con đường thơ ấu”.
Chị cũng đã dùng lời nói và gương sáng để hướng dẫn các tập sinh trong Dòng. Chị qua đời ngày 30 tháng 9 năm 1897 trong niềm khao khát được hiến dâng mạng sống để các linh hồn được ơn cứu độ và Hội Thánh được tăng triển.
Khi ấy, các môn đệ đến bên Chúa Giêsu mà hỏi rằng: "Thưa Thầy, ai là kẻ lớn nhất trong Nước Trời?"
Chúa Giêsu gọi một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các ông mà phán rằng: "Thật, Thầy bảo các con: nếu các con không hoá nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời. Vậy ai hạ mình xuống như trẻ này, người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước Trời. Còn ai tiếp đón một em nhỏ như thế này vì danh Thầy, là đón tiếp chính Thầy".
--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J. “Thầy bảo thật anh em, nếu anh em không trở lại và trở nên như trẻ thơ, anh em sẽ chẳng bao giờ được vào Nước Trời” (c. 3). Đây là một câu nói long trọng của Đức Giêsu. Như thế điều kiện để được vào Nước Trời là phải quay trở lại, và trở nên như trẻ thơ, sống theo tinh thần của trẻ thơ. Trở nên như trẻ thơ không phải là trở nên ấu trĩ, ngây ngô, khờ khạo, nhưng là khiêm hạ, tin cậy, phó thác cho Thiên Chúa. Vì thế thiên đàng có chỗ cho người lớn, người trưởng thành, những người đã sống tinh thần của trẻ thơ. Để trở lại và trở thành như trẻ thơ, cần nhiều hy sinh từ bỏ. Đức Giêsu đã trả lời câu hỏi của các môn đệ: “Ai là người lớn nhất trong Nước Trời?” (c. 1). Người lớn nhất chính là người đã hạ mình xuống như em nhỏ đang đứng ở giữa các ông (c. 2). Đoạn Tin Mừng này đã gợi cho Chị Têrêsa bí quyết nên thánh, mà Chị gọi là con đường thơ ấu thiêng liêng. Chỉ cần sống như trẻ thơ là có hy vọng được nhận vào Nước Trời. Têrêsa đã kiên trì đi con đường này suốt cuộc đời ngắn ngủi của Chị. Và Chị đã nên thánh, đã thu hút bao người đi con đường này. Con đường này thật ra cũng chẳng phải là đường của Chị cho bằng là con đường của bài Tin Mừng hôm nay. Chị Têrêsa đã muốn sống cái đơn sơ, nhỏ bé của trẻ thơ. “Tôi muốn tìm thấy một cái thang để lên tới Đức Giêsu, Vì tôi quá nhỏ bé không lên nổi các bậc trọn lành. Lạy Chúa Giêsu, thang chính là cánh tay Ngài. Con không cần phải lớn lên, ngược lại con phải nhỏ mãi.” Têrêsa không nên thánh bằng những việc hãm mình kinh khủng, nhưng bằng những hy sinh nho nhỏ, những từ bỏ ý riêng. “Ai không có gan đóng đanh mình bằng những chiếc đanh lớn… thì phải chịu tử đạo bằng những chiếc ghim nhỏ.” Chị tin vào sức mạnh của những việc nhỏ bé được làm vì yêu. “Nhặt một cái kim ở dưới đất vì yêu mến, cũng có thể cải hóa một linh hồn.” Mối quan tâm duy nhất của Chị là làm vui lòng Chúa trong mọi sự. “Tôi vui sướng chịu đựng gian khổ, ngay cả chỉ để làm Chúa mỉm cười lấy một lần.” Têrêsa phó thác cho Chúa trong giây phút hiện tại. “Nghĩ tới dĩ vãng và bận tâm về tương lai dễ làm nản chí và thất vọng. Tôi chịu đựng từng giây phút một. Chúa trao cho tôi từng lúc điều tôi có thể chịu đựng, và chỉ thế thôi.” Têrêsa nói với chúng ta về cách cầu nguyện của Chị. “Tôi làm như mấy đứa bé chưa biết đọc. Tôi nói với Chúa cách đơn sơ điều tôi muốn nói với Người, và Người luôn nghe tôi.” Tuy sống tinh thần trẻ thơ, nhưng Têrêsa lại mang nhiều ước mơ lớn. Chị mong được đi truyền giáo khắp nơi, được vào Dòng Kín ở Hà Nội. “Nếu tôi là linh mục, tôi sẽ học cho giỏi tiếng Híp-ri và tiếng Hy-lạp, để hiểu tư tưởng của Thiên Chúa, được diễn tả bằng ngôn ngữ loài người.” Chắc chắn Têrêsa chẳng bao giờ là linh mục, và cũng chẳng đi Hà Nội. Nhưng lòng ao ước khiến Chị đã thực hiện những điều lớn lao. Đức Gioan Phaolô đệ nhị đã tôn Chị làm Tiến Sĩ Giáo Hội, dù Chị chưa học xong trung học, và qua đời khi mới hai mươi bốn tuổi. Têrêsa Hài Đồng Giêsu là một vị thánh được yêu thích, đơn giản chỉ vì Chị đã trở lại và trở thành như trẻ thơ.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con, nếu Hội Thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất. Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu. Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động. Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu, thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng, các vị Tử Đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...
Lạy Chúa Giêsu, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con, ơn gọi của con chính là tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội Thánh: nơi Trái tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu, và như thế con sẽ là tất cả, vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh.
Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của con được thực hiện. (dựa theo lời của thánh Têrêxa)
Bạn đã bao giờ nghe về Thánh Thérèse hay Thánh Têrêsa Hài Đồng và những bí mật về thánh nữ? Bạn có biết tại sao có rất nhiều người chọn ngài làm thánh quan thầy, và là người bạn gần gũi nhất của mình không?
Câu chuyện của Thérèse Martin
Thérèse Martin sinh ra trong một thị trấn thuộc Alencon, Pháp vào ngày mùng 2 tháng 1 năm 1873. Chị là con gái út trong gia đình gồm 5 chị em gái. Khi chị còn rất nhỏ, mẹ của chị mắc căn bệnh ung thư. Vào thời đó, họ không có thuốc và sự điều trị tốt như ngày nay. Các bác sĩ đã cố gắng hết sức nhưng căn bệnh của bà Martin vẫn ngày càng nặng thêm. Bà đã mất khi Thérèse mới chỉ 4 tuổi.
Đó là khi bố của Thérèse quyết định tốt hơn nên chuyển nhà đến Lisieux, một thị trấn khác, nơi có nhiều người thân sinh sống. Ở đó có tu viện Carmelite, một tu hội dòng kín, nơi các thiếu nữ làm một công viêc đặc biệt đó là cầu nguyện cho toàn thế giới. Khi Thérèse được 10 tuổi, một chị gái của chị là Pauline đã xin nhập dòng Carmelite ở Lisieux. Điều đó thật khó khăn cho Thérèse vì chị Pauline giống như người mẹ thứ hai của Thérèse, chăm sóc và dạy dỗ chị ân cần như mẹ đã từng làm. Thérèse nhớ chị Pauline đến phát ốm. Suốt cả tuần sau đó chị vẫn chưa khỏi, các bác sĩ không biết chị đã gặp vấn đề gì. Bố và 4 chị gái của Thérèse đã cầu xin Thiên Chúa giúp. Một ngày sau, tượng Đức Mẹ trong phòng ngủ của Thérèse bỗng dưng mỉm cười với Thérèse và chị hoàn toàn bình phục!
Một lần khác, Thérèse nghe tin về một người đàn ông đã gây ra ba vụ giết người và thậm chí còn không biêt hối lỗi. Chị quyết định cầu nguyện và làm một việc hy sinh để cầu nguyện cho ông ấy (như từ bỏ một cái gì đó mình thích, hay làm một việc nào đó mà mình không thích). Chị cầu xin Chúa thay đổi tâm hồn người đàn ông ấy. Trước khi người đàn ông đó chết, ông ta hỏi về cây thánh giá và hôn lên hình Chúa Giêsu. Thérèse cảm thấy rất hạnh phúc, chị biết rằng ông ta đã tin vào Chúa và đón nhận ơn sám hối.
Thérèse rất yêu mến Chúa Giêsu. Chị muốn dâng hết cả con người mình cho Chúa. Chị muốn gia nhập dòng Camelô để có thể dâng hiến đời mình để làm việc và cầu nguyện cho mọi người, nhất là cho những người còn chưa biết đến lòng thương xót Chúa. Nhưng Thérèse gặp một trắc trở: chị còn quá trẻ, cần phải cầu nguyện và chờ đợi thêm. Cuối cùng thì chị cũng được 15 tuổi, được phép gia nhập vào tu viện.
Chị Thérèse đã làm gì trong thời gian ở tu viện? Không gì đặc biệt cả. Bí mật của chị ấy là: YÊU MẾN. Có một lần Thérèse nói rằng: “Thiên Chúa không muốn chúng ta phải làm điều này điều kia cho Ngài, mà Ngài muốn chúng ta yêu Ngài là đủ”. Vì thế, Thérèse đã ước muốn và thực hành đời sống yêu mến Chúa. Chị tập kiên nhẫn và ân cần với mọi người, điều đó thật không dễ chút nào. Trong thời ấy, lúc các chị đang giặt quần áo bằng tay (lúc đó máy giặt chưa được phát minh), có một chị luôn làm bắn tóe nước bẩn vào mặt Thérèse. Nhưng Thérèse chẳng bao giờ tỏ ra bực bội. Thérèse thường hay giúp đỡ một chị lớn tuổi có tính cáu gắt và luôn phàn nàn về mọi thứ, bởi vì Thérèse không cảm thấy thích việc đó. Thérèse muốn đối xử với chị ấy như với chính Chúa Giêsu. Chị biết rằng khi mình yêu những người khác tức là mình đang yêu chính Chúa Giêsu. Tình yêu khiến Thérèse trở nên hạnh phúc.
Thérèse chỉ sống đời tu 9 năm. Căn bệnh lao đã xảy đến với chị, nó khiến chị phải chịu rất nhiều đau đớn. Không có sự điều trị đối với căn bệnh ấy, các bác sĩ cũng không thể giúp được nhiều cho chị. Thérèse qua đời khi mới chỉ 24 tuổi. Nhưng trước khi chết, chị đã hứa sẽ không từ bỏ điều bí mật của mình. Chị hứa sẽ luôn yêu thương và giúp đỡ mọi người khi về quê trời. Trước khi mất, Thérèse đã nói: “Tôi sẽ gửi mưa ơn lành từ trời xuống mặt đất”. Và chị ấy đã làm được điều đó! Tất cả mọi người trên thế giới, những người đã nhờ thánh Thérèse Lisieux cầu xin đến Thiên Chúa đều nhận được sự đáp trả qua lời cầu nguyện của họ.
Bí mật của Thánh Têrêsa Hài Đồng
Thérèse đã khám phá ra “con đường nhỏ” để đến với Thiên Chúa: Thérèse muốn nên Thánh. Ngài biết Thiên Chúa rất muốn giúp đỡ mình và đặt hết mọi tin tưởng nơi Thiên Chúa và yêu Chúa hết cả tấm lòng, sau đó ngài quan tâm, đối xử tốt với mọi người xung quanh, từ những việc đơn giản nhất. “Con đường nhỏ” của Thérèse là làm mọi việc bạn có thể làm cho người khác vì yêu mến Chúa. Đó chắc chắn là cách để bạn có thể nên thánh.
Sứ điệp: Để trở thành người lớn nhất trong Nước Trời, ta phải tự hạ và phó thác trọn vẹn xác hồn cho Chúa như trẻ thơ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, hôm nay con nhìn lên khuôn mặt Chúa đầy bao dung, hiền hậu, chan chứa yêu thương khi Chúa để các em bé vây quanh. Đó cũng là khoảnh khắc Chúa ghé nhìn và lưu ý đến con để xác định con phải sống như thế nào để trở thành người lớn nhất trong Nước Trời. Chúa dạy con tự hạ và phó thác như trẻ thơ. Quả thực, Lời Chúa làm con băn khoăn và sững sờ như các môn đệ xưa.
Lạy Chúa, giá trị của xã hội trần gian và của Nước Trời có một khoảng cách khác biệt quá lớn mà hôm nay con mới nhận ra. Nhìn lên Chúa, con cảm thấy an tâm phấn khởi vì điều kiện Chúa đặt ra cho kẻ lớn nhất trong Nước Trời thật đơn giản, là tự hạ và hoàn toàn phó thác tin tưởng vào Chúa như tâm hồn các em bé. Nhưng khi nhìn lại, con thấy mình chưa thực hiện đòi hỏi ấy trong cuộc sống đầy cạm bẫy, bon chen, lo lắng hôm nay. Cuộc đời luôn thay đổi như một quy luật tất nhiên mà con không thể đứng ngoài. Vâng, xã hội loài người vẫn là mạnh được yếu thua, mạnh vì gạo bạo vì tiền. Cuộc đời là phải đấu tranh có địa vị, danh lợi, chức quyền và cả lạc thú nữa. Con đang trong vòng xoay đó và con thường bị nó cuốn hút vào. Chính cuộc sống đó dần dần làm tâm hồn con mất đi lòng tín thác đơn sơ tự hạ như các trẻ thơ. Xin ánh mắt Chúa nhìn xuống và gia ân để con tỉnh thức trong cuộc đời này.
Cậy nhờ lời cầu bầu của Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, xin Chúa giúp con biết phó thác trọn vẹn cuộc sống cho lòng yêu thương quan phòng của Chúa. Xin Chúa hướng dẫn điều khiển cuộc sống hôm nay và mai sau vì con muốn đặt trọn niềm tin yêu nơi Chúa. Xin thương giúp con. Amen.
Ghi nhớ: “Nếu không hoá nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời”.
Một cậu bé gõ cửa nhà một bà già và hỏi xem bà có mua những trái trứng cá chín mọng cậu vừa hái được hay không. Bà trả lời: “Có, bà sẽ xách xô của cháu vào bếp và đong 2 lít”.
Cậu bé đứng ngoài đùa với con chó. Bà nói: “Sao cháu không vào xem bà đong có đúng không? Nhỡ bà lường gạt cháu thì sao?”.
- Cháu không sợ, vì làm thế bà sẽ nhận được điều xấu nhất.
- Cháu muốn nói gì?
- Vì cháu chỉ mất vài trái nhỏ, nhưng bà tự biến mình thành kẻ trộm.
Suy niệm
Theo thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, nước Trời chỉ dành cho những ai có tâm hồn trẻ thơ vì các em có các đức tính:
Khiêm nhường: Trẻ em thì yếu đuối, vô năng lực, chúng không thể làm gì dựa trên sức lực riêng, và luôn tùy thuộc vào cha mẹ trong mọi sự. Người có tâm hồn trẻ thơ biết ra điều đó và chấp nhận.
Nghèo khó: Trẻ em không có riêng gì là của mình, chỉ được người khác ban cho mà thôi.
Trông cậy: Trẻ em chỉ biết có cha mẹ của mình. Trẻ em trông chờ cha mẹ nuôi dưỡng cung cấp cho mình những điều cần thiết vì vậy không cần lo lắng gì.
Tình thương yêu: Trẻ em có tình thương yêu, yêu cha mẹ và phó thác mình vào cha mẹ.
Đơn sơ: Mọi sự trong trẻ em thì đơn sơ, từng ý nghĩ và lời nói cả việc làm nữa. Trẻ em chỉ có khả năng làm những việc nhỏ.
Ðức Giêsu đưa trẻ em ra làm lý tưởng sống; “Con đường thơ ấu thiêng liêng”, mà sau này thánh nữ Têrêsa Hài Ðồng Giêsu tái khám phá biểu lộ tinh thần đơn sơ của con đường nhỏ, để trở nên thánh thiện, bằng việc yêu mến và phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa.
Thật thế, chúng ta cũng cần sống gắn bó vào Ðức Giêsu như trẻ thơ.
Ý lực sống
“Ai không đón nhận nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào” (Lc 18,15-17).
Hôm nay toàn thể Giáo hội hân hoan mừng Lễ Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, vị Thánh của Tình yêu và lòng phó thác. Người ta thường tóm gọn 24 năm cuộc đời Thánh nữ, đặc biệt là 9 năm sống đời đời dâng hiến là chuỗi ngày dài của ước mơ và tình yêu. Chính ước mơ làm cho cuộc đời của chị thành kì diệu và chính tình yêu mãnh liệt, tràn trề biến chị thành nữ thánh được mọi người yêu quí và ngưỡng mộ.
Sinh ra trong một gia đình khá giả ở Pháp, là cô gái út trong gia đình ngũ long công chúa, Têrêsa cũng theo gót 4 chị của mình vào Tu viện. Bước vào dòng kín, chôn mình trong bốn bức tường với một đời sống nhiệm nhặt, nhưng chị đã biến nó thành một nếp sống nhẹ nhàng hạnh phúc. Chính trong viện tu viện Carmêlô này, Chị đã đề xướng một hành trình nên thánh bằng con đường thơ ấu thiêng liêng, sống bằng tình yêu, phó thác, đơn sơ nhỏ bé; như một bé thơ tin tưởng trọn vẹn trong vòng tay mẹ cha. Chị viết trong Một Tâm Hồn: "Các vị đại thánh làm việc để vinh danh Thiên Chúa, còn con, con chỉ là một tâm hồn nhỏ bé nhất, chỉ làm việc để làm vui lòng Người. Con muốn ở trong tay Chúa nhân lành, như một đóa hoa nhỏ, một cánh hồng đơn sơ, nhưng màu sắc và hương thơm làm cho Người thêm vui".
Dẫu là một nữ tu dòng kín, chị đã khát khao trở thành một vị truyền giáo đi tới hang cùng ngõ hẻm của trái đất bao la này! Nguyện ước này đã được bề trên chấp thuận với chương trình gửi chị qua dòng kín Sàigòn, Việt Nam; nhưng ý Chúa nhiệm mầu! Chị đã ngã bệnh lao phổi trầm trọng... và giã từ cuộc sống này lúc vừa tròn 24 xuân xanh.
Trước giờ chết, chị đã nói như tạm biệt cộng đoàn: "Tôi không chết, tôi bước vào cõi sống”. Và như một vị tiên tri, chị nói với mẹ Bề Trên: “A! Con biết lắm, rồi cả thế giới sẽ yêu thương con”. Liền sau cuộc mai táng tại nghĩa trang của thị trấn, có một trận mưa hoa hồng ngay trên mộ của nữ tu trẻ tuổi này, vì chị đã hứa: "Tôi về trời, là để làm điều tốt cho thế gian”.
Và như thế dù đã bước vào cõi vĩnh hằng, chị đã về với Đấng yêu thương, nhưng chị vẫn gắn bó với trần thế bằng ước mơ mưa hoa hồng hồng ân từ trời xuống cho Giáo Hội và xã hội.
Ngày 29/4/1923 Đức Piô XI đã phong á thánh cho Têrêsa và hai năm sau ngày 17/5/1925 chính vị giáo hoàng này đã tôn dương chị lên bậc hiển thánh và hai năm sau nữa vào ngày 14/12/1927 cũng chính Đức Piô XI đã đặt chị làm quan thầy của các xứ truyền giáo.
Tại Paris nhân ngày Đại hội giới trẻ thế giới lần thứ 12 (21-24.8) năm 1997, ngày bế mạc Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã loan báo: Giáo Hội sẽ tôn phong thánh Têrêsa Tiến sĩ Hội Thánh và ngày Chúa nhật Truyền giáo 19.10.1997 Đức Gioan Phaolô đệ nhị đã tuyên phong Têrêsa là Tiến sĩ của Hội thánh.
Chúng ta đang sống trong một thời đại văn minh kĩ thuật, con người ngày nay vật chất không thiế, nhưng thiếu tình yêu. Chúng ta hãy theo gương Thánh nữ Têrêsa, làm sao cho những công việc thường ngày được thắm đượm tình yêu; đồng thời cũng theo bước Chị trên con đường thơ ấu thiêng liêng, sống phó thác trọn vẹn cho Tình thương Chúa, để muôn đời được chiêm ngưỡng Thánh Nhan.
Xin được kết thúc bằng một bài thơ
Ngày chị chào đời Ở trên trời Những ngôi sao nhỏ kết thành chữ “T” tỏa sáng Giữa vườn hoa thế nhân Nở một bông hồng đỏ thắm Hoa hồng Têrêsa. Thì thầm câu kinh Mân Côi. Ôi cánh hoa hồng đẹp tươi Tỏa hương thơm giữa cuộc đời gai nhọn Con đường nhỏ chị đi là CON ĐƯỜNG BÉ MỌN Đến với Đấng Từ Nhân. Đối với Cha nhân từ lòng chị chẳng bận tâm Chị chẳng có gì ngoài đôi bàn tay bé nhỏ Tình yêu chị nhận nơi Người là tất cả Tất cả của CON NGƯỜI dành cho chị đấy thôi. Cơn ho rũ người giữa tuổi đôi mươi Chị vẫn thầm thì tiếng yêu thương giữa dòng nước mắt “Chết vì yêu không phải chết trong ngây ngất...” Chị muốn được như NGƯ ỜI chết vì yêu. Một thế kỷ qua rồi mà hoa hồng vẫn tươi Ôi cánh hồng Têrêsa bé nhỏ Trên cuộc hành trình về nơi đất hứa Xin dẫn em vào con đường THƠ ẤU THIÊNG LIÊNG. ---------------------------------
Thánh Têrêxa sinh tại Alençon ngày 2.1.1873, qua đời tại Lisieux ngày 30.9.1897
Thánh Tê-rê-xa chào đời ngày 2.1.1873 tại Alençon nước Pháp. Song thân là cụ Louis Martin (+ 1894) và bà Maria Guérin (+ 1877) có tất cả 9 người con, nhưng chỉ sống có 5; cả 5 cô con gái đều bước vào tu viện. Khi Tê-rê-xa chưa tròn 4 tuôi, bà mẹ Guérin qua đời để lại một tang buồn cho gia đình, nhất là Tê-rê-xa. Bà phải chịu ung thư suốt 12 năm đến lúc kiệt sức phải qua đời. Từ Ngôn sứ ày đó ông Louis bỏ Alençon lui về Lisieux với cả gia đình.
Vào tháng 4.1888 Têrêxa vào đan viện Cát Minh ở Lisieux lúc được 15 tuổi. Lúc ấy chị có cản nghiện phong phú về đời sống đạo đức. Chính chị xem đêm Giáng Sinh 1886 như là một sự kiện quyết định trong đời sống của chị. Chị cảm nhận hồng ân của một cuộc chuyển đổi hoàn toàn; từ đấy, chị hiểu ơn gọi của cuộc đời mình là yêu Chúa Kitô và yêu con người.
Cuộc đời trong dòng Cát Minh của chị, mặt ngoài rất đơn sơ, nhưng con đường nội tâm càng ngày càng lên cao. Chị hiểu rõ tình yêu của chị đối với Chúa Kitô phải được thực hiện trong việc theo Chúa trên con đường khổ nạn. Thánh Kinh đối với chị ngày càng nên sách đọc duy nhất, nhưng kèm theo đó là thử thách nội tâm và đau khổ phần xác lại diễn ra hằng ngày.
Trong đêm thứ sáu Tuần Thánh năm 1896, chị bị ho ra máu lần đầu tiên. Mười tám tháng cuối cùng là một cuộc tử đạo triền miên. Chị qua đời ngày 30.9.1897, hưởng dương 24 tuổi, với tiếng thì thào: “Lạy Chúa, con yêu Chúa!”
Chúng ta biết được con đường nội tâm của thánh nữ nhờ vào quyển “Lịch sử một tâm hồn” và “Các lời nói” do bà chị ruột cũng là bề trên sưu tập. Têrêxa đi vào cái trọn vẹn, cái vĩ đại: chị muốn yêu mến Chúa Giêsu hơn bất cứ ai trên thế giới; chị muốn dâng mình cho tình yêu nhân từ của Chúa như của lễ toàn thiêu; chị muốn yêu tất cả mọi người, như Chúa Giêsu đã yêu. Chống lại kêu ngạo, chị luôn nhận thức mình hoàn toàn bất lực và nếu có làm được gì, đó là do sức mạnh tình yêu của Chúa ban cho.
Đức Thánh Cha Piô XI nâng Têrêxa lên hàng hiển thánh và đặt làm thánh quan Thầy cho các xứ truyền giáo. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
Các môn đệ đã tranh cãi nhau xem ai là người lớn nhất. Trong nếp sống cộng đoàn, vấn đề làm lớn làm nhỏ cũng thường gây va chạm. Chúa Giêsu dạy phải trở nên trẻ nhỏ: trở nên trẻ nhỏ là khiêm tốn chấp nhận thân phận của mình trong gia đình, và sẵn sàng vâng lời người lớn…
Trong những lời dạy các môn đệ hãy trở lại nên như trẻ nhỏ, Chúa Giêsu khẳng định hai điều:
- Đó là điều kiện để được vào Nước Trời
- Kẻ tự hạ như trẻ nhỏ sẽ là người lớn nhất trong Nước Trời.
B.... nẩy mầm.
1. Trong cộng đoàn, sự ganh ghét nhau về địa vị, danh dự đã làm cho biết bao người khổ sở. Kẻ bị ganh ghét khổ, mà chính người ganh ghét cũng khổ. Sao chúng ta không sống đơn sơ như những đứa trẻ trong gia đình: cha mẹ đặt đâu là chúng ở đó, cha mẹ bảo gì là chúng làm nấy, không hề nghĩ ngợi so đo, chỉ nhắm đến điều duy nhất là làm cho cha mẹ hài lòng.
2. Theo khuynh hướng tự nhiên, tôi thường khinh dễ những người kém hơn tôi (mà Chúa Giêsu gọi là “những kẻ bé mọn”). Nay tôi đã nghe Chúa Giêsu bảo rằng khinh họ là khinh Chúa, đón tiếp họ là đón tiếp Chúa. Tôi nghĩ sao?
3. Hãy nghĩ đến một đứa trẻ. Nó có nhiều đức tính rất đáng phục, như: lúc nào cũng hồn nhiên không lo lắng, vì nó tin rằng cha mẹ đã lo mọi sự cho nó; rất ngưỡng mộ cha mẹ, coi cha mẹ như thần tượng; luôn vui vẻ sống giây phút hiện tại; nó cũng thường xích mích với những trẻ khác nhưng rất mau quên; có những lúc nó giận cha mẹ, nhưng cha mẹ dỗ ngọt vài lời là nó bỏ qua ngay v.v.
Bởi thế, Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng đã chọn nên thánh bằng con đường trẻ thơ.
4. “Chúa Giêsu liền gọi một em nhỏ đến, đặt vào giữa các ông và bảo: Thầy bảo thật anh em nếu anh em không quay trở lại mà nên như trẻ em thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18,2-3)
Nếu trẻ thơ chẳng biết giận lâu, thì với con; sống để dạ, chết mang theo. Trẻ thơ không màng giành chức tước; riêng con nghiêng mình trước công danh. Trẻ thơ luôn biết mình yếu đuối; còn con khẳng định mình trên hết. Trẻ thơ yêu với cả tâm hồn; còn con theo bề ngoài đánh giá. Trẻ thơ sống những gì mình có; con thường nặn mình rất công phu.
Lạy Cha, có những bài học của trẻ thơ tuy đơn sơ mà cao vời vợi, để người lớn học cả đời chưa tròn nghĩa một câu. Xin dạy con nên như trẻ nhỏ, để con bước trên đời không chỉ bằng đôi chân của con, nhưng biết buông mình trong tay Cha từ ái. (Hosanna)
5. “Ai tự hạ, coi mình như anh em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời.” (Mt 18,4)
Một lần nọ, tôi đọc được lời nguyện này của một người bạn: Lạy Chúa, xin cho con lòng khiêm nhường để biết nhìn ra mọi sự là hồng ân. Xin cho con lòng khiêm nhường để dám đối diện với sự thật. Xin cho con lòng khiêm nhường để can đảm vác thập giá hàng ngày theo Chúa. Xin cho con lòng khiêm nhường để không mệt mỏi vươn lên. Xin cho con lòng khiêm nhường để không đòi cho được phải hơn kẻ khác, nhưng luôn biết chấp nhận sự trổi vượt nơi mỗi con người, và xin cho con lòng khiêm nhường để bớt đi mọi lời khoe mẽ, nhưng thay bằng những lời tạ ơn.
Và Lạy Chúa, lời nguyện của con hôm nay: xin cho con luôn sống khiêm nhường để xây dựng Thiên Đàng quanh con. (Hosanna)
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, bổn mạng các xứ Truyền giáo.
Với thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, chúng ta có rất nhiều đề tài để suy niệm. Tuy nhiên với thời lượng có giới hạn hôm nay, chúng ta chỉ dừng lại ở con đường nên thánh của ngài.
Thông thường khi nói đến sự thánh thiện, chúng ta hay nghĩ đến những hành động phi thường, một cái chết can trường, một cuộc sống dấn thân hy sinh, một cuộc từ bỏ ngoại hạng. Nói chung, sự thánh thiện gợi lên cho chúng ta một cuộc sống vượt qua những khả năng tự nhiên của con người. Có lẽ thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã làm một cuộc cách mạng trong cách nhìn và sống sự thánh thiện.
Trong quyển tự thuật có tựa đề “Một Tâm Hồn”, thánh nữ đã ghi lại như sau: Tôi hằng khao khát được nên thánh, nhưng mỗi lần so sánh mình với các thánh, tôi thường nhận ra sự khác biệt trời biển này. Đó là các ngài giống như những ngọn núi thái sơn, dấu đầu trong những đám mây, còn tôi, tôi chỉ là những hạt nhỏ li ti bị kẻ đi qua, người đi lại dẫm lên. Tuy nhiên, điều đó không làm cho tôi thất vọng. Tôi tự nhủ: Lẽ nào Chúa gợi nên những ước muốn mà lại không cho ước muốn ấy được thực hiện. Rõ ràng là tôi không thể làm được điều gì vĩ đại. Do đó, tôi phải thánh hoá bằng chính sự thấp hèn của tôi mà thôi. Tôi phải chấp nhận chính mình với tất cả con người của tôi, vì tất cả những bất toàn của tôi. Nhưng bằng mọi giá, tôi phải tìm ra một con đường nhỏ, một con đường của riêng tôi, một con đường ngắn và trực tiếp lên Thiên Đàng.
Ngày nay, người ta nhất là những người giầu có không phải nhọc công để leo lên từng bậc thang nữa, vì họ đã có những thang máy tiện nghi hơn. Phải chăng tôi không thể tìm cho mình một thang máy đưa tôi lên thẳng với Chúa Giêsu. Bởi vì, tôi quá bé nhỏ để có thể lên tới bậc thánh thiện. Nghĩ như thế nên tôi cố gắng tìm trong Kinh Thánh một chỉ dẫn của cách sống mà tôi muốn, và tôi đã tìm đuợc đoạn mà trong đó Đấng Khôn Ngoan vĩnh cửu nói như sau: “Có ai đơn sơ như trẻ nhỏ không? Hãy để trẻ nhỏ đến cùng Ta”(Mt 19,14). Thiên Chúa toàn năng đã làm những điều trọng đại và cao cả nhất trong tôi. Đó là Ngài đã làm cho tôi ý thức được sự nhỏ bé, bất lực của tôi.
Anh chị em thân mến?
Qua những dòng trên đây, thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu muốn giới thiệu với chúng ta về con đường nên thánh thường được mệnh danh là “Con Đường Thơ Ấu Thiêng Liêng” của Ngài. Con đường nên thánh mà thánh nữ đã quả quyết là “Sự nên thánh được múc từ Chúa Giêsu” mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay.
Thực thế, Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Nếu các con không hóa nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời”(Mt 18,3). Hoá nên như trẻ nhỏ có nghĩa là mặc lấy tâm tình đơn sơ, phó thác tuyệt đối vào quyền năng yêu thương của Thiên Chúa. Thánh thiện thiết yếu không có nghĩa là cố gắng làm những điều phi thường hoặc đeo đuổi một cách sống vượt quá những giới hạn bình thường của con nguời. Thánh thiện như thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã vạch ra chính là biết chấp nhận chính mình, biết đón nhận từng phút giây trong cuộc sống với tất cả yêu thương và phó thác. Biết sống giây phút hiện tại một cách sung mãn, biết nhận ra giá trị cao cả trong những công việc tầm thường nhỏ bé nhất, biết nhìn vào ngay cả những thất bại khổ đau trong cuộc sống như một ân ban của Chúa.
Mùa hè 1987 khi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đến thăm tiểu bang California Hoa Kỳ. Trong buổi gặp gỡ với dân chúng đón tiếp Ngài người ta đã được chứng kiến một sự kiện vô cùng đẹp đó là khi từ trên lễ đài nhìn xuống, Ngài thấy một người thanh niên tàn tật đang ôm một cây đàn và hát. Hôm ấy nhiều người đã được chứng kiến và thật không bao giờ có thể quên được khi Đức Giáo Hoàng từ trên cao Đức Giáo Hoàng bước xuống để ôm và hôn một người thanh niên đang hát với tiếng đàng ghi ta đó. Điều gì đã làm cho cảnh ấy trở nên khác lạ và giây phút ấy trở nên luyến nhớ cho nhiều người? Thưa rằng bởi vì người thanh niên ấy đã chơi đàn ghi ta bằng những ngón chân của mình!
Tony Belade là hiện thân của niềm hy vọng. Anh đã chào đời không có hai cánh tay, nhưng anh đã biết tận dụng các ngón chân của mình để học đàn ghi ta. Không những thế, anh còn dùng chân trong nhiều công việc khác nữa như: gấp quần áo, vắt một ly nước chanh... Anh đã biết biến sự tàn tật kém may mắn của mình thành một khả năng thuần thục. Ngạc nhiên trước khả năng lạ lùng ấy của anh, nhiều người đã hỏi anh:
- Bí quyết nào đã giúp anh chẳng những chấp nhận mình để sống bình thường, mà còn sử dụng ghi ta một cách tuyệt diệu như thế?
Người thanh niên tàn tật trả lời:
- Tôi đã cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, xin nhận lấy con và dùng con theo Thánh ý Chúa”. Tôi đã tự hiến cho Chúa như một của lễ sống động và Chúa đã nhận lời tôi.
Không ai trong chúng ta được chọn lựa sinh ra hoặc không sinh ra. Không ai trong chúng ta được chọn lựa làm đàn ông hay đàn bà. Không ai trong chúng ta được chọn lựa làm người xinh đẹp hay xấu xí, thông mình hay ngu đần, giàu sang hay nghèo hèn... Dưới mắt người đời, mỗi người chúng ta đến trong trần gian này với tất cả một định mệnh. Người ta thường hay nói: Có người sinh ra dưới một ngôi sao tốt, có người sinh ra dưới một ngôi sao xấu, có người may mắn, có người kém may mắn. Thế nhưng, trong ánh mắt tình yêu của Thiên Chúa thì số phận nào cũng là một hồng ân cao cả. Thiên Chúa luôn có một chương trình cho mỗi một con người.
Nói tóm lại, thánh thiện đích thực là trong tất cả mọi sự có thể thốt lên như thánh nữ: “Tất cả đều là ân sủng”.
Cùng với vị thánh đã được Giáo Hội chọn làm quan thầy các xứ truyền giáo, mặc dù chưa một lần ra khỏi bức tường của Dòng Kín, chúng ta hãy dâng lên Chúa tất cả cuộc sống với không biết bao nhiêu thử thách khổ đau từng ngày. Nguyện cho niềm tin tưởng phó thác của các tín hữu Chúa được trở nên dấu chứng tình yêu của Ngài đối với mọi người.
Lạy Chúa, dù thế giới này có thừa mứa của cải vật chất và tiện nghi đến đâu, con người thời đại cũng sẽ mãi mãi bất hạnh, nếu họ chưa sống theo tinh thần con đường nhỏ mà thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu vạch ra. Nguyện xin thánh nữ cầu thay nguyện giúp để chúng ta được đi vào con đường nhỏ bé ấy. Amen.
Trong các đặc tính của con đường thơ ấu thiêng liêng của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, chúng ta thấy có mấy điểm trổi vượt, đó là trở nên bé nhỏ, biết từ bỏ mình và chấp nhận trong vui tươi.
Trở nên bé nhỏ, đơn sơ, khiêm nhường
Thánh nữ luôn lời Chúa với câu: “Các con hãy học cùng Thầy vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Với một trực giác kỳ lạ về địa vị thiết yếu của đức khiêm nhường trong đời sống thiêng liêng, thánh nữ đã nhấn mạnh về sự thực hành nhân đức này: “Hãy luôn sống như trẻ thơ” theo ý muốn của Chúa Giêsu trong Phúc âm, Ngài chẳng muốn nói với chúng ta rằng: “Nước trời thuộc về những người giống như trẻ thơ” sao?
Chiếm hữu được chân lý nền tảng này, thánh nữ đã lấy “TRẺ THƠ” làm mẫu mực cho cuộc đời.
Từ bỏ bản thân mình
lời Chúa: “Nếu ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”, thánh nữ đã quên mình đi, coi mình là hèn mọn hư vô và đặt tất cả tin tưởng của mình vào tình thương vô biên của Chúa. Chị muốn sống đẹp lòng Chúa và làm cho người ta yêu mến Chúa. Chị muốn làm hài lòng Chúa hơn làm hài lòng mình. Nhưng muốn được thế, chỉ đã sống hết sức quảng đại đối với Chúa, đã từ bỏ mình đi để sống với Chúa và sống với chị em. Chị ví mình như bông hoa hồng được dâng tiến Chúa, và theo chị, hoa hồng nào cũng có gai. Chị viết:
Chúa ơi, này đóa hoa hồng Trên bàn thờ Chúa hương nồng sắc tươi. Con đây mơ ước này thôi: Tách từng cánh một, Chúa trời, hiến dâng. Chấp nhận trong vui tươi
Đường lối nên thánh của thánh nữ gạt bỏ tất cả những việc hãm mình lớn lao mà mình tự tạo ra, trái lại, chị chỉ cố gắng chấp nhận tất cả mọi sự việc trong hiện tại, dù muốn hay không. Thái độ đó là thái độ “CHẤP NHẬN”. Nhưng chấp nhận có thể là thái độ chấp nhận miễn cưỡng hay tự ý, vui tươi hay rầu rĩ! Đối với chị, việc gì xảy đến cũng là do thánh ý Chúa, cho nên chị đã nhận lấy một cách thực tình và vui tươi. Tinh thần vui tươi trước những hy sinh còn được ghi lại trong mấy vần thơ:
Nếu Chúa chẳng đoái hoài ve vuốt Con vẫn tươi cười trước khổ đau.
Hoặc:
Mỉm cười với Chúa tôi thờ Đó là thiên quốc thỏa mơ ước rồi.
Thánh nữ Têrêsa Hài đồng chỉ là một chị nữ tu dòng Kín, âm thầm giam mình trong bốn bức tường của nhà dòng, một chị nữ tu nhỏ bé không ai biết tới, không làm được một việc gì hiển hách, mà ngày nay đã trở nên vị thánh vĩ đại: Bổn mạng các xứ truyền giáo và Tiến sĩ Hội thánh! Bí quyết độc đáo của thánh nữ là “Trở nên vĩ đại từ những cái nhỏ bé”. Con đường thơ ấu thiêng liêng đã giúp thánh nữ trở thành một vị thánh vĩ đại.
Hôm nay mừng lễ thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Giáo hội cũng muốn giới thiệu cho chúng ta con đường thơ ấu thiêng liêng ấy, vì nó phù hợp với hết mọi người, nó giúp mọi người nên thánh một cách dễ dàng. Đi vào con đường đó là có một chỗ đứng ở giữa trái tim của Giáo hội, để muốn làm mọi sự ở trong Giáo hội của Chúa.
Và cho được như vậy, hãy dâng mình cho Chúa, hãy chấp nhận đau khổ hy sinh vì yêu Chúa, hãy chia sẻ tâm tình với Chúa Cứu Thế đang đau đớn trong các chi thể của Giáo hội, để cứu độ trần gian với Chúa Kitô.
Trên đường đi theo Đức Giê-su, đến một lúc nào đó, các môn đệ tranh cãi với nhau xem ai là người lớn nhất. Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều thuật lại cuộc tranh luận và đặt ngay sau khi Đức Giê-su loan báo lần thứ hai cuộc Thương Khó mà Ngài sẽ trải qua. Thánh Luca nói rằng đây là vấn đề các môn đệ « trăn trở ở trong lòng », và vì thế, ngay sau Bữa Tiệc Ly, họ lại tiếp tục tranh luận vấn đề ai là người lớn nhất trong nhóm (Lc 22, 24). Thánh Mát-thêu, đẩy vấn đề đi xa hơn: họ đến hỏi trực tiếp Đức Giê-su để biết ai là người lớn nhất trong Nước Trời!
Lược qua một chút bối cảnh và cách ba Tin Mừng Nhất Lãm tường thuật, như thế là quá đủ để chúng ta nhận ra rằng đây là một « căn bệnh » nghiêm trọng của các môn đệ thời Đức Giê-su. Bệnh nghiêm trọng, vì đó là một thứ bệnh ung thư gây mất hiệp nhất, vì sẽ phải tranh cãi với nhau, ganh tị nhau, loại trừ nhau (x. Mt 20, 17-28); ngoài ra, đó là một căn bệnh nghiêm trọng, còn là vì bệnh này là bệnh “mãn tính” và lây lan, có mặt ở mọi nơi và mọi thời.
Thật vậy, con người luôn muốn hơn và muốn đứng đầu trong mọi lãnh vực, thậm chí trong các nhân đức, trong đó có nhân đức khiêm nhường, vì người ta cũng phân chia nhân đức khiêm nhường ra thành bậc! Con người khổ sở vì sự thua thiệt trong thân phận và trong ganh đua; tự xếp loại mình và xếp loại nhau; từ đó không chấp mình không chấp nhận nhau trong trong thâm tâm. Rộng hơn nữa, đó còn là cách sống, cách làm việc và cách tổ chức của con người ngoài đời cũng như trong đạo: thi đua, thi tuyển, phân cấp, xếp bậc, xếp loại…. Kết quả là “những người bé nhỏ” theo nghĩa rộng và ở nhiều bình diện khác nhau, vốn chiếm đa số, bị khinh chê, thậm chí bị loại trừ, hay ít nhất tạo ra nơi họ mặc cảm thua kém rất tai hại và chết chóc.
2. Nên như trẻ nhỏ
Cách Đức Giê-su chữa căn bệnh này, và cách các Tin Mừng kể lại càng làm cho chúng ta nhận ra rằng đây là một thứ bệnh khó chữa. Ba Tin Mừng Nhất Lãm không hoàn toàn đồng nhất với nhau khi kể lại cách Đức Giê-su giải quyết; nhưng cả ba đều có ít nhất ba điểm chung:
Đảo lộn hoàn toàn quan niệm lớn-bé của các môn đệ và của loài người chúng ta: muốn làm lớn phải không? Ai là người nhỏ nhất trong nhóm, thì là người lớn nhất (theo Tin Mừng Luca); hãy thay đổi và trở nên như trẻ nhỏ (theo Tin Mừng Mát-thêu); hãy trở nên người rốt hết và trở nên người phục vụ mọi người.
Để các môn đệ đừng hiểu lung tung những khái niệm ‘‘nhỏ nhất’’, ‘‘trẻ nhỏ’’, ‘‘người rốt hết và người phục vụ’’, Đức Giê-su đem một em bé tới đặt giữa họ.
Cuối cùng, giảng giải bằng lời và bằng minh họa vẫn chưa đủ, Đức Giê-su đi đến cùng bằng cách đồng hóa mình với em nhỏ: ‘‘Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy ».
Loài người ham muốn vị trí “lớn nhất”, Đức Giê-su lại đẩy về một cực khác, là “nhỏ nhất”: “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời”. Nhưng phải làm thế nào để trở nên như « trẻ nhỏ »? Chúng ta không thể lùi thời gian lại được; vì thế, ai muốn quay trở lại với thời ấu nhi để có được sự ngây thơ trong trắng, thì đó là ‘‘ngây thơ cụ’’. Trở nên như “trẻ nhỏ” là một ơn gọi, luôn ở phía trước.
Trở nên như trẻ nhỏ là luôn sống trong tương quan và sống bằng tương quan, vì trẻ nhỏ không thể sống một mình.
Trở nên ‘‘trẻ nhỏ’’ là ơn gọi trở nên con của Thiên Chúa Cha, là luôn sống như con của Thiên Chúa Cha, giống như Đức Giê-su, dù chúng ta là ai, ở độ tuổi nào và có chức vụ gì. Vì khi gặp một trẻ nhỏ, chúng ta luôn hỏi: “con ai vậy?”
Trở nên như trẻ nhỏ, còn là sống bản chất hiền lành vốn có trong cõi lòng chúng ta; bởi vì chúng ta là con của Thiên Chúa Cha, và được mời gọi trở nên giống Cha, vốn là tình yêu, là hiền lành. Chính sự hiền lành sẽ chiến thắng được thù địch, vốn là hình ảnh cụ thể của thú tính, sự dữ, lòng ham muốn, bạo lực. Như Đức Giê-su công bố trong Bài Giảng Trên Núi:
Phúc thay những người hiền lành, Vì họ sẽ có được Đất Hứa làm gia nghiệp. (Mt 5, 4)
3. Thánh Nữ Tê-rê-xa và “con đường thơ ấu thiêng liêng”
Ngang qua việc chuyên cần đọc và cầu nguyện với các Tin Mừng, Thánh Tê-rê-xa đã khám phá con đường “con đường thơ ấu thiêng liêng” của Đức Giê-su và đã sống đến cùng theo cách của mình, theo ơn gọi của mình và theo những ơn huệ cùng với thử thách của mình. Chúng ta được mời gọi chiêm ngắm hình ảnh tuyệt đẹp này: Đức Giê-su ôm em bé; và Ngài sẽ thực sự trở nên em bé đối với Cha và loài người trên Thập Giá. Thánh nữ Tê-rê-xa cũng đã sống như thế đó, trong tình yêu con thảo với Cha, trên Thập Giá bệnh tật của đời mình.
Như thế, Đức Giê-su chữa lành chúng ta không chỉ bằng lời, nhưng còn bằng cái chết của Ngài trên Thập Giá. Thật vậy, nơi Thập Giá, Ngài sống như một em bé: yếu đuối, bất lực và tự đặt mình vào vị trí tận cùng của bậc thang xã hội: tử tội và chết treo trên Thập Giá! Bởi vì, trẻ em và những người bé nhỏ, giới hạn yếu đuối là “nơi” bày tỏ tốt nhất sức mạnh và khôn ngoan của Thiên Chúa (x. Tv 8). Và Giáo Hội đã nhận ra “sức mạnh và sự khôn ngoan” của Thiên Chúa nơi “con đường thơ ấu thiêng liêng”, khi tôn phong thánh nữ Tê-rê-xa là Thầy Dạy của Giáo Hội, nghĩa là Tiến Sĩ Hội Thánh.
Dưới đây là những câu nói nổi bật của thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu
- Đức Tin của chúng ta thật hiển hách! Thay vì giới hạn các con tim, như thế gian mong muốn, Đức Tin lại nâng các con tim lên và gia tăng khả năng yêu thương của chúng.
- Xin nhớ rằng không có điều gì là nhỏ bé dưới mắt Thiên Chúa. Hãy làm mọi việc với tình yêu.
- Vẻ rực rỡ của bông hồng và màu trắng của bông huệ không tước mất hương thơm của bông hoa tím hay lấy đi vẻ hấp dẫn mộc mạc của bông cúc dại. Nếu mỗi bông hoa nhỏ cứ muốn làm một bông hồng, mùa xuân hẳn sẽ mất vẻ yêu kiều.
- Hẳn là bạn cũng biết rằng Chúa chúng ta không quan tâm nhiều đến vẻ lớn lao hay sự khó khăn của các hành vi chúng ta làm, nhưng là tình yêu chúng ta có khi làm.
- Không có tình yêu, các hành vi, dù sáng chói nhất, cũng không đáng kể gì.
- Tin tưởng và chỉ tin tưởng mới dẫn chúng ta đến tình yêu.
- Không nên bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào mà không làm một hy sinh nhỏ, ở đây bằng gương mặt tươi cười, ở kia bằng một lời khả ái, luôn luôn làm việc đúng đắn dù nhỏ bé nhất và làm vì tình yêu.
- Đối với em, cầu nguyện là một sự trào dâng của con tim; cầu nguyện đơn giản là một cái nhìn hướng về trời, là một tiếng kêu nhận biết và yêu thương, ôm lấy cả thử thách lẫn niềm vui.
- Một lời nói hay một nụ cười thường cũng đủ để đưa sự sống tươi mát vào trong một tâm hồn thất vọng.
- Bây giờ em biết rằng bác ái chân thật hệ tại gánh lấy tất cả những khuyết điểm của người thân cận – không ngạc nhiên trước sự yếu đuối của họ, nhưng vui sướng về những nhân đức nhỏ nhất của họ.
- Niềm vui ấy ta không tìm được nơi các sự vật bao quanh ta, nhưng chỉ ở trong tâm hồn; và ta có thể sở hữu nó dễ dàng khi ở trong một nhà tù tăm tối cũng như khi ở trong dinh thự của một vị Vua.
- Con cầm lấy quyển Kinh Thánh. Thế là mọi sự dường như sáng ra với con; chỉ một chữ thôi cũng mở ra cho con những chân trời vô biên, sự hoàn thiện tỏ ra đơn giản với con.
- Nếu em không chỉ sống từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác, hẳn là em đã không thể kiên nhẫn; nhưng em chỉ nhìn đến hiện tại, em quên đi quá khứ, và em quan tâm không chặn trước tương lai.
- Đừng sợ nói với Đức Giêsu rằng bạn yêu thương Người; cho dù không cảm thấy gì, đó là cách để buộc Người giúp đỡ bạn, và bồng lấy bạn như một em nhỏ quá yếu không thể bước đi.
- Sứ mạng của con – làm cho Thiên Chúa được yêu mến – sẽ bắt đầu sau khi con chết. Con sẽ sống trên trời mà làm điều thiện dưới đất. Con sẽ gửi đến một trận mưa hoa hồng.
- Đức Giêsu không cần sách vở hoặc các Tiến sĩ thần học để dạy dỗ các tâm hồn; là Tiến sĩ của các tiến sĩ, Người dạy dỗ không cần nói năng ồn ào.
- Điều duy nhất con thực sự ước muốn… là yêu cho đến chết vì yêu.
Chị Têrêxa Hài Đồng Giêsu qua đời tại tu viện Carmel ở Lisieux, ngày 30 tháng 9 năm 1897, được phong thánh năm 1925; từ đó lễ kính thánh nữ được mừng vào ngày 1 tháng 10. Thánh nữ được chọn làm bổn mạng thứ hai của nước Pháp, cùng với thánh Jeanne d’Arc, và bổn mạng các xứ truyền giáo, cùng với thánh Phanxicô Xavie.
Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu tên thật là Marie Françoise Thérèse Martin, sinh tại Alençon (Normandie, Pháp) ngày 02 tháng 01 năm 1873, con gái út của một gia đình đã có bốn cô con gái. Ông Louis Martin, cha cô, là một thợ sửa đồng hồ đã nghỉ việc; bà Zélie Guérin, mẹ cô, gánh vác gia đình bằng việc trông coi một cửa hiệu đăng-ten. Bà qua đời khi Têrêxa chưa đầy năm tuổi. Ông Martin cùng năm cô con gái dời đến ở Lisieux; Têrêxa trở nên cô bé tính khí thất thường, bối rối và hay dằn vặt, lại được cha và các chị nuông chiều. Giáng sinh năm 1886, một cuộc “hoán cải” diễn ra nơi cô: những thái độ trẻ con và bối rối nơi cô biến mất; cô đạt được sự trưởng thành lúc mới 14 tuổi. Cô xin vào sống trong tu viện Carmel ở Lisieux, tại đây đã có hai chị gái của mình đã là nữ tu. Cô được nhận vào dòng năm 15 tuổi với tên gọi là Têrêxa Hài Đồng Giêsu và Thánh-Nhan (Thérèse de l’Enfant-Jésus et de la Sainte-Face). Têrêxa sống trong tu viện Carmel ở Lisieux được 9 năm, cho tới khi qua đời; tu viện này có 25 nữ tu, tất cả đều già hơn chị rất nhiều, trừ hai người. Kinh Thánh – đặc biệt sách Diễm Ca và các sách Tin Mừng – và các thi ca thần bí của thánh Gioan Thánh Giá nuôi dưỡng linh đạo của chị nữ tu trẻ bây giờ đã sớm đạt tới một mức thánh thiện rất cao. Năm 1893, chị Têrêxa được cử trông coi việc đào luyện các tập sinh, và năm 1894, mẹ Agnès yêu cầu chị viết hồi ký tuổi thơ của chị; một năm sau, tập hồi ký này được xuất bản cùng với các bài viết khác của chị trong cuốn Tiểu Sử Một Tâm Hồn. Tác phẩm này về sau được in ra hàng triệu bản, vạch cho toàn thế giới một phương pháp nên thánh đơn sơ nhưng anh hùng, “con đường nhỏ”, và góp phần biến Lisieux thành một nơi hành hương được cả thế giới công giáo biết đến.
II. Thông điệp và tính thời sự
Các bản văn phụng vụ diễn tả khoa linh đạo siêu vời của thánh nữ Têrêxa, bắt đầu bằng Ca Nhập lễ, lấy ý tưởng trong Đệ Nhị Luật (32, 10-12)... “Tựa chim bằng giương cánh đỡ con và cõng trên mình, duy một mình Thiên Chúa dẫn dắt dân.”
Lời nguyện trong ngày lấy ý tưởng trong Mt 11, 25, cầu xin Thiên Chúa – Đấng mở cửa Nước Trời “cho những người bé mọn”– cho chúng ta “biết theo chân thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, bước đi trên con đường phó thác”. Ngay từ 3 tuổi, Têrêxa đã hứa không bao giờ từ chối Chúa Giêsu điều gì; giờ đây con đường chị đi đã dẫn chị tới chỗ dâng hiến đời sống làm lễ toàn thiêu cho Thiên Chúa tình thương, qua sự bỏ mình và phó thác hoàn toàn. Đó là “con đường nhỏ” mà thánh nữ nói đến trong Tiểu Sử Một Tâm Hồn: “Con là tạo vật hèn mọn nhất, con biết sự khốn nạn và yếu hèn của con, nhưng con cũng biết các tâm hồn cao quí và quảng đại yêu thích làm điều thiện biết bao. Vì vậy con nài xin Chúa, Đấng toàn phúc ở trên trời, xin nhận con làm con Chúa... Ôi Người Yêu của con, con nài xin Ngài ghé mắt đoái nhìn vô số những tâm hồn bé mọn; con nài xin Ngài thương chọn trong thế giới này một đạo binh những nạn nhân bé mọn đáng dược Ngài yêu thương.”
Điệp ca của bài Benedictus: “... hãy trở nên giống trẻ thơ” làm vang lên Tin Mừng của thánh lễ (Mt 18, 1-4): Thật, tôi bảo thật anh em: Nếu anh em không hoán cải và trở nên giống trẻ thơ... “Trẻ thơ” đối với thánh Têrêxa Lisieux là người “chấp nhận tất cả”, với thái độ vâng phục và phó thác của Người Đầy Tớ đau khổ (xem sách Isaia) không ngừng thưa lên: Này con đây! Chương trình sống này đã có khi Têrêxa chọn tên mình lúc vào dòng Carmel: Têrêxa Hài Đồng Giêsu và Thánh Nhan. Đủ loại thử thách không ngừng giúp thanh luyện chị và dẫn chị tới mức độ thánh thiện ngày càng cao hơn. Đời sống hằng ngày trong tu viện, “cái lạnh chết người”, tình trạng khô khan thiêng liêng, những cám dỗ về đức tin, những cơn đau do xuất huyết phổi... “Hồi ấy con không hề nghĩ phải chịu đau khổ rất nhiều để đạt sự thánh thiện …”, chị viết trong Tiểu Sử Một Tâm Hồn (Thủ bản A). Tất cả điều này làm chứng một tâm hồn thanh tịnh và mạnh mẽ phi thường, hoàn toàn phó thác cho tác động của Thánh Thần và hoàn toàn dâng hiến cho Tình Yêu nhân từ của Chúa. “Ôi, con yêu Chúa …. lạy Chúa.. con yêu Chúa!” là những lời cuối cùng của chị.
Lời nguyện trên lễ vật gợi lên một khíab cạnh khác của hy tế thầm lặng trong “đời sống đơn sơ và can đảm” của thánh Têrêxa Lisieux. Chính vào lễ Chúa Ba Ngôi ngày 9 tháng 6 năm 1895, thánh nữ được Chúa soi sáng để hiến mình cho Tình Yêu nhân từ. Không lâu sau khi thực hiện cuộc dâng hiến này, khi bắt đầu con đường thánh giá, chị cảm thấy như có một “thương tích tình yêu” giống như hiện tượng in dấu thánh thần bí của thánh nữ Têrêxa Avila.
Têrêxa Lisieux ước muốn đón nhận và đáp lại tất cả các ơn gọi: “Con cảm thấy ơn gọi làm chiến binh, linh mục, tông đồ, bác sĩ, tử đạo”, với “ước muốn thực hiện mọi hành vi anh hùng nhất...” Thế rồi một ngày kia, khi đọc Thư 1 Côrintô, chị hiểu rằng “mọi ân điển hoàn hảo nhất cũng chẳng là gì nếu không có đức ái... Đức ái là con đường tuyệt hảo chắc chắn dẫn đến Thiên Chúa.” Sau cùng, đây là câu trả lời và là “sự yên nghỉ” đối với thánh Têrêxa: “Con hiểu rằng đức ái bao gồm mọi ơn gọi, đức ái là tất cả... Lúc đó, lòng tràn ngập niềm vui ngây ngất, con la lên: Ôi Giêsu, tình yêu của con... ơn gọi của con, cuối cùng con đã tìm ra, ơn gọi của con là tình yêu! Vâng, con đã tìm ra vị trí con trong Hội Thánh. Ôi lạy Chúa, chính Chúa ban ơn gọi này cho con... trong lòng Hội Thánh, Mẹ của con, con sẽ là tình yêu... như thế con sẽ là tất cả...” (Thư thánh Têrêxa viết cho chị Maria Thánh Tâm, trong Bài đọc Giờ Kinh Sách).
Lời nguyện hiệp lễ nhấn mạnh một tính cách đặc trưng khác của thánh Têrêxa, đó là niềm say mê “vì phần rỗi mọi người”. Sau khi qua cuộc kiểm tra theo giáo luật để tuyên khấn trong dòng (8 tháng 9 năm 1890), chị đã tuyên bố chị vào dòng Carmel để “cứu rỗi các linh hồn và nhất là để cầu nguyện cho các linh mục”. Năm 1895, chị được cử làm “chị linh hướng” cho một chủng sinh có ý hướng đi truyền giáo, thầy Bellière, và năm sau, thầy này có thêm một “anh linh hướng”, cha P. Roulland, thuộc Hội Truyền Giáo. Tháng 11 năm 1896, chị làm tuần chín ngày kính thánh tử đạo Théophane Vénard († 1861) để xin ơn được đi truyền giáo ở Đông Dương, nhưng không lâu sau chứng xuất huyết phổi của chị tái phát. Chị trút hơi thở cuối cùng ngày thứ năm 30 tháng 9, 1897, lúc 7 giờ 20 tối, sau một cơn hấp hối kéo dài hai ngày.
Đức giáo hoàng Piô XI phong thánh cho chị này 17 tháng 5 năm 1925 tại Đại Thánh Đường Phêrô ở Rôma, và ngày 14 tháng 12 năm 1927, ngài công bố thánh nữ Têrêxa là bổn mạng tất cả các nhà truyền giáo, nam cũng như nữ, và của tất cả các xứ truyền giáo trên toàn thế giới. Ngày 3 tháng 5 năm 1944, Đức Giáo Hoàng Piô XII công bố thánh Têrêxa là bổn mạng phụ của nước Pháp, ngang hàng với thánh nữ Jeanne d’Arc.
Ðây quả thật là một sự trùng hợp hay ho vì chúng ta được dịp suy nghĩ hai lần theo hai biểu tượng khác nhau về thái độ sống như trẻ nhỏ để vào Nước Trời. Tác giả Phúc Âm theo thánh Luca nhắc đến chi tiết này: các môn đệ còn suy nghĩ trong lòng xem ai là kẻ lớn nhất và Chúa Giêsu đã hiểu thấu tâm tư của các ông nên Chúa gọi một trẻ nhỏ đến và dạy các ông bài học nên giống như trẻ nhỏ. Hôm nay, mùng 1/10, đúng ngày lễ kính thánh Têrêsa Hài Ðộng Giêsu, Giáo Hội chọn đọc Phúc Âm theo thánh Mátthêu nói về cùng một vấn đề nhưng trong viễn tượng khác. Theo tác giả Phúc Âm theo thánh Mátthêu thì các môn đệ không còn suy nghĩ trong lòng nữa nhưng đã tranh luận với nhau mà không tìm được câu trả lời nên mới đến hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, ai là kẻ lớn nhất trong Nước Trời?” Hai viễn tượng này không đối nghịch nhau nhưng bổ túc cho nhau và mô tả cho chúng ta tâm thức quá ư phàm trần của các môn đệ lúc đó, khi các ngài chưa được Chúa Thánh Thần ngự xuống. Không những các môn đệ đã suy nghĩ trong lòng mà còn đem ra thành đề tài tranh luận nữa. Hành động này diễn tả thái độ nội tâm, lòng đã nghĩ xấu rồi, đã có sự ganh tị rồi nên mới đưa đến sự ganh tị với nhau. Các môn đệ chưa nhận được Chúa Thánh Thần, chưa được thanh luyện để trở nên con người mới, trở nên như trẻ nhỏ, có tâm hồn đơn sơ, khiêm tốn, trong sạch để làm việc cho Chúa.
Ðọc đoạn Phúc Âm này, chúng ta lưu ý thêm chi tiết này nữa, đó là Chúa Giêsu không trả lời liền câu hỏi mà các môn đệ đặt ra: “Ai là kẻ lớn nhất?”, nhưng Chúa nói tới việc phải sống như trẻ nhỏ trước rồi sau đó mới trả lời: “Ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này thì người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước Trời”. Chúa Giêsu không nói đến địa vị lớn nhỏ nhưng nói về giá trị tinh thần của con người sống như trẻ nhỏ, dễ dàng gần gũi thân tình với Chúa trước. Chính tình thương và ân sủng của Chúa mới làm cho con người được cao trọng chứ không phải những công việc do sức riêng của con người tạo nên.
Thánh nữ Têrêsa Hài Ðồng Giêsu mà chúng ta mừng lễ hôm nay đã nêu gương cho chúng ta về điểm này khi thánh nữ đề ra con đường nhỏ để sống thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa. Cùng với thánh nữ chúng ta hãy cầu nguyện như sau:
Lạy Chúa của con,
Con muốn biết điều mà Chúa thực hiện cho kẻ bé nhỏ nhất đáp lại lời mời gọi của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Chiếc thang máy để đưa con lên đến trời cao là chính đôi tay Chúa, vì thế con không cần lớn lên mà hiện tại con cần phải ở lại trong tâm tình bé nhỏ, cần phải càng ngày càng trở nên bé nhỏ hơn nữa.
Lạy Chúa của con, Chúa đã cho con nhiều hơn điều con hy vọng là con muốn hát lên chúc tụng tình thương nhân từ của Chúa. Xin Chúa thương ban cho con một tâm hồn đơn sơ tươi trẻ, luôn tin tưởng phó thác vào Chúa như trẻ nhỏ phó thác vào cha mẹ và lúc nào cũng sống an vui, chân thành yêu Chúa và anh chị em.
Trong xấp hình chụp ở Lisieux hè năm 1997, tôi thích nhất tấm hình chụp tại góc vườn nhà thánh nữ Têrêsa, hiện nay là nhà trưng bày những kỷ vật thời thơ ấu của ngài.
Thích tấm hình ấy không phải vì khung cảnh rộng lớn, vì chỉ là một vuông cỏ chừng một trăm mét vuông; không phải vì góc máy đẹp hay kỹ thuật chụp hình độc đáo; mà thực ra chỉ vì tấm ảnh chụp cảnh sống động bên tượng Têrêsa đứng bên cạnh cha, tay chỉ lên trời. Người ta bảo chỗ đặt tượng hiện nay là chỗ năm xưa cha con Têrêsa đã ngồi trò chuyện buổi tối. Tấm ảnh xem ra có “tiếng nói”. Câu nói hôm ấy chính là lời Têrêsa nói với cha mình khi chỉ tay lên chòm sao hình chữ T: “Cha ơi, tên con trên trời”.
Xin dựa trên câu nói đượm chất mộc mạc đơn sơ của trẻ thơ nhiều ước mơ ấy để chia sẻ về con đường thơ ấu thiêng liêng của thánh nữ Têrêsa.
1. “Cha ơi!” cho thấy con đường thơ ấu thiêng liêng khởi đi từ một hiện thực.
Têrêsa là con út trong một gia đình toàn là nữ. Ngài mất mẹ lúc lên bốn tuổi. Tuổi còn quá nhỏ để có thể ghi nhận nỗi đau, nhưng cũng đủ để ghi nhớ sự mất mát không gì bù lấp được. Từ đó thánh nữ dồn hết tình cảm cho người cha yêu quý. Và cũng từ đó, người cha phải kiêm luôn vai trò và trách vụ của người mẹ gia đình. Nếu “gà trống nuôi con” trong tiếng Việt Nam nói lên nỗi đau lận đận của người đàn ông lẻ bóng bên cạnh đàn con, thì nơi nhà Buissonnets nó đã trở thành một tình yêu khả thi khả kính và khả ái. Chính cô út mít ướt Têrêsa đã cảm nghiệm điều này hơn bất cứ thành viên nào khác của gia đình. Khúc hát tâm tình nhất của Têrêsa lúc ấy chính là hát về người cha, giống như những bài hát Việt Nam gần đây như “Bố là tất cả” hoặc “Ba sẽ là cánh chim đưa con đi thật xa…”. Đó là một hiện thực.
Từ hiện thực tưởng như mất mát, thiếu hụt bi quan ấy, Têrêsa rất tự nhiên sống lấy và đảm lĩnh trọn vẹn để sau này chuyển hóa và diễn tả về tình yêu Thiên Chúa, Đấng là CHA muôn đời. Nếu còn cha còn mẹ đầy đủ trong một gia đình hạnh phúc đủ đầy mọi sự, khi xưng Chúa là Cha, có lẽ ta chỉ có tâm tình một nửa, còn với Têrêsa thì khác, xưng Chúa là CHA với cả tâm tình dành cho người bố. Bố là tất cả, Chúa là tất cả.
Chính khởi đi từ hiện thực ấy, Têrêsa đã từng ngày đi sâu và đi xa trên con đường phó thác: phó thác mọi chuyện đời lớn nhỏ trong tay cha mình và phó thác chuyện một đời trong tay Thiên Chúa là Cha giàu lòng nhân ái, quảng đại yêu thương. Nếu lúc nhỏ Têrêsa ngồi bệt ở cầu thang khiến cha mình phải cúi xuống bồng lên, thì khi lớn Têrêsa nghiệm ra: người con nào càng nhỏ bé yếu đuối khiêm nhường phó thác, càng được Cha trên trời yêu mến bế bồng nâng đỡ dìu đưa.
2. “Tên con” cho thấy con đường thơ ấu thiêng liêng dệt bằng những bước đơn sơ mang đậm cá tính.
Đường thơ ấu thiêng liêng của Têrêsa khởi đầu là thế, với những tiếng “Bố ơi” dệt nên ngày sống và những tiếng “Cha ơi” làm nên cuộc đời. Đó là những bước chân bé nhỏ trên hành trình dài. Và thánh nữ đã thực hiện tuần tự không bằng “đôi hia bảy dặm” của phép màu dễ dãi, cũng chẳng bằng “tấm thảm biết bay” thênh thang rộng rãi hoặc bằng “đũa thần” nhẹ nhàng vung vít, nhưng bằng tấm lòng đơn sơ nhỏ bé.
Ngày nay Têrêsa được nâng lên bậc Tiến Sĩ Hội Thánh, người ta tưởng đời ngài làm bằng những việc vĩ đại. Không, rất bình thường. Trong chín năm Dòng Kín Lisieux lặng lẽ, ngài chỉ làm những việc vô cùng bình thường như những người khác, nhưng cách thế ngài làm quả là khác thường đến độ phi thường. Cách ngài làm là cách của tình yêu lớn. Việc lớn mà tình yêu nhỏ là việc thắt lại, việc nhỏ mà tình yêu lớn là việc triển nở sinh sôi. Têrêsa là Têrêsa nhỏ vì đời nhỏ việc nhỏ, nhưng Têrêsa vĩ đại vì tình yêu ngài sống khó ai có thể vượt qua.
Nhiều lúc xem ra ngài còn muốn “đánh lừa” cả Chúa nữa, như khi gặp chuyện trái ý hoặc tâm sự buồn, ngài vẫn cố gắng giữ bộ mặt tươi cười như không có chuyện gì xảy ra, không phải để các chị em trong cộng đoàn khỏi để ý hoặc bề trên hỏi han lôi thôi mất công giải thích phiền phức, mà để Chúa “khỏi biết” kẻo Chúa đau buồn. Chúa đã chịu đau khổ nhiều vì chuyện lớn lao cứu độ nhân loại rồi, dám đâu phận cỏ rơm lại làm phiền lòng Chúa vì những chuyện nhỏ. Xem ra cách chọn lựa đơn sơ và cũng trẻ thơ quá phải không?
Khi bị bề trên quở vô lý, Têrêsa rất vui vì có dịp hy sinh. Khi lượm được cọng rác lạc lõng nơi hành lang, Têrêsa rất thích vì có dịp cầu nguyện vòi vĩnh Chúa giải thoát cho một linh hồn. Khi nhìn bông hoa được ngắt chưng trên bàn thờ, Têrêsa nghĩ về niềm dâng hiến. Tất cả là bình thường tự nhiên, nhưng đã trở thành cơ hội để thánh nữ được thánh hóa trong tình yêu. Đặt “tình yêu” nhỏ của mình trong “TÌNH YÊU” vĩ đại của Chúa, sẽ hóa nên tình yêu lạ thường có sức làm cho những điều bình thường đem lại những hiệu quả phi thường.
3. “Trên trời” cho thấy con đường thơ ấu thiêng liêng vươn mở tới những ước mơ lành thánh.
Têrêsa lìa trần lúc mới hai mươi bốn tuổi. Quá trẻ cho một đời người để trở thành một vị thánh trẻ cho toàn thế giới. Nhưng nét xuân trẻ nơi Têrêsa đâu căn cứ vào tuổi tác, mà đúng ra là dựa trên tâm hồn. Trẻ vì dung dị gần gũi và cũng trẻ vì những ước mơ bay bổng. Tết Trung Thu, thiếu nhi mơ lên cung trăng gặp chị Hằng, thăm thằng Cuội, nhìn Thỏ ngọc, ngồi gốc đa nghe sáo thổi vi vu điệu nhạc nên thơ … Đó là ước mơ đơn sơ tuổi thơ ngây dại đi liền với những hình ảnh mang màu văn hóa, nhưng ước mơ của Têrêsa dẫu đơn sơ mà cao vượt, dù nên thơ mà vẫn không xa rời thực tế.
Khi Têrêsa ước mơ sẽ là tình yêu trong Giáo Hội, thì cùng lúc ngài cũng đón nhận vào mình những hy sinh của sự chia lìa đối với người thân và những biểu lộ của cơn bệnh ngặt nghèo. Khi Têrêsa ước mơ thao thức trở thành vị truyền giáo đặt chân đến những nơi thật xa thật lạ mà đem về cho Chúa thật nhiều linh hồn, lại là lúc ngài phải liệt giường liệt chiếu để mãi được gọi mời thể hiện ước mơ truyền giáo bằng việc cầu nguyện và hy sinh. Khi Têrêsa ước mơ sẽ rải mưa hoa hồng làm đẹp cuộc sống nhân thế chính là lúc ngài đang lặng lẽ nghĩ về những cánh hoa hồng được trải lên đường kiệu Mình Thánh Chúa.
Cuộc đời rộng mà không ước mơ, cuộc đời ấy sẽ bị thắt buộc trở nên hẹp hòi. Cuộc đời hẹp mà biết ước mơ, nhất là với những ước mơ lành thánh, cuộc đời ấy sẽ mở ra thênh thang cho Giáo Hội được nhờ và cũng cho Nước Trời được hiện tỏ. Nếu ước mơ là dấu hiệu của sự trẻ trung thì rõ ràng Têrêsa với những ước mơ không vơi cạn đã là một vị thánh trẻ hôm qua và sẽ còn là mùa xuân trẻ trong lòng mộ mến của Giáo Hội hôm nay.
Tóm lại, “Cha ơi, tên con trên trời” chỉ là một câu nói trẻ thơ đơn sơ đột xuất, nhưng đã toát lược những bước hành trình dệt nên con đường thơ ấu thiêng liêng của Têrêsa. Tất nhiên, con đường ấy đã được Chúa Giêsu khai sinh khi tuyên bố “Ai không trở nên như trẻ nhỏ thì sẽ chẳng được vào Nước Trời”, nhưng thực hiện con đường ấy như thế nào lại là một dấu ấn ký tên Têrêsa. Con đường ấy phổ quát mở ra cho mọi người mọi thời, con đường ấy vừa tầm với mọi bậc sống
Cầu chúc mọi người hôm nay thanh thản bước đi trên đường thơ ấu thiêng liêng và cũng nhận được những “hoa hồng” trìu mến của thánh nữ Têrêsa từ con đường ấy.
Têrêsa Hài Đồng Giêsu sinh năm 1873, qua đời năm 1897, quả là một vị thánh rất trẻ, chỉ sống được 24 tuổi đời. Một vị thánh rất hợp thời. Một vị thánh rất gần với chúng ta. Cũng là một trong những khuôn mặt lớn của Giáo Hội công giáo, đã được Đức Piô XI tôn phong làm Bổn Mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê của mấy thế kỷ trước. Thánh nữ được phong tiến sĩ Hội Thánh 1997.
Trong đêm thứ sáu Tuần Thánh năm 1896, chị bị ho ra máu lần đầu tiên. Mười tám tháng cuối cùng là một cuộc tử đạo triền miên. Chị qua đời ngày 30.9.1897, hưởng dương 24 tuổi, với tiếng thì thào: “Lạy Chúa, con yêu Chúa!”
Chúng ta biết được con đường nội tâm của thánh nữ nhờ vào quyển “Lịch sử một tâm hồn” và “Các lời nói” do bà chị ruột cũng là bề trên sưu tập. Têrêsa đi vào cái trọn vẹn, cái vĩ đại: chị muốn yêu mến Chúa Giêsu hơn bất cứ ai trên thế giới; chị muốn dâng mình cho tình yêu nhân từ của Chúa như của lễ toàn thiêu; chị muốn yêu tất cả mọi người, như Chúa Giêsu đã yêu. Chống lại kiêu ngạo, chị luôn nhận thức mình hoàn toàn bất lực và nếu có làm được gì, đó là do sức mạnh tình yêu của Chúa ban cho.
Đức ái đã cho Têrêsa chìa khóa, để tìm ra ơn gọi và chỗ đứng của chị trong Hội thánh.
Nên thánh bằng đường thơ ấu thiêng liêng
Từ trước tới nay, chúng ta cho việc nên thánh là khó và chỉ có những linh hồn đặc biệt mới nên thánh được, vì các thánh đã nên thánh bằng những cách thức khác nhau, nhưng cách nào cũng khó khăn, vượt trên khả năng của chúng ta. Nhưng nay thánh nữ đã vạch cho chúng ta con đường mới để nên thánh, đó là “đường thơ ấu thiêng liêng”.
a) Con đường mới
Chúng ta gọi là con đường mới vì con đường nên thánh này khác hẳn với lối nên thánh cổ truyền mà chúng ta đã biết. Con đường này có những đặc tính tiêu cực và tích cực như ta sẽ thấy dưới đây. Dù tích cực hay tiêu cực, nó cũng khác với đường lối xưa và thích hợp cho hết mọi người để nên thánh. Chúng ta có thể nói được rằng đây là con đường nên thánh của thời đại mới, của thế kỷ 20.
Về phương diện tiêu cực, ta thấy Đường thơ ấu thiêng liêng này có những đặc điểm sau đây:
+ Không có những việc hãm mình kỳ lạ
Ngày xưa, các thánh được kể lại bằng những câu chuyện về việc hy sinh hãm mình của các ngài. Và ngày nay trong giới giáo hữu thơ ngây, đôi khi người ta còn thích đồng hóa sự thánh thiện anh hùng với những việc khổ hạnh đẫm máu. Đối với họ, một vị thánh tức là một người không ăn, không uống, không ngủ, kiệt sức vì thức khuya, vì đánh tội đủ mọi cách và hủy diệt hay hành hạ thân xác trong những công việc nặng nhọc để chỉ lo nghĩ đến việc rỗi linh hồn. Không còn sự sai lầm nào tác hại hơn! Một số đông tín hữu nghĩ mình không thể nên trọn lành được vì không thể ăn chay, không thể thức khuya và không thể mặc áo nhặm.
Riêng vị đại thánh thành Lisieux, chị đã nhất định gạt bỏ những điều mà thánh nữ quen gọi là “những khổ hạnh của các thánh nhân”. Hơn thế, chị còn tỏ thái độ đối lập rõ rệt, ngoại trừ vài rường hợp đặc biệt. Thoạt đầu Têrêsa đã tưởng là phải dấn thân vào con đường khổ hạnh vượt sức mình ấy... Không cần bàn cãi, nhiều bản văn đã chứng tỏ thánh nữ đã loại ra khỏi đường thơ ấu thiêng liêng của Ngài những hãm mình phạt xác kỳ lạ và những lối quá khổ hạnh của các thánh. (Philipon. Op, Sứ điệp của thánh Têrêsa thành Lisieux)
+ Không có những đặc ân thần bí
Nơi Têrêsa Hài đồng hoàn toàn không có xuất thần, dấu thánh, thị kiến, trừ qủi hay phép lạ. Con người cần phải trở nên nhà pháp thuật kỳ tài nhất của “thế hệ tận hiến” lại không thực thi một dấu lạ nào trong đời sống. Điều này là điều trái ngược với đa số tiểu sử các thánh, chỉ dựa trên những ân thần bí thuộc đủ mọi loại: xuất thần, thị kiến, m ạc khải, in dấu thánh, thần thuật trừ qủi, có thiên thần hiện ra, hiểu biết mọi tâm hồn. Ơn nói tiên tri và làm phép lạ...
Thật ra chúng ta cũng tìm ra những dấu vết, những hiện tượng lạ thường, ít ra là năm sáu hiện tượng nếu để ý quan sát đời sống thánh nữ. Nhưng nhiều nếp sống tầm thường cũng có thể có bằng ấy hiện tượng lạ! Những bằng chứng nêu lên trong tòa án phong thánh đủ để các khía cạnh tiêu cực này, khía cạnh rất đặc sắc về sự thánh thiện của Têrêsa Hài đồng.
+ Không có phương pháp cầu nguyện
Đời sống cầu nguyện là linh hồn của việc tu đức cho nên vấn đề chúng ta đề cập ở đây thật quan trọng. Nó mạc khải cho chúng ta cái bí thuật kết hợp với Thiên Chúa của các thánh hơn tất cả yếu tố khác.
Chị Têrêsa Hài đồng đã đọc đi đọc lại trong các tác phẩm của Mẹ thánh những đoạn viết rất hay về các điểm: cầu nguyện bằng lời, cầu nguyện bằng trí, cầu nguyện tâm niệm, cầu nguyện tĩnh niệm, cầu nguyện kết hợp. Theo thánh Têrêsa Avila, người cải tổ có công nhất của dòng Kín,” cầu nguyện là tất cả”. Theo Mẹ thánh, bảy nơi ở các linh hồn cũng là bảy bậc thang chính của đời sống cầu nguyện và kết hợp, kể từ những hình thức sơ luợc của sự cầu nguyện hoạt động, đến những phân tích tỉ mỉ về những bậc sống cao siêu trong hôn ước thiêng liêng. Nơi Têrêsa Hài đồng không có một dấu vết của một cấp bậc, một tầng lớp, một thứ hạng nào nhất định! Truyện Một tâm hồn không giống cuốn Lâu đài linh hồn, vì tuy hai thánh nữ cùng thuộc về một dòng nhưng năng khiếu thiên phú rất khác nhau.
Về điểm căn bản của đời sống cầu nguyện này, cũng như của đời hy sinh khổ hạnh và những đặc ân thần bí, Têrêsa phải là khuôn mẫu thích hợp với “mọi linh hồn thơ ấu”. Phúc âm là linh hồn đời sống cầu nguyện của chị. Đối với chị và số đông linh hồn Kitô hữu, tìm về với Chúa bằng con đường thông thường, thì cầu nguyện phải là “một đà tiến của trái tim”, một cái nhìn ngây thơ hướng về trời, một tiếng gọi tri ân và yêu mến, thốt ra trong cơn thử thách cũng như giữa lúc an vui; nghĩa là một sự gì cao thượng siêu nhiên, có sức phấn khởi linh hồn và nối kết linh hồn vơi Thiên Chúa.
+ Không có những hoạt động hiển hách
Giữa lớp người có “thế lực hoạt động và ăn nói” có nhiều vị hiển thánh đã sống theo hình ảnh của Thầy chí thánh. Chính các ngài có công rất nhiều trong việc thực hiện những tổ chức cơ sở bác ái, đã có ảnh hưởng sâu xa trong việc hướng dẫn vận mạng quốc gia và xã hội. Chúng ta phải ngỡ ngàng trước thánh Albertô cả, trước sự thông thái phi thường của thánh Augustinô, và thánh Tôma Aquinô... trước chiến công lẫm liệt của thánh nữ Jeanne d’Arc, trước sức mạnh của lời rao giảng và những phép lạ huy hoàng của thánh Vinh sơn Phêriê, trước lòng nhiệt thành truyền giáo của thánh Phanxicô Xaviê, và sau cùng hoạt động cảm hóa dân chúng bằng gương sáng của cha sở họ Ars... Chúng ta còn có thể kể những bằng chứng rõ ràng của các nhà truyền giáo và các thánh tử đạo, của một số lớn các vị lập Dòng. Đời sống thánh thiện của các ngài vẫn còn sáng chói như một thành quả vô song của nhân loại.
Trái lại, trong cuộc sống âm thầm của chị dòng Kín thành Lisieux không có lấy một hoạt động hiển hách hay một công trình bên ngoài nào. Ngay ở toà án phong thánh, chỉ vỏn vẹn một trang kể lại những việc làm nhỏ mọn của chị trong suốt đời dòng kín: lần lượt chị đảm nhận chu đáo những việc nhà giặt, phòng ăn, phòng khách và giữ cửa. Nhiệm vụ đáng chú ý nhất của chị là – chức vụ không được chỉ định rõ – làm phụ tá coi sóc ba hoặc bốn chị đệ tử và tập sinh khó tính. Sống với các chị này, Têrêsa phải luôn luôn cố gắng tận tụy và giữ thái độ cởi mở vui tươi.
Người ta đã lầm trước sự tương phản giữa vẻ tầm thường của những việc Têrêsa làm hằng ngày với sự trọn hảo thần linh thánh nữ dùng để kiện toàn công việc thường nhật ấy. Rồi người ta có thể tự hỏi xem ngoài tấm gương trinh nữ Nazareth, còn có mẫu đời nào cũng siêu vời thánh thiện như những công việc bên ngoài rất tầm thường như thế không?
b) Đặc tính của con đường mới
Trong các đặc tính của con đường thơ ấu thiêng liêng của thánh nữ, ta thấy có mấy đặc tính nổi vượt, đó là: bé nhỏ, đơn sơ, khiêm nhường và vui vẻ chấp nhận mọi hy sinh gian khổ.
+ Bé nhỏ, đơn sơ, khiêm nhường
Thánh nữ luôn lời Chúa với câu: “Hãy học cùng Thầy vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Với một trực giác kỳ lạ về địa vị thiết yếu của đức khiêm nhường trong đời sống thiêng liêng, thánh Terêsa đã nhấn mạnh về sự thực hành nhân đức này. “Hãy luôn sống như trẻ thơ” theo ý muốn của Chúa Giêsu trong Phúc âm, Ngài chẳng muốn nói với ta rằng: “Nước Trời thuộc về người giống như trẻ nhỏ” sao? Người có đặc ân của Chúa Giêsu là kẻ bé thơ.
Tự đáy lòng, Têrêsa cảm thấy rằng chướng ngại đầu tiên và lớn nhất của sự thánh thiện là tính kiêu ngạo. Kẻ thù mạnh nhất của chúng ta là bản ngã riêng của ta. Để đưa ta đến sự trọn lành, ta quá tin tưởng vào sức riêng và tưởng phải làm những việc kỳ lạ, cho đến khi sa ngã, ta mới có kinh nghiệm là mình bất lực và hư vô. Chỉ lúc đó ta mới hiểu lời Thầy Chí thánh “Không có Thầy các con không thể làm gì được”. Trẻ nhỏ đã ý thức được sự yếu hèn của mình, nó cảm thấy mình nghèo khó, thiếu thốn mọi sự và hoàn toàn lệ thuộc.
Chiếm hữu được chân lý nền tảng này, thánh nữ đã lấy TRẺ THƠ làm mẫu mực cho đến cuối đời.
Chị hướng dẫn các linh hồn đến sự thánh thiện là bằng đức tính khiêm nhường như Chúa đã chẳng nói: “Kẻ giống trẻ nhỏ sẽ lớn nhất trong nước trời” sao? Và khi người ta bảo rằng điều đó không hợp với mọi người, Têrêsa trả lời: “Nếu tôi chết lúc, tám, mười tuổi, nếu tôi ở trong nhiều tu viện, lãnh nhiều trách nhiệm, tôi cũng cảm thấy rõ ràng tôi vẫn nhỏ bé như ngày nay”. Người ta có thể được cất lên địa vị rất cao mà vẫn nhỏ bé trước mặt Thiên Chúa.
+ Từ bỏ mình
Thánh nữ quên mình đi, coi mình là hèn mọn hư vô và đặt tất cả sự tin tưởng của mình vào tình thương vô biên của Chúa. Người muốn sống để làm đẹp lòng Chúa, yêu mến và làm cho người ta yêu mến Chúa. Nhưng muốn được thế, thánh nữ đã sống hết sức quảng đại đối với Chúa, đã từ bỏ mình đi để sống cho Chúa và với chị em. Thánh nữ luôn ví mình như bông hoa hồng được dâng tiến Chúa:
Chúa ơi, này đóa hoa hồng, Trên bàn thờ Chúa hương nồng sắc tươi,
Con đây mơ ước này thôi:
Tách từng cánh một, Chúa Trời, hiến dâng.
Thánh nữ đã cảm nghiệm thấy lời Chúa “Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Ta” là cần thiết, nên việc cắt tỉa ý riêng mình là cần thiết để cho phù hợp với ý Chúa. Người làm vườn mà vì thương hại cây hồng không muốn bạo tay cắt những cành sâu đi, thì không phải là một người làm vườn khéo: cây hồng được “nuông chiều” như thế cũng không thể nở hoa được... Người không muốn quên mình cũng không bao giờ có ý chí vững chắc.
Người ta nói: 3 với 4 là 7, có đúng không? Chưa đúng. Muốn thực hiện 3 với 4 là 7 thì phải làm sao cho tan rã hai con sô 3 và 4, rồi đúc nó lại thành con số 7 mới được. Chớ cứ để 3 với 4 kề nhau mãi thì làm sao thành 7 được, mà vẫn là 3, 4. Thánh Têrêsa đã biết quên mình đi, hòa tan ý riêng của mình vào thánh ý Chúa để hoàn toàn sống cho Chúa và chỉ làm những điều gì Chúa muốn.
Sự từ bỏ mình đã thúc đẩy Têrêsa yêu mến thánh giá như ngài đã viết trong Một tâm hồn: “Khi ai muốn đạt tới đích kỳ vọng, dĩ nhiên người ấy phải dùng phương thế, Đức Giêsu đã cho con biết phương thế cứu rỗi các linh hồn là THÁNH GIÁ, cho nên càng gặp nhiều thánh giá, lòng ái mộ, chịu đau khổ của con càng thêm nồng nàn hăng hái. Trong 5 năm qua, con đã bước đi con đường ấy, con đi thì con biết, chớ chẳng ai biết con đi. Ấy chính là một hoa mọn mọc nơi xó xỉnh chẳng ai thèm biết tới mà con muốn dâng tiến Chúa đấy. Hoa mọn này còn chút hương thơm nào, chỉ bốc theo đường thẳng lên trời thôi”. (Một tâm hồn, tr 132)
+ Chấp nhận trong vui tươi
Đường lối nên thánh của thánh nữ gạt bỏ tất cả những việc hãm mình lớn lao mà mình tự tạo ra, trái lại, Têrêsa chỉ cố gắng chấp nhận tất cả mọi sự việc trong hiện tại, dù muốn hay không. Thái độ đó là thái độ CHẤP NHẬN. Nhưng chấp nhận có thể là thái độ chấp nhận miễn cưỡng hay tự ý, vui tươi hay rầu rĩ! Đối với thánh nữ, việc gì xẩy đến cũng là do thánh ý Chúa, cho nên Ngài nhận lấy cách thực tình và vui tươi. Tinh thần vui tươi phấn khởi trước những hy sinh còn được thánh nữ ghi lại trong nhiều vần thơ:
Nếu Chúa chẳng đoái hoài ve vuốt, Con vẫn tươi cười trước khổ đau. Mỉm cười với Chúa tôi thờ, Đó là thiên quốc thỏa mơ ước rồi.
Thiết tưởng không cần làm gì thêm để hãm mình, để nên thánh, cứ vui lòng chấp nhận cảnh sống hiện tại với muôn vàn việc xẩy đến vui cũng như buồn, vừa ý cũng như trái ý. Nên thánh ở chỗ chấp nhận mọi hy sinh đau khổ mà nét mặt vẫn vui tươi, không cho ai biết mình đang phải đau khổ. Chính Terêsa ở vào trong hoàn cảnh đó: ai cũng cho là Têrêsa sung sướng vì có chị làm Mẹ Bề trên chắc chắn được nuông chiều, hơn nữ nét mặt của Têrêsa lúc nào cũng tỏ ra vui tươi hớn hở; nhưng Têrêsa cho biết: chính cái đó cũng làm cho mình đau khổ thêm mà không ai biết.
Thiên Chúa đã chọn những gì bé nhỏ, yếu hèn. Nhìn sâu vào mầu nhiệm nhập thể, mầu nhiệm thánh giá, mầu nhiệm Thanh Thể, chúng ta thấy Thiên Chúa đã chọn những con đường rất khiêm hạ. Thiên Chúa mặc khải chính mình trong những hình thức không chút gì là quyền lực. Chúa mặc khải tình yêu của Ngài. Tình yêu là một sức mạnh mà không một phạm trù nào về quyền lực có thể diễn tả được, nhưng lại rất hùng hồn khi tự hạ hy sinh.
Chúa chọn những sứ giả tình yêu để họ cộng tác vào việc xây dựng Nước Tình Yêu của Ngài. Đây cung là những chọn lựa do lòng thương xót của Ngài, chứ không do công phúc và áp lực của bất cứ ai. Ngài có thể chọn những con người bé mọn yếu hèn. Trong cuốn Tự Thuật, Têrêsa kể lại: Một hôm, trong phòng, Têrêsa tình cờ mở Phúc Âm và gặp ngay đoạn viết: "Chúa Giêsu lên núi, Ngài kêu gọi những kẻ Ngài muốn; và họ đã đến với Ngài" (Mc 3, 13). Đó là mầu nhiệm ơn gọi của tôi… Chúa đã không gọi những người xứng đáng, nhưng kêu gọi những người Chúa muốn, như thánh Phaolô đã viết: "Chúa thương xót những người Chúa ưa thích và Chúa xót thương kẻ Chúa muốn xót thương. Như thế sự được ơn không phải là công trình của kẻ muốn hoặc kẻ chạy chọt, nhưng là của Chúa thương xót mà thôi" (Rm 9, 15-16).
Têrêsa rất ý thức chân lý đó, Ngài còn đi xa hơn, khi khẳng định rằng: Chúa thương Ngài không phải vì Ngài có công phúc gì, mà chính sự yếu đuối bé nhỏ của Ngài. Hơn nữa Têrêsa còn quả quyết: "Cuối đời, con sẽ tay không ra trước mặt Chúa. Bởi vì lạy Chúa, con không xin Chúa đếm các việc con làm. Con biết tất cả các việc công chính của chúng con đều mang vết nhơ trước mặt Chúa." Têrêsa nhận biết sự khó nghèo thiêng liêng và bé nhỏ của mình, ngài chỉ trông cậy vào ơn thương xót Chúa mà thôi.
Qua thánh nữ Têrêsa, Chúa đang kêu gọi mọi người, nhất là những người tự mãn cho mình là đạo đức, hãy trở về tinh thần khiêm tốn, khó nghèo và bé mọn. "Ai hạ mình xuớng như trẻ này, người ấy là kẻ lớn nhất trong nước Thiên Chúa" (Mt18, 4). Lời Chúa trên đây ghi lớn trên trần nhà nguyện Dòng kín Carmel là một bài thần học rất quan trọng cho Hội Thánh tương lai.
Kết luận
Têrêsa đã vui lòng chịu đau khổ trong tăm tối bởi vì Ngài đã nhận ra rằng trong nhiều cách Ngài rơi vào cảnh tăm tối mà trong đó có nhiều thử thách vây kín. Ngài nhận ra với những người không tin, những người mà Ngài gọi là “anh chị em” của Ngài, gần gũi họ hơn nữa. Ngài đã làm cho nhận thức của Ngài đối về họ cách rõ ràng hơn trong câu chuyện về một vương quốc tăm tối, đã không nhận ra Vua của Ánh Sáng đã đến ở giữa họ trong 33 năm:
Lạy Chúa, con cái Chúa đã hiểu về ánh sáng thánh thiêng của Ngài và xin Ngài tha thứ cho những anh chị em đó. Thiên Chúa đã trao cho Thánh nữ chén đắng; Ngài đã không ước mong được thoát khỏi những đắng cay mà Thiên Chúa dành cho những tội nhân đáng thương phải chịu. Ngài không thể nói là nhân danh cá nhân Ngài mà là nhân danh những anh chị em của Ngài, “Xin thương xót con cùng, lạy Chúa, vì chúng con là những tội nhân đáng thương”. Ôi! Lạy Chúa đừng xét xử chúng con. Có thể tất cả những ai mà không được ngọn lửa đức tin soi sáng thì một ngày nào đó sẽ được ánh sáng chiếu soi. Ôi lạy Chúa Giêsu! Nếu cần thiết thì xin Ngài hãy thanh tẩy những kẻ gây ra tội lỗi vì một linh hồn yêu mến Ngài, kế đến con ước ao được đón nhận thử thách vì những lỗi lầm đó đến khi mà Chúa sẵn sàng mang con đi vào trong vương quốc Ánh sáng của Ngài. Ân sủng duy nhất con van xin Ngài đó là đừng để con bao giờ xúc phạm đến Ngài.
Têrêsa thật sự là một vị thánh thời đại, là một mẫu gương của thời đại – bởi vì Ngài đã chết trong sự tăm tối của ngờ vực mà nhiều người đương thời của Thánh nữ đã lạc lối. Thánh nữ sẵn sàng vào cõi âm ti nếu Thiên Chúa được tán dương ở đó. Những lời cầu nguyện của Thánh nữ đã được đáp trả. Nhưng địa ngục mà Thiên Chúa đã cho Thánh nữ chính là cơ hội để công bố lòng tin và tình yêu của Thánh nữ là khía cạnh tăm tối trong thời đại của Ngài.
Một hôm nhà đạo sĩ Beroca cùng với người môn đệ là Elia bước ra khỏi trại, nhà đạo sĩ đưa mắt nhìn ra đám đông người, giữa khu phố ồn ào náo nhiệt, rồi lên tiếng hỏi môn đệ: Con nghĩ sao giữa những người bon chen nơi phố chợ này? Sẽ có ai được hưởng hạnh phúc đời đời trên thiên đàng không?
Thoạt đầu Elia lắc đầu bi quan trả lời là: không có ai cả. Một lúc sau người môn đệ đưa tay chỉ về phía hai người đang đứng đó và nói: thưa thầy, con nghĩ rằng hai người này thế nào cũng sẽ được chia sẻ phần hạnh phúc đời đời.
Nhà đạo sĩ cho gọi hai người ấy đến và hỏi xem họ làm nghề gì?
Họ thưa: thưa thầy, chúng con chỉ biết làm nghề mua vui cho người ta thôi. Khi thấy ai buồn sầu, chúng con tới làm cho họ vui lên. Khi họ gây lộn cãi vã nhau, chúng con tìm mọi cách giúp họ làm hòa và sống an bình với nhau hơn. Chúng con không biết làm gì hơn ngoài những việc nhỏ mọn như thế thôi.
Nhà đạo sĩ trả lời: các anh nói rất đúng, vì những việc các anh làm tuy bé nhỏ nhưng thực sự lại rất lớn lao, bởi vì chính Chúa Giêsu đã nói: "Ai không trở nên đơn sơ bé nhỏ sẽ không được vào Nước Trời".
Thiên Chúa là Cha nhân từ giàu lòng xót thương, không những với các tội nhân mà thôi, Ngài còn đặc biệt để mắt nhân từ đến với những tâm hồn đơn sơ, những người hèn hạ hoặc bị khinh dể ít được ai biết tới, nhất là các trẻ nhỏ. Ngài là Cha nhân từ không muốn cho một ai trong những kẻ bé nhỏ phải hư mất. Chính Chúa Giêsu lại còn đồng hóa mình với những kẻ bé nhỏ thấp hèn và còn quả quyết rằng: "Mỗi lần các con làm một việc tốt lành cho những người bé nhỏ nhất, tức là làm cho chính Chúa vậy. Trái lại, khi ta từ chối không làm một điều tốt lành cho người bé nhỏ nào thì cũng không làm cho Chúa vậy". Vì thế Chúa Giêsu cảnh cáo và nhắc nhở ta đừng bao giờ khinh dể những người bé mọn, cũng chớ làm gương xấu cho trẻ nhỏ. Bởi vì họ là những người gần gũi Thiên Chúa và được Ngài yêu thương cách đặc biệt.
Trong xã hội hưởng thụ, những người bị khinh thường coi rẻ hơn cả là những người thấp kém về tuổi tác, văn hóa, khả năng, tiền bạc, bằng cấp... Nhưng đối với Chúa Giêsu thì hoàn toàn trái ngược, tiêu chuẩn và cái nhìn của Chúa không phải là tiêu chuẩn và cái nhìn thiển cận của loài người. Những người bé mọn lại là những người được Thiên Chúa Cha yêu thương và mạc khải cho những sự khôn ngoan, cho họ hiểu biết những điều bí nhiệm mà sự khôn ngoan thế gian không thể nào hiểu biết được.
Chúa Giêsu tự coi mình là người bé mọn và tự đồng hóa mình với họ, nên Ngài đã sung sướng thốt lên rằng: "Lạy Cha, Con cảm tạ Cha vì đã giấu không cho những kẻ thông thái mà lại cho những kẻ bé mọn hiểu được những điều bí nhiệm về Nước Trời. Vâng lạy Cha, vì đó là Thánh Ý Cha..." (Mt 11,25-26; Lc 10,21-22).
Những người bé mọn Chúa Giêsu muốn nói tới đây là ai? Phải hiểu sự bé mọn ấy như thế nào? Bé mọn về thể xác hay về sự hiểu biết hoặc về tinh thần? Sự bé mọn về thiêng liêng có ý nghĩa gì?
Những Kẻ Bé Mọn Là Ai?
Có thể nói được rằng sự bé mọn mà Chúa Giêsu nói tới trong Phúc Âm, thực thi tới mức hoànhảo trong đời sống. Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã được Giáo Hội chính thức nhìn nhận và nhiều người trong chúng ta đã được nghe biết tới. Hơn nữa nhân ngày truyền giáo thế giới 19/10/1997, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nâng thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu lên bậc Tiến Sĩ Giáo Hội, như thánh nữ Catharine Sienna và thánh nữ Têrêsa Avila.
Với tước hiệu này, Giáo hội chính thức nhìn nhận thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu thuộc vào những tâm hồn đơn sơ bé nhỏ, nhưng được Thiên Chúa kén chọn và tỏ lộ cho những điều vượt xa tầm hiểu biết trí khôn loài người, như lời thánh Tông Đồ Phaolô quả quyết rằng: "Phần chúng ta, chúng ta đã không lãnh nhận thần khí của thế gian, nhưng là Thần Khí phát xuất từ Thiên Chúa để nhận biết những ân huệ Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Để nói về những điều đó, chúng tôi không dùng những lời lẽ khôn ngoan đã học được nơi trí khôn loài người, nhưng dùng những lời lẽ học được nơi Thần Khí. Chúng tôi dùng những lời lẽ Thần Khí để diễn tả những thực tại thuộc Thần Khí".
Thật vậy, thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã có một tâm hồn đơn sơ hồn nhiên, đã có thể nói lên rằng: "Trong Phúc Âm, thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã tìm thấy mọi chân lý và sự thật". Cũng nhờ Phúc Âm mà người đã khám phá ra những khámphá mới ẩn giấu trong Phúc Âm.
