Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày Xép gọn trong Tuần 3-2025 Mùa Vọng

Thứ sáu - 20/12/2024 02:39
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày Xép gọn trong Tuần 3-2025 Mùa Vọng
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày Xép gọn trong Tuần 3-2025 Mùa Vọng
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày
Xép gọn trong Tuần 3-2025 Mùa Vọng
Nguồn: https://giaophanlongxuyen.org/ 

----------------------------------
Mục Lục:

Thứ 2: 3
LỜI CHÚA: Mt 21, 23-27. 3
Suy Niệm 1: Gioan là một ngôn sứ. 3
Suy Niệm 2: Ngôi sao từ trời 5
Suy Niệm 3: Chấp nhận Đấng Cứu Thế hay không. 6
Suy Niệm 4: Phép Rửa của Gioan bởi đâu mà có. 7
Suy Niệm 5: Chất vấn về quyền. 9
Suy Niệm 6: Quyền ủy nhiệm.. 10
Suy Niệm 7: Hãy khiêm tốn để được cứu độ. 11
Suy Niệm 8: Đặt vấn đề để tìm sự thật 12
Suy Niệm 9: Lấy quyền ai?. 14
Suy Niệm 10: Sống theo lẽ phải 16
Suy Niệm 11: Phép rửa của Gioan bởi đâu mà có. 19
Suy Niệm 12: Phép rửa của ông Gioan do bởi Chúa. 20

Thứ 3: 21
LỜI CHÚA: Mt 1, 1-17. 21
Suy Niệm 1: Từ Bà, Đức Giêsu được sinh ra. 22
Suy Niệm 2: Thiên Chúa thương xót 24
Suy Niệm 3: Gia Phả Của Chúa Giêsu Kitô. 25
Suy Niệm 4: Gia phả Chúa Giêsu. 27
Suy Niệm 5: Gia phả Đức Giêsu. 27
Suy Niệm 6: Gia phả của Đấng cứu độ trần gian. 28
Suy Niệm 7: Mầu nhiệm ân sủng và tội lỗi 29
Suy Niệm 8: Con Thiên Chúa nhập thể là một người thực sự. 31
Suy Niệm 9: Gia phả Đức Giêsu Kitô. 32
Suy Niệm 10: Chúa Giêsu là một con người nhân loại 34
Suy Niệm 11: Con Thiên Chúa nhập thế đi vào lịch sử loài người 35
Suy Niệm 12: Gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Đavít 37
Suy Niệm 13: Xin chỉ dạy đường khôn ngoan. 39

Thứ 4: 40
LỜI CHÚA: Mt 1, 18-24. 40
Suy Niệm 1: Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. 41
Suy Niệm 2: Triều đại công chính. 42
Suy Niệm 3: Dòng Tộc Của Chúa Kitô. 43
Suy Niệm 4: Đấng Emmanuel 45
Suy Niệm 5: Trong kế hoạch của Thiên Chúa. 46
Suy Niệm 6: Thiên Chúa ở cùng chúng ta. 47
Suy Niệm 7: Hạnh phúc khi để Chúa thực hiện điều Chúa muốn. 48
Suy Niệm 8: Khiêm tốn đón nhận và thực thi ý Chúa. 49
Suy Niệm 9: Truyền tin cho ông Giuse. 51
Suy Niệm 10: Thánh Giuse người công chính. 53
Suy Niệm 11: Chúa được sinh ra bởi Đức Mẹ. 55
Suy Niệm 12: Thủ lãnh nhà Ítraen – Đấng Cứu Độ. 57

Thứ 5: 58
LỜI CHÚA: Lc 1, 5-25. 58
Suy Niệm 1: Chuẩn bị sẵn sàng. 59
Suy Niệm 2: Thành đạt 61
Suy Niệm 3: Gioan Tẩy Giả Sinh Ra. 62
Suy Niệm 4: Truyền tin cho Zacaria. 63
Suy Niệm 5: Một Thiên Chúa đột xuất 64
Suy Niệm 6: Thiên Chúa ban ơn cho người công chính. 65
Suy Niệm 7: Báo trước việc Gioan Tẩy Giả sinh ra. 66
Suy Niệm 8: Truyền tin cho ông Giacaria. 67
Suy Niệm 9: Giới thiệu nhân vật dọn đường cho Chúa Cứu Thế. 69
Suy Niệm 10: Mọi người, và Gioan Baotixita có sứ mệnh. 71
Suy Niệm 11: Thiên thần Gabriel báo trước việc Gioan Tẩy giả sinh ra. 73
Suy Niệm 12: Mầm non từ gốc tổ Giesê. 74

Thứ 6: 76
LỜI CHÚA: Lc 1, 26-38. 76
Suy Niệm 1: Tôi đây là nữ tỳ của Chúa. 76
Suy Niệm 2: Đặt tên là Giêsu. 78
Suy Niệm 3: Ngôi Lời Ðã Hóa Thành Nhục Thể. 79
Suy Niệm 4: Truyền tin cho Đức Maria. 81
Suy Niệm 5: Hỏi hay chiêm niệm.. 82
Suy Niệm 6: “Xin Vâng”. 83
Suy Niệm 7: Một trinh nữ sẽ thụ thai 84
Suy Niệm 8: Tin rằng Chúa thực hiện lời Người muốn. 85
Suy Niệm 9: Truyền tin cho Đức Maria. 86
Suy Niệm 10: Đức Maria: nhân vật quan trọng. 89
Suy Niệm 11: Biến cố Truyền Tin. 90
Suy Niệm 12: Này Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai 93
Suy Niệm 13: Chìa khóa nhà Đavít 95

Thứ 7: 96
LỜI CHÚA: Lc 1, 39-45. 96
Suy Niệm 1: Thân mẫu Chúa tôi đến với tôi 96
Suy Niệm 2: Chúa là niềm vui 98
Suy Niệm 3: Bởi Ðâu Tôi Ðược Mẹ Chúa Viếng Thăm.. 99
Suy Niệm 4: Đi thăm bà Isave. 100
Suy Niệm 5: Chia sẻ đức tin. 101
Suy Niệm 6: Cuộc viếng thăm đầy ân sủng. 103
Suy Niệm 7: Đem Chúa đến cho người khác. 104
Suy Niệm 8: Viếng thăm bà Elizabeth. 104
Suy Niệm 9: Niềm vui được chia sẻ. 106
Suy Niệm 10: Đón nhận Chúa, chia sẻ người 108
Suy Niệm 11: Bởi đâu mà tôi được ơn này, là Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi 110
Suy Niệm 12: Đấng Emmanuen ngự đến cứu độ. 111

---------------------------------
 

Thứ 2:

Quyền phép nào?
16/12 – Thứ Hai tuần 3 mùa vọng.
"Phép rửa của Gioan bởi đâu mà có?"

 

LỜI CHÚA: Mt 21, 23-27


Khi ấy Chúa Giêsu vào Đền thờ. Lúc Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ lão trong dân đến hỏi Người rằng: "Ông lấy quyền nào mà làm những điều này? Ai đã ban quyền ấy cho ông?" Chúa Giêsu trả lời: "Tôi cũng hỏi các ông một điều. Nếu các ông trả lời cho tôi, thì tôi sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều đó. - Phép Rửa của Gioan bởi đâu mà có? Bởi trời hay bởi người ta?" Họ bàn tính với nhau rằng: "Nếu ta nói bởi trời, thì ông sẽ nói với ta: Vậy tại sao các ngươi không tin ông ấy? Và nếu ta nói bởi người ta, thì chúng ta lại sợ dân chúng. Vì mọi người coi Gioan như một vị tiên tri". Bấy giờ họ trả lời Chúa Giêsu rằng: "Chúng tôi không được biết". Chúa Giêsu nói với họ: "Tôi cũng không nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều đó".

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Gioan là một ngôn sứ


(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

“Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy?
Ai đã cho ông quyền ấy” (c. 23).
Hai câu hỏi của giới lãnh đạo tôn giáo ở Giêrusalem đặt cho Đức Giêsu.
Làm các điều ấy là vào thành thánh giữa đoàn dân tung hô vang dội,
là đuổi những người buôn bán trong Đền thờ,
là chữa bệnh và giảng dạy ở đó (Mt 21, 12-15).
Ai là Đấng đã cho ông Giêsu quyền ấy?
Đây không phải là câu hỏi để thượng tế và kỳ mục tìm thông tin.
Đây là câu hỏi để họ tìm thêm lý lẽ nhằm bắt bẻ Đức Giêsu khi có dịp.
Đức Giêsu đã không trực tiếp trả lời câu hỏi này.
Hay đúng hơn Ngài trả lời bằng cách đặt một câu hỏi khác (c. 24).
Ngài chỉ hỏi họ đúng một điều thôi, về nguồn gốc phép rửa của Gioan.
’’Do trời hay do người phàm”, do Thiên Chúa hay do loài người (c. 25).
Câu hỏi này lập tức đưa họ vào thế bị động, lưỡng nan.
Nếu do Thiên Chúa, tại sao họ lại không tin Gioan? (c. 25).
Nhưng họ lại không dám bảo phép rửa của Gioan là do người phàm,
vì dân chúng tin Gioan là một ngôn sứ (c. 26),
nghĩa là người của Thiên Chúa, người được sai để nói lời của Ngài.
Các thượng tế và kỳ mục đã không dám trả lời câu hỏi của Đức Giêsu.
Nếu nhìn nhận phép rửa của Gioan là đến từ Thiên Chúa,
thì họ cũng phải nhìn nhận Đức Giêsu,
vì Gioan làm chứng Đức Giêsu là Đấng Mêsia.
Điều này thì họ không hề muốn, vì nó đòi họ phải thay đổi cuộc sống,
thay đổi mọi lối suy nghĩ và mọi niềm tin xưa nay.
Ngược lại nếu coi thường phép rửa của Gioan, họ lại sợ dân chúng.
Họ không dám đi ngược với cái nhìn của dân, vì muốn được lòng dân.
Rõ ràng họ không có tự do để chọn một trong hai.
Đức Giêsu đã bắt họ phải công khai quan điểm của mình.
Nhưng họ đã chọn thái độ né tránh: “Chúng tôi không biết.” (c. 27).
Nói câu này trước mặt dân chúng thì quả là khó nghe và khó tin.
Làm sao họ lại không biết chuyện quan trọng đó?
Vì họ không thỏa mãn điều kiện Đức Giêsu đưa ra (c. 24),
nên Ngài sẽ không trả lời cho họ biết Ngài dùng quyền nào (c. 27).
Thành thật với chính mình thật khó biết bao!
Đón nhận sự thật với trọn cả tâm hồn đòi phải trả giá.
Sự thật bao giờ cũng đòi ta đổi đời, không để ta yên.
Chính vì thế ta thích quanh co và dễ né tránh sự thật.
Nhưng dù ta có né tránh sự thật, thì sự thật vẫn cứ theo đuổi ta luôn.
Chẳng ai làm át được tiếng nói của sự thật.
Mùa Vọng là thời gian ra khỏi bóng tối của dối trá, để đón lấy sự thật.
Chỉ cần bớt một chút cứng cỏi của tự mãn về cái tôi,
thêm một chút mềm mại của tình yêu khiêm hạ,
là ta có cơ may gặp được chân lý như đám đông dân chúng.
Và chân lý sẽ cho ta được tự do (Ga 8, 32).

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
xin dẫn con vào nhà của con,
căn nhà của trái tim,
căn nhà vừa quen vừa lạ.
Xin hãy cho con thấy
những phức tạp, rắc rối, những che đậy, giằng co,
những mâu thuẫn và vô lý nơi con.
Xin hãy cho con thấy
những nhỏ mọn, ích kỷ,
những yếu đuối, khô khan,
những cứng cỏi và tự ái nơi con.
Xin cho con ý thức
những lo âu, sợ hãi
đang đè nặng làm con ngột ngạt,
những nỗi đau thầm kín khiến đời con mất vui,
những vết thương không biết bao giờ lành,
những đổ vỡ khiến lòng con khép lại.

Lạy Chúa Giêsu,
xin giúp con dọn những bề bộn nơi tim con.
Xin biến đổi tim con, để nó trở nên đơn sơ hơn,
hồn nhiên hơn và tươi tắn hơn.
Ước gì con nhìn mọi sự, mọi người,
bằng trái tim bao dung của Chúa.
Và ước gì khi đã ra khỏi nỗi bận tâm về mình,
trái tim con được nhẹ nhàng hơn và tự do hơn
để yêu mến mọi người. Amen.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Ngôi sao từ trời


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Rời khỏi Ai cập, dân Do thái dưới sự lãnh đạo của Mô sê đã tiêu diệt Ba-san, Ốc, A-mo-ri. Thấy vậy dân Mô-áp và Ma-đi-an sợ hãi, thuê thầy pháp Bi-lơ-am đến nguyền rủa Ít-ra-en. Nhưng được Chúa mặc khải, Bi-lơ-am, thay vì nguyền rủa, lại chúc phúc cho Ít-ra-en. Thay vì hạ nhục lại tôn vinh Ít-ra-en và loan báo sẽ có ngôi sao từ nhà Gia cóp xuất hiện khiến Ít-ra-en trổi vượt các dân khác: “Vua của nó cao cả hơn A-gác, và vương quốc nó được tôn vinh”. Vua Mô-áp tức giận, nhưng vẫn không tin Lời Chúa. Vì Lời Chúa đi ngược với quyền lợi của ông.

Thời Chúa Giêsu cũng vậy. Dân chúng tin tưởng lời rao giảng của Gio-an Tẩy giả. Nhưng cấp lãnh đạo không chấp nhận. Biết rõ sứ mạng Gio-an là từ trời, họ vẫn không muốn công nhận. Nhưng họ cũng không dám chống đối công khai. Vì họ sợ dân chúng là những người tin tưởng Gio-an. Hơn nữa Gio-an làm chứng về Chúa Giê-su. Nhận Gio-an tức là nhận Chúa Giê-su. Nên giai cấp Biệt phái càng không dám công khai chấp nhận.

So sánh Bi-lơ-am với các Biệt phái ta thấy: Bi-lơ-am có thiện chí còn Biệt phái thì không. Bi-lơ-am nói theo sự thật. Biệt phái trốn tránh sự thật. Bi-lơ-am phục thiện. Biệt phái cố chấp trong sai lầm. Bi-lơ-am tôn trọng sự thật dám bỏ quyền lợi. Biệt phái bảo vệ quyền lợi nên bỏ sự thật. Bi-lơ-am để cho Thần Khí hướng dẫn. Biệt phái theo xác thịt nên chống lại Thần Khí.

Chúa đang đến với ta. Nhưng ta có nhận ra và đón tiếp được Người hay không là tùy thái độ của ta. Nếu ta theo xác thịt, không dám từ bỏ cuộc sống theo dục vọng, xác thịt, ta sẽ không gặp được Chúa. Để có tâm hồn sẵn sàng, ta phải từ bỏ lối sống theo xác thịt, hoàn toàn theo sự hướng dẫn của Thần Khí.

Lạy Chúa, Ngôi Sao Từ Trời, xin đến cứu con, cho con được sức mạnh dứt lìa thói ươn lười, ủy mị, cắt đứt những hưởng thụ, những ham mê, để mạnh mẽ sống một cuộc sống mới trong Chúa và với Chúa. Lạy Ngôi Sao Từ Trời, xin hãy đến soi sáng tâm trí để con nhận biết sự thật, soi sáng đường con đi để con không vấp ngã trên đường đến với Chúa.

---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Chấp nhận Đấng Cứu Thế hay không


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Đấng Cứu Thế đã đến trong trần gian. Nhưng ta có chấp nhận Ngài hay không là tùy ở ta có khiêm nhường và thành tâm hay không.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, vì yêu thương nhân loại chúng con, Chúa đã xuống thế làm người. Chúa đã tỏ mình ra qua lời giảng dạy và qua những việc làm đầy uy quyền. Vậy mà các thượng tế và kỳ mục vẫn không nhận ra Chúa. Vì họ đã quá kiêu căng.

Con cũng lo sợ cho chính con. Con đã để cho lòng của con đầy ắp sự kiêu căng. Con dễ dàng đánh mất sự bén nhạy trước lời ngỏ của Thiên Chúa. Con cũng dễ dàng loay hoay tìm kiếm bảo vệ quyền lợi mình. Con cũng dễ dàng để cho mình rơi vào tình trạng chán ngán và không còn đói khát sự công chính. Con cũng nhận thấy rất rõ khuynh hướng để mình đi trong mê lầm giả trá.

Chúa đã từ chối không tỏ mình ra cho những vị thượng tế và kỳ mục kiêu căng cố chấp. Xin Chúa tha thứ cho con. Xin Chúa giúp con luôn biết khiêm nhường trong cuộc sống. Xin cho con luôn được ơn biết mở rộng tâm hồn để thành tâm đón nhận chân lý và ân sủng của Chúa.

Lạy Chúa, con đang sống trong Mùa Vọng, mùa mong chờ Chúa đến. Con không mong chờ Chúa giáng sinh vì Chúa đã giáng sinh rồi. Nhưng con mong chờ Chúa đến lần thứ hai như Chúa đã hứa để hoàn tất quyền làm Chúa trên vũ hoàn. Đang khi đó, Chúa vẫn đến với con qua từng biến cố, qua từng anh em con gặp gỡ, và nhất là trong thánh lễ hằng ngày. Xin Chúa ban cho con luôn nhậy bén và hằng thức tỉnh đợi chờ Chúa đến mỗi ngày. Amen.

Ghi nhớ: “Phép rửa của Gioan bởi đâu mà có?”

---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Phép Rửa của Gioan bởi đâu mà có


(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)

Trong tập sách "Án Tử Xuân Thu" có câu chuyện kể lại tài ứng xử của Án Tử như sau:

Khi Án Tử sắp sang nước Sở, vua Sở nghe thấy bảo với cận thần rằng: - Án Tử là người có tài ăn nói của nước Tề, nay muốn sang đây, ta muốn làm nhục, có cách gì không?

Cận thần thưa: - Ðể bao giờ Án Tử sang, cận thần sẽ tìm một người, cho trói lại và dẫn người ấy đến trước mặt vua để giả làm một người nước Tề bị bắt vì tội ăn trộm.

Lúc Án Tử đến nơi, vua Sở làm tiệc thiết đãi tử tế. Ðang giữa cuộc rượu, bỗng thấy hai tên lính điệu một người bị trói vào. Vua hỏi: - Tên kia tội gì mà phải trói thế?

Lính thưa: - Tên ấy là một người nước Tề mắc phải tội ăn trộm.

Vua đưa mắt nhìn Án Tử hỏi rằng: - Người nước Tề hay trộm cắp lắm nhỉ?

Án Tử đứng dậy thưa rằng:

- Chúng tôi trộm nghe thấy rằng: cây quất mọc ở đất Hoài Nam thì là quất ngọt, đem sang cấy ở đất Hoài Bắc thì quất chua, cành lá giống nhau mà quả lại chua ngọt khác nhau là tại làm sao? Tại vì thủy thổ khác nhau vậy. Nay thân sinh ở nước Tề thì không ăn trộm, sang ở nước Sở lại sinh ra trộm cắp, có lẽ vì lý do khác nhau về thủy thổ mà nó sinh ra như vậy chăng?

Sở Vương muốn làm nhục, làm hại Án Tử nhưng rồi trước bằng chứng về sự thực mà Án Tử đưa ra để biện minh, Sở Vương đành thúc thủ chịu cái nhục. Nhờ vào sự thật mà hậu quả đã đột ngột xoay chuyển dự liệu trù tính của kẻ bày mưu. Hoàn cảnh của Sở Vương lúc này cũng phần nào giống như tâm trạng của các thượng tế và kỳ lão khi họ lên tiếng muốn bắt bẻ Chúa Giêsu.

Bài trích sách Dân Số của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay đã tường thuật cho chúng ta về hành vi của Balaam, một thầy pháp của dân Moab. Ông được trao nhiệm vụ chúc dữ cho dân Israel dân Chúa. Thế nhưng, khi được đưa lên đỉnh núi Peor, ông lập đàn tế thần chuẩn bị lời chúc dữ. Nhìn xuống doanh trại của dân Israel, được thúc đẩy bởi Thần Khí của Giavê Thiên Chúa, một sự thật không thể cưỡng lại khiến cho từ miệng ông lời chúc dữ đã trở thành lời chúc lành.

Trong bài Tin Mừng, một cách nào đó câu trả lời của các thượng tế và kỳ lão đặt ra cũng mang hình thức tìm kiếm sự thật. Tuy nhiên, mục đích của họ lại khác hẳn, họ muốn bắt bẻ Chúa Giêsu, muốn tìm cớ hại Ngài. Tuy thế, Chúa Giêsu vẫn khoan dung trước thái độ cố chấp của họ. Ngài đặt ra cho họ một câu hỏi của Ngài không phải là một sự bắt bẻ hoặc gài bẫy họ để họ có dịp trở lại nhưng Ngài muốn đặt họ trước một sự thật, đó là Gioan Tẩy Giả kẻ dọn đường Chúa đến với phép rửa thống hối.

Quay ngược thời gian trở về với Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu cũng muốn khơi dậy nơi họ khởi động niềm tin vào Ngài, vì Gioan Tẩy Giả một vị tiên tri lớn của người Do Thái, cuộc đời và lời giảng của ông không một điểm nào đáng trách, bao người đã đến nghe ông giảng và họ lãnh nhận phép rửa thống hối. Thế mà chính bản thân ông, Gioan Tẩy Giả chỉ coi mình là tiếng kêu trong sa mạc, dọn đường cho một Ðấng đến sau ông. Trước Ðấng ấy, ông không đáng cởi dây giầy cho Ngài.

Lời của Gioan Tẩy Giả không phải là một câu nói hàm ý tâng bốc nhưng là một chứng từ cho sự thật. Về sau Chúa Giêsu đã nói rõ: "Trong những con cái do người nữ sinh ra không một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả, nhưng kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn lớn hơn ông".

Tìm về Gioan Tẩy Giả và phép rửa của ông, các trưởng tế và các kỳ lão cũng được gọi để chấp nhận sự thật, thế mà họ vẫn cố chấp và ác ý. Sự cố chấp và ác ý đã khiến họ không thể trở thành môn đệ của Ngài, không được dạy bảo về Ngài.

Balaam là một người ngoại giáo nhưng ông đã thành thật, đã khuất phục trước Quyền Năng của Thiên Chúa, nên ông đã được Thiên Chúa dùng. Còn thượng tế và kỳ lão tuy thuộc dòng dõi được chọn nhưng vì cứng lòng cố chấp mà đã bị loại ra ngoài.

Trong thế giới hôm nay Thiên Chúa cũng vẫn đang đối thoại, đang mời gọi con người tìm về sự thật. Lời Ngài đã được nói qua Ðức Kitô một lần thay cho tất cả, mỗi biến cố chỉ là một nhắc nhở tìm về Lời và đối chiếu với Lời. Thái độ đứng trước Người, Lời đã khiến cho con người được thưởng hay là bị luận phạt.

Lạy Chúa, ngày xưa Chúa đến đemsự thật giải phóng chúng con, hôm nay trong tâm tình mong đợi ngày Chúa đến, xin cho chúng con biết tìm về cội nguồn sự thật để rồi sự thật sẽ soi sáng hướng dẫn hành động của chúng con và sẽ biến chúng con nên dụng cụ của Chúa dù cho thân con bất xứng chẳng đáng gì.

---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Chất vấn về quyền


Sách Lã thị xuân thu có kể câu chuyện về tài ứng đối của Án Tử như sau:

Nghe tin Tử sắp sang nước Sở, vua Sở báo với quân thần rằng: “Án Tử là người có tài ăn nói của nước Tề sắp sang đây. Ta muốn làm cho hắn bị nhục, các ngươi có kế gì không?”. Cận thần xin thưa: “Để bao giờ Án Tử sang, chúng tôi sẽ trói một người giải đến trước mặt vua, để giả làm người nước Tề và cho là phạm tội ăn trộm”.

Khi Án Tử đến nơi, vua Sở cho thiết tiệc khoản đãi. Đang giữa bữa tiệc, bỗng có hai tên lính điều một người bị trói vào, vua Sở hỏi: “Tên này tội gì mà bị trói thế?. Họ đáp: “Đó là một người nước Tề, phạm tội ăn trộm”. Vua đưa mắt nhì Án Tử và nói: “ Người nước Tề hay trộm  cắp lắm nhỉ?. Án Tử đứng dậy thưa: “Chúng tôi có nghe, cây quất mọc ở đất Hoài nam thì là thành quất chua. Cành lá giống nhau, mà quả lại chua, ngọt khác nhau là tại làm sao? Thưa là tại thuỷ thổ khác nhau. Nay người dân ở bên Tề thì lương thiện, mà sang nước Sở lại sinh ra trộm đạo, có lẽ cũng bởi thuỷ thổ nên sinh ra  đổi khác chăng.

Sở Vương muốn làm nhục Án Tử, nhưng rồi trước bằng chứng về sự thật mà Án Tử đưa ra để biện minh, Sở Vương lại đành nuốt nhục. Chính bằng chứng về sự thật mà Án Tử nêu ra, đã đột ngột  làm  xoay chuyển dự  mưu của những kẻ muốn bày trò làm nhục người khác.

Hoàn cảnh của Sở Vương phần nào giống như tâm trạng của giới thượng tế, Biệt phái và thời Chúa Giêsu, khi họ lên tiếng bắt bẻ Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay.

Một cách nào đó, câu hỏi của nhóm Thượng tế và kỳ lão đặt ra cũng mang hình thức tìm kiếm sự thật, nhưng mục đích của họ là bắt bẻ và tìm cớ hại Ngài. Chúa Giêsu vẫn tỏ ra khoan dung trước thái độ cố chấp của họ. Ngài  đặt ra cho họ một câu hỏi, không phải để bắt bẻ hay gài bẫy họ, mà là để mời gọi họ nhận chân sự thật.

Khi quay ngược lại thời Gioan Tẩy Giả Chúa Giêsu muốn khơi dậy nơi họ khởi đầu của niềm tin là: Hãy tin vào Ngài. Cuộc đời và lời giảng dạy của Gioan không những thu hút nhiều người đến nghe giảng, mà còn chịu phép rửa thống hối. Vậy mà chính bản thân ông, Gioan chỉ coi mình là tiếng kêu trong sa mạc, dọn đường cho Đấng đến sau ông. Lời của Gioan Tẩy giả chính là một chứng từ về sự thật: “Đấng đến sau tôi, quyền thế hơn tôi và tôi không đáng cởi giây giầy cho Ngài”.

Nhắc lại Gioan Tẩy Giả và phép rửa của ông là Chúa Giêsu muốn các Thượng tế và kỳ lão chấp nhận sự thật. Nhưng họ vẫn cố chấp và ác ý, khiến họ không thể trở thành môn đệ của Ngài.

Trong thế giới hôm nay; Thiên Chúa vẫn đang đối thoại, mời gọi con người tìm hiểu sự thật. Con người được cứu rỗi hay bị luận phạt tuỳ thuộc thái độ đón nhận hay khước từ lời mời gọi đó.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 6: Quyền ủy nhiệm


 (Mt. 21, 23-27)

Đức Giêsu vào Đền Thờ, và trong khi Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ mục trong dân đến gần Người và hỏi: “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Ai đã cho ông quyền ấy?” (Mt. 21, 23)

Những căng thẳng giữa Đức Giêsu và các thủ lãnh tư tế đã xảy ra. Họ khiển trách Người về những công việc Người làm mà không có quyền của ai ban cho.

Để giảng dạy trong đền thờ, phải là hàng thầy cả hay kỳ lão, phải học hành nghiên cứu và đậu bằng cấp tốt nghiệp sau thời kỳ đã được thử nghiệm. Thế mà Đức Giêsu không học trường lớn nào. Người không có bằng tốt nghiệp sư phạm hay tiến sĩ gì. Trước mặt các thầy thượng phẩm, Người không có khả năng giảng dạy trong nơi thánh. Họ kết án Người vô tài bất lực.

Họ hỏi Người: “Ông lấy quyền nào mà làm điều đó, và ai đã cho ông quyền này?”. Nói cách khác: bằng cấp ông đâu? Ủy nhiệm thư cho ông đâu? Đức Giêsu từ chối trả lời họ. Người hỏi lại họ. Câu hỏi làm họ bối rối.

Giả như Đức Giêsu cư xử cách khác, như Người nói cho họ biết Người là Con Thiên Chúa và lấy quyền Chúa Cha mà giảng dạy, thì họ có tin Người không? Chắc là không. Người xét thấy không thuận tiện để mặc khải lúc này. Vì, đối với Người, không phải có những ủy nhiệm thư hay quyền thế làm cho việc rao giảng chân lý được thích hợp thuận lợi, mà chính điều chân thật làm sáng tỏ sự thật, còn kẻ nói thì ít quan trọng.

Thiên Chúa không nhất thiết cần đến những kẻ học rộng, biết nhiều mới nói được cho chúng ta. Ngài tự nói với chúng ta qua những kẻ tin Ngài. Lời của một em bé, một cụ già, một bà mẹ có thể có giá trị quan trọng hơn lời của linh mục hay giáo sư đại học.

Lời Chúa không bị trói buộc. Lời Chúa tràn lan khắp nơi và vọt ra từ con tim tốt lành hồn nhiên hơn là từ một đầu óc nhồi sọ.

J.G

---------------------------------

 

Suy Niệm 7: Hãy khiêm tốn để được cứu độ


 (Mt 21, 23-27)

Có những câu hỏi được đưa ra để làm sáng tỏ một vấn đề nào đó! Cũng có những vấn nạn đặt ra với mong muốn được hiểu thêm kiến thức, tuy nhiên, cũng có những thắc mắc được đưa ra không phải vì ý ngay lành, nhưng mục đích để hạ gục, bắt lỗi và kết án đối phương.

Hôm nay, Đức Giêsu bị rơi vào tình cảnh thứ ba khi các Kỳ mục và Thượng tế hỏi Ngài: "Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Ai đã cho ông quyền ấy?". Đức Giêsu biết rõ sự thâm độc của họ, vì nếu Ngài nhận rằng quyền năng của Ngài do được ủy nhiệm, thì hẳn Ngài là một kẻ ly giáo và chính quyền sẽ lên tiếng vì họ sẽ gán Ngài vào cái tội gọi là phủ nhận quyền của những nhà lãnh đạo! Còn nếu Đức Giêsu nói rõ rằng: quyền đó là do Thiên Chúa trao cho Ngài, và Ngài có quyền năng như Thiên Chúa, thì Ngài sẽ rơi vào tội lộng ngôn, phạm thượng!

Khi lường trước được những hệ lụy như vậy, và “giờ” của Ngài chưa đến, nên Đức Giêsu đã hỏi ngược lại họ: “Vậy, phép rửa của ông Gioan do đâu mà có? Do Trời hay do người ta?". Nếu cái bẫy mà họ đưa ra cho Đức Giêsu để dồn Ngài vào chân tường, thì giờ đây, họ lại thay thế chỗ của Đức Giêsu khi bị Ngài hỏi ngược lại! Tuy nhiên, mục đích của Đức Giêsu thì khác họ, Ngài không muốn đẩy họ vào đường cùng, nhưng mục đích của Ngài là muốn cho họ nhận ra vai trò của Đấng Cứu Thế và giá trị đích thực của cuộc đời, hầu sám hối để được ơn tha tội.

Tuy nhiên, vẫn lòng trai dạ đá, với những mánh khóe bẩn thỉu, họ đã trả lời cách vu vơ: "Chúng tôi không biết". Nhưng khi trả lời như thế, họ đã lãnh nhận hậu quả nặng nề, vì: họ thuộc về thành phần lãnh đạo tinh thần, nên sự xuất hiện của Gioan, họ phải biết rằng ông là ai? Đằng này không biết, chứng tỏ họ vô trách nhiệm và hèn nhát vì không dám chân nhận sự thật.

Trong cuộc sống hôm nay, vẫn còn đó những hạng người hèn nhát không dám đứng ra để bảo vệ chân lý, công bằng. Họ biết đó là sai, nhưng vẫn nhắm mắt làm ngơ, chỉ vì chúa của họ là cái bụng, nên sẵn sàng bất chấp mọi sự, miễn sao đạt được mục đích rẻ tiền...

Tuy nhiên, điều những nhà lãnh đạo Dothái khi xưa không chừng lại là chính những chọn lựa của chúng ta hiện nay khi chúng ta tìm mọi lý lẽ để biện minh, bóp méo Lời Chúa để uốn nắn Lời của Ngài theo thiển ý của ta hầu phục vụ cho những việc làm xấu xa, đê tiện  của mình!

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người Kitô hữu hãy thành tâm sống khiêm tốn, bén nhạy với Lời của Chúa. Luôn tin tưởng vào quyền năng của Ngài. Tránh thái độ kiêu căng, tự mãn, ích kỷ mà vu khống, đẩy đưa người anh chị em chúng ta vào chỗ chết.

Mùa Vọng là mùa chuẩn bị đón chờ Chúa đến. Nhưng, để sự chờ mong của chúng ta thực sự có ý nghĩa, thì ngay trong giây phút này, mỗi người phải khiêm tốn, sẵn sàng đón nhận Lời Chúa, thay đổi lối sống không phù hợp với Tin Mừng để xứng đáng hưởng ơn cứu độ.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con có được tâm tình của người môn đệ là khao khát sự hoàn thiện trong việc trung thành, ngoan ngoãn vâng theo Lời Thiên Chúa. Amen.

Ngọc Biển SSP

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Đặt vấn đề để tìm sự thật


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

Phân tích

1. Chúa Giêsu bị chất vấn:

- Ai chất vấn? ”Các thượng tế và kỳ mục” (c.23). Mc 11,27 còn kể thêm các kinh sư. Như thế, những người chất vấn Chúa Giêsu gồm đủ 3 thành phần của Thượng hội đồng Do Thái giáo, tức là những lãnh tụ cao cấp nhất của đạo.

- Chất vấn về điều gì? Về quyền của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã đuổi những người buôn bán, đã chữa bệnh và nay đang giảng dạy. Và tất cả những việc đó Ngài lại làm ngay trong Đền thờ, tức là ở một nơi chính thức nhất, nơi mà người ta coi là lãnh địa riêng của những lãnh tụ tôn giáo Do Thái. Ngài không phải là tư tế, không phải là kỳ mục và cũng không phải là kinh sư. Tại sao Ngài làm những việc đó, và làm ngay trong Đền thờ?

- Động cơ của việc chất vấn: không phải chất vấn để tìm cho biết sự thật, mà chất vấn để bắt lỗi.

2. Phản ứng của Chúa Giêsu:

- Chúa Giêsu không trả lời mà hỏi ngược lại những kẻ chất vấn Ngài. Làm như thế, không phải là Ngài muốn tránh né vấn đề, mà Ngài muốn họ suy nghĩ về một vấn đề căn bản hơn: chỉ vì ganh ghét nên họ đã không đón nhận lời rao giảng của Gioan và Chúa Giêsu. Nay họ phải suy nghĩ kỹ xem sứ mạng của Gioan và Ngài là do đâu: có phải do tham vọng cá nhân hay do chính Thiên Chúa?

3. Kết cuộc: Họ không chịu suy nghĩ (vì không thích suy nghĩ vấn đề đó) nên đáp là không biết. Chúa Giêsu thấy họ không có thiện chí nên cũng không trả lời câu hỏi của họ.

Suy gẫm

1. Câu hỏi của Chúa Giêsu khiến các thượng tế và kỳ mục phải bối rối. Sự bối rối đó vạch trần lòng dạ cố chấp của họ không muốn tìm hiểu sự thật. Sự thật về phép rửa của Gioan chỉ thuộc một trong hai trường hợp: hoặc do Thiên Chúa hoặc do loài người. Nhưng họ không muốn tìm hiểu và không muốn trả lời. Nếu họ chịu tìm hiểu thì họ đã có câu trả lời và đã dám trả lời. Nhiều khi vì không muốn bỏ đi một thành kiến, chúng ta cũng không chịu khó tìm hiểu nên cũng rơi vào thái độ cố chấp tới nỗi mù quáng như vậy.

2. Có một số điều ta không thích nghĩ tới và không muốn đặt lại vấn đề, vì nếu làm thế thì ta phải sắp xếp lại cuộc sống, có thể phải từ bỏ những thói quen đã thành nếp, có thể phải khởi sự lại từ đầu. Thí dụ: cuộc sống hiện nay của tôi với những tương giao, những tham vọng, những thói quen... có gì không ổn không? Có gì phải sửa đổi? Có gì phải từ bỏ? Phải cố gắng thêm gì?... Ta không muốn nghĩ tới để ta có thể tiếp tục an phận. Nhưng Lời Chúa hôm nay mời ta can đảm đặt lại vấn đề. Có như thế ta mới đi đúng hướng và đời ta mới tốt đẹp hơn.

3. Bài đọc I là một câu chuyện rất hay nhắc nhớ chúng ta nên thoát khỏi thành kiến cố chấp, thoát khỏi danh lợi thú đang bịt mắt ta, và hãy nhìn ra sự thật: Balaam là một thày bói ngoại giáo rất nổi tiếng. Ông được kẻ thù của dân Do Thái ba lần thuê mướn với lễ vật hậu hỹ để ông đi trù ẻo người Do Thái. Cả ba lần ông đi đều bị con lừa của ông phá đám không cho thực hiện. Ông đánh nó, Chúa cho nó biết nói ra ý đồ đen tối và sự tham lam của ông. Cuối cùng ông nhận ra sự thật và đi đến doanh trại người Do Thái để tuyên sấm ca tụng họ như nội dung của bài đọc một. Ông tiên báo một vì sao sáng sẽ mọc lên, một Phủ việt của nhà vua sẽ xuất hiện: Đức Giêsu Kitô.

Lạy Chúa, xin cho chúng con nhận ra uy quyền của Chúa trên đời chúng con. Vì Ngài là Đấng uy quyền và bất biến, vĩnh cửu và toàn năng. Xin cho uy quyền của Chúa lan tỏa ra qua Lời Chúa để thay đổi tâm hồn chúng con, để cuộc sống chúng con chứng tỏ uy quyền của Chúa qua cuộc sống, qua vũ trụ và những biến cố cuộc đời.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Lấy quyền ai?


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Chúng ta biết Đức Giêsu là cái gai trước mắt các nhà lãnh đạo Do thái, họ quyết không chịu đội trời chung với Ngài. Họ căm ghét và tìm cách giết Ngài. Nhưng họ chưa dám cương quyết thi hành vì sợ dân chúng. Trong lúc chờ cơ hội, họ tìm đến mở cuộc khẩu chiến với Ngài. Họ mong kiếm tìm được lời gì có thể buộc tội hay ít ra  làm cho Ngài mất ảnh hưởng và dân chúng bớt ngưỡng mộ Ngài.

2. Hôm đó, Đức Giêsu vào Đền Thờ Giêrusalem và thanh tẩy Đền Thờ “khi đánh đuổi bọn buôn bán cùng với bò lừa ra khỏi khu vực Đền Thờ” (Mt 21,12). Các thượng tế, luật sĩ và kỳ mục họp bàn với nhau để chủ ý ghép Đức Giêsu vào tội “Lộng quyền” nhằm giết Ngài. Họ bàn bạc, sắp xếp và quyết định đưa ra một câu hỏi để chất vấn Đức Giêsu: “Ông lấy quyền nào mà làm điều ấy”? Họ cố ý dùng câu trả lời của Đức Giêsu  để kết tội Ngài. Đây là một câu hỏi không thành tâm muốn biết quyền năng của Chúa để tin Ngài nhưng thực ra lại mang một ý đồ xấu.

3. Đức Giêsu không trả lời trực tiếp câu hỏi của họ, nhưng thay vì trả lời, Đức Giêsu đặt ngược lại cho họ một câu hỏi về phép rửa của Gioan Tẩy giả: “Tôi cũng hỏi các ông một điều. Nếu các ông trả lời cho tôi, thì tôi sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyên nào mà làm các diều đó. – Phép rửa của Gioan bởi đâu mà có? Bởi trời hay bởi người ta”? Đây không phải là Đức Giêsu né tránh vấn đề, Người chỉ muốn đặt vấn đề vào đúng vị trí về sứ mệnh của Gioan Tẩy Giả, vì Gioan có thông dự vào vào việc loan báo vương quyền Thiên Chúa. Như thế nói về Gioan tức là nói về Đức Giêsu. Người đặt câu hỏi như vậy khiến những người hạch hỏi Chúa  rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan.

4. Nhưng kẻ đặt câu hỏi với Đức Giêsu biết rõ rằng: Toàn dân đã xác tín Gioan là một tiên tri  được Chúa sai đến, cho nên phép rửa của Gioan là bởi trời. Họ cũng biết chắc Ngài sẽ trách họ: ”Nếu các ông đã biết bởi trời, tại sao các ông không tin Gioan”? Còn nếu trả lời rằng của Gioan là bởi người ta, thì họ lại sợ dân chúng ném đá... Cho nên, họ trả lời Đức Giêsu: ”Chúng tôi không được biết”.

5. Sở dĩ các thượng tế và kỳ lão không nhận bằng chứng của Gioan, cũng không tin Đức Giêsu là Thiên Chúa là vì họ có thành kiến, kiêu ngạo, họ cho rằng họ biết hết, kỳ thực họ chẳng biết gì. Họ chỉ nhìn Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu theo định kiến thiển cận thấp hèn của họ. Muốn nhận biết Chúa, phải gạt bỏ mọi thành kiến.

Một vị giảng thuyết được mời đến một nhà thờ nọ. Ông được báo trước rằng một số giáo dân  thường bỏ về trước khi bài giảng kết thúc.

Bắt đầu giảng, ông loan báo: “Sáng nay, tôi sẽ nói với hai hạng người trước tiên nói với người tội lỗi, và sau đó với những người thánh thiện”.

Ông diễn thuyết cho “những người tội lỗi” được một lát, rồi ông nói họ: “Bây giờ các bạn có thể ra về”. Thế nhưng hôm đó, mọi người ở lại cho đến kết thúc bài giảng.

Thính giả như người biệt phái và luật sĩ.....

6. Trước câu hỏi này của Đức Giêsu, các thượng tế và kỳ mục đã nói “Chúng tôi không biết”. Đó không phải là trả lời mà cách nói tránh né sự thật. Họ dư biết phép rửa của Gioan là bởi trời, nhưng sợ phải nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, nên họ không dám đối diện với sự thật; vì một khi nhìn nhận vai trò của Gioan Tẩy Giả, mà Gioan Tẩy Giả là người giới thiệu Đức Giêsu, thì họ cũng phải nhìn nhận  vai trò cứu thế của Đức Giêsu như Gioan loan báo. Nếu đón nhận sự thật đó, hệ quả là các ông phải thay đổi tất cả: từ não trạng, niềm tin, đến nếp sống. Vì không muốn hoán cải nên họ đã quanh co, tránh né sự thật mà nói: ”Chúng tôi không biết”(5 phút Lời Chúa).

7. Truyện: Kẻ cắp gặp bà già.

Thời Xuân Thu chiến quốc có kể câu chuyện về vài cách ứng đối của Án Tử như sau:

Nghe tin Án Tử sắp sang nước Sở. Vua Sở bảo quần thần rằng: “Án Tử là người có tài ăn nói của nước Tề sắp sang đây. Ta muốn làm cho hắn bị nhục, các ngươi có kế gì không”? Cận thần thưa: “Để bao giờ Án Tử sang, chúng tôi sẽ trói một người nước Tề và cho là phạm tội ăn trộm”.

Khi Án Tử đến nơi, vua Sở cho thiết tiệc khoản đãi. Đang giữa bữa tiệc, bỗng có hai tên lính điệu một người bị trói vào, vua Sở hỏi: “Tên này tội gì mà bị trói thế”?  Họ đáp: “Đó là một người nước Tề, phạm tội ăn trộm”. Vua đưa mắt nhìn Án Tử và nói: “Người nước Tề hay trộm cắp lắm nhỉ”?

Án Tử đứng dậy bèn thưa: “Chúng tôi trộm nghe cây quất mọc ở đất Hoài Nam thì là quất ngọt, nhưng đem sang trồng ở đất Hoài Bắc lại thành quất chua. Cành lá giống nhau, mà quả lại chua, ngọt khác nhau là tại sao? Thưa là tại thủy thổ khác nhau. Nay người dân ở bên Tề thì lương thiện, mà sang nước Sở lại sinh ra trộm đạo, có lẽ cũng bởi thủy thổ nên sinh ra đổi khác chăng”?

Qua câu chuyện này chúng ta có thể rút ra bài học: Chúa muốn dạy ta hãy cố gắng mà đối xử tốt với nhau, đừng lấy lời nói cay đắng, độc ác mà làm trò đùa châm chích ai bao giờ. Hơn nữa, ta cũng phải cố gắng mà sống theo lẽ phải. Bởi chỉ có con đường đó thì lương tâm ta mới được vui tươi và nếu cố sống như thế ta mới được Chúa chúc phúc.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 10: Sống theo lẽ phải


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Chúa Giêsu bị chất vấn:

- Ai chất vấn? “Các thượng tế và kỳ mục” (câu 23). Theo Mc 11, 27 thì còn có cả các luật sĩ. Như thế, những người chất vấn Chúa Giêsu gồm đủ 3 thành phần của Thượng Hội Đồng Do Thái giáo, tức là những lãnh tụ cao cấp nhất của Đạo lúc đó.

- Chất vấn về điều gì? Về quyền của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã đuổi những người buôn bán (Mt 21, 12-13tt), sau đó đã chữa bệnh (Mt 21, 14) và lại còn giảng dạy (Mt 21, 23). Tất cả những việc đó Ngài lại làm ngay trong Đền thờ, tức là ở một nơi chính thức nhất, nơi mà người ta coi là lãnh địa riêng của những lãnh tụ tôn giáo Do Thái.

Ngài không phải là tư tế, không phải là kỳ mục và cũng chẳng phải là luật sĩ. Tại sao Ngài làm những việc đó, và làm ngay trong Đền thờ?

- Động cơ của việc chất vấn: không phải chất vấn để tìm cho biết sự thật, mà chất vấn để bắt lỗi.

2. Phản ứng của Chúa Giêsu:

Chúa Giêsu không trả lời mà hỏi ngược lại những kẻ chất vấn Ngài. Câu hỏi của Chúa Giêsu khiến các thượng tế và kỳ mục phải bối rối. Sự bối rối đó cho chúng ta thấy lòng dạ cố chấp không muốn tìm hiểu sự thật của họ. Sự thật về phép rửa của Gioan chỉ có thể thuộc một trong hai trường hợp: hoặc do Thiên Chúa hoặc do loài người. Trả lời bằng cách nào đây? Bằng cách nào cũng bị kẹt. Trả lời là do Thiên Chúa thì Chúa sẽ hỏi lại tại sao họ không tin Gioan. Còn nếu họ bảo là do người ta thì họ lại sợ dân chúng vì lúc đó dân chúng ai cũng tin Gioan là tiên tri, có nghĩa là người của Thiên Chúa. Chính vì thế mà họ không dám trả lời.

Rất nhiều khi vì thành kiến hoặc do tà tâm ác ý chi phối mà chúng ta cũng rơi vào thái độ hẹp hòi rồi từ đó chúng ta cũng phải đối diện với những sự thật khó xử như thế.

Án Tử sắp sang sứ nước Sở. Vua Sở nghe tin thì bảo cận thần rằng: Án Tử là một tay ăn nói giỏi ở nước Tề, nay sắp sang đây, ta muốn làm nhục hắn một phen, các khanh có cách gì không?

Cận thần thưa:

- Đợi bao giờ Án Tử sang, chúng tôi xin trói một người, dẫn đến trước nhà vua.

- Để làm gì?

- Để giả làm người nước Tề.

- Cho là phạm tội gì?

- Tội ăn trộm.

Lúc Án Tử đến nơi. Vua Sở làm tiệc thết đãi tử tế. Rượu uống ngà ngà, bỗng thấy hai tên lính điệu một người bị trói vào.

Vua hỏi: - Tên kia tội gì mà phải trói thế?

Lính thưa: - Tên ấy là người nước Tề bị bắt vì tội ăn trộm.

Vua đưa mắt vừa nhìn Án Tử vừa nói rằng: - Người nước Tề hay trộm cắp thế sao?

Án Tử đứng dậy, thưa rằng: “Chúng tôi trộm nghe cây quất mọc ở đất Hoài Nam, thì là quất ngọt, đem sang trồng ở đất Hoài Bắc, thì hoá quất chua. Cành, lá giống nhau mà quả lại chua, ngọt khác nhau là tại làm sao? Là tại thủy thổ khác nhau vậy. Nay dân sinh trưởng ở nước Tề thì không ăn trộm, sang ở nước Sở thì sinh ra trộm cắp. Có nhẽ cũng tại vì cái thuỷ thổ khác nhau nên đã hóa ra như thế chăng!

- Vua Sở cười nói: Ta muốn nói đùa mà thành phải chịu nhục. Thế mới hay kẻ cả không nên nói đùa bao giờ.

Vua Sở lập mưu làm nhục Án Tử nhưng không ngờ lại bị Án Tử quật lại thật nhục. Rõ ràng: kẻ cắp gặp bà già, vỏ quít dày có móng tay nhọn, quyết lòng ngậm máu phun người, bỗng đâu gió thổi máu rơi lại mình. Câu chuyện giữa Chúa Giêsu và những người chất vấn Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay cũng như thế.

3. Vậy thì bài học hôm nay Chúa muốn dạy chúng ta là trong cuộc sống, chúng ta hãy cố gắng đối xử tốt với nhau, đừng lấy lời nói cay đắng, độc ác mà làm trò đùa châm chích ai bao giờ. Hơn nữa chúng ta cũng phải cố mà sống theo lẽ phải. Bởi chỉ có như thế, lương tâm chúng ta mới được vui và mới được Chúa chúc phúc.

Balaam là một thầy bói ngoại giáo rất nổi tiếng. Ông được kẻ thù của dân Do Thái ba lần thuê mướn với lễ vật hậu hỹ, để ông đi trù ẻo những người Do Thái. Cả ba lần ông đi đều bị con lừa của ông phá đám không cho ông thực hiện công việc xấu xa đó. Ông đánh nó thì Chúa cho nó lên tiếng nói. Nó mắng lại ý đồ đen tối và sự tham lam của ông. Cuối cùng, ông đã nhận ra sự thật và khi đi đến doanh trại người Do Thái thay vì ông trù ẻo như kẻ thù mong muốn thì ông lại tuyên sấm ca tụng dân Do Thái. Hơn nữa, thay vì trù ẻo Balaam lại tiên báo một vì sao sáng sẽ mọc lên, một phủ việt của nhà vua sẽ xuất hiện: Đức Giêsu Kitô.

Chúng ta cũng hãy bắt chước Balaam để luôn biết nói lên những lời hay ý đẹp làm vui lòng mọi người để cuộc sống chung quanh chúng ta mỗi ngày được trở nên tốt đẹp và đầy tình người hơn. Amen.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 11: Phép rửa của Gioan bởi đâu mà có


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Thời bấy giờ, thánh Gioan Tẩy Giả xuất hiện trong dân Chúa, ngài rao giảng sự thống hối để dân chúng thực hiện mà sửa đổi cuộc đời, sống tốt thì mới gặp được Chúa khi Chúa đến viếng thăm họ. Để tỏ lòng thống hối, dân lũ lượt đến với thánh nhân để xin chịu phép rửa tại dòng sông Giođan, chính Chúa cũng đến với ngài và đã chịu phép rửa của ngài (Lc 3, 21 – 22).

Phép rửa của thánh Gioan chưa phải là bí tích Rửa tội, nhưng đó là một việc đạo đức quá tốt đẹp, quá linh thánh, giàu ý nghĩa mà chẳng một ai có thể khám phá để giải thích, để mà hiểu hết được một cách trọn vẹn, vì thế mà dân chúng tuôn đến với thánh nhân cách nờm nượp là như vậy. Do đó, tất cả dân chúng, họ quý mến, đề cao, tôn trọng thánh nhân và xem phép rửa ấy là viên ngọc quý trong lòng, trong tâm hồn của họ, không cho phép bất kỳ một ai xúc phạm đến thánh nhân và phép rửa của ngài.

Vì thế, nhân việc những người biệt phái luật sỹ hỏi Chúa là Chúa lấy quyền gì để rao giảng Tin Mừng, để làm phép lạ: “Ông lấy quyền nào mà làm những điều này, ai đã ban quyền ấy cho ông” (Mt 21, 23), Chúa không bị cuốn hút theo câu hỏi của họ mà Chúa lại hỏi ngược lại họ, nếu họ trả lời được thì Chúa sẽ trả lời lại, còn nếu họ không trả lời được thì Chúa cũng không trả lời, đó là nguyên tắc của cuộc sống, bánh ít cho đi, bánh quy trao lại, mà mọi người phải tôn trọng. Hơn nữa, họ là những người có tri thức, lãnh đạo dân Chúa cho nên họ không được phép làm càn với Chúa và với mọi người xung, nếu họ làm càn thì họ sẽ mất uy tín, mát tư cách thì sẽ anh hưởng đến mọi người, dân chúng sẽ bớt theo họ. Chúa nói: “Tôi cũng hỏi các ông một điều. Nếu các ông trả lời cho tôi, tôi sẽ nói cho các ông biết tôi lây quyên nào mà làm các điều ấy. Phép Rửa của Gioan bởi đâu mà có? Bởi trời hay bởi người ta? (Mt 21, 24 – 25).

Trước câu hỏi này của Chúa, và họ suy nghĩ: “Nếu ta nói bởi trời thì ông sẽ nói với ta: Tai sao các ngươi không tin ông ấy? Và nếu ta nói bởi người ta, thì chúng ta lại sợ dân chúng. Vì mọi người coi ông Gioan như một tiên tri. Bây giờ họ trả lời với Chúa rằng: Chúng tôi không được biết.” (Mt 21, 25 – 26). Qua đó, chúng ta thấy họ quá cứng lòng, quá chai lì, quá mưu mô, quá xảo quyệt…, họ sẽ không thay đổi được cuộc sống, sẽ không gặp được Chúa sau này, sẽ hối hận muôn đời, để rồi kết thúc bài Tin Mừng này, Chúa nói: “Tôi cũng không nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều đó” (Mt 21, 27). Như vậy là nguồn mạc khải của Chúa đối với họ bị đóng lại là do họ, và họ sẽ không biết Chúa thì họ sẽ núi tiếc đời đời.

Lạy Chúa, trong Mùa Vọng này, xin Chúa cho chúng con biết sống tốt với anh chị em của chúng con, xin đừng để chúng con trong khi chờ Chúa đến mà cứ sống khó chịu, bắt bẻ, câu mâu, xích mích từng ly từng tí với anh chị em của chúng con, xin cho chúng con biết cố gắng hợp tác với nhau, giúp nhau cùng làm việc lành, việc thiện, việc tốt cho nhau và cho người khác để chúng con loan truyền danh Chúa cho mọi người và giúp mọi người sống tốt hơn. Amen.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 12: Phép rửa của ông Gioan do bởi Chúa


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Hai Tuần 3 Mùa Vọng hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa lắng nghe lời chúng ta nguyện cầu: Ước gì khi Con Chúa ngự đến viếng thăm nhân loại, Người chiếu tỏa ánh sáng vào tâm hồn mù tối của chúng ta.

Chúa chiếu tỏa ánh sáng vào tâm hồn mù tối, nếu ta luôn biết đặt niềm trông cậy nơi Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, ngôn sứ Isaia cho thấy: Thiên Chúa ban vinh quang cho những người lưu đày. Công cuộc giải thoát con người đòi hỏi con người cộng tác chặt chẽ với Thiên Chúa. Trong ngày đó Đức Chúa sẽ băng bó vết thương cho dân Người; Người là Đấng xét xử, cũng sẽ chữa lành những chỗ nó bị thương. Hạnh phúc thay mọi kẻ đợi chờ Người. Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào! Hãy cậy trông vào Chúa.

Chúa chiếu tỏa ánh sáng vào tâm hồn mù tối, nếu ta biết đáp lại tình yêu của Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, Viện Phụ Ghilêmô, Đan Viện Thánh Thêôđôricô nói: Chúa đã yêu thương chúng con trước, để chúng con yêu mến Chúa… Tình thương của Ta đối với ngươi sẽ không thay đổi, giao ước hòa bình của Ta cũng chẳng chuyển lay. Con cái ngươi, Đức Chúa đều dạy dỗ, chúng sẽ được vui hưởng thái bình. Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, Đấng dạy ngươi những điều bổ ích, Đấng hướng dẫn ngươi trên đường ngươi đi.

Chúa chiếu tỏa ánh sáng vào tâm hồn mù tối, nếu ta biết đặt niềm tin tưởng vào Đấng Cứu Độ xuất thân từ nhà Giacóp và bước đi theo đường lối của Người, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Dân Số cho thấy: Một vì sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Ítraen. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 24, vịnh gia đã kêu xin: Lạy Chúa, đường nẻo Ngài, xin dạy cho con biết, lối đi của Ngài, xin chỉ bảo con. Xin dẫn con đi theo đường chân lý của Ngài và bảo ban dạy dỗ, vì chính Ngài là Thiên Chúa cứu độ con.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy tình thương của Chúa, và ban ơn cứu độ cho chúng con.  Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu hỏi: Phép rửa của ông Gioan do đâu mà có? Phép rửa của ông Gioan là do bởi Chúa, mọi sự đều do bởi tình yêu thương của Chúa mà ra. Tình thương và lòng ưu ái của Chúa dành cho chúng ta, đã khơi dậy nơi chúng ta: lòng yêu mến đối với Người là Đấng đã yêu thương chúng ta trước và đã yêu thương cho đến cùng. Không phải Chúa cần được chúng ta yêu mến Chúa, nhưng chính vì, nếu chúng ta không yêu mến Chúa, chúng ta không thể đạt được mục đích mà Chúa muốn khi dựng nên chúng ta. Việc Thiên Chúa phán dạy chúng ta qua Thánh Tử, không gì khác hơn là, Chúa muốn bày tỏ cách rõ ràng rằng: Chúa yêu thương chúng ta như thế nào và tới mức nào, vì đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng, đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Chính Con Một cũng yêu thương chúng ta và đã tự nộp mình vì chúng ta. Bất cứ việc gì Con Người làm, điều gì Con Người nói ở trần gian: từ những sỉ nhục, phỉ nhổ, nhuốc nhơ, cho đến thập giá và nấm mồ, tất cả không gì khác hơn là Lời Chúa nói với chúng ta qua Thánh Tử: Chúa yêu chúng ta. Chúa đã dùng tình yêu của Người, để khơi dậy và thúc đẩy lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa. Chúng ta không thể yêu mến Chúa, nếu tình yêu mến ấy không do Chúa ban cho. Chúa đã yêu thương chúng ta trước, và mọi người yêu mến Chúa đều được Chúa yêu thương trước, vì thế, chúng ta yêu mến Chúa nhờ tình yêu mãnh liệt Chúa ban cho chúng ta. Ước gì Chúa Thánh Thần, Đấng là thiện hảo, tình yêu mến và lòng nhân từ, Đấng phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con, luôn linh hứng, thu hút, và đẩy xa những gì nguy hại, để liên kết Thiên Chúa với ta và ta với Thiên Chúa. Ước gì khi Con Chúa ngự đến viếng thăm nhân loại, Người chiếu tỏa ánh sáng vào tâm hồn mù tối của ta, để ta nhận ra tình yêu của Chúa và mau mắn đáp lại. Ước gì được như thế!

---------------------------------

 

Thứ 3:

Gia Phả Của Chúa Giêsu Kitô.
17/12 – Thứ Ba tuần 3 mùa vọng.
"Gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít".

 

LỜI CHÚA: Mt 1, 1-17


Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít, con của Abraham.

Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara bởi bà Thamar; Phares sinh Esrom; Esrom sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh Salmon; Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh Giêsê; Giêsê sinh vua Ðavít.
Ðavít sinh Salomon do bà vợ của Uria; Salomon sinh Roboam; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát; Giosaphát sinh Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh Ezekia; Ezekia sinh Manasse; Manasse sinh Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh Giêconia và các em trong thời lưu đày ở Babylon.
Sau thời lưu đày ở Babylon, Giêconia sinh Salathiel; Salathiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô.
Vậy, từ Abraham đến Ðavít có tất cả mười bốn đời, từ Ðavít đến cuộc lưu đày ở Babylon có mười bốn đời, và từ cuộc lưu đày ở Babylon cho đến Chúa Kitô có mười bốn đời.

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Từ Bà, Đức Giêsu được sinh ra


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ. )

Chúng ta bước vào một giai đoạn mới để mừng lễ Giáng Sinh,
mừng Mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người cách trọn vẹn.
Làm người là có một gia phả.
Thánh Matthêu đã muốn viết một gia phả dài của Đức Giêsu Kitô,
không phải một cách hết sức chính xác và đầy đủ theo nghĩa lịch sử,
nhưng mang nặng ý nghĩa thần học.
Matthêu muốn cho thấy Đức Giêsu là con của cụ tổ Abraham,
và cuộc đời Ngài gắn kết với Ítraen, dân được tuyển chọn.
Ngài cũng là Con của vua Đavít, nên Ngài có cơ sở để là Đấng Kitô.
Làm người là sống trong dòng lịch sử một dân tộc
với tất cả những thăng trầm và biến động của nó.
Matthêu chia lịch sử dân Do-thái làm ba thời kỳ.
Thời kỳ chuẩn bị cho bước đầu của vương triều vua Đavít (cc. 2-6a),
thời kỳ trị vì của các vua thuộc dòng Đavít (cc. 6b-11),
và thời kỳ sau lưu đầy, khi vương quyền Đavít đã mai một (cc. 12-16).
Mỗi thời kỳ mười bốn đời, nghĩa là hai lần bẩy, một con số linh thánh.
Đức Kitô đã đằm mình trong dòng lịch sử này.
Ngài là người cuối của gia phả, nhưng lại là nhân vật trung tâm (c. 16-17).
Tất cả lịch sử của dân tộc Ítraen cũng là lịch sử cứu độ.
Dòng lịch sử cứu độ này đã lên đến tuyệt đỉnh nơi Đức Giêsu Kitô.
Nơi Ngài, Thiên Chúa đã đưa lịch sử nhân loại đến chỗ thành tựu.
Trong gia phả Đức Giêsu có tên một số phụ nữ.
Đó là chuyện lạ, vì người Do-thái thường chỉ để tên người cha.
Trừ Đức Maria, bốn phụ nữ kia đều có gốc dân ngoại.
Ta-ma và Ra-kháp gốc Canaan, Rút gốc Mô-áp, vợ Urigia người Hít-tít.
Các phụ nữ này đều có hoàn cảnh khác thường.
Ta-ma giả làm điếm để ngủ với cha chồng là Giu-đa,
hầu sinh con cho nhà chồng (St 38).
Ra-kháp là một cô điếm ở Giêricô, đã giúp Giosuê chiếm Canaan (Gs 2).
Bét-sa-bê, vợ của Urigia, đã ngoại tình và lấy vua Đavít (2Sm 11-12).
Rút đã lấy ông Bô-át là người bà con gần, để nối dõi cho chồng (R 1-4).
Đức Giêsu đã là con cháu của các phụ nữ khác thường này.
Ngài cũng mang trong mình chút dòng máu của dân ngoại.
Cuộc sinh hạ của Đức Kitô cũng khác thường.
Mátthêu diễn tả một cách tinh tế như sau:
“Gia-cóp sinh Giuse, chồng của bà Maria,
từ bà Đức Giêsu được sinh ra, cũng gọi là Đức Kitô” (c. 16).
Như thế Con Thiên Chúa đã có một người mẹ để trọn vẹn là người.
Ngài có cha nuôi là thánh Giuse để được thuộc về dòng Đavít.
Làm người cần được sống trong bầu khí gia đình để lớn lên.
Gia phả của Đức Giêsu nhắc tôi về gia phả của chính mình.
Cũng với những bóng tối của lưu đày, với bao bất thường và vấp ngã.
Chỉ mong trong cuộc đời tôi, gia đình tôi, dân tộc tôi, có mặt Giêsu.
 
Cầu nguyện:

Lạy Cha từ ái,
đây là niềm tin của con.
Con tin Cha là Tình yêu,
và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con.
Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa,
cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt,
cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân,
con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái.
Con tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại,
chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.
Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất
cũng có một đốm lửa của sự thiện,
được vùi sâu dưới những lớp tro.
Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành
cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ.
Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,
thế giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.
Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.
Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu.
Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ
đang chuyển mình tiến về với Cha,
qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu
và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần.
Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,
vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng,
mọi dị biệt, thành kiến,
để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời
mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.

Lạy Cha, đó là niềm tin của con.
Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.
 
-------------------------------

 

Suy Niệm 2: Thiên Chúa thương xót


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Bản gia phả dài dằng dặc khô khan. Nhưng lại mặc khải những điều trọng đại.

Thiên Chúa làm chủ lịch sử. Gia-cóp chúc phúc cho Giu-đa. Tiên báo Chúa Cứu Thế sẽ sinh bởi dòng tộc Giu-đa (Bài đọc 1). Lời tiên báo đó được ứng nghiệm nơi Chúa Giê-su. Nhưng để ứng nghiệm, lời tiên báo đó vượt qua biết bao thăng trầm. Tội lỗi của Rưu-ven, Si-mê-on và Lê-vi khiến phúc lành rơi xuống Giu-đa. Giu-đa nhờ toan tính loạn luân của Ta-ma mà có con cháu nối dõi. Đa-vít chiếm vợ của U-ri-gia nhưng lại có Sa-lô-mon kế nghiệp. Tội lỗi không thắng được thánh thiện. Phản bội không thắng được trung tín. Hận thù không thắng được tình yêu. Thiên Chúa thanh tẩy lịch sử tội lỗi. Con Chúa sinh ra đời làm nên một lịch sử mới. Một nhân loại mới.

Thiên Chúa là Lòng Thương Xót. Bản gia phả dài kéo dài lâu đời cho thấy tình yêu của Chúa. Tình yêu lớn lao trong một chương trình hoàn hảo. Ba lần 14 đời. Mỗi lần là 2 lần 7 triều đại. Số ba và số bảy cho thấy sự hoàn hảo của kế hoạch. Chương trình càng dài càng tiêu tốn tâm cơ trí lực. Càng chứng minh tình yêu lớn lao. Thiên Chúa yêu thương nên cho con người giống hình ảnh Người. Nhưng con người không giữ nổi hình ảnh Thiên Chúa. Thì Thiên Chúa quá yêu nên đành mặc lấy hình ảnh con người. Mặc lấy thân phận con người yếu đuối mỏng dòn. Gánh lấy tội lỗi con người. Tình yêu lớn lao biến thành Lòng Thương Xót. Biết bao lần con người tội lỗi muốn làm hỏng kế hoạch. Chúa lại kiên tâm sửa chữa. Khoan dung độ lượng biết bao. Chúa Giê-su là điểm đến của một quá trình. Một tình yêu kiên vững lâu dài của Thiên Chúa. Một lịch sử tràn đầy tội lỗi phản bội của con người. Chúa Giê-su gánh trên vai gánh nặng của cả nhân loại. Khiêm nhường biết bao. Yêu thương biết bao.

Tôi hãy tin tưởng. Dù tôi yếu đuối tội lỗi Chúa vẫn yêu thương. Dù tôi làm sai Chúa sẽ sửa chữa. Tôi có vấp ngã Chúa sẽ nâng dậy. Và để đền đáp tôi cũng phải đối xử với anh em như Chúa đối xử với tôi. Hãy bao dung độ lượng trước những yếu đuối. Hãy gánh lấy gánh nặng của anh em. Hãy uốn nắn dòng lịch sử bằng tình yêu, lòng trung tín và lòng thương xót.

 --------------------------------

 

Suy Niệm 3: Gia Phả Của Chúa Giêsu Kitô


(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)

Ðể ứng nghiệm Lời Chúa hứa ban ơn cứu chuộc sau khi Adam và Eva tổ tiên con người phạm tội, Kinh Thánh đã có câu: "Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta".

Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Matthêu đã kể lại gia phả của Chúa Giêsu để gợi lên cho chúng ta biết rằng, Thiên Chúa đã chuẩn bị chương trình cứu rỗi của Ngài trải qua dòng thời gian rất lâu dài, chu đáo và kỹ lưỡng. Thiên Chúa đã chọn tổ phụ Abraham là mẫu gương cho những ai tin Ngài và Abraham được gọi là cha các kẻ tin. Ðức tin là điều kiện tiên quyết khi chúng ta gia nhập vào Giáo Hội Công Giáo. Chính khi bắt đầu gia nhập vào Giáo Hội, Linh Mục hỏi: "Con xin gì cùng Hội Thánh". Chúng ta thưa: "Thưa, con xin đức tin".

Khi Thiên Chúa gọi Abraham ra đi để làm cha các dân tộc dù ông đang ở tuổi già. Thường ở lứa tuổi này ít ai dám mạo hiểm xông pha để khám phá những nơi rừng núi nguy hiểm đang đón chờ mà trí óc già cả lẩm cẩm không thể dễ dàng suy tính nhanh nhẹn, xoay sở, ứng biến y như hồi còn trẻ được. Thiên thần với hình dáng của một người qua đường đến báo với ông rằng bà Sara, vợ ông mặc dù đã già nhưng vào thời kỳ này qua năm bà sẽ sinh con, và Sara cười có vẻ mỉa mai vì không tin, nhưng ông, ông vẫn tin tưởng việc Chúa làm.

Rồi khi sinh được đứa con trai duy nhất là Isaac, Thiên Chúa lại muốn thử thách lòng tin của ông một lần nữa, Ngài truyền đem Isaac lên núi để hiến tế. Dù rất đau lòng vì tình phụ tử dạt dào nhất trong cảnh cha già con muộn, Abraham vẫn lẳng lặng cúi đầu, cặm cụi mò mẫm lê tấm thân già nua cùng với đứa con leo lên núi cao để sát tế con độc nhất của mình dâng cho Thiên Chúa. Từ lòng tin kiên vững và sâu xa đó, Abraham đã được hưởng lời Chúa hứa: "Abraham là cha các dân tộc đông đúc như sao trên trời, như cát dưới biển". Dòng họ này kế tiếp dòng họ kia, từ Abraham đến vua David có mười bốn đời, từ vua David đến thời kỳ lưu đày ở Babylon gồm có mười bốn đời. Tổng cộng từ Abraham đến Chúa Giêsu là đời thứ bốn mươi hai.

Ðiểm thứ hai trong bài Tin Mừng hôm nay gợi lên một cái nhìn chân xác: "Xem quả thì biết cây". Cây tốt sinh trái tốt. Không thể tìm hoa hồng nơi bụi cỏ gai rậm rạp được. Chúng ta cũng thường nghe nói: "Hổ Phụ Sinh Hổ Tử", cha mẹ hiền lành chắc hẳn con cái không hung dữ được, hoặc "con nhà tông không giống lông cũng giống cánh".

Là người Kitô hữu thì tất cả mọi người đều là anh em với nhau, có Thiên Chúa là Cha, Ngài là Ðấng nhân từ, khoan dung, yêu thương và đầy lòng tha thứ. Chúng ta học theo tính tình người Cha, bắt chước Cha để trở nên khoan dung độ lượng, yêu thương và tha thứ. Không một lý do gì mà chúng ta không ăn ở thuận hòa với nhau trong cuộc sống, không một lý do gì mà chúng ta không yêu thương hiệp nhất nối kết chúng ta lại với nhau trong tình yêu của một Cha chung. Những thiếu sót, khuyết điểm lầm lỗi của nhau không còn cản trở tình thương đang đổ chan hòa trên chúng ta là con cái yêu thương của một người Cha nhân từ. Yêu nhau không phải là nhìn nhau nhưng là cùng nhìn về một hướng, hướng đó là hướng đích điểm nhắm về Cha là Thiên Chúa. Ðừng để những gai nhọn hai bên đường làm chúng ta mất thì giờ dừng lại trên con đường dài thăm thẳm tiến về Nước Trời để rồi chúng ta không tiến bước được về nhà Cha là nơi Cha vĩnh cửu luôn yêu thương và chờ đón chúng ta.

Lạy Chúa, xin cho chúng con ý thức được Chúa đã chuẩn bị chương trình cứu rỗi yêu thương của Thiên Chúa như thế nào đối với nhân loại, trong đó có chúng con để chúng con cố gắng sống xứng đáng với lòng yêu thương mà Chúa đã dành cho chúng con.

Lạy Chúa, Chúa đã chọn Abraham làm cha các kẻ tin. Xin ban cho chúng con có một niềm tin kiên vững và mạnh mẽ để chúng con tìm thấy thánh ý Chúa trong cuộc sống hằng ngày trên con đường tiến về quê trời. Không phải chúng con tìm thấy hoa nở hai bên đường nhưng xin Chúa ban thêm nghị lực, kiên nhẫn, bình an và lạc quan để chúng con vững bước về với người Cha đầy thân yêu nhân ái đang chờ đón chúng con. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Gia phả Chúa Giêsu.


Bài Tin mừng hôm nay đề cập đến ba danh hiệu trọng đại: Abraham, Davít, Giêsu. Abraham là người đã lãnh nhận lời hứa và đức tin để trở thành  cha của những kẻ tin. Davít là người đã nhân danh Chúa các đạo binh chiến đấu cho Đấng Tối cao và biến Yêrusalem nên thành trì Thiên Chúa. Chúa Giêsu  là Đấng đã đích thân thực hiện mọi lời hứa, hình thành một dân tộc ưu tú gồm những kẻ tin vào Ngài, chiến thắng quân thù thiêng liêng của Thiên Chúa, xây đắp Yêrusalem mới và vương quốc thiêng liêng.

Qua việc Ngôi Lời Nhập thể làm người, Thiên Chúa đã hạ mình xuống giữa nhân loại, mang lấy giòng lịch sử và quá khứ của nhân loại cũng như thừa kế gia tài qua các thế hệ. Đó là bản lý lịch chính thức. Xét theo máu mủ, Ngài sinh ra từ dòng dõi Davít, thuộc về một dân tộc, trong đó không thiếu những bậc tổ tiên là người tội lỗi và người ngoại giáo, như Davít, Salomon, Tamar, Rahab, Bethsabê, Ruth. Đó là những yếu tố rất tầm thường, nhưng đã được Thiên Chúa dùng để thực hiện chương trình của Ngài, vì Thiên Chúa đã hứa và trung thành hoàn tất lời hứa.

Như thế, bên trong bản gia phả khô khan, đã hàm ngụ một Tin mừng “Thiên Chúa đã nhập thể trong Đức Kitô” bất chấp những khiếm khuyết và tội lỗi của nhân loại. Bài mở đầu Tin mừng Mathêu còn gây cho ta một xác tín: Thiên Chúa có thể nhìn đến và sử dụng chúng ta, không gì có thể cưỡng lại được ý định của Ngài, dù đó là quá khứ đen tối hay sự bất toàn của chúng ta. Bởi vì trong Đức Kitô, Đấng được xức dầu của Thiên Chúa, những gì hèn hạ đã trở nên cao trọng, những gì xấu xa được thanh tẩy, những gì vô nghĩa mặc một giá trị, và những gì trần tục sẽ được thần linh hoá.

---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Gia phả Đức Giêsu


Bạn tự hỏi chắc có ý nghĩa gì đó khi kể một chuỗi tên như vậy. Tại sao phụng vụ không in bài khác đơn giản và hay hơn bài này? Tuy nhiên, nếu chúng ta nhìn kỹ hơn, bài này có thể giúp chúng ta hiểu hơn về mầu nhiệm Giáng sinh.

Bạn thấy có một sự sắp xếp khá rõ của thánh Mát-thêu: Trong gia phả của Đức Giêsu được chia làm sáu chuỗi, mỗi chuỗi có bảy tên. Đức Giêsu Kitô đứng đầu chuỗi thứ bảy mà chưa có tên ai, nghĩa là Người đứng đầu một chuỗi mới của một thời đại mới có vô số vô cùng tên chưa thể kể hết được.

Thật quá rõ, ngôn ngữ Kinh thánh là tiếng nói biểu tượng, là một thứ tượng từ: Những tên nơi chốn, tên người có một ý nghĩa nào đó. Những con số và vị trí của số đều có ngụ ý. Số bảy ngụ ý toàn hảo, toàn bích, toàn vẹn.

Thánh Mát-thêu đã sắp xếp gia phả của Đức Giêsu cho chúng ta tìm thấy ý nghĩa của con số bảy. Mỗi một chuỗi tên đầu toàn hảo, hoàn toàn: Chuỗi của Áp-ra-ham, chuỗi các thẩm phán, chuỗi các vua. Đức Giêsu đứng đầu chuỗi thứ bảy là chuỗi hoàn hảo trọn vẹn, Người đến làm hoàn hảo lịch sử tôn giáo của dân tộc được tuyển chọn, Người đến khởi đầu một thời đại mới đầy hứa hẹn tốt hơn, hoàn toàn hoàn hảo.

Nhờ Đức Giêsu đứng đầu chuỗi thứ bảy, chúng ta được ghi tên vào chuỗi của Người. Chúng ta được cưu mang bởi Đức Giêsu để sinh ra làm con Thiên Chúa. Chúng ta được đồng phận với Người trong sự chết và sống lại. Chúng ta là dòng dõi của Đức Kitô.

Nhờ Đức Kitô, chúng ta là thừa tự của những người tin đầu tiên là Áp-ra-ham, I-sa-ác, Gia-cóp. Nhờ Đức Kitô, chúng ta được hưởng gia nghiệp tình yêu của Thiên Chúa đang hiện diện giữa lòng lịch sử như thời Đa-vít, Sa-lo-môn, thời toàn thể dân tộc Do thái. Chúng ta được hưởng toàn vẹn gia nghiệp đó, nhưng với cái nhìn của một dòng dõi khác, dòng dõi được đổi mới, được nên chi thể của Thánh thể toàn vẹn của Đức Kitô.

Gia phả của Đức Giêsu hướng chúng ta trở về nguồn gốc của Kitô giáo, đó là: chúng ta là dòng dõi của Đức Kitô, chúng ta chuẩn bị thời đại cuối cùng, thời đại biểu lộ toàn vẹn, chúng ta sửa soạn một lễ Noel cuối cùng: Đấng sẽ là tất cả trong mọi sự, hiện diện ở mọi tạo vật.

C. G

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 6: Gia phả của Đấng cứu độ trần gian


Ngày nay, nhiều dòng họ đã lưu lại gia phả của họ tộc mình, nhằm lưu truyền cho hậu thế và để cho con cháu biết đến tổ tiên của dòng tộc mình.

Đức Giêsu khi mang lấy bản tính nhân loại, Ngài cũng có một dòng tộc trong lịch sử loài người, vì thế, hôm nay, bài Tin Mừng ghi lại gia phả của Đức Giêsu để xác minh tính chất kỳ diệu của mầu nhiệm cứu chuộc.

Thánh sử Mátthêu trình bày gia phả của Đức Giêsu thành 3 nhóm kép, mỗi nhóm kép chia làm hai nhóm đơn, mỗi nhóm đơn có tên của bẩy người. Kết thúc nhóm kép ba và cũng là khởi đầu một nhóm khác chính là tên Đức Giêsu.

Như vậy, đầu nhóm thứ bẩy này chính là tên của Đức Giêsu, điều này cho thấy: Đức Giêsu  chính là Đấng đứng đầu của một chuỗi lịch sử mới, một thời đại mới được mở ra và con số không giới hạn.

Đức Giêsu đứng đầu chuỗi thứ bẩy trong tư cách là Trưởng Tử, đồng thời cũng nói lên một sự trọn vẹn, vì theo nghĩa ngôn ngữ của Kinh Thánh, con số bẩy được hiểu là con số hoàn hảo. Vì thế, khi chúng ta đứng trong hàng ngũ những người được chọn, chúng ta sẽ được lãnh nhận dồi dào ân sủng trong Đức Giêsu. Bởi vì, Đức Giêsu đến để kiện toàn lịch sử cũ và khai sinh một thời đại mới, thời đại của Ngôi Lời, ân sủng và tha thứ.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta hồng ân đặc biệt này là: nhờ Đức Giêsu là Trưởng Tử của chuỗi thứ bẩy, mà mỗi người chúng ta khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được sáp nhập vào chuỗi của Đức Giêsu, tức là chuỗi của những người được giải thoát, tha thứ và cứu chuộc. Cũng chính từ đây, dòng máu của Đấng là Đầu được được lưu truyền trong con người của những ai tin và sáp nhập vào đoàn dân mới của Đấng Cứu Thế, tức là dân Kitô giáo.

Như vậy, qua gia phả của Đức Giêsu, một mặt hướng chúng ta về nguồn cội một dân tộc thánh được ân sủng của Thiên Chúa gội rửa mọi tội lỗi, để từ nơi đó, xuất hiện Đấng Xóa Tội Trần Gian; mặt khác, từ nơi nguồn cội đó, xuất hiện Đấng Cứu Tinh là Đức Giêsu, Ngài đến nhằm thiết lập một dân tộc mới để đồng hành và giải thoát chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con mỗi khi mừng đại lễ Giáng Sinh, luôn biết nhìn về nguồn cội của lịch sử cứu độ để tạ ơn, chúc tụng vì những điều kỳ diệu Chúa đã làm nơi lịch sử nhân loại, đồng thời luôn ý thức mình thuộc về Chúa, để hãnh diện và sống xứng đáng hồng ân cao quý này. Amen.

Ngọc Biển SSP

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 7: Mầu nhiệm ân sủng và tội lỗi


Hôm nay, Phụng vụ Giáo Hội chuyển sang phần hai của Mùa Vọng. Tức là thời gian chuẩn bị cho việc đón Chúa trở nên gần hơn trước. Tuy nhiên, Tin Mừng hôm nay giới thiệu cho chúng ta biết về gia phả của Đức Giêsu, không chỉ nhằm mục đích cung cấp cho chúng ta thông tin về lai lịch dòng tộc của Đức Giêsu, mà còn mặc khải cho chúng ta biết về tình thương và ân sủng của Thiên Chúa ngang qua mầu nhiệm về tội lỗi của dòng tộc này. Mặt khác, cũng cho chúng ta thấy lối nhìn và cách hành xử của Thiên Chúa khác xa lối nhìn và suy nghĩ của con người.

Toàn bộ gia phả cho thấy: lòng từ bi của Thiên Chúa trải dài qua muôn thế hệ. Vì thế, cách thế Người gọi và chọn những người cộng tác trong chương trình này cũng rất đặc biệt. Không nằm trong lý luận của con người. Chẳng hạn như việc tổ phụ Abraham, thay vì ông chọn trưởng tử Ismael, con của bà Aggar, thì lại chọn Isaac là đứa con của lời hứa, con của bà Sara, vợ của ông. Rồi, đến lượt Isaac muốn chúc lành cho trưởng nam Esau, nhưng rốt cuộc đành chúc lành cho Giacóp, theo một ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa. Hay như Giacóp, đã không chọn Ruben, con trưởng, hoặc chọn Giuse, người được ông yêu thương nhất, hơn nữa Giuse cũng là người tài giỏi, có tình thương và đại lượng hơn mọi anh em khác, nhưng Giacóp lại chọn Giuđa là người đã bày binh bố trận bắt cóc Giuse và bán sang Aicập!

Sang thời quân chủ, chúng ta thấy các vua trước lưu đầy nằm trong gia phả đa số là những người tội lỗi, bất nhân, thất trung, chỉ có hai vị trung thành với Thiên Chúa mà thôi, đó là: Ezechiel và Geroboam. Sau thời lưu đầy cũng chỉ có hai là vua: Salathiel và Zorobabel.

Ngay cả vua thánh Đavít, người được nhắc đến nhiều cũng là người mang trong mình tội lỗi!

Rồi đến các phụ nữ, chúng ta thấy các bà cũng đại đa số là những người bất hợp luật như: Tamar là một phụ nữ tội lỗi, Racab là một gái mại dâm, Rut là một người ngoại bang và người đàn bà cuối cùng được nhắc đến trong gia phả chính là Betsabea mà vua Đavit đã ngoại tình.

Như vậy, trong gia phả của Đức Giêsu, chúng ta có thể ví như là một dòng suối ô nhiễm, nó chỉ được trở nên trong sạch, tinh tuyền khi có sự xuất hiện của Đức Maria, thánh cả Giuse, Đức Giêsu. Khi Đức Giêsu xuất hiện, chúng ta thấy dòng suối cứu độ được chảy ngược dòng và xuôi dòng để gội sạch tội lỗi của tổ tiên trong quá khứ cũng như hậu sinh sau này.

Khi đọc lại gia phả của Đức Giêsu, chúng ta khám phá ra ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa trong việc bày tỏ tình thương của Người ngay trong lịch sử gồm nhiều người tội lỗi, và như thế, chúng ta có quyền hy vọng vào tình thương của Ngài, mặc dù chúng ta đều là những người bất xứng ... Hơn nữa, chúng ta được nhập đoàn không phải với những người tội lỗi, nhưng với đoàn dân, những người mang trong mình niềm hy vọng cứu chuộc.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cất cao lời tạ ơn Chúa vì Ngài đã làm nên những điều kỳ diệu trong lịch sử cứu độ, mà chúng ta là những thành phần trong lịch sử mầu nhiệm này.

Mặt khác, mời gọi chúng ta có lòng cảm thông với những người tội lỗi và giúp họ vươn lên trong ân sủng của Thiên Chúa vì: ở đâu tội lỗi tràn đầy, thì ở đó ân sủng của Thiên Chúa chứa chan gấp bội. Bởi lẽ, thánh nhân nào cũng có quá khứ và tội nhân nào cũng có tương lai.

Như vậy, chúng ta nhận thấy rõ rằng: không ai và không có gì có thể ngăn cản được tình yêu của Thiên Chúa.

Hơn nữa, qua trình thuật về gia phả của Đức Giêsu, chúng ta thấy rất rõ hoàn toàn không phải do công trạng của người này hay người kia mà Thiên Chúa ban ơn cứu độ, nhưng chính yếu là do lòng thương xót của Thiên Chúa.

Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con. Tình thương Chúa thật bao la và lòng từ bi Chúa vô tận. Xin Chúa ban cho chúng con ý thức mình bất xứng nhưng lại được Thiên Chúa yêu thương. Từ đó chúng con luôn mang trong mình niềm hy vọng được Chúa cứu độ. Amen.

Ngọc Biển SSP

 ------------------------------

 

Suy Niệm 8: Con Thiên Chúa nhập thể là một người thực sự


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Gia phả của Chúa Giêsu chứng tỏ Con Thiên Chúa nhập thể là một người thực sự trong lịch sử Dân Chúa. Qua các thời đại, Thiên Chúa là Đấng trung thành đã thực hiện lời hứa cứu độ.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, gia phả của Chúa Giêsu tạo ra cảm tưởng dài lê thê với những tên tuổi xa lạ vô nghĩa đối với con. Nhưng chính cảm tưởng dài lê thê ấy lại cho con phần nào cảm nhận được rằng lịch sử Dân Chúa là những tháng ngày dài đằng đẵng mong đợi Chúa đến. Lịch sử càng dài, nỗi niềm mong đợi càng mãnh liệt, không biết Chúa có đến cứu độ như lời đã hứa chăng.

Con biết Chúa là Đấng trung thành, vẫn âm thầm từng bước thực hiện chương trình cứu độ. Mỗi một người sinh ra, tưởng chừng như tự nhiên, tình cờ, tầm thường, nhưng thực ra là một mắt xích quan trọng trong chương trình của Chúa. Thậm chí tổ tiên của Chúa Giêsu cũng có nhiều kẻ tội lỗi, họ cũng có một chỗ đứng trong lịch sử cứu độ.

Lạy Chúa, Chúa Giêsu đã đến trần gian, nhưng lịch sử cứu độ vẫn diễn tiến xuyên qua cuộc đời chúng con. Con cảm tạ Chúa vì đã gọi con vào đời góp phần làm nên lịch sử cứu độ. Trong chương trình của Chúa có tên của con. Dù con tầm thường nhỏ bé, dù con tội lỗi yếu hèn, nhưng con biết rằng con có mặt trên đời chẳng phải là điều ngẫu nhiên tình cờ hoặc bất đắc dĩ, nhưng vì Chúa muốn. Con cảm tạ Chúa và xin hứa sẽ chu toàn sứ mạng trong chỗ đứng mà Chúa đã đặt con vào. Thật ra, con có quá nhiều tội lỗi yếu hèn, đôi lúc phá vỡ chương trình của Chúa. Nhưng con tin Chúa vẫn đang âm thầm hướng dẫn lịch sử cứu độ đến chỗ hoàn thành tốt đẹp. Xin Chúa hoàn tất những điều tốt đẹp Chúa đã khởi sự nơi con. Amen.

Ghi nhớ: ”Gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít”.

------------------------------

 

Suy Niệm 9: Gia phả Đức Giêsu Kitô


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Thánh Matthêu viết lại gia phả Đức Giêsu là để giới thiệu: Đức Giêsu là Đấng muôn dân trông đợi, Đấng mà các tiên tri của dân Do thái loan báo trước, Ngài là con người thật. Ngài cũng có dòng dõi tổ tiên như chúng ta. Ngài được sinh ra và thuộc về một dân tộc như chúng ta. Tuy nhiên, bản gia phả không nói: ông Giuse sinh ra Đức Giêsu, nhưng lại nói: “Ông Giuse chồng bà Maria, bà là Mẹ Đức Giêsu, cũng gọi là Đấng Kitô”. Điều đó cho thấy Ngài còn có nguồn gốc là Thần linh. Ngài được thụ thai không theo kiểu loài người nhưng do quyền năng của Thánh Thần. Vì thế, Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là người thật.

2. Qua gia phả mà thánh Matthêu kể lại chúng ta thấy từ tổ phụ Abraham đến vua Đavít là mười bốn đời, từ Đavít đến thời lưu đầy ở Babylon là mười bốn đời, và từ thời lưu đầy đến Đức Kitô cũng là mười bốn đời. Gia phả cho ta thấy Đức Giêsu là con người thật, con người lịch sử. Ngài cũng có dòng dõi tổ tiên như chúng ta. Ngài được sinh ra thuộc về một dân tộc như chúng ta. Ngài có cha có mẹ hợp pháp theo lý lịch như chúng ta.

3. Trong suốt chiều dài lịch sử, qua gia phả Đức Giêsu, chúng ta thấy Đức Giêsu sinh ra làm người trong một dòng tộc gồm có kẻ tốt người xấu, kẻ có đạo người ngoại giáo, kẻ tốt như Abraham, Isaác, Giacóp; người xấu và ngoại đạo như Tama đã lấy cha chồng, Rakháp là một kỹ nữ, Bétxêba là người đàn bà ngoại tình ... Điều đó chứng tỏ Thiên Chúa chấp nhận làm người trong thân phận thấp hèn của họ để cứu chuộc họ, và đây là dấu chỉ tính phổ quát của ơn cứu độ.

4. Chúng ta nên lưu ý: trong bản gia phả, thánh Matthêu thường dùng cụm từ “cha sinh con”, nhưng khi đến thánh Giuse, bản gia phả không nói: ông Giuse sinh ra Đức Giêsu, mà viết: ”Giacóp sinh Giuse, chồng của bà Maria, bà là mẹ Đức Giêsu cũng gọi là Đấng Kitô” (Mt 1,16). Điều đó cho thấy Đức Giêsu còn có nguồn gốc Thần linh. Ngài được sinh ra không theo kiểu loài người nhưng do quyền phép của Thiên Chúa. Như vậy, thánh Giuse không là cha sinh ra Đức Giêsu nhưng chỉ là cha nuôi, cha trên lý lịch, nhờ đó Đức  Giêsu được thừa hưởng danh hiệu “con cháu của vua Đavít”.

5. Lịch sứ cứu độ qua những nhân vật bất xứng làm nên gia phả Đấng Cứu Thế, gợi cho chúng ta sự xác tín rằng: dù chúng ta tội lỗi, bất xứng, nhưng chúng ta không mặc cảm, mà vững tin tình yêu cứu độ của Thiên Chúa.

Chúa không thực hiện việc cứu độ loài người từ trời cao. Người có thể và dư quyền để làm việc đó. Nhưng để cứu loài người, Chúa đã nhập thể và nhập thế để từ đó Chúa đưa loài người sa ngã đứng lên. Con Thiên Chúa chấp nhận làm con cháu của người phàm, trong đó có cả những người tội lỗi. Ngài đã đón nhận và liên kết với con người, với cả những lỗi lầm và thiếu sót của họ. Kẻ tội lỗi cũng có chỗ đứng trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.

6. Truyện: Ai có thể đứng vững?

Có một thành viên trong Hội đồng giáo xứ đang rơi vào chuyện sa ngã tội lỗi, gây xôn xao trong giáo xứ. Cha xứ liền triệu tập các thành viên còn lại, rồi với tình yêu thương và thương xót, ngài trình bầy lại đầu đuôi câu chuyện đáng buồn cho mọi người rồi ngài hỏi như thế này:

- Nếu như chính các ông các bà bị cám dỗ như người anh em của chúng ta, quý vị sẽ làm gì?

Người thứ nhất tin tưởng ở khả năng mình có thể đứng vững trong cơn cám dỗ, nói:

- Thưa cha, chắc chắn con chẳng bao giờ chịu nhượng bộ trước tội lỗi đáng ghê tởm đó.

Mấy người khác cũng lần lượt lớn tiếng dõng dạc nói như vậy. Ai cũng muốn cho mọi người thấy mình là người đàng hoàng đạo đức, hoặc can đảm đồi đầu với mọi chước cám dỗ xấu xa.

Sau hết, cha xứ có vẻ chưa vừa ý, quay sang hỏi người cuối cùng trong Hội đồng giáo xứ. Ông này vốn là người ít nói, chỉ lẳng lặng âm thầm chu toàn các việc nhỏ trong giáo xứ. Trong cuộc họp, ông cũng luôn ngồi ở một góc phòng. Nghe cha xứ hỏi ông đứng lên nhỏ nhẹ thưa:

- Thưa cha và mọi người, thú thật, tự đáy lòng con phải thú nhận rằng, nếu con bị cám dỗ và thử thách như người anh em đó, có lẽ con sẽ còn sa đọa hơn thế nữa.

Cả phòng yên lặng sững sờ. Cha xứ gật gù bảo:

- Đây là người duy nhất có thể đi với tôi để nói chuyện với anh em lầm lạc đó, để cố gắng dìu dắt người ấy quay trở về với Chúa.

------------------------------

 

Suy Niệm 10: Chúa Giêsu là một con người nhân loại


(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)

Có hai thánh sử ghi chép lại gia phả Chúa Giêsu: Mt 1,1-16; Lc 3,23-38

1. Thánh Máthêu viết Phúc âm nhằm trình bày Chúa Giêsu là Đấng cứu thế cho dân Do Thái. Do đó Ngài trình bày Chúa Giêsu là con Vua Đavít như các tiên tri từng loan báo.

2. Cách trình bày khác nhau: Máthêu viết xuôi từ Abraham tới Chúa Giêsu, còn Luca kể ngược lại từ Chúa Giêsu đến Adong.

3. Khác nhau về pháp lý: Máthêu kể theo huyết nhục, Luca kể theo pháp lý.

4. Mathêu kể ra 42 đời chia làm ba giai đoạn, mỗi giai đoạn 14 đời. Gia phả của Luca kể ra 72 đời và chia làm 4 giai đoạn.

5. Thánh Mathêu đã chọn gia phả theo sách bà Ruth (4,18-22); còn Luca kể lại chọn gia phả theo sách Sáng Thế Ký(5,32 và 11,10-26).

Tuy nhiên cả hai bản gia phả cũng có những điểm tương đồng:

1. Cả hai gia phả đều tận cùng bằng thánh Giuse được gọi là cha nuôi Chúa Giêsu. Theo tục lệ Do Thái chỉ người cha mới có giá trị pháp luật vì họ theo chế độ phụ hệ. Đức Mẹ cũng thuộc một ngành Đavít, truyền thống cũng nghĩ thế.

2. Cả hai bản gia phả đều dùng một số những bản gia phả của chi họ, cho nên có nhiều tôn giáo khác nhau.

3. Cả hai bản gia phả đều ghi rõ tổ tiên của Chúa có một số tội nhân như Đavít, Salômôn, Rahab, Besabeth ... để nói lên Thiên Chúa đến cứu chuộc cả nhân loại tội lỗi nữa.

Riêng trong gia phả của thánh Mathêu hôm nay chúng ta thấy:

1. Những chữ “sinh ra” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Đến chỗ Giuse là chữ “sinh ra” biến mất. Giuse là người cha theo pháp luật. Nhờ có Giuse mà Chúa Giêsu được đặt vào lịch sử nhân loại theo pháp luật. Nhờ có Giuse mà Chúa Giêsu có giòng họ Đavít (“sinh ra” còn có nghĩa kế vị, kế tiếp).

2. Người ta tự hỏi bản gia phả của Mathêu có thực không? Có tính cách lịch sử không? Hai lớp trước từ Abraham đến Đavít rồi từ Salômôn đến Giêkôn thì đã có sẵn trong Cựu Ước, cứ việc theo đó mà chép vào. Còn lớp thứ ba từ Salath đến Chúa Giêsu thì không biết lấy gốc ở đâu. Chúng ta chỉ biết có một điều này là khi viết Phúc Âm, Máthêu được Chúa Thánh Thần linh ứng và dùng những tài liệu gia phả khác nữa, Máthêu không thể phịa ra được. Nên biết người Do Thái giữ gìn gia phả rất cẩn thận.

3. Bản gia phả muốn nói với chúng ta rằng Chúa Giêsu là một người thực sự Nhập Thể, nhập khẩu giữa loài người, có tổ có tông, Chúa Giêsu là một con người nhân loại, “đầu đội trời chân đạp đất” như trăm nghìn chúng sinh. Trong số tổ tiên của Chúa có rất nhiều bậc anh hùng như Abraham, Maisen ... Nhưng số những vị vua tội lỗi như Đavít, Salômôn, có vua thờ ngẫu tượng; trong số phụ nữ có Rahab, Ruth, Uria, Besabeth tiếng tăm không tốt gì. Nhưng Thiên Chúa đã nhập thế giữa họ bất chấp khuyết điểm lầm lỗi của nhân loại. Ngài là bông sen. Không gì chống lại được ý định Thiên Chúa. Mọi sự được thay đổi, tội lỗi được tẩy sạch, những gì trần thế được thần linh hết.

 ------------------------------

 

Suy Niệm 11: Con Thiên Chúa nhập thế đi vào lịch sử loài người


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Bắt đầu từ hôm nay, 17-12 cho đến 24-12, Giáo Hội dành ra tuần bát nhật trong đó các bài đọc trong Thánh lễ được tuyển chọn cách đặc biệt để chuẩn bị gần cho Lễ Giáng Sinh và giới thiệu những nhân vật có liên hệ trực tiếp tới cuộc Giáng Sinh này. Bài Tin Mừng hôm nay trình bày Đấng sắp sinh ra là Con Thiên Chúa nhập thế đi vào lịch sử loài người để cứu loài người.

Chúa đã thực hiện việc cứu chuộc loài người bằng những gì loài người không thể ngờ được. Chúa đã không cứu loài người từ trời cao. Dĩ nhiên là Người có thể và dư uy quyền để làm được việc đó. Để cứu loài người Chúa đã nhập thể và nhập thế để từ đó Chúa đưa loài người sa ngã đứng lên. Chúng ta thấy cứu một người sắp chết đuối bằng cách từ trên bờ thảy cho người đó một chiếc phao sẽ không có ý nghĩa cho bằng chính mình nhảy xuống nước kéo người đó lên.

Một ông vua có vị thủ tướng rất tài giỏi học cao biết rộng. Một ngày kia vị thủ tướng trở thành tín đồ Kitô giáo và công khai hoá đức tin mình trước mặt dân chúng. Vị ấy thường làm chứng rằng, mình tin Đấng Cứu Thế đã đến thế gian để cứu những kẻ có tội. Nhà vua của vị thủ tướng này không hiểu được sự việc đó cho nên đã nói: ”Trẫm là vua, nếu trẫm muốn thi hành điều gì thì chỉ cần truyền lệnh cho các thần dân là đủ. Lẽ nào Đức Kitô là Vua trên các vua mà lại tự hạ mình xuống thế gian này? Điều đó thật vô lý!”.

Nhà vua muốn cho vị thủ tướng ấy về vườn, vì tội đã dám tin theo Đức Kitô, nhưng nhà vua có lòng yêu mến ông lắm nên hứa rằng, nếu ông có thể giải nghĩa xuôi vấn đề này thì sẽ tha tội cho, không cách chức. Vị thủ tướng xin vua cho mình suy nghĩ trong 24 giờ rồi sẽ giải đáp. Vị này bèn sai tìm một người thợ mộc rất khéo léo làm một tượng gỗ giống y hình hoàng thái tử mới 2 tuổi và cũng mặc một thứ quần áo giống như của hoàng thái tử. Ngày hôm sau, vua cỡi thuyền rồng dạo chơi sông với thủ tướng. Thủ tướng đã dặn người thợ mộc hãy đứng trên bờ sông bên kia, hễ xa xa thấy một dấu hiệu của thủ tướng thì ném cái tượng gỗ ấy xuống nước. Vua ngồi trên thuyền thấy tượng gỗ ấy rơi tưởng là con mình ngã xuống sông, không kịp hỏi ai, liền nhảy ùm xuống nước, bơi ra cứu con.

Vị thủ tướng bèn hỏi lại vua sao không sai một đầy tớ nhảy xuống nước để vớt hoàng thái tử, mà chính vua lại nhảy xuống nước làm gì, đến nỗi gần phải chết đuối và ướt hết long bào. Vua trả lời:

- Đó là do lòng thương.

Vị thủ tướng liền tâu rằng:

- Cũng một lẽ ấy, Đức Chúa Trời là Đấng Thượng Đế dựng nên thần, nên đức vua và muôn vật, cũng không đành lòng sai ai xuống thế này để đem sứ mạng cứu rỗi cho loài người; nhưng vì lòng yêu thương của Ngài vô hạn, nên Ngài từ bỏ ngôi vinh hiển trên trời xuống trần gian mà cứu chúng ta. Đó cũng là do nơi lòng thương chúng ta vậy.

2. Trong số các tổ tiên của Chúa Giêsu có những người tội lỗi, như “Ông Giuđa ăn ở với bà Tama” (câu 3), “vua Đavid lấy vợ ông Uria sinh ra vua Salômôn” (Mt 1,5b) v. v. Như thế kẻ lỡ phạm tội không hẳn là hoàn toàn biến mất mà kẻ tội lỗi vẫn có chỗ đứng trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.

Có một thành viên trong Hội Đồng Giáo Xứ hiện đang rơi vào chuyện sa ngã tội lỗi, gây xôn xao trong họ đạo. Cha sở liền triệu tập các thành viên còn lại, rồi với tình yêu và thương xót, ngài trình bày lại đầu đuôi câu chuyện đáng buồn cho mọi người rồi ngài hỏi như thế này:

- Ví bằng chính các ông các bà bị cám dỗ như người anh em của chúng ta, quý vị sẽ làm gì?

Người thứ nhứt tin tưởng ở khả năng mình có thể đứng vững trong cơn cám dỗ, nói:

- Thưa cha, chắc chắn con chẳng bao giờ chịu nhương bộ trước tội lỗi đáng ghê tởm đó!

Mấy người khác cũng lần lượt lớn tiếng dõng dạc nói như vậy. Ai cũng muốn cho mọi người thấy mình là người đàng hoàng đạo đức, hoặc can đảm đối đầu với mọi chước cám dỗ xấu xa.

Sau hết, cha sở có vẻ vẫn chưa vừa ý, quay sang hỏi người cuối cùng trong Hội Đồng Giáo Xứ. Ông này vốn là người ít nói, chỉ lẳng lặng âm thầm chu toàn các việc nhỏ trong họ đạo. Ở cuộc họp, ông cũng luôn ngồi ở một góc phòng. Nghe cha sở hỏi ông đứng lên nhỏ nhẹ thưa:

- Thưa cha và mọi người, thú thật, tự đáy lòng con phải thú nhận rằng, nếu con bị cám dỗ và thử thách như người anh em đó, có lẽ con sẽ còn sa đọa hơn thế nữa.

Cả phòng yên lặng sững sờ. Cha sở gật gù bảo:

- Đây là người duy nhất có thể đi với tôi để nói chuyện với anh em lầm lạc đó, để cố gắng dìu dắt người ấy quay trở về với Chúa.

 ------------------------------

 

Suy Niệm 12: Gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Đavít


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Là một con người chúng ta sống trên trần gian này, chúng ta phải có đất nước, dân tộc, tổ tiên, cha mẹ, vì ông bà cha mẹ chúng ta thường nói: “Con người có tổ có tông, như cây có cội như sông có nguồn” hoặc là: “Con người có cha có mẹ, chẳng ai từ lỗ nẻ mà chui lên”. Chúng ta đang sống trên mảnh đất chữ S này, đất nước của chúng ta là Việt Nam, chúng ta thuộc dân tộc Kinh, tổ tiên của chúng ta Lạc Long Quân và bà Âu Cơ (TT VN), cha mẹ của chúng ta là người đã sinh ra chúng ta đang sống đây. Còn Chúa, chúng ta thấy qua sách gia phả của Chúa mà thánh sử tông đồ Matthêô tường thuật hôm nay, đất nước của Chúa là Palestin, dân tộc của Chúa là dân Israel (Do Thái), tổ tiên của Chúa (Tổ phụ) là ông Abraham, Isaac, Giacob…., cha của Chúa là thánh Cả Giuse (Cha nuôi), mẹ của Chúa là Đức Maria.

Như vậy, nhờ có sách gia phả của Chúa, chúng ta thấy Chúa là Ngôi Hai Thiên Chúa làm người, Chúa có hai bản, một là bản tính Thiên Chúa, hai là bản tính loài người, hai bản tính đó kết hợp trong một Ngôi duy nhất là Ngôi Hai Thiên Chúa. Chúa vừa là Thiên Chúa thật và là người thật.

Về vấn đề Chúa là người thật, chúng ta quá rõ nét ở từng con người cụ thể qua các thời kỳ khác nhau của lịch sử. Người ta cứ nghĩ rằng vì tuy Chúa xuống thế làm người, nhưng Chúa là Thiên Chúa thánh thiện vô cùng, tốt là vô cùng cho nên gia phả của Chúa phải toàn là những con người tốt lành, công chính, thánh thiện thì mới đúng. Thế nhưng không như người đời nghĩ tưởng đâu, trong gia phả của Chúa, có người là công chính, có người là tội nhân, có người quyền cao chức trọng vua chúa quan quyền, có người cơ cực, bần hèn, thấp cổ bé miệng, có người giàu sang phú quý có của ăn của để, có người nghèo túng nợ nần lần ra của ăn cũng rất khó khăn, có người ngày ngày sống trên nhung lụa, có người ngày ngày một nắng hai sương bán mặt cho đất, bán lưng cho trời…. Bên cạnh những bất lợi, hạn chế như vậy, có một điều quan trọng mà chúng ta cảm nghệm được trong xã hội lúc ấy là trọng nam khinh nữ mà sách gia phả có ghi tên người nữ (Bà Raad, bà Rút….). Vậy là đối với Chúa, chúng ta là con cái của Chúa, được Chúa yêu thương, sống gia đình của Chúa nên chúng ta bình đẳng với nhau, còn việc trọng nam khinh nữ là tại con người chúng ta tạo nên để rồi Chúa phải nương theo cái chưa đúng của chúng ta và Chúa chỉnh sửa từ từ để chúng ta tốt hơn.

 Như vậy, với sách gia phả của Chúa, chúng ta thấy khi xuống thế làm người, Chúa đi vào lịch sử con người chúng ta, Chúa đã chấp nhận sự giới hạn, bất toàn, cả tội lỗi con người chúng ta phạm để Chúa cưu mang và cứu chúng ta. Chúng ta thấy Chúa thương con người chúng ta vô cùng vô tận và sự hy sinh của Chúa quá lớn lao, lớn hơn đại dương, lớn hơn các tầng mây trời, lớn hơn những ngọn núi cao chót vót đến tận trời xanh. Con người chúng ta biết lấy gì đền đáp lại cho cân xứng. Chúng ta chỉ biết dâng lời tạ ơn Chúa.

Lạy Chúa, trong những ngày này, Giáo Hội cho chúng con biết Chúa sắp xuống thế làm người, xin Chúa ban ơn giúp chúng con chuẩn bị tâm hồn xứng đáng, bằng cách cố gắng làm các việc nhân đức từ thiện bác ái nhiều hơn nữa để những điều đó là những làn hơi sưởi ấm Chúa nơi hang đá ngày Chúa ra đời. Amen.

 ------------------------------

 

Suy Niệm 13: Xin chỉ dạy đường khôn ngoan


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Qua Lời Tổng Nguyện của Ngày 17 Tháng 12 hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa là Đấng tạo thành và cứu chuộc nhân loại, Chúa đã muốn Ngôi Lời mặc lấy xác phàm trong lòng Đức Trinh Nữ Maria. Giờ đây, xin Chúa nhậm lời chúng ta cầu khẩn: ước gì Con Một Chúa đã làm người như chúng ta, thì xin Chúa cũng cho chúng ta được làm con Chúa như Người.

Chúng ta được làm con Thiên Chúa, đây là kế hoạch khôn ngoan của Thiên Chúa, một mầu nhiệm khôn dò khôn thấu, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, ngôn sứ Isaia cho thấy: Ítraen được cứu thoát nhờ vua Kyrô. Trong kế hoạch khôn thấu của Thiên Chúa, Người đã chuẩn bị sẵn cho những người Dothái đang bị chèn ép trong chốn lưu đày một người giải phóng. Ở đây mới chỉ là Kyrô, vua Batư. Ông sắp triệt hạ Babylon và cho dân được Thiên Chúa chọn trở về quê hương. Trời cao hỡi, xin cho Vì Công Chính mau giáng trần, tựa sương mát nhỏ sa, tự ngàn mây, xin Người đến như mưa nhuần tuôn đổ. Đất hãy mở ra, cho xuất hiện Đấng cứu đời. Lạy Chúa, xin sai Con Chiên đến lãnh đạo Nước Chúa, Con Chiên sẽ trị vì trên núi của thiếu nữ Xion.

Chúng ta được làm con Thiên Chúa, nhờ Thiên Chúa đã làm người như chúng ta, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Lêô Cả nói: Nhờ Thánh Thần, Đức Kitô đã thành hình trong lòng mẹ và sinh ra; cũng nhờ chính Thánh Thần mà chúng ta lại được sinh ra từ một nguồn gốc thiêng liêng… Như mầm non từ cội rễ Giesê, này đây Đức Kitô sẽ ngự xuống đem ơn cứu độ cho trần gian. Các dân tộc sẽ cầu khẩn Người. Danh Người sẽ vinh quang hiển hách. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người; Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời.

Chúng ta được làm con Thiên Chúa, vì ta là bạn hữu, là thần dân của Vua Kitô, và được đồng thừa kế với Người, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Sáng Thế cho thấy: Vương trượng sẽ không rời khỏi Giuđa, gậy chỉ huy sẽ không lìa đầu gối nó, cho tới khi người làm chủ vương trượng đến, người mà muôn dân phải vâng phục. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 71, vịnh gia đã cho thấy: Triều đại Người, đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị đến muôn đời. Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương, trao công lý Ngài vào tay Thái Tử, để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Lạy Ngôi Lời khôn ngoan của Đấng Tối Cao, Ngài an bài mọi sự, mạnh mẽ nhưng dịu dàng. Xin đến mà chỉ dạy đường khôn ngoan cho chúng con. Trong bài Tin Mừng, thánh Mátthêu tường thuật lại: Gia phả Đức Giêsu Kitô, con cháu vua Đavít. Thiên Chúa đã nhập thể làm người, và Người cũng có gia phả như bao người khác. Đây là kế hoạch khôn ngoan của Chúa, là đường lối khôn ngoan, mà Chúa dùng để cứu độ ta: Đấng sáng tạo nên thời gian, lại sinh ra trong thời gian; Đấng nhờ Người mà vạn vật được tạo thành, lại được sinh ra giữa muôn loài thụ tạo. Nếu Chúa không mang thân xác giống như thân xác ta, nếu Đấng đồng bản thể với Chúa Cha đã không đồng bản thể với Mẹ Người, và nếu Người -Đấng duy nhất không mắc tội- không liên kết với bản tính của ta, thì toàn thể nhân loại vẫn còn bị giam cầm dưới ách nô lệ tội lỗi và ta cũng chẳng được hưởng gì, từ chiến thắng của Đấng đã khải hoàn, nếu như, chiến thắng ấy đã diễn ra bên ngoài bản tính của ta. Nhờ sự tham dự lạ lùng vào bản tính nhân loại, bí tích tái sinh đã tỏa sáng trên chúng ta. Chúa là Đấng tạo thành và cứu chuộc nhân loại, Chúa đã muốn Ngôi Lời mặc lấy xác phàm trong lòng Đức Trinh Nữ Maria. Ước gì Con Một Chúa đã làm người như ta, thì xin Chúa cũng cho ta được làm con Chúa như Người. Ước gì được như thế!

---------------------------------`

 

Thứ 4:

Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
18/12 – Thứ Tư tuần 3 mùa vọng.
"Chúa Giêsu sẽ sinh bởi Ðức Trinh Nữ Maria, vị hôn thê của Thánh Giuse, thuộc dòng dõi Ðavít".

 

LỜI CHÚA: Mt 1, 18-24


Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của Bà là người công chính, không muốn tố cáo Bà, định tâm lìa bỏ Bà cách kín đáo.
Nhưng đang khi định tâm như vậy, thiên thần Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse, con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần: Bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền: Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu.

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ. )

Thiên Chúa bất ngờ và mãi mãi bất ngờ.
Ngài muốn cứu độ nhân loại bằng cách sai Con Một làm người.
Cách trở thành người của Con Thiên Chúa
vừa bình thường, lại vừa tuyệt đối khác thường.
Bình thường vì Ngài được một phụ nữ sinh ra (x. Gl 4, 4).
Khác thường vì Ngài được sinh ra không do một người cha ruột,
nhưng do quyền năng của Thánh Thần (cc. 18. 20).
Đây là niềm tin ngay từ thuở ban đầu của các Kitô hữu.
Giáo Hội sung sướng đến với máng cỏ
để chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu và Mẹ đồng trinh của Ngài.
Nhưng chúng ta không được quên thánh Giuse.
Giuse đã bối rối, đau khổ khi thấy vị hôn thê của ông mang thai,
dù Maria chưa về chung sống với ông, dù chưa làm đám cưới.
Ông không muốn tố cáo Maria vì tội ngoại tình,
nhưng ông cũng không thể lấy Maria làm vợ,
với thai nhi trong bụng không phải của ông.
Cuối cùng ông chọn giải pháp là chia tay bà một cách kín đáo (c. 19).
Như thế ông hy vọng sẽ bảo vệ được danh dự và an toàn cho Maria.
Nhưng Thiên Chúa Cha cần Giuse,
cần một người cha nhân loại cho Con mình.
Con Thiên Chúa không thể sinh ra trong một gia đình không cha.
Người cha cần biết bao cho sự phát triển quân bình của đứa trẻ.
Maria cũng cần chỗ dựa và không thể một mình nuôi con.
Qua sứ thần, Thiên Chúa mong Giuse đón Maria về làm vợ (c. 20),
nghĩa là làm đám cưới chính thức với Maria.
Việc này đi kèm với việc đặt tên cho người con trai của Maria,
nghĩa là nhận người con ấy là con của mình trước pháp luật (c. 21).
Một lời mời quan trọng chờ nơi Giuse một tiếng Xin Vâng.
Đâu phải Thiên Chúa chỉ cần tiếng Xin Vâng của Maria là đủ.
Giuse có thể từ khước vì thấy mầu nhiệm khó hiểu và khó tin.
Làm sao quyền năng Thánh Thần lại có thể làm cho Maria mang thai?
Giuse có thể sợ vì thấy mình phải chịu trách nhiệm làm chồng làm cha,
dù thực sự mình chẳng hề là thế.
Thiên Chúa đã mời Giuse trong giấc ngủ đêm khuya.
Và ông đã làm y như lời sứ thần truyền khi thức dậy (c. 24).
Tiếng Xin Vâng của Giuse quá quan trọng cho kế hoạch cứu độ,
nhờ đó Con Thiên Chúa đàng hoàng bước vào cuộc đời,
có một mái nhà, có mẹ, có cha, có tên, có tuổi.
Nếu không có những tiếng Xin Vâng của Maria và Giuse,
thì điều gì sẽ xảy ra cho nhân loại đang cần ơn cứu độ?
Thiên Chúa chỉ ở-với-chúng ta nếu có những tấm lòng xin vâng.
Ngài vẫn cần tấm lòng của người mẹ biết cưu mang như Maria,
và tấm lòng của người cha dám chịu trách nhiệm
để Giêsu có chỗ đứng hợp pháp trong thế giới.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa
và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con
và thuộc về con từ lâu. Amen.
 
-------------------------------

 

Suy Niệm 2: Triều đại công chính


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Từ xưa người nghèo luôn bị bóc lột. Dân nghèo luôn bị nô lệ. Vì thế luôn mong chờ một triều đại công chính. Giê-rê-mi-a loan báo sẽ có vua công chính từ dòng dõi Đa-vit. Sẽ thi hành điều chính trực công minh. Sẽ là “sự công chính của chúng ta”.

Công bình chính trực. Công bình là của ai phải trả lại cho người ấy. Người ta bất công vì muốn chiếm đoạt của người khác. Vì thế sinh ra chiến tranh, oán hờn, bất ổn. Đặc biệt người ta chiếm đoạt quyền của Thiên Chúa. Cần phải “của Xê-da trả cho Xê-da; của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”(Mc 12,17). Chỉ khi Vua Công Chính đến ta mới được hưởng nền “thái bình thịnh trị”.

Thánh Giu-se thuộc về triều đại công chính. Nên Người sống công chính. Chỉ dám nhận những gì thuộc về mình. Không dám nhận Ma-ri-a vì Mẹ thuộc về Thiên Chúa. Không dám nhận Chúa Giê-su vì Chúa là Con Thiên Chúa. Không dám tố cáo Ma-ri-a vì quyền xét đoán thuộc về Thiên Chúa. Thánh nhân chỉ biết lặng lẽ rút lui. Để Thiên Chúa ra tay. Vì quyền thuộc về Thiên Chúa. Quả nhiên Thiên Chúa đã nói với thánh Cả: “Đừng sợ nhận Ma-ri-a”. Lại còn truyền cho ngài đặt tên cho con trẻ. Đặt tên là có quyền trên con trẻ. Con trẻ được trinh nữ sinh ra. Trinh nữ làm sao sinh con. Đó chỉ có thể là quyền năng của Thiên Chúa. Nhưng Giu-se được quyền. Vì Chúa là Em-ma-nu-en. Là Thiên Chúa ở với loài người. Chỉ khi được Thiên Chúa trao quyền, Giu-se mới dám trở về lãnh nhận. Đó là người công chính.

Người công chính. Thuộc về triều đại công chính. Xứng đáng đón nhận Vua Công Chính. Đó là tấm gương cho ta. Ta cũng phải sống công chính. Để được là thần dân của Vua Công Chính. Ta phải làm chứng cho Vua Công Chính. Nên phải sống công chính. Ta phải cùng người xây dựng triều đại công chính. Nên phải sống công chính.

Lạy Vua Công Chính, xin hãy đến. Xin hãy giúp con sống công chính. Để góp phần thay đổi thế giới này. Một thế giới còn quá nhiều bất công. Nơi người mạnh ức hiếp người yếu. Người giầu chèn ép người nghèo. Người có quyền chà đạp người dân lành. Xin cho con biết xây dựng triều đại công chính. Để Chúa ngự trị trên thế giới. Để muôn dân được hưởng nền thái bình thịnh trị.

-------------------------------

 

Suy Niệm 3: Dòng Tộc Của Chúa Kitô


(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)

Có một vị vua kia đã già cả nhưng lại không có con nối dõi tông đường, nên nhà vua đã ra lệnh mời các chàng trai trẻ đến cung vua để chọn một người làm dưỡng tử mà sau này sẽ lên ngôi cai trị. Ðiều kiện thật đơn giản, chỉ cần người đó biết mến Chúa và yêu mến anh em hết lòng.

Từ một vùng quê xa xôi, một chàng thanh niên cũng biết đến việc chọn này của nhà vua. Chàng muốn đến cung vua ứng thi nhưng khốn nỗi chàng chẳng có một bộ áo quần nào xứng cho buổi triều yết. Sau một thời gian dành dụm, cuối cùng chàng cũng cố gắng sắm cho mình một bộ đồ tạm xứng với lối triều yết.

Ðến gần hoàng cung, chàng gặp một ông lão xá lạy bên vệ đường trong bộ quần áo rách rưới. Ông lão ngửa tay xin bộ đồ chàng đang mặc.

Ðộng lòng thương, chẳng chút ngần ngừ chàng đổi cho ông già bộ quần áo của mình.

Khi đến gần cửa thành, lòng chàng lại hoang mang chẳng biết lính canh có cho chàng vào với quần áo tả tơi như vậy không. May mắn thay chẳng một ai hạch hỏi về quần áo của chàng và khi đến trước ngai rồng chàng càng ngạc nhiên hơn nữa, vị vua đang ngồi trên ngai chính là ông già ăn xin đã được chàng giúp cho bộ quần áo. Chàng không tin vào mắt của mình. Nhưng kìa, vua đang mỉm cười nhìn chàng: "Hỡi con yêu dấu, hãy đến đây, ta đang chờ con".

Anh chị em thân mến!

Chàng thanh niên đã được chọn làm dưỡng tử và làm thừa kế nhờ tấm lòng quảng đại bao dung của anh. Hôm nay thánh sử Matthêu cũng tường thuật việc Vua trời đất chọn lựa một người Cha cho mình trước khi Ngài đến ở với con người.

Xét về nguồn gốc, thánh Giuse đích thực thuộc dòng dõi David, hậu duệ của vua David. Ðấng Cứu Thế sẽ sinh ra trong dòng dõi này để ứng nghiệm lời các tiên tri đã báo trước: "Này đây đã tới ngày Ta gây cho David một mầm giống công chính, mầm giống này sẽ làm Vua thống trị, sẽ là người khôn ngoan thực hiện công lý và công bình trên đất nước". Hoặc ở một chỗ khác: "Chúa sẽ tạo lập cho David một nhà. Nhà của Người và triều đại của Người sẽ vững chắc đến muôn đời. Ngôi báu của Người sẽ vững bền mãi mãi".

Tuy nhiên, hậu duệ của David không phải chỉ có một mình Giuse nhưng đã có hàng trăm hàng ngàn hậu duệ ấy Giuse đã được chọn làm dưỡng tử của Con Thiên Chúa, vì Ngài quảng đại và bao dung.

Một gia đình sống đời vợ chồng ai lại chẳng mơ ước đến chuyện chung chăn gối, thế mà Giuse lại ký kết hôn ước với một người đã thề hứa suốt đời không biết đến người Nam. Và rồi người Nữ mà Ngài hết lòng yêu mến và quí trọng ấy bỗng dưng lại mang thai. Nàng là người đức hạnh đoan trang sao lại bụng mang dạ chửa cách lén lút?

Theo luật Do Thái, Giuse có thể tố cáo người Nữ ấy trước Hội Trường Do Thái để nàng bị ném đá vì tội ngoại tình. Nhưng do tấm lòng bao dung ngài đã không làm thế. Ngài chỉ muốn âm thầm rút lui, không cãi vã to tiếng. Ngài tôn trọng nàng, ngài muốn để mặc cho nàng tự phân xử.

Ðang khi định tâm như vậy thì Thiên Chúa đã ra tay can thiệp, vì ngần ấy diễn tiến cũng đủ để cho Giuse làm dưỡng tử của Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Lời của sứ thần đã soi sáng giải đáp thắc mắc bấy lâu đang dày vò tâm hồn Giuse. Hơn thế nữa, sứ thần đã trao cho Giuse nhiệm vụ đặt tên cho con trẻ mới sinh. Với người Do Thái chỉ có người cha là người có quyền tối hậu trong việc đặt tên cho đứa trẻ, dù cho bà con thân thuộc có muốn gì đi nữa khi chưa có ý kiến của người cha thì việc đặt tên cũng không mang lại giá trị gì.

Như chúng ta đã thấy buổi lễ đặt tên cho Gioan Tẩy Giả cũng phải do người cha đặt tên. Ở đây cũng vậy, Giuse được Thiên Chúa ra tay can thiệp để lòng yêu thương nơi Ngài không bị rạn nứt, sứt mẻ, mà từ đây lòng yêu thương đã có dịp bộc lộ trọn vẹn. Giuse đã đón nhận người bạn đời về nhà mình và hết lòng yêu thương chăm sóc cho nàng cũng như cho người Con nàng đang cưu mang.

Thật thế, cuộc đời của mỗi người cũng có lúc căng thẳng, phân vân, đau khổ vì phải chọn lựa quyết định, nhưng Thiên Chúa Ngài đã thông suốt tất cả những giai cấp này, thế nhưng Ngài vẫn im lặng chờ đợi. Ngài chờ phản ứng nơi mỗi người chúng ta do yêu thương hay giận ghét, nếu chúng ta xử sự với tấm lòng yêu thương quảng đại thì chắc chắn Ngài sẽ kịp thời trợ giúp và chẳng bao giờ Ngài để cho lòng yêu thương bị rạn nứt sứt mẻ. Trong mùa đón chờ vị Vua tình yêu giáng thế, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ luôn dùng thái độ bao dung quảng đại làm kim chỉ nam hướng dẫn các suy tưởng và hành động của mỗi người chúng ta.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 4: Đấng Emmanuel


Giữa lúc dân Israel đang bị lưu đầy ở Babylon, Thiên Chúa đã sai Yêrêmia loan báo một Tin mừng là Ngài sẽ ban cho họ một vị vua sẽ đưa dân lưu đầy trở lại quê hương và thiết lập một dân Israel mới. Vị vua ấy được thánh Matthêu giới thiệu là Đấng Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng tôi.

Ngay từ đầu, Thiên Chúa đã ở giữa dân Ngài. Ngài đã ở với họ trong áng mây, cột lửa, Ngài đã ở nơi họ trong Hòm Bia giao ước và nơi các nhân vật đặc tuyển. Nhưng vì muốn ở với họ một cách sâu xa hơn. Ngài đã trở nên Đấng Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng tôi.

Tuy nhiên, để có thể ở giữa loài người, Ngài đã muốn có sự cộng tác của con người. Đức Maria là người đầu tiên và gương mẫu của việc thực hiện kế hoạch Emmanuel. Đứng trước kế hoạch hoàn toàn trái ngược với hoài bão và mơ ước của mình, Người đã tự xoá bỏ mình và cúi đầu vâng phục. Thánh Giuse cũng vậy, sau khi đã được giải thích cho biết về kế hoạch thần linh, Người cũng đã sẵn lòng quên mình để  cho ý định của Thiên Chúa được hoàn tất. Chính việc tự xoá mình và hoàn toàn giao phó đời mình cho Thiên Chúa đã làm cho tình yêu của các ngài sung mãn và đạt đến mức thiên giới mà không cần quan hệ giới tình.

Đấng Emmaanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng tôi vẫn đang làm cho nhân loại xoá bỏ những chia rẽ, đố kỵ, ngăn cách để được hợp nhất với nhau trong tình yêu, bởi vì, Ngài là Tình yêu, Ngài sẽ không thể tìm được nơi ở, bao lâu nhân loại còn đầy những ích kỷ, oán hận, tranh chấp.

Nhưng trên tất cả, Ngài muốn có một chỗ trong tâm hồn chúng ta. Ước gì chúng ta biết mở rộng lòng đón lấy Ngài, nên một với Ngài, nhờ đó Ngài có thể mãi mãi là Đấng Emmanuel cho ta và cho nhân loại hôm nay.

-------------------------------

 

Suy Niệm 5: Trong kế hoạch của Thiên Chúa


Ông đang toan tính như vậy, thì sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giu-se, là con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. (Mt. 1, 20-21)

Nhiều khi chúng ta làm hỏng kế hoạch của Thiên Chúa vì không biết được tính chất huyền nhiệm. Hôm nay, Tin mừng cho chúng ta thấy Giu-se như chống lại đường lối huyền nhiệm của Thiên Chúa.

Giu-se bị đặt trước sự kiện một con trẻ được cưu mang bởi một nữ đồng trinh. Đức Maria, vị hôn thê của ông, được chọn làm Mẹ theo ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa. Mẹ được chọn đi vào đường lối khác thường. Thái độ của Mẹ thế nào? Thái độ của người công chính ra sao? Không phải thứ công chính giữ theo luật pháp, cũng không theo ý niệm loài người của Maria. Công chính đây theo nghĩa riêng của Kinh thánh là hợp với thánh ý Thiên Chúa. Giu-se công chính vì ông kính trọng công trình của Thiên Chúa và thực thi vai trò Thiên Chúa xếp đặt cho ông. Trong khi thánh Giu-se chuẩn bị cho Maria hoàn toàn tự do theo đường lối nhiệm mầu của Thiên Chúa đã se định, thì Thiên Chúa đã làm cho ông khám phá ra rằng ông cũng giữ một vai trò thiết yếu đối với xã hội là bảo lãnh cho Đức Giêsu thuộc gia hệ ông. Thực vậy, chính nhờ ông, Đức Giêsu thuộc dòng Đa-vít. Ông đã làm tròn vai trò đó khi nhận Maria làm vợ, đồng thời bảo đảm cho con trẻ sắp sinh ra có cha trước luật pháp. Nhờ thế Thiên Chúa đã thực hiện kế hoạch đã định cho Đấng Cứu thế thuộc con dòng Đa-vít.

Khi nhận ra thân phận loài người chúng ta, Đức Giêsu cho chúng ta thấy rõ rằng chính trong lịch sử đời mỗi người chúng ta, trong cuộc sống hàng ngày Chúa Cha cũng thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài. Chúng ta có thể noi theo thái độ của người công chính như thánh Giu-se không? Với con mắt đức tin, chúng ta có sẵn sàng luôn luôn chú ý tuân theo ý Chúa đang thực hiện trong đời sống chúng ta không?

R. St. G

 -------------------------------

 

Suy Niệm 6: Thiên Chúa ở cùng chúng ta


Giữa lúc dân Israel đang quằn quại trong cảnh lưu đầy tại Babylon. Dân mong ngóng được Thiên Chúa giải thoát khỏi cảnh sầu thương tang tóc. Sự mong đợi của dân đã được Thiên Chúa nhìn đến khi cho xuất hiện tiên tri Giêrêmia đến để loan báo tin vui cho dân, ngài loan báo: một vị Vua Công Chính, Khôn Ngoan sẽ ngự trị để lãnh đạo dân, và Ngài sẽ được gọi là: “Chúa công bình của chúng ta”. Sứ vụ của vị vua này chính là đưa dân trở về quê hương để lập lại một dân mới.

Sang bài Tin Mừng, thánh Mátthêu giới thiệu cho chúng ta biết vị vua đó chính là Đấng Emmanuel, nghĩa là  Đấng Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài ngự giữa dân cách cụ thể và cứu dân bằng con đường tự hủy. Ngài vốn là một Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không dành cho mình địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, mà Ngài đã tự hủy mình đi, nhận lấy thân phận người phàm, trở nên giống chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi để cứu chuộc chúng ta.

Thật vậy, Đức Giêsu, Đấng là Emmanuel đó đã xóa đi mọi ngăn cách để ở giữa loài người và không ngừng thi ân giáng phúc cho mọi người.

Trong những ngày này, nhiều nơi đang chuẩn bị làm hang đá, tập những bài thánh ca ... để chuẩn bị đón mừng đại lễ Giáng Sinh. Tuy nhiên, những việc làm đó sẽ trở nên vô ích khi chính đời sống nội tâm chúng ta không chuẩn bị thanh lọc những thứ như đố kỵ, giận hờn, ghen ghét ... Vẫn còn bộn bề với lối sống hình thức bên ngoài ... !

Nếu không chừng, Đấng Emmmanuel, đã ở cùng nhân loại nhưng vô phúc cho chúng ta vì Ngài lại không có một chỗ để ở trong cung lòng của ta!

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy yêu thương nhau, đón nhận nhau trong tình huynh đệ. Hãy mở rộng cánh cửa tâm hồn để trong sâu thẳm nội tâm, chúng ta có một chỗ cho Đấng Emmanuel ở cùng chúng ta.

Lạy Đấng Emmanuel, xin cho tâm hồn chúng con xứng đáng là máng cỏ cho Ngài ngự trị. Amen.

Ngọc Biển SSP

 -------------------------------

 

Suy Niệm 7: Hạnh phúc khi để Chúa thực hiện điều Chúa muốn


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Thiên Chúa là Đấng Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở giữa loài người để yêu thương và ban ơn cứu độ. Ngài mời gọi ta cùng thực hiện kế hoạch này theo gương Đức Maria và thánh Giuse.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, con phải tri ân và cảm phục biết bao vì Đức mẹ và Thánh Giuse vâng phục và cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa. Đứng trước việc Mẹ sẽ thụ thai và sinh con, Mẹ hoàn toàn choáng váng, ngỡ ngàng, nhưng khi hiểu ra được Thánh Ý Chúa, Mẹ hết lòng xin vâng. Đứng trước việc Đức Maria mang thai, thánh Giuse thực sự bối rối và hốt hoảng, nhưng khi hiểu ra được kế hoạch của Chúa về Đấng Em-ma-nu-en, Thánh Giuse xin hết lòng cộng tác.

Lạy Chúa, Lời Chúa hôm nay giúp con hiểu được rằng: con chỉ có thể có được sự bình an, sự cảm thông và hạnh phúc, khi con để cho Chúa thực hiện điều Chúa muốn. Sở dĩ bao gia đình công giáo hôm nay vẫn bất hòa chia rẽ, nghi ngờ nhau và đi đến tình cảnh bi đát là li dị nhau, phải chăng vì đã không để cho Đấng Em-ma-nu-en ngự trị trong lòng họ và họ đã chối từ Thánh Ý Chúa.

Lạy Chúa, xin cho con biết cộng tác với kế hoạch Em-ma-nu-en của Chúa, để con nỗ lực xóa tan đi những đố kỵ ngăn cách giữa người với người. Xin Chúa hãy cắm lều và ở lại trong lòng con, để biến đổi trái tim chai lì khô cứng của con thành một trái tim yêu thương, luôn biết nhạy cảm trước những nỗi đau khổ của tha nhân. Xin cho con biết chấp nhận thánh giá, những nghịch cảnh trong cuộc đời, để Ý Chúa được nên trọn trong con. Và xin Đấng Em-ma-nu-en ở giữa gia đình con cũng như bao gia đình trên thế giới, để xua đuổi đi những hiểu lầm, tranh chấp, những ích kỷ nhỏ nhen, và ban ơn bình an hiệp nhất cho muôn người. Amen.

Ghi nhớ: ”Chúa Giêsu sẽ sinh bởi Ðức Trinh Nữ Maria, vị hôn thê của Thánh Giuse, thuộc dòng dõi Ðavít”.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 8: Khiêm tốn đón nhận và thực thi ý Chúa


(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)

Phân tích

Bài Tin mừng hôm nay giới thiệu nét thứ hai của Chúa Cứu Thế sắp sinh ra: Ngài là Emmanuel, Thiên Chúa ở với loài người (C. 23). Bài Tin mừng cũng giới thiệu một người đóng vai trò tích cực cho việc Ngài sinh ra: Thánh Giuse.

1. Phần đóng góp của Thánh Giuse vào công trình nhập thể của Chúa Giêsu là:

a/ Cho Chúa Giêsu một tư cách pháp lý là con cháu Đavít, nhờ thế thực hiện đúng lời Thiên Chúa đã hứa xưa từ thời Cựu Ước C. 20b: “Này ông Giuse, là con cháu Đavít”; C. 21 “Ông sẽ đặt tên cho con trẻ”: Thánh Giuse đặt tên cho Chúa Giêsu nghĩa là nhận Chúa Giêsu là con mình theo pháp lý.

b/ Bao bọc Đức Maria và Chúa Giêsu: C. 20c “Đừng ngại đón Maria về; c. 24 “Khi tỉnh giấc, Giuse làm như lời sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà”; c. 25 “Và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu. ”

2. Về ý định ban đầu, Thánh Giuse muốn bỏ đi cách âm thầm kín đáo, các chuyên viên Thánh Kinh còn chưa nhất trí nhau ở một số chi tiết. Nhưng mọi người đều nhất trí về động cơ hướng dẫn mọi hành động của thánh Giuse (ý định ban đầu, và quyết định ở lại sau đó), đó là vì “Giuse là người công chính. ” Một giải thích rất đáng lưu ý là: Ban đầu, Giuse biết mình không phải là cha của đứa bé nên vì công chính mà không dám nhận quyền làm cha, bởi đó định âm thầm ra đi (Công chính=không xâm phạm quyền lợi của người khác); sau đó khi biết ý Thiên Chúa muốn mình bảo bọc Đức Maria và Chúa Giêsu thì, cũng vì công chính nên Ngài đã ở lại (Công chính=thi hành ý Thiên Chúa).

3. Chúa Giêsu là Đấng Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta. ” Tuy là Thiên Chúa, nhưng vì yêu thương loài người, Ngài đã nhập thể sống chung với loài người, bất chấp mọi nghèo nàn, túng thiếu, hèn hạ, khổ sở ... Yêu thương là chia vui sẻ buồn, chia sẻ thân phận ...

Suy gẫm

1. Emmanuel “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”: Chúng ta chiêm ngắm mầu nhiệm nhập thể và nhập thế của Đức Giêsu Kitô. Muốn cứu người, không phải chỉ đứng xa chỉ tay năm ngón, hoặc vẽ kế hoạch rồi cho người khác thực hiện. Nhưng là chia sẻ thân phận, đồng hành, và cuối cùng là chịu thiệt vào thân, leo lên cây Thập Giá. Thập Giá là bước cuối cùng của nhập thể và nhập thế của Chúa Giêsu Kitô. Lạy Chúa, xin dạy con biết dấn thân phục vụ như Chúa.

2. Giuse đã thay đổi kế hoạch của mình để theo ý Chúa. Những nhận định và tính toán của ta, dù đầy thiện chí, nhiều khi lại không hợp với chương trình và ý định của Thiên Chúa. Người công chính là người biết bỏ ý riêng, biết thi hành ý Chúa, biết sống lời Fiat như Mẹ Maria, biết sống câu “Xin đừng theo ý con, nhưng theo ý Cha” như Chúa Giêsu.

3. Với con mắt người đời, tình yêu của đôi nam nữ Giuse và Maria xem ra chỉ là chuyện bình thường. Nhưng với kế hoạch của Thiên Chúa, với sự quảng đại đáp trả ơn Chúa gọi, Mẹ Maria và Thánh Giuse đã góp phần cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa. Lạy Chúa, xin cho con biết dùng tình cảm và tình yêu của con để phục vụ Nước Chúa.

4. “Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như thiên thần Chúa dạy và đón vợ về nhà” (Mt 1,24)

Tên thánh của tôi là Giuse. Tôi rất tự hào về điều đó và thường tự hỏi “Mình phải làm thế nào để trở nên giống thánh bổn mạng?” Thánh Giuse đã làm như thiên thần dạy là đón nhận Đức Maria. Ngài chấp nhận cuộc sống âm thầm để phục vụ Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Còn tôi thì sao? Một lần, tôi nhờ mẹ giặt hộ một bộ quần áo để đi dự tiệc. Vì bận việc, mẹ tôi đã quên. Tôi cằn nhằn và bỏ luôn buổi tiệc… Ngay cả chuyện nhỏ như vậy mà tôi chưa sẵn sàng vui vẻ đón nhận thì kể gì đến những chuyện lớn lao.

Xin Thánh Giuse dạy con biết khiêm tốn đón nhận và thực thi ý Chúa cách trọn vẹn như Ngài.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 9: Truyền tin cho ông Giuse


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Bài Tin Mừng cho chúng ta biết: Đức Maria đã đính hôn với thánh Giuse ... Vì cả hai đã khấn giữ mình đồng trinh nên không chung sống với nhau. Nhưng Maria lại có thai, nên thánh Giuse buồn sầu  định lén bỏ đi. Chúa liền sai Thiên thần đến báo cho ông biết: Maria mang thai là do phép Đức Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai, phải đặt tên là Giêsu. Đây là Đấng Cứu chuộc nhân loại, là Đấng mà các tiên tri đã loan báo và gọi là Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.

Thánh Giuse đã làm đúng như lời Thiên thần truyền, ông tiếp nhận Maria và khi bà sinh con thì đặt tên là Giêsu.

2. Mẹ Người là Maria đã đính hôn với Giuse (Mt 1,18).

Chúng ta cần tìm hiểu phong tục cưới hỏi của người Do thái. Luật Do thái phân biệt rõ ràng trong hôn nhân: việc đính hôn và cưới xin. Tuy cũng có lễ hỏi và lễ cưới nhưng giá trị và ý nghĩa khác với Việt nam chúng ta.

Lễ đính hôn (cũng gọi là lễ hỏi) được diễn ra như sau:

Thời gian đính hôn kéo dài trong một năm. Trong năm đó đôi bạn được kể như vợ chồng dù họ không có những quyền của vợ chồng. Lễ hỏi Việt nam chưa làm vợ chồng, còn lễ hỏi Do thái coi như thành vợ chồng. Chứng cớ là theo luật:

- Vị hôn thê bất trung sẽ bị ném đá như vợ chính thức.
- Vị hôn phu có chết thì vị hôn thê trở thành quả phụ.
- Vị hôn thê cũng giống như người vợ chính thức chỉ có thể bỏ nhau bằng tờ ly dị.
- Đứa con cưu mang trong thời gian đính hôn được coi là con chính thức.

Như thế luật cho hai người quyền ăn ở với nhau trong thời gian này.

Giuse và Maria đang ở trong giai đoạn này.

3. Giuse được báo mộng trong giấc mơ về chương trình của Thiên Chúa được thực hiện qua cuộc hôn nhân  giữa ông và Maria, việc nàng có thai không phải ý của phàm nhân nhưng dưới tác động của Chúa Thấn Thân. Vì thế ông đã đón nhận Maria  về nhà mình theo sự báo mộng của Thiên Thần thay vì ý định ruồng bỏ nàng lúc phát hiện người bạn đời có thai (không phải của mình). Giấc mơ của Giuse đã thành hiện thực bởi sự trung tín vào Thiên Chúa với báo mộng về lời phán truyền của tiên tri Isaia về Đấng Thiên Sai sẽ thành hiện thực ở nơi gia đình ông (x. Is 7,14-16). Chính con trẻ này sẽ trở nên ơn cứu độ và bao bọc cho cả nhân loại.

4. Ông Giuse là người công chính.

Kinh thánh gọi Giuse là người công chính: “Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19).

Chúng ta biết, nơi người Do thái, không phân biệt rõ  thời kỳ đính hôn và cưới hỏi. Mặc dù chưa cưới, hai người đã đính hôn cũng có thể ăn ở như vợ chồng mà không có lỗi gì đối với lề luật. Do đó, người ta thấy vị hôn thê có thai, thì chỉ một mình vị hôn phu có thể phán đoán trong việc đó là có tội hay không. Như vậy, thánh Giuse có thể hành động bằng hai cách: hoặc là tuyên bố theo sự hiểu biết tự nhiên của mình là Maria đã phạm tội ngoại tình, và như thế Maria mất thể diện hoàn toàn; hoặc là để mặc cho người ta tin rằng ngài là cha của đứa bé sắp sinh. Giuse chọn giải pháp nào?

Đang phân vân lo nghĩ không biết xử trí ra sao thì Thiên Chúa báo mộng  cho ông: “Hỡi Giuse con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về làm vợ mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20). Ông Giuse được báo mộng và ông yên tâm nhận Maria làm vợ. Việc này thường xẩy ra trong Cựu ước khi Thiên Chúa muốn truyền cho ai một điều gì. Vậy hôm nay, việc báo mộng cho Giuse là cách thức Thiên Chúa dùng để tỏ ra thánh ý của Ngài về việc thụ thai đồng trinh của Đức Maria.

5. Hài nhi  sinh ra sẽ được gọi là Emmanuel nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Tuy là Thiên Chúa, nhưng vì yêu thương loài người, Ngài đã nhập thể sống chung với loài người, bất chấp con người xấu xa tội lỗi, nghèo nàn, túng thiếu, khổ sở ... Thiên Chúa làm người đã vui lòng chia sẻ thân phận với người trần thế. Ngài muốn cho ngày Giáng sinh trở thành ngày Đấng Tối Cao xa lạ trở thành thân quen, thành bạn hữu con người để kêu gọi con người hãy nhận nhau là anh em, là bạn hữu.

6. Truyện: Thiên Chúa nói bằng tiếng nào?

Ngày xưa có chú bé Phi châu tên là Emmanuel. Chú luôn thắc mắc: “Thiên Chúa nói bằng tiếng nào”? Chú hỏi thầy giáo thì thầy cũng không biết. Sau đó chú Emmanuel lại đi hỏi các nhà trí thức trong làng cũng như các vùng lân cận, nhưng họ cũng chỉ biết lắc đầu mà thôi.

Tuy nhiên, Emmanuel vẫn tin có người biết được điều ấy.

Một đêm nọ, Emmanuel đến ngôi làng Belem. Chú cố tìm chỗ để nghỉ đêm trong các nhà trọ, nhưng tất cả đều không còn chỗ. Vì thế, chú quyết định tìm cái hang ngoài trời để trú đêm. Quá nửa đêm chú mới tìm được một cái hang. Nhưng khi bước vào, chú nhận ra đã có một đôi vợ chồng và một hài nhi đang trú ngụ. Nhìn thấy chú, người mẹ liền nói: “Hân hạnh đón chào Emmanuel, chúng tôi đang mong chờ con”.

Chú bé quá sửng sốt, và người mẹ trẻ nói tiếp: “Đã từ lâu, con đi tìm để hỏi xem Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Giờ đây cuộc hành trình của con đã có câu trả lời. Ngài nói bằng ngôn ngữ của tình yêu. “Thiên Chúa quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban cho thế gian chính Con Một của Ngài”.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 10: Thánh Giuse người công chính


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Hôm nay, chúng ta nói với nhau về một nhân vật mà chúng ta đã quá quen thuộc với Ngài. Đó là Thánh Giuse.

Ngay từ những giây phút đầu tiên của cuộc nhập thể, chúng ta đã thấy Thánh Giuse đã có mặt ở đó rồi.

Chúng ta thử hỏi lý do nào đã làm cho Giuse được Chúa ưu ái như thế ?

1- Đọc trong bài Tin Mừng hôm nay chúng ta có thể tìm ra câu trả lời. Trước hết Thánh Giuse được Kinh Thánh gọi là “người công chính”. Danh hiệu “người công chính” theo Kinh Thánh phải được hiểu như thế nào ?

a- Hình ảnh người công chính xuất hiện đầu tiên trong Kinh Thánh là hình ảnh về một con người biết chu toàn mọi giới luật của Thiên Chúa. Nói một cách khác: đó là những người sống phù hợp với Luật. Chúng ta biết là luật có một vai trò rất quan trọng trong đời sống tôn giáo. Người nào chu toàn Luật một cách trọn vẹn thì người đó sẽ được kể là người công chính. Hình như đây cũng là qui luật chung cho tất cả những ai muốn trở thành người đáng kính trọng trong xã hội loài người.

Tôi đọc trong lịch sử các vĩ nhân trên thế giới, tôi thấy có một người đã được cả thế giới biết đến và kính phục vì người ấy đã biết trung thành với những lề luật. Đó là thánh Gandhi.

Lịch sử thuật lại rằng: Hồi còn nhỏ khi ở trường về, vì sợ mẹ quở mắng cho nên ông đã nói dối mẹ một việc nhỏ thôi. Bà mẹ biết chuyện nên ngày hôm đó bà nhất định bỏ không ăn cơm. Gandhi hết lời van xin mẹ nhưng bà cũng nhất định không chịu. Ông van xin mãi thì được bà giải thích:

- Mẹ thà thấy con chết hơn là thấy con nói dối. Vì con nói dối là con tỏ ra con có một tâm hồn khiếp nhược. Có đứa con như thế là nỗi nhục cho mẹ, Mẹ không muốn sống nữa.

Thấy lòng mẹ cương quyết như thế, cậu bé Gandhi đứng lên đi thẳng xuống bếp, lấy một cục than hồng đặt vào lòng bàn tay của mình rồi trước mặt mẹ cậu hứa với mẹ như sau:

- Con thề với mẹ, suốt đời con sẽ không bao giờ nói dối nữa.

Mừng quá bà mẹ ôm chặt con vào lòng, vừa khóc vừa nói:

- Có thế mới là con của mẹ và mẹ mới có đủ can đảm mà sống với con.

Kể từ đó cho dến chết. Gandhi đã giữ lời...không bao giờ ông nói dối. Ông thường kể lại:

“Vết sẹo trên tay tôi là hình ảnh của mẹ tôi. Người không bao giờ rời khỏi tôi. Đó là vị thần phù hộ và nâng đỡ tôi để tôi luôn biết sống ngay thẳng và trọng danh dự”.

Đó là cách sống của một người công chính.

b- Thêm vào đó cũng theo Kinh Thánh thì người công chính còn là người đạo hạnh, là tôi tớ hoàn thiện và nhất nữa còn là bạn của Thiên Chúa. Đó là hình ảnh về một người công chính mà chúng ta có thể tìm thấy ở trong sách St 7,1;18,23, sách Châm Ngôn 12,10, sách Ez 18,5-26.

Chúng ta hãy nhớ lại một chút câu chuyện của Ađam và bà Evà. Lúc đầu mối liên hệ giữa Thiên Chúa và hai ông bà thật tốt đẹp. Nó chỉ xấu đi sau khi hai ông bà đã phạm tội. Kinh Thánh ghi lại: Cứ chiều chiều Thiên Chúa xuống bách bộ và đàm đạo với hai ông bà. Hỏi còn cảnh nào đẹp hơn thế, thân tình hơn thế. Chỉ tiếc rằng, những cảnh như thế không kéo dài mãi mãi.

Rồi sau đó đến tổ phụ Abraham, đến Môisen, đến các ngôn sứ.

Và sau cùng không một ai ngoại trừ Đức Mẹ Maria được gần gũi với Chúa....được Chúa đối xử thân tình như thánh Giuse. Giuse không chỉ là bạn mà Chúa còn chọn làm cha nuôi của Chúa Cứu Thế.

2 - Bên cạnh hình ảnh một Giuse là người công chính tôi còn thấy ở nơi thánh Giuse một nhân đức rất đặc biệt này: Đó là lòng kính sợ Thiên Chúa cao độ.

Có thể nói tất cả các thánh đều là những người biết kính sợ Thiên Chúa. Sách Châm Ngôn gọi lòng kính sợ Thiên Chúa là cội nguồn mọi sự khôn ngoan.

Và tôi cũng có thể quả quyết với anh chị em là: mọi tội ác, thảm họa ở trên cõi đời này đều do sự thiếu lòng kính sợ Thiên Chúa mà ra.

Trở lại với đề tài của chúng ta... Chúng ta mở Kinh Thánh:

Abraham sẵn sàng tế lễ Isaac.

Môisen chấp nhận trách nhiệm giải phóng dân Do Thái ra khỏi Ai Cập.

Các ngôn sứ sẵn sàng chấp nhận sứ mệnh mà Thiên Chúa muốn ủy thác.

Đặc biệt là Giuse. Đọc lại những đoạn Tin Mừng có liên hệ đến Ngài, tôi có cảm giác như Ngài không còn là Ngài tí nào nữa mà đã hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Giữa lúc còn băn khoăn chưa hiểu được những gì xảy đến cho Maria, Chúa bảo Giuse nhận Maria về nhà làm vợ. Giuse nhận.

Lúc Chúa Giêsu giáng sinh ở Bêlem...đang đêm, Chúa bảo đem Hài nhi và Mẹ người đi. Giuse đi.

Đang ở bên Ai Cập, Chúa bảo về... Giuse về. Hoàn toàn thuộc về Chúa.

Phải có một tâm hồn mến Chúa cao độ lắm mới có thể sống được như thế.

Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết sống công chính như Thánh Giuse. Amen.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 11: Chúa được sinh ra bởi Đức Mẹ


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Sứ mạng của Chúa khi đến trần gian mà theo như tiên tri Giêrêmia từ ngàn xưa đã tiên báo: “…từ các nước chúng bị Ta phân tán. Ta dẫn đưa chúng về quê hương” (Gr 23, 8). Điều đó có nghĩa là Chúa đến, Chúa sẽ giải chúng chúng ta khỏi tội lỗi, cho chúng ta được hưởng gia nghiệp nước trời sau này. Hơn nữa, Chúa đã bỏ vinh quang, danh dự, quyền lực….để xuống thế làm người, lẽ ra Chúa phải được cuộc đời này ưu đãi lắm chứ, vì Chúa đã mất nhiều thứ, con người chúng ta thì đón nhận được biết bao nhiều điều tốt đẹp. Chúa phải hy sinh nhiều thứ, còn chúng ta thì được vô vàn điều lợi lộc cho mình…thế mà khi nhập thể làm người, Chúa gặp bao nhiêu điều trắc trở. Điều trắc trở lớn nhất là câu chuyện hôn hân của Đức Mẹ là Mẹ của Chúa và thánh Cả Giuse là cha nuôi của Chúa.

Theo bài Tin Mừng hôm này, trước khi về sống với nhau dưới một mái nhà, ăn chung một bàn, làm chung một việc, lo lắng cho nhau, thì thánh Cả Giuse thấy Đức Mẹ có thai vì Đức Mẹ đã nhận cưu mang Chúa trong ngày truyền tin rồi (Lc 1, 26 – 38). Chúng ta thấy có hai trường hợp này xảy ra như sau:

1-Thánh Giuse không hiểu lý do tại làm sao mà có chuyện lạ lùng này xảy ra như vậy? Hay là như tiên tri Isaia đã nói từ rất lâu rồi: “…Một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh một con trai và đặt tên là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Is, 6, 14), với câu nói này, các thiếu nữ Israel qua bao thế hệ, đều có hy vọng làm mẹ Đấng Cứu Thế, vì “ Một người nữ “, không có tên cụ thể, không thuộc chi tộc nào trong nười hai chi tộc, cho nên bất kỳ là người nữ trong dân tộc Israel đều có hy vọng đó. Có thể Mẹ được đặc ân này chăng.

2-Hay là ngài có hiểu, nhưng cái hiểu này còn quá mập mờ, bé nhỏ, và nhiều những thắc mắc diễn ra, rồi có khi ngài tự đi tìm câu giải đáp, nhưng vì ngài là người công chính, mà Đức Mẹ là một người thiếu nữ quá đoan trang, đức hạnh, thánh thiện, cho nên ngài luôn nghĩ tốt cho Đức Mẹ. Cũng có thể ngài nghĩ ngài không xứng đáng với bí nhiệm này, nên ngài chọn giải pháp là tự rút lui cách âm thầm, vừa bảo vệ danh thơm tiếng tốt cho Đức Mẹ, vừa làm cho Đức Mẹ khỏi bị oan, vừa làm cho ngài đỡ day dức. Giả sử mà tố cáo Đức Mẹ ra tòa với lý do là bào thai Đức Mẹ đang cưu mang là không phải của ngài thì có lẽ Đức Mẹ sẽ không thoát khỏi cái chết do luật thời bấy giờ qui định.

Về phần Đức Mẹ, Mẹ vẫn thinh lặng phó dâng cho Chúa tất cả những sự rắc rối này. Mẹ tin Chúa đã cho Mẹ cưu mang Đấng Cứu Thế, thì Chúa cũng sẽ giúp cho Mẹ giải quyết vấn đề hệ trọng này. Mẹ vẫn âm thầm cầu nguyện với Chúa mỗi ngày. Và thực sự trong lúc thánh Cả Giuse suy nghĩ như thế thì Chúa sai thiên thần đến nói với thánh Cả Giuse sự thật về Mẹ cưu mang Chúa và thánh Cả đã hoàn toàn cộng tác với Chúa trong công trình cứu độ con người chúng ta: “Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền; ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau, cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu” (Mt 1, 24).

Tuy Chúa đã can thiệp và mọi sự đã trở nên tốt đẹp, nhưng chúng ta thấy tội nghiệp Chúa, vì khi Đức Mẹ suy nghĩ chuyện rắc rối này, có lẽ Chúa cũng bị ảnh hưởng, nhưng mà Chúa đồng cảm với mẹ của Chúa. Vì thế, con người chúng ta tin rằng Chúa, Đức Mẹ, thánh Cả Giuse sẽ thương những đôi vợ chồng có các hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống. Do đó, chúng ta hãy cầu nguyện và phó thác cuộc sống của chúng ta cho Ba Đấng để các ngài nâng đỡ chúng ta.

Lạy Chúa, chúng con sắp mừng lễ Chúa giáng sinh rồi, xin Chúa mau đến với chúng con, vì chúng con cần có Chúa để chúng con mới thoát ách tội lỗi và sống xứng đáng là con cái Chúa. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 12: Thủ lãnh nhà Ítraen – Đấng Cứu Độ


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Qua Lời Tổng Nguyện của Ngày 18 Tháng 12 hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúng ta đang quằn quại dưới ách nô lệ tội lỗi từ ngàn xưa lưu truyền, xin Chúa cho mầu nhiệm Giáng Sinh của Con Chúa đem lại cho chúng ta ơn giải thoát và canh tân như chúng ta hằng mong đợi.

Ơn giải thoát và canh tân, đó chính là lời Chúa đã hứa, và Chúa luôn thành tín trong mọi lời Người phán, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, ngôn sứ Isaia cho thấy: Đức Chúa chống lại các ngẫu tượng của Babylon. Trong khi các thần giả trá sụp đổ và phải đi đày, thì ánh huy hoàng của Thiên Chúa lại bừng lên chói lọi: Thiên Chúa vẫn một mực trung thành, cả vào giờ phút Dân Người ngỡ rằng mình bị bỏ rơi. Thiên Chúa không quên lãng giao ước Người đã thiết lập. Người đang thực hiện kế hoạch đã định. Hãy nghe Ta, hỡi kẻ cứng lòng, kẻ xa đường công chính! Ta sẽ ban ơn cứu độ tại Xion, và sẽ cho Ítraen được vinh quang rạng rỡ. Ngày Ta thể hiện đức công chính của Ta đã đến gần, chẳng còn xa nữa đâu; ơn cứu độ của Ta, Ta sẽ không trì hoãn.

Ơn giải thoát và canh tân, duy chỉ một mình Đức Kitô, Đấng Cứu Độ Duy Nhất, mới mang lại cho chúng ta, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích thư gửi cho Điônhêtô nói: Tội ác của muôn người được chôn vùi trong sự công chính của một người, còn sự công chính của một người lại làm cho muôn người bất chính nên công chính… Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ. Vì dưới gầm trời này, không có một Danh nào khác đã được ban cho loài người để chúng ta phải nhờ vào Danh đó mới được cứu độ. Danh hiệu được tặng cho Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hòa bình.

Ơn giải thoát và canh tân, là phần thưởng dành cho những ai giữ vững lòng trông cậy vào Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, Đức Chúa phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia rằng: Ta sẽ làm nẩy sinh cho nhà Đavít một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 71, vịnh gia đã cho thấy: Triều đại Người, đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị đến muôn đời. Người giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Lạy Chúa là thủ lãnh nhà Ítraen, Ngài đã ban lề luật cho ông Môsê trên núi Xinai. Xin ngự đến mà ra tay cứu chuộc loài người. Trong bài Tin Mừng, thánh Mátthêu cho thấy: Đức Giêsu sinh làm con bà Maria. Bà đã thành hôn với ông Giuse, con cháu vua Đavít. Thủ lãnh nhà Ítraen là Chiên Thiên Chúa đến gánh tội trần gian, được sinh ra làm con Đức Trinh Nữ Maria, được cha nuôi là thánh Giuse, thuộc dòng tộc vua Đavít, gìn giữ chăm lo trong giai đoạn đầu của công trình cứu độ. Đấng Cứu Độ đền thay cho tội nhân: Đấng không hề làm điều ác, chịu thay cho, những kẻ gian ác; Đấng Công Chính, chịu thay cho, những kẻ bất chính; Đấng không hề hư hỏng, chịu thay cho, những kẻ hư hỏng; Đấng không thể chết, chịu thay cho, những kẻ phải chết. Sự công chính của Người che lấp mọi tội lỗi của ta; nhờ duy mình Con Thiên Chúa, mà ta, là những kẻ tội lỗi, được nên công chính. Ôi cuộc trao đổi mới kỳ diệu làm sao, sự sắp đặt thật khôn dò khôn thấu, những kỳ công vượt quá lòng ta mong đợi. Ta là những kẻ bất chính, ấy thế mà, Chúa đã không ghét bỏ, không xua đuổi, nhưng, hằng kiên nhẫn, chịu đựng. Vì thương xót, Thiên Chúa đã trao nộp Con của mình làm giá chuộc ta. Chúng ta đang quằn quại dưới ách nô lệ tội lỗi từ ngàn xưa lưu truyền, ước gì mầu nhiệm Giáng Sinh của Con Chúa đem lại cho ta ơn giải thoát và canh tân như ta hằng mong đợi. Ước gì được như thế!

---------------------------------

 

Thứ 5:

Truyền tin cho ông Gia-ca-ri-a.
19/12 – Thứ Năm tuần 3 mùa vọng.
"Thiên Thần Gabriel báo trước việc Gioan Tẩy Giả sinh ra".

 

LỜI CHÚA: Lc 1, 5-25


Vào thời Hêrôđê làm vua xứ Giuđêa, có một tư tế tên là Giacaria, thuộc phiên ban Abia, và vợ ông bởi dòng dõi Aaron, tên là Elisabeth. Cả hai là người công chính trước mặt Thiên Chúa, ăn ở theo mọi giới răn và lề luật của Chúa, không ai trách được điều gì. Nhưng họ lại không con, vì Elisabeth son sẻ, và cả hai đã đến tuổi già.
Xảy ra khi Giacaria chu toàn chức vụ tư tế trước mặt Thiên Chúa, theo lượt của phiên mình như tục lệ hàng tư tế, ông bắt thăm và trúng việc vào cung thánh Chúa mà dâng hương. Ðang lúc toàn thể đám đông dân chúng cầu nguyện bên ngoài, trong giờ dâng hương. Bấy giờ Thiên Thần Chúa hiện ra cùng ông, đứng bên phải hương án. Giacaria thấy vậy hoảng hốt, sự kinh hoàng đột nhập vào ông. Nhưng Thiên Thần nói với ông rằng: "Giacaria, đừng sợ, vì lời ngươi cầu nguyện đã được nhậm rồi. Elisabéth  vợ ngươi sẽ hạ sinh cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ gọi tên trẻ là Gioan. Ngươi sẽ được vui mừng hân hoan, và nhiều người cũng sẽ vui mừng, vì việc trẻ sinh ra. Vì trẻ nầy sẽ nên cao trọng trước mắt Chúa, sẽ không uống rượu và thức có men, sẽ được tràn đầy Thánh Thần ngay từ lòng mẹ, sẽ đem nhiều con cái Israel trở về cùng Chúa là Thiên Chúa. Trẻ nầy sẽ đi trước Người, trong thần trí và quyền lực của Elia, để đổi lòng dạ cha ông về với con cháu, kẻ ngổ nghịch về lại với lương tri của những người công chính, dọn cho Chúa một đoàn dân chuẩn bị.
Giacaria thưa với Thiên Thần rằng: "Làm sao tôi biết được, vì tôi đây đã già, và vợ tôi cũng đã cao niên?" Thiên Thần liền đáp: "Ta là Gabriel, ta đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, ta được sai đến nói với ngươi, và báo cho ngươi tin lành nầy. Thì đây, ngươi sẽ nín câm và không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra; bởi vì ngươi đã không tin lời ta, là những lời sẽ nên trọng khi đến thời của chúng".
Dân chúng đang trông đợi Giacaria, lấy làm lạ vì ông ở lâu trong cung thánh. Nhưng lúc ra, ông không nói được, và họ biết ông đã thấy điềm lạ trong cung thánh. Còn ông thì chỉ làm hiệu cho họ, và vẫn bị câm. Khi những ngày thánh vụ của ông đã mãn, ông trở về nhà. Sau những ngày ấy, Elisabéth vợ ông thụ thai, và bà ẩn mình trong năm tháng, bà nói rằng: "Chúa đã làm cho tôi thế nầy, trong những ngày Người đoái thương, cất nỗi khổ nhục tôi khỏi người đời.

------------------------------

 

Suy Niệm 1: Chuẩn bị sẵn sàng


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Ở nước Do Thái, vợ chồng lấy nhau mà không con nối dõi
là một điều bất hạnh, thậm chí là một hình phạt của Thiên Chúa.
Chúng ta không rõ hai ông bà Dacaria và Êlisabét
đã sống với nhau bao lâu mà không có con.
Chỉ biết bây giờ ông đã cao niên rồi, và bà đã quá tuổi sinh sản (c. 7).
Hai vợ chồng già đã kiên nhẫn cầu xin và chờ đợi trong nhiều năm.
Có vẻ Đức Chúa ngoảnh mặt đi, không nghe lời họ,
dù cả hai đều thuộc dòng tộc tư tế Aharon và rất mực đạo đức (cc. 5-6).
Bây giờ họ có còn hy vọng nữa không?
Chính khi ta thất vọng, thì Chúa đến loan báo Tin Vui (c. 19).
Tư tế Dacaria may mắn trúng thăm, nên ông được vào Nơi Thánh
để lau hương án và dâng hương mới.
Tại nơi thâm nghiêm này, khi ông lo việc tế tự,
ông được sứ thần Chúa báo tin về đứa con sắp chào đời của mình.
Gioan, nghĩa là Đức-Chúa-thi-ân, sẽ là món quà ông được tặng.
Nhưng Gioan sẽ còn là món quà cho nhiều người Ítraen,
vì Gioan có sứ mạng giải hòa dân tộc ông với nhau và với Chúa.
Một con người chưa được mang thai và chào đời,
nhưng về người ấy, Thiên Chúa đã có bao ước mơ và dự tính.
Ngài cho Gioan được đầy Thánh Thần từ trong lòng mẹ (c. 15).
“Làm cho kẻ ngỗ nghịch trở về nẻo chính đường ngay,
và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa” (c. 17).
Đó là những việc Gioan sẽ làm sau này trong tư cách là Êlia mới.
Dacaria có vẻ không tin vào lời sứ thần,
Có vẻ ông không còn nuôi hy vọng có một đứa con (c. 18).
Ông quên mất chuyện Ápraham đã sinh con trong lúc tuổi già.
Là một tư tế hẳn ông phải biết có nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn
đã sinh con làm thủ lãnh đất Ítraen (Tl 13, 2; 1Sm 1-2; St 16, 1).
Việc ông bị câm là một hình phạt, nhưng ông không bị loại trừ.
Thinh lặng chín tháng là thời gian ông chờ đợi để lời hứa nên trọn.
Từ khi bà Êlisabét có thai, bà ẩn mình một thời gian.
Bà chưa muốn cho ai hay biết chuyện này.
Niềm vui bất ngờ đến với bà, người được hưởng hạnh phúc làm mẹ.
“Chúa đã làm cho tôi như thế đó,
khi Ngài đoái thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời. ”
Mỗi một trẻ thơ chào đời đều có nét của Gioan.
Chẳng người nào thấy ánh mặt trời mà lại nằm ngoài ý Thiên Chúa.
Như Gioan, ngay từ khi tôi chưa hiện hữu trong lòng mẹ,
Thiên Chúa đã nghĩ đến tôi, và biết tên tôi.
Tôi có chỗ rất riêng trong chương trình của Chúa.
Chúa có một sứ mạng rất riêng cho tôi hôm nay.
Thời nào cũng cần Gioan, cần những người kêu gọi hoán cải.
Nhân loại thời nay cần những người dọn đường sáng tạo,
có khả năng mở những con đường mới đi vào lòng thế nhân.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,
Chúa đã làm người như chúng con,
nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc
mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,
và giữa ánh sáng,
cũng có những bóng mờ đe dọa.

Lạy Chúa Giêsu,
nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,
xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu
Chúa đã buồn muốn chết được.
Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,
xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá
Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?
Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.
Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.
Xin cho con yêu đời luôn
dù đời chẳng luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm
đối diện với những thách đố
vì biết rằng cuối cùng
chiến thắng thuộc về người
có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Thành đạt


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Sam-son và Gio-an có nhiều điểm giống nhau. Trước hết các ngài đều là người của Thiên Chúa. Cha mẹ các ngài đều cao niên và hiếm hoi. Trước mặt người đời thì các ngài không còn khả năng sinh con. Nhưng Thiên Chúa đã ra tay. Quyền năng Thiên Chúa thật lớn lao. Có thể làm từ không ra có. Từ chết thành sống. Các ngài là ân huệ của Thiên Chúa. Tuy nhiên các ngài phải tuân thủ một số qui luật của Thiên Chúa. Đây chính là điều làm nên khác biệt giữa các ngài.

Sam-son và Gio-an có những khác biệt. Khi được thiên sứ báo tin thì bà Ma-nô-ác tin ngay. Còn ông Gia-ca-ri-a không tin. Nên bị câm cho đến ngày Gio-an chào đời. Nhưng khi lớn lên thì xảy ra điều ngược lại.

Sam-son thất bại. Vì không thực hành Lời Chúa. Sam-son được lệnh không được cạo đầu: “Dao cạo sẽ không được lướt trên đầu nó, vì con trẻ sẽ là một na-dia của Thiên Chúa. Chính nó sẽ bắt đầu cứu Ít-ra-en khỏi tay người Phi-li-tinh”. Sam-son yếu đuối rơi vào chước cám dỗ của Đa-li-la, để bị cạo đầu. Ông không giữ được lệnh Chúa truyền. Nên không cứu được Ít-ra-en. Chính ông bị rơi vào tay người Phi-li-tinh. Ông trở nên mù tối. Và làm tôi mọi cho họ.

Gio-an thành công. Vì hoàn toàn tuân giữ Lời Chúa. Ông vào sa mạc. Chuyên tâm cầu nguyện. Ăn châu chấu và mật ong. Mặc áo da thú. Đã thành công trong việc dọn đường cho Chúa. Giới thiệu Chúa cho mọi người. Ông hoàn thành nhiệm vụ “đi trước mặt Chúa, để đưa tâm hồn cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa”. Được Chúa khen ngợi là người cao cả nhất. Là ngọn đèn chiếu sáng.

Chúng ta sinh ra không phải do quyền năng người phàm. Nhưng do quyền năng Thiên Chúa. Khi sinh ra ta, Chúa trao cho ta một nhiệm vụ phải hoàn thành. Ta sẽ thất bại nếu không tuân giữ Lời Chúa. Ta sẽ thành đạt nếu tuân theo chỉ thị của Chúa.

Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng nên con. Sự sống là một hồng ân cao cả. Chỉ có Chúa mới ban tặng được. Và khi cho con có mặt ở đời, Chúa đã dành sẵn cho con một định mệnh cao quí. Xin cho con biết chu toàn mệnh lệnh của Chúa. Để con thành đạt trong Chúa.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Gioan Tẩy Giả Sinh Ra


(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)

Trong bài đọc I hôm nay, sách Thẩm Phán cũng kể lại việc thiên thần Chúa hiện ra với bà có chồng là Manuel thuộc chi họ Dan, và nói với bà rằng: "Ngươi son sẻ không có con, nhưng sẽ được thụ thai và sinh một con trai. Vậy ngươi hãy cẩn thận đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn món gì không thanh sạch vì ngươi sẽ thụ thai hạ sinh một con trai. Lưỡi dao cạo sẽ không chạm đến đầu nó, nó sẽ được hiến dâng cho Thiên Chúa từ thuở nhỏ và từ lòng mẹ. Chính nó sẽ bắt đầu giải phóng Israel khỏi tay người Philitinh. Bà hạ sinh một con trai và con trẻ sinh ra tên là Samson".

Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay nêu lên hai ý tưởng:

- "Không có sự gì mà Thiên Chúa không làm được". Hai người đàn bà son sẻ vợ của Zacharia và Manuel, tuổi đã già vậy mà sinh được hai người con là Gioan Tẩy Giả và Samson. Theo tục lệ Á Ðông xưa của chúng ta có nói: "Nữ thập tam, nam thập lục". Nghĩa là người nữ khoảng mười ba đến bốn mươi tuổi là cơ thể bắt đầu biến đổi để có thể chuẩn bị trở thành một người mẹ. Luật Giáo Hội xác định mười sáu tuổi, mà đa số các quốc gia chấp nhận mười tám tuổi là tuổi trưởng thành cho nữ giới để có thể kết hôn. Khả năng sinh con của người đàn bà có thể kéo dài từ đó đến quãng đời từ bốn mươi lăm đến năm mươi tuổi. Qua khỏi tuổi năm mươi thì hầu như không thể thụ thai được nữa. Lẽ dĩ nhiên phải năm mươi đến sáu mươi tuổi thì mới gọi là đã già, lại càng không thể có hy vọng sinh con cái được nữa. Hơn nữa khi nhìn vào trường hợp của Abraham, ông được mệnh danh là cha của kẻ tin. Mặc dầu Sara vợ ông đã già nhưng được thiên thần báo tin sẽ sinh một con trai trong lúc tuổi già. Abraham đã tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Ðấng mà ông tôn thờ: "Không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được".

- Muốn hiến thánh cho Thiên Chúa để lo việc phụng sự Ngài, Thiên Chúa đòi hỏi con người phải cộng tác với Người: "Ngươi hãy cẩn thận, không uống rượu và thức ăn có men, cũng đừng ăn những món gì không thanh sạch". Tất nhiên chúng ta cũng không hoàn toàn hiểu theo nghĩa đen nhưng phải hiểu theo nghĩa bóng nữa.

Mùa Vọng là mùa chuẩn bị mừng Chúa Cứu Thế đến, chúng ta không chỉ sửa soạn sạch sẽ, tô vôi, sơn quét lại ngôi thánh đường thân yêu trong Giáo Xứ, làm hang đá thật đẹp, thật lộng lẫy để Chúa Hài Nhi nằm nhưng chúng ta còn phải lo quét dọn tâm hồn, trang hoàng hang đá và làm cho ngôi thánh đường nhỏ bé xinh xinh ở trong tâm hồn chúng ta luôn sạch sẽ để như chiên bò ngày xưa thở hơi ấm áp cho Chúa nơi hang đá giá lạnh trần gian. Chúng ta hãy chuẩn bị tâm tình đón Chúa như lời thánh Gioan Tẩy Giả đã rao giảng: "Núi đồi hãy san cho bằng, hố sâu hãy lấp cho đầy, đường quanh queo hãy uốn cho ngay thẳng, và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".

Lạy Chúa, không có gì mà Chúa không làm được. Xin cho chúng con nhận biết Quyền Năng của Chúa để chúng con luôn sống trong tin yêu và hy vọng trong cuộc đời. Lạy Chúa, để dấn thân phục vụ Nước Chúa cho rộng lớn, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con luôn biết dùng tự do, thời giờ, tâm trí và tài năng riêng của mỗi người mà Chúa đã ban cho để tham dự vào việc mở mang nước Chúa mà không một đắn đo suy tính thua thiệt theo kiểu nhân loại. Amen.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Truyền tin cho Zacaria


Bài tin mừng hôm nay làm nổi bật tác động cứu độ của Thiên Chúa: Thiên Chúa không bỏ rơi ý định cứu độ của Ngài, nhưng Ngài chuẩn bị và thực hiện bằng những bước vững chắc suốt chiều dài lịch sử- cho đến Gioan, vị sứ giả sống sát thời Đấng Mêsia.

Việc Thiên Chúa can thiệp tích cực trong mầu nhiệm cứu độ chính là biểu hiện của tình thương hải hà. Thiên Chúa can thiệp và cứu độ chỉ có nghĩa là Ngài quá xót thương con người mà thôi. Bởi đó, càng nhìn lại những sự kiện, những hoàn cảnh hay những con người đã giúp thực hiện việc cứu độ, chúng ta càng nhận thấy vai trò sự cứu độ viên mãn. Đây là một điểm quan trọng, bởi vì đứng trước hoạt động lớn lao của Thiên Chúa, con người thời này thường có thái độ phản kháng khi cho rằng Thiên Chúa xử sự bằng cách giữ phần chủ chốt tức là đã coi thường con người, trong khi lẽ ra họ phải bày tỏ tâm tình khiêm tốn, thán phục và biết ơn Thiên Chúa. Đấng đã yêu thương, đã dấn thân và làm mọi sự chỉ vì hạnh phúc cho con cái mình.

Sống mùa vọng, ước gì chúng ta biết  nhận ra tác động của Thiên Chúa trong đời mình và trong lịch sử nhân loại, đồng thời biết hướng theo lời mời gọi hoán cải tâm hồn để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Một Thiên Chúa đột xuất


Vậy một sứ thần của Chúa hiện ra với ông, đứng bên phải hương án. Thấy vậy, ông Da-ca-ri-a bối rối và nỗi sợ hãi ập xuống trên ông. Nhưng sứ thần bảo ông: “Này ông Da-ca-ri-a đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin: bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gioan…”. (Lc. 1,11-13)

Ở tuổi già và với người vợ son sẻ, ông già Gia-ca-ri-a không còn hy vọng gì có con nữa. Đứa con trong ước mơ đã được ông liên lỉ cầu nguyện. Nhưng bây giờ về cuối đời rồi, ông không còn cầu nguyện xin sinh cậu ấm như trước nữa. Không còn trông cậy kêu xin một điều hão huyền đó với Thiên Chúa.

Tuy nhiên, với Thiên Chúa, không có gì hão huyền, không có gì bất lực. Điều không thể đó sẽ xảy ra. Ê-li-gia-bét, vợ ông, sẽ sinh Gioan tẩy giả.

Ông Gia-ca-ri-a đã suy ngắm Kinh thánh suốt đời ông, tuy vậy, ông vẫn nghi ngờ một chút rằng Thiên Chúa đã luôn luôn hài lòng nắm giữ trong tay mọi sự và thực hiện những kỳ công trong lúc bất ngờ. Ông đã biết rõ rằng trong quá khứ, nhiều lần hình như tuyệt vọng, như mất hết, Thiên Chúa đã can thiệp giải thoát cho dân khốn cùng. Ông đã biết thế, nhưng ông không thể tưởng tượng được Thiên Chúa lại làm như thế cho ông.

Chúng ta nhiều lần có những nghi ngờ như ông Gia-ca-ri-a. Đọc Kinh thánh, chúng ta thấy lạ lùng trước những sự kiện cao cả đã được Thiên Chúa thực hiện trong suốt dòng lịch sử, nhưng ý nghĩ như thế không còn xảy đến nên không còn làm cho chúng ta ngạc nhiên nữa. Chúng ta tin nhiều kỳ công Thiên Chúa đã làm cách đột xuất lạ lùng xưa kia hơn là ngày nay. Chúng ta phải tự hỏi mình xem mình còn tin thật rằng Thiên Chúa luôn luôn sống động không?

Hiện thời Giáo hội đang trải qua một cơn khủng hoảng trầm trọng. Giáo hội đang đi trong đen tối, không còn ảnh hưởng như xưa. Nhiều con cái đã bỏ Giáo hội. Nhiều con cái khác lại phản đối Giáo hội trầm trọng. Hầu như chạy tán loạn! Sau cùng … nhiều kẻ nghĩ và nói rằng: “Tương lai không còn Giáo hội nữa”.

Nhưng chính những lúc đó, khi tất cả đều đen tối và như tuyệt vọng, thì Thiên Chúa lại hiện ra mạnh mẽ hơn xưa. Chúng ta có còn đủ niềm tin rằng Ngài sẽ lại hiện đến không? Chúng ta còn đủ lòng hy vọng cậy trông rằng khủng hoảng hiện thời sẽ là một khủng hoảng trưởng thành, khủng hoảng thăng tiến không?

Thiên Chúa mà chúng ta cử hành lễ tạ ơn Ngài là một Thiên Chúa đột xuất và sống động hàng ngày.

G. F

---------------------------------

 

Suy Niệm 6: Thiên Chúa ban ơn cho người công chính


Trong cuộc sống luôn có những điều kỳ diệu làm cho chúng ta phải ngỡ ngàng. Đây là tâm trạng của ông Giacaria và bà Êlisabét. Hai ông bà là người cao niên. Qua nhiều năm, họ đã tha thiết khẩn cầu Thiên Chúa ban cho mình một mụn con. Tuy nhiên, càng mong càng mất. Vì thế, đã có lúc, ông bà thất vọng và không còn dám mơ ước một điều mà ông bà cho là viển vông.

Tuy nhiên, giờ của Thiên Chúa đã đến, Người đã đoái thương đến người công chính, vì thế, Ngài đã ban cho ông bà một điều kỳ diệu, đó là cho bà Êlisabét mang thai một người con trai, mà sau này chính là Gioan Tẩy Giả.

Đây là một phép lạ cả thể, đến nỗi chính bản thân ông Giacaria cũng ngỡ ngàng. Ngỡ ngàng vì không phải do ông không tin Thiên Chúa, bởi vì trong suốt lịch sử dân Israel, nhiều lúc Thiên Chúa đã can thiệp cách phi thường cho dân. Tuy vậy, vì sự chờ mong quá lâu, và hai ông bà đã về già, nên những chuyện mà hai ông bà đang cầu xin là điều khó có thể xảy ra! Nhưng Chúa có cách của Ngài.

Trong cuộc sống của chúng ta ngày hôm nay cũng vậy. Nhiều khi niềm tin của chúng ta bị thử thách bằng thời gian, đôi khi trong sự chờ mong của chúng ta bị đánh đổi bằng đau khổ và nước mắt. Thiên Chúa để chúng ta chờ mong như vậy, không có nghĩa Ngài là vị Thiên Chúa vô cảm, nhưng ngang qua đó, Thiên Chúa muốn biểu lộ quyền năng mạnh mẽ hơn.

Tuy nhiên, trong lịch sử cho thấy, đã có biết bao người thua cuộc. Đã có nhiều người phải đầu hàng vì thiếu niềm tin mạnh mẽ, can trường.

Thật vậy, muốn chứng minh niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa, đôi khi chúng ta phải có đủ độ lỳ trong hy vọng vào quyền năng của Người.

Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con thêm niềm hy vọng. Amen.

Ngọc Biển SSP

---------------------------------

 

Suy Niệm 7: Báo trước việc Gioan Tẩy Giả sinh ra


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Thánh Gioan Tẩy Giả đã được sinh ra trong thời kỳ ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-da-bét đã cao niên và son sẻ. Chính Chúa đã can thiệp. Chúa cũng hằng ngày can thiệp vào cuộc sống của ta để ta sinh hoa trái trước mặt Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã can thiệp cách đặc biệt để Thánh Gioan Tẩy Giả được sinh ra và trở nên vị tiên tri dọn đường cho Chúa cách trung thành. Con và gia đình con được hồng ân trở thành con Chúa. Đó chính là nhờ sự can thiệp đầy tình yêu thương của Chúa. Chúa đã giáng trần, đã chịu bao nhiêu thương khó, chịu nạn và sống lại vinh quang. Chúa đã hạ mình xuống thân phận tôi đòi để chúng con được sống sự sống của chính Thiên Chúa.

Chúa lại ban các tông đồ, các vị chủ chăn, để giúp chúng con sống cuộc đời làm con Chúa. Chúa lại còn can thiệp bằng cách thánh hiến các linh mục vì chúng con. Con còn gặp biết bao anh chị em thánh thiện, làm gương sáng và dắt dìu nhau về cùng Chúa. Con quên sao được ơn sống đạo của ông bà cha mẹ trong gia đình con. Chúa đang dùng nhiều cách để giúp con sống thân tình với Chúa mỗi ngày một hơn. Con chúc tụng tạ ơn Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đang đến với con và đang muốn dùng con để Chúa đến với các linh hồn xung quanh. Ngày ngày Chúa vẫn can thiệp vào cuộc sống của con. Ngày ngày Chúa vẫn thanh tẩy con như thanh tẩy Thánh Gio-an. Còn hơn thế nữa, ngày ngày Chúa vẫn dùng Mình Máu Chúa mà nuôi dưỡng thánh hóa con. Con cũng muốn sống theo gương Thánh Gio-an. Con muốn trung thành dọn đường cho Chúa đến với mọi người. Xin Chúa giúp con. Amen.

Ghi nhớ: ”Thiên Thần Gabriel báo trước việc Gioan Tẩy Giả sinh ra”.

---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Truyền tin cho ông Giacaria


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Thời vua Hêrôdđê, có vị tư tế tên là Giacaria và vợ là Elizabeth. Cả hai là người công chính, nhưng đã già mà không có con. Một hôm ông Giacaria trúng thăm vào cung thánh dâng hương cho Chúa. Đang lúc dâng hương ông thấy Thiên thần hiện ra báo cho ông biết: Chúa đã nhận lời ông cầu nguyện, vợ ông sẽ mang thai và sinh con trai đặt tên là Gioan. Người này sẽ nên cao trọng, sống khắc khổ, sẽ dọn đường cho Chúa Cứu Thế.

Nhưng ông Giacaria không tin, nên ông bị câm. Còn vợ ông thì thật sự có thai đúng như lời Thiên thần truyền.

2. Thử thách đối với ông Giacaria và bà Elizabeth.

Trong những lúc bị thử thách, chúng ta không biết bám víu vào đâu vì những người chung quanh đều bất lực không thể giúp chúng ta. Lúc đó, chúng ta chỉ biết dựa vào đức tin phó thác cho Chúa, xin Ngài đến cứu giúp.

Kinh Thánh cho biết hai ông bà là người công chính trước mặt Thiên Chúa (Lc 1,6), nhưng Chúa lại để cho hai ông bà bị hiếm muộn, son sẻ, mà theo quan niệm người Do thái là người có tội bị Thiên Chúa phạt, như người ta nói: “Cây khô không lộc, người độc không con”.

Nhưng công việc của Thiên Chúa thì chúng ta không hiểu được. Có thể đó là những điều Chúa thử thách rồi Người sẽ ban ơn cho như trường hợp hai ông bà hôm nay.

Vấn đề son sẻ được đề cập đến rất nhiều trong Cựu Ước như bà Sara, bà Rebecca, bà Rakhen, mẹ ông Samson, mẹ ông Samuel và Elizabeth đều là những phụ nữ son sẻ, nhưng đã sinh con và những người con của họ đều là những người đã được Thiên Chúa chọn và dùng vào trong công trình vĩ đại của Người. Điều đó cho chúng ta thấy sự bất lực của con người lại tỏ bày quyền năng của Thiên Chúa trong công việc của Người.

3. Theo tinh thần của bài Tin Mừng hôm nay, một gia đình đã có một lời cầu nguyện rất sốt sắng: Lạy Chúa, qua câu chuyện trên đây, Chúa muốn cho con biết: nếu con sống đẹp lòng Chúa, thì dù con xin điều gì khó khăn cách mấy, Chúa cũng sẽ sẵn sàng ban cho con. Như trường hợp vợ chồng ông Giacaria không hy vọng gì có con, nhưng ông bà là người công chính luôn luôn sống đẹp lòng Chúa, nên chẳng những cho được sinh con mà còn chọn con ông bà làm tiền hô dọn đường cho Chúa.

Xin cho gia đình con và các gia đình luôn sống đẹp lòng Chúa, hằng ngày siêng năng sốt sắng thờ phượng Chúa, tuân giữ luật Chúa, để được Chúa ban ơn cần thiết, nhất là để được Chúa thương chọn nhiều người trong gia đình chúng con giúp việc Chúa.

4. Theo gương thánh Gioan Tẩy giả đến làm chứng cho ánh sáng cũng là làm chứng cho Chúa Cứu Thế. Chúng ta cũng phải làm chứng cho Chúa bằng bất cứ cách nào: ” Các con là chứng nhân của Thày” (Lc 24,48).

Chúng ta có thể làm chứng cho Chúa bằng lời nói, chữ viết hay bất cứ phương tiện nào, nhưng phương tiện có tính cách thuyết phục nhất là đời sống thực tế của chúng ta, chính con người chúng ta là dấu ấn của Thiên Chúa để người ta trông thấy chúng ta  thì đồng thời cũng nhìn ra Chúa. Trong việc phong thánh cho Linh mục Gioan Vianney, cha sớ xứ Ars, một nhà điều tra phong thánh có hỏi một người trong giáo xứ về đời sống của Ngài, thì người giáo dân ấy  chỉ trả lời vỏn vẹn bằng mấy chữ: ”Tôi đã trông thấy Thiên Chúa trong một con người”.

5. Truyện: Một chứng tích hùng hồn.

Sau những tháng năm làm đầy tớ cho một gia đình quí phái, Sophie Beranski phải thất nghiệp.

Ngày kia, gia đình Hersten, một gia đình Do thái thuê nàng về chăm sóc cho mấy đứa trẻ trong nhà họ.  Ngay hôm đầu tiên khi biết được Sophie là người Công giáo,  ông chủ đã đặt điều kiện là nàng không được “giảng đạo” cho con cái ông. Sophie nhận lời. Và chiều hôm ấy, lúc còn lại một mình trong phòng, nàng lấy một mảnh giấy nhỏ, viết một dòng chữ xếp lại và bỏ vào chiếc huy chương cha nàng để lại, rồi mang vào cổ. Lũ trẻ trong nhà nhiều lần đòi Sophie cho coi chiếc huy hương ấy nhưng nàng nhất định không cho: bí mật của đời cô mà!

Dưới sự săn sóc chỉ bảo của Sophie, lũ trẻ trong gia đình của Hersten càng ngày càng trở nên nhu mì ngoan ngoãn. Cuộc sống đang lặng lẽ trôi qua, tai họa dồn dập xẩy đến: Bé Naim đau nặng. Cả nhà cuống quít đưa đi bệnh viện. Sophie tình nguyện túc trực ngày đêm ở đó. Rồi thêm hai đứa nữa cũng ngã bệnh. Gánh đã nặng lại càng nặng thêm. Tuy nhiên Sophie vẫn tận tình phục vụ cách vui vẻ cho đến khi ba đứa nhỏ  trở lại bình thường. Rồi một hôm, kết quả của những ngày lao nhọc thức khuya dậy sớm, Sophie ngã bệnh và từ trần.

Hai năm trôi qua. Hôm nay là ngày giỗ của Sophie Beranski. Người ta thấy cả gia đình Hersten dậy sớm và cùng nhau đến nhà thờ Công giáo dự thánh lễ. Phải chăng là phép lạ?

Không! Sau khi Sophie đã mất được ít lâu, tình cờ khi mở chiếc huy chương mà tụi trẻ đã vất lăn lóc từ lâu trong một hộc tủ, ông Hersten rút ra được mảnh giấy trên có ghi dòng chữ: ”Khi người ta cấm tôi nói về đạo của tôi, tôi quyết sống đạo của tôi trước mặt họ như một chứng từ hùng hồn”.

Ông hết sức cảm phục. Cả gia đình ông cũng thế. Sau đó tất cả mọi người đều đến nhà thờ xin được học đạo và lãnh nhận bí tích Rửa tội.

---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Giới thiệu nhân vật dọn đường cho Chúa Cứu Thế


(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)

Phân tích

Bài Tin mừng hôm nay giới thiệu hoàn cảnh sinh ra nhân vật thứ hai, sẽ dọn đường cho Chúa Cứu Thế: Gioan Tiền Hô.

1. Ông Dacaria và bà Êlisabét được trình bày theo hình ảnh của những tổ phụ thời Cựu Ước: công chính, tuân giữ mọi đều răn và mệnh lệnh Thiên Chúa, nhưng son sẻ và cao niên cũng như Abraham, Sara; cha mẹ của Samson; cha mẹ của Samuel… Do đó có thể nói hai ông bà là đại diện cho Cựu Ước.

2. Đứa con mà họ sẽ sinh ra cũng là đại diện của Cựu Ước: Gioan được mô tả như các ngôn sứ, được Thiên Chúa gọi ngay từ lòng mẹ, chính Thiên Chúa đặt tên cho, rượu lạt rượu nồng đều không uống, đầy Thần Khí và uy quyền của ngôn sứ. Gioan sẽ thay mặt Cựu Ước để giới thiệu Đức Giêsu của Tân Ước.

3. Việc sinh con trong hoàn cảnh son sẻ tuổi già của các nhân vật Cựu Ước và của vợ chồng Dacaria chuẩn bị cho cuộc sinh ra đặc biệt của Chúa Giêsu, bởi vì “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37)

Suy gẫm

1. Theo cái nhìn đức tin, và trong chương trình cứu độ của Chúa, mỗi người sinh ra đều có một ơn gọi, một sứ mệnh. Xin Chúa cho con nhìn ra và xác tín ơn gọi, sứ mệnh của con hôm nay. Xin Chúa cho con cũng nhìn ra và quý trọng ơn gọi, sứ mệnh của anh chị em đang sống bên con, nhất là sứ mệnh dọn đường cho Chúa đến.

2. Việt Nam ta có một truyện cổ nói lên niềm tin dân gian vào sứ mệnh, vào số mệnh của từng con người trên đời. Nhà kia có ba cậu con trai. Một cậu nổi tiếng là ‘phá gia chi tử’, tiêu xài phung phí, phá của. Cậu khác quanh năm làm ăn quần quật, không dám tiêu xài một xu nào. Cậu thứ ba tuy không phá của nhưng cũng chẳng chịu làm gì hết. Một ngày nọ ba cậu đều hấp hối. Trước khi chết ba cậu lần lượt nói rõ lý do tại sao mình sắp chết. Cậu ‘phá của’ nói rằng nhà này (ý nói cha mẹ cậu) kiếp trước nợ nần tôi nên kiếp này tôi đầu thai vô để đòi nợ. Nay đòi xong, tôi ra đi. Cậu ‘làm quần quật’ nói rằng kiếp trước tôi mắc nợ nhà này, nay đầu thai để trả nợ, đã trả xong nay tôi ra đi. Còn cậu cuối cùng nói rằng tôi chẳng dính dáng nợ nần gì với nhà này. Tôi đầu thai vô đây để làm nhân chứng. Nay chứng kiến hai đứa kia đã đòi xong nợ, đã trả hết nợ, vậy tôi ra đi. Chúng ta không tin vào quan niệm đầu thai để đi vào một định mệnh nghiệt ngã, nhưng chúng ta tin vào một sứ mệnh riêng, có tính cách mời gọi và thôi thúc, mà Chúa gửi gắm cho mỗi người chúng ta.

3. Giacaria bị câm nín một thời gian sau đó hát lên bài ca nổi tiếng Benedictus. Đời sống đạo của ta cũng có thể có nét gì tương tự như vậy. Sau những thử thách, sau những gian khổ nghiền ngẫm, sau mùa đông… Sẽ là niềm hân hoan an bình, sẽ là bài ca chúc tụng, sẽ là những bông hoa tươi đẹp… nếu ta biết vững niềm tin cậy phó thác vào tình thương của Chúa.

4. “Một sứ thần hiện ra với Dacaria và bảo: “Bà Êlisabét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai và ông phải đặt tên cho con là Gioan. ” Dacaria thưa rằng: “Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã già mà nhà tôi cũng đã lớn tuổi” (Lc 1,13. 18)

Cô Isabelle 19 tuổi, nữ sinh viên người Pháp, đã cảm thấy “Thiên Chúa không còn là Thiên Chúa nữa,” vì sau những đau khổ, mất mát xảy đến với cô, Thiên Chúa đã “ngoảnh mặt làm ngơ. ” Cô không còn thiết sống nữa. Nhưng chính trong bước đường cùng ấy, theo lời khuyên của một người bạn, cô đã “đến và ở lại với Chúa,” và cô đã cảm nghiệm được lòng nhân từ của Người, đến nỗi có thể thốt lên như thánh Phaolô: “Không gì có thể tách tôi ra khỏi Tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Kitô. ”

Cuộc sống đã hơn một lần khiến tôi cảm thấy không biết phải dựa vào đâu để tin vào Thiên Chúa và chấp nhận những gì xảy đến cho tôi. Cũng như ông Dacaria và cô Isabelle, trước những thách đố của cuộc sống, tôi cũng cảm thấy bối rối, lo âu, không biết nương nhờ ai để có thể đứng vững.

Lạy Chúa, xin cho con biết đến và ở lại với Chúa, tìm và gặp nơi Ngài chỗ nương thân.

---------------------------------

 

Suy Niệm 10: Mọi người, và Gioan Baotixita có sứ mệnh


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Theo cái nhìn đức tin, và trong chương trình cứu độ của Chúa, thì mỗi người sinh ra đều có một ơn gọi, một sứ mệnh. - Không phải chỉ có các tổ phụ hay các đấng bậc có chức có vị trong Giáo Hội mới là những người có sứ mệnh nhưng là tất cả mọi người.

Tháng 7-1972 sau những tháng dài bị tra tấn trong trại lính, nơi ngài thi hành nghĩa vụ linh mục, cha Vania đã ngã gục dưới làn mưa đạn. Trong lá thư cuối cùng, ngài viết cho cha mẹ già có những dòng như sau:

“Cha mẹ yêu dấu! Thiên Chúa đã chỉ cho con một con đường phải theo. Con không chắc có thể còn sống để trở về với cha mẹ nữa không, bởi vì những cuộc tra tấn lúc này dã man hơn trước rất nhiều. Thế nhưng, con cũng không sợ, vì có Chúa ở cùng con. Xin cha mẹ cứ an tâm, đừng lo lắng, cũng đừng buồn sầu vì con. Rồi đây, cha mẹ cũng không còn nhận được thư của con nữa. Lúc này con yếu và kiệt sức lắm rồi. Con xin chào thăm cha mẹ trong tình yêu Chúa Kitô và trong sự bình an của Thiên Chúa Cha. Người ta cấm cản con không được rao giảng về Chúa Kitô nữa, và con phải trải qua nhiều khó khăn thử thách. Thế nhưng, con tuyên bố với họ là con sẽ tiếp tục rao giảng Tin Mừng và tình yêu Chúa Kitô. Đây là một sứ mệnh cao cả mà con hãnh diện được tiến bước theo mệnh lệnh của Chúa. Con không xấu hổ rao giảng về Chúa. Các phép lạ Chúa Giêsu làm đều được minh chứng rằng, có Thiên Chúa, do đó con vẫn tiếp tục gieo vãi hạt giống Tin Mừng, vì đó là điều Thánh Thần Chúa phán bảo con. Mười tháng sau, khi nghe con rao giảng về Chúa Kitô, một binh sĩ đã được ơn tin nhận Chúa và xin rửa tội. Điều đó giúp con rất nhiều và giúp con thêm bền lòng vững chí.

Thân ái chào cha mẹ yêu dấu, và có lẽ đây là lời chào cuối cùng, của con gửi đến cha mẹ trên trần gian này”.

2. “Sứ thần hiện ra với Giacaria và bảo: “Bà Êlisabeth vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai và ông phải đặt tên cho con là Gioan”. Giacaria thưa rằng: “Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã già mà nhà tôi cũng đã lớn tuổi” (Lc 1,13. 18).

Giacaria muốn xin một dấu lạ. Việc xin một dấu lạ thực ra không có gì đáng trách cả. Môisen xưa kia đã từng xin Giavê một dấu lạ. (Xh 15,28). Tướng Gêđêon cũng thế, ông cũng muốn xin một dấu lạ khi thiên thần báo cho ông hay là Chúa đã chọn ông làm tướng cứu dân Israel. Ở đây, Giacaria cũng xin một dấu lạ nhưng ông đã bị phạt vì ông không đủ lòng tin.

Giacaria bị câm nín một thời gian nhưng sau đó hát lên bài ca nổi tiếng ”Benedictus”. Đời sống đạo của mỗi người chúng ta cũng có thể có nét gì tương tự như vậy. Chính vì thế mà chúng ta phải biết luôn kiên trì trên con đường theo Chúa.

Sau những tháng năm làm đầy tớ cho một gia đình quí tộc, Sophie Beranska phải thất nghiệp.

Ngày kia, gia đình Hersten, một gia đình Do Thái thuê nàng về chăm sóc cho mấy đứa trẻ trong nhà họ. Ngay hôm đầu tiên khi biết được Sophie là người Công giáo, ông chủ đặt điều kiện là nàng không được “giảng đạo” cho con cái ông. Sophie nhận lời. Và chiều hôm ấy, lúc còn lại một mình trong phòng, nàng lấy một mảnh giấy nhỏ, viết một dòng chữ xếp lại và bỏ vào chiếc huy chương cha nàng để lại, rồi mang vào cổ. Lũ trẻ trong nhà nhiều lần đòi Sophie cho coi chiếc huy chương ấy nhưng nàng nhất định không cho: bí mật của đời cô mà!

Dưới sự chăm sóc chỉ bảo của Sophie, lũ trẻ trong gia đình của Hersten càng ngày càng trở nên nhu mì ngoan ngoãn. Cuộc sống đang lặng lẽ trôi qua thì một hôm, tai họa dồn dập xảy đến: Bé Naim đau nặng. Cả nhà cuống quít đưa đi bệnh viện. Sophie tình nguyện túc trực ngày đêm ở đó. Rồi thêm hai đứa nữa cũng ngã bệnh. Gánh đã nặng thì càng nặng thêm trên đôi vai Sophie. Tuy nhiên, nàng vẫn tận tình phục vụ cách vui vẻ cho đến khi 3 đứa nhỏ trở lại bình thường. Rồi một hôm, kết quả của những ngày lao nhọc thức khuya dậy sớm, Sophie ngã bệnh và từ trần.

Hai năm trôi qua. Hôm nay, là ngày giỗ của Sophie Beranska. Người ta thấy cả gia đình Hersten dậy sớm và cùng nhau đến một nhà thờ Công giáo dự thánh lễ. Phải chăng là phép lạ?

Không! Sau khi Sophie đã mất được ít lâu, tình cờ khi mở chiếc huy chương của nàng mà tụi trẻ đã vất lăn lóc từ lâu trong một hộc tủ, ông Hersten rút ra được một mảnh giấy trên có ghi dòng chữ: “Khi người ta cấm tôi nói về đạo của tôi, tôi quyết sống đạo của tôi trước mặt họ như một chứng tích hùng hồn”.

Ông hết sức bàng hoàng cảm phục. Rồi gia đình ông cũng thế. Và sau đó tất cả mọi người đều đến nhà thờ xin được học đạo và lãnh nhận bí tích Rửa tội.

---------------------------------

 

Suy Niệm 11: Thiên thần Gabriel báo trước việc Gioan Tẩy giả sinh ra


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Thánh Gioan Tẩy Giả được Chúa chọn làm người tiền hô của Chúa. Người tiền hô là người đi trước dọn đường cho Chúa ngự đến, bằng cách dùng lời nói và gương sáng cũng như kinh nghiệm cuộc sống của mình để giúp cho dân chúng cách thức thống hối, trở về với Chúa và rồi được gặp Chúa khi Chúa đến.

Chẳng phải vì là tiền hô của Chúa mà cuộc đời của ngài dường như có vẻ rất huyền nhiệm, bí ẩn, khó hiểu, thách đố con người chúng ta. Thật sự những gì diễn ra trong bài Tin Mừng hôm nay theo tường thuật của thánh sử Luca đều nằm trong chương trình cứu độ của Chúa, đặt trên nền tảng tình yêu vô biên của Chúa đối với con người chúng ta và cách riêng là với thánh Gioan Tẩy Giả. Ngài được thiên thần Gabriel vâng lệnh Chúa đến truyền tin cho ông Zacaria là cha của ngài khi mà tuổi đã về chiều, đang dâng hương trong Đền Thờ Chúa theo phiên trực của mình, là Êlisabét, mẹ ngài sẽ cưu mang ngài. Lúc này, chúng ta cảm thông cho ông Zacaria chưa chịu tin vì lý do: “Làm sao tôi biết được, vì tôi đây đã già, vợ tôi cũng đã cao niên” (Lc 1, 18), bởi nếu ai trong chúng ta mà rơi vào trường hợp như thế này thì làm gì mà dễ dàng tin được. Ông Zacaria có một niềm tin mạnh mẽ vào Chúa mà cũng còn hồ nghi như vậy, huống hồ chúng ta còn yếu đức tin thì làm gì chúng ta không đặt nghi vấn. Chúa chẳng vì vậy mà bắt bẻ hay khó chịu, hoặc trừng phạt ông Zacaria, vì Chúa biết đây là ơn ban quá lớn lao cho ông  Zacaria và bà Êlisabét mà hai ông bà khẩn xin Chúa gần như suốt cả cuộc đời. Do đó, Chúa để cho ông Zacaria bị câm và rồi sau những ngày thánh vụ quan trọng đó, ông trở về nhà, sống với bà Êlisabét trong âm thầm, khiêm hạ để suy gẫm ơn trong đại Chúa ban này.

Trong lúc truyền tin cho ông Zacaria, thiên thần Gabriel cũng cho ông và chúng ta biết sứ mạng của thánh Gioan Tẩy Giả là: “Da-ca-ri-a, đừng sợ, vì lời ngươi cầu nguyện đã được nhậm rồi. Ê-li-sa-bét vợ ngươi sẽ hạ sinh cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ gọi tên trẻ là Gio-an. Ngươi sẽ được vui mừng hân hoan, và nhiều người cũng sẽ vui mừng, vì việc trẻ sinh ra. Vì trẻ nầy sẽ nên cao trọng trước mắt Chúa, sẽ không uống rượu và thức có men, sẽ được tràn đầy Thánh Thần ngay từ lòng mẹ, sẽ đem nhiều con cái Ít-ra-en trở về cùng Chúa là Thiên Chúa. Trẻ này sẽ đi trước Người, trong thần trí và quyền lực của Êli-a, để đổi lòng dạ cha ông về với con cháu, kẻ ngổ nghịch về lại với lương tri của những người công chính, dọn cho Chúa một đoàn dân chuẩn bị” (Lc 1, 13 – 17). Vậy là cuộc đời và sứ mạng của ngài đã được thiên thần báo trước khi ngài thực hiện những gì Chúa muốn, đó là điều mà chúng ta cần biết được là muốn thực hiện sứ mạng chứng nhân cho Chúa, chúng ta phải sống đúng ý Chúa thì mới đươc.

Ơn Chúa ban luôn làm cho con người chúng ta hạnh phúc, vì thế chúng ta cần phải luôn tạ ơn Chúa, tạ ơn suốt cuộc đời, chúng ta cũng cần nhờ người khác cùng tạ ơn Chúa với chúng ta: “Chúa đã làm cho tôi thế này, trong những ngày Người đoái thương, cất nổi khổ nhục tôi khỏi người đời” (Lc 1, 25).

Lạy Chúa, chỉ còn mấy ngày nữa là chúng con mừng Chúa giáng sinh, trong những ngày này, xin Chúa cho chúng con biết khẩn trương dọn linh hồn chúng con cách chu đáo hơn để chúng con đón Chúa đến. Amen.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 12: Mầm non từ gốc tổ Giesê


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Qua Lời Tổng Nguyện của Ngày 19 Tháng 12 hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Qua điềm lạ Đức Trinh Nữ sinh con, Chúa đã tỏ cho trần gian thấy Vầng Hồng chiếu tỏa vinh quang Chúa là chính Đức Giêsu Kitô. Xin Chúa giúp chúng ta biết họp mừng Mầu Nhiệm Giáng Sinh với một niềm kính tin toàn vẹn và một lòng vâng phục thẳm sâu.

Kính tin toàn vẹn và vâng phục thẳm sâu, bởi vì, Chúa luôn nhìn đến những người nghèo khổ bé mọn, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, ngôn sứ Isaia cho thấy: Than khóc Babylon, qua sự kiện xảy ra cho Babylon, Thiên Chúa muốn dùng việc Người làm để nói với một thế giới chỉ tin cậy vào sức riêng của mình, đồng thời cho biết, sự khôn ngoan kiêu hãnh của họ đưa họ đến chỗ suy vong. Ơn cứu độ đích thực ở bên những người nghèo của Đức Chúa: sống niềm tin trong cảnh lầm than và đôi khi cả áp bức, phải tìm sự cứu thoát ở đó, bây giờ cũng như ngày xưa. Trời hãy hò reo, đất hãy nhảy múa, núi non hãy bật tiếng hò reo. Vì Đức Chúa chạnh lòng thương những kẻ nghèo khổ của Người. Đấng cứu chuộc chúng ta, Đấng mang danh hiệu là Đức Chúa các đạo binh, là Đức Thánh của Ítraen.

Kính tin toàn vẹn và vâng phục thẳm sâu, bởi vì, chắc chắn Chúa sẽ đến cứu độ chúng ta, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Irênê nói: Chính Chúa cứu độ con người, vì con người không thể tự cứu mình được… Muôn dân hỡi, lắng nghe lời Chúa và loan tin đến cùng cõi địa cầu. Hãy nói cho các đảo xa vời được biết: Đấng cứu độ chúng ta sắp ngự đến rồi. Hãy loan tin, thông báo, hãy lớn tiếng kêu lên.

Kính tin toàn vẹn và vâng phục thẳm sâu, bởi vì, Chúa sẽ thực hiện lời hứa của Người và chúng ta sẽ ca ngợi những kỳ công Chúa thực hiện, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Thủ Lãnh cho thấy: Samsôn được sinh ra theo lời sứ thần báo. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 70, vịnh gia đã kêu xin: Miệng chứa chan lời tán tụng Chúa, suốt ngày con chẳng ngớt tôn vinh Ngài. Lạy Chúa, xin Ngài nên như núi đá cho con trú ẩn, như thành trì để cứu độ con, núi đá và thành trì bảo vệ con, chính là Ngài. Lạy Thiên Chúa, xin giải thoát con khỏi bàn tay kẻ dữ.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Lạy Đức Kitô là mầm non từ gốc tổ Giesê, Ngài chiêu tập muôn dân dưới hiệu kỳ. Xin đến mà giải thoát, đừng trì hoãn làm chi. Bài Tin Mừng cho thấy: Gioan Tẩy Giả sinh ra theo lời sứ thần Gáprien báo. Samsôn và Gioan sinh ra theo lời sứ thần báo, và Đấng Cứu Độ cũng từ gốc tổ Giesê sẽ sinh ra như lời Người đã hứa. Chúa đã thực hiện lời hứa của Người. Ơn cứu độ của ta không do ta mà có, nhưng, do Thiên Chúa. Thầy thuốc chứng tỏ tài năng của mình nơi các con bệnh thế nào, thì Thiên Chúa cũng biểu lộ quyền năng của Người nơi loài người như thế. Nhờ Con Thiên Chúa, con người lại được hưởng lòng thương xót, được ơn làm nghĩa tử. Ngôi Lời đã nên giống như thân xác tội lỗi, để lên án tội lỗi, và khi kết án rồi, Người trục xuất tội lỗi ra khỏi thân xác. Làm như vậy, Người thúc đẩy phàm nhân nên giống như Người, đặt họ vào mối dây liên hệ cha con để họ được nhìn thấy Thiên Chúa, và giúp họ hiểu được Chúa Cha. Ngôi Lời Thiên Chúa ngự trong con người và trở thành Con của loài người để làm cho con người quen nhận biết Thiên Chúa và để Thiên Chúa quen ngự trong con người. Người nào không kiêu căng, không tự phụ, lại biết vâng phục và tạ ơn, người ấy sẽ được Thiên Chúa ban cho vinh quang lớn lao, và được tăng triển cho đến khi nên giống Đấng đã chịu chết vì mình. Qua điềm lạ Đức Trinh Nữ sinh con, Chúa đã tỏ cho trần gian thấy Vầng Hồng chiếu tỏa vinh quang Chúa là chính Đức Giêsu Kitô. Ước gì chúng ta biết họp mừng Mầu Nhiệm Giáng Sinh với một niềm kính tin toàn vẹn và một lòng vâng phục thẳm sâu. Ước gì được như thế!

---------------------------------


 

Thứ 6:

Truyền tin cho Đức Maria.
20/12 – Thứ Sáu tuần 3 mùa vọng.
"Này trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai".

 

LỜI CHÚA: Lc 1, 26-38


Khi ấy Thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria.
Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà. Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ". Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít, tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận".
Nhưng Maria thưa với Thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?"
Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà, và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra sẽ là Ðấng Thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già, và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ, vì không có việc gì mà Chúa không làm được".
Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và Thiên thần cáo biệt Bà.

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Tôi đây là nữ tỳ của Chúa


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Cách đây gần chín tháng, chúng ta đã nghe đọc bài Tin Mừng này
vào lễ sứ thần Gabrien Truyền Tin cho Đức Mẹ.
Hôm nay chúng ta nghe đọc lại bài này trong bầu khí rộn ràng
của những ngày gần đại lễ Giáng Sinh.
Các sách Tin Mừng không nói nhiều về thời gian Đức Mẹ mang thai.
Luca chỉ nói về chuyện Mẹ đi thăm bà chị họ hiếm muộn (Lc 1, 39-45).
Còn Mátthêu nói về chuyện thánh Giuse nằm mộng và được sứ thần mời
đón nhận Maria làm vợ và thai nhi Giêsu làm con của mình (Mt 1, 18-24).
Nhưng thời gian mang thai là một thời gian khá dài và quan trọng,
nhất là đối với người mẹ trẻ sinh con so.
Các bà mẹ mang thai thấy mình như mang một mầu nhiệm,
mầu nhiệm sự sống đang lớn lên mỗi ngày trong lòng dạ mình.
Dần dần mỗi chuyển động của thai nhi
và cả nhịp tim cũng được người mẹ cảm nhận.
Thai nhi trở thành người trọn vẹn
nhờ được dưỡng nuôi trong cái nôi êm ấm của lòng mẹ.
Con Thiên Chúa làm người cũng trải qua một tiến trình như thế.
Ngài không từ trời hiện xuống bất ngờ trong quyền năng,
nhưng Ngài đã là một thai nhi yếu đuối trong lòng Đức Trinh Nữ.
“Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã tạo cho con một thân thể…
Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây,
con đến để thực thi ý Ngài” (x. Dt 10, 5-7).
Con Thiên Chúa đã cất lên tiếng Xin Vâng đối với kế hoạch của Cha.
Tiếng Xin Vâng khiến Ngài chấp nhận hủy mình ra không,
để “trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2, 7).
Khi trở thành một thai nhi sống nhờ lòng mẹ,
Con Thiên Chúa như cất giấu đi vinh quang chói ngời của thần tính.
Ngài vui lòng đồng hành với mọi con người trên mặt đất
để Ngài thực sự là anh em của họ.
“Tôi đây là nữ tỳ của Chúa.
Xin xảy ra cho tôi như lời sứ thần nói” (c. 38).
Ngay sau tiếng Xin Vâng này, Đức Maria được Thánh Thần ngự xuống,
và Con Thiên Chúa bắt đầu tiến trình làm người ở đời (c. 35).
Ngài từ từ có trái tim, khuôn mặt, vân tay riêng…
Đấng Cứu Độ sung sướng trở nên một sinh linh nhỏ bé,
để nói cho nhân loại biết về sự cao quý của một thai nhi.
Đức Maria trở thành Hòm Bia Thiên Chúa, nơi Ngôi Hai hiện diện.
Chúng ta ít khi nghĩ đến thời gian Mẹ Maria mang thai.
Thời gian cưu mang chẳng bao giờ nhẹ nhàng hay dễ dàng.
Để có thể sinh ra Đức Giêsu cho môi trường ta đang sống,
cũng cần thời gian thai nghén lâu dài và vất vả.
Chúng ta phải mang Ngài trong lòng mình,
kiên nhẫn và chăm chút để Ngài lớn lên, trước khi sinh Ngài cho thế giới.
“Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là mẹ tôi” (Mc 3, 35).
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con gặp được ánh mắt của Chúa
ít là một lần trong đời.
Khi tương lai con đang vững vàng ổn định,
xin hãy nhìn con như Chúa đã nhìn Lêvi
và mời gọi con đứng lên theo Chúa,
bỏ lại tất cả những gì con cậy dựa.
Khi con chẳng còn là mình, vấp ngã như Simon,
xin hãy quay lại nhìn con
bằng ánh mắt xót thương, tha thứ,
để con òa khóc như trẻ thơ.
Khi con khao khát sống cuộc đời hoàn thiện,
xin hãy nhìn con bằng ánh mắt yêu thương
như Chúa đã trìu mến
nhìn người thanh niên giàu có.
Khi con ước mong được thấy khuôn mặt Chúa,
xin Chúa hãy dừng lại và ngước lên nhìn con,
như Chúa đã ngước lên nhìn Dakêu
và cho ông thấy cả tấm lòng bao la bát ngát.

Lạy Chúa Giêsu,
xin dạy chúng con biết nhìn con người hôm nay
bằng ánh mắt của Chúa.
Chúa động lòng thương
khi thấy bao người yếu đau,
thấy đám đông bơ vơ như chiên không mục tử.
Ánh mắt Chúa thấu suốt lòng người.
Chúa buồn phiền khi thấy có kẻ lòng chai dạ đá,
nhưng Chúa cũng vui
khi thấy bà góa nghèo bỏ vào tất cả.
Đôi mắt Chúa đã từng nhòa lệ
trước cái chết của người bạn thân là Ladarô,
và trước viễn ảnh sụp đổ của thành đô yêu dấu.

Lạy Chúa, đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn.
Xin cho con qua cửa sổ ấy mà vào tâm hồn Chúa. Amen.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Đặt tên là Giêsu


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Trong các ơn không ơn nào trọng bằng ơn cứu độ. Trong các lời hứa không lời nào trọng bằng lời hứa ban Đấng Cứu Độ. Trong các dấu lạ không có dấu lạ nào bằng lớn lao bằng Thiên Chúa sinh xuống làm người để cứu độ nhân loại. Vì thế Chúa không hứa cho A-khát điều gì khác ngoài lời hứa ban Đấng Cứu Độ sinh ra bởi người trinh nữ. Nghĩa là do quyền năng của Thiên Chúa. Để trở thành Em-ma-nu-en: Thiên Chúa ở giữa loài người. Thế giới nhân loại có quá nhiều đau khổ. Quá nhiều lo âu. Quá nhiều đổ vỡ. Quá nhiều vấn đề. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể giải quyết được hết các vấn đề của con người. Mới có thể tạo nên con người mới. Khởi đầu một lịch sử mới. Xây dựng một thế giới mới. Một thế giới tràn đầy ân sủng.

Lời hứa từ ngàn xưa được ứng nghiệm nơi Đức Mẹ và Chúa Giê-su. Chúa Giê-su chính là Đấng muôn dân trông đợi. Giê-su nghĩa là Thiên Chúa cứu. Người đến cứu thế giới khỏi bế tắc. Cứu nhân loại khỏi diệt vong. Giải thoát con người khỏi ách thống trị của ma quỉ. Vì Người là Thiên Chúa. Tuy sinh ra trong trần gian nhưng “Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”. “Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người”. Đó là vị vua muôn dân trông đợi. Để tái lập thời huy hoàng của Đa-vít. Thời đất nước hùng mạnh. Dân được hưởng an lạc thái hoà.

Đức Mẹ chính là người trinh nữ sinh con mà tiên tri đã loan báo từ ngàn xưa. Đức Mẹ chính là người đầu tiên được hưởng ơn cứu độ. Nhờ Chúa Giê-su mà Đức Mẹ được ơn vô nhiễm nguyên tội. Và được đồng trinh trọn đời. Đức Mẹ là “Đấng đầy ân sủng”. Vì Đức Mẹ cưu mang Chúa Giê-su là nguồn mạch ân sủng. Thiên sứ cho biết con trẻ sẽ được “đặt tên là Giê-su”. Nghĩa là Thiên Chúa cứu độ nhân loại. Đức Mẹ là người đầu tiên được cứu khỏi tội lỗi. Đức Mẹ là công dân đầu tiên của vương quốc Nước Trời, của triều đại Thiên Chúa. Nên Đức Mẹ được “đầy ân sủng”. Và từ lòng Mẹ, ân sủng tràn lan khắp thế giới.

Kế hoạch của Thiên Chúa thành công. Vì Chúa Giê-su hoàn toàn vâng phục ý Chúa Cha. Và vì Đức Mẹ dâng mình làm “nữ tỳ” ngoan ngoãn để Thiên Chúa sử dụng. Xin cho con biết noi gương Đức Mẹ. Hoàn toàn ngoan ngoãn để thực hiện chương trình của Thiên Chúa. Con sẽ được giải thoát khỏi tội lỗi. Con sẽ được Thiên Chúa ở cùng. Con sẽ được đầy tràn ân sủng. Con sẽ được ơn cứu độ.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Ngôi Lời Ðã Hóa Thành Nhục Thể


(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)

Gabriel trong tiếng Do Thái có nghĩa là: "Thiên Chúa là sức mạnh". Bởi thế, khi lãnh sứ mạng truyền tin cho Mẹ Maria, hình ảnh sức mạnh nổi bật nơi người mang sứ điệp và chính tại nội dung của sứ điệp. Mẹ Maria phân vân thắc mắc bằng những suy nghĩ thường tình của con người: "Việc ấy thành sự sao được? Vì tôi không biết đến người Nam". Tuy nhiên, thắc mắc này không làm nao núng vị sứ giả biểu tượng cho sức mạnh Thiên Chúa. Sứ giả đã trấn an Mẹ với lời khẳng định: Chẳng có gì mà Thiên Chúa không làm được". Dù cho tuổi già như Elisabeth thì Ngài vẫn cho sinh hạ một con trai để góp phần gia truyền ơn cứu độ. Ngài đã tạo dựng vũ trụ cho con người, Ngài đã gầy dựng một dân tộc từ một đôi vợ chồng son sẻ mà tuổi đã xế chiều, thế mà tại sao Ngài lại không thể tạo cho mình một thân xác từ trong cung lòng người Nữ được?

Thiên Chúa Quyền Năng làm được mọi sự, nhưng dù cho quyền năng thế nào đi nữa thì khi đứng trước tự do của con người Ngài cũng phải đành bó tay, vì Ngài tôn trọng sự tự do của con người. Quả thật tự do là một món quà quí báu nhất mà Thiên Chúa tặng ban cho con người. Với lý trí và tự do con người đã vẽ lại hình ảnh của Thiên Chúa nơi thân phận thụ tạo của mình. Có tự do mới có tình yêu, vắng bóng tự do thì chỉ còn là những áp đặt, trói buộc hoặc lợi dụng. Không gì làm đẹp lòng Thiên Chúa cho bằng khi con người biết dùng tự do để đáp lại tình yêu của Ngài, và cũng không gì làm đau lòng Ngài cho bằng khi con người sử dụng tự do để phản bội Ngài. Dù Ngài Quyền Năng tuyệt đối thì Ngài vẫn không dùng Quyền Năng để ngăn cản sự tự do của con người. Vì thế mà thảm cảnh đã đến với nhân loại khi nguyên tổ đã cản ngăn chương trình tốt lành của Thiên Chúa dành cho mọi thụ tạo.

Thế nhưng, Thiên Chúa lại không bỏ mặc con người nhưng Ngài đã hứa ban ơn cứu độ ấy được thể hiện qua dòng lịch sử. Khung cảnh được tường thuật trong bài Tin Mừng hôm nay là điểm cuối của hằng bao thế kỷ chuẩn bị ấy. Và dù phải bỏ công chuẩn bị suốt một thời gian dài như vậy, Thiên Chúa cũng không dùng quyền năng của mình để ép buộc Mẹ Maria chấp nhận chương trình của Ngài. Ngài đợi chờ hai tiếng "Xin Vâng" thốt ra từ môi miệng của Mẹ, Ngài tôn trong tự do nơi Mẹ. Về phần Mẹ Maria, Mẹ cũng dùng lý trí của Mẹ để tìm hiểu, thắc mắc. Tuy nhiên, khi dùng lý trí thì Mẹ vẫn không bước ra ngoài sự hướng dẫn của Thiên Chúa.

Câu hỏi của Mẹ là một thắc mắc chính đáng trong cái suy nghĩ thường tình của con người: "Làm sao một người nữ lại có thể sinh con khi không có sự tiếp tay của người nam". Sứ thần đã hướng dẫn lý trí của Mẹ suy nghĩ đến quyền năng của Thiên Chúa. Lúc này tâm trí của Mẹ không chỉ qui về sự việc bà chị họ mang thai nhưng bao gồm tất cả chiều dài của chương trình lịch sử cứu độ.

Nhờ thế mà hôm nay Giáo Hội mới có được lời kinh Magnificat để chúc tụng trong giờ kinh Phụng Vụ. Và rồi chẳng ngần ngại Mẹ đã thưa "Xin Vâng". Hai tiếng "Xin Vâng" tuy vắn gọn nhưng không mất tính chất quan trọng của một chiếc chìa khóa mở cửa cho nguồn ơn cứu độ đến với nhân loại. Chẳng gì là quá đáng khi chúng ta lập lại lời thơ của Hàn Mặc Tử:

"Lạy Sứ Thần Thiên Chúa Gabriel!
Khi người xuống trần gian truyền tin cho Thánh Nữ.
Người có nghe xôn xao muôn vị tinh tú?
Người có nghe náo động cả phương trời?"

Vì do sự sử dụng tự do của nguyên tổ mà chương trình tốt lành của Thiên Chúa bị cản ngăn, thì lúc này với sự sử dụng tự do của Mẹ Maria chương trình cứu độ tình thương của Ngài được thiết lập.

Qua bài Tin Mừng hôm nay, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta bắt chước ở nơi Mẹ Maria thái độ lắng nghe, tìm hiểu và rồi sẽ đáp trả trong tự do và tin tưởng. Vì mỗi ngày Thiên Chúa vẫn hằng chờ đợi chúng ta trong Bí Tích Thánh Thể và trong các biến cố của cuộc sống. Ngài chờ đợi một lời đáp trả trong "tin yêu", vì Ngài hoàn toàn tôn trọng tự do của ta. Nếu chúng ta biết thưa hai tiếng "Xin Vâng" như Mẹ Maria đã thưa thì chắc chắn Ngài sẽ đến và sẽ hành động trong chúng ta. Nhưng nếu một khi đã có Thiên Chúa đến ở với thì tôi tớ trở thành Mẹ Thiên Chúa. Cũng vậy, là tạo vật hèn kém, bất xứng nhưng một khi được Thiên Chúa ở cùng chúng ta sẽ chỉ là chi thể, là bạn hữu và là anh em của Ngài.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Truyền tin cho Đức Maria


Người ta kể lại rằng: một hôm có người tìm đến thánh Don Bosco vấn kế về phương pháp xây dựng hoà bình thế giới. Nhằm lúc thánh nhân đang bận việc, con người thao thức về hoà  bình ấy gõ cửa mỗi lúc một mạnh hơn. Mãi một lúc sau, thánh nhân ra mở cửa và niềm nở mời khách vào phòng, Ngài kiên nhẫn lắng nghe, chờ cho người đó trình bày hết ý kiến, rồi mỉm cười nói: “Ông không nghĩ rằng một trong những phương pháp hữu hiệu để xây dựng hoà bình là gõ cửa phòng người khác nhẹ hơn sao?”.

Giai thoại trên minh hoạ phần nào thái độ đứng núi này trông núi nọ của rất nhiều người. Nhiều người chưa làm nổi những việc nhỏ đã nghĩ đến những việc lớn: nhiều người không đủ kiên nhẫn chịu đựng những việc thường ngày đã nghĩ đến việc tử đạo cho đại cuộc.

Trong lãnh vực đức tin cũng thế, nhiều người tưởng có thể gặp gỡ Thiên Chúa trong bốn bức tường nhà thờ, trong những giờ phút thinh lặng, trong những giờ cầu nguyện liên tục. Thiên Chúa dường như không chấp nhận bị giam trong những giờ phút giờ phút hay khung cảnh giới hạn nào đó. Ngài đến trong từng giây phút và biến cố cuộc sống, trong những cái nhỏ nhặt thường ngày của cuộc sống.

Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta lặp lại xác tín đó. Sứ thần được sai đến với một Trinh nữ khiêm hạ, thuộc một ngôi làng nhỏ bé  Nazarét, xứ Galile. Nhưng chính từ khung cảnh âm thầm ấy, thánh Luca đã làm nổi bật những tước hiệu cuả Đấng Cứu Thế: “Ngài sẽ nên cao  trọng và được gọi là Con Đấng Tối cao. Ngài sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp”.

Một Thiên Chúa Toàn năng đã đến gặp con người, trong thân phận con người, trong khung cảnh bình thường, trong những bất ý nhất của cuộc  sống. Đó phải là niềm tin của chúng ta mỗi khi tuyên xưng: “Tôi tin kính Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chuá, sinh bởi Đức Nữ Đồng Trinh Maria”.

Nét độc đáo của niềm tin  Kitô là tuyên xưng Thiên Chúa đã mặc xác phàm. Và tin nhận Thiên Chúa làm người cũng có nghĩa là luôn sẵn sàng đón nhận Ngài trong từng phút giây cuộc sống, là biến mỗi phút giây cuộc sống thành  cuộc gặp  gỡ với Đức Kitô.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Hỏi hay chiêm niệm


Sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu.

Bà Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xãy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”

Sứ thần đáp: “Thánh thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ là thánh, sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. (Lc. 1, 30-31. 34-35)

Nhiều câu hỏi được đặt ra:

Khi thiên thần Gáp-ri-en báo tin cho Maria sẽ là Mẹ Đức Giêsu, Mẹ không thể không hỏi: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào? Vì tôi khấn giữ đồng trinh”. Mẹ hài lòng vì câu trả lời của thiên thần nên nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.

Chúng ta tò mò hơn Đức Maria, không chỉ hỏi một câu mà nhiều câu thắc mắc liên quan đến sự sinh con đồng trinh của Đức Mẹ.

Người duy lý hỏi: “Làm sao Thiên Chúa có thể làm một việc nghịch với bản tính tự nhiên?”. Kẻ đa nghi hỏi: “Có thể xảy ra như thế không? hay thánh sử Tin mừng tô điểm thêm cho đẹp”. Tín hữu yếu đức tin cũng hỏi: “Tại sao chúng ta buộc phải tin điều như thế?”.

Câu trả lời chân chính: Chúng ta không chấm dứt được những câu hỏi đặt ra cho chúng ta về vấn đề sinh hạ Đức Giêsu cách lạ lùng. Những câu đó là vô ích. Trong khi tìm cách trả lời, chúng ta cố gắng chiêm niệm sâu xa hơn về mầu nhiệm của Thiên Chúa và nắm bắt lấy thánh ý Ngài một chút.

Nhưng câu hỏi chân chính nên đặt ra chính là câu hỏi: Chúng ta có nên hỏi hay nên chiêm niệm mầu nhiệm cưu mang đồng trinh? Điều nào là quan trọng hơn? Đức Maria nhất thiết chọn việc chiêm niệm mầu nhiệm hơn. Ngài đã đón nhận và suy niệm mầu nhiệm của Thiên Chúa. Ngài không thử thách Thiên Chúa, không tìm cách thọc mạch những điều bí ẩn. Ngài đã hoàn toàn tin cậy Chúa. Mẹ đã nhận thấy điều căn yếu này: Thiên Chúa sẽ làm nơi Mẹ những điều lạ lùng.

Nếu chúng ta chăm chú chiêm niệm hơn về mầu nhiệm sinh ra Đức Giêsu, có thể chúng ta sẽ dễ dàng tìm được những câu đáp tốt lành cho những thắc mắc của chúng ta. Có thể chúng ta sẽ được chìm vào sâu thẳm của mầu nhiệm khi chiêm niệm, và lúc đó những thắc mắc sẽ biến tan.

J. Y. G

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 6: “Xin Vâng”


Vào thời Đức Maria, luật lệ Dothái rất gắt gao đối với những phụ nữ bị phạm tội ngoại tình. Nếu bị mắc phải, tức là có thai trước hôn nhân hay trong thời kỳ đính hôn là bị án tử hình. Hình phạt chính là ném đá cho đến chết.

Trong hoàn cảnh như thế, Đức Maria cũng thuộc về thành phần trong dân tộc này, hẳn Mẹ không thể thoát khỏi tội chết khi tự nhiên trong bụng mình có một Thai Nhi ngày càng lớn dần theo theo năm tháng...

Ai là người hiểu được Mẹ ngoài Thiên Chúa là chủ thể của Thai Nhi trong bụng Mẹ! Như thế, khi không chồng mà chửa là chắc chắn chết. Mẹ biết rõ điều đó. Tuy nhiên, khi Mẹ nhận được lời giải thích của Sứ Thần, Mẹ đã chấp nhận đi vào cuộc phưu lưu với Thiên Chúa trong niềm tin tưởng và phó thác. Quyết định này là một hành vi can đảm, bởi vì khi quyết định như vậy, Mẹ sẽ gặp phải muôn vàn khó khăn đến từ gia đình, xã hội và nhất là với Giuse, bạn trăm năm của mình. Nhưng, vì tin vào Thiên Chúa tuyệt đối, nên Mẹ đã buông theo ân sủng để Thiên Chúa rợp bóng trên cuộc đời của Mẹ.

Trong cuộc sống của chúng ta hôm nay, đức tin nhiều khi bị lung lay vì những thử thách đến với chúng ta từ nhiều phía...

Đôi khi chính chúng ta cũng thử thách ngược lại Thiên Chúa để thỏa mãn sự hiếu tri của mình trước khi tin, và như thế, hẳn khó có thể chấp nhận nghịch lý ân sủng của Thiên Chúa.

Nguyên nhân sâu xa chính là việc chúng ta không nhạy bén với ơn Chúa, còn nghi ngờ quyền năng của Ngài, và cũng có thể do sự kiêu ngạo phủ lấp tâm trí chúng ta, nên Lời Chúa khó biến đổi tâm hồn trai đá của mình. Vì thế, nhiều khi còn uốn nắn Lời Chúa theo thiển ý của ta nữa.

Sở dĩ Đức Mẹ trở thành Nữ Tỳ Thiên Chúa và sẵn sàng đón nhận lời “xin vâng” với Thiên Chúa là vì Mẹ nhạy bén với ơn Chúa đã được loan báo từ trong thời Cựu Ước. Mẹ cũng khiêm tốn khi thấy điều này là kế hoạch đến từ Thiên Chúa chứ không phải do con người, nên Mẹ đã “xin vâng” để thánh ý Thiên Chúa được nên trọn.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tin tưởng, phó thác cuộc đời cho Chúa như Đức Mẹ. Khiêm tốn để Lời Chúa được lớn lên trong tâm hồn và sinh hoa trái trong cuộc sống của chúng ta. Sống trung thành với Chúa dù có phải gặp muôn vàn khó khăn thử thách. Can đảm đón nhận thánh ý Chúa và trung thành với Thiên Ý.

Lạy Mẹ Maria, xin phù trợ chúng con để chúng con khiêm tốn, can đảm, nhạy bén và trung thành với Chúa như Mẹ. Amen.

Ngọc Biển SSP

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 7: Một trinh nữ sẽ thụ thai


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Ê-li-da-bét, một bà già son sẻ cũng mang thai được. Đức Maria thụ thai, sinh con mà vẫn đồng trinh. Vì Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng. Đối với Ngài không có gì là không làm được.

Cầu nguyện: Lạy Chúa là Chúa tể trời đất, Chúa là Chúa trên tất cả các Chúa, Chúa là vua trên tất cả các vua. Chúa cao trọng hơn tất cả. Thế mà nhiều lúc con đã thiếu lòng tin cậy nơi Chúa, để chạy theo các thần tượng khác. Con đã cậy dựa vào của cải vật chất. Con đã đặt niềm tin vào những suy tính phàm trần của trí khôn nhân loại. Con đã ỷ vào sức riêng mình. Vỗ ngực xưng danh là Kitô hữu, nhưng trong cuộc sống thường ngày con còn rất nhiều mê tín dị đoan. Con đã nhiều lần kêu trách Chúa khi gặp khó khăn thử thách. Con đã tin vào bói toán bùa ngải hơn tin vào Chúa.

Xin Chúa cho con luôn biết nhìn lên Mẹ Maria như mẫu gương đời sống đức tin. Mẹ đã đón nhận ý Chúa một cách vô điều kiện, thưa hai tiếng xin vâng. Mẹ đã hoàn toàn tín thác trong vòng tay uy quyền và đầy yêu thương của Chúa. Nói theo lời của Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI: trong đức tin, Mẹ đã bước liều trong hy vọng.

Lạy Chúa, chính đức tin là sức sống cho thời đại hôm nay. Đức tin dẫn con đi trên nẻo đường ánh sáng của Chúa. Đức tin giúp con vượt thoát được những chặng đường gian nan thử thách. Và khi sống trong niềm tin, là con đang tuyên xưng rằng: Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, Thiên Chúa làm được mọi sự.

Lạy Chúa, con và gia đình con tin Chúa, nhưng xin thêm đức tin cho chúng con. Trong cuộc hành trình đức tin, xin cho chúng con luôn biết dõi theo bước chân Đức Maria, Mẹ dấu yêu. Amen.

Ghi nhớ: ”Này trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai”.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Tin rằng Chúa thực hiện lời Người muốn


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa đó ít dặm, nghe nói thế thì tìm đến, và hy vọng học được bí quyết để sống bình tâm, hạnh phúc. Bà hỏi: “Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao?”. “Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao”. Câu hỏi của người phụ nữ giống như lời của bà Êlisabéth ca tụng Đức Maria: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45).

Suy niệm

Theo Kinh Thánh, trinh nữ Maria đã đính hôn cùng thánh Giuse và hai người đã quyết tâm sống tận hiến cho Thiên Chúa. Cùng hòa chung với toàn dân, Maria cũng luôn khao khát và hằng trông đợi Đấng Cứu Thế đến với Dân Người.

Bỗng nhiên, Maria đón một vị khách lạ đến, vị khách đó chính là Sứ thần Gabriel mang một sứ điệp từ trời cao làm thay đổi cả cuộc đời Maria: Nàng được Thiên Chúa chọn là Mẹ Đấng Cứu Thế. Giữa những bối rối của bản thân: Quyết tâm tận hiến cho Thiên Chúa như ước mơ cuộc đời hay trở nên một người mẹ theo thánh ý của Thiên Chúa? Maria đã đặt đời mình trong niềm tin và vâng phục hoàn toàn vào Thiên Chúa.

Dù chưa sáng tỏ sự việc nhưng Maria vẫn tín thác xin vâng: “…tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Sự vâng phục trọn vẹn trong đức tin của Maria là một thái độ sẵn sàng chờ đợi Đấng Cứu Thế. Sự vâng phục như tỏ lộ ý chí của Maria: “Điều gì Chúa nói, tôi tin và tôi luôn xin vâng”. Tin và tuân theo thánh ý của Thiên Chúa, Maria học biết trước tinh thần của Đức Cứu Thế muốn nơi dương gian mà Ngài đã thực hiện “Xin ý Cha được thực hiện” (Mt 26,39).

Chính thái độ hoàn toàn vâng phục trong đức tin là tâm tình chờ đón Chúa đến mà Maria đã biểu lộ trong suốt cuộc đời của một người trinh nữ tận hiến gặp gỡ thiên ý và trở nên người Mẹ Đấng Cứu Thế luôn tin và vâng phục.

Tâm tình và thái độ khiêm nhu trước Thiên Chúa của Mẹ, đốt lên ngọn nến để chờ đợi sẵn sàng đón Chúa. Ngọn nến soi tỏ chúng ta sống tâm tình tin và vâng phục: Bản ngã và cuộc sống của mình tan hoàn toàn trong thánh ý Thiên Chúa. Sống tâm tình chờ đợi là sống trong ánh sáng của niềm tin. Tin làm cho cuộc đời có ý nghĩa. Không có niềm tin cuộc đời như một đêm tối không ánh sao. Tin sẽ mang đến niềm vui. Tin là sức mạnh cho cuộc đời tinh thần hăng hái và niềm hy vọng như Maria vui tươi hy vọng vào Thiên Chúa biểu lộ qua bài ca Magnificat và tinh thần phục vụ (x. Lc 1,39-56).

Ý lực sống

“Này con xin đến để thực thi ý Chúa” (Dt 10,7)

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Truyền tin cho Đức Maria


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Đến ngày ấn định, Chúa sai thiên thần Gabriel đến thành Nagiarét, báo cho Đức Maria đã đính hôn với thánh Giuse: bà được đầy ơn phúc. Chúa đã chọn bà làm Mẹ Thiên Chúa. Bà sẽ sinh Con Đấng Tối Cao.

Maria thưa với Thiên Thần là việc đó không thể xẩy ra được vì bà giữ mình đồng trinh không biết đến việc vợ chồng thì làm sao sinh con được. Nhưng Thiên Thần cho bà biết việc đó do Chúa Thánh Thần làm, nên Đấng bà sinh ra là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa... Đồng thời Thiên Thần cũng nói cho biết việc bà Elizabeth đã có thai sáu tháng rồi, vì không có việc gì Thiên Chúa không làm được.

Bấy giờ Bà Maria thưa với Thiên Thần: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền”.

2. Thiên Chúa cần con người cộng tác với Ngài.

Thiên Chúa có thể cứu độ con người bằng bất cứ cách nào theo sự khôn ngoan thượng trí của Ngài. Mặc dù “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”, nhưng trong công cuộc cứu độ này, Ngài không muốn hành động một mình mà muốn có sự cộng tác của con người. Chính vì vậy mà Ngài đã sai sứ thần Gabriel  đến hỏi ý kiến Đức Maria trong việc làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Ngài tôn trọng tự do của con người. Ngài không áp đặt mà chỉ đề nghị. Ngài muốn sự đáp trả sáng suốt của con người. Sau khi Đức Maria đã thưa xin vâng, Ngôi Hai Thiên Chúa lập tức đầu thai trong lòng trinh nữ Maria và Maria đã trở thành Mẹ của Con Thiên Chúa.

3. Trở nên dụng cụ để Thiên Chúa dùng.

Đức Maria đã trở nên dụng cụ Thiên Chúa dùng trong công cuộc cứu chuộc loài người sau tiếng “Xin vâng” của Đức Mẹ.

Khi nói đến dụng cụ là nói đến một đồ vật để con người xử dụng theo ý mình. Dụng cụ chỉ biết phục tùng theo ý muốn người xử dụng. Không bao giờ dụng cụ có thể nói với người xử dụng tại sao lại dùng vào việc nọ việc kia, mà chỉ biết hoàn toàn vâng theo người xử dụng nó, có khi người xử dụng phế thải cả dụng cụ, thì chính dụng cụ ấy cũng không có quyền phản đối.

Đức Maria đã đặt mình dưới quyền xử dụng của Thiên Chúa vì Ngài nhận thấy mình chỉ là người đầy tớ vô dụng. Tuy nhiên, Chúa có thể dùng vào việc lớn lao mà mình không ngờ. Chúng ta có thể tìm được hình ảnh này trong văn chương bình dân Việt nam:

Ai làm cho cải tôi ngồng,
Cho dưa tôi khú, cho chồng tôi chê.
Chồng chê thì mặc chồng chê,
Dưa khú nấu với cá trê ngọt lừ. (Ca dao)

Thánh Gioan Vianney, lúc còn là một chủng sinh, học hành rất chậm chạp, tưởng chừng như ngài không có đủ khả năng để tiến tới chức Linh mục. Ngày kia, thừa lệnh Giám mục giáo phận, một vị giáo sư Thần học, đã đến khảo sát Vianney, tội ngiệp Vianney đã không thưa được câu nào. Không giữ được bình tĩnh, vị giáo sư đã đập bàn quát lớn:

- Vianney, anh dốt như con lừa. Với một con lừa như anh, Giáo hội sẽ làm được gì?

Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời:

- Thưa thầy, ngày xưa Samson chỉ dùng cái hàm của một con lừa, để đánh bại được ba ngàn quân Philitinh, vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được gì sao?

4. Đức Maria có một lòng tin sâu sắc.

Sau khi đã nghe sứ thần báo tin và cắt nghĩa cho Đức Maria hiểu theo quyên lực vô biên của Thiên Chúa, Ngài đã sẵn sàng thưa “Xin vâng”. Câu xin vâng đã nói lên lòng tin sâu sắc của Đức Maria vào quyền năng của Thiên Chúa.

Lịch sử cứu độ thời Cựu ước bắt đầu bằng một hành vi đức tin của Abraham. Ông được gọi là “cha của những kẻ tin”. Lịch sử cứu độ thời Tân Ước cũng bắt đầu bằng hành vi đúc tin của Đức Mẹ. Đức Maria được gọi là “mẹ của những kẻ tin”. Lịch sử cứu độ của mỗi người cũng phải bắt đầu bằng hành vi đức tin của người đó.

5. Truyện: Đức tin nhỏ mà lớn.

Có một bà nổi tiếng đạo dức, nhân hậu và luôn bình tâm  trước mọi thử thách. Một bà khác ở xa đó ít dặm, nghe nói thế thì tìm đến, và hy vọng học được bí quyết để sống bình tâm, hạnh phúc. Bà hỏi: - Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao?

Bà thưa:

- Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 10: Đức Maria: nhân vật quan trọng


(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)

A. Hạt giống...

Bài Tin Mừng hôm nay giới thiệu nhân vật quan trọng nhất trong việc Chúa Cứu Thế sinh ra: Đức Maria.

1. Thánh Luca trình bày Đức Maria là “Thiếu nữ Sion” (Câu “mừng vui lên” là âm hưởng của lời ngôn sứ Xôphônia nói với thiếu nữ Sion: x. Xp 8,14). Ngày xưa qua miệng ngôn sứ, Thiên Chúa hứa sẽ đến ở nhà “thiếu nữ Sion” (tức là dân Chúa). Lời hứa này hôm nay được thực hiện nơi Đức Mẹ.

2. So sánh Đức Maria với ông Dacaria: khi được báo tin sẽ có con, cả Dacaria và Đức Maria đều thắc mắc hỏi lại. Nhưng câu hỏi của Dacaria biểu lộ sự không tin (câu 20: Lời thiên sứ nói “Bởi vì ông không tin”). Còn câu hỏi của Đức Maria là để xin soi sáng thêm (“việc ấy xảy đến thế nào?”), và sau đó Người đã mau mắn thưa Fiat.

B.... nẩy mầm.

1. Đức Maria hỏi “Việc ấy xảy ra cách nào được, vì...”. Thiên sứ đáp “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (câu 37). Rất nhiều điều con người tưởng không thể nào làm được thế mà Thiên Chúa vẫn làm được: Ngài đã làm cho Êlisabét son sẻ được có con, đã làm cho Đức Maria đồng trinh sinh ra Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa cũng có thể làm nơi mỗi người chúng ta những việc trọng đại, miễn là chúng ta sẵn sàng để Ngài hoạt động trong chúng ta.

2. Mặc dù “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”, nhưng thường Thiên Chúa không làm một mình, Ngài thích có sự hợp tác của con người. Để cho Đấng Cứu Thế nhập thể, Thiên Chúa đã nhờ Đức Maria hợp tác. Và Đức Maria đã hợp tác bằng cách ngoan ngoãn để cho ơn Chúa hành động trong mình và qua mình: “Xin cứ làm cho tôi...”.

3. Một thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức dậy được. Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm ở một chỗ xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng hồ báo thức. Ngày đầu tiên anh quên vặn đồng hồ trước khi ngủ nên đến sở làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm khi nó reo thì anh đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc. Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh đáp:

- Chiếc đồng hồ đó hoàn toàn vô dụng đối với con.

- Nó vô dụng là vì con không chịu dùng nó. Mẹ anh đáp.

Bao nhiêu ơn Chúa ban cho ta cũng đều vô dụng nếu ta không xử dụng đến.

4. Lịch sử cứu độ thời Cựu Ước bắt đầu bằng một hành vi đức tin của Abraham. Ông được gọi là “cha của những kẻ tin”. Lịch sử cứu độ thời Tân Ước cũng bắt đầu bằng hành vi đức tin của Đức Mẹ. Đức Maria được gọi là “mẹ của những kẻ tin”. Lịch sử cứu độ của mỗi người cũng phải bắt đầu bằng hành vị đức tin của người đó.

5. “Sứ thần nói với cô Maria: Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu”. Cô Maria thưa với sứ thần: “Này tôi là nữ tì của Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền” (Lc 1,31.38)

Một biến cố như cuồng phong chợt đến trong tâm tư người thôn nữ Nadarét, làm đảo lộn mọi dự tính, mọi ước mơ. Và có nguy cơ bị hiểu lầm, ruồng rẫy… Nhưng Mẹ Maria đã dám “Xin Vâng”, tin tưởng phó thác vào tình thương và sự tín trung của Thiên Chúa. Mẹ đã dám “Xin Vâng” và nhận mình là bé nhỏ, là thuộc về. Mẹ đã dám “Xin Vâng”, và nhận được sự bình an.

Tuổi trẻ luôn có nhiều ước mơ, hoài bão, tự xây cho mình nhiều kế hoạch để khẳng định chính mình, nên rất sợ những biến cố, những tai họa, vì chúng tạo ra những thay đổi, gây nên những thất bại và làm đổ bể mọi kế hoạch. Tôi lo lắng, sợ hãi vì chưa biết chấp nhận sự nhỏ bé của mình, chưa tin tưởng phó thác vào Tình yêu của Thiên Chúa, và chưa dám Xin Vâng như Mẹ Maria.

Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết Xin Vâng như Mẹ. Xin Vâng mỗi ngày trong suốt cuộc sống của con, để dù cuộc sống có như thác đổ, lòng con vẫn cứ bình an vì biết rằng Chúa luôn đồng hành với con. (Epphata).

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 11: Biến cố Truyền Tin


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Biến cố Truyền Tin đã đưa Đức Maria vào chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Biến cố này xảy ra tại Nazareth, trong những hoàn cảnh rộn rã của lịch sử dân tộc Do Thái, một dân tộc đầu tiên đã được hưởng lời hứa của Thiên Chúa.

Thánh sử Luca, khi thuật lại biến cố này đã viết: “Thiên thần vào nhà Trinh nữ và chào rằng: Kính chào Đấng đầy ơn phúc” (Lc 1,28). Ở đây chúng ta có cảm tưởng rằng, “đầy ơn phúc” đã trở thành một tên riêng thật mới, mà Thiên sứ đã tặng cho Đức Maria, để thay thế cho tên Maria, tên mà ông bà Gioakim và Anna đã đặt cho Ngài.

Có Thiên Chúa ở cùng, đó là hạnh phúc tuyệt hảo. Cùng đích của mọi khát vọng của chúng ta là được hưởng hạnh phúc Thiên Đàng, mà hạnh phúc Thiên Đàng hệ tại điều gì? Có phải là tiền của, giàu sang, danh vọng, chức quyền không? Không. Hạnh phúc Thiên Đàng hệ tại ở chỗ là có Chúa, là chiếm hữu được Chúa.

Nhưng có phải chờ cho đến lúc chúng ta bước sang thế giới bên kia, chúng ta mới được hưởng hạnh phúc đó không?

Thưa không. Ngay từ đời này, chúng ta đã có thể bắt đầu hưởng hạnh phúc đó rồi, nếu chúng ta biết để cho Chúa ở cùng chúng ta.

Cha Gioan Tauler, một vị linh mục rất đạo đức nhưng ngài vẫn luôn cầu xin để được gặp một người nào đó chỉ dẫn cho ngài Thiên Đàng ở đâu. Một ngày kia, như có tiếng lương tâm giục, ngài ra trước cửa nhà thờ hy vọng gặp được người đó.

Nhìn trước nhìn sau, cha chẳng thấy ai, ngoại trừ một người ăn mày, quần áo rách rưới, mặt mũi bẩn thỉu, hôi hám. Cha đến gần chào người hành khất:

- Chào ông, chúc ông may mắn.

Người ăn mày thản nhiên trả lời:

- Chào cha, tôi có bị rủi ro bao giờ đâu.

- Vậy thì xin Thiên Chúa ban cho ông mọi điều sung sướng.

- Ồ, thưa cha, đời tôi chưa bao giờ thấy khổ cả.

Cha Tauler rất ngạc nhiên về cách nói năng của người này. Cha hỏi tiếp:

- Nếu Chúa bắt ông xuống hỏa ngục, ông có buồn khổ không?

Người hành khất trả lời không cần suy nghĩ:

- Nếu Chúa làm như vậy thì tôi sẽ ôm ghì lấy chân Chúa và cùng Chúa xuống hỏa ngục luôn. Tôi thà ở hỏa ngục với Chúa còn hơn ở Thiên Đàng mà không có Ngài.

Vị linh mục càng ngạc nhiên hơn nữa. Cha hạch hỏi:

- Này ông, ông có thể cho tôi biết, ông từ đâu tới đây?

- Thưa cha, tôi từ Thiên Chúa mà đến.

- Nhưng ông tìm thấy Thiên Chúa ở đâu?

- Ngay khúc quẹo, chỗ mà tôi từ bỏ mọi của cải vật chất trên đời này.

Tới đây, cha Tauler không thể chờ đợi thêm được nữa. Ngài hỏi nhanh:

- Thế thì, ông là ai?

Người ăn mày nói một cách trịnh trọng:

- Tôi là vua.

Cha Tauler quỳ xuống trước mặt người ăn mày:

- Tâu Đức vua, Ngài có thể cho con biết vương quốc ngài ở đâu không?

- Vương quốc của ta ở ngay trong tâm hồn ta.

Vâng, kính thưa anh chị em,

Nhiều lúc trên đời, chúng ta đã mất thời giờ viễn vông đi tìm bình an, hạnh phúc ở những nơi không bao giờ có.

Thì ra sự bình an, vui vẻ, hạnh phúc không phải là do ngoại cảnh tạo ra, mà lại ở ngay trong chính lòng ta. Khi lòng ta an vui thì ngoại cảnh cũng sẽ đẹp đẽ. Khi lòng ta bất ổn thì ngoại cảnh chỉ tạo nên sầu muộn ”Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!”.

Chúa Giêsu đã nói thật rõ trong Tin Mừng thánh Luca chương 17 “Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (Lc 14,18)

 Lòng ta chính là Thiên Đàng vậy!

Chút nữa đây, chính Ngôi Lời của Thiên Chúa, là Chúa Giêsu, sẽ ngự vào trong tâm hồn chúng ta. Lúc đó, chúng ta đâu có khác gì Đức Maria sau biến cố Truyền Tin, nghĩa là Mình Máu Thánh Chúa chúng ta lãnh nhận, cũng giống như bào thai Giêsu, mà Đức Maria mang trong lòng Ngài khi xưa, và cũng chính vì bào thai ấy mà Đức Maria được xưng tụng là Đấng đầy ơn phúc.

Mùa vọng của năm Phụng vụ sắp chấm dứt, nhưng tinh thần của mùa vọng không được chấm dứt, mà nó sẽ còn phải tồn tại mãi trong đời sống mỗi ngày của chúng ta, đặc biệt trước mỗi lần chúng ta rước Chúa. Chính những lúc đó là lúc chúng ta phải sống tâm tình của các tổ phụ xưa, trước khi Đấng Cứu Thế giáng trần. Và lời cầu xin của chúng ta trong lúc ấy, cũng phải là lời này: “Lạy Chúa, xin hãy đến”. Chúa đến để làm cho chúng con được đầy ơn phúc, Chúa đến để làm cho chúng con được hưởng niềm hạnh phúc Thiên Đàng.

Lạy Chúa,
Giữa giá rét của mùa đông,
xin cho con gặp Chúa.
Giữa những long đong và bấp bênh của phận người,
xin cho con gần Chúa. Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi,
xin cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.

Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ,
xin cho con cảm được sự bình an của Chúa,
ngay giữa những âu lo hằng ngày.
Và cuối cùng, xin cho con dám sống như Chúa
vì Chúa đã dám sống như con. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 12: Này Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Ngày lễ Mẹ được thiên thần Gabriel vâng lời Thiên Chúa đến truyền tin hôm nay, chúng ta biết được Chúa đã xuống thế làm người, đã bắt đầu thụ thai trong lòng của Mẹ vì Mẹ đã chấp nhận cưu mang Chúa rồi: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các tiên tri, nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1, 1 – 2).

Trước khi được diễm phúc cưu mang Đấng Cứu Thế mà chẳng một ai từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế được như Mẹ, Mẹ không cũng hiểu tại sao Chúa lại chọn Mẹ nữa, cho nên Mẹ mới hỏi thiên thần; “ Việc đó xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến người nam” (Lc 1, 34). Mẹ hỏi lại như vậy để Mẹ an tâm trong việc làm theo ý Chúa cho trọn tình vẹn nghĩa.

Chúa được Mẹ cưu mang trong cung lòng chín tháng mười ngày, rồi sau đó là chào đời để sống với chúng ta. Những ngày Chúa sống ở trần gian là những ngày Chúa đồng hành với chúng ta, cùng đi chung với chúng ta trong mọi tình huống của cuộc sống dương thế tiến về với Chúa Cha.

Hai con người nổi bật nhất trong những ngày này là Chúa và Mẹ. Chúa và Mẹ có một điểm chung là hoàn toàn vâng theo thánh ý Chúa để cho thánh ý Chúa được thực hiện  đúng thời, đúng lúc: “Lạy Chúa, này con đến để thực thi ý Chúa” (Dt 10, 9), còn với Mẹ: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền” (Lc 1, 38).

Sự vâng lời của Chúa đã phá tan nát sự bất phục tùng của tổ tông xưa trong vườn Địa Đàng. Khung cảnh sự bất tuân chỉ trong vườn Địa Đàng bé nhỏ mà thôi. Còn sự vâng phục của Chúa bao trùm toàn thể vũ trụ, bao la mênh mông qua muôn ngàn thế hệ. Vì thế, sự vâng phục của Chúa là mẫu gương chúng ta noi theo cho đến đời đời. Đức Mẹ đã đi theo con đường này của Chúa, nên đã vâng lời Chúa qua thiền thần Gabriel. Chúng ta hãy như Đức Mẹ, theo Chúa trong sự vâng phục với một kiếp người tro bụi, hư vô, chóng qua này.

Mẹ vì vâng lời Chúa cho nên Chúa yêu thương và ban muôn ơn cho Mẹ. Chúa ban cho Mẹ ơn được làm Mẹ Chúa, ơn được vô nhiễm nguyên tội, ơn được đồng trinh trọn đời, ơn được lên trời cả hồn lẫn xác…dù nhiều lần Mẹ cũng phải lánh đi nơi khác, úp mặt khóc thầm vì cuộc đời này quá xơ xác, không như là mơ.

Dù cuộc đời có bạc trắng như vôi, Mẹ luôn sống vuông tròn, trọn nghĩa vẹn tình với Chúa. Đó là một bài học, một điểm tựa, một sự khởi đầu thật là tốt đẹp cho mỗi người chúng ta trong cuộc hành trình đi chung đường theo Chúa. Chúa biết lòng chúng ta còn bộn bề ngổn ngang, trăm mối tơ vò, nặng kiếp bụi trần, nhưng chúng ta cứ trung thành với Chúa, đừng buông xuôi, đừng nản lòng, đừng tháo lui, Chúa sẽ không phụ lòng chúng ta và không bao giờ bỏ rơi chúng ta.

Lạy Chúa, Chúa sắp sinh ra đời, chúng con đang sẵn sàng chờ Chúa đây, chúng con chờ Chúa như người lính canh mong đợi hừng đông, chúng con trông cậy Chúa. Xin Chúa thương ban cho lòng chúng con trở thành như cung điện trên nền tảng sự khiêm nhường và sự vâng phục của chúng con noi gương của Mẹ, để Chúa là ánh sáng vĩnh cửu tràn ngập tâm hồn chúng con, và cuộc được đời chúng con khi ấy là niềm vui, là hạnh phúc mặc dù chúng con có gặp khổ đau, cơ cực, bần hàn. Amen.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 13: Chìa khóa nhà Đavít


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Qua Lời Tổng Nguyện của Ngày 20 Tháng 12 hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Trong ngày truyền tin, Chúa đã muốn cho Đức Trinh Nữ đón nhận Ngôi Lời vĩnh cửu của Chúa, được đầy tràn ánh sáng của Thánh Thần, và trở nên cung điện của Đấng Tối Cao. Xin Chúa giúp chúng ta học đòi gương khiêm nhường của Đức Trinh Nữ mà luôn luôn thuận theo ý Chúa.

Học đòi gương khiêm nhường, luôn thuận theo ý Chúa, chấp nhận để cho Chúa thanh luyện, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, ngôn sứ Isaia cho thấy: Thiên Chúa là ĐỨC CHÚA duy nhất của thời tương lai. Thiên Chúa cứu độ bằng nhiều cách: vừa khác nhau, vừa kỳ diệu. Việc giải phóng dân lưu đày mới chỉ là một lời loan báo. Ơn cứu độ là hoa trái của lòng thành tín của Thiên Chúa đối với chính mình, lòng thành tín qua bao thời đại cũng không hề suy suyển. Nhưng ơn cứu độ cũng là một biến cố luôn luôn mới. Hôm nay cũng vậy. Này Ta tinh luyện ngươi trong lò cùng khốn. Vì Ta, chính vì Ta, mà Ta đã ra tay hành động - thật vậy, Ta để cho danh Ta bị lăng nhục sao? Vinh quang của Ta, Ta không nhường cho ai cả. Lúc lửa giận bừng bừng, Ta đã một thời ngoảnh mặt chẳng nhìn ngươi, nhưng vì tình nghĩa keo sơn, Ta sẽ chạnh lòng thương xót.

Học đòi gương khiêm nhường, luôn thuận theo ý Chúa, để sinh ơn cứu độ cho mình và cho người khác, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Bênađô nói: Lạy Đức Trinh Nữ diễm phúc, xin Mẹ mở tâm hồn để tin, mở miệng nói lên lời ưng thuận và mở lòng để đón Đấng tạo thành ra Mẹ… Lạy Đức Trinh Nữ Maria, xin nhận lời Thiên Chúa đã sai thần sứ truyền lại cho Mẹ, là Mẹ sẽ thụ thai; và người Con Mẹ sinh ra vừa là Thiên Chúa, vừa là con người. Chính vì thế, giữa mọi người phụ nữ, Mẹ sẽ được ngợi khen là diễm phúc. Mẹ sẽ sinh con, nhưng đức đồng trinh của Mẹ không bị thương tổn; Mẹ sẽ làm mẹ, nhưng vẫn luôn tinh khiết vẹn tuyền.

Học đòi gương khiêm nhường, luôn thuận theo ý Chúa, quy phục Chúa và khát khao tìm kiếm Người, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, Đức Chúa phán qua miệng ngôn sứ Isaia rằng: Này đây người trinh nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuen. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 23, vịnh gia đã cho thấy: Chúa sẽ ngự vào: chính Người là Đức Vua vinh hiển. Chúa làm chủ trái đất cùng muôn vật muôn loài, làm chủ hoàn cầu với toàn thể dân cư. Nền trái đất, Người dựng trên biển cả, đặt vững vàng trên làn nước mênh mông.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Lạy Đức Kitô, Ngài nắm giữ chìa khóa nhà Đavít, Ngài mở cửa đưa vào Nước vĩnh hằng. Xin Ngài đến đem ơn giải thoát, cho tù nhân khỏi hết xích xiềng, cho họ không còn ngồi dưới bóng đêm. Trong bài Tin Mừng, sứ thần nói: Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Mẹ đã sinh ra Đấng Cứu Độ, Đấng nắm giữ chìa khóa nhà Đavít, sẽ giải thoát ta khỏi xích xiềng tội lỗi. Ơn cứu chuộc của những kẻ bị tù đày, sự giải phóng của những kẻ bị kết án, và ơn cứu độ của con cháu Ađam, tức của toàn thể dòng giống Mẹ, đều tùy thuộc tiếng “xin vâng” của Mẹ. Chìa khóa nhà Đavít đang đứng bên ngoài và gõ cửa. Nếu ta chần chừ, Người sẽ đi qua mất. Ta hãy bắt chước Mẹ trỗi dậy, chạy ra, mở cửa cho Đấng lòng ta yêu mến: Mẹ đã trỗi dậy với lòng tin, chạy ra với lòng mến và mở cửa bằng sự ưng thuận. Ước gì ta cũng nói được như Mẹ: Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa làm cho tôi như lời thần sứ nói. Trong ngày truyền tin, Chúa đã muốn cho Mẹ đón nhận Ngôi Lời vĩnh cửu của Chúa, được đầy tràn ánh sáng của Thánh Thần, và trở nên cung điện của Đấng Tối Cao. Ước gì ta biết học đòi gương khiêm nhường của Mẹ mà luôn luôn thuận theo ý Chúa. Ước gì được như thế!

---------------------------------

 

Thứ 7:

Thăm viếng.
21/12 – Thứ Bảy tuần 3 mùa vọng.
"Bởi đâu mà tôi được ơn này, là Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm tôi".

 

LỜI CHÚA: Lc 1, 39-45


Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Giacaria và chào bà Isave, và khi bà Isave nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà; và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Thân mẫu Chúa tôi đến với tôi


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Trong những ngày cuối cùng của mùa Vọng,
Hội Thánh mời gọi chúng ta suy niệm về cuộc gặp gỡ
giữa hai người mẹ: Chị Maria và bà Êlisabét,
giữa hai thai nhi: Ðức Giêsu và Gioan Tẩy Giả.
Một cuộc gặp gỡ chan chứa niềm vui.
Niềm vui của chị Maria với bước chân vội vã
băng qua những vùng đồi núi trập trùng xứ Giuđê.
Chị không đi một mình trên đường xa,
vì chị tin có một mầm sống đang lớn lên trong chị.
Chị chỉ mong cho mau đến nhà bà Êlisabét
để phục vụ bà trong những ngày gần sinh nở.
Niềm vui bất ngờ của bà chị họ sau lời chào của Maria.
Bà ngây ngất trước hồng ân mà cô em mình đã nhận được.
Bà tràn ngập hạnh phúc vì được Thân Mẫu Chúa đến thăm.
Êlisabét cảm thấy đứa con trong dạ cũng nhảy mừng.
Dường như bà quên cả niềm vui riêng tư,
để chỉ còn nhớ đến niềm vui cứu độ cho cả dân tộc.
Cuộc gặp gỡ diễn ra trong bầu khí của Thánh Thần.
Thánh Thần vẫn tác động trên chị Maria.
Thánh Thần tràn đầy bà Êlisabét.
Thánh Thần đã hoạt động nơi thai nhi Gioan (Lc 1,15).
Chị Maria đem đến niềm vui cho nhà ông Dacaria
vì chị mang lại Ðấng ban Tin Mừng cứu độ.
Chị đem đến sự phục vụ khiêm hạ
vì chị cưu mang Ðấng đến để phục vụ.
Khi được trở nên nữ tỳ của Thiên Chúa,
chị Maria đã sống như nữ tỳ của con người.
Chị có phúc vì chị được chọn làm Mẹ Ðấng Cứu Thế,
chị còn có phúc vì chị đã tin rằng
Chúa sẽ thực hiện những gì Người nói với chị.
Chúng ta chiêm ngắm Ðức Giêsu đang lớn dần trong lòng mẹ.
Ngài tăng trưởng như mọi người.
Những nhịp đập đầu tiên của trái tim nhỏ bé,
những nét riêng tư đầu tiên của khuôn mặt.
Con Thiên Chúa đã mang quả tim và khuôn mặt người phàm.
Từ khi Ngôi Lời được cưu mang trong dạ mẹ,
không ai có quyền khinh rẻ một thai nhi,
vì mỗi thai nhi đều mang khuôn mặt của Con Thiên Chúa;
không ai được coi thường người phụ nữ,
vì Thiên Chúa đã muốn Con mình được một trinh nữ sinh ra.

Cầu nguyện:

Lạy Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa,
xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ
tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.
Xin ban cho con quả tim đơn sơ,
mau quên những nỗi buồn phiền.
Một quả tim hào hiệp dám hiến thân,
dịu dàng để cảm thông.
Một quả tim trung thành và quảng đại.
không quên ơn, không báo oán.
Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn.
yêu mà không mong được yêu lại,
hân hoan xóa mình đi
để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.
Một quả tim vĩ đại và bất khuất,
không khép lại trước những vô ơn,
không chán nản trước người lạnh nhạt.
Một quả tim khắc khoải
lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô,
quả tim mang vết thương vì yêu Ngài,
vết thương chỉ lành
khi được sống với Ngài trên trời. Amen.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Chúa là niềm vui


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Tình yêu làm nên niềm vui. Tội lỗi gây nên nỗi buồn. Vì ngăn cách con người với Thiên Chúa. Biết bao đau thương, buồn tủi, xót xa. Nhưng rồi đến thời của ơn cứu độ. Chúa xuống cứu loài người. Đó là thời điểm của tình yêu.

Sách Diễm ca diễn tả sự náo nức của Thiên Chúa trên đường đến gặp con người. “Tiếng người tôi yêu văng vẳng đâu đây, kìa chàng đang tới, nhảy nhót trên đồi, tung tăng trên núi”. Tình yêu bừng cháy trong lòng khiến cả vũ trụ thay đổi. Chim chóc ca hát. Hoa lá nở tưng bừng. Hương thơm ngào ngạt: “Sơn hà nở rộ hoa tươi và mùa ca hát vang trời về đây. Tiếng chim gáy văng vẳng trên khắp đồng quê ta. Vả kia đã kết trái non, vườn nho hoa nở hương thơm ngạt ngào”.

Sách Xô-phô-ni-a diễn tả niềm vui của con người được gặp Chúa: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on, hò vang dậy đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi! …Đức Vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa”. Nhưng lạ lùng thay niềm vui của Chúa thật lớn lao khi được gặp con người. Đến nỗi Chúa nhảy lên vui sướng: “Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng”.

Tất cả những tiên báo đã ứng nghiệm khi Đức Mẹ đến viếng bà Ê-li-sa-bét. Chúa còn trong bào thai đã đem niềm vui đến cho Gio-an. Đến nỗi ông nhảy mừng trong lòng mẹ. Đó là niềm vui ơn cứu độ. Được tha hết tội khiên, Gio-an vui sướng nhảy mừng. Đó là niềm vui của cả nhân loại. Thời tình yêu đã đến. Thời ân phúc khởi đầu. Sẽ tràn lan cả địa cầu. Niềm vui của Gio-an tràn sang bà mẹ. Khiến bà cất tiếng ca ngợi Thiên Chúa và ca ngợi Đức Mẹ. Đức Mẹ cùng hợp tiếng ca tụng Chúa trong bài Magnificat tuyệt diệu. Đức Mẹ cảm nghiệm được tình yêu thương của Chúa từ ngàn xưa. Và còn mãi đến ngàn sau. “Dành cho tổ phụ Áp-ra-ham. Và cho con cháu đến muôn đời”.

Chúa là niềm vui. Vì Chúa là tình yêu. Tình yêu khiến Chúa nao nức đi gặp con người. Và vui sướng khi được ở với con người. Tình yêu của Chúa sẽ biến đổi ta. Ban cho ta ơn tha thứ. Rửa ta sạch tội lỗi. Làm biến đổi vũ trụ và con người. Khi ta được trong sạch. Ta sẽ được hưởng tình yêu của Chúa. Một mùa xuân mới sẽ bừng lên. Một thế giới mới sẽ thành hình. Ta sẽ được hạnh phúc. Vì được sống trong tình yêu.

---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Bởi Ðâu Tôi Ðược Mẹ Chúa Viếng Thăm


(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)

Với cuộc sống con người, ai ai trong chúng ta cũng mang lấy tâm trạng muốn cho mình tích trữ được nhiều thứ của cải: của cải vật chất và của cải tinh thần. Của cải vật chất như được giàu sang, được uy quyền. Ai lại chẳng muốn được như câu nói mà người ta thường đùa với nhau: "Ở nhà Tây, ăn cơm Tàu, lấy vợ Nhật" và cuối cùng là "đám tang Việt Nam".

Ở nhà Tây, vì tiện nghi đầy đủ. Ai lại không khen các món ăn của Tàu nổi tiếng là ngon. Người đàn bà Nhật chiều chuộng chồng mình không ai lại không cảm thấy không kính phục. Và đám tang Việt Nam chúng ta với bao nhiêu nghi thức đầy cảm động gợi lên tâm tình của người còn sống đối với người thân yêu đã khuất. Ai trong chúng ta lại chẳng muốn được quyền uy, đi đâu có tiền hô hậu ủng, đưa đón rước sách, mọi người nhìn bằng cặp mắt kính nể, thán phục.

Về của cải tinh thần, ai lại không mơ ước trên phương diện nghệ thuật mình sáng tác, những bản nhạc thời danh như Bach, Bethoven, Mozart, hoặc thành những khoa học gia nổi tiếng về không gian chế ra bom B1-B2 và hỏa tiễn lên cung trăng đầu tiên như Volgra người Ðức gốc Do Thái. Và biết bao nhiêu mơ ước, biết bao nhiêu tham vọng khác nữa ở trong mỗi một con người nhỏ bé của chúng ta.

Ðó là tâm trạng tâm lý thường tình của con người mà thôi. Nó không tốt mà cũng không xấu, khi chủ ý đặt mục đích và phương tiện tốt thì nó tốt, còn khi chúng ta dùng để tự kiêu, ngạo mạn và làm hại người khác thì nó xấu. Có một điều quan trọng nhất của người Kitô hữu chúng ta đó là khi chúng ta xin đức tin cùng Hội Thánh trong ngày lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, được rước Chúa vào trong tâm hồn, chúng ta khư khư giữ lấy Chúa ích kỷ riêng cho mình, không mang Thiên Chúa đến cho người khác.

Thiên Chúa chúng ta là một kho tàng vô giá, một kho tàng tích chứa tình yêu vô bờ bến, một kho tàng tích chứa bình an thực sự, và là một kho tàng tích chứa sự khôn ngoan tuyệt đối. Một kho tàng quí giá vô cùng như vậy thế mà chúng ta đã không biết lợi dụng để mang đến cho mọi người, để rồi tha nhân không nhìn ra khuôn mặt Thiên Chúa yêu thương qua cuộc sống của chúng ta. Vì thế, những người vấp ngã, những người gặp hiểm nguy khó khăn trong cuộc sống, họ không gặp được Thiên Chúa bình an, Thiên Chúa hy vọng và Thiên Chúa hạnh phúc. Những người hoang mang lạc lối trên đường đời chúng ta đã không chỉ cho họ đến với Thiên Chúa là Ðấng thông minh, khôn ngoan tuyệt vời. Thiên Chúa đau khổ biết bao khi chúng ta đã không mang Chúa đến cho tha nhân.

Và hôm nay Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta qua gương mẫu Mẹ Maria, chính Mẹ đã nhận được diễm phúc mang Con Chúa trong lòng, để rồi Mẹ đã vội vã lên đường mang Chúa đến cho người chị họ là bà Isave. Nhờ đó, thánh Gioan Tẩy Giả nằm trong bụng mẹ cũng được chia sẻ niềm vui ấy. Ðó là bài học quí hóa nhất cho cuộc sống chúng ta, người con cái của Thiên Chúa đã nhận biết Chúa, đã mang Chúa trong tâm hồn, không ích kỷ giữ riêng Chúa cho mình nhưng cùng chia sẻ niềm vui ơn cứu rỗi đó cho mọi người xung quanh.

Lạy Chúa, trong Mùa Vọng này, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con tâm tình sốt sắng đón nhận Chúa đến để sự bình an của Chúa thực sự ngự trị trong tâm hồn chúng con. Lạy Chúa, như xưa Mẹ Maria đã đem Chúa đến cho bà chị họ là bà Isave, thì nay xin Chúa cho chúng con luôn biết hăng say đem Chúa đến cho mọi người qua cuộc sống hiền hòa, yêu thương, tha thứ trong niềm tin yêu hy vọng và lạc quan, vì Chúa đến và vui thích ở giữa dân Người. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Đi thăm bà Isave


Đời người là một cuộc hành trình, và cuộc hành trình nào cũng là một thứ cưu mang: mơ ước được gặp gỡ, chia sẻ, sống trong tự do, xây dựng nhiều hăm hở.

Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, đon đả ra đi lên miền sơn cước. Đức Maria đã chỗi dậy, vì cưu mang con trong lòng. Cưu mang con trong lòng cũng có nghĩa là nuôi dưỡng một niềm vui bất tận: đứa con càng lớn, niềm vui càng tăng.

Niềm vui nào cũng đòi được chia sẻ. Đức Maria đã không cất giữ trong lòng niềm vui vừa cưu mang, nhưng Người đã vội vàng đem niềm vui đến cho người khác.

Đích điểm cuộc hành trình của Đức Maria là một miền núi. Núi cao là nơi trắc trở, nhưng cũng thường là nơi hẹn hò giữa Thiên Chúa và con người. Và cũng từ cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, con người mới có thể đến với người khác.

Cuộc hạnh ngộ giữa Đức Maria và người chị họ Isave là kết thúc của cuộc ra đi. Không ai đi để tiến về cô đơn, để giam mình trong cõi chết, nhưng ra đi là để gặp gỡ, chia sẻ.

Đời người Kitô hữu là một hành trình trong đức tin. Hành trình nào cũng có khởi điểm và đích điểm. Cũng như Đức Maria đã tiến lên đường sau khi cưu mang Chúa Giêsu, người Kitô hữu cũng khởi đầu cuộc hành trình bằng sự sống Thiên Chúa đã được thông ban qua Bí tích rửa tội.

Cưu mang sự sống mới, người Kitô hữu cũng vội vã ra đi đem niềm vui cho người khác, đó là tất cả sứ mệnh và ý nghĩa của đời sống đức tin. Người cưu mang Đức Kitô phải ý thức rằng đạo của họ là đạo Tin mừng, đường của họ là đường của rộn rã, vui tươi…

Điểm đến của cuộc hành trình dĩ nhiên là cuộc sống vĩnh cửu, nhưng cuộc sống này cũng chỉ là một cuộc gặp gỡ nối dài những gặp gỡ mà con người đã thực hiện trong cuộc sống tại thế. Điểm đến ấy sẽ không đến với những ai đã chối bỏ gặp gỡ Thiên Chúa trong cuộc sống này. Điểm đến ấy sẽ không bao giờ hiện ra đối với những ai đã chối bỏ gặp gỡ người anh em trong cuộc hành trình tại thế.

Mùa vọng là mùa của cưu mang, của cất bước ra đi. Chúng ta hãy để Đức Kitô lớn lên trong tâm tư, suy nghĩ, hành động của chúng ta. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hay ra đi đến với người khác. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hãy biến mọi gặp gỡ hằng ngày thành những  trao đổi của yêu thương, phục vụ, quên mình, tha thứ và vui tươi.

---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Chia sẻ đức tin


Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào bà Ê-li-sa-bét. Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được tràn đầy Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc”. (Lc. 1, 40-42)

Ngay sau khi Đức Maria biết bà Ê-li-sa-bét đã quá già mà sắp sinh cậu ấm, Mẹ đã đến thăm viếng bà, không phải để xác minh lời thiên sứ có thật không, nhưng để thực thi thánh ý Thiên Chúa và thăm viếng bà chị cùng đồng cảnh với mình. Hơn thế nữa, Đức Maria thấy cần chia sẻ niềm vui và lòng tin của mình với người khác.

Cả hai đều luôn dễ vâng lời và hiểu biết thánh ý Chúa. Cả hai đều được Thiên Chúa đã làm những sự lạ lùng.

Tin mừng tường thuật cho chúng ta biết một cách vắn gọn về việc đã xảy ra giữa hai người nữ diễm phúc. Người ta tưởng tượng khá tốt rằng: Cả hai đã cống hiến một thời gian dài để giúp nhau khám phá ra ý nghĩa về việc sẽ xảy đến với hai bà. Và như tất cả các bà mẹ, hai bà mơ ước về hai đứa con sẽ trở nên thế nào …

Phần chúng ta, họa hiếm lắm chúng ta mới biết chia sẻ niềm tin của mình cho người khác, vì thực sự chúng ta không quen. Khi những người tín hữu chúng ta gặp nhau, hầu hết là để tổ chức hoạt động, để thảo luận vấn đề khác. Chúng ta rất ít khi tụ họp để bày tỏ cho nhau những tâm tình tận đáy con tim, những điều chúng ta tin tưởng, những điều chúng ta trông cậy. Chúng ta không dám cởi mở cho nhau hết tấm lòng mình về Đức Kitô. Chúng ta không dám nói cho người khác những điều Thiên Chúa đối với mình, đã làm cho mình, với vợ con mình, và cả với các bạn tri kỷ của mình. Chúng ta hầu như không bao giờ nói về Đức Kitô.

Chính vì thế, chúng ta hình như đã quên, hay hình như đã không còn hiểu gì về Đức Kitô, đến nỗi chúng ta thực sự rất cô đơn trong niềm tin. Thực thế, chúng ta còn nhiều điều phải học biết.

Chúng ta cần thiết phải biết lòng tin của người khác để củng cố lòng tin của chúng ta. Và người khác cũng cần biết lòng tin của chúng ta để củng cố niềm tin của họ.

Khi Mẹ Maria và bà Ê-li-sa-bét gặp nhau, các ngài nói cho nhau biết thông cảm những điều lạ lùng mà Thiên Chúa đã làm cho mình để tạ ơn ngợi khen Thiên Chúa. Nếu chúng ta biết chia sẻ lòng tin của chúng ta với nhau, có lẽ chúng ta sẽ thấy được những sự lạ lùng Thiên Chúa đã làm cho chúng ta.

J. Y. G

 ------------------------------

 

Suy Niệm 6: Cuộc viếng thăm đầy ân sủng


Trong cuộc sống, nơi các mối tương quan, hẳn sự cảm thông, liên đới là điều quan trọng. Có sự cảm thông, chúng ta dễ dàng tôn trọng, hiểu biết, và đón nhận nhau hơn. Có sự liên đới, chúng ta dễ dàng chia vui, sẻ buồn với nhau để giúp nhau thăng tiến...

Hôm nay, bài Tin Mừng cũng trình thuật cho chúng ta về cuộc gặp gỡ giữa Mẹ Maria và bà Êlisabét. Cuộc gặp gỡ này không chỉ dừng lại ở chỗ thăm hỏi xã giao, nhưng nó còn đi xa hơn để cho thấy rằng đây là một cuộc gặp gỡ trong tình yêu và ân sủng.

Đức Maria vội vã lên đường thăm bà chị họ Êlisabét không phải do Mẹ không tin lời Sứ Thần báo bà Êlisabét đã có thai được sáu tháng, vì thế, phải lên đường để tận mắt phục kích xem điều đó có thật không! Không phải vậy, nhưng Mẹ lên đường là để thể hiện sự vui mừng, mau mắn, sẵn sàng tín thác nơi Chúa và đem Tin Mừng ấy đến với người chị họ và cũng là người chị trong ân sủng, để cả hai cùng chung lời tạ ơn. Vì thế, khi vừa thấy Mẹ, bà Êlisabét đã cất tiếng tung hô: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1,4243). Cùng lúc, Gioan trong bụng đã nhảy lên vui sướng vì mình được Thiên Chúa viếng thăm.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy, vai trò của Chúa Thánh Thần là trọng tâm của mọi biến cố cũng như nhân vật từ Đức Giêsu, Mẹ Maria, thánh Gioan, ông Dacaria và bà Êlisabét... Tất cả những nhân vật này đã trung thành với lời hứa, mặc dù đôi lúc cũng còn chút nghi ngờ như ông Dacaria.

Từ đó, chúng ta được mời gọi mau mắn vâng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần trong Lương Tâm của mình để thi hành. Sẵn sàng tin tưởng tuyệt đối vào Lời Chúa hứa. Yêu thương, tôn trọng và liên đới với tha nhân để giúp nhau nên thánh.

Mong sao trong Mùa Vọng này, mọi người đều cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc vì có Chúa ở cùng như mẹ Maria, bà Êlisabét và thánh Gioan Tẩy Giả khi xưa.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu thương nhau để cùng nhau làm chứng cho niềm vui Tin Mừng trong cuộc sống thường ngày. Amen.

Ngọc Biển SSP

 ------------------------------

 

Suy Niệm 7: Đem Chúa đến cho người khác


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Bác ái không chỉ là giúp đỡ về phương diện vật chất, bác ái còn là biết đem Chúa đến cho người khác. Và đây chính là hình thức bác ái cao cả nhất.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, đạo của Chúa vẫn được gọi là đạo bác ái. Mở Phúc Âm ra hầu như trang nào con cũng thấy Chúa đề cao đức bác ái. Đối với Chúa, cốt lõi của đạo chính là đức bác ái. Điều răn trọng nhất đối với Chúa chính là điều răn bác ái. Tội nặng nhất đối với Chúa cũng chính là tội lỗi về đức bác ái.

Cuộc sống khó khăn, kinh tế eo hẹp nhiều lúc làm cho con ra ích kỷ, chỉ nghĩ đến bản thân, chỉ nghĩ đến gia đình, ai sống chết mặc ai. Nhiều lúc con dửng dưng, thờ ơ trước những nỗi thống khổ của anh em, nỗi khổ vật chất cũng như nỗi đau tinh thần.

Xin Chúa cho con được mặc lấy tâm tình bác ái của Mẹ Maria, cho con biết mở lòng ra với mọi người, biết chia sẻ cho người bất hạnh, biết cắt nghĩa lành cho người khác, biết tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình.

Lạy Chúa, xin cho con biết lên đường cùng với Mẹ Maria, biết đi bước trước đến với mọi người, không nghĩ đến lợi ích riêng mình, nhưng quan tâm đến hoàn cảnh sống của anh em. Xin cho con biết ra đi với trái tim đầy yêu thương, với đôi tay luôn giang rộng và với đôi chân luôn tiến bước.

Xin Chúa cho con biết bắt chước Mẹ Maria, cưu mang Chúa nhưng không chỉ giữ cho riêng mình, trái lại, biết trao ban, chia sẻ và giới thiệu Chúa cho mọi người. Xin cho con biết sống sạch tội và kết hợp với Chúa, để nhờ có Chúa trong lòng, mọi việc con làm sẽ đem lại hoa trái cứu độ cho người khác.

Lạy Chúa, xin cho gia đình chúng con tâm hồn bác ái như thánh Phan-xi-cô thành Át-si-di. Amen.

Ghi nhớ: ”Bởi đâu mà tôi được ơn này, là Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm tôi”.

 ------------------------------

 

Suy Niệm 8: Viếng thăm bà Elizabeth


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Vừa mang thai Đức Giêsu, Đức Maria đã vội vã đi thăm bà Elizabeth. Đức Mẹ vừa vào nhà thì việc lạ đã xẩy ra: hài nhi Gioan đã nhảy mừng trong lòng bà Elizabeth!  Được Chúa Thánh Thần soi sáng bà đã cất tiếng ngợi khen Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa.

Lãnh sứ mạng sinh Chúa Cứu Thế, Đức Maria đã nghĩ ngay đến người khác. Mẹ đem Chúa đến cho thân nhân, Mẹ thực thi bác ái trọn hảo. Và theo lời bà Elizabeth, Mẹ nêu gương lòng tin tuyệt vời vào Lời Chúa phán hứa. Chính nhờ niềm tin vững mạnh đó mà Mẹ đã được Thiên Chúa chọn sinh Đấng Cứu Thế.

2. Phải có tinh thần biết chia sẻ cho người khác.

Sau khi đón nhận tin cưu mang  Đấng Cứu thế, Đức Maria đã vội vàng đi thăm gia đình Giacaria để chia sẻ niềm vui trong gia tộc. Mẹ ra đi loan truyền niềm vui cho bà chị họ và đem Đấng Cứu Thế đến cho Gioan Tẩy Giả. Vì thế, thai nhi nhảy mừng trong lòng mẹ như là lời đáp trả được đón nhận niềm vui cứu độ mà Tin Mừng đã trình bầy. Maria đã đem lại niềm vui cho gia đình bà chị họ và cũng tạo thêm cho chính Mẹ niềm vui, niềm vui chờ đón Con Mẹ khi dấn thân phục vụ mà Mẹ đã biểu lộ qua lời ca Magnificat.

Con người không những cần được cung cấp của ăn thức uống cho thân thể, nhưng còn phải được chia sẻ tâm tình trong cuộc sống. Đúng là: “Có đi có lại mới toại lòng nhau”. Chúng ta củng phải theo gương Đức Mẹ mà biết chia sẻ cho ngưới khác vì như người ta nói: “Niềm vui mà được chia sẻ thì tăng lên gấp bội, còn nỗi buồn mà được chia sẻ thì được giảm đi một nửa”.

3. Ảnh hưởng hỗ tương của việc thăm viếng.

Khi chúng ta thăm viếng một người nào, chúng ta tự nhận thấy là mình đang làm một việc tốt đẹp cho người đó. Đó là sự thật. Nhưng chúng ta cũng được lợi cho mình nữa.

Khi thăm viếng, Maria đem đến cho ông bà Giacaria và Elizabeth niềm vui và sự phục vụ, đồng thời chính Ngài lại đón nhận được sự nâng đỡ về tinh thần: Ngài thêm xác tín về lời sứ thần khi thấy bà chị họ hiếm muộn mà bây giờ đã có thai. Ngài ngỡ ngàng khi thấy mầu nhiệm được làm Mẹ Đấng Thiên Sai, nay đã được Thánh Thần tỏ bầy cho bà chị họ biết. Niềm hứng khởi và những lời chúc mừng của bà Elizabeth đã động viên Ngài cất lên lời ngợi khen cảm tạ hồng ân Thiên Chúa trong kinh ngợi khen Magnificat.

4. Đức Maria, mẫu gương của bác ái.

 “Đức Maria đã vội vã ra đi lên miền núi”: điều đó nói lên sự nhiệt tình của Đức Maria trong việc đi thăm viếng, chia sẻ vui buồn, giúp đỡ gia đình bà chị đang bối rối vì mang nặng đẻ đau. Dù phải đi bộ đến ba, bốn ngày đường xa xôi hiểm trở cũng không ngăn cản nổi gót liễu yếu đào tơ đầy lòng thương mến của Ngài.

Dầu Đức Maria có nhiều lý do để không ra đi, không tiến hành cuộc hành trình: nào là từ nay phải giữ gìn sức khỏe nhằm lợi ích cho thai nhi. Nào là đường đi xa xôi, nguy hiểm, lại  phải mất ba bốn ngày mới tới nơi. Lộ trình này có nhiều rủi ro nguy hiểm, nhất là cho thân gái dậm trường. Trước những trở ngại này và thêm vào đó không có một chỉ thị nào về phía Chúa bảo phải đi, để Maria có lý do từ chối.

Những lý do trở ngại ấy không cản bước được Đức Maria. Người ta dễ dàng né tránh lời mời gọi của bác ái, nại đến những lý do ít nhiều chính đáng. Nhưng lòng quảng đại của Đức Maria phá tan mọi chần chừ, lưỡng lự để vội vã lên đường. Đúng là tình yêu mạnh hơn sự chết.

5. Truyện: Lòng bác ái của bác sĩ Longet.

Bác sĩ Longet là một người Pháp, đã từng phục vụ ở Việt nam cách đây mấy mươi năm và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tom Doley, người Mỹ đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn sóc các bệnh nhân bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày lẫn đêm.

Được hỏi tại sao ông quí mến bệnh nhân như thế?

Bá sĩ Longet đáp:

- Vì tôi thấy Chúa Giêsu trong mỗi bệnh nhân.

Chính vì thế, mỗi sáng khi đi dự thánh lễ, bệnh nhân lương hay giáo, ai muốn đi ông đều chở trên xe; mỗi chiều Chúa nhật, ông lại chở các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này nơi nọ. Và mỗi tối ông lần hạt chung với người Công giáo. Ít lâu sau, ông Longet trở về nước Pháp, vào chủng viện dâng mình làm Linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người nghèo ở giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức xong, ông lâm trọng bệnh và qua đời trước khi tới nơi hằng mong ước.

 ------------------------------

 

Suy Niệm 9: Niềm vui được chia sẻ


(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)

Đời người là một cuộc hành trình, và cuộc hành trình nào cũng là một cưu mang: mơ ước được gặp gỡ, chia sẻ, sống trong tự do, xây dựng đời sống, do đó cuộc hành trình nào cũng chứa đựng nhiều hăm hở.

Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, đon đả ra đi lên miền Sơn Cước. Đức Maria đã chỗi dậy, vì cưu mang con trong lòng. Cưu mang con trong lòng cũng có nghĩa là nuôi dưỡng một niềm vui bất tận: đứa con càng lớn, niềm vui càng tăng.

Niềm vui nào cũng đòi được chia sẻ. Đức Maria đã không cất giữ trong lòng niềm vui vừa cưu mang, nhưng Người đã vội vàng đem niềm vui đến cho người khác.

Đích điểm cuộc hành trình của Đức Maria là một miền núi. Núi cao là nơi trắc trở, nhưng cũng thường là nơi hẹn hò giữa Thiên Chúa và con người. Và cũng từ cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, con người mới có thể đến với người khác.

Cuộc hạnh ngộ giữa Đức Maria và người chị họ Isave là kết thúc của cuộc ra đi. Không ai đi để tiến về cô đơn, để giam mình trong cõi chết, nhưng ra đi là để gặp gỡ, chia sẻ.

Đời người Kitô hữu là một hành trình trong đức tin. Hành trình nào cũng có khởi điểm và đích điểm. Cũng như Đức Maria đã tiến lên đường sau khi cưu mang Chúa Giêsu, người Kitô hữu cũng khởi đầu cuộc hành trình bằng sự sống Thiên Chúa đã được thông ban qua Bí tích Rửa tội.

Cưu mang sự sống mới, người Kitô cũng vội vã ra đi đem niềm vui cho người khác, đó là tất cả sứ mệnh và ý nghĩa của đời sống đức tin. Người cưu mang Đức Kitô phải ý thức rằng đạo của họ là đạo Tin mừng, đường của họ là đường của rộn rã, vui tươi.

Điểm đến của cuộc hành trình dĩ nhiên là cuộc sống vĩnh cửu, nhưng cuộc sống này cũng chỉ là một cuộc gặp gỡ nối dài những gặp gỡ mà con người đã thực hiện trong cuộc sống tại thế. Điểm đến ấy sẽ không đến với những ai đã chối bỏ gặp gỡ người anh em trong cuộc hành trình tại thế.

Mùa vọng là mùa của cưu mang, của cất bước ra đi. Chúng ta hãy để Đức Kitô lớn lên trong tâm tư, suy nghĩ, hành động của chúng ta. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hãy ra đi đến với người khác. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hãy biến mọi gặp gỡ hằng ngày thành những trao đổi của yêu thương, phục vụ, quên mình, tha thứ và vui tươi.

 ------------------------------

 

Suy Niệm 10: Đón nhận Chúa, chia sẻ người


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Sau khi đã đón nhận Chúa vào lòng, giờ đây Mẹ Maria đem Chúa đến cho người khác. Khi Chúa đến trong tâm hồn ai thì thường Chúa cũng mở rộng tâm hồn của người ấy, để họ cũng nghĩ đến những người chung quanh. Thí dụ trong Tin Mừng, chúng ta thấy khi Chúa đến với ông Giakêu thì tâm hồn của ông được mở rộng ra để hướng về những người khác ngay. “Tôi sẽ lấy một nửa gia tài tôi mà giúp kẻ nghèo và nếu tôi làm thiệt hại ai, thì tôi sẽ đền gấp bốn”. (Lc 19,8)Nghĩ đến kẻ khác, đến với kẻ khác, đó là dấu chỉ có Chúa hiện diện ở trong tâm hồn. Chính vì thế mà sau khi được thụ thai Chúa Giêsu và khi biết bà chị họ của mình đang cần một sự giúp đỡ, thì mẹ đã lên đường ngay, không một chút chần trừ do dự. Biết tìm đến với những người khác nhất là những người ở trong những hoàn cảnh khó khăn đó là dấu chỉ của một tâm hồn có Chúa. Mỗi khi lần chuỗi thứ hai của năm sự vui chúng ta ngắm “thứ hai, Đức Bà đi viếng bà thánh Isave, ta hãy xin cho được lòng yêu người”.

Đức Bà đi viếng bà thánh Isave, để biểu lộ lòng yêu người cho chúng ta bắt chước.

Hồi đó, - mẹ Têrêsa Calcutta kể - nhằm lúc thành phố Calcutta thiếu đường ăn thì có một em bé chừng bốn tuổi đem đến cho tôi một chén đường và bảo tôi:

- Thưa mẹ, con đã nhịn ăn đường suốt một tuần nay, xin mẹ hãy dùng ít đường này cho trẻ mồ côi của mẹ.

Một em bé mới có bốn tuổi mà có được cử chỉ như thế thì thật anh hùng biết bao! Em đã học được bài học yêu thương đến độ dám hi sinh cả những gì mình cần thiết cho các em nhỏ khác. Rồi một dịp khác, em bắt tôi đem rá gạo ra vo để nấu cơm cho cả nhà ăn. Nhưng rồi bất chợt có một người đàn ông đến gặp tôi và nói:

- Thưa mẹ, gần đây có gia đình người Hindu có tám đứa con, mà cả tuần nay họ không có gì ăn cả.

Lập tức tôi bưng rá gạo đi theo người đàn ông ấy và tìm đến nhà người Hinđu kia. Bước vào túp lều lụp xụp, tôi bắt gặp những khuôn mặt xanh xao và cơn đói lúc đó đang hành hạ họ. Không cầm lòng được, tôi trao hết rá gạo cho bà ta. Bà này cảm động đón lấy rá gạo, rồi lập tức ngồi xuống chia làm hai phần. Sau đó, bà bưng một nửa ra đi … và một lúc sau, bà trở lại, tôi ngạc nhiên hỏi bà:

- Bà đi đâu vậy? Đem gạo cho ai?

- Họ cũng đói lắm!

- Nhưng họ là ai?

- Họ là những gia đình Hồi giáo. Họ cũng có những đứa con đói khổ như con. Họ ở bên kia đường, và cả tuần nay, họ cũng không có gì ăn cả.

Đọc lại câu chuyện này sao nhiều lúc tôi cảm thấy buồn cho mình. Mình là người có đạo mà nhiều khi còn thua những người không có đạo nhiều quá.

2. Có một câu châm ngôn mà người ta hay nói cho nhau nghe mỗi khi hội họp “Niềm vui nếu biết đem chia sẻ sẽ tăng lên gấp đôi và nỗi buồn nếu được chia sẻ sẽ vơi đi một nửa”.

Vâng! “Niềm vui nếu biết đem chia sẻ sẽ tăng lên gấp đôi và nỗi buồn nếu được chia sẻ sẽ vơi đi một nửa”.

Trong cuốn Tâm Hồn Cao Thượng của Edmondo De Amicis tôi đọc được một lá thư của một người mẹ gửi cho người con. Bà viết như thế này: “Mẹ viết thư này để con đọc. Sáng nay ở trường về, con đi trước mẹ mấy bước. Mẹ thấy con đã đi ngang qua một người đàn bà đáng thương đang bế trên tay một đứa bé xanh xao và ốm yếu. Người ấy xin con tiền. Con đã nhìn sừng sững vào bà ta và con đã không cho gì hết dù mẹ biết con đang có tiền trong túi.

Nghe mẹ bảo đây con! Đừng bao giờ dửng dưng đi qua trước những người nghèo khổ đang ngửa tay xin mình giúp đỡ và nhất là trước một người mẹ xin một đồng cho con của mình. Con hãy nghĩ đi: biết đâu đứa bé ấy đang đói. Hãy nghĩ đến nỗi khắc khoải của người đàn bà đáng thương ấy. Hãy nghe lời mẹ dạy con đây. Thỉnh thoảng con phải biết chia sẻ một đồng tiền từ túi của con, đặt nó vào lòng bàn tay của một cụ già không nơi nương tựa, một bà mẹ không có bánh ăn, một đứa trẻ không cha không mẹ.

Con phải biết rằng: con chẳng thiếu thốn chi hết, còn người nghèo thì thiếu thốn mọi thứ. Trong lúc con ước mong được sung sướng thì họ chỉ cần cầu xin cho khỏi chết đói. Thật là buồn khi thấy giữa bao nhiêu ngôi nhà giàu có, giữa bao nhiêu trẻ em ăn mặc đẹp, lại có những người đàn bà và trẻ em không có gì để ăn cả... Con hãy suy nghĩ đi, và đừng bao giờ con hành động như buổi sáng hôm nay nữa con nhé.. ”.

Vâng! Chúng ta hãy biết chia sẻ vì “niềm vui nếu biết đem chia sẻ sẽ tăng lên gấp đôi và nỗi buồn nếu được chia sẻ sẽ vơi đi một nửa”. Amen.

 ------------------------------

 

Suy Niệm 11: Bởi đâu mà tôi được ơn này, là Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Các bài Tin Mừng mà Giáo Hội tuyên đọc trong những ngày sắp mừng lễ Chúa giáng sinh hôm nay đều toát lên một niềm vui trong cuộc sống hàng ngày của Mẹ, của ông Zacaria, bà Isave, thánh Gioan Tẩy Giả và cả chúng ta ngày nay nữa. Mẹ đã cưu mang Chúa trong cung lòng của Mẹ rồi, dù cuộc đời này có gì đi chăng nữa, có ba chìm bảy nổi, Mẹ vẫn luôn có Chúa ở cùng, mà có Chúa là có niềm vui, có tất cả. Cái vui này không phải là cái vui, vì Mẹ đầy đủ của cải vật chất, Mẹ được ăn ngon mặc đẹp hơn những người khác, Mẹ không còn phải lo cơm áo gạo tiền hàng ngày nữa, Mẹ được nằm trong chăn nệm ấm êm ngủ ngon hàng đêm dài….không phải như vậy đâu, vì Mẹ vẫn nghèo, nhưng mặc cho đời sao đi nữa, Mẹ vẫn vui trong Chúa, vì đã hoàn toàn phó thác, xin vâng theo ý Chúa (Lc 1, 38).

Mẹ suy nghĩ như vậy và vì Mẹ đang có Chúa trong Mẹ. Mẹ biết nguyên nhân của các niềm vui, hạnh phúc mà Mẹ đang được hưởng đây cho nên người Mẹ nghĩ đến trước tiên để chia sẻ niềm vui này, chính là bà Isave, chị họ của Mẹ. Vì thế, Mẹ không quản Mẹ là một nữ nhi thôn dã vượt dặm trường để thăm bà Isave. Mẹ đi mà Mẹ rất vui, cho nên bước chân của Mẹ thoăn thoắt, nhẹ nhành, thanh thoát, mặc cho đường có xa, Mẹ thấy vẫn gần. Mẹ đã đến nhà bà Isave. Mẹ chào bà chị họ. Có Mẹ thì có Chúa và các ơn chúng ta thấy cách nhãn tiền là:

1-Hài nhi nhảy mừng trong lòng bà Isave: Hài nhi trong cung lòng bà Isave, chính là thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiền hô của Chúa. Ngài thể hiện niềm vui quá lớn lao này bằng cách reo vui, nhảy mừng trong lòng mẹ của ngài. Ngài vui vì Chúa và Mẹ của Chúa đến thăm cả gia đình cha mẹ ngài và ngài. Ơn lúc này ngài được là Chúa tha tội tổ tông cho ngài.

2-Mẹ của ngài cũng tràn đầy niềm vui không kể xiết, và mẹ ngài đã xưng tụng Đức Mẹ là Mẹ của Chúa, lời xưng tụng của mẹ ngài và của ngài giống y nhau, tuy ngài không nói được, mẹ ngài đã nói thay cho ngài, cho nên ngài sung sướng vô cùng, có lẽ ngài rất cám ơn mẹ của ngài.

Một điều rất quan trong nữa là ngài thấy Đức Mẹ vui, thấy Chúa cũng vui, và tất cả đều được mạnh khỏe, nhất là giây phút này, mọi người được đầy tràn thánh ân của Chúa, có Chúa thánh Thần đang hoạt động trong ngài và mẹ ngài. Ngài biết cha mẹ ngài cũng như ngài được như thế này là do tình thương của Đức Mẹ. Do đó, ngài rất vô vàn cám ơn Đức Mẹ.

Lạy Chúa Hài Nhi đang trong cung lòng Đức Mẹ của chúng con, lòng chúng con tràn ngập bao hân hoan niềm vui vì Chúa sắp sinh xuống làm người ở với chúng con. Xin Chúa nhận lời chúng con cầu khẩn trong giờ phút này là cho chúng con được gặp Chúa, được hưởng sự sống đời đời sau này. Nhất là khi Chúa trở lại đầy quyền lực vinh quang rực rỡ, xin Chúa hãy ân thưởng chúng con, vì suốt cuộc đời, chúng con chỉ phụng thờ một mình Chúa mà thôi. Amen.

 ------------------------------

 

Suy Niệm 12: Đấng Emmanuen ngự đến cứu độ


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Qua Lời Tổng Nguyện của Ngày 21 Tháng 12 hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã làm cho chúng ta được hân hoan vì Con Một Chúa giáng sinh làm người. Giờ đây, xin Chúa nhậm lời Dân Chúa cầu khẩn, mà cho chúng ta được ân thưởng phúc trường sinh, khi Con Chúa trở lại đầy quyền uy rực rỡ.

Được ân thưởng phúc trường sinh, nếu ta tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, ngôn sứ Isaia cho thấy: Cuộc xuất hành mới, có lúc, Thiên Chúa đã khóc thương Dân Người, vì họ đã khinh thường, không trung thành với giao ước mà đánh mất hạnh phúc, nhưng không vì thế mà, những lời hứa của Người hóa ra vô hiệu, trái lại, lòng thương của Người còn mạnh hơn: từ khắp nơi, những người lưu đày đang trở về quê hương xứ sở. Lời hứa ấy được gửi đến cho mỗi người chúng ta như một lời mời gọi. Trời hãy hò reo, đất hãy nhảy múa, núi non hãy ca hát tưng bừng, vì Thiên Chúa chúng ta sẽ ngự đến. Đức Chúa sẽ chạnh lòng thương xót những kẻ nghèo khổ của Người. Triều đại Người đua nở hoa công lý, hoa thái bình thịnh trị.

Được ân thưởng phúc trường sinh, nếu ta vững tin vào lời Chúa hứa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Amrôxiô nói: Khi loan báo những điều huyền nhiệm cho Đức Trinh Nữ Maria thì thần sứ cũng báo cho Người biết việc một phụ nữ cao niên và hiếm muộn đã thụ thai. Thần sứ dùng sự việc này như một ví dụ để minh xác rằng bất cứ điều gì Thiên Chúa muốn thì Người sẽ thực hiện… Lạy Mẹ Maria, Mẹ thật là diễm phúc, vì đã vững tin rằng: Thiên Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã cho Mẹ biết. Mẹ đã ca hát ngợi khen Người. Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa. Hãy đến đây mà nghe tôi kể lại mọi việc Chúa đã làm để giúp tôi.

Được ân thưởng phúc trường sinh, nếu ta hết lòng trông đợi, chào đón Chúa ngự đến, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Diễm Ca cho thấy: Tiếng người tôi yêu văng vẳng đâu đây, kìa chàng đang tới, nhảy nhót trên đồi, tung tăng trên núi. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 32, vịnh gia đã kêu xin: Người công chính, hãy reo hò mừng Chúa, nào dâng Chúa một khúc tân ca. Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa, bởi Người luôn che chở phù trì. Vâng, có Người, chúng tôi mừng rỡ, vì hằng tin tưởng ở Thánh Danh.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Muôn lạy Đức Emmanuen, Đấng nắm giữ vương quyền và ban hành luật pháp. Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin ngự đến mà cứu độ chúng con. Trong bài Tin Mừng, bà Êlisabét kêu lớn tiếng và nói rằng: Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này. Đấng Emmanuen ngự đến cứu độ chúng ta, lòng bà Êlisabét đã rộn lên khi nghe tiếng Thân Mẫu Chúa bà chào bà. Bà Êlisabét là người đầu tiên nghe tiếng nói, nhưng, Gioan lại là người đầu tiên cảm nhận được ân sủng. Bà mẹ nghe theo lẽ tự nhiên, nhưng, cậu con lại nhảy mừng vì lẽ mầu nhiệm. Bà mẹ đón nhận Đức Maria đến thăm, còn, người con lại cảm thấy Chúa ngự đến. Phụ nữ đón tiếp phụ nữ, con trẻ đón tiếp con trẻ. Hai bà mẹ nói với nhau những lời thân ái, còn hai người con thì hoạt động ở bên trong làm cho các bà tăng thêm lòng yêu mến, và nhờ phép lạ đó, dưới sự thúc đẩy của hai người con, các bà cất tiếng ca tụng Thiên Chúa. Bà Êlisabét nói: Em thật diễm phúc vì đã tin. Phần chúng ta, chúng ta cũng thật diễm phúc vì đã nghe và tin; quả thật bất cứ tâm hồn nào tin, thì cũng cưu mang, sinh hạ Ngôi Lời Thiên Chúa, và nhận biết các công việc của Người. Chúa đã làm cho chúng ta được hân hoan vì Con Một Chúa giáng sinh làm người. Ước gì chúng ta được ân thưởng phúc trường sinh, khi Con Chúa trở lại đầy quyền uy rực rỡ. Ước gì được như thế!

---------------------------------
 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây