Thường Niên Tuần 3-2023 Thứ Năm 26.01 Th. Timôthê và thánh Titô, nhớ Suy Niệm Lời Chúa hằng Ngày Nguồn: https://giaophanlongxuyen.org/ ---------------------------------- Mục Lục:
* Cùng với thánh Luca, thánh Timôthê và thánh Titô là những cộng tác viên trung thành của thánh Phaolô. Mẹ thánh Timôthê là người Do thái, còn chính ông thì đã được thánh Phaolô thanh tẩy. Ông đã theo thánh Phaolô trong các chuyến đi truyền giáo, rồi sau được đặt làm thủ lãnh giáo đoàn Êphêxô. Còn thánh Titô đã được thánh Phaolô nhận ở Antiôkhia ngay từ đầu sứ vụ tông đồ. Sau đó, ông được trao nhiệm vụ loan báo Tin Mừng.
Thư thánh Phaolô gửi cho ông Timôthê và thư gửi cho ông Titô được gọi là các thư mục vụ, vì trong đó có nhiều lời khuyên dành cho cả những người lãnh đạo cũng như cho hết mọi thành phần trong giáo đoàn.
--------------------------------
Lời Chúa: Lc 10, 1-9
Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: ”Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của người.
Các con hãy đi. Này Thầy sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: ”Bình an cho nhà này”. Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.
Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: ”Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi”.
Dân số Châu Á chiếm gần hai phần ba thế giới nhưng số người nhận biết Chúa chưa tới 3%. Cánh đồng lúa chín mênh mông đang cần thợ gặt. Ðức Giêsu hôm nay vẫn có nhiều nơi Ngài muốn đến, nhiều căn nhà, nhiều thành phố Ngài muốn đặt chân. Ngài cần những người đi trước để chuẩn bị cuộc gặp gỡ giữa Ngài với con người. Khoa học càng tiến bộ, cuộc sống càng văn minh thì càng có nhiều lãnh vực mới Ðức Giêsu cần vào. Ðưa Ngài vào thật là một thách đố cho chúng ta. Ngài phải vào cả những nơi tưởng như bị cấm. Nhưng nếu chúng ta được Ngài sai vào trước, thì thế nào cuối cùng Ngài cũng vào được. Nếp sống cao ở thành thị vừa gây cản trở, vừa cung ứng cho ta nhiều phương tiện để đưa Ngài vào. Hãy chuẩn bị cho Ngài vào thành phố của bạn, vào trường học, sân vận động, vào xí nghiệp, công ty... Hãy chuẩn bị để Ngài vào từng nhà, gặp từng người. Mọi Kitô hữu đều được mời gọi để làm việc đó. *** Ðâu là khuôn mặt của người được sai hôm xưa? Hiền lành như chiên giữa bầy sói. Khó nghèo thanh bạch, không túi tiền, giầy dép, bao bị. Khiêm tốn đón nhận sự giúp đỡ về nhà ở cơm ăn. Tôn trọng tự do tha nhân, chấp nhận bị từ chối. Người Châu Á hôm nay dễ đón nhận người tông đồ sống khổ hạnh, thoát tục, sống thư thái, trầm tư, sống nhân từ, phục vụ. Cuộc sống của họ phải tỏa hương thơm của thế giới mai sau, phải có khả năng nâng con người lên Ðấng Tuyệt Ðối. *** Ðâu là đóng góp của người được sai hôm xưa? Vừa chữa người đau yếu và trừ quỷ, vừa loan báo về triều đại Thiên Chúa gần đến. Việc làm chứng thực lời giảng, lời giảng soi sáng việc làm. Cả hai đều đem lại niềm vui, bình an và hạnh phúc. Thế giới hôm nay vẫn là một thế giới bệnh tật, một thế giới thèm khát tự do, thèm được là mình. Chúng ta sẽ rao giảng gì cho 97% dân Châu Á mà phần đông đã tin vào một Ðấng Cứu Ðộ? Ðức Giêsu đem đến cho nhân loại quà tặng đặc biệt nào? Chúng ta phải tập trình bày sứ điệp Kitô giáo, nên cũng phải học nhiều nơi các tôn giáo Á Châu. *** Các giám mục Malaysia, Singapore và Brunei đã liệt kê những gì có thể học được nơi họ. Học cầu nguyện, ăn chay, bố thí nơi người Hồi giáo. Học và chiêm niệm nơi người Ấn giáo. Học từ bỏ của cải và trọng sự sống nơi người Phật tử. Học thái độ thảo hiếu, tôn lão kính trưởng nơi đạo Khổng. Học sự đơn sơ, khiêm tốn nơi người theo đạo Lão. Càng học, ta càng dễ giới thiệu Ðức Giêsu, và càng thấy Ngài đang ẩn mình nơi những tôn giáo khác.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên đường nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau. Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý, biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân. Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa. Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát. -----------------------------------
Sứ điệp: Chúa cho con người được chia sẻ công việc của Chúa: công cuộc loan báo Tin mừng. Chúng ta cần tạ ơn Chúa vì vinh dự lớn lao này.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Lời Chúa hôm nay cho con thấy nỗi lòng của Chúa. Mang trong lòng sứ mạng cứu độ, Chúa trăn trở biết bao khi bao tâm hồn đang cần được giải thoát như đất khô cần nước, như trái chín cần thu hoạch, như lúa vàng cần gặt hái. Chúa phải thốt lên: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”. Lúa đã chín mà thiếu thợ gặt thì lúa rụng, lúa hư. Lúa rụng, lúa hư thì người nông phu nào mà chẳng xót xa! Chúa mong con cái Chúa là bàn tay nối dài của Chúa để ôm ấp mọi người; Chúa mong con cái Chúa như chiếc loa phóng to thêm lời yêu thương của Chúa cho nhiều người được nghe, Chúa mong con tim của chúng con đong đầy tình yêu Chúa để chuyển đến cho bao trái tim đang cằn khô tình yêu.
Chúa đang cần và rất cần đến con người tiếp tay với Chúa. Thánh Phaolô rồi đến thánh Titô, thánh Timôthê và bao người đã nên thợ gặt thiêng liêng cho Chúa. Hôm nay, cũng với lời thiết tha khi xưa, Chúa lại nói với con: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”. Thế giới hơn sáu tỉ người hôm nay là cánh đồng lúa rộng lớn gấp vạn lần thế giới ngày xưa đó. Điều đó càng làm cho Lời Chúa kêu gọi thêm vạn lần khẩn thiết. Không biết con có động lòng thao thức với Chúa hay không ? Không biết con có sẵn sàng nối gót Phaolô, nối gót Timôthê và Titô chia sẻ sứ mạng loan báo Lời Chúa cho thế giới hay không ?
Lạy Chúa, xin cho con cảm nhận được rằng: Chúa mời gọi con tham gia sứ mạng đó là vinh dự cho con, vì con được chia sẻ công việc của Con Đức Chúa Trời. Nhờ cảm nhận đó, con sẽ biết tạ ơn Chúa. Cũng nhờ đó mà con biết vị trí của mình để khiêm tốn và trông cậy vào Chúa khi làm việc tông đồ: “thắng không kiêu và thua chẳng nản”. Amen.
Những dụ ngôn về sức sống và lớn lên của nước trời:
- Dụ ngôn hạt giống âm thầm: Nước Thiên Chúa cũng như hạt giống có sức sống và sức phát triển nội tại.
Dù hoàn cảnh tiện hay không tiện: đêm hay ngày Dù người ta có chăm sóc hay không: người ấy ngủ hay thức. bằng cách nào người ấy không biết. Nước Thiên Chúa vẫn cứ phát triển.
- Dụ ngôn hạt cải: mới ban đầu, nước Thiên Chúa rất nhỏ bé như hạt cải, nhưng nó sẽ phát triển thành một cây to.
+ Có lẽ nhưng dụ ngôn này nhằm mục đích trấn an:
a/ Trấn an các môn đệ thời Chúa Giêsu: Có lúc họ ngã lòng vì thấy mình chỉ là một nhóm nhỏ ít oi, nhỏ bé, sợ không đử mở mang nước Chúa nổi.
b/ Trấn an các tín hữu thời sơ khai: Họ là một tập thể ít oi lạc lõng giữa lòng thế giới rộng lớn, họ lại gặp rất nhiều khó khăn.
Chúa Giêsu muốn trấn an tất cả rằng: chắc chắn nước Thiên Chúa sẽ tồn tại và phát triển không ngừng.
B. (...nảy mầm)
1. Chúa Giêsu cho biết hạt giống Lời Chúa có sức phát triển nội tại, tuy âm thầm nhưng liên lỉ và mạnh mẽ.
Nhiều khi vì cho rằng đọc và suy gẫm Lời Chúa không sinh hoa kết quả gì cả nên tôi đã không tiếp tục nữa. Dụ ngôn này dạy tôi hãy bỏ lối suy nghĩ ấy đi và kiên trì tiếp tục vì kẻ làm cho hạt giống ấy mọc lên không phải là tôi mà là chính Chúa.
2. "Phaolô trồng Apollo tưới và Thiên Chúa cho mọc lên" Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả. Thiên Chúa là Đấng làm cho mọc lên mới đáng kể. (1Cr 3,6-7).
