"Ðó chính là Gioan Tẩy Giả trẫm đã chặt đầu, nay sống lại".
Lời Chúa: Mc 6, 14-29
Khi ấy, vua Hêrôđê nghe nói về Chúa Giêsu, vì danh tiếng Người đã lẫy lừng, kẻ thì nói: "Gioan Tẩy giả đã từ cõi chết sống lại, nên ông đã làm những việc lạ lùng"; kẻ thì bảo: "Ðó là Êlia"; kẻ khác lại rằng: "Ðó là một tiên tri như những tiên tri khác". Nghe vậy, Hêrôđê nói: "Ðó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại".
Vì chính vua Hêrôđê đã sai bắt Gioan và giam ông trong ngục, nguyên do tại Hêrôđia, vợ của Philipphê anh vua mà vua đã cưới lấy. Vì Gioan đã bảo Hêrôđê: "Nhà vua không được phép chiếm lấy vợ anh mình". Phần Hêrôđia, nàng toan mưu và muốn giết ông, nhưng không thể làm gì được, vì Hêrôđê kính nể Gioan, biết ông là người chính trực và thánh thiện, và giữ ông lại. Nghe ông nói, vua rất phân vân, nhưng lại vui lòng nghe.
Dịp thuận tiện xảy đến vào ngày sinh nhật Hêrôđê, khi vua thết tiệc các quan đại thần trong triều, các sĩ quan và những người vị vọng xứ Galilêa. Khi con gái nàng Hêrôđia tiến vào nhảy múa, làm đẹp lòng Hêrôđê và các quan khách, thì vua liền nói với thiếu nữ ấy rằng: "Con muối gì, cứ xin, trẫm sẽ cho", và vua thề rằng: "Con xin bất cứ điều gì, dù là nửa nước, trẫm cũng cho". Cô ra hỏi mẹ: "Con nên xin gì?" Mẹ cô đáp: "Xin đầu Gioan Tẩy Giả". Cô liền vội vàng trở vào xin vua: "Con muốn đức vua ban ngay cho con cái đầu Gioan Tẩy Giả đặt trên đĩa". Vua buồn lắm, nhưng vì lời thề và vì có các quan khách, nên không muốn làm cho thiếu nữ đó buồn. Và lập tức, vua sai một thị vệ đi lấy đầu Gioan và đặt trên đĩa. Viên thị vệ liền đi vào ngục chặt đầu Gioan, và đặt trên đĩa trao cho thiếu nữ, và thiếu nữ đem cho mẹ.
Nghe tin ấy, các môn đệ Gioan đến lấy xác ông và mai táng trong mồ.
Như mọi con người khác ở trên đời, con người của Hêrôđê bị giằng co giữa cái xấu và cái tốt. Vấn đề là ông ta sẽ ngả theo cái nào. Hêrôđê biết Gioan là người công chính thánh thiện nên sợ ông. Hêrôđê đã bảo vệ che chở cho Gioan và thich nghe ông nói, dù những điều đó làm Hêrôđê hết sức bối rối (c. 20). Nhưng Hêrôđê cũng là người đã sai bắt Gioan và xiềng ông trong ngục, chỉ vì Gioan dám nói: “Nhà vua không được lấy vợ của anh mình.” Rõ ràng cái ác trong Hêrôđê đã thắng cái thiện, cái xấu đã thắng cái tốt. Hêrôđê thuộc loại người “nghe lời thì liền vui vẻ đón nhận, nhưng không đâm rễ, mà là những kẻ nông nổi nhất thời…” (Mc 4, 16-17). Chính vì thế khi gặp thử thách thì ông vấp ngã ngay. Hêrôđê còn quỵ ngã một lần nữa nặng hơn. Ngày sinh nhật của ông cũng là ngày chết của một vị ngôn sứ. Khi con gái bà Hêrôđia biểu diễn một điệu múa làm vui lòng mọi người, Hêrôđê đã lỡ thề hứa một điều thiếu khôn ngoan, trước mặt bá quan văn võ và các thân hào miền Galilê: “Con xin gì, ta cũng cho, dù một nửa nước của ta cũng được” (c. 23). Không biết lúc đó Hêrôđê đã say chưa, nhưng chắc chắn nhà vua đã quên một điều quan trọng. Ông quên mình chỉ là một tiểu vương nắm vùng Galilê và Pêrê (Lc 3,1), nên ông không có quyền cho đất hay chia đất. Bà Hêrôđia đã không bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng này để trả thù Gioan. Bà nói với cô con gái xin đầu Gioan Tẩy giả (c. 24). Hẳn điều này là một bất ngờ lớn đối với Hêrôđê. Lập tức ông bị đặt vào thế giằng co xâu xé. Một mặt ông hết sức đau buồn vì quý mạng sống của Gioan. Mặt khác ông lại không muốn thất hứa với cô bé, một lời hứa đã trót nói ra công khai trước mặt quan khách dự tiệc. Hêrôđê có dám chịu đánh mất chút danh dự của mình không khi khiêm tốn xin rút lại lời thề hứa vội vàng, bồng bột? Ông có dám nhận mình đã sai và chịu mất mặt không? Tiếc quá! Hêrôđê đã không có được can đảm này. Như người thanh niên giàu có buồn rầu bỏ đi (Mc 10, 22), Hêrôđê cũng sẽ buồn suốt đời vì cái chết do ông gây ra. Như Hêrôđê, sau này Philatô cũng chịu áp lực khi ông xử án Đức Giêsu. Ông cũng phạm đúng tội của Hêrôđê trước đám đông (Mc 15, 15), coi ghế ngồi của mình quý hơn mạng sống của Đức Giêsu, người vô tội.
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện: Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi mọi biển lận tầm thường. Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên để gánh chịu mọi buồn vui. Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang để đem tình yêu gánh vác việc đời. Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó, hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy. Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày. Và cho tôi sức mạnh tràn trề để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn. Amen. (R. Tagore - Ðỗ Khánh Hoan dịch)
Đa-vít và Hê-rô-đê là hai vị vua có nhiều điểm giống nhau. Đa-vít say mê sắc dục. Chiếm vợ của U-ri-gia. Lại còn giết chết U-ri-gia. Hê-rô-đê cũng say mê sắc dục. Chiếm đoạt bà Hê-rô-đi-a là vợ của Phi-líp-phê, anh vua.
Nhưng càng về sau hai vị vua càng khác biệt. Được Na-than nhắc nhở, Đa-vít tỉnh ngộ và ăn năn sám hối. Nhưng Hê-rô-đê chỉ lưỡng lự phân vân. Sau đó còn nghe lời tình nhân, giết chết Gio-an Tẩy giả.
Từ khi ăn năn sám hối, Đa-vít sống tốt lành thánh thiện. Luôn tuân phục thánh ý Thiên Chúa. Đặc biệt ông dùng tài ca nhạc, sáng tác ca tụng Thiên Chúa. “Với trọn cả tâm tình, ông hát lên những khúc thánh thi tỏ lòng yêu mến Đấng tạo thành ông”. Ông còn sắp đặt lễ nghi phượng tự cho long trọng. Vì thế “Đức Chúa đã xoá bỏ tội lỗi của ông và nâng cao uy thế ông luôn mãi” (năm chẵn).
Còn Hê-rô-đê vì lưỡng lự nên không những không tiến bộ mà ngày càng lún sâu vào tội ác. Nếu Đa-vít dùng đàn ca ca tụng Thiên Chúa, thì Hê-rô-đê bị đàn ca mê hoặc đến nỗi đưa ra những lời hứa nhẹ dạ. Nếu Đa-vít khiêm tốn nhận mình tội lỗi, thì Hê-rô-đê sĩ diện, lỡ hứa rồi, biết là nông nổi, nhưng không dám rút lại. Nếu Đa-vít nghe lời can gián, thì Hê-rô-đê giết người can ngăn mình phạm tội. Vì thế triều đại Đa-vít bền vững mãi mãi. Còn triều đại Hê-rô-đê mau chóng suy tàn.
Thư Do thái khuyên nhủ ta hãy noi những tấm gương ấy mà chọn một con đường tốt đẹp. “Anh em hãy nhớ đến những người lãnh đạo đã giảng lời Chúa cho anh em. Hãy nhìn xem cuộc đời họ kết thúc thế nào mà noi theo lòng tin của họ. Đức Giê-su Ki-tô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời”. Chúa vẫn thế. Thế cuộc đổi thay. Nhưng những nguyên tắc đạo đức ở trong thánh ý Chúa không hề thay đổi. Vẫn là kim chỉ nam đưa ta đến sự sống.
Xin cho con noi gương thánh vương Đa-vít. Biết sám hối tội lỗi. Và dành thời gian còn lại của đời sống đền bù lỗi lầm. Ca tụng tôn vinh Chúa.
Những bậc vĩ nhân thường được nhân gian biến thành bất tử. Người Do thái tin rằng vị tiên tri vĩ đại nhất của họ là Êlia đã không chết, nhưng được cất nhắc về Trời; khi Gioan Tẩy Giả xuất hiện, người ta lại tin rằng ngài chính là hiện thân của Êlia: rồi đến lượt Gioan Tẩy Giả bị giết chết, người ta lại cho rằng ngài đang sống lại trong con người Chúa Giêsu.
Có lẽ để xóa tan những lời đồn đoán như thế, thánh sử Marcô đã kể lại từng chi tiết cuộc xử trảm Gioan Tẩy Giả, cũng như ghi lại việc chôn cất thánh nhân. Gioan Tẩy Giả đã thực sự chết và ngài đã không bao giờ sống lại, cũng chẳng được cất nhắc lên trời như Êlia.
Gioan Tẩy Giả là nạn nhân của bất công. Có bất công khi người ta đặt chính trị lên trên những giá trị khác của cuộc sống, như tinh thần và niềm tin; có bất công khi người ta hành động theo bản năng hơn là theo tinh thần. Vua Hêrôđê lẫn nàng Hêrôđia đều đã hành động theo lối ấy. Hêrôđia sống bất chấp luân thường đạo lý, còn Hêrôđê thì cho dù vẫn sáng suốt để phân biệt được điều ngay với lẽ trái, nhưng lại chọn sống theo bản năng hơn là lý trí.
Gioan Tẩy Giả đã lên tiếng tố cáo bất công và sẵn sàng chết cho công lý. Trong ý nghĩa ấy, ngài là vị tiền hô của Chúa Giêsu, ngài qua đi nhưng tinh thần ngài vẫn sống mãi trong các môn đệ của ngài, và một cách nào đó, ngài cũng sống trong chính con người Chúa Giêsu và nơi mỗi người Kitô hữu. Từ 2000 năm qua, Giáo Hội vẫn sống trong niềm xác tín đó. Chính tinh thần của Gioan Tẩy Giả, của các Tông Ðồ, của các Thánh Tử Ðạo, đã sống mãi trong Giáo Hội và trở thành giây liên kết mọi Kitô hữu. Ðiều này luôn được Giáo Hội thể hiện qua cử chỉ hôn kính hài cốt các thánh được đặt trên bàn thờ. Tập san Giáo Hội Á Châu do Hội Thừa Sai Paris xuất bản tháng 12/1995, có ghi lại chứng từ của một vị Giám mục:
"Chúng tôi đã cất giữ hài cốt của vị Giám mục tiên khởi của Giáo Hội chúng tôi. Chúng tôi tin rằng hài cốt này là thánh thiêng đối với chúng tôi, là dấu chỉ mà chúng tôi không bao giờ được phép quên lãng. Hài cốt này là sợi giây liên kết với Giáo Hội mọi thời, mọi nơi. Chúng tôi đã luôn nghĩ rằng chúng tôi không thể cất khỏi sợi giây liên kết hữu hình ấy. Ðây là một dấu chỉ nối kết chúng tôi trực tiếp với Chúa Kitô. Làm sao người ta có thể đánh mất Chúa Kitô? Chúng tôi cất giữ hài cốt này, chúng tôi vẫn tiếp tục yêu mến Chúa Kitô và kết hiệp với Người mãi mãi".
Chúng ta cũng hãy hiên ngang nói lên niềm tin và lòng trung thành với Chúa Kitô. Cùng với thánh Phaolô, chúng ta cũng hãy thốt lên: "Không gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô".
Vua Hê-rô-đê nghe biết về Đức Giêsu, vì Người đã nổi danh. Có kẻ nói: “Đó là ông Gia-an Tẩy Giả từ cõi chết chỗi dậy, nên quyền làm phép lạ mới tác động nơi ông.” Kẻ khác nói: “Đó là ông Ê-li-a.” Kẻ khác nữa nói: “Đó là một ngôn sứ như một trong các ngôn sứ.” Vua Hê-rô-đê nghe thế, liền nói: “Ông Gio-an, ta đã cho chém đầu, chính ông đã chỗi dậy!” (Mc. 6, 14-16)
Cái chết của thánh Gioan Baotixita là một trong những trang bi thảm nhất của Phúc âm vì những hoàn cảnh éo le đã xui nên. Những tâm tình hắc ám nhất của nhân loại đều thấy cùng gặp gỡ nhau ở đây: một người có ý định sát nhân, đúng hơn lại muốn để cho người khác can tội vì muốn bảo toàn danh dự mình hoặc khỏi mất thanh danh đối với những khách dự tiệc có lẽ đang say xỉn; một cô gái nhảy đùa giỡn với mạng sống con người với tư thế ung dung như cô đang chơi trò giật dây con rối vậy. Đó là một trong những trang bi đát nhất của tất cả tấn tuồng của con người từ đó để lộ ra lẫn lộn tất cả sự hèn nhát, nhân nhượng, mưu mô, thù oán, say sưa và tàn bạo hầu làm nên cái mà Mauriac gọi là uẩn khúc nham hiểm của loài rắn độc.
Tính nhu nhược của Hêrôđê là đầu mối cho tất cả sự việc này. Từ khi nghe lời Hêrôđia xúi xiểm tống giam Gioan Tẩy giả cho đến khi bị mắc kẹt trước các khách dự tiệc, không thể rút lại mà không phơi trần một sự yếu hèn hơn, Hêrôđê sẽ vẫn là một con người bị người khác vận dụng và sẵn sàng nhượng bộ tất cả với điều kiện là “giữ được thể diện” cho mình. Ông sẽ chẳng coi chi những tâm tình vị nể và cảm phục ông Gioan, người mà tự thâm tâm ông vẫn thích nghe.
Sau đó ít lâu, một tấn tuồng khác gần tương tự sẽ còn làm nổi bật tính nhu nhược này của con người. Tại pháp đình, trước đám đông người Do thái bị các trưởng tế xúi giục hò hét, Philatô sẽ rửa tay tỏ ra vô can trong cái chết của Đức Kitô, mặc dầu ông không tìm được chứng cớ nào để kết án tử Người.
Thiết lập một danh sách liệt kê những biến cố đại loại như trên, thiết tưởng không phải là chuyện khó làm. Những vụ giết người và phản bội thường có nguồn gốc là một lô những nhu nhược, hèn nhát, yên lặng đắc tội…Những người có quyền, có địa vị mà nhu nhược thường bao che cho những kẻ quỷ quyệt để chúng hưởng lợi. Quả thực, ít có những người có sự thật và biết tôn trọng sự thật đến cùng, một sự thật ngoan cường.
Còn chúng ta, chính chúng ta thường tỏ ra khôn khéo hơn trong vai những người mềm yếu và nhu nhược khi chúng ta diễn lại tấn tuồng trên đây của con người.
Có những cái chết đã đi vào bất tử, trường tồn, bởi nó đã trở thành biểu tượng cho một tinh thần bất khuất. Vì thế, muôn thế hệ sẽ còn tưởng nhớ chính nhân.
Cái chết đó chính là cái chết của Gioan Tẩy Giả.
Nếu các Ngôn Sứ là những người thay mặt Chúa, thông truyền sứ điệp của Thiên Chúa cho dân; sứ mệnh của các ngài chính là việc dạy dỗ, khuyên răn dân đi theo đường lối của Thiên Chúa để được sống; đồng thời, lên tiếng tố cáo những việc làm sai trái mà dân đang thực hiện. Mặt khác, các ngài cũng không quên một nhiệm vụ quan trọng, đó là nhắc dân từ bỏ con đường bất chính gian tà để trở về với Thiên Chúa. Chính vì thế, các ngài thường bị dân chúng giết chết để khỏi trướng tai gai mắt họ.
Thật vậy, Gioan cũng đã chung số phận khi lên tiếng tố cáo cuộc sống loạn luân của vua Hêrôđê khi ông ta bỏ vợ để cướp vợ của anh cùng cha khác mẹ với mình. Cuộc sống của vua đã trở thành đồi bại, vô luân, và nhất là gây nên một gương mù lớn trong dân.
Khi Gioan tố cáo Hêrôđê, thì đồng nghĩa với việc ông lên tiếng phản đối cả một hệ thống lãnh đạo suy đồi khi cùng với vua hưởng lạc trong lúc chứng kiến con gái bà Hêrôđia múa hát để chiêu mộ lòng vua!
Sự thật thì mất lòng! Gian dối lên ngôi! Tội lỗi hoành hành! Và, nhất là một con người nhu nhược, không có lập trường như Hêrôđê, Gioan đã bị giết dưới lưỡi gươm của tội lỗi!
Tiếp nối sứ vụ của Gioan, và nhất là thi hành lệnh truyền của Đức Giêsu, suốt hơn 2.000 năm nay, Giáo Hội không ngừng lên tiếng cho công lý, sự thật, bảo vệ những người nghèo, không có tiếng nói..., thế nên nhiều chứng nhân anh dũng đã can đảm nói không với ái ác, bất nhân và vô luân. Họ đã: "Vâng lời Thiên Chúa, hơn là vâng lời con người". Vì thế, biết bao nhiêu máu đào đã đổ ra và những đống xương “chất đầy thành núi” qua các cuộc tử đạo để gióng lên tiếng nói của lương tâm, hầu tố cáo những thói vô luân của con người, nhất là những vị lãnh đạo bất nhân và ham dục...
Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi trở nên ngôn sứ của Đức Kitô, trở nên người loan báo chân lý...
Tuy nhiên, theo bản tính tự nhiên, chúng ta khó có thể vượt qua được những toan tính thiệt hơn của con người, nên thay vì làm chứng cho Chúa, chúng ta lại phản chứng khi trở nên như Hêrôđê, ghen tỵ, oán ghét, và tàn độc.
Những lúc như thế, ấy là lúc chúng ta chưa dám sống công chính và đi theo giáo huấn của Đức Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con lòng can đảm, trung thành với sứ vụ, đồng thời, xin cũng ban cho chúng con lòng nhân hậu, quảng đại và tha thứ cho anh chị em chúng con, khi bị thù ghét, bỏ vạ, cáo gian. Amen.
Hoàng hậu Ideven của vua Akhap rước thần ngoại bang vào vương quốc Israel và bảo trợ cho các tư tế, phù thủy của tà thần, đuổi bắt các ngôn sứ của Thiên Chúa.
Dù trước bạo quyền, ngôn sứ Êlia một mình chống lại các tư tế của thần dân ngoại. Tinh thần chính trực của ông đã bị vua và hoàng hậu truy bắt đuổi giết, khiến thân phận ngôn sứ của Thiên Chúa thật gian nan, khốn khổ và luôn sống trong sự trốn tránh (1V 17-18).
Suy Niệm
Gioan, cái tên được Thiên Chúa đặt là dấu chỉ thuộc về Thiên Chúa, sự công minh chính trực của Gioan đã được ngôn sứ Isaia nói trước: “Chúa đã gọi tôi, từ khi tôi còn trong bụng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tôi. Người đã làm cho miệng lưỡi tôi như gươm sắc bén, dấu tôi dưới bàn tay Người... biến tôi thành mũi tên nhọn, cất tôi trong ống tên của Người” (Is 49,1-2).
Sứ mạng ngôn sứ và ơn thánh đã nuôi dưỡng Gioan: “Cậu bé càng lớn lên, thì tinh thần càng vững mạnh” (Lc 1,80). Vì thế, người quân tử này không sợ trước bất kỳ quyền lực nào, chỉ luôn biết sống trung tín và loan báo những gì mà Thiên Chúa muốn ông nói và làm.
Gioan bộc trực, thẳng thắn phê phán những quyền lực tôn giáo sống không đúng với chức danh (Mt 3,7), ông phê phán, đương đầu trực diện cả vương quyền khi họ thực hiện những điều bất nghĩa: Ông đã ngăn cản vua Hêrôđê đã cướp vợ của anh trai vua, chính vì thế mà ông bị tống ngục và Hêrôđia - người tình của vua đã tìm cách ám hại ông (Mc 6,17-29).
Cái chết của ông là minh chứng cho sự trung thực thẳng thắn, là triều thiên tử đạo đổ máu đào cản ngăn những điều bất nghĩa bất nhân.
1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Marô thuật lại cho chúng ta cuộc tử nạn của thánh Gioan Tẩy Giả. Khi ấy, danh tiếng Chúa Giêsu lẫy lừng vì những lời giảng và hành động thật uy quyền đã đến tai Hêrôđê khiến ông ta sống bất an, lương tâm cắn rứt và nghĩ rằng chính Gioan Tẩy Giả tiếp tục sống trong Đức Giêsu. Những ray rứt của kẻ giết người lại nổi lên trong con người ông và lên án chính ông. Đây chính là tâm trạng của những kẻ gây ra những điều gian ác. Tâm hồn họ đã đánh mất sự hiện diện của Thiên Chúa. Tiếng lương tâm cắn rứt chính là dấu chỉ Thiên Chúa vẫn luôn mời gọi họ hối cải.
2. Gioan Tẩy Giả không phải là ánh sáng, nhưng chỉ đến làm chứng cho ánh sáng. Dù biết rằng mình sẽ phải chấp nhận cái bi đát nhất của cuộc đời, Gioan vẫn nói lên tiếng nói bất khuất của vị tiên tri. Mọi tiên tri đều phải trả giá cho lời minh chứng của mình. Gioan Tẩy Giả đã sống anh dũng, can trường với lời nói của mình. Cái đầu phải trả giá là giá nặng nề và đáng nguyền rủa nhất của vị tiên tri sau cái chết đóng đinh nơi thập giá đối với ngưới Do thái lúc đó. Gioan Tẩy giả đã tự xóa mình để cho Đấng Cứu độ lớn lên trong lịch sử nhân loại. Lời chứng và cái chết của Ngài, đã nói lên sự thật muôn đời là Gioan đã hoàn toàn đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa: ”Ngài không sợ hãi, lớn tiếng trước mặt các vua chúa. Ngài đã hiến mạng sống cho công bình và chân lý.
3. Còn vua Hêrôđê, ông là hình ảnh của những con người yếu đuối, hướng chiều theo tội lỗi. Sở dĩ ông tống ngục ông Gioan Tẩy Giả là cũng vì nghe lời Hêrôđiađê xúi giục, chứ riêng ông thì ông nể sợ Gioan Tẩy Giả vì biết Gioan là người công chính thánh thiện. Marcô viết: ”Ông che chở Người. Khi nghe ông nói, nhà vua rất phân vân nhưng lại thích nghe”. Hêrôđê chính là mẫu người yếu đuối, buông theo sự dễ dãi đến khi muốn trở lại thì đã quá trễ, không thể làm lại được nữa.
Hêrôđê để cho mình bị thú vui nhục dục che khuất, loạn luân, rơi vào cái bẫy “mỹ nhân kế” của mẹ con bà Hêrôđiađê bầy ra, rồi lỡ miệng thề thốt trong cơn say, cuối cùng để bảo vệ danh dự, ông đã phạm vào tội ác giết người vô tội. Cũng vậy, xã hội ngày hôm nay, và cách riêng mỗi người chúng ta, giữa những cám dỗ thế tục, những thú vui nơi các cuộc ăn chơi – tụ điểm múa nhảy, rồi kéo theo những hệ lụy sau đó không còn kiểm soát được. Rồi một khi, ai đó dám cảnh tỉnh chúng ta, thì thay vì quay đầu sửa lỗi, lại tìm cách ám hại người nhắc nhở mình, thậm chí sẵn sàng ám hại người khác để bịt đầu mối và bảo vệ danh dự của mình.
4. Còn bà Hêrôđiađê từng là vợ của tiểu vương Hêrôđê Philipphê (cũng là một trong ba người con của Hêrôđê Cả), do bị thánh Gioan Tẩy Giả can ngăn, làm ảnh hưởng đến chuyện tư tình của mình với Hêrôđê Antipas, nuôi lòng thù hận và đã bầy ra trò mỹ nhân kế của cô con gái rồi dùng bàn tay tình nhân để hãm hại người công chính. Bà là mẫu gương sống theo sự dữ. Đã pạm tội loạn luân, lấy em chồng của mình thì chớ, lại còn căm thù ông Gioan và muốn giết ông...
Giữa xã hội hôm nay cũng thế, nhiều người không ngại dùng nhiều thủ đoạn thậm chí còn tàn độc hơn cả Hêrôđiađê để trả thù những ai dám cản trở những cuộc tình mờ ám hay những việc làm sai trái của mình.
5. Gioan Tẩy Giả đã lên tiếng tố cáo bất công và sẵn sàng chết cho công lý. Trong ý nghĩa ấy, ngài là vị tiền hô của Chúa Giêsu, ngài qua đi nhưng tinh thần ngài vẫn còn sống mãi trong các môn đệ của ngài, và một cách nào đó, ngài cũng sống trong chính con người Chúa Giêsu và nơi mỗi người Kitô hữu. Từ 2000 năm qua, Giáo hội vẫn sống trong niềm xác tín đó. Chính tinh thần Gioan Tẩy Giả, của các Tông đồ, của các thánh Tử đạo, đã sống mãi trong Giáo hội và trở thành dây liên kết mọi Kitô hữu. Điều này luôn được Giáo hội thể hiện qua cử chỉ hôn kính hài cốt của các thánh được đặt trên bàn thờ.
Tập san Giáo hội Á châu do hội Thừa sai Paris xuất bản tháng 12/1995, có ghi lại chứng từ của một vị Giám mục: “Chúng tôi đã cất giữ hài cốt của vị Giám mục tiên khởi của Giáo hội chúng tôi. Chúng tôi tin rằng hài cốt này là thánh thiêng đối với chúng tôi, là dấu chỉ mà chúng tôi không bao giờ được phép quên lãng. Hài cốt này là sợi dây liên kết Giáo hội mọi thời, mọi nơi. Chúng tôi đã luôn nghĩ rằng chúng tôi không thể cất khỏi sợi dây liên kết hữu hình ấy. Đây là một dấu chỉ nối kết chúng tôi trực tiếp với Chúa Kitô. Làm sao người ta có thể đánh mất Chúa Kitô? Chúng tôi cất giữ hài cốt này, chúng tôi vẫn tiếp tục yêu mến Chúa Kitô và kết hợp với Người mãi mãi”(Mỗi ngày một tin vui).
6. Truyện: Một học sinh can đảm.
Suy Niệm gương thánh Gioan Tẩy Giả: tôi có can đảm và sống Lời Chúa bất chấp mọi khó khăn, mất mát không?
Một học sinh Nhật là Kitô hữu duy nhất trong ngôi trường có 150 học sinh. Trước mỗi bữa ăn, em thường mạnh dạn làm dấu thánh giá và đọc kinh. Các học sinh đến tố cáo với thầy giáo là em có “hành vi ma thuật”. Nghe thấy thế, thầy cho gọi em lên đứng giữa lớp, hỏi xem em đã làm gì?. Em thẳng thắn nói rằng em chỉ cám ơn Chúa đã ban lương thực hằng ngày. Nghe vậy, thầy giáo gục xuống bàn, nước mắt ràn rụa nói: “Này con, ta cũng là Kitô hữu, nhưng ta không can đảm tỏ ra cho mọi người biết. Giờ thì cảm ơn Chúa, ta đã biết là Kitô hữu, mình phải làm gì” (Góp mặt).
Câu chuyện về cái chết của Gioan tẩy giả gồm 4 nhân vật với những đặc điểm tâm lý khác nhau
- Hêrôđê là một người không có lập trường một đàng kính trọng Gioan nhưng đàng khác khi bị Gioan vạch tội thì căm thù Gioan; khi nghe Gioan giảng thì ông thích, nhưng khi nghe bà Hêrôđia xúi bậy thì lại bắt Gioan tống ngục; Lúc thì hứa sẽ cho cô con gái của Bà Hêrôđia bất cứ điều gì nó xin, nhưng khi nó xin cái đầu của Gioan thì ông lại buồn, nhưng không dám từ chối…
- Bà Hêrôđia một người đàn bà chạy theo đam mê bằng mọi giá bất chấp thủ đoạn phụ tình với chồng cũ, giết Gioan…
- Con gái bà Hêrôđia (nàng Salômê) không biết dùng nhan sắc và tài năng vào việc tốt, lại dùng chúng để làm tội…
- Gioan tẩy giả một ngôn sứ chính danh. Ngôn sứ là sứ giả của Lời Chúa, can đảm nói lời Chúa cho dù phải tù tội và phải chết.
B.... nẩy mầm.
1. Những dư luận về Chúa Giêsu rất khác nhau Gioan tẩy giả sống lại, Êlia, một ngôn sứ… Ngày nay cũng có nhiều dư luận về Chúa Giêsu, trong đó có những dư luận không tốt. Tôi phải làm gì để cho người ta hiểu đúng về Ngài?
2. Tên "Giêsu" nghĩa là "Chúa Cứu độ", hay nói theo ngôn ngữ thông dụng, Ngài là Đấng "cứu nhân độ thế". Người ta không quan tâm lắm đến những danh hiệu khác của Ngài (Con Thiên Chúa, Kitô Messia, Con Vua Đavít v.v.). Nếu Ngài là đấng "cứu nhân độ thế" thì ai cũng thấy cần đến Ngài bởi vì ai cũng có điều cần Ngài cứu giúp, hoặc vật chất hoặc tinh thần. Nhưng làm sao cho người ta không chỉ biết mà còn thấy rõ Ngài là Đấng cứu nhân độ thế? Giáo Hội và các môn đệ Ngài phải cho người ta thấy điều đó qua cách sống và những việc làm của mình.
3. Suy nghĩ về tính thiếu cương quyết của Hêrôđê nếu thấy một điều gì đó là đúng thì phải cương quyết làm; nếu thấy một điều gì đó sai thì cũng phải cương quyết bỏ; không chần chứ, không rút lại điều đã quyết định.
4. Suy nghĩ về những đam mê của bà Hêrôđia: đam mê là một động lực rất mạnh nhưng cũng là một con dao hai lưỡi. Nếu đam mê một điều tốt thì người ta sẽ làm được những kỳ công; nếu đam mê một điều xấu thì tai hại rất lớn…
5. Xem câu chuyện của nàng Salômê, tôi phải xin Chúa giúp tôi biết xử dụng những khả năng Chúa ban cho đúng.
6. Suy gẫm gương thánh Gioan tẩy giả, tôi có can đảm nói và sống Lời Chúa bất chấp mọi khó khăn, mất mát không?
7. Một học sinh Nhật là Kitô-hữu duy nhất trong ngôi trường có 150 học sinh. Trước mỗi bữa ăn, em thường mạnh dạn làm dấu thánh giá và đọc kinh. Các học sinh đến tố cáo với thầy giáo là em có "hành vi ma thuật". Nghe thấy thế, thầy cho gọi em lên đứng giữa lớp, hỏi xem em đã làm gì? Em thẳng thắn nói rằng em chỉ cám ơn Chúa đã ban lương thực hằng ngày. Nghe vậy, thầy giáo gục xuống bàn, nước mắt ràn rụa nói: "Này con, ta cũng là Kitô-hữu, nhưng ta không can đảm tỏ ra cho mọi người biết. Giờ thì cám ơn Chúa, ta đã biết là Kitô-hữu, mình phải làm gì." (Góp nhặt).