Khi ấy, có một người thông luật đúng dậy hỏi thử Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?" Người nói với ông: "Trong Lề luật đã chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?"
Ông trả lời: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình". Chúa Giêsu nói: "Ông trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống". Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Nhưng ai là anh em của tôi?"
Chúa Giêsu nói tiếp: "Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua. Nhưng một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa của mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho ông chủ quán mà bảo rằng: "Ông hãy săn sóc người ấy, và ngoài ra còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về tôi sẽ trả lại ông".
"Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?"
Người thông luật trả lời: "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy".
Và Chúa Giêsu bảo ông: "Ông cũng hãy đi và làm như vậy".
Trong Tin Mừng Mátthêu và Máccô (Mt 22, 36; Mc 12, 28) vị luật sĩ đặt câu hỏi về điều răn nào là điều răn lớn nhất. Còn theo Tin Mừng Luca, vị này lại hỏi Đức Giêsu về việc phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp (c. 25). Đức Giêsu nghĩ rằng câu trả lời đã có trong sách Luật, nên Ngài hỏi lại ông. Ông này đã trích sách Đệ Nhị Luật 6,5 và sách Lêvi 19,18 để trả lời. Động từ yêu mến diễn tả thái độ đối với Thiên Chúa và người thân cận: "Hãy yêu mến Thiên Chúa với tất cả trái tim con, với tất cả linh hồn con, với tất cả sức lực con và với tất cả trí khôn con, và người thân cận như chính mình” (c. 27). Đức Giêsu khen ông trả lời đúng và khích lệ ông (c. 28). Như thế giữa Ngài và vị thầy Do thái giáo đã có sự nhất trí nào đó. Tình yêu không phải là một đòi hỏi mới của Kitô giáo, nhưng tình yêu đã là điều cốt yếu của Do thái giáo từ xưa. Vấn đề là phải yêu Thiên Chúa với tất cả trái tim, linh hồn, sức lực và trí khôn. Từ tất cả được lặp lại bốn lần để nói lên một đòi hỏi tận căn, trọn vẹn. Nhưng Đức Giêsu còn phải trả lời câu hỏi: “Ai là người thân cận của tôi?” Ngài đã trả lời bằng một dụ ngôn nổi tiếng, qua đó ngài mở rộng quan niệm truyền thống về người thân cận. Một người từ Giêrusalem xuống Giêrikhô. Anh phải vượt qua đoạn đường dài gần 25 cây số. Đoạn đường này thời bấy giờ có nhiều trộm cướp. Anh đã bị bọn cướp trấn lột, đánh nhừ tử và đặt nằm đó nửa sống nửa chết. Nhìn vào tình cảnh bi đát của anh, có ai muốn thương giúp anh không? Có ba người đi qua chỗ anh nằm, một là thầy tư tế, hai là thầy Lêvi. Cả hai đều phản ứng như nhau: thấy và tránh qua bên kia mà đi (cc. 31-32). Chúng ta không rõ tại sao họ làm thế. Có thể vị tư tế sợ mình bị ô nhơ qua việc đụng chạm đến xác chết, vì sách Lêvi (21, 1-3) cấm không được làm thế, trừ phi là xác bà con gần. Một người Samari là nhân vật thứ ba đi ngang qua nạn nhân. Hầu chắc nạn nhân này là một người Do Thái, vì không có chi tiết nào cho thấy anh ta là dân ngoại cả. Giữa dân Do Thái và dân Samari vốn có mối hiềm thù từ lâu. Người Samari này cũng thấy nạn nhân như hai người trước, nhưng đó không phải là cái nhìn lạnh lùng, vô cảm. Anh thấy bằng trái tim mình, vì thế anh chạnh lòng thương (c. 33). điều mà hai người trước không có. Chính sự thúc đẩy của trái tim đã khiến anh làm một loạt hành động cụ thể: lấy dầu và rượu đổ lên vết thương, băng bó, đặt nạn nhân trên lưng lừa, đưa về quán trọ săn sóc, ở lại quán trọ nguyên ngày hôm ấy, trả tiền cho chủ quán và hứa sẽ trở lại trả thêm nếu cần (cc. 34-35). Lòng thương xót thật sự khiến anh chấp nhận mất công, mất của, mất giờ, và có thể mất mạng nữa, vì có thể tên cướp vẫn còn núp đâu đây. Khi giúp cho kẻ lâm nạn, dù biết đó là một người Do Thái kẻ thù của mình, người Samari đã làm một phép lạ lớn. Đó là biến mình trở thành người thân cận với anh ấy, và biến anh ấy, kẻ thù của mình, trở thành người thân cận với mình. Đây là phép lạ của tình thương phá vỡ và vượt qua mọi biên giới của chủng tộc, tôn giáo và nhất là vượt qua những thù oán lâu đời. Để trả lời câu hỏi của vị luật sĩ: ai là người thân cận của tôi? Đức Giêsu đặt câu hỏi ngược lại cho vị này: “Theo ông, trong ba người, ai đã trở nên người thân cận với kẻ bị nạn?” (c. 36). Câu hỏi quá dễ, nhưng hàm chứa một điều mới mẻ sâu xa. Trước khi giúp một người, tôi không nên tự hỏi người này có thân cận với tôi không. Chúng ta không chỉ giúp những người thân cận và loại trừ người khác. Chúng ta giúp một người chỉ vì người đó đang cần chúng ta. Giúp đỡ cụ thể là cách tạo ra người thân cận Càng giúp nhiều, ta càng có nhiều người bạn thân. Vị luật sĩ đã hỏi Đức Giêsu phải làm gì (c. 25). Kể xong dụ ngôn, Đức Giêsu trả lời: Hãy đi và hãy làm như vậy (c. 37). Đất nước chúng ta đã giàu lên đáng kể, nhưng vẫn không thiếu người nghèo, nghèo sức khỏe, nghèo tri thức, nghèo vật chất tối thiểu, nghèo nhân phẩm… Chúng ta cũng bị cám dỗ “tránh sang bên kia đường”, thấy mà làm như không thấy những Ladarô nằm trước cửa. Yêu những người nghèo như chính mình, yêu cả những ai đã làm khổ mình. Đó là cách chúng ta rao giảng Tin Mừng cho quê hương Việt Nam hôm nay. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau để làm thành một vòng tròn khép kín. Sau đó chúng con hiểu rằng cần phải buông tay nhau để nhận những người bạn mới, để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng và trái tim được lớn lên mãi.
Lạy Chúa, chúng con biết rằng cần phải nối vòng tay lớn xuyên qua các đại dương và lục địa. vòng tay người nối với người, vòng tay con người nối với Tạo Hóa. Chúng con thích Chúa đứng chung một vòng tròn với tất cả loài người chúng con, nắm lấy tay chúng con và đưa chúng con lên cao. Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau và nhận nhau là anh em.
Tiên tri Gio-na và người Sa-ma-ri-ta-no nhân hậu là hai hình ảnh trái ngược. Gio-na là người Do thái, người có đạo, nhưng tâm địa hẹp hòi không muốn cứu dân thành Ni-ni-ve. Người Sa-ma-ri-ta-no nhân hậu là người ngoại đạo, nhưng tấm lòng bác ái bao la, quan tâm chăm sóc cho tha nhân. Gio-na là tiên tri, là người tin có linh hồn nhưng lại chẳng quan tâm cứu linh hồn dân thành Ni-ni-ve. Còn người Sa-ma-ri-ta-no nhân hậu tuy không có đức tin nhưng đã sẵn sàng cứu giúp dù chỉ là thân xác người lâm nạn. Gio-na là tiên tri của Chúa nhưng lại không vâng lệnh Chúa truyền. Người Sa-ma-ri-ta-nô nhân hậu không có đạo nhưng lại thực hành Lời Chúa. Và được Chúa đem làm gương mẫu cho những nhà lãnh đạo: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”. Bên trong hai bài Sách Thánh còn những trái ngược lớn lao gây suy nghĩ. Gio-na là tiên tri thì trốn Chúa. Những người đi thuyền ngoại đạo lại muốn tìm thánh ý Chúa, muốn cầu nguyện cùng Chúa. Cũng vậy thầy tư tế và thầy Lê-vi trong đạo tránh qua một bên để khỏi giúp người bị nạn. Trong khi người ngoại đạo xứ Sa-ma-ri lại tỏ lòng nhân hậu cứu giúp nạn nhân (năm lẻ).
Và để trả lời cho câu hỏi: “Ai là người thân cận của tôi?”, Chúa Giêsu đã hỏi ngược lại: “Theo ông, ai là người thân cận của người bị nạn?”. Chúa Giêsu trả lời bằng một mệnh đề kép. Muốn có người thân cận, chính tôi phải thân cận với mọi người. Nói khác đi người thân cận không tự nhiên có nhưng tôi phải tạo ra. Tôi tạo ra người thân cận bằng tấm lòng nhân hậu, bằng thái độ quảng đại, bằng cử chỉ phục vụ. Như thế người thân cận là tất cả những ai cần sự giúp đỡ, cần sự quan tâm, là những ai đang lâm nạn, đang không thể tự lo cho mình, cả phần hồn lẫn phần xác.
Trong thư Ga-lát, thánh Phao-lô chê trách giáo dân Ga-lát đã mau chóng trở mặt lại giáo lý của Chúa. Lời chê trách đó có thể áp dụng cho Gio-na. Dù là tiên tri nhưng lại không tuân lời Chúa dạy. Lời đó cũng nhắm đến thầy tư tế và thầy Lê-vi vì đã không thực hành Lời Chúa. Lời thánh nhân chê trách cũng nói với chúng ta hôm nay, có đạo nhưng lại không tuân giữ Lời Chúa (năm chẵn).
Chúng ta có thể hỏi một câu hỏi khác. Ai là người thân cận của Chúa. Câu trả lời thật hiển nhiên. Nhưng khá cay đắng. Không phải vị tiên tri người đem Lời Chúa cho mọi người. Không phải thày tư tế và thày Lê-vi những người dâng của lễ trên bàn thờ, trước tôn nhan Chúa. Nhưng lại là người Sa-ma-ri-ta-nô, kẻ ngoại đạo. Hôm nay, chúng ta hãy tỉnh ngộ trở nên người thân cận của mọi người. Và người thân cận của Chúa. Như thế tôi mới “được sự sống đời đời làm gia nghiệp”.
Một phóng viên nọ muốn biết cách đối xử với con người thế nào, ông đã giả vờ làm người bị thương nằm bên vệ đường cùng với chiếc xe bị hư của ông. Nhiều người đã đi qua..., cuối cùng có một người dừng xe lại xem xét và đến trạm gọi điện thoại cho cảnh sát. Người phóng viên đã cẩn thận ghi các số xe đã chạy qua, sau đó, ông đến tận nhà họ để phỏng vấn. Mỗi người đều nói lên lý do của mình, nhưng không ai nghĩ mình một ngày kia có thể rơi vào hoàn cảnh như thế: bàn tay của mình đưa ra để mong tìm được sự nâng đỡ của người khác mà không gặp được.
Người Samaritanô nhân hậu được nhắc đến trong Tin Mừng hôm nay là chính Chúa Giêsu. Dĩ nhiên, các tư tế, lêvi có lý do của họ: họ đã sống đúng luật, tuy nhiên luật đã giết chết lòng yêu thương của con người vì trọng mặt chữ mà thôi. Chúa Giêsu đã vượt qua luật lệ và hướng dẫn tâm hồn con người lên cao, đi vào chiều sâu của bác ái. Ngài đã đến với từng con người, Ngài không đứng xa nhìn con người đương đầu với những khó khăn thử thách trong cuộc sống. Như người Samaritanô nhân hậu, Ngài đến gần bên con người, Ngài nhìn họ với ánh mắt đầy trắc ẩn, cảm thông, Ngài cúi xuống băng bó các vết thương của họ và còn tình nguyện trả nợ cho họ bằng giá máu của Ngài khi chấp nhận chết trên Thập giá để cứu sống và đưa họ về quê trời.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta noi theo gương mẫu của người Samaritanô nhân hậu là hình ảnh của chính Chúa. Chung quanh chúng ta còn biết bao nạn nhân, dưới nhiều hình thức, đang chờ bàn tay nâng đỡ của chúng ta. Nhưng thử hỏi chúng ta đã làm được gì? Có thể chúng ta không có tiền bạc, nhưng một lời nói, một nụ cười, một cử chỉ, một việc làm tốt cũng có sức xoa dịu và cảm thông với những nỗi khổ đau của đồng loại.
Nguyện xin Chúa kiện cường lòng bác ái của chúng ta, một lòng bác ái biết tìm đến, dừng lại và xoa dịu những nỗi khổ đau của người khác; một lòng bác ái vị tha, không bị lấm bẩn bởi bản tính ích kỷ trục lợi.
Chủ đề chính của đoạn Phúc Âm trên đây là tình yêu thương đối với người lân cận và chủ đề được nhắc đến do bởi hai câu hỏi của luật sĩ: "Tôi phải làm sao để được sống đời đời?" và "Ai là người anh em tôi?"
Chúa Giêsu đã để cho chính luật sĩ phải trả lời cho câu hỏi thứ nhất: "Tôi phải làm gì để được sống đời đời?", và vị luật sĩ đã trả lời đúng trăm phần trăm, dựa trên chính lời Kinh Thánh mà ông đã biết nằm lòng. Và nếu đã biết rõ như vậy rồi thì đâu còn lý do gì để hỏi Chúa Giêsu nữa. Không cần phải luật sĩ mới trả lời cho câu hỏi này, mọi thành phần dân Chúa đều có thể trả lời. Vấn đề là nơi câu hỏi thứ hai: "Ai là người anh em tôi?" Sự hiểu biết thông thái của luật sĩ làm ông ta lúng túng vì hẳn thật vào thời Chúa Giêsu có nhiều trường phái luật sĩ khác nhau đã cố gắng trả lời cho câu hỏi này, nhưng chưa có câu trả lời nào thỏa đáng cả. Có trường phái cho rằng người lân cận mà luật Môisen buộc phải yêu thương là cha mẹ, bạn bè, người đồng hương. Như thế, nhà luật sĩ có lý do để hỏi Chúa Giêsu: "Ai là anh em tôi?", ông muốn biết những giới hạn của tình thương đối với anh chị em để rồi từ đó xác định những bổn phận cần phải tuân giữ. Chúa Giêsu trả lời bằng dụ ngôn người Samari nhân hậu để giúp cho luật sĩ biết là không có giới hạn nào cho tình thương đối với anh chị em và bất cứ ai cần trợ giúp thì người đó là anh chị em của mình. Kết thúc dụ ngôn, Chúa Giêsu đã đặt lại vấn đề như sau: "Ai trong số những kẻ qua đường là người anh em của kẻ bị cướp?", và dĩ nhiên luật sĩ cũng đã trả lời đúng: "Thưa là kẻ có lòng thương xót người ấy".
Giải quyết vấn đề trên bình diện tri thức hiểu biết xem ra rất dễ, chỉ cần một chút hướng dẫn như Chúa Giêsu đã làm trong dụ ngôn thì ta có thể biết được câu trả lời cho vấn đề, nhưng để vào nước Chúa không phải chỉ có biết mà thôi, cũng không phải chỉ nói Lạy Chúa, Lạy Chúa mà thôi, nhưng còn phải thực hành, phải làm nữa, phải thực hiện lời dạy của Chúa và phải làm ngay không được chần chờ.
"Hãy đi và làm như vậy!" xem ra Chúa Giêsu không muốn vị luật sĩ ở lại để tranh luận lý thuyết với Chúa mãi mãi mà hãy dấn thân hành động, vì thế liền sau câu trả lời thứ hai của vị luật sĩ, Chúa Giêsu khuyến khích ngay: "Hãy đi và làm như vậy!"
Khi phải hành động giúp đỡ anh chị em, chúng ta thường hay có thái độ chần chờ, tìm sự chân thành lý do để tránh né để khỏi phải cho đi, để khỏi phải làm ngay công việc bác ái phải làm. Vì thế, vấn đề là luôn luôn phải sẵn sàng phục vụ, vấn đề bắt đầu từ tâm hồn của chúng ta trước, vì phải có tâm hồn yêu thương, cần canh tân chính mình trước. Chúng ta đã thấy Chúa Giêsu đã đổi lại viễn tượng, đã đổi lại câu hỏi của luật sĩ, câu hỏi không còn là: "Ai là anh em ta?" nhưng là: "Ai là anh em của người bị nạn?"
Khi tâm hồn chúng ta đã được biến đổi rồi, đã có đầy tình yêu Chúa rồi thì chúng ta sẽ dễ dàng chu toàn mệnh lệnh yêu thương của Chúa hơn, sẽ yêu thương như Chúa, yêu thương không giới hạn, không tính toán, yêu thương cả đến hy sinh mạng sống mình. Không có tình yêu này to lớn hơn tình yêu của kẻ hiến mạng sống mình cho người mình thương. Vấn đề không phải là biết: "Ai là anh em của tôi?" nhưng vấn đề là biến đổi tâm hồn chúng ta để chúng ta trở thành người lân cận, người anh em của tất cả những anh chị em chung quanh chúng ta.
Lạy Chúa, xin giúp con canh tân chính tâm hồn mình trước và giúp con trở thành người lân cận của tất cả mọi người, mọi nơi và mọi lúc.
Và này có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: “Thưa Thầy tôi phải làm gì để được sự sồng đời đời làm gia nghiệp?”Người đáp: “Trong luật đã viết gì? ông đọc thế nào? Ông ấy thưa: “ngươi hãy yêu mến Đức Chúa,Thiên Chúa của ngươi, và người thân cận như chính mình.” (Lc.10, 25-27)
Đây là vấn đề chính luôn luôn được đặt ra qua các thời đại: Ai là người thân cận của tôi? Chính ở điều này, Đức Kitô đã hoàn thành một cuộc cách mạng vĩ đại. Người sắp cho ông luật sĩ một bài học sáng giá về bác ái qua một dụ ngôn rất ý nghĩa và rõ nét.
Ông đã hỏi Ngài: “Ai là người thân cận của tôi? ”Đức Kitô đã giải đáp vấn đề cho chúng ta biết cách thực hiện ai là người thân cận của chúng ta. Trong những người chung quanh tôi, những người tôi gặp, ai là anh chị em tôi? Đức Kitô nói: “Một người nào đó đi từ Giê-ru-sa-lem xuống Giêricô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch và đánh nhừ tử người ấy rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết bên lề đường. Tình cờ có thầy tư tế cũng đi xuống con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi! cũng thế, một thầy lê-vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, bỏ tránh qua bên kia mà đi! nhưng một người Samari đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy và chạnh lòng thương, ông lại gần lấy dầu rượu băng bó vết thương người ấy, đặt lên lừa, đưa về quán trọ mà săn sóc, lấy tiền nhờ chủ quán cứu chữa bệnh nhân!
Một người Samari nào đó chẳng quen biết, thuộc dân tộc ly giáo với Do-thái, họ không thờ Thiên Chúa ở Giê-ru-sa-lem nhưng ở núi Garidim! Thế mà ông đã lo chăm sóc cho một người cùng khổ hoạn nạn cướp bóc đánh đập và gánh lấy trách nhiệm cứu chữa. Ông không cần biết đó là ai, dân mình hay dân khác, bạn hay thù! không kể đến tốn phí bao nhiêu! ông chỉ thấy đó là một người cần giúp đỡ. Bác ái không từ bỏ một ai trong bất cứ một hoàn cảnh nào, nơi nào, thuộc hạng nào! bác ái có mặt mọi nơi, nơi nào có khổ sở cần xoa dịu giúp đỡ là có bàn tay êm ái nâng đỡ, có lòng tận lực chi trả, có lời an ủi âm thầm tâm sự, thông cảm mọi cảnh éo le, chia sẻ mọi cuộc sống ngoài lề xã hội, băng bó những xung đột, âu yếm những người bị bỏ rơi, hy vọng làm sáng lên những nơi đen tối, chia vui cho những nơi bị xáo trộn, bất ổn.
Bác ái hiện diện khắp nơi, nơi nào có tiếng nhân loại kêu cùng khổ là có con tim đến tiếp cứu, đến biến đổi nó lên tươi sáng. Bác ái hiện diện trên mọi trận tuyến, bạn cũng như thù, tương trợ lẫn nhau trong khắp thế giới. Lúc đó và chỉ như thế, chúng ta mới là anh chị em thân cận với nhau.
Xem lại CN 15 TN C, CN 30 TN A, CN 31 TN B, thứ Ba tuần 1 MV, thứ Sáu tuần 3 MC, thứ Năm tuần 9 TN và thứ Sáu tuần 20 TN
Bài hát: “Qua cầu gió bay” có lẽ nhiều người trong chúng ta đều đã quen thuộc, hoặc đôi khi còn thuộc lòng! Bài hát này diễn tả tình yêu của hai người: khi yêu nhau, họ trao tặng cho nhau tất cả, ngay kể cả cái áo, cái nhẫn và chiếc nón là những thứ gắn liền với bản thân của con người, nhưng một khi đã yêu thì sẵn sàng trao tặng, miễn sao người mình yêu được vui và hạnh phúc...
Bài Tin Mừng hôm nay, qua hình ảnh người Samaritanô nhân hậu, Đức Giêsu cũng dạy cho người thông luật một bài học của tình yêu. Tình yêu đó là một tình yêu biết cho đi, hy sinh và chấp nhận gian khó vì người mình yêu.
Khởi đi từ việc người thông luật đến hỏi Đức Giêsu: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?"; và: “Ai là anh em của tôi?”. Đức Giêsu đã giúp ông xác tín nguyên lý của sự sống đời đời là yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu người thân cận như chính mình.
Tuy nhiên, Đức Giêsu còn muốn ông đi xa hơn nữa trên lộ trình tình yêu đó khi kể cho ông nghe dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu.
Hình ảnh của người Samaritanô nhân hậu đối đãi với nạn nhân như: dừng lại, băng bó vết thương, xức dầu và rượu, đỡ nạn nhân lên lừa của mình, đưa về quán trọ, thuê người chủ quán trọ săn sóc cho nạn nhân... tất cả những nghĩa cử đó cho thấy người Samaritanô đã vì yêu mà chấp nhận tất cả, chịu đựng tất cả, cho đi tất cả... ngang qua hành vi của người Samaritanô, Đức Giêsu muốn giới thiệu cho người thông luật biết: những người đau khổ chính là anh em của ông.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy đi và làm như người Samaritanô nhân hậu, làm tất cả và cho đi tất cả vì người mình yêu.
Có lẽ chúng ta sẽ thắc mắc là nhiều khi tôi nghèo quá, nên khó có thể có gì để thể hiện tình yêu như người Samaritanô với người thân cận. Tuy nhiên, chúng ta sẽ không nghèo đến độ không thể không có gì để cho!
Có thể tôi nghèo về vật chất, nhưng tôi giàu về tấm lòng, giàu về tình yêu. Tôi không có hiện vật để trao tặng, nhưng tôi có nụ cười, thời giờ, niềm an ủi, sự cảm thông và tinh thần liên đới... Đây chính là món quà cao quý hơn cả bạc vàng.
Mong sao mỗi chúng ta hiểu rằng: chỉ có tình yêu là không thể chết, và cho đi là còn mãi.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết yêu mến Thiên Chúa tha thiết và yêu tha nhân như chính mình. Đồng thời xin cho chúng con biết sống tinh thần liên đới trong một thế giới quá nhiều bất công và vô cảm. Amen.
Sứ điệp: Mến Chúa yêu người: đó là con đường đưa loài người đến sự sống đời đời. Dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu chính là mẫu gương sống luật yêu thương.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trên thế giới hôm nay có rất nhiều người đang đau khổ. Họ là những gia đình li tán, những đứa trẻ bị bỏ rơi, những người đang quằn quại trong cơn đói, những chiến binh gục ngã nơi chiến trường, những kẻ thất nghiệp bơ vơ không nhà cửa, và chung quanh con không thiếu những người đang mỏi mòn chờ đợi con yêu thương giúp đỡ. Thế mà con vẫn tự hỏi: Ai là người anh em mà tôi phải thương mến?
Lạy Chúa, rất nhiều lần con đã có thái độ ích kỷ như thầy tư tế và thầy Lê-vi trong câu chuyện dụ ngôn, con cố tình làm ngơ hoặc dửng dưng trước những nỗi đau của tha nhân. Con sợ người ta quấy rầy cho dù con biết rõ những nhu cầu cần thiết của họ. Con không quan tâm đến những người nghèo khổ, những bệnh nhân, những người gặp hoạn nạn, vì con sợ mất thời giờ và hao tốn tiền của. Và như thế, lạy Chúa, con đã không sống luật yêu thương của Chúa.
Xin cho con biết bắt chước người Sa-ma-ri nhân hậu biết yêu thương tha nhân bằng tình yêu không tính toán và không biên giới. Xin hãy canh tân tâm hồn con. Xin Chúa mở rộng tầm nhìn và đôi bàn tay của con, để con nhận biết mọi người là anh em để con yêu thương phục vụ họ.
Và xin cho con biết chấp nhận những phiền hà khi giúp đỡ anh em, chấp nhận những mất mát khi cho đi chính con người và tiền bạc của con. Lạy Chúa, xin Chúa giúp sức để con thực hiện trọn vẹn giới luật yêu thương của Chúa. Amen.
Sir Launfal, một hiệp sĩ trẻ hào hùng. Một ngày nọ chàng hiệp sĩ lên đường đi truy tìm chiếc chén thánh mà Chúa Giêsu đã sử dụng trong bữa tiệc ly. Khi chàng bắt đầu rời khỏi thành phố ra đi thì gặp ngay một người cùi đang ngồi ăn xin bên vệ đường. Chạnh lòng thương, chàng đã giúp cho người cùi một đồng, rồi ra đi. Chàng tìm mãi chẳng thấy chén thánh đâu!
Thất bại, chàng hiệp sĩ bèn lên ngựa quay trở về nhà. Lúc này chàng đã già hơn xưa sau cuộc hành trình tìm kiếm thật gian khổ. Còn người cùi vẫn ngồi ăn xin ở chỗ cũ. Chàng hiệp sĩ chẳng còn tiền bạc gì nữa để cho, anh chia sẻ với người cùi mảnh bánh vụn còn lại của anh. Ăn xong, họ chẳng có gì để uống. Chàng hiệp sĩ bèn lấy cái tô của người cùi đi tìm nước cho người cùi uống. Khi chàng bưng tô nước quay trở lại đưa cho người cùi thì người cùi đã biến thành Chúa Giêsu và tô nước hoá nên chén thánh mà chàng đang đi tìm kiếm.
Suy niệm
Tình yêu mà Chúa Giêsu nói đến có hai chiều kích: Yêu mến Thiên Chúa và yêu mến anh em. Việc tôn thờ, yêu mến Thiên Chúa có lẽ chẳng ai thắc mắc. Còn chiều kích yêu mến với anh em thì Chúa Giêsu đã làm một cuộc cách mạng khi mạc khải một tình yêu không biên giới nơi tha nhân bằng dụ ngôn người Samaria nhân hậu (x. Lc 10,30-35).
Do những nguyên nhân về lịch sử và thực hành tôn giáo, người Samaria và người Do Thái không ưa nhau, quan hệ giữa hai miền này rất căng thẳng đến nỗi họ không thể nói chuyện với nhau. Qua thời gian, sự căng thẳng này dẫn đến việc người Do Thái không được giao thiệp với người Samaria và ngược lại như luật của họ. Cho nên, Tin Mừng Gioan kể lại các môn đệ của Chúa rất ngạc nhiên khi Chúa nói chuyện với người phụ nữ Samaria. Sự ngạc nhiên này cũng thể hiện nơi người phụ nữ Samaria khi Chúa Giêsu xin chị nước uống, chị bối rối và trả lời: “Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?”. Gioan đã khẳng định: “Quả thế, người Do Thái không được giao thiệp với người Samaria” (x. Ga 4,1-42).
Trong dụ ngôn Chúa Giêsu trình bày, người Samaria đã vượt qua ranh giới chủng tộc mà con người đã tự tạo ra để ngăn cách tình anh em, xé rào những bất đồng để đến cứu nguy người anh em Do Thái bị cướp, đánh đập nguy hiểm đến tính mạng. Chúa Giêsu cũng kêu gọi người anh em Do Thái cũng hãy đáp lễ, xé rào hận thù, xóa bỏ ngăn cách của chủng tộc để đến với tha nhân mà bước đầu tiên là anh em Samaria bên cạnh. Trước đó, Chúa Giêsu đã xé rào bằng tinh thần đối thoại qua việc Chúa đã trao đổi với người phụ nữ Samaria, một hình ảnh tối kị trong quan hệ Do Thái - Samaria.
Yêu thương anh em và anh em chính là tha nhân, bất cứ người nào ngoài ta, “Cứ làm như vậy là sẽ được sống” (Lc 10,28) như Chúa Giêsu đã truyền. Hãy thi hành một tình yêu không biên giới đối với tất cả mọi người dù là người thân cận hay có thù oán. Chúa Giêsu dạy chúng ta phải yêu thương mọi người, kể cả những người không hợp với mình và thù ghét mình (Mt 5,44).
Tình yêu mới: “Yêu không biên giới”, là cơ bản trước mọi hành động của đời sống người Kitô hữu như thánh Âugustinô nói: “Cứ yêu đi rồi muốn làm gì thì làm”. Tình yêu sẽ cho ta biết ta phải làm gì. Không tình yêu, mọi hành động đều vô nghĩa. Thánh Phaolô nói rất rõ: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,3). Tình yêu không biên giới dành cho tha nhân là dấu chứng cho tình yêu của mình đối với Thiên Chúa, nếu có biên giới, tình yêu với Thiên Chúa là giả dối, như thánh Gioan Tông đồ có viết: “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4,20).
“Tôi phải làm gì để được sống đời đời”, đó cũng là điều luôn thao thức trong tâm hồn tôi tâm hồn bạn. Tiếng vang vọng lại trong cõi lòng: “Hãy đi và làm như vậy” (Lc 10,37): Làm như người Samaria nhân hậu, dám phá tan cái rào cản thù hiềm của ngăn cách chủng tộc, màu da, ngôn ngữ để giúp người anh em trong lúc khốn cùng cần có người giúp đỡ. Làm như người Samaria là thiệt thòi về thời gian, công sức, tiền của để cứu người anh em xa lạ có hiềm khích.
Ý lực sống:
“Tình yêu này là lời ca, lời ca đánh thức tôi. Lời ca dạy tôi những gì tôi đã học, chỉ cho tôi những nẻo đường bí mật và những vì sao nơi chân trời của trái tim tôi” (Tagore, Lời dâng).
Người Do thái vẫn biết giới luật cao trọng hơn hết là “Mến Chúa hết lòng và yêu người thân cận như chính mình”. Mến Chúa thì sẽ hiểu, còn yêu tha nhân thì họ khó hiểu, vì họ có cái nhìn thiển cận và hẹp hòi về những người ngoài dân tộc Do thái. Chính vì vậy, một người thông luật đã đến hỏi thử Chúa Giêsu xem ai là người thân cận của ông và ông xin Chúa cho một câu định nghĩa. Nhưng thay vì lý thuyết suông, Ngài đã đưa ra dụ ngôn người Samaritanô nhân lành để cho ông một bài học.
Đối với luật sĩ và biệt phái thì luật mến Chúa thì quá rõ, ai cũng biết vì nó có ở trong kinh Schema mà người Do thái đọc hằng ngày; nhưng còn luật yêu người thì họ còn mù mờ: “Thế nào là yêu người thân cận như chính minh? Người thân cận là ai?” Chính vì vậy mà một người thông luật đến chất vấn Đức Giêsu xem người thân cận là ai? Đức Giêsu không trả lời bằng lý thuyết suông có thể gây tranh luận, Ngài dùng dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu, để nói cho người thông luật biết rằng: người thân cận không phải chỉ là người Do thái, mà là bất cứ ai không phân biệt chủng tộc, giai cấp, màu da hoặc tín ngưỡng đang cần đến sự giúp đỡ của chúng ta.
Ngày nay chúng ta hay nói: “Tứ hải giai huynh đệ”: bốn bể là anh em, nhưng người Do thái không chấp nhận quan niệm này. Luật của người Do thái đã giới hạn sự giao tiếp giữa người Do thái với những người không phải là Do thái. Theo luật của họ, người thân cận được định nghĩa là “những người con trai của xứ sở bạn”. Do đấy, chỉ có những người Do thái mới là hàng xóm, là thân cận của mình.
Đức Giêsu chủ trương ngược lại: người anh em của tôi, người thân cận của tôi là bất cứ ai tôi chọn để trở nên người anh em, người thân cận. Như vậy, không biết ai là người anh em của mình nữa, mà điều quan trọng là tìm cách để trở nên người anh em, người gần gũi với bất cứ ai đang cần sự giúp đỡ.
Có người nói tình yêu đích thực được thể hiện qua bốn phương diện: (1) sẵn lòng giúp đỡ; (2) biết xót xa trước đau khổ và (3) biết vui mừng trước hạnh phúc của người khác; cuối cùng (4) biết tha thứ. Chúa Giêsu đưa ra nhân vật Samaritanô như một điển hình về tình yêu đích thực đó. “Chạnh lòng thương” trước tình cảnh khốn khổ cấp bách của một người không quen biết, thay vì bỏ đi như thầy tư tế và thầy Lêvi với những bận rộn của mình – mà ai lại không có những việc bận rộn cơ chứ? – ông Samaritanô này sẵn sàng gác lại công việc của mình, và dốc toàn lực cứu chữa người bị nạn cách tận tình. Với nghệ thuật kể chuyện tài tình, Chúa mô tả tỉ mỉ những việc làm bác ái của người Samaritanô. Ngài dạy chúng ta yêu thương đích thực phải thể hiện bằng việc làm cụ thể và Ngài kết luận cũng rất cụ thể: “Hãy đi và làm như vậy” (5 phút Lời Chúa).
Nhà văn Mark Twain nói: “Từ ngữ ‘mưa’ sẽ chẳng nói lên điều gì nếu như bạn chưa một lần đi trong mưa hoặc tiếp xúc với nó? ‘Tình yêu’ cũng chẳng là gì, nếu như bạn chưa bao giờ kinh nghiệm về nó”. Người thông luật biết rất rõ hai giới răn quan trọng là mến Chúa và yêu người. Nhưng theo Đức Giêsu, để được sự sống đời đời, ông phải thực hành điều ông vừa nói. Ông sẽ không biết ‘mến Chúa yêu người’ thực sự, nếu không hiện thực hoá hai điều răn này trong suy nghĩ, lời nói và hành động của ông. Ai cũng cần có tình yêu để được sống hạnh phúc. Thế nhưng, tình yêu không phải là một khái niệm chỉ để nói suông. Tình yêu đòi hỏi chia sẻ, cảm thông, hy sinh và gắn bó với một đối tượng cụ thể. Tình yêu mời gọi mỗi người biết trao tặng một lời nói chân thành, một nụ cười khích lệ, hoặc một việc bác ái (Học viện Đa Minh).
Một cách tổng quát, chúng ta có thể thực hiện lòng yêu Chúa và tha nhân như sau:
Mến yêu Chúa: Muốn mến yêu Chúa, chúng ta có muôn vàn cách để yêu mến Ngài nhưng những cách biểu lộ ấy có tính cách chủ quan, mỗi người một cách, nhưng theo Tin mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu đã nhấn mạnh lại điều kiện tiên quyết để biết ai là người mến Chúa, đó là “Thực thi Lời Chúa, sống theo giới răn của Chúa”.
Yêu tha nhân: Muốn yêu tha nhân cho xứng đáng, hãy sống theo khuôn vàng thước ngọc này: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Mt 7,12). Hay nói ngắn gọn hơn: “Ngươi hãy yêu thân cận ngươi như chính mình”(Mc 12,30). Yêu mình thế nào, thì phải yêu người như vậy. Tất nhiên mình luôn luôn muốn cho mình được những điều tốt lành, hạnh phúc và lợi ích. Không ai muốn mình bị xấu xa, khổ cực, tại hoạ; vậy yêu người cũng phải làm cho người như vậy.
Truyện: Đi tìm chén thánh
Có một câu chuyện huyền thoại về “một người Samaritanô tốt lành” có tên là Sir Launfal, một hiệp sĩ trẻ hào hùng. Một ngày nọ chàng hiệp sĩ lên đường đi truy tìm chiếc chén thánh mà Chúa Giêsu đã sử dụng trong bữa Tiệc ly. Khi chàng bắt đầu rời khỏi thành phố ra đi thì gặp ngay một người cùi đang ngồi ăn xin bên vệ đường. Chạnh lòng thương, chàng đã giúp cho người cùi một đồng, rồi ra đi. Chàng tìm mãi chẳng thấy chén thánh đâu! Thất bại, chàng hiệp sĩ bèn lên ngựa quay trở về nhà. Lúc này chàng đã già hơn xưa sau cuộc hành trình tìm kiếm thật gian khổ. Còn người cùi vẫn ngồi ăn xin ở chỗ cũ. Chàng hiệp sĩ chẳng còn tiền bạc gì nữa để cho, anh chia sẻ với người cùi mảnh bánh vụn còn lại trong cuộc đời. Ăn xong, họ chẳng có gì để uống. Chàng hiệp sĩ bèn lấy cái tô của người cùi đi tìm nước cho người cùi uống. Khi chàng bưng tô nước quay trở lại đưa cho người cùi thì người cùi đã biến thành Chúa Giêsu và tô nước hoá nên chén thánh mà chàng đang đi tìm kiếm.
1. “Ai là người thân cận của tôi?”. Câu hỏi này của vị Luật sĩ phản ảnh phần nào chiều hướng của ông:
- Ông muốn tìm một câu định nghĩa về “người thân cận”. Người do thái thời đó hiểu “người thân cận” chỉ là những đồng bào do thái với mình.
- Ông muốn nghe một câu trả lời có tính lý thuyết.
2. Dụ ngôn người Samari phản ảnh chiều hướng của Chúa Giêsu:
- Định nghĩa về “người thân cận” không quan trọng bằng thực thi bác ái với người thân cận (câu 37)
- Người thân cận là bất cứ ai (không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, quan điểm...). Hình như hai nhân vật chính trong dụ ngôn này một người là do thái một người là Samari.
- Thay vì tìm hiểu ai là người thân cận, tốt hơn nên tỏ ra mình là người thân cận đối với những kẻ đang cần mình giúp đỡ (câu 36)
B.... nẩy mầm.
1. “Sống ở đời, ai ai cũng có những lúc tối lửa tắt đèn, có lúc lá rách cần lá lành, có lúc chị ngã em nâng. Sống ở đời, ai ai mà không cần tới tình yêu. Nhưng ít người thực hiện tình yêu. Hay nếu có, lại chỉ vỏn vẹn trong một khung cảnh gia đình hay trong một lũy tre xanh chật hẹp. Cho nên cũng vì vậy mà trần gian mất đi nhiều nguồn vui thật” (Trích “TMCGK ngày trong tuần”)
2. “Bác ái là thẻ thông hành có giá trị nhất để vào Nước Trời”. “Bác ái đích thực không tra vấn, không đặt câu hỏi” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”)
3. Trong thế chiến vừa qua, một sĩ quan Anh thấy một sĩ quan Đức bị trọng thương, đang oằn oại bên hàng rào kẽm gai. Bom đạn ầm ầm, khói lửa ngút trời, nên không thể đưa người thương binh vào chỗ an toàn. Cuối cùng, người sĩ quan Anh tự nhủ: “Mình không đành lòng nhìn một người đau đớn khốn khổ như vậy! Thế là anh phóng ra giữa lửa đạn, vác người thương binh trên vai và đưa sang phần đất mà quân Đức chiếm đóng. Khi trận chiến tạm dừng, một sĩ quan Đức bước ra khỏi chiến hào, tháo chiếc thánh giá bạc đeo trước ngực và gắn cho người sĩ quan Anh.
1. Chúng ta vừa nghe lại câu chuyện chúng ta đã thuộc lòng từ rất lâu. Ông luật sĩ hỏi Chúa: “Ai là người thân cận của tôi?” (Lc 10,29)
Với câu hỏi này chúng ta thấy ông luật sĩ muốn hai điều:
- Ông muốn tìm một câu định nghĩa về “người thân cận”. Tại sao thế? Thưa, vì người Do Thái thời đó chỉ hiểu “người thân cận” là những đồng bào Do Thái với mình.
- Ông muốn nghe một câu trả lời có tính lý thuyết.
Còn Chúa Giêsu thì sao? Với dụ ngôn người Samaria nhân hậu, Chúa Giêsu muốn mọi người hiểu ba điều:
- Người thân cận là bất cứ ai (không phân biệt chủng tộc, tín ngưỡng, quan điểm...). Hình như hai nhân vật chính trong dụ ngôn này: một người là Do Thái, một người là Samaria. Người Samaria thì dụ ngôn nói rõ, còn người bị thương thì dụ ngôn bỏ ngỏ, nhưng có nhiều lý do nói rằng, đó là người Do Thái, vì những người Do Thái thường đi trên con đường này nhiều hơn người Samaria.
- Như vậy, định nghĩa về “người thân cận” không quan trọng bằng thực thi bác ái với người thân cận (Lc 10,37)
- Cuối cùng, thay vì tìm hiểu ai là người thân cận, tốt hơn nên tỏ ra mình là người thân cận đối với những kẻ đang cần mình giúp đỡ (Lc 10,36).
2. Một phóng viên nọ muốn biết cách đối xử của con người thế nào, ông đã giả vờ làm người bị thương nằm bên vệ đường cùng với chiếc xe bị hư của ông. Rất nhiều người đã đi qua… Cuối cùng, mới có một người dừng xe lại xem xét và đến trạm gọi điện thoại gọi báo cho cảnh sát. Người phóng viên đã cẩn thận ghi các số xe đã chạy qua, sau đó, ông đến tận nhà họ để phóng vấn. Mỗi người đều nói lên lý do của mình, nhưng không ai nghĩ mình một ngày kia có thể rơi vào hoàn cảnh như thế. Đó là điều mà chúng ta ít khi để ý tới.
Sống ở đời, ai mà chẳng cần tới tình yêu. Nhưng ít người thực thi tình yêu đối với người khác. Hay nếu có, lại chỉ vỏn vẹn trong một khung cảnh gia đình hay trong một lũy tre xanh chật hẹp của mình. Chính vì thế mà trần gian mất đi rất nhiều nguồn vui thật”.
Chung quanh chúng ta còn có biết bao nạn nhân, dưới nhiều hình thức, đang chờ bàn tay nâng đỡ của chúng ta. Nhưng thử hỏi chúng ta đã làm được gì? Có thể chúng ta không có tiền bạc, nhưng một lời nói, một nụ cười, một cử chỉ, một việc làm tốt cũng có sức xoa dịu và cảm thông với những nỗi khổ đau với đồng loại.
Vậy hãy cố gắng mà đối xử tốt với nhau và hãy cố gắng trở thành người thân cận của mọi người.
Một hôm, Thầy Antôn dẫn Thầy Amôna ra khỏi chòi tu và chỉ vào tảng đá giữa hoang địa mà nói:
- Thầy hãy mắng tảng đá và đập cho nó một cái đi.
Thầy Amôna làm theo. Lúc đó Thầy Antôn hỏi: - Tảng đá có nói gì không?
Thầy Amôna đáp: - Không.
Thầy Antôn nói: - Thầy cũng vậy, thầy sẽ đạt tới mức độ này.
Ý thầy Antôn muốn nói là thầy Amôna phải tập sao cho mình không còn biết đến hai chữ giận dữ, không còn biết đến nóng nảy là gì nữa.
Và quả thực sau này đã xảy ra như thế. Thầy Amôna càng ngày càng tiến bộ, lòng nhân hậu của Thầy càng ngày càng tăng trưởng tới mức thầy không biết tới sự ác độc, dữ dằn là gì nữa. Về sau, khi thầy lên chức Giám Mục, có một lần các tu sĩ trong miền dẫn tới Toà Giám Mục một thiếu nữ mang bầu và xin Ngài ra hình phạt. Ngài đã ứng xử như thế nào? Đức Cha đã đưa tay vẽ hình Thánh Giá lên bụng cô gái, rồi ra lệnh ban cho cô sáu tấm drap bằng lanh mịn và nói:
- Sợ rằng, khi cô ta sinh con, cô ta hay đứa con có thể chết, mà không có gì tẩm liệm chăng?
Nhưng những kẻ tố cáo lại nói:
- Tại sao Đức Cha làm như thế? Xin ra cho nó một hình phạt.
Ngài ôn tồn bảo:
- Xin anh em coi, cô ta đã đau khổ muốn chết được; tôi còn phải làm gì hơn nữa?
Nói thế rồi Ngài cho cô ta về. Từ đấy, không tu sĩ nào còn dám tố cáo ai nữa.
Chúa Giêsu bảo chúng ta: “Hãy đi mà làm như thế”.(Lc 10,37) Điều đó không chỉ có nghĩa là chúng ta đi mà băng bó săn sóc cho những người bị thương tích, nhưng còn có nghĩa là hãy cố gắng mà trở nên người thân cận với mọi người. Nếu chúng ta làm được như thế thì những việc chúng ta đối xử tốt với nhau sẽ không còn khó khăn gì nữa, mà nó sẽ trở thành những việc tự nhiên trong cuộc đời.
Lạy Chúa, Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm. Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến. Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm. Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Tổ tiên, ông bà, cha mẹ Việt Nam chúng ta thường nói: ”Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống như chung một giàn”, nghĩa là tất cả mọi người chúng ta cùng sống trên một đất nước nói riêng và nói chung là trên trên gian này đều là anh chị em với nhau.
Còn trong Nho giáo thì nói: ”Tứ hải giai huynh đệ”, mọi người khắp bốn biển trên thế giới đều cùng là anh chị em.
Trong đạo thánh Chúa, Chúa dạy chúng ta là”Mến Chúa , yêu người”. Đặc biệt, qua Tin Mừng hôm nay, Chúa đã nói một cách rõ ràng cho chúng ta biết”Người”, đó là tất cả anh chị em của chúng ta đang sống trên trần thế đây, trải dài qua muôn thế hệ, mà trần thế này được ví như là một ngôi nhà chung, vì thế chúng ta hãy yêu thương nhau.
-Trước hết, anh chị em của chúng ta là những người mà chúng ta chưa một lần gặp gỡ họ trong cuộc đời này, hoặc là họ cũng chưa bao giờ gặp chúng ta. Chúng ta và họ hoàn toàn lạ lẫm với nhau ”Tôi với anh như người xa lạ”. Đây là trường hợp của người Samaria và người gặp bị nạn hôm nay, hai người này không hề quen biết nhau, chưa bao giờ gặp nhau, tiếp xúc nhau, dù một lần.
-Không hề biết nhau, nhưng vẫn giúp đỡ nhau, lúc người anh chị em mình gặp hoạn nạn, rủi ro, cơ hàn, khắc nghiệt….chúng ta thương người khác như thể thương thân, thấy anh chị em chúng ta gặp tai ương, khốn khó là ra tay giúp đỡ, không một điều kiện gì cả. Người Samaria đang trên đường đi, thấy người anh em mình bị nạn thì xuống ngựa, không ngần ngại và giúp đỡ liền
-Đã thương anh chị em củamình thì phải thương cho trót, người Samaria đưa người bị nạn đến quán trọ nhờ săn sóc, chịu tốn phí tất cả, ông lại tiếp tục công việc của mình và hứa hôm sau khi xong việc, ông sẽ quay trở lại thanh toán số còn thiếu.
Cuối bài Tin Mừng Chúa nói với ông luật sỹ đang thưa chuyện với Chúa về vấn đề này là ông hãy đi và làm như vậy (Lc 10, 37). Nghĩa là tình yêu thương tha nhân phải là một tình yêu cụ thể, bằng hành động thiết thực, sống động, chứ không phải chỉ nói yêu trên đầu môi chót lưỡi, trên giấy tờ, văn bản, chữ viết. Nhất là hãy nâng đỡ, cứu giúp những người đang gặp hoạn nạn, khổ đau, bệnh tật, tuyệt vọng trong cuộc sống. Vì anh chị em của chúng ta rất cần sự giúp đỡ của chúng ta trong những lúc như thế này, để anh chị em chúng ta vượt qua gian nan, thử thách, trắc trở mà đứng vũng trong cuộc sống, chứ còn lúc mà anh chị em chúng ta vượt qua rồi thì đâu cần sự giúp đỡ của chúng ta nữa. Về phần chúng ta, chúng ta yêu thương anh chị em chúng ta bằng việc chúng ta phải hy sinh, phải chịu mất mát, thiệt thòi, về tinh thần, sức khỏe, tiền bạc…, chúng ta phải cố gắng nhiều lắm thì mới giữ được chữ yêu một cách vẹn toàn, thiết thực được.
Tất cả những gì chúng ta làm được cho anh chị em của chúng ta cũng điều làm theo mẫu gương của Chúa mà thôi. Chúng ta không thể đi ra ngoài mẫu gương đó, vì việc chúng ta làm được cho người khác quá nhỏ bé so với Chúa những gì Chúa đã làm cho chúng ta. Chúa chịu bị đánh đòn tan xương nát thịt, chịu treo trên thập gía vì yêu chúng ta, cứu chúng ta khỏi chết muôn đời. Do đó, chúng ta hãy sống và làm để mang lại phần hạnh phúc cho người anh chị em của chúng ta là chúng ta yêu họ vì Chúa.
Lạy Chúa, Chúa dạy chúng con hãy đi và làm như điều Chúa trong tình yêu, nghĩa là chúng con hãy cầu nguyện cho anh chị em của mình, và phải luôn cố gắng làm việc cứu giúp anh chị em chúng con, nhất là những người gặp gian nan, khốn khó, nghèo túng, ốm đau, bệnh tật, tai ương, hoạn nạn trong cuộc sống. Amen.
Anh em của chúng ta là tất cả mọi người, không phân biệt bạn hay thù, không phân biệt màu da, chủng tộc, ngôn ngữ, giai cấp, giàu, nghèo, sang hèn, địa vị xã hội, tôn giáo…
Chúa dạy chúng ta coi nhau là anh chị em vì chúng ta là con một Cha trên trời và phải biết sống yêu thương nhau. Chính ông bà chúng ta cũng nói đến điều này: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn “. Yêu thương không ở trên môi miệng mà là bằng hành động cụ thể như cầu nguyện, làm ơn làm phúc, cho vay mượn khi anh chị em của chúng ta cần.
Cầu nguyện xin Chúa thương xót anh chị em chúng ta, ban muôn ơn cho anh chị em chúng ta, nhất là những anh chị em đang gặp gian nan thử thách, khó khăn, nghèo túng, khổ đau, tuyệt vọng, thất bại…, xin Chúa ban sức mạnh cùng sự nâng đỡ ủi an người anh chị em chúng ta.
Làm việc lành phúc đức cho anh chị em mình như người Samaria nhân hậu trong bài Tin Mừng hôm nay. Ông không thuộc Kinh Thánh như các thầy tư tế và trợ tế. Ông không biết nghệ thuật yêu để chinh phục, để làm hài lòng người khác. Ông không có đạo. Ông nghĩ sao ông sống vậy. Ông không chút tính toán thiệt hơn. Ông sống rất chân thành. Vì thế, khi trên đường đi, ông thấy một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô bị kẻ cướp đánh nửa sống nửa chết nằm bên vệ đường là ông dừng lại, xuống lừa cứu giúp liền ngay, băng bó vết thương, xức dầu và rượu, đưa về quán trọ săn sóc, trả tiền chi phí. Ông là người giàu tình thương với người bị nạn. Chúa đề cao ông: “Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Ðức Giêsu rằng: Nhưng ai là người thân cận của tôi? Ðức Giêsu đáp: Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lêvi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. Nhưng một người Samaria kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiều, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác”. Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp? (Lc 10, 29 – 36). Qua đó, Chúa nói với người thông luật: “Ông hãy đi và làm như vậy” (Lc 10, 37).
“Ông hãy đi và làm như vậy” (Lc 10, 37), nghĩa là Chúa bảo chúng ta ngày nay hãy dấn thân cho tình yêu. Đạo Chúa là đạo tình yêu. Yêu không những trong sự hiểu biết của trí não mà còn được thôi thúc hành động bằng trái tim, bằng tấm lòng từ ái: “Và này, có người thông luật kia đứng lên hỏi Chúa Giêsu để thử Chúa rằng: Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời nay làm gia nghiệp? Chúa đáp: Trong luật đã viết gì? Ông đọc thế nào? Ông ấy thưa: Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh chị em như chính mình. Chúa bảo ông ta: Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống” (Lc 10, 25 - 28).
Yêu Chúa thì phải giữ đạo Chúa, nghe lời Chúa dạy, xa lánh các tội lỗi, luyện tập các nhân đức…. Yêu người thì hãy sống và hành động theo lời kinh chúng ta đọc ngày Chúa nhật “ Thương người có mười bốn mối: thương xác bảy mối, thứ nhất cho kẻ đói ăn, thứ ha cho kẻ khát uống…. Thương linh hồn bảy mối, thứ nhất lấy lời lành mà khuyên người, thứ hai mở dạy kẻ mê muội…” (xMt 25, 31 – 46). Đặc biệt, trong giờ phút này, chúng ta thực hiện việc giúp đỡ anh chị em chúng ta. Những người thiếu ăn, chúng ta giúp gạo, mì tôm, rau, củ, quả…. Những người bị bệnh, chúng ta giúp tiền bạc để họ có điều kiện chữa bệnh. Những người đau khổ, chúng thăm viếng ủi an, nâng đỡ…Đây là cách làm để chúng tỏ chúng ta có yêu Chúa hay không: “Muốn biết một ai có lòng kính mến Chúa bao nhiêu, hãy xem kẻ ấy thương yêu người ta ngần nào” (Thánh Catarina Gênes)
Lạy Chúa, xin Chúa ban cho chúng con một trái tim giống như Chúa để chúng con yêu Chúa, yêu người, để chúng sống theo lời Chúa dạy, biết cho đi mà không mong báo đền nhằm làm cho cuộc sống bớt khổ đau, bớt thiếu thốn hơn và mọi người sẽ sống hạnh phúc hơn, và rồi chúng con sẽ được Chúa cho sống đời đời với Chúa sau này. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Hai Tuần 27 Thường Niên, Năm Lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Tình thương Chúa thật là cao cả, vượt xa mọi công trạng và ước muốn của con người, xin Chúa rộng tình tha thứ những lỗi lầm cắn rứt lương tâm chúng ta, và thương ban những ơn trọng đại lòng chúng ta chẳng dám mơ tưởng bao giờ.
Chúa tha thứ và ban những ơn trọng đại, qua Đấng Trung Gian duy nhất, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích thư thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ gửi ông Timôthê: Lời cầu nguyện của cộng đoàn dân Chúa. Sống giữa lòng thế giới, Hội Thánh có sứ mạng cầu nguyện không ngừng nhờ Đấng Trung Gian duy nhất là Chúa Giêsu Kitô… Chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người, đó là một con người: Đức Giêsu Kitô. Người đã tự hiến làm giá chuộc mọi người. Bởi thế Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một Vị Thượng Tế nhân từ.
Chúa tha thứ và ban những ơn trọng đại, cho toàn thể Hội Thánh, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích khảo luận của thánh Amrôxiô: Phải cầu nguyện cho toàn thể Hội Thánh… Lạy Chúa Trời, xin nghe tiếng kêu van, và lưu ý đến lời con thỉnh nguyện. Từ cùng cõi địa cầu, con kêu lên Chúa. Vâng chính Ngài, lạy Thiên Chúa, đã nghe lời khấn nguyện của con, lại cho con thừa hưởng cơ nghiệp dành cho ai kính sợ danh Ngài.
Chúa tha thứ và ban những ơn trọng đại, qua những người Chúa chọn, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách ngôn sứ Giôna: Ông Giôna đứng dậy để tránh nhan Đức Chúa. Trong bài Đáp Ca, ngôn sứ Giôna cầu xin: Lạy Chúa, Ngài đã đưa con lên khỏi huyệt để con được sống. Từ cảnh ngặt nghèo, tôi kêu lên Đức Chúa, Người đã thương đáp lời. Lạy Chúa, từ lòng âm phủ, con cầu cứu, Ngài đã nghe tiếng con.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em. Trong bài Tin Mừng, người thông luật hỏi: Ai là người thân cận của tôi? Điều răn mới, mới ở chỗ là: những người “thân cận”, không chỉ là những người gần gũi, mà là, hết tất cả mọi người; mới ở chỗ là: không chỉ dừng lại ở khía cạnh công bình, mà là, đến độ hy sinh tính mạng vì người mình yêu: Giôna bị ném xuống biển, để cứu những người trong tàu, và sau ba ngày trong bụng kình ngư, ông đã cứu được dân thành Ninivê; Đức Giêsu tự nguyện chịu ném xuống biển trần gian, và sau ba ngày trong mộ đá, Người đã cứu toàn thể nhân loại. Để sống được điều răn mới, chúng ta phải cậy nhờ Vị Trung Gian của Giao Ước Mới: Đức Kitô Giêsu, Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người. Người đã trở nên “người thân cận” của chúng ta, đã nên giống chúng ta về mọi phương diện, để trở thành một Vị Thượng Tế nhân từ. Người đã dạy ta về lòng nhân hậu của Chúa Cha, Đấng hằng ban những điều thiện hảo, để ta biết xin Đấng nhân hậu ban cho ta những điều thiện hảo. Người khuyên ta càng xin ơn tha thứ cho mình, thì càng phải biết quảng đại tha thứ cho người khác. Chúng ta được dạy phải cầu nguyện cho toàn thân thể, cho mọi chi thể của Hội Thánh. Nếu ta chỉ xin cho chính mình, thì, ta sẽ chỉ xin cho bản thân thôi; còn nếu ta xin cho mọi người, thì, mọi người sẽ xin cho ta, vì ta ở trong mọi người. Như vậy, các việc lành phúc đức của toàn dân Chúa sẽ tăng thêm hiệu lực, nhờ từng lời cầu nguyện của mỗi người. Cách cầu nguyện đó không những không kiêu căng, mà còn, khiêm nhường, và mang lại hoa trái dồi dào hơn. Tình thương Chúa thật là cao cả, vượt xa mọi công trạng và ước muốn của con người, ước gì Chúa rộng tình tha thứ những lỗi lầm cắn rứt lương tâm chúng ta, và thương ban những ơn trọng đại lòng chúng ta chẳng dám mơ tưởng bao giờ. Ước gì được như thế!
Khi ấy, người ta đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu để Người đặt tay trên chúng, nhưng các môn đệ khiển trách họ.
Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông rằng: “Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. Thày bảo thật các con: “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó”. Rồi Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng.
Ngày tết Trung thu, người ta hay nói về Chú Cuội ngồi gốc cây đa và ôm cả một mối lo. Như bài hát đã từng được nhiều người ưa thích: “Ánh trăng trắng ngà, có cây đa to, có thằng cuội già ôm một mối lo”. Vậy chú Cuội là ai?
Chú Cuội theo chuyện thần thoại của Trung Quốc, tên là Ngô Cương. Xưa kia Ngô Cương đã tu và đắc đạo thành tiên, nhưng sau vì làm nhiều điều xằng bậy trên thiên đình, đã bị Ngọc hoàng nổi giận, bắt đày xuống cung trăng, trao cho việc chặt và bóc vỏ cây quế đỏ. Thế nhưng cây quế đỏ này lại cứng như thép, nên Ngô Cương chặt mãi, bóc hoài cho đến bây giờ cũng chẳng xong. Vì vậy, mỗi đêm, nhìn lên mặt trăng, chúng ta mới thấy bóng Ngô Cương đang lúi húi ở dưới gốc cây quế.
Còn ở Việt chúng ta thì Ngô Cương lại chính là chú Cuội. Và cái bóng mà người Trung quốc gọi là cây quế đỏ, thì lại chính là cây đa thần. Vì thế mới có câu:
- Thằng cuội ngồi gốc cây đa,
Bỏ trâu ăn lúa, gọi cha ời ời.
Cha còn cắt cỏ trên trời,
Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên.
Chú Cuội, theo truyền thuyết, đó là một kẻ đi nói dối cha, về nhà nói dối chú. Suốt đời, đánh lừa mọi người. Hồi còn nhỏ, ngày kia vì cha mẹ đi vắng, chú phải coi nhà. Buồn tình, chú bỗng nghĩ ra một trò chơi, nên vội kêu la thất thanh: “Bớ làng nước ơi, cháy nhà, cháy nhà. Cứu tôi với.”
Mọi người hối hả mang chậu, xách thùng tới tiếp cứu. Thấy vậy, chú bèn cười ngặt nghẹo đến vãi cả nước mắt. Lần khác, chú ngồi thổi cơm, chẳng may để lửa bén vào đống rơm và căn nhà bốc cháy. Chú cũng kêu la thất thanh: “Bớ làng nước ơi, cháy nhà, cháy nhà. Cứu tôi với.”
Thế nhưng, lần này chẳng một ma dại nào đến tiếp cứu cho chú cả.
Vì thế, dân gian mới bảo:
- Bắc thang lên đến tận mây,
Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời.
Cuội nghe hỏi thế, Cuội cười,
Bởi hay nói dối nên ngồi ấp cây.
Cũng bởi hay cái tính táy máy này, mà chú Cuội bỗng trở thành hình ảnh tượng trưng cho những kẻ chuyên môn lừa gạt: nói dối như cuội. Hay nói một đàng làm một nẻo: hứa cuội có nghĩa là hứa lèo, hứa thì rất nhiều mà chẳng làm được đí gì sốt, đầu voi đuôi chuột, trăm voi không được một bát nước xáo.
Tại sao ngày tết Trung thu mà người ta lại kể chuyện về chú cuội, một đứa trẻ hư đốn trong ngày vui của các em? Có lẽ không phải tình cờ hay ngẫu nhiên, vì kho tàng văn học cổ tích là tiếng nói của khát vọng con người vươn tới sự hoàn thiện. Cha ông kể chuyện về chú cuội để răn đời, để dạy con cháu, đừng sống như chú cuội kẻo phải ôm gốc cây đa cả đời. Vì ngày tết Trung thu được xem là ngày tết của thiếu nhi, của tuổi thần tiên, nên cha ông ta đã dùng rất nhiều những câu chuyện thần tiên để hướng các em tới sự hoàn hảo nhất của con người.
Theo Tin mừng, Chúa Giêsu luôn yêu thích tâm hồn trẻ thơ. Ngài luôn tìm dịp để gần gũi các em. Ngài không chỉ yêu mến, chúc lành và bênh vực, mà hơn thế nữa, còn lấy trẻ nhỏ làm khuôn vàng thước ngọc cho người lớn phải noi theo:
- “Nếu các con không trở nên như trẻ nhỏ thì sẽ chẳng được vào Nước trời đâu.”
Nhìn vào trẻ nhỏ, chúng ta sẽ ghi nhận được biết bao nhiêu nhân đức cao đẹp.
Trước hết, nơi trẻ thơ, không có sự gian dối, chỉ có đơn sơ chân thành. Thực vậy, trẻ thơ cần phải luôn đơn sơ chân thành, không ăn gian nói dối như Cuội. Kinh nghiệm cha ông ta vẫn nói: “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ.”
Thế nhưng ngày nay, nhiều trẻ thơ đã nhiễm thói đời hay nói dối, nói quanh co, không dám nói sự thật. Điều đó đã làm cho các em đánh mất tuổi thơ của mình. Nếu một em bé đã nhiễm thói ăn gian nói dối, là tự mình đánh mất tuổi thơ, đánh mất vẻ hồn nhiên tươi vui sẽ làm cho con người ra già cỗi, và tự đầy đoạ mình như chú Cuội, suốt đời ôm một mối lo.
Thứ đến, nơi trẻ thơ không có hận thù, bạo lực, mà chỉ có một tình yêu thương dạt dào và không biên giới. Mẩu chuyện mang tựa đề “Đứa bé của hòa bình”, trong mục nghệ thuật sống của báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật, đã kể rằng:
“…Hôm ấy, tôi được trao nhiệm vụ đi thám thính cho bộ lạc của mình. Sau ba ngày đêm ròng rã, tôi phát hiện một túp lều của kẻ thù. Tôi bò từng bước đến gần và khoét một lỗ nhỏ bằng bàn tay trên vách. Nhìn vào trong, tôi thấy một đôi vợ chồng trẻ đang ngồi sưởi bên bếp lửa và một thằng bé chưa đầy hai tuổi đang chơi cạnh đó. Với bước chân đi chập chững, nó đứng dậy cầm chiếc thìa gỗ thọc sâu vào nồi xúp, rồi nó bắt chước người lớn khuấy đi khuấy lại nhiều lần. Bất thần đứa bé quay sang nhìn đúng ngay cái lỗ mà tôi đã khoét để ngó vào trong lều. Tôi hốt hoảng sợ bị phát giác. Nhưng đúng lúc bố mẹ của nó đang mải mê bên bếp lửa, đứa bé lại thọc cái thìa gỗ vào nồi, rồi múc lấy một ít xúp và đưa thẳng vào miệng tôi. Cứ thế, nó xúc cho tôi ăn liên tiếp nhiều lần mà bố mẹ nó vẫn không hề hay biết. Cuối cùng thì tôi quyết định phải rút lui và tìm đường trở về bộ lạc của mình. Nhiệm vụ đã hoàn tất, tôi đã tìm được vị trí đóng trại của kẻ thù…Tôi cắm cổ chạy trên tuyết cho tới khi đuối sức thì dừng lại…Hình ảnh và cử chỉ của thằng bé đã không buông tha tôi lấy một giây. Nó là ai? Tại sao nó lại can đảm múc xúp cho kẻ thù của bố mẹ, của cả bộ tộc nó? Sức mạnh thiêng liêng nào đã thúc đẩy nó làm như vậy? Cứ thế, tôi suy nghĩ miên man về thằng bé, nó phải được sống trong trận càn quét sắp tới. Tôi chợt nảy ra ý định phải quay trở lại tức khắc, bí mật giết chết bố mẹ thằng bé rồi bắt cóc nó đem về nuôi dạy theo phong tục của bộ lạc mình. Thế nhưng thú thật là tôi không thể làm như vậy vì thằng bé còn quá nhỏ, nó cần được chính bố mẹ nó nuôi nấng. Nghĩ như vậy, tôi quay trở lại túp lều, đi thẳng vào cửa trước. Bị bất ngờ, đôi vợ chồng trẻ kinh hoảng, nhưng tôi ra dấu trấn an họ ngay. Nhận thấy tôi không có ý gì đe dọa, họ đã vui vẻ mời tôi vào, ngồi bên bếp lửa. Người chồng chuẩn bị một tẩu thuốc, người vợ bưng xúp để mời khách, còn thằng bé thì mừng rỡ như nhận ra khuôn mặt quen thuộc của tôi. Và thế là nó lại lấy chiếc thìa gỗ xúc một ít xúp, phùng má thổi phù phù cho bớt nóng, rồi mới đưa vào tận miệng tôi. Tôi chậm rãi tiết lộ tông tích của mình và bảo họ: trước tiên vì sự hồn nhiên vô tư của thằng bé, kế đó vì lòng hiếu khách của anh chị, tôi sẽ không làm gì hại đến gia đình bé nhỏ này. Anh chị hãy mau mau lánh nạn đi ở chỗ khác. Không sớm thì muộn, bộ lạc chúng tôi cũng sẽ phát hiện nơi này, họ sẽ đến và chiến tranh hận thù sẽ xảy ra. Hình ảnh cuối cùng mà tôi còn giữ mãi, chính là hình ảnh thằng bé được mẹ địu trên lưng, tay vẫn múa may chiếc thìa gỗ và mỉm cười với tôi. Mùi tử khí trong tôi đã được thay thế bằng mùi xúp thơm phức mà thằng bé đã đưa tận miệng tôi. Tôi đã từ bỏ thói hung hăng hiếu chiến, lòng hận thù dai dẳng trong tôi cũng đã tắt ngấm. Càng có tuổi, tôi càng tin rằng tất cả chúng ta cần phải có một “đứa bé của hòa bình” như thế, mãi mãi ở giữa chúng ta”.
Vâng, hôm nay trẻ thơ đang bị đánh cắp tuổi thơ. Bạo lực xảy ra khắp nơi. Ngay ở gia đình là nôi hạnh phúc, cũng trở thành bãi chiến trường của cha, của mẹ. Trẻ thơ đã sớm thấy cảnh thượng cẳng chân, hạ cẳng tay của những người thân trong gia đình và nhất là trên truyền hình, thì lại càng đầy dẫy những cảnh bạo động với máu đổ lênh láng trên đường. Một thế giới đổ nát như thế làm sao dạy cho các em sống yêu thương và khao khát hoà bình? Đó chính là trách nhiệm của những người làm cha làm me, và các nhà giáo dục phải trả lời trước lương tâm của mình.
Hôm nay, ngày tết của tuổi thơ, chúng ta hãy cùng cầu nguyện cho các em thiếu nhi trong giáo xứ biết gìn giữ nét đẹp tuổi thơ của mình bằng việc luôn sống đơn sơ ngoan hiền, luôn vâng lời cha mẹ và sống chân thật để được Chúa luôn yêu thương, và chúc lành.
Chúng ta cũng cầu xin cho mọi người trên thế giới biết sống hoà thuận với nhau, để cùng nhau kiến tạo nền hoà bình trên địa cầu này, nhất là các bậc cha mẹ luôn biết sống yêu thương và sẵn lòng tha thứ cho nhau để tuổi thơ được an vui sống trong vòng tay yêu thương của cha, của mẹ. Amen
Hôm nay, Tết Trung thu. Trong Thánh lễ Trung thu Giáo hội cho chúng ta nghe 3 Bài đọc.
- Bài đọc 1 trích sách Huấn ca, nhắc đến các công trình đầy vinh quang của Thiên Chúa.
- Bài đọc 2 trích thư thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma. Trong đó, Thánh Phaolô cho chúng ta biết: Chúng ta được diễm phúc gọi Thiên Chúa là Cha. Chúng ta là con cái Ngài.
- Bài Tin mừng theo Thánh Marcô mô tả thái độ yêu mến của Chúa Giêsu đối với trẻ thơ. Chúa còn lấy trẻ thơ như mô hình cho người lớn bắt chước về tính đơn sơ, phó thác, khiêm nhương và trong trắng.
Thật vậy, không phải vô tình trong ngày Tết Trung thu Giáo hội cho chúng ta nghe bài trích sách Huấn ca. Trong đó, tác giả đã ca tụng những kỳ công đầy vinh quang của Thiên Chúa. Một trong những kỳ công đầy vinh quang của Thiên Chúa là vẻ đẹp, thơ mộng của đêm trăng Trung thu. Ðêm trăng Trung thu có ánh trăng vàng, dịu dàng. Trăng sáng, vằng vặc trong trời đêm. Dưới ánh trăng thu các em nhi đồng tha hồ vui đùa, rước đèn Trung thu, tung tăng đó đây với niềm vui hồn nhiên của tuổi thơ.
Nhưng theo Giáo lý Thánh kinh thì tất cả các công trình Thiên Chúa tạo dựng là để phục vụ cho con người. Con người được Thiên Chúa trao cho quyền cai quản vũ trụ này. Ðó là một vinh dự. Nhưng vinh dự này có là gì so với diễm phúc con người được Thiên Chúa nhận làm con cái và Ngài cho phép chúng ta gọi Ngài là Cha “Abba” như Thánh Phaolô đã nói trong bài thư hôm nay. Ðược vinh dự làm con cái Thiên Chúa thì phải sống tâm tình con thảo đối với Thiên Chúa là Cha. Nhưng do sự yếu hèn vì hậu quả của tội Tổ tông nên con người dễ bị lôi cuốn vào các tính xấu như kiêu ngạo, tự mãn, gian dối và lăng lòan… Vì thế, khi nhìn thấy lũ trẻ thơ hồn nhiên, đơn sơ phó thác, khiêm nhường và trong trắng thì Chúa Giêsu đem lòng yêu mến, trong khi các Tông đồ muốn xua đuổi chúng đi vì sợ Chúa bị quấy rầy. Chúa đã trách nhẹ các ngài và cho các trẻ thơ đến với Chúa. Hơn nữa, Chúa còn coi các đức tính nơi trẻ thơ như một mô hình cho người lớn noi theo như tính đơn sơ, phó thác, khiêm nhường và trong trắng. Ðây là những đức tinh cao qúy và cần thiết để được vào Nước Trời.
Thật vậy, trẻ thơ sống đơn sơ, phó thác vì nó cảm thấy mình nhỏ bé, hèn yếu và người lớn thì to cao và mạnh mẽ nên nó tin tưởng hòan tòan vào sự chở che của người lớn mặc dầu đôi khi người lớn đành chịu thua như đối đầu với một con hổ dữ, người lớn tay không, không thể bảo vệ mình và đứa trẻ.
Vậy sống tâm tình trẻ thơ đơn sơ, phó thác là chúng ta ý thức mình là một thụ tạo hèn yếu và mong manh trước những quyến dũ mạnh mẽ của thế gian, trước những cám dỗ hung hãn của ma quỷ, trước những nghiêng chiều vì yếu đưối của xác thịt để chúng ta hết lòng tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa tòan năng.
Trẻ thơ sống khiêm nhừơng, không cậy sức mình. Khi gặp vật cản đường, không thể xô đẩy hay nhấc ra chỗ khác, nó luồn cúi hay lách mình qua vì nó biết sức mình hèn yếu.
Sống tâm tình trẻ thơ khiêm nhường là chúng ta không cậy sức mình, kiêu căng, tự mãn, cậy quyền, cậy tiền, bất cần ai nhưng ý thức mình chẳng là gì trước mặt Thiên Chúa, hòan tòan lệ thuộc vào Chúa, ý thức mình khả năng có giới hạn nên cần liên đới với mọi người và đón nhận sự trợ giúp đa dạng của mọi người. Và nếu có gì tốt nơi chúng ta cũng nhờ bởi Chúa ban.
- Trẻ thơ trong trắng. Nó không biết phạm tội. Ðôi mắt ngây thơ vô tội phản ánh vẻ trong trắng tâm hồn nó.
- Sống tâm hồn trong sạch như tâm hồn trẻ thơ là chúng ta cố gắng tránh xa các dịp tội và dứt khóat thưa không với tội lỗi.
Thưa Quý ông bà anh chị em, Các em nhi đồng yêu quý !
Trăng thu đẹp và thơ mộng như tâm hồn trẻ thơ. Vậy để bảo vệ nét đẹp đáng yêu nơi tâm hồn trẻ thơ thì người lớn chúng ta có trách nhiệm lo cho trẻ thơ được sống tuổi thơ hạnh phúc, có trách nhiệm làm gương sáng, gương tốt cho trẻ thơ. Nếu không, chúng ta sẽ bị Chúa khiển trách nặng nề : “ Những ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin Thầy đây phải sa ngã, thì thà cột cối đá lớn vào cổ nó mà quăng xuống biển còn hơn” (Mt 18, 6-7).
Hơn nữa, Tết Trung thu đánh dấu mốc thời gian nửa năm mới. Các em nhi đồng sẽ được thêm nửa tuổi. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các em càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan và nhân đức trước mặt Thiên Chúa để các em giữ mãi vẻ đẹp tâm hồn tuổi thơ và nếu được như thế, các em nên như triều thiên cho chúng ta vậy.
Các em thiếu nhi thân mến, lời đầu tiên cha cùng với các cụ chánh trương, trùm quản, các thấy cô giáo lý viên, các bậc phụ huynh, các anh các chị chúc mừng TẾT TRUNG THU của các em.
- Ngày xưa có đoàn em bé đùa vui bên Chúa Giêsu, các em có biết ai đã dẫn các em đó đến với Đức Giêsu không, và đến với Chúa để làm gì?
Đáp: Bố mẹ các em đã dẫn các em đến với Chúa Giêsu để xin Chúa đặt tay chúc lành cho các em ạ.
– Thế còn tối nay cũng có đàn em bé đến đây với Chúa Giêsu. Vậy, có ai dẫn các em đến đây không và đến để làm gì?
Đáp: Con có mẹ dẫn đi, và đến đây để dự lễ Tết Trung Thu ạ.
– À, ngoài cái gọi là Tết Trung Thu đó, chắc chắn bố mẹ, ông bà, thầy cô giáo lý viên, ban hành giáo còn muốn cho các em một điều quan trọng hơn cả, đó là gì, em nào biết?
Đáp: Xin phúc lành của Chúa Giêsu ạ.
– Chính xác, nhưng cha hỏi tiếp, tại sao mọi người lại quan tâm đến các em đến thế?
Đáp: Vì chúng con là trẻ con ạ.
– Trẻ con, nhưng các em trong tương lai sẽ là ai?
Đáp: là người lớn ạ.
– Đúng rồi, tương lai các em sẽ là những ông bố bà mẹ, những người lãnh đạo trong giáo xứ, mở rộng ra là đất nước và Giáo hội này đấy.
Như các em biết đấy, trẻ em hay bắng nhắng, quấy rầy, làm mất thời giờ của người lớn, nên hay bị coi nhẹ, lúc trước lễ, các ông, các anh các chị đã xua đuổi các em, mà ngay trong Tin Mừng hôm nay, chính các môn đệ đã xua đuổi chúng đi. Thấy vậy, Chúa Giêsu có bằng lòng không?
Không ạ. Ngài không hài lòng, Ngài bảo các ông đừng ngăn cản chúng. Ngài nói: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng” (Mc 10,14). Cái hình Chúa ôm các em vào lòng và đặt tay chúc lành cho chúng thật là đẹp.
Các em có hiểu tại sao Chúa Giêsu lại nói: “Vì Nước Trời là của những người giống như trẻ nhỏ” không?
Thưa, bởi vì trẻ nhỏ hoàn toàn tin tưởng và phó thác nơi cha mẹ. Trẻ nhỏ biết vâng lời cha mẹ, không cần lý luận xem tại sao cha mẹ bảo làm thế, trẻ nhỏ không so đo tính toán lời lỗ, hơn thiệt… Đối với trẻ nhỏ, cha mẹ là nhất, cha mẹ làm gì cũng đúng, nói gì cũng hay, nên các em an tâm lắm.
Ngoài ra, trẻ nhỏ còn đơn sơ thật thà, có sao nói vậy, không thêm bớt, không hằn thù, không mưu mô, không làm hại ai. Các em đã thực hiện lời Chúa nói: “đơn sơ như bồ câu” (Mt 10,16). Vì thế, người ta thường nói về sự đơn sơ thật thà của trẻ em qua kinh nghiệm hằng ngày: “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ” (Tục ngữ).
Hôm nay, nhìn lên bầu trời, chúng ta trông thấy trăng thanh gió mát. Trăng tròn và sáng nữa. Nên Giáo hội cầu nguyện “cho đời các em sáng đẹp tựa trăng rằm đấy, và không ngừng phản ánh Chúa Kitô là Mặt Trời công chính” (Lời nguyện hiệp lễ).
Trăng Tết Trung Thu sáng và tròn, nhưng vẫn có vầng xám, vẩn đục mà chúng ta quen gọi là cây đa với thằng Cuội.
Với bài hát: “Bóng trăng trắng ngà, có cây đa to, có thằng Cuội già, ôm một mối lo. Cuội ơi, ta nói Cuội nghe: Ở cung trăng mãi làm gì Cuội ơi”!
Tại sao các em lại nhìn lên ông trăng mà gọi thằng Cuội? Thằng Cuội là ai? Tại sao Cuội phải ngồi ôm gốc cây? Ở mãi cung trăng để làm gì?
Trong kho tàng ca dao tục ngữ, cha thấy có một câu thơ lục bát:
Thằng Cuội ngồi gốc cây đa, Bỏ trâu ăn lúa, gọi cha ời ời. Cha còn cắt cỏ trên đồi Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên. Dân gian vẫn thường hát: Bắc thang lên đến tận mây Hỏi sao Cuội phải ôm cây cả ngày? Cuội nghe hỏi thế, Cuội cười: Bởi hay nói dối nên ngồi ôm cây.
Hóa ra thằng Cuội trả lời là vì hay nói dối. Thảo nào, thiên hạ mới có câu tục ngữ rất quen: “Nói dối như Cuội”.
Nhân ngày Tết Trung thu, bài học là hãy sống đơn sơ thật thà như Chúa Giêsu đã dạy: “Hễ có thì nói có, không thì nói không” (Mt 5, 37; Gc 5, 12). Đừng có bao giờ nói dối.
*****************
Các bậc phụ huynh thân mến,
Hôm nay, ngày Tết Trung Thu của các em, ai trong chúng ta cũng không muốn trời mưa hay bầu trời nhiều mây vẩn đục che mất ánh trăng, làm cho Tết Trung Thu bớt vui. Trái lại, muốn cho trời tạnh ráo, trời trong thanh để con em chúng ta có thể ngắm trăng sáng vằng vặc trên bầu trời, ngắm thằng Cuội, lễ và rước đèn xong vừa ngắm trăng vừa nhâm nhi vài miếng bánh ngọt, xen lẫn tiếng cười vui là điều ai cũng mong muốn.
Nhưng tôi nghĩ rằng, bầu trời trong thanh không một gợn mây, là dấu chỉ không những các em mà cả chúng ta nữa phải có một tâm hồn trong sạch, đơn sơ, thật thà, dễ thương. Vì thế mà ý nguyện nhập lễ hôm này không chỉ xin cho các em, mà còn cho cả chúng ta nữa: “xin cho các em biết luôn giữ tâm hồn đơn sơ trong trắng và xin cho chúng con (tức là chúng ta những bậc làm cha mẹ và người lớn) được nên giống các em để mai sau được cùng về quê trời chiêm ngưỡng thánh nhan Chúa” (Lời nguyện nhập lễ).
Thật vậy, trẻ thơ luôn đơn sơ, thật thà, không ăn gian nói dối như thằng Cuội… Thế nhưng ngày nay, nhiều trẻ thơ đã bị những vẩn đục là người lớn như cây đa thằng Cuội che sáng vầng trăng, gây gương mù cho, làm cho các em trở nên ganh tị, ích kỷ, kéo quân, không biết nhín nhường anh chị em và các bạn… bị nhiễm thói đời hay nói dối, nói quanh co, không dám nói sự thật. Điều này Chúa Giêsu lên án rất gắt gao:
Ai nêu gương hại trẻ con Đáng đeo cối đá thả lòng biển khơi.