Thánh nữ viết: "Theo thiển nghĩ của tôi thì tất cả mọi người cảm nhận được những gì ThiênChúa đã ban tặng cho tôi, thì quả thật Thiên Chúa không còn phải là ông vua đáng phải khiếp sợ nữa, nhưng trái lại là người Cha đáng mến vô cùng và sẽ không còn dám làm điều gì xúc phạm đến Người nữa. Tuy nhiên tôi vẫn biết rằng không phải mọi người đều giống hệt nhau cả, mỗi người đều có một đặc điểm cá biệt để nói lên sự hoàn hảo muôn hình vạn trạng của Thiên Chúa, và đồng thời cũng là dịp tốt để mỗi người một cách và tất cả mọi người cùng hiệp lời ca ngợi sự thánh thiện khôn ngoan của Thiên Chúa cách phong phú dồi dào hơn. Riêng đối với tôi, Ngài đoái thương cho tôi cảm nghiệm được lòng nhân từ yêu thương vô biên của Ngài, và cũng nhờ đó tôi được dịp chiêm ngắm và tôn thờ những sự hoàn hảo thánh thiện khác của Ngài nữa. Đối với tôi tất cả đều tỏa sáng sự khôn ngoan, tình thương vô biên của Chúa, ngay đến sự công minh chính trực của Chúa cũng chỉ là sự công chính của tình yêu mà thôi".
Hiểu Sự Bé Mọn Ấy Như Thế Nào?
Sự hiểu biết về lòng nhân từ xót thương của Chúa không phải chỉ là sự hiểu biết của trí khôn trên bình diện hiểu biết mà thôi, nhưng thực sự là kinh nghiệm sống trong cuộc sống cá nhân của Người. Đặc biệt hơn cả là sức mạnh của ơn thánh đã được cảm nghiệm năm Têrêsa lên mười bốn tuổi.
Khi còn nhỏ Têrêsa vốn là cô bé được nuông chiều, nên thường nương theo bản tính ích kỷ dễ hờn giận. Lớn lên Têrêsa dần dần được thay đổi và trưởng thành hơn về mặt tình cảm.
Một biến cố đã thay đổi hẳn cả hướng đi cuộc đời của Têrêsa. Hôm đó là ngày lễ sinh nhật (năm 1886), Têrêsa được ơn Chúa thúc đẩy và soi sáng cho thấu hiểu cách sâu xa hơn về mầu nhiệm Giáng Sinh, Con Một Chúa quyền phép vô cùng, nhưng chỉ vì tình yêu nhân loại đã muốn mặc lấy thân phận con người thấp hèn như tất cả mọi người, ngoại trừ tội lỗi.
Tất cả mầu nhiệm như một luồng ánh sáng soi chiếu cả cuộc sống Têrêsa, chính trong sự yếu ớt của đứa bé thơ sinh nằm trong máng cỏ hèn hạ của loài súc vật, Têrêsa cảm thấy được mặc cho một sức mạnh phi thường. Từ ngày đó, Têrêsa bắt đầu đi từ chiến thắng này đến chiến thắng khác trong việc khắc phục những tính hư nết xấu của mình. Têrêsa cũng ý thức được sự cao cả của ơn thánh mà Thiên Chúa đã ban cho người một cách nhưng không. Têrêsa hoàn toàn không có công trạng gì ngoài công nghiệp duy nhất là sự yếu hèn, nhưng đầy lòng tin tưởng phó thác của người. Vì thế Têrêsa có lý khi viết:
"Chính vì tôi bé mọn mà Cha là Thiên Chúa nhân từ đã cúi xuống trên tôi và chỉ bảo tôi những điều cao cả mầu nhiệm về tình thương Thiên Chúa. Nếu như các nhà thông thái thế gian trông thấy tôi, họ sẽ ngạc nhiên về những gì Thiên Chúa đã muốn tỏ lộcho một cô bé mười bốn tuổi như tôi về tình thương của Ngài. Đó là tất cả những điều bí ẩn mà sự khôn ngoan thông thái của họ cũng không thể nào hiểu được.Bởi vì để được hiểu biết những điều cao cả đó, trước hết họ cần phải có lòng đơn sơ và tinh thần khó nghèo bên trong".
Bé Mọn Về Thể Xác hay Về Sự Hiểu Biết Hoặc Về Tinh Thần?
Con đường nên thánh và đúc kết sự khôn ngoan của Têrêsa được gọi là Con Đường Thơ Ấu Thiêng Liêng. Đây không phải là sự thơ ấu khờ dại của đứa trẻ, cũng không phải là việc tầm thường hóa những giá trị Phúc Âm, trái lại Con Đường Thơ Ấu Thiêng Liêng của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, trước hết dựa trên thái độ khiêm tốn nội tâm, biết tự hạ chấp nhận thân phận thấp hèn trước mặt Thiên Chúa là Đấng Tạo Thành, đồng thời cũng là Cha nhân từ đầy lòng xót thương.
Đặc điểm trước tiên của con đường nên thánh của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu là lòng tin tưởng phó thác. Đó là hoa trái của lòng trông cậy, như người con thơ chỉ biết đặt lòng tin cậy phó thác vào bàn tay chăm sóc của người Cha đầy tình yêu thương.
Từ sự tin tưởng vào tình thương cha mẹ và anh chị em trần gian nơi gia đình, Têrêsa tiến tới trong sự tin tưởng vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa là Cha. Lòng tin tưởng đưa Têrêsa đến sự phó thác hoàn toàn trong tay Chúa về tất cả cuộc sống của người, không phải là thứ phó thác thụ động lười biếng một cách suy luận sai lầm của con người, nhưng là sự phó thác linh động, sẵn sàng thi hành tất cả những gì tình yêuChúa đòi hỏi, cả khi phải hy sinh với giá cao và chấp nhận từ bỏ những gì mình ưa thích nhất, nhưng có thể là sự nguy hiểm trong bước đường tiến tới sự kết hiệp thân mậtvới Chúa. Vì thế, tin tưởng phó thác là hoạt động của tình yêu, là cao điểm của lòng kính mến Chúa trên hết mọi sự, đồng thời cũng rất gần gũi với tha nhân để chia sẻ tình yêu Chúa đổ tràn trong tâm hồn mọi người, để lôi kéo người khác đến gần tình yêu Chúa hơn.
Ý Nghĩa Thiêng Liêng Về Sự Bé Mọn
Đây là bí quyết sức mạnh và hiệu lực Tông Đồ của thánh nữ, người được đặt làm quan thầy các vị thừa sai truyền giáo khắp nơi trên thế giới, mặc dù thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu không bao giờ bước chân ra khỏi bốn bức tường của Tu Viện và cũng không hề lên tiếng giảng dạy cho ai. Nhưng thánh nữ đã khôn khéo khám phá ra chỗ đứng của mình trong lòng Giáo Hội, chỗ đứng đó là tình yêu, là biết yêu thương, là hoàn toàn phó thác tin tưởng cho tình yêu thương của Thiên Chúa là Cha nhân từ đầy lòng xót thương.
Sống ở trần gian chỉ có 24 tuổi đời, thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã để lại cho trần gian một con đường nên thánh xem ra đơn sơ, giản dị, nhưng cũng là một linh đạo tuyệt vời: “con đường thơ ấu thiêng liêng”. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu là ai?
Con đường thơ ấu thiêng liêng nói gì cho ta?
MỘT CON NGƯỜI. MỘT CUỘC ĐỜI: Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, con ông Louis Martin và bà Maria Guérin. Người sinh ngày 2 tháng 1 năm 1873 tại Alencon nước Pháp. Gia đình Ông bà Louis Martin sinh được 9 người con. Tuy nhiên 4 người con đã qua đời, chỉ còn lại 5 chị em gái. Tất cả 5 chị em gái sau này đều bước vào đời tận hiến trong các Dòng tu. Têrêsa mồ côi mẹ từ lúc chưa tròn 4 tuổi. Nỗi buồn mất mẹ cứ hằn sâu trong cuộc đời của Têrêsa. Ông Louis Martin bỏ Alencon lui về Lisieux với cả gia đình. Với truyền thống của một gia đình đạo đức và với tấm lòng đơn sơ, yêu mến Chúa, Têrêsa đã nhất quyết chọn cho mình một con đường. Do đó, thánh nhân đã xin vào tu viện nhà kín Cát Minh tại Lisieux vào tháng 4 năm 1888 lúc Người mới chưa tròn 15 tuổi. Thánh Têrêsa luôn cảm nghiệm sâu xa tình yêu của Thiên Chúa và Người đã sống cái diệu cảm của một con người đầy ắp Chúa. Tâm hồn của Người thật đạo đức, thánh thiện. Người cảm thấy ơn gọi của Người thật kỳ diệu vì chính vào đêm giáng sinh năm 1886, một biến cố làm cho Người quay trở về với Chúa và Người nhận thấy con người của mình được biến đổi hoàn toàn. Từ đây, ơn gọi yêu mến Chúa và yêu tha nhân thôi thúc Têrêsa. Người đã có thể nói như thánh Phaolô tông đồ: “Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi’’. Đời sống trong tu viện Cát Minh càng lúc càng nung đốt tâm hồn của thánh nhân. Đời sống nội tâm của Têrêsa càng ngày càng lên cao. Người đã có mối liên hệ mật thiết với Chúa ở một tầm cao mới, chiều sâu mới, quan hệ tình yêu. Thánh nhân cảm thấy càng ngày càng phải kết hợp với Chúa trong cuộc thống khổ của Ngài. Thánh nhân coi thánh kinh là sách gối đầu và là sách duy nhất giúp Người nên thánh và gần gũi Chúa. Tuy nhiên sự thử thách nội tâm và sự đau khổ thể xác diễn ra hằng ngày trong đời sống của thánh nhân đã làm cho thánh nhân càng ngày càng cảm nghiệm sâu xa mầu nhiệm tình yêu cao vời của Chúa.
Năm 1896 trong đêm thứ sáu tuần thánh, Têrêsa bị ho ra máu lần đầu tiên. Thánh nhân đã sống những tháng ngày trong sự đau khổ triền miên của bệnh tật. Có thể nói, mười tám tháng cuối cùng của cuộc đời Người là một cuộc tử đạo không ngừng. Thân xác bị đau đớn, nội tâm bị thử thách. Nhưng, thánh nhân đã sống hết mình vì tình yêu. Người lìa trần vào ngày 30 tháng 9 năm 1897, hưởng thọ 24 tuổi. Cái tuổi còn đầy sinh lực và nhựa sống. Người ra đi trong tiếng thì thào: “Lạy Chúa, con yêu Chúa”. Đức Giáo Hoàng Piô XI nâng Người lên bậc hiển thánh và đặt Người làm bổn mạng các xứ truyền giáo.
CON ĐƯỜNG THƠ ẤU THIÊNG LIÊNG CỦA THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU:
Thánh Têrêsa đã bỏ cõi đời để đi vào cõi sống vĩnh hằng, Người đi vào cái trọn vẹn, cái lớn lao: yêu Chúa hơn bất cứ người nào trên dương thế này; Têrêsa muốn dâng mình cho tình yêu vô vị lợi, tình yêu nhân từ vô biên của Chúa như của lễ dâng hiến toàn thiêu; Têrêsa muốn yêu mọi người như Chúa Giêsu đã yêu nhân loại.
Người đã sống trọn vẹn con đường tình yêu của Chúa. Người đã chọn một linh đạo cho cuộc đời mình, linh đạo tình yêu nhỏ bé. Con đường của Người là con đường thơ ấu thiêng liêng. Têrêsa tựï ví mình như trẻ nhỏ, mà nhỏ nghĩa là yếu đuối, hèn mọn, không thể tự sức mình làm được gì; nên phải yêu mến thật nhiều, yêu mến không giới hạn để đạt được điều mình ao ước, mong chờ. Quan niệm của Têrêsa giống như những người nghèo của Thiên Chúa mà đặc biệt là thái độ của Mẹ Maria trong kinh Magnificat. Têrêsa đã cảm nghiệm được con đường nên thánh qua thái độ, cử chỉ của Đức Mẹ. Têrêsa đã hiểu được bí quyết nên thánh theo thánh kinh: “trở nên người lớn nhất phải trở nên bé nhỏ nhất”. Đây là kinh nghiệm sống của Têrêsa trong cuộc sống hằng ngày. Con đường nên thánh của Người là con đường thơ ấu thiêng liêng. Muốn đi con đường ấy, bí quyết thật giản dị: “Hãy dâng mình yêu Chúa, hãy chấp nhận đau khổ hy sinh vì Chúa, hãy chia sẻ tâm tình của Chúa cứu độ đang đau khổ trong các chi thể của Hội Thánh để cứu rỗi thế gian”.
Hãy yêu Chúa và yêu tha nhân thật nhiều. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đang mời gọi mọi người nên thánh bằng con đường tình yêu, con đường thơ ấu thiêng liêng…Nên thánh không phải là làm những việc vĩ đại, nhưng con người trở nên thánh bằng con đường nhỏ bé thiêng liêng. Têrêsa đã ví chiếc thang máy bác lên Trời là tình yêu. Con người chỉ có thể đạt được Nước Trời khi họ sống bé nhỏ và yêu thương.
Lạy thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, với tư tưởng phong phú, đầy thánh thiện và đạo đức của Người, xin cho chúng con hiểu được con đường nhỏ bé đầy tình yêu của Người. Xin Người làm rơi hoa hồng là những ân huệ từ Trời xuống thật nhiều cho chúng con. Amen.
Chị Têrêxa Hài Đồng Giêsu qua đời tại tu viện Carmel ở Lisieux, ngày 30 tháng 9 năm 1897, được phong thánh năm 1925; từ đó lễ kính thánh nữ được mừng vào ngày 1 tháng 10. Thánh nữ được chọn làm bổn mạng thứ hai của nước Pháp, cùng với thánh Jeanne d'Arc, và bổn mạng các xứ truyền giáo, cùng với thánh Phanxicô Xavie.
Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu tên thật là Marie Françoise Thérèse Martin, sinh tại Alençon (Normandie, Pháp) ngày 02 tháng 01 năm 1873, con gái út của một gia đình đã có bốn cô con gái. Ông Louis Martin, cha cô, là một thợ sửa đồng hồ đã nghỉ việc; bà Zélie Guérin, mẹ cô, gánh vác gia đình bằng việc trông coi một cửa hiệu đăng-ten. Bà qua đời khi Têrêxa chưa đầy năm tuổi. Ông Martin cùng năm cô con gái dời đến ở Lisieux; Têrêxa trở nên cô bé tính khí thất thường, bối rối và hay dằn vặt, lại được cha và các chị nuông chiều. Giáng sinh năm 1886, một cuộc "hoán cải" diễn ra nơi cô: những thái độ trẻ con và bối rối nơi cô biến mất; cô đạt được sự trưởng thành lúc mới 14 tuổi. Cô xin vào sống trong tu viện Carmel ở Lisieux, tại đây đã có hai chị gái của mình đã là nữ tu. Cô được nhận vào dòng năm 15 tuổi với tên gọi là Têrêxa Hài Đồng Giêsu và Thánh-Nhan (Thérèse de l'Enfant-Jésus et de la Sainte-Face). Têrêxa sống trong tu viện Carmel ở Lisieux được 9 năm, cho tới khi qua đời; tu viện này có 25 nữ tu, tất cả đều già hơn chị rất nhiều, trừ hai người. Kinh Thánh – đặc biệt sách Diễm Ca và các sách Tin Mừng – và các thi ca thần bí của thánh Gioan Thánh Giá nuôi dưỡng linh đạo của chị nữ tu trẻ bây giờ đã sớm đạt tới một mức thánh thiện rất cao. Năm 1893, chị Têrêxa được cử trông coi việc đào luyện các tập sinh, và năm 1894, mẹ Agnès yêu cầu chị viết hồi ký tuổi thơ của chị; một năm sau, tập hồi ký này được xuất bản cùng với các bài viết khác của chị trong cuốn Tiểu Sử Một Tâm Hồn. Tác phẩm này về sau được in ra hàng triệu bản, vạch cho toàn thế giới một phương pháp nên thánh đơn sơ nhưng anh hùng, "con đường nhỏ", và góp phần biến Lisieux thành một nơi hành hương được cả thế giới công giáo biết đến.
II. Thông điệp và tính thời sự
Các bản văn phụng vụ diễn tả khoa linh đạo siêu vời của thánh nữ Têrêxa, bắt đầu bằng Ca Nhập lễ, lấy ý tưởng trong Đệ Nhị Luật (32, 10-12) … "Tựa chim bằng giương cánh đỡ con và cõng trên mình, duy một mình Thiên Chúa dẫn dắt dân."
a. Lời Nguyện của ngày lấy ý tưởng trong Mt 11, 25, cầu xin Thiên Chúa – Đấng mở cửa Nước Trời "cho những người bé mọn"– cho chúng ta "biết theo chân thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, bước đi trên con đường phó thác". Ngay từ 3 tuổi, Têrêxa đã hứa không bao giờ từ chối Chúa Giêsu điều gì; giờ đây con đường chị đi đã dẫn chị tới chỗ dâng hiến đời sống làm lễ toàn thiêu cho Thiên Chúa tình thương, qua sự bỏ mình và phó thác hoàn toàn. Đó là "con đường nhỏ" mà thánh nữ nói đến trong Tiểu Sử Một Tâm Hồn: "Con là tạo vật hèn mọn nhất, con biết sự khốn nạn và yếu hèn của con, nhưng con cũng biết các tâm hồn cao quí và quảng đại yêu thích làm điều thiện biết bao. Vì vậy con nài xin Chúa, Đấng toàn phúc ở trên trời, xin nhận con làm con Chúa … Ôi Người Yêu của con, con nài xin Ngài ghé mắt đoái nhìn vô số những tâm hồn bé mọn; con nài xin Ngài thương chọn trong thế giới này một đạo binh những nạn nhân bé mọn đáng dược Ngài yêu thương."
Điệp ca của bài Benedictus: " … hãy trở nên giống trẻ thơ" làm vang lên Tin Mừng của thánh lễ (Mt 18, 1-4): Thật, tôi bảo thật anh em: Nếu anh em không hoán cải và trở nên giống trẻ thơ … "Trẻ thơ" đối với thánh Têrêxa Lisieux là người "chấp nhận tất cả", với thái độ vâng phục và phó thác của Người Đầy Tớ đau khổ (xem sách Isaia) không ngừng thưa lên: Này con đây! Chương trình sống này đã có khi Têrêxa chọn tên mình lúc vào dòng Carmel: Têrêxa Hài Đồng Giêsu và Thánh-Nhan. Đủ loại thử thách không ngừng giúp thanh luyện chị và dẫn chị tới mức độ thánh thiện ngày càng cao hơn. Đời sống hằng ngày trong tu viện, "cái lạnh chết người", tình trạng khô khan thiêng liêng, những cám dỗ về đức tin, những cơn đau do xuất huyết phổi … "Hồi ấy con không hề nghĩ phải chịu đau khổ rất nhiều để đạt sự thánh thiện...", chị viết trong Tiểu Sử Một Tâm Hồn (Thủ bản A). Tất cả điều này làm chứng một tâm hồn thanh tịnh và mạnh mẽ phi thường, hoàn toàn phó thác cho tác động của Thánh Thần và hoàn toàn dâng hiến cho Tình Yêu nhân từ của Chúa. "Ôi, con yêu Chúa … lạy Chúa … con yêu Chúa!" là những lời cuối cùng của chị.
b. Lời Nguyện trên lễ vật gợi lên một khía cạnh khác của hy tế thầm lặng trong "đời sống đơn sơ và can đảm" của thánh Têrêxa Lisieux. Chính vào lễ Chúa Ba Ngôi ngày 9 tháng 6 năm 1895, thánh nữ được Chúa soi sáng để hiến mình cho Tình Yêu nhân từ. Không lâu sau khi thực hiện cuộc dâng hiến này, khi bắt đầu con đường thánh giá, chị cảm thấy như có một "thương tích tình yêu" giống như hiện tượng in dấu thánh thần bí của thánh nữ Têrêxa Avila.
Têrêxa Lisieux ước muốn đón nhận và đáp lại tất cả các ơn gọi: "Con cảm thấy ơn gọi làm chiến binh, linh mục, tông đồ, bác sĩ, tử đạo", với "ước muốn thực hiện mọi hành vi anh hùng nhất …" Thế rồi một ngày kia, khi đọc Thư 1 Côrintô, chị hiểu rằng "mọi ân điển hoàn hảo nhất cũng chẳng là gì nếu không có đức ái … Đức ái là con đường tuyệt hảo chắc chắn dẫn đến Thiên Chúa." Sau cùng, đây là câu trả lời và là "sự yên nghỉ" đối với thánh Têrêxa: "Con hiểu rằng đức ái bao gồm mọi ơn gọi, đức ái là tất cả … Lúc đó, lòng tràn ngập niềm vui ngây ngất, con la lên: Ôi Giêsu, tình yêu của con … ơn gọi của con, cuối cùng con đã tìm ra, ơn gọi của con là tình yêu! Vâng, con đã tìm ra vị trí con trong Hội Thánh. Ôi lạy Chúa, chính Chúa ban ơn gọi này cho con … trong lòng Hội Thánh, Mẹ của con, con sẽ là tình yêu … như thế con sẽ là tất cả …" (Thư thánh Têrêxa viết cho chị Maria Thánh Tâm, trong Bài đọc Giờ Kinh Sách).
c. Lời Nguyện sau hiệp lễ nhấn mạnh một tính cách đặc trưng khác của thánh Têrêxa, đó là niềm say mê "vì phần rỗi mọi người". Sau khi qua cuộc kiểm tra theo giáo luật để tuyên khấn trong dòng (8 tháng 9 năm 1890), chị đã tuyên bố chị vào dòng Carmel để "cứu rỗi các linh hồn và nhất là để cầu nguyện cho các linh mục". Năm 1895, chị được cử làm "chị linh hướng" cho một chủng sinh có ý hướng đi truyền giáo, thầy Bellière, và năm sau, thầy này có thêm một "anh linh hướng", cha P. Roulland, thuộc Hội Truyền Giáo. Tháng 11 năm 1896, chị làm tuần chín ngày kính thánh tử đạo Théophane Vénard († 1861) để xin ơn được đi truyền giáo ở Đông Dương, nhưng không lâu sau chứng xuất huyết phổi của chị tái phát. Chị trút hơi thở cuối cùng ngày thứ năm 30 tháng 9, 1897, lúc 7 giờ 20 tối, sau một cơn hấp hối kéo dài hai ngày.
Đức Giáo Hoàng Piô XI phong thánh cho chị ngày 17 tháng 5 năm 1925 tại Đại Thánh Đường Phêrô ở Rôma, và ngày 14 tháng 12 năm 1927, ngài công bố thánh nữ Têrêxa là bổn mạng tất cả các nhà truyền giáo, nam cũng như nữ, và của tất cả các xứ truyền giáo trên toàn thế giới. Ngày 3 tháng 5 năm 1944, Đức Giáo Hoàng Piô XII công bố thánh Têrêxa là bổn mạng phụ của nước Pháp, ngang hàng với thánh nữ Jeanne d'Arc.
Nhân dịp Ngày quốc tế giới trẻ lần thứ 12 diễn ra tại Paris, Đức Thánh Cha Gioan Phao lô II đã tôn phong Thánh nhân lên bậc Tiến Sỹ Hội Thánh vào ngày 19 tháng 10 năm 1987.
Ngày 19 tháng 10 năm 1997, thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu được ĐGH Gioan Phalô II trao tặng danh hiệu Tiến sĩ Hội thánh. Ngài là người trẻ nhất (24 tuổi) trong 3 vị nữ thánh được trao tặng danh hiệu này.[1]
Nhìn vào cuộc đời của chị Têrêsa chúng ta chắc không khỏi ngạc nhiên thắc mắc: “Đâu là điều khiến chị có được danh hiệu ấy?”; bởi cuộc đời chị quá đơn giản và bình thường, chẳng có chi là nổi trội. Thậm chí có người còn nhận xét: “Có lẽ với cuộc đời ấy chị đã chìm vào quên lãng, nếu không để lại cuốn tự thuật ‘Truyện một tâm hồn’ mà chị viết vì vâng phục.”[2]
Thật vậy, Têrêsa được sinh ra (1873) và được nuôi dưỡng trong một bầu khí đầy mộ đạo của một gia đình truyền thống nước Pháp. Nét mộ đạo truyền thống ấy được biểu hiện qua việc cả 5 chị em gái trong gia đình đều là nữ tu cả. Được hít thở trong bầu khí đạo đức kia, năm 15 tuổi (1888), Têrêsa gia nhập Dòng kín Carmel ở Lisieux. Ở đây, với bầu khí êm ả, lành thánh của tu viện kín, chị sống tiếp 9 năm còn lại của cuộc đời vắn vỏi. Có lẽ biến cố đáng kể nhất trong 24 năm sống mà chúng ta nhìn thấy được nơi chị là 18 tháng cuối đời chị phải chiến đấu với bệnh lao phổi nặng.[3]
Thế nhưng, sự vĩ đại của một vị thánh đâu hệ ở những biến cố hay những công trạng vang dội, song cốt ở việc họ thuộc về Chúa[4] đến mức nào mà thôi. Chị Têrêsa Nhỏ đã minh chứng cho chân lý ấy cách mạnh mẽ và đầy hồn nhiên bằng những dòng nhật ký của mình.
Chị viết xuống ước mơ của chị:
“Phần con, con vẫn một lòng quả cảm muốn làm đại thánh. Con không cậy công con, có đâu mà cậy; con hoàn toàn cậy trông ở Chúa là sức mạnh, là chính sự thánh thiện. Những cố gắng nhỏ nhặt của con cũng làm Chúa vui lòng. Người sẽ nâng đỡ con lên tới Người, Người sẽ lấy công nghiệp cực trọng Người mà bù đắp cho con. Người sẽ làm con nên thánh.”[5]
Không chỉ mơ mộng suông, Têrêsa còn sống lý tưởng kia trong đời thực bằng những hy sinh, tập rèn nhân đức. Có bận, khi đang giặt đồ, một Soeur cứ làm bắn nước bẩn vào mặt Têrêsa. Têrêsa vô cùng khó chịu. Chị muốn lùi ngay ra, lau mặt như để “giằng mặt” Soeur ấy. Nhưng rồi chị cố nén mình, không tỏ vẻ khó chịu gì hết, và cứ để nước bẩn ấy bắn lên mặt. Chị giải thích nguyên do như sau: “Con là một linh hồn rất nhỏ mọn, chỉ biết dâng lên Chúa những việc rất nhỏ mọn thế thôi. Thật là việc hèn mọn chẳng đáng gì, song đã mang lại cho con được bình an vui vẻ trong lòng.”[6] Một lần khác, khi đang là phụ tá giáo tập, Têrêsa đã “được” các chị em nhà Tập “góp ý” cách thẳng thắn về những khuyết điểm cũng như những điều các chị em ấy không ưa không thích nơi Têrêsa. Têrêsa đã đau khổ gọi nó là “một đĩa rau trộn, trộn rất nhiều giấm và thêm thắt nhiều vị đắng chát… đĩa rau trộn chẳng thiếu gì, chỉ thiếu chất dầu, một chất không có không thành rau trộn, chỉ thành một món chưa có tên gọi.”[7] Đối mặt với “đĩa rau trộn” này, chị Têrêsa lại coi đó như là “cách thức Chúa chăm sóc gìn giữ chị. Chúa chỉ muốn chị phải nén lòng bên trong, phải khiêm nhượng thật trong linh hồn.”
Với những tập rèn nho nhỏ ấy suốt 8 năm ròng trong tu viện, Têrêsa đã có thói quen “mỉm cười trước và trong đau khổ”. Thế nên, trong những ngày tháng cuối đời trên giường bệnh, dù liên tục ho ra máu, dù đau đầu như thể không làm chủ được mình, chị thánh vẫn hằng giữ được nụ cười trên môi. Bởi tận sâu trong thâm tâm mình, chị xác tín một điều rằng: “Một trinh nữ muốn hy sinh cho Tình Ái mà còn ghê sợ chút quà Bạn Thánh gởi cho sao? Lúc nào chịu nổi ngần nào, Bạn Thánh gởi cho ngần ấy, không bao giờ phải lo quá, giả như chốc nữa Người gởi thêm đau đớn, Người cũng sẽ gởi thêm sức chịu đựng. Tuy nhiên, chẳng khi nào con dám xin Chúa gởi cho đau khổ cả thể, vì sức con hèn yếu lắm. Con mà xin như thế, những đau khổ ấy sẽ thuộc về con và riêng sức con phải gánh lấy; nhưng sức riêng con có làm nên trò trống gì bao giờ?”[8]
Như thế đấy, nếu ví cuộc đời chị thánh với một bản nhạc, thì chắc bản nhạc ấy đều đều, buồn buồn, trầm trầm. Song, dường như trong từng nốt nhạc lại chuyên chở rất nhiều tâm ý của người nữ nhạc sĩ Têrêsa. Hay nói khác đi, chị đã thổi được hồn vào trong những chuỗi âm thanh đơn điệu kia. Cái hồn ấy là ao ước nên thánh, là mối tình của chị với Thiên Chúa là Đấng Thánh duy nhất.
Cuộc sống là thế, luôn cần những tâm hồn, luôn cần những tấm lòng. Và sự rung động của tâm hồn này sẽ gợi hứng và làm cho những tấm lòng khác cũng vỗ nhịp theo. Có phải vì thế mà Trịnh Công Sơn đã hát lên đầy xúc cảm rằng: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng… Hãy nghiêng đời xuống nhìn suốt một mối tình, chỉ lặng nhìn không nói năng.”[9]?
----------------------- [1] Hai vị khác là: thánh Têrêsa thành Avila (1515-82), và thánh Catarina thành Siêna (1347-80). [2] David Hugh Farmer, The Oxford Dictionary of Saints, 2nd edition, (Oxford: Oxford University Express, 1987), p. 405. [3] http://en.wikipedia.org/wiki/Thérèse_of_Lisieux (19 September 2013, 21h30).
[4] “Thánh” có nghĩa là: thuộc về Chúa, dành riêng cho Chúa. [5] Truyện Một Tâm Hồn, quyển 1, chương 4. [6] Truyện Một Tâm Hồn, quyển 2, chương 10. [7] Như trên. [8] Truyện Một Tâm Hồn, quyển 2, chương 12. [9] Lời ca khúc “Để Gió Cuốn Đi” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
"Tôi thích chấp nhận sự buồn tẻ của việc hy sinh âm thầm hơn là trải qua những trạng thái xuất thần. Nhặt một cây kim vì tình yêu cũng có thể hoán cải một linh hồn." Ðó là những lời của thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, một nữ tu dòng Camêlô thường được gọi là "Bông hoa nhỏ," người đã sống một đời âm thầm trong tu viện ở Lisieux, nước Pháp. Và quả thật, những hy sinh âm thầm của ngài đã hoán cải các linh hồn. Không mấy vị thánh của Thiên Chúa nổi tiếng như vị thánh trẻ trung này. Cuốn tự truyện của ngài, Chuyện Một Linh hồn, được cả thế giới đọc và yêu chuộng. Tên thật của ngài là Thérèse Martin, gia nhập tu viện năm 15 tuổi và từ trần năm 1897 lúc 24 tuổi.
Ðời sống tu viện dòng kín Camelô không có sức cuốn hút bởi các biến cố lớn, mà phần lớn chỉ gồm sự cầu nguyện và làm các công việc trong nhà. Nhưng thánh Têrêsa có được trực giác sâu sắc về sự thánh thiện của những bông hoa tình yêu nhỏ bé để cứu chuộc quãng thời gian thường ngày ấy, bất kể có nhàm chán đến đâu. Ngài nhìn thấy sự đau khổ có khả năng cứu chuộc trong chính sự đau khổ âm thầm, sự đau khổ chính là sứ mạng tông đồ của ngài. Thánh nữ nói ngài gia nhập tu viện Camêlô là "để cứu vớt các linh hồn và cầu nguyện cho các linh mục." Và không lâu trước khi chết, ngài viết: "Tôi muốn dùng thời gian ở thiên đàng để làm những điều tốt lành cho trần gian."
Vào ngày 19-10-1997, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên bố ngài là Tiến sĩ Hội Thánh, là người phụ nữ thứ ba trong Giáo hội được nhìn nhận là tiến sĩ dựa vào ánh sáng của sự thánh thiện và tầm ảnh hưởng của lời ngài dạy về đời sống thiêng liêng trong lòng Hội Thánh.
Lời bàn
Thánh Têrêsa có nhiều điều để dạy thời đại chúng ta, thời đại của sự hào nhoáng bề ngoài và của “sự thất vọng”. Chúng ta đã trở thành những con người sống một thứ ý thức về bản thân mình theo một hướng rất nguy hiểm: Một đàng ta biết cái nhu cầu là mình phải được hoàn thành trọn vẹn, nhưng đàng khác ta biết mình chẳng phải là thế, thế rồi ta đâm trở nên thất vọng. Thánh Têrêsa, cũng như bao vị thánh khác, đã tìm cách phục vụ người khác, thực hiện những gì ở ngoài bản thân mình, quên mình đi trong những hành động thầm lặng của tình yêu. Ngài là một trong những tấm gương vĩ đại của những con người đã biết ôm ấp lấy cái nghịch lý của Tin Mừng là chiếm lại cuộc sống của mình khi mình chấp nhận mất nó đi, là nên như hạt giống ném vào lòng đất để chịu chết thối đi hầu nảy mầm sự sống mới (Xem Ga 12).
Sự lo lắng đối với bản thân đã tách biệt con người nam nữ thời nay với Thiên Chúa, với đồng loại và thực sự xa rời với chính mình. Chúng ta phải học cách quên mình, để về một Thiên Chúa là Ðấng mời gọi chúng ta thoát ra khỏi sự ích kỷ để phục vụ người khác. Ðây là cái trực giác sáng suốt của thánh Têrêsa Lisieux, và ngày nay trực giác này có giá trị hơn bao giờ hết.
Lời trích
Thánh Têrêsa phải chịu đau khổ vì bệnh hoạn trong suốt cả cuộc đời. Khi còn là một thiếu nữ trẻ, ngài phải trải qua ba tháng đau từng cơn, mê sảng và ngất xỉu. Sau đó, dù yếu ớt nhưng ngài làm việc vất vả trong phòng giặt quần áo và phòng ăn của tu viện. Về phương diện tâm linh, ngài phải trải qua một thời kỳ tăm tối khi ánh sáng đức tin dường như tắt ngúm. Năm cuối cùng của cuộc đời, ngài chết dần vì ho lao. Tuy nhiên, không lâu trước khi chết vào ngày 30-9, ngài thì thào "Tôi không muốn bớt đau khổ."
Thực sự ngài là một phụ nữ dũng cảm, không rên rỉ vì bệnh tật và lo âu. Ðây là một người nhìn thấy sức mạnh của tình yêu, mà sự biến đổi của Thiên Chúa có thể thay đổi mọi sự kể cả sự yếu đuối và bệnh tật thành sức mạnh phục vụ và Cứu chuộc cho người khác. Không lạ gì ngài là quan thầy của công cuộc truyền giáo. Còn ai có thể thay đổi thế giới ngoài những người ôm ấp sự đau khổ của mình với tình yêu?
Gần đến lễ mừng kính thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, xin mời mọi người chúng ta cùng lược đọc chút ít tâm sự và chọn lựa từ “ái nữ của Hội Thánh”. Đây thực sự là những tâm sự hết sức khôn ngoan từ chị thánh.
Têrêsa vào đan viện Cát Minh lúc tuổi đời chỉ mới mười lăm, và đã qua đời chín năm sau đó vào ngày 30 tháng 9 năm 1897. Chị hoàn toàn không được thế giới biết đến bên ngoài vòng tròn những người thân trong gia đình và các nữ tu trong đan viện. Tuy thế, cuộc đời của chị đã được biết đến qua tác phẩm Truyện Một Tâm Hồn.
Dưới đây xin được trích đoạn về cách thức vị thánh vĩ đại này đã chọn sống ơn gọi mình ra sao:
“Em đã mở các thư của Thánh Phaolô ra để tìm phương giải cứu. Các chương 12 và 13 của thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô đập ngay vào mắt em. Em đọc thấy rằng không phải mọi người đều là tông đồ, ngôn sứ và tiến sĩ, v.v… rằng Hội Thánh là một thân thể gồm nhiều bộ phận khác nhau và mắt không thể đồng thời là tay. Câu trả lời đã rõ nhưng không làm thỏa mãn các ước vọng của em, nó không mang lại cho em bình an…. Nhưng như thánh Gioan Thánh Giá đã nói, “nhờ cúi xuống tận đáy thẳm hư vô của mình, em vươn lên cao mãi cho tới khi em đạt tới mục đích của mình.” Em tiếp tục đọc và gặp được câu này: “Hãy tha thiết tìm kiếm những ơn cao trọng. Và đâytôi xin chỉ cho anh em đường trổi vượt hơn cả.” (1 Cr 12:31). Và thánh Tông Đồ cắt nghĩa tại sao mọi ơn cao trọng nhất đều chẳng là gì cả nếu không có Tình Yêu và Đức Ái là con đường trổi vượt dẫn tới Thiên Chúa một cách chắc chắn. Cuối cùng em đã tìm thấy được sự nghỉ yên.
Khi suy nghĩ về Thân Miình Mầu Nhiệm của Hội Thánh, em không nhận ra mình trong bất cứ bộ phận nào mà thánh Phaolô miêu tả, hay đúng hơn em muốn nhận ra mình trong tất cả các bộ phận… Đức Ái cho em chìa khóa của ơn gọi em. Em hiểu rằng nếu Hội Thánh có một thân thể, gồm các bộ phận khác nhau, không thể thiếu bộ phận cần thiết nhất, cao trong nhất, thì em cũng hiểu rằng Hội Thánh có một Trái Tim, và Trái Tim này chính là Tình Yêu bốc lửa. Em hiểu rằng chỉ có Tình Yêu làm cho các bộ phận của Hội Thánh hoạt động, rằng nếu Tình Yêu ấy tắt đi, thì các Tông Đồ sẽ chẳng còn rao giảng Tin Mừng nữa, các vị Tử Đạo sẽ từ chối đổ máu mình ra… Em hiểu rằng Tình Yêu bao gồm mọi Ơn Gọi, rằng Tình Yêu là tất cả, nó bao trùm mọi thời gian và mọi không gian… tóm lại, Tình Yêu là Vĩnh Cửu!
Thế là trong vui sướng mê mẩn tột độ, em đã la lên: Ôi Giêsu Tình Yêu của em… cuối cùng em đã tìm thấy ơn gọi của em, ơn gọi của em chính là tình yêu!… Trong Trái Tim của Hội Thánh là Mẹ con, con sẽ là Tình Yêu…vì thế con sẽ là tất cả… vì thế giấc mở của con sẽ trở thành hiện thực!… Tại sao em lại nói đến một niềm vui sướng mê mẩn, không, nói thế này không đúng, đúng hơn là sự bình an thanh thản và thư thái của người đi biển khi nhìn thấy ngọn hải đăng sẽ dẫn họ đến bến…. Ôi ngọn Hải Đăng sáng rực của Tình Yêu! Em đã biết làm thế nào để đến được với Người rồi, em đã tìm ra được bí quyết để chiếm đoạt ngọn lửa của Người rồi.
Những hành động vĩ đại không thích hợp với em. Em không thể giảng về Tin Mừng cũng chẳng thể đổ máu mình ra,- nhưng điều có hệ gì? Vì những người anh em của em đã lao nhọc thay em rồi. Phần em, một đứa trẻ, em chỉ ở gần ngai tòa của Thiên Chúa và em yêu mến thay cho những ai đang chiến đấu.
Không có điều chi làm em sợ hãi nữa…. Nếu những áng mây dày đặc che khuất Mặt Trời, và dường như không có gì tồn tại bên ngoài bóng đêm của cuộc đời này, thì thật ra đó phải là khoảnh khắc của niềm vui tuyệt hảo, khoảnh khắc để cảm nhận niềm tin tưởng trọn vẹn và để ở thật yên lặng, an toàn trong sự nhận biết rằng Mặt Trời đáng tôn thờ của em vẫn chiếu sáng phía bên kia đám mây.”
Qua phần tìm hiểu sáng hôm nay, tôi muốn nhìn thánh nữ Têrêsa như là một mẫu gương sống Lời Chúa.
Thực vậy, trước hết thánh nữ Têrêsa rất yêu mến Kinh Thánh, ngài thường mang Phúc Âm đêm ngày trên ngực và năng đọc Phúc Âm đến nỗi gần như đã thuộc lòng. Mẹ Agnes de Jésus kể lại rằng: Ngày 12.9.1897, tức là 18 ngày trước khi qua đời, thánh nữ xin mẹ đọc cho nghe bài Phúc Âm Chúa nhật. Vì không có sách lễ nên Mẹ bề trên nói với Têrêsa: Đó là đoạn Phúc Âm Chúa dạy chúng ta không được làm tôi hai chủ. Bấy giờ thánh nữ bèn bắt chước giọng một em bé bị khảo bài, đã đọc từ đầu đến cuối đoạn Phúc Âm đó.
Không những siêng năng đọc Kinh Thánh mà ngài còn cố gắng tìm hiểu Lời Chúa, và nhất là dùng Kinh Thánh làm đề tài để suy niệm. Một hôm chị Genevière vào phòng thánh nữ Têrêsa và ngỡ ngàng trước thái độ chăm chú hồi tâm của ngài. Chị thấy Têrêsa đang may vá nhanh nhẹn mà vẫn như đắm chìm trong một cuộc chiêm niện sâu xa, nên đã hỏi xem Têrêsa đang suy nghĩ những gì, thì Têrêsa trả lời: Em kinh Lạy Cha. Thật êm ái biết bao khi được gọi Thiên Chúa là cha của mình. Vì năng suy gẫm Kinh Thánh như vậy, nên ngài đã khám phá ra những ý nghĩa tiềm ẩn trong Kinh Thánh và biết ứng dụng một cách thật lạ lùng vào đời sống. Trong một bức thư, thánh nữ đã viết: Chỉ một lời Kinh Thánh mà thôi cũng đã mở ra cho con những chân trời vô biên.
Đọc Kinh Thánh, tìm hiểu Kinh Thánh, Kinh Thánh mà thôi vẫn chưa đủ, điều quan trọng là Têrêsa đã sống Lời Chúa. Chính ngài đã cho chúng ta biết ngài đã tìm ra con đường thơ ấu thiêng liêng như thế nào. Ngài luôn nghĩ rằng chỉ trong Kinh Thánh ngài mới có thể tìm ra điều giúp đỡ ngài thẳng tiến trên con đường thánh thiện. Ngài mở Kinh Thánh và đọc thấy lời này trong sách Châm Ngôn: Ai thật bé nhỏ thì hãy đến với Ta. Một trực giác siêu nhiên cho Têrêsa biết là đã tìm thấy điều mong ước. Một người khác, không phải Têrêsa, có lẽ đã ngừng lại đó, nhưng Têrêsa chưa lấy làm đủ, ngài muốn biết điều Chúa sẽ làm cho kẻ thật bé nhỏ, đã đáp lại tiếng Chúa. Têrêsa tiếp tục tìm kiếm và đã gặp trong sách Isaia lời sau đây: Như một người mẹ nâng niu con mình thế nào, Ta cũng sẽ an ủi con như thế. Ta sẽ ôm con vào lòng và ru con trên đầu gối. Têrêsa đã thấy được điều muốn tìm. Nếu dừng lại ở đây, chỉ coi những lời vừa đọc như là những tư tưởng cao đẹp, thì có lẽ Têrêsa đã không nên thánh. Nhưng Têrêsa quyết tâm sống Lời Chúa, đem Lời Chúa mới được khám phá thể hiện trong cuộc sống hằng ngày.
Với ơn Chúa soi sáng, với những suy tư và với chính cuộc đời của mình, Têrêsa đã tìm ra cách sống của những tâm hồn bé nhỏ. Ngài viết: “Ở bé nhỏ là không coi những nhân đức mình luyện tập được như là của mình. Không nghĩ tự mình có thể làm được việc gì, nhưng nhận biết rằng Chúa đã đặt kho tàng đó trong bàn tay người con nhỏ để sử dụng khi cần. Sự thánh thiện không hệ tại làm việc đạo đức nay hay việc đạo đức kia, nhưng hệ tại ở tâm tình bên trong làm ta trở nên khiêm nhường và bé nhỏ”. Trong Phúc Âm chính Chúa đã nói: Nếu các con không trở nên như trẻ nhỏ thì sẽ không được vào Nước Trời. Và: Ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ người ấy sẽ là kẻ lớn nhất trong Nước Trời. Nói đến trẻ nhỏ là chúng ta nghĩ ngay tới một cái gì đơn sơ và trong trắng, tin yêu và phó thác. Chính vì thế, noi gương thánh nư, chúng ta hãy siêng năng đọc Kinh Thánh, nhất là Tin Mừng, suy gẫm và thực thi những điều Chúa truyền dạy, nhất là sống tinh thần ấu thơ trong tin yêu và phó thác, nhờ đó chúng ta sẽ được Chúa yêu thương và chúc phúc.
Nhìn vào cuộc đời của thánh nữ Têrêsa, chúng ta không thấy được những hành động to tát hay những mẫu gương sáng chói. Con đường thánh nữ đã đi là con đường ấy thơ, ngập tràn những bông hoa của tin yêu và phó thác. Thánh nữ luôn sống dưới cái nhìn trìu mến của Thiên Chúa và cố gắng chu toàn những bổn phận tầm thường, những công việc không tên của một nữ tu dòng kín.
Vậy tại sao Giáo hội lại tôn kính thánh nữ như một bậc đại thánh và đặt thánh nữ làm bổn mạng các xứ truyền giáo?
Thực vậy, với hai mươi bốn tuổi đời, không bước chân ra khỏi những bức tường của tu viện, không bôn ba nơi những vùng đát xa lạ để rao giảng Tin mừng cho dân ngoại, như thánh Phanxicô Xaviê, người đã hiến trọn cuộc đời cho những hành trình truyền giáo, từ Nhật Bản cho tới Ấn Độ, thế nhưng Têrêsa đã được đạt ngang hàng với Phanxicô. Sở dĩ như vậy là vì Giáo hội đã thực sự nhìn thấy giá trị tuyệt vời của con đường thánh nữ đã đi, của phương thế thánh nữ đã dùng để dẫn đưa các linh hồn trở về cùng Thiên Chúa.
Vậy con đường ấy, phương thế ấy là gì?
Trước khi đề cập tới con đường và phương thế truyền giáo của thánh nữ, chúng ta cùng nhau tìm hiểu sơ qua về bổn phận tông đồ của mỗi người chúng ta.
Phúc Âm kể lại: ngày kia, khi đi ngang qua một cánh đồng, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn những bông lúa vàng và nói với các môn đệ:
- Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin chủ sai thợ đi gặt lúa về.
Rồi trước khi về trời, Ngài đã chính thức trao cho các ông sứ mệnh lên đường truyền giáo:
- Các con hãy đi giảng dạy muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Mơ ước của Ngài là mơ ước của một ngọn lửa. Thực vậy. Ngọn lửa thì nhỏ bé, nhưng mơ ước của nó thật lớn lao vì nó muốn thiêu đốt tất cả. Chúa Giêsu cũng muốn mọi người nhận biết Ngài để rồi qui tụ về với Ngài, hầu chỉ còn một đàn chiên và một chủ chiên.
Vì thế, bổn phận truyền giáo không phải chỉ là một bổn phận dành riêng cho các linh mục và tu sĩ, nhưng còn phải là một bổn phận chung của hết mọi người tín hữu chúng ta. Bởi vì một khi đã sống trong lòng Giáo hội, chúng ta có trách nhiệm phải làm cho Giáo hội được lớn mạnh, được phát triển không ngừng. Một khi đã là con cái Thiên Chúa, chúng ta có bổn phận phải làm cho mọi người nhận biết Ngài.
Để chu toàn bổn phận và trách nhiệm này, chúng ta có thể dùng lời nói để rao giảng Tin mừng như các thánh tông đồ và như các vị thừa sai. Tuy nhiên, đây không phải là phương thế của thánh nữ Têrêsa, bởi vì thánh nữ luôn sống trong khuôn viên nhà dòng.
Chúng ta có thể dùng việc làm, dùng đời sống gương mẫu để làm chứng cho Chúa. Và đây phải là phương pháp của mổi người chúng ta, bởi vì sống giữa lòng cuộc đời, chúng ta phải trở nên như ánh sáng trong đêm tối, như men trong bột và như muối trong thức ăn. Tuy nhiên, đây cũng không phải là phương thế của thánh nữ Têrêsa.
Phương thế chính yếu thánh nữ đã sử dụng đó là cầu nguyện và hy sinh.
Thực vậy, ngay từ hồi còn tấm bé, thánh nữ đã muốn vào dòng kín để chịu đau khổ và cầu nguyện cho Giáo hội, cho các linh mục, cho các thừa vị sai và cho các linh hồn.
Trong cuốn tự thuật mang tựa đề “Chuyện một tâm hồn”, thánh nữ đã ghi lại ước vọng sâu xa muốn được sang sống tại nhà kín Hà Nội, một xứ truyền giáo đầy triển vọng. Có lẽ vì thế mà chúng ta, những tín hữu Việt Nam, đã dành cho thánh nữ những tình cảm đặc biệt?
Lời cầu nguyện và những hy sinh của thánh nhân là như một sự yểm trợ rất cần thiết cho những hoạt động tông đồ gặt hái được những thành quả tốt đẹp.
Mừng kính thánh nữ Têrêsa, chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem chúng ta đã làm được những gì để cứu vớt các linh hồn, cũng như để góp phần nhỏ bé vào công cuộc truyền bá đức tin của Giáo hội?
Thánh Nữ Têrêxa sinh tại Alencon bên Pháp năm 1873. Cha Mẹ ngài là ông bà Louis Martin và Zélie Guérin rất đạo đức, đã được Bộ Phong Thánh nhìn nhận các nhân đức anh hùng, và Bộ cứu xét phép lạ để hoàn tất tiến trình điều tra phong chân phước. Ông bà có 9 người con nhưng 4 người chết sớm. Trong 5 người con gái còn lại, Têrêxa là con út: 4 người vào dòng kín Camêlô và Léonine đi tu dòng Thăm Viếng.
Têrêxa mồ côi mẹ năm lên 4 tuổi, và gia đình dọn về thành Lisieux. Têrêxa có ý định đi vào dòng kín tại đây mặc dù tuổi còn nhỏ. Nhưng gia đình cũng như Đức cha Hugonin đều chống lại dự án này nên Têrêxa quyết định xin phép thẳng với ĐGH. Năm 1887, cùng với cha và chị Céline, Têrêxa đi hành hương Roma và trong buổi tiếp kiến ngày 20 tháng 11 năm 1887, Têrêxa xin ĐGH Leo XIII cho phép vào dòng kín mặc dù lúc đó mới được 14 tuổi. Nhưng cô chỉ nhận được một câu trở lời mơ hồ và được dẫn ra ngoài, nước mắt dàn dụa.
Trở về Lisieux, Têrêxa được phép ĐGM cho vào dòng kín vào ngày 9-4-1888, lúc đó chị mới được 15 tuổi và 3 tháng. 24 nữ tu tiếp đón Têrêxa. Cuộc sống trong đan viện có nhiều cam go về mặt vật chất cũng như về kỷ luật. Chị Têrêxa ngày càng tiến triển trên con đường yêu mến Chúa. Ước muốn cứu rỗi các linh hồn thúc đẩy Têrêxa định xin tới dòng kín Camêlô ở Sàigon, nhưng vì bệnh lao phổi, nên chị Têrêxa phải bỏ ý định này và từ tháng 4 năm 1897, Têrêxa không thể tham dự đời sống cộng đoàn nữa. Chị qua đời ngày 30 tháng 9 năm 1897 lúc mới được 24 tuổi đời. Chỉ 27 năm sau đó, Đức Pio XI đã tôn phong Têrêxa Hài Đồng Giêsu lên bậc hiển thánh và 2 năm sau ngài tôn thánh nữ làm bổn mạng các xứ truyền giáo, giống như thánh Phanxicô Xavie, Tông đồ miền Viễn Đông.
Các tác phẩm của Thánh Têrêsa
Ngày 30 tháng 9 năm 1898, tức là đúng một năm sau khi Chị Têrêxa qua đời, Mẹ Agnès Chúa Giêsu và Mẹ Marie Gonzague đã cho ấn hành theo thông lệ một thư luân lưu về nữ tu quá cố và gửi tới tất cả các đan viện kín Camêlô. Chỉ khác một điều là bức thư này dày tới 476 trang. Tác phẩm đó mang tựa đề “Truyện một tâm hồn” và trở thành cuốn sách bán chạy nhất. Cuốn sách này được Mẹ Agnès soạn lại dựa trên 3 thủ bản A, B, C. Mãi tới năm 1956, cha Francois de Sante Marie mới trình bày bản phê bình, gồm các nguyên bản với phần dẫn nhập và chú thích.
+ Thủ bản A là tác phẩm được Têrêxa viết ra theo lời yêu cầu của Mẹ Agnès để kể lại những năm đầu tiên trong cuộc đời thánh nữ. “Truyện mùa xuân của một bông hoa trắng nhỏ”, do Têrêxa dùng những giờ phút rảnh rỗi giữa công việc và kinh nguyện để viết lại.
+ Thủ bản B được Thánh Nữ Têrêxa kết thúc vào trung tuần tháng 9 năm 1896: Trong một cuộc tĩnh tâm trong cô tịch, Têrêxa nhận được lá thư của chị Marie Thánh Tâm xin Têrêxa chia sẻ những ánh sáng thiêng liêng đã nhận được trong cuộc tĩnh tâm ấy. Ngay ngày hôm ấy, 13-9-1896, Têrêxa trả lời cho chị Marie, thông báo cho chị kinh nguyện dài mà Têrêxa đã viết ngày 8-9-1896 trước đó để kỷ niệm ngày khấn dòng, đồng thời kèm theo một thư dài. Thư này cùng với kinh nguyện vừa nói họp thành điều mà người ta gọi là “Thủ Bản B”. Trong thủ bản này Têrêxa cũng kể lại một giấc mơ và mô tả các mong ước, các ơn gọi mà Têrêxa ước mong được sống.
+ Thủ bản C do Têrêxa viết ra trong những tháng trước khi qua đời và lần này chị cũng viết vì đức vâng lời. Sứ mạng huynh đệ mà Têrêxa mô tả chính là một chứng tá sâu xa về đặc sủng Camêlô do Thánh Nữ Têrêxa Avila đã đề xướng khi cải tổ dòng Camêlo.
Ngoài ra, còn có các Thư của Têrêxa được công bố toàn bộ vào năm 1948, gồm 266 thư và miếng giấy nhỏ để ghi.
Các thư này được gửi cho những người thân yêu trong gia đình, 7 giáo sĩ, 3 tu huynh và hai bạn gái. Còn thiếu khoảng 60 thư Thánh Nữ Têrêxa viết cho cha giải tội và một số thư viết cho các “người anh thừa sai”. Tất cả các thư cho thấy, mặc dù còn trẻ tuổi, nhưng Têrêxa đã thi hành nhiệm vụ hướng dẫn các linh hồn qua các thư từ đó.
Tập vở vàng gọi là Những Lời Sau Cùng, là tập hợp các lời cuối cùng của Têrêxa ghi lại trên cuốn vở của Mẹ Agnès. Tập này được chính Mẹ Agnès soạn lại, qua đó người ta thấy được chân dung của Thánh Nữ Têrêxa như một phụ nữ bị đóng đinh và chịu đau khổ khôn lường.
Năm 1952, cuốn Huấn dụ và Ghi niệm được công bố, rút từ những tuyên bố mà các nữ tập sinh dòng kín Camêlô ở Lisieux đã cung khai trong cuộc điều tra phong chân phước cho Têrêxa.
Thánh nữ Têrêxa cũng viết 54 bài thơ, được thu thập lại và trình bày trong ấn bản phê bình vào năm 1979. Ngày nay, sau 20 năm trời nghiên cứu, toàn bộ các tác phẩm của Thánh nữ Têrêxa đã được xuất bản theo nguyên tắc phê bình khoa học và được dịch ra các thứ tiếng.
Sứ Điệp Của Thánh Têrêsa Cho Thời Nay
Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng đã khám phá và sống trọn con đường tình yêu, con đường thơ ấu trong Phúc Âm. Chính con đường đó đã dẫn đưa Têrêxa tới đỉnh cao thánh thiện và trở thành “Tiến Sĩ Hội Thánh”, tức là bậc thầy về đàng thiêng liêng. Têrêxa đã ý thức về sự bất toàn và nhỏ bé của mình, nên biết rằng mình không thể nên hoàn thiện với sức riêng. Têrêxa đã tìm thấy trong Phúc Âm chân lý về sự “nhỏ bé”, hoàn toàn tín thác nơi tình yêu Chúa, không cần phải trở nên “cao trọng”, nhưng trở nên bé nhỏ trong vòng tay của Chúa.
Trong bài thuyết trình tại Lisieux hồi cuối tháng 9-1996, ĐHY Paul Poupard, người Pháp, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Văn hóa, đã nêu những nét nổi bật trong sứ điệp của Thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng cho nhân loại ngày nay như sau:
“Thiên Chúa là tình yêu. Ai ở trong tình yêu, thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong người ấy” (1 Jn 4,16). Têrêxa không ngừng suy niệm về những lời trên đây của thánh Gioan và của Tin Mừng, để từ tâm hồn thánh nữ nảy sinh những trang nồng cháy tình yêu đối với Chúa Giêsu, những trang sách này như một tiếng vọng Con Tim của Chúa: ‘Tôi hiểu rằng Tình Yêu bao gồm mọi ơn gọi. Tình Yêu là tất cả; Tình Yêu tóm gọn mọi thời gian và không gian. Trong con tim của Giáo Hội là Mẹ Tôi, tôi sẽ là tình yêu’ (…).
“Vậy ai trở nên bé nhỏ như trẻ em ấy, sẽ là người lớn nhất trong Nước Trời (…). Tại sao trở nên bé nhỏ? Thưa để chọn con đường thơ ấu được thánh nữ Têrêxa tái khám phá, và thánh nữ đã vẽ lại khi khám phá tình yêu của Thiên Chúa. Quan niệm của thánh nữ về Giáo Hội thật là độc đáo và táo bạo: trong con tim của Giáo Hội là Mẹ tôi, tôi sẽ là Tình Yêu. Khi Têrêxa mô tả viễn tượng lớn lao trên đây cho chị ruột là Maria Thánh Tâm ngày 8 tháng 9 năm 1896, thánh nữ đã 23 tuổi và chỉ còn sống được một năm nữa. Chắc hẳn thánh nữ phải có một nhận thức sâu xa về Thiên Chúa cũng như về Giáo Hội nên mới có thể quả quyết rằng Giáo Hội có một con tim, và trái tim ấy nồng nhiệt tình yêu. Chúng ta hãy đọc lại những lời tuyệt diệu đó, vừa đơn sơ và sâu xa, được sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo (n. 826) lấy lại:
“Tôi hiểu rằng nếu Giáo Hội có một thân mình, gồm những chi thể khác nhau, thì chi thể cần thiết nhất, cao thượng nhất trong tất cả các chi thể mà Giáo Hội không thể thiếu được, tôi hiểu rằng Giáo Hội có một Trái Tim, và Trái Tim ấy nồng cháy Tình Yêu. Tôi hiểu rằng Chỉ có Tình Yêu mới làm cho các chi thể của Giáo Hội hành động, và nếu Tình Yêu ấy tắt lịm đi, thì các Tông Đồ sẽ không còn rao giảng Phúc Âm nữa, các vị Tử Đạo sẽ từ chối không đổ máu đào… Tôi hiểu rằng Tình Yêu bao gồm mọi ơn gọi. Tình Yêu là tất cả; Tình Yêu tóm gọn mọi thời gian và không gian… Nói tắt một lời, Tình Yêu là vĩnh cửu! Lúc ấy tôi kêu lên: Lạy Chúa Giêsu, tình yêu của con, ơn gọi của con, nay con đã tìm được rồi, ơn gọi của con chính là Tình Yêu. Thực vậy, con đã tìm được chỗ của con trong Giáo Hội, và chỗ đó, lạy Chúa, chính Chúa đã cho con. Trong con tim của Giáo Hội là Mẹ con, con sẽ là tình yêu’ (…).
“Là Tiến sĩ Tình Yêu, thánh nữ Têrêxa từng biết rõ thử thách của đức tin trong một thế giới bị nghi ngờ và vô tín ngưỡng vây bủa. Về phương diện đó, thánh nữ Têrêxa có tính chất hết sức thời sự, trong một nền văn hóa quá chú trọng đến các phương tiện nhưng ít quan tâm tới mục đích, tạo nên sự bất mãn sâu xa, gây nên sự trống rỗng sâu rộng, gợi lên tiếng kêu lo âu. Nhiều người ngày nay cảm thấy mang máng tiếng gọi của Thiên Chúa Tình Yêu. Chỉ một mình Chúa mới có thể đáp ứng thực sự những mong đợi của con tim và trí tuệ loài người, trong cuộc tìm kiếm tình thương và chân lý, ánh sáng và sự tươi đẹp. Như Đức Gioan Phaolô II đã nói ở Lisieux: ‘Chúng ta cảm tạ Chúa vì thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Cảm tạ vì vẻ đẹp sâu xa, đơn sơ và trong trắng, được biểu lộ nơi thánh nữ cho Giáo Hội và thế giới. Vẻ đẹp này có sức quyến rũ. Và Thánh nữ Têrêxa thành Lisieux có một ơn đặc biệt thu hút bằng vẻ đẹp của tâm hồn ngài’ (Lisieux 2-6-1980, trong cuốn Jean-Paul II, que fais-tu de ton baptême?, Le Centurion, Paris, 1980, p. 234).
“Thánh Nữ Têrêxa yêu mến Thiên Chúa với cùng tình yêu mà Chúa Cha yêu mến Chúa Con trong Chúa Thánh Linh. Thánh nữ nhìn tha nhân với cùng cái nhìn như thế, cái nhìn được tình yêu biến đổi hoàn toàn, nhưng nhiều khi bị những tâm hồn nô lệ tội lỗi coi rẻ: ‘Tôi cảm thấy ước muốn nồng nhiệt hoạt động cho sự hoán cải người tội lỗi’. (…)
“Tình yêu Chúa lớn lên nơi thánh nữ Têrêxa, được nuôi dưỡng bằng cái nhìn hướng về Chúa Giêsu: khi còn nhỏ dù khi đi câu với cha, dù khi ngồi trên lòng đầu gối của mẹ đỡ đầu, hoặc ẩn núp sau chiếc màn che giường, Têrêxa đều nghĩ tới Chúa Giêsu, tới trời cao… Về sau, Têrêxa hiểu rằng mình đã suy gẫm. Thánh nữ nói: ‘Chúa Nhân Lành đã bí mật dạy tôi’. Têrêxa sống và lớn lên trước nhan Chúa. Ngày thánh nữ rước lễ lần đầu, biết Đấng mà mình tiếp rước: Từ lâu Chúa Giêsu và cô bé Têrêxa hèn mọn này đã nhìn nhau và hiểu nhau… Hôm đó, không còn là cái nhìn bên ngoài nữa, nhưng là một sự kết hiệp thực sự, một sự chìm đắm sâu xa, như giọt nước bé nhỏ giữa lòng đại dương. Được Tình yêu Chúa chiếm hữu, Têrêxa được Tình Yêu Chúa luôn dẫn đưa theo chiều hướng Bonum diffusivum sui (Điều tốt lành tự lan tỏa), như người xưa vẫn nói. Tình yêu chỉ mong ước được trao hiến: Tôi cảm thấy tình bác ái đi vào trong tâm hồn tôi, nhu cầu phải quên mình để làm đẹp lòng, và từ đó tôi cảm thấy hạnh phúc. Đó không phải chỉ là hạnh phúc mà thôi, nhưng còn là niềm vui mừng sâu xa nữa. Têrêxa yêu Chúa bằng chính Tình yêu của Chúa. Nơi Ngài, thánh nữ khám phá cái nhìn của Thiên Chúa về người khác, cái nhìn của Đấng Tạo Hóa say mê tạo vật của mình. Têrêxa sống sâu xa mầu nhiệm Giáo Hội, mầu nhiệm các thánh thông công, trong đó tình yêu còn lớn lao hơn tình yêu gia đình, dù là gia đình lý tưởng nhất trên mặt đất này, như gia đình được triển nở ở Buissonnets.
“Một Chúa nhật kia, khi nhìn ảnh tượng Chúa Giêsu trên Thánh Giá, Têrêxa xúc động như thể máu đang chảy từ vết thương của mình. Têrêxa cảm thấy vang dội trong con tim tiếng kêu của chính Chúa Giêsu trên Thánh Giá: ‘Ta khát’. Têrêxa kể lại: ‘Những lời ấy khơi lên trong con một sự nồng nhiệt mãnh liệt chưa từng thấy… Con muốn cho Đấng con yêu mến được giải khát và con cảm thấy chính mình đang bị dằn vặt vì niềm khao khát các linh hồn. Bấy giờ con chưa bị thu hút vì linh hồn của các linh mục, nhưng là linh hồn của những người đại tội lỗi.’ Và Têrêxa quyết định vào dòng kín Camêlô, nơi Chúa Giêsu lôi kéo chị. Chính trong nhà dòng kín đó mà chiều kích tông đồ của chị được phát triển đặc biệt. Chị giúp việc đào tạo các tập sinh trong nhà dòng và đồng thời đảm trách việc hỗ trợ tinh thần cho hai thừa sai. Sự cởi mở đó thật phù hợp với sự quan phòng của Chúa: đó là dịp để Têrêxa khám phá và biểu lộ sứ mạng tông đồ của chị trong Giáo Hội. Ngày 18 tháng 8 năm 1890, chị Pauline của Têrêxa hỏi: ‘Vậy em có muốn lập công không?’. Têrêxa mau lẹ đáp: ‘Có chứ, nhưng không phải cho em, mà là cho những người tội lỗi đáng thương, cho các nhu cầu của Giáo Hội’. Thái độ dâng hiến cho Tình Yêu Từ Bi thật là rõ ràng: ‘Con không muốn tích trữ công đức cho mình để được lên trời, con muốn làm việc cho Chúa là Tình Yêu duy nhất… Con muốn nhận được từ Tình Yêu Chúa phần thưởng đời đời là chính Chúa’ (Sách Giáo Lý Công Giáo, n. 2011).”
Cũng vì đạo lý của Thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng rất hợp thời với con người ngày nay như thế, nên 50 HĐGM trên thế giới, trong đó có cả HĐGM Hoa Kỳ, đã ủng hộ đơn xin ĐTC tôn phong thánh nữ Têrêxa Hài Đồng làm Tiến Sĩ Hội Thánh, như chính ĐTC Gioan Phaolô II đã nhắc đến trong công thức phong Tiến Sĩ:
“Đáp ứng mong ước của đông đảo anh em trong hàng Giám Mục và rất nhiều tín hữu trên thế giới, sau khi nghe ý kiến của Bộ Phong Thánh và được ý kiến của Bộ Giáo Lý Đức Tin liên quan tới đạo lý nổi bật, sau khi đã suy nghĩ chín chắn và xác tín đầy đủ và chắc chắn, với trọn quyền Tông Đồ, Tôi tuyên bố thánh nữ đồng trinh Têrêxa Hài Đồng Giêsu và Thánh Nhan là Tiến Sĩ của Giáo Hội hoàn vũ. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.”
Trong bài giảng ngày lễ phong Thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng làm Tiến Sĩ Hội Thánh, ĐTC ghi nhận rằng vị tân Tiến Sĩ là một phụ nữ, một nữ tu chiêm niệm, một người trẻ tuổi, nhưng đã trưởng thành trên con đường thiêng liêng, đáng được liệt kê vào số các bậc thầy tu đức. Trong số những điểm nổi bật trong các tác phẩm của thánh nữ Têrêxa, chúng ta phải nói tới khoa học tình yêu. Thánh nữ đã viết: “Đức ái đã mang lại cho con chìa khóa ơn gọi của con. Con hiểu rằng nếu Giáo Hội là một thân thể, gồm nhiều chi thể, thì không thể nào thiếu được cơ phận quan trọng nhất. Giáo Hội có một trái tim và trái tim ấy được nồng cháy Tình Yêu. Chỉ có Tình yêu mới có thể huy động các chi thể của Hội Thánh. Nếu Tình yêu tắt lịm thì các tông đồ không còn rao giảng Tin Mừng nữa, các vị tử đạo sẽ không còn dám đổ máu đào nữa… Con hiểu rằng Tình Yêu bao gồm tất cả mọi ơn gọi… Lúc đó, trong niềm vui tột đỉnh con thốt lên: Lạy Chúa Giêsu Tình Yêu của con… con đã tìm được ơn gọi của con, ơn gọi của con chính là Tình Yêu!” (Thủ bản B, 3v).
Đề cập đến ý nghĩa việc tôn phong Tiến Sĩ Hội Thánh cho thánh nữ Têrêxa Hài Đồng đối với con người thời nay, ĐTC nói rằng: “Đứng trước sự trống rỗng của bao nhiêu lời nói, Thánh nữ Têrêxa trình bày một giải pháp khác, Lời duy nhất cứu độ, khi được hiểu và sống trong thinh lặng, sẽ trở thành một nguồn mạch cuộc sống được đổi mới. Đứng trước một thứ văn hóa duy lý và quá nhiều khi bị chủ thuyết duy vật thực hành tràn ngập, thánh nữ đơn sơ trình bày ‘con đường nhỏ’, nói lên cốt yếu của cuộc sống, dẫn tới bí quyết của cuộc đời: Tình yêu Chúa bao trùm và thấm nhập toàn thể cuộc phiêu lưu của con người. Trong thời đại như thời chúng ta, thường bị ảnh hưởng một thứ văn hóa phù du và duy khoái lạc, vị Tiến Sĩ mới tỏ ra đặc biệt hữu hiệu trong việc soi sáng tâm trí những người khao khát sự thật và tình thương”.
Sau cùng, ĐTC khẳng định rằng “Thánh nữ Têrêxa đã đề ra một con đường nên thánh dành cho tất cả mọi người. Đường nên thánh không phải hệ tại thi hành những công trình vĩ đại, nhưng là con đường tín thác và hoàn toàn phó thác cho ơn thánh Chúa. Con đường đơn sơ đó không thiếu những đòi hỏi, vì Phúc âm đề ra nhiều yêu sách; nhưng lòng tin tưởng phó thác nơi lòng từ bi của Chúa khiến cho những cam go trở thành êm ái dịu dàng.”
Quả thực, trong một thế giới bị trào lưu vô thần, lý thuyết và thực hành, tấn công, các tác phẩm của thánh nữ Têrêxa Hài Đồng là một thành trì bảo vệ vững chắc, vì chứng tỏ một niềm tin được sống một cách chân thành, trẻ trung và nồng nhiệt. Cũng thì thế, thánh Têrêxa Hài Đồng là bậc thầy tu đức được noi gương nhiều nhất, không những trong các chủng viện và dòng tu, nhưng cả trong các nhóm, phong trào và hội đoàn giáo dân, cũng như trong các gia đình. Tác phẩm của thánh nữ thuộc vào loại được đọc nhiều nhất thời nay, và trở thành một vị hướng đạo cho hàng triệu người. Ấn bản đầu tiên của cuốn Truyện một tâm hồn, xuất bản năm 1898 đã được dịch ra, ấn hành và tái bản trong hơn 50 ngôn ngữ với hàng triệu bản.
ĐHY Dionigi Tettamanzi, TGM giáo phận Milano, đã từng nói với các nữ đan sĩ dòng kín Cát Minh ở Genova: “Nơi thánh nữ Têrêxa tôi thấy được sự dịu hiền từ ái vô biên của Thiên Chúa. Lời Chúa phán qua Sứ ngôn Isaia đã trở thành kinh nghiệm hằng ngày của Thánh Nữ: “… Những người con nhỏ của Chúa sẽ được bồng ẵm trên tay, chúng được vuốt ve trên đầu gối của Người. Như một người mẹ an ủi con mình, Ta cũng sẽ an ủi các con như vậy” (Is 66,12-13). Sứ điệp này quả thực có tính chất thời sự dường nào! Con người ngày nay đang cần tình thương, cần được quan tâm, cần có những quan hệ tình người đầy ý nghĩa, cần phải làm sao để họ gặp được những chứng nhân đích thực về sự dịu hiền từ ái của Chúa. Có lẽ cũng vì thế, con đường của thánh Têrêxa cũng là con đường trở về được chuẩn bị cho những người đã rời xa Thiên Chúa.” (Báo Avvenire, 14-10-1997).
Hôm nay, ngày đại lễ kính nhớ thánh nữ Tê-rê-sa Giê-su Hài Đồng, tôi xin chia sẻ với anh chị em một vấn đề. Vấn đề này chắc là không hấp dẫn nhưng lại là chính yếu trong đời sống của chị thánh Tê-rê-sa và rất cần thiết cho cuộc sống chúng ta, người Ki-tô hữu. Đó là: Thái độ trước cuộc đời gian khổ.
Tôi muốn nói ba điều: thứ nhất cuộc sống thánh nữ Tê-rê-sa là một đời gian khổ; thứ hai thái độ của chị đối với gian khổ rất anh hùng và thứ ba một đời sống như vậy là một bài chúng ta phải học, bao giờ còn sống trên mặt đất.
Một cuộc đời gian khổ
Đừng thấy hình thánh nữ Tê-rê-sa trẻ, đẹp, ôm hoa hồng mà lầm tưởng như tôi rằng đời của chị lúc nào cũng khoái lạc, nhàn nhã (ĐĐV/PVTĐ, Rose).
Lúc tôi lên sáu, ba má gởi tôi đi học trường các nữ tu. Các nữ tu này xưng mình là “Mến Thánh Giá”. Các bà có “Mến Thánh Giá” không, tôi không biết nhưng rõ ràng là các bà “mến Thánh Tê-rê-sa”. Sau bất cứ câu kinh nào, các bà cũng bắt chúng tôi thêm: “Chị thánh Tê-rê-sa Giê su Hài Đồng, cầu cho chúng em”. Hơn nữa, để chúng tôi nhớ, các bà đặt tượng: tượng ở ngoài cổng, tượng ở trong lớp và còn tượng ở giữa sân chơi nữa. Tượng chị thánh Tê-rê-sa trẻ, đẹp, ôm hoa hồng, làm chúng tôi cứ tưởng là chị đứng coi tụi em chơi, rồi thưởng hoa hồng cho những đứa nào chơi mà không ăn gian, không gây lộn.
Thế rồi, một hôm, không biết tại sao, cha sở không cho con trai học chung với con gái, nên tôi phải qua trường nam học. Từ đó, tôi không được nghe nói về Thánh nữ nữa. Cũng từ đó, khi nghe nói đến thánh nữ Tê-rê-sa là tôi hình dung một nữ tu trẻ, đẹp, ôm hoa hồng.
Lần đầu tiên, cách đây chín, mười năm, khi được Mẹ Bề trên Đan viện Cát minh này nhờ nói về thánh nữ Tê-rê-sa, tôi đã lật sách nghiên cứu về hoa hồng để nói. Nhưng trời đất! Tôi không thấy hoa, mà chỉ thấy gai. May mà một nhà thần học chuyên môn về đời sống và tư tưởng của chị thánh Tê-rê-sa có nói: “về đời sống thánh nữ Tê-rê-sa thì hoa hồng là mặt ngoài mà gai nhọn là mặt trong: chính đau khổ đã biết biến thành nhân đức mới trổ ra hoa hồng”.
À! thì ra hoa hồng là thế. Mà lầm tưởng như vậy là tại tôi, vì trên tay chị thánh Tê-rê-sa tôi chỉ nhìn hoa hồng mà không nhìn thấy sau hoa hồng là cây Thập giá. Mỗi lần mừng đại lễ thánh nữ Tê-rê-sa, đan viện này đã phát ra hàng vạn hoa hồng chắc là để nhắc chúng ta hãy biến đau khổ thành nhân đức, thứ hoa hồng thiêng liêng quý giá hơn thứ hoa hồng thiên nhiên nhiều
Cuộc sống trước ngày đi tu
Nhưng hỏi: chị Tê-rê-sa đã gặp những gì trong cuộc đời mà gọi là đau với khổ? Thưa có, và có quá nhiều nữa. Ở đây, tôi xin đan cử một vài sự việc, chỉ một vài thôi:
Chị Tê-rê-sa ra đời năm 1873. Mới lên 4 tuổi chị đã mất mẹ. Thế là chị mồ côi mẹ và bắt đầu cuộc đời đau khổ. Sau này chị nói: “Đứng trước quan tài, hồi đó, tôi tưởng chiếc hoa nhỏ bé này đã bị hái đi lúc chớm nở”. Để vá víu, chị xin Pauline là chị mình làm mẹ nuôi (1877). Nhưng chưa được mấy năm, mẹ nuôi cũng bỏ con nuôi mà đi tu mất (1882). Nghĩ lại những ngày chị Pauline bỏ chị đi tu, chị nói: “Trong chốc lát, đời sống xuất hiện trần trụi trước mắt tôi: đời chỉ là đau khổ, chỉ là một cuộc phân ly nối dài”. Cảnh cô đơn làm chị ngã bệnh, một thứ bệnh thần kinh phức tạp. Và cũng năm ấy, lúc mới lên 9 tuổi, chị bị mắc bệnh đau đầu. Rồi, năm 1885, chị còn thêm chứng bệnh “bối rối”. Trong trạng huống đó, lẽ ra chị phải được gia đình âu yếm. Đằng này, chị em từ từ bỏ chị đi tu hết: đã chị Pauline rồi chị Léonie và bây giờ chị Marie nữa. Thánh nữ Tê-rê-sa là một cô gái nhạy cảm, lại còn bé mà phải bị thử thách liên hồi. Chị khóc. Chị xin Chúa. Chúa chưa cho. Chị lại khóc. Cứ như vậy, mãi từ lúc 4 tuổi đến lúc 14,15 tuổi, nghĩa là đến ngày chị đi tu.
Ngay cả chuyện đi tu, đâu phải dễ gì? Lúc được 2 tuổi, chị cảm thấy mình phải đi tu. Lúc lên 9 tuổi, lên 13 tuổi, tiếng Chúa gọi ngày càng thúc bách. Nhưng đâu phải hễ muốn đi tu là được? Ông cậu của chị phản đối. Cha Bề trên Đan Viện Cát Minh phản đối. Nhưng người ta xin đi tu chứ có xin đi… tù đâu mà phản đối? Nghĩ thế, chị buồn, chị khóc. Dầu vậy, không ngã lòng, chị chạy đến Đức Giáo Hoàng, xin cho kỳ được mới thôi. Và rốt cuộc, ngày 9 tháng 4 năm 1888, chị vào dòng Cát Minh trước tuổi luật pháp quy định.
Cuộc đời tu sĩ
Nhưng ai bảo đi tu là sướng? Trong hồi ký, chị thánh Tê-rê-sa nói rằng: “Đời đau khổ của tôi thực sự bắt đầu từ khi bước chân vào nhà tu”. Ở đây, đời tu của chị thật gian khổ, đau đớn trên thân xác, đau khổ trong tâm hồn.
Đau đớn trên thân xác
Tháng 6 năm 1894, chị bắt đầu bệnh đau cổ họng kinh niên. Tháng 7 cũng năm ấy, ông Martin, thân sinh của chị qua đời. Năm 1896, cơn bệnh sống chết của chị bắt đầu xuất hiện. Thứ Năm tuần Thánh, chị chầu Mình Chúa đến nửa đêm. Về đến phòng, vừa đặt lưng xuống chiếc nệm rơm là máu trào lên miệng. Suốt ngày thứ Sáu Tuần Thánh, chị ăn chay, kiêng thịt, lau nhà như chị em những tưởng rằng chẳng có gì đáng lo. Ngờ đâu, tối hôm ấy, cũng vào lúc sắp lên giường, chị bị ói máu lần nữa. Từ nay, chị bị cơn bệnh bám sát. Chị đuối sức. Nhiều tối, sau kinh khuya, chị phải mất cả nửa giờ mới bò hết cầu thang để về phòng, chịu lạnh cả đêm, không sao ngủ được. Trong một đêm nọ, chị nữ tu, y tá Đan viện vào thăm, thấy chị Tê-rê-sa chắp tay, ngước mắt lên trời. Chị y tá hỏi: “Làm gì vậy? Sao không ngủ?”. Chị Tê-rê-sa trả lời: “Ngủ không được. Đau quá nên em cầu nguyện”.
Ngày 30 tháng 9 năm 1897, lúc 5 giờ chiều, cơn hấp hối sau hết bắt đầu. Chị thở dốc, mặt ứ máu, tay tím lại, mình mẩy run lên, mồ hôi toát ra, thấm cả chăn, cả nệm. Đúng 7g30, chị mở mắt, âu yếm nhìn lên thập giá và nói: “Lạy Chúa là Thiên Chúa, con yêu mến Chúa”. Vừa nói xong, chị ngả đầu về phía sau và trút hơi thở cuối cùng trong kinh nguyện.
Đó là đau đớn trên thân xác, còn những nỗi khổ đau trong tâm hồn.
Đau khổ trong tâm hồn
Có kẻ bảo rằng chị thánh Tê-rê-sa chịu đau đớn trên thân xác nhưng những đau khổ trong tâm hồn mới gọi là đau khổ.
Phải. Anh chàng đau răng nói nhức răng mới gọi là đau. Cô dâu nói chỉ có bị mẹ chồng hành mới gọi là khổ.Nhưng đau đớn trên thân xác hay đau khổ trong tâm hồn chị thánh Tê-rê-sa đều có cả.
Trong Đan viện, chị phải đau khổ vì Mẹ Bề trên, một bà khó tánh. Mỗi lần gặp bà là mỗi lần chị phải hôn đất, chị nói thế. Còn Mẹ Giáo tập thì tốt nhưng lại phải cái tánh “nói trước quên sau”, nên nhiều lần chị vâng lời rồi lại bị khiển trách. Rồi cộng đoàn chị em nữa, nhiều khi cũng nói ra, nói vào. Chỉ vì trong cộng đoàn 18 người mà dòng họ Martin đóng góp đến 5. Bà Bề trên, chẳng hạn, có lần đã nói: “Cái chị Tê-rê-sa được hết mọi chuyện, chỉ trừ một chuyện là có đến 4 chị em trong nhà này”. Trời ơi! Người ta rủ nhau đi tu mà cũng nói! Có lần nghĩ đến chuyện ấy, chị Tê-rê-sa nói: “Những bước đầu tiên của tôi vào đan viện đã đạp phải gai, gai hoa hồng”.
Thưa anh chị em! Anh chị em có cần tôi kể thêm nữa thôi? Nhưng thiết tưởng bấy nhiêu cũng đã quá nhiều đối với một cô gái lứa tuổi 24,25. Vả lại điều quan trọng không phải là tìm hiểu chị thánh Tê-rê-sa đau khổ nhiều hay ít mà là tìm hiểu xem do đâu chị ham mê và chấp nhận đau khổ?
Thái độ của chị thánh Tê-rê-sa trước sự đau khổ.
Chị thánh Tê-rê-sa nói: “Đau khổ là điều tôi thích ưa trên đời”. Tại sao thế? Có phải chị mang chứng bệnh mà y khoa gọi là “tính dục biến thái”? Không! Hoặc phải chăng vì chị muốn làm một nữ triết gia Socates, miệng vừa uống thuốc độc vừa thao thao dạy đời? Cũng không!
Chị đón nhận đau khổ một cách can đảm là vì Đức Giêsu. Chị nói: “Là vị hôn thê của Đức Giê-su, tôi cần phải chịu đau khổ. Tôi cảm thấy trong lòng tôi sự ước muốn đau khổ và sự xác tín rằng Đức Giê-su còn dành cho tôi nhiều thập giá”. Thì ra chị là nữ tu Mến Thánh Giá, tuy không danh hiệu, áo, lúp.
Dĩ nhiên, là con người, thánh nữ Tê-rê-sa cũng muốn sướng như ai và cũng như ai, chị không thích khổ đau, chết chóc. Và trong nguyên thủy, Thiên Chúa không muốn con người đau khổ. Vì thế mà Đức Giê-su sợ khổ đau, chết chóc. Trong vườn Ghết-sê-ma-ni, Người đã sợ chết, sợ đến toát mồ hôi máu, sợ nên mới xin khỏi chết, xin đến ba lần. Thế là, đã chấp nhận làm người thì dầu là Ngôi Hai Thiên Chúa, cũng sợ chết. Chị thánh Tê-rê-sa cũng không thoát khỏi định luật tự nhiên ấy. Chị nói muốn đau khổ nhưng không phải hễ muốn đau khổ thì khi đau khổ đến không còn đau khổ nữa. Khi đau khổ đến, chị cũng thấy rùng mình và kêu cứu. Chị nói: “Giê-su, người bạn hiền của tôi, đi đâu mất. Người không thấy chúng ta đau đớn quá sao? Sao không đến an ủi?”.
Thiên Chúa không muốn con người đau khổ. Nhưng bởi con người đã bất chấp qui luật mà đau khổ và chết chóc xuất hiện và thống trị con người. May phúc là với kế hoạch diệu kỳ, Thiên Chúa đã biến đau khổ, chết chóc thành con đường cứu độ, thành lời chứng tình thương. Vì tổ tiên đã yêu mình hơn yêu Thiên Chúa mà loài người mất thế quân bình, mất tình nghĩa với Thiên Chúa, mất sự sống siêu việt Ngài định ban. Thì nay, Ngôi Hai làm người đã yêu Thiên Chúa hơn yêu mình, yêu đến nỗi một lòng trung thành, vâng phục Thiên Chúa, dầu phải khổ đau, chết chóc và chết trên thập giá. Trên thập giá, Đức Giê-su có một thái độ siêu phàm. Nhà triết học Xê-nê-ca kể lại rằng: trên thập giá, kẻ bị treo thường nguyền rủa ngày sinh, tháng đẻ của mình, nguyền rủa cha mẹ đẻ mình làm chi… nhưng Đức Giê-su đã có một thái độ ngược hẳn: Bảy câu tuyệt mệnh của Ngài trên thập giá là những lời quí hơn vàng hơn ngọc, đầy can đảm, yêu thương và tha thứ. Chính cử chỉ yêu thương và vâng phục Thiên Chúa ấy mới xóa bỏ tội ích kỷ và bất tuân của tổ tiên, mới nói lên, nói lại tình yêu của loài người đối với Thiên Chúa và nhờ đó, Thiên Chúa mới trả lại cho con người tình nghĩa nguyên thủy và sự sống đời đời. Nói gọn lại, chính vì yêu thương và vâng phục mà thập giá mới đem lại vinh quang, mới mang lại ơn cứu độ cho loài người. Theo gương ấy,chị thánh Tê-rê-sa đón nhận đau khổ như đường cứu độ. Chị nói: “Tôi đi tu là để cùng Đức Giê-su cứu độ thế gian, cứu độ các linh hồn. Nhưng Nguưười chỉ ban cho tôi các linh hồn qua cây thập giá. Nên tôi đón nhận đau khổ như Người đã đón nhận thập giá”.
Chị đón nhận một cách tích cực. Khi biết Thánh Ý Chúa Cha là Người phải:hiến dâng mạng sống là giá chuộc muôn người” (Mc 10,45), Đức Giê-su đã can đảm tiến ra đón nhận thập giá. Người nói: “Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới” (Mt 26,46). Loài người có chấp nhận con đường cứu độ ấy không? Sách “Theo gương Chúa Giê-su” nói: “Ai cũng muốn vui hưởng với Đức Giê-su nhưng không ai muốn chia sẻ đau khổ với Người. Họ theo Người đến hết phần bẻ bánh, nhưng khi bắt đầu chén đắng, họ liền bỏ Người mà đi”. Nếu sách này đúng thì chị thánh Tê-rê-sa là một luật trừ. Ngày ngày, chị đón nhận những nghịch cảnh có thể xảy ra, đến nỗi chị dám nói: “Một ngày không đau khổ là một ngày vô ích, một ngày hỏng việc”. Nói cách khác, bằng ngôn ngữ của thánh Phao-lô, một ngày đau khổ là một ngày chia cay, sẻ đắng với Đức Giê-su, và những gian khổ Đức Giê-su còn phải chịu, chị xin mang vào thân cho đủ mức (Cl 1,24).
Chị thánh Tê-rê-sa đã cùng chịu đau khổ với Đức Giê-su cho đến hơi thở cuối cùng và cho đến cử chỉ cuối cùng. Chúng ta hãy đọc kỹ thánh Gioan một chút. Sau khi chu toàn công trình cứu độ, tác giả nói Đức Giê-su “nghiêng đầu” trao hơi thở (Ga 19,30). “Đầu nghiêng” không phải vì không còn tự chủ và vì bị sức hút của trái đất. Không, Người nghiêng đầu, tự ý nghiêng đầu (động từ klino ở dạng chủ động). Khi thực thi chương trình cứu độ, Đức Giê-su luôn luôn ở thế chủ động. Và trong chương trình này, nghiêng đầu là một hành vi phải làm trước khi trao hơi thở thì Người cũng tự chủ, tự làm, tự nghiêng. Đọc chuyện thánh Tê-rê-sa, chúng ta cũng thấy có một hành vi tương tự. Sau khi thở dốc và trước khi thở hơi cuối cùng, sách nói, chị mở mắt nhìn lên thập giá, khẳng định tình yêu của mình đối với Thiên Chúa, rồi chị nghiêng đầu ra đi. Đối với chị, Đức Giê-su là gương mẫu khi sống cũng như khi chết. Gương tốt này, chúng ta nên bắt chước.
Thái độ của chúng ta trước cuộc đời.
Cuộc đời của thánh nữ Tê-rê-sa tuy vắn vỏi nhưng đã để lại tấm gương sáng cho già trẻ soi chung.
Trên đời, có ai mà không đau khổ? Có là thánh cũng khổ, hay nói đúng hơn càng thánh càng khổ. Nhìn vào xã hội loài người, chúng ta thấy gì? Những bệnh viện ung thư thiếu giường, thiếu thuốc. Những người phong cùi lê lết từ Bến Sắn đến Sài Gòn, từ các sân nhà thờ đến các tiệm cơm thật là tội nghiệp. Bên cạnh những bệnh nan y thì ho hen, đói rách. Đó là chưa kể những đau khổ tâm hồn: Con bỏ nhà đi hoang, chồng phản bội, vợ ngồi sòng bạc quên chồng, quên con ở nhà … xin anh chị em kể tiếp …! và nói chung ai cũng chào đời bằng tiếng khóc. Về điểm này anh chị em phải đồng ý với tôi. Vậy thì vấn đề còn lại và cần thiết là chúng ta phải phản ứng thế nào cho xứng hợp với phẩm giá con người, cho hợp với Thánh Ý Thiên Chúa.
Thánh Ý Thiên Chúa chắc chắn là chúng ta không được phép ngồi lỳ mà than trời, trách đất nhưng phải ra tay phấn đấu với mọi khó khăn. Thật vậy, Thiên Chúa dựng nên trời đất, sáng tạo loài người, cho loài người quyền thống trị và quản lý trời đất. Để loài người thống trị, Thiên Chúa ban cho loài người tay chân và trí óc. Thiên Chúa phán: “Ta sẽ làm ra con người theo hình ảnh Ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú và mọi vật bò ngang dọc trên mặt đất” (St 1,26). Điều này Thiên Chúa đã phán từ rất lâu và đã được ghi vào ngay trang đầu bộ Kinh Thánh trên hai mươi sáu thế kỷ rồi. Chỉ có điều là chúng ta không chịu học hoặc vừa học vừa quên. Nên khi nghe thiên hạ nói, chúng ta ngẩn người, cho là hay ho, mới mẻ. Thể theo Thánh Ý vừa nói trên, Đức Giê-su đã có lần lánh mặt kẻ thù, vì “tránh voi chẳng xấu mặt nào” và nhất là vì Giờ Người chưa tới. Cũng vì lẽ ấy, chị thánh Tê-rê-sa đã nghe lời bác sĩ và chấp nhận sự chăm sóc của chị em, thì khi đứng trước khổ đau, chúng ta cũng phải dùng đến sức lực, trí óc Chúa ban mà thống trị và quản lý trái đất này, chứ không tiêu cực than thân, trách phận, kêu trời, trách đất …
Nói như thế không có nghĩa là từ nay, con người sẽ không còn ốm đau, sẽ sống đời trên mặt đất. Không, trái đất này đã già rồi và sẽ biến thái. vật chất làm sao mà bất diệt được? Dù ông Mơ-thu-se-lác có thọ đến 969 tuổi đi nữa thì rốt cuộc cũng phải chết. Đã là con người có xác, nhất là một thân xác bị nhiễm trùng tổ tông thì làm sao sống đời đời như Thiên Chúa? Nên Thánh Ý Thiên Chúa là trong tấn kịch thế giới này, chúng ta đóng vai “vương giả” nhưng rồi cũng phải biết xuống khỏi sân khấu khi buổi kịch hạ màn. Tôi muốn nói rằng khi con người đã đem tất cả sức lực và tài năng ra để bảo vệ và thăng tiến con người mà không thể lướt thắng được nữa thì con người cũng phải can đảm ra đi, không luyến tiếc, không than trách: “giá mà… giá mà …”. Giá mà Mẹ Bề trên chăm sóc chị hơn, giá mà bác sĩ chích cho chị vài ống thuốc,… Tôi xin nhắc: Strepto và Rimattan nữa chỉ có 50 đồng một viên thôi. Bộ óc con người chúng ta đã phát minh những thuốc “tiên” này, nhưng hỏi năm nào? Vả lại chị thánh Tê-rê-sa không thuộc hạng người mỗi chút, mỗi rên nên khó mà biết rõ bệnh tình của chị. Hơn nữa, nữ tu Cát minh mà được Mẹ Bề trên bắt phải ăn thịt, uống rượu nho thì còn bảo lo sao nữa?
Phải nói rằng trong vở kịch thế giới bao la, Thiên Chúa muốn chị thánh Tê-rê-sa đóng vai một cô bé, lên sân khấu, nói vài câu, làm vài bộ điệu rồi xuống: một vai tuồng rất nhỏ, rất ngắn, nhưng chị đã đóng rất hay, đóng một cách tuyệt vời. Thì chúng ta cũng hãy đóng vai của mình, không cần lớn, không cần lâu, miễn sao cho khéo, rồi ra đi. Khi thấy Chúa Cha không thay đổi chương trình cứu độ, Đức Giê-su đã can đảm đứng dậy ra đón những kẻ đến bắt mình và chịu chết lúc mới 37,38 tuổi. Cũng vậy, khi thấy Thiên Chúa muốn mình chết trẻ, chị thánh Tê-rê-sa can đảm đón nhận cái chết và chết sau một cuộc đời mới được 24 năm 9 tháng. Giá trị như một nhà đại thi hào kia đã nói, giá trị không đợi phải tuổi già. Theo những tấm gương ấy, chúng ta cũng hãy can đảm chấp nhận mọi cảnh thăng trầm của cuộc đời dương thế và luôn luôn biến đau thương thành sức mạnh, thành nguồn ơn cứu độ. Cứ như vậy cho đến chết.
Đi xa hơn nữa, cái đau khổ của người Ki-tô hữu không phải chỉ là cuộc chiến một mất một còn với tai họa của thiên nhiên và tai ương của xã hội. trên bình diện thiêng liêng, nó còn là một phần của cây thập giá Đức Giê-su để dành cho họ. Người chiến đấu, chúng ta chiến đấu bên cạnh Người. Mà theo chương trình cứu độ, Người chiến đấu bằng thập giá thì chúng ta cũng phải chiến đấu bằng thập giá nghĩa là bằng khổ đau. Và người đã được hưởng vinh quang sau khi chiến thắng; cũng vậy như thánh Phao-lô nói một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người (Rm 8,17). Và như thế, chết không phải là hết mà là sống một cuộc sống đời đời, lại còn mới mẻ và viên mãn.
Có lẽ lúc bé thơ, nhiều người thương chị vì thấy trong hình chị trẻ, dẹp, ôm hoa hồng. Nhưng khi lớn rồi, chúng tôi biết chị không có hoa hồng, lại còn mang bệnh ho lao. Tuy nhiên chúng tôi càng mến chị vì chị còn trẻ mà có rất nhiều đức tính chẳng hạn can đảm vác thập giá cuộc đời với Đức Giê-su.
Hôm nay ngày đại lễ kính nhớ chị, chúng tôi chỉ xin chị một điều là cùng chúng tôi khẩn cầu Thiên Chúa cho chúng tôi được một lòng vững tin khi gặp nghịch cảnh và tích cực biến mọi gian khổ thành sức mạnh, thành ân sủng, hầu đem lại cho ai nấy hạnh phúc siêu việt ở đời sau và ngay ở đời này nữa. A-men.
Trong cuộc sống con người chúng ta lúc bấy giờ, trẻ nhỏ không có địa vị trong xã hội, trẻ nhỏ không có khả năng tự lo cho chính mình được, mà phải phụ thuộc, phải cậy nhờ vào cha mẹ, vào người lớn. Vì sống lệ thuộc vào những người lớn, dựa vào người lớn, cho nên các em hoàn toàn tin tưởng vào người lớn, trông cậy vào người lớn. Người lớn bảo các em làm sao thì các em sẽ làm như vậy, không một chút nghĩ suy, do dự, chần chừ.
Chúa muốn chúng ta cũng giống như các em nhỏ về những điều này trong đời sống đức tin: “Thật, Thầy bảo thật các con: Nếu các con không hóa nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời…” (Mt 18, 3). Trở nên như trẻ nhỏ, nghĩa là chúng ta lúc nào cũng cậy trông, tin tưởng vào Chúa, làm theo Lời Chúa để Chúa thương xót và cho chúng ta được vào Nước Chúa sau này.
Để làm theo điều Chúa dạy, chúng ta cần phải hạ mình xuống một cách thẩm sâu, để Chúa điều khiển cuộc đời chúng ta theo như ý Chúa muốn, giống như người lớn điều khiển các em nhỏ, các em răm rắp nghe theo thì chúng ta cũng như vậy: “Vậy ai hạ mình xuống như trẻ này, người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước Trời” (Mt 18, 4).
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu là mẫu gương cho chúng ta noi theo trong việc hạ mình xuống giống như trẻ thơ. Ngài sống khiêm nhường, yêu thương, nhường nhịn với các chị em trong dòng. Ngài hoàn toàn vâng lời mẹ bề trên nhà dòng. Ngài phó thác bệnh tật đau đớn của ngài trong bàn tay quan phòng yêu thương của Chúa một cách vui vẻ, không một chút phàn nàn trách móc Chúa. Ngài khao khát sống hiến lễ thập giá xưa của Chúa trên đồi Calvê. Ngài ao ước hiến lễ này lan rộng đến mọi người khắp nơi trên thế giới. Ngài cầu nguyện và dâng các hy sinh cho Chúa như dâng bệnh tật, dâng công việc phục vụ nhà dòng (Quét nhà, rửa chén bát, lượm một cộng rác…) để cầu nguyện cho các nhà truyền giáo và công cuộc loan báo Tin Mừng của Giáo Hội, cho nên ngài được Giáo Hội đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo mặc dù suốt đời ngài chỉ sống trong dòng kín mà thôi.
Mặt khác, khi Chúa gọi một em bé lại bên Chúa để Chúa nói về sự hạ mình, khiêm nhường, thì Chúa cũng muốn nói với chúng ta là những người lớn về thể lý, biết sống làm gương sáng cho các trẻ nhỏ noi theo. Vì tâm hồn các trẻ thơ được ví như những trang giấy trắng học trò, người viết đầu tiên trên trang giấy ấy, đó là cha mẹ, thầy cô, những người lớn, do dó, chúng ta đừng bao giờ gây gương mù, gương xấu cho các em: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc khối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn” (Mc 9, 42).
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con có thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu làm mẫu gương trong việc hạ mình xuống, sống đơn sơ, bé nhỏ, hèn mọn, trong trắng như trẻ thơ. Xin thánh nữ cầu thay nguyện giúp chúng con có một tình yêu Chúa nồng nàn như thánh nữ để chúng con phó thác cuộc sống chúng con cho Chúa và chỉ làm theo ý Chúa trong đời sống đức tin của chúng con. Xin thánh nữ giúp chúng con luôn ý thức ơn gọi làm người và làm con Chúa của chúng con là do tình yêu của Chúa để chúng con sống như thánh nữ đã sống là luôn vâng lời Chúa trong mọi sự. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa mở cửa Nước Trời cho những người bé mọn, xin Chúa cho chúng ta hằng ngày biết theo chân thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu mà bước đi trên con đường phó thác, để muôn đời được chiêm ngưỡng Thánh Nhan. Thánh nữ sinh năm 1873, tại Alăngxông, nước Pháp. Người nhập đan viện Cátminh ở Lidiơ, lúc tuổi còn rất trẻ, và nhận tên là Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Chị đã sống đời khiêm tốn, đơn sơ theo tinh thần Tin Mừng và hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa theo “con đường thơ ấu”. Chị cũng đã dùng lời nói và gương sáng để hướng dẫn các tập sinh trong Dòng. Chị qua đời ngày 30 tháng 09 năm 1897 trong niềm khao khát được hiến dâng mạng sống để các linh hồn được ơn cứu độ và Hội Thánh được tăng triển. Ngày 19 tháng 10 năm 1997, Đức Gioan Phaolô II ghi tên chị vào số các tiến sĩ Hội Thánh.
Nước Trời dành cho người bé mọn, bởi vì, những người bé mọn hằng khao khát kiếm tìm thánh ý Chúa để thực thi, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Huấn Ca cho thấy: Người khôn ngoan chăm chú nghe Lời Chúa: Người ấy còn tìm hiểu ý nghĩa tiềm tàng của châm ngôn và miệt mài với những dụ ngôn bí ẩn… Chúa đã cho người lên tiếng giữa cộng đoàn, và ban cho người đầy tinh thần khôn ngoan minh mẫn. Chúa đã mặc cho người áo vinh quang.
