Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu được Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ. Khi Người đã nhịn ăn bốn mươi đêm ngày, Người cảm thấy đói. Và tên cám dỗ đến gần, nói với Người rằng: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy khiến những hòn đá này biến thành bánh". Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: "Có lời chép rằng: 'Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra'". Bấy giờ ma quỷ đưa Người lên Thành thánh, và đặt Người trên góc tường Ðền thờ, rồi nói với Người rằng: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống đi, vì có lời chép rằng: Ngài đã ra lệnh cho các Thiên Thần đến với ông, và chư vị đó sẽ nâng đỡ ông trên tay, để ông khỏi vấp chân vào đá". Chúa Giêsu đáp: "Cũng có lời chép rằng: "Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi". Quỷ lại đưa Người lên núi rất cao, và chỉ cho Người xem thấy mọi nước thế gian và vinh quang của những nước đó, rồi nói với Người rằng: "Tôi sẽ cho ông tất cả những cái đó, nếu ông sấp mình xuống thờ lạy tôi". Bấy giờ Chúa Giêsu bảo nó rằng: "Hãy lui đi, hỡi Satan! Vì có lời đã chép: "Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi, và chỉ phụng sự một mình Ngài". Bấy giờ ma quỷ bỏ Người. Và các thiên thần tiến lại, hầu hạ Người. - Ðó là lời Chúa. ----------------------------------
“Chúa chịu Satan cám dỗ và các Thiên Thần hầu hạ Người”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Người ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu Satan cám dỗ, sống chung với dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Người. Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng của nước Thiên Chúa, Người nói: “Thời giờ đã mãn, và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”. - Ðó là lời Chúa. ----------------------------------
“Thánh Thần thúc đẩy Chúa vào hoang địa, và chịu cám dỗ”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, Chúa Giêsu được đầy Thánh Thần, liền rời vùng sông Giođan và được Thánh Thần đưa vào hoang địa ở đó suốt bốn mươi ngày, và chịu ma quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Người không ăn gì và sau thời gian đó, Người đói. Vì thế, ma quỷ đến thưa Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho đá này biến thành bánh đi”. Chúa Giêsu đáp: “Có lời chép rằng: Người ta không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng lời Chúa nữa”. Rồi ma quỷ lại đem Người lên cao hơn cho xem ngay một lúc tất cả các nước thiên hạ và nói với Người rằng: “Tôi sẽ cho ông hết thảy quyền hành và vinh quang của các nước này, vì tất cả đó là của tôi và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, thì mọi sự ấy sẽ thuộc về ông!” Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: “Có lời chép rằng: Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người thôi”. Rồi ma quỷ lại đưa Người lên Giêrusalem, để Người trên góc tường cao đền thờ và bảo rằng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, vì có lời chép rằng: “Chúa sẽ truyền cho Thiên Thần gìn giữ ông!” Và còn thêm rằng: “Các vị đó sẽ giơ tay nâng đỡ ông khỏi vấp phải đá”. Chúa Giêsu đáp lại: “Có lời chép rằng: Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi!” Sau khi làm đủ cách cám dỗ, ma quỷ rút lui để chờ dịp khác. - Ðó là lời Chúa. ------------------------
Hồi tâm là một hành vi tâm lý, nhìn lại quá khứ để nhận ra những việc mình đã làm. Có thể đó là những việc tốt, nhưng cũng có thể đó là những việc chưa tốt. Việc hồi tâm đòi hỏi lòng can đảm và trung thực, vì có nhiều người rất sợ đối diện với lương tâm của chính mình. Đó là lý do tại sao có những người, sau khi làm điều ác, uống rượu hoặc hút chích ma túy để quên đi quá khứ, để gạt bỏ lời khiển trách của lương tâm. Hồi tâm giúp chúng ta nhận ra những lầm lỗi của mình, để rồi sửa chữa, uốn nắn và canh tân cuộc đời.
Lời mời gọi “Hãy trở về” cũng có nghĩa là “Hãy hồi tâm”. Hồi tâm là một trong những thực hành quan trọng của Mùa Chay. Việc hồi tâm phải được thực hiện trước mặt Chúa, trong tâm tình cầu nguyện và với thiện chí chừa cải.
Hồi tâm cũng là ôn lại lịch sử đã qua. Ông Môisen đã chỉ thị cho các tư tế Do Thái, mỗi khi dâng của lễ đầu mùa, phải nhắc lại quá khứ của dân tộc mình. Quá khứ này
vừa kể lại thuở hàn vi nghèo khổ, vừa ghi đậm dấu ấn quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Người Do Thái nhớ lại cha ông mình ngày xưa chịu cảnh lang thang phiêu bạt, nhờ quyền năng của Chúa, họ được định cư và phát triển đông đúc “như sao trên trời và như cát dưới biển”. Quá khứ đã qua của dân riêng Thiên Chúa vừa huy hoàng, vừa đau khổ. Lời cầu nguyện của tư tế cũng nhắc tới thời kỳ đen tối, dưới ách nô lệ của người Ai Cập. Lại một lần nữa, Chúa giang cánh tay uy quyền để giải thoát họ, đưa họ về miền đất hứa. Đó là lý do để người Do Thái, từ thế hệ này đến thế hệ khác, phải dâng của lễ để tôn vinh và tạ ơn Thiên Chúa (Bài đọc I).
Việc hồi tâm cũng giúp chúng ta lượng giá cuộc sống hiện tại, để nhờ đó, chúng ta luôn khôn ngoan thận trọng trước những cạm bẫy giăng đầy xung quanh. Thánh Luca đã thuật lại việc Chúa Giêsu vào hoang địa. Ở đó, Chúa cầu nguyện, ăn chay và chịu cám dỗ. Tên cám dỗ là ma quỷ. Nội dung cám dỗ là lời mời gọi ở ba khía cạnh: bánh ăn trong lúc đói; bổng lộc vinh hoa để quên sứ mạng thiên sai; làm những điều ngoạn mục (gieo mình từ nóc Đền thờ) để vui chơi giải trí. Như chúng ta thấy trong trình thuật của Luca, Chúa Giêsu đã dùng Lời Chúa để đánh bại ma quỷ.
Ba cơn cám dỗ Chúa Giêsu đã trải qua cũng luôn tồn tại trong cuộc sống của chúng ta. Quả vậy, bất kể thời nào, lứa tuổi và bậc sống nào, chúng ta cũng bị cám dỗ về ăn uống, về vinh hoa và thử thách Thiên Chúa. Hồi tâm chính là nhận ra những cơn cám dỗ ấy, để khôn ngoan can đảm khước từ những lời mời gọi ngọt ngào nhưng chứa nọc độc. Cám dỗ giống như những viên thuốc độc bọc đường, bên ngoài thì đẹp đẽ, nhưng dễ dàng đầu độc và giết chết chúng ta.
Sau khi thất bại, quỷ rút lui và chờ đợi thời cơ – Thánh Luca kết thúc trình thuật như thế. Kể cả lúc chúng ta chiến thắng cám dỗ của ma quỷ, chúng ta vẫn phải luôn thận trọng. Tâm tình cầu nguyện, gắn bó với Lời Chúa sẽ giúp chúng ta sức mạnh để chiến thắng những tấn công của Satan. “Lời Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng”. Sức mạnh của chúng ta đến từ Lời Chúa và vào lòng trông cậy vững vàng nơi Ngài. “Tất cả những ai kêu cầu Danh Chúa sẽ được cứu thoát” (Bài đọc II).
“Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin gìn giữ họ khỏi ác thần” (Ga 17, 15). Giữa biển đời sóng gió phong ba, Chúa Giêsu biết chúng ta sẽ trải qua nhiều cám dỗ. Người cầu xin Đức Chúa Cha, để Ngài gìn giữ các môn đệ và những ai tin vào Chúa Giêsu. Người tín hữu không tách rời khỏi thế gian, nhưng sống giữa thế gian với sức mạnh diệu kỳ của Thiên Chúa, để rồi họ chiến thắng nhờ sức mạnh ấy. Sống tinh thần Mùa Chay là sống tinh thần hoang địa. Ở đó, giữa thinh lặng và trong tinh thần chay tịnh, chúng ta sẽ gặp Chúa và được đón nhận từ Ngài sức mạnh siêu nhiên, giúp chúng ta thắng cám dỗ đang vây bọc tư bề.
Sau cùng, hồi tâm giúp chúng ta hướng về tương lai, với lạc quan hy vọng. Chúng ta tin vào tình thương của Chúa và vào lòng nhân hậu của Ngài. Thiên Chúa là Đấng “không nỡ bẻ gãy cây lau bị giập, không dập tắt tim đèn còn khói” (Is 42,2), có lẽ nào Ngài bỏ rơi chúng ta, khi chúng ta cậy trông phó thác nơi Ngài?
“Điều gì tốt anh em phải đạt cho bằng được, hãy chiến đấu nếu cần. Vậy, anh em đừng sợ cám dỗ, nhưng hãy vui mừng, bởi vì chúng đưa đến thành tựu. Thiên Chúa phù giúp và bảo vệ anh em” (Thánh Barsanuphius)
“Thiên Chúa như một người mẹ ẵm con trên tay bên bờ một vực thẳm. Trong khi bà mẹ tìm cách giữ con cho khỏi nguy hiểm, thì đứa nhỏ lại cố sức để nhào xuống đó”.
Xin Chúa giúp chúng ta sức mạnh để chiến thắng cám dỗ đang bao bọc vây quanh chúng ta, để sống giữa trần gian, mà lương tâm chúng ta vẫn thanh thoát, tâm hồn chúng ta vẫn gắn bó với Chúa trọn đời. Amen.
Xác tín vào sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, là lời mời gọi của Giáo hội trong Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay năm C. Với tất cả những trải nghiệm của cuộc đời xuyên qua mọi thời đại, người ta nhận thực: Thiên Chúa đã nâng đỡ con người. Niềm tin ấy không chỉ là một tư tưởng thầm kín bên trong nhưng còn là lời tuyên xưng dõng dạc bên ngoài. Nhưng những cám dỗ gạt bỏ Thiên Chúa để khẳng định mình vẫn luôn trực chờ mỗi người trong cuộc sống.
Kinh nghiệm về Thiên Chúa
Người Việt ta mang trong mình cảm thức sâu đậm về Trời. Dường như tất cả những gì vượt khả năng, vượt sức tưởng tượng, vượt sức chịu đựng, hay khi buồn, khi vui, khi trống rỗng người ta đều hướng đến Trời với lời than, câu trách, tiếng khen, hay buông thõng một tiếng thở dài ‘ôi giời…’.
Giảng về ‘chân như’, cái uyên nguyên của ‘khổ’, Đức Phật cũng không chỉ ra rõ ràng, mà là: ‘sắc sắc không không’. Cái cảm nhận đã có nhưng giảng về nó thật khó. Giống như Lão Tử đã kinh nghiệm về “Đạo” và thuận theo “Đạo” để hành sự. Nhưng ông cũng phải thốt lên ‘Đạo khả đạo phi thường đạo – Đạo mà có thể nói ra được thì không còn là Đạo nữa’. Đức Khổng Tử đã chẳng bàn về Trời hay Thượng Đế, nhưng cũng như bao người, Trời là cảm nhận đương nhiên nên ông đã thốt lên: ‘chỉ có trời mới thấu hiểu ta’. Bao đời vua trong thiên hạ đã luôn lấy Trời làm căn cơ cho ngai vị của mình để ra sắc chỉ cho toàn dân mà rằng: ‘Phụng thiên thừa vận’.
Với người Do Thái thì cảm nghiệm về Trời cụ thể và sống động, như trong bài đọc thứ nhất miêu tả. Thiên Chúa, hay Đức Chúa Trời mà dân Do Thái tuyên xưng, là Đấng đồng hành với họ trong dòng lịch sử. Trải qua bao thăng trầm của mọi thời cuộc, dân luôn nhận được sự che chở nhãn tiền nơi Đức Chúa Trời. Câu chuyện về sự can thiệp của Trời qua mọi thời đại luôn được dân Do Thái nhắc lại cho con cháu từ đời này qua đời khác.
Cám dỗ gạt bỏ Thiên Chúa
Cảm nhận rõ nét về Thiên Chúa sẽ giúp cho con người dễ dàng xác tín vào Ngài. Nhưng cơn cám dỗ gạt bỏ Thiên Chúa luôn thường trực bên con người từ ngày nó được tạo dựng. Và nó sẽ dễ dàng gục ngã trước con cám dỗ ấy khi mang trong mình sự mù mờ về Thiên Chúa.
Thú vui thể xác, quyền lực thế gian và vinh hoa phú quý ở đời luôn là mồi nhử để kéo con người rời xa Thiên Chúa. Đức Giê-su trong thân phận con người cũng đã không thoát khỏi những bả độc ấy.
Trong bài Tin mừng, ma quỷ đã xuất hiện để cám dỗ Đức Giê-su ba lần với những cung bậc khác nhau. “hãy truyền cho đá này biến thành bánh đi”, khi chấp nhận thực hiện điều phi thường ấy, con người thỏa mãn cái đói khát của xác thịt, nhưng đồng thời khẳng định mình ngang bằng với Thiên Chúa; “nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, thì mọi sự ấy sẽ thuộc về ông!", chấp nhận những vinh hoa phú quý và quyền lực thế gian ấy cũng đồng nghĩa con người rời bỏ Thiên Chúa để đi theo ma quỷ; cuối cùng, ma quỷ đã bày tỏ ý định rõ ràng khi đánh trực diện “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống”, một lời khẳng quyết và thách đố niềm tin của con người: chẳng có Chúa đâu. Hay ít là nó gieo vào lòng người một sự nghi ngờ về Thiên Chúa. Trong tất cả những cám dỗ ấy, Chúa Giê-su luôn đưa ra sự hiện diện nhãn tiền đầy sinh động của Thiên Chúa và sự thần phục Thiên Chúa của mình để từ chối ma quỷ: “Người ta không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng lời Chúa nữa", “Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi”, “Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi!".
Những thế kỷ thời hiện đại này nhân loại đôi lúc cảm thấy hãnh diện về sự bùng nổ của khoa học. Những tưởng ‘Thượng Đế đã chết rồi’ như triết gia Nietzsche đã thốt lên; Con người tưởng mình có thể làm tất cả và mơ về một hình tượng Siêu nhân mà Nietzsche đã mô tả. Bao hình ảnh của siêu nhân đã và đang xuất hiện hàng ngày trên màn ảnh truyền hình khắp thế giới. Đôi lúc đây đó khẩu hiệu được hô lên: ‘Có sức người sỏi đá cũng thành cơm’. Cơn cám dỗ rời xa Thiên Chúa và cậy dựa vào sức của mình đã làm bao người xa ngã, thậm chí kéo theo những lớp người đánh mất chính mình trong tương quan với Trời, với đất, và với đồng loại.
Xác tín vào Thiên Chúa tình thương
Thánh Phaolo là người cảm nhận rõ nét về tình trạng khác biệt giữa người tin vào Chúa Ki-tô và người không tin vào Chúa Ki-tô. Và một sự phân biệt rõ hơn nữa mà trong bài đọc thứ hai ngài nhắc đến: người chỉ tin trong lòng với người tin trong lòng và tuyên xưng ngoài miệng.
Chỉ tin vào Đức Ki-tô mà không dám tuyên xưng ngoài miệng, ấy là đức tin còn mập mờ. Việc tuyên xưng đức tin ngoài miệng bộc lộ một tâm hồn xác tín vào sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời. Việc xác tín vào Thiên Chúa cũng đồng nghĩa với việc sống đời sống tín thác nơi Ngài. Khi ấy, con người biết đặt mình vào đúng vị trí: trên có Trời dưới có đất xung quanh là anh em; biết sống thuận theo ý Trời và nỗ lực canh tác đất đai; biết hòa mình vào khung cảnh của đất trời là sống hài hòa với Trời, với người, và thiên nhiên vậy.
Mùa Chay là thời gian trải nghiệm về tình thương Thiên Chúa, là cơ hội tìm về chính mình để đặt mình vào đúng chỗ. Xác tín vào một Thiên Chúa tình thương là khởi điểm tốt đẹp cho một Mùa Chay thánh. Xác tín ấy sẽ đưa ta đến nguồn ban sự sống. Tĩnh tại để trở về giao hòa với Thiên - Địa – Nhân là lời mời gọi tới hết thảy mọi người. “Bởi lẽ không có sự phân biệt người Do-thái và Hy-lạp: Vì là cùng một Chúa của mọi người, Ngài rộng rãi đối với tất cả mọi người khẩn xin cùng Ngài. Vì mọi kẻ cầu khẩn Danh Ngài, đều được cứu độ” (Rm 10,13).
Lạy Chúa, xin chỉ dẫn con theo lối bước của Ngài, xin giúp con được trở về bên Chúa để được sống với anh em con, được sống chan hòa giữa đất trời gieo vui! Lm. Giuse Lê Danh Tường
Tông huấn Hãy Vui mừng và Hân hoan - Gaudete et Exsultate, về ơn gọi nên thánh trong thế giới hôm nay, được Đức Giáo Hoàng Phanxicô ban hành vào đúng ngày lễ trọng kính thánh Giuse 19.3.2018 và sau đó được giới thiệu rộng rãi với mọi người trong cuộc họp báo vào ngày lễ Truyền tin 9.4.2018. Đây là tông huấn thứ ba của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, sau hai tông huấn Niềm vui Tin mừng (Evangelii Gaudium, 24.11.2013) và Niềm vui Yêu thương (Amoris Laetitia, 19.3.2016). Tông huấn này có 5 chương với chương mở đầu là lời mời gọi nên thánh dành cho tất cả mọi bậc sống, trong đó Đức Thánh Cha cảnh báo về một vài sự hiểu lầm liên quan đến con đường nên thánh.
Theo Đức Thánh Cha Phanxicô, việc nên thánh không phải là cái gì đó cao siêu, khác thường, nhưng được thực hiện trong cuộc sống bình thường, với tất cả những giới hạn và yếu hèn của con người. Ngài cũng đã chỉ ra rất nhiều con đường nên thánh và nhiều mẫu gương thánh thiện trong cuộc sống thường nhật.[1]
Tuy nhiên, con đường nên thánh không hề dễ tí nào, nó được nhắc đến như một cuộc chiến lâu dài chống lại ma quỷ, thủ lãnh của sự dữ, với những chướng ngại do ma quỷ đặt ra.“Đời sống Kitô hữu là một cuộc chiến đấu trường kỳ. Nó đòi hỏi sức mạnh và can đảm để kháng cự những cám dỗ của ma quỷ và để loan báo Tin mừng. Cuộc chiến đấu này cao đẹp bởi vì nó cho phép chúng ta vui mừng mỗi lần Thiên Chúa chiến thắng trong cuộc đời của ta”.[2]
Để có thể chiến thắng trong trận chiến này, Tông huấn mời gọi các tín hữu phải biết tỉnh thức và phân định, không phải để khám phá xem ta có thể kiếm lợi thêm được những gì ở đời này, nhưng để biết được một điều đến từ Chúa Thánh Thần hay đến từ tinh thần thế gian hoặc tinh thần ma quỷ?[3]
1. Ma quỷ là có thật
Đối với Đức Giáo hoàng Phanxicô, ma quỷ không phải là một nhân vật huyền thoại nhưng có thật. “Hãy coi chừng ma quỷ! Ma quỷ có đó! Nó hành động trong bóng tối, thao túng tâm trí và ăn mòn con tim. Ma quỷ đang hiện diện đó! ngay cả trong thế kỷ XXI này. Anh chị em đừng ngây thơ.”[6].“Thật chính xác để tin chắc rằng quyền lực ác độc này đang hiện diện giữa chúng ta, nó cho chúng ta hiểu được sự dữ đôi khi lại có sức tàn phá đến như thế”. Và “chúng ta không nên nghĩ ma quỷ như một huyền thoại, một biểu tượng, một vai diễn, một nhân vật được phóng đại hay một ý tưởng. Sai lầm này khiến chúng ta mất cảnh giác, bất cẩn, không đề phòng và kết cuộc dễ bị tấn công hơn.”[7]
Thật vậy, ma quỷ là có thật, và chúng ta đang chứng kiến sự hủy hoại đến mức kinh khủng của nó đang diễn ra từng ngày trong thế giới hôm nay. “Đã quá đủ khi mở tờ tạp chí, chúng ta thấy sự dữ đang hiện diện xung quanh chúng ta, “thần dữ” đang hoạt động tích cực”.[8] Truyền thống Kinh thánh và Giáo lý Hội thánh Công giáo cho chúng ta thấy sự hiện diện rõ ràng và những hoạt động đầy mưu mô của ma quỷ trong thế gian.[9] “Ma quỷ không nhất thiết phải chiếm hữu chúng ta, nó đầu độc chúng ta bằng nọc độc của hận thù, ghen ghét, thất vọng và trụy lạc”.[10] Khi chúng ta khước từ mọi thứ bảo vệ mình, ma quỷ sẽ tấn công để phá hủy cuộc sống cá nhân, gia đình và cộng đoàn của chúng ta. “Chúng như sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr 5,8).[11]
2. Cám dỗ của ma quỷ
Trong bài giảng sáng thứ sáu ngày 13/10/2016, Đức Giáo hoàng Phanxicô nói đến các hành động cám dỗ của ma quỷ, rất ngọt ngào và quyến rũ; nó xâm nhập vào linh hồn con người rất nhẹ nhàng: “gõ cửa, xin phép, bấm chuông, rất lịch sự”; nó bước vào trong thinh lặng, bắt đầu trở thành một phần của đời sống. Với ý tưởng và những thúc đẩy của nó, nó giúp con người sống tốt hơn, và từ đó, bước vào đời sống, tận bên trong, bắt đầu thay đổi họ, nhưng âm thầm không gây ra tiếng ồn. Ma quỷ từ từ thay đổi những tiêu chuẩn của chúng ta, đưa chúng ta đến tình trạng thế tục; nó ngụy trang theo cách hành động của chúng ta và hầu như chúng ta không thể nhận ra điều đó.[13] Ma quỷ xứng đáng với tên gọi “là cha đẻ của sự gian dối.”
Ma quỷ không bao giờ biến mất vĩnh viễn, cho đến ngày tận thế, nó luôn tìm mọi cách để chống lại chúng ta. Mục tiêu của nó là làm cho chúng ta mất niềm hy vọng, hằng ngày gieo hạt giống bi quan và cay đắng trong tâm hồn chúng ta; nó cũng là kẻ gieo cỏ lùng để tạo nên sự chia rẽ. “Có một cám dỗ mà quỷ rất thích: cám dỗ chống sự hiệp nhất […] tạo ra chiến tranh nội bộ, một loại chiến tranh dân sự và tinh thần”… Satan là tên khuyến dụ, người đặt bẫy và người quyến rũ: “Nó khéo léo, trình bày mọi chuyện theo kiểu những chuyện này là tốt, nhưng chủ ý của nó là muốn hủy hoại tất cả.”[14]
Hành động của ma quỷ thể hiện chủ yếu trong “tinh thần bại hoại”, đó là một loại chất độc tồn tại nơi con người cốt yếu để làm u mê các giác quan thiêng liêng. Tinh thần bại hoại được diễn tả trong sự uể oải và buồn bã; trong tăm tối của cái nhìn thiêng liêng, không còn khả năng để thấy sự dữ cũng như không thể chống lại nó. Hay nói cách khác, tinh thần bại hoại là sự trì trệ và thất bại không thể tránh được trong cuộc chiến hướng đến sự thánh thiện.“Sự hủ bại tinh thần còn tồi tệ hơn việc một người sa ngã phạm tội, vì đó là một thứ thoải mái và tự mãn mù lòa, chuyện gì cũng coi như có thể chấp nhận được: lừa dối, phỉ báng, ích kỷ và các hình thức tìm mình khác rất tinh vi, vì “chính Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng!”[15]. Không còn nghi ngờ gì nữa vì cuộc sống chúng ta phải đối mặt với cám dỗ của ma quỷ và trong nhiều trường hợp chúng ta ngập ngừng trước những thử thách. Lời Chúa rõ ràng mời gọi ta “hãy đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ” (Ep 6,11) và “dập tắt mọi tên lửa của Ác Thần” (Ep 6,16).[16]
Chúng ta đang sống trong một thế giới chất đầy những khủng hoảng về đời sống đức tin và luân lý, cùng với những học thuyết lọc lừa, dối trá, khiến lắm người ngây ngất trong lầm lạc, đặc biệt “nhiều người trẻ có những nỗi lo sợ và có cảm tưởng mình phải sống khác với những gì trong thực tế, vì thế họ thấy cần phải thích ứng với kiểu mẫu giả tạo, sửa sang hình ảnh của mình, nấp sau những mặt nạ và căn tính giả tạo”.[49] Đối mặt với những cám dỗ của “chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa duy linh, khép mình trong vỏ sò, nghiện ngập, cố chấp, rập khuôn, giáo điều, sống trong quá khứ, bi quan, nấp dưới các luật lệ và quy tắc”[50]; đối mặt với “một cảm thức hoang mang, đôi khi bạo lực, gây phân tán và suy nhược; tính chất tiêu cực và bi lụy; tính tự mãn sinh ra từ chủ nghĩa tiêu thụ; xu hướng cá nhân chủ nghĩa; và tất cả những hình thức linh đạo thay thế chẳng liên quan gì tới Thiên Chúa và đang chi phối khung cảnh tôn giáo hiện nay”[51].
3. Phương thế chiến thắng cám dỗ
Sách Giáo lý Hội thánh bảo đảm rằng: “Sức mạnh của satan không phải là vô hạn. Nó chỉ là một thụ tạo, có sức mạnh vì là thuần linh nhưng vẫn là thụ tạo: nó không thể ngăn chặn công trình xây dựng Vương Triều của Thiên Chúa.”[12]
Đức Giáo hoàng Phanxicô muốn mọi kitô hữu phải biết phân định và bảo vệ tâm hồn mình để phân biệt đâu là những gì đến từ Thiên Chúa và đâu là những gì xuất phát từ các tiên tri giả. Thật vậy, phân định là phương tiện nhằm giúp họ tìm ra những cách thế vốn có để đáp trả Thiên Chúa và lớn lên giữa các giới hạn của họ.[52]
Để đạt được điều đó điều cần thiết nơi mỗi người tín hữu là biết ở lại trong Chúa Giêsu bằng cách mở cửa lòng mình cho Ngài. Nhất là noi gương Chúa Giêsu, chúng ta phải biết chống cự lại những cơn cám dỗ. Muốn chống lại, phải có những phương thế để có thể chiến thắng.
a. Lời Chúa
Ma qủy cám dỗ Chúa Giêsu từ những điều thường nhất là cơm bánh hàng ngày. Chúa nhịn ăn 40 đêm ngày, đói thì cần ăn, đó là điều rất đổi bình thường.Ma qủy lợi dụng điều đó để cám dỗ, sau đó mới cám dỗ những những điều mạnh hơn là thử thách Thiên Chúa và chống lại Ngài. Chúa Giêsu dùng Lời Chúa để chiến thắng.
Gương của Chúa Giêsu được Tin Mừng Thánh Luca kể rõ: mỗi lần ma quỷ đưa ra một chước cám dỗ thì Ngài lại lấy một lời của Kinh Thánh mà đẩy lui chước cám dỗ ấy:
- Có lời chép rằng: người ta không sống bằng cơm bánh mà còn bằng lời của Thiên Chúa nữa. (Lc 4,5)
- Có lời chép rằng: ngươi phải thờ lạy Chuá là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người. (Lc 4,8)
- Có lời chép rằng: ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi. (Lc 4, 11).
“Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ". Satan tạm lánh vào bóng tối, khi có thời cơ thuận tiện sẽ quay lại tiếp tục tấn công. Có lần, Satan dùng miệng lưỡi của Phêrô để cám dỗ Chúa đừng lên Giêrusalem chịu khổ nạn. Chúa quay lại quát nạt: “Satan, hãy lui ra đằng sau, đừng gây cớ cho Ta vấp phạm”. Thời cơ ma quỷ chờ đợi chính là lúc Chúa Giêsu trải qua cuộc Khổ Nạn. Trong vườn Giêtsêmani, khi đối diện với cái chết đang cận kề, Chúa Giêsu không khỏi sợ hãi đến nổi “mồ hôi đổ ra như máu”. Người đã thân thưa cùng Chúa Cha đến hai lần: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26, 39b); “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha” (Mt 26, 42b). Cao điểm là khi Chúa bị treo trên thập giá, Satan dùng miệng lưỡi kẻ qua người lại để cám dỗ Chúa xuống khỏi thập giá: “Ông Kitô vua Israel, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi để chúng ta thấy và tin”. Trong suốt cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu đã phải chiến đấu chống lại nhiều cơn cám dỗ. Người thực sự là Thiên Chúa nhưng đồng thời Người cũng hoàn toàn là con người nên "Người cũng phải chịu trăm chiều thử thách y như ta" (Dt 4,15). Chúa Giêsu đã chiến thắng tất cả. Không một cám dỗ, không một thách thức nào có thể khiến Người lùi bước.
Lời Chúa là sức mạnh tâm linh, là lẽ sống thần linh và là lời ban sự sống. Đọc và suy gẫm Lời Chúa sẽ đem lại cho chúng ta sức mạnh để chiến thắng tội lỗi.
b. Ăn chay cầu nguyện
Ăn chay cầu nguyện giúp con người chế ngự bản thân.Tội lỗi của con người là do không biết chế ngự bản thân. Ăn chay cầu nguyện giúp chúng ta biết thanh luyện con người mình, chế ngự bản thân, hãm dẹp dục vọng. 40 ngày Mùa Chay nhắc nhớ về 40 ngày đêm chay tịnh của Chúa Giêsu trong hoang địa, nhắc lại 40 năm dân Do thái lưu đày trong sa mạc chuẩn bị về Đất hứa. Mùa Chay là mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng, giúp chúng ta trở nên người thiện chiến, biết chế ngự và làm chủ bản thân.
Cầu nguyện là nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Khi vào hoang địa, khi bị ma quỷ cám dỗ, Chúa Giêsu cần đến sự nâng đỡ của Chúa Thánh Thần. Người đã dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần và đã chiến thắng cám dỗ.
Khi chúng ta lâm vào những cuộc thử thách, phải đối diện với những mưu chước của ma quỷ, rất cần ơn Chúa Thánh Thần trợ lực. Chúa Giêsu mà còn cần đến Chúa Thánh Thần nữa, thì huống hồ là chúng ta!
Cần phải cầu nguyện (Lc 22,40; Cv 2,42; GLGH #2612,2742). Nhờ cầu nguyện, Chúa Giêsu đã không cô đơn một mình, nhưng “được Thánh Thần hướng dẫn” (Mt 4,1). Nhờ cầu nguyện, chúng ta được liên kết với sức mạnh của Thánh Thần và với Các Thánh trên trời. Vai trò của Chúa Thánh Thần thật quan trọng trong đời sống của chúng ta. Những lúc bị cám dỗ, những khi sống trong cô đơn, buồn chán và thất vọng…hãy cậy trông và khẩn cầu với Chúa Thánh Thần xin ơn phù trợ. Chính Chúa Giêsu đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy các con mọi điều” (Ga 14,26).
Chúng ta đang sống trong một xã hội có quá nhiều cám dỗ. Một xã hội đầy dẫy các tệ nạn và có nhiều lối sống buông thả. Đó là môi trường là cơ hội thuận tiện cho ma quỷ ẩn núp và tấn công. Cám dỗ ngày càng nhiều và ngày càng tinh vi dưới muôn hình dáng vẻ. Vì thế, lời dặn dò của Chúa Giêsu ngày càng khẩn thiết: "Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ". Cơn cám dỗ độc hại nhất mà con người cần phải luôn tỉnh thức canh phòng và trường kỳ chiến đấu bằng mọi cách, chính là lòng ích kỷ, quan niệm sống hẹp hòi, thiển cận của chính mình, chỉ biết có mình mà quên kẻ khác, chỉ biết thu vén lợi ích cho riêng mình mà quên quyền lợi kẻ khác.
Để tỉnh thức và cầu nguyện, chúng ta cần sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và ánh sáng soi dẫn của Lời Chúa, thực thi những việc đạo đức của Mùa Chay.
Chúa Giêsu đã từng căn dặn các Tông Đồ: "Hãy tỉnh thức". Tỉnh thức để nhận ra mưu mô của ma quỷ, tỉnh thức trước những lôi cuốn của thế gian, tỉnh thức trước những yếu đuối của con người xác thịt.
Mùa Chay là thời gian đặc biệt để sám hối canh tân bản thân dưới ánh sáng Lời Chúa và thực hành ăn chay cầu nguyện theo gương Chúa Giêsu, nhờ đó mỗi người chúng ta sống đẹp lòng Thiên Chúa hàng ngày.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An ------------------------------------ [1] Tông huấn Gaudete et Exsultate, số 7 và 14 [2] Sđd, số 158 [3] Sđd, số 166 và 174 [4] Sđd, số 1 [5] Giáo Hoàng Phanxicô, Udienza Generale, Vatican 13/4/2011. [6] x.Giáo Hoàng Phanxicô, Ma quỷ có thực. Bài giảng ngày 11/4/ 2014. [7] Tông huấn Gaudete et Exsultate, số 160 [8] Giáo Hoàng Phanxicô, Udienza Generale, 6/12/2013 [9] x.GLCG số 391-395 [10] Tông huấn Gaudete et Exsultate, số 160 [11] Sđd, số 161 [12] GLCG số 395 [13] Giáo Hoàng Phanxicô, Tỉnh thức để chống lại sự trần tục, Vatican 13/10/2017. [14] Gelsomino Del Guercio, Đức Giáo hoàng nghĩ gì về ma quỷ, 28/10/2017 [15]Tông huấn Gaudete et Exsultate, số 165 [16] Sđd, số 162 [49] Giáo Hoàng Phanxicô, Thông Điệp Ngày Quốc Tế Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 33. G. Trần Đức Anh OP chuyển ngữ. [50] Tông huấn Gaudete et Exsultate, số 134. [51] Sđd, số 111 [52] Tông huấn Amoris Laetitia, số 305
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật I Mùa Chay năm C này tập trung vào một chủ đề: Đức Tin.
Đnl 26: 4-10
Sách Đệ Nhị Luật mời gọi dân Do thái khi dâng của lễ đầu mùa lên cho Đức Chúa phải kèm theo lời tuyên xưng đức tin ngỏ hầu họ biết nhận ra rằng Đức Chúa không chỉ là Chủ Tể Lịch Sử, Đấng đã hướng dẫn vận mệnh của họ và đã dẫn dắt họ đến tận miền đất phì nhiêu này; nhưng cũng chính một mình Người chứ không một vị thần Ba-an nào, đã ban cho họ sản phẩm thiên nhiên một cách quảng đại.
Rm 10: 8-13
Trong thư gởi cho các tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô công bố rằng người ta không thể tin vào Thiên Chúa mà không tin vào Đức Ki-tô, bởi vì Thiên Chúa là tác giả ơn cứu độ được thực hiện ở nơi Đức Giê-su Ki-tô. Kinh Thánh đã loan báo ơn cứu độ phổ quát này: mọi người, người Do thái cũng như lương dân, đều được mời gọi dự phần vào ơn cứu độ này.
Lc 4: 1-13
Tin Mừng Lu-ca thuật lại câu chuyện Chúa Giê-su chịu các chước cám dỗ trong hoang địa. Chúa Giê-su, trung thành với kế hoạch của Chúa Cha, đã đẩy lùi Tên Cám Dỗ, bằng cách trích dẫn Kinh Thánh: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.
BÀI ĐỌC I (Đnl 26: 4-10)
Sách Đệ Nhị Luật là cuốn sách thứ năm và cuốn sách sau cùng của bộ Ngũ Thư. Nhan đề sách có nghĩa “luật thứ hai” (từ ngữ căn Hy ngữ: “deuteros”: thứ hai, và “nomos”: luật). Quả thật, sách này lập lại luật Mô-sê, nhưng được thích ứng vào hoàn cảnh dân chúng định cư lập nghiệp ở đất Ca-na-an. Về phương diện văn chương cũng như thần học, qua hư cấu, tác giả để cho ông Mô-sê nói thay cho mình.
1. Của lễ đầu mùa
Của lễ đầu mùa là một nghĩa vụ được ghi nhận nhiều lần trong luật Mô-sê: “Của đầu mùa tốt nhất của đất đai ngươi, ngươi phải đem đến nhà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi” (Xh 23: 19; 34: 22-26) hay “Khi các ngươi vào đất Ta ban cho các ngươi, và gặt lúa ở đó, thì phải đem đến cho tư tế một bó lúa, sản phẩm đầu mùa gặt hái của các ngươi” (Lv 23: 10).
2. Những thử thách dân Do thái đã kinh qua
Ấy vậy, dân Ít-ra-en bị thử thách khi bắt chước dân bản địa, dân Ca-na-an, bằng cách tiến dâng của lễ của mình lên thần Ba-an, vị thần ban phì nhiều của dân bản địa, trên những nơi cao, và ca ngợi tấm lòng quảng đại của thần.
Ngôn sứ Hô-sê (thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên) lên án những thực hành này mà ngôn sứ sánh ví với tội ngoại tình của dân Chúa chọn: “Mẹ chúng quả thật đã làm điếm, kẻ mang thai chúng đã thất tiết rồi, vì nó đã nói: ‘Tôi đi theo các tình nhân của tôi, chính họ cho tôi bánh và nước, cho len, cho vải, cho dầu ăn, cho thức uống” (Hs 2: 7). Và vị ngôn sứ để cho Đức Chúa nói lên những lời trách cứ: “Nó đâu biết rằng chính Ta đã ban cho nó lúa mì, rượu mới và dầu tươi, cũng chính Ta đã tặng cho nó bạc vàng nhiều vô kể, vậy mà chúng đem chế tạo đồ dâng cúng thần Ba-an” (Hs 2: 10).
3. Lời tuyên tín
Sách Đệ Nhị Luật thường vang dội giáo huấn của các ngôn sứ, nhất là các ngôn sứ đã chiến đấu chống lại những tội bội giáo của vương quốc Miền Bắc chẳng hạn như ngôn sứ Hô-sê. Vì thế, tác giả đòi hỏi dân Ít-ra-en phải đưa vào trong nghi lễ dâng của đầu mùa của mình lời tuyên xưng đức tin. Dân phải biết nhận ra rằng Đức Chúa không chỉ là Chủ Tể Lịch Sử, Ngài đã biến đổi số phận của họ; nhưng cũng chính Ngài, Chúa của thiên nhiên, đã ban tặng cho dân nguồn phú túc.
BÀI ĐỌC II (Rm 10: 8-13)
Thánh Phao-lô viết thư này gởi cho các tín hữu Rô-ma vào những ngày sau cùng của thánh nhân ở thành Cô-rin-tô vào mùa đông năm 56-57; vào lúc đó, thánh nhân nghĩ đến cuộc hành trình đến thành đô Rô-ma để viếng thăm cộng đoàn Ki-tô hữu Rô-ma trước khi đi loan báo Tin Mừng ở Tây Ban Nha. Dự định của ngài sẽ được thực hiện ngoài dự liệu của thánh nhân: ngài sẽ đến Rô-ma trong cảnh tù đày.
1. Tầm quan trọng của thư Rô-ma
Thư gởi tín hữu Rô-ma là bức thư dài nhất trong các thư của thánh Phao-lô và quan trọng nhất về phương diện đạo lý. Chủ đề trọng tâm là vai trò đức tin trong đời sống người Ki-tô hữu. Đoạn văn mà chúng ta đọc được trích từ phân đoạn thống thiết ở đó thánh Phao-lô buồn bã gợi lên sự cứng tin của dân Ít-ra-en, đồng bào của ngài (từ ch. 9 đến ch. 11).
Làm thế nào dẫn đưa đồng bào huyết thống của mình đến đức tin, ngoài việc chỉ cho họ thấy rằng sứ điệp Tin Mừng đã được Kinh Thánh loan báo? Vì thế, thánh nhân sẽ dựa lời kêu gọi của mình trên một loạt những lời trích dẫn Kinh Thánh.
2. Ngôi vị hóa Lời Thiên Chúa
Trước hết thánh Phao-lô trích dẫn một bản văn Đệ Nhị Luật: “Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng” (Đnl 30: 14). Bản văn này nhằm chứng thực rằng bổn phận của người tín hữu là phải “yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết tâm hồn của mình” và thực thi mọi huấn lệnh Lề Luật. Lề Luật này không vượt quá sức mình; chính Thiên Chúa đến trợ giúp bằng cách nội tâm hóa Lời của Người, tức là, ghi khắc Lời Người vào trong tâm khảm của người tín hữu.
Đối với thánh Phao-lô, việc ngôi vị hóa Lời này xem ra như một linh cảm về Ngôi Lời nhập thể. Bản văn này thực sự sẽ cấu thành một trong những điểm tựa thần học về Ngôi Lời, cùng với vài đoạn văn của các sách minh triết Cựu Ước. Lời Thiên Chúa này được tiếp tục ở nơi sứ điệp Tin Mừng; đó cũng là một Lời; Lời hiện diện trong “lòng” người Ki-tô hữu, được bày tỏ ở nơi toàn bộ tâm tư tình cảm và luân lý. Người Ki-tô hữu phải công bố Lời hết sức mình, bằng cách tuyên xưng trên môi miệng mình Đức Giê-su là Chúa, cùng chung một tước hiệu với Đức Chúa, và quyền tối thượng của Ngài được bày tỏ một cách rực rỡ qua cuộc Phục Sinh của Ngài. Đó là niềm tin vào sự sống lại, đó là lời tuyên tín cốt yếu.
3. Đặt trọn niềm tin vào chỉ một mình Thiên Chúa
Thánh Phao-lô tiếp tục chứng minh bằng cách trích dẫn một bản văn I-sai-a: “Mọi kẻ tin vào Người sẽ không phải thất vọng” (Is 9: 33); vị ngôn sứ ngỏ lời với các vị thủ lãnh vương quốc Giu-đa, vào thời điểm Giê-ru-sa-lem lâm vào cơn nguy khốn cùng cực nhất. Những vị lãnh tụ này chỉ biết nghĩ đến việc tìm kiếm sự trợ giúp từ phía quyền lực dân ngoại. Ngôn sứ I-sai-a cho họ hiểu rằng họ phải đặt trọn niềm tin vào chỉ một mình Đức Chúa.
4. Ơn cứu độ được ban cho hết mọi người
Không có bất kỳ một khác biệt nào giữa người Do thái và lương dân: ơn cứu độ được ban cho hết mọi người. Dân Ít-ra-en phải biết chấp nhận tính phổ quát của ơn cứu độ này, vốn đã được Kinh Thánh loan báo rồi. Thánh Phao-lô tiếp tục trích dẫn lời ngôn sứ Giô-en: “Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát” (Ge 2: 32). Bản văn này gần với viễn cảnh cánh chung. Viễn cảnh này xem ra chỉ liên quan đến các tín hữu Ít-ra-en, nhưng nó toan tính ban cho những câu này một tầm mức phổ quát. Thánh Phao-lô không là người duy nhất bày tỏ điều này. Thánh Lu-ca trong sách Công vụ Tông Đồ đặt trên môi miệng thánh Phê-rô cùng một sấm ngôn này, ngay từ ngày lễ Ngũ Tuần (Cv 2: 17-21).
Chúng ta ghi nhận rằng thánh Phao-lô bắt đầu thời đại của mình khi gợi lên tước hiệu “Chúa” (“Kurios”) được ban cho Đức Giê-su: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ” (10: 9) và thánh nhân kết thúc thời đại này với cùng một tước hiệu xưa kia được dành riêng cho một mình Đức Chúa: “Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát” (10: 13). Đây là phương pháp văn chương “đóng khung” hay “bao hàm” rất quen thuộc đối với thánh Phao-lô, qua phương pháp này thánh nhân công bố rằng người ta không còn có thể tin vào Thiên Chúa mà không tin vào Đức Ki-tô. Nét đặc trưng của Ki-tô giáo là liên kết mật thiết với con người của Chúa Ki-tô khi tuyên xưng Thần Tính của Ngài.
Lời tuyên tín này chắc chắn gây khó khăn cho những anh em đồng đạo của thánh nhân, thánh Phao-lô biết rất rõ điều này. Nhưng Kinh Thánh loan báo điều này rất rõ đến mức dân Ít-ra-en phải sáng suốt mà nhận ra. Đây là tất cả niềm hy vọng của thánh nhân.
TIN MỪNG (Lc 4: 1-13)
Câu chuyện Chúa Giê-su chịu cám dỗ trong hoang địa được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại, thánh Mác-cô tường thuật ngắn nhất, trong khi thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca tường thuật dài hơn bằng cách kể ra những chước cám dỗ mà Chúa Giê-su kinh qua. Hai bài tường thuật của Mát-thêu và Lu-ca có thể được đặt đối xứng với nhau, nhờ đó nêu bật vài điểm khác biệt. Vào năm phụng vụ này, Năm C, chúng ta đọc câu chuyện theo Tin Mừng Lu-ca.
Câu chuyện Chúa Giê-su chịu cám dỗ được liên kết với câu chuyện Chúa Giê-su rút lui vào hoang địa, biến cố mà chúng ta phải khảo sát trước tiên.
1. Chúa Giê-su rút lui vào hoang địa (4: 1-2)
Sau khi Chúa Giê-su đón nhận phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả, Ngài rời bỏ bờ sông Gio-đan để đi sâu vào hoang địa, đây là hoang địa Giu-đê, gần Biển Chết, nơi dòng sông Gio-đan đổ vào. Đây cốt yếu là tác động của Chúa Thánh Thần: “Đức Giê-su được đầy Thánh Thần”. Thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô cũng nhận ra Chúa Thánh Thần là tác nhân tích cực của quyết định này, tuy nhiên thánh Lu-ca còn tinh tế hơn khi nói thêm: “Người được Chúa Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa”, tức là, Đức Giê-su tuân theo ý muốn của Chúa Thánh Thần, Đấng hằng ở trong Ngài. Chúng ta biết rằng thánh Lu-ca là thánh ký quan tâm nhất đến sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, cả trong sách Tin Mừng của mình lẫn trong sách Công Vụ Tông Đồ; ở đây thánh ký biết nêu lên mối bận lòng của mình một cách tinh tế.
A- A-đam mới
Một nét đặc trưng khác của Tin Mừng Lu-ca, đó là thánh ký đặt câu chuyện Chúa Giê-su chịu cám dỗ ngay sau gia phả của Chúa Ki-tô trong đó thánh nhân không chỉ lên đến tổ phụ Áp-ra-ham như thánh Mát-thêu, nhưng đến tận nguyên tổ “A-đam là con Thiên Chúa” (Lc 3: 38). Như vậy, ngay sau khi nêu lên nguyên tổ A-đam, câu chuyện cám dỗ mới bắt đầu. Điều này muốn nói rằng Chúa Giê-su là A-đam mới; khi chiến thắng Ác Thần, Ngài trở thành thủ lãnh của nhân loại tái sinh.
B- Mô-sê mới
Chúa Giê-su chuẩn bị sứ mạng của mình trong chiêm niệm, cầu nguyện và chay tịnh, những phương tiện mà những ai mong ước được kết hiệp với Thiên Chúa luôn luôn sử dụng. Ngài chuẩn bị suốt bốn mươi ngày đêm, như ông Mô-sê trong sa mạc Xi-nai, trước khi đón nhận hai bảng Thập Giới (Xh 24: 18 và Đnl 9: 9), cũng như ngôn sứ Ê-li-a, sau khi đã được thần lương bồi dưỡng, đi suốt bốn mươi ngày đêm tới núi Khô-rếp để gặp gỡ Thiên Chúa (1V 19: 8). Quả thật, trong tình tiết này Đức Giê-su xuất hiện như một Mô-sê mới. Như xưa kia, ông Mô-sê xuống núi với những lời Giao Ước, nền tảng của dân Ít-ra-en là dân Chúa chọn, Chúa Giê-su sẽ rời hoang địa để thiết lập một Giao Ước mới và hình thành nên một dân Thiên Chúa mới.
C- Dân Ít-ra-en mới
Con số “bốn mươi” cũng gợi lên bốn mươi năm dân Do thái lữ hành trong hoang địa. Trong suốt những năm tháng đó họ đã kinh qua những chước cám dỗ, điều này gợi nhớ những chước cám dỗ của Chúa Giê-su. Tuy nhiên, trong khi dân Ít-ra-en thất bại, thì Chúa Giê-su lại chiến thắng. Vì thế, những cám dỗ mà Chúa Giê-su trải qua suốt bốn mươi ngày đêm trong hoang địa là một cách thức khẳng định sự liên đới của Ngài với dân Ngài. Chúa Giê-su tóm gọn ở nơi con người của Ngài lịch sử của dân tộc Ngài. Từ nay, Đức Giê-su hiện thân dân Ít-ra-en mới, dân được cung cấp mọi phương thế để chiến thắng mọi thế lực của sự dữ.
2. Ý nghĩa của những chước cám dỗ (4: 3-12)
Sự kiện Chúa Giê-su chịu cám dỗ được truyền thống chứng thực rất mạnh mẽ; tuy nhiên, không có ai được diễm phúc chứng kiến biến cố này. Vì thế, người ta phải giả sử rằng Chúa Giê-su đã kể lại sự kiện này cho các môn đệ Ngài. Người ta muốn định vị lời tâm sự này sau lời tuyên tín của thánh Phê-rô ở Xê-da-rê, khi Chúa Giê-su nhận ra rằng các Tông Đồ, thánh Phê-rô là người đầu tiên, vẫn cứ bám chặc vào một quan niệm sai lạc về Đấng Mê-si-a toàn thắng mà không kinh qua cuộc Thương Khó và Tử Nạn. Vì thế, Ngài trách cứ nặng lời với thánh Phê-rô mà chúng ta nghe như âm vang câu chuyện cám dỗ này: “Xa-tan! Lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8: 33).
Bài học đầu tiên của việc Chúa Giê-su chịu các chước cám dỗ chắc chắn là bài học về sự liên đới của Ngài với nhân loại. Khi chấp nhận sống kiếp người, Chúa Giê-su đã muốn đảm nhận ở nơi bản thân mình những cảnh đời nô lệ, yếu đuối, đau khổ về phương diện luân lý cũng như thể chất. Vào lúc chịu phép rửa, tiếng phán từ trời đã nhắc nhở Ngài, không chỉ địa vị Con Thiên Chúa, nhưng còn ơn gọi làm Người Tôi Trung của Ngài. Chúa Giê-su biết Kinh Thánh đã loan báo những gì liên quan đến dung mạo người tôi trung này; Ngài biết con đường nào Ngài phải đi qua; Ngài chấp nhận, nhưng về phương diện phàm nhân, Ngài cảm thấy xao xuyến.
Trước khi bắt đầu sứ mạng của mình, Đức Giê-su bị tác động mạnh bởi nỗi sợ hãi và xao xuyến, và xuất hiện trước mắt Ngài những hình ảnh quyến rủ hơn, đó là chuyện thường tình. Tình tiết hoang địa đối xứng với tình tiết vườn Ô-liu. Nỗi cô độc của hoang địa tương ứng với nỗi cô độc của vườn Ô-liu; viễn cảnh về một sứ mạng gian nan tương ứng với viễn cảnh bi thảm hơn của cuộc Tử Nạn gần kề. Cơn cám dỗ đã có thể mặc lấy hình thức của cuộc tranh luận nội tâm, diễn ra suốt cuộc rút lui vào hoang địa này, như thánh Mác-cô và thánh Lu-ca gợi lên – điều này không có gì là không thật cả - đoạn đạt đến cực điểm, vì thể chất yếu nhược của Đức Giê-su sau khi đã chay tịnh lâu ngày.
Chính cực điểm này mà các thánh Lu-ca muốn mô tả, khi trình bày cuộc đối đầu mầu nhiệm của Đức Giê-su với những chước cám dỗ. Hình thức văn chương của bài tường thuật rất gần với loại chú giải kinh sư (“midrash”) và văn chương khải huyền Do thái. Ba chước cám dỗ nêu bật những thái độ mà Chúa Giê-su đã từ chối và đồng thời cũng là những chọn lựa mà Ngài đã tự nguyện thực hiện trong sự vâng phục ý định của Chúa Cha.
A- Đấng Cứu Thế liên đới với con người (4: 3-4)
Sau những ngày chay tịnh, Chúa Giê-su cảm thấy đói. Chính vào lúc đó, quỷ gợi lên cho Ngài biến đá hoang địa thành bánh để thử thách quyền năng của Đấng được gọi là “Con Thiên Chúa”, tước hiệu đã được công bố vào lúc Ngài chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả. Quỷ muốn hướng quyền năng này về những của cải thuộc trật tự vật chất. Trong cảnh thiếu thốn của hoang địa, tư tưởng đã có thể đến với Chúa Giê-su là sử dụng quyền năng của mình trên những sự vật vào những mục đích vị kỷ. Ngài đã bác bỏ điều đó. Đức Giê-su sẽ không bao giờ sử dụng quyền năng này vì mình nhưng vì tha nhân. Các phép lạ Ngài thực hiện sẽ là những dấu chỉ vén mở những của cải tinh thần mà Ngài đem đến cho con người một cách phong phú.
Xưa kia khi dân Do thái lâm vào hoàn cảnh đói trong hoang địa, họ đã nhận được ân ban bánh man-na. Khi đó ông Mô-sê đã cảnh giác họ coi chừng thói tham lam của cải vật chất: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Đnl 8: 3). Cũng chính lời này, Chúa Giê-su đáp trả Xa-tan. Chúng ta lưu ý rằng trong câu trả lời này, Chúa Giê-su tự đồng hóa mình với loài người. Một ngày kia, Ngài cũng lâm vào cảnh đói. Các môn đệ đem thức ăn đến cho Ngài. Ngài sẽ trả lời: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết… Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4: 32-33).
B- Đấng Cứu Thế thống trị (4: 5-8)
Quỷ đưa Ngài “lên cao”, chắc chắn đây là một trong những nơi siêu phàm, như trong các thị kiến của các sách khải huyền. Theo bước phát triển của những chước cám dỗ, quỷ không còn cám dỗ về của cải vật chất, nhưng về quyền lực thống trị: “Tôi sẽ cho ông quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này…”.
Chúa Giê-su biết rõ rằng dân Ngài đang sống trong niềm hy vọng về một Đấng Cứu Thế, Đấng ấy sẽ dành lại nền độc lập chính trị cho họ, phục hưng vị thế và quyền lực của họ. Trong những lúc trầm tư một mình, Chúa Giê-su đã có thể ước tính những lợi ích mà Đấng Mê-si-a giải phóng có thể đem đến cho dân Ngài, đáp ứng những ước vọng của họ. Như vậy, việc mở rộng triều đại Thiên Chúa thật là thuận lợi biết bao! Tuy nhiên, chủ nghĩa cứu thế này, Chúa Giê-su đã luôn luôn từ chối, Ngài lẫn tránh những ước mong của đám đông, khi giải thích rằng vương quốc của Ngài thuộc trật tự tinh thần. Việc Xa-tan đề nghị quyền thống trị thế giới phù hợp với não trạng của thời đại. Việc đồng hóa những quyền lực chính trị với những thế lực Ác Thần càng dễ dàng hơn, vì những quốc gia thống trị là những quốc gia thuộc thế giới ngoại giáo.
Trước lời đề nghị của quỷ: “Nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông”, Chúa Giê-su đáp trả bằng những lời mà ông Mô-sê đã nhắc nhở dân Do thái trong bối cảnh dân bị thử thách cúng tế thần Ba-an của dân Ca-na-an: “Chính Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Đấng anh em phải kính sợ; chính Người là Đấng anh em phải phụng thờ” (Đnl 6: 13). Chỉ sau khi đã trải qua Tử Nạn và Phục Sinh, Chúa Giê-su sẽ lãnh nhận quyền Chủ Tể hoàn vũ, Ngài sẽ nắm trọn chủ quyền này từ Cha Ngài chứ không từ ai khác.
C- Đấng Cứu Thế siêu phàm (4: 9-12)
Theo nhịp độ tăng dần của thánh Lu-ca, chước cám dỗ mạnh nhất mà Chúa Giê-su phải đương đầu và chế ngự, đó là muốn nâng đỡ công việc cứu thế của Ngài bằng những công việc phi thường.
Quỷ đặt Chúa Giê-su trên nóc Đền Thờ. Từ nóc Đền Thờ đến bức tường thành xung quanh khoảng bốn mươi mét. Quỷ nói với Ngài: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng dậy mà gieo mình xuống đi”. Để thuyết phục Ngài, quỷ khôn khéo trích dẫn Tv 91: 11-12, theo đó người công chính được Đức Chúa cho các thiên sứ đến phù trợ. Khi trích dẫn Thánh Vịnh này, quỷ đề nghị với Chúa Giê-su một hành động khêu khích buộc Thiên Chúa phải can thiệp. Chúa Giê-su đáp lại rằng Ngài sẽ không xin Thiên Chúa bảo vệ che chở Ngài một cách ngông cuồng đến mức làm cho Ngài khác với mọi người. Kể từ lúc đó, Ngài làm cho hiểu rằng Ngài sẽ không tìm cách thoát khỏi cái chết.
Ở nơi cơn cám dỗ cuối cùng, chúng ta nhận ra lỗi phạm của Ít-ra-en trong hoang địa, khi họ đòi hỏi Thiên Chúa can thiệp bằng những lời này: “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không?” (Xh 17: 7). Còn Chúa Giê-su, Ngài mô phỏng lời trách cứ của ông Mô-sê trong sách Đệ Nhị Luật: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (x. Đnl 6: 16) để từ chối bắt Thiên Chúa phải can thiệp. Ở đây Ngài không đòi Thiên Chúa dùng phép lạ để cứu mạng mình và cũng sẽ là như vậy khi Ngài bị đóng đinh trên thập giá khi mà những kẻ ác tâm thách đố Ngài: "Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn" (Lc 23: 35). Như vậy, cả ba lần, Chúa Giê-su bày tỏ sự vâng phục tuyệt đối với chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Khi so sánh bài trình thuật của thánh Lu-ca với bài trình thuật của thánh Mát-thêu, chúng ta nhận ra thánh Lu-ca đã đảo lộn trật tự giữa cơn cám dỗ thứ hai và cơn cám dỗ thứ ba của thánh Mát-thêu. Với trật tự đảo lộn này, thánh Lu-ca mới có thể kết thúc bài trình thuật của mình với việc kể ra Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, đây là một trong những đề tài chủ đạo của Tin Mừng Lu-ca. Quả thật, Tin Mừng Lu-ca bắt đầu với biến cố truyền tin loan báo cuộc sinh hạ của Gioan Tẩy Giả ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và kết thúc với ghi nhận: “Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 24: 52-53). Trong Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca nhắc đi nhắc lại nhiều lần Đức Giê-su lên đường tiến về Giê-ru-sa-lem (Lc 9: 41-53; 17: 11; 19: 28), nhằm thiết lập một cuộc hành trình dài lên Thành Thánh, ở đó Chúa Giê-su sẽ hoàn tất chương trình cứu độ của mình. Thánh Lu-ca là thánh ký duy nhất bỏ qua những lần Đức Giê-su Phục Sinh xuất hiện ở Ga-li-lê để chỉ tập trung vào những lần Chúa Giê-su Phục Sinh xuất hiện ở Giê-ru-sa-lem.
3- Kết (4: 13)
Trái với “kết cục có hậu” của Mc 1: 13 và Mt 4: 11: “Thế rồi quỷ bỏ Người mà đi, và có các sứ thần tiến đến hầu hạ Người”, thánh ký Lu-ca hướng sự chú ý đến Tên Cám Dỗ: “Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ”. Sau khi đã tìm đủ mọi cách vô ích chống lại sứ mạng cứu thế của Chúa Giê-su, quỷ đã thua một trận, nhưng không phải là toàn bộ cuộc chiến, vì thế quỷ chờ đợi thời cơ. Quả thật, quỷ thường xuất hiện trong suốt cuộc đời công khai của Chúa chúng ta (x. ví dụ như Mc 12: 28), nhưng thời cơ thuận tiện nhất là cuộc Khổ Nạn: “Đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm” (Lc 22: 53), giờ mà quỷ sẽ lộ nguyên hình trong vai trò của Tên Cám Dỗ. Đức Giê-su sẽ báo trước điều này cho các môn đệ Ngài và nhiều lần đảm bảo với họ là Ngài sẽ chiến thắng (x. Ga 12: 31; 14: 30). Ở nơi cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô, quỷ sẽ dốc toàn lực một lần sau cùng.
Đức Ki-tô, Thiên Chúa thật và con người thật, tự nguyện nên giống chúng ta trong mọi sự ngoài trừ tội lỗi (x. Pl 2: 7; Dt 2: 7; 4: 15), vì thế Ngài chấp nhận chịu cám dỗ. Với tư cách là một con người, Ngài bị cám dỗ, và cũng với tư cách một con người, Ngài kháng cự như lời nhận định của thánh Giáo Phụ Am-rô-xi-ô: “Ngài đã không hành xử như Thiên Chúa, khi phát huy quyền năng của Ngài; giả như Ngài đã làm như vậy, làm thế nào chúng ta có thể noi gương Ngài được? Đúng hơn, như một con người, Ngài đã tận dụng những nguồn lực mà Ngài có chung với chúng ta” (Expositio Evangelii sec. Lucam, in loc.). Qua việc chiến thắng mọi chước cám dỗ, Đức Giê-su chỉ cho chúng ta phương thế đối phó với những mưu mô xảo quyệt của quỷ dữ.
Khi ấy, Chúa Giêsu được đầy Thánh Thần, liền rời vùng sông Giođan và được Thánh Thần đưa vào hoang địa ở đó suốt bốn mươi ngày, và chịu ma quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Người không ăn gì và sau thời gian đó, Người đói. Vì thế, ma quỷ đến thưa Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho đá này biến thành bánh đi”. Chúa Giêsu đáp: “Có lời chép rằng: Người ta không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng lời Chúa nữa”.
Rồi ma quỷ lại đem Người lên cao hơn cho xem ngay một lúc tất cả các nước thiên hạ và nói với Người rằng: “Tôi sẽ cho ông hết thảy quyền hành và vinh quang của các nước này, vì tất cả đó là của tôi và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, thì mọi sự ấy sẽ thuộc về ông!” Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: “Có lời chép rằng: Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người thôi”.
Suy niệm
“Thánh Thần thúc đẩy Chúa vào hoang địa, và chịu cám dỗ”.
Mục đích tối hậu của con người là Thiên Chúa, thế nhưng thân phận con người lại sống giữa trần gian đầy thử thách với Danh, Lợi, Thú. Ma quỷ luôn tìm cách dụ dỗ, lôi kéo con người xa rời Thiên Chúa bằng những dẫn dụ chiều theo bản năng, sự dễ dãi và ham muốn hết sức tự nhiên. Mặc lấy bản tính loài người, Chúa Giêsu cũng phải chịu thử thách và cám dỗ, thế nhưng Ngài đã chiến thắng bằng sự khiêm nhường, trung tín và vâng phục Thiên Chúa Cha.
Adam Eva ngày xưa đã sa ngã trước cám dỗ. Chúa Giêsu đã chiến thắng cám dỗ. Mỗi chúng ta hôm nay cũng không tránh khỏi những thử thách và cám dỗ đeo đuổi hằng ngày, hãy bước theo Chúa Giêsu và nhờ Người mà chiến đấu và chiến thắng ba thù: ma quỷ, thế gian và những đam mê tội lỗi.
Lạy Chúa, thân phận con người vốn mỏng giòn yếu đuối, xin cho chúng con biết theo chân Chúa Giêsu, luôn biết khiêm nhường cậy dựa vào ơn Chúa, sống trung thành phụng sự và vâng phục thánh ý Chúa. Amen.
Sống trên hành trình đức tin luôn là chiến đấu. Chiến đấu với ba thù: ma quỉ, xác thịt, thế gian. Và cuộc chiến đấu cam go nhất chính là bản thân mình, địch thù ẩn núp ngay trong bản thân mình chứ không ở đâu xa. Đức Giêsu trong cuộc đời trần thế cũng không tránh khỏi cuộc chiến đấu này, nhưng Ngài đã chiến đấu quyết liệt và chiến thắng vẻ vang.
Tin Mừng chúng ta vừa nghe, trước khi bắt đầu đi rao giảng Tin mừng, Đức Giêsu vào trong hoang địa ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày. Trong thời gian này, Ngài gặp thử thách như Ađam Evà khi xưa trong vườn Địa đàng, nơi bài đọc I chúng ta vừa nghe.
Nhưng Ađam Evà đã nghe theo lời ma quỉ xúi dục, không vâng phục Thiên Chúa, mà nghe lời ma quỷ xúi dục, nên giơ tay hái trái cấm. Ông Bà đã sa ngã và hậu quả để lại cho con cháu ngàn đời, là đánh mất ơn làm con Chúa.
Dân Do Thái ngày xưa ở trong sa mạc 40 năm trước khi trở về miền Đất Hứa, nhiều lần họ sa đi ngã lại trước bao thử thách chỉ vì miếng ăn. Đã bao lần họ nổi loạn, chống đối Môisen, họ muốn quay trở lại đất nước Aicập, thà sống kiếp nô lệ mà còn có của ăn, còn hơn là sống trong sa mạc thiếu thốn này.
Đối với Đức Giêsu, sau khi ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày, ma quỷ biết Ngài đói, nên bày mưu lập kế cám dỗ, nhưng Đức Giêsu đã cương quyết chống lại lời ma quỉ xúi dục, dứt khoát chọn lựa đứng về phía Thiên Chúa.
Thánh sử Luca cho biết, ma quỉ đã dùng cơm bánh, quyền phép, danh vọng để cám dỗ Đức Giêsu, nhưng Ngài đã dùng lời Kinh Thánh chống lại ma quỷ và nói lên ý muốn dứt khoát đứng về phía Thiên Chúa. Cuối cùng, ma quỉ đành phải rút lui, nhường chỗ cho các thiên thần đến hầu hạ Ngài.
Anh chị em thân mến,
Ba cơn cám dỗ của Đức Giêsu năm xưa cũng là ba cơn cám dỗ của chúng ta ngày nay. Là người Kitô hữu, muốn chiến thắng ma quỉ, chúng ta hãy noi gương Đức Giêsu, luôn biết chọn Chúa, sống theo thánh ý Chúa và dùng Lời Chúa hướng dẫn cuộc đời chúng ta.
Trong Mùa Chay thánh, Giáo hội mời gọi chúng ta đi vào hoang địa với Đức Giêsu, để rèn luyện đời sống tâm linh cho vững mạnh, kiên cường. Chúng ta không có điều kiện đi vào hoang địa theo nghĩa địa lý, nhưng chúng ta có thể vào hoang địa cuộc đời.
Vào hoang địa cuộc đời, là hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Chúng ta dành nhiều thời giờ hơn để cầu nguyện và siêng năng lãnh nhận các bí tích.
Vào hoang địa cuộc đời, đối với chính mình, đừng quá bận tâm vào của cải vật chất, mà quên đi mục đích ta sống ở đời này để làm gì, và quê hương đích thực của chúng ta ở đâu?. Đồng thời, chúng ta kìm hãm miệng lưỡi, giảm bớt nói hành nói xấu người khác.
Vào hoang địa cuộc đời, mỗi ngày làm cho tha nhân một cử chỉ đẹp nào đó. Cụ thể, chúng ta giảm bớt những chi tiêu không cần thiết, giảm bớt ăn chơi phung phí, dành chút quà vật chất để chia sẻ cho những người nghèo trong Mùa Chay thánh này. Nếu có thể được, chúng ta dành chút thời giờ đi thăm viếng những người bệnh tật đau yếu, đang cô đơn trên giường bệnh.
Xin Chúa giúp chúng ta tích cực sống tinh thần Mùa chay với tâm tình trở về. Trở về để được Chúa yêu thương, trở về để được Ngài tha thứ. Trở về với chính mình bằng việc sám hối mọi lỗi lầm, và trở về với tha nhân trong việc tha thứ và bố thí. Amen.
Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa chay thánh. Thứ Tư vừa qua, Giáo hội mời gọi chúng ta đi vào một cuộc hành trình, hành trình Mùa chay, đó là một cuộc hành trình hướng tới lễ Phục sinh. Chúng ta là những người đã được chịu phép rửa tội, nhưng chưa hoàn toàn sống đời sống của một Kitô hữu. Mùa Chay mời gọi chúng ta thay đổi tâm hồn, và sống Tin mừng một cách trọn vẹn.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca cho chúng ta biết, khi nhập thể vào trần gian với thân phận con người, Đức Kitô cũng từng trải qua nhiều thử thách cam go, chịu ma quỉ cám dỗ trong thời gian 40 ngày chay tịnh trong sa mạc. Ma quỉ cám dỗ Ngài xoay quanh ba chủ đề: thú, lợi, danh.. Nhưng Ngài đã vượt thắng tất cả nhờ sức mạnh của Lời Chúa.
Chúa cũng để cho ma quỉ cám dỗ chúng ta, không phải để làm hại ta mà là để cho chúng ta trưởng thành hơn và tỏ lòng trung thành đối với Chúa. Con người yếu đuối không thể vượt qua được những mưu chước của ma quỉ, nhưng chúng ta đã có ơn Chúa trợ lực, Ngài sẽ nâng đỡ chúng ta, Ngài không để chúng ta bị cám dỗ quá sức chúng ta. Hãy cầu nguyện để múc lấy sức mạnh nơi Chúa:”Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”. Và với ơn Chúa chúng ta sẽ chiến thắng như thánh Phaolô đã nói:”Omnia possum in eo qui me confortat”(Pl 4,13): Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Đnl 26,4-10.
Dâng của lễ đầu mùa trước kia là một nghi lễ của dân ngoại, trong đó con người nhìn nhận mình không nắm giữ các bí ẩn của thiên nhiên và của sức sống vạn vật. Vì vậy, con người cầu xin các thần chiếu cố ban ơn.
Tuy nhiên, trong bài đọc 1 hôm nay, ông Maisen dạy cho dân chúng: khi dâng của lễ đầu mùa phải có tâm tình gì: đó là tinh thần biết ơn. Bởi vì, nhìn ngược dòng lịch sử, tổ tiên của dân Do thái ban đầu chỉ là những kẻ phiêu bạt nơi người Ai cập, phải làm nô lệ cho họ. Thiên Chúa đã dùng quyền năng Ngài mà giải thoát họ và xây dựng họ thành một dân tộc hùng mạnh. Vì thế, hằng năm họ phải biết ơn Ngài và lấy một phần hoa lợi của mình mà dâng lên Ngài.
+ Bài đọc 2: Rm 10,8-13.
Luật đạo cũ xưa tỏ ra quá tỉ mỉ và rắc rối. Thánh Phaolô đem đối chiếu với luật xưa, để người tín hữu thấy rằng lòng tin ở Đức Kitô Phục sinh thì đơn giản như thế nào. Ơn cứu độ chỉ có được bởi lòng tin: Ai tuyên xưng trong lòng và tuyên xưng ra rằng Đức Giêsu Kitô đã sống lại và đang làm Chúa tể, thì sẽ được cứu độ.
Một khi đã có một niềm tin như thế, một niềm tin duy nhất, thì khi đó không còn phân biệt Do thái với dân ngoại. Tất cả đều có một Chúa. Đây là điểm tựa duy nhất cho đời sống đạo của chúng ta.
+ Bài Tin mừng: Lc 4,1-13.
Đoạn trình thuật của thánh Luca về các cám dỗ cũng giống như đoạn trình thuật của thánh Matthêu. Tuy nhiên thánh Luca để ý hơn đến việc chứng tỏ Đức Giêsu chiến thắng các cám dỗ với tư cách người đứng đầu một nhân loại thực sự, một dân Israel mới. Trên bước đường đi về Đất Hứa, dân Israel đã gặp nhiều cám dỗ: – Cám dỗ trở lại Ai cập để có bánh ăn. – Cám dỗ thờ tượng con bê vàng. – Cám dỗ thử thách Thiên Chúa.
Họ đã sa ngã vào những cám dỗ đó. Nay Đức Giêsu chính là Israel mới, Ngài cũng sống trong sa mạc thời gian dài (40 ngày), cũng bị những loại cám dỗ dân Israel ngày xưa, nhưng Ngài đã chiến thắng tất cả. Được như thế, Đức Giêsu đã tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa. Đó là tấm gương sáng để chúng ta noi theo.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
I. ĐỨC GIÊU BỊ MA QUỈ CÁM DỖ.
Đức Giêsu vào trong sa mạc.
Đừng ai tưởng rằng Đức Giêsu không thể bị cám dỗ vì Ngài là Thiên Chúa. Mặc dầu có bản chất thần thánh, Ngài cũng có một bản chất con người. Ngoài ra, tự thân chước cám dỗ không phải là một tội lỗi. Không có một công trình lớn lao nào của con người, hay cuộc sống thiêng liêng thực sự nào, mà không cần thời gian suy nghĩ, cô tịch và im lặng nội tâm.
Đức Giêsu đã trải qua 40 ngày trong sa mạc, trong sự suy niệm và cầu nguyện. Sa mạc có thể là một nơi khắc nghiệt, nhưng đó lại là một nơi lý tưởng để suy niệm và cầu nguyện. Và trong thời gian suy nghĩ cầu nguyện đó, ma quỉ có thể thực sự hiện ra để cám dỗ Ngài không ? Chúng ta không biết. Điều chính yếu là những chước cám dỗ của Ngài đều có thật, giống như chúng ta vậy, mặc dầu quỉ sứ không hiện ra với chúng ta với hình dáng của một con người. Ngài đã bị cám dỗ về ba phương diện: thú, lợi, danh.
Ý nghĩa của chữ “Cám dỗ”.
Trong tiếng Do thái, chữ “Cám dỗ” có nghĩa là “thử thách”, “thử tài”, giống như chữ “đi thi” của chúng ta ngày nay. Cám dỗ là đi thi: ai thắng cám dỗ là thi đậu, ai sa ngã là thi rớt. Bởi thế cám dỗ là dịp tốt để ta “lấy bằng cấp”. Tuy nhiên ta đừng khinh địch, hãy nhớ lời Đức Giêsu căn dặn:”Thứ quỉ này chỉ có thể thắng nhờ ăn chay và cầu nguyện”. Nhớ lời trong kinh Lạy Cha “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, và nhớ Đức Giêsu trong bài Tin mừng này đã chiến thắng được nhờ sự trợ giúp và che chở của Thiên Chúa (Carôlô).
Ba chước cám dỗ.
Theo thánh Luca, Đức Giêsu bị 3 chước cám dỗ thử thách:
– Cơn cám dỗ thứ nhất: Đức Giêsu ăn chay trong sa mạc. Ngài đói, nên cám dỗ đầu tiên của ma quỉ là tìm kiếm của ăn để nuôi dưỡng thân xác:”Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho đá này biến thành bánh đi”(Lc 4,3).
– Cơn cám dỗ thứ hai: Ma quỉ đề nghị Đức Giêsu dùng quyền lực của Ngài để thỏa mãn những ước muốn ái quốc của quần chúng. Dân Israel hy vọng rằng Đấng Thiên Sai sẽ đến như một người chiến thắng, và Ngài sẽ giải thoát dân Israel bằng gươm giáo. Đức Giêsu có nên dùng quyến lực của Ngài để thực hiện giấc mơ ấy không ?
– Cơn cám dỗ thứ ba: Ma quỉ đề nghị:”Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, Chúa sẽ truyền cho các thiên thần gìn giữ ông ! các vị đó sẽ giơ tay nâng đỡ ông khỏi vấp phải đá” (Lc 4,10). Đây là cám dỗ đòi kiểm chứng, đòi xem những dấu lạ điềm thiêng của người Do thái xưa (Xh 17), đòi thấy những cú nhảy đẹp mắt, những pha ngoạn mục: đó là cơn cám dỗ trên nóc Đền thờ Giêrusalem…
Ba chước cám dỗ này qui về ba chữ: THÚ, LỢI, DANH.
a) Về THÚ: Ma quỉ xúi giục Đức Giêsu thỏa mãn sự đói khát cơm bánh vật chất và các đam mê lạc thú. Nhưng Đức Giêsu đã thắng cám dỗ này. Ngài không phủ nhận sự cần thiết của cơm bánh vật chất, nhưng khẳng định:”Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhưng còn sống bằng những lời do miệng Thiên Chúa phán ra”.
b) Về LỢI: Ma quỉ ban lợi lộc và quyền lực vinh quang cho Đức Giêsu nếu Ngài chịu tôn thờ nó. Nhưng Đức Giêsu chỉ nhận quyền lực từ Thiên Chúa (x. Lc 1,32b; 10,22; 22,29), chỉ công nhận một mình Chúa Cha là Thiên Chúa duy nhất đáng tôn thờ (x. Lc 4,8; Đnl 6,13).
c) Về DANH: Ma quỉ cám dỗ Đức Giêsu tìm kiếm hư danh bằng cách xúi giục Ngài nhảy từ nóc Đền thờ vì sẽ được sự can thiệp kịp thời của Thiên Chúa (x. Lc 4,10-11; Tv 91,11-12). Đức Giêsu đã không chấp nhận thái độ thử thách quyền năng Thiên Chúa đó qua lời Kinh thánh:”Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”(Đnl 6,16).
Cuối cùng cả ba chước cám dỗ đều qui về một điều: đặt những thứ vật chất và vinh quang bản thân lên trước hết, kế đó, mới đến các điều thiêng liêng và Thiên Chúa. Nói chúng, đây là những chước cám dỗ chủ yếâu trong Giáo hội của Ngài, và nơi mỗi người chúng ta là các thành viên trong Giáo hội. Chúng ta phải luôn hướng mắt về Đấng khước từ biến những hòn đá thành bánh, tự gieo mình xuống khỏi nóc Đền thờ, và cai trị bằng quyền lực.
II. CHÚNG TA CŨNG BỊ CÁM DỖ.
Suy nghĩ một chút, chúng ta thấy chuyện dân Israel bị cám dỗ 40 năm và Đức Giêsu bị cám dỗ 40 ngày xem ra chỉ là chuyện đời xưa, chẳng liên quan gì đến chúng ta ngày nay. Thực ra ngày nay chúng ta cũng gặp những cám dỗ ấy, nhưng dưới những hình thức khác thôi:
– Phải chăng chúng ta cũng bận tâm quá đáng đến việc ăn uống, sinh nhai ? – Phải chăng chúng ta ham chuộng danh vọng trần thế ? – Phải chăng chúng ta không chịu vận dụng hết khả năng của mình mà cứ để Thiên Chúa làm phép lạ cho mình ?
Sự khôn ngoan của ma quỉ.
Ma quỉ rất tinh quái, nó biết rõ những nhu cầu của con người từ nhu cầu ăn uống cần cho thể xác, đến nhu cầu ham mê danh vọng, địa vị, chức quyền và sau cùng là kiêu ngạo. Cái khôn của ma quỉ làø làm cho cám dỗ mang một dáng vẻ hấp dẫn, hợp với sở thích và ý muốn của con người, nên mới có sức thuyết phục mạnh mẽ để ta ưng theo. Do cái vỏ quyến rũ, mỹ miều bên ngoài của nó như vậy nên mới dễ đánh lừa ta, khiến ta thường bị sa lầy, mắc bẫy.
Truyện: Mua cái bóng cây.
Ngày xưa, có một người giầu có xây nhà bên đường. Trước nhà ông có một cây to, rợp bóng rộng mát. Mùa hè, khi mọi nhà phải chịu nóng bức, ngột ngạt thì ông nhà giầu cứ mặc nhiên ngả lưng dưới bóng cây, hưởng gió mát. Một hôm có anh nhà nghèo đi qua, thấy bóng cây mát liền ngồi nghỉ và thiếp đi lúc nào không biết.
– Ê, ông nhà giầu quát, Ai cho phép mày nằm nghỉ ở đây ? Xéo ngay.
– Vì sao lại thế ? anh nhà nghèo hỏi.
– Cái cây này là của tao, vì vậy cái bóng của nó cũng là của tao, ông nhà giầu lý luận.
– Nếu vậy, ông hãy bán cho tôi cái bóng. Tôi sẽ trả tiền ông đàng hoàng. Xin ông đừng lo.
Nghe nói đến tiền, ông nhà giầu bán ngay cái bóng ấy cho anh nhà nghèo. Từ hôm ấy, hễ trời trở nóng, anh nhà nghèo lại ra ngồi dưới bóng cây nghỉ mát. Khi bóng cây ngả vào sân ông chủ, anh nhà nghèo cũng vào sân nghỉ; khi bóng cây ngả vào bếp hoặc vào phòng tiếp khách, anh nhà nghèo cũng theo vào những nơi đó. Chẳng những thế, anh còn cao hứng rủ rê bạn bè đến nghỉ. Ông nhà giầu tức lắm nhưng đành bấm bụng chịu.
Một hôm ông nhà giầu có khách. Khi bóng cây ngả vào phòng khách, anh nhà nghèo cùng đám bạn bè kéo luôn vào phòng khách nằm, khiến khách rất ngạc nhiên. Hỏi nguyên cớ thì ông nhà giầu cắn môi im lặng, anh nhà nghèo giải thích:”Cái bóng cây này là của tôi. Ôâng chủ đây đã đồng ý bán cho tôi rồi ! Tôi có quyền nghỉ ngơi bất kỳ lúc nào”. Đám khách cười nhạo ông chủ nhà, rồi bỏ ra về. Ít ngày sau, ông nhà giầu bị cả làng chửi bới, còn lũ trẻ con hễ gặp ông ở đâu là bỉu môi chế giễu:”Đồ tham lam, bán cả cái bóng cây” ! Bị bẽ mặt, ông nhà giầu đành bỏ làng đi ở nơi khác. Thế là anh nhà nghèo không những được cái bóng cây mà còn được cả cái cây cùng ngôi nhà của ông nhà giầu nữa. (Nguyễn văn Thái, Sống lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 107-108)
Qua sự cám dỗ về lòng tham lam tiền bạc, ông nhà giầu đã đưa kẻ thù vào ở trong nhà mình. Một cách nào đó, qua những cám dỗ, chúng ta cũng mở cửa tâm hồn cho ma quỉ vào xâm chiếm linh hồn mình. Tất cả những mưu thâm chước độc của ma quỉ thì thiên hình vạn trạng khiến con người khó mà đứng vững nếu chúng ta không cảnh giác đề phòng, không biết cầu cứu với Chúa, không năng nhận những phương thế hỗ trợ thiêng liêng.
Những cám dỗ của chúng ta.
Ngày xưa ma quỉ cám dỗ Đức Giêsu thế nào thì ngày nay chúng vẫn cám dỗ chúng ta như vậy, mà còn nhiều trò nguy hiểm hơn nữa. Tất cả những chước cám dỗ ấy cũng qui về ba mối: thú, lợi và danh.
a) Về thú vui.
Tiền nhân dạy rằng:”Nhân sinh tại thế dĩ thực vi tiên” nghĩa là con người sinh ra ở đời, thì việc ăn uống là ưu tiên và cần thiết.
Nói lên câu đó, tiền nhân có ý bảo rằng: con người sinh ra thì phải ăn uống. Có ăn có uống thì mới sống được. Có sống thì mới làm việc được, do đó mới có câu:”Có thực mới vực được đạo”. Song le, vì ma quỉ nó dốt CHỮ NHO, nên mới cắt nghĩa quẹo đi:”Con người sinh ra chỉ để ăn uống”, nên thiên hạ đâu đâu cũng thuộc giáo điều của nó:”Không ăn cũng thiệt, không chơi cũng hoài”.
Thánh Phêrô đã khuyên:”Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé”(1Pr 5,6). Con người có khuynh hướng thỏa mãn xác thịt, muốn làm cho thân xác được béo tốt, được thưởng thức mọi thú vui không biết ngừng lại. Nhưng người ta có biết rằng “Cực lạc sinh bi ai” ? Cái gì thái quá cũng sinh tai hại. Mùa chay này nhắc lại cho chúng ta lời Đức Giêsu nói với ma quỉ:”Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh”.
b) Về lợi lộc.
Ma quỉ hứa ban lợi lộc và quyền lực vinh quang cho con người nếu chịu tôn thờ nó. Có nhiều người nhẹ dạ đã tin vào lời hứa hão huyền này và đã bán linh hồn cho ma quỉ, trở thành tay sai của nó. Trong lịch sử thế giới, bao nhà độc tài đầy quyền thế, bao đế quốc hùng mạnh đã xuất hiện và lần lượt đều đã bị diệt vong. Ma quỉ cũng cám dỗ Đức Giêsu trở nên giầu có và quyền thế như các vua chúa trên trần gian, nhưng Ngài đã khước từ, Ngài chấp nhận “yếâu đuối”(1Cr 1,27). Cơn cám dỗ về quyền hành, về giầu sang phú quí cũng là cơn cám dỗ của chúng ta.
Ngoài ra, danh vọng và giầu sang phú quí chưa hẳn là hạnh phúc vì danh vọng và giầu sang là con dao hai lưỡi: nó có thể phục vụ ta, biến nó thành tôi tớ trung thành của ta, mà nó cũng có thể ức chế ta, biến ta thành nô lệ của nó, sai khiến ta làm đủ mọi điều gian ác.
Truyện: Ca sĩ Elvis Presley.
Chắc nhiều người trong chúng ta, nhất là các người trẻ, biết tên chàng ca sĩ nổi tiếng thế giới là Elvis Presley.
Chàng rất giầu có: một mình có 8 chiếc xe hơi, 6 xe gắn máy, 2 máy bay, 16 máy truyền hình, một ngôi biệt thự rất rộng và nhiều tài khoản ngân hàng. Trên tất cả những thứ đó, còn có biết bao đạo quân những người hâm mộ coi chàng là thần tượng
Thế nhưng Elvis Presley không cảm thấy hạnh phúc. Có lần chàng thú nhận:”Càng nhiều tiền thì càng nhức đầu”. Mẹ chàng thì không mong gì hơn là con trai mình có giờ về thăm gia đình. Nhưng mong ước đơn giản như thế mà cũng không được.
Elvis Presley là một bằng chứng cho lời Đức Giêsu nói:”Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”.
c) Về DANH.
“Nếu ông là Con Thiên Chúa thì đứng dậy, mà gieo mình xuống đi ! Vì có lời chép rằng Thiên Chúa sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá”(Tv 91,11-12). Đó là cám dỗ lớn và liên tục mà người ta đặt ra trước Đức Giêsu suốt đời công khai của Ngài: Hãy làm phép lạ đi – Hãy cho chúng tôi một dấu chỉ trên trời… Hãy chứng minh ông là Thiên Chúa… Hãy biểu lộ quyền hành của ông, chứng minh rằng ông là Đấng Cứu Thế chúng tôi đang mong đợi…
Đức Giêsu đã không nhận những thách thức ấy mặc dầu Ngài có thể làm được tất cả. Thực ra, những thách thức đó chỉ làm cho Đức Giêsu lìa xa con đường mà Chúa Cha đã vạch ra cho Ngài: Ngài phải chết. “Lạy Cha, nếu có thể được, xin tha cho con khỏi uống chén này”(Lc 22,42). Chính nhờ thái độ vâng phục tuyệt đối Chúa Cha, đến nỗi có cảm tưởng bị “Chúa Cha bỏ rơi”(Mt 27,46), mà chứng tỏ mình là Con Một của Cha…
Đức Giêsu lánh xa khuynh hướng khoe khoang, Ngài chịu thất bại trước những thử thách ấy để đạt được mục đích. Còn chúng ta thì luôn có khuynh hướng khoe khoang, mà quỉ lại nhằm vào khuynh hướng thích khoe khoang, nhất là sự khoe khoang đó lại không đúng sự thật. Nhiều khi chỉ cần một câu nói thách thức hay chạm tự ái là người ta làm theo thách thức đó. Một số bạn trẻ rơi vào xì ke ma túy cũng chỉ vì một lời thách thức hay khiêu khích gì đó.
Khuynh hướng khoe khoang đó cũng là tính kiêu ngạo ẩn náu trong con người. Trong bất cứ hoàn cảnh nào tính kiêu ngạo cũng muốn bùng ra làm cho con người quên đi tình trạng thật của mình mà chỉ muốn vươn lên trên mọi người. Ma quỉ cũng chỉ là các thiên thần đã quên đi bản tính của mình mà đòi bằng Thiên Chúa và đã bị Tổng Lãnh Thiên thần tống nó xuống hỏa ngục làm quỉ vương. Ngộ Không cũng thế, là khỉ mà đòi lên trời làm Tề Thiên Đại Thánh là bằng Trời, nên đã bị tướng nhà Trời tống xuống trần gian, bị núi đá đè con khỉ suốt 500 năm.
Hãy tỉnh thức và đề phòng.
Ma quỉ rất khôn ngoan, chúng có những cách lừa đảo rất tinh vi giống như những hàng giả bây giờ. Đàng sau những cám dỗ chúng gây ra sự ảo tưởng để đánh lừa người ta, để đưa người ta vào bẫy và lúc đó không còn thể ra được. Cám dỗ nào cũng ngọt ngào hấp dẫn, thử thách nào cũng đòi hỏi phải lựa chọn. Điều quan trọng là chúng ta có nhận ra cái đắng đót chua cay trong cái vỏ ngọt ngào hấp dẫn ấy không ?
Để nhận thức đúng đâu là cơn cám dỗ và sự nguy hiểm của nó như thế nào, ta phải hiểu nội dung của cơn cám dỗ gồm có ba thành phần: người bị cám dỗ là chúng ta, kẻ cám dỗ là ma quỉ, trung gian môi giới cám dỗ có thể là người khác hoặc một sự vật hoặc một cơ hội. Do đó, diễn tiến của một cơn cám dỗ dù đột ngột hay dai dẳng đều được chuẩn bị, hành động rất khéo léo với mục đích xúi dục con người đi đến chỗ phạm tội lỗi.
Phương cách dụ dỗ của ma quỉ rất xảo quyệt vì nó không bao giờ xui ta phạm tội ngay, mà ban đầu chỉ những chiều theo đôi chút, không bao giờ dụ dỗ con người phạm ngay tội nặng, mà chỉ xúi giục phạm những tôi nhẹ, không bao giờ cám dỗ một lần rồi bỏ qua, mà là nhiều lần, lặp đi lặp lại cho đến khi ta chiều theo ý nó. Ông Richard Wumbrand đã diễn tả điều này rất đúng bằng hình ảnh như sau: chúng ta như những cô gái vừa đến độ xuân thì. Người yêu cô thật lòng, muốn chia sẻ cuộc đời với cô, và kẻ sở khanh lừa phỉnh, chỉ muốn qua đêm để hại đời cô, cùng dùng chung một ngôn ngữ, cùng chia chung một động từ, đó là “Anh yêu em”. Nếu chỉ để ý đến những cái hào nhoáng bên ngoài hay những lời nói ngon ngọt và không có sự tỉnh táo cần thiết để phân biệt thì chắc chắn thảm họa sẽ xẩy đến.
Truyện: Bà Evà bị cám dỗ.
Tại Anh quốc, trong viện bảo tàng nghệ thuật Manchester Art Gallery có một bức tranh của họa sĩ Spencer Stanhop mang tựa đề là “Eve”. Bức tranh vẽ hình một con rắn đang thì thầm những tư tưởng vào tai bà Evà. Nhìn vào nét mặt sung sướng của bà Evà, bạn phải nói rằng bà rất thích những điều đang nghe. Bà đang bị mê hoặc bởi những tư tưởng đó. Bà không nhìn thấy con rắn, nhưng con rắn đang vươn tới quấn quít sau lưng bà, từ cành cây mang đầy hoa trái, nó cong mình cúi xuống thật thấp để khi bà Evà chấp nhận những tư tưởng này thì một trái táo đỏ chói rơi ngay vào bàn tay của bà đang mở ra đón nhận.
Mặc dù trong hình vẽ bà Evà chưa cắn trái táo, tuy nhiên qua nét mặt của bà, độc giả biết rằng bà đã vượt qua giới hạn cho phép. Sự kết hợp của những tư tưởng trong tâm trí bà và trái táo đỏ chói trong lòng bàn tay mở rộng quá quyến rũ đối với bà, vườn địa đàng đã bị mất. Sự cô đơn hiu hắt và mối ác cảm với Thiên Chúa đã bắt đầu. Một cách chính xác, người họa sĩ đã bắt gặp được giây phút của sự thật, đã nhận ra được chân lý qua điều được gọi là “cám dỗ” trong cuộc đời của bạn, và của tôi .
Phương thế chống cám dỗ.
Chúa Giêsu đã nói với thánh Phêrô:”Phêrô ơi, ma quỉ nó sàng con như sàng gạo ấy”(Lc 22,31). Những chước cám dỗ không phải là cách làm hại ta mà chỉ là cách thử thách ta xem ta có trung thành với Chúa không, nên Chúa để cho ma quỉ cám dỗ ta. Sức con người yếu đuối không thể thắng được các chước cám dỗ nếu không có sự hỗ trợ của Chúa. Thánh Phaolô đã nói rất đúng “Omnia possum in eo qu me confortat”(Pl 4,13): tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi.
Trong kinh Lạy Cha chúng ta cầu nguyện:”Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, có nghĩa là “đừng cho phép chúng con bước vào” hay “đừng để chúng con ngã gục trước sự cám dỗ” (Giáo lý Công giáo số 2846). Đây là một lời cầu xin “trung thành” với Thiên Chúa và tuân giữ những điều răn của Ngài (2Tm 3,14; Mt 19,17; Ga 14, 23-24). Nó đòi hỏi chúng ta phải chọn lựa và quyết định. Nó mang lại những giằng co nội tâm mà chính Đức Giêsu đã trải qua trong 40 đêm ngày bị thử thách (x. Lc 4,1-13).
Sau khi đã dựa vào ơn Chúa, để chiến thắng ma quỉ thời nay, không có cách nào khác là phải chiến đấu anh dũng và kiên cường, chống lại những dụ dỗ, phỉnh gạt lừa lọc của chúng. Chiến đấu bằng chính võ khí mà Đức Giêsu đã xử dụng: đó là tinh thần tuyệt đối vâng phục đường lối và thánh ý của Thiên Chúa ; đó là cách sống khiêm tốn, siêu thoát, coi rẻ của cải vật chất và danh vọng thế gian; đó còn là biết đánh giá cũng như hưởng thụ cuộc đời trong chừng mực mà Tạo hóa đã ấn định cho loài người: ăn chay là sống siêu thoát, từ bỏ, tiết độ; cầu nguyện là sống gắn bó mật thiết với Chúa.
Phần đông giáo dân đều hiểu rằng Mùa Chay là khoảng thời gian ăn năn sám hối nên việc ăn chay, cầu nguyện và làm việc lành phúc đức được mọi người đặc biệt quan tâm thực hiện. Hiểu như vậy không sai. Nhưng nếu hiểu sâu xa và bao trùm hơn thì Mùa Chay chính là thời gian để các tín hữu thể hiện thái độ và hành động của mình với tư cách là kẻ tin.
Từ lời ông Mô-sê nói với dân Ít-ra-en (bài đọc 1) và lời của Thánh Phao-lô viết cho cộng đoàn tín hữu Ro-ma (bài đọc 2) đến lời nói và việc làm của Chúa Giê-su trong cuộc chiến đấu với Xa-tan (bài Phúc Âm) đều làm nổi bật thái độ và hành động của những kẻ tin vào Thiên Chúa.
Vậy chúng ta hãy đọc kỹ và suy niệm ba bài Sách Thánh để hiểu và có thái độ và hành động của những kẻ tin vào Thiên Chúa.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Đnl 26, 4-10): “Dân được chọn tuyên xưng đức tin”.
Ông Mô-sê nói cùng dân chúng rằng: “Thầy tư tế nhận của đầu mùa từ tay ngươi và đem đặt trước bàn thờ của Chúa là Thiên Chúa ngươi, và ngươi sẽ nói trước mặt Chúa là Thiên Chúa rằng: “Tổ phụ con là A-ra-mê-ô du mục đã đi xuống Ai-cập và sống ở đó như ngoại kiều với một ít người; và đã phát triển thành một dân tộc vĩ đại, hùng mạnh và đông đúc. Các người Ai-cập đã ngược đãi, hành hạ và bắt chúng con làm việc nặng nhọc. Chúng con đã kêu cầu Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, và Chúa đã nghe lời chúng con, đã nhìn thấy cảnh thống khổ, cực nhọc và khốn cùng của chúng con. Chúa đã dùng bàn tay mạnh, cánh tay hùng, dùng những biến cố khủng khiếp và những dấu lạ phi thường mà dẫn chúng con ra khỏi Ai-cập. Chúa đưa chúng con đến đây, ban cho chúng con xứ này, một xứ chảy sữa và mật. Và vì thế, lạy Chúa, giờ đây con dâng tiến Chúa những của đầu mùa, hoa màu ruộng đất mà Chúa đã ban cho con”. Ngươi sẽ đem đặt nó trước mặt Chúa là Thiên Chúa ngươi và sấp mình trước tôn nhan Người.
2.2 Trong bài đọc 2 (Rm 10, 8-13): “Kẻ tin tưởng tuyên xưng đức tin trong Chúa Ki-tô”.
Anh em thân mến, Thánh Kinh nói gì? Lời ở kề trong miệng và trong lòng ngươi. Đó là lời đức tin mà chúng tôi rao giảng. Vì nếu miệng ngươi tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng ngươi tin rằng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại, thì ngươi sẽ được rỗi. Quả thế, tin trong lòng thì sẽ được công chính, tuyên xưng ngoài miệng sẽ được cứu rỗi. Vì Thánh Kinh đã có nói: “Hễ ai tin vào Người sẽ không phải hổ thẹn”. Bởi lẽ không có sự phân biệt người Do-thái và Hy-lạp: Vì là cùng một Chúa của mọi người, Ngài rộng rãi đối với tất cả mọi người khẩn xin cùng Ngài. Vì mọi kẻ cầu khẩn Danh Ngài, đều được cứu độ.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Lc 4,1-13): “Thánh Thần thúc đẩy Chúa vào hoang địa, và chịu cám dỗ”
Khi ấy, Chúa Giê-su được đầy Thánh Thần, liền rời vùng sông Gio-đan và được Thánh Thần đưa vào hoang địa ở đó suốt bốn mươi ngày, và chịu ma quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Người không ăn gì và sau thời gian đó, Người đói. Vì thế, ma quỷ đến thưa Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho đá này biến thành bánh đi”. Chúa Giê-su đáp: “Có lời chép rằng: Người ta không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng lời Chúa nữa”.
Rồi ma quỷ lại đem Người lên cao hơn cho xem ngay một lúc tất cả các nước thiên hạ và nói với Người rằng: “Tôi sẽ cho ông hết thảy quyền hành và vinh quang của các nước này, vì tất cả đó là của tôi và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, thì mọi sự ấy sẽ thuộc về ông!” Nhưng Chúa Giê-su đáp lại: “Có lời chép rằng: Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người thôi”.
Rồi ma quỷ lại đưa Người lên Giê-ru-sa-lem, để Người trên góc tường cao đền thờ và bảo rằng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, vì có lời chép rằng: “Chúa sẽ truyền cho Thiên Thần gìn giữ ông!” Và còn thêm rằng: “Các vị đó sẽ giơ tay nâng đỡ ông khỏi vấp phải đá”. Chúa Giê-su đáp lại: “Có lời chép rằng: Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi!” Sau khi làm đủ cách cám dỗ, ma quỷ rút lui để chờ dịp khác.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân dung của Thiên Chúa
3.1.1 Bài đọc 1 (Đnl 26,4-10) là những lời của ông Mô-sê giảng giải cho dân Ít-ra-en về cách họ phải đối xử với Thiên Chúa như thế nào cho tương xứng. Ông đã khéo léo nhắc lại cách vắn gọn lịch sử của dân và cách Thiên Chúa đã cứu dân khỏi cảnh nô lệ Ai-cập và đưa dân vào Đất Hứa. Nhờ có đất và sự quan phòng đầy thương yêu của Thiên Chúa mà dân mới có hoa mầu, lương thực, sữa và mật… Vì thế dân Ít-ra-en dâng lên Thiên Chúa của lễ đầu mùa là để tỏ lòng biết ơn và quy phục Vị Chúa Tể Vũ Trụ và Lịch Sử của mình.
Trong trích đoạn Đnl 26,4-10 trên, chúng ta khám phá ra nhiều nét đáng yêu trên dung mạo của Thiên Chúa: Trước hết Thiên Chúa là Đấng đã nghe thấy lời kêu than của những người bị áp bức. Kế đến Thiên Chúa là Đấng ra tay giải thoát họ. Sau cùng Thiên Chúa là Đấng đồng hành với dân trong suốt cuộc hành trình vào Đất Hứa. Trong biến cố Xuất Hành (cũng là Vượt Qua) của dân Ít-ra-en, Thiên Chúa tự mạc khải vừa là Đấng yêu thương, vừa là Đấng quyền năng. Đó cũng chính là Thiên Chúa mà chúng ta tìm kiếm, tôn thờ và sống cùng!
3.1.2 Bài đọc 2 (Rm 10,8-13) là những lời Thánh Phao-lô Tông đồ nói về đối tượng của niềm tin của các Ki-tô hữu. Đối tượng đó là chính Chúa Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa. So với những người Do-thái thì các Ki-tô hữu chúng ta đã tiến thêm được một bước trên con đường tìm kiếm, gặp gỡ và hiểu biết Thiên Chúa. Hay đúng hơn là mạc khải của Thiên Chúa đã chuyển sang một giai đoạn mới: Thiên Chúa tự mạc khải trong/qua Con Một là Chúa Giê-su Ki-tô. Để xứng đáng với hồng ân vĩ đại ấy của Thiên Chúa, các Ki-tô hữu vừa phải tin trong lòng vừa phải tuyên xưng ngoài miệng tức bằng lời nói và việc làm.
Trong trích đoạn Rm 10,8-13 trên, chúng ta nhận ra Lời Thiên Chúa rất gần chúng ta, ở ngay bên, thậm chí ở trong chúng ta. Hơn nữa Lời ấy đã thành xác phàm và ở giữa chúng ta, làm bầu làm bạn và đồng hành với chúng ta, chuộc hết lỗi lầm của chúng ta để cho chúng ta được hòa giải và sống trong tình yêu của Cha. Đó là Chúa Giê-su Ki-tô mà chúng ta tin trong lòng và tuyên xưng ngoài miệng. Cách tuyên xưng thuyết phục nhất là sống theo giáo lý, mệnh lệnh, giới răn của Chúa.
3.1.3 Bài Tin Mừng (Lc 4, 1-13) là đoạn Phúc âm Lu-ca tường thuật cách sống động và tỷ mỷ về những cơn/đợt/chước cám dỗ mà Sa-tan đã bày ra với Chúa Giê-su trong hoang địa. Sa-tan tìm hết mọi cách để kéo Chúa Giê-su ra khỏi vòng thân mật và đường lối của Thiên Chúa. Còn Chúa Giê-su thì nhất định không nhượng bộ Sa-tan một ly một tý nào. Của cải, vinh hoa, phú quý, lạc thú, quyền lực…. đối với Người, chả là gì cả! Trước sau Chúa Giê-su chỉ nghe Lời của Cha, chỉ thực hiện chỉ thị của Cha, chỉ tìm kiếm những gì làm đẹp lòng Cha mà thôi!
Trong đoạn Phúc Âm Lc 4, 1-13 này, chúng ta thấy Chúa Giê-su quả là Con Chí Ái của Cha và là mẫu mực cho cách sống -từ suy nghĩ qua lời nói và đến hành động- quy phục Thiên Chúa với tất cả lòng yêu thương, trí sáng suốt và ý chí kiên cường. Chúng ta hãy học với Người để (a) không bị Sa-tan, thế gian và xác thịt lừa gạt hay gài bẫy và (b) để luôn được sống trong tình thân và sự quy phục Thiên Chúa.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa:
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là thề hiện thái độ và hành động của những kẻ tin vào Thiên Chúa vì Thiên Chúa đã cứu thoát và hướng dẫn chúng ta từng giây từng phút. Chúng ta cứ nhìn vào Chúa Giê-su mà học theo: trong cơn cám dỗ của Sa-tan, Người đã kiên cường thể hiện thái độ và hành động của Người Con Chí Ái của Cha, Người Con mà Cha hết sức hài lòng.
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa
Là Đấng rất gần gũi và thân thương đã ra tay cứu thoát con dân Ít-ra-en khỏi cảnh nô lệ Ai-cập và đưa dân vào Miến Đất Hứa.
Là Chúa Giê-su, Đấng đã chiến thắng thần dữ là xa-tan trong hoang địa để gắn bó với Đấng đã sai Người đến trần gian để cứu chuộc nhân loại tội lỗi.
Là Chúa Thánh Thần, Đấng luôn thông hiệp với Chúa Cha và với Chúa Con (Chúa Giê-su) trong mọi công trình tạo dựng và cứu độ nhân loại.
4.2 Thực thi Sứ điệp của Người
Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi xét mình xem hàng ngày/tuần tôi sống với Thiên Chúa như thế nào:
* Tôi có cảm nhận được Thiên Chúa là Đấng hết sức gần gũi, lắng nghe, ra tay cứu vớt và ban muôn vàn ơn cho tôi không?
* Tôi có thể hiện thái độ và hành động của kẻ tin vào Thiên Chúa hay tôi sống chẳng khác gì những người không biết, không tin Chúa?
* Tôi có chạy đến với Thiên Chúa và kêu cầu Người mỗi khi tôi bị áp bức, bóc lột, đau khổ không? Hay tôi chạy đến thày bói, tử vi, tướng số, cầu cơ, bùa ngải, người đời để cậy nhờ trong những lúc gặp khó khăn, bế tắc?
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
5.1 «Người đã nghe tiếng chúng tôi, đã thấy cảnh khổ cực, lầm than, áp bức chúng tôi phải chịu, đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, đã gây kinh hồn táng đởm và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, để giải thóat chúng tôi»Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho loài người ngày hôm nay, nhất là cho những người bị áp bức, lầm than, cơ cực về vật chất cũng như tinh thần, để họ được Thiên Chúa đoái thương và giải thoát.
Xướng: Chúng ta hãy cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
5.2 «Khi anh (em) đến dâng của đầu mùa, tư tế sẽ nhận lấy giỏ từ tay anh (em) và đem đặt trước bàn thờ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em)» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Hội Thánh Công Giáo khắp năm châu, cách riêng cho Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, Tu Sĩ và giáo dân để mọi Ki-tô hữu biết thể hiện lòng biết ơn đối với Thiên Chúa là Nguồn Mạch Mọi Ơn!
Xướng: Chúng ta hãy cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
5.3 «Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Ki-tô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, được ơn yêu mến việc đọc, học và suy niệm Lời Chúa để hàng ngày được Lời Chúa nuôi dưỡng một cách phong phú và bền lâu.
Xướng: Chúng ta hãy cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
5.4 «Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho tất cả những ai đang mòn mỏi chờ đợi được giải thoát khỏi cảnh bệnh tật, đói nghèo, bất công, áp bức, để họ cảm nghiệm được Lời Chúa là Lời hằng sống và linh nghiệm!
Xướng: Chúng ta hãy cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
Cám dỗ là chuyện xưa như trái đất. Cám dỗ xuất hiện cùng với sự có mặt của con người. Hẳn chúng ta không thể quên được chuyện hai ông bà nguyên tổ sa chước cám dỗ của ma quỉ. Dân Do thái, khi bị nô lệ dưới ách người Ai cập thì muốn được tự do, nhưng khi lang thang 40 năm trong sa mạc, phải chịu đói khát, lại bị cám dỗ muốn quay trở lại Ai cập để đươc no ấm.
A. Có thể nói, 3 cơn cám dỗ mà Đức Giê-su phải đương đầu hôm nay gồm tóm tất cả mọi thứ cám dỗ mà con người thường gặp.
Sau khi Đức Giê-su ăn chay 40 đêm ngày, Chúa càm thấy đói. Đói là một hiện tượng sinh lý rất thường tình khi con người nhịn ăn nhịn uống lâu. Ma quỉ thấy vậy liền đề nghị Chúa biến đá thành bánh mà ăn.
Thật là một đề nghị hợp lý. Đói thì phải ăn. Muốn ăn phải có bánh. Nhưng có bánh bằng cách nào mới là vấn đề. Không phải cứ có nhu cầu là phải thoả mãn ngay. Và nhất là không được dùng những cách không hợp đạo lý để thoả mãn những nhu cầu của mình.
Cơm bánh tượng trưng cho những nhu cầu thiết yếu của con người. Nhu cầu của con người thì có rất nhiều và xem chừng có khuynh hướng ngày càng gia tăng và cũng vì thế mà cơn cám dỗ thoả mãn nhu cầu ngày càng lớn.
Cơn cám dỗ thứ hai: muốn có quyền lực thống trị.
Ma quỉ biết Đức Giê-su muốn cứu độ loài người, nên đề nghị tặng Người tất cả các nước trên trần gian. Có lẽ nhiều người nghĩ rằng đề nghị của ma quỉ là hợp lý. Cứ có quyền thống trị trên hết mọi dân nước rồi nói gì người ta chẳng nghe. Chúa sẽ không phải mất công chịu đau khổ và chịu chết. Chỉ cần quì xuống thờ lạy ma quỉ, vua quan, dân chúng các nước sẽ răm rắp tuân theo.
Thật là tiện lợi. Quyền lực là một cơn cám dỗ muôn đời của nhân loại. Từ ngàn xưa, vua chúa các nước đã không ngừng gây chiến để tranh giành quyền lực. Ngày nay, trong các cuộc chiến mới, người ta không còn giết nhau bằng gươm đao, súng đạn, nhưng bằng quyền lực kinh tế, khoa học, kỹ thuật. Tuy êm đềm nhưng cuộc chiến vô cùng khốc liệt. Cơn cám dỗ về quyền lực để thống trị không những không suy giảm mà còn mãnh liệt hơn.
Cơn cám dỗ thứ ba: tìm những điều kỳ lạ. Muốn những chuyện thần kỳ. Muốn làm được những việc kinh thiên động địa. Muốn có những thành công lẫy lừng. Cơn cám dỗ này thúc đẩy người ta đổ xô đi tìm phép lạ. Cơn cám dỗ xây tháp Ba-ben từ ngàn xưa vẫn còn tiếp diễn.
B. Xuyên qua những cơn cám dỗ ấy ta thấy ma quỉ thật vô cùng tinh khôn và hiểm độc.
Với cơn cám dỗ thứ nhất, ma quỉ muốn xô đẩy con người vào chỗ làm nô lệ cho dục vọng. Xúi giục con người chỉ tìm thoả mãn những bản năng thấp hèn. Giới hạn con người vào sự sống xác thịt.
Đức Giê-su đã vạch trần âm mưu của ma quỉ khi Người cho biết con người không chỉ có đời sống thể lý mà còn có đời sống tâm linh. Khi quyết tâm chống lại cơn cám dỗ thoả mãn những nhu cầu thân xác để chăm lo cho sự sống tâm linh Chúa đã nâng cao phẩm giá con người lên.
Với cơn cám dỗ thứ hai, ma quỉ muốn biến con người thành nô lệ cho tham vọng, nô lệ cho ma quỉ. Vì ham hố chức quyền, vì mưu cầu danh vọng mà con người đánh mất tự do của mình, cam tâm làm nô lệ cho ma quỉ và vì tham danh vọng mà đánh mất cả chính mình.
Đức Giê-su đã vạch trần âm mưu đen tối của ma quỉ khi cương quyết chối từ danh vọng quyền thế. Chúa còn chỉ cho ta con đường duy nhất phải theo đó là thờ phượng Thiên chúa. Chỉ có thờ phượng Thiên chúa mới đem đến cho con người tự do đích thực, tự do trong tâm hồn, không bị nô lệ một tham vọng nào.
Với cơn cám dỗ thứ ba, ma quỉ đẩy con người vào sự nô lệ cho cuồng vọng, điên cuồng …đến chống lại cả Thiên Chúa, dùng Thiên chúa để phục vụ cho những ước vọng ngông cuồng của mình. không còn đến với Thiên Chúa trong tâm tình của người con thảo đối với Cha hiền nữa.
Đức Giê-su đã vạch trần âm mưu của ma quỉ khi Người chỉ cho ta con đường của người con hiếu thảo. Người con hiếu thảo là người luôn tin cậy phó thác và luôn làm theo ý Cha, chứ không bao giờ dám thách thức Cha. Người con hiếu thảo là người luôn vâng lệnh Cha sai bảo chứ không bao giờ dám sai bảo Cha.
Cám dỗ của ma quỉ hiểm độc vì nó tiến từng bước: Từ hạ thấp phẩm giá con người khi khiến con người làm nô lệ cho dục vọng đến cướp mất tự do của con người khi xui giục con người nô lệ cho ma quỉ và sau cùng đi đến chỗ tận cùng là chối bỏ Thiên chúa, không coi Thiên chúa là cha. Cám dỗ càng hiểm độc hơn vì ma quỉ đã khéo léo bọc những âm mưu thâm hiểm trong lớp vỏ nhung lụa, êm ái, hợp lý và đầy quyến rũ của những nhu cầu, quyền lực và uy tín.
Ngày xưa là như thế. Ngày nay cũng như vậy. Những cơn cám dỗ của ma quỉ vẫn như những chiếc bẫy giăng ra để trói buộc con người trong vòng nô lệ. Cám dỗ càng ngày càng tinh vi và càng ngọt ngào hơn nên càng hiểm độc hơn. Muốn chống trả được những cơn cám dỗ, ta phải bắt chước Đức Giê-su dùng những vũ khí sắc bén, đó là ăn chay cầu nguyện, thấm nhuần Lời Chúa và nói “KHÔNG” ngay với những mời mọc ngọt ngào của ma quỉ dưới mọi hình thức.
Trong cuộc chiến một mất một còn này không có chỗ cho thái độ chần trừ, bàng quang, ngoại cuộc, thỏa hiệp ảo tưởng. Với sự tự do được ban cho, con người phải lựa chọn dứt khoát để nói lên thái độ của mình. Ở đây câu phúc âm “Không ai có thể làm tôi hai chủ” đòi hỏi một thái độ dứt khoát tuyệt đối trong nghĩa gốc cũng như trong nghĩa loại suy,
Trong kho chuyện ngụ ngôn của người Tây Phương có câu chuyện này: Có một ông già kia vì thân phận cô thân cô thế nên quanh năm ngày tháng chỉ biết vui với hoa cỏ, không có ai để bày tỏ sự tình. Một hôm kia ông đi ra khỏi chốn quạnh hiu của mình, mong tìm được một ai đó cho có bạn.
Rất may ông gặp được một con gấu. Thân phận nó cũng cô đơn không kém gì ông. Thế là ông già bằng lòng rước nó về nhà cùng nhau sớm hôm sum vầy. Gấu hết lòng trung hậu, hằng ngày ra công giúp đỡ làm cho ông già đẹp dạ vui lòng.
Một hôm, ông già ngủ trưa. Gấu ta ngồi một bên đuổi ruồi đập muỗi. Có một con ruồi cứ bay đi bay lại rồi đậu trên mũi ông già. Gấu ta đuổi đi nhưng nó lại bay trở lại và đậu trên đó nữa. Gấu hết sức giận, thấy bên cạnh có một viên đá bèn bê nó lên rồi rình mà ném một cái để giết con ruồi chết đi. Thế nhưng đâu có dè là…Con ruồi đã không hề hấn gì vì nó đã vội bay đi trước và hòn đá kết thúc cuộc đời của ông già trước sự ngỡ ngàng của gấu!
Chơi dao có ngày đứt tay, đùa với lửa có ngày gây nên hỏa hoạn: Con người biết rất rõ đó là những bài học và đã có biết bao thí dụ “xương máu” để chứng minh, thế nhưng vẫn còn không ít người sạ lầy ngay trên bánh xe của người đi trước.
Lạy Chúa, trong khi báo trước cho chúng con rằng “Maquỉ muốn sàng sảy chúng con như người ta sàng gạo”, và “hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì mau mắn nhưng xác thịt vốn yếu đuối”, Chúa muốn chúng cơn ý thức rõ cuộc chiến dai dẳng và khó khăn đang chờ đợi chúng con. Đồng thời, Chúa cũng cho chúng con biết, trong cuộc chiến đấu này, chúng con không chiến đấu một mình.
Xin cho chúng con khi được củng cố bằng niềm tin mạnh mẽ để khi buớc vào cuộc chiến đấu với chính mình, một cuộc chiến gay go và nguy hiểm nhất trên đời này chúng con sẽ không phải hoảng sợ vì Chúa luôn đồng hành với chúng con để giúp chúng con chiến đấu và chiến thắng. Lạy Chúa, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.
Có nhiều thứ cạm bẫy trong cuộc sống hằng ngày. Với nghĩa đen, đơn giản như xen cán đinh hoặc chính mình đạp vào đinh. Với nghĩa bóng là những thứ cám dỗ về mọi thứ: danh vọng, tiền tài, nhục dục, tự ái,… Cạm bẫy là chước cám dỗ – hữu hình và vô hình. Sự cám dỗ là lòng ham muốn nổi lên mạnh đến mức có thể làm cho chúng ta chịu thua, sa ngã. Cơn cám dỗ có thể do ma quỷ, do người khác (thế gian), do chính mình (xác thịt) – gọi là ba thù. Cơn cám dỗ tìm mọi cách quyến rũ người ta làm việc gì đó không hay, không tốt, lén lút, bất chính.
Mặc dù định nghĩa như thế nào thì vẫn cho thấy rằng sự cám dỗ có động lực xấu, trái với luân thường đạo lý, mang tính liên đới là gây hậu quả xấu cho chính mình và người khác. Cạm bẫy sập bất cứ lúc nào đối với bất cứ ai “va chạm” vào nó. Cám dỗ cũng không phân biệt ai – nam, phụ, lão ấu, dân thường hay người có chức vị.
Cám dỗ rất đa dạng và có nhiều mức độ, càng ngày càng tinh vi nên càng khó nhận ra, do đó càng cần cảnh giác cao độ hơn. Ngày xưa, khi suy nghĩ về những cơn cám dỗ của đời thường, cụ Tú Xương đã phải “gãi đầu”, vừa thở dài vừa thốt lên:
Một trà, một rượu, một đàn bà Ba cái lăng nhăng nó quấy ta Chừa được thứ nào hay thứ ấy Có chăng chừa rượu với chừa trà
Những thứ lăng nhăng mà lại có thể gây rối lằng nhằng, mấy thứ nho nhỏ mà lại không hề nhỏ chút nào. Cái bẫy không lớn mà làm đau điếng. Can đảm chống lại cơn cám dỗ là điều khó thực hiện, và chừa được tật xấu nào đó cũng thật là nhiêu khê, chẳng ai dám nói mạnh. Chỉ trong tích tắc cũng đủ người ta phải ân hận cả đời. Cũng vì thế mà chúng ta cần sự cảm thông, yêu thương và tha thứ cho nhau. Đó cũng là một dạng “ăn chay” vậy.
Có nhiều thứ cần dâng tiến Chúa, đặc biệt vào dịp Mùa Chay. Đã đành là dâng nhiều thứ, nhưng có một thứ mà có lẽ ít người dâng, đó là tội lỗi của chúng ta. Dâng cho Chúa cái khốn nạn của mình để xin Ngài biến đổi chúng ta nên khí cụ tốt lành theo ý Ngài. Về sản phẩm đầu mùa, sách Đệ Nhị Luật cho biết: “Tư tế sẽ nhận lấy giỏ từ tay anh em và đem đặt trước bàn thờ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em. Bấy giờ, anh em sẽ lên tiếng thưa trước tôn nhan Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em rằng: Người Ai-cập đã ngược đãi, hành hạ chúng tôi và đặt ách nô lệ trên vai chúng tôi” (Ðnl 26:4-6). Kẻ thù nào cũng đáng sợ, nhưng kẻ thù đáng sợ nhất không ai xa lạ, mà là chính mình – loại nội gián nguy hiểm nhất.
Kinh Thánh cho biết rằng lúc đó, họ đã kêu lên cùng Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông họ; và Ngài đã nghe tiếng kêu xin của họ, đã thấy cảnh khổ cực, lầm than, áp bức mà họ phải chịu. Vì thế, chính Ngài đã đích thân “dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, đã gây kinh hồn táng đởm và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng để đưa họ ra khỏi Ai-cập” (Ðnl 26:8). Chắc chắn Thiên Chúa không bỏ rơi ai bao giờ, chỉ tại người ta không cần đến Ngài mà thôi.
Thật vậy, họ không chỉ được Thiên Chúa cứu thoát, mà còn được ban cho những thứ ngoài sức tưởng tượng: “Ngài đã đưa chúng tôi vào đây, ban cho chúng tôi đất này, ĐẤT TRÀN TRỀ SỮA VÀ MẬT. Và bây giờ, lạy Đức Chúa, này con xin dâng sản phẩm đầu mùa của đất đai mà Ngài đã ban cho con” (Ðnl 26:9-10). Đó là động thái của lòng biết ơn, một động thái rất cần thiết trong cuộc sống thường nhật, đối với cả Thiên Chúa và tha nhân. Thiên Chúa đại lượng và hào phóng hơn chúng ta tưởng, đôi khi chúng ta chưa mở lời cầu xin mà Ngài đã ban cho dư dật rồi. Vậy mà đôi khi chúng ta vẫn vô ơn thì quả là tệ thật!
Thánh Vịnh gia mời gọi: “Hỡi ai nương tựa Đấng Tối Cao và núp bóng Đấng quyền năng tuyệt đối, hãy thưa với Chúa rằng: Lạy Thiên Chúa, Ngài là nơi con náu ẩn, là đồn luỹ chở che, con tin tưởng vào Ngài” (Tv 91:1-2). Thiên Chúa thấu suốt mọi sự (1 Sb 28:9b; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Gr 10:12; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 10:12; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 2:10; 1 Cr 12:4-6; 1 Ga 3:20), ngay từ trong suy nghĩ, nhưng bổn phận chúng ta vẫn phải chân thành cầu nguyện. Nếu biết tín thác vào Ngài, chúng ta sẽ có lợi nhiều: “Bạn sẽ không gặp điều ác hại, và tai ương không bén mảng tới nhà, bởi chưng Người truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Tv 91:10-12). Ai “sống khôn” như vậy thì chỉ có lợi mà thôi – và tất nhiên cũng… “chết thiêng” đấy.
Thật vậy, chúng ta không chỉ lợi ích về tinh thần mà còn lợi ích cả về thể lý: “Bạn có thể giẫm lên hùm thiêng rắn độc, đạp nát đầu sư tử khủng long” (Tv 91:13). Đó là điều chắc chắn, vì chính Đức Chúa đã phán hứa: “Kẻ gắn bó cùng Ta sẽ được ơn giải thoát, người nhận biết danh Ta sẽ được sức phù trì. Khi kêu đến Ta, Ta liền đáp lại lúc ngặt nghèo có Ta ở kề bên” (Tv 91:14-15). Thật là trên cả tuyệt vời! Ngày nay vấn đề ngộ độc nhiều, rất dễ bị, nhưng chắc chắn Ngài sẽ ngăn chặn hoặc chữa lành đúng lúc, kịp thời.
Vừa đặt vấn đề vừa giải quyết vấn đề, Thánh Phaolô nói: “Kinh Thánh nói gì? Thưa: Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời đó chính là lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin” (Rm 10:8). Lời Chúa được Giáo Hội quý trọng như Thánh Thể, nhưng cả hai đều đòi hỏi người ta phải có đức tin minh bạch và mạnh mẽ – nếu không thì sẽ dễ lệch lạc. Thánh nhân giải thích: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ. Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ” (Rm 10:9-10). Thật lạ, người Việt chúng ta cũng có kiểu nói tương tự: “Có đầy mới tràn”. Lòng có thế nào thì mới nói ra, sẽ chẳng giấu được nếu bụng dạ thế này mà lời nói thế kia. Chắc chắn không thể giấu giếm được!
Rạch ròi và mạnh mẽ, Kinh Thánh minh định: “Mọi kẻ tin vào Ngài sẽ không phải thất vọng” (Rm 10:11). Vì thế, không có sự khác biệt giữa người này với người kia, dân tộc này hay dân tộc nọ, người lượm ve chai hay ông giám đốc, giáo sĩ hay giáo dân,… vì tất cả đều có cùng một Chúa, là Đấng quảng đại đối với tất cả những ai kêu cầu Ngài. Tắt một lời: “Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát” (Rm 10:13). Đó là lời hứa tuyệt đối. Thiên Chúa không bao giờ sai lời!
Là người rất cẩn thận tra cứu khi viết Tin Mừng, Thánh sử Luca kể: Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về. Suốt bốn mươi ngày, Ngài được Thánh Thần DẪN ĐI TRONG HOANG ĐỊA và CHỊU QUỶ CÁM DỖ. Trong những ngày ấy, Ngài không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó, theo nhân tính, Ngài cũng cảm thấy đói. Bởi vì theo nhân tính, Chúa Giêsu hoàn toàn giống chúng ta – chỉ trừ tội lỗi.
Hẳn là ai cũng đã ít nhiều kinh nghiệm rằng vật chất là một trong những thứ cám dỗ mạnh nhất, đặc biệt là thực phẩm khi người ta đói ngấu. Thằng Bờm không cần gì khác ngoài nắm xôi vì nó đang đói lắm. Chẳng vậy mà người ta có thể liều mạng mà cướp giật thực phẩm của người khác và ăn ngấu nghiến, danh dự lúc này cũng chỉ là “chuyện nhỏ”. Điều đó cũng cho thấy bản năng sinh tồn của con người rất mạnh. Thế nhưng ở Việt Nam lại có một thực tế phũ phàng: Vì đói mà giật mấy ổ bánh mì thì bị kết án tù vài năm, còn những kẻ giàu có nhờ khéo cướp công khai thì cứ phè phỡn, ung dung. Thật là bất công và khốn nạn quá!
Ma quỷ rất tinh ranh, hôm đó nó nói với Chúa Giêsu: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh đi!” (Lc 4:3). Đúng là ngu mà chảnh, điếc không sợ súng, cùi không sợ lở. Nó tưởng bở, nhưng bị Đức Giêsu “phang” ngay: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Lc 4:4). Trứng không thể khôn hơn vịt được!
Đúng là ma quỷ, rất ma mãnh và quỷ quyệt. Thua keo này, nó tìm cách bày keo khác. Nó đem Đức Giêsu lên cao, và trong giây lát, nó chỉ cho Ngài thấy tất cả các nước thiên hạ. Rồi nó “dụ” Ngài: “Tôi sẽ cho ông TOÀN QUYỀN CAI TRỊ cùng với VINH HOA LỢI LỘC của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông bái lạy tôi thì tất cả sẽ thuộc về ông” (Lc 4:6-7). Nhưng Đức Giêsu nói thẳng ngay: “Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và PHẢI THỜ PHƯỢNG MỘT MÌNH NGÀI mà thôi” (Lc 4:8). Ma quỷ chỉ là thụ tạo, nhãi ranh mà đòi dạy khôn sao?
Chúng ta cũng thường xuyên gặp những “bả” liên quan vinh hoa và lợi lộc trong cuộc sống đời thường, thế nên kẻ nào “yếu bóng vía” liền dính líu vào vụ tham nhũng này, hối lộ kia, hoặc làm giấy tờ khống để lừa bịp và ăn chặn của người khác. Trong các đoàn thể cũng không phải không có “bả” này, vì thế mà người ta hay “lên mặt” vì có một chức danh nào đó, vì thế mà người ta muốn “ra lệnh” hoặc muốn chứng tỏ mình là người “hét ra lửa, mửa ra khói”. Ngay trong các giáo phận, giáo xứ, chủng viện và tu viện cũng không loại trừ! Nói chung, ai cũng muốn mình phải là “số dzách” (số một, number one). Nhưng liệu có thể làm gì ích lợi cho người khác, hay chỉ là “con số không” to lớn và rỗng tuếch?
Máu ác, gien độc nên ma quỷ luôn kiêu ngạo. Sau hai lần thua cuộc, hẳn là nó rất tức giân nên nó lại lập mưu khác. Nó đem Đức Giêsu đến Giêrusalem và đặt Ngài trên nóc Đền Thờ, rồi “khoe mẽ” và “nổ tung” tới chín tầng mây: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì đứng đây mà gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn. Lại còn chép rằng: Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Lc 4:9-11). Nhái bén mà to gan thật. Chỉ là nhãi ranh mà dám thách thức Thiên Chúa. Bẩn phải lau, sâu phải triệt, rác phải bỏ, cỏ phải nhổ, quỷ phải diệt. Đó là việc cần làm và phải làm ngay!
Cũng như hai lần trước, Đức Giêsu nghiêm nghị nói ngay lập tức: “Đã có lời rằng: Ngươi CHỚ THỬ THÁCH Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Lc 4:12). Vô phương. Thế là quỷ đành chịu“bó tay”, hết cách xoay xở hòng cám dỗ Ngài. Nó lủi thủi bỏ đi như chó cụp đuôi chạy vì sợ, nó “cay cú” lắm, nên nó vẫn rắp tâm mưu mô ranh mãnh là “chờ đợi thời cơ” (Lc 4:13). Nó không làm gì được Con Người Giêsu nên nó vẫn tìm mọi cách giăng bẫy để bắt các Kitô hữu, bẫy cơ bản nhất là thói kiêu ngạo, từ loại bẫy này sẽ sinh ra đủ thứ bẫy khác.
Ba kẻ đại thù là ma quỷ, thế gian, và xác thịt. Cuộc đời không hết các loại cạm bẫy, cuộc sống cũng không lúc nào hết các dạng cám dỗ trên đường lữ hành trần gian này. Cám dỗ như những con sóng ngoài biển khơi, không sóng lớn thì sóng nhỏ, không sóng cồn thì sóng ngầm, chứ biển chẳng bao giờ hết sóng, ngay cả những lúc chúng ta thấy biển có vẻ êm ả nhất. Vì thế, luôn cần phải tỉnh thức và cầu nguyện: “Hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối” (Mc 14:38).
Ngày nay càng phải cầu nguyện nhiều hơn vì cạm bẫy tinh vi hơn nhiều, ẩn náu khéo hơn, cụ thể là internet và các trang mạng xã hội như twitter, facebook,… Chúng cũng gây nghiện, và mức độ nguy hiểm cũng chẳng khác so với ma túy. Có “ngáo đá” thì cũng có “ngáo net”. Sự an toàn bị đe dọa và khó thoát hơn, thế nên càng phải cẩn trọng và cảnh giác cao độ hơn trước!
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin giúp chúng con đủ sức mạnh để thoát khỏi mọi cạm bẫy cuộc đời, quyết tâm chống lại các chước cám dỗ – mọi nơi và mọi lúc. Xin đánh thức chúng con để không ngủ mê và sáng suốt hành động theo hướng dẫn của Thần Khí. Lạy Đại Sư Giêsu, Ngài đã chiến thắng mọi mưu mô xảo quyệt của ma quỷ để chúng con noi gương, xin giúp chúng con vững bước theo Ngài lên tới Can-vê. Chúng con cầu xin và cậy nhờ công nghiệp của Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Từ sau khi nguyên tổ loài người bị sa ngã chước cám dỗ thì tội lỗi đã xâm nhập vào thế gian. Và có thể nói được rằng: cám dỗ đã trở nên một hệ quả tất yếu của con người khi chúng ta bước vào trần gian này. Dù muốn hay không chúng ta đều phải chịu những chước cám dỗ trong đời sống. Chỉ có khác chăng là chiến thắng hay gục ngã mà thôi. Ađam và Evà là nguyên tổ của loài người đã bị gục ngã chước cám dỗ. Còn Đức Giêsu được xem là Ađam mới, Ngài đã chiến thắng mọi chước cám dỗ. Vậy thì nguyên nhân do đâu mà nguyên tổ đã gục ngã chước cám dỗ? Còn Đức Giêsu Ngài đã dựa vào đâu để mà chiến thắng mọi cám dỗ?
Trước hết, dựa vào sách Sáng thế chúng ta biết được rằng sau khi tạo dựng nên muôn loài muôn vật và con người thì Thiên Chúa đặt con người vào trong vườn địa đàng để cai quản, chăm sóc và hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Thế nhưng hạnh phúc ấy không được dài lâu khi mà nguyên tổ của loài người bị sa chước cám dỗ. Với sự tinh ranh của ma quỷ nó đánh vào bản năng của con người làm cho con người tỏ ra nghi ngờ và mất niềm tin vào Thiên Chúa. Bản năng ăn uống thèm khát của thể xác, nó khơi dậy bản năng phản kháng bất tuân lệnh Chúa và sau cùng, nguyên tổ sa ngã ở “ý chí quyền lực”, bản năng đòi bá chủ và thống trị muốn ngang hàng với Thiên Chúa. Ađam và Evà đã bị trúng kế và gục ngã một cách thảm thương chước cám dỗ của ma quỷ khi làm theo sự xúi dục của nó mà quên đi lời căn dặn của Thiên Chúa, không sống theo lời Chúa dạy.
Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay giới thiệu Chúa Giêsu là Ađam mới, Đấng chiến thắng mọi chước cám dỗ. Tin Mừng thuật lại cho chúng ta biết là sau bốn mươi đêm ngày ăn chay trong sa mạc Chúa Giêsu cũng bị Satan cám dỗ. Các cơn cám dỗ Chúa Giêsu chịu cũng giống như Ađam và Evà. Ma quỷ cũng tấn công vào bản năng sinh tồn, vào việc gieo rắc sự nghi ngờ với Chúa Cha và bản năng thống trị quyền lực. Nhưng Chúa Giêsu đã không gục ngã mà Ngài đã chiến thắng. Tất cả là nhờ vào việc “lắng nghe và thực thi lời của Chúa Cha”. Thật vậy, Đức Giêsu sẽ không thể thắng được các cơn cám dỗ nếu Ngài chỉ qui hướng về mình. Ngài sẽ thua ma quỉ nếu Ngài tìm vinh danh mình khi hóa đá thành bánh. Ngài sẽ bị sập bẫy Satan khi nhảy xuống từ nóc cao đền thờ để được khen ngợi tung hô. Ngài sẽ thất bại thảm thương khi quỳ lạy ma quỉ để được vinh hoa thế gian. Nhưng không, Ngài đã không làm thế, vì tinh thần chủ đạo của Ngài, vũ khí sắc bén của Ngài chính là: “sống theo Thánh ý Cha”. Đức Giêsu đã cương quyết tuân phục thánh ý Chúa Cha nên đã chiến thắng tất cả các cơn cám dỗ. Khác với Ađam và Evà, Đức Giêsu, Ađam mới, đã biết lựa chọn đúng và kết quả là đem lại ơn cứu rỗi và sự sống cho loài người.
Kính thưa cộng đoàn,
Cám dỗ là một cái gì hết sức mạnh mẽ, lôi cuốn và rất khó chống cự. Cám dỗ gắn liền với cuộc đời chúng ta mọi nơi mọi lúc. Điều quan trọng là chúng ta chiến thắng hay quỵ ngã. Dĩ nhiên ai trong chúng ta cũng muốn là người chiến thắng, muốn thành công, muốn đạt được kết quả mà mình mong đợi, nhưng bằng cách nào? Chính lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay qua mẫu gương của Chúa Giêsu gợi mở cho chúng ta điều đó. Chúa Giêsu đã chiến thắng chước cám dỗ của ma quỷ nhờ vào việc “sống theo Thánh ý Cha, sống theo lời Cha”. Vì thế, bước vào mùa chay thánh một lần nữa Chúa mời gọi chúng ta cần chiêm ngắm suy niệm Lời Chúa mỗi ngày trong nguyện cầu, để Lời Chúa chạm vào lòng mình, biến đổi cách sống, cách suy nghĩ và hành động của chúng ta sao cho phù hợp với nếp sống của Chúa Giêsu Kitô. Như vậy chúng ta mới có thể can trường vượt qua những thử thách của ma quỷ. Ước gì mỗi khi bị cám dỗ chúng ta luôn biết tìm đến với Chúa để nhờ ân sủng Chúa sẽ giúp chúng ta vượt thắng được. Amen.
Năm 1971, báo chí có đăng tải một câu chuyện là lạ có thật mà cũng khó tin như thế này: Ở Vineland bang New Jersey, một thanh niên 21 tuổi tên là Mike đã làm một nghi lễ tôn thờ Satan bằng cách bóp nát 2 con chuột cống trong 2 bàn tay của mình và lấy máu bôi lên áo rồi yêu cầu 2 người bạn của mình trói tay chân của anh ta lại rồi thảy xuống nước. Mike tha thiết thuyết phục 2 người bạn đẩy anh ta xuống hồ nước để nhìn xem anh ta vùng vẫy và chết như thế nào. Tại sao lại như vậy ?
Thưa, Mike là một người thờ ma quỉ. Anh ta bị ám ảnh bởi tư tưởng quỉ quái này: là nếu anh bị sát hại, thì sẽ tái sinh thành vị tướng chỉ huy 40 đạo quân ma quỉ ? Chúng ta nghe chuyện, cho anh chàng Mike này là mát là hâm là chạm điện, khi không lại thờ ma quỉ với tư tưởng quỉ quái ! Nhưng chúng ta đừng quên tại Hoa Kỳ, một số người đang quay trở về thờ ma quỉ. Một khu phố ở San Francisco có ngôi đền thờ Satan, với hơn 10 ngàn người lui tới vái lạy…
Bộ mặt của ma quỉ: đen thui (đối với người da đen: quỉ màu trắng !), có sừng, có đuôi, gớm ghiếc mà vẫn có người thờ. Hành động thờ nó cũng ghê rợn, máu me, quái ác, vậy mà cũng có kẻ thực thi, đi theo. .. huống gì là ma quỉ khôn ngoan lắm, “ma nó quỉ lắm,” “quỉ nó ma lắm” (chỉ thua Đức Chúa Trời một chút !), nó không dại gì xuất đầu lộ diện nguyên hình xấu xí của nó, mà nó ẩn mình dưới nhiều bộ mặt đáng yêu, như thế thì sức mấy ta không tôn thờ. Trong Tây Du Ký, yêu quái xuất hiện như những nàng tiên cám dỗ Đường Tăng. Trong Thạch Sanh – Lý Thông: yêu quái xuất hiện như chàng thanh niên giỏi giang tuấn tú, để cướp cho được công chúa mỹ miều. Và còn muôn vàn bộ mặt đáng yêu đáng quý khác như vàng bạc lấp lánh, quyền thế oai linh, danh vọng tột đỉnh, mà quỉ ma núp bóng, ẩn mình, che mặt để ta phải sụp lạy.
Trong muôn vàn bộ mặt đó, hôm nay chỉ nhắc đến một bộ mặt: đó là bộ mặt “người”: vì Mùa Chay, mùa nhắc chúng ta đến Phép Rửa mà Công Đồng đã ra lệnh phải làm nổi bật trong 40 ngày này.
Ma quỉ ẩn hình dưới dạng con người để nhân loại phải thờ lạy. Khi người ta không thờ lạy Thiên Chúa, thì người ta phải tìm một cái gì khác để lạy lục. Satan đã khôn ngoan tìm giúp ta: con người. Con người có 3 mặt: con người nói chung (nhân loại) ; con người là một người nào đó; con người là chính mình.
1.- Quỉ dưới bộ mặt con người nói chung: chúng ta thấy rõ lắm. Càng khoa học, càng tối tân, con người càng nghĩ rằng chính con người sẽ trả lời tất cả mọi đòi hỏi, thắc mắc của con người: máy tính điện tử do con người sáng tạo, mạnh như Deep Blue của hãng IBM sẽ trả lời hết các câu hỏi, kể cả câu hỏi “có Chúa không, có đời sau không ?”
Điển hình cho việc thờ lạy loài người là bài xã luận sau lần đầu tiên con người phóng thành công vệ tinh Spoutnik lên không gian, đưa Gagarin vào quĩ đạo. Bài xã luận coi đây là ngày thứ 8 của công cuộc sáng tạo: “Chúng tôi đã hoàn tất công cuộc sáng tạo. Chúng tôi còn qua mặt công cuộc sáng tạo nữa. Vệ tinh chúng tôi phóng lên đang chạy vòng quanh trái đất, tuân theo ý muốn của con người. Từ nay không ai còn có thể nói được có một Thiên Chúa đã điều khiển vũ trụ trăng sao.”
Ta không bình luận bài xã luận đó. Nhưng nêu lên để cho ta thấy một điển hình muốn nâng con người lên hàng Thượng đế, có khi hơn cả Thượng Đế !
Các nhà khoa học ở Trường Đại học Tyne (Anh) tuyên bố họ đã sẵn sàng trong việc tạo tinh trùng từ tủy xương phụ nữ. Nghĩa là, trong tương lai gần, phụ nữ không cần tinh trùng của đàn ông để sinh con. Bước đột phá này sẽ mở đường cho những cặp “vợ chồng” đồng tính nữ có con một cách tự nhiên
Song song, các đôi “vợ chồng” đồng tính nam cũng hoàn toàn có hy vọng tạo con từ bản thân họ. Các nhà khoa học nói trên cũng đang nghiên cứu tạo trứng từ tủy xương của đàn ông. Trứng này sẽ được phối với tinh trùng của người bạn đời đồng tính rồi thuê tử cung của một phụ nữ để sinh con.
2.- Quỷ dưới dạng một con người nào đó: rõ ràng, cụ thể: người khác. Ta nói thờ lạy, chứ không chỉ tôn kính, coi trọng. Thờ lạy là coi người khác đó chính là thần tượng của mình. Thần tượng chỉ huy (viễn khiển: remote control) tất cả lời nói, hành động của ta và ta làm gì nói gì cũng qui về người đó, vì người đó. Hitler của đệ nhị thế chiến, nay nhiều bạn trẻ còn muốn làm sống lại. Ngày nay cũng có những kẻ thờ lãnh tụ. Có thời Lý Tiểu Long là thần tượng của võ thuật phim ảnh, Marađona của bóng đá, Madonna của ca hát một thời, Brigitte Bardot minh tinh cũng từng là thần tượng lắm kẻ theo. Ở Việt-Nam ta có các ca sĩ mà ta kết làm thần tượng, minh tinh tài tử Hàn Quốc mà ta không thấy mặt là chịu không được: thế là hớt tóc cho giống, nhuộm tóc cùng màu, quần áo y chang, nói đúng từng chữ. Hình ảnh thần tượng ta phóng to đặt lên bàn…thờ, dán trong buồng ngủ để trước khi nằm nhìn thấy mà gặp trong mơ. Đi đường mang theo trong ví, có hình thần tượng để ngắm mà lấy sức mạnh…
3.- Quỷ là chính ta. Đây đích thị là kiêu ngạo, ta thờ lạy ta, ta tự hào về mình. Một trong bảy mối tội đầu và cũng là tội nguyên thuỷ như Adong và Eva nguyên tổ loài người.
Adong và Evà muốn biết tất cả (thiện, ác) như Thiên Chúa, muốn làm chủ mình, một mình. Về mặt này, ma quỉ tinh vi lắm, đến độ mình thờ mình mà không biết.
Một người học giỏi cậy mình thông minh. Một người có tài cậy mình tháo vát. Một anh giàu cậy mình lắm của. Một cô duyên dáng cậy mình dễ thương, một cô đẹp đẽ ỷ mình là Tây Thi, một người quyền thế coi mình là tất cả. Ta thấy lặp đi lặp lại chữ “mình.” Mình là nhất, tìm cho ra được một cái nhất nào đó để thờ mình. Nếu không đẹp, thì có duyên nhất ; nếu không có duyên nhất, thì giàu nhất ; nếu không giàu nhất thì đạo đức nhất ; nếu không đạo đức nhất, thì ta đành đưa mình lên hàng khiêm nhường nhất. Mà mình là nhất thì Chúa phải nhì ! Nhất vợ thì trời phải nhì.
Có con quỉ kia cám dỗ nhà vua. Nó thấy nhà vua ngủ dậy trễ, nó đến cám dỗ bằng cách lay nhà vua dậy để đọc kinh. Tại sao vậy ? Bởi khi nhà vua dậy đúng giờ đọc kinh, thì tự hào tự cao, còn nhà vua dậy trễ, hối hận, xin tha, Chúa tha, là quỉ thua xa rồi. Chúa ghét kẻ kiêu ngạo, và yêu thương kẻ khiêm nhường. Mà nhiều khi ta nghĩ ta khiêm nhường nhất, lại chính lúc ta kiêu ngạo số một.
Quỉ cám dỗ để ta thờ ta mà ta không biết: nó núp bóng dưới một cái nhất nào đó của ta để ta dễ vênh vang…
Không biết Chúa Giêsu xưa được quỉ hiện ra dưới hình dạng nào để cám dỗ về của ăn, về giàu có, về quyền cao, chứ ngày nay, quỷ thường hiện hình dưới dạng con người để cám dỗ ta, dưới ba dạng người: người nói chung; một người cụ thể, và người đó chính là ta. Ta khó thoát đi đâu.
Tuy nhiên ta cũng có một vũ khí thắng quỉ: qui về Chúa.
Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Thiên Chúa, chứ không phải hình ảnh quỉ ma. Vì thế con người là nhất: đúng. Ngay từ đầu thuở sáng tạo, con người là nhất. Khi tổ tông phạm tội Chúa không bỏ mặc nhưng đã tái sáng tạo qua công trình cứu chuộc của Đức Giêsu. Sáng tạo đã kỳ diệu, tái tạo càng diệu kỳ hơn. Nếu sáng tạo con người là nhất thì tái tạo là nhất hơn nữa. Mà Chúa tái tạo, tái sinh ta qua Bí tích Thánh Tẩy (trong đêm vọng Phục sinh chúng ta long trọng cử hành hoặc nhớ lại). Vậy thì: Nếu quỉ cám dỗ tôi: Minh ơi, mày là nhất đó. thì tôi không ngần ngại gì mà không dĩ độc trị độc, tương kế tựu kế mà trả lời với quỉ rằng: “OK, sure, đúng thế, chính tao là nhất, là năm bơ oăn. Nhưng đó là do Chúa cho. Chúa làm người để người làm Chúa. Mà làm Chúa là nhất !”
Qua Phép Rửa tái sinh, ta được sinh lại làm con Chúa Cha, làm em Chúa Con, đồng thừa tự Nước Trời với Chúa Kitô (sunkleronomos).
Không phải chỉ hồn làm con Chúa, mà cả xác lẫn hồn đều được cứu, được làm con Chúa, được cùng đồng phục sinh với Chúa Kitô.
Ơn này lớn lao quá: Nếu vênh vang là công ta mà có, ta đã lọt bẫy quỷ ma. Nếu ta hướng về Chúa Cha mà cảm tạ, thì đó chính là vũ khí thắng ma quỷ. Chúa nhận ta làm con qua Phép Rửa tái sinh mà mùa chay là mùa nhắc ta nhớ lại vậy. Amen
Bị cám dỗ là thân phận của con người.Ai cũng đã một lần hay nhiều lần bị cám dỗ trong cuộc đời.Chúa Giêsu cũng đã bị cám dỗ.Người muốn chia sẻ kiếp sống con người, muốn nên đồng số phận với con người, với loài người. Chúa Giêsu đã chiến thắng tất cả các cơn cám dỗ để nêu gương cho con người noi gương bắt chước Người.
Trong Tin Mừng của thánh Luca hôm nay, chúng ta thấy Đức Giêsu bị ma quỷ cám dỗ về cả ba nhu cầu cốt yếu, căn bản của con người, của mọi người.Cám dỗ thứ nhất là cái đói. Dân Do Thái xưa trong sa mạc đã bị thử thách nặng nề về cơn đói, họ đã phàn nàn, than trách, Thiên Chúa đã ban Manna va Chim cút để nuôi sống họ. Cơn đói,cơn khát vẫn là những cám dỗ hằng ngày trong đời sống của nhân loại, của mỗi người chúng ta. Hầu như con người hằng ngày luôn lao vào việc kiếm miếng cơm, manh áo, kiếm của ăn của để, nhiều người quên còn có lương thực quan trọng hơn, căn bản, cốt thiết hơn là Bánh trường sinh, lương thực nuôi sống con người. “ Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh “ ( Lc 4,4) Bánh ăn hằng ngày là nhu cầu thiết yếu, nhưng đó mới chỉ là mức độ sơ đẳng, điều cần hơn là Lời của Chúa và Nước Thiên Chúa mà chúng ta phải đặt ưu tiên số một cho cuộc đời.
Cám dỗ thứ hai: tôn thờ thần linh là nhu cầu tôn giáo. Dân Do Thái xưa bị cám dỗ thờ ngẫu tượng, bò vàng. Đó là cám dỗ đầy tham vọng của địa vị, quyền lực thế gian. Người Do Thái luôn muốn Đấng Cứu Thế phải là người đánh Đông dẹp Bắc, giải phóng dân tộc họ khỏi ách nô lệ của người La Mã. Họ suy nghĩ theo kiểu trần gian, Đức Giêsu đã nhất mực khước từ. Người muốn trở nên tôi tớ của Thiên Chúa ( Ga 13,1-20 ).Con người sống ở trần gian này luôn muốn thống trị, áp đặt ý muốn của mình trên kẻ khác. Đây là cơn cám dỗ mạnh mễ về quyền lực, địa vị, của cải, tài trí, danh vọng, sắc đẹp. Chúa Giêsu nhắc nhở mọi người, mọi Kitô hữu muôn thời, muôn thuở: ” Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người “ ( Lc 4, 8 ).
Cám dỗ thứ ba là cám dỗ đòi chứng minh, đòi những dấu lạ, điềm thiêng, nghĩa là đòi Chúa làm phép lạ. Đây là cơn cám dỗ tự cất nhắc mình, tự kiêu, tự mãn để làm những phép lạ ngoạn mục để chứng tỏ ta đây có uy, có quyền, có địa vị vv…Đây cũng là cơn cám dỗ ngặt nghèo nhất, nặng nề nhất, cám dỗ muốn loại trừ cái chết: ” Lạy Cha, nếu có thể được thì xin tha cho con khỏi uống chén này “ ( Lc 22,42 ).
Vâng, Chúa Giêsu đã không tự dùng quyền năng của mình để chấp nhận chiều theo những cám dỗ mà Satan đã bầy ra để kéo Người vào vinh quang mau qua, chóng tàn ở thế gian này. Người đã vượt thắng mọi cám dỗ, mọi thử thách và quyết tâm, can đảm, quảng đại thuận theo thánh ý Thiên Chúa Cha, và để Thánh Thần hướng dẫn.
Đức Giêsu đã chiến thắng tất cả mọi cám dỗ, Người vượt thắng cả cái chết và trên Thập giá Người đuợc tôn vinh vì đã chiến thắng tử thần. Người Kitô hữu, qua Bí tích rửa tội và Bí tích Thêm sức, đã thuộc về Chúa, nhưng họ dê dàng sa ngã vì do hậu quả của tội nguyên tổ, tội riêng mình làm, con người dễ hành động theo bản tính tự nhiên,thích chạy theo những ham hố, những đam mê trần tục: của ăn,tiền tài, địa vị, danh vọng, sắc đẹp và nhiều bả phù hoa khác mà quên đi sự dẫn dắt của Thánh Thần và sự soi sáng,thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.
Mùa Chay lại về,đây là cơ hội thuận tiện, là dịp tốt để mỗi Kitô hữu đổi mới đời sống, hoán cải, canh tân, lắng nghe lời Chúa mời gọi và tuân theo, phục vụ theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Năm nay cũng là năm Hội Đồng Giám Mục Việt Nam kêu gọi chúng ta đồng hành với các gia đình gặp khó khăn. Chúng ta cầu nguyện cho các gia đình đang gặp khó khăn luôn ý thức gia đình do Chúa thiết lập, luôn phải giữ sự trong sáng và bản chất của gia đình, đồng thời mọi gia đình luôn nhìn vào mẫu gương của gia đình Nazarét để sống sống đạo đức, thánh thiện hầu góp tay vào công cuộc cứu độ nhân loại.
Lạy Chúa Giêsu, xin sai Thánh Thần đến biến đổi chúng con để chúng con can đảm,quảng đại bước theo con đường của Chúa. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Kể lại ba cám dỗ mà Satan đã bầy ra để giăng bẫy Chúa Giêsu? 2. Chúa Giêsu đã làm gì để vượt thắng những cám dỗ gặp phải? 3. Đối với các bạn, cám dỗ nào là nguy hiểm nhất ? 4. Muốn thắng những cám dỗ đang bủa vây chung quanh chúng ta. Chúng ta phải làm gì ? 5. Tại sao Chúa Thánh Thần lại quan trọng trong việc chống tả các cơn cám dỗ ?
Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo Hội cử hành Chúa Nhật đầu tiên của Mùa Chay. Lời Chúa ngày hôm nay tập trung vào một chủ đề chính, đó là, tuyên xưng Thiên Chúa là Chúa duy nhất mà chúng ta tôn thờ. Trong bài đọc 1, dân chúng nói lên lời tuyên xưng của mình vào Đức Chúa, Đấng đã chọn họ làm dân riêng của Người, đã giải phóng họ khỏinô lệ Ai Cập và đưa họ vào đất mà Ngài đã hứa cho Ápraham và con cháu ông đến muôn đời. Vì vậy, để tỏ lòng biết ơn, họ dâng lên Đức Chúa những hoa màu ruộng đất họđã thu được: “Anh em sẽđặt lễ vật trước tôn nhan Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, rồi anh em phủ phục trước tôn nhan Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em”(Đnl 26:10). Điều này nhắc nhở chúng ta rằng: Mỗi khi đến tôn thờ Đức Chúa, chúng ta không đến với đôi bàn tay trắng, nhưng với lễ vật. Vậy, chúng ta có gì để dâng cho Chúa trong thánh lễ hôm nay không?
Về phần mình, Thánh Phaolô trong bài đọc 2 kêu gọi tín hữu Rôma đặt trọn niềm tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng đã sống lại từ cõi chết để mang ơn cứu độ cho mọi người.Tuy nhiên, điều quạn trọng mà Thánh Phaolô muốn nhấn mạnh làsự gần gũi của lời Chúa trong cuộc đời của mỗi người chúng ta: “Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời đó chính là lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin” (Rm 10:8). LờiChúa khơi dậy đức tin. Nhưng đây không phải là một đức tin chết, đức tin không cóviệc làm, nhưng là một đức tin sống động. Thánh nhân diễn tảđiều này qua mối tương quan không thể tách rời giữa “tin trong lòng” và “tuyên xưng ra ngoài miệng”: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽđược cứu độ.Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ” (Rm 10:9-10).Đâychính là bối cảnh đểgiúp chúng ta hiểu bài Tin Mừng hôm nay. Cụ thể hơn, Thánh Phaolô đưa ra hai yếu tố quan trọng như lăng kính để chúng ta đọc và hiểu bài Tin Mừng hôm nay: tầm quan trọng của lời Chúa, vàcon người là thể thống nhất của hồn [tin ở trong lòng] và xác [tuyên xưng ra ngoài miệng].
Trước khi phân tích bài Tin Mừng hôm nay từ hai lăng kính trên, chúng ta cùng nhau trình bày ngắn gọn về ý nghĩa của Mùa Chay, để giúp chúng ta sống Mùa Chay trọn vẹnhơn. Theo lịch sử, Mùa Chay nguyên thủy là khoảng thời gian màtrong đó Bí Tích RửaTội được cửhành. Nói cách khác, Mùa Chaylà khoảng thời gian mà trong đónhững người “ngoại giáo” [tân tòng] trở thành Kitô Hữu. Giáo Hội xem khoảng thời gian này là hành trình của sự “biến đổi,” của sự “sám hối.” Tuy nhiên, theo thời gian, không chỉ những tân tòng mà cảnhững hối nhân và cuối cùng toàn thể Giáo Hội biến khoảng thời gian này thành “hành trình Mùa Chay” để nhắc nhở mọi người về hành trình của người Kitô hữu: đây không phải là hành trình mà họ chỉ “đimột lần” vào ngày rửa tội và sau đó sẽ chấm dứt. Không, đây là một hành trình mà họphải đi suốt đời, là hành trình mà trong đó họ phải luôn bắt đầu lại [metanoia–sám hối]. Như thế, mục đích chính của Mùa Chay là giúpchúng ta ý thức rằng: “là” Kitô hữu đồng nghĩa với việc “trở thành” Kitô hữu mỗi ngày. Nói cách khác, chúng ta phải sống trọn vẹn lời hứa mà chúng ta tuyên xưng trong ngày rửa tội là từbỏma quỷvà thuộc trọn vềThiên Chúa trong từng giây phút của ngày sống của chúng ta.
Ý nghĩa thứ hai của mùa chay đến từ con số 40. Trong ngôn ngữ phụng vụ của mình, Giáo Hội đặt tên Quadragesima, “thời gian 40 ngày,” cho Mùa Chay, mà chúng ta bắt đầu với ThứTưLễTro. Trong Mùa Chay, Giáo Hội sửdụng lối chú giải Kinh Thánh mang tính hình tượng đểđặt chúng ta vào trong sự liên tục và trong bối cảnh thiêng liêng tương xứng mà dân Israel xưa đã trải qua. Chúng ta tìm thấy con số 40 được lặp lại nhiều lần trong Kinh Thánh: Mưa 40 ngày đêm trong lụt Đại Hồng Thủy; Dân Israelđi trong sa mạc 40 năm; Môsê ở trên núi Sinai 40 ngày đêm đển hận Mười Điều Răn; Ngôn sứ Elia đi 40 ngày đêm để đến núi Horeb; Davidlàm vua 40 năm; Chúa Giêsu ăn chay trong sa mạc 40 ngày đêm. Chúng ta tựhỏi: Điểm chính yếu của chuỗi 40 này là gì? Để hiểu ý nghĩa của con số40, chúng ta cần trởlại vớilịch sửdân Israel, nhất là nhìn lại 40 năm mà họ bước đi trong sa mạc. Thời gian này được xem như làthời gian của“chuyện tình đầu tiên giữa Thiên Chúa và dân Israel”: Đâylà khoảng thời gian màThiên Chúa nó ichuyện diện đối diệnvới dân Ngài, là thời gian màThiên Chúa ở giữa dân Ngài: Ngài đi trước họ dưới hình đám mây và cột lửa, nuôi họ mỗi ngày với Manna, và ban cho họnước uống chảy ra từtảng đá. 40 năm trong sa mạc thật sự là khoảng thời gian của yêu thương và gần gũi cách đặc biệt với Thiên Chúa.Tuy nhiên, bên cạnh đó, đây cũnglà khoảng thời gian nguy hiểm nhất của sự cám dỗ tôn thờ ngẫu tượng [con bò vàng], của kêu trách và chống lại Thiên Chúa. Nói các khác, thời gian 40 năm trong sa mạc là thời gian mà dân Israel đã tạo ra những “chúa khác” cho chính mình bởi vì Thiên Chúa, Đấng dường như giữ khoảng cách với họ, không làm cho họ được thoả mãn.
Thật vậy, thời gian trong sa mạc là khoảng thời gian vật lộn với cám dỗ. Ngay cả Chúa Giêsu cũng trải qua kinh nghiệm này. Đây chính là bối cảnh của bài Tin Mừng hôm nay. Sau khichịu phép rửa, Chúa Giêsu chấp nhận số phận của Người Tôi Tớ của Yahweh: số phận của một người từ bỏ chính mình và trở thành người đại diện cho mỗi người trong chúng ta để đối diện với cám dỗ và đau khổ. Ngài đi vào trong sa mạc và hiện diện cách trực tiếp với Chúa Cha, đểrồi trong sự kết hiệp mật thiết với Chúa Cha, Ngài đối diện với sự tấn công của ma quỷ.Trong khoảng thời gian trong sa mạc, cám dỗ đè nặng trên Ngài: cám dỗ loại bỏ lời Chúa ra khỏi cuộc đời để chạy theo cơm bánh; cám dỗloại bỏ sự bất lực [không tự vệ để lệ thuộc vào Thiên Chúa] để chạy theo vinh quang của quyền lực chính trị; cám dỗloại bỏtình yêu để thử thách Thiên Chúa. Ba cám dỗ này dân Israel đã đối diện xưa kia trong sa mạc và họ đã vấp ngã. Ngày hôm nay, chúng ta cũng đối diện với ba cám dỗnày trong từng ngày sống. Chúng ta sẽnhư thếnào: chiến thắng hay thất bại? Giờ đây, chúng ta cùng nhau tập trung vào Chúa Giêsu, để học nơi Ngài cách thức đối diện và chiến thắng cám dỗ.
Cám dỗ thứ nhất–cám dỗ loại bỏ Thiên Chúa để tôn thờ của cải vật chất: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh đi!”(Lc 4:3). Đây là cám dỗ về bánh ăn mà dân Israel đã đối diện trong sa mạc. Chúng ta thấy, ma quỷ luôn bắt đầu cám dỗ bằng việc tấn công vào một nhu cầu căn bản về sự sống còn của đời sống thể lý hay vật chất. Nhu cầunày là nhu cầu mà chúng ta đang rất cần. Chúng ta thấy rõ điều này qua việc ma quỷ biết Chúa Giêsu đã ăn chay 40 ngày đêm và Ngài rất đói và khát, nên tấn cống Ngài từđiểm yếu đó. Khi tấn công như thế, ma quỷgiảm nhân vịcon người xuống chỉ còn khía cạnh thể lý [thân xác] và chối bỏ linh hồn. Đối diện với cám dỗ này, Chúa Giêsu dùng chínhlời Chúatríchtừ sách Đệ NhịLuật 8:3 –“Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”(Lc 4:4).Trong câu trả lời này, Chúa Giêsu khẳng định nhân vị và tính thống nhất của con người là có hồn và xác: Như thân xác cần bánh ăn thì linh hồn cần được lời Chúa nuôi dưỡng. Một con người hoàn thiện là một con người sống quân bình trong đời sống thiêng liêng và thể lý. Trong cám dỗ này, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta rằng: Đừng giảm giá trị chính mình và người khác xuống còn khía cạnh thể lý. Vì vậy, đừng tôn thờ và chạy theo cái ăn cái mặc cho thân xác mà quên mất việc trau dồi nhân đức để trang điểm cho linh hồn.
Cám dỗ thứ hai–cám dỗ chạy theo vinh hoa phú quý và quyền lực thế gian dù đánh mất chính mình: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý.Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽthuộc về ông”(Lc 4:6-7). Đây là cám dỗ tôn thờ ngẫu tượng [con bò vàng] mà dân Israel đã vấp ngã trong sa mạc. Cám dỗ thứ hai này, có thể nói, tiếp nối cám dỗ thứ nhất. Đây là cám dỗ tôn thờ một chúa khác ngoài Thiên Chúa thật. Cám dỗ này đặt trước chúng ta một câu hỏi: Cái gì mang lại cho chúng ta quyền lực? Phải chăng tiền tài hay danh vọng? Phải chăng là những mối tương quan của con người? Lần thứ hai Chúa Giêsu dùng lời Kinh Thánh trong sách Đệ Nhị Luật [6:13] để trả lời: “Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”(Lc 4:8).Chúa Giêsu khẳng địnhlại vị trí tối thượng của Thiên Chúa trong cuộc đời của Ngài và của mỗi người chúng ta. Chỉ nơi Thiên Chúa, chúng ta tìm thấy mọi sự chúng ta cần.
Cám dỗ thứ ba–cám dỗ thử thách quyền năng của Thiên Chúa: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn. Lại còn chép rằng: Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Lc 4:9-11). Đây là cám dỗ về việc thử thách Đức Chúa của dân Israel tại mạch nước Mêriba. Cám dỗ này đi ngược lại với cám dỗthứ nhất và có thể được gọi là “duy thiêng liêng.” Trong cám dỗ thứ nhất, ma quỷ giảm con người thành “duy vật chất” – chỉ có thân xác, còn trong cám dỗ này, ma quỷ giảm con người thành “duy thiêng liêng” –chỉ có linh hồn. Lại một lần nữa, Chúa Giêsu chống lại cám dỗ bằng trích dẫn lời Chúa trong sách Đệ Nhị Luật [6:16]:“Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”(Lc 4:12). Trong câu trả lời của mình, Chúa Giêsu khẳng định về việc phải vâng phục thánh ý Thiên Chúa dù phải chịu đau khổ và bị giết chết. Chúng ta không nên thử thách Thiên Chúa bằng cách làm theo ý của mình.
Câu cuối cùng của bài Tin Mừng hôm nay là lời khuyến cáo mạnh mẽ cho mỗi người chúng ta: “Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ” (Lc 4:13).Quỷ không dễ dàng từ bỏ kế hoạch của chúng. Nó sẽ tìm cơ hội khác để tấn công chúng ta, nhất là khi chúng ta thiếu cảnh giác, thiếu kết hiệp mất thiết với Thiên Chúa.Có câu nói trong đời rằng: hãy khiêm nhường khi chiến thắng và hãy hy vọng và lạc quan khi thất bại vì cuộc đời chúng ta là một bản nhạc được viết lên bởi những nốt thăng trầm khác nhau.Để sống luôn tỉnh thức trước sự rình rập của ma quỷ, Giáo Hội độngviên chúng ta trong Mùa Chay phải học chấp nhận hoàn cảnh sống của mình trong sự kiên nhẫn và vớiđức tin vững mạnh hầu bước theo Thiên Chúa một cách không sợ hãi, dù nhiều khi chúng ta không thấy sựhiện diện của Ngài. Nếu chúng ta tiếp tục đi với đức tin kiên trì, thì một ngày mới sẽ ló rạng từ bóng đêm đen. Ước mong thời gian Mùa Chay là thời gian âm thầm hy sinh của chúng ta đểánh sángtình người, tình Chúa lan toả đến mọi nơi, mọi nhà và mọi tâm hồn.
Mùa chay đã khởi đầu vào Thứ Tư Lễ Tro vừa qua, và hàng năm vào Chúa nhật thứ nhất mùa Chay, Giáo hội cho chúng ta nghe câu chuyện Chúa Giê-su, trước khi thi hành sứ vụ công khai giao giảng Nước Trời và cứu độ nhân loại, được Thánh Thần dẫn vào hoang địa ăn chay và cầu nguyện 40 đêm ngày, sau đó, Người bị ma quỉ cám dỗ. Lý do Giáo hội cho chúng ta nghe câu chuyện này, là muốn nhắc nhở chúng ta bước vào một chiến đấu thiêng liêng chống lại những cám dỗ để hình thành một con người mới nơi chúng ta. Qua bài Tin mừng này, Giáo hội cho chúng ta biết chúng ta phải đương đầu với những cám dỗ nào và phải làm gì để đối phó và để vượt qua. Một điều quan trọng chúng ta phải chú ý là sự cám dỗ này của ma quỉ không chỉ nhắm vào đời sống cá nhân, mà còn nhắm và tạo ảnh hưởng vào viễn tượng hoạt động cứu thế của Chúa Giê-su, vì sự cám dỗ này xảy ra ngay vào thời điểm khởi đầu công cuộc cứu độ, giải thoát nhân loại của Ngài. Do đó bài Tin mừng hôm nay không những giúp chúng ta ý thức cuộc sống cá nhân hôm nay, trong mùa chay thánh này, mà còn giúp giải thoát chúng ta ngày mai và trong tương lai, cũng như giúp chúng ta đạt được ơn cứu độ của Chúa Giê-su Ki-tô.
Bài Tin mừng cho chúng ta biết, sau khi đã cầu nguyện và ăn chay 40 đêm ngày, cho nên Chúa đói, ma quỉ đã nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho đá này biến thành bánh đi.” Câu này hàm ý nói rằng “Nếu có tiền thì làm gì cũng được, muốn có gì cũng được.” Đây cũng là sự cám dỗ về tiền bạc của ma quỉ trong thời đại của chúng ta hôm nay. Có tiền là có mọi sự, thật sự chúng ta cần có tiền để có những nhu cầu căn bản. Phải có tiền mới có thể xây nhà thờ mới được, cho nên tôi phải kêu gọi mọi người đóng tiền. Tiền rất cần và quan trọng cho cuộc sống. Không có tiền không thể sống và xây nhà thờ được. Nhưng đó chỉ là một nửa sự thật. Có bao nhiêu người sau khi đã vất vả, khó nhọc để làm ra nhiều tiền, sức khỏe tiêu tán, vợ chồng bất hòa, mất hạnh phúc, gia đình tan nát, con cái hư hỏng.
Cám dỗ thứ hai, ma quỉ nói với Chúa Giê-su: “Tôi sẽ cho ông hết thảy quyền hành và vinh quang của các nước này, vì tất cả đó là của tôi và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, thì mọi sự ấy sẽ thuộc về ông!” Chúng ta biết sự thật là quyền lực rất cần thiết để làm việc, điều hành, cai trị, và hoàn tất công việc. Muốn xây dựng một thế giới, xã hội mới phải có quyền lực. Không có quyền lực sẽ không thành công. Nhưng chúng ta cũng biết đây chỉ là nửa sự thật thôi, vì đã có bao nhiêu nhà độc tài, kể cả quân khủng bố đã dùng quyền lực để gieo rắc đau khổ, tiêu diệt tự do và sự sống của hàng ngàn, hàng triệu con người.
Sau đó ma quỉ cám dỗ Chúa Giê-su, nói rằng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, vì có lời chép rằng: “Chúa sẽ truyền cho Thiên Thần gìn giữ ông!” Đây là một cám dỗ nữa của ma quỉ cho thời đại kỹ thuật của chúng ta, vì chúng ta nghĩ rằng kỹ thuật như điện thoại cầm tay, e-mail và internet, sẽ giải quyết được hết mọi sự cuộc sống. Nhờ kỹ thuật và khoa học nâng cao đời sống con người, cung cấp tiện nghi, thoải mái, bảo đảm và an toàn hơn. Sự thật chỉ đúng một nửa thôi, vì kỹ thuật đang làm tiêu tán và giết chết bao nhiêu sự liên hệ giữa con người, không giải quyết hết mọi vấn đề, không đưa đến sự gần gũi thân mật với nhau hơn, và nhất là không đưa đến hạnh phúc hoàn toàn cho con người.
Ông bà anh chị em thân mến. Một điều quan trọng mà chúng ta phải lưu ý là nếu Chúa Giêsu còn bị ma quỉ cám dỗ, thì chắc chắn tất cả chúng ta cũng đã, đang và sẽ bị cám dỗ. Chúng ta phải nhận biết rõ điểm đích cám dỗ của ma quỉ là con người chúng ta, già trẻ, nam nữ, giáo dân, tu sĩ, vì vậy, chúng tìm mọi phương cách đến gần, và nhất là ở trong con người chúng ta. Ngày nay, ma quỉ rất khôn ngoan tinh quái, không hiện nguyên hình dữ tợn và kinh khủng để cám dỗ, vì như vậy, chúng ta sẽ tránh và chạy xa chúng, tất cả chúng ta sẽ trở thành thánh hết. Muốn cám dỗ chúng ta, ma quỉ ngày nay bày ra những hình ảnh tốt đẹp, những phương tiện thoải mái, dùng những lời dụ dỗ ngon ngọt, dùng những lý do hấp dẫn, để thúc dục và lôi cuốn chúng ta làm những việc chúng ta ước muốn, ưa thích, tạo nên những sự thoải mái hay lợi lộc, để chúng ta xa vào cạm bẫy của chúng. Ma quỉ còn kích thích chúng ta bằng những thái độ tự cao, tự mãn, khôn ngoan và đạo đức hơn người khác, để lôi kéo chúng ta sống cuộc sống ích kỷ, lầm lạc và tội lỗi. Chúng ta phải lưu ý là chẳng bao giờ ma quỉ cám dỗ chúng ta phạm tội nặng ngay đâu, nhưng ban đầu nó xúi chúng ta phạm tội nhẹ trước, sau khi chúng ta đã quen rồi, và không còn ý thức tội lỗi nữa, thì nó sẽ cám dỗ chúng ta phạm tội nặng và nặng hơn.
Ma quỉ có nhiều cách cám dỗ, nhưng tất cả đều quy về ba mối chính: danh, lợi, thú. Chúng ta biết ham danh vọng, ham lợi lộc và ham thú vui như cờ bạc, rượu chè và dục vọng nằm sẵn trong bản tính của con người. Ai cũng muốn được trọng vọng, ai cũng muốn được giàu có, nhiều tiền của, và ai cũng ham muốn vui thú, sung sướng và thoải mái. Và đó cũng là những cạm bẫy của ma quỉ và đích điểm là con người chúng ta.
Ngoài ra, chúng ta phải chú ý khía cạnh quan trọng: ma quỉ biết Kinh thánh và dùng Lời Chúa để thử thách, cám dỗ chính Chúa Giê-su. Sự thực ma quỉ đã nói với Chúa Giê-su: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, vì có lời chép rằng: “Chúa sẽ truyền cho Thiên Thần gìn giữ ông!” Và còn thêm rằng: “Các vị đó sẽ giơ tay nâng đỡ ông khỏi vấp phải đá.” Chúng ta có bao giờ nghĩ về khía cạnh này không? Nếu ma quỉ đã dùng Kinh thánh, Lời Chúa để cám dỗ Chúa Giê-su, thì ma quỉ cũng sẽ dùng Lời Chúa, lời chân lý để dụ dỗ và đánh lừa chúng ta. Ma quỉ sẽ dùng chiến thuật này để nói sự thật, nhưng chỉ cho chúng ta biết một nửa sự thật thôi, vì sau đó dẫn đến đau khổ, tội lỗi, lầm lạc và sự chết, vì chúng ta không tỉnh thức đủ, cảnh giác đủ.
Vì vậy, ông bà anh chị em thân mến, Giáo hội cho chúng ta có dịp trong mùa chay để lắng nghe câu chuyện Chúa Giê-su bị cám dỗ, giúp chúng ta nhận ra những cám dỗ và cạm bẫy của ma quỉ, để chúng ta biết chống trả và chiến thắng. Xin Lời Chúa giúp chúng ta biết cảnh tỉnh, tỉnh thức vì “Người ta không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng lời Chúa nữa.” Và hướng tâm hồn chúng ta trông cậy vào Lòng Thương Xót vô biên, cũng như thêm sức chống trả thành công mưu chước ma quỷ, cùng hy sinh làm việc phúc đức, bác ái với tha nhân.
Việc đầu tiên Chúa Giêsu làm trước khi thực thi Sứ Mạng Cứu Thế đó là Chúa Gêsu được Thánh Thần đưa vào hoang địa để cầu nguyện và ăn chay 40 đêm ngày và chịu cuộc thử thách, đó là chịu ma quỷ hiện đến cám dỗ đủ cách. Chắc có người tự hỏi: Có lẽ nào Satan lại dám cả gan đến cám dỗ Chúa như thế! Xin thưa: Thứ nhất: Lúc đó quỷ chưa biết rõ Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa giáng phàm, vì Ngài giống hệt như mọi người khác, thứ đến, suốt 30 năm Ngài không làm phép lạ, cũng không tỏ lộ quyền phép đặc biệt nào, nên Satan không hiểu được một Vị Thiên Chúa lại có thể sống ẩn dật với hình hài giống hệt như bất cứ phàm nhân nào khác, nên nó mới dám đến cám dỗ Người như thế!
Qua trình thuật khỏi đầu sứ vụ Cứu Thế này, thánh Luca muốn cho chúng ta thấy Chúa khai mở một cuộc xuất hành mới để giải phóng loài người khỏi ách thống trị của Satan, của sự dữ. Từ chối các chước cám dỗ của chúng ta và cái chết như là hậu quả đắng cay của vòng xích oan nghiệt ấy.
So sánh với trình thuật Tin Mừng theo thánh Matthêu, ta thấy trình thuật của thánh Luca có 3 đặc điểm sau đây:
Trước tiên là vai trò của Chúa Thánh Thần trong cuộc đời Chúa Giêsu.
Ắt hẳn ta còn nhớ tất cả mọi thời điểm quan trọng trong thời Chúa Giêsu đều được ghi dấu bằng sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Dù làm gì, dù ăn dù ngủ, Chúa Giêsu luôn kết hiệp mật thiết với Chúa Thánh Thần.
Với thánh sử, trong kinh nghiệm Phục sinh và lịch sử của Giáo Hội, Chúa Thánh Thần không phải là một sức mạnh như diễn tả trong Kinh Thánh Cựu Ước mà là một bản vị, là Ðấng hướng dẫn cuộc đời chúng ta vào hành động trong lòng thế giới. Chính Ngài đã dẫn đưa Chúa Giêsu vào sa mạc và trợ lực Chúa Giêsu trong cơn thử thách.
Trong sa mạc, Chúa Giêsu đã bị cám dỗ từ bỏ con đường chông gai Thiên Chúa đã vạch ra để đi theo một số con đường khác hấp dẫn ngoạn mục hơn và dễ dãi hơn. Chúa Giêsu phải chọn con đường nào đây? Dùng quyền năng cứu thế để thỏa mãn các nhu cầu vật chất và hiện sinh, biến đá sỏi thành bánh mà ăn chứ không cần phải lao nhọc vất vả, hay sống theo luật công bằng hoặc tinh thần liên đới chia sẻ làm việc, hay là dùng các phép lạ lôi kéo các tín đồ cho nó mau và khỏe chứ tội gì mà phải khó nhọc rao giảng, gieo vãi hạt giống nơi tâm lòng con người. Và thôi thúc họ đối chiếu cuộc sống hằng ngày với giáo huấn sự thật làm gì? Hoặc là dùng bạo lực và các thế lực vật chất, tinh thần để lôi kéo môn đệ và tín đồ v.v…
Có quá nhiều cám dỗ đặt ra trước mặt Chúa Giêsu, nhưng rồi ta thấy Chúa Giêsu đã chọn con đường khổ đau.
Với thánh Luca, chiến thắng của Chúa Giêsu trên các chước cám dỗ trước ngày công khai loan báo Tin Mừng Nước Trời, báo cho biết chiến thắng sau cùng của Chúa Giêsu khi bị chết treo trên thập giá.
Ðặc biệt thứ hai là vai trò quan trọng của thành Giêrusalem. Toàn Phúc Âm thánh Luca trình bày cuộc đời Chúa Giêsu như là một hành trình tiến về Giêrusalem, nơi Chúa Giêsu sẽ thực hiện công cuộc cứu độ trần gian, qua cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Vì vậy, thánh Luca đặt cám dỗ thứ ba trong bối cảnh thành Giêrusalem nơi ơn cứu độ được thành toàn. Do đó không chướng ngại nào kể cả ma quỉ được phép cản trở hành trình ấy của Chúa Giêsu.
Sau cùng của cám dỗ đó là hình ảnh sa mạc. Trong sa mạc của cuộc xuất hành xưa kia, dân Do Thái đã lẩm bẩm kêu trách Thiên Chúa. Họ đã ngã quỵ trước cám dỗ và khước từ Thiên Chúa là Ðấng giải phóng mình. Lẩm bẩm là từ ngữ Kinh Thánh dùng để diễn tả thái độ chống lại Thiên Chúa, phản đối Ngài, muốn gợi ý cho Thiên Chúa phải làm thế nào để giải phóng mình trong sa mạc. Chúa đã không nhượng bộ mà nghe lời ma quỉ cám dỗ và theo cách thế nó đề nghị để thực hiện công trình cứu thế. Mặc dù đói khát và khổ sở, Chúa Giêsu vẫn luôn kiên vững và tin vào tình yêu thương quan phòng ấp ủ của Thiên Chúa. Ngài không yêu sách, dù không trông thấy các dấu chỉ của tình yêu thương quan phòng và ấp ủ đó diễn tả bằng giàu sang, chức quyền và thành công trong đời.
”Nếu ông là Con Thiên Chúa”: đó là câu nói vừa thăm dò vừa khiêu khích. Ma quỷ đang mò mẫm tìm xem điều mình nghi ngờ có đúng không.
Thật vậy, ma quỷ muốn biết chính xác: Con Người khác thường đã ăn chay 40 ngày đêm trong hoang địa này có phải là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể làm người không? Và để kiểm chứng, Ma Quỷ dùng mưu thuật. ”Suy bụng ta ra bụng người”, tục ngữ Việt Nam nói thế và sự thật cũng đúng như vậy, ít ra trong trường hợp của tên Quỷ đang tìm cách cám dỗ Đức Chúa Giêsu đây.
Vốn đầy tràn kiêu căng, không muốn tuân phục, nhưng ưa thích khoe khoang, Ma Quỷ nghĩ rằng có lẽ ”Vị Khác Thường” này cũng giống như hắn. Tên Quỷ tự nhủ: ”Nếu Ông ta là Con Thiên Chúa” hẳn Ông ta sẽ vỗ ngực nhận ngay tức khắc và sẽ vung tay làm phép lạ ra oai, vừa có bánh để ăn vừa để minh chứng ta đây là Con Thiên Chúa ! Nào ngờ, tên Quỷ bị đánh bại liền. Đức Chúa Giêsu đáp: ”Người ta không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng Lời Chúa nữa!”
Ma quỷ là loài xảo trá, là con rắn độc. Rắn thuộc loài bò sát không chân. Do đó, rắn không gây tiếng động, nên dễ dàng chộp bắt con mồi. Ma quỷ cũng thế. Để cám dỗ loài người đi theo đường tà vạy, Ma quỷ thường nhẹ nhàng êm ái lẻn vào lòng, vuốt ve phần hạ cấp nhất của con người. “Có thực mới vực được đạo”, người ta nói thế và Ma quỷ có lẽ cũng đồng ý như vậy. Ma quỷ luôn luôn bắt đầu tấn công nơi cái điểm yếu nhất của con người.
“Khi quỷ đã thử thách Chúa đủ cách, nó rút lui để chờ dịp khác” (Lc 4:13) . Sau khi Satan bị thua trong mọi cơn cám dỗ, nó xấu hổ, bẽ bàng rút êm để chờ dịp khác! Nó thua keo này, nhưng nó sẽ chờ keo khác, chỉ khi nào chúng ta thở hơi cuối cùng thì chúng mới ngưng hẳn cám dỗ chúng ta !
Tin Mừng nói rõ Satan là cha sự dối trá, gian manh, quỷ quyệt, là đầu “quyền lực bóng tối” (Lc 22:53), là hoàng tử của thế giới huỷdiệt và chắc chắn “Chúng sẽ trở lại” (Jo 14:30). Vì thế, chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu cẩn thận đề phòng và quyết liệt chống trả mọi mưu chước thâm hiểm của chúng bằng Lời Kinh Thánh, bằng chuyên tâm cầu nguyện, sống thân thiết với Thiên Chúa, để múc lấy Thần Lực để có thể chiến thắng thần dữ.
Và để chống lại mọi mưu thâm chước độc của tà thần, chúng ta có mẫu gương chiến thắng của Đức Chúa Giêsu Kitô trong trình thuật Tin Mừng hôm nay
Ta hãy nhìn lên Chúa Giêsu, với tất cả sự khiêm tốn và đặc biệt là niềm tin để rồi có Chúa Thánh Thần cùng đồng hành, Ngài đã vượt qua cám dỗ. Ta cũng hãy xin Chúa Thánh Thần đồng hành với ta trên mọi nẻo đường đời để ta thấy cuộc đời của ta ngày mỗi ngày kết hiệp mật thiết với Chúa hơn và không có cám dỗ nào có thể khuất phục ta được.
Khi tường thuật về Chúa Giê-su chịu cám dỗ trong hoang địa, các thánh sử Tin Mừng Nhất lãm đều nói đến vai trò của Thần Khí, tức Chúa Thánh Thần. Tuy không mô tả rõ ràng những hoạt động của Thần Khí, nhưng các ngài đều nhấn mạnh đến ảnh hưởng và sức mạnh của Thần Khí trên Chúa Giê-su. Chính sức mạnh ấy đã “đầy tràn” con người Chúa Giê-su khi Người lãnh nhận phép rửa của Gio-an Tẩy Giả, rồi ảnh hưởng trên Người trong suốt hành trình thi hành sứ vụ. Cuối cùng, khi chết trên thập giá, Chúa đã “gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Gio-an 19:30) . Nhưng đặc biệt trong biến cố Chúa chịu cám dỗ, chúng ta hãy xem Người đã lấy sức mạnh của Thánh Thần mà chiến thắng cám dỗ như thế nào để làm gương cho chúng ta.
Việc Chúa Giê-su chịu phép rửa của ông Gio-an đã là cơ hội để Chúa Cha sai Thánh Thần xuống trên Người và nhắc nhở Người về thân phận Con Yêu Dấu của Chúa Cha. Ngay sau khi ở dưới sông Gio-đan lên, Chúa Giê-su được Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đáp xuống ngự trên Người. Sự kiện thật đơn giản, nhưng ảnh hưởng thì vô cùng sâu xa, vì Thánh Thần là trang bị duy nhất cho Chúa Giê-su, không những trên bước đường rao giảng Tin Mừng mà còn là sức mạnh nâng đỡ Người tới giây phút cuối cùng trên thập giá.
Kể lại việc Chúa chịu cám dỗ, ba sách Tin Mừng Nhất lãm đã ghi: Chúa Giê-su được Thần Khí “dẫn vào hoang địa” (Mát-thêu), hoặc: Thần Khí “đẩy Người vào hoang địa” (Mác-cô), hoặc: Chúa Giê-su “được Thần Khí dẫn đi trong hoang địa” (Lu-ca). Dù diễn tả cách nào, chúng ta vẫn có thể nhận ra thực tại này: Thánh Thần luôn ở với Chúa Giê-su – và ở với chúng ta – trong mọi hoàn cảnh, tại nơi an toàn hay ngoài hoang địa hiểm nguy, trong lúc bình an cũng như giữa cơn cám dỗ. Giờ đây, chúng ta hãy chiêm ngưỡng Chúa Giê-su, người chiến thắng gương mẫu trên cám dỗ của ma quỷ. Chúa Giê-su sắp lên đường thi hành sứ mệnh Chúa Cha trao ban. Sứ mệnh càng quan trọng thì cám dỗ càng nặng nề. Thi hành sứ mệnh là phải hoàn tất một công tác được người khác trao phó. Điều quan trọng nhất khi thi hành sứ mệnh là phải làm đúng theo kế hoạch do người trao công tác đã đề ra. Không được làm theo ý mình. Sứ mệnh cứu độ của Chúa Giê-su là kế hoạch đòi hỏi sự vâng lời tuyệt đối, dù phải hy sinh mạng sống mình. Cho nên chúng ta hiểu được bản chất cám dỗ mà ma quỷ muốn thử thách Chúa Giê-su là nó xúi giục Người làm theo ý riêng, chứ đừng theo ý Chúa Cha.
Sứ mệnh của Chúa Giê-su là phải làm chứng cho nhân loại biết rằng Thiên Chúa yêu thương họ và muốn giải phóng họ khỏi tội lỗi và sự chết đời đời. Nguy hiểm của việc làm chứng này đã được Chúa Giê-su tâm sự với các tông đồ trong bữa Tiệc Ly: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Gio-an 15:13). Khi chịu cám dỗ, Chúa Giê-su bị giằng co giữa tư lợi và hồng ân được làm con Chúa của nhân loại, giữa cái sống vinh hoa trần thế và cái chết nhục trên thập giá. Sức mạnh nào giúp Chúa Giê-su luôn hướng về Chúa Cha và chấp nhận hy sinh nếu không phải là sức mạnh của Thánh Thần? Tại bờ sông Gio-đan, chính Thánh Thần đã giúp Chúa Giê-su lắng nghe tiếng Chúa Cha phán: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Lu-ca 3:22), thì lúc này giữa cơn cám dỗ, Thánh Thần cũng nhắc nhớ Người về thân phận làm Con Thiên Chúa và làm Đấng Mê-si-a. Điều quan trọng là Chúa Giê-su đã lắng nghe và hoàn toàn bước theo sự hướng dẫn của Thánh Thần. Đó chính là gương mẫu cho chúng ta khi chúng ta phải chiến đấu với cám dỗ.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Cám dỗ Chúa Giê-su chịu không chấm dứt hôm nay sau khi ma quỷ bỏ đi, nhưng vẫn tiếp tục vì ma quỷ “chờ đợi thời cơ”. Đối với chúng ta cũng thế, tuy cám dỗ có thể là dịp này dịp kia, nhưng bản chất của nó vẫn thế thôi, nghĩa là ma quỷ cố dụ dỗ chúng ta cứ sống “thoải mái, tự do” theo dục vọng và tham vọng, không cần phải làm “con yêu dấu” của Thiên Chúa. Trước sức mạnh lôi kéo của nó, chúng ta cần một sức mạnh lớn hơn để có thể giữ chúng ta khỏi ngã, luôn đứng vững hãnh diện làm con cái Chúa: đó là sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Nhìn vào gương Chúa Giê-su, chúng ta sẽ tín thác hơn vào Thánh Thần của Người! Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Trong đời sống đức tin, các Kitô hữu ít nhiều trải qua những cám dỗ. Cám dỗ là những xung đột nội tâm xảy đến khi ta chịu chi phối và thúc đẩy bởi những tác động khác nhau đến từ ngoài lẫn trong tâm hồn. Cám dỗ có thể xảy đến cho bất kỳ ai vào bất cứ thời điểm nào. Ngay cả đối với Đức Giêsu, trong thân phận con người, Ngài cũng không phải là ngoại lệ.
Tin Mừng hôm nay tường thuật biến cố Đức Giêsu được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa trong khoảng thời gian 40 ngày và Ngài chịu cám dỗ. Thánh sử Luca kể cho chúng ta ba lần ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu về ba điều khác nhau: của cải, danh vọng và quyền lực. Ba lần chịu cám dỗ và cũng ba lần Đức Giêsu dùng Lời Chúa để vượt thắng chúng.
Bước vào Mùa Chay cũng là lúc mỗi người chúng ta ý thức cách đặc biệt thời điểm cùng đi với Chúa Giêsu vào hoang địa để ăn chay, cầu nguyện và lắng nghe theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Các cám dỗ đã xảy đến với Đức Giêsu, chắc chắn cũng sẽ xảy đến với chúng ta.
Trong con người, cách tự nhiên, chúng ta thường khao khát nhiều thứ, trong đó điển hình vẫn là của cải, danh vọng và quyền lực. Những thứ này tự chúng không xấu nhưng khi ta muốn có chúng bằng mọi giá, ta dần trở thành kẻ lệ thuộc và tự đánh mất bản thân mình.
Mùa Chay cũng là thời gian chúng ta nhìn lại bản thân để nhận ra những cám dỗ thường xuyên xảy ra trong nhịp sống của mỗi người. Không thể vượt thắng cám dỗ nếu chúng ta chưa nhận ra đang bị cám dỗ về điều gì. Để nhận ra cám dỗ, chúng ta cũng cần đi vào chay tịnh và cầu nguyện như Đức Giêsu. Bị cám dỗ chưa hẳn đã là điều xấu, nhưng chiều theo cám dỗ khiến ta mất tự do, ân sủng và làm nhạt nhoà tương quan với Thiên Chúa. Cầu nguyện là lúc ta đối diện với Lời Chúa, mở lòng để Lời Chúa chiếm trọn tâm hồn và con tim. Khi đó, chúng ta được chính Lời Hằng Sống nuôi dưỡng và thánh hoá.
Cám dỗ về của cải, danh vọng và quyền lực ngày càng trở nên đa dạng và tinh vi. Cám dỗ không bao giờ đến như một cơn sóng thần, mạnh mẽ và dồn dập; nhưng chúng âm ỉ và lôi kéo ta nhẹ nhàng đến độ nhiều khi ta không nhận ra chúng. Có lẽ nhiều lần chúng ta cũng tự cho phép mình chiều theo những ngọt ngào của cám dỗ, tự miễn trừ cho mình những đòi buộc từ bỏ trong những hoàn cảnh này khác.
Ước gì Mùa Chay trở thành thời điểm ta gắn kết với Chúa nhiều hơn qua cầu nguyện và xét mình, để cùng với Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta được thánh hoá khỏi những yếu đuối và vấp ngã cố hữu. Xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta trên bước đường theo Chúa. Để cũng như Đức Giêsu, người tín hữu lớn lên trong đức tin và lòng mến để chúng ta có thể tin tưởng và tôn kính chỉ một mình Thiên Chúa mà thôi.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa đã kinh nghiệm thân phận con người, yếu đuối và mong manh, khi đứng trước nhiều cám dỗ ngọt ngào. Chúa đã vượt thắng cám dỗ, nhờ tin tưởng và phó thác vào ân sủng. Xin cho chúng con hiều rằng, để thắng được chính mình, chúng con cần cậy dựa vào Chúa.
Cuộc sống hôm nay vẫn chất chứa nhiều hấp dẫn, của lối sống thiên về vật chất, của những trào lưu phóng khoáng dễ dãi, của những ham muốn danh vọng chóng qua. Tất cả đều mở ra những viễn tượng đẹp đẽ, để rồi giam giữ con người trong cái tôi ích kỷ, của sung túc và danh vọng trần thế. Xin cho chúng con có đủ can đảm, để có thể từ chối những mời gọi hấp dẫn, để dám tách mình khỏi những quyến luyến lệch lạc. Xin giúp con đủ nghị lực, bước đi trên con đường hẹp của khó nghèo và khiêm hạ, của hy sinh và phục vụ. Amen.
Trong thân phận con người, Đức Giêsu cũng chịu cám dỗ của quỷ. Quỷ luôn tìm cách để cám dỗ Người và luôn chờ đợi thời cơ vì nó hoàn toàn thất bại trước Chúa Giêsu. Con Thiên Chúa xuống thế làm người cùng chia sẻ thân phận con người với những lo toan vất vả và cả những cuộc chiến chống lại sự dữ. Người hoàn toàn chiến thắng trên sự dữ và củng cố niềm tin cho người môn đệ: “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).
Từ sông Gio-đan trở về, Đức Giêsu được đầy Thánh Thần. Thánh Thần dẫn Người đi trong hoan địa và chịu quỷ cám dỗ (x. Lc 4,1-2). Tâm hồn Người đầy tràn Thánh Thần nhưng xác thịt Người lại yếu sức Vì Người đói. Cơn đói thường lấy đi sức khỏe của ta và làm ta kiệt quệ. Một ngày đói ta đã không chịu đựng nỗi huống chi là 40 ngày. Đức Giêsu đã không ăn gì cả trong bốn mươi ngày thì quả là một sự thử thách lớn lao, một khả năng chịu đựng phi thường. Tại sao Đức Giêsu có thể trải qua tình trạng phi thường ấy? Tại sao khi hết bốn mươi ngày ròng rã, Người mới cảm thấy đói? Khi gặp gỡ người yêu bao năm xa cách, người ta có thể quên ăn quên ngủ để tâm sự với người yêu, để chỉ được ở với người yêu. Khi dành bốn mươi ngày cầu nguyện cùng Chúa Cha, tình yêu đó được diễn tả qua sự lắng nghe, ở lại hoàn toàn. Đã bao giờ ta ở lại trọn vẹn với Chúa trong một giờ cầu nguyện hay hoàn toàn chú tâm để lắng nghe tác động của Thần Khí không? Tình yêu ta dành cho Chúa có vượt lên trên tất cả hay bị phân chia cho những gì ngoài Chúa?
Khi bị cám dỗ, không phải lúc nào ta cũng gọi tên được thứ quỷ đang cám dỗ ta. Chỉ khi biết được kẻ thù đang tấn công ta là kẻ nào, sức mạnh ra sao và chỉ khi ta biết rõ ta là ai, ta mới dứt khoát đuổi cổ tên cám dỗ ấy. Và hơn hết, nếu không cậy nhờ ơn Chúa giúp, ta sẽ chẳng bao giờ ta nhận ra bộ mặt và tiếng nói của tên quỷ để đánh đuổi nó. Hãy xem cách Đức Giêsu chống lại các cám dỗ của quỷ. Khi Người đói, quỷ nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hóa bánh đi!”. Nhưng Đức Giêsu đáp lại: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (x. Lc 4,3-4). Quỷ tiếp tục cho Người thấy sự hấp dẫn của quyền lực, của vinh hoa phú quý, chỉ cần Người bái lạy nó là tất cả sẽ thuộc về Người. Nhưng Đức Giêsu đáp lại: “Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy một mình Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi và phải thờ lạy một mình Người mà thôi” (x. Lc 4,5-8). Quỷ thấy Đức Giêsu hoàn toàn bám vào kinh Thánh để chống lại những cám dỗ mình đưa ra, nó liền dùng chính Kinh Thánh để cố gắng thuyết phục Đức Giêsu. Đức Giêsu biết rõ mình là Con Thiên Chúa và Ngài biết rõ Chúa Cha yêu thương mình. Ngài đáp lại: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Lc 4,12). Lòng kính sợ Thiên Chúa là sự tôn kính, yêu mến của người con đối với người cha nhân ái của mình, không phải sự chọn lựa điên rồ để thử thách tình yêu của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu! Chúa đã chấp nhận chịu thử thách, chịu cám dỗ để dạy con lòng kính sợ và kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Xin Chúa giúp con mỗi ngày sống gần Chúa hơn để được ân sủng của Thánh Thần hướng dẫn và trợ lực chống lại các cám dỗ của quỷ. Xin cho con luôn ghi tạc vào lòng niềm xác tín này: “Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng” (Rm 10, 8). Amen.
Đến hẹn lại lên, Mùa Chay lại về. Sống bao nhiêu năm trên cõi thế, chúng ta đã đón bấy nhiêu Mùa Chay. Mùa Chay quá quen thuộc nên đôi khi chúng ta chẳng để Mùa Chay đi qua mà không ghi lại một dấu ấn nào, con người chúng ta vẫn hoàn cũ.
Chúa Giêsu – Ngôi Hai Thiên Chúa làm người, chia sẻ thân phận kiếp người. Ngài cảm nhận được những khó khăn, yếu đuối, gian nan của kiếp nhân sinh. Ngài đã chiến đấu với ba cơn cám dỗ của quỷ trong lúc yếu đuối về thể xác cũng như tinh thần.
Suốt bốn mươi ngày, Ngài được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu cám dỗ. Trong những ngày ấy, Ngài không ăn uống gì cả, và khi hết thời hạn, Ngài thấy đói. Lúc này, quỷ mới nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hóa bánh đi!” (Lc 4,3). Đây là sự cám dỗ về nhu cầu tồn tại, là một cám dỗ rất thực tế liên quan đến sự sống của con người, đó là được ăn, được uống. Khi đói, ít khi chúng ta làm chủ được bản thân, thậm chí còn làm cả điều xấu để có miếng ăn. Lợi dụng điểm này, quỷ không ngừng cám dỗ chúng ta. Hình thức cám dỗ của quỷ là “truyền hòn đá thành bánh”, phép lạ chẳng hại ai nhưng làm cho con người bị lệ thuộc vào cơm bánh? Chúng ta học theo Chúa Giêsu là luôn tỉnh thức, dứt khoát với quỷ: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Lc 4,4). Chúa Giêsu đặt tình yêu vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Có Thiên Chúa là có tất cả. Như Dân Do thái xưa, khi gặp cơn đói giữa sa mạc cằn khô, đã chống lại Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa đã ra tay để cho dân có Manna và chim cút dùng. Bởi vậy, chúng ta hãy trông chờ lòng lân tuất của Chúa. Đấng ban phát mọi sự.
Không ngừng ở đó, quỷ tiếp tục đem Chúa Giêsu lên cao, và chỉ cho Ngài thấy tất cả các nước thiên hạ và nói: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tùy ý. Nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông” (Lc 4,5-7). Chúa Giêsu bị cám dỗ về quyền bính và lợi lộc, nhưng Ngài không bị khuất phục. Ngài có quyền hơn quỷ, chính Ngài là chủ trái đất do Chúa Cha trao ban. Mặt khác, một khi Chúa Giêsu bái lạy quỷ để có được tất cả những thứ đó nhưng vẫn lệ thuộc nó vì đã bái lạy nó. Mà lệ thuộc thì không còn sự tự do. Bởi đó, Chúa Giêsu ý thức mình là ai nên đã nói: “Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy một mình Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi và phải thờ lạy một mình người mà thôi” (Lc 4,8). Bao lâu chúng ta gắn bó với danh lợi quyền lực thế gian là gắn bó với con đường của quỷ.
Quỷ lại tiếp tục chịu cám dỗ con người ta thử thách Thiên Chúa: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng dậy mà gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Lc 4,9-11). Quỷ trích đoạn Kinh Thánh không đầy đủ để thử thách Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi” (Lc 4,12). Quỷ thất bại, nó bỏ đi, chờ đợi thời cơ. Thời cơ nay đã đến, nó quay sang cám dỗ các con của Ngài là chúng ta.
Ngày nay, quỷ vẫn lợi dụng cái nghèo, quyền lực, quyền bính, niềm tin sai trái để cám dỗ chúng ta. Nó len lỏi vào cuộc sống thường nhật, vào những cuộc chơi, vào những sáng kiến của con người. Nó vẫn luôn vang vọng những lời ngọt ngào nhẹ nhàng, khiến chúng ta không nhận ra. Nó len lỏi ngay cả trong việc thiện mà chúng ta tưởng là tốt. Do đó, chúng ta cần có một cái nhìn, một lối suy nghĩ rõ ràng và biết chọn lựa những gì hướng về Thiên Chúa. Việc Chúa Giêsu đã chịu cám dỗ và đã chiến thắng cho chúng ta xác định một chọn lựa cho cuộc đời là tiền tài hay Lời Chúa làm chủ, danh lợi quyền bính hay chính Thiên Chúa, sử dụng quyền lực cho các nhân hay để phục vụ ích công. Chúng ta sẽ không tự mình chọn lựa, mà cần sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Chúng ta cần đặt mình dưới sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ giúp chúng ta biết chọn lựa, biết làm lành lánh dữ, biết tránh sa chước cám dỗ. Lạy Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Giữa cảnh gian truân, xin cho chúng con biết kêu cầu Chúa và xin Chúa mau đáp lời và giải thoát chúng con để chúng con chiến thắng cám dỗ như Ngài đã chiến thắng. Amen.
Thánh Thần đưa bước vào đời, Chúa vào hoang địa, dâng lời ngợi khen. Tránh xa khỏi chốn bon chen, Chuyên tâm cầu nguyện, muối men cho đời. Quỷ ma săn đón gọi mời, Thừa cơ cám dỗ, hứa hời phúc vinh. Dụ rằng biến bánh kết tinh, Thỏa cơn đói khát, an bình tâm can. Chúa rằng cơm bánh mau tàn, Sống bằng lời Chúa, chứa chan phúc lành. Vinh quang trần thế cao danh, Sấp mình thờ lạy, sẽ dành riêng cho. Quyền hành nhận hão giở trò, Phụng thờ Thiên Chúa, mở kho Nước Trời. Gieo mình nhảy xuống dụ chơi, Thiên thần gìn giữ, nhất thời có sao. Ngươi đừng thử thách thiên cao, Duy mình Đức Chúa, Cha trao phận người. Nguyện cầu tỉnh thức trong đời, Thắng cơn cám dỗ, cao vời biết bao.
Bắt đầu Mùa Chay Thánh, Giáo Hội mời gọi chúng ta cùng đồng hành với Chúa Giêsu để thanh luyện tâm hồn. Chúa Giêsu được Thánh Thần dẫn vào sa mạc bốn mươi ngày đêm ăn chay, cầu nguyện và chịu thử thách. Trong hoang địa, Chúa Giêsu chịu ma qủi cám dỗ qua những hình thức khác nhau. Chúa đã trải nghiệm những cám dỗ giống như nguyên tổ Ađam và Evà xưa trong vườn địa đàng. Cùng những thử thách giống như dân Do Thái trải qua 40 năm lang thang trong hoang địa.
Nguyên tổ Ađam và Evà đã sa ngã, vì sự ham muốn và kiêu ngạo. Dân Do Thái đã thất tín, mất lòng tin nơi Thiên Chúa. Họ đã đúc thần bò vàng để thờ lạy. Chúa Giêsu trong hoang địa cũng đối diện với những cám dỗ về nhu cầu cần thiết trong cuộc sống như của ăn, quyền lực và danh vọng. Ma qủi khôn khéo lợi dụng đúng thời cơ để cám dỗ Chúa. Trong sự tỉnh thức và cầu nguyện, Chúa Giêsu đã vượt thắng tất cả các cơn cám dỗ.
Mánh khóe rất tinh ranh của ma qủi, nó đứa ra những dụ dỗ rất hấp dẫn để đánh lạc hướng. Như những đứa trẻ đang ham mê đồ chơi, làm sao chúng ta có thể lấy đi mà chúng không khóc. Cách tốt nhất là làm cho nó chú ý vào một cái gì khác. Khi chúng thích rồi, thì chúng ta có thể dễ dàng cất bỏ đồ chơi. Ma qủi cũng dùng cách thế đó để dụ dỗ chúng ta qua sự giầu sang, qua danh vọng và thú vui xác thịt. Ma qủi làm cho chúng ta lo ra không còn chú ý đến Chúa. Nó sẽ kéo dần chúng ta xa tình yêu và lòng tin tưởng nơi Chúa.
Truyện kể: Nơi vùng quê, người ta nuôi rất nhiều bò ngựa, chung quanh có làm hàng rào để canh giữ. Nhưng rồi lâu lâu có những con bò đi lạc. Hỏi tại sao? Ông chủ nói rằng: Các con bò đi ăn cỏ, ăn hết khu này, ngó sang khu khác còn có cỏ xanh và tiếp tục bước đi và cứ thế đi quá quên lối về.
Cuộc đời của mỗi người chúng ta cũng giống như thế. Chúng ta lo làm ăn, rồi việc này kéo qua việc kia, cứ tiếp tục mãi ngày này qua ngày khác, chúng ta đã xa cách nhà thờ và xa cách Chúa lúc nào không hay. Mùa Chay, chúng ta có cơ hội tìm về nguồn tình yêu Chúa. Dùng chút thời gian tĩnh lặng để suy nghĩ và sám hối trở về.
Có những người nói rằng: Cuộc sống vẫn như thế, chẳng có gì mới lạ và cũng chẳng có gì thay đổi. Tôi vẫn giữ đạo và sinh hoạt bình thường. Nếu chúng ta chỉ giữ đạo cho có lệ hay giữ tối thiểu các điều luật dạy, thì lòng đạo cũng từ từ nhạt phai. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn để khỏi sa chước cám dỗ.
Dân Israel đã được Thiên Chúa yêu thương và tuyển chọn làm dân riêng của Ngài. Chính Thiên Chúa đã dùng cánh tay hùng mạnh dẫn dắt họ ra khỏi Ai Cập và đưa họ vào đất hứa, nơi chảy sữa và mật. Chính nơi này, ông Môsê đã khuyên bảo dân Israel hãy tỏ lòng tôn kính tin thờ một mình Thiên Chúa và tạ ơn Thiên Chúa về những hồng ân đã lãnh nhận trong tình yêu mến, bằng việc dâng lên Thiên Chúa những sản phẩm đầu mùa vì Thiên Chúa đã cứu họ khỏi ách nô lệ bên Ai Cập, cho họ thành một dân được tuyển chọn và vùng đất phì nhiêu để canh tác. Đồng thời, nhắc nhủ họ phải luôn chiến đấu để chiến thắng cám dỗ.
Thưa anh chị em, khởi đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã phải đối đầu với tên chúa trùm cám dỗ như Adam trong vườn địa đàng và dân Do thái suốt 40 năm trong sa mạc. Nhưng Adam đã sa ngã. Dân Do thái đã phải bất trung, còn Chúa Giêsu đã trung thành đứng hẳn về phía Thiên Chúa. Nhờ vậy, Người đã thắng Satan. Thánh Luca trong trang Tin Mừng hôm nay, tường thuật những cơn cám dỗ của Chúa Giêsu. Ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu sử dụng quyền lực thần linh để biến đá thành cơm bánh; dùng quyền để cai trị các nước thiên hạ cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước; và dùng quyền phép để thu phục nhân tâm, khiến cho mọi người khâm phục và tin theo. Đây không phải là lần duy nhất Chúa Giêsu đương đầu với sự dữ, cuộc đời của Người còn gặp nhiều gian nan thử thách. Thử thách của các luật sĩ và biệt phái; thử thách của chính các môn đệ như Phêrô, Giuđa Iscariot; thử thách tại núi cây dầu và nhất là thử thách trên cây thập giá:
“Lạy Chúa, sao Chúa bỏ con”. Quả thật, Chúa Giêsu đã mang lấy tất cả điều kiện hiện sinh của con người trừ tội: vui sướng, đau khổ, thử thách, tủi nhục và cả cái chết. Người đã nên giống con người. Tuy nhiên, trong những thử thách đó Người đã luôn chiến thắng vì Người đã luôn đứng về phía Thiên Chúa. Cuộc chiến thắng của Người là một kinh nghiệm sống cho mỗi người chúng ta. Chúng ta cũng có thể chiến thắng những thử thách của cuộc sống, những cám dỗ của tiền tài danh vọng nếu biết đứng về phía Thiên Chúa, biết cây dựa vào sức mạnh của Ngài.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Cám dỗ là những thử thách không thể tránh được trong kiếp sống con người. Chính nhờ thử thách mới có tiến bộ: lửa thử vàng gian nan thử đức. Muốn chiến thắng phải noi gương Chúa Giêsu: không tự mãn với những phương tiện thuần nhân loại, không sống theo bản năng đói ăn khát uống, nhưng biết tin tưởng vào Thiên Chúa và biết tự chủ. Đồng thời, phải đặt đời sống hằng ngày dưới sự hướng dẫn của Lời Chúa. Như Chúa Giêsu, chúng ta biết dùng Lời Chúa để thắng cám dỗ. Vì, “Lời Chúa là đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi”. Lắng nghe, suy niệm và sống Lời Chúa là phương thức giúp chúng ta chiến thắng cám dỗ. Thánh Phêrô cũng đã khuyên bảo chúng ta: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé”. Vì thế, chúng ta phải tin vào Chúa Giêsu, nhờ tin vào Chúa Giêsu chúng ta được ơn cứu độ.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta bước vào mùa chay thánh với một tâm hồn sám hối và đón nhận Tin Mừng. Hành động của sám hối là ăn chay, cầu nguyện và chia cơm sẻ áo cho những người nghèo khó; hành động đón nhận Tin Mừng là chuyên chăm học hỏi, suy niệm và sống Lời Chúa để chiến thắng ác thần, thờ phượng một mình Thiên Chúa hầu xứng đáng đón nhận ơn cứu độ của Chúa. Amen.
Có một bài hát mà mỗi khi sinh hoạt tập thể, các bạn trẻ hay hát. Bài hát đó là: “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông…”. Từ lời bài hát, suy nghĩ rộng ra đến cuộc sống, tôi thấy thật đúng.
Chẳng hạn, một lần đến Đà lạt, cả nhóm chúng tôi rủ nhau lên núi Langbiang. Đường lên núi gập ghềnh. Biết thế, nhưng chúng tôi vẫn đi. Tuy nhiên, đi chừng nửa núi, vài người bạn của tôi thấm mệt, rồi không thiết tha đi nữa, muốn bỏ cuộc. Bệnh nản chí là bệnh hay lây. Nó lây lang nhanh thật. Lúc đầu chỉ vài người, sau đó cả nhóm thua cuộc. Thế là bỏ nửa chứng, kéo nhau xuống núi.
Cho tới bây giờ, chúng tôi vẫn còn tiếc. Giá mà lúc đó, chúng tôi cố gắng hơn, nghị lực hơn, đừng vì núi cao mà sợ, thấy mỏi mệt mà mất can đảm, rất có thể chúng tôi đã chinh phục ngọn Langbiang.
Rất tiếc, chúng tôi đã không thành công. Rõ ràng, đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, nhưng chỉ khó do lòng người ngại núi e sông.
Trong cuộc sống, cũng có bao nhiêu sự chán nản, thua buồn, muốn bỏ cuộc như thế. Ví dụ, một người đang khỏe, ăn nên làm ra, bất ngờ bị tai nạn, mù mắt chẳng hạn. Từ đó mặc cảm, đau buồn, anh ta trở nên thối chí. Cuối cùng không thể vượt qua khó khăn, anh ta đã để chính số phận nghiệt ngã đè bẹp đời mình.
Nhưng với người khác, cũng hoàn cảnh bi đát như thế, lại có thể tự tạo cho mình một cuộc sống vui hơn, nhờ lấy lại bình tĩnh, quyết tâm vượt lên trên số phận, tìm cách chôn sâu nỗi buồn, làm việc gì đó có ích cho bản thân, cho cuộc đời…
Vài hình ảnh như thế, để thấy, ý chí của con người, nghị lực của lòng vượt khó, vượt khổ cần lắm. Ý chí, nghị lực giúp mỗi người thành công trong gian khổ, thành công trong đau buồn, ngay cả trong bi đát và bất hạnh nhất của cuộc đời…
Nhưng nghị lực và ý chí đâu chỉ cần trong đời thường. Nó còn tối cần cho đức tin. Nếu vượt lên khó khăn trong đời bằng nghị lực của bản thân, đã là một thành công đáng quý. Nhưng càng thành công hơn, đáng quý hơn, nếu ta biết quyết tâm, quyết chí với tất cả nghị lực, đoạn tuyệt lỗi lầm, trở về với Chúa.
Dù biết cắt đức thói hư tật xấu không dễ chút nào, không là chuyện một ngày, một bữa. Nhưng đường đi khó cách mấy, lòng không ngại khó, ngại khổ, thì hy vọng ở cuối đường ta đi sẽ sáng dần lên, rồi đến lúc ánh sáng sẽ tuyệt diệu.
Đường đi khó là trở lực, nhưng lòng thiếu ý chí, thiếu nghị lực, mới là trở lực đáng sợ. Hãy tin vào tình yêu của Chúa để trở về cùng Người, để lấy lại những gì đã đánh mất trong tội. Đó là ý chí, đó là nghị lực của bất cứ ai nhận biết mình tội lỗi và mong ước thống hối.
Hôm nay Hội Thánh mời ta suy niệm việc Chúa chịu cám dỗ khi Người ăn chay 40 ngày. Nhưng Chúa không chỉ chịu một, mà là ba cơn cám dỗ, tập trung vào ba điểm mấu chốt của đời người: Sự sống thân xác, quyền lực và danh vọng.
Cả ba cơn cám dỗ, Chúa đều chiến thắng tuyệt vời. Sức mạnh để có chiến thắng rực rỡ ấy chính là lời Kinh Thánh:
– Trong cơn cám dỗ về sự sống thân xác, Chúa Giêsu chống trả tên cám dỗ: “Người ta không chỉ sống bắng cơm bánh, mà còn bằng Lời Chúa nữa”.
– Đối với cơn cám dỗ về quyền lực, Chúa trả lời: “Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi, và chỉ phụng thờ một mình Người mà thôi”.
– Trong cơn cám dỗ về danh vọng, Chúa Giêsu khẳng khái: “Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi”.
Lời Kinh Thánh là vũ khí hết sức sắc bén để Chúa Giêsu đối đầu cùng cám dỗ và đã chiến thắng lớn. Nghị lực của Chúa là ở chỗi đó. Ý chí chiến thắng cám dỗ của Người là ở chỗ đó. Với ý chí và nghị lực đã nắn đúc từ Lời Chúa, Chúa Giêsu đã chống trả cám dỗ và chống trả mãnh liệt để đi đến thành công.
Như vậy, qua cơn cám dỗ của mình, Chúa để lại cho ta tấm gương tuyên chiến với ma quỷ, quyết liệt chống trả cám dỗ. Người còn để lại bài học của một người biết sống Lời Chúa, biết đặt niềm tin vào Lời Chúa, lấy Lời Chúa làm nghị lực, làm sức mạnh vượt lên trên mọi cám dỗ.
Chiến thắng cám dỗ, Chúa Giêsu cho ta nghị lực, đồng thời là bài học giúp ta hiểu, ý chí và nghị lực để vượt qua mọi cám dỗ của bản thân, những cám dỗ nguy hại cho đức tin, chỉ có được khi biết sống Lời Chúa, để cho Lời Chúa thấm nhập vào đời mình. Lời của Chúa giúp ta phản ứng hữu hiệu khi đối đầu với mọi cám dỗ.
Cuộc đời có nhiều cám dỗ lôi kéo. Nếu chúng ta đã đủ ý chí để quyết tâm không phạm tội, và đã chiến thắng tội lỗi, đó là điều tốt.
Nhưng giã như vì yếu đuối, bạn và tôi không được như Chúa Giêsu. Ngược lại, nhiều lần đã gục ngã, đã sa chước cám dỗ, thì giờ đây, trong tâm tình thống hối của mùa Chay, hãy vùng đứng dậy, hãy vững ý chí, tập trung nghị lực, cùng sự cầu nguyện, xin ơn Chúa giúp, hy vọng ta vững tâm trở về với Chúa. Hãy xây dựng cho tâm hồn một quyết tâm sống mùa Chay của năm 2019 theo gương Chúa Giêsu.
Dẫu sao, nơi Chúa Giêsu, chúng ta có một tấm gương lớn để tự soi rọi lòng mình. Sa ngã và phạm tội dẫu là sự nguy hại không nhỏ, nhưng vẫn chưa phải là đáng sợ nhất. Điều đáng sợ nhất là ở lỳ trong tội, là không đủ can đảm, không một chút ý chí, một chút nghị lực nào để vươn lên thoát tội. Chúng ta hãy để Lời Chúa tác động nơi mình, can đảm để Lời ấy thường xuyên tra vấn mình. Lúc đó, chính Lời Chúa sẽ là sức mạnh cho ta nghị lực khi đối đầu với cám dỗ.
Chúng ta cần ghi nhớ rằng, đường đi khó, không phải vì sông núi cho bằng lòng mình ngại khó. Cũng vậy, con đường từ bỏ thói hư tật xấu, trở về với Chúa sẽ lắm gian nan, nếu lòng ta thiếu nghị lực. Và nguồn sức mạnh tiếp thêm nghị lực cho mình, đó chính là Lời Thiên Chúa.
Lời cầu xin cuối trong kinh Lạy Cha mà Chúa Kitô dạy khẳng định hai sự thật mà chúng ta phải không ngừng cảnh giác đó là thần dữ và chước cám dỗ. Cám dỗ loài người có thể nói là việc chính yếu của thần dữ. Đã là Satan thì chước mưu cám dỗ không thể không tinh ranh, ma mãnh. Khởi đầu sứ vụ công khai rao giảng tin mừng, Chúa Kitô đã phải đương đầu với các chước cám dỗ của Satan trong hoang địa mà cả ba tin mừng nhất lãm đều tường thuật dù có một vài tiểu dị nhưng đều đồng quy về nội dung.
Lấy điều xấu để cám dỗ thì rất dễ bị nhận diện. Vì thế ma quỷ thường lấy điều tốt để làm cái mồi nhữ để cám dỗ người ta. Nó cám dỗ người ta tìm cách thủ đắc điều tốt bằng những phương thế không chính đáng và trái với đường lối của Thiên Chúa. Một quy tắc luân lý mà Hội Thánh Công Giáo khẳng định và những ai có lương tri ngay thẳng thì đều đồng thuận đó là “mục đích không thể biện minh cho phương tiện”. Không thể chấp nhận lối biện luận là hễ nhắm mục đích tốt thì có thể dùng mọi phương tiện, nhưng chỉ được phép dùng những phương tiện tốt, hoặc ít ra là không xấu. Xưa kia Satan đã lấy việc phân biệt sự lành sự dữ, vốn là một điều tốt để cám dỗ nguyên tổ loài người. Nhưng nó đã cám dỗ nguyên tổ phân định lành dữ, tốt xấu theo tiêu chí của mình chứ không phải theo thánh ý của Thiên Chúa. Đây là sự ma mãnh, tinh quái của thần dữ và nó đã thắng Ađam-Eva.
Với Chúa Kitô thì Satan vẫn dùng chước mưu ấy. Có thể khẳng định rằng nó thừa biết sứ vụ cứu độ của Đấng Thiên Sai. Ma quỷ không dại gì cám dỗ Người khước từ sứ vụ cứu độ nhân loại, nhưng nó chỉ cám dỗ Người chọn con đường cứu độ cách dễ dàng theo ý riêng Người chứ không theo thánh ý Chúa Cha. Xưa kia ma quỷ cám dỗ tiên tố loài người chủ yếu ở lãnh vực đức tin tức là nơi cái nhìn, ở sự nhận thức về tính chất tốt xấu, lành dữ của sự vật hiện tượng. Với Chúa Kitô thì ma quỷ tấn công cách toàn diện cả ba nhân đức đối thần là đức tin, đức cậy và đức mến. Theo tường thuật chung của ba Tin mừng nhất lãm thì thứ tự như bị đảo ngược lại.
1.Đức mến: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá thành bánh đi”. Có thực mới vực được đạo chứ. Chu cấp lương thực, của cải vật chất cho người ta là một hành vi yêu thương cách thiết thực và cụ thể. Với quyền năng của mình, Chúa Kitô thừa sức thực hiện điều ấy. Sự tinh ranh của ma quỷ ở chỗ nó cám dỗ Chúa Kitô yêu thương con người cách phiếm diện, nói nôm na là chỉ lo cho người ta về phần xác. Con người không phải là linh hồn cũng không phải là thân xác mà là thực thể xác hồn duy nhất. Nếu chỉ yêu phần xác hay chỉ phần linh hồn mà thôi thì không phải yêu thương con người. “Người ta sống không nguyên nhờ bởi cơm bánh mà còn nhờ mọi lời Thiên Chúa phán ra”. Chúa Kitô đã lật tẩy mưu mô của thần dữ khiến nó phải câm miệng.
2.Đức cậy: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy lên nóc Đền thờ Giêrusalem mà gieo mình xuống, chắc chắn Thiên Chúa sẽ sai thiên thần đỡ chân ông”(x.Lc 4,9-10). Nếu Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng và nếu Người là Cha nhân hậu thì Người phải lo lắng cho chúng ta mọi sự tất tần tật và không thể nào để chúng ta phải lâm cảnh bỉ cực, khốn khổ. Và như thế hạnh phúc vĩnh cửu đã nằm trong túi áo chúng ta cho dù chúng ta không xin và cũng chẳng tìm kiếm. Theo viễn kiến này thì con người đã nắm được Thiên Chúa trong tầm tay. Ỷ lại vào tình cha mà bắt cha làm theo ý mình thì người con đã hữu ý hay vô tình đặt mình lên trên người cha. Trật tự bị đảo ngược thì sinh ra hỗn độn. Loài người chúng ta dù đã được nhận làm con Thiên Chúa nhưng vẫn là loài thụ tạo. Chúng ta phải thực thi thánh ý Thiên Chúa chứ không thể buộc Thiên Chúa làm theo ý mình.
3.Đức tin: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”. Ma quỷ đã khôn khéo cám dỗ Chúa Giêsu thoả hiệp với nó để đạt thành công nhanh chóng. Quả thật sức mạnh của đồng tiền, của quyền lực vốn thật khó cưỡng. “Có tiền thì mua tiên cũng được. Chân lý thuộc về kẻ mạnh”. Những câu nói trên phần nào phản ảnh hiện thực ấy. Thoả hiệp với quyền lực trần gian để đạt mục tiêu tốt, chẳng hạn như để được dễ dàng sinh hoạt tôn giáo…là một trong những chước cám dỗ mà Giáo Hội chúng ta mọi thời phải đương đầu và lich sử minh chứng rằng đã không lần chúng ta sa chước cám dỗ để rồi phải ăn năn, xin lỗi.
Trong hoang mạc, Chúa Giêsu đã đánh bại ma quỷ nhưng nó vẫn chưa chịu bó tay. Tin mừng tường thuật rằng nó rút lui và chờ dịp khác. Ma quỷ tiếp tục tấn công Chúa Giêsu không chỉ suốt ba năm Người rao giảng tin mừng, mà cả đến những giờ khắc trong vườn cây dầu và phút giây Người hấp hối trên thập giá. Dĩ nhiên với Chúa Giêsu thì ma quỷ đã thất bại hoàn toàn nhưng còn với môn đệ của Người thì sao đây?
“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”. Ước gì lời cầu xin này luôn nhắc nhớ chúng ta cẩn trọng với sự tinh ranh, ma mãnh của Satan để rồi biết tỉnh thức cầu nguyện luôn như lời Chúa Giêsu nói với ba môn đệ thân tín trong vườn cây dầu.
Hôm nay, toàn thể Hội Thánh bước vào Mùa Chay thánh. Mùa Chay là thời gian đặc biệt để chúng ta rèn luyện các nhân đức, chiến đấu chống lại các chước cám dỗ bằng cách riêng năng cầu nguyện, chay tịnh và bố thí, nhờ đó mỗi người chúng ta trở thành thụ tạo mới trong Chúa Kitô.
Để giúp thực hiện tốt mục tiêu trên, Tin Mừng Chúa Nhật I Mùa Chay giới thiệu với chúng ta mẫu gương Chúa Giêsu trong việc chiến thắng ba cám dỗ ở sa mạc.
Thật vậy, với tư cách là con người, Đức Giêsu đã trải qua những cám dỗ. Điều này minh chứng rằng Người giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi (Dt 4,15). Người không xin Chúa Cha cất khỏi mình những cám dỗ nhưng Người can đảm đối diện và chiến thắng chúng một cách ngoạn mục.
Chúng ta tìm hiểu ba cám dỗ của Chúa, một đàng, để thấy sự lưu manh và nguy hiểm của ma quỷ; đàng khác, để học hỏi từ sự khôn ngoan và cách thức chiến thắng của Chúa Giêsu trong cuộc chiến thiêng liêng này.
1- Cám dỗ về vật chất
Cám dỗ thứ nhất mà Chúa Giêsu phải đối diện là cám dỗ về “cơm bánh,” hay tiền của. Thánh Luca tường thuật: “Trong những ngày ấy, Người không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó, thì Người thấy đói” (Lc 4,1-2). Ma quỷ tìm kiếm thời điểm nguy hiểm là lúc Người đói để sập bẫy Chúa. Với tư cách là con người, Chúa Giêsu cũng có nhu cầu ăn uống, dưỡng sức. Ma quỷ xuất hiện rất đúng lúc và đề nghị: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hóa bánh đi!” Nhưng Chúa Giêsu trả lời: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4).
Ngày xưa dân Do Thái cũng bị cám dỗ về miếng cơm manh áo, nên họ không muốn rời bỏ kiếp nô lệ. Thà nô lệ còn hơn là chết đói. Bởi vậy, họ đã kêu trách Môsê và không muốn tiến về đất hứa.
Cũng thế, ngày hôm nay, với chủ nghĩa hưởng thụ duy vật chất và kinh tế thị trường, chúng ta cũng bị cám dỗ về vật chất. Ở phương diện cá nhân, để có tiền của, nhiều người bị cám dỗ chấp nhận bán rẻ nhân phẩm và đạo đức. Ở phương diện quốc gia, nhiều người dám bán rẻ lợi ích dân tộc, đất đai, biển cả, môi trường vì lợi ích nhóm và cá nhân. Đồng tiền thao túng lòng người và san bằng mọi bậc thang giá trị đạo đức. Họ kiếm tiền bằng mọi giá, bằng sự vô luân, lừa lọc và gian lận người khác trong sản xuất, trao đổi hàng hóa và trong các mối tương quan xã hội. Hậu quả của lối sống này là những đổ vỡ và gây ra nhiều thảm họa cho xã hội hôm nay. Chúa Giêsu nhắc nhở rằng: “Con người không chỉ sống nhờ cơm bánh.” Con người sống vì những giá trị đạo đức, luân lý và tâm linh. Không vì vật chất mà đánh mất giá trị đạo đức, tâm linh và tương quan liên vị. Đức Giêsu mời gọi chúng ta sống lời khuyên Phúc Âm: “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3).
2- Cám dỗ thờ ngẫu tượng
Cám dỗ thứ hai là danh vọng hay thờ ngẫu tượng. “Sau đó, quỷ đem Đức Giêsu lên cao, và trong giây lát, chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ. Rồi nó nói với Người; ‘tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tùy ý. Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông” (Lc 4,5-7).
Đây là cám dỗ xuất hiện thường xuyên trong cuộc đời của Chúa Giêsu, cám dỗ về “quyền lực theo kiểu Mêsia trần thế,” lôi kéo Người đi vào con đường Mêsia theo kiểu “làm vua chính trị” để giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của ngoại bang (Ga 6,15). Chúa Giêsu từ chối kiểu Mêsia này, khi chấp nhận trở thành “người nghèo” và “người Tôi Tớ” đau khổ để cứu độ nhân loại.
Xưa dân Do Thái cũng bị cám dỗ này. Trong khó khăn, họ phàn nàn Thiên Chúa, và khi Môsê vắng mặt, họ đã đúc bò vàng và tôn thờ nó như là Thiên Chúa của họ. Họ muốn một Thiên Chúa theo nhu cầu và thị hiếu của mình.
Ngày hôm nay, chúng ta cũng sản xuất ra nhiều ngẫu tượng và tôn thờ chúng như đối tượng lớn nhất của đời mình: đó là tôn thờ của cải, danh vọng, quyền lực, tiền bạc, hưởng lạc…
Khi bị cám dỗ về danh vọng và quyền lực, Chúa Giêsu không coi những thứ đó như là đối tượng lớn nhất để tôn thờ. Người không sa bẫy của ma quỷ là muốn Chúa tôn thờ ngẫu tượng quyền lực và chạy theo chủ nghĩa “cứu thế” theo kiểu thế gian. Người trả lời với tên cám dỗ: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (Lc 4,8).
Quả là bài học cho mỗi người chúng ta: Chỉ có Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng đáng được chúng ta tôn thờ và yêu mến trên hết mọi sự. Những thứ còn lại chỉ là thứ yếu và là phương tiện cho cuộc sống chúng ta.
3- Cám dỗ thách thức Thiên Chúa
Thua keo này bày keo khác, cuối cùng ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu bằng việc thử thách Thiên Chúa: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi” (Lc 4,9-10).
Đây là cám dỗ yêu cầu Thiên Chúa thực hiện những điềm thiêng dấu lạ nhằm thỏa mãn ước vọng cá nhân. Xưa dân Do Thái đã làm như thế khi thấy khát trong sa mạc, tại Massa (nghĩa là cám dỗ) và Meriba (nghĩa là kêu trách) họ thách thức Thiên Chúa. Thiên Chúa đã làm cho dân khỏi khát bằng cách truyền cho Môsê đập gậy trên tảng đá Ôrép, từ đó một mạch nước chảy ra dồi dào.
Ngày hôm nay, chúng ta thường bị cám dỗ muốn kéo Thiên Chúa theo nhu cầu và những sở thích của mình, muốn Thiên Chúa làm những việc lạ kỳ, ngoạn mục và ngoại thường. Chúa Giêsu không sa vào cám dỗ của chủ nghĩa “chiến thắng” và lối đạo đức chạy theo phép lạ. Bởi vì, như có lời đã chép: “Người chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Lc 4,12). Chúa Giêsu chiến thắng cám dỗ này bằng thái độ vâng phục thánh ý Chúa Cha. Cũng thế, chúng ta hãy vâng phục thánh ý Thiên Chúa và theo sự hướng dẫn của Hội Thánh, chúng ta không rơi vào cám dỗ này.
Như thế, ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu trong sa mạc là ba cám dỗ đặc trưng và truyền kiếp mà mỗi người phải đối diện khi sống trong thế gian này.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống tỉnh thức trước mưu ma chước quỷ, bằng việc sống kết hợp với Chúa và nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, để chiến thắng các chước cám dỗ. Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ. Amen!
Người xưa có câu: vô duyên ghét kẻ có duyên, không tiền ghét kẻ cầm tiền ở tay. Vô duyên, có duyên, không tiền, có tiền, ít nhiều vẫn đang ảnh hưởng đến phong cách sống của nhiều tầng lớp: linh mục, tu sĩ, gia trưởng, hiền mẫu, người trẻ, vì tất cả đều cần đủ duyên, đủ tài, đủ tình yêu thương để tồn tại. Đường lên núi cao phải đối diện với dốc đá trơn trượt, vượt biển cả lẽ nào không có sóng gió nguy nan ? Sinh ra làm người ai chẳng giống ai, đi tu sợ bất thành, lập gia đình cũng đầy gian nan. Có chăng, sức mạnh, tính gan dạ anh hùng là bậc thang đi lên tận cùng của mơ ước ? Không, tình yêu chính là trọng tâm nhằm giúp người ta sống, tình yêu là thước đo của khôn ngoan thật, tình yêu mới minh chứng được lời nhắn gởi của tiền nhân: nhà nghèo mới biết con có hiếu, nước có biến loạn mới hay ai là kẻ trung thành với tổ quốc.
Thánh Thần đưa dẫn Đức Giêsu vào hoang địa để làm gì, hẳn không phải để thử thách Đức Giêsu “vô duyên hay hữu duyên”, đúng hơn là nhằm giúp Đức Giêsu nhận ra tình yêu và sứ mạng của Chúa Cha mời gọi Ngài thực thi. Vượt qua 40 đêm ngày samạc, nhân loại được chứng kiến Một Đức Giêsu đã sống tinh thần: cầu nguyện, chay tịnh, và biết ứng xử trước mọi nguy khó trong đời, tạm gọi là phá tan mọi âm mưu của “tên cám dỗ”. Con người vẫn suy gẫm mạnh mẽ là gì ? và tự trả lời: người mạnh mẽ không phải là người không có nước mắt, nhưng là người biết kìm hãm để nước mắt không rơi một cách vô trật tự. Tên cám dỗ năm xưa phải bỏ chạy để tìm dịp “quấy phá” Đức Giêsu, không phải vì Đức Giêsu mình đồng da sắt hay có trái tim bằng đá, mà đúng hơn, Ngài đã sử dụng tình yêu thương trong phận người và sức mạnh của tình hiệp thông trong Thiên Chúa là Cha.
Tiền nhân chúng ta nhắc nhớ con cháu hãy cẩn thận, không nên chủ quan trước nhiều lối rẽ cuộc đời: làm người phải đắn phải đo, phải cân nặng nhẹ, phải dò nông sâu. Tại hoang địa năm xưa, Đức Giêsu không dùng quyền phép để biến hoá của ăn nuôi thân xác, Ngài từ chối vương quốc trần gian, và khẳng định không ai được thử thách Chúa là Thiên Chúa yêu thương. Đức Giêsu không nhầm lẫn giữa đói cơm bánh và đói tình yêu thương, không mê muội giữa bổng lộc thế trần với thập giá vinh quang, Ngài tự bỏ mình để sống vâng phục thánh ý Cha trọn vẹn. Tính hấp dẫn của vinh hoa phú quý hôm nay, vẫn là những nấc thang đầy nguy hiểm, chúng đi từ nhu cầu thực tế đến nhiều lý lẽ tinh vi, nhằm hạ gục những tâm hồn thiếu cảnh giác, sống “lờ vờ”, sống dễ dãi với giáo huấn của Chúa.
Cha ông chúng ta cho con cháu một kinh nghiệm để đời: lúc khó khăn mới biết ai là bạn, khi hoạn nạn mới hiểu bạn là ai. Đau khổ, đói khát tình thương, thời nào cũng có, được thêm bạn là bớt thù, ai cũng biết, nhưng hiểu bạn, tin bạn, và giúp nhau cùng đạt tới hạnh phúc, luôn là vấn đề không dễ. Xưa hay nay gì cũng vậy, khi sống thánh ý Chúa không phải là ta không gặp khó khăn đau khổ, không phải cứ hy sinh hãm mình, cứ sống chay tịnh ta mới bị cám dỗ, cũng chẳng phải những ai vào samạc 40 đêm ngày mới bị ma trêu quỷ gầm gừ ! Sống thánh ý Chúa hay sống tin yêu Chúa, chắc không phải là lời khuyên hay là một phát hiện mới, thực ra, giáo huấn của Chúa, con đường theo Chúa, không hề có đường ngang lối tắt, mà hệ tại mỗi người biết khôn ngoan sống tình hiệp thông.
Tục ngữ có câu: không vào hang cọp, làm sao bắt được hổ ? Không đối diện với đau khổ, gian nan, lấy gì để minh chứng: lửa thử vàng, gian nan thử đức, tôi sẽ chiến thắng cái tôi ích kỷ của tôi ? Đói khát hôm nay vẫn là đề tài vừa rộng vừa dài, sống đúng, sống đẹp, vẫn mãi là thao thức cần thiết. Khoẻ dùng sức, yếu dùng mưu, luôn là phương thế hữu hiệu, kitô giáo vẫn chủ trương tình yêu, sức mạnh của ơn Chúa, mới đủ khả năng vượt gian khó, và đạt đến hạnh phúc trọn vẹn. Đói cơm bánh, khát quyền lực, mơ ước được thành công, cần được no thoả an vui, bao giờ cũng là chính đáng dối với vương quốc trần gian. Đức Giêsu đã nói lên một chân lý vô cùng chắc chắn: “người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”. Nhân loại chỉ khuất phục được những ham hố ở đời này, khi người ta biết sống tin yêu, hiệp thông cầu nguyện và thực thi công bằng với Chúa và đức ái với tha nhân.
Vì nhu cầu đói ăn khát uống, tên cám dỗ yêu cầu Đức Giêsu lấy quyền năng biến hoá sỏi đá thành bánh đáp ứng điều cơ bản để sống. Vì quan niệm không chuẩn xác như thế nào là sống tin yêu, do đó mà không ít kẻ đã nhầm khi nói: có thực mới vực được đạo. Tính hợp lý mà Đức Giêsu hôm nay cho thấy: đừng bao giờ cùng một lúc vừa ăn vừa uống vừa cầu nguyện, cũng chẳng đúng ý Chúa khi ngày này tháng nọ, cứ chắp tay cầu xin Chúa linh thiêng làm phép lạ ban của ăn thức uống cho thần dân ! Người kitô hữu tin Chúa, theo Chúa, chọn Chúa, nhưng sống tin yêu trước hết là phải từ bỏ mình, bỏ ý riêng của mình, cũng là dịp để xa tránh sự xấu ; tiếp đến mỗi người đều phải có sức mạnh cậy trông, sức mạnh của thông hiệp trong tình yêu Ba Ngôi. Amen. ---------------------------------
Chúng ta hay nói đến từ “cám dỗ”. Vậy cám dỗ là gì? Hiểu một cách đơn giản cám dỗ tức là nó khêu gợi lòng ham muốn củachúng ta và dẫnchúngta sa ngãchiều theo nó.Có một bạn trẻ nói với tôi rằng: “Con không có ý định xem phimảnhkhiêu dâm nhưng khi đang lướt mạng thì một quảng cáo bất ngờ xuất hiện. Như một phản xạ, con cứ thế mở ra, riết rồi nghiền lúc nào không hay”. Và người khác thì tâm sự rằng:
“Một nữ đồng nghiệp xinh đẹp bắt đầu tán tỉnh tôi. Một ngày nọ, cô ấy rủ tôi đi khách sạn để ‘vui vẻ với nhau’. Tôi biết rõ cô ấy muốn gì”, nhưng tôi đã thắng vượt cám dỗ. Tôi đã không đến điểm hẹn.
Cám dỗ là sự thật luôn xen vào cuộc sống con người. Dù ít dù nhiều thì đã là người luôn phải đứng trước cám dỗ. Điều đáng buồn là cám dỗ đãchiến thắng rất nhiều người chiều theo nó để được thỏa mãn ham muốn cá nhân. Gần đây nhất là vụ cô gái giao gà chiều 30 tết bị 5 người đàn ông đã bắt giữ 3 ngày để hiếp dâm và giết chết. Họ là những người đã không chiến thắng được sắc dục để rồi chỉ tìm thoả mãn thú tính mà làm những chuyện không còn là một con người. Đúng như người xưa vẫn nói:Người chết vì tiền, chim chết vì mồi!. Tất cảđều là vì lòng tham gây họa, vì dục vọng mà làmnhững chuyện đê hèn còn thua loài súc sanh.
Con người hơn loài vật là biết thiện và ác và nhất là có đủ lý trí để suy xét và ý chí để chế ngự bản thân. Nếu con người không chiến thắng được chính mình mà chỉ để sống theo bản năng thì đâu hơn loài vật tầm thường. Thế nên, làm người phải thắng được chính mình là thắng được cám dỗ. Đừng vì nuông chiều xác thịt mà làm những chuyện thất đức hại người. Hãy biết kìm chế bản thân thì sẽ thắng được cám dỗ.
Hôm nay, Chúa Giê-su cho ta phương thế thắng được cám dỗ chính là đặt Chúa và lề luật làm trung tâm đời sống chúng ta. Phúc âm kể rằng ma quỷ đã đến cám dỗ Chúa Giê-su.Nó cám dỗ Chúa Giê-su vì nó biết Chúa Giêsu sau 40 ngày nhịn ăn nên rất đói, rất cần đến nhu cầu ăn uống. Nó đã khơi dậy nơi Chúa sự quay lưng lại với Chúa Cha để được thoả mãn cái bụng của mình. Nó hướng mở cho Chúa một tương lai đầy hứa hẹn không chỉ có của ăn dư đầy từ những hòn đất, hòn đá cũng biếnthành của ăn. Từ sỏi đá cũng thành cơm mà vượt xa hơn nữa là nắm gọn trong tay cả và dân thiên hạ. Có kẻ hầu người hạ. Có cơ hội hưởng dùng mọi vinh hoa phú quý trần gian. Năm xưa trong vườn địa đàng nó đã thắng ông bà nguyên tổ, khi nó đưa ra những lời dụ dỗ đầy ngọt ngào, đầy hấp dẫn này, nhưng hôm nay màn trình diễn này đã hoàn toàn thất bại bởi Người Con duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giê su. Ngài không những đã khước từ những lời mời mọc của ma quỷ mà còn cho ma qủy nhận ra rằng không có gì hiện hữu ở trần gian này đáng để con ngườiphải cúi mình mà thờ lạy nó. Chỉ có mộtmình Thiên Chúa mới xứng đáng cho con người cúimình tôn thờ. Và chỉ khi nào sống và thực hiện ý Chúa mới làm cho con người trở nên cao đẹp hơn mọi loài trên trần gian.
Cuộc sống chúng ta luôn đối diện với cám dỗ. Trước tiên nó gieo vào lòng ta mối nghi ngờ Thiên Chúa, về lòng thương xót và sự quan phòng của Thiên Chúa. Nó mở ra cho chúng ta một so sánh, tính toán thiệt thua và cuối cùng là đưa ra một con mồi để quyến rũ là: danh vọng, tiền tài, lạc thú. Kết quả là nhiều người vì ham tiến, ham sắc, ham lợi lộc đã trở thành tay sai cho ma quỷ. Từ một chàng thanh niên nhà quê hiền lành chất phác bỗng biến thành một con người lòng mang dạ sói, sẵn sàng giết hại đồng loại. Từ một cô gái đoan trang mực thước rồi bỗng một hôm lại trở thành một tú bà chuyên nghiệp của lầu xanh.
Ở khởi đầu mùa chay, khi cho chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu chiến thắng ma quỷ cám dỗ, Giáo hội mời gọi chúng ta ý thức về thân phận yếu hèn củamình màtrông cậy vào ơn Chúa đểvượt thắng cám dỗ. Đồng thời, biết theo gương Chúa, chúng ta hãy tỉnh thức trong từng giờ từng phút, luôn biết chọn lựa giá trị vĩnh cửu hơn là những giá trị mong manh của đời này. Hãy chọn Chúa và thờphượng Chúa hơn là chọn danh lợi thú trầngian. Xin Chúa là Đấng đã chiến thắng cám dỗ giúp chúng ta học nơi Chúa để sống quy phục Thiên Chúa và thực thi theo thánh ý Ngài.
Đức Kitô vừa là Con Thiên Chúa và là con Đức Trinh Nữ Maria. Ma quỷ không dám cám dỗ Đức Kitô là Con Thiên Chúa; chúng cám dỗ Đức Kitô là con Đức Trinh Nữ Maria. Chính chúng có lần khóc than ông Kitô đến tiêu diệt chúng tôi sao? Chúng tôi biết ông là ai? Lc 4,34.
Đức Kitô chịu cám dỗ xác nhận Ngài là một người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Chính ma quỉ xác nhận điều này khi chúng bắt đầu bằng câu: Nếu ông là Con Thiên Chúa. Bởi không xác tín Đức Kitô là Con Thiên Chúa nên chúng đặt giả thuyết nếu.
Thứ hai, là Thiên Chúa Ngài luôn có Thánh Thần ở cùng. Bởi Ngài xuống thế làm người nên được Thánh Thần Chúa dẫn vào trong hoang địa.
Thứ ba, Ngài cảm thấy đói cho biết Ngài có cảm xúc đói, no, khát, đau khổ, mệt mỏi như chúng ta.
Ma quỉ cám dỗ Ngài ba lần và cả ba lần chúng đều thất bại, bỏ đi. Phúc âm thuật chúng đầu hàng, bỏ đi, chờ cơ hội khác. Điều này có nghĩa chúng sẽ trở lại trong hoàn cảnh khác, cám dỗ dưới dạng khác.
Cám dỗ đầu tiên là tìm cách thoả mãn í riêng mình. Cám dỗ thứ hai liên quan đến việc thu tóm vật chất, dùng thế lực của cải sai khiến người khác. Ma quỉ khoe khoang, chúng biết Đức Kitô (lc 4,34), thật ra chúng không biết Đức Kitô như điều chúng phét lác. Ma quỉ hứa cho Đức Kitô toàn thế gian nếu Ngài thờ lậy chúng. Đáp lại Đức Kitô dậy ‘Được cả thế gian mà đánh mất chính mình hay là thiệt thân thì có lợi gì? Lc 9,25. Cám dỗ thứ ba liên quan đến bản tính kiêu ngạo. Đây chính là bản tính của ma quỉ.
Cuộc đời rao giảng công khai của Đức Kitô cho thấy Ngài hoàn toàn làm ngược lại điều ma quỉ cám dỗ. Thứ nhất, Ngài không biến đá thành bánh ăn nhưng làm phép lạ biến hai con cá và năm tấm bánh nuôi năm ngàn người ăn, còn dư mười hai thúng đầy Lc 9,10tt. Thứ hai, dân chúng trông đợi Ngài lãnh đạo họ lật đổ chế độ cai trị khắc nghiệt của đế quốc Roma. Ngài đã không làm điều đám đông mong muốn, nhưng giải thoát họ khỏi xiềng xích tội, tha cho kẻ bị ma quỉ giam cầm và giải phóng kẻ ma quỉ ràng buộc, ban cho họ sự sống trường sinh. Điều này chính Ngài công bố trong hội trường khi đọc đoan tiên tri Isaiah loan báo sứ mạng của Đấng Cứu Thế Lc 4,18-19. Thứ ba, Ngài không nhảy từ trên nóc đền thờ xuống như ma quỉ thách đố nhưng tự chọn treo trên cây thập tự để lôi kéo mọi người lên cùng Đức Kitô. Một trong những câu xám hối đầu lễ cộng đoàn tuyên xưng ơn Cứu Chuộc do linh mục đại diện cộng đoàn tuyên xưng: Đức Kitô được treo lên để kéo mọi người lên theo. Sau đó là câu chính Ngài vác thập giá, gánh tội gian trần. Cộng đoàn đáp: Xin Đức Kitô thương xót chúng con.
Cả Đức Kitô lẫn ma quỉ đều trích dẫn Cựu Ước trong đối đáp, tuy nhiên có sự khác biệt rất lớn. Ma quỉ biết Cựu Ước nhưng chúng không có lòng yêu mến Kinh Thánh. Đức Kitô không những đã kính trọng mà còn yêu mến Kinh Thánh với tất cả tấm lòng. Hiện nay ta vẫn nghe trong các tiệc tùng hay ngay cả chính trị gia dùng Kinh Thánh biện luận cho í kiến của họ. Chúng ta cầu xin cho bọ biết yêu mến và chân thành kính trọng Kinh Thánh.
Qua cuộc thử thách của ma quỉ với Đức Kitô, chúng ta học được nhiều bài học quan trọng.
Thứ nhất, đừng bao giờ chống lại các cơn cám dỗ bằng sức riêng, hay khôn ngoan riêng nhưng luôn trông cậy vào sức mạnh Lời Chúa. Chính Đức Kitô làm điều đó.
Thứ hai, cơn cám dỗ tự nó chưa phải là tội, sẽ trở thành tội khi ta cộng tác với ma quỉ thực hành điều chúng cám dỗ. Từ chối lắng nghe lời dụ ngon ngọt của chúng, chúng không thể cưỡng bách hay ám hại ta khi ta từ chối cộng tác với chúng.
Thứ ba, Thánh Thần Chúa hướng dẫn Đức Kitô và Ngài nghe lời Thánh Thần, cũng Thánh Thần đó Chúa ban cho ta khi lãnh nhận phép Thanh Tẩy, nên ta xin ơn biết nghe hướng dẫn của Thánh Thần. Từ chối nghe theo hướng dẫn của Thánh Thần là cám dỗ thông dụng nhất và nguy hiểm nhất bởi như thế là mở toang cửa đón ma quỉ vào nhà.
Thứ tư, đừng vội mừng khi thấy ma quỉ bỏ đi, chúng bỏ đi rồi sẽ tìm cơ hội trở lại vì thế luôn cảnh giác, cầu nguyện luôn. Ma quỉ đói khát trong việc cám dỗ các linh hồn; trái lại, Đức Kitô khao khát cứu vớt các linh hồn.
Sống giản dị thì nên công chính. Ăn ở khiêm nhường thì được cứu độ.
“Có tin thật trong lòng, mới được nên công chính. Có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ” (Rm 10,10).
Mùa Chay là mùa ăn năn sám hối. Mùa Chay đã về và Giáo Hội luôn mời gọi con cái mình ăn năn sám hối. Thế nhưng ăn năn sám hối là gì? Theo Giáo Lý Công Giáo thì: “Ăn năn tội là đau đớn trong lòng và chê ghét tội đã phạm; dốc lòng chừa, từ nay không phạm tội nữa” (x.GLCG, số 1451). Có hai cách ăn năn tội. Cách trọn và cách chẳng trọn.
Khi chúng ta ăn năn vì yêu mến Chúa trên hết mọi sự, thì gọi là ăn năn cách trọn. Việc ăn năn tội này xóa bỏ các tội nhẹ và cũng đem lại ơn tha thứ các tội trọng, nếu chúng ta quyết tâm đi xưng tội càng sớm càng tốt(x. GLCG, số 1452).
Còn cách ăn năn chẳng trọn là nó xuất phát từ việc thấy sự xấu xa của tội lỗi hoặc sợ hình phạt trầm luân đời đời, cũng như hình khổ khác mà kẻ tội lỗi phải chịu. Việc ăn năn tội cách chẳng trọn tự nó không đem lại ơn tha thứ các tội trọng, nhưng chuẩn bị tâm hồn đón nhận ơn tha tội trong bí tích thống hối.(x. GLCG, số 1453).
Khi bắt đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su đã nói: “Thời kỳ đã mãn và triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (x. Mc1,15).
Theo tôi, Sám hối và tin vào Tin Mừng chỉ là hai mặt của một đồng tiền; hay nói theo thời nay, đó là “2 trong 1”. Nghĩa là Sám Hối là tin vào Tin Mừng và Tin vào Tin Mừng là Sám Hối. Làm sao ta ăn năn sám hối nếu ta không tin vào Tin Mừng, không tin vào Lời Chúa; không tin vào lòng thương xót của Chúa ? Và làm sao nói được là ta tin vào Tin Mừng mà chẳng thấy nên tốt lành và thánh thiện gì? Chẳng lẽ ta chỉ tin ngoài môi miệng thôi sao?
Thánh Phao-lô nói thật là chí lý: “Có tin thật trong lòng mới được nên công chính. Có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ”. Có thể nói:
Có tin vào Tin Mừng ta mới được nên công chính. Có ăn năn sám hối ta mới được cứu độ.
Để được cứu độ ta phải có lòng ăn năn sám hối. Theo thánh Gio-an Kim Khẩu, Giám Mục, thì có đến 5 con đường để ăn năn sám hối: một là lên án tội lỗi mình; hai là tha thứ lỗi lầm cho người thân cận; ba là cầu nguyện; bốn là bố thí và năm là ăn ở khiêm nhường. (Trích Bài đọc 2 Kinh Sách Thứ ba, tuần 21 Thường niên, trang 105).
Năm chủ đề này, tôi sẽ khai triển trong các Chúa Nhật Mùa Chay, từ Chúa Nhật thứ I đến Chúa Nhật thứ 5.
Trong Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay này, tôi sẽ khai triển chủ đề thứ năm, đó là Sống giản dị và ăn ở khiêm nhường. Theo thánh Gio-an Kim Khẩu, “Cách sám hối này tiêu diệt tội lỗi tận căn. Người thu thuế đã làm chứng điều đó. Anh ta không kể ra được những việc lành, nhưng thay vào đó, anh đã dâng lên lòng khiêm tốn của mình và trút được gánh nặng tội lỗi”. Nói cách khác, mọi tội lỗi đều do lòng kiêu ngạo mà ra. Nên, nếu mà ta sống giản dị và ăn ở khiêm nhường thì ta sẽ tiêu diệt được tội lỗi trong ta. Có thể nói:
Sống giản dị thì nên công chính. Ăn ở khiêm nhường thì được cứu độ.
Lần dở lại dụ ngôn người Pha-ri-siêu và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện, ta sẽ thấy được cách sám hối này (x. Lc 18 9-14).
“Người Pha-ri-siêu, đứng thẳng và cầu nguyện rằng: Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn chúa vì con không như bao kẻ khác, tham lam, bất chính, ngoại tình hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần; con dâng cho Chúa một phần mười hoa lợi của con” (câu 11-12).
“Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: Lạy Thiên Chúa xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (câu 13). Hết sức ngắn gọn và chính xác.
Và Chúa kết luận: Tôi nói cho các ông biết, người thu thế này khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người Pha-ri-siêu kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (câu 14).
Quả thực, hạ mình xuống và sống khiêm tốn không phải dễ, có mấy ai sống được như vậy. Có tập cả đời không biết trên trần gian này có được mấy người. Hạ mình là coi người khác hơn mình và khiêm tốn là yêu thích âm thầm; yêu thích những gì hèn mọn, những việc nặng nhọc, dơ bẩn, khó khăn,….; không chơi trội, không kể công, không khinh khi người khác,….
Ta hãy học gương hạ mình và khiêm nhường của Đức Giê-su trong bài Phúc Âm hôm nay (Lc 4,1-13). Đức Giê-su là Chúa, thế mà Ngài lại để cho ma quỉ cám dỗ. Dầu vậy, Ngài đã hạ mình và khiêm cung dùng Lời Chúa để đối phó với sự ma mãnh của ma quỉ.
Khi Chúa bị ma quỉ cám dỗ nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho hòn đá này hóa bánh đi”(Lc 4,3). Một lời khích bác !!!!
Nhưng Đức Giê-su bình tĩnh trả lời: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Lc 4,4). Có nghĩa là không cần phải làm chuyện đó. Người ta sống còn nhờ vào những điều khác nữa, như rau củ, trái cây, mì gói, bún bò, bún mắm, bún riêu, vv….. Và cũng chẳng cần phải truyền làm chi, cứ bỏ công bỏ sức ra làm việc; rồi có tiền; rồi lấy tiền đó mà mua cơm hộp, mua bánh bì mà ăn. Đâu có gì khó! Đừng sống vì một lời khích bác; những lời khích bác đầy ác ý.
Khi ma quỉ cám dỗ mà nói: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền ấy đã được ban cho tôi và tôi muốn cho ai tùy ý. Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông” (Lc 4,6-7). Thật là láo cá !!!
Nhưng Đức Giê-su trả lời: “Đã có lời chép rằng: ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi và phải thờ lạy một mình Người mà thôi”(Lc 4,8). Nghĩa là ngươi đừng láu cá, hãy biết thân biết phận của mình.
Và khi ma quỉ cám dỗ mà nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, mà đứng đây gieo mình xuống đi. Vì đã có lời chép rằng: Thiên Sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Lc 4,9-10). Thật là ranh ma !!
Ma quỉ lại dùng Lời Chúa để cám dỗ nữa chứ. Câu đó, ma quỉ trích trong Thánh vịnh 90, 12. Đức Giê-su, đâu có khùng; Ngài sống Lời Chúa, chứ đâu có hiểu Lời Chúa theo nghĩa đen mà gieo mình từ trên cao xuống. Gieo mình xuống kiểu đó thì tan xương nát thịt; chết không kịp ngáp. Ai cũng biết mà, đừng bắt Chúa phải làm phép lạ. Và Chúa chỉ vào mặt ma quỉ mà nói: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”(Lc 4, 12).
Cuối cùng thì ma quỉ phải đầu hàng và chịu thua. Đức Giê-su đã dùng sự hạ mình và khiêm tốn để chiến thắng được ma quỉ đấy. Bởi đó, ta cũng hãy noi gương bắt chước mà sống hạ mình và khiêm tốn như Chúa. Ta cũng sẽ chiến thắng hết mọi cơn cám dỗ ở thế gian này.
Ai hạ mình sẽ được nên công chính. Ai sống khiêm tốn sẽ được cứu độ.
Còn kẻ tự cao sẽ thất bại và kẻ kiêu ngạo có ngày sẽ sụp đổ.
Vậy ta hãy Sống giản dị và ăn ở khiêm nhường. Vì ai ăn ở khiêm nhường đương nhiên sẽ sống giản dị. Khiêm nhường mới là cái chính; còn giản dị thì đi theo sau. Đó là cách sám hối thiết thực và có lợi cho ta trong Mùa Chay này.
Mùa Chay là thời gian thuận tiện để các Kitô hữu đặt trọng tâm đời sống vào việc sám hối, thể hiện qua việc cầu nguyện, ăn chay, và bố thí. Đó là ba tập tục đạo đức truyền thống tạo nên thế “chân kiềng” vững chắc giúp tín hữu sống các chiều kích của đời sống Kitô giáo.
Các bài đọc Chúa Nhật I hôm nay đề cập tới niềm tin vào Thiên Chúa. Niềm tin này được dân Do thái cảm nghiệm cách sâu sắc trong lịch sử qua những can thiệp cụ thể của Người. Sự can thiệp quan trọng nhất của Thiên Chúa trong lịch sử nhân loại đó là ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã hứa tự ngàn xưa. Lời hứa ấy được thực hiện qua Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Về phía nhân loại, ai tin vào Người sẽ được ơn cứu độ. Đức tin đóng vai trò rất quan trọng, và Mùa Chay là mùa chúng ta bước đi trong sa mạc để thanh luyện đức tin vào Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô và cũng là mùa để đức tin của chúng ta được đơm hoa kết trái trong đời sống.
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. BÀI ĐỌC I (Đnl 26,4-10)
Bài đọc I trích sách Đệ Nhị Luật kêu gọi Dân Do thái biểu lộ lòng biết ơn Thiên Chúa qua việc dâng lên Người các sản phẩm đầu mùa; bởi vì chính Người là Đấng giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai cập và cũng là Đấng đã ban cho họ Đất Hứa, là “đất tràn trề sữa và mật”. Ở đất Ai cập, người Do thái bị áp bức và Thiên Chúa đã lắng nghe tiếng kêu van của họ: “Người Ai cập đã ngược đãi, hành hạ chúng tôi và đặt ách nô lệ lên vai chúng tôi. Bấy giờ chúng tôi đã kêu lên cùng Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông chúng tôi; Người đã nghe tiếng chúng tôi”. Biến cố giải thoát khỏi ách nô lệ Ai cập là dấu chỉ tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho dân Do thái. Thiên Chúa là Đấng trung tín với lời đã hứa, và người sẽ giải thoát những ai tin tưởng vào Người. Dân Do thái cảm nhận tình yêu và lòng thương xót này của Thiên Chúa và nhận ra những hồng ân mà bây giờ họ đang được hưởng trong Đất Hứa là do Thiên Chúa ban. Họ đáp trả lại những hồng ân đó bằng những của lễ đầu mùa như là lòng tri ân Thiên Chúa.
2. BÀI ĐỌC II (Rm 10,8-13)
Người Do thái nghĩ rằng tuân giữ Lề Luật là được cứu độ. Phaolô lại cho thấy con người không thể đạt được sự công chính nhờ tuân giữ Lề Luật, nhưng Lề Luật báo trước sự công chính hóa nhờ Đức Kitô trong sách Đnl 30,12-14 (x. Rm 10,6-8). Người ta có thể đạt được sự công chính nhờ đức tin. Quả thật, đức tin đem lại ơn cứu độ cho tất cả mọi người: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ”. Đây là điều mà thánh Phaolô nhắn nhủ các tín hữu, dù họ là Hy lạp, Do thái hay một dân tộc nào khác: “Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát”. Tin vào quyền năng của Thiên Chúa và sống niềm tin của mình bằng cả con người thì sẽ được đón nhận ơn cứu độ mà Thiên Chúa hứa ban.
Về phía Thiên Chúa, để cứu độ con người, Thiên Chúa đã ban Con Một của Người cho nhân loại, và Người Con đó đã đến gánh lấy tội của con người bằng hiến tế trên thập giá. Về phía nhân loại, để đạt tới ơn cứu độ, con người cần phải đón nhận và tin vào Đức Giêsu Kitô.
3. BÀI TIN MỪNG (Lc 4,1-13)
Đoạn văn này thường được đặt tựa “Đức Giêsu chịu cám dỗ trong sa mạc” để đưa ra những bài học áp dụng cụ thể về ăn chay, vượt qua cám dỗ trong Mùa Chay. Đoạn văn này không quan tâm nhiều đến việc quỷ dữ có thể cám dỗ Đức Giêsu phạm loại tội nào, hay phải đương đầu với những thứ cám dỗ nào, cho bằng phác thảo ra một chân dung Đức Giêsu là Con Thiên Chúa làm người: “Người không phải là Ðấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, chỉ trừ tội lỗi” (Hr 4,15). Quả thật, Đức Giêsu đã trải qua những cung bậc của cuộc sống con người và nhất là đã sống kinh nghiệm của chính dân Israel. Tuy nhiên, trong khi dân Israel chịu thử thách trong sa mạc, họ đã sa ngã; ngược lại, Đức Giêsu cũng đã chịu thử thách trong sa mạc nhưng Người đã vượt qua vì luôn luôn tín thác vào Thiên Chúa.
Về bối cảnh, trước khi bắt đầu sứ vụ rao giảng, Đức Giêsu được Thánh Thần dẫn vào trong hoang địa 40 ngày và chịu ma quỷ cám dỗ. Con số 40 gợi nhớ đến kinh nghiệm của ông Môsê và ông Êlia đến Núi Thánh để gặp gỡ Thiên Chúa. Con số 40 cũng gợi nhớ đến biến cố dân Dothái bước đi trong sa mạc 40 năm để tiến về Đất Hứa. Trong hành trình này họ chịu nhiều thử thách để niềm tin được thanh luyện. Sau 40 ngày ăn chay, Đức Giêsu thấy đói và ma quỷ đã lợi dụng cơ hội này để cám dỗ Người trong ba khía cạnh, được diễn tả bằng ba cơn cám dỗ:
- Trong cơn cám dỗ thứ nhất, ma quỷ đã dùng chính tước hiệu “Con Thiên Chúa” để cám dỗ Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hóa bánh đi”. Ma quỷ muốn Đức Giêsu dùng chính quyền năng như là “Con Thiên Chúa” để làm những phép lạ đem lại lợi ích cho cá nhân Người. Tuy nhiên, Người đến trần gian không phải cho riêng mình, mà để thi hành thánh ý Thiên Chúa Cha và vì kế hoạch cứu độ con người: “Nhưng đừng theo ý con, mà là ý của Cha được thành sự” (Lc 22,42).
- Trong cơn cám dỗ thứ hai, ma quỷ chỉ cho Đức Giêsu thấy vinh hoa thế gian và nói: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tùy ý. Vậy ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông”. Trong lời cám dỗ này, chúng ta thấy một sự lừa lọc của ma quỷ khi tự cho rằng nó có quyền trên vũ trụ này; nhưng thực sự chỉ có một mình Thiên Chúa mới có quyền này và Đức Giêsu đến thế gian để thống trị vũ trụ bằng tình yêu và sự thật. Đức Giêsu đã khẳng định chân lý: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.
- Trong cám dỗ thứ ba, ma quỷ dùng đoạn Tv 91,11-12: “bởi chưng Người truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá”, để xúi giục Đức Giêsu gieo mình trên nóc Đền Thờ xuống. Đây là mưu mô cám dỗ của ma quỷ với mục đích để ép buộc Thiên Chúa thực hiện ý đồ của mình vì sự phô trương cá nhân. Nhưng Đức Giêsu trả lời: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”. Với các câu trả lời của Đức Giêsu cho thấy rằng Người luôn tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa, tin vào quyền năng của Thiên Chúa và củng cố sự hiệp nhất với Thiên Chúa.
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. “Bấy giờ chúng tôi đã kêu lên cùng Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông chúng tôi; Người đã nghe tiếng chúng tôi”. Dân Do thái đã cảm nghiệm được sự can thiệp đầy lòng thương xót của Thiên Chúa trong đời sống của họ và họ đáp trả bằng việc dâng của lễ đầu mùa lên Người như tỏ lòng biết ơn. Trong cuộc sống tôi nhận được nhiều hồng ân của Thiên Chúa, nhờ vào tình yêu và của Người. Vậy, tôi đã quảng đại đáp trả lòng thương xót của Thiên Chúa chưa? Tôi đã biết sống “thương xót như Chúa Cha”? Đâu là những hành động cụ thể mà tôi thể hiện lòng tri ân Thiên Chúa trong cuộc sống?
2. “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ”. Tôi có thực sự sống những điều mà tôi tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô? Tôi có thực sự sống tín thác vào Người khi vui, lúc buồn, cũng như khi gặp nguy khó? Tôi có cảm nghiệm Đức Giêsu như là chỗ nương tựa cho đời tôi?
3. “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”. Tôi có đặt Thiên Chúa ở vị trí quan trọng và tối thượng trong cuộc sống của tôi? Hay tôi còn có nhiều vị thần khác đang chi phối cuộc sống tôi? Tôi có thi hành thánh ý Thiên Chúa hay chỉ dựa vào Thiên Chúa để thực hiện những mục tiêu trần thế của tôi?
4. “Ăn chay, nghĩa là học cách thay đổi thái độ của chúng ta đối với người khác và tất cả mọi thụ tạo, tránh xa cám dỗ “nuốt chửng” tất cả mọi thứ hầu thỏa mãn thói tham lam của chúng ta, và sẵn sàng chịu hy sinh vì tình yêu, là điều có thể lấp đầy sự trống rỗng nơi tâm hồn mỗi người chúng ta. Cầu nguyện dạy chúng ta từ bỏ việc tôn thờ ngẫu tượng cũng như sự kiêu căng của bản ngã, và đồng thời thừa nhận nhu cầu của chúng ta đối với Thiên Chúa và Lòng thương xót của Ngài. Bố thí là việc mà nhờ đó chúng ta thoát khỏi sự điên rồ của việc chỉ lo tích trữ tất cả mọi thứ cho bản thân với niềm tin viển vông rằng chúng ta có thể đảm bảo một tương lai vốn chẳng hề thuộc về chúng ta.” (ĐGH Phanxicô, Sứ Điệp Mùa Chay 2019, số 2). Trong Mùa Chay Thánh năm nay, tôi thực hành ba việc đạo đức này theo thói quen hay theo tinh thần của Hội Thánh?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Mùa Chay là thời gian Hội Thánh mời gọi chúng ta tích cực sám hối, canh tân đời sống và gia tăng việc lành để chuẩn bị cử hành đại lễ Phục Sinh. Với niềm tin tưởng cậy trông vào sự trợ giúp của Thiên Chúa, cộng đoàn chúng ta cùng khiêm tốn dâng lời cầu xin:
1. Chúa Giêsu được Thánh Thần dẫn vào hoang địa và ở đó suốt bốn mươi ngày. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các thành phần trong Hội Thánh cũng được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, tích cực sống Mùa Chay Thánh này qua việc cầu nguyện, hãm mình và thực thi bác ái.
2. “Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà cầm quyền, cho hết mọi dân tộc, và những ai đang khao khát tìm kiếm chân lý, được gặp gỡ Chúa và tin nhận Người là cùng đích của cuộc đời.
3. “Người ta sống không chỉ bởi cơm bánh, mà còn bởi lời Thiên Chúa nữa.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi kitô hữu biết yêu mến, lắng nghe và thực hành Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh sống; cùng hăng say loan báo Tin Mừng cứu độ cho con người thời đại.
4. “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta, được thêm lòng tin - cậy - kính mến Chúa, biết phó thác trọn vẹn cuộc đời mình cho tình thương quan phòng của Người.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin nhận lời chúng con tha thiết cầu nguyện; và xin ban Thánh Thần để Ngài hướng dẫn chúng con tích cực sống mùa Chay thánh này theo gương Đức Giêsu Kitô. Người hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật 1 mùa chay hôm nay cho chúng ta thấy ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu về bánh ăn, của cái vật chất và danh vọng nhưng Chúa Giêsu đã chiến thắng ma quỷ nhờ sức mạnh của Lời Chúa:
Tổ tông xưa đã phải thua, Mưu mô chước quỷ, bị lừa, tội mang. Ngay con Thiên Chúa cao sang, Uy quyền tiêu diệt Sa-tan hết đường. Cậy trông ơn Chúa phi thường, Giúp ta vượt thắng tai ương quỷ thần.
Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta biết cậy dựa vào sức mạnh của Lời Chúa bằng việc chuyên chăm học hỏi, suy niệm và sống Lời Chúa để chiến thắng ác thần mà thờ phượng một mình Thiên Chúa mà thôi. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.
Sám hối:
X. Lạy Chúa, Chúa không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống. Xin Chúa thương xót chúng con. Đ. Xin Chúa thương xót chúng con. X. Lạy Chúa Kitô, Chúa đã chiến thắng ma quỷ bằng sức mạnh của Lời Chúa. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con. Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con. X. Lạy Chúa, Chúa chịu ma quỷ cám dỗ để nêu gương cho chúng con lòng trung tín của Chúa đối với Chúa Cha. Xin Chúa thương xót chúng con. Đ. Xin Chúa thương xót chúng con. Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời. CĐ: Amen.
Suy niệm:
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Dân Israel đã được Thiên Chúa yêu thương và tuyển chọn làm dân riêng của Ngài. Chính Thiên Chúa đã dùng cánh tay hùng mạnh dẫn dắt họ ra khỏi Ai Cập và đưa họ vào đất hứa, nơi chảy sữa và mật. Chính nơi này, ông Môsê đã khuyên bảo dân Israel hãy tỏ lòng tôn kính tin thờ một mình Thiên Chúa và tạ ơn Thiên Chúa về những hồng ân đã lãnh nhận trong tình yêu mến, bằng việc dâng lên Thiên Chúa những sản phẩm đầu mùa vì Thiên Chúa đã cứu họ khỏi ách nô lệ bên Ai Cập, cho họ thành một dân được tuyển chọn và vùng đất phì nhiêu để canh tác. Đồng thời, nhắc nhủ họ phải luôn chiến đấu để chiến thắng cám dỗ.
Thưa anh chị em, khởi đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã phải đối đầu với tên chúa trùm cám dỗ như Adam trong vườn địa đàng và dân Do thái suốt 40 năm trong sa mạc. Nhưng Adam đã sa ngã. Dân Do thái đã phải bất trung, còn Chúa Giêsu đã trung thành đứng hẳn về phía Thiên Chúa. Nhờ vậy, Người đã thắng Satan. Thánh Luca trong trang Tin Mừng hôm nay, tường thuật những cơn cám dỗ của Chúa Giêsu. Ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu sử dụng quyền lực thần linh để biến đá thành cơm bánh; dùng quyền để cai trị các nước thiên hạ cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước; và dùng quyền phép để thu phục nhân tâm, khiến cho mọi người khâm phục và tin theo. Đây không phải là lần duy nhất Chúa Giêsu đương đầu với sự dữ, cuộc đời của Người còn gặp nhiều gian nan thử thách. Thử thách của các luật sĩ và biệt phái; thử thách của chính các môn đệ như Phêrô, Giuđa Iscariot; thử thách tại núi cây dầu và nhất là thử thách trên cây thập giá: “Lạy Chúa, sao Chúa bỏ con”. Quả thật, Chúa Giêsu đã mang lấy tất cả điều kiện hiện sinh của con người trừ tội: vui sướng, đau khổ, thử thách, tủi nhục và cả cái chết. Người đã nên giống con người. Tuy nhiên, trong những thử thách đó Người đã luôn chiến thắng vì Người đã luôn đứng về phía Thiên Chúa. Cuộc chiến thắng của Người là một kinh nghiệm sống cho mỗi người chúng ta. Chúng ta cũng có thể chiến thắng những thử thách của cuộc sống, những cám dỗ của tiền tài danh vọng nếu biết đứng về phía Thiên Chúa, biết cây dựa vào sức mạnh của Ngài.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Cám dỗ là những thử thách không thể tránh được trong kiếp sống con người. Chính nhờ thử thách mới có tiến bộ: lửa thử vàng gian nan thử đức. Muốn chiến thắng phải noi gương Chúa Giêsu: không tự mãn với những phương tiện thuần nhân loại, không sống theo bản năng đói ăn khát uống, nhưng biết tin tưởng vào Thiên Chúa và biết tự chủ. Đồng thời, phải đặt đời sống hằng ngày dưới sự hướng dẫn của Lời Chúa. Như Chúa Giêsu, chúng ta biết dùng Lời Chúa để thắng cám dỗ. Vì, “Lời Chúa là đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi”. Lắng nghe, suy niệm và sống Lời Chúa là phương thức giúp chúng ta chiến thắng cám dỗ. Thánh Phêrô cũng đã khuyên bảo chúng ta: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé”. Vì thế, chúng ta phải tin vào Chúa Giêsu, nhờ tin vào Chúa Giêsu chúng ta được ơn cứu độ.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta bước vào mùa chay thánh với một tâm hồn sám hối và đón nhận Tin Mừng. Hành động của sám hối là ăn chay, cầu nguyện và chia cơm sẻ áo cho những người nghèo khó; hành động đón nhận Tin Mừng là chuyên chăm học hỏi, suy niệm và sống Lời Chúa để chiến thắng ác thần, thờ phượng một mình Thiên Chúa hầu xứng đáng đón nhận ơn cứu độ của Chúa. Amen.
Trong một khu phố nơi thường có những chiếc xe hơi phóng rất nhanh qua những con đường yên: MC1-182
Trong một khu phố nơi thường có những chiếc xe hơi phóng rất nhanh qua những con đường yên tĩnh gây nguy hiểm cho trẻ em, người già và khách bộ hành qua lại, những người dân cư ngụ tại đây rất lo lắng cho tính mạng của thân nhân và chính họ. Họ họp nhau lại, làm đơn thỉnh nguyện lên trạm cảnh sát, yêu cầu cảnh sát phải thường xuyên tuần tiễu trong khu vực và phạt những tài xế vượt quá tốc độ ấn định. Bởi đó, cảnh sát phải chấp hành theo lời yêu cầu của người dân trong vùng. Vào ngày đầu tiên, cảnh sát bắt được năm tài xế chạy quá tốc độ. Tuy nhiên, tất cả năm tài xế này đã nổi giận vì hình như cả năm người đều đã ký tên trên thỉnh nguyện thư yêu cầu phải áp dụng luật giao thông và phạt gắt gao những ai đã vi phạm.
Biết mình là những con người yếu đuối. Giáo Hội dùng Mùa Chay để giúp chúng ta ăn năn sám hối tội lỗi, và ý thức về ơn gọi của mình hơn. Chúng ta là ai ? Sống để làm gì ? Có mục đích gì ? Hy vọng của ta là gì ? Có những người mà thánh Phaolô gọi là: “Những người sống đối nghịch với thập giá của Đức Kitô”, “Chúa của họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian”, vì thế, “chung cục của họ là sự diệt vong”. Chúng ta có phải là những người này không ? Chúng ta có là một người Kitô hữu đích thực, người công dân của Vương Quốc Thiên Chúa đang sống và tuân giữ những luật lệ yêu thương của Người, thờ phượng một mình Thiên Chúa và phụng sự Người không ?
Theo gương chiến thắng của Chúa Giêsu trong cơn cám dỗ, các nhà tâm lý đạo đức thường khuyên chúng ta những điều thực hành như sau:
1. Không bao giờ đối chọi một mình với cơn cám dỗ.
Cần phải cầu nguyện. Cuộc đời của Chúa Giêsu từ lúc nhập thể cho đến lúc lên trời luôn được các thiên thần bao quanh và thờ lạy, vì Ngài luôn liên kết với Thiên Chúa Cha. Nhờ cầu nguyện Chúa Giêsu đã không cô đơn một mình, nhưng “được Thánh Thần hướng dẫn”. Nhờ cầu nguyện chúng ta được liên kết với sức mạnh của Thiên Chúa và với các thánh trên trời.
Đừng để ma quỉ tấn công bạn một mình. Trước khi xa cách Thiên Chúa, người ta thường bị cám dỗ rằng mình không cần đến người khác giúp đỡ, hay cho rằng những người đi nhà thờ đi lễ chỉ là những người đạo đức giả, hoặc nghĩ rằng bạn cũng có thể là một người Kitô hữu tốt mà không cần phải đến nhà thờ. Cô lập hóa là chiến lược của ma quỉ. Bởi Thiên Chúa không cứu rỗi một cách riêng lẻ những ai thiếu liên kết. Hãy liên kết chặt chẽ với gia đình của Thiên Chúa là Giáo Hội.
2. Đừng đùa giỡn với cám dỗ.
Nó rất nguy hiểm và chết người. Chúng ta thường nghĩ rằng cám dỗ phải lén lút và rón rén đến cửa sau nhà chúng ta. Có thể là như vậy nhưng không hẳn. Nhiều khi nó đến ngay trước cửa nhà. Chúng ta biết đó là sai và không nên làm. Nhưng chúng ta tự nhủ: đâu có sao, nhằm nhò gì, đâu có ai biết. Hay tệ hại hơn, chúng ta lại tự biện minh rằng thực sự đâu có gì là sai. Con người có một tài năng vô cùng khéo léo để lý lẽ và biện minh cho cái cách mình phạm tội. Hãy nhận diện ra sự nguy hiểm của cám dỗ ngay khi nó mời gọi và quyết định dứt khoát.
3. Hãy nương tựa vào Chúa mà chống trả với cơn cám dỗ.
Chúa Giêsu đã dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần và Lời của Thiên Chúa để đối đáp với ma quỉ. Ngoài những nhu cầu vật chất, con người còn cần đến những nhu cầu tinh thần, những truyền thống tốt đẹp, và những kho tàng thiêng liêng mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại như Công đồng Vatican II đã khuyên dạy trong Hiến Chế Gaudium et Spes, đoạn 86.
Thiên Chúa muốn chúng ta có đời sống tốt đẹp, làm việc lành thánh thiện, bác ái yêu thương, để cảm nghiệm sự trọn vẹn hoàn hảo của cuộc sống, chứ không phải chỉ sống dựa vào những lời hứa trống rỗng và dối trá của ma quỉ. Do đó, Ngài luôn giúp đỡ chúng ta chống lại cơn cám dỗ, và nhất là việc biết quay trở về với Ngài sau khi đã lỡ sa ngã phạm tội. Ở cuối bài Phúc âm hôm nay, Thánh Kinh viết: “Và các thiên thần tiến lại, hầu hạ Người”. Các thiên thần ở đó để giúp đỡ Ngài cũng như giúp đỡ chúng ta. Hãy tin tưởng rằng Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của tình yêu thương nhân hậu. Một Thiên Chúa biết rõ sự yếu đuối và thất bại của chúng ta, nhưng vẫn yêu thương chúng ta.
Có một nhóm người leo núi chuyên nghiệp. Đang khi leo lên lưng chừng núi, họ gặp một ông lão đốn củi với cây rìu trên vai. “Ông lão đi đâu vậy ?” những người leo núi hỏi ông. “Ta leo lên đỉnh núi để chặt cây về sửa lại nhà”. “Nhưng tại sao ông lại phải leo lên tới đỉnh núi làm gì ?” họ nghi ngờ hỏi lại. “Có rất nhiều cây gỗ lớn ở xung quanh đây, leo lên cao làm gì cho tốn sức !” “Ta biết chứ”, ông lão nói, “nhưng ta cần một loại gỗ cứng và tốt, nó chỉ mọc trên những đỉnh núi cao nhất, nơi đó những cây gỗ quý đã bị thử thách và dẻo dai chịu đựng được thời tiết nắng mưa gió bão. Càng mọc trên cao, cây gỗ càng cứng chắc”.
Thiên Chúa muốn chúng ta là những cây gỗ quý cứng cáp và mạnh mẽ để phục vụ Thiên Chúa trong đức tin, đức cậy và đức mến. Hãy gắn bó chặt chẽ với nhau, tham dự các buổi thờ phượng đạo đức thường xuyên của Giáo Hội, tránh né mọi dịp cám dỗ khi xảy đến, và đổ đầy tâm trí chúng ta Lời Chúa. Được như vậy chúng ta sẽ đứng vững như Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta đã chịu cám dỗ của ma quỉ và đã chiến thắng.
Giáo sư đại học Abraham Maslow là người nổi tiếng về các tác phẩm khoa học xã hội thường: MC1-183
Giáo sư đại học Abraham Maslow là người nổi tiếng về các tác phẩm khoa học xã hội thường hay hỏi thử các sinh viên của ông như: ai trong các anh chị sẽ là nhà văn nổi tiếng? là Phanxicô Khó Nghèo? là nhà nhân chủng vĩ đại như Albert Shweitzer? Khi gặp những câu hỏi khúc mắc như thế thì các sinh viên thường hay rụt rè và xầm xì với nhau. Nhưng nhà tâm lý gia nổi tiếng ấy thường nói với họ rằng đó không phải là những câu hỏi vu vơ mà thật sự ông ta có ý như thế và muốn các sinh viên trả lời thành thật. Ông nói: "Nếu các anh chị không làm thì ai sẽ làm đây"?
Cũng thế, trong một khía cạnh nào đó khi chúng ta tụ họp để nghe công bố Lời Chúa, chúng ta cũng phải đối diện với những câu hỏi như vậy; như chúng ta thường nghe các tác giả Tân Ước lập đi lập lại với chúng ta là: chúng ta hiện hữu không phải là do những cơ may thay đổi mù mờ; chính tình yêu Thiên Chúa đặt để chúng ta ở đây là một phần trong chương trình của Ngài để làm hoàn hảo chương trình tạo dựng của Ngài; bởi mỗi một người là một cá thể riêng biệt nên mỗi người được ban tặng một cuộc sống để sống và một công việc để thực hành mà mỗi một người một khác nhau; bất kể chúng ta là ai, chúng ta đều có một cơ hội sống để xây dựng thế giới mà chúng ta đang sống; mọi người trong chúng ta đều có một cơ hội sống để làm giàu cho đời sống tha nhân, mà họ cũng giống như chúng ta là những tác phẩm riêng biệt của Thiên Chúa tạo thành; và trong sự đáp trả tình yêu Thiên Chúa là Đấng đã ban sự sống cho chúng ta, mỗi người chúng ta có một cơ hội sống để "chiến thắng sự dữ bằng sự tốt lành" (Rom 12:21).
Chúa Giêsu đã gồm tóm tất cả những điều ấy trong bài Tin Mừng hôm nay. Ma quỉ đã ra sức cám dỗ Ngài mạnh mẽ để Ngài từ bỏ sự sống mà Thiên Chúa đã ban cho Ngài là "chiến thắng sự dữ bằng sự tốt lành". Ma quỉ xúi giục Đức Giêsu quên đi bản tính và chối bỏ chức năng của Ngài là Đấng Thiên Sai. Nhưng sau khi ma quỉ trưng bày toàn thể thế giới trước mặt Chúa Giêsu thì Ngài đã trả lời cách đơn giản và tuyệt vời là: "Satan hãy cút đi, vì ngươi phải thờ Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng sự một mình Ngài mà thôi" (Mt 4:10).
Cũng như Chúa Giêsu khi phải đối diện vói những cám dỗ của ma quỉ thì Ngài đã tự do lựa chọn tự đặt Ngài dưới Luật Thiên Chúa và sống đúng như vậy; thì giờ đây sự tự do lựa chọn ấy cũng là của chúng ta.
Hôm nay, Chúa Giêsu đang hỏi các bạn, "Ai trong các con sẽ là vị đại thánh đây?" Bất kể quí vị có ngại ngùng hay trốn lánh thế nào đi nữa thì đây vẫn không phải là câu hỏi vô ý thức hay tầm phào, mà thật sự Chúa Giêsu có ý hỏi các bạn như thế. "Con sẽ là một vị đại thánh chứ? Con sẽ mang lấy trong thân mình con tất cả các chức năng của Thân Mình Mầu Nhiệm Chúa Kitô chứ? Con sẽ tự chọn cho mình trở thành máng chuyển Tình Yêu Thần Linh xuống cho tha nhân chứ? Nếu không là con, thì ai sẽ làm đây?"
Đời sống của chúng ta là một cuộc thử thách, là một cơn cám dỗ triền miên, từ ngày này qua: MC1-184
Đời sống của chúng ta là một cuộc thử thách, là một cơn cám dỗ triền miên, từ ngày này qua ngày khác. Chúng ta sẽ gặp phải những khó khăn, chúng ta sẽ phải đương đầu với những quyến dũ, để rồi cuối cùng, nếu trung thành với Chúa, chúng ta sẽ được Ngài yêu thương và ân trao ban phần thưởng Nước trời.
Vì thế, thử thách và cám dỗ là một cái gì gắn liền với bản tính nhân loại, nó làm thành thân phận của mỗi người chúng ta. Và nếu đọc lại Kinh thánh, chúng ta thấy thử thách và cám dỗ đã xuất hiện ngay từ những trang đầu tiên, vào một thuở rất xa xưa.
Thực vậy, các thiên thần lúc ban sơ cũng đã bị thử thách về lòng trung thành của mình đối với Thiên Chúa. Chúng ta không biết rõ cuộc thử thách ấy như thế nào, nhưng theo tương truyền, thì Lucifer, vị thiên thần mang ánh sáng, thấy mình vinh quang rực rỡ, nên đã ngang nhiên tuyên bố:
- Tôi không phục tùng Thiên Chúa nữa. Một số các thiên thần khác về hùa với Lucifer đã quay lưng chống lại Thiên Chúa. Trong khi đó tổng lãnh thiên thần Micae cùng với các thiên thần lành thánh đã khiêm nhường xác định lập trường của mình qua lời nói bất hủ:
- Ai bằng Thiên Chúa.
Và hình phạt nào đã dành cho ma quỷ, nếu không phải là hình phạt hỏa ngục đời đời.
Thứ đến là Adong Eva. Sách Sáng thế ký kể lại rằng: ngay từ đầu, Thiên Chúa đã dựng nên và cho hai ông bà được sống trong vườn địa đàng, có nghĩa là sống trong tình yêu thương và hạnh phúc tuyệt vời của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, để xứng đáng lãnh nhận tình yêu và hạnh phúc, hai ông bà đã cũng đã phải trải qua một cuộc thử thách. Và thử thách đã có mặt qua lệnh truyền của Thiên Chúa:
- Ngươi được ăn mọi thú trái cây trong vườn, ngoại trừ cây biết lành và dữ, vì ngày nào ngươi ăn trái cây ấy, ngươi sẽ phải chết.
Thế nhưng, ma quỉ dưới vóc dáng của một con rắn, đã cám dỗ hai ông bà:
- Ngày nào ăn trái cây ấy, mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ biết được điều lành điều dữ.
Và như chúng ta đã biết: hai ông bà đã nghe lời dụ dỗ của ma quỉ, vi phạm lệnh truyền của Thiên Chúa, giơ tay ngắt trái cấm mà ăn. Bản chất của tội nguyên tổ không phải chỉ là một sự tham ăn bình thường, hay một khuynh hướng đam mê về tình dục mà hình ảnh trái cấm là một biểu tượng. Nhưng hơn thế nữa, bản chất thực sự của tội nguyên tổ chính là sự kiêu ngạo, muốn trở nên bằng Thiên Chúa, muốn tự giải thoát mình khỏi quyền năng của Ngài. Hậu quả của hành vi bất trung ấy là gì nếu không phải là hai ông bà đã bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, sống trong tình trạng thù nghịch cùng Thiên Chúa, phải cúi đầu lãnh nhận bản án của đau khổ và chết chóc. Cái chết phần xác cũng như cái chết phần hồn. Án phạt này còn được lưu truyền cho con cái loài người.
Từ hai sự kiện trên, chúng ta thấy: phản bội cùng Thiên Chúa thì sẽ bị trừng phạt, trái lại trung thành với Ngài thì sẽ được ân thưởng.
Abraham ngày xưa đã vâng nghe lời Chúa, từ bỏ quê hương xứ sở, lên đường theo tiếng gọi của Chúa, tới một vùng đất xa lạ mà Ngài sẽ ban cho làm sản nghiệp, sẵn sàng sát tế Isaac, người con trai duy nhất trong tuổi già, làm lễ vật dâng kính Ngài. Vì thế, lời hứa đã được thực hiện:
- Ông đã trở thành cha của một dân tộc hùng mạnh và đông đúc như sao trên trời và như cát biển, cũng như ông đã có một mảnh đất chảy sữa và mật làm sản nghiệp.
Rồi ông Gióp, đang sống trong tình trạng giàu sang: lắm của nhiều con, thế nhưng, chỉ trong một ngày tất cả đều đã tiêu tan. Con cái bị giết chết, tài sản bị cướp bóc hay bị thiêu rụi, còn bản thân ông bị ghẻ lở nhức nhối. Thế nhưng, ông vẫn luôn trung thành cùng Chúa để rồi cuối cùng ông đã được Chúa yêu thương và trao ban cho gấp bội.
Sự thử thách không phải chỉ có trong phạm vi cá nhân, mà hơn thế nữa, còn có cả trong phạm vi dân tộc và nhân loại nữa. Lịch sử dân Do thái là một bằng chứng cụ thể. Bao lâu trung thành phụng thờ Chúa, họ được sống trong thanh bình và hạnh phúc, trái lại nếu xa lìa và phản bội Ngài, lập tức bản thân họ bị đau khổ và đất nước họ bị tan hoang.
Thế nhưng, như chúng ta thường nói:
- Lửa thử vàng, gian nan thử đức.
Cám dỗ và thử thách, tự bản chất, không phải là một cái gì xấu xa, trái lại nó còn là một cái gì hữu ích, giúp thanh luyện tâm hồn và làm cho chúng ta được trở nên trưởng thành, đồng thời gia tăng công nghiệp cho chúng ta.
Chính vì thế, Chúa Giêsu cũng đả chấp nhận bị cám dỗ và thử thách. Phúc âm kể lại: sau khi ăn chay bốn mươi đêm ngày, Chúa Giêsu cảm thấy đói và ma quỉ đã cám dỗ Ngài. Tuy nhiên, cơn cám dỗ cam go nhất đối với Ngài chính là cái chết trên thập giá. Ngài cũng đã phải trải qua những giây phút lo sợ và giàng co, để rồi cuối cùng thánh ý Chúa Cha đã được thực hiện và chương trình cứu độ được hoàn tất:
- Xin đừng theo ý Con, một theo ý Cha mà thôi.
Sống là chọn lựa. Không phải chọn lựa một lần thay cho tất cả, nhưng phải chọn lựa luôn mãi trước mỗi công việc cũng như trước những thử thách và cám dỗ. Chúa đòi chúng ta trung thành với Ngài, không phải chỉ trong những việc lớn lao, mà còn trong những việc tầm thường và nhỏ mọn.
Có như vậy, trong ngày sau hết chúng ta mới được nghe những lời nói ân tình của Chúa:
Hỡi đầy tớ trung thành và khôn ngoan, vì ngươi đã trung thành trong việc nhỏ, Ta sẽ đặt ngươi coi sóc việc lớn. Hãy vào vui hưởng hạnh phúc của chủ ngươi.
Khi những hạt tro được xức trên trán, nhắc nhở về thân phận tro bụi cũng là phút giây chúng: MC1-185
Khi những hạt tro được xức trên trán, nhắc nhở về thân phận tro bụi, cũng là phút giây chúng ta cùng với Đức Giêsu bước vào mùa chay thánh. Đối với Kitô giáo, chay tịnh không mang nặng những luật lệ cầu kỳ. Nhưng, nếu đào sâu về căn cốt giá trị và ý nghĩa việc ăn chay như Đức Giêsu dạy thì chẳng dễ chút nào. Thật vậy, 40 đêm ngày nơi sa mạc, Đức Giêsu tự nguyện lột bỏ những tư riêng để trở nên trống không: không chỗ trú ngụ, không của ăn, không chút an toàn... Ngài chọn gió nóng, cát bỏng, và ánh nắng gay gắt làm bạn cho cuộc thanh luyện tâm linh. Nhờ hoàn cảnh khắc khổ này, Ngài sửa soạn hành trang truyền giáo. Sử sách không chi tiết mô tả hoạt động của Ngài suốt 40 đêm ngày giữa sa mạc. Thế nhưng chúng ta vẫn có khả năng hình dung ra chúng ta dựa trên những lần Đức Giêsu chiến thắng Satan.
Khi bị cám dỗ về đòi hỏi thân xác, Đức Giêsu xác tin vững vàng vào sức mạnh Lời Chúa là con đường dẫn đưa nhân loại đến mạch sống chân thực. Lúc đối diện với danh vọng, thế lực trần gian, Ngài càng khẳng định dứt khoát địa vị tối cao của Thiên Chúa trong tâm hồn Ngài. Và với lòng tin yêu phó thác vào Cha nhân hậu, Ngài cương quyết từ khước mọi khoái lạc tư riêng. Sức mạnh chiến thắng của Đức Giêsu được dựa trên việc bén rễ sâu vào Lời Chúa. Lời Chúa đã giúp Ngài gạt lọc khỏi tâm hồn mọi dây tơ rễ má của ước vọng vụ lợi, mọi bận tâm trần tục, để tâm hồn Ngài trở nên tấm gương trung thực và trong suốt, phản ảnh trọn vẹn chiều kích sâu xa của Lời Chúa. Và làm cho tâm hồn Ngài trở nên trần trụi hoàn toàn, nhưng lại đầy ấp sức mạnh tự do và tình yêu mãnh liệt vào Thiên Chúa.
Ở đây, chúng ta còn bắt gặp sự gian xảo của Satan, chúng dùng Lời Chúa làm đòn tấn công Đức Giêsu. Rất có thể trong cuộc sống có lúc Lời Chúa bị hiểu sai, bị lạm dụng vì con người muốn biện minh cho những tham vọng, ích kỷ nào đó. Vì thế, Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta hãy tiến sâu vào sa mạc tâm linh, thanh tẩy khỏi những cái tôi hẹp hòi, cắt đứt những ràng buộc vật chất danh dự, thế lực của cá nhân hay của cộng đoàn, để cùng Đức Giêsu sống mật thiết với Chúa Cha qua phút chiêm niệm Lời Chúa, và lắng nghe tiếng Ngài dạy bằng tâm tình con thơ trong trắng. Cha ông ta thường dạy: "Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu". Có năng thao luyện tâm linh bén nhạy bằng suy niệm Lời Chúa, thì tâm hồn chúng ta mới có đủ khôn ngoan sáng suốt nhận ra những cám dỗ thường nhật. Cuộc sống càng văn minh tiến bộ thì mưu thù càng tinh vi. Do đó, chay tịnh của Kitô giáo phải được bắt đầu từ trong tâm hồn và năng thể hiện qua việc khắc chế từng hành động, ước muốn để hoàn toàn đi đúng Lời Chúa dạy, hơn là chỉ giữ chay qua những hình thức hời hợt bên ngoài. Lạy Thiên Chúa, Vị Chúa Tể duy nhất của lòng chúng con. Tâm hồn chúng con luôn mong tận hiến trọn vẹn tình yêu sự sống lên Ngài, để trở thành khí cụ yêu thương, hòa bình, hiệp nhất. Nhưng chúng con cũng cảm nhận sự thấp hèn, mỏng giòn phận tôi đầy ích kỷ.
Xin Lời Chúa là đèn soi, dõi ánh sáng hướng đôi mắt tâm linh chúng con ngước trông về quê trời, hơn là tìm kiếm danh hoa thế tục.
Xin Lời Chúa là lương thần thêm sức, giúp chúng con can trường đáp lại Chúa răn dạy, hơn là chạy theo đòi hỏi tư kỷ.
Xin Lời Chúa là tình yêu sưởi ấm con tim chúng con, để chúng con cảm nhận được hạnh phúc của sứ mạng tông đồ Đức Giêsu hơn là mải mê bám víu vào hạnh phúc tạm bợ.
Và xin Lời Chúa giữ lòng chúng con luôn sống chay tịnh qua mọi hành vi, suy tưởng, lời nói, để chúng con được hiệp thông vào mầu nhiệm cứu độ của Đức Giêsu cách sâu xa, và dâng lời ca khen tình yêu cao vời mà Đức Giêsu tặng trao cho chúng con trên Thập tự dấu ái. Amen.
Bấy giờ ma quỉ đem Chúa Giêsu lên nóc đền thờ Giêrusalem, cao cách mặt đất chừng bốn mươi: MC1-186
Bấy giờ ma quỉ đem Chúa Giêsu lên nóc đền thờ Giêrusalem, cao cách mặt đất chừng bốn mươi mét, rồi bảo Chúa nhảy xuống, biểu diễn tài nghệ để người ta khâm phục, ca tụng. Như vậy là ma quỷ muốn cám dỗ Chúa về tính tự phụ tự cao, thích hư danh và thích phô trương ưu thế của mình. Đây cũng là một điểm yếu của con người. Lịch sử cổ kim đã ghi lại đầy dẫy những con người mang bệnh “muốn làm lớn”, muốn trở thành “mặt trời” để kẻ khác xoay quanh mình. Chẳng hạn, vua Babilon đã từng tuyên bố: “Ta sẽ lên trời, trên các vì sao của Thiên Chúa, ta sẽ bắc ngai ta, ta sẽ ngự trên núi Tao phùng, nơi bồng lai cực bắc, ta sẽ lên chót vót các tầng mây, ta sẽ đồng hàng với thượng đế”. Cũng vậy, ông Xêda, khi chưa lên ngôi hoàng đế Lamã, đã nói một câu phần nào trở thành kinh điển cho hậu thế: “Thà làm số một trong một làng nhỏ bé hẻo lánh bên xứ Gôn (Gaule), còn hơn làm số mười một ở kinh đô Lamã”.
Và ngày nay, hằng năm, trên thế giới có xuất bản cuốn Ghi-nét (Guiness), sách ghi các kỷ lục thế giới: người nào chạy nhanh nhất, sống lâu nhất, ăn nhiều nhất, cao lớn nhất, có râu xịn nhất… nghĩa là chỉ những ai số một ở một lãnh vực nào đó mới được ghi tên vào cuốn sách ấy để hậu sinh biết. Từ ngày có cuốn Ghi-nét này, nhiều người đã cố gắng lập kỷ lục kỳ cục cốt chỉ để nổi danh, để thế giới biết tiếng. Đó, chúng ta thấy, bản tính con người muốn thần thánh hóa mình mà lại được ma quỷ thổi phồng lên nữa, thì còn gì bằng. Vậy Chúa có mắc bẫy của ma quỷ không? Không, ma quỷ muốn Chúa nổi danh sớm hơn chương trình đã định, và muốn Chúa nổi nang như một tài tử, một nhà làm xiếc có tài để dân Do thái tôn lên bậc thầy, và như vậy là làm trật được mục đích cứu rỗi nhân loại. Ý đồ thâm hiểm là như thế. Nhưng một lần nữa, Chúa dùng lời Kinh thánh để phản công lại ma quỷ: “Ngươi chớ thử thách Chúa là Thiên Chúa của ngươi”. Ma quỷ lại thất bại.
Thua keo này bày keo khác. Ma quỉ lại đưa Chúa Giêsu lên cao hơn nữa. Chúng đưa lên một ngọn núi. Từ ngọn núi này, chúng chỉ cho Chúa thấy tất cả quyền bính, vinh hoa, giàu sang phú quý, danh vọng và nói: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ ấy, nếu ông sấp mình bái lạy tôi”. Chúng ta thấy, ma quỉ thật tinh khôn, chúng thừa biết rằng: là con người, ai cũng ham danh vọng, chức quyền, tiền của. Quyền hành là điều kiện để có danh vọng và cung cấp hay đem lại hầu hết các nhu cầu vật chất. Ngược lại, tiền của cũng là điều kiện để có được quyền hành và danh vọng: đồng tiền là tiên là phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà của danh vọng, và là cái lọng để che thân. Sống ở đời, hầu hết con người đều mang túi tham không đáy: người có tiền bạc, nhưng không có quyền hành, danh vọng, thì ra sức chiếm đoạt, giành giựt cho được địa vị, để có quyền, có danh gì với núi sông. Ngược lại, người có quyền hành, có địa vị, nhưng chưa có nhiều tiền thì dùng đủ mọi mánh lới, thủ đoạn, để kiếm cho thật nhiều. Còn người không có tiền bạc, cũng không có quyền hành, địa vị, thấy người khác có, nóng mũi cũng phải tranh giành cho được.
Mọi người đều đầy tham vọng, mọi người đều bị quay cuồng trong những cám dỗ của danh vọng: “Cái vòng danh lợi cong cong. Kẻ hòng ra khỏi, người mong bước vào”. Vậy Chúa Giêsu có mắc bẫy của ma quỉ không? Không, đứng những thứ phù vân đó, Chúa Giêsu đã chịu cám dỗ, nhưng Ngài đã chiến thắng cám dỗ. Ma quỉ thất bại hoàn toàn và bị Chúa đuổi đi: “Xéo đi, hỡi Sa tan, ngươi phải bái lạy Chúa là Thiên Chúa của ngươi và phải thờ phượng một mình Người”.
Là con người nói chung và là con cái Chúa, chúng ta đã gặp những chước cám dỗ, đang gặp những chước cám dỗ, hay sẽ gặp những chước cám dỗ. Tuy nhiên chúng ta hãy nhớ: bị cám dỗ chưa phải là xấu. Nếu chúng ta thắng cuộc là chúng ta thành công và được Chúa khen thưởng. Chỉ khi thua cám dỗ mới là xấu. Nhưng để chiến thắng được chước cám dỗ, thắng được ma quỉ, chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác trước dịp tội, đừng đùa với lửa, phải cầu nguyện xin Chúa trợ giúp, phải kiên quyết giữ vững lập trường: “Dù ai nói ngả nói nghiêng. Thì ta vẫn vững như kiềng ba chân”, “Dù ai nói ngược nói xuôi, ta đây vẫn giữ đạo trời khăng khăng”,”Dù ai sang cả mặc ai, thân này nước chảy hoa trôi sá gì”.
Chúng ta đừng nuôi ảo tưởng về một thế giới mà mọi sự đều tốt lành. Thân phận con người là: MC1-187
Chúng ta đừng nuôi ảo tưởng về một thế giới mà mọi sự đều tốt lành. Thân phận con người là sống giữa thế gian mà trong đó thiện ác, lành dữ lẫn lộn.
- Chính vì thế, khi Con Thiên Chúa xuống thế làm người, chính Chúa Thánh Thần đã dẫn Người vào sa mạc để đối diện với các cơn cám dỗ.
- Người ta sống tốt không phải bằng cách che mắt giấu mặt để khỏi nhìn thấy điều xấu, mà trái lại bằng cách nhìn thẳng vào điều xấu và chiến đấu để chiến thắng nó.
- Trong Mùa chay, mỗi người hãy nhìn thẳng vào nội tâm mình. Không phải chỉ nhìn những mặt tốt, mà nhất là hãy nhìn thẳng vào những mặt xấu, những thứ “ tham, sân, si” đang âm thầm nhưng mãnh liệt khống chế mình.
Và hãy nhìn vào cuộc chiến đấu của Đức Giêsu. Người đã thắng nhờ đâu? Nhờ làm theo lời Thiên Chúa và thực hiện thánh ý Thiên Chúa.
Có ba người mục tử, mỗi người coi sóc một đàn chiên.
Một đêm mùa đông vừa gió vừa mưa. Khi ba người đang ngủ thì nghe có tiếng chó sói. - Người thứ nhất tung chăn thức dậy định ra ngoài xem xét tình hình. Nhưng nghe tiếng mưa rơi gió rít, anh ngại ngùng và trở vào giường ngủ tiếp.
- Người thứ hai cũng thức dậy, mặc thêm quần áo mở cửa đi ra. Nhưng một đợt nước mưa quất ngay vào mặt anh làm anh bỏ ngay ý định ra ngoài. Anh cũng trở vào giường nằm xuống, kéo chăn đắp kín và ngủ tiếp.
- Người thứ ba cũng thức dậy, cũng mặc quần áo, và cũng ra ngoài. Dù gió lạnh, dù mưa ướt, anh vẫn cố chịu đựng, đi đến tận chỗ đàn chiên của anh để xem. Khi đã thấy chiên mình an toàn, anh mới trở vào nhà ngủ tiếp.
Trong ba người đó, ai là người hiểu biết rõ nhất về sự khắc nghiệt của gió và mưa? Dĩ nhiên là người thứ ba.
Cũng thế, người hiểu rõ nhất về cám dỗ là người đã chiến đấu và chiến thắng nó.
Vì vậy, nếu ta muốn học cách đương đầu với cám dỗ, đừng học với những kẻ tội lỗi, mà hãy học với những vị thánh.
Như trong các bài đọc hôm nay, chúng ta đừng học với dân Israel trong thời xuất hành ở sa mạc, mà hãy học với Đức Giêsu.
Chủ đề: Các cơn cám dỗ Đức Giêsu trải qua chứng tỏ Ngài là Con Thiên Chúa, là "Adam mới" trong cuộc tân tạo của Thiên Chúa
Cách đây một số năm, Doug Alderson có viết một bài rất hay trong tạp chí Campus Life mô tả: MC1-188
Cách đây một số năm, Doug Alderson có viết một bài rất hay trong tạp chí Campus Life mô tả cuộc đi bộ suốt hai ngàn dặm xuống dãy núi Appalachi (Appalachian Trail) của ông.
Lúc đó Doug vừa mới tốt nghiệp trung học thôi nhưng đã tự đặt cho mình một số câu hỏi chưa được ai trả lời cho, chẳng hạn: Có Thiên Chúa hay không? Mục đích cuộc sống là gì? Khi bình luận về tất cả những vấn nạn này, Doug viết: "Phải có cái gì đó đáng sống hơn là tiền bạc, truyền hình, tiệc tùng và đua tranh... Cuộc đi bộ lâu ngày của tôi chuyến này là một cuộc đi tìm an bình nội tâm, là một cuộc hành trình khám phá chính mình".
Cuộc hành trình gian khổ hơn Doug dự tính. Có đôi chỗ, đường dốc đứng rất là nguy hiểm. Ban ngày lại thường hay mưa. Áo quần Doug bị sũng ướt nước, chân cẳng thì ướt át, thân thể thì rét run và đau nhức vào ban đêm. Nhưng Doug đã không đầu hàng. Những giờ phút đi bộ và leo trèo giúp Doug có cơ hội suy nghĩ, đồng thời nhờ đó cậu hiểu mình hơn, vì chung quanh chẳng có ai tác động lên cậu hết.
Năm tháng sau, Doug về đến nhà. Cậu đã trở thành một người thay đổi khác. Ngay chính con chó của cậu cũng lạ lùng ngó cậu như muốn nói rằng: "Cậu đã đi đâu và đã làm gì thế? Trông cậu khác quá!".
Doug quả là có khác trước. Cậu đã gặp được điều cậu kiếm tìm, đó là có một vị Thiên Chúa: đời sống có mục đích và cậu có vai trò trong cuộc sống ấy. Doug tóm tắt kinh nghiệm của mình bằng giòng chữ sau: "Tôi không còn là tôi như trước đây nữa, tôi yêu thích cái mà tôi nhìn thấy được trong chính tôi".
Doug Alderson thuộc về số người trong lịch sử đã từng đi tìm cô tịch để suy tư về ý nghĩa và mục đích của đời sống. Môisê đã từng làm thế. Các tiên tri từng làm thế. Gioan Tẩy Giả từng làm thế, và trong Phúc âm hôm nay, Đức Giêsu cũng làm thế. Suốt bốn mươi ngày dài trong cô tịch, Chúa Giêsu đã trải qua bao cơn cám dỗ dữ dội. Chúng ta có thể so sánh ba cơn cám dỗ với đoạn duyệt ở đầu một cuốn phim. Đoạn duyệt này trình bày cho chúng ta khá đầy đủ về cuốn phim khiến chúng ta chú ý vào phim ấy mà vẫn không làm cho chuyện phim sau đó bị mất hay đi.
Cơn cám dỗ Chúa Giêsu đã trải qua cũng tương tự như thế. Chúng kể cho chúng ta khá đủ về Chúa Giêsu để khiến chúng ta chú ý đến Ngài mà không làm cho câu chuyện Phúc âm nhạt nhẽo đi. Chẳng hạn, các cơn cám dỗ ấy giúp chúng ta biết sơ qua bản thân Chúa Giêsu và công việc mà Ngài đến để chu toàn.
Chúng ta hãy xem điểm thứ nhất liên quan đến bản thân Chúa Giêsu: Chúa Giêsu là ai?
Thoạt tiên, các cơn cám dỗ cho chúng ta thấy Chúa Giêsu đã cảm nghịêm trận chiến nội tâm giữa điều thiện và điều ác giống hệt chúng ta. Ngài cũng cảm thấy cuộc tranh chấp bên trong giữa điều phải và điều trái giống hệt chúng ta. Điều này cho thấy Chúa Giêsu cũng là con người như chúng ta.
Nhưng các cơn cám dỗ không chỉ nói lên điều đó. vì dù bị cám dỗ giống hệt chúng ta nhưng Chúa Giêsu đã phản ứng lại cơn cám dỗ khác với chúng ta. Ngài không hề giao động hay do dự khi đương đầu với cám dỗ. Ngài không nhượng bộ cám dỗ một chút nào hết. Điều này cho thấy điểm đặc biệt nơi con người Chúa Giêsu. Điểm đặc biệt ấy là gì?
Chính ma quỉ đã cho chúng ta thấy một mối khi nó nói với Chúa Giêsu: "Nếu ngươi là Con Thiên Chúa..." ma quỉ gợi cho chúng ta biết Chúa Giêsu không chỉ là một con người, mà Ngài còn là Con Thiên Chúa đến sống giữa chúng ta. Nhiều năm sau đó, trong thư gởi tín hữu Philipphê, Thánh Phaolô đã cắt nghĩa bản tính của Chúa Giêsu như sau: "Chúa Giêsu vốn bản tính là Thiên Chúa, nhưng Ngài... Đã trở nên giống như loài người và đã xuất hiện như một con người" (Pl 2: 6-7). Như vậy các cơn cám dỗ Chúa Giêsu đã trải qua giúp chúng ta nhìn thấy trước câu trả lời cho vấn nạn "Chúa Giêsu là ai?" hay nói cách khác, Chúa Giêsu có sứ mệnh gì trên trần gian?
Các cơn cám dỗ ấy cũng giúp ta thấy trước câu trả lời cho vấn nạn vày. Để thấy rõ điểm này, chúng ta cần nhớ lại bài đọc thứ nhất hôm nay. Ngày sau khi Adam được Chúa tạo dựng, ma quỉ liền cám dỗ ông ta và Adam đã sa ngã. Kể từ lúc đó, tất cả mọi người đều làm nô lệ cho ma quỉ. Giờ đây ma quỉ lại cám dỗ Chúa Giêsu. Tuy nhiên, không như Adam sa ngã, Chúa Giêsu đã đứng vững. Điều này cho thấy Chúa Giêsu đến để giải thoát chúng ta khỏi vòng nô lệ, Ngài đã đến để điều chỉnh sai lầm nơi tội lỗi đầu tiên của Adam. Trong bài đọc thứ hai hôm nay, Thánh Phaolô đã bình luận về sứ vụ này của Chúa Giêsu như sau: "Cũng như tội lỗi của một người đã kết án toàn thể nhân loại thế nào, thì hành vi công chính của một người cũng giải thoát và đem lại nguồn sống cho nhân loại như thế ấy. Nói cách khác, Chúa Giêsu là "Adam thứ hai".
Ngài đã đến để sửa lại lầm lỗi cho "Adam thứ nhất". Đó chính là cách thức Thánh Phaolô giải thích về sứ mệnh của Chúa Giêsu trong thư gởi tín hữu Corintô: "Cũng như mọi người phải chết vì liên kết với Adam thế nào, thì mọi người cũng được sống nhờ kết hiệp với Chúa Giêsu như thế... Adam thứ nhất bởi đất, Adam thứ hai bởi trời.. Như chúng ta đã mặc lấy hình tượng con người bởi đất thế nào thì chúng ta cũng sẽ mặc lấy hình tượng của CON NGƯỜI đến từ trời như thế" (1 Cr 15,22.47-49).
Nói cách khác, Chúa Giêsu đã đến trần gian để trở thành "Adam mới" của một nhân loại mới.
Như thế, để kết luận, chúng ta thấy rằng các cơn cám dỗ trong hoang địa Chúa Giêsu trải qua cho chúng ta thấy trước hai sự kiện quan trọng về Chúa Giêsu:
Thứ nhất, Chúa Giêsu là con Thiên Chúa làm người. Thứ đến Ngài là Adam mới mang sứ mệnh phục hồi sự sống mới cho nhân loại. Các bài đọc hôm nay thật thích hợp để dẫn nhập chúng ta vào mùa chay. Chúng làm nổi bật được nội dung của Mùa chay. Mùa chay giúp ta sống lại kinh nghiệm trong hoang địa của Chúa Giêsu xưa kia về việc chống lại ma quỉ cám dỗ.
Nhưng không chỉ có thế, mùa chay còn cử hành mừng chiến thắng của Chúa Giêsu trên ma quỉ. Và bao lâu chúng ta biết kết hợp với Chúa Giêsu trong trận chiến chống quỉ thì chúng ta cũng sẽ chia xẻ niềm vui chiến thắng của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là con Thiên Chúa làm người. Chúa đã vào hoang mạc để chịu ma quỉ cám dỗ, và để bắt đầu sứ mệnh như một Adam mới. Xin giúp chúng con cùng đi vào hoang mạc với Chúa. Xin giúp chúng con biết chia sẻ trận chiến mùa chay với Chúa ngõ hầu chúng con cũng được chia sẻ chiến thắng Phục sinh với Chúa.
“Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình người mà thôi.”
Câu trả lời cuối cùng rất dứt khoát của đức Giêsu đã khiến cho quỷ Satan phải chào thua bỏ đi: MC1-189
Câu trả lời cuối cùng rất dứt khoát của đức Giêsu đã khiến cho quỷ Satan phải chào thua bỏ đi.
Satan đã dùng nhiều cám dỗ để thử thách đức Giêsu, tuy chúng được biểu lộ qua nhiều hình thái và hành động khác nhau, nhưng kết cuộc lại đều dẫn đến một lập trường: trở thành đồng minh của nó! Cạm bẫy càng tinh vi, nghĩa là càng khéo léo che đậy thì càng dễ bắt được con mồi hơn. Chúng ta đều quen với câu “Ngọt mật chết ruồi!” Tự bản chất mật đâu phải là thuốc độc, mà tại sao con ruồi phải bị chết?”
Tuyệt nhiên trong những mưu chước Satan đưa ra hòng dụ dỗ đức Giêsu, không hề đá động gì đến việc chống đối Thiên Chúa, nhưng chỉ giục Ngài làm theo ý riêng của mình. Satan không ngây ngô để lộ tâm địa hiểm độc của nó ngay từ đầu, nhưng trái lại sẵn sàng cung cấp miễn phí những thứ gì con người chúng ta vẫn ưa thích, xem ra có vẻ hoàn toàn vô hại, các việc biến đá thành bánh, nhảy từ nóc đền thờ hay làm chủ hết vinh hoa lợi lộc thế gian nào có chi là xấu đâu! Cũng giống như hiện tại chúng ta lo lắng làm giàu hay muốn được nhiều danh vọng, sao có thể cho là xấu được?
Nhưng nó luôn rình rập lúc họ thỏa thích, say men chiến thắng và mất cảnh giác. Bấy giờ Satan mới tóm được con người dễ dàng như con ruồi đang say mật!
Những hình ảnh đức Giêsu bị cám dỗ trong Tin Mừng đầu Chúa Nhật đầu Mùa Chay thánh nhắc nhở mỗi người hãy luôn đề cao cảnh giác, không nhân nhượng ma quỷ một chút xíu nào cả. Vì một khi chúng ta nhân nhượng với chúng một bước, nghĩa là chúng ta đang bỏ ngỏ và cho chúng quyền tự do lui tới nhà mình. Làm sao chúng ta còn có thể tống khứ chúng ra sau này?
Lửa thử vàng, gian nan thử đức". Có qua cám dỗ mới biết được ai là người thánh thiện, ai là: MC1-190
"Lửa thử vàng, gian nan thử đức". Có qua cám dỗ mới biết được ai là người thánh thiện, ai là kẻ đê hèn. Waterstone có viết: "Đầu hàng cám dỗ là hành động của thú tính, chiến thắng nó mới là con người".
Cám dỗ chưa phải là xấu. Nó có thể giúp người ta trở nên tốt hơn. Cám dỗ không phải là tội. Nó sẽ giúp thấy rõ hơn sự thánh thiện nơi một con người. Cám dỗ cũng không phải là hình phạt, song nó sẽ là triều thiên vinh quang cho những ai chiến thắng (W. Barclay).
Bị cám dỗ cũng có nghĩa là đứng trước một lựa chọn: tốt hay xấu, chiến đấu hay đầu hàng, theo ý Chúa hay thuận ý Satan.
Bậc anh hùng là người nếm chiến thắng và cái giá phải trả cho cuộc chiến. Chẳng ai trao huy chương cho kẻ bỏ cuộc, nhưng là con người đã can đảm chống lại kẻ thù.
Trong cuộc sống, chẳng ai tránh được cám dỗ. Chính Đức Giêsu còn bị cám dỗ, tức phải làm những cuộc chọn lựa và quyết định trong đời, huống hồ là tôi. Nơi con người, ai cũng có các động lực vị kỷ, thiển cận, ngại khó, thích nhàn, thúc đẩy một chọn lựa sai lạc mà kết quả là nỗi niềm bất hạnh. Adong và Evà đã nếm mùi xấu hổ, khổ đau, và chết chóc vì đã chọn lựa sai lầm. Bởi chọn theo ma quỉ, chống lại luật Chúa, tôn thờ cái tôi mà thương đau đã lan tràn đến khắp nhân loại.
Thế nhưng, "nếu bởi sự sa ngã của một người mà nhiều người phải chết... và do sự bất tuân của một người mà nhiều người bị liệt hàng tội nhân, thì cũng nhờ sự vâng phục của một người (Đức Giêsu Kitô) mà nhiều người sẽ được liệt hàng công chính" (Rm 5:12-19).
Chính Đức Giêsu, qua các cơn cám dỗ trong sa mạc, đã khẳng định nguồn ơn cứu thoát cho nhân loại bằng việc lấy chính Lời Chúa làm ánh sáng soi dẫn đường đi, lấy việc tùng phục thánh ý Thiên Chúa để thánh hóa con người trở nên "người" hơn, và lấy việc tôn thờ Thiên Chúa trên mọi tạo vật như giá trị tuyệt đối và hạnh phúc chân thực của cuộc đời.
Mỗi một ngày sống trên trần gian, tôi sẽ phải không ngừng chọn lựa. Một chọn lựa ngay chính sẽ giúp cho việc chọn lựa ngay chính kế tiếp của tôi dễ dàng hơn. Trái lại, một sự nhu nhược đầu hàng cũng dễ kéo theo những đầu hàng nhu nhược tiếp theo. Và rồi tôi sẽ khó tránh khỏi tình trạng "cây xiêu bên nào sẽ đổ về bên đó".
Không phải là "thánh" nghĩa là không bị cám dỗ tấn công. Đức Giêsu là Đấng Thánh, ấy thế mà Ngài cũng phải trải qua kinh nghiệm của xung khắc giữa sự lành và sự ác. Thư Do thái ghi nhận rõ ràng: "Không phải Ngài là người không thể cảm thông với nỗi yếu hèn của chúng ta, song là Đấng đã dãi dầu bao cơn thử thách, đủ điều như chúng ta" (Dt 4:15). Và thái độ chọn lựa của Ngài đã làm nên hy vọng lớn lao cho con người mong manh của tôi. Ấy là "nếu tôi cùng chết với Ngài, tôi sẽ cùng Ngài phục sinh; nếu tôi chịu khổ với Ngài, tôi sẽ cùng Ngài thống trị" (1 Tim 2: 11-12).
Đứng trước những lời mời gọi ngọt ngào của thế gian và bao hấp lực quay cuồng của xác thịt, sự từ khước hay vượt thoát nào cũng hàm ngậm một cân lượng khổ đau, nếu không nói là "chết" trong lòng ít nhiều. Bất cứ sự thắng vượt gian dối, điêu ngoa, dục tình, tức giận, ích kỷ, kiêu căng, hay ươn lười nào cũng đòi hỏi một cuộc chiến gay go, lắm khi phải rướm máu con tim chứ chẳng chơi.
Thế nhưng, cần phải chiến đấu để có thể chiến thắng! Cho dù thử thách và cám dỗ nặng nề đến đâu tôi vẫn xác tín như Thánh Phaolô: "Thiên Chúa trung tín sẽ không để con người bị cám dỗ quá sức. Trái lại, cùng với cám dỗ Ngài sẽ chừa cho lối thoát để có thể chịu đựng nổi" (1 Cor 10:13).
Sự "chịu đựng" đến khi chiến thắng chỉ có thể đạt tới nhờ liên kết chân thành với Thiên Chúa. Không gì tạo nên gắn bó cho bằng cầu nguyện. Chính nhờ cầu nguyện mà Chúa Giêsu đã có sức mạnh chịu đựng và chiến thắng tên Cám Dỗ ngay từ phút đầu.
Bước vào hành trình mùa Chay, tôi được kêu mời tu chỉnh lại đời sống cầu nguyện, để nhờ đó sức mạnh của Đức Kitô luôn ở trong tôi, giúp tôi can đảm chọn lựa những gì thuộc về Thiên Chúa, vững bước vượt bao chông gai trong đời, tiến đến đích cùng của bình an và hạnh phúc chân thật.
Ngắt đoạn chu kỳ các Chúa nhật thường niên, hay các Chúa nhật của thời đại Giáo Hội mà: MC1-191
Ngắt đoạn chu kỳ các Chúa nhật thường niên, hay các Chúa nhật của thời đại Giáo Hội mà chúng ta lập lại trong ba tháng rưỡi, sau Lễ Hiện Xuống, chúng ta sắp theo một thời gian đặc ân Đó là chu kỳ Phục sinh, gồm có thời gian Mùa Chay và Mùa Phục sinh nhu thế đây là một cơ hội nhiệt thành mới trong bước đi hằng ngày của chúng ta.
Năm A này dành hết cho việc đọc sách Tin Mừng theo Thánh Mátthêu về những cám dỗ của Đức Giêsu và sự biến hình của người rồi chúng ta sẽ có ba Tin Mừng lớn của Thánh Gioan, theo truyền thống chuẩn bị cho “Lễ Thanh tẩy”: nước hằng sống của người nữ Samaria, người mù từ lúc mới sinh được sáng mắt và Ladarô sống lại.
Hôm nay, đây là cuộc chiến đấu lớn lao của Đức Giêsu... sự mời gọi khẩn thiết đi vào trong cuộc chiến đấu riêng của chúng ta trong Mùa Chay.
Bấy giờ Đức Giêsu được Thần. Khi dẫn vào hoang địa, đễ chịu quỷ cám dỗ.
Ba tác giả Tin Mừng nhấn mạnh đến mối liên hệ giữa sự cám dỗ Chúa và phép lạ của Người... Về lịch sử, chắc rằng Đức Giêsu đã muốn thực hiện một thứ "tĩnh tâm" trước khi khởi đầu tác vụ của mình. “Hoang địa" là nơi đã tìm thấy thật sự hay dành cho việc Đó: nỗi cô liêu và thanh tĩnh mà con người thấy mình đối diện một cách khắt khe với chính mình, mà không có lối tránh né, và tất cả những mặt nạ mà xã hội đem đến cho ta. Mátthêu cũng như hai tác giả Tin Mừng kia, đều nhấn mạnh là Đức Giêsu được Thần Khí dẫn đến hoang địa này cám dỗ là một phần trong dự định của Thiên Chúa cho Con Người. Và ở đây chúng ta cũng vậy, chúng ta được cho biết là phép thanh tẩy không làm cho một ai trong chúng ta được miễn trừ không phải chịu các thử thách .
Quả thực, ngoài ý nghĩa có phần ngây thơ của từ "cám dỗ" Kinh Thánh sử dụng từ này để chỉ "thử thách” Theo nghĩa này, cám dỗ có một cái gì tích cực. Không phải là một tình yêu được thử thách để biết xem nó có thực sự vững bền và chân thật sao ? Như thế Đức Giêsu sắp chịu thử thách bởi chính Thánh Thần của Thiên Chúa, cũng như thế xưa kia dân Do Thái trong hoang địa với cuộc Xuất Hành: "Thiên Chúa của anh em đã dẫn anh em đi suốt bốn mươi năm nay trong sa mạc, để bắt anh em phải cùng cực; như vậy người thử thách anh em để biết lòng dạ anh em, xem anh em có giữ các mệnh lệnh của người hay không? (Đnl 8,2) .
Xin Thánh Thần giúp chúng ta xem xét những thử thách của chúng ta theo cách thế tích cực này, trong khi nghĩ rằng Đức Giêsu, người Con hoàn toàn, người công chính vẹn toàn, đã tìm thấy trong những thử thách của con người, sự nâng cao chính tình yêu của Người, của lòng trung tín của Người với Chúa Cha
Người ăn chay ròng rã bốn mươi ngày và sau Đó Người thấy Đói.
Trong câu truyện của Mátthêu, ta không phải tìm trước hết một sự mô tả cụ thế về "điều đã xảy ra" đàng sau những chi tiết, ta cần khám phá ra một ý nghĩa thần học Mátthêu rõ ràng đã đạo diễn, trong khúc đầu cuộc đời công khai của Đức Giêsu, những cám dỗ mà thực sự Người đã cám nghiệm trong suốt cuộc đời mình lúc nào cũng vậy, Đức Giêsu phải tự bênh vực khi sử dụng thiên tính của mình để tránh cho mình khỏi những lo âu của con nguời (Mt 2,24-30; 16,23 ; 26-59 – 27-40)
Kiểu nói "bốn mươi ngày và bốn mươi đêm" chẳng hạn, là một phần của kiểu nói của biểu tượng của Kinh Thánh: Con số ước lệ chỉ thời gian cần thiết cho sự trưởng thành của đời người “Bốn mươi" là thời gian Ítraen ở trong sa mạc, thời gian đi của ngôn sứ Êlia đến Núi Chúa; thời gian của Đấng Phục sinh hiện ra,... (Đnl 8,5 ; 1V 19,8 ; Cv I,3)
Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Người và nói:nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi!
Không cần phải làm dịu Tin Mừng đi.. ngay nếu như có thế giải thích bằng nhiều cách, để có thế áp dụng vào cuộc sống chúng ta trên nhiều diện khác nhau.
Sự cám dỗ đầu tiên này của Đức Giêsu chẳng hạn, không có lý do nào để nghĩ rằng nó chỉ có tính cách thiêng liêng mà thôi: Đức Giêsu đã thực sự thấy Đói, trong quá trình cuộc đời mình người đã bị đụng chạm đến, bị nao núng, bị dày xé ở ngay chính thân xác mình... và không phải chỉ trong quá trình một cuộc ăn chay khắc khổ trong hơn một tháng.
Cám dỗ đầu tiên là cám dỗ "chống lại sự cậy trông": người ta lồng lộn trước thử thách, trước đau khổ ... người ta xin Chúa bỏ đi tất cả những gì gây đau khổ cho chúng ta. Sự xấu mà chúng ta phải chịu, sự xấu tác động đến những kẻ vô tội, cái Đói bất công của một bộ phận trong nhân loại.. đấy là sự phản kháng lớn lao và sự phản kháng đầu tiên chống lại Thiên Chúa lúc Đó người ta bị cám dỗ cáo giác Thiên Chúa..... hoặc là xin Người giải quyết trực tiếp những vấn đề của chúng ta!
Cám dỗ đầu tiên có thế được giải thích qua cuộc tranh chấp giữa xác thịt và tinh thần các giác quan của chúng ta cảm thấy Đói, và chúng ta đi tìm các thực phẩm trần thế để làm dịu cơn Đói. Và Đó là điều tốt, làm đẹp lòng Thiên Chúa nhưng trong lãnh vực này đặc biệt, chúng ta hiểu sự tự chủ chính ta: sự vui thỏa dễ dãi không nỗ lực xây dựng những người đàn ông và đàn bà có một giá trị. Xã hội tiêu thụ với chủ nghĩa duy vật thực tiễn, có nguy cơ hạ thấp con người xuống ngang mức với tầm vóc sơ đẳng nhất:
Nhưng Người đáp: "Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời Thiên Chúa phán ra" (Đnl 8,3) .
Ba câu trả lời của Đức Giêsu cho kẻ cám dỗ được rút ra từ trong sách Đệ Nhị Luật. Kinh Thánh đề ra một cách đọc lại thần học và 40 năm cuộc đời trong sa mạc Sinai, và những đòi hỏi của Giao ước Đức Giêsu được giới thiệu ở đây nhừ một Ítraen mới nhưng Đức Giêsu là người chiến thắng, trong khi dân Thiên Chúa bị thử thách vì Đói và khát đã sa ngã trong khi lẩm bẩm kêu trách Chúa (Xh 6,8) câu trả lời của Đức Giêsu luôn luôn có tính thời sự, và chất vấn chúng ta một cách mạnh mẽ: chúng ta cảm thấy Đói cái gì nhất? Những thóa mãn trần thế có thế sẽ khiến chúng ta hư mất ? Hay Lời Thiên Chúa có thế cứu chúng ta khỏi mọi thử thách ? Lạy Chúa, xin giúp chúng con tin cậy vào Chúa cho đến cùng. Xin ban cho chúng con lòng cậy trông.
Sau Đó quỷ đem Người đến thành thánh, và đặt Người trên nóc đền thờ, rồi nói với Người: Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá (Tv 91,11-12) nhưng cũng có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi (Đnl 6,6).
Nếu sự đau khổ (con Đói) thử thách lòng tin của chúng ta vào Chúa thì bây giờ đây là cám dỗ thứ hai, có tính điển hình của dân Chúa, của Đức Giêsu, Con thiên Chúa, và của những tín hữu chúng ta; Đó là thử thách về lòng tin. Ít-ra-en trong sa mạc 40 năm đã xin Chúa cho những dấu hiệu lạ lùng để Thiên Chúa chứng tỏ là mình có hiện hữu không! Chúa có ở với chúng tôi.. không, có hay không (Xh 7,l7). Và Đức Giêsu, suốt cuộc đời Người dã bị cám do thoát ra khỏi thân phận con Người của mình, đạt tới kết quả sau cùng của sứ mệnh Người bằng các phương tiện dễ dãi là phép lạ: công luận của thời đại Người là trông đợi một Đấng Mêsia siêu việt, Người sẽ tỏ ra một cách rõ ràng quyền năng của thiên Chúa có lợi cho những tín hữu bằng cách thực hiện những dấu hiệu chói lòa: họ xin Đức Giêsu cho họ một dấu chỉ xuống từ trời (Mt 6, 2,39 - 24,3) .
Bằng tất cả sức mạnh sống động của con người trai trẻ và năng động, Đức Gìêsu đã luôn bị cám dỗ để làm ra vẻ Thiên Chúa Toàn Năng. Và không phải là không bị dây xé mà Người đã chọn làm Đấng Messia nghèo nàn, bị hạ nhục, bị đè nén bởi đám đông và những nhà chức trách ở thời Người.
Mọi tín hữu đến lượt mình đều phải chờ đợi lúc mình phải chịu cám dỗ "chống lại lòng tin" này: Đó là sự cám dỗ về sự chân không, cái ấn tượng gieo mình vào chân không khi người ta tin vào Chúa người ta có lẽ muốn rằng Thiên Chúa Phải hiển nhiên hơn. Và Người là Thiên Chúa ẩn giấu có lẽ người ta muốn cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa trong những kinh nguyện hay trong việc phụng tự của chúng ta. Và Thiên Chúa thinh lặng... và sự "sự mập mờ" không làm cho người ta thích thú thiên Chúa không gây thú vị lắm bởi vì Người không đáp ứng cho họ những chuẩn mực của chúng ta. Có lẽ người ta muốn tác động lên Người, làm ra một Thiên Chúa phục vụ chúng ta một Thiên Chúa có lẽ làm chân chúng ta khỏi vấp vào đá trên đường đi. Và Thiên Chúa để cho chúng ta tự trị và tự chịu trách nhiệm: chính bạn, bạn hãy tránh những hòn đá và nếu bạn vấp phải, đừng chờ phép lạ: nhưng không phải vì thế mà Tôi không hiện hữu...bởi vì Tôi là thực thế hoàn toàn khách . Lạy Chúa, xin giúp con tin tưởng. Xin cho chúng con Đức tin .
Quỷ lại đem Người lên một ngọn núi rất cao và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, và bảo rằng: Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ Đó nếu ông sắp mình bái lạy tôi. Đức Giêsu liền nói: Xatan kia, kéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi. Thế rồi quỷ bỏ Người mà đi, và có các thiên sứ tiến đến hầu hạ Người.
Ta hãy lột bỏ tất cả những tưởng tượng về các biểu tượng ấu trĩ quá đơn giản thật hiển nhiên là Mátthếu, không hơn chúng ta, đã không bị lừa về ngôn từ của nó. Không có ngọn núi nào ở thế gioan mà trên Đó người ta có thế trông thấy "tất cả" các nước trên trái đất! Đó là một cách nói. Đó là một thị kiến nội tâm, mà không phải là một hiện tượng vật lý: Sau thử thách về lòng cậy trông và lòng tin, thì đây có lẽ là thử thách về tình yêu. Dân Ísraen trong cuộc xuất hành của mình, bị cám dỗ bỏ Giao ước, một hôn ước tình yêu với Thiên Chúa thật, để hiến thân cho các thần tượng" ngoại tình một cách nào Đó (Xh 23,20-33) thứ ngôn từ biểu trưng của Mátthêu, nó có sức gợi cảm mạnh mẽ biết mấy? Xatan đã đòi các vương quốc trên thế gian làm tài sản riêng của nó. Nó là chủ, là ông hoàng của thế giới này, Đức Giêsu đã lột mặt nạ đối phương. Ở đây Đức Giêsu chỉ thẳng tên Xatan; Đó là một tên phản Thiên Chúa! Chính y là kẻ đòi loài người phải thờ phụng y.
Đúng thế, chúng ta bị cám dỗ Thiên Chúa hóa tất cả mọi sự vật đông đảo biết bao các thần tượng của chúng ta.., tất cả những thứ luôn cố đoạt lấy địa vị của Thiên Chúa: tiền bạc, tiện nghi, uy tín, thống trị, quyền lực, thứ vui, các ý thức hệ, môi trường của chúng ta... hay là nhiều thứ ba láp này kia mà chúng ta gán cho tầm quan trọng lớn lao biết bao!
Chỉ một mình Thiên Chúa là Thiên Chúa! Mùa Chay này được ban cho chúng ta để chúng ta được giải thoát những thần linh giả.
Một tục lệ: ngày thôi nôi của một đứa bé, người ta quen đặt trước mặt nó nhiều món đồ (thí dụ: MC1-192
Một tục lệ: ngày thôi nôi của một đứa bé, người ta quen đặt trước mặt nó nhiều món đồ (thí dụ một cây viết, một cái cày nhỏ, một cây súng v.v.). Người ta hồi hộp xem nó chọn món nào và từ đó suy đoán về tương lai của nó (chọn cây viết: sẽ là nhà trí thức; chọn cái cày: sẽ làm ruộng; chọn cây súng: sẽ đi lính). Tuy hơi dị đoan, nhưng tục lệ này nói lên hai ý tưởng khá sâu sắc: a/ con người luôn phải lựa chọn; b/ đã quen chọn thế nào thì sẽ tiếp tục chọn thế ấy. Người ta nói: “cuộc sống là một chuỗi của lựa chọn. Quen chọn đúng thì sống tốt, quen chọn sai thì sống xấu.
2. Nhìn thẳng vào thực tại cám dỗ
-Chúng ta đừng nuôi ảo tưởng về một thế giới mà mọi sự đều tốt lành. Thân phận con người là sống giữa thế gian mà trong đó thiện ác, lành dữ lẫn lộn.
-Chính vì thế, khi Con Thiên Chúa xuống thế làm người, chính Chúa Thánh Thần đã dẫn Người vào sa mạc để đối diện với các cơn cám dỗ.
-Người ta sống tốt không phải bằng cách che mắt dấu mặt để khỏi nhìn thấy điều xấu, mà trái lại bằng cách nhìn thẳng vào điều xấu và chiến đấu để chiến thắng nó.
- Trong Mùa Chay, mỗi người hãy nhìn thẳng vào nội tâm mình. Không phải chỉ nhìn những mặt tốt, mà nhất là phải nhìn thẳng vào những mặt xấu, những thứ “tham, sân, si” đang âm thầm nhưng mãnh liệt khống chế mình.
-Và hãy nhìn vào cuộc chiến đấu của Đức Giêsu. Người đã thắng nhờ đâu? Nhờ làm theo Lời Thiên Chúa và thực hiện thánh ý Thiên Chúa. 3. Tái lập bậc thang các giá trị
-“Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh...”: Quá lời này, Chúa không bảo chúng ta đừng tìm cơm bánh, nhưng Ngài nhắc chúng ta đừng chỉ tìm cơm bánh.
-Bị quay cuồng trong cuộc sống vật chất, con người dễ bị cuốn hút theo vật chất: từ tình trạng quân bình dành mối quan tâm đồng đều cho những nhu cầu tinh thần và vật chất, chúng ta dần dần bị cám dỗ xén bớt phần tinh thần để vun đắp thêm cho phần vật chất, và cuối cùng chỉ còn có vật chất và vật chất.
-Mùa chay là khoảng thời gian thích hợp cho chúng ta lùi lại để có một khoảng cách sáng suốt mà nhận định: lại các bậc thang giá trị đời mình, theo tiêu chuẩn mà Đức Giêsu đưa ra: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh mà còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra”.
-Những việc làm được Giáo Hội khuyến khích trong Mùa Chay cũng nhằm giúp chúng ta tái lập lại các bậc thang giá trị: tự ý giảm bớt ăn uống, làm chủ những khuynh hướng của mình, quan tâm tìm hiểu ý Chúa và lắng nghe Lời Chúa hơn v.v.
4. Y muốn hướng dẫn hành động
-Y muốn là động cơ và là sức mạnh. Bởi đó người ta nói ý lực. Không có những hành động ngẫu nhiên vô tình Mọi hành động đều đi theo sau một ý muốn dẫn dắt.
-Muốn điều đúng và tốt thì sẽ hành động đúng và cuộc đời sẽ tốt. -Nhưng ý muốn riêng không hẳn là luôn luôn đúng và tốt. Bởi thế con cái còn khờ dại thì nên làm theo ý muốn của cha mẹ, học trò còn non kém thì tốt nhất nên theo ý hướng dẫn của thầy cô. Trong những trường hợp này, vâng lời trở thành con đường khôn ngoan nhất và tốt đẹp nhất.
Ađam Eva đã theo ý của ma quỷ và theo ý riêng dẫn đến kết quả bi thảm cho cả loài người. Ngược lại Đức Giêsu dù là Con Thiên Chúa nhưng đã quyết luôn làm theo ý muốn của Chúa Cha và đã cứu chuộc loài người: “Chỉ vì một người không vâng lời Thiên Chúa mà muôn người bị liệt vào hạng tội nhân, thì nhờ một người đã vâng lời Thiên Chúa mà muôn người cũng sẽ được kể là công chính”.
5. Cám dỗ của Đức Giêsu và của chúng ta
Một cuốn phim đã làm xôn xao dư luận một thời (khoảng năm 989) là phim “Cơn cám dỗ cuối cùng của Đức Kitô”. (The last temptation of Christ), phỏng theo quyển tiểu thuyết cùng tên của nhà văn hy lạp Nikos Kazatzakis. Cuốn phim và quyển tiểu thuyết mô tả lúc Đức Giêsu bị treo trên thập giá. Ngài đã ngất đi và thấy mình rời bỏ thập giá để trở lại cuộc sống bình thường. Ngài đi tìm lại nàng Mađalêna, cưới nàng làm vợ. Sau đó Ngài lại tìm đến với hai chị em Matta và Mari và cũng cưới luôn hai người này. Ngài có rất nhiều con và sống rất hạnh phúc.
Báo chí và các đài phát thanh đưa tin rằng khi cuốn phim được trình chiếu lần đầu, những người có đạo đã đập phá rạp chiếu bóng tan tành, đến nỗi lần chiếu sau phải chiếu ở một rạp đặc biệt được cô lập bởi chung quanh toàn là nước để khỏi bị đập phá lần nữa.
Thực ra cốt chuyện cũng chẳng có gì xúc phạm cho lắm. Tuy tác giả có nói Đức Giêsu rời khỏi thập giá và cưới 3 người vợ, có nhiều con, nhưng đó chỉ là một cơn cám dỗ của Ngài mà thôi. Cuối cùng Ngài đã lắc đầu không theo cơn cám dỗ đó. Sau đó Ngài tỉnh lại vẫn thấy mình đang bị treo trên thập giá, và Ngài hô lớn một tiếng kêu chiến thắng
Thế là đã hoàn tất, rồi Ngài tắt thở, hoàn tất đời mình trong tâm tình luôn trung thành với Chúa Cha. Trong đoạn mở đầu quyển tiểu thuyết của mình, Nikos Kazantzakis đã trình bày rõ ý hướng của ông: ông tin Đức Giêsu vừa là Chúa vừa là người. Và ông muốn nhìn ngài dưới khía cạnh làm người, vì thế ông đã tưởng tượng những cơn cám dỗ và những cuộc chiến đấu vô cùng cam go mà con người Giêsu đã phải đương đầu và đã anh dũng chiến đấu như thế nào. Mục đích là để càng thấy rõ hơn Đức Giêsu chính là mẫu mực cho con người chúng ta, để chúng ta cảm phục Ngài hơn và để khuyến khích chúng ta can đảm hơn trong khi chiến đấu với những cơn cám dỗ của chính chúng ta . Tác giả đã thổ lộ: “Trong khi viết, tôi đã cảm động đến phát khóc. Tôi chưa bao giờ cảm thấy máu của Chúa rơi từng giọt vào tim tôi với sự ngọt ngào như vậy, với nỗi đớn đau như vậy”.
6. Chuyện minh họa
Có 3 người mục tử, mỗi người coi sóc một đàn chiên. Một đêm mùa đông vừa gió vừa mưa. Khi 3 người đang ngủ thì nghe có tiếng chó sói.
Người thứ nhất tung chăn thức dậy định ra ngoài xem xét tình hình. Nhưng nghe tiếng mưa rơi gió rít, anh ngại ngùng và trở vào giường ngủ tiếp.
-Người thứ hai cũng thức dậy, mặc thêm quần áo mở cứa đi ra. Nhưng một đợt nước mưa quất ngay vào mặt anh làm anh bỏ ngay ý định ra ngoài. Anh cũng trở vào giường nằm xuống, kéo chăn đắp kín và ngủ tiếp.
-Người thứ ba cũng thức dậy, cũng mặc quần áo và cũng ra ngoài. Dù gió lạnh, dù mưa ướt, anh vẫn cố chịu đựng, đi đến tận chỗ đàn chiên của anh để xem. Khi đã thấy chiên mình an toàn, anh mới trở vào nhà ngủ tiếp.
Trong 3 người đó , ai là người hiểu biết rõ nhất về sự khắc nghiệt của gió và mưa? Dĩ nhiên là người thứ ba.
Cũng thế, người hiểu rõ nhất về cám dỗ là người đã chiến đấu và chiến thắng nó.
Vì vậy, nếu ta muốn học cách đương đầu với cám dỗ, đừng học với những kẻ tội lỗi, mà hãy học với những vị thánh.
Như trong các bài đọc hôm nay, chúng ta đừng học với dân Israel trong thời xuất hành ở sa mạc, mà hãy học với Đức Giêsu.
Mùa Chay mời gọi sám hối, mời gọi những người có cuộc sống xa lìa Thiên Chúa hãy hồi tâm: MC1-193
Mùa Chay mời gọi sám hối, mời gọi những người có cuộc sống xa lìa Thiên Chúa hãy hồi tâm quay trở lại con đường sống. Vấn đề là ở chỗ có nhận ra mình đang lạc đường và dựa vào tiêu chuẩn nào để nhận ra con đường sống đích thực ?
Có thể nói bản năng sinh tồn là bản năng mạnh nhất nơi các sinh vật. Nói chung mọi sinh vật đều cố gắng để sống, để tồn tại và phát triển "đầy mặt đất". Ngay cả khi môi trường không thuận lợi, các sinh vật cũng tìm cách thích nghi: chạy nhanh hơn, bay xa hơn, có hình dạng bên ngoài dễ lẫn tránh kẻ thù hơn . . .
I. KHÁT VỌNG SỐNG NHƯNG THỰC TẾ ĐI TÌM CÁI CHẾT
1. Nơi con người, bản năng ấy còn mạnh hơn. Không những con người có thể sống trong những môi trường khắc nghiệt: nơi băng giá, nơi sa mạc ... mà còn cải tạo môi trường, làm cho môi trường sống thuận lợi hơn: trồng tỉa, sản xuất cửa cải vật chất phục vụ tiện nghi đời sống ... Hơn thế nữa, khát vọng sống nơi con người không ngừng được nâng cao: không những con người muốn ăn no mà còn muốn ăn ngon, không những tìm cách mặc ấm mà còn mặc đẹp . Đó là khát vọng được sống và được sống dồi dào, khát vong ẩn chứa nơi nhân loại.
2. Thế nhưng một thực tế đáng buồn; nhân loại đang đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt. Đây là một nghịch lí hiện nay người ta phải đương đầu: muốn sống cuộc sống đầy đủ hơn, hạnh phúc hơn, nhưng rồi chính vì phục vụ cho lí tưởng ấy, con người huỷ hoại môi trường sống. Con người làm ô nhiễm trái đất với đủ loại chất thài, vắt kiệt đất đai bởi chặt-phá rừng, bởi gia tăng sản lượng thâm canh tăng vụ không đúng, bởi phân bón hoá học ... chưa kể những thứ như tiếng động, như thuốc lá, như rượu ... những thứ rút ngắn đời sống con người.
- Những tác hại tinh thần cũng không phải nhỏ. Trong một xã hội công nghệ hoá, máy móc chiếm địa vị ưu tiên. Con người phải chạy theo máy móc, phải tranh đua với máy móc, phải sống lối sống công nghiệp: nhanh, chính xác, hiệu quả. Phải luôn phấn đấu cho công việc thì còn giờ đâu, tâm trí đâu để đầu tư vào việc gặp gỡ, cảm thông giữa người với người. Sống sát bên nhau nhưng như người xa lạ, gặp nhau chào hỏim nhưng chỉ là những công thức quen thuộc.
- Thời đại hiện nay là thời đại tôn sùng tiện nghi, thời đại bấm nút. Người ta muốn chỉ cần nhấn một nút có thể điều khiển mọi thứ. Người ta muốn giảm thiểu những công việc cực nhọc, chỉ cần một cố gắng tối thiểu cũng đạt được một kết quả tối đa. Tại một số nước, những công việc nặng nhọc như xây dựng ... rất khó tìm công nhân. Người ta ngán ngại hi sinh, hãm mình, chu toàn trách nhiệm trong gia đình hay ngoài xã hội, nhất là khi phải phấn đấu trong thời gian dài.
- Thời đại hiện nay cũng là thời đại tôn sùng tự do: tự do hút xì ke ma tuý (có nước cung cấp miễn phí), tự do cờ bạc ăn chơi (dành một khu phố, một thành phố để chuyên cờ bạc ăn chơi), tự do đồng tính luyến ái (nhiều nước pháp luật công nhận), tự do luyến ái (không muốn lập gia đình). Hậu quả ngày nay có thể thấy rõ là con người ít nhạy cảm với những nỗi đau của người khác, sống ích kỷ, gia đình không còn là tổ ấm, tế bào của xã hội bị tan rã, và si da, căn bệnh của thế kỷ đang đe đạ tiêu diệt con người.
Như thế, khi con người tôn thờ vật chất, coi vật chất là nguồn đem lại hạnh phúc cho mình ; khi con người tôn sùng con người, coi tư duy của mình là trên hết, thì chính lúc đó đời sống con người bị thoái hoá, mà nguyên nhân sâu xa thcó tầm nhìn của Thánh Kinh là con người quay lưng về Thiên Chúa và quay mặt về thụ tạo.
II. TỪ BỎ A-ĐAM CŨ, HƯỚNG THEO AĐAM MỚI
1. Thật ra, con người luôn bị cám dỗ quay lưng về Thiên Chúa. Bài đọc 1 trích từ sách Sáng thế ttrình bày việc Thiên Chúa dựng nên con người, làm cho con người được sống bằng cách thổi hơi. Đó là kiểu dùng hình ảnh nói lên Thiên Chúa là nguồn sống và Thiên Chúa thông ban sự sống cho con người. Thế nhưng Bài đọc 1 cũng cho thấy hành động đầu tiên của con người là muốn không còn lệ thuộc vào Thiên Chúa, muốn vươn lên mà không cần Thiên Chúa, muốn đi tìm một đường lối khác với đường Chúa hướng dẫn.
Con rắn biểu trưng cho Xa-tan xuất hiện đúng lúc và gieo vào lòng con người sự nghi ngờ Thiên Chúa, nghi ngờ sự hướng dẫn của Chúa. Làm theo Lời Chúa là mất tự do. "Không được ăn mọi thứ cây trong vườn là ngu dốt, bởi vì ngày nào không làm theo Lời Chúa thì con người trở nên khôn ngoan: “mắt ông bà sẽ mở ra", có thể tự do định đoạt cuộc sống của mình, có thể tự xác định điều gì tốt để theo, điều gì xấu để tránh mà không cần quy chiếu vào Lời Chúa, vì "ông bà sẽ nên như những vị thần biết lành dữ . Thiên Chúa là Đấng ban cho con người sự sống, hướng dẫn con người con đường sống: "ngày nào các ngươi ăn nó sẽ phải chết", lại được Xa-tan ttrình bày như một tên lường gạt: "không chết đâu !
Tiếc thay con ngươi lại nghe theo lời xúi xiểm của Xa-tan, nhập cùng phe chống đối, xuyên tạc Thiên Chúa. Thay vì hướng về Thiên Chúa, con người bị thu hút về hướng khác: đẹp mắt, ngon lành, thèm ăn. Con người dừng lại nơi thụ tạo, chịu sự lôi cuốn của thụ tạo: ma quỷ, thế lực ma quỷ, vũ trụ vạn vật trong đó có con người. Con người muốn mình là Chúa duy nhất của vũ trụ và nếu được thì có thể chi phối mọi quy luật của vũ trụ mà không cần phải quy chiếu vào sự hướng dẫn của Chúa. Người ta có thể sinh con theo ý muốn, có thể phá thai, có thể sinh trai hay gái, có thể thụ tinh trong ống nghiệm, sinh con mượn ... Phải chăng con người có thể làm được mọi thứ con người muốn ?
Con người luôn chăm lo hạnh phúc cho chính mình. Tuy nhiên, nếu chỉ tìm hạnh phúc nơi các thụ tạo hay nơi chính con người mà thôi, thì đó là thứ hạnh phúc tách ra khỏi nguồn sống. Hạnh phúc đó chóng tàn và sẽ đưa con người đến chỗ diệt vong.
2. Giáo Hội hôm nay muốn ttrình bày với chúng ta Đức Giê-su như một A-đam mới khác hẳn với A-đam cũ. Có thể nói Đức Giêu là người mẫu, không phải mẫu thời trang nhưng là mẫu người:
- Đức Giê-su hiểu và sống đúng Lời Chúa. Với cám dỗ thứ nhất, Ngài nói: "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra." Phải chăng đó là lời nhắc nhở con người: Lương thực nuôi sống con người không chỉ là của ăn vật chất, nhưng còn là lương thực thiêng liêng, là "Lời Chúa ? Phải chăng con người đã làm mất sự sống phong phú của mình khi chỉ chăm chú vào của ăn thuộc vật chất (cho dù đôi khi cũng gọi là của ăn tinh thần: nhạc, kịch, phim ...) ? điều đó không có nghĩa là Đức Giê-su phủ nhận tầm quan trọng của việc xây dựng cuộc sống vật chất phong phú, nhưng điều quan trọng là cuộc sống ấy cần được Lời Chúa định hướng.
Với cám dỗ thứ hai, một cám dỗ rất độc" vì dựa vào Lời Chúa, đúng hơn dựa vào Lời Chúa theo kiểu xuyên tạc của vạn vật trong đó có con người. Con người muốn mình là Chúa duy nhất của vũ trụ và nếu được thì có thể chi phối mọi quy luật của vũ trụ mà không cần phải quy chiếu vào sự hướng dẫn của Chúa. Người ta có thể sinh con theo ý muốn, có thể phá thai, có thể sinh trai hay gái, có thể thụ tinh trong ống nghiệm, sinh con mượn ... Phải chăng con người có thể làm được mọi thứ con người muốn ?
Con người luôn chăm lo hạnh phúc cho chính mình. Tuy nhiên, nếu chỉ tìm hạnh phúc nơi các thụ tạo hay nơi chính con người mà thôi, thì đó là thứ hạnh phúc tách ra khỏi nguồn sống. Hạnh phúc đó chóng tàn và sẽ đưa con người đến chỗ diệt vong.
Với cám dỗ thứ ba, Đức Giê-su xác nhận một chân lý ngàn đời: ,Ngươi phải thờ lạy một mình Thiên Chúa mà thôi." Đừng thay Chúa bằng bất cứ thần tượng nào đó, đừng tôn sùng bất cứ thụ tạo nào như Chúa, vì chỉ mình Chúa là Thiên Chúa và là Đấng phải tôn thờ. Đức Giê-su luôn trung thành và sống đúng lý tưởng đời mình.
Đó là cuộc đời thi hành ý định cứu thế theo ý Chúa Cha. Thử thách hôm nay chỉ là khởi đầu. Thử thách còn đến mãi trong cuộc sống mà cao điểm là trên thập giá: Đức Ki-tô, vua ít ra-en, bây giờ hãy xuống khỏi cây thấp giá đểchúng tôi thấy được mà tin." (Mc 15,32). Thế nhưng trong mọi hoàn cảnh, Đức Giê-su vẫn bám vào Lời Chúa, vào ý Chúa Cha, Ngài không hề sử dụng quyền lực để phục vụ cho mình, Ngài không chọn con đường cứu thế dễ dãi, vinh quang của trần gian, nhưng là con đường khiêm hạ, nghèo khó, đau khổ để chứng tỏ một tình yêu cao nhất đối với Cha trên trời cũng như với loài người dưới thế. Đức Ki-tô trở nên người mẫu. Ngài luôn gắn với nguồn sống là Thiên Chúa Cha bằng cách thực thi ý muốn Chúa Cha.
III. KẾT LUẬN: HÃY THỰC THI Lời CHÚA
“Chỉ vì một người sa ngã, mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa cho trở nên công chính, nghĩa là được sống." (Bài đọc 2). Con người được tự do: liên kết với A-đam cũ là chọn con đường chết, liên kết với A-đam mới là chọn con đường sống. Theo A-đam cũ thì sống xa lìa Thiên Chúa, xuyên tạc Lời Chúa, chống đối Thiên Chúa. Theo A-đam mới thì liên kết với Chúa Cha bằng cuộc sống vâng nghe Lời Chúa. Đời sống mới không miễn chuẩn khỏi thử thách. Thế nhưng nơi dòng dõi A-đam mới, thử thách chỉ làm tăng thêm lòng yêu mến, tăng thêm lòng dũng cảm sống Lời Chúa như Đức Ki-tô mà thôi.
Thánh lễ hôm nay là dịp để liên kết với Đức Giê-su, liên kết với Lời Chúa, liên kết với Mình Chúa. Đức Giê-su đang mời gọi chúng ta quay trở về Nhà Cha để sống cuộc sống dồi dào, cuộc sống hạnh phúc trong Nhà Cha. Lời đáp trả dành cho mỗi người chúng ta qua chính cuộc sống cụ thể hằng ngày: ước gì sự liên kết với Đức Giê-su trong Thánh lễ trở thành sức mạnh cho sự kết liên trong cảnh đời cụ thể của ta.
LỜI NGUYỆN TÍN HŨU
Chủ Tế: Anh chị em thân mến,
Mùa Chay mời gọi chúng ta sám hối. Sám hối là từ bỏ con đường chết quay về con đường sống. Con đường sống là chính Đức Ki-tô, Đấng đến thế gian làm cho nhân loại được sống và sống dồi dào. Chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
Ý NGUYỆN:
1. Giáo Hội tiếp tục sứ mạng của Chúa Giê-su trong thế giới ngày nay. Chúng ta cùng cầu xin cho những người đang ở trong bóng tối sự chết, biết nghe lời của Giáo Hội tìm đến với Đức Ki-tô, con đường sống.
2. Con người cần phải phấn đấu nhiều để làm cho đời sống được hạnh phúc hơn. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho nhân loại trong khi tìm kiếm lương thực trần gian cũng biết tìm kiếm lương thực Lời Chúa để được sống muôn đời.
3. Một số Ki-tô hữu có cuộc sống như những người xa lìa Thiên Chúa. Chúng ta cầu xin cho họ biết từ bỏ A-đam cũ, trở về Nhà Cha trong Mùa Chay này bằng cuộc sống vâng nghe Lời Chúa.
Chủ Tế:Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết rằng quay lưng về Thiên Chúa và quay mặt về thụ tạo là đi vào con đường chết. Xin giúp chúng con tìm thấy hạnh phúc khi sống vâng phục Thiên Chúa. Chúng con cầu xin.
Cuộc sống con người hôm nay đã tiến bộ về nhiều mặt so với các thế kỷ xưa: kỹ thuật đem: MC1-194
Cuộc sống con người hôm nay đã tiến bộ về nhiều mặt so với các thế kỷ xưa: kỹ thuật đem lại tiện nghi cho đời sống, phát triển y khoa khống chế được nhiều bệnh tật, con người còn có thể đặt chân lên những hành tinh xa xôi...Tuy nhiên, nếu hỏi rằng phải chăng khổ đau, tội ác và cái chết đã hoàn toàn biến mất...thì ai cũng thấy được câu trả lời. Không những không giảm bớt mà trên bình diện nào đó, còn tàn ác và khủng khiếp hơn. Chính vì thế, câu hỏi về nguồn gốc đau khổ vẫn còn đó. Các bài Kinh thánh hôm nay vừa mời gọi suy nghĩ về vấn nạn này, vừa giới thiệu hướng giải quyết được kết tụ nơi khuôn mặt Chúa Giêsu, Người Con chí ái của Chúa Cha
Sự bất tuân của Nguyên tổ
Bài đọc I hôm nay trình bày những suy tư về cội nguồn đau khổ và sự ác trong thế gian. Được viết bằng lối văn đầy hình tượng, bài tường thuật này không nhằm mục đích cung cấp giáo án khoa học về nguồn gốc con người, nhưng muốn trao đổi sứ điệp tôn giáo. Có thể quan tâm đến một vài yếu tố căn bản:
1. Mọi sự Thiên Chúa đã đựng nên đều tốt đẹp
Sau khi tường thuật Công trình tạo dựng của Thiên Chúa, tác giả kết luận: "Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra rất là tốt đẹp" (1,31). Như thế, ta không thể nguyền rủa Thiên Chúa vì những khổ đau và cái ác trong cuộc đời. Thiên Chúa chỉ tạo dựông điều tốt lành mà thời, nếu cái ác xuất hiện, đó là do một nguyên nhân khác.
2. Vì tình yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng con người
Thiên Chúa tặng ban cho con người sự sống bằng cách “thổi sinh khí vào lỗ mũi", và trao ban hạnh phúc khi "đặt con người trong Vườn địa đàng". Những hành đông đó biểu lộ tình yêu thương của Thiên Chúa dành cho con người. Ngài muốn chia sẻ chính sự sống và hạnh phúc của Ngài cho họ.
3. Sự bất tuân của con người.
Chính ra, con người phải đáp lại lòng yêu thươông đó bằng niềm tin tưởng mến yêu, nhưng ngược lại, ma quỉ đã thành Công khi thuyết phục được con người nghi ngờ lòng nhân hậu của Thiên Chúa, và muốn tự mình làm Chúa cho mình. Bằng hành động ăn trái cấm, Adam và Eva như thể nói với Thiên Chúa:
-Ngài bảo rằng muốn cha chúng tôi được hạnh phúc, nhưng Ngài lại dấu diếm điều gì đó với chúng tôi, vì sợ chúng tôi sẽ ngang hàng vớii Ngài.
-Chúng tôi từ chối hạnh phúc Ngài ban tặng, vì chúng tôi đủ khôn ngoan và sức mạnh tự kiếm tìm hạnh phúc cho mình.
4. Hình bóng của con Ngài hôm nay
Chúng ta có thể nguyền rủa Adam và Eva đã gieo rắc tai họa cho nhân loại, nhưng ta lại quên không tự xét chính mình.
Thiên Chúa cũng dựng nên ta vì lòng yêu thương. Cha mẹ ta cung cấp “bùn đất” nhưng chính Thiên Chúa là Đấng thổi sinh khí cho “bùn đất" thành người. Hơn thế nữa, trong bí tích Thánh tẩy, Ngài chia sẻ cho ta sự sống trong Thánh Thần, là chính sự sống của Ngài. Ngài cũông đưa ra lời khuyên nhủ đầy tình cha con: vâng phục lề luật Chúa, và đó là nẻo đường bảo vệ hạnh phúc.
Tuy nhiên cũng như nguyên tổ do sự xúi giục của Satan dưới mọi hình thức, chúng ta nghi ngờ lòng nhân hậu của Chúa, muốn tự mình làm Chúa cho mình, và hậu quả là "thấy mình trần truồng" (3,7); bởi vì Satan vốn là "tên dối trá ngay từ thuở ban đầu” (Ga 8,44), không có lời hứa nào của nó có giá trị cả. Đức Gioan Phaolô II đã tóm tắt ý nghĩa của bài tường thuật: "Câu truyện vườn địa đàng làm cho ta nghĩ đến những hậu quả bi thảm của việc con người khước từ cha, những hậu quả đã thành hiển nhiên nơi sự bất ổn nội tâm của con người, cũng như ở chỗ mối hài hòa giữa người nam và người nữ, giữa anh em với nhau đã bị bẻ gẫy" (Sám hối và Hòa giải. số 10)
Sự vâng phục của Chúa Giêsu
Tuy nhiên, “Thiên Chúa trung tín với chương trình vĩnh cửu của Ngài ngay cả khi con người, dưới sự thúc đẩy của Thần dữ và bị sự kiêu ngạo lôi cuốn, đã lạm dụng tự do được ban vốn để yêu thương và quảông đại kiếm tìm điều thiện hảo, thì tội khước từ vâng phục Đức Chúa và là Cha của mình (Gioan Phao lô II). Sự trung tính đó được thể hiện rõ nét nơi Chúa Giêsu.
1. Những cơn cám dỗ
Bài Tin Mừng hôm nay nói đến những cơn cám dỗ Chúa Giêsu đã phải trải qua trong hoaông địa, trước khi bắt đầu cuộc sống Công khai. Bài tường thuật chất chứa nhiều bài học đáng quan tâm:
- Ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu đi ngược lại đường lối của Cha.
Ma quỷ cố gắng thuyết phục Chúa Giêsu thực hiện Công trình cứu độ bằông đường lối khác với đường lối của Chúa Cha:
"Hãy truyền cho những hòn đá này biến thành bánh đi”,nghĩa là hãy dùng quyền năng thần linh mà cung cấp cho con người lương thực vật chất cách dễ dàng nhất, lập tức người ta sẽ theo Ngài.
“Hãy gieo mình xuốông đi”,nghĩa là cứ biểu diễn quyền lực, lập tức người ta sẽ tin theo. Thế nhưông đường lối cứu thế của Cha lại là thiết lập Nước Trời bằng rao giảng, cầu nguyện, đau khổ và chết.
"Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó nếu ông xấp mình bái lạy tôi”, nghĩa là bằng bất cứ giá nào và bất cứ phương thế nào, cứ đem tội sự giàu sang cho con là sẽ thành công.
Trước tất cả những cám dỗ hấp dẫn đó, Chúa Giêsu một mực khước từ, và trung tín đến cùng vì đường lối cứu thế của Chúa Cha. Đồng thời đừng quên rằng những cám dỗ này không chỉ xuất hiện một lần trong hoaông địa rồi thôi, nhưng suốt cuộc sống trần thế và đỉnh cao là trên đồi Canvê, Chúa Giêsu phải đối diện với những cám dỗ đó và Ngài trung tín với Cha cho đến cùng.
2. Nhờ sự vâng phục của Chúa Giêsu, chúng ta được cứu thoát.
Trong bài đọc I, thánh Phaolô quả quyết về những thiện hảo mà Chúa Giêsu mang lại, vượt xa những hậu quả do sự bất tuân của Ađam:
- Nhờ sự vâng phục, Chúa Giêsu giao hòa chúng ta với Cha (Rm 5,10). Nhờ cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá, chúng ta được lãnh ơn tha thứ.
- Chúa Giêsu mang lại cho ta sự sống trong Thánh Thần. Trong Phép Rửa, Ngài "thổi vào lòng ta " Thần khí của Thiên Chúa, Thần khí làm cho ta nên con cái Thiên Chúa.
Kết luận
Trong lịch sử, nếu Mùa Chay là thời gian chuẩn bị cho anh chị em dự tòng lãnh nhận bí tích Thánh tẩy, thì đồng thời cũng là thời gian để Kitô hữuữu làm sống lại ơn bí tích Thánh tẩy mình đã lãnh nhận, tức là ơn làm con cái Thiên Chúa. Trong hành trình trần thế, luôn luôn có những cám dỗ khiến ta không nhìn Thiên Chúa như một người cha yêu thương, nhưng chỉ như đối thủ tranh giành hạnh phúc, tước đoạt tự do và niềm vui của mình. Ẩn bên trong nhiều tội lỗi của chúng ta là cách nhìn như thế về Thiên Chúa.
Trong Chúa nhật đầu Mùa Chay, Hội thánh làm nổi bật khuôn mặt Chúa Giêsu, Người Con chí ái của Cha, đối nghịch với Ađam và Eva; để mời gọi ta làm tội định hướng cho đời sốông đức tin của mình. Ước gì việc chiêm ngắm Chúa Giêsu và đón nhận thánh Thể Người, giúp ta có thể vượt qua những cám dỗ đời thường, để luôn trung tín và vâng phục thiên Chúa. Đó chính là nẻo đường sự sốông đích thực cho con người.
Trước khi sống cuộc đời công khai. Chúa đã hãm mình ăn chay cầu nguyện, để rao truyền: MC1-195
Trước khi sống cuộc đời công khai. Chúa đã hãm mình ăn chay cầu nguyện, để rao truyền nước Thiên Chúa, và nhất là để thi hành công cuộc Cứu chuộc nhân loại.
Một số vị tử đạo của chúng ta, tuy dù đang chịu cảnh gông cùm tra tấn, cũng vẫn còn ăn chay sốt sắng cầu nguyện, chẳng những để xin ơn phúc tử đạo, mà còn đ
Đó là trường hợp năm vị tử đạo: Đaminh Nguyên. Anrê Tường, Vinhsơn Tưởng, Đaminh Mạo, Đaminh Nhi (cùng tử đạo ngày 16.6.1862) làng Ngọc Cục thuộc phủ Xuân Tường, tỉnh Nam Định, chịu ảnh hưởng trực tiếp và rất nặng nề bởi chiếu chỉ “Phân Sáp”. Làng này có hai họ đạo: họ Ngọc Cục (Truyền tin)và họ Phú Yên (Thánh Vinhsơn). Ba ông Anrê Tường, Vinhsơn Tưởng, và Đaminh Nguyễn Đức Mạo thuộc họ Phú Yên.
ông Anrê Tường sinh năm 1812 và ông Vinhsơn Tưởng sinh năm 1814 là hai anh em ruột. Còn ông Mạo sinh năm 1818 giữ chức phó lý, cũng gọi là hương quản lo an ninh trật tự trong làng. Hai ông Nguyên và Nhi thuộc họ Ngọc Cục. Ông Nguyên sinh nam1800, làm chánh trương giáo xứ Lục Thủy, gồm 13 họ đạo nằm trong chính làng xã. Con trai ông là Đaminh Trình (35tuổi) cũng bị bắt và tử đạo sau ông một ngày. Ông Nhi snh năm 1812, là người trẻ nhất trong nhóm, sống về nông nghiệp.
Năm ông đều đã lập gia đình, cùng là những tín hữu nông gia tốt bụng khá giỏi, nên được dân làng kính nể và mộ mến. Riêng ông Đaminh Nguyên nhờ có nghề thuốc, nên có nhiều cơ hội thực thi bác ái ngay cả với những anh em ngoại giáo trong vùng. Không rõ trước khi bị bắt các ông có liên lạc thân mật với nhau không, chỉ biết các ông đã là những đối tượng đầu tiên bị lưu ý, khi chiếu chỉ “Phân Sáp’ được áp dụng trong phủ Xuân Trường.
Năm ông cùng bị bắt ngày 14.9.1861. Quan Phủ Xuân Trường ra lệnh các ông đạp lên Thánh giá. Nhưng các ông đã cương quyết khước từ hành vi chối đạo, xúc phạm đến Chúa. Quan phủ giận dữ đày các ông sang làng Bạch Cốc, huyện Vũ Bản (Nam Định). Bảy tháng rưỡi bị giam cầm, cổ mang gông, chân tay xiềng xích, bị đánh đòn nhiều lần, bị khắc tự, nhưng năm vị anh hùng vẫn trung thành với đạo Thánh Chúa. Hàng ngày các ông quây quần bên nhau cầu nguyện, đọc kinh Mân Côi. Do các ông đã tìm được nghị lực và can đảm khắc phục mọi gian nan thử thách. Các ông còn giúp nhau sám hối những lỗi lầm xưa và tự nguyện hãm mình bằng chay tịnh mỗi tuần ba ngày, để đón chờ hồng phúc tử đạo.
Ngày 15.6.1862, tức một ngày trước bị đem xử, một lần nữa quan hỉu năm ông khóa quá, các ông vẫn từ chối. Quan liền sai lính trói cả năm người đem phơi nắng suốt ngày không cho ăn uống. Sáng hôm sau quan đổi chiến thuật, lấy lời ngon ngọt dụ dỗ các ông chối đạo. Mặc dù đói, khát và ngất xỉu, ông Đaminh Mạo đại diện anh em khảng khái nói: “Sao quan lại cứ dụ dỗ chúng tôi như vậy? chắc quan tưởng chúng tôi là con nít khiếp sợ đau đớn, nên quan khuyến dụ chúng tôi xúc phạm đến Chúa chúng tôi? Nếu chà đạp Thánh giá để khỏi bị bắt và bị đánh đập, thì chúng tôi phải làm ngay ở làng quê chúng tôi rồi, dại gì phải trải qua biết bao cực khổ nơi đây. Bây giờ quan cứ làm theo ý quan, chúng tôi không bao giờ bỏ đạo”.
Trước câu trả lời trên, quan tức giận, truyền lệnh xử tử ngay tức khắc năm vị. Lính dẫn các ông ra pháp trường Bạch Cốc. Các ông hết sức vui mừng, phó thác linh hồn trong tay Chúa, cầu xin người ban cho đủ sức mạnh chiến thắng cơn thử thách cuối cùng. Quả thậ, các ông đã tỏ ra can đảm phi thường. Ngoại trừ ông Đaminh Nhi, bốn vị đều yêu cầu lý hình, thay vì chém một nhát, thì lại xin họ chém ba nhát để tỏ lòng tôn kính Chúa Ba Ngôi. Thi thể năm vị Thánh tử đạo được gia đình và các bạn hữu chôn ngay tại pháp trường, đến năm sau mới cải táng về nhà thờ họ quê làng.
Hắn giết một cảnh sát viên. Bây giờ hắn phải trả giá bằng hình phạt. Người ta cột buộc hắn vào: MC1-196
Hắn giết một cảnh sát viên. Bây giờ hắn phải trả giá bằng hình phạt. Người ta cột buộc hắn vào ghế điện trong nhà tù Sing Sing. Người ta buộc những miếng kim khí vào cái vòng trên đầu hắn và bắp chân hắn. Một lát nữa, dòng điện mạnh sẽ chạy qua thân xác hắn, đủ gây nên sự mất ý thức ngay lập tức và chết luôn. Viên chức phụ trách hỏi tội nhân bị kết án xem hắn có muốn nói gì cuối cùng không ? Hắn nói buột ra với một giọng điệu đau đớn cực độ: “Đây, tất cả đã khởi đầu khi tôi ăn cắp đồng năm xu ở túi của mẹ tôi. Rồi tôi ăn cắp hai đồng năm xu. Tôi đã bắt dầu ăn cắp dồ vật ở trường học, ở tiêm tạp hóa, tiệm thuốc. Hai đứa bạn và tôi bắt đầu tập luyện, món kiếm được càng ngày càng nhiều. Chúng tôi quyết định cướp ngân hàng, và lần đó tôi đã bắn viên cảnh sát. Đó, tất cả đã bắt đầu với một đồng năm xu.
Đó là câu chuyện thường của tội ác. Đó là câu chuyện thường của lỗi lầm, nó thường thường khởi sự bằng một điều nhỏ mọn – một đồng năm xu, một điếu thuốc, một ly rượu, một tư tưởng không tốt, một ước muốn dơ bẩn hay sự tò mò, đánh người nhỏ tuổi, không vâng lời trong những điều nhỏ mọn. Khi không được ngăn chận, nó sẽ dẫm tới vụ ăn cướp. Lạm dụng m
a túy, nghiện ngập say sưa, trụy lạc đủ loại, bạo lực hành hung.
Tin Mừng hôm nay nói cho biết Chúa Giêsu kháng cự ba cám dỗ lớn lao do chính ma quỉ bày ra: khoái lạc, vinh quang và giàu có. Để đánh lạc hướng sứ mạng cứu thế của Chúa Giêsu, ma quỉ xúi giục Chúa khiến những hòn đá biế thành bánh. Để tìm vinh dự được các thiên thần gìn giữ, ma quỉ đề nghị Chúa Giêsu gieo mình xuống từ nóc đền thờ. Để được các nước thế gian, ma quỉ gợi ý Đấng vô cùng tốt lành sấp mình thờ lạy kẻ hoàn toàn độc dữ. Chúa Giêsu đã kháng cự cả ba cám dỗ.
Đôi khi chúng ta cũng phải đương đầu với những cám dỗ lớn lao, nhưng thường ra, chúng ta gặp những cám dỗ nhỏ hơn, nhất là lúc khởi đầu. Bạn hãy kháng cự ngay lúc khởi sự khiêu gợi tìm kiếm những thú vui, vinh quang và sự giàu có, tội lỗi. Và bạn sẽ được tăng sức chống lại những tấn công sau này của ma quỉ.
Cũng thế, nếu bạn muốn làm điều gì lớn lao cho Thiên Chúa, bạn hãy khởi sự từ điều nhỏ mọn – một tư tưởng, một ước muốn, một lời cầu nguyện. Chẳng hạn: “Lạy Chúa Giêsu, con muốn yêu mến Chúa hơn”. Bạn hãy nhắc lại những lời đó thường xuyên. Bạn hãy tìm cách nói hay làm những điều tốt lành. Bạn hãy giúp đỡ chút ít cho người đang túng thiếu. Bạn hạy cố gắng tham dự thánh lễ mỗi ngày. Mỗi ngày hãy dành mấy phút để đọc Tin Mừng. Bạn hãy dừng tâm trí tìm ra phương thế để nên giống Chúa Giêsu. Rồi bắt đầu bằng việc nhỏ mọn nhưng rõ rệt. Rồi bạn có thể nói: “Tôi đã làm được điều đó hôm qua. Tôi có thể làm hôm nay. Tôi sẽ còn có thể làm ngày mai”.
Mùa chay là thời gian thuận lợi để bắt đầu chương trình của chúng ta, vì Chúa Giêsu và kháng cự trong quỉ. Bài đọc I hôm nay nói cho chúng ta biết Adam và Evà đã nghe lời ma quỉ. Bạn hãy nhìn vào những hậu quả. Bài đọc II nói với chúng ta: “Bởi tội không vâng lời của một người (Adam) mà muôn người trở thành tội nhân thế nào, thì do Đức vâng lời của một người (Chúa Kitô) mà muôn người trở thành kẻ công chính cũng như thế”. Trước những cám dỗ, nhỏ cũng như lớn, bạn hãy lặp đi lặp lại lời Chúa Kitô: “Quỷ satan kia, xéo đi !”
Tất cả chúng ta muốn đứng về phía người chiến thắng. Chúa Kitô luôn luôn chiến thắng trong trận chiến chống satan, như Tin Mừng hôm nay tường thuật. Ngài đã chiến thắng vào lễ phục sinh đầu tiên. Bạn hãy đứng về phía Ngài trong Mùa chay, và bạn sẽ chiến thắng với Ngài vào lễ phục sinh.
Trong một cuộc triển tãm các tác phẩm hội hoạ tôn giáo kia, một bức tranh trắng đen được: MC1-197
Trong một cuộc triển tãm các tác phẩm hội hoạ tôn giáo kia, một bức tranh trắng đen được đem trình bày bên các tác phẩm màu khác. Sử dụng toàn màu đen trên nền trắng, họa sĩ đã dùng những nét chấm phá rất đơn sơ, vừa đủ để diễn tả thân mình Chúa Giêsu chết treo trên Thập giá. Tọc mạch với cách trình bày độc đáo của họa sĩ, tôi dừng lại thưởng thức bức tranh. Sau khi nhìn kỹ hồi lâu, tôi mới khám phá ra ở vành bìa bức tranh cũng bằng cách sử dụng ngọn bút chấm phá đơn sơ, hoạ sĩ vẽ những ngón tay trỏ chỉ vào Thập giá như muốn đặt ra những nghi vấn. Rồi có những bàn tay khác xoè ra và hướng lên như có vẻ thương hại hay van xin, cũng có những bàn tay nắm chặt lại giơ lên cao với đầy vẻ thách thức.
Vậy, nhờ những nét vẽ đơn sơ ấy, tôi hiểu ra tác giả mượn cử chỉ của bàn tay để diễn ta những thái độ khác nhau của con người trải qua mọi thời đại đối với cái chết tang thương của Đức Giêsu trên Thập giá và đi với con người của Ngài. Nhìn những bàn tay nắm chặt giơ lên cao, hình như tôi nghe văng vẳng bên tai giọng nói chế diễu của các trưởng giáo thánh đô của Chúa Giêsu trong lúc Ngài trút hơi thở cuối cùng trên Thập giá: "A, ông phá đền thờ rồi xây lại trong ba ngày ư? Nếu ông là Con Thiên Chúa hãy xuống khỏi Thập giá xem nào?".
Anh chị em thân mến!
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cũng vừa nghe tặp đi tặp lại câu: "Nếu ông là Con Thiên Chúa” trong ba tần Ngài bị cám dỗ trong thời gian Ngài vào hoang địa để đề ra chương trình cho công cuộc rao giảng Tin Mừng. Trong suốt thời gian chuẩn bị này, Chúa Giêsu luôn bị cám dỗ nên thự hiện một chương trình rao giảng và cứu rỗi nhân loại với đầy uy quyền của Con Thiên Chúa, như hoá bánh ra nhiều cho dân chúng ăn no nê để thực hành câu: "Có thực mới vực được đạo”. Hãy làm những dấu lạ ngoạn mục trên trời để thu hút sự chú ý của dân chúng, hoặc tôn thờ của cải vật chất và dùng nó làm mồi để mua chuộc bộ hạ, để xây dựng quyền lực và danh vọng.
Những cơn cám dỗ này không chỉ xảy ra trong thời gian Chúa Giêsu chay tịnh nơi hang địa, nhưng còn xảy ra trong suốt thời gian hoạt động công khai của Ngài. Những cơn cám dỗ ấy vẫn cứ kéo dài triền Mtên và đôi khi còn phát xuất từ chính các môn đệ của Ngài. Thí dụ có tần khi dân chúng của một làng kia không muốn đón nhận Chúa Giêsu, các môn đệ đòi đem lửa từ trời xuống để thiêu đốt họ. Hay một tần khác, sau khi Chúa Giêsu tiên báo về cuộc thương khó mà Ngài phải gánh chịu, Phêrô kéo Ngài ra khỏi đám đông để ngăn cản Ngài. Bấy giờ Chúa Giêsu nghiêm giọng quở trách Phêrô: "Xéo đi xa khỏi Ta. Hỡi Sa tan, vì ý tưởng của ngươi không phải là ý tưởng của Thiên Chúa, mà là ý tưởng của loài người ".
Mặt khác, có khi những cám dỗ đem đến cho Chúa Giêsu từ dân chúng, vì họ muốn tôn Chúa Giêsu lên làm vua theo ý nghĩa trần thế. Nhưng không, Chúa Giêsu đã chiến thắng trong lúc khởi sự tập chương trình và tìm phương thế để rao giảng Tin Mừng, cũng như Ngài đã thành công chống lại cơn cám dỗ: "Nếu ông là Con Thiên Chúa ", đến giây phút cuối cùng, Ngài đã không làm các dấu lạ để thu hút dân chúng, để thị uy mà đạt được danh vọng.
Ngược lại, Đức Giêsu đã chọn con đường phục vụ trong tinh thần khiêm nhu và hy sinh để đóng trọn vai trò "người tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa". Qua đó Ngài thực hiện đúng chương trình và phương thế cứu rỗi nhân loại thể theo thánh ý của Thiên Chúa Cha, và Ngài đã đi trọn con đường này đến bước cuối cùng trên ngọn đồi Canvê, chấp nhận chết đau thương và xỉ nhục trên Thập giá để cứu rỗi loài người.
Anh chị em thân mến!
Bài học nào chúng ta có thể rút ra qua bài Tin Mừng hôm nay và qua cuộc sống gương mẫu của Chúa Giêsu? Trước tiên, vào Chúa Nhật I Mùa Chay mỗi năm, bài Tin Mừng về cơn cám dỗ của Chúa Giêsu trong hoang địa mời gọi chúng ta đi vào sa mạc của cuộc đời mình, để suy nghĩ về những cơn cám dỗ chúng ta đang phải chạm trán trong cuộc sống hằng ngày, như quá lo tắng cho Mtếng cơm manh áo, hãy mất lòng tin nơi Thiên Chúa, vì Ngài không nhận lời chúng ta cầu xin, hoặc công cuộc làm ăn của chúng ta có liêm chính công bằng không? Những hành động nào đang làm mất bầu khí hoà bình trong gia đình và ngoài thôn xóm? Nếp sống của chúng ta có xứng đáng với danh hiệu Kitô hữu hay không? Chúng ta phải cải chừa những tính hư tật xấu nào và phải luyện tập những nhân đức nào? Đó là những việc làm mà chúng ta cần phải thực hiện trong Mùa Chay thánh.
Kế đó, khởi đầu của Mùa Chay, chúng ta hãy quyết tâm tận dụng trọn thời gian để ăn năn thống hối, để canh tân cuộc sống và thự sự trở thành một con người mới, sống một cuộc sống mới khi cùng cộng đoàn cử hành biến cố Phục Sinh của Chúa Giêsu.
Nhưng thưa anh chị em thân mến!
Đổi mới cuộc sống, cải thiện cuộc đời của mình chỉ là phương tiện chứ chưa phải là mục đícho Mục đích đời sống Kitô hữu của chúng ta là tiếp tục sống lại đời sống của Chúa Kitô với nhau và cho nhau. Vì thế, qua bài Tin Mừng hôm nay, một tần nữa chúng ta thêm xác tín rằng, Chúa Giêsu đã không chọn sống và hoạt động như những người có uy quyền giàu sang và danh vọng, nhưng Ngài đã chọn con đường phục vụ trong khiêm nhu và hy sinh. Sự phục vụ và hy sinh ấy đã dẫn Ngài đến ngọn đồi Canvê để chết tất tưởi tang thương trên Thập giá vì yêu thương nhân loại.
Vậy thái độ của chúng ta đối với cuộc sống và cái chết này của Chúa Giêsu như thế nào? Bàn tay chúng ta hướng về Thập giá mang hình thức nào? Chỉ trỏ để nghi vấn, đặt vấn đề hay nắm chặt lại để thách thức, hoặc giơ cao lên để mở rộng bàn tay cầu khẩn van xin Ngài. Đó là những câu hỏi mà mỗi người chúng ta hãy trả lời cho mình, để rồi từ đó rút ra bài học thiết thực cho cuộc sống của mình.
Khi Goan Tẩy giả xuất hiện, Chúa Giêsu biết rằng giờ của Ngài đã điểm để bắt tay vào việc: MC1-198
Khi Goan Tẩy giả xuất hiện, Chúa Giêsu biết rằng giờ của Ngài đã điểm để bắt tay vào việc. Matthêu cho thấy Chúa Giêsu tự đồng hóa mình với toàn dân trong khát vọng chưa từng có để tìm kiếm Thiên Chúa . Trong giờ phút đó ông chỉ cho ta thấy Chúa Giêsu nhận thức rằng Ngài chính là Đấng được Thiên Chúa chọn lựa, nhưng con đường đi tới chiến thắng phải là con đường thập giá.
Vấn đề cấp bách của một người có mạc khải là làm sao biến mạc khải đó thành sự thật, phải tìm cách thực hiện giấc mơ. Đó chính là vấn đề Chúa Giêsu đang phải đối diện. Ngài đến để dẫn đưa con người về với Thiên Chúa . Ngài làm điều đó bằng cách nào? Liệu Ngài sẽ dùng phương pháp của một kẻ đi chinh phục bằng bạo lực hay Ngài chấp nhận phương pháp của tình yêu hi sinh và nhẫn nhục? Đó là vấn đề Chúa Giêsu phải đương đầu trong khi Ngài bị cám dỗ. Công tác đã được giao và Ngài phải lựa chọn phương pháp nào để hoàn thành công tác Thiên Chúa trao cho.
Một điều chúng ta phải cẩn thận chú ý ngay từ lúc bắt đầu nghiên cứu những cám dỗ Chúa Giêsu chịu là ý nghĩa của chữ "cám dỗ". Thông thường cám dỗ có nghĩa xấu, bao giờ cũng bao hàm ý xúi giục làm điều quấy, tìm cách lôi cuốn vào đường tà. Nhưng trong nguyên nghĩa "peirazein" có nghĩa là thử nghiệm (khác hẳn với cám dỗ).
Một trong những truyện tích vĩ đại nhất của Cựu Ước là truyện Abraham suýt phải dâng Isaac là con trai độc nhất làm của lễ, "Khi mọi việc kia đã xong thì Thiên Chúa thử Abraham" (St 22,1). Rõ ràng chữ thử ở đây không có nghĩa là dụ dỗ làm điều ác. Cũng không thể tưởng tượng Thiên Chúa là tác nhân trong việc biến một người thành tội nhân. Đã đến lúc cho bài trắc nghiệm cuối cùng về lòng trung thành của Abraham. Như một thanh kim loại cần phải thử rèn sức chịu đựng thật cao trước khi xử dụng nó vào việc hữu ích, con người cũng phải được thử nghiệm trước khi Thiên Chúa có thể dùng. Người Do thái có câu nói: "Hỡi Đấng Thánh, nguyện danh Ngài được chúc tụng, vì Chúa không hề nâng một người nào lên chức vị cao trọng cho đến chừng Ngài đã tra xét và thử nghiệm người ấy và nếu người ấy đứng nổi trong cơn cám dỗ, lúc ấy Ngài sẽ nâng người ấy lên địa vị cao trọng".
Đây là một chân lý lớn và cao quí. Điều chúng ta gọi là cám dỗ không có mục đích khiến ta phạm tội mà để ta vược thắng tội lỗi. Nó không có mục đích làm ta xấu, mà làm chúng ta trở nên tốt, không nhắm làm ta suy yếu mà để khi ta ra khỏi cơn thử nghiệm sẽ trở nên mạnh mẽ hơn, tốt hơn và tinh sạch hơn. Chúng ta nên nhớ sự cám dỗ không phải là một hình phạt mà là vinh hiển, nên xem cả biến cố và kinh nghiệm này không phải là sự cám dỗ mà là cuộc thử nghiệm của Chúa Giêsu .
Cần lưu ý là cuộc thử nghiệm đã xảy ra trong sa mạc nằm trải dài giữa Giêrusalem và Biển Chết. Nó trải rộng trên một khu dài 56cs và rộng 24cs. Dải đất này toàn là cát vàng, đá vôi bể vụn và đá sỏi rải rác. Đó là một dải đất quanh co mà các dãy đồi chạy ra khắp hướng như thể bị xoắn lại. Các ngọn đồi giống như những đống đất, đá vôi thì lồi lên lõm xuống, những tảng đá trơ trụi và lởm chởm. Đi bộ hoặc đi ngựa, người ta cảm thấy như đất bị rỗng bên dưới. Nó lấp lánh, rực rỡ và hực nóng như một lò lửa lớn. Nó chạy thẳng ra hướng Biển Chết và tận cùng có một chỗ trũng thấp xuống chừng 360 mét toàn đá vôi, với những dốc đứng và thung lũng sát bên vách núi cho tới Biển Chết. Đó là nơi Chúa Giêsu thấy mình trơ trọi hơn bất cứ nơi nào khác trong toàn xứ Palestine . Chúa Giêsu vào sa mạc để ở một mình với Thiên Chúa , Đấng đã giao công tác cho Ngài. Ngài phải sắp đặt mọi việc trước khi khởi công, Ngài phải ở một mình. Nhiều khi chúng ta bước đi sai lệch vì không chịu ở một mình. Có những lúc không lời khuyên của ai khác ích lợi cho ta cả. Có những lúc ta phải dừng lại để suy nghĩ. Chúng ta phạm nhiều lầm lỗi có thể chỉ vì không để dành nhiều thời giờ ở riêng với Thiên Chúa .
Có một số sự việc khác cần lưu ý trước khi chúng ta đi vào chi tiết câu truyện cám dỗ. Dường như cả ba tác giả Phúc Âm đều nhấn mạnh thời điểm cám dỗ là liền ngay lễ rửa. Maccô chép: "tức thì, Thánh Thần thúc giục Chúa Giêsu vào sa mạc" (1,12). Một trong những sự thật về đời sống là sau mỗi thời giờ trọng đại là đến thời gian để phản ứng. Ở những khoảng thời gian phản ứng như thế, nguy hiểm lúc nào cũng chờ sẵn. Đó là điều đã xảy ra cho tiên tri Êlia. Với lòng can đảm anh hùng, Êlia một mình đương đầu và chiến thắng các tiên tri Baan trên núi Carmel. Đó là giờ vinh quang nhất của lòng can đảm và sự làm chứng của Êlia. Nhưng cuộc tàn sát các tiên tri tà giáo đã chọc giận hoàng hậu gian ác Giêsaben, bà hăm dọa sẽ giết Êlia. Vì thế Êlia sợ hãi chạy đi để cứu mạng mình... Một người từng dũng mãnh chống lại những người đối địch nay kinh hoàng chạy trốn cứu mạng mình. Giờ phút phản ứng đã đến với ông.
Dường như sự sống có một qui luật là ngay sau khi sức mạnh của chúng ta lên đến cao điểm thì nó bổ nhào xuống chỗ thấp nhất. Kẻ cám dỗ cẩn thận khôn khéo, tài tình, lựa chọn giờ tấn công Chúa Giêsu , nhưng Ngài đã chiến thắng. Chúng ta phải đặc biệt giữ mình ở những giờ vinh quang, vì đó chính là lúc chúng ta đứng trước hiểm họa của vực thẳm.
Chúng ta không được phép nghĩ rằng trong một cuộc chiến Chúa Giêsu đã thắng kẻ cám dỗ là sẽ thắng mãi mãi và nó không bao giờ còn trở lại với Ngài nữa. Kẻ cám dỗ đã đến một lần nữa với Chúa Giêsu tại thành Xêdarê Philipphê khi Phêrô cố khuyên Chúa đừng đi đường thập giá và Ngài đã nói với Phêrô chính những lời đã phán với quỷ trong sa mạc: "Satan, hãy xéo đi" Mt 16,23). Vào cuối đời Chúa Giêsu đã có thể nói với các môn đệ rằng: "Các ngươi đã bằng lòng theo Ta trong mọi thử thách của Ta" (Lc 22,28). Và trong lịch sử cũng chưa bao giờ có cuộc chiến đấu với sự cám dỗ nào dữ dội như cuộc chiến đấu tại vườn Cây Dầu, khi kẻ cám dỗ tìm cách khiến Chúa từ chối Thập giá.
"Luôn luôn cảnh giác là giá của tự do". Trong cuộc chiến của người kitô hữu không bao giờ có sự thả lỏng. Đôi khi có người nghĩ rằng đã tới một giai đoạn không còn sự cám dỗ nữa, giai đoạn mà quyền lực của kẻ cám dỗ vĩnh viễn bị bẻ gãy. Chúa Giêsu chẳng bao giờ đạt đến giai đoạn ấy, từ đầu đến cuối lúc nào Chúa cũng phải chiến đấu và chiến thắng. Đó là lý do vì sao Ngài có thể giúp chúng ta.
Điểm nổi bật trong truyện tích này là sự cám dỗ chỉ đến với một người sở hữu và biết mình sở hữu những quyền năng thật đặc biệt. Có người mô tả sự cám dỗ là "vấn đề hành xử các quyền năng đó". Sự cám dỗ của Chúa Giêsu là sự cám dỗ chỉ đến với người biết mình có thể làm những sự việc lạ lùng. Bao giờ ta cũng phải nhớ rằng chúng ta bị cám dỗ qua những ân tứ thiên phú. Người có duyên sẽ bị cám dỗ lợi dụng sức quyến rũ đó để làm mọi việc, bất kể hậu quả. Người có tài ăn nói sẽ bị cám dỗ dùng tài năng hùng biện để sản xuất những lời xin lỗi trơn tru, biện minh cho cách cư xử của mình. Người giàu tưởng tượng và mẫn cảm sẽ chịu những cơn cám dỗ khổ sở mà một người trầm tĩnh hơn chẳng bao giờ kinh nghiệm. Người có khả năng trí tuệ sẽ bị cám dỗ xử dụng khả năng đó cho chính mình chứ không cho người khác, để trở nên chủ nhân chứ không làm đầy tớ người đời. Khía cạnh nghiêm trọng của cám dỗ là nơi nào chúng ta cảm thấy mạnh mẽ nhất, đó là chỗ chúng ta phải luôn canh chừng.
Không ai đọc câu truyện này lại không nhớ rằng nguồn cung cấp duy nhất mọi dữ kiện này phải do từ chính Chúa. Trong sa mạc Ngài ở một mình, trong cơn chiến đấu không có ai ở bên cạnh Ngài, chúng ta được biết là do chính Chúa Giêsu kể cho các môn đệ của Ngài. Chính Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết tiểu sử thuộc linh của Ngài. Đến với truyện tích này chúng ta đến với lòng cung kính tuyệt đối, vì qua đó Chúa Giêsu đã thổ lộ tất cả sâu kín trong lòng và trong linh hồn của Ngài . Ngài đã cho loài người biết kinh nghiệm của chính Ngài. Đây là câu truyện thánh hơn hết vì qua đó Chúa Giêsu cũng đang phán rằng Ngài có thể giúp đỡ những người bị cám dỗ. Từ những cuộc chiến đấu cá nhân, Ngài đã vén màn để giúp chúng ta trong chính cuộc chiến đấu của mình.
Kẻ cám dỗ phát động cuộc tấn công bằng ba con đường, và đường nào cũng phải đối đầu không thể tránh né được.
1. Cám dỗ hoá đá thành bánh: sa mạc đầy những miếng đá vôi tròn giống hệt những ổ bánh nhỏ, chính những đá đó cũng là một gợi ý cám dỗ Chúa Giêsu rồi. Đây là sự cám dỗ hai mặt: cám dỗ Chúa Giêsu xử dụng quyền năng cách ích kỷ cho chính Ngài. Nhưng đó là điều Chúa Giêsu luôn từ chối. Bao giờ cũng có sự cám dỗ xử dụng những quyền năng Thiên Chúa ban cho mình cách ích kỷ. Chúa ban cho mỗi người một ân tứ và mỗi người có thể tự hỏi một trong hai câu: "Tôi có thể xử dụng ân tứ này làm gì cho mình" hoặc "Tôi có thể làm gì cho người khác với ân tứ này". Loại cám dỗ này có thể thấy trong một thí dụ đơn giản: một người có giọng hát hay đã xử dụng để kiếm tiền và người ấy từ chối không hát trừ phi được trả tiền. Không có lý do nào cho thấy ca sĩ này không nên xử dụng nó để kiếm tiền, nhưng có đủ lý do vì sao không bao giờ người ấy nên dùng ân tứ này để chỉ làm một việc duy nhất là kiếm tiền. Không ai là không bị cám dỗ xử dụng các ân tứ Chúa ban một cách ích kỷ.
Nhưng sự cám dỗ này còn có một mặt khác. Chúa Giêsu là Đấng được xức dầu của Thiên Chúa , Ngài biết điều đó. Trong sa mạc Ngài đối diện với sự chọn lựa một phương pháp, qua đó Ngài có thể đưa dắt con người trở về cùng Thiên Chúa . Ngài sẽ dùng phương pháp nào để thực hiện công tác Thiên Chúa trao. Ngài sẽ làm thế nào để biến mạc khải thành thực tế và ước mơ thành sự thực. Cách chắc chắn có thể thuyết phục con người đi theo Ngài là cho họ bánh ăn, cho họ nhu cầu vật chất. Lịch sử không từng chứng minh việc đó hay sao? Chúa Trời chẳng từng ban bánh manna cho dân Is-ra-en trong sa mạc sao? Nếu Chúa Giêsu muốn ban bánh thì Ngài phải chứng minh bằng việc hóa đá thành bánh. Và nếu làm như vậy là vướng vào hai điều sai lầm: trước hết đó là hối lộ để người ta theo Ngài, để cầu lợi trong khi điều Ngài ban cho họ là thập giá. Ngài kêu gọi con người vào cuộc đời dâng hiến chứ không phải lãnh nhận. Hối lộ bằng vật chất là phủ nhận điều Ngài dạy dỗ, là làm hỏng chính mục tiêu của Ngài. Thứ hai, nó cắt bỏ triệu chứng mà không đả động gì đến căn bệnh cả. Con người đói. Vấn đề là tại sao họ đói? Không phải là vì sự điên dại, biếng nhác và cẩu thả của họ sao? Đường lối đúng đắn để chữa trị nạn đói là loại bỏ duyên cớ khiến con người đói . Những duyên cớ này nằm trong linh hồn người ta. Trên hết là sự đói khát của tâm hồn không thể thỏa mãn được bằng vật chất. Vì vậy Chúa Giêsu trả lời kẻ cám dỗ bằng chính lời tóm tắt cả bài học Thiên Chúa dạy dân Ngài trong sa mạc: "Loài người sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà thôi, nhưng loài người sống nhờ mọi lời bởi miệng Chúa mà ra" (Đnl 8,3). Chỉ có con đường duy nhất dẫn đến thỏa lòng thật, đó là con đường học tập, lệ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa .
2. Ma quỷ bố trí đợt tấn công khác: Ma quỷ đem Chúa Giêsu lên nóc đền thờ. Điều này có một trong hai nghĩa sau đây:
- Đền thờ xây trên đỉnh núi Sion, đỉnh núi được san bằng thành một cao nguyên và toàn thể những tòa nhà đều nằm trên đó. Chỗ góc nơi hiên cửa Salômôn và hiên cửa hoàng gia gặp nhau có một dốc thẳng đứng chừng 135 mét xuống thung lũng Xêrôn bên dưới. Sao Chúa Giêsu không đứng trên đỉnh cao đó nhảy xuống mà không hề hấn gì khiến người ta kinh ngạc ùa theo một người đã làm được một việc lạ như vậy?
Trên chóp mái đền thờ có một chỗ, mỗi buổi sáng có một thầy tư tế đứng đó, cầm kèn chờ bình minh đầu tiên ló rạng trên những ngọn đồi Hêprôn, thì thổi lên báo hiệu giờ dâng lễ sáng đã tới. Sao Chúa Giêsu không đứng đó nhảy xuống sân đền thờ làm cho người ta kinh ngạc mà đi theo Ngài? Há chẳng có lời hứa rằng: "Các thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá sao?" (Tv 90,11). Đây chính là các phương pháp mà các "cứu thế "giả ở mọi thời đại thường hứa. Thêuđa đã dẫn đoàn dân ra và hứa sẽ rẽ nước sông bằng một lời phán. Người Ai cập nổi danh (Cv 21,38) đã hứa sẽ dùng một lời làm sập tường thành Giêrusalem. Simon Magus hứa bay trên không, nhưng đã chết khi làm thử điều đó. Những người giả mạo này đã hứa làm những việc lạ lùng gây kích động và họ không thực hiện được. Còn Chúa Giêsu có thể làm được điều Ngài hứa nhưng sao Ngài lại không làm?
Có hai lý do chính vì sao Chúa Giêsu không chấp nhận đường lối hành động đó. Trước hết, người nào tìm cách thu hút người khác về với mình bằng cách tạo kích động cho họ, là chấp nhận một đường lối không có tương lai. Lý do rất đơn giản, để duy trì quyền lực của mình, người ấy phải càng ngày càng tạo ra những mối kích động lớn hơn, phải có những phép màu lớn lao hơn. Điều lạ của năm nay đến năm sau sẽ trở nên tầm thường. Có thể đoán trước sự thất bại của một Phúc Âm lập trên kích động. Thứ hai, đó không phải là cách xử dụng quyền năng Thiên Chúa , "ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi" (Đnl 6,16) Chúa Giêsu muốn nói: thử Thiên Chúa là một hành động không đúng, cứ lao mình vào chỗ hiểm nguy, cẩu thả, liều lĩnh rồi trông chờ Chúa giải cứu là một việc sai lầm. Chúa Trời mong một người liều mình để giữ lòng trung tín với Ngài, nhưng không mong một người liều mình để tăng thêm uy tín riêng. Đức tin tùy thuộc vào các phép lạ không phải là đức tin. Đức tin tùy thuộc vào các cảm xúc cũng không phải là đức tin thật mà chỉ là nghi ngờ, đi tìm bằng cớ và tìm không đúng chỗ. Quyền năng cứu vớt không để chơi hoặc thí nghiệm mà là quyền năng chúng ta phải yên lặng tin cậy trong đời sống hằng ngày. Chúa Giêsu từ chối con đường gây cảm xúc vì Ngài biết đó là con đường gây thất bại, vì trông chờ cảm xúc không phải là tin cậy mà là nghi ngờ Thiên Chúa
3. Kẻ cám dỗ thử đến phương thế tấn công thứ ba: Đó là thế giới Chúa Giêsu đến cứu vớt, và hình ảnh thế giới đó hiện lên trong tâm trí Ngài. Kẻ cám dỗ nói: "Hãy quì xuống thờ lạy ta, ta sẽ cho ngươi tất cả các nước thế gian". Thiên Chúa chẳng từng phán với Đấng Ngài lựa chọn rằng: "Con cứ xin rồi Cha ban tặng muôn dân nước làm sản nghiệp riêng, toàn cõi đất làm phần lãnh địa" (Tv 2,8) hay sao?
Điều kẻ cám dỗ muốn nói là: hãy thỏa hiệp. Hãy đến ký kết với ta, đừng đòi hỏi điều cao xa quá, hãy nhắm mắt làm ngơ đối với điều ác thì toàn dân sẽ chạy theo ngươi”. Đó là sự cám dỗ điều đình với thế gian thay vì trình bày cách không khoan nhượng những đòi hỏi của Thiên Chúa cho thế gian. Ấy là sự cám dỗ cố gắng tiến lên bằng cách thoái lui, cố gắng biến cải thế gian bằng cách đồng hóa với thế gian. Chúa Giêsu đáp:"Ngươi phải kính sợ Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng sự một mình Ngài mà thôi" (Đnl 6,13) Chúa Giêsu đã khẳng định rằng chúng ta không thể đánh bại sự ác bằng cách thỏa hiệp với điều ác, Ngài đã thiết định tính chất bất thỏa hiệp của đức tin Kitô. Kitô giáo không thể khom xuống ngang với tiêu chuẩn thế gian, trái lại, thế gian phải được nâng lên ngang với tiêu chuẩn Kitô.
Vậy, Chúa Giêsu đã quyết định, Ngài quyết định không bao giờ hối lộ để khiến người đời theo Ngài, không bao giờ dùng con đường gây xúc động, Ngài quyết định không có sự tương nhượng trong sứ điệp Ngài rao giảng và trong đức tin Ngài đòi hỏi. Sự lựa chọn đó của Ngài có nghĩa là chọn lựa thập giá, và thập giá chắc chắn là con đường dẫn đến đắc thắng cuối cùng.
Phong Cát Tư Kha (Paul Kostka) và Thành Cát Tư Kha (Stanislaus Kostka) là hai anh em ruột: MC1-199
Phong Cát Tư Kha (Paul Kostka) và Thành Cát Tư Kha (Stanislaus Kostka) là hai anh em ruột. Hai anh em chỉ cách nhau một tuổi: anh sinh 1549, em 1550. Thế là công tước Giang Cát Tư Kha (John Kostka) được bảo đảm có con trai nối dòng. Hai ông bà lấy nhau năm 1548. Ông vừa là nghị sĩ, vừa là cố vấn triều đình Ba Lan.
Ở thế kỷ 16 thời phong kiến tại Ba Lan, hễ có dòng máu quí tộc là có quyền và có tiền, để sống sung sướng trong nhung lụa. Thành Cát Tư Kha là em, lớn lên như bông sen “gần bùn mà vẫn không hôi tanh mùi bùn”, nên được bố mẹ gọi là thiên thần ngay từ hồi còn nhỏ. Giữa bầu khí phóng túng của những bữa tiệc được tổ chức quá thường xuyên tại lâu đài Đông Kinh (Rostkov) của gia đình, Thành Cát Tư Kha năng tự nhủ: Tôi sinh ra để sống cho những gì cao quí hơn. Sau này, khi người ta đề cao dòng máu công tước của anh, phản ứng tự nhiên của anh là ở thế gian này mọi sự đều nhỏ bé cả.
Phải chăng bối cảnh giầu sang của dòng họ Cát Tư Kha vẫn tháp tùng hai anh em ruột này khi họ được gởi đi học ở Vienna? Khi ấy anh 15 tuổi, em 14. Họ luôn có hai người theo hầu, nhất là có bác sĩ y khoa Bùi Linh Ký (Bilinski) trẻ trung, chăm lo cho hai anh em về giáo dục và sức khoẻ.
Sở dĩ hai anh em được gởi đi học ở thành phố Vienna của Áo Quốc, là vì gia đình đặt tín nhiệm vào nền giáo dục có uy tín của các cha Dòng Tên tại đó, nổi tiếng nhất trong vùng là vì giám tỉnh Phêrô Khang Ninh (Peter Kanis). Hai anh em ở nội trú tại cơ sở Dòng Tên được 8 tháng thì cơ sở ấy bị nhà vua mới lên ngôi đòi lại, nên hai anh em cùng với đoàn người tùy tùng sang trọ ở nhà một nghị sĩ Tin Lành chống Công Giáo ra mặt, tên là Kimberker.
Chính nơi nhà trọ này sự khác biệt giữa hai anh em trở nên rõ nét và căng thẳng. Em tiếp tục sống nếp sống đạo đức như 8 tháng trước: dự thánh lễ mỗi ngày, chịu lễ mỗi tuần, tập khiêu vũ tối thiểu theo thói quen của bậc công tử, chẳng ưa nhậu nhẹt, ngược lại tìm thì giờ và nơi thanh vắng để cầu nguyện. Còn anh là Phong Cát Tư Kha cùng với các bạn quí tộc, chủ trương sống như ai về ăn mặc, khiêu vũ, tiệc tùng, đi coi hát. Thế là từ từ em trở nên đối tượng của lườm nguýt, chê bai, nhạo cười, đối với anh ruột và chúng bạn. Không đạt được mục tiêu là chinh phục em, Phong Cát Tư Kha sau trở nên tàn nhẫn đối với em. Nhưng Chúa an bài đã biến sự tàn nhẫn đó trở nên cơ hội để em gia nhập Dòng Chúa Giêsu, đó là điều em hằng ước ao từ lâu rồi.
Số là hôm đó, Phong Cát Tư Kha tức giận đến nỗi quát mắng em: Mày cút đi đâu thì cút cho rảnh mắt tao! Thế là sáng sớm ngày 17 tháng 8, 1567, em đi dự thánh lễ như bình thường. Sau đó thay vì đi dự lớp học, Thành Cát Tư Kha đã cải trang như cậu bé thôn quê và lên đường cuốc bộ theo một cuộc hành trình dài: 650 cây số từ Vienna đến Hoàng Bưng (Augsburg); 40 cây số nữa từ Hoàng Bưng đến Đinh Giang (Dilligen) nơi Thành Cát Tư Kha được cha giám tỉnh Khang Ninh (Phêrô Kanis) nhận làm ứng sinh Dòng Tên; kế đó, anh còn phải đi bộ 1,200 cây số nữa để được an toàn nhận vào tập viện thánh Anrê tại Rôma: đó là ngày 28 tháng 10, 1567.
Ở thế gian này mọi sự đều bé nhỏ
Trước khi trốn khỏi nhà trọ, Thành Cát Tư Kha đã ngồi viết thư cho bố và người anh ruột của mình những lời tâm huyết sau đây:
Kính thưa bố và anh Phong (Phaolô)
Đứa con của bố và em của anh Phong, thực sự chỉ có một ý hướng duy nhất để lẻn đi, đó là rút lui khỏi thế gian hầu đáp lại tiếng Chúa đã gọi và đã ra lệnh cho con vào Dòng Chúa Giêsu. Con thực không có một ý hướng nào khác ngoài ý hướng đó.
Nếu bố và anh thực tình thương con thì xin đừng lên án con. Con dám chắc một ngày nào đó bố và anh sẽ sung sướng về cuộc ra đi của con được thành sự.
Khi những dòng chữ trên đây tới tay ông nghị sĩ và cố vấn triều đình Giang Cát Tư Kha tại Ba Lan, ông liền nổi cơn thịnh nộ. Thư ông viết đáp lại, đến tay cha giám tập, được tóm lại trong ba điểm quyết liệt như sau:
“Thứ nhất, ông nặng lời quở trách con đã làm ô danh gia đình Cát Tư Kha, vì đã ăn vận như người đi ăn xin trên đường đi Đức Quốc và Italia.
Thứ hai, ông đe dọa sẽ sai người đi tóm cổ con ông giong về Ba Lan, nơi con ông sẽ bị xiềng xích chân tay và ngồi tù suốt đời, không còn được gặp gỡ bạn bè và mẹ cha.
Thứ ba, tốt nhất con ông nên làm điều khôn ngoan là trở về với gia đình ngay; nếu không, sẽ bị bắt giải về Ba Lan bằng vũ lực.”
Quả thật, ông Giang Cát Tư Kha đã thực hiện đúng lời ông nói trong thư, là sai con cả đi lôi cổ con thứ về Ba Lan. Vậy cuối tháng 8, Phong Cát Tư Kha xuất hiện tại Roma với đầy đủ võ trang và quyền lực để Dòng Tên ở đây phải lo sợ. Phái đoàn do công tử Phong Cát Tư Kha dẫn đầu dừng lại trước cửa tập viện thánh Anrê của Dòng Tên với lời yêu cầu: Tôi là anh của Thành Cát Tư Kha, yêu cầu thầy hãy dẫn em tôi ra đây ngay lập tức!
Thầy gác cổng lễ phép mời quí khách vào phòng khách để thầy mời cha giám tập ra tiếp. Cha Giuliô Phan Dương (Frazio) lịch sự nói với công tử trưởng phái đoàn rằng:
“Thưa ngài, người em ruột của ngài là Thành Cát Tư Kha qua đời nay đã được bốn tuần.” Thế là ông anh được được đưa ra thăm mộ em mình. Chính khi quì trước nấm mộ của em, Phong Cát Tư Kha nghiệm được ơn biến đổi lạ thường. Anh khóc sướt mướt như một đứa trẻ, trước sự chứng kiến của cha Phan Dương giám tập.
Lạ hơn nữa là những điều xảy ra sau đó. Từ ngày đó cho tới khi chết, Phong Cát Tư Kha sống một đời gương mẫu khác hẳn xưa. Chính anh kể lại những điều anh nghe được về danh thơm tiếng tốt em anh đã để lại tại Roma, khiến bố anh cũng ra mềm lòng. Ít lâu sau đó, ông nghị sĩ Giang Cát Tư Kha qua đời cùng với người con thứ ba tắt thở sau ông một tuần.
Phong Cát Tư Kha một mình ở với mẹ tại lâu đài Đông Kinh của gia đình. Khi bà qua đời ông sống đời cô tịch trong cầu nguyện và hy sinh hãm mình dâng cúng tài sản cho các việc thiện. Tới tuổi 56, ông xin vào Dòng Tên “không vì công nghiệp riêng bản thân nhưng vì là anh ruột của Thành Cát Tư Kha.” Lời thỉnh cầu của ông đã được chấp thuận. Nhưng thời gian ông về nhà sắp xếp mọi việc để vào Dòng Tên, ông đã qua đời ngày 13 tháng 11, 1607. Đó chính là ngày Dòng Tên nhận làm ngày kính thánh Thành Cát Tư Kha để ghi nhớ cuộc trở lại của anh nhờ gương sáng của em đã được phong chân phước năm 1604 và sau này được tôn phong hiển thánh năm 1726.
Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước
Có thể nói suốt mười tám năm tuổi đời, cậu thanh niên Thành Cát Tư Kha luôn phải vật lộn với khó khăn thử thách để thực sự là mình, vượt khỏi tầm nhìn của gia đình, vượt khỏi những ràng buộc của xã hội quí tộc, nhắm tới những điều cao quí hơn. Không riêng Thành Cát Tư Kha, mọi Kitô hữu đều được mọi gọi tham gia cuộc chiến chống lại mọi cám dỗ và thử thách dưới sự lãnh đạo của Đức Giêsu (Mt 4,1-11)
Những thử thách Đức Giêsu đã vượt thắng cho thấy Ngài là ai dưới danh xưng Đấng Được Xức Dầu Tấn Phong và là con Thiên Chúa. Bối cảnh là sa mạc và thời gian chịu thử thách gợi nhớ Ít-ra-en trong 40 năm nơi sa mạc. Nơi sa mạc, dân Ít-ra-en đã chịu thử thách và đã sa ngã vì yếu đuối; nay Đức Giêsu chịu thử thách và đã toàn thắng. Sau 40 ngày chay tịnh, Ngài cảm thấy đói. Đó là lúc quỉ cám dỗ Ngài dùng phù phép để biến đá thành bánh mà ăn. Ngài liền trưng Lời Thiên Chúa cho biết loài người cần được nuôi sống bằng Lời Thiên Chúa (c 4) chứ không chỉ bằng cơm bánh mà thôi. Khi quỉ đưa Đức Giêsu lên đỉnh cao của tường lũy Đền Thờ, rồi cám dỗ Ngài nhảy xuống vì đã có Thiên Chúa đỡ nâng; Ngài trích Lời Thiên Chúa (c 7) để thắng kẻ cám dỗ. Quỉ còn đặt Đức Giêsu trước bả vinh hoa phú quý và cám dỗ Ngài bái lạy hắn để hưởng thụ. Nhưng Ngài cũng trích Lời Thiên Chúa đòi người ta phải bái lạy một mình Thiên Chúa mà thôi (c 10)
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn tâm đắc được gì về gương thánh trẻ Thành Cát Tư Kha nói: Tôi được sinh ra để sống cho những gì cao quí hơn? Trên đời này mọi sự đều bé mọn?
Bạn hiểu thế nào về Lời Chúa dạy: Loài người cần được nuôi sống bằng Lời Thiên Chúa, chứ không chỉ bằng cơm bánh mà thôi? Ngươi chớ thử thách Thiên Chúa? Cần phải tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi?
Từ ngày thứ Tư lễ Tro vừa qua, chúng ta bước vào Mùa Chay để chuẩn bị mừng lễ Phục Sinh: MC1-200
Từ ngày thứ Tư lễ Tro vừa qua, chúng ta bước vào Mùa Chay để chuẩn bị mừng lễ Phục Sinh. Mùa Chay kéo dài 40 ngày, tương ứng vời 40 ngày cầu nguyện và chay tịnh của Đức Giêsu trong sa mạc trước khi Người bắt đầu cuộc đời công khai rao giảng Tin Mừng. Tại đây, Người chịu quỷ cám dỗ ba lần: hóa đá thành bánh, làm phép lạ phi thường, cho mình là vua thiên hạ.
Dân Do thái mong chờ Đấng Mêsia thực hiện những điều đó. Họ muốn Người cung cấp cho họ mọi nhu cầu vật chất, làm những điều kỳ diệu và bành trướng quyền thế của Người trên khắp địa cầu. Nhưng Đức Giêsu không làm như thế. Người chỉ thi hành ý muốn của Thiên Chúa Cha.
Trong hoang địa cũng như nhiều lần khác mà Tin Mừng đã kể lại, Đức Giêsu chống trả những cơn cám dỗ. Thí dụ: sau khi Người làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng muốn tôn Người làm vua, nhưng Người lánh mặt, lên núi một mình (Ga 6:15); nhưng người Pharisêu muốn Người cho một dấu lạ từ trời (Mt 16:1); Người bị cám dỗ không đi Giêrusalem vì biết sẽ phải chịu nhiều đau khổ và bị giết. Chính ông Phêrô ngăn cản Người thực hiện điều đó và bị Người khiển trách: "Sa tan, lui lại đàng sau Thầy!" (Mt 16: 21-23). Tại vườn Ghếsêmani, Đức Giêsu bị cám dỗ nặng nề: "Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con..." (Mt 26:39). Và trên thập giá, Người bị nhục mạ: "Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là vua Ít-ra-en! Bây giờ hắn cứ xuống khỏi thập giá đi, thì chúng ta tin hắn liền!" (Mt 27:42)
Đức Giêsu đã thật sự bị cám dỗ, nhưng Người luôn trung thành với Chúa Cha và với sứ vụ mà Cha Người giao phó. Vào đầu Mùa Chay, Tin Mừng muốn chúng ta noi theo Đức Giêsu chống trả và chiến thắng những cơn cám dỗ này:
1/ Cám dỗ về cơm bánh hằng ngày hoặc cám dỗ về nhu cầu vật chất.
Con người cần phải ăn uống và cần phải có những nhu cầu vật chất tối thiểu để sống. Điều đó rất tốt. Nhưng chúng ta thường bị cám dỗ chỉ sống dựa vào những nhu cầu vật chất của thân xác mà thôi. Nhiều khi chúng ta lo kiếm ăn đến nỗi không còn nghĩa đến việc tìm kiếm những giá trị tinh thần và đạo đức nữa, không còn giờ để đọc kinh, cầu nguyện, suy gẫm Lời Chúa, ngay cả việc tham dự thánh lễ Chúa nhật!
Trong mùa Chay 2002 này, chúng ta hãy suy gẫm Lời Chúa: "Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh".
2/ Cám dỗ về sự thành công.
Thành công trong cuộc sống là một điều rất tốt và phải làm. Nhưng chúng ta thường bị cám dỗ chỉ sống để thành công, muốn thành công với bất cứ giá nào, mặc dầu phải làm những chuyện không tốt như lừa dối, chà đạp người khác...; thành công để vênh vang, tự đắc, để giữ thể diện và thỏa mãn tự ái của mình.
Ngay ngày đầu của Mùa Chay, Đức Giêsu mời gọi: "Khi làm việc lành phúc đức, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy... đừng cho tay trái biết việc tay phải làm... Khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn giả hình... Thiên Chúa thấu suốt những gì kín đáo" (Mt 6:1-6)
3/ Cám dỗ về quyền hành hoặc tham vọng thống trị.
Mỗi người trong chúng ta đều có một trách nhiệm, một quyền hành nào đó mặc dù là khiêm tốn. Có quyền hành, có trách nhiệm là để phục vụ và bênh vực công lý. Nhưng chúng ta thường bị cám dỗ là lẫn lộn giữa quyền hành và lòng tham vọng thống trị. Nếu những nhà lãnh đạo các quốc gia đều có tinh thần phục vụ dân chúng, thì bộ mặt thế giới sẽ khác hẳn!
Trong Mùa Chay này, chúng ta hãy kiểm điểm lại tinh thần trách nhiệm và phục vụ của mình trong gia đình, trong nhóm, trong cộng đoàn...
Những cơn cám dỗ mà Đức Giêsu chịu trong sa mạc cũng là những cơn cám dỗ của mỗi người chúng ta về vật chất, hào nhoáng bên ngoài và quyền hành. Đức Giêsu đã chiến thắng. Người cũng muốn chúng ta tham dự vào chiến thắng của Người bằng cách bước theo đường của Người và noi gương Người. Đó là mục đích của mùa Chay.
Kính chúc ông bà và anh chị em sống Mùa chay thánh thiện và đón nhận nhiều hồng ân của Chúa.