Nếu chúng ta làm gương mù gương xấu cho con em, là chúng ta cướp đi tuổi thơ của các em. Chúa Giêsu dạy chúng ta:
Này Ta bảo thật các ngươi Nếu không trở lại giống người tiểu nhi Nước Trời đừng nói làm chi Các người không thể có hy vọng vào.
Tết Trung Thu, cùng với Ban hành giáo, giáo lý viên, hết mọi người cầu chúc tất cả các em mạnh khỏe khôn ngoan, bước vào năm học mới với nhiều niềm vui và ơn thánh Chúa, để các em trở nên những trò giỏi con ngoan, thiếu nhi ngoan hiền của Chúa Giêsu, càng thêm thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và ơn nghĩa Chúa, cũng như sự mến chuộng của mọi người.
Chúc các bậc phụ huynh ấm êm hạnh phúc, trở nên cha mẹ mẫu mực cho đàn con. Amen.
Hôm nay chúng ta dâng thánh lễ mừng Tết Trung Thu. Trung nghĩa là giữa, thu là mùa thu. Trung Thu là Tết giữa mùa thu. Mùa thu khí hậu mát mẻ hơn các mùa khác. Đa phần đất nước VN thuộc khí hậu miền nhiệt đới, chỉ có hai mùa : mùa nóng và mùa mưa, nên chúng ta khó thưởng thức được khí mát của mùa thu.
Thay vào đó chúng ta được ngắm trăng. Không có đêm nào trăng tròn bằng đêm trung thu, cũng như không có buổi trưa nào mặt trời đứng bóng bằng trưa tết Đoan Ngọ. Tết Trung Thu là tết ngắm trăng.
Ngày xưa ở bên Tầu, vua Đường Minh Hoàng ngồi ngắm trăng vào đêm Trung Thu. Trăng qúa đẹp. Vua đang say ngắm thì một ông tiên đầu râu tóc bạc đến hỏi : “Bệ hạ có muốn lên thăm cung trăng không ?” Vua sung sướng trả lời : “Dạ, có.” Thế là vị tiên ông đưa vua lên thăm cung trăng. Trên cung trăng, vua được ngắm từng đoàn tiên nữ múa với những điệu múa vô cùng đẹp. Sau khi thưởng thức, vua được đưa trở lại trần gian.
Trăng theo truyền thuyết chính là con thỏ. Vào một năm mất mùa. Ai cũng đói. Các loài vật đi tìm thức ăn. Nhiều khi tranh giành giết lẫn nhau. Chú thỏ bản tính sợ sệt, không dám ra ngoài kiếm ăn, suốt ngày ở trong lỗ. Có lần khí trời qúa rét, thấy đống lửa, thỏ ra ngoài, lại gần sưởi ấm. Các con vật khác cũng có mặt, nhưng con nào con nấy ốm o bụng đói. Có con ủ rũ như sắp chết. Thỏ động lòng thương. Thỏ nghĩ thà mình chết, còn hơn để người khác chết. Thế là thỏ nhảy vào đống lửa để tự thiêu, làm thức ăn cho các con vật khác. Ngọc Hoàng nghe biết lòng qủang đại hy sinh của thỏ, Ngài cầm mấy khúc xuơng thỏ còn lại biến thành mặt trăng, để người người ngắm noi gương thỏ.
Trên cung trăng có cuội và cây đa. Chúng ta thường hát :
Thằng cuội ngồi gốc cây đa Bỏ trâu ăn lúa gọi cha ời ời Cha còn cắt cỏ trên trời Mẹ còn cỡi ngựa đi mời quan viên.
Cuội là người hay nói dối, đánh lừa người khác. Cuội nghe có một ông lão có cây đa thần. Lá cây đa chữa đủ thứ bệnh. Cuội đánh lừa ông lão để lấy cây đa đó. Ông lão dặn cuội : “Nếu trồng phía đông thì tưới phia tây. Nếu trồng phía tây thì tưới phía đông.” Vợ cuội đã được cuội dặn, nhưng quên. Cây trồng phía đông, vợ cuội đã tưới phía đông. Cây đa từ từ bật gốc bay lên trời. Trong nhà, trông thấy, cuội vội chạy ra, ôm gốc cây đa kéo xuống, nhưng cây đa đã kéo cuội lên theo. Từ đó mặt trăng có chú cuội và cây đa.
Tết Trung Thu người ta múa lân, rước đèn. Sự tích như sau :
Có một bà lão đi chợ sắm hoa trái để mừng Tết Trung Thu. Chợ xa, khi trời xẩm tối bà lão mới về. Bà phải đi qua một khu rừng có con sư tử chuyên ăn thịt người. Trên đường về, bà bị sư tử bắt. Bà xin sư tử cho bà được thưởng thức đêm Trung Thu, sau đó bà sẽ tới nộp mình. Sư tử đồng ý. Thưởng thức đêm Trung Thu xong, nhớ đến giây phút phải nộp mình, bà lão khóc nức nở. Tiếng khóc của bà thấu tới trời. Ngọc hoàng nghe xót thương, sai một con rết xuống trần bảo vệ bà mà bà không biết. Bà đến nộp mình cho sư tử. Con rết âm thầm theo sau. Khi sư tử đến gần vồ bà thì con rết cũng xông tới cắn sư tử chết. Dân làng biết bà thoát nạn, đã chặt đầu sư tử và rước con rết đi vòng quanh khắp làng.
Qua các tích truyện vừa kể, Tết Trung Thu là tết ngắm trăng và gẫm suy sự đời. Sự đời có gian dối như chú cuội, dữ dằn như sư tử; song cũng có thương yêu, thật thà như con thỏ, bà già, các thần tiên…
Lời Chúa trong thánh lễ hôm nay cũng nói lên điều đó.
Trước hết bài đọc 1 đọc trong sách Huấn Ca. Sách Huấn Ca ca ngợi Thiên Chúa sáng tạo bầu trời. Sách viết về mặt trăng như sau :
Cả vầng trăng cũng luôn đúng hẹn Làm dấu hiệu muôn đời chỉ rõ thời gian Trăng đánh dấu các thời kỳ đại lễ Có khi khuyết, có lúc lại tròn.
Tác giả sách Huấn Ca đã nhìn trăng mà nhận ra Thiên Chúa sáng tạo.
Rồi bài Tin Mừng, thánh Mác-cô đã kể Chúa Giêsu yêu thương các thiếu nhi.
Người đời chưa biết Chúa, nên đã có những câu chuyện tưởng tượng để thỏa mãn lòng yêu mến thiên nhiên và Đấng Tạo Hóa. Còn chúng ta đã biết Chúa. Chúa dựng nên trăng sao tinh tú. Chúa yêu thương mọi người, đặc biệt là các thiếu nhi.
Ước chi thánh lễ Trung Thu hôm nay, mỗi thiếu nhi sống thật thà yêu thương, để được Thiên Chúa chúc phúc như xưa Chúa đã chúc phúc cho các thiếu nhi Do Thái.
Hằng năm cứ vào ngày rằm tháng 8 Âm lịch, thiếu nhi lại có một ngày thật vui vẻ. Đó là ngày Tết Trung Thu. Nếu thời tiết đẹp và trời không mưa thì bầu trời đầy sao, trăng tròn vành vạnh, ánh sáng long lanh đổ đầy xuống mặt đất. Đến các điểm vui chơi trung thu, con sẽ thấy những chiếc đèn lồng, đèn ông sao, bóng bay đủ màu, và múa lân. Trong gia đình các con cũng thế: có bánh trung thu, có đèn lồng, đèn ông sao, các con có quần áo mới... Nhà thờ giáo xứ chúng ta hôm nay cũng được trang hoàng rất đặc biệt với bóng bay, đèn ngôi sao, đèn lồng…
Những gì các con thấy đặc biệt hôm nay cho thấy tình thương, sự quan tâm của người lớn dành cho các con. Từ ông bà, cha mẹ, anh chị em trong gia đình các con đến các cha, các sơ, các thầy, các anh chị giáo lý viên và huynh trưởng ở nhà thờ đều yêu thương các con, muốn cho các con có được một ngày tết thật vui vẻ. Các con này: trước khi ông bà, cha mẹ, anh chị em trong gia đình và các cha, các thầy, các sơ, anh chị giáo lý viên và huynh trưởng yêu thương các con, Thiên Chúa và Chúa Giêsu đã yêu các con rất nhiều rồi.
Các con à! Thật là như thế. Bài đọc một trích sách Huấn ca kể rằng Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài. Ngài cho mặt trời tỏa sáng nhìn xuống muôn vật, cho bầu trời trong vắt cao xanh, cho hừng đông ló rạng, cho vầng trăng khi tỏ khi mờ, lúc trong lúc khuyết và luôn đúng hẹn làm dấu hiệu muôn đời chỉ rõ thời gian. Chúa còn dùng ánh trăng làm dấu các ngày lễ như hôm nay chẳng hạn: Tết Trung Thu, tết của thiếu nhi. Theo chu kỳ, Chúa cho trăng cứ tròn thêm mãi để đến rằm thánh 8 thì ánh trăng tròn vô cùng và có muôn vàn vì sao lấp lánh cùng với trăng tỏa sáng. Đấy Chúa yêu chúng ta là thế. Nếu không có bầu trời, không có ánh trăng và các ngôi sao thì liệu có Tết Trung Thu không các con nhỉ? Cha nghĩ chẳng có và dịp vui của các con hôm nay chẳng bao giờ có.
Bài Tin Mừng cũng nói cho chúng ta về tình thương tuyệt vời Chúa Giêsu dành cho thiếu nhi. Tin Mừng kể rằng khi Chúa đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi, có lúc trẻ nhỏ đến chơi với Chúa, quấy rầy làm phiền Chúa giống như thỉnh thoảng các con đi lễ ghé vào nhà xứ chơi vậy. Các môn đệ thấy thế thì khó chịu la rầy chúng. Thấy thái độ của các ông như thế không được, Chúa Giêsu đã bực mình và bảo rằng: “Cứ để trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng.” Chúa Giêsu còn nói thêm: “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Thiên Chúa.” Sau khi nói những lời đó xong, Chúa Giêsu ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho các em.
Thiên Chúa là Cha đã yêu thương các con vô ngần và Chúa Giêsu cũng vậy. Ngài ôm trẻ vào lòng và đặt tay chúc lành cho các em. Nếu Chúa đã yêu các con như vậy thì các con cũng phải làm gì đó để bày tỏ tình yêu với Chúa. Các con thử nghĩ coi, mình sẽ làm gì nào? Vui vẻ, đơn sơ, chăm ngoan ở trường, ở nhà và ở nhà thờ. Thế nào là đơn sơ? Thật thà có sao nói vậy, sống ngay thẳng với bạn bè, cha mẹ, thầy cô, không nói xấu bạn, không ganh tị, không đánh bạn…. Chăm ngoan là làm sao nào? Ở nhà biết vâng lời giúp đỡ cha mẹ, anh chị, các em. Ở trường vâng lời thầy cô học hành cho giỏi và sẵn sàng giúp đỡ bạn bè.
Các con thử hỏi lòng mình, mình có sống như thế bao giờ chưa? Cầu xin Chúa chúc lành cho các con hôm nay và mọi ngày sống của các con. Xin Chúa ban cho các con nhiều hồng ân để các con sống xứng đáng với tình yêu thương của Chúa, của cha mẹ, người thân và những người có trách nhiệm dạy dỗ các con. Amen.
Khi ấy, người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giêsu, để Người đặt tay trên chúng. Nhưng các môn đệ la rầy chúng.
Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào”.
Rồi Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng (Mc 13-16).
Các con thân yêu,
Các con biết không, ngày xưa, người Do thái có thói quen dẫn trẻ em đến với những người có uy tín để được chúc lành. Chúa Giêsu là người đã nổi tiếng, lại dễ mến, dễ thương, dễ đến gần, nên người ta đem trẻ em đến cho Chúa chúc lành.
Nhưng, như chúng con biết, trẻ em hay bắng nhắng, quấy rầy, làm mất thời giờ của người lớn, nên các môn đệ xua đuổi chúng đi. Thấy vậy, Chúa Giêsu tỏ ý không bằng lòng và khuyên các ông đừng ngăn cản chúng. Ngài nói: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng” (Mc 10,14). Rồi Ngài ôm lấy các em vào lòng và đặt tay chúc lành cho chúng.
Các con có hiểu tại sao Chúa Giêsu lại nói: “Vì Nước Trời là của những người giống như trẻ nhỏ” không? Thưa, bởi vì trẻ nhỏ hoàn toàn tin tưởng và phó thác nơi cha mẹ.
Trẻ nhỏ biết vâng lời cha mẹ, không cần lý luận xem tại sao cha mẹ bảo làm thế,
trẻ nhỏ không so đo tính toán lời lỗ, hơn thiệt…
Đối với trẻ nhỏ, cha mẹ là thần tượng, cha mẹ làm gì cũng đúng, nói gì cũng hay…
Ngoài ra, trẻ nhỏ thì đơn sơ thật thà, có sao nói vậy, không thêm bớt, không hằn thù, không mưu mô, không làm hại ai. Các em đã thực hiện lời Chúa nói: “Hãy khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như bồ câu” (Mt 10,16).
Vì thế, người ta thường nói về sự đơn sơ thật thà của trẻ em qua kinh nghiệm hằng ngày: “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ” (Tục ngữ)
Có một em nhỏ nói với Chúa Giêsu một cách đơn sơ tự nhiên không đắn đo, nghĩ sao nói vậy. Em đã nói với Chúa: “Chúa ơi, chúng con đọc trong sách rằng ông Thomas Edison đã thắp sáng. Nhưng trong lớp giáo lý, chúng con học rằng Chúa đã dựng nên ánh sáng. Vì vậy, con nghĩ rằng ông ấy đã ăn cắp sáng kiến của Chúa”!
Nhưng chắc Chúa Giêsu sẽ trả lời cho em: “Ông ta không ăn cắp sáng kiến của Ta đâu. Ta đã vui lòng tặng cho ông ấy cái sáng kiến đó, và ông ấy đã chế ra bóng đèn để giúp ích cho nhân loại. Có nhiều điều Ta cũng ban cho con… mà càng lớn lên con càng thấy rõ. Hãy phát huy chúng vì ích lợi của mọi người. Con nhé”.
II. BÀI HỌC TRONG NGÀY TẾT TRUNG THU.
Hôm nay, nhìn lên bầu trời, các con thấy trời đẹp với trăng thanh gió mát. Các con đi múa lân trong khắp giáo xứ, tay cầm đèn ông sao, con cá con tôm, chân nhảy múa tưng bừng, miệng ca vang bài: “Bóng trăng trắng ngà, có cây đa to, có thằng Cuội già, ôm một mối lo. Cuội ơi, ta nói Cuội nghe: Ở cung trăng mãi làm chi”!
Tại sao các con lại nhìn lên ông trăng mà gọi thằng Cuội? Thằng Cuội là ai? Tại sao Cuội phải ngồi ôm gốc cây? Ở mãi cung trăng để làm gì? Hôm nay, cha sẽ kể cho các con nghe sự tích thằng Cuội ngồi ôm gốc cây đa nhé!
Trong kho tàng ca dao tục ngữ, cha thấy có một câu thơ lục bát:
Thằng Cuội ngồi gốc cây đa, Bỏ trâu ăn lúa, gọi cha ời ời.
Cha còn cắt cỏ trên đồi Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên.
Thằng Cuội, theo truyền thuyết, đó là một kẻ đi nói dối cha, về nhà nói dối chú. Suốt đời, đánh lừa mọi người. Hồi còn nhỏ, ngày kia vì cha mẹ đi vắng, nó phải coi nhà. Buồn tình, nó bỗng nghĩ ra một trò chơi, nên vội kêu la thất thanh: “Bớ làng nước ơi, cháy nhà, cháy nhà. Cứu tôi với”. Mọi người hối hả mang chậu, xách thùng tới tiếp cứu. Thấy vậy, nó bèn cười ngặt nghẽo đến vãi cả nước mắt ra.
Lần khác, nó ngồi thổi cơm, chẳng may để lửa bén vào đống rơm và căn nhà bốc cháy. Nó cũng kêu la thất thanh: “Bớ làng nước ơi, cháy nhà, cháy nhà. Cứu tôi với”. Thế nhưng, lần này chẳng ma nào đến tiếp cứu. Vì thế, dân gian mới bảo:
Bắc thang lên đến tận mây, Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả ngày?
Cuội nghe hỏi thế, Cuội cười: Bởi hay nói dối nên ngồi ấp cây.
Cũng bởi hay cái tính táy máy này, mà thằng Cuội trở thành hình ảnh tượng trưng cho những kẻ chuyên môn lừa gạt, nói dối. Do đó, thiên hạ mới có câu tục ngữ rất quen: “Nói dối như Cuội”.
Hay nói một đàng mà làm một nẻo thì người ta gọi là “Hứa Cuội”, có nghĩa là hứa thì rất nhiều mà chẳng làm được gì cả. Do đó, đưa đến một câu tục ngữ khác: “Mười voi không được một bát nước xáo”, có nghĩa là nói bậy bạ khuếch khoác, lời nói ấy cũng giống như làm thịt ba con voi mà chẳng được bát nước xáo. Lời nói vô bổ, không thể tin được.
Nhân ngày Tết Trung thu, cha muốn nói với các con về sự tích thằng Cuội và có lẽ các con sẽ thắc mắc rằng chúng con học được cái gì ở nơi thằng Cuội? Cha muốn nói với các con rằng trong kho tàng truyện cổ tích, truyện thần thoại hay ngụ ngôn, tác giả luôn nhằm mục đích giáo dục, muốn con người hướng thiện, muốn vươn lên theo khía cạnh tích cực hay tiêu cực, nghĩa là có những việc cần phải bắt chước, cũng có việc nên tránh. Trong trường hợp này là đừng nên giống thằng Cuội.
Như vậy, bài học mà các con có thể rút ra từ câu truyện thằng Cuội hôm nay đó là đừng bao giờ nói dối. Hay nói một cách tích cực là hãy sống đơn sơ thật thà, đơn sơ chất phác, đừng thêm thắt gì, có sao nói vậy, như Chúa Giêsu đã dạy: “Hễ có thì nói có, không thì nói không” (Mt 5,37; Gc 5,12).
III. LỜI CẦU XIN HÔM NAY
Chắc các con không muốn hôm nay trời mưa hay bầu trời nhiều mây vẩn đục, như thế làm cho buổi múa lân hôm nay mất vui. Trái lại, các con muốn cho trời tạnh ráo, trời trong thanh để các con có thể ngắm trăng sáng vằng vặc trên bầu trời, ngắm thằng Cuội, vừa ngắm trăng vừa nhâm nhi vài miếng bánh ngọt, xen lẫn tiếng cười dòn vang như pháo nổ. Như thế thì tuyệt cú mèo rồi!!!
Các con muốn cho trăng rằm tháng 8 năm nay phải rực rỡ trên bầu trời, phải có trăng thanh gió mát để các con được hưởng trọn vẹn một Tết Trung thu dành cho các con. Đó là điều ai cũng mong muốn. Nhưng cha nghĩ rằng, bầu trời trong thanh không một gợn mây, đó là dấu chỉ các con phải có một tâm hồn trong sạch, đơn sơ, thật thà, dễ thương.
Thật vậy, trẻ thơ cần phải luôn đơn sơ, thật thà, không ăn gian nói dối như thằng Cuội…
Thế nhưng ngày nay, nhiều trẻ thơ đã nhiễm thói đời hay nói dối, nói quanh co, không dám nói sự thật.
Điều đó đã làm cho các em đánh mất tuổi thơ của mình. Nếu một em bé đã nhiễm thói ăn gian nói dối, là tự mình đánh mất tuổi thơ, đánh mất vẻ hồn nhiên tươi vui sẽ làm cho con người ra già cỗi, và tự đầy đọa mình như thằng Cuội, suốt đời ôm một mối lo!
Truyện : Xin được trở lại chuồng ngựa
Ngày xưa bên Trung hoa có một ông vua văn chương rất dở mà lại thích làm thơ. Thỉnh thoảng vua hội các quan lại, rồi trao cho các ông đọc những bài thơ bát cú, tứ tuyệt, song thất lục bát mình đã sáng tác và hỏi ý kiến: ông mong được các quan ca tụng hơn là phê bình. Dĩ nhiên, quan nào cũng khen hay, tuyệt bút, hấp dẫn…
Một hôm, có một ông quan ở tỉnh xa về kinh có việc, được vua mời đến dự. Hôm đó, vua làm một bài thơ tả cảnh ngày xuân trong nước. Cũng như mọi lần, các quan triều tấm tắc khen ngợi, còn ông quan khách ngồi mà chẳng nói gì. Vua quay nhìn và hỏi ý kiến. Vị quan khách nhìn vua vừa đưa mắt trông các quan rồi mạnh bạo tâu rằng: “Theo thiển ý riêng của mình, thì bài thơ đó không có gì đáng kể”. Nghe câu nói táo bạo đó, các quan đều khiếp sợ và vua cũng xấu hổ và bực tức, liền dạy trói lại và đem để dưới chuồng ngựa.
Cách mấy hôm vua rán làm bài thơ khác khéo léo hơn, rồi trước mặt đông đủ các quan, ngài ngâm nga các bài thơ đặc sắc mới làm và tin chắc rằng bài thơ có một cái gì phi thường. Bài thơ được hết các quan vỗ tay khen ngợi.
Tưởng rằng lần này vị khách kia không thể không khen, và mình sẽ nhờ dịp đó trả lại tự do cho ông. Vua cho vời quan đó đến và trao cho xem bài thơ mới này. Cầm lấy đọc đi đọc lại mấy lần, quan đó đưa lên trả lại cho vua, và xin cho mình ngồi ở chuồng ngựa như trước.
Hiểu rằng ông quan này chê bài thơ của mình, song cũng nhận thấy ông là người chân thật, can đảm, mạnh bạo; không phỉnh phờ tơ tóc lấy lòng, mà cũng không sợ tù tội hay bị cất chức, một mến yêu sự thật, nói sự thật và bênh sự thật, cho nên thay vì bảo ông trở lại chuồng ngựa, vua kính phục khen ngợi, và phong ông lên làm cố vấn tối cao trong đền. Còn các quan kia vua tỏ ra khinh dể, không tin cẩn, và lần lượt đầy họ ra bên rìa.
Hôm nay, Tết Trung thu, ngày Tết của tuổi thơ, chúng ta cùng cảm tạ Chúa đã ban cho các em có dịp thuận tiện để vui cái Tết của mình. Chúng ta cũng hãy sốt sắng hiệp dâng Thánh lễ để xin Chúa ban cho các em thiếu nhi trong giáo xứ chúng ta biết giữ gìn nét đẹp tuổi thơ của mình bằng cách luôn sống đơn sơ ngoan hiền, luôn vâng lời cha mẹ và sống chân thật để được Chúa luôn yêu thương và chúc lành.
Một lần nữa, cha mong các con thực hiện lời Chúa đã dạy ở trên và thực hiện lời thánh Giacôbê dạy: “Đừng có thề, dù là lấy trời, lấy đất, hay lấy cái gì khác mà thề. Nhưng hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”, như thế, anh em sẽ không bị xét xử” (Gc 5,12).
Các con nóng lòng chờ đợi Tết Trung thu cả tháng nay rồi và hôm nay Tết Trung thu đã đến. Cha thấy các con rất vui, nét mặt tươi như hoa nở, nụ cười hớn hở, từ em bé một tuổi đang có mặt ở đây, các con đang chờ đợi đi múa lân và nhận quà trung thu.
Nhưng trước tiên, các con hãy dành cho Chúa ít phút, các con hãy dâng lên Chúa niềm vui ấy trong Thánh lễ này. Xin Chúa chúc lành và tăng thêm niềm vui cho các con và Chúa sẽ ban cho các con món quà quí giá là một tâm hồn đơn sơ trong sạch tỏa lan ra niềm vui và hạnh phúc cho những người chung quanh được thêm dịu mát như ánh trăm rằm hôm nay.
I. LỊCH SỬ TẾT TRUNG THU.
Theo sử sách, Tết Trung thu đã có trước đây ít nhất 2000 năm. Từ thời cổ xưa, các vị vua chúa có tục lệ tế mặt trời vào mùa xuân và tế mặt trăng vào mùa thu.
Theo Âm lịch, ngày 15 tháng 8 là chính giữa mùa thu được coi là ngày “lành” để làm lễ tế thần mặt trăng. Và trong đêm 15 tháng 8 hằng năm, khi trăng rằm tỏa sáng, lễ tế thần mặt trăng bắt đầu.
Trên bàn thờ có hoa quả, có bánh hình mặt trăng, còn gọi là bánh “đoàn viên”, bởi lẽ, trong dịp này, cả gia đình có dịp đoàn tụ để cùng ăn bánh và cùng thưởng thức ánh trăng thu trong trẻo và bầu khí trong lành của đêm rằm đến với mọi nhà.
Trong dịp này, người lớn ăn bánh uống trà thưởng thức ánh trăng thu vằng vặc treo trên bầu trời xanh trong. Các em thiếu nhi thì rước đèn trung thu, múa lân cùng với đèn trung thu, xen lẫn tiếng trống nhịp nhàng. Tất cả đều tạo nên một bầu khí vui tươi phấn khởi.
Thời tiết trong Nam này khác với ngoài Bắc. Chúng ta mừng Trung thu bao nhiêu lần rồi mà lần nào cũng bị mưa, không nhiều thì ít, bầu trời hay bị u ám, có khi chả thấy trăng thu đâu cả. Ngược lại, ở ngoài Bắc, rằm tháng 8 là thời kỳ thời tiết đẹp nhất, trời trong xanh, gió hiu hiu thổi, không khí mát mẻ, mặt trăng tròn đầy sáng vằng vặc, có thể đọc sách được.
Như vậy, trăng thu có vẻ đẹp thật huyền diệu, là nguồn cảm hứng cho các nhạc sĩ dệt thành những bài ca, là nguồn thơ bất tận cho thi sĩ, là đề tài không vơi cạn cho các văn nhân, là nét đẹp thu hút bao tâm hồn..
Đêm nay các con vui hát, múa nhảy, nô đùa dưới trăng, thưởng thức những tấm bánh trung thu vừa ngọt vừa bùi thì thật là tuyệt vời. Ánh trăng thu năm nay chắc chắn phải trong sáng và có một sức hấp dẫn lạ lùng. Bởi thế, người ta chọn ngày đẹp nhất trong năm là ngày Tết của thiếu nhi, nhưng đồng thời cũng là ngày vui của người lớn, trong đó có cha mẹ các con và có cả cha nữa.
II. ĐỨC MARIA, VẦNG TRĂNG THANH.
Nói đến vầng trăng thanh, cha nghĩ ngay đến Mẹ Maria. Sách Khải huyền đã ca tụng Ngài : Mẹ được coi như vầng trăng sáng trong đêm tối, tỏa ánh sáng dịu êm làm tươi mát cho tâm hồn :
Kìa Bà nào đang tiến lên như rạng đông,
Đẹp như Mặt trăng, rực rỡ như mặt trời.
Chúng ta là con cái Mẹ Maria, chúng ta phải cố gắng sống như Ngài để trở thành một vầng trăng tròn trong đêm tối, một vầng trăng chiếu sáng cho những người còn sống trong bóng đêm tội lỗi như chúng ta vẫn ca tụng Ngài :
Mẹ là suối mát trinh nguyên giữa sa mạc hoang,
Mẹ là trăng thanh đêm về chiếu sáng mênh mang…
III. CÁC CON LÀ VẦNG TRĂNG THANH.
Người dân quê Việt nam có rất nhiều câu đố, trong một rừng câu đố đó, các em thiếu nhi thường dùng mà đố nhau trong dịp Trung thu này xem nó là cái gì và hôm nay cha cũng muốn đố các con và đồng thời cha cũng muốn các con được trở nên cái đó :
Bằng cái vung Vùng xuống ao, Đào không thấy, Lấy không được.
Các con có biết nó là cái gì không ? Thưa, đó là ông trăng.
Mừng Trung thu năm nay, các con phải cố gắng trở nên một vầng trăng Trung thu mới . Các con phải trở thành trăng tròn giữa nền trời đêm, như thế mới thật hấp dẫn.
Muốn trở thành một vầng trăng đẹp giữa cuộc đời, các con phải cố gắng sống một đời trong sạch, lánh xa các dịp tội, lánh xa những gì có thể làm cho linh hồn các con ra ô uế, không xứng đáng là đền thờ cho Chúa ngự. Các con có thể bắt chước con chồn bạch để giữ gìn đức trong sạch, thà chết chẳng thà phạm tội.
Truyện : Con chồn bạch
Một ngày kia, trong khi đi săn, một người săn trông thấy chú chồn bạch, lông nó trắng phau phau. Bộ lông chồn bạch bán rất đắt tiền, vì người ta dùng làm áo choàng rất đẹp. Người săn này đuổi con chồn miết, dồn cho nó vào tới chỗ con chồn phải chạy qua một đồng lầy. Ông ta vốn biết : con chồn bạch sẽ không bao giờ đành băng xuống đầm lầy để trốn thoát, chỉ vì nó thà chết chứ không đành để cho bộ lông trắng đẹp của nó bị bùn đất bám vào.
Khi các con lo bảo toàn lòng trong trắng của các con khỏi vết nhơ tội lỗi, lúc ấy các con đã thực sự trở thành một vầng trăng thanh làm đẹp lòng Chúa, làm đẹp lòng Đức Mẹ và làm đẹp lòng mọi người.
Nhưng nếu các con không cố gắng mà lại để cho tâm hồn nhơ bẩn thì các con chỉ là vầng trăng khuyết, những vầng trăng đen, làm ô nhiễm môi trường, làm buồn rầu cho Chúa và cho mọi người.
Ngày xưa Chúa Giêsu cũng như các con. Cậu bé Giêsu luôn tỏ ra là một vầng trăng rằm sáng đẹp trong gia đình Nazareth. Càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và nhân đức trước mặt Thiên Chúa và mọi người, được mọi người quí mến. Ngài là TRĂNG TRUNG THU chính hiệu. Các con hãy học với Chúa Giêsu để trở nên vầng trăng tròn và sáng đẹp như Chúa Giêsu.
Trăng đêm nay trăng tròn, tròn ghê Chúa ơi, Trăng đêm nay trăng tròn, tròn treo là treo giữa trời. Nhưng đêm nay không tròn bằng tình Thiên Chúa yêu con Nhưng đêm nay không tròn bằng tình con yêu kính Ngài.
Hôm nay, ngày rằm tháng tám, ngày Tết trung, ngày Tết của thiếu nhi chúng con. Các em thiếu nhi trong cả nưuớc đang nô nức đón chờ ngày Tết này. Ngày Tết dành riêng cho thiếu nhi với những sinh hoạt rất vui nhộn, với những chương trình đặc sắc dành riêng cho tuổi thơ.
Đây là lễ hội đã có từ lâu để các trẻ nhỏ sum họp vui đùa bên nhau, với những chiếc lồng đèn xinh xắn, sáng rực dưới ánh trăng của ngày rằm. Các em quên hết mọi ưu phiền, các em tha hồ múa hát vui chơi thoải mái.
Người ta yêu thích vầng trăng tròn, vầng trăng thu. Người ta thích đi dạo dưới trăng, ngâm thơ dưới trăng, đàn hát dưới trăng. Cả trẻ con cũng thích nô đàu dưới ánh trăng. Ánh trăng có một sức hấp dẫn rất tuyệt vời. Bởi thế, người ta chọn ngày trăng đẹp nhất trong năm làm ngày Tết của thiếu nhi, nhưng đồng thời cũng là ngày vui của người lớn.
Trong tinh thần vui tươi phấn khởi ấy, giáo xứ chúng ta – do các giáo lý viên và huynh trưởng - tổ chức cho chúng con đêm Trung thu này để các con đi múa lân, rước đèn trung thu, nhảy múa, ca hát và nhâm nhi miếng bánh trung thu. Thật là tuyệt vời, phải không các con ? Các con hãy quên đi tất cả phiền sầu, lo lắng. Các con hãy hòa nhập vào mọi sinh hoạt vui chơi dành cho các con trong buổi tối nay.
II. DÂNG CHÚA BÁNH TRUNG THU
Trước khi khai mạc chương trình vui chơi đêm nay, các con hãy cùng hiệp dâng Thánh lễ để tạ ơn Chúa đã ban cho các con có hoàn cảnh thuận lợi để tổ chức đêm vui chơi này và xin Chúa ban thêm niềm vui để chúng con hăng hái luyện tập để trở thành những người con yêu của Chúa và trở thành những người hữu ích cho Giáo hội và xã hội.
Đã là Tết Trung thu thì không thể thiếu bánh Trung thu, một loại bánh đặc trưng của mùa trăm rằm, một thứ bánh mà các con mong đợi từ mấy tháng nay. Với tấm bánh này các con có thể thưởng thức dưới ánh trăng rằm, nó cần thiết cho trẻ con cũng như người lớn.
Trong Thánh lễ chiều nay, chúng con, các thiếu nhi trong giáo xứ, chúng con sẽ dâng lên Chúa Giêsu một tấm bánh đặc biệt để nói lên lòng yêu mến chân thành và biết ơn của chúng con. Xin Chúa thương nhận lấy và chúc là cho chúng con. Đồng thời, xin Chúa Giêsu Hài Đồng hãy cùng chúng con ăn bánh Trung thu, thưởng thức bánh Trung thu dưới ánh trăng rằm với chúng con.
Các con biết không ? Chiếc bánh Trung thu này được làm rất công phu, qua nhiều công đoạn phức tạp để trở thành tấm bánh vừa đẹp vừa ngon, vừa đầy hương vị. Cha sẽ tả cho chúng con các công đoạn công phu của chiếc bánh này theo kinh nghiệm của các người làm bánh.
Chắc mấy ai hiểu rõ “cội nguồn” về qui trình chế biến, sự lựa chọn nguyên liệu để làm ra sản phẩm đặc biệt này. Thật sự muốn tạo nên một tấm bánh ngon, có chất lượng hoàn hảo, người ta phải trải qua những kỳ công tỷ mỉ và dầy dạn kinh nghiệm, với những công đoạn chính yếu như sau, đó là : bột, đường, trứng, hạt mè (vừng), hạt điều, hạt dưa, thịt nguội, lạp xưởng, gà quay, xá xíu, thịt xông khói và các loại hải sản…
Tiêu chuẩn đầu tiên là chọn quả trứng ngon và nó phải được muối đủ ngày và có mầu trắng đục hơi sáng. Nấm đông cô phải khô, có mầu xám đen và mùi thơm đặc biệt. Hải sâm có mầu xám trắng và phần thịt hơi trong. Thịt nạc xông khói có mầu đỏ hồng tự nhiên, không lẫn mỡ, với mùi vị mặn đặc trưng. Thịt xá xíu phải là loại nạc không mỡ và gân, nhưng đặc biệt có mầu trắng của thịt chín và mùi vị mặn ngọt đều hòa… không xử dụng bột mầu thực phẩm và các loại hóa chất bảo quản chống mốc trộn lẫn trong gia vvị…
Sau đó, tất cả nguyên vật liệu sẽ được sơ chế rồi bỏ vào máy ly tâm, để xay trộn cho nhân bánh được dẻo. Chiếc bánh thơm ngon là kết quả của một quá trình nghiên cứu công phu : tỷ lệ bột, đường, trứng và các loại hạt, mứt, thịt, hải sản, xá xíu, lạp xưởng, bao nhiêu là vừa đủ… để bánh đạt độ mềm dẻo, độ dính, độ chắc. Tỷ lệ “mặn” và “ngọt” ra sao để tạo nên hương vị tinh tế hài hòa. Khi đã hoàn tất phần nhân, bánh sẽ được định hình trong một lò nướng có nhiệt độ từ 200 đến 220 độ C, sau đó kết quả sẽ đem lại cho ta một chiếc bánh thật hoàn hảo với hoa văn tinh tế và mầu vàng nâu óng ả. Đây cũng là biểu tượng của “mặt trăng” tròn đầy.
Bánh Trung thu ngon thật, nhưng bánh sẽ càng ngon hơn khi thưởng thức đúng điệu với nước trà truyền thống. Hương thơm thoang thoảng của tách trà sen, trà lài, trà Thái nguyên “móc câu”… khiến không khí gia đình sum họp đêm Trung thu thêm ấm cúng. Ăn miếng bánh, nhấp ngụm trà nóng, nghe hương trà như tan ra hòa quyện cùng vị bùi của thịt, vị ngọt của hải sản, vị dẻo thơm tinh tế… chúng ta như cảm nhân được tất cả hương vị thanh tao của đất trời trong tiết Trung thu.
III. DÂNG CHÚA HAI THỨ BÁNH
Nếu các con có diễm phúc được ngồi trong gia đình cùng với ba má, với anh chị em thưởng thức bánh Trung thu, các con hãy mời Chúa Giêsu vào thưởng thức với gia đình các con, vì có lẽ, ngày xưa Giêsu Hài Đồng bé nhỏ ở Nazareth chả có bánh Trung thu ngon lành như thế để thưởng thức đâu! Nếu có Chúa ở trong gia đình cùng thưởng thức bánh Trung thu của các con, chắc chắn bầu khí yêu thương ấm áp trong gia đình các con sẽ được tăng lên gấp bội.
Hôm nay các con dâng bánh Trung thu cho Chúa và mời Chúa vào thưởng thức trong gia đình, chắc Chúa hài lòng lắm đấy.
Nhưng, như cha nghĩ, Chúa còn muốn chúng con dâng cho Ngài một thứ bánh Trung thu khác, một thứ bánh quí hơn mà ít người có để dâng cho Chúa. Chúng con có biết thứ bánh nào không ? Đó là “Bánh Trăng Tròn Thiêng liêng”. Thứ bánh này chính các con phải làm ra với những chất liệu hảo hạng, mà chúng con tìm được, với những qui trình công phủ tỉ mỉ, với mầu sắc và hương vị tuyệt vời.
Các con sẽ dâng cho Chúa thứ bánh đó nếu các con biết yêu mến Chúa, làm trọn nhiệm vụ của các con với bao hy sinh thảo lảo để các con có thể trở nên ánh sáng thế gian và muối đất. Các con sẽ dâng cho Chúa thứ bánh đó nếu các con biết cố gắng làm những việc này :
- Các con trở nên một người con thảo trong gia đình : yêu mến, vâng lời, biết ơn cha mẹ; yêu thương anh chị em, giúp đỡ cha mẹ trong những việc có thể.
- Các con trở nên một học trò ngoan nơi học đường : chăm chỉ học hành, vâng lời thầy cô, yêu thương và hòa hợp với chúng bạn. Cố gắng nếu gương sáng cho các bạn đồng môn.
- Các con trở nên một thiếu nhi gương mẫu trong giáo xứ : siêng năng tham dự Thánh lễ, rước lễ, chăm chú nghe Lời Chúa và tích cực tham gia vào các sinh hoạt của giáo xứ.
Hôm nay, ngày Tết Trung thu, và trong Thánh lễ này các con hãy dâng cho Chúa hai thứ bánh ấy với tất cả tấm lòng thành. Xin Chúa thương chấp nhận, chúc lành và ban muôn vàn ơn phúc cho các con.
Sau cùng, cha chúc các con trở thành vầng trăng rằm của mùa thu để các con đem niềm vui đến cho mọi người.
Các con hãy đưa mắt nhìn về Nazareth và hãy tưởng tượng : cậu bé Giêsu hôm xưa luôn tỏ ra là vầng trăng rằm sáng đẹp trong gia đình Nazareth. Càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và nhân đức trước mặt Thiên Chúa và loài người, được mọi người quí mên. Ngài là TRĂNG TRUNG THU chính hiệu. Các con hãy học với Chúa Giêsu để trở nên vầng trăng đẹp như Chúa Giêsu vậy.
Hôm nay chúng ta cử hành thánh lễ nhân dịp vui Trung Thu để cảm tạ Chúa vì những công trình Chúa đã tạo dựng nên để cho chúng ta có đươc những ngày vui này và chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện lên Chúa cho các em thiếu nhi trong giáo xứ và cho các em thiếu nhi trên toàn thế giới.
Bài sách Huấn Ca hôm nay nói cho chúng ta biết về công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Mặt trời, mặt trăng, trái đất, muôn mặt tinh tú là do Thiên Chúa tạo thành và an bài theo chu kỳ thời gian Chúa đã định liệu để biểu lộ vinh quang Thiên Chúa và phục vụ loài người. Mỗi người chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi, sông núi và cho có bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông thật hùng vĩ và đầy thi vị cho chúng ta.
Và qua bài tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã yêu thương trẻ nhỏ qua việc đặt tay chúc lành cho các trẻ và nói: ” Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng…” .
Vâng, trẻ nhỏ trong sạch, đơn sơ, thật thà, tin tưởng phó thác, và trẻ nhỏ như mẫu gương chị thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Chị đã sống con đường thơ ấu một cách tuyệt vời, khiêm tốn hiền lành, phó thác mọi sự cho Chúa.
Vào hôm nay, ngày tết trung thu của trẻ em, đặc biệt là các con thiếu nhi giáo xứ chúng ta. Ước gì chúng con có một chút cố gắng hy sinh đối với những người làm ơn cho mình. Nhất là tình yêu thương của ông bà, cha mẹ dành cho thiếu nhi mới là món quà quý giá nhất mà chúng ta nhận được từ khi mới chào đời.
Xin Chúa giúp cho mỗi thiếu nhi biết ngoan ngoãn vâng lời, thực hành lời Chúa, siêng năng tham dự Thánh Lễ, chuyên cần học hỏi giáo lý và yêu mến Thánh Thể … Xin cho thiếu nhi biết vâng lời ông bà, cha mẹ và sống hòa thuận với anh chị em, với hết cả mọi người.
Tôi tớ Chúa xin vâng. "Này Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một Con trai".
* Ngày 7 tháng 10 năm 1571, Tây Phương thoát khỏi sự đe dọa của quân Thổ Nhĩ Kỳ nhờ chiến thắng ở vịnh Lê-pan-tô. Người ta cho rằng chiến thắng đó là kết quả của Kinh Mân Côi.
Ngày nay, mừng lễ này không có nghĩa là mừng biến cố xa xưa đó, nhưng là nhắc nhở việc suy niệm các mầu nhiệm nhập thể, thương khó và phục sinh vinh hiển của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa cũng như khám phá ra vị trí của Đức Trinh Nữ Maria trong mầu nhiệm cứu độ.
Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ". Nghe lời đó, Trinh Nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận.
Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?" Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được". Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và thiên thần cáo biệt trinh nữ.
Nhân vật chủ yếu mà thánh Luca muốn trình bày trong bài Tin Mừng trên đây là chính Đức Giêsu. Ngài là Con Đấng Tối Cao, là Vua Mêsia (c.32-33). Ngài là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa (c.35). Thiên Chúa muốn Con Ngài vào đời làm người, nên đã chuẩn bị cho Con một người mẹ tuyệt hảo. Maria là người được Thiên Chúa đặc biệt mến thương. Thiên thần gọi cô là Đấng đầy ân sủng, là người được Đức Chúa ở cùng (c.28), là người đẹp lòng Thiên Chúa (c.30). Maria đã là một thụ tạo tuyệt vời ngay từ trước khi làm mẹ Đức Giêsu. Nhưng Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của cô Maria. Ngài cần sự ưng thuận của một thụ tạo nhỏ bé trước khi trao cho Maria chức vụ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên cô và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên cô" (c.35). Maria hẳn đã phải suy nghĩ trước khi chấp nhận làm mẹ theo một cách thức lạ lùng đến thế. Lời mời gọi nào của Thiên Chúa cũng gây xáo trộn những dự định và tính toán riêng tư. Nếu Maria đã khấn sống khiết tịnh, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô làm mẹ và sinh con. Nếu Maria đã muốn sống bậc hôn nhân một cách bình thường với ông Giuse, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô có một người con, không phải với Giuse, và tương quan giữa cô với Giuse hẳn phải thay đổi. Maria không hiểu hết con đường mình sắp đi. Có biết bao trắc trở, khó khăn, mờ tối. Nhưng cô tin vào Thiên Chúa đang mời gọi. Cô buông mình để tay Chúa dẫn đưa, vì xác tín rằng chẳng có gì Ngài không làm được. Maria đã xin vâng trong niềm tin yêu phó thác. Tiếng xin vâng này mở đầu cho một chuỗi xin vâng làm nên cuộc đời người nữ tỳ của Chúa. Lắm khi chúng ta thấy Đức Maria quá cao xa vì tràn đầy những ơn chúng ta không hề có. Chúng ta quên rằng Mẹ cũng là một tín hữu bước những bước gập ghềnh qua sa mạc cuộc đời. Nói tiếng xin vâng khi mọi sự dường như sụp đổ, chuyện đó cần đến lòng tin. "Phúc cho em là kẻ đã tin..." (Lc 1,45). Tiếng xin vâng khó khăn nhất của Mẹ Maria là tiếng xin vâng dưới chân thập giá. Những lời thiên thần nói ngày xưa có còn đáng tin không? Chỉ khi Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với Mẹ tất cả những tiếng xin vâng trong đời mới bừng sáng trọn vẹn và rực rỡ ý nghĩa. Chúng ta có dám liều xin vâng như Mẹ không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Thiên Chúa đã nói với Đức Maria qua vị thiên sứ. Còn bạn, có khi nào Chúa nói ới bạn và mời bạn cộng tác không? Bạn có khi nào nghe Chúa nói qua giờ cầu nguyn, qua một người hay một biến cố trong cuộc sống không?
Để xin vâng, cần phải tin. Để tin, cần phải liều. Có khi nào bạn dám bỏ mọi chỗ dựa nơi người đời để dựa vào Chúa không?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường. Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu. Mẹ đưa Con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ. Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa. Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống. Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt. Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly. Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa --------------------------------
Con người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng, vội vã. Chuỗi Mân Côi làm lòng ta lắng xuống, thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ. Kính Mừng Maria đầy ơn phúc. Đây là lời sứ thần chào Mẹ lúc truyền tin, lời mời Mẹ vui lên vì ơn cứu độ nay đã đến. Mẹ đầy ơn phúc vì được Thiên Chúa đặc biệt yêu thương. Tình thương Chúa chở che Mẹ ngay từ lúc chưa chào đời, và tình thương ấy còn bao bọc Mẹ mãi mãi. Mẹ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên Mẹ được giữ gìn khỏi vết nhơ nguyên tội. Chúng ta được dự phần vào niềm vui và ân phúc của Mẹ vì chúng ta cũng được Thiên Chúa tuyển chọn, yêu thương được tẩy xóa nguyên tội để trở nên thụ tạo mới. Đức Chúa Trời ở cùng Bà. Trong Cựu Ước, có bao người được Thiên Chúa ở cùng, để rồi được Ngài sai đi phục vụ Dân Chúa. Nhưng Thiên Chúa ở cùng Mẹ một cách độc nhất vô nhị. Khi được đầy tràn Thánh Thần và cưu mang Ngôi Lời, Mẹ trở nên như Hòm Bia, như Đền Thánh, nơi vinh quang Thiên Chúa hiện diện giữa con người. Nhiều lần trong mỗi Thánh Lễ, vị linh mục chúc chúng ta: Chúa ở cùng anh chị em. Kitô hữu là người có Đức Kitô ở cùng và được mời gọi đem Ngài đến cho thế giới. Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ. Đó là lời bà Êlisabét ca ngợi Mẹ (Lc 1, 42) vì chỉ mình Mẹ được diễm phúc sinh hạ Đấng Mêsia. Mẹ đã cưu mang Người và cho Người bú mớm (Lc 11, 27). Nhưng sau đó bà Êlisabét còn ca ngợi Mẹ có phúc vì đã tin Chúa sẽ thực hiện điều Ngài nói với Mẹ (Lc 1, 45). Tin là dám buông đời mình trong tay Chúa và để Ngài dẫn đi trong đêm tối của lòng tin. Mọi tín hữu đều được mời sống hành trình đức tin như Mẹ, để được cùng Mẹ chung hưởng hạnh phúc: "Phúc cho ai không thấy mà tin" (Ga 20, 29) Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời. Chỉ Thiên Chúa là Đấng Thánh và là nguồn mọi sự thánh thiện. Mẹ được chia sẻ sự thánh thiện ấy cách tuyệt vời, vì Mẹ được chọn làm Mẹ Đức Giêsu, Mẹ Thiên Chúa, và vì chẳng ai thực thi ý Chúa trọn vẹn như Mẹ. Chúng ta chẳng được diễm phúc sinh ra Đức Giêsu, nhưng chính Ngài lại mời gọi ta làm mẹ của Ngài: "Mẹ tôi và anh em tôi là những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành" (Lc 8,21). Khi thực thi Lời Chúa trong cuộc sống, chúng ta sinh Đức Giêsu cho nhân loại hôm nay. Ngài vẫn cần những người mẹ để có mặt đến tận thế. Chẳng có gì Đức Maria được hưởng cách viên mãn, mà Hội Thánh và từng người lại không được dự phần. Xin Mẹ cầu cho ta khi này và trong giờ lâm tử.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có khi nào lần chuỗi không? Bạn có biết lần chuỗi không? Bạn có thấy lần chuỗi là một cách cầu nguyện nhẹ nhàng và lắng đọng không?
Bạn nghĩ gì về Đức Mẹ? Đức Mẹ có phải là Đấng ở trên cao và xa lạ với bạn, hay là Đấng rất gần bạn trong cuộc sống đức tin?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường. Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu. Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ. Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa. Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống. Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt. Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly. Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa. --------------------------------
Thế giới đang đi vào một hoàn cảnh nghiêm trọng. Nghiêm trọng nhất là bệnh tình của tâm hồn con người: Lỗi lầm cá nhân tăng. Tội ác tập thể tăng. Suy thoái đạo đức tăng. Người ta huỷ hoại nhau và tự huỷ. Nhiều nơi đang rơi vào nguy cơ tan rã. Quỉ ác xem ra đã thiết lập được một trật tự tội lỗi vững chắc trong thế giới, kể cả những vùng cực kỳ hữu thần.
Tình hình này đang bùng nổ ra những bất ngờ bi đát. Chúng ta khó tránh được những ảnh hưởng đa dạng của các chuyển biến bi thảm.
Những thời sự gay gắt đang khiến những ai thao thức với sự sống con người và Nước Trời phải băn khoăn. Họ nhớ lại những gì Đức Mẹ Maria đã cảnh báo tại Lộ Đức, tại La Salette, tại Fatima.
Đức Mẹ báo trước những tai hoạ khủng khiếp sẽ xảy ra do tội lỗi chồng chất của thế giới gây nên.
Để làm nhẹ đi những tai hoạ này, Đức Mẹ nhắn bảo các con cái Mẹ hai điều:
Một là hãy cầu nguyện,
Hai là hãy ăn năn sám hối.
Dưới đây, tôi xin phép góp ý sơ qua về sự thực hiện hai điều trên đây.
Cầu nguyện.
Nhìn qua thế giới xung quanh, tôi thấy có những người không hề cầu nguyện, có những người không thích cầu nguyện, có những người rất ít cầu nguyện, có những người không biết cầu nguyện. Bốn hiện tượng này đã khá phổ biến.
Vì thế, khi cầu nguyện, thiết tưởng nên khởi sự từ việc xin Chúa ban cho ta ơn cầu nguyện. Kinh nghiệm bản thân cho tôi thấy: Cho dù tuổi nào, bậc nào, con người ta vẫn cảm thấy ứng nghiệm lời thánh Phaolô viết: “Có Thánh Thần giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải. Nhưng chính Thánh Thần cầu thay nguyện giúp chúng ta bằng những rên xiết khôn tả. Và Thiên Chúa là Đấng thấu suốt tâm can, biết Thánh Thần muốn nói gì, vì Thánh Thần cầu thay nguyện giúp cho các thánh đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8,26-27).
Thực vậy, rất nhiều khi chúng ta cầu nguyện không đúng ý Thiên Chúa. Rất nhiều khi chúng ta cầu xin Chúa làm theo ý chúng ta, chứ chúng ta không sẵn sàng vâng theo ý Chúa. Hoặc là cầu xin một cách phô trương, kiêu hãnh kiểu Pharisêu, chứ không với cách khiêm nhường kín đáo như người thu thuế.
Kinh nghiệm cũng cho thấy: Biết bao lần cả trong chính khi đọc kinh, dâng lễ, chúng ta cũng có thể sa vào những tư tưởng, lời nói, việc làm sai trái, mà thánh Phaolô đã than: “Sự lành tôi muốn, thì tôi không làm. Còn sự xấu tôi không muốn, thì tôi lại làm” (Rm 7,20). Hiện tượng cầu nguyện với sự nguội lạnh, khô khan, với những tâm tình ghen ghét hận thù, gian dối, tham lam, kiêu căng, tự phụ tự đắc là hiện tượng không phải hiếm hoi gì.
Những việc cầu nguyện như thế chắc chắn không đáp ứng lời nhắn nhủ của Đức Mẹ. Hãy xin ơn biết cầu nguyện với Chúa Thánh Thần. Hãy cầu nguyện theo cách lần chuỗi mân coi như ý Đức Mẹ. Hãy tập cầu nguyện trong thân phận khiêm tốn của người tội lỗi van nài lòng thương xót Chúa tha tội và giúp chúng ta khỏi sa vào bẫy ma quỉ. Hãy cầu nguyện để chúng ta nên giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu.
Ăn năn sám hối.
Chúa đã thương yêu ta từng chi tiết nhỏ. Như thánh vương David nói: “Tạ ơn Chúa đã thương con cách lạ lùng. Công trình Ngài xiết bao kỳ diệu! Hồn con đây biết rõ mười mươi. Xương cốt con Ngài không lạ lẫm gì. Khi con được thành hình trong nơi bí ẩn. Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy. Mọi ngày đời được dành sẵn cho con, đều thấy ghi trong sổ sách Ngài, trước khi ngày đầu đời của con khởi sự” (Tv 139,14-16).
Chúa thương ta và muốn ta phát triển theo hướng tốt lành Chúa muốn. Nhưng thực tế cho thấy nhiều khi ta phát triển sai hướng. Tiên tri Baruc nói: “Chúng tôi đã không nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, đã không tuân giữ mọi lời các ngôn sứ Người đã sai đến với chúng tôi. Mỗi người chúng tôi đã cứ theo lòng dạ xấu xa ngoan cố của mình mà phục vụ các thần khác, và làm điều dữ trước mặt Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi” (Br 1,21-22).
Các thần tượng mà nhiều người chúng ta thường đi tìm, chạy theo và tôn thờ là danh vọng, tiền của, thành công, lạc thú, biếng lười. Thần lớn nhất là cái tôi.
Khi Đức Mẹ khuyên nhủ chúng ta ăn năn sám hối, Đức Mẹ muốn chúng ta khởi sự bằng việc đốt nóng lên niềm tin. Tin là gắn bó thân mật với Chúa. Ngài là khởi đầu, là cùng đích và là hạnh phúc của ta. Tin là chấp nhận Lời Chúa là chân lý. Tin là sống theo thánh ý Chúa. Tin là thực thi điều răn: Mến Chúa yêu người.
Với niềm tin như thế, người sám hối cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn đổi mới. Khi được ơn Chúa Thánh Thần, họ sẽ nhìn thấy rõ hơn những tai hại của tội lỗi, họ sẽ hối hận vì đã xa lìa Chúa. Quyết tâm của họ sẽ không dừng lại ở sự gỡ bỏ khỏi tội lỗi, mà còn ước muốn được sống trong’ tình yêu Chúa. Hơn nữa, họ muốn đi theo Chúa, dấn thân cứu đời.
Dấn thân đòi phải có tinh thần chiến đấu. Trong chiến đấu để làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu, nhiều khi tôi có cảm tưởng là phải rất can đảm. Nhưng kinh nghiệm cho tôi thấy ơn biết sống dịu dàng, nhân hậu, tế nhị, khiêm tốn và thương cảm còn cần hơn.
Ăn năn sám hối cũng còn đòi tinh thần đền tội. Tinh thần đền tội đi theo tinh thần đức tin và xuất phát từ tinh thần đức tin.
Chúng ta tin chắc rằng: “Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta trước, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,10).
Nếu chính Đức Kitô đã dâng mình chịu nạn để làm của lễ đền tội cho chúng ta, thì không lẽ chúng ta lại được phép dửng dưng với việc đền tội của chính chúng ta.
Hiện nay, việc đền tội được hiểu một cách qúa sơ sài và được thực hiện một cách quá tượng trưng. Tôi thiết nghĩ thói quen đó là không đúng. Chúa Giêsu có lần đã phán: “Giống quỉ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện” (Mt 17,21). Lời Chúa dạy trên đây rất có thể áp dụng vào việc đền tội, khi việc đền tội vừa là sửa chữa lại lỗi lầm đã qua, vừa ngăn ngừa ma quỉ trở lại tái chiếm con người sám hối.
Với vài gợi ý trên đây, tôi tin rằng rất nhiều con cái Đức Mẹ khắp nơi sẽ nhìn lên Đức Mẹ. họ sẽ sốt sắng cầu nguyện và sám hối. Chắc chắn Đức Mẹ nhân lành sẽ cầu bầu cho nhân loại đáng thương này.
Trong lịch phụng vụ, tháng 10 có tên là tháng Mân côi. Suốt tháng này, Hội Thánh khắp nơi hướng về Đức Mẹ một cách đặc biệt. Lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ trong thời gian này mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi.
Mân côi chính là hoa hồng. Như thể, bằng chuỗi Mân côi, Hội Thánh trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp, dâng lên Mẹ hiền.
Lịch sử chuỗi Mân côi là một hành trình dài. Hành trình đó mang nhiều gợi ý. Những gợi ý này có thể giúp chúng ta cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi một cách sốt sắng, vừa hợp với truyền thống, vừa sát với thời sự.
Chuỗi Mân côi đốt lên lửa mến.
Lịch sử cho thấy kinh Mân côi được thành hình do động lực sùng kính Đức Mẹ. Người được nhắc tới nhiều trong lịch sử kinh Mân côi là thánh Đaminh, đấng sáng lập Dòng Giảng thuyết. Ngài qua đời năm 1221. Một số tài liệu quả quyết rằng chính Đức Mẹ đã trao cho thánh Đaminh chuỗi Mân côi. Xung quanh thánh Đaminh còn một số tu sĩ nhiệt thành, như tu sĩ Dominique dòng Chartreux thành Trèves, tu sĩ Alain de la Roche dòng Đaminh thành Lille.
Các vị này đã có những đóng góp quan trọng. Tất cả các ngài đều là những tông đồ của Đức Mẹ. Với lòng xác tín, hăng hái, nhiệt thành, các ngài rao giảng, truyền bá kinh Mân côi. Trước hết là trong các cơ sở Dòng, sau là tại các giáo xứ của nhiều giáo phận Âu Châu.
Phong trào đọc kinh Mân côi sau đó được tổ chức thành các hiệp hội. Các người trong hiệp hội liên đới với nhau bằng chia sẻ đời sống thiêng liêng. Nhận thấy phong trào kinh Mân côi đem lại nhiều kết quả lớn lao và mau lẹ cho đời sống đức tin, Toà Thánh đã công nhận, khuyến khích và ban nhiều ân xá.
Năm 1475, tại Cologne, chính hoàng đế nước Đức là Fredéric III, hoàng hậu và hoàng tử đã xin ghi tên vào hội kinh Mân côi. Nhờ vậy, chuỗi Mân côi có thêm uy tín.
Uy tín đó không phải là lý do để phong trào kinh Mân côi lan rộng. Lý do lan rộng chính là tính cách Kinh Thánh và bình dân của chuỗi Mân côi.
Các lời kinh của chuỗi Mân côi đều được đúc kết từ Kinh Thánh. Các mầu nhiệm suy gẫm trong chuỗi Mân côi cũng được rút ra từ Kinh Thánh. Số 150 kinh Kính Mừng cũng là để nhớ lại số 150 thánh vịnh của Cựu Ước.
Tuy nền tảng là Kinh Thánh, nhưng chuỗi Mân côi được sắp xếp một cách bình dị, dễ đọc, dễ hiểu, hợp với bình dân. Miệng đọc kinh, lòng suy gẫm, tay lần chuỗi hạt, đó là một hình thức đạo đức bình dân thấy có ở nhiều tôn giáo truyền thống như Phật giáo, Hồi giáo.
Với hình thức đạo đức này, kinh Mân côi đã đốt lên lửa mến trong các tâm hồn. Nhiều tâm hồn trước kia nguội lạnh đã được ơn trở về.
Chuỗi Mân côi thắp sáng niềm hy vọng cứu độ.
Lịch sử cho thấy: Khi khấn cầu ơn nọ ơn kia, nhiều người đã dựa vào chuỗi Mân côi như một nguồn để tìm sức mạnh cậy trông.
Năm 1571, trước cơn đe doạ đạo Chúa bị tàn phá, Đức Thánh Cha Piô V, đã truyền cho Hội Thánh cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi, với hy vọng Chúa sẽ cứu. Khấn cầu đó đã được Chúa chấp nhận. Chiến thắng ở vịnh Lepante ngày 7 tháng 10 năm 1571 đã là cơ sở để Đức Thánh Cha thiết lập lễ Đức Mẹ Mân côi. Hằng năm cứ đến ngày 7 tháng 10, Hội Thánh đề cao chuỗi Mân côi như một nguồn hy vọng.
Năm 1629, trước cơn dịch tả nguy hiểm lan rộng trên nước Ý, tu sĩ Timoteo Ricci đã lập ra chuỗi Mân côi liên tiếp. Thầy tính rằng: Mỗi năm có 8.760 giờ. Căn cứ vào đó, thầy làm ra 8.760 tấm vé. Mỗi vé ghi tháng, ngày, giờ. Rồi cho rút thăm. Ai được vé nào thì cam kết đọc chuỗi Mân côi tháng ngày giờ đó. Mục đích có ý xin ơn chết lành cho những người hấp hối, xin ơn trở lại cho những người tội lỗi, xin ơn bình an cho các dân tộc.
Từ sáng kiến đó, phong trào kinh Mân côi liên tiếp được thành lập và lan rộng. Năm 1657, Đức Giáo Hoàng Alexandre VII chấp nhận phong trào đạo đức này, và ban cho nhiều ân xá.
Năm 1826, trước nhu cầu truyền giáo cho các vùng xa xôi, bà Pauline Jaricot, thành Lyon, đã có sáng kiến lập ra phong trào "Kinh Mân côi sống". Cứ 10 nguời thì thành một nhóm nhỏ. Mỗi người trong nhóm cam kết đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Hơn nữa, mỗi người trong nhóm sẽ tìm thêm 5 người. Năm người này cũng hứa đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Và cứ thế nhân lên số người đọc kinh Kính Mừng.
Mỗi tháng, bà Pauline phổ biến cho các nhóm một bản suy gẫm Lời Chúa, hướng về truyền giáo.
Đầu thế kỷ XX, trước tình hình suy giảm đức tin tại Pháp, cha Joseph Eyquem lập ra những hội Mân côi. Sinh hoạt của những người theo hội này cũng là đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Ngoài ra, họ họp nhau mỗi tháng một lần. Cuộc họp không tổ chức ở nhà thờ, nhưng ở nhà tư, lúc ở nhà này, khi ở nhà khác. Cuộc họp gồm đủ mọi thành phần. Những tín hữu bình thường, những người ly dị, những người rối vợ rối chồng, những người xa tránh các bí tích. Họ cầu nguyện, trao đổi, chia sẻ và giúp đỡ nhau vượt qua các thử thách.
Nói chung, khi gặp những khó khăn nguy hiểm, cả trong đạo lẫn ngoài đời, người ta đã chạy lại với Đức Mẹ. Họ khẩn cầu Mẹ bằng chuỗi Mân côi. Và thực sự chuỗi Mân côi đã đem lại cho các tâm hồn những hy vọng lành thánh.
Chuỗi Mân côi mở kho tàng trái Tim Đức Mẹ.
Trước đây, chuỗi Mân côi được truyền bá bởi các thánh, và Hội Thánh. Nay, chính Đức Mẹ lên tiếng.
Tại Fatima, khi hiện ra với ba trẻ, Phanxicô, Giacinta và Lucia, Đức Mẹ đã mang chuỗi Mân côi. Đức Mẹ cũng đã khuyên người ta hãy năng cầu nguyện kinh Mân côi.
Tại Fatima, Lộ Đức và những nơi hành hương, chuỗi Mân côi ví như những chuỗi hoa hồng của các trái tim không ngừng dâng lên Đức Mẹ. Còn Đức Mẹ, thì luôn mưa những hoa hồng thiêng xuống cho các người chân thành cầu khấn. Hoa hồng nói đây là những ơn phúc phần hồn phần xác. Ơn phúc đủ loại, nhất là ơn sám hối, ơn trở về với Chúa, ơn đổi mới cuộc đời, ơn đi sâu vào Phúc Âm, ơn biết đón nhận thánh ý Chúa để trở thành cộng tác viên đắc lực của Đức Mẹ đồng công cứu chuộc.
Các ơn Đức Mẹ ban qua chuỗi Mân côi phát xuất từ trái tim Đức Mẹ. Trái tim ấy đầy tình thương và cũng đã chịu nhiều đau đớn, để cùng với Chúa Giêsu cứu chuộc nhân loại bằng hy sinh trên thánh giá. Vì thế có thể nói, các ơn đó đến từ trên, và chảy vào trong nội tâm mỗi người. Với nhận thức đó, chúng ta hiểu ý nghĩa lời Đức Mẹ nói với Bernadette ở Lộ Đức: "Mẹ không hứa cho con hạnh phúc đời này, nhưng hạnh phúc đời sau". Tuy nhiên, ngay ở đời này, những ai lần chuỗi Mân côi, cũng sẽ được Đức Mẹ thương ban ơn, cách này hay cách khác.
Hiện nay, cuộc sống đang đặt ra nhiều vấn đề nan giải. Kinh Mân côi sẽ giúp chúng ta tìm được lối thoát. Lối thoát sẽ từ trên trái tim Đức Mẹ mà xuống và từ trong nội tâm ta mà ra. Nội tâm ta cầu nguyện sám hối. Trái tim Đức Mẹ sẽ làm chứng một cách sống động lời thiên thần đã nói với Đức Mẹ xưa: "Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được" (Lc 1,37).
Bài Tin Mừng hôm nay kết thúc bằng hai tiếng “Xin vâng” của Đức Mẹ. Hai tiếng “Xin vâng” thật đơn sơ nhỏ bé, nhưng lại có ảnh hưởng lớn lao.
Trước hết hai tiếng “Xin vâng” có ảnh hưởng tới chương trình của Thiên Chúa.
Thiên Chúa có chương trình tốt đẹp cho loài người. Nhưng để chương trình ấy thành công, cần có sự tham gia, đồng thuận, vâng phục của con người. Chúa muốn con người được hạnh phúc. Nhưng nếu con người từ chối, Thiên Chúa không thể ban hạnh phúc cho con người. Chương trình đầu tiên của Chúa đã thất bại vì ông bà nguyên tổ không vâng lời Chúa. Ông bà nguyên tổ đã nghe ma quỷ hơn nghe Chúa. Ông bà nguyên tổ đã làm theo ý riêng hơn làm theo ý Chúa. Trái lại Đức Mẹ đã tham gia, đã đồng ý, đã vâng phục, nên chương trình của Thiên Chúa được thực hiện. Kế hoạch cứu độ loài người của Thiên Chúa nhờ hai tiếng “Xin vâng” của Đức Mẹ mà thành công.
Hai tiếng “Xin vâng” của Đức Mẹ vọng lại hai tiếng “Xin vâng” của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Vì vâng lời Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã vui lòng xuống thế làm người. Hôm nay, khi Đức Mẹ nói tiếng “Xin vâng” với Thiên thần, Đức Giêsu cũng nói “Xin vâng” với Đức Chúa Cha. Với hai tiếng “Xin vâng”, Đức Mẹ khai thông chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Sau hai tiếng “Xin vâng”, Ngôi Hai xuống thế làm người, tượng thai trong lòng Đức Mẹ.
Hai tiếng “Xin vâng” có ảnh hưởng tới cả cuộc đời.
Hai tiếng “Xin vâng” nghe thật bé nhỏ, khiêm tốn, những ảnh hưởng tới cả cuộc đời Đức Giêsu và Đức Mẹ. Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã từ trời xuống thế, như lời Thánh vịnh: “Máu chiên bò, Chúa không ưng. Của lễ toàn thiêu, Chúa không nhận. Thì này con đến để làm theo ý Cha”. Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã chấp nhận con đường bé nhỏ, khiêm nhường. Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu vui lòng chịu chết, chết nhục nhã trên cây Thánh giá: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho Con khỏi uống chén này. Những xin đừng làm theo ý Con, chỉ xin vâng ý Cha mà thôi”.
Cũng vậy, khi nói tiếng “Xin vâng” với Thiên thần, Đức Mẹ ràng buộc tất cả đời mình vào chương trình của Thiên Chúa. Vì xin vâng mà phải sinh con trong hang đá nghèo nàn. Vì xin vâng mà phải trốn chạy sang Ai cập. Vì xin vâng mà chấp nhận lời tiên tri Simêon: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tim bà”. Vì xin vâng mà theo Đức Giêsu trên khắp các nẻo đường truyền giáo. Vì xin vâng mà phải đứng dưới chân thập giá, chịu mọi đau đớn, khổ nhục với con, dường như cùng chết với con vậy.
Như thế, để nói tiếng “Xin vâng” với Thiên Chúa, Đức Giêsu và Đức Mẹ đã phải nói “Không” với chính mình. Để một lần nói “Xin vâng” với Thiên Chúa, Đức Giêsu và Đức Mẹ phải nhiều lần nói “Không” với chính mình. Tiếng “Vâng” lớn thành hình nhờ những tiếng “Không” nhỏ bé. Ý Chúa được thể hiện nhờ biết bỏ ý riêng. Chương trình lớn thành công nhờ những hy sinh bé nhỏ âm thầm.
Khi tạo dựng nên ta, Chúa đã có chương trình cho mỗi người chúng ta. Đó chính là chương trình tốt đẹp nhất. Nhưng nếu ta không cộng tác, thì chương trình ấy không thực hiện được. Để chương trình của Chúa được thực hiện, ta hãy noi gương Đức Mẹ, nói tiếng “Xin vâng” với Chúa. Hãy biết bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa. Hãy biết bỏ chương trình riêng để đi vào chương trình của Chúa. Hãy xin vâng khi vui. Hãy xin vâng khi buồn.Hãy xin vâng khi hạnh phúc. Hãy xin vâng khi đau khổ. Hãy noi gương Đức Mẹ, xin vâng trong ngày truyền tin vui tươi, và xin vâng cả khi đứng dưới chân thập giá đau buồn. Xin Vâng từng giây phút trong cuộc đời. Khi chương trình của Chúa được thực hiện, ta sẽ được hạnh phúc và đem hạnh phúc cho những người chung quanh ta.
Lạy Mẹ, xin dạy con hai tiếng XIN VÂNG như Mẹ. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Hai tiếng “Xin vâng” của Đức Mẹ có ảnh hưởng thế nào đến chương trình của Thiên Chúa?
2- Hai tiếng “Xin vâng” Đức Mẹ có ảnh hưởng thế nào đến cuộc đời của Đức Mẹ.
3- Chúa Giêsu đã sống lời “Xin vâng” thế nào?
4- Ta phải làm gì để chương trình của Chúa nơi ta được thực hiện”
Khi nhìn ngắm các tượng ảnh Đức Mẹ, ta dễ có cảm tưởng rằng Đức Mẹ đã sống một đời bình an thư thái. Vì các nghệ nhân thường tạo ra những hình ảnh về Đức Mẹ đẹp đẽ, hiền từ, dường như siêu thoát mọi cảnh khổ đau ở trần gian. Khi ngợi ca Đức Mẹ là tuyệt mỹ, đầy ơn phúc, vô nhiễm nguyên tội, ta thường nghĩ rằng: Đức Mẹ đã được tạo dựng đặc biệt, hoàn hảo ngay từ đầu, thánh thiện từ khi sinh ra và mãi mãi là như thế, không tiến, không lùi, đẹp như một pho tượng đúc sẵn.
Nhưng nếu đọc Phúc Âm kỹ lưỡng, ta sẽ thấy hành trình đức tin của Mẹ không phải luôn luôn bằng phẳng, êm xuôi, dễ dàng. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã thanh luyện Mẹ, uốn nắn Mẹ. Và vì thế đã để Mẹ trải qua những kinh nghiệm đớn đau khi tin nhận và bước theo Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ nhất: Thiên Chúa mời gọi Mẹ bỏ chương trình riêng để sống theo chương trình của Thiên Chúa. Maria, một thôn nữ bình dị sống thầm lặng trong một làng quê nhỏ bé. Cô muốn cuộc đời mãi mãi bình thản êm xuôi như thế. Nhưng Thiên Chúa đã đến khuấy động đời cô. Khi đề nghị Maria làm mẹ, Thiên Chúa đã mở ra trước mặt cô một lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng đầy gian khổ chông gai. Maria đã ngoan ngoãn thưa "Xin vâng". Lời thưa 'xin vâng' của Maria làm ta nhớ đến tổ phụ Abraham. Như Abraham đã từ bỏ quê hương, gia đình đi vào một tương lai bấp bênh theo tiếng Chúa mời gọi, Maria cũng đã từ bỏ chương trình riêng trong nếp sống bình dị, để đi vào chương trình của Thiên Chúa trong một tương lai bất ổn, hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ hai: Thiên Chúa gửi đến cho Đức Mẹ nhiều đau khổ. Vì nhận lời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria phải gánh chịu nhiều đau khổ.
Đau khổ thứ nhất là bị Giuse nghi ngờ. Làm sao giải thích cho Giuse hiểu. Làm sao tránh được búa rìu dư luận. Không những bị nghi ngờ, mà còn nguy hiểm đến tính mạng nữa. Thời ấy, những cô gái chửa hoang sẽ bị ném đá cho đến chết. Nhưng vững tin vào Thiên Chúa, Đức Maria đã để mặc Thiên Chúa lo liệu dàn xếp mọi chuyện. Ngài chỉ biết cúi đầu, thinh lặng vâng phục và phó thác.
Đau khổ thứ hai là Đức Maria đã sinh hạ Chúa Giêsu trong cảnh cơ bần: không nhà cửa, không giường chiếu, không mùng mền. Thiếu thốn mọi phương tiện. Chung số phận với súc vật.
Đau khổ thứ ba là bị vua Hêrôđê tìm giết nên phải trốn sang Ai Cập. Con trẻ sơ sinh yếu ớt. Sản phụ chưa được nghỉ ngơi lại sức đã phải đi lên đường trốn chạy. Tuy nhiên, nỗi cực nhọc phần xác không sánh được với nỗi đau đớn trong tâm hồn: Tại sao lại mang lấy thân phận tội đồ? Tại sao lại bị người đời thù ghét, săn đuổi?
Đối diện với những đau đớn ấy, chắc chắn niềm tin của Đức Maria phải lung lay, nghi hoặc: Con Thiên Chúa mà phải chịu nghèo khổ, khốn cùng đến thế sao? Tuy có chao đảo, nhưng Đức Maria vẫn phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ ba: Đức Maria bị dứt lìa khỏi Chúa Giêsu. Niềm vui và hạnh phúc của người mẹ là đứa con, nhất là con một. Con là tất cả của mẹ. Con quý giá hơn chính mạng sống của mẹ. Tách con ra khỏi mẹ khác nào lấy gươm đâm vào tim mẹ. Thế mà Chúa Giêsu đã tách lìa Đức Maria rất sớm. Phúc Âm ghi lại hai lần Chúa Giêsu từ chối Đức Mẹ.
Lần thứ nhất: Khi Chúa Giêsu lên 12 tuổi, cả nhà đi lên Giêrusalem dự lễ. Tan lễ, Chúa Giêsu đã tự tiện ở lại, để thánh Giuse và Đức Maria đi tìm mất ba ngày. Trong ba ngày đó, Đức Maria đã trải qua biết bao lo âu, sợ hãi, đau đớn, cực nhọc. Vậy mà khi gặp cha mẹ, Chúa Giêsu đã nói: "Cha mẹ tìm con làm gì. Cha mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con ư?". Lời này khiến cho Đức Maria buồn phiền không ít vì thấy đứa con từ nay thoát khỏi vòng tay của Mẹ.
Lần thứ hai: Khi Chúa Giêsu đi rao giảng, Đức Maria và mấy người bà con đến tìm Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu không ra tiếp, lại còn nói những lời như chối từ liên hệ huyết thống:
"Kẻ nghe lời Cha Ta và thực hành, người ấy là anh chị em và là Mẹ Ta".
Những lời nói và thái độ của Chúa Giêsu như thế chắc chắn khiến cho Đức Maria buồn phiền. Nhưng những lời nói và thái độ ấy cũng giúp thanh luyện Đức Maria khỏi những tình cảm riêng tư, những liên hệ sinh học tự nhiên để bước vào tình yêu rộng lớn của Thiên Chúa và tạo lập những dây liên hệ siêu nhiên với Ngài.
Cuộc thanh luyện cuối cùng: Đức Maria phải chứng kiến cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu trên thập giá. Còn gì buồn hơn khi mẹ mất con. Còn gì đau đớn hơn khi mẹ thấy con chết đau đớn, tủi nhục giữa tuổi thanh xuân. Ở đây ta cũng nhớ lại tổ phụ Abraham. Để thử thách ông, Thiên Chúa đã truyền cho ông sát tế Isaác, đứa con trai duy nhất. Đức Maria cũng được mời gọi hy sinh người con duy nhất của mình. Đau đớn hơn tổ phụ Abraham vì Đức Maria phải chứng kiến hy lễ đó hoàn tất. Khi mọi người trốn chạy, chối bỏ Chúa Giêsu, Đức Maria vẫn ở lại dưới chân cây thập giá đau nỗi đau của Chúa Giêsu, nhục nỗi nhục của Chúa Giêsu. Và khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng thì Đức Maria như bị mất tất cả, bị tước đoạt tất cả những gì yêu quý nhất. Đứng dưới chân thánh giá, Đức Maria trở nên một người nghèo nhất. Mẹ chẳng còn gì cho riêng mình. Chẳng còn điểm tựa nào để bám víu, Mẹ chỉ còn biết phó thác trông cậy vào Thiên Chúa.
Như vậy Thiên Chúa đã dẫn đưa Đức Maria từ bỏ chương trình riêng tư, từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì thân thiết nhất của mình, để đi vào chương trình của Thiên Chúa, để trọn vẹn phó thác cho Thiên Chúa.
Ngày nay khi lần chuỗi Mân Côi là ta ôn lại hành trình đức tin của Mẹ. Hành trình đầy thử thách gian khổ nhưng cũng đầy chiến thắng vinh quang.
Xưa kia lễ Mân Côi được mừng để kỷ niệm cuộc thắng trận ở Lepante. Ngày nay, khi mừng lễ Mân Côi ta mừng Đức Mẹ Maria đã chiến thắng chính bản thân, đã vượt qua hết những thử thách và đạt tới đích điểm của hành trình đức tin.
Lạy Mẹ Maria, xin cho con biết noi gương Mẹ, biết từ bỏ ý riêng mình để thực hiện ý Thiên Chúa. Xin giúp con can đảm vượt qua mọi thử thách và giữ vững niềm tin tưởng phó thác trong tay Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Hãy kể ra những cuộc thanh luyện của Đức Mẹ.
2) Tại sao con người phải chịu thanh luyện? Có phải vì Chúa muốn hành hạ con người không?
3) Thanh luyện hệ tại điều gì? Chịu khổ sở hay từ bỏ mình, điều nào quan trọng hơn?
Nhân dịp Kỷ niệm 95 năm ngày Đức Mẹ hiện ra tại Fatima. 1917-2012)
Với lời thưa "Xin Vâng" của Đức Mẹ, điều vô cùng kỳ diệu xẩy ra: Thiên Chúa đến ở với loài người. Thiên Chúa vô hạn đến ở trong thân xác hữu hạn. Thiên Chúa vô thủy vô chung đi vào lịch sử để trở nên có sinh có tử. Đây là đại hạnh của con người. Nhân loại khổ đau có Thiên Chúa đến cùng chia sẻ nâng đỡ, chữa lành. Nhân loại đi trong đêm tối có Thiên Chúa đến dẫn đường chỉ lối. Nhân loại bơ vơ có Thiên Chúa đồng hành. Còn hơn thế nữa, Thiên Chúa không chỉ đến để đồng hành, để an ủi nhưng Thiên Chúa còn đến biến đổi thân phận con người. Thư Galata cho biết Thiên Chúa sinh làm con loài người để ta được nâng lên làm con Thiên Chúa. Thiên Chúa chịu nghèo để ta được giầu có vì được thừa kế gia tài, được hưởng vinh phúc của Thiên Chúa.
Những điều kỳ diệu ấy chỉ được thực hiện nhờ thái độ của Đức Mẹ. Khi thưa với thiên thần: "Này tôi là tôi tớ của Chúa", Đức Mẹ đã cộng tác trọn vẹn với Thiên Chúa để chương trình của Thiên Chúa được thực hiện. Vào thời Đức Mẹ nô lệ có nghĩa là không có quyền gì hết. Nô lệ hoàn toàn thuộc quyền sử dụng của chủ. Chủ có thể bán đi. Chủ có quyền hành hạ, giết chết nô lệ mà không có tội trước pháp luật. Nô lệ không có quyền sống cho mình, mà sống vì chủ, cho chủ. Khi xưng mình là "tôi tớ", Đức Mẹ từ bỏ tự do, từ bỏ quyền sống của mình để hoàn toàn cho Thiên Chúa sử dụng. Từ đó Chúa ở trong Đức Mẹ. Đức Mẹ đi đâu cũng có Chúa ở cùng. Vì thế sự hiện diện của Đức Mẹ là hiện diện của Chúa. Đức Mẹ đi đến đâu là sinh ơn phúc đến đấy. Đến thăm bà Isave đem ơn cứu độ cho thánh Gioan Baotixita khiến thánh nhân nhảy mừng từ trong lòng mẹ. Đến tiệc cưới Cana làm cho đám cưới ngập tràn niềm vui vì được thưởng thức thứ rượu ngon chưa bao giờ có.