Nước Trời dành cho người bé mọn, bởi vì, những người bé mọn hằng khao khát yêu mến để trở nên giống Đấng là Tình Yêu, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu nói: Vâng, con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội Thánh, và chỗ đứng này, ôi Thiên Chúa của con, chính Chúa đã ban cho con. Trong lòng Hội Thánh, Hiền Mẫu của con, con sẽ là tình yêu… Lạy Thiên Chúa, Chúa đã đón nhận con trong tình yêu của Chúa, từ khi con còn bé, tình yêu ấy đã tăng trưởng với con. Con không tài nào thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu của tình thương Chúa. Lạy Chúa, cao cả thay tấm lòng nhân hậu, Chúa dành cho kẻ kính sợ Ngài.
Nước Trời dành cho người bé mọn, bởi vì, những người bé mọn hằng tin tưởng phó thác vào Chúa, như con thơ trong lòng mẹ hiền, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, Đức Chúa phán qua miệng ngôn sứ Isaia: Này Ta tuôn đổ xuống Thành Đô ơn thái bình tựa dòng sông cả. Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy; tại Giêrusalem, các ngươi sẽ được an ủi vỗ về. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 130, vịnh gia đã kêu xin: Hồn con xin Chúa giữ gìn, nép mình bên Chúa an bình thảnh thơi. Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào, Chúa ơi! Đường cao vọng, chẳng đời nào bước, việc diệu kỳ vượt sức, chẳng cầu.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã mặc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những người bé mọn. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Nếu anh em không trở nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. Nước Trời phải qua cửa hẹp mà vào, chỉ những người bé mọn, không bị vướng víu bởi cái tôi cồng kềnh với những ý riêng, với thói tự cao tự đại, mới vào được mà thôi. Bao lâu ta tự nhận thấy rằng: mình không thể cứu được chính mình, chỉ có một mình Chúa mới cứu được ta, thì bấy giờ, ta sẽ được Chúa cứu. Mưa có lớn cỡ nào cũng không thể tưới được cho cây không có rễ, cửa Nước Trời có mở rộng đến đâu, thì cũng chỉ đón nhận được những ai muốn bước vào. Chúa mở cửa Nước Trời cho những người bé mọn, ước gì chúng ta hằng ngày biết theo chân thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu mà bước đi trên con đường phó thác, để muôn đời được chiêm ngưỡng Thánh Nhan. Ước gì được như thế!
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa mở cửa Nước Trời cho những người bé mọn, xin Chúa cho chúng ta hằng ngày biết theo chân thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu mà bước đi trên con đường phó thác, để muôn đời được chiêm ngưỡng Thánh Nhan. Thánh nữ sinh năm 1873 tại Alăngxông, nước Pháp. Người nhập đan viện Cátminh ở Lidiơ, lúc tuổi còn rất trẻ, và nhận tên là Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Chị đã sống đời khiêm tốn, đơn sơ theo tinh thần Tin Mừng và hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa theo “con đường thơ ấu”. Chị cũng đã dùng lời nói và gương sáng để hướng dẫn các tập sinh trong Dòng. Chị qua đời ngày 30 tháng 9 năm 1897 trong niềm khao khát được hiến dâng mạng sống để các linh hồn được ơn cứu độ và Hội Thánh được tăng triển. Ngày 19 tháng 10 năm 1997, Đức Gioan Phaolô II ghi tên chị vào số các tiến sĩ Hội Thánh.
Bước đi trên con đường phó thác, truy tầm lẽ khôn ngoan, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Huấn Ca: Người khôn ngoan chăm chú nghe lời Chúa… Chúa đã cho người lên tiếng giữa cộng đoàn, và ban cho người đầy tinh thần khôn ngoan minh mẫn. Chúa đã mặc cho người áo vinh quang.
Bước đi trên con đường phó thác, khao khát sống yêu thương, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích sách Tự thuật của thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu: Giữa lòng Hội Thánh, tôi sẽ là tình yêu… Lạy Thiên Chúa, Chúa đã đón nhận con trong tình yêu của Chúa, từ khi con còn bé, tình yêu ấy đã tăng trưởng với con, và giờ đây con không tài nào thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu của tình thương Chúa. Lạy Chúa, cao cả thay tấm lòng nhân hậu, Chúa dành cho kẻ kính sợ Ngài.
Bước đi trên con đường phó thác, tìm nương ẩn nơi Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách ngôn sứ Isaia: Này Ta tuôn đổ xuống Thành Đô ơn thái bình tựa dòng sông cả. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 130 cho thấy: Hồn con xin Chúa giữ gìn, nép mình bên Chúa an bình thảnh thơi. Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào, Chúa ơi! Đường cao vọng, chẳng đời nào bước, việc diệu kỳ vượt sức, chẳng cầu.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã mặc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những người bé mọn. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Nếu anh em không trở nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. Trở nên trẻ nhỏ mới được vào Nước Trời, như mẹ hiền an ủi con thơ, Chúa cũng sẽ an ủi ta như vậy, ta sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối, lòng ta sẽ đầy hoan lạc, thân mình được tươi tốt như cỏ đồng xanh. Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, hồn ta lặng lẽ an vui và cậy trông Chúa đến mãi muôn đời. Hội Thánh có một Trái Tim và Trái Tim đó bừng cháy tình yêu, chỉ có tình yêu mới làm cho các phần tử của Hội Thánh hoạt động, và nếu, tình yêu tắt ngúm, thì, các Tông Đồ sẽ chẳng còn loan báo Tin Mừng, các vị tử đạo sẽ chẳng còn chịu đổ máu mình ra; tình yêu bao trùm mọi ơn gọi, và tình yêu là tất cả, mọi nơi, mọi thời. Trong lòng Hội Thánh, Hiền Mẫu của chúng ta, chúng ta hãy là tình yêu. Như thế, ta sẽ là tất cả, như thế, ước mơ của ta sẽ được thực hiện, và Chúa sẽ mặc cho ta áo vinh quang, ban cho ta đầy tinh thần khôn ngoan minh mẫn. Nếu ta như trẻ thơ, tin tưởng phó thác nơi Chúa, Chúa sẽ ấp ủ và dưỡng dục ta, luôn gìn giữ ta, chẳng khác nào con ngươi mắt Chúa, tựa chim bằng xòe cánh ra đỡ lấy, rồi cõng ta trên mình, chỉ một mình Chúa dẫn đường cho ta. Chúa mở cửa Nước Trời cho những người bé mọn, ước gì ta hằng ngày biết theo chân thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu mà bước đi trên con đường phó thác, để muôn đời được chiêm ngưỡng Thánh Nhan. Ước gì được như thế!
Thiên thần bảo trợ. "Các thiên thần của họ trên trời hằng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời".
* Các thiên thần được ơn gọi trước hết là để chiêm ngưỡng ánh huy hoàng của thánh nhan Thiên Chúa và không ngừng ca hát ngợi khen Người. Nhưng theo Kinh Thánh, Chúa cũng trao cho các thiên thần sứ mạng hiện diện bên cạnh con người để giúp đỡ con người. Ngày lễ kính các thiên thần bản mệnh nhắc cho ta nhớ lại điều đó.
Khi ấy, các môn đệ đến bên Chúa Giêsu mà hỏi rằng: "Thưa Thầy, ai là kẻ lớn nhất trong Nước Trời?" Chúa Giêsu gọi một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các ông mà phán rằng: "Thật, Thầy bảo thật các con: nếu các con không hoá nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời.
Vậy ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này, người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước Trời. Và kẻ nào đón nhận một trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy. Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này, vì Thầy bảo các con, thiên thần của chúng trên trời hằng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời".
Bài Tin Mừng hôm nay vừa nói đến trẻ nhỏ, vừa nói đến những kẻ bé mọn trong cộng đoàn. Ai là những kẻ bé mọn trong cộng đoàn? Đó là những người tin vào Đức Giêsu (Mt 18, 6), nhưng đức tin của họ còn non yếu, mong manh. Đức Giêsu đã nặng lời với ai làm cho một kẻ bé mọn sa ngã. “Thà cột cối đá lớn vào cổ và ném nó dưới biển còn hơn.” Rõ ràng Đức Giêsu quý những kẻ bé mọn trong cộng đoàn. Ngài không muốn họ bị tổn thương vì gương mù gương xấu. Câu cuối của bài Tin Mừng là một lời nhắc nhở nữa. “Anh em chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này” (c. 10). Lý do Đức Giêsu đưa ra khá đặc biệt: “Vì các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng thấy khuôn mặt của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.” Như thế ngay cả những người bé mọn cũng có thiên thần riêng. Người bé mọn có thể lầm lạc, sa ngã, nhưng không vì thế mà họ bị coi thường hay khinh miệt. Thiên thần của họ vẫn ở gần Thiên Chúa để chuyển cầu cho họ. Thật thú vị khi người Kitô hữu tin mình có một thiên thần hộ thủ. Thánh Basiliô viết: “Mỗi tín hữu đều có một thiên thần hộ thủ, để bảo trợ và hướng dẫn đến sự sống đời đời.” Vị thiên thần này vừa được phúc chiêm ngưỡng Thiên Chúa, vừa đồng hành suốt đời với từng người cho đến nơi quê thật. Thiên thần hộ thủ là một quà tặng của lòng nhân hậu Chúa. Là sứ giả được Chúa sai, thiên thần là sự hiện diện của Chúa với từng người chúng ta. Thiên thần đã bảo vệ ông Lót (St 19), đã cứu Agar và con của bà (St 21, 17), đã giữ tay Abraham không cho cụ giết con (St 22, 11). Một vị thiên thần ban đêm đã cứu Phêrô khỏi tù ngục (Cv 12, 15). Như thế thiên thần là bạn đường bảo vệ chúng ta khỏi sự dữ. Khi sống trong một bầu khí vắng bóng Thiên Chúa, con người khó tin vào những thực tại vô hình. Các thiên thần có khi chỉ là những hình trang trí nơi hang đá, hay những bức tượng thạch cao đặt hai bên bàn thờ. Chúng ta khó tin mình được trợ giúp bởi một thiên thần có thật, và không dám tin mình đáng quý đến thế, để Chúa ban cho mình một người hướng đạo và đỡ nâng. Làm sao để chúng ta ra khỏi sự cô quạnh của chính mình, khi chấp nhận niềm tin vào thiên thần hộ thủ? Làm sao để ta cảm được hoạt động kín đáo của người trong đời ta?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, có những ngày con cảm thấy đời sống thật nặng nề; có những lúc con muốn buông trôi, để mặc cho dòng đời đưa đẩy; có những khoảng thời gian dài, con như mảnh đất khô khan cằn cỗi. Xin cho con ánh sáng của Chúa để con biết lối mà đi. Xin cho con tấm bánh của Chúa để con có sức mà dấn bước. Xin cho con Lời của Chúa để con vững một niềm tin. Xin cho con sự sống của Chúa để con lấy lại niềm hăng say và sự tươi tắn, niềm vui và sáng tạo.
Lạy Chúa Giêsu, con thấy mình cần Chúa trong mỗi giây phút của cuộc đời. Ước gì ai gặp con cũng gặp được sự hiện diện của Chúa.
Phá kỷ lục là ước mơ của các vận động viên. Làm sao phá kỷ lục của quốc gia, của vùng, của châu lục và thế giới? Để phá kỷ lục cần có thành tích vượt hơn người đang giữ nó. Chỉ cần chạy nhanh hơn một phần ngàn giây, nhảy cao hơn hay xa hơn một centimét, cũng đủ để làm một kỷ lục đứng vững nhiều năm bị phá đổ. Nhưng không phải chỉ các vận động viên mới thích phá kỷ lục. Các nước cũng tranh nhau xem ai là cường quốc về một lãnh vực nào đó. Có vẻ cả nhân loại đều ở trong một cuộc đua tranh xem ai đứng đầu. Có những cuộc đua tranh lành mạnh, thúc đẩy tiến bộ. Nhưng cũng có những cuộc đua tranh dẫn đến chiến tranh và hủy diệt. Các môn đệ vẫn loay hoay với một câu hỏi trong đầu: “Trong các ông, ai là người lớn nhất?” (c. 46). Thầy Giêsu muốn dạy cho họ một bài học rất gợi hình, nên đem một em nhỏ đến và trân trọng đặt em đứng bên cạnh (c. 47) Thầy đồng hóa mình với em nhỏ yếu đuối và không có địa vị ấy: ai tiếp đón em này là tiếp đón chính Thầy. Thầy cũng cho biết, ai tiếp đón Thầy là tiếp đón chính Thiên Chúa (c. 48). Như thế một em nhỏ bình thường là con đường dẫn ta gặp gỡ Đức Giêsu, và gặp gỡ chính Thiên Chúa siêu việt. Để tiếp đón Thiên Chúa và Đức Kitô trong đời, ta phải sẵn sàng tiếp đón những người yếu kém và nhỏ bé nhất trong xã hội. Khi các môn đệ bị ám ảnh bởi chuyện làm lớn thì Thầy Giêsu đem lại cho họ một em nhỏ, và cho thấy sự cao trọng lớn lao của em trong cái nhìn của Thiên Chúa. Câu trả lời của Thầy đã rõ: kẻ nhỏ nhất chính là người lớn nhất trong anh em. Vượt ra khỏi sự tranh chấp trong nhóm, bây giờ các môn đệ lại phải đối diện với một người trừ quỷ ở ngoài nhóm. “Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không cùng chúng con đi theo Thầy.” Tại sao một người ở ngoài nhóm lại dám lấy danh Thầy mà trừ quỷ? Lẽ ra việc dùng danh Thầy phải là độc quyền của chúng con. Người ấy không được chiếm lấy sự thành công và tăm tiếng mà chỉ những ai theo Thầy như chúng con mới được hưởng. Các môn đệ đã có thái độ cục bộ và bè phái. Họ cần cởi mở và khoan dung hơn với những người ngoài. Danh Thầy Giêsu là quà tặng cho cả thế giới, chứ không cho riêng môn đệ. Ai cũng có thể đến múc lấy sức mạnh từ Danh ấy và sẻ chia. Thầy Giêsu mời các môn đệ bước ra khỏi sự hẹp hòi khép kín, để vui vẻ kính trọng một người tuy không thuộc nhóm mình, nhưng làm được những việc mà có khi mình không làm nổi (Lc 9, 40). Danh Giêsu được tôn vinh: đó là điều chúng ta nhắm tới. Chúng ta chỉ mong sức mạnh của Danh này làm thế giới được trừ quỷ. Chỉ mong ai đó đang ở ngoài nhóm và đang trừ quỷ nhờ Danh Giêsu, sẽ có ngày trở thành người môn đệ trong nhóm.
Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau trong việc xây dựng Nước Trời ở trần gian. Xin cho chúng con đến với nhau không chút thành kiến, và tin tưởng vào thiện chí của nhau. Khi cộng tác với nhau, xin cho chúng con cảm thấy Cha hiện diện, nhờ đó chúng con vượt qua những tự ái nhỏ nhen, những tham vọng ích kỷ và những định kiến cằn cỗi. Ước gì chúng con dám từ bỏ mình, để tìm kiếm chân lý ở mọi nơi và mọi người, nhất là nơi những ai khác quan điểm.
Lạy Cha, xin sai Thánh Thần đến trên chúng con, để chúng con biết lắng nghe nhau bằng quả tim, và hiểu nhau ngay trong những dị biệt. Nhờ sống mầu nhiệm cộng tác, xin cho chúng con được triển nở không ngừng và Thánh Ý Cha được thể hiện trên mặt đất. Amen. ---------------------------------
Sứ điệp: Chúa tình thương đã an bài cho mỗi người có một bạn thiêng liêng là Thiên Thần Bản Mệnh. Hãy tạ ơn Chúa bằng cách lắng nghe và gắn bó với bạn tốt đó.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, trong cuộc sống, con đã cảm nghiệm được những tình bạn cao quý: đó là những người chân thành, tốt bụng, trung thành. Khi con buồn vui, họ chia vui sẻ buồn với con. Đặc biệt những lúc con nản chí, họ là người động viên an ủi; những lúc con sai lỗi, họ là người thẳng thắn nhắc nhở sửa sai cho con. Tuy thế, vì là con người, những người bạn đó vẫn có lúc bó tay chẳng giúp được gì cho con.
Chúa đã thương ban cho mỗi người chúng con có một bạn thiêng liêng là Thiên Thần Bản Mệnh. Lòng các Ngài luôn tôn thờ Chúa nên luôn tốt với con người. Các ngài không bị thời gian không gian chi phối, nên các ngài luôn sáng suốt hướng dẫn đúng đắn cho con người. Các Ngài thay mặt Chúa mà an ủi khi con gặp thất bại. Các Ngài cộng tác với Chúa Thánh Thần mà soi sáng gợi ý cho con tìm ra Thánh Ý Chúa trong mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời con. Các Ngài dạy con biết sống theo đường ngay lẽ thật. Xin cho con biết vâng nghe sự hướng dẫn của Thiên Thần Bản Mệnh, bạn tốt thiêng liêng Chúa ban cho đời con.
Lạy Chúa, trên đời này chọn được người bạn tốt đã khó; chọn được người bạn tốt khôn ngoan sáng suốt còn khó hơn. Xin cho con biết trọng tình bạn thiêng liêng rất trung thành và khôn ngoan của Thiên Thần Bản Mệnh dành cho con.
Xin cho con khôn ngoan xa tránh những bạn bè xấu trên đời và biết gắn bó hơn với Thiên Thần Bản Mệnh của con. Amen.
Ghi nhớ: “Các thiên thần của họ trên trời hằng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời”.
Một vị linh mục kể lại một chứng từ: “Khi đó ngài làm cha sở ở một xứ đạo hẻo lánh miền quê bên Pháp, vào một đêm được tin một người đau nặng đang hấp hối, muốn xin ngài tới xức dầu. Trời về khuya, với bổn phận mục tử ngài ra đi làm phận sự của mình. Từ nhà xứ tới nhà người đau, ngài phải băng qua khu rừng vắng. Khi tới khu rừng, trời đã rất tối, ngài ngập ngừng, nhưng nghĩ lại và nhớ tới Thiên Thần Bản Mệnh, ngài cầu nguyện để Thiên Thần cùng đi với mình. Ngài mạnh dạn và đã tới xức dầu cho người bệnh kịp thời giờ hấp hối...
Mười năm sau, ngài được người ta báo: Có người tử tù sắp bị hành quyết, anh ta rất khó tính và không chịu nghe bất cứ một ai khuyên bảo. Nghe tin, ngài đã tới thăm vì lòng nhân từ mục tử. Vừa thấy ngài, người tử tù đã muốn phản ứng xua đuổi, không muốn gặp, nhưng khi nhìn trực diện ngài, bỗng anh ta ngừng lại và nói với ngài: “Có phải cha là cha sở họ X không?”. Ngài ngạc nhiên trả lời: “Trước đây 10 năm tôi làm cha sở ở đó, nhưng bây giờ tôi đã đi nơi khác...
Thì ra cách đây 10 năm, người tử tù lúc đó là tên ăn cướp giết người, đang lẩn trốn ở khu rừng mà tôi đi qua và hắn định bất cứ gặp thấy ai, hắn sẽ giết chết để lấy quần áo của khổ chủ mà hóa trang, đánh lừa lưới của pháp luật. Người tử tù kể lại: “Lúc đó y muốn giết tôi, nhưng thấy bên cạnh có người thanh niên lực lưỡng, thấy không thể thắng nổi, nên y đã để cho tôi và người thanh niên ấy đi bình an, vô sự”.
Nghe người tử tù thuật lại, tôi ngạc nhiên và sực nhớ lại lúc đó tôi dừng lại để cầu nguyện xin Thiên Thần Bản Mệnh giúp đỡ. Như vậy, người thanh niên mà người tử tù thấy chính là Thiên Thần Bản Mệnh của tôi, đã giữ gìn tôi”.
Suy niệm
Ngay trong Cựu ước, Thiên Chúa loan báo một gửi xuống đạo binh thiên sứ để giữ gìn loài người: “Này Ta sẽ sai Thiên thần Ta đi trước mặt ngươi và gìn giữ ngươi khi đi đàng, dẫn đưa ngươi đến nơi Ta dọn sẵn cho ngươi” (Xh 23,20).
Trong hang sâu tù ngục, trước hàm của sư tử, Đanien được các Thiên thần bảo vệ... Vì không thờ thần dân ngoại, ba cậu bé Khanania, Adaria và Misaen bị bỏ vào trong lò lửa, nhưng các em được các Thiên thần Chúa bảo vệ khi lửa đang cháy mà không bị gì, các thiếu niên này còn vang lời ca tụng Đức Chúa (Đn 3).
Chúa Giêsu sau khi Chúa chịu ma quỷ cám dỗ trong hoang địa, cũng đã được các thiên thần phục vụ khi, Kinh Thánh ghi lại: “Các thiên thần đến để hầu hạ Người” (Mt 4,11).
Giữa con người và các Thiên thần có mối dây liên lạc mật thiết. Các ngài là thụ tạo cộng tác viên với Thiên Chúa nhằm trợ giúp mỗi chúng ta trên con đường lữ hành ở trần thế, sứ mạng của các ngài thực hiện trong âm thầm, lặng lẽ. Mỗi người có một Thiên thần đồng hành che chở bảo vệ và Thiên thần đó hằng nhìn thấy Thiên Chúa. Chúa Giêsu diễn tả các Thiên thần với đời sống các trẻ em như sau: “Anh em chớ khinh khi một ai trong những kẻ bé nhỏ này; Thầy nói cho anh em hay: Các thiên thần của họ hằng ở bên ngai Thiên Chúa trên trời!” (Mt 18,10).
Thánh Gioan trong sách Khải huyền còn nói đến mỗi dân tộc cũng có một Thiên thần bản mệnh riêng (x. Kh 2 - 3). Các thánh Giáo phụ tin là mỗi người từ lúc được tạo dựng trong bào thai đã có một Thiên thần bản mệnh riêng.
Chúng ta đã nhận biết bao ân phúc của các Thiên thần, chúng ta phải tỏ lòng cung kính vâng phục các ngài. Niềm tin vào Thiên thần bản mệnh giúp ta lấy lại bình an trong tâm hồn vì luôn có Đấng bảo vệ. Chúng ta mang niềm vui, nhất là tâm tình phó thác cậy trông vào Thiên Chúa vì như Chúa Giêsu khẳng định: “Các thiên thần của họ hằng ở bên ngai Thiên Chúa trên trời!” (Mt 18,10).
Ý lực sống
“Chúng ta hãy đặc biệt cầu xin các Thiên Thần, nhất là hôm nay để các đấng canh giữ tôi và các cộng sự viên của tôi” (ĐGH Bênêđictô XVI).
Một vị linh mục kể lại một chứng từ: “Khi đó ngài làm cha sở ở một xứ đạo hẻo lánh miền quê bên Pháp, vào một đêm được tin một người đau nặng đang hấp hối, muốn xin ngài tới xức dầu. Trời về khuya, với bổn phận mục tử ngài ra đi làm phận sự của mình. Từ nhà xứ tới nhà người đau, ngài phải băng qua khu rừng vắng. Khi tới khu rừng, trời đã rất tối, ngài ngập ngừng, nhưng nghĩ lại và nhớ tới Thiên Thần Bản Mệnh, ngài cầu nguyện để Thiên Thần cùng đi với mình. Ngài mạnh dạn và đã tới xức dầu cho người bệnh kịp thời giờ hấp hối...
Mười năm sau, ngài được người ta báo: Có người tử tù sắp bị hành quyết, anh ta rất khó tính và không chịu nghe bất cứ một ai khuyên bảo. Nghe tin, ngài đã tới thăm vì lòng nhân từ mục tử. Vừa thấy ngài, người tử tù đã muốn phản ứng xua đuổi, không muốn gặp, nhưng khi nhìn trực diện ngài, bỗng anh ta ngừng lại và nói với ngài: “Có phải cha là cha sở họ X không?” Ngài ngạc nhiên trả lời: “Trước đây mười năm tôi làm cha sở ở đó, nhưng bây giờ tôi đã đi nơi khác...
Thì ra cách đây mười năm, người tử tù lúc đó là tên ăn cướp giết người, đang lẩn trốn ở khu rừng mà tôi đi qua và hắn định bất cứ gặp thấy ai, hắn sẽ giết chết để lấy quần áo của khổ chủ mà hóa trang, đánh lừa lưới của pháp luật. Người tử tù kể lại: “Lúc đó y muốn giết tôi, nhưng thấy bên cạnh có người thanh niên lực lưỡng, thấy không thể thắng nổi, nên y đã để cho tôi và người thanh niên ấy đi bình an, vô sự.”
Nghe người tử tù thuật lại, tôi ngạc nhiên và sực nhớ lại lúc đó tôi dừng lại để cầu nguyện xin Thiên Thần Bản Mệnh giúp đỡ. Như vậy, người thanh niên mà người tử tù thấy chính là Thiên Thần Bản Mệnh của tôi, đã giữ gìn tôi.”
*****
Ngay trong Cựu ước, Thiên Chúa loan báo gửi xuống một đạo binh thiên sứ để giữ gìn loài người: “Này Ta sẽ sai Thiên thần Ta đi trước mặt ngươi và gìn giữ ngươi khi đi đàng, dẫn đưa ngươi đến nơi Ta dọn sẵn cho ngươi” (Xh 23, 20).
Trong hang sâu tù ngục, trước hàm của sư tử, Đanien được các Thiên thần bảo vệ... Vì không thờ thần dân ngoại, ba cậu bé Khanania, Adaria và Misaen bị bỏ vào trong lò lửa, nhưng các em được các Thiên thần Chúa bảo vệ khi lửa đang cháy mà không bị gì, các thiếu niên này còn vang lời ca tụng Đức Chúa (Đn 3).
Chúa Giêsu sau khi Chúa chịu ma quỷ cám dỗ trong hoang địa, cũng đã được các thiên thần phục vụ khi, Kinh Thánh ghi lại: “Các thiên thần đến để hầu hạ Người” (Mt 4, 11).
Giữa con người và các Thiên thần có mối dây liên lạc mật thiết. Các ngài là thụ tạo cộng tác viên với Thiên Chúa nhằm trợ giúp mỗi chúng ta trên con đường lữ hành ở trần thế, sứ mạng của các ngài thực hiện trong âm thầm, lặng lẽ. Mỗi người có một Thiên thần đồng hành che chở bảo vệ và Thiên thần đó hằng nhìn thấy Thiên Chúa. Chúa Giêsu diễn tả các Thiên thần với đời sống các trẻ em như sau: “Anh em chớ khinh khi một ai trong những kẻ bé nhỏ này; Thầy nói cho anh em hay: Các thiên thần của họ hằng ở bên ngai Thiên Chúa trên trời!” (Mt 18,10).
Thánh Gioan trong sách Khải huyền còn nói đến mỗi dân tộc cũng có một Thiên thần bản mệnh riêng (x. Kh 2 - 3). Các thánh Giáo phụ tin là mỗi người từ lúc được tạo dựng trong bào thai đã có một Thiên thần bản mệnh riêng.
Chúng ta đã nhận biết bao ân phúc của các Thiên thần, chúng ta phải tỏ lòng cung kính vâng phục các Ngài. Niềm tin vào Thiên thần bản mệnh giúp ta lấy lại bình an trong tâm hồn vì luôn có Đấng bảo vệ. Chúng ta mang niềm vui, nhất là tâm tình phó thác cậy trông vào Thiên Chúa vì như Chúa Giêsu khẳng định: “Các thiên thần của họ hằng ở bên ngai Thiên Chúa trên trời!” (Mt 18,10).
“Chúng ta hãy đặc biệt cầu xin các Thiên Thần, nhất là hôm nay để các đấng canh giữ tôi và các cộng sự viên của tôi” (ĐGH Bênêđictô XVI).
Các môn đệ xúm lại hỏi Chúa: ai là người lớn nhất trong Nước trời? Chúa không trả lời ngay. Người gọi một trẻ nhỏ vào đứng trước mặt các ông rồi nói: Ai không trở nên như trẻ nhỏ, không sống đơn sơ, thật thà, khiêm tốn như trẻ nhỏ thì không được vào Nước trời. Và ai trở nên giống trẻ nhỏ: đơn sơ, hoàn toàn lệ thuộc phó thác, thì sẽ làm lớn hơn hết trong Nước trời... vì các em giống như các thiên thần và các thiên thần bản mệnh của các em “ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa, Đấng ngự trên trời” (Mt 18,10b) và các ngài lên lên xuống để bảo vệ chúng ta (x. Ga 1,51).
Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta sự hiện hữu và hoạt động của các thiên thần, hẳn Ngài cũng muốn cho chúng ta cảm nghiệm hơn về mầu nhiệm tình yêu của Ngài. Dù chúng ta có thấy các thiên thần hay không, dù các ngài có đến với chúng ta như thần linh hay dưới hình bóng người phàm, thì lời cầu xin của chúng ta luôn được đáp trả. Thiên Chúa hằng can thiệp vào cuộc sống của chúng ta cách diệu kỳ, niềm tin nơi sự hiện diện và hoạt động của các thiên thần luôn nhắc nhở chúng ta điều đó. Quả thật, cuộc sống của chúng ta được dệt bằng phép lạ từ giây phút đầu tiên được tạo thành trong lòng mẹ cho đến lúc chào đời rồi lớn lên, mỗi một nhịp đập của trái tim, mỗi một hơi thở của chúng ta không là phép lạ sao?
Nguyện xin các thiên thần nhất là thiên thần bản mệnh của mỗi người luôn nhắc nhở ta, để ta luôn tiến bước trong tin yêu và hy vọng nơi Thiên Chúa là tình yêu. (Trích trong ‘Sống Tin mừng’ - R. Veritas)
Hôm nay Giáo hội nhắc nhớ chúng ta về người bạn thân thiết của mỗi người, đó là vị Thiên thần bản mệnh của chúng ta. Mỗi người từ giây phút đầu tiên được thụ thai trong lòng mẹ đều được Thiên Chúa cắt cử một vị Thiên thần để che chở hộ phù bằng một cách thế chúng ta không chờ đợi và cũng chẳng tưởng tượng được. Đây là chân lý Giáo Hội muốn nhắc nhở và mời gọi chúng ta đào sâu hôm nay. Mỗi người đều có một vị Thiên thần luôn sát cánh nhắc nhở chỉ bảo, hướng dẫn và gìn giữ trong từng đường đi nước bước của chúng ta. Dạy điều đó, Giáo hội muốn mời gọi chúng ta đi vào tình yêu Thiên Chúa, Thiên Chúa yêu thương mỗi người bằng một tình yêu vượt lên trên mọi dự đoán, tính toán và chờ đợi của chúng ta.
Các Thiên thần không chỉ là những vị có cánh đến từ trời cao, các ngài đang ở bên cạnh chúng ta trong mỗi phút giây của cuộc sống chúng ta, các ngài không ngừng nhắc nhở chúng ta về tình yêu của Thiên Chúa, các ngài không ngừng gợi lên cho chúng ta những tâm tình trong sạch và cao quí cũng như xua đuổi khỏi những tư tưởng mê muội và bất chính. Nếu biết lắng nghe tiếng nói của các ngài, chúng ta sẽ tiến bước trên đường ngay nẻo chính và sẽ gặp được hạnh phúc đích thực. Với đoạn Tin mừng chúng ta suy niệm trong ngày kính nhớ các Thiên thần bản mệnh hôm nay, một lần nữa Giáo Hội mời gọi chúng ta mặc lấy tâm tình của trẻ thơ. Trẻ thơ luôn biết ngạc nhiên và ngây ngất trước những điều kỳ diệu của cuộc sống, trẻ thơ chỉ nghĩ đến chuyện thần tiên. Thế giới của người lớn cũng còn là thế giới thần tiên, bởi vì mỗi người đều có một thiên thần bản mệnh gìn giữ bao bọc và hướng dẫn.
Thế giới ấy sẽ thực sự thần tiên khi con người biết lắng nghe sự hướng dẫn của vị Thiên thần Hộ mệnh và cảm nghiệm được tình yêu bao bọc chở che của Thiên Chúa. Hãy để cho Thiên Chúa yêu thương, còn gì đơn sơ cho bằng những giây phút ấy.
Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng kính các thiên thần bản mệnh của mỗi người chúng ta.
Sự hiện diện của các ngài trong Kinh Thánh là điều đã thật rõ ràng không có thể chối cãi. Ngay từ trang đầu của sách Sáng Thế Ký chúng ta đã thấy các ngài xuất hiện như là những vị thừa hành mệnh lệnh của Thiên Chúa,
Trong suốt thời Cựu Ước sự hiện diện của các ngài cũng không thiếu. Bài sách thánh thứ I chúng ta vừa nghe là một trong những đoạn văn rõ rệt nhất nói về những điều đó. Thiên Chúa đặc biệt loan báo con người sự có mặt của một đạo binh mà Người gửi xuống để giữ gìn loài người chúng ta. “Này Ta sẽ sai thiên thần Ta đi trước mặt ngươi và gìn giữ ngươi khi đi đàng, dẫn đưa ngươi đến nơi Ta dọn sẵn cho ngươi” (Xh 23,20).
Sự bảo vệ mà con người nhận được từ các Thiên thần thật đặc biệt. Hồi ấy Đaniel là mới chỉ là một cậu bé, nhưng là một cậu bé hết lòng kính sợ Thiên Chúa. Đaniel được Vua Đarius vua xứ Ba tư rất thương yêu. Đaniel là một người Do thái mà lại được nhà Vua Ba Tư thương yêu như thế thì quả thực việc đó chẳng có lợi gì. Các quan cận thần trong triều đình nhà vua tìm đủ mọi cách để hại Đaniel. Một hôm họ lập mưu để cho nhà vua phải mắc mưu họ.
- Hoàng đế Đarius vạn tuế! Chúng tôi tất cả các thừa tướng trong nước, các viên đổng lý, bảo quốc, tư vấn và tổng trấn đã cùng nhau bàn là phải ra một ngự sắc và ban hành lệnh cấm là trong vòng 30 ngày, hễ ai khấn nguyện cầu kinh với bất cứ thần hay người nào trừ phi là ngài thì sẽ bị quăng vào hầm sư tử. Vậy nay tâu hoàng thượng, xin Ngài ban lệnh cấm và châu phê văn kiện để được bất di bất dịch chiếu theo luất của dân Mê-di và Ba-Tư, một luật vô phương bãi bỏ”(Dn 6,7-9)
Vua ký ngự sắc và ngự sắc đó thành luật.
Thế nhưng Đaniel mỗi ngày vẫn 3 lần quì cầu nguyện và ngợi khen Thiên Chúa,
Đaniel đã phạm luật. Đaniel bị bắt.
- Tâu hoàng thượng, Đaniel đã chẳng đếm xỉa gì tới Ngài và lệnh cấm Ngài đã châu phê. Cứ mỗi ngày ba lần, y đã khẩn nguyện và cầu kinh với Thần của y.(Dn 6,14)
Vua muốn cứu nhưng họ đáp lại:
- Tâu hoàng thượng, Ngài biết là luật của dân Mê-đi và Ba-Tư là mọi lệnh cấm và sắc chỉ nhà vua đã ban hành đều bất di bất dịch (Dn 6,16).
Đaniel bị ném vào hầm sư tử. Cửa hang được đóng ấn và niêm phong cẩn thận.
Suốt cả một đêm nhà vua không thể nào nhắm mắt.
Sáng sớm hôm sau nhà vua ra trước của hang và lên tiếng gọi:
- Đaniel tôi tớ của Thần linh hằng sống. Thần người bền đỗ phụng thờ có cứu ngươi khỏi lanh vuốt sư tử không? (Dn 6,21)
Từ trong hầm tối Đaniel nói vọng ra:
- Hoàng đế vạn vạn tuế. Thiên Chúa của thần đã sai thiên thần xuống khóa miệng sư tử khiến chúng chẳng làm hại được thần. Bởi chưng trước mặt Người tôi được nhìn nhận là vô tội - Và cả trước mặt ngài tâu đức Vua, tôi cũng chẳng phạm một lỗi gì (Dn 6,22).
Đaniel được tha, Những người tố cáo Đaniel bị ném và trong hầm sư tử. Và chúng ta biết sự việc sau đó như thế nào.
Trong Tân Ước chính Chúa Giêsu cũng đã được các thiên thần phục vụ.
+ Sau khi Chúa chịu ma quỉ cám dỗ trong hoang địa, khi Chúa đã hoàn toàn chiến thắng, Kinh Thánh ghi lại: “Các thiên thần đến để hầu hạ Người”(Mt 4,11)
+ Công Vụ Tông Đồ 5,17 thuật lại câu truyện Phêrô được cứu thật hết sức lạ lùng: Bấy giờ, vị thượng tế cùng tất cả những người theo ông tức là phái Xađốc ra tay hành động. Đầy lòng ghen tức, họ bắt các Tông Đồ, nhốt vào nhà tù công cộng. Nhưng ban đêm thiên sứ của Đức Chúa mở cửa ngục, đưa các ông ra mà nói: “Các ông hãy đi, vào đứng trong Đền Thờ mà nói cho dân những lời ban sự sống.”(Cv 5,20), Nghe thế, các ông vào Đền Thờ ngay từ lúc rạng đông và bắt đầu giảng dạy.
Khi thuộc hạ đến, họ không thấy các ông trong ngục. Họ trở về báo cáo rằng: “Chúng tôi thấy ngục đóng kỹ lưỡng và những người lính canh đứng ở cửa; nhưng khi mở cửa ra, chúng tôi không thấy ai ở bên trong”(Cv 5,23). Nghe những lời ấy, viên lãnh binh Đền Thờ và các thượng tế phân vân về các ông, không biết chuyện gì xảy ra. Bấy giờ có một người đến báo cáo cho họ: “Những người các ông đã tống ngục, kìa họ đang đứng trong Đền Thờ và giảng dạy cho dân!” (Cv 5,25)
Viên lãnh binh bèn đi với bọn thuộc hạ và điệu các ông về, nhưng không dùng bạo lực vì sợ bị dân ném đá.
Xin được kết bằng một bài thơ rất dễ thương dành cho các thiên thần.
Thiên thần bé nhỏ của tôi ơi Hãõy ở bên tôi suốt cuộc đời Soi bước chân tôi trong chân lý Chỉ biết đi tìm Chúa mà thôi. Thiên thần bản mệnh của tôi ơi Đam mê hoan lạc trong cuộc đời Phù vân, bóng câu qua cửa sổ Ngoảnh nhìn thử hỏi được mấy mươi. Thiên thần chí ái của tôi ơi. Giúp tôi đứng vững giữa vòm trời Nhủ lòng thà chết không phản bội Hiến chương Galilê xa xôi. Thiên thần sáng láng của tôi ơi Lộng giả thành chân biết bao người! Cho tôi nhận rõ chân với giả Hầu cảnh giác chị em tôi. Thiên thần dũng mãnh của tôi ơi, Bao lúc cô đơn muốn rã rời…. Hãy giúp cho tôi đừng vấp ngã. Đến khi tới được nhà Cha tôi.
Hôm nay Giáo Hội nhắc nhớ chúng ta về người bạn thân thiết của mỗi người, đó là vị Thiên thần Hộ Thủ của chúng ta. Mỗi người từ giây phút đầu tiên được thụ thai trong lòng mẹ đều được Thiên Chúa cắt cử một vị Thiên thần để che chở hộ phù bằng một cách thế chúng ta không chờ đợi và cũng chẳng tưởng tượng được. Đây là chân lý Giáo Hội muốn nhắc nhở và mời gọi chúng ta đào sâu hôm nay.
Mỗi người đều có một vị Thiên thần luôn sát cánh nhắc nhở chỉ bảo, hướng dẫn và gìn giữ trong từng đường đi nước bước của chúng ta. Dạy điều đó, Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta đi vào tình yêu Thiên Chúa, Thiên Chúa yêu thương mỗi người bằng một tình yêu vượt lên trên mọi dự đoán, tính toán và chờ đợi của chúng ta.
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu mà chúng ta vừa mừng kính hôm qua đã tìm ra được bí quyết hạnh phúc và đã mở ra một con đường nên thánh đơn sơ nhất đó là "hãy chấp nhận để cho Thiên Chúa yêu thương". Thảm kịch bi thảm nhất của con người đó là không cảm nhận hay không đón nhận tình yêu của Thiên Chúa; trái lại, ai đón nhận tình yêu của Thiên Chúa họ sẽ thấy rằng cuộc sống của họ là một chuỗi những phép lạ.
Theo định nghĩa thông thường phép lạ là một biến cố hay một hiệu quả xem ra nghịch với định luật khoa học, do đó được gán cho các nguyên nhân siêu nhiên. Giáo Hội chỉ nhận là phép lạ khi một biến cố này khoa học không thể lý giải được mà thôi. Đây là tiêu chuẩn được áp dụng một cách rất khắt khe tại trung tâm Thánh Mẫu Lộ Đức. Từ hơn 100 năm qua, mặc dù không biết bao nhiêu người đã tuyên bố cảm năm được sự can thiệp của Chúa, Giáo Hội chỉ nhận được có 65 trường hợp được xem là phép lạ thực sự sau khi ủy ban y tế tuyên bố không thể giải thích sự lành bệnh theo phương diện y khoa.
Tuy nhiên, nếu hiểu phép lạ theo một ý nghĩa rộng rãi hơn như là một sự can thiệp quan phòng trường kỳ của Chúa vào cuộc sống mỗi ngày của từng người chúng ta, con mắt Đức tin sẽ cho chúng ta thấy được vô số phép lạ Chúa đang thực hiện trong mỗi biến cố của cuộc sống. Phép lạ không chỉ là sự kiện lạ lùng ở bên kia, ngoài các định luật khoa học, phép lạ không chỉ diễn ra tại những trung tâm Thánh Mẫu nổi tiếng trên thế giới. Phép lạ là từng hơi thở và nhịp đập của trái tim, phép lạ là từng tia sáng mặt trời hay từng cơn gió mưa mỗi ngày, phép lạ là một cuộc gặp gỡ đang có mỗi ngày, phép lạ ở mọi nơi và mọi lúc, bởi vì Thiên Chúa luôn hiện diện với chúng ta từng giây phút trong cuộc sống.
Các Thiên thần không chỉ là những vị có cánh đến từ trời cao, các Ngài đang ở bên cạnh chúng ta trong giây phút này đây, các Ngài không ngừng nhắc nhở chúng ta về tình yêu của Thiên Chúa, các ngài không ngừng gợi lên cho chúng ta những tâm tình trong sạch và cao quí cũng như xua đuổi khỏi những tư tưởng mê muội và bắt chính. Nếu biết lắng nghe tiếng nói của các Ngài, chúng ta sẽ tiến bước trên đường ngay nẻo chính và sẽ gặp được hạnh phúc đích thực.
Với đoạn Tin Mừng chúng ta trong ngày kính nhớ các Thiên thần Hộ Thủ hôm nay, một lần nữa Giáo Hội mời gọi chúng ta mặc lấy tâm tình của trẻ thơ. Trẻ thơ luôn biết ngạc nhiên và ngây ngất trước những điều kỳ diệu của cuộc sống, trẻ thơ chỉ nghĩ đến chuyện thần tiên. Thế giới của người lớn cũng còn là thế giới thần tiên, bởi vì mỗi người đều có một Thiên thần hộ thủ gìn giữ bao bọc và hướng dẫn. Thế giới ấy sẽ thực sự thần tiên khi con người biết lắng nghe sự hướng dẫn của vị Thiên thần Hộ Thủ và cảm nghiệm được tình yêu bao bọc chở che của Thiên Chúa. Hãy để cho Thiên Chúa yêu thương, còn gì đơn sơ cho bằng những giây phút ấy.
Câu chuyện minh chứng bàn tay Thiên thần Hộ Thủ hộ phù, chở che
Một Cha sở miền quê bên Pháp thuật lại công chuyện này:
Khi đó ngài đang ở một xứ đạo hẻo lánh. Một đêm kia được tin một người đau nặng, đang hấp hối, muốn xin Ngài tới xức dầu. Trời về khuya, với bổn phận mục tử Ngài ra đi làm phận sự của mình. Từ nhà xứ tới nhà người đau, Ngài phải băng qua khu rừng vắng. Khi tới khu rừng, trời đã rất tối, Ngài ngập ngừng, nhưng nghĩ lại và nhớ tới Thiên thần Hộ Thủ, Ngài cầu nguyện để Thiên Thần cùng đi với Ngài. Ngài mạnh dạn và đã tới xức dầu cho người bệnh kịp thời giờ hấp hối.
Câu chuyện đã qua 10 năm rồi, nếu không có biến cố mới này thì nó đã rơi vào quên lãng:
Một tử tù sắp bị hành quyết, anh ta rất khó tính và không chịu nghe bất cử một ai. Người ta báo tin cho ngài: có người tử tù sắp bị hành quyết. Vì là Cha sở địa phương, ngài đến nhà tù thăm viếng. Nhưng vừa thấy bóng linh mục, người tử tù phản ứng và từ chối không muốn gặp ngài, nhưng bỗng anh ta ngừng lại và nói với ngài: " Có phải cha là cha sở họ X không?". Vị linh mục ngạc nhiên trả lời: "Trước đây 10 năm tôi làm Cha sở ở họ đó, nhưng bây giờ tôi đã đi nơi khác".
Thì ra cách đây 10 năm, người tử tù lúc đó là tên ăn cướp giết người bị tầm nã, đang lẩn trốn ở khu rừng mà ngài đi qua. Hắn dự định sẽ giết chết bất cứ khách bộ hành nào băng qua đoạn đường đó, để lấy quần áo của khổ chủ mà hóa trang, và đánh lừa lưới của pháp luật. Người tử tù kể lại: "Lúc đó y muốn giết vị linh mục, nhưng bên cạnh ngài có một thanh niên lực lưỡng. Thấy không thể thắng nổi, nên y đã để cho ngài và người thanh niên ấy đi bình an, vô sự".
Vị linh mục kết luận: "Nghe người tử tù thuật lại, tôi ngạc nhiên hết sức. Nhưng tôi chợt nhớ ra rằng, lúc đó, tôi có dừng lại một lúc để cầu nguyện xin Thiên thần Hộ Thủ giúp đỡ. Và như vậy, người thanh niên mà người tử tù thấy chính là Thiên thần Hộ Thủ của tôi, đã giữ gìn, bảo vệ tôi qua cơn nguy hiểm”
Câu chuyện trên minh chứng Thiên thần Hộ Thủ luôn có mặt khi con người kêu cầu, xin ngài giúp đỡ, can thiệp. (trích nguoitinhuu.com)
Nguyện xin Chúa soi lòng mở trí để chúng con biết nhìn ra sự hướng dẫn của vị Thiên thần hộ thủ hầu cảm nếm được tình yêu của Ngài. Amen.
“Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy nói cho anh em biết: các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.” (Mt 18,10)
Suy niệm: Những người bé mọn không có nhiều khả năng, kể cả khả năng tự vệ nên thường bị khinh dể và bị đối xử bất công. Thái độ đó là một sai lầm mà ít ai nhận ra. Mỗi người, dù là bé mọn, đều phải được kính trọng vì được Thiên Chúa phú ban một Thiên thần, gọi là Thiên thần Hộ thủ; vị này bảo vệ và chuyển cầu cho họ trước nhan Thiên Chúa. Như các chiến binh, Thiên thần Hộ thủ bảo vệ và hướng dẫn con người đến sự sống; như những luật sư, Thiên thần Hộ thủ bào chữa và chuyển cầu cho mỗi người trước nhan Thiên Chúa. Như thế, con người không chỉ cao trọng về phẩm giá, mà còn được bảo vệ bởi một thế lực siêu nhiên – bởi không ai thắng được Thiên thần.
Mời Bạn: Các Thiên thần Hộ thủ được phú ban là để bảo vệ hầu giúp ta đương đầu với kẻ thù. Kẻ thù nói ở đây là ma quỉ và những kẻ đi theo chúng. Vai trò của Thiên thần Hộ thủ có thể ví được như luật sư, là bảo vệ chứ không thể làm thay đổi hành vi mà khổ chủ gây ra. Vì thế, đừng làm khó các Thiên thần bằng việc bắt cá hai tay: vừa kêu cầu sự trợ giúp, lại vừa thông đồng với kẻ thù để thực hiện những hành vi đen tối.
Sống Lời Chúa: Đừng để Thiên thần Hộ thủ lầm lũi bên ta, hãy tâm sự và cầu nguyện với ngài, vì ngoài Thiên Chúa, không ai gần gũi ta hơn ngài.
Lễ nhớ các Thiên Thần Hộ Thủ bắt nguồn từ năm 1411: một lễ được lập vào ngày này ở Valencia (Tây Ban Nha) để tôn kính vị thiên thần bảo vệ của thành phố. Năm 1590, Đức Giáo Hoàng Sixte V phê chuẩn cho Bồ Đào Nha một bản kinh phụng vụ riêng để kính các thiên thần hộ thủ, và năm 1608, Đức Giáo Hoàng Phaolô V qui định lễ này trong lịch Rôma phổ quát, mừng vào ngày đầu tiên không có lễ nào sau lễ thánh Micae. Vì thế lễ nhớ các thiên thần hộ thủ ngày nay mang ý nghĩa mở rộng lễ kính Tổng lãnh thiên thần Micae.
II. Thông điệp và tính thời sự
Lời nguyện trong ngày, chúng ta cầu xin Chúa – Đấng sai “các thiên thần gìn giữ chúng ta” – xin Người ban cho chúng ta “được ơn che chở của các ngài và niềm vui được sống với các ngài luôn mãi”.
Hai Bài đọc của thánh lễ (Xh 23, 20-23 và Mt 18, 1 . . . 10) làm nổi bật sứ mạng quan phòng của các thiên thần: Ta sai thiên thần Ta đi trước mặt ngươi, để gìn giữ ngươi trên đường . . . (Xh 23, 20); . . . Các thiên thần của họ ở trên trời hằng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy (Mt 18, 10). Đây là hai sứ mạng luôn đi đôi với nhau của các thiên thần: không ngừng chiêm ngưỡng nhan Chúa Cha và bảo vệ loài người trên mọi nẻo đường của họ.
Bài giảng của thánh Bênađô trong Bài đọc Giờ Kinh Sách mời gọi chúng ta có lòng thảo kính đối với các ngài: “Thế nên các ngài ở bên cạnh bạn, không chỉ ở với bạn mà còn vì bạn; các ngài hiện diện để che chở bạn, cứu giúp bạn; và tuy rằng các ngài làm việc này vì Thiên Chúa ra lệnh cho các ngài, nhưng chúng ta không được thiếu sót trong việc thảo kính đối với các ngài.” (Bài giảng về Tv 90).
Lời nguyện hiệp lễ mời gọi chúng ta nhớ đến “con đường cứu độ và bình an” mà các thiên thần dẫn bước chúng ta đi. Sứ mạng này cũng được gợi lên trong Điệp ca 1 của giờ Kinh Sáng: “Chúa sẽ sai thiên thần của Người đến, để gìn giữ ngươi trên đường.” Câu xướng đáp của bài đọc giáo phụ lặp lại câu trích thánh vịnh 90: “Người ra lệnh cho các thiên thần của Người gìn giữ bạn trên mọi nẻo đường của bạn.” Điệp ca của thánh thi Benedictus: “Chúa truyền cho các thiên thần của Người che chở những kẻ thừa hưởng Nước Trời” lấy cảm hứng từ Dt 1, 14: “Nào tất cả các vị đó (thiên thần) không phải là những bậc thiêng liêng chuyên lo phụng thờ Chúa, được sai đi phục vụ để mưu ích cho những kẻ sẽ được thừa hưởng ơn cứu độ sao?”
