Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Lá ABC Bài 351-400 Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem

Thứ năm - 11/04/2019 09:11
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Lá ABC Bài 351-400 Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Lá ABC Bài 351-400 Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Lá ABC Bài 351-400 Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem
*** (Phần suy niệm Tin Mừng nằm phía sau các bài Phúc âm + Thương Khó)
----------------------------------
Mục Lục:

Tin Mừng Kiệu Lá: Năm A: 2
Tin Mừng Kiệu Lá: Năm B: 3
Tin Mừng Kiệu Lá: Năm C: 3

Bài Thương Khó Năm A: 4
Bài Thương Khó Năm B: 10
Bài Thương Khó Năm C: 16

Suy niệm Lễlá-351: CHÚA GIÊSU CẦU NGUYỆN.. 22
Suy niệm Lễlá-352: ĐỨC VUA CỦA NGƯƠI ĐANG ĐẾN.. 23
Suy niệm Lễlá-353: GÓC KHUẤT ĐỜI NGƯỜI 25
Suy niệm Lễlá-354: CÁI GIÁ CỦA SỰ TRUNG TÍN.. 27
Suy niệm Lễlá-355: THÁNH GIÁ.. 28
Suy niệm Lễlá-356: THA THỨ VÀ BAN THƯỜNG.. 30
Suy niệm Lễlá-357: CÙNG VỚI NGÀI 31
Suy niệm Lễlá-358: PHẬN LỪA.. 32
Suy niệm Lễlá-359: LỄ LÁ HÔM NAY.. 33
Suy niệm Lễlá-360: CON ĐƯỜNG THẬP GIÁ.. 36
Suy niệm Lễlá-361: SUY NIỆM CHÚA NHẬT LỄ LÁ_C.. 38
Suy niệm Lễlá-362: CUỘC THƯƠNG KHÓ CHÚA.. 40
Suy niệm Lễlá-363: SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT LỄ LÁ_C.. 42
Suy niệm Lễlá-364: KẺ THÙ CÓ SỈ NHỤC, ĐỪNG ĐỂ BỤNG: 67
Suy niệm Lễlá-365: LẬT MẶT NHƯ TRỞ BÀN TAY.. 70
Suy niệm Lễlá-366: GIỜ ĐÃ ĐIỂM... 74
Suy niệm Lễlá-367: THẬP GIÁ ĐÒI HỎI LÒNG QUẢ CẢM... 83
Suy niệm Lễlá-368: CHÚA NHẬT LỄ LÁ_C.. 85
Suy niệm Lễlá-369: MÂU THUẪN.. 87
Suy niệm Lễlá-370: PHÓ MÌNH TRONG TAY CHA.. 89
Suy niệm Lễlá-371: CON NGƯỜI THAM SỐNG SỢ CHẾT.. 90
Suy niệm Lễlá-372: TIN LÀ ĐÓN NHẬN LÒNG CHÚA XÓT THƯƠNG.. 92
Suy niệm Lễlá-373: TÌNH THƯƠNG CỦA THIÊN CHÚA LÀ CHA.. 94
Suy niệm Lễlá-374: ĐỨC VUA ĐA KHÔNG.. 97
Suy niệm Lễlá-375: SUY NIỆM BÀI THƯƠNG KHÓ ĐỨC GIÊSU – KITÔ.. 104
Suy niệm Lễlá-376: THAY ĐỔI TRONG YÊU THƯƠNG.. 107
Suy niệm Lễlá-377: THẬP GIÁ, MẦU NHIỆM CỦA MÔN ĐỆ ĐỨC KITÔ.. 109
Suy niệm Lễlá-378: QUA THẬP GIÁ VÀO TRONG VINH QUANG.. 111
Suy niệm Lễlá-379: YÊU THƯƠNG ĐẾN CÙNG.. 115
Suy niệm Lễlá-380: KHUÔN MẶT NGƯỜI TÔI TỚ CỦA THIÊN CHÚA.. 117
Suy niệm Lễlá-381: CHIÊM NGẮM MẦU NHIỆM THẬP GIÁ.. 120
Suy niệm Lễlá-382: Học hỏi Phúc Âm Chúa Nhật Lễ Lá. 122
Suy niệm Lễlá-383: Yêu như điên. 125
Suy niệm Lễlá-384: Mầu nhiệm đời ta. 127
Suy niệm Lễlá-385: Suy niệm của Lm. Anfonso. 129
Suy niệm Lễlá-386: Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa. 130
Suy niệm Lễlá-387: Lòng thương xót của Chúa Giêsu Kitô. 134
Suy niệm Lễlá-388: Vác thập giá với Chúa Giêsu. 136
Suy niệm Lễlá-389: Giờ chiến thắng vinh quang. 138
Suy niệm Lễlá-390: Để ứng nghiệm Lời Sách Thánh. 139
Suy niệm Lễlá-391: Nhiệt thành của thập giá. 142
Suy niệm Lễlá-392: Ông này là Con Thiên Chúa. 144
Suy niệm Lễlá-393: Chọn lựa. 146
Suy niệm Lễlá-394: Chúa Nhật Lễ Lá. 147
Suy niệm Lễlá-395: Chúa Nhật Lễ Lá. 153
Suy niệm Lễlá-396: Vụ án Baraba và Chúa Giêsu. 156
Suy niệm Lễlá-397: Phêrô. 157
Suy niệm Lễlá-398: Chúa Nhật Lễ Lá. 159
Suy niệm Lễlá-399: Chúa Nhật Lễ Lá. 160
Suy niệm Lễlá-400: Chúa Nhật Lễ Lá. 162

--------------------------------
 

Tin Mừng Kiệu Lá: Năm A:


Bài Phúc Âm: Mt 21, 1-11 "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi các ngài đến gần Giêrusalem, vào địa hạt Bếtphaghê, giáp núi Cây Dầu, Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi và bảo rằng: "Các con hãy đến làng trước mặt kia, sẽ gặp ngay một con lừa mẹ cột ở đó với con lừa con. Các con hãy mở dây, dẫn về đây cho Thầy; và nếu có ai bảo các con điều gì, thì hãy nói: Chúa cần đến chúng, và Ngài sẽ gởi trả lại ngay". Mọi việc này xảy ra để ứng nghiệm lời tiên tri đã phán:
"Các ngươi hãy bảo thiếu nữ Sion rằng: Kìa vua ngươi nhân ái đến cùng ngươi, ngồi trên lừa mẹ và lừa con, là con của con vật chở đồ".
Các môn đệ ra đi và làm theo lời Chúa Giêsu dạy bảo. Hai môn đệ dẫn lừa mẹ và lừa con về, trải áo lên mình chúng và đặt Chúa ngồi lên trên. Phần đông dân chúng trải áo xuống đường, kẻ khác thì chặt nhành cây trải lối đi. Dân chúng kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: "Hoan hô con vua Ðavit! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời!"
Khi Ngài vào thành Giêrusalem, thì cả thành phố náo động và nói rằng: "Người đó là ai vậy?" Dân chúng trả lời rằng: "Người ấy là Tiên tri Giêsu, xuất thân từ Nadarét, xứ Galilêa". - Ðó là lời Chúa.

----------------------------------

 

Tin Mừng Kiệu Lá: Năm B:


Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô (11,1-10)

“Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa.”

Khi Ðức Giê-su và các môn đệ đi gần tới thành Giê-ru-sa-lem, lúc sắp vào làng Bết-pha-ghê và Bê-ta-ni-a, bên triền núi cây Ô-liu, Người sai hai môn đệ và bảo: “Các anh đi vào làng trước mặt kia. Tới nơi, sẽ thấy một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và dắt nó về đây. Nếu có ai bảo: “Tại sao các anh làm như vậy?” thì cứ nói là: “Thầy có việc cần dùng, rồi sẽ trả về ngay”. Hai môn đệ ấy ra đi và thấy một con lừa con cột ngoài cửa ngõ, ngay mặt đường. Các ông liền cởi dây lừa ra. Mấy người đứng đó hỏi: “các ông cởi lừa người ta ra làm gì vậy?” Hai ông trả lời như Ðức Giêsu đã dặn. Và họ để cho đi. Hai ông dắt con lừa về cho Ðức Giêsu, trải áo choàng của mình lên lưng nó, và Ðức Giêsu cỡi lên. Nhiều người trải áo xuống mặt đường, môt số khác lại chặt cành chặt lá ngoài đồng rải lên lối đi. Người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: “Hoan hô! Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Ða-vít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô Chúa trên các tầng trời!” - Ðó là lời Chúa.

----------------------------------

 

Tin Mừng Kiệu Lá: Năm C:


Phúc Âm: Lc 19, 28-40
“Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu đi trước lên Giêrusalem. Và xảy ra là khi Người đến gần Bếtphaghê và Bêtania, giáp núi gọi là núi Cây Dầu, Người sai hai môn đệ đi và bảo rằng: “Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp con lừa con cột sẵn đó chưa ai cỡi bao giờ; các con hãy mở dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con “Tại sao các ông mở dây?”, thì hãy nói thế này: “Vì Chúa cần dùng đến nó”. Hai người được sai ra đi, và gặp lừa con đứng đó như Chúa đã bảo. Hai ông đang mở dây lừa con, thì chủ nó hỏi r?ng: “Sao các ông mở dây lừa con?” Hai ông đáp: “Vì Chúa cần đến nó”. Hai ông dắt lừa về cho Chúa Giêsu, trải áo lên mình lừa và đặt Chúa lên trên. Dọc đàng, người ta trải áo trên lối đi. Khi Người đến gần triền núi Cây Dầu, tất cả đoàn môn đệ hân hoan lớn tiếng ca ngợi Chúa về mọi phép lạ họ đã thấy mà rằng: “Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời”. Một vài người biệt phái trong đám đông nói cùng Người rằng: “Thưa Thầy, xin hãy mắng các môn đệ Ngài đi”. Chúa Giêsu nói: “Tôi bảo cho các ông biết: nếu họ làm thinh, thì những viên đá sẽ la lên”. - Ðó là lời Chúa.

----------------------------------

 

Bài Thương Khó Năm A:


Tin Mừng theo th1nh Matthêu: Mt 26, 14 - 27, 66 (bài dài)
C: Người đọc Chung, Thánh Sử;
S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn.
J: Chúa Giêsu

C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai, tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và nói với họ:
S. "Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?"
C. Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người. Ngày thứ nhất tuần lễ ăn bánh không men, các môn đệ đến thưa Chúa Giêsu rằng:
J. "Thầy muốn chúng con sửa soạn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua ở đâu?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Các con hãy vào thành, đến với một người kia nói rằng: Thầy bảo, giờ Ta đã gần, Ta sẽ mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ tại nhà ông".
C. Các môn đệ làm như Chúa Giêsu truyền và sửa soạn Lễ Vượt Qua. Chiều đến, Người ngồi bàn ăn với mười hai môn đệ. Và khi các ông đang ăn, Người nói:
J. "Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy".
C. Môn đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người:
S. "Thưa Thầy, có phải con không?"
C. Người trả lời rằng:
J. "Kẻ giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ nộp Thầy. Thực ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ sẽ nộp Con Người! Thà người đó đừng sinh ra thì hơn!"
C. Giuđa, kẻ phản bội, cũng thưa Người rằng:
S. "Thưa Thầy, có phải con chăng?"
C. Chúa đáp:
J. "Ðúng như con nói".
C. Vậy khi mọi người còn đang ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà phán:
J. "Các con hãy cầm lấy mà ăn, vì này là Mình Ta".
C. Ðoạn Người cầm lấy chén, tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ mà phán:
J. "Tất cả các con hãy uống chén này, vì này là Máu Ta,
Máu Tân Ước, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Thầy bảo các con: Từ nay, Thầy sẽ không còn uống chất nho này nữa cho đến ngày Thầy sẽ uống rượu mới cùng các con trong nước Cha Thầy".
C. Sau khi hát thánh vịnh, Thầy trò liền lên núi Ôliu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo các ông:
J. "Tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy trong chính đêm nay, vì có lời chép rằng: "Ta sẽ đánh chủ chăn, và các chiên trong đoàn sẽ tan tác". Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con".
C. Phêrô liền thưa:
S. "Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, riêng con, con sẽ không bao giờ vấp phạm".
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Thầy bảo thật con, chính đêm nay, trước khi gà gáy, con sẽ chối Thầy ba lần".
C. Phêrô lại thưa:
S. "Dù có phải chết cùng Thầy, con sẽ không chối Thầy".
C. Và tất cả các môn đệ cùng nói như vậy. Rồi Chúa Giêsu cùng đi với các ông đến một chỗ gọi là Ghếtsêmani, và Người bảo các môn đệ:
J. "Các con hãy ngồi đây để Thầy đến đàng kia cầu nguyện".
C. Ðoạn Chúa đưa Phêrô và hai người con ông Giêbêđê cùng đi, Người bắt đầu cảm thấy buồn bực và sầu não. Lúc ấy, Người bảo các ông:
J. "Linh hồn Thầy buồn sầu đến nỗi chết được; các con hãy ở lại đây và thức với Thầy".
C. Tiến xa hơn một chút, Người sấp mặt xuống, cầu nguyện và nói:
J. "Lạy Cha, nếu được, xin cho Con khỏi chén này! Nhưng đừng như ý Con muốn, một theo ý Cha muốn".
C. Người trở lại cùng các môn đệ và thấy các ông đang ngủ, liền nói với Phêrô:
J. "Chẳng lẽ các con không thức cùng Thầy được lấy một giờ ư? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi lâm cơn cám dỗ: vì tinh thần thì lanh lẹ, nhưng xác thịt thì yếu đuối".
C. Rồi Người lại đi cầu nguyện lần thứ hai mà rằng:
J. "Lạy Cha, nếu chén này không thể qua đi được mà Con phải uống, thì xin theo ý Cha".
C. Ðoạn Người trở lại và thấy các ông còn ngủ, vì mắt các ông nặng trĩu. Người để mặc các ông và đi cầu nguyện lần thứ ba, vẫn lại những lời như trước. Sau đó Người trở lại với các môn đệ và bảo:
J. "Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi! Này sắp đến giờ Con Người sẽ bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Các con hãy chỗi dậy. Chúng ta hãy đi: này kẻ nộp Thầy đã tới gần".
C. Người còn đang nói, thì đây, Giuđa, một trong nhóm mười hai, và cùng với y có lũ đông mang gươm giáo gậy gộc, do các thượng tế và kỳ lão trong dân sai đến. Vậy tên nội công đã dặn họ ám hiệu này:
S. "Hễ tôi hôn người nào, thì đó chính là Người, các ông hãy bắt lấy".
C. Tức khắc Giuđa tới gần Chúa Giêsu và nói:
S. "Chào Thầy".
C. Và nó hôn Người. Nhưng Chúa Giêsu bảo:
J. "Hỡi bạn, bạn đến đây làm chi?"
C. Lúc đó chúng xông tới, tra tay bắt Chúa Giêsu. Ngay sau đó, một trong những người vẫn theo Chúa Giêsu, giơ tay rút gươm và chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu liền bảo:
J. "Con hãy xỏ ngay gươm vào bao: vì tất cả những kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm. Nào con tưởng rằng Thầy không thể xin Cha Thầy và Ngài sẽ tức khắc gởi đến hơn mười hai cơ binh thiên thần sao? Mà như thế thì làm sao ứng nghiệm lời Kinh Thánh bảo: Sự thế phải như vậy?"
C. Lúc đó Chúa Giêsu nói cùng đám đông rằng:
J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ, giữa các ngươi, mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng tất cả sự đó xảy ra là để ứng nghiệm lời các tiên tri đã chép".
C. Bấy giờ các môn đệ bỏ Người và chạy trốn hết.
Những kẻ đã bắt Chúa Giêsu điệu Người đến thầy thượng tế Caipha. Nơi đây các luật sĩ và kỳ lão đã hội họp. Phêrô theo Người xa xa cho tới dinh thầy thượng tế. Rồi ông vào trong dinh ngồi cùng bọn đầy tớ, xem việc xảy ra thế nào. Vậy các thượng tế và tất cả công nghị tìm chứng gian cáo Chúa Giêsu để lên án xử tử Người. Và họ đã không tìm được, mặc dù đã có một số đông chứng nhân ra mắt. Sau cùng, hai người làm chứng gian đến khai rằng:
S. "Người này đã nói: Ta có thể phá đền thờ Thiên Chúa và xây cất lại trong ba ngày".
C. Bấy giờ thầy thượng tế đứng lên nói:
S. "Ông không trả lời gì về các điều những người này đã cáo ông ư?"
C. Nhưng Chúa Giêsu làm thinh, nên thầy thượng tế bảo Người:
S. "Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, ta truyền cho ông hãy nói cho chúng ta biết: Ông có phải là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa không?"
C. Chúa Giêsu trả lời:
J. "Ông đã nói đúng. Nhưng Ta nói thật với các ông: rồi đây các ông sẽ xem thấy Con Người ngự bên hữu Ðấng Toàn Năng, và sẽ đến trên đám mây".
C. Bấy giờ thầy thượng tế xé áo mình ra và nói:
S. "Nó đã nói lộng ngôn! Chúng ta còn cần gì đến nhân chứng nữa? Ðây các ngài vừa nghe lời lộng ngôn. Các ngài nghĩ sao?"
C. Họ đáp lại:
S. "Nó đáng chết!"
C. Bấy giờ chúng nhổ vào mặt Người, đấm đánh Người, lại có kẻ tát vả Người mà nói rằng:
S. "Hỡi Kitô, hãy bói xem, ai đánh ông đó?"
C. Còn Phêrô ngồi ở ngoài sân. Một đầy tớ gái lại gần và nói:
S. "Ông nữa, ông cũng đã theo Giêsu người xứ Galilêa".
C. Nhưng ông chối trước mặt mọi người mà rằng:
S. "Tôi không hiểu chị muốn nói gì?"
C. Khi ông lui ra đến cổng, một đầy tớ gái khác thấy ông, liền nói với những người ở đó:
S. "Ông này cũng theo Giêsu người Nadarét".
C. Ông thề mà chối rằng:
S. "Tôi không biết người ấy".
C. Một lúc sau, mấy người đứng đó lại gần mà nói với Phêrô rằng:
S. "Ðúng rồi, ngươi cũng thuộc bọn ấy. Vì chính giọng nói của ngươi tiết lộ tông tích ngươi".
C. Bấy giờ ông rủa mà thề rằng: ông không hề biết người ấy. Tức thì gà gáy. Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói: "Trước khi gà gáy, con sẽ chối Ta ba lần", và ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết. Trời vừa sáng, các thượng tế và kỳ lão trong dân hội họp bày mưu giết Chúa Giêsu. Họ trói Người và điệu đi nộp cho tổng trấn Phongxiô Philatô. Bấy giờ Giuđa, kẻ nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận, đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ lão mà nói rằng:
S. "Tôi đã phạm tội vì nộp máu người công chính".
C. Nhưng họ trả lời:
S. "Can chi đến chúng tôi! Mặc kệ anh!"
C. Anh ta ném những đồng bạc đó vào trong đền thờ và ra đi thắt cổ. Các thượng tế lượm lấy bạc đó và nói:
S. "Không nên để bạc này vào kho vì là giá máu".
C. Sau khi bàn bạc, họ lấy tiền đó mua thửa ruộng của người thợ gốm làm nơi chôn cất những người ngoại kiều. Bởi thế, ruộng ấy cho đến ngày nay được gọi là Haselđama, nghĩa là ruộng máu. Như vậy là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia nói: "Chúng đã lấy ba mươi đồng bạc là giá do con cái Israel đã mặc cả mà bán Ðấng cao trọng. Và họ mang tiền đó mua ruộng của người thợ gốm như lời Chúa đã truyền cho tôi". Vậy Chúa Giêsu đứng trước quan tổng trấn, và quan hỏi Người rằng:
S. "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Ông nói đúng!"
C. Nhưng khi các thượng tế và kỳ lão tố cáo Người thì Người không trả lời chi cả. Bấy giờ Philatô bảo Người:
S. "Ông không nghe thấy tất cả những điều họ tố cáo ông sao?"
C. Chúa Giêsu cũng không đáp lại về một điều nào, khiến quan tổng trấn hết sức ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ trọng, quan tổng trấn có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Lúc ấy có một phạm nhân nổi tiếng tên là Baraba. Vậy Philatô nói với dân chúng đã tụ tập lại đó rằng:
S. "Các ngươi muốn ta phóng thích ai, Baraba hay Giêsu mà người ta vẫn gọi là Kitô?"
C. Quan biết rõ chỉ vì ghen ghét mà chúng đã nộp Người. Vậy trong khi quan ngồi xét xử, bà vợ sai người nói cùng quan rằng:
S. "Xin ông đừng can thiệp gì đến vụ người công chính ấy, vì hôm nay trong một giấc chiêm bao, tôi đã phải đau khổ rất nhiều vì người ấy".
C. Nhưng các thượng tế và kỳ lão xúi giục dân xin tha Baraba và giết Chúa Giêsu. Quan lại lên tiếng hỏi họ:
S. "Trong hai người đó các ngươi muốn ta phóng thích ai?"
C. Họ thưa:
S. "Baraba!"
C. Philatô hỏi:
S. "Vậy đối với Giêsu gọi là Kitô, ta phải làm gì?"
C. Họ đồng thanh đáp:
S. "Ðóng đinh nó đi!"
C. Quan lại hỏi:
S. "Nhưng người này đã làm gì nên tội?"
C. Chúng càng la to:
S. "Ðóng đinh nó đi!"
C. Bấy giờ Philatô thấy mất công, lại thêm náo động, nên ông lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng và nói:
S. "Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các ngươi".
C. Toàn dân đáp:
S. "Hãy để cho máu nó đổ trên chúng tôi và trên con cái chúng tôi".
C. Bấy giờ quan phóng thích Baraba cho họ, còn Chúa Giêsu thì trao cho họ đánh đòn, rồi đem đi đóng đinh vào thập giá. - Bấy giờ lính tổng trấn liền điệu Chúa Giêsu vào trong công đường và tập họp cả cơ đội lại chung quanh Người. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng:
S. "Tâu vua dân Do-thái!"
C. Ðoạn họ khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy đập trên đầu Người. Khi đã chế nhạo Người xong, họ lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục cũ lại cho Người và điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Lúc đi ra, họ gặp một người thành Xyrênê tên là Simon, liền bắt ông vác đỡ thánh giá cho Người. Họ đi đến một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Họ cho Người uống rượu hoà với mật đắng, Người chỉ nếm qua nhưng không muốn uống. Khi đã đóng đinh Người trên thập giá rồi, họ rút thăm chia nhau áo Người, để ứng nghiệm lời tiên tri rằng: "Chúng đã chia nhau áo Ta, còn áo ngoài của Ta, chúng đã bắt thăm". Rồi họ ngồi lại canh Người. Họ cũng đặt trên đầu Người bản án viết như sau: Người này là Giêsu, vua dân Do-thái. Lúc ấy, cùng với Người, họ đóng đinh hai tên trộm cướp, một tên bên hữu, một tên bên tả. Những người đi ngang qua, lắc đầu chế diễu Người và nói:
S. "Kìa, ngươi là kẻ phá đền thờ và xây cất lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi, nếu là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi!"
C. Các thượng tế cùng luật sĩ và kỳ lão cũng chế nhạo Người rằng:
S. "Nó đã cứu được kẻ khác mà không cứu nổi chính mình! Nếu nó là vua dân Do-thái, thì bây giờ hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta sẽ tin nó. Nó đã trông cậy Thiên Chúa, nếu Ngài thương nó thì bây giờ Ngài hãy cứu nó, vì nó nói: "Ta là Con Thiên Chúa!"

C. Cả những tên cướp bị đóng đinh trên thập giá với Người cũng nhục mạ Người như thế. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. Vào khoảng giờ thứ chín thì Chúa Giêsu kêu lớn tiếng:
J. "Eli, Eli, lema sabachtani!"
C. Nghĩa là:
J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con! sao Chúa bỏ con!"
C. Có mấy người đứng đó nghe vậy nói rằng:
S. "Nó gọi tiên tri Elia".
C. Lập tức một người trong bọn chạy đi lấy một miếng bọt biển, nhúng đầy dấm và cuốn vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. Nhưng có kẻ lại bảo:
S. "Hãy chờ xem Elia có đến cứu nó không?"
C. Ðoạn Chúa Giêsu lại kêu lên lớn tiếng và trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Bỗng nhiên màn đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới, đất chuyển động, đá nứt ra. Các mồ mả mở tung và xác của nhiều vị thánh đã qua đời được sống lại. Và sau khi Chúa sống lại, họ ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra cùng nhiều người. Còn viên sĩ quan và những kẻ cùng ông canh giữ Chúa Giêsu, thấy đất chuyển động và các sự xảy ra, thì thất kinh sợ hãi và nói:
S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa".
C. Ở đó cũng có nhiều phụ nữ đứng xa xa; họ là những người đã theo giúp Chúa Giêsu từ xứ Galilêa. Trong số đó có Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê và Giuse, và mẹ các người con của Giêbêđê. Tới chiều có một người giàu sang quê ở Arimathia tên là Giuse, cũng đã làm môn đệ Chúa Giêsu, ông đi gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Bấy giờ Philatô truyền giao xác cho ông. Vậy ông Giuse lấy xác, liệm trong một khăn sạch, và đặt trong mồ mà ông đã cho đục trong đá, rồi ông lăn một tảng đá lớn lấp cửa mồ lại và ra về. Còn Maria Mađalêna và bà Maria kia cùng ngồi đó nhìn vào mộ. Hôm sau, tức là sau ngày chuẩn bị mừng lễ, các thượng tế và biệt phái đến dinh Philatô trình rằng:
S. "Thưa ngài, chúng tôi nhớ, lúc sinh thời tên bịp bợm ấy có nói: "Sau ba ngày, Ta sẽ sống lại". Vậy xin ngài truyền lệnh cho canh mộ đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ nó lấy trộm xác rồi phao đồn với dân chúng rằng: Người đã từ cõi chết sống lại! Và như thế, sự gian dối này lại còn tai hại hơn trước".
C. Philatô trả lời:
S. Các ông đã có lính canh thì cứ đi mà canh như ý.
C. Họ liền đi và đóng ấn niêm phong tảng đá và cắt lính canh giữ mồ.

--------------------------

 

Bài Thương Khó Năm B:


C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Marcô (14,1-15,47)
Hai ngày trước Lễ Vượt Qua và Tuần Lễ ăn bánh không men, các thượng tế và luật sĩ tìm mưu bắt giết Chúa Giêsu. Họ bảo nhau rằng:
S. "Ðừng làm trong ngày lễ, kẻo sinh náo động trong dân".
C. Khi Chúa đang dùng cơm ở Bêtania trong nhà ông Simon tật phong, thì có một người phụ nữ mang đến một bình ngọc đựng dầu thơm rất quý giá. Ðập vỡ bình, bà đổ dầu thơm trên đầu Người. Có mấy người khó chịu nghĩ thầm rằng: Làm gì mà phí dầu thơm như vậy? Dầu này có thể bán được hơn ba trăm đồng bạc để bố thí cho kẻ nghèo khó. Và họ nặng lời với bà đó. Nhưng Chúa Giêsu bảo:
J. "Hãy để mặc bà, sao các ông lại làm cực lòng bà? Bà vừa làm cho Ta một việc rất tốt. Vì bao giờ các ông cũng có những kẻ nghèo ở bên mình, và các ông có thể làm phúc cho họ lúc nào tuỳ ý, nhưng Ta, các ông không có Ta ở luôn với đâu. Làm được gì thì bà đã làm, bà đã xức dầu thơm có ý tẩm liệm xác Ta trước. Ta bảo thật các ông: Trong khắp thế giới, Phúc âm này rao giảng đến đâu thì người ta cũng sẽ thuật lại việc bà mới làm để nhớ bà".
C. Khi ấy, Giuđa Iscariô, một trong nhóm Mười Hai, đến tìm các thượng tế để tình nguyện nộp Người cho họ. Nghe vậy, họ mừng rỡ và họ liền hứa cho nó tiền. Và nó tìm dịp tiện nộp Người.
Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh không men là ngày giết chiên mừng Lễ Vượt Qua, các môn đệ thưa Người:
S. "Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua tại đâu?"
C. Người liền sai hai môn đệ đi và dặn rằng:
J. "Các con hãy vào thành, và nếu gặp một người mang vò nước thì hãy đi theo người đó. Hễ người ấy vào nhà nào thì các con hãy nói với chủ nhà rằng: Thầy sai chúng tôi hỏi: Căn phòng Ta sẽ ăn Lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu? Và chủ nhà sẽ chỉ cho các con một căn phòng rộng rãi dọn sẵn sàng và các con hãy sửa soạn cho chúng ta ở đó".
C. Hai môn đệ ra đi vào thành và thấy mọi sự như Người đã bảo, và hai ông dọn Lễ Vượt Qua.
Chiều đến, Người cùng Mười Hai môn đệ tới. Và khi mọi người đang ngồi ăn, thì Chúa Giêsu nói:
J. "Ta bảo thật các con, một trong các con đang ăn cùng Ta, sẽ nộp Ta".
C. Các ông đều buồn rầu và lần lượt từng người thưa Ngài:
S. "Thưa Thầy, có phải con không?"
C. Người đáp:
J. "Là một trong mười hai, kẻ cùng chấm một đĩa với Thầy. Con Người phải ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người. Thà nó đừng sinh ra thì hơn".
C. Ðang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán:
J. "Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta".
C. Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông:
J. "Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người. Ta bảo thật các con: Ta sẽ chẳng còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày Ta sẽ uống rượu mới trong nước Thiên Chúa".
C. Sau khi hát Thánh Vịnh, Thầy trò đi lên núi Cây Dầu. Chúa Giêsu bảo các ông:
J. "Ðêm nay, tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy, vì có lời chép rằng: ta sẽ đánh chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con".
C. Phêrô thưa Người:
S. "Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, nhưng con thì không".
C. Chúa Giêsu bảo ông:
J. "Thầy bảo thật con: Hôm nay, nội đêm nay, trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Thầy ba lần".
C. Nhưng Phêrô càng lên giọng cương quyết hơn mà rằng:
S. "Không, dầu phải chết với Thầy, con cũng sẽ không chối Thầy".
C. Và tất cả đều nói như vậy.
Ði đến một vườn kia tên là Ghếtsêmani, Người bảo các môn đệ:
J. "Các con hãy ngồi lại đây trong khi Thầy đi cầu nguyện".
C. Rồi Người đem Phêrô, Giacôbê và Gioan theo Người và Người bắt đầu kinh sợ và buồn sầu. Người liền bảo các ông:
J. "Linh hồn Thầy buồn đến chết được, các con hãy ở lại đây và tỉnh thức".
C. Tiến xa hơn một chút, Người phục xuống đất và cầu xin nếu có thể được thì xin cho qua khỏi giờ này. Và Người nguyện rằng:
J. "Abba, Lạy Cha, Cha có thể làm được mọi sự, xin cất chén này khỏi con! Nhưng không theo ý con muốn, một theo ý Cha".
C. Người trở lại và thấy các ông đang ngủ, nên nói với Phêrô:
J. "Simon, con ngủ ư? Con không có sức thức được một giờ sao? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì lanh lẹ, còn xác thịt thì yếu đuối".
C. Rồi Người đi khỏi đó và cầu nguyện cùng lời như trước. Khi trở lại lần nữa và thấy các ông còn ngủ (vì mắt các ông nặng trĩu) và các ông không còn biết thưa Người làm sao. Lần thứ ba, Người trở lại và bảo:
J. "Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi. Thế là xong! Giờ đã đến: Này Con Người sắp bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Thôi! hãy chỗi dậy, chúng ta đi, kẻ nộp Thầy đã tới nơi".
C. Người còn đang nói, thì Giuđa Iscariô, một trong nhóm Mười Hai đến, cùng đi với một toán đông mang gươm giáo và gậy gộc do các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão sai đến. Trước đó, tên phản bội đã ra hiệu cho chúng rằng:
S. "Hễ tôi hôn mặt ai, thì đó chính là Ngài, các ông cứ bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận".
C. Vừa đến, nó liền tới gần Người mà nói:
S. "Chào Thầy".
C. Và nó hôn Người. Và chúng tra tay bắt Người. Nhưng một người trong những kẻ đứng xung quanh rút gươm chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu nói với chúng rằng:
J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp! Hằng ngày, Ta ở giữa các ngươi, giảng dạy trong đền thờ mà sao các ngươi không bắt Ta. Nhưng thế là để ứng nghiệm lời Kinh Thánh".
C. Bấy giờ môn đệ bỏ Người và trốn đi hết. Có một thanh niên theo Người, mình chỉ quấn một tấm khăn, họ túm lấy anh ta, nhưng anh ta bỏ tấm khăn lại và chạy trốn mình trần.
Chúng điệu Chúa Giêsu đến thầy thượng tế, các tư tế, luật sĩ và kỳ lão hội lại đông đủ. Còn Phêrô theo Người xa xa đến tận trong dinh thượng tế và ngồi sưởi lửa với đám đầy tớ. Vậy các thầy thượng tế và toàn thể công nghị tìm một chứng cáo Chúa Giêsu để giết Người, song họ không tìm ra. Có nhiều kẻ đã cáo gian Người, nhưng các chứng đó không hợp nhau. Tuy nhiên có nhiều kẻ đứng lên làm chứng gian cho Người rằng:
S. "Chúng tôi đã nghe nó nói: Ta sẽ phá huỷ đền thờ này do tay loài người làm ra, và trong ba ngày, Ta sẽ xây lại một đền thờ khác không bởi tay loài người làm ra".
C. Nhưng chứng cớ của họ cũng không hợp nhau. Khi ấy, thầy thượng tế đứng lên giữa công nghị hỏi Chúa Giêsu rằng:
S. "Sao ông không trả lời gì về những điều các người này tố cáo ông".
C. Nhưng Người vẫn thinh lặng và không đáp lại gì. Thầy thượng tế lại hỏi:
S. "Ông có phải là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa đáng chúc tụng chăng?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Phải, chính Ta! Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngồi bên hữu Ðấng toàn năng và ngự đến trên đám mây".
C. Thầy thượng tế liền xé áo mình ra và nói:
S. "Chúng ta còn cần chi đến nhân chứng nữa? Các ông đã nghe lời nói lộng ngôn, các ông nghĩ sao?"
C. Ai nấy đều lên án Người đáng chết. Rồi có kẻ bắt đầu nhổ vào Người, che mặt Người và đánh đấm Người mà rằng:
S. "Hãy đoán xem!"
C. Và bọn thủ hạ vả mặt Người.
Phêrô đang ở ngoài sân tiền đường, thì có một đầy tớ gái của thầy thượng tế đến, thấy Phêrô đang sưởi, thì nhìn ông và nói:
S. "Ông cũng theo Giêsu, người Nadarét".
C. Nhưng ông chối phắt mà rằng:
S. "Tôi không biết, tôi không hiểu cô muốn nói gì".
C. Rồi ông đi ra ngoài phía trước tiền đường, và gà liền gáy. Lần nữa người đầy tớ thấy ông, liền nói với những người xung quanh rằng:
S. "Ông này thuộc bọn đó".
C. Nhưng ông lại chối. Một lúc sau, những người ở đó lại nói với Phêrô rằng:
S. "Ðúng ông thuộc bọn đó, vì cả ông cũng là người Galilêa".
C. Ông liền nguyền rủa nặng lời và thề rằng:
S. "Tôi không biết người mà các ông nói đó".
C. Tức thì gà gáy lần thứ hai. Và Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã bảo ông: "Trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Ta ba lần". Và ông liền than khóc.
Vừa tảng sáng, các thượng tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể công nghị. Họ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô. Philatô hỏi Người:
S. "Ông có phải là vua dân Do-thái không?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Ông nói đúng!"
C. Và các thầy thượng tế cáo Người nhiều điều. Philatô lại hỏi Người rằng:
S. "Ông không trả lời gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu điều!"
C. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì thêm, khiến Philatô ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị giam cùng với những kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn. Dân chúng tiến lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. Vậy Philatô hỏi:
S. "Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?"
C. (Vì quan đã biết rõ do lòng ghen tương mà các thượng tế nộp Người). Nhưng dân xin quan phóng thích Baraba cho họ. Philatô bảo dân chúng rằng:
S. "Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?"
C. Nhưng chúng lại kêu lên:
S. "Ðóng đinh nó đi!"
C. Philatô đáp lại:
S. "Người này đã làm gì nên tội?"
C. Song chúng càng la to hơn:
S. "Ðóng đinh nó đi!"
C. Sau cùng Philatô muốn vừa lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Quân lính điệu Người vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại. Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. Ðoạn chào Người rằng:
S. "Tâu Vua dân Do-thái".
C. Rồi chúng lấy cây sậy đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối triều bái Người. Khi đã nhạo cười Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục lại cho Người và chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Chúng gặp một người qua đường, tên là Simon, quê ở Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác đỡ thập giá cho Người. Chúng điệu Người đến nơi kia gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Chúng cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người bằng cách bắt thăm xem ai được phần nào.
Vào lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh Người vào thập giá. Và có bản án ghi rằng: Vua dân Do Thái! Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên trộm cướp vào thập giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. Như vậy là ứng nghiệm lời Thánh Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác. Những người qua đường sỉ nhục Người, lắc đầu và nói:
S. "Kià! Kẻ phá đền thờ Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: hãy tự cứu mình xuống khỏi thập giá đi!"
C. Các thượng tế với các luật sĩ cũng nhạo báng Người và nói với nhau:
S. "Nó đã cứu được những kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Ðấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!"
C. Cả những kẻ cùng chịu đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng:
J. "Eloi, Eloi, lema sabachtani!"
C. Nghĩa là:
J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!"
C. Có mấy người đứng đó nghe thấy liền nói rằng:
S. "Kìa, nó gọi Elia!"
C. Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng:
S. "Hãy đợi xem Elia có đến đem nó xuống không?"
C. Nhưng Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ quan đứng trước mặt Người thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng:
S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa!"
C. Cũng có những phụ nữ đứng nhìn từ đàng xa, trong số đó có bà Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê hậu và của Giuse, và bà Salômê, là những kẻ đã theo giúp Người khi Người còn ở xứ Galilêa. Và nhiều người khác cũng đã lên Giêrusalem với Người.
Trời đã xế chiều và hôm đó lại là ngày chuẩn bị, áp ngày Sabbat. Ông Giuse quê ở Arimathia, một hội viên vị vọng trong công nghị, cũng là người trông đợi nước Thiên Chúa, ông mạnh dạn đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Philatô ngạc nhiên nghe nói Người đã chết, ông gọi viên sĩ quan đến và hỏi xem Người đã chế thật chưa. Khi được viên sĩ quan phúc trình, quan trao xác Người cho Giuse. Giuse đã mua một khăn trắng, hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá, liệm vào khăn và đặt trong mộ đã đục sẵn trong đá, và lăn một tảng đá lấp cửa mộ. Lúc đó bà Maria Mađalêna và Maria mẹ ông Giuse nhìn xem nơi Người được an táng.
 
Hoặc đọc bài vắn này: Mc 15, 1-39
C. Vừa tảng sáng, các thượng tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể công nghị. Họ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô. Philatô hỏi Người:
S. "Ông có phải là vua dân Do-thái không?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Ông nói đúng!"
C. Và các thầy thượng tế cáo Người nhiều điều. Philatô lại hỏi Người rằng:
S. "Ông không trả lời gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu điều!"
C. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì thêm, khiến Philatô ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị giam cùng với những kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn. Dân chúng tiến lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. Vậy Philatô hỏi:
S. "Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?"
C. (Vì quan đã biết rõ do lòng ghen tương mà các thượng tế nộp Người). Nhưng dân xin quan phóng thích Baraba cho họ. Philatô bảo dân chúng rằng:
S. "Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?"
C. Nhưng chúng lại kêu lên:
S. "Ðóng đinh nó đi!"
C. Philatô đáp lại:
S. "Người này đã làm gì nên tội?"
C. Song chúng càng la to hơn:
S. "Ðóng đinh nó đi!"
C. Sau cùng Philatô muốn vừa lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Quân lính điệu Người vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại. Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. Ðoạn chào Người rằng:
S. "Tâu Vua dân Do-thái".
C. Rồi chúng lấy cây sậy đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối triều bái Người. Khi đã nhạo cười Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục lại cho Người và chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Chúng gặp một người qua đường, tên là Simon, quê ở Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác đỡ thập giá cho Người. Chúng điệu Người đến nơi kia gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Chúng cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người bằng cách bắt thăm xem ai được phần nào.
Vào lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh Người vào thập giá. Và có bản án ghi rằng: Vua dân Do Thái! Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên trộm cướp vào thập giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. Như vậy là ứng nghiệm lời Thánh Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác. Những người qua đường sỉ nhục Người, lắc đầu và nói:
S. "Kià! Kẻ phá đền thờ Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: hãy tự cứu mình xuống khỏi thập giá đi!"
C. Các thượng tế với các luật sĩ cũng nhạo báng Người và nói với nhau:
S. "Nó đã cứu được những kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Ðấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!"
C. Cả những kẻ cùng chịu đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng:
J. "Eloi, Eloi, lema sabachtani!"
C. Nghĩa là:
J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!"
C. Có mấy người đứng đó nghe thấy liền nói rằng:
S. "Kìa, nó gọi Elia!"
C. Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng:
S. "Hãy đợi xem Elia có đến đem nó xuống không?"
C. Nhưng Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ quan đứng trước mặt Người thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng:
S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa!"

------------------------------

 

Bài Thương Khó Năm C:


Kiệu Lá: Bài Phúc Âm: Lc 19, 28-40: "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi trước lên Giêrusalem. Và xảy ra là khi Người đến gần Bếtphaghê và Bêtania, giáp núi gọi là núi Cây Dầu, Người sai hai môn đệ đi và bảo rằng: "Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp con lừa con cột sẵn đó chưa ai cỡi bao giờ; các con hãy mở dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con "Tại sao các ông mở dây?", thì hãy nói thế này: "Vì Chúa cần dùng đến nó". Hai người được sai ra đi, và gặp lừa con đứng đó như Chúa đã bảo. Hai ông đang mở dây lừa con, thì chủ nó hỏi r?ng: "Sao các ông mở dây lừa con?" Hai ông đáp: "Vì Chúa cần đến nó". Hai ông dắt lừa về cho Chúa Giêsu, trải áo lên mình lừa và đặt Chúa lên trên. Dọc đàng, người ta trải áo trên lối đi. Khi Người đến gần triền núi Cây Dầu, tất cả đoàn môn đệ hân hoan lớn tiếng ca ngợi Chúa về mọi phép lạ họ đã thấy mà rằng: "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời". Một vài người biệt phái trong đám đông nói cùng Người rằng: "Thưa Thầy, xin hãy mắng các môn đệ Ngài đi". Chúa Giêsu nói: "Tôi bảo cho các ông biết: nếu họ làm thinh, thì những viên đá sẽ la lên". - Ðó là lời Chúa.

Bài Thương Khó: Lc 22, 14 - 23. 56 (bài dài):

(C: Người đọc Chung, Thánh Sử;
S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn.
J: Chúa Giêsu)
C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Luca. Ðến giờ, Chúa Giêsu vào bàn ăn với mười hai tông đồ và bảo các ông:
J. "Thầy đã tha thiết ước ao ăn Lễ Vượt Qua này với các con trước khi chịu khổ nạn. Thầy bảo các con, Thầy sẽ chẳng bao giờ ăn lễ này nữa, cho đến khi lễ này được thực hiện trong nước Thiên Chúa".
C. Rồi Người cầm chén, tạ ơn và phán:
J. "Các con hãy lãnh nhận chén này mà chia cho nhau: Thầy bảo cho các con biết: Thầy sẽ không uống thứ nho này nữa cho đến khi nước Thiên Chúa đến!"
C. Ðoạn Người cầm bánh và tạ ơn, bẻ ra và trao cho các ông mà phán:
J. "Này là Mình Ta hiến ban vì các con, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta".
C. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén mà phán:
J. "Chén này là Tân ước trong Máu Ta sẽ đổ ra vì các con. Vả lại này tay kẻ nộp Ta đang ở gần Ta, ngay trên bàn này. Ðành rằng Con Người sẽ ra đi như đã được ấn định, nhưng vô phúc cho kẻ nộp Người!"
C. Bấy giờ các ông bắt đầu hỏi nhau xem ai trong nhóm họ là kẻ làm điều đó. Giữa các ông cũng xảy ra một cuộc tranh giành xem ai trong họ được coi là cao trọng hơn hết. Nhưng Người bảo:
J. "Vua chúa các dân ngoại thì thống trị dân, và những kẻ có quyền hành trên dân thì bắt dân gọi mình là ân nhân. Phần các con, thì không như thế, vì ai cao trọng hơn các con thì hãy trở thành như người nhỏ nhất, và kẻ làm đầu, hãy trở thành như người hầu bàn. Vì người ngồi ăn và kẻ hầu hạ, ai trọng hơn, nào chẳng phải là người ngồi ăn ư? Thế mà Thầy, Thầy ở giữa các con như người hầu hạ. Còn các con, các con đã kiên trì với Thầy trong các cơn gian nan của Thầy, và Thầy xếp đặt nước trời cho các con như Cha Thầy đã xếp đặt cho Thầy, để các con sẽ được ăn uống đồng bàn trong nước Thầy, và được ngồi trên toà xét xử mười hai chi tộc Israel!"
C. Rồi Chúa nói:
J. "Simon, Simon, này ma quỷ đã đòi sàng các con như sàng gạo, nhưng Ta đã cầu nguyện để con khỏi mất đức tin. Và phần con, khi đã trở lại, con hãy làm cho anh em con vững tin".
C. Ông thưa Người:
S. "Lạy Thầy, con sẵn sàng theo Thầy, dù vào tù hay đi chịu chết".
C. Nhưng Người đáp:
J. "Phêrô, Thầy bảo cho con biết: hôm nay khi gà chưa gáy, con đã chối rằng không biết Thầy".
C. Và Người bảo các ông:
J. "Khi Thầy sai các con đi không mang theo túi tiền, không bị, không giày dép, nào các con có thiếu thốn sự gì không?"
C. Các ông thưa:
S. "Không thiếu gì cả".
C. Vậy Người nói:
J. "Nhưng bây giờ ai có túi tiền, hãy cầm lấy, ai có bị, cũng hãy làm như vậy, và ai không có gươm, thì hãy bán áo choàng mình mà mua lấy gươm. Vì Thầy bảo các con hay: còn điều này chép về Thầy cũng cần phải được ứng nghiệm: "Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác". Vì mọi điều đã chép về Thầy phải được hoàn tất".
C. Các ông thưa Người:
S. "Thưa Thầy, này có hai thanh gươm đây".
C. Và Người bảo:
J. "Ðủ rồi".
C. Ðoạn Người ra đi lên núi cây ôliu như thường lệ. Các môn đệ cũng đi theo Người. Ðến nơi, Người bảo các ông:
J. "Các con hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ".
C. Rồi Người đi xa các ông một quãng bằng ném một hòn đá và quỳ gối cầu nguyện rằng:
J. "Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin Cha cất chén này xa con. Nhưng xin đừng theo ý con muốn, một theo ý Cha".
C. Bấy giờ có thiên thần từ trời hiện ra an ủi Người. Và lâm cơn hấp hối, Người cầu nguyện thiết tha hơn, và mồ hôi Người chảy ra như những giọt máu rơi xuống đất. Cầu nguyện xong, Người đứng dậy, trở lại chỗ các môn đệ, và thấy các ông còn đang ngủ vì buồn sầu. Người liền bảo:
J. "Các con ngủ ư? Hãy dậy và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ".
C. Người còn đang nói, thì này đây một lũ đông, và một người trong nhóm Mười Hai là Giuđa dẫn đầu. Hắn lại gần Chúa Giêsu để hôn Người. Chúa Giêsu bảo hắn:
J. "Giuđa, ngươi lấy cái hôn để nộp Con Người ư?"
C. Thấy các sự sắp xảy ra, những kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi:
S. "Thưa Thầy, chúng con có nên dùng gươm mà chém không?"
C. Và một người trong các ông chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt tai phải. Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo:
J. "Thôi, đủ rồi".
C. Và Người sờ vào tai người đầy tớ ấy mà chữa cho y lành lại. Rồi Chúa Giêsu bảo các kẻ đến bắt Người gồm các thượng tế, trưởng vệ binh đền thờ và kỳ lão rằng:
J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ giữa các ngươi mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng đây là giờ của các ngươi và của quyền lực tối tăm".
C. Chúng liền bắt Người và điệu tới nhà thầy thượng tế. Còn Phêrô đi theo xa xa.
Họ đốt lửa ngay giữa sân và ngồi vòng quanh, Phêrô cũng ngồi lẫn với họ. Một đứa đầy tớ gái thấy ông ngồi gần lửa, thì nhìn kỹ ông và bảo:
S. "Cả ông này cũng theo hắn".
C. Nhưng ông chối và nói:
S. "Này chị, tôi đâu quen biết người ấy".
C. Một lát sau, có người khác nhìn ông và nói:
S. "Chính ông cũng là người trong bọn đó".
C. Nhưng Phêrô đáp:
S. "Này anh, đâu có phải tôi".
C. Chừng một giờ sau, một người khác lại quả quyết rằng:
S. "Ðúng ông này cũng theo người ấy: vì ông ta cũng là người xứ Galilêa".
C. Phêrô đáp:
S. "Này anh, tôi không biết anh muốn nói gì?"
C. Khi ông còn đang nói, thì lập tức gà liền gáy. Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô. Bấy giờ Phêrô mới sực nhớ lời Chúa đã bảo ông trước: Khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần. Phêrô liền ra ngoài và khóc lóc thảm thiết. Những kẻ canh giữ người, nhạo cười và đánh đập Người. Chúng che mặt Người, vả mặt mà hỏi Người rằng:
S. "Hãy đoán xem ai đánh ngươi đó".
C. Và chúng còn thốt ra nhiều lời khác nhục mạ Người. Vừa sáng ngày, các kỳ lão trong dân, các thượng tế và các luật sĩ hội lại và cho điệu Người ra trước công nghị mà nói:
S. "Nếu ông là Ðấng Kitô, hãy nói cho chúng tôi hay".
C. Người trả lời:
J. "Tôi có nói, các ông cũng chẳng tin tôi, và nếu tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời và cũng chẳng tha tôi. Nhưng từ giờ đây, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng".
C. Mọi người đều hỏi lại:
S. "Vậy ông là Con Thiên Chúa ư?"
C. Người đáp:
J. "Các ông nói đúng, Ta là Con Thiên Chúa".
C. Bấy giờ họ nói:
S. "Chúng ta còn cần chứng cớ chi nữa? Vì chính chúng ta cũng nghe y nói".
C. Ðoạn tất cả bọn họ đứng dậy và giải Người đến Philatô.
Họ bắt đầu tố cáo Người rằng:
S. "Chúng tôi đã thấy người này xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho Cêsarê, và còn tự xưng là Kitô Vua".
C. Philatô bảo các thượng tế và đám đông rằng:
S. "Ta không thấy người này có tội gì".
C. Nhưng họ cố nài rằng:
S. "Người này đã làm náo động dân chúng, giảng dạy khắp xứ Giuđêa, bắt đầu từ Galilêa đến đây".
C. Philatô vừa nghe nói đến Galilêa, liền hỏi cho biết có phải đương sự là người xứ Galilêa không. Và khi đã biết Người thuộc thẩm quyền Hêrôđê, quan liền sai giải Người cho Hêrôđê cũng có mặt tại Giêrusalem trong những ngày ấy. Hêrôđê thấy Chúa Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu, ông ao ước thấy Người, bởi đã nghe nói về Người rất nhiều, và hy vọng xem Người
làm một vài phép lạ. Nhà vua hỏi Người rất nhiều lời, nhưng Người không đáp gì hết. Trong khi ấy, các thượng tế và luật sĩ ở đó tố cáo Người dữ dội. Còn Hêrôđê cùng các quan lính thì khinh dể và nhạo báng Người, đoạn khoác cho Người một cái áo choàng trắng và gởi trả Người cho Philatô. Chính ngày đó, Hêrôđê và Philatô trở thành bạn hữu, vì trước kia họ là thù địch với nhau.
Bấy giờ Philatô triệu tập các thượng tế, các thủ lãnh và dân chúng lại, rồi bảo họ:
S. "Các ngươi đã nộp cho ta người này như một kẻ xúi giục dân làm loạn, nhưng đây ta đã tra xét trước mặt các ngươi, và ta không thấy người này phạm tội nào trong những tội các ngươi tố cáo. Cả vua Hêrôđê cũng thấy như vậy, vì ta đã cử các ngươi đến nhà vua và nhà vua cũng không thấy có chi đáng tội chết cả. Vậy ta sẽ cho sửa phạt, rồi tha đi".
C. Mỗi dịp lễ, quan tổng trấn phải phóng thích cho họ một người tù. Vậy toàn dân đồng thanh kêu lên:
S. "Hãy giết người này, và tha Baraba cho chúng tôi".
C. Tên này vì dấy loạn trong thành và giết người, nên đã bị tống ngục. Nhưng Philatô muốn tha Chúa Giêsu, nên lại nói với dân chúng. Nhưng chúng càng la to hơn và nói:
S. "Hãy đóng đinh nó, hãy đóng đinh nó vào thập giá!"
C. Lần thứ ba, quan lại nói với dân chúng:
S. "Người này đã làm gì xấu? Ta không thấy nơi ông ấy có lý do để lên án tử hình. Vậy ta sẽ trừng phạt, rồi tha đi".
C. Chúng lại la lớn tiếng, nhất định đòi đóng đinh Người vào thập giá, và tiếng la hét của chúng càng dữ
dội hơn. Philatô liền tuyên án theo lời chúng yêu cầu. Vậy quan phóng thích tên đã bị cầm tù vì dấy loạn và giết người, là kẻ mà chúng đã xin tha, còn Chúa Giêsu thì quan trao phó để mặc ý chúng.
Khi điệu Người đi, chúng bắt một người xứ Xyrênê, tên Simon, ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác thập giá theo sau Chúa Giêsu. Ðám đông dân chúng theo Người, có cả mấy người phụ nữ khóc thương Người. Nhưng Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại bảo họ rằng:
J. "Hỡi con gái Giêrusalem, đừng khóc thương Ta, hãy khóc thương chính các ngươi và con cái các ngươi. Vì này, sắp đến ngày người ta sẽ than rằng: "Phúc cho người son sẻ, phúc cho những lòng không sinh nở và những vú không nuôi con". Bấy giờ người ta sẽ lên tiếng với núi non rằng: "Hãy đổ xuống đè chúng tôi", và nói với các gò nổng rằng: "Hãy che lấp chúng tôi đi". Vì nếu cây tươi còn bị xử như vậy, thì gỗ khô sẽ ra sao?"
C. Cùng với Người, chúng còn điệu hai tên gian ác nữa đi xử tử. Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu và một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng:
J. "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm".
C. Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Dân chúng đứng đó nhìn xem, và các thủ lãnh thì cười nhạo Người mà rằng:
S. "Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Ðấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn".
C. Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói:
S. "Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi".
C. Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: "Người này là vua dân Do-thái". Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng:
S. "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa".
C. Ðối lại, tên kia mắng nó rằng:
S. "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao. Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn Ông này, Ông có làm gì xấu đâu?"
C. Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng:
S. "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi".
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".
C. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu, tối tăm liền bao trùm cả mặt đất cho đến giờ thứ chín. Mặt trời trở nên u ám, màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa. Lúc đó Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng:
J. "Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha".
C. Nói đoạn, Người trút hơi thở.

(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Thấy sự việc xảy ra, viên sĩ quan ca tụng Thiên Chúa rằng:
S. "Ông này quả thật là người công chính".
C. Và tất cả dân chúng có mặt thấy cảnh tượng đó, và chứng kiến những sự việc xảy ra, liền đấm ngực trở về.
Ðứng xa xa, có những kẻ quen biết Người, và mấy phụ nữ đi theo Người từ xứ Galilêa, họ cũng chứng kiến. Tuy nhiên, có một công nghị viên tên là Giuse, người tốt lành và công chính. Ông này đã không đồng ý với mưu toan và hành động của các công nghị viên khác, ông quê ở thành Arimathia trong xứ Giuđêa, chính ông cũng trông đợi nước Chúa. Ông đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Ðoạn ông hạ xác Người xuống, liệm trong khăn và táng trong mồ đã đục sẵn, nơi chưa táng xác ai. Hôm đó là ngày chuẩn bị và sắp bước sang ngày Sabbat. Trong khi đó, những người phụ nữ đã đi với Người từ xứ Galilêa, cũng theo đến xem mồ và xác Người được táng như thế nào. Rồi các bà về sửa soạn thuốc thơm và dầu thơm. Nhưng trong ngày Sabbat, các bà nghỉ theo đúng luật.

----------------------------------

------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-351: CHÚA GIÊSU CẦU NGUYỆN


Bông hồng nhỏ

Suy niệm CUỘC THƯƠNG KHÓ CHÚA GIÊSU THEO TM THÁNH LUCA
 
 

Chúa Giêsu đã loan báo đến ba lần cho các môn đệ về cái chết và sự phục sinh của mình. Cũng là Suy niệm Lễlá-351


con người như ta, Chúa Giêsu đã cảm thấy kinh hoàng trước cái chết. Trong vườn Cây Dầu, Người cầu nguyện với Chúa Cha, mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống. Người yêu Chúa Cha đến cùng và Người cũng yêu nhân loại bằng một tình yêu trọn hảo, Người tự nguyện bước vào cuộc thương khó với tâm tình phó thác hoàn toàn cho Chúa Cha.

Cùng Chúa Giêsu bước vào cuộc thương khó, ta được cùng Người ăn bữa Tiệc Ly. Trong bữa Tiệc Ly, Người đã thực hiện những cử chỉ tràn đầy tình yêu, Người đã nêu gương cho các môn đệ của Người, Người đã nêu gương cho ta về sự khiêm nhường phục vụ. Người cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Đầu của Người cúi xuống, chạm vào đầu gối các môn đệ, bàn tay của Người rửa sạch những bụi bặm bám trên đôi chân của họ. Các ông sẽ được cùng với Thầy bước với con đường hẹp, con đường thương khó. Và cũng chính những đôi chân ấy sẽ vấp ngã vì Thầy, nhưng Thầy đã cầu nguyện cho họ khỏi mất đức tin. Ông Simon Phêrô được Thầy tiên báo về việc ông sẽ chối Thầy ba lần, nhưng ông vẫn quả quyết là dù có phải chết, ông cũng trung thành với Thầy. Thầy đã cầu nguyện cho ông để ông không mất đức tin, để khi ông trở lại, ông sẽ làm cho các anh em khác được vững tin. Rồi khi Thầy bị bắt, ông đã chối Thầy như lời Thầy báo trước. Ông vừa chối Thầy đến lần thứ ba thì có tiếng gà gáy. Chỉ đến khi ông nghe tiếng gà gáy, ông mới chợt nhớ lại lời Thầy đã nói. Thầy Giêsu quay lại nhìn ông. Bắt gặp ánh mắt của Thầy, nhớ lại lời Thầy nói, ông nhận ra tội của mình. Ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết. Những giọt nước mắt của đau khổ và sám hối chảy ra, ông nhận ra tình thương của Thầy đong đầy trong ánh mắt ấy, ẩn chứa trong lời của Thầy. Thầy đã hứa với ông là sẽ cầu nguyện để ông khỏi mất đức tin. Nhờ thế, sau khi vấp ngã, ông vẫn một lòng vững tin vào tình yêu thương xót của Thầy Giêsu.

Khi ở vườn Cây Dầu, Thầy Giêsu đã tha thiết cầu nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha. Người lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất (Lc 22, 42-44). Người đi ra và thấy các môn đệ ngủ vùi vì mệt mỏi và buồn sầu. Người liền đánh thức các ông và bảo: “Sao anh em lại ngủ? Dậy mà cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22, 46). Người luôn một lòng một ý tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa. Người nêu gương cho các ông về việc kiên trì cầu nguyện, kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, nhất là trong những lúc gặp thử thách gian nan. Con người vốn yếu đuối và bất toàn. Chỉ với ơn Chúa, họ mới có thể đi theo Chúa trên con đưuòng Người đi.

Khi bị đóng đinh trên cây thánh giá, Người phải hứng chịu nhiều lời sỉ nhục, nhiều sự thách thức của những người biệt phái và người Pharisêu, của đám lính và của cả một tên tử tội bị đóng đinh cùng với Người. Người đã cầu nguyện cho những kẻ đóng đinh mình, cầu nguyện cho những kẻ nhục mạ mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34). Tình yêu của Người rộng lớn, sâu thẳm và cao vời dường bao, tình yêu ấy vượt lên trên cả muôn vàn tội lỗi của nhân loại. Không những Người sẵn sàng tha thứ, mà Người còn bênh vực cho những tội nhân, và cầu xin Thiên Chúa tha tội cho họ. Như thế, Người mời gọi ta hãy noi gương Người, cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ, vu khống và làm hại ta. Chính khi thành khẩn cầu nguyện cho ai là ta đang diễn tả tình yêu giống như Chúa Giêsu đã yêu, ta yêu họ không còn bằng tình yêu tự nhiên trong ta nhưng ta đang yêu họ bằng tình yêu của Chúa Giêsu. Tình yêu của con người giới hạn và ích kỷ lắm. Chỉ có tình yêu của Chúa Giêsu mới có khả năng vượt lên trên những hận thù, tha thứ tất cả mọi tội lỗi của con người.

Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã dạy con cầu nguyện và sống tinh thần phó thác trong tay Thiên Chúa mỗi khi con gặp thử thách gian nan. Xin tình yêu Chúa thúc bách con, giúp con biết mở rộng trái tim đón nhận và yêu thương người khác như Chúa mời gọi. Con tạ ơn Chúa đã luôn cầu nguyện cho con, ban Thánh Thần để hướng dẫn con trong từng ngày sống. Xin cho con vững tin rằng, dù con bất toàn và tội lỗi, con vẫn luôn được sống trong tình yêu bao la của Chúa và được Người dõi mắt đoái thương. Amen.

-----------------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-352: ĐỨC VUA CỦA NGƯƠI ĐANG ĐẾN


Thiên San
 
 

Trải qua gần bốn mươi ngày Chay Thánh, chúng ta bước vào Chúa Nhật lễ Lá, tưởng niệm biến Suy niệm Lễlá-352


Trải qua gần bốn mươi ngày Chay Thánh, chúng ta bước vào Chúa Nhật lễ Lá, tưởng niệm biến cố Chúa Giêsu tiến vào Thành thánh Giêrusalem, như vị vua của hòa bình, khiêm cung cưỡi trên lưng lừa như lời của ngôn sứ Dacaria: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (Dc 9, 9). Vị vua ấy sẽ đi vào cuộc khổ nạn như Người đã tiên báo.

Cùng với Hội Thánh, chúng ta cử nghi thức kiệu lá, tưởng niệm biến cố Chúa Giêsu tiến vào thành thánh Giêrusalem. Hình ảnh Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa thật đẹp. Người đã mong đợi ngày này từ lâu, không phải để cho mọi người ca tụng tung hô nhưng là để hoàn tất những gì được chép trong Kinh Thánh về Người. Nói đúng hơn, lần này Người tiến vào thành thánh để cứu chuộc nhân loại bằng giá máu châu báu của Người trên thánh giá. Sau khi cử hành nghi thức kiệu lá, dân thánh Chúa tiếp tục cử hành thánh lễ với Bài Thương Khó kể về những cực hình mà Chúa chúng ta đã chịu vì yêu thương chúng ta. Giờ của Người đã đến. Người đi vào thành cách chủ động, tự do và yêu thương đến cùng, hoàn toàn theo thánh ý Chúa Cha.

Khi bước vào cuộc thương khó, Chúa Giêsu đã thực hiện và hoàn tất mọi điều Người đã nói và mọi điều đã được ghi trong Kinh Thánh. Người đã cho nhân loại thấy tình yêu tột đỉnh của mình, một tình yêu dám chết cho người mình yêu. Khi nghe bài Thương Khó, chúng ta có thể thấy được phần nào những cực hình Chúa phải chịu. Chúng ta có nghe thấy tiếng “yêu” của Người dành cho mình? Tiếng yêu ấy không chỉ dừng lại ở hôm nay nhưng là mọi ngày trong đời ta. Đức Giêsu đã trao hiến thân mình làm của lễ đền tội cho chúng ta, nhờ đó chúng ta được giao hòa cùng Thiên Chúa. Người là của lễ vẹn toàn, không tì tích, là của lễ đẹp lòng Chúa Cha hơn hết.

Nhân loại hôm nay vẫn còn đó biết bao người không nhận biết Chúa, từ chối tình yêu của Người. Họ chẳng có kinh nghiệm reo mừng hớn hở khi nhìn thấy Đức Vua Giêsu khiêm cung ngồi trên lưng lừa và đến trong cuộc đời họ. Biết bao người đã không biết đến ân phúc lớn lao, tình yêu lớn lao Thiên Chúa dành cho mình qua Con Một yêu dấu. Còn chúng ta, chúng ta? Chúng ta có đang sống trong ân sủng của Người? Chúng ta đã làm gì để đáp lại tình yêu lớn lao Người dành cho mình? Xin Chúa giúp chúng ta biết đón nhận tình yêu của Người, can đảm đi theo con đường Người đã đi. Chúng ta cũng cầu nguyện cho nhân loại biết đón nhận tình yêu cứu chuộc của Người. Vì Người là Vua của chúng ta.

--------------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-353: GÓC KHUẤT ĐỜI NGƯỜI


Lm. Jos. DĐH.
 
 

Người ta có thể thành công vang dội ngoài xã hội: bằng cấp, địa vị, thu nhập cao, nhưng trong gia Suy niệm Lễlá-353


Người ta có thể thành công vang dội ngoài xã hội: bằng cấp, địa vị, thu nhập cao, nhưng trong gia đình lại không êm xuôi hạnh phúc như ý, phải chăng khó khăn ấy, thiên hạ vẫn gọi là thiên thời, địa lợi, mà nhân không hoà. Người ta nhìn rõ, biết rõ, lỗi lầm của anh chị em, vậy mà đâu dễ gì nhận biết mình đang sai đường lạc bước, đang sống “đúng chuẩn hay lệch chuẩn”. Góc khuất tầm nhìn của người lái xe, vừa là thách đố mỗi khi lưu thông trên đường, vừa là một minh chứng về nghệ thuật, về bản lĩnh nghề nghiệp mà “bác tài” phải có. Không nhìn thấy sự việc tốt đẹp, không hiểu hết tâm tính nơi người thân, có nên đổ lỗi vì yếu đuối, vì đó là góc khuất của tương quan, là góc khuất giữa tình người đầy giới hạn chăng ?

Bài thương khó thật là dài, nhưng mọi người được nghe, được biết đến tình yêu thương của Thiên Chúa, tình yêu của Đức Giêsu chịu đau khổ, chịu chết vì tội lỗi nhân loại, trong đó có cả người thân thiết, người từng chịu ơn Ngài. Góc khuất đời người đưa đến nhiều bất nhất: vô tâm, vô tình, bội ân, bội nghĩa, giá trị cuộc sống đảo lộn, tương quan huynh đệ lu mờ, truyền thống đức tin lung lay bởi thế lực trần gian. Có phải vì mất phương hướng mà con cái không cảm nhận được tình thương của cha mẹ, lời giáo huấn hay và việc chữa lành bệnh tật của Đức Giêsu mau chóng rơi vào quên lãng ! Có phải do kiêu căng tự phụ, che mất tầm nhìn về Một Thiên Chúa yêu thương cứu độ đang sống động ở sát gần ? Đúng như câu thành ngữ đầy ẩn ý: cho dù đá có biến thành vàng, lòng người vẫn không thoả mãn !

Người Do-thái đi Giêrusalem để cử hành lễ Vượt Qua theo tập tục, Đức Giêsu đi Giêrusalem để hoàn tất sứ mạng cứu độ Chúa Cha trao phó, tuy cùng hướng tới một điểm, nhưng việc gặp gỡ Chúa và sống thánh ý Chúa lại không giống nhau. Con người giới hạn, lười suy xét về tính thực hư tốt xấu của mình, nên thường phản ứng rất nông cạn theo quan niệm: ghét ai ghét cả tông ti họ hàng. Đức Giêsu ghét tội, nhưng không ghét người có tội, Ngài không kết án kẻ tội lỗi lầm lạc, Ngài thuyết phục được đám đông buông thả hòn đá trên tay và trở về với cõi lòng mình ; ở trên thập giá Ngài hứa thiên đàng cho kẻ trộm có lòng hối cải ! Đức Giêsu lên án bất công, nhưng Ngài vẫn cầu xin: “lạy Cha tha thứ cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Đức Giêsu loan báo con đường nhỏ hẹp, và bằng đời sống kết hiệp cầu nguyện, Ngài đi đến cùng tận yêu thương. Ngài đón nhận khổ đau thập giá, và cảm thông thân phận mong manh của kiếp người: “lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con, nhưng đừng theo ý con”.

Người Do-thái không nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa mà tiền nhân họ hằng kêu gọi con cháu để tâm, đợi chờ ; Đức Giêsu không xuống khỏi thập giá theo lời thách thức của anh trộm bên tả và đám lính hò reo ở phía dưới. Người kitô hữu chúng ta hôm nay cũng chẳng dễ gì nhận ra Đức Giêsu trong hình ảnh những anh chị em túng thiếu nghèo hèn. Tất cả không phải do mây mù giăng mắc, che khuất tầm nhìn, nhưng là vì tình yêu của con người chưa đủ thông thoáng, tính hờn ghen ích kỷ vây hãm, khiến người ta tìm kiếm Con Thiên Chúa xuất thân từ hàng ngũ quyền quý. Khởi đầu của hành trình cuộc đời, con người được sinh ra trong tình yêu, được nuôi dưỡng bằng mồ hôi nước mắt của cha mẹ, được lớn lên trưởng thành, bằng khổ đau và sức mạnh của ơn ban, dù niềm tin ấy còn nhỏ bé.

Góc khuất của đời người không phải chỉ có tội lỗi, sự chết, mà còn có cả đại dương mang ơn tha thứ, thôi thúc tội nhân mau sám hối, để được tẩy rửa mọi lỗi phạm, nhằm đưa dẫn con người đến bến bờ yêu thương. Góc khuất của quá khứ tội lỗi, có thể khiến con người mù loà, buông xuôi theo phận số ; góc khuất của tương lai thiếu định hướng, con người dễ trở thành máy móc của cơ chế công nghệ. Con người phải có thái độ nào trước đau khổ thập giá của Đức Giêsu, làm sao người tín hữu hôm nay hiểu thế nào là góc khuất của thưởng phạt, và khoảng trống của mất và được ? Nếu bao lâu người ta chưa biết đến giọt nước mắt ăn năn của Phêrô, niềm tín thác của người trộm lành có lòng hoán cải. Đau khổ thập giá của Đức Giêsu có thắng được hận thù không ? Tình yêu thương của Đức Giêsu nơi toà án Philatô liệu có xoa dịu được bất công không ? Mỗi chúng ta trong hoàn cảnh, điều kiện riêng của mình, có phải vừa là đáp án, vừa là câu trả lời cho những ẩn khuất nơi khổ đau thập giá hay không ?

Giá trị của tình yêu tự nhiên hay siêu nhiên, đều cần đến hy sinh dù là đơn sơ nhỏ bé, đó phải là sự thật, khi Đức Giêsu không cần anh trộm lành xuống khỏi thập giá để ăn năn sám hối, minh chứng niềm tin vào Đấng anh cầu khẩn. Đức Giêsu không yêu cầu Phêrô tìm gặp “đứa tớ gái” để tuyên xưng lại niềm tin mà ông lỡ chối bỏ. Lòng ăn năn thống hối của mỗi người, sẽ được tẩy xoá đi khoảng tối tăm mù mịt của bi quan sợ hãi, khi mà tâm hồn tội lỗi của chúng ta đụng chạm đến tình yêu vô biên của Thiên Chúa: “lạy Cha, Con phó thác  linh hồn Con trong tay Cha”. Nhận ra mình mang hình ảnh của Phêrô, biết mình mang trái tim “thỏ đế” như số các học trò nhút nhát, hay đang ở trong tình trạng tội lỗi, trộm cướp gian tham, tất cả đều có cơ hội, đó là thật lòng sám hối ăn năn, tin tưởng vào Đức Giêsu Đấng cứu độ. Xin tình yêu của Đấng chết vì yêu, chúc lành và ở mãi trong cuộc đời chúng con. Amen.

-------------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-354: CÁI GIÁ CỦA SỰ TRUNG TÍN


Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
 
 

Là người ai rồi cũng chết. Dù giầu sang hay nghèo khó. Dù quyền quý hay dân hèn thì cuối con Suy niệm Lễlá-354


Là người ai rồi cũng chết. Dù giầu sang hay nghèo khó. Dù quyền quý hay dân hèn thì cuối con đường của mỗi người đều là cái chết.

Với người Việt Nam chết là kết thúc một cuộc đời. Với niềm tin đạo Công Giáo thì chết là cuộc trở về nơi mình phát xuất ra là nhà Cha trên trời.

Luận về cái chết thì dân gian đã tổng kết  rất nhiều lý do chết qua bài vè sau:

Chết vì “rượu” là cái chết “sành điệu”
Chết vì “yêu” là cái chết “liêu xiêu”.
Chết vì “gái” là chết rất “dại nhất”.
Chết vì “tình” là cái chết bất “thình lình”.
Chết vì “lười” là cái chết rất “buồn cười”.
Chết vì “học” là cái chết rất “vàng ngọc”.
Chết vì “sầu” là cái chết rất “ngầu”.
Chết vì “ghen” là cái chết “nhỏ nhen”.
Chết vì “chơi” là cái chết “ngu si”.
Chết vì “bệnh” là cái chết “từng gngày”.
Chết vì “hận” là cái chết “lận đận”

Như vậy, chết là lẽ đương nhiên nhưng điều quan trọng là cái chết đến với chúng ta như thế nào? Chính cuộc sống sẽ mang lại cho ta cái chết đẹp hay chỉ là cái chết tẻ nhạt, đúng như ai đó đã nói: “Đừng lo rằng một mai mình sẽ chết, hãy lo rằng liệu mình đã sống trọn vẹn hay chưa”.

Hômnay bắt đầu tuần thương khó với hình ảnh  Chúa Giêsu mời gọi các tông đồ cùng đi Giêrusalem lần cuối cùng, một cuộc hành trình quyết định số phận và hoàn tất công cuộc cứu độ của Ngài, ở đó Ngài sẽ trải qua đau khổ, tủi nhục và chịu chết thật đau thương. Ngàicùng với các tông đồ tiến về Giêrusalem cách quả cảm và cương quyết vì yêu thương nhân loại: “Này chúng ta lên Giêrusalem”.

Ngài biết trước cái chết sẽ đến nhưng Ngài vẫn bình thản trước mọi biến cố vì Ngài muốn để thánh ý Chúa Cha nên trọn. Ngài biết những cam go trước mắt, thế nhưng, Ngài vẫn mạnh dạn tiến lên Giê-ru-sa-lem, vì đó là con đường mòn của tình yêu đến quên mình cho người mình yêu. Ngài biết ở đó bản án đang chờ Ngài, nhưng “Giờ” để biểu lộ tình yêu đã tới. Giờ đã điểm. Ngài phải lên Giê-ru-sa-lem để thi hành thánh ý Chúa Cha là cứu độ gian trần. Đây là động lức khiến Ngài can đảm đối diện khó khăn. Đây cũng là cách nói lên lòng trung thành của Ngài với thiên ý nhiệm màu.

Xin Chúa giúp chúng ta bước vào tuần thương khó với tâm tình sám hối ăn năn, vì có những lần chúng ta cũng thay lòng đổi dạ để kết án ngườivô tội, cũng có những lần chúng ta bỏ rơi nhauđể tìm những niềm vui bất chính. Khi chúng ta làm đau lòng nhau là chúng ta làm đau lòng Chúa, vì chính Ngài đã trở nên giống như con người chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Xin cho chúng ta đừng bao giờ phụ bạc ân tình mà Chúa vẫn dành cho chúng ta.

Và ước gì cuộc đời chúng ta cũng biết sống đẹp trên từng hành trình cuộc đời. Sống đẹp khi chu toàn bổn phận. Sống đẹp khi dấn thân cho công việc chung và cho tha nhân. Xin cho chúng ta cũng biết sống đẹp như Chúa Giệ-su luôn vâng theo thánh ý Chúa Cha để làm sáng danh Chúa và yêu thuơng đến mọi ngừơi. Amen

--------------------------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-355: THÁNH GIÁ


Lm. Giuse Trần Việt Hùng
 
 

Đường lên núi sọ tới gần, Thầy sai môn đệ, việc cần phải lo. Vào làng trước mặt hỏi dò, Lừa Suy niệm Lễlá-355


Đường lên núi sọ tới gần,
Thầy sai môn đệ, việc cần phải lo.
Vào làng trước mặt hỏi dò,
Lừa con cột sẵn, thầy trò cần ngay.
Tông đồ trải áo phủ dầy,
Đặt ngồi lên trốc, cùng Thầy bước đi.
Vào Thành trọng vọng uy nghi,
Mọi người nhảy múa, lối đi đền đài.
Áo choàng cành lá trải dài,
Hoan hô vang dậy, Thiên Sai vào đời.
Nhân danh chúc tụng Chúa Trời,
Bình an dưới thế, gọi mời thiện tâm.
Khởi đầu sứ mệnh âm thầm,
Bước vào Tuần Thánh, hương trầm tỏa lan.
Tấm thân đòn vọt nát tan,
Vai mang thánh giá, gian nan khổ hình.
Nhạo cười phỉ báng vô tình,
Con người phản bội, tử hình Chúa Con.
Giang tay chịu chết héo hon,
Thành toàn Thiên Ý, mỏi mòn tấm thân.

Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem trong tiếng hò la vang dậy của các môn đệ và dân chúng. Ngài ngồi trên lưng lừa mẹ, dân chúng với cành lá trong tay đón rước Chúa vào thành. Họ tung hô danh Chúa: Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Chúng ta cùng đồng hành với Chúa trong Tuần Thánh này. Chúa Giêsu đã hoàn tất mọi lời Kinh Thánh đã loan báo về Ngài. Ngài bắt đầu vào thành Giêrusalem với tiếng tung hô vang dậy và ít ngày sau, Ngài ra khỏi thành vác thánh giá trên vai trong tiếng la ó phỉ báng.

Lễ Lá, chúng ta được nghe trọn hành trình thương khó của Chúa. Chúa đã chịu bao nhiêu nỗi khốn khó dồn dập đổ xuống trên mình cả tinh thần lẫn thể xác. Chúa bị môn đệ thân cận phản bội và bán rẻ. Chúa bị vây bắt như một tên trộm. Bị tông đồ yêu qúi chối bỏ không quen. Bị lên án là tên phạm thượng và bị kết án tử hình. Bị dân chúng thách đố, nhục mạ và cười chê. Sau cùng bị treo trên thập giá giữa hai kẻ trộm. Chúa chấp nhận tất cả mà không hề hé môi than van một lời.

Suy niệm về đường thập giá, chúng ta thấy có nhiều người liên quan kéo phe kết đảng và toa rập để lên án Chúa. Mỗi người chúng ta cũng góp phần giơ tay xin giết Chúa. Những kẻ âm mưu giết Chúa, đại diện tôn giáo là các thầy Thượng tế, Luật sĩ, Biệt Phái, các Đầu mục trong dân và ngoài đời có Philatô, các quân thần, lính tráng và dân chúng. Còn có các Tông đồ như Giuđa phản bội, Phêrô chối Chúa và những tông đồ, môn đệ khác bỏ trốn.

Đám đông dân chúng hùa theo. Họ bị kích thích bởi các nhà lãnh đạo. Họ dựa vào dư luận để rồi lên án Chúa. Họ là những người đã từng chịu ơn, đã được chữa lành bệnh tật, được ăn bánh no nê và được nghe lời giảng dạy. Ấy thế mà trong chốc lát đã thay lòng đổi dạ. Họ đổi lòng có thể vì sợ hoặc không biết. Trước khi tắt thở, Chúa Giêsu đã xin Cha tha cho họ tất cả vì họ lầm chẳng biết.

Truyện kể: Anh Clint Rennis đã một thời xa Chúa. Anh nghe nói trong Tuần Thánh có tổ chức đi Đường Thánh Giá, anh nhập đoàn với mọi người cùng hô to giết đi, giết đi. Có người đến nói với anh, người đóng vai tên trộm chưa đến, anh có thể giúp không? Suy nghĩ một hồi, anh nói: Được. Anh đóng vai người trộm. Đi bên Chúa, có người hỏi anh: Có khi nào anh xin Chúa tha thứ tội cho anh chưa? Anh nói: Chưa. Anh hãy xin Chúa mở rộng tâm hồn và tha thứ. Anh mới ra khỏi tù và tuần qua mới ăn cắp hai chiếc xe. Anh nhận ra ơn Chúa và anh đã thực sự thống hối.

Ngày xưa thiên hạ lầm lẫn vì không biết Chúa, Chúng ta ngày nay đã biết Chúa nhiều hơn nhưng chúng ta vẫn chối Chúa và có khi bán rẻ Chúa nữa. Xin Chúa thương tha thứ. Xin Chúa thương xót chúng con.

------------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-356: THA THỨ VÀ BAN THƯỜNG


Bông hồng nhỏ
 
 

Ngồi trong ngục thất chờ ngày bị hành quyết, người tử tù nhớ lại những ngày tháng tăm tối của Suy niệm Lễlá-356


Ngồi trong ngục thất chờ ngày bị hành quyết, người tử tù nhớ lại những ngày tháng tăm tối của đời mình. Anh đã chẳng làm gì hữu ích cho đời. Đời ghê tởm một tên gian phi như anh. Thế nhưng khi bị treo trên thập giá, anh lại được một ân huệ lớn lao từ lời hứa của Chúa Giêsu: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23, 43).

Quả thật, anh đã nhận lấy bản ánh dành cho tội lỗi của mình là cái chết nhục nhã trên thập giá. Anh đã vác lấy thập giá là hậu quả của tội lỗi anh phạm. Anh hứng lấy sự sỉ nhục và khinh thường mà người đời dành cho anh. Anh bước lên đồi Gôngôtha trong ánh nắng gay gắt. Thập giá đè nặng vai anh và bao tủi nhục làm anh muốn quẳng thập giá xuống nhưng lính tráng vụt roi liên tục lên người anh. Anh thấy Đức Giêsu ôm hôn thập giá. Khuôn mặt Người chẳng còn hình dạng: mão gai trên đầu, mắt người một bên sưng vù, tím lại và cả thân mình nhầy nhụa máu. Anh đã nghe danh Người khắp gần xa và mấy hôm trước anh còn nghe lính tráng kháo nhau về việc Vua Giêsu vào thành Giêrusalem. Vậy mà hôm nay, người ta kết án, người ta điệu Người đi đóng đinh. Anh biết tội lỗi của mình và anh biết tội anh đáng chết. Còn Thầy Giêsu vô tội. Tại sao Thầy lại chấp nhận một bản án bất công? Có bao người nhục mạ Thầy Giêsu mà Thầy lại thưa lên: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34). Thầy Giêsu đã cầu nguyện cho kẻ làm hại mình.

Tình thương của Thầy Giêsu, bây giờ anh hoàn toàn cảm nhận được. Nơi Thầy, anh hoàn toàn bị thu hút, hoàn toàn bị chinh phục. Nghe tên gian phi kia nhục mạ Thầy: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình và cứu chúng tôi với” (Lc 23, 39). Anh liền mắng: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa mày cũng không biết sợ! Chúng ta bị như thế này là đích đáng, là xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” (Lc 23, 40-41). Đang khi đau đớn vì bị đóng đinh, một tử tù như anh lại có thể lên tiếng bênh vực cho người khác. Đã bao giờ chúng ta lên tiếng bảo vệ quyền lợi của người khác mà không màng đến nỗi khổ của ta chưa? Ta có tấm lòng chân thành như anh gian phi dành cho Chúa không? Vì anh đã xin: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23, 42). Ân huệ anh nhận được quả là lớn lao. Chúa Giêsu đã xóa bỏ tội lỗi cho anh và hứa cho anh vào Thiên Đàng. Quả là tha thứ cũng có nghĩa là ban thưởng. Anh đón nhận Chúa Giêsu là vua của mình.

Lạy Chúa Giêsu Chịu – Đóng – Đinh! Cảm tạ Chúa đã gánh lấy tội lỗi của con và nhân loại. Xin cho con được lòng ăn năn đau đớn vì tội đã phạm và luôn biết cậy trông nơi lòng thương xót vô biên của Chúa.  Xin Chúa giúp con khi được Chúa xót thương cũng biết rộng lòng thương xót người khác. Amen.

-----------------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-357: CÙNG VỚI NGÀI


Anna Cỏ May
 
 

Tuần Thánh là tuần quan trọng của mọi Kitô hữu. Đây là tuần lễ cuối cùng của Đức Giêsu khi ở Suy niệm Lễlá-357

Tuần Thánh là tuần quan trọng của mọi Kitô hữu. Đây là tuần lễ cuối cùng của Đức Giêsu khi ở trần gian, là tuần Ngài bước vào cuộc khổ nạn, chịu chết và Phục Sinh. Tuần Thánh bắt đầu từ Lễ Lá, khi Đức Giêsu hân hoan bước vào thành Giêrusalem và dân chúng hoan hô đón rước Ngài.

Đức Giêsu biết rõ giờ của Ngài đã đến, giờ Ngài tự hiến mình để thực thi ý Chúa Cha, giờ Ngài tự nguyện bước vào cuộc đau khổ và lãnh cái chết để sinh ơn cứu độ cho mọi người.

Dân chúng, mới vừa đây thôi, tay cầm cành lá đón rước Đức Giêsu với lời tung hô: “Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời” (Lc 19, 28-40), nhưng chỉ mấy ngày sau đó, dân chúng đã giận giữ kết án Đức Giêsu trước tòa Philatô: “Đóng đinh! Đóng đinh nó vào thập giá!” (Lc 23, 21). Thế chẳng phải họ chỉ tung hô ngoài môi miệng, theo tục lệ, theo phong trào, còn lòng dạ và tâm hồn họ trống rỗng sao?

Là những người Kitô hữu, chúng ta ca ngợi tung hô Chúa trong nguyện đường. Nhưng khi đi vào cuộc sống chúng ta có đang khinh bỉ, bắt bớ người anh em của mình không? Người anh em là những người mang hình ảnh của Chúa, là những người được Chúa yêu thương, đã hy sinh để cứu dộ. Chúng ta có đang mang trong mình thái độ như dân Do thái xưa không?

Tiến vào Giêrusalem là Đức Giêsu bước vào những ngày khổ đau trong hành trình vác Thánh Giá. Ngài mời gọi chúng ta cùng bước theo Ngài. Chúng ta hãy cùng với Ngài bước vào nỗi khốn khổ đau đớn và cái chết trên thập giá. Đức Giêsu là mẫu gương cho chúng ta bước theo. Đường thập giá của Đức Giêsu là đường cứu độ, là đường đưa vào sự sống. Lễ Lá đưa chúng ta vào cuộc khổ nạn của Đức Giêsu. Chúng ta chiêm ngắm cái chết đau thương của Ngài trên Núi sọ. Phúc cho những ai bằng lòng vác thập giá mình mà theo chân Đức Giêsu, và nói được như Ngài: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng cho ý con thể hiện, mà là ý Cha” (Lc 22, 42). Ở trong đau khổ, chúng ta có quyền khóc và kêu gào. Nhưng chính trong đau khổ, một khi chúng ta có lòng tín thác vào Chúa, chính Ngài sẽ giúp chúng ta vượt qua đau khổ đó và chúng ta sẽ lớn lên. Tuy nhiên, chúng ta có cảm thấy đau khổ là một hồng ân không? Thánh giá là hình phạt khổ nhục cho tội nhân, nhưng Đức Giêsu đã dùng Thánh giá để đem lại ơn cứu độ, đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Chúng ta hãy suy gẫm lời mời gọi của Chúa: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12, 24) .

Lạy Chúa, xin cho chúng con bền vững bước theo Ngài trong cuộc thương khó, biết từ bỏ mọi lỗi lầm để cùng Ngài đi đến sự sống vinh quang. Amen.

-------------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-358: PHẬN LỪA


Mai Ly
 
 

Tôi sinh ra và lớn lên trong một thành đô đông người. Vào những dịp lễ hội thì chao ôi, khắp Suy niệm Lễlá-358


Tôi sinh ra và lớn lên trong một thành đô đông người. Vào những dịp lễ hội thì chao ôi, khắp các ngả đường vào thành, người ta nhộn nhịp, bận rộn, ồn ào. Nhưng tôi thì lại ôm mang một nỗi hiu quạnh. Tôi không hề thích thú hay muốn hòa mình vào cái nhộn nhịp của thành đô ấy. Vì tôi mang tên Lừa. Tôi là một con lừa ngu ngốc. Hơn nữa, dường như tôi mắc môt căn bệnh trầm kha mà khó ai cảm thông: bệnh lười. Tôi lại còn hay suy nghĩ và làm ngược lại với những gì mọi người suy nghĩ hay hành xử. Tôi xa lánh con người, vì tôi là con lừa, còn mọi người là con người. Tôi tự nghĩ vậy.

Có một người đến và nói với tôi: “Bạn lừa, bạn thật vĩ đại, có lẽ bạn có cái tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến. Cuộc sống diễn ra ồn ào vội vã như thế mà bạn vẫn giữ được phong thái ung dung, tự do tự tại… tôi phục bạn quá! ”

Tôi nhoẻn miệng cười và thầm nghĩ: “Người này chắc từng làm kiếp lừa nên mới nhìn tôi với cái nhìn tích cực này sao?”

Sau đó người ấy mang tôi đi và nói: “Bạn à! Không tin thì cứ hãy theo tôi, tôi sẽ chứng minh cho bạn thấy…” Tôi lừng khừng, rồi cũng đồng ý, lẽo đẽo theo sau người ấy…

Bỗng dưng có người tiến đến, ngồi lên lưng tôi… Trời ơi! Sức nặng của người ấy làm tôi thấy mệt nhọc. Đúng là thân lừa! Tại sao tôi lại chấp nhận vác thập giá này chỉ vì câu nói “Bạn thật vĩ đại; tâm bạn bất biến; tôi sẽ chứng minh cho bạn thấy…” Tôi cúi gầm mặt xuống và lê chân bước đi. Thân lừa mãi khổ và ngu ngốc khi bị lừa như thế này sao?

Gần tới đền thờ Jerusalem. Tôi nghe thấy tiếng đám đông hò reo: “Tung hô con vua Đa-vít, Đấng nhân danh Chúa mà đến…” Ôi! Cuộc sống nhộn nhịp và tấp nập. Người ta hò la, còn tôi thì câm nín; họ hân hoan, còn tôi đau khổ. Rốt cuộc cây thập giá trên lưng tôi là ai? Tại sao lại được tán tụng và tung hô như thế?

Khi qua khỏi đám đông, thật lạ, tôi không cảm thấy nặng nữa… Có thể người ấy đang mang cùng tâm trạng với tôi. Một tâm trạng đau khổ?!  Người ấy cúi xuống, và nói thầm thì với tôi: “Cám ơn chú lừa, chú là người bạn tốt bụng. Cám ơn chú đã đồng hành với tôi qua đám đông ấy. Chú về đi, tôi còn cần thực hiện một Cuộc Vượt Qua … Tôi hy vọng chú là chú lừa luôn làm việc tốt!”

Tôi chẳng hiểu rõ về con người ấy, nhưng khi nghe những lời ấy, tôi thấy mình vui vì tôi được hiểu và được trân trọng.  Đàng khác, tôi thấy mình quan tâm đến con người ấy. Tôi cảm nhận được sự đau khổ đang xâm chiếm con người ấy… mặc dù con người ấy được đám đông tung hô, tán tụng…Ôi! Phận người! Hay tại phận lừa như tôi không hiểu phận người?

Lạy Chúa! Con không muốn mình như đám đông kia: hò la, tung hô Chúa rồi lại la hét yêu cầu đóng đinh Chúa vào thập giá. Chúa đã đến tìm con, Chúa dùng con, Chúa đã cho con đồng hành cùng Chúa. Xin cho con can đảm đi tiếp con đường lên Jerusalem với Chúa. Xin Chúa cho con luôn giữ được trái tim quân bình, một trái tim yêu Chúa và chỉ muốn phụng sự Chúa mà thôi. Lạy Chúa! Xin đến bên cuộc đời con, vì con cần Chúa…

------------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-359: LỄ LÁ HÔM NAY


Jos. Hoàng Mạnh Hùng
 
 

Khi thấy Đức Giê-su cỡi trên lưng lừa tiến về thành Giê-ru-sa-lem. Một đám người rất đông cũng Suy niệm Lễlá-359


Khi thấy Đức Giê-su cỡi trên lưng lừa tiến về thành Giê-ru-sa-lem. Một đám người rất đông cũng lấy áo choàng trải xuống mặt đường, một số khác lại chặt nhành chặt lá mà rải lên lối đi. Dân chúng, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: Hoan hô Con vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời. (Mt 21, 8-9)

Trong tâm lý của quần chúng Do Thái thời đó – tâm lý của người dân nhược tiểu sống dưới ách đô hộ của đế quốc Rôma – Đức Giê-su là vị Vua Giải Phóng Dân Tộc nên khi thấy Người cùng các môn đệ tiến vào Giê-ru-sa-lem, họ nghĩ rằng niềm vui được giải phóng đã gần kề.

Không vui sao được, khi người đang cỡi trên lưng lừa chính là người đã hóa nước thành rượu trong tiệc cưới Ca-nan. Đã làm phép để với một ít bánh và vài con cá đã cho hàng ngàn người ăn no nê. Đã làm cho kẻ mù được thấy, kẻ què được đi … và cũng chính là người đã làm cho Lazarô, một kẻ đã chết ba ngày được sống lại. Với “72 phép thần thông biến hóa” đáng nể như vậy, chắc chắn binh hùng tướng mạnh của người La Mã sẽ phải cúi đầu khuất phục!

Chắc hẳn những tiếng reo hò “Hoan hô ! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa !” trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá hôm đó đong đầy âm sắc của niềm vui, của hy vọng, của hoà bình. Những tiếng hoan hô đó phải lớn lắm – lớn hết sức mình có thể – và kèm theo đó là sự tham gia của cả thể hình với những khuôn mặt đầy phấn khích, những cánh tay vẫy cao những cành lá.

Nhưng cũng chính đám đông ấy trong buổi sáng thứ Sáu Tuần Thánh lại vang dậy tiếng hò hét mang đầy âm sắc của dữ dằn, của khát máu, của sự loại trừ: “Đóng đinh nó vào thập giá ! Đóng đinh nó vào thập giá !”. Những tiếng la hét ấy đã khiến Philatô phải băn khoăn: “Thế ông ấy đã làm điều gì gian ác ?”. Câu trả lời của đám đông vẫn là: “Đóng đinh nó vào thập giá !” và càng gào lên ghê gớm hơn khi Philatô tự cho là mình vô can và phủi tay : “Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi !”. (Mt 27, 22-25)

Theo nhà tâm lý học xã hội Gustave Le Bon: đám đông thường bị điều khiển bởi sự vô thức của mỗi cá nhân, hành động tùy theo những kích thích ngẫu nhiên. Họ đặc biệt dễ bị tác động, nội tâm của họ xuất hiện một sự thúc dục phải biến nhanh ý tưởng thành hành động.

Hiệu ứng đám đông còn có thể được hiểu là những suy nghĩ hoặc hành vi của con người thường xuyên chịu tác động của những người khác. Đây là một phản ứng tâm lý rất tự nhiên, không hề xấu. Thế nhưng, khi hiệu ứng này có thể giết chết một con người, đó không còn là chuyện nhỏ.

Những kích thích và tác động ở đây chính là niềm mong ước của dân Do Thái muốn được giải phóng khỏi ách kềm kẹp của đế quốc Rôma và sự “ganh ăn ghét ở” của giới lãnh đạo Do Thái thời đó. Họ sợ đám đông rời bỏ mình đi theo Đức Giê-su và việc đó ảnh hưởng đến những đặc lợi, đặc quyền mà từ trước đến nay họ vẫn được hưởng vì vậy “các thượng tế và kỳ mục trong dân nhóm họp tại dinh của vị thượng tế tên là Cai-pha, và cùng nhau quyết định dùng mưu bắt Đức Giê-su và giết đi.” (Mt 26, 3-4)

Ngày Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay mang đến cho chúng ta bài học bổ ích và mang tính rất thời sự dù sự việc đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm. Con người hiện nay sống trong thời đại công nghệ “4G”, có thể nói đang có một thế hệ trưởng thành từ mạng xã hội, một thế hệ “check in, like, comment …” mỗi lúc và mọi nơi. Những thói quen từ mạng xã hội có thể là niềm vui của người này, nhưng đôi khi lại là sự phiền phức của kẻ khác.

Nó tác động đến cuộc sống của con người; thậm chí làm thay đổi nếp sống, cách nghĩ của nhiều người. Nó giúp những người ở xa nhau nửa vòng trái đất cũng trở nên gần gũi nhờ tương tác đều đặn hàng ngày. Nhưng đôi khi lại khiến những người ở rất gần trở nên xa cách…. Tất cả là do cách mỗi người sử dụng, cũng như ứng xử với mạng xã hội.

Mạng xã hội có sức mạnh “phù phép” đông đảo người nghe theo, tin theo và làm theo. Mặt khác, có rất nhiều hậu duệ của những “thượng tế và kỳ mục” sở hữu sẵn “máu bài trừ” người khác bằng cách truyền đi những thông điệp mang tính chất kích động và chống lại một ai đó (thường là những người nổi trội hơn mình, … hoặc đơn giản chỉ là ai đó “thấy ghét”!).

Khi những thông điệp mang tính “bêu xấu” được truyền đi một cách có chủ đích, có hệ thống, và chuyên nghiệp thì vấn đề càng trở nên nguy hiểm hơn. Trong khi đó, từng cá nhân trong đám đông thường bị “lu mờ lý trí” hay “mê muội” như bị thôi miên và được dẫn dắt bởi những lời lẽ kích động của những “anh hùng bàn phím”.

Một comment chê bai có thể chưa mang lại nhiều tác động tiêu cực, nhưng khi một đám đông cực đoan cùng “hùa” vào chê bai thì hậu quả thật khó lường. Sự a dua tập thể chính là một con dao vô hình, có thể lấy đi sự tự tin, niềm vui, cướp đi ước mơ, hoài bão, thậm chí sinh mạng con người… Liệu chúng ta có thực sự còn muốn tham gia vào một cuộc chỉ trích, phê phán ai đó nếu biết được rằng một lời nói nhỏ bé của mình có thể khiến họ phải tìm đến cái chết?

Rất nhiều người thú nhận họ lên án, “like” hay “view” cho một người chỉ vì dư luận xung quanh đang làm thế mà không thực sự tìm hiểu cặn kẽ câu chuyện. Gần đây kênh YouTube mang tên “Khá Bảnh” với hàng loạt video “chém gió, dạy đời” gây sốc với cách hành xử kiểu giang hồ như văng tục, chửi bới, đốt xe, khoe tiền … đã thu hút được sự chú ý của nhiều người, đặc biệt là giới trẻ với hàng triệu lượt xem và bình luận là một ví dụ.

Hẳn những nhà sáng lập ra Instagram, Twitter hay Facebook… có thể không bao giờ mong muốn sản phẩm của mình sẽ mang lại phiền toái đau thương cho con người, bởi vì những trang mạng xã hội thật ra chỉ là phương tiện giải trí, gắn kết mọi người. Vì thế, khi chưa tìm hiểu kỹ càng, xin đừng nghe theo những “thượng tế và kỳ mục” thời nay để biến mạng xã hội thành những công cụ mang tính hủy diệt như đám đông Do Thái xưa vội vã “hoan hô” rồi ngay sau đó lại hét to “đả đảo”!

-----------------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-360: CON ĐƯỜNG THẬP GIÁ


Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

 

Chúa Nhật Lễ lá đưa chúng ta đi vào chặng đường thương khó của Chúa Giêsu. Cuộc thống khổ Suy niệm Lễlá-360


Chúa Nhật Lễ lá đưa chúng ta đi vào chặng đường thương khó của Chúa Giêsu. Cuộc thống khổ của Đức Giêsu được gọi là cuộc đau khổ hồng phúc. Gọi là hồng phúc bởi vì không có sự đau khổ, sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu :” Nhân loại không nhận được ơn cứu độ”.Hôm nay ý nghĩa thập giá được biểu lộ rõ nét.Cây thánh giá trở nên nguồn cứu rỗi cho nhân loại, cho con người. Chính nơi thập giá của Chúa ơn cứu chuộc chứa chan nơi Người.

Suy gẫm về thập giá, thánh Gioan Kim Khẩu đã viết :” Cây Thánh Giá là hy vọng của các Kitô hữu, là sự sống lại của kẻ chết, là sự hướng dẫn cho kẻ mù, là sự an ủi cho kẻ nghèo khó, là sự kiềm hãm của kẻ giầu sang, là sự hành hạ đối với kẻ xấu xa, là sự chiến thắng trước ma quỷ, là thành lũy cho những kẻ bị vây hãm “ .Vâng, trong sự vinh quang khải hoàn của Chúa Giêsu khi được dân tung hô và các trẻ Do Thái hát mừng. Sự chiến thắng khải hoàn của Chúa tiến vào thành thánh Giêrusalem tiên báo sự vinh thắng của Người trên thập giá. Khi Chúa Giêsu tiến vào thành thánh Giêrusalem, chúng ta như thấy thánh giá hiển hiện. Thánh Giá vút cao bởi vì Đức Giêsu đã tiên báo khi nào Ta được kéo lên khỏi đất Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta.

Trong Phụng vụ Tuần thánh, Giáo Hội đưa chúng ta đi từ biến cố này đến biến cố kia, sự kiện này đến sự kiện khác. Chúng ta thấy Chúa Giêsu chịu đau khổ tột cùng. Ba môn đệ thân tín được chiêm ngưỡng vinh quang của Chúa trên núi Taborê : Phêrô, Giacôbê và Gioan. Chính ba môn đệ này trong núi Cây Dầu đã bỏ rơi Chúa, trong khi Ngài đau khổ, mồ hôi và máu chảy ra thì ba ông vẫn ngủ vùi, ngủ say không hay không biết gì ! Giuđa Iscariốt phản bội, đang tâm bán Chúa cho các Thượng tế, Ký lục với giá rẻ mạt 30 đồng, và chỉ điểm cho quân lính bắt Chúa bằng một nụ hôn giả dối… Phêrô, Vị tông đồ trưởng hèn nhát, chối Chúa. Các môn đệ khác sợ hãi chạy trốn tán loạn. Chúa Giêsu bị bắt, bị kết án bất công.Người bị sỉ nhục, bị đánh đập và sau cùng bị quân dữ đóng đinh Người trên Thập giá…Cái chết của Chúa Giêsu thể hiện sự vâng phục của Người đối với Thiên Chúa Cha.Chính tình yêu cao vời của Chúa mới có giá trị cứu độ.

Đứng trước sự đau khổ tột độ và kinh khủng của con người, Chúa Giêsu vẫn thái độ hiền hòa và luôn phó thác vào Cha. Người luôn tuân phục ý Chúa Cha và nhẫn nại với những kẻ phản bội Người, đặc biệt đối với Giuđa, kẻ phản bội, bán Chúa, Người vẫn hiền lành và tử tế đối với Giuđa, Người vẫn giữ tình Thầy trò đối với Giuđa. Người muốn Giuđa quay trở về với Người, nhưng Giuđa quyết tâm ngoảng mặt làm ngơ và ra đi trong đêm tối, có nghĩa là đồng lõa với ma quỷ, với sự dữ, với Satan…Người sống hết tình với các môn đệ và nêu gương sự trung thành, tuân phục của Người đối với Thiên Chúa Cha…

Suy gẫm về cuộc thương khó hồng phúc của Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra tình yêu cao vời tuyệt diệu của Chúa Giêsu.Chính tình yêu này mới có giá trị cứu độ. Cuộc thống khổ, tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cảm thông, chia sẻ với nỗi đau khổ của Chúa để cùng được sống lại với Người bởi vì “ Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết vác Thập giá mà theo chân Chúa Giêsu.Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Trong núi Cây Dầu, Ba môn đệ thân tín của Chúa Giêsu đã làm gì ?
2.Giuđa đã có thái độ nào đối với Chúa Giêsu ?
3.Chúa Giêsu đã có thái độ nào đối với Chúa Cha ?
4.Cuộc thương khó của Chúa Giêsu nói gì đối với mỗi người chúng ta ?

-----------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-361: SUY NIỆM CHÚA NHẬT LỄ LÁ_C


Lm Giuse Đinh tất Quý

  Anh chị em thân mến,
 
 

Bài Thương khó hôm nay tương đối khá dài và tự nó đã nói lên rất nhiều ý nghĩa cho mỗi người Suy niệm Lễlá-361


Bài Thương khó hôm nay tương đối khá dài và tự nó đã nói lên rất nhiều ý nghĩa cho mỗi người chúng ta. Tuy nhiên tôi cũng xin được chia sẻ với anh chị em một vài cảm nghĩ của tôi. Đọc bài Thương khó hôm nay, tôi thấy có một vài điểm rất đáng cho chúng ta suy nghĩ

1. Điểm thứ nhất là lòng dạ của con ngưòi. Lòng dạ con người sao mà dễ thay đổi quá. Chỉ trong một thời gian không đầy một tuần lễ mà chúng ta được chứng kiến bao nhiêu cảnh thay lòng đổi dạ của con người dối với Chúa Giêsu, Chúa của chúng ta.

  a/ Trước hết là đám đông quần chúng

Lúc Chúa vào Thành thánh Giêrusalem, chúng ta không thể tưởng tượng được thái độ của họ vui mừng đến như thế nào. Họ sẵng sàng cởi áo trải xuống lót đường cho Chúa đi qua. Họ bẻ cành cây đầy lá giơ cao để đón mùng Chúa. Miệng của họ hò la đến vang trời dậy đất khiến nhà cầm quyền lúc đó cũng cảm thấy rúng động. “Hoan hô con Vua Đavid…Hoan hô….Hoan hô…Vạn tuế….Vạn tuế …Vạn tuế con Vua Đavid ….Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chuá đến cùng chúng tôi”

  Nhưng rồi cũng lại hầu hết những con người này, chỉ mấy ngày hôm sau lại gân cổ lên mà la thật to rằng “Hãy đóng đinh nó vào Thập giá, hãy đóng đinh nó vào Thập giá”- Và cả sau khi Chúa chịu đóng đinh rồi họ cũng vẫn chưa chịu buông tha cho Chúa: “Hãy xuống khỏi Thập giá đi để chúng ta tin nào…Kẻ đã cứu được người khác mà không cứu nổi chính mình…..Xuống khỏi Thập giá đi…Xuống khỏi Thập giá đi..”

  Ôi lòng dạ của con người sao mà chóng đổi thay đến như thế.

 b/ Thứ đến là lòng dạ của một người môn đệ đã được Chúa dành cho nhiều tình thương. Người đó là ai thì tất cả chúng ta đều đã biết: Giuđa. Vâng Giuđa đã phản bội. Tin Mừng đã ghi thật rõ “Giuđa tên phản bội”. Lòng dạ của Giuđa thật ích kỷ và hẹp hòi. Anh ta đã được Chúa thương, thương hơn nhiều môn đệ khác. Anh đã được Chúa tín nhiệm, tín nhiệm hơn những anh em khác, Chúa trao cho anh quản lý tất cả những gì Chúa có. Chúng ta có thể nói như thế. Anh đâu dó thiếu gì vậy mà anh đã phản bội. Chúa rất buồn với anh, buồn tới mức độ Chúa phải thốt lên một lời, một lời mà trong suốt cả cuộc đời của Chúa, Chúa không hề nói với bất cứ một ai: “Thà nó đừng sinh ra thì hơn” Thật là xót xa cho Chúa, cho Người Thầy chí Thánh của anh, anh Giuđa ạ

c/ Một số các nhân vật khác mà Bài thương khó hôm nay cũng nhắc tới. Đó là nhóm những người được Chúa ưu ái tuyển chọn trong đó có một người mà Chúa yêu thương rất đặc biệt. Người ấy không là ai xa lạ với chúng ta. Đó là Ông  Phêrô. Phêrô theo nội dung  tiếng Do Thái là đá tảng. Trước đó không bao lâu đá tảng Phêrô đã thề sống thề chết: “Dù tất cả có bỏ Thấy, con cũng không bao giờ….không bao giờ”- và Tin Mừng  còn ghi “Các tông đồ khác cũng nói như vậy”. Vậy mà sau đó không bao lâu chỉ có vài lời vu vơ của một vài đứa đầy tớ gái, tảng đá Phêrô đã vỡ tan tành. Ông Phêrô ơi! Ông không biết Chúa thật sao?. Thật là đau đớn cho Chúa….Con người mà Chúa đã tin tưởng đặt làm thủ lãnh một xã hội mới lại thề thốt trước mặt mọi người rằng không biết Chúa là ai. Thật là đau xót. Thật là tủi buồn.

2. Nhưng may mắn thay chúng ta còn có Chúa. Lòng Chúa không bao giờ đổi thay. Chúa luôn một lòng một dạ…một lòng một dạ với Thiên Chúa Cha, một lòng một dạ với lý tưởng yêu thương của Ngài. Vâng Chúa luôn một lòng một dạ. Lòng trung thành của Chúa không bao giờ thay đổi.

  a/ Chúng ta có thể nói sự sống của Chúa là Thánh ý của Thiên Chúa Cha: “Của ăn của Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy” Cả cuộc đời trần thế của Chúa cũng chỉ là như vậy: “Lạy Cha này con xin đến để làm theo ý Cha”. Ý Cha như thế nào con cũng một lòng một vâng theo. Trước chén đắng đầy tràn, Ngài cảm thấy run sợ nhưng lúc nào Thánh ý Thiên Chúa Cha cũng phải được đặt lên trên hết: “Lạy Cha nếu có thể được thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng xin đừng theo ý con mà theo ý của Cha”

  b/ Bên cạnh đó Chúa có một lý tưởng để đi theo: Lý tưởng yêu thương. “Thầy đã đem lửa xuống trần gian và Thầy mong uớc biết bao cho lửa đó được bùng cháy lên”. Chúa một lòng một dạ với lý tưởng đó. Không có cái gì trên trần gian này có thể làm cho Chúa xa rời lý tưởng đó.

Từ trên Thập giá Chúa nhìn xuống cả một đám đông vẫn còn say máu căm thù vậy mà Chúa vẫn có thể bình thản cầu nguyện “Lạy Cha xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”.

Cả cuộc  đời của Chúa là cuộc đời phục vụ. Tin Mừng cho chúng ta thấy Chúa phục vụ đến quên mình. Chúa sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh, kể cả cái chết trên Thập giá vì Lý tưởng yêu thương: “Không có tình yêu nào lớn hơn Tình yêu của người dám hiến mạng sống của mình cho người mình yêu”

Lạy Chúa, Chúa đã một lòng một dạ với Thiên Chúa Cha, một lòng một dạ với lý tưởng yêu thương. Xin Chúa giúp cho chúng con được luôn gắn bó vớ Chúa. Xin cho chúng con được biết yêu thương như Chúa. Để khi sống như Chúa

  chúng con biết cho đi mà không tính toán
  biết chiến đấu mà không sợ thương tích
  biết làm việc mà không tìm an nghỉ
  biết xả thân mà không tìm một phần thưởng nào khác
 ngoài việc biết rằng chúng con đang thi hành Thánh ý Chúa. Amen

----------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-362: CUỘC THƯƠNG KHÓ CHÚA


Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,
 
 

Tuần thánh là thời gian hết sức đặc biệt và linh thiêng nhất trong năm Phụng vụ. Tuần thánh bắt Suy niệm Lễlá-362


Tuần thánh là thời gian hết sức đặc biệt và linh thiêng nhất trong năm Phụng vụ. Tuần thánh bắt đầu từ ngày hôm nay bằng việc cử hành Lễ Lá, kỷ niệm việc Đức Giêsu đi vào thành Giêrusalem với tư cách là Đấng Mêsia.

 Trong bối cảnh ngày hôm ấy, các môn đệ thì lấy áo choàng trải lên lưng lừa cho Chúa ngồi. Còn dân chúng thì tỏ lòng ngưỡng mộ đến nỗi trải áo ra và lấy những cành vạn tuế lót đường cho Chúa đi qua, rồi đồng thanh tung hô: “Vạn tuế con vua Đavít, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến” (Mc 11,9).

Bước vào tuần thánh, Giáo hội mời gọi chúng ta dành nhiều thời giờ trong thinh lặng suy niệm cuộc thương khó Chúa để cảm nghiệm sâu hơn: Vì yêu thương nhân loại mà Chúa phải chịu muôn phần đau khổ đến chết dường ấy.

Đầu tiên là ba môn đệ thân tín nhất nơi vườn Giếtsêmani đã ngủ say đến độ bỏ rơi Chúa một mình trong cô đơn. Giuđa cả lòng dám dùng nụ hôn là dấu chỉ tình yêu để trở thành nụ hôn phản bội trao nộp Chúa cho quân dữ. Phêrô nhát đảm đến nỗi chối Thầy ba lần. Các môn đệ khác thì sợ hãi bỏ Thầy mà trốn đi hết.

Các thượng tế và luật sĩ đã vu khống cho Chúa những tội mà Chúa không hề có để trao nộp Chúa cho quan Philatô xét xử.

Philatô đã biết rõ ông Giêsu này vô tội nhưng vì sợ mất lòng dân, nên đành trao nộp Chúa cho quân dữ đóng đinh hành hạ cho đến chết.

Còn dân chúng thì mau thay lòng đổi dạ. Ngày hôm trước khi Chúa vào thành Giêrusalem, họ dùng những cành vạn tuế tung hô chúc tụng, nhưng ngày hôm sau họ biến thành những ngọn roi đánh trên thân mình Chúa.

Những cành cây, những bông hoa hôm trước trải đường cho Chúa đi qua, nhưng hôm sau họ làm thành mão gai đội trên đầu Chúa. Những lời tung hô chúc tụng sẽ được thay thế bằng những lời đả đảo sỉ nhục, thách thức và lên án: “Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!” (Lc 23, 21).

Ôi thương thay! Dung mạo Chúa rạng ngời sáng láng trong biến cố biến hình trên núi Tabor, nay bị người đời khạc nhổ, sỉ vã và nhục mạ. Đôi mắt quan tâm với ánh nhìn bao dung tha thứ nay bị lý hình bịt lại làm thành một trò chơi như trẻ con.

Tấm thân Chúa gánh lấy bao nỗi khổ đau của nhân loại, giờ đây được phơi ra gánh lấy những trận mưa đòn bầm dập thân xác đến nỗi không còn hình tượng người ta nữa. Đôi bàn tay tựng chạm đến chữa lành bệnh nhân và nâng đỡ biết bao người, nay buộc phải giang ra cho quân dữ đóng đinh vào thập giá. Đôi bàn chân từng rong ruổi khắp nẻo đường rao giảng Tin mừng, nay không thể nâng cả thân mình đang trĩu nặng vì kiệt sức.

 Dân chúng vô ơn đồng thanh đòi đóng đinh Chúa. Họ coi Chúa còn thua Baraba tên trộm cướp. Đức Giêsu đã đi đến tột cùng của bao cực hình khi Ngài cảm thấy dường như Chúa Cha cũng ruồng bỏ: “Lạy Thiên Chúa tôi, sao Ngài bỏ tôi?” (Mc 15, 34).

Nhưng thưa anh chị em, Đức Giêsu chết thương đau không những bởi người Do Thái năm xưa, mà ngay cả chúng ta cũng góp phần vào việc đóng đinh giết Chúa mỗi khi chúng ta cố tình phạm tội trọng. Và việc đóng đinh Chúa vào thập giá không chấm dứt trên đồi Calvê, nhưng vẫn còn tiếp diễn mỗi khi chúng ta chửi mắng đánh đập người khác.

 Chúa Kitô vẫn bị quên lãng, mỗi khi ai đó không đồng quan điểm thì chúng ta tìm cách loại trừ chống đối.

 Chúa Kitô vẫn tiếp tục chết đi từng ngày, mỗi lần chúng ta sống ích kỷ, thiếu tình liên đới chia cơm xẻ áo cho nhau. Bởi vì Chúa đã đồng hoá: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những người bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta!”(Mt 25,45).

Anh chị em thân mến,

Khi tưởng niệm cuộc khổ nạn của Đức Giêsu, là cơ hội rất tốt giúp chúng ta nhìn lại mối tương quan giữa chúng ta với Chúa. Chúng ta có cảm nghiệm thật sự lòng Chúa thương xót chúng ta không? Và chúng ta làm gì để đền đáp công ơn cao vời ấy. Ngày nay, Thánh giá được trưng bày khắp nơi như một lời nhắc nhớ chúng ta, đây là biểu tượng lòng thương xót của Thiên Chúa.

 Khi ngắm nhìn Đức Giêsu chết treo trên thập giá, chúng ta cũng đừng quên rằng: Đức Giêsu đang là hiện thân nơi những anh chị em nghèo khổ, đói rách hoặc đang bị bỏ rơi.

 Nhìn ngắm Chúa Kitô chịu đóng đinh, sẽ giúp ánh mắt đức tin chúng ta nhận ra giá trị nơi mỗi con người. Mạng sống con người cao quý đến độ, Con Thiên Chúa phải trả bằng một giá máu quá cao để cứu chuộc như thế.

 Xin cho chúng ta ghi tâm khắc cốt công ơn cứu chuộc của Chúa. Ngài đã chết để nhân loại được sống. Và Ngài đã chết để tái sinh chúng ta trong ơn làm con Chúa. Xin cho chúng ta mỗi ngày cảm nghiệm sâu hơn tình Chúa yêu thương, để rồi chúng ta cũng cố gắng sống tình yêu đáp lại tình yêu. Amen.

---------------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-363: SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT LỄ LÁ_C


Lm. Inhaxio Hồ Thông
 
 

Phụng Vụ Chúa Nhật Lễ Lá tập trung vào một chủ đề duy nhất: “tưởng niệm cuộc Thương Khó của Suy niệm Lễlá-4363


Phụng Vụ Chúa Nhật Lễ Lá tập trung vào một chủ đề duy nhất: “tưởng niệm cuộc Thương Khó của Đức Giê-su”.

Is 50: 4-7

Bài Đọc I được trích từ tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị. Vị ngôn sứ cho chúng ta thoáng thấy dung mạo người tôi trung của Đức Chúa chịu đau khổ, nhạo báng, sĩ nhục, nhưng không một lời oán than, trái lại đặt trọn niềm tin tưởng vào một mình Thiên Chúa.

Pl 2: 6-11

Tiếp đó, chúng ta tiếp tục suy niệm mầu nhiệm hạ mình và tôn vinh của Đức Giê-su, được thánh Phao-lô họa lại trong thư gửi tín hữu Phi-líp-phê, dưới dạng một bài thánh thi ca ngợi Đức Ki-tô. Đây là một lời chứng đáng chú ý về niềm tin Giáo Hội tiên khởi.

Lc 22: 14-23: 56

Sau cùng, chúng ta sống lại cuộc Thương Khó của Đức Giê-su theo thánh Lu-ca, nhắc chúng ta nhớ rằng qua con đường Thương Khó và Tử Nạn Đức Giê-su dẫn chúng ta đến sự sống.

BÀI ĐỌC I (Is 50: 4-7)

Bản văn này nói cho chúng ta về những xác tín của vị ngôn sứ. Vì luôn lắng nghe Thiên Chúa, chuyên tâm suy gẫm lời của Ngài, ông đã không tránh né sứ mạng của mình và biết lựa lời mà nâng đỡ những người bất hạnh. Ông đã không đón nhận bất kỳ lòng biết ơn nào, nhưng trái lại, đã phải hứng chịu muôn vàn ê chề nhục mạ: bị đánh đòn, chịu những lời mắng nhiếc phỉ nhổ. Nhưng người tôi trung này đã đặt trọn niềm tin tưởng vào Đức Chúa; ông “trơ mặt ra như đá”, nghĩa là “nhất quyết, không hề nao núng, vững như bàn thạch”. Thánh Lu-ca nói với chúng ta rằng “Chúa Giê-su trơ mặt ra như đá”, nghĩa là, Ngài nhất quyết lên Giê-ru-sa-lem để chịu cuộc khổ nạn của Ngài, tức là Ngài thu hết can đảm và khẳng định ý muốn của mình (Lc 9: 51).

Dung mạo người tôi trung

Đây bài ca thứ ba trong bốn bài ca được gọi “bài ca về Người Tôi Trung của Đức Chúa” được gặp thấy trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ thời lưu đày Ba-by-lon, vào giữa thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên. “Người Tôi Trung”này được quy chiếu đến hoặc dân Ít-ra-en (vị ngôn sứ thường gọi họ là “người tôi trung của Đức Chúa”), hay một nhân vật biệt phân và đón nhận sứ mạng đặc thù. Vả lại, lời giải thích tập thể và lời giải thích cá nhân không loại trừ nhau; chúng chồng chéo lên nhau ở nhiều đoạn văn. Người tôi trung này hành xử một cách khiêm nhu (bài ca thứ nhất); ông được trao phó cho việc giải thoát dân Ít-ra-en và hoán cải muôn dân (bài ca thứ hai), ông phải hứng chịu những bách hại và nhục mạ (bài ca thứ ba), ông bằng lòng chịu chết một cách ô nhục, đoạn được tôn vinh (bài ca thứ tư).