Từ khi về trời Đức Mẹ vẫn tiếp tục viếng thăm con cái trần gian. Lavang, Lộ đức, Fatima... không sao kể xiết những ơn lành Chúa xuống qua tay Đức Mẹ. Tuy Lavang, Lộ đức đều là chứng tích việc Chúa và Đức Mẹ đồng hành với con người trong những nỗi khổ đau. Nhưng Fatima mới tỏ tường là nơi Chúa và Đức Mẹ can thiệp vào lịch sử nhân loại. Thực vậy vào tháng 5 năm 1917, tại Fatima, Đức Mẹ tiên báo nước Nga sẽ gieo rắc lạc thuyết vô thần khắp thế giới. Đúng tháng 10 năm đó cách mạng vô sản nổ ra tại Nga và thế giới bị chia đôi. Một nửa theo lý thuyết cộng sản vô thần gay khổ đau cho biết bao người. Tuy nhiên Đức Mẹ cũng chỉ cho ta con đường thoát khỏi sự dữ này bằng cách cầu nguyện cho nước Nga và tuân giữ 3 mệnh lệnh là: ăn năn sám hối, lần hạt Mân Côi và tôn sùng đền tạ Trái Tim Đức Mẹ. Có thực hành lời Đức Mẹ dậy, nhân loại mới thoát khỏi cơn thịnh nộ của Chúa, thế giới mới được hòa bình. Sứ điệp Fatima quả đã đi vào lịch sử thế giới, hướng dẫn lịch sử thế giới và chữa trị những vết thương của thế giới.
Nếu chương trình của Chúa cần có Đức Mẹ "xin vâng", thì trong chương trình của Đức Mẹ cũng cần một người con quảng đại dâng hiến toàn thân cho Đức Mẹ sử dụng. Người đó chính là Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II có lòng yêu mến Đức Mẹ nồng nàn. Ngài đã viết Tông huấn "Kinh Mân Côi" để tôn vinh Đức Mẹ. Ngài là vị Giáo hoàng lần hạt chung với dân chúng. Ngài đã lập thêm Năm Sự Sáng cho tràng chuỗi Mân Côi. Nhưng nhất là Ngài dâng hiến toàn thân cho việc phụng sự Đức Mẹ. Khẩu hiệu của ngài là "Totus Tuus", trích từ câu nói của thánh Louis Grignon de Monfort:Totus Tuus ego sum et omnia mea Tua sunt (Con là tất cả của Mẹ và mọi sự của con đều là của Mẹ).
Ngài đã dâng nước Nga cho Đức Mẹ. Và đáp lại Đức Mẹ đã thực hiện những lời hứa và những bí mật Fatima trong cuộc đời của ngài. Việc nước Nga được ơn trở lại dưới triều Giáo hoàng của ngài là bằng chứng rõ rệt nhất về lời hứa Fatima: "Trái Tim Mẹ Sẽ Thắng". Theo sau nước Nga là các nước Đông Âu khác. Bản đồ thế giới được vẽ lại. Tình hình thế giới đổi mới khác hẳn. Quả thật Chúa và Đức Mẹ đã can thiệp vào lịch sử thế giới.
Tuy nhiên Đức Thánh Cha phải chịu đau khổ. Và thị kiến chị Lucia thấy người áo trắng bị ám sát đã ứng nghiệm trong đời ngài. Ngài bị bắn đúng ngày 13-5-1981. Tay thiện xạ Ali Agca đứng sát ngài và nhắm bắn trúng chỗ hiểm. Nhưng ngài thoát chết trong gang tấc. Ngài biết Đức Mẹ đã cứu ngài. Nên ngài đến hành hương Fatima tạ ơn Đức Mẹ và đặt đầu viên đạn lên triều thiên Đức Mẹ để tôn vinh quyền phép của Đức Mẹ. Vết thương hành hạ suốt đời đã biến cuộc đời ngài thành cuộc đền tạ Trái Tim Mẹ không ngưng nghỉ.
Đã 95 năm trôi qua kể từ ngày Đức mẹ hiện ra tại Fatima, nhưng sứ điệp Fatima vẫn còn mang tính thời sự và cấp thiết. Vì hiện nay biết bao lạc thuyết vẫn lan tràn gieo đau thương chết chóc cho con người. Đức Mẹ vẫn luôn đồng hành với ta như Người đã cùng cầu nguyện với các tông đồ trong nhà Tiệc ly. Đức Hồng Y Fulton Sheen diễn giải lời thiên thần Gabriel: "Này cô Maria, cô có đồng ý đem xương thịt cho Con Thiên Chúa không? Liệu Thiên Chúa có trở nên loài người qua thân xác của cô không?". Hôm nay Đức Mẹ cũng hỏi ta: "Con có đồng ý cho ta thân xác của con để ta hiện diện với các con, đồng hành với các con không". Nếu ta đồng ý Đức Mẹ sẽ nhờ thân xác ta mà hiện diện trong thế giới, sẽ uốn nắn thế giới và lịch sử sẽ thay đổi. Ta hãy noi gương ĐTC Gioan Phaolô thưa với Mẹ: Lạy Mẹ, tất cả của con là của Mẹ, xin Mẹ hãy dùng con theo ý Mẹ để Thiên Chúa được vinh danh và nhân loại được hạnh phúc. Amen.
Sứ điệp: Qua Mẹ Maria, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người cứu chuộc nhân loại. Mẹ là Đấng Đầy Ơn và là Đấng Trung Gian đem Chúa đến cho con người. Hãy đến với Mẹ và phó thác đời mình trong sự bảo trợ của Mẹ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu là Con Đấng Tối cao, con mường tượng phút giây Chúa trở thành một mầm sống trong cung lòng Mẹ Maria. Chúa đã đáp ứng lại niềm trông đợi trải dài suốt thời Cựu ước. Mẹ Maria chính là điểm cuối cùng; chuỗi mong đợi tưởng chừng như vô hạn đó nay đã chín và niềm mong đợi đã tròn. Mầm sống yếu ớt đang nảy nở trong lòng. Mẹ chính là chồi non cứu độ sẽ mang lại cho thế giới bộ mặt hoàn toàn mới, tràn trề yêu thương và chứa chan hy vọng. Mẹ Maria là Đấng Diễm Phúc, là tạo vật đáng yêu của Chúa, được Chúa tín cẩn trao cho vai trò tiên phong trong kế hoạch cứu độ nhân loại. Mẹ là tạo vật đẹp lòng Chúa và đại diện cho con người đón nhận Chúa. Lời xin vâng của Mẹ cũng là lời Mẹ thưa lên thay cho cả trần gian. Ngay từ giây phút ấy, Mẹ đã trở nên Evà mới, trở nên Mẹ hiền của đoàn con trần thế.
Lạy Chúa, tất cả những điều kỳ diệu ấy đều do tình yêu thương vô cùng của Chúa. Con tôn vinh Mẹ và trên hết con cảm tạ Chúa. Con cảm tạ Chúa vì Chúa đến cứu độ chúng con và ban Mẹ cho chúng con. Chúa biết chúng con sinh ra từ nguồn mạch tội nguyên, vốn yếu đuối, cuộc đời là những vướng lụy triền miên, nên Chúa đã cho chúng con một sự bảo trợ vững chắc. Xin Chúa dạy con biết xin vâng như Mẹ, và xin cho con luôn bước theo Mẹ, trông cậy vào sự bảo trợ của Mẹ. Amen.
Ghi nhớ: “Này Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một Con trai”.
Mỗi khi tháng Mười về, những người con thảo của Đức Mẹ lại rộn ràng với những điệu vãn lời kinh để cùng tôn vinh Mẹ và cùng Mẹ suy ngắm cuộc đời Chúa Cứu thế. Mỗi lời kinh "Ave Maria" được sánh ví như một đóa hồng dâng kính Đức Mẹ. Lời kinh Mân Côi muốn diễn tả với chúng ta biết bao điều tốt đẹp.
"Vườn Rôsa bao quanh lái (trái) đất,
Cảnh thiên nhiên thật rất diệu huyền" (Ngắm Rôsa)
Vườn Rôsa trong câu thơ trên chính là Giáo Hội. Giáo Hội của Chúa được sánh ví như một vườn hoa rộng lớn mênh mông, mà ở đó được trồng những cây hồng với muôn sắc hoa rực rỡ. Giáo Hội của Chúa thật đẹp biết bao. Vẻ đẹp ấy không thể hiện nơi những tòa nhà cổ kính khang trang kiến trúc cầu kỳ, mà là nơi những cộng đoàn tín hữu, nhất là khi họ hội họp nhau để cử hành phụng vụ: tất cả cùng một đức tin, một tình mến, một tâm hồn để tôn vinh và ca tụng Chúa. Vẻ đẹp của Giáo Hội được tỏa rạng từ nụ cười móm mém của các lão ông lão bà, đến những gương mặt rất thơ ngây của các em nhỏ trong những cuộc rước tôn vinh Chúa, Đức Mẹ hay các thánh. Vẻ đẹp của Giáo Hội còn được thể hiện nơi những người cha người mẹ, nơi các bạn trẻ công giáo, được thấm nhuần tinh thần Phúc âm, đang hăng hái nhiệt tình góp phần làm cho quê hương đất nước thêm tươi đẹp. Những nụ cười, những tâm hồn hy sinh ấy chính là những đóa hồng trong vườn Giáo Hội, làm cho Danh Chúa được rạng rỡ vinh quang.
Lời "Vãn Mân Côi" cũng đưa chúng ta về một thời của lịch sử Giáo Hội: vào thế kỷ 13, Giáo Hội gặp nhiều khủng hoảng, nhất là từ những nguy cơ đến từ một bè lạc giáo có tên là Albigeois ở miền nam nước Pháp. Năm 1213, Đức Mẹ đã hiện đến với Thánh Đaminh và trao cho ngài một cỗ tràng hạt. Mẹ hứa, nếu các tín hữu siêng năng lần hạt thì Giáo Hội sẽ được an bình trở lại. Thánh Đaminh vâng lời Đức Mẹ, nhiệt thành kêu gọi mọi người đọc kinh Mân Côi và đúng như lời Đức Mẹ hứa, bè lạc giáo đã tan rã và Giáo Hội được hưng thịnh. Chính từ biến cố lịch sử này mà Giáo Hội được gọi là "vườn Rôsa" - vườn của những đóa hoa hồng, vì nhờ kinh Mân Côi, Giáo Hội đã tìm lại được vẻ đẹp huy hoàng của mình. Ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi vào ngày 7-10 hằng năm cũng được Đức Piô V thiết lập để ghi nhớ chiến thắng của Hải quân Kitô giáo với quân Thổ Nhĩ Kỳ tại trận Lepanto ngày 7-10-1571. Chiến thắng này có được là nhờ các tín hữu lần hạt Mân Côi trong ngày giao chiến.
Một câu chuyện kể rằng Thánh Đaminh đã có sáng kiến kết 150 bông hoa hồng thành một chuỗi dài, tượng trưng cho 150 thánh vịnh. Ngài đã dùng những cánh hồng thơm ngát, nén chặt như ép khuôn và làm thành từng hạt hình tròn, nối liền với nhau thành một tràng hạt. Từ đó, tràng hạt được gọi là chuỗi Mân Côi, tức chuỗi hoa hồng.
"Đức Bà như Hoa Hường (hồng) màu nhiệm vậy" (Kinh cầu Đức Bà)
Trong vườn Rôsa, tức vườn Giáo Hội, có một đóa hoa vượt trổi về màu sắc và hương thơm. Đóa hoa ấy mang tên là Maria. Đức Maria vừa là Mẹ của Giáo Hội, đồng thời cũng là chi thể của Giáo Hội. Mẹ là mẫu mực cho đời sống đức tin của các tín hữu. Nơi Mẹ, Giáo Hội chiêm ngưỡng hình ảnh của mình trong tương lai. Mẹ diễn tả một hình ảnh không tỳ ố, không vết nhơ của Giáo Hội. Mẹ là hy vọng của Giáo Hội đang vươn tới vinh quang rạng rỡ như Mẹ.
Là Mẹ của Đức Giêsu, Mẹ cũng là Mẹ của Giáo Hội. Bằng sự quan tâm hiền mẫu của mình, Mẹ luôn đỡ nâng chúng ta là môn đệ của Đức Giêsu. Cũng như tại Cana ngày nao, Mẹ đang dặn dò chúng ta: "Người bảo sao, các con hãy cứ làm như vậy" (Ga 2,5). Mẹ dạy chúng ta phó thác nơi Chúa, như Mẹ đã kiên trung tín thác suốt đời, để Thánh ý của Chúa được thực hiện, vì ơn cứu độ của toàn thể nhân loại.
Khi tôn vinh Đức Mẹ là Hoa Hồng, chúng ta ca tụng quyền năng của Chúa đã tác tạo nên Mẹ, như một tạo vật hoàn hảo, xứng đáng là ngai tòa cho Ngôi Lời nhập thể. Khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp cao siêu của Mẹ, chúng ta nguyện ước noi gương Mẹ, trau dồi các nhân đức, mến Chúa yêu người, luôn lắng nghe và thực thi Lời Chúa.
"Mỗi người là một cành hoa, cùng đem về đây góp gió,
Làm thành vườn hoa, muôn màu muôn sắc tươi xinh" (Lời một bài hát)
Mỗi chúng ta, khi sinh vào cuộc đời, cũng giống như một loài hoa để tô điểm cho thế giới này tươi đẹp. Sự khác biệt về tuổi tác, giới tính, trình độ văn hóa hay điều kiện kinh tế không phải là những lý do gây mâu thuẫn, nhưng làm cho cuộc sống thêm phong phú. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu đã nhận mình là một loài hoa được Thiên Chúa chăm sóc yêu thương một cách đặc biệt. Đã là hoa trong vườn, dù thuộc chủng loại nào, những bông hoa đều cống hiến hương sắc cho đời. Con người cũng thế, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, cũng có trách nhiệm góp phần làm cho cuộc sống thêm nhân ái hơn.
Kinh Mân Côi giúp ta gắn bó với Chúa. Hai mươi mầu nhiệm diễn tả cuộc đời của Chúa Cứu thế, đồng thời cũng phác họa đời sống chúng ta. Cuộc đời được dệt nên bằng một chuỗi những vui buồn. Những ai kiên trung cậy trông vào Chúa trong mọi biến có vui buồn ấy, sẽ trở thành môn đệ chân chính của Đức Giêsu. Đức Mẹ đã thực hiện điều ấy và Mẹ đang mời gọi chúng ta tiến bước theo Chúa Giêsu, Con của Mẹ.
Tràng hạt Mân Côi cũng tượng trưng cho tình liên đới giữa con người với nhau. Là những đóa hoa trong vườn hoa cuộc đời, chúng ta liên kết với nhau làm thành một chuỗi hoa hồng. Những đóa-hoa-cuộc-đời được gắn liền với nhau bằng tình mến Chúa yêu người, làm cho cuộc sống này thêm tươi đẹp và thi vị hơn.
Khi ước mong trở thành những đóa hồng dâng kính Đức Mẹ, mỗi người chúng ta cũng cần phải là một đóa hoa để trao tặng cho nhau. Những nghĩa cử thân thiện, những lời động viên khích lệ hoặc sự chia sẻ tinh thần vật chất mà chúng ta thực hiện xuất phát từ tình mến, đó chính là những đóa hoa lòng mà chúng ta trao tặng cho nhau. Những đóa hoa ấy không tàn phai theo thời gian, nhưng mãi mãi thắm sắc ngát hương, làm nên một cuộc sống an bình. Đó là ý nghĩa của Kinh Mân Côi mà chúng ta đọc hằng ngày.
Đức Chân phước Gioan Phaolô II đã nói: "Chuỗi Mân côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lặp lại nhiều lần những lời mà Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Êlisabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy" (Tông thư Kinh Mân Côi).
Lạy Mẹ Mân Côi, xin chúc lành và hướng dẫn chúng con trên mọi nẻo đường trần gian. Amen.
Julbell có một bài hát nổi tiếng khắp thế giới từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, và chắc có lẽ mãi mãi còn đọng lại trong lòng người nghe. Bài hát rất quen thuộc. Đó là bài Ave Maria.
Điều gì đã khiến cho nhạc sĩ có được cảm xúc một cách dạt dào để viết lên một bản nhạc tuyệt vời như vậy?
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc Đức Chúa Trời ở cùng Bà. Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ”. Chính lời kinh tuyệt vời đó đã làm nên cảm xúc không phải chỉ một Julbell mà cho biết bao nhạc sĩ trong lịch sử âm nhạc của thế giới viết nên những bản nhạc tuyệt vời và chính lời kinh đó làm nên ngày lễ Mân Côi hôm nay. Tại sao vậy?
Trong lịch sử Giáo Hội vào khoảng thế kỷ 16. Anh em Hồi giáo làm một cuộc chinh phục thế giới. Bởi vì họ đi từ vùng Trung Đông sang Á châu đến Ấn Độ. Họ đổ bộ lên Âu châu. Đi đến đâu thắng đến đó. Khi đổ bộ đến Âu châu, đi vào một vịnh của nước Ý. Một đoàn quân thiện chiến như thế thì quân Ý làm sao mà đối đầu được. Nếu để thua thì Ý sẽ thất thủ, thủ đô của Hội Thánh Công giáo là Rôma cũng biến mất và cả Âu châu cũng bị đe dọa.
Đức Giáo Hoàng Piô V bấy giờ lên tiếng kêu gọi cầu nguyện, và cầu nguyện bằng kinh Kính Mừng.
Ngày 7/10 năm ấy quân của Công giáo chiến thắng. Chiến thắng không phải nhờ khả năng quân sự mà là nhờ sự phù trợ của Mẹ Maria. Vì thế Đức Giáo Hoàng đã lấy ngày đó làm ngày lễ Đức Bà chiến thắng. Sau này thành lễ Mân Côi.
Nói đến chiến thắng, có lẽ chúng ta nghĩ đến chiến thắng về quân sự, kinh tế, chính trị. Không, Chúa Giêsu không ban cho mình chiến thắng đó. Khi đối diện với Philatô Ngài đã trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này thì binh lính tôi đã đến giải thoát tôi khỏi tay người Do Thái”.
Ta cần nhìn vào chiến thắng ở một góc độ khác. Đó là chiến thắng chính mình. Một danh tước trong lịch sử thế giới đã thường nói: “Không có cuộc chiến đấu nào khó khăn hơn chiến đấu với chính bản thân mình.”
Mỗi chúng ta có thể cảm nghiệm điều đó trong cuộc sống. Đức Cha Pul-ton-Shin, Ngài nói: “Nếu bạn chấp nhận một cuộc chiến đấu trong tâm hồn bạn, thì sự bình an sẽ giải tỏa trong cuộc sống xã hội. Ngược lại, nếu bạn không chấp nhận cuộc chiến đấu đó, mà bạn đi tìm thỏa hiệp với cái xấu và tội lỗi trong tâm hồn bạn, thì chiến tranh sẽ lan tỏa trong cuộc sống xã hội”.
Nói như thế có nghĩa là chuyện chiến thắng chính mình là một cuộc chiến rất khó, nhưng nó lại là căn bản để dẫn đến cuộc sống bình an cho mọi người. Chuỗi Mân Côi, những lời kinh Kính Mừng đan kết lại với nhau thành xâu chuỗi. Chuỗi Mân Côi đó có khả năng giúp cho ta tập chiến thắng chính mình. Tại sao vậy?
Ở phương Đông khi nói về con người, người ta hay nói đến thân, trí, tâm. Triết học phương Tây ngày xưa, khi học tâm lý học nói đến con người, người ta nói đến tình cảm và ý chí. Cũng tựa như nhau. Khi các bạn lần chuỗi Mân Côi thì cả thân, cả trí, cả tâm, có nghĩa là tất cả con người toàn diện chúng ta được chi phối. Chúng ta hãy nhớ lại, khi ta lần chuỗi có nghĩa là trong tay của mình cầm chuỗi đó là cái thân. Việc cầm một xâu chuỗi ảnh hưởng đến trí và tâm mình.
Có một linh mục kể chuyện: Trong một lần ngài đi máy bay, ngồi cạnh nhà sư, thấy trên tay nhà sư cầm xâu chuỗi, miệng lâm râm nam-mô-a-di-đà-phật. Linh mục hỏi nhà sư: Tại sao lần chuỗi vậy? Nhà sư bảo: Chúng tôi lần chuỗi như thế này tâm trí đỡ căng thẳng. Thế thì bên các ngài không có cái gì giống vậy à?
Linh mục trả lời: Có chứ, nhưng mà chúng tôi lần chuỗi không phải để cho tâm trí bớt căng thẳng, mà chúng tôi nhắm cái khác cơ. Nhà sư nói với vị linh mục thế này: Cha ạ, nếu cha muốn tập trung vào một điều gì, thì trong tay của cha phải có một cái gì, nhờ đó cha sẽ dễ tập trung hơn.
Vị linh mục học được một bài học, hóa ra chuỗi Mân côi mình cầm trong tay giúp cho cái trí của mình tập trung. Khi các bạn lần chuỗi là trong tay cầm xâu chuỗi, nó giúp cho trí của mình tập trung vào lời kinh, và còn tập trung vào cuộc đời của Chúa Giêsu mà kinh Mân Côi mô tả từ khi Ngài sinh ra cho đến cuộc sống công khai, đến khi bị chết trên thánh giá chịu táng trong mồ, sống lại, lên trời, ban Thánh Thần xuống cho Giáo Hội.
Tất cả cuộc sống của Chúa Giêsu. Một thứ Tin Mừng thu gọn được tóm lại ở trong chuỗi Mân Côi, đồng thời khi chúng ta lần chuỗi như vậy tâm của mình tịnh lại. Đối với người trẻ hôm nay đang sống trong một thời đại tốc độ, mà người đọc như thế thật mất thì giờ. Tôi đã từng nghĩ như vậy. Nhưng sau này khi tìm hiểu lại lịch sử linh đạo, tôi mới thấy đó là một phương pháp rất hay cho cuộc sống tâm linh. Những lời con người vắn tắt được lặp đi lặp lại như thế nó làm cho tâm của mình tĩnh lại.
Có một người học trò người Việt Nam, sau này sang Mỹ viết thư về kể cho tôi nghe kinh nghiệm về việc sống đạo của anh ta: Cuộc sống quá nhiều khó khăn đến mức độ chịu không được, nên đêm đến về nhà muốn phá toang, la toáng lên: Tại sao lại đổ trên đầu tôi những sự khổ sở thế này. Bất chợt nhìn lên đầu giường thấy một tràng chuỗi treo ở đấy. Nó liền chạy đến cầm lấy ngồi đọc kinh. Chỉ mới có 10 kinh thôi là thấy tâm hồn của mình lắng xuống….
Khi lần chuỗi Mân côi thì toàn diện con người của mình: thân, trí và tâm đều được chi phối. Cùng sự chi phối đó thì chuỗi Mân côi làm cho nơi chúng ta hình thành một con người mới chống lại những gì xấu trong tâm hồn mình.
Con người ta sống ở đời này bao giờ cũng sống trong ba mối tương quan chính: tương quan với Thiên Chúa, tương quan với tha nhân, tương quan với thế giới vật chất. Tội lỗi chúng ta nó cùng nằm trong ba mối tương quan đó. Khi lần chuỗi Mân Côi, Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta sống những tương quan đó tốt đẹp.
Chẳng hạn khi chúng ta lần chuỗi chúng ta đọc: Chúa Giêsu lên trời, xin cho lòng con được hưởng những sự lên trời. Chúng ta sẽ sống mối tương quan với Thiên Chúa; chúng ta sẽ sống một tâm hồn siêu thoát hơn; khi chúng ta đọc: Mẹ Maria đi viếng thăm bà Isave, xin cho được lòng yêu người. Đó là lời cầu xin tương quan với tha nhân, bằng tình yêu thương chứ không phải là hận thù ghen ghét; khi chúng ta đọc Chúa Giêsu chịu đóng đinh, xin cho đóng đinh tính xác thịt mình vào thánh giá Chúa; đó là tương quan với thế giới vật chất, với chính xác thịt của mình.
Chuỗi Mân Côi giúp cho chúng ta chiến thắng cái xấu ở nơi bản thân mình, hoàn thành một con người mới, con người mới đó sẽ tác động trong cuộc sống, làm cho cuộc sống được đẹp hơn.
Đức Cha Pul-ton-Shin là một diễn giả nổi tiếng ở Mỹ. Ngài chỉ giảng trên đài truyền hình chứ không giảng ở nhà thờ. Nhiều bạn trẻ xin Ngài chứng hôn cho lễ cưới của mình. Ngài đồng ý chứng nhận với hai điều kiện, hai bạn đó phải hứa với Ngài mỗi ngày vợ chồng phải đọc chung với nhau 50 kinh Kính Mừng. Lời kinh nối kết vợ chồng giúp cho vợ chồng xây dựng cuộc sống gia đình tốt đẹp hơn.
Hình như bây giờ các bạn trẻ ít lần chuỗi lắm. Hôm nay tôi muốn nói về giá trị của kinh Mân côi. Chúng ta đừng xem thường, lại càng không nên xem đó là chuyện đạo đức rẻ tiền. Chúng ta hãy cầu nguyện để khám phá ra giá trị tuyệt vời của kinh Mân Côi. Nếu chúng ta không đọc được nhiều, tôi xin đề nghị mỗi ngày chỉ đọc 1 kinh Lạy Cha, 3 kinh Kính Mừng, 1 kinh Sáng Danh. Chúng ta hãy nuôi dưỡng trong tâm trí mình ý nghĩ: khi tôi đọc kinh Mân Côi, đó là phương cách để tôi đào luyện bản thân, để tôi chiến thắng chính mình, để tôi sống đời đức tin tốt hơn. Amen.
Kính thưa cộng đoàn, Trên các trang mạng công giáo ngày hôm nay, cách riêng trang mạng của HĐGMVN, người ta thấy xuất hiện một lá thư của Hội đồng gửi đến toàn thể cộng đoàn dân Chúa Việt Nam. Bức thư ấy cho biết nỗ lực làm việc của Đại hội XI mới kết thúc hôm qua, tập trung vào tài liệu làm việc dành cho đại hội dân Chúa sẽ được qui tụ vào cuối tháng 11. Ở cuối bức thư, có xin toàn thể mọi người bằng kinh Mân Côi, hãy cầu nguyện cho Đại hội đem lại những thành quả tích cực.
Tại sao xin cầu nguyện mà lại cầu nguyện bằng kinh Mân Côi? Có lẽ vì lý do thực tế bức thư được viết vào lễ Đức Mẹ Mân Côi, bức thư được viết vào tháng Mân Côi. Nhưng bên trong, HĐGMVN muốn kêu gọi toàn thể dân Chúa vốn là dân vẫn yêu mến Đức Trinh Nữ Maria, vẫn yêu mến tràng hạt Mân Côi, hãy bằng chính tràng hạt Mân Côi ký thác Đại hội dân Chúa tháng 11 này cho Đức Trinh Nữ Maria. Đó là một tình cảm rất đậm đà, mà cũng là nhiều gợi ý cho chúng tôi muốn chia sẻ với cộng đoàn trong thánh lễ sáng nay về kinh Mân Côi trong nhãn giới mầu nhiệm hiệp thông và sứ vụ.
I. Trước hết, thưa cộng đoàn, kinh Mân Côi trong nhãn giới mầu nhiệm ai trong chúng ta cũng biết từ thưở còn tấm bé, vẫn nghe nói đến và sướng lên những mầu nhiệm Mân Côi. Ngày xưa là 15 mầu nhiệm, nhưng hôm nay là 20: Vui, Sáng, Thương, Mừng đầy đủ. Mỗi một sự kiện được xướng lên, mệnh danh là một mầu nhiệm trong tâm tình kinh đọc.
Nhưng cùng với Đức Maria và trong Đức Maria, người ta thấy những mầu nhiệm ấy cũng thoát lên cả một sức sống mầu nhiệm mà Đức Trinh Nữ Maria cá nhân đã được dẫn dắt vào, và mở ra cho cộng đoàn Giáo Hội cả một sức sống rộng dài lịch sử cứu rỗi hôm qua cho đến hôm nay, và còn mãi ngàn sau.
Chỉ xin đan cử mầu nhiệm Truyền Tin trong Tin Mừng hôm nay vừa gợi lên, cũng là ngắm thứ nhất Mùa Vui. Cộng đoàn chúng ta cũng thấy là cả một mầu nhiệm tuyển chọn Thiên Chúa dành cho Đức Maria. Nếu như trong Tin mừng hôm nay có tô đậm lời chào của Thiên sứ Gabrien dành cho Đức Mẹ trong buổi Truyền Tin với một danh xưng tuyệt vời, nằm mơ cũng không thấy, đó là danh xưng Đấng Đầy Ơn Phúc. Một danh xưng họa hiếm trong Thánh Kinh, và cũng là một danh xưng nói lên cả một mầu nhiệm sự sống Thiên Chúa tuyển chọn Đức Trinh Nữ Maria, để thông qua Mẹ tuôn đổ xuống tất cả mọi người. Ông bà anh chị em cứ nghĩ mà xem, trước đó Đức Maria chưa là gì. Thế nhưng, kể từ buổi Truyền Tin, cách riêng với lời chào Đấng Đầy Ơn Phước, Mẹ đã trở nên một nhân vật không thể thiếu được, và cũng là nhân vật mẫu gương, nhân vật điển hình, hay nói theo kiểu ngày hôm nay, Mẹ là người mẫu để khởi đi từ đó mở ra một nhãn giới sự sống mầu nhiệm cho toàn thể Hội Thánh.
Mẹ được tuyển chọn trong mầu nhiệm mà ngày hôm nay chúng ta gọi là mầu nhiệm Vô Nhiễm Nguyên Tội. Mẹ cũng được tuyển chọn trong mầu nhiệm đồng trinh khi thụ thai, và cũng là mầu nhiệm tuyển chọn khi Mẹ cung cấp chất liệu xác thân của mình cho Ngôi Hai Thiên Chúa bước xuống đồng hành làm người trong cuộc sống nhân lọai. Ở đây, Mẹ chính là Mẹ Thiên Chúa. Và mầu nhiệm của tháng 8 vừa qua chúng ta cử hành, mầu nhiệm Mẹ Hồn Xác Lên Trời, tất cả đều quyện lại trong một sự sống, sự sống Thiên Chúa đã ban cho Mẹ trong mầu nhiệm tuyển chọn, để rồi với hình mẫu ấy, tất cả mọi tín hữu đều gắn bó với Mẹ, đi theo bước đường Mẹ đã đi, cũng được tháp nhập vào trong sự sống của Đức Kitô, để đến với sự sống của Thiên Chúa, vốn là sự sống hồng ân Chúa dành cho tất cả mọi người.
Vâng, mầu nhiệm không phải là cái gì đơn thuần mình nghĩ là vượt quá tầm hiểu biết, có tin cũng không đạt được. Mà mầu nhiệm ở đây trước hết xin hiểu là một sự sống mênh mông trong đó mỗi người chúng ta được dìu dắt đến và cứ như vậy, như biển cả, như đại dương, càng ngụp lặn đến thỏa thích, mà vẫn không bao giờ no thỏa cơn khát của tấm lòng. Bằng kinh Mân Côi, Đức Maria đã dẫn chúng ta vào tất cả những mầu nhiệm từ ân tuyển chọn cho đến thông qua Đức Giêsu Kitô trong mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm cứu độ, và còn mở ra cho tương lai của hậu thế của mọi người chúng ta trong Đức Kitô. Đó là mầu nhiệm sự sống Thiên Chúa trao gửi cho con người, ban tặng cho con người, và làm sao mỗi người khi đọc kinh Mân Côi, cũng để cho chính mầu nhiệm sự sống ấy được triển nở lên trong cuộc đời riêng của mình cũng như trong cộng đoàn mà mình là thành phần.
Kết thúc mấy ngày đại hội vừa qua, các Giám mục chúng tôi được mời tra lại sức khỏe, ở đó có việc thử máu, cũng như các Linh mục của các giáo phận nước Việt Nam trong năm vừa qua cũng được mời để làm như thế. Kết quả là Giám mục nào cũng khám phá ra được điều gì đó trong vận hành máu huyết của mình không phù hợp lắm với chính bước đi của mình hôm nay. Có những lắng lo, và bên cạnh đó cũng có những vui mừng khi ai đó khám phá ra mình hôm nay vẫn còn khỏe mạnh cho dẫu đã ở tuổi 65 hoặc 70. Quan sát như thế và cũng chia sẻ với nhau ưu tư một chút về vấn đề ấy, chúng tôi trộm nghĩ mỗi một tín hữu, từ Giám mục cho đến mọi người giáo dân, ắt hẳn ai cũng khám phá trong máu huyết của mình có một sức sống. Sức sống ấy không được ý tự, sức sống có thử máu cũng không tìm ra. Nhưng sức sống ai cũng cảm nghiệm được, cũng nhận thấy, đó là sức sống Kitô nơi chính máu huyết của mình, bất kể đó là những loại máu A, B, C, D,… Nhưng ở đây, là Kitô hữu, chúng ta mang dòng máu Kitô. Dòng máu ấy chỉ được thử nghiệm trong tình yêu thật với Đức Kitô và cách riêng bằng tràng hạt Mân Côi. Vào dịp này, ta sẽ nghiệm được đó là mầu nhiệm dàn trải và mời gọi mỗi người chúng ta đón nhận cũng như sống lấy. Vâng, đó là khía cạnh trước hết trong nhãn giới mầu nhiệm.
II. Khía cạnh thứ hai chia sẻ với cộng đoàn, bằng kinh Mân Côi, người ta cũng nhận ra khía cạnh hiệp thông trong đời sống tín hữu. Nếu như phần đầu của từng mầu nhiệm Mân Côi, theo như thói quen chúng ta vẫn đọc. Ví dụ ngắm thứ nhất Mùa Vui Thiên Thần truyền tin cho Đức Mẹ,…, và phần sau là Ta hãy xin cho được khiêm nhường. Phần sau này chính là tâm tình hiệp thông của tất cả mọi tín hữu, của từng cá nhân, khởi đi từ mầu nhiệm mình gẫm suy, cũng như của từng cộng đoàn gắn bó nhịp sống của mình với mầu nhiệm mà mình đang suy tưởng. Ở đây là một sự nối kết giữa mầu nhiệm sự sống với hành trình sự sống của mỗi người trong tinh thần hiệp thông. Chính nhãn giới hiệp thông này, ta gặp thấy trọn vẹn đời sống của mình được dàn trải ra từ những ngóc ngách của suy tư, cho đến những lối ngõ của hành động. Ở đó, đâu đâu cũng có sự đồng hành của Đức Trinh Nữ Maria. Cộng đoàn cứ thử nghĩ mà xem, trong ngày thăm viếng, Đức Maria đã làm gì. Ngài không đến để chia sẻ, để niềm vui của Mẹ được hiệp thông với Bà Isave, mà cuối cùng là bừng vỡ lên niềm vui của hai thai nhi, hai bà bầu trẻ và trọng tuổi hơn gặp nhau, làm cho hai thai nhi cũng gặp gỡ. Rốt cuộc, phát tỏa trong điệu nhảy niềm vui của Gioan Baotixita, nhảy hôm qua cho đến hôm nay và ngàn đời vẫn cứ tiếp tục nhảy.
Trong lịch sử của âm nhạc, có nhiều điệu nhảy kết thúc bằng chữ A, điệu nhảy Chachacha hay Lămbada… Vì thế, đây cũng có thể gọi là điệu nhảy Gioan Baotixita, để tất cả mọi người trong mầu nhiệm ấy được hiệp thông niềm vui của mình, làm sao cho kinh đọc, cho suy tưởng, và cho đời sống của mình cũng vươn lên trong những điệu nhảy của tấm lòng, điệu nhảy niềm vui, sẻ chia. Và rồi còn nhiều mầu nhiệm khác trong 15 hoặc là 20 ngắm Mân Côi, người ta cũng thấy Đức Trinh Nữ Maria ở đó khuôn mẫu cho tình hiệp thông gắn bó. Gắn bó với đối tượng mà Mẹ tìm đến gặp gỡ, cũng như gắn bó trong nhãn giới của Hội Thánh hôm nay. Đây là một niềm vui không bao giờ chấm dứt.
Ngày hôm nay, cộng đoàn của mỗi người chúng ta cử hành lễ Mân Côi, được nhìn trong nhãn giới hiệp thông. Hiệp thông của từng người với nhau làm thành niềm vui lớn đã đành, nhưng còn là niềm vui hiệp thông cảm tạ Chúa vì những ơn lành Chúa đã ban cho Hội Thánh hiệp thông với Đức Trinh Nữ Maria. Đó là nhãn giới thứ hai, nhãn giới hiệp thông. Và gắn với liền đó là mênh mông bao là những biến cố cũng như tâm tình mà cộng đoàn có thể gắn bó tiếp nối vào đó mà tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria.
III. Nhãn giới thứ ba chính là nhãn giới sứ vụ. Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Không phải vì có Giáo Hội, rồi mới có sứ vụ truyền giáo. Nhưng bởi vì đã có lệnh truyền giáo của Chúa Giêsu trao cho các tông đồ, thế nên phải thành lập một tổ chức để thi hành, đó chính là Giáo Hội. Giáo Hội được khai sinh từ lệnh truyền truyền giáo của Đấng Phục Sinh, và khởi đi từ đó, tất cả những ai biết mình là thành viên của Giáo Hội luôn luôn canh cánh bên lòng, từ ước vọng cho đến thao thức, và thể hiện ra qua những công việc truyền giáo cụ thể mình thực hiện được tại địa bàn dân cư mà mình là thành phần. Nói một cách vắn gọn, sứ vụ ở đây có nghĩa là mình đã hiệp thông với mầu nhiệm sự sống, mình đã đáp ứng bằng nhịp sống cá nhân làm thành niểm vui, thì tới phiên mình, trong tư cách là thành viên của Hội Thánh, mình cũng trao gửi, mình cũng sẻ chia niềm vui ấy cho tất cả những ai mình gặp gỡ. Có thể là những người chưa biết đến đạo giáo, có thể là những người năm nào đó đã biết rồi, đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội, đã là Kitô hữu rồi, nhưng đã bị lớp bùn thời gian và nếp sống của họ phủ lên chính lòng tin. Vì vậy, khi mình trao gửi niềm vui, khi mình chia sẻ lại ơn mình lãnh nhận được, mình mời gọi họ bước vào nẻo đường tạ ơn. Đó cũng chính là lúc mình đang sống tinh thần sứ vụ của Hội Thánh.
Kinh Mân Côi là một kinh mở ra cho mỗi tín hữu nhãn giới sứ vụ ấy. Nếu như trong biến cố thăm viếng, Đức Maria đã bước chân trong sứ vụ vượt qua nẻo đường cả một trăm kilômét, không biết bằng đi bộ hay ngồi trên lưng lừa, nhưng Mẹ đã vượt nẻo đường xa để chia sẻ niềm vui với một người chị em trọng tuổi hơn mình. Hay là trong năm sự sáng, Đức Maria hiện diện tại đám cưới Cana, Mẹ đã đôn đáo, mới đầu chỉ như một thông tin cỏn con dành cho người con thân yêu của mình họ hết rượu rồi, để rồi sau đó ngược xuôi, chạy đi chạy lại đôn đáo, làm sao cho hòa cùng vào một nhịp. Nhất là giải quyết được vấn đề - rượu được tràn đầy và niềm vui của đám cưới được diễn tả ra. Không mất danh dự của đám cưới, mà còn khơi thêm niềm vui, cách riêng khơi thêm niềm tin cho các môn đệ đầu tiên tìm theo Chúa Giêsu. Rõ ràng, trong biến cố ấy, Đức Maria là hình mẫu của con người sứ vụ, để rồi hôm nay, mỗi người chúng ta qua Kinh Mân Côi cũng khám phá lại được tiếng gọi sứ vụ đang thúc đẩy chúng ta đến với tất cả những anh chị em xung quanh mình. Bất luận bằng một lời kinh, bằng một tâm tình chia sẻ, bằng một lời nói ủi an. Rõ hơn nữa, bằng một cử chỉ gì đó giúp đỡ, Vâng, chỉ xin thâu tóm lại trong nhãn giới ấy, nhãn giới mầu nhiệm, nhãn giới hiệp thông, nhãn giới sứ vụ của kinh Mân Côi.
Trong dịp cử hành thánh lễ Mân Côi cùng với cộng đoàn đây. Trong niềm vui cảm tạ khơi lên cùng với HĐGMVN lời chia sẻ dành cho cộng đoàn dân Chúa – hãy yêu mến tràng hạt Mân Côi, hãy cầu nguyện bằng tràng hạt Mân Côi, và hãy thả vào đó tất cả tâm tình của mình. Một mặt để nhận được sức sống mầu nhiệm Thiên Chúa gửi trao, và một mặt khác, chính mình cũng nhận ra sức sống ấy trong từng nhịp sống, trong từng lời kinh của mình. Một khi đã nhận được như vậy, chính mình trở thành tông đồ sẻ chia cho những người xung quanh.
Xin nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria Mân Côi, mà chúng ta đang cử hành trong thánh lễ đây, cho mỗi người tín hữu chúng ta, cách riêng trong tháng này, cũng biết yêu mến tràng hạt Mân Côi. Trước đây đã yêu rồi, đã lần hạt nhiều lần rồi, nhưng ta thử đọc lại bằng một tâm tình, một tâm tình mới mà HĐGM mời gọi ấy, để thấy được rằng cả một sức sống nhiệm mầu, hiệp thông, và sứ vụ đang ùa vào tâm hồn mỗi người chúng ta. Xin kết thúc bằng một vần thơ nhỏ:
Gửi em một chục Mân Côi Để em sớm tối học lời cầu kinh Mẹ trên cao sẽ thương tình Cho em hạnh phúc, gia đình an vui.
Gia đình đây là cộng đoàn. Gia đình đây là gia đình riêng của mỗi người. Gia đình đây cũng là tập thể giáo xứ, là giáo phận, là đất nước, là tất cả mọi người chúng ta.
Xin Đức Trinh Nữ Maria Mân Côi ban muôn ơn lành xuống trên tất cả mọi người. Amen.
Lễ Đức Mẹ Mân Côi gợi nhớ về một trận chiến. Năm 1571, trước sức mạnh đe dọa của Hồi Giáo trên phần đất nước Ý, Đức Giáo Hoàng Piô V đã kêu gọi con cái mình chung sức bảo vệ. Các vua chúa Công Giáo Châu Âu đáp lời. Đạo binh Thánh Giá lên đường ra tiền tuyến. Hậu phương yểm trợ bằng Kinh Mân Côi. Ngày 7 tháng 10, kết thúc binh lửa ở vịnh Lépante, với phần thắng nghiêng về phía Công Giáo. Người ta mở lễ ăn mừng. Mẹ Mân Côi từ đó có thêm danh hiệu là Mẹ Chiến Thắng.
Ngày nay, cuộc chiến mang màu tôn giáo ấy đã lùi xa vào dĩ vãng. Đạo binh Thánh Giá cũng chẳng còn. Nhưng vẫn còn đó danh hiệu Mẹ Chiến Thắng. Vì thế, vấn đề không phải là mặc cảm để mà nhức nhối, hoặc háo thắng với nhiều hời hợt, mà chính là bình tĩnh chiêm ngắm chân dung Đức Maria Chiến Thắng đã được ghi dấu hiền hòa qua Kinh Mân Côi.
1) Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”. Lời thiên sứ truyền tin ngày nào được đưa vào phần đầu của Kinh Kính Mừng như muốn làm nổi bật lên sáng kiến của Thiên Chúa đã thương chuẩn bị Mẹ từ thuở ban sơ cho mầu nhiệm Con Chúa làm người. Điều này thật quan trọng và chính yếu. Nhưng ở phần chìm của Kinh Kính Mừng, như bài Phúc Âm ghi lại, là một thái độ đáp ứng không kém quan trọng của Đức Maria đối với thánh ý Chúa. Phần chìm ấy là tiếng “Xin Vâng”.
“Xin Vâng” là tiếng nói của một tâm hồn rộng mở vốn đã quen tìm trong suy niệm tiếng nói muôn thuở của Thiên Chúa. “Xin Vâng” là tiếng vắn gọn như phản ứng xuất thần, mà thực ra là cả một tiến trình đòi hỏi hy sinh chính bản thân mình để đánh đổi. “Xin Vâng” là tiếng một lần dâng lên sẽ không bao giờ rút lại, một lần đoan hứa sẽ có giá trị suốt đời, một lần cúi đầu đáp tiếng là sẽ cúi đầu chấp nhận tất cả, cho dẫu đó là bất trắc của dịp Giáng Sinh hay là lưỡi gươm của ngày Dâng Con, hoặc là đắng cay nghiệt ngã nhất của chiều Tử Nạn. “Xin Vâng” là tiếng hiền hòa của người khiêm nhường, chỉ dám nhận mình là tôi tớ, nhưng lại là tiếng vinh quang đưa người khiêm nhường ấy bước lên thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa.
Rõ ràng tiếng “Xin Vâng” đã thay đổi phận đời Đức Maria. Và ở đây, xin được gọi đó là một chiến thắng: chiến thắng của thánh ý Chúa trên cuộc đời Đức Maria đã trở nên chiến thắng của Đức Maria trên chính số phận đời thường của mình.
Vì thế, hôm nay, nếu đọc lên kinh “Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, thì hãy vui mừng thêm nữa để nhận ra rằng ơn phúc của Thiên Chúa dẫu đã tiềm ẩn nơi Đức Maria, nhưng chỉ thực sự tỏ hiện qua tiếng “Xin Vâng”, để nhớ mãi hình ảnh Đức Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.
2) Mẹ chiến thắng trên mỗi phận người.
“Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Phần sau của Kinh Kính Mừng là lời cầu nguyện xem ra độc lập với phần trước, mà thực ra chỉ là một tâm tình duy nhất. Nếu phần trước là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên chính phận mình để trở nên “Đức Mẹ Chúa Trời”, thì phần sau là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên mỗi phận người tín hữu, qua mẫu gương trinh trong thánh đức. Do đó, danh hiệu “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời” chính là lời kính mừng trang trọng và cao quý Giáo Hội dành cho Đức Maria. Đó cũng là chiến thắng chung cuộc Đức Maria đã đạt được trong đời mình.
Nhưng chiến thắng vinh quang ấy chẳng những không đẩy Đức Mẹ lên cao để xa cách cuộc đời dương thế, mà ngược lại, còn đem Mẹ đến gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ. Vì thế, không lạ gì khi kính mừng Đức Mẹ trong vinh quang, tín hữu bỗng dưng nghĩ về đời mình, không phải để xót xa phận mình tội lỗi cho bằng cảm nhận mối tương quan “Mẹ Thiên Chúa – Mẹ Giáo Hội” một cách chân tình với lòng trông cậy.
Bên kia lời “cầu cho chúng con là kẻ có tội” là cả một tình mẫu tử thiêng liêng. Là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có dư thánh đức để mà chiến thắng tội lỗi, nhưng là Mẹ Giáo Hội, Mẹ vẫn liên hệ với đời tín hữu như là phần đời của Mẹ. Nếu tín hữu nhận mình là kẻ có tội mà vẫn dám cầu xin “Thánh Maria”, và nếu ngước trông lên Mẹ thánh đức mà vẫn không ngại trình bày cuộc đời tội lụy, thì đó là vì đã tín nhiệm và cậy trông vào tấm lòng người mẹ.
Mẹ đã chiến thắng phận mình, Mẹ cũng sẽ chiến thắng trên mỗi phận người tín hữu bằng cách khơi lên sự thánh thiện cho lui xa dần những phần tội lụy.
3) Mẹ Chiến Thắng – Mẹ Mân Côi
Phác vẽ chân dung Đức Mẹ Chiến Thắng qua Kinh Mân Côi như trên, thiết tưởng cũng một phần nào đó khơi lối đi vào ngày lễ hôm nay, đồng thời muốn xác tín về vị trí Đức Maria trong mầu nhiệm Hội Thánh, và nhắc nhở gián tiếp về vai trò của Kinh Mân Côi trong đời sống mọi kẻ tin.
Mừng lễ Mẹ Mân Côi không còn là mừng về một chiến thắng quân sự nào, mà chính là mừng về một chiến thắng còn lớn lao và cốt thiết hơn ở trong tấm lòng của Đức Maria và ở trong nỗi lòng của mỗi người con của Mẹ. Đó là chiến thắng của ơn thánh trên tội lỗi, để gợi mở những chiến thắng khác của những điều thiện hảo tốt lành trong đời sống mọi người. Mừng lễ Mẹ Mân Côi cũng không chỉ mừng cho Mẹ mà thực ra là mừng cho mọi kẻ tin, bởi lẽ Đức Mẹ trong mầu nhiệm Giáo Hội chính là kẻ đi trước bước lên chiến thắng và vì thế, trong Chúa Kitô, Mẹ trở thành Đấng che chở cầu bầu, phù trợ cho mọi tín hữu biết cậy nhờ Mẹ khi khao khát chiến thắng của ơn cứu độ trên chính phận mình.
Và mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay chính là khẳng định mối liên hệ sâu bền giữa hai danh hiệu “Mẹ Mân Côi – Mẹ Chiến Thắng”, để thấy được rằng muốn có chiến thắng không thể xao lãng lần hạt Mân Côi; và nếu yêu mến lần hạt Mân Côi, sẽ có ngày bước vào chiến thắng. Kinh Mân Côi là một vũ khí, nhưng là vũ khí hòa bình luôn đem lại hiệu quả tích cực. Ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh. Chỉ vì một lẽ, trong Kinh Mân Côi là hiện diện của Đức Mẹ Chiến Thắng.
Có một truyện kể lâu lắm rồi: hai thôn đạo tranh chấp nhau về một mảnh đất giáp ranh mà thôn nào cũng nhận là của mình. Chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng nổ ra. Khối kẻ u đầu sứt trán. Cuối cùng cha xứ phải giải hòa và đem miếng đất giáp ranh ấy vào làm của chung gọi là “đất Đức Bà”, đồng thời cho dựng một tượng đài Đức Mẹ ở đấy. Hết tranh chấp, thôn trên thôn dưới mỗi tối quây quần lần hạt vui vẻ. Người ta gọi đó là đài Đức Mẹ Hòa Bình, nhưng cha xứ lại rất tâm đắc: đó là đài Đức Mẹ Chiến Thắng: thắng chia rẽ, thắng hận thù, thắng tội lỗi.
Lạy Đức Mẹ Chiến Thắng, xin cầu cho chúng con. Amen.
Một trăm năm mươi Thánh vịnh đã được thay thế bằng 150 kinh Kính Mừng: Miệng đọc lòng suy 15 Mầu Nhiệm Mân Côi: Năm Sự Vui, Năm Sự Thương và Năm Sự Mừng. Đến năm 2002 Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã thêm Năm Sự Sáng, thành 20 Mầu Nhiệm. Đó chính là bản tóm tắt cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô và cũng là của Đức Maria, vì hơn ai hết, Đức Mẹ đã cùng với Con bước các chặng đường Vui-Sáng-Thương-Mừng ấy với tinh thần của lời “Xin vâng – Fiat!” mà Mẹ đã tuyên xưng trước khi Ngôi Lời Thiên Chúa đầu thai làm người trong cung lòng Mẹ.
Khi chúng ta đọc sự tích về các cuộc Đức Mẹ hiện ra, dù ở Lộ Đức hay ở Fatima, dù ở Guadalupe hay ở La Vang… chúng ta đều thấy Đức Mẹ nhắn nhủ người tín hữu: hãy canh tân đời sống và siêng năng lần hạt Mân Côi để làm đẹp lòng Thiên Chúa: “Ta là Đức Mẹ Mân Côi, ta đã đến để cảnh báo các tín hữu canh tân đời sống và xin ơn tha thứ tội lỗi của họ. Họ không được xúc phạm đến Thiên Chúa nữa, vì Ngài đã quá phiền muộn vì tội nhân loại. Loài người hãy lần chuỗi Mân Côi. Họ hãy tiếp tục lần chuỗi hàng ngày”. (Thông điệp Đức Mẹ gởi cho chị Lucia 13.10.1917).
Thánh Đa Minh là người cố công rất lớn trong việc quảng bá việc đọc kinh Mân Côi trong Giáo hội, để cầu xin Chúa bảo vệ Giáo hội trước sự tấn công của kẻ thù.
Thánh Piô Năm Dấu Thánh chia sẻ: “Vũ khí của tôi là tràng hạt Mân Côi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì khi tôi xin với Mẹ qua chuỗi Mân Côi. Muốn làm Đức Mẹ vui lòng và muốn được Đức Mẹ thương yêu hãy lần chuỗi Mân Côi”.
Còn cha Stefano Gobbi viết: “Chuỗi Mân Côi mang lại hoà bình cho bạn. Với lời Kinh Mân Côi, bạn sẽ có thể nhận được từ Thiên Chúa hồng ân vĩ đại nhất là canh tân đời sống, thu phục các linh hồn về với Chúa trong sự ăn năn tội, tình yêu và thánh ân”. Và “Chuỗi Mân Côi là lời kinh của tôi. Những lời kinh này dù khiêm nhường và mong manh cũng sẽ nên như xích sắt để khoá lại quyền lực tối tăm của thế giới, kẻ thù của thế giới và của các tín hữu”.
Hãy học cùng Đức Mẹ trên con đường theo Chúa Giêsu Kitô
Chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể cứu độ nhân loại. Chân lý ấy không bao giờ chúng ta được lãng quên! Đức Mẹ, dù là Mẹ Thiên Chúa cũng chỉ là tạo vật. Nhưng Mẹ là tạo vật hoàn hảo nhất của công trình tạo dựng của Thiên Chúa và Mẹ là môn đệ “gương mẫu” nhất của Đức Giêsu. Tuy thế, Mẹ cũng đã phải vất vả, khổ đau trên con đường theo Đức Giêsu. Vì thế mà Mẹ có đủ khả năng, kinh nghiệm hướng dẫn, chỉ bảo chúng ta nếu chúng ta muốn bước theo Mẹ trên con đường theo Chúa! Chúng ta hãy chạy đến với Mẹ để học cùng Mẹ!
Hơn nữa Thiên Chúa đã có ý đặt Đức Mẹ bên cạnh Chúa Giêsu và giữa Chúa Giêsu và chúng ta. Nếu nhờ có Chúa Giêsu mà Thiên Chúa trở nên gần gũi với con người hơn, thì cũng nhờ có Đức Mẹ mà chúng ta mạnh dạn và tin tưởng hơn khi dâng lời khẩn nguyện và tạ ơn lên Thiên Chúa.
Hôm nay chúng ta mừng kính lễ Đức Mẹ Mân Côi. Chúng ta có thể gọi lễ này là Mân Côi, Văn Côi, Môi Khôi, Mai Khôi… tất cả có cùng một ý nghĩa: đó là những bông hồng đẹp, những bông hoa quý dâng kính Đức Mẹ, tuỳ theo thói quen và sở thích của mỗi người. Nhân dịp lễ kính Đức Mẹ Mân Côi, chúng ta cùng tìm hiểu nguồn gốc và ý nghĩa kinh Mân Côi.
Hằng ngày chúng ta vẫn đọc kinh Mân Côi từng cá nhân hay trong gia đình, nhưng trong tháng 10 này, Hội thánh thúc giục chúng ta gia tăng việc đọc kinh Mân Côi, vì là tháng được dành riêng cho việc tôn sùng Đức Mẹ qua việc lần hạt Mân Côi.
Chuỗi Mân Côi là chuỗi gồm 50 hạt. Mỗi hạt là một kinh Kính Mừng và sau 10 hạt lại có thêm một hạt nữa để chỉ kinh Lạy Cha. Những kinh Kính Mừng đó được coi như những bông hồng kết thành vòng hoa dâng kính Đức Mẹ. Một trăm năm mươi kinh Kính Mừng là 150 bông hồng hay 150 thánh vịnh kính Đức Mẹ, vì chuỗi Mân Côi được coi như tập thánh vịnh về Đức Mẹ, cũng giống như 150 thánh vịnh để tôn vinh ca tụng và xin cùng Chúa vậy.
II. NGUỒN GỐC KINH MÂN CÔI
Lễ Đức Mẹ Mân Côi đã được mừng kính từ lâu. Theo truyền thuyết, kinh Mân Côi là do Đức Mẹ chỉ dạy cho loài người qua thánh Đa Minh vào năm 1206, khi bè rối Albigeois ở Toulouse (nước Pháp) nổi lên đe dọa và tiêu diệt Giáo hội nước Pháp. Dù đã cố gắng rất nhiều, thánh Đa Minh vẫn bất lực và bè rối ngày càng lan rộng thêm. Thánh nhân liền cầu cứu với Đức Mẹ. Ngài đã được Đức Mẹ hiện ra và giúp đỡ bằng cách chỉ dạy kinh Mân Côi. Đức Mẹ còn truyền cho mọi tín hữu siêng năng đọc kinh Mân Côi để được bình an. Nhờ kinh Mân Côi mà Giáo hội Pháp thời đó đã vượt qua hiểm hoạ do lạc giáo Albigeois gây nên.
Tuy nhiên, Lễ Mân Côi mà Giáo hội mừng hôm nay nhằm kỷ niệm một biến cố lịch sử. Đó là biến cố Nghĩa binh Thánh giá đã chiến thắng người Hồi giáo năm 1571 tại vịnh Lépante (Thổ Nhĩ Kỳ).
Trong trận chiến này, người Hồi giáo hoàn toàn vượt trội Nghĩa binh Thánh giá về mọi phương diện. Nhưng nhờ lời Đức Giáo hoàng Piô V kêu gọi mọi người lần hạt Mân Côi cầu nguyện mà Đức Mẹ đã cho Nghĩa binh Thánh giá toàn thắng. Để nhớ ơn này, Đức Giáo hoàng Piô V đã lập ra lễ Đức Bà chiến thắng và sau đổi thành lễ Đức Mẹ Mân Côi.
III. Ý NGHĨA KINH MÂN CÔI
1. Kinh Mân Côi dựa trên Tin mừng
Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng thừa biết lần chuỗi Mân Côi là để tỏ lòng kính yêu và cầu xin cùng Đức Mẹ. Nhưng kinh Mân Côi có giá trị cao quý, trổi vượt hơn các kinh khác, bởi vì chuỗi Mân Côi là một cách thức cầu nguyện dựa trên nền tảng Thánh kinh: từ kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng cho đến 20 mầu nhiệm cứu chuộc đều được trích ra trong sách Tin mừng.
Kinh Lạy Cha mở đầu cho mỗi chục kinh Kính Mừng, là lời kinh cao quý nhất, vì là kinh Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cầu nguyện. Khi dạy chúng ta kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta những tâm tình và cách sống làm sao cho đáng gọi Thiên Chúa là Cha (x. Mt 6,9; Lc 11,2).
Rồi mỗi khi lặp đi lặp lại 50 hay 200 kinh Kính Mừng, chúng ta lặp lại lời chào của thiên sứ Gabriel và lời chúc tụng của thánh nữ Élizabeth, Mẹ của thánh Gioan Tẩy giả, để chào Đức Mẹ là “Đấng đầy ơn phúc”, là “người có phúc hơn các người nữ”, là “Mẹ Thiên Chúa (x. Lc 1,26-38). Trước những tước hiệu cao quý ấy của Đức Mẹ, chúng ta tự nhận mình là những con người tội lỗi, và khiêm tốn kêu xin Đức Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta trong cuộc sống hiện tại, và nhất là trong giờ lâm tử.
Kinh Sáng Danh sẽ nối kết những chục kinh Lạy Cha, Kính Mừng này để dâng lên Thiên Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, lời ca khen chúc tụng muôn đời.
Khi đọc kinh Mân Côi, chúng ta suy gẫm về cuộc đời Chúa Giêsu đã được ghi lại trong Tin mừng. Chúng ta suy niệm 5 hay 20 mầu nhiệm cứu độ: Năm sự Vui, năm sự Thương, năm Sự Sáng và năm sự Mừng. Hay nói cách khác, chúng ta suy niệm mầu nhiệm Giáng sinh – Rao giảng – Tử nạn và Phục sinh của Chúa Giêsu; đồng thời kèm theo một lời nguyện chúng ta được biết cải hoá đời sống để sống phù hợp với gương mẫu của Chúa Giêsu và của Mẹ Maria. Thật đúng như lời Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã nói: “Chuỗi Mân Côi là bản tóm lược toàn bộ Tin mừng”.
Tràng chuỗi Mân Côi là cuốn sách Tin mừng, được rút gọn, dễ hiểu, dễ đọc, dễ nhớ và được suy niệm trong tâm tình kết hợp với Đức Trinh nữ Maria là Đấng đã từng sống những mầu nhiệm ấy với Chúa Kitô, như Tin mừng đã nói: “Đức Maria đã ghi nhớ tất cả những biến cố ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,35).
2. Huấn quyền của Giáo hội
Các Đức Giáo hoàng đã đề cao vẻ đẹp và lợi ích của kinh Mân Côi và khuyên nhủ giáo dân hãy siêng năng lần hạt Mân Côi trong gia đình.
Đức Giáo hoàng Piô XII đã ra 12 thông điệp, 8 văn kiện để nói về lợi ích của kinh Mân Côi. Cũng chính Ngài đã ấn định tháng 10 dương lịch hằng năm là tháng Mân Côi và thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: “Nữ Vương rất thánh Mân Côi”. Ngài còn nói: “Ước chi chuỗi Mân Côi luôn ở trong tay mỗi người… Ước chi kinh Mân Côi vang lên trong khắp các gia đình Kitô hữu để xây dựng gia đình trên nền tảng Phúc âm. Ước chi kinh Mân Côi xây dựng gia đình yên vui hiệp nhất, củng cố niềm tin, sự yêu thương và biến nó thành trường giáo dục đời sống Công giáo”.
Đức Giáo hoàng Piô IX nói: “Ta khuyên các con hãy đọc kinh Mân Côi buổi tối trong các gia đình”.
Đức Giáo hoàng Piô X nói: “Nếu chúng ta muốn gia đình bình an hoà thuận thì hãy lần hạt Mân Côi”.
Đức Giáo hoàng Piô XI dạy: “Ta khuyến khích các bậc cha mẹ gia đình hãy in sâu vào tâm trí con cái minh thói quen lần hạt”.
Đức Giáo hoàng Phaolô VI viết trong Tông huấn gia đình: “Các gia đình Kitô hãy tôn sùng Đức Mẹ bằng việc lần hạt Mân Côi. Đó là phương tiện đắc lực để nuôi dưỡng hiệp thông tình yêu thương trong gia đình và phát triển linh đạo hôn nhân gia đình”.
Đức Mẹ đã củng cố cho lời dạy dỗ của các Đức Giáo hoàng trong những lần hiện ra với thánh Đa Minh, với thánh Bernadette ở Lộ Đức (Pháp) và đặc biệt với ba đứa trẻ là Lucia, Giaxinta và Phanxicô ở Fatima (Bồ Đào Nha) với ba mệnh lệnh: “Hoán đời sống – Siêng năng lần hạt Mân Côi – Tôn sùng Trái tim Đức Mẹ”.
IV. HÃY SIÊNG NĂNG LẦN HẠT MÂN CÔI
Các linh mục có kinh Nhật tụng phải đọc mỗi ngày để ca tụng Thiên Chúa. Người giáo dân không có hoàn cảnh thuận tiện để đọc kinh như các linh mục. Để bù đắp vào đấy, họ có một thứ kinh Nhật tụng rất thích hợp mà ta gọi là Kinh Mân Côi. Đây là một loại kinh Nhật tụng thích hợp cho mọi người, mọi hoàn cảnh, mọi nơi và mọi lúc; và có thể gọi là “Cuốn kinh Nhật tụng của Giáo dân”.
Chúng ta có có thể đọc chục 50 kinh Kính Mừng, hoặc một chục kinh vừa suy niệm một mầu nhiệm của Chúa Giêsu. Hoặc chỉ đọc đi đọc lại kinh Kính Mừng cũng được, nhất là khi đi đường hay nằm trên giường không ngủ được. Mỗi khi đọc “Kính mừng Maria đầy ơn phúc” là chúng ta lặp lại lời thiên sứ Gabriel chào Mẹ, để cảm tạ Chúa và nói lên hồng ân cao cả mà Chúa đã ban cho Mẹ.
Truyện: Kinh Mân Côi và nhà bác học Ampère
Frederic Ozanam, vị sáng lập Hội Bác Ái Vinh Sơn, người được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong Chân phước tại Paris ngày 22 tháng 8 năm 1997, nhân Đại hội Giới trẻ thế giới lần XII. Hồi còn là sinh viên, một hôm Ozanam vào nhà thờ Đức Bà ở Paris, để tham quan mỹ thuật kiến trúc của thánh đường. Ozanam thấy một ông già tóc bạc quỳ trong nhà thờ, tay cầm tràng hạt, miệng thì thầm. Ozanam đưa mắt nhìn theo bỗng anh giật mình, vì đó là cụ Ampère, nhà phát minh điện từ trường. Ozanam không ngờ rằng nhà bác học trứ danh đó lại đạo đức như thế. Gương cụ Ampère đã thay đổi đời sống của sinh viên Ozanam và như ông thường nói sau này rằng: “Tràng chuỗi của cụ Ampère đã ảnh hưởng đến đời sống thiêng liêng của tôi hơn tất cả bài giảng và sách vở”.
Đọc kinh Mân Côi không phải là việc đạo đức tầm thường, mà là một chuỗi tình yêu, một phương cách cầu nguyện theo Tin Mừng, nhằm giúp chúng ta cải thiện đời sống.
Ước gì chuỗi Mân Côi là kinh nguyện của mỗi gia đình và mỗi người chúng ta. Ước gì mỗi người chúng ta tìm được sự an ủi, khích lệ và an bình nhờ sự lần chuỗi, nhất là trong những lúc gặp gian nan thử thách, như lời Đức Thánh Cha Piô X nhắn nhủ các gia đình Công giáo: “Khi gia đình anh chị em không được an vui hoà thuận, hãy lần chuỗi Mân Côi để xin Mẹ ban sự an vui hòa thuận yêu thương. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần chuỗi Mân Côi để xin Mẹ tạo bầu khí cảm thông, tha thứ…”
Chuỗi Mân Côi, với hình thức ngày hôm nay, được các Cha Dòng Đa Minh và sau đó Dòng Tên truyền bá từ thế kỷ XV. Lễ Mân Côi không nhằm vào xâu chuỗi cho bằng hướng về Thánh Mẫu Mân Côi, đó là Đức Trinh nữ Maria.
Thánh Lễ được Đức Giáo Hoàng Piô V, xuất thân từ Dòng Đa Minh, lập ra vào năm 1572 để kỷ niệm chiến thắng của Hạm đội Công giáo trên dân Thổ nhĩ Kỳ (Hồi giáo) ở Vịnh Lepanto ngày 7.10.1571.
Sau cuộc chiến thắng quân Thổ nhĩ Kỳ ở Peterwardein xứ Hungaria ngày 5.8.1716, theo yêu cầu của vua Charles VI, Đức Giáo Hoàng đã cho phép mừng lễ này trong toàn Hội Thánh (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
Thánh sử Luca trình bày Đức Maria trong hai bức tranh khác hẳn nhau:
1. Maria tầm thường:
- Một thiếu nữ mang tên Maria, một tên bình dân nhiều người có. Trong Tân Ước có ít ra 4 phụ nữ mang tên này: Mẹ của Đức Giêsu, mẹ của Giacôbê và Giuse, Maria Mađalêna và Maria chị của Matta và Ladarô.
- Sinh sống tại Nadarét, một thị trấn hầu như vô danh nên Cựu Ước không lần nào nhắc tới.
2. Maria cao sang:
- Thiên sứ gọi Maria bằng những tước hiệu cao sang: Đấng đầy ơn sủng, Thiên Chúa ở cùng, đẹp lòng Thiên Chúa.
- Con của Người là Cao cả, Con Đấng tối cao, Con Thiên Chúa, trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, triều đại Ngài sẽ vô cùng vô tận...
3. Do đâu một thiếu nữ tầm thường bỗng trở nên cao sang như thế?
Do sự khiêm tốn của Maria. Người đã thưa “Tôi là nữ tì của Chúa. Xin cứ làm cho tôi như lời thiên sứ nói”. Nghĩa là Maria ngoan ngoãn để cho Thiên Chúa “làm” mọi sự nơi Người, không cản trở, không đòi Thiên Chúa phải làm theo ý riêng Người.
Mà Thiên Chúa là Đấng toàn năng, “Đối với Ngài, không có gì là không thể làm được”.
B.... nẩy mầm.
1. Trong những người biết khiêm tốn để cho ơn Chúa hoạt động thì sẽ xảy ra những điều vĩ đại phi thường.
2. “Thưa bà Maria, xin đừng sợ”: Ta đừng sợ những sứ mạng Chúa giao, miễn là ta chịu để cho quyền năng Chúa hoạt động nơi mình.
3. Trong Thánh Kinh, câu “Đừng sợ” được nói 365 lần. Tức là đủ để nhắc chúng ta mỗi ngày trong suốt một năm.
4. “Nếu bạn cậy vào sức riêng của mình thì chẳng lạ gì bạn sẽ sớm ngã lòng. Kẻ khiêm nhường thực thì không ngã lòng, kẻ ngã lòng không phải là người khiêm nhường thật bởi vì người ấy cậy dựa vào một cái gì đó ngoài Chúa” (J.N.D. “Scripture Truth”)
5. Một hôm Satan đem bày bán những dụng cụ làm việc của hắn. Có rất nhiều món, được dán nhãn hiệu rõ ràng: nào là giận hờn, ganh ghét, dâm dục, nào là kiêu ngạo, nói dối, tham lam v.v. Và món nào cũng có ghi giá. Nhưng có một món được để riêng một bên, không dán nhãn nhưng giá lại cao nhất. Một người hỏi:
- Đó là cái gì mà cao giá dữ vậy?
- Đó là sự ngã lòng.
- Tại sao nó cao giá thế?
- Vì nó hữu hiệu hơn tất cả những dụng cụ khác: khi tôi không thể dùng những dụng cụ kia để đến gần người ta thì tôi dùng nó để xâm nhập tận cõi lòng người ta. Một khi tôi đã đặt nó vào lòng người ta rồi thì tôi có thể xúi người ta làm bất cứ điều gì tôi muốn. Mà đặt nó vào lòng ta rất dễ, bởi vì ít ai biết dụng cụ đó là của tôi”. (Gospel Herald)
6. Về tiếng “xin vâng” của ĐM:
a/ Vì Thiên Chúa là chủ của vũ trụ và của Lịch Sử, nên mọi việc trên đời, không việc gì có thể đi ngoài ý Chúa và kế hoạch của Chúa mà êm xuôi được (“thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong”; gương ngôn sứ Giôna). Cho nên biết “xin vâng” tức là biết lái con thuyền đời mình thuận theo dòng nước.
b/ Thực ra chữ “fiat” còn có thể dịch đúng hơn, là “Xin hãy thành sự nơi tôi”. Hiểu như vậy, phía chủ động là chính Thiên Chúa. Con người chỉ cần ngoan ngoãn để cho Thiên Chúa hoạt động nơi mình. Nói cách khác, con người chỉ việc “buông theo ân sủng”
7. “Vâng, tôi đây là nữ tì của Chúa. Xin Chúa cứ làm choi tôi” (Lc 1,38)
Vào một ngày đẹp trời, các phóng viên thiên thần được diện kiến “người nữ có phúc hơn mọi người nữ” là Đức Maria. Các ngài đã làm một cuộc phỏng vấn chớp nhoáng:
- Chào Bà. Bà đã từng làm người. Vậy, theo Bà, sứ mệnh của nhân loại là gì?
- … Là sống cho Chúa.
- Người nữ “chân yếu tay mềm” phải làm gì để hoàn tất vai trò của mình trong gia đình, xã hội và Giáo Hội?
- … Hãy trung thành với ơn gọi cao cả mà Thiên Chúa trao ban qua nữ tính của họ.
- Nhưng càng nhu mì, càng hiền dịu thì càng bị đối xử bất công. Làm sao tìm được sự bình đẳng mà không đánh mất nữ tính?
- … Mỗi người có một bản sắc riêng. Hãy thể hiện trọn vẹn nét độc đáo ấy.
- Vậy sẽ không có sự bình đẳng tuyệt đối?
- … Chỉ có sự bình đẳng hoàn hảo nhất, đó là sự bình đẳng trước mặt Thiên Chúa…
Và Đức Maria đã minh chứng điều này qua sự cộng tác của Mẹ vào công cuộc cứu chuộc của Đức Giêsu, với bí quyết rất nữ tính: “Xin vâng”.
Thông qua hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ như thầm nhắn nhủ: Hạnh phúc và sự bình đẳng của phận người tuỳ thuộc vào sự đáp trả của chúng ta trước tiếng gọi của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nhận ra và đáp trả lời mời gọi của Ngài trong từng giây của cuộc sống như Mẹ Maria (Hosanna)
Trên chuyến xe lửa từ Paris xuống miền Nam nước Pháp. Hành khách đông nghẹt, ồn ào, kẻ lên người xuống, hàng hóa ngổn ngang. Chàng sinh viên khoa học đang cố gắng len lỏi tìm chỗ ngồi.
Bất giác chàng thấy một cụ già đang ngồi lâm râm lần hạt Mân côi. Chàng liền đến ngồi bên cụ, thực chất là để xem cụ già lẩm cẩm này làm cái gì, thời buổi văn minh bây gìờ mà còn ngồi đọc mấy cái kinh nhảm nhí. Chàng mở to tờ báo khoa học có đăng hình nhà bác học Louis Pasteur, đang nghiên cứu về đề tài bàn luận về vi trùng học. Anh vội chạy lại vỗ vai cụ, và nói: “Bác có cần sách báo gì để đọc, cho cháu điạ chỉ, cháu sẵn sàng gửi đến cho bác. Thời nay văn minh rồi, ai còn tụng niệm như bác nữa”.
Cụ gật đầu, đọc hết kinh Kính mừng, cụ mở ví ra, rút tấm danh thiếp đưa cho chàng sinh viên. Chàng cầm tấm danh thiếp và đọc: “Louis Pasteur, Giám đốc Viện Nghiên cứu vi trùng học quốc tế, Giáo sư chuyên khoa Đại học Hoá học và Sinh vật học”. Chàng sinh viên bật ngửa... Chàng liền so sánh hình chụp trong tờ báo khoa học, và hình ông cụ nhà quê đang ngồi lần chuỗi Mân côi, thì giống y chang. Chàng liền quỳ xuống bên cạnh cụ, xin lỗi, và cúi hôn chuỗi hạt Mân côi mà cụ đang cầm trong tay. Rồi chàng trở về chỗ ngồi, nét mặt đăm chiêu, suy nghĩ, và hối hận…. Còn cụ già Louis vẫn tiếp tục lần chuỗi Mân côi…
Suy niệm
Kinh Mân côi bao gồm kinh Lạy Cha, do chính Đức Kitô dạy các tông đồ cầu nguyện, cho cuộc sống hàng ngày và thánh ý của Thiên Chúa được thể hiện (x. Mt 6,9-13; Lc 11,2-4), Kinh Kính mừng là lời sứ thần Gabriel chào Mẹ: “Trinh nữ đầy ân phúc vì Đức Chúa ở cùng Trinh nữ” (Lc 1,28), và Bà Êlisabéth vang lời ca tụng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1,42). Truyền thuyết cho chúng ta biết rằng. Kinh Mân côi được Mẹ Maria truyền dạy cho thánh Đa Minh (1170 - 1221), khi đó Mẹ của Chúa chúng ta đã trao cho ngài kinh Mân côi như là một sự trợ giúp khi gặp xung khắc với lạc giáo Albi. Đức Piô V vào năm 1569 đã chính thức chuẩn nhận hình thức kinh Mân côi như hiện nay (Sắc Chỉ Consueverunt Romani Pontifices): Kinh Mân côi đã được hoàn chỉnh với việc thêm vào phần sau của kinh Kính mừng: Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời... lời cầu nguyện tha thiết tín thác nơi Mẹ cầu bầu cùng Chúa trong mọi ngày cho đến khi lâm chung. Cũng như sau mỗi mầu nhiệm được kết thúc với một kinh Sáng Danh: Ca tụng Ba Ngôi Thiên Chúa. Sau đó Kinh Mân côi đã trở thành một trong những sự sùng đạo bình dân phổ biến nhất của thế giới Kitô giáo. Kinh Mân côi cùng với Mẹ Maria, chúng ta suy gẫm về các mầu nhiệm của cuộc đời Đấng Cứu Thế. Ban đầu suy niệm qua ba chuỗi:
• Năm sự Vui: Mẹ đón nhận tin mang thai Đấng Cứu Thế, thăm viếng và giúp đỡ chị họ Êlisabéth, đến sinh Con, vui dâng Con nơi đền thánh, lạc Con và vui tìm thấy.
• Năm sự Thương: Cùng Mẹ suy niệm cuộc Thương khó của Con Mẹ: Bắt đầu từ biến cố hấp hối trong vườn Cây Dầu, bị bắt, bị xử tử, đội mão gai, vác thập giá và chết tang thương trên thập tự.
• Năm sự Mừng: Đức Kitô, Con Mẹ Phục sinh lên trời, hồng ân Thánh Linh Hiện Xuống và chính Mẹ được hưởng vinh quang Thiên quốc cả hồn xác và được tôn vinh Nữ vương.
Và đến cuối thế kỷ XX, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II thêm Năm sự Sáng suy gẫm những mầu nhiệm ánh sáng ấy bao gồm đời sống công khai của Đấng Cứu Thế: Phép rửa ở sông Giođan, Chúa Giêsu làm phép lạ nước hóa thành rượu tại Cana, Đức Giêsu rao giảng nước Trời và ơn thống hối, Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor và Chúa Giêsu lập phép Thánh Thể.
Chúng ta qua kinh Mân côi trong mọi ngày, đặc biệt là tháng Mân côi suy gẫm và sống với Mẹ Maria những mầu nhiệm cuộc đời Đấng Cứu Thế, mà Mẹ đã luôn suy gẫm trong lòng mình (x. Lc 2,19.51)
Ý lực sống
“Thật vậy, trước bức phông có những “lời Kính Mừng Maria” linh hồn thấy hiện lên trước mắt những cảnh đời chính của Chúa Giêsu Kitô… giúp chúng ta sống hiệp thông với Chúa Giêsu, có thể nói, nhờ trái tim của Mẹ Người” (ĐTC Gioan Phaolô II: Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật 29/10/1978).
Hôm nay chúng ta mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi, lễ của Mẹ chúng ta.
Chuỗi mân côi với hình thức hôm nay chúng ta đang sử dụng đã được các cha dòng Đaminh và sau đó là dòng Tên truyền bá từ thế kỷ XV trước đây. Mừng lễ Mân côi chúng ta không nhắm vào xâu chuỗi cho bằng hướng về Đức Trinh nữ Maria dưới tước hiệu Thánh Mẫu Mân Côi, một tước hiệu Đức Mẹ rất yêu thích. Khi hiện ra với Bernadette ở Lộ Đức năm 1858 Đức Mẹ đã tự xưng mình là Thánh Mẫu Mân Côi và đã truyền phải xây một đền thờ tại đó để dâng kính Đức Mẹ với tước hiệu này.
Thánh lễ Mân Côi hôm nay đã được Đức Thánh Cha Piô V xuất thân từ dòng Đaminh lập ra vào năm 1572 để kỷ niệm cuộc chiến thắng của những người công giáo đối với đạo quân Hồi giáo đứng đầu là nước Thổ Nhĩ Kỳ tại vịnh Lépante vào ngày 7.10.1571. Và một lần nữa sau cuộc chiến thắng quân Thổ Nhĩ kỳ ở Peterwardein xứ Hungaria, theo yêu cầu của vua Charles VI, ngày 5.8.1716 Đức Thánh Cha đã cho phép lễ này được trong toàn thể Hội Thánh.
Như vậy việc mừng lễ Mân côi đã có từ lâu đời. Và việc mừng lễ chắc chắn không chỉ nhắm vào việc cổ võ dùng xâu chuỗi Mân côi một cách máy móc mà còn nhắm một mục đích xa hơn đó là bắt chước Đức Mẹ sống một cuộc sống với những ý nghĩa cao cả đẹp lòng Chúa hơn. Chính vì mục đích ấy mà trong ngày lễ hôm nay Giáo Hội đã cho chúng ta nghe lại một trong những đoạn Tin Mừng hay nhất có liên quan đến Mẹ Maria, Mẹ của chúng ta.
Có thể nói với bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử Luca đã trình bày cho chúng ta hai bức tranh khác hẳn nhau về Đức Maria:
1. Bức tranh thứ nhất: Một Đức Maria tầm thường.
- Maria chỉ là một thiếu nữ nhà quê. Chắc chắn là cuộc sống chẳng có gì nổi bật. Ngay cái tên Maria cũng chỉ là một tên gọi bình dân mà rất nhiều người có. Trong Tân Ước chúng ta thấy ít nhất đã có 4 người mang tên đó: Maria Mẹ của Đức Giêsu, Maria, Mẹ của Giacôbê và Giuse, Maria Mađalêna và Maria chị của Matta và Ladarô.
- Nagiareth, nơi Maria sinh sống cũng chỉ là một thị trấn nhỏ bé, một thị trấn hầu như vô danh. Cựu Ước không lần nào nhắc tới và trong Tân Ước có lần người ta đã nhắc tới nhưng nhắc tới với một thái độ chẳng mấy thiện cảm: “Ở Nagiareth làm gì mà có những điều hay ở đó”(Ga 1,40).
Đó là bức tranh thứ nhất.
2. Bức tranh thứ hai: Một Đức Maria cao sang.
- Thiên sứ gọi Đức Maria bằng những tước hiệu rất cao sang: Bà đầy ơn sủng, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà là người đẹp lòng Thiên Chúa.
- Con của Bà sẽ sinh ra là Đấng Cao cả: Ngài là Con Đấng tối cao, Con Thiên Chúa, Ngài sẽ trị vì trong nhà Giacob đến muôn đời, triều đại Người vô cùng vô tận...
Toàn là những lời mà một người nhà quê như Đức Mẹ khó mà có thể tưởng tượng được. Thế nhưng đó lại là sự thật.
3. Do đâu mà một thiếu nữ nhà quê tầm thường như thế bỗng trở nên cao trọng như vậy ?
Câu trả lời: Do sự khiêm tốn của Đức Mẹ.
Khi Đức Mẹ thưa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa. Xin cứ làm cho tôi như lời thiên sứ nói”(Lc 1,38) thì Đức Mẹ đã ngoan ngoãn để cho Thiên Chúa “làm” mọi sự nơi ngài rồi. Đức Mẹ hiến dâng cuộc đời của mình cho Thiên Chúa, không cản trở, không đòi Thiên Chúa phải làm bất cứ một điều gì theo ý riêng của mình nữa.
Đối với một Thiên Chúa Toàn năng: “Đối với Người, không có gì là không thể làm được”(Lc 1,37), Đức Mẹ không còn một chút sợ hãi nào nữa. Tin tưởng phó thác tất cả đời mình trong bàn tay của Thiên Chúa: Đó là một quyết định dứt khoát và trọn cả cuộc đời.
Và đó cũng là con đường làm nên sự cao cả của Đức Mẹ.
B- Bây giờ đến lượt mỗi người chúng ta:
1- Cuộc đời của Đức Mẹ đã cho chúng ta thấy: người biết khiêm tốn, để cho Thiên Chúa hoạt động thì sẽ xảy ra những điều vĩ đại phi thường.
2- “Thưa bà Maria, xin đừng sợ”(Lc 1,30). Chúng ta đừng sợ những sứ mạng Chúa trao, miễn là chúng ta để cho quyền năng Thiên Chúa hoạt động nơi chúng ta.
3- “Đừng sợ” Câu đó đã được Kinh Thánh Tân Ước nhắc đi nhắc lại đến 365 lần. 365 lần đủ để nhắc nhớ cho chúng ta từng ngày trong suốt cả một năm.
4- Một tác giả Tây phương đã nói “Nếu bạn cậy trông vào sức riêng của mình thì chẳng lạ gì bạn sẽ sớm ngã lòng. Người khiêm nhường thực sự thì sẽ không ngã lòng. Kẻ ngã lòng không phải là người khiêm nhường thật bởi vì người ấy cậy dựa vào một cái gì đó ngoài Chúa” (J.N.D. “Scripture Truth”) Còn người khiêm nhường thật thì luôn sắt đá với niềm tin và lòng trông cậy.
5- Có một câu chuyện vui nhưng cũng đáng cho chúng ta dừng lại suy nghĩ một chút. Một hôm kia Satan đem bày bán những dụng cụ làm việc của hắn. Có rất nhiều món. Món nào được dán những nhãn hiệu rõ ràng: Nào là giận hờn, ganh ghét, dâm dục. Nào là kiêu ngạo, nói dối, tham lam v.v... Và món nào cũng có ghi giá đàng hoàng. Nhưng có một món được để riêng ra một bên. Món này không dán nhãn mác nhưng lại được đề giá rất cao, cao hơn mọi món khác. Một người thấy vậy liền hỏi:
- Đó là cái gì mà cao giá dữ vậy ? - Đó là sự ngã lòng. - Tại sao lại cao giá như thế ?
- Vì nó hữu hiệu hơn tất cả những dụng cụ khác: Khi tôi không thể dùng những dụng cụ kia để đến gần người ta được thì tôi dùng nó để xâm nhập cõi lòng người ta. Một khi tôi đã đặt nó vào lòng người ta rồi thì tôi có thể xúi người ta làm bất cứ điều gì tôi muốn. Mà đặt nó vào lòng người ta thì rất dễ bởi vì ít ai biết dụng cụ đó là của tôi.” (Gospel Herald)
6- Bây giờ chúng ta nói qua một chút về tiếng “xin vâng” của Đức Maria.
Tiếng “xin vâng” được dịch từ tiếng “fiat” của tiếng Latinh. Tiếng “fiat” còn có thể dịch đúng nghĩa hơn là “Xin hãy thành sự nơi tôi”. Nếu được dịch như thế thì chúng ta sẽ thấy phía chủ động là Thiên Chúa. Còn con người chỉ cần ngoan ngoãn để cho Thiên Chúa hoạt động nơi mình. Thế là đủ. Nói một cách khác, con người chỉ việc “buông theo ơn sủng”
“Vâng! tôi đây là nữ tỳ của Chúa. Xin Chúa cứ làm cho tôi”(Lc 1,38). Đó cách thức buông theo ơn sủng của Đức Mẹ.
Vào một ngày đẹp trời, các phóng viên thiên thần được diện kiến “người nữ có phúc hơn mọi người nữ” là Đức Maria. Các ngài làm một cuộc phỏng vấn chớp nhoáng:
- Chào Bà! Bà đã từng làm người.Vậy theo Bà, sứ mệnh của nhân loại là gì ?
- Là sống cho Chúa.
- Người nữ “chân yếu tay mềm” phải làm gì để có thể hoàn tất vai trò của mình trong gia đình, xã hội và Giáo hội ?
- Hãy trung thành với ơn gọi cao cả mà Thiên Chúa trao ban qua nữ tính của họ”
- Nhưng càng nhu mì, càng hiền dịu càng bị đối xử bất công, làm sao tìm được bình đẳng mà không đánh mất nữ tính ?
- Mỗi người có một bản sắc riêng. Hãy thể hiện trọn vẹn nét độc đáo ấy.
- Như vậy là sẽ không có sự bình đẳng tuyệt đối ?
- Chỉ có sự bình đẳng hoàn hảo nhất. Đó là sự bình đẳng trước mặt Thiên Chúa!
Và Đức Maria đã minh chứng điều này qua sự cộng tác của Mẹ vào công cuộc cứu chuộc của Đức Giêsu với bí quyết rất nữ tính: “Xin vâng”
Thông qua hai tiếng “Xin Vâng” Mẹ như thầm nhắn nhủ: Hạnh phúc và sự bình đẳng của phận người tùy thuộc vào sự đáp trả của mỗi người trước tiếng gọi của Thiên Chúa chứ không phải là những khả năng của phái tính mà mỗi người mang trong mình. Biết nhận ra và đáp trả lời mời gọi của Ngài trong từng giây phút của cuộc sống như Mẹ Maria. Đó là cách tốt nhất để sống ơn gọi làm người và cũng là cách tốt nhất để làm nên sự cao cả cho cuộc sống của mình. Amen.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Mân Côi lễ Mẹ chúng ta. Chúng ta tự hỏi có điều kỳ diệu nào ẩn chứa trong việc đọc kinh Mân Côi chăng? Dạ thưa có.
Kinh Mân Côi, lời kinh đơn sơ
Vâng, Kinh Mân Côi thật đơn sơ vì ta có thể đọc một cách dễ dàng mọi nơi, mọi lúc, chẳng cần đến sách vở hay tài liệu gì phức tạp. Cả những người bình dân ít học cũng có thể đọc một cách thoải mái. Những người già nua, đau yếu cũng đọc Kinh Mân Côi được. Những người mới tìm hiểu đạo cũng có thể tìm gặp được niềm vui nhẹ nhàng khi đọc Kinh Mân Côi. Thậm chí, cả những người ngoại đạo cũng đón nhận được sự bình an, thanh thản cho tâm hồn khi thử đọc kinh này.
Kinh Mân Côi lời kinh được yêu mến.
Vì thế mà chẳng lạ gì các vị thánh lớn đều yêu mến việc lần chuỗi Mân Côi.
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu (1873-1897) quả quyết: “Với Kinh Mân Côi, tín hữu Công giáo xin gì cùng Thiên Chúa, Ngài cũng nhận lời”.
Thánh Vinhsơn Phaolô (1581-1660) gọi Kinh Mân Côi là Kinh Nhật Tụng của tín hữu giáo dân.
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong Tông Thư “Rosarium Virginis Mariae” đã bày tỏ: “Từ thuở niên thiếu, lời kinh này đã có một chỗ đứng quan trọng trong đời sống thiêng liêng của tôi. Nơi lời kinh ấy tôi đã luôn tìm được sự nâng đỡ”
Một nhà tư vấn doanh nghiệp tên Jim Castle 45 tuổi, mệt mỏi trở về sau một tuần họp hành và hội thảo. Trên chuyến bay từ Ohio trở về nhà ở Kansas City, Miami, ông đang ngồi thoải mái trong ghế của mình đột nhiên bỗng thấy tiếng ồn ào của hành khách im bặt. Quay lại nhìn ông kinh ngạc nhận ra hai nữ tu trong bộ áo sari viền xanh đơn sơ đang đi đến chỗ ngồi. Và ông nhận ra ngay một khuôn mặt quen thuộc đã xuất hiện trên bìa tạp chí Time. Khuôn mặt nhăn nheo và đôi mắt tinh anh ấm áp của Mẹ Têrêsa. Hai nữ tu dừng lại nơi hàng ghế của ông và ngồi ngay cạnh ông trong chuyến bay.
Khi mọi người đã ổn định chỗ ngồi thì hai nữ tu rút xâu chuỗi ra lần hạt. Jim để ý thấy là mỗi chục hạt lại có một màu khác nhau. Sau này Mẹ Têrêsa đã giải thích cho Jim hiểu rằng mỗi một chục tượng trưng cho một vùng của thế giới. Mẹ còn nói thêm “Tôi cầu nguyện cho những người nghèo và hấp hối trên mỗi lục địa”.
Trong lúc họ lần chuỗi thì Jim nhận mình tuy là người Công giáo không sốt sắng mấy chỉ giữ đạo theo thói quen không hiểu sao cũng hiệp ý với họ. Khi họ đã đọc kinh xong. Mẹ quay sang phía Jim. Lần đầu tiên trong đời Jim hiểu được thế nào là một người có “hào quang” thánh thiện. Mẹ nhìn ông và ông cảm thấy tràn đầy sự bình an, rồi Mẹ hỏi:
- Này, người bạn trẻ, anh có bao giờ lần chuỗi không?
- Dạ không, quả thật là không!
Mẹ cầm lấy tay anh, nhìn vào mắt anh rồi Mẹ mỉm cười:
- Vậy thì bây giờ anh sẽ làm. Và Mẹ đặt vào tay anh xâu chuỗi của Mẹ.
Một giờ sau, Jim xuống phi trường Kansas City và gặp Ruth vợ ông ra đón. Bà ngạc nhiên khi nhìn thấy xâu chuỗi trên tay chồng mình và thốt lên:
- Cái gì lạ lùng thế này?
Jim đã kể cho vợ nghe chuyện diễn ra trên máy bay. Trên đường lái xe về nhà ông đã thú nhận: “Anh cảm thấy dường như mình đã gặp người em gái thật sự của Chúa”.
Chín tháng sau, hai vợ chồng đến thăm một người bạn nhiều năm qua tên là Connie. Chị đang bị ung thư buồng trứng. Chị thổ lộ:
- Bác sĩ nói trường hợp này khó lắm nhưng tôi sẽ chiến đấu và sẽ không bỏ cuộc.
Jim lấy từ trong túi xâu chuỗi của Mẹ Têrêsa choàng vào tay Connie và kể cho chị nghe câu chuyện của mình rồi nói:
- Chị giữ lấy xâu chuỗi này. Nó sẽ giúp chị.
Dù Connie không phải là người Công giáo nhưng chị cũng rất sẵn sàng nhận xâu chuỗi và nói:
- Cám ơn. Hy vọng tôi sẽ trả lại anh.
Một năm sau, Jim gặp lại Connie. Khuôn mặt chị hồng hào rạng rỡ. Chị ào tới phía anh, chìa xâu chuỗi và nói:
- Tôi giữ nó bên người suốt cả năm qua. Tôi đã được giải phẫu và hoá trị. Tháng trước bác sĩ làm xét nghiệm lần thứ hai và tuyên bố khối u đã hết. Hết hoàn toàn
Chị nhìn Jim và nói:
- Tôi biết đã đến lúc trả lại xâu chuỗi này cho anh.
Cuộc đời của Jim Castle đã thay đổi từ cuộc gặp gỡ kỳ diệu ấy.
Đây không phải là chuyện phù phép, ma thuật mà là một lời nhắn gửi cho những ai cần tìm đến với Mẹ, tỏ bày lòng yêu mến Mẹ bằng những Kinh Mân Côi. Chắc chắn họ sẽ nhận được nhiều điều diệu kỳ hơn nữa.
Hãy cầm lấy lại chuỗi Mân Côi với lòng tin tưởng. Hãy tái khám phá Kinh Mân Côi dưới ánh sáng của Kinh Thánh, trong sự hài hoà với Phụng Vụ và trong bối cảnh của đời sống hằng ngày (Tông thư Rosarium Virginis Mariae, 43).
Mẹ vẫn thường cầu nguyện, và cầu nguyện mọi nơi mọi lúc như Mẹ cùng cầu nguyện với các tông đồ sau biến cố Đức Yêsu lên trời (Cv.1, 12-14).
Mẹ được tổng lãnh thiên thần Gabriel chào là người “được Thiên Chúa thương”, “được đầy ân phúc”, vì Mẹ luôn vâng phục Thiên Chúa, sẵn sàng đón nhận Lời Chúa vào đời mình. Với lời thưa “xin vâng” trong biến cố thiên thần chuyển đạt Ý Thiên Chúa (Lc.1, 38), Đức Mẹ đã đón nhận Lời Thiên Chúa nhập thể trong cung lòng mình.
Kể từ khi đón nhận Thiên Chúa nhập thể trong cung lòng mình, Đức Maria vẫn nghèo như thuở nào, không được sung túc về vật chất. Không chỉ vậy, cuộc đời của Mẹ gian nan hơn, vất vả hơn; chẳng hạn, Mẹ đã bôn ba đi thăm bà Isave, phải chấp nhận sinh Đức Yêsu trong chuồng chiên cừu, bị lạc mất con ở Yêrusalem, khi Đức Yêsu đi rao giảng Mẹ đã phải tự sinh sống, khi Đức Yêsu bị chống đối lúc Ngài rao giảng, khi Mẹ theo Đức Yêsu trên con đường thập giá và đặc biệt dưới chân thập giá.
Mẹ Maria như luôn âm thầm, không làm gì to lớn trước mặt người đời. Mẹ vẫn luôn cưu mang Lời Chúa trong lòng, ngay cả khi đã sinh hạ Thiên Chúa nhập thể cho con người “ai là anh chị em và mẹ Ta? Đó là người nghe và giữ Lời Thiên Chúa”.
Thiên Chúa đã dùng con đường rất “bình thường” để đến với con người, để ở mãi với con người, để yêu mến và phục vụ con người, đó là “nhập thể”. Nhập thể là tự hủy, là chấp nhận trở thành con người, và vĩnh viễn là người. Thiên Chúa đã làm người, để giúp con người trở nên con Thiên Chúa. Đức Maria đã sống “âm thầm khiêm hạ” theo cách thức của Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Xin bạn liệt kê những điều mà một người phụ nữ nổi tiếng nhất đã làm được?
(Mỗi bạn có thể chọn một người nữ nổi tiếng nào đó trên thế giới, và kể những gì người đó đã làm được).
2. Đức Maria đã làm được điều gì mà người khác không làm được?
3. Dựa vào Ga.17, 23, giữa bạn và Đức Maria, Thiên Chúa yêu ai hơn?
4. Bạn cũng có thể là anh chị em và mẹ Đức Yêsu (Lc.8, 19-21), vậy Đức Maria hơn chúng ta ở điểm nào?
Câu chuyện Sứ thần Gáp-ri-en được Thiên Chúa sai đến truyền tin cho Trinh nữ Ma-ri-a giúp chúng ta nhận biết tình thương và sự trung tín của Thiên Chúa trong việc thực hiện lời hứa cứu độ loài người. Thiên Chúa luôn đi bước trước bằng việc ban ơn cứu độ và muốn cho loài người đón nhận ơn ấy. Qua câu chuyện truyền tin hôm nay, thái độ lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và mau mắn “Xin vâng” của Đức Ma-ri-a chính là thái độ mà các tín hữu phải làm khi đọc kinh lần hạt trong tháng Mân Côi này
CHÚ THÍCH:
- C 26-27: + Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng: Cách đây sáu tháng, ông Da-ca-ri-a đã được Sứ thần Gáp-ri-en hiện đến truyền tin khi ông đang thi hành chức vụ tư tế trong Đền thờ. Sứ thần hứa với ông rằng bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một con trai. Sứ mệnh của nó là dọn đường cho Đấng Thiên Sai.. Quả vậy, bà Ê-li-sa-bét đã có thai trong lúc tuổi già. Bà đã ở trong nhà không tiếp xúc với ai suốt 5 tháng trời (x. Lc 1,5-25). Đến tháng thứ sáu thì Sứ thần Gáp-ri-en tiếp tục được sai đến truyền tin cho Trinh nữ Ma-ri-a. + Gáp-ri-en: Là một trong bảy Tổng lãnh thiên thần (x. Tb 12,15), trong đó ba vị được nêu rõ tên trong Cựu ước là: Mi-ka-en, Ra-pha-en, và Gáp-ri-en. Tên của các vị này có ý nghĩa phù hợp với sứ mệnh của mỗi vị như sau: Mi-ka-en nghĩa là “Ai bằng Thiên Chúa?” (Đn 10,13-21;12,1), Ra-pha-en nghĩa là “Thiên Chúa chữa lành” (Tb 3,17) và Gáp-ri-en nghĩa là “Anh hùng của Thiên Chúa” (x. Đn 8,16). + Trinh nữ: hay thiếu nữ, là một cô gái chưa lấy chồng. Riêng về đức trinh khiết của Đức Ma-ri-a đã được gián tiếp đề cập đến qua câu ngài thưa với Sứ thần: “Việc đó xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến người nam” (Lc 1,34). Theo lời tuyên sấm của Ngôn sứ I-sai-a thì: Việc một hài nhi do một bà mẹ đồng trinh thụ thai là dấu chỉ của Đấng Thiên Sai (x. Is 7,14). + đã đính hôn: khi đính hôn, Giu-se và Ma-ri-a đã được luật pháp công nhận là vợ chồng, và con cái sinh ra trong thời kỳ này là con chính thức. Tuy nhiên, theo phong tục Do thái thì việc kết hôn chỉ hoàn tất khi bên họ đàng trai tổ chức lễ cưới để đón rước cô dâu về nhà chồng (x. Mt 1,18). + thuộc nhà Đa-vít: chi tiết này thêm vào nhằm chứng minh Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế thuộc hoàng tộc Đa-vít, để ứng nghiệm lời các Ngôn sứ đã tiên báo như: Người phát xuất từ gốc tổ phụ Giêsê là cha của vua Đa-vít (x.1 Sm 16,3.12); Người sẽ sinh ra tại Bê-lem là quê hương của vua Đa-vít (x. mk 5,1). + Ma-ri-a: hay my-ri-am là tên gọi của nhiều thiếu nữ Do thái đương thời. Để phân biệt khi trùng tên, người ta thường thêm một biệt danh sau tên gọi. Chẳng hạn: Ma-ri-a Mác-đa-la (x. Lc 8,2-3); Ma-ri-a Bê-ta-ni-a (x. Lc 10,39); Ma-ri-a mẹ Gia-cô-bê và Giô-xép (x. Mt 27,56); Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát (x. Ga 19,25); Ma-ri-a mẹ Gio-an (x. Cv 12,12) và Trinh nữ Ma-ri-a thân mẫu Đức Giêsu (x. Ga 19,25).
- C 28-29: + “mừng vui lên”: Đây không phải là kiểu chào thông thường của người Do thái, nhưng là lời chào trong những trường hợp đặc biệt, dành riêng cho những người được gặp Thiên Chúa (x Dcr 9,9). + “đầy ân sủng”: một tước hiệu dành riêng cho Ma-ri-a, một người trong sạch vẹn toàn. Ngài đã được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên đã được Thiên Chúa ban cho đặc ân vô nhiễm nguyên tội và được Chúa luôn ở cùng. + “Bà bối rối và tự hỏi”: khác với thái độ “bối rối sợ hãi” của Dacaria (x. Lc 1,12), Ma-ri-a chỉ ngạc nhiên và băn khoăn về ý nghĩa của Lời Chúa vừa được Sứ thần mặc khải (x. Lc 1,34 và 2,19).
- C 30-33: + Này đây Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu: Sứ thần giải thích cho Ma-ri-a biết về sứ mệnh làm mẹ của Hài nhi Giêsu. Giêsu nghĩa là “Cứu Chúa” (x. Mt 1,21) hay là “Đấng Cứu Thế” (x. Lc 2,11). + “Con Đấng Tối Cao”: Đây là tước hiệu thường được áp dụng cho các vị vua dòng tộc Đa-vít. Sứ thần ám chỉ Đức Giêsu là Vua thuộc nhà Đa-vít. Người sẽ lên ngôi cai trị dân Ít-ra-en, và triều đại của Người sẽ vững bền mãi mãi.
- C 34: + so sánh thắc mắc của Ma-ri-a với thắc mắc của Dacaria (x. Lc 1,18): Tuy cả hai cùng đưa ra câu hỏi, nhưng phát xuất từ hai tâm trạng khác nhau: câu hỏi của Dacaria biểu lộ sự hoài nghi về quyền năng Thiên Chúa, nên ông đã bị phạt câm, không nói được. sự cấm khẩu này là dấu chỉ cho ông thấy việc bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh con là điều chắc chắn sẽ xảy ra (x. Lc 1,20). còn lời thắc mắc của Ma-ri-a thì biểu lộ lòng tin: Ma-ri-a muốn tìm biết rõ thánh ý Chúa thế nào để xin vâng. do đó, Ma-ri-a đã được Sứ thần ca tụng là đấng “đầy ân phúc hằng làm đẹp lòng Thiên Chúa” (x. Lc 1,30) và bà Ê-li-sa-bét cũng khen ngợi Ma-ri-a là người “diễm phúc” vì đã tin Lời Chúa phán sẽ được thực hiện (x. Lc 1,45).+ “Việc ấy xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến người nam!”: “biết” theo nghĩa Thánh Kinh có nghĩa là “sự giao hợp vợ chồng”. Thắc mắc của Ma-ri-a ở đây không chứng minh Ma-ri-a đã khấn hay có ý khấn giữ mình đồng trinh, vì động từ “biết” ở đây thì hiện tại. Qua câu này, Ma-ri-a chỉ thắc mắc là: làm sao thực hiện được việc thụ thai ngay bây giờ được, khi mà Ma-ri-a mới chỉ đính hôn với Giu-se để nên vợ chồng về luật đời, chứ chưa được Giu-se tổ chức lễ cưới đón rước về nhà chồng như phong tục Do thái?
- C 35: + Sứ thần giải thích cho Ma-ri-a hiểu rằng: Vì được Chúa tuyển chọn để làm mẹ Đấng Thiên Sai, nên Ma-ri-a sẽ được thụ thai cách đặc biệt nhờ quyền năng Thánh Thần, đúng như I-sai-a đã tuyên sấm về việc Đấng Cứu Thế sẽ do một trinh nữ thụ thai và sinh hạ (x. Is 7,14). + “quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà”: Kiểu nói “rợp bóng” nhắc lại sự kiện xảy ra vào thời Xuất hành, khi dân Do thái đi trong hoang địa trên đường về Đất Hứa. Bấy giơ Đức Chúa luôn hiện diện ở giữa dân Người, qua hình ảnh của một cột mây rợp bóng che phủ nhà tạm và lều hội ngộ (x. Xh 40,34-38). Rợp bóng cũng ám chỉ sự bang trợ của Đức Chúa. Như chim phượng hoàng giang rộng đôi cánh để bao phủ che chở đàn chim con, thì Thiên Chúa cũng giang rộng tay hùng mạnh để bang trợ Ít-ra-en là con dân của Người (x. Tv 17,8). + “Đấng thánh” sắp sinh ra sẽ là “thánh”: “Thánh” nghĩa là thuộc về Thiên Chúa. Hài nhi sắp sinh sẽ được hiến “thánh”, được dâng cho Thiên Chúa để chu toàn sứ mệnh cứu thế.
- C 36-37: + kìa Bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với Bà, tuy đã già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: Để cho Ma-ri-a thấy quyền năng cao cả của Thiên Chúa, Sứ thần đã báo cho Ma-ri-a biết tin về bà chị họ Ê-li-sa-bét: tuy đã cao niên và hiếm hoi, thế mà cũng đã được Thiên Chúa cho thụ thai con trai, đến nay thai nhi đã được sáu tháng rồi.
- C 38: + “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa”: khi tự nhận là “nữ tỳ của Chúa”, Ma-ri-a đã biểu lộ một nhân đức khiêm nhường và một lòng tin yêu sâu xa đối với Thiên Chúa. + “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Sứ thần nói”: Qua câu này, Ma-ri-a đại diện nhân loại để đón nhận ơn cứu độ do Thiên Chúa ban. Thực vậy, ngay sau lời thưa “xin vâng” này, Thánh Thần đã tác động làm cho Trinh nữ Ma-ri-a thụ thai mà không cần phải tri giao vợ chồng (x. Lc 1,34). Rồi Ngôi Lời “đã xuống thế làm người”, nhập vào bào thai ấy để thành Đấng “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. Mt 1,23). Như vậy, Đức Giêsu chỉ có một Ngôi là “Ngôi Con” hay “Ngôi Lời” Thiên Chúa, nhưng lại có hai bản tính là Thiên Chúa và người phàm.
CÂU HỎI:
1) Gio-an Tẩy Giả hơn Đức Giêsu bao nhiêu tuổi?
2) Thánh kinh kể tên 3 vị Tổng lãnh thiên thần là những vị nào? Tên gọi của mỗi vị có nghĩa thế nào?
3) Câu nói nào của Đức Ma-ri-a cho thấy ngài là thiếu nữ đồng trinh? Tại sao phải nhấn mạnh đến sự kiện đồng trinh trong việc Đức Ma-ri-a thụ thai Hài Nhi Cứu Thế Giêsu?
4) Việc kết hôn giữa thánh Giu-se và Đức Ma-ri-a làm cho hai người nên vợ chồng thật hay chỉ là vợ chồng giả để che mắt người đời?
5) Tin Mừng muốn ám chỉ gì khi viết Giu-se “thuộc nhà Đa-vít”?
6) Hãy kể ra một số tên gọi Ma-ri-a trong Tin Mừng kèm theo tên phụ. Thêm tên phụ sau tên gọi như vậy nhằm mục đích gì?
7) Khi chào kèm tước hiệu “đầy ân sủng” của Sứ thần nhằm ám chỉ đặc ân nào trong 4 đặc ân Thiên Chúa ban cho Đức Ma-ri-a?
8) Tên gọi Giêsu mà Sứ thần ra lệnh cho Ma-ri-a đặt cho con trẻ mang ý nghĩa thế nào?
9) Tước hiệu “Con Đấng Tối Cao” được gán cho Hài nhi Giêsu có ý nghĩa thế nào?
10) Thắc mắc của ông Da-ca-ri-a trong Đền thờ (x Lc 1,18) và thắc mắc của Ma-ri-a trong Tin Mừng hôm nay có giống nhau không? Ông Da-ca-ri-a và Đức Ma-ri-a đã gặp sự cố gì sau lời thắc mắc?
11) Khi nói “quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà”, Sứ thần muốn ám chỉ điều gì?
12) Mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể xảy ra vào lúc nào trong biến cố Truyền tin?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Bấy giờ Bà Ma-ri-a nói: ”Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa... Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả. Danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lc 1,46.49).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Sức mạnh chữa lành của chuỗi kinh Mân Côi:
Cách đây ít lâu, tạp chí Reader’s Digest có kể lại cuộc gặp gỡ kỳ thú giữa Mẹ TÊRÊXA CALCUTTA và một thương gia người Mỹ như sau:
Trên chuyến máy bay từ CHRITIAMY về THANASITY, thương gia trẻ tên là JIM CAISO ngồi kề bên Mẹ TÊRÊSA và một nữ tu khác. Jim Caiso nhận ra ngay khuôn mặt của người nữ tu thường được báo chí nhắc đến. Khi những người khách cuối cùng ngồi vào yên vị trên máy bay thì Jim thấy hai người nữ tu từ từ rút chuỗi ra khỏi áo và lâm râm cầu kinh. Tuy không phải là một người công giáo sùng đạo nhưng Jim cũng cảm thấy bị lôi cuốn bởi sự cầu kinh của hai người nữ tu. Khi máy bay đã lên cao, Mẹ Têrêsa quay nhìn người thanh niên và hỏi:
- Anh có thường lần chuỗi không?
Anh trả lời:
- Thưa không.
Anh vừa trả lời thì Mẹ cầm tay anh, trao cho anh tràng chuỗi rồi mỉm cười nói:
- Vậy thì hãy bắt đầu lần chuỗi đi.
Ra khỏi phi trường Jim vẫn còn cầm trên tay tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta. Anh kể lại cho vợ nghe cuộc gặp gỡ với Mẹ Têrêsa và kết luận như sau: “Tôi có cảm tưởng như mình đã được gặp một người nữ tu đích thực của Chúa”.
Chín tháng sau, Jim và vợ anh đến thăm một người đàn bà đã từng là bạn của hai người từ nhiều năm qua. Người đàn bà này bác sĩ cho biết đã bị ung thư tử cung. Theo các bác sĩ, đây là trường hợp đáng lo ngại. Nghe thế, Jim đưa tay vào túi quần, rút ra tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta và trao cho người bạn và nói:
- Chị cầm lấy cái này, nó sẽ giúp chị.
Mặc dù không phải là người Công giáo, người bạn này vẫn mở rộng bàn tay ra và trân trọng đón nhận món quà quí giá ấy. Một năm sau gặp lại vợ chồng Jim, người đàn bà vui vẻ cho biết bà đã mang trong mình tràng chuỗi trong suốt năm qua và đã được khỏi bệnh. Giờ đây chị trả lại cho Jim để may ra có thể còn giúp đỡ được cho người nào khác. Trong thời gian đó, bà chị vợ của Jim đang bị khủng hoảng tinh thần sau cuộc ly dị, bà cũng muốn được mượn tràng chuỗi của Jim. Sau này bà kể lại rằng:
- Hằng đêm, tôi đeo chuỗi vào người. Tôi rất cô đơn và sợ hãi, nhưng khi mang chuỗi vào người, tôi cảm thấy như đang cầm lấy một bàn tay thân yêu.
Tràng chuỗi mầu nhiệm ấy không mấy chốc đã được trao từ tay người này đến người khác. Mỗi khi gặp khủng hoảng hay bệnh tật, người ta thường gọi điện thoại đến Jim để mượn cho bằng được tràng chuỗi ấy và đều được ơn lành như ý.
Jim suy nghĩ: phải chăng tràng chuỗi có một sức mạnh lạ lùng, hay đúng hơn, tràng chuỗi có sức mạnh giúp tất cả những ai mang tràng chuỗi ấy canh tân tâm hồn và đã nhận được ơn do việc canh tân mang lại. Jim chỉ biết rằng, hễ có ai ngỏ ý mượn tràng chuỗi, anh đều vui vẻ cho mượn, và luôn căn dặn họ: “Khi nào không cần dùng nữa thì vui lòng cho tôi xin lại, vì có thể sẽ có người khác cần đến tràng chuỗi ấy”.
Cuộc sống của Jim cũng thay đổi kể từ cuộc gặp gỡ với Mẹ Têrêsa Calcutta, và Jim hay chia sẻ với bạn bè như sau: “Mẹ Têrêsa đã mang tất cả hành lý của Mẹ chỉ trong một cái xách tay nhỏ, Tôi cũng cảm thấy được thôi thúc để làm cho cuộc sống của mình được đơn giản hơn. Tôi luôn nhớ rằng: điều quan trọng trong cuộc sống không phải là tiền bạc, danh vọng mà chính là tình yêu chúng ta dành cho người khác”.
2) Đức tin của Phun-tơn Ao-dơ-lơ (fulton oursler) nhờ Mẹ Maria:
vào một buổi chiều đông lạnh giá, Phun-tơn, một người đã mất đức tin và bỏ không đến nhà thờ nhiều năm, đang trong tâm trạng tuyệt vọng vì gặp nhiều vấn đề khó khăn nan giải. khi đi qua đại lộ nhà thờ chính toà của thành phố Nữu Ước, tự nhiên ông cảm thấy có một sức mạnh vô hình cuốn hút ông vào trong nhà thờ và đến quỳ trước tượng Đức Mẹ. Sau một hồi im lặng, tự nhiên Phun-tơn cầu nguyện như sau: “Lạy Mẹ Ma-ri-a, có thể chỉ một giây lát nữa thôi là con lại thay đổi ý nghĩ lúc này để tiếp tục bài bác chế diễu việc đạo đức con đang làm và quay trở lại con đường vô tín của con. Nhưng bây giờ con cảm thấy tâm hồn thật bình an, dù con đang gặp rất nhiều khó khăn. Xin Mẹ giúp con thêm đức tin”. Ngay lúc đó Phun-tơn cảm thấy một điều gì đó kỳ diệu vừa xảy ra nơi ông và biến ông trở thành một người mới: Ông đã có đức tin! Từ đó, ông luôn kết hiệp với Mẹ Ma-ri-a để làm chứng cho Chúa bằng một cuộc sống khiêm nhường, cậy trông phó thác và đầy vị tha bác ái.
3. THẢO LUẬN:
1) Hai câu chuyện trên cho thấy chuỗi kinh mân côi có vai trò nào trong việc chữa lành bệnh tật và việc trở lại với Chúa của ông Phun-tơn?
2) Ngày nay, các tín hữu chúng ta sẽ làm gì để thánh hóa bản thân và xây dựng Hội Thánh, nhờ ơn Chúa giúp và sự phù trợ đắc lực của Mẹ Ma-ri-a?
4. SUY NIỆM:
1) Vai trò của Mẹ Maria trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa:
Thiên Chúa đã ban cho loài người chúng ta một Đấng Cứu Độ duy nhất là Chúa Giêsu. Nhưng bên cạnh Đức Giêsu, Thiên Chúa còn ban cho chúng ta một bà mẹ hiền đầy tình thương và tích cực cộng tác với Đức Giêsu trong công cuộc cứu độ loài người là Thánh Mẫu Ma-ri-a.
Thực vậy, Mẹ Ma-ri-a luôn yêu thương và cầu bầu cho những ai đang gặp khốn khó như Mẹ đã dạy các người giúp việc hãy làm theo lời Đức Giêsu tại tiệc cưới thành Ca-na (x Ga 2,1-11). Mẹ đã được chính Chúa Giêsu trăn trối làm Mẹ của Hội Thánh mà tông đồ Gio-an là đại diện, trước khi Chúa tắt thở trên thập giá (x Ga 19,26-27);
Mẹ cũng thi hành nhiệm vụ của một bà mẹ hiền khi hiệp cùng Hội Thánh sơ khai cầu xin Chúa Thánh Thần hiện xuống sau khi Chúa Giêsu lên trời (x Cv 1,14).
2) Sức mạnh của Kinh Mân Côi trong các biến cố lịch sử của Hội Thánh:
Trong lịch sử Hội Thánh, mỗi khi con thuyền Hội Thánh gặp cơn phong ba có nguy cơ bị chìm đắm, chúng ta lại thấy có bàn tay trợ giúp của Mẹ Ma-ri-a.
Vào thế kỷ 12, thánh Đa-minh đã được Đức Mẹ hiện ra ban cho phép lần hạt Mân Côi, như một thứ vũ khí thiêng liêng nên đã chặn đứng được làn sóng lạc giáo An-bi-doa ở Miền Nam nước Pháp đang đe dọa tiêu diệt Hội Thánh.
Rồi dưới triều đại Đức Thánh Cha Piô V, cũng nhờ phép lần hạt Mân Côi mà Hội Thánh một lần nữa lại tránh được làn sóng xâm lược của đạo quân Hồi Hồi tại vịnh Lê-păng vào đầu thế kỷ 16.
Ngày nay, Đức Ma-ri-a trở thành sứ giả được Thiên Chúa sai đến đã hiện ra tại nhiều nơi trên thế giới vào nhiều thời điểm khác nhau, để nhắc nhở Hội Thánh đi đúng đường lối của Chúa Giêsu và giúp các tín hữu cải thiện đời sống, đón nhận ơn cứu độ do Chúa Giêsu đem đến. Ta có thể kể ra một số địa danh Mẹ đã hiện ra như: Lộ Đức (Pháp), Pha-ti-ma (Bồ Đào Nha), La Vang (Việt Nam), Mễ du (Nam Tư)...
3) Việc tông đồ truyền giáo hữu hiệu nhờ dựa vào kinh Mân Côi:
Thực ra, việc biến đổi lòng những kẻ tội lỗi và vô tín để họ quay về nhận biết tôn thờ Thiên Chúa, và việc xóa bỏ các tệ nạn xã hội như ma túy, cờ bạc, đĩ điếm, cướp giật...trong đời sống mỗi người sẽ khó lòng thực hiện thành công nếu chỉ dựa vào khả năng giới hạn của chúng ta. Tuy nhiên điều tưởng chừng không thể thực hiện ấy lại không khó chút nào đối với Thiên Chúa, vì: “Không có gì mà Chúa không làm được” (Lc 1,37).
Vậy để việc tông đồ truyền giáo đạt được kết quả, các tín hữu chúng ta cần noi gương Mẹ Ma-ri-a kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu (x Ga 15,5). Rồi cùng với Mẹ, chúng ta sống đức Tin bằng việc thực thi đức Cậy và đức Mến trong cuộc sống đời thường như Mẹ khi xưa. Kinh Mân Côi chính là phương cách hữu hiệu giúp các tín hữu chúng ta kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu và Đức Mẹ để chiến thắng ba thù là ma quỷ thế gian và tính xác thịt của mỗi người.
4) Canh tân kinh Mân Côi bằng Lời Chúa với lời cầu kèm theo việc lành:
Tuy nhiên, việc đọc kinh Mân Côi chỉ mang lại hiệu quả tích cực nếu chúng ta biết suy niệm 20 biến cố Vui Sáng Thương Mừng trong cuộc đời Chúa Giêsu kèm theo lời cầu nguyên quyết tâm sống theo gương Chúa làm và lời Người dạy, như Mẹ đã làm xưa: “Còn Maria thì ghi nhớ những sự kiện đó và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19). Mỗi ngày chúng ta hãy thực hành các việc tốt cụ thể kèm theo đọc một chục kinh Mân Côi theo một trong 20 mầu nhiệm. Nhờ đó chúng ta sẽ ngày một nên tốt hơn và có thể chu toàn được sứ vụ loan báo Tin Mừng đã được Chúa Phục Sinh trao cho Hội Thánh trước khi lên trời.
TÓM LẠI: Nhờ quyết tâm sống theo Lời Chúa dạy noi theo gương mẫu và lời dạy của Người như Mẹ Ma-ri-a, chắc chắn chúng ta sẽ làm được những việc lạ lùng kỳ diệu vượt quá khả năng giới hạn của mình. Vì bấy giờ chúng ta làm không bằng sức riêng, nhưng bằng sức mạnh của ơn Chúa giúp qua lời cầu bầu đắc lực của Mẹ, như lời thánh Phao-lô dã dạy: ”Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,10). Chúng ta cũng sẽ noi gương Mẹ Maria ca tụng ngợi khen tình thương cứu độ của Thiên Chúa trong bài kinh Ma-nhi-phi-cát: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa…” (Lc 1,46).
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa. Mỗi lần gặp phải những khó khăn hoạn nạn xảy tới, chúng con thường chỉ biết kêu trời trách đất, hoặc tệ hơn lại tìm đến với mê tín dị đoan như coi bói toán, cầu cơ, tin đồng cốt... để tìm sự giúp đỡ an ủi, đang khi lẽ ra chúng con phải cậy vào ơn Chúa trợ giúp và sự phù trợ của Mẹ Ma-ri-a, như Mẹ đã cầu bầu cho đôi tân hôn tại tiệc cưới thành Ca-na xưa. Xin Chúa giúp chúng con biết nghe lời Mẹ dạy là hãy lắng nghe Lời Chúa Giêsu, tìm hiểu ý Chúa muốn và mau mắn xin vâng như các người giúp việc trong tiệc cưới xưa đã làm.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. – Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Trong mối liên hệ mẹ con, không gì quý hơn tâm lòng người mẹ đối với con cái, là yêu thương sẵn sàng làm mọi việc, hy sinh vì con cái. Và ngược lại, không gì quý hơn, người con tỏ lòng biết ơn và hiếu thảo với cha mẹ.
Mỗi người chúng ta đều có người mẹ, và chắc hẳn chúng ta đã cảm nghiệm được lòng mẹ đối với chúng ta như thế nào. Và cũng chắc rằng người mẹ trần gian chỉ giúp đở chúng ta có hạn. Chúng ta có Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, giúp đở chúng ta vượt mức người mẹ trần thế, là giúp chúng ta nhận lãnh ơn Chúa để tiến vào sự sống hạnh phúc viên mãn với Chúa.
Để giúp chúng ta, Mẹ đã dạy chúng ta lần hạt Mân Côi.
Cầu nguyên bằng kinh Mân Côi rất hiệu lực là vì là Kinh xuất phát từ Lời Chúa. Kinh Lạy Cha là lời của Chính Chúa Giêsu dạy bảo cầu nguyện. Kinh Kính Mừng là một phần của lời của sứ thần Thiên Chúa và bà Isave, rồi cộng thêm lời xin cả cộng đồng dân Chúa, của cả Giáo Hội cầu xin.
Đức Mẹ rất ưa thích kinh này. Chính Mẹ đã nhiều lần nhắc nhở con cái lần hạt. Hãy dùng tràng hạt như một phương thế mang nhiều hiệu năng phi thường.
Tương truyền rằng thánh Đaminh đã vất vả chinh phục người ly giáo Albigois ở miền Nam nước Pháp. Thánh nhân đã hy sinh làm việc lành, như hầu như vô hiệu quả và bè ly giáo càng ngày càng bành trướng làm hư hoại bao nhiêu linh hồn. Thánh Đaminh chạy đến nhờ Mẹ, van xin hết lời, thánh nhân được Đức Mẹ ban cho một phương thế hiệu nghiệm là kinh Mân côi. Và nhờ đó bè lạc giáo đã bị tiêu trừ.
Năm 1511, một lần vinh thắng nữa là kinh Mân côi giúp Giáo Hội chiến thắng quân Hồi giáo ở vịnh Lépante, để kỷ niệm chiến thắng này, Giáo Hội đã lập ra lễ Mân Côi vào ngày 7 tháng 10, vào tháng Mân Côi hàng năm.
Trong hai thế kỷ 19-20, Đức Mẹ đến với con cái Mẹ nhiều lần. Ở Lộ Đức, Mẹ hiện ra với Bernadette. Lần nào Mẹ cũng lần hạt với thánh nữ và nhắn nhủ hãy lần hạt như thế để cầu nguyện cho nhân loại và kẻ có tội. Chúng ta thấy các tượng Lộ Đức đều đeo tràng hạt. Năm 1917, vào những lần Mẹ hiện ra ở Fatima, lần nào Mẹ cũng khuyên lần hạt và Mẹ đã đặt tràng hạt là một trong ba điều kiện để cứu rỗi nhân loại, để Chúa khỏi phải đoán phạt một cách công thẳng. Mẹ coi tràng hạt như là một điều kiện để được cứu rỗi. Ở Fatima cậu bé Phanxicô hỏi "Con có được lên trời không?" Mẹ đáp: "Có, miễn là phải lần hạt nhiều".
Ngày 10-12-1925 rồi ngày 15-2-1926, Mẹ muốn các tín hữu xưng tội chịu lễ trong 5 thứ bảy đầu tháng liên tiếp và suy gẫm lần hạt Mân côi trong 15 phút đồng hồ để đền tạ Trái Tim Mẹ, thì Mẹ sẽ ban ơn cần thiết cho phần rỗi lúc lâm chung. Đối với Mẹ, tràng hạt trở nên 1 trong 3 điều kiện để được cứu rỗi, để kẻ có tội ăn năn trở lại, để mưu hạnh phúc cho mọi người.
Năm 1601, chuyện kể rằng, ở Bỉ có hai chàng thanh niên bê bối, tội lỗi. Sau khi đã phạm tội nặng, một anh ở lại nơi phạm tội, một anh trở về nhà mình. Vừa về đến nhà đặt mình xuống, vì quá khuy nên rất buồn ngũ… nhưng anh nhớ lại lời mẹ dạy nên quỳ xuống đọc ba kinh Kính Mừng. Đọc xong anh gục đầu ngũ thiếp đi ngay dưới đất. Lúc ấy có tiếng gõ cửa. Đẩy cửa vào là một chàng thanh niên mặt mũi đen thui ghê tởm xấu xa có lửa bốc cháy: “Anh ơi tôi đã bị luận phạt ngay sau khi anh ra về bằng một tai nạn. Xác tôi còn đang nằm ngoài đường kia. Chính Đức Maria đã gìn giữ anh vì ba kinh kính mừng”. Chàng thanh niên này đẫm lệ ăn năn, quỳ gối trước tòa Mẹ và sau này trở thành một tu sĩ và được phúc tử đạo tại Nhật bản. Còn cái chết của anh tội lỗi kia được một vị chân phước tên là Ham Suo Huere chứng kiến và kể lại.
Đó là một trong những muôn ngàn câu chuyện về hiệu lực của Kinh Mân Côi. Kinh Mân Côi đã từng chứng minh cho sự hiệu lực của mình trong từng gia đình, cho từng dân tộc và cho cả nhân loại qua các thế kỷ.
Vậy chúng ta hãy siêng năng dâng lên cho Mẹ những món quà là lời kinh Mân Côi. Món quà dễ dàng mua sắm vì kinh Mân Côi dễ đọc dễ gẫm suy, dễ thực hiện bất kỳ ở đâu lúc nào. Chúng ta đừng bỏ mất cơ hội mà Thiên Chúa tình yêu luôn mở ra để chúng ta được những ân sủng quý giá cho cuộc đời này cho đời sau.
Sứ điệp Lễ Mẹ Mân Côi có ý nghĩa gì đối với chúng ta, cách riêng với từng trong người Gx. Tấn Tài của chúng ta, trong ngày hồng phúc tạ ơn và tri ân này. Ngày lễ hôm nay, trước hết nhắc nhớ cho chúng ta chính tình yêu thương và ơn ban cách nhưng không mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta, qua Đức Trinh Nữ Maria, Đấng quan thầy; đồng thời qua Giáo hội và qua các ân thân nhân, chúng ta đã được trao ban và đón nhận được di sản đức tin đặc biệt này. Thứ đến, qua việc cầu nguyện và suy niệm cùng Mẹ Mân Côi, chúng ta sẽ hiểu và khám phá ra phần nào kho tàng nhiệm mầu vô giá mà Thiên Chúa dùng để cứu chuộc chúng ta. Trong kho tàng này, Đức Maria được ca ngợi là Đấng đã tin, đã chấp nhận chương trình, kế hoạch cứu chuộc của Thiên Chúa - Đấng diễm phúc được Thiên Chúa ban thưởng - Đấng mà Thiên sứ gọi là “người nữ tràn đầy ơn phúc”.
Bài Tin Mừng hôm nay của Thánh Luca mời gọi chúng ta suy niệm về hành trình sống và chứng tá đức tin của Mẹ Maria - Mẹ yêu dấu của chúng ta. Maria là một thiếu nữ như tất cả các người nữ Do Thái khác, vì họ đều được tiên báo cho biết, một trong số họ có thể sẽ được diễm phúc, là được Thiên Chúa sủng ái, đoái nhìn và chọn gọi. Với Maria khi được chọn gọi, chắc chắn Cô cũng không thể tin rằng, mình được Thiên Chúa sủng ái và chọn gọi trong một cách thức đặc biệt như vậy. Vì trước khi Thiên sứ truyền tin, thì Maria cũng đã được dạm hỏi, đính hôn để trở thành vợ của Giuse rồi. Khi được truyền tin và lựa chọn như vậy, Maria đã có với biết bao dự định và kế hoạch đã được vạch ra cho đời sống hôn nhân và gia đình của mình với Giuse. Thế mà giờ đây, Thiên Chúa lại có một con đường, kế hoạch hoàn toàn khác cho Maria, đó là: “Bà sẽ thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần, bà sẽ sinh hạ một con trai và sẽ đặt tên là Giêsu”. Từ đây, Maria sẽ làm Mẹ của Chúa Giêsu - Mẹ Đấng Cứu Thế - Mẹ Con Thiên Chúa.
Thưa ACE, nếu trong hoàn cảnh của chúng ta đặt vào vị trí của Mẹ Maria, nếu chúng ta là người được chọn gọi trong chương trình cứu độ của Chúa, chúng ta sẽ trả lời với Thiên sứ như thế nào đây? Xét trên bình diện con người, khi Maria trả lời “Xin Vâng”, Maria đã đánh cược cả cuộc đời của mình, thật là rất nguy hiểm, ngay đến cả chính mạng sống của mình, vì Maria đang mang thai ngoài cuộc hôn nhân với Giuse. Dẫu không hiểu thấu được thánh ý Chúa, thế nhưng, Maria đã tin, đã mạnh dạn đáp trả lại một cách chắc chắn: “Xin hãy thực hiện cho tôi điều Thiên sứ truyền, vì tôi chỉ là tôi tớ, người nữ tỳ của Thiên Chúa.” Maria chấp nhận với lòng tin tín thác, vì Mẹ tin vào cách thế cứu độ yêu thương của Chúa. Qua lời Xin Vâng tuyệt đối như vậy, Maria đã đồng hành với Chúa Giêsu con Mẹ trong chương trình cứu độ cho đến giây phút cuối cùng với Con mình dưới chân Thánh giá và giờ đây trên Thiên quốc, Mẹ là Nữ vương Thiên đàng. Vì Mẹ đã sống trọn vẹn cho Chúa và thánh ý Ngài, nên giờ đây bên Chúa Giêsu, Mẹ là Đấng cầu bầu, che chở và chuyển thông ơn Chúa cho chúng ta, những ai sống như Mẹ, những ai đi lại con đường của Mẹ năm xưa, con đường và kế hoạch của Thiên Chúa với lời thưa Xin Vâng, những ai muốn sống kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu. Vậy thì, hôm nay, lời đáp trả của chúng ta thế nào với thánh ý Chúa?
Thưa ACE, cách đây hơn 150 năm, có một con người đã dám từ bỏ và hy sinh tất cả để đáp lại lời mời gọi của Chúa giống như Mẹ Maria. Con người này đã khao khát sống dấn thân phục vụ Chúa qua tha nhân, đem Chúa và Tin mừng tình yêu thương của Chúa đến cho ACE của mình. Mặc dầu phải trải qua biết bao nhiêu gian nan thử thách, ngay cả đối diện với sự bách hại khốc liệt, với bệnh tật và cái chết gần kề. Nhưng chính vì tình yêu và đường lối dấn thân như vậy, con người này đã vượt qua được tất cả. Mọi sự đều là do ơn Chúa qua sự phù trợ của Mẹ Maria. Chính vì lẽ đó, mà Ngôi Thánh đường của Gx. Dinh Thủy-Tấn Tài đã được xây dựng nên để dâng kính Đức Maria rất Thánh Mân Côi. Con người này đang khi dấn thân làm những công trình vĩ đại như vậy, Ngài đã có biết bao nhiêu là dự định, chương trình phía trước cho một cánh đồng truyền giáo đang mở ra với tương lai sáng lạn.
Thế nhưng Thiên Chúa lại có cách thế hoàn toàn khác; phải chăng khi Cố Đề xây dựng Ngôi Thánh Đường này dâng kính Chúa qua Mẹ Maria, điều này vẫn chưa đủ để thỏa lòng Chúa hay thánh ý Chúa chăng? Sao Chúa lại để cho Cố Đề ra đi ở độ tuổi trưởng thành quá đẹp vậy? Trong thánh ý nhiệm mầu của Chúa, trên cung thánh của Ngôi thánh đường này, thân xác mục nát của con người này, lại càng đẹp và có giá trị hơn gấp bội, khi được Chúa dùng chính thân xác mục nát này như của lễ, như tấm bánh được tiến dâng, chúc tụng, bẻ ra và trao ban. Chính thân xác hư nát của một con người, mà đã 120 năm qua, mỗi ngày Chúa lại dùng và cho góp phần vào hy tế cứu độ của Con Chúa. Còn vinh dự và hạnh phúc nào cho bằng khi Chúa dùng theo cách của Chúa để ân thưởng cho Cố Đề trong ngôi thánh đường này, mà Ngài đã hết lòng yêu mến và dày công xây dựng. Thật vậy, với ơn Chúa, với kế hoạch và thánh ý Chúa, Ngài đã làm cho Cố Đề trở nên một người Mục tử Vĩ đại, một ân nhân kiệt xuất của vùng Truyền giáo Ninh Thuận. Còn gì hạnh phúc và vui sướng cho bằng khi được Chúa chọn và hoàn toàn xin vâng theo thánh ý Chúa.
Mừng lễ Mẹ Mân Côi, quan Thầy, Đấng bảo trợ của Giáo xứ, nhân dịp kỷ niệm 120 năm Ngôi thánh đường Dinh Thủy-Tấn Tài được hoàn thành và dâng hiến, cùng với 120 năm thân xác người Cha tiên khởi đáng kính của chúng ta đã được Chúa chọn lựa và cho trở nên hy lễ tình yêu. Trước hồng ân này, chúng ta chỉ biết khiêm tốn dâng lời cảm tạ, tôn vinh chúc tụng Chúa. Cùng với Mẹ Mân Côi, chúng ta hãy tín thác vào tình yêu thương và kế hoạch cũng như thánh ý Chúa cho mỗi người chúng ta. Qua tràng chuỗi mân côi hằng ngày, nguyện ước rằng, chúng ta hãy gắn kết cuộc đời của mỗi người chúng ta với Mẹ Maria và với Chúa Giêsu Con Mẹ. Với thánh ý của Chúa dành riêng cách đặc biệt cho mỗi người chúng ta là con cái của Dinh Thủy-Tấn Tài, nếu chúng ta học và làm theo mẫu gương Xin Vâng, tín thác của Mẹ Maria, học và làm theo gương sáng hy sinh, dấn thân phục vụ của Cố Đề, chắc chắn Chúa sẽ giúp sức, ban ơn và làm cho chúng ta trở nên những người được Chúa chúc phúc. Amen.
Đức Mẹ xuất hiện lần cuối cùng trong Kinh thánh khi Mẹ ở với nhóm 11 tông đồ, với mấy người phụ nữ và anh em bà con Chúa Giêsu họp nhau trên lầu cùng cầu nguyện để chờ đón Chúa Thánh Thần hiện xuống vào dịp lễ Ngũ tuần. Trên lầu này, gần đây Chúa Giêsu đã cử hành Thánh lễ đầu tiên khi dùng bữa Tiệc ly với các tông đồ, và giờ là nơi Chúa Thánh Thần Hiện Xuống: Đức Mẹ đã làm tuần cửu nhật cầu nguyện cùng với các tông đồ: điều này nói lên Đức Mẹ ở với Giáo hội và sự hiện diện của Đức Mẹ đem lại Chúa Thánh Thần và phúc lành cho Giáo hội. Ngày nay khi lần chuỗi Mân Côi, chúng ta cũng được Đức Mẹ hiện diện kề bên và được cầu nguyện cùng với Đức Mẹ như vậy.
Trong chuỗi Mân Côi, kinh được chúng ta đọc nhiều nhất chính là kinh Kính Mừng. Kinh này kết hợp bởi hai lời ngợi khen Đức Mẹ: lời của Thiên thần Gabriel khi truyền tin cho Đức Mẹ và của lời của bà Elisabeth khi Đức Mẹ đi thăm bà:
Lời của Thiên Thần: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Bà” chúng ta thường đọc là: “Kính mừng Maria đầy ơn phước Đức Chúa Trời ở cùng Bà”.
Lời của bà Elisabeth: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc”. Chúng ta thường đọc là: “Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu, Con lòng Bà gồm phúc lạ”.
Thiên Thần chào Đức Mẹ bằng lời kêu mời “Mừng vui lên!”như lời kêu gọi “Hỡi thiếu nữ Sion hãy vui lên vì Đấng Cứu chuộc ngươi đến gần” như thế thời đại của Đấng Messia đang đến với Đức Mẹ. Thiên thần không kêu tên Maria của Đức Mẹ mà thay thế bằng danh hiệu “Đấng đầy ơn sủng”: Đức Mẹ được đầy ân sủng của Thiên Chúa, điều này khiến Giáo hội tuyên bố Đức Mẹ được đặc ân vô nhiễm nguyên tội, rồi Thiên Thần cho biết “Đức Chúa ở cùng Bà”đó là lời trấn an Đức Mẹ và cũng là lời cho biết Đức Mẹ được đẹp lòng Chúa và Chúa sẽ luôn che chở gìn giữ Đức Mẹ.
Bà Elisabeth khen Đức Mẹ là “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ”. Trong cuộc sống đôi khi chúng ta cũng gặp thấy người phụ nữ nào đó được người ta khen là phúc hậu nhưng đây bà Elisabeth được ơn Chúa Thánh Thần soi sáng đã thốt lên: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ”. Đúng vậy ở trần gian này không có ai có phúc bằng Đức Mẹ vì Đức Mẹ đang cưu mang Chúa Giêsu trong lòng và Đức Mẹ trở thành Mẹ Thiên Chúa như Giáo hội tuyên dương. Bà Elisabeth cũng nhìn thấy thai nhi trong lòng cô Maria, em mình cũng được chúc phúc hay nói rõ hơn đó là chính nguồn ơn phúc cho Đức Mẹ và cho chúng ta nữa.
Đức Mẹ Mân Côi có vai trò lớn lao đối với vận mệnh thế giới. Đức Mẹ đã cầu bầu cùng Chúa cho Giáo hội và thế giới thoát được nhiều hiểm nguy khó khăn như Đức Mẹ đã giúp Đạo binh Công giáo chiến thắng ở vịnh Lepante, ngăn chặn được đạo quân Thủy chiến hùng mạnh của Ottoman Hồi giáo đang muốn xâm chiếm Âu châu đặc biệt là thành đô Roma; Đức Mẹ đã kêu gọi lần chuỗi Mân côi để cầu cho Hoà bình thế giới và Đức Mẹ hiện ra ở Fatima đã loan báo chiến tranh thế giới chấm dứt năm 1917… Nay Đức Mẹ cũng kêu gọi mọi người ăn năn hoán cải và cầu nguyện bằng kinh Mân Côi để xin cho thế giới được hòa bình thoát khỏi chiến tranh nguyên tử.
Chúng ta ghi nhớ mọi vài câu nói của các vị thánh đã có những trải nghiệm về kinh Mân Côi như sau: thánh Piô năm dấu thánh nói: “Vũ khí của tôi là tràng chuỗi Mân Côi. Đức Mẹ không từ chối điều gì khi tôi xin với Đức Mẹ qua chuỗi Mân Côi. Muốn được Đức Mẹ vui lòng và muốn được Đức Mẹ yêu thương: Hãy lần chuỗi Mân Côi”. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viết trong Tông thư kinh Mân côi: “Chuỗi Mân Côi là lời cầu nguyện mà tôi ưa thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lặp lại những lời mà Đức Trinh Nữ đã nghe Sứ thần Gabriel và người chị họ Elisabeth nói với Đức Mẹ”.
Linh mục thi sĩ Xuân ly Băng có bài thơ: “Sao em không lần chuỗi”:
Sao em không lần chuỗi. Những lúc trời gió mưa, Khi đêm về tăm tối … Sao em không lần chuỗi, Cảm tạ Mẹ nhân lành, Ơn Mẹ như mưa tuôn… Sao em không lần chuỗi, Khi trái gió trở trời, Em mong manh yếu đuối, Đến cùng Mẹ em ơi!”
Câu chuyện: Thầy Patrich Peyton là một chủng sinh đang học ở Đại chủng viện. Chẳng may thầy bị đau nặng. Các bác sĩ chữa bệnh cho thầy đã bó tay. Thầy chỉ còn chờ chết. Mẹ thầy rất thương thầy nên bà khấn cùng Chúa: Xin Chúa cho con được chết thay cho con của con. Quả nhiên Thầy được khỏi bệnh lạ lùng còn mẹ thầy lại chết đúng như lời bà khấn. Ít năm sau Thầy được chịu chức linh mục. Thầy cảm tạ Đức Mẹ và hứa sẽ dâng hiến đời mình để loan truyền sứ điệp Fatima và đã lập ra Hội lần chuỗi Mân côi mỗi ngày: Hội được nhiều người tham gia lên tới 50 triệu hội viên; Họ đọc kinh Mân côi ở nhà thờ, ở xưởng thợ, ở gia đình và ở những nơi khác nữa.
Chúng ta có lòng kính mến Đức Mẹ và siêng năng lần chuỗi Mân Côi để cầu xin cho Hòa Bình thế giới và xin cho chúng ta cùng nhiều người tội lỗi được ơn hoán cải trở về cùng Chúa. Amen.
Trong ngày lễ kính trọng thể Đức Mẹ Mân Côi, Phụng Vụ Lời Chúa nêu bật Tình Mẫu Tử của Đức Ma-ri-a. Chính ở nơi Tình Mẫu Tử của Đức Ma-ri-a mà Chúa Cha đã trao phó “Con Một làm người” của Ngài cho Mẹ để Mẹ nuôi dưỡng và săn sóc. Và cũng chính nơi Tình Mẫu Tử nầy mà Đức Giê-su đã trao phó cho người mẹ tuyệt vời của Ngài ân cần chăm lo Thân Thể Mầu Nhiệm của Ngài, tức Giáo Hội mà Ngài đã mang nặng đẻ đau trên thập giá (Ga 19: 25-37).
Mỗi lần chúng ta lần tràng chuổi Mân Côi là mỗi lần chúng ta chiêm ngắm Tình Mẫu Tử tuyệt vời nầy ở nơi niềm vui thầm lặng nhưng sâu thẳm của Mẹ khi đón nhận Người Con mà Thiên Chúa trao ban cho Mẹ (Năm Sự Vui), ở nơi sự kết hợp của tình Mẹ với Con trên con đường khổ nạn (Năm Sự Thương), và ở nơi niềm vui vỡ òa của Mẹ khi Mẹ gặp lại Con Mẹ phục sinh để từ nay sự sống đã chiến thắng sự chết, vận mệnh của con người đã sang trang (Năm Sự Mầng).
Cv 1: 12-14
Sau khi chứng kiến Đức Giê-su lên trời, các Tông Đồ theo lời căn dặn của Thầy trở về nhà ở Giê-ru-sa-lem: “Các ngài đã đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện, cùng với các phụ nữ và Đức Ma-ri-a thân mẫu của Đức Giê-su”. Ngay từ những bước khởi đầu của Giáo Hội tiên khởi, Đức Ma-ri-a đã ở bên Giáo Hội với trọn tấm lòng hiền mẫu.
Gl 4: 4-7
Khi viết: “Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà”, thánh Phao-lô nhấn mạnh Con Thiên Chúa đã thực sự đảm nhận trọn vẹn thân phận con người. Lời nầy được đọc trong ánh sáng của Tin Mừng Truyền Tin hôm nay mặc khải rằng Con Thiên Chúa không sinh ra bởi bất kỳ một người đàn bà nào, nhưng là một người đàn bà được tuyển chọn, một Tình Mẫu Tử được viết hoa, kiệt tác của công trình sáng tạo nên người nữ.
Lc 1: 26-38
Tin Mừng là bài tường thuật biến cố Truyền Tin. Nơi Thiên Chúa chuẩn bị để Con của Ngài đến ở giữa dân Ngài là cung lòng thanh sạch và rạng ngời vinh hiển của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Đền Thờ đẹp nhất, được Thiên Chúa sủng ái nhất.
BÀI ĐỌC I (Cv 1: 12-14)
Đoạn trích sách Công Vụ Tông Đồ nầy được định vị trong bối cảnh các Tông Đồ, sau khi chứng kiến việc Đức Giê-su khuất dạng trong đám mây trời, liền trở về Giê-ru-sa-lem. Các ông tề tựu một nơi và chuyên tâm cầu nguyện trong khi chờ đợi Chúa Thánh Thần ngự đến như lời căn dặn của Thầy mình trước khi từ giả các ông: “Phần Thầy, Thầy sẽ gởi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24: 49).
1.Trở về nhà, các ông lên lầu trên:
Căn phòng được định vị ở lầu trên. Lầu trên thường là căn phòng chính trong nhà Do thái, chắc hẳn đây là phòng Tiệc Ly, nơi các ông đã dùng bữa ăn cuối cùng với Đức Giê-su. Như vậy nơi mà Đức Giê-su cử hành thánh lễ đầu tiên với các ông trước khi Ngài bước vào con đường Tử Nạn, cũng là nơi các ông chờ đợi để đón nhận Chúa Thánh Thần, Đấng dẫn đưa các ông vào trong sự thật công trình cứu độ của Thầy mình.
2.Tất cả mười một Tông Đồ đều hiện diện ở đó:
Việc kể tên mười một Tông Đồ nêu lên một nét đặc thù đáng chú ý. Trong các sách Tin Mừng, thánh Phê-rô và thánh An-rê được nêu tên trước tiên. Ở đây lại là thánh Phê-rô và thánh Gioan. Sách Công Vụ giới thiệu hai vị Tông Đồ nầy như hai trụ cột của Giáo Hội tiên khởi, thường xuyên hoạt động cùng nhau.
3.Chuyên tâm cầu nguyện:
“Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, siêng năng cầu nguyện”. Thánh Lu-ca thường nhấn mạnh các tín hữu tiên khởi đồng tâm nhất trí và siêng năng cầu nguyện. Các Tông Đồ làm Tuần Cửu Nhật giữa biến cố Thăng Thiên và biến cố Hiện Xuống.
4.Mấy người phụ nữ cùng với Đức Ma-ri-a, Thân Mẫu của Đức Giê-su:
Trong số những người phụ nữ tề tựu với các Tông Đồ, chỉ một mình Đức Mẹ được nêu tên, trong mối liên hệ với Đức Giê-su: “Đức Ma-ri-a, Thân Mẫu của Đức Giê-su”. Đây là lần cuối cùng trong Tân Ước Đức Trinh Nữ được kể ra. Sau biến cố nầy, Mẹ sẽ không còn xuất hiện nữa, người ta không còn nói gì về Mẹ. Sự hiện diện của Mẹ ở đây, giữa các Tông Đồ, là một dấu chỉ mang một tầm mức vĩ đại. Mẹ đã ban cho nhân loại thân thể hữu hình của Đức Ki-tô dưới quyền năng của Chúa Thánh Thần vào lúc Truyền Tin; Mẹ cũng có mặt ở đây vào lúc sinh hạ thân thể mầu nhiệm của Đức Giê-su, tức Giáo Hội, cũng dưới tác động của Chúa Thánh Thần vào ngày lễ Hiện Xuống.
Chúng ta có thể phỏng đoán rằng những người phụ nữ ở bên cạnh Đức Ma-ri-a cũng chính là những người phụ nữ đã ở bên cạnh Đức Mẹ gần bên Thập Giá. Sự hiện diện của những người phụ nữ nầy gợi nhớ hoạt cảnh trên thập giá ở đó Đức Giê-su đã trao gởi Giáo Hội của Ngài cho Mẹ Ngài làm Mẹ Giáo Hội của Ngài khi nói với Mẹ: “Thưa Bà, đây là con của Bà”, và khi nói với người môn đệ Chúa yêu: “Đây là mẹ của con” (Ga 19: 26-27).
5.Anh em của Đức Giê-su:
Cùng có mặt với các Tông Đồ là “anh em” của Đức Giê-su, nghĩa là những anh em họ của Ngài. Ngôn ngữ Do thái cũng như ngôn ngữ Hy-lạp đều không có đặc ngữ để chỉ mức độ bà con thân thuộc nầy. Cựu Ước sử dụng cùng một từ “anh em” để chỉ mối liên hệ bà con họ hàng rộng lớn hơn: chú cháu (St 13: 8; 14: 14; 14: 16) hay bà con gần (G 19: 13-17) hoặc thậm chí bà con họ hàng xa (x. Lv 10: 1). Trong Tin Mừng của mình, thánh Mác-cô kể ra bốn người anh em họ của Đức Giê-su: ông Gia-cô-bê, ông Giô-xết, ông Giu-đa và ông Si-môn (Mc 6: 3).
Sự hiện diện của những bà con thân thuộc của Đức Giê-su ở phòng Tiệc Ly vào lúc nầy chứng thực thái độ của họ đã thay đổi đối với Đức Giê-su. Trước đây, thánh Gioan nói “Anh em Người không tin vào Người” (Ga 7: 5); thậm chí họ không hiểu chút gì về sứ mạng của Ngài và cố tìm cách ngăn cản Ngài thi hành sứ mạng của mình nữa (x. Mt 12: 46; Mc 3: 31-35; Lc 8: 19-21).
Họ đã thay đổi thái độ lúc nào? Các bản văn Tân Ước không cho chúng ta bất kỳ một thông tin nào. Chắc chắn họ sắp lãnh nhận Chúa Thánh Thần như các Tông Đồ và họ sẽ cho thấy niềm tin tích cực của họ. Trong số bà con của Đức Giê-su, thánh Gia-cô-bê hậu sẽ là vị lãnh tụ của Giáo Hội Giê-ru-sa-lem và được phúc tử đạo vào năm 62. Như vậy, những người bà con nghi kỵ xưa kia đều đã là những chứng nhân bằng máu.
BÀI ĐỌC II (Gl 4: 4-7)
Các Ki-tô hữu Ga-lát bị những người Ki-tô hữu gốc Do thái làm lung lạc. Những người Ki-tô hữu gốc Do thái nầy muốn đưa vào trong Ki-tô giáo những nghi thức Do thái được cho là luôn luôn có giá trị, như phép cắt bì. Vì thế, thánh Phao-lô chứng minh cho thấy Luật Cũ là sự nô lệ, Luật mới là sự tự do. Thánh nhân sánh ví Luật Mô-sê với thời kỳ người thừa kế “phải ở dưới quyền những người giám hộ và quản lý, cho đến khi mãn hạn người cha đã định” (Gl 4: 2). Tuy nhiên, vai trò của Luật là tạm thời. Với Đức Giê-su, kế hoạch của Thiên Chúa đã đến hồi viên mãn, chúng ta không còn phải sống dưới chế độ của Lề Luật nữa, nhưng trong sự tự do của những người làm con cái Thiên Chúa, mà đã là con thì cũng đã là người thừa kế.
1.Con Thiên Chúa làm con của loài người (4: 4-5):
Thánh Phao-lô so sánh sự bảo hộ của lề luật (Gl 4: 2) với thời điểm khi Thiên Chúa can thiệp vào trong lịch sử để thực hiện công trình cứu độ qua Con của Ngài là Đức Giê-su: “Khi thời gian đến hồi viên mãn”. Sự tự do của con người đã đạt được nhờ Đức Ki-tô.
Trong kiểu nói: “Thiên Chúa đã sai Con mình tới”, động từ “sai” phát triển trong Giáo Hội tiên khởi một nét nghĩa tôn giáo đặc thù: sai ai vào việc phục vụ Nước Trời là ban cho người đó đầy đủ uy quyền ở nơi Thiên Chúa.
Ở đây cuộc sống tiền hữu của Chúa Con không được nói đến một cách minh nhiên, nhưng mặc nhiên. Trong kiểu nói: “Sinh làm con một người đàn bà”, động từ “sinh” được dùng ở thể quá khứ để chỉ một “tình trạng hay một hành động đã xảy ra trong quá khứ và hoàn tất trong quá khứ”, nhằm nhấn mạnh rằng Đức Giê-su đã đảm nhận trọn vẹn thân phận làm người cho sứ mạng của Ngài. Cách nói nầy bắt nguồn từ Cựu Ước (G 14: 1; 15: 14; 25: 4). Được sinh ra như vậy, Đức Giê-su chịu phục tòng lề luật “để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử”.
2.Để con người trở thành con Thiên Chúa (4: 6-7):
Câu nói: “Để chứng thực anh em là con cái”, bắt đầu với giới từ Hy ngữ: “hoti” có thể được hiểu theo hai cách: “vì” (kết quả) hay “nên” (nguyên nhân). Nếu chúng ta hiểu “vì anh em là con cái”, điều này sẽ là nền tảng cho việc Thiên Chúa sai Thánh Thần đến với người Ki-tô hữu một cách nhưng không. Tuy nhiên, Rm 8: 14-17 xem ra gợi ý rằng ân ban Thánh Thần cấu thành chức năng làm con cái Thiên Chúa của người Ki-tô hữu; vì thế nhiều nhà chú giải thích hiểu giới từ nầy theo nghĩa “nên anh em là con cái” hơn.
Thánh Thần cũng là đối tượng sứ mạng từ Chúa Cha; ở nơi khác, Thánh Thần chính là ân ban của Chúa Con Phục Sinh. Thánh Thần của Chúa Con Phục Sinh là một nguyên lý năng động của chức năng làm con Thiên Chúa. Nhờ Ngài, người Ki-tô hữu mới có thể gọi Thiên Chúa “Áp-ba, Cha ơi!” với trọn niềm xác tín. Không có Thánh Thần người Ki-tô hữu sẽ không thể thốt lên tiếng kêu đầy trìu mến thân thương nầy. Vì thế, thánh Phao-lô kết luận: “Anh em không còn là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa”.
TIN MỪNG (Lc 1: 26-38)
Sự kiện “Con Thiên Chúa làm người” tạo nên mối liên hệ sâu thẳm nhất giữa Thiên Chúa với nhân loại. Đây là một biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại: Thiên Chúa trở thành phàm nhân và sẽ mãi mãi như vậy, đó là lòng tốt, nhân từ và yêu thương của Người trải rộng cho đến tất cả chúng ta. Tuy nhiên vào ngày Ngôi Hai Thiên Chúa đảm nhận nhân tính mỏng dòn trong cung lòng thanh sạch của Đức Nữ Trinh, tất cả đã xảy ra một cách nhanh chóng, không bất kỳ nghi lễ nào. Thánh Lu-ca kể câu chuyện Truyền Tin cho Đức Ma-ri-a hết sức giản dị. Chúng ta nên trân trọng gìn giữ câu chuyện Truyền Tin này và thường hằng suy niệm, chẳng hạn như đọc kinh Truyền Tin và lần tràng hạt Mân Côi với Năm Sự Vui.
Trong ngày lễ “kính trọng thể Đức Mẹ Mân-côi”, chúng ta cùng nhau suy gẫm ơn gọi cao trọng nhất của Đức Ma-ri-a được chọn là “Thân Mẫu của Đức Giê-su”, từ đó các đặc ân khác được ban cho Mẹ: “Vô nhiễm nguyên tội”, “Trọn Đời Đồng Trinh”, “Lên Trời cả Hồn lẫn Xác”. Vì thế, trong câu chuyện truyền tin cho Đức Ma-ri-a theo thánh Lu-ca, chúng ta tập trung vào cuộc đối thoại của Mẹ với sứ thần (1: 28-37) để biết chân tính của Đức Giê-su, Con của Mẹ, Đấng Cứu Độ của chúng ta, và lời đáp trả “xin vâng” tròn đầy của Mẹ (1: 38).
Hoạt cảnh truyền tin trước đó đã xảy ra trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài. Chính ở nơi cực thánh nầy mà sứ thần đã truyền tin cho tư tế Da-ca-ri-a, nhưng cốt để hướng đến một nơi khác còn thánh thiêng hơn, nơi Thiên Chúa chọn để ở giữa dân Ngài, đó là cung lòng của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Vì thế, ngay từ khởi đầu Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca cho chúng ta thấy có một sự hoán chuyển vai trò: Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài sẽ được thay thế bởi cung lòng của Đức Trinh Nữ, nơi Thiên Chúa chọn cho Con của Ngài đến ở giữa dân Ngài.
1.Cuộc đối thoại giữa sứ thần với Đức Ma-ri-a (1: 28-37):
Câu chuyện Truyền Tin bắt đầu với lời chào của sứ thần (1: 28): trước hết, sứ thần mời gọi Đức Trinh Nữ: “Mừng vui lên”. Đây là lời mời gọi của các ngôn sứ, đặc biệt trong viễn cảnh thời Mê-si-a: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với Ngươi” (Dcr 9: 9; Xp 3: 14-15). Như vậy, qua lời mời gọi này, sứ thần hướng lòng Mẹ về thời đại Mê-si-a và chuẩn bị Mẹ đón nhận sứ điệp gây sửng sốt sau đó.
Tiếp đó, sứ thần ca ngợi Đức Ma-ri-a: “Hỡi bà đầy ân sủng”. Đức Ma-ri-a được gọi là người đầy ân sủng, nghĩa là người được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt. Suy tư thần học còn thấy ở đây lòng sủng ái đặc biệt mà Thiên Chúa dành riêng cho Mẹ, “ơn vô nhiễm nguyên tội” (“được gìn giữ khỏi mọi vết nhơ tội lỗi, kể cả tội tông truyền”). Các Giáo Phụ và các Tiến Sĩ Hội Thánh đã dạy rằng “Lời chào long trọng đặc biệt và chưa từng nghe này minh chứng rằng mọi thiên ân được đặt trên Mẹ Thiên Chúa và Mẹ được ban cho tất cả ân ban của Chúa Thánh Thần, điều này muốn nói rằng Mẹ không bao giờ chịu quy phục vào lời nguyền, nghĩa là, được gìn giữ khỏi mọi tội lỗi. Những lời này của thiên sứ trong bản văn này hình thành nên một trong những nguồn mặc khải tín điều về Đức Ma-ri-a vô nhiễm nguyên tội”(x. Pius IX, “Ineffabilis Deus”; Paul VI, “Creed of the people of God”).
Cuối cùng, sứ thần khẳng định: “Thiên Chúa ở cùng bà”. Lời nói nầy được gặp thấy trong Cựu Ước, thường được ngỏ lời với những nhân vật run sợ và e ngại trước sứ mạng khó khăn mà Thiên Chúa giao phó cho họ để trấn an họ, như Thiên Chúa đã phán với ông Mô-sê trong hoạt cảnh “bụi cây bốc cháy” (Xh 3: 12). Tổng quát hơn, xuyên suốt lịch sử, Đức Chúa lập lại lời nầy cho dân Ngài chọn. Lời nầy cũng chính là định nghĩa Giao Ước. Vào giây phút nầy, Đức Ma-ri-a cô động mười tám thế kỷ của việc Thiên Chúa tuyển chọn ở nơi mình. Mẹ đưa vận mệnh của dân Chúa chọn vào vận mệnh của riêng Mẹ. Mẹ là “Thiếu Nữ Xi-on” tuyệt vời. Thiên Chúa ở với Mẹ. Trong lời chào này, lời này không đơn giản là một lời cầu chúc: “Nguyện xin Đức Chúa ở cùng bà”, nhưng một lời khẳng định: “Đức Chúa ở cùng bà”, được liên kết chặc chẽ với biến cố Nhập Thể. Thánh Âu-gút-ti-nô đã giải thích ý nghĩa của lời chào độc đáo này khi đặt những lời này trên môi miệng của sứ thần: “Thiên Chúa ở với bà hơn Ngài ở với tôi; Ngài ở trong trái tim bà, Ngài mặc lấy hình hài ở trong bà, Ngài làm đầy tâm hồn bà, Ngài ở trong cung lòng bà” (“Sermo de Nativitate Domini”, 4).
Trung tâm của câu chuyện này là câu trả lời của sứ thần theo hai nhịp: trong nhịp thứ nhất, sứ thần loan báo về nguồn gốc nhân loại của Đức Giê-su; trong nhịp thứ hai, sứ thần loan báo về nguồn gốc thần linh của Đức Giê-su. Mỗi nhip đều khởi đi với câu hỏi của Đức Ma-ri-a.
A-Nguồn gốc nhân loại của Đức Giê-su (1: 29-33):
a-Câu hỏi của Đức Ma-ri-a (1: 29):
Khi nghe lời chào của sứ thần khác thường với lời chào thông thường của người Do thái: “Bình an” (“Salom”), Đức Ma-ri-a “rất bối rối”, vì thế, “tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì”. Đó là dịp, là cơ hội sứ thần giúp cho Mẹ biết nguồn gốc nhân loại của Đấng Mê-si-a mà Mẹ được diễm phúc làm mẹ của Đấng ấy.
b-Câu trả lời của sứ thần (1: 30-33):
Trước hết, sứ thần trấn an Đức Ma-ri-a: “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa”, để giúp Mẹ vượt qua nỗi sợ hãi ban đầu mà một phàm nhân thường kinh qua khi Thiên Chúa ban cho người ấy một ơn gọi đặc biệt. Sự kiện Đức Ma-ri-a cảm thấy sợ hãi không hàm chứa một chút dấu vết bất toàn nào ở nơi Mẹ: nỗi sợ hãi của Mẹ là một phản ứng hoàn toàn tự nhiên khi con người đối diện với thực tại thần linh. Sự bất toàn sẽ được nêu lên giả như người ta không vượt qua nỗi sợ hãi này hay bỏ ngoài tai lời khuyên của người trong vị thế giúp đỡ, ở đây đó là vai trò của sứ thần đối với Đức Ma-ri-a.
Sứ thần Gáp-ri-en nói cho Đức Trinh Nữ biết rằng Mẹ sẽ là Mẹ của Đấng Mê-si-a cao cả vì Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận. Lời loan báo của sứ thần gợi nhớ những sấm ngôn thời xưa báo trước những đặc ân dành cho Đấng Mê-si-a, hậu duệ của vua Đa-vít. Đức Ma-ri-a, rất thông thạo Kinh Thánh, rõ ràng nhận ra rằng Mẹ được tiền định làm Mẹ của Đấng Mê-si-a, Đấng mà dân tộc Mẹ đang mong đợi.
Trong lời giải đáp này, thánh Lu-ca diễn tả nguồn gốc, địa vị, sứ mạng tương lai của Chúa Giê-su bằng cách sử dụng những gì mà Cựu Ước tiên báo về Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Cuộc sinh hạ này ứng nghiệm hai sấm ngôn quan trọng đối với cộng đoàn của thánh Lu-ca cũng như cộng đồng của thánh Mát-thêu. Sấm ngôn thứ nhất là Is 7: 14 trong đó chính người mẹ sẽ đặt tên cho con, ở đây chính Đức Ma-ri-a sẽ đặt tên cho con là Giê-su. Ở đây thánh Lu-ca không giải thích ý nghĩa của tên này cho độc giả biết, nhưng sẽ gán cho tên ấy tước hiệu “Đấng Cứu Thế” ở 2: 11. Sấm ngôn thứ hai là lời loan báo của ngôn sứ Na-than trong đó Thiên Chúa đã tuyên bố với vua Đa-vít về hậu duệ của vua: “Người sẽ là con của Ta… Ngai vàng của Người sẽ bên vững mãi mãi” (2Sm 7: 14-16).
B-Nguồn gốc thần linh của Đức Giê-su (1: 34-37):
a-Câu hỏi của Đức Ma-ri-a (1: 34):
Đức Ma-ri-a nêu lên một vấn nạn: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến chuyện vợ chồng”. Lời thắc mắc nầy cho thấy rằng Mẹ ý thức rằng Lời Thiên Chúa mà sứ thần truyền đạt cho Mẹ được ứng nghiệm ngay từ bây giờ. Vì thế, Mẹ tin vào Lời Chúa, nhưng Mẹ muốn niềm tin của mình được soi sáng. “Biết” là động từ Kinh Thánh được dùng để chỉ chuyện vợ chồng như “ông A-đam biết bà E-và. Bà đã thụ thai và sinh hạ…” (St 4: 1). Đức Ma-ri-a chưa chung sống với vị hôn phu của mình, làm thế nào lời loan báo của sứ thần có thể thực hiện được? Vấn nạn Đức Ma-ri-a nêu lên trùng khớp với bản văn của thánh Mát-thêu: “Trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai…” (Mt 1: 18).
Việc Đức Ma-ri-a thụ thai mà vẫn đồng trinh cũng được lưu ý về một sự khác biệt lớn lao trong các câu chuyện truyền tin của Cựu Ước. Đức Ma-ri-a nêu vấn nạn trước sứ điệp từ trời cao, khi đặt một câu hỏi tương tự như câu hỏi của ông Da-ca-ri-a trước đó (x. 1: 18 và 1: 34), thế mà lần này, sứ thần lại không hề xem đó là một dấu hiệu thiếu niềm tin, nhưng như câu hỏi để xin được soi sáng thêm. Chính vì Đức Ma-ri-a đang đứng trước một tình huống hoàn toàn mới mẻ tận căn trong Kinh Thánh, trong đó không thấy bất cứ trường hợp nào nói đến chuyện thụ thai mà không có kết hợp phái tính; điều này hoàn toàn khác với trường hợp của tư tế Da-ca-ri-a, vị hôn phu của bà Ê-li-sa-bét, ông biết rõ lịch sử của tổ phụ Áp-ra-ham giống như trường hợp của ông, thế mà ông không tin, như lời xác nhận của sứ thần (1: 20).
b-Câu trả lời của sứ thần (1: 35-37):
Để trả lời cho vấn nạn Đức Ma-ri-a nêu ra, sứ thần giải thích cặn kẻ trong ba câu (1: 35-37) ngõ hầu Đức Ma-ri-a hiểu rõ nguồn gốc thần linh của Đức Giê-su mà Mẹ được diễm phúc làm mẹ của Đấng ấy. Trước hết, sứ thần giúp cho Mẹ hiểu việc thụ thai và sinh con mà vẫn đồng trinh như thế nào: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. Trong câu trả lời này, sứ thần sẽ mặc khải dần dần nguồn gốc thần linh của Đức Giê-su qua ba vế:
-Vế thứ nhất: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà” gợi nhớ bài trình thuật của sách Sáng Thế, theo đó Thánh Thần bay lượn trên mặt nước đem lại sự sống cho muôn loài muôn vật (St 1: 2), bấy giờ Ngài ngự xuống trên Đức Trinh Nữ Ma-ri-a và thổi hơi sự sống vào trong cung lòng trinh khiết của Mẹ. Sự sống nầy là hoa trái của tình yêu Thiên Chúa đối với Đức Ma-ri-a. Chính từ mối hiệp thông thánh thiện nầy mà Đức Giê-su được thụ thai và tạo nên hình hài trong cung lòng trinh khiết của Mẹ. Vì thế, việc Đức Ma-ri-a thụ thai và sinh con là do quyền năng Chúa Thánh Thần chứ không do sự can dự của bất kỳ phàm nhân.
-Vế thứ hai “quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà” gợi nhớ hình ảnh “đám mây rợp bóng” trên Lều Hội Ngộ (Xh 40: 35) hay Hòm Bia Giao Ước (Ds 9: 18; 10: 34). Hình ảnh đám mây là dấu chỉ hữu hình về sự hiện diện hữu hiệu của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài, cũng là một trong những dấu chỉ khả giác của Chúa Thánh Thần. Qua kiểu nói này, sứ thần sánh ví Đức Ma-ri-a với Lều Hội Ngộ hay Hòm Bia Giao Ước, nơi Thiên Chúa sẽ ngự đến và hiện diện giữa dân Ngài nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, quyền năng Đấng Tối Cao. Nơi Thiên Chúa chọn để Con của Ngài đến với nhân loại là cung lòng của Đức Ma-ri-a, thanh sạch và rạng ngời vinh hiển của Chúa Thánh Thần, Đấng phủ bóng trên Mẹ. Vì thế, cung lòng của Đức Nữ Trinh là Lều Hội Ngộ, là Đền Thờ đẹp nhất, là nơi cực thánh của Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta.
-Về thứ ba “Vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” là câu kết luận được rút ra từ hai vế trên. Sứ thần khẳng định rằng người con mà Đức Trinh Nữ sinh ra không là Nghĩa Tử của Thiên Chúa, nghĩa là một hậu duệ của vua Đa-vít được Thiên Chúa chọn và ban cho vương quyền của vua Đa-vít, nhưng là “Đấng Thánh” như Chúa Thánh Thần. Đây là một trong những tước hiệu rất cổ kính mà Giáo Hội tiên khởi dùng để tuyên xưng Thần Tính của Đức Giê-su (Cv 3: 14; 4: 27, 30). Vì thế, Đấng Thánh được sinh ra làm người hoàn toàn do tác động của Chúa Thánh Thần, quyền năng Đấng Tối Cao. Người đích thực là Con Thiên Chúa nhập thể.
Cuối cùng, sứ thần khẳng định: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”. Lời khẳng định này thật có ý nghĩa biết bao đối với Đức Ma-ri-a và đối với chúng ta hiện nay trong hoạt cảnh truyền tin Tân Ước. “Rất nhiều điều con người tưởng không thể làm được thế mà Thiên Chúa vẫn làm được: Người đã làm cho bà Ê-li-sa-bét son sẻ được có con, đã làm cho Đức Ma-ri-a đồng trinh sinh ra Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa cũng có thể làm nơi mỗi người chúng ta những việc trọng đại, miễn là chúng ta sẵn sàng để Ngài hoạt động trong chúng ta” (“Hạt Giống Nẩy Mầm”).
Trong cuộc đối thoại giữa Đức Trinh Nữ Ma-ri-a và sứ thần, sứ thần cung cấp một khoa Ki-tô học qua hai câu trả lời. Trong câu trả lời thứ nhất, sứ thần mặc khải Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít mà các ngôn sứ báo trước; trong câu trả lời thứ hai, sứ thần cho thấy sự thu thai của Đức Giê-su do quyền năng của Chúa Thánh Thần, Đấng tác động trong cung lòng trinh khiết của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a làm cho Đức Giê-su trở thành một Đấng hoàn toàn mới lạ do mối quan hệ Phụ Tử độc nhất vô nhị giữa Người với Thiên Chúa là Cha của Người.
Khoa Ki-tô học này cũng bày tỏ ân ban độc nhất vô nhị được dành cho Đức Ma-ri-a, vừa là Trinh Nữ vừa là Mẹ. Đức Pi-ô IX đã giải thích đặc ân làm mẹ của Đức Trinh Nữ trong ánh sáng ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa: “Từ muôn thuở Thiên Chúa đã chọn một người mẹ thích hợp cho Người Con Một của Ngài, từ người mẹ này Người Con này, sau khi đã trở thành người, phải sinh ra khi thời gian đến hồi viên mãn: và Người Con này tiếp tục ngắm nhìn Mẹ hơn mọi thọ tạo khác, đến độ Người đã chỉ ngắm nhìn một mình Mẹ” (Pius IX, ineffabilis Deus, 2). Còn Đức Pi-ô V thì nhấn mạnh công trình của Chúa Thánh Thần, “Đấng vào lúc thụ thai và sinh Con đã nâng đỡ Đức Mẹ Đồng Trinh để đem lại sự thành công cho Mẹ trong khi vẫn không đụng chạm đến đức trinh khiết thường hằng của Mẹ” (St Pius V Catechism, I, 4, 8). Thánh Giáo Hoàng Phao-lô VI nhắc lại cho chúng ta chân lý đức tin này: “Chúng tôi tin rằng Đức Ma-ri-a, mãi mãi vui hưởng đức trinh khiết, đã là Mẹ của Ngôi Lời nhập thể, Chúa và Đấng Cứu Độ chúng ta, Đức Giê-su Ki-tô” (Creed of the people of God, 14).
2-Lời đáp trả xin vâng của Đức Ma-ri-a (1: 38):
Dù không có gì mà Thiên Chúa không làm được, nhưng Thiên Chúa không làm một mình, Ngài muốn con người cùng cộng tác với Ngài. Để cho Con Thiên Chúa nhập thể, Thiên Chúa đã nhờ đến sự cộng tác của Đức Ma-ri-a. Một khi biết được chương trình của Thiên Chúa, Đức Ma-ri-a hoàn toàn vâng phục ý muốn Thiên Chúa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa. Xin Chúa cứ làm cho tôi, như lời sứ thần nói”. Đức Ma-ri-a nhận ra sự bất tương xứng giữa điều cô sẽ trở thành “Mẹ của Đấng Cứu Thế” với điều cô là một thôn nữ làng quê Na-da-rét vô danh tiểu tốt. Tuy nhiên, đây là điều Chúa muốn xảy ra. Vì thế, với tấm lòng khiêm hạ, Đức Ma-ri-a đáp trả một cách trọn hảo tiếng gọi của Thiên Chúa qua tiếng xin vâng tròn đầy niềm tin của Mẹ.
Khi tự nhận mình là “nữ tỳ của Chúa”, Đức Ma-ri-a cụ thể phục vụ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa qua việc cưu mang, sinh hạ, dưỡng dục và sau hết là ban tặng cho nhân loại một Đấng Cứu Độ vừa là Con của Thiên Chúa vừa là con của Đức Ma-ri-a: “Cuộc sống của Đức Ma-ri-a đã vĩnh viễn được ghi dấu, bởi vì cô chấp nhận vĩnh viễn trở thành nữ tỳ của Chúa. Nơi cô, Lời đã đi vào, Lời Hằng Sống ấy và cuộc phiêu lưu của Lời ấy giữa loài người trước tiên dựa vào niềm tin của chính cô. Kẻ nào chấp nhận đón tiếp Lời, thì nơi kẻ ấy Lời Thiên Chúa bám rễ, thành hình, biến đổi cuộc đời của kẻ tin vào Đức Giê-su, chứ không chỉ là lắng nghe những lời Người nói với chúng ta. Tin vào Đức Giê-su chính là đón tiếp chính Người, là Lời Hằng Sống đang đến trong chúng ta để phân cực, để tái định hướng toàn thể cuộc sống chúng ta” (Lucien Daloz, “Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người”, 16).
Không có gì có thể ngăn cản kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa; tuy nhiên, tình yêu tự nó không thể nào bị ép buộc được. Thiên Chúa trao ban cho Mẹ trọn vẹn tình yêu của Ngài được gói trọn ở nơi Con Một của Ngài. Tất cả những gì Thiên Chúa đòi hỏi nơi Mẹ, chính là tin vào tình yêu của Ngài. Mẹ mở rộng tấm lòng mình để đón nhận tình yêu nầy với lời “Xin Vâng” tròn đầy: “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền”. Chính vì thế, qua Mẹ Thiên Chúa có thể thực hiện dự định yêu thương của Ngài cho nhân loại.
Công Đồng Vatican II đã giải thích ý nghĩa lời đáp trả xin vâng của Đức Ma-ri-a như sau: “Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Ma-ri-a một cách thụ động, nhưng đã để Mẹ tự do cộng tác vào công trình cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của Mẹ” (LG, 56). Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II ca ngợi sự tự do của Đức Ma-ri-a qua sự vâng phục trọn lòng tin của Mẹ: “Giáo Hội cũng không thể quên Đức Ma-ri-a ‘kẻ đã tin’ (Lc 1: 45). Mẹ Ma-ri-a đã đi vào lịch sử cứu độ thế giới nhờ vâng phục của lòng tin. Mà trong bản chất sâu xa nhất, tin chính là khai mở trái tim nhân loại trước ân ban, ân ban Thiên Chúa tự hiến trong Chúa Thánh Thần. Đâu có Thánh Thần, đó có tự do. Khi Thiên Chúa tự khai mở cho con người trong Chúa Thánh Thần, sự tự khai mở đó vừa mặc khải cho con người về Chúa, vừa ban cho con người sự tự do tròn đầy. Mẹ Ma-ri-a là người tự do trọn vẹn nhờ sự 'vâng phục của lòng tin’” (“Chúa Thánh Thần trong đời sống Giáo Hội và thế giới”).
Tất cả chúng ta điều rất quen thuộc với tràng hạt Mân Côi, bởi vì tràng hạt Mân Côi luôn đi đôi với lời kinh Kính Mừng, vốn là một trong những kinh mà chúng ta học và đọc ngay trong gia đình từ thời thơ ấu.
Từ “Mân Côi” phát xuất từ tiếng La-tinh Rosarium, có nghĩa là vườn hoa hồng. Thật là đẹp và đầy ý nghĩa, khi nhìn tràng Mân Côi quen thuộc, nhỏ bé và đơn sơ của chúng ta như là một vườn hoa hồng. Và như thế, tràng hạt Mân Côi mà chúng ta dùng để đọc kinh hàng ngày chính là một vườn hoa hồng, mỗi hạt kinh là một đóa hoa hồng, kính dâng lên Đức Maria, Mẹ của chúng ta. Và ai chúng ta cũng biết, hoa hồng là biểu tượng của lòng mến, của tình yêu. Vậy, chính khi chúng ta lần hạt, là chúng ta dâng hoa cho Đức Mẹ với lòng cảm mến và yêu thương của người con thảo. Với tâm tình này, chúng ta nhận ra rằng, cấu tạo của tràng Mân Côi cũng thật là hay và đầy ý nghĩa, vì tràng hạt có tâm điểm là ảnh Đức Mẹ.
2. Kinh Kính Mừng
Mỗi lời kinh Mân Côi là một đóa hoa hồng diễn tả tình yêu của chúng ta dành cho Mẹ. Thật vậy, vì đó chính là ý nghĩa sâu xa của phần thứ nhất trong kinh Kính Mừng:
Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà, bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ.
“Kính Mừng” có nghĩa là chúng ta ca mừng Đức Mẹ một cách kính cẩn; và lời ca mừng này một phần đến từ lời ca mừng của sứ thần Gabrien, khi ngài đến gặp Đức Trinh Nữ Maria trong biến cố Truyền Tin, mà bài Tin Mừng của ngày lễ hôm nay thuật lại cho chúng ta: “Mừng vui lên, hỡi đấng đầy ơn sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc 1, 28)
Và phần còn lại của lời ca mừng Đức Mẹ trong kinh Kính Mừng, đến từ lời ca mừng của bà Elizabet, trong biến cố Đức Mẹ thăm viếng: “Em được chúc phúc (nghĩa là có phúc lạ), hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc (nghĩa là cũng có phúc lạ)” (Lc 1, 42).
Thế mà, chúng ta không thể ca tụng Mẹ với cả tâm hồn, nếu chúng ta không yêu mến Mẹ, và chúng ta không thể yêu mến Mẹ, mà không ca tụng Mẹ. Bởi vì, nếu không có lòng mến, lời ca tụng chỉ là giả tạo, hay chỉ có trên môi miệng, chứ không chân thật, không phát xuất từ con tim. Chính tâm tình ca mừng Đức Mẹ với lòng cảm mến, sẽ chuẩn bị cho chúng ta đón nhận những ơn huệ mà Mẹ sẽ chia sẻ cho chúng ta, và cũng chính thái độ ca mừng này sẽ giải thoát chúng ta khỏi thái độ ngược lại là đóng kín, ghen tị và vô ơn, vốn rất tai hại cho mình và cho người khác. Như vậy, khi đọc kinh Kính Mừng, chúng ta dùng lại lời của Sứ Thần Gabriel và lời của bà Elizabeth để ca tụng Đức Mẹ với lòng cảm mến; và chỉ sau khi ca tụng Mẹ, chúng ta chúng ta mới xin ơn:
Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử.
Trong lời cầu xin với Đức Mẹ, chúng ta tự nhận mình là “kẻ có tội”. Nếu chúng ta đọc lời này với sự chân thành của con tim, thì chắc chắn Mẹ đã cảm thương chúng ta rồi. Giống như khi còn bé, mỗi khi chúng ta thành tâm nhận lỗi, là cha mẹ đã bao dung và ôm chúng ta vào lòng rồi. Hơn nữa, Mẹ được ban ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội, chính là để chăm lo cho chúng ta, bao dung chúng ta, chia sẻ cho chúng ta và cầu bầu cho chúng ta.
Lời cầu xin của chúng ta cũng thật là kín đáo và khiêm tốn. Thật vậy, chúng ta xin Mẹ cầu cho chúng ta, khi nay và trong giờ lâm tử. Kín đáo, vì chúng ta không xin điều gì đặc biệt, chỉ xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta thôi. Khiêm tốn, vì chúng ta ý thức về thân phận phải chết của chúng ta. Khi nay và trong giờ lâm tử, chúng ta đâu có biết còn bao xa, và chúng ta cũng không biết mình sẽ lâm tử như thế nào. Đọc lời nguyện xin này, dù chúng ta đang làm gì, ở độ tuổi nào, gặp khó khăn thử thách ra sao, chúng ta cũng được mời gọi chuẩn bị cho giờ lâm tử. Và chắc chắn, Mẹ không chỉ cầu bầu cho chúng ta, nhưng còn ôm chúng ta vào lòng để đưa chúng ta đi, đi trên đường đời và đi ngang qua sự chết để về Quê Trời, xum họp với Mẹ và những người thân yêu trong Nhà của Thiên Chúa.
Tóm lại, ca tụng rồi mới xin ơn, đó chính là qui tắc mà kinh Kinh Mừng dạy cho chúng ta, khi chúng ta cầu nguyện trong mọi trường hợp. Và để ca tụng, chúng ta được mời gọi ra khỏi mình để nhận ra ơn huệ Thiên Chúa ban cho mình và cho người khác nữa.
3. Đức Mẹ Mân Côi
Chúng ta hãy trở lại nhìn ngắm một lần nữa tràng hạt của chúng ta. Như chúng ta đã nói, tràng hạt Mân Côi có trung tâm là ảnh Đức Mẹ, nhưng ảnh Đức Mẹ lại hướng tới Thập Giá của Đức Ki-tô. Thật vậy, Năm Sự Vui, Năm Sự Sáng, Năm Sự Thương và Năm Sự Mừng, phác họa lại cho chúng ta toàn bộ cuộc đời của Đức Ki-tô, từ lúc được hoài thai trong cung lòng Đức Mẹ, cho đến cuộc Thương Khó, chết trên Thập Giá, và sau đó sống lại và lên trời.
Trong năm phụng vụ, chúng ta có nhiều lễ kính nhớ Đức Mẹ, vì những ân huệ lớn lao Mẹ đã nhận được, chẳng hạn Đức Mẹ Vô Nhiễm, Đức Mẹ hồn xác lên trời, Đức Mẹ Nữ Vương, hay vì những biến cố đặc biệt trong cuộc đời của Đức Mẹ, chẳng hạn, Sinh Nhật Đức Mẹ, Đức Mẹ Dâng Mình, Lễ Truyền Tin, Đức Mẹ Thăm viếng, Lễ Giáng Sinh, hoặc vì những ơn huệ đặc biệt Đức Mẹ ban cho loài người chúng ta hay cho riêng một Hội Dòng, chẳng hạn Đức Mẹ Phù Hộ, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Đức Mẹ Dòng Tên.
Nhưng Lễ Đức Mẹ Mân Côi, mà chúng ta mừng kính không chỉ một ngày, nhưng suốt một tháng, có điểm này đặc biệt, so với tất cả các lễ khác: đó là lễ Đức Mẹ Mân Côi tôn vinh sự gắn bó sâu xa và trọn vẹn của Mẹ đối với ngôi vị và cuộc đời của Đức Giêsu, từ lúc ngài được hoài thai trong lòng dạ của Mẹ, cho đến khi Ngài chịu đóng đinh trên Thập Giá, và sau đó Phục Sinh và Lên Trời. Thế mà, tất cả những ơn huệ lớn lao mà Mẹ nhận được đều đến từ tương quan thiết thân của Mẹ với Đức Ki-tô. Thật ra trong lời ca mừng của lời kinh Kính Mừng, chúng ta đã tôn vinh sự gắn bó của Mẹ với Đức Ki-tô rồi, đi đọc: “Con lòng bà gồm phúc lạ”.
Như vậy, khi chúng ta chiêm ngắm Đức Mẹ Mân Côi, là chúng ta chiêm ngắm Đức Mẹ đón nhận Đức Ki-tô vào cung lòng và vào cuộc sống của mình, là chiêm ngắm Đức Mẹ đi theo và gắn bó thiết thân với Đức Ki-tô đến cùng. Và đó cũng chính là ơn gọi Ki-tô hữu của chúng ta: đó là đón nhận Đức Ki-tô, vốn là Đường là Sự Thật, là Sự Sống và là Ánh Sáng vào cuộc đời của chúng ta, vào trong gia đình của chúng ta, vào trong cộng đoàn và Hội Dòng của chúng ta.
* * *
Đức Mẹ cầu bầu, phù hộ và ban ơn cho chúng ta về nhiều phương diện của cuộc sống, nhưng Đức Mẹ đặc biệt chăm sóc, phù hộ chúng ta trong cách thức chúng ta đón nhận, hiểu biết, yêu mến và đi theo Đức Ki-tô đến cùng, và Mẹ phù hộ chúng ta, trước tiên là bằng cách dạy dỗ chúng ta, ngang qua chính đời sống của Mẹ.
Trong muôn loài muôn vật Thiên Chúa dựng nên. Chúng ta thấy, không có một tạo vật nào được Giáo hội dành nhiều ưu ái cho bằng Mẹ Maria. Nói đến Mẹ, giáo hội luôn dành cho Mẹ muôn vàn tước hiệu, tước hiệu nào cũng cao quí, cũng đặc biệt. Hôm nay, chúng ta mừng kính Mẹ Maria với tước hiệu Mẹ Mân côi. Sở dĩ có ngày lễ hôm nay vì có liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một chuồng ngựa. Đạo binh Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Và đúng như lời “xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời” đã ứng nghiệm, với quân số ít ỏi và khí giới tồi tàn, người công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu. Để ghi ơn Đức Mẹ, ĐGH Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi. Tuy nhiên, ngày nay Giáo hội không kêu gọi chúng ta nhớ lại một biến cố xa xưa cho bằng mời gọi chúng ta khám phá ra vị trí của Đức Maria trong mầu nhiệm cứu rỗi và nhắc nhở về vai trò của Kinh Mân Côi trong đời sống của người tín hữu kitô chúng ta.
Thật vậy, khi chương trình sáng tạo đầu tiên của Thiên Chúa bị tội lỗi con người làm cho đổ vỡ, thì nay Thiên Chúa thay thế bằng một chương trình mới, khởi đi từ một cuộc gặp gỡ và trao đổi giữa thần sứ Gabriel với cô thôn nữ Maria. Như bao cô gái nhà quê khác, Maria cũng từng ấp ủ những mộng ước, những dự phóng thật bình thường cho đời mình. Nhưng Thiên Chúa đã xen vào, đã khuấy động đời cô và đã làm thay đổi tất cả. Với lời thưa “Xin vâng” thật đơn sơ cô đã trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế, và trở nên người đầy ân phúc. Đầy ân phúc không chỉ vì Chúa đã chọn Mẹ, nhưng còn vì Mẹ đã luôn chọn đứng về phía Thiên Chúa, lấy Ý Chúa làm ý của mình, luôn cố gắng để cho chương trình của Ngài thành hiện thực. Mẹ đẹp lòng Chúa không vì những thành đạt vĩ đại, mà chỉ đơn giản là xin vâng với tất cả con người bé mọn của kiếp làm người mà Mẹ được Chúa ban. Nhờ đó, Mẹ trở nên như mẫu gương, như người hướng dẫn và như sự nối kết những tâm hồn thành tâm kiếm tìm, lắng nghe và thực thi Thánh Ý của Thiên Chúa.
Do đó, mừng lễ Mân Côi hôm nay, mỗi người trong chúng ta hướng nhìn lên Mẹ Maria, để noi theo Mẹ, chúng ta biết lắng nghe và tuân hành thánh ý Chúa, để như Mẹ, chúng ta vượt qua được những gian nan, thách đố, những lo âu, khắc khoải của dòng đời, để sống tốt lành thánh thiện, sống tươi vui và tử tế với nhau hơn. Muốn được như vậy, giáo hội mời gọi chúng ta hãy đến với Mẹ, hãy siêng năng lần chuỗi Mân Côi như là phương thế hữu hiệu để cải thiện đời sống và xây dựng Nước trời. Vì lễ Mẹ Mân Côi không còn là mừng về một chiến thắng quân sự nào, mà chính là mừng về một chiến thắng lớn lao hơn. Đó là chiến thắng của ơn thánh trên tội lỗi, mà muốn có chiến thắng thì không thể xao lãng việc lần hạt Mân Côi; và nếu yêu mến lần hạt Mân Côi, sẽ có ngày bước vào chiến thắng. Cho nên, ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh. Ước gì mỗi người chúng ta hãy thử một lần để nhận ra được giá trị của kinh Mân côi, để khi gặp những khúc quanh, gánh nặng, khổ đau, những lúc mây mù giăng kín cuộc đời, chúng ta biết chạy đến kêu xin Mẹ: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con khi nay và trong giờ lâm tử”. Amen.
Tin Mừng Lc 1: 26-38: Hôm nay ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mân Côi theo lời Mẹ dặn, vì kinh Mân Côi sẽ mang đến cho chúng ta một kho tàng ân phúc của Chúa.
Hôm nay ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mân Côi theo lời Mẹ dặn, vì kinh Mân Côi sẽ mang đến cho chúng ta một kho tàng ân phúc của Chúa. Kinh Mân Côi chính là chìa khóa vạn năng để chúng ta mở kho ân sủng vô biên của Chúa. Chân Phước Alan nói rằng: "Sau Hy Tế trong Thánh Lễ, một Hy Tế cao trọng nhất, cùng những kỷ niệm sống động của những đau khổ của Chúa Kitô, thì không còn loại sùng kính nào tốt hơn, đem ích lợi nhiều cho các linh hồn bằng Kinh Mân Côi, một kinh cũng nhắc lại những kỷ niệm và diễn lại cuộc đời, sự đau khổ của Chúa Giêsu Kitô".
Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội số 67 viết: "Các tín hữu hãy nhớ rằng lòng tôn sùng chân chính không hệ tại tình cảm chóng qua và vô bổ, cũng không hệ tại sự dễ tin phù phiếm, nhưng phát sinh từ một Đức Tin chân thật. Đức Tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta". Chính vì vậy, Đức Mẹ đã nói với thánh Mechtilđê: "Mẹ muốn con biết rằng không ai có thể làm đẹp lòng Mẹ bằng đọc lời thiên sứ chào Mẹ mà Chúa Ba Ngôi chí thánh gửi xuống cho Mẹ và nâng Mẹ lên chức phẩm Mẹ Thiên Chúa." Thánh Anphongsô còn cho biết: "nhờ kinh Mân Côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trong nẻo trọn lành. Biết bao người nhờ kinh Mân Côi đã được ơn chết lành và hưởng phúc trường sinh" như câu truyện "chuỗi hạt Mân Côi với vua Galicia":
Alphonso từ ngày được tôn lên làm vua nước Galicia, đã tỏ ra rất oai phong lẫm liệt. Nhà vua đi đâu cũng có các quan văn võ tả hữu theo hầu. Thần dân của vua hầu hết là những người công giáo ngoan hiền đạo hạnh. Biết thế nên muốn lấy lòng dân, vua luôn tỏ ra mình là người đạo đức, có lòng kính mến Đức Mẹ Mân Côi, để triều đình và thần dân bắt chước. Cho nên dụng ý nhà vua là làm thế nào cho thần dân biết mình là người năng lần chuỗi Mân Côi. Vua cho đặt một cỗ tràng hạt thật dài để quấn vào thắt lưng, mỗi khi vua đi ra ngoài. Dân chúng ai cũng trầm trồ khen ngợi nhà vua rất ngoan đạo. Cho nên để lấy lòng vua, các quan cũng như thần dân, ai cũng mang tràng hạt, và cũng bắt chước vua năng lần chuỗi Mân Côi kính Đức Mẹ. Nhưng than ôi, thực tế phũ phàng thay! Vua chỉ giả hình vậy thôi, chứ chẳng bao giờ ông đọc kinh cầu nguyện gì cả, chỉ lo ăn chơi trác táng .
Một ngày kia, vua lâm bệnh nặng, trong một thị kiến vua thấy mình bị đưa đến toà phán xét. Ma quỷ vây chung quanh tố cáo vua các tội tầy đình, và chúng chực sẵn để đầy vua xuống hoả ngục. Đang lúc Chúa Giêsu Đấng Thẩm Phán Tối Cao, sắp sửa luận phạt vua, thì Đức Mẹ xuất hiện biện hộ cho vua. Mẹ nói với Chúa Giêsu: Con hãy thư thả để Mẹ xem xét lại vụ này.
Đức Mẹ liền truyền cho các thiên thần đem các tội vua đã phạm khi còn sống để trên một bàn cân, và cỗ tràng hạt vua luôn luôn đeo bên mình, cùng các kinh Mân Côi đã được đọc do gương sáng đeo tràng hạt của vua, trên một bàn cân khác. Kết quả là cỗ tràng hạt nặng hơn các tội vua đã phạm.
Rồi Đức Mẹ nhìn vua một cách trìu mến và nói: để tưởng thưởng một chút công của con đã dành cho Mẹ, bằng cách đeo tràng hạt Mân Côi, Mẹ đã xin Con Mẹ cho con được ơn rất lớn lao là khỏi sa hỏa ngục. Con sẽ được sống thêm mấy năm nữa để làm việc đền tội. Nhà vua tỉnh lại kêu lên: “Ngợi khen chuỗi hạt Mân Côi của ĐứcTrinh Nữ Maria ! Nhờ đó trẫm được giải thoát khỏi sa hoả ngục”. Sau khi bình phục, nhà vua đã sốt sắng truyền bá kinh Mân Côi, và lần chuỗi Mân Côi suốt ngày.
Anh chị em thân mến,
Kinh Mân Côi là kinh hạt phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào. Ngày nay nhiều người phàn nàn không có giờ đọc kinh vì phải lo học hành, lo làm ăn xuôi ngược, nhưng chuỗi Mân Côi sẽ nuôi dưỡng đời sống nội tâm phong phú. Con người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng, vội vã, Chuỗi Mân Côi làm lòng người lắng dịu, thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ.
- Điều thuận lợi của chuỗi Mân côi là lần hạt ở đâu cũng được. Ta không buộc phải đọc 50 Kinh Mân côi một lần mà có thể đọc bao nhiêu tuỳ vào thời gian ta có.
- Ta cũng có thể vừa làm việc vừa đọc Kinh Mân côi, không nhất thiết phải có tràng hạt trên tay.
- Ta cũng có thể thì thầm bất cứ lúc nào: khi chờ xe bên đường, lúc đi học, khi giải trí, khi đau bệnh … thay vì đưa mắt nhìn chung quanh, thay vì nghe những chuyện không đâu, ta cũng có thể lần hạt. Dù bận bịu đến đâu ta cũng có thể lần hạt. Đó là cách cầu nguyện mà triết gia Jacques Maritain gọi là “chiêm niệm bên vệ đường”.
Kinh Mân côi là một kinh quý báu của Giáo Hội và của mọi người, đó là kinh phổ biến, vừa dễ đọc vừa dễ cầu nguyện mà lại mang lại nhiều ích lợi cho linh hồn.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết yêu mến tràng Chuỗi Mân côi, siêng năng lần hạt trong mỗi ngày sống và xin Mẹ khẩn cầu cho con bên tòa Chúa. Amen.
Có một gia trưởng trẻ, trước đây, anh ta rất ít đi lễ, nếu có đi lễ, anh cũng thường đứng dưới góc sân nhà thờ. Gần đây, anh ta có dấu hiệu thay đổi, anh thường xuyên đi lễ và sau lễ còn đứng lại viếng Đức Mẹ rất lâu. Cha ngạc nhiền hỏi sở lấy làm thăm anh: Gia đình có chuyện gì mà thời gian gần đây thấy anh đi đễ và viếng Đức Mẹ sốt sắng quá? Anh trả lời: Thưa cha, con đi Tapao và được thấy Đức Mẹ. Từ đó đến nay, mỗi tháng con đều đi Tapao vào ngày mười ba trong tháng. Ngày nào vợ chồng con trước khi đi ngủ cũng lần chuỗi. Hôm nào chưa lần chuỗi thì con không thể ngủ được. Sau khi nghe anh kể, cha sở suy nghĩ: Không biết anh có nhìn thấy Đức Mẹ thật hay không, nhưng việc anh thay đổi một cách nhanh chóng như thế quả là một phép lạ Đức Mẹ đã thực hiện trên cuộc đời của anh. Ai cũng ngạc nhiên khi thấy anh từ một người hờ hững trở thành một người sốt sắng, từ một người dửng dưng với giáo xứ, nay trở thành một tông đồ nhiệt thành.
Trong lịch sử Giáo hội đã có biết bao người nhận được ơn biến đổi cũng như những phép lạ từ Đức Maria qua tràng chuỗi Mân Côi. Kinh Mân côi là lời kinh đơn sơ, bình dân, ai cũng có thể thuộc và có thể đọc ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào, và cũng là lời kinh đem bao nhiêu ơn Chúa và phép lạ đến cho người tín hữu. Đức Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II là một bằng chứng về sự can thiệp của Mẹ Maria. Ngài hết lòng yêu mến Đức Mẹ và yêu mến việc lần chuỗi Mân Côi. Ngài cổ vũ và mời gọi mọi người cùng đọc kinh Mân Côi. Chính Ngài đã thiết lập thêm Năm Mầu Nhiệm Sự Sáng vào chuỗi Mân Côi để mọi người cùng suy gẫm.
Có một biến cố lớn trong cuộc đời của Ngài liên quan đến Đức Mẹ mà chúng ta không thể quên. Đó là vào ngày 13/5/1981, ngày lễ Đức Mẹ hiện ra tại Fatima. Trong khi Đức Thánh Cha chào thăm khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô, thì một loạt đạn đã bắn vào Ngài. Đức Thánh Cha ngã xuống, cả quảng trường Thánh Phêrô rung động bởi tiếng khóc và lời kinh Mân Côi. Thật là phép lạ khi các viên đạn chỉ cách trái tim của ngài vài centimet. Mọi người đều tin rằng, đó là nhờ sự che chở của Đức Mẹ,
Ai đã đến các trung tâm hành hương Đức Mẹ, sẽ thấy rõ lòng yêu mến của người tín hữu dành cho Mẹ. Biết bao người đã được ơn của Đức Mẹ, trong đó có cả những người không phải là Kitô hữu. Điều đó cho thấy rằng, Đức Maria thực sự là người Mẹ thiêng liêng của tất cả mọi người. Nếu trong đời sống thường ngày, mỗi khi gặp khó khăn, chúng ta chạy đến với mẹ của mình, thì trong đời sống đức tin cũng vậy, chúng ta hãy tin tưởng chạy đến với Mẹ Maria, chắc chắn Mẹ không bao giờ từ chối chúng ta.
Mẹ là Đấng quyền thế trước mặt Thiên Chúa. Mẹ đã hoàn toàn dâng trọn cuộc đời cho chương trình cứu độ của Chúa. Mẹ không tiếc gì với Thiên Chúa, vì thế Thiên Chúa cũng không tiếc gì với Mẹ. Vì được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và gìn giữ, Mẹ trở nên như bông hoa trinh trong trước toà Thiên Chúa. Trong ngày sứ thần truyền tin, Thiên Chúa đã ngỏ lời với Mẹ, đã mời Mẹ cộng tác vào chương cứu chuộc của Thiên Chúa. Mặc dù không hiểu hết ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa, Mẹ vẫn sẵn sàng xin vâng để cho Thiên Chúa thực hiện.
Câu chuyện truyền tin cho thấy, Sứ thần Gabriel hết sức cung kính khi gặp Mẹ. Sứ Thần đã chào Mẹ: Kính chào Bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà. Điều đó nói lên rằng, Mẹ là người luôn được sống trong ân phúc của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã nhìn đến Mẹ ngay từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ trong trắng tuyệt vời và Thiên Chúa luôn ở cùng Mẹ. Thiên Chúa là Đấng Thánh, Ngài cư ngụ ở nơi thánh và nơi nào Ngài cư ngụ, Ngài sẽ làm cho nó nên thánh. Điều đó thật đúng nơi Đức Maria. Vì Thiên Chúa ở cùng Mẹ, nên Ngài đã biến tâm hồn và con người của Mẹ nên đền thánh của Ngài. Trong biến cố truyền tin, Thiên Chúa đã hết sức tôn trọng tự do của Mẹ. Ngài đã sai Sứ Thần hỏi ý kiến Mẹ, để chọn cung lòng Mẹ làm nơi cho Con Thiên Chúa làm người.
Dù không hiểu hết những gì sẽ xảy ra, không hiểu việc mang thai và sinh con sẽ như thế nào, tương lai sẽ ra sao, nhưng trước lời mời gọi của Thiên Chúa, Mẹ đã sẵn sàng thưa xin vâng: Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ Thần truyền. Mẹ đã khiêm tốn để cho Thiên Chúa sử dụng trọn cuộc đời của mình, Mẹ đã dâng cho Chúa cung lòng mình làm nơi cho Con Thiên Chúa cư ngụ.
Kể từ khi thưa tiếng xin vâng, cuộc đời của Mẹ bước qua giai đoạn mới, đó là giai đoạn phục vụ Chúa Cứu Thế, cũng là người con bé nhỏ trong bụng Mẹ. Với một người mẹ bình thường thì công sinh dưỡng là trời bể. Mẹ thì không dám kể công sinh dưỡng Đấng Cứu Thế, nhưng chắc chắn, Chúa Cứu Thế sẽ không thể quên công ơn trời biển này được. Vì thế, lời chuyển cầu của Mẹ quả là có thần thế trước mặt Thiên Chúa. Thiên Chúa không thể từ chối lời Mẹ khẩn xin.
Lời kinh Kính Mừng Maria là lời Giáo hội lặp lại lời Sứ Thần ca tụng Mẹ, cũng đồng thời là lời tán dương Thiên Chúa về sự kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện trên cuộc đời Mẹ. Do đó, Kinh Kính Mừng là lời kinh phù hợp nhất, tốt đẹp nhất mà cả Giáo hội tạ ơn Thiên Chúa và chiêm ngắm những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ.
Tràng chuỗi Mân Côi là sự tóm kết tất cả chương trình cứu độ của Thiên Chúa qua từng biến cố, trong đó, Mẹ Maria là cộng tác viên đắc lực của Chúa. Khởi đầu từ màu Nhiệm Nhập thể, Con Thiên Chúa xuống thế làm người, Đức Maria được chia sẻ vào niềm vui vì ơn cứu độ đã được thực hiện. Niềm vui ấy được đầy tràn trong tâm hồn Mẹ, vì Mẹ đã đón nhận Đấng Cứu Thế, đã sinh hạ Con Thiên Chúa, được bồng ẵm Ngài trên tay và nuôi dưỡng Ngài bằng dòng sữa của Mẹ. Mẹ Maria âm thầm theo Chúa suốt hành trình truyền giáo như một người môn đệ. Những lúc Chúa thành công, được nhiều người ca tụng, Mẹ chỉ đứng lẫn vào đám đông như mọi người. Nhưng khi Chúa Giêsu gặp thất bại, bị người đời chống đối, Mẹ Maria đã đứng ra như một người Mẹ, hết sức can đảm để hiện diện và an ủi Chúa Giêsu. Đặc biệt trong hành trình thập giá, khi mọi người gào thét tìm cách giết Chúa, các môn đệ bỏ trốn, thì một mình Mẹ đã theo Chúa đến chân thập giá để cùng chia sẻ và đón nhận đau khổ của Chúa vào tâm hồn Mẹ.
Vì theo sát Chúa trên hành trình thập giá, nên trong ngày vinh quang phục sinh, Mẹ cũng chính là người được hưởng niềm vui và ơn phúc Phục sinh đầu tiên từ Chúa Giêsu, con của Mẹ. Mẹ đã hiện diện trong nhà Tiệc ly với các tông đồ như người Mẹ của Giáo hội và cũng là người tín hữu, để cùng cầu xin Chúa Thánh Thần hiện xuống. Với cả một cuộc đời trung thành trọn vẹn với Chúa trong lời thưa Xin vâng, Thiên Chúa đã trọng thưởng cho Mẹ đặc ân được đưa về trời cả hồn và xác trước thời hạn, và còn tặng ban cho Mẹ vinh dự làm Nữ Hoàng Thiên Quốc, để Mẹ tiếp tục cầu bầu cho Giáo hội và cho mỗi chúng ta.
Mừng lễ Đức Maria Mân Côi hôm nay, chúng ta cùng với Mẹ tạ ơn Thiên Chúa vì Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm cộng tác viên của Ngài và còn trao ban cho Mẹ vinh quang và danh dự, để từ nơi toà thiên Chúa, Mẹ vẫn tiếp tục che chở chúng ta. Tin tưởng như thế, để mỗi người hãy cầm lấy tràng chuỗi Mân Côi để ca tụng Chúa và khấn xin Đức Mẹ che chở chúng ta trên hành trình dương thế này. Đừng bao giờ nghĩ kinh Mân Côi là nhàm chán, cũng đừng cho đó là lời kinh của người già, nhưng Kinh Kính Mừng là lời kinh thích hợp cho tất cả mọi người và là lời kinh hiệu quả nhất cho mọi lời cầu xin.
Khi đọc Kinh Kính Mừng là chúng ta tin tưởng chạy đến với Thiên Chúa qua Mẹ Maria, chúng ta nại đến lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa và công ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu. Do đó, Thiên Chúa không thể không đón nhận lời Mẹ chuyển cầu cho chúng ta. Hãy chuyên chăm đọc Kinh Kính Mừng mỗi ngày, Mẹ sẽ chỉ cho chúng ta biết noi gương Mẹ sống đẹp lòng Chúa. Kinh Kính Mừng sẽ đem lại cho các gia đình sự bình an, êm ấm, sẽ xua tan sự dữ và ma quỷ trong gia đình, vì có Chúa và Đức Mẹ hiện diện, thì không có ma quỷ hay sự dữ nào có thể làm hại chúng ta được. Amen.
Trong số các lễ nhớ Đức Maria, ngoài lễ Đức Mẹ Lộ Đức và lễ Đức Bà Camêlô, còn có lễ Đức Mẹ Mân Côi, do Đức Giáo Hoàng Gregorio XIII thành lập năm 1573. Nhưng để biết nguồn gốc của lễ này trước hết phải tìm hiểu lịch sử Kinh Mân Côi “Rosario”. Từ Rosario phát xuất từ chữ Latinh “Rosarium” có nghĩa là vườn hồng, khóm hồng, tràng hoa hồng, hoặc chuỗi hoa hồng, và cũng còn gọi là Kinh Mân Côi.
Sở dĩ gọi là “chuỗi hoa hồng” hay “tràng hoa hồng” là vì nó bao gồm nhiều hạt. Mỗi một hạt là một kinh Kính Mừng. Khi đọc nó giống như một đóa hồng tín hữu dâng kính Mẹ Thiên Chúa. Rồi nó cũng được gọi là Kinh Mân Côi, vì Mân là tên của một loại ngọc, Côi là một thứ ngọc tốt, ngọc quí lạ. Kinh Mân Côi là “Kinh Ngọc”, là “chuỗi ngọc Mân và ngọc quí lạ”. Mỗi một kinh Kính Mừng dâng lên Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Đấng đầy ơn phước, Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, là ngọc Mân, ngọc đẹp quí lạ tín hữu dâng lên Đức Trinh Nữ Maria.
Lễ Đức Mẹ Mân Côi trước kia người ta ít lưu tâm đến, nhưng từ khi Đức Mẹ ban ơn lạ lùng cho Đạo Binh Thánh Giá chiến thắng quân Thổ Nhĩ Kỳ ở Lépante vào năm 1571, Đức Thánh Cha Piô V đã cho phổ biến lễ này một cách rộng rãi trong Hội Thánh toàn cầu. Đức Thánh Cha Lêô XIII đã giải thích tầm quan trọng của lễ Mân Côi trong rất nhiều thông điệp Ngài ban bố. Đến nay, người Kitô hữu trên toàn thế giới đã mừng lễ này cách rất sốt sắng và tôn kính đặc biệt đối với lễ Mân Côi.
Mẹ Maria với hai tiếng xin vâng đã góp tay vào công cuộc cứu chuộc của Chúa Giêsu và hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa.Thánh lễ Mân Côi cũng nối kết những biến cố lớn trong cuộc đời Chúa Giêsu: “Nhập Thể, Khổ Nạn và Phục Sinh”.
Thư gửi giáo đoàn Galát, Thánh Phaolô gợi lại niềm tin vào Đấng Cứu Độ trần gian như chúng ta nghe: “Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: “Áp-ba, Cha ơi! “ Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa”. Thánh Phaolô khẳng định lại ơn cứu độ đến tự nơi Chúa Giêsu để rồi những ai tin vào Ngài thì không còn sống nô lệ cho tội lỗi nữa mà là được cứu thoát.
Đấng Cứu Độ trần gian mà Thánh Phaolô nhắc đó cũng đã được các ngôn sứ, người này người kia trong Cựu Ước nói đến. Đặc biệt, ngôn sứ Gioan Tẩy Giả cũng đã loan báo nhưng rồi mấy ai đón nhận. Không ai đón nhận bởi vì họ không tin Đấng Cứu Độ trần gian đến trần gian qua người phụ nữ nhỏ bé. Họ nghĩ rằng Đấng Cứu Độ trần gian đó đến trong uy quyền, đến trong vinh quang và sẽ làm cho dân tộc của họ được vinh quang nhưng Chúa đến khác với suy nghĩ của họ.
Trong niềm tin sâu thẳm của lòng mình, Mẹ Maria đã đón nhận Đấng Cứu độ trần gian. Trang Tin Mừng quá quen thuộc chúng ta nghe thánh Luca thuật lại lời xin vâng đón nhận Đấng Cứu Độ trần gian vào trong đời mình. Mẹ tin và hoàn toàn bỏ ngõ đời mình cho Thánh ý của Chúa.
Ngày hôm nay, lời xin vâng được mở ra, được bỏ ngõ với biết bao nhiêu biến cố bi thương trong đời của Mẹ. Phải nói rằng quá sức chịu đựng của một cô gái như Mẹ. Không còn gì nhục nhã cho bằng khi phải đón nhận, khi phải đồng hành, khi cùng với con chịu đau khổ trên hành trình thương khó và bi thương nhất là cái chết trên thập giá.
Nhưng, niềm tin ấy của không dừng trên đỉnh đồi Canvê mà còn tiếp tục sau khi chôn con yêu của mình. Sách Công Vụ Tông Đồ cũng vừa kệ lại niềm tin của Mẹ khi các tông đồ bấn loạn, người đi về nhà, kẻ chán nản vì Thầy của mình đã chết. Không chỉ đơn thuần là Thầy mà là người mà cả cuộc đời mình tín thác, mình trao phó, thậm chí bỏ cả vợ cả con, cả gia đình để theo mà nay đã chết nên chẳng còn gì để mất cả. Các môn đệ tán loạn nhưng may mắn Mẹ đã giữ vững niềm tin ấy để quy tụ các môn đệ cùng quay trợ lại nơi các ông trú ngụ để cùng nhau cầu nguyện, cùng nhau giữ vững niềm tin vào Đấng Cứu Độ trần gian.
Niềm tin đó chính Mẹ đã giữ, giữ từ ngày xin vâng lời sứ thần cho đến khi Chúa Giêsu ra đi.
Tràng chuỗi Mân Côi mà ngày nay đoàn con cùng suy niệm chính là cùng nhau suy niệm niềm tin của Mẹ vào cuộc đời của Đấng Cứu Thế.
Mừng Mẹ Mân Côi là mừng niềm tin của Mẹ vào cuộc đời của Đấng Cứu Thế.
Không phải mừng lễ Mẹ như là mừng một biến cố, ghi dấu một kỷ niêm nhưng lại một lần nữa ta cùng nhau chiêm ngưỡng niềm tin của Mẹ. Và, cũng không phải chỉ để chiêm ngưỡng nhưng là để cùng nhau sống niềm tin vào Đấng Cứu Độ trần gian như Mẹ đã sống.
Cách riêng, trong năm Đức Tin này, một lần nữa, cơ hội, dịp để chúng ta soi chiếu niềm tin của chúng ta vào Đấng Cứu Độ trần gian như thế nào? Dĩ nhiên, niềm tin ấy cũng như cơn sóng xô của cuộc đời. Niềm tin ấy cũng có lúc mãnh liệt, cũng có lúc cảm thấy mệt nhoài với những đau khổ trong đời. Thế nhưng, nhìn đi nhìn lại, nhìn tới nhìn lui thì những đau khổ mà ta phải chịu đó cũng chẳng thấm vào đâu so với tất cả những nỗi đau của Mẹ Maria. Và, Mẹ Maria cũng đau chưa bằng chính Chúa Giêsu con của Mẹ phải chấp nhận đau khổ đến hiến mạng sống của mình để đem lại ơn cứu độ cho con người. Chúa Giêsu, trong tất cả nỗi đau của mình, Ngài đã vâng lời Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập giá.
Ngày mỗi ngày, khi lần chuỗi Mân Côi, chúng ta cùng đi với Mẹ Maria hành trình cuộc đời của Chúa Giêsu từ nhập thể, nhập thế và chết trên cây thánh giá. Nhìn như vậy, chiêm ngắm như vậy, suy niệm như vậy để cùng Mẹ dâng lên Chúa mọi đau thương thử thách của cuộc đời.
Dĩ nhiên với bản tính mỏng dòn non yếu và phận người tội lỗi, chúng ta khó có thể đi theo Chúa trên con đường thập giá. Nhưng, khi cùng đồng hành với Mẹ, có Mẹ trong cuộc đời, chúng ta sẽ cảm thấy thập giá đời của ta nó nhẹ nhàng và thanh thản hơn.
Hãy cùng với Mẹ Maria và thưa với Chúa hai tiếng xin vâng như Mẹ để tất cả mọi khổ đau của đời ta nên nhẹ nhàng. Hãy cùng xin vâng như Mẹ để niềm tin của chúng ta ngày mỗi ngày trao phó cuộc đời của chúng ta càng thêm mạnh đủ để chúng ta bắt chước như Mẹ mở toang cuộc đời của ta cho Chúa vào để Chúa hành động trong ta.
Chúng ta đã nghe nhắc đi nhắc lại trang Tin Mừng của thánh Luca về việc thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ, chúng ta có thấy nhàm chán không? Hãy khám phá không ngừng biến cố duy nhất tuyệt vời ấy. Hãy nhìn thấy tình yêu Chúa và khuôn mặt đáng yêu của Mẹ chúng ta.
Thật thế, mỗi khi đọc lại trang Tin Mừng này, ai là con cái Đức Mẹ phải cảm thấy vui mừng và tri ân, vì đây là một biến cố quyết định hạnh phúc của chúng ta, của toàn thể nhân loại. Thiên Chúa đã đến trần gian đang ngập chìm trong tăm tối mịt mù. Dân Do Thái đã chờ đợi qua bao nhiêu thế kỷ và hôm nay, ngày hạnh phúc đã đến. Thiên sứ báo cho Mẹ một tin vui mà từ từ Mẹ mới khám phá. Tin vui đó chính là Thiên Chúa đã yêu thương trần gian đến nỗi ban Con Một mình cho trần gian. Điều đó không tạo nên một niềm vui rộn ràng trong lòng chúng ta sao? Đức tin chính là nhảy mừng trong Chúa.
Trình thuật của Luca rất sống động và mỗi khi chúng ta nghe đọc lại đoạn Tin Mừng này, chúng ta chiêm ngắm khuôn mặt đáng yêu của Mẹ chúng ta.
Đọc đi đọc lại, chúng ta càng thấy Mẹ chúng ta đáng yêu như thế nào?
E sợ nhưng không mất bình tỉnh, Maria vẫn tự hỏi… Nhưng thiên thần đã nhanh chóng đánh tan sự bối rối của Maria: “Thưa Bà Maria, xin đừng sợ, vì Bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây, bà sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và đặt tên nó là Giêsu…” Maria càng ngạc nhiên hơn và trả lời: “Việc này xảy ra thế nào được vì tôi không biết đến việc vợ chồng?”
Thánh Luca đã nói trước, Maria đã đính hôn với một người thanh niên tên là Giuse, trong giờ phút này Maria lại nói rằng sẽ không biết đến việc lấy chồng, thế nghĩa là sao? Chúng ta thường không để ý đến vấn đề này mà chỉ xem như đã biết rồi. Đây mới là vấn đề. Đã đính hôn rồi thì sớm hay muộn người ta cũng rước về nhà, hơn nữa trong xã hội Do Thái, người nữ không có quyền quyết định, chỉ có bên nam có quyền mà thôi. Sao Maria dám quả quyết rằng tôi sẽ không có chồng?
Maria chỉ có một quyền duy nhất là năn nỉ. Bên đàng trai có thể trả tự do cho thiếu nữ đã đính hôn với mình. Có lẽ Maria tin cậy rằng Giuse là người tốt có thể chấp nhận chuyện này dễ dàng.
Thiên thần cho Maria biết, tất cả mọi sự không do nàng mà do chính Thiên Chúa. Ngài sẽ che chở nàng… Maria đã hiểu và đã tuân phục: “Tôi là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.
Thái độ của Maria thật dễ thương. Nàng bình thản, đắn đo và sau cùng chấp nhận, hoàn toàn tín thác vào Chúa, không bận tâm.
Khi chúng ta lần chuỗi Mân Côi là lúc chúng ta lặp lại những lời thiên thần chào và ngợi khen Mẹ “đầy ơn phúc”, không có gì tươi sáng hơn, không có gì êm đềm hơn. Mẹ được Chúa trên trời đoái đến và mời gọi mang Chúa Con đến với chúng ta. Mẹ thay chúng ta đón nhận hồng ân trên các hồng ân là Con của Chúa Cha.
Chúng ta cùng với Mẹ đi suốt quảng đường của Con Chúa, Đấng xuống thế làm người vì chúng ta và để cứu độ chúng ta, và cùng với Mẹ, sống lại trong vinh quang. Như thế, chúng ta sẽ có Mẹ đi cùng chúng ta suốt quảng đường cuộc đời chúng ta. Như thế có phải là hạnh phúc không?
Tại sao có nhiều người không muốn lần chuỗi Mân Côi, viện đủ thứ lý lẽ, chỉ vì họ không hiểu được tình yêu của Mẹ và hồng ân họ lãnh được nơi Mẹ. Mẹ là phần thưởng Chúa ban cho những ai thành tâm sống trong tình yêu Chúa, tin vào tình yêu Chúa. Mẹ là quả tim đón nhận Chúa Giêsu, thì Mẹ cũng đón nhận chúng ta, vì Mẹ đã được trao phó làm Mẹ chúng ta. Giây phút đau thương nhất trên thập giá cũng là giây phút tuyệt hảo nhất vì trong giây phút đó, chúng ta đón nhận hồng ân êm đềm nhất là chính Mẹ Maria.
Mẹ là nguồn sống cho Ngôi Hai ra đời, Mẹ cũng là nguồn sống cho chúng ta là kẻ có tội. Ai cảm thấy mình yếu đuối, phạm tội, hãy tin vào Mẹ. Mẹ yêu Chúa Giêsu thế nào thì Mẹ cũng yêu chúng ta như thế.
Lễ Đức Mẹ Mân Côi, trong phụng vụ chỉ là lễ nhớ chứ không là lễ trọng. Ở Việt Nam, Hội Đồng Giám Mục muốn khuyến khích giáo dân yêu mến Đức Mẹ đã cho phép kính trọng thể lễ Đức Mẹ Mân Côi vào ngày Chúa Nhật, và khuyến khích giáo dân lần chuỗi Mân Côi. Và đúng thế, giáo dân Việt Nam rất yêu mến và tôn sùng Đức Mẹ, và trong các giáo xứ, việc lần chuỗi Mân Côi là việc thường ngày. Nhưng việc lần chuỗi Mân Côi có thể trở thành một thói quen đạo đức mà không ảnh hưởng gì đến đời sống của con người, nghĩa là không giúp người ta đạo đức hơn. Vì thế phải lần chuỗi một cách ý thức mới mang lại hiệu quả tốt.
Các Đức Giáo Hoàng, nhất là các Đức Giáo Hoàng gần đây vẫn khuyến khích yêu mến Đức Mẹ bằng cách lần chuỗi Mân Côi.
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã viết một thông điệp về Việc sùng kính Đức Mẹ, vạch rõ con đường phải theo trong việc sùng kính Đức Mẹ vào chiều sâu và thích hợp với hoàn cảnh hôm nay. Đức Thánh Gioan-Phaolô II đã viết Tông Thư Chuỗi Mân Côi của Đức Trinh Nữ Maria và đã dâng một năm để cổ võ lòng sùng kính Mẹ Thánh Chúa bằng việc lần chuỗi Mân Côi là năm 2002.
Như thế, chúng ta thấy rằng việc lần chuỗi Mân Côi không là một sáng kiến cá nhân mà là một việc hệ trọng của Giáo Hội.
Chúng ta biết lần chuỗi như thế nào, là lặp đi lặp lại lời chào của Thiên thần khi đến truyền tin cho Đức Mẹ, và lời chào của thánh Êlisabết khi Đức Mẹ đến viếng thăm Bà, kèm theo một lời nguyện. Nhưng không chỉ có bao nhiêu đó, mà cùng với Mẹ suy ngắm những mầu nhiệm của cuộc đời Chúa Giêsu, dưới sự hướng dẫn của Mẹ.
Hôm nay, Giáo Hội nhắc chúng ta đến việc Thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ. Đây là một bản tình ca tươi mát, rực rỡ niềm vui. Thiên Chúa ngõ lời với con người, mời gọi con người bước vào tình yêu của Ngài. Ngài chọn một thiếu nữ, con cái Ađam để cùng với Ngài thực hiện chương trình yêu thương của Ngài là đưa Con Một của Ngài vào trần gian, để cứu vớt nhân loại, đang nằm trông ách nô lệ tội lỗi. Người con gái Xion ấy tên là Maria, một thôn nữ giản dị, trong sáng đã được đính hôn với một chàng thanh niên tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít.
Con gái Itraen, qua mười hai tuổi đều được đính hôn để tránh những việc không hay có thể xảy ra…Thời gian đính hôn là một năm, sau đó mới có lễ cưới.
Maria không thoát khỏi tập tục đó. Thế nhưng, một Thiên sứ đã được sai đến với nàng để báo cho nàng biết, nàng phải thụ thai một đứa con trai và sẽ đặt tên nó là Giêsu, và nó là Con Đấng Tối Cao. Chúng ta đã từng nghe nhiều lần đoạn Tin Mừng của thánh Luca nầy.
Ngay từ lời chào đầu tiên đã làm cho Maria bối rối: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng. Đức Chúa ở cùng bà”. Maria bối rối vì nàng chỉ là một đứa con gái nhỏ, tại sao lại gọi nàng bằng những tước hiệu cao cả như thế? Chúng ta đã biết những lời đối đáp của Thiên thần với Mẹ Maria. Sau cùng Mẹ Maria, khi đã biết ý định của Chúa đã nói tiếng xin vâng vô điều kiện. Chính sự vâng phục nầy đã đem Con Một của Chúa Cha đến trần gian.
Chúng ta đọc kinh Mân Côi là lặp lại lời chào của Thiên thần và dùng những lời ấy để mừng Mẹ. Mẹ chính là Đấng đầy ân sủng, vì Mẹ đã được Chúa ưu ái tuyển chọn và sau nầy ở Lộ Đức, chính Mẹ đã cho chúng ta biết Mẹ là Đấng Vô Nhiễm nguyên tội. Kinh Mân Côi hay là kinh Kính Mừng được tiếp nối bằng những lời của thánh Êlisabết khi Mẹ đến thăm bà: “Em có phúc hơn mọi người phụ nữ và con lòng em cũng có phúc”.
Đó không chỉ là lời của thánh Êlisabét mà thôi mà là lời của Chúa Thánh thần soi sáng cho bà. Chúng ta lặp lại những lời ấy để thấy vinh quang của Mẹ chúng ta. Nhưng không chỉ bao nhiêu đó, mà nhìn thấy tình yêu Chúa được tỏ ra nơi Mẹ.
Thiên Chúa đã thương chúng ta đến nỗi ban Con Một Người cho chúng ta . Muốn thực hiện điều đó, Chúa phải nhờ đến một tạo vật thấp hèn của Người, mời gọi nàng làm mẹ Con của Người.
Hơn nữa, chúng ta cùng với Mẹ, chiêm ngưỡng Người Con Một của Chúa Cha, Đấng đã vì chúng ta, mặc lấy xác phàm, làm người sống giữa chúng ta, chết và sống lại cho chúng ta. Đọc kinh Mân Côi tức là chiêm ngắm Chúa qua cái nhìn và tâm tình của Đức Mẹ, “không ai say sưa chiêm ngắm dung nhan Chúa Giêsu một cách liên tục như Mẹ”. Vì Ngài là con của Mẹ. Mẹ đã săn sóc nuôi dưỡng Ngài từ khi còn trong dạ Mẹ đến khi Ngài tắt thở trên thập giá. Chúng ta là con của Mẹ vì, trước khi lìa đời Chúa đã trao chúng ta cho Mẹ: “Thưa Bà, nầy là con Bà”.
Không ai biết rõ kinh Mân Côi phát xuất từ đâu vì nó được hình thành theo thời gian cho đến khi được chấp nhận cho đến hôm nay, nhưng ai đã liên kết Đức Mẹ với Chúa Giêsu một cách lạ lùng như thế?
Thật là một hồng ân cho chúng ta khi chúng ta mạo muội nói với Mẹ những lời chào của Thiên Thần và lòng trí chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu qua cuộc sống của Ngài. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói: “Không có sự chiêm ngưỡng Chúa Giêsu, kinh Mân Côi chỉ như một cái xác không hồn.”
Nhiều người cho rằng, lần chuỗi Mân Côi dài quá và phải chiêm ngưỡng những mầu nhiệm của Chúa Giêsu là một điều khó, làm nản chí nhiều người.
Nhưng ở đời, chúng ta phải đổ mồ hôi, công sức để có được một chút tiền, tại sao chúng ta lại ngại khó để tìm được vô vàn ơn lành cao cả hơn tiền bạc? Chỉ vì chúng ta không biết quí chuộng hồng ân Chúa đó thôi.
Kinh Mân Côi là nguồn suối mọi hồng ân: “Qua kinh Mân Côi, chúng ta lãnh nhận muôn vàn hồng ân qua tay Đức Mẹ”. Đức Giáo Hoàng Lêô XIII cũng đã nói: “Kinh Mân Côi như một vũ khí thiêng liêng hữu hiệu chống lại sự dữ làm phương hại đến xã hội” và cả linh hồn chúng ta.
Những người yêu mến kinh Mân Côi đều được Đức Mẹ che chở phù hộ và giúp họ yêu mến Chúa.. Nhờ Mẹ, họ say mê Chúa Giêsu và đó là hạnh phúc cao cả nhất mà chúng ta có thể ước mong. Chắc chắn, Đức Mẹ không bao giờ bỏ rơi những người yêu mến Mẹ.
Đến với Mẹ, chúng ta không chỉ đến với một người mà là đến với Nữ Vương thiên đàng, đến với Mẹ Thiên Chúa: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời”. Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ đủ sức để cầu cùng Con Mẹ cho chúng ta là những đứa con khốn khổ của Ngài. Chúa Giêsu, khi còn ở trần gian đã vâng lời Mẹ thế nào, thì hôm nay, Ngài vẫn vâng lời Mẹ như thế.
Chúng ta hãy tin vào lòng từ bi của Mẹ. Hãy đến với Mẹ vì Mẹ vẫn chờ đợi chúng ta. Chính Mẹ mới là con đường dẫn tới Chúa Giêsu Con Mẹ. Tất cả đều nhờ Mẹ thôi. Chúng ta là những kẻ tội lỗi cần được Mẹ trợ giúp mới bền vững theo Chúa đến cùng.
Hôm nay, Chúa Giêsu vẫn đến với chúng ta như xưa Ngài cũng đến khi Mẹ chấp nhận lời mời gọi của Chúa, khi Mẹ nói tiếng xin vâng khiêm tốn và chân thành. Chúng ta hãy nghe tiếng Chúa mời gọi, không phải bằng âm thanh, nhưng bằng tình yêu của Ngài khi Ngài trở thành một tấm bánh, nuôi dưỡng chúng ta. Chúng ta còn một con đường dài để đến nơi yên nghỉ, hãy ăn lấy Bánh hằng sống để đủ can đảm bước đến cùng, như Mẹ đã bước đến cùng, dù phải đi đến đỉnh đồi Canvê máu lệ. Xin Mẹ giúp chúng ta mang Chúa Giêsu đến với mọi người sau khi đã thành một với Ngài. Xin Mẹ giúp chúng ta nuôi dưỡng Chúa Giêsu Con Mẹ, bằng tình yêu chân thành cũng như xưa Mẹ đã nuôi dưỡng Ngài và ban Ngài cho chúng ta.
Thánh Anphong: Nhờ kinh Mân côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trong nẻo trọn lành. Biết bao người nhờ kinh Mân côi đã được ơn chết lành và hưởng phúc trường sinh.
Suy niệm:
Nếu như Kinh Lạy Cha là lời kinh trực tiếp mà Chúa Giêsu trao lại cho chúng ta, thì kế đó, phải kể tới kinh Kính Mừng, lời kinh quen thuộc với lòng đạo đức bình dân nơi bổn đạo. Kinh Kính Mừng xuất thân chính từ lời Kinh Thánh. Đó là lời sứ thần Gabriel, khi truyền tin cho Đức Maria về việc Trinh nữ sẽ cưu mang Con Thiên Chúa, đã chào rằng “Kính mừng Maria đầy ơn phước Ðức Chúa Trời ở cùng bà”. Đó còn là lời của Isave người chị họ tràn đầy Thánh Thần, cùng với người con đang nhảy mừng trong lòng khi Đức Maria đem Chúa đến viếng thăm rằng “Bà có phước lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng bà gồm phước lạ”. Và với lời định tín “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời…” tại Công đồng Êphêsô năm 431, toàn thể Hội Thánh tôn vinh Đức Trinh nữ Maria khi tuyên xưng đặc ân làm Mẹ Thiên Chúa nơi Mẹ.
Như chúng ta biết, điểm chính yếu mà thánh sử Luca muốn trình bày trong đoạn Tin Mừng trên đây là chính Ðức Giêsu Kitô, Đấng Messia, Con Ðấng Tối Cao, và là Ðấng Thánh của Thiên Chúa. Để chuẩn bị cho con Thiên Chúa nhập thể làm người, Ngài cần phải chọn cho Người Con sinh ra nơi một tâm hồn xứng đáng, một người phụ nữ tuyệt hảo, người được Chúa ưu ái và là người đầy tràn ơn sủng của Chúa để làm Mẹ Đấng Cứu Thế.
Thế nhưng, lời mời gọi của Thiên Chúa cũng làm đảo lộn hết của dự tính nơi thiếu nữ Nazaréth ấy. Nếu như Đức Maria muốn khấn dâng mình cho Thiên Chúa thì Ngài lại muốn cô làm mẹ và sinh con. Còn nếu Maria muốn sống bậc hôn nhân với Giuse như bao con người “trai lớn lấy vợ, gái lớn gả chồng”, thì Thiên Chúa lại muốn cô cưu mang một người con không phải từ nơi người nam như Giuse, mà là thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần ban xuống. Thiên Chúa luôn thực hiện điều mà còn người không bao giờ nghĩ tới. Cho nên, chỉ bằng lòng tin, Đức Maria mới có thể đáp lại lời sứ thần “Nếu Chúa muốn, không có việc gì mà Ngài không làm được” để dấn thân cho Thiên Chúa và để Ngài hoạch định trên cuộc đời mình.
Mẹ còn vâng phục Thánh ý đón nhận các tín hữu làm con cái khi Chúa Giêsu trao nhân loại lại cho Mẹ, mà Gioan là đại diện “Đây là con Bà”. Vì thế, Mẹ đã đồng hành với các môn đệ ngay từ những giây phút đầu tiên Giáo hội được thành lập. Bài đọc I cho chúng ta biết tất cả các Tông đồ đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Chúa Giêsu, và với anh em của Người. Gia đình Thiên Chúa giờ đây mở rộng ra bao gồm những ai lắng nghe lời Chúa và chuyên cần cầu nguyện cùng một sự hợp nhất với nhau, và với Đức Maria làm Mẹ Hội Thánh.
Đời sống đạo của các tín hữu qua dòng thời gian cũng được Mẹ đồng hành, và có những lúc Mẹ còn hiện ra để an ủi con cái. Mẹ thường khuyên nhủ hãy siêng năng lần hạt Mân Côi. “Mân Côi” phát xuất từ tiếng Latinh Rosarium, có nghĩa là vườn hoa hồng. Sở dĩ người Việt gọi là Mân Côi là vì tiếng Hán là “méi gùi”, và tiếng Hán Việt được đọc là Mân Côi, và có khi trại ra thành Môi Khôi, Mai Khôi. Hoa hồng lại là biểu tượng của lòng mến, của tình yêu. Những lời kinh Kính Mừng được kết thành tràng Chuỗi tượng trương cho vòng hoa hồng thiêng dâng kính Đức Mẹ.
Như Đức Giáo hoàng Piô XII khẳng định: “Chuỗi Mân Côi là một bản tóm lượt toàn bộ Tin Mừng”, phác hoạ lại toàn bộ cuộc đời của Chúa Giêsu, mà Mẹ đã gắn bó cách mật thiết với Người. Để rồi, trước sự sẵn sàng xin vâng theo Thánh ý, Đức Maria càng làm đẹp lòng Chúa, nên mọi đều Mẹ khấn xin đều được Chúa đáp lời. Vì thế, chúng ta là con cái của Mẹ, hãy nhờ Mẹ dâng lời cầu xin lên Thiên Chúa ngay trong giây phút hiện tại cuộc sống của chúng ta cũng như trong giờ lâm tử nguy khốn.
Lịch sử Giáo hội đã ghi lại những cuộc chiến thắng oanh liệt của nhờ lời việc lần chuỗi Mân côi:
Chẳng hạn, đầu thế kỷ XII bè rối Albigensê nổi lên ở miền Nam nước Pháp, gieo lầm than và đau khổ cho nhân dân. Thánh Đaminh đứng ra khấn xin Đức Mẹ soi sáng cách nào để cứu vớt những tâm hồn sai lạc. Đức Mẹ đã hiện ra, tay cầm một chuỗi Mân côi, và dạy thánh Đaminh cách đọc Kinh Mân côi, đồng thời truyền cho ngài rao giảng như một phương thuốc linh nghiệm ngăn ngừa tội lỗi và sự lầm lạc. Quả nhiên, hơn 100.000 kẻ rối đạo đã từ bỏ sự sai lạc, và rất nhiều người được thêm phấn khởi sốt sắng đọc kinh Mân côi.
Hơn thế nữa, vào thế kỷ XVI quân Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ đe doạ xâm chiến toàn vùng đất Công giáo Âu châu. Và trong lúc thuỷ quân của Hồi giáo xuống vịnh Lépante để tràn sang Âu châu, đô đốc Don Juan người nước Áo chỉ huy hải quân Công giáo ra nghinh chiến. Lúc ấy, thánh Giáo hoàng Piô đệ V truyền lệnh cho các giáo phận tổ chức một nghi thức "cầu nguyện 40 giờ" gồm cuộc rước kiệu cung nghinh Đức Mẹ và đọc kinh Mân côi cầu cho các chiến sĩ Công giáo thắng trận. Bỗng nhiên, tại vịnh Lépante gió đổi chiều làm lợi điểm cho các chiến hạm Công giáo ào ạt tấn công đánh chìm các chiến hạm quân Thổ vào ngày Chúa nhật 7/10/1571. Sau cuộc thắng trận nhờ ơn lạ đặc biệt của Đức Mẹ Rất Thánh Mân Côi, thánh Piô V dạy rước kiệu Mẹ trọng thể và thành lập lễ Mẹ Thắng Trận vào ngày mồng 7 tháng 10 để ghi ơn Đức Mẹ.
Ngày nay, các tín hữu còn tiếp tục được khuyến khích dùng lời kinh Mân Côi giúp nâng tâm hồn lên tới Chúa. Nhưng không phải bởi số lượng lời kinh mà là bởi sự chú tâm sốt sắng chất lượng miệng đọc lòng suy. Nếu đọc kinh Mân côi mà không suy niệm mầu nhiệm, kinh Mân Côi sẽ chỉ có xác mà không có hồn. Phần kinh đọc gồm: Một lời nguyện bắt đầu một ngắm. Sau đó đọc Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh, và kết thúc mỗi chục bằng lời xin ơn: “Lạy Đức Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần nhờ đến lòng Chúa thương xót hơn”. Và tiếp theo đến lời nguyện ngắm thứ hai…, cứ như vậy đến hết ngắm thứ năm của một mùa Vui, Sáng, Thương hay Mừng.
Lạy Mẹ Maria, chúng con là những người con thảo, xin quyết tâm làm thành một tràng chuỗi Mân Côi dâng lên Đức Mẹ trong tháng Mười Mân Côi này, hợp với lời chúc tụng Đức Mẹ là lời xin ơn của chúng con: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi này và trong giờ lâm tử”. Vâng, vì thân phận phải chết của chúng con, và vì chúng con tin tưởng đời sống của Mẹ đẹp lòng Chúa, nên lời cầu xin của Mẹ cũng rất hiệu nghiệm. Mẹ còn là thụ đạo đầu tiên được Chúa ban thưởng phúc Thiên đàng cả hồn lẫn xác. Vậy xin Mẹ giúp chúng con là con cái của Mẹ biết chạy đến nương ẩn nơi Mẹ để Mẹ chở che cho chúng con giữa biển hiểm nguy trần thế này và trong giờ sau hết, để ngày sau chúng con được vào hưởng vinh phúc Thiên đàng với Mẹ và Con của Mẹ là Vua muôn đời. Amen.
***
THẦN LỰC KINH MÂN CÔI
Ngoài những ơn lạ Đức Mẹ ban nhờ thần lực của kinh Mân côi về phần hồn cũng như phần xác, * Mẹ Maria phán dạy Chân phước Alanô: "Bất cứ ai trung thành đọc kinh Mân côi và suy ngắm những mầu nhiệm sẽ được ân thưởng. Mẹ sẽ xin cho họ được tha mọi hình phạt và mọi tội lỗi trong giờ họ chết. Điều đó rất dễ đối với Mẹ, vì Mẹ là Mẹ Vua Trời và Người gọi Mẹ là Đấng đầy ơn. Và vì đầy ơn, Mẹ có thể ban phát ơn phúc cho các con cái dấu yêu của Mẹ".
- Thánh Đaminh: Sau thánh lễ và kinh Phụng vụ, không có sự tôn kính nào đẹp lòng Chúa Giêsu và Mẹ Thánh Người bằng sốt sắng đọc kinh Mân côi.
- Chân phúc Alanô: Kinh Kính mừng là một cầu vòng trên trời, là một dấu chỉ lòng thương xót và ân sủng Thiên Chúa ban cho thế giới. Mẹ muốn dân chúng có lòng sùng kính kinh Mân côi được ơn thánh và phúc lành của Con Mẹ torng cuộc sống và trong giờ họ chết. Mẹ muốn họ thoát khỏi mọi ràng buộc, để họ nên giống các vua đội triều thiên, cầm phủ việt và hưởng phúc vinh quang vĩnh cửu.
- Thánh Anphong: Nhờ kinh Mân côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trong nẻo trọn lành. Biết bao người nhờ kinh Mân côi đã được ơn chết lành và hưởng phúc trường sinh.
- Đức Gioan XXIII: Chớ gì kinh Mân côi gia đình là một hương thơm sự an bình cho gia đình các con. Ước chi con cái của các con chạy đến với Mẹ maria để gìn giữ sự trong trắng thơ ngây. Ước chi các bạn thanh thiếu niên học được nơi Đức Mẹ sự phấn khởi làm việc thiện và bảo đảm sự thanh khiết của họ. Ước chi người đau khổ hy vọng được niềm an ủi nơi Đức Nữ Trinh.
- Đức Phaolô VI: Kinh Mân côi đạo đức và phổ cập hiện ra như một chuỗi cứu độ treo trên cánh tay Chúa Cứu Thế và Mẹ Thánh Người, và do đó phát ra mọi ơn lành cho chúng ta và mọi niềm hy vọng đến với chúng ta.
- Đức Gioan Phaolô II: Trong những chục kinh Mân côi, tấm lòng chúng ta có thể hái lượm được những sự kiện làm thành đời sống cá nhân, gia đình, dân tộc, giáo hội và thế giới. Đó là những vấn đề cá nhân hay người thân cận, người thân quyến chúng ta. Như vậy, kinh Mân côi hoà nhịp đời sống con người.
Lời kinh Mân Côi luôn gắn bó với đời sống đức tin và lòng đạo đức bình dân của tín hữu Việt Nam. Vâng, từ những ngày đầu tiên Tin Mừng đến đất nước này, việc đọc kinh kính mừng thịnh hành đến nỗi mọi người đọc khắp mọi nơi. Đã vậy, các sự gẫm còn được suy gẫm theo cách văn vần để ngắm theo cung kinh vãn long trọng. Gẫm Năm Sự Vui, thứ năm thì gẫm: “Đức Bà tìm đặng Đức Chúa Giêsu trong đền thánh. Ta hãy xin giữ nghĩa cùng Chúa luôn” trong bản kinh phép ngắm Rosa, là một chứng tích:
Lễ rồi, con lạc, Mẹ tìm con, Lòng Mẹ, ba ngày rất héo hon. Đoạn trở vào đền, tìm lại thấy, Con về, thảo kính đến khi khôn.
Lạy ơn Đức Mẹ nhân thay, Xin vì sự nhiệm mầu này, xuống ơn Cho con lòng thật ăn năn, Soi gương phúc đức, siêng năng, vâng lời
(Văn côi thánh nguyệt tán tụng thi ca, 73-80)
Người Việt Nam vốn giàu tình cảm với mẹ mình thế nào thì nay, Kinh kính mừng đã trở nên lời kinh trước tiên là đầy tình cảm dành cho Mẹ Maria Mẹ Thiên Chúa, Mẹ chúng sinh, và sau đó là lời kinh của Đức Tin khi học hiểu cùng Mẹ sống trọn Tin Mừng Chúa Giêsu, Con Mẹ. Đọc kinh kính mừng để ca tụng Mẹ, để noi gương mẹ, để xin ơn Mẹ sống Tin Mừng của Chúa và xin ơn an bình trong những lúc cùng khốn.
- Kinh kính mừng trong cơn bách đạo của các chứng nhân xin Mẹ được ơn can đảm làm chứng cho Đức Tin Công Giáo.
- Kinh kính mừng trong lúc khốn khổ ở La Vang, ở nơi này nơi kia xin Mẹ ơn bình an giữ đạo Chúa cho nên.
- Kinh kính mừng trong thời chiến tranh loạn lac, giữa bom đạn, giữa lúc tản cư, giữa đường chạy giặc, xin cho thoát khỏi nạn quỷ dữ vô thần.
- Kinh kính mừng của những ngày đất nước phải sống trong một hoàn cảnh mới.
Vâng, làm sao quên được cảnh đời cơ cực ở Việt Nam đã suốt bao nhiêu năm trời. Và cũng làm sao mà quên được những chuỗi kinh kính mừng trong phút giờ tưởng như là tuyệt vọng. Người người đọc kinh Mân Côi. Nhà nhà lẫn chuỗi Mân Côi. Trên nương rẫy, dưới đồng sâu, nơi hợp tác xã, trong trại cải tạo, dưới ánh trăng khuya bên ngọn đèn dầu khu kinh tế mới, cụ ông cụ bà thấp cao không đều giọng đọc với trẻ con, thế mà tiếng kinh kính mừng âm thầm râm ran như lời kêu van thống thiết Mẹ Ơi Đoái Thương chúng con giữa cảnh đời u ám điêu tàn!
Và nhờ kinh kính mừng, lòng người được bình an.
Tôi còn nhớ, phía sau nhà thờ gỗ loang lỗ những vết đạn, rách nát do những mảnh bom, cụ già Toma với năm bảy người bên ngọn đèn dầu, lần chuỗi Mân Côi:
- “Tháng này lần chuỗi xin Đức Mẹ cho có cha trông coi Giáo xứ”.
- “Sao không vào nhà thờ mà đọc kinh?”
- “Xứ mình không có cha, không dám làm gì trong nhà thờ cả. Ủy Ban Xã bên cạnh. Hôm bữa họ xách súng qua đây hỏi rồi”.
- “Vậy, mình đọc ở đây họ thấy có bắt không”
- “Không đâu! Đức Mẹ nào để cho ai bắt mình. Nhưng bắt thì mình xin. Đọc kinh mà, tội gì. Cứ đọc đi. Ban đầu thì sau nhà thờ, rồi ít bữa nữa đọc hè nhà thờ, cho người ta thấy quen mắt rồi mình vào trong nhà thờ”.
Và nhờ kinh kính mừng, Đức Mẹ đã cầu thay nguyện giúp. Chúa đã nhậm lời. Từ những buổi kinh ít người ngoài, rồi trong nhà thờ rách nát, đến đông hơn, rồi phụng vụ Lời Chúa, rồi “mượn” được Cha về làm lễ, và cuối cùng là có Cha xứ, xây nhà thờ mới, Giáo xứ phát triển….
Cụ Tô-ma đã qua đời được gần 20 năm, nhưng kỷ niệm Mân Côi ấy không phai nhòa trong ký ức của Giáo Xứ.
Tôi còn nhớ, một nửa buổi nọ, mang ra ruộng cho cha vài củ khoai. Đứng trên bờ nhìn xuống, tôi đếm cha cày được 10 đường cày rồi. Thế là tôi biết cha đã lần hai chuỗi. Bên kia, Mẹ chất đầy hai giỏ mạ. Thì ra mẹ cũng hai chuỗi Mân Côi rồi, không ít hơn.
Vâng, những ngày gian khổ ấy, cha mẹ chúng ta Lần Chuỗi Mân Côi không bằng xâu chuỗi ngọc sáng trưng, không bằng xâu chuỗi gỗ xinh xắn, nhưng bằng mười ngón tay bùn lầy, đen đủi, rám nắng. Chuỗi Mân Côi và 5 sự gẫm được tính bằng lọn mạ, đường bừa, đường cày, tính bằng vồng khoai, thúng bắp, bó rau thật sốt sắng, thật tin tưởng, thật khẩn thiết, thành tâm.
Cũng nhờ kinh kính mừng, đời sống các gia đình thật êm đềm hạnh phúc.
Không ai dám tiếc nuối một thuở thời lầm lũi trong nghèo khổ đau thương, trong nước mắt dập vùi. Bởi vì, ai cũng có quyền ước mơ một cảnh đời an nhàn thư thái, sung túc, thịnh vượng. Nhưng khi đã hưng thịnh, giàu sang, phú quý hay ít là có của ăn của để rồi, thì tôi bỗng dưng tiếc nuối lòng đạo đức của ông bà cha mẹ chúng ta trong những ngày gian khổ ấy. Lòng đạo đức của ông bà, của tiền nhân nay còn đâu?! Đáng lý ra, tấm gương sáng của những người đi trước chúng ta, hẳn phải lưu truyền lại cho hậu thế, và hậu sinh phải là những người tiếp bước lòng đạo đức ấy.
Là hậu duệ của các Thánh Tử Đạo Việt Nam, là con là cháu trong gia đình Công Giáo hôm nay, nhân tháng Mân Côi này, hẳn phải lập lại đời sống đạo đức, đời sống Đức Tin, đời sống Tin Mừng mà cha ông ta đã nêu gương sáng lạn. Có như thế, thiết nghĩ mới gọi được là có lòng hiếu kính với ông bà, có lòng tri ân Thiên Chúa tri ân Mẹ Maria đã giúp ông bà cha mẹ chúng ta vượt qua bao gian nan thử thách của cuộc đời, để chúng ta có được ngày hôm nay.
Vâng, Lễ Mẹ Maria Mân Côi, nhắc đến sức mạnh của Kinh Mân Côi, của Chuỗi Mân Côi chiến thắng bè rối Albigeois chống phá Giáo Hội và cụ thể hơn, nhắc nhớ cho mỗi tín hữu Việt Nam rằng ông bà cha mẹ của chúng ta đã nhờ kinh Mân Côi mà vượt qua mọi gian nan, mà chiến thắng thế lực của quỷ thần
- để có một Giáo Hội Việt Nam thu hoạch mùa lúa dồi dào
- để còn các gia đình kính thờ Thiên Chúa
- để còn Đức Tin và hạnh phúc nhờ Đức Tin mang lại trong các gia đình công giáo trong mỗi tín hữu.
Chuỗi Mân Côi nay đâu? Kinh Mân Côi nay đâu? Lớp người trẻ, thế hệ con cháu có còn yêu mến, siêng năng và sốt sắng đọc kinh kính mừng hay lần chuỗi Mân Côi?
Thiết tưởng, bổn phận khẩn cấp của chúng ta hôm nay, đặc biệt người trẻ, là tái lập việc đọc kinh Mân Côi chung, riêng ở khắp mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã giúp cha ông chúng con vượt qua gian nan và chiến thắng quỷ thần nhờ sức mạnh của kinh Mân Côi. Xin cho chúng con lòng yêu mến, sốt sắng cùng sống Đức Tin qua lời kinh Mân Côi trong suốt đời mình. Amen.
Giáo Xứ tôi, được xây dựng vào tháng 10 năm 1973, khi cha Stephano đưa đoàn di dân vào khu khẩn hoang lập ấp. Rừng thiêng nước độc. Nhà Thờ bằng cây rừng, mái tôn, vách ván thô sơ.
Sau tháng 4 năm 1975, Nhà Xứ, Nhà Thờ, trống trước trống sau, và đoàn Giáo Dân nghèo vẫn còn đó, mà chủ chiên thì vắng bóng vì thời cuộc quá nhiễu nhương.
Mỗi Chúa Nhật, bà con đến Nhà Thờ đọc dăm bảy kinh rồi về. Gọi "dăm bảy kinh" là vì bà con không dám ngồi lâu hơn trong Nhà Thờ nằm ngay bên cạnh Ủy Ban Nhân Dân Xã mới được xây dựng ngay trên đất đã qui hoạch cho Nhà Thờ!
Cha GB. Trương Văn Hiếu, chánh xứ Giáo Xứ Hòa Vinh, cách Giáo Xứ tôi 4 cây số, thường xuyên kín đáo thăm bà con và thỉnh thoảng thăm Nhà Thờ, ban Bí Tích Giải Tội tập thể. Rồi dần quen, cha thỉnh thoảng đến dâng Thánh Lễ công khai luôn. Tháng 10 năm ấy, lễ Đức Mẹ Mân Côi, cha tha thiết bảo bà con siêng năng lần hạt Mân Côi với niềm tin rằng Mẹ sẽ ban cho anh em một chủ chiên mới.
Cũng ngày ấy, ngài chính thức đặt tên cho ca đoàn Giáo Xứ gồm những anh chị em nông dân nghèo khổ cái tên gọi thân thương "Ca Đoàn Mân Côi". Ngài nói: "Kinh Mân Côi là bài ca chiến thắng của những người nghèo khổ của Thiên Chúa". Ngài giải thích: "Người nghèo khổ của Thiên Chúa là người có lòng khiêm nhượng, khao khát Thiên Chúa với niềm tín thác mạnh mẻ, và nhất là, người biết mình còn có đời sau và cần có đời sau".
Cả Giáo Xứ ra sức đọc kinh Mân Côi, nhà nhà Mân Côi, người người Mân Côi. Bảy năm đọc kinh Mân Côi. Bà con hiệp lòng ký vào một đơn xin Linh Mục đặt dưới chân Đức Mẹ. Hai ông trong Hội Đồng Giáo Xứ đi ở tù. Nhiều ông khác "được" thăm hỏi, "được" canh phòng cẩn mật...
Tháng 9 năm 1982, Cha PX. Lê Quang Diễn nhận bài sai của Đức Giám Mục Nicolas, từ trại cải tạo về làm quản xứ. Có thể nói, đây là bài sai đổi xứ đầu tiên trong Giáo Phận sau năm 1975, và cũng là trường hợp đổi xứ đặc biệt nhất: từ trại cải tạo ra ngay làm quản xứ, không có thời gian quản thúc, quản chế... Cả Giáo Xứ tạ ơn Mẹ Maria và nhận ra đây là phép lạ của chuỗi Mân Côi mà cha GB. Trương Văn Hiếu đã khuyến khích trong suốt 7 năm ròng.
Cha GB. đã về với Chúa ngày 21.5.2011, nhưng "Bài Ca Chiến Thắng Của Người Nghèo Khổ" từ ngài vẫn luôn là lời nhắn gửi sống động:
- Kinh Mân Côi của người có lòng khiêm nhượng
- Kinh Mân Côi của người có lòng khao khát Thiên Chúa với niềm tín thác mạnh mẻ.
- Kinh Mân Côi của người biết mình còn có đời sau và cần có đời sau.
Thiết tưởng bài ca của người nghèo và phép lạ Mân Côi không chỉ là bài ca và phép lạ của bà con Giáo Xứ tôi, nhưng còn là của mọi tín hữu khắp nơi trên thế giới.
Vâng, trong lịch sử Giáo Hội, bài ca của người nghèo là lời kinh Mân Côi đã từng chiến thắng bè rối Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp vào thế kỷ 13, chiến thắng sự bành trướng của ly giáo Cải Cách ở Luxembourg, chiến thắng quân Thổ Nhĩ Kỳ thế kỷ 16, và đầu thế kỷ 20, chiến thắng phái Tam Điểm phân hóa và chống phá Giáo Hội tại Bồ Đào Nha...
Và ngay đến hôm nay, lời kinh Mân Côi vẫn còn ghi thêm những chiến công lẫy lừng.
- Những chứng từ sống động về lời kinh Mân Côi của những người phụ nữ Công Giáo Nga, ít học, quê mùa đã hết lòng khiêm nhường, tín thác, không chỉ 7 năm Mân Côi mà là gần 70 năm Mân Côi dưới chế độ vô thần cộng sản để niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô vẫn mãnh liệt, sức sống của Chúa Giêsu Kitô vẫn trẻ trung, và Giáo Hội Chúa Kitô vẫn tồn tại và sống động.
- Những chứng từ sống động về lời kinh Mân Côi của những Giáo Hội hầm trú bên Trung Quốc đã khẳng định sức mạnh chiến thắng diệu kỳ của chuỗi Mân Côi trước bao bức bách, cường bạo.
- Những chứng từ sống động gần gũi nhất nơi mỗi biến cố thắp nến cầu nguyện cho Công Lý tại Việt Nam, bài ca chiến thắng của những người nghèo lại cất lên, và phép lạ của kinh Mân Côi phải thấy được bằng con mắt Đức Tin mới nhận ra mình đang được hơn là mất, đang thắng chứ không phải thua, đang bình an và hiệp nhất giữa sóng gió tưởng có thể chòng chành, chao đảo.
Vâng, có thể là không còn tượng Đức Mẹ ở công viên, nhưng sáng sáng chiều chiều ở "công viên mới" vẫn còn lời kinh kính mừng của những người yêu mến Mẹ. Tượng Đức Mẹ người ta đã dẹp đi rồi. Nhưng Mẹ vẫn ở đó. Ai dám nói những người nghèo khổ của Mẹ đang thua? Vẫn những kinh Mân Côi hướng lòng lên Đồi Thánh Giá. Có thể là không còn cây Thánh Giá trên đồi xưa đầy kỷ niệm, nhưng, cây Thánh Giá trên cao quá, ở xa quá, bây giờ người ta đã hạ cây Thánh Giá ấy xuống mà đặt vào ngay trong lòng mỗi tín hữu để tôn kính, để ôm hôn, để làm nhịp cầu cứu rỗi. Ai dám nói những người nghèo khổ của Mẹ đang thua?
Có những chiến công không chỉ thấy bằng con mắt Đức Tin, mà con mắt trần cũng có thể thấy được. Có thể bạn và tôi còn nhớ "bài ca chiến thắng của người nghèo khổ" bởi muôn tấm lòng cất lên rập ràng phía sau trường tiểu học cuối xóm Trúc Lâm nhìn về núi Tàpao nơi Mẹ đang ở đó, bị bắn vỡ đầu, bị đập gãy tay... Vâng, lời kinh Mân Côi ấy đã hiển linh thành Trung Tâm Thánh Mẫu Tàpao cho muôn con cái Mẹ, cho muôn người nghèo khổ thêm niềm xác tín chiến thắng.
- Những chứng từ về kinh Mân Côi, chuỗi Mân Côi, bài ca chiến thắng của người nghèo khổ còn sống động ở nơi mỗi gia đình Công Giáo. Một vòng thăm dò cho thấy những gia đình có giờ kinh chung, lần chuỗi chung sáng hoặc tối, một chục hay đủ năm chục... được nhiều ơn bình an gia đình hơn là những gia đình thiếu giờ kinh chung, vắng kinh Mân Côi chung và riêng, hoặc còn tệ hơn nữa là các thành viên trong gia đình không hề biết... lần chuỗi!
Thực ra, để đọc kinh chung và lần chuỗi chung trong gia đình không phải dễ nếu không có một quyết tâm cùng với những khiêm tốn, từ bỏ. Việc lần chuỗi riêng cũng thế, nếu không có lòng yêu mến Mẹ, tin thác cậy trông nơi Mẹ để vượt qua sóng gió cuộc đời, nhất là vượt qua cám dỗ để nên hoàn thiện thì khó lòng mà thực hiện được. Xin nghe mấy tâm sự:
"Thưa cha, nhà con không đọc kinh chung được, vì khoảng 8 đến 9 giờ là nhà con xỉn rồi! Mấy mẹ con đọc kinh thì ổng nói là... quân Pha-ri-siêu!"
"Mỗi lần lần chuỗi, con phải cất cái chuỗi đi, vừa làm việc vừa lần chuỗi cha ạ! Có chục thiếu, có chục dư! Nhưng chắc Đức Mẹ bỏ qua cho. Ổng thấy con cầm cái chuỗi là ổng chửi: "Đồ đạo đức giả!"
"Đã mấy lần cầm đến chuỗi Mân côi, mà con không thể nào lần chuỗi được, nhớ đến nó, phát ghét!"... "Nó nào?"... "Thằng chồng con!"
Bởi vậy, khi cả nhà thuận tình đọc kinh và lần chuỗi chung với nhau, thiết tưởng, đã là một chiến thắng.
- Chứng từ Mân Côi còn là bài ca chiến thắng của người có niềm tin vào đời sau, còn có đời sau và cần có đời sau. Một lời khẩn khoản thiết tha vì tin yêu Mẹ Maria là Mẹ của mình trong Nước Trời. Mẹ là trạng sư cho những tội nhân cần đến lượng khoan hồng, lòng thương xót. Không chỉ đợi đến lúc lâm chung mới tỉnh ngộ, mà ngay khi các tín hữu đọc kinh Mân Côi sốt sắng, cũng đã mặc lấy tâm tình của "tội nhân sẽ đến giờ lâm tử" nói lên niềm tin vào đời sống vĩnh cửu trong Thiên Chúa, nhờ Mẹ Maria trong tình mẫu tử thiêng liêng.
"Nếu "nải chuối buồng cau, đường mía lau xôi nếp một" là ca dao tình mẹ ngọt ngào trong văn học dân gian Việt Nam, thì Kinh Kính Mừng quả là lời kinh tuyệt diệu ngọt ngào tình mẫu tử thiêng liêng giúp ta gặp được Đức Maria cao xa là Mẹ Chúa Trời nhưng vẫn cứ luôn gần gũi với người dương thế cho dẫu phận người hôm nay không đẹp đẽ gì, vì xét cho cùng chỉ là kẻ có tội "khi nay và trong giờ lâm tử". Chính vì thế Kinh Kính Mừng đã trở thành lời nguyện tắt mọi lúc mọi nơi. (Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống)
Mừng lễ Mẹ Maria Mân Côi và vào tháng Mân Côi, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con người Mẹ mẫu gương nhân đức tuyệt vời, ban cho chúng con Chuỗi Mân Côi phương thế chiến thắng cám dỗ, thế gian, ba thù và phương thế nên thánh. Xin cho chúng con yêu mến, tin tưởng Mẹ, mà siêng năng lần hạt riêng và lần hạt chung với gia đình.
Xin cho linh hồn cha cố GB. hưởng nhan Chúa. Amen.
Đức Thánh Cha Phanxicô của chúng ta rất yêu mến Đức Mẹ qua việc lần chuỗi Mân Côi. Cụ thể, ngày 13-3-2013 Ngài được bầu làm Giáo Hoàng, thì sáng ngày 14-3, Ngài đến tượng ảnh Đức Mẹ Che Chở Dân Rôma để lần chuỗi Mân Côi và cầu nguyện để dâng cả triều đại giáo hoàng của Ngài cho Đức Mẹ. Năm 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chọn ngay ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi ngày khai mạc thượng Hội Đồng Thế Giới về gia đình, dĩ nhiên trước đó, Ngài kêu gọi mọi thành phần dân Chúa hãy đọc kinh Mân Côi. Và rồi mới đây, 12-5-2017, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến hành hương tại Đền thánh Đức Mẹ Fatima, Bồ đào nha, nhân dịp kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra với 3 mục đồng tại đây: Lucia, Phanxicô và Giacinta. Đây là chuyến viếng thăm thứ 19 của Đức Thánh Cha tại nước ngoài. Nhưng đây là lần đầu tiên, chuyến viếng thăm của ngài hoàn toàn là một cuộc hành hương không có những hoạt động gì khác, chỉ có cầu nguyện với Đức Mẹ Fatima qua việc lần hạt Mân Côi và dâng Thánh Lễ. Hôm đó, Ngài đã đến trước tượng Đức Mẹ Fatima tại Nhà nguyện Hiện Ra, Đức Thánh Cha quỳ cầu nguyện rằng: “Lạy Nữ Vương, là Đức Trinh Nữ Fatima, là Mẹ Khiết Tâm, là nơi nương náu và là đường dẫn đến Thiên Chúa! Như người lữ hành theo Ánh sáng tỏa lan từ bàn tay Mẹ, con cảm tạ Chúa Cha, Đấng qua mọi nơi và mọi thời, vẫn hoạt động trong lịch sử nhân loại; Như người lữ hành của nền hòa bình mà Mẹ đã loan báo tại nơi này, con chúc tụng Chúa Kitô, là an bình của chúng con, và con cầu xin ơn hòa hợp giữa mọi dân nước trong thế giới này; như người lữ hành của niềm hy vọng mà Chúa Thánh Linh khích lệ, con muốn là một ngôn sứ và là sứ giả rửa chân cho mọi người, tại bàn ăn liên kết tất cả chúng con nên một”.
Ai trong chúng ta cũng yêu mến và quí trọng người Đức Mẹ, vì tình mẫu tử của Đức Mẹ Maria Mân côi dành cho mỗi người chúng ta dạt dào và êm ái biết là ngần nào? Cụ thể, trong Tin Mừng hôm nay, Mẹ Maria thưa “Xin Vâng” với Chúa, có nghĩa rằng Mẹ phó thác cuộc đời của Mẹ vào lòng thương xót của Chúa. Với hai tiếng xin vâng, Mẹ sẵn sàng cưu mang, sinh hạ, chăm sóc con Mẹ là Chúa Giêsu và đồng lao cộng khổ với Con Mẹ để đàn con Mẹ là chúng ta nhờ Chúa Giêsu mà được cứu độ. Nhờ Chúa Giêsu mà chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha, và Chúa Giêsu Kitô là Anh Hai của chúng ta, và những đứa em của Chúa Giêsu là chúng ta cũng được thừa kế gia nghiệp trên thiên quốc vĩnh hằng mà Thiên Chúa dành sẵn cho chúng ta (Gl 4,7).
Trên trần gian Đức Mẹ đã chăm sóc Chúa Giêsu thế nào, thì ngày nay trên Thiên đàng, Mẹ Maria cũng chăm sóc chúng ta như thế. Đức Mẹ chăm sóc chúng ta bằng nhiều cách trong đó có việc Lần Hạt Mân Côi. Vì vậy, qua việc đọc kinh Hạt Mân Côi, trước hết, Mẹ sẽ cầu bầu và che chở chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Qủa thế, ai ai trong chúng ta cũng đều cảm nghiệm được tình Mẹ Maria dành cho chúng ta khi ốm đau cũng như khi mạnh khỏe, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi thành công cũng như thất bại, khi yêu cũng khi cô đơn, khi có gia đình cũng như khi đi tu. Cho nên, đã là người Công Giáo dù ở đâu, đi xe hay đi tàu, đi chợ hay đi học, ở bệnh viện hay ở nhà…., bất cứ lúc nào người ta cũng đọc Kinh Mân Côi. Vì bất cứ khi nào đọc Kinh Mân Côi, chúng ta cảm thấy có một sự ủi an và sức mạnh siêu nhiên làm cho tinh thần mình phấn khởi, không còn lo lắng sợ sệt… và nguồn đó chính là sự cầu bầu và chở che của Mẹ Maria. Vâng, chính tôi đã kinh qua và cảm nghiệm được điều này. Cụ thể, năm 2010, tôi bị tai nạn và bệnh rất nặng, khi nhập viện, bác sĩ bắt phải chụp MR 2 hai tiếng đồng hồ. Trong lúc nằm trong phòng chụp MR một mình, hai bên toàn là điện và máy móc cứ chạy phà phà, tôi nghĩ bụng nếu có chập điện hay sự cố gì thì mình chết tươi vì phòng này cắt ly hoàn toàn với bên ngoài, tôi bắt đầu lo sợ. Nhưng khi nằm lên gường và máy bắt đầu chạy thì tôi cũng bắt đầu đọc Kinh Mân Côi suốt hai tiếng đồng hồ. Điều đáng ngạc nhiên đối với bác sĩ rằng hầu như ít có người nào chụp MR lâu như tôi, mà nếu có thì ra là họ điều xỉu, yếu ớt cả nhưng tôi thì không vẫn bình thường vui vẻ cười nói tỉnh khô. Từ đó tôi cảm nghiệm rằng lợi ích của việc đọc Kinh Mân Côi không chỉ để yêu mến mà còn để cùng Mẹ thưa xin vâng theo thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh và cùng với Mẹ cầu nguyện có Chúa đỡ nâng, an ủi và giúp sức cho chúng ta chịu đựng tất cả trong bình an.
Lợi ích thứ hai của việc đọc kinh Mân Côi, Đức Mẹ sẽ giúp chúng ta học và hành bài học yêu thương và tha thứ của Mẹ. Vâng, sau khi thưa hai tiếng xin vâng, Mẹ chịu nhiều đau khổ, chịu người ta sỉ vả, chửi bới… ấy thế Mẹ không một lời oán trách, căm thù, ngược lại, Mẹ yêu thương và tha thứ tất cả, cho nên, gẫm thứ hai trong Kinh mân Côi Mùa Vui, chúng ta đọc: thứ ba thì gẫm, Đức Bà đi viếng bà Thánh Isave, ta hãy xin cho được lòng yêu người như Đức Mẹ là vậy. Năm nay là năm mà các Đức Giám Mục mời gọi các bạn trẻ chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân gia đình, đặc biệt là các gia đình Công giáo hãy thể hiện ơn gọi yêu thương và sứ vụ thương xót ngay trong gia đình của mình. Vì vậy, học gương Mẹ Maria Mân Côi, chúng ta hãy thực hiện điều này ngay trong gia đình của mình vì gia đình là nơi những thành viên liên kết với nhau trong tình yêu máu mủ. Nói đến máu mủ là nói đến sự sống, sự sống tồn tại được là nhờ tình yêu và thương xót nhau. Nhưng trong thực tế, ngày nay đời sống vợ chồng còn gặp khó khăn trong tình yêu, mọi thành viên trong gia đình xào xáo nhau, hạnh phúc gia đình bất ổn... Hôm nay, chúng ta học gương Mẹ và nghe lời Mẹ dặn rằng: HÃY SIÊNG NĂN LẦN HẠT MÂN CÔI để sống tình yêu thương, tha thứ và chung thủy với nhau vì có Mẹ ở với gia đình chúng ta sẽ giúp gia đình chúng ta vượt qua tất cả như lời kinh Lạy Nữ Vương gia đình chúng ta thường đọc mỗi tối: Lạy Nữ Vương gia đình, Mẹ ở đây với chúng con, vui buồn sướng khổ, Mẹ con cùng nhau chia sẻ. Xa Mẹ chúng con biết cậy trông ai. Đời chúng con gian nan khổ sở lắm, gia đình chúng con long đong tối ngày, nhưng có Mẹ ở bên chúng con, chúng con thấy quên hết ưu phiền, vui sống qua kiếp lưu đày, mong ngày sau sung sướng cùng Mẹ muôn đời trên thiên đàng. Amen.
Cuối cùng, lần hạt Mân Côi sẽ giúp chúng ta cùng với Mẹ đón nhận đau khổ hay khó khăn trong tinh thần đức tin. Vâng, chúng ta đọc “Năm Sự Vui” thứ 3 thì gẫm: “Đức Bà sinh Đức Chúa Giêsu nơi hang đá, ta hãy xin cho được lòng khó khăn”. Qủa thế, cuộc đời Đức Mẹ không thiếu những khó khăn và đầy ấp những đau khổ, đặc biệt khi đứng dưới chân thập giá nhìn Con chết tức tưởi nhưng Mẹ đón nhận trong tinh thần phó dâng và tín thác. Cuộc đời của chúng ta, có ai mà không có đau khổ, nước mắt nhiều hơn nụ cười và phiền muộn nhiều hơn hạnh phúc. Không gia đình nào trong chúng ta mà không có đau khổ, khó khăn, mỗi nhà một cách mỗi người một vẻ. Chúa không muốn chúng ta hay gia đình chúng ta phải đau khổ, khó khăn, Chúa muốn chúng ta hạnh phúc. Nhưng những đau khổ hay khó khăn nó đến là vì giới hạn của con người: sinh lão bệnh tử hay có thất bại có thành công. Cho nên, Chúa ban cho chúng ta nhiều phương thế để vượt qua những thử thách đó trong đó có Kinh Mân Côi, nhờ Đức Mẹ cầu thay nguyện giúp chúng ta. Nếu chúng ta vượt qua được thì tạ ơn Chúa. Nếu chưa qua được, Mẹ sẽ giúp chúng ta đón nhận đau khổ trong tinh thần đức tin để cầu nguyện cho cho gia đình, cho con cái, cho Giáo xứ, cho Giáo phận của mình biết trung tín và tín thác vào lòng Chúa xót thương.
Ước gì, qua Thánh lễ này, suốt trong tháng Mân Côi này, xin mỗi gia đình hãy siêng năng lần hạt Mân Côi để cùng vời Mẹ dâng lên Chúa những hạt kinh của các ngày sống qua từng thời kỳ của mùa Vui, Thương, Mừng để ơn Chúa tuôn đổ xuống từng người trong gia đình đồng thời mưu ích cho các linh hồn và sáng danh Chúa. Amen.
Trong cuốn Niên Sử của Bộ Truyền Bá Đức Tin, người ta đọc câu chuyện sau đây xảy ra tại nước Somalia thuộc đại lục Phi Châu. Hôm ấy, các Thừa Sai cùng với nhóm Giáo Lý Viên trực chỉ Abal, một làng nhỏ thuộc tỉnh Bakool bên nước Somalia, để rao giảng Tin Mừng của Đức Chúa GIÊSU KITÔ.
Khi đến một ngã rẽ, đoàn truyền giáo bỗng phân vân không biết phải chọn con đường bên trái hay rẽ sang bên phải? Sau cùng, mọi người đồng ý để rơi xuống đất Ảnh Vảy Phép Lạ (Ảnh Đức Mẹ Ban Ơn). Khi rơi xuống, Ảnh Vảy Phép Lạ chỉ về hướng bên trái. Mọi người vui vẻ tiếp tục cuộc hành trình.
Tuy nhiên khi đến nơi, mới biết đây là Ulfunga, một làng nhỏ nằm đối ngược với làng Abal mà đoàn thừa sai muốn đi tới. Khi biết như vậy thì đã quá trễ vì trời đã tối. Vã lại, thật nguy hiểm khi quay trở lại đàng sau. Các vị truyền giáo quyết định dừng lại qua đêm tại làng Ulfunga.
Nơi làng, chỉ tìm thấy duy nhất một cụ bà ngoại giáo cùng với mấy đứa trẻ đang quây quần sưởi ấm chung quanh đám lửa cháy. Sau bữa ăn tối sơ sài, đoàn thừa sai đạo đức bắt đầu lần hạt Mân Côi chung. Buổi lần hạt chấm dứt, cụ bà Somalia tiến lại gần vị Linh Mục thừa sai và hỏi:- “Ông đọc “Ave MARIA - Kính Mừng MARIA” phải không?” Vị thừa sai đáp:- “Đúng thế! Cụ biết “Lời Kinh” này phải không? Phải chăng cụ là tín hữu Công Giáo?” Cụ bà liền giơ cho vị Linh Mục xem Ảnh Vảy Phép Lạ đang mang nơi cổ và nói:
- “Cách đúng 20 năm, đứa con trai duy nhất của tôi trở về làng sau một chuyến đi lâu thật lâu. Rồi con trai tôi ngã bệnh nặng. Trước khi chết, con nói với tôi: “Má à, con ra đi về một xứ sở mà Má không biết. Nhưng con mong muốn rằng một ngày kia Má cũng đến xứ sở này với con. Nơi đó, chúng ta cùng chung hưởng hạnh phúc. Ngay bây giờ, con không thể dạy cho Má biết điều phải làm để đến được xứ sở đó, như con từng học biết nơi xứ sở của người da trắng. Nhưng Má hãy lấy Ảnh Vảy con đang mang nơi cổ và hàng ngày Má luôn luôn đọc: “Ave MARIA”. Nói xong, con trai tôi tắt thở. Kể từ ngày đó, tôi luôn luôn đọc “Kính Mừng MARIA”. Nhưng MARIA là Ai vậy?” Vị Linh Mục thừa sai vui mừng nói cho cụ bà Phi Châu biết MARIA là thánh danh của Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA.
Rồi Cha dạy cho cụ bà biết các điều căn bản phải TIN theo giáo lý đạo Công Giáo. Tối hôm sau, vị Thừa Sai rửa tội cho bà cụ với tên thánh là MARIA. Suốt đêm ấy, các thừa sai nghe bà cụ liên tục lập đi lập lại “Ave MARIA”. Ngày tiếp theo, cụ bà êm ái trút hơi thở cuối cùng, trên đôi môi, điểm nụ cười hạnh phúc và đôi tay đặt trên ngục trong đó siết chặt Ảnh Vảy Đức Mẹ Ban Ơn. Cụ bà Maria hân hoan ra đi gặp lại đứa con trai thân yêu trên thiên quốc, dưới áo choàng của Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA. Đó là danh thánh cụ hằng kêu cầu và chào kính mà không hề biết rằng ngài chính là Hiền Mẫu MARIA! (Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt, Ave Maria ban ơn cứu rỗi, La Mia Messa, Volume II, Marzo Aprile, Maggio/2009, Anno III, Anno B, Casa Mariana Editrice)
Mẹ luôn là nguồn hy vọng cho bất cứ ai trông cậy vào Mẹ, kể cả những người chưa nhận biết Chúa. Tại các linh địa Đức Mẹ, như La Vang, TàPao, không hiếm những người khác tôn giáo đến khấn xin Mẹ những ơn lành.
Năm đóa hoa xanh hôm nay kính dâng lên Mẹ trong niềm hy vọng chan chứa, trong niềm cậy trông vô bờ, vì Mẹ như Sao Biển sáng chói giữa đêm đen sóng gió bão bùng.
Đóa hồng Tái sinh
Ðức Chúa Giêsu sống lại. Ta hãy xin cho được sống lại thật về phần linh hồn.
Đức Chúa Giêsu đã sống lại như lời Người đã phán.Alleluia. Người mời gọi mọi người hãy tái sinh với Người, bằng cuộc đời mới là sám hối và tin vào Tin Mừng, như khi Người bắt đầu Người rao giảng ba năm trước đó.
Thánh Phaolô mời gọi tín hữu Êphêsô tái sinh: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát, vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện. (Ep 4, 22-24)
“Con phải canh tân tâm hồn quảng đại, đơn sơ đối với Chúa: “Chúa muốn gì con cũng cho hết,” và đừng quên điều thứ hai: “Chúa cho con gì con cũng nhận hết.” (Đường Hy Vọng, số 642)
Đóa hồng Quy Thiên
Ðức Chúa Giêsu lên trời. Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời.
Trước cuộc khổ nạn, Đức Giêsu nói lời cáo biệt với các tông đồ: “Anh em đừng xao xuyến! Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.” (Ga 14, 2-4)
Đức Mẹ đã biết bao lần khuyên nhủ con cái ăn năn, sám hối để được hưởng phúc Thiên Đàng, đoàn tụ với Người Cha Nhân Từ, hằng thương yêu con cái trần thế, nên đã cho Con Một xuống cứu chuộc.
“Con hãy sẵn sàng cầm đèn sáng đợi chờ giờ Chúa trở lại, như Chúa muốn, nơi Chúa muốn, lúc Chúa muốn. (Đường Hy Vọng, số 670)
Đóa hồng Ân sủng
Ðức Chúa Thánh Thần hiện xuống. Ta hãy xin cho được lòng đầy dẫy mọi ơn Ðức Chúa Thánh Thần.
Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống khai mở lòng trí các tông đồ, để các ngài nhớ lại những gì mà Chúa Giêsu đã dạy các ông, và từ đó các tông đồ đã mạnh dạn ra đi rao truyền Phúc Âm cho mọi người. Đức Mẹ Maria cũng đã hiện diện giữa các tông đồ trong ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống. Mẹ cũng được diễm phúc đón nhận Chúa Thánh Thần ngay từ khi Mẹ thưa hai tiếng “Xin Vâng.” Từ nay Đức Mẹ Maria có một vị thế rất quan trọng trong Giáo Hội của Chúa Kitô ở trần gian. Mẹ đã trở nên Đấng cầu bàu cho toàn thể Kitô hữu
“Động lực và tác giả mọi cuộc canh tân trong Hội Thánh là Chúa Thánh Thần, Đấng canh tân mặt đất. Mỗi cuộc canh tân là một lễ Hiện Xuống mới và không thể có lễ Hiện Xuống mới, ngoài Chúa Thánh Thần. Con không thể canh tân ngoài Chúa Thánh Thần.” (Đường Hy Vọng, số 660)
Đóa hồng Lâm chung
Ðức Chúa Trời cho Ðức Mẹ lên trời. Ta hãy xin ơn chết lành trong tay Ðức Mẹ.
Đức Giáo Hoàng Piô XII tuyên bố trong ngày lễ Các Thánh Nam Nữ 01/11/1950: “Ta tuyên xưng, công bố và xác nhận tín điều được Thiên Chúa mạc khải là Mẹ Thiên Chúa Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria Trinh Nguyên, khi thời gian sống tại thế hoàn tất, cả hồn lẫn xác của Người đã được đưa về trời trong vinh quang thiên quốc.” (TCF, 207)
Khấn xin Mẹ ban ơn chết lành cho những ai đặt hết niềm cậy trông nơi Mẹ hiền. Một cái chết nhẹ nhàng như người ngủ say, không phiền muộn đến người thân chung quanh. Một cuộc ra đi về quê Trời với đầy đủ hành trang là những hồng phúc từ các bí tích sau cùng.
“Con nhìn thấy những giọt nước lã chã rơi trong một chiều đông. Mỗi ngày bao nhiêu người cùng vào cõi đời đời, như hạt nước kia không ai để ý, mà một giây phút nào đó, một hạt nước rơi ây chính là con.” (Đường Hy Vọng, số 666)
Đóa hồng Hy vọng
Ðức Chúa Trời thưởng Ðức Mẹ trên trời. Ta hãy xin Ðức Mẹ phù hộ cho ta được thưởng cùng Ðức Mẹ trên nước Thiên đàng.
Đức Mẹ Maria là kho tàng ân sủng của Thiên Chúa, có nghĩa là Mẹ cũng được Thiên Chúa cho phép được chia sẻ một phần nhỏ vào vinh quang và quyền năng của Ngài, để qua Mẹ mà nhân loại dễ dàng đến với Chúa hơn.
“Không có Mẹ, dù mọi người lo lắng bảo đảm đến đâu, em bé cũng không đi theo. Nhưng đi với Mẹ, băng rừng, vượt suối, đói rét, em vẫn đi. Trong cuộc chiến, bao nhiêu bà mẹ chết rồi, con vẫn la lết nằm một bên. Trên đường hy vọng, con nắm tay Mẹ Maria; có Mẹ, con không cô đơn. Mẹ là nguồn sống, là an vui, là hy vọng của chúng con.” (Đường Hy Vọng, số 910)
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, chúng con đặt hết niềm hy vọng vào Chúa trong cuộc lữ hành trần thế. Kính xin Chúa ban muôn phúc lành an ủi, khuyến khích và nâng đỡ chúng con thoát khỏi cám dỗ của ba thù, để mai này được về cùng Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã đồng hành cùng Con Mẹ suốt 33 năm. Khấn xin Mẹ cầm tay dẫn dắt chúng con theo Mẹ, để luôn được gần gũi với Chúa, trong niềm hy vọng được sống viên mãn với Mẹ và Con Chúa đến muôn đời. Amen.
Đức Gioan Phaolô II chỉ bị trọng thương qua vụ ám sát. Và việc ngài sống sót là cà một phép lạ. Dĩ nhiên, sức khỏe vốn cường tráng trước kia của ngài đã bị ảnh hưởng rất nặng bởi vụ ám sát, khiến ngài phải chịu đau đớn thường xuyên, kéo dài mãi cho tới lúc ngài băng hà năm 2005. Hai năm sau vụ ám sát, vào ngày 23.12.1983, Đức Gioan Phaolô II đã đích thân vào phòng giam thăm tên khủng bố Ali Agca, nói chuyện với y và nhất là ngài đã tha thứ cho y.
ĐHY Stanislaw Dziwisz tường thuật lại là trong cuộc gặp gỡ và nói chuyện này tại nhà tù, Ali Agca chỉ lặp đi lặp lại với Đức Thánh Cha một câu hỏi duy nhất: “Tại sao Ngài lại không chết? Tôi biết chắc chắn là tôi đã nhắm rất trúng đích. Tôi cũng biết rằng phát đạn tôi bắn ra có hiệu quả tàn phá và gây tử thương một cách chắc chắn. Nhưng tại sao Ngài lại không bị tử thương?”
Về phần Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II thì hoàn toàn xác tín rằng chính nhờ bàn tay hiền mẫu của Đức Mẹ Fatima che chở nên ngài mới có thể thoát chết một cách lạ lùng như thế. Bởi vì, ngày ngài bị ám sát tại Rôma, ngày 13 tháng 5 (1981) chính là ngày Đức Mẹ đã hiện ra với ba trẻ chăn chiên năm xưa tại Fatima, ngày 13 tháng 5 (1917). Hơn nữa, theo Đức Gioan Phaolô II, thì vị Giám Mục mặc áo trắng phải chịu đau khổ nhiều mà Đức Mẹ đã cho ba trẻ trông thấy trong một thị kiến khi hiện ra với ba trẻ tại Fatima, chính là ngài. Do đó, đúng một năm sau vụ ám sát (1982), Đức Gioan Phaolô II đã đích thân đi hành hương Fatima để tạ ơn cứu sống của Đức Mẹ và trong dịp này ngài cũng mang theo một trong các đầu đạn mà Mehmet Ali Agca đã bắn vào ngài để dâng kính Đức Mẹ. Và kìa một sự lạ lùng đã làm chính Đức Gioan Phaolô II và tất những người chứng kiến không khỏi sửng sốt và kinh ngạc, là đầu viên đạn mà ngài mang theo kia khi được gắn vào một lỗ hổng duy nhất còn sót lại ở mão triều thiên trên đầu tượng Đức Mẹ Fatima, mà các đoàn thể phụ nữ Bồ Đào Nha đã dâng cúng cho Đức Mẹ vào năm 1946, thì hoàn toàn vừa vặn như thể người ta đã cốt ý làm cái lỗ hổng đó sẵn cho viên đạn vậy. (Lm Nguyễn Hữu Thy, Nhắc lại vụ ám sát Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II)
Năm đóa hoa đỏ bi thương nhuộm máu đào Con Chúa kính dâng lên Mẹ Sầu Bi. Toàn thể Kitô xin hữu hiệp thông cùng Mẹ với tấm lòng sám hối, ăn năn, để xoa dịu nỗi đau tột cùng của Mẹ.
Đóa hồng Sám hối
Ðức Chúa Giêsu lo buồn đổ mồ hôi máu. Ta hãy xin cho được ăn năn tội nên.
Trong bao lần Mẹ hiện ra tại Fatima với ba trẻ Lucia, Jacinta và Phanxicô, và tại Lộ Đức với chị Bernadette, Mẹ đã luôn nhắc nhở loài người hãy ăn năn, sám hối đền tội, canh tân đời sống, để làm dịu đi những đau khổ mà Chúa Giêsu vẫn đang phải chịu đựng vì tội lỗi loài người.
Đừng vô cảm như các tông đồ hồn nhiên ngủ say ngay bên Đức Giêsu đang đổ mồ hôi máu sợ hãi cuộc khổ nạn, vâng theo Thánh Ý Chúa. Kitô hữu sống là luôn khiêm nhường sám hối như Hội Thánh đã răn dạy”Đời sống của người Kitô-hữu phải là một cuộc ăn năn đền tội suốt đời” (CĐ Triđentinô)
“Sự ăn năn hối cải của con không phải là “hát bội,” khóc lóc não nùng xong rồi hết tuồng, hạ màn, và đâu lại vào đó.” (Đường Hy Vọng, số 893).
Đóa hồng Xả kỷ
Ðức Chúa Giêsu chịu đánh đòn. Ta hãy xin cho được hãm mình chịu khó bằng lòng.
Chịu hành hạ đòn roi, khổ hình và nhục hình, Đức Giêsu hoàn toàn im lặng bỏ mình, không một lời than thở, trách móc hay phản đối. Một sự bỏ mình trọn vẹn bình thản và bằng lòng, toàn tâm toàn ý, như lời mời gọi Người từng rao giảng, như lời tiên báo của ngôn sứ Isaia đã nói về Người: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu.Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.” (Is 50, 6)
“Con có uống nổi chén đắng của Thầy không?” Con hãy thưa: “Con tình nguyện uống chén đắng đến giọt cuối cùng, vì là chén đắng của Thầy, vì Thầy đã uống trước con!” Chén càng đắng, càng đầy, chứng tích tình yêu của con càng rõ rệt. Chứng tích tình thương của Chúa muốn cho con chia sẻ, Chúa tín nhiệm con càng thắm thiết.” (Đường Hy Vọng, số 716)
Đóa hồng Nhẫn nhục
Ðức Chúa Giêsu chịu đội mão gai. Ta hãy xin cho được chịu mọi sự sỉ nhục bằng lòng.
“Ecce homo!” Đây là Người! Quan Tổng trấn Philatô đã giới thiệu với dân chúng Đức Giêsu đầu đội vương miện bằng gai, mình khoác áo choàng đỏ. Trước đó, trong ngục tù, Người đã chịu lính La Mã đánh đập, chê giễu là Vua Do Thái. (Ga 19, 1-5) Đức Giêsu vẫn im lặng kiên trì nhẫn nhục chịu đựng.
“Nếu con hiểu biết hạnh phúc được làm con Chúa, thì những điều sỉ nhục không thấm gì con và những lời hoan hô cũng chẳng thêm gì cho con.”(Đường Hy Vọng, số 506)
Đóa hồng Đền tội
Ðức Chúa Giêsu vác cây Thánh giá. Ta hãy xin được vác Thánh giá theo chân Chúa.
Nếu chỉ dừng lại việc ăn năn, sám hối tội lỗi mà thôi, thì Kitô hữu mới chỉ đi được phân nửa chặng đường trở về với Chúa. Chặng kế tiếp là đền tội qua việc vác Thánh giá hằng ngày theo Chúa.
“Thử thách gian khổ là “giấy phép theo Chúa”để hưởng hạnh phúc hân hoan với Chúa: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thánh giá…” (Đường Hy Vọng số 714)
Đóa hồng Hiến tế
Ðức Chúa Giêsu chịu chết trên cây thánh giá. Ta hãy xin đóng đinh tính xác thịt vào thánh giá Chúa.
Vào giờ thứ chín, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “Êli, Êli, lêma xabácthani”, nghĩa là: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con... Đức Giêsu lại kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn.” (Mt 27, 45-50)
Đức Giêsu mời gọi tín hữu hãy đóng đinh bản thân Kitô hữu vào thánh giá, đóng đinh những đam mê xác thịt, đóng đinh tính kiêu ngạo, tham sân si, chịu chết đi làm hạt lúa mục nát để góp phần vào Ơn Cứu độ, tái sinh muôn hạt lúa giống cho Nước Trời.
“Vì Chúa yêu thương môn đệ, Ngài đã yêu thương đến tận cùng!” Tận cùng ấy là Thánh giá. Hy sinh của con phải trọn vẹn, phải là lễ toàn thiêu, nếu “con yêu tận cùng.” (Đường Hy vọng, số 161)
Lạy Chúa Giêsu, Năm Sự Thương Khó là chặng đường cuối cùng của Tình Yêu Cứu Độ, mà Chúa muốn chúng con bước theo. Xin Chúa ban cho chúng con lòng trung tín, sự can đảm và tình yêu nồng cháy để trọn vẹn theo Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã gắn bó đồng hành cùng Con Mẹ trên mọi nẻo đường dẫn đến núi Can vê. Kính xin Mẹ cầu bầu cho chúng con đủ tin cậy mến để luôn theo Mẹ mãi. Amen.
Ngày 10-10-1945, Đài Phát Thanh truyền đi bản tin: một trong các chủ tịch đảng cộng sản tại Mỹ Châu, sau 30 năm lầm đường lạc lối, đã trở về với Giáo Hội Công Giáo. Đó là chủ tịch Luis Francesco Bundez. Chính ông cũng công khai tuyên bố: “ Với niềm vui sâu xa, tôi muốn loan báo cho mọi người biết rằng, nhờ ơn THIÊN CHÚA, tôi đã quay về với Đức Tin Công Giáo, Đức Tin cha ông tôi truyền lại cho tôi.”
Cuộc đời ông Luis Francesco Bundez quả là chuỗi dây xích lầm lạc và ảo tưởng. Năm 1935, ông chính thức ghi tên vào đảng Cộng Sản tại New York. Từ đó, cuộc đời ông ngày càng xuống dốc và chìm vào đêm đen. Nhưng trong bóng tối, ông vẫn cảm nhận ơn thánh hằng theo ông, đánh động ông và thúc đẩy ông trở về với THIÊN CHÚA. Ngài chờ đợi ông.
Được thế là vì, nơi mái ấm gia đình, trong vòng ròng rã 30 năm trời, toàn thể gia đình ông, mỗi ngày lần hạt Mân Côi cầu cho đứa con hoang đàng, sớm trở về đường ngay nẻo chính.
Cha mẹ và anh chị em ông, sốt sắng kêu xin Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA - Đức Bà bầu chữa kẻ có tội - chuyển cầu cho ông. Vì thế, mặc dầu sống xa gia đình, ông Luis Francesco Bundez vẫn như nghe vang vọng lời kinh Mân Côi tha thiết dành cho ông. Sau 30 năm lang thang mất hướng, đứa con trai... đi theo chủ nghĩa cộng sản vô thần, quyết định quay trở về Nhà Cha.
Cuộc hoán cải của ông Luis Francesco Bundez gây tiếng vang lớn tại Mỹ Châu lúc bấy giờ. Mọi người hiểu rằng, việc ông thoát khỏi... là nhờ lời kinh Mân Côi toàn gia đình ông dâng lên Hiền Mẫu MARIA Thiên Quốc mỗi ngày. (Sr JB Minh Nguyệt, Quyền lực cứu rỗi của Kinh Mân Côi, Evaristo Cardarelli,”Il Santo Rosario”, Edizioni Cantagalli - Siena, 1987)
Để chuẩn bị Năm thánh Mẫu, bắt đầu từ lễ Hiện Xuống năm 1987 và bế mạc vào ngày lễ Mông Triệu năm 1988, ĐGH Gioan Phaolô II gửi đến Dân Chúa Thông điệp “Mẹ Đấng Cứu Độ,” công bố ngày 25.3.1987. Nhân dịp Năm Mân Côi từ tháng 10. 2002 đến tháng 10. 2003, ngài gửi tiếp Tông thư “Kinh Rất Thánh Mân Côi,”công bố ngày 16.3.2002. Chính ngài đã thêm Năm Mầu Nhiệm Sự Sáng vào chuỗi Kinh Mân Côi tựa năm đóa hoa hồng vàng rực rỡ, huy hoàng, vương giả kính dâng lên Mẹ.
Đóa hồng Khiêm hạ
Đức Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giodan.Ta hãy xin cho được sống xứng đáng là con Thiên Chúa.
Trước sự kiện Đức Chúa Giêsu xin ông Gioan Tẩy Giả làm phép rửa, Thánh Phaolô giải thích Đức Chúa Giêsu khiêm hạ biết dường nào: “Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nhất quyết giữ lấy địa vị ngang hàng với Thiên Chúa mà lại trút bỏ vinh quang của Thiên Chúa, lại còn mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống người phàm như chúng ta. Hơn nữa, Ngài còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và còn muốn nhận lấy cái chết ô nhục trên thập giá” (Pl 2, 6-11)
Chỉ có thái độ và lòng khiêm nhường là con đường duy nhất dẫn tìn hữu Kitô đến với Chúa và tha nhân.
“Hồn tông đồ khiêm tốn và tạ ơn Chúa như Phaolô: “Tôi là kẻ rốt hèn trong các tông đồ và tôi không đáng được gọi là tông đồ…Nhờ ơn Chúa mà tôi được như ngày nay.” (Đường Hy Vọng, số 508)
Đóa hồng Tín thác
Đức Chúa Giêsu làm phép lạ tại tiệc cưới Cana. Ta hãy xin cho được noi gương Đức Mẹ mà vững tin vào Chúa.
Mẹ chỉ nói với Con Mẹ vắn tắt: “Họ hết rượu rồi!” (Ga 2, 3). Bấy nhiêu thôi đủ bộc lộ Mẹ quan tâm sâu sắc đến đôi tân hôn, chủ hôn và toàn thể khách mời. Chẳng muốn cặp uyên ương buồn vì hết rượu chiêu đãi, chẳng muốn chủ hôn lo lắng xấu hổ, chẳng muốn thực khách bất bình dang dở chén chú chén anh. Mẹ hoàn toàn tín thác vào quyền năng của Thiên Chúa. Chẳng bao giờ Ngài nỡ cất đi niềm vui, hạnh phúc của con người, khi biết phó thác, trông cậy hoàn toàn vào Chúa Quan Phỏng.
“Hãy nhờ Đức Mẹ đưa con đến với Chúa Giêsu, con sẽ quen sống bên Chúa.” (Đường Hy Vọng, số 240)
Đóa hồng Giao hòa
Đức Chúa Giêsu rao giảng Nước Trời và kêu gọi sám hối. Ta hãy xin cho được tin vào lòng Chúa thương xót, và năng lãnh nhận bí tích Giao hoà.
Đức Giêsu khởi đầu rao giảng muôn dân bằng lời kêu gọi tha thiết: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” (Mc 1, 14-15) Để tái lập lại mối giao hòa với Thiên Chúa, thỉ hai điều kiện tiên quyết là ăn năn, sám hối từ bỏ nếp sống cũ tội lỗi, sa đọa, để tin vào Tin Mừng, là đón nhận và sống theo Lời Chúa. Đến cùng Mẹ Maria, bất cứ ai cũng được Mẹ nâng đỡ, an ủi, cảm hóa, để biết xét mình hối lỗi, làm lại cuộc đời mới. Bởi vì Mẹ chính là Đấng Trung Gian giữa phàm nhân với Thiên Chúa.
“Điều khiến Chúa hiện diện trong con vui lòng, sung sướng nhất, là con năng nói chuyện với Mẹ Maria, Mẹ yêu dấu của Chúa.” (Đường Hy Vọng, số 243)
Đóa hồng Canh tân
Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi. Ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần.
Trước việc Đức Giêsu biến hình sáng láng trên núi, cùng hiện diện ông Môsê và ngôn sứ Êlia, ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan vinh dự chung hưởng một thoáng Thiên Đàng. Nhân dịp này, Đức Giêsu mong muốn các tông đồ biến đổi quan niệm, tâm trí và cuộc sống, trở nên những chứng nhân nhiệt thành của Nước Chúa. Đó cũng là yêu cầu mà Đức Giêsu đặt ra cho từng Kitô hữu muốn theo Người.
“Canh tân là trở về nguồn. Công thức canh tân: Làm cho người Công giáo trở lại đạo Công giáo. Làm cho người Kitô hữu trở lại với Chúa Kitô. Mới nghe, con ngạc nhiên, nhưng ngẫm nghĩ lại, con sẽ thấy đúng như vậy. Một câu nói của thánh Gandhi nhiều lần khiến ta suy nghĩ: “Tôi mến Chú Kitô, nhưng tôi không yêu người Kitô hữu, vì họ không giống Chúa Kitô.” (Đường Hy Vọng, số 634)
Đóa hồng Chí ái
Đức Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể. Ta hãy xin cho được sốt sắng tham dự Thánh lễ và rước Mình Máu Thánh Ngài.
Món quà vô giá Mẹ tặng cho nhân loại chính là Con Mẹ, Đức Giêsu Kitô Cứu Thế. Rồi chính Đức Giêsu chí ái lại tặng cho nhân loại Mình và Máu Người, đễ dưỡng nuôi Kitô hữu trên đường lữ hành tìm vê Quê Trời. Còn món quà nào cao quý hơn Thánh Thể nhiệm mầu?
Đèn không sáng nếu hết dầu, xe không chạy nếu cạn xăng, hồn tông đồ sẽ suy mạt nếu không đến với Thánh Thể: “Ai không ăn thịt Ta và uống máu Ta, chẳng được sống đời đời.” (Đường Hy Vọng, số 360)
Lạy Chúa Giêsu, Năm Sự Sáng là những vầng sáng chói lọi hướng dẫn chúng con dấn thân trên đường về Nước Chúa. Xin Chúa luôn nhắc nhở chúng lòng ghi lòng tạc dạ và thực hành, khi đã quyết tâm theo Chúa.
Lạy Mẹ Maria, chúng con kính dâng lên Mẹ năm đóa hoa vàng rực rỡ ánh sáng. Kính xin Mẹ cho những đóa hoa vàng ấy nở rộ mãi trong hồn chúng con. Amen.
Cho đến một hôm có một chị ở nhà thờ thấy chị Maria Nguyễn Thị Mai yếu quá, liền mời Cha tới xức dầu và cho chị xưng tội. Cha hỏi chị:
- Con có một nguyện ước gì không? Hội đoàn sẽ giúp cho, người nhà con đâu, con đưa địa chỉ đây để cha nhờ người kêu về.
Chị lắc đầu thều thào nói qua hơi thở, chị em con từ chối trách nhiệm, nên bây giờ con chỉ còn có Chúa và Đức Mẹ. Nguyện ước cuối cùng của con là muốn viếng thăm Đức Mẹ Tàpao lần cuối.
Sáng sớm, có người tới rước chị tới điểm hẹn. Nhìn thấy chị ai cũng lo ngại cho sức khỏe của chị và khi đoàn hành hương lên xe, chị Trưởng đoàn xướng kinh kinh cầu nguyện cho chị. Đi tới Tàpao mọi người tìm phòng trọ nghỉ ngơi ăn uống, rồi chuẩn bị lên núi. Nhờ đoàn hành hương cùng hiệp ý cầu nguyện, nên trông chị Mai có vẻ tỉnh táo hơn. Chị Trưởng đoàn khuyên:
- Chị nghĩ ngơi đi rồi sáng mai dưới chân núi có Thánh lễ đồng tế, chị tham dự cho tiện, đường lên núi cao lắm! Có tới 429 bậc thang chị đang bệnh làm sao leo lên được.
-Tôi đi lên núi được mà, bây giờ tôi khoẻ rồi, cô đừng lo.
Chị Mai không chịu ở lại, vì chị mơ ước đi Tàpao lâu rồi, mà chỉ muốn lên núi nhìn được thấy Mẹ một lần, chị mới mãn nguyện. Thế rồi chị choàng chiếc khăn màu trắng hôm Rửa Tội choàng lên cổ. Tay cầm Chuỗi lần hạt đọc kinh. Mọi người đều ái ngại, khi nhìn chị lên núi với một cái bụng rất to của một người ung thư giai đoạn cuối. Mọi người ai cũng nể chị có một nghị lực phi thường. Trong thân hình mỏng manh gầy gò ấy, tiềm tàng một khát vọng sống mãnh liệt.
Mọi người trong đoàn bắt đầu dõi bước theo, lỡ chị có ngất xỉu thì cõng chị về. Mọi người bắt đầu ồ lên vì ngạc nhiên, khi chị đi rất nhanh, không có một người nào đi kịp theo chị, vì tất cả khách hành hương hay thanh niên khoẻ mạnh, ai cũng phải ngừng nghỉ một lúc rồi mới đi tiếp.Còn bây giờ, chị không hề nghỉ đoạn nào hết. Chị đã bỏ lại đoàn người khá xa và đã tới nơi linh địa Đức Mẹ Tàpao.
Sau khi tham dự Thánh Lễ xong ai cũng thấy gương mặt chị rạng rỡ và chị nhanh chóng đi như bay xuống núi. Mọi người lần lượt đi thật nhanh xuống chân núi và vây chung quanh chị hỏi chuyện. Chị kể rằng sau khi chị bước chưa tới 10 bậc thang, chân tay chị rã rời chị xay xẩm mặt mày. Chị biết không thể nào đi được nữa mới cầu nguyện: “Mẹ ơi! Mẹ hãy dắt con lên núi đi Mẹ con không đi nổi nữa Mẹ ơi! Mẹ giúp con với Mẹ. Vừa cầu nguyện xong Đức Mẹ hiện ra mỉm cười, rồi dắt tôi lên núi.” (Đỗ Hải Oanh, Chuỗi Mân Côi chữa lành bệnh ung thư, DucMeFatimaMancoi.org)
Hôm nay mừng kính lễ Mẹ Mân Côi, con cái Mẹ đồng tâm trìu mến hướng về Mẹ. Cùng ngợi khen, chúc tụng, cảm tạ Mẹ đã và đang đoái thương ban mưa hoa hồng ân phúc xuống con cái trông cậy Mẹ. Hiệp ý cùng triều thần Thiên Quốc, chúng con kính dâng lên Mẹ năm đóa bạch hồng trong vườn hoa Màu Nhiệm Vui
Đóa hồng Khiêm nhu
Thiên Thần truyền tin cho Đức Mẹ chịu thai. Ta hãy xin cho được ở khiêm nhượng. Trước vinh dự cao cả cực đại, mà không phàm nhân nào dám ước mơ, được làm Mẹ Con Thiên Chúa, linh hồn Mẹ ngợi khen Thiên Chúa, thần trí Mẹ hớn hở vui mừng. “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới. Từ nay, hết mọi đời, sẽ khen tôi diễm phúc.”(Lc 1, 48) Mẹ sấp mình khiêm tốn nhận mình chỉ là nữ tỳ hèn mọn, cảm tạ Thiên Chúa đoái thương.
“Mẹ làm gương ẩn dật khiêm cung, nhưng đồng thời Mẹ luôn luôn hiện diện phục vụ; Mẹ không ra mặt, không lên tiếng, nhưng Mẹ hằng ở gần bên Chúa Giêsu, sống trọn vẹn cho Chúa và Chúa trong con.” (Đường Hy Vọng, số 926)
Đóa hồng Bác ái
Đức Mẹ đi viếng bà Thánh Isave. Ta hãy xin cho được lòng yêu người. Dù được chịu thai bởi Đức Chúa Thánh Thần, được vinh dự cưu mang Đức Chúa Giêsu, Mẹ vẫn khiêm tốn nghĩ đến tha nhân, thân thiết đến thăm hỏi bà chị họ Elizabeth, cũng đang mang thai Thánh Gioan Tiền Hô được sáu tháng. Chẳng lo thủ thân, chẳng nề quản mệt nhọc, xa xôi, hiểm trở đường xá, Mẹ hăng hái ra đi dấn thân vì lòng bác ái, yêu người, mong muốn chia sẻ niềm vui, lẫn nỗi lo với thai phụ tuổi đã xế bóng, được ơn thánh huyền diệu.
“Mẹ Maria không chỉ nhìn Chúa Giêsu, Mẹ nhìn bà Isave, nhìn Gioan, nhìn đôi tâm hồn ở Cana…Con hãy có cái nhìn của Mẹ: Nhìn Chúa, nhìn người.” (Đường Hy Vọng, số 948)
Đóa hồng Khó nghèo
Đức Mẹ sinh Đức Chúa Giêsu nơi hang đá. Ta hãy xin cho được lòng khó khăn. Ai mà chẳng chạnh lòng, khi thấy một thai phụ bụng mang dạ chửa, nặng nề lê gót cùng chồng đi tìm quán trọ tại Bêlem vào chiều đông giá buốt. Thế mà, bao quán trọ từ chối, vì họ không đủ tiền thuê phòng, vì luộm thuộm nghèo túng, vì bộ dạng lam lũ thấp kém. Mặc dù người chồng cố gắng nài nỉ hết quán này đến quán khác, đều chỉ gặp cái lắc đầu lạnh lùng, vô cảm, tàn nhẫn xua đuổi.
“Mẹ Maria nghèo khó, không tiền, không bạc, có lúc không nhà cửa, không ghế bàn, Mẹ không biết giảng, nhưng Mẹ có món quà quý nhất để cho Mục tử Bê lem, ba đạo sĩ phương Đông, Simêon và Anna nơi Đền Thánh. Mẹ đã thinh lặng cho họ Chúa Giêsu, món quà mà chỉ Mẹ có, món quà ấy giảng thay Mẹ, vì đó Ngôi Lời.” (Đường Hy Vọng, số 932)
Đóa hồng Vâng phục
Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh. Ta hãy xin được vâng lời chịu lụy. Mẹ đã hết lòng thành khẩn vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa mầu nhiệm: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa. Xin Chúa cứ làm cho tôi như sứ thần nói.” (Lc 1, 38) Mẹ đã “Xin vâng” cho đến tận cuối đời, đã chịu lưỡi gươm đâm thấu tim khi Con Chúa chịu tử nạn, như lời ông Simêon, người công chính, đã tiên tri. (Lc 2, 38).
“Mấy lời vắn tắt diễn tả cuộc đời Mẹ con; với tâm tình thánh thiện, hãy ghi vào lòng mà suy niệm và bắt chước:
“Này con là tôi tá”: Ecce.
“Con xin vâng”: Fiat
“Linh hồn con ngợi khen Chúa”: Magnificat. (Đường Hy Vọng, số 920)
Đóa hồng Khiết tịnh
Đức Mẹ tìm được Đức Chúa Giêsu trong Đền Thánh. Ta hãy xin cho được giữ nghĩa cùng Chúa luôn. Mẹ Maria chính là trinh nữ đáng cung kính đã được ngôn sứ Isaia loan báo cho nhân loại.”Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” (Is 7, 14) Mẹ khiết tịnh từ thân xác đến tâm hồn, Mẹ vô nhiễm không hề vướng tội tổ tông truyền, vì Mẹ luôn có Chúa ở cùng, luộn trọn tình, trọn nghĩa với Chúa.
“Sự hy sinh toàn hiến của Mẹ càng cao quý, khi Mẹ phó thác cho Chúa trọn vẹn; đi ngược lại ước nguyện của các thiếu nữ thời ấy. Mẹ đã quyết sống đồng trinh. Chúa đã ban cho Mẹ cả hai: Vừa đồng trinh, vừa làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ nhân loại.” (Đường Hy Vọng, số 933)
Lạy Chúa Giêsu, năm đóa hồng trắng là năm nhân đức mà chính Chúa hằng dạy bảo đòan chiên, đã được Mẹ Maria thấm nhuần tuân giữ. Xin Chúa giúp chúng con noi gương Mẹ để được sống gần gũi Chúa luôn.
Lạy Mẹ Maria, chúng con kính dâng lên Mẹ năm đóa hồng trắng tinh tựa tâm hồn thánh thiện của Mẹ. Kính xin Mẹ giúp chúng con biết ý thức và cố gắng rèn luyện theo những nhân đức của Mẹ, mỗi khi lần chuỗi Mân Côi. Amen.
Bước vào tháng Mười, tháng Mân Côi, hình ảnh Đức Mẹ Mân Côi, một tay bồng Chúa Giêsu Hài Ðồng, còn tay kia thì trao tràng chuỗi Mân Côi cho thánh Ðaminh. Hình ảnh ý nghĩa này dìu chúng ta về với Đức Maria đầy ơn phúc, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta.
1. Đức Maria đầy ơn phúc
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, dựa trên trang Tin Mừng (Lc 1,26-38) dìu ta về với "Đức Maria đầy ơn phúc". Mẹ có phúc trước hết là vì Mẹ đã đón nhận hồng phúc khi thưa “xin vâng”. Mẹ có phúc vì Mẹ có Thiên Chúa ở cùng. Mẹ có phúc vì Mẹ đã cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng và làm Mẹ Chúa Giêsu là Quả Phúc lòng Mẹ. Phúc của Mẹ thật cao với khôn sánh, nên Giáo hội không ngớt lời lặp đi lặp lại lời mừng chúc “Kính mừng Maria đầy ơn phúc” để tôn vinh Mẹ. Nếu yêu và được yêu là những điều hạnh phúc nhất trong đời, thì Đức Maria rất hạnh phúc khi được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và chính Mẹ cũng đầu tư vốn liếng cuộc đời, biết dành trọn vẹn tình yêu thương của mình cho Thiên Chúa.
Mẹ được đầy ơn phúc, Mẹ cũng muốn cho con cái mình hạnh phúc, vì mẹ nào mẹ chẳng thương con. Mẹ tìm mọi phương thế để chúng ta được hạnh phúc. Một trong những phương thế ấy là hiện ra dạy chúng ta đọc Kinh Kính Mừng, để nhờ chiêm ngắm và suy niệm về cuộc đời của Chúa, mà yêu mến Chúa và theo Chúa mỗi ngày một trung thành hơn hầu đạt tới cõi trời vinh phúc.
Truyền khẩu rằng, trước thế kỷ XII, chưa có Kinh Kính Mừng. Các tín hữu với lòng mến Mẹ đã hái hoa hồng kết thành triều thiên dâng kính Mẹ, miệng ngâm nga mừng hát Thánh Thi. Có anh lái buôn vì lòng sùng kính Đức Mẹ, anh muốn hái hoa dâng Mẹ, nhưng vì công việc làm ăn không cho phép anh thực hiện, anh liền nghĩ ra một cách làm bù, thay vì hái hoa dâng Mẹ, anh đã đọc những lời của sứ thần Gabriel trong ngày Truyền Tin vì nghĩ rằng mỗi lần anh đọc những lời ấy cũng có giá trị như những bông hồng dâng lên Mẹ vậy. Sáng kiến ấy được nhiều người thực hành theo. Đó là gốc tích kinh Kính Mừng hay kinh Mân Côi.
Khởi đi từ lời của sứ thần Gabriel chào kính Đức Maria: "Kính mừng Maria đầy ơn phúc (Lc 1,28), và lời xác nhận của bà Êlisabet: "Em thật có phúc hơn mọi người nữ, vì Đấng em cưu mang thật diễm phúc", Giáo hội đã dùng để chúc khen Mẹ. Đồng thời, thêm vào lời cầu khẩn xin Mẹ thương nâng đỡ phù trì "Thánh Maria ĐứcMẹ Chúa Trời... và trong giờ lâm tử".
2. Chuỗi Ngọc Mân Côi
Tại sao tràng hạt lại gồm năm ngắm?
Không biết tràng hạt phát xuất từ tôn giáo nào, vì không chỉ có Công Giáo có, mà cả một số tôn giáo khác nữa. Tuy nhiên, con số năm ngắm tương ứng với năm biến cố lớn trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa: Truyền Tin, Giáng Sinh, Phục Sinh, Thăng Thiên, Mẹ Lên Trời.
Tại sao lại có tràng hạt mười lăm ngắm?
Thánh Vinh Sơn Ferrier Dòng Đaminh (1350-1419) đã soạn ra ngắm Đàng Thánh Giá thứ 15 để bổ túc cho 14 chặng Đàng Thánh Gía, vì ơn cứu độ của con người không kết thúc một cách bi đát ở nấm mồ, thì mười lăm ngắm khi đọc kinh Mân Côi diễn tả niềm vui này. Bởi vì bản chất của kinh Mân Côi nói lên niềm vui ơn cứu độ.
Tại sao lại có ba mùa Vui – Thương – Mừng?
Cách chia này do Alain de la Roche (1428-1475) và được đức Pio V chấp nhận và cho công bố ngày 17-9-1569. Niềm vui ơn cứu độ do Đức Maria khai mào từ lúc Ngôi Lời nhập thể (Vui); Tử Nạn (Thương); đến sống lại vinh quang (Mừng).
Ngày 16/10/2002 II trong Tông Thư gởi các tín hữu về “Mầu Nhiệm Rất Thánh Mân Côi” Thánh Giáo hoàng Gioan Phao-lô II thêm vào Năm Sự Sáng, nhằm suy niệm năm biến cố lớn trong chương trình cứu chuộc loài người.
Tại sao đọc 150 kinh kính mừng?
Từ trước Công Đồng Vat.II chỉ có hàng giáo sĩ mới đọc Kinh Phụng Vụ gồm 150 Thánh vịnh, giáo dân không được tham dự giờ kinh này. Mà ta biết mỗi câu Tv đều nhắc đến một biến cố cứu độ trong lịch sử. Nên đọc và suy gẫm hết 150 Tv thì cũng có nghĩa là đọc và suy gẫm toàn bộ Thánh Kinh. Vậy người giáo dân không có điều kiện đọc Kinh Phụng Vụ, thì người ta đọc 150 kinh Kính Mừng để nói: Niềm vui ơn cứu độ.
3. Ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng
Vì muốn con cái mình hạnh phúc, nên mỗi lần hiện ra là một lần nhắn nhủ: "Hãy năng lần hạt Mân Côi". Làm theo lời dặn dò của Mẹ, Hội Thánh đã thoát nhiều cơn giông tố hiểm nguy xác hồn, phá tan được bao bè rối, mang lại bình an trong tâm hồn. Vậy, hãy biến đời mình thánh chuỗi Mân Côi.
Thế thì, dù bận đến đâu cũng đừng bỏ lễ Chúa nhật và lễ Trọng buộc. Dù mệt đến đâu cũng đừng bỏ đọc Kinh Kính Mừng, bởi "Mẹ Maria chúc phúc cho những ai đọc Kinh Kính Mừng" (St Bênađô).
Nhiều bạn trẻ cho rằng: Thời buổi khoa học, ai còn tụng niệm như mấy ông già bà cả nữa. Không đâu, Louis Pasteur, Giám Đốc Viện nghiên cứu vi trùng học quốc tế, Giáo sư chuyên khoa Đại Học hoá học và sinh vật học cho chúng ta kinh nghiệm: động lực để nghiên cứu khoa học lại là Kinh Kính Mừng. Ông lần hạt khi đi trên Métro, nam sinh nữ tú chê ông quê mùa, mà không hay biết ông là người thầy của mình.
Thế giới ngày hôm nay tục hóa, con người sống như thể không có Thiên Chúa. Nếu bị ma quỉ cám dỗ, sự xấu, người xấu lôi kéo, hãy đọc Kinh Kính Mừng, vì: "Kinh Kính Mừng làm cho Quỉ Dữ trốn chạy, Hỏa Ngục run sợ" (Lời thánh Anphongsô). Nếu con cái hư đốn, chồng không trung thủy, vợ bất trung thành, hãy đọc Kinh Kính Mừng: "Nhờ Kinh Kính Mừng, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trên đường trọn lành. Biết bao người được ơn chết lành và hưởng phúc Thiên đàng".
Đức Thánh Cha Phanxicô vừa quyết định mời gọi tất cả các tín hữu, trên toàn thế giới, lần hạt Mân Côi mỗi ngày, trong suốt tháng Mười là tháng Đức Mẹ, để hiệp thông và ăn năn đền tội cùng toàn thể dân Chúa, đồng thời cầu xin rất thánh Đức Mẹ Chúa Trời và Tổng Lãnh Thiên Thần Micae bảo vệ Giáo Hội khỏi quỷ dữ, là kẻ luôn tìm cách tách chúng ta khỏi Thiên Chúa và chia rẽ với nhau.
Nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ Mân Côi, xin cho mỗi người chúng ta, cách riêng trong tháng này, cũng biết yêu mến tràng hạt Mân Côi. Amen.
Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Mân Côi, cầu cho chúng con. Nữ Vương bình an, cầu cho chúng con. Amen.
1. Kinh Kính Mừng
"Kính mừng Maria đầy ơn phúc"
Đó là câu đầu tiên trong Kinh Kính Mừng chúng ta vẫn thường xuyên đọc nhất là trong tháng Mười. Nhưng nguồn gốc của lời Kinh này phát xuất từ miệng sứ thần Gabriel khi chào kính Đức Maria lúc truyền tin (Lc1,28). Đức Maria là Đấng đầy ơn phúc như lời sứ thần nói, vì có Thiên Chúa ở cùng. Phúc của Mẹ thật cao với khôn sánh, lời bà Ê-li-sa-bet xác nhận: " Em thật có phúc hơn mọi người nữ, vì Đấng em cưu mang thật diễm phúc". Ai có Thiên Chúa ở cùng, người ấy được đầy ơn phúc. Đức Maria là người diễm phúc không chỉ Mẹ có Thiên Chúa ở cùng, mà Mẹ còn cưu mang Thiên Chúa ngay trong lòng mình nữa.
Những lời của sứ thần Gabriel và của bà Ê-li-sa-bet trên đây đã được Giáo hội dùng để chúc tụng ngợi khen Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta. Đồng thời Giáo hội thêm vào đó lời cầu khẩn Mẹ thương nâng đỡ phù trì "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời... và trong giờ lâm tử".
Phụng vụ mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay, dựa trên trang Tin Mừng (Lc 1,26-38) lại dìu ta về với "Đức Maria đầy ơn phúc". Mẹ có phúc trước hết là vì Mẹ có Thiên Chúa ở cùng, và Con lòng Mẹ gồm phúc lạ. Thế nên Giáo hội không ngớt lời lặp đi lặp lại danh xưng hạnh phúc này: "Kính mừng Maria đầy ơn phúc" để tôn vinh Mẹ Maria. Đức Maria là người hạnh phúc vì Mẹ đã đón nhận hồng phúc, được tuyển chọn để cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng và làm Mẹ Đấng Cứu Thế, là Mẹ Thiên Chúa. Nếu yêu và được yêu là những điều hạnh phúc nhất trong đời, thì Đức Maria cũng rất hạnh phúc khi được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và chính Mẹ cũng biết dành trọn vẹn tình yêu thương của mình cho Thiên Chúa.
Mẹ được đầy ơn phúc, Mẹ cũng muốn cho con cái mình hạnh phúc, vì mẹ nào mẹ chẳng thương con. Nên khi con cái lầm đường lạc lối, sa lầy trong tội, Mẹ đã mở rộng vòng tay, dẫn lối chỉ đường cho con người đạt tới hạnh phúc với lời nhắn nhủ: "Hãy ăn năn đền tội, hãy năng lần hạt Mân Côi". Làm theo lời dặn dò của Mẹ, Hội Thánh đã thoát nhiều cơn giông tố hiểm nguy xác hồn, phá tan được bao bè rối, mang lại bình an trong tâm hồn.
2. Ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng
Chính Mẹ đã dạy chân-phước Alanô: "Bất-cứ ai trung thành đọc Kinh Mân Côi và suy ngắm những Mầu Nhiệm sẽ được ân thưởng. Mẹ sẽ xin cho họ được tha mọi hình phạt và mọi tội lỗi trong giờ họ chết".
Thánh Bênađô nói: "Kinh Kính Mừng làm cho Quỉ Dữ trốn chạy, Hỏa Ngục run sợ".
Còn thánh Bônaventura nói: "Mẹ Maria chúc phúc cho những ai đọc Kinh Kính Mừng".
Theo thánh Montfort "Những người rối đạo, những người vô tín ngưỡng, những người kiêu căng chê ghét hay khinh thị Kinh Kính Mừng, là những người có dấu bị trầm luân Hỏa-Ngục. Không có gì có hiệu-lực được lên Nước Thiên Chúa bằng đọc Kinh Mân Côi".
Thánh Anphongsô "Nhờ Kinh Mân Côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trên đường trọn lành. Biết bao người được ơn chết lành và hưởng phúc Thiên đàng".
Kinh Mân côi là kinh chính Ðức Trinh Nữ đã khuyến khích khi hiện ra với Cô Bernardette ở Lộ đức (1858) cũng như trong các lần hiện ra với ba em mục đồng Lucia, Phanxicô và Giaxinta 6 lần từ 13 tháng 5 tới 13 tháng 10 năm 1917. Cả 6 lần Đức-Mẹ đều thúc-dục: "Các con hãy tiếp tục đọc Kinh Mân Côi hằng ngày". Và nhất là: "Các con hãy đọc kinh Mân côi để cầu nguyện cho hòa bình".
3. Lời kinh cầu cho hòa bình
Chúng ta đang sống trong một tình hình quốc tế đầy những căng thẳng, càng ngày càng gia tăng, khiến ngày mùng 07 tháng 9 năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô phải mời gọi cả Hội Thánh ăn chay cầu nguyện cho hòa bình tại Syria và những nơi bạo lực đang hoành hành. Lời cầu của Hội Thánh đã được nhận lời, chiến tranh đe dọa Damacus đang qua đi, nhưng tại Trung Đông, Ai Cập, Triều Tiên và cả Thánh Địa xem ra Hòa Binh vẫn vắng bóng. Năm 2014, và những năm tiếp theo Đức Thánh Cha đã kêu gọi thế giới nhiều lần cầu nguyện cho Irắc, không những kêu gọi cầu nguyện cho hòa bình tại Israel và Palestin mà còn tổ chức cầu nguyện với nguyên thủ quốc gia cả hai nước. Trước tình thế hiện nay, chỉ biết chạy đến với Thiên Chúa, để khẩn xin hòa bình cho thế giới và. Việc làm trong tháng này là hãy lần hát Mân Côi, như Giáo hội vẫn thường làm trong các cơn túng cực. Vì chỉ có lời cầu nguyện mới vượt qua được các biên giới các quốc gia và các ngăn cách của thù ghét cũng như không hiểu nhau, mới đem lại bình an cho nhân loại. Chúng ta hướng về Ðức Maria, Nữ vương hòa bình, và khẳng định rằng, nơi nào thiếu hòa bình, nơi nào con người tỏ ra bất lực hay không muốn dẹp đi mầm mống thù ghét và chết chóc, thì việc trợ giúp phải đến từ Trời cao. Chính Ðức Maria, Nữ vương hòa bình, Ðấng đem chúng ta trở lại với Chúa Cha.
Trước những thế lực mạnh hơn, chúng ta thường cảm thấy bất lực. Khi nghĩ đến sức mạnh của những thế lực trên trái đất này định đoạt số phận của nhân loại, chúng ta cảm thấy bị giới hạn và bất lực, chúng ta chỉ biết tin tưởng vào lời cầu nguyện mà thôi, chúng ta tin cậy vào một sức mạnh lớn hơn, là Thiên Chúa. Ðức Maria, như gương mẫu của sự phó thác hoàn toàn cho thánh ý Chúa. Và với tình mẫu tử, Mẹ sẽ dẫn đưa chúng ta đến với Chúa Kitô, theo dõi chúng ta trên đường đến với Chúa Cha, Ðấng có thể cải hóa và làm cho các tâm hồn con người tùng phục thánh ý của Người.
Vậy kinh Mân Côi càng có lý do hơn nữa để xúc tiến hòa bình, một hoà bình cho tới nay vẫn chưa trở lại. Với lời Mẹ Maria dạy và kinh nghiệm của các thánh về ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng, chúng ta hãy sốt sáng đọc kinh Mân Côi, để cầu nguyện cho bản thân, cho gia đình, cho Giáo hội, cho quê hương và cho toàn thế giới.
Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Mân Côi, cầu cho chúng con. Nữ Vương bình an, cầu cho chúng con. Amen.
Kinh mân côi nguyên tiếng Latinh là Rosarium, tiếng Anh, tiếng Pháp là Rose, nghĩa là hoa hồng. Ý muốn nói rằng, những kinh Kính mừng mà chúng ta đọc và suy gẫm kết thành chuỗi Hoa Hồng thiêng dâng kính Đức Mẹ.
Xưa kia, khi tràn chuỗi chưa ra đời, người ta đếm kinh bằng hạt sỏi, dần dần người ta kết những hạt khác thành chuỗi Mân côi gọi là Rosary.
Trong Hội Thánh, có thói quen cầu nguyện bằng Thánh vịnh, nhưng đối với đại đa số người, 150 Thánh vịnh dài quá không thể đọc được. Từ thế kỷ XII, người ta thay thế bằng việc đọc 150 kinh Lạy Cha. Dần dần người ta đọc 150 kinh Kính Mừng thay 150 kinh Lạy Cha. Do đó Thánh Đaminh gọi là “Thánh vịnh Đức Mẹ”.
Ban đầu, kinh Kính mừng chỉ có lời chào của thiên thần Gabriel: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc. Thiên Chúa ở cùng Bà” (Lc 1, 28). Sau đó, người ta thêm lời chào của bà Elizabeth: “Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ. Và Con lòng Bà gồm phúc lạ” (Lc 1, 42). Cũng trong thế kỷ XII, Đức Mẹ hiện ra trao tràng hạt Mân côi cho Thánh Đaminh và dạy thánh nhân phổ biến tràn hạt này, như là phương thế cầu nguyện để cải hoá bè rối Albigensê đang tung hoành ở phía nam nước Pháp. Sang thế kỷ XIII, Đức Urbanô IV thêm vào lời chào của bà Elizabeth Thánh Danh “Giêsu”. Từ đó, chúng ta đọc là “…Và Giêsu Con lòng Bà…”.
Thời đó, người ta đọc 150 kinh Kính mừng cùng với 150 kinh Lạy Cha, nghĩa là mỗi kinh Kính mừng một kinh Lạy Cha. Đến thế kỷ XIV, thầy Henry Kalkar (1328-1408), dòng Carthusian do Thánh Brunô sáng lập, chia 150 kinh Kính mừng thành từng chục 10 kinh, đầu mỗi chục kinh là một kinh Lạy Cha.
Thế kỷ XV, Cha Đaminh Prussia (1384-1460) cũng dòng Carthusian chia 150 Kinh Kính mừng thành 3 chỗi 50. Cũng trong thế kỷ này, Chân phước Alanô de la Roche thêm phần suy niệm các mầu nhiệm Vui, Thương, Mừng trong khi lần chuỗi. Từ nay tràng kinh Mân côi gọi là “Vòng hoa hồng”.
Chân phước Alanô nhiệt thành phổ biến kinh Mân côi mà Đức Mẹ đã truyền cho Thánh Đaminh. Ngài cũng thành lập Hội Mân côi năm 1480 và được Đức Mẹ hứa ban 15 ơn cho những ai trung thành đọc kinh Mân côi.
Năm 1521, linh mục Albertô da Castello, sửa lại: trước mỗi kinh Lạy Cha và chục kinh Kính mừng được kết vào một mầu nhiệm. Năm 1569, Đức Thánh Cha Piô V cho thêm phần thứ hai của kinh Kính mừng: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời...” và kinh Sáng danh ở cuối mỗi chục.
Tháng 10.2002, thánh Gioan Phaolô II mở năm kinh Mân côi và thêm vào chuỗi Mân côi truyền thống năm mươi kinh Kính mừng đi liền với năm mầu nhiệm về cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, gọi là năm mầu nhiệm sự Sáng.
Với việc thêm này, chuỗi Mân côi từ nay có đến 200 kinh Kính mừng. Kể từ đó, kinh Mân côi có hình thức như chúng ta đọc ngày nay.
2. “Kết nối” với Chúa Giêsu qua Đức Mẹ.
Chuỗi Mân côi, chuỗi hoa hồng. Người tín hữu đọc kinh Mân côi với ý nghĩa là từng lời kinh mà họ đọc được ví như từng đóa hoa hồng dâng lên Đức Mẹ, và kết hợp với Đức Mẹ, dâng lên Chúa Giêsu.
Vì thế, mỗi khi lần chuỗi, người tín hữu kết thành tràng hoa hồng thánh thiện, dâng tấm lòng, dâng tình mến, dâng tâm hồn, dâng quyết tâm sống đẹp lòng Chúa như Đức Mẹ. Do đó, khi lần chuỗi, là người tín hữu ấp ủ hoa hồng thiêng liêng, hoa hồng mầu nhiệm của lòng mình kính dâng Đức Mẹ và hợp với Đức Mẹ mà tôn thờ Chúa.
Đặc biệt, dù kinh Mân côi là lời kinh mà người tín hữu dùng để cầu nguyện, và tỏ lòng yêu mến Đức Mẹ, thì cũng là lời kinh mà chính Đức Mẹ cũng dùng để cầu nguyện. Bởi thật lạ lùng, trong những lần hiện ra ở Lộ Đức hay ở Phatima, người ta đều nhìn thấy Đức Mẹ cầm tràn chuỗi và lần chuỗi. Đức Mẹ cùng cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi với con cái của mình.
Đọc những kinh Kính mừng, vì là lời kinh trực tiếp hướng lên Đức Mẹ, do đó, cũng là lời kinh cho ta được kết nối với Đức Mẹ.
Nhưng quan trọng hơn, khi đọc kinh Mân côi, ta lại được cùng Đức Mẹ kết nối với Chúa Kitô. Điều đó được thấy rõ qua hai bằng chứng:
- Trong kinh Kính Mừng chỉ có hai danh xưng Maria và Giêsu được xướng lên, mở đầu bằng Maria và kết thúc bằng Giêsu: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ”, nghĩa là kết nối với Đức Mẹ để được nối kết với Con của Người. Qua Đức Mẹ đến với Chúa Giêsu.
- Nhưng kết nối với Chúa Giêsu được thấy rõ nhất là qua những mầu nhiệm Mân côi: mùa Vui, mùa Sáng, mùa Thương, mùa Mừng. Vui trong mầu nhiệm Nhập Thể Chúa Giêsu xuống thế làm người sống cho mọi người; Sáng trong mầu nhiệm Chúa Giêsu công khai loan báo Tin Mừng, công bố ơn tha tội và ban Nước Trời cho mọi người tin; Thương trong mầu nhiệm Tử nạn, Chúa Giêsu chịu chết, chuộc tội cho cả nhân loại; Mừng trong mầu nhiệm Phục Sinh, Đức Giêsu bước vào vinh quang mang ơn cứu độ đời đời cho mọi người.
Kết nối với Chúa Giêsu là kết nối nền tảng và là đỉnh cao. Thiếu sự kết nối này, kết nối với Đức Maria sẽ còn lỏng lẻo, chưa lên đến đỉnh điểm, chưa mang lại sức sống cứu độ. Bởi Chỉ có Chúa Kitô, mới là Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng ta. Vì thế, chỉ có kết nối với Người, ta mới đạt tới sự thánh thiện hoàn hảo. Đức Maria chỉ là con đường dẫn ta đến cùng Chúa Kitô.
Trên đường trọn lành của ta có Đức Mẹ cùng đồng hành, đó là điều quý giá vô cùng. Để Đức Mẹ hướng dẫn, giáo dụ, đó chắc chắn là điều Chúa Giêsu muốn. Bởi Chúa ban cho Đức Mẹ được mẹ chúng ta, và chúng ta được làm con của Đức Mẹ, tất cả đều không ngoài mục đích: Chúa dạy chúng ta, muốn đi về vĩnh cửu, hãy học gương thánh thiện của Đức Mẹ, hãy để Đức Mẹ đồng hành, hãy “nối kết” liên lỉ với Chúa cùng Đức Mẹ và như Đức Mẹ.
Bằng tràng chuỗi Mân côi, chúng ta, con của Đức Mẹ, sẽ sống trong phúc lành của Chúa. Bởi Chúa đã yêu Đức Mẹ, thì chúng ta, những môn đệ của Chúa, chắc chắn cũng sẽ được Chúa tỏ lòng mến thương không kém.
Trên một chuyến xe lửa về Paris, một sinh viên trẻ tuổi ngồi bên một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ già rút trong túi áo ra một chuỗi tràng hạt và từ từ chìm đắm trong cầu nguyện. Người sinh viên quan sát cử chỉ của cụ già với vẻ bực bội. Sau một hồi lâu, xem chừng như không còn đủ kiên nhẫn nữa, anh ta mới lên tiếng:
- Thưa ông, nếu tôi không lầm thì ông vẫn còn tin những chuyện nhảm nhí ấy chứ?
Cụ già điềm nhiên trả lời?
- Đúng thế, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?
Người sinh viên cười một cách ngạo mạn và quả quyết:
- Lúc nhỏ tôi tin, nhưng bây giờ làm sao tôi có thể tin những chuyện ấy nữa. Khoa học đã thực sự mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi, hạy quăng chuỗi tràng hạt ấy đi, và hãy học hỏi những khám phá mới. Ông sẽ thấy rằng những gì ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan cả.
Cụ gia bình tĩnh hỏi người sinh viên:
- Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học. Cậu có cách nào giúp tôi hiểu được điều nầy không?
Người sinh viên hăng hái đề nghị:
- Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gởi đến cho ông một quyển sách. Ông sẽ tha hồ đi vào thế giới của khoa học.
Cụ già từ từ rút trong túi áo ra một thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người sinh viên bỗng xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy có ghi: "Louis Pasteur viện nghiên cứu khoa học Paris".
Anh chị em thân mến,
Louis Pasteur là một nhà bác học thời danh của viện nghiên cứu khoa học Paris. Cuộc đời nghiên cứu khoa học của ông gắn liền với việc cầu nguyện và cầu nguyện với tràng chuỗi mân côi. Ngược lại, con người sống trong thời đại khoa học kỹ thuật ngày nay chỉ đề cao tính thực dụng, đề cao những gì mang lại hiệu quả cụ thể, tức thời, giải đáp những nhu cầu cuộc sống. Vì thế, người ta dễ lơ là với việc cầu nguyện, cho rằng cầu nguyện chẳng mang lại cái gì cụ thể cho cuộc sống, chỉ thấy mất thời giờ, nếu không cho là chuyện nhảm nhí, mê tín dị đoan.
Nếu việc cầu nguyện nói chung bị quên lãng như thế, thì hình thức cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi lại càng khó khăn nhiều hơn nữa. Nhất là chuỗi Mân Côi được thực hành với niềm tin tưởng có vẻ ma thuật, phù phép sẽ không còn thu hút nổi người ngày nay, nhất là giới trẻ. Họ chỉ thấy đó là công việc tẻ nhạt, mất thời giờ và hoàn toàn máy móc. Có người lại còn mặc cảm khi lần chuỗi Mân Côi, vì nghĩ rằng đó là việc đạo đức của các bà già và con nít!
Chính vì vậy, cần phải đổi mới việc lần chuỗi Mân Côi. Việc đổi mới nầy hệ tại ở chỗ khám phá nội dung và giá trị Tin Mừng của tràng chuỗi Mân Côi. Trong Tông huấn "Lòng sùng kính Đức Maria" (Marialis Cultus), Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã không ngừng nhắc đến kinh Mân Côi là một kinh bản chất Tin Mừng, là kinh Tin Mừng, là bản tóm lược Tin Mừng. Tin Mừng ở đây là Tin Mừng Cứu Độ. Tin Mừng ấy không nơi nào được vang lên với tất cả niềm hân hoan phấn khởi cho bằng lời kinh "Ave Maria" mà chúng ta đọc là "Kính Mừng Maria" thay vì trong nguyên ngữ Hy Lạp có nghĩa là "Hãy vui lên, Maria!" khi thiên sứ loan báo Tin Mừng cứu độ. Tin Mừng cứu độ mà bao đời hằng ấp ủ trong hy vọng, giờ đây được thực hiện nơi người thiếu nữ Sion mang tên Maria, vì Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn để trở thành Mẹ của Con Ngài, Mẹ của Đấng mà nơi Ngài ơn cứu độ được hoàn thành. Vì thế, Maria được ban một tên mới: "Hãy vui lên, Người đầy ơn phúc" là tên mới của Đức Mẹ. Đọc lên lời kinh "Kính mừng Maria" là reo lên niềm vui ơn cứu độ. Ơn cứu độ mà chúng ta được hội nhập vào, khởi đi từ lòng Thiên Chúa thương xót và thông qua thái độ đầy tin tưởng, cậy trông của Đức Maria.
Nội dung Tin Mừng cứu độ là chính Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, từ khi giáng sinh đến cuộc sống, lời rao giảng, cái chết và sự phục sinh của Ngài. Thế mà chuỗi Mân Côi là bản tóm lược cuộc đời của Chúa Giêsu với những biến cố chính yếu nhất: "Từ khi thụ thai và những mầu nhiệm của thời thơ ấu cho đến giờ phút cao điểm của biến cố Vượt Qua cuộc Tử Nạn hồng phúc và Phục Sinh vinh quang - và cho đến hồng ân tuôn đổ xuống trên Giáo Hội ngày lễ Ngũ Tuần cũng như trên Đức Trinh Nữ trong ngày kết thúc cuộc hành trình trần gian đã được đưa cả xác hồn về quê hương thiên quốc" (MC số 45). Vì vậy có lạ gì khi nói chuỗi Mân Côi là bản tóm lược Tin Mừng.
Anh chị em thân mến,
Khi lần chuỗi Mân Côi cùng với lời kinh Kính Mừng Maria được lặp đi lặp lại như một điệp khúc vui, chúng ta được mời gọi đi vào tâm tình của Mẹ Maria, dọc theo những biến cố của cuộc đời của người Con yêu dấu: những tâm tình khiêm nhu, nghèo khó, yêu thương, vâng phục, tín thác... Đây là những giá trị của Tin Mừng. Chúng ta phải quay về với Tin Mừng, phải đọc lên trong lòng bản hiến chương Nước Trời, nơi đó, những kẻ nghèo khóc, hiền lành, đau khổ, trong sạch, biết xót thương, biết xây dựng hòa bình... được công bố là kẻ có phúc, là con Thiên Chúa, là kẻ chiếm lãnh Nước Trời. Chỉ khi đó, chúng ta mới hiểu được cuộc đời của Đức Maria, mới nhận ra vẻ đẹp sáng ngời vốn chỉ là tăm tối đối với thế gian. Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria và qua Ngài thêm một lần xác tín lại hằng ngày những giá trị của Tin Mừng, những giá trị mà tất cả những ai xưng mình là môn đệ Đức Kitô không thể không biết đến và lấy làm lẽ sống cho đời mình.
Nói rằng chuỗi Mân Côi là kinh Tin Mừng, ngay lập tức chúng ta đi đến hệ luận: không thể lần chuỗi Mân Côi cách máy móc và chỉ chú trọng đến số lượng. Bởi một lẽ đơn giản và minh bạch là Tin Mừng không chấp nhận thái độ đó. Chính Chúa Giêsu đã nói: "Khi cầu nguyện thì các ngươi chớ lãi nhãi như người ngoại. Họ tưởng hễ nói nhiều thì sẽ được nhận lời" (Mt 6,7). Thái độ phải có là lần chuỗi Mân Côi với tinh thần của Tin Mừng, cũng chính là tâm tình của Đức Maria: "Người giữ kỹ mọi điều ấy và hằng suy đi nghĩ lại trong lòng" (Lc 2,19; 2,51). Đó là biết lắng nghe Lời Chúa, suy niệm và thi hành.
Thưa anh chị em,
Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria làm lại cuộc hành trình của cuộc sống. Cùng với Đức Maria nhìn lại những biến cố cơ bản trong chiều dài lịch sử cứu độ, và qua những biến cố đó, nhìn vào những biến cố hôm nay, của cá nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội trong ánh sáng Tin Mừng. Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria đi tìm một lời đáp trả cho những vấn đề của cuộc sống hôm nay, lời đáp trả thấm nhuần lòng tin, niềm hy vọng và dám chấp nhận dấn thân trong hành động cụ thể, trong những lựa chọn đầy can đảm như Mẹ Maria đã dấn thân cả cuộc đời vì Nước Trời.
Không có lời cầu nguyện đích thực khi chưa dám sáp nhập toàn bộ con người và cuộc đời mình vào mối liên hệ với Thiên Chúa. Cũng không thể có việc lần chuỗi Mân Côi đích thực khi chưa dấn mình cùng với Đức Maria vào nẻo đường của Thiên Chúa.
Sau khi phản bội Chúa bằng một cái hôn, Giuđa cảm thấy chán nản thất vọng đến độ không còn tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa nữa. Ông cầm lấy 30 đồng bạc là giá bán Chúa đi vào đền thờ và nám trả lại cho các Thượng tế và Kỳ lão. Sau đó ông đi thắt cổ tự tử. Câu chuyện này đã đi vào lịch sử của dân làng Oberammergau ở Đức. Cứ 10 năm một lần theo lời thề của cha ông để lại từ mấy trăm năm qua, người dân làng diễn lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Trong cảnh Giuđa ra ngoài ngồi than thở: “Tôi đã phản bội Thầy tôi. Tôi không biết chạy đến với ai nữa!”
Khán giả ở dưới im lặng theo dõi, một em bé ngồi bên cạnh mẹ, thông cảm cho số phận của kẻ chìm đắm trong thất vọng, em muốn tìm cách để cứu vớt con người khốn khổ ấy. Em quay sang mẹ và nói lớn đến nỗi tất cả khán giả trong hội trường đều nghe thấy:
“Mẹ ơi, sao ông ta không chịu chạy đến với Mẹ Maria?”.
Thưa anh chị em,
Phải chi Giuđa mà biết chạy đến với Mẹ Maria, hẳn là ông đã không thắt cổ tự tử. Hãy nhờ Mẹ Maria mà đến với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cũng có một người mẹ như mọi người, và nhất là Ngài cũng trải qua một thời thơ ấu như mọi người. Kỷ niệm của những giây phút ngồi trên gối mẹ, những lần sà vào lòng mẹ, hẳn phải luôn đậm nét trong ký ức của Chúa Giêsu. Có lẽ chính kinh nghiệm bản thân ấy đã trở nên bài học mà Ngài muốn nhắn gởi chúng ta: “Hãy chạy đến với Mẹ Maria”.
Tràng chuỗi Mân Côi là một phương thế giúp chúng ta chạy đến với Mẹ Maria. Đức Thánh Cha Piô X đã nhắn nhủ các gia đình Công giáo: “Khi gia đình không được an vui hòa thuận, hãy lần chuỗi Mân Côi để xin Mẹ ban cho sự an vui hòa thuận yêu thương. Khi gặp người chồng thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng chuỗi Mân Côi, để xin Mẹ cảm hóa bạn mình. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần chuỗi Mân Côi, xin Mẹ tạo sự cảm thông…”.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, ngay trong tuần lễ sau khi đắc cử Giáo Hoàng, đã nói với tất cả các tín hữu hiện diện tại quãng trường Thánh Phêrô khi đọc Kinh Truyền Tin rằng: “Chuỗi Mân Côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lặp lại nhiều lần những lời Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Êlizabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy. Người ta có thể nói rằng: Kinh Mân Côi là kinh chú giải chương cuối cùng của Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội (Lumen Gentium) của Công Đồng Vatican II, chương bàn đến sự hiện diện tuyệt vời của Đức Mẹ trong mầu nhiệm Chúa Kitô diễn ra trước mắt chúng ta. Những biến cố ấy bao gồm toàn bộ các mầu nhiệm Vui, Thương, Mừng và chúng ta hiệp thông sống động với Chúa kitô nhờ Mẹ Maria. Đồng thời, chúng ta có thể đưa kinh Mân Côi vào tất cả những biến cố trong cuộc sống hằng ngày của từng cá nhân, từng gia đình, xã hội, Giáo Hội và toàn thể nhân loại, những biến cố của chính bản thân của anh chị em chung quanh, nhất là với người thân yêu sống gần gũi với chúng ta. Như thế, kinh Mân Côi đơn sơ này sẽ rập theo nhịp sống của con người” (Gioan Phaolô II, 29.10.1978).
Trong Tông Huấn “Lòng sùng kính Đức Maria” (Marialis Cultus), Đức Thánh Cha Phaolô VI đã nói: “Kinh Mân Côi là kinh Tin Mừng”. Là kinh Tin Mừng không chỉ ở chỗ lời kinh Lạy Cha, Kính Mừng được chấp nối bằng những lời lẽ trong Thánh Kinh, nhưng nhất là vì lời kinh ấy đưa chúng ta vào nội dung chính yếu của Tin Mừng là mầu nhiệm Chúa Giêsu.
Vì thế, đối tượng cốt yếu của chuỗi Mân Côi không phải là mầu nhiệm Đức Maria, nhưng là mầu Chúa Giêsu, trải dài từ tiếng khóc Bêlem đến nỗi đau thập giá và niềm vui phục sinh, đến ân huệ Thánh Thần. Cùng với cuộc sống ấy là những giá trị căn bản của Tin Mừng được xác quyết: yêu thương, nghèo khó, khiêm nhường, từ bỏ… những giá trị “nên xác thịt” nơi con người Chúa Giêsu và là tiếng mời gọi được gởi tới cho tất cả mọi người.
Trên nẻo đường Tin Mừng ấy, lại có sự hiện diện của Đức Maria, một người Mẹ đầy tình mẫu tử và cũng là người môn đệ ấy đã thông điệp trọn vẹn với Chúa Giêsu, Đấng cứu độ trong suốt cuộc đời: từ khi sinh ra đến khi chứng kiến cái chết trên thập giá, sống lại và lên trời. Chuỗi Mân Côi đưa người tín hữu vào suy niệm về những đoạn đường Chúa đã đi qua với sự hiện diện của Mẹ Maria trong những đoạn đường ấy.
Như thế, thưa anh chị em,
* Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ Maria và qua Mẹ Maria, chúng ta thêm một lần xác tín và xác tín lại hằng ngày những giá trị của Tin Mừng.
* Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ Maria nhìn lại những biến cố cơ bản trong chiều dài lịch sử cứu độ và qua những biến cố ấy, chúng ta nhìn lại những biến cố hôm nay của cá nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội trong ánh sáng Tin Mừng.
* Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ Maria đi tìm một lời đáp trả cho những vấn đề của cuộc sống hôm nay, lời đáp trả thấm nhuần lòng tin, niềm hy vọng và dám chấp nhận dấn thân trong những lựa chọn can đảm, trong hành động cụ thể như Mẹ Maria đã dấn thân cả cuộc đời vì Nước Trời.
Chính như thế đó, Thánh Đaminh đã biến chuỗi Mân Côi thành phương thế loan báo Tin Mừng. Nhờ đó nhiều người đã thoát khỏi sự lầm lạc do bè rối Albigeois gây ra và đã trở về với Giáo Hội.
Cũng chính như thế đó, Đức Gioan XXIII đã lần chuỗi Mân Côi như phương thế nuôi dưỡng đời sống mục tử của ngài.
Đối với chúng ta cũng thế, không có lời cầu nguyện đích thực khi chưa dám sáp nhập toàn bộ con người và cuộc đời chúng ta vào mối liên hệ với Thiên Chúa. Cũng không thể có việc lần chuỗi Mân Côi đích thực khi chưa dấn mình -cùng với Mẹ Maria- vào nẻo đường của Thiên Chúa. Hãy chạy đến với Mẹ Maria để nhờ Mẹ dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu.
Thời gian viên mãn đã đến, người trinh nữ, dấu chỉ của lời hứa được loan báo trước kia giỡ đây được chỉ định rõ ràng cho chúng ta biết và chúng ta biết rõ đó là Đức Maria, Đấng làm cho tâm hồn ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui khi nghe đến tên Ngài. Cùng với thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: "Kính mừng Maria, hãy vui lên, Maria". Qua lời chào của thiên thần, Thiên Chúa mời gọi Maria hãy vui lên vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến và làm sao Mẹ Maria không vui lên được, khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời hứa, để làm dấu chỉ loan báo hoàng tử hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào chúc Mẹ Maria qua kinh Kính Mừng "Kính Mừng Maria đầy ơn phước" chúng ta tham dự vào niềm vui và niềm tri ân của Mẹ đối với Thiên Chúa.
Mẹ là Đấng đầy ơn phước, Đấng được Thiên Chúa chúc phúc. Mẹ thuộc hoàn toàn về người tôi tớ của Đức Giavê như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia chương 42 câu 1: "Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta chọn và đẹp lòng Ta mọi đàng. Mẹ được đầy ơn phước vì Đấng sắp đến ngự nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa". Mẹ Maria được đầy tràn niềm vui. Mẹ là người đầu tiên được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui vì Thiên Chúa nhập thể. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho Israel, và suốt đời Mẹ sẽ là bài ca chúc tụng lòng trung thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Dacaria:
"Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Ngài là Đấng trung tín như lời đã hứa Abraham và con cháu ông".
"Thiên Chúa ở cùng Bà", Mẹ Maria đã từng suy niệm lời tiên tri loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến, nên giờ đây từng lời thiên thần nói ra cho Mẹ đều mang một ý nghĩa sâu xa. "Thiên Chúa ở cùng Bà", giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc trinh nữ Maria hay tin và hiểu rõ thực tại Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Emmanuel, một cách thật độc nhất vô nhị. Mẹ vui mừng gọi Thiên Chúa là Emmanuel, là Đấng ở cùng chúng ta. Mẹ vui mừng trước sự hiện diện của Thiên Chúa và chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui và hết lòng cảm tạ Thiên Chúa.
"Hỡi Maria, đừng sợ", kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình, không khỏi làm cho con người run sợ. Không phải Mẹ Maria cảm nghiệm Thiên Chúa hiện diện, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây, đến lúc lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Không bao giờ Mẹ Maria đã nghĩ đến việc cả thể này, Thiên Chúa mạc khải chính Ngài và ý định của Ngài cho Mẹ. Mẹ vui mừng lên như một niềm vui mừng đi kèm với sự run sợ, một sự run sợ thánh. Kinh nghiệm sống đời Kitô, chúng ta cũng thấy hai tâm tình này như Mẹ Maria, vừa vui và vừa sợ. Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp đã thắng vượt cái sợ và phó thác tin tưởng hoàn toàn vào Chúa.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta được tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ để Thiên Chúa thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em chung quanh. Đặc biệt, trong ngày lễ của Mẹ hôm nay, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa Cha:
"Lạy Cha là Chúa tể trời đất, Chúng con chúc tụng Cha Vì Cha đã không mạc khải cho những kẻ khôn ngoan kiêu ngạo Nhưng cho những kẻ bé nhỏ khiêm tốn Cha đã chọn Mẹ Maria để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con, Nhờ lời cầu khẩn của Mẹ Maria Đặc biệt trong ngày lễ của Mẹ hôm nay Và nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng con".
Xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Người và vui mừng tiếp rước Người đến ở với chúng con. Và lạy Mẹ Maria, chúng con kính mừng Mẹ, Đấng đầy ơn phước. Mẹ đã lãnh nhận mọi phúc lành của Thiên Chúa để giúp chúng con. Thiên Chúa ở cùng Mẹ; Ngài cũng đến ở với chúng con. Chúng con cũng sẽ cảm nghiệm được điều này như Mẹ, nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi như Mẹ. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống trong niềm vui vì được Chúa hiện diện bên cạnh, và đặc biệt trong chính chúng con.
"Hỡi Maria, xin đừng sợ, vì Bà được đầy ơn phước trước Thiên Chúa, Bà sẽ cưu mang và sinh hạ một con trai và đặt tên trẻ ấy là Giêsu" (Lc 1,30-31).
Thời gian viên mãn đã đến, người trinh Nữ mà dấu chỉ của lời loan báo trước đây đã được thực hiện một cách sáng tỏ. Đó là Đức Maria, Đấng làm tâm hồn chúng ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui, cùng thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: "Kính Mừng Maria, Hãy Vui Lên".
Qua lời chào và mời gọi của Thiên Chúa: "Hỡi Maria, hãy vui lên", vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến. Như vậy, làm sao Mẹ Maria không vui lên được khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời Chúa hứa, làm dấu chỉ loan báo hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào Mẹ qua Kinh Kính Mừng, thì chính khi ấy chúng ta được tham gia vào niềm tri ân và niềm vui của Mẹ đối với Thiên Chúa.
"Mẹ là Đấng Đầy Ơn Phước", vì chính Mẹ được Thiên Chúa chúc phúc, Mẹ hoàn toàn thuộc về tôi tớ Giavê, như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia: "Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta tuyển chọn, Người đẹp lòng Ta mọi đàng" (Is 42,1). Mẹ được đầy ơn phúc vì Đấng sắp ngự đến nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Mẹ Maria là người được đầy tràn niềm vui, vì Mẹ đã được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui là Ngôi Lời Thiên Chúa Nhập Thể trong lòng Mẹ. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ của niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho dân Israel. Suốt đời Mẹ là bài ca trung thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Zacaria: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Ngài đã trung tín với lời hứa cho Abraham và con cháu ông".
"Thiên Chúa ở cùng Bà". Đó là lời Mẹ đã từng suy niệm, khi tiên tri Isaia loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến. Vì vậy, những lời Thiên Chúa ở cùng Bà". Giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc Maria được hay tin Đấng là: "Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta". Mẹ vui mừng vì chính Đấng được gọi là Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ở trong chính cung lòng Mẹ. Chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui mừng và cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã đến ở với nhân loại.
"Hỡi Maria đừng sợ". Kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình không khỏi làm cho con người run sợ, không những Mẹ cảm nghiệm, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Đây là một điều mà không bao giờ Mẹ dám nghĩ đến. Nhưng Thiên Chúa đã mạc khải chính những ý định của Ngài cho Mẹ. Vì thế, Mẹ rất vui mừng, nhưng niềm vui mừng ấy đi kèm với niềm run sợ, một sự run sợ thánh.
Kinh nghiệm sống đời Kitô của chúng ta cũng có hai tâm tình này như Mẹ Maria: "Vui và Sợ". Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp để thắng vượt cái sợ và Mẹ đã phó thác tin tưởng hoàn toàn trong Ngài. Xin Mẹ giúp chúng ta tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em xung quanh.
Lạy Cha là Chúa trời đất, chúng con chúc tụng Cha, vì Cha đã không mạc khải những mầu nhiệm cao cả ấy cho kẻ khôn ngoan kiêu ngạo, nhưng Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn và khiêm tốn. Cha đã chọn Đức Maria để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con, nhờ lời cầu khẩn của Đức Maira và nhân danh Đấng Emmanuel là Đức Giêsu Kitô, Đấng Thiên Chúa ở cùng chúng con, xin cho chúng con nhận ra sự hiện của Người và tiếp rước Người đến ở với chúng con.
Lạy Mẹ Maria, chúng con Kính Mừng Mẹ, Đấng "Đầy Ơn Phước", Mẹ đã lãnh nhận mọi ơn lành của Thiên Chúa để giúp chúng con chu toàn thánh ý Chúa. Thiên Chúa ở cùng Mẹ để Thiên Chúa ở cùng với chúng con, chúng con sẽ cảm nhận được điều này như Mẹ nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi làm con cái Thiên Chúa.
Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống trong niềm vui như Mẹ, đó là luôn có Chúa hiện diện bên cạnh trong cuộc sống hằng ngày của chúng con. Amen.
Các cụ ngày xưa hay dạy con cháu trong việc giữ đạo rằng: tràng hạt Mân Côi đưa tôi về trời. Ở đây, các cụ không ngụ nói việc đeo hay trưng bày tràng chuỗi Mân Côi nhưng là việc cầu nguyện bình dân bằng Mân Côi trong đời sống người kitô hữu. Tại sao việc lần chuỗi Mân Côi mang đến một hiệu quả cao siêu như vậy? Trước hết, chúng ta cùng tìm hiểu vai trò của Đức Mẹ trong chương trình cứu độ.
Thật vậy, các bài đọc phụng vụ hôm nay cho thấy, Đức Mẹ có vai trò đặc biệt trong chương trình cứu độ. Bài sách công vụ cho biết Mẹ Maria có chỗ đứng quan trọng trong Hội Thánh sơ khai. Mẹ là thành phần của Hội thánh nhưng là thành phần trổi vượt. Sau biến cố Chúa tử nạn, phục sinh và lên trời của Chúa Giêsu, Mẹ Maria đã giúp Hội thánh khỏi những khó khăn ban đầu qua hành vi chuyên cần cầu nguyện chung với các tông đồ (x. Cv 1,14). Mẹ Maria đã trở nên mẫu gương cầu nguyện cho mọi người noi theo.
Tiếp đến, thư Galát đã gián tiếp nhắc đến vai trò của Đức Maria trong chương trình cứu độ. Thiên Chúa muốn cứu độ con người nhưng lại chấp nhận một phương thế rất khiêm hạ. Đó là chấp nhận cho Con mình là Chúa Giêsu sinh làm con một người trinh nữ, là Đức trinh nữ Maria. Chúa Giêsu đã đến để chuộc những ai sống dưới lề luật, để mỗi người được làm con Chúa. Nhờ Mẹ Maria chấp nhận làm mẹ Chúa Giêsu mà mọi người có cơ hội được làm con Thiên Chúa và có thể kêu lên với Chúa là Apba có nghĩa là Cha ơi.
Cuối cùng, bài Tin Mừng theo thánh Luca đã trình thuật biến cố truyền Tin. Đức Maria được Thiên thần Gariel chào chúc là Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Mẹ. Mẹ Maria được chào chúc như vậy bởi vì Mẹ đã và đang sống đẹp lòng Chúa, đang sống theo ý Chúa và nhất là Mẹ đã được Thiên Chúa tuyển chọn để làm Mẹ Chúa Giêsu, ngôi lời Thiên Chúa nhập thể. Mẹ càng đẹp lòng Thiên Chúa hơn nữa khi Mẹ thưa lời xin vâng với sứ thần: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Chính giây phút thưa lời xin vâng, Mẹ Maria đã trở thành Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể. Thưa lời xin vâng, Mẹ đã chấp nhận liên đới mật thiết với Chúa Giêsu khi thành công cũng như chuỗi ngày thất bại, khi chia vui với thực khách ở tiệc cưới Cana cũng như lúc sẻ buồn với Chúa Giêsu và Hội thánh ở trên núi sọ. Mẹ cũng liên đới mật thiết với Hội thánh vì khi nhận lời trăng trối của Chúa Giêsu trên thập giá, Mẹ đã nhận thánh Gioan, đại diện cho toàn thể Hội thánh là con của mẹ. Nhờ thế, Mẹ đã hiệp công cứu chuộc với Chúa Giêsu con Mẹ trong chương trình cứu độ. Mẹ có sức chuyển cầu hiệu quả cho những ai cậy trông vào Mẹ, cách riêng cho những ai chuyên chăm lần chuỗi Mân Côi.
2. Tràng chuỗi Mân Côi đưa tôi về trời.
Lần chuỗi Mân Côi là việc đạo đức bình dân không xếp trên thánh lễ, các bí tích và giờ kinh phụng vụ vì các việc trên là phụng vụ và là việc tôn thờ chính thức của Hội thánh. Tuy nhiên, việc lần chuỗi Mân Côi lại có một hiệu quả đặc biệt cho ơn cứu độ của mỗi người. Tại sao như vậy? Trước hết, Đức Maria có thế giá đặc biệt khi chuyển cầu cho con cái mình và kinh Mân Côi là lời Kinh được chính Đức Mẹ tỏ bày cho con cái mình. Vào thế kỷ 12, thánh Đaminh đã được Đức Mẹ hiện ra ban cho phép lần hạt Mân Côi, như một thứ vũ khí thiêng liêng nên đã chặn đứng được làn sóng lạc giáo Anbidoa Miền Nam nước Pháp. Nhờ phép lần hạt Mân Côi mà Hội Thánh Dưới triều đại Đức Thánh Cha Piô V đã tránh được làn sóng xâm lược của đạo quân Hồi giáo tại vịnh Lêpăng vào đầu thế kỷ 16. Vào đầu thế kỷ 20, trong biến cố ở Fatima, Mẹ Maria đã khuyên dạy con cái mình siêng năng lần hạt Mân Côi để thế giới được hòa bình, mọi người được bình an.
Kế đến, lời kinh Mân Côi là bảng tóm Phúc Âm. Đây là kinh nguyện đầy nét Thánh Kinh được tập trung vào mầu nhiệm Nhập Thể cứu chuộc, chuỗi Mân Côi hướng rõ ràng về Đức Kitô. Thật vậy, kinh kính mừng là lời ca tụng Đức Kitô không ngừng: Kính chào bà đầy ơn phúc và con lòng bà gồm phúc lạ. Kinh lạy cha là kinh chính Chúa Giêsu dạy để các tông đồ và người tín hữu biết cầu nguyện. Các ngắm vui, thương mừng, sáng diễn tả cô đọng mầu nhiệm của Chúa Giêsu từ khi sinh ra cho tới khi hoàn tất chương trình cứu độ và các ý nguyện giúp người đọc sống theo gương Chúa Giêsu. Kinh sáng danh là lời vinh tụng ca tuyên xưng một Chúa Ba Ngôi cả sáng: Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần.
Cuối cùng, kinh Mân Côi là kinh dễ thực hành cho mọi tín hữu trong mọi hoàn cảnh phù hợp cho một em bé cũng như cho cả Đức Giáo Hoàng. Đức chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chia sẻ kinh nghiệm của Ngài trong việc thực hành kinh Mân Côi được trích trong tông huấn Rosarium Virginis Mariae như sau: “Chuỗi Mân Côi là lời kinh tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt diệu trong đơn sơ và trong sâu thẳm của nó …Đã bao nhiêu năm qua, tôi đã lãnh nhận không biết bao nhiêu ân sủng từ Đức Trinh Nữ nhờ kinh Mân Côi”.
Ước mong mỗi khi chúng ta tin nhận thế giá bầu cử của Mẹ trong chương trình cứu độ. Chúng ta năng chạy đến Mẹ qua lần chuỗi hằng ngày, để chính Mẹ giúp mỗi người ngày càng gắn bó và yêu mến Chúa Giêsu hơn.
Trong đời sống của Giáo Hội, có hai việc tôn thờ Thiên Chúa: thứ nhất là Phụng Vụ, thứ hai là các việc đạo đức bình dân. Việc Phụng Vụ là việc thờ phượng Thiên Chúa một cách chính thức của Giáo Hội, gồm Thánh Lễ, Chầu Thánh Thể và Giờ Kinh Thần Vụ. Còn các việc đạo đức bình dân gồm có viếng Thánh Thể, lần hạt Mân Côi, đi Đàng Thánh Giá, rước kiệu… Gọi là “bình dân” vì ai cũng có thể làm được, và có thể làm được mọi nơi mọi lúc.
Trong các việc đạo đức bình dân, thiết nghĩ lần chuỗi Mân Côi là việc có giá trị nhất. Vì sao? Vì khi lần chuỗi Mân Côi là ta lặp đi lặp lại những lời kinh trọng nhất, đẹp nhất trong đạo. Bắt đầu là Kinh Lạy Cha, lời kinh do chính Chúa Giêsu dạy, lời kinh trọng nhất. Và tiếp đến là 10 kinh Kính Mừng, vốn là lời kinh cũng có nguồn gốc từ Tin Mừng. Đi kèm là việc luân phiên suy gẫm 20 mầu nhiệm Tin Mừng gắn liền với công trình nhập thể và cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô, trong đó Đức Mẹ luôn luôn góp phần một cách trực tiếp.
Đó là lý do tại sao Mẹ Maria rất yêu thích chuỗi Mân Côi. Và đó cũng là lý do tại sao, ta thấy rằng, mỗi lần hiện ra nơi này nơi nọ, Mẹ Maria đều cầm tràng chuỗi Mân Côi trên tay, và luôn nhắc nhở con cái của Mẹ lần chuỗi Mân Côi: ở Fatima, ở Lộ Đức, hay ở La Vang đều như thế!
Tuy nhiên, thực tế ngày hôm nay giới trẻ và cả giới trung niên rất lười lần Chuỗi Mân Côi, đặc biệt nam giới. Tất cả đều có chung một “họ” là họ “lười”. Nguyên nhân tại sao? Có rất nhiều nguyên nhân, nhưng thiết tưởng có ba nguyên nhân chính.
- Thứ nhất là do não trạng chung, người ta vốn xem thường các việc đạo đức bình dân.
Vì là bình dân, nên nhiều người cho là bình thường, thậm chí là tầm thường, là việc của mấy bà già. Cơm bình dân thì giới bình dân ăn; việc đạo đức bình dân thì người bình dân làm. Đọc kinh, viếng Chúa, đi Đàng Thánh Giá đã mệt, lại còn mất công, tốn thời gian. Lần hạt thì toàn lặp đi lặp lại những kinh nhàm chán và buồn ngủ; trong khi đó cuộc sống hôm nay có những thứ khác hấp dẫn hơn, lý thú hơn nhiều. Rất nhiều người, đặc biệt là các bạn trẻ vẫn thường suy nghĩ như thế!
- Thứ hai là do cuộc sống ngày hôm nay vốn nhiều bận bịu lo toan, nhất là việc học hành, làm ăn.
Người lớn thì căng thẳng vì chuyện cơm áo gạo tiền, hay vì chuyện công ăn việc làm, có khi phải tăng ca tăng kíp, có khi làm ngày không đủ phải tranh thủ làm đêm. Người trẻ thì bù đầu vào chuyện học hành: học chính khóa, học thêm, học tăng cường, học phụ đạo, học nâng cao… Tất cả những thứ đó đã khiến cho nhiều người cảm thấy mệt mỏi sau một ngày làm việc, hay học hành; vì thế mà họ không còn hứng thú, hay sốt sắng để làm các việc đạo đức nữa.
- Thứ ba là do các thú vui giải trí từ ngành công nghệ truyền thông.
Đây là lý do chính. Rảnh rang được giờ nào là xem Tivi, chat chit, lướt web, hay chơi game. Tivi thì nhiều chương trình, nhiều kênh đài phong phú và hấp dẫn, phát sóng 24/24. Đặc biệt những chương trình nóng, “hot” lại rơi vào những giờ vàng, giờ Kinh Lễ, khiến cho người ta không sao rời khỏi cái màn hình Tivi - con quái vật một mắt. Nếu rời được cái Tivi thì quay sang ôm cái điện thoại, là thứ mà lúc nào cũng kè kè bên mình: hết gọi điện lại nhắn tin, hết nhắn tin lại chơi game, hết chơi game lại nghe nhạc, hết nghe nhạc lại selfie. Chưa hết, dứt được cái điện thoại, lại chụp ngay cái máy vi tính: lướt web, chat chit, xem phim, chơi game thỏa thích, v.v…
Ngày hôm nay không ai phủ nhận những tiện ích lớn lao từ cuộc cách mạng công nghệ thông tin mà Apple, Microsoft… mang lại cho con người. Thế nhưng, có thể nói Apple, Microsoft đang là những “nhà vô địch” trong việc “đánh cắp” các linh hồn. Dĩ nhiên, chính những người sử dụng các phương tiện, cũng có phần trách nhiệm vì đã “thỏa hiệp” với những “kẻ đánh cắp” ấy.
Viện cớ cuộc sống có nhiều áp lực và căng thẳng, nên cần giải trí, cần thứ giãn, và dần dà người ta sa đà và bị cuốn vào những thứ giải trí thường vô bổ. Hậu quả là gì? Hậu quả là các thứ này sẽ lấy hết những khoảng thời gian rảnh rỗi ít oi, và cũng xâm chiếm hết tâm trí của con người, khiến cho người ta không còn trí lòng nào, khoảng trống nào cho Chúa Mẹ và cho các việc đạo đức. Cầm điện thoại thích thú hơn cầm sách Lời Chúa, lướt web lý thú hơn lần hạt, chat chit chí thú hơn đọc kinh, v.v… Đây là một thực tế đối với nhiều bạn trẻ ngày nay.
Có thể nói chính vì những nguyên nhân trên mà lớp trẻ ngày nay đang bắt đầu rơi vào một cuộc “đại khủng hoảng” về các việc đạo đức, xa hơn sẽ là một “thảm họa” về đời sống thiêng liêng. Cứ thử xem trong giáo xứ có bao nhiêu bạn trẻ còn lần chuỗi Mân Côi mỗi tối, bao nhiêu thanh thiếu niên còn viếng Chúa Giêsu Thánh Thể mỗi ngày thì sẽ thấy thảm họa về đời sống thiêng liêng là không còn xa. Ai phải chịu trách nhiệm?
Người đầu tiên phải chịu trách nhiệm chính là các bậc làm cha mẹ. Vậy cần chấn hưng thế nào đây?
- Trước hết, các bậc cha mẹ hãy quản lý con cái của mình, quản lý cái Tivi và cái máy vi tính. Đừng cho con cái mua sắm những cái điện thoại đắt tiền, nhiều chức năng…. Chúng sẽ tiêu tốn hết thời gian rảnh rỗi của nó vào những chuyện vô bổ, tả pí lù. Bởi vì chúng chưa biết làm chủ bản thân, chưa biết sử dụng đúng đắn. Thay vì những phương tiện đó đem lại những cái hay cái được, thì lại đem đến những cái dở cái mất: mất giờ, mất tiền, mất sức và mất nết.
- Sau nữa, chính cha mẹ hãy nêu gương sáng cho con cái mình. Đây là điều quan trọng nhất. Mai sau ra trước tòa phán xét, Chúa sẽ hỏi các bậc cha mẹ về trách nhiệm này, trách nhiệm răn dạy và làm gương sáng cho con cái của mình. Cha mẹ mà không có lòng yêu mến Chúa, không đọc kinh lần chuỗi thì khó mà mong con cái có được lòng yêu mến Chúa và yêu mến Chuỗi kinh Mân Côi.
Vậy nếu ta chưa có thói quen làm các việc đạo đức bình dân, hoặc đã đánh mất thói quen tốt lành là lần chuỗi Mân Côi, do lười biếng, hay do xem nhẹ, thì tháng Mân Côi là dịp rất thuận tiện để bắt đầu tập thói quen, hoặc bắt đầu lại thói quen tốt lành ấy.
Xin Chúa giúp chúng ta có quyết tâm cụ thể trong tháng Mân Côi này và nỗ lực để thực hành, hầu kéo ơn Chúa, ơn Mẹ xuống trên gia đình và gia tộc mình; đồng thời giúp con cái mình tìm lại nguồn sức sống thiêng liêng.
Bài Phúc Âm được đọc trong ngày lễ kính Đức Mẹ Mân Côi đề cập tới biến cố truyền tin. Điều đó có vẻ như thiếu thiếu một gì đó, vì thật ra truyền tin chỉ là ‘mầu nhiệm Mân Côi’ thứ nhất trong số 20 mầu nhiệm được đem ra suy gẫm? Phụng vụ muốn nói gì khi chọn đoạn Tin Mừng này, đặc biệt cho giáo dân Việt Nam khi mà Hội Đồng Giám Mục trong khóa họp tháng 4 năm 1991 đã quyết định cho phép mừng trọng thể lễ này vào ngày Chúa Nhật? Đặt vấn nạn như thế có nghĩa là muốn xác định nội dung đích thực của việc lần hạt Mân Côi: một việc đạo đức được Đức Mẹ ưa thích, hay còn là một con đường sống Tin Mừng bình dân nhưng hữu hiệu và sâu sắc?
Người Công giáo chúng ta vẫn biết rằng giá trị của việc lần hạt Mân Côi hệ tại ở suy niệm các sự kiện hay biến cố xảy ra trong cuộc đời đức Giêsu và đức Ma-ri-a, hầu giúp ta nhận ra, ngày càng sâu sắc hơn, hồng ân cứu độ. Tuy nhiên sự nhận biết này nhiều khi chỉ dừng lại ở nhận thức, một cảm thức chung chung mang tính lý thuyết; hoặc giả hồng ân cứu độ đó chỉ là điều ta đã từng nhận lãnh một lần ngày rửa tội xa xưa. Biến cố truyền tin nói riêng, và mọi biến cố liên quan tới đức Ma-ri-a nói chung, theo như tác giả Lu-ca trình bày, cho thấy một khía cạnh khác của cuộc sống Hồng Ân cứu độ: các biến cố thường nhật cần phải được nhìn nhận và được đưa vào hồng ân này, nhất là khi chúng xem ra càng khó hiểu và xa lạ với kế hoạch từ ái của Thiên Chúa.
Biết bao lần tôi phải tự hỏi, trong tư cách một Kitô hữu đứng trước nhiều biến cố liên quan tới mình, tới tha nhân và xã hội loài người, thì “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào?” Câu hỏi này không mong tìm cho ra một giải đáp hợp lý cho từng sự kiện, nhưng là để nhận ra lòng từ bi thương xót của Chúa đang được thực hiện ra sao. Trong lần hạt Mân Côi, cùng với đức Ma-ri-a, tôi giáp mặt với cuộc sống hàng ngày, có thể là những niềm vui, những biến cố trang trọng mang nhiều ý nghĩa, cũng có thể là những nỗi buồn, những đổ vỡ..., những chuyện vụn vặt vu vơ, những thành công hay thất bại, những kỳ vọng hay hoài bão…
Đối với một Kitô hữu như tôi, tất cả mọi biến cố bất luận tốt xấu, đều có giá trị nếu được nhìn nhận và đưa vào tình yêu nhân ái của Thiên Chúa đầy lòng xót thương. Đối với Kitô hữu, sẽ không chỉ có vấn đề ‘thánh hóa = làm phép’ các biến cố hàng ngày, theo kiểu dâng chúng lên cho Thiên Chúa, như cách nói bình dân thông thường. Điều một Kitô hữu cần làm là dìm mọi biến cố của cuộc sống mỗi ngày ngập sâu trong hồng ân cứu độ. Truyền tin, và nhiều biến cố khác nữa, đã được đức Ma-ri-a sống như thế. Mẹ đã ‘ghi nhớ tất cả các điều ấy… và suy đi nghĩ lại trong lòng’ (Lc 2,19.51). Ma-ri-a đã không lần hạt, nhưng là Mẹ Mân Côi vì đã không ngừng khám phá và sống từng biến cố đời mình trong hồng ân cứu độ của Thiên Chúa.
Dành được thời giờ mỗi ngày để xét mình và suy gẫm các ‘mầu nhiệm phép Mân Côi’ là điều tốt, nhưng rồi cũng có lúc trở thành nhàm chán. Chung qui đó vẫn còn là công việc nặng tính lý thuyết và khá trừu tượng. Lần hạt Mân Côi sẽ làm cho cả hai việc trên trở nên sống động hơn, hiện sinh hơn, nếu qua đó tôi cùng với Mẹ nhìn nhận lòng từ ái Chúa trong từng biến cố cuộc sống mình. Mà các biến cố thì luôn thực tế, thiết thực và biến đổi không ngừng trong đời sống thường ngày. Các biến cố không chỉ được phân loại tối hay xấu theo nghĩa luân lý, mà tất tất đều cần được ánh sáng hồng ân cứu độ của Chúa soi chiếu và biến đổi, Như thế tôi không chỉ lần chuỗi hạt, mà sống Mân Côi mỗi ngày. Chắc chắn sống Mân Côi như thế sẽ thiết thực dẫn đưa tôi đạt tới một cuộc sống Kitô ngày càng Tin Mừng hơn, hiểu theo nghĩa cho phép tôi ngày càng vào sâu hơn trong hồng ân cứu độ, và mau mắn biến đổi đời tôi - không theo nghĩa ngày càng trở nên tốt lành thánh thiện hơn - nhưng ngày càng thâm tín khi nhận ra rằng tình thương của Chúa trên tôi (và trên toàn nhân loại) không bao giời vơi cạn, bất chấp tất cả những yếu đuối biến thiên vô hình vạn trạng của con người.
Sứ điệp Fa-ti-ma sẽ không bao giờ mất đi cái ý nghĩa thâm sâu của nó, đã được vang vọng từ thời Thánh Đa-minh, và sẽ còn tiếp tục mãi qua mọi thời: “Hãy năng lần Mân Côi!”
Lạy Mẹ Mân Côi! Cùng với Mẹ, xin cho con sống Mân Côi hàng ngày. Xin cho con luôn tìm được giải đáp thỏa đáng cho mọi tình huống và biến cố trong đời con qua câu nói của sứ thần mà chính Mẹ đã được nhắc nhở: “Vì đối với Thiên Chúa - nhân lành, không có gì là không thể làm được’. Cùng với Mẹ, con mong rằng việc lần hạt Mân Côi sẽ trở thành con đường Tin Mừng đích thực cho con. Amen.
Mọi tội lỗi của loài người đều do một cội rễ sinh ra, đó là tội không vâng lời Thiên Chúa. Ngay từ khởi thuỷ, tổ tông loài người là Ađam và E-và đã không vâng lời Thiên Chúa, không đi theo đường lối Người, nên đã bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, phải chịu đau khổ và phải chết, để lại hậu quả tai hại cho con cháu về sau.
Sự bất tuân nầy cũng giống như tàu đi trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu đi trật đường rầy thì cả đoàn tàu là muôn vàn con cháu cũng bị lao xuống vực sâu tội lỗi. "Thật vậy, vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân..." (Rm 5, 19)
Vì thế, muốn cứu chuộc loài người hư vong vì đi trệch đường lối Thiên Chúa thì phải có một đầu tàu khác lôi kéo đoàn tàu trở lại theo đúng đường rầy. Chúa Giêsu chính là "đầu tàu" nầy: "Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (là Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính". (Rm 5, 19)
Tràng chuổi Mân Côi chính là một lời động viên liên lỉ kêu mời mọi người theo gót Chúa Giêsu và Mẹ Maria, đi theo con đường vâng phục như Chúa Giêsu và Mẹ Maria để được tiến vào nơi hạnh phúc muôn đời.
* Theo gương vâng phục của Mẹ Maria
Bà E-và xưa đã nghe lời dụ dỗ của Sa-tan, không tuân giữ lời Thiên Chúa truyền dạy, nên đã lôi kéo dòng dõi của mình vào cõi chết.
Đức Maria là E-và mới đã uốn nắn lại những sai trật của E-và xưa, bằng đời sống vâng phục Thiên Chúa tuyệt đối nên Mẹ được đưa lên trời hưởng phúc muôn đời vinh hiển. Đó là một nét lớn trong nội dung của kinh Mân Côi.
Dù được Thiên Chúa đưa lên địa vị làm mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, Đức Maria vẫn tự coi mình là người nữ tỳ hèn mọn của Thiên Chúa và suốt đời vâng theo lệnh Chúa truyền. Mẹ đã thưa với sứ thần Gabrien trong ngày truyền tin rằng: "Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói". Đó là bài học vâng phục mà Mẹ dạy chúng ta qua mầu nhiệm vui.
Sự vâng phục trong tinh thần khiêm tốn của Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã tôn vinh Mẹ, ban cho Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác (là nội dung gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng) rồi lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc (là nội dung gẫm thứ năm thuộc năm sự mừng).
* Theo gương vâng phục của Chúa Giêsu
Song song với tấm gương vâng phục của Mẹ Maria là tấm gương vâng phục chói ngời của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm thương.
Trong Vườn Dầu, dẫu phải "lâm cơn xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất... (Luca 22, 44) thì Chúa Giêsu cũng xin thưa với Cha: "Xin đừng làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha!" (gẫm thứ nhất năm sự thương)
Kế đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù phải chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn cắn răng chịu đựng trong tinh thần vâng phục thánh ý Chúa Cha: "Xin cho ý Cha thể hiện".
Sau đó, quân dữ bện vòng gai làm như một thứ 'vương miện', chụp lên đầu Người, lại còn thay nhau khạc nhổ, phỉ báng, nhạo cười... (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn bằng lòng uống cạn chén đắng Cha trao: "Xin đừng theo ý Con, mà làm theo ý Cha".
Dù đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại phải vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước lên đồi Can-vê như một tên tử tội khốn cùng nhất, bị kiệt sức và phải ngã xuống nhiều lần (gẫm thứ tư), Chúa Giêsu vẫn đi cho đến cùng con đường Chúa Cha đã định: "Xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha".
Dù phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu chết rất đau thương trên thập giá giữa hai tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giêsu vẫn một lòng vâng theo ý Cha và xin Cha tha thứ cho những việc họ làm.(Luca 23, 34)
Sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên Người đã cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ hai năm sự mừng) và siêu tôn Chúa Giêsu vượt bậc: "Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu..." (Philíp 2, 9)
Thế là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu, mọi kẻ tin sẽ được cứu độ, con cháu Ađam tưởng đã phải hư mất đời đời nay lại được cứu rỗi: "Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính. (Rôma 5, 19)
Như thế, chuỗi Mân Côi là lời mời gọi chúng ta vâng phục Thiên Chúa theo gương Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Vâng theo ý Thiên Chúa là con đường đã đưa Chúa Giêsu và Mẹ Maria vào cõi trời vinh hiển và cũng là con đường duy nhất dẫn chúng ta vào chốn hạnh phúc đời đời như lời Chúa Giêsu dạy: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa! " là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi" (Mt 7,21).
Để cho kinh Mân Côi thực sự là một phương thế giúp ta nên thánh, cần phải suy niệm trong lòng, cần phải chiêm ngắm và noi theo gương lành của Chúa Giêsu và Mẹ Maria được gợi lên trong Kinh Mân Côi.
Trong những lần hiện ra, Mẹ Maria thường cầm tràng hạt trên tay. Khi hiện ra với ba trẻ ở Fatima, Mẹ còn lần hạt với ba trẻ tại đó. Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II cũng như nhiều vị giáo hoàng khác rất siêng năng lần hạt và kêu gọi tín hữu năm châu sốt sắng lần hạt hằng ngày. Như thế, Mẹ Maria cũng như Hội Thánh luôn khuyến khích chúng ta lần hạt vì Kinh Mân Côi là một phương thế giúp cho người ta nên thánh.
Nhưng để cho kinh Mân Côi thực sự là một phương thế giúp ta nên thánh, thì chỉ đọc suông ngoài miệng không đủ, mà cần phải suy niệm trong lòng, cần phải chiêm ngắm và noi theo gương lành của Chúa Giêsu và Mẹ Maria được gợi lên trong Kinh Mân Côi.
Giờ đây, chúng ta cùng chiêm ngắm lòng khiêm nhường sâu thẳm của Ngôi Hai Thiên Chúa qua Kinh Mân Côi.
Gương khiêm nhường của Ngôi Hai Thiên Chúa nổi bật trong những phần suy gẫm sau đây:
- Gẫm thứ nhất năm sự vui: Ngay khi Thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ, Thiên Chúa Ngôi Hai là Đấng cao sang quyền phép đã chấp nhận hóa thân thành một phôi thai nhỏ, chỉ bằng hạt cát thôi, nằm trong tử cung của Mẹ Maria để chờ ngày được sinh ra làm người. Một Thiên Chúa cao sang là Chúa Tể trời đất mà lại hạ mình đến thế thì tôi là ai mà dám nhắc mình lên cao!
- Gẫm thứ ba năm sự Vui: Khi Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu trong hang đá, Thiên Chúa Ngôi Hai là Vua Trời đầy quyền uy phép tắc hiển trị trên các tầng trời đã chấp nhận chọn hang bò lừa làm nơi nương náu, chọn máng súc vật làm nôi để đến ở cùng nhân loại. Hạ mình và khiêm nhường như vậy là hết mức, không thể hạ mình sâu hơn được nữa.
- Gẫm thứ nhất trong năm sự Sáng: Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Gio-đan; Chúa Giêsu là Thiên Chúa hoàn toàn vô tội, ngàn trùng chí thánh, vậy mà Người chấp nhận hòa mình với những người tội lỗi bên bờ sông Gio-đan, xếp hàng đứng chung với những người tội lỗi, những tay đâm thuê chém mướn, những cô gái điếm, những gã côn đồ… để chờ đến phiên mình bước xuống dòng sông Gio-đan, cúi mình xuống để cho Gioan làm phép rửa cho. Đấng không hề biết tội là gì lại khiêm nhường cúi mình nhận tội, còn tôi thì cứ cho mình vô tội và tìm mọi cách trút tội lên đầu người khác.
- Và đặc biệt là trong năm sự Thương, chúng ta thấy nổi lên hình ảnh Chúa Giêsu quá đỗi khiêm nhường khi Người tự xóa mình đi, trở thành tên tử tội, để cho người ta hành hạ Người đủ cách cho đến chết.
- Chúa Giêsu chịu đánh đòn: Chúa tốt lành thánh thiện vô cùng nhưng lại bị đưa ra tòa xét xử như một tên gian phi, bị vu cáo, bị khạc nhổ vào mặt, bị đánh đòn tan nát thân mình mà vẫn khiêm nhường chịu đựng chẳng hé môi kêu trách hay phản kháng.
- Chúa Giêsu chịu đội mão gai. Thay vì đội mão triều thiên vinh hiển của các bậc vua chúa cao sang, Chúa Giêsu chịu đội vòng gai nhọn đâm sâu vào đầu, để cho người ta sỉ nhục nhạo cười mà không hận thù hay oán trách. Khiêm nhường hạ mình đến thế thật là hết mức.
- Chúa Giêsu vác thập giá: Là Chúa Tể trời đất, lẽ ra Chúa Giêsu bắt mọi người quy phục mình, nhưng trái lại, trên chặng đường thương khó, Chúa để cho quân lính chế ngự Người, bắt Người vác thập giá lảo đảo tiến lên pháp trường theo lệnh truyền và những lời quát tháo của những tên lính hung hăng. Chúa Tể trời đất đã khiêm nhường chịu thua hết thảy mọi người và để mặc cho người ta hành hạ.
- Chúa chết trên thập giá: Cuối cùng, tuy là Chúa Tể càn khôn, Chúa chịu để cho quân lính lột áo ra, đóng đinh tay chân Người vào thập giá và bị treo thân trên thập giá giữa hai tên đạo tặc, chia chung án chết với những kẻ côn đồ. Dù bị hành hạ đến mức nào đi nữa, Chúa Giêsu vẫn khiêm nhường chịu mọi nhục hình cho đến chết.
Kiêu ngạo là đầu mối, là nguồn mạch phát sinh nhiều tội lỗi, là một trong bảy mối tội đầu; còn khiêm nhường là nhân đức cao vời và là liều thuốc thần diệu cứu con người khỏi kiêu căng tự mãn. Ước chi mỗi lần đọc Kinh Mân Côi, chúng ta biết nhìn ngắm tấm gương khiêm nhường sâu thẳm của Chúa Giêsu, học sống khiêm nhường như Chúa để nhờ đó, chúng ta triệt bỏ được tính kiêu căng và làm cho đời sống mình trở nên cao đẹp và giống Chúa hơn.
Đối với mọi người, những ai đã lớn lên trong vòng tay của mẹ đều thấy rằng, ở đời tình mẹ là thiêng liêng nhất và cao quý nhất. Nếu không nhận ra được điều đó, có lẽ chúng khó có thể cảm nghiệm được thế nào mà một tình yêu tinh ròng và bao dung, một tình yêu thanh khiết và tinh tuyền, một tình yêu hy sinh và luôn hết mình vì con.
Nhưng cũng không ít những người con đã làm tổn thương đến tình mẹ đó. Bị lôi cuốn bởi những xu thế xã hội, chạy theo những đam mê danh vọng, nhiều đứa con đã không những quên đi tình mẹ mà còn đối xử tệ bạc lên tình mẹ đó. Thật quặn đau thì nghe lời người mẹ nói với con mình trong câu chuyện “Lá sầu riêng”: "Con ơi! Ngày con còn bé, mẹ cho con một cục kẹo, con đã theo mẹ cả ngày, bây giờ mẹ cho con cả cuộc đời, sao con nỡ lòng xua đuổi mẹ hở con?" Đây là câu hỏi được đặt ra cho mỗi người trong chúng ta trong tư cách làm con.
Thực tế, tình thương của mẹ trần thế đôi khi cũng quặn đau vì sự đoạn tình, đoạn nghĩa của con. Và đối với thời đại hôm nay, tình trạng đó đang ngày một phổ biến và lan rộng đến nhiều gia đình thuộc mọi nền văn hóa trên thế giới. Tình yêu của người mẹ không những không được đáp trả mà còn bị xúc phạm một cách thiếu nhân văn nơi những đứa con mới lớn.
Đối với người kitô hữu, tình thương của người Mẹ thiên quốc càng quặn đau hơn khi chứng kiến con mình đang xa lìa vòng tay che chở của Mẹ. Người Mẹ thiên quốc cũng đau khổ vì những đứa con hững hờ, kiêu căng khi không nhìn ra sự trợ giúp của Mẹ. Người Mẹ thiên quốc vẫn đang bị xúc phạm bởi chính thái độ khước từ của những đứa con Mẹ hằng săn sóc. Người Mẹ thiên quốc vẫn đang khóc khi thấy những đứa con của mình sa vào những thú vui tội lỗi và đánh mất đức tin.
Tháng Mân Côi, Giáo Hội mời gọi chúng ta hướng về Mẹ Maria là mẹ của Chúa Giêsu cũng là mẹ của mỗi chúng ta. Năm xưa bên cây thập giá Chúa đã trao phó thánh Gioan cho Mẹ. Qua Gioan, Mẹ Maria đã nhận làm mẹ của cả nhân loại. Từ giây phút đó, Mẹ là mẹ của mỗi người chúng ta. Từ giây phút đó, Mẹ sẽ che chở, bao bọc chúng ta như mẹ đã từng làm với hài nhi Giêsu. Từ giây phút đó, Mẹ Maria sẽ nuôi dưỡng và chăm sóc chúng ta như xưa đã chăm sóc cho Chúa Giêsu con Mẹ. Từ nay, Mẹ Maria sẽ luôn bên cạnh cuộc đời chúng ta như Mẹ đã đứng kề bên thánh giá Chúa cho đến giây phút cuối cùng. Từ nay, cái đau của chúng ta cũng là nỗi đau của Mẹ.
Vì tình mẹ mãi mãi là thế, luôn hết mình vì con. Mẹ luôn chấp nhận khổ để con được hạnh phúc. Một tình yêu quên cả chính mình để hết lòng chăm sóc đoàn con.
Quan sát những gì đang xảy ra trong thế giới hôm nay, chúng ta nhận thấy điều gì? Tội ác gia tăng. Cá nhân cũng nhiều và tập thể cũng không ít. Đạo đức ngày một suy thoái dẫn đến một đời sống của giới trẻ suy đồi trầm trọng. Khoa học tiến bộ thực sự nhưng dường như lại tiếp tay cho sự ác hoành hành. Nguy cơ giết người hàng loạt luôn ở mức báo động cao. Con người hôm nay đang tự hủy chính mình và hủy hoại cuộc đời nhau bằng nhiều phương tiện rất tối tân và hiện đại. Trong suốt thời gian qua, công an đã tịch thu hàng ngàn, hàng triệu viên thuốc lắc tổng hợp đang được giới trẻ buôn bán, chuyền tay nhau. Kẻ có tiền thì tìm đến để rửa tiền, để sống thác loạn, nhằm thỏa mãn thú tính của mình. Kẻ không có tiền thì buôn bán trao đổi nhằm vun quén những đồng tiền bất chính. Nhiều gia đình đang có nguy cơ tan rã vì chẳng ai tin tưởng nhau, chẳng ai chịu nhường nhịn nhau. Quyền uy của cha mẹ trong gia đình đang lu mờ dần. Câu phong dao “chồng xướng vợ tùy” dường như đã không còn. Sự ác xem ra đã thắng sự thiện. Người ta vì tiền, vì tình và vì danh vọng mà sẵn sàng làm tay sai cho ma quỷ, bán linh hồn mình cho quỷ dữ sai khiến, miễn sao mình có được những danh lợi thú trần gian.
Trước viễn cảnh bi đát của thế giới, những ai có đạo đức không khỏi những lo âu trăn trở. Làm sao cứu được thế giới khỏi sự diệt vong bởi suy đồi đạo đức? Làm sao đẩy lùi sự ác ra khỏi thế gian?
Phải chăng lịch sử của những năm đầu thế kỷ 20 đang được lặp lại nơi những năm đầu thế kỷ 21 này? Nếu đúng vậy thì những thị kiến mà Đức Mẹ Fatima đã cho ba 3 trẻ nhỏ được xem thấy cũng đang lập lại trong thế giới hôm nay! Thị kiến đó đã được chị nữ tu Lucia kể lại như sau:
“Đức Mẹ cho chúng con thấy một biển lửa lớn lao xem ra như là nằm dưới lòng đất. Nhào lặn trong biển lửa này là các quỉ dữ và các linh hồn mang hình dạng con người, giống như những cục than hồng đang cháy trong suốt, tất cả đều đen đủi hay mầu đồng đánh bóng, đang vật vờ trôi nổi giữa vùng hỏa hoạn, lúc thì bị tung lên không trung do những ngọn lửa hồng phát ra tự chính bản thân họ cùng với những đám khói khổng lồ, lúc thì té xuống tứ phía như những đốm lửa trong một biển lửa vĩ đại, không trọng lượng cũng chẳng thăng bằng, và giữa những tiếng la hét và rên siết của đau đớn và tuyệt vọng làm chúng con kinh hoàng và khiến chúng con run rẩy vì sợ hãi.
Rồi chúng con nhìn lên Đức Mẹ, Ngài đã nói với chúng con bằng một giọng rất êm đềm và buồn bã:
“Chúng con đã nhìn thấy hỏa ngục nơi các linh hồn của những tội nhân khốn nạn phải tới. Để cứu vớt họ, Thiên Chúa muốn thiết lập trên thế giới việc tôn sùng Trái-tim Vô-nhiễm Nguyên-tội của Mẹ.
Thực vậy, những lần Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức, hay tại Fatima, Đức Mẹ đều báo trước những tai hoạ khủng khiếp sẽ xảy ra do tội lỗi chồng chất của thế giới gây nên. Và để làm nhẹ đi những tai hoạ này, Đức Mẹ nhắn bảo các con cái Mẹ hai điều:
Một là hãy siêng năng cầu nguyện bằng kinh Mân Côi
Hai là hãy ăn năn sám hối.
Nhưng xem ra nhiều người vẫn coi thường lời cảnh báo. Họ không những chẳng cầu nguyện mà còn coi thường việc cầu nguyện. Có những người cầu nguyện nhưng lại đòi Thiên Chúa làm theo ý mình chứ không phải là cầu nguyện để tìm ra ý Chúa. Có những người cầu nguyện nhưng lại không cải thiện đời sống. Họ cầu nguyện nhưng vẫn chất chứa trong lòng biết bao mối tội đầu như: dâm ô, ghen ghét, gian dối và kiêu căng tự mãn.
Cầu nguyện thường đưa đến sự cải thiện đời sống. Vì cầu nguyện là đỉnh cao của đời sống đức tin. Tin vào Thiên Chúa. Người có đức tin tất sẽ ăn ngay ở lành. Họ sống và làm việc dưới cái nhìn của Thiên Chúa. Họ không thể sống phật ý Thiên Chúa hay đi ngược với giới răn và giáo huấn của Chúa.
Hệ quả của cầu nguyện không chỉ giúp ta biết ăn năn sám hối mà còn khơi dậy trong ta tinh thần đền tội. Chính nhờ nhận ra sự gớm ghê của tội lỗi là xúc phạm đến Chúa, là hủy diệt mình trong cõi trầm luân, sẽ giúp chúng ta gia tăng việc hy sinh hãm mình, tránh xa mọi thói hư tật xấu, những ước muốn tội lỗi. Như thế, cầu nguyện sẽ giúp chúng ta đứng vững trước những cám dỗ và cải thiện đời sống theo tinh thần phúc âm.
Người ta kể rằng: “Một hôm Satan đem bày bán những dụng cụ làm việc của hắn. Có rất nhiều món, được dán nhãn hiệu rõ ràng: nào là giận hờn, ganh ghét, dâm dục, nào là kiêu ngạo, nói dối, tham lam v.v. Và món nào cũng có ghi giá. Nhưng có một món được để riêng một bên, không dán nhãn nhưng giá lại cao nhất. Một người hỏi:
- Đó là cái gì mà cao giá dữ vậy? - Đó là sự ngã lòng. - Tại sao nó cao giá thế?
- Vì nó hữu hiệu hơn tất cả những dụng cụ khác: khi tôi không thể dùng những dụng cụ kia để đến gần người ta thì tôi dùng nó để xâm nhập tận cõi lòng người ta. Một khi tôi đã đặt nó vào lòng người ta rồi thì tôi có thể xúi người ta làm bất cứ điều gì tôi muốn. Mà đặt nó vào lòng ta rất dễ, bởi vì ít ai biết dụng cụ đó là của tôi”.
Trong tháng Mân côi, giáo hội mời gọi chúng ta hãy siêng năng cầm lấy Tràng chuỗi Mân Côi là khí giới, là thuẫn đỡ trong đời sống. Khi đọc kinh Mân côi chúng ta cậy nhờ lời bầu cử của Mẹ, xin Chúa ban cho những kẻ tội lỗi được ơn trở lại, xin cho chúng ta ơn can đảm để chống lại những cám dỗ của ma quỉ, và theo gương Mẹ sống gắn bó và tuân hành thánh ý Chúa.
Ước gì mỗi người trong chúng ta biết dâng những hy sinh, những lời kinh Mân côi để đền bù lại những tội lỗi của con người hôm nay. Amen.
Lễ Đức Mẹ Mân Côi mà chúng ta mừng hôm nay liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một “chuồng ngựa”. Đạo binh Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Người Công giáo đã chiến thắng tại vịnh Lepant, chặn được sức tiến vũ bão của Hồi giáo. Để ghi ơn Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi.
Thế giới hôm nay ngày càng tục hoá. Ma quỷ cũng đang biến thế giới này thành nơi hưởng lạc, hưởng thụ và sa đoạ. Đặc biệt là Việt Nam hôm nay có rất nhiều cái nhất:
* Tai nạn giao thông nhất thế giới mỗi ngày trung bình 31 người chết. Đa số là coi thường tính mạng của mình và của tha nhân nên chảy ẩu, chạy thiếu nhường nhịn nhau...
* Tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới mỗi năm khoảng 2 triệu thai nhi bị giết.
* Với mức tiêu thụ 2,7 tỷ lít bia trong năm, khoảng 24 lít trên/đầu người/năm, bằng 1/10 so với châu Âu, Việt Nam đã trở thành nước thứ ba có sản lượng tiêu thụ bia cao nhất châu Á, sau Nhật và Trung Quốc.
* Theo thống kê năm 2010 của Bộ Lao động- Thương binh- Xã hội cho thấy, tỷ lệ trẻ em chết đuối ở Việt Nam cao nhất khu vực Đông Nam Á. Cứ mỗi ngày lại có 10 trẻ em tử vong vì chết đuối, độ tuổi từ 7- 15. Điều đáng nói là những cái chết tức tưởi của trẻ em hầu hết đều xuất phát từ… người lớn.
Xem ra xã hội ngày hôm nay cũng đáng báo động. Báo động về một làn sóng hưởng thụ bất chấp tính mạng của mình và của người khác. Con người ngày nay đáng báo động như thời ông Noe đóng tàu, còn nhân loại thì vẫn say sưa, vẫn chè chén, vẫn truỵ lạc... Phải chăng đây cũng là thời kỳ mà Mẹ Maria đang mời gọi con cái mình không chỉ sám hối mà còn gia tăng cầu nguyện cho các tội nhân.
Trong cuốn Bí Mật Kinh Mân Côi, Thánh Luy Maria Mongpho thuật lại sự tích Kinh Mân Côi như sau:
Vào cuối thế kỷ 12, bè rối Albigensê đang lan tràn và đời sống các tín hữu bị sa sút trầm trọng. Một lần Cha Thánh Đaminh đến một khu rừng gần thành phố Toulouse để ăn chay, đánh tội, than khóc và cầu nguyện liên lỉ trong ba ngày để xin Chúa cho các tội nhân ơn sám hối và cho những người theo bè rối Albigensê trở lại với đức tin chân thật. Thánh nhân đã bị ngất đi vì kiệt sức. Lúc ấy Đức Mẹ cùng với ba thiên thần đã hiện ra với ngài và nói:
- Đaminh yêu dấu, con có biết Chúa Ba Ngôi Chí Thánh muốn dùng khí giới nào để canh tân thế giới không?
Thánh Đaminh đáp:
- Thưa Mẹ, Mẹ biết rõ hơn con, vì liền sau Chúa Giêsu Con Mẹ, Mẹ luôn là khí cụ chính yếu cho phần rỗi chúng con.
Đức Mẹ bấy giờ dạy Thánh Đaminh:
- Mẹ muốn cho con biết rằng trong cuộc chiến này, khí giới phải dùng đến là Ca Vịnh Thiên Thần, viên đá nền tảng của Tân Ước. Vì vậy, nếu con muốn thuyết giảng cho các linh hồn cứng lòng để đem họ về với Chúa, con hãy rao giảng Ca Vịnh này của Mẹ.
Thánh nhân vui mừng chỗi dậy lòng đầy nhiệt thành muốn hoán cải dân chúng vùng ấy. Ngài liền đi thẳng đến Vương Cung Thánh Đường. Ngay lúc ấy, các thiên thần vô hình đã đổ chuông nhà thờ mời gọi dân chúng đến để nghe thánh nhân giảng.
Khi thánh nhân vừa lên tiếng giảng dạy, một cơn bão lớn xảy ra, đất chuyển rung, trời tối lại, sấm chớp nổ ầm ầm làm kinh thiên động địa. Dân chúng thấy bức ảnh Đức Mẹ treo ở một nơi tôn nghiêm giơ tay lên trời ba lần như kêu mời Chúa báo oán nếu họ không biết hối cải và tìm đến nương tựa nơi Mẹ Thiên Chúa. Thánh Mongpho cho rằng Chúa đã cho những hiện tượng này xảy ra khi Thánh Đaminh bắt đầu rao giảng về Kinh Mân Côi tương tự như khi Chúa ban Thập Điều cho Môisen năm xưa, để chứng thực tính cách quan trọng của Kinh Mân Côi trong chương trình cứu độ nhân loại.
Dân chúng thành Toulouse đã yêu chuộng Kinh Mân Côi và từ bỏ bè rối để trở về với đức tin chân thật. Từ ấy, việc sùng kính Phép Lần Hạt Mân Côi được gắn liền với sự thánh thiện của người tín hữu. Vậy nên, mỗi khi thấy một tín hữu bắt đầu sống sa đọa, người ta có thể kết luận một cách chắc chắn rằng: một là người ấy đã bỏ đọc Kinh Mân Côi; hai là người ấy chỉ đọc Kinh Mân Côi cách cẩu thả.
Trong tháng Mân côi, giáo hội mời gọi chúng ta hãy siêng năng cầm lấy Tràng chuỗi Mân Côi là khí giới, là thuẫn đỡ trong đời sống. Khi đọc kinh Mân côi chúng ta cậy nhờ lời bầu cử của Mẹ, xin Chúa ban cho những kẻ tội lỗi được ơn trở lại, xin cho chúng ta ơn can đảm để chống lại những cám dỗ của ma quỉ, và theo gương Mẹ sống gắn bó và tuân hành thánh ý Chúa.
Vì thế trong tháng Mân Côi và Tháng Các linh hồn, xin mỗi gia đình hãy dâng chuỗi Mân Côi hằng ngày của gia đình mình cầu nguyện cho một gia đình đang bất hòa, đang rối đạo hay nguội lạnh được ơn trở về. Xin mỗi một cá nhân hãy chọn lấy một người bạn để cầu nguyện cho họ sớm ăn năn sám hối và tin phục Thiên Chúa. Ước gì mỗi người trong giáo xứ chúng ta biết dâng những hy sinh, những lời kinh Mân côi để đền bù lại những tội lỗi của con người hôm nay. Amen.
Phụng vụ bước vào tháng Mân côi. Suốt tháng này, lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi. Mọi tín hữu được cùng với Đức Mẹ trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo phong cách của Đức Mẹ là “lưu giữ và suy niệm trong lòng” qua từng lời kinh chuỗi hạt Mân côi. Tràng hạt Mân côi là một hành trang và là phương tiện “bỏ túi”, “đeo tay” “đeo cổ” gọn nhẹ. Lời kinh kỳ diệu này giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã hội. Kinh Mân côi không khác gì điện thoại di động hòa đời người vào mạng lưới sự sống thiêng liêng.
Chuỗi Mân Côi trong tiếng Latinh là “rosarium” nghĩa là “vườn hoa hồng”. Tháng 10, lần hạt Mân côi, đoàn con cái hiếu thảo dâng biết bao hoa hồng lên Đức Mẹ. Bằng chuỗi Mân côi, Giáo hội trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp tiến dâng Mẹ hiền.
Kinh Mân côi đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng
Chuỗi Mân côi thật cao quí, ai biết siêng năng lần hạt sẽ nhận được hiệu quả phi thường.
Vào thế kỷ 13, bè rối Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp. Với Chuỗi Mân côi do Đức Mẹ truyền dạy, chỉ trong một thời gian ngắn, thánh Đaminh đã cảm hóa được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Giáo Hội.
Thế kỷ 16, ảnh hưởng của Tin lành mạnh mẽ và đe dọa toàn cõi Âu Châu. Dân thành Luxembourg vẫn trung thành với Giáo Hội. Hôm ấy toàn thể dân phố được mời tới nhà thờ để nghe giảng thuyết. Khi vị mục sư bước lên tòa giảng, một người giáo dân xướng kinh và tất cả nhà thờ đều lần hạt to tiếng cho đến lúc vị mục sư phải bước xuống tòa giảng và ra khỏi nhà thờ. Nhờ kinh Mân côi, dân thành Luxembourg giữ vững niềm tin và trung thành với Giáo Hội.
Năm 1511, lịch sử được chứng kiến một thành quả vĩ đại của Kinh Mân côi mang lại. Chính biến cố lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mân côi. Khi ấy quân Hồi xâm lăng Âu Châu, tàn phá những nơi họ đi qua, tiêu diệt dân Công giáo. Cùng với việc triệu tập đạo quân thánh giá từ hai nước Ý và Tây Ban Nha, Đức Giáo hoàng Piô V kêu gọi mọi người siêng năng lần chuỗi Mân côi. Cuộc chiến quá chênh lệch đã diễn ra tại vịnh Lepante, nhưng với quân số ít ỏi và khí giới thô sơ, người Công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu. Từ Roma, Đức Giáo hoàng nghe tin chiến thắng và nói với các vị trong giáo triều hãy tạ ơn Chúa. Hôm đó là ngày 07 tháng 10. Đức Giáo hoàng đã thiết lập lễ Mân côi để tạ ơn Đức Mẹ và ghi nhớ cuộc chiến thắng lịch sử này.
Trước năm 1917, Bồ Đào Nha ở vào một tình trạng suy thoái một cách trầm trọng về phương diện tôn giáo. Gần hai thế kỷ, óc bè phái đã gây nên những chia rẽ và những cuộc nội chiến. Giáo Hội bị bách hại bởi những kẻ theo nhóm tam điểm. Nhà thờ bị phá hủy, các linh mục và tu sĩ bị bắt bớ, khắp nơi người ta tổ chức những đoàn hội chống lại Giáo Hội. Thế nhưng kể từ năm 1917, năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha đã đi vào một khúc quanh mới của lịch sử. Người ta tổ chức những đoàn hội chuyên lo lần hạt Mân côi để xin Mẹ chấm dứt những xáo trộn và ban mọi ơn lành xuống cho đất nước. Bồ Đào Nha đã xứng đáng với tước hiệu quê hương của kinh Mân côi.
Lịch sử còn ghi lại nhiều thành quả kỳ diệu khác nữa của Kinh Mân côi. Chẳng hạn Kinh Mân côi đã mang lại chiến thắng tại Vienna ngày 12 tháng 9 năm1683, hay đã chấm dứt bệnh dịch tại Milan... Chuỗi Mân côi vẫn còn là một phương thế cứu rỗi hữu hiệu của mỗi tín hữu. Khi hiện ra tại Lộ Đức hay tại Fatima, Đức Mẹ đều kêu gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mân côi.
Tạp chí Reader’s Digest số ra tháng 4 năm 1991 có kể lại cuộc gặp gỡ kỳ thú giữa Mẹ Têrêxa Calcutta và một thương gia người Mỹ như sau:
Trên chuyến máy bay từ Chritiamy về Thanasity, thương gia trẻ tên là Jim Caiso ngồi kề bên Mẹ Têrêsa và một nữ tu khác. Jim Caiso nhận ra ngay khuôn mặt của người nữ tu thường được báo chí nhắc đến. Khi những người khách cuối cùng ngồi vào yên vị trên máy bay thì Jim thấy hai người nữ tu từ từ rút chuỗi ra khỏi áo và lâm râm cầu kinh. Tuy không phải là một người công giáo sùng đạo nhưng Jim cũng cảm thấy bị lôi cuốn bởi sự cầu kinh của hai người nữ tu. Khi máy bay đã lên cao, Mẹ Têrêsa quay nhìn người thanh niên và hỏi: - Anh có thường lần chuỗi không?
Anh trả lời:- Thưa không.
Anh vừa trả lời thì Mẹ cầm tay anh, trao cho anh tràng chuỗi rồi mỉm cười nói: - Vậy thì hãy bắt đầu lần chuỗi đi.