Các bài đọc vắn cống hiến chúng ta nhiều ví dụ về sứ vụ của các thiên thần: một thiên thần được Thiên Chúa ban cho Ítraen (Xh 23, 20-21); các tông đồ được giải thoát khỏi nhà tù ở Giêrusalem (Cv 5, 17-20); thánh Phêrô được giải cứu khỏi nhà tù (Cv 12, 7); một thiên thần được sai đến với ông Cornêliô (Cv 10, 3-5); một thiên thần dâng lên Chúa các lời cầu nguyện của tất cả các thánh (Kh 8, 3-4).
Trong thánh thi Kinh Chiều, chúng ta ước nguyện được một thiên thần đang chiêm ngưỡng nhan Cha, “ghé xuống thăm / cầm than hồng chạm đến chúng ta; / để môi miệng chúng ta dâng lời cảm tạ, / và được thanh tẩy bằng ơn tha thứ.” Nếu các thiên thần trên trời lên xuống trên Con Người (Ga 1, 51), thì chúng ta, “những kẻ thừa hưởng Nước Trời”, nhờ đời sống phụng vụ ở dưới đất này, chúng ta có thể hợp tiếng với các thiên thần để thờ lạy Thiên Chúa bằng một bài ca ngợi khen duy nhất.
”Các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.” (Mt 18,10)
Suy niệm: “Ma quỉ đã tung ra một mạng lưới ảo tưởng trên chúng ta, mạng lưới này tuy vô hình, nhưng rất mãnh liệt. Nó làm cho ta yêu chuộng giây phút chóng qua hơn sự sống vĩnh cửa, khuyến dụ ta chạy theo sự vô định hơn chân lý, nó bảo ta chỉ có thể yêu mến tạo vật bằng cách thờ lạy chúng mà thôi" (Triết gia Raissa Maritain). Khắc tinh của ma quỷ là các hiệp sĩ thiên thần hộ thủ, những người bạn thân vô hình được Thiên Chúa sai đến ở bên cạnh, hộ giúp ta đêm ngày. Vai trò của các ngài là giúp ta phá đi mạng lưới ảo tưởng, đưa ta đến môi trường của sự thật giải thoát của Tin Mừng Nước Trời. Các ngài nhắc nhở ta cài “phần mềm” sự sống vĩnh cửu trong mọi việc ta làm, phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân trong mọi dự tính đời ta.
Mời Bạn: Các hiệp sĩ vô hình ấy chu toàn nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó hay không tùy thuộc nơi thái độ của bạn. Nếu bạn ngoan ngoãn vâng theo sự soi sáng hướng dẫn của các ngài, dù phải trầy da tróc vẩy, bạn sẽ thoát vòng vây của quỷ ma và đạt đến cùng đích đời mình là hạnh phúc muôn đời bên Chúa.
Sống Lời Chúa: Tập lắng nghe tiếng nhắc nhở của thiên thần hộ thủ, và ngoan ngoãn làm theo, dù phải hy sinh ý riêng, sở thích riêng của mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã sai các thiên thần hộ thủ nâng đỡ chúng con trên hành trình đi về quê trời. Xin cho chúng con biết vâng theo sự hướng dẫn của các ngài, và cảnh tỉnh trước những hiểm họa do ma quỷ, xác thịt và thế gian đang cản trở bước đường của chúng con. Amen.
Đọc lại Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta nhận thấy có rất nhiều đoạn đề cập tới các thiên thần. Sống giữa một thế giới luôn có ánh sáng và bóng tối, các thiên thần được Chúa giao nhiệm vụ ở cạnh loài người, ở cạnh con người. Chúa Giêsu và Hội Thánh đã dậy con người điều đó.
Giáo lý công giáo cũng viết: “ Thiên thần và con người là những thụ tạo thông minh và tự do, nên phải tiến về cùng đích bằng một sự lựa chọn tự do và yêu chọn cái tốt hơn”. (SGLCG số 311) hoặc số 328 sách giáo lý công giáo nói: ”Sự hiện hữu của các hữu thể thiêng liêng, không có thể xác, mà Thánh Kinh quen gọi là các thiên thần, là một chân lý đức tin. Thánh Kinh và Thánh Truyền đều nhất trí như thế. Nếu ma quỷ, satan, và sự dữ đang vây lượn chung quanh con người, xung quanh thế giới để quấy nhiễu, ám hại con người như sư tử hung ác tìm mồi cắn xé, an ủi thay chính Thiên Chúa lại gửi đến cho nhân loại, cho con người những sự trợ giúp rất hữu hiệu của các thiên thần. Chúng ta thường quen gọi các thiền thần này là các thiên thần hộ thủ hay thiên thần bản mệnh. Các thiên thần hộ thủ nâng đỡ con người, gìn giữ con người khỏi những hiểm nguy, khỏi sự dữ, giúp con người xa lánh mọi dịp tội, gợi lên trong tâm trí con người những ý tưởng lành thánh và dẫn con người đi vào con đường thánh thiện, đạo đức. Các thiên thần hộ thủ thêm sức mạnh cho con người trong những cơn cám dỗ, trong những lúc gặp những sự thử thách hiểm nghèo, nâng đỡ và khuyến khích con người trong lúc thất vọng và an ủi con người trong những cơn u sầu, đen tối. Mỗi khi con người sa ngã vì yếu đuối, sai lầm, thiên thần hộ thủ giúp con người tỉnh thức hồi tâm, sửa đổi, quay về đường chính nẻo ngay, và bầu cử cho con người trước ngai toà Thiên Chúa. Các thiên thần bản mệnh cũng soi sáng, thêm sức cho con người trong giờ hấp hối.
Chính Chúa Giêsu cũng từng nhắc nhủ nhân loại: ”Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy nói cho anh em biết: các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 18, 10). Do đó, các vị là “những người đi thực hiện Lời Chúa, sẵn sàng phụng lệnh Người” (Tv 103, 20).
Mừng lễ các thiên thần hộ thủ, chúng ta hãy ghi nhớ lời Thiên Chúa nói: ”Mọi thiên thần của Thiên Chúa, hết thảy phải tôn thờ Người” (Dt 1, 6). Lời ca tụng của các thiên thần khi Chúa Kitô giáng sinh không ngừng vang lên trong lời ca tụng của Hội Thánh: “Vinh danh Thiên Chúa…” (Lc 2, 14). Thiên Thần hộ thủ là Đấng ở bên cạnh chúng ta để che chở và giúp đỡ chúng ta. Do đó, chúng ta phải biết ơn bằng cách chu toàn bổn phận đối với các thiên thần bản mệnh. Bổn phận của chúng ta là tỏ lòng kính trọng các Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta, yêu mến và tin tưởng cậy trông vào sự che chở, phù trì của các Ngài. Đồng thời, chúng ta sẵn sàng nghe theo lời chỉ dậy, hướng dẫn của các Ngài theo tiếng của lương tâm chúng ta. Mỗi người Chúa đều ban cho một thiên thần bản mệnh để Ngài nâng đỡ, an ủi, hướng dẫn, giữ gìn.
Lạy các thiên thần hộ thủ, xin bênh vực chở che chúng con trong mọi trạng huống của cuộc đời chúng con đang phải đương đầu và chiến đấu. Amen.
Nếu sức mạnh của sự dữ và ma quỉ đông hàng hà sa số, đang ngày đêm bay lượn quanh nhân loại, xung quanh chúng ta để tìm cơ hội làm hại con người thì sung sướng và hạnh phúc, vững dạ thay khi Chúa gửi đến cho loài người một sức mạnh vô cùng hữu hiệu là các Thiên Thần. Sự trợ giúp này, Chúa và Giáo Hội gọi là các Thiên Thần Hộ Thủ hay Bản Mệnh. Các Thiên Thần Bản Mệnh gìn giữ con người khỏi hiểm nguy, khỏi mọi sự dữ quấy phá, đưa con người tránh xa dịp tội để con người kết hợp và tiến bước tới Chúa.
THIÊN THẦN BẢN MỆNH LÀ AI?
Thiên Chúa thiết lập vũ trụ, tạo dựng con người. Sách khải nguyên ngay từ những trang đầu đã thuật lại việc Thiên chúa tạo dựng Trời Ðất, tạo nên Con người. Trong vũ trụ hỗn mang đan xen bóng tối và sự sáng. Lực của bóng tối, của ma quỉ mạnh mẽ vô cùng. Ma quỉ có số đông vô số kể lúc nào cũng lượn quanh con người, rình mò cắn xé. Ngay trang đầu khởi nguyên, Kinh Thánh đã viết: "thần khí Chúa bay lượn là là trên mặt nước" và trong Tân Ước, trong đêm Giáng Sinh, Thiên Thần của Chúa với muôn cơ binh đàn ca, vinh tụng xướng hát, tôn vinh con Thiên Chúa là Ðức Giêsu xuống thế làm người. Ðây là các Thiên thần luôn túc trực để thờ phượng Chúa và nâng đỡ con người. Trong số này, có muôn vàn Thiên Thần Bản Mệnh, Chúa sai tới để nâng đỡ, gìn giữ từng người. Các ngài giúp con người tránh xa các dịp tội, thêm sức mạnh cho con người để con người thoát những cơn cám dỗ nguy hiểm, nâng đỡ và khuyến khích con người khi con người gặp những sự thất vọng ở trần gian, an ủi con người trong những cơn sầu muộn. Các Thiên Thần Bản Mệnh cũng giúp con người hồi tâm thống hối khi con người yếu đuối, sa ngã, cầu bầu cùng Chúa cho con người. Các Thiên thần Bản Mệnh cũng soi sáng, thêm sức mạnh cho con người khi con người đang hấp hối, nguy tử vv.
Các Thiên thần Bản Mệnh có sứ mạng lớn lao là luôn hiện diện bên cạnh con người để giữ gìn, an ủi và che chở con người.
Nên, Thánh vịnh 137,1 đã viết: " Lạy Chúa, giữa chư vị Thiên Thần, con đàn ca kính Chúa" hoặc trong lời nguyện nhập lễ ngày 2/10, Giáo Hội đã cất tiếng nguyện xin: "Chúa sai các Thiên Thần đến gìn giữ chúng con. Xin ban cho chúng con đời này được các Ngài luôn bênh vực che chở, và đời sau được cùng các Ngài hưởng phúc vinh quang".
CÂU CHUYỆN MINH CHỨNG BÀN TAY THIÊN THẦN BẢN MỆNH HỘ PHÙ, CHỞ CHE
Số là có một cha sở miền quê bên Pháp lúc đó đang ở một xứ đạo hẻo lánh, một đêm kia được tin một người đau nặng, đang hấp hối, muốn xin Ngài tới xức dầu. Trời về khuya, với bổn phận mục tử Ngài ra đi làm phận sự của mình. Từ nhà xứ tới nhà người đau, Ngài phải băng qua khu rừng vắng. Khi tới khu rừng, trời đã rất tối, Ngài ngập ngừng, nhưng nghĩ lại và nhớ tới Thiên Thần Bản Mệnh, Ngài cầu nguyện để Thiên Thần cùng đi với Ngài. Ngài mạnh dạn và đã tới xức dầu cho người bệnh kịp thời giờ hấp hối. Câu chuyện đã qua 10 năm rồi, nếu không có biến cố mới này thì nó đã rơi vào quên lãng: Một tử tù sắp bị hành quyết, anh ta rất khó tính và không chịu nghe bất cứ một ai. Người ta báo cho vị linh mục năm xưa đã băng qua khu rừng để đi xức dầu cho người đang hấp hối. Linh mục được báo tin có người tử tù muốn gặp, đã tới vì lòng nhân từ. Vừa thấy linh mục, người tử tù đã muốn phản ứng, xua đuổi, không muốn gặp vị linh mục, nhưng bỗng anh ta ngừng lại và nói với vị linh mục: "có phải cha là cha sở họ X không?". Vị linh mục ngạc nhiên trả lời trước đây 10 năm tôi làm cha sở ở họ đó, nhưng bây giờ tôi đã đi nơi khác. Thì ra các đây 10 năm, người tử tù lúc đó là tên ăn cướp giết người, đang lẩn trốn ở khu rừng mà tôi đi qua và hắn định bất cứ gặp thấy ai, hắn sẽ giết chết để lấy quần áo của khổ chủ mà hóa trang, đánh lừa lưới của pháp luật. Người tử tù kể lại: "Lúc đó y muốn giết tôi, nhưng thấy bên cạnh có người thanh niên lực lưỡng, thấy không thể thắng nổi, nên y đã để cho tôi và người thanh niên ấy đi bình an, vô sự". Nghe người tử tù thuật lại, tôi ngạc nhiên và sực nhớ lại lúc đó tôi dừng lại để cầu nguyện xin Thiên thần Bản Mệnh giúp đỡ. Và như vậy, người thanh niên mà người tử tù thấy chính là Thiên Thần Bản Mệnh của tôi, đã giữ gìn tôi.
Câu chuyện trên minh chứng Thiên Thần Hộ Thủ luôn có mặt khi con người kêu cầu, xin ngài giúp đỡ,can thiệp.
"Lạy Chúa, nhân ngày lễ kính các Thiên Thần Hộ Thủ, xin cho các Ngài luôn ở gần chúng con để trông nom gìn giữ, nhờ đó, chúng con sẽ thoát khỏi mọi nguy hiểm dưới thế và mai sau được hưởng hạnh phúc trên trời" (Lời nguyện tiến lễ ngày 2/10, lễ các Thiên Thần Hộ Thủ).
Xin cho mọi người chúng con luôn biết kính trọng, yêu mến và cậy trông vào sự che chở của các Thiên Thần Hộ Thủ, và luôn sẵn sàng tuân theo lời chỉ dậy của các Thiên Thần Bản Mệnh qua tiếng nói lương tâm.
Giáo Lý Công Giáo dạy: “Sự hiện hữu của các hữu thể thiêng liêng không có thể xác, mà Thánh Kinh quen gọi là các thiên thần, là một chân lý Đức Tin. Thánh Kinh và Thánh Truyền đều nhất trí như thế” (số 328).
“Chân lý Đức Tin” thì vượt lý trí con người, ta chỉ có thể đón nhận được chân lý này với lòng khiêm tốn và tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa toàn năng, toàn tri, toàn thiện, luôn mạc khải cho ta những điều hữu ích.
Mạc khải không nói rõ Chúa dựng nên thiên thần vào lúc nào. Mạc khải cho ta biết “mục đích Chúa dựng nên thiên thần để sai đi giúp đáp vì phần ích những kẻ sẽ thừa hưởng ơn cứu độ” (Dt 1,14).
Cụ thể như thiên thần Gabriel mang sứ điệp Truyền Tin (x Lc 1,19.26); một đạo binh các thiên thần trên Thiên Quốc hát mừng trong đêm Giáng Sinh (x Lc 2,9-14); các thiên thần còn báo tin Chúa Giê-su Phục Sinh (x Mt 28,5t) và thông báo cho các môn đệ Đức Giê-su hiểu biết ý nghĩa việc Chúa Giê-su Thăng Thiên (x Cv 1,10t). Thiên thần còn có sứ mệnh phụ tá Đức Ki-tô Giê-su trong việc cứu độ nhân loại, các thiên thần chăm sóc, gìn giữ loài người (x Cv 12,15) và mỗi người Công Giáo (những kẻ bé mọn) được các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng Thánh Nhan Chúa Cha (x Mt 18,10: Tin Mừng), để dâng lên Thiên Chúa lời kinh của các thánh (x Kh 5,8; 8,3), cùng dẫn đưa linh hồn người công chính vào Thiên Đàng (x Lc 16,22).
Có một mối dây liên lạc mật thiết nối kết Phụng Vụ trần thế với Phụng Vụ Thiên Quốc: trên trời các thiên thần cử hành Phụng Vụ vĩnh cửu (x Kh 4,8-11), mà Phụng Vụ Giáo Hội ở trên dương thế cũng cùng hiệp thông, như trong kinh Vinh Danh và trong kinh Tiền Tụng.
Tuy vậy, các thiên thần không được phúc ngắm nhìn Lời Thiên Chúa (x 1Pr 1,12). Cụ thể ngôn sứ Isaia vào Đền Thờ thấy thiên thần Sêraphim chầu hầu bên Hòm Bia Thiên Chúa, phải lấy hai cánh che mặt (x Is 6,2); và Chúa cũng không bao bọc một thiên thần nào, Ngài chỉ bao bọc dòng giống Abraham: những người tin tưởng tuyệt đối vào Lời Thiên Chúa để hành động (x Dt 2,16).
Có loại thiên thần ánh sáng (Lucipher) đã kiêu ngạo tức khắc bị lãnh án phạt: “Hỡi tinh tú rạng ngời, con của bình minh,chẳng lẽ ngươi đã từ trời sa xuống rồi sao? Này, kẻ chế ngự các dân tộc, ngươi đã bị hạ xuống đất rồi ư? Chính ngươi đã tự nhủ: "Ta sẽ lên trời: ta sẽ dựng ngai vàng của ta trên cả các vì sao của Thiên Chúa; ta sẽ ngự trên núi Hội Ngộ, chốn bồng lai cực bắc.Ta sẽ vượt ngàn mây thẳm, sẽ nên như Đấng Tối Cao." Nhưng ngươi lại phải nhào xuống âm phủ, xuống tận đáy vực sâu” (Is 14,12-15). Chính Chúa Giê-su cũng đã xác định như vậy: “Ta đã thấy satan như chớp nhoáng tự trời sa xuống” (Lc 10,18).
Satan có nghĩa là địch thủ; hoặc quỷ có nghĩa là kẻ vu khống, nó hiện diện như cùng với các thiên thần tốt lành tại triều đình Thiên Chúa, chu toàn nơi tòa án Thiên Quốc một nhiệm vụ giống như một biện lý công cộng, có bổn phận bắt người trần thế phải tôn trọng công lý và quyền lợi của Thiên Chúa. Tuy nhiên, dưới chiêu bài phục vụ Thiên Chúa, chúng ta nhận ra nó là kẻ lừa gạt muốn lôi kéo người ta không còn tin vào Thiên Chúa nữa (x Giop 1-3). Nó đội lốt hình con rắn ghen với hạnh phúc của loài người (x St 2,24), vì nó rất thông minh và khôn khéo, dụ dỗ được nguyên tổ loài người làm theo ý nó thì tốt hơn là làm theo ý Chúa (x St 3). Như thế vài trò cốt yếu của nó là cám dỗ, cố gắng xúi giục người ta phạm tội (x 1Tx 3,5; 1Cr 7,5), và như thế đặt loài người chống lại Thiên Chúa (x Cv 5,3), nhưng nó thường xuất hiện dưới dạng phản Ki-tô (x 2 Tx 2,7t). Quỷ khủng khiếp vì mưu mô, cạm bẫy, lừa dối và thủ đoạn (x 2Cr 2,11; Ep 6,11; 1Tm 3,7).Satan ngụy trang thành thiên thần ánh sáng (x 2Cr 11,14). Nhưng nó bị đánh bại bởi cây Thập Giá của Chúa Ki-tô (x Ep 6,10) và kinh nguyện của loài người (x Mt 6,13). Chỉ kẻ nào thuận theo satan mới bị chiến bại (x Gc 4,7; Ep 4,27). Satan sẽ bị ném vào biển diêm sinh bốc lửa, nó sẽ chết lần thứ hai (x Kh 20,10.14t).
Vậy ta không được tin vào thuyết nhị nguyên là trong thế giới này có thần lành và thần dữ luôn đấu đá với nhau, khi nào thần lành thắng thì ta hạnh phúc; khi nào thần dữ thắng thì ta khổ! Mà phải tin rằng mọi kẻ thù đều làm bệ kê chân Đức Ki-tô, đến nỗi “trước danh hiệu của Đức Ki-tô, mọi gối đều phải quỳ xuống bái lạy, chốn hoằng thiên, trên địa cầu, dưới gầm đất, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng: Giê-su Ki-tô là Chúa mà làm vinh hiển cho Thiên Chúa Cha” (Pl 2,9-11).
Mỗi người Công Giáo được Chúa sai thiên thần đến chăm sóc, như Ngài nói: “Này Ta sai thiên sứ đi trước mặt ngươi, để gìn giữ ngươi khi đi đường và đưa ngươi vào nơi Ta đã dọn sẵn. Trước mặt người hãy ý tứ nghe Lời người. Đừng làm cho người phải chịu cay đắng; người sẽ không tha lỗi lầm cho các ngươi, vì danh Ta ngự trong người” (Xh 23, 20-21: Bài đọc).
Chúa đã dặn mỗi người chúng ta phải ý tứ nghe Lời thiên thần, nghĩa là phải thực hành Lời Chúa Giê-su dạy: “Muốn làm lớn phải hoán cải nên như trẻ nhỏ và hạ mình như trẻ nhỏ (x Mt 18,1-4: Tin Mừng).
I. Phải hoán cải trở nên trẻ nhỏ: Có nghĩa là phải được tái sinh trong Chúa Giê-su
Thực vậy, ai không được sinh lại bởi Chúa Giê-su, dù người ấy có địa cao, thì trước mặt Chúa họ cũng chỉ là một sinh vật (x 1Cr 15,45), chẳng khác loài thú đều phải chết (x Gv 3,18-19). Mà ý định ngàn đời của Thiên Chúa là “con người phải nên giống hình ảnh Thiên Chúa” (x St 1,26). Không phải giống Thiên Chúa vô hình mà là giống Con Thiên Chúa làm người: Đức Giê-su Ki-tô. Do đó ta phải được tái sinh qua Bí tích để được đồng hóa với Đức Giê-su (Gl 2,20).
Đó là lý do Đức Giê-su nói về ơn tái sinh với ông Ni-cô-đê-mô: “Quả thật, quả thật, tôi bảo ông: ai không bởi Trên sinh ra, thì không thể thấy được Nước Thiên Chúa”, làm ông thắc mắc: không lẽ người đã già lại có thể chui vào lòng mẹ lại sinh ra làm con nít? Thì Đức Giê-su lại nhấn mạnh: “Ai không sinh bởi nước và Thần Khí, thì không thể vào được Nước Thiên Chúa” (Ga 3, 3-5).
Một khi ta đã được tái sinh làm con Thiên Chúa, ta được đồng hóa với Chúa Giê-su (x Gl 2,20), cùng một xương thịt với Ngài (x Dt 2,11), cùng một sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa (x Ga 6,57), và cùng quyền năng như Thiên Chúa (x Ga 14,12). Người như thế chắc chắn được Chúa Giê-su khen: “Họ là kẻ nhỏ trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông Gioan Bt, mặc dù ông Gioan là người cao cả nhất trong những người do người nữ sinh ra” (x Mt 11,11).
Xét về mặt tình cảm trong gia đình, ai nhỏ nhất, người ấy làm vua. Bởi lẽ cả gia đình phải quan tâm chăm sóc, trìu mến đứa con sơ sinh. Cũng chính vì vậy mà trong ngày Đức Giê-su chịu phép rửa tại sông Gio-đan, báo hiệu ý muốn của Thiên Chúa là loài người phải được sinh lại bởi nước và Thần Khí. Ngày ấy, tiếng Chúa Cha phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17). Tiếng ấy, Chúa Cha muốn nói về những người được tái sinh trong Con yêu dấu của Ngài.
Vậy ai được tái sinh làm con Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha thì cũng được Hội Thánh là Mẹ ôm vào lòng: “Được thỏa thích nếm mùi sung mãn vinh quang, như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ; được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối, khiến thân mình được tươi tốt như cỏ đồng xanh” (Is 66, 10-14c).
II. Sống tinh thần trẻ thơ. Cụ thể phải là:
- Vâng phục cha mẹ. - Sống không có ác tâm. - Không đòi ai quan tâm tôn mình lên. - Luôn sống vươn tới sự trưởng thành. - Sống lệ thuộc vào đấng sinh thành. - Sống bằng tình yêu.
1/ Vâng phục cha mẹ. Trẻ nào không vâng phục cha mẹ, không thể thành công làm lớn trong xã hội được. Đức Giê-su muốn kẻ đã thuộc về Ngài phải đi con đường khiêm nhu, hạ mình phục vụ theo ý Cha trên trời dù phải chết nhục nhã đau khổ, như thế để học biết thế nào là Con vâng phục Cha, nhưng cuối cùng được Chúa Cha tôn vinh Con, đến nỗi trên trời dưới đất ai nghe danh Con, mọi đầu gối phải sụp lạy bái quỳ (x Pl 2,6-11).
2/ Không có ác tâm: Thánh Phao-lô nói: “Có ác thì như con nít thôi” (1Cr 14,20). Thực vậy, trẻ con chơi với nhau thế nào cũng có lúc bất hòa, chúng mếu máo khóc lóc chạy đi mách ông bà cha mẹ, nhưng lát sau chúng lại vui đùa với nhau bình thường, đó là “cái ác” của trẻ thơ; khác hẳn người trưởng thành, bề ngoài xem ra thân thương, hòa thuận, nhưng trong lòng tìm mưu kế hại nhau.
3/ Không đòi ai quan tâm tôn mình lên. Cụ thể: trong bữa tiệc, những người có chức vị thì được tôn trọng mời lên chỗ danh dự, còn đàn bà con nít thì không đáng kể (x Mt 14,21). Vậy ta phải sống khiêm tốn hạ mình sát đất thì không còn khoảng cách nào để phải sợ té!
4/ Luôn sống vươn tới sự trưởng thành. Thánh Phao-lô nói: “Khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con” (1Cr 13,11). Bởi vì ai cũng biết con nít nói trước hiểu sau, còn người trưởng thành thì phải nghĩ trước, hiểu rồi mới nói. Vậy ta phải chăm học hỏi giáo lý, Kinh Thánh, vì “khởi điểm đạt tới Đức Khôn Ngoan là thật lòng ham muốn học hỏi” (Kn 6,17).
5/ Sống lệ thuộc vào đấng sinh thành. Thánh Phao-lô muốn các Ki-tô hữu phải sống lệ thuộc vào Thiên Chúa, như trẻ thơ trong gia đình phải lệ thuộc vào cha mẹ: chúng muốn gì phải được phép của cha mẹ, mặc dù mọi vật trong gia đình cha mẹ mua sắm là dành cho con cái (x Gl 4,1-3). Vậy bất cứ làm việc gì, ta phải cầu nguyện xin Chúa hướng dẫn.
6/ Sống bằng tình yêu. Trẻ thơ không bao giờ bận tâm lo ăn gì, uống gì, mặc gì? Cũng chẳng sợ kẻ thù nào, nếu nó được nép mình trong tay cha mẹ. Thiên Chúa muốn con cái Ngài sống tinh thần đó, như Lời Kinh Thánh nói: “Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào, CHÚA ơi! Đường cao vọng, chẳng đời nào bước, việc diệu kỳ vượt sức, chẳng cầu; hồn con, con vẫn trước sau giữ cho thinh lặng, giữ sao thanh bình. Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con, hồn lặng lẽ an vui. Cậy vào CHÚA, Ít-ra-en ơi, từ nay đến mãi muôn đời muôn năm” (Tv 131/130,1-3).
Ai sống Lời Chúa Giê-su dạy trên đây, thì được Ngài xác nhận: Người ấy đã đón tiếp chính Ngài (x Mt 18,5). Và như thế mới được “Chúa truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường” (Tv 91/90,11).
THUỘC LÒNG
Thiên thần là những bậc thiêng liêng chuyên lo phụng thờ Chúa, được sai đi phục vụ để mưu ích cho những kẻ sẽ được thừa hưởng ơn cứu độ (Dt 1,14).
Trong bài huấn từ vào sáng ngày 02/10/2015 tại nhà nguyện Thánh Mácta, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Thiên Chúa ban cho mỗi người một “vị đồng hành”, một Thiên Thần Bản Mệnh để khuyên nhủ, bảo vệ và nâng đỡ”.
Thiên Chúa luôn yêu thương con người là những thụ tạo yếu đuối hay sa ngã. Vì thế, Người đã gửi đến cho mỗi người một vị thiên thần, gọi là Thiên Thần Bản Mệnh, để che chở và giữ gìn con người khỏi tay ma quỷ, từ lúc mới sinh cho đến khi qua đời. Thiên Thần Bản Mệnh còn là thầy dậy, mở lòng con người để họ biết được đạo thánh Chúa, giúp họ tuân giữ luật Hội Thánh dạy, cũng như tránh xa những điều tội lỗi. Thiên Thần Bản Mệnh còn là Đấng bầu cử, luôn cầu nguyện cùng Chúa cho con người.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết vâng nghe lời hướng dẫn của các Thiên Thần Bản Mệnh. Amen.
"Chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này: vì Thầy bảo cho anh em biết, thiên thần của họ ở trên trời hằng chiêm ngắm thánh nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời" (Mt 18,10).
Giáo Hội Công Giáo dành ngày 02/10 hằng năm để mừng kính các Thiên thần Bản mệnh. Vào năm 1670, Đức Giáo Hoàng Clêmentê X đã thiết lập lễ này cho toàn thể Giáo Hội để tôn kính các đấng vô hình luôn ngày ngày bảo vệ chúng ta.
Trong khi đa số chúng ta chỉ chú ý đến các Thiên thần Bản mệnh cá nhân, truyền thống Giáo Hội (được các nhà thần học như Thánh Tôma Aquinô giảng dạy) cho biết rằng các quốc gia, các thành phố, các giáo phận, các giáo xứ đều có Thiên thần Bản mệnh riêng, có những người, những nơi còn có nhiều vị Bản mệnh.
Các ngài là những thụ tạo đẹp đẽ của Thiên Chúa, được ẩn giấu trong một mầu nhiệm kỳ vĩ. Báo chí nhiều khi tường thuật chuyện có một người huyền bí xuất hiện để giúp đỡ trong các vụ tai nạn rồi sau đó không bao giờ xuất hiện lại nữa. Chúng ta mắc nợ Thiên thần Bản mệnh của chúng ta rất nhiều, người hằng bảo vệ, chỉ dẫn chúng ta mà chúng ta không biết. Các ngài can thiệp vào đời sống chúng ta cách âm thầm, hoàn thành tác vụ của mình cách khiêm tốn nhất có thể.
Để chúng ta hiểu sâu sắc về các "người hỗ trợ từ trời" của chúng ta, hãy tìm hiểu 5 sự thật này về Thiên thần Bản mệnh.
1. Mỗi một người trên thế giới đều có một Thiên thần Bản mệnh (dù là Kitô hữu hay không)
Giáo lý, như được trình bày trong YOUCAT, dạy rằng "Mỗi một cá nhân đều nhận một Thiên thần Bản mệnh từ Thiên Chúa" (s. 55). Điều này phù hợp với lời dạy của Kinh Thánh, của các Thánh như Tôma Aquinô, Basiliô và Giêrônimô, thậm chí phù hợp cả với kinh nghiệm của những người ngoài Kitô giáo có cảm nhận về một sự giúp đỡ vô hình từ một vị thiên thần (người Việt Nam ta hay nói trẻ em có một bà mụ nâng đỡ).
Mike Aquilina, một nhà giáo sử nổi tiếng, viết về những kinh nghiệm của bạn ông liên quan đến thiên thần giúp đỡ như sau:
"Một người bạn của tôi, một nhà triết học nổi tiếng từng học ở Harvard, là người vô thần từ trẻ. Một hôm, khi anh ta đang bơi ngoài biển thì bị sóng cuốn ra khơi. Anh ta biết mình đang chìm xuống, không hy vọng được ai cứu nữa. Đột nhiên, một cánh tay mạnh mẽ nắm lấy anh và kéo vào bờ. Người nắm lấy anh là một chàng trai vạm vỡ. Anh bạn vừa chết hụt định cám ơn người thanh niên kia thì anh thanh niên cười và biến mất. Từ lúc đó, anh bạn của tôi bắt đầu con đường quay trở về đức tin."
2. Thiên thần Bản mệnh được ban ngay từ đầu đời
Giáo lý dạy rằng: "Từ khởi đầu đến kết thúc, cuộc đời con người được vị chuyển cầu và săn sóc cẩn thận bao bọc" (số 336). Thánh Anselmô tin rằng các thiên thần được gửi đến ngay từ giây phút đầu tiên khi linh hồn hiệp vào thân xác con người trong dạ mẹ. Tuy nhiên điều này chưa được tuyên tín và vẫn còn có nhiều tranh luận. Nếu đúng vậy, người phụ nữ mang thai có hai Thiên thần Bản mệnh, cho mình và cho thai nhi của mình.
3. Thiên thần Bản mệnh có tên, và chỉ mình Thiên Chúa biết tên của các vị
Giáo Hội hướng dẫn chúng ta rằng: "Thói quen đặt tên cho các Thiên thần nên bị loại bỏ, trừ những vị được đề cập rõ ràng trong Kinh Thánh như Gaprien, Raphaen và Micaen" (Thánh bộ Phụng tự, Huấn thị về Lòng đạo đức Bình dân, số 217, năm 2001).
Lý do cho điều này đó là tên họ chứa ẩn một quyền lực nào đó trên một người. Ví dụ, nếu tôi biết tên bạn và gọi tên bạn khi tôi muốn, bạn bị bó buộc nghe tôi, và tôi có một chút quyền lực trên bạn (khi thư yếm người khác, phù thuỷ cũng phải gọi tên người bị thư yếm). Ngược lại, chúng ta không có quyền gì trên các Thiên thần. Các ngài chỉ phải thưa chuyện với duy nhất Vị Chỉ Huy của mình: Thiên Chúa. Chúng ta có thể nhờ các vị giúp đỡ, nhưng đừng nghĩ các ngài đứng đó khi ta vẫy tay và gọi.
Giáo Hội bác bỏ thói quen gọi tên các Thiên thần Hộ thủ vì có nhiều người có thói quen đặt tên cho các vị và kêu cầu, nhưng đó không phải là điều được linh hứng. Nó thậm chí có thể là do tác động của ma quỷ. Chỉ những danh hiệu được mặc khải rõ trong Kinh Thánh mới đáng tin tưởng, và những cái tên khác thì không thể biết chắc có đến từ Thiên Chúa hay không.
4. Chúng ta sẽ không trở thành Thiên thần sau khi chết
Nhiều người tin rằng chúng ta sẽ biến thành các Thiên thần sau khi chết, nhưng sự thật ngược lại, đó là chuyện không thể. Sau khi chết, con người rời khỏi thân xác mình một thời gian, và sẽ hiệp nhất lại vào thời tận cùng. Chúng ta sẽ không trở thành các Thiên thần vô hình. Tất cả các Thiên thần Bản mệnh đã được sáng tạo ngay từ khởi thuỷ công trình tạo dựng.
Hãy nhớ lời Chúa phán cùng tiên tri Giêrêmia: "Trước khi Ta tạo thành ngươi trong dạ mẹ ngươi, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi sinh ra, Ta đã thánh hiến ngươi." (Gr 1,5) Thiên Chúa đã biết bạn và đã chỉ định một vị Thiên thần Bản mệnh cho bạn trước khi Người tạo dựng vũ trụ này.
5. Thiên thần Bản mệnh luôn ở đây để giúp đỡ chúng ta
Giáo lý gọi các Thiên thần Hộ thủ là các mục tử luôn muốn bảo vệ và dẫn dắt con người vào sự sống đời đời. Công tác duy nhất của các vị là giúp chúng ta vào Thiên đàng, nên chúng ta hãy cầu nguyện cùng các vị mỗi ngày, xin các vị giúp đỡ chúng ta trong mọi vấn đề của cuộc sống.
Giáo Hội cung cấp cho tất cả chúng ta một bản kinh tuyệt vời để cầu xin cùng Thiên thần Bản mệnh của mình:
Lạy Thiên thần Chúa là Thiên thần Bản mệnh yêu dấu của con. Nơi ngài Chúa ban tình yêu của Người cho con. Mỗi ngày, xin ngài hãy ở cạnh bên con để soi sáng và canh giữ, để điều khiển và hướng dẫn con. Amen.
Mỗi người Chúa dựng nên đều có một thiên thần giữ mình, điều đó Chúa Giê-su đã khẳng định: “Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn nầy; quả thật, Thầy nói cho anh em biết; các thiên thần của họ không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt. 18, 10).
Và thánh Bê-na-đô minh chứng: “Chúa đã sai các thiên thần đến phục vụ các con, cắt đặt các ngài gìn giữ các con, và cho các ngài làm quản giáo cho các con”. Thánh Giê-gô-ri-ô nói: “Phẩm giá các linh hồn cao quý biết bao, vì mỗi linh hồn đều được Thiên Chúa ban cho một thiên thần chăm sóc”. Và thánh Ghê-rô-ni-mô viết: “Chúa biết ác tâm của ma quỷ, chúng luôn tìm cách ngăn cản không cho ai vào chỗ chúng đã mất trên thiên đàng, nên ban cho mỗi người một thiên thần hộ thủ, để chống trả kẻ thù của phần rỗi chúng ta”.
“Ma quỷ đông đúc và độc dữ như sư tử, ngày đêm rình chực hãm hại con người, thì Chúa cũng ban cho họ vô số thiên thần quyền phép hơn gìn giữ bảo hộ. Ngay lúc mới sinh ra, mỗi người đều có một thiên thần giữ mình. Dù lương hay giáo, dù lành hay dữ, ai ai cũng được Chúa thương cho thiên thần che chở. Chẳng những Chúa cho thiên thần bảo vệ từng người, mà còn cho các ngài gìn giữ các xã hội, các cộng đoàn, các gia đình, mọi nước, mọi thành, mọi nơi chốn có con người trú ngụ. Như lời thánh Tô-ma tiến sĩ nói: “Có thiên thần bảo hộ các quốc gia, dân tộc, thành thị, cộng đoàn cũng như mỗi người”.
“Thiên thần hộ thủ có trách nhiệm che chở chúng ta khỏi mọi sự dữ và gian nan khốn khó, cứu giúp chúng ta khỏi sa ngã phạm tội, giúp chúng ta làm lành lánh dữ, nâng đỡ chúng ta trong lúc yếu đuối, tăng thêm lòng can đảm mạnh mẽ, an ủi chúng ta trong những lúc sầu buồn đau khổ”.
“Các ngài còn giúp sức chúng ta lướt thắng các chước cám dỗ của ma quỷ, xác thịt thế gian. Và nếu chúng ta có lỡ lầm sa ngã, các ngài nâng đỡ chúng ta ăn năn hối cải”.
“Ngoài ra, các thiên thần hộ thủ dâng lên trước tòa Chúa các việc lành phúc đức và lời cầu nguyện hằng ngày của chúng ta, cầu thay nguyện giúp cho chúng ta được ơn lành của Chúa. Các ngài an ủi soi sáng chúng ta trong cơn bệnh hoạn chết chóc, và bênh đỡ chúng ta trong ngày phán xét”.
“Tắt một lời, Chúa cho thiên thần hộ thủ gìn giữ che chở chúng ta trên khắp nẻo đường và suốt đời, như thánh Bê-na-đô nói, và bảo chúng ta hãy cám ơn Chúa, vì Người đã thương chúng ta, đồng thời phải kính sợ, thương mến, tin tưởng thiên thần giữ mình: “Người truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn trên khắp nẻo đường. Họ hãy cảm tạ Chúa vì tình thương Người, vì những kỳ công Người đã làm cho con cái loài người…”
“Người truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn trên khắp nẻo đường. Lời nầy phải mang lại cho bạn bao niềm kính sợ, tôn kính và tin tưởng: Kính sợ trước sự hiện diện, tôn kính trước lòng nhân hậu, tin tưởng trước sự phù trợ của các ngài”.
Ngoài ra, ba bổn phận kính sợ, tôn kính, tin tưởng như thánh Bê-na-đô vừa kể, mỗi người còn cần phải sẵn sàng tuân theo sự hướng dẫn dìu dắt của thiên thần hộ thủ, để được sống đẹp lòng Chúa và đáng thưởng phước đời đời.
Quyết tâm: Hằng ngày tôi luôn kính sợ, tôn kính, tin tưởng và làm theo thiên thần hộ thủ dạy bảo chỉ dẫn, để ngày sau được Chúa thưởng.
Lời nguyện: Lạy Chúa là Đấng an bài mọi sự cách tuyệt vời, Chúa sai các thiên thần đến gìn giữ chúng con. Xin ban cho chúng con đời nầy được các ngài luôn bênh vực che chở, và đời sau được cùng các ngài hưởng phúc vinh quang.
Ngày xưa người ta tin rằng thiên thần là những thần linh giữ vai trò quan trọng trong việc liên lạc giữa thế giới Thiên Chúa và con người; niềm tin này đã được thấy nói trong Cựu Ước, cho dù không được giải thích rõ ràng.
Trong Cựu Ước, thiên thần là sứ giả trợ lực của Thiên Chúa (St 16,7; 21,17; Xh 14,19; 2 V 19,35). Trong những tác phẩm cuối (tỉ như sách Đanien) có kể tên các vị thiên thẩn; qua tên đó chúng ta thây được công tác của họ.
Trong Tân Ước, các thiên thần cũng giữ mội vai trò trong đời sống Đức Giêsu và Hội Thánh tiên khởi. Nếu có những sức lực của satan, của ma quỷ, thì cũng có những thiên thần lành, trợ lực, hướng dẫn và bảo vệ con người. Niềm tin vào thiên thần bản mệnh hay hộ thủ dựa vào đoạn Phúc Âm Mt 18,10.
Thánh Lễ thiên thần hộ thủ rất phổ biến ỏ thế kỷ XV và XVI, thường được liên kết với lễ Tổng Lãnh Thiên Thần Micae (29.9). Năm 1670 Đức Giáo Hoàng Clémentô X đã cho phép mừng lễ thiên thần hộ thủ trong cả Hội Thánh và xác định lễ này vào ngày 2.10 hằng năm.
a) Bài đọc 1: Xh 23,20-23a
Thuật ngữ Hiprí, mà chúng ta thường dịch ra là “Thiên Thần”, thực sự có nghĩa đơn sơ là “Sứ giả”, người nhận lệnh của chủ để nói hay làm một cái gì. Trong Cựu Ước thì “Thiên Thần của Chúa” (Thiên thần của Giavê) không phân biệt gì với chính Giavê: Thiên Thần chính là Thiên Chúa xuất hiện ở ưần gian để nói và hành động.
Mãi trong những văn bản mới, nhất là sau thời lưu đày ở Babylon, chúng ta mới gặp những lời rõ ràng, không những phân biệt giữa Thiên Chúa và thiên thần, nhưng còn kê khai cả tên và phận vụ của từng thiên thần.
Theo cái nhìn này, thì đoạn Xuất Hành 23 thuộc về loại cổ. Thiên Chúa đã hứa với dân ưong sa mạc, sẽ sai một thiên thần đến để dẫn lộ và bảo vệ dân. Danh Thiên Chứa tỏ hiện trong vị Sứ Giả này (23,21). Danh tức là người. Danh nơi sứ giả chính là Thiên Chúa, Người tự tỏ lộ để con người nhìn ra Người, cho phép họ kêu cầu Danh Người hay là cho họ cảm nhận được sự sợ sệt trước sự hiện diện của Người.
Vì Thiên Chúa hiện diện ngay trong các thiên thần, nên con người phải kính trọng và tin tưởng các Đấng.
b) Phúc Âm: Mt 18,1-5.10
Đoạn Mt 18,10 nói về “kẻ nhỏ”; như thế, ở đây không những nói về trẻ nhỏ, nhưng còn nói về những người yếu đuối, những người thấp bé về mặt kính tế và xã hội, những người đơn sơ. Luôn luôn chúng ta thấy những người này thường bị khinh khi và bị xử tệ.
Để tránh những thái độ như thế, Đức Giêsu nhắc đến giá trị của chính những con người đó. Chính Thiên Chúa biết và tôn trọng từng người này. Họ là con Thiên Chúa và hơn nữa, Thánh Kinh gọi họ là “con người của Thiên Chúa”. Chúa Giêsu lại đồng hóa mình với họ: “Quả thật, Ta bảo các ngươi, những gì các người đã không làm cho một người nào trong các kẻ hèn mọn nhất này, là các ngươi đã không làm cho chính mình Ta” (Mt 25,45).
Tất cả ngày tháng và hành động của “những kẻ bé mọn” này đều được tường trình trước mặt Thiên Chúa. Thiên Chúa đã gởi những trung gian và sứ giả từ trời xuống để chăm sóc cho họ. Đó là những thiên thần phục vụ Thiên Chúa và con người.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha là Đấng an bài mọi sự cách tuyệt vời, Cha sai các thiên thần đến gìn giữ chúng con. Xin ban cho chúng con đời này được các ngài luôn bênh vực che chở, và đời sau được cùng các ngài hưởng phúc vinh quanh. Chúng con cầu xin…
Thiên Chúa ban cho tất cả mỗi người chúng ta một Thiên Thần Hộ Thủ để đồng hành cùng chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế để khuyên nhủ và bảo vệ chúng ta. Chúng ta nên lắng nghe với sự nhu mì và kính trọng. Đức Thánh Cha đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Sáu 02 tháng Mười, lễ Thiên Thần Hộ Thủ, tại nhà nguyện Santa Marta.
Bài giảng của Đức Thánh Cha trình bày những về sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống chúng ta, và mô tả các thiên thần là đại sứ của Thiên Chúa, là Đấng đồng hành với mỗi người chúng ta. Đức Thánh Cha đã chứng minh điều này khi nhắc lại những gì xảy ra khi Chúa đuổi ông A dong ra khỏi vườn địa đàng: Ngài không để ông A dong bơ vơ một mình cũng chẳng nói với ông: “Hãy tự lo cho bản thân ngươi đi”, nhưng Chúa ban cho tất cả mọi người một Thiên Thần Hộ Thủ của Thiên Chúa, là Đấng đang ở bên cạnh chúng ta.
Đại sứ của Thiên Chúa bên cạnh chúng ta
“Vị ấy luôn ở với chúng ta! Và đây là một thực tế. Giống như có đại sứ của Thiên Chúa ở với chúng ta. Và Chúa khuyên chúng ta: ‘Hãy tôn trọng sự hiện diện của ngài!’ Chẳng hạn, khi chúng ta phạm một tội lỗi, chúng ta tin rằng chúng ta chỉ có một mình, không ai biết, chẳng ai hay. Không, ngài đang ở đó. Hãy tôn trọng sự hiện diện của ngài. Hãy lắng nghe tiếng nói của ngài vì ngài cho chúng ta lời khuyên. Khi chúng ta nghe những lời dụ dỗ: ‘Nhưng hãy cứ làm điều này đi… điều này là tốt hơn. ..’ chúng ta đừng làm điều đó nhưng hãy lắng nghe tiếng nói của Thiên Thần Hộ Thủ! Đừng chống lại ngài.”
Đức Thánh Cha Phanxicô nói các Thiên Thần Hộ Thủ luôn luôn bảo vệ chúng ta, đặc biệt khỏi các tội lỗi. Ngài lưu ý rằng “Đôi khi, chúng ta tin rằng chúng ta có thể che dấu rất nhiều điều xấu xa nhưng cuối cùng những điều như thế vẫn bị đưa ra trước ánh sáng. Thiên Thần hiện diện mọi nơi để nhủ bảo chúng ta và che chở cho chúng ta như một người bạn thân thiết. Một người bạn chúng ta không nhìn thấy nhưng chúng ta có thể nghe được tiếng nói của ngài vang lên trong thẳm sâu tâm hồn chúng ta, một người bạn một ngày kia sẽ ở cùng chúng ta trong niềm vui vĩnh cửu của Thiên Đàng.”
Tôn trọng và lắng nghe ngài
“Tất cả điều ngài đòi hỏi nơi chúng ta là lắng nghe và tôn trọng ngài. Tất cả chỉ tóm gọn trong sự tôn trọng và lắng nghe ngài. Sự tôn trọng và lắng nghe người bạn đồng hành này trong cuộc hành trình của chúng ta được gọi là sự nhu mì. Các Kitô hữu phải nhu mì trước Chúa Thánh Thần. Nhu mì hướng về Chúa Thánh Thần bắt đầu với sự tuân phục những lời khuyên của ngài trong cuộc hành trình của chúng ta”
Đức Thánh Cha giải thích thêm rằng để nhu mì, chúng ta cần phải trở nên như trẻ thơ và Thiên Thần Hộ Thủ của chúng ta là một người bạn đồng hành dạy ta sự khiêm nhường này và cũng giống như các trẻ thơ chúng ta vâng nghe lời ngài.
“Xin cho chúng ta biết cầu xin cùng Chúa cho ân sủng của sự nhu mì này, để lắng nghe tiếng nói của người bạn đồng hành này, tiếng nói của vị đại sứ của Thiên Chúa, là Đấng đồng hành với chúng ta nhân danh Ngài và xin cho chúng ta có thể được nâng đỡ bởi sự trợ giúp của Thiên Thần Hộ Thủ. Chúng ta phải tiến tới trong cuộc hành trình. Và trong Thánh Lễ này, nơi chúng ta ca ngợi Chúa, chúng ta hãy nhớ Thiên Chúa tốt lành dường bao, ngay sau khi chúng ta đánh mất tình bạn với Ngài, Thiên Chúa không để chúng ta bơ vơ lạc lõng. Ngài không bỏ rơi chúng ta.”
Hôm nay, Giáo Hội dâng lễ mừng các thánh Thiên Thần bản mệnh, còn gọi là các thánh thiên thần hộ thủ. Đây là dịp thật quan trọng để chúng ta tạ ơn Chúa tình yêu, cũng như cám ơn các ngài.
Chúng ta tạ ơn Thiên Chúa tình yêu, vì trước hết, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta. Thiên Chúa yêu chúng ta vô cùng, yêu không bờ bến. Do đó, Thiên Chúa không muốn chúng ta bị trầm luân, bị hư mất đời đời, cho nên Thiên Chúa đã ban Con Một của Chúa, đó là chính Chúa cho chúng ta. Tiếp đó, Thiên Chúa lại ban cho chúng ta mỗi người có một thiên thần giữ mình như lời Chúa nói: “Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ hèn mọn này, vì Thầy bảo các con, Thiên Thần của họ trên trời hằng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha Ta, Đấng ngự trên trời” (Mt 18, 10). Và để chúng ta hợp tác hoàn toàn với các thiên thần bản mệnh mà Chúa gởi đến, Chúa đã dạy chúng ta hãy tôn trọng các ngài, nghe theo lời hướng dẫn của các ngài, để chúng ta làm lành lánh dữ và để các ngài dẫn chúng ta đến với Chúa. Chắc chắn Chúa sẽ rất vui khi chúng ta làm đúng theo thánh ý Chúa trong trường hợp này.
Chúng ta cám ơn các thiên thần, vì các ngài đã vâng lời Chúa đến ở với chúng ta, gìn giữ, chở che, bảo vệ, đỡ nâng chúng ta: “Bạn sẽ không gặp điều ác hại, và tai ương không bén mảng tới nhà, bởi chưng Người truyền cho thiên sứ, giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường. Và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá. Bạn có thể giẫm lên hùm thiêng rắn độc, đạp nát đầu sư tử khủng long” (Tv 90, 10 – 13). Có lẽ, các thiên thần rất buồn khi chúng ta ngỗ nghịch, phản kháng, cưỡng lại ơn soi sáng, không nghe lời hướng dẫn của các ngài, không hợp tác với các ngài, làm các ngài nản lòng, mệt mỏi, mà cứ đi theo ý riêng của mình để rồi phạm tội, làm mất lòng Chúa, chống lại Chúa, gây ra biết bao nhiêu hậu quả nghiêm trọng trong cuộc sống đời này, như làm mất trật tự trong các mối quan hệ xã hội, để rồi con người chúng ta giận ghét nhau, hận thù nhau, chém giết nhau…, khiến các ngài phải vất vả vãn hồi, khôi phục lại cho Chúa. Vì thế, chúng ta cần phải ngày đêm xin lỗi các ngài, cố gắng nghe lời các ngài mà sửa đổi cuộc đời của chúng ta cho tốt hơn.
Lạy Chúa, để các Thiên Thần bản mệnh giúp đỡ chúng con, xin Chúa ban ơn giúp chúng con biết trở nên như trẻ nhỏ, hạ mình xuống, sống đơn sơ, trong trắng, khiêm nhường, dễ dạy bảo, tin tưởng và theo lời chỉ bảo của các ngài, hầu mỗi ngày chúng con sống đẹp lòng Chúa và làm vui vẻ các ngài hơn: “Khi ấy, các môn đệ lại gần bên Chúa và hỏi Chúa rằng: Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong Nước Trời? Chúa gọi một em nhỏ đến, đặt vào giữa các ông và nói: Thầy bảo thật các con, nếu các con không trở lại mà nên như trẻ nhỏ này, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. Còn ai tiếp đón một em nhỏ như em này, vì danh Thầy là tiếp đón Thầy. Các con hãy coi chùng,, chớ khinh thường một ai trong những kẻ bé mọn này. Quả thật, Thầy nói cho các con biết, các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 18, 1 – 5. 10). Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của lễ các Thiên Thần Hộ Thủ hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa là Đấng an bài mọi sự cách tuyệt vời, Chúa sai các thiên thần đến gìn giữ chúng ta, xin Chúa ban cho chúng ta đời này được các ngài luôn chở che bênh vực, và đời sau được cùng các ngài hưởng phúc vinh quang. Các thiên thần được ơn gọi trước hết là để chiêm ngưỡng ánh huy hoàng của thánh nhan Thiên Chúa và không ngừng ca hát ngợi khen Người. Theo Kinh Thánh, Chúa cũng trao cho các thiên thần sứ mạng hiện diện bên cạnh con người để giúp đỡ con người. Ngày Lễ kính các Thiên Thần Hộ Thủ nhắc cho ta nhớ lại điều đó.
Để được gìn giữ và được hưởng phúc vinh quang với các thiên thần, chúng ta phải gắng sức lo sao cho mình được cứu độ. như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thánh Phaolô cho thấy: Nhờ có Thiên Chúa không ngừng hoạt động, cuộc đời người Kitô hữu sẽ toả sáng. Anh em hãy biết run sợ mà gắng sức lo sao cho mình được cứu độ… Anh em đã được Thiên Chúa tuyển chọn và mời gọi, thì hãy cố gắng hết mình, để làm cho ơn đó nên vững mạnh. Nhờ đó, con đường sẽ rộng mở, để đón nhận anh em vào Nước vĩnh cửu của Đức Giêsu Kitô là Chúa và là Đấng cứu độ chúng ta. Anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối.
Để được gìn giữ và được hưởng phúc vinh quang với các thiên thần, chúng ta phải cung kính và sùng mộ các ngài, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Bênađô nói: Chúng ta hãy tỏ lòng sùng mộ và biết ơn đối với những vị đã bảo vệ chúng ta như thế; chúng ta hãy yêu mến các ngài để đền đáp, hãy tôn kính các ngài hết sức cho phải đạo… Chúa truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường; và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá. Bạn sẽ không gặp điều ác hại, và tai ương không bén mảng tới nhà.
Để được gìn giữ và được hưởng phúc vinh quang với các thiên thần, chúng ta phải biết ơn và nương tựa vào Đấng đã sai ngài che chở chúng ta, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Xuất Hành cho thấy: Đức Chúa phán như sau: Này Ta sai thiên sứ đi trước ngươi, để giữ gìn ngươi khi đi đường và đưa ngươi vào nơi Ta đã dọn sẵn. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 90, vịnh gia đã cho thấy: Chúa truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường. Hỡi ai nương tựa Đấng Tối Cao và núp bóng Đấng quyền năng tuyệt đối, hãy thưa với Chúa rằng: Lạy Thiên Chúa, Ngài là nơi con náu ẩn, là đồn lũy chở che, con tin tưởng vào Ngài.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúc tụng Chúa đi, toàn thể thiên binh hằng hầu cận và tuân hành thánh ý. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Chúa là Đấng đáng được chúc tụng và ngợi khen. Chúng ta phải dành cho Thiên Chúa trọn niềm yêu mến và tôn thờ, bởi vì, Người là Cha, là Chúa của chúng ta. Nhờ Người, mà các thiên thần lẫn chúng ta mới có khả năng tôn thờ và yêu mến Người, và chúng ta cũng được Người yêu thương chăm sóc. Chúng ta là con Thiên Chúa, nhưng như thế nào, thì sau này chúng ta mới biết, hiện tại, chúng ta là những trẻ nhỏ, dưới quyền các vị hướng đạo và giám hộ, mà Chúa đã sắp đặt để gìn giữ chở che chúng ta. Dù chúng ta là trẻ nhỏ, mà đường còn dài và nguy hiểm nữa, nhưng, chúng ta sợ gì khi được các thiên thần giữ gìn trên khắp nẻo đường đời, chúng ta chỉ cần theo các ngài, gắn bó với các ngài, ắt sẽ được sống dưới sự chở che của Thiên Chúa là Cha chúng ta. Chúa là Đấng an bài mọi sự cách tuyệt vời, Chúa sai các thiên thần đến gìn giữ chúng ta, ước gì đời này, chúng ta được các ngài luôn chở che bênh vực, và đời sau được cùng các ngài hưởng phúc vinh quang. Ước gì được như thế!
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Thiên Thần Hộ Thủ hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa là Đấng an bài mọi sự cách tuyệt vời, Chúa sai các thiên thần đến gìn giữ chúng ta, xin Chúa ban cho ta đời này được các ngài luôn chở che bênh vực, và đời sau được cùng các ngài hưởng phúc vinh quang. Các thiên thần được ơn gọi trước hết là để chiêm ngưỡng ánh huy hoàng của thánh nhan Thiên Chúa và không ngừng ca hát ngợi khen Người. Theo Kinh Thánh, Chúa cũng trao cho các thiên thần sứ mạng hiện diện bên cạnh con người để giúp đỡ con người. Ngày Lễ kính các thiên thần hộ thủ nhắc cho ta nhớ lại điều đó.
Cùng các thiên thần hưởng phúc vinh quang, nếu ta biết thông phần đau khổ và làm chứng cho Đức Kitô, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích thư của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Philípphê: Noi gương thánh Phaolô. Theo gương Chúa Kitô, thánh Phaolô đã tiến bước, và làm chứng cho chúng ta… Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa của tôi. Vấn đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người. Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta.
Cùng các thiên thần hưởng phúc vinh quang, nếu ta vâng theo sự hướng dẫn của các thiên thần, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích bài giảng của thánh Bênađô: Xin các thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường… Chúa truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường; và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá. Bạn sẽ không gặp điều ác hại, và tai ương không bén mảng tới nhà.
Cùng các thiên thần hưởng phúc vinh quang, nếu ta biết núp bóng, tựa nương vào Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Xuất Hành: Thiên sứ của Ta sẽ đi trước mặt ngươi. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 90 cho thấy: Chúa truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường. Hỡi ai nương tựa Đấng Tối Cao và núp bóng Đấng quyền năng tuyệt đối, hãy thưa với Chúa rằng: Lạy Thiên Chúa, Ngài là nơi con náu ẩn, là đồn lũy chở che, con tin tưởng vào Ngài.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúc tụng Chúa đi, toàn thể thiên binh hằng hầu cận và tuân hành thánh ý. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Các thiên thần không ngừng chiêm ngưỡng Thánh Nhan, hằng hầu cận, tuân hành thánh ý, và hằng đi trước ta, để giữ gìn ta. Nếu ta nghe theo các thiên thần, nếu ta làm mọi điều Chúa nói, thì, Chúa sẽ trở thành kẻ thù của kẻ thù ta, đối phương của đối phương ta. Chính Chúa gìn giữ ta khỏi lưới kẻ thù giăng, khỏi tai ương tàn khốc. Chúa phù trì che chở, dưới cánh Người, ta có chỗ ẩn thân: lòng Chúa tín trung là khiên che thuẫn đỡ. Để cho tất cả chư thần trên trời không đứng ngoài công việc chăm sóc ta, Chúa đã sai các thiên thần đến để phục vụ ta, giao cho các ngài nhiệm vụ bảo vệ ta và truyền cho các ngài trở thành những người dìu dắt ta. Chúa truyền cho thiên sứ giữ gìn ta trên khắp nẻo đường. Lời này phải khơi dậy nơi ta lòng tin tưởng, cung kính, vì ta được các ngài bao bọc chở che. Dù chính Thiên Chúa đã sai các ngài, nhưng, chúng ta không được vô ơn đối với các ngài, bởi vì, các ngài đã vâng phục Thiên Chúa, có lòng yêu mến chúng ta, và hằng trợ giúp chúng ta trong mọi cơn quẫn bách. Chúa là Đấng an bài mọi sự cách tuyệt vời, Chúa sai các thiên thần đến gìn giữ chúng ta, xin Chúa ban cho chúng ta đời này được các ngài luôn chở che bênh vực, và đời sau được cùng các ngài hưởng phúc vinh quang. Ước gì được như thế!
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn cho ngươi, hỡi Corozain, khốn cho ngươi, hỡi Bethsaiđa: vì nếu tại Tyrô và Siđon đã xảy ra những phép lạ thực hiện nơi các ngươi, thì từ lâu, những nơi đó đã mặc áo vải thô và ngồi trên tro bụi mà sám hối. Cho nên trong ngày thẩm phán, Tyrô và Siđon sẽ được nhiêu dung hơn các ngươi. "
Còn ngươi nữa, hỡi Capharnaum, phải chăng ngươi sẽ được nâng cao đến tận trời? Ngươi sẽ phải hạ thấp xuống tới địa ngục. "Ai nghe các con, tức là nghe Thầy, và ai khinh dể các con, là khinh dể Thầy. Mà ai khinh dể Thầy là khinh dể Ðấng đã sai Thầy".
Tin Mừng hôm nay kể lại một kinh nghiệm không vui của Đức Giêsu, Kinh nghiệm của một người tận tụy với công việc tông đồ nhưng sau thời gian dài chờ đợi, kết quả lại không như ý. Đức Giêsu là người vùng Galilê, hẳn Ngài yêu vùng đất này. Ngài thường lui tới những thành phố quanh Hồ Galilê. Khoradin, Bếtsaiđa, Caphácnaum nằm trong số đó. Ngài đã rao giảng nhiều về sám hối (7, 36-50; 13, 1-5; 19, 1-10), và Ngài cũng làm bao phép lạ kèm theo để gọi mời hoán cải. Có thể nhiều người bị đánh động khi nghe lời Ngài giảng và bị thu hút bởi các phép lạ Ngài làm. Nhưng đối với Đức Giêsu, như thế vẫn chưa đủ. Tất cả vẫn chỉ là hời hợt của cảm xúc bên ngoài. Điều Ngài đòi hỏi là biến đổi tận căn bên trong cuộc sống. “Khốn cho ngươi, hỡi Khoradin! Khốn cho ngươi, hỡi Bếtsaiđa! Đức Giêsu đau đớn thốt lên như thế khi phải so sánh hai thành phố trên với hai thành phố dân ngoại tội lỗi là Tia và Xiđôn (Is 23; Ed 26-28). Hai thành phố ở Galilê chẳng đổi gì mấy dù đã biết Ngài từ lâu. Dân ở đây sẽ bị xét xử nghiêm khắc hơn trong cuộc phán xét. Thành phố Caphácnaum cũng chẳng khá hơn, dù đây là nơi Đức Giêsu hay lui tới để phục vụ (Lc 4, 23. 31-37; 7,10). Ngài đặt thẳng câu hỏi với thành phố này về tương lai của nó (c. 15). Đừng mong được nâng đến tận trời, nhưng sẽ bị xuống tận âm phủ! Đức Giêsu có kinh nghiệm về thất bại trong việc tông đồ. Ngài cũng nhắc các môn đệ về chuyện đó (Lc 10, 10-12). Không được tiếp đón, bị từ khước, không được người ta nghe (c.16), thậm chí có khi bị bách hại, bị vu khống, bị giết chết. Đó là những điều người môn đệ tín trung vẫn thường gặp, vì Thầy của họ đã trải qua và vượt qua. Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu nói chuyện với các thành phố, những nơi thân quen, đã mang dấu chân Ngài. Ngài lấy làm tiếc vì những gì Ngài làm chưa thấm vào bề sâu, chưa tạo ra được những thay đổi nơi lòng thành phố. Một sám hối thật sự không phải chỉ là một sám hối cá nhân, nhưng là sám hối nơi sinh hoạt của cả một thành phố. Nếu hôm nay Ngài đến với thành phố của chúng ta Ngài sẽ nói gì? Ngài có chỗ không ở mọi nơi người Kitô hữu đang sống, đang làm việc, đang học hành, đang vui chơi, đang cầu nguyện? Sám hối là trả lại chỗ cho Ngài trong mỗi góc phố vắng, là giữ cho thành phố xanh-sạch-đẹp theo nghĩa thiêng liêng nhất. Ước gì chúng ta biết xây dựng quanh ta những khoảng không gian tràn ngập sự hiện diện của Giêsu. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, việc tông đồ của con phải là việc tông đồ diễn tả lòng tốt. để khi thấy con, người ta phải nói: “vì anh này tốt quá, nên đạo của anh phải là đạo tốt.” Và nếu có ai hỏi con tại sao con lại hiền lành và tốt như thế, con sẽ trả lời vì con là tôi tớ của một đấng tốt hơn con nhiều. “Mong sao bạn biết được Chủ Giêsu của tôi tốt biết bao!” Con muốn sống thật tốt, để người ta có thể nói: “nếu tôi tớ mà tốt như vậy, thì Chủ sẽ tốt đến ngần nào?” (Chân phước Charles Foucauld). Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Chúa Giê-su buồn phiền. Vì chính những nơi được nghe rao giảng Tin mừng, được chứng kiến nhiều phép lạ, lại không ăn năn sám hối. Chúa đặt Ca-phác-na-um làm trung tâm rao giảng Tin mừng. Chúa thường xuyên đi lại Kho-ra-din và Bết-xai-đa. Tại Bết-xai-đa có vài môn đệ theo Chúa. Nhưng đa số dân chúng cứng lòng không tin. Trong khi đó tại vùng dân ngoại Tia và Xi-đôn có người phụ nữ, dù bị Chúa xua đuổi, vẫn kiên trì tin tưởng. Chúa buồn không phải vì người ta chối từ Chúa. Nhưng vì người ta chối từ Chúa Cha. Chối từ tình yêu thương vô cùng sâu thẳm và bao la của Chúa Cha. “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một Người”. Còn tình yêu nào lớn lao hơn thế. Còn tấm lòng nào quan tâm hơn thế. Nhưng buồn là buồn cho chính họ. Chúa Cha là nguồn mạch sự sống. Khi chối từ nguồn mạch sự sống, họ đánh mất sự sống. Họ đi vào chỗ chết.
Đó chính là điều tiên tri Ba-rúc thú nhận. Trong thời kỳ lưu đầy, Ít-ra-en nhà tan cửa nát. Phải lưu đầy biệt xứ. Phải làm nô lệ. Vừa khổ cực vừa nhục nhã. Nhưng vị tiên tri phải thú nhận dân Ít-ra-en bị như thế là xứng đáng. Vì họ đã chối từ Thiên Chúa yêu thương. Thiên Chúa sức mạnh. Thiên Chúa ban sự sống. “Chúng tôi, những người Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem, các vua và thủ lãnh, tư tế và ngôn sứ cũng như các bậc cha ông, chúng tôi phải hổ ngươi bẽ mặt như ngày hôm nay thì cũng đáng, vì tất cả chúng tôi đã phạm tội trước nhan Đức Chúa, đã bất tuân, không nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, không vâng theo các mệnh lệnh Đức Chúa đã đề ra trước mắt chúng tôi” (năm lẻ).
Chúa là nguồn mạch sự sống của toàn thể vũ trụ cũng như con người. Chúa đã chất vấn thánh Gióp. Và thánh Gióp không thể trả lời: “Có bao giờ ngươi đã đến tận nguồn biển cả và lang thang ở đáy vực sâu? Có ai từng mở cho ngươi lối vào âm phủ và ngươi thấy được cửa dấn tới âm ty? Có khi nào ngươi hiểu mặt đất rộng chừng nào? Nếu ngươi biết hết mọi điều đó thì cứ nói đi”. Và thánh Gióp chỉ biết thưa lại: “Vâng, con đây tầm thường bé nhỏ, biết nói chi để trả lời Ngài?” Thánh Gióp chỉ biết vâng theo ý Chúa. Chính vì thế ngài được Chúa yêu thương ban muôn hồng phúc (năm chẵn).
Chúng ta hãy noi gương thánh Gióp nhận biết Thiên Chúa là sự sống và là tất cả của chúng ta. Để luôn biết đón nhận Người. Đón nhận mệnh lệnh Người. Để chúng ta được sống.
Có một hiện tượng chung tại các nước đang phát triển, đó là người dân nghèo từ thôn quê đổ xô ra thành thị. Tại đô thị dễ tìm được công ăn việc làm, đời sống nhiều tiện nghi, thú tiêu khiển cũng nhiều hơn. Nhưng hiện tượng đô thị hóa nào cũng có mặt trái của nó: người dân đưa nếp sống thôn dã lên thành thị, giao thông tắc nghẽn, việc buôn bán lấn chiếm vỉa hè, trật tự công cộng không được tôn trọng, và trầm trọng hơn vẫn là đời sống luân lý đạo đức xuống cấp, nạn phạm pháp gia tăng.
Thời Cựu Ước, các Tiên tri đã không ngừng lên tiếng cảnh cáo dân chúng về cuộc sống đồi bại tại các đô thị. Chúc dữ các đô thị vốn là một đề tài quen thuộc trong lời rao giảng của các Tiên tri. Dường như có hai lý do khiến các Tiên tri lên án các đô thị: Một đàng các Tiên tri muốn nhắc nhở dân chúng về cuộc sống du mục trong sa mạc, tại đó họ đã nghe được tiếng Chúa và đã kết ước với Ngài, cuộc sống càng đơn giản, con người càng dễ kết thân với Chúa; nhưng đàng khác, nhận thấy cuộc sống đồi bại của các thành phố ngoại giáo trong vùng, các tiên tri muốn cảnh cáo dân chúng về mối nguy cơ có thể chạy theo một cuộc sống như thế. Sự đồi bại nguy hiểm nhất mà các Tiên tri không ngừng lên án một cách gắt gao, đó là việc tôn thờ ngẫu tượng và nếp sống vô luân của thị dân, điển hình nhất là của các đô thị sa đọa là Sôđôma, Gômôra, Babylon, Tyrô, Siđôn.
Trong Tin Mừng hôm nay, theo truyền thống các tiên tri Cựu Ước, Chúa Giêsu cũng nêu đích danh ba thành phố có nếp sống sa đọa nằm dọc theo bờ hồ, đó là Cozazin, Betsaiđa và Capharnaum. Những tiện nghi vật chất khiến con người dễ trở thành câm điếc trước Lời Chúa. Con người được tạo dựng không phải để sống đơn độc một mình, do đó, cô đơn vốn là điều con người sợ nhất, thành ra đi vào quan hệ với người khác là một trong những nhu cầu cơ bản nhất của con người. Cuộc sống đô thị với nếp sống ồn ào náo nhiệt của nó dễ tạo cho con người cái cảm tưởng rằng ở đó họ dễ đi vào quan hệ với người đồng loại.
Tuy nhiên, như thực tế cho thấy, cuộc sống càng xô bồ, con người càng dễ rơi vào cô đơn. Kinh Thánh không ngừng nhắc nhở con người rằng chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể mang lại bí quyết cho sự thông hiệp đích thực của con người, nghĩa là giúp cho con người ra khỏi nỗi cô đơn của mình; bí quyết đó chính là Lời của Ngài. Thật thế, khi con người sống kết hiệp với Chúa, thì dù có sống một mình, nó cũng sẽ không cảm thấy cô đơn; lại nữa, khi sống kết hiệp với Chúa, con người sẽ cảm thấy được thúc đẩy để đến với anh em của mình. Con người không thể kết hiệp với Chúa mà có thể khước từ người anh em của mình, và ngược lại, bất cứ một quan hệ chân thành nào với người anh em, cũng luôn gia tăng sự kết hiệp con người với Thiên Chúa.
Dù muốn hay không, những thay đổi trong cuộc sống do kinh tế thị trường mang lại không thể không ảnh hưởng đến cuộc sống đức tin của người Kitô hữu. Thật ra, cuộc sống đức tin không phải là một sinh hoạt phụ trong cuộc sống chúng ta; đức tin phải là chiều kích bao trùm toàn bộ cuộc sống của chúng ta: chúng ta là Kitô hữu trong mọi nơi, mọi lúc, mọi sinh hoạt, mọi hoàn cảnh. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đề cao cảnh giác trước nguy cơ có thể tách biệt niềm tin với những sinh hoạt hàng ngày và dần dà đẩy niềm tin ra bên lề cuộc sống. Niềm tin ấy có lẽ chỉ còn là Thánh Lễ Chúa Nhật, một vài sinh hoạt trong khuôn viên giáo đường, một số kinh kệ trong gia đình, chứ không ăn nhập gì đến cuộc sống mỗi ngày; niềm tin ấy có lẽ chỉ còn là một món đồ trang điểm cho cuộc sống và cần thiết cho một số dịp nào đó trong năm, chứ không liên hệ gì đến đòi hỏi công bằng bác ái, liên đới mà chúng ta phải thực thi hằng ngày.
Nguyện cho Lời Chúa luôn là động lực thúc đẩy và hướng dẫn chúng ta trong mọi sinh hoạt và quan hệ hằng ngày của chúng ta, để trong khi mưu cầu cho cuộc sống, chúng ta luôn tìm gặp Chúa trong tha nhân và trong mọi biến cố.
“Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy, mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy.” (Lc. 10, 16)
Hôm qua Đức Giêsu đã ban một số huấn lệnh cho các môn đệ đi truyền giáo. Trường hợp gặp thất bại, hãy đến nơi khác. Đức tin không cưỡng bức ai. Đàng khác, dù muốn hay không, nước Thiên Chúa vẫn đến! Người ta có thể khước từ nhưng sẽ có ngày họ sẽ gia nhập, vì đó là thành ý Thiên Chúa. Chính Ngài định đoạt ngày giờ, chứ không phải người ta. Ước mong họ sẽ tin cậy vào Ngài. Họ nghe lời Chúa không tùy thuộc vào tài khéo léo thuyết phục của loài người.
Chính Đức Kitô, là Con Thiên Chúa, cũng không thành công khi thuyết phục mọi người tin vào sứ điệp chân chính và cần thiết của Người. Bản tính nhân loại của Người như đã che lấp mọi may mắn làm cho người ta tin Người. Ba thành Kho-ra-zim, Bét-sai-đa và Ca-pha-na-um Người kể tên ra đây, là những vùng hoạt động của Người, được đặc biệt hưởng những ân huệ lời Người và tận tình cứu giúp của Người. Họ sẽ giầu có, phong phú biết bao về tinh thần, nếu họ lắng nghe và sống theo lời Người. Nhưng khốn thay! Họ đã cùng túng và thảm bại vì đã từ chối lời Người kêu gọi. Nếu các thành dân ngoại khác như Sô-đô-ma, Ti-a và Si-đôn đã được may mắn gặp gỡ Đức Kitô thì họ đã mặc áo nhặm ngồi trên tro tàn tỏ lòng ăn năn sám hối lâu rồi.
Chúa không chúc dữ đâu! Người chỉ than phiền về sự đui mù và vô ơn của mọi người, như Người khóc thương thành Giê-ru-sa-lem đã ruồng bỏ Người. Khi nghe những lời đau khổ của Đức Giêsu như thế, người ta không khỏi nghĩ đến những nước, những tỉnh thành, làng xã trong quá khứ đã nhận được dồi dào ơn lành và ánh sáng của Đức Kitô, nay họ đã ruồng bỏ Người, trong ngày phán xét, chúng ta sống hối hận chừng nào!
Hôm nay nghe các ngôn sứ của Đức Kitô, chính là nghe chính Đức Kitô. Nếu khước từ các Ngài là khước từ chính Người. Để lời khiển trách của Đức Giêsu xưa đem lại phúc lợi cho chúng ta, mỗi người và tất cả chúng ta hãy vui vẻ đón nhận lời Người để nghiêm chỉnh, thẳng thắn hồi tâm trở về với Đức Kitô. Đừng để lời cảnh giác của Người như tiếng vang ngoài tai rồi biến tan theo mây khói, thật khốn cho chúng ta!
Càng văn minh, tiến bộ, thì càng làm cho người ta được sung túc. Chuyện này là lẽ thường tình, và sống trong một xã hội thì sự phát triển của nó là điều mà ai cũng mong muốn! Tuy nhiên, mặt trái của vấn đề là ở chỗ: nó dễ làm cho tâm thức của con người rơi vào tình trạng bình thường hóa, tương đối hóa mọi chuyện, nhất là vấn đề giảm thiêng trong đời sống đạo đức. Vì thế, con người dễ bị sa vào những vòng vây của tội lỗi và tệ nạn... khiến nền tảng luân lý bị đe dọa và cuộc sống trác táng là điều dễ dàng xảy đến!
Hình ảnh sa đọa này thật rõ nét nơi các thành như: Sôđôma, Gômôra, Babylon, Tyrô, Sidon... Sang đến thời Đức Giêsu, diễn biến này cũng không thiếu, cụ thể là các thành: Bethsaida, Corozain, Caphanaum... Họ đã chối bỏ sự hiện diện của Thiên Chúa, chối bỏ những chứng từ đức tin và tôn thờ ngẫu tượng. Trai lỳ trong tội và đi tìm sự thỏa mãn xác thịt để bù lấp khoảng trống trong tâm hồn.
Nhưng tiếc thay, họ càng đi tìm thì lại càng mất. Bởi vì họ đã không gặp được Thiên Chúa ở trong chốn ăn chơi, xa đọa, mà chỉ gặp toàn những đối tượng, phương tiện làm cho mình xa Chúa và băng hoại đời sống đạo đức mà thôi.
Sự lãnh đạm, chai lỳ của dân các thành Bethsaida, Corozain, Caphanaum, cũng chính là sự chai lỳ và lãnh đạm của dân Chúa ngày nay là chúng ta! Hẳn mỗi người chúng ta đều thấy tình thương của Thiên Chúa trong thế giới và nơi cuộc sống, thế mà chúng ta đã không trở về với phẩm giá đích thực của mình là con cái Chúa, con cái Sự Sáng, nhưng vẫn sống thờ ơ, lãnh đạm và vui hưởng những thú vui tội lỗi...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy bám vào Thiên Chúa như là cứu cánh của mình. Chỉ có Thiên Chúa và trong Ngài, chúng ta mới tìm được niềm vui và hạnh phúc đích thực. Loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, con người không chỉ rơi vào sa đoạ mà còn cắt đứt mối tương quan với tha nhân.
Thật vậy, chỉ có lắng nghe Lời Chúa và thực hành, thì chúng ta mới trở nên người hoàn thiện, và xã hội, gia đình mới trở nên tốt mà thôi.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết yêu mến Lời Chúa và hân hoan thi hành, để Lời Chúa hướng dẫn chúng con biết làm điều thiện, tránh điều dữ. Có thế, Giáo Hội, xã hội và gia đình mới trở nên lành mạnh và chúng con mới có hy vọng được cứu độ. Amen.
Sứ điệp: Ai đón nhận Tin Mừng là đón nhận chính Thiên Chúa. Ai không tin, không đón nhận sẽ bị kết án và mất phần thưởng đời đời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, bài Tin Mừng hôm nay làm con phải sững sờ. Các thành phố Kho-ra-dim, Bet-sai-đa, Ca-phac-na-um đã được nghe Chúa giảng dạy và thấy các việc Chúa làm. Nhưng họ đã không nhận ra và thực thi điều Chúa truyền dạy. Họ không hối cải, và đã làm ngơ trước các đòi hỏi của Tin Mừng. Lòng họ đã nên chai cứng. Họ đánh mất ân huệ lớn lao mà bao nhiêu thế hệ trông chờ. Cuối cùng, thay vì ân phúc và trọng thưởng, họ đã bị kết án nặng nề và bị loại trừ khỏi hạnh phúc trường sinh.
Hình ảnh các thành phố ngoại giáo Ty-rô và Sy-đon sẽ được đối xử khoan dung hơn trong ngày phán xét làm con xác tín: Ai không tin, không đón nhận Tin Mừng là chối bỏ Chúa, và hơn thế nữa là chối bỏ chính Cha trên trời. Lạy Chúa, xin giúp con luôn nhận ra điều Chúa truyền dạy và quyết tâm thi hành. Việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa là lối mở dẫn đưa con về nhà Cha trên trời, là bảo đảm cuộc sống thật hạnh phúc đời sau.
Lạy Chúa, Giáo Hội đại diện Chúa tiếp tục loan báo Tin Mừng cứu độ. Ai tin, ai gắn bó, ai đón nhận giáo huấn của Giáo Hội là đi vào con đường cứu rỗi. Xin giúp con cởi mở nội tâm để sống tâm tình hiếu thảo trong lòng Giáo Hội. Xin thêm lòng yêu mến cho con, để Lời Chúa truyền và các điều Giáo Hội dạy, con thực hiện thật tốt đẹp. Xin đừng bao giờ để lòng con nên chai cứng trước những lời mời gọi sống cho Chúa, sống yêu thương phục vụ anh em hằng ngày. Amen.
Ghi nhớ: “Ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Ðấng đã sai Thầy”.
Tướng Carreau bị thương nặng, sắp chết. Sau khi được chịu các phép sau hết, ông cầm lấy thánh giá mà vợ ông đã mang vào cổ ông, nói với các bạn binh sĩ của ông:
“Các bạn hãy can đảm lên! Giữa các sự cực nhọc và đau khổ của mình, các bạn đừng quên rằng cuộc đời là vắn vỏi và ta thật vô phúc nếu khi chết, ta thấy rằng ta đã không hiểu biết, đã không thờ lạy và đã không bênh vực Chúa Giêsu”.
Suy niệm
Tyrô và Siđôn, những thành phố phồn thịnh, nổi tiếng thời Cựu ước, cũng là cửa ngõ bị ảnh hưởng của đời sống ngoại giáo xâm nhập vào Israel, nên các ngôn sứ hay phê phán nặng lời các thành phố này (x. Is 23; Ed 26-28; Ge 4,4-8; Am 1,9-10; Dcr 9,2-4). Riêng Sôđôma là thành phố tội lỗi đã bị Chúa hủy diệt bằng lửa… Các ngôn sứ lên án vì nếp sống thực dụng vật chất hưởng thụ dẫn tới những sa đọa luân lý, tôn thờ ngẫu tượng của ngoại bang tại các thành phố này.
Corozain, Bethsaiđa và Capharnaum là những thành phố nằm trên bờ hồ Giênêgiarét. Chúa Giêsu và các môn đệ đã nhiều lần rao giảng Tin Mừng, cũng như làm nhiều phép lạ ở các nơi này. Cuộc sống vật chất sung túc, làm cho con người không chỉ sa đọa, mà còn chối bỏ tương quan với Ðấng Tạo Hóa qua việc họ không tin vào lời giảng dạy của Đấng Thiên Sai đang ở giữa họ. Thế mà dân ở đây vẫn cứng lòng không lãnh nhận giáo huấn Chúa. Chính sự chối bỏ, cứng tin của họ, làm cho họ bị phán xét nặng hơn vì ngoan cố không chịu nghe theo Chúa. Thế mà dân ở đây vẫn cứng lòng không theo Chúa. Hình phạt cho các thị trấn sẽ nặng hơn vì ngoan cố không chịu nghe theo Chúa.
Khi loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, đời người sẽ trở nên trống rỗng vắng bóng Ngài, dễ dàng rơi vào sa đọa... Chỉ tin vào Thiên Chúa, khi đó con người mới biết đặt Ngài vào trọng tâm cuộc đời, sống những giá trị thiêng liêng và xây dựng tình người với nhau.
1. Sau khi sai 72 môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu liên tưởng đến các thành phố Khoradin, Betsaiđa và Capharnaum nằm ở bờ Ghênêdaret. Là những thành phố tương đối giầu có và trình độ văn hóa cao hơn những thành khác. Chúa Giêsu và các môn đệ đã nhiều lần rao giảng Tin Mừng cũng như làm phép lạ ở các thị trấn này, nhưng sự giầu có và kiến thức của họ đã khiến họ kiêu căng tự mãn nên không đón nhận Tin Mừng, không chịu hối cải, nên hình phạt cho họ sẽ nặng hơn hơn các thành phố khác.
2. Hôm nay Chúa Giêsu khiển trách các thành dọc bờ hồ Galilê là Khoradin, Betsaiđa và Capharnaum. Vì sao vậy? Vì các thành này đã chứng kiến “phần lớn các phép lạ và các lời giảng dạy” của Chúa; thế nhưng họ không đón nhận Tin Mừng, không chịu hối cải, họ đã đóng kín lòng mình, họ không để cho ơn Chúa được thể hiện trong cuộc đời. Họ đã không tận hưởng cái đặc ân, cái cơ hội mà thành Tia, Sôđôma và Gômôra không hề được. Và chính vì không đón nhận Chúa, nên họ cũng không thể thấy các phép lạ xẩy ra tiếp tục trong chính hành vi tiếp nhận của họ.
3. Cũng trong Tin Mừng hôm nay, sau khi chúc dữ các thành phố sa đọa, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng chỉ nhờ lắng nghe Lời Ngài, con người mới có thể thông hiệp và hiệp nhất với nhau. Niềm tin là men nối kết con người với nhau, niềm tin là sức bật đưa con người ra khỏi chính mình để đến với người khác, niềm tin là thuốc chữa trị con người khỏi vong thân. Phát triển kinh tế là một yếu tố cần thiết cho cuộc sống; thế nhưng con người không chỉ sống bằng cơm bánh. Ăn no, hưởng thụ, mà tinh thần trống rỗng thì cũng chỉ là mẫu người què quặt kém phát triển mà thôi. Một cuộc sống sung mãn đích thực phải là cuộc sống trong đó giá trị tinh thần và luân lý được đặt vào hàng trọng yếu (Mỗi ngày một tin vui).
4. Chúa Giêsu đến trần gian để cứu độ mọi người. Trước sự cứng lòng tin của một số dân thành đã từng chứng kiến phép lạ Chúa làm mà không tin, Chúa Giêsu dùng những lời lẽ than trách, khuyến cáo họ. Dầu vậy, Chúa không trừng phạt những kẻ lãnh đạm, cố chấp không đón nhận Tin Mừng, nhưng mời gọi, khuyến cáo họ nghe Lời Chúa mà ăn năn trở lại. Chúng ta cần khoan dung với kẻ ác, nhẫn nại với người cứng lòng, để tình yêu của Chúa được biểu lộ qua chúng ta, có sức lôi cuốn tội nhân hoán cải (5 phút Lời Chúa).
5. Chúng ta thấy tội lỗi là đáng sợ, mà đã có tội lại còn cố chấp thì càng đáng sợ hơn. Tục ngữ Ả Rập nói rằng: tội có năm ngón tay, nó dùng hai ngón bịt mắt chúng ta, để chúng ta không thấy được tội lỗi xấu xa chừng nào. Nó sợ nếu chúng ta biết tội lỗi xúc phạm đến Chúa nặng nề thế nào, thì chúng ta không dám phạm.
Nó dùng hai ngón khác bịt tai chúng ta, để chúng ta không còn nghe thấy tiếng Chúa mà ăn năn sám hối. Nó làm như vậy để giữ chúng ta ở trong tình trạng tội lỗi lâu ngày, lòng chúng ta trở nên chai đá, và chúng ta không muốn thống hối nữa.
Nó dùng ngón cuối cùng bịt miệng chúng ta, để chúng ta không đọc lời thống hối, không phàn nàn hối hận vì tội lỗi đã phạm (Phạm Văn Phượng).
6. Người xưa dạy: “Kẻ tự cho mình là tài giỏi thì tai không còn được nghe lời hay lẽ phải nữa”.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cảnh báo về số phận của những kẻ tự mãn. Họ giống như dân các thành Khoradin, Betsaiđa và Capharnaum sống trong sự sung túc về vật chất, trí thức và lấy làm thỏa mãn với sự thông minh trần thế của mình, để rồi họ khép kín lòng mình, và từ chối lời khôn ngoan của Chúa Giêsu. Bởi vậy, số phận dành cho những người đó là hố sâu của sự chết muôn đời.
Trong cuộc sống, chúng ta lắm khi cũng mắc phải những cám dỗ như thế. Ta thường tự cao tự đại về lượng tri thức đồ sộ đã thụ đắc và cảm thấy thỏa mãn với chúng, để rồi khép kín tâm hồn và xem thường lời chỉ dạy, khuyên nhủ của người khác. Ta đâu biết đó chính là những thông điệp mà Thiên Chúa đang muốn gửi đến cho ta (Học viện Đa Minh).
7. Truyện: Hai triết gia Jacques Maritain và Raissa.
Jacques Maritain và Raissa là hai triết gia của nước Pháp vào đầu thế kỷ này. Hồi còn trẻ, hai người đã hết lòng yêu thương nhau. Nhưng rồi sự vô tín ngưỡng đã đưa họ đến vực thẳm của thất vọng. Cuộc sống càng ngày càng trở nên nhạt nhẽo, vô nghĩa. Rồi một hôm kia, hai người dắt nhau đến một công viên ở Paris và thề thốt với nhau rằng, nếu trong vòng 12 tháng mà không tìm ra được một ý nghĩa nào cho cuộc sống thì cả hai sẽ cùng tự vẫn.
Rất may là sau 12 tháng họ đã tìm ra cho cuộc sống một ý nghĩa. Ý nghĩa ấy là tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa.
Sau đó cho đến cuối đời, họ đã giành tất cả cuộc sống của họ để làm chứng cho tình yêu và ân sủng họ đã nhận được.
Trong tác phẩm có tựa đề “Thủ lãnh của thế gian”, bà Raissa đã viết như sau: “Ma quỉ đã tung ra một mạng lưới ảo tưởng trên chúng ta. Mạng lưới này tuy vô hình nhưng rất mãnh liệt. Nó làm cho chúng ta yêu thích giây phút chóng qua hơn cuộc sống vĩnh cửu. Nó khuyến dụ chúng ta chạy theo sự vô định hơn chân lý. Nó bảo ta rằng, ta chỉ có thể yêu mến tạo vật bằng cách thờ lạy chúng mà thôi”.
Sau khi sai 72 môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu liên tưởng đến những thành phố đã không đón nhận Tin Mừng. Đó là Khôradin, Bétsaiđa và Caphácnaum. Những thành này đều ở ven biển hồ Galilê, đều tương đối giàu có và trình độ văn hóa cao hơn những thành khác.
Nhưng sự giàu có và kiến thức của họ đã khiến họ kiêu căng tự mãn nên họ không thèm đón nhận Tin Mừng. Bao nhiều lời rao giảng và phép lạ Chúa Giêsu đã làm ở những nơi đó đều hầu như hoàn toàn vô ích.
Bởi thế, lẽ ra họ được hạnh phúc, nhưng Chúa Giêsu bảo “Khốn cho họ”.
B.... nẩy mầm.
1. Trong những buổi chia sẻ Lời Chúa, nếu tôi nghĩ rằng mình đã biết nhiều hay mình đã đạo đức rồi, thì lời của những anh chị em khác chia sẻ sẽ chẳng mang lại ích lợi gì cho tôi. Bởi trí tôi quá đầy, lòng tôi quá đủ cho nên không gì có thể vào thêm được nữa.
2. Những kẻ bị chúc dữ trong đoạn Tin Mừng này là những người sống ở các thành phố. Nếp sống văn minh thành phố dễ đẩy người ta xa Chúa: do cám dỗ của vật chất, do tâm hồn quá ồn ào, do ý nghĩ mình thông giỏi…
Dù muốn dù không càng ngày chúng ta càng dấn sâu vào văn minh thành phố. Xin Chúa giúp chúng ta làm thế nào để vẫn giữ được tâm hồn sa mạc: hướng về siêu nhiên hơn tự nhiên, hướng nội hơn hướng ngoại, trọng tình yêu hơn hưởng thụ, xử dụng tiện nghi vật chất trong tình thần làm chủ hơn là tinh thần nô lệ…
3. “Ai nghe các con là nghe Thầy, và ai khinh dễ các con là khinh dễ Thầy. Mà ai khinh dễ Thầy là khinh dễ Đấng đã sai Thầy”: Chúa Giêsu đang nói về những sứ giả của Ngài, đem lời Ngài đi rao giảng. Nghe họ tức là nghe Chúa, từ chối họ tức là từ chối Chúa.
Dù tôi là kitô hữu, là tu sĩ, Linh mục, Chúa vẫn còn gởi các sứ giả của Ngài đến với tôi, để khuyên bảo, nhắc nhở tôi. Những người đó có thể là một người bạn của tôi, cấp trên của tôi hoặc cấp dưới của tôi nữa. Nghe họ là nghe Chúa, không nghe họ là không nghe Chúa!
4. Một nhà hiền triết đã nói với một ông vua rất giàu có như sau: Không ai có thể được xem là hạnh phúc thật khi trái tim người đó còn bị trói buộc với của cải vật chất. ("Mỗi ngày một tin vui")
5. “Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy (Lc 10,16).
Lời Chúa hôm nay chỉ cho tôi một thái độ sống, đó là sống cho Đức Kitô, sống vì Đức Kitô. Tôi phải sống như thể tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Chúa Giêsu sống trong tôi, để bất cứ ai nghe tôi là nghe Chúa, và ai khước từ tôi là khước từ Ngài.
Thật là một vinh dự đáng tự hào, một trách nhiệm lớn lao. nhiều lúc tôi tự hỏi trong thực tế mình đã nghe Lời Chúa để có thể nói lời Ngài chưa? Tôi dám chịu khước từ vì Ngài không?
Lạy Chúa, xin cho biết lắng nghe Lời Ngài trong thế giới hôm nay để con nhận ra và sống Lời Ngài trong những giây phút hiện tại. (Hosanna).
Tội lỗi của thành Corazin, Bethsaida, Capharnaum là gì mà Chúa bảo là xấu xa hơn tội của thành Tyrô và Siđôn, của Sôđôma và Gômôra? Đó chắc phải là tội rất trọng. Nhưng đó là tội gì?
1. Đó là tội của những người quên trách nhiệm về đặc ân mà mình được hưởng. Những thành phố ở Galilê đã hưởng một đặc ân, một cơ hội mà thành Tyrô, Siđôn, Sôđôma và Gômôra không hề được. Họ được tận mắt chứng kiến những công việc Chúa làm và nghe những Lời Chúa dạy nhưng họ chẳng đáp lại gì.
Chiều ngày 6-5-1989, có 12 bạn sinh viên Đại Học Bách Khoa và Đại Học Y Dược Sài gòn được nhận 12 xuất học bổng toàn năm, mỗi tháng là 30.000 đồng. Hầu hết các bạn đều thuộc những gia đình khó khăn, nhưng các bạn ấy đã nỗ lực học hành thật xuất sắc những năm gần đây.
Hai vị ân nhân của họ chính là kỹ sư Dương Quang Thiện và vợ là bà Agnès Hofstetter. Năm nay bà Agnès vừa đúng tuổi được nhận lương hưu trí của chính phủ Thụy Sĩ trước khi theo chồng về Việt Nam. Hai ông bà đã quyết định chia sẻ trọn số lương hưu này cho các bạn trẻ Việt Nam hiếu học, nhưng gặp phải hoàn cảnh khó khăn như chính ông bà xưa kia.
Ông bà nhắc lại quá khứ vất vả cực nhọc kiếm sống, gia đình của bà có đến 6 anh chị em nheo nhóc. Còn ông bà thân sinh ra ông thì phải đi chích dạo mỗi ngày từ 5 giờ sáng để nuôi 8 anh em ông ăn học nên người. Ông Dương Quang Thiện còn nhớ, lúc 24 tuổi ông nhận được học bổng đi du học của một tổ chức tư nhân ở Thụy Sĩ, những người trao học bổng đã dặn dò nhắn nhủ ông:
- Hôm nay, anh nhận học bổng này của chúng tôi và anh không nợ gì chúng tôi cả. Thế nhưng, anh lại mắc nợ những người đi sau anh, những thế hệ đàn em và con cháu của anh. Sau này thành tài, làm ăn khá giả, anh đừng bao giờ quên những người đi sau cũng đang cần một sự giúp đỡ khích lệ của anh.
2. Đó là tội thờ ơ. Những thành phố này đã không công kích Chúa Giêsu, đã không đuổi Ngài ra khỏi cửa nhà họ, họ cũng không tìm cách đóng đinh Ngài. Họ chỉ không quan tâm đến Ngài.
Không quan tâm cũng là một tội. Ngày nay việc quan tâm đến những nhu cầu chính đáng của loài người đã được nhiều tổ chức trên thế giới lưu ý. Xin đan cử một thí dụ: Để đánh dấu ngày Liên Hiệp Quốc tròn 50 tuổi, tổ chức này đã ban hành một nghị quyết: cấm hút thuốc trong các văn phòng của Liên Hiệp Quốc.
Trụ sở Liên Hiệp Quốc nằm giữa thành phố New York và lâu nay không phải tuân hành luật cấm hút thuốc của thành phố. Từ nằm 1985 đã có luật cấm hút thuốc trong các phòng họp. Các nhà ngoại giao và ký giả chỉ được phép hút trong văn phòng và hành lang mà thôi. Nay theo luật mới toàn bộ trụ sở Liên Hiệp Quốc được xem là khu cấm hút thuốc.
3. Xưa là như thế, còn hôm nay thì sao? Dù muốn hay không, cuộc sống do kinh tế thị trường chi phối, không thể không ảnh hưởng đến cuộc sống đức tin của người Kitô hữu. Chúng ta là Kitô hữu trong mọi nơi, mọi lúc, mọi sinh hoạt, mọi hoàn cảnh.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đề cao cảnh giác trước nguy cơ có thể tách biệt niềm tin với những sinh hoạt hàng ngày và dần dà đẩy niềm tin ra bên lề cuộc sống.
Jacques Maritain và Raissa là hai triết gia trẻ của nước Pháp vào đầu thế kỷ này. Hồi còn trẻ, hai người đã hết lòng yêu thương nhau. Nhưng rồi sự vô tín ngưỡng đã đưa họ đến vực thẳm của thất vọng. Cuộc sống càng ngày càng trở nên nhạt nhẽo, vô nghĩa. Rồi một hôm kia, hai người dắt nhau đến một công viên ở Paris và thề thốt với nhau rằng, nếu trong vòng 12 tháng mà không tìm ra được một ý nghĩa nào cho cuộc sống thì cả hai sẽ cùng tự vẫn.
Rất may là sau 12 tháng họ đã tìm ra cho cuộc sống một ý nghĩa. Ý nghĩa ấy là tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa.
Sau đó cho đến cuối đời, họ đã giành tất cả cuộc sống của họ để làm chứng cho tình yêu và ơn sủng họ đã nhận được.
Trong tác phẩm có tựa đề "Thủ lãnh của thế gian", bà Raissa đã viết như sau: "Ma quỷ đã tung ra một mạng lưới ảo tưởng trên chúng ta. Mạng lưới này tuy vô hình nhưng rất mãnh liệt. Nó làm cho chúng ta yêu thích giây phút chóng qua hơn cuộc sống vĩnh cửu. Nó khuyến dụ chúng ta chạy theo sự vô định hơn chân lý. Nó bảo ta rằng, ta chỉ có thể yêu mến tạo vật bằng cách thờ lạy chúng mà thôi."
Chúng ta xin Chúa cho chúng ta luôn biết gắn bó với Chúa, vì chỉ có Chúa mới có thể làm thoả mãn được khát vọng thầm kín nhất của cuộc đời chúng ta và đem lại cho chúng ta một ý nghĩa đích thực về cuộc sống.
Corozain, Bethsaiđa và Capharnaum là những thành phố tương đối giàu có và sầm uất. Chúa đến đây rao giảng Tin Mừng. Chúa rất buồn cho những thành phố này, vì các lời Chúa rao giảng và các phép lạ Chúa làm chẳng lay động được con tim và trí não của họ, đến nỗi Chúa phải thốt lên “Khốn cho ngươi, hỡi Kho-ra-din! Khốn cho ngươi, hỡi Bết-xai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đôn, thì từ lâu họ đã mặc áo vải thô, ngồi trên tro tỏ lòng sám hối rồi. Vì thế, trong cuộc Phán Xét, Tia và Xi-đôn sẽ được xử khoan hồng hơn các ngươi. Còn ngươi nữa, hỡi Ca-phác-na-um, ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư? Không, ngươi sẽ phải nhào xuống tận âm phủ!” (Lc 10, 13 - 15).
Lời thốt lên “ Khốn cho ngươi…. “ của Chúa với các thành phố này ôi thật não nề, buồn thảm quá. Dường như Chúa rất thất vọng, Chúa không còn cách nào khác để cứu chữa họ, vì sự kêu ngạo, ỷ lại vào sự giàu có, sa hoa, tráng lệ, nhưng chai lì trong tội lỗi của họ, không cần Chúa trong cuộc sống của họ.
Chúa nhắc lại quá khứ, lịch sử, nếu những lời Chúa rao giảng và các phép lạ Chúa làm ở nơi họ mà xảy ra tại Tyrô và Siđon thì hai thành phố này đã mặc áo vải thô và ngồi trên tro bụi mà sám hối trở về với Chúa, để rồi qua đó Chúa kêu gọi họ nhìn lại bản thân của mình mà tin vào Chúa, sửa đổi cuộc sống cho tốt hơn, nhưng cũng không có kết quả.