Đây là một khúc quanh của Mặc Khải. Cho đến lúc đó những viễn cảnh Mê-si-a nhắm đến một dung mạo một vị vua vinh quang thuộc dòng dõi vua Đa-vít, Ngài sẽ thiết lập nền hòa bình và công lý. Ấy vậy, vào lúc này, dân Ít-ra-en không còn có vua, vương quyền Đa-vít đã bị tiêu tan trong cơn bảo táp; Đền Thờ Sa-lô-mon bị phá hủy, Giê-ru-sa-lem phải làm tôi và phần lớn dân cư bị lưu đày. Đây là giờ thuận tiện để loan báo một sứ điệp mới. Qua những linh tính của vị ngôn sứ, khoa sư phạm của Thiên Chúa tiến một bước tiến vĩ đại. Không phải những sấm ngôn thuở xưa về Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít bị hủy bỏ, nhưng điều mà những viễn cảnh mới cho thấy, chính là sự can thiệp của “một người được Thiên Chúa tuyển chọn”, “một người được Đức Chúa xức dầu tấn phong”, Đấng này sẽ hành động không ồn ào nháo nhiệt, bên ngoài có vẻ thất bại: đau khổ và chết, trước khi được tôn vinh.

Vị ngôn sứ chịu sĩ nhục

Ở nơi nhân vật chịu nhiều nỗi truân chuyên này chúng ta dể dàng nhận ra chính vị ngôn sứ. Lãnh nhận sứ mạng an ủi những người lưu đày bất hạnh mệt mỏi chán chường, ông đã không thể tránh khỏi thái độ vô ơn bạc nghĩa này. Ông đã cố giúp họ hiểu ý nghĩa của cuộc thử thách của họ, kêu gọi họ hoán cải, hứa với họ sự giải thoát; tuy nhiên, ông đã vấp phải thái độ không hiểu, ngờ vực và hung hăng của những người mà cuộc lưu đày dài lâu đã khiến họ nên chua chát đắng cay.

Người công chính chịu đau khổ

Qua dung mạo của vị ngôn sứ, ẩn hiện dung mạo người công chính thập toàn. Bản văn có cung giọng Mê-si-a. Chúa Giê-su sẽ thực hiện sứ mạng được giao phó cho Ngài trong sự vâng phục hoàn hảo; Ngài sẽ mang Tin Mừng đến cho những người nghèo khổ và phiền muộn. Như vị ngôn sứ vô tội, Ngài sẽ đón nhận, thay vì những lời cám ơn, những đòn vọt, lăng mạ, nhục hình mà Ngài sẽ gánh chịu không hề nao núng “vì biết mình sẽ chẳng phải thẹn thùng hổ ngươi bẽ mặt”.

BÀI ĐỌC II (Pl 2: 6-11)

Đoạn thư của thánh Phao-lô gửi cho các tín hữu Phi-líp-phê này là một bài thơ, bằng văn xuôi có nhịp điệu, gồm sáu khổ thơ. Ba khổ thơ đầu vạch lại ba giai đoạn tự nguyện hạ mình của Đức Ki-tô, và ba khổ thơ còn lại, trái lại, ba giai đoạn được Chúa Cha tôn vinh.

Người ta không khỏi ngạc nhiên khi gặp thấy ở nơi cung giọng nồng nàn nhưng thân quen, những dòng thơ khôn sánh này, như tuôn trào từ ngọn bút. Người ta không biết phải chăng thánh Phao-lô là tác giả hay chỉ là người trích dẫn bài thơ này. Bài thơ này, bằng Hy ngữ, được phô diễn rất văn chương. Tuy nhiên, các nhà chuyên môn phát hiện ở đây những ảnh hưởng của ngôn ngữ A-ram. Phải chăng có một bản văn bằng tiếng A-ram trước bản văn Hy ngữ này? Nếu vậy, chúng ta đang đứng trước một bài thánh thi phụng vụ của Giáo Hội tiên khởi. Dù sao chúng ta có ở đây một chứng liệu đáng chú ý, một trong những bản văn xưa về thần học Đức Ki-tô; nhất là nó mang đến một lời chứng có giá trị đầu tiên về đức tin tiên khởi vào cuộc sống tiền hữu của Chúa Giê-su, trước cả Tựa Ngôn của thánh Gioan.

Ba giai đoạn hạ mình

1- Đức Giê-su, vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng không nhất quyết đòi cho mình được ngang hàng Thiên Chúa.

2- Ngài tự hủy mình ra hư không và mặc lấy thân phận thấp hèn, nên giống phàm nhân, nghĩa là chia sẻ tất cả mọi yếu đuối của chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.

3- Ngài lại còn hạ mình đến nỗi bằng lòng chịu chết ô nhục trên thập giá.

Ba giai đoạn tôn vinh
1- Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và ban tặng cho Ngài danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.

Chữ “danh hiệu” được hiểu theo nghĩa tuyệt đối: “Danh khả danh phi thường Danh”, nghĩa là danh hiệu này chỉ dành riêng cho một mình Ngài, đây là danh của “Đức Chúa”, mà theo truyền thống Do thái dành riêng để chỉ tên khôn tả của Thiên Chúa.

Danh hiệu “trổi vượt trên muôn vàn danh hiệu”, vì danh này trổi vượt, thậm chí trên muôn loài muôn vật trên trời dưới đất.

2- Muôn loài muôn vật phải phụng thờ Ngài.

“Để vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất, và trong cõi âm ty, muôn vật phải bái quỳ”. Không phải chỉ vì danh Giê-su, vì tên này khá phổ biến, đó là lý do tại sao tên này thường được đám đông xác định: “ông Giê-su thành Na-da-rét”; nhưng vì danh Giê-su đồng nhất với danh Đức Chúa như khổ thơ trước chỉ cho thấy.

“Cả trên trời dưới đất, và trong cõi âm ty”: chỉ toàn thể vũ trụ. Điều này muốn nói rằng, không chỉ nhân loại phải tôn thờ Ngài, nhưng còn muôn loài thọ tạo nữa. Đây là đề tài chúng ta sẽ gặp lại ở sách Khải Huyền: “Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: “Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chức tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời!” (Kh 5: 13).

3- Sau cùng, Thiên Chúa ban cho Đức Giê-su quyền tối thượng hoàn vũ, nghĩa là tước vị “Chúa”. Vì những người Ki tô hữu tiên khởi đã không ngần ngại ban tặng cho Đức Giê-su tước vị này mà Cựu Ước dành riêng cho Đức Chúa. Đây là lời tuyên tín đặc trưng tiên khởi; thánh Phao-lô nhấn mạnh nhiều lần, cũng như thánh Lu-ca trong sách Công Vụ, Thiên Tính của Ngài.

Câu cuối của bài thánh thi định rõ “để tôn vinh Chúa Cha”. Đây cũng là một nét thần học xứng đáng nhấn mạnh: siêu tôn Đức Giê-su đồng nghĩa tôn vinh Chúa Cha. Phụng Vụ Ki tô giáo sẽ theo đường hướng này: mọi lời chúc tụng dâng lên Đức Ki-tô đều là tôn vinh Chúa Cha.

Mẫu gương

Thánh Phao-lô rất yêu quý các tín hữu Phi-líp-phê mà thánh nhân đã sáng lập vào năm 49-50 và là cộng đoàn Ki-tô giáo đầu tiên trên đất Châu Âu. Phi-líp-phê là một thành phố quan trọng thuộc miền Ma-xê-đoan; thành phố này được đặt tên theo vua Phi-líp-phê, cha của đại đế A-lê-xan.

Khi thánh nhân viết cho các tín hữu Phi-líp-phê, thánh nhân đang sống trong cảnh xiềng xích. Thánh nhân ước mong các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu của ngài biết đồng tâm nhất trí với nhau, nhất là khiêm tốn tận đáy lòng. Vì thế, thánh nhân đưa ra cho họ mẫu gương của Đức Ki-tô.

TIN MỪNG (Lc 22: 14-23: 56)

BÀI THƯƠNG KHÓ ĐỨC GIÊSU KITÔ THEO THÁNH LU-CA

Như tất cả các thánh ký khác, thánh Lu-ca dành một phần lớn tác phẩm của mình cho bài Thương Khó Đức Giê-su Ki-tô. Vì thế chúng ta có bằng chứng theo đó Giáo Hội tiên khởi đã hiểu biến cố đồi Sọ, không là một giai đoạn hổ ngươi bẽ mặt mà biến cố Phục Sinh xóa đi, nhưng rõ ràng là đỉnh cao công trình yêu thương của Thiên Chúa cho nhân loại. Sự thách đố của thập giá đã được những Ki-tô hữu tiên khởi đảm nhận, bất chất sự kỳ chướng gây ra cho người Do thái lẫn lương dân.

Bài tường thuật của thánh Lu-ca bộc lộ một cảm xúc mãnh liệt, tuy nhiên thánh ký tránh đề cập những chi tiết quá tàn bạo, nhưng chỉ gợi ý; khi đọc bài tường thuật của ông, người ta có thể không biết rằng Đức Giê-su đã bị đánh đòn và bị đội mảo gai. Mặt khác, chân dung mà thánh ký phác họa về Đức Giê-su hoàn toàn phù hợp với những gì ông đã mô tả về Ngài trước đó. Suốt lộ trình đau thương của Ngài, Đức Giê-su gieo rắc sự tha thứ, hòa giải và lòng xót thương. Sau cùng, người ta nhận ra rằng thánh ký, tác giả của sách Công Vụ sau này, rất quan tâm đến Giáo Hội: thánh ký muốn rằng bài Thương Khó của ông phải giúp cho người Ki-tô hữu gặp thấy ở nơi Đức Giê-su một mẫu gương noi theo cho đến phúc tử đạo.

ĐỨC GIÊ-SU LẬP PHÉP THÁNH THỂ (22: 14-20)             

Chúng ta bắt đầu bài tường thuật của thánh Lu-ca với việc Chúa Giê-su lập phép Thánh Thể. Hai tình tiết đi trước việc thiết lập phép Thánh Thể:

– Các thượng tế âm mưu và thông đồng với ông Giu-đa, tên phản bội.

– Chúa Giê-su sai hai môn đệ, thánh Phê-rô và thánh Gioan, chuẩn bị bữa ăn Vượt Qua.

Thánh Lu-ca là một trong các thánh ký đã khôi phục tốt nhất việc thiết lập bàn tiệc Thánh Thể trong bối cảnh của bữa ăn Vượt Qua Do thái.

Lễ Vượt Qua Mới

“Khi giờ đã đến”, tức là vào lúc mặt trời lặn, Chúa Giê-su và các Tông Đồ “ngồi vào bàn”. Từ lâu bữa ăn Vượt Qua không còn theo cách thức cựu trào nữa, nghĩa là “lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy” (Xh 12: 11), nhưng theo cách thức Hy-La, nằm duỗi dài trên trường kỷ.

Bữa ăn Vượt Qua Do thái được người cha hay vị thủ lãnh của nhóm chủ trì, như cộng đồng nhỏ bé của Đức Giê-su cùng các môn đệ của Ngài. Người cha hay vị thủ lãnh có nhiệm vụ giải thích diễn tiến và ý nghĩa của các nghi thức, trả lời các câu hỏi. Vì thế Chúa Giê-su lên tiếng trước, trong và sau bữa ăn. Ngài xác định ý nghĩa các cử chỉ của Ngài; Ngài sắp biến đổi lễ Vượt Qua truyền thống thành lễ Vượt Qua Mới; vừa đoạn tuyệt vừa nối tiếp, vừa song đối sâu xa vừa có tính cách mới tận căn.

Ngay lập tức, Đức Giê-su đem lại cho nghi lễ sắc điệu của Ngài: lễ Vượt Qua này thể hiện một trong những ước muốn nồng nàn nhất tấm lòng của Ngài và nó mang một ý nghĩa cánh chung.

“Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình”
Chúa Giê-su đã bày tỏ mong ước này rồi: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bừng lên! Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!” (Lc 12: 49-50). Đó là ngọn lửa tình yêu mà Ngài sẽ tỏ cho nhân loại thấy Thiên Chúa yêu thương họ đến độ nào.

Ý nghĩa cánh chung

Lễ Vượt Qua Do thái tưởng niệm việc dân Do thái được giải thoát khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập, biến cố quyết định của lịch sử dân Ít-ra-en. Cuộc tưởng niệm này được hiểu như đảm bảo những lần Đức Chúa can thiệp trong tương lai, việc Đấng Mê-si-a ngự đến (ở bữa ăn Vượt Qua, một chỗ tượng trưng được dành riêng cho ngôn sứ Ê-li-a), cũng như ơn cứu độ vĩnh viễn (người ta nghĩ rằng ơn cứu độ này bất chợt đến vào đêm Vượt Qua). Như vậy, bữa ăn Vượt Qua Do thái là một trong những tiên trưng của bữa tiệc cánh chung mà Thánh Kinh mô tả để diễn tả niềm vui của những người công chính trong thế giới hậu lai như: “Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc…Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người” (I s 25: 6-8; 55: 1-3; Cn 9: 1-6).

Lễ Vượt Qua mà Chúa Giê-su chuẩn bị thiết lập mặc lấy dấu chỉ cứu độ “cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa”. Thánh Thể là lương thực cánh chung, bảo chứng cuộc sống đời đời.

Chén rượu thứ nhất

Đức Giê-su đổi mới viễn cảnh này khi cầm chén rượu người ta đưa cho Ngài. Quả thật, bản văn viết: “Rồi Người nhận lấy chén”. Đức Giê-su chủ trì bữa ăn Vượt Qua. Chỉ một mình thánh Lu-ca kể ra chén rượu thứ nhất này.

Trong suốt bữa ăn Vượt Qua Do thái, có đến bốn chén rượu. Lời tạ ơn được đọc trên chén rượu thứ nhất, trước khi bữa ăn khởi sự, nhằm mục đích thánh hiến nghi lễ: Đức Giê-su dâng lời tạ ơn thứ nhất trên chén rượu này.

Tiếp đó, người ta ăn “rau diếp đắng”, đoạn đọc lời tạ ơn và cùng ăn bánh không men.

Đọc lời tạ ơn trên bánh

 Lúc đó, Đức Giê-su dâng lời tạ ơn trên bánh, nhưng Ngài biến đổi nghi thức: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy”. Bản văn của thánh Lu-ca rất gần với bản văn của thánh Phao-lô. Chỉ hai người kể ra “Anh em hãy làm như Thầy vừa làm mà tưởng nhớ đến Thầy” (1Cr 11: 24).

Chén rượu cuối bữa ăn

“Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy”. Những lời theo sau ở đây vẫn còn tương tự với những lời mà thánh Phao-lô trích dẫn (1Cr 11: 25). Chén rượu mà Chúa Giê-su dâng lời tạ ơn có thể là chén thứ tư, chén mà người ta uống ngay khi bữa ăn được hoàn tất, trước khi đọc các Thánh Vịnh 113-118, để nói lên Giao Ước Mới và phân biệt rõ nét Chén Máu của Ngài với các chén khác.

Chúa Giê-su loan báo cho các môn đệ Ngài cái chết dữ dội của Ngài, Ngài chết như một hiến lễ: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em”.

DIỄN TỪ TỪ BIỆT (22: 21-38)

Trái với thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô, nhưng như thánh Gioan, thánh Lu-ca tường thuật bài diễn từ của Chúa Giê-su như diễn từ từ biệt, dưới hình thức của những lời loan báo, dặn dò và hứa hẹn.

Loan báo Giu-đa phản bội

Trước tiên, Đức Giê-su loan báo rằng một người trong họ sẽ phản bội Ngài. Đây là nét chung cho cả bốn sách Tin Mừng: thánh Lu-ca đặt lời loan báo này sau bữa ăn, thánh Gioan thì trong bữa ăn, còn thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô thì trên đường đến vườn Cây Dầu. Chỉ mình thánh Gioan trích dẫn Tv 41: 10: “Kẻ đã cùng chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con” (Ga 13: 18). Thánh Lu-ca chỉ dành cho lời loan báo này chỉ ba dòng mà không đưa ra bất kỳ sự xác định nào, vì thánh ký không thích trì hoãn trên những cử chỉ ô nhục. Lời than thở: “Khốn cho kẻ nào nộp Con Người” không là lời kết án, càng không là lời nguyền rủa. Đó chỉ là một ánh nhìn đượm buồn trên người bạn lầm đường lạc lối này.

“Đã hẳn Con Người ra đi như đã ấn định”, nghĩa là cuộc Thương Khó của Đức Giê-su đã được ấn định bởi kế hoạch của Chúa Cha. Chúng ta không gặp thấy bản văn Kinh Thánh nào mà Chúa Giê-su có thể ám chỉ đến, nhưng phải nhớ rằng Đức Giê-su đã thường liên kết mật thiết dung mạo Con Người với dung mạo Người Tôi Trung. Vả lại, bài học phục vụ đến rất đúng lúc như một lời quở trách gửi đến các môn đệ Ngài.

Lý tưởng phục vụ

Sau một thoáng xúc động vì lời loan báo một người trong họ sẽ phản bội Thầy, các ông, vẫn chứng nào tật nấy, tranh cãi sôi nổi với nhau xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất.

Đức Giê-su nhắc lại cho họ giáo huấn mà Ngài không ngừng nhắc đi nhắc lại: kẻ rốt hết sẽ là người làm đầu, ai trở thành bé mọn như con trẻ sẽ đi vào Nước Trời, vân vân. Kẻ lớn nhất phải nên như người phục vụ: “Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ”. Người ta nghĩ rằng thánh Gioan đặt việc rửa chân vào bữa ăn này, Đức Giê-su mặc lấy y phục người nô lệ, khăn thắt ngang lưng, để cúi xuống trước mỗi vị Tông Đồ.

Xa-tan trở lại

Sự phản bội của Giu-đa không là cuộc tấn công duy nhất của các thế lực sự dữ. Chúng ta gặp thấy ở đây một trong những tuyến phát triển của Tin Mừng Lu-ca, cuộc tấn công này xuất hiện ngay từ câu chuyện Cám Dỗ trong hoang địa: ở đó Đức Giê-su chiến thắng Xa-tan và cuộc chiến thắng khởi đầu này bao quát toàn bộ sứ mạng của Ngài; nhưng Xa-tan chờ đợi giờ của nó (Lc 4: 13). “Xa-tan đã nhập vào Giu-đa” (Lc 22: 3). Ngoài ra “Xa-tan đã xin được sàng các Tông Đồ như người ta sàng gạo” (Lc 22: 31), tức là đưa các ông vào một cuộc thử thách cam go đối với đức tin của các ông. Chính thánh Phê-rô sẽ vấp ngã.

Tấm lòng nhân hậu của Chúa Giê-su

 Chúng ta lưu ý đến tấm lòng nhân hậu của Đức Giê-su; Ngài gợi lên cuộc tấn công của Xa-tan này chỉ sau khi đã trấn an các Tông Đồ của Ngài; Ngài nói với họ về cuộc thử thách này, khi nhấn mạnh rằng rốt cuộc họ sẽ chiến thắng: “Còn anh em, anh em vẫn một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp thử thách gian nan. Vì thế, Thầy sẽ trao vương quốc này cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được dồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự tòa xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en”, tức là dân Thiên Chúa.

Đối với thánh Phê-rô cũng thế, để thánh nhân khỏi phải quá buồn phiền, Đức Giê-su công bố cho ông, trước khi tiên báo ông sẽ chối Thầy: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh”.

Chỉ một mình thánh Lu-ca gợi lên ngay từ giây phút này uy quyền mà Đức Giê-su ban cho thánh Phê-rô trên Nhóm Mười Hai, và đảm bảo rằng lời cầu nguyện của Ngài sẽ phù trợ đức tin của Giáo Hội.

Thánh Phê-rô cực lực biện bác, nhưng Chúa Giê-su nói trước cho thánh nhân biết nội trong đêm nay ba lần ông sẽ chối Thầy, nhưng Ngài cũng giúp cho thánh nhân hiểu trước rằng Ngài sẽ bỏ qua cho ông. Đây là một trong những trang Tin Mừng ghi đậm nét lòng nhân từ của Thiên Chúa.

Giờ chiến đấu quyết liệt

Đoạn Chúa Giê-su với một nghị lực đáng kinh ngạc cho các môn đệ mình hiểu rằng giờ chiến đấu quyết liệt đã đến. Không còn ra đi không hành trang như trước đây Ngài đã truyền lệnh cho họ, nhưng phải trang bị vũ khí chống lại sự thù hận khủng khiếp. Chúa Giê-su nói bằng ngôn ngữ biểu tượng về khí giới thiêng liêng.

Bây giờ sấm ngôn Is 53: 12 sắp được ứng nghiệm: “Người bị liệt vào hàng phạm pháp. Thật vậy, những gì đã chép về Thầy sắp được hoàn tất”. Thánh Lu-ca là thánh ký duy nhất áp dụng bản văn ngôn sứ I-sai-a đệ nhị về người tôi trung chịu đau khổ vào cuộc Thương Khó của Chúa Ki-tô. Chúa Giê-su bước đi trong khi hoàn toàn ý thức rằng mình bị bêu xấu cho đến mức bị liệt vào hàng những kẻ phạm pháp và phải chịu chết một cách ô nhục. Ngài thử truyền đạt điều này cho các môn đệ, nhưng các ông lại hiểu theo nghĩa vật chất, vì thế họ trình cho Ngài hai thanh gươm. Chúa Giê-su, thất vọng, cắt ngang: “Đủ rồi!”.

CƠN HẤP HỐI TẠI NÚI Ô-LIU (22: 39-46)

Bài tường thuật của thánh Lu-ca thì ngắn gọn: thánh ký bỏ qua nhiều chi tiết được thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô cung cấp, chỉ để tâm đến lời cầu nguyện, lời cầu nguyện căng thẳng của Chúa Giê-su, lời cầu nguyện mà Ngài khuyên bảo các môn đệ ngay từ đầu và được lập lại ở phần cuối; một kỷ thuật đóng khung có ý nghĩa.

Chẳng có gì phải ngạc nhiên: thánh Lu-ca là thánh ký của lời cầu nguyện; chính thánh nhân ghi nhận thái độ thường hằng này của Chúa Giê-su: “Ban ngày, Đức Giê-su giảng dạy trong Đền Thờ; nhưng đến tối, Người đi ra và qua đêm tại núi gọi là núi Ô-liu” (21: 37). Chúa Giê-su không thay đổi thói quen của mình; hơn nữa, Ngài biết rõ rằng Ngài đang đối mặt với nguy hiểm. Vào chiều hôm đó, các môn đệ theo Ngài; Ngài bận lòng trước hết về họ; họ đã thật sự không ý thức về cơn kỳ chướng kinh khiếp đang chờ đợi họ. Ngài bảo các ông: “Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”. Chính Ngài tách riêng một mình mà cầu nguyện.

Chúa Giê-su cầu nguyện

Thánh Lu-ca viết: “Chúa Giê-su quỳ gối cầu nguyện”. Thái độ này không thông thường: dân Do thái cũng như dân Hy-lạp và dân Rô-ma đứng cầu nguyện; tuy nhiên, Cựu Ước nhiều lần kể ra thái độ quỳ cầu nguyện này (2Sb 6: 13; Đn 6: 11). Đây cũng là thái độ cầu nguyện Ki-tô giáo được nhiều lần ghi nhận trong sách Công Vụ Tông Đồ (Cv 9: 40; 20: 36; 21: 5).

Trong suốt buổi cầu nguyện dài lâu này, Chúa Giê-su đã có thể thay đổi tư thế. Tuy nhiên, thánh Lu-ca thích kể việc Chúa Giê-su quỳ cầu nguyện hơn “sấp mình xuống mà cầu nguyện” như Mát-thêu hay Mác-cô.

Lời cầu nguyện của Đức Giê-su ở vườn Ô-liu nhắc nhớ Kinh Lạy Cha mà Ngài đã dạy cho các Tông Đồ. Đức Giê-su thân thưa với Cha Ngài với trọn niềm tin tưởng của người con thảo; nhưng thân phận con người khiến Ngài xao xuyến: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con”. “Chén” là hình ảnh Kinh Thánh chung chung được liên kết với ý tưởng trừng phạt, “chén cơn thịnh nộ của Thiên Chúa”, chén dành cho số phận của những người tội lỗi. Khi chấp nhận uống chén này, thay cho những người tội lỗi, Chúa Giê-su sẽ cho phép họ được uống chén cứu độ: chén máu Thánh Thể, tức là máu Ngài đổ ra cho họ.

Thiên sứ

“Bấy giờ có thiên sứ tự trời hiện đến tăng sức cho Người”. Đây là nét riêng của thánh Lu-ca.

Đây là câu trả lời của Chúa Cha cho tấm lòng hiếu thảo của Đức Giê-su. Điểm nhấn này rất gần với Tin Mừng Gioan; quả thật, theo Tin Mừng Gioan, Chúa Cha đã chưa bao giờ yêu mến Chúa Con cho bằng khi Chúa Con chịu cuộc Tử Nạn của mình. Một tình tiết song đối được gặp thấy chính xác trong Tin Mừng Gioan. Chúng ta biết rằng thánh Gioan không tường thuật cơn hấp hối của Chúa Giê-su ở vườn Ô-liu, nhưng phải nói là thánh nhân cho một sự tham dự trước cơn hấp hối này: khi những người Hy-lạp bày tỏ ước muốn được gặp Chúa Giê-su, thái độ của họ làm Ngài xao động. Lương dân đến với Ngài; Ngài sắp chết cho tất cả họ:“Tâm hồn Thầy xao xuyến…Lạy Cha xin cứu con khỏi giờ này…Bây giờ có tiếng từ trời vọng xuống: ‘Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!’. Dân chúng đứng ở đó nghe vậy liền nói: ‘Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy!’” (Ga 12: 27-28).

Mồ hôi hòa lẫn với máu

“Mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất”. Chi tiết này gây chú ý cho thánh Lu-ca, thầy thuốc. Nó chỉ cho thấy nỗi đau cùng cực của Chúa Giê-su. Mỗi Ki tô hữu tự hỏi chính mình: phải chăng việc thấu hiểu nỗi đau khổ kinh khiếp và cái chết là nguyên nhân duy nhất gây nên nỗi phiền muộn bao la của Đức Giê-su, hay còn có nỗi đau đớn lớn lao do tội lỗi của con người? Ở đây chúng ta đi vào trong mầu nhiệm.

Cầu nguyện không ngừng

Sau khi cầu nguyện, Chúa Giê-su trở lại các môn đệ và Ngài gặp thấy họ đang ngủ. Thánh Lu-ca viết một cách độ lượng: “họ ngủ vì buồn phiền”. Chúa Giê-su lại khuyên họ cầu nguyện, “kẻo sa chước cám dỗ”.

Họ đã không cầu nguyện đủ; họ khó mà cưỡng nỗi chước cám dỗ, và chẳng mấy chốc nữa, tất cả họ sẽ trốn chạy mà bỏ rơi Đức Giê-su. Bên kia các môn đệ, thánh Lu-ca nghĩ đến tất cả những Ki tô hữu.

ĐỨC GIÊ-SU BỊ BẮT (22: 47-53)

Bài tường thuật của thánh Lu-ca không khác mấy với các bài tường thuật khác, ngoại trừ vài sắc thái.

Nụ hôn của Giu-đa

Thánh Lu-ca từ chối ghi lại nụ hôn của Giu-đa bằng những ngôn từ thô thiển; thánh ký chỉ gợi ý: “Hắn lại gần Đức Giê-su để hôn Người”; tiếp liền ngay sau đó là lời của Đức Giê-su: “Giu-đa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?”. Trong khi đó thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô viết: “Rồi hắn hôn Người”; còn thánh Gioan không kể ra nụ hôn của Giu-đa.

Chúa Giê-su gọi đích danh người môn đệ phản bội này nhằm cố ý giúp hắn ý thức về cử chỉ bỉ ổi của hắn; Đức Giê-su xưng mình “Con Người”, tước hiệu mà Ngài đã luôn luôn sử dụng khi tiên báo cuộc Thương Khó của mình, nhằm lay động, nếu có thể, những tâm tư tình cảm của tên phản bội.

Chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế

Tình tiết chém đứt tai tên đầy tớ thượng tế đều được cả bốn Tin Mừng tường thuật. Thánh Lu-ca xác định tai bị chém đứt là tai bên phải. Những phần thân thể bên phải được xem là cao cả hơn bên trái. Nhưng chỉ mình thánh Lu-ca tường thuật Chúa Giê-su chữa lành tai của hắn. Đức Giê-su đã cư xử kẻ thù của Ngài như thế đó…Thánh Lu-ca là thầy thuốc, vì thế ông có một tấm lòng nhạy cảm.

Các thượng tế và kỳ mục

Thánh Lu-ca không kể đám đông cầm gậy gộc và gươm giáo. Trái lại, ông lưu ý đến sự hiện diện của các thượng tế, lãnh binh Đền Thờ cũng như kỳ mục. Việc lãnh binh Đền Thờ có mặt ở đây là chuyện thường tình để điều hành việc bắt giữ. Nhưng những nhân vật vị vọng, như các thượng tế và kỳ mục, đêm hôm lặn lội đi bắt Ngài thì đáng ngạc nhiên. Thánh ký muốn vạch mặt chỉ tên những người chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Ki-tô ngay từ giây phút bắt giữ Ngài.

Đức Giê-su vạch ra cho thấy việc ra tay Ngài vào ban đêm là hành động không quang minh chính đại, bởi vì hằng ngày Ngài công khai giảng dạy cho dân chúng trong Đền Thờ; nếu muốn bắt Ngài thì quá dể dàng, cần gì phải lén lút bắt Ngài như vậy. Nhưng cách thức bắt Ngài như thế rõ ràng cho thấy có một sự thông đồng với Giu-đa: “Giu-đa ưng thuận và tìm dịp thuận tiện để nộp Đức Giê-su cho họ, lúc không có đám đông” (Lc 22: 6), trong khi các thượng tế và kỳ mục muốn hoản cuộc bắt giữ cho đến sau ngày lễ, kẻo gây náo loạn trong dân (Mt 26: 5). Thánh Lu-ca còn kể thêm: “Nhưng đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm”. Chúng ta gặp lại bóng tối của Xa-tan.

THÁNH PHÊ-RÔ CHỐI THẦY (22: 54-62)

“Họ bắt Đức Giê-su”. Chỉ vào lúc này thánh Lu-ca mới kể việc bắt giữ Đức Giê-su, trong khi thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu đặt việc bắt giữ liền ngay sau Giu-đa ôm hôn Ngài. Thánh Lu-ca muốn chứng tỏ rằng cho đến lúc đó Đức Giê-su tự do, làm chủ biến cố, vạch cho thấy những sai trái của tên phản bội và của những kẻ đến bắt Ngài, ra lệnh cho các môn đệ và chữa lành kẻ bị thương. Tin Mừng Gioan cũng đưa ra một quan điểm như thế, nhưng chỉ cho thấy Đức Giê-su bị trói. Thánh Lu-ca không bao giờ nói việc Đức Giê-su bị trói.

“Họ điệu Người đến nhà vị thượng tế”. Vị thượng tế này không được nêu tên, chắc hẳn là Cai-pha, vị thượng tế đương nhiệm. Chỉ một mình thánh Gioan kể ra việc Chúa Giê-su bị điệu ra trước Kha-nan, vị thượng tế mãn nhiệm, bố vợ của Cai-pha. “Còn thánh Phê-rô thì theo xa xa”; thánh Phê-rô cẩn trọng giữ một khoảng cách nào đó. Tuy nhiên, vào đêm xuân, khí trời thì lạnh. Thánh Phê-rô thấy những người canh gác đã nhóm một bếp lửa giữa sân nên đến gần để sưởi ấm. Dưới ánh lửa bập bùng, thánh nhận dể bị nhận dạng và vì thế ông bị tra hỏi đến ba lần.

Bài tường thuật Lu-ca về việc thánh Phê-rô chối Thầy không khác mấy với các bài tường thuật của các thánh ký khác, tuy nhiên thánh Lu-ca không diễn tả mức độ tăng dần của việc thánh Phê-rô ba lần chối Thầy liên tiếp, nhưng nêu lên cường độ kịch tính một cách đặc biệt bởi cái nhìn gây xúc động của Chúa Giê-su trên vị Tông Đồ, cái nhìn của Ngài khiến thánh Phê-rô xao động. Tiếng gà gáy nhắc cho thánh nhân nhớ lại lời của Chúa Giê-su. Thánh nhân ra ngoài, khóc lóc thảm thiết.

ĐỨC GIÊ-SU BỊ ĐÁNH ĐẬP (22: 63-65)

Trong khi chờ đợi, Đức Giê-su bị giao lại vào tay những kẻ canh giữ, chúng nhục mạ Ngài và đánh đập Ngài; chúng chế nhạo Đấng đã xưng mình là “ngôn sứ”. Thánh Lu-ca không nhấn mạnh những chi tiết của màn bỉ ổi và đau buồn này; thánh ký tránh kể ra những cái tát tai và những khạt nhổ vào mặt.

PHIÊN TÒA DO THÁI (22: 66-71)

Đức Giê-su cần phải ra trước tòa án Do thái. Giả như Ngài bị giao nộp trực tiếp vào chính quyền Rô-ma, Ngài sẽ bị đồng hóa với những người ái quốc và được hưởng triều thiên tử đạo. Điều quan trọng trước tiên là làm mất uy tín của Ngài trước mắt toàn dân Ít-ra-en.

Thượng Hội Đồng

Thượng Hội Đồng Giê-ru-sa-lem là tòa án tối cao của người Do thái. Giới học giả tranh luận về thẩm quyền của Thượng Hội Đồng này; dù thế nào đi nữa về lãnh vực tôn giáo, ba trường hợp chính buộc phải xét xử ở Thượng Hội Đồng này: thờ ngẫu tượng, một ngôn sứ giả, hay một vị thượng tế phạm một tội danh nào đó. Tước hiệu “ngôn sứ” sẽ là trung tâm của phiên tòa xét xử Đức Giê-su trước Thượng Hội Đồng, trong khi tước hiệu “vua” sẽ là trung tâm của phiên tòa Rô-ma trước quan tổng trấn Phi-la-tô.

Thượng Hội Đồng gồm có bảy mươi thành viên không tính vị thượng tế, người chủ trì Thượng Hội Đồng này; lời tuyên án của Thượng Hội Đồng chỉ có giá trị nếu hội đủ ít nhất hai mươi ba thành viên. Xem ra có nhiều hơn khi Chúa Giê-su bị điều ra trước Thượng Hội Đồng.

Hai tước vị của Ngài

Thánh Lu-ca chỉ tường thuật một phiên tòa Thượng Hội Đồng, phiên tòa xảy ra vào ban ngày. Thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu gợi lên một phiên tòa trước, phiên tòa xảy ra vào ban đêm. Theo luật, trong trường hợp nghiêm trọng, Thượng Hội Đồng phải nhóm họp hai lần cách nhau khoảng hai mươi bốn tiếng, ngõ hầu những người xét xử có đủ thời gian để suy nghĩ. Phiên tòa thứ hai phải khẳng định hay hủy bỏ quyết định của phiên tòa thứ nhất chứ không có quyền tăng thêm bản án. Thánh ký không trì hoãn ở nơi những hình thức nực cười của phiên tòa mà bản án đã được định sẵn trước rồi; ông muốn hướng sự chú ý đến con người của Đức Giê-su, nơi hai tước vị của Ngài: Đấng Mê-si-a và Con Thiên Chúa. Khác với thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu, thánh Lu-ca phân biệt rất rõ hai tước vị này, như thánh ký đã làm lần đầu tiên, vào biến cố Truyền Tin. Sự phân biệt này nói lên nỗi bận lòng của một sử gia. Tác giả sách Công Vụ sau này biết rằng khi Giáo Hội được phát triển, nhất là ở môi trường lương dân, tước vị Do thái: “Mê-si-a” được bảo tồn ở nơi tước hiệu Hy-lạp: “Ki-tô”, nhưng điểm nhấn chính được đặt trên tước vị “Con Thiên Chúa” của Đức Giê-su, tức là nhận ra Thần Tính của Ngài.

Đối với câu hỏi về tước vị Mê-si-a của Ngài, Đức Giê-su trả lời bằng cách làm cho những người xét xử Ngài hiểu rằng tước vị này không tương hợp chút nào với những gì họ nghĩ: nó không thuộc trần thế, nhưng siêu việt vì “Từ nay, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng”. Cũng như thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu, thánh Lu-ca liên kết sấm ngôn Đa-ni-en và Thánh Vịnh 110, cả hai đều loan báo việc con vua Đa-vít sẽ được tôn vinh bên hữu Đức Chúa.

Đối với câu hỏi về tước vị Con Thiên Chúa của Ngài, Đức Giê-su trả lời bằng cách biến đối thủ của Ngài thành người công bố chân lý: “Đúng như các ông nói, chính tôi đây”. Tại thánh Mác-cô, Đức Giê-su trả lời rõ ràng: “Phải, chính thế”.

Bản án

Thượng Hội Đồng chỉ có thể tuyên án khi dựa vào tối thiểu hai lời chứng ăn khớp với nhau. Thánh Lu-ca để cho hiểu rằng điều kiện này không hội đủ. Sau lời công bố của Đức Giê-su, các thành viên Thượng Hội Đồng gào lên: “Chúng ta cần gì lời chứng nữa? Chính chúng ta vừa nghe miệng hắn nói!”. Thánh Lu-ca không nói về việc kết án, ông cũng không kể ra lời tuyên án: “Hắn đáng chết!”; thánh ký sẽ không nói ở bất cứ nơi nào rằng Đức Giê-su đã bị kết án, bởi vì lời tuyên án của Thượng Hội Đồng thì bế tắt. Tòa án này đã mất đi quyền thi hành án tử. Chính quyền Rô-ma đã lấy đi quyền này khỏi người Do thái. Vì thế, để có thể giết Ngài, phải tìm thấy một lý do không là tôn giáo nhưng chính trị, vì thế phải cậy nhờ đến quan tổng trấn Rô-ma.

PHIÊN TÒA RÔ-MA (23: 1-5)

Thánh Lu-ca nêu bật việc chuyển biến từ lãnh vực tôn giáo sang lãnh vực chính trị; thánh ký trích dẫn những lời buộc tội mà các thành viên Thượng Hội Đồng nêu lên để ép buộc Phi-la-tô phải can dự: tên Giê-su này sách động quần chúng phá rối trị an; hắn chống đối việc nộp thuế cho hoàng đế, hơn nữa, hắn còn xưng mình là Đấng Mê-si-a, là Vua nữa.

Phiên tòa tôn giáo dựa trên một nền tảng xác thực nào đó: Đức Giê-su công bố mình vừa là Đấng Mê-si-a vừa là Con Thiên Chúa, đó là những lời phạm thượng dưới quan điểm của những người xét xử Ngài. Phiên tòa chính trị sẽ dựa trên những lời chứng gian. Phi-la-tô khó mà khỏi nghi ngờ, ông sẽ khẳng định sự vô tội của Đức Giê-su đến ba lần (như trong Tin Mừng Gioan).

Quan tổng trấn đặt câu hỏi chủ chốt liền ngay với Đức Giê-su: “Ông là Vua dân Do thái sao?”. Chỉ tham vọng này thôi cũng đủ chính quyền Rô-ma trừng trị nghiêm khắc. Đức Giê-su tránh trả lời trực tiếp; tuy nhiên, câu trả lời của Ngài rõ ràng mang sắc thái khẳng định: “Chính ngài nói đó”, ngầm hiểu: “Tôi là vua, nhưng không theo như cách ngài nghĩ”.

Thánh Lu-ca tóm tắt rất ngắn gọn phiên tòa của Đức Giê-su trước Phi-la-tô; vả lại, thánh ký chia phiên tòa này ra làm hai phần, bởi việc áp giải Đức Giê-su đến trước mặt vua Hê-rô-đê.

Ngay từ cuộc nói chuyện đầu tiên, Phi-la-tô tin rằng những lời buộc tội là vô căn cứ. Các thượng tế liền đáp lại: “Hắn đã xúi dân nổi loạn, đi giảng dạy khắp vùng Giu-đê, bắt đầu từ Ga-li-lê cho đến đây”. Địa danh “Ga-li-lê” gợi cho quan tổng trấn một lối thoát. Bởi vì Đức Giê-su là người Ga-li-lê, ông giao lại cho Hê-rô-đê, tiểu vương miền Ga-li-lê. Vào lúc đó, Hê-rô-đê có mặt ở Giê-ru-sa-lem để tham dự lễ Vượt Qua.

ĐỨC GIÊ-SU RA TRƯỚC MẶT VUA HÊ-RÔ-ĐÊ (23: 6-12)

Việc Đức Giê-su ra trước mặt vua Hê-rô-đê là một tình tiết riêng của thánh Lu-ca. Lập luận pháp lý mà Phi-la-tô viện dẫn được các bản văn khẳng định. Chúng ta biết rằng miền Ga-li-lê không có cùng quy chế chính trị như miền Giu-đê. Chính quyền Rô-ma đã để cho miền Ga-li-lê một tiểu vương cai trị, lúc đó là Hê-rô-đê An-ti-pát, một trong những người con của Hê-rô-đê đại đế.

Động cơ duy nhất của Phi-la-tô là làm tròn những yêu sách của luật thì đáng nghi ngờ; vả lại luật không đòi buộc như thế; nhưng chắc chắn ông bằng lòng chia sẻ trách nhiệm về một công việc tinh tế với chính quyền Do thái. Phi-la-tô nắm bắt cơ hội để xoa dịu vị tiểu vương mà quan hệ giữa hai người vốn rất hiềm thù. Thêm nữa, Phi-la-tô hy vọng vị tiểu vương này tìm ra một giải pháp, vì Hê-rô-đê nổi tiếng là một nhân vật xảo quyệt (Đức Giê-su đã gọi vị tiểu vương này là “con cáo già”: Lc 13: 32).

Hê-rô-đê bày tỏ một sự hiếu kỳ không đúng chỗ và hỏi Ngài dồn dập. Với thái độ như thế, Đức Giê-su không thèm trả lời. Bị thương tổn, Hê-rô-đê khinh dể Ngài ra mặt nên ra lệnh cho thị vệ khoác cho Ngài một chiếc áo rực rỡ để chế giễu tham vọng vương quyền của Ngài. Chi tiết này phù hợp với thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu khi miêu tả bọn lính tráng khoác cho Đức Giê-su một tấm áo điều mà chế giễu Ngài. Hê-rô-đê không tuyên án, rồi cho giải Ngài lại cho tổng trấn Phi-la-tô. “Ngày hôm ấy, vua Hê-rô-đê và tổng trấn Phi-la-tô bắt đầu thân thiện với nhau”. Phải chăng thánh ký thấy ở đây lời tiên báo về sự hòa giải giữa người Do thái và dân ngoại trong những cộng đoàn Ki tô hữu tiên khởi?

ĐỨC GIÊ-SU LẠI RA TRƯỚC PHI-LA-TÔ (23: 13-25)

Đức Giê-su lại bị điệu ra trước Phi-la-tô nhưng không còn có đối thoại nữa giữa tổng trấn và Đức Giê-su. Lối thoát của tấn thảm kịch được diễn ra giữa chính quyền Rô-ma và giai cấp lãnh đạo Do thái; chính ở nơi giai cấp lãnh đạo này mà thánh ký sắp quy những trách nhiệm nặng nề nhất.

Phi-la-tô triệu tập các thượng tế và các thủ lãnh dân chúng; ông cao giọng công bố Đức Giê-su vô tội và tố cáo những lời buộc tội gian trá chống lại Đức Giê-su. Bài tường thuật Lu-ca rất gần với bài tường thuật Gioan. Tuy nhiên, để xoa dịu giai cấp lãnh đạo Do thái, vị tổng trấn loan báo một cách đê hèn rằng ông sẽ ra lệnh trừng trị Ngài cho dù ông vừa mới công bố Ngài vô tội và hứa sẽ thả Ngài. Thánh Lu-ca chỉ kể ra sự nhục hình đòn vọt một cách gợi ý chứ không miêu tả chi tiết. Như thánh Gioan, thánh Lu-ca tách riêng việc đánh đòn mà ý định của nó chỉ nhằm ngăn ngừa, chứ không như thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu xem việc đánh đòn như điều kiện tiên quyết của việc đóng đinh trên thập giá.

Nhưng các giai cấp lãnh đạo nhất quyết đòi hỏi án tử của Ngài cho bằng được: “Giết nó đi, thả Ba-ra-ba cho chúng tôi”. Thánh Lu-ca không cung cấp bất kỳ lời giải thích nào về yêu sách này; ông giả sử rằng tập tục này ai cũng biết cả, theo đó vào dịp lễ Vượt Qua, người Do thái yêu cầu phóng thích một tù nhân, chắc chắn để tưởng niệm ngày giải thoát khỏi Ai-cập. Chính quyền Rô-ma thuận theo truyền thống Ít-ra-en.

Trái với thánh Mác-cô (15: 11) và thánh Mát-thêu (27: 20), thánh Lu-ca không kể ra tiếng gào thét của đám đông, cũng như áp lực của các thượng tế trên đám đông, bởi vì thánh ký không làm loãng đi trách nhiệm của dân Ít-ra-en. Còn Phi-la-tô, ông luôn luôn cho rằng  những lời buộc tội là bất công, cuối cùng đành phải nhượng bộ, thả Ba-ra-ba, kẻ bạo động và sát nhân, và trao nộp Đức Giê-su, người vô tội, “theo ý họ muốn”. Thánh Lu-ca không muốn nói rằng Phi-la-tô giao cho các thượng tế tế và các thủ lãnh dân chúng việc hành hình Đức Giê-su, vì đối với người Do thái cuộc hành hình phải là ném đá chứ không đóng đinh vào thập giá, nhưng thánh ký muốn nói rằng cuối cùng, ý muốn của họ đã thắng.

ĐƯỜNG LÊN “ĐỒI SỌ” (23: 26-31)

Bốn bài tường thuật về phần cuối của tấn thảm kịch này rất phù hợp với nhau, ngoài trừ vài tiểu tiết. Cả bốn bài tường thuật đều mực thước, thậm chí ngắn gọn. Đặc biệt thánh Lu-ca theo đuổi ý muốn của mình là không nhấn mạnh những khía cạnh quá bi thương; thánh ký thổi vào những trang Tin Mừng của mình một hơi mát thanh bình như thử để quét sạch mọi điều ghê tởm. Lòng xót thương của Thiên Chúa thống trị trên sự thù hận của con người, lòng sám hối của kẻ gian phi phát xuất từ cái nhìn của anh trên Đức Ki-tô hấp hối, đám đông đến xem thay đổi từ thái độ bàng quang đến đấm ngực ăn năn; Đức Giê-su hơi tàn lực tận cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ gây nên cái chết của Ngài, hứa cõi đời đời cho tên gian phi hối cải, phó dâng linh hồn trong tay Chúa Cha.

Ông Si-mon thành Ky-rê-nê

“Khi điệu Đức Giê-su đi, họ bắt một người từ miền quê lên, tên là Si-mon, thành Ky-rê-nê, đặt thập giá trên vai cho ông vác theo sau Đức Giê-su”.

Thánh Lu-ca không xác định ai trưng dụng người qua đường này, nhưng cách diễn tả rất gợi ý: “họ đặt thập giá trên vai cho ông vác theo sau Đức Giê-su”. Thánh ký rõ ràng ám chỉ đến những lời của Đức Giê-su: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14: 27). Ông Si-mon thành Ky-rê-nê chắc chắn là một người Ki tô hữu hiện đang sống giữa cộng đoàn Ki tô hữu; dù thế nào, thánh Mác-cô trích dẫn tên của các con ông như những nhân vật rất quen thuộc trong Giáo Hội tiên khởi.

Khóc thương thành Giê-ru-sa-em

“Dân chúng đi theo Người đông lắm”. Chúng ta gặp lại cũng một từ vựng được dùng để chỉ dân chúng thiện cảm này. “Trong số đó có nhiều phụ nữ vừa đấm ngực vừa than khóc”. Những người phụ nữ này làm chứng về sự vô tội của Đức Giê-su theo cách của họ. Thánh Lu-ca là thánh ký nêu lên nhiều nhất những gương mặt phụ nữ.

“Đức Giê-su quay lại”, tại thánh Lu-ca, cử chỉ này loan báo một sứ điệp quan trọng hay một giây phút quyết định (Lc 14: 25). Lúc đó, Đức Giê-su tiên báo cho các bà cuộc sụp đổ thành thánh Giê-ru-sa-lem sắp đến: “Đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu…”. Tình tiết này, riêng của Lu-ca, song đối với tình tiết mà thánh ký đã đặt vào giây phút Chúa Giê-su chuẩn bị vào thành thánh Giê-ru-sa-lem: khi đến gần Giê-ru-sa-lem và trông thấy thành, Đức Giê-su khóc thương thành khi nghĩ đến việc thành bị tàn phá thành bình địa, vì thành đã không nhận biết thời giờ nó được Thiên Chúa viếng thăm (Lc 19: 41-44). Khi ra khỏi thành thánh, Đức Giê-su cũng có những cảm xúc như vậy.

Thánh Lu-ca đặt trên môi miệng Chúa Giê-su ngôn từ của các ngôn sứ: “Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem” gợi nhớ những hô ngữ của ngôn sứ I-sai-a và ngôn sứ Da-ca-ri-a; “Vì này đây sẽ tới những ngày” là cách nói rất tâm đắc của ngôn sứ A-mốt và được ngôn sứ Giê-rê-mi-a lấy lại; cách nói này báo trước những tai ương hoạn nạn. “Phúc thay đàn bà hiếm hoi”: Đức Giê-su đã diễn tả cùng tư tưởng với lời tiên báo khác về cuộc sụp đổ thành Giê-ru-sa-lem (Lc 21: 23).

Sau cùng, lời trích dẫn này mượn của ngôn sứ Hô-sê: “Bấy giờ người ta sẽ bắt đầu nói với núi non: Đổ xuống chúng tôi đi!, và với gò nổng: Phủ lấp chúng tôi đi!”, lời cầu nguyện khốn cùng này được lấy lại trong sách Khải Huyền để diễn tả sự khủng khiếp của ngày Chung Thẩm.

Chúa Giê-su hoàn tất lời tiên báo của Ngài khi nhắc lại câu cách ngôn: “Cây xanh tươi mà người ta còn đối xử như thế (cây không phải bị đốt cháy, ám chỉ đến cái chết bất công của Ngài), thì cây khô héo sẽ ra sao?”. Nói cách khác, nếu người công chính bị đày đọa cho đến chết, thì người ta sẽ cư xử với những tội nhân như thế nào?

KHỔ HÌNH THẬP GIÁ (23: 32-33)

“Khi đến nơi gọi là “Đồi Sọ”, họ đóng đinh Người vào thập giá”. Địa danh này gợi lên một đồi trọc, không cây cối. Nơi hành hình được định vị ngoài thánh thánh. Vùng đất thành thánh, được bao bọc chung quanh, là một khu vực thánh không được xác nạn nhân làm ô uế. Nhưng nơi hành hình này gần cửa thành Giê-ru-sa-lem, vì chính quyền muốn những khách bộ hành trông thấy những nạn nhân hấp hối để răn đe.

Trên đồi hành hình, Chúa Giê-su bị đóng đinh giữa hai tên gian phi. Sự kiện được cả bốn Tin Mừng tường thuật. Sự nhục nhã càng tăng thêm đối với Đức Giê-su, nhưng đó là số phận mà Thiên Chúa dành cho người tôi trung thập toàn của Ngài “bị liệt vào hàng tội nhân” (Is 53: 12). Trên đường từ Bữa Tiệc Ly đến vườn Ô-liu, Đức Giê-su đã nhắc lại sấm ngôn này cho các môn đệ Ngài: “Cần phải ứng nghiệm nơi bản thân Thầy lời Kinh Thánh này” (Lc 22: 37).

LÒNG XÓT THƯƠNG CỦA THIÊN CHÚA (23: 34-43)

 “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”.

Thánh Lu-ca là vị thánh ký duy nhất truyền đạt cho chúng ta lời khẩn nguyện của Đức Giê-su cho các lý hình, và cho tất cả những ai đã nhúng tay vào cái chết của Ngài.

Lời khẩn nguyện

Toàn bộ Tin Mừng Lu-ca chuẩn bị cho lời cầu nguyện cao cả về sự tha thứ này. Thánh Lu-ca đã không giữ lại tiếng kêu thống thiết của Đức Giê-su: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”, tiếng kêu bi thương xuất phát từ nỗi cô độc cùng cực. Thánh ký chuộng nêu lên lời khẩn cầu đầy lòng xót thương. Đức Giê-su đã dạy hãy yêu thương kẻ thù và Ngài bảo chúng ta đọc trong Kinh Lạy Cha: “Xin tha nợ cho chúng con, như chúng con cùng tha kẻ có nợ chúng con”. Đức Giê-su dâng hiến một mẫu gương cho các người Ki tô hữu và đặc biệt cho Các Thánh Tử Đạo (x. Cv 7: 60).

Đối diện với tình yêu và sự tha thứ, thánh Lu-ca phác họa sự thù hận và lòng căm thù. Những chi tiết mà họ phô bày không là giai thoại; chúng ta đọc thấy ẩn hiện ở nơi những bản văn ngôn sứ : Dcr 12: 10: “Chúng sẽ khóc than Đấng chúng đã đâm thâu”, và Tv 22, lời cầu nguyện dài của người công chính chịu đau khổ trong đó chúng ta đọc thấy: “Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được vắn dài; chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem. Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn” (Tv 22: 17-19).

Dân chúng đứng nhìn

Thánh Lu-ca đã không nói đến dân chúng vào lúc xét xử Chúa Giê-su; bây giờ thánh ký giới thiệu họ trên Đồi Sọ, trong thái độ tôn kính và trung thành. Thánh Lu-ca không nói đám đông (plethos), nhưng dân chúng (laos); có một dị biệt tinh tế giữa hai từ vựng này. Qua từ vựng “dân chúng” thường có hậu ý Giáo Hội, thánh ký mời gọi dân Thiên Chúa chiêm ngắm mầu nhiệm thập giá.

Thánh Lu-ca đối lập thái độ dân chúng với thái độ của những giai cấp lãnh đạo, họ cười nhạo và đắc thắng (thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô còn thêm những người qua đường).

Binh lính cũng chế nhạo Người

 Lần đầu tiên thánh Lu-ca nói về binh lính Rô-ma và những lời chế giễu của họ; thánh ký đã không gợi lên mũ gai và trò bỉ ổi của họ. Những binh lính đưa giấm cho Đức Giê-su uống; sự kiện được cả bốn Tin Mừng tường thuật, đặc biệt ở Tin Mừng Gioan cử chỉ này được giải thích rõ hơn: Đức Giê-su vừa nói: “Ta khát”.

Bọn lính làm như vậy một cách vô tình mà không biết bản văn ngôn sứ. Quả thật, người ta đọc thấy ở thánh vịnh 69 lời phàn nàn của một người công chính, nạn nhân vì lòng nhiệt thành đối với Đức Chúa: “Lời thóa mạ làm tim này tan vỡ, con héo hắt rã rời. Nỗi sầu riêng, mong người chia sớt, luống công chờ, không được một ai; đợi người an ủi đôi lời, trông mãi trông hoài mà chẳng thấy đâu! Thay vì đồ ăn , chúng trao mật đắng, con khát nước, lại cho uống giấm chua” (Tv 69: 21-22).

Vua dân Do thái

Một tấm bảng viết “vua dân Do thái” được treo trên đỉnh thập giá. Sự kiện được cả bốn thánh ký ghi nhận. Thánh Gioan xác định rằng nó đã được Phi-la-tô ra lệnh viết. Quan tổng trấn Rô-ma biết rõ rằng tước hiệu này chỉ là cái cớ; nhưng để biện minh cho bản án tử hình, trong bản báo cáo của ông trình lên hoàng đế, tội khi quân rõ ràng phải đặt lên hàng đầu.

Người gian phi sám hối

Tình tiết này riêng của thánh Lu-ca. Đức Giê-su thực hiện sứ mạng đầy lòng xót thương của Ngài cho đến giây phút sau cùng. Tấm lòng khiêm hạ của hối nhân được đáp trả bởi ân ban soi sáng. Người gian phi nhận ra ở nơi Đức Giê-su tước vị Mê-si-a vương đế của Ngài. Lời khẩn cầu của hối nhân này: “Xin nhớ đến tôi” là lời mở đầu kinh nguyện Do thái của những người hấp hối: “Lạy Đức Chúa, xin nhớ đến tôi”.

Đức Giê-su trả lời cho anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”. Lời khẳng định của Đức Giê-su rất trang trọng: “Tôi bảo thật anh” thánh Lu-ca hiếm khi sử dùng cách nói này.. Từ ngữ “hôm nay” tại Tin Mừng Lu-ca luôn luôn được liên kết với ý tưởng cứu độ.

Trong niềm tin Do thái giáo, “Thiên Đàng” gợi lên một chốn bồng lai cực lạc ở đó những người công chính sau khi qua đời chờ đợi sự phục sinh; từ này được hoán chuyển với cách nói: “vào lòng ông Áp-ra-ham” mà thánh Lu-ca gợi lên trong dụ ngôn người giàu có và anh La-da-rô nghèo khổ: “Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham” (Lc 16: 22).

Đức Giê-su cho người gian phi sám hối hiểu rằng từ nay chính Ngài đón tiếp những người công chính và đưa họ vào “Thiên Đàng”. Thánh Lu-ca không tìm cách xác định giây phút Đức Giê-su phục sinh, khi định vị biến cố này ngay sau cái chết của Đức Giê-su. Không ai biết chính xác giây phút Đức Giê-su phục Sinh, đừng nhầm lẫn với giây phút khám phá ngôi mộ trống (giữa cái chết của Đức Giê-su và việc các người phụ nữ đến viếng mộ, ngày sa-bát đã trôi qua).

Nhưng thánh Lu-ca ghi lại bài tường thuật của mình theo những viễn cảnh Ki-tô giáo. Đừng quên rằng thánh ký vừa là môn đệ vừa là bạn đồng hành của thánh Phao-lô. Đoạn Tin Mừng này gặp lại tư tưởng của vị Tông Đồ, được diễn tả trong thư gửi cho các tín hữu Phi-líp-phê (Pl 1: 21-23), cũng như trong thư thứ hai gửi cho ông Ti-mô-thê (2Tm 4: 8): người Ki tô hữu qua đời được đoàn tụ với Đức Ki-tô. Trong sách Công Vụ, thánh ký sẽ cho thấy rằng thánh Tê-pha-nô, ngay từ trước khi bị ném đá, “thấy trời mở ra” (Cv 7: 56).

CÁI CHẾT CỦA ĐỨC GIÊ-SU (23: 44-49)

“Bây giờ đã gần tới giờ thứ sáu (tức mười hai giờ trưa), thế mà bóng tối bao phủ khắp mặt đất”. Không loại trừ bầu trời thường trở nên âm u vào mùa xuân, nhưng việc gợi lên trước tiên là Kinh Thánh: những dấu chỉ vũ trụ loan báo hay thường đi theo những cuộc can thiệp của Thiên Chúa vào Lịch Sử (x. Xh 10: 22; vân vân). Các ngôn sứ đã biến các dấu chỉ này thành nét đặc trưng của ngày tận thế, ví dụ như Am 8: 9-10: “Trong ngày ấy, Ta sẽ truyền cho mặt trời lặn giữa trưa, và khiến cho mặt đất tối sầm giữa lúc ngày đang sáng….Ta sẽ làm cho đất này chịu tang như người ta chịu tang đứa con một”. Cái chết của Đức Giê-su khai mở kỷ nguyên cánh chung, nghĩa là kỷ nguyên phán xét; từ nay kỷ nguyên này sẽ được đặt dưới dấu chỉ trung gian của Ngài.

Bức màn trướng trong Đền Thờ

Thánh Lu-ca là thánh ký duy nhất đặt việc “bức màn trướng trong Đền Thờ bị xé ngay chính giữa” trước cái chết của Đức Giê-su. Bức màn trướng này, hoặc bức màn người ta giăng trước tiền đường để che phần bên trong Đền Thờ khỏi những người ở trên sân tiền đình, hay bức màn trướng phân cách phần còn lại của Đền Thờ với Nơi Cực Thánh ở đó chỉ vị thượng tế mới có thể đi vào, mỗi năm một lần, để thực hiện nghi thức xóa tội. Xem ra bức màn trướng này mà thánh Lu-ca nghĩ đến, khi nối tiếp tác giả thư gửi cho các tín hữu Do thái: nhờ máu Ngài đã đổ ra, Đức Giê-su khai mở cho nhân loại lối vào bên Thiên Chúa trong cung thánh trên trời (Dt 10: 19-20).

Dù thế nào, biểu tượng thì rõ ràng. Đền Thờ Giê-ru-sa-lem đã không còn đóng vai trò của mình; việc Thiên Chúa tuyển chọn không còn ưu tiên cho dân Ít-ra-en; nó được dâng hiến cho hết mọi người. Đền Thờ đích thật của Thiên Chúa sẽ là thân thể của Đức Giê-su Phục Sinh, như chính Ngài đã loan báo.