Ra khỏi phi trường Jim vẫn còn cầm trên tay tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta. Anh kể lại cho vợ nghe cuộc gặp gỡ với Mẹ Têrêsa và kết luận như sau: “Anh có cảm tưởng như mình đã gặp một nữ tu đích thực của Chúa”.
Chín tháng sau, Jim và vợ anh đến thăm một người đàn bà đã từng là bạn của hai người từ nhiều năm qua. Người đàn bà này bác sĩ cho biết bà đã bị ung thư tử cung. Theo các bác sĩ, đây là trường hợp đáng lo ngại. Nghe thế, Jim đưa tay vào túi quần, rút ra tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta và trao cho người bạn. Anh nói: - Chị cầm lấy cái này, nó sẽ giúp chị.Mặc dù không phải là người Công giáo, người bạn này vẫn mở rộng bàn tay ra và trân trọng đón nhận món quà quí giá ấy. Một năm sau gặp lại vợ chồng Jim, người đàn bà vui vẻ cho biết bà đã mang trong mình tràng chuỗi trong suốt năm qua và giờ đây trao lại cho Jim để may ra có thể còn giúp đỡ cho người khác. Trong thời gian đó, người chị vợ của Jim đang bị khủng hoảng sau cuộc ly dị, bà cũng muốn được mượn tràng chuỗi của Jim. Sau này bà kể lại rằng: - Hằng đêm, tôi đeo chuỗi vào người. Tôi rất cô đơn và sợ hãi, nhưng khi mang chuỗi vào người, tôi cảm thấy như đang cầm lấy một bàn tay thân yêu.Tràng chuỗi mầu nhiệm ấy không mấy chốc đã được trao từ tay người này đến người khác. Mỗi khi gặp khủng hoảng hay bệnh tật, người ta thường gọi điện thoại đến Jim để mượn cho bằng được tràng chuỗi ấy.
Jim suy nghĩ: phải chăng tràng chuỗi có một sức mạnh lạ lùng, hay đúng hơn, sức mạnh tinh thần được canh tân nơi tất cả những ai mượn tràng chuỗi ấy. Jim chỉ biết rằng, hễ có ai ngỏ ý mượn tràng chuỗi, anh luôn đáp trả một cách vui vẻ, và lần nào anh cũng căn dặn: “Khi nào không cần nữa cho tôi xin lại. Có thể sẽ có người khác cần đến”.
Cuộc sống của Jim cũng thay đổi kể từ cuộc gặp gõ đó với Mẹ Têrêsa Calcutta. Khi Jim nhớ lại rằng: Mẹ Têrêsa mang tất cả hành lý của Mẹ trong cái xách tay nhỏ, anh cũng cảm thấy được thôi thúc để làm cho cuộc sống của anh được đơn giản hơn. Anh nói như sau: - Tôi luôn cố gắng nhớ rằng: điều quan trọng trong cuộc sống không phải là tiền bạc, danh vọng mà chính là tình yêu chúng ta dành cho người khác.
2. Kinh Mân côi, một kho tàng quý giá của Giáo hội.
Chuỗi hạt Mân côi 200 hạt, 150 hạt, 50 hạt hay 10 hạt được dùng để đếm số Kinh Kính mừng là “…lời ca tụng Đức kitô không ngừng. Đức Kitô được nhắc đến trong mỗi Kinh Kính Mừng cũng là Đấng được trình bày trong chuỗi các mầu nhiệm: Người là Con Thiên Chúa và là Con Đức Trinh Nữ…” (ĐGH Phaolô VI, Rosamrum Virginis Mariae, số 18).
Chuỗi Mân côi lần lượt diễn tả:
- Mầu nhiệm Vui: đồng hành với mầu nhiệm Nhập thể và đời sống âm thầm của Chúa Giêsu.
- Mầu nhiệm Sáng: đồng hành với những mốc thời gian hoạt động đặc biệt có ý nghĩa trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu.
- Mầu nhiệm Thương: đồng hành với những đau khổ của cuộc khổ nạn Chúa Giêsu.
- Mầu nhiệm Mừng: đồng hành với vinh quang phục sinh của Đức Kitô.
Vì thế, Chuỗi Mân côi là kho tàng thiêng liêng quý giá của Giáo hội.
Thánh Gioan Phaolô II nói: “ Chuỗi Mân côi là lời kinh tuyệt diệu, tuyệt diệu trong đơn sơ và trong sâu thẳm của nó...”.
Đức Thánh Cha Lêô XIII là vị Giáo Hoàng của kinh Mân côi. Ngài đã ban hành 12 thông điệp nói về Kinh Mân côi. Ngài đã thiết lập tháng Mân côi và thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: Nữ vương rất thánh Mân côi, cầu cho chúng con.
Đức Thánh Cha Piô X đã nhắn nhủ các gia đình Công giáo: “Khi gia đình được an vui hoà thuận, hãy lần chuỗi Mân côi để xin Mẹ ban cho sự an vui hoà thuận yêu thương. Khi gặp người chồng thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng chỗi Mân côi, để xin Mẹ cảm hoá. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần chuỗi Mân côi, xin Mẹ tạo sự cảm thông”.
Thánh Piô Năm Dấu Thánh chia sẻ: “Vũ khí của tôi là tràng hạt Mân côi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì khi tôi xin với Mẹ qua chuỗi Mân côi. Muốn làm Đức Mẹ vui lòng và muốn được Đức Mẹ thương yêu hãy lần chuỗi Mân côi”.
Cha Stefano Gobbi viết: “Chuỗi Mân côi mang lại hòa bình cho bạn. Với lời Kinh Mân côi, bạn sẽ có thể nhận được từ Thiên Chúa hồng ân vĩ đại nhất là canh tân đời sống, thu phục các linh hồn về với Chúa trong sự ăn năn tội, tình yêu và thánh ân”. Và “Chuỗi Mân côi là lời kinh của tôi. Những lời kinh này dù khiêm nhường và mong manh cũng sẽ nên như xích sắt để khóa lại quyền lực tối tăm của thế giới, kẻ thù của thế giới và của các tín hữu”.
Đức Thánh Cha Piô IX đã khuyên nhủ: hãy lần chuỗi mỗi buổi tối trong gia đình.
Đức Thánh Cha Piô X cũng nhắc bảo: Nếu các con muốn cho gia đình được bình an, thì hãy lần hạt mỗi buổi tối.
Đức Thánh Cha Piô XI viết:Chúng tôi khuyên các bậc làm cha làm mẹ hãy tập cho con cái mình thói quen lần chuỗi. Mỗi lần tiếp kiến các đôi vợ chồng trẻ, chúng tôi đều khuyên nhủ họ hãy siêng năng lần chuỗi. Ngay cả chúng tôi nữa, không ngày nào mà chúng tôi không lần chuỗi.
Đức Thánh Cha Piô XII khuyên nhủ các bạn trẻ: Hãy yêu mến Mẹ qua việc lần chuỗi Mân côi. Năm 1951 ngài đã ra thông điệp về Kinh Mân côi, và xin các tín hữu hãy lần chuỗi gấp đôi trong tháng Mân côi. Trong một lần tiếp kiến, ngài nói với một vị Giám mục:
- Hãy yêu cầu các linh mục của ngài cầu nguyện và hãy nói cho họ biết: Đức Thánh Cha vẫn lần chuỗi mỗi ngày.
Khi về già, trước lúc đi ngủ, dù là nửa đêm, ngài cũng vẫn lần chuỗi.
Thánh Gioan XXIII, ngay trong năm đầu của triều đại cũng đã ra một thông điệp về Kinh Mân côi.
Thánh Gioan Phaolô II, ngay trong tuần lễ sau khi đắc cử Giáo Hoàng, đã nói với tất cả các tín hữu hiện diện tại quảng trường Thánh Phêrô khi đọc kinh Truyền Tin: “Chuỗi Mân côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lập lại nhiều lần những lời mà Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Êlisabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy”.
Các Đức Thánh Cha đều khẳng định về sự tuyệt diệu của Kinh Mân côi và mong muốn mọi tín hữu hãy siêng năng lần chuỗi. Các tín hữu đã đáp trả lời mời gọi tha thiết ấy.
Đức Mẹ rất yêu mến những ai siêng năng đọc Kinh Kính Mừng. Qua kinh Mân côi, chúng ta lặp đi lặp lại không những một hai lần Kinh Kính Mừng, nhưng là đọc đi đọc lại cả một trăm năm mươi lần, như một trăm năm mươi đóa hoa hồng dâng kính Mẹ, như lời Đức Giáo Hoàng Piô V đã nói: “Đây là việc tôn kính Đức Trinh Nữ Maria bằng cách đọc một trăm năm mươi Kinh Kính Mừng, theo con số các thánh vịnh của Đavít, chia thành từng chục kinh một với một Kinh Lạy Cha, đồng thơi suy ngắm các mầu nhiệm về toàn thể cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô.”.
3. Kinh Mân côi, lời kinh gần gũi cuộc sống
Sau hai mươi lăm năm, tức là vào dịp mừng Ngân khánh Giáo Hoàng, trong Tông thư “Kinh Mân côi”, một lần nữa, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác tín: Kinh Mân côi là lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong nội dung, nhưng không đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như có thời người ta nghĩ, nhất là sau Vatican II khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao và trung tâm.
Kinh Mân côi là kinh hạt phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Ngày nay nhiều người phàn nàn không có giờ đọc kinh vì phải lo học hành, lo làm ăn xuôi ngược. Chuỗi hạt Mân côi sẽ nuôi dưỡng đời sống nội tâm phong phú. Con người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng, vội vã. Chuỗi Mân côi làm lòng người lắng dịu, thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ.
Đức Giáo hoàng Phaolô VI khích lệ: “Bản chất việc đọc kinh Mân côi đòi hỏi nhịp điệu phải chậm rãi và có thời gian thư thả, để người ta có thời gian suy gẫm sâu xa về các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu được nhìn qua Trái Tim của Đấng gần gũi nhất với Chúa.”.
Điều thuận lợi của chuỗi Mân côi là lần hạt ở đâu cũng được. Ta không buộc phải đọc 50 Kinh Mân côi một lần mà có thể đọc bao nhiêu tuỳ vào thời gian ta có. Ta cũng có thể vừa làm việc vừa đọc Kinh Mân côi, không nhất thiết phải có tràng hạt trên tay. Ta cũng có thể thì thầm bất cứ lúc nào: khi chờ xe bên đường, lúc đi học, khi giải trí, khi đau bệnh … thay vì đưa mắt nhìn chung quanh, thay vì nghe những chuyện không đâu, ta cũng có thể lần hạt. Dù bận bịu đến đâu ta cũng có thể lần hạt. Đó là cách cầu nguyện mà triết gia Jacques Maritain gọi là “chiêm niệm bên vệ đường”.
Kinh Mân côi là một vũ khí, nhưng là vũ khí hòa bình luôn đem lại hiệu quả tích cực. Ai yếu đuối, Kinh Mân côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh.
Kinh Mân côi là một kinh quý báu của Giáo hội và của mọi người, đó là kinh phổ biến, vừa dễ đọc vừa dễ cầu nguyện mà lại mang lại nhiều ích lợi cho linh hồn.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết yêu mến tràng Chuỗi Mân côi, siêng năng lần hạt trong mỗi ngày sống và xin Mẹ khẩn cầu cho con bên tòa Chúa. Amen.
Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi tất cả các tín hữu trên thế giới cùng đọc kinh Mân Côi hằng ngày trong suốt tháng 10 này. Ngài cũng mong rằng cộng đoàn tham gia hiệp thông, sám hối, cùng thỉnh cầu Đức Maria và Tổng lãnh thiên thần Micae bảo vệ Giáo hội khỏi quỷ dữ – là kẻ luôn muốn tìm cách chia rẽ chúng ta khỏi Thiên Chúa và anh chị em.
Trước khi lên đường tông du đến các quốc gia vùng Baltic, Đức Phanxicô đã gặp Cha Fréderic Fornos, dòng Tên, giám đốc “Mạng lưới cầu nguyện toàn cầu cùng Đức Thánh Cha” và đề nghị Cha quảng bá lời kêu gọi này đến với các tín hữu trên thế giới.(Vatican News, 29/9/2018.)
Các Đức Giáo Hoàng đều cổ võ việc đọc kinh Mân Côi, nhất là trong các gia đình.
Đức Piô IX khuyên nhủ: “Kinh Mân côi là kho tàng quý giá của Giáo hội…hãy lần chuỗi mỗi buổi tối trong gia đình”. Đức Lêô XII thiết lập tháng Mân Côi. Đức Piô X khẳng định: “Nếu các con muốn cho gia đình mình hạnh phúc thì hãy lần chuỗi với nhau mỗi buổi tối”.
Đức Piô XI huấn dụ: Chúng tôi khuyên các bậc làm cha làm mẹ hãy tập cho con cái mình thói quen lần chuỗi. Mỗi lần tiếp kiến các đôi vợ chồng trẻ, chúng tôi đều khuyên nhủ họ hãy siêng năng lần chuỗi. Ngay cả chúng tôi nữa, không ngày nào mà chúng tôi không lần chuỗi. Đức Thánh Cha Piô XII mời gọi các bạn trẻ : Hãy yêu mến Mẹ qua việc lần chuỗi Mân côi. Năm 1951 ngài đã ra thông điệp về Kinh Mân côi, và xin các tín hữu hãy lần chuỗi gấp đôi trong tháng Mân côi. Trong một lần tiếp kiến, ngài nói với một vị Giám mục: Hãy yêu cầu các linh mục của ngài cầu nguyện và hãy nói cho họ biết: Đức Thánh Cha vẫn lần chuỗi mỗi ngày. Khi về già, trước lúc đi ngủ, dù là nửa đêm, ngài cũng vẫn lần chuỗi. Thánh Gioan XXIII, ngay trong năm đầu của triều đại cũng đã ra một thông điệp về Kinh Mân côi. Thánh Gioan Phaolô II, ngay trong tuần lễ sau khi đắc cử Giáo Hoàng, đã nói với tất cả các tín hữu hiện diện tại quảng trường Thánh Phêrô khi đọc kinh Truyền Tin: “Chuỗi Mân côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lập lại nhiều lần những lời mà Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Êlisabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy”. (Tông thư Kinh Mân Côi).
Các Đức Thánh Cha đều khẳng định về sự tuyệt diệu của Kinh Mân côi và mong muốn mọi tín hữu hãy siêng năng lần chuỗi, đặc biệt là giờ kinh tối gia đình.
Hơn bao giờ hết, gia đình đang bị các sự dữ tấn công; thế giới đầy những biến động đe dọa hòa bình công lý. Mỗi Gia đình hãy hưởng ứng lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, thực hiên ba lời dạy của Đức Mẹ Fatima : Hãy ăn năn, hãy tôn sùng Trái tim Mẹ, hãy năng lần hạt Mân Côi để được Chúa thương xót.
Giờ kinh tối trong gia đình chính là giờ “ngồi bên nhau” và “cùng nhau ngồi bên Mẹ, ngồi bên Chúa”, là giờ của chân lý, là một khám phá kỳ diệu, là một liều thuốc thần tiên xây dựng gia đình hạnh phúc. Kinh nguyện gia đình là phương thế hữu hiệu của việc giáo dục đức tin cho con cái và là chất keo xây dựng gia đình hạnh phúc. Thế nhưng, phương thế này đang bị các gia đình Công Giáo lãng quên và thay vào đó bằng những phương thế giải trí: phim ảnh, truyền hình, máy vi tính, game, điện thoại, những cuộc vui chơi bên ngoài gia đình…Do đó, để củng cố đức tin cho cả nhà và xây dựng mái ấm hạnh phúc, mỗi gia đình đã tổ chức những giờ kinh tối trong gia đình.
Suốt tháng 10, mỗi lời kinh Mân Côi là một đóa hoa hồng diễn tả tình yêu của đoàn con cái dành cho Mẹ hiền. Qua Kinh Mân Côi, đoàn con thảo đọc đi đọc lại cả trăm cả ngàn lần kinh Kính Mừng, như trăm ngàn đóa hoa hồng dâng kính Mẹ từ ái.
Chất lượng kinh nguyện của từng gia đình tỷ lệ thuận với đời sống hạnh phúc. Mẹ thánh Têrêxa Calcutta đã từng nhắn nhủ: “Chúng ta hãy thương yêu nhau như Thiên Chúa đã yêu thương mỗi một người chúng ta. Mà tình yêu này được bắt đầu ở đâu? Ở ngay gia đình của chúng ta. Nó được bắt đầu ra sao? Ở việc gia đình cùng nhau cầu nguyện”.
Chuỗi Mân Côi là một bản tóm tắt gọn gàng, dễ nhớ về những biến cố quan trọng trong cuộc đời Chúa Cứu Thế. Mân Côi là những bông hồng đẹp được tượng trưng bằng các kinh Kính Mừng để tôn vinh Người. Đức Mẹ đã có mặt trong cuộc đời Chúa Cứu Thế từ những giây phút đầu cho đến những giây phút cuối.
Lần chuỗi Mân Côi, cả gia đình cùng đọc những kinh trọng nhất trong đạo: Kinh Lạy Cha là kinh chính Chúa Cứu Thế đã dạy; Kinh Kính Mừng gồm lời chào của sứ thần Gabriel và lời ca tụng Đức Mẹ của bà Êliazabeth; Kinh Sáng Danh là lời tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi của Hội Thánh. Các mầu nhiệm suy gẫm là các mầu nhiệm trong đời Chúa Cứu Thế và Đức Mẹ. Ví dụ suy gẫm thứ hai mùa Vui, Đức Bà đi thăm bà Êliazabeth, cần phải cố gắng bắt chước Đức Mẹ thực hiện đức yêu thương ngay trong gia đình, với bà con, với mọi người. Thứ hai mùa Mừng, Chúa Giêsu lên trời, cần phải suy rằng cuộc đời này phải ăn thì phải làm lụng, buôn bán nhưng phải cố gắng nhớ đến mục đích đời này là để chuẩn bị về với Chúa đời sau, nên phải ăn ở lương thiện, tránh gian tham lỗi công bằng… Các mầu nhiệm khác cũng tương tự như thế. Đó là cách lần hạt hữu ích nhất.
Kinh Mân Côi là lời kinh phổ cập, đó là kinh của mọi tín hữu. Ai cũng đọc được, từ người trẻ cho đến người già, người thông thái cũng như người ít học, người giàu hay người nghèo, người khỏe mạnh cũng như người đau yếu, khi vui cũng như lúc buồn, khi làm việc cũng như lúc nghỉ ngơi. Kinh Mân Côi có thể đọc được ở bất cứ đâu hay trong hoàn cảnh nào, ở nhà thờ, ở nhà mình, ở ngoài đường, trong nơi yên lặng hay giữa chốn ồn ào náo động và nhất là đọc chung với nhau trong gia đình hay những khi có đông người công giáo họp nhau lại. Đọc Kinh Mân Côi với ý thức là mình đang làm một công việc có chất Tin Mừng, được Giáo Hội công nhận và nhiệt tình khuyến khích, một công việc thu tóm lại tất cả cuộc đời Chúa Cứu Thế.
Đức Giáo hoàng Phaolô VI khích lệ: “Bản chất việc đọc kinh Mân côi đòi hỏi nhịp điệu phải chậm rãi và có thời gian thư thả, để người ta có thời gian suy gẫm sâu xa về các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu được nhìn qua Trái Tim của Đấng gần gũi nhất với Chúa”. Chuỗi hạt Mân Côi nuôi dưỡng đời sống nội tâm phong phú. Chuỗi Mân Côi làm lòng người lắng dịu, thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ Maria. Cầm Chuỗi Mân Côi trên tay, chúng ta sẽ thấy mình được tăng thêm nghị lực, sống vươn lên với niềm Tin, Cậy, Mến. Chuỗi hạt Mân Côi mang đến vô vàn ơn phúc huyền diệu cho mỗi người, mỗi gia đình.
Kinh Mân côi là kinh hạt phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào. Điều thuận lợi của chuỗi Mân côi là lần hạt ở đâu cũng được. Ta không buộc phải đọc 50 Kinh Mân côi một lần mà có thể đọc bao nhiêu tuỳ vào thời gian ta có. Ta cũng có thể vừa làm việc vừa đọc Kinh Mân côi, không nhất thiết phải có tràng hạt trên tay. Ta cũng có thể thì thầm bất cứ lúc nào: khi chờ xe bên đường, lúc đi học, khi giải trí, khi đau bệnh… thay vì đưa mắt nhìn chung quanh, thay vì nghe những chuyện không đâu, ta cũng có thể lần hạt. Dù bận bịu đến đâu ta cũng có thể lần hạt. Đó là cách cầu nguyện mà triết gia Jacques Maritain gọi là “chiêm niệm bên vệ đường”. Kinh Mân Côi chính là người bạn chân tình, dễ tính, trung thành luôn sẵn sàng hiện diện mọi lúc, mọi nơi.
Nếu nhân đức là việc tốt lành được tập tành lập đi lập lại thành thói quen phản xạ tự nhiên, thì Kinh Mân Côi chính là một bửu bối không thể thiếu được cho người tu thân luyện đức theo gương Đức Mẹ và theo chân Chúa Giêsu từ Máng cỏ ấp ủ qua Thập giá trui rèn tới Nhà Tạm chiêm ngưỡng. Mỗi một mầu nhiệm xướng lên là một nhân đức khơi gợi, để theo lời kinh nhỏ nhẹ và dưới tác động của ơn thánh, lòng người được bớt bất xứng hơn, tạo điều kiện thuận lợi dần dần cho việc nên thánh.
Những nhà thông thái có sách vở chữ nghĩa, những nhà cai trị có sức mạnh quyền hành, những nhà tu trì có bầu khí ổn định làm phương tiện, còn người tín hữu là những nhà “tu hành” nghĩa là “tu thân bằng việc hành đạo”, thì Kinh Mân Côi chính là hành trang gọn nhẹ đeo cổ tay giúp thánh hóa bản thân gia đình và xã hội. Theo nghĩa này, Kinh Mân Côi không khác gì điện thoại di động hòa đời ta vào mạng sự sống thiêng liêng.
Theo lời mời gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô, chúng ta quyết tâm sống theo lời Mẹ trong dịp hiện ra lần cuối tại Fatima là “hãy siêng năng lần hạt”. “Ai mến Mẹ thì yêu thích chuỗi Mân Côi. Bởi vì chỉ có người yêu mới lặp lại một chuyện, một lời mà không biết nhàm chán” (Đường Hy vọng số 947).
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con siêng năng lần hạt Mân Côi trong mỗi ngày sống, nhờ đó chúng con được hiệp thông nối kết với nhau và cầu nguyện cho nhau. Amen.
Hôm nay là ngày Hội Thánh Việt Nam long trọng mừng Lễ Đức Mẹ Mai Khôi. Ý Hội Thánh mừng lễ được gợi lên trong ba bài đọc. Lướt qua một lần đọc, ta đã thấy nổi bật lên hình ảnh Chúa Giêsu.
Bài đọc 1 viết về hoàn cảnh khai sinh Hội Thánh: Chúa Giêsu về trời, dặn dò kỹ lưỡng các Tông Đồ và Môn Đệ phải ở lại Giê-ru-sa-lem đợi chờ Thánh Thần được ban xuống. Cộng đoàn tiên khởi đang sốt sắng cầu nguyện cùng với Đức Ma-ri-a. “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với Bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giêsu, và với anh em của Đức Giêsu”. (Cv 1, 14)
Qua bài đọc 2, Thánh Phaolô kể về Ơn Cứu Độ được ban xuống, ơn làm con cái Chúa được xác định qua việc Thiên Chúa chọn một người phụ nữ sinh hạ Đấng Cứu Độ, cách nào đó ta có thể hiểu Thiên Chúa mở cửa Trời bước xuống cứu độ trần gian. Cửa đó là Đức Ma-ri-a. “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người phụ nữ, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4, 4–5).
Bài Tin Mừng lộ rõ thái độ Thiên Chúa chúc phúc cho người Nữ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng cứu độ, một cách quá đại độ: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ơn sủng, Chúa ở cùng Bà” (Lc 1, 28); “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà...” (Lc 1, 35), nhưng cũng rất tôn trọng. Và cuối cùng, người phụ nữ ấy là Đức Ma-ri-a đã hoàn toàn vâng phục ý Chúa, không phải vì bị bắt buộc mà Mẹ tự do ưng thuận, vì Mẹ quá kính trọng Chúa, buông mình trong tay Chúa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói (Lc 1, 38).
Như vậy ta có thể đi đến ý tưởng này là Phụng Vụ hôm nay mừng Đấng Cứu độ chúng ta, trong chương trình yêu thương của Chúa Cha hiệp với Chúa Thánh Thần, đã tuyển chọn Đức Ma-ri-a để làm mẹ Người. Vì thế Hội Thánh hướng lòng chúng ta ngưỡng mộ Đức Ma-ri-a, để cám ơn Thiên Chúa, và nhắc nhở cho chúng ta con đường đón nhận ơn Cứu độ hữu hiệu.
2. Lễ Đức Mẹ Mai Khôi.
Giữa muôn loài hoa khoe sắc của Vườn Hoa Thiên Chúa, nổi bật Hoa Hồng Mai Khôi chính là Mẹ Ma-ri-a. Bước vào vườn hoa, khách tham quan cứ xúm xít tắc lưỡi trầm trồ bên hoa khôi, Chủ Vườn chúm chím cười! Trong lịch sử Hội Thánh, việc lần chuỗi Mai Khôi cũng tương tợ: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Chúa đoái thương nhìn tới, từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, Danh Người thật chí thánh chí tôn!”
Điệp khúc vui mừng kính chào Mẹ của tín hữu là tràng chuỗi Mai Khôi. Suốt dòng truyền thống, lời chào của thiên thần và lời chào của bà Ê-li-sa-bét đã được kéo dài và lặp đi lặp lại nơi miệng tín hữu, như lời ca tụng tình thương cứu độ của Thiên Chúa. Rồi từ đó chuỗi Mai Khôi hình thành, được cổ võ và truyền bá, từ thế kỷ 15. Khi Kitô giáo bị lâm nguy, Lòng Tin bình dân gán cho Kinh Mai Khôi sức mạnh giải thoát nhờ lời cầu bầu của Đức Mẹ. Nên trong lúc có xung đột giữa Hồi Giáo và Kitô giáo, thì việc lần chuỗi Mai Khôi càng được thực hành sốt sắng để xin Mẹ Ma-ri-a cầu bầu cho chấm dứt chiến tranh. Và để kỷ niệm chiến thắng của hạm đội Thánh Giá trên quân Thổ-nhĩ-kỳ ở vịnh Lepanto ngày 7.10.1971, lễ Đức Mẹ Mai Khôi được thiết lập do Đức Giáo Hoàng Pi-ô 5 năm 1572 bởi Sắc Chỉ Salvatoris Domini. Lễ này sau Công Đồng vẫn còn giữ cho đến nay.
3. Kinh Mai Khôi, bản toát yếu sách Tin Mừng
Kinh Mai Khôi dẫn đưa chúng ta đến việc chiêm niệm Mầu Nhiệm Cứu Độ trong đó Mẹ Ma-ri-a đã gắn bó chặt chẽ với công trình của Chúa. Như ta biết, trung tâm chiêm ngắm của Chuỗi Mai Khôi là Chúa Giêsu, dầu chúng ta lặp đi lặp lại những lời nói cùng Mẹ... thì cũng như Mẹ, những kỷ niệm về Con Mẹ làm thành chuỗi suy niệm liên tục trong đời Mẹ. Nhưng việc nhắc đến Danh Giêsu cũng liên tục trong lời kinh trở thành trọng tâm cho việc chiêm niệm. Khẩn cầu với danh thánh Giêsu là đường lối cầu nguyện đơn sơ nhất và phổ biến nhất có thể xử dụng ở mọi nơi mọi lúc.
Giáo Hội Đông Phương cũng như Tây Phương xuyên suốt lịch sử hằng cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, xin thương xót chúng con là kẻ tội lỗi”. Tên gọi ấy chứa đựng cả Thiên Chúa, cùng với tất cả chương trình tạo dựng, cứu độ của Thiên Chúa. “Kinh Mai Khôi thuộc về truyền thống tốt đẹp và đáng ca ngợi nhất của chiêm ngưỡng Kitô giáo. Được phát triển bên Tây Phương, đó là một hình thức cầu nguyện suy tư điển hình, tương ứng cách nào đó với lời kinh của con tim hay lời kinh kêu tên Chúa Giêsu của tín hữu. Đức Phaolô 6 trong Tông Huấn Recurrens Mensis October đã viết: “Chuỗi Mai Khôi hầu như là một bản tóm lược Phúc Âm và là hình thức đạo đức của Hội Thánh”.
4. Thông hiệp với Đức Ma-ri-a chiêm ngắm Đấng Cứu Độ
Mẹ Ma-ri-a không ngừng đặt chúng ta trước các Mầu Nhiệm của Con Mẹ và dạy chúng ta chiêm ngưỡng bằng tâm trí của Mẹ. Không ai biết Đức Kitô bằng Mẹ Ma-ri-a. Chiêm ngưỡng các mầu nhiệm trong sự thông hiệp với Mẹ là cách thế học hỏi từ Ngài để hiểu Đức Kitô. Khi chiêm ngưỡng mỗi mầu nhiệm, Mẹ mời gọi chúng ta hành động như Mẹ: “Xin vâng” (Fiat). Lý do ta cần suy niệm ơn cứu độ hiệp thông với Mẹ, là vì mục đích đời sống theo Chúa là muốn trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa.
Việc này đòi hỏi ta phải luôn chiêm ngắm Chúa Giêsu, mà tốt hơn hết là ta chiêm ngắm Chúa Giêsu, như Mẹ Ma-ri-a suốt đời chiêm ngắm Con mình. Những lời nói việc làm của Chúa đã làm cho Mẹ giữ lấy và suy đi gẫm lại trong một tiến trình của Đức Tin, nên ta không lấy đâu làm mẫu mực đời sống Đức Tin cho bằng chọn Mẹ Ma-ri-a. Trong đời sống chiêm ngắm việc Cứu Độ, Mẹ cũng luôn vui mừng khiêm tốn mà chúc tụng ngợi khen Chúa vì những kỳ công người đã làm cho Mẹ và qua Mẹ, cho nhân loại. Có tâm tình nào bằng tâm tình Magnificat và Fiat của Mẹ.
Ngày qua ngày trong cuộc đời tại thế này, ta chiêm ngắm Chúa cùng với Mẹ, nhìn Chúa bằng con tim của Mẹ, và nhìn Mẹ, yêu mến Mẹ để ngày càng trở nên giống Mẹ. Giống Mẹ về đời sống vâng phục Đức Tin, giống Mẹ về tinh sạch trong lòng, giống Mẹ về sự gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu, giống Mẹ hằng là con thảo của Chúa Cha, giống Mẹ luôn ngoan ngùy với Chúa Thánh Thần.
Nói tắt một lời, đến cùng Mẹ chiêm ngắm Mẹ là ta được ngâp lặn trong sự hiệp thông với Chúa Ba ngôi, là bước chân vào Thiên Đàng; vì thế cho nên ai đọc và suy niệm kinh Mai Khôi thường cảm thấy sự an vui của tâm hồn, vì từ đó Đức Tin mình luôn đuợc toi luyện nhờ hình ảnh của Chúa mình chiêm ngắm. Có Chúa ở cùng như Mẹ thật là có phúc, có Chúa là có quyền năng của Chúa, làm gì ta còn sợ hãi bị bắt nạt bởi quyền lực sự dữ, từ bây giờ và cho đến sinh thì.
Lần chuỗi Mai Khôi, ta đi từ hột này sang hột khác thành một tràng. Trường đời là cả một tràng chuỗi biến cố và sự việc tiếp nối liên tục, cần có Mẹ cùng đi, cần có Mẹ nâng đỡ tiếp sức. Đối với ơn cứu độ Chúa đã thương ban dư tràn nơi Đức Giêsu Kitô, cũng từng bước từng bước suốt cuộc đời ta theo gương Mẹ mà đón nhận.
5. Thực hành trong Năm Mai Khôi
Việc đọc kinh Mai Khôi được Đức Giáo Hoàng đương kim xác nhận là việc đạo đức xuyên suốt cuộc đời của ngài. Và cho tới giờ này, trong địa vị Giáo Hoàng, ngài vẫn là Totus tuus: Tất cả cho Mẹ. Trong dịp mừng Ngân Khánh Giáo Hoàng, ngài đã ra một Tông Thư nói về Kinh Mai Khôi, trình bày một cách chi li, và đầy xác tín về công việc đạo đức này và Ngài kêu gọi toàn thể Giáo Hội hãy yêu thích đọc kinh Mai Khôi, ngài còn đề nghị cả một năm từ 7.10.2202 đến 7.10.2003 là một Năm Mai Khôi, để cám ơn Chúa với Ngài và Ngài lưu ý chúng ta quan tâm hai ý cầu nguyện xét thấy là cần thiết hàng đầu, đó là cầu nguyện cho thế giới hòa bình và cầu nguyện cho các gia đình. Quả vậy, bước sang thiên niên kỷ thứ 3, đã xảy ra nhiều cuộc chiến đe dọa toàn cầu. Cũng thế, hiện nay gia đình bị xói mòn bởi khủng hoảng của xã hội, làm cho căn bản gia đình đang bị lung lay.
Còn ít ngày nữa thôi là hết Năm Mai Khôi mà Đức Thánh Cha mời gọi. Không biết suốt 11 tháng qua chúng ta có rục rịch gì cho lời mời gọi này không. Vậy hôm nay mừng Lễ Mẹ Mai Khôi, tôi gợi lại ý thức của mọi ngưỡi về hiệp thông Hội Thánh và vâng phục ý Cha chung, để toàn thể tín hữu rập một tiếng đồng thanh kêu khấn trước tòa Chúa cùng với Mẹ và nhờ Me, cho hòa bình thế giới, cho gia đình sống theo ý định Thiên Chúa từ đầu tạo dựng, mà Đức Giêsu đã dùng ân sủng Cứu Độ của Người để phục hồi.
Gia đình ngày nay coi như qúa bận rộn với nhiều công việc, cha mẹ con cái khó có thời gian đoàn tụ. Có lẻ chỉ có giờ đoàn tụ được là chiều tối ngồi trước Tivi. Và lúc đó mọi người trong gia đình như chỉ đối thoại hay tiếp xúc với những gì xuất hiện trên màn hình. Chớ gì trong thời gian ấy, gia đình tắt Tivi khoảnh khắc, ngồi chung trước bàn thờ, lần hạt chung với nhau y như coi Tivi, nhưng ở đây mọi người sẽ nhìn xem thấy Chúa, với những kỳ công của Người đối với Mẹ và đối với nhân loại.
Và tôi xin kết thúc bằng lời của Đức Thánh Cha Gio-an Phaolô 2: “Gia đình mà đọc chung Kinh Mai Khôi tạo nên được điều gì đó của bầu khí gia đình Na-da-rét: các thành viên gia đình đặt Đức Giêsu ở trung tâm, họ chia sẻ niềm vui và nỗi buồn của Người, họ đặt những nhu cầu và dự tính của họ trong tay Người, họ kín múc từ Người niềm hy vọng và sức mạnh để tiến bước”.
Kính mừng Mẹ Đức Chúa Trời hiển vinh Hoa lòng thắm sắc Đức tin Xin dâng kính Mẹ Đồng Trinh từng ngày
Tháng Mười được dành để tôn kính Đức Mẹ Mân Côi. Theo miêu tả của tu sĩ Alan de la Roch, Dòng Đa-minh (thế kỷ XV), Đức Mẹ đã hiện ra với thánh Đa-minh năm 1206 sau khi thánh nhân cầu nguyện và sám hối vì đã không thành công trong việc chống tà thuyết Albigensianism (*). Đức Mẹ đã khen ngài về sự chiến đấu anh dũng của ngài chống lại tà thuyết và trao cho ngài Chuỗi Mân Côi làm vũ khí phi thường, đồng thời giải thích cách sử dụng và hiệu quả của Chuỗi Mân Côi. Đức Mẹ bảo thánh Đa-minh rao truyền Chuỗi Mân Côi cho những người khác.
Kinh Mân Côi có nguồn gốc từ chính Thiên Chúa, từ Kinh thánh, và từ Giáo hội. Không lạ gì khi Chuỗi Mân Côi gần gũi với Đức Mẹ và mạnh mẽ đối với Nước Trời.
Rất nhiều người đã được ơn từ việc lần Chuỗi Mân Côi. Thánh GH Gioan Phaolô II cũng thường xuyên lần Chuỗi Mân Côi những khi ngài đi bách bộ. Nếu xem lại lịch sử, chúng ta thấy có nhiều chiến thắng nhờ Chuỗi Mân Côi. Truyền thống ban đầu đã có chiến thắng tà thuyết Anbi tại trận Muret năm 1213 nhờ Chuỗi Mân Côi.
Dù không muốn chấp nhận truyền thống đó thì cũng phải chân nhận rằng Thánh GH Piô V đã góp phần chiến thắng đội quân Thổ Nhĩ Kỳ vào Chúa Nhật đầu tháng 10 năm 1571. Ngay thời điểm đó có Hội Mân Côi (Rosary Confraternities) tại Rôma và những nơi khác. Do đó, Thánh GH Piô V đã truyền phải tôn kính Kinh Mân Côi vào chính ngày đó.
Năm 1573, ĐGH Grêgôriô XIII công bố việc mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi tại các nhà thờ có bàn thờ dâng kính Đức Mẹ Mân Côi. Năm 1671, ĐGH Clêmentô X mở rộng lễ này trên toàn cõi nước Tây Ban Nha. Chiến thắng anh dũng lần thứ hai trên người Thổ Nhĩ Kỳ, những người đã có lần (cũng như người Nga) đe dọa phá hủy văn minh Kitô giáo, xảy ra vào ngày 5-8-1716, khi hoàng tử Eugene đánh bại họ tại Peterwardein (Hungary). Do đó, ĐGH Clêmentô XI mở rộng lễ Đức Mẹ Mân Côi trong toàn Giáo hội.
Lm William G. Most đã viết trong cuốn “Đức Maria trong Đời sống” (Mary in Our Lives): “Ngày nay, các mối nguy hiểm còn lớn hơn người Thổ Nhĩ Kỳ, không chỉ đe dọa Kitô giáo mà đe dọa cả nền văn minh, Đức Mẹ thúc giục chúng ta trở lại với Chuỗi Mân Côi để được giúp đỡ. Nếu nhân loại đủ số người làm vậy, đồng thời thực hiện các điều kiện khác mà Đức Mẹ đã đưa ra, chúng ta có lý do chính đáng để tin rằng chúng ta sẽ thoát khỏi mọi mối nguy hiểm”.
Nhưng thiết nghĩ chúng ta cần tích cực lần Chuỗi Mân Côi hàng ngày không vì mong được lợi cho mình mà vì lòng yêu mến chân thành. Người Việt Nam có câu: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Cứ hành động bằng tất cả niềm tin, cậy, mến (ba nhân đức đối thần) thì chúng ta không bao giờ phải thất vọng. Kinh Mân Côi là chu kỳ của cuộc đời chúng ta, với đủ “sắc màu” quyện vào nhau: Vui, Thương, Mừng, Sáng.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết yêu mến Đức Mẹ. Lạy Mẹ, xin dẫn chúng con đến với Chúa. Chúng con xin trao phó mọi sự cho Thiên Chúa và Đức Mẹ, xin quan phòng và lo liệu cho chúng con, bây giờ và trong giờ lâm tử. Amen.
------------------
(*) Albigensianism: Anbi giáo, một phong trào Kitô giáo được coi là hậu duệ thời trung cổ của Mani giáo (Manichaeism – xem chú thích bên dưới) ở miền Nam nước Pháp hồi thế kỷ XII và XIII, có đặc tính của thuyết nhị nguyên (đồng hiện hữu của hai quy luật đối nghịch là Thiện và Ác). Thuyết này bị kết án là tà thuyết thời Tòa án Dị giáo (Inquisition).
Manichaeism: Mani giáo, hệ thống tôn giáo nhị nguyên do tiên tri Manes (khoảng 216–276) sáng lập ở Ba Tư hồi thế kỷ III, dựa trên vụ xung đột nguyên thủy giữa ánh sáng và bóng tối, kết hợp với các yếu tố của Kitô giáo ngộ đạo (Gnostic Christianity), Phật giáo (Buddhism), Bái hỏa giáo (Zoroastrianism), và các yếu tố ngoại giáo khác. Thuyết này bị chống đối từ phía Hoàng đế La mã, các triết gia phái tân Platon (Neo-Platonist) và các Kitô hữu chính thống.
Bài Phúc Âm được đọc trong ngày lễ kính Đức Mẹ Mân Côi đề cập tới biến cố truyền tin. Điều đó có vẻ như thiếu thiếu một gì đó, vì thật ra truyền tin chỉ là ‘mầu nhiệm Mân Côi’ thứ nhất trong số 20 mầu nhiệm được đem ra suy gẫm? Phụng vụ muốn nói gì khi chọn đoạn Tin Mừng này, đặc biệt cho giáo dân Việt Nam khi mà Hội Đồng Giám Mục trong khóa họp tháng 4 năm 1991 đã quyết định cho phép mừng trọng thể lễ này vào ngày Chúa Nhật? Đặt vấn nạn như thế có nghĩa là muốn xác định nội dung đích thực của việc lần hạt Mân Côi: một việc đạo đức được Đức Mẹ ưa thích, hay còn là một con đường sống Tin Mừng bình dân nhưng hữu hiệu và sâu sắc?
Người Công giáo chúng ta vẫn biết rằng giá trị của việc lần hạt Mân Côi hệ tại ở suy niệm các sự kiện hay biến cố xảy ra trong cuộc đời đức Giêsu và đức Maria, hầu giúp ta nhận ra, ngày càng sâu sắc hơn, hồng ân cứu độ. Tuy nhiên sự nhận biết này nhiều khi chỉ dừng lại ở nhận thức, một cảm thức chung chung mang tính lý thuyết; hoặc giả hồng ân cứu độ đó chỉ là điều ta đã từng nhận lãnh một lần ngày rửa tội xa xưa. Biến cố truyền tin nói riêng, và mọi biến cố liên quan tới đức Maria nói chung, theo như tác giả Luca trình bày, cho thấy một khía cạnh khác của cuộc sống Hồng Ân cứu độ: các biến cố thường nhật cần phải được nhìn nhận và được đưa vào hồng ân này, nhất là khi chúng xem ra càng khó hiểu và xa lạ với kế hoạch từ ái của Thiên Chúa.
Biết bao lần tôi phải tự hỏi, trong tư cách một Ki-tô hữu đứng trước nhiều biến cố liên quan tới mình, tới tha nhân và xã hội loài người, thì “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào?” Câu hỏi này không mong tìm cho ra một giải đáp hợp lý cho từng sự kiện, nhưng là để nhận ra lòng từ bi thương xót của Chúa đang được thực hiện ra sao. Trong lần hạt Mân Côi, cùng với đức Maria, tôi giáp mặt với cuộc sống hàng ngày, có thể là những niềm vui, những biến cố trang trọng mang nhiều ý nghĩa, cũng có thể là những nỗi buồn, những đổ vỡ…, những chuyện vụn vặt vu vơ, những thành công hay thất bại, những kỳ vọng hay hoài bão…
Đối với một Ki-tô hữu như tôi, tất cả mọi biến cố bất luận tốt xấu, đều có giá trị nếu được nhìn nhận và đưa vào tình yêu nhân ái của Thiên Chúa đầy lòng xót thương. Đối với Ki-tô hữu, sẽ không chỉ có vấn đề ‘thánh hóa = làm phép’ các biến cố hàng ngày, theo kiểu dâng chúng lên cho Thiên Chúa, như cách nói bình dân thông thường. Điều một Ki-tô hữu cần làm là dìm mọi biến cố của cuộc sống mỗi ngày ngập sâu trong hồng ân cứu độ. Truyền tin, và nhiều biến cố khác nữa, đã được đức Maria sống như thế. Mẹ đã ‘ghi nhớ tất cả các điều ấy… và suy đi nghĩ lại trong lòng’ (Lc 2,19.51). Maria đã không lần hạt, nhưng là Mẹ Mân Côi vì đã không ngừng khám phá và sống từng biến cố đời mình trong hồng ân cứu độ của Thiên Chúa.
Dành được thời giờ mỗi ngày để xét mình và suy gẫm các ‘mầu nhiệm phép Mân Côi’ là điều tốt, nhưng rồi cũng có lúc trở thành nhàm chán. Chung qui đó vẫn còn là công việc nặng tính lý thuyết và khá trừu tượng. Lần hạt Mân Côi sẽ làm cho cả hai việc trên trở nên sống động hơn, hiện sinh hơn, nếu qua đó tôi cùng với Mẹ nhìn nhận lòng từ ái Chúa trong từng biến cố cuộc sống mình. Mà các biến cố thì luôn thực tế, thiết thực và biến đổi không ngừng trong đời sống thường ngày. Các biến cố không chỉ được phân loại tối hay xấu theo nghĩa luân lý, mà tất tất đều cần được ánh sáng hồng ân cứu độ của Chúa soi chiếu và biến đổi, Như thế tôi không chỉ lần chuỗi hạt, mà sống Mân Côi mỗi ngày. Chắc chắn sống Mân Côi như thế sẽ thiết thực dẫn đưa tôi đạt tới một cuộc sống Ki-tô ngày càng Tin Mừng hơn, hiểu theo nghĩa cho phép tôi ngày càng vào sâu hơn trong hồng ân cứu độ, và mau mắn biến đổi đời tôi – không theo nghĩa ngày càng trở nên tốt lành thánh thiện hơn – nhưng ngày càng thâm tín khi nhận ra rằng tình thương của Chúa trên tôi (và trên toàn nhân loại) không bao giời vơi cạn, bất chấp tất cả những yếu đuối biến thiên vô hình vạn trạng của con người.
Sứ điệp Fa-ti-ma sẽ không bao giờ mất đi cái ý nghĩa thâm sâu của nó, đã được vang vọng từ thời Thánh Đa-minh, và sẽ còn tiếp tục mãi qua mọi thời: “Hãy năng lần Mân Côi!”
Lạy Mẹ Mân Côi! Cùng với Mẹ, xin cho con sống Mân Côi hàng ngày. Xin cho con luôn tìm được giải đáp thỏa đáng cho mọi tình huống và biến cố trong đời con qua câu nói của sứ thần mà chính Mẹ đã được nhắc nhở: “Vì đối với Thiên Chúa – nhân lành, không có gì là không thể làm được’. Cùng với Mẹ, con mong rằng việc lần hạt Mân Côi sẽ trở thành con đường Tin Mừng đích thực cho con. Amen.
Nói đến kinh Mân Côi, tôi nhớ đến mẹ tôi. Bà là hình ảnh của người tín hữu bình dân Việt Nam: Bà quen dùng Kinh Mân Côi làm đơn vị đo chiều dài. Khi có người hỏi nhà thờ cách bao xa, bà trả lời: "Đi được ba chuỗi năm chục". Nghĩa là phải đi bộ độ 45 phút, tính nhẩm ra khoảng ba cây số.
Nếu nguồn gốc của lễ Mân Côi ngày 7 tháng 10, bắt nguồn từ việc các tín hữu Âu Châu thành công trong việc phòng thủ, trước sức tiến công như vũ bão của quân đội Thổ Nhĩ Kỳ năm 1571, tại vịnh Lepante thời thánh giáo hoàng Pio V. Thì cũng từ đó, Giáo hội cổ võ tín hữu dành trọn tháng mười để đặc biệt cầu nguyện bằng chuỗi hạt quý giá này, và hơn thế nữa, cổ võ chúng ta cầu nguyện bằng kinh Mân Côi trong suốt cuộc sống.
Kinh Mân côi là một hình thức cầu nguyện đơn giản nhưng phong phú đã được Giáo hội phổ biến qua nhiều thế kỷ. Đơn giản, vì bất cứ ai cũng dễ dàng thực hiện, dễ dàng đọc một mình trong mọi tình huống, ở mọi nơi, mọi lúc, và dễ dàng khi cầu nguyện chung mà ai ai cũng có thể tích cực tham gia. Nhưng Kinh Mân Côi lại rất phong phú, vì có bao nhiêu sách viết về kinh Mân Côi đã tìm ra trong các mầu nhiệm nguồn suy niệm dồi dào, dường như không bao giờ cạn.
Kinh Mân Côi chính là nguồn gia tăng sinh lực cho con người và là lời ngợi ca cuộc sống.
Gương một nhà trí thức...
Mỗi người có thể rút ra một bài học qua mẩu chuyện sau: Trên chuyến xe lửa đi Paris, có một chàng thanh niên mặt mũi sáng sủa, trên tay ôm một chồng sách dày. Ngồi đối diện với anh là một cụ già, đang cầm chuỗi Mân côi lâm râm đọc kinh.
Chàng trai thấy chướng mắt lên tiếng nói: "Bác ơi! thời buổi này mà bác còn đọc thứ kinh của đàn bà trẻ con ấy nữa à!".
Cụ già ngước mắt nhìn anh và trả lời: "Cám ơn cậu, cậu có vẻ thông thái lắm, cậu giải thích cho tôi nghe đi".
Thế là chàng trai có dịp khoe về mình: anh đang học năm cuối đại học Bách khoa; anh khuyên cụ già bỏ mấy thứ dị đoan lẩm cẩm đi, vì rồi đây khoa học sẽ xây dựng một thế giới mới chứ không phải những tôn giáo ảo tưởng của người xưa. Và chàng trai hăng say thuyết cho cụ suốt nửa tiếng.
Cụ già chăm chú nghe anh nói, đến khi sắp xuống xe, còn mời anh khi nào rảnh đến nhà hướng dẫn thêm cho cụ và trao cho cậu một tờ danh thiếp.
Chàng trai bỗng thấy mình như từ trên trời rơi xuống, vì trên danh thiếp ghi tên nhà khoa học mà anh suốt đời thán phục: "Louis Pasteur,Viện Hàn Lâm Pháp"
Êm đềm mà thấm lâu...
Trong xã hội thực dụng hôm nay, nhiều người đạo đức coi thường Kinh Mân Côi. Họ nói: điều quan trọng của kitô hữu là hiểu và sống Lời Chúa, là thực thi công bằng bác ái Phúc Âm. Không sai, nhưng chưa chính xác. Thế nhưng, họ chưa hiểu ra sức mạnh êm đềm mà thấm lâu của những lời kinh đơn giản này.
Ta biết các vận động viên và các cầu thủ, dù thuộc bộ môn nào như bơi lội, đá banh, chạy đua... đều không thể bỏ những bài tập thể dục căn bản là tập thở. Đọc kinh Mân Côi chính là thực hiện một việc rất đơn giản như việc hít thở.
Các tôn giáo lớn như Hồi giáo và Phật giáo đều có xâu chuỗi. Với những lời kinh ngắn gọn, người tín đồ có một khoảng thời gian và không gian cần thiết để tiếp cận với Đấng tuyệt đối. Dù thiếu tập trung, Đấng tuyệt đối vẫn làm công việc của Ngài. Chính việc hội ngộ với Chúa cách thường xuyên này sẽ nuôi dưỡng đời sống nội tâm của họ, và đem lại cho mọi hoạt động của họ một giá trị mới.
Qua 20 mầu nhiệm Mân côi, kitô hữu ngày càng được gắn bó sâu sắc hơn vào những biến cố chính trong công cuộc cứu độ. Ngày này qua ngày khác, họ chiêm ngưỡng và học theo gương Đức Kitô nhập thể trong ngày lễ Truyền Tin, theo gương Đấng Giáng Sinh tại Belem, Đấng bôn ba ra giảng về Nước Trời, Đấng Hiến tế chính đời mình trên Thập Giá và sống lại vinh quang. Họ chiêm ngưỡng đức Maria trên thiên quốc như một hứa hẹn cho tương lai của giáo hội và nhân loại.
Hơn thế nữa, phụng vụ lễ Mân Côi qua đoạn sách Công vụ Tông đồ (bài đọc II), nhắc cho chúng ta một truyền thống trong lịch sử giáo hội ngay từ thuở sơ khai. Như các tông đồ xưa trong ngày lễ ngũ tuần, đã cùng cầu nguyện với đức Maria tại nhà tiệc ly, để đón nhận Thánh Thần mà ra đi loan báo Tin Mừng phục sinh. Thì nay kitô hữu sẽ cùng với Mẹ Maria để cầu nguyện và tìm được nguồn nghị lực trên bước đường sứ vụ.
Hướng đến một nhân loại mới
Lời kinh "Kính Mừng" quen thuộc, chính là lời chào mừng "Ave: Mừng vui lên" của thiên sứ Gabriel thưa với Đức Maria, mà chúng ta đọc lại trong Tin Mừng Luca hôm nay (1, 28).
Lời chào "Ave" ấy không chỉ gửi đến cho mình Mẹ Maria. Vì theo truyền thống Giáo hội, lời chào "Đấng đầy ơn sủng", chính là một chứng nghiệm cho Lời Giavê đã hứa trong vườn địa đàng xưa, sau khi tổ tông nhân loại sa ngã: về người nữ sẽ đạp dập đầu con rắn trong vườn địa đàng (bài đọc I). Người nữ ấy tuy xuất thân từ Adam và Evà, nhưng thoát khỏi vòng kiềm tỏa của tội nguyên tổ. Người nữ ấy được tràn đầy ân sủng, được hồng ân Vô nhiễm; Người nữ ấy được so sánh như Evà mới của một nhân loại mới. Người nữ ấy, tên là Maria, là dấu hiệu của ân sủng Thiên Chúa hiện diện giữa con người. Như lời Thánh Thi trong kinh thần vụ kính Đức Mẹ:
"Chữ E-va Mẹ đảo vần, Thành A-ve gửi bình an cho đời".
Lịch sử cứu độ đã khởi sự từ lời hứa tại vườn địa đàng. Thiên Chúa hứa cứu độ nhân loại. Ngài hứa ở cùng nhân loại. Ngài hứa sẽ gửi đến Đấng Emmanuel "Thiên Chúa ở cùng". Lời hứa ấy nay được cụ thể hóa khi Ngôi Lời nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ: "Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu". Giêsu có nghĩa là Chúa Cứu, sẽ được muôn đời nhắc đến trong lời kinh: "Và Giêsu Con lòng Bà đầy phúc lạ".
Đọc kinh "Kính Mừng", ta có thể cảm thấy tâm trạng tương tự như các khán giả đang theo dõi các vận động viên Olympic hoặc Saegames. Họ chờ đón những kỷ lục mới "cao hơn, nhanh hơn, xa hơn". Khi chúc mừng một vận động viên lãnh huy chương vàng, họ cũng chúc mừng khả năng của một dân tộc và của cả nhân loại...
Cũng vậy, qua những lời "Kính mừng Maria đầy ơn phúc", chúng ta chiêm ngưỡng một "kỷ lục tuyệt hảo" của nhân loại. Chiêm ngưỡng Đức Maria, một tạo vật hoàn hảo của nhân loại mới.
Hơn thế nữa, trong nhân loại mới đó, chúng ta không chỉ là khán giả, mà còn là thành viên. Nên lời kinh "Kính Mừng" không chỉ được gửi đến cho đức Maria, mà còn là lời chúc mừng một nhân loại mới đang được hình thành.
Và như thế, qua kinh Mân Côi, chúng ta sẽ chìm sâu vào tình yêu và ân sủng cứu độ của Thiên Chúa, sẽ nhận ra lời Ngài kêu mời chúng ta giữ một vị trí riêng biệt trong lịch sử cứu độ và tìm được sức mạnh mới để hoàn tất vị trí ấy của mình trong lịch sử. Nếu được như vậy, chúng ta có thể đi đến kết luận: Kinh Mân Côi góp phần biến đổi trần gian.
Mân côi, Văn côi, Môi khôi, Mai khôi, tất cả những chữ này đều có cùng một nghĩa là những bông hồng đẹp hay viên ngọc quí, tùy theo thói quen và ý thích, mỗi người mỗi nơi dùng một kiểu. Một số người hiện nay thích dùng chữ Mai khôi, vì theo họ, chữ này vẫn giữ được nguyên nghĩa là bông hồng đẹp, viên ngọc quí mà đọc nghe lại thấy thanh nhã và mới mẻ hơn.
Chuỗi Mai khôi là chuỗi gồm năm mươi chục hạt. Mỗi hạt là một kinh Kính mừng và sau mười hạt lại có thêm một hạt nữa để chỉ kinh Lạy Cha. Những kinh Kính mừng đó được coi như những bông hồng kết thành vòng hoa dâng kính Đức Mẹ. Một trăm năm mươi kinh Kính mừng là một trăm năm mươi bông hồng hay một trăm năm mươi thánh vịnh kính Đức Mẹ, vì chuỗi Mai khôi được coi như tập thánh vịnh về Đức Mẹ, cũng giống như một trăm năm mươi thánh vịnh để tôn vinh ca tụng và cầu xin cùng Chúa vậy.
Nguồn gốc chuỗi Mai khôi
Ngay từ thế kỷ XI, thời thánh Bê-na-đô, những người có lòng sùng kính Đức Mẹ vẫn đọc một chuỗi các kinh Kính mừng, vừa đọc vừa nghĩ đến những sự vui mừng của Đức Mẹ. Có thể nói đó là hình thức khởi đầu của chuỗi Mai khôi. Sau này, năm 1328 ngưòi ta tìm được một tập ghi chép các phép lạ của Đức Mẹ. Trong tập này có nói đến việc Đức Mẹ trao chuỗi Mai khôi cho thánh Đa Minh. Và từ đó trở đi, người ta cứ truyền tụng cho nhau làthánh Đa Minh đã lập ra chuỗi Mai khôi. Vì thế, trong dòng Đa Minh mới có tượng Đức Mẹ trao chuỗi Mai khôi cho thánh Đa Minh.
Thực ra, theo cha La-co-đe (Lacordaire), một tu sĩ dòng Đa Minh và một nhà giảng thuyết trứ danh tại nhà thờ Đức Bà Pa-ri (Paris) vào giữa thế kỷ XIX, thì năm 1209 ở miền Tu-lu-giơ (Toulouse), tình thế lúc bấy giờ rất nhiễu nhương: quân của quận Chúa Ray-mông (Raymond) theo bè rối An-bi-doa (Albigeois) đánh nhau với quân của quận chúa Xi-mông đờ Mông-pho (Simon de Montfort) theo công giáo. Thánh Đa Minh làm việc tông đồ ở miền Toulouse lúc bấy giờ. Người thấy rằng bao lâu chưa có hòa bình thì bấy lâu rất khó giảng giải để đưa các người theo bè rối về nẻo chính đường ngay. Vì thế, người mới cầu nguyện và xin ai nấy cầu nguyện cho hòa bình. Người được ơn soi sáng kiện toàn kinh Mai khôi đã có từ thế kỷ XIII, bằng cách cứ sau mỗi mười kinh thì dừng lại một chút, rồi thêm vào một câu hát vắn hay mấy lời lấy trong các sách Tin Mừng về cuộc đời Chúa Cứu Thế, cho thay đổi và đỡ nhàm chán. Ban đầu chỉ lấy những câu nói về các niềm vui, sau mới thêm những câu nói về các nỗi khổ và các điều mừng.
Từ thế kỷ XV trở đi, chuỗi lần hạt Mai khôi được tổ chức như chúng ta thấy ngày nay, nghĩa là chia làm ba chuỗi, mỗi chuỗi năm chục kinh suy ngắm về một số các mầu nhiệm liên quan đến các niềm vui, nỗi khổ và các điều mừng.
Hai tu sĩ dòng Đa Minh là linh mục A-lanh đờ la Rót-sơ (Alain de la Roche) người Pháp ở tỉnh Đu-ê (Douai), (sau được nâng lên hàng chân phước) năm 1470 và linh mục Gia-cóp Pơ-ren-gơ (Jacob Sprenger) người Đức ở tỉnh Kơn (Koeln) năm1475 đã lập ra các Hội Mai khôi. Từ thế kỷ XVI, các ĐGH chính thức giao cho dòng Đa Minh nhiệm vụ rao giảng về chuỗi Mai khôi và thành lập các hội Mai khôi.
Nguồn gốc lễ Mai khôi
Ngày Chúa nhật 7.10.1571, hải quân công giáo thắng hải quân Thổ nhĩ kỳ một trận thủy chiến oanh liệt ở vịnh Lơ-păng-tơ (Lepante) (giữa Co-rin-tô và Pa-trát). Tin chiến thắng được báo về Rô-ma vào Chúa nhật đầu tháng Mười, giữa lúc các hội viên Mai khôi đang rước kiệu trong thành phố. Để tạ ơn Đức Mẹ đã nghe lời cầu khẩn của các tín hữu, ĐGH Pi-ô V, ngày 5.3.1572 truyền mỗi năm phải làm một lễ kính Đức Bà chiến thắng. Ngày 1.4.1573, ĐGH Ghê-go-ri-ô đặt tên cho lễ này là lễ Mai khôi và truyền phải cử hành trong các nhà thờ và nhà nguyện của các Hội Mai khôi vào Chúa nhật đầu tháng Mười. Năm 1716, ĐGH Cơ-lê-măng (Clément) XI truyền cho toàn thể Hội thánh phải long trọng mừng lễ này. Đến năm 1913, lễ Mai khôi được ấn định vào ngày 7.10 mỗi năm.
Ý nghĩa của chuỗi Mai khôi và lễ Mai khôi
Trên đây là nguồn gốc của chuỗi Mai khôi và lễ Mai khôi, nhưng còn ý nghĩa của chuỗi và lễ thì thế nào? Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng thừa biết lần chuỗi Mai khôi là đề tỏ lòng kính yêu và cầu xin cùng Đức Mẹ. Chúng ta tôn vinh Đức Mẹ và nhớ lại tình thương của Chúa đối với Hội thánh qua tay Đức Mẹ, trong những hoàn cảnh gần như tuyệt vọng. Từ những sự việc hiển hách của Chúa trong các hoàn cảnh này, chúng ta càng thêm xác tín lời của thần sứ trong bài Tin Mừng lễ Đức Mẹ Mai khôi: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”
Thiên Chúa làm được tất cả. Nhưng oái oăm thay! Nhiều khi Chúa không biểu lộ trực tiếp và ngay tức khắc quyền năng của Người cho chúng ta thấy. Bởi thế, nhiều lúc chúng ta hoài nghi, tỏ ra chán nản vì thấy nguyện vọng của mình chưa hay không được đáp ứng và xem ra Chúa như câm lặng xa vắng.
Giữa những hoàn cảnh éo le ở đời và giữa lúc phải đắm chìm trong đêm tối của hoài nghi, thất vọng, ước gì chúng ta nhớ lại những hoàn cảnh lịch sử gắn liền với chuỗi Mai khôi và lễ Mai khôi, để giữ vững niềm tin và đốt cháy lên ngọn lửa hy vọng.
Một linh mục đã kể câu chuyện như sau: buổi tối nọ, có cuộc điện thoại mời ngài đến một bệnh viện gần đó để xức dầu cho một bệnh nhân. Người bệnh là một bà cụ già trạc tuổi 80. Khi đến nơi, cụ đang trong cơn nguy kịch. Vì thế, tay bên trái thì chằng chịt dây truyền nước và thuốc vào cơ thể, nhưng tay còn lại thì cụ không rời tràng hạt Mân Côi.
Vị linh mục nói tiếp: “Tôi có thể ví Tràng chuỗi Mân Côi như là sợi dây truyền mà Mẹ đang truyền nước và thuốc tâm linh vào trong cuộc đời của mỗi chúng ta để tăng thêm sinh lực, nhất là đức tin, cậy, mến nơi Thiên Chúa như Mẹ”.
Hôm nay, mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi, chúng ta hãy cùng nhau chiêm ngưỡng sự kết hiệp mật thiết sâu xa của Mẹ Maria nơi Thiên Chúa, cũng như cảm nghiệm được tình mẫu tử nơi Mẹ Maria với con cái.
1. Cuộc đời Mẹ luôn hướng về Thiên Chúa
Có lẽ không ai là người Việt Nam lại không biết bài hát “Xin Vâng” của linh mục nhạc sĩ Kim Long! Bài hát này được gợi hứng từ chính đoạn tin Mừng Lc 1,26-38 mà chúng ta vừa nghe.
Qua bài hát này, chúng ta nhận thấy cuộc đời Mẹ là một cuộc đời xin vâng.
Khởi đi từ việc Mẹ xin vâng lời Thiên Chúa truyền dạy qua thiên sứ: “Này tôi là nữ tỳ Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”. Chính nhờ lời xin vâng này mà Mẹ đã trở thành Mẹ Thiên Chúa và Mẹ nhân loại.
Từ đây, Mẹ đã hoàn toàn vâng lời Thiên Chúa cách tuyệt đối. Mẹ đã cộng tác vào công trình cứu độ này cách trung thành. Nói cách khác: Thiên Chúa có thể tùy nghi sử dụng Mẹ như một nữ tỳ khiêm hạ đầy lòng mến để phục vụ cho công trình cứu chuộc của Thiên Chúa trên và trong nhân loại. Hình ảnh và thái độ của Mẹ Maria trong bài Tin Mừng hôm nay khác hoàn toàn với hình ảnh và thái độ của Evà trong thời Cựu Ước.
Nếu một Evà muốn sống tự do và sử dụng tự do để chống đối lại Thiên Chúa, thì với một Maria, Evà của Tân Ước đã sử dụng tự do để quy phục Thiên Chúa.
Nếu một Evà ham quyền, háo danh trong sự kiêu ngạo, thì với Mẹ Maria, một con người khiêm nhường, và hoàn toàn đón nhận thánh ý Chúa và ra sức làm cho ý Chúa được nên trọn trong thân phận nữ tỳ của Người.
Một Evà là mẹ của chúng sinh, nhưng đã gieo rắc tội chết cho nhân loại, thì với Mẹ Maria, Evà mới, Mẹ đã trở thành Mẹ của một thế hệ mới, thế hệ được ngụp lặn trong ân sủng, tình thương và sự sống nhờ lời xin vâng tuyệt đối trung thành với Thiên Chúa.
Trong suốt cuộc đời của Mẹ, lời xin vâng ấy được lặp lại rất nhiều, có thể nói là liên lỷ đối với Thiên Chúa qua việc gắn bó vơi Đức Giêsu – Con của Mẹ.
Từ khi trẻ Giêsu còn thơ ấu đến lúc trưởng thành, từ làng quê Nazareth đến đỉnh đồi Canvê… Mẹ luôn hướng về con của Mẹ như hoa hướng dương hướng về mặt trời. Mẹ vui niềm vui của Đấng Cứu Thế. Buồn nỗi buồn của Đấng Cứu Chuộc. Cùng Lo lắng cho sứ vụ loan báo Tin Mừng mà Con Chí Ái của Mẹ đang thi hành.
Chính sự kết hiệp với Con Chí Ái của Mẹ cách liên lỷ như vậy, nên Mẹ đã trở thành người phi thường khi can đảm đứng dưới chân thánh giá để đồng công cứu chuộc với Đức Giêsu.
Có thể nói: từ khi đón nhận lời xin vâng, Mẹ đã tuyệt đối trung thành với lời tâm huyết thủa ban đầu. Vì thế, dù vui, buồn, sướng, khổ, Mẹ luôn tin tưởng phó thác và cậy trông nơi Thiên Chúa. Cả cuộc đời Mẹ được dệt nên bản tình ca “Xin Vâng” để thánh ý của Thiên Chúa được nên trọn.
Khi gắn bó với Thiên Chúa như vậy, chắc chắn Mẹ được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt. Hơn nữa, vì Mẹ đã cưu mang Con Thiên Chúa, mà Người Con ấy cũng là Thiên Chúa, nên Mẹ trở thành Mẹ Thiên Chúa. Bởi vậy, trước mặt Thiên Chúa, Mẹ Maria là Nữ Hoàng Thiên Quốc, Thiên Chúa sẽ sẵn sàng đáp lại lời cầu xin của Mẹ cho con cái của mình.
2. Mẹ Maria luôn hướng về con cái
Người Công Giáo chúng ta thật hãnh diện và vui mừng vì có một người Mẹ luôn luôn yêu thương con cái của mình hết mực.
Tin Mừng và Giáo Huấn của Giáo Hội đã vén mở cho chúng ta thấy tình mẫu tử tuyệt vời ấy nơi Mẹ Maria.
Chẳng hạn như: Mẹ đã lên đường viếng thăm và giúp đỡ bà Êlisabét một thời gian; hay như việc Mẹ lên tiếng kêu cứu Đức Giêsu ra tay cứu giúp gia chủ tại tiệc cưới Cana khi trong tình trạng thiếu rượu.
Hơn nữa, chúng ta thật vinh phúc vì được chính Đức Giêsu trao phó cho Mẹ Maria dưới chân thập giá qua thánh Gioan. Và, hình ảnh thật thắm đượm tình Mẹ – con giữa Mẹ Maria với Giáo Hội lúc sơ khai, đó là Mẹ đã cùng với các môn đệ quây quần bên nhau nơi nhà Tiệc Ly để cầu xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Giáo Hội.
Những hình ảnh đó cho thấy sự kết hợp mật thiết của Mẹ dành cho con cái chốn trần gian.
Một trong những biến cố quan trọng cho thấy Mẹ uôn dõi theo con cái của mình đang lữ thứ chốn trần gian và sẵn sàng ra tay bênh đỡ khi con cái gặp hiểm nguy, đó là:
Vào năm 1571, lúc đó, anh em Hồi Giáo đang làm một cuộc viễn chinh nhằm chinh phục thế giới về cho mình. Họ đi từ Trung Đông sang Á Châu rồi Ấn Độ và đổ bộ đến Âu Châu. Tới đâu, thì nơi đó trở nên hoang tàn, chết chóc đến tang thương. Điểm cuối cùng mà họ nhắm tới, đó là nước Ý, nơi đó có thủ đô của Giáo Hội Công Giáo và Đức Giáo Hoàng. Họ muốn san bằng và phá hủy hết tất cả những dấu tích của Giáo Hội. Vì thế, đội quân viễn chinh đã chuẩn bị đầy đủ vũ khí và một đội quân tinh nhuệ đã sẵn sàng chiến đấu.
Trước tình trạng nguy hiểm đó, họa Hồi Giáo đang đến gần, Đức Giáo Hoàng Piô X rất vững niềm trông cậy, ngài đã giữ được bình tĩnh và phát động chiến dịch cầu nguyện với kinh Mân Côi để xin Đức Mẹ cứu giúp.
Kết quả thật bất ngờ! Quân Hồi Giáo bỗng dưng bị suy yếu đến lạ thường, và cuối cùng, trái tin Mẹ đã toàn thắng. Con cái Mẹ hân hoan ca mừng chiến công hiển hách do tình thương của Thiên Chúa qua lời chuyển cầu của Mẹ maria.
Biến cố này rơi vào đúng ngày 7-10, vì thế, ngày này được dâng kính Đức Mẹ Maria dưới tước hiệu Mân Côi.
3. Mỗi người chúng ta hãy gắn bó cuộc đời mình nơi Mẹ Maria
Mỗi khi mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi, chúng ta được mời gọi noi gương Mẹ Maria trong việc gắn bó, vâng phục Thiên Chúa. Chính nhờ sự gắn bó với Thiên Chúa cách tuyệt đối như vậy, mà Mẹ đã trở thành Đấng Đầy Ân Sủng để chuyển cầu cho chúng ta.
Mặt khác, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy chiêm ngắm tình yêu thương của Mẹ Maria với Giáo Hội và từng người chúng ta. Khi chiêm ngắm như vậy, chúng ta hãy noi gương Mẹ để cũng biết sống xót thương anh chị em mình như Mẹ đã thương xót chúng ta.
Cuối cùng, lời mời gọi yêu mến Mẹ Maria cách thiết thực mà Giáo Hội không ngừng tha thiết nhắc lại chính lời Mẹ nhắn gửi khi xưa: “Hãy tôn sùng Mẫu Tâm Mẹ, ăn năn sám hối, cải thiện đời sống và siêng năng lần hạt Mân Côi”.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, chúng con xin tạ ơn Cha đã ban cho chúng con một người Mẹ tuyệt vời là Đức Maria. Xin cho chúng con biết yêu mến Mẹ, noi gương Mẹ và thực hành Lời Chúa cách tuyệt đối trong sự vâng phục như Mẹ khi xưa. Amen.
Người Việt Nam ta từ xưa tới nay và chắc chắn về sau, lòng tôn sùng Đức Mẹ Maria luôn là một điểm sáng. Điều này hiển nhiên tại các gia đình, đền đài, nhà thờ, dòng tu và những trung tâm hành hương tôn kính Đức Mẹ đây đó.
Như vậy, tràng hạt Mân Côi chính là một vật bất ly thân của chúng ta, bởi vì qua lời kinh Mân Côi, người Kitô hữu đang cùng với Mẹ theo sát Chúa Giêsu trên các chặng đường cứu chuộc. Hơn nữa, khi đọc kinh Mân Côi với tâm tình của Đức Mẹ, ấy là lúc chúng ta cùng với Mẹ suy đi và nghĩ lại trong lòng tất cả mọi biến cố vui buồn, sướng khổ, thành công hay thất bại dưới cái nhìn ân sủng và giá trị cứu chuộc.
1. Lợi ích của việc lần Chuỗi Mân Côi
Nói đến Chuỗi Mân Côi, người ta thường hay nhớ đến những ơn lạ tình thương do lòng thương xót Thiên Chúa ban qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria.
Những ơn đó ta có thể liệt kê ra đây như một dấu tích từ ái của Mẹ dành cho con cái như: những ơn chữa lành bệnh tật, tai qua nạn khỏi, làm ăn phát đạt, gia đình hạnh phúc, con cái thảo hiền. Nhưng có lẽ ơn mà nhiều người được hơn cả, đó là ơn hoán cải đời sống, trở về với Chúa.
Như vậy, cuộc đời của người Kitô hữu luôn gắn bó với Mẹ Maria cách mật thiết, khăng khít và nhiệm mầu.
Điều này đã được chứng minh cách cụ thể nơi tổ tiên chúng ta!
Nhớ lại biến cố Lavang, Trà Kiệu.... Những nơi này, khi xưa, cha ông chúng ta đã phải hứng chịu biết bao gian lao khốn đốn do nạn bắt đạo gắt gao của các vua chúa quan quyền. Đời sống đạo của các ngài luôn bị đe dọa. Giữa cơn cuồng phong bão táp, các ngài đã phải trốn chạy vào những nơi rừng thiêng nước độc hay dồn nén trong nhà thờ.... Lúc này, cha ông chúng ta chỉ biết cậy trông lòng thương xót của Thiên Chúa qua trung gian Mẹ Maria. Vì thế, trên tay không rời Chuỗi Mân Côi, cửa miệng không ngừng vang lên kinh Kính Mừng, tâm hồn hoàn toàn phó thác, cậy trông Mẹ thương cứu giúp. Cuối cùng, Mẹ đã hiện ra để an ủi, củng cố lòng tin, bảo vệ con cái và hứa sẽ nâng đỡ cho khỏi ngàn nỗi hiểm nguy.
Nhìn ra thế giới, chúng ta cũng thấy Đức Mẹ đã nhiều lần can thiệp để Giáo Hội được bình an, trong đó phải kể đến những sự kiện lớn như:
Vào thế kỷ 13, tại niềm Nam nước Pháp, có bè rối Albigeois nổi lên chống đối Giáo Hội. Thấy được mối nguy cơ khó giải này, nên thánh Đaminh đã phát động chiến dịch lần Chuỗi Mân Côi, cuối cùng, Đức Mẹ đã đưa được những tâm hồn ngông cuồng này trở về với Giáo Hội.
Tiếp đến, vào năm 1571, lúc ấy, Giáo Hội đang bị quân Hồi Giáo đe dọa tiêu diệt. Họ đang sôi sục tiến về Rôma với mục đích bắt Đức Giáo Hoàng Piô V, và tham vọng san bình địa đền đài và biến thủ đô của Giáo Hội trở thành trung tâm của Hồi Giáo.
Họ sẵn sàng chém giết, bắt bớ tất cả những ai chống đối. Thời điểm này, họ rất thuận lợi khi hướng gió và mặt trời luôn ở phía sau họ, khiến cho việc tiến về thành đô Rôma rất thuận lợi.
Khi nghe tin dữ này, Đức Giáo Hoàng rất bình tĩnh, ngài đã xin ơn soi sáng và phát động chiến dịch lần Chuỗi Mân Côi để phó thác mọi sự cho Đức Mẹ. Quả thật, Mẹ đã cứu Giáo Hội một cách nhiệm mầu! Bởi vì quân Hồi Giáo là một quân hùng hậu, vũ khí tối tân, họ đứng về phía chủ động và đang gặp thuận lợi về nhiều mặt. Người Công Giáo thì ít ỏi, phương tiện thô sơ.... Nhưng hoàn toàn nhờ sự can thiệp uy quyền của Đức Mẹ, nên thay vì hướng gió thuận lợi cho quân Hồi, nên chẳng bao lâu, họ đã bị chính hướng gió xoay chiều đổi hướng liên tục, khiến các con tàu của chúng đâm vào nhau và phá vỡ chiến trận.
Chẳng mấy chốc, tin thắng trận của người Công Giáo đã đến Rôma, Đức Giáo Hoàng đã tuyên bố, đây là hồng ân phép lạ do lời chuyển cầu của Mẹ Maria. Hôm đó rơi vào đúng ngày 07/10. Vì thế, ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi được thiết lập để tạ ơn Đức Mẹ.
Có thể nói rằng: trải qua dòng thời gian, đã nhiều lúc Giáo Hội đến bến bờ vực thẳm do lòng đạo đức xuống dốc, suy thoái hoặc bị kẻ thù đe dọa. Trong những thời điểm quan trọng đó, để cứu vãn tình thế, Đức Mẹ đã hiện ra nơi này nơi kia để ban cho nhân loại sứ điệp nhằm đưa lịch sử sang trang. Trong các lần đó, không nơi nào Mẹ đặt chân đến mà không mời gọi con cái siêng năng lần Chuỗi Mân Côi để đón nhận được nhiều ơn lành của Thiên Chúa. Như vậy, kinh Chuỗi Mân Côi là một kinh rất có giá trị trước tòa Chúa và Mẹ Maria.
2. Giá trị và ý nghĩa của kinh Mân Côi
Tại sao Kinh Mân Côi lại có hiệu lực đến như vậy?
Thưa, rất đơn giản, bởi vì qua lời kinh Kính Mừng, chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội lặp lại lời Sứ Thần ca tụng, tôn vinh và chân nhận uy quyền của Mẹ.
Nhưng có lẽ điều đặc biệt hơn cả khi lần Chuỗi Mân Côi, đó là: chúng ta suy đi nghĩ lại trong lòng mọi biến cố nơi cuộc đời của Chúa Giêsu như Mẹ, đồng thời dõi bước theo Mẹ và cùng Mẹ bước đi trên các chặng đường cứu chuộc của Chúa Giêsu.
Khởi đi từ làng quê Nazareth, chúng ta cùng với Mẹ vui mừng tạ ơn Chúa đã đoái thương đến Mẹ và nhân loại khi chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Vì thế, Mẹ sẵn sàng chia sẻ niềm vui cứu độ cho mọi người qua trung gian người chị họ. Niềm vui ấy trở nên tuyệt đỉnh khi Mẹ sinh hạ Con Thiên Chúa.
Sau thời gian Mẹ - Con cùng sống chung mái nhà, giờ đây, Con của Mẹ ra đi thi hành sứ vụ Chúa Cha trao phó, Mẹ đã âm thầm theo sát Con Yêu như một người môn đệ trung tín. Những lúc vui, thành công, Mẹ luôn luôn âm thầm. Nhưng những khi Con Mẹ bị chống đối, vu vạ, cáo gian, Mẹ đã tìm đến để dõi theo, an ủi, động viên...
Có thể nói, từ làng quê Nazareth đến đỉnh đồi Canvê, Mẹ luôn luôn đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, khi thì trực tiếp, khi thì gián tiếp cách nhiệm mầu. Chính vì thế, Mẹ xứng đáng được Chúa Giêsu ban tặng niềm vui Phục Sinh cùng với các môn đệ trong nhà Tiệc Ly. Sau cuộc đời tại thế, Thiên Chúa đã ban cho Mẹ hồng ân trổi vượt muôn loài, đó là cho Mẹ được diễm phúc thăng thiên cả hồn lẫn xác. Cuối cùng, Thiên Chúa đã tôn phong Mẹ làm Nữ Hoàng Thiên Quốc bên tòa Chúa uy linh.
Như vậy, có thể nói: khi chúng ta lần Chuỗi Mân Côi với trọn lòng mến, chúng ta đã cùng với Mẹ sống Tin Mừng của Con Mẹ cách sống động nhất.
3. Sống sứ điệp ngày lễ
Hôm nay, Giáo Hội mừng kính Đức Mẹ dưới tước hiệu Mân Côi, mỗi người chúng ta hãy khám phá ra: “Chuỗi Mân côi là lời kinh tuyệt diệu, tuyệt diệu trong đơn sơ và trong sâu thẳm của nó…” (thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II).
Hơn nữa, chúng ta hãy nhớ lại lời Đức Giáo Hoàng Piô X khuyên nhủ: “Khi gia đình không được an vui hoà thuận, hãy lần Chuỗi Mân Côi để xin Mẹ ban cho sự an vui hoà thuận yêu thương. Khi gặp người chồng thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng Chuỗi Mân Côi, để xin Mẹ cảm hoá. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần Chuỗi Mân Côi, xin Mẹ tạo sự cảm thông”. Ngài nói thêm: “Nếu các con muốn cho gia đình được bình an, thì hãy lần hạt mỗi buổi tối”.
Thật vậy, kinh Mân Côi là một vũ khí sắc bén để chống lại ma quỷ. Là liều thuốc hòa bình cho những ai bất an. Là nguồn nâng đỡ cho những ai yếu đuối. Là niềm hy vọng cho những người tội lỗi. Là ngọn lửa mến cho những ai nguội lạnh. Là bảng chỉ đường, ngọn hải đăng cho những ai lạc lối.
Thấy được giá trị và ơn ích của Chuỗi Mân Côi, mỗi người chúng ta hãy siêng năng lần Chuỗi Mân Côi hằng ngày. Tuy nhiên, hãy đọc trong lòng mến chứ không phải đọc cho qua hay bị ép buộc. Đọc trong tâm tình của trẻ thơ phó thác và tin t