Nếu chúng ta biết nghĩ như Phaolô thì chúng ta không còn ngại gieo hạt giống Nước Chúa, cũng không vội vã ngã lòng khi thấy công việc gieo vãi của mình chưa sinh hoa kết quả.
3. Một ngày kia, một tông đồ giáo dân dẫn tôi đến gia đình của một người làm nghề kéo xe lôi. Đến đấy tôi nhận được một món quà hết sức bất ngờ và rất to lớn: Cả nhà gồm vợ chồng và 7 đứa con xin theo đạo. Khi được hỏi lý do thì người chồng cho biết: Mười mấy năm trước khi còn nhỏ, anh học trường các sư huynh Lasan và dã có lòng mộ mến Đạo Chúa. Lòng mộ mến ấy vẫn âm ỉ trong lòng anh. Tuần trước khi anh gặp người tông đồ giáo dân này, tàn lửa âm ỉ đó bỗng bùng lên thành một ngọn lửa thôi thúc anh phải xin theo Chúa.
Nếu các sư huynh Lasan trước kia và những tông đồ giáo dân nọ không chịu khó gieo giống vì nghĩ rằng có gieo cũng vô ích thì hôm nay tôi không gặt được thành quả này. "Đêm hay ngày, người ấy ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nảy mầm và mọc lên, bằng cách nào thì người ấy không biết" (câu 27) (Chia sẻ)
4. Hạt giống nước Thiên Chúa mà chúng ta gieo vào lòng anh chị em quanh ta mọc lên rất nhiều dạng nhiều cách:
- có thể thành những Kitô hữu như ở trên
- có thể thành những người tuy còn là lương dân những đã có thiện cảm với kitô giáo.
- Có khi thành những ý lực hướng dẫn cuộc sống của những người vì lý do nào đó chưa thể theo đạo như trường hợp Văn hào Tagore: Tuy ông không phải là Kitô hữu nhưng cuộc sống của ông được hướng dẫn bởi những giá trị Tin Mừng rất lớn.
-----------------------------------
Suy Niệm 4. Thánh Timôthêô và thánh Titô, giám mục
--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Đức Giêsu đi rao giảng Tin mừng Nước trời cho dân chúng để đem lại ơn cứu độ cho họ. Mối ưu tư hàng đầu của Ngài là làm cho mọi người được nghe biết Tin Mừng. Và mối ưu tư ấy đã được diễn tả trong lúc thổ lộ tâm tình với các môn đệ: “Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt lúa về” (Lc 10,2).
Sau khi đã trang bị cho họ những khả năng tinh thần tuyệt diệu, Đức Giêsu đã sai 72 môn đệ đi loan báo Tin mừng bình an cho mọi người. Ngài ân cần khuyên họ đừng lo tìm an toàn nơi các phương tiện vật chất trần gian. Họ vâng lời ra đi và trở về trong hân hoan. Đức Giêsu cho họ biết họ hãy vui mừng vì tên tuổi họ đã được ghi trên Nước trời.
Khi sai các môn đệ đi rao giảng Tin mừng, điều đầu tiên Chúa muốn nơi họ là lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Thiên Chúa. 72 môn đệ được sai đi tay không. Chúa cũng không ra lệnh cho họ đến các Hội đường hay các ngã ba đường để rao giảng, nhưng là đến từng nhà và hội nhập vào đó, hiện diện như một phần tử trong gia đình, ăn những gì người ta dọn cho. Nhờ đó Tin mừng sẽ được đón nhận dễ dàng hơn, bởi vì Tin mừng không còn là sức mạnh áp đặt từ bên ngoài, mà là một sức sống từ người rao giảng truyền sang những người khác và đâm rễ sâu trong lòng họ (Mỗi ngày một tin vui).
Ngay từ đầu sứ vụ, Đức Giêsu đặt công việc truyền giáo trong cái nhìn cấp bách và khẩn thiết. Cho nên Chúa tuyển chọn 12 tông đồ và sau đó là 72 môn đệ, huấn luyện và sai đi truyền giáo. Hội thánh ngày hôm nay cũng không ngừng tiếp tục mời gọi những người thành tâm thiện chí tiếp tục ra đi loan báo sứ điệp tình thương và ơn cứu độ của Chúa cho trần gian, qua mọi thời đại. Cần ý thức rằng, qua bí tích Rửa tội, mỗi tín hữu cũng là một nhà truyền giáo, được sai đi để làm công việc của Chúa là cứu chữa các linh hồn (5 phút mỗi ngày).
Đức Giêsu đã kêu gọi và ngày nay Hội thánh cũng kêu gọi chúng ta hãy tích cực tham gia vào trong việc truyền giáo này. Đức Giêsu đã không dành riêng việc rao giảng Tin mừng cho các Tông đồ, mà còn sai 72 môn đệ ra đi. Nói khác đi, Ngài muốn gửi sứ mạng rao giảng đến mỗi người chúng ta. Ước gì chúng ta luôn ý thức sứ mạng rao giảng đó, không những bằng lời nói mà nhất là bằng cuộc sống yêu thương và phục vụ.
Thánh Timôthêô và Titô là hai môn đệ thân tín và nổi tiếng của thánh Phaolô, nên Hội thánh cho mừng lễ các ngài chung một ngày, ngay sau ngày kính thánh Phaolô trở lại.
Timôthêô sinh ở Lycaonia thuộc vùng Tiểu Á. Thân mẫu ngài là người Do Thái và thân phụ ngài là người dân ngoại. Khi Phaolô đến Lycaonia rao giảng, thì một số người trong gia đình của Timothêô là bà ngoại, thân mẫu cũng như chính Timôthêô đã được trở nên những Kitô hữu. Nhiều năm sau, Phaolô trở lại đây một lần nữa. Lúc này Timôthêô đã khôn lớn. Phaolô tự nhiên như có linh cảm Timôthêô là người được Chúa gửi đến cho mình. Phaolô đã ngỏ ý muốn gọi Timôthêô làm tông đồ truyền giáo cho Chúa. Timôthêô đã hân hoan đáp lại lời mời gọi của Phaolô. Thế là Timôthêô rời bỏ cha mẹ và nhà cửa và lên đường. Ngài cùng chia sẻ đau khổ với Phaolô, vui mừng mang Lời Chúa đến cho mọi người. Timôthêô là tông đồ yêu quý đặc biệt của Phaolô; và Phaolô xem ngài như đứa con nhỏ của mình. Ngài đã cùng Phaolô đi khắp nơi cho tới khi ngài được cử làm Giám mục tiên khởi giáo đoàn Êphêsô, một giáo đoàn rất nổi tiếng thời đó.
Timôthêô đã hết lòng lo cho đoàn chiên, luôn được thánh Phaolô nâng đỡ khuyên bảo. Trong suốt thời gian làm Giám mục tại đây, ngài đã nhận được hai bức thư của thánh Phaolô. Trong lá thư thứ I, Phaolô đã đưa ra những chỉ dẫn giúp cho Timôthêo tổ chức và điều khiển các cộng đoàn, đồng thời cũng khuyên phải luôn trung thành với giáo lý lành mạnh cũng như can đảm bảo toàn giáo lý đã được giao phó
Với lá thư thứ hai, thánh Phaolô đã bộc lộ hết cõi lòng của Ngài như một người cha để lại những di chúc tinh thần cho người con yêu quí. Những lời cuối cùng của người cha để lại cho người con là những lời dặn dò tâm huyết “Cha tha thiết khuyên con: hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng lúc thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ hãy thận trọng trong mọi sự, hãy chịu đựng đau khổ, làm công việc của người loan báo Tin Mừng và chu toàn chức vụ của anh” (2Tm 4,15)
Sau khi Phaolô qua đời, Timôthêô được phước sống với thánh Gioan tông đồ, là môn đệ yêu dấu của Chúa Giêsu.
Thánh nhân đã được phúc tử đạo năm 97.
+ Thánh Titô.
Thánh Titô là con một gia đình ngoại giáo, được thánh Phaolô dạy đạo, rửa tội, gọi là “người con chân thành”, đồng thời cũng trao cho nhiều trách vụ quan trọng. Theo truyền thuyết, thánh tông đồ đã đặt ngài làm Giám mục giáo đoàn Kêta. Phaolô đã luôn khuyên ngài phải sống xứng đáng với danh nghĩa là người đứng đầu cộng đoàn, đồng thời phải đối xử thế nào cho thích hợp với mỗi hạng người. Đây là tâm tình của Phaolô: “Tôi là Phaolô, tôi tớ của Thiên Chúa và tông đồ của Đức Giêsu Kitô. Tôi gửi lời thăm anh Titô, người con tôi thực sự sinh ra trong cùng một đức tin chung. Xin Thiên Chúa là Cha và xin Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta, ban cho anh ân sủng và bình an. Tôi đã để anh ở lại Kêta, chính là để anh hoàn thành công cuộc tổ chức và đặt kỳ mục trong mỗi thành, như tôi đã truyền cho anh. Hãy dạy những gì hợp với giáo lý lành mạnh. Hãy khuyên các cụ ông phải tiết độ, đàng hoàng chừng mực, vững mạnh trong đức tin, đức mến và đức nhẫn nại. Các cụ bà cũng vậy, phải ăn ở sao cho xứng đáng là người thánh, không nói xấu, không rượu chè say sưa, nhưng biết dạy bảo điều lành. Anh hãy nhắc nhở cho mọi người rằng ai nấy phải phục tùng và tuân lệnh các nhà chức trách, các người cầm quyền, phải sẵn sàng làm mọi việc tốt, và đừng chửi bới ai, đừng hiếu chiến, nhưng phải hiền hoà, luôn luôn tỏ lòng nhân từ với mọi người. (Titô 1,15; 3,18).