Lời cầu nguyện cuối cùng

“Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”. Tại thánh Lu-ca, cuộc đời của Đức Giê-su được hoàn tất trên lời cầu nguyện, trong khi thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô ghi nhận “một tiếng kêu lớn” của Đức Giê-su hấp hối, còn thánh Gioan đặt trên môi miệng của Đức Giê-su như những lời sau cùng: “Thế là đã hoàn tất!”, nhưng thánh Gioan nói thêm khi nối kết với thánh Lu-ca: “Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí”.

Lời cầu nguyện này được trích từ Tv 31 ở trong số kinh nguyện truyền thống ban chiều. Chúa Giê-su thân thưa với Cha Ngài, nhưng lời cầu nguyện hấp hối của Ngài cũng định vị Ngài vào trong sự hiệp nhất với dân Ngài.

Lời chứng của viên bách quản

Viên bách quản Rô-ma, đứng canh dưới chân thập giá, “cất tiếng tung vinh Thiên Chúa” : “Người này đích thật là người công chính”. Lời chứng của viên bách quản được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm kể lại, với vài biến thể; cách diễn tả của Lu-ca xem ra gần với sự thật nhất; viên bách quản nhận ra sự vô tội của Đức Giê-su. Tiếng reo vui của viên bách quản là lời tôn kính đầu tiên mà lương dân tỏ bày cho Đức Ki-tô; lời này loan báo chiều kích ơn cứu độ phổ quát, đồng nghĩa với việc tấm màn trướng trong Đền Thờ bị xé ra làm hai.

Thái độ dân chúng

“Toàn thể dân chúng đã đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về”. Đây là cử chỉ tang chế, nhưng cũng là nghi thức ăn năn, dấu chỉ sám hối. Chỉ một mình thánh Lu-ca cho dân chúng thái độ này.

Những người thân quen

Thánh Lu-ca cũng là thánh ký duy nhất kể ra sự hiện diện của những người thân quen: “Đứng đằng xa, có những người quen biết Đức Giê-su”. Thật ra, thánh ký nhạy bén trước tất cả những gì có thể làm giảm bớt những đau khổ của Đức Giê-su.

“Đứng đàng xa”: ngôn từ có âm hưởng Kinh Thánh khiến chúng ta nghĩ đến Tv 38, thánh vịnh này gợi lên nỗi cô độc của người tôi trung trong cảnh khốn cùng: “Con bị tai ương, người thân kẻ nghĩa chẳng tới gần, bà con ruột thịt cũng đứng xa” (Tv 38: 12).

Những phụ nữ xứ Ga-li-lê

Thánh Lu-ca không quên kể ra sự hiện diện của những người phụ nữ xứ Ga-li-lê trên Đồi Sọ. Những người phụ nữ này đã luôn luôn đồng hành với Đức Giê-su, đã lấy của cải của mình mà giúp đỡ Ngài (Lc 8: 2-3).

MAI TÁNG ĐỨC GIÊ-SU (23: 50-56)

Theo phong tục tập quán Rô-ma, để việc răn đe có tác dụng, phải phơi bày thi thể của nạn nhân trong nhiều ngày. Luật Do thái thì hoàn toàn khác: không được để mặt trời lận trên xác chết của nạn nhân, nhưng phải chôn cất trước khi đêm xuống (Đnl 21: 22). Ngoài ra, buổi chiều hôm đó lại là ngày sa-bát, ngày người ta phải kiêng cử mọi công việc. Vì thế, phải vội vả chôn cất ngay kẻo không kịp.

Ông Giô-xếp thành A-ri-ma-thê

“Khi ấy có một người tên là Giô-xếp, thành viên của Thượng Hội Đồng”. Thánh Mát-thêu nói với chúng ta, “ông là một người giàu sang”; còn thánh Mác-cô nói ông là “thành viên có thế giá của hội đồng”; trong khi Lu-ca lại nói ông là “một người lương thiện, công chính”, thánh ký thích đặt ưu tiên những giá trị luân lý. Với tư cách thành viên của Thượng Hội Đồng, “ông đã không tán thành quyết định và hành động của Thượng Hội Đồng”. Đây là điều chỉ dẫn quý báu: vì thế việc kết án Đức Giê-su không được mọi thành viên đồng thuận. Ông xuất thân từ A-ri-ma-thê, một thành phố duyên hải xứ Giu-đê. Ông định cư ở Giê-ru-sa-lem và đã cho đục ngôi mộ trong núi đá, ở một thuở vườn (Ga 19: 40) bên cạnh Đồi Sọ.

Cuộc mai táng Đức Giê-su

Người môn đệ kín đáo này can đảm đến xin Phi-la-tô cho phép hạ thi hài Đức Giê-su xuống khỏi thập giá để mai táng. Phi-la-tô chấp thuận theo luật Do thái, có lẽ vì ông quan niệm rằng nhập gia tùy tục; hơn nữa ông tin rằng Đức Giê-su vô tội.

Như vậy, Đức Giê-su, khi còn ấu thơ, đã được ẳm trong tay cụ già Si-mê-ôn, “một người công chính và sùng đạo”, “ông những mong chờ niềm an ủi của dân Ít-ra-en” (Lc 2: 25); bây giờ, khi chết, được ẳm trong tay ông Giô-xếp, “một người lương thiện công chính”, “ông vẫn mong chờ Nước Thiên Chúa”.

“Ông hạ xác Người xuống, lấy tấm vải gai mà liệm, rồi đặt Người vào trong ngôi mộ đục sẵn trong núi đá, nơi chưa chôn cất ai bao giờ”. Hoa trái đầu mùa không phải thuộc về Thiên Chúa sao?

Ánh sáng Giê-ru-sa-lem

“Hôm ấy là áp lễ, và ngày sa-bát bắt đầu ló rạng”. Trong Tin Mừng Lu-ca, có những yếu tố khó lường mà tác giả giải thích với một độ nhạy bén gần với độ nhạy bén của thánh Gioan. Vào lúc Đức Giê-su được đặt vào ngôi mộ, mọi nhà trong thành thánh Giê-ru-sa-lem bắt đầu lên đèn. Nét đặc trưng này nêu bật tính xác thực lịch sử hơn cái ý nhị của lời văn, nhưng nhất là nó có giá trị dấu chỉ. Khi Đức Giê-su bị bắt, Ngài tuyên bố: “Đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm” (Lc 22: 53). Khi Đức Giê-su chết, bây giờ là những tia sáng đầu tiên, tia sáng của ơn cứu độ, tia sáng hy vọng, những điềm báo cho vầng sáng phục sinh.

Những người phụ nữ trung thành

Phận sự của các bà là chuẩn bị dầu và thuốc thơm để chăm lo thân xác của Ngài. Vì thế, những người phụ nữ xứ Ga-li-lê theo chân Đức Giê-su này để ý đến nơi đặt thi thể Ngài trong ngôi mộ; họ sẽ trở lại sau ngày sa-bát, thực hiện công việc đạo đức của họ. Trong khi chờ đợi, họ tuân giữ ngày hưu lễ.

Ngày sa-bát, ngày hưu lễ

Thánh Lu-ca chấm dứt bài tường thuật của mình trên viễn cảnh của ngày hưu lễ. Chắc chắn mọi công việc phải ngừng lại đó là lý do giải thích tại sao những nghi thức tang chế còn dang dỡ, và vì thế các bà vội vả đến mồ khi trời vừa tảng sáng. Nhưng thánh Lu-ca kín đáo gợi ý rằng Đức Giê-su đã bước vào nơi an nghỉ, vì thế việc mai táng Ngài vào lúc sắp bắt đầu ngày sa-bát mặc một ý nghĩa. Ngay từ đầu, sau khi hoàn tất công trình sáng tạo của Ngài, Thiên Chúa nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy. Công trình của Đức Giê-su không phải là một cuộc tạo dựng mới sao? Công trình này được hoàn tất. Chúa Giê-su vào nơi an nghỉ của Thiên Chúa, giai đoạn mầu nhiệm trước khi Ngài phục sinh.

BA TẤN THẢM KỊCH

Ba tấn thảm kịch chồng chéo lên nhau trong cuộc Thương Khó của Đức Giê-su: trước hết, tấn thảm kịch của việc dân Ít-ra-en từ chối, rồi đến tấn thảm kịch của vị Thiên Chúa làm người, sau cùng tấn thảm kịch của tội lỗi.

Dân Ít-ra-en từ chối

Đức Giê-su đã không ngừng công bố một sứ điệp khó khăn; Ngài đã phá đổ những thành kiến, lên án chủ nghĩa duy luật và thói giả hình. Sự ghen tuông, đoạn sự thù hận đã liên kết với nhau chống lại Ngài. Những người lãnh đạo tôn giáo đã không chấp nhận nhận ra Ngài là Đấng Mê-si-a, vì Ngài không đáp ứng hình ảnh mà họ tự mình tưởng nghĩ ra. Việc họ kiên tâm tiêu diệt Ngài đã dẫn đến cái chết, nhưng không đến cái chết như họ suy tính: Đức Giê-su đã chiến thắng sự chết, nhưng do việc làm của họ, dân Ít-ra-en, dân được ký thác Lời Hứa, đã thôi không còn nữa.

Tấn thảm kịch của vị Thiên Chúa làm người

Khi đón nhận kiếp phàm nhân như chúng ta, Đức Giê-su đã chấp nhận thân phận tử biệt sinh ly của chúng ta. Ngài đã đảm nhận vận mệnh con người trong mọi chiều kích đau khổ khủng khiếp. Những hoàn cảnh lịch sử đã khiến Ngài phải hứng chịu khổ hình tàn bạo nhất được sử dụng vào thời Ngài sống. Số phận này ở trong kế hoạch của Thiên Chúa: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10: 18-19). Đây là cử chỉ yêu thương tận mức, Đức Giê-su đã muốn thuộc vào số những người bị tra tấn, những người bị hành hình, những người tử đạo, ngỏ hầu những ai phải chết trong những đau đớn cùng cực nhất, và những ai phải chịu đau khổ về thể lý cũng như luân lý, đều gặp thấy ở nơi cuộc Thương Khó của Ngài niềm an ủi tuyệt vời. Cũng phải ghi nhận rằng ở đâu có sự hiện diện của Thiên Chúa ở đó có muôn vàn ân phúc. Ở đâu có những đau khổ được liên kết với Ngài, ở đó Ngài sẽ ban muôn vàn ân sủng.

Tấn thảm kịch của tội lỗi

“Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội”. Đức Giê-su cho cái chết của Ngài ý nghĩa này.

Tuy nhiên, lời này đưa chúng ta vào mầu nhiệm: “Mầu Nhiệm Cứu Chuộc”. “Người cứu chuộc” (goel) là người phục hồi phẩm giá cho một thành viên trong gia tộc phải lâm vào cảnh bần cùng, và chuộc lại nếu người ấy phải sa vào vòng nô lệ vì nợ nần. Đây là ý nghĩa đặc biệt của từ Hy-bá mà chúng ta dịch “Đấng Cứu Chuộc”.

Dù được Kinh Thánh soi sáng, biết bao vấn đề gợi lên trong tâm trí chúng ta. Tội lỗi là gì? Một sự xúc phạm đến Thiên Chúa rất mực tốt lành, Thiên Chúa-Tình Yêu, Ngài đã không muốn nhân loại một mình phải gánh chịu mọi hậu quả tội lỗi của mình. Ngài đã sai Con Ngài đến để chia sẻ gánh nặng tội lỗi và xóa đi mọi vết nhơ của tội. Đó là lý do tại sao Thánh Giá là “vinh quang” của Thiên Chúa, như thánh Gioan nói.

--------------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-364: KẺ THÙ CÓ SỈ NHỤC, ĐỪNG ĐỂ BỤNG:


MỘT CON ĐƯỜNG SÁM HỐI

Lm. Bosco Dương Trung Tín

  “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn; giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc, phỉ nhổ” (Is 50,6)
 
 

Đây là bài ca thứ tư của người tôi tớ đau khổ. Đau khổ vì bị người ta đánh đòn; đau khổ vì bị Suy niệm Lễlá-364


người ta giật râu; đau khổ vì bị mắng nhiếc, phỉ nhổ. Dù vậy, “Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ Tôi, vì thế Tôi đã không hổ thẹn; vì thế Tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng” (x. Is 50,7).

  Người tôi trung đau khổ đó chính là Đức Giê-su Ki-tô. “Đức Giê-su Ki-tô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ nhất thiết duy trì, địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2, 6-9).

  Nói cách khác, Đức Giê-su đã tự hạ mình, xuống thế làm người và chấp nhận để người ta đánh đòn, giật râu, mắng nhiếc, phỉ nhổ trong cuộc thương khó, để đem lại ơn cứu độ cho con người.

  Còn con người chúng ta, không được như Đức Giê-su, nhưng trong cuộc sống, dù ta không làm gì sai, không làm hại đến người ta, nhưng người ta lại chơi xấu; lại nói xấu, lại vu khống, lại “ném đá”, lại mắng nhiếc, lại sỉ nhục ta. Theo thánh Gio-an Kim Khẩu thì nếu: “Kẻ thù có sỉ nhục chúng ta, chúng ta đừng để bụng, hãy chế ngự tính giận hờn; hãy tha thứ tội lỗi cho anh em và như thế, chúng ta có xúc phạm đến Chúa điều gì, Người cũng sẽ thứ tha. Đó là cách thứ hai để tẩy sạch tội lỗi. Chúa nói: Thậy vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng tha thứ cho anh em”.

  Như vậy thì: nếu người ta có chơi xấu; có nói xấu, có vu khống, có “ném đá”, có mắng nhiếc, có sỉ nhục ta, thì ta đừng để bụng và hãy tha thứ cho họ. “Đừng để bụng và hãy tha thứ”, nghe đơn giản nhưng không dễ mà thực hành được. Thực vậy, đối với con người yếu đuối và giới hạn, tự sức ta, ta không thể làm được được đâu. Nhưng noi gương Đức Giê-su trong cuộc thương khó của Ngài và nhờ ơn Chúa giúp, ta có thể chiến thắng con người của mình mà cố gắng thực hiện.

  Với lý do là nếu ta có tha cho người ta thì Chúa mới tha cho ta. Nếu ta có xúc phạm đến Chúa điều gì Chúa sẽ tha thứ cho ta. Điều này không tốt hơn cho ta sao ! Nếu ta cứ khư khư để bụng, không tha thứ thì ta được gì? Thứ nhất, ta sẽ làm hại chính mình; làm hại cho thân xác cũng như làm hại cho linh hồn. Về phần xác, con người của ta sẽ buồn rầu, tức tối; ăn không ngon, ngủ không yên. Về phần hồn, thì ta sẽ không được Chúa thứ tha. Có phải là ta mất cả chì lẫn chài không.

  Nếu ta không để bụng và tha thứ, thì ta sẽ lợi được đôi đàng, “nhất cử lưỡng tiện”. Một đàng thân xác ta sẽ được thoải mái; đầu óc không phải suy nghĩ; một đàng ta được Chúa tha thứ. Con người mà, đâu có ai hoàn hảo và thánh thiện đâu; ngay cả chính bản thân của ta cũng thế thôi, ta đâu có hơn gì họ đâu. Thế thì ta để bụng làm gì cho nặng bụng; cho to bụng, cho xấu người đi. Để những thứ đó trong bụng chỉ làm cho ta thêm xấu bụng mà thôi. Ta hãy cho nó ra ngoài.

  Ta hãy bắt chước thân xác của ta. Những gì tốt cho cơ thể sẽ được cơ thể hấp thụ, đưa vào máu và đi nuôi cơ thể; còn những gì xấu, có hại cho cơ thể hay chất thải sẽ bị thải ra ngoài tức thì hay mỗi ngày. Ta cũng hãy làm như vậy cho linh hồn của ta.Hãy thải ngay lập tức hay thải mỗi ngày những gì người ta chơi xấu; những lời nói xấu, những vu khống, những “ném đá”, những mắng nhiếc, những sỉ nhục ta đi. Ta mà giữ những thứ đó lại trong bụng, trong đầu, trong tâm thì chỉ gây hại cho con người của ta mà thôi.

  Đó cũng là một cách ăn năn sám hối đấy.

  Tôi đã theo thánh Gio-an Kim Khẩu, trong các Chúa Nhật Mùa Chay năm nay, khai triển năm con đường ăn năn sám hối. Đó là: thứ nhất lên án tội mình (Chúa Nhật V Mùa Chay); thứ hai tha thứ lỗi lầm cho người thân cận (Chúa Nhật Lễ Lá); thứ ba là cầu nguyện (Chúa Nhật II Mùa Chay); thứ bốn là làm phúc bố thí (Chúa Nhật III Mùa Chay) và thứ năm là ăn ở khiêm nhường (Chúa Nhật I Mùa Chay).

  Thánh Kim Khẩu giải thích tiếp như sau: “Bạn đừng có thụ động, nhưng ngày nào cũng phải dùng tất cả những phương thế trên đây mà tiến lên. Vì lẽ đây là những phương thế dễ theo và bạn cũng không thể viện cớ là nghèo. Dầu bạn có nghèo lắm đi nữa, bạn vẫm có thể dẹp bỏ thói giận hờn; sống khiêm tốn; chuyên cần cầu nguyện; lên án tội lỗi và cảnh nghèo đâu có gây trở ngại nào cho bạn. Tôi nói gì nữa đây, bởi vì khi chúng ta theo cách sám hồi trong đó cần phải cho tiền (nghĩa là làm phúc bố thí), thì ngay cả cảnh nghèo cũng không cản trở chúng ta thi hành mệnh lệnh kia. Bà góa bỏ hai đồng tiền kẽm vào thùng đã chứng thực điều đó.

  Vậy khi chúng ta đã học được cách chữa lành thương tích, chúng ta hãy sử dụng các phương dược đó, để sau khi sức khỏe được hồi phục thực sự, chúng ta sẽ mạnh dạn đến hưởng tiệc thánh, sẽ được vinh dự lớn lao là đi nghênh đón Vua Ki-tô vinh hiển và mãi mãi chúng ta được phúc lộc vĩnh cửu nhờ ân sủng và lòng từ bi nhân hậu của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta” (Trích bài đọc 2, Kinh Sách CN 21 QN).

  Chúng ta hãy tin điều đó, vì điều đó đã được thực hiện nơi Đức Giê-su Ki-tô trong cuộc đời dương thế của Ngài, cũng như trong cuộc thương khó của Ngài, mà chúng ta đang cử hành, khi bắt đầu vào tuần thánh. Và cao điểm là Tam Nhật Vượt Qua.

  Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, đã đưa lưng cho người ta đánh đòn; giơ má cho người ta giật râu; đã không che mặt khi bị mắng nhiếc, phỉ nhổ. Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ Ngài, vì thế Ngài đã không hổ thẹn; vì thế Ngài trơ mặt ra như đá. Ngài biết mình sẽ không phải thẹn thùng.

  Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ nhất thiết duy trì, địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trỗi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.

  Chúng ta cũng hãy làm như vậy. Nếu người ta có chơi xấu; có nói xấu, có vu khống, có “ném đá”, có mắng nhiếc, có sỉ nhục ta, thì ta đừng để bụng và hãy tha thứ cho họ. Vì Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ ta, vì thế ta sẽ không hổ thẹn; vì thế ta sẽ trơ mặt ra như đá. Ta biết mình sẽ không phải thẹn thùng. Và chính vì thế Thiên Chúa sẽ siêu tôn ta và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu đấy.

  Ta hãy thực hành 5 con đường ăn năn sám hối đó, để cùng vào thánh thánh Giê-ru-sa-lem với Đức Giê-su Ki-tô; cùng vào tuần thánh với Giáo Hội và cùng phục sinh với Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.

----------------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-365: LẬT MẶT NHƯ TRỞ BÀN TAY


Lam Thy
 
 

Tuần lễ quan trọng nhất của Năm Phụng Vụ là Tuần Thánh. Tuần Thánh bắt đầu với Chúa nhật Suy niệm Lễlá-365


Tuần lễ quan trọng nhất của Năm Phụng Vụ là Tuần Thánh. Tuần Thánh bắt đầu với Chúa nhật Lễ Lá và Phụng vụ Lễ Lá lại tiến hành với hai nhịp tương phản. Bắt đầu là cử hành việc Chúa Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem trong tư cách một vị vua, được dân chúng đón tiếp trọng thể, ngập tràn tiếng reo vui. Rồi ngay sau đó, trong Thánh Lễ, thay cho bài Tin Mừng lại là bài tường thuật cuộc thương khó của Chúa, cuộc thương khó đầy máu và nước mắt. Giáo hội có ý gì khi liên kết hai sự kiện tương phản này? Tại sao không đợi đến Thứ Sáu Tuần Thánh để công bố bài thương khó mà phải đọc ngay từ Chúa nhật Lễ Lá? Quả thật có nhiều ý nghĩa phong phú hàm chứa ở đây cần được khai triển. Một trong những nội dung đáng quan tâm là Hội Thánh muốn làm nổi bật đường lối cứu thế của Chúa Giê-su và mời gọi con cái mình bước theo Thầy Chí Thánh.

Trước hết, Chúa nhật Lễ Lá phản ánh trung thực tâm trạng dân chúng Do Thái và nói chung là của con người trần thế: Vừa mới hoan hô, chúc tụng Chúa Giê-su rất nồng nhiệt, bằng những lời lẽ tưởng chừng như chân thành nhất (“Hoan hô Con vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời!” – Mt 21, 9); vậy mà chỉ mấy ngày sau, cũng chính những người hoan hô ấy lại hò reo: “Đóng đinh nó vào thập giá!” Thậm chí khi Tổng trấn Phi-la-tô thấy không cứu vãn được tình thế, đã lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói: “Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người liệu lấy!”, thì đám đông còn gào thét như thách thức: “Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!” (Mt 27, 24-25).

Đám đông dân chúng thì như vậy, nhưng còn những môn đệ ở liền bên với Đức Ki-tô thì sao? Các ngài đi theo Đức Ki-tô vì tin tưởng Người chính là vị cứu tinh cho cuộc đời của mình và các ngài luôn sẵn sàng tuyên xưng niềm tin ấy. Cụ thể như Phê-rô khi nghe Đức Ki-tô hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”, thì tuyên xưng liền: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16) và khi nghe Thầy tiên báo sẽ chối Thầy, thì ngay lập tức khẳng định chắc nịch: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy”. Thực ra, cũng không chỉ có một mình Phê-rô đâu, mà “Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy” (Mt 26, 35). Như thế thì chẳng phải là ca tụng, tung hô đó sao? Nhưng đến khi Thầy gặp nạn, thì “Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết” (Mt 26, 56), còn Phê-rô thì lẽo đẽo theo sau và chỉ cần một tớ gái nhà Cai-pha vặn hỏi đã vội vàng “Tôi thề là không biết người ấy” (Mt 26, 74) tới 3 lần. Ấy là chưa kể Giu-đa It-ca-ri-ốt đã bán Thầy cho quân dữ để lấy 30 đồng bạc. Bán Thầy, bỏ trốn hết, chối Thầy như vậy thì có khác gì đả đảo?

Thánh Phê-rô tuy có chối Thầy 3 lần trong một đêm, nhưng khi “sực nhớ lời Đức Giê-su đã nói: “Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần.” Ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết.” (Mt 26, 75). Còn Giu-đa It-ca-ri-ốt thì sao? Cùng ở trong nhóm 12 với các môn đệ được coi là thân tín nhất của Đức Giê-su, thì hẳn nhiên Giu-đa cũng tin tưởng và tung hô Thầy như các môn đệ khác (“Khi Người đến gần chỗ dốc xuống núi Ô-liu, tất cả đoàn môn đệ vui mừng bắt đầu lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa vì các phép lạ họ đã được thấy. Họ hô lên: “Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời!” – Lc 19, 37-38). Ngay cả khi Đức Giê-su tiên báo có môn đệ sẽ nộp Người cho quân dữ, các môn đệ xôn xao thắc mắc không biết đó là ai, thì Giu-đa cũng vẫn thản nhiên hỏi: “Ráp-bi, chẳng lẽ con sao?” Cho đến lúc “Đức Giê-su trả lời: “Thầy chấm bánh đưa cho ai, thì chính là kẻ ấy.” Rồi Người chấm một miếng bánh, trao cho Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt. Y vừa ăn xong miếng bánh, Xa-tan liền nhập vào y.” (Ga 13, 26-27), và thế là Giu-đa trở thành công cụ của Xa-tan bán Thầy lấy 30 đồng bạc! Cuối cùng lại phạm thêm một tội tày trời: Huỷ diệt công trình tạo dựng của Thiên Chúa (thắt cổ tự tử).

Thánh Phê-rô và Giu-đa chỉ là 2 nhân vật nổi cộm nêu bật hai chiều kích mâu thuẫn, đối nghịch nhau trong cùng một con người. Đến như đám đông người Do Thái khi đón tiếp Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem (kể cả những người đồng hương với Chúa khi đón tiếp Người về thăm Na-da-ret) còn tệ hại hơn nhiều. Ngày xưa thì như thế, còn ngày nay hẳn là còn hơn thế nữa là cái chắc. Ở Việt Nam tuy có gần 130.000 người chấp nhận cái chết chớ không chịu đả đảo Ki-tô (bước qua, đạp lên thánh giá, bỏ đạo), nhưng con số người sẵn sàng đạp lên thánh giá (chớ đừng nói chỉ bước qua), sẵn sàng gỡ bỏ bàn thờ để chưng hình lãnh tụ (đả đảo Giê-su, hoan hô lãnh tụ), sẵn sàng ghi vào sơ yếu lý lịch là “không tôn giáo”… thì không hiểu còn đông gấp bao nhiêu lần?

“Tình đời đổi trắng thay đen” chẳng khác gì cảnh “lật mặt như trở bàn tay”. Ôi chao! “Còn bạc còn tiền, còn đệ tử. Hết cơm, hết gạo, hết ông tôi.” (xc “Thế thái nhân tình” – Nguyễn Bỉnh Khiêm); “Suy ra cho kỹ, chi hơn nữa. Bạc quá vôi, mà mỏng quá mây” (xc Nguyễn Công Trứ  trong cùng tiêu đề thơ vịnh “Thế thái nhân tình”). Đám người vừa mới “tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người”, thì ngay sau đó “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành – thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực.” (Lc 4, 28-30). Vừa mới hôm trước “Hoan hô Con vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời”, hôm sau đã “Đóng đinh nó vào thập giá! … Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!”. Cảnh tượng đó nào có khác chi những kẻ “thay lòng đổi dạ” nhanh như chớp. Thật đúng là “Bề ngoài thơn thớt nói cười, Mà trong nham hiểm giết người không đao!” (“Kiều” – Nguyễn Du).

Đã có phản biện: Ngày xưa vì Đức Giê-su là Thiên-Chúa-làm-người – là một nhân vật bằng xương bằng thịt như bao người khác – nên mới có vụ hoan hô, đả đảo. Còn ngày nay thì đâu có một ông Giê-su Na-da-ret để mà hoan hô, đả đảo, đóng đinh vào thập giá. Để trả lời vấn nạn trên, xin nhấn mạnh ở đây: Vấn đề đả đảo, đóng đinh Chúa, không nhất thiết là cứ phải thật sự trực tiếp bắt trói Chúa, cầm búa đóng đinh vào tay chân Chúa đâu. Ngày nay cũng chẳng có cái vụ bắt bước qua hoặc đạp lên thánh giá, mà hình thức bách hại đạo còn tinh vi, khủng khiếp hơn nhiều. Ngay đến cả những người bề ngoài thì rất siêng năng đi lễ, đọc kinh, cầu nguyện, nhưng chỉ cần một người nghèo khó (một hành khất, chẳng hạn) đến “quấy rầy”, thì ngay lập tức “Không có gì hết! Cút đi chỗ khác!” Than ôi! “Ngày xưa Ta khát…, Ta đói…, Ta trần truồng… ” thì ngươi đã đối xử như vậy đó! Vậy thì ai hoan hô, ai đả đảo? Hoan hô và đả đảo ai vậy? Cứ thử gẫm suy cho thấu đáo mà xem, có đúng là chúng ta gây chia rẽ, bất hoà với anh em nhiều hơn là xây dựng, đoàn kết nhau không? Có phải là chúng ta đố kỵ ghen ghét nhiều hơn là yêu thương đùm bọc nhau không? Những cái mà chúng ta cư xử với anh em như vậy chẳng phải là chúng ta đã làm cho Chúa đấy sao? Vấn đề chính là ở chỗ đó.

Đối với con người thì chuyện thay lòng đổi dạ, đổi trắng thay đen chỉ là “chuyện thường ngày ở huyện”. Vấn đề đặt ra là khi được ơn soi sáng thì có biết ăn năn hối cải hay không mà thôi. Nếu chỉ là hối hận thì Giu-đa It-ca-ri-ốt và đám đông người Do Thái đã biểu hiện (“Bấy giờ, Giu-đa, kẻ đã nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận… ném số bạc vào Đền Thờ và ra đi thắt cổ.” – Mt 27, 3-5; “Thấy sự việc xảy ra như thế, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa rằng: “Người này đích thực là người công chính!” Toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về.” – Lc 23, 47-48). Đến như thánh Phê-rô mới là thực lòng ăn năn hối cải (Từ nguyên – Hối: cảm thấy nuối tiếc và băn khoăn, day dứt vì đã trót làm điều lầm lỗi; Cải: đổi khác đi). Vì thế, “sám hối” không thôi thì chưa đủ, mà còn cần “canh tân” nữa, và đó cũng chính là chủ đích của mùa Chay Thánh. Vâng, “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12, 20), “anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em” (Ep 4, 23).

Xin hãy noi gương tảng đá góc tường Phê-rô khi nhìn lại mình đã thực sự ăn năn hối cải, để rồi cùng với các Tông đồ tiên khởi hiệp ý cùng Mẹ Maria khẩn thiết cầu nguyện (“Đó là các ông: Phê-rô, Gio-an, Gia-cô-bê, An-rê, Phi-lip-phê, Tô-ma, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Gia-cô-bê con ông An-phê, Si-mon thuộc nhóm Quá Khích, và Giu-đa con ông Gia-cô-bê. Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giê-su.” – Cv 1, 13-14). Người Ki-tô hữu hãy cầu nguyện xin ơn soi sáng để nhìn rõ hình ảnh Thiên Chúa nơi người anh em, từ đó sống với nhau trong một sự hiệp thông liên kết như các chi thể của cùng một thân mình. Nói cách khác, “Các tín hữu Ki-tô chúng ta theo gương các Tông Đồ và nhìn thấy qua sự kiện có thể chia sẻ thiện ích của chúng ta với người khác là một chứng tá cụ thể về tình hiệp thông mà chúng ta sống trong Giáo Hội.” (Sứ điệp Mùa Chay 2018). Và chỉ có kết hiệp với nhau nên một trong Chúa Ki-tô, đồng tâm nhất trí cầu nguyện mới thực sự được Chúa ban Thần Khi như xưa Người đã ban trong ngày Lễ Ngũ Tuần.

Tóm lại, “khi các Ki-tô hữu và tất cả con người đón nhận một cách cương quyết “cơn đau sinh nở” của sự sám hối; toàn thể thế giới thụ tạo sẽ “không còn phải lệ thuộc vào cảnh hư nát nữa, nhưng được cùng với con cái Thiên Chúa, chung hưởng tự do và vinh quang” (Rm 8,21). Mùa Chay chính là dấu chỉ mang tính Bí Tích của sự hoán cải. Mùa này kêu gọi các Ki-tô hữu hãy để cho mầu nhiệm Vượt Qua trở nên hữu hình cách mạnh mẽ và cụ thể hơn trong đời sống cá nhân, gia đình và xã hội của họ, đặc biệt là thông qua việc chay tịnh, cầu nguyện và làm phúc bố thí.” (Sứ điệp Mùa Chay 2019).

Ôi! Lạy Chúa! Cúi xin Chúa ban Thần Khi soi sáng cho con để con nhìn thấy tỏ tường Chúa nơi người anh em của con, đồng thời giúp con đủ dũng khí đổi mới con người của con từ một “kẻ 2 lòng” trở nên người “một lòng một dạ” yêu thương và trung thành với Chúa, thương yêu anh em như chính bản thân mình, cho đến trọn đời. Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn cho Ðấng cứu chuộc loài người phải sống kiếp phàm nhân và chịu khổ hình thập giá để nêu gương khiêm nhường cho thiên hạ noi theo. Xin cho chúng con biết đón nhận bài học Người để lại trong cuộc thương khó, và được thông phần vinh quang phục sinh với Người. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen” (Lời nguỵên nhập lễ Lễ Lá).

-------------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-366: GIỜ ĐÃ ĐIỂM


Trầm Thiên Thu
 
 

Lá Biếc Cùng Lá Xanh Vẫy Chào Chúa. Người Già Với Người Trẻ Mừng Đón Vua Cái gì phải Suy niệm Lễlá-366


Lá Biếc Cùng Lá Xanh Vẫy Chào Chúa
Người Già Với Người Trẻ Mừng Đón Vua

Cái gì phải đến rồi cũng sẽ đến, dù người ta chờ đợi hoặc không hề mong muốn, bởi vì cái gì cũng chỉ có một thời, với một khoảng thời gian nhất định. Mọi thứ hữu hạn, vô thường chứ không bất thường. Bình thường.

Dù gần hay xa, mau hay lâu, ngắn hay dài,… rồi cũng đến. Trong thời gian Chúa Giêsu công khai sứ vụ, nhiều lần người ta đã lập mưu bắt Ngài nhưng chẳng ai làm gì được, bởi vì “chưa đến giờ”. Nhưng rồi cũng đến giờ, Chúa Nhật Lễ Lá là lúc giờ đã điểm, khởi đầu hành trình khổ nạn của Đức Kitô từ lúc vào Thành Giêrusalem.

Dân chúng đã từng chứng kiến Chúa Giêsu làm nhiều thứ quá tuyệt vời, quá kỳ diệu, vượt ngoài sức tưởng tượng của loài người, thế nên họ muốn tôn Ngài làm vua, vả lại chính họ cũng đã nhận biết Ngài là ai, họ lũ lượt theo nhau và reo hò vang dội: “Hoan hô Con vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời” (Mt 21:9). Nhưng chuyện không dừng lại ở “khoảng vinh quang” như thế!

Cây càng cao, gió càng lay. Càng làm lớn càng khổ. Khổ từ khi đăng quang và vinh quy bái tổ. Vua chúa, hoàng đế hoặc quốc vương nào cũng có lễ đăng quang. Ngay cả giáo hoàng cũng có lễ đăng quang. Riêng Chúa Giêsu, chỉ có đám dân đen tôn Ngài làm Vua, vì thế Ngài không hề được làm lễ đăng quang, và tất nhiên, Ngài là HOÀNG ĐẾ KHÔNG NGAI VÀNG, mà chỉ có “ngai khổ” là Thập Giá – loại khủng khiếp nhất thời đó.

Trong xã hội Việt Nam, người ta thường có cách nói ví von là “Khổ ải trần gian” hoặc “Đời là bể khổ”. Ải gì chứ ải khổ thì… khổ thật. Và cuộc đời là “biển khổ” chứ không phải “sông khổ” hoặc “ao khổ”. Phải chi “đời là ly khổ” thì đỡ khổ biết bao! Cách ví von đó cho thấy kiếp người không ngừng đau khổ, nỗi khổ này chồng chất nỗi khổ khác, ngày tháng là một hành trình đau khổ triền miên. Có lẽ do vậy mà khi sinh ra không ai cười, ai cũng “cất tiếng khóc chào đời”, trẻ sơ sinh nào cười là “có vấn đề” đấy.

Thật khó hiểu vì bí ẩn. Biết chấp nhận thì có thể “hóa giải” đau khổ thành niềm vui, nếu không thì tự đày đọa thêm mà thôi. Không thể thoát khổ, càng diệt khổ càng đau khổ, muốn thoát khổ hoặc diệt khổ chỉ là điều không tưởng, chuyện hão huyền. Nhưng có bí quyết khả dĩ giảm khổ, đó là “đi xuyên qua” chính những nỗi đau khổ của mình. Thánh nữ Bernadette có ước nguyện tuyệt vời: “Lạy Chúa, con không xin thoát khỏi đau khổ, nhưng xin Ngài đừng bỏ mặc con trong đau khổ”.

Ngày xưa, ông Thích Ca Mâu Ni là một hoàng tử sống trong cung vàng điện ngọc, nhưng ông đã “giác ngộ” sau khi nhìn thấy những cảnh khổ của kiếp người, thế nên ông quyết ngồi thiền dưới gốc bồ đề để tu thân và “tâm niệm” Tứ Diệu Đế (Sinh là khổ, Lão là khổ, Bệnh là khổ, và Tử là khổ). Nói tóm lại, khổ là… khổ. Ông đã siêu thoát và được người ta tôn vinh là Đức Phật.

Khi cưỡi lừa vào thành Giêrusalem, Chúa Giêsu được người ta vừa tung hô vừa cầm lá thiên tuế vẫy chào đón, có người còn lấy áo trải xuống đường cho Ngài đi qua. Thế nhưng khi đó cũng là lúc Ngài khởi đầu “hành trình đau khổ”, đau khổ tột cùng, không thể tưởng tượng nổi.

NGƯỜI TÔI TRUNG

Trong Cựu Ước, ngôn sứ Isaia đã nhiều lần tiên báo về “người tôi tớ đau khổ”. Ông cảm thấy Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho ông nói năng như một người môn đệ, để ông biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Chính ông minh đinh: “Sáng sáng Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ” (Is 50:4). Và ông cho biết thêm: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Is 50:5). Không phản đối, không chạy trốn, hoàn toàn tự nguyện chấp nhận chứ không hề miễn cưỡng.

Mặc dù phải “đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu” và “không che mặt khi bị mắng nhiếc, phỉ nhổ” (Is 50:6), ông vẫn một lòng trung tín tới cùng. Ông tin tưởng “có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ”, vì thế, ông “không hổ thẹn” mà cứ “trơ mặt ra như đá”. Hoàn toàn tin tưởng nên ông biết mình sẽ “không phải thẹn thùng” (Is 50:7). Ông là hình ảnh của Đức Kitô, con người của đau khổ, khởi đầu “chuyến khổ” từ Giêrusalem, ngay khi được người ta cầm những cành thiên tuế tung hô là vua. Cuộc sống rất nhiêu khê!

Lời lẽ trong Thánh Vịnh mô tả về tình trạng chịu nhục nhã ê chề mà Chúa Giêsu phải chịu, thật não lòng với cách diễn đạt rất thật:

Thấy con ai cũng chê cười
Lắc đầu, bĩu mỏ, buông lời mỉa mai:

“Nó trông cậy Đức Chúa Trời
Cứ để mặc Người giải cứu nó đi!” (Tv 22:8-9)

Người Tôi Trung không chỉ bị khiêu khích, mà cả tinh thần và thể lý đều đau khổ đến tột cùng:

Quanh con bầy chó bao chặt chẽ
Bọn ác nhân vây bủa trong ngoài
Chúng đâm con thủng chân tay
Xương con đếm được vắn dài, chúng xem (Tv 22:17-18)

Người Tôi Trung bị đau khổ vô cùng, nhưng vẫn luôn trông cậy vào Thiên Chúa, và chỉ có Thiên Chúa mà thôi:

Áo mặc ngoài chúng đem chia chác
Còn áo trong cũng bắt thăm luôn
Chúa là sức mạnh con nương
Cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa! (Tv 22:19-20)

Dù có thế nào thì Người Tôi Trung vẫn muốn được tôn vinh Thiên Chúa trong chính nỗi đau khổ của mình: “Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa, cho anh em tất cả được hay, và trong đại hội dân Ngài, con xin dâng tiến một bài tán dương” (Tv 22:23). Người Tôi Trung một niềm tín thành, vừa tự động viên mình vừa khuyến khích người khác: “Hỡi những ai kính sợ Đức Chúa, hãy ca tụng Người đi! Hỡi toàn thể giống nòi Gia-cóp, nào hãy tôn vinh Người! Dòng dõi Israel tất cả, nào một dạ khiếp oai!” (Tv 22:24).

NIỆM KHÚC KHỔ

Dùng cách nói vừa phân tích vừa xác định, Thánh Phaolô cho biết: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2:6). Dù đạo hay đời, những người quyền cao chức trọng hiếm thấy những người dám “vi hành” để hiểu rõ cảnh khổ của người dân. Có đi đâu thì kèn trống, cờ xí, tiệc tùng,… chuẩn bị rất kỹ lưỡng, thậm chí có nơi còn tập nghi thức. Thế thì làm sao biết được thực tế cuộc sống của đám chiên ghẻ, chiên lạc?

Thật tuyệt vời khi thấy trong tác phẩm “Authority: Its Use and Abuse” (*) có kể một số “điểm son” của Đức cố GM Joseph Irumpen (1919-1997), GP Palakkad (Ấn Độ), một giám-mục-đa-không, đáng để chúng ta noi gương. Tác giả cho biết:

Mỗi Chúa nhật, ngài đến một giáo xứ nào đó mà KHÔNG BÁO TRƯỚC, ngồi tòa giải tội khoảng 15-20 phút, dâng lễ, giảng lễ, dạy giáo lý, và CHUYỆN TRÒ với giáo dân và linh mục quản xứ; ngài KHÔNG BAO GIỜ cho phép người ta tổ chức tiếp tân chào mừng ngài tại các giáo xứ. Ngay tại tòa giám mục hay ở bất cứ nơi đâu mà ngài ghé thăm, ngài KHÔNG nhận bất cứ sự biệt đãi nào dành cho mình. Ngài cho rằng sự hào nhoáng bên ngoài (kiểu như đoàn xe đưa rước trong những dịp đặc biệt) KHÔNG phải là chứng nhân Tin Mừng, mà là chứng nhân của VĂN HÓA THẾ TỤC. Hằng ngày ngài dành thời gian từ 9 giờ đến 12 giờ để tiếp bất cứ ai đến gặp, không cần hẹn trước; ngài không bao giờ nghỉ trưa; ngài chỉ dự những lễ kỷ niệm chịu chức hay khấn dòng NẾU những lễ ấy tổ chức ở nhà thờ chính tòa; ngài KHÔNG tổ chức mừng ngày kỷ niệm thụ phong giám mục của mình.

Năm nào ngài cũng mừng lễ bổn mạng, dịp các linh mục tĩnh tâm tháng vào ngày 19-3 (Lễ Đức Thánh Giuse Phu Quân Đức Maria). Linh mục đoàn cùng nâng cốc chúc mừng và nhâm nhi chút bánh ngọt; ngài không đưa lên bảng thông tin giáo phận các tin về hoạt động hay đi lại của ngài trong giáo phận, mà chỉ thông tin cho mọi người biết trước về những trường hợp ngài phải ra ngoài giáo phận quá một ngày, chẳng hạn khi ngài sắp đi dự họp Hội Đồng Giám Mục,… Ngài không bao giờ đi nước ngoài, trừ phi đó là bổn phận bắt buộc như về Rôma dịp Ad limina. Ngài không bao giờ đi nước ngoài để quyên tiền. Ngài nói rằng các nhu cầu căn bản của giáo phận cần phải được gánh vác bởi chính giáo dân trong giáo phận; không bao giờ có chuyện “phạt treo” – chẳng hạn, không cấp giấy chứng chỉ hôn phối vì người ta chưa đóng góp quỹ. Ngài luôn ăn mặc giản dị, ăn chay trường, và chẳng ai thấy hình ảnh của ngài trên báo chí. Ngài hưu trí tại nhà hưu của các linh mục cao niên. Cuộc đời ngài thật đơn giản, tất cả đồ đạc xếp gọn trong một chuyến xe nhỏ; giáo phận tặng ngài một ô tô dịp ngài về hưu, nhưng ngài không nhận, chỉ muốn được trợ cấp hưu bổng đúng theo mức hưu dưỡng như các linh mục khác trong giáo phận; ngài không muốn xin viện trợ từ bên ngoài để xây các nhà thờ to lớn. Nếu ai dâng hiến đất, ngài sẽ xây một nhà thờ vừa phải với sự hỗ trợ của chính các giáo dân địa phương; văn phòng của ngài là một gian phòng nhỏ trong một ngôi nhà cũ kỹ, không có bất cứ món trang trí nào; ngài là một chứng nhân Tin Mừng, sống điều ngài rao giảng, cách sống của ngài cho thấy rõ quyền bính là để phục vụ.

Thật vui mừng vì tại Việt Nam cũng có được tấm gương sáng của Đức cố GM Cassaigne (người Pháp, quen gọi cha Sanh, nguyên giám mục GP Saigon), vị tông đồ của người cùi. Khi còn là giám mục Saigon, ngài cũng đã từng rong ruổi khắp khu dân cư nghèo để thấy rõ thực tế, cửa tòa giám mục cũng luôn rộng mở đón tiếp mọi người. Ôi, tuyệt vời biết bao!

Thật đáng khâm phục các chứng nhân sống động như vậy, đúng là các mục tử như lòng Chúa mong ước, dám quên mình vì đoàn chiên, các chủ chăn đích thực chứ không nói suông qua các văn bản hoặc bài giảng sáo rỗng.

Chúa Giêsu không chỉ là Người Tôi Trung mà còn là Người Tôi Tớ Đau Khổ và Khiêm Nhường: “Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2:7). Cái chết của Ngài khác thường là “chết trên thập giá”, loại khổ hình nhục nhã nhất thời đó. Chính vì Ngài chịu đau khổ đến tột cùng mà “Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2:9), danh hiệu ấy cao cả và quyền năng đến nỗi “khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ” (Pl 2:10). Và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2:11).

Chắc hẳn chẳng ai muốn khó đến thân chứ nói chi chịu đau khổ, nghĩa là ai cũng muốn cuộc sống ung dung sung sướng, thanh thản tận hưởng niềm hạnh phúc – tận hưởng bằng mọi cách, càng nhiều càng tốt. Do đó, con người miệt mài đi tìm hạnh phúc, bất kể ngày hay đêm. Đau khổ luôn là điều bí ẩn đối với cuộc sống, nó kỳ diệu nhưng không dễ chấp nhận, thậm chí người nào chấp nhận đau khổ có thể bị coi là “ngu xuẩn”, là “dại dột”, là “điên khùng”. Tuy nhiên, đối với người tin vào Đức Kitô thì đau khổ là một mầu nhiệm – nghĩa là không thể hiểu hết nhưng chấp nhận vì đức mến, đặc biệt là noi gương và kết hiệp với Đức Kitô.

Chúng ta biết rằng ở bất kỳ ở quốc gia nào, một bị cáo đứng trước vành móng ngựa cũng có luật sư bào chữa (biện hộ thật chứ không “làm kiểng” hoặc cho đủ bộ). Trong Giáo hội Công giáo, trước khi phong thánh cho ai thì cũng có 2 “phe”, một phe đưa ra các điều tốt và một phe đưa ra các điều xấu – gọi là “luật sư của quỷ”, phe luật sư này sẽ đưa ra mọi thứ “bất lợi” cho ứng viên đến khi “chịu thua” mới thôi. Chẳng hạn trường hợp của Thánh GH Gioan XXIII, phe luật sư của quỷ đã hết cách nên “tố cáo” Gioan XXIII hồi nhỏ hay chơi diều. Đúng là “hết nước nói” luôn! [Nói khôi hài mỉa mai theo Pháp ngữ là “finir l’eau dire”, hoặc kiểu Anh ngữ là “no star where”, còn Việt ngữ thời @ là BóTay.com].

Chắc hắn rằng từ cổ chí kim, chỉ có một tử tội đặc biệt không có luật sư bào chữa, cũng chẳng có ai bênh vực một lời nào, đó chính là Đức Giêsu Kitô – Chúa của chúng ta. Thật đáng buồn, bởi vì người ta vừa mới tôn Ngài làm vua thì đã vội lật mặt và đòi đóng đinh vào Thập giá, đến cả những người thân cận nhất cũng sợ liên lụy mà bỏ rơi chính Tôn Sư của mình, người mà mình vẫn không tiếc lời tán dương lên tận mây xanh. Cái lưỡi không xương uốn éo kiểu lươn lẹo “khéo” thật đấy!

GIỜ ĐÃ ĐIỂM

Điểm giờ là lúc giờ đã đến. Người ta gọi thời điểm đó là Giờ G (do câu “Time is Gold” – Thời giờ là vàng bạc, “giờ vàng”, rất quý, được hiểu với ý nghĩa là “thời điểm quan trọng” để hành động). Bài Thương Khó hôm nay là một bộ phim dài, một tấn bi kịch thảm thương, một cuộc chia ly đẫm nước mắt với vị mặn chát bao trùm những người thân tín nhất.

Thời khắc quan trọng đã điểm, Đức Giêsu vào bàn cùng với các Tông Đồ. Biết trước những gì sắp xảy ra, Ngài nói: “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình” (Lc 22:15). Ngài nói rõ, không bóng gió nữa, và Ngài cho biết lý do: “Thầy sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa” (Lc 22:16). Những lời này như lời trăn trối của người sắp vĩnh biệt cõi đời. Nghe thật não lòng!

Ngay sau đó, Ngài thiết lập Bí tích Thánh Thể, Ngài dùng chính Mình Máu Ngài để nuôi sống chúng ta, và thiết lập chức linh mục để tiếp nối công việc Ngài ủy thác. Ngài tiên báo mọi chuyện sắp xảy ra như những lời trăn trối, và để cảnh báo mọi người. Rồi Ngài phân tích về cách cai trị: “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ. Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ. Còn anh em, anh em vẫn một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp thử thách gian nan. Vì thế, Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự toà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en” (Lc 22:25-30). Phải hành động khác người, khác với đời thường, nghĩa là không được lạm quyền mà lộng hành, chỉ nói phục vụ mà thực tế thì không như vậy.

Và đặc biệt hơn, Ngài đã thẳng thắn cảnh báo về sự dữ đối với Phêrô: “Simon, Simon ơi, kìa Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22:31-32). Chúa Giêsu biết ông sẽ sa ngã và trở lại, Ngài thân thiện gọi đích danh ông là Simon, gọi tên thật chứ không gọi “nickname” Phêrô – tông hiệu của vị giáo hoàng tiên khởi.

Ông Phêrô thưa với Người: “Lạy Chúa, dầu có phải vào tù hay phải chết với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng” (Lc 22:33). Đức Giêsu nói ngay: “Này anh Phêrô, Thầy bảo cho anh biết, hôm nay gà chưa kịp gáy, thì đã ba lần anh chối là không biết Thầy” (Lc 22:34). Tính nóng như lửa, Trương Phi thua xa, thế mà Phêrô cũng chỉ biết cúi đầu im lặng, không biết nói gì nữa. Bình thường thì nói ngon lắm, nhưng rồi đâu dễ gì làm được như thế. NÓI và LÀM là hai việc khác nhau, có một khoảng cách rất gần mà cũng… rất xa. Nói trước bước khó qua ghê!

Chúa Giêsu biết mình không còn bao lâu nữa sẽ xa rời họ – nhưng người thân thích, nên Ngài thực sự rất quan tâm: “Anh em có thiếu thốn gì không?” (Lc 22:35). Các ông trả lời “không”, họ cứ tưởng sắp có chiến tranh và đổ máu nên cùng nhau nói: “Lạy Chúa, đã có hai thanh gươm đây” (Lc 22:38a). Nhưng Chúa Giêsu bảo họ: “Đủ rồi!” (Lc 22:38b). Thật ra chỉ một thanh gươm cũng là thừa rồi, bởi vì không bao giờ cần dùng bất cứ vũ khí gì.

Và theo thói quen, Ngài đi ra núi Ô-liu. Các môn đệ lặng lẽ đi theo Ngài. Khi đến nơi, Ngài bảo: “Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22:40). Cầu nguyện là điều cần thiết lắm, thứ nhất là cầu nguyện, thứ nhì mới là hành động. Ngài đi xa các ông một quãng, rồi quỳ gối cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha” (Lc 22:42). Lúc này Ngài lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Theo nhân tính, Chúa Giêsu vừa lo vừa sợ, vừa u buồn vừa cô đơn, đến nỗi mồ hôi Ngài như những giọt máu rơi xuống đất (Lc 22:44).

Khi cầu nguyện xong, Ngài quay lại chỗ các môn đệ, nhưng thấy các ông vẫn đang ngủ ngon lành. Ngài nói: “Sao anh em lại ngủ? Dậy mà cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22:46). Lần thứ hai Chúa nhắc các ông về việc cầu nguyện, Ngài xác định việc cầu nguyện vô cùng cần thiết, mọi nơi và mọi lúc, phải cố gắng làm chứ không thể tùy hứng.

Đúng ngay thời điểm đó, Giuđa lại gần Đức Giêsu để hôn và cũng để chỉ điểm cho bọn thủ ác đến vây bắt Ngài. Chúa Giêsu ôn tồn: “Giuđa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?” (Lc 22:48). Lời nói nhẹ nhàng mà thấm thía nỗi đau. Ngày nay, chúng ta cũng vẫn dùng các dạng “dấu tốt” để bán đứng Chúa, mưu hại tha nhân, sẵn sàng làm những điều phi nhân phi nghĩa mà không chút ngại ngùng. Lương tâm không còn thẳng thắn mà bị lệch lạc rồi, bóng tối che khuất nẻo sáng rồi. Thật đáng sợ!

Như phản xạ tự nhiên, người ta muốn dùng gươm giáo để chiến đấu, chính Phêrô cũng đã nhanh như chớp, tuốt gươm ra chém ngay, nhưng có lẽ ông run tay nên chỉ đứt tai một tên lính chứ nếu ngon lành thì ông cho cái đầu nó lìa khỏi cổ rồi. Thế thì Phêrô còn nhát tay lắm! Vừa thấy thế, Đức Giêsu lên tiếng ngay: “Thôi, ngừng lại” (Lc 22:51). Và rồi Ngài gắn lại liền tai cho khổ chủ. Ôi, phép lạ nhãn tiền thế mà bọn thủ ác vẫn lì lợm, vẫn cứng lòng, vẫn cố chấp. Kể ra chúng cũng quái gở thật. Ma quỷ “đầu độc” chúng rồi!

Đám ác nhân dẫn Chúa Giêsu đi. Khi đi ngang qua Phêrô, Ngài nhìn ông với ánh mắt sâu thẳm, vừa buồn trách vừa xót thương, ông giật mình bởi vì ông vừa chối Thầy đúng như lời Thầy nói trước. Tiếng gà chợt gáy như xoáy sâu vào lòng ông khiến ông vừa xấu hổ vừa sợ hãi, ông vội chạy ra ngoài, ăn năn và bật khóc, khóc như con trẻ, khóc như chưa bao giờ khóc, tiếng khóc rất thảm thiết (Lc 22:62). Phạm tội là xấu nhưng chưa đáng ngại, cố chấp mà cứ ù lì trong tội mới đáng sợ!

Máu ác dồn lại trong tim và dâng cao lên óc, bọn thủ ác bịt mắt Ngài lại, thốt ra nhiều lời khác xúc phạm đến Ngài, và hành hạ Ngài đủ kiểu, thâu đêm suốt sáng, không chút nương tay. Chỉ tưởng tượng cũng thấy thật kinh khủng! Khi trời sáng, chúng mỉa mai: “Vậy ông là Con Thiên Chúa sao?” (Lc 22:70a). Ngài vẫn thản nhiên: “Đúng như các ông nói, chính tôi đây!” (Lc 22:70b). Họ liền vào hùa với nhau để kết tội Ngài: “Chúng ta cần gì lời chứng nữa? Chính chúng ta vừa nghe miệng hắn nói!” (Lc 22:71).

Sau đó, họ bắt đầu tố cáo Chúa Giêsu đủ thứ, từ chuyện nhỏ tới chuyện lớn, họ bắt bẻ và bịa chuyện đủ thứ, tốt thành xấu, cái gì cũng hóa thành trọng tội, kiểu xử bất công miễn sao có thể giết người lành. Tâm địa kẻ ác là vậy, xã hội ngày nay không thiếu gì những phiên tòa bất công như vậy!

Còn Philatô thì nhát gan vì sợ mất chức mất quyền, không dám hành động theo lương tâm, rửa tay để chứng tỏ mình chí công vô tư, biết Chúa Giêsu vô tội mà không dám tha – dù chính ông ta xác nhận hai lần (Lc 23:4 và 22). Ông ta muốn cho đánh đòn Chúa Giêsu rồi thả ra, nhưng dân chúng không chịu, họ đồng thanh la ó: “Giết nó đi, thả Baraba cho chúng tôi!” (Lc 23:18). Có quyền lực mà bất lực. Thật hèn hạ và nhục nhã! Còn Baraba là ai? Hắn đã bị tống ngục vì một vụ bạo động đã xảy ra trong thành, và vì tội giết người. Họ coi Chúa Giêsu không bằng một tên tử tội tàn ác khét tiếng. Thấy dân chúng nhất quyết xin tha Baraba mà giết Chúa Giêsu, Philatô đành chiều theo ý họ. Thật đê tiện khi ích kỷ mà để cho cái ác lộng hành!

Từ dinh Philatô tới Đồi Can-vê là con đường quanh co, đồi dốc và lởm chởm. Chúa Giêsu phải tự vác thập giá mà đi, rất cực nhọc, đuối sức dần vì Ngài bị đòn roi với đủ nhục hình và còn bị đói khát nữa, thế nên Ngài đã ngã xuống 3 lần vì sức nặng của thập giá. Chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi, không đơn giản chút nào!

Khi tới Đồi Sọ, họ đóng đinh Ngài vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. Đã chịu đủ loại nhục hình, từ lời nhục mạ tới hành động đóng đinh – loại tử hình khủng khiếp nhất thời đó, và dù đang bị treo trên thập giá, Đức Giêsu vẫn đại lượng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23:34). Kể từ xưa tới nay, và cho đến tận thế, chắn chắn không có sự tha thứ nào vĩ đại hơn như vậy!

Thật kỳ diệu, ngay cả tên gian phi cùng bị đóng đinh với Ngài, với chỉ một lời “xin nhớ tới hắn” thôi, thế mà Ngài liền cho hắn đồng hành vào Thiên Quốc, và trở thành vị thánh đầu tiên của Tân Ước. Thật là đại phúc cho Dismas – kẻ cướp tốt lành. Ước gì chúng ta cũng chân thành sám hối và được diễm phúc như vậy!

Đối với một con người, cái chết là kết thúc cuộc sống trần gian, làn hơi thở cuối cùng là ranh giới giữa sự sống và sự chết. Mọi sự đã hoàn tất. Sứ vụ cứu độ đã trọn vẹn. Khi đó, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23:46). Nói xong, Ngài tắt thở. Chúa Giêsu chỉ chết về phần nhân tính, như một con người bình thường, chứ Ngài KHÔNG CHẾT về phần thần tính.

Khi thấy sự việc xảy ra nhãn tiền như vậy, viên đại đội trưởng kinh ngạc và liền cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa bằng cách xác nhận: “Người này đích thực là người công chính!” (Lc 23:47 ≈ Mt 27:54; Mc 15:39), và toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về (Lc 23:48). Đó là những biểu hiện sám hối, họ còn may mắn và kịp nhận ra tội mình – không trực tiếp thì cũng gián tiếp giết chết người vô tội, làm khổ tha nhân, sát hại Đức Kitô. Sự thật mãi mãi là sự thật, vĩnh hằng và bất biến.

Chắc chắn không có nỗi đau khổ nào bằng (chứ không thể “hơn”) nỗi khổ của Chúa Giêsu. Ngài được tôn làm vua – chỉ trong chốc lát – mà không hề có ngai vàng, không hề được đăng quang, thay vào đó lại là những loại nhục hình, cuối cùng là bị đóng đinh vào thập giá. Thật thê thảm!

Lạy Thiên Chúa muôn loài, tội nhân chúng con thành tâm sám hối và xin lỗi Ngài, xin thương xót và tha thứ. Chúng con cảm tạ Chúa Cha đã ban Đấng Cứu Thế để chúng con được giải thoát và có cơ hội làm lại cuộc đời. Thật là diễm phúc vì chúng con được tận hưởng Lòng Thương Xót vô biên nhờ cái chết của Đức Kitô, dù chính chúng con đã nhẫn tâm trực tiếp hoặc đồng lõa sát hại Ngài. Xin Cha ban Thánh Linh giúp chúng con can đảm sống xứng đáng với Ơn Cứu Độ, kiên trì đi trọn hành trình đau khổ và làm chứng nhân sống động về Lòng Thương Xót vô biên của Ngài, để rồi chúng con cũng được cùng phục sinh với Chúa Con. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ duy nhất của nhân loại. Amen.

——-
(*) Authority: Its Use and Abuse (Sử dụng và Lạm dụng Quyền bính), sách của LM C.P. Varkey (NXB The Bombay Saint Paul Society, 1999).