Sự cứng lòng của dân cư các thành phố Corozain, Bethsaiđa, Capharnaum ngày xưa đang diễn ra nơi chúng ta ngày hôm nay, nhiều lúc chúng ta không cần Chúa, chúng ta kiêu ngạo, chúng ta dựa vào của cải vật chất, địa vị chức quyền, dựa vào các sáng chế phát minh khoa học kỹ thuật và loại trừ Chúa ra khỏi cuộc sống, không nghe Chúa dạy bảo nữa, dẫn đến kết quả nhiều người hư vong, thế giới đảo điên, thiên nhiên xáo trộn. Chúng ta cần phải quay về với Chúa, tựa nương vào Chúa, nghe Lời Chúa để chúng ta được Chúa xót thương, ban ơn hoán cải mà được hưởng sự sống đời đời.
Lạy Chúa, xin Chúa đừng để chúng con lòng chai dạ đá, mặt dày mày dạn, xin Chúa uốn nắn cõi lòng chúng con, cho chúng con trở thành những người con dễ dạy bảo của Chúa, hầu mỗi ngày chúng con đón nhận Lời Chúa dạy bảo, hoán cải mà sống tốt hơn. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Sáu Tuần 26 Thường Niên, Năm Lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Khi Chúa thương xót và thứ tha, chính là lúc Chúa biểu lộ quyền năng cách tỏ tường hơn cả, xin Chúa không ngừng ban ơn giúp chúng ta đạt tới Nước Trời là hạnh phúc Chúa đã hứa ban, và chúng ta đang hết lòng theo đuổi.
Đạt tới hạnh phúc Chúa đã hứa ban, nhờ biết kết hợp với Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích thư của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Philípphê: Hãy kết hợp với Chúa mà sống vững vàng. Với những người mới trở thành Kitô hữu, thánh Phaolô chỉ cho họ thấy phải sống ra sao mới thật sự là công dân Nước Trời… Có Chúa chứng giám, đây là điều tôi khuyên anh em: đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ. Hãy luôn luôn cố gắng làm điều thiện cho nhau cũng như cho mọi người. Anh em hãy làm như vậy: đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu. Anh em hãy vui mừng luôn mãi, và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh.
Đạt tới hạnh phúc Chúa đã hứa ban, nhờ tuân thủ lệnh truyền của Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích khảo luận của thánh Amrôxiô: Anh em hãy vui lên trong Chúa… Chúa đặt chân tôi đứng trên tảng đá, làm cho tôi bước đi vững vàng, Chúa cho miệng tôi hát bài ca mới. Nghe tiếng tôi kêu cầu, Người kéo tôi ra khỏi hố diệt vong.
Đạt tới hạnh phúc Chúa đã hứa ban, nhờ trung thành vâng theo tiếng Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách ngôn sứ Barúc: Chúng tôi đã phạm tội trước nhan Đức Chúa, và đã bất tuân. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 78 cho thấy: Lạy Chúa, để danh Ngài rạng rỡ, xin giải thoát chúng con. Lạy Thiên Chúa, dân ngoại đã xâm lăng lãnh địa Ngài; chúng làm ô uế cả nơi thánh điện, phá hủy Giêrusalem thành đống tro tàn; tử thi những người tôi tớ Chúa, chúng đem liệng cho chim trời ăn; xác những kẻ hiếu trung với Ngài, lại quẳng làm mồi cho dã thú.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Ngày hôm nay, anh em chớ cứng lòng, nhưng hãy nghe tiếng Chúa. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy. Chúng ta luôn bội tín thất trung, khước từ Chúa, nhưng, Chúa vẫn luôn kiên nhẫn với chúng ta: vì muốn cứu độ chúng ta, nên Thiên Chúa giàu lòng nhân từ đã kêu gọi chúng ta tới vui hưởng hạnh phúc muôn đời. Thật vậy, các sự vui thú đời này đưa tới buồn sầu muôn thuở, còn, các niềm vui trong thánh ý Chúa, thì, dẫn đưa những ai kiên trì trong niềm vui ấy, tới nguồn hoan lạc tồn tại đến muôn đời. Chúng ta hãy làm cho niềm vui trong Chúa mỗi ngày một gia tăng, và thực hành các điều răn của Chúa, bởi vì, trên thế gian này, chúng ta càng phấn đấu để tuân thủ lệnh truyền của Thiên Chúa, thì, ở đời sau càng được hạnh phúc và vinh hiển hơn trước nhan Người. Chúng ta phải làm sao cho cách ăn nết ở thánh thiện của chúng ta không những hiện tỏ trước nhan Thiên Chúa, mà còn, trước mặt người đời, để nêu gương hiền hoà, tiết độ cho mọi người. Chúa luôn ở gần tất cả những ai kêu cầu Người với lòng chân thành, với đức tin ngay thẳng, đức cậy vững vàng, đức mến hoàn hảo, vì Người biết ta cần gì trước khi ta xin. Người luôn sẵn sàng trợ giúp tất cả những ai trung thành phụng sự Người trong bất cứ nhu cầu nào. Vì vậy, trước những khốn khó xảy đến, ta đừng quá lo lắng, vì phải biết rằng Đấng bảo vệ ta là Thiên Chúa hằng ở gần ta. Nếu ta cố gắng chu toàn và tuân giữ điều Người truyền, thì Người sẽ ban cho ta điều đã hứa mà không trì hoãn. Khi Chúa thương xót và thứ tha, chính là lúc Chúa biểu lộ quyền năng cách tỏ tường hơn cả, ước gì nhờ ơn Chúa giúp, ta đạt tới Nước Trời là hạnh phúc Chúa đã hứa ban, và ta đang hết lòng theo đuổi. Ước gì được như thế!
Mừng vui đích thực. "Các con hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời".
* Thánh nhân sinh năm 1182 tại Assisi. Từ ngày trở lại, gặp Chúa Kitô ở nhà thờ thánh Đa-mi-a-nô cho tới ngày từ trần ở Poóc-ti-un-cu-la (1226), thánh nhân -con người được mệnh danh là Người Nghèo thành Assisi- cùng với các anh em tu sĩ của mình sống nghèo khó, rảo khắp nơi loan báo tình yêu của Thiên Chúa. Người cũng đặt nền tảng cho ngành nữ đan sĩ của Dòng và huynh đoàn giáo dân hãm mình. Người còn tha thiết với việc giảng thuyết cho những người chưa tin. Suốt đời, thánh nhân không có bận tâm nào khác ngoài mối bận tâm theo Đức Giêsu trong tinh thần vui tươi, đơn sơ, tha thiết phục vụ Hội Thánh và dịu dàng yêu thương mọi người.
Khi ấy, bảy mươi hai ông trở về vui mừng và nói rằng: "Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng vâng phục chúng con". Người bảo: "Ta đã thấy Satan từ trời sa xuống như luồng chớp. Này Ta đã ban cho các con quyền giày đạp rắn rết, bọ cạp, mọi quyền phép của kẻ thù, và không có gì có thể làm hại được các con. Dù vậy, các con chớ vui mừng vì các thần phải vâng phục các con; nhưng hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời".
Lúc đó, Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần, Người nói: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. Vâng, lạy Cha, đó là ý Cha đã muốn thế. - Cha Ta đã trao cho Ta mọi sự. Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha; cũng không ai biết Chúa Cha là Đấng nào, ngoài Chúa Con, và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết". Rồi Chúa Giêsu quay lại phía các môn đệ và phán: "Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều các con xem thấy, vì chưng, Thầy bảo các con: Có nhiều tiên tri và vua chúa đã muốn xem những điều các con thấy, mà chẳng được xem, muốn nghe những điều các con nghe, mà đã chẳng được nghe".
Trong Tin Mừng Luca, Đức Giêsu đã sai nhóm Mười Hai đi rao giảng về Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh tật (ch. 9). Họ là những tông đồ thân tín, sống gần gũi bên Thầy Giêsu. Nhưng vì thấy lúa chín đầy đồng, và thợ gặt thì ít, Đức Giêsu lại sai thêm bảy mươi hai môn đệ lên đường. Đây là một số người khá đông mà Đức Giêsu quy tụ được. Chắc họ không luôn luôn ở với Ngài và gần gũi như nhóm Mười Hai, vì họ còn phải vất vả lo chuyện gia đình, làm ăn, nhưng họ vẫn được Ngài chỉ định và trao phó nhiệm vụ đi tiền trạm. Ngày trở về của nhóm Bảy Mươi Hai là một ngày rất vui. Họ thi nhau khoe với Thầy về chuyện họ trừ được quỷ dữ, Họ đã có kinh nghiệm về Tên của Thầy mình. “Nhân danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải lụy phục chúng con” (c. 17). Những môn đệ bình thường bắt đầu vui sướng nhận thấy họ có thể dũng cảm đối đầu với những mãnh lực đáng sợ chỉ nhờ đặt nơi Thầy một lòng tin phó thác đơn sơ. Đúng là Xatan đã đến ngày tàn khi Đức Giêsu xuất hiện (c. 18). Nó bị sa xuống từ trời, và nước của nó bị đổ nhào bởi Nước Thiên Chúa. Trước niềm vui chiến thắng của nhóm Bảy Mươi Hai, Thầy Giêsu muốn nhắc họ về một niềm vui khác, lớn hơn nhiều. Đó là vui vì tên họ đã được ghi trên trời (c. 20). Khi Xatan bị tống khỏi trời, thì các môn đệ có chỗ vững vàng ở đó. Phúc cho họ vì được ơn có tên trong sách sự sống (Pl 4,3). Đây mới là hạnh phúc và niềm vui đích thật. Bài Tin Mừng hôm nay đầy ắp niềm vui. Niềm vui từ số đông môn đệ tỏa lan sang Thầy Giêsu. Vào ngay giờ ấy, Thầy cũng bất ngờ cảm nếm niềm vui do Thánh Thần, và môi Thầy bật lên lời cầu nguyện tự phát. Vừa thân thiết, vừa cung kính, Thầy dâng Cha lời tạ ơn: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha.” Thầy Giêsu ngây ngất trước những việc Cha làm cho các môn đệ. Tuy chỉ là những kẻ bé mọn, bình dân, chẳng phải là những nhà khôn ngoan thông thái, nhưng họ lại được Cha mặc khải những điều mầu nhiệm. Cha đã vén mở cho họ tin vàoThầy Giêsu là Con của Cha. Họ có niềm tin mà những người kiêu căng tự mãn không có được. Thầy Giêsu khâm phục sự sắp đặt kỳ diệu của Cha: “Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (c. 21). Chúng ta có quyền tin rằng, vào giây phút cầu nguyện linh thiêng này, không phải chỉ các môn đệ và Thầy Giêsu mới đầy ắp niềm vui. Cả Chúa Cha trên trời cũng vui, cùng với Chúa Thánh Thần. Qua lời cầu nguyện, Thầy Giêsu cho thấy Cha đang mặc khải cho môn đệ. Và chính Thầy cũng đang mặc khải về Cha cho họ. Đây là giây phút Cha-Con mặc khải về nhau. Giáo Hội hôm nay cần Mười Hai tông đồ, Nhưng cũng rất cần Bảy Mươi Hai môn đệ đi tiền trạm cho Chúa Giêsu. Giáo Hội cần những giáo dân được sai đi để xây dựng Nước Thiên Chúa. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, những hạt cải Chúa gieo vãi cách đây hai ngàn năm nay đã trở thành cây cao cho chim trời rủ nhau trú ngụ. Nhúm men nhỏ bé được Chúa vùi vào khối bột, đã làm bột dậy lên, để trở nên tấm bánh thơm ngon cho thế giới. Sau hai mươi thế kỷ, các môn đệ Chúa không còn là nhóm Mười Hai bé nhỏ. Hôm nay, các kitô hữu chiếm gần một phần ba, người công giáo chiếm hơn một phần sáu dân số thế giới. Chúng con được mời gọi xây dựng Nước Chúa trên trần gian, cho đến khi tất cả mọi người nhận biết và tin yêu Chúa. Xin cho chúng con đừng mặc cảm vì người công giáo chỉ là thiểu số trên quê hương Việt Nam, nhưng xin cho chúng con mạnh dạn làm chứng cho Chúa trong việc xây dựng một xã hội công bằng và huynh đệ. Hôm nay chúng con phải tiếp tục làm việc như Chúa, gieo hạt giống để làm nên những cánh rừng, trở nên chất xúc tác để biến đổi môi trường mình sống. Và chúng con biết rằng sớm muộn cũng sẽ thành công vì tin Chúa vẫn cần cù làm việc với chúng con. Amen. ---------------------------------
Niềm vui chỉ có trong Chúa. Đó là sứ điệp Lời Chúa hôm nay.
Ba-rúc tràn đầy nỗi buồn. Vì con cái Ít-ra-en thờ lạy ma quỉ. Ma quỉ thiêu đốt dục vọng. Khiến người ta mê mải đuổi bắt hạnh phúc. Càng đuổi càng xa. Càng chiếm đoạt càng buồn bã. Buồn cho bản thân. Buồn cho những người thân. Buồn cho cả Thiên Chúa. Buồn cho cả thiên đàng. “Xưa tôi vui mừng nuôi dưỡng chúng, nay đành phải buồn sầu ứa lệ để cho chúng ra đi. Chớ ai vui mừng vì thấy tôi goá bụa, bị mọi người bỏ rơi; tôi phải sốn đơn đôc như thế này chỉ vì con cái tôi phạm tội, lìa bỏ Lề Luật của Thiên Chúa”. Vì thế tiên tri không ngừng kêu gọi con cái trở về để được Chúa xót thương. Để được hưởng niềm vui. Niềm vui vĩnh cửu (năm lẻ).
Bài Tin Mừng hôm nay chứa chan niềm vui. Các môn đệ hớn hở sau một đợt sứ vụ. Về tường trình với Chúa những chiến thắng lẫy lừng. Ma quỉ phải chịu khuất phục vì các ngài kêu Danh Cực Thánh Giê-su. Chúa Giê-su tràn đầy niềm vui. Vì Chúa Cha đã ban cho các môn đệ được biết mầu nhiệm Nước Trời. Các ngài vốn là những người bé nhỏ nghèo hèn. Thất học. Chính vì không có gì. Không ham hố gì. Không hi vọng gì nơi trần gian. Tâm hồn các ngài hoàn toàn trong trắng. Thuộc trọn về Chúa. Nên Chúa ngự trong các ngài. Có Chúa các ngài khuất phục được ma quỉ. Có Chúa các ngài có tất cả. Đó là thiên đàng. Là thuộc trọn về Chúa. Chúa là niềm vui. Nên khi không có gì. Chỉ có Chúa. Các ngài tràn đầy niềm vui. Các ngài đã tới cõi phúc. Được gặp chính Chúa. Đó là điều mọi người mơ ước mà không được. Đó chính là niềm vui đích thực, Chúa Giê-su mặc khải cho các ngài: “Anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời”.
Thánh Gióp nêu gương cho ta. Dù trong thịnh vượng. Dù trong thử thách. Lúc nào cũng gắn bó với Chúa. Rồi Chúa lại ban thưởng niềm vui. Niềm vui trong đời sống sung túc. Niềm vui trong con cái đông đúc. Niềm vui được sống tới tuổi thọ hiếm có. Tất cả những niềm vui đó chỉ là hình ảnh diễn tả niềm vui có Chúa. Có Chúa là có tất cả. Khi thánh Gióp hoàn toàn từ bỏ mình. Trở nên người nghèo khổ nhất. Không có gì. Kể cả danh dự. Kể cả niềm an ủi. Nhưng ngài có Chúa. Nên ngài có tất cả. Ngài có niềm vui. Làm cho những người chung quanh được vui. Và nhất là Thiên Chúa vui tươi. Thiên đàng cũng mừng vui (năm chẵn).
Chúa Giêsu chọn 72 môn đệ và sai họ ra đi rao giảng Tin Mừng; họ gặp nhiều chống đối, nhưng cũng gặt hái được nhiều thành công. Tin Mừng hôm nay thuật lại rằng sau một thời gian ra đi rao giảng, các ông hớn hở trở về nói lên niềm vui của mình, vì đã nhờ quyền năng của Chúa mà xua trừ được ma quỉ, nhưng Chúa Giêsu muốn cho các ông thấy rằng Ngài đến là để giải phóng con người nô lệ và đưa họ tới tự do đích thực.
Giải phóng con người khỏi ách nô lệ và đưa con người vào tự do đích thực, đó là sứ mệnh mà Giáo Hội tiếp tục thực thi trong thế giới này. Chúng ta có thể nhận ra sứ mệnh ấy qua diễn văn Ðức Gioan Phaolô II đọc tại trụ sở Liên Hiệp Quốc vào ngày 5/10/1995. Ðức Thánh Cha ghi nhận rằng con người càng ngày càng tìm kiếm tự do và đây chính là điểm nổi bật của thời đại chúng ta. Sự tìm kiếm tự do ấy đặt nền tảng trên các quyền phổ quát của con người. Chính vì phản ứng lại những hành vi man rợ đối với phẩm giá con người, mà chỉ ba năm sau khi thành lập, Liên Hiệp Quốc đã công bố bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Ðây là một gia sản chung của nhân loại, nó bắt nguồn từ chính bản tính của con người, trong đó có phản ánh những đòi hỏi khách quan và không thể hủy bỏ được của một luật luân lý phổ quát.
Sống theo những khát vọng cao thượng nhất của mình, con người có thể làm được những điều xem ra vượt quá khả năng của nó. Ðó là sứ điệp chúng ta có thể đọc thấy trong Tin Mừng hôm nay: các môn đệ ra đi với hai bàn tay trắng, họ không có một khí giới nào khác ngoài sự siêu thoát và niềm tin vào quyền năng của Chúa Giêsu. Vậy mà khi nói về những thành quả của họ, chính Chúa Giêsu đã thốt lên: "Ta đã thấy Satan như tia chớp từ trời rơi xuống". Ðó chính là sức mạnh của những người mà Chúa Giêsu gọi là những kẻ bé mọn.
Ngày nay, người Kitô hữu cũng có thể thực hiện được những điều cả thể ấy nếu họ cũng biết trang bị cho mình một niềm tin vào quyền năng của Chúa, nhất là nếu họ biết sống theo những khát vọng cao thượng nhất của con người. Những khát vọng đó là gì, nếu không phải là tự do, công bằng, bác ái, liên đới. Nếu họ thực sự sống theo những khát vọng thâm sâu ấy và sống tín thác nơi Thiên Chúa ngay cả khi gặp thất bại khổ đau, lúc đó họ mới có thể hưởng được niềm vui đích thực mà các môn đệ Chúa Giêsu đã bày tỏ khi gặp lại Ngài.
Ước gì mỗi người chúng ta luôn nếm được niềm vui đích thực ấy trong cuộc sống hằng ngày.
Ngay giờ ấy được Thánh Thần tác động, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói: “Lạy Cha là Chúa tể trời đất, Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã dấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết ngững điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, đó là điều đẹp ý Cha.” (Lc. 10, 21)
Mặc dầu gặp những thất bại trên đường truyền giáo, các ông được Đức Kitô sai đi, đã trở về vui mừng vì tổng kết những kết quả không thể bỏ qua. Như những cậu bé sung sướng, các ông kể lại với Thầy: “Nhân danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con”. Điều đó làm các ông xúc động mạnh. Đức Giêsu đã cho các ông hiểu chính Người đã hành động trong lúc các ông truyền giáo. Trong cầu nguyện Người đã thấy Sa-tan, kẻ thù, đã từ trời rơi xuống như chớp. “Đây Thầy đã ban cho anh em quyền năng giày đạp rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực kẻ thù mà chẳng có gì làm hại được anh em. Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng Thầy vui mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời”.
Như vậy, Đức Giêsu đã làm lắng dịu niềm vui của các môn đệ đi một chút. Điều quan trọng không phải khuất phục được quỷ thần và những thành công khác, nhưng chính là nhiều người đã đón nhận lời Chúa và được ơn cứu độ nhờ các ông, đây mới là điều đáng kể trước mặt Thiên Chúa. Các Tông Đồ đã được đẹp lòng Chúa Cha, Đấng ngự trên trời cao.
Trước công việc tốt lành các bạn hữu đã làm, Đức Kitô không thể ngăn cản được niềm hoan lạc trong Thánh Thần. Và Người đã cảm tạ Chúa Cha đã tỏ những mầu nhiệm cho những kẻ bé mọn mà không tỏ cho những người khôn ngoan thông thái.
Những nhà truyền giáo của Người là những kẻ nghèo khó và khiêm tốn hèn mọn. Người đã chọn các ông từ một giai cấp tầm thường họ không có bằng cấp gì, không phải hạng trí thức, không phải hạng danh tiếng, phần lớn là những người ngư dân chất phát. Vậy không phải kiến thức của họ có thể làm choáng mắt thính giả, nhưng chính đức tin sống động của họ và chân lý của sứ điệp Tin Mừng mà Đức Kitô đã trao phó cho họ.
Giáo Hội sơ khai được đặc ân thay Chúa, như là những dụng cụ truyền giáo, nhưng tất cả những thứ đó đều không thích hợp, không tương xứng với lý trí loài người. Những tiêu chuẩn đánh giá trị của Thiên Chúa không như chúng ta tưởng. Để nhận biết Chúa Cha cũng như nhận biết Chúa Con, những bằng cấp tiến sĩ không cần thiết, dù đôi khi có giúp ích. Chiều dài lịch sư Giáo Hội đã chứng tỏ điều đó. Những cái đầu nhồi nhét đầy, nhưng quá chắc không nhất thiết đạt tới ánh sáng Thiên Chúa. Chúng không có một ki-lô nào đối với những đầu óc bé nhỏ.
Xem lại CN 14 TN C, thứ Ba tuần 1 MV, thứ Tư và thứ Năm tuần 15 TN và lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su năm A
Hôm nay, bài Tin Mừng trình thuật việc các môn đệ tập kết quanh Đức Giêsu để báo cáo thành tích mà các ông đã đạt được trong lần đi truyền giáo vừa qua. Các ông khoe với Chúa: "Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng vâng phục chúng con". Tuy nhiên, Đức Giêsu thay vì khen ngợi các ông, Ngài lại tạ ơn Thiên Chúa vì đã làm những điều kỳ diệu nơi các ông, mặc dù bản thân và khả năng các ông không xứng đáng. Nhân đây, Đức Giêsu cũng mặc khải và hướng các ông về niềm vui siêu nhiên. Vì thế, sự chiến thắng không nằm ở chỗ khuất phục được thiên nhiên, bệnh tật, ma quỷ, mà là tên các ông đã được nghi dấu trên trời.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta, cần phải ý thức rằng: sứ mạng truyền giáo không chỉ dành riêng cho ai, mà cho hết mọi người. Qua Bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, sứ mạng đó thuộc về chúng ta, và chúng ta phải có bổn phận thi hành.
Khi thành công đến, chúng ta cần cảm nghiệm niềm vui siêu nhiên hơn là tự nhiên. Được cứu độ hơn là chiến thắng bề ngoài, vì giá trị tinh thần thì cao trọng và có sức biến đổi chứ không phải hình thức hay số lượng bên ngoài. Để đạt được điều đó, chúng ta luôn sống trong tâm tình đơn sơ, khiêm nhường, tín thác của kẻ bé mọn.
Lạy Chúa Giêsu, trong hành trình loan báo Tin Mừng, xin Chúa cho chúng con biết khiêm tốn, nghèo khó và tín thác nơi Chúa trọn vẹn. Amen.
Sứ điệp: Người môn đệ Đức Kitô được mạc khải mầu nhiệm Nước Trời, và đã được ghi tên trong sổ hằng sống, vì thế phải biết cùng với Đức Kitô cảm tạ ngợi khen Chúa Cha.
Cầu nguyện: Lạy Cha, khi nhìn lên trời đất bao la, con thấy mình chỉ như hạt cát giữa sa mạc. Và khi so sánh với những người thông thái khôn ngoan, con thấy mình chỉ là kẻ hèn kém bất tài. Thế mà, lạy Cha, qua Chúa Giêsu Con Một Cha, Cha đã mạc khải Nước Trời cho con. Cha cũng đã trao ban cho con muôn vàn hồng ân hồn xác, để con được sống và sống dồi dào. Hơn nữa, Cha còn dọn sẵn cho con một nơi ở bên Cha trong cõi hạnh phúc vô biên. Trước tình thương và muôn ân phúc cao vời ấy, con không biết làm gì hơn là xin được hợp với Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Cha, để mãi mãi dâng lời cảm tạ tri ân Cha.
Lạy Cha, khi còn sống nơi dương thế, Con Một Cha đã không ngừng rao truyền Danh Cha cho mọi người. Vậy mà ngày nay, còn có rất nhiều người, đặc biệt là những người trẻ, đang bị bơ vơ và chao đảo, khi họ đi tìm cho mình một lẽ sống. Xin Cha thương mạc khải Nước Trời cho họ.
Xin Cha cũng giúp con biết nỗ lực tiếp nối công việc mà Con Một Cha đã khởi sự, đó là loan báo Danh Cha cho mọi người, để mọi nơi trên địa cầu, Danh Cha được ca ngợi tôn vinh, và mai sau trên cõi trời vinh phúc, mọi người không ngớt cảm tạ tri ân Cha, vì Cha là Đấng toàn năng, quảng đại và giàu tình yêu thương. Amen.
Ghi nhớ: “Các con hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời”.
Bác sĩ Cronin kể câu chuyện của mình trở lại với Chúa như sau:
Khi làm việc trong một bệnh viện, ông thấy một cô y tá rất tận tâm, rất yêu người bệnh, hầu như đêm nào cô cũng thức thật khuya để lo cho bệnh nhân. Dù vậy, ông biết rằng tiền lương của cô rất ít, chỉ vừa đủ để sống thôi.
Ngày kia, gặp cô y tá này, ông đề nghị:
- Cô có công nghiệp lắm! Rất đáng được tăng lương. - Tiền lương của tôi như vậy cũng đủ rồi, cô y tá nói. - Nhưng cô đáng được nhiều hơn nữa. Chúa biết cô có nhiều công nghiệp, vị bác sĩ khẳng định. - Nếu Chúa biết… thì tôi còn muốn gì hơn nữa, cô nói thêm: Tôi chỉ làm vì Chúa!.
Và bác sĩ Cronin thú nhận: “Nghe cô nói như vậy, tôi rất cảm phục. Tôi thấy tâm hồn tôi bừng sáng lên. Tôi thấy cô y tá này có một tâm hồn quá cao trọng, còn tôi thì quá nghèo nàn. Và nhờ thế, tôi đã trở lại với Chúa”.
Suy niệm
Chúa Giêsu chọn và sai bảy mươi hai môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng; họ phải đối mặt với bao nguy khó, gặp nhiều chống đối, nhưng cũng gặt hái được nhiều thành công. Các môn đệ đã trở về trong niềm vui mừng, Tin Mừng hôm nay thuật lại sự trở về trong hớn hở nói lên niềm vui của người môn đệ dấn thân:
“Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126,5-6).
Trong sứ mạng ra đi, các môn đệ nhờ quyền năng của Chúa mà xua trừ được ma quỷ, nhưng Chúa Giêsu muốn cho các ông thấy rằng Ngài đến là để giải phóng con người khỏi nô lệ và đưa họ tới tự do đích thực. Chúa nói: Đừng tự mãn vì được thành công. Nhưng hãy vui mừng vì tên các ông đã được ghi vào sổ hằng sống (x. Lc 10,20).
Trước những hoa trái của các môn đệ, Chúa Giêsu đã cảm tạ Thiên Chúa Cha là nguồn mọi ơn lành, đã mạc khải cho những người bé mọn, môn đệ là những con người tầm thường nhưng hăng say theo Thầy đi rao giảng Tin Mừng.
Xin cho chúng ta luôn lắng nghe tiếng Chúa kêu mời trong cánh đồng truyền giáo và nhiệt thành trong công việc tông đồ, vì danh Chúa và phát triển nước Trời tại trần gian.
Ý lực sống
“Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!” Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! ta thấy mình chan chứa một niềm vui” (Tv 125,2b-3).
1. Sau thời gian thực tập, 72 môn đệ trở về trong hân hoan, kể lại cho Chúa Giêsu nghe những thành công của mình. Qua những thành công này, Chúa muốn nói với các ông: đừng tự mãn vì được thành công, nhưng hãy vui mừng vì tên các ông đã được ghi trên Trời. Cũng trong Tin Mừng này, Chúa Giêsu đã cảm tạ Thiên Chúa là nguồn mọi ơn lành, đã mạc khải cho những tâm hồn đơn sơ bé mọn biết đón nhận Tin Mừng do các môn đệ rao giảng.
2. Tin Mừng hôm nay nói đến sự thành công của 72 môn đệ. Thật thế, công việc truyền giáo của các ông đạt được nhiều thành quả: chẳng những lời rao giảng của các ông được đón nhận mà các ông còn thắng được cả quyền lực Satan. Bởi thế, chẳng lạ gì khi các ông trở về với tâm trạng vui mừng và hãnh diện. Sự thành công đó khích lệ các ông vững bước theo Chúa hơn, nhưng cũng có thể đưa các ông đến chỗ tự mãn mà quên rằng tất cả đều có bàn tay Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã nhắc nhở các môn đệ: “Các con chớ vui mừng vì ma quỉ phải khuất phục các con, nhưng hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi ở trên trời”. Tên đã được ghi ở trên trời cũng có nghĩa là đã thuộc vào hàng ngũ Thiên Chúa, nhờ đó được nghe những điều các Tiên tri và vua chúa hằng ao ước được nghe mà không được.
3. Sau khi nghe các môn đệ trình thuật với Chúa những thành công của họ, Chúa Giêsu đã thưa với Cha Ngài: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho các bậc khôn ngoan, thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người hèn mọn”. Lời này còn được Chúa trình bầy dưới một hình thức khác: “Nếu anh em không đón nhận Nước Thiên Chúa như những trẻ nhỏ thì anh em sẽ không được vào”.
Như vậy người hèn mọn hay bé nhỏ là những người có tinh thần thiện chí, tâm hồn phục thiện, có lý trí không tự kiêu, và có lòng mến đầy khiêm nhường. Một người như thế là một người hạnh phúc, vì xem thấy những điều các tông đồ được xem và nghe biết những điều các tông đồ được nghe. Tức là xem thấy Chúa Giêsu và nghe biết những lời Ngài giảng dạy.
4. Chúa Giêsu muốn chúng ta trở nên nhỏ lại trong tính xấu, để những tính tốt nơi chúng ta được lớn lên nhất là để Chúa Giêsu Thánh Thể được lớn lên mỗi ngày trong chúng ta. Như chúng ta đã biết: “Châm ngôn sống của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu là tình yêu, yêu Chúa yêu người, với tất cả tấm lòng khiêm cung nhỏ bé như trẻ thơ tin yêu phó tác vào cha mẹ” (x.LMTV, Gương các thánh, tập 2, tr 228). Thật thế, có tâm hồn như trẻ thơ là điều kiện để vào Nức Trời, như lời Chúa Giêsu đã khẳng định: “Nếu anh em không trở nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời”(Mt 18,3).
Bởi vì, trẻ thơ có các đặc tính: khiêm nhường, nghèo khó, trông cậy, đơn sơ... nhờ những đức tính đáng quý này mà Chúa Giêsu đã đưa trẻ em làm lý tưởng sống cho những ai muốn vào Nước Trời. Và thánh nữ Têrêsa Hài Đồng đã sống với tâm hồn trẻ thơ để trở nên thánh thiện, bằng việc yêu mến và phó thác hoàn toàn cho Chúa (Phút lắng đọng).
5. “Các con hãy vui mừng vì tên các con được ghi trên trời” (Lc 10,20).
Sau những thành công trong công tác mục vụ hoặc truyền giáo, thường chúng ta rất vui vì được người ta khen ngợi – vui vì đã phục vụ: điều đó là tâm lý thông thường của con người chúng ta, không có gì đáng trách. Nhưng Chúa Giêsu nhắc chúng ta về một niềm vui lớn lao hơn gấp bội: vui vì được kể là công dân Nước Chúa, vui vì được làm cộng sự viên của Chúa, vui vì hạnh phúc vĩnh viễn mai sau. Đây mới là niềm vui thánh thiện, niềm vui của những con người đã vươn lên tới đỉnh trọn lành.
Vâng, tất cả những niềm vui trần thế đều rất mau qua. Tiền bạc rồi cũng qua, địa vị, chức quyền danh vọng... rồi cũng qua.
6. Truyện: Cùng đích của con người.
Ngày xưa, triết gia Diogenes là một người sống rất thanh bạch, cái nhà của ông ở chỉ là một cái thùng rỗng. Ông có kiểu nói làm cho nhiều người phải ngạc nhiên.
Một hôm, ông đến giữa chợ thành Athènes dựng một căn lều. Trước cửa lều, ông đặt một tấm bảng trên đó có ghi đậm hàng chữ như sau:
- Tại đây có bán sự khôn ngoan.
Một bậc khoa cử tình cờ đi ngang qua căn lều đọc được lời rao bán, mới cười thầm trong bụng. Muốn biết đàng sau căn lều ấy có những gì. Ông mới sai người đầy tớ cầm tiền đến dò la và mua cho được cái mà người bán gọi là sự khôn ngoan.
Người đầy tớ cầm tiền ra đi làm theo lời căn dặn của chủ, anh đưa cho Diogenes 3 hào và nói rằng, chủ của anh muốn có sự khôn ngoan. Cầm lấy 3 hào bỏ vào túi, triết gia Diogenes nói với người đấy tớ một cách trang trọng như sau:
- Anh hãy về đọc lại cho chủ anh nghe câu này: “Trong tất cả mọi sự hãy nghĩ đến cùng đích của mình”.
Vị khoa cử thành Athènes vô cùng thích thú vì lời khôn ngoan này. Ông đã cho viết trước cửa nhà như khuôn vàng thước ngọc để chính ông suy niệm mỗi ngày, và tất cả những ai đi qua trước nhà ông đều có thể đọc thấy.
A. Hạt giống... 1. Sau một thời gian đi truyền giáo trở về, các môn đệ vui mừng kể lại cho Chúa Giêsu nghe những thành công của mình. Nhân dịp này Đức Giêsu nhận xét về kết quả ấy của họ: Ngài chia vui với họ vì những thành công ấy. Nhưng Ngài cho biết họ càng nên vui mừng hơn vì Thiên Chúa đã coi họ là công dân của Nước Trời (“tên các con được ghi trên trời”)
2. Chúa Giêsu lại liên tưởng đến những kẻ không đón nhận Tin Mừng vì lòng trí họ kiêu căng tự mãn. Những người này khác hẳn với những tâm hồn đơn sơ bé mọn đã đón nhận Tin Mừng do các môn đệ rao giảng. Và Ngài cảm tạ Chúa Cha về việc đó.
B.... nẩy mầm.
1. “Các con chớ vui mừng vì các tà thần phải vâng phục các con, nhưng hãy vui mừng vì tên các con được ghi trên trời”: sau những thành công trong công tác mục vụ hoặc truyền giáo, tôi cũng rất vui. Tôi vui vì những thành công đó, tôi vui vì được người ta khen ngợi, tôi vui vì đã phục vụ… Chúa Giêsu nhắc tôi một niềm vui lớn hơn gấp bội: vui vì được kể là công dân Nước Chúa, vui vì được làm cộng sự viên của Chúa, vui vì hạnh phúc vĩnh viễn mai sau.
2. “Con xưng tụng Cha vì đã dấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều ấy…”: Tôi cũng xưng tụng cảm tạ Thiên Chúa vì đã ban cho tôi được đức tin, được biết Chúa. Nhiều người thông thái khôn ngoan hơn tôi đã không được những ơn này. Đức tin là một ơn ban chứ không phải là thành quả của công lao con người.
3. “… nhưng đã tỏ ra cho những kẻ đơn sơ”: xin cho con càng ngày càng đơn sơ hơn nữa: đơn sơ với Chúa, đơn sơ với lương tâm con và đơn sơ với mọi người, vì đơn sơ là điều kiện thuận lợi con được Chúa dạy bảo và ban ơn.
4. “Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết: nhiều ngôn sứ và nhiều vua Chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe” (Lc 10,24)
Môsê, Đavít, Êlia tất cả đều sống trong sự chờ đợi. Chờ đợi lời Thiên Chúa hứa ban Con của Ngài đến được thực hiện. Họ mong được nhìn thấy Con Thiên Chúa, mong được nghe Ngài giảng dạy về Nước Trời.
Các tông đồ đã sống, đã đồng hành với Ngài trên mọi nẻo đường. được Ngài dạy dỗ, được sai đi rao giảng Nước Trời. Các ông đã được thấy phép lạ Người làm. Được nghe Ngài nói về Chúa Cha và Nước Trời, nhưng các ông vẫn sống trong hoài nghi cho đến khi Ngài chỗi dậy từ cõi chết.
Ngày nay, Ngài cũng nói với tôi mỗi ngày qua Tin Mừng, qua anh em tôi. Tôi vẫn thấy Ngài bị treo thánh giá, nơi những người cùng khổ, những người bị áp bức bất công, nơi những tâm hồn thống hối trở về. Tôi đã thấy Ngài sống lại vinh quang và những phép lạ Ngài làm trong cuộc sống quanh tôi. Tôi có thấy mình hạnh phúc hơn các ngôn sứ, các vua Chúa, các tông đồ không? Hay tôi cũng là môn đệ của chủ nghĩa hoài nghi?
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết vui mừng và tin vào những gì Ngài đã làm cho con cũng như nói với con hằng ngày. (Hosanna).
1. Lại một lần nữa Chúa nói với chúng ta về tâm hồn đơn sơ và Chúa coi sự đơn sơ như là điều kiện thuận lợi để được Chúa dạy bảo và ban ơn. “Con xưng tụng Cha vì đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều ấy, nhưng đã tỏ ra cho những kẻ đơn sơ” (Lc 10,21).
Đây là câu chuyện đã xảy ra ở Lộ Đức.
Một quả phụ đem đứa con trai duy nhất của bà lên 10 tuổi đến hang đá Lộ Ðức. Cậu bé bị bất toại từ lúc vừa mới biết đi vì một tai nạn xe hơi. Dọc đường, bà mẹ không ngừng lập đi lập lại với con là bất cứ điều gì con cầu xin cùng Chúa Giêsu, nhờ lời bầu cử của Ðức Mẹ sẽ không bị từ chối.
Tới hang Lộ Ðức, bà mẹ đẩy con ngồi trên xe lăn nhập hàng rước kiệu cùng với các bệnh nhân khác, và kiên nhẫn chờ đợi Mình Thánh Chúa đi ngang qua đó, để lãnh nhận phép lành. Vị linh mục cầm Mình Thánh Chúa trên tay và dừng lại ban phép lành trước mỗi bệnh nhân. Khi ngài đến trước mặt cậu bé bất toại, cậu bé lớn tiếng cầu nguyện với tất cả lòng tin tưởng.
- Lạy Chúa Giêsu, nếu Chúa không chữa con lành bệnh con sẽ thưa lại với Mẹ Chúa cho xem.
Nghe vậy, vị linh mục xúc động mạnh, liền quay trở lại ban phép lành cho cậu một lần nữa. Cậu bé vừa chăm chú nhìn Mình Thánh Chúa, vừa lớn tiếng thân thưa:
- Lạy Chúa Giêsu, nếu Chúa không chữa lành bệnh cho con, con nhất định sẽ thưa lại với Mẹ Chúa cho xem.
Mình Thánh Chúa vừa được vẽ xong hình Thánh Giá trên người em thì như có một sức mạnh nào đó thúc đẩy, cậu bé đứng thẳng dậy bước khỏi xe lăn, quì gối thờ lạy tạ ơn Chúa trước sự ngạc nhiên của mọi người, nhất là trước sự xúc động của mẹ em.
2. “Các con chớ vui mừng vì tên các con được ghi trên trời” (Lc 10,20).
Sau những thành công trong công tác mục vụ hoặc truyền giáo, thường chúng ta rất vui. Chúng ta vui vì được người ta khen ngợi - vui vì đã phục vụ. Chúa Giêsu nhắc chúng ta về một niềm vui lớn hơn gấp bội: vui vì được kể là công dân Nước Chúa, vui vì được làm cộng sự viên của Chúa, vui vì hạnh phúc vĩnh viễn mai sau. Đây mới là niềm vui thánh thiện, niềm vui của những con người đã vươn lên tới đỉnh trọn lành.
Vâng, tất cả những niềm vui của trần thế đều rất mau qua. Tiền bạc rồi cũng qua. Địa vị cao trọng rồi cũng qua….
Sử gia Plutarque có kể lại câu chuyện sau đây:
Một ngày nọ, hoàng đế Alexandre thấy triết gia Diogenes ngồi quan sát rất chăm chú bộ xương người nên hỏi:
- Khanh làm gì mà quan sát bộ xương đó kỹ càng như vậy ?
Diogenes trả lời:
- Muôn tâu bệ hạ, hạ thần nghiên cứu rất kỹ mà vẫn không thấy bộ xương của phụ vương bệ hạ khác với bộ xương của người nô lệ tí nào cả.
Rồi cũng triết gia Diogenes. Một hôm đến giữa chợ Athène dựng lên một căn lều. Trước cửa lều ông đặt một tấm bảng trên đó có ghi đậm hàng chữ như sau:
- Tại đây có bán sự khôn ngoan.
Một bậc khoa cử tình cờ đi ngang qua căn lều đọc được lời rao bán, mới cười thầm trong bụng. Muốn biết đàng sau căn lều ấy có những gì, ông mới sai người đầy tớ cầm tiền để dò la và mua cho được cái mà người bán gọi là sự khôn ngoan.
Người đầy tớ cầm tiền ra đi làm theo lời căn dặn của chủ, anh đưa cho Diogenes 3 hào và nói rằng, chủ của anh muốn có sự khôn ngoan. Cầm lấy ba hào bỏ vào túi, triết gia Diogenes nói với người đầy tớ một cách trang trọng như sau:
- Anh hãy về đọc lại cho chủ anh nghe câu này: “Trong tất cả mọi sự hãy nghĩ đến cùng đích của mình”.
Vị khoa cử thành Athène vô cùng thích thú vì lời khôn ngoan này. Ông đã cho viết trước cửa nhà như khuôn vàng thước ngọc để chính ông suy niệm mỗi ngày và tất cả những ai đi qua trước nhà ông đều có thể đọc thấy.
Charlie bị cáo buộc là đã giết một viên chức hành chánh tại Đại Học Harverford ở Pennsylvania và phải nhận án tử hình trên ghế điện. Lúc anh ở tù, một đoàn truyền bá Tin Mừng thuộc Hội Thánh Tin Lành Alden Union đã đưa anh ta đến với Chúa. Charlie học Kinh Thánh và rất thích thánh ca. Charlie hay hát bài: “Không ai săn sóc tôi bằng Chúa Giêsu “.
Trước khi bị lên ghế điện, Charlie xin được nói chuyện với các bạn tù. Nhận được phép, Charlie nói về niềm vui của anh trong Chúa: Anh bảo rằng, không còn sợ bị hành quyết. Anh rất hối hận về tội của mình, nhưng đã được Chúa tha thứ và biết rằng, chẳng bao lâu nữa sẽ được gặp Chúa trực tiếp.
Cuối giờ nói chuyện, Charlie hát bài mình thích nhất rồi bước xuống. Một tờ báo tại Philadelphia thuật rằng, khi đi vào ghế điện, anh hát một lần nữa. Khi người ta trùm đầu Charlie, câu nói cuối cùng của anh cũng là lời hát: “Một ngày kia tôi sẽ gặp mặt Chúa trong hạnh phúc”.
Hôm nay, Chúa rất là vui. Chúa vui vì những lý do này:
+ Các môn đệ của Chúa vâng lời Chúa ra đi thực tập việc rao giảng Tin Mừng và đã gặt hái rất nhiều thành công: “Nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói: Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con. Đức Giê-su bảo các ông: Thầy đã thấy Xa-tan như một tia chớp từ trời sa xuống. Đây, Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em” (Lc 10, 17 – 19).
+ Tên của các ngài được ghi trên trời, đó là việc Chúa không bao giờ để cho những người cộng tác với Chúa trong mọi lãnh vực của cuộc sống đời này liên quan đến phần rỗi linh hồn phải hư mất, và đây cũng là phần thưởng Chúa ban cho những nổ lực đóng góp của các ngài: “Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời” (Lc 10, 20). Chúng ta hy vọng vào điều này. Chúng ta nỗ lực, ra sức cộng tác với Chúa trong công cuộc loan báo Tin Mừng, Chúa sẽ không quên, không bỏ rơi chúng ta sau này: “Những người rao gỉang sự công chính, họ sẽ được chiếu sáng như những vì sao trên trời” (Đan 12, 3).
+ Chúa làm đúng ý Chúa Cha, Chúa Cha trao phó mọi sự trong tay của Chúa: “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người thông thái, khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. Vâng, lạy Cha, đó là ý Cha muốn thế” (Lc 10, 21). Chúng ta làm theo ý Chúa, vâng lời Chúa, chúng ta sẽ được bình an, hoan lạc. Chúa sẽ ban nước thiên đàng cho chúng ta.
+ Chúa Cha biết Chúa và Chúa biết Chúa Cha và những người Chúa Con muốn tỏ cho biết. Sự hiểu biết này là để Chúa hoàn toàn sống kết hợp với Chúa Cha, vâng lời Chúa Cha một cách tuyệt đối và những người Chúa mạc khải cho biết cũng phải sống như Chúa : “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho ” (Lc 10, 22). Chúng ta sống những điều Chúa mạc khải, để rồi mối dây liên lạc giữa Chúa với chúng ta ngày càng khắng khít, gắn bó thâm sâu hơn. Đây là điều ước mơ của chúng ta và chúng ta hãy cố gắng thực hiện trong cuộc sống.
+ Chúa hài lòng khi các môn đệ của Chúa được diễm phúc thấy Chúa làm phép lạ, nghe Chúa rao giảng Tin Mừng, được cộng tác với Chúa mà biết bao vị tiên tri và nhiều Đấng công chính ước mơ mà không được: “Rồi Đức Giê-su quay lại với các môn đệ và bảo riêng: Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy! Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết: nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe” (Lc 10, 23 – 24). Chúng ta ra sức thực hiện việc rao giảng Tin Mừng, chắc chắn Chúa sẽ rất hài lòng, thương yêu chúng ta hơn.
Chúa hân hoan, vui mừng, Chúa hạnh phúc và các môn đệ của Chúa cũng được chia sẻ niềm vui, hạnh phúc của Chúa để rồi qua đó chúng ta thấy, bất cứ ai vâng lời Chúa, làm theo ý Chúa thì là làm cho Chúa vui và chúng ta cũng có niềm vui trong cuộc sống của chúng ta.
Lạy Chúa, trong cuộc sống, chúng con có qua nhiều những cám dỗ khiến chúng con bỏ thánh ý Chúa mà làm theo ý của mình để cho thỏa mãn những đam mê xác thịt của chúng con. Khi chúng con làm như vậy, chúng con gây ra biết bao đau khổ cho bản thân và cho nhiều người khác. Xin Chúa thương ban ơn giúp chúng con hy sinh, từ bỏ tất cả để làm theo ý thánh Chúa. Như thế, chúng con sẽ làm Chúa vui lòng và cuộc đời chúng con sẽ bình an, hạnh phúc. Amen
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Thánh Phanxicô Átxidi hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã soi sáng cho thánh Phanxicô chọn cuộc đời hèn mọn khó nghèo để trở nên hình ảnh sống động của Đức Kitô. Xin Chúa cho chúng ta hằng noi gương thánh nhân để lại mà thiết tha gắn bó cùng Chúa, và hăm hở bước theo Đức Kitô, lòng chan chứa an vui và đầy tràn yêu mến. Thánh nhân sinh năm 1182, tại Átxidi. Từ ngày trở lại, gặp Chúa Kitô ở nhà thờ thánh Đamianô cho tới ngày từ trần ở Poóctiuncula (năm 1226), thánh nhân, con người được mệnh danh là Người Nghèo thành Átxidi, cùng với các anh em tu sĩ của mình sống nghèo khó, rảo khắp nơi loan báo tình yêu của Thiên Chúa. Người cũng đã đặt nền tảng cho ngành nữ đan sĩ của Dòng và huynh đoàn giáo dân hãm mình. Người còn tha thiết với việc giảng thuyết cho những người chưa tin. Suốt đời, thánh nhân không có bận tâm nào khác ngoài mối bận tâm theo Đức Giêsu trong tinh thần vui tươi, đơn sơ, tha thiết phục vụ Hội Thánh và dịu dàng yêu thương mọi người.
Hăm hở bước theo Đức Kitô, chấp nhận trả giá, ngặt nghèo vì Đức Kitô, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích thư của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Philípphê: Phải trả giá khi muốn giúp đỡ nhau. Trong hoàn cảnh túng thiếu, thánh Phaolô đã tìm được những người anh em… Tôi sống thiếu thốn cũng được, mà sống dư dật cũng được: no hay đói, dư dật hay túng bấn, tôi đã tập quen cả. Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết. Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi phải ngặt nghèo vì Đức Kitô.
Hăm hở bước theo Đức Kitô, trong nghèo khó và khiêm nhường, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích thư của thánh Phanxicô Átxidi: Chúng ta phải đơn sơ, khiêm tốn và trong sạch… Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp. Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng.
Hăm hở bước theo Đức Kitô, với một tin tưởng cậy trông, vui mừng phấn khởi, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách ngôn sứ Barúc: Đấng đã giáng họa xuống các con, chính Người sẽ ban cho các con niềm vui. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 68 cho thấy: Chúa nhận lời kẻ nghèo khó. Những ai nghèo hèn, xem đấy mà vui lên, người tìm Thiên Chúa, hãy nức lòng phấn khởi. Vì Chúa nhận lời kẻ nghèo khó, chẳng coi khinh thân hữu bị giam cầm. Ca tụng Chúa đi, hỡi trời cao đất thấp, hỡi biển sâu cùng hải vật muôn vàn!
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã mặc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những người bé mọn. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời. Những kẻ bé mọn được mặc khải cho biết mầu nhiệm Nước Trời, được ghi tên trên trời, bởi vì, họ luôn biết kêu cầu Chúa: Hãy cứ kêu lên cùng Thiên Chúa, vì Đấng đã giáng họa sẽ lại nhớ đến ta; hãy nỗ lực gấp mười mà tìm kiếm Chúa, vì Đấng đã giáng họa sẽ giải thoát ta. Vì Chúa nhận lời kẻ nghèo khó, chẳng coi khinh thân hữu bị giam cầm. Muốn được ghi tên trên trời, ta phải đơn sơ khiêm tốn, đừng bao giờ muốn mình hơn người khác, nhưng đúng hơn, vì Thiên Chúa, ta phải là những tôi tớ phục vụ mọi người. Nếu ta làm như vậy và kiên vững đến cùng, thì, Thần Khí Chúa sẽ ngự trên ta, cư ngụ trong ta, và ta sẽ là con cái Cha trên trời, là bạn đời, là anh chị em của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Chúa đã soi sáng cho thánh Phanxicô chọn cuộc đời hèn mọn khó nghèo để trở nên hình ảnh sống động của Đức Kitô. Ước gì chúng ta hằng noi gương thánh nhân để lại mà thiết tha gắn bó cùng Chúa, và hăm hở bước theo Đức Kitô. Ước gì được như thế!