Titô làm Giám mục vùng quần đảo Crêta, nơi ngài định cư cho tới khi qua đời khoảng năm 105.
2. Bài học từ cuộc sống.
Đọc lại cuộc đời của hai thánh Timôthêô và Titô, chúng ta thấy Thiên Chúa làm mọi việc thật kỳ diệu. Thiên Chúa đã chuẩn bị thật kỹ cho những ai cộng tác với Người. Chẳng phải ngẫu nhiên mà trong cuộc đời của mình, thánh tông đồ dân ngoại Phaolô lại có được Timôthêô và Titô ở bên cạnh mình. Phải nói rằng nếu không có được những môn đệ đồng hành và cộng tác với mình như Timôthê và Titô thì không hiểu công cuộc truyền giáo của Phaolô sẽ ra sao.
Xét như thế, chúng ta mới thấy có được những người cộng tác với công việc tông đồ thật là quan trọng.
Có hai người giáo dân đứng ngoài chợ nói chuyện với nhau: - Anh nghĩ xem, chúng ta có cần tiếp tay với cha xứ để lo việc họ đạo không ? Người thứ nhất hỏi.
- Tôi cũng thường nghĩ đến điều đó. Nhưng khi tôi thấy chung quanh cha chỉ có một nhóm nhỏ những người thân tín thì tôi không muốn gia nhập nhóm nhỏ ấy nữa.
Một người thứ ba từ nãy đến giờ đứng bên cạnh đã nghe được câu chuyện giữa hai người, anh chen vào: - Đúng thế, chung quanh cha xứ chỉ có một nhóm nhỏ thôi. Nhưng các anh có biết tại sao không ?
- Tại sao ? Tại sao ? Xin cho chúng tôi biết với.
- Hồi cha mới đến xứ đạo, cha đã kêu mời mọi người cộng tác. Nhưng sau đó chỉ có một ít người đáp lời thôi. Đó là những người biết nói “VÂNG”. (Góp nhặt)
Chúa Giêsu trước khi đi rao giảng Tin Mừng, công việc đầu tiên của Chúa là kêu gọi một số người cộng tác với Người. Giáo Hội tiếp nối công trình của Chúa, cũng không đi ra ngoài quy luật đó.
Thiếu việc cộng tác với nhau mọi việc sẽ không thể có kết quả tốt đẹp.
Một lần, có một người đàn bà giàu có người Hindou đến thăm Mẹ Têrêsa. Bà ta nói với Mẹ:
- Thưa Mẹ, con ước ao được chia sẻ với Mẹ và cộng tác với mẹ trong các hoạt động từ thiện.
- Tốt lắm! -Mẹ đáp lại một cách vui vẻ
Rồi bà ta thú thực với Mẹ là bà ta có một điểm yếu rất khó bỏ, đó là tính khoe khoang, ưa làm dáng. Bà thích mặc những chiếc áo Xa-ri, những bộ đồ Ấn Độ lộng lẫy và đắt tiền. Hôm ấy, bà mặc một bộ áo Xa-ri giá trị 65 dollars, trong khi chiếc áo Xa-ri của Mẹ Têrêsa đang mặc chỉ trị giá 65 xu, chưa đầy một dollar, Như được ơn trên soi sáng Mẹ Têrêsa bỗng nảy ra được tư tưởng hay. Mẹ đề nghị với bà ấy bắt đầu cộng tác với Mẹ về những bộ áo xa-ri đó. Mẹ khiêm tốn đền nghị:
- Từ nay trở đi, thay vì mua sắm những bộ áo xa-ri giá 65 hoặc 100 dollars, thì bà chỉ nên mua những bộ rẻ tiền hơn, chừng 45 hoặc 50 dollars thôi. Số tiền còn lại, bà hãy mua những bộ áo xari khác dành cho người nghèo.
Bà ấy vui vẻ hưởng ứng lời đề nghị của Mẹ, rồi dần dần bà cũng biết dùng những bộ áo xari rẻ tiền hơn. Sau này chính bà cũng đã thú nhận với Mẹ Têrêsa rằng:
- Thưa Mẹ, từ ngày con bắt đầu từ bỏ những vẻ hào nhoáng bên ngoài vô ích bên ngoài đó, tâm hồn con cảm thấy được tự do hơn, nhẹ nhàng hơn. Con đã học biết và hiểu rõ hơn thế nào là cho đi thế nào là chia sẻ. Và trong cách chia sẻ như thế, con phải thú nhận rằng chính con đã được lãnh nhận nhiều hơn thứ con cho đi và chia sẻ với anh chị em nghèo khổ!
Giáo Hội mời gọi chúng ta đọc và những câu đầu tiên của chương 10 Phúc Âm theo thánh Luca. Ðây là bài diễn văn truyền giáo số 2. Bài diễn văn truyền giáo số 1 là chương 9, Phúc Âm thánh Luca. Trong bài diễn văn truyền giáo số 2, Chúa Giêsu ngỏ lời căn dặn bảy mươi hai môn đệ mà Ngài sai đi từng nhóm hai người một để làm như một cộng đoàn làm việc chung với nhau, chứ không phải một cách riêng rẽ. Con số mười hai tông đồ nhắc đến mười hai chi họ Israel; con số bảy mươi hai môn đệ nhắc đến chi tiết nơi chương 10 sách Sáng Thế: "Khi tất cả các dân nước trên mặt đất".
Như thế, chúng ta có thể nói rằng bài diễn văn truyền giáo số 2 của Chúa Giêsu trong đoạn Phúc Âm thánh Luca mà hôm nay chúng ta là những lời căn dặn của Chúa Giêsu cho tất cả mọi thành phần Giáo Hội Dân Chúa đến từ khắp mọi nơi không phân biệt màu da, chủng tộc, tiếng nói. Tất cả mọi người đồ đệ của Chúa đều phải là những nhà truyền giáo, những chứng nhân của Chúa và phải tuân giữ những gì Chúa căn dặn nơi chương 10 này.
Những lời dặn dò trên của Chúa Giêsu thật là cặn kẽ, cụ thể, với những chi tiết hết sức thực tế. Dĩ nhiên, tinh thần phải có khi thực hiện những việc làm trên là điều quan trọng hơn. Thời đại đã thay đổi, thời chúng ta đang sống khác với thời của Chúa Giêsu. Những hành động cụ thể của một thời đã thay đổi, chẳng hạn như ngày xưa đi bộ, cầm gậy thì ngày nay đã có các phương tiện giao thông liên lạc khác, nhưng tinh thần của những hành động cụ thể mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ có không bao giờ thay đổi. Trong những giây phút ngắn ngủi này chúng ta không thể nào tất cả mọi khía cạnh của tinh thần truyền giáo nơi môn đệ của Chúa.
Ước chi mỗi người chúng ta tìm thì giờ rảnh rỗi trong ngày, trong tuần để trở lại thêm về những lời căn dặn của Chúa nơi chương 10 Phúc Âm thánh Luca.
Chúng ta hãy nhớ lại những lời đầu tiên Chúa Giêsu nói trong đoạn Phúc Âm hôm nay: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người, các con hãy ra đi". Qua câu đầu tiên này của đoạn Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta điểm khởi đầu căn bản của mọi hoạt động truyền giáo: trước hết là nhận thức nhu cầu của anh chị em chung quanh, thứ hai là đưa nhu cầu đó vào trong lời cầu nguyện của chính mình và thứ ba là sẵn sàng để được sai và hăng say ra đi khi được trao phó cho sứ mạng. Chúng ta hãy tự vấn xem chính mình đã có những tư tưởng căn bản này chưa? Những quan tâm truyền giáo làm chứng cho Chúa có được chúng ta đưa vào trong lời cầu nguyện của chính mình chưa? Trong cuộc đối thoại giữa mình với Thiên Chúa chưa?
Lạy Chúa,
Này con đây đã sẵn sàng, Chúa muốn con làm gì xin hãy phán và con xin lắng nghe. Xin ban ơn biến đổi mỗi người chúng con trở thành những chứng nhân đích thực của Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Ngày 26 tháng 01 là ngày quốc khánh của người Australia.
Ngày 26/01/1788, lá cờ của nước Anh lần đầu tiên được cắm trên lãnh thổ của Australia, đánh dấu đợt định cư đầu tiên của 730 người. 730 cựu tù nhân này đã được coi như là thủy tổ của đa số người dân Australia này nay.
Ðối với chính phủ Anh thời bấy giờ, việc lưu đày các tù nhân qua một vùng đất xa lạ là một biện pháp giúp giải quyết vấn đề ứ đọng tại các nhà tù trong nước. Nhưng đối với 730 người lần đầu tiên của Australia này, thì đây là cơ hội để làm lại cuộc đời. Dù muốn dù không, người dân Australia chính hiệu ngày nay không thể phủ nhận được sự kiện là quốc gia của họ đẫ được lhai sinh do những con người mà xã hội muốn xua đuổi cho rảnh tay.