---------------------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-367: THẬP GIÁ ĐÒI HỎI LÒNG QUẢ CẢM


Lm JB Nguyễn Minh Hùng
 
 

Hôm nay với nghi thức làm phép và rước lá, tưởng niệm việc Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem trong Suy niệm Lễlá-367


Hôm nay với nghi thức làm phép và rước lá, tưởng niệm việc Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem trong vinh quang, Hội Thánh chính thức khai mạc tuần Thánh.

Lắng nghe và suy niệm bài Thương Khó dài tường thuật biến cố tử nạn đau thương, đầy ảm đạm của Chúa Giêsu, tôi lại thấy tiếng nói của thập giá vang trong tâm hồn mình, đòi hỏi cả một nỗ lực lớn, một lòng can đảm đầy quả cảm để có thể cùng Chúa vác thập giá bước theo Chúa suốt đời mình.

Đòi hỏi về sự quả cảm đó, không chỉ riêng bạn và tôi hôm nay, ngày xưa các môn đệ của Chúa cũng đã từng phải đối diện.

Đòi hỏi của thập giá là đòi hỏi nghiêm túc đến mức khắt nghiệt, có lúc ê chề, đau đớn. Các môn đệ Chúa Giêsu đã từng hoang mang, đau đớn như thế khi chứng kiến cuộc thương khó của Thầy.

Mới mấy ngày trước đây, dân chúng còn dành cho Thầy một vinh dự quá lớn khi đón tiếp Thầy vào thủ đô, vậy mà ngay sau đó, người ta đã trở mặt nhanh chóng và lạnh lùng.

Thay cho sự tiếp đón, bay giờ người ta dành cho Thầy những trận đòn độc ác đến ngỡ ngàng. Những trận đòn tàn nhẫn cứ y như là bao nhiêu nỗi căm hờn, sự tức tối, thù ghét chất chứa bao nhiêu năm tháng bây giờ được dịp bung ra dồn vào đầu ngọn roi, vào mọi lời sỉ vả, chửi bới, dồn vào những mũi đinh nhọn hằn học giết chết Thầy…

Hóa ra phút vinh quang của ngày lễ Lá chỉ là một ánh chớp thoáng qua rồi lịm tắt.

Đâu hết rồi cảnh huy hoàng của những người ái mộ trải áo, lót lá xuống đường nghênh đón Vua Trời? Đâu hết rồi những lời tung hô dậy trời: “Hoang hô con vua Đavit, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến ; hoang hô trên các tầng trời”? Đã biến đi đâu cảnh náo động đến tưng bừng khắp Giêrusalem khi “Tiên tri Giêsu” tiến vào thành?

Cứ như thế, niềm vui vừa mới chớm, nỗi khổ đã lên ngôi. Niềm vui sao mà nhỏ bé, còn nỗi buồn sao cứ ngất cao đầy ứ lòng người. Các môn đệ thấy hết, chứng kiến hết. Vậy đó, vinh quang chỉ là những ánh chớp, còn nỗi buồn cứ giăng mắc không thương tiếc. Không thể đối diện với nó, các môn đệ chỉ còn biết trốn chạy.

Cuộc thương khó vượt quá tầm hiểu biết, vượt lên trên mọi lý lẽ của mình, bởi sức người khó có thể chấp nhận được vì sao Đấng là Thiên Chúa làm người lại có thể bị vùi giập đến tan nát như thế?

Càng không thể hiểu, các môn đệ càng sợ hãi, càng mất tất cả niềm hy vọng, mất tất cả sinh lực sống. Các môn đệ Chúa Giêsu trở thành những kẻ bi quan, khiếp đảm, bạc nhược.

Nhưng đâu chỉ có thế, đòi hỏi của thập giá là đòi hỏi cá nhân, dành cho mỗi một người, cần sự đáp trả bằng lòng trung thành của mỗi một người.

Để chấp nhận thập giá và để đáp ứng mọi đòi hỏi của thập giá, chỉ có một điều kiện duy nhất, cũng là điều kiện tiên quyết, đó chính là lòng yêu mến thâm sâu và cá vị với Chúa Giêsu.

Thánh Gioan tông đồ, Đức Maria là những người có tâm hồn chan chứa lòng yêu mến ấy. Chính vì lòng yêu mến cá vị này, mà cả hai: Đức Mẹ và thánh Gioan đã can đảm chứng kiến đến giây phút sau cùng nỗi đau của thập giá mà Chúa Giêsu đã chấp nhận suốt đời của Người cho đến đỉnh cao là cái chết bi thương trên đồi Sọ.

Bởi thập giá Chúa Giêsu phải gánh lấy đâu chỉ là cây thập giá bằng gỗ trên đường thương khó, mà nó còn là cây thập giá suốt chiều dài trên đường dương thế của Người.

Chứng kiến đến cùng bằng sự nhìn ngắm thẳm sâu và bằng tình yêu hiệp thông mật thiết cách cá vị như thế, chính là lúc Mẹ Maria cũng như thánh Gioan tông đồ đã cùng kề vai vác thập giá với Chúa.

Chính trong tình yêu, nỗi đau hay niềm vui của người này trở thành nỗi đau hay niềm vui của người kia. Bởi đó ta có thể nói, trong lòng yêu mến cá vị của mình, thập giá của Chúa chính là thập giá của Đức Maria, của thánh Gioan khi đi bên cạnh Chúa Giêsu.

Cũng là người môn đệ của Thầy Giêsu trong cuộc đời này, chắc chắn đòi hỏi của thập giá đã và sẽ tiếp tục không khước từ chúng ta.

Theo Chúa giữa lúc Chúa được tung hô, chẳng khó gì. Nhưng tiếp tục theo Chúa và ở lại với Chúa giữa lúc Chúa bị loại trừ, bị bách hại là một khó khăn lớn. Càng dấn bước theo Chúa sâu xa bao nhiêu, đòi hỏi của thập giá càng lớn lao, mạnh mẽ và dữ dội bấy nhiêu.
Chúng ta hãy nhìn lên Đức Maria, nhìn mẫu gương của thánh Gioan tông đồ mà cố gắng hiến dâng tình yêu, hiến dâng lòng trung thành của mình.

Hoặc nếu đã có lần nào ta va vấp trong cuộc đời, thì hãy nhìn mẫu gương của mười tông đồ còn lại, là những người đã từng khiếp đảm trốn chạy, nhưng cũng đã lấy lại niềm tin để tiếp tục sống trung thành.

Những tấm gương ấy sẽ tạo thêm nghị lực cho mình, đủ sức đứng lên làm lại những gì đã mất.

Mẫu gương trung thành của Đức Mẹ, của các thánh tông đồ phải là bài học thường xuyên liên tục suốt đời Kitô hữu của bạn và của tôi.

Nguyện xin Đức Mẹ, xin các thánh Tông đồ cầu bàu cho chúng ta, để chúng ta hoàn thành những đòi hỏi của thập giá suốt cuộc đời mình cách xuất sắc nhất.

--------------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-368: CHÚA NHẬT LỄ LÁ_C


Lm. Antôn
 
 

Chúa nhật Lễ Lá hôm nay khởi đầu Tuần thánh, và suy niệm những đoạn Tin mừng diễn tả những Suy niệm Lễlá-368


Chúa nhật Lễ Lá hôm nay khởi đầu Tuần thánh, và suy niệm những đoạn Tin mừng diễn tả những sự kiện xảy ra trong những ngày cuối cùng trong chương trình cứu độ của Chúa Giê-su.  Một điều quan trọng mà chúng ta phải chú ý là tất cả lời nói và hành động của Chúa Giê-su phát xuất từ một động lực và diễn tả một điều duy nhất là tình yêu cao cả và tột đỉnh của Chúa cho chúng ta.

Bài Thương khó theo Tin mừng thánh Lu-ca có rất nhiều ý nghĩa sâu sa về mầu nhiệm tình yêu của Chúa, nhưng ở đây tôi xin chia sẻ 3 ý tưởng để chúng ta cùng suy niệm. Thứ nhất, Tin mừng nhất mạnh đến sự vô tội của Chúa Giê-su.  Khi Chúa Giê-su bị điệu đến dinh tổng trấn Phi-la-tô, một người quyền lực và có tâm độc, có thể xét xử và kết án bất cứ ai, nhưng ông đã tuyên bố Chúa Giê-su là người vô tội, không phải một lần, nhưng tới 3 lần và ra lệnh giải Chúa đến Hê-rô-đê.  Nhưng Hê-rô-đê cũng nhận ra Chúa vô tội và gởi trả về cho Phi-la-tô.  Người trộm cướp bị đóng đinh cùng Chúa cũng khẳng định rằng: “Chúng ta chịu đóng đinh xứng với việc chúng ta đã làm, còn Ông này, Ông có làm gì xấu đâu.”  Và người sĩ quan cũng công nhận Chúa Giê-su vô tội và ca tụng rằng: “Ông này quả thật là người công chính.”

Chúa Giê-su vô tội nhưng đã bị nhạo cười, phỉ báng, đánh đập, chịu những bất công và bị lên án đóng đinh vào thập giá. Nếu đặt mình trong đám đông dân chúng, chúng ta tự hỏi: “Chúng ta có là những người hoan hô vinh danh Chúa?  Hay là những người đã kết án đóng đinh Chúa vào thập giá?”  Hay “Chúng ta là những người dửng dưng, lạnh nhạt và cứng lòng trước những sự thương khó và đau khổ của Chúa?”  Chúng ta thấy ngày nay có nhiều người kể cả những Ki-tô hữu cứng lòng trước sự thương khó và thập giá của Chúa.  Cuộc thương khó của Chúa không còn đánh động vào con tim chai đá của họ. Tội lỗi đã làm cho tâm hồn họ trở nên chai cứng. Không có lời nào có thể lay chuyển con tim chai cứng và thay đổi được đời sống của họ.

Ý tưởng thứ hai là bản tính nhân từ và lòng thương xót tha thứ của Chúa.  Chúng ta đã biết Tin mừng của thánh Lu-ca là Tin mừng của lòng thương xót tha thứ.  Lòng thương xót của Chúa Giê-su được thể hiện khi Người còn đang trên con đường thương khó, chữa lành tai phải của người đầy tớ bị Phê-rô dùng gươm chém cụt mất, và đã giải sự thù nghịch giữa Phi-la-tô và Hê-rô-đê, để họ làm hòa và trở nên thân thiết với nhau.  Và khi chịu đóng đinh treo trên thập giá, Chúa đã tha thứ cho người trộm cướp có lòng tin cùng chịu đóng đinh xin được vào Thiên Đàng, và cho những người làm hại mình, Người đã cầu nguyện: “Lạy Cha, xin tha thứ cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm.” Và Chúa cũng đã tha thứ.

Chúng ta không là người vô tội như Chúa Giê-su, chúng ta là những người có tội, nhưng cũng có thể theo gương Chúa trở thành sứ giả của lòng thương xót và tha thứ của Chúa.  Chúng ta được kêu gọi lấy tình yêu chữa hận thù, và tha thứ cho người khác thay vì mang nặng những sự thù ghen trong con người chúng ta.

Ý tưởng cuối cùng là tuy Tin mừng không đề cập đến việc Chúa bị đội mão gai, nhưng cho chúng ta biết đến sự kiện Chúa bị sỉ nhục, bị vả vào mặt trong sự nhạo cười và chế diễu.  Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa cao cả nhận chịu những sự nhục nhã và đau khổ do con người gây nên.  Tại sao Chúa nhận chịu những sự sỉ nhục này? Thưa vì yêu thương cho nên Chúa muốn gánh lấy tất cả để chúng ta tin và yêu mến Người.

Tôi phải thú nhận mỗi khi suy niệm cuộc thương khó của Chúa Giê-su, tôi tìm được sức mạnh để đối diện và vượt qua những khó khăn và thử thách trong cuộc sống.  Và tôi nghĩ rằng tất cả mọi người chúng ta cũng sẽ tìm được sức mạnh và niềm hy vọng nếu hy sinh thời giờ suy niệm sự đau khổ, sự sỉ nhục và cái chết của Chúa Giê-su trên thập giá. Và cũng sẽ cảm nghiệm được tình yêu thương của Chúa cho chúng ta.

Tôi kêu gọi tất cả ông bà anh chị em hy sinh chút thời giờ trong Tuần Thánh này để suy niệm và đặt mình vào cuộc hành trình thương khó của Chúa Giê-su, để cảm nghiệm tình yêu và lòng thương xót của Người cho chúng ta, trở nên sứ giả tình yêu và lòng thương xót của Chúa cho những người sống chung quanh chúng ta.

----------------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-369: MÂU THUẪN


Lm. Thái Sơn
 
 

Có một đứa bé, đầu óc đần độn, hay nói những câu gở miệng. Cả nhà đều biết chuyện này cho Suy niệm Lễlá-369


Có một đứa bé, đầu óc đần độn, hay nói những câu gở miệng. Cả nhà đều biết chuyện này cho nên dặn đi dặn lại nhiều lần:

– Này, hôm nay là ngày tết, đừng nói gở đấy! Nhớ nhé, toàn là người lớn cả, đừng nói gở mà phải đòn đấy.

Chứng nào vẫn tật ấy! Một hôm, nhà chú có đám cưới, bố dắt bé đi cùng. Trước khi đi, bố dặn kỹ, con gật đầu, nói rất rõ:

– Con biết rồi, không được nói gở.

Bố xoa đầu con và dắt đi dự tiệc đám cưới. Trước khi ngồi vào mâm cỗ, bố lại dặn con lần nữa:

– Nhớ lời bố dặn, không được nói gở đấy?

Đứa bé nói thật to:

– Con biết rồi, không nói gở, đám cưới chứ có phải là đám tang đâu!

Thưa các bạn !

Phải chăng, mâu thuẫn là sự tương phản, đối lập hay trái ngược nhau? Ca dao tục ngữ Việt Nam có nói:

“Gió đưa buồng chuối sau hè,
Lăm le cô chị, dò dè cô em!”.

Hay

“Bên ngoài lồng lộng như gương,
Bên trong nát bấy như đường trâu đi!”…

Trên trang “Bút Sen”, thầy Thích Thanh Từ đã chia sẻ thật sâu sắc: “Cuộc đời là những mâu thuẫn”.

Lời của một nhà văn đã viết: “Giới trẻ bây giờ giống cha ông của chúng ngày trước. Cũng bỏ nhà ra đi, cũng hút thuốc lá, cũng lấy bà xã, sinh con, chỉ có điều, chúng làm tất cả theo thứ tự ngược lại”.

Franz Peter Schubert, nhà soạn nhạc người Áo, có viết một câu đại ý như sau: “Khi tôi muốn hát về tình yêu thì tình yêu thành đau khổ. Khi tôi muốn hát về đau khổ thì đau khổ thành tình yêu đối với tôi”.

Mừng kính Chúa Nhật Lễ lá, Giáo Hội mời gọi ta lắng nghe và suy ngắm cuộc thương khó của Đức Giêsu Kitô. Thiết tưởng, trong đó mâu thuẫn rất nhiều. Xin lược một vài nhân vật:

Mâu thuẫn nơi dân Do Thái: Mới hoan hô Chúa vào thành, chẳng bao lâu lại hô hào đóng đinh Chúa vào thập giá.

Mâu thuẫn của quan Philato: Xét thấy Chúa không có tội gì đáng chết, nhưng áp lực của dân chúng mà xử bất công.

Mâu thuẫn nơi tông đồ Giuda: Được tin tưởng giao cho nhiệm vụ cầm tiền, để rồi lại tham tiền mà bán đứng Chúa.

Mâu thuẫn của thánh Phero: Mạnh mẽ thề thốt sẽ sống chết với Thầy và cũng thê thảm chối Thầy với người tớ gái.

Thưa các bạn !

Dù nhiều mâu thuẫn đó, nhưng kết cục có những thái độ khác nhau. Nơi dân Do Thái cũng như quan Philato đó là thái độ “cố chấp”, nơi Giuda là “tuyệt vọng”, và nơi Phero là tính “khắc phục”.

Thiết tưởng, cố chấp thì nên loại trừ, tuyệt vọng thì càng nên tránh xa, nhưng cần học hỏi tính khắc phục của Phero, là biết nhìn nhận yếu đuối, lỗi lầm, rồi ăn năn quay trở về. Hơn nữa, biết tin tưởng vào lòng Chúa lớn hơn tội lỗi con người…

Sau cùng, với Phaolo thật kinh nghiệm, nên đã nói: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,19).

Dù “đám cưới” hay “đám tang”, “cô chị” hay “cô em”, “bên trong” hay “bên ngoài”… ước gì “bạn & tôi” vẫn dám xác tín vào tình yêu Thiên Chúa sẽ chiến thắng mâu thuẫn bản thân. Amen

----------------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-370: PHÓ MÌNH TRONG TAY CHA


Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
 
 

Với nghi thức nhắc lại sự kiện Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, phụng vụ dẫn đưa chúng ta Suy niệm Lễlá-370


vào Tuần Thánh. Thánh lễ hôm nay nhằm chuẩn bị tâm hồn các tín hữu,  giúp họ tham dự tích cực vào việc tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, để cùng hiệp thông với Người, sống mầu nhiệm thập giá trong cuộc đời. Trình thuật về cuộc thương khó của Chúa, giúp chúng ta theo Chúa Giêsu từ phòng tiệc ly đến chân thánh giá. Trong biến cố này, có sự phản bội của Giuđa, sự hận thù ghen ghét của các kỳ mục Do Thái, sự thay lòng đổi dạ của quần chúng đám đông. Nhưng trên hết, đó là sự vâng phục của Chúa Giêsu đối với thánh ý của Chúa Cha. “Người đã yêu thương đến cùng” – Thánh Gioan nói với chúng ta như vậy (Ga 13,1). Đức Giêsu như một người Tôi Tớ đau khổ của Thiên Chúa được loan báo trong ngôn sứ Isaia. Người mang trên đôi vai mình tội lỗi của nhân loại. Người không dùng bạo lực đối lại với bạo lực, không dùng lời nguyền rủa đáp lại lời nguyền rủa. Người là con chiên vượt qua mà người Do Thái vẫn giết trong Đền thờ vào dịp lễ để kỷ niệm cuộc xuất hành khỏi Ai Cập. Máu của Người đổ ra là hy lễ xá tội muôn dân.
 
Trước biến cố thập giá, Chúa Giêsu luôn phó thác nơi cánh tay Chúa Cha. Người sẵn sàng đón nhận cái chết để làm chứng cho lời mình rao giảng. Người đến trần gian để thực hành thánh ý của Chúa Cha. Người chấp nhận mọi sự, miễn là ý của Chúa Cha được thành tựu. Lời cầu nguyện: “Xin đừng theo ý con, một theo ý Cha” đã diễn tả niềm tín thác kỳ diệu ấy. Trong sa mạc, đã có lần ma quỷ thách thức Người gieo mình từ trên nóc Đền thờ xuống. Nếu khi ấy, Người đã không gieo mình xuống theo thách thức của tên cám dỗ, thì giờ đây, Người lại hoàn toàn phó thác mà gieo mình vào lòng Chúa Cha. Người không tính toán, không băn khoăn, nhưng một niềm tin tưởng nơi Chúa Cha.
 
Thập giá là trung tâm điểm của nghi thức phụng vụ Tuần Thánh. Hai mươi thế kỷ đã qua, các tín hữu được mời gọi nhìn lên thập giá để cảm nhận lòng xót thương của Thiên Chúa. Thập giá là một mầu nhiệm mà trí khôn loài người không thể suy thấu. Quả thật, làm sao có thể lý giải được việc Thiên Chúa chịu đau khổ và chịu chết? Làm thế nào để hiểu sự kiện một Thiên Chúa quyền năng lại chấp nhận chịu bắt bớ, hy sinh và cuối cùng phải chết một cách nhục nhã trên cây thập giá? Quyền năng Thiên Chúa ở đâu nơi thập giá?
 
Có một câu trả lời duy nhất và ngắn gọn, đó là tình thương. Cũng như chỉ có tình thương mới giúp người mẹ hy sinh khuya sớm để chăm sóc đứa con bệnh tật lâu năm mà không một lời phàn nàn oán trách, chỉ có tình thương mới dẫn đưa Đức Giêsu đến việc chấp nhận khổ đau và chết trên thập giá. Trong Tin Mừng Thánh Gioan, Chúa Giêsu đã khẳng định: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để tất cả những ai tin vào Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16).
 
Vụ án Chúa Giêsu không chỉ là câu chuyện của quá khứ, nhưng là của ngày hôm nay. Tại một số nước Hồi giáo, vẫn có các Kitô hữu bị thảm sát, là nạn nhân của mối thù hận. Đây đó trên thế giới, vẫn còn những người vô tội bị giết. Bóng thập giá vẫn phủ ngang qua mọi mảnh đời bất hạnh, phá vỡ hạnh phúc, sói mòn niềm tin. Đấng Cứu thế vẫn đang bị hành hình nơi những người nghèo khổ, người di dân lánh nạn và người cô thế cô thân. Thập giá là tiếng kêu hãy ngưng bạo lực và đối xử với nhau cho xứng tình người. Khi Đức Giêsu tắt thở trên thập giá, dân chúng đấm ngực ăn năn và nhận ra Người là Con Thiên Chúa. Vị sĩ quan người Rôma cũng tuyên xưng điều ấy. Khi chiêm ngưỡng và suy ngắm mầu nhiệm thập giá, chúng ta cũng hãy nhận ra nơi con người chịu treo trên thập giá là Đấng Cứu độ trần gian. Thập giá cũng mời gọi chúng ta noi gương Chúa Giêsu, phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa quyền năng và nhân hậu, để Ngài hướng dẫn cuộc đời chúng ta trên mọi nẻo đường của cuộc sống trần gian. Đó là niềm tín thác trọn vẹn của người con nơi cha mình, biết rằng bao giờ cha cũng muốn những điều tốt lành cho con và làm mọi sự để con được sống vui và hạnh phúc.

--------------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-371: CON NGƯỜI THAM SỐNG SỢ CHẾT


Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
 
 

Chuyện kể rằng: Đôi trai gái đang đi dạo trong thảo cầm viên. Chàng nắm tay nàng nhẹ nhàng nói Suy niệm Lễlá-371


Chuyện kể rằng: Đôi trai gái đang đi dạo trong thảo cầm viên. Chàng nắm tay nàng nhẹ nhàng nói: “Anh sẽ không bao giờ buông tay em ra đâu. Cho dù có chết anh vẫn bảo vệ em”.

Thình lình một con cọp sổng chuồng nhảy bổ ra. Chàng trai hốt hoảng nhảy thót lên  cây. Còn cô gái sợ hãi nằm bất động. Rất may con cọp chỉ đến ngửi trên mình cô gái rồi bỏ đi. Sau khi con cọp đi rồi, chàng trai mới chạy đến đỡ cô gái dậy và hỏi: “Con cọp nó nói gì với em đó”.

Cô gái trả lời: Nó nói anh là thằng đểu!

Tham sống sợ chết là lẽ thường tình của con người. Cho dù có những người thề sống chết bên nhau nhưng khi đối diện với gian nan, họ cũng tìm trăm ngàn lý do để hủy lời đoan hứa. Đó là lý do chúng ta thấy con người thường dễ quên lời hứa, dễ thất hứa, thất tín và thất trung.

Có biết bao người yêu nhau thật nồng nàn, thề hứa đủ điều nhưng khi lấy nhau họ lại bỏ quên nhau và sớm quên đi những lời đã hứa cho nhau.

Có biết bao người có chức có quyền chỉ hứa xuông khi tranh cử, nhưng khi ngồi trên ghế họ chỉ lao vào kiếm tiền và củng cố địa vị của mình mà bỏ quên lời hứa với nhân dân.

Có biết bao người đã từng hứa có ăn có hưởng, hoạn nạn có nhau nhưng họ chỉ gần nhau khi thành công và bỏ rơi nhau khi gặp gian nguy.

Chúa Giê-su trong thân phận con người, Ngài cũng cảm thấy đau khổ vì bị đồ đệ bỏ rơi, người thân quay lưng chống đối. Biết bao lời hứa đã từng cam kết sẽ uống cạn chén đắng cùng Thầy, sẽ theo Thầy cho đến cùng, nhưng những lời hứa ấy chỉ như gió thoảng mây bay. Ngài hiểu thật sâu xa tính mỏng dòn của tình người. Tình người dễ phôi phai. Lòng người dễ thay đồi. Nhưng, dầu vậy, Ngài vẫn trung thành với tình yêu của mình. Ngài vượt qua mọi trở ngại để dấn thân cho người mình yêu. Ngài mãi mãi trung tín trong tình yêu vì đã yêu thì “yêu cho đến cùng”.

Thánh lễ hôm nay cũng họa lại hai hình ảnh trái ngược trong một tuần thương khó. Khung cảnh ban đầu là đoàn rước thật long trọng, hồ hởi với đàn hát, với trải lá lót đường . . . ; Khung cảnh sau là phiên tòa kết án, với lời thóa mạ, với đòn roi, với án tử. Xuyên suốt hai khung cảnh ấy là hình ảnh Chúa Giê-su luôn bình tĩnh trước mọi biến cố. Dường như Ngài đã không tìm cách lẩn trốn trước những gì đang diễn ra. Ngài bình thản đi vào tuần thương khó mà Thánh Kinh bảo rằng: “để mọi sự được nên trọn”.

Vâng, Chúa Giê-su Ngài đã bình thản trước mọi biến cố vì Ngài muốn để thánh ý Chúa Cha nên trọn. Ngài biết những cam go trước mắt, thế nhưng, Ngài vẫn mạnh dạn tiến lên Giê-ru-sa-lem. Ngài biết ở đó bản án đang chờ Ngài, nhưng “Giờ” để biểu lộ tình yêu đã tới. Giờ đã điểm. Ngài phải lên Giê-ru-sa-lem để thi hành thánh ý Chúa Cha là cứu độ gian trần. Đây là động lức khiến Ngài can đảm đối diện khó khăn. Đây cũng là cách nói lên lòng trung thành của Ngài với thiên ý nhiệm màu.

Xin Chúa giúp chúng ta bước vào tuần thương khó với tâm tình sám hối ăn năn, vì có những lần chúng ta cũng thay lòng đổi dạ để kết án Ngài, cũng có những lần chúng ta bỏ rơi Ngài. Nhưng tình yêu của Chúa vẫn mãi dành cho chúng ta. Xin cho chúng ta đừng bao giờ phụ bạc ân tình mà Chúa vẫn dành cho chúng ta. Amen.

--------------------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-372: TIN LÀ ĐÓN NHẬN LÒNG CHÚA XÓT THƯƠNG


Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
 
 

Ba cuốn Phúc Âm Nhất Lãm đều có cùng một nội dung nhất quán trong việc mô tả cuộc thương khó Suy niệm Lễlá-372


Ba cuốn Phúc Âm Nhất Lãm đều có cùng một nội dung nhất quán trong việc mô tả cuộc thương khó Đức Giê-su, tuy về chi tiết có một vài khác biệt nho nhỏ. Tôi đặc biêt lưu tâm tới hai tiểu tiết được Phúc Âm Lu-ca triển khai cách rạch ròi: việc Phê-rô chối Thầy và tên gian phi (thường được gọi là ‘kẻ trộm lành’) sám hối.

Sự kiện Phê-rô chối Thầy cùng với lời Đức Giê-su cảnh báo các môn đệ, được cả ba cuốn đề cập tới, trong đó cho thấy: thái độ cương quyết bảo vệ thầy mình trong cơn nguy biến của Phê-rô là rất đáng khen: “Lạy Chúa, dầu có phải vào tù hay phải chết với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng”. Phúc âm Luca còn thêm một chi tiết khác nữa: Đức Giê-su thậm chí còn xem ra ủng hộ việc chuẩn bị chiến đấu này (xem Lc 22:38). Có điều… Người không tỏ ra mặn mà lắm với lời cam kết đầy nhiệt huyết của Phê-rô, trái lại còn đưa ra lời cảnh báo: Người không muốn Phê-rô có thứ đức tin mạnh mẽ không gì lay chuyển nổi tới độ trở thành kẻ đứng ra bảo vệ Người đến cùng. Thứ đức tin Người cầu nguyện cho Phê-rô lại rất khác: để ông biết trỗi dậy, rồi sau đó sẽ củng cố trong cảm thông các anh em mình; tóm lại, đó là niềm tin cảm nghiệm sự yếu hèn của mình và đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa từ nhân cứu độ. Để có được niềm tin đó Phê-rô cần trải qua một kinh nghiệm về sự yếu đuối tột dùng của mình: tội chối bỏ và phản bội Thầy.

Lu-ca nhấn mạnh trên chi tiết này: “Si-mon, Si-mon ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh”. Lòng tin mà Đức Giê-su đề cập tới ở đây chắc chắn không phải là tin vững chắc rằng: Giê-su là Con Thiên Chúa hằng sống, điều mà Phê-rô đã từng đại diện cho các môn đệ khác tuyên xưng cách long trọng, và đã từng được Người khen ngợi. Điều mà Đức Giê-su, vì qua nhiều tình huống khác nhau đã quá rõ người môn đệ này, muốn cảnh báo ông chính là: ông không tin và không muốn chấp nhận Thầy phải chết cho mình. Đã nhiều lần ông lên tiếng can ngăn Thầy đi chịu chết, ông đã không muốn Thầy rửa chân cho ông, và cho tới phút chót ông vẫn đinh ninh rằng: việc theo Thầy chính yếu hệ tại ở việc trung thành bảo vệ Thầy; chính vì những điều đó mà Đức Giê-su thấy cần phải cầu nguyện cho ông…, vì Người liệt thái độ đó vào hạng cám đỗ lớn của Xa-tan; và nếu điều này cũng phổ biến nơi các môn đệ khác, thì đây chính là điểm mà Người muốn Phê-rô – thủ lãnh phải củng cố các anh em mình. Sau trải nghiệm ba lần chối Thầy nhưng đượcThầy thứ tha, Phê-rô mới hiểu cốt lõi của đức tin chính là tin vào Thiên Chúa từ nhân đã dám chết để tha thứ cho mình; chỉ như thế ông mới thực sự xứng đáng trở thành thủ lãnh của Hội Thánh, một cộng đoàn không chỉ tuyên xưng Đức Ki-tô Giê-su là Chúa, mà trước hết và trên hết: Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa cứu độ toàn thể nhân loại…, đặc biệt cứu độ cá nhân mỗi người.

Sự kiện thứ hai: tên gian phi đồng chịu đóng đinh vào thập giá với Đức Giê-su đã sám hối vào phút chót. Chỉ mình Lu-ca kể lại chi tiết này, và hầu như với ngụ ý: tên này là người đầu tiên hưởng lãnh ơn cứu độ, và trong mức độ nào đó, chính là ‘nguyên mẫu’ (prototype) của mọi Ki-tô hữu sau này. Để được hưởng sự cứu rỗi sau một cuộc đời làm toàn điều ác (như chính miệng hắn đã xưng thú) chỉ cần hắn làm được hai điều đơn giản, một là nhìn nhận tội lỗi mình đã phạm: “Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm”, hai là mở miệng cầu khẩn lòng thương xót của Thầy Giê-su: “Ông Giê-su ơi, khi nào vào nước của ông, xin nhớ đến tôi”. Chỉ có thế, đơn giản quá phải không! Tên tướng cướp tội ác tầy trời đã tức khắc lãnh nhận trăm phần trăm ơn cứu độ, chỉ vì đã đặt trọn niền tin nơi Thiên Chúa từ nhân: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”.

Ôi tuyệt vời và kỳ diệu quá: điều mà Phê-rô – thủ lãnh Giáo Hội, cần phải trải nghiệm với lời cầu nguyện nâng đỡ của chính Đức Giê-su, thì tên đại gian đại ác đã đạt được cách trọn vẹn và dễ dàng chỉ qua một thái độ thành khẩn và khiêm tốn! Quả vậy, nhận lãnh ơn cứu độ của lòng Thương xót vừa khó lại vừa rất dễ! Nhưng đó là niềm tin đích thực mà mọi Ki-tô hữu đều cần tích cực xây dựng và củng cố, kinh qua các trải nghiệm sa ngã yếu hèn của mình trong cuộc sống. Quả thực đó chính là ‘felix culpa’ mà Âu-tinh lừng danh đã hô lên!

Lạy Chúa Giê-su đầy lòng nhân hậu, hôm nay kỷ niệm ngày con dâng Thánh Lễ đầu tay (Lễ Lá năm 1971). Con đã được trở nên linh mục của Chúa, được chia sẻ công việc lãnh đạo là củng cố niềm tin nơi các tín hữu Chúa trao cho. Có thể cũng như Phê-rô và nhiều linh mục khác, con cứ nghĩ rằng điều con phải làm trước hết là trung thành bảo vệ Chúa và các giới luật của Chúa và Hội Thánh. Con đã lầm! Kể từ ngày 16/09/2007, ngày Chúa ban cho con cảm nghiệm trong giờ chết là: phó thác cho lòng thương xót Chúa mới là điều quan trọng hơn hết mọi sự, con nhận ra sứ mạng thực của chức linh mục là trao ban cho và củng cố nơi anh em niềm tin vào tình yêu thương xót của Chúa, qua ban bí tích Hòa Giải tha tội, qua cử hành Hy Lễ Thập Giá cứu độ. Cảm tạ Chúa về ‘mạc khải’ quí báu này! Mỗi dịp Tuần Thánh về, nhờ việc cùng với toàn thể Giáo Hội cử hành cách đặc biệt long trọng Hiến Tế Thập Giá đầy yêu thương, xin cho con gia tăng kinh nghiệm sống động về tình yêu tha thứ và cứu chuộc nơi bản thân mình, để có thể củng cố niềm tin vào lòng thương xót Chúa nơi các anh em con. A-men.

-------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-373: TÌNH THƯƠNG CỦA THIÊN CHÚA LÀ CHA


Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
 
 

Tại một phiên tòa xét xử phạm nhân về tội hành hung gây thương tích cho cha mẹ, bị cáo là Suy niệm Lễlá-373


Tại một phiên tòa xét xử phạm nhân về tội hành hung gây thương tích cho cha mẹ, bị cáo là một trong những đứa con trai của bên nguyên cáo. Cáo trạng cho thấy gia đình của bị cáo có ba người con. Người mẹ đã già, bà phân chia tài sản đồng đều cho con cái trước khi chết. Tuy nhiên vì lòng tham, bị cáo đã không đồng ý với sự phân chia của mẹ. Anh gằn hắt, đánh đập người mẹ với lý do anh đang là người nuôi bà. Không được chia tài sản như ý muốn, anh đuổi mẹ ra khỏi nhà. Trong đau đớn và nhục nhã, bà đã phải làm đơn kiện người con bất hiếu. Khi tòa xét xử, bà chỉ ngồi theo dõi và khóc. Lúc tòa tuyên án bị cáo năm năm tù giam, bà đã bật khóc. Bà đứng lên xin tòa xem xét và tha thứ cho con bà. Mọi người ngạc nhiên khi thấy bà một mực xin tòa tha cho đứa con phản nghịch. Có người hỏi : Tại sao bà kiện nó, bây giờ lại xin tha cho đứa con bất hiếu, kẻ tranh giành của cải của bà, đánh đập bà và còn đuổi bà ra đường ? Bà già vừa khóc vừa trả lời : Dù nó có hư thế nào, thì nó cũng vẫn là con tôi.

Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta vẫn bắt gặp những hình ảnh, những câu chuyện thật cảm động về tình yêu thương của cha mẹ dành cho con. Những câu chuyện như câu chuyện vừa kể thật khó hiểu và khó giải thích về tình yêu của cha mẹ dành cho con cái. Hôm nay, ngày Lễ Lá, Tin Mừng Luca cũng kể cho chúng ta câu chuyện thật cảm động của Chúa Giêsu dành cho chúng ta. Câu chuyện khó hiểu và khó có thể giải thích hết bằng lời, tại sao Chúa Giêsu lại chấp nhận đau khổ, nhục nhã như vậy ? Có lẽ cũng chỉ có một cách trả lời giống như câu trả lời của người mẹ đau khổ trong câu chuyện trên : Vì Chúa yêu ta và dù chúng ta có đối xử với Ngài như thế nào, thì Ngài vẫn coi chúng ta là con của Ngài.

Các bài đọc hôm nay cho thấy nhiều khía cạnh tương phản : sự thay lòng đổi dạ nhanh chóng của những người Do Thái, sự hững hờ dửng dưng của các môn đệ ; trong khi đó, Chúa Giêsu một mình lẻ loi đứng trước sự điên cuồng gào thét của đám đông, sự khinh khi miệt thị của những kẻ cầm quyền.

Bài đọc trong nghi thức làm phép lá cho thấy dân chúng đang kỳ vọng vào Chúa Giêsu. Họ cho rằng đã đến thời điểm khởi nghĩa, Chúa Giêsu sẽ đứng lên quy tụ dân chúng đánh đuổi đế quốc Rôma. Vì thế, họ lũ lượt theo Chúa vào thành Giêrusalem, miệng ca tụng : Hoan hô con Vua Đavít, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Tuy nhiên, khi không được như ý, họ đã quay lưng lại với Chúa Giêsu. Họ đã dùng đám đông gây áp lực để đòi giết Chúa Giêsu. Trong số những con người gào thét điền cuồng : Đóng đinh nó vào thập giá, có cả những người vừa mới theo Ngài vào thành Giêrusalem vừa hô vang : Hoan hô con vua Đavít. Trong số những kẻ đòi tha Baraba và giết Giêsu, có những người vừa mới trải áo lót đường cho Chúa đi.

Đau đớn, nhục nhã hơn nữa đó là khi đứng trước Philatô, một Tổng trấn La Mã, họ vu oan, đặt điều bôi nhọ Chúa Giêsu : Tên này xúi dân làm loạn, tên này xúi dân không nộp thuế. Họ công khai tuyên bố từ chối Chúa Giêsu là vua của họ để nhận hoàng đế Rôma làm vua của mình : Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Cesare. Họ chối từ Thiên Chúa là vua, là chủ cuộc đời họ và nhận một ông vua thế gian làm chúa và làm chủ của mình.

Chúa Giêsu như người cha đau khổ khi thấy đàn con ngỗ nghịch. Ngài chỉ nhìn mà thấy thương cho họ, vì họ ngây ngô, khờ dại, vì họ thay trắng đổi đen, vì họ không nhận ra chân lý. Thánh Luca đã cho thấy, Chúa Giêsu như người cha thấy trước giờ chết đang đến, nên Ngài đã chuẩn bị mọi sự cho con, dặn dò, chỉ bảo và làm tất cả những gì có thể cho con của mình. Ngài bày tỏ lòng ước ao được ăn bữa tiệc vượt qua sau cùng với các môn đệ. Trong bữa ăn này, bầu khí yêu thương tràn ngập, Chúa cầm lấy bánh bẻ ra và trao cho các ông : Các con hãy cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy. Ngài cũng trao cho các ông chén rượu và nói : Đây là chén Giao ước Mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì các con.

Trong bầu khí trang nghiêm và trầm buồn như thế, dường như các tông đồ cũng không hiểu được tâm trạng của Chúa Giêsu lúc này. Các ông cũng không quan tâm Chúa Giêsu đang làm gì, đang dặn các ông điều gì. Các ông vẫn mơ về một địa vị vinh quang và bổng lộc trần gian. Vì thế, các ông tranh luận hay nói đúng hơn, các ông cãi nhau xem ai được coi là người lớn nhất. Chúa Giêsu như bị lạc lõng ngay trong các người thân tín của mình. Trong những giờ phút cuối cùng, Ngài đang cần những người bạn tâm giao có thể hiểu và thông cảm với Ngài, thì họ lại lo bàn những chuyện khác. Chúa Giêsu đã phải chỉnh sửa và dạy cho các ông biết về bài học yêu thương và phục vụ : Ai muốn làm đầu, phải trở thành kẻ phục vụ anh em.

Như một người cha, Chúa Giêsu quan tâm đến từng người trong các tông đồ. Ngài hỏi han, căn dặn từng người, nhưng khi giờ khổ nạn đến, các tông đồ đã bỏ trốn hết, chỉ còn lại Simon Phêrô theo xa xa. Tuy nhiên khi bị đe dọa, Simon đã sẵn sàng chối Thầy trước mặt một đứa đầy tớ gái. Chỉ còn một mình Chúa Giêsu bị điệu từ dinh Caipha đến trước mặt quan Philatô. Tại dinh Caipha, người ta đã lên án Chúa đáng phải chết, chỉ vì Chúa Giêsu đã nói đến ngày mọi người sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Thiên Chúa. Tại dinh Philatô, ông này tìm cách tha Chúa Giêsu vì thấy Ngài vô tội, nhưng ông không cản đảm sống và bênh vực cho sự thật, không dám làm theo tiếng lương tâm nhắc bảo. Cuối cùng, ông đã để cho sự ác thắng thế, sự giả trá bất công lên ngôi và tìm cách triệt hạ Chúa Giêsu là Tình yêu là Sự thật.

Cử hành ngày Lễ Lá khai mạc Tuần Thánh hôm nay, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm, cảm nhận lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa dành cho nhân loại qua cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Chúng ta sẽ không thể mãi dửng dưng, vô cảm với tình thương của Chúa, cũng đừng đứng bên ngoài để xem như một người khách bàng quan, nhưng hãy cùng theo Chúa Giêsu trên hành trình thập giá, sống với Ngài, chia sẻ tâm tình với Ngài và nhất là đón nhận từng lời nói, từng hành động Ngài làm vì yêu thương ta.

Chúng ta hãy suy gẫm cuộc thương khó Chúa Giêsu trong tuần thánh này để thấy mỗi người có trách nhiệm, có liên đới trong việc gây ra cái chết cho Chúa Giêsu. Vì, tội lỗi của mỗi chúng ta đã làm cho nỗi nhục nhã của Chúa gia tăng, thập giá của Ngài thêm nặng và vết thương của Ngài thêm sâu hơn, đau hơn.

Chúa Giêsu chịu tất cả chỉ vì yêu ta, thương ta, Ngài muốn cho chúng ta được sống hạnh phúc. Dù cho chúng ta tội lỗi, ngỗ nghịch, Chúa vẫn yêu thương tha thứ, chỉ vì Ngài là Chúa chúng ta và vì chúng ta là con của Ngài. Xin cho chúng ta đừng bao giờ chất thêm đau khổ cho Chúa nữa. Amen.

---------------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-374: ĐỨC VUA ĐA KHÔNG


Trầm Thiên Thu
 
 

Hoàng đế (Hán tự: 皇帝 – Anh ngữ: Emperor – La ngữ: Imperator) là tước vị cao của Vua, thường Suy niệm Lễlá-374


Hoàng đế (Hán tự: 皇帝 – Anh ngữ: Emperor – La ngữ: Imperator) là tước vị cao của Vua, thường là người cai trị của một đế chế hoặc loại khác của vương quốc, đế quốc. Nói chung, Hoàng đế là người được công nhận có danh dự và xếp hạng cao hơn so với quốc vương.

Vua thì có ngai, gọi là bệ rồng. Quần thần không được “đụng chạm” tới Vua, có tâu cũng chỉ được tâu cái bệ có cái ngai của Vua ngồi: “Muôn tâu bệ hạ”. Ngước nhìn long nhan nhà vua là phạm tội “khi quân”, xử tử ngay!

Vua nào cũng có tiền hô hậu ủng, có tất cả mọi tứ, kể cả quyền sinh tử: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Chỉ có Đức Giêsu Kitô là vị Vua cao cả nhất, Vua của các vua, là Thiên Vương, là Chúa của các chúa, thế mà lại có một số KHÔNG to lớn và tròn trịa: KHÔNG đăng quang, KHÔNG ngai vàng, KHÔNG bệ rồng, KHÔNG long bào, KHÔNG bảo kiếm,… chỉ có đám dân đen tôn Ngài làm Vua, cái mà chúng ta gọi là “ngai vua” đối với Ngài là chính “ngai khổ” Thập Giá. Và Ngài được dân chúng reo hò chúc tụng là “Con Vua Đa-vít, Đấng nhân danh Chúa mà đến” chỉ trong chốc lát mà thôi. Rồi người ta mau chóng lật mặt như trở bàn tay!

Ngay trong khi dân chúng tôn vinh Ngài, cả bốn Phúc Âm đều nói rõ rằng lòng kính trọng Chúa Giêsu khi Ngài vào Thành Giêrusalem được thể hiện nhưng không phải tất cả đều là cư dân Giêrusalem. Thánh Mát-thêu cho biết: “Khi Đức Giêsu vào Giêrusalem, cả thành náo động, và thiên hạ hỏi nhau: ‘Ông này là ai vậy?’. Dân chúng trả lời: ‘Ngôn sứ Giêsu, người Nadarét, xứ Galilê đấy” (Mt 21:10-11).

Chúa Nhật Lễ Lá là lúc giờ G đã điểm, khởi đầu hành trình khổ nạn của Đức Kitô từ lúc vào Thành Thánh Giêrusalem. Dân chúng thấy Chúa Giêsu làm nhiều thứ quá tuyệt vời, quá kỳ diệu, vượt ngoài sức tưởng tượng của loài người, thế nên họ muốn tôn Ngài làm vua, chính họ cũng đã nhận biết Ngài là ai, họ lũ lượt theo nhau và reo hò vang dội: “Hoan hô Con vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời” (Mt 21:9).

Cây càng cao, gió càng lay. Càng làm lớn càng khổ. Khổ từ khi đăng quang và vinh quy bái tổ. Vua chúa, hoàng đế hoặc quốc vương nào cũng có lễ đăng quang. Ngay cả giáo hoàng cũng có lễ đăng quang.

Người ta thường nói: “Khổ ải trần gian” hoặc “Đời là bể khổ”. Vâng, “biển khổ” chứ không phải “sông khổ” hoặc “ao khổ”. Điều đó cho thấy kiếp người không ngừng nối tiếp đau khổ, là một hành trình đau khổ triền miên. Có lẽ do vậy mà khi sinh ra không ai cười, ai cũng “cất tiếng khóc chào đời”. Biết chấp nhận thì có thể “hóa giải” đau khổ thành niềm vui, nếu không thì càng chồng chất thêm đau khổ mà thôi.

Hơn 2000 năm trước, Thích Ca Mâu Ni là người sống trong cung vàng điện ngọc, nhưng ông đã “giác ngộ” sau khi nhìn thấy những cảnh khổ của kiếp người, thế nên ông quyết ngồi thiền dưới gốc bồ đề để tu thân và “tâm niệm” Tứ Diệu Đế: Sinh là khổ, Bệnh là khổ, Lão là khổ, và Khổ là khổ. Ông đã siêu thoát và được người ta tôn vinh là Đức Phật. Muốn thoát đau khổ không gì hơn là đi xuyên qua đau khổ. Chúa Giêsu cưỡi lừa vào thành Giêrusalem, được người ta tung hô khi tay họ cầm lá thiên tuế chào đón. Nhưng đó cũng là lúc Ngài khởi đầu “hành trình đau khổ”.

NGƯỜI TÔI TỚ ĐAU KHỔ

Ngôn sứ Isaia nhiều lần tiên báo về “người tôi tớ đau khổ”. Ông cảm thấy Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho ông nói năng như một người môn đệ, để ông biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Ông xác nhận: “Sáng sáng Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ” (Is 50:4). Ông cho biết thêm: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Is 50:5).

Ngôn sứ Isaia “không cưỡng lại” và “không thoái lui” dù ông phải “đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu” và “không che mặt khi bị mắng nhiếc, phỉ nhổ” (Is 50:6). Ông tin mình “có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ”, vì thế, ông “không hổ thẹn” mà cứ “trơ mặt ra như đá”. Thế nên ông biết mình sẽ “không phải thẹn thùng” (Is 50:7). Ông là hình ảnh của Đức Kitô, con người của đau khổ, khởi đầu “hành trình đau khổ” từ Giêrusalem, ngay khi được người ta cầm những cành thiên tuế tung hô là vua.

Tác giả Thánh vịnh mô tả về tình trạng chịu nhục nhã ê chề:

Thấy con ai cũng chê cười
Lắc đầu, bĩu mỏ, buông lời mỉa mai:
“Nó trông cậy Đức Chúa Trời

Cứ để mặc Người giải cứu nó đi!” (Tv 22:8-9)

Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ không chỉ bị khiêu khích, bị đau khổ về tinh thần mà còn bị đau khổ về thể lý:

Quanh con bầy chó bao chặt chẽ
Bọn ác nhân vây bủa trong ngoài
Chúng đâm con thủng chân tay
Xương con đếm được vắn dài, chúng xem (Tv 22:17-18)

Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ bị đau khổ đến tận cùng, nhưng vẫn luôn trông cậy vào Thiên Chúa:

Áo mặc ngoài chúng đem chia chác
Còn áo trong cũng bắt thăm luôn
Chúa là sức mạnh con nương
Cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa! (Tv 22:19-20)

Đồng thời vẫn muốn tôn vinh Thiên Chúa trong chính những đau khổ của mình:

Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa
Cho anh em tất cả được hay
Và trong đại hội dân Ngài
Con xin dâng tiến một bài tán dương (Tv 22:23)

Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ luôn trung tín với Thiên Chúa, tự động viên mình và khuyến khích người khác: “Hỡi những ai kính sợ Đức Chúa, hãy ca tụng Người đi! Hỡi toàn thể giống nòi Gia-cóp, nào hãy tôn vinh Người! Dòng dõi Ítraen tất cả, nào một dạ khiếp oai!” (Tv 22:24).

NGƯỜI CHẤP NHẬN ĐAU KHỔ

Thánh Phaolô vừa phân tích vừa xác định: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2:6). Đạo cũng như đời, người quyền cao chức trọng có mấy ai dám “vi hành” để hiểu rõ cảnh khổ của người dân?

Trong tác phẩm “Authority: Its Use and Abuse” (*) có kể một số “điểm son” của Đức cố GM Irumpen, GP Palakkad (Ấn Độ), một giám-mục-đa-không, đáng để chúng ta noi gương:

Mỗi Chúa Nhật, ngài đến một giáo xứ nào đó mà không báo trước, ngồi tòa giải tội khoảng 15-20 phút, dâng lễ, giảng lễ, dạy giáo lý, và chuyện trò với giáo dân và linh mục quản xứ; ngài không bao giờ cho phép người ta tổ chức tiếp tân chào mừng ngài tại các giáo xứ. Và tại tòa giám mục hay ở bất cứ nơi đâu mà ngài ghé thăm, ngài không nhận bất cứ sự biệt đãi nào dành cho mình; ngài cho rằng sự hào nhoáng bên ngoài (kiểu như đoàn xe đưa rước trong những dịp đặc biệt) không phải là chứng nhân Tin Mừng mà là chứng nhân của văn hóa thế tục; hằng ngày ngài dành thời gian từ 9 giờ đến 12 giờ để tiếp bất cứ ai đến gặp, không cần hẹn trước; ngài không bao giờ nghỉ trưa; ngài chỉ dự những lễ kỷ niệm chịu chức hay khấn dòng nếu những lễ ấy tổ chức ở nhà thờ chính tòa; ngài không tổ chức mừng ngày kỷ niệm thụ phong giám mục của mình. Năm nào ngài cũng mừng lễ bổn mạng, dịp các linh mục tĩnh tâm tháng vào ngày 19-3 (Lễ Đức Thánh Giuse Phu Quân Đức Maria). Linh mục đoàn cùng nâng cốc chúc mừng và nhâm nhi chút bánh ngọt; ngài không đưa lên bảng thông tin giáo phận các tin về hoạt động hay đi lại của ngài trong giáo phận, mà chỉ thông tin cho mọi người biết trước về những trường hợp ngài phải ra ngoài giáo phận quá một ngày, chẳng hạn khi ngài sắp đi dự họp Hội Đồng Giám Mục,…; ngài không bao giờ đi nước ngoài, trừ phi đó là bổn phận bắt buộc như về Rôma dịp Ad limina. Ngài không bao giờ đi nước ngoài để quyên tiền. Ngài nói rằng các nhu cầu căn bản của giáo phận cần phải được gánh vác bởi chính giáo dân trong giáo phận; không bao giờ có chuyện “phạt treo”, chẳng hạn không cấp giấy chứng chỉ hôn phối vì người ta chưa đóng góp quĩ; ngài luôn ăn mặc giản dị, ăn chay trường, và chẳng ai thấy hình ảnh của ngài trên báo chí; ngài hưu trí tại nhà hưu của các linh mục cao niên. Cuộc đời ngài thật đơn giản, tất cả đồ đạc xếp gọn trong một chuyến xe nhỏ; giáo phận tặng ngài một ô tô dịp ngài về hưu, nhưng ngài không nhận, chỉ muốn được trợ cấp hưu bổng đúng theo mức hưu dưỡng như các linh mục khác trong giáo phận; ngài không muốn xin viện trợ từ bên ngoài để xây các nhà thờ to lớn. Nếu ai dâng hiến đất, ngài sẽ xây một nhà thờ vừa phải với sự hỗ trợ của chính các giáo dân địa phương; văn phòng của ngài là một gian phòng nhỏ trong một ngôi nhà cũ kỹ, không có bất cứ món trang trí nào; ngài là một chứng nhân Tin Mừng, sống điều ngài rao giảng, cách sống của ngài cho thấy rõ quyền bính là để phục vụ.

Tại Việt Nam có gương sáng của Đức cố GM Cassaigne (người Pháp, quen gọi cha Sanh, nguyên giám mục GP Saigon), vị tông đồ của người cùi. Khi còn là giám mục Saigon, ngài cũng đã từng rong ruổi khắp khu dân cư nghèo để thấy rõ thực tế, cửa tòa giám mục cũng luôn rộng mở đón tiếp mọi người.

Những chứng nhân như vậy thật đáng khâm phục vì đúng là những mục tử của Chúa, dám quên mình vì đoàn chiên, là những chủ chăn đích thực và sống động, chứ không nói suông qua các văn bản hoặc bài giảng.

Chúa Giêsu không chỉ là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ mà còn là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ-Khiêm-Nhường: “Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2:7). Cái chết của Ngài khác thường là “chết trên thập giá”, loại khổ hình nhục nhã nhất thời đó. Chính vì Ngài chịu đau khổ đến tột cùng mà “Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2:9), danh hiệu ấy cao cả và quyền năng đến nỗi “khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ” (Pl 2:10). Để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2:11).

Trong cuộc sống, không ai muốn đau khổ, nghĩa là ai cũng muốn sống sung sướng, muốn tận hưởng niềm hạnh phúc – tận hưởng bằng mọi cách và càng nhiều càng tốt. Vì thế mà con người miệt mài đêm ngày đi tìm hạnh phúc. Đau khổ luôn là điều bí ẩn đối với cuộc sống. Thậm chí những người chấp nhận đau khổ có thể bị coi là “ngu xuẩn”, là “dại dột”, là “điên khùng”. Tuy nhiên, với người tin vào Đức Kitô, đau khổ là một mầu nhiệm.

Bất kỳ ở quốc gia nào, một bị cáo đứng trước vành móng ngựa cũng có luật sư bào chữa. Trong Giáo hội Công giáo, trước khi phong thánh cho ai thì cũng có 2 “phe”, một phe đưa ra các điều tốt và một phe đưa ra các điều xấu – được gọi là “luật sư của quỷ”, phe luật sư này sẽ đưa ra mọi thứ “bất lợi” cho ứng viên đến khi “chịu thua” mới thôi. Chẳng hạn trường hợp của Thánh GH Gioan XXIII, luật-sư-của-quỷ đã hết cách nên đành “tố cáo” Gioan XXIII hồi nhỏ hay chơi diều.

Từ cổ chí kim, chỉ có một tử tội đặc biệt không có luật sư bào chữa, cũng chẳng có ai bênh vực một lời nào, đó là Đức Giêsu Kitô. Người ta vừa tôn làm vua xong đã vội lật mặt và đòi đóng đinh vào Thập giá, đến cả những người thân cận nhất cũng sợ liên lụy mà bỏ rơi Đại Sư của mình, người mà mình leo lẻo tán dương lên tận mây xanh!

ĐIỂM BÁO GIỜ G

Bài Thương Khó hôm nay là một bộ phim dài, một tấn bi kịch đẫm lệ sầu, một cuộc chia ly đầy nước mắt.

Giờ G đã điểm, Đức Giêsu vào bàn cùng với các Tông Đồ. Người nói: “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình” (Lc 22:15). Ngài đưa ra lý do: “Thầy sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa” (Lc 22:16).

Sau đó, Ngài thiết lập Bí tích Thánh Thể, Ngài dùng chính Mình Máu Ngài để nuôi sống chúng ta. Ngài tiên báo mọi chuyện sắp xảy ra như những lời trăng trối, và để cảnh báo mọi người. Rồi Ngài phân tích về cách cai trị: “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ. Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn l người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ. Còn anh em, anh em vẫn một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp thử thách gian nan. Vì thế, Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự toà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en” (Lc 22:25-30).

Đặc biệt là Ngài cảnh báo về sự dữ đối với Phêrô: “Simon, Simon ơi, kìa Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22:31-32). Chúa Giêsu thân thiện gọi ông là Simon, gọi tên thật chứ không gọi “nickname” Phêrô, triều đại giáo hoàng đệ nhất.

Ông Phêrô thưa với Người: “Lạy Chúa, dầu có phải vào tù hay phải chết với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng” (Lc 22:33). Đức Giêsu nói ngay: “Này anh Phêrô, Thầy bảo cho anh biết, hôm nay gà chưa kịp gáy, thì đã ba lần anh chối là không biết Thầy” (Lc 22:34). Tính nóng như lửa, thế mà Phêrô cũng chỉ biết gãi đầu và im lặng, chả nói được gì. Nói ngon lắm, nhưng rồi không phải thế. NÓI và LÀM là hai việc khác nhau, có một khoảng cách rất gần mà cũng rất xa!

Biết mình không còn bao lâu nữa sẽ xa rời người thân, nên Ngài rất quan tâm: “Anh em có thiếu thốn gì không?” (Lc 22:35). Các ông trả lời “không”. Các ông tưởng sắp có chiến tranh và đổ máu nên cùng nói: “Lạy Chúa, đã có hai thanh gươm đây” (Lc 22:38a). Nhưng Chúa Giêsu bảo họ: “Đủ rồi!” (Lc 22:38b).

Sau đó Ngài đi ra núi Ô-liu như đã quen. Các môn đệ lẽo đẽo theo Ngài. Đến nơi, Ngài bảo: “Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22:40). Cầu nguyện là điều cần thiết lắm, thứ nhất là cầu nguyện, thứ nhì mới là hành động. Ngài đi xa các ông một quãng, rồi quỳ gối cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha” (Lc 22:42). Lúc này Ngài lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Chúa Giêsu vừa lo vừa sợ, vừa buồn vừa cô đơn, đến nỗi mồ hôi Ngài như những giọt máu rơi xuống đất (Lc 22:44).

Cầu nguyện xong, Ngài quay lại chỗ các môn đệ, nhưng các ông đang ngủ ngon lành. Ngài nói: “Sao anh em lại ngủ? Dậy mà cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22:46). Lần thứ hai Chúa nhắc các ông cầu nguyện, Ngài xác định việc cầu nguyện vô cùng cần thiết, mọi nơi và mọi lúc.

Ngay lúc đó, Giuđa lại gần Đức Giêsu để hôn Ngài, và để chỉ điểm cho bọn thủ ác đến vây bắt Ngài. Chúa Giêsu ôn tồn: “Giuđa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?” (Lc 22:48). Lời nói nhẹ mà đau thấm thía. Ngày nay, chúng ta cũng vẫn dùng “dấu tốt” để bán Chúa, để mưu hại tha nhân, để làm những điều phi nhân nghĩa.

Người ta muốn dùng gươm giáo để chiến đấu, chính Phêrô đã nhanh như chớp, tuốt gươm chém ngay, nhưng có lẽ ông run tay nên chỉ đứt tai một tên lính chứ nếu ngon lành thì ông cho nó đầu lìa khỏi cổ rồi. Phêrô còn nhát tay lắm! Thấy vậy, Đức Giêsu lên tiếng: “Thôi, ngừng lại” (Lc 22:51). Và Ngài gắn lại liền tai cho khổ chủ. Phép lạ nhãn tiền thế mà bọn thủ ác vẫn lì lợm, vẫn cứng lòng, vẫn cố chấp!

Chúa Giêsu bị chúng dẫn đi, khi đi ngang qua Phêrô, Ngài nhìn ông với ánh mắt sâu thẳm, vừa buồn trách vừa xót thương, ông giật mình vì ông vừa chối Thầy đúng như lời Thầy nói trước. Tiếng gà gáy xoáy sâu vào lòng ông khiến ông vừa xấu hổ vừa ăn năn, ông chạy ra ngoài và bật khóc, khóc như con trẻ, khóc như chưa bao giờ khóc, tiếng khóc rất thảm thiết (Lc 22:62).

Bọn thủ ác bịt mắt Ngài lại, thốt ra nhiều lời khác xúc phạm đến Ngài, và hành hạ Ngài đủ kiểu, thâu đêm suốt sáng, không chút tiếc xót. Khi trời sáng, mọi người đều nói: “Vậy ông là Con Thiên Chúa sao?” (Lc 22:70a). Ngài thản nhiên: “Đúng như các ông nói, chính tôi đây!” (Lc 22:70b). Họ liền vào hùa: “Chúng ta cần gì lời chứng nữa? Chính chúng ta vừa nghe miệng hắn nói!” (Lc 22:71).