Ngày nay, Australia được xếp vào hạng những nước tiên tiến về mọi mặt. Nhưng có lẽ họ không thể quên được công ơn xây dựng của cha ông họ, dù tông tích của họ có là một quá khứ xấu xa đến đâu.
Câu chuyện lập quốc của nước Australia có thể giúp chúng ta hiểu được phần nào hai chữ Quan Phòng trong Kitô giáo của chúng ta. Lời của thánh Phaolô là một xác quyết về sự quan phòng ấy: nơi nào có tội lỗi càng nhiều, nơi đó Thiên Chúa càng ban ơn dồi dào.
Lịch sử của dân Israel và lịch sử ơn cứu rỗi cũng cho chúng ta thấy một chuỗi những vấp ngã của con người và một chuỗi những can thiệp kỳ diệu của Thiên Chúa. Mỗi lần con người phạm tội là mỗi lần Thiên Chúa ban ơn như một khởi điểm cho một công trình mới tốt đẹp hơn.
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ hai Thánh Timôtê và Titô, hai người con tinh thần và cộng sự viên gần gũi của thánh Phaolô mà chúng ta tưởng niệm biến cố trở lại ngày hôm qua.
Cũng giống như Thánh Phaolô, Timôtê mang hai dòng máu Hy Lạp và Do Thái. Do Thái xem Ngài như một đứa con ngoại hôn. Nhưng cái tư thế bị ruồng rẫy đó đã khiến cho Timôtê trở thành gạch nối giữa Tin Mừng và văn minh của những dân tộc ở ngoài Do Thái giáo. Trong 15 năm sát cánh bên cạnh Thánh Phaolô để phục vụ các cộng đoàn Ephêsô, Timôtê đã để lại một mẫu gương hy sinh, nhẫn nhục và bác ái cao độ.
Cũng giống như Phaolô và Timôtê, Titô cũng đến từ thế giới dân ngoại. Ngài cũng được Chúa sử dụng để loan báo Tình Thương của Ngài cho mọi tạo vật.
Ôn lại cuộc đời của ba vị Thánh thuộc thế giới dân ngoại này, chúng ta thấy động tác lạ lùng của ơn Chúa. Mọi người, dù thấp hèn đến đâu, cũng đều có một chỗ đứng trong chương trình cứu rỗi của Chúa. Mọi người đều có thể là trung gian nhờ đó ơn Chúa được thông ban cho người khác. Thế giới không được cứu rỗi nhờ những gì chúng ta làm, mà nhờ những gì Thiên Chúa thực hiện qua cuộc sống của chúng ta.
Ti-mô-thể và Ti-tô là hai môn đệ nổi tiếng của thánh Phaolô, chính vì thế được mừng kính chung trong dịp lễ thánh Phaolô trở lại.
Ti-mô-thê sinh tại Lít-tra, ngày nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ; cha là một người ngoại giáo, mẹ theo Do Thái giáo. Thánh Phaolô, trong chuyến truyền giáo lần thứ nhất, đã rửa tội cho Ti-mô-thê; từ đó Ti-mô-thê luôn theo Phaolô và trở thành cộng tác viên đắc lực cho thánh nhân. Cả khi Phaolô bị tù đày, Ti-mô-thê vẫn ở với ngài. Theo truyền thuyết, Ti-mô-thê là giám mục tiên khởi của giáo đoàn Êphêsô. Hai thơ Phaolô được đề tựa gửi cho ngài.
Ti-tô là con của một gia đình hoàn toàn ngoại giáo. Trong Công vụ Tông đồ, Ti-tô không bao giờ được nhắc đến; nhưng trong các lá thơ, thánh Phaolô đều gọi ông Ti-tô là cộng tác viên. Phaolô đã rửa tội cho Ti-tô, đem theo lên Giêrusalem để dự Công đồng các Tông đồ. Phaolô đã trao cho Ti-tô nhiều trách vụ quan trọng. Theo truyền thuyết, thánh Phaolô đã đặt Ti-tô làm giám mục cho giáo đoàn Cờ-rê-ta.
CẦU NGUYỆN: Lạy Cha, Cha đã ban cho hai thánh Ti-mô-thê và Ti-tô những đức tính xứng bậc tông đồ. Xin nhận lời các thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà ban cho chúng, khi còn ở đời này, biết sống ngay lành và thánh thiện, hầu xứng đáng đạt tới quê trời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
Hội Thánh muốn phát triển, cần có nhiều môn đệ Đức Kitô đi làm việc Tông Đồ, để tập họp thêm nhiều người về cho Chúa. Việc Tông Đồ không phải chỉ dành riêng cho hàng giáo sĩ, mà là của toàn thể giáo dân biết cộng tác với các chủ chăn của mình. Vấn đề này ông Luca đã cho chúng ta nhận thức về sứ mệnh Tông Đồ của mọi Kitô hữu như sau:
1. Mọi Kitô hữu phải làm Tông Đồ cho Chúa. 2. Làm Tông Đồ là làm chứng cho sự thật. 3. Người Tông Đồ xin Chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa. 4. Muốn làm Tông Đồ phải được Hội Thánh sai đi. 5. Con đường Tông Đồ là con đường chông gai. 6. Tông Đồ phải sống tinh thần nghèo khó. 7. Làm Tông Đồ là đi cấp cứu người. 8. Muốn được bình an phải loan báo Tin Mừng.
1/ MỌI KITÔ HỮU PHẢI LÀM TÔNG ĐỒ CHO CHÚA
Đức Giêsu không chỉ muốn chọn 12 người đàn ông Do Thái làm môn đệ để họ làm việc Tông Đồ cho Ngài, mà Ngài còn muốn mời gọi muôn dân tộc. Bởi đó Ngài chọn 70 hay 72 môn đệ (x Lc 10,1a: Tin Mừng). Ta biết con số 70 (theo bản văn tiếng Hipri) hay số 72 (theo bản văn tiếng Hy-Lạp) môn đệ Đức Giêsu chọn là hình ảnh con cháu ông Noe sau lụt Hồng Thủy (x St 10), mà lụt Hồng Thủy là hình ảnh tiên báo về Bí tích Thánh Tẩy (x 1Pr 3, 20-21); đồng thời số 72 cũng là dòng giống dân Israel (x Xh 1,5). Do đó những ai đã nhận Bí tích Thánh Tẩy đều thuộc về dòng giống Israel mới, để Chúa Giêsu (Giacob mới) có thêm nhiều môn đệ cộng tác vào việc xây dựng và phát triển Nước Thiên Chúa, như thuở xưa một mình ông Môsê điều hành Israel không nổi, nhạc phụ ông đã khuyên nên chọn lấy 72 vị kỳ lão để tiếp tay với ông (x Xh 18,13t).
Vào thời Tân Ước, các Giám mục là hiện thân Nhóm Mười Hai của Đức Giêsu chọn, cũng cần mọi thành phần trong Hội Thánh cộng tác, như Đức Giêsu trước khi lìa biệt Nhóm Mười Một về cùng Cha, Ngài truyền lệnh cho môn đệ đi khắp thế gian tập họp thêm môn đệ cho Ngài bằng hai việc: Làm Phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và dạy họ tuân giữ những Lời Chúa Giê-su đã truyền (x Mt 28, 19-20), thì công việc Mục Vụ của Hội Thánh mới đạt được kết quả cao.
Vì thế giáo huấn Công Đồng Vatican II trong Hiến Chế Hội Thánh số 35 dạy: “Giáo dân có thể và phải có một hoạt động cao quý là truyền bá Tin Mừng cho thế giới cả những lúc họ bận tâm lo lắng việc trần thế”. Loan báo Tin Mừng có khi trực tiếp, có khi gián tiếp cộng tác giúp đỡ các chủ chăn. Đan cử: Thánh Phaolô đã nhận ra nơi ông Timôthê có Đức Tin sâu xa, phong phú và vững chắc, vì ngay khi còn nhỏ, ông được ngồi trong lòng bà ngoại, cụ Lôít, hoặc trong vòng tay mẹ, bà Êunikê, để nghe giáo lý. Nhất là từ khi ông được thánh Tông Đồ đặt tay trong Nghi Lễ tấn phong Giám mục. Từ đó, ông Timôthê nhận được Thần Khí đầy sức mạnh, tình thương, biết tự chủ, nên không còn nhút nhát, không hổ thẹn làm chứng cho Chúa. Ông Timôthê đã đồng lao cộng khổ với ông Phaolô loan báo Tin Mừng, nhất là lúc ông Phaolô ngồi trong tù (x 2Tm 1, 1-8: Bài đọc). Như thế, ông Phaolô và ông Timôthê đã thực hành lời kinh: “Hãy kể cho muôn dân biết những kỳ công Chúa làm” (Tv 96/95,3: Đáp ca). Và các ông đã chu toàn sứ mệnh: “Chúa đã sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha” (Lc 4,18: Tung Hô Tin Mừng).
2/ LÀM TÔNG ĐỒ LÀ LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT
Đó là lý do Đức Giêsu sai từng hai người môn đệ đi làm việc Tông Đồ (x Lc 10,1b: Tin Mừng). Không phải chỉ để giúp đỡ nhau, mà “đôi chứng nhân” nhằm khẳng định: làm Tông Đồ là đi loan báo sự thật. Vì theo theo luật Do Thái, một điều được xác định là chân lý, phải có ít một hay hai nhân chứng (x Dnl 19,15), hầu tất cả công việc được đoán định do miệng hai, ba người (x Mt 18,16). Nhưng chứng của hai hay nhiều người có khi còn gia tăng sự gian ác, như các chứng gian trong phiên tòa xử Đức Giêsu! Vậy “cặp chứng nhân” chỉ có giá trị khi người Tông Đồ của Chúa ý thức sống những điều sau:
- Mến Chúa phải thể hiện bằng yêu người (x Mt 22,34). - Làm trước rồi dạy sau (x Mc 6,30). - Phá hủy để xây dựng (x Gr 1,10). - Đau khổ đến vinh quang (x Lc 24,26). - Nô lệ mới làm chủ (x Mc 10,35). - Lãnh nhận để dâng hiến (x Mc 10,28t). - Biết chia sẻ của cải đời này mới đạt ơn cứu độ (x Lc 19,9).
Sống được những đòi hỏi như trên là dọn chỗ tâm hồn đồng loại để Chúa Giêsu đến ban phát ơn cứu độ (x Lc 10,1b).
3/ NGƯỜI TÔNG ĐỒ XIN CHỦ RUỘNG SAI THỢ ĐI GẶT LÚA
Đức Giêsu nói: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” (Lc 10,2a: Tin Mừng).
Thợ gặt ít: Suốt ba năm Đức Giêsu chọn và huấn luyện các Tông Đồ (Nhóm 12). Thế mà khi Ngài về trời, chỉ còn 11 người được Ngài sai đi. Đấy là thiếu về lượng! Còn về phẩm chất, Đức Tin thiếu mới đáng lo. Thực vậy trong số những người Đức Giêsu sai đi, có kẻ còn hoài nghi! (x Mt 28,16-17).
Muốn thêm người tham gia việc Tông Đồ, muốn bớt hoài nghi về Đức Tin, ta cần phải tích cực loan báo Tin Mừng, để quy tụ thêm nhiều người đến gặt lúa Nước Thiên Chúa, tức làm là cho nhiều người đón nhận được ơn cứu độ từ Hy Tế của Chúa Giêsu thiết lập, như Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Bốn tháng có qua, mùa màng mới đến! Này: Ta bảo các ngươi hãy ngước mắt lên mà nhìn: đồng lúa đã chín vàng chờ gặt! Rồi kìa thợ gặt lĩnh công và thu lượm hoa mầu cho sự sống đời đời, để cho kẻ gieo một thể cùng người gặt đều hoan hỷ. Vì đây lời tục ngữ cũng thật: Người này gieo kẻ khác gặt! Ta sai các ngươi đi gặt điều các ngươi không vất vả làm ra! Có những kẻ khác đã vất vả rồi, còn các ngươi đã đến thừa hưởng công lao của họ” (Ga 4, 35-38).
Lý do Đức Giêsu nói: “Bốn tháng có qua mùa màng mới đến” là vì người Do Thái xuống giống vào tháng 11 đến 12 (mùa Giáng Sinh); mùa gặt vào giữa tháng 4 (mùa Phục Sinh). Thế thì từ mùa Giáng Sinh đến mùa Phục Sinh là bốn tháng, đây là cao điểm thời gian Đức Giêsu thực thi chức Tư Tế của Ngài trên trần gian, rồi Ngài về ngự bên hữu Chúa Cha hằng chuyển cầu cho tất cả những ai đến tham dự Thánh Lễ mà Hội Thánh được Chúa Giêsu truyền làm hiện tại hóa Hy Tế của Ngài (x 1Cr 11,23-27). Cho nên đi dự Lễ là gặt hái hoa trái cứu độ được Đức Giêsu cùng các thánh đã vất vả làm ra “mùa lúa chín vàng”.
Thế mà có mấy người biết quý trọng Thánh Lễ, đúng là mùa lúa chín thiếu thợ gặt! Thật là chua xót đối với Đức Giêsu, mới hơn 20 thế kỷ nay, những người mang danh Công Giáo nhất là bên Âu Châu hầu hết bỏ dự Lễ và tệ hơn không quan tâm đến việc rước Lễ, không gặt hái mùa lúa chín vàng do Đức Giêsu và bao nhiêu chứng nhân đã vất vả trồng hạt Lời, và tưới bón bằng máu thịt của mình, để có mùa lúa chín chờ người gặt.
4/ MUỐN LÀM TÔNG ĐỒ, PHẢI ĐƯỢC HỘI THÁNH SAI ĐI
Đức Giêsu dạy: “Chúng con hãy xin chủ mùa sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10,2b: Tin Mừng). Cụ thể qua đời sống ông Phaolô, là một Biệt phái rất nhiệt thành thờ Chúa theo Luật Mô-sê, ông đã trở thành kẻ giết Chúa Giê-su Phục Sinh (x Cv 9,4). Nhưng khi được Ngài chộp lấy, huấn luyện và sai ông đi làm vườn nho cho Ngài, ông mới ý thức về tầm quan trọng việc Tông Đồ mà Ngài trao cho Hội Thánh, ông nói: “Làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi?” (Rm 10,14-15a). Với lòng xác tín như trên, ông Phaolô trước khi đi truyền giảng Tin Mừng, ông đã đến gặp các thủ lãnh của Hội Thánh để nhận quyền Sai Đi, bằng không việc phục vụ của ông trở nên vô ích (x Gl 2,1-2).
5/ CON ĐƯỜNG TÔNG ĐỒ LÀ CON ĐƯỜNG CHÔNG GAI
Đức Giê-su dạy: “Thầy sai anh em đi như chiên vào giữa bầy sói” (Lc 10,3 Tin Mừng). Niềm tin “ở hiền gặp lành” chỉ có thể thấy đúng trong thế giới Phục Sinh. Còn đời này phải biết rằng “Ai càng thiết tha sống chân lý, càng gặp nhiều chống đối, nhiều kẻ ghét, và cuối cùng cô đơn"
Ta cứ nhìn vào mẫu gương sống của Đức Giêsu: Ai thánh thiện bằng Ngài? Ai thương người bằng Ngài? Thế mà Đức Giêsu làm Tông Đồ cho Chúa Cha chưa tròn ba năm, thì chính những kẻ đã từng thụ ơn Ngài lại đồng lõa với những kẻ giết Ngài! Trên thập gía, Ngài nhìn xuống tìm những người đã thụ ơn, họ đều trốn mất! Chỉ còn lại bọn chế diễu Ngài! Ngài cất tiếng kêu cứu nơi Chúa Cha, nhưng Cha Ngài im lặng! Thì Ngài cầu nguyện bằng Thánh vịnh 22/21,2: “Lạy Thiên Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi, nhân sao Người lại bỏ tôi!” (Mt 27,46).
Lời cầu của Tv này nói lên lời than van của người bị ngược đãi, rồi viễn tượng các dân sẽ nhận vương quyền của Thiên Chúa và họ sẽ được nghe nói về Thiên Chúa.
Thánh Phaolô cũng nói lên sự cô đơn này: “Vì anh Đê-ma đã bỏ tôi, bởi yêu mến thế gian này; A-lê-xan-đê, người thợ rèn, đã gây cho tôi nhiều khốn khổ; Khi tôi đứng ra tự biện hộ lần thứ nhất, thì chẳng có ai bênh vực tôi. Mọi người đã bỏ mặc tôi. Xin Chúa đừng chấp họ. Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng” (2 Tm 4,10a.14a.16-17). Loan báo Tin Mừng có chấp nhận gian khổ mới thực sự là phục vụ vì yêu, chứ không phải vì thương mại, và lời rao giảng đến đổ máu mới minh chứng điều ta nói là chân lý quan trọng nhất.
Thánh Tông Đồ ý thức con đường theo Chúa là thế, nên ông đã nói: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập gía Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!” (Gl 6,14). Mà nếu ta theo Đức Giêsu chỉ dừng chân ở thập giá thì ta là kẻ khốn nạn nhất trên đời (1Cr 15,19), nên ta phải hướng về mầu nhiệm Phục Sinh. Chính ông Gióp lúc quá khổ, không thể lý giải sự đau khổ của mình bằng lý luận loài người. Đau khổ của ông cũng như của loài người chỉ có thể lý giải được ý nghĩa và hiệu quả trong thế giới Phục Sinh, nên ông nói: “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu huỷ, thì với tấm thân, tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nhìn Người, Đấng mắt tôi nhìn thấy không phải người xa lạ. Lòng tôi những tha thiết mong chờ” (G 19,25-27).
Bởi vậy, chỉ trong mầu nhiệm Phục Sinh, “tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban, trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv 27/26,13).
6/ TÔNG ĐỒ PHẢI SỐNG TINH THẦN NGHÈO KHÓ
Đức Giêsu dạy: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép.” (Lc 10,4a: Tin Mừng). Nghĩa là phải sống theo gương Đức Giêsu: “Ngài vốn dĩ là Đấng giàu có, nhưng vì chúng ta, Ngài đã trở nên nghèo khó, để chúng ta được giàu có, nhờ sự nghèo khó của Ngài!” (2 Cr 8,9). Thì người môn đệ của Đức Giêsu cũng phải cần cù làm việc mong có thu nhập cao, đạt chỉ tiêu giàu có giống Đức Giêsu, nhưng vì phục vụ Tin Mừng mà trở nên nghèo để đồng loại được giàu có về Đức Tin; còn ta chấp nhận nghèo khó như Thầy Giêsu không có nơi ngả đầu (x Lc 9, 58).
Vậy người môn đệ Đức Giêsu hãy sống nghèo cách cụ thể như Ngài dạy:
- Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép! (x Lc 10,4a: Tin Mừng).
- Người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho. (Lc 10, 7-8: Tin Mừng).
- Chính Chúa mới là gia nghiệp đời mình. (x Tv 16/15,5)
7/ LÀM TÔNG ĐỒ LÀ ĐI CẤP CỨU NGƯỜI
Đức Giêsu dạy: “Đừng chào hỏi ai dọc đường” (Lc 10,4b: Tin Mừng). Lời căn dặn này nhắc lại cho ta chuyện ngôn sứ Ê-ly-sa sai đầy tớ là anh Ghêkhaji, cầm gậy của thầy chạy mau đến nhà bà lớn thành Su-nem để đặt gậy lên xác con trai bà, làm cho cậu hồi sinh. Đó là việc cấp bách, nên ngôn sứ Êlysa dặn đầy tớ: “Đừng chào hỏi ai” (x 2V 4,18-37). Thế thì việc loan báo Tin Mừng là hành động cứu cấp đồng loại thoát tay tử thần, nên không còn để ý đến việc chào hỏi hay từ giã ai (x Lc 9, 61t). Nghĩa là không có gì làm bận tâm để phải trì hoãn việc loan báo Tin Mừng.
Vì mục đích loan báo Tin Mừng là để cho những người có trái tim biết nghe, thì Lời Chúa sẽ thanh tẩy tội lỗi tâm hồn họ (x Ga 15,3), để đưa họ gia nhập Hội Thánh, qua dấu chỉ các Tông Đồ chữa lành những người đau yếu trong thành, mà chữa lành bệnh chính là đã tha tội cho họ, cất nguyên nhân gây ra bệnh (x Ga 9,2), và nói với họ: “Triều đại Thiên Chúa (Hội Thánh) đã đến gần các ông” (Lc 10,9: Tin Mừng)
8/ MUỐN ĐƯỢC BÌNH AN PHẢI LOAN BÁO TIN MỪNG
Đức Giêsu dạy: “Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này!” Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an sẽ trở lại với anh em” (Lc 10, 5-6: Tin Mừng). Rõ ràng việc rao giảng Tin Mừng luôn luôn phát sinh sự bình an: Ai biết đón nhận Tin Mừng, sự bình an đến với họ; bằng không sự bình an trở về cho sứ giả Tin Mừng. Nói cách khác, làm Tông Đồ là đem bình an cho môi trường sống và phát sinh bình an trong nội tâm người loan báo. Bởi vì chính Tin Mừng có sức mạnh ban ơn, như Chúa nói: “Mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc,cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.” (Is 55,10-11).
THUỘC LÒNG: Giáo dân có thể và phải có một hoạt động cao quý là truyền bá Tin Mừng cho thế giới cả những lúc họ bận tâm lo lắng việc trần thế (HCHT số 35).
Thánh Timôthê sinh tại Lystres, miền Lycaonia Thổ Nhĩ Kỳ. Cha ngài là người ngoại giáo, còn mẹ ngài theo Do Thái Giáo, nhưng sau đã trở lại. Theo lời truyền tụng thì thánh nhân đã tin theo Tin Mừng nhờ lời giảng dạy của thánh Phaolô tông đồ trong cuộc du hành duy nhất của ngài. Khi đến lần thứ hai, thánh Phaolô đã chọn ngài làm phụ tá, và ngài theo thánh tông đồ đi giảng khắp miền Tiểu Á, Macedoine và Hy Lạp. Ngài được đặt làm Giám Mục coi sóc giáo đoàn Êphêsô. Thánh Phaolô đã đặc biệt nâng đỡ chỉ dạy và khích lệ ngài trong nhiệm vụ coi sóc đàn chiên Chúa qua những bức thư gửi cho ngài.
Nhân một buổi lễ tế dâng kính thần Điana của dân thành Êphêsô, ngài đã công khai chỉ trích và chính ngài bị dân chúng bắt và ném đá (24/01/97). Thi hài được giáo dân đem chôn ở đỉnh núi gần đấy.
Thánh Titô cũng trở lại đạo nhờ lời thánh Phaolô và được chọn làm cộng sự viên của ngài, chia sẻ mọi công việc tại Corintô và tại Crêta. Vì lòng nhiệt thành và trung tín trong việc rao giảng Tin Mừng, ngài đã trở nên bạn nghĩa thiết của thánh Phaolô. Chính trong thư (2 Cor 4, 6) thánh Phaolô viết khi còn ở Troas, đã thú nhận điều này: "Nhưng Thiên Chúa, Đấng an ủi những người cùng khốn, đã đến viếng thăm chúng tôi qua sự đến thăm của Titô". Ngài được thánh tông đồ sai đến Corintô với xứ mạng đặc biệt là quyên góp tiền để an ủi và giúp đỡ giáo dân Do Thái. Ngài đã hoàn tất sứ mạng cách hết sức khôn ngoan. Ngài cũng đã hướng dẫn vị tông đồ đến Crêta, và sau cùng ngài được thánh Phaolô đặt làm Giám Mục tại đây. Vì thập giá Đức Kitô, ngài đã phải chịu khổ sở cùng cực đối với dân Dalmatas. Sau cùng, ngài đã kết thúc cuộc đời trong tay Chúa, hưởng thọ 94 tuổi.
Ai được mời gọi gặt lúa? Không phải chỉ là nhóm Mười Hai tông đồ, mà là 72 môn đệ; không phải chỉ là 12 chi tộc Israel, mà là mọi người thuộc mọi dân nước. Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Mọi Kitô hữu đều được mời làm thợ gặt. Cả linh mục, tu sĩ, giáo dân đều được sai đến với cánh đồng hôm nay.
Một lời rao giảng làm rộn lên niềm vui: Nước Thiên Chúa đã đến gần anh chị em. Một lời chào thân thiện: Bình an cho nhà này.
Một thứ hành trang nhẹ tênh: không túi tiền, bao bị, giày dép. Một việc phải làm: chữa lành những người ốm đau. Một thái độ phải có: khiêm tốn và siêu thoát, đón nhận những gì người ta cung cấp cho, không tìm kiếm tiện nghi, dễ chịu.
Nếu hôm nay Ðức Giêsu sai chúng ta đi, Ngài sẽ dặn chúng ta điều gì? Chắc Ngài sẽ dặn khác, vì cánh đồng con người đã đổi khác. Chúng ta phải hiểu thấu nỗi khát vọng của bạn bè, phải biết nói sao để họ hiểu được, nhạy cảm để thấy điều họ thực sự đang cần, và sống hài hòa với lời mình giảng.
Có thể chúng ta sẽ đi giày, và có ba, bốn áo, sẽ có ví tiền và máy tính xách tay, sẽ có văn phòng, máy fax và điện thoại. Nhưng những thứ đó không làm chúng ta nặng nề. Hành trang không được trở thành những cản trở khiến ta mất sự tín thác vào Thiên Chúa và xa lạ với con người, nhất là những người nghèo khổ.
Hôm nay Chúa sai chúng ta làm chứng giữa đời, đôi khi ta thấy mình như chiên non giữa bầy sói. Chúng ta cứ phải trăn trở hoài để Tin Mừng chúng ta rao giảng cho bạn bè thực sự đáp ứng những khát khao thầm kín của họ: khát khao an bình, tự do, niềm tin và hạnh phúc, khát khao tình huynh đệ, sự chia sẻ, tha thứ, cảm thông; để những việc chúng ta làm cho họ xoa dịu được nỗi đau nhức nhối, và giải phóng họ khỏi xiềng xích của ác thần, đang nô lệ hoá con người dưới muôn vàn hình thức.
Các môn đệ hớn hở mừng vui khi lần đầu tiên họ trừ được quỷ nhân danh Thầy. Vương quốc của Satan bị đẩy lui bởi những con người bình thường và yếu đuối. Hôm nay, khi xây dựng một thế giới công bằng và yêu thương chúng ta tiếp tục đẩy lui Satan, để Nước Chúa lớn lên trên mặt đất này, và trở nên viên mãn trong ngày sau hết.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên đường nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau. Xin cho chúng con biết nói Tin Mừng với niềm vui, như người tìm được viênsw ngọc quý, biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa. Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần. Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát.
Qua Tân Ước, những gì chúng ta biết được về cuộc đời Thánh Timôthê thì giống như của một Giám mục bận rộn ngày nay. Ngài được vinh dự tháp tùng thánh Phaolô, và cả hai đều được ưu tiên rao giảng Phúc Âm và chịu đau khổ.
Thánh Timôthê có cha là người Hy Lạp và mẹ là người Do Thái tên là Eunice. Là kết quả của một hôn nhân "hỗn hợp", nên ngài bị người Do Thái coi là bất hợp pháp. Chính bà ngoại thánh nhân, bà Lois, là người đầu tiên trở lại Kitô giáo. Sau đó, Timôthê được thánh Phaolô rửa tội khoảng năm 47, và sau đó cùng tiếp tay với ngài trong công cuộc tông đồ. Chính ngài và thánh Phalô cùng sáng lập Giáo hội Côrintô. Trong 15 năm làm việc với thánh Phaolô, Timôthê trở nên người bạn trung tín nhất của Phaolô. Ngài được thánh Phaolô gửi đi truyền giáo, thường phải đương đầu với những xáo trộn trong các giáo đoàn mà thánh Phaolô thành lập.
Khi Timôthê đang ở với Phaolô thì bị bắt tại Rôma. Trong một thời gian, chính Timôthê cũng bị tù (Dt 13,23). Và thánh Phaolô đã bổ nhiệm Timôthê làm đại diện cho ngài ở Êphêsô.
Timôthê quá trẻ so với trách nhiệm nặng nề phải đảm trách. "Ðừng để ai coi thường anh vì sự trẻ trung," trong thư I thánh Phaolô viết cho Tm 4,12a). Một vài đoạn khác cho chúng ta biết dường như Timôthê hay bẽn lẽn. Và một trong những câu của thánh Phaolô thường được trích dẫn là câu viết cho Timôthê: "Ðừng chỉ uống nước lã, nhưng hãy dùng thêm chút rượu, vì anh đau dạ dày và ốm yếu luôn" (1Tm 5,23).
Thánh Titô (c. 94?):
Titô có nét đặc biệt là người bạn thân và là môn đệ của thánh Phaolô cũng như tiếp tay trong công cuộc truyền giáo. Ngài là người Hy Lạp, hiển nhiên xuất thân từ Antiôkia. Mặc dù ngài là Dân Ngoại, thánh Phaolô đã không để ngài phải chịu cắt bì ở Giêrusalem. Titô được coi như người hòa giải, người quản đốc, người bạn rất tốt. Trong lá thư thứ hai gửi giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô cho chúng ta thấy tình bạn sâu đậm giữa ngài với Titô, và tình đồng đội giữa hai người khi rao giảng Tin Mừng: "Khi tôi đến Troas... Tinh thần tôi không được khuây khỏa vì không gặp được Titô, người anh em của tôi. Do đó tôi từ giã họ và tiếp tục đến Macedonia... Ngay cả khi đến Macedonia, thể xác chúng tôi cũng chưa được yên, mà phải chịu đau khổ đủ mọi cách, xung đột bên ngoài, lo sợ bên trong. Nhưng Thiên Chúa, Ðấng an ủi những kẻ yếu hèn, đã an ủi chúng tôi bằng cách sai Ti-tô đến..." (2 Cr 2,12a, 13; 7, 5-6).
Trong Thư Gửi Titô, lúc ấy Titô được coi như quản đốc của cộng đồng Kitô giáo trên đảo Crete, có trách nhiệm tổ chức, chấn chỉnh những lạm dụng và bổ nhiệm các giám mục phụ tá.
Lời Bàn
Qua đời sống của Thánh Titô, chúng ta có được chút hiểu biết về đời sống Giáo Hội thời tiên khởi: hăng say trong việc tông đồ, kết hợp mật thiết với Ðức Kitô, triển nở tình bạn. Tuy nhiên, luôn luôn có những vấn đề của bản tính con người và những chi tiết không hấp dẫn chút nào trong đời sống hàng ngày: cần phải sống bác ái và kiên nhẫn trong "sự cãi cọ với người khác, lo sợ trong tâm hồn." Qua tất cả những điều ấy, tình yêu của Ðức Kitô đã gìn giữ họ.
Sau khi tuyển chọn nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu tiếp tục chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác để các ông đi rao giảng Tin Mừng. Chúa mời gọi họ hãy ra đi như những thợ gặt trên cánh đồng lúa chín mênh mông. Lời mời gọi truyền giáo của Chúa cũng được gửi đến với tất cả mọi người. Với Thánh Timôthê và Thánh Titô, các ngài cũng đã đáp lại lời mời gọi của Chúa khi cộng tác đắc lực với Thánh Phaolô trở nên những thợ gặt nhiệt thành trên cánh đồng truyền giáo.
Trong thư gửi tín hữu Rôma, Thánh Phaolô khẳng định “tin là do bởi nghe, còn nghe là nhờ rao giảng lời Đức Giêsu”. Quả thật, sứ vụ rao giảng Tin Mừng xuất phát từ chính lệnh truyền của Chúa Kitô. Khi bắt đầu cuộc đời công khai, Chúa đã tuyển chọn nhóm Mười Hai và giờ đây Chúa lại “chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác” để các ông đem bình an và Tin Mừng đến cho mọi người. Lệnh truyền đó xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa trước thực tế “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”. Vì thế, Chúa đã mời gọi các môn đệ “hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”. Trên hành trình truyền giáo, Chúa Giêsu đã chỉ ra cho các ông thấy những khó khăn tựa như “chiên con đi vào giữa bầy sói”. Người cũng không quên căn dặn các ông cần chuẩn bị những hành trang cần thiết. Đó là tinh thần nghèo khó, thanh thoát khỏi của cải vật chất để chỉ chú tâm vào lời rao giảng về niềm vui của Tin Mừng.
Trước lời mời gọi của Thiên Chúa, thánh thánh Timôthê và thánh Titô mau mắn đáp lại. Các ngài đã nhiệt thành cộng tác với thánh Phaolô trong việc truyền giáo. Trong 15 năm sát cánh bên cạnh thánh Phaolô, cả khi Phaolô bị tù đày, Timôthê vẫn ở với ngài. Ngài được thánh Phaolô gửi đi truyền giáo, thường phải đương đầu với những xáo trộn trong các giáo đoàn mà thánh Phaolô thành lập. Khi phục vụ các cộng đoàn Êphêsô, Timôtê đã để lại một mẫu gương hy sinh, nhẫn nhục và bác ái cao độ. Cũng giống như Phaolô và Timôtê, Titô cũng đến từ thế giới dân ngoại. Ngài cũng được Chúa sử dụng để loan báo Tình Thương của Ngài cho mọi tạo vật. Trong Thư Gửi Titô, lúc ấy thánh Titô được coi như quản đốc của cộng đồng Kitô giáo trên đảo Crete, có trách nhiệm tổ chức, chấn chỉnh những lạm dụng và bổ nhiệm các giám mục phụ tá.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa không ngừng mời gọi mỗi người chúng con hãy hăng say ra đi rao giảng Tin Mừng. Dẫu biết rằng, hành trình truyền giáo sẽ không thiếu những khó khăn, gian khổ, nhưng xin cho chúng con noi gương nhân đức của hai thánh Timôthê và thánh Titô, biết nhiệt thành rao truyền tình yêu của Chúa đến cho mọi người. Amen.
Ghi chú cổ nhất về Thánh lễ kính thánh Timôtê (thế kỷ XII), thường được mừng ngày áp lễ trở lại của thánh Phaolô (tức là ngày 24.01). Hiện tại được mừng vào ngày 26.01, không nhắm tới hai vị Giám mục tử đạo. Lời kinh riêng cho thánh Titô chỉ xuất hiện trong lịch Rôma vào ngày 06.02.1854; lời kinh này thành kinh chung cho cả hai vị thánh.
Thánh Kinh cho biết, Timôtê, người môn đệ yêu dấu của thánh Phaolô, có người cha ngoại giáo và người mẹ Do Thái tên Eunice, đã trở lại (2 Tm 1,5); ngài được dạy dỗ trong một gia đình có đức tin; thánh Phaolô ghi chú bà nội Lois đã dạy cho Timôtê biết luật Chúa (2 Tm 3,14-15). Nhờ thánh Phaolô, Timôtê trở lại trong chuyến truyền giáo lần đầu; Timôtê cũng đi theo thánh Phaolô trong chuyến truyền giáo lần thứ hai và thứ ba, theo yêu cầu của giáo đoàn Lystre (Cv 16,1-3) và lần này, ngài đã chạm trán với những khó khăn của đời Tông đồ (Cv 17,14-15; 18,5-6). Thánh Phaolô buộc ngài phải cắt bì để có thể dễ dàng chu toàn sứ vụ giữa người Do Thái. Người ta thấy ngài đi theo thánh Phaolô và được gởi sang Macédoine (Cv 19,22) và được phó thác các cộng đoàn vùng Thessalonique (1 Tx 3), sau đó là Côrinthô (1 Cr 4,17; 16,10); rồi người ta lại gặp ngài trong nhóm đi theo thánh Phaolô (Cv 10,24). Thánh Phaolô gởi cho ngài một lá thơ từ Êphêsô (1 Tm 1,3) là nơi ngài đang thực hiện sứ vụ giữa cộng đoàn, sau đó một thư khác, trong đó thánh Phaolô gợi lại những giọt nước mắt khi chia tay (2 Tm 1,4).
Thánh Phaolô nhấn mạnh sự trung kiên của Timôtê trong các cơn thử thách. Tình bạn đã nối kết cả hai (x.Pl 2,19-33) thúc đẩy Timôtê ở lại với thánh Phaolô trong lần bị bắt thứ nhất; cũng chính thánh Phaolô cho gọi ngài đến Rôma trong lần bị bắt thứ hai. Chúng ta không biết lúc nào ngài đã lãnh nhận việc đặt tay; có lẽ chúng ta có thể thấy trong đoạn 1Tm 6,12: ”Anh đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước mặt nhiều nhân chứng”. Không có gì minh chứng rằng Timôtê đã chịu tử đạo, có lẽ ngài đã qua đời tại Êphêsô.
Về thánh Titô, sinh ra trong một gia đình ngoại giáo, đã được thánh Phaolô rửa tội trong chuyến truyền giáo lần thứ nhất. Ngài theo thánh Phaolô và Barnaba lên Giêrusalem (Gl 2,1-3), tại đây thánh Phaolô chống đối việc ngài bị bắt phải cắt bì, vì xuất thân từ ngoại giáo. Khi thánh Phaolô thuật lại việc đến Troa, ngài muốn gặp Titô, ”người anh em của tôi” (2 Cr 2,13), cho thấy ngài rất tin tưởng Titô, như người phục vụ trung gian giữa thánh nhân và cộng đoàn Côrinthô để tái lập lại sự hoà thuận giữa Giáo hội này với thánh nhân (2 Cr 7,5-7). Thánh Phaolô đặt Titô đứng đầu cộng đoàn ở Crète. Trong đoạn Titô 1,4 thánh Phaolô còn gọi Titô là ”người con tôi thực sự sinh ra trong cùng một đức tin chung”. Thánh Phaolô còn viết thư bảo ngài đi theo mình từ Nicopolis đến Épire, có lẽ từ đây thánh Phaolô đã sai ngài đi rao giảng vùng Dalmatie. Thánh Timôtê được vùng này tôn kính cách đặc biệt. Theo truyền thuyết, thánh Titô qua đời trong cộng đoàn của ngài tại Crète, lúc tuổi đã xế chiều.
Thông điệp và tính thời sự
Kinh Tổng nguyện, chung cho cả hai vị thánh, gợi lên nhân đức xứng đáng với chức vị Tông đồ mà Thiên Chúa ban cho hai môn đệ trung thành của thánh Phaolô. Lá thư thứ hai gởi cho Timôtê ca tụng đức tin chân thành của người con yêu quí, đã khuyến khích: Tôi nhắc nhớ anh phải luôn gợi lên trong anh ân sủng của Thiên Chúa mà anh đã lãnh nhận khi tôi đặt tay cho anh.
Ân sủng của Thiên Chúa mà thánh Phaolô nói đến là “đặc sủng” mà Timôtê đã lãnh nhận và Thánh hiến ngài trong sứ vụ mục tử. Đánh thức ân sủng này, có nghĩa là làm sống lại ân sủng của Thiên Chúa, Đấng là Thần trí sức mạnh, tình yêu và làm chủ bản thân.
Cũng trong lá thư gởi cho Timôtê, thánh Phaolô nói với người môn đệ của mình: ”Hãy rao giảng Lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” thánh Phaolô đã nhắc nhở ngài việc sửa sai anh em: ”Hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ” (2 Tm 4,2). Đó chính là các nhân đức Tông đồ mà các mục tử luôn cần thiết, được kêu gọi tỉnh thức, không yếu đuối và không thoả thuận.
Kinh Tổng nguyện kêu gọi chúng ta sống công chính và đạo đức trong thế giới này, lấy hứng từ lá thư thánh Phaolô gởi cho Titô: ”Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính, đạo đức ở thế gian này. Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng Cứu Độ chúng ta, xuất hiện vinh quang (Tit 2,11-13). Câu đáp cho bài kinh Magnificat: ”Chúng ta hãy sống công chính và ngay thẳng, chờ đợi ngày Chúa đến”, cũng nhấn mạnh lời đòi hỏi trung tín theo nghĩa cánh chung của cuộc đời Kitô hữu.
Trong lá thư gởi cho Titô, thánh Phaolô xin người môn đệ của mình minh chứng một mẫu gương đức hạnh ngay trong chính bản thân (2,7); cũng thế, ngài động viên mọi hạng người sống theo tình trạng và điều kiện của mình. Dù vậy, nền tảng tín lý của các trách nhiệm chính yếu và đặc thù đều là một cho mọi người: ”Niềm hy vọng được sự sống đời đời mà Thiên Chúa, Đấng không hề nói dối, đã hứa từ thuở đời đời” (1,2). Những việc dấn thân của chúng ta trong hiện tại là sống trong một tình trạng tỉnh thức, sẵn sàng chờ đợi sự kiện cánh chung của Chúa. Sự công chính và lòng đạo đức mà chúng ta được gọi để sống, là trung tâm của nền luân lý Kitô giáo. Sự công chính (theo nghĩa Thánh Kinh) đi kèm theo lòng đạo đức, có nghĩa là tình yêu bác ái sẽ làm cho các mệnh lệnh và trách nhiệm trở thành một ách êm ái và một gánh thật nhẹ nhàng.
“Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông.” (Lc 10,9)
Suy niệm: Khi sai các môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu căn dặn các ông hãy loan báo: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông.” Nước ấy “đã đến gần” thì phải đi tìm nước ấy ở đâu và như thế nào? Tin Mừng hôm nay trả lời cho chúng ta câu hỏi ấy:
1/ Nước Thiên Chúa đã và đang đến trong lời rao giảng của các môn đệ, khi các môn đệ vào từng “thành” từng “nhà” với lời chúc bình an.
2/ Tìm Nước Thiên Chúa bằng cách đón nhận những sứ giả Tin Mừng cùng với lời loan báo bình an: “Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em.”
Mời Bạn: Trong hoàn cảnh xã hội hiện nay, bạn không còn có thể sống trong một giáo xứ “toàn tòng.” Có khi nhà bạn đang đơn độc giữa bao nóc nhà không cùng tôn giáo, quan điểm với bạn. Dù vẫn biết rằng việc loan báo là rất khó khăn, vì sẽ có những “nhà” từ khước lời rao giảng, nhưng nói thực, bạn đã bắt đầu rao giảng chưa? Và bạn đã làm gì để rao giảng? Bạn nhớ Nước Thiên Chúa bắt đầu hiện diện khi bạn trở thành dấu chỉ của sự bình an, và bạn thực sự rao giảng Nước Thiên Chúa mỗi khi vào nhà nào mà bạn đem “bình an đến cho nhà này!”
Sống Lời Chúa: Kinh nghiệm cho biết kinh nguyện+Lời Chúa sớm hôm tại gia sẽ cung cấp sức mạnh cho việc sống đức tin và loan Tin Mừng trong mọi hoàn cảnh. Mời bạn thực hiện điều đó trong gia đình, cộng đoàn của bạn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin biến đổi chúng con thành khí cụ bình an của Chúa để đem Tin Mừng đến với mọi người chúng con gặp gỡ.
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10,2)
Suy niệm: Nhiều năm qua, người ở nông thôn ồ ạt di dân lên thành thị, việc thiếu thợ gặt trong ngày mùa đang là một thực tế nan giải tại nhiều nơi. Là người tâm huyết với cây lúa, nhìn những cánh đồng lúa chín vàng nặng trĩu hạt, lại chưa có người gặt, ai lại chẳng băn khoăn. Song băn khoăn không phải chỉ để băn khoăn, nhưng là để đi đến một hành động.
Chúa Giêsu cũng băn khoăn trước vụ mùa thiêng liêng đang thiếu thợ gặt và Ngài kêu gọi hành động: “Anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” Sao thế? Sao lại có cơ chế “xin-cho” ở đây? Đó là việc của chủ ruộng, “mắc mớ” gì mà tôi phải xin? Đúng vậy! Chủ mùa mới có quyền sai thợ gặt ra đi. Nhưng hãy xin! Vì tôi được mời gọi chia sẻ mối băn khoăn của Chúa. Nhưng liệu tôi có sẵn lòng để cho Chúa là chủ mùa gặt sai tôi đi không?
Mời Bạn: Ngày nay công cuộc loan báo Tin Mừng của Giáo Hội vẫn đang cần rất nhiều con người biết quảng đại dấn thân. Hơn ai hết, và hơn lúc nào hết, chính bạn và tôi đang được mời gọi để cộng tác vào công cuộc loan báo Tin Mừng cao quý này. Chúng ta hãy để Chúa sai đi, và thưa với Ngài: Này con đây, xin hãy sai con!
Chia sẻ: Truyền giáo là căn tính của người Kitô hữu. Vậy bạn đã sống đúng căn tính của mình chưa? Xin chia sẻ một minh họa cụ thể.
Sống Lời Chúa: Ra đi đến với một người hàng xóm với tất cả lòng yêu thương chân thành và sẵn sàng giúp đỡ họ. Để qua ta, người khác nhận ra khuôn mặt của Thiên Chúa.