Sau đó, họ bắt đầu tố cáo Chúa Giêsu đủ thứ, từ chuyện nhỏ tới chuyện lớn, cái gì cũng hóa thành trọng tội, dù là việc làm tốt. Tâm địa kẻ ác là vậy!

Philatô nhát gan vì sợ mất chức quyền, không dám hành động theo lương tâm, rửa tay để chứng tỏ mình chí công vô tư. Ông ta muốn cho đánh đòn Chúa Giêsu rồi thả ra, nhưng dân chúng không chịu, họ đồng thanh la ó: “Giết nó đi, thả Baraba cho chúng tôi!” (Lc 23:18). Baraba đã bị tống ngục vì một vụ bạo động đã xảy ra trong thành, và vì tội giết người. Họ coi Chúa Giêsu không bằng một tên tử tội tàn ác khét tiếng. Thấy dân chúng nhất quyết xin tha Baraba mà giết Chúa Giêsu, Philatô đành chiều theo ý họ. Thật đê tiện!

Con đường từ dinh Philatô tới Đồi Can-vê quanh co, đồi dốc và lởm chởm. Chúa Giêsu phải tự vác Thập giá mà đi, biết bao vất vả, sức yếu dần vì bị đòn roi với đủ nhục hình và còn bị đói khát, Ngài đã ngã xuống 3 lần vì sức nặng của Thập giá. Chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi!

Đến Đồi Sọ, họ đóng đinh Ngài vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. Chịu đủ loại nhục hình, từ lời nhục mạ tới hành động đóng đinh, loại tử hình nặng nhất thời đó, và dù đang bị treo trên Thập giá, Đức Giêsu vẫn đại lượng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23:34). Kể từ xưa tới nay, và đến mãi về sau, chắn chắn không thể có sự tha thứ nào lớn hơn nữa!

Ngay cả tên gian phi cùng bị đóng đinh với Ngài, với chỉ một lời “xin nhớ tới hắn” thôi, thế mà Ngài liền cho hắn đồng hành vào Thiên quốc, và trở thành vị thánh đầu tiên của Tân Ước. Hạnh phúc thay cho Dismas!

Cái chết là kết thúc cuộc sống trần gian, trút hơi thở cuối cùng là ranh giới giữa sự sống và sự chết. Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23:46). Nói xong, Ngài tắt thở!

Thấy sự việc xảy ra nhãn tiền, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa: “Người này đích thực là người công chính!” (Lc 23:47), và toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về (Lc 23:48). Đó là những biểu hiện sám hối, họ còn may mắn và kịp nhận ra tội mình – không trực tiếp thì cũng gián tiếp giết chết người vô tội, làm khổ tha nhân, sát hại Đức Kitô.

Không có nỗi đau khổ nào bằng nỗi khổ của Chúa Giêsu. Được tôn làm vua mà không có ngai vàng, không được đăng quang, thay vào đó lại là nhục hình Thập giá!

Lạy Chúa, chúng con thành tâm sám hối và xin lỗi Chúa, xin thương xót và tha thứ. Xin cảm tạ Chúa Cha đã ban Đấng Cứu Thế cho chúng con. Chúng con thật may mắn và hạnh phúc vì được tận hưởng Lòng Thương Xót vô biên nhờ cái chết của Đức Kitô, dù chính chúng con đã nhẫn tâm trực tiếp hoặc đồng lõa sát hại Con Thiên Chúa. Xin ban Thánh Thần giúp chúng con can đảm sống xứng đáng với Ơn Cứu Độ, kiên trì đi trọn hành trình đau khổ và làm chứng nhân của Lòng Chúa Thương Xót, để chúng con cũng được cùng phục sinh với Chúa Con. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
--------
(*) Authority: Its Use and Abuse (Sử Dụng và Lạm Dụng Quyền Bính), sách của LM C.P. Varkey (NXB The Bombay Saint Paul Society, 1999).

----------------------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-375: SUY NIỆM BÀI THƯƠNG KHÓ ĐỨC GIÊSU – KITÔ


P.Trần Đình Phan Tiến

“ Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34)

Kính thưa quý vị,
 
 

Hôm nay là Chúa Nhật Lễ Lá, ý nghĩa Lễ Lá là một niềm vui, rước lá là rước Đức Kitô khải hoàn Suy niệm Lễlá-375


hôm nay là Chúa Nhật Lễ Lá, ý nghĩa Lễ Lá là một niềm vui, rước lá là rước Đức Kitô khải hoàn vào thành thánh Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua của dân Dothai, kỷ niệm Thiên Chúa đã “Cứu” họ khỏi ách nô lệ vua Aicập, nhưng, hôm nay họ lại “giết” Con Thiên Chúa.

Vâng, thưa quý vị Bài Thương Khó theo Tin Mừng thánh Luca hôm nay, thuật về cái chết của Chúa Giêsu, một cái chết có một không hai, một cái chết của Con Người vô tội, Người là Hy Tế bởi Thiên Chúa, cái chết của Người là một Hy Lễ vô song để “CỨU” chuộc thiên hạ. Song, cái chết ấy được bắt nguồn từ sự đố kỵ, ganh ghét, hiềm khích , vu cáo, cáo gian để giết đi một Con Người vô tội, đồng thời là một Hy Tế của Thiên Chúa.

Nhưng, chủ đề chính hôm nay chính là sự “tha thứ”, vâng, Thiên Chúa cứ tha thứ và tha thứ, cũng chính vì tha thứ, Người đã tự nguyện nộp mình chịu khổ hình.

Tin Mừng cho chúng ta biết, người Dothai âm mưu giết Chúa Giêsu cũng chỉ vì họ không biết ”tha thứ ”, không biết “yêu”. Chúng ta thấy hai động thái trái ngược nhau giữa một bên là tinh yêu giữa một bên là thù hận. Yêu thương thì tha thứ, thù hận thì ganh ghét. Họ ganh ghét Chúa Giêsu, bởi vì họ cảm thấy ”thua” Chúa Giêsu, họ nghĩ rằng họ phải hơn Người, nhưng “hơn” làm sao được, vì Người là Con Thiên Chúa, họ nghĩ rằng Chúa Giêsu mạo phạm đến Thiên Chúa, vì một vị Cứu Tinh cho dân tộc Dothai phải là một vị hùng tráng, binh hùng tướng mạnh, chứ không thể là một người “nghèo khó”như Chúa Giêsu được. Vâng, đó là một sự nhầm lẫn rất lớn, kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa đã dùng một giải pháp tối ưu, đi ngược lại con người.

Chúa Giêsu chỉ đi rao giảng Tin Mừng cứu độ, chữa lành bệnh tật, trừ ma quỷ và thần ô uế, không trộm cắp, giết người, gian tham lọc lừa ai, vu cáo ai. Như vậy, những “cái không” của Chúa Giêsu là có tội sao, mà là tội tử hình sao?! Án tử sao mà dễ thế, công lý ở đâu? ! Pháp luật ở đâu rồi?!

Người Dothai giết Chúa Giêsu chỉ vì lý do tôn giáo, đi ngược lại những ý thức giả trá của họ, những lề luật do họ đặt ra, để có lợi cho họ. Họ âm mưu gài bẫy Người nhiều lần, nhiều cách, nhưng không  thể thắng được Người, vì vậy, họ tìm cách cáo gian Người. Theo đó, Chúa Giêsu không thể bị kết án theo luật Dothai, bị ném đá theo luật Môisen, hay bị người Dothai tự ý hành quyết, mà là họ phải dựa vào tội chính trị “tội phản động”. Nhưng, khi bị cáo gian trước tòa Philato, quan tòa của Đế quốc ngoại bang, thì Philato cũng đầu hàng, vì không tìm ra “tội” nơi Chúa Giêsu. Rồi đến lượt philato trả về cho Herode là thẩm quyền người dothai xét xử. Chúng ta thấy, dù tìm mọi cách, nhưng cũng không thể tìm ra “tội” nơi Chúa Giêsu. Herode nghe danh tiếng Chúa Giêsu đã lâu, nhưng chưa có dịp gặp Người, vì vậy, muốn nhân cơ hội nầy, tìm cách “dụ dỗ” Chúa Giêsu cho ông ta xem phép lạ, vì ông ta nghĩ rằng: ông ta có thể mua chuộc được Chúa Giêsu, một “Con Người khố rách áo ôm”, còn ông ta thì “đầy quyền lực” và “bạc tiền”. Nhưng, qua cuộc đối đáp, Chúa Giêsu không thỏa mãn yêu cầu cũng như sự hiếu kỳ của ông ta, thế là , ông ta đành buông xuôi trao Chúa Giêsu lại cho Philato. Như vậy, làm quan cũng không dùng sự liêm chính mà xét xử, trả lại công bằng cho người vô tội, nhưng đành nhu nhược chiều theo cái ác.

Vâng, vụ án xét xử Chúa Giêsu hơn hai ngàn năm trước, ngày nay những nước chậm tiến, lạc hậu, độc tài, toàn trị cũng nhu nhược không kém, sự liêm chính cuả quan tham chẳng khác nào bọt nước xà phòng, hay bong bóng xì hơi, công bằng, công chính, công lý không thể có trong chế độ độc tài toàn trị. Những Nước như Triều Tiên chẳng hạn, bất chấp dân chủ, nghĩ mình là trên hết, ai động vào sẽ chết.

Là Con Thiên Chúa, nhưng Chúa Giêsu đã tự hạ, vâng lời Chúa Cha, trở nên phàm nhân, ngoại trừ tội lỗi, để trở nên giá chuộc nhân loại. Vâng, không có vị nguyên thủ nào, vị quân vương nào, vị thủ lãnh nào như Chúa Giêsu, dù họ chỉ là phàm nhân hoàn toàn, sự hữu hạn của nhân loại, nhưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa , nhưng Người đã hoàn toàn trở nên hy tế cho nhân loại như trong đoạn ( Is 50, 4 -7) hôm nay. Chịu một bản án bất công, chịu xét xử vô lý, nhưng Người hoàn toàn tự nguyện xin tha cho kẻ giết Người.

Vâng, bản án của Chúa Giêsu chính là kế hoạch Cứu Độ bởi Thiên Chúa mà ra, vì vậy, thái cực của người Dothai và thái cực của Chúa Giêsu hoàn tòan đối lập, tạo nên một bản án bất công. Phơi bày một sự thua thiệt, thất bại của công lý, giống như bóng đêm đè lên ánh sáng mặt trời vậy.

Vâng, là Con Thiên Chúa, mang bản Tính Thiên Chúa thật, nhưng Chúa Giêsu đến trần gian, mang lấy hết những oan khiên, nhục nhã, đau đớn thể xác và tinh thần trong một bản án bất công, nếu là một phàm nhân hoàn toàn thì Đức Kitô qủa là nhà cách mạng có một không hai trên thế giới giải phóng cho nhân loại khỏi những sự bất công vô lối. Vì, không có nhà cách mạng nào dám vì nhân loại mang lấy một bản bất công cho nhân loại, vì nhân loại cách thảm thương như vậy. Những, nhà chính trị họ theo đường lối của những nhà giải phóng dân tộc chẳng qua vì “quyền lực và lòng tham”, vì địa vị và hưởng thụ. Nhưng, chỉ duy một mình Chúa Giêsu mới là nhà cách mạng chân chính cho nhân loại. Ngày nay, sở dĩ còn nhiều nơi bách hại Kitô giáo chính là họ không muốn đón nhận sự công chính, nền hòa bình đích thực từ Thiên Chúa, những nơi còn bách hại  Kitô giáo, chính là còn mang hệ lụy quyền lực, tham lam, bá chủ, thống trị kẻ khác của những tư tưởng sai lạc, chống lại Thiên Chúa. Dù rằng, những người ấy có số tuổi chỉ bằng 0,2% của Chúa Giêsu mà thôi.

Vâng, thưa quý vị , như vậy, cuối cùng bản án của Chúa Giêsu cũng được hoàn tất trên Núi Sọ, vì ngọn núi Golgotha có hình giống chiếc sọ người. Nhưng, giữa hai kẻ trộm cướp, thì cũng còn có một kẻ biết nhìn nhận Người, nhìn nhận bản án bất công của Người phải chịu, và xin với Người: “ Lạy Ngài, khi nào vào Nước Ngài xin nhớ đến tôi ! ” (c 42). Rồi, Người nói với anh ta: “ Ta bảo thật, ngay hôm nay, anh sẽ được ở trên Thiên Đàng với ta.” ( 43). Vâng, có nghĩa là người trộm biết sám hối, và tin vào Chúa Giêsu, thì anh ta được cứu độ. Theo đó, Thiên Đàng ở đây có nghĩa là được “cứu độ”, được chính Chúa Giêsu tha thứ. Vì, Thiên Đàng có nghĩa là chính Chúa Giêsu, vì Thiên là Trời, Đàng là Đường, có nghĩa là Đường về Trời, hay Con Đường đến từ Trời, là chính Chúa Giêsu, vậy ai được Chúa Giêsu thì chính là nhận được Thiên Đàng rồi, và có lần Chúa Giêsu đã nói: “Ta là Đường, là sự thật, và là  sự sống…”. Vậy, Thiên Đàng là chính Chúa Giêsu vậy. Vâng, quả là hạnh phúc nếu ai tin vào Chúa Giêsu và tuyên xưng vào Người.

Vì như lời thánh Phaolô trong (Pl 2, 6-11), “ Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng cùng Thiên Chúa… “ . Vâng , và như vậy chính là Thiên Đàng, như vậy Thiên Đàng là con đường trút bỏ hoàn toàn thế tục mà bước theo Đức Kitô –Giêsu. Như vậy, Thiên Đàng hay Nước Trời là chính Chúa Giêsu và nơi có Thiên Chúa ngự trị, chính là tâm hồn người công chính./.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin sấp mình tôn thờ cái chết của Chúa để cứu độ chúng con và chúng con tin vào sự Phục Sinh của Chúa để dẫn đưa chúng con đến cùng Chúa Cha là Cha giàu Lòng Thương Xót. Vì Chúa là Đấng Hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần muôn đời./. Amen.

--------------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-376: THAY ĐỔI TRONG YÊU THƯƠNG


Lm. Jos. DĐH
 
 

Có những đổi thay như một chu kỳ tự nhiên : rừng thay lá, trăng khuyết rồi trăng tròn, sau cơn Suy niệm Lễlá-376


Có những đổi thay như một chu kỳ tự nhiên : rừng thay lá, trăng khuyết rồi trăng tròn, sau cơn mưa trời lại sáng, mọi người dễ dàng đón nhận. Có những điều lập đi lập lại nhiều lần trong ngày, trong tháng, mà ta không chán : được thành công, khen thưởng, được quan tâm, mộ mến, kính trọng… Lại có những lòng dạ thay đổi, khiến nhiều người phải đau khổ xót xa : thay tình như thay áo, đổi trắng thay đen, với nhiều lý lẽ biện minh như câu thành ngữ : miệng lưỡi không xương nhiều đường lắt léo.

Đành rằng ai cũng sợ khổ đau, dù về mặt thể xác hay tinh thần, đó là nguyên nhân làm ta gục ngã, khó đứng dạy, nếu thiếu tình yêu. Kinh nghiệm ở đời đâu phải “thất tình” mới cảm thấy cô đơn, không phải những người già ở “viện dưỡng lão” mới cảm nhận mình cô quạnh. Thực ra, đối tượng nào bị bỏ rơi cũng thất vọng, vì khổ đau, cô đơn. Theo diễn tiến Chúa Giêsu trong phụng vụ hôm nay, không phải chỉ có đau khổ và bội phản, chính xác hơn “quy luật yêu thương” không thể thiếu của lễ hy sinh, máu và nước đổ ra, hầu rửa sạch tâm hồn là vậy.

Lập trường Kitô giáo không phải là sống đạo trong nhà thờ, đâu chỉ dừng lại việc suy niệm cuộc đau khổ tử nạn của Đức Giêsu, không phải hấp hối trên giường bệnh rồi mới suy nghĩ về sự chết và sống lại. Ngôn ngữ của người trẻ có câu : say men rượu tuy say mà ngọt, say men tình, tuy ngọt mà cay. Rượu giết ta say, ngày mai ta tỉnh, tình giết ta rồi, bất tỉnh thiên thu. Tuy không thể so sánh tình yêu Giêsu với “ma men” tình đời, nhưng tận cùng của “yêu thương” bao giờ cũng vĩ đại, bất tử.

Người Kitô hữu được thay đổi nên giống “tình Giêsu” là nhờ công cuộc tử nạn và phục sinh của Đấng Kitô. Đức Giêsu chết vì yêu trên thập giá không phải vì “say tình”, mà là hành động “dâng hiến” duy nhất và cuối cùng, hướng nhân loại về mầu nhiệm Phục Sinh. Trước đau khổ về vất chất, chúng ta ai cũng có gia đình người thân để cậy nhờ, nâng đỡ; về đau khổ tinh thần, chúng ta có Giáo hội, có Đức Giêsu, tất nhiên phải có tình yêu Chúa mới thay đổi được con người và tâm tính ta.

Con người luôn có tự do để nhận hay từ chối ơn cứu độ và Đấng Cứu độ, ấy vậy con người không thể sử dụng tự do của mình để đạt tới hạnh phúc thật, có chăng là ảo tưởng. Xưa kia, khi đối diện với bản án chết, hẳn lúc đó Chúa cũng run sợ, cũng phải chống trả cám dỗ để không thay đổi lập trường yêu thương nhân loại tội lỗi. Trong cầu nguyện, yêu thương, Chúa Giêsu đã xác định con đường thập giá chính là cách thể hiện tình yêu vâng phục đúng ý Chúa Cha. Và ai muốn thay đổi con người tội lỗi của mình, cũng phải hiệp thông trong tình yêu Đấng Kitô.

Tình yêu đôi lứa và tình yêu giữa con người với nhau, chúng ta quen hơn là tình yêu của Đấng đã chết vì nhân loại tội lỗi. Chúa Giêsu vì yêu, Ngài đang vào thành thánh của tâm hồn mỗi chúng ta, Chúa cần ta tung hô chúc tụng bằng hành động của “con tim”, tuyệt đối không phải bằng môi miệng. Mỗi đất nước đều có một vị vua, tổng thống, hoặc chủ tịch, để điều hành lãnh đạo. Nhưng thế giới hữu hình và vô hình này, nơi Đức Giêsu, Vua Tình Yêu, Đấng duy nhất chia sẻ và cứu giúp chúng ta thay đổi được tâm hồn mình xứng hợp với hạnh phúc ơn cứu độ.

Tình yêu Đấng trên thập giá xưa kia đã hoán cả được anh trộm lành; đã thay đổi được tâm hồn của Phêrô, của các môn đệ nhút nhát vì sợ đau khổ chết chóc. Trong tình yêu của Đức Giêsu hôm nay, hẳn vẫn đang thay đổi mạnh mẽ thế giới, thay đổi từng tâm hồn của mỗi người bằng nhiều ngôn ngữ không lời khác nhau. Hy vọng chúng ta theo đạo, tin đạo, sống đạo, không phải chỉ khi được những điều như ý, hoặc lý giải được khổ đau thập giá là gì. Nhưng mỗi ngày nhờ đau khổ thập giá, chúng ta được lớn dần trong niềm tin yêu của Đấng Phục Sinh. Amen.

----------------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-377: THẬP GIÁ, MẦU NHIỆM CỦA MÔN ĐỆ ĐỨC KITÔ


Lm. Giuse Trực
 
 

Hình phạt thập giá đã có từ rất xa xưa. Đến cuối thế kỷ I trước công nguyên thì hình phạt thập giá Suy niệm Lễlá-377


Hình phạt thập giá đã có từ rất xa xưa. Đến cuối thế kỷ I trước công nguyên thì hình phạt thập giá chỉ dành cho những tên nô lệ và những phạm nhân không có quốc tịch La mã. Qua cuộc khổ nạn của Đức Giêsu, thập giá không chỉ là một cây gỗ dùng để hành hình những tên nô lệ và phạm nhân không có quốc tịch La mã, nhưng từ đây, nó trở thành biểu tượng của một niềm tin tôn giáo; không còn là hình ảnh tượng trưng của sự tủi nhục, nhưng là tiếng nói của một tình yêu mãnh liệt; không còn là sự nặng nề để người ta tìm tránh né, nhưng là con đường tất yếu để dẫn đến vinh quang bất diệt…

Qua cuộc khổ nạn của Đức Giêsu, chúng ta thấy được thập giá chính là mầu nhiệm của tình yêu, mầu nhiệm của lòng thương xót, vì “Chúa đã dùng thánh giá mà chuộc tội cho thiên hạ”.

Mầu nhiệm này không phải bất đắc dĩ Đức Giêsu phải chịu, hay “lỡ” bị phạt nên “nâng nó lên” một tầm cao cho bớt đi sự xấu hổ… mà Thiên Chúa Cha đã muốn và thực hiện qua hình ảnh con rắn đồng trong sa mạc, để “Ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống”; Đức Giêsu đã loan báo ít nhất là 3 lần mầu nhiệm thập giá để chuẩn bị trước cho các môn đệ của Ngài hiểu và can đảm bước đi trên con đường thập giá sau cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài.

Điều kiện của Đức Giêsu: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24). Ở đây, theo Đức Giêsu không chỉ đơn giản là bước đi theo Người, mà còn là sống giống như Người: yêu thương và tận hiến. Các môn đệ đi theo Đức Giêsu, nhưng các ông chưa thay đổi là vì các ông chưa sống giống như Thầy Giêsu, mà chỉ đơn giản là mới đi theo một bậc thầy mà thôi.

Muốn bước theo Đức Kitô, Kitô hữu đừng nghĩ mình chỉ bước theo một con người, một triết thuyết, một lý tưởng,… nào đó, nhưng phải biết rằng mình được mời gọi để rập khuôn cuộc đời với Đức Kitô, Đấng yêu thương và tự hiến.

Để có thể rập khuôn cuộc đời với Đức Kitô, điều kiện duy nhất là phải vác thập giá mình hằng ngày, nghĩa là phải đi trên con đường Chúa đã đi. Thập giá đó chính là những hy sinh, chịu khó từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn. Chỉ với động lực vì bước theo Đức Kitô, muốn sống cuộc sống của Ngài, chúng ta mới sẵn sàng chấp nhận những hy sinh, gian khổ. Còn nếu không có động lực bước theo Đức Kitô, chúng ta sẽ khó mà vác thập giá vì nó thật là phi lý.

Ví dụ ngày Chúa Nhật bạn bè tôi đi chơi, tôi phải đi lễ; làm ăn buôn bán, người ta có khi gian dối chút đỉnh, còn tôi thì không; bạn bè cuối tuần rủ đi “mát mẻ”, chúng ta lắc đầu; nhiều người muốn có gia đình hạnh phúc với vợ đẹp, con ngoan, nhưng một số người đã chọn tận hiến cuộc đời cho Thiên Chúa trong đời sống tu trì… Tất cả những điều đó và nhiều điều khác nữa thật là phi lý nếu không có động lực vì bước theo Đức Kitô.

Ngày 16/10 tới đây, Đức Thánh Cha sẽ tuyên thánh cho vị chân phước thiếu niên người Mêxicô, Giuse Sanchez Del Río, tử đạo lúc mới 14 tuổi. Trong lúc bị người ta hành hình, cậu đã hô vang “Hoan hô Chúa Kitô Vua!”. Mặc dù đã chết 88 năm, nhưng thân xác của em vẫn tươi nguyên như đang ngủ, và những vết thương trên người em vẫn như đang rỉ máu.

Động lực nào đã khiến cho cậu thiếu niên 14 tuổi can đảm chấp nhận bị người ta hành hình cho đến chết. Tiểu sử của cậu thiếu niên này đã viết lại rằng: “Trên đường đến nơi hành quyết, bọn lính liên tục dùng con dao phay sắc bén đánh cậu một cách man rợ, cứ mỗi lần bị đánh cậu lại la lớn “HOAN HÔ CHÚA KITÔ VUA !”. Khi đến nghĩa trang, máu cậu chảy lênh láng, bọn lính tiếp tục lấy dao rạch sâu dưới 2 lòng bàn chân, sau đó bắt cậu đi trên muối và trên cả những con đường đầy đá nhọn, cậu khóc thét trong đau đớn nhưng vẫn kiên quyết không chối bỏ đức tin của mình và chấp nhận chết để làm chứng Tình Yêu trọn vẹn vào Chúa Jesus Kitô. ” Mày chỉ cần nói to lên rằng: Khốn chết cho Kitô Vua thì chúng tao sẽ tha mạng cho mày ” bọn lính yêu cầu. Cậu liền từ chối và hô lớn ” CHÚA KITÔ VUA VẠN TUẾ ! ĐỨC MẸ GUADALUPE VẠN TUẾ ! ” Tên chỉ huy ra lệnh bọn lính dùng dao đâm cậu, nhưng cứ mỗi vết đâm, cậu càng hét lớn ” HOAN HÔ CHÚA KITÔ VUA ! “, tên chỉ huy giận điên lên liền rút súng bắn chết cậu ngay tại chỗ”. Rõ ràng chỉ vì muốn rập khuôn cuộc đời mình với Đức Kitô chịu đóng đinh mà cậu đã chấp nhận tất cả.

Đó là bài học cho tôi và mọi người, cách riêng là các bạn trẻ trong ngày quốc tế giới trẻ hôm nay. Từ đây trở về sau, mỗi khi gặp thử thách, cám dỗ, chúng ta hãy vì động lực muốn bước theo Đức Kitô để can đảm vác lấy thập giá, nghĩa là chịu những hy sinh, từ khước những điều sai trái.

Cái chết của Đức Kitô đã đem ơn cứu độ cho nhân loại, nghĩa là lòng thương xót của Chúa Cha được thể hiện qua mầu nhiệm thập giá của Đức Kitô. Cũng vậy, nếu chúng ta biết can đảm vác lấy thập giá mỗi ngày vì Đức Kitô, thì chúng ta cũng sẽ được vinh quang với Ngài.

Lạy Đức Giêsu, nhân loại biết đến Ngài nhiều nhất qua hình ảnh Ngài chịu đóng đinh trên cây thập giá. Đó cũng là điều nhắc nhở cho mỗi người chúng con: bước theo Đức Kitô là phải chấp nhận vác thập giá và đóng đinh tính xác thịt vào thập giá đó. Động lực lớn nhất để chúng con vui lòng vác thập giá là vì muốn trở thành môn đệ của Ngài. Xin nuôi dưỡng và khơi lên trong tâm hồn chúng con tư tưởng trở thành môn đệ Chúa một cách mạnh mẽ, để đứng trước những gian nan thử thách, chúng con không lùi bước, nhưng sẽ sẵn sàng hy sinh vì muốn theo sát gót Đức Kitô, theo gương vị tân hiển thánh Giuse Sanchez Del Río mà Giáo hội sẽ tuyên phong trong thời gian sắp tới. Amen.

-----------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-378: QUA THẬP GIÁ VÀO TRONG VINH QUANG


Lm. Đan Vinh

TIN MỪNG: Lc 22,14-23.
SUY NIỆM:
1) CUÔC KHẢI HOÀN CỦA ĐỨC GIÊSU VÀO THÀNH GIÊRUSALEM:

– Đức Giêsu đã cưỡi lừa:
 
 

Lừa là một con vật hiền hoà, khác hẳn loài ngựa dành cho chiến tranh. Tiên tri Giacaria đã tiên Suy niệm Lễlá-378


Lừa là một con vật hiền hoà, khác hẳn loài ngựa dành cho chiến tranh. Tiên tri Giacaria đã tiên báo sự kiện này khi tuyên sấm: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ.” (Dcr 9,9).

– Là Vua Thiên Sai mang lại hòa bình:

Hôm nay, khi Đức Giêsu cưỡi lừa vào thành, Người đã khẳng định mình chính là Đấng Thiên Sai vì đã thực hiện và mặc khải về sứ mạng thiên sai của Người. Thế nhưng, khi chọn cưỡi trên con lừa hiền lành vào thành, Đức Giêsu cho thấy Người không phải là một ông vua Thiên Sai chinh chiến, dùng bạo lực bắt kẻ thù khuất phục mình, nhưng là Vua Thiên Sai khiêm hạ thể hiện qua việc làm: Quỳ gối rửa chân cho môn đồ chứ không bắt người dưới hầu hạ mình. Người liên kết muôn dân lại thành dân Thánh của Thiên Chúa, không phải là để đi giao chiến với các dân khác, nhưng để kêu gọi sự hợp tác chống lại giặc nghèo đói, dốt nát, gian ác bất công… Người đến không phải để kết án, nhưng để ban ơn tha thứ. Người không phá đổ bức tường ngăn cách giữa dân Do thái và chư dân, nhưng kêu mời mọi người bỏ cái tôi ích kỷ tự ái để vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Người, cùng chịu đóng đinh và chịu chết, được an táng trong nồ và ngày thứ ba từ trong cõi chết trỗi dậy… Còn chúng ta hôm nay có sẵn lòng đáp trả lời mời gọi đi theo Người không?

2) THÁI ĐỘ CỦA ĐỨC GIÊSU TRƯỚC CÁC BIẾN CỐ:

– Sẵn sàng vâng theo thánh ý Chúa Cha:

Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình” (Lc 22,15). Trong khi ăn Lễ Vượt Qua, Người đã lập phép Thánh Thể, tiên báo Giuđa sẽ phản nộp Thầy. Người dạy kẻ làm đầu phải biết hầu thiên hạ. Người tiên báo Phêrô sẽ chối Thầy. Rồi Thầy trò đi ra núi Cây Dầu (x. Lc 22,19-38). Tại đây, Người cầu nguyện xin vâng ý Cha để đi con đường “qua đau khổ vào vinh quang”, dù trái với ý mình: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin tha cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Lc 22,42). Khi Giuđa dẫn dân quân Đền thờ đến bắt, Người vẫn tỏ thái độ bình tĩnh: nhẹ nhàng nhắc bảo Giuđa về việc xấu xa đang làm với hy vọng đánh thức lương tâm của người môn đệ đã vì quyền vì lợi mà trở thành kẻ phản bội (x. Lc 22,48). Người cũng tỏ lòng nhân hậu ra tay chữa lành người đầy tớ vị thượng tế vừa bị Phêrô chém đứt tai (x. Lc 22,51). Người cũng quan tâm đến thái độ hèn nhát chối Thầy ba lần của Phêrô (x. Lc 22,54-60). Khi nghe tiếng gà gáy, Người đã đưa mắt nhìn Phêrô vừa phạm tội để nhắc bảo, khiến ông đã nhớ lại lời Thầy mới tiên báo và ông đã hồi tâm sám hối khóc lóc thảm thiết (x. Lc 22,61-62).

– Nhẫn nhịn chịu đựng sự xét xử bất công:

Đức Giêsu vẫn tỏ ra bình tĩnh khi bị đưa ra xét xử trước Thượng Hội Đồng Do thái với việc kết án bất công của Hội Đồng này (x. Lc 22,66-71). Rồi Người bị điệu ra trước tòa tổng trấn Philatô rồi tòa vua Hêrôđê. Người luôn khẳng định về vai trò cứu thế của mình. Cuối cùng Người đã bị quan Philatô chịu áp lực của quần chúng Do Thái, đã kết án tử hình thập giá cho Người (x. Lc 23,1-25).

– Luôn khoan dung dù đang gặp thử thách đau khổ:

Trên đường lên Núi Sọ, dù phải mang vác thập giá nặng nề, dù thân xác bị nhiều roi đòn thương tích và đói khát, Người được Simôn Kyrenê vác đỡ thập giá (Lc 23,26). Người vẫn quan tâm nói lời an ủi mấy người phụ nữ đi theo (x. Lc 23,. Trên thập giá lúc sắp tắt thở, Người đã nghe người trộm có lòng tin cậy bày tỏ lòng ăn năn sám hối và hứa ban Nước Trời đầu tiên cho anh. Người cầu xin Chúa Cha tha tội cho đám đông dân chúng bị khích động và quân lính hành hình tàn ác vì họ không ý thức việc làm của mình.

– Tin vào sức mạnh của tình thương:

Tình thương vô biên của Đức Giêsu chính là ngọn đèn xua tan bóng đêm thù hận ghét ghen trong lòng mọi người. Tình thương của Chúa vượt trên mọi hận thù gian ác, và bất trung phản bội của con người… Tình yêu của Thiên Chúa đã chiến thắng tội lỗi sự chết và sẽ mang lại niềm vui ơn cứu độ cho những ai thành tâm tin cậy và quyết tâm theo con đường thập giá “qua đau khổ vào trong vinh quang” của Chúa Giêsu.

3) NHÌN LẠI MÌNH QUA CUỘC KHỔ NẠN CỦA ĐỨC GIÊSU:

Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn của Chúa, ta sẽ nhận ra con người thật của mình để hồi tâm sám hối và quyết tâm đổi mới đời sống trong những ngày này.

– Hình ảnh người môn đệ yếu đuối Phêrô:

Phêrô, một người luôn tự hào về tình yêu mãnh liệt dành cho Thầy, nhưng rồi lại tỏ ra hèn nhát khi chối Thầy trước những kẻ hèn kém là các tôi tớ giúp việc cho thượng tế (x. Lc 22,56-60). Nhưng chính ánh mắt yêu thương của Chúa Giêsu đã nhìn Phêrô sau tiếng gà gáy khiến ông nhớ lại lời Thầy tiên báo trong bữa tiệc ly trước đó: “Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần”, và ông đã ra ngoài khóc lóc thảm thiết (Lc 22,61-62). Ngày hôm nay vẫn không thiếu những tiếng gà cảnh báo và ánh mắt yêu thương của Chúa trong cuộc đời mỗi người chúng ta. Nhưng liệu chúng ta có tỉnh ngộ và cấp thời hồi tâm sám hối như Phêrô không?

– Hình ảnh người môn đồ phản bội Giuđa:

Giuđa, một người được Chúa chọn vào Nhóm 12, được yêu thương và trao ban trách nhiệm quản lý tiền bạc phục vụ cộng đoàn, luôn được theo sát bên Thầy, được chứng kiến bao phép lạ Thầy làm, nghe biết bao lời Thầy giảng dạy. Nhưng tất cả những điều tốt đẹp này đã vỡ tan như bèo bọt khi Giuđa chọn theo quyền lực thế gian và tiền tài vật chất để bán nộp Thầy với giá buôn một nô lệ. Anh ta còn tình nguyện trở thành tay sai khi tình nguyện dẫn đầu những kẻ thù ghét để chỉ điểm bắt Thầy bằng cái hôn là một dấu chỉ yêu thương. Chúng ta hôm nay cũng hành xử như Giuđa khi vẫn giữ đạo kinh lễ, vẫn làm việc tông đồ… nhưng lại có lối sống dễ dãi, sa đà vào các thói hư như ăn nhậu say sỉn, quậy làng phá xóm, cờ bạc đỏ đen hoặc buôn gian bán lận!

– Hình ảnh quan Tổng Trấn Philatô hèn nhát và vô trách nhiệm:

Dù là người đầy quyền lực, nhưng quan Philatô vẫn bị sự sợ hãi làm lu mờ lương tri trong việc xét xử con người vô tội là Đức Giêsu: Nỗi lo bị dân chúng nổi loạn, sợ bị mất chức mất quyền đang chiếm hữu, không làm chủ được quyết định của mình trước áp lực của đám đông đang gào thét. Philatô không đủ bản lãnh để quyết định theo lương tâm là tha cho Đức Giêsu mà ông biết rõ là vô tội. Ngày hôm nay có lẽ mỗi người chúng ta nhiều lần cũng đã hành xử hèn nhát và vô trách nhiệm khi không dám lên tiếng bênh vực công lý, che chở người dân lương thiện thân cô thế cô, đang bị những thế lực gian ác hè nhau hãm hại …

– Hình ảnh vua Hêrôđê xảo quyệt cố chấp đã bị Đức Giêsu loại bỏ:

Có lẽ chúng ta cũng nhiều lần hành xử giống vua Hêrôđê bị Đức Giêsu gọi là “tên cáo già” do có lối hành xử quỷ quyệt gian ác bất công của ông (x. Lc 13,31-33). Trong cuộc xử án Đức Giêsu, vua Hêrôđê cũng về Giêrusalem dự lễ Vượt Qua. Quan Philatô nghe biết Đức Giêsu là người Galilê nên cho điệu Người tới dinh của vua Hêrôđê cho ông xét xử. Hêrôđê háo hức muốn gặp Đức Giêsu để thỏa tính tò mò muốn xem Người thi thố phép lạ giống như xem trò ảo thuật (x. Lc 23,8-9). Nhưng Đức Giêsu đã giữ im lặng không trả lời khiến vua Hêrôđê tức giận truyền mặc áo trắng cho Người để coi Người như một kẻ mất trí, rồi trả Người lại cho quan Philatô tiếp tục xét xử (x. Lc 23,9-11). Ngày hôm nay có lẽ nhiều lần chúng ta đi theo Chúa không phải để làm môn đệ Người, nhưng để được Người thỏa mãn các yêu cầu theo như sở thích. Khi không được Chúa ban ơn như ý, nhiều người trong chúng ta cũng đã mất đức tin và chạy theo bói toán đồng cốt và các trò mê tín khác…  Hãy xin Chúa ban cho chúng ta bỏ theo con đường gian ác tội lỗi theo thói thế gian, chiều theo sự yếu đuối xác thịt và các cám dỗ của ma quỷ. Xin cho chúng ta luôn theo con đường hẹp, leo dốc, khiêm nhường phục vụ của Đức Giêsu, là đường duy nhất dẫn đưa chúng ta lên trời đời sau.

LỜI CẦU:

Lạy Chúa Giêsu,

Vì Chúa đã trải qua sự lo buồn đổ mồ hôi máu trong Vườn Cây Dầu, xin cho mỗi người chúng con đủ sức đối diện với những khó khăn gặp phải trong cuộc sống, để luôn bỏ đi ý riêng mà vâng theo thánh ý Thiên Chúa.

Vì Chúa đã bị người đời kết án bất công, xin cho chúng con lòng can đảm dám lên tiếng bênh vực chân lý, bảo vệ những người thân cô thế cô khỏi bị kẻ gian ác đàn áp bóc lột

Vì Chúa bị những quan lính hành hạ nhạo cười, xin cho phẩm giá của những người nghèo, các phụ nữ và trẻ em được mọi người tôn trọng và bảo vệ.

Vì Chúa đã vác cây thập giá nặng nề trên vai đến nơi hành hình, xin cho những ai đang chịu đau khổ do bệnh tật, nghèo khổ, thất bại… thấy mình được ơn Chúa trợ giúp và được nhiều người cảm thông nâng đỡ.

Vì Chúa đã bị quân lính lột áo và chịu đóng đanh chân tay vào thập giá cách ô nhục, xin cho mỗi người chúng con biết can trường chấp nhận gian khổ, biết lấy nhu thắng cương, lấy sự hiền hoà khoan dung chiến thắng bạo lực hung tàn.

Vì Chúa dang tay chịu chết trên cây thập giá để giao hòa nhân loại với Chúa Cha, xin cho mọi người dù khác nhau về dân tộc, tiếng nói, tôn giáo, chính kiến… vẫn có thể chung tay hợp tác xây dựng một Trời Mới Đất Mới ngày một an hòa hạnh phúc hơn.

Vì Chúa đã khải hoàn phục sinh, xin cho chúng con biết đi theo Chúa, chấp nhận đi theo con đường ”qua đau khổ vào trong vinh quang”, cùng chịu chết với Chúa để cùng được phục sinh với Chúa sau này. Amen.

------------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-379: YÊU THƯƠNG ĐẾN CÙNG


 Dã Quỳ   
 
 

Chúng ta bước vào Tuần Thánh được mở đầu bằng Lễ Lá, Tưởng niệm Cuộc Thương Khó của Suy niệm Lễlá-379


Chúng ta bước vào Tuần Thánh được mở đầu bằng Lễ Lá, Tưởng niệm Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu. Đây là tuần lễ quan trọng nhất trong năm Phụng vụ. Hôm nay, cầm trên tay một nhành lá dừa, cành lá giúp chúng ta nhớ về biến cố vào thành của Chúa Giêsu và giúp ta sống Mầu Nhiệm Cứu Chuộc của Chúa trong Tuần Thánh và trải dài trong suốt năm.

Biến cố trung tâm của Chúa Nhật này là Cuộc Thương Khó của Chúa. Giáo Hội mời gọi chúng ta tìm hiểu và suy gẫm về Cuộc Khổ Nạn hồng phúc của Chúa Giêsu, Đấng đã can đảm tiến bước tiến lên Giêrusalem để chịu chết, không tìm chạy trốn. Chính vì thế, Chúa đã nói:“Thầy những ước ao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình.”(Lc 22,15) Và Người đã chia sẻ bữa ăn cuối cùng với các Tông đồ của Người, bị Giuđa phản bội, những môn đệ bỏ rơi và Phêrô chối bỏ. Người đã trải qua một bản án bất công. Người tự ý gánh lấy đau khổ để chuộc tội loài người như lời ngôn sứ Isaia đã tiên báo về Người Tôi Tớ Thiên Chúa. Người từ bỏ sự bảo vệ chính mình. Người mang vào mình sự thù hận, đau khổ và sự khinh bỉ. Và Người đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. (x Pl 2,6-11) Để rồi chúng ta hiểu rõ hơn và xác tín vào tình yêu sâu đậm của Thiên Chúa dành cho ta

Tất cả cuộc đời của Chúa Giêsu cốt yếu ở việc loan báo với chúng ta về tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu, là Thiên Chúa cứu độ. Thiên Chúa nói với chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô mà suốt cuộc sống của Người nơi trần gian chỉ là yêu thương và phục vụ;  là tìm kiếm, yêu thương và tha thứ; là hiến mình vì nhân loại. Chúng ta có một Thiên Chúa, Đấng “yêu thương những người tội lỗi và muốn cứu họ.” Một Thiên Chúa chia sẻ kiếp người với chúng ta, trở nên một con người ở giữa chúng ta. Người đã tự nguyện chết để cho chúng ta được sống. Người có quyền ban cho chúng ta sự sống và giải thoát ta khỏi sự chết trong cái chết của Người.

Hôm nay, Chúa vẫn còn hiện diện và đồng hành với chúng ta.  Khi bước vào trong Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, tới lượt của chúng ta cũng hãy theo cùng con đường tình yêu và phục vụ với Người như lời Thánh Phêrô nhắc nhở:”Chúa Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người.”( 1Pr 2,21) Cái Chết của Chúa sẽ mãi có ý nghĩa nếu chúng ta biết sống làm chứng cho Người cho đến hơi thở cuối cùng. Chắc chắn là khó khăn, nhưng trong đức tin và ơn Chúa trợ giúp, chúng ta có thể thực hiện.

Chúa Giêsu đã dùng thập giá làm phương tiện để cứu chuộc chúng ta, nhưng thập giá không phải là cùng đích của Kitô hữu mà là Phục Sinh. Thế nên, không thể tách rời thập giá với Phục Sinh. Dẫu biết rằng đau khổ trong cuộc sống cần để ta học biết vâng phục, nhưng khi đau khổ đến, ta khó có thể chấp nhận và luôn đi tìm lời giải đáp. Chỉ khi nhìn lên Thánh Giá Chúa, ta sẽ tìm được câu trả lời. Chúng ta tin Chúa Giêsu đã đau khổ để cứu chúng ta, đã đau khổ vì yêu thương ta và đã mang trên vai Người tội lỗi của cả nhân loại. Vậy chỉ nhìn lên Thánh giá, chúng ta mới nhận ra tình yêu vô bờ bến Chúa đã dành cho ta và ta mới biết cách đáp lại tình yêu Chúa.

Chúa đã khẳng định:”Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.”(Ga 15,13) Chúa đã hiến mạng sống vì chúng ta, đã mang lại cho chúng sự tha thứ và hòa giải với Thiên Chúa. Vậy chính chúng ta cũng phải yêu thương và hy sinh vì anh em mình theo lời thánh Gioan khuyên:“Chúa Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em mình.”( 1Ga 3, 16)

Trong niềm xác tín Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, Đấng yêu thương chúng ta đến cùng và đã cứu chuộc chúng ta, ta hãy vui mừng tung hô Người với trọn tấm lòng và tình yêu “Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời và vinh quang trên các tầng trời!”( Lc 19,38) Và can đảm, trung kiên theo Chúa trên đường Thương Khó, cùng với Chúa đón nhận đau khổ thử thách, vâng trọn Ý Cha, để rồi chúng ta sẽ hân hoan cùng Người Phục Sinh vinh hiển.

* Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho tất cả chúng con, nhất là những anh em Kitô hữu đang bị bách hại vì đức tin, có đủ sức mạnh và tình yêu của Chúa để chúng con vững vàng bền chí đến cùng và đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa. Xin Cuộc Thương Khó của Chúa thay đổi nỗi nghi nan của chúng con bằng lòng tin tưởng và nỗi đau đớn của chúng con bằng niềm vui mừng Phục Sinh. Amen.

-----------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-380: KHUÔN MẶT NGƯỜI TÔI TỚ CỦA THIÊN CHÚA


Huệ Minh
 
 

Ta vừa đi lại khoảnh khắc hoành tráng, vinh quang mà người đời dành tặng cho Chúa Giêsu. Bề Suy niệm Lễlá-380


Ta vừa đi lại khoảnh khắc hoành tráng, vinh quang mà người đời dành tặng cho Chúa Giêsu.

Bề ngoài, cuộc tiến vào thành Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám đông dân chúng nô nức phất cao cành lá: “Hoan hô Con Vua Đavit” có vẻ là một cuộc toàn thắng vang dội. Nhưng thực ra, đây là một cuộc mở màn Thương Khó mỉa mai nhất và có lẽ cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc Thương Khó. Bởi vì Chúa biết rõ rằng trong niềm phấn khởi chóng qua của dân chúng, đã chất chứa một sức phản bội sẽ bùng nổ dữ trước mặt Tong trấn Philatô trong tiếng kêu gào với những bàn tay nắm chặt đưa lên: “Đả đảo! Đóng đinh nó vào Thập giá!”

Lễ Lá thật ra đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong diễn tiến cuộc cứu độ của Đức Kitô, đánh dấu chặng đường đau khổ nhất của Chúa Giêsu trong hành trình làm người. Qua đó cũng làm nổi bật thân phận Người Tôi Tớ của Ngài.

Thân phận người tôi tớ đó đã được gợi lên qua các hình ảnh của các ngôn sứ. Thân phận người tôi tớ đó đặc biệt được ngôn sứ Isaia nói rất nhiều và hiện thân rõ nét nơi Isaia. Ngôn sứ Isaia đã phác họa Ngài trong Bài Ca Người Tôi Tớ: Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi…” (Is 50, 4-7)

Thân phận người tôi tớ ấy vừa được Thiên Chúa Cha an bài, vừa được loài người áp đặt trên thân thể Đức Kitô như con chiên hiền lành bị đem đi giết khi giờ đã điểm.

Thật vậy, Thánh Phaolô đã xác định về thân phận tôi tớ của Ngài: Chúa Kitô tuy là Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi…”(Pl 2, 6)

Khi tự hạ như thế, Chúa Giêsu đã bằng lòng chịu mọi vất vả nhọc nhằn, xỉ nhục cay đắng và chịu lấy án phạt của thân phận người tôi tớ.

Thân phận người tôi tớ của Ngài càng rõ hơn khi bước vào thành Giêrusalem để chịu chết cho nhân loại. Chính Ngài đã dạy các tông đồ những lời trăn trối thật cảm động: Vua chúa các dân ngoại thì thống trị dân, và những kẻ có quyền hành trên dân thì bắt họ gọi mình là ân nhân. Phần các con, thì không như thế, vì ai cao trọng hơn các con thì hãy trở thành như người nhỏ nhất, và làm đầu, hãy trở thành như người hầu bàn… Thế mà Thầy, Thầy ở giữa các con như người hầu hạ…” (Lc 22, 24-27)

Chính Chúa Giêsu đã hành động quá đẹp là hầu hạ trong bữa tiệc Thánh Thể giữa các môn đệ và Chúa Giêsu đã trở thành người tôi tớ thực sự mà ngôn sứ Isaia đã phác họa trong cuộc khổ nạn của Ngài. Ta thấy, Chúa Giêsu hoàn toàn im lặng không lời chống đối thở than và phó mặc cho loài người hành hạ, xỉ nhục, bắt vác thập giá lên đồi sọ và chịu họ đóng đinh giữa trời buồn tím đau thương cô đơn tất tưởi. Người tôi tớ trên tất cả các người tôi tớ ấy đã can đảm nhận lấy cái chết trong tình thương bao la vô bờ, bởi Ngài đã trao cả nhân loại cho mẹ Ngài chăm sóc và trút hết tình thương vào cái chết với lời kết thúc sau cùng: Mọi sự đã hoàn tất!

Dưới con mắt đức tin thì cái chết của Đức Kitô trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm, bởi vì chúng ta không thể hiểu được tại sao Con Một Thiên Chúa đã phải trải qua một thân phận đau đớn như thế? Mầu nhiệm, bởi vì một cách nào đó, người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực sự tham dự vào việc đóng đinh ấy.

Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng đinh vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là chính do tội lỗi của chúng ta mà Ngài đã phải treo trên thập giá. Tội lỗi của chúng ta ngày nay, cho dầu cách xa 2000 năm, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một sỉ vả hoặc chính một cái đinh đóng vào thân thể Ngài…

Mỗi lần ai đó cảm thấy cô đơn, đau thương dập vùi, hãy cố nhìn lên thân phận người tôi tớ của Đức Kitô, để nhận lấy sức mạnh trong trái tim yêu thương bao la của Ngài mà bước đi trong hành trình nhục nhằn kiếp người. Người đó sẽ còn thấy mình đang được đỡ nâng giữa đoàn người con cái của Chúa từ sau cuộc khổ nạn của Ngài cho đến hôm nay. Sức mạnh Đức Kitô người tôi tớ ấy không còn là sự thất bại của người nô lệ, nhưng theo Lời Thánh Phaolô, đã được Thiên Chúa tôn vinh và ban cho một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu. (Pl 2:8-9) Hãy tin tưởng và bước đi theo Ngài.

Ta cùng với Chúa Giêsu bước theo Ngài trên con đường thập giá và ta nhìn lên thập giá, nơi Ngài đã bị treo lên trong tủi nhục đau đớn.

Ta nhìn lên thập giá của Ngài để thấy được án phạt của tội lỗi. Nhìn lên thánh giá của Ngài để thấy được tình yêu bao la của Thiên Chúa. Phải, bên kia sự độc ác của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.

Nhìn lên thập giá Chúa không phải để thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi, mà trái lại để cảm nếm được hồng ân bao la của Chúa, để cho tâm hồn được phấn khởi, tin yêu hơn…

Nhìn lên thập giá Chúa để cảm nếm được ơn tha thứ của Ngài. Như thế, chúng ta cũng được mời gọi để cảm thông, để tha thứ hơn đối với người anh em của chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta càng được mời gọi để tha thứ nhiều hơn. Càng tha thứ nhiều hơn, chúng ta càng dễ cảm nếm được ơn tha thứ của Chúa hơn.

Xin Chúa cho ta lòng chạnh thương với anh chị em đồng loại như Chúa đã chạnh thương phận người tội lỗi của ta.

-----------------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-381: CHIÊM NGẮM MẦU NHIỆM THẬP GIÁ


 Lm John Nguyễn
 
 

Lễ Lá là một lễ vui mừng khi Chúa Giê-su vào thánh thánh Giê-ru-sa-lem, dân chúng hò reo Suy niệm Lễlá-381


Lễ Lá là một lễ vui mừng khi Chúa Giê-su vào thánh thánh Giê-ru-sa-lem, dân chúng hò reo vui mừng đón tiếp. Nhưng lại đượm nét buồn, buồn vì lòng người đổi trắng thay đen. Hôm nay dân chúng tung hô Ngài là Vua, sau đó chính họ ra tay giết chết được diễn tả qua Bài Thương Khó, chúng ta được nghe trong thánh lễ hôm nay. Ðức Giêsu bước vào cuộc thương khó.

Hosana! Hosana! Hosana! Tiếng reo hò vang vọng cả một góc trời khi Đức Giêsu tiến vào thành Giêrusalem. Đám đông dân chúng với những cành lá trên tay, với những cánh tay đưa lên cao để tung hô Ngài là Ðấng Mêsia, là Con vua Ðavít. Ngài là Vị Vua của nhân loại. Nhưng một tuần sau, chính những cánh tay đó cũng giơ cao để gào thét, để chửi rủa chế nhạo và đòi đóng đinh Ngài vào thập giá. Ôi! Thật đớn đau, lòng người đổi trắng thay đen.

Đức Giêsu, Ngài là Con Thiên Chúa và cũng là con người, Ngài mang khổ đau của phận người. Ngài biết thế nào là bị vu khống, bất công, phản bội, nhục nhã, sợ hãi, cô đơn và giết chết. Ngài không giải thích mầu nhiệm đau khổ, nhưng Ngài đón lấy đau khổ với tình yêu to lớn, đó là mầu nhiệm của đau khổ. Từ vinh quang trở thành đau khổ, và đau khổ lại biến thành vinh quang. Do đó, đau khổ mang đầy ý nghĩa to lớn cho nhân loại. Qua bài Thương Khó hôm nay, bạn và tôi, chúng ta hãy cùng đi với Ðức Giêsu qua từng chặng đường đau khổ từ vườn Cây Dầu đến tận Núi Sọ. Chúng ta cùng vác với Ngài bởi lẽ mọi sự Ngài chịu đau khổ là vì chúng ta và cho cả nhân loại được ơn giải thoát. Sau khi cảm nghiệm được cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu như thế nào thì bạn và tôi sẽ thấy mình yêu thánh giá Chúa hơn, dễ dàng chấp nhận vác thánh giá chính mình, và cảm thông với thánh giá của người khác.

Ðức Giêsu đã đi đến cùng tận của phận con người. Ngài muốn gieo hy vọng cho những ai thất vọng. Ngài đem lại ý nghĩa cho những khổ đau vô lý. Ngài đã đón nhận tất cả với tình yêu thứ tha, đau khổ của thánh giá đã nở hoa và tràn trề sức sống mới. Khi chúng ta chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Ðức Giêsu, chúng ta không cảm thấy đó là chuyện xa lạ đang xẩy ra trong thế giới đầy sự bất công và vô lý do con người tạo ra. Chúng ta cũng đang sống trong bất công, bị làm nhục, bị khinh khi, bị hành hạ và đối xử tàn tệ bởi một văn hóa của sự chết, một xã hội bạo lực và tàn ác. Điều này đã được diễn ra trong bối cảnh Tin Mừng sau đây:

Khi ta chiêm ngắm cuộc khổ nạn và con đường Chúa đã đi qua, chúng ta dễ dàng đón nhận thánh giá của chính mình, cảm thông hơn với thánh giá của tha nhân, và đồng thời chúng ta nhận ra rằng, mình cần có trách nhiệm trước những khổ đau của tha nhân trong gia đình, cộng đoàn và trong thế giới này. Chúng ta đừng sống vô cảm nhưng hãy biết chia sẻ và xót thương, như Chúa đã xót thương và tha thứ cho chúng ta.

Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Ðức Giêsu, chúng ta thấy mình không phải là kẻ đứng ngoài cuộc, thấy mình có nét của Giuđa: Một người được chọn, được yêu, được theo Thầy rất gần, chứng kiến bao phép lạ và được dạy bảo bao lời vàng ngọc, nhưng lại phản bội Thầy bằng nụ hôn giả dối.

Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Ðức Giêsu, chúng ta sẽ thấy mình có nét giống Phêrô: Ông tự hào về tình yêu của mình đối với Thầy Giê-su, để rồi dễ dàng chối Thầy trước một cô đầy tớ.Tiếng gà gáy cất lên, khiến Phêrô chợt tỉnh lại. Ánh mắt tha thứ của Thầy Giêsu khiến Phêrô òa khóc và hối hận. Ngày hôm nay vẫn còn văng vẳng đâu đó tiếng gà gáy trong đêm và ánh mắt nhân từ của Chúa còn trong đời tôi không?

Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Ðức Giêsu, tôi thấy mình có nét giống Philatô. Ông bị trói chặt bởi nỗi sợ: sợ dân nổi loạn, sợ mất chức. Ông bị mất tự do vì áp lực của đám đông gào thét. Ông không đủ bản lãnh và can đảm để tha một người vô tội. Và chúng ta có thấy mình giống Hêrôđê: tò mò, háo hức, trông chờ Ðức Giêsu làm phép lạ. Nhưng ông mau chóng thất vọng khi thấy Ngài lặng thinh, và chính ông đã ra tay giết Chúa Giêsu vì lòng ganh tỵ.

Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Ðức Giêsu, tôi nhìn thấy những điểm sáng ngời. Điểm sáng đó từ ông Simon: ông vác đỡ thập giá Ðức Giêsu trên đường lên núi Sọ. Điểm sáng khác nữa, đó là từ các người phụ nữ theo sau Thánh Giá Chúa Giêsu, họ vừa đi vừa than khóc. Điểm sáng rực rỡ hơn cả, đó là tên trộm lành. Một người bị đóng đinh tin vào Ðức Giêsu, và anh ta van xin Ngài nhớ đến anh, và anh là người Kito hữu đầu tiên được hưởng ơn cứu độ. “Hôm nay, anh sẽ ở với tôi trên thiên đàng”.

Lời nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

Vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con, thì xin cho những người nghèo khổ được no đủ.

Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu, thì xin cho chúng con và các bạn trẻ có đủ sức đối diện với những khó khăn của cuộc sống.

Vì Chúa bị kết án bất công, thì xin cho chúng con can đảm bênh vực chân lý và sự thật.

Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng, thì xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.

Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề, thì xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng và ủi an.

Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh, thì xin cho sự hiền hoà, chịu đựng để vượt thắng bạo lực và gian ác.

Vì Chúa giang tay chết trên thập giá, thì xin cho đất nối lại với trời, con người nối lại mối dây liên kiết với nhau.

Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui và ơn cứu độ, thì xin cho chúng con biết đón lấy đời thường ngày với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.

--------------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-382: Học hỏi Phúc Âm Chúa Nhật Lễ Lá


 (Lc 22,39-23,49)

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
 
 

Đối với Đức Giêsu cầu nguyện có khó không? Tại sao khó? Các môn đệ có cầu nguyện không? Hậu Suy niệm Lễlá-382


1. Đọc Lc 22,39-46. Đối với Đức Giêsu cầu nguyện có khó không? Tại sao khó? Các môn đệ có cầu nguyện không? Hậu quả của việc không cầu nguyện là gì?

2. Đọc Lc 22,47-53. Cho thấy Đức Giêsu là Đấng đầy lòng thương xót khi Ngài bị bắt trong Vườn Dầu.

3. Đọc Lc 22,54-62. Tại sao khi Chúa Giêsu nhìn Phê-rô thì ông khóc thảm thiết? Theo bạn, ánh mắt ấy có gì đặc biệt?

4. Đọc Lc 23,1-7. Những lời tố cáo Đức Giêsu của các nhà lãnh đạo Do-thái giáo trước mặt Philatô có đúng không?

5. Đọc Lc 23,8-12. Bạn nghĩ gì về thái độ im lặng của Đức Giêsu trước Hêrôđê? Tại sao Ngài im lặng?

6. Đọc Lc 23,1-25. Philatô tuyên bố Đức Giêsu vô tội mấy lần? Tại sao Philatô lại không dám tha Đức Giêsu?

7. Đọc Lc 23,35-43. Cho biết ba cơn cám dỗ đến với Đức Giêsu trên thánh giá. Bởi đâu Đức Giêsu thắng được ba cơn cám dỗ này?

8. Đọc Lc 23,39-43. Bạn nghĩ gì về anh trộm lành?

9. Đọc Lc 23,44-48. Đâu là những điều xảy ra khi Đức Giêsu sắp lìa đời? Đâu là hoa trái do cái chết của Đức Giêsu mang lại?

CÂU HỎI SUY NIỆM: Bạn thấy mình giống nhân vật nào trong bài Thương Khó này? Đâu là những nét giống nhau giữa bạn với nhân vật đó?

PHẦN TRẢ LỜI

1. Như đoạn Tin Mừng trên đây (Lc 22,39-46) cho thấy, có khi cầu nguyện thật là khó với Đức Giêsu. Vì cầu nguyện giúp Ngài thấy ý của Cha và cũng thấy ý của mình. Chính vì thế giờ cầu nguyện cũng là giờ chiến đấu gay gắt (Lc 22,44). Có sự giằng co giữa ý Con với ý Cha (Lc 22,42). Như chúng ta, Đức Giêsu cũng sợ chết khi còn quá trẻ, sợ khổ đau và nhục nhã. Ngài đã thắng được cám dỗ này bằng cầu nguyện khẩn thiết và cuối cùng Ngài đã đón nhận ý Cha. Hai lần Ngài kêu mời các môn đệ cầu nguyện để khỏi sa cơn cám dỗ (Lc 22,40.46). Họ đã không cầu nguyện và đã sa ngã.

2. Khi bị bắt trong Vườn Dầu (Lc 22,47-53), Đức Giêsu tỏ ra khoan dung với nụ hôn phản bội của Giuđa, đã can ngăn các môn đệ không được dùng gươm gây bạo động, và đã chữa lành tai của người đầy tớ bị chém. Sau cùng Ngài đã chấp nhận để cho người ta bắt.

3. Phêrô đã chối Thầy ba lần: hai lần chối việc mình “ở với Thầy,” và chối việc mình thuộc về nhóm môn đệ của Thầy (các câu 56-60). Khi Thầy Giêsu quay lại nhìn ông thì ông khóc lóc thảm thiết (câu 62). Có thể có nhiều lý do khiến Phêrô khóc. Ông khóc vì ánh mắt của Thầy Giêsu làm ông “sực nhớ lời Chúa đã nói với ông,” lời tiên báo ông sẽ chối Thầy ba lần trước khi gà gáy (Lc 22,34). Ông khóc vì ông biết mình đã chối Thầy rồi, dù cách đây không lâu, ông đã tự tin và nói mình “sẵn sàng vào tù hay phải chết với Chúa” (Lc 22,33). Có thể Phêrô khóc vì đọc được nhiều ý nghĩa khác nơi ánh mắt của Thầy Giêsu: ánh mắt thức tỉnh ông khỏi cơn mê muội, ánh mắt buồn đau trách móc vì tội của ông, ánh mắt yêu thương tha thứ, ánh mắt cảm thông với yếu đuối của ông…

4. Lc 23,1-7. Các vị lãnh đạo Do-thái giáo trong Thượng Hội Đồng đã điệu Đức Giêsu đến với tổng trấn Philatô và tố cáo Ngài nhiều điều: sách động dân chúng, ngăn cản dân chúng nộp thuế, xưng mình là đấng Kitô, là vua (Lc 23,2), và xúi dân nổi loạn (Lc 23,5). Nói chung họ tố cáo Đức Giêsu với tòa án ngoài đời về những tội chính trị. Chắc chắn Đức Giêsu đã không ngăn cản dân nộp thuế hay kích động dân nổi loạn để tôn mình lên làm Vua người Do-thái. Ngài không hề là mối đe dọa cho đế chế Rôma. Tuy nhiên, Ngài có thể đã mặc nhiên nhận mình là Đấng Kitô trước Thượng Hội Đồng (Lc 22,66-71), và đã không trách các môn đệ khi họ tôn Ngài là Vua (Lc 19,37-40). Quả thật Ngài là Vua (x. Lc 1,32-33) và là Đấng Kitô, nhưng không theo lối hiểu chính trị (x. Lc 23,35-38). Chính vì thế khi Philatô hỏi: “Ông có phải là Vua dân Do-thái không?” Ngài không chối, cũng không nhận, mà chỉ trả lời: “Chính ngài nói đó.”

5. Đức Giêsu đã không trả lời vua Hêrôđê, cũng không làm phép lạ nào cho vua xem như vua hằng mong ước (Lc 23,8-9). Đây là một chọn lựa nghiêm chỉnh. Bởi lẽ nếu Ngài chiều ý Hêrôđê, biểu diễn vài phép lạ nhằm thỏa mãn sự tò mò của ông, ông ta có thể tha Ngài. Nhưng bây giờ Ngài đã biết ý Cha, và muốn đi đến cùng con đường đau khổ Cha muốn Ngài đi.

6. Philatô “không tìm thấy lý do nào nơi người này” để kết tội hay kết án tử hình. Ông tuyên bố Đức Giêsu vô tội ba lần (Lc 23,4.14.22). Dầu vậy ông không dám tha Đức Giêsu, vì ông chịu áp lực rất lớn từ dân chúng (Lc 23,5.18.21.23). Vào thời điểm này, rất đông người Do-thái đổ về Giêrusalem để ăn lễ Vượt Qua, lễ mừng dân Chúa được giải phóng khỏi Ai-cập. Philatô sợ dân chúng làm loạn nên ông đành chiều theo ý họ.

7. Khi chịu treo trên thánh giá, Đức Giêsu gặp ba cơn cám dỗ: từ phía các thủ lãnh (Lc 23,35), từ lính tráng (Lc 23,36-37) và từ một trong hai tên gian phi (Lc 23,39). Cả ba cơn cám dỗ này đều có lời thách đố: “hãy cứu lấy mình đi” nghĩa là hãy xuống khỏi thập giá đi. Đức Giêsu đã ở lại trên thập giá vì Ngài biết mình đang làm theo ý Cha.

8. “Anh trộm lành” nhận tội của mình và chấp nhận hình phạt, đồng thời nhìn nhận Đức Giêsu vô tội (Lc 23,40-41). Anh dám tin người tử tội bị đóng đinh này sẽ là Vua của một Nước, và anh hy vọng được Ngài nhớ đến khi Ngài vào trong Nước của Ngài (Lc 23,42-43).

9. Đức Giêsu chết trên thánh giá lúc 3 giờ chiều, giữa bóng tối vây phủ. Ngài chết với lời phó thác cho Cha trên môi. Hoa trái đầu tiên là lời tuyên xưng đức tin của viên đại đội trưởng và sự ăn năn của dân chúng (Lc 23,47-48).

----------------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-383: Yêu như điên


– ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Bài I: Bài Ca Người Tôi Tớ Đau Khổ.
 
 

Bài này trích trong sách Ngôn sứ Isaia, là bài ca Người Tôi Tớ đau khổ, giúp ta hiệp thông với Suy niệm Lễlá-383


Bài này trích trong sách Ngôn sứ Isaia, là bài ca Người Tôi Tớ đau khổ, giúp ta hiệp thông với những tâm tình của Đức Kitô suốt cuộc thương khó của Người: Đau khổ, cô đơn sâu thẳm, nhưng đồng thời đầy kiên cường để đạt tới sự chắc chắn chiến thắng cuối cùng.

a) Sứ ngôn Isaia nói tới một người của Thiên Chúa, dầu bị hành hạ tra tấn, vẫn giữ vững niềm cậy trông vào Thiên Chúa.

b) Phải chăng sứ ngôn đã phác họa chân dung Đức Kitô chịu thương khó.

c) Cũng thế, người tín hữu là môn đệ Đức Kitô trong tư thế tôi tớ chân chính của Thiên Chúa sẽ được sức mạnh của Thiên Chúa nâng đỡ để chịu gian khổ, nhưng ta có vững tâm bình thản và trung thành trong cơn thử thách đó không?

Bài II: Sự hạ mình và vinh thắng của Đức Kitô.

Sự hạ mình cùng cực và sự chiến thắng vinh quang tột đỉnh là sự tương phản của bài ca này về vinh quang của Đức Kitô mà thánh Phaolô đã diễn tả trong thơ gửi giáo đoàn Philip.

a) Những đố kỵ vì ghen ghét nổ ra trong cộng đoàn Philíp. Để nhanh chóng chấm dứt thảm cảnh này, Thánh PhaoLô đã noi gương Đức Kitô, dầu là Thiên Chúa Người cũng không ngần ngại tự hạ mình xuống chịu chết ô nhục trên Thánh giá.

b) Cần thêm rằng sự tự do chuộc tội của Đức Giêsu đã hiến dâng vì tình yêu Thiên Chúa. Vì thế, Người đã được tôn vinh và tán thưởng trên hết mọi loài.

c) Bạn có muốn chia sẻ vinh quang của Chúa chúng ta không? Bạn hãy vâng phục như Người, một sự vâng phục đầy lòng yêu mến Thiên Chúa là Cha chúng ta. Ngài sẽ làm cho chúng ta nhận lãnh Đức Kitô khiêm hạ và đau khổ.

Bài III: Sự khổ nạn của Chúa chúng ta.

Tất cả bốn thánh sử Tin Mừng đều tường thuật cuộc tử nạn của Đức Giêsu Kitô, nhưng mỗi vị có một nhãn giới riêng. Thánh Luca đặc biệt chú ý đến những điểm sau:

a) Lòng nhân ái của Đức Giêsu luôn luôn biểu lộ ra trong hành động: Người đón tiếp kẻ phản bội, tha thứ cho Phêrô, an ủi cho phụ nữ khóc thương, Người cầu nguyện cho quân dữ.

b) Vai trò hy tế đền tội của Người: Người gánh tất cả tội lỗi chúng ta với đòn đánh và mọi đau đớn, Người nhận lấy cuộc khổ nạn và dâng hiến lên Thiên Chúa Cha với lòng yêu mến trọn vẹn. Vì thế, cuộc khổ nạn trở thành cuộc chiến thắng và nguồn ơn cứu độ.

c) Ước mong: Chúng ta biết thấm nhuần được rằng: mỗi người chúng ta phải gắn bó với thương khó này. Như ông Simêon, chúng ta phải vác thập giá mình theo Chúa Giêsu bằng hết tâm tình yêu mến. Như vậy, cuộc thương khó của Người vẫn được tiếp tục…

GỢI Ý CHIA SẺ

Cho đến tận thế, Thánh giá vẫn tiếp tục trồng trên trái đất chúng ta và không ngớt hô to cho con người thấy rằng: “Hãy nhìn ngắm và thấm thía biết bao Thiên Chúa yêu thương bạn dường nào! Đáp lại, sao bạn không yêu mến Ngài? Sao bạn không chấp thuận thương yêu nhau như Người đã chịu khổ hình vì thương yêu bạn?
a) Đức Kitô chịu chết, ôi cái chết tàn khốc!

Ngày Người vào thành Giêrusalem, bao nhiêu cành lá vạn tuế tung hô! Không đầy 4 ngày sau, Người bị bắt, bị kết án, Người đau khổ đến cùng cực: Bị phỉ nhổ, bị nguyền rủa, kéo lết trong bùn đất, sau cùng Người chịu đóng đinh chết treo trên thập giá như một đứa bỉ ổi nhất trong các tội nhân. Chắc hẳn, chúng ta biết rõ thế; nhưng biết như một điều xa lạ ở ngoài chúng ta. Thế mà Đức Kitô lại rất thân thiết gần gũi ta hơn bất cứ cha mẹ nào. Chúng ta hãy cố gắng sống cuộc thương khó của Người một chút để hiệp thông với những tình cảm riêng của Mẹ Người, Đức Trinh nữ Maria.

b) Đức Kitô đã yêu, ôi tình yêu cao cả!

Tại sao Người chấp nhận một cái chết tàn khốc? Thưa chỉ vì yêu chúng ta! Như Thánh Gioan viết: “Người yêu những kẻ thuộc về Người và yêu họ đến tột cùng”. Toàn diện cuộc đời Đức Kitô là một mầu nhiệm tình yêu. Người đã hoàn tất cuộc đời mình bằng hành động của tình yêu cao cả này là: Hiến mạng sống cho người mình yêu. Chúng ta hãy chiêm ngắm cho thấm thía cuộc tử nạn của Đức Kitô: con tim chúng ta dù chai đá đến đâu, sau cùng chúng sẽ nghe được tiếng trái tim Người thổn thức: “Con hãy xem, không phải để làm trò hề mà Cha đã chịu khổ hình để yêu con”.

c) Đức Kitô đã giải phóng và cứu độ con người:

Tình yêu Chúa Kitô đã đến chỗ điên rồ. Chúng ta hãy hát lên: “Ôi Thánh giá, cây điên rồ thiên linh”. Tình yêu đó có hiệu quả kỳ diệu và không thể suy tưởng được: không những con người được thanh tẩy mọi tội lỗi, bứng khỏi khốn cùng và phòng ngừa khỏi chết đời đời, mà con người còn được trở nên làm con Thiên Chúa nhờ phép Rửa tội và nếu vẫn trung thành giữ vững đức tin, con người sẽ được gọi tham dự hạnh phúc của chính Thiên Chúa đến muôn đời.

(Theo Noel Quesson)

------------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-384: Mầu nhiệm đời ta


(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
 
 

Mỗi người là một mầu nhiệm vượt ngoài sự hiểu biết của ta. Không ai biết rõ ta hơn ta thế mà Suy niệm Lễlá-384


Mỗi người là một mầu nhiệm vượt ngoài sự hiểu biết của ta. Không ai biết rõ ta hơn ta thế mà vẫn có lúc chính mình tự thắc mắc về vận mệnh đời mình (Xem tướng, bói toán, chỉ tay đều là những hình thức muốn biết về ngày mai). Hành trình đi tìm kiếm mục đích cuộc đời kết thúc khi ta trở về với Đấng dựng nên ta, Ngài dựng nên ta do tình yêu Ngài dành cho, cứu thoát ta khỏi ác thần và cuối đời mang ta về với Ngài. Xem cuộc đời theo lối đó thì cuộc đời cđược ví như là cuộc du ngoạn, một hành trình được sai đi và gọi trở về.

Cuộc du ngoạn đời ta bắt đầu ngày ta sinh vào đời và được gọi trở về quê hương thiên quốc khi ta đi trọn hành trình trong đời. Hành trình trên trần thế là một hành trình pha lẫn niềm vui với khám phá đầy thú vị trong thiên nhiên. Phấn đấu tiến thân, nuôi thân và chia sẻ tài sức cho tha nhân đều là những khám phá niềm vui trong đời. Chúng ta liên hệ với thế giới thiên nhiên bằng chính cảm xúc của từng cá nhân. Qua yêu thương, tha thứ, bác ái và cảm mến chúng ta thấy cuộc đời đầy thú vị bởi mình khám phá rõ hơn về tài sức chính mình và khám phá thiên nhiên. Chính những khám phá này mang ý nghĩa lại cho cuộc sống đồng thời bật mí những bí ẩn đời người. Bí ẩn đó ẩn nấp sau hành động đón nhận vá ban phát yêu thương.

Người ta thường nhầm lẫn giữa tình yêu trần thế và tình yêu Thiên Chúa. Của cải, vật chất và chức tước bổng lộc thuộc vào tình yêu trần thế hấp dẫn lòng ta. Còn một loại tình yêu cao siêu hơn nhiều đó là tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa mang bình an cho tâm hồn, giúp tâm hồn thư thản, an nhàn. Tình yêu trần thế hấp dẫn con người và cũng chính tình yêu đó đè bẹp con người đến rách nát, tả tơi; trái lại tình yêu Chúa ban không bao giờ biến con người thành nô lệ cho tình yêu nhưng luôn tha thứ khi ta phạm lỗi, ban hy vọng khi ta thất vọng và kéo ta chỗi dậy khi ta vấp ngã, đón ta về khi ta lạc đường. Cuối cùng tình yêu Chúa đón nhận ta vào nhà Cha trên trời. Tình yêu Chúa mới chính là tình yêu thực sự ta cần tìm kiếm. Tình yêu thực sự này luôn đi chung với hy sinh. Tình yêu thiếu hy sinh, xả thân cho tha nhân không thể là tình yêu thực bởi tình yêu đó phục vụ chính mình; tình yêu thực sự phục vụ tha nhân, người khác.

Chối bỏ tình yêu Chúa trong đời là chối bỏ Thiên Chúa hiện hữu. Chối bỏ tình yêu Chúa làm cho ta trở nên nghèo hèn. Những ai thành tâm mở cõi lòng tìm kiếm tình yêu Chúa chắc chắn sẽ gặp; những ai tìm tình yêu Chúa nơi khác là chọn con đường dài, vất vả và thường đi lạc. Chìa khoá giúp khám phá đời mình chính là niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh, Đấng duy nhất có chìa khoá vạn năng. Khoá này mở bí mật trên trời, dưới thế. Đức Kitô chết trên thập tự và ba ngày sau sống lại vinh quang, mở cửa thiên đàng, hoả ngục nên Ngài nắm trong tay chìa khoá vạn năng. Đức Kitô sống lại đổi mới tạo vật. Tình yêu Thiên Chúa là tình yêu chân thật bởi tình yêu chân thật luôn đi kèm với hiến tế đời mình. Tình yêu thiếu hiến tế không đến từ Thiên Chúa; đó là loại tình yêu thủ lợi, yêu sống cho riêng mình. Tình yêu hiến tế sống cho tha nhân. Thập giá Đức Kitô biểu tượng của tình yêu hiến tế bởi Đức Kitô chết để cứu độ muôn dân. Đức Kitô nhân loại chính trái tim mình vì hiến tế khởi nguồn từ con tim yêu mến.

Đức Kitô tiến vào Thành Thánh và đám đông ca tụng vang trời. Những ồn ào, huyên náo trần thế dành cho thoảng qua như cơn gió. Chỉ mấy ngày sau cũng chính đám đông hô đóng đinh Đức Kitô vào thập giá. Thay vào hoan hô là đóng đinh, thay vào sờ gấu áo là những cái tát bầm tím toàn thân, thay vì được chữa lành Ngài mang thương tích chân tay và cuối cùng là cạnh sườn. Tình yêu trần thế là tình yêu phản bội, phản bội Đức Kitô coi Ngài tệ hơn tên nô lệ, vùi dập tấm thân đến mất hình tượng con người. Tình yêu trần thế hài lòng vì đã hành hạ Đức Kitô ngay cả sau khi Ngài tắt thở. Tình yêu Chúa vực Đức Kitô dậy từ chõi chết, thay thế mạo gai trên đầu bằng hào quang toàn thắng. Vinh quang thập tự không bao gìờ tàn, vinh quang muôn thuở. Chúng ta xin ơn khôn ngoan biết đón nhận tình yêu hiến tế bởi qua đau khổ là bến bờ vinh quang.

--------------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-385: Suy niệm của Lm. Anfonso

 
 

Hôm nay, cùng với toàn thể Hội thánh, cộng đoàn giáo xứ chúng ta khai mạc Tuần Thánh. Đối với Suy niệm Lễlá-385


Hôm nay, cùng với toàn thể Hội thánh, cộng đoàn giáo xứ chúng ta khai mạc Tuần Thánh. Đối với người Kitô hữu, đây là tuần lễ quan trọng nhất trong năm, là cao điểm của phụng vụ thánh.

Suy niệm:

Hôm nay, cùng với toàn thể Hội thánh, cộng đoàn giáo xứ chúng ta khai mạc Tuần Thánh. Đối với người Kitô hữu, đây là tuần lễ quan trọng nhất trong năm, là cao điểm của phụng vụ thánh.

Việc chúng ta cử hành nghi thức Rước Lá đầu lễ diễn tả lại việc Chúa Giêsu công khai tiến vào thành Giêrusalem với tư cách là Đấng Thiên Sai, được dân chúng ca tụng như đón mừng một vị vua khải hoàn vào thành để lên ngôi vương quyền. Người thì dẹp đường, người thì trải áo làm nền, người thì cầm nhành lá thiên tuế hoan hô Con vua Đavid, Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến.

Nhưng chúng ta cùng hướng nhìn lên vị vua đang tiến vào. Ngài rất khiêm tốn, không phải cưỡi trên mình con voi to tướng, con lạc đà hai bướu hay là con tuấn mã phi nước kiệu, nhưng lại cưỡi lên lưng một con lừa con, loại con vật dành cho người nghèo thồ hàng. Một vị Thiên Sai khiêm nhu hiền hòa mà chúng ta nghe tiên tri Isaia loan báo trong Bài đọc I về người Tôi Trung của Chúa: sẵn sàng đưa lưng cho kẻ đánh, đã đưa má cho kẻ giật râu; không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ.

Trong thư gởi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô đã giảng giải rằng với thân phận là Thiên Chúa, đồng bản thể với Đức Chúa Cha, nhưng vì để tỏ bày về tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người, Chúa Giêsu Kitô đã tự nguỵện vâng phục Cha, huỷ bỏ chính mình để trở nên như người phàm, và còn chấp nhận mang lấy thân phận của một người tôi tớ. Người bằng lòng vâng lời chịu khổ nạn và chịu đóng đinh trên thập giá, một Thiên Chúa tự hạ đến tận cùng. Để rồi được Chúa Cha tôn vinh với danh hiệu Giêsu: Thiên Chúa cứu chuộc con người.

Là một danh y, thánh sử Luca đã giúp chúng ta cảm nhận được sự cao cả của Đấng Vô tội bị kết án như một tội nhân để đền thay tội lỗi con người. Đồng thời, thánh sử cũng giúp chúng ta cảm nhận được lòng Chúa thương xót, đã tự hiến mạng sống vì tình yêu nhân loại. Qua cuộc thương khó, Chúa Giêsu khai mở triều đại Thiên Chúa để nguồn ơn cứu độ đến cho hết mọi người.

Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu cho chúng ta nghiệm ra những chiều kích khác lạ của tình yêu. Nó không đơn thuần chỉ là sự trao ban để làm vừa lòng người mình yêu, nhưng sâu thẳm hơn, nó còn là sự hiến dâng chính bản thân để chịu đau khổ. Con Thiên Chúa đã gánh chịu mọi khổ đau của thân phận con người nhưng lại không oán than, không kêu trách, không rên xiết. Chúa Giêsu đã trở nên như hạt lúa phải mục nát đi để cho sự sống mới phát sinh. Người đón nhận khổ đau với một tình yêu sâu đậm, để biến thập giá khinh khi thành Thánh giá cứu đời.

Với tình yêu, Chúa Giêsu không đơn độc khi bước vào cuộc khổ nạn. Ngài được Cha nâng đỡ vì cả cuộc đời Người là một cuộc đời kết hợp với Chúa Cha: cả lúc lo lắng đến đổ mồ hôi máu của thân phận mỏng manh kiếp người trong vườn Dầu khi sắp đến giờ chịu khổ nạn, lẫn trên thập giá, Người hoàn toàn “Lạy Cha, con phó thác hồn con trong tay Cha”. Nhờ sự phó mình vì yêu, bóng tối của sự thịnh nộ và thù hận đã nhường chỗ cho ánh sáng của nhân ái và thứ tha.

Trong cuộc sống thường ngày, có những lúc gặp đau khổ, gặp thất bại, gặp nghịch cảnh, nhiều lúc chúng ta than trách Chúa, nghi ngờ tình yêu của Chúa, thậm chí bị lung lay đức tin. Hãy chiêm ngắm đau khổ Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn để vững vàng vượt qua thử thách, với một lòng ăn năn sám hối, hãy cùng Người phó linh hồn trong tay Chúa Cha.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cảm nghiệm được tình yêu Chúa phó mình vì con, để dầu con yếu đuối, không thể bước theo Chúa trong cuộc khổ nạn như một thánh nhân, thì con vẫn luôn có thể bước theo Chúa vác lấy thập giá đời mình như một tội nhân được tha thứ với một tâm tình phó thác nơi Chúa Cha. Xin Chúa cho mỗi người chúng con ý thức để sốt sắng tham dự vào nghi lễ Tuần Thánh thật thánh thiện. Amen.

---------------------------

 

Suy niệm Lễlá-386: Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa


(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
 
 

Hôm nay, Giáo Hội đọc lại cho chúng ta cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu theo thánh Luca. Trong Suy niệm Lễlá-386


Hôm nay, Giáo Hội đọc lại cho chúng ta cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu theo thánh Luca.

Trong một vài phút ngắn ngủi, chúng ta không thể suy niệm tất cả cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa. Ít ra, chúng ta cũng nên chú ý đến một vài chi tiết để giúp chúng ta kết hợp với “Đấng đã yêu thương chúng ta và đã chết cho chúng ta”.

Và trong suốt Tuần Thánh này,chúng ta hãy can đảm dành một thời gian nào đó để đọc lại, chậm rãi và suy nghĩ sâu hơn về tình yêu của Chúa Giêsu được tỏ hiện một cách rõ ràng trong giai đoạn cực kỳ quan trọng này.

Nếu chúng ta không đủ can đảm đọc lại mấy trang giấy này, thì tình yêu của chúng ta sẽ như thế nào? Chúng ta có thể nói rằng chúng ta yêu mến Chúa được chăng?

Chúa Giêsu đã dám chấp nhận đau khổ đến tuyệt đỉnh vì chúng ta, chúng ta không dám dâng cho Ngài một khoảng thời gian nào đó để tỏ lòng biết ơn và yêu mến Ngài sao?

Thực ra, các thánh sử không muốn tường thuật một cách tỉ mỉ cuộc khổ nạn mà chỉ nói đến những sự kiện đáng chú ý thôi. Chúng ta hãy đào sâu hơn với tất cả sự chú tâm của tình yêu.

Cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu là một mầu nhiệm, vì thế, dù chúng ta có đem hết trí khôn, tâm lực để tìm hiểu, chúng ta cũng chẳng biết được gì. Chúng ta chỉ tìm hiểu bằng con tim thôi.

Trong cuộc khổ nạn, chúng ta có thể nhìn thấy tình yêu của Chúa Giêsu đối với Cha Ngài. Tình yêu đó được thể hiện bằng một sự vâng phục trọn vẹn, dù thân xác Ngài không thể chịu nổi: “Xin đừng theo ý Con mà theo ý Cha”.

Ngài sợ sệt và đau khổ đến nỗi thốt lên những tiếng nói xé lòng như thế. Đây là trung tâm của mầu nhiệm cứu chuộc.

Thánh Phaolô đã ghi lại: “Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên cây thập giá”.

Ngài vâng phục cho đến chết vì đã có một sự bất tuân đem lại sự chết cho nhân loại. Ngài phải đáp lại một cách trọn vẹn tình yêu của Chúa Cha, tình yêu đã bị phản bội trong vườn địa đàng. Thánh Phaolô đã thấy rõ điều đó: “Cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người đều bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người sẽ được Thiên Chúa cho nên công chính, nghĩa là được sống”.

Sự vâng phục này đòi hỏi Ngài đến mức độ nào? Chúng ta dễ bỏ qua những chi tiết mà chỉ nhớ những gì đập mạnh vào giác quan hay trí tưởng tượng mà thôi.

Ngài cầu nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con, tuy vậy, xin đừng theo ý Con, mà theo ý Cha”.

Chúng ta có thể hiểu được tâm hồn Ngài lúc đó như thế nào không? Ai có thể chịu nổi cơn thủy triều đau khổ đang tràn dâng trong tâm hồn Ngài? Thánh Luca viết: “Lòng xao xuyến bồi hồi, nên Ngài càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Ngài như những giọt máu, nhỏ xuống đất”.

Chúng ta không cần chú ý đến những gì xảy ra trong thân xác, chúng ta hãy nhìn bằng tâm hồn những giọt mồ hôi máu đó.

Đó là tột đỉnh của sức chịu đựng của một con người. Những giọt mồ hôi máu đó là những giọt tình yêu nhỏ xuống trên thế giới tội lụy của con người, trên từng tâm hồn mỗi người chúng ta. Xin hãy dừng lại nơi đây để cảm thông nỗi buồn vô biên của Ngài. Hãy nhìn lại tâm hồn nhơ nhớp của chúng ta. Đứng trước vực thẳm đau khổ này, chúng ta sẽ ngơ ngác, không thể hiểu được. Chúng ta không thể đo được chiều sâu của niềm đau đang nghiền nát tâm hồn Ngài.

Vì không hiểu, chúng ta đâm ra thờ ơ…

Đây chính là tình yêu đích thực. Không có tình yêu nào có thể so sánh với tình yêu này.

Thế nhưng chúng ta vẫn ung dung phạm tội!...

Sự vâng phục tuyệt đối đó dẫn Ngài đi xa hơn, đến đỉnh núi Canvê, ngang qua roi đòn, nhục nhã, đau đớn tột cùng.

“Đóng đinh nó đi!”

Đóng đinh nó vào thập giá!”

Chúng ta có nghe thấy gì không? Một lũ người đầy hận thù sát khí đang đổ cơn giận lên một người vô tội, chỉ vì Ngài vô tội, chỉ vì Ngài là tình yêu.

Hận thù làm sao có thể để cho tình yêu tồn tại?

Chúng ta có ở trong số những người đòi đóng đinh Chúa không? Có lẽ chúng ta không dám nhận mình đòi đóng đinh Chúa, nhưng trong thực tế, chúng ta đã hơn một lần đóng đinh Chúa của mình. Đóng đinh không phải bằng đinh nhọn mà bằng chính sự bạc ơn ngoan cố của chúng ta. Chúng ta dám nhìn nhận sự thật ghê sợ đó không?

Chúa Giêsu trở thành nạn nhân của chúng ta. Ngài bị lôi kéo từ tòa án này đến tòa án khác. Chúng ta trở thành những người lên án Ngài. Ngài mãi mãi là người vô tội trước tòa án của thế gian. Tội của Ngài chính là đã dám sống cho sự thật, dám yêu thương đến tận cùng.

Nếp sống đó là một bằng chứng tố giác sự tàn bạo độc ác của chúng ta.

Chúng ta dễ bàu chữa cho mình và tưởng rằng chúng ta không có tội. Chỉ vì chúng ta không bao giờ biết xét mình, hay chỉ xét mình qua loa, làm sao chúng ta thấy được bộ mặt thật của mình? Làm sao chúng ta biết mình hèn hạ, dã man như thế nào? Chính chúng ta đóng đinh Chúa chúng ta.

Quằn quại trên thập giá, Chúa Giêsu đã như thế nào?

Trong khi thân xác Ngài đau đớn tột độ, Ngài không nghĩ đến bản thân mình, Ngài chỉ nghĩ đến người khác: “Xin Cha tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Ngài vẫn tỏ ra nhân hậu, bao dung. Trong suốt cuộc tử nạn, chúng ta thấy Ngài chiếu tỏa một sự hiền lành nhân hậu lạ lùng. Ngài “như con chiên bị đem đến lò sát sinh mà không hở môi”. Các môn đệ tranh nhau chỗ đứng, địa vị, Ngài nhẹ nhàng khuyên dạy các ông phục vụ khiêm tốn. Khi quân lính đến bắt Ngài, Ngài chỉ nói một lời bình thản… Phêrô chém đứt tai một tên đầy tớ, Ngài chữa cho anh ấy lành. Phêrô chối Thầy, Thầy chỉ nhìn Phêrô với một cái nhìn đầy yêu thương khiến ông ngậm ngùi đau đớn… Với tên tội phạm trên thập giá, Ngài ban lời tha thứ: “Hôm nay, anh sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.

Chúng ta hãy chiêm ngắm khuôn mặt nhân từ của Chúa chúng ta để biết yêu thương hơn. Chỉ một điều đáng tiếc là chúng ta không dám nhìn sâu vào khuôn mặt của Ngài…

Đứng trước Chúa Giêsu chịu đóng đinh như thế, chúng ta không thể là đám đông chế nhạo Ngài. Chúng ta không thể ngồi yên khi bao nhiêu đau khổ tràn ngập như thủy triều. Động lòng một vài giây phút thì dễ, ra tay mới thực sự khó. Chúng ta đang bị liên lụy trong cuộc tử nạn của Chúa. Đừng giả điếc làm ngơ khi Chúa chúng ta đang quằn quại trên thập giá và cho đến tận thế, Ngài vẫn còn đau khổ. Ngài đang van xin chúng ta: “Đừng khóc cho Ngài nhưng hãy khóc cho chính chúng ta và con cháu chúng ta”. Cuộc khổ nạn của Chúa chưa chấm dứt. Ngài sẽ bị đóng đinh cho đến tận thế bao lâu chúng ta còn phạm tội, bao lâu chúng ta chưa biết yêu thương. Thế giới của chúng ta hôm nay như một hỏa ngục và Chúa Giêsu đang chìm trong biển tội ác đó. Chúng ta hiểu được điều đó không? Ngài là những tử tội mà người ta đang hành hình, Ngài là tử tội trong những nạn nhân của bạo lực, của dã man. Ngài đang bị chà đạp, bị giết chết, bị bỏ đói trong cái xã hội giàu có và vô tâm của chúng ta.

Nếu chúng ta có quả tim, chúng ta chịu nổi được sao? Chúng ta có thấy không? Có chú ý không? Những nạn nhân đó không xa chúng ta lắm đâu, họ đang sống kề cận chúng ta trong xóm làng chúng ta. Họ đang nhìn về chúng ta với cái nhìn im lặng chịu đựng, không hở môi.

Chúng ta có làm gì cho họ không? Có cho họ được một lời nguyện xin chân thành không? Có thành ông Simon, vác thánh giá giúp họ không? Có thành bà Vêrônica trao cho họ cái khăn để lau những giọt nước mắt máu của họ không? Hay chúng ta cứ dửng dưng ăn nhậu, mua sắm, làm đẹp mái tóc?

Lặng nhìn Chúa Giêsu đau khổ, chúng ta có nhớ lời Chúa nói: “Anh em làm một điều gì cho người anh em nhỏ bé nhất của Ta đây là làm cho chính Ta”. Mức độ yêu thương của chúng ta được đo bằng hành động cụ thể chứ không chỉ bằng tiếng nói.
Hãy nhìn kỹ vào khuôn mặt đau thương của Chúa, Đấng đã bị đâm thâu, chúng ta nghe Chúa hỏi chúng ta: “Đối với chúng con, Thầy là ai?” Hãy nhìn kỹ và trả lời. Chúng ta không thể né tránh.
Nơi bàn thờ hiến tế, chúng ta sẽ nhìn Ngài qua một dấu hiệu, nhưng chính Ngài đó, Đấng đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá, Đấng đã yêu thương chúng ta đến tận cùng. Chúng ta hãy đem Ngài vào trong tận con người chúng ta và yêu mến Ngài hơn và vì yêu mến Ngài, chúng ta yêu thương anh em chúng ta như Ngài.

-----------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-387: Lòng thương xót của Chúa Giêsu Kitô


(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
 
 

Khi hoạ lại cho chúng ta con đường khổ giá của Chúa Giêsu, Thánh Luca không trực tiếp mô Suy niệm Lễlá-387


Khi hoạ lại cho chúng ta con đường khổ giá của Chúa Giêsu, Thánh Luca không trực tiếp mô tả đến cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, như việc Chúa ngã xuống đất, bị lăng nhục, chịu sỉ vả…. Nhưng thánh sử chủ ý hướng về lòng thương xót của Chúa Giêsu Kitô.

Thứ nhất, Chúa Giêsu dồn mọi nghị lực để cầu nguyện hầu cho Lòng Thương Xót của Chúa Cha được thực hiện nơi Ngài. Ngài khẩn khoản xin cho mình khỏi uống chén đắng, nhưng đừng theo ý Con một xin theo ý Chúa Cha mà chớ và Ngài đã vâng phục ý Chúa là lên đồi chịu chết để rồi từ cạnh sườn Chúa Giêsu lòng thương xót Chúa trào tràn cho muôn người được sống.

Thứ hai, lòng thương xót của Chúa Giêsu là tha thứ. Trong trình thuật khổ nạn, Thánh sử Luca đã nêu bật thái độ của Đức Giêsu, trước lửa hận thù hừng hực, Ngài đã chiếu toả ánh sáng của lòng thương xót cho đến cùng. Cụ thể, trong bài thương khó, Thánh sử nêu bật sự dịu hiền của Chúa Giêsu khi đứng trước những kẻ tố cáo người. Trên đường lên núi Sọ, Người vẫn lo âu cho sự khốn khổ của đám dân đã chối bỏ Người. Trên thập giá, Người tha thứ cho anh trộm hối cải, tha thứ cho những người có lỗi với Ngài, “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ không biết việc mình làm”. Nhờ lời tha thứ cuối cùng này của Chúa Giêsu mà tình yêu thương xót của Chúa nên viên mãn, hoàn hảo và trọn vẹn nhất không tình yêu thế gian nào sánh bằng vì khi Chúa sống không để bụng và chết cũng không mang theo chút hận thù gì cả; tình yêu thương xót không chỉ còn là lý thuyết mà trở thành hiện thực. Cho nên, nhà tư tưởng là mục sư Martin Luther King đã thốt lên rằng “Đó là giây phút đẹp nhất đời người”.

Thứ ba, Thánh giá là công trình hoà giải, là lòng thương xót của Thiên Chúa tỏ hiện rõ nhất. Luca là thánh sử của tình yêu Thiên Chúa và lòng thương xót của Thiên Chúa. Chẳng lạ gì mà thánh nhân đã đọc và giải thích các biến cố của cuộc Khổ nạn khởi đi từ hai thái độ ấy. Tin Mừng thứ ba, khi dõi theo đường thánh giá Đức Giêsu, đã khám phá ra tình yêu thương xót của Thiên Chúa dành cho Con của Người và cho tất cả mọi người, kể cả những kẻ thù nghịch. Cho nên, Thánh giá là công trình hoà giải và lễ dâng của Đức Giêsu hiệu quả ở điểm là qui tụ được tất cả những kẻ thù địch ác liệt nhất trong một mối hiệp nhất. Qủa thế, trong suốt cuộc đời công khai rao giảng, rất nhiều lần, Đức Giêsu đã bày tỏ tấm lòng thương xót hết mọi người: Người đã thực hiện các phép lạ, chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ, dạy dỗ dân chúng, âu yếm trẻ thơ, và tha thứ cho tội nhân. Và rồi, đoạn cuối của tình yêu, đỉnh cao của dâng hiến là bằng cuộc khổ nạn và cái chết đau thương của Người. Người phải chịu một cơn cám dỗ cuối cùng: Satan nhập vào Giuđa, để người môn đệ bất trung tham của này dùng cái hôn để nộp thầy. Satan sàng Phêrô và các môn đệ như sàng gạo, để Phêrô thì chối Thầy, còn các ông khác thì bỏ trốn.

Thế nhưng, Người vẫn nhân từ, thực hiện nghĩa cử yêu thương cuối cùng, trước khi hoàn toàn dâng hiến trên thập giá: Người hiền hòa ra đón Giuđa, và dịu dàng nhắc nhở ông về tình nghĩa thầy trò. Người chữa lành tên đầy tớ bị Phêrô chém đứt tai. Người quay nhìn Phêrô với ánh mắt tha thứ khi ông chối Thầy. Người an ủi những phụ nữ thương khóc Người. Người xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh Người. Người ban thiên đàng cho tên trộm biết sám hối. Và rồi, Người hoàn toàn dâng hiến trên thập giá để cứu chuộc tất cả muôn người. Cho nên, Thánh Gioan đã thốt lên rằng: "Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về người mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng" (Ga 13,1b). Như vậy, đối với Luca, việc đức Giêsu chịu chết trên Thập giá không còn phải là chuyện hành hình của một tử tội nữa, nhưng là một biến cố cứu rỗi.

Vì thương xót nhân loại, Chúa Giêsu luôn trung thành với thánh ý Chúa Cha. Ngài không rút lui khỏi sứ vụ nhưng hiên ngang đi lên Giêrusalem để chịu khổ nạn và chịu chết (Lc 9,51). Ngài còn khuyên nhủ những kẻ theo Ngài vác thập giá mình hàng ngày mà theo. Cho nên thánh giá hôm nay là những khổ đau hữu hình cũng như vô hình, thể xác cũng như tinh thần, thể lý cũng như tâm lý mà chúng ta đang phải gánh chịu, trên con đường thi hành lòng thương xót Chúa, chúng ta không được thối chí hoặc lùi bước trước những khó khăn ấy như một lòng vâng theo thánh ý Chúa Cha như Chúa Giêsu để được vinh quanh như Chúa. Vác thập giá theo Chúa là can trường chịu đựng đủ mọi hình thức khổ nạn ấy, vì chưng đó là con đường tự do lựa chọn, dâng hiến toàn thân để thi hành thánh ý Thiên Chúa hôm nay và được Chúa làm gia nghiệp mai sau.

Hôm nay chúng ta bước vào tuần thánh, tức là bước vào con đường thương xót của Chúa Giêsu cao điểm nhất, xin cho mỗi người chúng ta thật sự cảm nghiệm được lòng thương xót Chúa dành cho mỗi người trong cuộc đời đồng thời sẵn sàng sống, chia sẻ và loan báo lòng thương xót Chúa cho anh chị em chung quanh mình bằng chính đời sống đức tin sống của chúng ta. Amen.

-----------------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-388: Vác thập giá với Chúa Giêsu


(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
 
 

Có người cho rằng: “Vác thập giá đền tội cho loài người là việc của Chúa Giêsu, chẳng liên hệ Suy niệm Lễlá-388


Có người cho rằng: “Vác thập giá đền tội cho loài người là việc của Chúa Giêsu, chẳng liên hệ gì đến tôi. Tôi chẳng liên quan gì đến chuyện này. Chỉ mình Chúa vác thập giá đền tội cho loài người là đủ.”

Thực ra, việc chịu khổ nạn và vác thập giá đền tội cho muôn người là việc của toàn Thân mình Chúa Giêsu, tức là của toàn thể Hội thánh, chứ không phải là việc riêng của Đầu là Chúa Giêsu.

Từ ngày lãnh bí tích Thánh tẩy, chúng ta được tháp nhập vào thân mình Chúa Giêsu, trở nên chi thể của Chúa Giêsu, cụ thể là trở nên bàn tay, trở nên vai của Ngài...

Vì đã trở nên tay của Chúa Giêsu, chúng ta cùng chịu đóng đinh với Ngài; vì trở nên vai của Chúa Giêsu, chúng ta cùng vác thánh giá với Ngài...

Đây là một điều kiện phải có để làm môn đệ Chúa Giêsu như lời Ngài phán: “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24) và “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,27).

Những ai vác thập giá với Chúa Giêsu thì sẽ được chung hưởng hạnh phúc đời đời với Chúa Giêsu, như lời thánh Phao-lô dạy: “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng sống với Ngài…” (2Tm 2, 11).

Vác thập giá thế nào?

Cách thứ nhất là tham dự Thánh lễ, kết hiệp với Chúa Giêsu, dâng cuộc đời chúng ta làm lễ tế cùng với Mình Máu thánh Chúa Giêsu, để tôn vinh Thiên Chúa Cha.

Cách thông thường hơn là kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu như tay kết hợp với thân mình, để cho Chúa Giêsu sống trong chúng ta, làm việc trong chúng ta như lời thánh Phao-lô: “Tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là Chúa Giêsu đang sống trong tôi” (Gal 2,20) mà làm việc bổn phận hằng ngày.

Cụ thể là mỗi khi làm việc gì, ta nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, xin Chúa làm việc với con.”

Và ban tối, trước khi đi ngủ, ta nguyện với Chúa: “Con xin dâng mọi việc con làm cho Chúa.”

Như vậy, những công việc ta làm hằng ngày “sẽ trở nên của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa” như lời thánh Công đồng Vatican II dạy:

“Người giáo dân… được mời gọi và được ban ơn cách lạ lùng để Thánh Thần sinh hoa trái nơi họ ngày càng phong phú hơn. Thực vậy, mọi hoạt động của họ như kinh nguyện và công việc tông đồ, đời sống hôn nhân và gia đình, công ăn việc làm thường ngày, việc nghỉ ngơi thể xác và tinh thần… tất cả những việc đó đều trở nên của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô…” [1]

Nhờ đó, ngày làm việc của ta trở thành ngày vác thập giá; những việc tầm thường ta làm hằng ngày trở thành việc đạo đức, “trở thành của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa”, mang lại nhiều ơn phúc cho ta và cho muôn người.
------------
[1] Hiến Chế tín lý về Giáo hội, chương IV số 34

---------------------------
 
 

Suy niệm Lễlá-389: Giờ chiến thắng vinh quang


 – Lm Ignatio Trần Ngà
 
 

Đức Giêsu gọi giờ tử nạn là giờ Ngài được tôn vinh, được vinh quang. Vinh quang ở đâu mà Suy niệm Lễlá-389


Đức Giêsu gọi giờ tử nạn là giờ Ngài được tôn vinh, được vinh quang.

Vinh quang ở đâu mà chỉ thấy bị bắt bớ, xét xử, bị vu cáo đủ điều, rồi bị kết án, bị đòn vọt, đinh sắt, lưỡi đồng, gai nhọn và cuối cùng là cái chết thảm thương trên thập giá.

Nhìn lên thập giá, người ta chỉ thấy ô nhục và đau thương, thất bại cay đắng! Vậy vinh quang của Chúa Giêsu ở đâu? Vì sao Ngài gọi đây là giờ Ngài được tôn vinh? Nghe có vẻ ngược đời.

Đối với người không suy xét, thì cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một thất bại, một thất bại rất chua chát đắng cay; nhưng suy cho kỹ, cái chết đó là một chiến thắng oanh liệt vô cùng.

Đây là chiến thắng sự hận thù bằng lòng bao dung vô bờ bến. Đối diện với cuộc kết án bất công, đối diện với đám đông cuồng nộ đòi đóng đinh Ngài, đứng trước những vị lãnh đạo tôn giáo muốn diệt mình cho bằng được, đứng trước những kẻ chế giễu nhạo cười với bao lời thách thức, đứng trước đội quân hành quyết hung dữ bạo tàn... Chúa Giêsu vẫn không mảy may oán hận! Ngài chiến thắng sự hận thù lẽ ra phải có bằng lòng bao dung vô bờ bến. Ngài nhìn họ với ánh mắt đầy thương xót, vẫn yêu thương họ bằng trái tim nhân hậu... Rồi Ngài sợ Chúa Cha đánh phạt họ vì tội lỗi ngất trời của họ, nên trước khi nhắm mắt tắt hơi, Ngài tha thiết cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ gây đau khổ và kết án tử cho Ngài. "Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm".

Đây là sự chiến thắng tính khiếp nhược, chiến thắng lòng tham sinh uý tử bằng một sự dũng cảm rất cao cường. Là người ai không sợ chết. Chính Chúa Giêsu cũng đã trải qua những giờ phút kinh hoàng trước viễn ảnh cái chết đau thương sắp đến khi cầu nguyện trong vườn Dầu, thế nhưng Ngài không bị khuất phục bởi cái chết. Ngài đã đứng dậy để dũng cảm đương đầu với nó. Ngài đã chấp nhận chết cách can trường và đã huỷ diệt sự chết để hồi sinh.

Đây là chiến thắng trên sự đau đớn thể xác và đau khổ trong tinh thần. Là người ai cũng sợ khổ, sợ đau. Ai cũng tìm cách lánh thoát khổ đau. Nhưng Chúa Giêsu đã đón nhận những cực hình đau thương khủng khiếp một cách can đảm phi thường. Qua thập giá, Ngài đã hoàn toàn chiến thắng nỗi sợ hãi đau đớn của kiếp người.

Qua cách thức Ngài đương đầu với cuộc khổ nạn, ta thấy không một thách thức nào làm cho Ngài nao núng; không một đau khổ nào làm cho Ngài khiếp sợ; không một sỉ nhục nào làm cho Ngài nổi giận hay mất bình an; không một khó khăn nào làm cho Ngài lùi bước... Cả cái chết cũng không làm Ngài khiếp sợ mà thoái thác sứ mạng Chúa Cha trao cho Ngài. Ngài thắng được bản năng tham sinh úy tử; Ngài chiến thắng bản năng sợ khổ, sợ khó, sợ đớn đau; Ngài thắng được bản năng muốn được an toàn, muốn được sung sướng hạnh phúc; Ngài thắng được lòng thù hận lẽ ra phải có khi người ta bị sỉ nhục và đối xử tàn ác và rất dã man... Trong cuộc khổ nạn của mình, Đức Giêsu chiến thắng hoàn toàn bản thân mình, vượt qua mọi thách thức từ mọi phía để hoàn thành mỹ mãn sứ mạng Chúa Cha đã trao ban.

Chiến thắng cả thiên hạ không bằng chiến thắng chính bản thân mình. Chúa Giêsu đã thực sự chiến thắng bản thân mình, hoàn toàn làm chủ con người mình, bắt thân xác phải vâng phục tinh thần như chiên ngoan. Đó là chiến thắng vĩ đại nhất không còn chiến thắng nào lớn lao hơn.

Lạy Chúa Giêsu Kitô, Ngài vô cùng dũng cảm và hùng mạnh nên đã chiến thắng tử thần và đẩy lùi mọi cuộc tấn công của nó, xin nâng đỡ chúng con là những kẻ yếu hèn bạc nhược, đừng để chúng con chào thua trước tội lỗi cách dễ dàng mà phản bội lại tình yêu cao vời của Chúa.

-------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-390: Để ứng nghiệm Lời Sách Thánh


(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)

 

Khi nghĩ xem ai chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa, chúng ta nghĩ ngay đến Giuđa Ítcariốt Suy niệm Lễlá-390



Khi nghĩ xem ai chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa,
chúng ta nghĩ ngay đến Giuđa Ítcariốt,
một môn đệ thân thiết trong nhóm Mười Hai.
Chính anh ấy đã đến gặp các thượng tế để nộp Đức Giêsu.
Chúng ta không rõ tại sao Giuđa lại phản bội.
Phải chăng chỉ vì ba mươi đồng bạc hay còn vì điều gì khác?
Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục cũng chịu trách nhiệm.
Họ ganh ghét với Đức Giêsu và nhiều lần muốn giết Ngài.
Đối với họ, Đức Giêsu là kẻ thù, là người phá đạo,
vì chẳng chịu giữ những luật lệ của Môsê.
Chính họ đã đưa người đi bắt Đức Giêsu, đã đưa Ngài ra tòa,
và đã kết án tử cho Ngài vì tội phạm thượng.
Chính họ là người xúi giục dân chúng đòi Philatô thả Baraba.
Philatô không thể rửa tay trước cái chết của Đức Giêsu.
Là người của hoàng đế Rôma, ông có quyền lên án tử.
Và ông đã dùng quyền này để xử Giêsu, một người vô tội.
Ông biết chỉ vì ganh tỵ mà giới lãnh đạo Do-thái giáo nộp Ngài.
Nhưng vì muốn chiều lòng đám đông và không muốn mất ghế,
ông đã không đủ can đảm để tha bổng Đức Giêsu.
Đức Giêsu đã bị chết bởi Giuđa, Philatô và Thượng Hội đồng.
Đó là những người chịu trách nhiệm về cái chết của Ngài.
Nhưng Đức Giêsu không bị chết vì ở thế yếu hay vì xui xẻo.
Ngài chết vì trước hết đã không tìm cách tránh cái chết.
Ngài có thể tránh cái chết bằng việc đừng lên Giêrusalem,
nơi các thượng tế đang muốn bắt và giết Ngài (Mc 10,32-34).
Ngài có thể tránh bằng việc đừng ra núi Ô-liu cầu nguyện,
hay xin Cha cấp cho mười hai đạo binh thiên sứ (Mt 26,53),
hay thậm chí bằng cách xuống khỏi thập giá.
Đức Giêsu chẳng những đã không tránh, mà còn đón nhận.
Ngài biết Giuđa sẽ nộp Ngài, nhưng Ngài chẳng hề tố cáo.
Ngài đã để cho mình bị nộp, bị làm nhục, bị đóng đinh…
mà chẳng hề mở miệng biện hộ hay phản kháng.
Bởi đó, có thể nói, Ngài đã không hề bị giết hay bị chết.
Chính Ngài tự nguyện và tự do đón nhận cái chết cho mình.
Ngài biết Ngài chết cho ai và đâu là mục đích:
“Tôi đến để phục vụ và hiến mạng làm giá chuộc muôn người.”
Ngài xao xuyến trước cái chết, nhưng vẫn chọn cái chết.
Ngài từ bỏ ý muốn riêng để đón nhận ý muốn của Cha,
đón nhận giờ của Cha và uống chén Cha trao (Mc 14,35-36).
Đức Giêsu chịu trách nhiệm về cái chết của mình.
Ngài đón lấy cái chết như hậu quả tất yếu của một đời phục vụ.
Trong cơn thử thách, Ngài vẫn gọi Thiên Chúa là Abba (Mc 14,36).
Ngài tin mọi sự đang diễn ra trong kế hoạch khôn dò của Cha.
Chính Cha làm chủ mọi biến cố và chịu trách nhiệm về mọi sự.
Như ông chủ vườn nho trong dụ ngôn,
chính Cha là Đấng sai Người Con đến thế gian (Mc 12,8.10),
để Người Con bị giết trở thành Tảng Đá chính trong công trình.
Kế hoạch của Cha đã được chép trong Sách Thánh (Mc 14,21.49).
Trên thập giá, Thiên Chúa Cha đã không bỏ Chúa Con một mình.
Cha nghe thấy tiếng kêu thống thiết của Con (Mc 15,34),
Cha sẽ thắng cái chết và đưa Con ra khỏi nấm mồ.
Thánh giá của Đức Giêsu vừa là hậu quả tồi tệ của con người,
vừa nằm trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa Cha,
kế hoạch này đã được Đức Giêsu tự nguyện chấp nhận.
Thánh giá mỗi ngày của chúng ta cũng vậy.
Nếu chúng ta nhìn thánh giá với cái nhìn của Đức Giêsu,
chúng ta sẽ bớt giận dữ, kết án hay trả thù,
nhưng sẽ thấy thánh giá dễ đón nhận hơn và sinh trái hơn.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,
Chúa đã làm người như chúng con,
nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc
mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,
và giữa ánh sáng,
cũng có những bóng mờ đe dọa.
Lạy Chúa Giêsu,
nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,
xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu
Chúa đã buồn đến chết được.
Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,
xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá
Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?
Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.
Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.
Xin cho con yêu đời luôn
dù đời chẳng luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm
đối diện với những thách đố
vì biết rằng cuối cùng
chiến thắng thuộc về người có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.

------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-391: Nhiệt thành của thập giá.


(Suy niệm của ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm)

 

Tuần Thánh bắt đầu với Chúa nhật Lễ Lá và Phụng vụ Lễ Lá lại tiến hành với hai nhịp tương phản Suy niệm Lễlá-391


Tuần Thánh bắt đầu với Chúa nhật Lễ Lá và Phụng vụ Lễ Lá lại tiến hành với hai nhịp tương phản. Bắt đầu là cử hành việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem trong tư cách một vị vua, được dân chúng đón tiếp trọng thể, ngập tràn tiếng reo vui. Rồi ngay sau đó trong Thánh Lễ, thay cho bài Tin Mừng lại là bài tường thuật cuộc thương khó của Chúa, cuộc thương khó đầy máu và nước mắt. Hội Thánh có ý gì khi liên kết hai sự kiện tương phản này? Tại sao không đợi đến Thứ Sáu Tuần Thánh để công bố bài thương khó mà phải đọc ngay từ Chúa nhật Lễ Lá? Đã hẳn có nhiều ý nghĩa phong phú hàm chứa ở đây cần được khai triển. Một trong những nội dung đáng quan tâm là Hội Thánh muốn làm nổi bật đường lối cứu thế của Chúa Giêsu và mời gọi con cái mình bước theo Thầy.

Khi kể lại việc Chúa Giêsu thanh tẩy Đền thờ Giê-ru-sa-lem, thánh Gioan ghi nhận: “Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: Vì nhiệt thành lo việc Nhà Chúa mà tôi đây phải thiệt thân” (Ga 2,17). Một số Kitô hữu đã liên kết từ “nhiệt thành” ở đây – cũng như việc Chúa Giêsu được đón rước trọng thể vào thành Giêrusalem trong tư cách một vị vua – với phong trào chính trị được gọi là “Nhiệt Thành-zelos” thời bấy giờ. Ngoài ra người ta còn kết nối sự kiện này với lời các thượng tế tố cáo Chúa Giêsu trước tòa Philatô: “Ai xưng mình là vua thì chống lại Cêsarê” (Ga 19,12). Tất cả để dẫn đến kết luận Chúa Giêsu là nhà cách mạng chính trị.

Phong trào chính trị có tên gọi “Nhiệt Thành” được khơi nguồn từ ông Mattathias, cha của anh em nhà Macabê. Vào thời đó, vua Antiôkô cưỡng bức người Do Thái phải chối đạo và tế thần trên bàn thờ, nhưng ông Mattathias tuyên bố: “Chúng tôi sẽ không tuân theo lệnh vua mà bỏ việc thờ phượng của chúng tôi để xiêu bên phải, vẹo bên trái” (1 Mac 2,22). Và khi có một người Do Thái tiến ra tế thần trên bàn thờ theo chỉ dụ của nhà vua, thì sách Macabê kể lại: “Ông Mattathias bừng lửa nhiệt thành… ông nhào tới hạ sát hắn ngay tại bàn thờ. Ông cũng giết luôn viên chức của vua có nhiệm vụ cưỡng bức người Do Thái tế thần, rồi ông phá đổ bàn thờ”. Sau đó sách Macabê kết luận: “Ông bừng lửa nhiệt thành đối với Lề Luật giống như ông Pinêát trong vụ Dimri, con của Xalu” (2,23-26). Kể từ lúc đó, từ ngữ “nhiệt thành-zelos” trở thành khẩu hiệu diễn tả quyết tâm dùng sức mạnh và bạo lực để bảo vệ đức tin, bảo vệ Lề Luật.

Vào thời Chúa Giêsu, không ít người Do Thái đi theo phong trào này, chủ trương dùng bạo lực để xua đuổi đế quốc Rôma, giành lại chủ quyền và độc lập của dân tộc. Dựa vào một số chi tiết trong các sách Tin Mừng, người ta cũng nhìn Chúa Giêsu như một nhà cách mạng chủ trương dùng bạo lực để xây dựng một vương quốc chính trị. Đồng thời, dọc dài lịch sử Giáo Hội, hình ảnh Chúa Giêsu như một nhà cách mạng cũng được vận dụng để biện minh cho việc sử dụng bạo lực nhằm xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.

Thế nhưng đây có thực sự là ý hướng của Chúa Giêsu? Khi suy niệm về việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem cách trọng thể, Đức Bênêđictô XVI trả lời: “Không. Làm cách mạng bằng bạo lực, nhân danh Thiên Chúa để giết người, đó không phải là đường lối của Chúa. Lòng nhiệt thành của Người đối với vương quốc Thiên Chúa được thể hiện bằng cách thức hoàn toàn khác”.

Trong ngày Lễ Lá, hình ảnh Chúa Giêsu cỡi trên lưng lừa tiến vào Giêrusalem làm dội lại lời tiên tri Zacaria: “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi. Người là Đấng chính trực, Đấng toàn thắng; khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (9,9). Vào thời tiên tri Zacaria cũng như vào thời Chúa Giêsu, con ngựa mới là biểu tượng của sức mạnh, còn lừa là phương tiện của người nghèo. Vì thế hình ảnh Vua Giêsu ngồi trên lưng lừa diễn tả một vị vua hoàn toàn khác. Người là vua của hòa bình, vua của người nghèo, vị vua đơn sơ và khiêm tốn.

Cũng lúc ấy, chúng ta khám phá lý do tại sao Phụng vụ Lễ Lá được bắt đầu bằng việc tưởng niệm Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem trong vinh quang, rồi được tiếp nối bằng việc công bố bài thương khó. Để thấy rõ hơn chân dung của vị vua hòa bình. Để thấy rõ hơn ý nghĩa của “sự nhiệt thành”, không phải thứ nhiệt thành của bạo lực nhằm xây dựng một vương quốc trần thế, nhưng là sự nhiệt thành của Thập Giá, nhiệt thành của tình yêu tự hiến trọn vẹn.

Sự nhiệt thành ấy cũng chất vấn cách nhìn và cách sống của người môn đệ Chúa Giêsu ở mọi thời đại và trong mọi hoàn cảnh. Có những lúc người môn đệ Chúa cũng bị cám dỗ sử dụng bạo lực để gọi là phục vụ Nước Chúa. Nếu chưa phải là những hành động bạo lực thì cũng là những lời nói và ứng xử bạo lực. Dù là hành động hay lời nói thì gốc rễ vẫn là sự căm thù chất chứa trong tâm hồn, đôi khi được ẩn giấu dưới lớp áo nhiệt thành, và sự căm thù ấy đã dẫn đến biết bao hậu quả tai hại cho chính Hội Thánh của Chúa. “Chúng ta đã biết quá rõ những hậu quả tàn ác của thứ bạo lực với động cơ tôn giáo. Bạo lực không xây dựng vương quốc Thiên Chúa, vương quốc của nhân tính. Ngược lại, bạo lực là khí cụ ưa thích của tên phản-Kitô, cho dù nó núp bóng tôn giáo. Nó không phục vụ nhân loại mà phục vụ sự phi nhân” (Benedict XVI, Jesus of Nazareth, tome II, 15).

“Chúa Giêsu đã thiết lập tiêu chuẩn đánh giá lòng nhiệt thành chân chính, đó là lòng nhiệt thành của tình yêu tự hiến, và sự nhiệt thành này phải trở nên mục tiêu của đời sống Kitô hữu”. Suy tư này của Đức Bênêđictô XVI đáng cho mỗi người Kitô hữu ghi nhớ để soi sáng lời nói và hành động của mình. Nhất là trong Tuần Thánh, khi đi đàng Thánh Giá, khi ôn lại những chặng đường trong cuộc khổ nạn của Chúa chúng ta.

------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-392: Ông này là Con Thiên Chúa


(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

 

Phụng vụ khai mạc Tuần Thánh bằng trình thuật cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, mà chúng ta quen Suy niệm Lễlá-392


Phụng vụ khai mạc Tuần Thánh bằng trình thuật cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, mà chúng ta quen gọi là “Bài Thương Khó”. Bằng những góc nhìn và điểm nhấn khác nhau, tất cả bốn tác giả Tin Mừng đều kể lại cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Bài Thương Khó trích Tin Mừng Thánh Máccô được đề nghị cho năm Phụng vụ B. Tác giả dẫn chúng ta đi theo Chúa Giêsu từ làng Bêtania, nơi có gia đình thân thiết với Người. Chúng ta cùng với Chúa Giêsu trải qua những sự kiện quan trọng: bữa tiệc Vượt Qua (cũng gọi là bữa tối cuối cùng), sự phản bội của Giuđa, việc thiết lập Bí tích Thánh Thể, việc Chúa cầu nguyện trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu bị bắt, cuộc đối chất và xét xử và lên án tử cho Người bởi Công nghị Do Thái, sự phản bội của Phêrô, cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Philatô, chặng đường thập giá và cuộc khổ nạn của Người. Lời tuyên xưng “Quả thật, ông này là Con Thiên Chúa” ở phần cuối của trình thuật, như một đáp số cho mọi vấn nạn đặt ra về một Con người bị treo và chết trên thập giá.

Những gì được liệt kê trên đây giống như một cuốn phim quay nhanh, giúp chúng ta có một cái nhìn tổng quát về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, đồng thời rút ra những bài học quan trọng và hữu ích cho đời sống Đức tin. Hãy cùng chiêm ngắm chân dung Chúa Giêsu được diễn tả trong Bài Thương khó:

Cuộc thương khó của Chúa là cuộc thương khó vì tình yêu. Chúa Giêsu đã trung thành cho đến chết, trung thành với tình yêu vô biên của Chúa Cha. Người cũng trung thành với tình yêu vô biên đối với nhân loại.

Chúa Giêsu đã chấp nhận cuộc thương khó này một cách hoàn toàn tự nguyện.  Người đã bẻ gẫy quyền lực của sự chết trong con người, tức là quyền lực tội lỗi. Tội lỗi đã khiến một số luật sĩ và Biệt phái hận thù và kích động bạo lực nơi dân chúng. Tội lỗi cũng khiến Philatô và đám đông hằn học ùa theo những lời vu khống. Tội lỗi cũng khiến cho các môn đệ sợ hãi chạy trốn và cuối cùng, tội lỗi khiến cho Phêrô chối Thày mình mà không hề ngượng ngùng.

Đối diện với cơn sóng tội lỗi và bạo lực hung dữ, Chúa Giêsu vẫn thể hiện một tình yêu cho đến cùng. Người vẫn nhìn con người với cái nhìn yêu thương, ngay cả khi bị đóng đinh trên thập giá. Đó là cái nhìn mời gọi tình yêu và sống cho tình yêu.

Đương nhiên, khi thấy bạo lực và sự chết, Chúa Giêsu đã run sợ, vì Người là Thiên Chúa nhưng cũng là con người. Trên thập giá, Người đã cảm thấy cô đơn và dường như bị Chúa Cha bỏ rơi. Tuy vậy, vượt trên tất cả, đó là lòng trung thành của Người. Người đã chấp nhận cuộc thương khó, như Người đã chấp nhận hạ mình mang lấy thân phận nô lệ phàm nhân. Sự chết của Người là sự chết tự trao ban, cũng như sự sống của Người đã hiến dâng trọn vẹn cho sứ mạng được Chúa Cha trao phó. Cây thập giá là dụng cụ để thi hành cuộc thương khó, đã trở thành dấu chỉ để nhận ra môn đệ của Người. Cây thập giá cũng là điểm quy tụ muôn dân, để cùng quy hướng về Đấng Cứu độ: “Một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32).

Màu áo đỏ của Phụng vụ lễ Lá nhắc lại cho chúng ta sự sỉ nhục của đám quân lính Rôma. Sự sỉ nhục này, lạ thay, lại mang tính tiên tri. Bởi lẽ vào lúc Chúa chịu thương khó, Đấng sẽ bị đóng đinh trên thập giá được phủ bằng áo khoác đỏ. Màu đỏ là sắc màu y phục của vua chúa. Chiếc áo này khẳng định với chúng ta: Chúa Giêsu là Vua và ngai toà của Người chính là cây thập giá.

Vị vua cao cả đã hiến thân làm người nô lệ. Vị Vua Giêsu đã tự huỷ mình ra không, như Thánh Phaolô nói với chúng ta trong Bài đọc II. Vị Vua này không giống như các vua chúa trần gian. Đó là Vị Vua yêu thương nhân loại. Người muốn cho con người được hiện hữu và được hạnh phúc. Đó cũng là Vị Vua đến trần gian để bẻ tan xiềng xích, kêu gọi con người xoá bỏ hận thù và bạo lực do tội gây nên.

Thánh Máccô đã kể với chúng ta, viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy, liền nói: “Quả thật, ông này là Con Thiên Chúa“. Viên đại đội trưởng là một quân nhân Rôma, tức là người ngoại đối với người Do Thái. Ông cũng là người tham gia thi hành án tử trong vụ Chúa Giêsu. Lúc Người còn sống thì ông lại không tin Người, nhưng chính lúc Người tắt thở thì ông lại nhận ra Người là Con Thiên Chúa. Cái chết thánh thiện và tự nguyện của Chúa Giêsu chính là một bằng chứng hùng hồn cho thân thế và sự nghiệp của Người.

Hôm nay và những ngày sắp tới của Tuần Thánh, chúng ta suy tư cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô. Khi chiêm ngắm Chúa Giêsu trên thập giá, chúng ta hãy tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ. Chúng ta cũng cầu nguyện cho thế giới hôm nay nhận ra nơi Đấng chịu đóng đinh tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa đối với nhân loại. Xin cho thế giới mở rộng tấm lòng để đón nhận Chúa Giêsu. Một khi đón tiếp Người, cuộc sống sẽ có ý nghĩa, gia đình sẽ hạnh phúc, lương tâm sẽ thanh thản và thế giới sẽ bình an.

------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-393: Chọn lựa


(Suy niệm của Lm. Vũ Phan Long, OFM)

Tin Mừng (Mc 14: 1; 15: 1-39): Với Chúa nhật hôm nay, bắt đầu tuần lễ trọng đại nhất của năm phụng vụ, đó là “Tuần thánh”. Phụng vụ hôm nay mở ra với việc tưởng niệm Đức Giêsu đi vào thành Giêrusalem.

 

Với Chúa nhật hôm nay, bắt đầu tuần lễ trọng đại nhất của năm phụng vụ, đó là “Tuần thánh”. Phụng Suy niệm Lễlá-393


Với Chúa nhật hôm nay, bắt đầu tuần lễ trọng đại nhất của năm phụng vụ, đó là “Tuần thánh”. Phụng vụ hôm nay mở ra với việc tưởng niệm Đức Giêsu đi vào thành Giêrusalem. Cả ba Tin mừng Nhất lãm đều kể rằng Đức Giêsu đi vào Thành thánh trên lưng một con lừa. Điều này nhắc nhớ đến sấm ngôn Dcr 9,9-10: Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia mà Dân Chúa vẫn trông mong; Người đến cách khiêm tốn. Tuy nhiên hình ảnh Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa cũng có thể gợi nhớ đến hình ảnh Salômôn ngồi trên lưng con la cái để đi đến nơi được phong vương. Đức Giêsu đi lừa là hình ảnh quét sạch thời đại của những con người đi ngựa (bởi vì tất cả các vua kế tiếp Salômôn đều dùng ngựa, là con vật chính Salômôn đã du nhập từ Ai Cập và Cơ-vê: x. 1V 10,26-29): vậy Đức Giêsu là Đấng Mêsia tái lập triều đại Đavít.

Ngoài ra Maccô còn nói đến một “con lừa con được cột”. Nhận xét này quy chiếu về St 49,11. Ở đoạn văn Sáng thế này, chi tiết “con lừa được cột” gợi lên sự giàu sang và phồn vinh của thời đại thiên sai: chỉ có thứ cây quý (cây nho) mới được tuyển mà cột con lừa. Trong các Tin mừng Nhất lãm, chi tiết này liên hệ đến con lừa con của Đấng Mêsia, xuất thân từ dòng họ Giuđa, dòng họ luôn làm chủ vương trượng (St 49,10). Cả điểm này cũng nêu lên một hình ảnh vương giả về Đức Giêsu. Cuối cùng Đức Giêsu đã được dân chúng tung hô như một “vị vua”. Danh hiệu này sẽ được nhắm tới như điểm nòng cốt trong cả ba Tin mừng Nhất lãm (x. Mt 27,36; Mc 15,26; Lc 23,28).

Con lừa của Đức Giêsu lại “chưa ai cỡi bao giờ”. Chi tiết này nêu bật tư cách linh thánh của Đấng ngồi trên lưng lừa: Người đúng là Đấng được Thiên Chúa sai phái đến, là “Đấng ngự đến nhân danh Chúa”, là chính “vị Chúa tể đi vào Thánh điện của Người” (Ml 3,1; x. 11,3.11).

Vậy việc Đức Giêsu vào Thành Giêrusalem chính là hành vi Đức Giêsu long trọng tiến vào Thành trong tư cách là vua người Do Thái cho dù không phải là vua để thống trị, nhưng là vua để phục vụ và hiến mạng sống để cứu chuộc nhân loại.
Hiểu như thế, chúng ta có điểm tựa vững chắc để hiểu bài Thương khó.

------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-394: Chúa Nhật Lễ Lá


(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)

 

Với Chúa Nhật Lễ Lá, chúng ta khởi đầu tưởng niệm cuộc Thương Khó của Đức Giê-su theo Tin Suy niệm Lễlá-394


Với Chúa Nhật Lễ Lá, chúng ta khởi đầu tưởng niệm cuộc Thương Khó của Đức Giê-su theo Tin Mừng Mác-cô thuộc chu trình Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật năm B.

Is 50: 4-7

Trước tiên, ngôn sứ I-sai-a hé mở cho chúng ta Người Công Chính chịu đau khổ, dưới dung mạo Người Tôi Trung của Đức Chúa. Dù bị nhạo báng, bị lăng nhục, nhưng Người Tôi Trung không hề đả kích mà lại đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa.

Pl 2: 6-11

Tiếp đó, chúng ta suy niệm mầu nhiệm “tự hạ và tôn vinh của Đức Giê-su” mà thánh Phao-lô phác họa trong thư gởi tín hữu Phi-líp-phê dưới hình thức một bài thánh thi Ki-tô học. Đây là bằng chứng quý báu về niềm tin của Giáo Hội tiên khởi.

Mc 14: 1-15: 47

Sau cùng, chúng ta sống lại cuộc Thương Khó của Đức Giê-su theo Tin Mừng Mác-cô. Thánh ký nhắc cho chúng ta nhớ rằng qua con đường thương khó, Đức Giê-su dẫn chúng ta đến sự sống đời đời.

BÀI ĐỌC I (Is 50: 4-7)

Với đoạn trích nầy, chúng ta dự phần vào niềm xác tín của ngôn sứ I-sai-a. Chính vì thường hằng chuyên tâm lắng nghe Lời Chúa, hằng ngày gẫm suy Lời Chúa, nên ông chẳng những không “cưỡng kháng lại. cũng chẳng tìm cách tháo lui” sứ mạng Thiên Chúa trao gởi cho mình (50: 5) mà còn “biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức” (50: 4). Vị ngôn sứ đã không nhận được bất cứ lòng biết ơn nào, trái lại chỉ toàn những lời lăng mạ và sỉ nhục. Ông bị đánh đòn, sỉ nhục (giật râu là một hình phạt rất nhục nhã), chịu những lời mắng nhiếc, phỉ nhổ vào mặt, khinh bỉ đến tột cùng (50: 6).

1. Dung mạo “Người Tôi Trung chịu đau khổ”:

Dù bị cử xử cách bội bạc như thế, “Người Tôi Trung” đặt trọn niềm tín thác vào Đức Chúa; ông “trơ mặt ra như đá”, nghĩa là “kiên vững không hề nao núng”. Đoạn trích này thuộc bài ca thứ ba trong số bốn bài ca “Người Tôi Trung chịu đau khổ” trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (Is 40-55), vị ngôn sứ thời lưu đày Ba-by-lon, vào giữa thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên.

Dung mạo của “Người Tôi Trung” nầy gợi lên lúc thì dân Ít-ra-en (ngôn sứ I-sai-a đệ nhị thường gọi dân Ít-ra-en “người tôi trung của Đức Chúa”) lúc thì một cá nhân lãnh nhận một sứ mạng đặc biệt. Vả lại, hai cách giải thích theo chiều hướng tập thể và theo chiều hướng cá nhân không loại trừ nhau; cả hai đều chồng chéo lên nhau trong nhiều đoạn văn.

Người Tôi Trung nầy hành xử cách dịu dàng và khiêm tốn (bài ca thứ nhất: 42: 1-9). Ông được giao phó sứ mạng giải phóng dân Ít-ra-en và hoán cải muôn dân (bài ca thứ hai: 49: 1-7). Ông phải chịu những bách hại và những lăng nhục (bài ca thứ ba: 50: 4-11). Ông bằng lòng chịu chết một cách ô nhục, đoạn được tôn vinh (bài ca thứ tư: 52: 13-53: 12).

2. Một sứ điệp mới:

Với dung mạo “Người Tôi Trung chịu đau khổ”, chúng ta ở một khúc quanh rất quan trọng của Mặc Khải. Cho đến lúc đó những viễn cảnh thiên sai nhắm đến dung mạo một vị vua vinh quang, thuộc dòng dõi Đa-vít, đấng sẽ thiết lập một triều đại công lý và hòa bình. Ấy vậy, vào lúc nầy dân Do thái không còn vua, vương triều Đa-vít đã bị nhận chìm vào trong phong ba bảo táp, Đền Thờ bị thiêu hủy, dân thành Giê-ru-sa-lem phải chịu cảnh đời nô lệ và một phần lớn dân thành bị lưu đày.

Đây là thời điểm thuận tiện để loan báo một sứ điệp mới. Qua trực giác của vị ngôn sứ, khoa sư phạm của Thiên Chúa tiến một bước vĩ đại. Những sấm ngôn thuở xưa không hề bị hủy bỏ (Đấng Mê-si-a vẫn thuộc dòng dõi Đa-vít), nhưng điều mà những viễn cảnh mới hé mở, chính là sự can thiệp của “một người Thiên Chúa tuyển chọn”, của “một người Đức Chúa xức dầu tấn phong”, đấng nầy sẽ âm thầm hành động, bên ngoài trông có vẻ thất bại, chịu nhiều đau khổ và bị giết chết, nhưng cuối cùng sẽ được tôn vinh.

3. Vị ngôn sứ bị lăng nhục:

Ở nơi nhân vật chịu nhục nhã ê chề nầy, phải nhận ra chính vị ngôn sứ I-sai-a đệ nhị. Được Thiên Chúa trao phó sứ mạng an ủi những người lưu đày bất hạnh, mệt mỏi chán chường, ông không lẫn tránh sứ mạng phụ bạc nầy; ông cố giúp cho họ hiểu ý nghĩa của sự thử thách mà họ đang phải chịu, kêu mời họ hoán cải, hứa với họ một cuộc cứu thoát. Ấy vậy, ông vấp phải sự vô tri, ngờ vực và giận dữ của những người đã nếm mùi đắng cay trong một cuộc lưu đày dài lâu.

4. Người Công Chính bị bách hại:

Bên kia dung mạo của vị ngôn sứ hiện lên dung mạo của Người Công Chính thập toàn, bản văn vang lên cung giọng thiên sai. Chính Đức Giê-su sẽ thực hiện sứ mạng được giao phó cho Ngài với một thái độ hoàn toàn vâng phục. Cũng chính Ngài sẽ đem Tin Mừng đến cho những người nghèo hèn khốn khổ. Như vị ngôn sứ vô tội, thay vì biết ơn, Ngài sẽ bị đánh đập, nhục mạ, khổ hình mà “chẳng hổ ngươi và trơ mặt ra như đá vì biết mình sẽ không phải thẹn thùng”.

Bài ca thứ ba nầy cho chúng ta cảm thấy trước bài ca thứ tư bi thương về Người Tôi Trung sẽ được đọc vào Thứ Sáu Tuần Thánh.

BÀI ĐỌC II (Pl 2: 6-11)

Đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê là một bài thánh thi gồm sáu khổ theo thể văn xuôi có vần có điệu. Ba khổ thơ đầu họa lại ba giai đoạn tự hạ của Đức Giê-su (2: 6-8), trong khi ba khổ thơ còn lại, theo một chiều hướng ngược lại, mô tả ba giai đoạn Thiên Chúa Cha tôn vinh Ngài (2: 9-11).

Trong bức thư chất chứa cung giọng trìu mến thân thương nầy, chẳng có gì phải ngạc nhiên khi chúng ta gặp thấy những câu thơ tuôn trào cảm xúc từ ngòi bút của thánh nhân. Người ta không biết phải chăng thánh Phao-lô là tác giả hay thánh nhân chỉ trích dẫn bài thánh thi giàu hình tượng được dùng trong Phụng Vụ của Giáo Hội tiên khởi? Dù thế nào, bài thánh thi này vẫn là một chứng liệu đáng chú ý, một trong những bản văn cổ xưa nhất về Ki-tô học; nhất là bài thơ nầy mang đến một lời chứng quý báu đầu tiên (trước cả Tựa Ngôn của Tin Mừng Gio-an) về niềm tin nguyên khởi vào cuộc sống tiền hữu của Đức Giê-su.

1. Ba giai đoạn tự hạ (2: 6-8):

1-Vốn dĩ là Con Thiên Chúa, Đức Giê-su Ki-tô không những từ bỏ Thần Tính, nhưng còn cả vinh quang tự tại ở nơi Ngài (2: 6).

2-Ngài hủy mình ra không, mặc lấy thân nô lệ thấp hèn, sống kiếp phàm nhân (2: 7), để chia sẻ tận cùng những cảnh đời cơ cực yếu hèn của con người, ngoại trừ tội lỗi.

3-Ngài còn tự hạ hơn nữa khi vâng lời chấp nhận cái chết ô nhục trên thập giá (2: 8).

2. Ba giai đoạn tôn vinh (2: 9-11):

1-Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và ban tặng cho Ngài “danh hiệu trổi vượt hơn muôn ngàn danh hiệu” (2: 9). Danh hiệu ở đây mang lấy một ý nghĩa tuyệt đối, nghĩa là chỉ dành riêng cho một mình Đức Giê-su.

2-Diễn ngữ: “Cả trên trời dưới đất và trong cõi âm ty”, chỉ toàn thể vũ trụ. Điều nầy muốn nói rằng không chỉ nhân loại, nhưng ngay cả mọi loài thụ tạo đều phải cung kính thờ lạy Ngài (2: 10). Đó cũng là chủ đề được gặp thấy trong sách Khải Huyền: “Tôi lại nghe mọi tạo vật trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên  lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời” (Kh 5: 13).

3-Sau cùng, người Ki-tô hữu tiên khởi đã không ngần ngại ban tặng cho Đức Giê-su Ki-tô danh hiệu “Chúa” (2: 11) mà Cựu Ước dành riêng cho Đức Chúa, Thiên Chúa của dân Ít-ra-en. Đây là nét đặc trưng lời tuyên xưng đức tin nguyên khởi. Như thánh Lu-ca trong sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Phao-lô trong các thư của ngài nhiều lần nhấn mạnh Thần Tính của Đức Giê-su.

3. Mẫu gương của Đức Giê-su:

Thánh Phao-lô rất mực yêu mến cộng đoàn Phi-líp-phê mà thánh nhân đã thiết lập vào năm 49-50 và là cộng đồng Ki-tô hữu đầu tiên trong miền đất Châu Âu. Phi-líp-phê là một thành phố quan trọng thuộc miền Ma-xê-đoan, thành phố mang tên vua Phi-líp-phê, thân phụ của đại đế A-lê-xan-đê, người đã xâm chiếm thành nầy vào năm 360 trước Công Nguyên.

Khi viết cho các tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô đang bị giam cầm, có thể ở Ê-phê-xô. Thánh nhân mong ước các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu của ngài sống trong sự hiệp nhất và nhất là trong sự khiêm hạ sâu xa. Thánh nhân lấy Đức Ki-tô làm mẫu gương cho họ noi theo.

TIN MỪNG (Mc 14: 1-15, 47)

Như các tác giả Tin Mừng khác, thánh Mác-cô dành một vị thế quan trọng cho bài trình thuật về cuộc Thương Khó của Đức Ki-tô. Như vậy, chúng ta có bằng chứng cho thấy Giáo Hội tiên khởi đã hiểu: biến cố đồi Sọ không là một tình tiết xấu hổ và nhục nhã mà biến cố Phục Sinh đến để tẩy xóa đi, nhưng trái lại là tuyệt đỉnh công trình cứu độ đầy yêu thương của Thiên Chúa đối với nhân loại. Thập Giá là nơi Đức Giê-su hoàn tất sứ mạng cứu độ.

Như vậy, các Ki-tô hữu tiên khởi đã đảm nhận sự thách đố của Thập Giá, bất chấp Thập Giá gây nên sự kỳ chướng đối với dân Do thái và dân ngoại, như thánh Phao-lô công bố: “Trong khi người Do thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Ki-tô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1Cr 1: 22-25).

Như các tác giả Tin Mừng khác, thánh Mác-cô thuật lại cuộc Thương Khó của Đức Giê-su một cách rất giản dị. Thánh Mác-cô đặc biệt soi sáng sự mâu thuẩn của những hoàn cảnh: dù bị nhạo báng, nhục mạ, bị kết án khổ hình ô nhục, nhưng Đức Giê-su vẫn khẳng định quyền tối thượng và tính siêu việt của Ngài với một phẩm chất cao vời. Không một chi tiết bi thương nào được thêm vào cho bài tường thuật đơn giản nầy; những sự kiện tự chúng đủ để nẩy sinh tâm tư tình cảm trong lòng người đọc.

Trong khuôn khổ hạn định của một bài chú giải Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật, tôi không thể chú giải đầy đủ bài Thương Khó của Đức Giê-su theo Tin Mừng Mác-cô. Các bạn có thể tìm thấy những bài chú giải phong phú về cuộc Thương Khó của Đức Giê-su, chẳng hạn như bài chú giải của Lm Fx Vũ Phan Long về “cuộc Thương Khó theo thánh Mác-cô”, hay các bài chú giải khác trong các sách chú giải Tin Mừng Mác-cô. Ở đây, tôi chỉ xin ghi nhận cách chung ba tấn thảm kịch được chồng chéo nhau trong các bài Thương Khó của Đức Giê-su theo các sách Tin Mừng:

- Tấn thảm kịch của việc dân Do thái từ chối.
- Tấn thảm kịch của Con Thiên Chúa làm người.
- Tấn thảm kịch của tội lỗi.

1. Tấn thảm kịch của việc dân Do thái từ chối:

Đức Giê-su đã công bố sứ điệp một cách khó khăn, tuy nhiên không nhượng bộ và thỏa hiệp. Ngài đã lật đổ những ý tưởng cố hữu, kết án thái độ câu nệ luật và thói giả hình. Sự ghen tuông, rồi sự thù hận liên kết với nhau tấn công Ngài. Những vị lãnh đạo tôn giáo Do thái đã từ chối nhận ra Ngài là Đấng Mê-si-a vì Ngài không đáp ứng hình ảnh mà họ tự tạo nên. Việc họ quyết tâm thua đủ với Ngài đã dẫn Ngài đến cái chết, nhưng không như họ nghĩ tưởng: Đức Giê-su đã chiến thắng cái chết. Những lời Thiên Chúa đã hứa với Ít-ra-en nay chuyển sang cho Giáo Hội.

2. Tấn thảm kịch của Con Thiên Chúa làm người:

Khi đón nhận thân phận làm người, Con Thiên Chúa chấp nhận kiếp người “tử biệt sinh ly”. Vì thế, Ngài muốn đảm nhận cái chết trong tất cả sự khiếp sợ cùng với những đau khổ của nó. Những hoàn cảnh lịch sử đã khiến cho Ngài phải chịu khổ hình tàn bạo nhất được sử dụng vào thời Ngài. Số phận nầy nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa. Đây là hành vi yêu thương tột cùng: Đức Giê-su đã muốn chia sẻ số phận của những kẻ bị tra tấn, bị khổ hình, những người tử vì đạo, để tất cả những ai phải chết trong những khốn khổ thậm tệ nhất, và tất cả những ai phải chịu đau đớn về thể xác cũng như tinh thần, đều gặp thấy ở nơi cuộc Thương Khó của Ngài niềm an ủi tuyệt vời. Chúng ta nên lưu ý rằng ở đâu có sự hiện diện của Thiên Chúa ở đó có sự sung mãn: sự sung mãn của sự sống, sự sung mãn của những điều thiện hảo, sự sung mãn của ân sủng.

3. Tấm thảm kịch của tội lỗi:

Đức Giê-su đã giải thích rõ cái chết của Ngài: “Nầy là Mình Thầy bị nộp vì anh em. Vì nầy là máu Thầy đổ ra để muôn người được tha tội”. Tuy nhiên, điều này chẳng là gì nếu chúng ta không đặt mình vào trong mầu nhiệm của “ơn Cứu Chuộc”. Theo văn hóa Do thái, “người cứu chuộc” (“gô-en”) là người có trách nhiệm phục hồi nhân phẩm cho thành viên gia đình bị nạn, và chuộc lại nếu người ấy phải lâm vào cảnh đời nô lệ vì nợ nần. Đó chính là ý nghĩa đặc thù của tước hiệu: “Đấng Cứu Chuộc” được dành cho Đức Giê-su.

Dù được Thánh Kinh soi sáng, biết bao câu hỏi nẩy sinh trong tâm trí chúng ta. Tội lỗi là gì? Một hành vi gây tổn thương đến Sự Thiện. Ấy vậy, Sự Thiện chính là Thiên Chúa hằng sống. Tuy nhiên, Thiên Chúa giàu lòng yêu thương đã không muốn con người một mình phải gánh chịu những hậu quả của tội lỗi. Ngài đã sai Con Một Ngài đến mang lấy thân phận tội lỗi của chúng ta và xóa đi những vết nhơ của chúng ta, như thánh Gioan viết trong thư thứ nhất của mình: “Tình yêu cốt là điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4: 10). Từ đó, thánh Gioan căn dặn: “Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 4: 11). Đó là lý do tại sao Tin Mừng Gioan xem Thập Giá là “vinh quang” của Chúa Cha và Chúa Con trong một tình yêu tròn đầy dâng hiến cho nhân loại.

------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-395: Chúa Nhật Lễ Lá


(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)

 

Một trong những điểm nổi bật và làm rơi nước mắt của bao nhiêu người khi xem bộ phim về cuộc Suy niệm Lễlá-395


Một trong những điểm nổi bật và làm rơi nước mắt của bao nhiêu người khi xem bộ phim về cuộc khổ nạn của Đức Giêsu đó là cảnh bạo lực.

Người Do Thái dùng bạo lực một cách khủng khiếp đối với Đức Giêsu. Họ bắt Ngài phải vác thập giá. Họ đánh đòn Ngài. Họ khạc nhổ vào mặt Ngài. Họ bắt Ngài đội mạo gai. Họ đóng đinh chân tay Ngài vào thập giá. Họ còn lấy lưỡi gươm đâm thấu cạnh sườn Ngài thấu cả trái tim. Người Do thái thời bấy giờ quả thật là quá tàn nhẫn với Đức Giêsu Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Xem cảnh bạo lực đó, có lẽ không ai không trách móc người Do thái sao họ lại làm như thế với Đức Giêsu? Nhưng nếu để ý thì chúng ta vẫn thấy những cảnh bảo lực người ta gây nên cho Đức Giêsu vẫn được tái diễn lại nơi các Tông đồ và các môn đệ của Ngài suốt hơn 2000 năm qua. Và ngày hôm nay, bạo lực vẫn còn tái diễn lại trong các gia đình, nơi học đường, nơi mỗi môi trường sống của xã hội hôm nay.

Thật vậy, trong số các Tông đồ, chỉ có Thánh Gioan bị bỏ vào vạt dầu sôi không chết, còn 11 vị khác đều chịu chết vì đạo, nghĩa là các Ngài đã phải chịu cảnh bạo lực trước khi chết. Rồi suốt 2000 năm qua, vô vàn vô số các kitô hữu đã phải chịu nhục hình vì Chúa. Chỉ riêng ở Việt Nam chúng ta, với gần 300 năm bách hại đạo, có khoảng 150 ngàn kitô hữu chịu chết tử vì đạo, trong số đó đã có 117 vị thánh đã được phong hiển thánh và 1 vị được phong chân phước. Sau đây là hình khổ mà các vị tử đạo Việt Nam phải chịu: 1 vị chịu bá đao, tức là bị lý hình dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho đủ 100 miếng; 4 vị chịu lăng trì, tức là bị chặt chân chặt tay trước khi chém đầu; 6 vị chịu thiêu sinh, tức là bị thiêu sống; 75 vị chịu xử trảm, tức là bị chém đầu; 22 vị chịu xử giảo, tức là bị tròng dây vào cổ và bị lý hình kéo hai đầu dây cho đến chết; 9 vị chịu chết rủ tù, tức là bị tra tấn, hành hạ đủ cách đủ kiểu, rồi bị bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết gục trong tù.

Ngày hôm nay, người ta vẫn dùng bạo lực để bạch hại các kitô hữu đây đó trên thế giới. Người ta không chỉ dùng bạo lực đối với các kitô hữu mà người ta còn dùng bạo lực để giải quyết mọi vấn đề giữa con người với nhau trong gia đình, nơi trường học, nơi các cơ quan công quyền và nơi mọi môi trường sống.

Trước hết, bạo lực trong gia đình: Theo thống kê của Vụ Gia đình (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) Việt Nam cho thấy trong 5 năm trở lại đây, số vụ bạo lực gia đình được ghi nhận khoảng 20.000 vụ/năm. Chỉ riêng trong năm 2015 có 31 phụ nữ, 7 trẻ em bị người thân giết hại. Số liệu báo cáo của các tổ chức phi chính phủ năm 2014 cũng cho thấy cứ 2-3 ngày lại có một người bị giết liên quan đến bạo lực gia đình, mà nạn nhân đa phần là phụ nữ và trẻ em (theo www.rfa.org). Xin nêu lên một số vụ nổi cộm như: Bố tẩm xăng đốt hai con gái tại Hải Phòng; con giết cha tại Đăk Nông; giết chồng để đi theo người tình tại Lâm Đồng; đâm chồng 18 nhát rồi vứt xác xuống sông tại Thái Nguyên; cha giết 2 con rồi tự sát tại Nam Định; chồng đánh vợ gẫy 8 xương sườn, chấn thương sọ não tại Hạ Long (Theo phununews.vn).

Thứ hai, bạo lực ở học đường: Theo số liệu thống kê đầu năm 2015 của Bộ GD&ĐT, trong một năm học, toàn quốc xảy ra khoảng 1.600 vụ học sinh đánh nhau ở cả trong và ngoài phạm vi nhà trường, tương đương khoảng 5 vụ đánh nhau trong một ngày. Nguyên nhân xẩy ra bạo lực có đôi khi không đáng là gì. Chẳng hạn: Vì viết sai chính tả, một học sinh lớp 1 bị cô giáo đánh tím mặt; vì thiếu 5 nghìn đồng “nộp tô”, một nam sinh cấp 2 bị đánh hội đồng dã man; 6 nam sinh bị giáo viên đánh chỉ vì một cái ghế gãy; 6 nữ sinh lớp 9 Trường THCS Quỳnh Long đánh 2 nữ sinh Trường THCS Quỳnh Thuận, Quỳnh Lưu, Nghệ An bằng dép, tát và đối phương dùng chân đạp liên tiếp vào người đối phương như phim hành động (theo dantri.com).

Thứ ba, bạo lực tại các đồn công an: Những năm gần đây người ta thường đồng hóa công an với côn đồ. Bởi vì, công an giả dạng côn đồ hay côn đồ được công an bảo kê để đi đánh người dân. Mặt khác, nhiều người dân được mời đến trụ sở công an, rồi bị đánh cho đến trọng thương, thậm chí bị đánh cho đến chết: Vụ 5 công an dùng nhục hình gây chết người ở Phú Yên; Nam Sinh Tu Ngọc Thạch (14 tuổi, học sinh lớp 9) bị công an đánh chết tại trụ sở công an xã Vạn Long, huyện Vạn Ninh, Tỉnh Khánh Hòa…

Ngoài ra, bạo lực còn xảy ra nơi mọi môi trường chúng ta đang sống: trên đường đi, nơi làm việc, nơi quán ăn nhậu, nơi quán cà phê…Chẳng hạn như: Bảo vệ dân phố sát hại bé trai 6 tuổi ở Sài Gòn; nam thanh niên sát hại người tình tại Royal City - Hà Nội; bé trai 6 tuổi tử vong với nhiều vết thương trên người ở Quảng Bình; nam thanh niên bị đâm chết khi đi dự đám cưới tại Nghĩa Đàn, Nghệ An; nam thanh niên giết người vì đèn pha xe mấy dõi vào mặt ở Nghĩa đàn… (theo kenh14.vn).

Chúng ta phải có thái độ nào trước bạo lực? Chúng ta hãy học gương của các Tông đồ, các thánh Tử đạo và đặc biệt gương của Đức Giêsu, các Ngài không bao giờ chủ trương bạo lực, các Ngài còn lên án bạo lực và khi đứng trước bạo lực mà con người gây ra cho các Ngài, các Ngài vẫn bình tĩnh và chấp nhận theo thánh ý Thiên Chúa. Với Đức Giêsu, trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Ngài đã cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin cất cho con khỏi chén đắng này, nhưng đừng theo ý con một làm theo ý Cha”. Thái độ của Đức Giêsu trước bạo lực cũng được diễn tả trong bài đọc I hôm nay: Người tôi tớ đau khổ ở đây chính là Ngài; Ngài chấp nhận sự bách hại, tra tấn, phỉ nhổ, cô đơn; Ngài nhịn nhục chịu đựng, không dùng bạo lực chống lại bạo lực; đặc biệt, Ngài tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa là Đấng sẽ đến giải thoát mình.

Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có chủ trương bạo lực không? Hãy xét lại thái độ sống của chúng ta đối với những người thân trong gia đình, với bà con làng xóm láng giềng, với bạn bè và đồng nghiệp nơi chúng ta làm việc và với mọi người chúng ta gặp gỡ. Có khi nào chúng ta dùng bạo lực để giải quyết các vấn đề không? Chồng có dùng bạo lực đối với vợ không? Vợ có dùng bạo lực đối với chồng không? Cha mẹ có dùng bạo lực với con cái không? Con cái có dùng bạo lực đối với cha mẹ không? Anh chị em có dùng bạo lực đối với nhau không?

Hãy quyết tâm: Không được gây ra bạo lực; không được dùng bạo lực để chống lại bạo lực; hãy xây dựng sự hòa thuận trong gia đình và các mối tương quan bằng cách sống hiền lành và khiêm nhường.

Thánh Phanxico Salesio có bẩm tính rất nóng nảy, họ hàng bè bạn ai cũng biết thế …

Một hôm, có người đến Toà Giám Mục Annecy để thăm thánh nhân. Trong câu chuyện trao đổi hai bên, ông ta nhiều lần lớn tiếng cãi vã, đấm bàn đấm ghế, chỉ trích phê bình và mắng nhiếc thánh nhân thậm tệ. Thế nhưng, thánh Phanxicô vẫn cứ ngồi nghe cách thinh lặng, thỉnh thoảng lại nhã nhặn mời ông khách xơi trà, hút thuốc. Trước những câu nói nặng nề xấc láo, thánh nhân vẫn đáp lại bằng những lời lẽ hết sức dịu dàng, khiến ông khách qúy bắt đầu cảm thấy thẹn thùng rồi từ từ rút lui.

Người anh của thánh nhân ngồi ở phòng sau chăm chú theo dõi câu chuyện hai bên. Khi người khách vừa ra khỏi cổng, ông phóng ngay ra phòng thánh nhân và lạ thay…. Phanxicô vẫn tươi cười bình tĩnh! Ông liền nói:

- Nè, chú Phanxicô, xưa nay chú tính nóng như lửa, sao độ này lại hiền từ nhịn nhục đến thế? Tôi ở phòng sau nghe lão ta nói mà sốt ruột lộn gan, muốn nhào ra đánh một trận cho vỡ mặt hắn ra. Ðồ lếu láo mất dạy!

- Anh à, ai cũng có máu Adong cả. Em cũng bực tức xung giận lắm, nhưng em cố gắng theo gương Chúa Giêsu, hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Cứ mỗi dịp như vừa rồi, em lại tập thêm được một chút ít bằng cách tự bảo: này hỡi Phanxicô, hãy đậy kỹ vung, đừng mở, đừng nói gì ráo! Cuối cùng em thấy rằng: lấy một giọt mật, bắt được cả bầy ruồi; chứ lấy cả thùng giấm, chẳng tóm được một con. (Trích: chuyện ĐHY Fx Nguyễn Văn Thuận kể)

Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường xin uốn lòng chúng con nên giống Chúa.

---------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-396: Vụ án Baraba và Chúa Giêsu


(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang - Joshepus Quang Nguyễn)

 

Trong Bài Thương Khó, Thánh Máccô viết: “Vì muốn chiều lòng đám đông, ông Phi-la-tô phóng Suy niệm Lễlá-396


Trong Bài Thương Khó, Thánh Máccô viết: “Vì muốn chiều lòng đám đông, ông Phi-la-tô phóng thích tên Ba-ra-ba, truyền đánh đòn Đức Giê-su, rồi trao Người cho họ đóng đinh vào thập giá”. Vậy Baraba là ai? Theo thánh Mátthêu Baraba là một phạm nhân khét tiếng (Mt 27,16), thánh Máccô lại cho rằng Baraba là một tên phiến loạn (Mc 15,7) và thánh Gioan gọi là một tên trộm cướp (Ga 18,40). Từ những chứng cứ trên, ta có thể nói rằng rằng Baraba là một phạm nhân chính trị, một chiến sĩ tham gia vào cuộc chiến dành độc lập cho dân tộc Israel và có lẽ đã giết chết nhiều quân Rôma trong một cuộc nổi dậy. Vì thế bị quân Rôma bắt giữ và lên án. Hiểu như thế thì Baraba là biểu tượng giải phóng dân tộc bằng đường lối quen thuộc, đó là đường lối của bạo lực và gươm giáo. Và như vậy, khi người Do Thái đòi thả Baraba mà đóng đinh Giêsu là họ đã phủ nhận niềm hy vọng về Nước Trời mà Đức Giêsu loan báo là tình thương, phục vụ và tha thứ để rồi đặt tất cả mọi cư xử bằng bạo lực.

Vụ án đó hôm nay vẫn diễn ra trong tâm hồn chúng ta, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cùng đi với Người trên nẻo tình thương và những giá trị Tin Mừng, nhưng có những lúc chúng ta thấy nẻo đướng ấy xa xôi quá, những thực tại xã hội này rất gần gũi và hấp dẫn nhiều vì thế đã nhiều lần chúng ta chối Chúa Giêsu và đòi đóng đinh giá trị Tin Mừng, cho nên chúng ta buông mình cho những đam mê tội lỗi. Cụ thể, xã hội này mà Chúa còn bảo thật thà, xã hội này mà Chúa bảo chớ gian dối, hay xã hội này mà Chúa cấm phá thai... Những thứ này ai ai cũng làm được mà, tại sao người công giáo lại không?!

Lạy Chúa Giêsu, xin tha lỗi cho chúng con bởi vì tuy mang danh Kitô hữu nhưng có lúc đã phủ nhận những gì Ngài loan báo, xin cho chúng con được lớn lên trong niềm xác tín rằng: đường thập giá, đường Chúa đi là đường hy vọng bình an và đầy tình thương.

Lạy Chúa Giêsu, xin tha lỗi cho chúng con vì con hèn nhát lắm, xin cho chúng con một tâm hồn đại độ biết cho đi mà không cần tính toán, biết chiến đấu mà không ngại thương đau, biết làm việc mà không tìm an nghỉ, biết tiêu hao chính mình cho tha nhân mà không đợi một phần thưởng nào khác hơn là chính Chúa vì Chúa là hy vọng của chúng con.

Lạy Chúa Giêsu, xin tha lỗi cho chúng con vì chúng con ích kỷ lắm, trên cây thập giá này, Chúa đã đi cho đến tận cùng nẻo đường của một Thiên Chúa muốn hủy mình ra không để thánh ý của Cha và hạnh phúc của nhân loại trở thành tất cả lẽ sống của đời Chúa. Xin Chúa dạy cho chúng con cũng được chia sẻ thập giá của Chúa bằng cách mỗi ngày chúng con biết ra khỏi chính mình con để mở lòng ra với Thiên Chúa và với anh chị em con qua việc yêu thương, phục vụ và tha thứ. Amen.

---------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-397: Phêrô

 

Bài tường thuật sự thương khó Chúa Giêsu, tự bản chất đã chứa đựng rất nhiều điều đáng cho chúng Suy niệm Lễlá-397


Bài tường thuật sự thương khó Chúa Giêsu, tự bản chất đã chứa đựng rất nhiều điều đáng cho chúng ta suy gẫm. Bởi đó, phải đọc trong tinh thần cầu nguyện, để sống lại những chặng đường Chúa Giêsu đã đi qua, để những khổ đau của Chúa thấm vào tâm hồn chúng ta, cũng như hãy mở rộng cõi lòng để đón nhận sứ điệp của Chúa. Trong một vài phút ngắn ngủi này, chúng ta dừng lại ở kinh nghiệm khác thường của Phêrô, vị tông đồ vừa tự phụ, vừa yếu đuối lại vừa sám hối ăn năn.

Qua những giờ phút cuối cùng của Chúa Giêsu, chúng ta nhận thấy nơi Phêrô có những mâu thuẫn. Một đàng ông nhất quyết trung thành với Chúa và tìm mọi cách để bảo vệ Ngài. Đàng khác ông không nghĩ tới mưu chước cám dỗ bất ngờ ập xuống một cách dữ dội, vì quá tin tưởng vào sức riêng, nên thay vì vâng lời Chúa, thì ông lại phản đối lại lời Ngài. Thực vậy Chúa báo trước cho ông hay các môn đệ sẽ lìa bỏ Chúa, nhưng ông lại cho đó là chuyện khó tin, không thể xảy ra được. Chúa còn nói thêm rằng: Chính ông sẽ chối bỏ Ngài trước khi gà gáy. Lẽ ra ông phải lo sợ, phải cầu xin cho khỏi sa ngã, thì ông lại phản ứng một cách mạnh mẽ và hết sức tự tin. Ông cảm thấy như không có gì lay chuyển nổi tình yêu của ông đối với Chúa, nên ông không thể nào chấp nhận lời tiên báo rằng ông sẽ sa ngã, ông sẽ phản bội. Cuối cùng khi Chúa dặn ông phải tỉnh thức và cầu nguyện thì ông lại ngủ vùi, cho dù tận đáy lòng, ông vẫn một mực tin tưởng vào mình.

Từ những vấp ngã ấy, ông đã rút ra một kinh nghiệm đau thương, được phảng phất qua lời khuyên nhủ sau đây: Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, kẻ thù của anh em, như sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé.

Kẻ thù ồn ào và gào thét đã tấn công vào Phêrô, đó là đám đông đi bắt Chúa và tìm mọi cách để tỏ lộ sự căm phẫn đối với Ngài. Phêrô lo sợ mà không biết mình lo sợ. Vì không biết mình nên ông đã không thấy rõ sự yếu đuối của mình, do đó ông đã liều lĩnh theo Chúa xa xa, đến dinh thầy cả thượng phẩm, ông cả dám mon men đến gần dịp tội. Ông tưởng rằng sự việc rồi cũng kết thúc êm đẹp như bao lần Chúa đã chấm dứt những hành vi gây hấn của bọn biệt phái. Ông chờ đợi mà không đề phòng, cho nên đã sa ngã chỉ vì một câu hỏi của người đàn bà. Ông bối rối, ông sợ hãi và ông đã chối bỏ Chúa Giêsu.

Tuy nhiên, điều đáng cho chúng ta suy nghĩ đó là Phêrô đã hối hận. Tiếng gà gáy làm cho ông nhớ lại lời tiên báo của Chúa Giêsu. Ở đây, vẻ cao quý của Phêrô là lòng khiêm nhường, thành thực và tin tưởng dù đã sa ngã.

Ông khiêm nhường vì nhận ngay mình có tội mà không cần phân tích lỗi lầm để tìm cớ chữa mình. Ông thành thực vì không quanh co trong việc nhìn nhận một lỗi lầm đã nghịch lại lời cam kết với Chúa. Ông tin tướng vì cảm nhận rằng nhờ nhận lỗi mình một cách thành thật, ông được Chúa khoan dung tha thứ. Ông khóc vì cảm động. Và đối với một người khí phách như ông, thì đó có lẽ là cách duy nhất để xin lỗi.

Phêrô sám hối, đã được Chúa tha thứ và hơn thế nữa còn được Chúa đặt làm đầu Giáo Hội. Chính vì thế, chúng ta hãy tin tưởng chạy đến với Chúa, dù tội lỗi chúng ta có nặng nề tới đâu, nếu chúng ta biết sám hối ăn năn, chắc chắn chúng ta sẽ được Chúa tha thứ.

---------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-398: Chúa Nhật Lễ Lá


(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa)

LẠY THIÊN CHÚA CỦA CON, SAO NGÀI BỎ RƠI CON?

 

Từ Trên cây thập giá, Thánh Marcô tường thuật lại cho chúng ta lời nói cuối cùng của Chúa Giê-su Suy niệm Lễlá-398


Từ Trên cây thập giá, Thánh Marcô tường thuật lại cho chúng ta lời nói cuối cùng của Chúa Giê-su: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15,34). Trên đồi Golgotha chiều ấy, Giê-su trần trụi trên Thập giá. Không có ai đứng dưới cây thập giá mà chỉ có một số phụ nữ đứng xa xa mà nhìn. Chúa hoàn toàn cô đơn. Mọi người đã bỏ rơi Ngài. Và trong nội tâm sâu thẳm của Chúa, Ngài cũng cảm nhận dường như Thiên Chúa cũng bỏ rơi Ngài. Sau lời nói cuối cùng này, Chúa kêu lớn tiếng rồi trút hơi thở. Chứng kiến cái chết của Chúa, một viên đại đội trưởng đứng đối diện với Chúa thấy Người tắt thở như vậy liền nói: Quả thật, người này là Con Thiên Chúa. (x Mc 15,39). Tôi thích câu nói này của viên đại đội trưởng. Ông không nói vị thánh này, hay ông chúa này là Con Thiên Chúa. Ông chỉ thốt lên NGƯỜI này là Con Thiên Chúa.

Là một con người với thân xác nặng nề, Chúa cũng giống như bạn và tôi.

Chúa cảm thấy bị bỏ rơi khi nhìn thấy một đám đông hung tợn. Họ lên án Chúa và hô lên đóng đinh Chúa vào thập giá. Chúa là đấng vô tội nhưng lại bị kết án như tội nhân. Không ai tìm được chứng tố cáo Chúa. Cuối cùng, Chúa bị kết án chỉ bởi vì Ngài dám xưng mình là Con Thiên Chúa. Thật đáng nực cười biết bao khi Đấng đến từ cung lòng Thiên Chúa, lại bị kết án bởi Ngài nhận thật về điều đó. Kẻ giết người thì được tha còn người vô tội lại bị đóng đinh vào thập giá.

Chúa cảm thấy bị bỏ rơi khi trong nhóm 12 thân tín lại có những người phản bội. Giuđa bán đứng Thầy mình để lấy tiền. Dấu hiệu để người ta bắt Chúa là một nụ hôn. Thật nghiệt ngã biết bao. Nụ hôn là dấu chỉ của tình yêu lại trở thành dấu hiệu của phản bội. Phê-rô, vị tông đồ trưởng đầy nhiệt huyết khi theo Chúa. Ông quyết tâm dù phải chết cùng thầy, ông cũng không chối thầy. Thế mà chỉ phải đối diện với một đầy tớ gái, ông đã không đủ can đảm để nhận mình là đệ tử của Giê-su. Và khi gà chưa gáy lần thứ hai thì ông đã chối thầy đến ba lần. Một người bán, một người chối, còn nỗi đau nào lớn hơn cho một người thầy đã vất vả dạy dỗ học trò?

Chúa cảm thấy bị bỏ rơi khi mà tất cả mọi người đều nhục mạ Chúa. Chúa phải chịu đánh đòn, đội vòng gai và vác thập giá bước đi trong sự nhạo cười của đám đông. Ngay cả nhóm môn đệ thân tín nhất cũng không thể thức và nguyện cầu cùng Chúa. Trong giờ phút quyết định của sống và chết, Chúa cũng buồn sầu đến chết được. Ngài mời ba môn đệ thân tín cùng cầu nguyện với Ngài. Nhưng rồi các ông ngủ gục. Có vẻ như không chỉ có ba môn đệ thân tín ngủ, mà cả trần gian này đều ngủ. Không mấy ai thức cả. Vì thế mà Chúa thấy cô đơn lạc lõng làm sao.

Và cuối cùng trên thập giá, Giê-su thốt lên những lời cuối cùng rất đỗi con người: Chúa ơi sao Chúa bỏ con?

Chúng ta đã quá quen thuộc với việc thần thánh hóa Chúa Giê-su đến nỗi quên luôn khía cạnh con người của Ngài. Cái gì chúng ta cũng coi như là Chúa làm nên dễ dàng. Chúng ta thường hay nói với nhau rằng cái đó thì chỉ Chúa mới làm được còn mình là con người làm sao mà làm được. Vì thế, chúng ta không chịu làm và không dám làm. Tôi nhớ có lần giải thích cho một số người lời nói của Chúa: “Anh em hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,43). Có một người nói với tôi rằng yêu kẻ thù thì chúng con chịu không làm được. Chúa mới làm được thôi. Con là con người thì làm sao mà làm được điều đó. Hôm nay tôi khẳng định lại với các bạn rằng câu nói trên của Chúa, chúng ta hoàn toàn có thể làm được. Chỉ có tình yêu mới hóa giải được hận thù. Bao lâu chúng ta chưa tha thứ thì bấy lâu chúng ta còn nô lệ cho chính bản thân mình. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ có được giây phút bình yên.

Chúa nhật Lễ Lá hôm nay khởi đầu tuần Thánh, tuần thương khó của Chúa, tôi mời bạn hãy đọc lại cuộc thương khó của Chúa trong Tin Mừng. Hãy nhìn Giê-su như một con người thực thụ để bạn có thể hiểu và rút ra được bài học cho riêng mình. Chúa đã trải qua tất cả mọi cung bậc cảm xúc của kiếp người và Ngài đã chiến thắng. Ngài chiến thắng không phải bằng sức lực của riêng mình mà là sức mạnh đến từ chính Chúa Cha, Đấng Ngài luôn kết hợp nên một. Cuộc sống của bạn và tôi mỗi ngày cũng phải đối diện với nhiều thử thách. Đừng bao giờ chúng ta chiến đấu một mình. Hãy để cho Chúa Cha hành động trong chúng ta. Hãy để cho sức mạnh Thiên Linh hướng dẫn chúng ta. Chắc chắn c húng ta sẽ có thể vượt qua và hoàn thành tốt đẹp vai trò và sứ mạng của mình trên trần gian này.

---------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-399: Chúa Nhật Lễ Lá


(Suy niệm của Lm. Anfonso)

Tin Mừng Mc 14: 1;15: 1-39: Hình ảnh một vị vua, vị tướng oai vệ đường hoàng vào thành trên lưng chiến mã hay chiến tượng là một hình ảnh hào hùng được mọi người tung hô. Điều đó giương cao vị thế của vị vua vị tướng trần gian, nên mỗi khi xuất hiện trước công chúng, các ngài không thể nào thiếu hình ảnh đó...
Suy niệm:

 

Hình ảnh một vị vua, vị tướng oai vệ đường hoàng vào thành trên lưng chiến mã hay chiến tượng Suy niệm Lễlá-399


Hình ảnh một vị vua, vị tướng oai vệ đường hoàng vào thành trên lưng chiến mã hay chiến tượng là một hình ảnh hào hùng được mọi người tung hô. Điều đó giương cao vị thế của vị vua vị tướng trần gian, nên mỗi khi xuất hiện trước công chúng, các ngài không thể nào thiếu hình ảnh đó.

Thế nhưng, đối với Chúa Giêsu, Đấng được mọi người tung hô: “Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Chúc tụng triều đại vua Ðavid tổ phụ chúng ta đã đến. Hoan hô trên các tầng trời” lại chọn ngồi trên lưng con lừa, một con vật chở hàng. Con vật này lại mượn của người ta, mà trong đoạn Tin Mừng theo thánh Márcô hôm nay còn xác định chi tiết hơn nữa: Người cỡi lên “con lừa con chưa ai cỡi bao giờ”. Hình ảnh Chúa Giêsu - Đấng nhân danh Chúa mà đến đã khải hoàn tiến vào thành thánh không với vẻ uy thế bề ngoài nhưng với một một nét sâu sắc đến khó tả.

Các nhà chú giải Kinh Thánh đưa ra những giải thích quen thuộc, như “Các tiên tri đã loan báo một vị vua hiền hòa, khiêm tốn đến thăm dân”. Người đến trong một hang đá Bêlem nghèo nàn xác xơ, Người đến trên lưng con lừa con, không có thảm lót đường mà bằng các nhành lá. Đó là hình ảnh lột tả một Thiên Chúa hiền hòa, không kết án hay luận phạt nhưng cứu vớt và tha thứ. Vâng, Đấng nhân danh Chúa mà đến phải như thế mới diễn tả tình thương của Thiên Chúa dành cho dân Người.

“Đấng ngự đến nhân danh Chúa” còn được tiên báo là người đón nhận tất cả những điều oan trái xảy đến với mình, “đưa lưng cho kẻ đánh, đưa má cho kẻ giật râu; không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ”.

Trong cuộc sống, sẽ không ít lần chúng ta gặp những chuyện không mấy dễ chịu, những điều khó đón nhận, những cử chỉ, lời nói khó nghe từ người khác làm mình buồn lòng. Vậy liệu chúng ta có đủ khiêm tốn, xem đó như là thánh ý Chúa hoạch định trên cuộc đời chúng ta hay không? Và chúng ta có dám xem những điều trái nghịch ấy là cách chúng ta tháp nhập đời mình vào cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, Đấng chịu đau thương khổ hình vì mỗi chúng ta?

Lạy Chúa, xin cho con tập biết sống hiền hậu, khiêm tốn và không vội phản ứng tiêu cực trước những điều trái ý với mình. Amen.

---------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-400: Chúa Nhật Lễ Lá


(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)

CHÚA GIÊSU ĐÃ CHẾT — VÀ SỐNG LẠI —CHÚNG TA CÓ THỂ CÙNG ĐỒNG HÀNH VỚI NHAU.

 

Một số nhóm và cá nhân là những chất liệu hữu ích để suy niệm trong tuần này, đó là: đám đông Suy niệm Lễlá-400


Một số nhóm và cá nhân là những chất liệu hữu ích để suy niệm trong tuần này, đó là: đám đông rước Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, người phụ nữ xức dầu cho Chúa Giêsu, viên đại đội trưởng công bố thiên tính của Chúa Giêsu, những người phụ nữ chứng kiến cảnh đóng đinh và ông Giuse quê thành Animathia táng xác Chúa Giêsu.

Bài Tin mừng được công bố vào đầu Thánh lễ trích từ Tin mừng Máccô hoặc Gioan mô tả cảnh rải những cành lá cọ trên con đường Chúa Giêsu đi qua, được cử hành vào Chúa nhật Lễ Lá hôm nay. Dân chúng trải lá và áo choàng để chào đón Chúa Giêsu khải hoàn vào thành, chứng tỏ tầm quan trọng khi Ngài xuất hiện. Họ hô lên “Hosanna”, nghĩa là “Xin cứu chúng tôi”, báo hiệu rằng công trình của Chúa Giêsu tạị Giêrusalem là mang đến ơn cứu độ.

Trong những ngày sau cùng, Chúa Giêsu được một phụ nữ xức dầu tại Bêtania. Cô dùng loại dầu thơm đắt tiền xức lên đầu Chúa Giêsu ngay cả khi có một số người quở trách vì cho rằng việc làm của cô là lãng phí.

Người phụ nữ không chỉ phục vụ Chúa Giêsu mà hành động của cô còn báo trước cái chết và việc táng xác của Ngài. Điều quan trọng là cô tuyên bố một cách rõ ràng rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, nghĩa là Đấng được xức dầu. Chúa Giêsu khen ngợi sự ân cần và phục vụ của cô đối với Ngài, kêu mời phải ghi nhớ việc làm của cô.

Sau khi bị Giuđa phản bội, Chúa Giêsu bị bắt và chịu đóng đinh. Theo Tin mừng Máccô, Ngài bị đánh đập, bị chế giễu và đội mão gai trước khi bị đóng đinh, bị tổn thương thân xác và tình cảm trên đường đi trước khi chết. Sau cùng, khi Ngài chịu đóng đinh, Máccô đã miêu tả cách sầu thảm cảnh tang tóc trên địa cầu, bóng tối bao trùm khắp mặt đất. Sau khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng trên thập giá, viên đội trưởng Rôma tuyên bố rằng: “Quả thật người này là Con Thiên Chúa!”

Lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng được sắp xếp cẩn thận trong bối cảnh rộng hơn của bài Tin mừng. Như được đề cập nhiều lần trong Tin mừng Máccô, Chúa Giêsu đã cố gắng giữ bí mật danh tính của mình, và cho đến thời điểm này, không một ai trong Tin mừng Máccô có thể tôn vinh Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Khi chịu phép rửa, Thiên Chúa Cha đã tuyên bố Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa (Mc 1,11), và trong một lần trừ quỷ, thần ô uế đã hét lên rằng ông Giêsu là Con Thiên Chúa (Mc 3,11). Chúa Giêsu liền quở trách nó vì Ngài không muốn tiết lộ danh tính của mình vào lúc đó. Cuối cùng, khi Chúa chết thì lời khẳng định mang tính thần học này được bày tỏ cho thấy rằng Chúa Giêsu- Con Thiên Chúa chịu chết trên thập giá là mẫu mực tột đỉnh tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại. Đẹp thay, sau bao đợi chờ, thánh Máccô lại dùng một người dân ngoại sống bên ngoài cộng đoàn để công bố mặc khải tột đỉnh này, xác tín rằng cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là ơn cứu độ cho tất cả mọi người.

Trong khi nhiều người chứng kiến tỏ ra đối kháng với Chúa Giêsu thì các bà Maria Mađalêna, Salomê, Maria mẹ của Giacôbê và Giuse cùng những người phụ nữ khác ở lại bên Chúa Giêsu, trung thành ủng hộ Ngài trong khi những người khác đã bỏ trốn. Các phụ nữ này là chứng nhân của việc cứu chuộc, và thánh Máccô đã nhấn mạnh sự trung thành của họ trước thập giá và trong suốt cuộc hành trình của Chúa Giêsu.

Ở phần cuối của bài Tin mừng, một thành viên thượng hội đồng quê thànhArimathia tên là Giuse đến với Philatô xin lấy xác Chúa Giêsu. Có rất ít thông tin về ông, mặc dù thánh Mátthêu và Gioan nói rằng ông Giuse là một môn đệ. Ông Giuse dâng một ngôi mộ cho Chúa Giêsu, thể hiện sự quảng đại và quan tâm để việc chôn cất được đàng hoàng.

Trong tuần cuối cùng của Mùa Chay này, chúng ta được mời gọi suy gẫm về tầm vóc cao cả việc hy sinh của Chúa Giêsu và ý nghĩa của sự hy sinh đó như hành động cứu rỗi của tình yêu thương Thiên Chúa. Cũng vậy, hãy suy gẫm về những con người, trong đó có nhiều người không được nêu tên trong Tin mừng, đã bước đi với Chúa Giêsu. Những người ủng hộ Chúa Giêsu cho chúng ta những hình mẫu để sống như những chứng nhân Kitô hữu đích thực. Đám đông đã chào đón Chúa Giêsu và tuyên xưng quyền năng cũng như tầm quan trọng của Ngài. Người phụ nữ làng Bêtania đã quan tâm đến nhu cầu thể lý của Chúa Giêsu trước khi chết, còn ông Giuse thì quan tâm đến thân xác của ngài sau khi chết. Viên đại đội trưởng Rôma đã tuyên xưng Chúa Giêsu đích thực là Con Thiên Chúa, và truyền bá Tin mừng cho toàn dân. Những người phụ nữ dù có nêu tên hay không nêu tên đều là những nhân chứng Kitô giáo, những người luôn ủng hộ Chúa Giêsu ngay cả khi Ngài chịu chết. Mỗi người trong số những người này đều tự nguyện phục vụ Chúa Kitô, và họ nhắc chúng ta rằng phục vụ trung thành là trọng tâm của đời sống người môn đệ.

Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2021/02/18/palm-sunday-lent-gospel-reflection-catholic-scripture-240000

---------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây