Bài Phúc Âm: Mt 21, 1-11 "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi các ngài đến gần Giêrusalem, vào địa hạt Bếtphaghê, giáp núi Cây Dầu, Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi và bảo rằng: "Các con hãy đến làng trước mặt kia, sẽ gặp ngay một con lừa mẹ cột ở đó với con lừa con. Các con hãy mở dây, dẫn về đây cho Thầy; và nếu có ai bảo các con điều gì, thì hãy nói: Chúa cần đến chúng, và Ngài sẽ gởi trả lại ngay". Mọi việc này xảy ra để ứng nghiệm lời tiên tri đã phán: "Các ngươi hãy bảo thiếu nữ Sion rằng: Kìa vua ngươi nhân ái đến cùng ngươi, ngồi trên lừa mẹ và lừa con, là con của con vật chở đồ". Các môn đệ ra đi và làm theo lời Chúa Giêsu dạy bảo. Hai môn đệ dẫn lừa mẹ và lừa con về, trải áo lên mình chúng và đặt Chúa ngồi lên trên. Phần đông dân chúng trải áo xuống đường, kẻ khác thì chặt nhành cây trải lối đi. Dân chúng kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: "Hoan hô con vua Ðavit! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời!" Khi Ngài vào thành Giêrusalem, thì cả thành phố náo động và nói rằng: "Người đó là ai vậy?" Dân chúng trả lời rằng: "Người ấy là Tiên tri Giêsu, xuất thân từ Nadarét, xứ Galilêa". - Ðó là lời Chúa.
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô (11,1-10)
“Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa.”
Khi Ðức Giê-su và các môn đệ đi gần tới thành Giê-ru-sa-lem, lúc sắp vào làng Bết-pha-ghê và Bê-ta-ni-a, bên triền núi cây Ô-liu, Người sai hai môn đệ và bảo: “Các anh đi vào làng trước mặt kia. Tới nơi, sẽ thấy một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và dắt nó về đây. Nếu có ai bảo: “Tại sao các anh làm như vậy?” thì cứ nói là: “Thầy có việc cần dùng, rồi sẽ trả về ngay”. Hai môn đệ ấy ra đi và thấy một con lừa con cột ngoài cửa ngõ, ngay mặt đường. Các ông liền cởi dây lừa ra. Mấy người đứng đó hỏi: “các ông cởi lừa người ta ra làm gì vậy?” Hai ông trả lời như Ðức Giêsu đã dặn. Và họ để cho đi. Hai ông dắt con lừa về cho Ðức Giêsu, trải áo choàng của mình lên lưng nó, và Ðức Giêsu cỡi lên. Nhiều người trải áo xuống mặt đường, môt số khác lại chặt cành chặt lá ngoài đồng rải lên lối đi. Người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: “Hoan hô! Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Ða-vít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô Chúa trên các tầng trời!” - Ðó là lời Chúa.
Phúc Âm: Lc 19, 28-40 “Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi trước lên Giêrusalem. Và xảy ra là khi Người đến gần Bếtphaghê và Bêtania, giáp núi gọi là núi Cây Dầu, Người sai hai môn đệ đi và bảo rằng: “Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp con lừa con cột sẵn đó chưa ai cỡi bao giờ; các con hãy mở dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con “Tại sao các ông mở dây?”, thì hãy nói thế này: “Vì Chúa cần dùng đến nó”. Hai người được sai ra đi, và gặp lừa con đứng đó như Chúa đã bảo. Hai ông đang mở dây lừa con, thì chủ nó hỏi r?ng: “Sao các ông mở dây lừa con?” Hai ông đáp: “Vì Chúa cần đến nó”. Hai ông dắt lừa về cho Chúa Giêsu, trải áo lên mình lừa và đặt Chúa lên trên. Dọc đàng, người ta trải áo trên lối đi. Khi Người đến gần triền núi Cây Dầu, tất cả đoàn môn đệ hân hoan lớn tiếng ca ngợi Chúa về mọi phép lạ họ đã thấy mà rằng: “Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời”. Một vài người biệt phái trong đám đông nói cùng Người rằng: “Thưa Thầy, xin hãy mắng các môn đệ Ngài đi”. Chúa Giêsu nói: “Tôi bảo cho các ông biết: nếu họ làm thinh, thì những viên đá sẽ la lên”. - Ðó là lời Chúa.
Tin Mừng theo th1nh Matthêu: Mt 26, 14 - 27, 66 (bài dài) C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu
C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Matthêu. Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai, tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và nói với họ: S. "Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?" C. Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người. Ngày thứ nhất tuần lễ ăn bánh không men, các môn đệ đến thưa Chúa Giêsu rằng: J. "Thầy muốn chúng con sửa soạn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua ở đâu?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Các con hãy vào thành, đến với một người kia nói rằng: Thầy bảo, giờ Ta đã gần, Ta sẽ mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ tại nhà ông". C. Các môn đệ làm như Chúa Giêsu truyền và sửa soạn Lễ Vượt Qua. Chiều đến, Người ngồi bàn ăn với mười hai môn đệ. Và khi các ông đang ăn, Người nói: J. "Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy". C. Môn đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người: S. "Thưa Thầy, có phải con không?" C. Người trả lời rằng: J. "Kẻ giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ nộp Thầy. Thực ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ sẽ nộp Con Người! Thà người đó đừng sinh ra thì hơn!" C. Giuđa, kẻ phản bội, cũng thưa Người rằng: S. "Thưa Thầy, có phải con chăng?" C. Chúa đáp: J. "Ðúng như con nói". C. Vậy khi mọi người còn đang ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà phán: J. "Các con hãy cầm lấy mà ăn, vì này là Mình Ta". C. Ðoạn Người cầm lấy chén, tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ mà phán: J. "Tất cả các con hãy uống chén này, vì này là Máu Ta, Máu Tân Ước, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Thầy bảo các con: Từ nay, Thầy sẽ không còn uống chất nho này nữa cho đến ngày Thầy sẽ uống rượu mới cùng các con trong nước Cha Thầy". C. Sau khi hát thánh vịnh, Thầy trò liền lên núi Ôliu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo các ông: J. "Tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy trong chính đêm nay, vì có lời chép rằng: "Ta sẽ đánh chủ chăn, và các chiên trong đoàn sẽ tan tác". Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con". C. Phêrô liền thưa: S. "Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, riêng con, con sẽ không bao giờ vấp phạm". C. Chúa Giêsu đáp: J. "Thầy bảo thật con, chính đêm nay, trước khi gà gáy, con sẽ chối Thầy ba lần". C. Phêrô lại thưa: S. "Dù có phải chết cùng Thầy, con sẽ không chối Thầy". C. Và tất cả các môn đệ cùng nói như vậy. Rồi Chúa Giêsu cùng đi với các ông đến một chỗ gọi là Ghếtsêmani, và Người bảo các môn đệ: J. "Các con hãy ngồi đây để Thầy đến đàng kia cầu nguyện". C. Ðoạn Chúa đưa Phêrô và hai người con ông Giêbêđê cùng đi, Người bắt đầu cảm thấy buồn bực và sầu não. Lúc ấy, Người bảo các ông: J. "Linh hồn Thầy buồn sầu đến nỗi chết được; các con hãy ở lại đây và thức với Thầy". C. Tiến xa hơn một chút, Người sấp mặt xuống, cầu nguyện và nói: J. "Lạy Cha, nếu được, xin cho Con khỏi chén này! Nhưng đừng như ý Con muốn, một theo ý Cha muốn". C. Người trở lại cùng các môn đệ và thấy các ông đang ngủ, liền nói với Phêrô: J. "Chẳng lẽ các con không thức cùng Thầy được lấy một giờ ư? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi lâm cơn cám dỗ: vì tinh thần thì lanh lẹ, nhưng xác thịt thì yếu đuối". C. Rồi Người lại đi cầu nguyện lần thứ hai mà rằng: J. "Lạy Cha, nếu chén này không thể qua đi được mà Con phải uống, thì xin theo ý Cha". C. Ðoạn Người trở lại và thấy các ông còn ngủ, vì mắt các ông nặng trĩu. Người để mặc các ông và đi cầu nguyện lần thứ ba, vẫn lại những lời như trước. Sau đó Người trở lại với các môn đệ và bảo: J. "Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi! Này sắp đến giờ Con Người sẽ bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Các con hãy chỗi dậy. Chúng ta hãy đi: này kẻ nộp Thầy đã tới gần". C. Người còn đang nói, thì đây, Giuđa, một trong nhóm mười hai, và cùng với y có lũ đông mang gươm giáo gậy gộc, do các thượng tế và kỳ lão trong dân sai đến. Vậy tên nội công đã dặn họ ám hiệu này: S. "Hễ tôi hôn người nào, thì đó chính là Người, các ông hãy bắt lấy". C. Tức khắc Giuđa tới gần Chúa Giêsu và nói: S. "Chào Thầy". C. Và nó hôn Người. Nhưng Chúa Giêsu bảo: J. "Hỡi bạn, bạn đến đây làm chi?" C. Lúc đó chúng xông tới, tra tay bắt Chúa Giêsu. Ngay sau đó, một trong những người vẫn theo Chúa Giêsu, giơ tay rút gươm và chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu liền bảo: J. "Con hãy xỏ ngay gươm vào bao: vì tất cả những kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm. Nào con tưởng rằng Thầy không thể xin Cha Thầy và Ngài sẽ tức khắc gởi đến hơn mười hai cơ binh thiên thần sao? Mà như thế thì làm sao ứng nghiệm lời Kinh Thánh bảo: Sự thế phải như vậy?" C. Lúc đó Chúa Giêsu nói cùng đám đông rằng: J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ, giữa các ngươi, mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng tất cả sự đó xảy ra là để ứng nghiệm lời các tiên tri đã chép". C. Bấy giờ các môn đệ bỏ Người và chạy trốn hết. Những kẻ đã bắt Chúa Giêsu điệu Người đến thầy thượng tế Caipha. Nơi đây các luật sĩ và kỳ lão đã hội họp. Phêrô theo Người xa xa cho tới dinh thầy thượng tế. Rồi ông vào trong dinh ngồi cùng bọn đầy tớ, xem việc xảy ra thế nào. Vậy các thượng tế và tất cả công nghị tìm chứng gian cáo Chúa Giêsu để lên án xử tử Người. Và họ đã không tìm được, mặc dù đã có một số đông chứng nhân ra mắt. Sau cùng, hai người làm chứng gian đến khai rằng: S. "Người này đã nói: Ta có thể phá đền thờ Thiên Chúa và xây cất lại trong ba ngày". C. Bấy giờ thầy thượng tế đứng lên nói: S. "Ông không trả lời gì về các điều những người này đã cáo ông ư?" C. Nhưng Chúa Giêsu làm thinh, nên thầy thượng tế bảo Người: S. "Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, ta truyền cho ông hãy nói cho chúng ta biết: Ông có phải là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa không?" C. Chúa Giêsu trả lời: J. "Ông đã nói đúng. Nhưng Ta nói thật với các ông: rồi đây các ông sẽ xem thấy Con Người ngự bên hữu Ðấng Toàn Năng, và sẽ đến trên đám mây". C. Bấy giờ thầy thượng tế xé áo mình ra và nói: S. "Nó đã nói lộng ngôn! Chúng ta còn cần gì đến nhân chứng nữa? Ðây các ngài vừa nghe lời lộng ngôn. Các ngài nghĩ sao?" C. Họ đáp lại: S. "Nó đáng chết!" C. Bấy giờ chúng nhổ vào mặt Người, đấm đánh Người, lại có kẻ tát vả Người mà nói rằng: S. "Hỡi Kitô, hãy bói xem, ai đánh ông đó?" C. Còn Phêrô ngồi ở ngoài sân. Một đầy tớ gái lại gần và nói: S. "Ông nữa, ông cũng đã theo Giêsu người xứ Galilêa". C. Nhưng ông chối trước mặt mọi người mà rằng: S. "Tôi không hiểu chị muốn nói gì?" C. Khi ông lui ra đến cổng, một đầy tớ gái khác thấy ông, liền nói với những người ở đó: S. "Ông này cũng theo Giêsu người Nadarét". C. Ông thề mà chối rằng: S. "Tôi không biết người ấy". C. Một lúc sau, mấy người đứng đó lại gần mà nói với Phêrô rằng: S. "Ðúng rồi, ngươi cũng thuộc bọn ấy. Vì chính giọng nói của ngươi tiết lộ tông tích ngươi". C. Bấy giờ ông rủa mà thề rằng: ông không hề biết người ấy. Tức thì gà gáy. Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói: "Trước khi gà gáy, con sẽ chối Ta ba lần", và ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết. Trời vừa sáng, các thượng tế và kỳ lão trong dân hội họp bày mưu giết Chúa Giêsu. Họ trói Người và điệu đi nộp cho tổng trấn Phongxiô Philatô. Bấy giờ Giuđa, kẻ nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận, đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ lão mà nói rằng: S. "Tôi đã phạm tội vì nộp máu người công chính". C. Nhưng họ trả lời: S. "Can chi đến chúng tôi! Mặc kệ anh!" C. Anh ta ném những đồng bạc đó vào trong đền thờ và ra đi thắt cổ. Các thượng tế lượm lấy bạc đó và nói: S. "Không nên để bạc này vào kho vì là giá máu". C. Sau khi bàn bạc, họ lấy tiền đó mua thửa ruộng của người thợ gốm làm nơi chôn cất những người ngoại kiều. Bởi thế, ruộng ấy cho đến ngày nay được gọi là Haselđama, nghĩa là ruộng máu. Như vậy là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia nói: "Chúng đã lấy ba mươi đồng bạc là giá do con cái Israel đã mặc cả mà bán Ðấng cao trọng. Và họ mang tiền đó mua ruộng của người thợ gốm như lời Chúa đã truyền cho tôi". Vậy Chúa Giêsu đứng trước quan tổng trấn, và quan hỏi Người rằng: S. "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Ông nói đúng!" C. Nhưng khi các thượng tế và kỳ lão tố cáo Người thì Người không trả lời chi cả. Bấy giờ Philatô bảo Người: S. "Ông không nghe thấy tất cả những điều họ tố cáo ông sao?" C. Chúa Giêsu cũng không đáp lại về một điều nào, khiến quan tổng trấn hết sức ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ trọng, quan tổng trấn có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Lúc ấy có một phạm nhân nổi tiếng tên là Baraba. Vậy Philatô nói với dân chúng đã tụ tập lại đó rằng: S. "Các ngươi muốn ta phóng thích ai, Baraba hay Giêsu mà người ta vẫn gọi là Kitô?" C. Quan biết rõ chỉ vì ghen ghét mà chúng đã nộp Người. Vậy trong khi quan ngồi xét xử, bà vợ sai người nói cùng quan rằng: S. "Xin ông đừng can thiệp gì đến vụ người công chính ấy, vì hôm nay trong một giấc chiêm bao, tôi đã phải đau khổ rất nhiều vì người ấy". C. Nhưng các thượng tế và kỳ lão xúi giục dân xin tha Baraba và giết Chúa Giêsu. Quan lại lên tiếng hỏi họ: S. "Trong hai người đó các ngươi muốn ta phóng thích ai?" C. Họ thưa: S. "Baraba!" C. Philatô hỏi: S. "Vậy đối với Giêsu gọi là Kitô, ta phải làm gì?" C. Họ đồng thanh đáp: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Quan lại hỏi: S. "Nhưng người này đã làm gì nên tội?" C. Chúng càng la to: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Bấy giờ Philatô thấy mất công, lại thêm náo động, nên ông lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng và nói: S. "Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các ngươi". C. Toàn dân đáp: S. "Hãy để cho máu nó đổ trên chúng tôi và trên con cái chúng tôi". C. Bấy giờ quan phóng thích Baraba cho họ, còn Chúa Giêsu thì trao cho họ đánh đòn, rồi đem đi đóng đinh vào thập giá. - Bấy giờ lính tổng trấn liền điệu Chúa Giêsu vào trong công đường và tập họp cả cơ đội lại chung quanh Người. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng: S. "Tâu vua dân Do-thái!" C. Ðoạn họ khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy đập trên đầu Người. Khi đã chế nhạo Người xong, họ lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục cũ lại cho Người và điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Lúc đi ra, họ gặp một người thành Xyrênê tên là Simon, liền bắt ông vác đỡ thánh giá cho Người. Họ đi đến một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Họ cho Người uống rượu hoà với mật đắng, Người chỉ nếm qua nhưng không muốn uống. Khi đã đóng đinh Người trên thập giá rồi, họ rút thăm chia nhau áo Người, để ứng nghiệm lời tiên tri rằng: "Chúng đã chia nhau áo Ta, còn áo ngoài của Ta, chúng đã bắt thăm". Rồi họ ngồi lại canh Người. Họ cũng đặt trên đầu Người bản án viết như sau: Người này là Giêsu, vua dân Do-thái. Lúc ấy, cùng với Người, họ đóng đinh hai tên trộm cướp, một tên bên hữu, một tên bên tả. Những người đi ngang qua, lắc đầu chế diễu Người và nói: S. "Kìa, ngươi là kẻ phá đền thờ và xây cất lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi, nếu là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi!" C. Các thượng tế cùng luật sĩ và kỳ lão cũng chế nhạo Người rằng: S. "Nó đã cứu được kẻ khác mà không cứu nổi chính mình! Nếu nó là vua dân Do-thái, thì bây giờ hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta sẽ tin nó. Nó đã trông cậy Thiên Chúa, nếu Ngài thương nó thì bây giờ Ngài hãy cứu nó, vì nó nói: "Ta là Con Thiên Chúa!"
C. Cả những tên cướp bị đóng đinh trên thập giá với Người cũng nhục mạ Người như thế. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. Vào khoảng giờ thứ chín thì Chúa Giêsu kêu lớn tiếng: J. "Eli, Eli, lema sabachtani!" C. Nghĩa là: J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con! sao Chúa bỏ con!" C. Có mấy người đứng đó nghe vậy nói rằng: S. "Nó gọi tiên tri Elia". C. Lập tức một người trong bọn chạy đi lấy một miếng bọt biển, nhúng đầy dấm và cuốn vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. Nhưng có kẻ lại bảo: S. "Hãy chờ xem Elia có đến cứu nó không?" C. Ðoạn Chúa Giêsu lại kêu lên lớn tiếng và trút hơi thở. (Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát) Bỗng nhiên màn đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới, đất chuyển động, đá nứt ra. Các mồ mả mở tung và xác của nhiều vị thánh đã qua đời được sống lại. Và sau khi Chúa sống lại, họ ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra cùng nhiều người. Còn viên sĩ quan và những kẻ cùng ông canh giữ Chúa Giêsu, thấy đất chuyển động và các sự xảy ra, thì thất kinh sợ hãi và nói: S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa". C. Ở đó cũng có nhiều phụ nữ đứng xa xa; họ là những người đã theo giúp Chúa Giêsu từ xứ Galilêa. Trong số đó có Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê và Giuse, và mẹ các người con của Giêbêđê. Tới chiều có một người giàu sang quê ở Arimathia tên là Giuse, cũng đã làm môn đệ Chúa Giêsu, ông đi gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Bấy giờ Philatô truyền giao xác cho ông. Vậy ông Giuse lấy xác, liệm trong một khăn sạch, và đặt trong mồ mà ông đã cho đục trong đá, rồi ông lăn một tảng đá lớn lấp cửa mồ lại và ra về. Còn Maria Mađalêna và bà Maria kia cùng ngồi đó nhìn vào mộ. Hôm sau, tức là sau ngày chuẩn bị mừng lễ, các thượng tế và biệt phái đến dinh Philatô trình rằng: S. "Thưa ngài, chúng tôi nhớ, lúc sinh thời tên bịp bợm ấy có nói: "Sau ba ngày, Ta sẽ sống lại". Vậy xin ngài truyền lệnh cho canh mộ đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ nó lấy trộm xác rồi phao đồn với dân chúng rằng: Người đã từ cõi chết sống lại! Và như thế, sự gian dối này lại còn tai hại hơn trước". C. Philatô trả lời: S. Các ông đã có lính canh thì cứ đi mà canh như ý. C. Họ liền đi và đóng ấn niêm phong tảng đá và cắt lính canh giữ mồ.
C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Marcô (14,1-15,47) Hai ngày trước Lễ Vượt Qua và Tuần Lễ ăn bánh không men, các thượng tế và luật sĩ tìm mưu bắt giết Chúa Giêsu. Họ bảo nhau rằng: S. "Ðừng làm trong ngày lễ, kẻo sinh náo động trong dân". C. Khi Chúa đang dùng cơm ở Bêtania trong nhà ông Simon tật phong, thì có một người phụ nữ mang đến một bình ngọc đựng dầu thơm rất quý giá. Ðập vỡ bình, bà đổ dầu thơm trên đầu Người. Có mấy người khó chịu nghĩ thầm rằng: Làm gì mà phí dầu thơm như vậy? Dầu này có thể bán được hơn ba trăm đồng bạc để bố thí cho kẻ nghèo khó. Và họ nặng lời với bà đó. Nhưng Chúa Giêsu bảo: J. "Hãy để mặc bà, sao các ông lại làm cực lòng bà? Bà vừa làm cho Ta một việc rất tốt. Vì bao giờ các ông cũng có những kẻ nghèo ở bên mình, và các ông có thể làm phúc cho họ lúc nào tuỳ ý, nhưng Ta, các ông không có Ta ở luôn với đâu. Làm được gì thì bà đã làm, bà đã xức dầu thơm có ý tẩm liệm xác Ta trước. Ta bảo thật các ông: Trong khắp thế giới, Phúc âm này rao giảng đến đâu thì người ta cũng sẽ thuật lại việc bà mới làm để nhớ bà". C. Khi ấy, Giuđa Iscariô, một trong nhóm Mười Hai, đến tìm các thượng tế để tình nguyện nộp Người cho họ. Nghe vậy, họ mừng rỡ và họ liền hứa cho nó tiền. Và nó tìm dịp tiện nộp Người. Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh không men là ngày giết chiên mừng Lễ Vượt Qua, các môn đệ thưa Người: S. "Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua tại đâu?" C. Người liền sai hai môn đệ đi và dặn rằng: J. "Các con hãy vào thành, và nếu gặp một người mang vò nước thì hãy đi theo người đó. Hễ người ấy vào nhà nào thì các con hãy nói với chủ nhà rằng: Thầy sai chúng tôi hỏi: Căn phòng Ta sẽ ăn Lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu? Và chủ nhà sẽ chỉ cho các con một căn phòng rộng rãi dọn sẵn sàng và các con hãy sửa soạn cho chúng ta ở đó". C. Hai môn đệ ra đi vào thành và thấy mọi sự như Người đã bảo, và hai ông dọn Lễ Vượt Qua. Chiều đến, Người cùng Mười Hai môn đệ tới. Và khi mọi người đang ngồi ăn, thì Chúa Giêsu nói: J. "Ta bảo thật các con, một trong các con đang ăn cùng Ta, sẽ nộp Ta". C. Các ông đều buồn rầu và lần lượt từng người thưa Ngài: S. "Thưa Thầy, có phải con không?" C. Người đáp: J. "Là một trong mười hai, kẻ cùng chấm một đĩa với Thầy. Con Người phải ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người. Thà nó đừng sinh ra thì hơn". C. Ðang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: J. "Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta". C. Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông: J. "Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người. Ta bảo thật các con: Ta sẽ chẳng còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày Ta sẽ uống rượu mới trong nước Thiên Chúa". C. Sau khi hát Thánh Vịnh, Thầy trò đi lên núi Cây Dầu. Chúa Giêsu bảo các ông: J. "Ðêm nay, tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy, vì có lời chép rằng: ta sẽ đánh chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con". C. Phêrô thưa Người: S. "Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, nhưng con thì không". C. Chúa Giêsu bảo ông: J. "Thầy bảo thật con: Hôm nay, nội đêm nay, trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Thầy ba lần". C. Nhưng Phêrô càng lên giọng cương quyết hơn mà rằng: S. "Không, dầu phải chết với Thầy, con cũng sẽ không chối Thầy". C. Và tất cả đều nói như vậy. Ði đến một vườn kia tên là Ghếtsêmani, Người bảo các môn đệ: J. "Các con hãy ngồi lại đây trong khi Thầy đi cầu nguyện". C. Rồi Người đem Phêrô, Giacôbê và Gioan theo Người và Người bắt đầu kinh sợ và buồn sầu. Người liền bảo các ông: J. "Linh hồn Thầy buồn đến chết được, các con hãy ở lại đây và tỉnh thức". C. Tiến xa hơn một chút, Người phục xuống đất và cầu xin nếu có thể được thì xin cho qua khỏi giờ này. Và Người nguyện rằng: J. "Abba, Lạy Cha, Cha có thể làm được mọi sự, xin cất chén này khỏi con! Nhưng không theo ý con muốn, một theo ý Cha". C. Người trở lại và thấy các ông đang ngủ, nên nói với Phêrô: J. "Simon, con ngủ ư? Con không có sức thức được một giờ sao? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì lanh lẹ, còn xác thịt thì yếu đuối". C. Rồi Người đi khỏi đó và cầu nguyện cùng lời như trước. Khi trở lại lần nữa và thấy các ông còn ngủ (vì mắt các ông nặng trĩu) và các ông không còn biết thưa Người làm sao. Lần thứ ba, Người trở lại và bảo: J. "Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi. Thế là xong! Giờ đã đến: Này Con Người sắp bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Thôi! hãy chỗi dậy, chúng ta đi, kẻ nộp Thầy đã tới nơi". C. Người còn đang nói, thì Giuđa Iscariô, một trong nhóm Mười Hai đến, cùng đi với một toán đông mang gươm giáo và gậy gộc do các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão sai đến. Trước đó, tên phản bội đã ra hiệu cho chúng rằng: S. "Hễ tôi hôn mặt ai, thì đó chính là Ngài, các ông cứ bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận". C. Vừa đến, nó liền tới gần Người mà nói: S. "Chào Thầy". C. Và nó hôn Người. Và chúng tra tay bắt Người. Nhưng một người trong những kẻ đứng xung quanh rút gươm chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu nói với chúng rằng: J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp! Hằng ngày, Ta ở giữa các ngươi, giảng dạy trong đền thờ mà sao các ngươi không bắt Ta. Nhưng thế là để ứng nghiệm lời Kinh Thánh". C. Bấy giờ môn đệ bỏ Người và trốn đi hết. Có một thanh niên theo Người, mình chỉ quấn một tấm khăn, họ túm lấy anh ta, nhưng anh ta bỏ tấm khăn lại và chạy trốn mình trần. Chúng điệu Chúa Giêsu đến thầy thượng tế, các tư tế, luật sĩ và kỳ lão hội lại đông đủ. Còn Phêrô theo Người xa xa đến tận trong dinh thượng tế và ngồi sưởi lửa với đám đầy tớ. Vậy các thầy thượng tế và toàn thể công nghị tìm một chứng cáo Chúa Giêsu để giết Người, song họ không tìm ra. Có nhiều kẻ đã cáo gian Người, nhưng các chứng đó không hợp nhau. Tuy nhiên có nhiều kẻ đứng lên làm chứng gian cho Người rằng: S. "Chúng tôi đã nghe nó nói: Ta sẽ phá huỷ đền thờ này do tay loài người làm ra, và trong ba ngày, Ta sẽ xây lại một đền thờ khác không bởi tay loài người làm ra". C. Nhưng chứng cớ của họ cũng không hợp nhau. Khi ấy, thầy thượng tế đứng lên giữa công nghị hỏi Chúa Giêsu rằng: S. "Sao ông không trả lời gì về những điều các người này tố cáo ông". C. Nhưng Người vẫn thinh lặng và không đáp lại gì. Thầy thượng tế lại hỏi: S. "Ông có phải là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa đáng chúc tụng chăng?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Phải, chính Ta! Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngồi bên hữu Ðấng toàn năng và ngự đến trên đám mây". C. Thầy thượng tế liền xé áo mình ra và nói: S. "Chúng ta còn cần chi đến nhân chứng nữa? Các ông đã nghe lời nói lộng ngôn, các ông nghĩ sao?" C. Ai nấy đều lên án Người đáng chết. Rồi có kẻ bắt đầu nhổ vào Người, che mặt Người và đánh đấm Người mà rằng: S. "Hãy đoán xem!" C. Và bọn thủ hạ vả mặt Người. Phêrô đang ở ngoài sân tiền đường, thì có một đầy tớ gái của thầy thượng tế đến, thấy Phêrô đang sưởi, thì nhìn ông và nói: S. "Ông cũng theo Giêsu, người Nadarét". C. Nhưng ông chối phắt mà rằng: S. "Tôi không biết, tôi không hiểu cô muốn nói gì". C. Rồi ông đi ra ngoài phía trước tiền đường, và gà liền gáy. Lần nữa người đầy tớ thấy ông, liền nói với những người xung quanh rằng: S. "Ông này thuộc bọn đó". C. Nhưng ông lại chối. Một lúc sau, những người ở đó lại nói với Phêrô rằng: S. "Ðúng ông thuộc bọn đó, vì cả ông cũng là người Galilêa". C. Ông liền nguyền rủa nặng lời và thề rằng: S. "Tôi không biết người mà các ông nói đó". C. Tức thì gà gáy lần thứ hai. Và Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã bảo ông: "Trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Ta ba lần". Và ông liền than khóc. Vừa tảng sáng, các thượng tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể công nghị. Họ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô. Philatô hỏi Người: S. "Ông có phải là vua dân Do-thái không?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Ông nói đúng!" C. Và các thầy thượng tế cáo Người nhiều điều. Philatô lại hỏi Người rằng: S. "Ông không trả lời gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu điều!" C. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì thêm, khiến Philatô ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị giam cùng với những kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn. Dân chúng tiến lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. Vậy Philatô hỏi: S. "Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?" C. (Vì quan đã biết rõ do lòng ghen tương mà các thượng tế nộp Người). Nhưng dân xin quan phóng thích Baraba cho họ. Philatô bảo dân chúng rằng: S. "Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?" C. Nhưng chúng lại kêu lên: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Philatô đáp lại: S. "Người này đã làm gì nên tội?" C. Song chúng càng la to hơn: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Sau cùng Philatô muốn vừa lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Quân lính điệu Người vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại. Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. Ðoạn chào Người rằng: S. "Tâu Vua dân Do-thái". C. Rồi chúng lấy cây sậy đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối triều bái Người. Khi đã nhạo cười Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục lại cho Người và chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Chúng gặp một người qua đường, tên là Simon, quê ở Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác đỡ thập giá cho Người. Chúng điệu Người đến nơi kia gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Chúng cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người bằng cách bắt thăm xem ai được phần nào. Vào lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh Người vào thập giá. Và có bản án ghi rằng: Vua dân Do Thái! Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên trộm cướp vào thập giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. Như vậy là ứng nghiệm lời Thánh Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác. Những người qua đường sỉ nhục Người, lắc đầu và nói: S. "Kià! Kẻ phá đền thờ Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: hãy tự cứu mình xuống khỏi thập giá đi!" C. Các thượng tế với các luật sĩ cũng nhạo báng Người và nói với nhau: S. "Nó đã cứu được những kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Ðấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!" C. Cả những kẻ cùng chịu đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng: J. "Eloi, Eloi, lema sabachtani!" C. Nghĩa là: J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!" C. Có mấy người đứng đó nghe thấy liền nói rằng: S. "Kìa, nó gọi Elia!" C. Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng: S. "Hãy đợi xem Elia có đến đem nó xuống không?" C. Nhưng Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở. (Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát) Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ quan đứng trước mặt Người thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng: S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa!" C. Cũng có những phụ nữ đứng nhìn từ đàng xa, trong số đó có bà Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê hậu và của Giuse, và bà Salômê, là những kẻ đã theo giúp Người khi Người còn ở xứ Galilêa. Và nhiều người khác cũng đã lên Giêrusalem với Người. Trời đã xế chiều và hôm đó lại là ngày chuẩn bị, áp ngày Sabbat. Ông Giuse quê ở Arimathia, một hội viên vị vọng trong công nghị, cũng là người trông đợi nước Thiên Chúa, ông mạnh dạn đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Philatô ngạc nhiên nghe nói Người đã chết, ông gọi viên sĩ quan đến và hỏi xem Người đã chế thật chưa. Khi được viên sĩ quan phúc trình, quan trao xác Người cho Giuse. Giuse đã mua một khăn trắng, hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá, liệm vào khăn và đặt trong mộ đã đục sẵn trong đá, và lăn một tảng đá lấp cửa mộ. Lúc đó bà Maria Mađalêna và Maria mẹ ông Giuse nhìn xem nơi Người được an táng. Hoặc đọc bài vắn này: Mc 15, 1-39 C. Vừa tảng sáng, các thượng tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể công nghị. Họ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô. Philatô hỏi Người: S. "Ông có phải là vua dân Do-thái không?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Ông nói đúng!" C. Và các thầy thượng tế cáo Người nhiều điều. Philatô lại hỏi Người rằng: S. "Ông không trả lời gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu điều!" C. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì thêm, khiến Philatô ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị giam cùng với những kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn. Dân chúng tiến lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. Vậy Philatô hỏi: S. "Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?" C. (Vì quan đã biết rõ do lòng ghen tương mà các thượng tế nộp Người). Nhưng dân xin quan phóng thích Baraba cho họ. Philatô bảo dân chúng rằng: S. "Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?" C. Nhưng chúng lại kêu lên: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Philatô đáp lại: S. "Người này đã làm gì nên tội?" C. Song chúng càng la to hơn: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Sau cùng Philatô muốn vừa lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Quân lính điệu Người vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại. Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. Ðoạn chào Người rằng: S. "Tâu Vua dân Do-thái". C. Rồi chúng lấy cây sậy đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối triều bái Người. Khi đã nhạo cười Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục lại cho Người và chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Chúng gặp một người qua đường, tên là Simon, quê ở Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác đỡ thập giá cho Người. Chúng điệu Người đến nơi kia gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Chúng cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người bằng cách bắt thăm xem ai được phần nào. Vào lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh Người vào thập giá. Và có bản án ghi rằng: Vua dân Do Thái! Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên trộm cướp vào thập giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. Như vậy là ứng nghiệm lời Thánh Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác. Những người qua đường sỉ nhục Người, lắc đầu và nói: S. "Kià! Kẻ phá đền thờ Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: hãy tự cứu mình xuống khỏi thập giá đi!" C. Các thượng tế với các luật sĩ cũng nhạo báng Người và nói với nhau: S. "Nó đã cứu được những kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Ðấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!" C. Cả những kẻ cùng chịu đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng: J. "Eloi, Eloi, lema sabachtani!" C. Nghĩa là: J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!" C. Có mấy người đứng đó nghe thấy liền nói rằng: S. "Kìa, nó gọi Elia!" C. Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng: S. "Hãy đợi xem Elia có đến đem nó xuống không?" C. Nhưng Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở. (Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát) Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ quan đứng trước mặt Người thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng: S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa!"
Kiệu Lá: Bài Phúc Âm: Lc 19, 28-40: "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, Chúa Giêsu đi trước lên Giêrusalem. Và xảy ra là khi Người đến gần Bếtphaghê và Bêtania, giáp núi gọi là núi Cây Dầu, Người sai hai môn đệ đi và bảo rằng: "Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp con lừa con cột sẵn đó chưa ai cỡi bao giờ; các con hãy mở dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con "Tại sao các ông mở dây?", thì hãy nói thế này: "Vì Chúa cần dùng đến nó". Hai người được sai ra đi, và gặp lừa con đứng đó như Chúa đã bảo. Hai ông đang mở dây lừa con, thì chủ nó hỏi r?ng: "Sao các ông mở dây lừa con?" Hai ông đáp: "Vì Chúa cần đến nó". Hai ông dắt lừa về cho Chúa Giêsu, trải áo lên mình lừa và đặt Chúa lên trên. Dọc đàng, người ta trải áo trên lối đi. Khi Người đến gần triền núi Cây Dầu, tất cả đoàn môn đệ hân hoan lớn tiếng ca ngợi Chúa về mọi phép lạ họ đã thấy mà rằng: "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời". Một vài người biệt phái trong đám đông nói cùng Người rằng: "Thưa Thầy, xin hãy mắng các môn đệ Ngài đi". Chúa Giêsu nói: "Tôi bảo cho các ông biết: nếu họ làm thinh, thì những viên đá sẽ la lên". - Ðó là lời Chúa.
Bài Thương Khó: Lc 22, 14 - 23. 56 (bài dài):
(C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu) C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Luca. Ðến giờ, Chúa Giêsu vào bàn ăn với mười hai tông đồ và bảo các ông: J. "Thầy đã tha thiết ước ao ăn Lễ Vượt Qua này với các con trước khi chịu khổ nạn. Thầy bảo các con, Thầy sẽ chẳng bao giờ ăn lễ này nữa, cho đến khi lễ này được thực hiện trong nước Thiên Chúa". C. Rồi Người cầm chén, tạ ơn và phán: J. "Các con hãy lãnh nhận chén này mà chia cho nhau: Thầy bảo cho các con biết: Thầy sẽ không uống thứ nho này nữa cho đến khi nước Thiên Chúa đến!" C. Ðoạn Người cầm bánh và tạ ơn, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: J. "Này là Mình Ta hiến ban vì các con, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta". C. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén mà phán: J. "Chén này là Tân ước trong Máu Ta sẽ đổ ra vì các con. Vả lại này tay kẻ nộp Ta đang ở gần Ta, ngay trên bàn này. Ðành rằng Con Người sẽ ra đi như đã được ấn định, nhưng vô phúc cho kẻ nộp Người!" C. Bấy giờ các ông bắt đầu hỏi nhau xem ai trong nhóm họ là kẻ làm điều đó. Giữa các ông cũng xảy ra một cuộc tranh giành xem ai trong họ được coi là cao trọng hơn hết. Nhưng Người bảo: J. "Vua chúa các dân ngoại thì thống trị dân, và những kẻ có quyền hành trên dân thì bắt dân gọi mình là ân nhân. Phần các con, thì không như thế, vì ai cao trọng hơn các con thì hãy trở thành như người nhỏ nhất, và kẻ làm đầu, hãy trở thành như người hầu bàn. Vì người ngồi ăn và kẻ hầu hạ, ai trọng hơn, nào chẳng phải là người ngồi ăn ư? Thế mà Thầy, Thầy ở giữa các con như người hầu hạ. Còn các con, các con đã kiên trì với Thầy trong các cơn gian nan của Thầy, và Thầy xếp đặt nước trời cho các con như Cha Thầy đã xếp đặt cho Thầy, để các con sẽ được ăn uống đồng bàn trong nước Thầy, và được ngồi trên toà xét xử mười hai chi tộc Israel!" C. Rồi Chúa nói: J. "Simon, Simon, này ma quỷ đã đòi sàng các con như sàng gạo, nhưng Ta đã cầu nguyện để con khỏi mất đức tin. Và phần con, khi đã trở lại, con hãy làm cho anh em con vững tin". C. Ông thưa Người: S. "Lạy Thầy, con sẵn sàng theo Thầy, dù vào tù hay đi chịu chết". C. Nhưng Người đáp: J. "Phêrô, Thầy bảo cho con biết: hôm nay khi gà chưa gáy, con đã chối rằng không biết Thầy". C. Và Người bảo các ông: J. "Khi Thầy sai các con đi không mang theo túi tiền, không bị, không giày dép, nào các con có thiếu thốn sự gì không?" C. Các ông thưa: S. "Không thiếu gì cả". C. Vậy Người nói: J. "Nhưng bây giờ ai có túi tiền, hãy cầm lấy, ai có bị, cũng hãy làm như vậy, và ai không có gươm, thì hãy bán áo choàng mình mà mua lấy gươm. Vì Thầy bảo các con hay: còn điều này chép về Thầy cũng cần phải được ứng nghiệm: "Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác". Vì mọi điều đã chép về Thầy phải được hoàn tất". C. Các ông thưa Người: S. "Thưa Thầy, này có hai thanh gươm đây". C. Và Người bảo: J. "Ðủ rồi". C. Ðoạn Người ra đi lên núi cây ôliu như thường lệ. Các môn đệ cũng đi theo Người. Ðến nơi, Người bảo các ông: J. "Các con hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ". C. Rồi Người đi xa các ông một quãng bằng ném một hòn đá và quỳ gối cầu nguyện rằng: J. "Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin Cha cất chén này xa con. Nhưng xin đừng theo ý con muốn, một theo ý Cha". C. Bấy giờ có thiên thần từ trời hiện ra an ủi Người. Và lâm cơn hấp hối, Người cầu nguyện thiết tha hơn, và mồ hôi Người chảy ra như những giọt máu rơi xuống đất. Cầu nguyện xong, Người đứng dậy, trở lại chỗ các môn đệ, và thấy các ông còn đang ngủ vì buồn sầu. Người liền bảo: J. "Các con ngủ ư? Hãy dậy và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ". C. Người còn đang nói, thì này đây một lũ đông, và một người trong nhóm Mười Hai là Giuđa dẫn đầu. Hắn lại gần Chúa Giêsu để hôn Người. Chúa Giêsu bảo hắn: J. "Giuđa, ngươi lấy cái hôn để nộp Con Người ư?" C. Thấy các sự sắp xảy ra, những kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi: S. "Thưa Thầy, chúng con có nên dùng gươm mà chém không?" C. Và một người trong các ông chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt tai phải. Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo: J. "Thôi, đủ rồi". C. Và Người sờ vào tai người đầy tớ ấy mà chữa cho y lành lại. Rồi Chúa Giêsu bảo các kẻ đến bắt Người gồm các thượng tế, trưởng vệ binh đền thờ và kỳ lão rằng: J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ giữa các ngươi mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng đây là giờ của các ngươi và của quyền lực tối tăm". C. Chúng liền bắt Người và điệu tới nhà thầy thượng tế. Còn Phêrô đi theo xa xa. Họ đốt lửa ngay giữa sân và ngồi vòng quanh, Phêrô cũng ngồi lẫn với họ. Một đứa đầy tớ gái thấy ông ngồi gần lửa, thì nhìn kỹ ông và bảo: S. "Cả ông này cũng theo hắn". C. Nhưng ông chối và nói: S. "Này chị, tôi đâu quen biết người ấy". C. Một lát sau, có người khác nhìn ông và nói: S. "Chính ông cũng là người trong bọn đó". C. Nhưng Phêrô đáp: S. "Này anh, đâu có phải tôi". C. Chừng một giờ sau, một người khác lại quả quyết rằng: S. "Ðúng ông này cũng theo người ấy: vì ông ta cũng là người xứ Galilêa". C. Phêrô đáp: S. "Này anh, tôi không biết anh muốn nói gì?" C. Khi ông còn đang nói, thì lập tức gà liền gáy. Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô. Bấy giờ Phêrô mới sực nhớ lời Chúa đã bảo ông trước: Khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần. Phêrô liền ra ngoài và khóc lóc thảm thiết. Những kẻ canh giữ người, nhạo cười và đánh đập Người. Chúng che mặt Người, vả mặt mà hỏi Người rằng: S. "Hãy đoán xem ai đánh ngươi đó". C. Và chúng còn thốt ra nhiều lời khác nhục mạ Người. Vừa sáng ngày, các kỳ lão trong dân, các thượng tế và các luật sĩ hội lại và cho điệu Người ra trước công nghị mà nói: S. "Nếu ông là Ðấng Kitô, hãy nói cho chúng tôi hay". C. Người trả lời: J. "Tôi có nói, các ông cũng chẳng tin tôi, và nếu tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời và cũng chẳng tha tôi. Nhưng từ giờ đây, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng". C. Mọi người đều hỏi lại: S. "Vậy ông là Con Thiên Chúa ư?" C. Người đáp: J. "Các ông nói đúng, Ta là Con Thiên Chúa". C. Bấy giờ họ nói: S. "Chúng ta còn cần chứng cớ chi nữa? Vì chính chúng ta cũng nghe y nói". C. Ðoạn tất cả bọn họ đứng dậy và giải Người đến Philatô. Họ bắt đầu tố cáo Người rằng: S. "Chúng tôi đã thấy người này xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho Cêsarê, và còn tự xưng là Kitô Vua". C. Philatô bảo các thượng tế và đám đông rằng: S. "Ta không thấy người này có tội gì". C. Nhưng họ cố nài rằng: S. "Người này đã làm náo động dân chúng, giảng dạy khắp xứ Giuđêa, bắt đầu từ Galilêa đến đây". C. Philatô vừa nghe nói đến Galilêa, liền hỏi cho biết có phải đương sự là người xứ Galilêa không. Và khi đã biết Người thuộc thẩm quyền Hêrôđê, quan liền sai giải Người cho Hêrôđê cũng có mặt tại Giêrusalem trong những ngày ấy. Hêrôđê thấy Chúa Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu, ông ao ước thấy Người, bởi đã nghe nói về Người rất nhiều, và hy vọng xem Người làm một vài phép lạ. Nhà vua hỏi Người rất nhiều lời, nhưng Người không đáp gì hết. Trong khi ấy, các thượng tế và luật sĩ ở đó tố cáo Người dữ dội. Còn Hêrôđê cùng các quan lính thì khinh dể và nhạo báng Người, đoạn khoác cho Người một cái áo choàng trắng và gởi trả Người cho Philatô. Chính ngày đó, Hêrôđê và Philatô trở thành bạn hữu, vì trước kia họ là thù địch với nhau. Bấy giờ Philatô triệu tập các thượng tế, các thủ lãnh và dân chúng lại, rồi bảo họ: S. "Các ngươi đã nộp cho ta người này như một kẻ xúi giục dân làm loạn, nhưng đây ta đã tra xét trước mặt các ngươi, và ta không thấy người này phạm tội nào trong những tội các ngươi tố cáo. Cả vua Hêrôđê cũng thấy như vậy, vì ta đã cử các ngươi đến nhà vua và nhà vua cũng không thấy có chi đáng tội chết cả. Vậy ta sẽ cho sửa phạt, rồi tha đi". C. Mỗi dịp lễ, quan tổng trấn phải phóng thích cho họ một người tù. Vậy toàn dân đồng thanh kêu lên: S. "Hãy giết người này, và tha Baraba cho chúng tôi". C. Tên này vì dấy loạn trong thành và giết người, nên đã bị tống ngục. Nhưng Philatô muốn tha Chúa Giêsu, nên lại nói với dân chúng. Nhưng chúng càng la to hơn và nói: S. "Hãy đóng đinh nó, hãy đóng đinh nó vào thập giá!" C. Lần thứ ba, quan lại nói với dân chúng: S. "Người này đã làm gì xấu? Ta không thấy nơi ông ấy có lý do để lên án tử hình. Vậy ta sẽ trừng phạt, rồi tha đi". C. Chúng lại la lớn tiếng, nhất định đòi đóng đinh Người vào thập giá, và tiếng la hét của chúng càng dữ dội hơn. Philatô liền tuyên án theo lời chúng yêu cầu. Vậy quan phóng thích tên đã bị cầm tù vì dấy loạn và giết người, là kẻ mà chúng đã xin tha, còn Chúa Giêsu thì quan trao phó để mặc ý chúng. Khi điệu Người đi, chúng bắt một người xứ Xyrênê, tên Simon, ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác thập giá theo sau Chúa Giêsu. Ðám đông dân chúng theo Người, có cả mấy người phụ nữ khóc thương Người. Nhưng Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại bảo họ rằng: J. "Hỡi con gái Giêrusalem, đừng khóc thương Ta, hãy khóc thương chính các ngươi và con cái các ngươi. Vì này, sắp đến ngày người ta sẽ than rằng: "Phúc cho người son sẻ, phúc cho những lòng không sinh nở và những vú không nuôi con". Bấy giờ người ta sẽ lên tiếng với núi non rằng: "Hãy đổ xuống đè chúng tôi", và nói với các gò nổng rằng: "Hãy che lấp chúng tôi đi". Vì nếu cây tươi còn bị xử như vậy, thì gỗ khô sẽ ra sao?" C. Cùng với Người, chúng còn điệu hai tên gian ác nữa đi xử tử. Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu và một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng: J. "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm". C. Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Dân chúng đứng đó nhìn xem, và các thủ lãnh thì cười nhạo Người mà rằng: S. "Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Ðấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn". C. Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói: S. "Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi". C. Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: "Người này là vua dân Do-thái". Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng: S. "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa". C. Ðối lại, tên kia mắng nó rằng: S. "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao. Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn Ông này, Ông có làm gì xấu đâu?" C. Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng: S. "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi". C. Chúa Giêsu đáp: J. "Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta". C. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu, tối tăm liền bao trùm cả mặt đất cho đến giờ thứ chín. Mặt trời trở nên u ám, màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa. Lúc đó Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng: J. "Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha". C. Nói đoạn, Người trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát) Thấy sự việc xảy ra, viên sĩ quan ca tụng Thiên Chúa rằng: S. "Ông này quả thật là người công chính". C. Và tất cả dân chúng có mặt thấy cảnh tượng đó, và chứng kiến những sự việc xảy ra, liền đấm ngực trở về. Ðứng xa xa, có những kẻ quen biết Người, và mấy phụ nữ đi theo Người từ xứ Galilêa, họ cũng chứng kiến. Tuy nhiên, có một công nghị viên tên là Giuse, người tốt lành và công chính. Ông này đã không đồng ý với mưu toan và hành động của các công nghị viên khác, ông quê ở thành Arimathia trong xứ Giuđêa, chính ông cũng trông đợi nước Chúa. Ông đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Ðoạn ông hạ xác Người xuống, liệm trong khăn và táng trong mồ đã đục sẵn, nơi chưa táng xác ai. Hôm đó là ngày chuẩn bị và sắp bước sang ngày Sabbat. Trong khi đó, những người phụ nữ đã đi với Người từ xứ Galilêa, cũng theo đến xem mồ và xác Người được táng như thế nào. Rồi các bà về sửa soạn thuốc thơm và dầu thơm. Nhưng trong ngày Sabbat, các bà nghỉ theo đúng luật.
Khi làm sai một điều gì đó, người ta thường biện minh rằng: “Người ta làm sao, tôi làm vậy. Người ta làm bậy, tôi làm theo”. Câu nói này không hẳn là lời nói cho vui mà dường như là căn bệnh của xã hội qua mọi thời đại. Một cách đơn giản, mỗi khi dừng trước đèn đỏ mà có một người vượt lên trước, thì y như rằng sẽ có rất nhiều người vượt lên theo. Lúc này người ta không để ý đến đèn chỉ dẫn mà chạy theo đám đông. Đám đông làm bậy, tôi làm theo.
Người ta kể rằng: có một cậu bé đang đi trên lề đường bỗng dừng lại, ngửa mặt lên trời. Có vị giáo sư đi tới, thấy thế cũng ngạc nhiên dừng lại, ngước mắt nhìn theo. Rồi một bà đứng tuổi đi ngang qua cũng làm y như vậy; một người, rồi một người nữa… Lúc cậu bé cúi xuống, quay qua quay lại, ngạc nhiên khi thấy cả chục người đứng chung quanh mình đều ngửa mặt nhìn trời. Cậu thành thực hỏi: "Ủa ! Các ông các bà cũng bị chảy máu cam như cháu sao ? ".
Đây là căn bệnh “hùa theo đám đông”. Đám đông làm mình cũng làm. Sự làm theo đám đông đôi khi bất chấp lề luật, bất chấp tội lỗi. Dường như người ta nghĩ rằng nhờ đám đông mà giảm bớt tội, hay giảm bớt trách nhiệm. Những bệnh “hùa theo đám đông này”, ta có thể thấy nhan nhản qua các tội nam nữ sống “góp gạo thổi cơm chung” nơi khá đông tầng lớp công nhân và sinh viên xa nhà ; chuyện phá thai nơi những bà mẹ mang con ngoài ý muốn; chuyện buôn gian bán lận để có đồng lời trong thời buổi cạnh tranh mà nhiều người nói rằng “không gian dối làm sao có lời”; chuyện hối lộ và tham nhũng để được việc và giữ được ghế lâu dài . . . ; Lợi dụng đám đông để người ta phạm tội mà không e ngại, không xấu hổ và nhất là không còn ý thức đâu là tội. Đám đông làm bậy đã khiến cho tội trở thành điều bình thường như: nói tục, chửi bậy, nói dối, nói sai sự thật của người Việt nam hôm nay. Đám đông làm bậy đã làm cho nhiều trẻ nhỏ và những người kém hiểu biết mất ý thức về sự việc là tội hay không tội. Họ đã làm theo đám đông mà không còn ý thức về căn tính sự việc.
Lần giở lại lịch sử cách đây hơn hai ngàn năm, Chúa Giêsu được hoan nghênh và kết án, được tôn vinh, và tẩy chay cũng chỉ một đám đông. Đó chính là đám đông dân thành Giê-ru-sa-lem. Họ đã từng tung hô Chúa Giêsu. Họ đã từng lấy áo lót đường cho Chúa Giêsu đi qua. Họ cầm ngành lá vạn tuế để cùng nhau tung hô Chúa là Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến. Thế nhưng, cũng đám đông đó, chỉ nghe nhóm biệt phái và thượng tế định tội Chúa Giêsu, họ đã mau chóng quay lưng lại với người mà họ đã từng tung hô. Những bàn tay cầm cành lá vạn tuế lại được giơ lên trong tư thế nắm đấm đòi triệt hạ Chúa Giê-su. Những lời tung hô đầy niềm vui được thay bằng những lời hằn học đầy căm phẫn. Có lẽ có rất nhiều người trong đám đông đó không hề thù ghét Chúa Giêsu. Có lẽ trong đám đông đó còn có rất nhiều người đã từng nhận ân nghĩa của Chúa Giêsu. Thế nhưng, họ đã bị đám đông lôi cuốn vào chuyện gian ác để đòi đóng đinh người vô tội trên thập tự giá.
- Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những người công chính bị hạ bệ, bị lấy mất thanh danh bởi đám đông đang rỉ tai nhau bỏ vạ, cáo gian , nói hành, nói xấu . ..
- Dòng đòi hôm nay vẫn còn đó những người bị tước mất tất cả danh dự, lẫn vật chất vì đám đông hãm hại mà không biết thanh minh từ đâu.
- Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những bất công khi đám đông cuồng tín bất chấp lề luật toa rập với nhau hãm hại người công chính.
- Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những người công chính dám bảo vệ chân lý lại bị đám đông tẩy chay theo chủ nghĩa đồng cảm chứ không đồng thuận.
- Dòng đời hôm nay tội lỗi vẫn lan tràn, khi mà đám đông đã không đủ tỉnh thức để hồi tâm, để dừng lại. Nhưng lại hùa theo nhau để làm bậy đến mức độ mất ý thức về tội.
Đám đông dân thành Giê-ru-sa-lem đã toa rập với nhau giết hại người công chính. Có lẽ, họ đã hối hận sau cái chết của Chúa Giêsu. Có lẽ, họ đã hoảng sợ khi nghe tin Ngài đã từ cõi chết sống lại. Nhưng đã muộn. Giuđa đã tự vẫn. Phêrô xấu hổ. Viên đội trưởng chỉ thở não nề mà nói “Người này thật là Con Thiên Chúa”. Đám đông xôn xao lo lắng. Tất cả đã muộn khi sự ác chiến thắng. Người công chính đã bị kết án tử hình.
Là người kytô hữu chúng ta phải sống yêu thương. Tình yêu thương đòi buộc chúng ta đừng làm điều gì có lỗi với lương tâm. Tình yêu đòi buộc chúng ta vượt trên đám đông, trên dư luận để đừng hùa theo đám đông mà phải can đảm bảo vệ chân lý, bảo vệ lẽ phải. Tình yêu đòi buộc chúng ta phải sống trung thực với chính mình, biết tôn trọng sự thật và can đảm bảo vệ sự thật. Đừng vì sợ hãi mà im lặng để bất công lan tràn, sự dữ ngự trị.
Xin cho mỗi người chúng ta luôn tỉnh thức trước sự dữ, luôn có lập trường vững chắc trong cuộc sống. Xin đừng vì nhát đảm mà làm ngơ trước bất công nhưng luôn can trường bảo vệ chân lý và sự thật. Amen
Nếu có dịp đi thuyền ra giữa biển khơi, thỉnh thoảng người ta có thể bắt gặp những chú cá voi hiền hòa dễ thương bơi lội trong làn nước biếc mênh mông. Tiếc một điều là người ta chỉ có thể nhìn thấy những tia nước biển do chúng phun lên, hoặc thấy một phần rất nhỏ của tấm lưng chúng trồi lên mặt nước, còn phần lớn thân thể chúng chìm trong làn nước biển xanh không ai thấy được. Họa hoằn mới có một vài chú cá voi cao hứng búng mình lên cao, vượt lên khỏi mặt nước, phô bày cho người ta thấy cả tấm thân đồ sộ và rực rỡ của chúng dưới ánh nắng mặt trời. Thấy vậy mọi người rất khoan khoái.
Tôi xin mượn hình ảnh những chú cá voi nầy để minh họa về Thánh Lễ.
Thánh Lễ chính là cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su kéo dài trong lịch sử cho đến ngày tận thế (giáo lý công giáo số 1323, 1366,1367). Tuy nhiên, khi đến tham dự Thánh Lễ, giáo dân không thể nhìn thấy toàn bộ Thánh lễ mà chỉ thấy phần nổi của Thánh Lễ mà thôi, còn phần chìm của Thánh Lễ, là phần đặc biệt quan trọng, thì không ai nhìn thấy.
Phần nổi của Thánh Lễ là phần ta có thể nghe và nhìn thấy khi linh mục cử hành Thánh Lễ trên bàn thờ: giang tay cầu nguyện, đọc các bài sách thánh, dâng bánh rượu, truyền phép, cho rước lễ… vân vân….
Vì lần nào tham dự Thánh Lễ cũng chỉ thấy có bấy nhiêu chuyện nên ta cảm thấy Thánh Lễ sao mà nhạt nhẽo, nhàm chán quá! Sở dĩ như thế một phần là vì ta chỉ thấy phần nổi của Thánh Lễ mà chưa thấy phần chìm hết sức thiêng liêng, cao cả, cảm động và đầy ấn tượng của Thánh Lễ.
Nên nhớ rằng: phần chìm và phần nổi của chú cá voi là hai phần không thể tách lìa của cùng một thân thể, thì phần nổi và phần chìm của Thánh Lễ là hai phần không thể tách lìa của một hiến tế duy nhất của Đức Ki-tô.
Làm sao thấy được, hiểu được phần chìm của Thánh Lễ?
Qua bài thương khó hôm nay, thánh sử Mác-cô phác họa cho chúng ta thấy tường tận diễn tiến của Thánh Lễ, tức là của hy tế thập giá của Chúa Giê-su. Đây chính là phần chìm của Thánh Lễ mà không mấy người để ý đến.
Tôi xin dựa vào tường thuật của thánh Mác-cô để tóm lược những giai đoạn chính của Thánh Lễ như sau:
Khởi đầu, Chúa Giê-su và các môn đệ ăn bữa tối trước ngày chịu nạn. Đây cũng chính là lúc Chúa Giê-su thiết lập Thánh Lễ trong phòng tiệc ly. (Mác-cô 14,22-25)
Sau đó, Chúa Giê-su vào cầu nguyện thống thiết trong vườn Dầu, chấp nhận uống chén đắng theo ý Chúa Cha. Tiếp đó, quân lính đến bắt Chúa Giê-su (Mc 14, 46), áp giải Người ra trước Thượng Hội Đồng để chịu vu cáo, chịu khạc nhổ vào mặt, chịu đánh đấm túi bụi (Mác cô 14, 65) rồi bị đưa ra trước tòa Phi-la-tô (15,2). Bị dân Do-thái kết án dữ dội, Phi-la-tô cho đánh đòn rồi trao Chúa Giê-su cho họ đem đi đóng đinh. (15, 15) Thế rồi, dù sức tàn lực kiệt, Chúa Giê-su phải vác thập giá lên đồi Gôn-gô-ta, chịu đóng đinh vào thập giá, chịu chế giễu nhạo cười và cuối cùng tắt thở trên thập giá.
Thánh Lễ là thế đó! Phần chìm của Thánh Lễ là thế đó! Nếu chúng ta hiểu rằng chính lúc phần nổi của Thánh Lễ được cử hành trên bàn thờ bởi các linh mục của Hội Thánh thì cũng là lúc phần chìm của Thánh Lễ là cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su đang diễn tiến song hành để đem lại ơn tha tội cho nhân loại, thì chúng ta sẽ quý trọng Thánh Lễ biết bao, sẽ siêng năng và sốt sắng tham dự Thánh Lễ biết chừng nào!
Nào, mời cộng đoàn chứng kiến cách thiêng liêng Thánh Lễ của Chúa Giê-su qua bài thương khó được công bố trong ngày Lễ Lá hôm nay. Đó là bài Thương Khó trích từ Tin Mừng Mác-cô, chương 14 và 15)
Tuần lễ này, tôi đọc say mê cuốn sách “Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu qua tấm khăn liệm Turin” của tác giả An Thiện Minh. Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa, Nihil Obstat. Đức Cha Guise Võ Đức Minh, Imprimatur. Nhà xuất bản tôn giáo, Nhà sách Đức Bà Hòa bình phát hành.
Cuốn sách viết thật hấp dẫn, tái dựng lại cuộc khổ nạn dựa trên Tấm khăn liệm Turin và Tin Mừng, đưa người đọc từng bước đi vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu với những thống khổ và cực hình về thể lý. Sự tàn ác của tội lỗi và sự đố kỵ của sự dữ trước một Tình Yêu quảng đại và bao dung. Sự yếu đuối của thể chất trước một tinh thần bình an và vượt thoát. Giá trị của vinh quang và tủi nhục, tha thứ và hận thù, sự sống và sự chết. Những cảm nhận đó đưa độc giả vươn tới giá trị siêu nhiên trong Chúa Kitô Phục Sinh.
Cuộc thương khó của Chúa Giêsu trong cái nhìn nhân loại như một bi kịch của sự tàn bạo, bất công và hủy diệt. Chúa Giêsu bị phản bội, bị hiểu lầm, bị ghen ghét, chịu kết án bất công. Cuộc thương khó làm cho chúng ta kinh khiếp vì sự tàn ác và độc dữ của con người. Nó làm cho chúng ta xót xa và thương cảm một con người là nạn nhân của lòng hận thù và đố kỵ.
Thế nhưng, cái chết trong đau thương nhục nhã của Chúa Giêsu chính là nguồn ơn cứu rỗi cho nhân loại. Người chết để đền tội, để chuộc tội, để gánh tội hầu cứu độ con người. Cái chết của Đấng Cứu Độ nhưng lại bi thương vô cùng.
Tin Mừng về cuộc thương khó kể lại từng chặng đường khổ nạn của Đấng Cứu Thế.
1. Chúa Giêsu chết trong cô đơn
Những giờ phút sau cùng của Chúa là những khoảng khắc cô đơn kinh hoàng.Trong Vườn Cây Dầu, ba môn đệ thân tín đi với Chúa, họ ngủ say để Chúa một mình. Giuđa phản bội bán Thầy 30 đồng bạc là giá một nô lệ bằng một nụ hôn giả dối. Phêrô chối Thầy 3 lần, ông thề là không quen biết Chúa Giêsu trước một đầy tớ gái. Các môn đệ sợ hãi chạy trốn, có một môn đệ chạy trốn bỏ lại cả áo, chạy mình trần. Một đám đông cuồng nộ: Đóng đinh nó đi. Họ coi Chúa Giêsu còn thua Baraba là một tên phiến loạn giết người.
Các môn đệ ở đâu ? Những người được Chúa Giêsu làm phép lạ nuôi ăn giờ ở đâu? Những người mới tung hô vạn tuế Con Vua Đavit giờ ở đâu?
Chúa Giêsu đi đến tột cùng của sự cô đơn khi thổn thức với Cha: Lạy Thiên Chúa tôi, sao Ngài nỡ bỏ tôi?
2.Chúa Giêsu chết trong đau khổ
Đau khổ Chúa Giêsu chịu trong giờ sau hết thật ghê rợn. Đau khổ về thân xác
a.Người ta khạc nhổ, đánh đập, vả tát vào mặt, dùng roi quất vào Người. Đôi bàn tay bầm tím xuyên thâu những mũi đinh nhọn. Đôi bàn chân bị đinh đóng xuyên qua cây gỗ. Đầu đội mão gai nhọn. Lưỡi đòng đâm cạnh sườn, máu và nước chảy ra. Một người bị lột bỏ trần trụi. Hai tay bị giang thẳng trói xiết chặt vào thanh gỗ ngang. Hai chân bị trói vào thanh gỗ dọc phơi ngoài trời nắng gắt cho đến chết. Chết vì nghẹt thở do các cơ vòng ngực, cơ bắp tay không còn sức trương ra, co vào để thu nhận và tống không khí.
a.Tử tội bị đóng đinh nơi cổ tay, nơi bàn chân càng thê thảm bội phần vì đau đớn nhức nhối, sức người rướn lên để thở, mau kiệt sức và chóng chết.
b Đau khổ về tinh thần
b.Bị sỉ nhục. Bị cười nhạo báng. Bị khinh khi.
b.Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi ! Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào !. Các thượng tế kinh sư và kỳ mục cũng chế giễu Người mà nói: Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là vua Israel ! Bây giờ hắn cứ xuống khỏi thập gía đi, thì chúng ta tin hắn liền ! Cả những tên cướp cùng đóng đinh với Người cũng sỉ vả Người như thế.
3.Chúa Giêsu chết trong sự vâng phục
Cái chết cô đơn, cái chết đau khổ đến với Chúa Giêsu như một chén đắng mà Chúa Cha trao phó. Chúa Giêsu xin vâng ý Cha, nhưng không vì thế mà bớt sự đau đớn. Trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu than thở: Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha. (Mt 26,39).
Theo thánh ý Chúa Cha, “Chúa Giêsu đã hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây Thập giá”( Pl 2,8).
4. Lời Thánh Kinh ứng nghiệm
Cái chết cô đơn, đau khổ của Chúa Giêsu ứng nghiệm hình ảnh Người Tôi Trung của Ngôn sứ Isaia. Những nổi khổ đau, mọi sự sĩ nhục và cực hình Người Tôi Trung phải chịu: bị đánh vào lưng, bị giật râu, bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Mặc dầu vậy, Người Tôi Trung vẫn vững lòng tin tưởng có Thiên Chúa phù trợ.
Chúa Giêsu tự đồng hoá mình với Người Tôi Trung một lần (Lc 22,37; Is 53,12) nhưng truyền thống không ngừng đồng hoá khuôn mặt của Người Tôi Trung với Đức Kitô ( Mt 8,16;Is 53,4; Mc 1,1;Is 52,1; Mt 12,18-21;Is 42,1-3; Mc 9,31;Is 53.6.12; Ga 12,38;Is 53,1). Đề tài Người Tôi Trung chịu đau khổ là đề tài khai triển một cách rõ rệt nhất quan niệm một Đấng Cứu Thế phải trải qua đau khổ và sự chết thì mới hoàn thành được sứ mệnh (Cv 3,13-26; Is 4,25-30; Is 53,5.6.9.12; Mc 10,41; Is 53,5; 1Cor 11,24).
Hình ảnh Người Tôi Trung đau khổ cho thấy rõ Đức Giêsu đảm nhận thân phận làm người cho tới cùng. Trong Đức Giêsu, Thiên Chúa tự mạc khải là Thiên Chúa “vì mọi người và cho mọi người” chứ không phải như một Thiên Chúa tuyệt đối và toàn năng của triết lý và huyền thoại. Nhân tính của Đức Giêsu mạc khải dưới một siêu việt tính đích thực, nhìn dưới một dạng thức hoàn toàn mới mẻ. Đó là sự siêu việt của một tình yêu vượt qua cái tôi ích kỷ, vượt qua được sự chết để trở nên sự sống cho mọi người.
Bài Thánh ca của Thánh Phaolô gợi lên hình ảnh Người Tôi Trung đau khổ (câu 8; Is 53,7.10.12), nhưng ở đây, Người Tôi Trung được đối chiếu với hình ảnh Đức Chúa vinh quang. Sự tự hạ thẳm sâu và chiến thắng vinh quang là bài ca ca ngợi Chúa Giêsu Kitô đã hạ mình chịu chết và được siêu tôn. Chính sự vâng phục theo thánh ý Chúa Cha đã làm nên giá trị của Chúa Giêsu trên mọi thụ tạo.
5. Sứ điệp tình yêu
Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy những chiều kích khác lạ của tình yêu. Tình yêu không đơn thuần chỉ là sự trao ban thuần túy để làm hài lòng người mình yêu thương, nhưng sâu thẳm hơn, nó là sự hiến dâng chính bản thân để chịu đau khổ.
Tình Yêu của Chúa Giêsu dành cho nhân loại qua con đường thập giá thật đẹp và tinh tuyền như ánh trăng lấp lánh trên dòng sông tình ái. Thấp thoáng trong bóng tối đau khổ, sợ hãi, cô đơn và sự chết là lung linh ánh sáng khoan dung, tha thứ, bình an và vượt thoát. Trong màn đêm của bạo lực và bất công, bầu trời vẫn lấp lánh ánh sao của dâng hiến và yêu thương. Ngước lên và ngắm nhìn, chúng ta có thể nhận ra từng nét chân dung huyền ảo của Tình Yêu và trái tim của chúng ta sẽ nhận ra được dung mạo của Chúa Giêsu yêu thương đến cùng.
Trong hình hài đầy thương tích của Đấng Chịu Đóng Đinh, bóng tối của sự thịnh nộ và thù hận đã nhường chỗ cho ánh sáng của nhân ái và thứ tha. Làm sao chúng ta có thể nhận ra “Con Người” đẹp nhất trần gian, nếu chúng ta không nhìn qua lăng kính của Tình Yêu! Cuộc khổ nạn của Chúa cho chúng ta một cái nhìn thật thâm trầm và sâu sắc về sự nguyên tuyền của Tình Yêu: đứng trên sự cuồng nộ là thinh lặng, đứng trên hành vi bạo lực là một tinh thần bình an, đứng trên lòng thù hận là tha thứ, đối lại thô bạo là bao dung. Tình Yêu làm chúng ta bỡ ngỡ và sửng sốt. Chúng ta thích ngắm nhìn hình ảnh của một tình yêu siêu thoát và bay bổng, nhưng nơi Chúa Giêsu, tình yêu trở nên bình dị và gần gũi. Chúng ta mong muốn một tình yêu được nhận lãnh và chiếm hữu, nhưng nơi Chúa Giêsu, tình yêu lại trở thành trao ban và từ bỏ. Tình yêu là nét đẹp của sự tự hạ và quên mình, là dâng hiến bằng chính trái tim và trọn vẹn cuộc đời. Tình yêu không là ngôn từ để kết án, không là vũ khí của bạo lực đa đoan.
Tình yêu là âm thanh gợi cảm của trái tim, là nét vẽ thanh thoát của vũ hoàn và là dòng suối của hoa trái tha thứ và bao dung. Chúa Giêsu đã làm tan chảy mọi ô nhơ và đố kỵ, khi Người đặt tất cả trong ánh sáng của tình yêu. Nguồn suối ân sủng từ tình yêu Chúa Giêsu làm cho mảnh đất khô cằn của sự chết trở nên hồi sinh và đầy tràn sức sống.(x.sđd, trang 232-269). Trước tình yêu vô biên của Đấng Cứu Độ, con người sao có thể đáp đền cân xứng?. Làm thế nào so sánh một giọt nước nhỏ nhoi với cả đại dương mênh mông vô tận!?
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay đều hướng về một sứ điệp. Đó là sứ điệp tình yêu. Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha đến độ vâng lời đón nhận cái chết thập giá và yêu thương con người nên đã đón nhận mọi khổ đau của nhân loại mà đưa lên cây thập gía hầu ban ơn cứu độ.
Chính tình yêu, chứ không phải đau khổ, đã biến thập giá tủi nhục thành Thánh Giá vinh quang. Chính tình yêu của Chúa Giêsu, chứ không phải cuộc khổ nạn mà chúng ta được Cứu Độ (Ga 3,17), được giải thoát mọi xích xiềng tội lỗi. Như vậy, cuộc thương khó của Chúa Giêsu là một hành trình của tình yêu tiến tới sự sống và hạnh phúc cho muôn người.
Khi chấp nhận mang lấy những khổ đau, những nhục nhã của cái chết Thập giá, Chúa Giêsu đã trở nên như hạt lúa phải mục nát đi để cho sự sống mới phát sinh. Nhờ sự chết của Người mà sự sống đời đời xuất hiện cho nhân loại. Đó là định luật nối kết sự chết và sự sống. Chấp nhận đau khổ và sự chết vì tình yêu thì nó trở thành con đường dẫn đến sự sống muôn đời.
Trong cuộc sống thường ngày, có những lúc chúng ta gặp đau khổ, gặp thất bại, gặp nghịch cảnh. Nhiều lúc mình than trách Chúa, nghi ngờ tình yêu của Chúa. Có người bị lung lay đức tin. Có người đã đánh mất đức tin. Hãy chiêm ngắm đau khổ Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn để vững vàng vượt qua thử thách, băng qua gian truân. Qua Thập giá mới đạt tới vinh quang Phục Sinh. Hãy xin được như Thánh Gioan kiên vững dưới chân Thập giá để trung thành với một tình yêu sắt son cùng Thầy Giêsu. Hãy xin được như Đức Maria can đảm dưới chân Thập giá cùng chịu đau thương nhục nhã với người con yêu.
Con Thiên Chúa đã gánh chịu mọi khổ đau của thân phận con người, nhưng Người không oán than, không kêu trách, không rên xiết; trái lại, Người đón nhận khổ đau với một tình yêu sâu đậm: Yêu Chúa Cha và yêu nhân loại. Chính tình yêu này đã biến khổ đau của Người nên nguồn ơn cứu rỗi. Tình yêu cứu độ của Chúa đưa nhân loại đi tới bến bờ hạnh phúc. Chúng ta hãy tin yêu Chúa Giêsu và bước đi theo Người để có sự sống dồi dào và niềm vui an hoà.
Qua bài thương khó vừa nghe, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về nỗi cô đơn và sự im lặng của Chúa Giêsu.
Trước hết là nỗi cô đơn. Càng về cuối đời, Chúa Giêsu càng bị lẻ loi cô đơn. Dân chúng và những người thân đều từ bỏ Ngài và giờ đây, cả các môn đệ cũng từ bỏ Ngài. Chúa Giêsu cô đơn trong vườn Cây Dầu. Ngài lại càng cô đơn hơn nữa trong lúc bị bắt bởi vì các môn đệ đều trốn chạy. Trước thượng hội đồng, Chúa Giêsu chẳng có một ai để bênh vực mà chỉ toàn thấy những kẻ cáo gian Ngài. Trong khi đó, ở bên ngoài, ông Phêrô đã chối Chúa. Ngay cả Đức Chúa Cha xem ra cũng bỏ rơi Ngài, chỉ còn lại mấy người phụ nữ trung thành, nhưng họ cũng chỉ đứng tự đàng xa.
Tiếp đến là sự im lặng của Chúa Giêsu. Trước toà án phần đạo, Chúa Giêsu chỉ trả lời vị thượng tế có một lần. Trước toà án phần đời, Chúa Giêsu chỉ trả lời Philatô có một lần. Và trên cây thập giá, theo sự ghi nhạn của thánh Marcô, Chúa Giêsu cũng chỉ thốt lên có một lời.
Thế nhưng sự cô đơn và im lặng của Chúa Giêsu đã đứa tới một hậu quả thật bất ngờ, đó là lời tuyên xưng của viên đội trưởng Lamã: Quả thực người này là Con Thiên Chúa. Với lời tường thuật đơn sơ và mộc mạc, thánh Marcô cho chúng ta thấy: Chân lý tự bản chất vốn giản dị, chứ không màu mè phức tạp. Không phải cứ nói nhiều, nói hay mà người ta có thể làm sáng tỏ chân lý. Cũng như không phải cứ sơn phết cho thật màu mè mà người ta tạo được một bức hoạ tuyệt vời. Chúng ta sẽ lầm khi nghĩ rằng với những sách vở và những bài thuyết trình sâu sắc, hấp dẫn với những công trình khảo cứu hoàn bị, chúng ta có thể đem đến cho mọi người tất cả những câu trả lời về Đức Kitô.
Không. Đức Kitô không phải là một mớ những lý thuyết, những tư tưởng, nhưng Ngài là một con người mà chúng ta cần phải gặp gỡ, phải chiêm ngưỡng và phải tìm hiểu để rồi dần dần khám phá ra những châh lý về Ngài.
Từ đó chúng ta đi tới một kết luận cụ thể như thế này. Đức Kitô không phải chỉ là một cái gì chúng ta nói, chúng ta rao giảng, chúng ta tuyên xưng ngoài môi ngoài miệng, nhưng Ngài cần phải được bén rễ sâu trong tâm hồn và trong cuộc đời chúng ta.
Điều đó có nghĩa là chúng ta có bổn phận phải sống đức tin hay mói một cách cụ thể hơn, chúng ta có bổn phận phải sống gắn bó mật thiết với Đức Kitô. Chúng ta phải tuyên xưng Ngài bằng hành động và bằng cả cuộc đời chúng ta.
Với Lễ Lá hôm nay, chúng ta bắt đầu tuần lễ quan trọng nhất của Năm Phụng Vụ gọi là Tuần Thánh. Trong Tuần Thánh, chúng ta cử hành cuộc khổ nạn, sự chết và nhất là sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Dầu cho với cái nhìn chính trị, xã hội của con mắt người đời, việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua, là một việc có tính cách gây rối chính trị, vì đế quốc Rôma đang cai trị và Hêrôđê đang làm vua. Nhưng Chúa Giêsu, Người biết rõ việc Người làm. Trước mặt Philatô, Người tuyên bố rõ ràng: "Tôi là Vua nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này".
Vậy Phụng vụ Lễ Lá có thể gợi lên cho chúng ta ba ý nghĩa. Trước tiên Chúa nhật lễ Lá là việc tưởng niệm cuộc vào thành Giêrusalem long trọng của Chúa Giêsu trước khi Người chịu khổ hình và chết. Biến cố đó cho chúng ta thấy Chúa Giêsu biết rằng giờ của Người đã đến, biết rằng Người phải làm gì và Người đã tự nguyện bước vào cái chết sinh ơn cứu độ, như hạt lúa miến đã chết đi để sinh sự sống mới. Người tự hiến mình để chu toàn thánh ý của Chúa Cha. Vì thế trước đó nhiều lần, những người Do Thái chống đối lập mưu để giết Người, như ném đá Người hoặc xô Người xuống vực thẳm, nhưng họ không làm được việc gì, vì giờ của Người chưa đến. Và cũng đã nhiều lần dân chúng hợp lại định tôn phong Người lên làm vua, nhưng Người đã lẫn trốn sang nơi khác cũng chỉ vì giờ của Người chưa đến.
Ý hướng thứ hai của lễ Lá là ngày lễ để tôn kính Chúa Kitô là Vua. Đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc đời trần thế của Người, Chúa Giêsu đồng ý để cho dân chúng tung hô vạn tuế Người là Vua: "Hoan hô chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời". Người vào Giêrusalem, thành của vua cả trong phong cách đế vương, và chính vì phong cách đế vương này mà Người đã bị kết án tử hình. Bản án của Người được viết bằng ba thứ tiếng, Do Thái, La Tinh và Hy Lạp, "Giêsu Nagiarét Vua dân Do Thái". Vì thế, dầu cho Người bị kết án tử hình bằng một hình khổ dã man và nhục nhã, đóng đinh chân tay căng thây trần truồng trên thập giá, nhưng các sách Phúc Âm đều ghi đậm nét vẻ vương giả của Người để khai mào một vương quốc mới. Vương quốc của sự thật và sự sống, vương quốc của yêu thương và an bình như Người đã nói trước mặt Philatô: "Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự thật. Ai tôn trọng sự thật thì nghe tiếng tôi". Vậy Chúa nhật lễ Lá cho chúng ta một cơ hội nữa để tuyên xưng niềm tin của chúng ta vào Vua các vua, Vua cả trời đất, nhất là Vua của mọi cõi lòng.
Với ý nghĩa thứ ba, Chúa nhật lễ Lá nhắc cho chúng ta biết sống trên đời là đối đầu với đau khổ, vì lễ Lá dẫn đưa chúng ta vào cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, chuẩn bị chúng ta chiêm ngắm cái chết đau thương của Người trên đồi Canvê. Khi chấp nhận bằng lòng vác thập giá mình mà theo chân Chúa Giêsu, đó là chúng ta cũng chia sẻ gánh nặng của Người, noi gương Người để vác thập giá, nhưng điều quan trọng là không phải vác đi trong than khóc mà trong hy vọng. Vì với Chúa Giêsu, đau khổ và chết chóc không dồn con người vào ngõ bí, mà là dẫn đưa đến vinh quang của ngày sống lại.
Hôm nay trong cái nghịch lý của Lễ Lá, vị Vua của chúng ta tiến lên, vị Vua đã bênh vực nhân vị của con người, đã xoa dịu mọi đau khổ thể xác như tinh thần của những ai đến cùng Người. Vị Vua đó đã thu, đã hút tất cả những đau khổ của thể xác và tinh thần của con người vào chính bản thân mình, để chết đi một lần cho tất cả và đã mở ra cánh cửa vào chốn trường sinh. Đó là niềm hy vọng của chúng ta.
Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi sẽ tìm cách tế nhị giúp cho một người đang gặp khó khăn vật chất hoặc đau buồn tinh thần, để họ lấy lại được niềm hy vọng. Và noi gương Chúa Giêsu nơi vườn cây Dầu, khi Người cầu nguyện: "Lạy Cha nếu có thể được, xin cất chén đắng này xa Con, nhưng xin đừng theo ý Con một theo ý Cha mà thôi", chúng ta cũng xin Chúa cho chúng ta biết vui lòng vâng phục thánh ý Chúa, dầu lắm khi chúng ta không hiểu được tại sao.
Các trình thuật Thương Khó trong các sách Tin Mừng kể lại cho chúng ta những biến cố rất cảm động liên quan đến cuộc Vượt Qua của Chúa chúng ta, Đức Giêsu Kitô. Trong suốt Tuần Thánh, chúng ta sẽ có nhiều dịp suy niệm về các biến cố đó.
Nhưng đâu là tâm tư sâu kín của Chúa Giêsu làm sợi chỉ đỏ xuyên suốt tất cả các biến cố xảy ra ? Đức Giêsu đón nhận và trải qua các biến cố của cuộc Thương Khó với thái độ căn bản nào ?
Bài đọc II của Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay hé lộ cho chúng ta phần nào tâm tư đó của Chúa Giêsu: sự vâng phục tuyệt đối của Đức Giêsu đối với Cha. Thánh Phaolô viết: “Đức Giêsu Kitô đã hạ mình xuống, vâng lời cho đến nỗi phải chết, và chết trên cây thập tự” ( Pl 2, 8 ). Đây chính là chìa khoá giúp chúng ta đi vào mầu nhiệm mà Thánh Luca trình bày trong trình thuật Thương Khó được công bố trong Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay.
Vì thế, sẽ thật hữu ích nếu chúng ta dành vài phút suy niệm về Pl 2, 8.
1. “Đức Giêsu Kitô đã hạ mình xuống”
Không phải chỉ trong cuộc thương khó Đức Giêsu mới hạ mình xuống. Thực ra, đó là mầu nhiệm căn bản mà Người sống từng giây từng phút. Nhưng hơn lúc nào hết, mầu nhiệm đó được chúng ta chiêm ngắm cách rõ nét trong cái chết thập giá đau đớn và ô nhục của Người.
Động từ “hạ mình xuống” ( tapêinôo ) có thể mang sắc thái tiêu cực khi chỉ một sự hạ mình xuống trước mặt người khác, khiến mình đánh mất phẩm giá của chính mình. Nhưng đồng thời, động từ này cũng có thể mang sắc thái hết sức tích cực khi diễn tả thái độ của con người chúng ta trước Thiên Chúa, nhất là trong việc cầu nguyện và phụng tự. Những gì được nói ở cuối câu 8 và trong những câu kế tiếp buộc chúng ta phải hiểu sự hạ mình được nói đến ở đây theo cả hai nghĩa tích cực và tiêu cực. Đó là một sự hạ mình tích cực, bởi lẽ nó được đặt trong tương quan với Thiên Chúa. Nhưng đó cũng là một sự hạ mình tiêu cực trong cái nhìn nhân loại, bởi lẽ đó là sự hạ mình trong cái chết ô nhục trên thập giá.
Mầu nhiệm mà Hội Thánh tưởng niệm và cử hành trong Tuần Thánh chính là mầu nhiệm hạ mình này của Chúa Giêsu, trong điểm mạnh mẽ và tuyệt hảo nhất của mầu nhiệm. Người hạ mình vâng phục Thiên Chúa. Người hạ mình trong hiến lễ tuyệt đối, hiến dâng chính mình cho Thiên Chúa trong hy lễ Thập Giá. Nhưng đồng thời đó cũng là mầu nhiệm Chúa Giêsu hạ mình xuống trước mặt nhân loại, chấp nhận mang lấy nơi mình những đớn đau và ô nhục khiến Người trở thành như một kẻ bị nguyền rủa và khinh khi nhất trong nhân loại này. Tính cách “kép” của mầu nhiệm Đức Giêsu hạ mình xuống là điều cần phải được ý thức và duy trì trong mọi cuộc cử hành việc tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, cách riêng trong Tuần Thánh này.
2. “Vâng lời cho đến nỗi phải chết, và chết trên cây thập tự”
Đây là mệnh đề cho biết cách thức Đức Giêsu sống mầu nhiệm “hạ mình xuống” của Người. Đức Giêsu hạ mình như thế nào? Đâu là điểm căn cốt trong mầu nhiệm “hạ mình xuống” đó? Thưa: “Người đã vâng lời cho đến nỗi phải chết”. Và đó là một sự vâng phục kéo dài trong suốt cuộc sống Người và đạt đến đỉnh điểm trong mầu nhiệm Thương Khó của Người.
Đáng chú ý là ở đây Thánh Phaolô chỉ nói về “độ dài” ( nếu có thể nói như thế ) và về “cường độ” của sự vâng lời của Đức Giêsu Kitô, chứ không nói Đức Giêsu vâng lời ai và vâng lời như thế nào. Đức Giêsu sống mầu nhiệm vâng lời này suốt đời và trọn vẹn. Nhưng Người vâng lời ai ? Vâng lời Thiên Chúa và/hoặc con người ? Chắc chắn sự vâng lời được nói đến ở đây phải là sự vâng lời Thiên Chúa ( nếu không, những gì được nói ở Pl 2, 9 – 11 sẽ trở thành vô nghĩa ). Nhưng vấn đề là ở đây Thánh Phaolô có muốn nói đến sự vâng phục đối với con người hay không ? Theo nhiều nhà nghiên cứu, có lẽ có.
Theo cách Thánh Phaolô sử dụng từ ngữ chỉ sự vâng lời, quả là đúng đắn khi nói rằng sự vâng lời của Đức Giêsu được đề cập đến ở đây có đối tượng trước hết là chính Thiên Chúa nhưng đồng thời cũng diễn tả sự vâng lời con người. Khi cố ý không xác định hiển ngôn đối tượng của sự vâng phục, mệnh đề “vâng lời cho đến nỗi phải chết” ( mà chúng ta đang suy niệm đây ) muốn nhấn mạnh và đề cao trước hết chính sự vâng lời của Chúa Giêsu, sự kéo dài và sự mạnh mẽ triệt để của sự vâng phục đó.
Trong suốt cuộc đời, cách riêng trong cuộc Thương Khó, Đức Giêsu luôn sống một cách triệt để sự vâng phục đối với Thiên Chúa. Đó là khía cạnh thứ nhất và khía cạnh chính yếu trong mầu nhiệm vâng phục của Đức Giêsu mà Hội Thánh cung chiêm cách đặc biệt trong Tuần Thánh này. Đồng thời, đó là sự vâng phục trong thân phận tôi đòi. Không có một khoảnh khắc nào Đức Giêsu không sống trong một sự liên đới trọn vẹn với thân phận tôi đòi và hèn hạ của người nghèo, huống nữa là trong cuộc Thương Khó của Người.
Mầu nhiệm mà Hội Thánh tưởng niệm và cử hành trong Tuần Thánh này cách đặc biệt, chính là mầu nhiệm của sự vâng phục trọn vẹn đó của Đức Giêsu. Người hoàn toàn hiến mình vâng phục Thiên Chúa trong hy lễ thập giá. “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” ( Hr 5, 8 ). Người trọn vẹn liên đới với thân phận những con người nghèo khổ và bị khinh khi giữa thế gian, những con người phải hoàn toàn tuỳ thuộc người khác.
Cái chết thập giá được trình bày như là đỉnh điểm của mầu nhiệm hạ mình. Đức Giêsu Kitô đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, hoàn toàn trút bỏ tất cả những gì là vẻ uy nghi của một vì Chúa. Người chấp nhận bị loại trừ và bị nhục mạ đến cùng cực trong cái chết thập giá. Cái chết thập giá là cực điểm của hành trình vâng phục của Con Thiên Chúa. Người đã đi đến tận cùng của đời sống vâng phục khi đón nhận cái chết hổ nhục nhất: “Đức Kitô đã chuộc chúng ta cho khỏi bị nguyền rủa vì Lề Luật, khi vì chúng ta chính Người trở nên đồ bị nguyền rủa, vì có lời chép: Đáng nguyền rủa thay mọi kẻ bị treo trên cây gỗ !” ( Gl 3, 13 ).
Như thế, từ địa vị Thiên Chúa vinh quang, Đức Kitô đã đi xuống tận cùng thân phận của người nô lệ để cứu độ con người bằng cách chữa lành thái độ bất phục tùng của con người. “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính” ( Rm 5, 19 ).
Thật ra, mầu nhiệm hạ mình vâng phục chính là mầu nhiệm căn bản và chính yếu trong toàn bộ cuộc đời Đức Giêsu. “Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” ( Hr 10, 5 – 6 ). Khi bước vào cuộc thương khó, Người thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha” ( Lc 22, 42 ).
Vì thế, chúng ta sẽ không thể hiểu được trình thuật Thương Khó được công bố trong bài Tin Mừng hôm nay, nếu không chú ý đến mầu nhiệm vĩ đại đó.
Vua Đavít nói với họ: “Hãy đưa các bề tôi của chúa thượng các ngươi đi theo các ngươi; để Salômôn con ta cưỡi con la cái của ta, rồi đưa nó xuống Ghikhôn. Ở đấy, tư tế Xađốc và ngôn sứ Nathan sẽ xức dầu phong nó làm vua Israel; các ngươi sẽ rúc tù và hô: “Vua Salômôn muôn năm !” Rồi các ngươi hãy theo nó đi lên, nó sẽ vào ngự trên ngai của ta, nó sẽ làm vua thay thế ta, vì chính nó là người mà ta đã đặt lên cai quản Israel và Giuđa.” ( 1V 1, 33 – 35 ).
Sau khi dân chúng long trọng đón rước Đức Giêsu vào thành Giêrusalem, như ngày xưa Vua Salômôn cũng cưỡi la đăng quang, thì cuộc khổ nạn sắp diễn ra. Vua Salômôn lên ngôi nối tiếng là vị minh quân khôn ngoan và giàu sang. Còn Đức Giêsu đăng quang làm Vua Cứu Thế, lại chịu đủ nỗi nhục nhã ê hề.
Cuộc khổ nạn minh chứng công khai và hùng hồn Lời Chúa. Một cuộc chiến đấu căng thẳng, quyết liệt giữa giữa Ánh Sáng và bóng tối, giữa Tình Yêu cao quý và hận thù mù quáng điên dại.
Bóng tối bủa vây Ánh Sáng
Ngay trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu báo tin như sét đánh mang tai, có kẻ phản bội đang ngồi cùng bàn, thì các môn đệ bàn tán, suy đoán hăng say, xem đích danh là ai ?
Thế rồi, bỗng dưng quay sang “cãi nhau sôi nổi, xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất” ( Lc 22, 24 ). Bóng tối gian ác, bóng tối háo danh, hám chức, hám quyền vẫn bao phủ, che mờ mắt các môn đệ. Khiến Người vừa phải giải thích, vừa làm gương rửa chân cho các môn đệ.
Sau đó, Chúa Giêsu mời gọi các ông: “Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ !” ( Lc 22, 40 ). Người cầu nguyện xong lại thấy các ông ngủ vùi, nhắc nhở lần nữa: “Sao anh em lại ngủ ? Dậy mà cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” ( Lc 22, 46 ). Ngay lúc đó quân dữ đã ập đến bắt Người, sau cái hôn chỉ điểm của Giuđa. Bóng tối đã áp đảo Ánh Sáng. Chúa Giêsu xác nhận: “Nhưng đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm” ( Lc 22, 53 ).
Chính lúc này, ông Phêrô tham sống sợ chết đã chối Chúa ba lần trước khi gà gáy. Các Tông Đồ khác cũng đều bỏ chạy thoát thân. Bóng tối thành công lôi kéo tòng phạm. Nhưng với những giọt lệ sám hối, Phêrô mau chóng quay về Ánh Sáng.
Vừa bị bắt giữ, Chúa Giêsu đã tả tơi đòn vọt. Bóng tối thừa thế xông lên. Ra trước tòa Tổng Trấn Philatô, Người bị vu khống, âm mưu phản loạn. Rồi Hêrôđê mỉa mai cho Người khoác áo đỏ chế giễu vua dân Do Thái. Quan Tổng Trấn Philatô toan thả Người, nhưng các thủ lãnh dân chúng một mức đòi giết Người. Bóng tối tràn ngập bao phủ. Ánh Sáng sắp tắt lịm.
Án tử hình đã quyết, Người vác thập giá vất vả dưới những cơn mưa roi vọt. Đến khi chịu đóng đinh, treo lên cao, Người còn nhẫn nhục chịu bao nỗi phỉ báng nhục mạ. Khi Người trút hơi thở cuối cùng là lúc Ánh Sáng bừng lên xua tan bóng tối.
Ánh Sáng xua tan bóng tối
Trước khi xuất khỏi thế gian, Chúa Giêsu để lại Di Sản cực kỳ quý báu. Đó chính là Mầu Nhiệm Thánh Thể, hầu dưỡng nuôi linh hồn những người Tin và Yêu Con Chiên Thiên Chúa. Một kho tàng vô tận, phong phú và phổ biến, dễ tiếp cận, mà Người mong mỏi mọi người được dự phần. “Đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em... Chén này là Giao ước mới, lập bằng Máu Thầy, Máu đổ ra vì anh em” ( Lc 22, 19 – 20 ). Đây chính là Nguồn Sáng chói lòa, vô tận, xua tan bóng đêm ma quỷ. Nguồn Lực vô biên cho ai biết chạy đến ẩn náu trông cậy.
Tiếp đến, Chúa Giêsu còn trao cho các Môn Đệ, các Kitô hữu một bí quyết tuyệt chiêu chân truyền, hòng củng cố, phòng ngự và đối phó với bóng tối hắc ám ma quỷ. Đó là siêng năng cầu nguyện. Sống kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Cơn cám dỗ bản năng sinh tồn đã bị lời cầu nguyện hóa giải. “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng cho ý con thể hiện, mà là ý Cha” ( Lc 22, 42 ).
Sắp đến giờ phút ly biệt xót xa, Đức Giêsu vẫn nhẫn nại dạy các môn đệ về tính phục vụ. Nhất là chức vụ càng cao càng khiêm nhường, dễ mến, như trẻ nhỏ. “Ai lớn nhất trong anh em, thì phải trở nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ” ( Lc 22, 26 ). Noi gương Người.”Thầy đầy, Thầy sống giữa anh em như người phục vụ” ( Lc 22, 27 ). Bởi vì phục vụ chính là thể hiện Ánh Sáng của Tình Yêu.
Ánh mắt Đức Giêsu nhìn ông Phêrô sau khi ba lần chối Ngưởi, những lời an ủi dành cho quý phụ nữ tốt lành theo chân Người, lời tha thứ cho tên trộm sám hối, cùng lời cuối cùng phó thác Chúa Cha, đó là những luồng ánh sáng rực rỡ trong màn đêm u ám, chết chóc và đau khổ cùng cực.
Bóng tối lấy cực hình dã man đầy đọa, tường chừng bót nghẹn sức sống, niềm tin yêu, hy vọng. Nhưng Ánh Sáng Tình Yêu của Đức Giêsu đã hóa giải, phá tan xiềng xích sự dữ, giải phóng con người khỏi bóng tối sự chết.
Chịu khổ nạn, đòn vọt, chịu mạ lỵ, vu oan cáo vạ, trong thinh lặng và nhẫn nhục, Đức Giêsu đem ánh sáng vào nơi tăm tối, soi dọi vào những góc khuất u ám của thù hận, của ác nhân, của tà thần, hòng biến đổi, cảm hóa. Người “đem yêu thương vào nơi oán thù. Đem thứ tha vào nơi lăng nhục. Đem an hòa vào nơi tranh chấp. Đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Đem tin kính vào nơi nguy nan. Chiếu trông cậy vào nơi thất vọng. Dọi ánh sáng vào nơi tối tăm. Đem niềm vui đến chốn u sầu” ( Kinh Hòa Bình ).
Không có cơn thử thách nào lớn lao bằng cơn thử thách của Chúa Giêsu trên thập giá, lúc thân xác hấp hối, tâm hồn lại cảm thấy chính Đức Chúa Cha như cũng bỏ rơi mình, Chúa Giêsu phải nói lên nỗi khổ ê chề nhất trong đời Ngài: “Sao Cha bỏ con !” Hãy hiệp nhất với Chúa Giêsu trong những giây phút hãi hùng, tăm tối nhất của đời con. Bình an sẽ trở lại và con sẽ nói được như Chúa Giêsu: “Con phó mạng sống con trong tay Cha !” ( Đường Hy Vọng, 715 ).
Lạy Chúa Giêsu, Đấng đã chịu cuộc khổ nạn tàn khốc, đã vượt thắng bản thân và cám dỗ mọi bề, xin dạy con luôn biết chống trả sự dữ, sự bất trung với Thiên Chúa, để con không trở nên những gai nhọn, hay đòn roi hành hạ, dày xéo thân xác Chúa nữa.
Lạy Mẹ Maria, xưa Mẹ đã đồng hành cùng Chúa Giêsu trong cuộc Khổ Nạn, nay kính xin Mẹ cũng đồng hành với con, để giúp con khỏi sa ngã, phạm tội, khỏi đóng đinh Chúa nữa. Amen.
Có thể nói, cuộc Thương Khó của Đức Giêsu là một bài suy niệm dài không có trang kết thúc. Mỗi sự kiện, mỗi chặng đường, mỗi nhân vật xuất hiện đều mang một sứ điệp riêng. Để mà suy niệm và viết, có lẽ không trang giấy nào lột tả cho đủ. Tuy nhiên, mỗi một Mùa Thương Khó qua đi, lại thêm một sự kiện, một dấu ấn để nhân loại có thể hồi tâm trở về, trắc ẩn trước tình thương vô biên cao cả của Thiên Chúa.
Lòng can đảm và tình yêu thương không bờ bến. Đó chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt hành trình khổ nạn. Tất cả chỉ vì yêu, yêu Chúa Cha, yêu nhân loại, mà Đức Giêsu đã tự nguyện vâng phục ghé vai gánh vác thập tự giá – án tử hình dành cho hàng tội nhân trong khi Ngài hoàn toàn là Đấng vô tội: “Ta xét thấy người này không có tội gì” ( Lc 23, 4 ). Lòng tự nguyện của Ngài mãnh liệt quá, chính tình yêu thương vâng phục vô điều kiện ấy là động lực giúp Ngài vượt qua mọi khó khăn, thử thách, sỉ nhục, nhạo báng, kết án bất công… để đi đến tột cùng yêu thương.
Đây cũng chính là phương châm, là kim chỉ nam để tất cả những ai muốn theo Ngài. Chỉ cần có sự vâng phục tự nguyện và tin tưởng tuyệt đối vào tình thương của Thiên Chúa, chắc chắn họ sẽ được Ngài cứu độ và thương yêu.
Thái độ bình thản trước những lời vu oan giá họa và sỉ nhục, xúc phạm đến nhân phẩm, danh dự… “Các thượng tế và kinh sư đứng đó, tố cáo Người dữ dội. Vua Hêrôdê cùng với bọn lính tỏ ra khinh dể Người, khoác cho Người một chiếc áo rực rỡ mà chế giễu...” ( Lc 23, 10 – 11 ) không phải vì Ngài cào bằng tất cả, hay tỏ thái độ khinh miệt, bất cần đời, nhưng vì tình yêu thương của Ngài đã vượt lên trên tất cả. Ngài thấu hiểu và tha thứ, vì biết rằng nhân loại lầm lạc, mù quáng, không biết mình đang làm gì.
Mỗi người chúng ta cũng vậy, chúng ta cần phải có một thái độ bình thản, kiên tâm trước những lời kết án, vu oan giá họa. Vì bởi nếu tranh chấp hơn thua với kẻ ác, chắc chắn người thiện sẽ không bao giờ thành công, nếu không muốn nói đến hậu quả sẽ ngày càng tồi tệ hơn. Thay vì thế, hãy tha thứ và thương yêu. Tình thương yêu sẽ hóa giải tất cả, và cũng sẽ là minh chứng hùng hồn cho sự vô tội.
Sự phản kích của công chúng khi hô hào tha tội cho tướng cướp Baraba: “Giết nó đi, thả Baraba cho chúng tôi !” ( Lc 23, 18 ). Đó là một tên tội phạm giết người nguy hiểm, vậy mà dân chúng lại cương quyết đòi phải tha. Còn Đức Giêsu, Ngài đã làm gì nên tội ? Ngài đã làm tổn thương ai, thiệt hại gì ? Vậy tại sao Ngài lại bị dân chúng oán ghét đến như vậy ? Đám dân chúng này là ai ? Có phải là những người vẫn ngày ngày theo Chúa, tận mắt chứng kiến những phép lạ, những điều tốt lành Ngài đã làm cho họ hay không ? Đây cũng là sự thật bẽ bàng nhất trong cuộc sống, khi bị hiểu lầm, bị kết án, bị ganh ghét, con người như bị dồn vào chân tường cùng cực của sự tuyệt vọng. Thay vì hoang mang, oán hận, chi bằng hãy học nơi Đức Giêsu, sự thinh lặng, cam chịu, chấp nhận tất cả.
Trên đường lên Núi Sọ, có những người phụ nữ than khóc bước theo Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã phán: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu của chị em” ( Lc 23, 28 ). Phải, Đức Giêsu không đáng thương, nhưng kẻ đáng thương chính là chúng ta. Nhân loại mới thực sự là những kẻ đáng thương vì đã giết chính Con Thiên Chúa. Con người mới là kẻ đáng thương vì đã loại bỏ Đấng làm chủ đời mình. Thế giới đáng thương vì đã bị của cải, danh vọng, quyền lực… làm lu mờ con mắt Đức Tin và ánh sáng Chân Lý.
Riêng Chúa Giêsu, thân phận Ngài là Thiên Chúa và mãi mãi vẫn là Thiên Chúa, không ai có thể lấy đi bất cứ điều gì từ Ngài. Ngài không thể hiện quyền lực không phải vì Ngài khiếm khuyết nhưng chính vì Nước của Ngài không thuộc về thế gian này, nó thuộc về một vương quốc chỉ có tình yêu thương và sự công chính thánh thiện mà thôi.
Khi đã chịu đóng đinh, chấp nhận mọi hình phạt và sự bêu riếu phỉ hổ, Chúa Giêsu đã xin Thiên Chúa Cha tha tội cho nhân loại: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” ( Lc 23, 34 ). Ngài còn hứa với tên gian phi biết sám hối: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” ( Lc 23, 43 ). Đẹp quá, những nghĩa cử thật là cao đẹp quá, không còn gì cần phải nghi ngờ nữa. Sự tha thứ vô điều kiện chỉ có nơi Thiên Chúa mà thôi.
“…Khi thấy những sự việc xảy ra như thế, tất cả những đám người đã tụ tập đông đảo để xem cảnh tượng ấy đều đấm ngực trở về nhà” ( Lc 23, 48 ). Thế là cuộc khổ nạn của Đức Giêsu đã chấp dứt. Tiếng cười đùa, giễu cợt hay phỉ báng cũng đã qua đi. Đức Giêsu đã tắt thở… và người ta chứng kiến cảnh tượng kinh thiên động địa, núi non vỡ ra tan tác… Người ta đã tin và đấm ngực trở về. Người ta đã tin thật: “Người này quả thật là công chính !” ( Lc 23, 47 ).
Đây chính là lời chứng cuối cùng cho sự vô tội của Ngài. Khi đã nhận biết sự sai lầm của mình, họ đã đấm ngực trở về. Vậy mà hơn 2.000 năm qua, năm nào cũng vậy, Giáo Hội vẫn tưởng niệm lại cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, thế mà nhân loại vẫn lầm lạc trên con đường tội lỗi, chẳng mấy ai tin, chả mấy ai biết đấm ngực trở về.
Lạy Chúa Giêsu, con không chỉ chứng kiến một lần, nhưng có thể nói trên 30 lần. Con tận tai nghe được những lời nói và hành động của Ngài trên con đường khổ nạn, thế nhưng chẳng hiểu sao con đấm ngực mà vẫn không thể trở về.
Còn điều gì vậy, còn điều gì đang chế ngự nơi con để rồi con mãi sống xa lìa tình yêu Chúa ? Con vẫn ngày ngày đóng đinh Ngài mỗi khi gặp thử thách, gian nan, con thường kêu ca oán trách Ngài. Mỗi khi gặp trái ý, đau khổ, con vẫn nguyền rủa, thóa mạ tha nhân…
Xin giúp con, lạy Chúa, xin giúp con biết dừng lại, thinh lặng trước cuộc khổ nạn, không phải để khóc thương Ngài nhưng là khóc thương chính bản thân mình đã phản nghịch, lỗi phạm cùng Thiên Chúa để được tha thứ và thương yêu.
Xin giúp con hãy buông tay xuống, hãy cởi bỏ những ghét ghen, ích kỉ trong con tim, và hãy nói lời thương yêu tha thứ: “Xin Cha tha thứ, vì con, cũng như họ… không biết việc mình đã làm !”
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Đức Giêsu vào thành Giêrusalem để khởi đầu cuộc thương khó. Ngài tiến vào thành trong tiếng reo hò vang dội của dân chúng. Họ trải áo của mình xuống để lót đường cho Chúa đi. Tay cầm nhành lá thiên tuế vẫy chào. Miệng vang hò reo mừng: “Hoan hô con vua Đavít”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Sự kiện Chúa vào thành làm cho dân chúng vui mừng và hy vọng. Họ mong ước từ lâu được nhìn thấy Chúa đến với họ trong cương vị của một vị vua, đến để giải thoát họ khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma thời bấy giờ. Còn Đức Giêsu, Ngài đến với tư cách gì, và, sứ mạng của Ngài ra sao?
Đức Giêsu đến để thực thi thánh ý Thiên Chúa Cha
Theo Tin Mừng Gioan thì: “lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa” ( Ga 1, 1 ). Thánh Gioan muốn xác quyết thật rõ ràng rằng: Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người, vì thế Ngài luôn hướng về với Đấng mà Ngài đã từ đó mà đến trong thế gian này. Điều này được chính Đức Giêsu minh định khi nói với Đức Mẹ và thánh Giuse lúc 12 tuổi, khi các ngài tìm thấy Chúa trong đền thờ, Ngài nói: cha mẹ không biết là con phải thi hành ý của Cha con sao ? Điều này đã được chính Chúa Cha giới thiệu với mọi người khi Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan: “Con là Con của Cha. Ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” ( Lc 3, 22 ). Khởi đầu sứ vụ cứu rỗi, Đức Giêsu đã chịu cám dỗ ( x. Mt 4, 1 – 11 ).
Satan dù thất bại, nhưng vẫn luôn chờ đợi thời cơ ( x. Lc 4, 13 ). Sự kiện này cho chúng ta thấy: Satan sẽ không ngừng cám dỗ Đức Giêsu sử dụng chức quyền để vụ lợi, để đề cao chính mình, để tranh thủ quyền lực thế gian, và mục đích cuối cùng của nó là loại bỏ sứ mạng Thiên Sai trong tư cách là Người Tôi Tớ của Giavê. Nhưng giờ đã đến, giờ phải bỏ thế gian để về cùng Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu đã vào vườn Giệtsimani cầu nguyện. Ngài đã linh nghiệm trước những đau khổ mà mình sẽ phải chịu để cứu độ nhân loại, nên Ngài toát mồ hôi máu, và, cũng với tư cách là Người Tôi Tớ đau khổ của Giavê, bằng lời cầu nguyện tại vườn Cây Dầu, Đức Giêsu bày tỏ sự tùng phục tuyệt đối ý định của Thiên Chúa Cha ( x. Mc 14, 36 ), bởi vì lương thực của Ngài chính là làm theo ý Chúa Cha.
Như vậy, việc Đức Giêsu vào thành Giêrrusalem là để khởi đầu cuộc thương khó và thực hiện ý định cứu độ nhân loại qua sự vâng phục trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa Cha trong sứ vụ Thiên Sai của Người Tôi Trung. Đức Giêsu vào thành Giêrrusalem để chịu chết Sứ mệnh cứu độ của Người Tôi Trung đã đến, Đức Giêsu nhất quyết lên Giêrusalem để chịu chết như lời Ngài đã tiên báo với các môn đệ: “Thầy đi Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” ( x. Mt 16, 21 ). Đức Giêsu biết trước điều đó, nhưng vì Ngài đến để thực thi sứ mạng của Chúa Cha: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” ( Ga 4, 34 ). Và, “Chén Cha ta trao, lẽ nào ta không uống”. Ngài đã chấp nhận cái chết, để cho chúng ta được sống, như lời thánh Phaolô đã nói: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Nhờ Người mang những vết thương của anh em mà anh em đã được chữa lành” ( 1Pr 2, 24 ).
Hôm nay, Đức Giêsu vào thành Giêrusalem để khởi đầu cuộc Thương Khó. Ngài đã thực sự sống mầu nhiệm tự hủy của hạt lúa: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trụi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống của mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời” ( Ga 12, 23 – 25 ). Ngài đã chấp nhận đi theo con đường khổ nạn để đến vinh quang. Sứ điệp Lời Chúa cho con người hôm nay
Sứ điệp Lời Chúa ngày hôm nay nhắc nhớ mỗi người chúng ta luôn hướng Thiên nhằm tìm thánh ý Thiên Chúa để thi hành. Chỉ khi nào chúng ta làm mọi sự theo thánh ý Chúa, thì khi đó ta mới được cứu độ. Đồng thời cũng phải hướng tha để đem lại hạnh phúc cho tha nhân. Con đường đó là con đường vâng phục; khiêm nhu và phục vụ; con đường của hạt lúa; con đường của khổ giá. Nói chung, con đường đó là con đường hẹp, con đường từ bỏ ý riêng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con sẵn sàng từ bỏ ý riêng của con, để thay vào đó là ý Chúa. Xin cho con biết khiêm tốn và nhạy bén để nhận ra thánh ý Chúa mà thi hành. Xin cho con biết dấn thân phục vụ và sẵn sàng chấp nhận tất cả vì phần rỗi của anh chị em con.
Và, xin Chúa cho con được vác thập giá mình mà theo Chúa lên đồi Canvê, để rồi được sống với Ngài trong vinh quang Phục Sinh. Amen.
Mặt ai cũng tươi, miệng ai cũng hớn hở, nhất là các môn đệ của Chúa. Tha hồ mà vinh dự. Cả một đám đông chen chúc nhảy múa sướng vui, trên tay cành lá ô liu đung đua trong nắng. Hoan hô, Giêsu con Vua Đavít. Bầu không khí náo nhiệt quá! Người ta đang tôn vinh Thầy mình. Ánh hào quang của Thầy, cũng dọi sáng trên khuôn mặt của Thầy mình nữa. Nhưng sáng đó rồi cũng tối đó. Ban ngày đó rồi cũng đêm tối đó. Tiếng hoan hô tắt dần. Cái cảm xúc phấn chấn qua đi đưa ta trở vế trầm mặc. Một sự thật khác lại hiện ra. Có một âm mưu lớn, dệt nên từ các ông lớn trong đạo Do Thái. Phải giết chết ông Giêsu. Nhưng phải giết thế nào cho hợp tình, hợp lý. Phải lấy pháp luật ra mà che chắn. Giết khơi khơi thì hóa ra mình là kẻ ác. Phải uốn pháp luật thế nào cho hợp với toan tính của mình. Trước hết, phải chụp mũ cho người này một tội danh. Phải có tội mới có thể bắt được. Người này bị bắt vì đã phạm tội. Chứ chính quyền, người bảo vệ luật pháp đâu có bắt vô lí. Và rồi, phải đưa ra tòa hẳn hoi. Làm ăn theo kiểu mình mà lị. Nhưng điều quan trọng là phải thu phục được dân chúng.
Cho nên chính sách tuyên truyền ở đây được sử dụng tối đa. Các người biệt phái và luật sĩ phải đi khắp nơi; Để thổi vào tai đám dân ngu ngơ những lời xuyên tạc: “Ông ta đòi phá đền thờ Giêrusalem rồi xây lại trong ba ngày”. “Ông ta đã dám tự xưng mình là Thiên Chúa”. Quá láo, quá ngông cuồng rồi. Phải giết thôi. Và khi Philatô, đứng trên sảnh đường cao, lên giọng hỏi: “Vậy ta phải xử thế nào với người, mà các ông gọi là vua dân Do Thái?” “Đóng đinh nó vào thập giá”. “Nhưng ông ta đã làm điều gì ác?” Đóng đinh nó vào thập giá.
Bóng tối đang phủ dần trên không gian thiên nhiên và không gian tâm hồn. Cũng chính những con người, những môi miệng, những bàn tay, đã giơ cao hoan hô con Vua Đavít, giờ đây, lại mở hốc mồm gào to, đòi đóng đinh vào thập giá. Trong đám đông ấy chẳng ai là vô tội, chỉ có người nhiều, người ít, người nặng người nhẹ mà thôi.
Từ lúc bị bắt, cho tới lúc đứng trước tòa. Cả tòa đạo lẫn tòa đời, Chúa Giêsu cứ lặng thinh cúi đầu, không một lời thanh minh, đính chính hay một lời nguyền rủa kiêu ngạo. Ngài lặng thinh đứng nhìn, để con người thi hành sự tự do của mình: chọn điều thiện, hay chọn cái ác; chọn tình thương hay chọn hận thù.
Đứng trước mưu đồ, nhất là mưu đồ cộng thêm với quyền lực, người ta phải rất tỉnh thức và cảnh giác. Cuộc xử án, và cái chết của Chúa, rồi cũng kết thúc. Kết thúc cách đây cả hơn hai ngàn năm rồi, mà những khuôn mặt xấu, tốt ấy vẫy còn được nhìn rõ trong thời gian. Từng người trong phiên tòa nổi tiếng ấy, sẽ được bước ra, trong phiên tòa của công lí.
Gợi ý suy niệm:
1- Bạn đánh giá thế nào về những con người của đám đông trong phiên tòa ấy? 2- Nếu có mặt trong đám đông ấy, bạn nghĩ thái độ của bạn lúc ấy sẽ thế nào?
Chúng ta khởi đầu thánh lễ hôm nay bằng một cuộc rước lá tưng bừng. Những tàu lá dừa, đu đưa trong gió như muốn diễn tả niềm vui rộn rã đang nhảy nhót trong trái tim: Trái tim của những người Do Thái ngày xưa, cũng như của chính trái tim mình. Nhưng, vì ai và lý do gì mà họ vui thế? Thưa:
1- Vì họ nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế
Họ thấy con người này đã làm thật nhiều phép lạ: chữa khỏi bao bệnh nhân. Làm ra thật nhiều bánh, sai khiến được cả gió, đi được cả trên mặt nước. Uy lực trong lời nói, và không hề run sợ trước bất cứ quyền lực nào kể cả cửa hỏa ngục cho nên người ta khoái. Đúng, đó là hình ảnh của Đấng Cứu Thế mà toàn dân tộc Do Thái vẫn thường mơ tưởng. Và vì vậy, khi thấy Chúa vào Giêrusalem trên lưng một con lừa hiền lành thế là lòng họ bốc cháy niềm vui. Họ vội vã bẻ gẫy những cành cây bên đường, vung lên trời, khua vang rối rít. Họ hô vang: “Hoan hô con Vua Đavit”. Họ vui, họ mừng, họ sướng, bởi đời họ sắp được lên hương. Đấng Cứu Thế đã đến đây rồi, Ngài sẽ chinh đông dẹp bắc, và sẽ làm “trùm” thế giới. Đất nước Israel sẽ nổi danh, và họ sẽ được ngồi trên đầu trên cổ thiên hạ. Như thế, họ tung hô Chúa chính là lúc họ đang chuẩn bị tung hô chính mình. Nhưng, chữ nhưng sao buồn thế! Chỉ ít hôm sau thôi trong “bài thương khó” kể lại, họ, chính họ lại là những người gào to, để đòi “đóng đinh nó vào thập giá”. Sao vậy? Thưa: vì Chúa.
2- Làm họ thất vọng.
Chúa bị quân lính bắt. Cái gì? Ông Giêsu bị bắt rồi hả? Hỏng rồi, ông này không phải là Đấng Cứu Thế rồi. Ông đã làm cho chúng ta thất vọng. Đấng Cứu Thế phải là người chiến thắng tất cả, đâu để bị bắt được. Họ ức, bởi Chúa đã làm họ thất vọng. Đang mơ một mùa xuân Israel mới đã đến, tất cả đã đổ vỡ tan tành. Cho nên, ta hiểu được, tại sao thái độ của họ hung hăng đến thế, khi nghe Philatô hỏi: Các ông muốn tha ai, Giêsu hay Banaba? Họ không thể nào hiểu được, hay chấp nhận được một vị Cứu Thế phải đi một con đường đau khổ. Dĩ nhiên, cứ theo công bằng mà xét, thì ông Giêsu này quả thật là một người thánh thiện, có một quyền lực vô cùng, không thể cắt nghĩa, nhưng dù sao cũng phải giết thôi. Cái thói đời là thế: Không ăn được thì đạp đổ. Khởi đi từ những tiếng tung hô khàn tiếng, đến những lời gào “tha Banaba và giết Giêsu” cũng chỉ xảy đến nơi một con người. Lòng người thay đổi, thay trắng đổi đen, cái lý do chính yếu, là họ chưa có niềm tin vào Chúa. Chưa có một đức tin vững chắc, sự ơ hờ, thay đổi trong đời sống đạo, là điều tất nhiên sẽ xảy ra.
Gợi ý suy niệm:
1- Bạn có biết, con đường cứu độ Chúa đi, là con đường nào? 2- Hôm nay cầm lá trong tay giữa cuộc rước, bạn đang tung hô ai vậy? Và vì sao?
Trong thời đệ nhị thế chiến, có một linh mục Hoà Lan bị Đức quốc xã bắt và đem về trại tập trung ở Dachau. Tại đây ngài bị nốt trong một chiếc cũi. Bọn lính mua vui bằng cách bắt ngài phải sủa lên như con chó mỗi lần chúng đi qua. Cuối cùng ngài đã chết vì bị tra tấn. Bọn lính đâu có ngờ giữa cơn thử thách, ngài vẫn tiếp tục viết nhật ký, qua đó chúng ta biết sở dĩ ngài có thể chịu đựng được mọi đau đớn là vì ngài biết rằng Chúa Giêsu đã từng đau đớn như thế trước ngài. Trong một lời kinh, ngài đã bày tỏ cùng Chúa: Lạy Chúa, sẽ không có nỗi đau đớn nào làm con ngã gục bởi vì con luôn nhìn thấy đôi mắt đầy đau khổ của Chúa. Con đường thập giá Chúa đã đi qua giúp con chịu đựng nỗi đắng cay một cách khôn ngoan. Vậy trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu đã phải chịu đựng những khổ đau nào?
Trước hết là nỗi đớn đau trong tâm hồn. Thực vậy, tại vườn Cây Dầu, Ngài đã đổ mồ hôi máu khi nghĩ đến cơn thử thách sắp tới. Còn gì đau đớn cho bằng khi bị những người thân yêu của mình bỏ rơi và phản bội. Chúa Giêsu đã trải qua nỗi đớn đau này khi bị Giuđa bán đi với giá 30 đồng bạc, khi bị Phêrô chối bỏ chỉ vì một vài câu hỏi vu vơ, khi bị các môn đệ bỏ rơi. Và điều quan trọng hơn nữa, đó là Ngài đã mặc lấy thân phận tội nhân, và cảm thấy như bị chính Chúa Cha từ bỏ. Bởi đó, trên thập giá Ngài đã phải thốt lên: Lạy Cha, sao Cha lại bỏ con?
Có lẽ mỗi người chúng ta đều đã có kinh nghiệm về vấn đề này, khi chúng ta bị những người trong gia đình, trong khu xóm, những người chúng ta yêu mến và kính trọng phản bội.
Tiếp đến là những đau khổ ngoài thể xác. Ngài đã bị đánh đập, bị đội mão gai và bị đóng đinh vào thập giá. Dĩ nhiên chúng ta chưa nếm thử những đớn đau khủng khiếp như thế, nhưng ít ra chúng ta cũng đã trải qua những đau khổ ngoài thân xác, chẳng hạn như khi chúng ta đau yếu bệnh tật.
Có một bác sĩ vì chữa lành thương tích cho một thành viên chống đối chính phủ, nên đã bị cảnh sát bắt giữ và bị tra tấn dã man. Trong lúc bị tra tấn như vậy, vị bác sĩ này cảm nghiệm được một cách mơ hồi nỗi đau đớn Chúa Giêsu đã từng chịu, cũng như thấy được rằng Chúa luôn ở bên cạnh và giúp đỡ để ông được kiên vững. Còn chúng ta thì sao?
Nói theo kiểu nhà Phật thì đời là bể khổ, mà mỗi người chúng ta là một cách bèo trôi dạt trên đó. Đúng thế, đau khổ là một cái gì gắn liền với thân phận con người. Hay nói cách khác, đã là người thì ai cũng phải đau khổ. Thoạt sinh ra thì đã khóc choé, đời có vui sao chẳng cười khì. Trong những giây phút đớn đau và tăm tối, chúng ta hãy nhìn lên thập giá và chúng ta sẽ thấy được rằng chính Chúa cũng đã đớn đau trước chúng ta và hơn chúng ta bội phần.
Từ đó, chúng ta sẽ tìm thấy được niềm an ủi và khích lệ để biết chấp nhận mọi đớn đau gian khổ, như góp một phần nhỏ bé của chúng ta vào thập giá Đức Kitô.
Chuyện kể rằng: Môn đệ của một vị đạo sĩ kia muốn từ bỏ thế gian, nhưng anh ta quyến luyến gia đình và bảo rằng: "Vợ con tôi quá thương yêu tôi, nên họ không bằng lòng cho tôi thoát tục".
Nghe nói thế, vị đạo sĩ muốn cho anh ta biết sự thật nên đã dạy cho anh một kỹ thuật giả chết. Sau một thời gian học thuần thục, vị đạo sĩ bảo anh hãy áp dụng kỹ thuật này khi về đến nhà. Và quả thật, anh ta đã thực hành bài học cách tuyệt hảo để nhắm mắt xuôi tay, nhưng vẫn còn nghe được mọi tiếng khóc than của vợ con và thân nhân, bạn bè.
Ngày hôm sau, vị đạo sĩ đến để phân ưu cùng thân quyến. Sau những giây phút tưởng niệm người quá cố, ông nghiêm nghị bảo thân nhân đang khóc thương người đã từ biệt cõi đời rằng: "Tôi có bí quyết để cứu sống anh ta, nếu có ai sẵn lòng chết thay cho anh".
Anh chàng giả chết ngạc nhiên khi nghe mọi người trong gia đình nêu ra mọi lý do để biện minh là mình cần phải sống. Càng ngạc nhiên hơn khi anh nghe người vợ nghĩa thiết của mình tóm lược mọi lý lẽ trên bằng một lời quả quyết: "Tôi nghĩ không ai cần chết thay cho chồng tôi. Không có anh ta, chúng tôi vẫn có thể làm lụng để sống".
Tham sống sợ chết là lẽ thường tình của con người. Cho dù có những người thề sống chết cho nhau nhưng khi đối diện với cái chết, họ cũng tìm trăm ngàn lý do để hủy lời đoan hứa. Thế nên, là người thường dễ quên lời hứa, dễ thất hứa, thất tín và thất trung. Con người thường dễ mất uy tín khi những lời mình nói mà không làm. Thực tế, con người chỉ dễ dàng hứa trong lời nói xuông mà rất khó thực hiện những lời đã hứa. Nhất là khi phải hy sinh tiền bạc, thời giờ, công sức, và càng khó hơn khi phải hy sinh tính mạng mình để thực thi chữ tín trong cuộc sống.
Có biết bao người yêu nhau thật nồng nàn, thề hứa đủ điều nhưng khi lấy nhau họ lại bỏ quên nhau và sớm quên đi những lời đã hứa cho nhau.
Có biết bao người có chức có quyền chỉ hứa xuông khi tranh cử, nhưng khi ngồi trên ghế họ chỉ lao vào kiếm tiền và củng cố địa vị của mình mà bỏ quên lời hứa với nhân dân.
Có biết bao người đã từng hứa có ăn có hưởng, hoạn nạn có nhau nhưng họ chỉ gần nhau khi thành công và bỏ rơi nhau khi gặp gian nguy.
Chúa Giêsu trong thân phận con người, Ngài cũng cảm thấy đau khổ vì bị đồ đệ bỏ rơi, người thân quay lưng chống đối. Biết bao lời hứa đã từng cam kết sẽ uống cạn chén đắng cùng Thầy, sẽ theo Thầy cho đến cùng, nhưng những lời hứa ấy chỉ như gió thoảng mây bay. Ngài hiểu thật sâu xa tính mỏng dòn của tình người. Tình người dễ phôi phai. Lòng người dễ thay đồi. Nhưng, dầu vậy, Ngài vẫn trung thành với tình yêu của mình. Ngài vượt qua mọi trở ngại để dấn thân cho người mình yêu. Ngài mãi mãi trung tín trong tình yêu vì đã yêu thì “yêu cho đến cùng”.
Chúa Giêsu Ngài biết những kẻ mà Ngài thi ân sẽ quay lưng chống lại Ngài. Ngài cũng biết rõ các đồ đệ sẽ bỏ rơi Ngài trong lúc nguy nan. Ngài cũng biết số đông theo Ngài sẽ dừng lại để một mình Ngài vác thập giá cô đơn trên đường lên Núi Sọ. Thế nhưng, Ngài vẫn can trường, vẫn bước đi cho đến cùng của tình yêu tự hiến hy sinh.
Thánh lễ hôm nay cũng họa lại hai hình ảnh trái ngược trong một tuần thương khó. Khung cảnh ban đầu là đoàn rước thật long trọng, hồ hởi với đàn hát, với trải lá lót đường ...; Khung cảnh sau là phiên tòa kết án, với lời thóa mạ, với đòn roi, với án tử. Xuyên suốt hai khung cảnh ấy là hình ảnh Chúa Giêsu luôn bình tĩnh trước mọi biến cố. Dường như Ngài đã không tìm cách lẩn trốn trước những gì đang diễn ra. Ngài bình thản đi vào tuần thương khó mà Thánh Kinh bảo rằng: “để mọi sự được nên trọn”.
Vâng, Chúa Giêsu Ngài đã bình thản trước mọi biến cố vì Ngài muốn để thánh ý Chúa Cha nên trọn. Ngài biết những cam go trước mắt, thế nhưng, Ngài vẫn mạnh dạn tiến lên Giê-ru-sa-lem. Ngài biết ở đó bản án đang chờ Ngài, nhưng “Giờ” để biểu lộ tình yêu đã tới. Giờ đã điểm. Ngài phải lên Giê-ru-sa-lem để thi hành thánh ý Chúa Cha là cứu độ gian trần. Đây là động lức khiến Ngài can đảm đối diện khó khăn. Đây cũng là cách nói lên lòng trung thành của Ngài với thiên ý nhiệm màu. Xin Chúa giúp chúng ta bước vào tuần thương khó với tâm tình sám hối ăn năn, vì có những lần chúng ta cũng thay lòng đổi dạ để kết án Người, cũng có những lần chúng ta bỏ rơi Ngài. Nhưng điều quan yếu là chúng ta hãy luôn nhận ra tình yêu của Chúa để biết tri ân tình yêu cao vời mà Chúa đã dành cho chúng ta. Xin cho chúng ta đừng bao giờ phụ bạc ân tình mà Chúa vẫn dành cho chúng ta. Amen
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội bước vào Tuần Thánh được khai mạc bằng nghi thức làm phép và kiệu lá, tưởng niệm Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem được người Do Thái tung hô: Hoan hô con vua Davit! Trong suốt Tuần Thánh cũng là tuần lễ Giáo Hội theo sát Đức Giêsu trong những ngày cuối cùng của Ngài cho đến khi bước vào cuộc khổ nạn. Khung cảnh ngày lễ hôm nay mang màu sác tương phản, lúc đầu lễ là một cuộc rước tưng bừng theo hình ảnh cuộc rước của dân Do Thái ngày xưa khi Đức Giêsu công khai vào thành Giêrusalem trong tư cách là Vua Mesia, ngay sau đó các bài đọc và bài Tin Mừng lại kể về cuộc thương khó của Người. Trong trình thuật cuộc thương khó cho thấy những người Do Thái đồng hương của Chúa, họ tìm mọi cách để loại trừ Đức Giêsu vì họ không tin Ngài là Đấng Mesia - Con Thiên Chúa, trong khi đó chứng kiến cuộc khổ nạn của Ngài thì những người dân ngoại lại tin nhận Ngài là người công chính.
Những người Do Thái họ muốn loại trừ Chúa Giêsu vì thấy Đức Giêsu không như họ nghĩ và Ngài đã không đáp ứng những điều họ muốn, những người này không chấp nhận một vị Thiên Chúa mà lại khiêm nhu mang gương mặt của một người đầy tớ như bài đọc thứ nhất mô tả. Trong khi họ chờ đợi một Đấng Mesia oai phong, bách chiến bách thắng, thì Isaia lại nói về một tôi tớ khiêm hạ, đưa lưng cho kẻ đánh mình, và đưa má cho kẻ giật râu, không tránh né những lời nhạo cười phỉ nhổ.
Hình ảnh người tôi tớ của Thiên Chúa đã ứng nghiệm nơi Đức Giêsu, Đấng đã đến và sống theo tinh thần của một người tôi tớ phục vụ, và cư xử nhân từ tha thứ, trong khi đó người Do Thái lại muốn một Thiên Chúa phảỉ trừng phạt hết những kẻ mà họ cho xấu xa, như quân La Mã để đem lại sự độc lập và thịnh vượng cho đất nước, họ không chấp nhận Đức Giêsu giao du tiếp xúc với người thu thuế và tội lỗi, họ muốn một Thiên Chúa phải đáp ứng ngay lập tức những thứ họ cần. Chính vì Đức Giêsu đã không như họ mong đợi, nên những người Do Thái đã muốn mượn tay Philatô để loại trừ Ngài.
Để thực hiện ý đồ này, những người lãnh đạo Do Thái đã không ngần ngại vu khống bịa chuyện, xuyên tạc để có cớ lên án Chúa Giêsu. Những người Do Thái cho là Chúa Giêsu nói phạm thượng khi Ngài xưng mình là Con Thiên Chúa, là Đấng đến từ Thiên Chúa và làm những việc của Thiên Chúa, họ cho rằng Chúa Giêsu lộng ngôn khi dám tuyên bố tha tội cho người mù và người bại liệt, và là người vô đạo khi vi phạm trầm trọng luật nghỉ việc ngày Sabat. Từ những xung khắc ban đầu hoàn toàn chỉ là những vấn đề liên quan đến niềm tin tôn giáo và những cáo buộc về tôn giáo tại dinh Caipha, thì sáng hôm sau, vì nhất quyết loại trừ Chúa Giêsu, những người Do Thái đã dẫn Chúa Giêsu đến dinh Philatô và bịa ra những vấn đề chính trị xã hội để cáo buộc Ngài, và vu cho Ngài như là một tội phạm chính trị: Tên này đã xúi dân làm loại, đã tự xưng mình là vua, đã ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế La-mã.
Bài tường thuật cũng cho thấy, Chúa Giêsu đã trở thành nạn nhân của con người và trở thành trò chơi cho các thế lực và như quả bóng trên sân chính trị của con người. Tất cả những việc làm vì yêu thương của Chúa đối với dân chúng, thì giờ đây lại bị coi như là những thứ để họ đùa cợt, trong khi quan Philatô không tìm ra tội gì nơi Chúa Giêsu thì những người Do Thái lại đòi giết Ngài, Philatô muốn phủi trách nhiệm của mình không chỉ bằng việc rửa tay để cho rằng mình là người vô can, mà ông còn chuyển giao Đức Giêsu cho vua Hêrôđê để khỏi mang trách nhiệm. Vua Hêrôđê, đùa cợt coi thường và còn thách thức Chúa Giêsu làm vài phép lạ để xem cho vui, và khi không được như ý muốn, thì ông cho rằng Chúa Giêsu là một người điên và trả lại cho Hêrôđê. Mặc dù việc làm này cho thấy Chúa Giêsu trở thành như quả bóng bị đá qua đá lại giữa những người có thế lực, như Thánh Luca lại cho thấy, nhờ Chúa Giêsu mà Hêrôđê và Philatô đã trở nên thân thiết với nhau xóa bỏ được sự thù hằn đã lâu.
Từ sự căm thù, mà những thượng tế và luật sĩ đã cố tình muốn đưa Đức Giêsu đến cái chết, mặc dù Philatô đã mượn cả Hêrôđê để cho thấy Chúa Giêsu là người vô tội, nhưng các thượng tế và luật sĩ vẫn muốn loại trừ Ngài, và đánh đổi Ngài để lấy một tên trộm cướp giết người tên là Baraba. Cuối cùng Philatô cũng phải chiều theo ý họ, giao Đức Giêsu vào tay họ để họ thỏa mãn cái ác của mình và đem đi đóng đinh. Kế hoạch của người Do Thái đến đây đã thành công, kẻ mà họ muốn loại trừ đã ở trong tay họ, cái ác đã thắng thế và càng ngày càng đi đến tột cùng, họ điên cuồng gào thét, họ hả hê thỏa mãn vì thành công của mình là đã loại trừ được Đức Giêsu bằng việc đóng đinh Ngài vào thập giá và đứng dưới chân thập giá để nhạo cười thách thức Người: nếu ông là con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá để chúng tôi tin.
Còn về phía Chúa Giêsu, Ngài đã im lặng và đón nhận tất cả những sự độc ác và gian dối mà con người đang trút xuống trên Ngài, với lòng tin vào quyền năng và sự chiến thắng của sự thiện trên sự ác, của Thiên Chúa trên ma quỷ, của tình yêu thương trên hận thù. Trên cây thập giá khi mà tay chân bị đóng chặt vào cây gỗ, đau đớn đến tột cùng vì sư phản bội của các môn đệ, sự bội bạc tráo trở vô ơn của dân chúng, và sự độc ác dã man của con người, Chúa Giêsu đã hướng về Thiên Chúa Cha để xin Thiên Chúa Cha tha thứ tội lỗi cho nhân loại cho những người gây ra cái chết cho mình, cho những kẻ đang nhạo cười Người: Lạy Cha xin tha cho chúng vì chúng lầm không biết việc họ làm. Chính khi ở trên cây thập giá Chúa Giêsu đã làm cho tình yêu thương trổ sinh hoa trái là sự tha thứ, và chính lúc bị treo, bị mọi người từ chối, thì viên sĩ quan người Rôma lại nhận ra kẻ tử tội mà ông vừa mới hành hình là Người Công Chính, là Con Thiên Chúa. Viên sĩ quan này đã tin vì đã chứng kiến từ đầu của bản án và thấy ở nơi Đức Giêsu sự nhân từ và tha thứ, điều mà ông chưa bao giờ thấy ở nơi các tử tội khác.
Thưa quý ông bà và anh chị em,
Không phải chỉ có người Do Thái ngày xưa họ muốn loại trừ Chúa Giêsu, mà ngày nay thế giới và con người cũng vẫn đang muốn tìm mọi cách để loại trừ Ngài. Trong Tông Thư Cánh cửa Đức tin, Đức Thánh Cha Benedictô cũng cho thấy thế giới ngày hôm nay vẫn đang tìm cách loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, ra khỏi thế giới và ra khỏi tâm hồn họ. Con người ngày nay dường như họ sợ Thiên Chúa ngăn cản lối sống buông thả dễ dãi của họ, họ sơ Thiên Chúa đòi họ phải sống nghèo khó thay vì chạy theo lối sống vật chất hưởng thụ, họ sợ Thiên Chúa đòi họ phải tha thứ đến bảy mươi lần bảy thay vì trả thù trả đũa, cấm vận, và người ta không muốn chấp nhận một Thiên Chúa đòi con người phải từ bỏ phải hy sinh và dám sống theo ngài, chính vì thế mà người ta tìm cách loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống họ.
Không chỉ những người vô thần hoặc thế giới đang tìm cách loại trừ Thiên Chúa, mà ngay những người mang danh là Kitô hữu, cũng đang xa rời Ngài, vì cho rằng Đức Kitô gây cản trở cho tự do của họ. Chính vì thế, nhiều người tín hữu ngày nay mang danh là Kitô hữu nhưng lại không thực hành niềm tin của mình, không hiểu biết về Thiên Chúa và không yêu mến Ngài, và cũng không có Chuá trong tâm hồn, vì nhiều người đã lười biếng không đón nhận Ngài vào tâm hồn, không muốn để cho lời Ngài hướng dẫn mình, họ sống một đời sống tôn giáo khô khan, không tham dự nghi lễ hoặc chỉ tham dự một cách hời hợi cho qua lần.
Chiêm ngắm cuộc thương khó của Chúa hôm nay, mỗi người hãy tự đặt cho mình cầu hỏi: tôi có còn tin thật Đức Giêsu là Con Thiên Chúa hay không và tôi sẽ phải làm gì để tuyên xưng và diễn tả đức tin ấy trong cuộc sống hiện tại của tôi?
Cầu chúc cho mọi người có những ngày Tuần Thánh thật sốt sáng, theo sát Đức Giêsu trên con đường yêu thương và dành những phút thinh lặng trong ngày để chiêm ngắm về một tình yêu đến cùng mà Chúa dành cho mỗi người chúng ta. Amen
Với Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, Tuần Thánh đã bắt đầu bằng việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho loài người. Bề ngoài, cuộc tiến vào thủ đô Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám đông nô nức phất cao cành lá “Hoan hô con Vua Đavít” có vẻ giống một cuộc toàn thắng vang dội. Nhưng thực ra, đây là một cuộc mở màn thương khó mỉa mai nhất và cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc đời Chúa Giêsu.
Thật vậy, khi cho chúng ta nghe lại cuộc thương khó của Chúa Giêsu, không phải để gợi lên trong ta niềm thương cảm đau xót, nhưng là muốn mời gọi chúng ta hãy can đảm bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá. Rước lá đi theo Chúa một vòng quanh nhà thờ hay trong vài giờ là điều dễ. Theo Chúa giữa lúc Ngài được tung hô, cũng chẳng khó khăn gì. Nhưng theo Chúa khi Ngài bị mọi người bỏ rơi, điều đó khó hơn nhiều. Tin mừng cho thấy không một ai dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo tặc Baraba. Bước vào tuần thánh, người tín hữu kytô chúng ta được mời gọi bước theo Chúa Kytô trên con đường thập giá. Những nẻo đường không phải lúc nào cũng thuận lợi, êm ái. Vì luôn có đó những thánh giá - đời cũng như đạo.
Đúng như vậy, bước đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá hôm nay, cho dù chúng ta không bị đòn vọt, tù tội, không có mão gai, không bị đóng đinh vào tay chân, không bị lưỡi đòng đâm thâu, nhưng cũng không kém phần khốc liệt. Đi con đường thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta vẫn phải đối diện với nỗi đau đớn của sự phản bội, vu khống, bội bạc của những người đang cùng sống với chúng ta. Thậm chí, có khi sự vô ơn, bội bạc đó còn đến bởi những người thân yêu nhất của chúng ta, những người cùng chung chăn chung gối, anh chị em trong một nhà, con cái, bạn bè…
Đi con đường thập giá của Chúa Giêsu là giữa một thế giới người ta đặt vật chất, danh vọng và thú vui là trên hết, còn ta lại chọn Chúa và đặt Chúa làm giá trị cao nhất là ta đang vác thập giá theo Chúa Giêsu.
Đi con đường thập giá của Chúa Giêsu là giữa một thế giới người ta chỉ muốn hưởng lạc thú thể xác mà không muốn sinh con, người ta dễ dàng “khóc”, và lớn tiếng kêu gọi “chia sẻ” khi thấy những nạn nhân của sóng thần, thiên tai, nhưng lại cho phép và cổ võ việc giết những con người vô tội, vô phương chống cự, đó là những thai nhi còn nằm trong bụng mẹ, hay những người già yếu, bệnh tật. Còn ta, ta biết cộng tác với Chúa một cách ý thức và trách nhiệm trong việc sinh và giáo dục những con người mới là ta đang vác thập giá theo Chúa Kitô.
Đi con đường thập giá của Chúa Giêsu là giữa một thế giới người ta xem lường gạt và dối trá như đút lót, tham nhũng, hay đơn giản hơn, việc “quay” bài của các em học sinh là điều bình thường, còn ta, ta sống chân thật chấp nhận chịu thiệt thòi, mất mát là ta đang vác thập giá theo Chúa Giêsu.
Như vậy, bước vào Tuần thương khó, giáo hội mời gọi mỗi chúng ta tham dự vào cuộc tử nạn của Chúa bằng cách sống đời sống công chính - đời sống đòi hỏi khước từ những quyến rũ của những thực tại phù vân, đòi hỏi đóng đinh tính xác thịt mình, đòi hỏi chấp nhận đau khổ, chấp nhận hiến thân, hy sinh vì phần rỗi của mình và của người khác. Tuy nhiên, để có thể bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá, chúng ta phải chấp nhận đi ngược với suy nghĩ, với cách sống của con người hôm nay, và lúc ấy người kitô hữu chúng ta sẽ cảm thấy mình như cô đơn, như đang đứng bên lề của xã hội.
Thế nhưng, cho dù vậy, chúng ta cũng không được phép nản lòng, thối chí, bởi vì chúng ta tin rằng, chúng ta không vác thập giá một mình, chúng ta có Đức Giêsu, người Thầy, người bạn, và là Chúa của chúng ta cùng vác với chúng ta. Và nếu chúng ta dám đi trọn con đường thập giá với Ngài, thì chắc chắn, cuối cùng chúng ta cũng sẽ được cùng Ngài hưởng trọn niềm vui của cuộc Phục Sinh vinh hiển. Xin Chúa Giêsu, Đấng đã từng chịu đau khổ thêm sức cho mỗi người chúng ta, để chúng ta cùng chết với Chúa nhờ đó mai sau được cùng Người phục sinh vinh hiển. Amen.
Cho đến hôm nay, vẫn còn nhiều người tự cho mình là vô can trong vụ án Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh trên thập tự giá. Trong số đó, có thể có tôi, có bạn, những người vẫn xưng mình là Kitô hữu, hoặc hơn thế nữa, những người vẫn đang nhiệt tình tổ chức hoành tráng, cờ hoa rực rỡ, đón rước linh đình, tung hô vang dội và kêu gọi mọi người hãy cất tiếng: “Hoan hô con Vua Đavit. Chúc tụng Vua Israel, Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời”.
Hai mặt thiện ác trong mỗi con người tưởng như là luôn lẫn tránh nhau, đối nghịch nhau, thì lại song hành cách đồng thuận trong tâm hồn khi con người bị thần dữ thống trị. Thần dữ Satan có phép biến những gì mà một người cho là chân lý, thành công cụ phục vụ cho mưu đồ gian ác của chúng, khi người ấy nhận tất cả về mình những gì mình có: học thức, hiểu biết, tài năng, và nhất là đức tin. Đó là trường hợp của những luật sĩ, biệt phái, kinh sư… Họ vẫn nghĩ rằng đức tin của họ là do sự hiểu biết siêu phàm hoặc do tài năng mà họ có được. Đối với họ, đức tin của họ không được soi dẫn bởi Thánh Thần, mà là bởi cái tôi chủ quan và mù quáng của họ. Bởi vậy, họ không thể chấp nhận một Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đến cứu chuộc trần gian, khi hiểu biết của họ vẫn chưa chịu nhường chỗ cho sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Họ dựa theo suy luận thấp bé mà cứ tưởng cao siêu của họ để định dạng, định hình một Đấng Cứu Thế có thể thỏa mãn những nhu cầu của họ. Vì thế, có thể hôm nay họ hoan hô Chúa Giêsu, nhưng ngày mai họ đả đảo dẫn tới cái chết của Con Thiên chúa.
Có thể chúng ta đã lên án họ, rằng chính họ chủ mưu trong vụ án Đức Giêsu vô tội bị lãnh án tử hình nhục nhã nhất lịch sử nhân loại. Còn chúng ta, nghĩ rằng mình vô can sao? Trong khi, mỗi chúng ta, có thể còn kinh khủng hơn họ nữa: nếu họ “hôm qua hoan hô ngày nay đả đảo”, thì hãy coi chừng mỗi chúng ta, vừa hoan hô vừa đả đảo, hoặc hoan hô theo cách đả đảo ngay chính trong cách thể hiện niềm tin của mình.
Quả thật, chúng ta đã từng có suy nghĩ rằng: tôi không tố cáo kết án Chúa Giêsu, tôi không bán Chúa Giêsu, không nộp Ngài cho thế quyền, không đánh đập Ngài, không sỉ nhục ngài, không đội mão gai cho Ngài, không quất vào ngài khi Ngài té ngã, không đóng đinh Ngài…Chính người Do Thái đã làm tất cả những điều tệ hại ấy, và ấy là chuyện đã rồi của hai ngàn năm trước. Chúng tôi vô can. Nếu nghĩ như thế, thì việc cùng đoàn người rước Chúa Giêsu vào thành thánh cách long trọng với lời tung hô vạn tuế hôm nay, và việc nghe lại trang thương khó đẫm máu của Chúa Giêsu, sẽ không mang lại ý nghĩa, lợi ích gì cho đời sống đức tin của chúng ta cả.
Phụng Vụ dẫn chúng ta vào tuần thương khó của Đức Giêsu, để chúng ta có cơ hội hiểu rằng: không phải Đức Giêsu đi đường thương khó hai ngàn năm trước mà Ngài còn đang đi đường thương khó ngay hôm nay, ngay lúc nầy….
Bao lâu tôi không chịu thương khó, thì bấy lâu, Chúa Giêsu còn phải chịu thương khó vì phần rỗi của tôi.
Bao lâu tôi còn sống trong vũng lầy tội lỗi, thì bấy lâu, Chúa Giêsu còn có lý do để tiếp tục vác Thánh Giá lên Calvê và chịu chết.
Bao lâu tôi còn vô tâm không màng đến hay bất cần đến cái chết của Đấng Vô Tội, thì bấy lâu, tiếng kêu tha thiết của Chúa Giêsu từ thánh giá vẫn còn vang lên và vọng xa cho tới tân cõi lòng mình: “Ta khát”. Tôi, bạn, cả chúng ta, không thể là những người đứng ngoài cuộc trong vụ án Thập Tự Giá nầy.
Vì thế, không thể nghĩ rằng: tôi không tố cáo Chúa Giêsu, tôi chỉ bất bình với những lời dạy nghe chói tai, những yêu cầu từ bỏ nghe có vẻ bất thường làm đảo lộn cuộc sống trần gian đang đầy thú vị của tôi. Hoặc, tôi là Ki-tô hữu mà, tôi không hề tố cáo Chúa Giêsu, chỉ là tôi chưa sống đúng như Lời Ngài dạy, vì đời còn dài, có vội chi mà phải nhốt mình trong cái khung chờ chết. Nhớ vào dịp tết, có người nhận được lộc xuân, anh ta mở ra đọc: “Của Cesar trả cho Cesar. Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”. Anh ta đưa cho ông hội đồng đọc và hỏi: “Nói gì thế?”. Ông hội đồng giải thích: “Chúa bảo đừng có tham lam của thế gian, lo trở về với Chúa”. Anh ta lẩm nhẩm: “Thời buổi nầy, không tham sao sống nổi. Chúng nó hối lộ tham nhũng nhan nhãn đầy dẫy kia, ai làm gì được chúng nó”. Ra đến chỗ giữ xe, anh ta vò nát lộc xuân, vất xuống đất, thản nhiên về. Không phải là chúng ta đang tố cáo Chúa Giêsu nói và dạy những điều sai trái đấy sao?
Cũng không thể nghĩ rằng: tôi không bán Chúa Giêsu ba mươi đồng bạc, tôi chỉ đem thời gian, tài năng, tiền bạc và sức lực của tôi để đổi lấy cho tôi một cuộc sống thoải mái theo bản năng con người, hoặc thiết thực hơn, tôi chỉ ham theo cho hết cuốn phim tình cảm hay, hay đã lỡ hẹn với bạn bè, mà không thể đến nhà thờ dâng lễ, rồi thành thói quen, bỏ cả lễ, quên cả Chúa. Ngày nào, Giáo xứ chưa có linh mục, chưa có nhà thờ, ai nấy khát khao mong mỏi… đến lúc có cha ngon lành, có nhà thờ to lớn xinh đẹp rồi, thì việc của cha là sáng chiều làm lễ, việc của giáo dân là sáng ngủ cho đã giấc, chiều xem phim, hát karaoke, nhậu nhoẹt… chẳng màng! Nếu ngày xưa Giuđa đã xem ba mươi đồng bạc có giá trị và cần thiết hơn là tánh mạng của Chúa Giêsu, thì rõ ràng hôm nay, không phải là chúng ta cũng đã từng xem các thực tại chóng qua kia lại có giá trị hơn một thánh lễ, hơn một Thánh Thể Chúa Giêsu đó sao?!
Càng không thể nói rằng tôi không hề bắt Chúa Giêsu phải vác Thánh Giá, không hề đội mão gai cho Ngài, cũng không sỉ nhục Ngài, đóng đinh Ngài… trong khi ngôi nhà tâm linh của chúng ta đã lún, nghiêng theo chiều bất chính hoặc đã đổ sập, nát vụn thành một đống hoang tàn.
Vâng, không thể nói:
Tôi không hề bắt Chúa Giêsu vác Thánh Giá, tôi chỉ nhường phần khó nhọc cho anh em và chọn cho mình phần nhẹ nhàng thong thả.
Tôi không hề đánh đập Chúa Giêsu, tôi chỉ làm ngơ trước những bạo lực của luật rừng đàn áp anh em tôi vô tội.
Tôi không hề sỉ nhục Chúa Giêsu, tôi chỉ ngại lên tiếng bênh vực cho công lý, lại còn đồng tình với những lời đàm tiếu rằng anh em tôi dại chi mà chiến đấu cho công lý để phải mất chức, thiệt thân, còn bị phát lưu, tù đày, hay bị cách ly khống chế.
Tôi không hề đóng đinh Chúa Giêsu, tôi chỉ làm thinh vô tình trước bao nhiêu cái chết oan uổng của ngàn ngàn thai nhi bé nhỏ, trước cái chết của những thanh thiếu niên sa đọa vì hút chích, trước những cái chết của những thiếu nữ bán hoa lỡ lầm, trước cái chết của những người nghèo khổ không tiền chạy chữa, và trước cả cái chết muôn đời của một tập đoàn không tin, còn chống lại Thiên Chúa, trong khi tôi có thể góp một phần của mình vào công cuộc cấp cứu.
Cuộc sống bất chính trong ‘con người tưởng như là công chính’ của mỗi chúng ta đang là lời chứng hùng hồn rằng chúng ta là những người vừa hoan hô vừa đả đảo Chúa Giêsu. Chính chúng ta tiếp diễn vụ án Đức Giêsu ngay hôm nay, trong lúc nầy. Chính chúng ta đang xử Chúa Giêsu theo luật rừng của những con người hoang dã, không phải vì ngu muội do thiếu ánh sáng văn minh của Thiên Chúa, nhưng ngu muội do kiêu căng, cố tình tôn vinh sự hiểu biết, khôn ngoan, tài năng, trí tuệ của mình lớn hơn sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
Đức Giêsu vô tội “như con chiên hiền lành” bị đem đi giết để chết thay đoàn chiên có tội, là chúng ta, được cứu sống.
Tuần thương khó mời gọi mỗi chúng ta nhận ra mình là can phạm, nếu không nói là chủ mưu, trong vụ án Đức Giêsu bị đóng đinh và chết trên thập giá. Đồng thời, cũng mời gọi chúng ta thành tâm sám hối tội lỗi để được hưởng ơn khoan hồng vô lượng. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu còn mời gọi chúng ta tham dự vào đường thương khó của Chúa, vào cuộc tử nạn của Chúa bằng cách sống đời sống công chính – đời sống đòi hỏi khước từ những quyến rủ của những thực tại phù vân, đòi hỏi đóng đinh tính xác thịt mình, đòi hỏi chấp nhận đau khổ, chấp nhận hiến thân, hy sinh vì phần rỗi của mình và của người khác.
Hãy cùng chết với Chúa Giêsu để được cùng Người phục sinh vinh hiển.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con không vô can trong vụ án đóng đinh Chúa. Đời sống bất chính của chúng con với biết bao là tội lỗi đã hình thành bản án tử hình Người Vô Tội. Xin cho chúng con biết trân quí ơn Cứu Chuộc nơi Thánh Giá Chúa, để biết thành tâm sám hối, biết cải thiện đời sống, và biết cùng Ngài vác Thánh Giá mình mỗi ngày mà theo Chúa, với niềm hy vọng, niềm tin tưởng Phục Sinh với Ngài. Amen
1/ Ý nghĩa của Cựu Ước và Tân Ước: Cựu Ước là hình bóng, Tân Ước là thực tại. Cựu Ước là chuẩn bị, Tân Ước là thực hành. Cựu Ước hướng tới cao điểm là Đức Kitô, Cựu Ước là tiên báo và mọi việc xảy ra đều phù hợp với kinh thánh.
2/ Mục đích của việc Chúa Yesus vào thành: Kinh Thánh muốn chứng minh Chúa Yesus là con Thiên Chúa, là Đấng phải đến để cứu độ nhân loại. Hôm nay khi thấy Chúa long trọng tiến vào thành, chúng ta chợt nhớ đến lời tiên tri Giacaria đã nói: “ Hỡi thiếu nữ Si-on, hãy vui mừng vì này Vua ngươi đến với ngươi, Ngài hiền từ và khiêm hạ, cỡi trên lưng lừa con”.
3/ Mục đích thứ hai là gì?: Để chúng ta thấy Ngài là Đấng cứu thế, việc Chúa Yesus đi vào thành là một việc quá nguy hiểm như là đi vào chỗ chết. Giới lãnh đạo Do Thái đang căm thù Ngài, họ muốn tiêu diệt Ngài, nhưng Chúa vẫn cứ đi. Dân chúng thì tung hô tán tụng khiến cho bọn biệt phái càng thêm phẫn uất, nên họ đã thưa cùng Chúa Yesus, nhưng Chúa Yesus lại trả lời: Nếu họ im đi thì sỏi đá sẽ lên tiếng, Chúa công khai chấp nhận lời chúc tụng ấy và Ngài rất bằng lòng.
4/ Mục đích thứ ba là gì?: Là để chúng ta nhận ra Ngài là vị vua hòa bình. Trên đường vào thành Thánh, dân chúng trải áo, cầm nhành lá trong tay để tung hô Chúa Yesus là con Vua Đavít. Họ dành cho Chúa một lễ nghi đón rước dành cho một vị Vua của họ. Nhiều lần họ muốn làm điều này nhưng hôm nay họ mới có dịp. Trong thâm tâm họ, họ chỉ nghĩ đến một vị vua trong phạm vi thế gian ,để giải phóng dân tộc Do Thái khỏi ách đô hộ của quân La Mã.
5/ Chúa Yesus là vua như thế nào?: Chúa Yesus muốn cho mọi người thấy: Ngài chỉ là vua trong cõi lòng họ và Ngài chỉ muốn chiếm hữu tâm hồn họ. Hiệu quả mà Chúa sẽ đem đến, đó là sự bình an, Chúa cỡi trên lưng con lừa là dấu chỉ của một vị vua hòa bình.
6/ Vua Yesus đã cai trị như thế nào?: Cả cuộc đời trần thế đã minh chứng điều này. Thay vì dùng vũ lực, bạo động, Ngài lại dùng phương pháp khác biệt nhất. Đó là: Tình yêu nhân từ của Ngài. Điều này cho thấy rằng: Sức mạnh vũ lực của người Do Thái không quật ngã được La Mã. Điều xảy ra ngược lại là Do Thái đã bị La Mã hủy diệt và Đền Thánh Yerusalem đã bị bình địa vào năm 70.
7/ Chúa Yesus đã cảm hóa đế quốc La Mã như thế nào?: Chúa Yesus đã đến với họ và chỉ sau mấy chục năm truyền đạo, để rồi tin mừng được rao giảng trên toàn lãnh thổ La Mã. Đế quốc La Mã bị tan rã không phải vì sức mạnh binh đội, nhưng chính vì lòng đạo đức của họ đã bị suy đồi.
8/ Vương quốc nào còn tồn tại mãi ?: Lời Napoleon nói đúng: “ Cả Alexander đại đế, cả César và cả ta nữa, đã dựng nên nhiều đế quốc bằng vũ lực. Nhưng những đế quốc đó ngày nay chẳng còn nữa, còn Chúa Yesus, Ngài đã thiết lập vương quốc của tình thương. Và ngày nay: Vương quốc đó ngày càng lớn mạnh, luôn có hàng triệu người sẵn sàng chịu chết vì Ngài.
9/ Đức Ki- tô là ai?:Ngài là Đấng Ki-tô, Ngài là Đấng Messia, Đấng cứu thế, là vị vua hòa bình. Hôm nay, Chúa muốn chúng ta tuyên xưng lại những danh hiệu ấy và điều cần làm nhất là chúng ta phải mở rộng tâm hồn để đón mừng ngày Ngài ngự đến.
10/ Tượng Chúa chịu nạn chỉ có một tay bị đóng đinh: Có một người tội lỗi đến tìm cha xứ. Tuy ông đã xưng thú mọi tội lỗi nhưng vì tội ông phạm nhiều quá nên Cha xứ rất lưỡng lự khi phải ban ơn hòa giải cho ông. Thế rồi ông cứ tái đi tái lại, Cha xứ cũng ban phép giải tội nhưng còn buông ra một lời đe dọa rằng: Nếu ông không sửa tính, không chừa tội thì Cha sẽ không tha tội cho nữa. Ông hứa với Cha xứ, nhưng vì yếu đuối nên sau đó ông ta lại đến, lần này Cha xứ bảo: Đây là lần cuối. Vài tháng trôi qua ông ta lại đến quỳ dưới chân Cha xứ và năn nỉ: Con thực lòng ăn năn, xin Cha tha cho con lần nữa, Cha xứ đáp: “ Đừng đùa giỡn với Chúa, tôi không ban bí tích giải tội cho ông nữa đâu! Khi Cha nói thế thì Ngài nghe có tiếng nấc nghẹn ngào. Rồi từ trên thập giá, cánh tay phải của Chúa từ từ hạ xuống và ban phép giải tội cho người tín hữu đã thành tâm sám hối và Chúa nói với vị Linh Mục: “Chính ta đổ máu để cứu chuộc ông ấy chứ không phải là con” Và cũng từ lúc đó cánh tay Chúa cứ thỏng xuống trong tư thế sẵn sàng ban phép giải tội.
11/ Chúa Yesus đã nói gì với chúng ta?: “Chính ta mới đổ máu ra để cứu chuộc con”. Lời ấy Chúa cũng muốn nói với chúng ta trong tuần thánh này. Chúa Yesus đã là người tôi tớ đau khổ của Đức Yavê. Thập giá trước mắt người đời là dấu chỉ thất bại, tủi nhục, và là hình phạt dành cho bọn nô lệ, phản loạn.
12/ Dấu chỉ thập giá là gì?: Thiên Chúa đã biến đổi thập giá thành dấu chỉ của ơn cứu độ, của tình thương Thiên Chúa và của sự tha thứ. Khi Chúa Yesus tuyệt đối trung thành với Thánh ý Chúa Cha, Ngài đã chấp nhận con đường thập giá. Như lời Thánh Phao-lô viết: “Đức Ki-tô đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá, nhờ đó chúng ta được nhận lãnh ơn cứu độ”
13/ Con đường Chúa Ki-tô đã đi qua: Chúa Yesus đã dạy cho chúng ta biết giá trị của sự đau khổ, con đường Chúa Yesus đã đi qua là con đường đau khổ, con đường thập giá, của khiêm nhu, của thất bại. Con đường đó không đưa chúng ta đến ngõ cụt nhưng đưa chúng ta tới vinh quang phục sinh.
14/ Đường đi của người môn đệ Chúa: Là môn đệ của Chúa, chúng ta không có một con đường nào khác ngoài con đường thập giá, tức là phải chấp nhận những khổ đau trong cuộc sống như lời Chúa Yesus nói: Ai theo ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo ta.
15/ Đau thương, gian khổ, thập giá sẽ đưa ta đến đâu? Mỗi khổ đau, mỗi hy sinh chúng ta vui chịu vì lòng mến Chúa sẽ góp phần nhỏ bé vào thập giá Đức Ki-tô để đền bù tội lỗi, cũng là cách thu tích công nghiệp cho bản thân mình và như thế: Đau thương, gian khổ, thánh giá sẽ dẫn đưa ta tới sự phục sinh vinh quang.
16/ Chúa Yesus đi tìm một chút vinh quang trần thế: Từ trước tới nay chưa lần nào Chúa đi tìm cho mình một chút vinh quang trần thế. Còn bây giờ Chúa lại chấp nhận để cho người ta trải áo, chặt cành cây lót trên lối đi. Người ta reo hò vang dậy, người ta tung hô Ngài là Đấng Messia, là con Vua Đavít, Chúa Yesus chấp nhận lời tán tụng của đám đông khi cái chết đã gần kề.
17/ Cách làm Vua của Chúa Yesus: Quả thật Chúa Yesus là Vua Messia, nhưng rồi đây người ta sẽ biết rõ cách làm vua của Ngài bằng những đau khổ, bằng cái chết khổ nhục trên thập giá.
18/ Những ngày cuối đời của Chúa Yesus: Lễ lá là một lễ vui trước, nhưng lại đượm buồn sau / khi chúng ta nghe bài đọc thương khó. Khi tuần thánh bắt đầu cũng chính là lúc Chúa Yesus bước vào những ngày cuối của cuộc đời. Rước lá, là đi theo Ngài trong vài giờ là điều dễ, đi theo Ngài giữa lúc được tung hô thì chẳng khó gì, nhưng nếu tiếp tục đi theo Ngài và dám ở lại với Ngài khi mọi người đã bỏ rơi, điều này còn khó hơn nhiều. Chúng ta thường cảm thấy mệt mỏi khi phải nghe một bài thương khó dài, chỉ mới nghe thôi đã thấy mệt, còn Chúa thì sao?
19/ Ý nghĩa của cuộc khổ nạn Chúa: Nếu chúng ta dành chút thời gian để suy niệm về cuộc đời khổ nạn của Chúa, ta sẽ thấy lời nói và thái độ cư xử của Chúa Yesus có sức nâng đỡ, biến đổi ta, giúp ta dễ dàng đón nhận những gai góc trong cuộc sống.
20/ Hoa trái phát sinh từ những khổ đau của Chúa: Chúng ta cần cảm nghiệm những đau thương trên thân xác Chúa, chúng ta cũng không được quên những nỗi đau sâu kính trong trái tim Ngài. Sau đó chúng ta phải nhận ra một tình yêu thật lớn lao đối với Chúa Cha và đối với nhân loại. Chính tình yêu mới dám chấp nhận khổ đau và làm cho những khổ đau kia sinh hoa trái.
21/ Ngẫm nghĩ về thân phận kiếp người: Con Thiên Chúa đã phải chấp nhận những khổ đau trong thân phận con người. Chúa đã biết thế nào là bị vu khống, bị đối xử bất công, bị phản bội, bị nhục nhã, nỗi sợ hãi vì khổ đau, vì cô đơn và khiếp sợ cái chết. Ngài không cần suy nghĩ nhiều về đau khổ nhưng Ngài đón lấy đau khổ bằng một tâm tình chan chứa yêu thương và biến những khổ đau thành những chịu đựng có ý nghĩa, giúp con người được ơn cứu thoát.
22/ Chúng ta tự thấy mình giống nhân vật nào? Chúng ta có thể thấy mình giống Yuda, giống Phê-rô hay giống Philato. Chẳng có ai vô tội trước cái chết của con Thiên Chúa. Mỗi người hãy đi với Chúa từng chặng đường, bắt đầu từ vườn cây dầu đến núi sọ. Hãy suy nghĩ từng đoạn đường coi mình đã làm gì tốt, đã gây ra điều gì cho Chúa và sau cùng khi Chúa chết thì chúng ta đã sống như thế nào?
23/ Đừng sống kiểu vô tình: Hãy nhìn những người lạ quay video đám tang, chúng ta đừng sống vô tình trong cuộc khổ nạn của Chúa. Bởi lẽ mọi sự Chúa chịu là vì ta và cho ta. Sau khi suy gẫm và thấm nhuần cuộc khổ nạn của Chúa, chúng ta sẽ thấy mình yêu thánh giá Chúa hơn, vui lòng với thánh giá của mình hơn và kính trọng thánh giá của kẻ khác hơn.
24/ Sự khác biệt giữa 2 đám rước: Lễ lá là một lễ nửa vui, nửa buồn, vui vì Chúa được tung hô vạn tuế, buồn là khi phải tưởng niệm cuộc khổ nạn Chúa. Đây là 2 cảnh trái ngược nhau trong cùng một ngày. Lễ lá Chúa Yesus được đón rước trong tiếng reo hò vang dậy. Ngài là vị vua lẫm liệt đang ngồi trên lưng lừa. Sau đó ít ngày là một đám rước lên núi sọ, không có tiếng tung hô mà chỉ có lời kết án. Không có những nhánh cây mà chỉ có thanh gỗ thập giá, ngày xưa ai đã tham dự cả hai đám rước này ?
25/ Tâm tình của người Ki-tô hữu khi nghe bài thương khó Chúa: Chúng ta cảm thấy mệt mỏi khi nghe bài thương khó dài và thường cảm thấy mình dửng dưng, xa lạ, vô can. Thật ra nỗi đau đớn tủi nhục của Chúa Yesus là vì tôi, cho tôi (Gl 2,20), chúng ta cần nghe bài thương khó cách chậm rãi và hãy bước theo Chúa qua từng chặng đường. Hãy ở lại bên cạnh Chúa trong lúc khó khăn này, hãy cảm nghiệm nỗi đau đớn, cô đơn của Chúa.
26/ Tâm tình của các môn đệ: Ba môn đệ thân tín đã bỏ rơi Ngài, để một mình Chúa đau đớn, khắc khoải. Yuda chỉ điểm để lính bắt Chúa bằng một nụ hôn, các môn đệ thì sợ hãi bỏ trốn hết, còn Phê-rô thì thề thốt là không quen biết Chúa. 27/ Nỗi cô đơn của Chúa Yesus: Chúa Yesus đang đối diện với nỗi cô đơn tột cùng khi Cha Ngài cũng vắng bóng: Lạy Thiên Chúa Tôi, tại sao Ngài bỏ tôi ?.
28/ Nỗi đau tột cùng trên thân xác Chúa: Khuôn mặt ngời sáng của con Thiên Chúa làm người nay bị người ta khạc nhổ, bị tát, bị đánh, đôi mắt to với cái nhìn bao dung ấy nay bị bịt lại để làm trò cười cho trẻ con. Tấm thân phải gánh lấy tội của bao người giờ bị phơi bày ra cho những trận đòn thù cày nát. Bàn tay dùng để chữa bệnh, chúc lành cho mọi người, nay bị co quắp, sưng tấy, bầm tím vì những mũi đinh. Đôi bàn chân từng rong ruổi khắp mọi nẻo đường truyền giáo thì nay không còn đủ sức nâng bản thân tan nát gầy còm.
29/ Danh dự và phẩm giá của Chúa Yesus: Đây là điều đáng trân trọng nhất của Chúa Yesus thì nay bị bắt đóng vai hề, đóng vai vua dân Do Thái. Được mặc Cẩm Bào, được đội Triều Thiên, được cầm Vương Trượng, có vị vua nào vừa được bái lạy vừa bị lính khõ đầu không ?. Vị vua bị lột áo trước khi chịu đóng đinh, vị vua phải chịu nhiều tủi nhục trước cái nhìn của thế giới.
30/ Một điều ước: Cuộc thương khó của Chúa vẫn kéo dài đến tận thế, thập giá của Chúa, của tôi, của mọi người cũng chỉ là một. Chúa mời tôi vác thập giá của mình mà theo Chúa và giúp cho tha nhân đủ sức để vác thập giá của họ. Ước gì tôi, ước gì các bạn, là những Simon Ky-rê-nê luôn giúp Chúa, giúp anh em vác thập giá.
31/ Sự giao kết đã xong: Trước khi sự việc xảy ra, bà đã lấy thuốc thơm ướp xác ta, chờ khi liệm táng. Chúa đã nói ra điều này khi người phụ nữ đập vỡ bình bạch ngọc và đổ dầu thơm trong bình trong bình lên đầu Người. Chúa đã biết đời mình sẽ đi về đâu. Chúa biết rằng ngày hôm sau mình sẽ chết, sự quyết tâm của Chúa không phải là việc dễ làm. Vâng lời Chúa Cha là phải làm chủ bản thân mình, Chúa đã trải qua cơn hấp hối trong vườn Gietsemani, trong cơn khắc khoải, Chúa đã nói một lời ngắn gọn và dứt khoát: Thế là xong ! Thế có nghĩa là Người đã quyết định xong, đã giao kết xong, đã ưng thuận rồi.
32/ Sự vâng lời tự nguyện: Chúa muốn lưu ý những kẻ đến bắt Chúa rằng: Nếu Ngài muốn, Ngài có thể vô hiệu hóa bọn chúng như Ngài đã từng làm trong bao lần giảng dạy trong đền thờ hay ở những nơi khác. Ý Chúa muốn nhấn mạnh rằng: Người để chúng bắt chỉ vì Người muốn làm theo ý Thiên Chúa như lời tiên báo trong kinh thánh. Đây là sự vâng lời tự nguyện.
33/ Dân Chúng thay lòng đổi dạ: Người bị cô lập, bị tách rời khỏi dân chúng //mấy ngày trước đây chính dân chúng hoan hô người. Các vị lãnh đạo Do Thái đã chuẩn bị giờ hành động. Họ sắp đặt thời gian và mưu kế để vận động dân chúng. Dân chúng dễ thay lòng đổi ý do những nhà kỹ thuật về khoa điều khiển dân tình, thế là dân chúng đã bỏ Chúa.
34/ Các môn đệ đã làm gì vào lúc Chúa hấp hối ?: Trong cơn hấp hối, Chúa cô đơn. Chúa cũng biết rõ các môn đệ là những kẻ bất lực, chẳng thể giúp gì cho Chúa, nhưng dù sao nếu có họ lúc đó thì cũng có chút an ủi, thế mà họ lại ngủ lăn ngủ lóc. Các môn đệ đã chẳng hành động theo lời cam kết: Nhất là Phê-rô: Dù có phải chết vì Thầy, con cũng chẳng bỏ Thầy. Thế mà họ đã bỏ Chúa, họ đã trốn hết.
35/ Cô đơn nơi pháp đình: Chúa chỉ có một mình, không ai dám gỡ tội cho Chúa. Chúa Yesus đã biết thế nào là đắng cay, chua xót của tình bạn, tình thầy trò. Họ vì tư lợi, vì không muốn liên can, không muốn dính vào, mà lẽ ra họ phải cứu giúp.
36/ Chúa một mình trên thập giá: Chúa chỉ còn lại một mình trên thập giá, mặc cho tên trộm cướp thóa mạ. Một nỗi cô đơn tột bậc: Cha ơi ! Sao Cha bỏ con ? Sự vâng lời tự nguyện khiến cho Chúa càng thấm thía tấn bi kịch của số mệnh, của tình đời.
37/ Chúa Giêsu đã bị kết án hơn 2000 năm / Thế nhưng vụ án chưa đến hồi kết thúc vì có rất nhiều người trong chúng ta chưa hiểu hết nội dung cũng như toàn cảnh của vụ án thời đó.
38/ Bài tường thuật hôm nay đã kể lại đầy đủ mọi chi tiết cuộc thương khó / mỗi năm một lần, chúng ta đều lật lại hồ sơ vụ án, tuy thế chúng ta cũng chưa hiểu hết / Vậy đề nghị hôm nay chúng ta cố gắng tìm hiểu rõ hơn, để những ngày trong tuần Thánh này chúng ta có thể xác tín hơn về ý nghĩa cuộc thương khó và cái chết của Chúa Giêsu.
39/ Chúa Giêsu bị bắt vào tối thứ năm, Chúa bị đưa ra xét xử ở toà án Do Thái, toà án Philatô, toà án Hêrôđê, rồi trở lại toà án Philatô. Chúng ta hãy theo chân Chúa đến các toà án này để xem người ta xét xử Chúa ra sao!
40/ Đầu tiên, trước khi đưa ra toà án xét xử, Chúa Giêsu bị điệu đến dinh cựu thượng tế Anna, ông là người rất có uy tín với dân chúng và cũng là người rất ghét Chúa Giêsu / Theo các sử gia / Thượng tế Anna là người chịu trách nhiệm lớn nhất trong vụ án này / Ông muốn điều tra Chúa Giêsu, nhưng ông không khai thác được gì vì Chúa Giêsu luôn giữ thái độ im lặng nên ông bực tức và truyền áp giải Chúa sang Caipha, là con rễ ông, đang làm thượng tế năm ấy.
41/ Caipha là một nhà chính trị có tài, rất nổi tiếng / tức thời ông cho triệu tập 72 thành viên của hội đồng và cũng là toà án tối cao của người Do thái.
42/ Trước toà, có nhiều người đứng lên tố cáo Chúa, nhưng chỉ là nhưng điều liên quan tới đạo Do Thái / Họ cho rằng Chúa lộng ngôn phạm thượng khi công khai tuyên bố phá bỏ và xây lại đền thờ Yerusalem trong ba ngày / Nhiều lần vi phạm luật ngày Sabat / không giữ luật lệ truyền thống của tổ tiên để lại / Họ tha hồ tố cáo, Chúa Giêsu chỉ im lặng, không biện hộ lời nào.
43/ Cuối cùng Caipha đưa ra một câu hỏi có tính quyết định / Nhân danh Thiên Chúa, ông hỏi Chúa Giêsu có phải là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa không? Chúa trả lời: “Đúng như ngài nói” tức là Chúa Giêsu xác nhận Ngài là Con Thiên Chúa.
44/ Nghe vậy, Caipha lập tức xé áo bên ngoài, từ cổ tới bụng, chừng 30 phân, theo đúng tục lệ Do Thái, để phản ứng lời Chúa Giêsu nói, mà ông cho là lộng ngôn, phạm thượng.
45/ Caipha tuyên bố: Hắn nói phạm thương / Chúng ta còn cần gì nhân chứng nữa / Đấy, quý vị vừa nghe hắn nói phạm thượng đến Thiên Chúa / Chiếu theo luật Do Thái: Hễ ai nói phạm thượng thì người ấy phải chết.
46/ Số phận của Chúa Giêsu coi như đã được quyết định: Ngài sẽ bị kết án tử hình.
47/ Kể từ khi bị người Rôma đô hộ / Người Do Thái không có quyền kết án tử hình bất cứ ai, nếu không được chính quyền Rôma phê chuẩn.
48/ Sáng sớm hôm sau, họ áp giải Chúa Giêsu đến tổng trấn Philato, ông là viên chức cao cấp nhất, đại diện chính quyền Rôma tại nước Do Thái, để xin chuẩn y án tử hình.
49/ Trước toà án Philatô, người Do Thái bộc lộ hết ác tâm của họ / Để Philatô dễ chuẩn y bản án tử hình / Họ đã đổi lời tố cáo từ lĩnh vực tôn giáo sang lãnh vực chính trị / Nghĩa là người Do Thái dứt khoát muốn giết Chúa như một tội phạm chính trị, chống lại đế quốc Rôma.
50/ Khi họ hỏi Chúa Giêsu giải thích danh hiệu Đấng Mesia bằng danh hiệu Con Thiên Chúa, còn khi tố cáo trước toà Philatô lúc này thì họ giải thích bằng danh hiệu là “vua” / để lôi kéo Philatô vào cùng chơi trò gian ác với họ.
51/ Nhưng Philatô trả lời: Tôi không thấy ông này có gì đáng kết tội / Họ càng tố cáo mạnh hơn, nhai lại luận điệu chụp mũ, vu khống và quyết liệt đòi đóng đinh Chúa vào thập giá.
52/ Thấy tình hình căng thẳng, Philatô muốn gỡ mình ra khỏi cuộc chơi nguy hiểm này nên ông muốn đẩy trái banh trách nhiệm cho vua Hêrôđê / để ông khỏi bị phiền phức.
53/ Hêrôđê từ lâu đã rất muốn gặp Chúa, ông chỉ mong thoả mãn tính tò mò ham vui mà thôi / Thấy Chúa Giêsu ông rất mừng / nhưng rồi ông thất vọng ngay vì ông không được Chúa đáp ứng điều ông đang mong đợi là được coi Chúa Giêsu làm phép lạ / Để trả thù, ông nhập bọn với lũ lính hầu mà chế giễu Chúa / rồi vội vàng trả Chúa Giêsu lại cho Philatô.
54/ Philatô cố tìm mọi cách để thoát thân: Làm sao để vừa trấn an dư luận, vừa làm hài lòng người tố cáo quá khích, vừa khỏi mang tiếng kết án bất công người vô tội / Ông tuyên bố: Tôi Chẳng thấy điều gì để có thể kết án người này, vậy ông cho đánh trận đòn rồi tha về / nhưng đánh đòn xong người Do Thái vẫn khăng khăng gào thét dữ dội, đòi kết án tử hình Chúa / Philatô sợ hãi, đã hèn nhát rửa tay để thanh minh: mình không đổ máu người vô tội / và ông đã trao Chúa Giêsu để họ làm theo ý họ / Và họ đã xử tử Chúa theo ác ý của họ!
55/ Đọc lại hồ sơ vụ án, chúng ta thấy Philatô và Hêrôđê là hai nhà cầm quyền chính trị / Họ không tìm thấy điều gì để kết án tử Chúa / chỉ có giới lãnh đạo Do Thái giáo muốn giết Chúa mà không cần tội trạng nào / vì thế trách nhiệm trong vụ án này là của Hội đồng Do Thái giáo như Chúa Giêsu đã báo trước! 56/ Qua đây, chúng ta thấy đây là vụ án tôn giáo chứ không phải là vụ án chính trị. --------------------------
57/ qua việc mọi người cùng cầm nhành lá tung hô Chúa / Nhìn bầu không khí này, chúng ta cũng nhớ đến thái độ cuồng nhiệt của người Do Thái khi xưa.
58/ Nhìn quang cảnh này khiến chúng ta phải suy nghĩ không ít: vì những biến cố trái ngược mà dân chúng đã dành cho Chúa:
1) Đưa Chúa vinh hiển vào thành chưa được bao lâu, Chúa đã phải tủi nhục chết trên thập giá.
2) Tại cổng thành Giêrusalem, có biết bao người ra đón chào tung hô Chúa / Nhưng trên núi sọ chẳng còn được mấy người theo Chúa.
3) Từ Chúa Nhật lễ lá đến ngày thứ sáu tuần thánh, thời gian tuy rất ngắn nhưng có biết bao người đã thay lòng đổi dạ ?
4) Từ cổng thành đến núi sọ, đường đất chỉ có 700 mét, nhưng đã có biết bao người rẽ đường, đi ngang về tắt.
59/ Ta hãy lần theo dấu vết của những người bỏ cuộc để nhận diện các ngã rẽ:
1) Ngã rẽ của Yuda: Ông theo Chúa đã 3 năm / Được Chúa tin cẩn, được Chúa trao phó cho việc nắm giữ tiền bạc / Ngày lễ lá thì ông có mặt / Ngày Chúa chết thì ông vắng mặt / Ông đã rẽ ngang, lối rẽ đuổi theo tiền bạc vật chất / Ông đi theo tiếng gọi của tiền bạc / Ông trở thành người khác, ông bỏ Chúa vì tiền / Ông bán Chúa để lấy tiền.
2) Ngã rẽ của Phêrô: Ông là người thân cận nhất của Chúa / Là người đứng đầu nhóm Tông đồ / Ông đã thề rằng: Dù ai bỏ Chúa chứ tôi thì không bao giờ / Ngày lễ lá chắc là có ông bên Chúa / Nhưng ngày thứ sáu thì không thấy ông đâu / Ông đã rẽ sang lối khác / Ông đã lười biếng, đã hưởng thụ / Ông đi tìm chỗ ngủ / Vì trong vườn Giệtsêmani ông đã ngủ lăn lóc / Ở nơi sân toà án, ông đã đi tìm hơi ấm nơi đống lửa / Sự an nhàn hưởng thụ đã đẩy ông đến chỗ xa Chúa, chối Chúa để được an thân / để được tự do hưởng thụ.
3) Ngã rẽ đám đông: Hàng vạn người theo Chúa, quên ăn, quên mệt, quên cả đường về / Họ reo mừng, hoan nghênh đón Chúa long trọng vào thành / Thế mà trên núi sọ chỉ còn lại những người đến để sỉ vả, chê bai Chúa, nhạo cười Chúa / Họ đã quên những phép lạ hoá bánh / Họ quên những lúc Chúa chữa bệnh tật / Họ đã rẽ sang lối của dư luận / Họ thay đổi lập trường / Họ chạy theo đám đông / Họ chạy theo thị hiếu / Thấy người ta đi nghe Chúa giảng, họ cũng đi / Thấy người ta cười nhạo Chúa, họ cũng cười nhạo / Thấy người ta muốn đóng đinh Chúa, họ cũng đồng tình / Thấy người ta kết án Chúa, họ cũng gật đầu theo.
60/ Nếu để tự nhiên, chắc không ai bán Chúa, chối Chúa, lên án Chúa. Nhưng vì tác động của tiền bạc, của sự an thân, của dư luận mà họ đành rẽ sang một lối khác !
61/ Những gì Yuda vấp, Phêrô vấp, đám đông vấp / Chúng ta đều có thể vấp ngã.
62/ Làm sao để chúng ta có thể luôn trung thành với Chúa ?
63/ Hãy lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam / Chỉ có Lời Chúa là ánh sáng duy nhất.
64/ Chúng ta hãy cố gắng học hỏi kỹ lưỡng để mai kia dạy lại cho con cháu !
65/ Con cháu chúng ta là chủ nhân tương lai của trái đất này, và cũng là niềm hy vọng của Giáo hội / Có biết bao nhiêu khuynh hướng, trào lưu, thần tượng của thời đại / Mong sao chúng ta không sai lầm khi lựa chọn tiêu chuẩn sống tốt / có thể hướng dẫn mọi hành động tốt / Hãy dùng Lời Chúa để biến đổi cuộc đời mình, giúp con cháu mình đi đúng đường, sống đúng hướng !
66/ Lời Chúa là ánh sáng giúp xé tan bóng tối thế gian đang bao phủ / Giúp mọi người có lỡ bước lầm đường / Thì cũng có thể nhìn thấy mà quay về cho kịp lúc !
67/ Hãy để lời Chúa biến chúng ta thành những nhân chứng hôm nay, để giúp mọi người cảm nghiệm được tình yêu thương của Thiên Chúa / Giúp cho mọi người luôn bám chặt vào Chúa và trung thành đi theo đường lối Chúa cho đến cùng!
Đau khổ:
68/ Đau khổ xuất hiện trên thế gian từ khi tổ tông phạm tội / Chúa ra án phạt / Ông bà đã chịu, đã chết / Đã truyền lại hậu quả này cho con cháu (St 3,14-18) / Chúa Giêsu đã muốn trở nên người phàm như chúng ta nên Ngài cũng phải chịu đau khổ như chúng ta, chỉ trừ tội lỗi.
69/ Có hai thứ đau khổ: 1) Đau khổ thể xác mà ta hay gọi là đau đớn / 2) Đau khổ tinh thần / Hai thứ có mối tương quan với nhau / Đau đớn có thể đưa ta đến đau khổ và ngược lại / Cũng có thể vừa đau đớn vừa đau khổ.
70/ Đau đớn và đau khổ là kiếp của con người !
71/ Thiên Chúa không chủ ý dựng nên các đau khổ, nhưng đó là hình phạt bất đắc dĩ theo phép công bình của Chúa / Ngoài ra không phải tất cả mọi tai hoạ và đau khổ đều do Chúa gởi đến / Mà do chính sự độc ác của con người đã tạo ra cho nhau / Người ta tạm phân tích như sau:
1- 85% đau khổ do con người tạo ra cho nhau. 2- 5% do thiên tai, mưa lũ, động đất, gió bão. 3- 10% do ngẫu nhiên.
72/ Nếu con người yêu nhau thì 85% đau khổ sẽ biến mất / 15% còn lại nếu con người yêu nhau và san sẽ cho nhau thì coi như những đau khổ đó không đáng kể nữa / Vì nước mắt của chúng sinh còn nhiều hơn nước của 4 đại dương gộp lại / Chúng ta đừng làm khổ cho nhau nữa/ hãy yêu thương nhau như Chúa đã dạy.
73/ Câu chuyện hai môn đệ và con lừa / Mọi việc diễn ra đúng như lời Chúa dặn / Mới nhìn qua, chúng ta tưởng là một phép lạ / Nhưng chỉ là Chúa Yesus kín đáo thu xếp trước với người thân trong làng / Để khi tiếp xúc, họ nhận ra ngay như là một mật khẩu đã quy ước sẵn !
74/ Lý do nào mà Chúa Yesus phải thu xếp trước như vậy? Có hai lý do:
1- Khi sự việc này điễn ra mấy ngày trước lễ vượt qua / Là lễ kỷ niệm dân Do Thái được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập / Cho nên mỗi lần mừng lễ này thì ý tưởng giải phóng luôn hiện lên trong đầu dân chúng / Nhất là lúc này đây, đất nước đang nằm dưới ách thống trị của quân La Mã / Chính vì thế, tổng trấn Philatô bình thường vẫn ở trong tổng hành dinh Syria / Nhưng gần đến lễ vượt qua thì ông không yên tâm nên phải đến Gierusalem để có thể trực tiếp chỉ huy dẹp loạn nếu có gì xảy ra / Chính vì bầu không khí nhạy cảm này mà quân La Mã có mặt ở khắp nơi, nên Chúa Yesus phải kín đáo thu xếp để không ai biết trước chuyến đi vào thành của Ngài !
2- Mọi chi tiết mà Chúa Yesus thu xếp đều có liên hệ đến con lừa / Vì sao? Chúa không muốn người ta hiểu lầm Ngài là một nhà giải phóng quân sự hay chính trị / Chúa muốn mọi người hiểu rằng: Ngài là một vị vua hoà bình, hiền từ và khiêm tốn / Vua hoà bình thì cưỡi lừa / Vua chinh chiến thì cưỡi ngựa.
75/ Tuy thu xếp như vậy nhưng không ai hiểu ý Chúa / Các môn đệ thì lấy áo choàng của mình trải lên lưng lừa / Còn dân chúng thì chặt cành lá ngoài đường mà rải / Người trước kẻ sau reo hò vang dậy/ Sự hồ hởi của họ xuất phát từ ý tưởng giải phóng => Hôm nay ngày giải phóng đã đến ,vị anh hùng đã xuất hiện / Tóm lại hôm nay ai cũng nghĩ Chúa Yesus bắt đầu cuộc khởi nghĩa! Họ hiểu lầm.
76/ Hôm nay là lễ lá, chúng ta hãy dùng đoạn Tin Mừng để soi sáng ý nghĩa các việc xảy ra trong tuần thánh: Tại sao các thượng tế tìm bắt Đức Yesus? Thưa vì họ hiểu lầm / Coi Chúa Yesus là một chính khách nguy hiểm / Trước khi các biến cố này xảy ra, các vị lãnh đạo Do Thái giáo đã tính đến khả năng sức thu hút quần chúng của Chúa Yesus / Sẽ là cớ để cho quân Rôma đàn áp và tiêu diệt dân Do Thái / “Nếu chúng ta cứ để…người Rôma sẽ đến phá huỷ nơi thánh và cả dân tộc ta” (Yn 11,48)
77/ Tại sao Yuda nộp Chúa Yesus? Nhiều chuyên gia Kinh Thánh cho rằng: đó là do một tính toán chính trị / Ông cho rằng Chúa Yesus là người có khả năng làm một cuộc đảo chính / nhưng Yuđa chờ mãi mà không thấy Chúa Yesus làm gì nên hắn mới nộp Đức Yesus như là dồn Ngài vào thế bí / Hắn hy vọng khi đã bị bắt thì Chúa Yesus buộc lòng phải ra tay hành động.
78/ Tại sao dân chúng lại hùa vào với các thượng tế để đòi giết Đức Yesus / Đó là phản ứng thất vọng khi họ đã quá hy vọng vào một ông Yesus đầy quyền năng nhưng lại không chịu làm theo ý họ / Họ muốn Chúa Yesus giải phóng đất nước khỏi ách nô lệ / nhưng không được như ý / nên họ trừng trị Ngài!
79/ Hôm nay chúng ta cầm nhành lá và đang tung hô Chúa, nhưng chúng ta đang mong gì ở nơi Ngài? Nếu chúng ta cũng coi Đức Yesus như một vị vua uy quyền , chúng ta có hành xử như các vị lãnh đạo Do Thái giáo là tìm cách trừ khử Ngài / vì Ngài không cho chúng ta tự do làm theo ý mình muốn? (Ngài làm mất tự do của chúng ta ).
80/ Chúng ta có coi Chúa là một vị vua giúp chúng ta chiến thắng thù địch, nhưng chúng ta thất vọng như quần chúng hôm đó vì Ngài không giúp chúng ta đạt được mục đích ấy?
81/ Nếu chúng ta coi Chúa như một ô dù cho chúng ta núp bóng / chúng ta sẽ bỏ chạy như các môn đệ, khi ước vọng chúng ta không thành?
82/ Đức Yesus là vị vua hòa bình / hiền từ / khiêm tốn / đi theo Ngài chúng ta chẳng được hưởng đặc quyền, đặc lợi / mà chỉ được hưởng ơn bình an thôi / Như vậy chúng ta có theo Chúa không?
83/ Adam vì cao vọng, muốn ngang bằng với Thiên Chúa / nên kết quả đã nhìn thấy mình trần truồng xấu hổ và bị đuổi ra khỏi vườn Địa Đàng!
84/ Đức Yesus thì khiêm hạ tột cùng, vâng lời thẳm sâu / Kết quả là Ngài đã được nâng lên ngang hàng với Thiên Chúa Cha !
85/ Ai đi theo con đường Adam, tự tìm mọi cách để khẳng định mình / tưởng rằng làm thế thì uy tín và giá trị của mình sẽ được nâng cao / Nhưng ông đâu ngờ rằng: con người là do Thiên Chúa tạo dựng / nâng cao hay không là do quyền Thiên Chúa chứ không phải do ý muốn của ông / Tốt hơn hết là chúng ta hãy vâng lời Thiên Chúa, làm theo sự chỉ dẫn của Ngài / lúc ấy Chúa sẽ nâng chúng ta lên đúng theo ý của Ngài muốn ,chứ không theo như ý của chúng ta muốn !
86/ Các động cơ mà người ta giao nộp Đức Yesus:
1- Trao cái này để đổi lấy cái kia như Yuđa: Cách trao vụ lợi. 2- Trao cho người khác cái mình muốn bỏ như các thượng tế: Cách trao độc ác. 3- Trao cho người khác cái mà mình yêu quý như Chúa Cha: Cách trao yêu thương. 4- Trao chính mình / như Đức Yesus: Cách trao yêu thương tột cùng.
87/ Chúng ta hãy suy nghĩ về cách trao của mình và cũng là cách mà chúng ta trao Chúa Yesus cho người khác!**** TÓM Ý
1/ Ý nghĩa của Cựu Ước và Tân Ước: Cựu Ước là hình bóng, Tân Ước là thực tại. Cựu Ước là chuẩn bị, Tân Ước là thực hành. Cựu Ước là hướng tới là tiên báo để rồi sau đó mọi việc xảy ra đều phù hợp với kinh thánh.
2/ Mục đích Chúa Yesus vào thành Yerusalem: Chúa muốn minh chứng Ngài là con Thiên Chúa, là Đấng phải đến, là Đấng Messia. Hôm nay lời tiên tri Giacaria đã ứng nghiệm: “Hỡi thiếu nữ Sion hãy vui mừng, vì vua ngươi đến với ngươi” .
3/ Mục đích thứ hai: Chúa Yesus công khai lời chúc tụng, cho dù đi vào thành là đi vào chỗ chết, thế nhưng đây là con đường mà Chúa Cứu Thế phải đi.
4/ Mục đích thứ ba là gì?: Để cho mọi người biết Ngài là vua hòa bình. Dân chúng đã dành cho Ngài một đám rước vua chúa khi họ tung hô, chúc tụng Ngài. Bởi vì từ lâu dân chúng rất muốn làm điều này nhưng chưa có dịp. Trong thâm tâm họ đang ao ước có một vị vua chính trị.
5/ Kiểu của ông vua Yesus: Chúa muốn cho mọi người thấy Ngài chỉ là vua trong cõi lòng của họ, Chúa chỉ muốn chiếm hữu tâm hồn họ. Chúa là ông vua bình an nên cỡi lừa chứ không phải ông vua chinh chiến cỡi ngựa.
6/ Kiểu vua Yesus cai trị như thế nào?: Cả cuộc đời Chúa Yesus tại trần thế đã minh chứng đều này: Ngài là vị vua bất bạo động, Ngài chỉ dùng tình yêu và lòng nhân từ mà cai trị. Người Do Thái đã dùng vũ lực để chống lại La Mã nhưng họ vẫn thất bại vì Yerusalem đã bị La Mã bình địa vào năm 70 (sau CN).
7/ Quốc gia nào/ đất nước nào còn tồn tại mãi ?: Cả Napoleon, Cả Alexan đại đế, cả César, những đế quốc được họ xây bằng vũ lực đã chẳng còn tồn tại. Chỉ còn một mình Vua Yesus, Ngài thiết lập một nước của tình thương nên càng ngày nước ấy càng lớn mạnh, luôn có hàng triệu người sàng chịu chết vì Ngài.
8/ Đức Ki-tô là ai? Ngài là Đấng Ki-tô, Đấng Messia là Đấng cứu thế, là vị vua hòa bình. Hôm nay Chúa muốn chúng ta xưng lại danh hiệu ấy và luôn mở rộng tâm hồn để đón chờ Chúa đến.
9/ Câu chuyện Chúa chịu đóng đinh có một tay: Vị Linh Mục đã không muốn tha cho tội nhân tái phạm nhiều lần vì yếu đuối, Nhưng Chúa thì sẵn lòng tha vì mục đích của Ngài đến thế gian là để cứu vớt, để tha tội.
10/ Chúa Yesus nói gì với chúng ta ? Chính ta mới đổ máu ra để cứu chuộc con. Thập giá trước mắt người đời là sự thất bại, khổ nhục, là hình phạt dành cho bọn nô lệ, phản loạn, nhưng đối với Chúa, nó là nguồn ơn cứu độ cho chúng ta.
11/ Ý nghĩa của dấu chỉ thập giá: Chúa Yesus biến đổi từ thập giá thành dấu chỉ của ơn cứu độ, của tình thương và sự tha thứ/ nhờ sự vâng phục cho đến chết của Chúa Yesus mà chúng ta nhận lãnh được ơn cứu độ.
12/ Con đường nào Chúa đã đi qua ?: Là con đường đau khổ, con đường thập giá, của khiêm nhu, của thất bại, nhưng con đường xem ra đi vào ngõ cụt đó lại đưa chúng ta đến chốn vinh quang phục sinh.
13/ Con đường nào người môn đệ phải đi ? Chúng ta không có con đường nào khác ngoài con đường thập giá, tức là chấp nhận những khổ đau trong cuộc sống như lời Chúa Yesus nói: Ai muốn theo ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo ta.
14/ Thập giá Chúa Ki-tô đưa ta đến đâu ?: Nếu chúng ta chịu đau thương gian khổ, vác thập giá vì lòng mến Chúa, ta sẽ góp phần vào thập giá Đức Ki-tô để đền bù tội lỗi chúng ta và của anh em chúng ta.
15/ Vì sao Chúa Yesus cần chút vinh quang trần thế ?: Từ trước tới nay chưa lần nào Chúa tìm cho mình chút vinh quang trần thế. Còn bây giờ Chúa lại chấp nhận để cho người ta tung hô vạn tuế khi cái chết đã gần kề. Chỉ vì Chúa muốn cho mọi người biết Ngài là Đấng Ki-tô, là vị vua hòa bình.
16/ Những ngày cuối của cuộc đời Chúa Yesus: Lễ lá mang ý nghĩa một nửa vui, một nửa buồn. Tuần thánh bắt đầu cũng là những ngày cuối. Người ta sẽ đi theo tán tụng Chúa, nhưng sau đó người ta sẵn sành đả đảo, kết án, bỏ rơi. Theo Chúa cho tới cùng là một điều quá khó, nếu không có ơn Chúa trợ giúp thì chẳng ai làm được.
17/ Hoa trái nào phát sinh từ thập giá ? Chúng ta cần cảm nghiệm những đớn đau trên thân xác Chúa và những nỗi đau sâu kín trong trái tim Chúa. Sau đó chúng ta sẽ nhận ra tình yêu lớn lao của Ngài đối với Chúa Cha và nhân loại. Chính tình yêu này mới giúp Chúa Yesus chấp nhận khổ đau, khiến cho những khổ đau kia trổ sinh hoa trái.
18/ Chúa Yesus muốn hiểu gì thân phận kiếp người ? Chúa muốn biết thế nào là bị vu khống, bị đối xử bất công, bị phản bội, bị nhục nhã, bị bỏ rơi và sự khiếp sợ trước cái chết. Chúa Yesus đã đón lấy khổ đau bằng một tâm tình chan chứa yêu thương và biến những khổ đau ấy thành những chịu đựng có ý nghĩa, giúp cho loài người nhận được ơn cứu thoát.
19/ Chúng ta giống với nhân vật nào trong sách thánh ? Chúng ta có thể thấy mình giống Yuda, giống Phê-rô hay giống Philato. Chẳng có ai vô tội trước cái chết của con Thiên Chúa. Chúng ta hãy thử đi với Chúa một chặng đường bắt đầu từ vườn cây dầu đến núi sọ, hãy suy nghĩ từng đoạn đường coi mình đã làm được điều gì tốt , đã gây ra điều gì cho Chúa và khi Chúa chết rồi, chúng ta đã sống như thế nào ?
20/ Sự khác biệt giữa 2 đám rước: Lễ lá vui trước, Chúa Yesus được tung hô vạn tuế, buồn sau khi phải tưởng niệm cuộc khổ nạn đớn đau nhục nhã của Chúa, Chúa chịu mọi sự vì ta và cho ta, sau đó chúng ta sẽ yêu mến Thánh giá hơn.
21/ Tâm tình của người Ki-tô hữu như thế nào ? Chúng ta thường cảm thấy mệt mỏi khi nghe bài thương khó quá dài. Và cũng thường cảm thấy dửng dưng, xa lạ, vô can. Thật ra những đau đớn tủi nhục mà Chúa Yesus phải chịu là vì tội lỗi chúng ta. Chúng ta cần phải bước theo Chúa từng đoạn đường, hãy ở lại bên Chúa lúc khó khăn này, hãy cảm nghiệm nỗi đau và sự cô đơn của Chúa.
22/ Nỗi đau tột cùng của Chúa Yesus: Khuôn mặt ngời sáng của con Thiên Chúa nay bị người ta khạc nhổ, đánh, tát, đôi mắt to bao dung ấy nay bị bịt lại để làm trò cười cho trẻ con, tấm thân phải gánh lấy tội của nhân loại nay phải chịu bằng những trận đòn nát thịt tan xương.
23/ Danh dự, nhân phẩm Chúa ở đâu ? Danh dự của Chúa nay bị người ta bắt đóng vai hề, làm vua dân Do Thái, được mặc áo Cẩm Bào, được đội Triều Thiên, được cầm Vương Trượng. Có vị vua nào vừa được bái lạy vừa bị lính khõ lên đầu không?
24/ Một điều ước: Cuộc thương khó của Chúa vẫn kéo dài đến tận thế, thập giá của Chúa, của tôi, của mọi người cũng chỉ là một . Ước gì con vui lòng vác thập giá của mình và giúp cho tha nhân vác được thập giá của họ. Con ước gì con có thể là Simon Ky-rê-nê, con cũng ước gì trên thế giới này đâu đâu cũng có ông ta xuất hiện để thánh giá Chúa không còn là nỗi đau của nhân loại nữa.
25/ Sự giao kết với Chúa Cha và sự vâng lời tự nguyện: Khi người phụ nữ xức dầu thơm cho Chúa, Chúa đã biết đời mình sẽ đi về đâu. Sự quyết tâm của Chúa không phải là việc dễ làm. Vâng lời Chúa Cha là phải làm chủ bản thân mình, khi trải qua cơn hấp hối trong vườn cây dầu, Chúa Yesus đã nói một lời ngắn gọn: Thế là xong, có nghĩa là Chúa đã giao kết xong, đã ưng thuận rồi. Chúa cũng muốn lưu ý những kẻ đến bắt Chúa rằng: Nếu Chúa muốn, Chúa có thể vô hiệu hóa hành động của họ như Chúa đã từng làm bao nhiêu lần khi giảng dạy ở đền thờ cũng như ở nhiều nơi khác. Ý Chúa muốn nói rằng: Chúa để cho họ bắt là thể hiện sự vâng lời tự nguyện.
26/ Dân chúng thay lòng, đổi dạ như thế nào ? Mấy ngày trước dân chúng tung hô người, còn các lãnh đạo Do Thái thì chuẩn bị giờ hành động, sắp đặt mưu kế để vận động dân chúng để dân chúng thay lòng đổi dạ. Thế là dân chúng đã bỏ Chúa.
27/ Các môn đệ đâu cả rồi ? Trong cơn hấp hối Chúa thật cô đơn, Chúa biết rõ các môn đệ là những kẻ bất lực, họ chẳng thể giúp gì cho Chúa. Nhưng dù sao thì sự có mặt của họ vào lúc này cũng đem lại cho Chúa chút niềm an ủi, các môn đệ đã chẳng giữ lời cam kết, nhất là Phê-rô. Họ đã ngủ lăn lóc và sau đó thì bỏ trốn hết.
28/ Nỗi cô đơn của Chúa ở chốn pháp đình và trên cây thập giá: Chúa Yesus chỉ còn lại một mình trơ trọi, không ai dám gỡ tội cho Chúa. Lúc này Chúa nhận ra thế nào là đắng cay, là chua xót cho tình bạn, tình thầy trò. Chính vì họ không muốn liên can, không muốn dính vào mà lẽ ra họ phải cứu giúp Chúa. Trên thập giá Chúa còn lại một mình, tên trộm tha hồ thóa mạ. Chúa Yesus quá thấm thía tấn bi kịch, Chúa đau đớn tột cùng, Ngài buồn cho số mệnh, cho tình đời, khiến cho Chúa phải đắng cay khi thốt lên lời: Lạy Cha ! Sao Cha bỏ con ? Bài viết của Yuse Luca (ditimchanly.org)
Sau 40 ngày chay thánh, hôm nay cùng với Giáo hội chúng ta bước vào Tuần thánh, kỷ niệm sự thương khó, tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta suy niệm cuộc đời của Chúa Giê-su trong những ngày cuối cùng của Người. Tất cả lời nói, hành động và việc làm của Người trong tuần thánh này đều có chung một mục đích nói lên và diễn tả tình yêu cao vời của Thiên Chúa đối với chúng ta, trong kế hoạch cứu độ nhân loại. Chúa nhận, chịu tất cả những sự thương khó và chết sỉ nhục trên thập giá vì yêu thương chúng ta.
Nghi thức hôm nay có hai phần: kiệu lá và Thánh lễ. Phần kiệu lá nêu cao vương quyền của Chúa Giêsu, đồng thời giúp chúng ta sống lại cảnh Người khải hoàn vào thành Giêrusalem để hoàn tất công cuộc cứu độ, và được dân chúng hoan hô đón rước nồng nhiệt, vì họ tưởng Người đến để lãnh đạo họ và giải phóng họ khỏi sự xâm lăng và đàn áp của đế quốc La mã. Nhưng sau đó họ biết Người là một Vua hiền hòa và khiêm tốn, đến mang ơn cứu độ và giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi, cho nên vì thất vọng và tức giận, họ thay đổi thái độ lên tiếng kết án, chung lời phỉ báng, cùng đánh đập, bắt Người vác và đóng đinh Người trên thập giá.
Ông bà anh chị em thân mến. Lời Chúa trong Lễ Lá hôm nay phơi bày và cho chúng ta thấy sự thay đổi tâm dạ con người, từ sự đồng thanh hoan hô đến lời đả đảo, phỉ báng Chúa; từ sự tâng bốc, đưa Chúa lên ngai vua đến sự hạ bệ, đóng đinh và treo Chúa trên thập giá. Đặc biệt qua Bài Thương Khó, chúng ta biết và cảm nghiệm những giờ phút kinh hoàng căng thẳng và cô đơn sau cùng của Chúa. Trong Vườn Cây Dầu, ba môn đệ thân tín xin đi với Chúa, nhưng không lâu sau đó, họ đã ngủ say để Chúa một mình. Môn đệ Giuđa phản bội bán Thầy 30 đồng bạc, giá của một người nô lệ, bằng một nụ hôn lừa dối. Phêrô đã chối và thề không quen biết Thầy 3 lần trước một đầy tớ gái. Các môn đệ khác sợ hãi bỏ chạy trốn, để Thầy một mình với những người độc ác và với đám đông cuồng nộ, gào thét: “Đóng đinh nó đi.” Họ đã coi Chúa Giêsu ngang hàng hay tệ hơn cả Baraba là một tên phiến loạn giết người.
Chúng ta còn có thể cảm nghiệm được những đau khổ phần xác và tinh thần thật ghê sợ mà Chúa Giêsu đã chịu trong giờ sau hết. Thứ nhất là đau khổ về thân xác. Chúa bị đánh đập, vả tát vào mặt, dùng roi quất vào thân mình. Đầu của Người bị đội mão gai nhọn đâm vào máu chảy xuống mặt. Đôi bàn tay của Chúa bị bầm tím đâm xuyên thâu bởi những mũi đinh nhọn. Đôi bàn chân của Người bị quân lính đóng đinh xuyên qua cây gỗ. Thân mình của Người đã bị lưỡi đòng đâm vào cạnh sườn, máu và nước chảy ra. Và đau khổ thứ hai là về tinh thần. Chúa đã bị người ta khạc nhổ vào mặt, bị sỉ nhục, nhạo báng và khinh khi. Khi bị đóng đinh treo trên thập giá, Chúa đã bị kẻ qua, người lại phỉ bang và nhục mạ. Chúa đã chết, một cái chết cô đơn và tủi nhục trên thập giá. Nhưng ba ngày sau đó, Người đã kết thúc kế hoạch cứu độ bằng việc sống lại. Chúa đã phục sinh. Người đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, đem ơn cứu độ muôn đời cho nhân loại chúng ta.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúa đã nhận, chịu khổ hình và chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại, như Người đã nói “Không có tình yêu nào cao quí cho bằng chết cho người mình yêu thương.” Đó là lý lẽ của một con tim yêu thương và nhân từ. Chính tình yêu, chứ không phải đau khổ, đã biến thập giá tủi nhục thành Thánh Giá vinh quang. Chính tình yêu của Chúa Giê-su, chứ không phải cuộc khổ nạn mà chúng ta được Cứu Độ (Ga 3,17), và được giải thoát mọi xích xiềng tội lỗi. Như vậy, cuộc thương khó của Chúa Giê-su là một hành trình của ân sủng tình yêu tiến tới sự sống và hạnh phúc cho nhân loại chúng ta.
Chúng ta cầu xin Chúa trong Tuần Thánh này biết nhận ra và cảm nghiệm được tình yêu cao siêu của Chúa Giêsu Kitô trên Thánh Giá, để chúng ta luôn trung thành với Vua Giêsu, và cam đảm sống lời Chúa dạy, trở thành chứng nhân cho Chúa. Chúng ta nhận biết, muốn trở thành môn đệ chân chính của Chúa, chúng ta phải vác thập giá và đi theo con đường Chúa đã đi. Xin Chúa giúp chúng ta cùng chết với Chúa, tránh xa những gương xấu của dân chúng xưa, biết hy sinh, quảng đại và chấp nhận, chịu nhiều khó khăn, đau khổ và thiệt thòi, để sống cho Chúa, vì Chúa đã thương yêu và hy sinh hoàn toàn cho chúng ta, và để chúng ta cùng được sống lại vinh quang với Người. Cầu chúc tất cả mọi người một Tuần Thánh sốt sắng, trong ân sủng tình yêu của Chúa Giê-su Ki-tô. --------------------------
Khi Chúa vào Thành Thánh, Chúa Giêsu muốn tất cả thật đơn giản, nhưng giầu ý nghĩa về tính thiên sai. Trái lại, đám đông từ Galilêa đến dự lễ Vượt Qua lại vui mừng phấn khởi. Chúa Giêsu tiến vào Thành Thánh, đám đông và đoàn môn đệ cất tiếng ngợi ca: "Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời", làm cho chúng ta nhớ lại lời thiên thần đã hát trong đêm Giáng sinh: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời và bình an dưới thế cho người thiện tâm" (Lc 2, 14).
Sự nhiệt tình của đám đông gặp phải sự chỉ trích của một số người Biệt Phái. Chúa Giêsu chấp nhận sự nhiệt tình này bởi nó phát xuất từ trái tim, cho dù có phù du đi chăng nữa (x. Lc 19,39-40).
Một ngôn ngữ loài người
Toàn bộ sứ mạng của Người Tôi Tớ Đau Khổ được Isaia tóm lại: lắng nghe để huấn luyện, huấn luyện để loan báo: "Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời Người giáo huấn... Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn" (x. Is 50, 4-7). Thật dễ để mà nói, "tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi" (Is 50, 6), nhưng không dễ để mà sống. Vì thế, ta phải không ngừng lắng nghe Thiên Chúa và con người, để Thiên Chúa và con người huấn luyện ta, loan báo Thiên Chúa cho anh em.
Người đã không lấy lại
Chúa Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa, chia sẻ tất cả vinh quang của loài người và vinh quang Thiên Chúa: "Đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm" (Pl 2,7). Chúa Giêsu chấp nhận tất cả sự thật. Là con người, một tạo vật có giới hạn trong thời gian, gắn liền với khổ đau, ngược đãi và bị giết chết. Vì đã đảm nhận, nên với cách thức phàm nhân, Chúa Giêsu đã "vâng lời cho đến chết" (Pl 2,8), ngoại trừ tội lỗi, đành mất tất cả để có được vinh quang trở về với Thiên Chúa.
Khởi đầu chặng Đàng Thánh Giá
Thánh lễ ngày Thứ Năm Tuần Thánh như là điểm khởi đầu con đường thập giá, chứ không phải vườn Cây Dầu. Bởi vì con đường này chính là Vương Quốc. Đây là nét đặc trưng của bài Thương Khó theo Tin Mừng Luca.
Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Cho đến khi triều đại Thiên Chúa đến, vương quốc của Thiên Chúa". Và đối với những người bị kết án trên thập giá cùng Chúa Giêsu, Nước Thiên Chúa đến ngay lập tức, người trộm lành hỏi: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi ?" (Lc 23, 43) Chúa Giêsu trả lời: " Ngay hôm nay... " (Lc 23, 43). Thánh Thể thực hiện hy tế của Thiên Chúa và ban tặng cho chúng ta những quả phúc tuyệt vời ngay tức khắc. Mỗi khi cử hành, chúng ta thưa: "Xin đoái nhìn hiến lễ Hội Thánh dâng lên Chúa và khi Chúa nhận đây chính là của lễ Con Cha đã dâng tiến" (Kinh Nguyện Thánh Thể III) Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Chén này là Tân ước trong Máu Ta" (Lc 22,20).
Trong vườn Giệtsimani
Trong thư gửi tín hữu Do thái Chúa Giêsu nói: "Con đến để làm theo Ý Cha" (Dt 10,9-10) lấy lại những lời Thánh Vịnh (Tv 39, 8). Nhưng lời đó vẫn tiếp tục và đặt chúng ta vào trong lễ dâng hiến của Chúa Kitô. Chính trong ý Chúa Cha, Chúa Giêsu đã dâng hiến chính thân mình làm của lễ để cứu chuộc chúng ta.
Có lần chúng ta bước trượt, lúc đó bàn tay ta không có gì để nắm. Có lúc trái tim ta bồi hồi trong ta, cuộc sống mất đi ý nghĩa, khi tình yêu tan rã, tâm trí chúng ta mất hướng. Chúa biết rằng trong vườn cây Dầu, có các môn đệ ở gần, Người vẫn cảm thấy cô đơn: "Tại sao các con ngủ?" (Lc 22, 46).
Nhưng sự cô đơn không phủ kín trên Người, mà đưa Người đến với lễ vật tự hiến phổ quát. Thánh Phaolô viết cho tín hữu Philipphê "Để mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng" ((Pl 2, 11). Chúng ta phải ra khỏi chính mình, vượt ra ngoài bóng đêm để tìm kiếm Thiên Chúa đầy lòng trắc ẩn, tìm ánh sáng của Ngài.
Chối Chúa
Phêrô với thanh gươm cầm sẵn trong tay, tin tưởng vào sức riêng mình, ông đặt tất cả vào sức mạnh và sự nhiệt tình với Chúa Kitô. Và giờ đây ông tìm lại chính mình. Ông biết rõ người mà tên đầy tớ nữ hỏi ông, nhưng ông vẫn nói: "Này chị, tôi đâu quen biết người ấy" (Lc 22,57).
Con gà là con vật không màng chi đến giờ giấc, vào thời điểm đó đã cất tiếng gáy. Phêrô sau khi chối Chúa, quay lại nhìn Chúa Giêsu, ông sợ hãi. Lúc này, Chúa không đến nắm lấy tay Phêrô như ngày ông bị chìm trên biển khi đang đến cùng Chúa. Với cái nhìn yêu thương, giờ đây Chúa Giêsu nhắc nhở Phêrô, ông quay lại và nhìn Chúa, cái nhìn lén lút, gặp ánh mắt "yêu thương", ông sực nhớ lời Chúa Giêsu đã nói với ông : "Khi gà chưa gáy, con đã chối ta ba lần" (Lc 22, 61).
Chúng ta hãy để Chúa Giêsu nhìn chúng ta, cho chúng ta tính xác thực của tình yêu thương xót vượt trên sự yếu hèn của chúng ta. Các ông nói, quan nói
Trước Công Nghị, giới lãnh đạo Do thái hỏi Chúa Giêsu xem có phải Người là Đức Kitô không? Chúa Giêsu trả lời : "Nếu Tôi có nói, các ông cũng chẳng tin tôi, và nếu tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời" (Lc 22, 67-68). Người buộc họ lên tiếng : "Vậy ông là Con Thiên Chúa ư ?" Chúa Giêsu đáp : "Các ông nói đúng, Ta là Con Thiên Chúa" (Lc 22, 70).
Với Philatô, ông lồng chính trị vào khi hỏi Chúa Giêsu: "Ông có phải là Vua dân Do Thái không?" (Lc 23,3). Chúa Giêsu vẫn giữ thái độ và hành vi tương tự như trước cộng nghị: " Ông nói tôi là vua" (Lc 23,3).
Chúa cũng yêu cầu chúng ta trả lời cùng một câu hỏi, mà Chúa hỏi các môn đệ: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?"
Chúa Giêsu không đòi cho mình
Từ nay, Chúa Giêsu trong tư cách là con người bị bỏ rơi và bị ngược đãi. Người bị nộp vào tay kẻ dữ, bị mạc cả với kẻ sát nhân, phải vác thánh giá nặng nhục nhã và bị nhạo báng như tên nô lệ. Người khiêm nhường đến độ không còn được tôn trọng. Người đã tự hủy mình ra không, không còn sức để vác cây thập giá.
Chúa không đòi cho mình một đặc quyền đặc lợi nào, chẳng là gì trước sự tàn bạo của binh lính, kể cả Simon người Cyrênê, Chúa cũng chẳng là gì, ông kề vai vác đỡ, chẳng qua ông bị bắt vác mà thôi. Ông không biết ý nghĩa, cử chỉ vác thánh giá này. Những người nhạo báng hay tên lính lấy bọt biển nhúng giấm cho Chúa uống, họ có hiểu được không?
Ba năm mỏi chân đi giảng đạo cho muôn dân, với những phép lạ Chúa làm, an ủi những người ốm đau, bệnh tật, nghèo nàn đã không làm cho họ khám phá con người thật của Chúa Giêsu. Trong vườn Cây Dầu, một mình đối diện với Chúa Cha, Chúa không xin điều gì : ngoại trừ xin ơn tha thứ cho những ai làm khốn mình, vì Chúa đến để mang ơn tha thứ cho mọi người : "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm" (Lc 23, 34).
Cuộc đối thoại bất ngờ
Cùng chịu đóng đanh với Chúa Giêsu có hai tên trộm cướp, một đứa bên trái, một đứa bên phải. Chúa nghe hai tên đối thoại với nhau, một kẻ nhạo báng Chúa, còn kẻ kia thừa nhận mình là kẻ có tội : "Chúng ta phải chịu xứng với việc chúng ta đã làm" (Lc 23, 41), như chúng ta vẫn đọc trước khi cử hành Thánh lễ : "Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em tôi đã phạm tội".
Một trong hai tên trộm thưa Chúa Giêsu rằng: "Xin nhớ đến tôi cùng..." (Lc 23, 41); còn chúng ta, chúng ta xin anh chị em "cầu nguyện cho tôi, trước tòa Thiên Chúa, Chúa chúng ta". Trong khoảng khắc khó nói những lời ấy vì Chúa Giêsu cũng bị tra tấn, mà tên trộm lành đã kêu lên với Chúa Giêsu là Chúa với cả con người anh. Chúa Giêsu trả lời ngay lập tức : "Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta" (Lc 23, 42).
Bóng tối và màn Đền Thờ bị xé
"Vào khoảng giờ thứ sáu, tối tăm liền bao trùm cả mặt đất cho đến giờ thứ chín...màn trong đền thờ xé ra" (Lc 23,44-45). Chúa Giêsu trút hơi thở trao phó linh hồn trong tay Chúa Cha và từ nay, chắc chắn Người là tác nhân Phục Sinh, hoàn tất điều có thể trao ban. Tên lính đã ngợi khen vinh quang Thiên Chúa. Đám đông cảm thấy nhu cầu cần thiết phải được tha thứ liền đấm ngực ăn năn trở về mừng lễ Vượt Qua.
Giuse người Arimathia với tư cách là môn đệ đã quyết định tự mình đến xin Philatô cho được tháo đanh táng xác Chúa. Những người phụ nữ thánh thiện về nhà chuẩn bị thuốc thơm vì hôm sau là lễ Vượt Qua. Các đèn chiếu sáng ngày Sabát của lễ Vượt Qua bắt đầu tỏa sáng. Nhưng nó vẫn còn tối.
Vinh quang Thiên Chúa sẽ chiếu tỏa vào buối sáng ngày Phục Sinh khi tấm cửa mộ bị lăn ra như bức màn của đền thờ bị xé. Ngày thứ nhất trong tuần, sau khi sống lại, Chúa đến giữa họ, chia sẻ bánh trên đường Emmau, và một miếng cá nướng (x.Lc 24,13-49).
Chúa đã nói với họ vào tối Thứ Năm Tuần Thánh: "Thầy đã tha thiết ước ao ăn Lễ Vượt Qua này với các con trước khi chịu khổ nạn. Thầy bảo các con, Thầy sẽ chẳng bao giờ ăn lễ này nữa, cho đến khi lễ này được thực hiện trong nước Thiên Chúa" (Lc 22, 15-16). Nước Thiên Chúa đã bắt đầu.
Lạy Chúa, chúng con vừa cử hành các mầu nhiệm thánh, Chúa đã ban cho chúng con được thỏa chí toại lòng. Nhờ Con Một Chúa chịu khổ hình thập giá, Chúa làm cho chúng con tin tưởng vững vàng sẽ được ơn cứu độ, thì nhờ mầu nhiệm Người đã phục sinh, xin cho chúng con đạt tới quê trời như lòng hằng mong ước. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ --------------------------
Hôm nay, phụng vụ Giáo Hội chính thức bước vào Tuần Thánh với biến cố Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, khởi đầu hành trình thương khó trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Cuộc thương khó của Chúa Giêsu là một nghịch lý, ô nhục, điên rồ với người Do thái, là nỗi thất vọng cho các môn đệ và nhiều người... Tuy nhiên, con đường bất thường này lại làm lộ hiện dung mạo, khuôn mặt, tâm tư và lòng dạ thương xót phi thường của Thiên Chúa ngang qua con người, sứ vụ và nhất là cuộc thương khó của Chúa Giêsu.
Muốn hiểu thêm về cuộc thương khó, chúng ta cùng nhau tìm hiểu nơi các đối tượng, động lực, hành vi của những kẻ gây nên cái chết bi thương cho Người Công Chính, để thấy được mục đích gian ác của con người thời đó và chương trình yêu thương của Thiên Chúa cũng như sự liên hệ của chúng ta trong mầu nhiệm cứu chuộc hôm nay.
Con đường thương xót của Thiên Chúa ngang qua bàn tay gian ác của con người
Những kẻ gây nên cái chết cho Chúa Giêsu chính là những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ. Họ là những Luật Sĩ, Thượng Tế và Pharisêu. Những con người này có mối thù sâu sắc với Chúa Giêsu, nên quyết không đội trời chung với Ngài!
Những mâu thuẫn được khởi đi từ chuyện Chúa Giêsu vạch trần lối sống giả hình, kiêu ngạo, ích kỷ, dã tâm nơi giới lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ. Đây là điều mà họ cảm thấy bất lợi và có nguy cơ bại lộ lối sống giả nhân giả nghĩa theo kiểu: dùng phương tiện xấu để biện minh cho mục đích tốt!
Chúa Giêsu đã không chấp nhận, vì thế, họ đã quyết loại trừ Ngài ra khỏi xã hội của họ bằng cái chết.
Tuy nhiên, điều mà họ muốn thì chính bản thân họ hay dân tộc họ không thể làm được, bởi lẽ, dân Dothái đang bị đô hộ bởi Đế quốc Rôma, vì thế, muốn giết Chúa Giêsu, họ phải mượn tay của Đế quốc, mà người đại diện là Philatô!
Bản án mà họ trình lên quan Tổng trấn để xin ông xét xử, đó là tội: khi quân, phản loạn, sách động dân chúng, lật đổ chế độ, rồi tự xưng mình là vua...!!!
Với ngần ấy cái "mũ" mà họ chụp lên đầu Chúa Giêsu, chắc chắn cuộc thương khó sẽ xảy ra và cái chết là kết cục cho Ngài!
Để thuận lợi, giới lãnh đạo tôn giáo đã âm thầm đề nghị Giuđa, một người trong nhóm môn đệ của Chúa Giêsu là nội gián, tiếp tay từ bên trong. Quả thật, Giuđa đã nhận lời và chấp nhận trở thành nội thù khi bán Thầy với giá 30 đồng bạc qua dấu chỉ một cái hôn.
Ôi một sự chua xót và đau đớn vô cùng, bởi lẽ, nụ hôn là biểu lộ của tình yêu. Yêu ai thì mới trao cho nhau nụ hôn, ai ngờ nụ hôn của trò với Thầy lại là dấu chỉ đẩy Thầy vào chỗ chết!!!
Khi đã được Giuđa chỉ điểm và cho dấu hiệu, họ đã bắt Chúa Giêsu và trao nộp cho Philatô. Từ đây, Philatô cũng là những người có can hệ đến cuộc thương khó của Chúa Giêsu, bởi vì ông là người đại diện cho luật pháp, có trách nhiệm cầm cân nảy mực... Thế nhưng, thay vì làm việc mang tính công minh chính đại, ông lại bị sức ép từ phía dân chúng, sợ mất chức, mất quyền... nên đã phủi tay, không còn can đảm nghe theo tiếng Lương Tâm để bênh vực Người Công Chính, bảo vệ lẽ công bằng và đứng về phía người vô tội.
Thế là bản án tử hình được trao tặng cho Chúa Giêsu.
Như vậy, nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của những người can dự vào cuộc thương khó Chúa Giêsu chính là: kiêu ngạo, hèn nhát, gian dối, tham lam và sợ hãi...
Con người càng tàn bạo, lòng thương xót của Thiên Chúa càng rõ nét
Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đây, có lẽ chúng ta sẽ nghĩ rằng: Thiên Chúa đã thất bại trước sự ác của con người! Công chính, công lý và sự thật đã nhường bước cho sự ác lên ngôi và lộng hành... Không! Chính lúc Con Thiên Chúa bị treo trên thập giá, ấy là lúc Thiên Chúa đang biểu lộ quyền năng và lòng thương xót của Người rõ nét hơn bao giờ hết!
Như đã nói: cuộc thương khó của Chúa Giêsu là một cuộc thương khó vô cùng nghịch lý, nhưng nó lại hợp lý đối với lòng dạ Thiên Chúa, bởi vì: "Thiên Chúa là Tình Yêu" (1 Ga 4, 16).
Quả thật, vì yêu, Người đã chấp nhận trao ban Con Một của mình cho nhân loại. Vì yêu, Chúa Giêsu đã xuống thế làm người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi, để cứu chuộc chúng ta. Vì yêu, Chúa Giêsu đã một đời rao giảng lời Tình Yêu; Lời Hằng Sống; Lời Cứu Chuộc. Vì yêu, Ngài đã chữa lành và giải thoát con người khỏi bệnh tật phần xác, giải phóng cảnh nô lệ phần hồn.
Đỉnh cao của con đường thương xót, ấy là: Thiên Chúa muốn Con của Người đón nhận cái chết đau thương để giải thoát nhân loại cách toàn diện. Chúa Giêsu đã đón nhận con đường thương xót ấy trong tâm tình vâng phục và yêu mến, để lòng dạ xót thương của Thiên Chúa được lộ hiện...
Như vậy, qua cái chết của Chúa Giêsu hoàn toàn không phải là sự thất bại, nhưng là sự chiến thắng. Chiến thắng trong và do lòng thương xót của Thiên Chúa.
Chúng ta được mời gọi đi trên con đường của lòng thương xót mà Chúa Giêsu đã đi
Qua cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, chúng ta hãy dừng lại để suy tư về hành trình theo Chúa của mỗi người chúng ta:
Bấy lâu nay, chúng ta đi theo Chúa trên con đường nào?
Trên con đường thương xót hay hận thù? Yêu thương hay ích kỷ? Hướng tha hay vụ lợi? Sứ vụ hay danh vọng?
Làm một cuộc cật vấn Lương Tâm như thế để thấy rõ con người thật của chính mình..., bởi vì có biết bao nhiêu mục đích, lựa chọn khác nhau như:
Có nhiều người theo Chúa như những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ. Họ là những người Công Giáo, thường xuyên đi lễ, nhà thờ, luôn tỏ vẻ đạo đức, nhưng thực ra những điều đó chỉ là bình phong cho một ý đồ đen tối, để khi thuận tiện, sẵn sàng làm hại Giáo Hội, coi rẻ Lương Tâm, bán đứng anh chị em mình... Sẵn sàng trở thành nội gián để tiếp tay cho những kẻ chống phá Giáo Hội! Những người này theo Chúa không phải vì yêu mến, kính trọng hay phần rỗi, nhưng theo Chúa để tìm dịp thuận tiện nộp Ngài, chẳng khác gì Giuđa!
Có những người theo Chúa, nhưng theo xa xa, theo nửa vời. Họ như dân Dothái xưa: khi hay thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì rời nhau ra... Vì thế, chúng ta không lạ gì khi vẫn còn đó những kẻ theo khi thuận tiện, những lúc khó khăn là rút lui... Không những thế, việc trối bỏ đức tin ngang qua những lựa chọn bất chính là điều dễ dàng xảy ra đối với những người này...
Cũng không thiếu những người theo Chúa như Philatô, họ theo vì nhu cầu lợi lộc, thực dụng. Vì thế, họ sống theo kiểu: "Sợ tiếng chửi và ăn mày tiếng khen". Nếu vì Chúa mà ảnh hưởng đến cuộc sống, sự nghiệp, chức quyền...là họ "rửa tay" như Philatô.
Mong sao, ngày càng có nhiều người Kitô hữu theo Chúa như Đức Mẹ, thánh Gioan, bà Verônica, ông Simong, hay như một số phụ nữ... Các ngài theo vì lòng yêu mến, hiệp thông, để cảm, để thấu và muốn được cùng Thầy trở thành chứng nhân của lòng thương xót.
Lạy Chúa Giêsu, khi nghe bài Thương Khó hôn nay, xin cho chúng con không chỉ dừng lại ở sự xót xa nơi những lời vu khống không thương tiếc, những lằn roi tê tái, những lời nhục mạ bỉ ổi và những nhát đinh chết người mà con người dành cho Chúa!
Nhưng điều quan trọng, xin Chúa ban cho chúng con biết sống sứ điệp của Chúa ngang qua cuộc thương khó, để ước gì thế giới này được chan chứa tình yêu và hy vọng qua cuộc sống chứng nhân của chúng con. Amen.
Phụng vụ Chúa nhật Lễ Lá hôm nay được mở đầu với bầu khí hân hoan phấn khởi qua nghi thức rước lá nhằm tưởng nhớ lại việc Đức Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem. Đám đông dân chúng tung hô Chúa Giêsu “Hosana, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”. Nhưng liền sau đó, phụng vụ Lời Chúa lại trình bày cho chúng ta con đường thập giá và cuộc tử nạn của Chúa Giêsu qua bài thương khó. Giáo hội muốn làm nổi bật Mầu nhiệm Thập giá trong suốt Tuần thánh để người Kitô hữu xác tín: Thập giá, tình yêu cứu độ. Thập giá, con đường vinh quang phục sinh.
Sau đây, chúng ta chiêm ngắm cuộc tử nạn của Chúa Giêsu qua Tin mừng thánh Marcô vào dịp lễ Vượt Qua năm 30; lễ vượt qua cuối cùng trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Hôm đó, người ta đổ về Giêrusalem để mừng lễ, nhiều người ngoại quốc cũng đến để chung vui với người Do Thái vào dịp đại lễ này. Họ chứng kiến một vị ngôn sứ là Chúa Giêsu bị kết án tử hình đóng đinh thập giá. Người ta tố cáo Ngài với hai tội danh là phạm thượng “tự xưng mình là Thiên Chúa” và tội phản động chống lại hoàng đế Rôma “Người này nói dân nổi loạn”. Nhưng trước mắt toàn dân, quan án Philatô xét xử và xác nhận: Ông Giêsu không có tội, ta truyền đánh đòn và tha ông.
Các thượng tế, luật sĩ, biệt phái nhất định giết Đức Giêsu. Họ sách động dân chúng lên án Chúa Giêsu “đóng đinh nó vào thập giá”. Sau cùng Philatô đã viết bản án “đóng đinh ông Giêsu” và tha cho tên trộm cướp giết người là Baraba.
Để cứu độ nhân loại, Đức Giêsu đã chấp nhận án tử hình thập giá, chấp nhận chết để cứu sống nhân loại tội lỗi. Con đường Đức Giêsu đã đi là con đường thập giá, con đường tử nạn để cứu nhân loại khỏi tội và đưa con người vào cõi sống muôn đời như lời thánh Phêrô đã nói: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết với tội lỗi, chúng ta sống cuộc đời công chính” (1Pr 2, 24). Vì thế Giáo hội đã hướng nhìn thập giá với niềm tin:
“Ôi Thập giá, phước lành thế giới, Nguồn cậy trông cứu rỗi tràn lan” (Thánh thi kinh trưa Thứ sáu tuần thánh)
Thập giá là đỉnh cao của con đường yêu thương mà Thiên Chúa đã dành cho nhân loại được thể hiện qua cái chết của Đức Giêsu Kitô: “Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu dám chết cho người mình thương. Đức Giêsu đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là tội nhân, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5, 8).
Chúa Giêsu chết trên thập giá: một cái chết yêu thương, tự nguyện, tha thứ để con người được cứu sống: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm không biết”. Chỉ khi Chúa chết mới giải quyết được mọi vấn đề liên quan tới sự kiện Đức Giêsu Kitô “Ngài là ai”? Người Do Thái thời Chúa Giêsu không thể chấp nhận Ngài là Đấng Messia, bởi người ta chỉ trông chờ một Đấng Messia có tính cách chính trị để giải phóng dân Do Thái khỏi đế quốc Rôma. Họ không thể hiểu được “Đấng Cứu Thế phải chết thay cho muôn người”, “Đấng Messia cứu độ”. Qua cái chết của Chúa Giêsu, chúng ta tìm được lời giải đáp về căn tính của Đức Giêsu.
Chính khi Đức Giêsu tắt thở trên thập giá, là lúc Chúa Giêsu trở nên Đấng cứu độ duy nhất của nhân loại như lời Ngài đã nói trước: “Phần Tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi”. Chính lúc Chúa chết là lúc Chúa Giêsu toàn thắng ma quỷ, tội lỗi và sự chết, vì Ngài đã chu toàn sứ mạng cứu độ của Thiên Chúa Cha. Chính giờ phút Chúa chết là lúc Chúa được Thiên Chúa Cha tôn vinh.
Chứng kiến Chúa chết trên thập giá, viên sĩ quan Rôma đâm cạnh sườn Chúa đã phải thốt lên với niềm tin vào Đức Giêsu: “Ông này quả thật là con Thiên Chúa”.
Người trộm bên hữu cùng chịu đóng đinh đã tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu: “Ông Giêsu ơi! Khi Ông vào nước của Ông, xin nhớ đến tôi… Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với Tôi trên thiên đàng” (Lc 23, 42-43).
Dưới chân thập giá nhiều người đã đấm ngực và tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu “Ông này quả thật là Con Thiên Chúa”.
Cái chết đầy yêu thương và tha thứ của Chúa Giêsu đã tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi: Đức Giêsu là ai? Đức Giêsu là Đấng cứu độ nhân loại và là Thiên Chúa thật.
Bước vào Tuần thánh là bước vào cuộc khổ nạn của Đức Kitô và cũng là hành trình tiếp cận tình yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa.
Bước vào Tuần thánh là đi vào cuộc hành trình tiến lên đỉnh cao phục sinh với Đức Giêsu. Nhưng sẽ chẳng có Đức Giêsu phục sinh nếu không có Đức Giêsu chịu khổ nạn và chịu chết. Sẽ chẳng có chiến thắng vinh quang, nếu không có chiến đấu gian nan và đau khổ tột cùng trên thập giá. Thật đúng như tục ngữ Hoa Kỳ: “Không có thập giá, không có triều thiên, không có đau khổ, không có thắng lợi. (No cross, no crown, no pain, no gain).
Đón nhận khổ giá với sức mạnh của tình yêu là đồng hành với Đức Kitô trên con đường cứu thoát chính mình và tha nhân. Như thế, thập giá, tình yêu cứu độ; Thập giá, con đường vinh quang phục sinh.
Chết vì người khác là một nghĩa cử anh hùng, cao quý luôn được người đời tán dương và ca ngợi.
Chết vì người khác là một nghĩa cử anh hùng, cao quý luôn được người đời tán dương và ca ngợi.
Cha Maximilian Kolbe, Linh mục dòng Thánh Phanxicô khó khăn, được cả thế giới biết đến vì một nghĩa cử anh hùng. Bị bắt giam trong nhà tù Auschewitz. Tại đây người ta áp dụng một đạo luật hết sức tàn nhẫn và bất công: nếu một người trốn trại thì người khác phải chết thay. Mục đích là để các tù nhân tự coi nhau. Năm đó, một tù nhân trốn trại, tất cả được gọi xếp hàng chờ tên cai ngục chỉ gọi tên. Gọi tên ai thì người đó phải chết. Một tù nhân được gọi tên mình, anh khóc lóc kêu gào vì còn cha mẹ già, vợ và bốn con. Đột nhiên một tù nhân bước ra khỏi hàng đến trước mặt tên quản trại: “Tôi muốn chết thay cho người này”. Hắn hết sức kinh ngạc trước hành động anh hùng của người tù. Hắn gằn giọng: “Mày là ai?” “Là linh mục công giáo”. “Không cần biết danh tính địa vị, ngu thì chết, vào hàng”. Thế là mười người được dẫn đi, bị bỏ đói cho đến chết. Cha Maximilian Kolbe là một trong số họ.
Ngày 10 tháng 10 năm 1982, Cha được Đức Giáo Hoàng J-P. II tôn phong lên hàng các thánh tử đạo. Một người đã chết vì sự sống của anh chị em mình. Cha thật là hình ảnh của Đức Kitô, Mục tử nhân lành, sẵn sàng hy sinh tính mạng vì đoàn chiên: “Ta đến để cho chiên được sống và được sống dồi dào” (Jn 10, 10). Câu chuyện cha Maximilian Kolbe mở lối cho chúng ta vào phụng vụ Lời Chúa hôm nay: Chúa Giêsu, Người Tôi Tớ đau khổ của Thiên Chúa, chịu nạn, chịu chết vì sự sống trần gian.
Bài đọc I, trích sách Ngôn sứ Isaia, phác họa chân dung Người Tôi Tớ Chúa:
• Là Người được Chúa huấn luyện để phục vụ lợi ích cộng đoàn, nhất là những người bé nhỏ, nghèo hèn, bất hạnh: Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Chúa huấn luyện để ngài luôn sống trong tỉnh thức, luôn sẵn sàng tìm kiếm và đáp trả thánh ý Chúa.
• Là Người ngoan ngoãn dễ dạy, khiêm tốn, hiền lành như con chiên bị dẫn đi làm thịt, không mở miệng than van, hiền lành nhẫn nại dạy đường lối Chúa cho kẻ bất lương với châm ngôn: cây lau bị dập, Người không bẻ gãy, tim đèn còn khói, Người không dập tắt.
• Là Người can đảm cứ đường lối Chúa mà đi, nghĩa là cương quyết sống trong và bảo vệ chân lý, chứ không phải là hạng người cuồng tín và liều lĩnh.
Người Tôi Tớ mẫu mực này chỉ có thể đậu lại nơi Chúa Giêsu, nơi Ngài hội tụ đến mức hoàn hảo các nhân đức mà Ngôn sứ Isaia diễn tả.
Marcô, trong bài Tin Mừng, ghi lại bản án tuyên đọc trên Chúa Giêsu. Chủ đích của ngài, không nhằm kê khai những tội trạng người ta vu khống và gán cho Chúa, nhưng đề cập đến những ân huệ dẫy tràn trên chúng ta trong cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Chúa:
Ân huệ lớn lao nhất là bí tích Thánh Thể. Trong khi cử hành lễ Vượt Qua theo truyền thống Do Thái, Chúa Giêsu muốn sống lại biến cố được giải thoát khỏi kiếp nô lệ Ai-Cập, đồng thời Ngài muốn thực hiện cho dân mới một lễ Vượt Qua mới mà chiên vượt qua là chính bản thân Ngài được hiến tế vì chúng ta. Này là Mình Ta, này là Máu Ta, máu giao ước mới và vĩnh cửu sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được ơn tha tội, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta. Ân huệ ấy được thực hiện trong thời gian cho đến tận thế, vì lẽ, mỗi khi bí tích Thánh Thể được cử hành là mỗi lần ơn cứu độ chúng ta được thực hiện.
Hồng ân sự sống được ban tặng trong sự chết của Đức Giêsu, Người Tôi Tớ Thiên Chúa. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã thực hiện kế hoạch của Chúa Cha: “Nơi cạnh sườn của Đấng bị đâm thâu qua, máu và nước chảy ra, từ đó phát sinh các bí tích của Hội Thánh, để lôi kéo mọi người đến cùng trái tim rộng mở của Đấng Cứu Thế, thì muôn đời hân hoan kín múc tận nguồn ơn cứu độ” (kinh tiền tụng lễ Thánh Tâm).
Người kitô hữu không coi thập giá là phương tiện hành hình tội nhân, mà coi như dấu chỉ của sự bình an, của tình yêu, ơn tha thứ và sự sống: “Phần tôi, khi nào được giương cao lên khỏi đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi” (Ga 12, 32). Do vậy, trong ngày thứ sáu tuần thánh, chúng ta tôn vinh thập giá của Đấng chịu đóng đinh: “Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô, nơi Người ơn cứu độ ta, sức sống của ta và sự phục sinh của ta” (phụng vụ thứ sáu tuần thánh).
Đức Giêsu vì yêu thương đã tự hiến, tự hủy mình ra không vì chúng ta và vì sự sống trần gian. Thánh Phaolô, trong bài đọc II, nhìn thấy thập giá trong biến cố Ngôi Lời nhập thể: “Đức Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa ...”. Trong sự tự hủy “trở nên người”, Ngài đã kéo chúng ta lên địa vị làm con Thiên Chúa.
Bạn thân mến,
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta điều này: Thiên Chúa rất mực yêu thương, rất khôn ngoan lo liệu hết mọi phương thế để chúng ta được ơn cứu độ và được sống. Chúng ta có thâm tín rằng: Chúa yêu tôi và Ngài đã chết vì tôi không? Đây là câu trả lời hệ trọng, vì nó kéo theo cả cuộc đời vào trong tâm tình cảm mến tri ân Đấng đã yêu thương và chết vì chúng ta là kẻ có tội. Khi anh em còn là tội nhân thì theo kỳ hẹn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta là những kẻ có tội.
Để cảm tạ và đáp đền lòng Chúa yêu thương, mỗi người chúng ta cần có lòng sám hối, ăn năn và nhất là sinh hoa quả xứng với lòng sám hối. Một đời sống phù hợp với Tin Mừng: công bằng, chính trực, bác ái, yêu thương, nhất là xây dựng tình hiệp thông từ trong gia đình tới cộng xã hội nơi chung ta cùng chung sống.
Một khi đã được mặc lấy Chúa Giêsu, anh em đừng theo lối sống xưa kia, con người cũ đã ra hư hốt buông theo những đam mê lầm lạc. Nếu cuộc đời chúng ta sống tâm tư của Chúa, chắc chắn sẽ có con người mới, gia đình mới, xã hội mới và một thế giới mới.
Xin Chúa thương chúc lành cho chúng ta trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay. Amen.
Cũng như Thánh Mátthêu và Thánh Luca, Thánh Máccô sử dụng lời ngôn sứ của Dacaria mô tả việc Đức Giêsu vào Giêrusalem. Điều lý thú về lời ngôn sứ này là sự tương phản: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (9,9).
Ta có thể hỏi liệu có thể nào vừa khải hoàn và chiến thắng mà đồng thời vừa khiêm tốn. Bằng cách chọn đi vào Giêrusalem theo phương cách Người đã làm, Đức Giêsu cho người ta thấy Người thực sự thuộc loại vua nào. Người khải hoàn nhưng không đắc thắng. Người đã giảng dạy như một mục tử, chứ không phải như một vị tướng quân. Những ai nghe Người nói hoặc chứng kiến phép lạ Người làm thì bây giờ được gọi để làm chứng về các kinh nghiệm của họ. Họ làm chứng bằng cách tuyên xưng Đức Giêsu là “Con của Đavít”, ca tụng Thiên Chúa Cha đã gửi đến đấng cứu thế mà người ta mong đợi từ lâu.
Theo Thánh Máccô, Đức Giêsu chắc chắn biết ý nghĩa của điều Người chuẩn bị làm. Người sai các môn đệ đi tìm con lừa con, giải thích một cách chi tiết điều sẽ xảy ra. Khi ta đồng hành với Đức Giêsu và các Tông đồ trong mấy ngày sắp tới, ta sẽ thấy một số hình ảnh sẽ nhắc nhở ta về sự kiện Đức Giêsu, Con Đavít, đã đến cứu chúng ta và giải thoát chúng ta.
Điều lý thú cần ghi nhận là, theo các Phúc âm Nhất lãm, câu truyện thương khó không trực tiếp theo sau việc đi vào thành Giêrusalem. Trong Phúc âm Máccô có hai chương tách việc vào thành với trình thuật Bữa Tiệc Ly.
Chương khải hoàn vào Giêrusalem dịu giọng một chút và lại tập trung vào Sách Ngôn sứ Isaia. Ta nghe về “Người Tôi Trung của Chúa” – lời tiên tri thứ hai trong ba lời tiên tri của Isaia nói về Đấng Mêsia. Trong những đoạn này, ta đi đến chỗ nhận biết bản chất đích thực của Đấng Mêsia – Người xuất hiện không phải như một vị vua vinh quang mà như người tôi tớ khiêm tốn.
Trong Thư gửi Tín hữu Philípphê, Thánh Phaolô kiện toàn sự nhận biết đó. Trong “bài thánh ca Philípphê”, ông bảo ta rằng Đức Giêsu này thực sự là ai và Người đã làm gì cho ta: “…Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự!” Tất cả điều này cho ta thấy rằng đây là một phần trong kế hoạch của Thiên Chúa. Những lời hứa trong Cựu Ước được thành sự và chúng ta trở thành các nhân chứng. Với tư cách là người làm chứng, ta được kêu gọi hãy đáp ứng lại.
“Nơi Người, luôn luôn có thể nhận ra dấu chỉ sống của tình yêu khôn lường và siêu việt đó của Thiên-Chúa-ở-với-chúng-ta, Đấng mang lấy những thương tích tật bệnh của dân mình, đồng hành với họ, cứu thoát họ và hợp nhất họ nên một. Trong Người và nhờ Người, có thể tái khám phá cuộc sống trong xã hội, dù cuộc sống còn đầy mâu thuẫn đối kháng và nhập nhằng tranh tối trang sánh, như một nơi chan chứa sự sống và hy vọng: đó là dấu hiệu của ân sủng không ngừng được đề nghị ban tặng cho mọi người, và đó cũng là lời mời gọi hãy vươn đến những hình thức chia sẻ ngày càng cao hơn và tích cực hơn.
Đức Giêsu Nadarét đã làm cho mối dây liên kết giữa liên đới vào bác ái sáng chói trước mặt mọi người, chiếu sáng toàn bộ ý nghĩa của mối dây liên kết này: “Dưới ánh sáng đức tin, liên đới tìm cách vượt qua chính nó, mang lấy các chiều kích Kitô giáo cụ thể là trao ban một cách hoàn toàn vô điều kiện, tha thứ và hoà giải. Lúc ấy, người gần bên chúng ta không những chỉ là một con người có những quyền lợi và về cơ bản, bình đẳng với hết mọi người, mà còn là hình ảnh sống động của Thiên Chúa Cha, đã được máu Đức Giêsu Kitô cứu chuộc và được đặt dưới tác động trường kỳ của Thánh Thần. Thế nên, phải yêu thương tha nhân, cho dù đó là kẻ thù, bằng cùng một tình yêu mà Thiên Chúa yêu thương họ; và chính vì ích lợi của người ấy mà ta hãy sẵn sàng hy sinh, thậm chí hy sinh đến mức cuối cùng: hy sinh tính mạng vì anh em (x. 1 Ga 3,16)” (Sách Tóm lược HTXHGH, 196).
Khi nghe trình thuật Thương Khó theo Thánh Mátthêu, bắt đầu với việc thoả thuận phản bội Đức Giêsu và chấm dứt với việc Philatô lệnh cho chính quyền canh gác ngôi mộ, ta nhìn các lời tiên tri trong Cựu Ước dưới một ánh sáng mới. Ta cũng thấy diễn tiến của các biến cố xoay quanh cuộc thương khó, bắt đầu với trình thuật Bữa Tiệc Ly và việc thiết lập Bí tích Thánh Thể theo đúng sứ mạng mục vụ của Đức Giêsu. Người đã đến với chúng ta và đã đề nghị tặng ban một món quà vĩ đại. Nếu ta chấp nhận món quà đó, ta được mời gọi đáp trả lại Người trong cuộc thương khó, cái chết và sự phục sinh của Người.
Có bao giờ bạn cảm thấy cô đơn khi lạc vào chốn đông người, nhưng lại xa lạ, tìm một người quen để chào hỏi, để bắt tay cũng chẳng thấy. Lúc đó có lẽ chúng ta sẽ cảm thấy trống vắng tận cõi lòng. Đây cũng là ca từ của bài hát “Khi người lớn cô đơn”. Lời hát được viết như sau:
Thành phố bé thế thôi Mà tìm hoài chẳng được Tìm hoài sao chẳng thấy nhau giữa chốn đông người Nỗi cô đơn càng dâng cao khi mà giữa phố xá đông người mà chẳng có ai đó của riêng mình để yêu thương, để chăm sóc, quan tâm . . . Thành phố bé đến thế thôi Mà tìm hoài không thấy Chút ấm áp, chút yêu thương riêng mình.
Nỗi cô đơn thật quạnh hiu khi mà ngồi bên ai đó nhưng cũng xa lạ, không tìm được sự thông cảm, sự chia sẻ giữa tình người với nhau.
Rồi có những đêm mưa Nằm nghe câu ca rất xưa Từ radio phát lên, nghe thật buồn (buồn lắm) Người lớn cô đơn, tự mình trong bao nghĩ suy Ngồi bên ai sao thấy riêng tôi quạnh hiu!!!
Người ta nói cô đơn là cho đi mà không có người nhận, là muốn nhận mà chẳng có ai cho. Tựa như hai bờ sông liền nhau mà vẫn cách biệt. Thấy nhau mà vẫn ngăn sông cách trở nên chẳng qua lại được với nhau. Cô đơn bị ngăn cách không phải bởi không gian mà ngăn cách của cõi lòng. Khi con tim xa nhau thì ngồi bên nhau vẫn như xa lạ.
Thế nên, càng gần nhau mà vẫn cách biệt thì nỗi cô đơn càng cay nghiệt. Càng gần nhau mà không tìm được sự cảm thông thì nỗi cô đơn càng cay đắng hơn. Có thể nói nỗi cô đơn khi bị chính người mình yêu thờ ơ trước sự thống khổ của ta có khi còn đau đớn hơn tù đầy, có khi u ám hơn sự chết, vì đây là nỗi cô đơn của dửng dưng, của sự bỏ rơi nơi những người ta yêu.
Cô đơn có thể đưa tới sợ hãi và tuyệt vọng. Kinh nghiệm đau thương này có thể xẩy ra cho con người trong mọi thời đại, nhất là thế giới hôm nay, một thế giới văn minh có đầy đủ mọi phương tiện để hưởng thụ, nhưng tình con người lại xa cách nhau. Họ ít quan tâm đến nhau. Họ sợ liên đới với nhau. Họ chủ trương “Makeno” cho yên thân. Con người của thời đại văn minh vẫn có thể chết cô đơn trên đống nhung lụa của mình. Đây là lý do mà con số người tự tử ngày một tăng, tỷ lệ nghịch với sự phát triển của văn minh nhân loại. Nhân loại càng văn minh thì càng có lắm kẻ cô đơn.
Chúa Giêsu cũng từng nếm trải sự cô đơn giữa những người mình thương. Ngài ở cùng các môn đệ nhưng không tìm được sự ủi an. Một mình vẫn cô đơn trong đêm tối đầy sao! Ngài đã từng ngao ngán nói rằng: “Các con không thức với Ta một giờ sao!”. Ngài cần các môn đệ chia sẻ với Ngài trong đêm tối của sự dữ nhưng các ông vẫn tìm cho mình một cõi đi về trong cơn say của ngủ mê. Nỗi cô đơn ấy đã dâng cao trong nhiều giờ phút cuối đời Ngài khi bị treo lơ lửng giữa trời và đất, làm trò cười cho những người xung quanh. Ngài lại còn cảm thấy như bị chính Chúa Cha bỏ rơi. Ngài đã đi đến tận cùng sự cô đơn của con người.
Nhưng chính trong nỗi cô đơn cùng cực ấy mà Ngài đã mạc khải cho chúng ta thấy một lối thoát giữa cô đơn là sự tín thác vào Thiên Chúa. Ngài đã hoàn toàn phó thác nơi Cha: “Lạy Cha, con xin phó thác nơi Cha”. Chính niềm tín thác ấy đã giúp Ngài vượt qua được nỗi cô đơn để bình thản đón nhận cái chết cô đơn.
Cuộc đời thật hạnh phúc biết bao nếu cuộc sống mang đến cho ta những người bạn. Những người bạn để có thể đi bên ta trong những khó khăn, cầm tay ta trong những lúc thất bại, và có lẽ cuộc đời sẽ không cô đơn khi mà cuộc sống thật bận rộn nhưng vẫn có người dành cho ta 3 giây chỉ để nói “xin chào” thật thân thương, hay chỉ gửi một tin nhắn 3 chữ “chúc bình an” là đủ ấm lòng những con tim đang lạnh giá!
Nhưng nếu cuộc đời có những lúc cô đơn thì đừng bao giờ tuyệt vọng. Hãy theo gương Chúa Giêsu để tín thác mọi sự cho Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta ngay cả khi người mẹ có bỏ con thì Chúa vẫn ở bên ta. Ngài có đủ quyền năng để có thể rút ra điều tốt từ điều xấu. Thiên Chúa chính là thành lũy vững chắc nhất cho cuộc đời chúng ta.
Xin cho cuộc đời chúng ta đừng bao giờ tuyệt vọng, nhưng luôn tin tưởng, phó thác cậy trông nơi Chúa trong những gian nguy của cuộc đời. Amen.
Biến cố chi phối toàn bộ đời sống Kitô hữu, là biến cố Đức Giêsu chết và phục sinh. Qua biến cố này, Kitô hữu nhận biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, và Đức Giêsu trở thành gương mẫu sống cho mọi Kitô hữu.
I. Người Tôi Tớ Đau Khổ của Yavê
Bài ca thứ ba về người tôi tớ Yavê trong sách tiên tri Isaya cho thấy hình ảnh người tôi tớ Yavê, luôn lắng nghe và vâng phục Thiên Chúa; Ngài đã bị đánh, bị xỉ nhục; tuy nhiên, người tôi tớ Yavê luôn tin tưởng và trông cậy Thiên Chúa. Hình ảnh người tôi tớ Yavê được thấy nơi các tiên tri, chẳng hạn như tiên tri Yêrêmia, và hình ảnh này được thấy thật rõ nét nơi Đức Giêsu.
Đức Giêsu không đi tìm cái chết. Ngài không muốn chết, và Ngài sợ đau khổ như bất cứ ai khác: “Ngài bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến. Người nói với các tông đồ: tâm hồn thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức” (Mc.14, 33-34). Ngài cầu xin với Thiên Chúa Cha: “Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm theo điều con muốn, mà làm theo điều Cha muốn” (Mc.14, 36).
Đức Giêsu đã chia sẻ thân phận con người cho đến cùng. Ngài chia sẻ sự sợ hãi, chia sẻ nỗi buồn, cả nỗi buồn đến độ muốn chết được. Đức Giêsu sợ hãi cái chết, vì con người khi đứng trước cái chết luôn run sợ. Đức Giêsu đã vượt thắng nhờ cầu nguyện và lòng tin tưởng phó thác. Con người chỉ có thể an bình trước cái chết với một niềm tin và phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa. Không phó thác cho Thiên Chúa, Đấng yêu thương mình, con người không thể an bình đón nhận cái chết. Khi nói như vậy, không có nghĩa những người không là Kitô hữu không thể có cái chết an bình, trong trường hợp này, Thiên Chúa chính là Đấng Tuyệt Đối mà họ tin, hoặc ít là, Đấng là chủ lương tâm họ.
II. Đức Giêsu vâng phục cho đến chết
Đức Giêsu không chỉ là người. Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Khi Ngài còn đang sống, không ai dám tin và nhờ đó mà biết thân phận của Ngài, tuy dù đã có những lần Ngài mặc khải: “Ta và Cha Ta là một” (Ga.10, 30), “không ai biết Cha trừ Con và những người Con muốn mặc khải cho” (Mt.11, 27), “ông này phạm thượng. Ai có quyền tha tội ngoại trừ một Thiên Chúa” (Mc.2, 7), “trước khi có Abraham, đã có Ta” (Ga.8, 58), “rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng quyền năng và đến trên mây trời” (Mc.14, 62).
Không những không ai dám tin, kể cả các tông đồ, vì làm sao các ngài có ý niệm “Thiên Chúa nhập thể” hay “Thiên Chúa làm người.” Tất cả những điều này hoàn toàn xa lạ với con người. Chỉ sau khi Ngài phục sinh từ cõi chết, các tông đồ mới dần dần hiểu trọn vẹn về Ngài: “Khi nào Thần Chân Lý đến, Ngài sẽ dẫn các con vào tất cả sự thật” (Ga.16, 13). Không có sự trợ giúp của Thiên Chúa, con người không thể nhận biết về Ngài.
Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, là Đấng thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn đến độ Ngài và Cha là một (Ga.10, 30). Ngài có quyền tha tội (Mc.2, 7), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa Cha (Mc.14, 62). Và sau đó tác giả tin mừng theo Yoan viết: “Từ nguyên thủy đã có Lời, Lời vẫn ở nơi Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa… Lời đã thành xác phàm” (Ga.1, 1.14). Thánh Phaolô viết: “Đức Giêsu, tuy là thân phận Thiên Chúa, nhưng không đòi cho được ngang bằng Thiên Chúa” (Pl.2, 6). Ngài thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn đến độ nói Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài vẫn khác Cha. Ngài vẫn luôn quy hướng về Cha qua cầu nguyện (Mc.1, 35), qua việc lấy Ý Thiên Chúa làm của ăn của uống cho Ngài (Ga.4, 34), đến độ Ngài xịn cho Ý Cha được thể hiện nơi Ngài (Mc.14, 36; Mt.6, 9-10). Ngài vừa là Thiên Chúa, vừa khác Thiên Chúa: Ngài là Lời Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai. Nói một cách nôm na, không thể tách Ngài khỏi Thiên Chúa. Ngài vừa khác với Thiên Chúa, vừa là một với Thiên Chúa.
III. Vạn tuế Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến
Phụng vụ hôm nay cho thấy Đức Giêsu vào thành Yêrusalem và được dân chúng long trọng đón rước như một vị vua, vị vua được Thiên Chúa xếp đặt và sai gởi tới. Người ta trải áo lót đường, chặt nhành cây trải lối để vị vua thiên sai đi qua. Dân chúng hôm nay đón tiếp Ngài vì coi Ngài là Đấng Thiên Sai, nhưng chỉ mấy ngày sau những người dân này đã xin Philatô đóng đinh Đức Giêsu, vì cho rằng Ngài lộng ngôn phạm thượng: “dám cho mình là Con Thiên Chúa” (Ga.19,5), dám cho mình ngang hàng với Thiên Chúa.
Người Do Thái không thể hiểu tại sao một người lại có thể là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa. Thế nên khi phải xử tử Đức Giêsu, họ hoàn toàn ý thức và cho rằng họ làm đúng hoàn toàn: “Máu hắn cứ đổ trên đầu chúng tôi và trên con cháu chúng tôi” (Mt.27, 25). Sự thật về Đức Giêsu vượt quá sức hiểu biết của con người. Chân tính của Đức Giêsu không ai có thể ngờ được. Dân chúng Do Thái chỉ muốn giết một tên phạm thượng, vì đối với họ, làm gì có chuyện Thiên Chúa nhập thể. Chính vì vậy, họ không ngờ rằng họ giết Thiên Chúa.
Đức Giêsu cứ sống như Ngài là. Ngài làm điều phải làm, nói điều phải nói. Số phận Ngài nằm trong tay của Thiên Chúa tình yêu. Tuy dù lo lắng xao xuyến như bao người, nhưng cuối cùng Ngài vẫn phó thác, tin tưởng trông cậy tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Đức Giêsu trở thành gương và mẫu mực sống cho mọi Kitô hữu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tại sao người công chính phải đau khổ và phải chết? 2. Tại sao Đức Giêsu, người công chính, bị hành hạ và phải chết ô nhục trên thập giá như vậy? 3. Xin bạn tìm ba chỗ trong Tin Mừng Máccô Đức Giêsu loan báo Ngài sẽ bị bắt, bị giết, và ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Theo bạn, tại sao Đức Giêsu lại thốt lên khi bị treo trên thập giá “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” khi đã có lúc Ngài biết rõ ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại?
(Fx. Phạm Đình Phước – viết dựa theo Bênêđictô XVI, Gesù di Nazaret. Dall'ingresso in Gerusalem fino alla risurrezione, LEV, Città del Vaticano 2011, pp.11-21)
Tin Mừng thuật lại cho chúng ta rằng vào ngày lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Xét về phương diện địa lý, có thể nói rằng chuyến đi này là một hành trình đi lên theo nghĩa đen. Quả vậy, biển Galilê thấp hơn mặt nước biển 200 mét, Giêrusalem cao hơn mực nước biển 460 mét nữa, như thế hành trình của Chúa Giêsu có độ cao gần 760 mét.
Đối với Chúa Giêsu, mục đích tối hậu của hành trình lên Giêrusalem là "thánh giá", nghĩa là trao ban chính bản thân mình cho nhân loại, "yêu mến cho đến tận cùng" (Ga 13,1). Nhưng mục đích gần nhất của hành trình này là tiến lên Đền Thánh Giêrusalem, và dự lễ Vượt Qua của người Do Thái (Ga 2,13). Chúa Giêsu khởi hành cùng với nhóm Mười Hai, nhưng dần dần trở thành một đoàn người hành hương đông đảo. Mátthêu và Máccô thuật lại cho chúng ta rằng có "đoàn lũ đông đảo" theo Chúa Giêsu từ thành Giêricô.
Bên vệ đường của cuộc hành trình có một người mù ăn xin tên là Bartimêô. Anh biết Chúa Giêsu trong đoàn hành hương, nên anh xin Chúa thương xót và chữa lành anh: "Lạy Thầy, xin cho con được thấy", và Chúa Giêsu đã chữa lành anh. Khi được chữa lành, Bartimêô gia nhập đoàn hành hương tiến lên Giêrusalem (Mc 10, 48-52).
Từ làng Betphagiê và Bêtania khi đến núi Cây Dầu nơi mọi người đang đón chờ Đấng Messia, Chúa Giêsu sai hai môn đệ và bảo hai ông:"Các anh đi vào làng trước mặt kia, và sẽ thấy ngay một con lừa mẹ đang cột sẵn đó, có con lừa con bên cạnh. Các anh cởi dây ra và dắt về cho Thầy. Nếu có ai nói gì với các anh, thì trả lời là Chúa cần đến chúng, Người sẽ gởi lại ngay" (Mt 21, 2-3). Thánh Máccô thêm một chi tiết thú vị là “con lừa chưa ai từng cỡi” (Mc 11,2). Các môn đệ ra đi và làm theo lời Đức Giêsu đã truyền. Sự việc này xảy ra để ứng nghiệm lời tiên tri Da-ca-ri-a: “Hãy bảo thiếu nữ Xi-on: Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, Ngài hiền hậu ngồi trên lưng lừa” (Dcr 12, 15). Việc Chúa Giêsu tiến vào thành “trên lưng lừa” cho thấy Chúa Giêsu diễn tả vương quyền của Ngài ở trong sự nghèo khó, trong khiêm tốn và trong bình an của Thiên Chúa.
Việc “mặc áo choàng” mang ý nghĩa vương đế trong truyền thống Israel (x. 2 V 9, 13). Các môn đệ đã biểu lộ hành động tôn vinh Chúa Giêsu “lên ngôi”. Đông đảo khách hành hương thấy nhiệt tâm của các môn đệ cũng trải áo choàng xuống trải xuống mặt đường, chặt nhành chặt lá mà rải trên lối đi. Dân chúng, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy và tung hô: “Osanna, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến” (Mc 11, 9; Tv 118, 25).
“Osanna” có nghĩa là “xin cứu giúp chúng con”. Vào ngày thứ bảy của dịp Lễ Lều, vị tư tế đi xung quanh xông hương bàn thờ 7 lần và lặng lẽ lập lại lời đó để cầu xin mưa thuận gió hòa. Vào các dịp lễ, dân chúng hành hương lên đền thờ Giê-ru-sa-lem, tay vừa phất các cành lá linh thánh vừa hát các câu tung hô. Khi các dịp lễ như thế biến thành những lễ hội của niềm vui, thì lời cầu xin cũng trở thành lời reo vui phấn khích. Trong bối cảnh ngày lễ, khách hành hương diễn tả niềm vui, niềm hy vọng là Đấng Messia sẽ thiết lập vương quyền trên Israel.
“Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến” là lời đón chào khách hành hương ngay cửa thành Thánh hay ngay cửa Đền Thờ. Nhưng câu này còn mang một ý nghĩa khác nữa như trong thánh vịnh 118 "Từ nhà Chúa, chúng tôi chúc lành cho anh em", là lời cầu chúc của các thượng tế dành cho khách hành hương lên đền thánh Giê-ru-sa-lem. Ở đây, lời chúc lành cho khách hành hương trở thành lời ngợi khen Chúa Giêsu, Đấng nhân danh Chúa mà đến: Chúa Giêsu được chào đón như Đấng dân đang mong chờ và Đấng được loan báo qua mọi lời hứa. Tin Mừng Gioan và Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại việc Chúa Giêsu được tôn vinh ngay của vào thành Giêrusalem; thánh Mát-thêu còn ghi lại rằng "khi Đức Giêsu vào Giêrusalem, cả thành náo động xôn xao". Các thánh sử cũng cho thấy rằng những kẻ tôn vinh Chúa không phải là những người dân trong thành, mà là những người hành hương, những người cùng đồng hành với Chúa Giêsu; họ cùng với Chúa bước vào thánh thánh Giêrusalem.
Khi vào đền thánh, ngay sau việc thanh tẩy đền thờ, thánh sử Mátthêu tường thuật thêm hai chi tiết khác. Trước hết, Chúa Giêsu nói về đền thờ là ngôi nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc và “có những kẻ mù loà và què quặt đến với Ngài trong đền thờ. Ngài đã chữa họ lành”. Chúa Giêsu tỏ hiện như một Đấng yêu thương và quyền năng của Ngài là quyền năng tình yêu. Như thế, Ngài dạy các kitô hữu về sự thờ phượng Thiên Chúa đích thực: chữa lành, phục vụ và thiện tâm săn sóc. Hơn nữa, Mat-thêu còn nói rằng các trẻ em reo hò trong đền thờ cùng với những lời tung hô của những người hành hương trong đền thờ: “Hoan hô Con Vua Đavít” (Mt 21, 15). Để vào Nước Thiên Chúa thì một trong những điều cốt yếu là phải trở nên như trẻ nhỏ. Chính Chúa Giêsu, Đấng ôm lấy trọn vẹn thế giới, đã làm cho mình trở nên bé nhỏ để đến giúp đỡ con người, đưa họ về với Thiên Chúa. Để nhận biết Thiên Chúa, thì cần thiết phải từ bỏ sự kiêu hãnh và để gặp Thiên Chúa thì cần phải nhìn bằng con tim, phải học để nhìn với một tâm hồn trẻ thơ và với một tâm hồn tươi trẻ. Thánh thi Benedictus được đưa vào phụng vụ như muốn nói rằng đối với Giáo Hội, ngày Chúa Nhật Lễ Lá không thuộc về quá khứ. Như ngày xưa Chúa Giêsu cỡi lừa bước vào thánh thánh, Giáo Hội đón nhận Chúa Giêsu đang đến với chúng ta cách khiêm tốn trong bánh rượu. Giáo Hội chào đón Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể đang đến và ngự giữa cộng đoàn.
Mỗi Kitô hữu hãy đón chào Chúa Giêsu ngự trong Thánh Thể như Đấng ngự đến trong lòng giáo hội, và đón chào Đấng hiện diện luôn mãi và Đấng sẽ ngự đến trong vinh quang. Như khách hành hương vào đến thánh Giê-ru-sa-lem, mỗi một kitô hữu được mời gọi gặp Chúa trong Thánh Thể.
Với lễ Lá, các Kitô hữu đang bước vào tuần thánh, với cao điểm của phụng vụ Kitô giáo là Tam Nhật Thánh. Phụng vụ trong những ngày này thuật lại sự thương khó, khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, mang lại ơn cứu độ cho nhân loại, kể cả những người, cho dẫu không biết Thiên Chúa, sống với lòng ngay thẳng và chân thật.
Con người được dựng nên để sống và sống để yêu mến: yêu mến Chúa và để yêu thương nhau. Thiên Chúa là tình yêu, đã sáng tạo muôn loài, đã tạo dựng và cứu chuộc con người. Nhập Thể và Cứu Chuộc là mầu nhiệm của tình yêu. Chúa Giêsu đã chấp nhận thánh ý Chúa Cha để đem lại yêu thương cho con người. Thiên Chúa cho con người được thông phần cuộc sống của Đấng “là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống”, để cho họ “được sống dồi dào” và sống viên mãn trong tình yêu.
Lần thứ ba, Chúa Giêsu tiên báo về sự chết và sự sống lại của Ngài: “Giờ đây chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế, các luật sĩ và các kỳ lão. Họ sẽ kết án tử hình Người, và nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo cười Người, phỉ nhổ vào Người, đánh đòn và giết Người và ngày thứ ba Người sẽ sống lại”. (Mc. 10,33)
Thế là Thầy trò lên đường đi lên Giêrusalem. Chúa Giêsu dẫn đầu đi trước các môn đệ và các ông hết sức bỡ ngỡ, những người theo sau thì sợ hãi. (Mc. 10,32)
Khi đến gần thành Giêrusalem, vào địa hạt Bếtphagê, giáp núi Cây Dầu, Chúa Giêsu sai hai môn đệ: “Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp một con lừa cột sẵn, trên lưng nó chưa hề có ai đã cỡi, các con hãy cởi dây mà dắt về đây.” Nếu có ai hỏi thì bảo Chúa cần dùng rồi Ngài sẽ trả lại ngay. Hai môn đệ dẫn lừa con về, trải áo lên mình lừa và Ngài cỡi lên. Nhiều người trải áo xuống đường, kẻ khác chặt cành cây trải lối đi: kẻ đi trước, người theo sau tung hô: “Hoan hô! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến: chúc tụng nước Đavít tổ phụ chúng ta đã đến. Hoan hô trên các tầng trời”.
Chúa Giêsu đã long trọng tiến vào thành Giêrusalem bất chấp những đối thủ đang hầm hực tìm cách bắt Ngài. Đến thành Giêrusalem, Ngài tiến vào đền thờ và sau khi đã quan sát mọi sự, thấy trời đã xế chiều, Ngài về Bêtania cùng với nhóm mười hai môn đệ.
Vinh quang trong ngày Lễ Lá chỉ là một thoáng qua và sau đó là những gì sẽ xảy ra? Thưa, đó là những bội phản, những trốn chạy, những a dua và những im lặng khó hiểu.
Chúa Giêsu im lặng
Chúa Giêsu bị bắt vào đêm thứ năm.
Trước khi chính thức bị đưa ra tòa xét xử, Ngài đã bị áp giải đến dinh cựu thượng tế Anna, là người rất có uy tín vào thời đó, nhưng lại là người có ác cảm với Chúa Giêsu. Ông muốn biết cặn kẽ về Ngài, nhưng ông cũng không khai thác được gì, vì Ngài vẫn một mực giữ thái độ im lặng. Tức giận, ông truyền áp giải Chúa Giêsu sang cho Caipha, con rể của ông đang làm thượng tế năm ấy.
Caipha cho triệu tập 72 thành viên của Thượng Hội Đồng, tòa án tối cao của người Do thái. Trước tòa, có nhiều vị đã đứng lên tố cáo Chúa Giêsu là lộng ngôn, phạm thượng dám tự xưng mình là Con Thiên Chúa, đã công khai tuyên bố phá đền thờ Giêrusalem và xây lại trong ba ngày, đã nhiều lần vi phạm qui luật về ngày Sabbat…Trước những lời tố cáo ấy, Chúa Giêsu vẫn im lặng không một lời phân bua, biện hộ. Và Ngài chỉ trả lời cho Caipha những gì Ngài cần phải nói khi ông hỏi Ngài có phải là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa không, Ngài đã trả lời: “Đúng như lời ngài nói”. Và Caipha bực tức, xé áo và tuyên bố: “Chúng ta còn cần chi đến nhân chứng nữa! Các ông đã nghe lời nói lộng ngôn, các ông nghĩ sao?” Ai nấy đều lên án Ngài đáng chết. Nhưng kể từ khi bị người Rôma đô hộ, người Do thái không có quyền kết án tử hình bất cứ ai, nếu không có sự ưng thuận của chính quyền Rôma. Nên sáng hôm sau, họ lại áp giải Chúa Giêsu tới tòa tổng trấn Philatô, một viên chức cao cấp nhất, đại diện cho chính quyền Rôma tại nước Do thái để xin chuẩn nhận bản án tử hình.
Trước tòa Philatô, thay vì tố cáo Chúa Giêsu về tội thuộc lãnh vục tôn giáo, họ lại chuyển những lời tố cáo sang lãnh vực chính trị: tội tự xưng là vua dân Do thái. Philatô thấy không có gì đáng kết tội, nhưng thấy họ lại càng hung hăng dữ tợn hơn đòi đóng đinh Chúa vào thập giá; vì muốn tránh né trách nhiệm, ông đã chuyển vụ án qua cho Hêrôđê, một người từ lâu đã muốn gặp Chúa Giêsu, nhưng gặp rồi, ông lại thất vọng vì Ngài chẳng thỏa mãn được tính tò mò ham vui của ông. Ông đã hùa với lính để chế diễu Chúa, rồi trao trả lại cho Philatô.
Tiến thoái lưỡng nan, cuối cùng Philatô rửa tay thanh minh mình vô can trong việc đổ máu người vô tội và sau cùng đã buông xuôi trao Chúa Giêsu cho họ để mặc cho họ hành động theo ý họ. Họ đã bắt Chúa vác thập giá, đóng đinh vào thập giá và cuối cùng Ngài đã chết trên thập giá.
Từ đầu vụ án cho đến lúc kết thúc, Chúa Giêsu đã im lặng trước những gì người ta vu khống. Không một lời kháng cáo, không một lời biện hộ.
Cái im lặng của Chúa Giêsu là vâng phục, là chấp nhận trong tinh thần tự nguyện, không oán trách, không kêu ca: “Lạy Cha, nếu có thể được thì cho con khỏi uống chén này, nhưng không phải theo ý Con mà xin vâng theo ý Cha.” Chính vì tinh thần tuân phục theo ý Chúa Cha mà Chúa Giêsu đã im lặng chấp nhận những gì sẽ xảy đến.
Sự im lặng như thế phải chăng là một hình thức im lặng như Euripide đã nói: “Im lặng là thú nhận”, là xác nhận những lời người ta tố cáo như: “phá đền thờ, ba ngày sẽ xây dựng lại, tự xưng là Con Thiên Chúa, là vua dân Do thái”. Tất cả những lời tố cáo ấy là đúng như Chúa đã từng nói; nhưng khi bị người ta xuyên tạc, bóp méo tố cáo là “xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho Xêsarê…” thì Chúa Giêsu lại im lặng không một lời thanh minh, cải chính! Với suy nghĩ của con người, thì đây là một sự im lặng khó hiểu!
Nếu những lời tố cáo là chân lý, là đúng sự thật thì tại sao con người lại kết tội. Phải chăng tiếng nói thiện tâm đã bị tà tâm bắt im tiếng!
Lương tâm im lặng.
Philatô biết rõ chỉ vì ghen ghét mà người ta đã nộp Ngài (Mt. 27: 18), đã tuyên bố:“ Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các ngươi” (Mt. 27: 24), “ Ta không thấy người này có tội gì” (Lc. 23: 4), “ Ta không thấy nơi người này có lý do để kết án” (Ga. 18: 38). Thế mà ông lại không dám quyết định, lại sợ đụng chạm đến uy thế và quyền lợi của mình, và cuối cùng đã xếp Con Thiên Chúa ngang hàng với một tên trộm cướp.
Các thầy thượng tế và toàn thể công nghị cố tìm cho được một chứng cớ buộc tội Chúa Giêsu để giết Ngài, song họ không tìm ra. Có nhiều kẻ cáo gian Ngài, nhiều kẻ làm chứng gian, nhưng chứng cớ của họ không ăn khớp. Cáo gian, làm chứng gian để buộc tội một người vô tội như thế là hợp tình, hợp lý ư? Thế mà họ cứ khăng khăng cho là sự thật; vậy lương tâm ngay thẳng của họ ở đâu? Phải chăng nó đã chết, đã buộc phải im hơi lặng tiếng để cho ác tâm, thù hận, ghen ghét lên tiếng!
Thỏa hiệp, đồng ý, đồng lõa với những gì sai trái, những gì không đúng sự thật là im lặng với chân lý, với lẽ phải. Một sự im lặng khó hiểu!
Lòng tin và lòng mến im lặng
Hơn ai hết, các môn đệ là những người theo Chúa, được Chúa yêu thương dạy dỗ để mai sau còn tiếp nối công việc của Ngài, thế mà vào những giấy phút gay go nhất thì có người đã đang tâm bán đứng Thầy mình với mấy chục đồng bạc như Giuđa Iscariốt; có người đã nhiều lần thề thốt sống chết với Thầy, nhưng trước hiểm nguy lại ba lần chối bỏ Thầy mình: Tôi không biết, tôi không quen..Dường như tất cả các môn đệ đã rút vào bóng tối vì sợ liên lụy, sợ nguy hiểm đến tính mạng..
Về phía dân Do thái, họ đã từng theo Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng dạy giáo lý, đã được thấy Ngài làm nhiều phép lạ, đã được cho ăn no nê. Hôm trước, người ta lớn tiếng: Hoan hô Con vua Đavít, thì hôm sau lại gào thét: Đóng đinh! Đóng đinh nó vào thập gia! Và nhục nhã hơn, họ xem người họ đã từng tin tưởng không bằng tên trộm khét tiếng là Baraba!
Sợ liên lụy, tin hời hợt, a dua, phản bội…phải chăng đó là bất trung, bất tín! Là những im lặng khó hiểu nơi những người mang danh Kitô hữu!
Qua thái độ im lặng của các môn đệ và của dân Do thái, có lẽ đây cũng là cơ hội để chúng ta xét đến thái độ im lặng của chúng ta ngày nay.
Có những lúc chúng ta phải bắt chước Chúa Giêsu im lặng để nghe theo thánh ý Thiên Chúa, để chấp nhận những nghịch cảnh, những bất ưng vì Thiên Chúa và có những lúc chúng ta không được im tiếng khi cần phải bảo vệ công lý và lẽ phải, khi cần phải loan báo Tin mừng đến cho muôn người nhận biết.
Với một tâm tình đơn sơ, chân thật, chất phát của trẻ em, chúng ta hãy bắt chước trẻ em Do thái reo vang ca tụng: Hoan hô Con vua Đavít; chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Đừng như dân Do thái: Hoan hô! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, rồi lại nhất quyết đòi đóng đinh Chúa vào thập giá, lại xin tha Baraba, một tên trộm cướp và giết Giêsu, Đấng cứu chuộc nhân loại.
Bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội bắt đầu cử hành Chúa Nhật Lễ Lá. Có nghi thức làm phép lá, phát lá và kiệu lá. Chỉ những người trong đạo mới hiểu được ý nghĩa của ngày Lễ Lá. Khi Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem thì các trẻ Dothái cầm nhành ôliu đi đón Chúa, lấy áo trải xuống đường và reo vang ca tụng rằng: Hoan hô con vua Đavít! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến! Lạy vua Israel! Hoan hô trên các tầng trời! Tiếp theo, chúng ta nghe bài Bài Thương Khó với những diễn tiến xảy ra mấy ngày cuối đời của Chúa Giêsu trên trần gian. Dân chúng hùa theo với quân lính và những kẻ thù ghét Chúa Giêsu với những lời phản bội sát phạt: Xin phóng thích Baraba và giết đi, đóng đinh nó vào thập giá. Những cành lá tung hô đã cuốn thành vòng gai nhọn đặt trên đầu của Chúa.
Chương trình cứu độ trải dài suốt dọc lịch sử của dân Dothái, từng biến cố xảy ra đều mang dấu ấn tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã hiện diện sát cánh qua mọi biến cố thăng trầm với dân riêng của Người. Tình yêu của Thiên Chúa đã thắng vượt sự dữ và tội lỗi. Tình Chúa bền vững thiên thu không hề thay đổi trong khi lòng người đổi thay. Biết bao lần chính Dân mà Chúa đã chọn, bỏ Chúa đi thờ các thần ngoại bang được đúc bằng đất đá. Dân chúng quay lưng chạy theo những đam mê sắc dục, tiền tài danh vọng và tìm thoả mãn mọi đòi hỏi của bản năng thấp hèn. Tiên tri Daniel đã thân thưa cùng Chúa: “Tôi đã cầu xin Chúa là Thiên Chúa của tôi, đã thú nhận và thưa Người rằng: Chúng con đã phạm tội, đã lỗi lầm, đã làm điều gian ác, chúng con đã phản nghịch và lìa xa các mệnh lệnh, phán quyết của Ngài” (Dn 9,4-5).
Tình yêu Chúa cứ dõi theo những con người lạc bước và tạo cơ hội cho họ trở về như dụ ngôn ‘Người cha nhân hậu’ hay còn được gọi là ‘Người con hoang đàng’ (Lc 15,11-32).
Thiên Chúa không bỏ rơi con người trong lầm lạc, nhưng đã ban và phó thác chính Con của mình làm của lễ cứu độ. Chúa Giêsu đã phán: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11).
Chúa Giêsu chính là Con Một Thiên Chúa và là Đấng được Xức Dầu đã hoàn tất mọi lời tiên tri đã loan báo về Người. Biến cố thương khó đã xảy ra và ứng nghiệm mọi lời đã tiên báo.
Biến cố Chúa Giêsu được đón rước vào thành Giê-ru-sa-lem thì vắn gọn. Sự vinh quang trần thế tuỳ thuộc vào con người chỉ có thế, luôn đổi thay. Từ những lời hoan hô ca ngợi mau chóng biến thành những lời nguyền rủa, chế giễu và kết án. Cách đối xử của con người thật là vô ơn bội bạc. Chúa dạy dỗ, chữa bệnh, xua trừ ma quỷ, cho ăn uống no say và dẫn về đàng thật nhưng lòng người thì tráo trở, lật lừa và đổi trắng thay đen. Chúa Giêsu đón nhận tất cả sự xỉ nhục này như của lễ dâng tiến lên Chúa Cha. Chúa gom tóm tất cả tội lỗi xấu xa của con người để đóng gim vào thánh giá. Của lễ châu báu trên thập giá là giá máu cứu chuộc.
Mỗi người nghe bài tường thuật sự Thương Khó của Chúa Giêsu với những tâm tình khác nhau. Có người nghe qua bài Thương Khó và nghĩ đây là một câu truyện đáng thương thuộc quá khứ. Đôi người lại có thái độ như khách bàng quan coi sự sống chết của Chúa Giêsu chẳng liên quan gì tới đời sống tâm linh của họ. Có người cảm thương sự đau đớn và khổ nhục của Chúa, nhưng rồi lại có thái độ thù ghét, kết án dân Dothái, chính quyền, trưởng tế, quân lính, người phản bội và các đồng bọn đã giết Chúa. Hôm nay, chúng ta nên có một tâm tình tôn kính về sự thương khó của Chúa. Chúng ta suy gẫm và chiêm niệm từng lời nói, từng hành động, từng giọt mồ hôi, giọt máu rơi xuống và từng bước chân ngã quỵ trên đường tiến lên Núi Sọ. Tất cả mọi khổ đau về tinh thần và cũng như thể xác của Chúa đều là sự trả giá cho tội lỗi và bất trung của loài người.
Các lãnh đạo tôn giáo và chính quyền đã toa rợp để tiêu diệt một người công chính. Vì yêu thương nhân loại, Chúa đã chấp nhận tất cả mọi khổ đau. Hãy chiêm ngắm Chúa Giêsu đang mạnh khoẻ, đã bị bán, bị bắt, bị chối bỏ, bị xét xử, bị xỉ nhục, bị đánh đập, bị đói khát và bị hành hạ cho đến chết trên thập giá. Mỗi một hành vi lên án dù nhỏ mọn cũng đã góp phần đưa đến sự chết của Chúa. Chúa không than van trách móc, nhưng còn thương xin Chúa Cha tha thứ cho lỗi lầm của họ. Mầu nhiệm của tình yêu gắn liền với mầu nhiệm của sự đau khổ. Sự đau khổ, sự chết và sống lại của Chúa Giêsu là cao điểm của ơn cứu độ. Đây là Lễ Vượt Qua mà Giao Ước mới được ký kết bằng Máu Châu Báu của Chúa.
Chúng ta có thể gọi các hành vi xấu ấy là tội lỗi của thế gian. Tội bất trung, tội phản nghịch, tội làm chứng dối, tội cáo gian, tội đoán xét, tội thù ghét, tội xỉ vả lăng nhục, tội hại người, tội bất công, tội đồng loã, tội gian tà và tội giết người bằng môi miệng, thái độ và hành động. Tất cả các tội đổ dồn trên đầu, trên vai, trên những bước chân trần và trong trái tim đầy lòng thương xót của Chúa. Qua bài Thương Khó của Chúa, chúng ta đừng gán ghép tất cả những tội lỗi giết Chúa cho quân Giudêu xưa. Không phải thế đâu! Chúa chịu hy sinh đền tội chung cho cả nhân loại. Khi chúng ta phạm tội là chúng ta lại tiếp tục quất những vết roi hằn trên thân mình Chúa. Thánh Phaolô đã kể lại là trong khi đi ruồng bắt các tín hữu, có một luồng sáng đánh ngã ông: Tôi ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với tôi: “Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta? Tôi đáp: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Người nói với tôi: “Ta là Giêsu Nazareth mà ngươi đang bắt bớ” (Cv 22,7-8).
Qua mọi thời, có một số người cứ muốn loại Chúa ra khỏi cuộc sống. Chối bỏ Thiên Chúa để con người được hoàn toàn tự do làm chủ đời mình. Đi tìm tự do để có thể thực hành điều mình mong muốn. Những ước muốn của con người thường là để xuôi theo dòng lạc thú tạm thời. Mọi thoả mãn vẫn không đáp ứng được những khao khát thầm kín thẳm sâu trong tâm hồn. Một số người muốn có thêm quyền lực, thêm danh vọng và thêm hưởng thụ. Họ tìm cách tiêu diệt mọi chướng ngại trên đường để tìm thỏa mãn quyền lực và ý riêng mình. Cha ông chúng ta đã giết chết các sứ giả, các tiên tri được sai đến và cả người Con Một Yêu Dấu của Thiên Chúa cũng bị loại trừ và giết bỏ.
Các thứ tội lỗi của chúng ta hôm nay cũng giống như các tội phản nghịch của người xưa, đều làm phật lòng Chúa. Mỗi khi phạm tội, chúng ta lại đâm thấu trái tim và đóng thêm gai nhọn vào thân mình Chúa. Thân mình Chúa chính là Giáo Hội của Ngài. Trong Nhiệm Thể Chúa Kitô, Chúa Kitô là đầu và chúng ta là chi thể. Thánh Phaolô nói về sự liên kết giữa Chúa Kito và Hội Thánh: “Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” (Ep 5,32). Khi chúng ta phạm tội là chúng ta xúc phạm đến Chúa và chi thể của Chúa. Mùa Chay mời gọi chúng ta xét mình và xin ơn tha thứ để sửa mình. Giáo Hội không ngừng kêu gọi con cái mình hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm để được ơn cứu rỗi.
Trong Tuần Thánh, mỗi người chúng ta dành ít phút thinh lặng và chiêm ngắm hình ảnh Chúa Giêsu bị treo trần trụi trên thập giá. Chúng ta có thể hợp dâng lên Chúa tất cả những đau buồn, sầu khổ, chán nản, bị đổ vạ cáo gian, bị hàm oan, những lời châm chọc chỉ trích, nỗi cô đơn và tất cả những khổ đau của cuộc đời. Xin cho được ơn thông phần nhục nhã với Chúa trên khổ giá để đền vì tội của chúng ta. Xin Chúa thương tha thứ và ban sức mạnh để chúng ta tiếp tục vác thánh giá theo Chúa mỗi ngày. Chúa sẽ trao triều thiên vinh thắng cho những ai bền đỗ đến cùng.
Bầu khí phụng vụ của ngày lễ lá hôm nay gợi lên cho chúng ta nhiều sắc thái và tâm trạng khác nhau, vừa hân hoan, vừa trầm buồn, lúc đầu lễ, với cuộc rước lá tưởng niệm việc Chúa Giêsu vào thành Giê-ru-sa-lem trong tiếng reo vang của người Do Thái: Hoan hô Con Vua Đavít, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, thì liền sau đó bước vào thánh lễ, chúng ta lại được nghe thuật lại sự thương khó của Chúa Giêsu. Chính sự tương phản này cũng đã phần nào nói lên sự thay lòng đổi dạ của con người, sự tráo trở của những người Do Thái ngày ấy.
Tiếng reo mừng hoan hô của những người Do Thái ngày Chúa vào thành Giêrusalem, là tiếng reo thể hiện một sự mong đợi hoàn toàn có tính cách thế tục, họ chờ đợi không phải là một Đấng Mesia cứu thế, mà là mội vị vua trần thế, họ nghĩ rằng đã đến lúc Chúa Giêsu khởi nghĩa xưng vương quy tụ dân chúng nổi dậy chống lại đế quốc Roma. Thế nhưng Chúa Giêsu đã không làm vua trần thế, mà Ngài tiến vào Giêrusalem hình ảnh thành đô của Thiên Chúa, không phải để làm chính trị, mà để xây dựng một vương quốc tình yêu và thiết lập vương quyền của Thiên Chúa, vương quyền của sự sống trên sự chết, sức mạnh của tình yêu tha thứ trên hận thù gian ác.
Tiên tri Isaia đã báo trước về sứ mạng của đấng Mesia qua bài ca về Người Tôi Trung của Giavê Thiên Chúa trong bài đọc một; Vị Tiên tri mô tả về một người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa, hoàn toàn vâng theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa, chấp nhận tất cả đau khổ roi đòn, bị phỉ nhổ bị nhạo cười chế giễu, bị người đời khinh khi hành hạ, nhưng người tôi tớ ấy vẫn một mực tín trung, chấp nhận tất cả sự nhục nhã vì tin vào Đức Chúa là Đấng làm chủ và điểu khiển mọi sự và làm chủ đời mình.
Thánh Phaolô đã nhìn thấy hình ảnh người tôi trung mà Isai tiên báo được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu Kitô: Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân, Người còn hạ mình vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Tuy nhiên, người Do Thái đã không dễ dàng chấp nhận một Đấng Mesia khiêm hạ, một Thiên Chúa hạ mình đến như thế, họ tìm kiếm và chờ đợi một Thiên Chúa khác, do óc tưởng tượng của họ mang lại: một Thiên Chúa phải thẳng tay trừng trị kẻ áp bức, một Thiên Chúa luôn sẵn sàng trừng phạt kẻ có tội chứ không thể cúi xuống trên họ, một Thiên Chúa không thể đến quá gần con người, không thể để cho một người phụ nữ tội lỗi xức dầu vào chân mình, không thể đồng bàn với người thu thuế…, chính vì không được như ý họ mong muốn, nên người Do Thái đã sẵn sàng đổi trắng thay đen, những người gào thét tại sân của quan tổng trấn, đòi giết Giêsu và tha Baraba cũng chính là những người đã hoan hô con vua Đavít, là những người đã được ăn bánh no nê, được chứng kiến phép lạ, được chữa lành bệnh tật.
Nghe bài thương khó hôm nay chúng ta nhận thấy lòng dạ của những người Do Thái đầy nham hiểm, họ khó chịu khi thấy một người phụ nữ xức dầu thơm quý giá lên chân Chúa, họ lợi dụng mua chuộc một Giuda ham tiền để lập mưu bắt Chúa Giêsu, những hành động ấy phát xuất từ sự ghen tị thù hằn và họ câu kết với nhau để loại trừ Chúa Giêsu. Để đạt được mục tiêu này, họ không loại trừ một thủ đoạn nào, từ vu vạ cáo gian đến gây sức ép, các vị lãnh đạo Do Thái là những người chủ mưu trong vụ án này, họ đã dàn dựng từ một vài những vấn đề tranh luận tôn giáo để đi đến một bản án hoàn toàn chính trị bằng việc vu cáo Chúa Giêsu ngăn cản việc nộp thuế, có ý đồ chống lại hoàng đế Cesare, để rồi mượn tay người La Mã lên án tử cho Chúa.
Còn Chúa Giêsu Ngài vẫn sống đến cùng tình yêu thương và tha thứ, dù biết rằng Giuda là một trong các môn đệ sẽ phản bội, nhưng Chúa cũng không trừng phạt anh, Ngài vẫn nhân từ trao cho anh những cử chỉ yêu thương để đánh động lương tâm của anh; trong cuộc khổ nạn này Chúa Giêsu không chỉ đau đớn vì roi đòn và sự hành hạ của những tên lính, mà Ngài còn đau khổ hơn bởi sự phản bội của những người thân tín nhất của Ngài. Đó là sự phản bội của Giuda, kẻ đã đi theo Chúa nhiều năm, vậy mà chỉ vì một chút quyền lợi tiền bạc, anh đã bán đi tình nghĩa thày trò, và đau đớn hơn nữa, anh đã dùng nụ hôn là dấu chỉ biểu lộ tình yêu thương để làm dấu chỉ của sự phản bội. Cũng thế, Simon Phêrô, một trong số những môn đệ được Chúa Giêsu yêu thương tin tưởng nhất, lại là người chối Chúa đến ba lần, mà lại chối trước mặt một đứa đầy tớ gái. Sau cùng là sự bội bạc vô ơn của đám đông dân chúng, trong số họ có biết bao người đã từng chứng kiến các phép lạ, được Chúa chữa lành, vậy mà giờ đây, trước mặt một vị quan người La mã, họ đã chọn lựa Baraba thay vì chọn Thiên Chúa, họ đã nhận hoàng đế Cesare làm vua của mình mà loại trừ Thiên Chúa là vua của họ: Chúng tôi không có vua nào khác ngòai Cesa, họ đã gào thét lên như thế.
Chúa Giêsu đã đón nhận cây thập giá mà ngươi ta đặt lên vai Ngài như là cách thế mà Thiên Chúa Cha muốn Ngài chấp nhận để đem ơn cứu độ cho trần gian, Chúa Giêsu đã đi đến tận cùng của con đường cứu chuộc, và chặng cuối của con đường là cái chết giang tay trên cây thập giá, chết trong đau đớn tất tưởi. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã hoàn tất chương trình cứu độ mà Thiên Chúa đã chuẩn bị từ ngàn xưa, Ngài dùng chính sự độc ác của con người để đem lại ơn cứu độ cho con người, dùng sự phản bội để đem lại sự thứ tha, dùng cái chết của Ngài để đem lại sự sống đời đời.
Thưa quý OBACE, nghe lại bài thương khó Chúa không để chúng ta đổ lỗi cho những người Do Thái, song qua cuộc thương khó này chúng ta có thể thấy bóng dáng của mình trong cuộc hành hình Chúa Giêsu năm xưa, có thể chúng ta là người đã gây tổn thương cho Chúa khi chúng là những người mang danh là Kitô hữu, là mộn đệ Chúa, song chúng ta đã phản bội lại Chúa như Giuda khi chúng ta cũng vì một chút vật chất, tiền bạc mà chà đạp lên danh dự là một Kitô hữu, bán rẻ lương tâm của mình, có thể vì sợ hãi hèn nhát hoặc vì bổng lộc của thế gian mà chúng ta đã từ chối Chúa như Phêrô: Tôi không biết người ấy là ai! Và cũng có thể chúng ta là những người đã từng nhận được biết bao ơn lành của Chúa, song chúng ta cũng giống như những người Do Thái đòi tha Bararaba mà giết Giêsu, chúng ta không muốn để cho Chúa Giêsu ảnh hưởng đến cuộc đời của mình, của gia đình, khi chúng ta từ chối đọc kinh cầu nguyện, khi chúng ta không đến với Chúa qua việc thờ phượng và lãnh nhận các Bí tích. Hoặc là chúng ta sẽ thấy mình giống như các thày thượng tế và luật sĩ, mưu mô gian ác trong cuộc sống trong công việc, đối với anh em, cứng lòng trước đau khổ thập giá của Chúa Giêsu khi chúng ta quay lưng lại với Chúa hoặc chúng ta lên án Chúa và Giáo Hội của Ngài, cho mình quyền định đoạt số phận và xét đoán anh em, nhắm mắt làm ngơ trước nỗi đau khổ bất hạnh của anh em, và có khi còn nhạo cười trên đau khổ của họ và gào thét giơ tay đòi kết án họ.
Chúa Giêsu vẫn đang bị hành hình trong thời đại của chúng ta hôm nay qua những con người đang phải chịu sự bất công đàn áp, những con người bị đẩy ra bên lề xã hội, bị chính những người anh em ruột thịt của mình khinh bỉ từ chối; Chúa Giêsu cũng đang bị hành hình qua những con người cùng cực bị bóc lột khai thác, lạm dụng, bạo hành, kể cả qua những em bé, những thai nhi bị những Philatô là chính cha mẹ của mình lên án tử, đó là những Giêsu của ngày hôm nay. Thương cảm cho cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu không chỉ dừng lại ở những cảm xúc tự nhiên, mà hãy nhận thật rằng chính vì tội lỗi của tôi, của ông bà, anh chị mà Chúa chịu chết như thế, để từ nay chúng ta cố gắng sống tốt hơn, và sống ngoan thảo với Chúa hơn, đồng thời biết quan tâm đến anh em để chia sẻ với sức nặng của thập giá của anh em đó là cách chúng ta cất đi bớt sự đau khổ cho Chúa ngày hôm nay. Amen.
Đối với các Tông Đồ, việc Đức Giêsu khải hoàn tiến vào Giêrusalem để khai mào vương quốc, vương quốc mà các ông hằng mơ tưởng, thế là mộng công hầu khanh tướng của các ông đã thành hiện thực.
Đối với Chúa Giêsu thì đàng sau cái vẻ thành công bên ngoài đó, Người đã nhìn thấy rõ tương lai, là việc Người bị chối bỏ, bị kết án. Hơn thế nữa, việc tiến vào Giêrusalem gợi nhớ đến ngày Người sẽ đến trong vinh quang, là ngày tất cả mọi người sẽ đi vào trong vương quốc Chúa Cha, ngày họ sẽ nhận Người là Vua đã đến cứu họ, và họ sẽ nhận Người làm Chúa của họ.
Nhưng cuộc rước lá còn nhắc nhở chúng ta về nghịch lý mà những người có mặt trong buổi Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem đã phạm phải. Họ cắt nghĩa sai sứ mệnh của Chúa Giêsu. Bởi tuy Người có tiến vào thành thánh như một vị vua nhưng là để khai trương Nước của Thiên Chúa Cha. Vị vua mà người Do Thái đón đợi là một Đavid mới, một vị vua làm cho họ được thống trị trên các dân tộc. Còn việc Đức Giêsu đến trần thế hoàn toàn khác với niềm mong chờ này của họ.
Cũng vì lẽ đó mà dân chúng đã thay lòng đổi dạ, họ tung hô Chúa Giêsu nhưng ít ngày sau đó chính họ lại quay lưng, kết án Ngài. Một Philatô hèn nhát, nhượng bộ đám dân náo loạn bỏ rơi Chúa Giêsu thay vì phải trả lại sự công chính cho Người. Ngay cả các tông đồ là những người thân cận với Chúa Giêsu cũng đã phản bội. Giuđa đã nộp Người bằng cái hôn thân tình. Phêrô chối Thầy 3 lần.
Chúa nhật Lễ Lá hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn lại chính bản thân mình. Tôi cũng có thể là một trong những môn đệ hay đám đông đang khước từ, kết án Chúa Giêsu trong cuộc sống của mình. Tôi cũng có thể là một Philatô vì không dám sống theo sự thật của Tin Mừng, đã bao lần tôi sống trong giả dối, chạy theo quyền lực, tiền bạc, xác thịt để khước từ Thiên Chúa, sợ theo Chúa đòi buộc tôi phải từ bỏ chính mình. Tôi cũng có thể là một Giuđa phản bội lại Thầy mình, một Phêrô chối Thầy, đánh mất giá trị của tình thầy trò, đánh mất giá trị của người môn đệ, làm rạn nứt mối tương quan mật thiết với Chúa Giêsu chỉ vì một chút lợi lộc của vật chất, tiền bạc, danh vọng. Với một lối sống theo chủ nghĩa hưởng thụ, duy vật chất tôi đã chối bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Thiên Chúa không còn là giá trị tuyệt đối, là ưu tiên trong cuộc sống của tôi nữa.
Bước vào Tuần Thánh và cao điểm là Tam Nhật Vượt Qua mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại thái độ sống là người Kitô hữu của mình, để chớ gì chúng ta biết can đảm sống theo những giá trị của Tin Mừng mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta bước đi, dám đặt Thiên Chúa lên trên những bậc thang giá trị trần thế khác.
Chuẩn bị bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội mời gọi mỗi người kitô hữu hãy cùng bước theo Đức Giêsu trên con đường thập giá. Chúng ta không chỉ theo Chúa khi gặp may mắn, thành công, bình an nhưng dám chấp nhận theo Chúa ngay cả khi bị bỏ rơi, khước từ, đau khổ, thất bại. Bước theo Chúa không phải là con đường hoàn toàn bình an, hạnh phúc, mà là một con đường chọn lựa quyết liệt giữa những quyến rũ của vật chất, đam mê, hưởng thụ, danh vọng, quyền lực để đặt Thiên Chúa chính là giá trị tuyệt đối, là hạnh phúc viên mãn của mình.
Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá là đi ngược dòng đời, ngược lại với những trào lưu chạy theo sự dễ dãi, thoải mái, sự giả dối, ích kỉ, hận thù, bạo lực... để dám sống từ bỏ, hy sinh, trung thực, yêu thương, bao dung mà Tin Mừng của Chúa Giêsu mời gọi.
Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá quả thật là một thách đố rất lớn trong bối cảnh ngày nay, nhưng chúng ta tin rằng chúng ta không đơn độc vì có Chúa cùng vác thập giá với chúng ta. Ngài luôn thấu hiểu, nâng đỡ, đồng hành với chúng ta, Ngài chia sẻ những khó khăn, thử thách, đau khổ với chúng ta trên bước đường đi theo Ngài. Và nếu chúng ta can đảm cùng chịu đau khổ và đóng đinh cùng Ngài, thì chúng ta sẽ được hạnh phúc và vinh quang phục sinh với Ngài.
Bước vào tuần thánh, chúng ta dấn bước theo Đức Giêsu tiến vào Giêrusalem. Cùng với Ngài, Chúng ta đi từ vinh quang sáng chói, khi được toàn dân đón chào và tung hô, đến cái chết bi thương và nhục nhã trên núi sọ. Thoạt đầu, dân chúng tôn vinh Chúa như một lãnh tụ oai hùng, nhưng bỗng chốc họ đã trở mặt. Tất cả đồng thanh đả đảo và kết án Ngài như một tên tội phạm đốn mạt nhất.
Đỉnh điểm của mùa chay là cuộc hành trình tiến vào Giêrusalem, một thành phố đầy những mâu thuẫn trái ngược. Giêrusalem là nơi có đền thờ thánh thiêng để tôn kính Giavê, đồng thời cũng là nơi sùng bái những ngẫu tượng. Đây là kinh thành biểu thị niềm tin tôn giáo, nhưng cũng là nơi đầy gương mù khủng khiếp. Giêrusalem là nơi chốn của ánh sáng, nhưng cũng là một thế giới ngập tràn bóng tối. Dân Do thái từ chỗ đặt niềm tin trọn vẹn vào Đức Giêsu, nhưng sau đó nơi họ là cả một sự phẫn nộ đượm tính căm thù. Giuđa bán đứng vị tôn sư đáng mến. Trò phản thầy. Các đầu mục tôn giáo thì quá gian ác đã dàn dựng một phiên tòa rùng rợn. Các môn sinh thân thiết nhất đã vội quên thầy của mình. Họ đã ngủ vùi trong mệt mỏi chán chường và cuối cùng đã tháo chạy. Phêrô thẳng thừng chối bỏ người Thầy đáng kính. Còn Philatô, giống như một kẻ đồng lõa, đã kết án Đức Giêsu, cho dù ông biết Ngài hoàn toàn vô tội. Lính gác và đám đông thì tha hồ mỉa mai chửi bới, và không tiếc lời lăng mạ. Điều trớ trêu nhất, là dân chúng lại xin tha Baraba và đòi giết Đức Giêsu. Baraba, theo từ ngữ Aram, có nghĩa là “ con của Cha”. Họ đã chọn một người “con” với một quá khứ đan kín tội ác, và đòi kết án người “Con” duy nhất của Chúa Cha, Đấng hoàn toàn vô tội đã gánh trên vai mọi tội lỗi khủng khiếp của cả trần gian. Giêrusalem quả là nơi nhức nhối đầy những đối nghịch và mâu thuẫn.
Sự kiên định trong niềm tin nơi Đức Giêsu giữa bóng tối của thập giá là một chứng tá và là khuôn mẫu tuyệt hảo để chúng ta dõi theo. Trong thơ gửi giáo đoàn Philip mà giáo hội đọc lên trong phụng vụ lễ lá hôm nay, Thánh Phaolô nêu bật cho chúng ta khuôn mẫu này. Thánh nhân chiêm ngắm sự tự hạ và biến mình ra không nơi Chúa Giêsu, để dẫn đến vinh quang. Các nhà chú giải cho rằng Phaolô đã trích dẫn một bài thánh thi rất quen thuộc thời đó. Phần dẫn nhập do chính thánh nhân biên soạn. Ngài đã viết những câu giới thiệu như sau “ Nếu Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong thần khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau… anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu Kitô (Phil 2,1-5). Sau đó, vị tông đồ đã viết trọn bài Thánh thi với lời mở “ Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ”. Bài Thánh Thi đã mô tả Thập Gía như là cách diễn bày sự khiêm nhường và vâng phục sâu thẳm của Chúa Giêsu. Và kết quả của hành vi tự biến mình ra không, là “Thiên Chúa đã tôn vinh Người… mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa”.
Thông thường, người ta vẫn hiểu rằng Thánh Phaolô đề cao chức phận làm con của Đức Giêsu, được hiện lộ nơi dáng vẻ bi thương của Thập Gía. Đức Giêsu đã tự nguyện hạ mình, giấu bỏ thần tính cao sang để mặc lấy kiếp người hèn hạ, cho đến chết và chết trên Thập Gía. Tuy nhiên, ở đây chúng ta thấy có một hình ảnh song đối, nhưng khác nhau hoàn toàn giữa Đức Giêsu và Ađam. Ađam được tạo thành, giống hình ảnh Thiên Chúa (Sáng thế 1,26-28), nhưng lại muốn trở nên ngang bằng Thiên Chúa, vì kiêu ngạo và bất tuân (3,5t). Hệ quả là sự sa ngã trong tội dẫn đến cái chết. Ngược lại, Đức Giêsu- Ađam mới, đã sống khiêm tốn và vâng phục, trút bỏ vinh quang của một vị Thiên Chúa. Kết quả là Ngài được siêu thăng và đã mở ra cho nhân loại một chân trời mới của ơn cứu độ. Bản văn soi sáng để chúng ta thấu đạt cả hai cách diễn nghĩa, liên kết với nhau. Chúa Giêsu như là Ađam mới, và cũng là một người con thực sự của Chúa Cha. Ngài đã tự hư vô hoá chính mình, mang lấy tình trạng tội lỗi của Ađam xưa, đó là tình trạng sống kiếp nô lệ và tiến nhận cái chết, để cứu chúng ta, giải thoát chúng ta khỏi kiếp nô lệ và thân phận phải chết.
Khi chúng ta gẫm suy việc Đức Giêsu đi vào mầu nhiệm tự hủy, chứng tá cho niềm tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa và đã trải qua những giờ phút hãi hùng trên thập giá, có lẽ chúng ta vẫn nghĩ tưởng rằng Ngài đã biết trước tất cả những gì sẽ xảy ra. Nếu quả thật Đức Giêsu đã biết, và Ngài không thể có một chọn lựa nào khác, rồi sau đó Ngài biết chắc chắn Chúa Cha sẽ cho Ngài phục sinh vinh quang, thì những giây phút hấp hối kinh hoàng của Ngài trong vườn cây dầu chẳng còn ý nghĩa gì. Tại sao Chúa lại phải khiếp sợ, phải căng thẳng, mồ hôi và máu tuôn đổ đến mức thảm thiết như thế? Tại sao Chúa phải lớn tiếng rơi lệ khẩn xin với Đấng có thể cứu mình khỏi chết (Dt 5,7) “Lạy Cha nếu có thể, xin hãy cất chén đắng này xa con”? Và nếu như Ngài biết trước, và phải miễn cưỡng chấp nhận, thì tại sao trên Thánh giá Ngài phải gào thét lên một cách não nuột “Cha ơi, sao cha bỏ rơi con”? Thánh Phaolô đã viết: Vì Đức Kitô đã hư vô hóa mình, đã tự nguyện đi sâu vào mầu nhiệm tự hủy, nên Ngài đã hoàn toàn tín thác vào Chúa Cha, tín thác tận căn, đặc biệt giữa bóng tối dầy đặc của mầu nhiệm thập giá và cái chết. Nếu Đức Giêsu biết trước Ngài sẽ sớm được phục sinh trong vinh quang, thì ngày thứ Sáu tuần thánh không còn là một ngày đen tối đầy u ám nữa. Nhưng, khi mang thân phận con người giống hệt chúng ta, cho dù có thể Ngài biết, Ngài vẫn phải trải qua những phút giây khủng khiếp nhất, kinh hoàng nhất và đã hoàn toàn tín thác vào Cha Ngài.
Chúng ta phải nhìn vào bóng tối phủ kín nơi Đức Giêsu, với tất cả vẻ bi thương trong kiếp người, mang trên vai mọi tội lỗi loài người chúng ta, để có thể nhận ra nơi Ngài một niềm tin sâu thẳm và một sự vâng phục tuyệt đối giữa những tăm tối nhất khi bị treo thân trên Thập giá. Đây là nguyên mẫu đức tin cho chúng ta, khi chúng ta đối diện trước những bầm dập và tan nát trong cuộc đời. Có bao giờ chúng ta đã kinh qua những phút giây bi thương như thế không, khi chúng ta bị mất mát, chìm lặng trong bóng tối của kinh khiếp? Khi gặp những thất bại cay đắng, bị bạn bè xa tránh, bị rơi vào những chán chường và tuyệt vọng… chúng ta có cảm thấy như đang bị Thiên Chúa bỏ rơi hay không? Đức Giêsu đã trải nghiệm như thế, ở Giêrusalem và trên thập giá. Sự bi thương của Ngài còn gấp cả ngàn lần, triệu lần so với những khổ đau mà chúng ta gặp phải. Trong tuần này, Giáo hội muốn chúng ta cùng với Ngài đi vào lộ trình lên Giêrusalem, và thông dự vào những giờ khắc đen tối nhất trong cuộc đời tại thế của Ngài.
Cả Mùa chay chuẩn bị chúng ta đi vào cuộc thương khó, tử nạn và sống lại của Chúa. Chúa Giêsu đã được các ngôn sứ loan báo từ ngàn xưa, Ngài đã được Thiên Chúa Cha sai xuống trần gian để cứu chuộc nhân loại. Ngài đã sống ở trần gian 30 năm ở Nazarét, 3 năm đi giảng đạo để chuẩn bị thực hiện chương trình cứu thế của Ngài…Ngôn sứ Isaia đã viết :” Tôi đã đưa lưng chịu đòn, giơ má cho người ta giật râu.Tôi đã không che mặt khi bị măng nhiếc phỉ nhổ “. Hôm nay, Lễ Lá khai mạc Tuần Thánh, Chúa Giêsu đi vào Giêrusalem trong vinh quang, nhưng Ngài đi vào Giêrusalem để chuẩn bị cái chết nhục hình trên thập giá. Chúng ta sẽ hiểu, cảm thông và thương mến Chúa Giêsu: Ngài cô đơn và im lặng.
Năm B, Giáo Hội cho chúng ta nghe tường thuật của thánh Mác-cô về cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Đọc Phúc Âm của thánh Mác-cô, chúng ta lưu ý hai điểm lớn sau đây. Điểm thứ nhất nói về sự cô đơn của Chúa và điểm thứ hai nói về sự im lặng của Chúa Giêsu. Vâng, Tin Mừng của thánh Mác-cô cho thấy càng về cuối đời, Chúa Giêsu càng cảm thấy cô đơn : cô đơn vì chính những người thân bỏ rơi mình, cô đơn vì những môn đệ là những người thân tín nhất nhưng trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu đã bị chính các môn đệ cưng nhất làm lơ, ngủ vùi. Ông Phêrô, ông Giacobê và ông Gioan, tất cả đều ngủ vùi khi Chúa Giêsu cầu nguyện mồ hôi đẫm máu. Trước thượng hội đồng Do Thái, không ai dám bênh vực Ngài, chỉ toàn những người tố cáo gian, Phêrô ở ngoài chối Chúa( Mc 14, 62-71 ). Chỉ có con gà trống làm chứng cho lời Ngài nói với Phêrô là sự thật ( Mc 15, 34-35 ). Còn lại mấy người phụ nữ trung thành với Người, nhưng cũng chỉ đứng xa xa mà nhìn ( Mc 15, 40 ).Trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Mác-cô viết về Chúa Giêsu thật cô đơn. Thánh Gioan cho chúng ta thấy sự trái ngược với cảnh tượng cô đơn này.: dưới chân thập giá có Đức Mẹ, thánh Gioan, bà Maria Cléophas và Maria Mađalêna ( Ga 19, 25 ).
Điểm thứ hai mà Tin Mừng Mác-cô đề cập tới là sự im lặng. So với ba Tin mừng khác, Phúc Âm của Mác-cô cho thấy Chúa Giêsu giữ im lặng tuyệt đối : trước thương hội đồng, trước mặt Philatô và trên thập giá. Chúa Giêsu chỉ trả lời thượng tế một lần, Philatô một lần và trên thập giá chỉ thốt ra có một lời mà thôi.
Tuy nhiên, sự cô đơn và im lặng.Sự đau khổ đến tột cùng như Thiên Chúa Cha hầu như cũng bỏ mình thì viên đại đội trưởng của quân đội roma đã tuyên xưng :” Quả thật Người này là Con Thiên Chúa “ ( Mc 15, 39 ).
Trình thuật của Mác-cô xem ra không văn chương, không trau chuốt, có thể là vụng về, nhưng chính cái đơn sơ ấy lại nói lên cả một Mầu Nhiệm lớn lao: Mầu Nhiệm của Sự Sống, Sự Chết và Sự Phục Sinh. Bởi vì, đứng trước Mầu Nhiệm người ta chỉ có thể thờ lạy, tạ ơn và khâm phục. Sự im lặng của Mác-cô là sự im lặng thánh. Trước Mầu Nhiệm hay trước bí mật Mêsia, người ta âm thầm, thinh lặng nội tâm để nhận ra Đấng cao cả đã :…” khước từ tất cả, mặc lấy thân phận nô lệ thấp hèn, trở nên giống một kẻ phàm nhân, cuộc đời chẳng khác chi người thế, lại còn tự hạ, sống phục tùng cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự..” ( Pl 2, 7-9 ). Chúa Giêsu là một Con người, do đó, chúng ta phải tìm gặp Người, chúng ta mới hiểu và mới tin được Người.
Cuộc thương khó của Chúa Giêsu là một cuộc thương khó sống động: một Mầu Nhiệm của lòng tin. Chúng ta hiểu được thế nào là Chúa Giêsu: Ngài cũng biết đau, biết khổ, biết nhục nhã ê chề trước những lời nhạo báng, phỉ nhổ của quân dữ…Ngài chấp nhận ý định của Thiên Chúa Cha : “Lạy Cha nếu có thể được thì xin cho con đừng uống chén đắng này, nhưng đừng theo ý con mà là ý Cha “.
Vâng Tin Mừng của thánh Mác-cô là phản ảnh phần nào chính là niềm tin của thánh Phêrô. Chính vì thế, Tin Mừng của thánh Mac-cô đặt cho mọi người biết :” Chúa Giêsu là ai ? “.
Đức Thánh Cha Phanxicô viết : “ …Hôm nay chúng ta đón rước Người. Và đây cũng là lời đầu tiên tôi muốn nói với các bạn : Hãy vui lên ! Đừng bao giờ là những người nam người nữ buồn rầu. Một Kitô hữu không bao giờ được như vậy ! Các bạn đừng bao giờ để cho mình bị thất vọng, chán chường ! Niềm vui của chúng ta không phải là một niềm vui phát sinh từ việc sở hữu nhiều sự, nhưng nó đến từ việc chúng ta đã gặp được một nhân vật : Đó là Chúa Giêsu, Người ở giữa chúng ta…”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được kết hiệp với sự thương khó của Chúa để chúng con được chết với Chúa và được Phục sinh với Người. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Tin Mừng của Mác-cô là Tin Mừng thế nào ? 2.Cuộc thương khó của Chúa Giêsu theo thánh Mác-cô mang ý nghĩa gì ? 3.Dưới chân thập giá theo thánh Mác-cô có những ai ? 4.Thánh Gioan viết thế nào dưới chân thập giá ?
Với Chúa nhật Lễ Lá, khai mạc Tuần Thánh, trung tâm của toàn thể Năm Phụng Vụ, trong Tuần này chúng ta dõi theo hành trình thương khó của Chúa Giêsu, chết và sống lại.
Niềm vui
Hoan hô, chúc tụng vua Israel, Ðấng nhân danh Chúa mà đến! (x. Ga 12, 12-16)
Nghe đọc những lời trên lúc mở đầu nghi thức làm phép kiệu lá, tưởng nhớ tới sự kiện Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, dân chúng rủ nhau ra mà đón : “Nhiều người trải áo xuống đường, kẻ khác chặt nhành cây trải lối đi: Kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: "Hoan hô! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Chúc tụng nước Ðavit tổ phụ chúng ta đã đến. Hoan hô trên các tầng trời!” Họ trải áo trên đường để Chúa đi” (Mc 11, 8-10 ). Giờ đây mỗi người cầm cành lá trong tay vừa đi vừa hát “Hoan hô...” thấy thật là vui.
Đám đông dân chúng đón rước Chúa lúc đó hân hoan, ngợi khen, chúc tụng, đúng là một bầu khí vui mừng mà chúng ta cảm nghiệm được khi tái cử hành biến cố năm xưa hôm nay. Chúa Giêsu, Thái Tử nhà Đavít tiến vào Giêrusalem đã khơi dậy lên bao nhiêu niềm hy vọng nơi tâm hồn những người đơn sơ, nghèo khổ, bị lãng quên, những người không đáng kể gì trong xã hội. Người thấu hiểu và cảm thông cảnh lầm than khốn khổ của họ, cúi mình xuống chữa lành những vết thương thể xác cũng như tâm hồn và tỏ lòng từ bi đối với họ.
Đúng như lời ngôn sứ I-sai-a nói : “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” ( Mt 8,17 ). Đó là tình thương cao cả của Chúa Giêsu, Người đã mang tình thương ấy đi vào thành Giêrusalem. Chúng ta thật vui mừng và tràn đầy hy vọng, vì thế giới chúng ta sống đang rất cần tình thương đó.
Thập giá
Niềm vui của dân chúng đang hân hoan, tung hô, chúc tụng Chúa, sự đấu tố, đòn vọt, vòng gai và thập giá bao trùm, những lời của Tiên tri Isaia, bài tường thuật của thánh sử Marcô, và những bài đọc phụng vụ khác dẫn đưa chúng ta vào trong mầu nhiệm Thương Khó và cái chết của Chúa Giêsu. Isaia mô tả cho chúng ta hình ảnh của một người bị đánh đòn và chịu vả mặt nhục nhã (x. Isaia 50, 6). Lời đáp ca: “Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi, sao Chúa bỏ rơi tôi?” giúp chúng ta chiêm ngắm cơn hấp hối của Chúa Giêsu trên thập giá (x. Mt 15, 34). Nơi bài đọc II, thánh Phaolô tông đồ giúp chúng ta hiểu sâu xa hơn mầu nhiệm Vượt Qua: Chúa Giêsu, “dù là Thiên Chúa, nhưng không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết trên cây thập tự” (Phil 2, 6- 8).
Một vị Vua cưỡi trên con lừa con, không có đoàn tùy tùng đi theo, không có một binh đoàn biểu tượng quyền lực tiến vào thành Giêrusalem là Chúa Giêsu. Người không vào Thành Thánh để nhận vinh dự dành cho các vua trần thế, cho kẻ có quyền bính, cho kẻ thống trị; Người vào thành để chịu đánh đòn, lăng mạ và xúc phạm, như Isaia đã tiên báo (x. Is 50,6); Người vào để chịu đội mão gai và mặc áo choàng đỏ, vương quyền của Người là đối tượng cho sự nhạo cười; Người vào để bước lên đồi Canvê vai vác khổ giá; Người vào thành Giêrusalem để chịu chết trên Thập giá. Thập giá là ngai vàng của Người, Người mang lấy Thập giá trên mình, mang vào mình sự ác, cùng với sự nhơ bẩn, tội lỗi của trần thế và cả tội chúng ta nữa. Với lòng từ bi và tình thương của Thiên Chúa, Người lấy máu mình mà tẩy rửa cho sạch. Vì thế, Thập giá được Chúa Giêsu đón nhận với tình thương không bao giờ đưa tới sầu muộn, nhưng dẫn đến niềm vui, niềm vui được cứu độ.
Sống Tuần Thánh
Bước vào Tuần Thánh, Giáo hội cùng với con cái mình doi theo Chúa Giêsu trên hành trình tiến lên đồi Canvê với thập giá và sự sống lại của Người. Sống Tuần Thánh là đi vào tình thương hiến thân của Chúa Giêsu hầu mang lại sự sống cho con người
Lúc sinh thời, Chúa Giêsu đã rong ruổi trên khắp nẻo đường, với lòng tin, Người đã chọn gọi 12 người đơn sơ để họ ở với và tiếp tục sứ mạng yêu thương của Người. Trong Tuần Thánh chúng ta sống trọn vẹn cuộc hành trình này. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để thi hành sứ mạng yêu thương ấy.
Chúa Giêsu không sống cách thụ động tình thương dẫn đến hy sinh, hoặc như một định mệnh không thể tránh được; Người không che giấu sự sao xuyến sâu xa như một con người trước cái chết dữ dằn, nhưng phó thác hoàn toàn nơi Chúa Cha. Chúa Giêsu tự ý nộp mình chịu khổ hình và chịu chết, để chứng tỏ tình thương của Thiên Chúa đối với thế gian. Thánh Phaolô cảm nghiệm được rằng, trên Thập giá, Chúa Giêsu “đã yêu thương tôi và hiến mình vì tôi” (Gl 2,20). Mỗi người chúng ta có thể nói: Người đã yêu thương tôi và đã phó nộp mình vì tôi.
Nhìn vào Chúa Giêsu trong cuộc thương khó, chúng ta khám phá ra những đau khổ của nhân loại nói chung và những đau khổ của chính cá nhân mình nói riêng. Chúa Giêsu, dù vô tội, đã nhận mang lấy vào thân điều mà con người không thể chịu được như : sự bất công, sự dữ, tội lỗi, hận thù, đau khổ và cuối cùng là sự chết. Trong Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa phải chịu nhục nhã và đau khổ để chứng tỏ rằng Thiên Chúa yêu thương tất cả, tha thứ cho tất cả và mang đến cho con người ý nghĩa cuối cùng của cuộc sống.
Mỗi năm, với Tuần Thánh, Giáo Hội bước vào trong Mầu nhiệm Vượt Qua, Mầu nhiệm tưởng niệm cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu. Chính nhờ sức mạnh của Mầu Nhiệm Vượt Qua mà Giáo Hội có thể công bố cho thế giới bằng lời nói và bằng những việc làm tốt của những con cái mình rằng: “Chúa Giêsu Kitô là Chúa, để Thiên Chúa Cha được vinh hiển” (Phil 2,11). Phải, Chúa Giêsu Kitô là Chúa, Người là Chúa của thời gian và của lịch sử; là Ðấng Cứu Chuộc con người; Người là Ðấng Cứu Thế! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Hosanna!
Cùng với Mẹ Maria, chúng ta hãy xin với Mẹ là Ðấng đã theo Chúa Giêsu Con Mẹ trong suốt chặng đường dẫn tới Canvê trong đức tin, giúp con cái Mẹ vác thập giá với niềm thanh thản và yêu thương bước theo Chúa, để đạt được niềm vui của lễ Phục Sinh. Amen.
Tất cả các sự kiện được kể lại trong bài Thương Khó đều lôi cuốn sự chú ý và suy nghĩ của chúng ta. Tuy nhiên mỗi người có thể dừng lại ở điểm nào đó khiến cho mình cảm động nhất. Mỗi sự kiện gây nên cái đau riêng, không những thể xác mà cả tâm lý và tinh thần nữa. Chúng ta được mời gọi hãy tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su không phải như người ngoại cuộc quan sát và phân tích nỗi đau đớn của Chúa Giê-su, nhưng là người trong cuộc đồng cảm với Chúa trong những đau khổ của Người.
Trước hết chúng ta cùng đau khổ với Chúa vì những người thân đã làm cho Người phải ưu phiền. Một trong những người thân của Chúa Giê-su là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt. Có lẽ tại Bê-ta-ni-a, Giu-đa là một trong số những môn đệ bực tức khi thấy người phụ nữ lấy dầu cam tùng nguyên chất đắt tiền xức dầu cho Chúa Giê-su. Trong khi người phụ nữ không tiếc bình dầu thơm đáng giá ba trăm quan tiền để xức dầu cho Chúa, thì Giu-đa lại ham ba chục quan tiền để bán đứng tính mạng Thầy mình! Tiếp đến trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giê-su đã tế nhị nhắc nhở lương tâm Giu-đa, nhưng anh ta vẫn không chút hối cải. Sau cùng tại Vườn Dầu, anh ta dùng cái hôn làm ám hiệu cho kẻ thù Chúa Giê-su đến bắt Người. Người thân thứ hai trong cuộc Thương Khó là ông Phê-rô. Trong bữa ăn lễ Vượt Qua, ông mạnh miệng thề với Thầy: “Dầu tất cả có vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không”. Vậy mà trong Vườn Dầu, đang khi Thầy “đổ mồ hôi máu” cầu nguyện, thì Phê-rô và hai bạn lăn ra ngủ! Chúa Giê-su đã phải thốt lên: “Si-môn, anh ngủ à? Anh không thức nổi một giờ sao?” Tại dinh thượng tế, trước lời tố giác bâng quơ do một cô tớ gái của thượng tế mà Phê-rô đã run sợ thề sống thề chết là không hề biết Chúa!
Nỗi đau thứ hai là do các nhà lãnh đạo tôn giáo và đám thuộc hạ. Đáng lẽ họ phải là những người hướng dẫn dân chúng để tiếp nhận Chúa Giê-su là “Đấng Ki-tô, Con của Đấng Đáng Chúc Tụng”, nhưng họ lại dùng chính danh hiệu cao quý ấy để xách động mọi người “kết án Người đáng chết”. Sau trò xúi giục kết án là màn xỉ nhục. Nào là “khạc nhổ vào Người, bịt mặt Người lại, vừa đánh đấm vừa nói: ‘Hãy nói tiên tri đi!’, và đám thuộc hạ tát Người túi bụi”. Chúng ta thử tưởng tượng cảnh những bãi đàm, nước bọt, những lời tục tĩu chửi rủa phóng vào mặt mũi Chúa, rồi chúng ta hãy nhớ lại lần nào đó chúng ta cảm thấy đau nhói chỉ vì một lời phê bình xây dựng của người bạn, để xác tín rằng vì yêu thương chúng ta nên Chúa cam lòng chịu đựng những xỉ nhục và đau đớn ấy.
Nỗi đau kế tiếp là do sự hèn nhát của chính quyền và thiếu vắng công lý. Phi-la-tô “thừa biết chỉ vì ghen tị mà các thượng tế nộp Người”, vậy mà ông không màng gì tới công lý và “muốn chiều lòng đám đông”, nên “phóng thích tên Ba-ra-ba, truyền đánh đòn Đức Giê-su, rồi trao Người cho họ đóng đinh vào thập giá”.
Cái đau thân xác do bị đánh đập, đội vòng gai, vác thập giá, bị đóng đinh vào thập giá làm sao diễn tả nổi. Nhưng cái đau tinh thần còn lớn lao hơn, vì “Người bị liệt vào hạng những tên phạm pháp”, để ứng nghiệm lời Kinh Thánh và để biến đổi thân phận chúng ta từ những kẻ tội lỗi trở thành con cái Thiên Chúa!
Sống sứ điệp Tin Mừng
Nỗi đau khổ và cái chết của Chúa Giê-su là một Tin Mừng hay sao? Đúng thế. Nhưng chúng ta chỉ có thể hiểu đó là Tin Mừng khi chúng ta tin vào động lực Tình Yêu đã thúc đẩy Chúa Giê-su chấp nhận “không nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang”. Diễn tả của thánh Phao-lô về việc Chúa Giê-su Ki-tô trút bỏ vinh quang Thiên Chúa (Phi-líp-phê 2:6-11) đã được Phụng vụ Tuần Thánh sử dụng như là chủ đề nền tảng cho mọi suy niệm về cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Chúa. Xác tín và cảm nghiệm Tình Yêu vô điều kiện này của Thiên Chúa đạt tới tột đỉnh qua cái chết của Chúa Giê-su, đó là cách Giáo Hội muốn chúng ta tưởng niệm cuộc Thương Khó của Người. Vậy chúng ta hãy cùng đồng hành với Chúa và cùng đau khổ với Người!
Phụng vụ Lễ Lá hôm nay gồm hai phần: Rước Lá (x Mc 11,1-11) và Thánh Lễ với Tin Mừng về sự Thương Khó của Chúa Giêsu (Mc 14,1-15,47)
- Phần thứ I (Mc 11,1-11): Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem với tư cách là Đấng Thiên Sai, được dân chúng đi theo và hoan hô như đón mừng một ông Vua khải hoàn vào thành để lên làm vua. Nhưng Đức Giê-su không đáp ứng khát mong của dân Do Thái để làm vị Vua Thiên Sai mang tính trần thế, mà Người chọn thái độ hiền hòa của vị Vua Mục Tử khi chọn ngồi trên lưng lừa thay vì trên ngựa chiến.
- Phần thứ II (Mc 14,1-15,47): Đức Giê-su chính là Tôi Tớ đau khổ của Đức Chúa. Người đến không phải để đòi người ta hầu hạ, nhưng để hầu hạ người ta thể hiện qua việc rửa chân cho môn đồ và chấp nhận đi con đường “Qua đau khổ thập giá để vào trong vinh quang phục sinh”. Người còn thể hiện tình yêu tột đỉnh khi lập phép Thánh Thể để ban Mình Máu Người làm lương thực nuôi dưỡng Đức Tin của các tín hữu, và sẵn sàng hy sinh tính mạng bằng việc chấp nhận cái chết thập giá để đền tội thay và sống lại để phục hồi sự sống muôn đời cho chúng ta.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1: + Núi Ô-liu: hay Núi Cây Dầu, nằm về phía Đông thành Giê-ru-sa-lem. Tại đây Đức Giê-su đã trải qua giờ phút hấp hối trước khi bị bắt (x. Mc 14, 26-50), và sau khi sống lại, Người đã ban huấn lệnh cuối cùng trước khi lên trời cũng tại núi này (x. Cv 1,12).
- C 2: + Một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ: Đức Giê-su dùng lừa con thay vì lừa mẹ. Lừa con chưa bị ai cỡi, nên xứng đáng được Đức Giê-su sử dụng trong nghi thức khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem để lên làm Vua. Người cưỡi lừa chứ không cưỡi ngựa để cho thấy Người là ông Vua hòa bình chứ không lên làm vua bằng sự chinh chiến.
- C 3: + “Chúa” cần đến nó: “Chúa” hay “Chúa thượng” (Ky-ri-os) và Đức Chúa (A-do-nai), là hai tước hiệu dành để kêu cầu Thiên Chúa và Đấng Thiên Sai. Khi tự gán cho mình tước hiệu “Chúa Thượng” (x. Tv 110,1-7), Đức Giê-su muốn nói với người Do Thái rằng: Tuy là “Con Đa-vít”, Người vẫn cao trọng hơn Đa-vít và có trước ông (x. Mt 22,43-45). Thánh Phao-lô cũng đã tuyên xưng: “Đức Giê-su là Chúa” (Rm 10,9). Tước hiệu “Ky-ri-os” (“Chúa Thượng”), ám chỉ quyền tối cao của Đức Ki-tô ngang hàng với Thiên Chúa (x. Pl 2,10). + Người sẽ gởi lại đây ngay”: Đức Giê-su đã liên lạc trước để mượn lừa của một người quen và cho mật khẩu cho hai bên khi trao và nhận lừa. Người cũng hứa khi dùng lừa xong sẽ mang trả lại.
- C 4-8: + Nhiều người trải áo họ xuống mặt đường... Chặt nhành lá ngoài đồng mà rải: Bên Cận Đông, dân chúng thường trải áo hay chặt cành lá trải trên đường để tỏ lòng tôn kính Đức Vua hay vị tướng chiến thắng từ mặt trận trở về (x 2V 9,13). Ở đây, dân chúng đón rước Đức Giê-su như một ông Vua Mê-si-a. Họ hy vọng Người đến để giải phóng dân tộc Do Thái khỏi ách thống trị của đế quốc Rô-ma.
- C 9-11: + Hoan hô!: hay Ho-san-na. Chữ này bắt nguồn từ chữ: Ho-si-a-nah” nghĩa là “Xin ban ơn cứu độ” (x. Tv 118,25-26). Lời tung hô: “Ho-san-na!”, nghĩa là “Hoan hô!” hay “vạn tuế!”. (Mt 21,9). + Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đa-vít tổ phụ chúng ta: Vị Vua Thiên Sai mà dân chúng đang mong chờ là con cháu thuộc hoàng tộc Đa-vít, có sứ mạng tái lập vương quyền của Đa-vít. Chính vì quan niệm sai lầm như vậy, nên không lạ gì khi mấy ngày sau, đám đông dân chúng lại vào hùa với bọn đầu mục Do Thái để đòi quan tổng trấn Phi-la-tô tha Ba-ra-ba là kẻ cầm đầu phiến quân và kết án tử hình cho Đức Giê-su, vì Người không đáp ứng tiêu chuẩn Vua cầm quân chiến đấu với người Ro-ma như ý họ muốn (x. Mc 15,9-14).
4. CÂU HỎI: 1) Trong Tin Mừng đọc trước khi rước lá, Đức Giê-su đã làm gì để cho thấy Người là Đấng Thiên Sai, nhưng là vị vua mục tử hiền lành? Còn dân Do thái lại đang trông mong một Vua Thiên Sai như thế nào? 2) Bài Thương Khó trong Thánh Lễ chứng minh Đức Giê-su chính là Ngươi Tôi Tớ Đau Khổ Của Đức Chúa qua những sự kiện gì? 3) Tại sao Đức Giê-su lại cưỡi lừa con thay vì lừa mẹ khi khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem? 4) Khi dùng lừa khải hoàn vào thành, Đức Giê-su đã thực hiện lời tuyên sấm của vị Ngôn Sứ nào? 5) Khi tự xưng là “Chúa” trong câu nói “Thì cứ nói là Chúa cần đến nó”, Đức Giê-su muốn ám chỉ điều gì về thân thế của Người? 6) Qua sự kiện hai môn đệ thấy mọi việc xảy ra đúng như lời Đức Giê-su đã nói trước cho thấy Người là ai? 7) Khi trải áo choàng xuống mặt đường để đón rước Đức Giê-su, dân chúng thể hiện lòng tin thế nào về Người? 8) Hô-san-na nghĩa là gì? 9) Tại sao dân chúng mới hoan hô Đức Giê-su bằng câu “chúc tụng triều đại vua Đa-vít”vào Chủ Nhật Lễ Lá, mà đến sáng Thứ Sáu lại đòi Phi-la-tô đóng đanh Người vào thập giá? II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: “Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đa-vít tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời !”(Mc 11,9).
2. CÂU CHUYỆN: CHẤP NHẬN HY SINH VÌ DANH ĐỨC GIÊ-SU.
Linh mục G. Par-ker, quản nhiệm giáo xứ thánh Giu-se giáo phận Nor-wich ở Con-nec-ti-cut Hoa Kỳ, đã trả lại số tiền 5.000 đô-la do nghị sĩ Chris-to-pher J.Dodd đã giúp đỡ trường học của giáo xứ, để phản đối vị nghị sĩ Công giáo này, đã bỏ phiếu ủng hộ các dự luật về phá thai. Cha Par-ker đã gọi số tiền Dodd ủng hộ ngôi trường của giáo xứ là "tiền vấy máu các thai nhi vô tội" và không ngần ngại gọi ông nghị sĩ này là "Môn đồ của Tử Thần". Việc làm của cha khiến nhiều người cảm kích, dân chúng khắp nơi khi nghe biết đã gởi về giúp đỡ cho trường học của giáo xứ số tiền lên tới 61.000 đôla. Nhiều tổ chức bênh vực sự sống và nhiều cơ quan truyền thông cũng bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với ngài.
3. THẢO LUẬN: 1) Bạn đánh giá thế nào về hành động của linh mục Par-ker trong câu chuyện trên? 2) Trong ngày Lễ Lá hôm nay, Đức Giê-su đã khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem như một ông vua thế nào? 3) Để góp phần kiến tạo Vương Quốc Yêu thương hạnh phúc, chúng ta phải làm gì cụ thể để đẩy lùi giặc nghèo đói, lạc hậu, bất công, dối trá, vô cảm, bất nhân... Cụ thể là xua trừ các tệ nạn sì-ke ma túy, cờ bạc, rượu chè, đĩ điếm, cướp giật... ra khỏi môi trường ta đang sống?
4. SUY NIỆM:
Phụng vụ Chúa nhật Lễ Lá hôm nay là sự khởi đầu của Tuần Thánh. Sau khi diễn lại việc Đức Giê-su khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem, chúng ta sẽ cùng bước theo Đức Giê-su trong cuộc Thương Khó của Người tại thành Giê-ru-sa-lem:
1) ĐỨC GIÊ-SU KHẢI HOÀN VÀO THÀNH NHƯ MỘT VỊ VUA THIÊN SAI:
Qua việc khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đã thực hiện lời tiên báo của ngôn sứ Gia-ca-ri-a về Đấng Mê-si-a cỡi lừa tiến vào Giê-ru-sa-lem. Điều này cho thấy Người chính là Đấng Mê-si-a Thiên Sai được các ngôn sứ tiên báo sẽ đến. Vào thời bấy giờ, nhiều người Do Thái đang trông mong Đấng Thiên Sai đến thiết lập một Vương Quốc giống như thời vua Đa-vít và Sa-lô-môn thời xưa, bằng việc lãnh đạo dân Do Thái đứng lên đánh đuổi quân Rô-ma ngoại xâm ra khỏi bờ cõi đất nước. Nhưng khi khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem trên lừa con thay vì trên mình ngựa chiến, Đức Giê-su lại cho thấy Người là Vua Mê-si-a hòa bình, đến để thiết lập một Vương Quốc Yêu Thương Hạnh Phúc.
2) ĐẶC ĐIỂM CỦA VUA THIÊN SAI GIÊ-SU:
- Là Người Tôi Tớ Đau Khổ của Thiên Chúa: Người đến như một Tôi Tớ khiêm hạ sẵn sàng gánh lấy bệnh tật tội lỗi của loài người, cam chịu nhục hình đau khổ để đền tội cho loài người như ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm (x. Is 53,2-12). Đức Giê-su chấp nhận con đường “Qua đau khổ thập giá để vào trong vinh quang phục sinh” (x. Lc 24,26).
- Là Vua Mục Tử Tốt Lành: Người không đòi được hầu hạ, nhưng để phục vụ chăn dắt và sẵn sàng thí mạng để bảo vệ đàn chiên (x. Mt 20,28), cụ thể qua việc Người quỳ gối rửa chân cho môn đồ và sẵn sàng chịu chết để chiên được sống đời đời (x. Ga 10,11).
- Là Vua xây dựng Hòa Bình: Khi khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su ngồi trên con lừa biểu tượng hòa bình, thay vì ngồi trên ngựa chiến (x. Mc 11,7-10). Điều đó cho thấy sứ mạng của Người không phải để chinh chiến giải phóng về mặt chính trị như các đầu mục dân Do Thái trông mong, nhưng để thiết lập một Vương Quốc Hòa Bình, trong đó mọi người yêu thương nhẫn nhịn tha thứ cho nhau và giúp nhau ngày càng nên hoàn thiện.
- Là Vua Tình Yêu: Người đến để thiết lập một Vương Quốc Tin Yêu, trong đó mọi người đều là con của một Cha Chung là Thiên Chúa, đều là môn đệ của một Tôn Sư tối cao, đều đi theo một Thủ Lãnh duy nhất trên đường về nhà Cha là Đạo Công Giáo (x. Mt 23,8-10). Người còn thể hiện tình yêu tột đỉnh khi lập phép Thánh Thể để ban Mình Máu Người làm lương thực nuôi dưỡng đức tin của các tín hữu, và sẵn sàng hy sinh tính mạng, chịu chết đau thương trên cây thập giá để đền tội thay và sống lại để phục hồi sự sống đời đời cho những ai tin vào Người.
- Là Vua đến cho chiên được sống dồi dào: Để kiến tạo Nước Trời hay Nước Thiên Chúa, Đức Giê-su đã đề ra một bản Hiến Chương gọi là Tám Mối Phúc, để mời gọi mọi người gia nhập vào Nước ấy (Mt 5,1-12). Để được gia nhập Nước Trời là Hội Thánh hôm nay và Thiên Đàng mai sau, chúng ta cần sống tinh thần Tám Mối Phúc Thật như sau: Có tinh thần nghèo khó, hiền lành, bị đau buồn khóc lóc, khao khát nhân đức trọn lành, biết thương xót người khác, có lòng trong sạch, sẵn sàng chịu bách hại vì đức tin.
- Là Vua Thẩm Phán xét xử công minh: Đức Giê-su nêu gương tin yêu Chúa Cha và dạy các môn đệ thực thi tình yêu cụ thể đối với tha nhân. Đến ngày tận thế, Người sẽ tái lâm để làm Vua Thẩm Phán xét xử mọi người tùy theo các việc chia sẻ bác ái cụ thể họ đã làm hay không làm đối với những người nghèo đói, bệnh tật và bị bỏ rơi… là hiện thân của Người (x. Mt 25,34-40).
3) CON ĐƯỜNG THƯƠNG KHÓ CỦA VUA GIÊ-SU:
Chỉ có một con đường duy nhất đưa chúng ta lên trời là đường Giê-su như Người đã khẳng định: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Con đường của Đức Giê-su chọn theo thánh ý Thiên Chúa là đường hẹp, leo dốc và ít người muốn đi, là Đường Thánh Giá như lời Chúa Giê-su phán: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sống lại” (Mc 8,31).
Đức Giê-su đã chấp nhận đau khổ để cho nhân loại được hạnh phúc, chấp nhận chịu chết để mọi người chúng ta được sống đời đời. Vì thế, đối với Đức Giê-su: đau khổ và chết cho người mình yêu là cách tuyệt hảo nhất để biểu lộ tình yêu tột đỉnh: «Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình» (Ga 15,13). Thiết tưởng người Ki-tô hữu cần sử dụng thường xuyên cách biểu lộ tình yêu tuyệt hảo này trong cuộc sống đời thường của mình như lời Chúa dạy: «Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 15,12). Yêu thương trước hết là yêu người thân của mình như cha mẹ, vợ con, anh chị em, bạn bè… Tiếp đến yêu thương hết mọi người, kể cả những kẻ thù ghét bách hại chúng ta (x. Mt 5,44). Yêu thương cụ thể là năng nghĩ đến người yêu và làm vui lòng họ, sẵn sàng chia sẻ những gì mình có, hy sinh chịu thiệt cho người yêu được hạnh phúc…
4) TÍCH CỰC GÓP PHẦN XÂY DỰNG VƯƠNG QUỐC TIN YÊU HẠNH PHÚC:
Mỗi tín hữu chúng ta cần tích cực xây dựng Nước Trời là Hội Thánh ở trần gian bằng việc năng tham dự các nghi lễ phụng vụ, các cuộc ngắm nguyện, đi đàng thánh giá chung cộng đoàn… Tiếp đến, chúng ta cần xây dựng Vương Quốc yêu thương của Chúa bằng việc sống Tám Mối Phúc, nhất là thực hành bác ái yêu thương cụ thể là phục vụ Đức Giê-su bị bỏ rơi trên cây thập giá, hiện thân qua những người nghèo đói, bệnh tật và bị bỏ rơi. Đây là điều kiện để trong ngày tận thế Vua Thẩm Phán Giê-su sẽ đón nhận chúng ta vào Vương Quốc Thiên Đàng đời sau.
Để nên giống Đức Giê-su, mỗi ngày mỗi người chúng ta cần động viên nhau chiến đấu với ba thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt mình. Cụ thể là chiến đấu chống lại các sự gian ác, nghèo đói, bất công và thù hận trong xã hội; Tránh kết án và loại trừ lẫn nhau, nhưng sẵn sàng tha thứ những xúc phạm của tha nhân và an ủi những người đau khổ bất hạnh để làm chứng cho Đức Giê-su, hầu Vương Quốc Hội Thánh ngày một lan rộng đến tận cùng thế giới như lời Chúa dạy.
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Trong ngày Lễ Lá hôm nay, Chúa đã chọn ngồi trên lưng lừa thay vì trên mình ngựa chiến để khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem. Qua đó Chúa muốn biểu lộ sứ mạng của Chúa là đến thiết lập một Triều Đại Thiên Sai hòa bình. Chúa đến không phải để thống trị, nhưng để phục vụ; để ban bình an và chia sẻ vui buồn với loài người chúng con. Xin cho chúng con luôn biết quên mình để nghĩ đến người khác, biết cư xử bao dung hiền hòa với tha nhân, cho chúng con biết nhẫn nhịn chịu đựng tha nhân và tha thứ vô điều kiện cho những xúc phạm của kẻ khác đối với chúng con... để chúng con xứng đáng là con ngoan của Chúa Cha, nên môn đệ đích thực của Chúa và nên anh chị em của mọi người trong Vương Quốc Hòa Bình của Chúa.
Hôm nay bắt đầu tuần thánh, một tuần lễ trọng đại nhất trong năm phụng vụ và Chúa nhật lễ Lá là Chúa nhật khởi đầu cho cuộc thương khó của Chúa. Chúng ta cùng nhau chia sẻ ba điểm.
Điểm thứ nhất đó là tại sao Chúa lại phải chịu đau khổ như thế? Tôi xin thưa đó là vì quyền lực của Satan. Chúng ta có thể nói cuộc tử nạn chính là cuộc đối đầu giữa Chúa Giêsu và Satan, giữa sự thiện và sự ác. Hẳn chúng ta còn nhớ: Khi Chúa Giêsu bị ma quỷ cám dỗ trong hoang địa, thánh Luca đã kết thúc biến cố ấy bằng câu: Ma quỷ rút lui để chờ dịp khác. Thì nay dịp khác ấy đã đến. Ma quỷ chiếm hữu cõi lòng Giuđa, tên phản bội. Ma quỷ sàng gạn Phêrô và các môn đệ như sàng gạo. Và cuộc hấp hối trong vườn Cây Dầu được mô tả như là giờ của quyền lực tối tăm đã đến.
Điểm thứ hai, đó là Chúa Giêsu dùng thứ khí giới nào để chiến thắng? Thánh Luca cho chúng ta thấy Chúa Giêsu đã dùng hai thứ khí giới quen thuộc. Trước hết là sự cầu nguyện. Người sấp mình xuống đất cầu nguyện và mô hôi chảy ra hoà lẫn với máu. Tiếp đến là lòng nhân từ tha thứ. Người niềm nở đón chào tên phản bội. Người chữa lành đứa đầy tớ bị Phêrô chém đứt tai, Người quay lại nhìn Phêrô vừa mới chối Người ba lần. Người an ủi những phụ nữ đang than khóc, Người tha thứ cho những kẻ đóng đinh Ngài vào thập giá, Người hứa ban nước thiên đàng cho người kẻ trộm. Và lời cuối cùng là một lời phó thác: Lạy Cha, con xin phó hồn con ở trong tay Cha.
Điểm thứ ba đó là sự vô tội của Chúa Giêsu. Thực vậy, Philatô đã tuyên bố: Ta không thấy người này có tội gì. Hêrôđê cũng nhận thấy như vậy, nên đã truyền đem trả Ngài lại cho Philatô. Các phụ nữ Giêrusalem cũng không cầm được nước mắt. Còn người trộm lành thì xác quyết: Người này có làm điều gì trái đâu. Và sau khi Chúa đã chết, viên đội trưởng Lamã cũng kêu lên: Người này là người công chính. Còn dân chúng vừa ra về vừa đấm ngực ăn năn vì đã đổ máu người vô tội. Phải, Người là con chiên vô tội đã gánh lấy tội thế gian cũng như tội của mỗi người chúng ta. Vì vậy thánh Alphongsô đã nói: Tuần thánh là tuần của tình yêu, chúng ta hãy đem hết tình yêu để sống những ngày trọng đại này. Hãy trở về cùng Chúa vì Người đang chờ đợi ta và tha thứ cho ta.
Tại một ngôi thánh đường ở bên Đức, người ta còn thấy một pho tượng thánh giá cuộc tội đặc biệt. Chúa bị treo trên thập giá nhưng một tay thì bị đóng đinh còn một tay thì thòng xuống. Số là trước đây có một tội nhân đã hết lòng sám hối quỳ trước pho tượng này. Ông ăn năn nhưng không biết Chúa có tha thứ cho hay không. Thì bỗng nhiên một cánh tay Chúa rút ra khỏi lỗ đinh và ôm chầm lấy cổ ông trong bộ điệu yêu thương và tha thứ. Cánh tay ấy vẫn còn như vậy cho đến hôm nay. Hãy đến với Chúa trong tuần thánh này vì Ngài đang chờ đợi để tha thứ.
Tuần Thánh, Giáo Hội cho con cái mình được dịp dự những ngày cuối cùng trong sứ vụ cứu thế của Chúa Giêsu ở trần gian. Phụng vụ Chúa Nhật Lễ Lá được mở đầu bằng nghi thức làm phép lá và rước lá. Trong nghi thức này, cộng đoàn dân Chúa được nghe đọc bài Tin Mừng tường thuật lại việc Chúa Giêsu long trọng vào thành Giêrusalem với tư cách của Đấng Mêsia. Hình ảnh Chúa Giêsu cưỡi trên lưng lừa khiến người ta nhớ lại lời sấm ngôn nói về Đấng Mêsia được ghi lại trong sách ngôn sứ Dacaria: "Này thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỉ. Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò, vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi. Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa vẫn còn theo mẹ".
Hình ảnh dân chúng reo hò tung hô Chúa Giêsu cũng gợi nhớ đến cuộc lễ đăng quang của vua Salomon được ghi lại trong sách các vua quyển thứ nhất: "Hãy đưa các bề tôi của Chúa Thượng đi theo các ngươi để Salomon, con ta, cỡi con la cái của ta rồi đưa nó xuống Ghikhô, ở đấy tư tế Sađốc và ngôn sứ Natan sẽ xức dầu phong nó làm vua Israel. Các ngài sẽ rúc tù và và tung hôn vua Salomon muôn năm".
Qua việc công khai vào thành một cách long trọng như thế, Chúa Giêsu khẳng định Người là Đấng Mêsia và là vua của dân Israel. Tuy nhiên, Người không xây dựng vương quốc bằng cách đánh nam dẹp bắc hay bằng cách phát triển các sức mạnh kinh tế, mà bằng cách thi hành thánh ý Thiên Chúa Cha trong vai trò người tôi tớ trung thành đã được ngôn sứ Isaia mô tả trong bốn bài ca của ông. Cuộc khải hoàn vào thành Giêrusalem này chỉ là bước khởi đầu cho cuộc thương khó mà Chúa Giêsu phải trải qua để chiến thắng sự dữ và sự chết, mở ra cho loài người lối đi đến cõi phúc bất diệt bên Thiên Chúa.
Phụng vụ thánh lễ dẫn chúng ta vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu bằng cách cho chúng ta nghe đọc bài ca thứ ba của ngôn sứ Isaia viết về những nỗi khổ đau mà người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa phải gánh chịu: "Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu, tôi không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ". Kế đó là bài trích thư thánh Phaolô tông đồ gởi tín hữu Philipphê nói về sự từ bỏ mình và cái chết tủi nhục mà Chúa Giêsu sẽ đón nhận để mang lại ơn cứu độ cho thế gian. Chúa Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập tự.
Cao điểm của phần phụng vụ Lời Chúa là bài Thương Khó Chúa Giêsu. Qua bài Tin Mừng này, Giáo Hội mời gọi chúng ta thông dự vào những giờ phút linh thiêng cuối cùng trong sứ vụ cứu thế của Chúa Giêsu. Chúng ta không nghe đọc bài Thương Khó nhưng nghe một câu chuyện bi hùng xảy ra trong lịch sử. Chúng ta nghe và đồng thời chúng ta cũng hòa mình vào cuộc Thương Khó ấy; chúng ta có mặt bên cạnh Chúa Giêsu trong mọi diễn tiến đau thương đang xảy ra. Lịch sử cứu độ trải dài đến chúng ta và chúng ta đón nhận lịch sử cứu độ ấy ngay tại đây và ngay lúc này. Chúng ta không làm người chứng kiến lịch sử cứu độ nhưng chúng ta làm người sống và lãnh nhận hiệu quả của ơn cứu độ.
Con đường cứu thế mà Chúa Giêsu đi qua là một con đường dài khởi sự từ biến cố nhập thể, ấp ủ và hình thành trong ba mươi năm sống ẩn dật, thực hiện từng bước trong ba năm ra đi rao giảng, tiến đến cao điểm trong tuần khổ nạn, hoàn tất bằng cái chết khổ nhục và việc sống lại hiển vinh. Đó là một con đường hẹp và đầy gian nan. Con đường này không dành cho những ai lười biếng hoặc nhát đảm nhưng dành cho những ai chuyên chăm và trung thành.
Hàng năm, Giáo Hội tạo cơ hội cho chúng ta sống bốn mươi ngày của mùa Chay để giúp chúng ta vượt qua những ươn lười và hèn yếu của mình, nhờ chuyên tâm cầu nguyện, chúng ta có dịp rà soát lại con người mình, nhận ra những lỗi phạm và những thiếu sót của mình để sửa đổi và bổ khuyết. Chúng ta cũng có dịp xem lại những tương quan của mình với Thiên Chúa, với tha nhân và với chính bản thân chúng ta. Chúng ta thấy được mình đã xây dựng các mối tương quan đó như thế nào, chặt chẽ hay lơ là, chân tình hay giả dối, cẩn trọng hay tắc trách. Nhờ thực hành những việc hy sinh hãm mình, chúng ta tập tự chủ, tập chiến thắng thói quen nuông chiều bản thân, tập chế ngự các thói hư tật xấu của mình.
Chúng ta cũng có dịp thông cảm với những yếu đuối của người khác, tập bao dung tha thứ cho những lầm lỗi mà người khác lỗi phạm đến chúng ta, tập nâng đỡ người khác vượt qua những thói hư tật xấu của họ, nhờ rộng tay giúp đỡ những người nghèo khổ về mặt vật chất hoặc tinh thần, chúng ta nhận ra rằng mình cũng là một người nghèo khổ cần được Thiên Chúa và anh chị em ra tay giúp đỡ. Chúng ta cũng có dịp để nhận ra giá trị đích thực của những người khác dù họ là những người cần đến sự trợ giúp của chúng ta. Chúng ta học được giá trị của sự chia sẻ qua lại. Chúng ta cung cấp cho người khác những cái chúng ta có và nhận lại từ họ những cái chúng ta còn thiếu. Bốn mươi ngày tập luyện đã qua đi, nhưng chặng đường trước mắt chúng ta vẫn còn dài. Hết bốn mươi ngày mùa Chay, không có nghĩa là chúng ta có quyền nghỉ ngơi thoải mái để bù lại những ngày gian khổ hy sinh. Cuộc chiến đấu để thắng vượt bản thân và sự dữ vẫn kéo dài đến giây phúc cuối cùng của cuộc đời mỗi người chúng ta.
Tuần thánh mà chúng ta sắp bước vào nói lên tính cách quyết liệt của cuộc chiến này. Chúng ta bước vào Tuần Thánh vì chúng ta đã tập tành được trong bốn mươi ngày mùa Chay. Hãy theo Chúa Giêsu để Người tiếp tục dạy ta biết sống thế nào cho phù hợp với Thánh Ý Chúa Cha. Hãy theo Chúa Giêsu để Người dạy ta cách từ bỏ bản thân. Chết đi trong tinh thần vâng phục và sống lại nhờ tín thác hoàn toàn vào quyền năng của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con hăng hái bước vào Tuần Thánh, không phải chỉ bằng việc tham dự đầy đủ các lễ nghi, nhưng còn bằng việc thông dự thật sự vào những khổ đau của Chúa, để con học được bài học yêu thương và vâng phục mà đem ra thực hành suốt cả đời con, xin cho con đừng ngơi nghỉ bao lâu còn đóng đinh với Chúa trên thập giá.
Sau ba năm Đức Giêsu rao giảng, không ít người đã tin vào Ngài; tuy nhiên niềm tin vào Đức Giêsu của những người này tối đa cũng tương tự như niềm tin của các tông đồ khi Đức Giêsu còn sống đời dương thế. Họ cho rằng Đức Giêsu là một vị thầy, hơn nữa có thể là một tiên tri, và cao nhất có thể là Đấng Kitô Vua (Ga.6, 15; Mc.8, 29; 11, 9-10). Vào thời điểm đó, người ta không thể biết khác hơn được. Còn đối với những người không tin Đức Giêsu, những kẻ khó chịu hoặc bực tức vì Ngài trổi trang hơn họ, Đức Giêsu đơn thuần chỉ là một con người bình thường như bao người. Những người này không chỉ bất đồng ý kiến với Đức Giêsu, không chỉ khó chịu và bực tức mà còn muốn giết Đức Giêsu nữa (Mc.3, 6).
Vào thời cuối của ba năm rao giảng, Đức Giêsu đã nhiều lần nói những điều có thể làm cho Ngài phải bị ném đá. Chẳng hạn Ngài nói Ngài có quyền tha tội (Mc.2, 5.7), Ngài có trước Abraham (Ga.8, 57-58), Ngài và Thiên Chúa là một (Ga.10, 30). Vào cuối đời, Ngài có những câu nói “gây mất lòng” nhiều người. Càng vào cuối đời, càng có ít người theo Ngài, vì những lời khó có thể hiểu và chấp nhận được, chẳng hạn: “chính tôi là bánh hằng sống. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” (Ga.6. 35). Những lời nói tương tự không chỉ làm Đức Giêsu “mất người” mà còn gây thêm có nhiều người thù địch với Ngài, thậm chí còn làm cho những người muốn giết Ngài có đủ bằng cớ và hậu thuẫn. Chẳng hạn, Ngài nhận mình là Thiên Chúa: “chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp nhưng vì một lời phạm thượng: ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa” (Ga.10, 33).
Gần lễ Vượt Qua, âm mưu giết Đức Giêsu trở nên rõ ràng nên Ngài lui về Galilê. Vì thế, thời điểm Lazarô chết không có mặt Đức Giêsu tại đó. Sau đó khi Ngài muốn lên Giêrusalem thì các tông đồ đã ngăn cản. Tông đồ Thomas đã động viên các bạn: “nào chúng ta cùng lên Yerusalem để cùng chết với thầy” (Ga.11, 16). Đức Giêsu cũng biết Ngài sẽ bị giết nếu Ngài lên Giêrusalem vào thời điểm này, tuy nhiên Ngài vẫn cứ lên. Ngài không muốn trốn chạy cái chết. Ngài đã phải chọn lựa giữa sống và chết một cách cụ thể qua việc có lên Giêrusalem dịp lễ Vượt Qua này hay không. Cuối cùng Ngài đã chọn lên Giêrusalem cho dù cái chết đang chờ đón Ngài.
Ở Giêrusalem, Ngài vẫn làm điều Ngài vẫn thường làm: “ban ngày Ngài giảng dạy trong đền thờ, còn ban đêm Ngài và các tông đồ ra vườn dầu để ngủ” (Lc.21, 37). Hôm nay Ngài vào Giêrusalem và được dân chúng đón rước như vị Thiên Sai. Ngài chấp nhận biến cố này vì biết thời điểm đặc biệt của Ngài đã đến: thời điểm Ngài được tôn vinh cũng là thời điểm Ngài chết trên thập giá. Cái chết của Ngài có thể được thấy trước vì nó cũng theo quy luật của xã hội: người ta ghét Ngài đến độ muốn giết Ngài (Mc.14, 1).
Lúc khởi đầu người ta muốn giết Ngài vì Ngài đã dám suy nghĩ và nói ngược lại những người có thế lực (Mc.3, 6; 14, 1; 14, 53-59); nhưng khi vị thượng tế hỏi Đức Giêsu và Đức Giêsu trả lời: “rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và đến trên mây trời” thì họ không cần phải sắp đặt chứng cớ để giết Đức Giêsu như trước nữa, vì Đức Giêsu đã phạm một tội vô cùng lớn mà mọi người Do Thái một khi biết đều phải xử tử Đức Giêsu, vì là người mà dám cho mình ngang hàng với Thiên Chúa (Mc.14, 62-64). Đức Giêsu đầu tiên bị người ta ghen ghét mà muốn giết, rồi khi đã bị bắt và xét xử với chứng cớ được xếp đặt trước, Ngài lại nói Ngài ngang hàng với Thiên Chúa; như vậy trước công nghị Do Thái, Đức Giêsu bị kết án tử hình vì tội tôn giáo: lộng ngôn xúc phạm đến Thiên Chúa. Trên thập giá Đức Giêsu nói: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết” (Lc.23, 34); thật vậy, không biết nguồn gốc thần linh của Đức Giêsu, thì kết án Ngài là chuyện tất nhiên.
Để giết được Đức Giêsu một cách hợp pháp, người Do Thái phải đem Đức Giêsu sang tòa Roma. Vào thời người Do Thái bị đô hộ, quyền xử tử thuộc về thẩm quyền người Roma. Đức Giêsu đã bị gán cho tội chính trị “xưng vương”. Nếu không gán cho Đức Giêsu tội chính trị thì Philatô đã không kết án tử hình Đức Giêsu. Philatô biết Đức Giêsu bị oan, nhưng vì sợ mất chức nên đã kết án Ngài. Nếu không kết án Đức Giêsu, Philatô có thể bị người Do Thái tố cáo với hoàng đế Roma vì đã buông tha người xưng vua phất cờ khởi nghĩa. Nếu vậy, Philatô phải giải thích, phải biện luận, và sẽ gặp nhiều phiền phức, và hậu quả sẽ là không được hoàng đế tin tưởng nữa, vì vậy Philatô đã kết án tử hình Đức Giêsu thuận theo ý của người Do Thái.
Nếu Đức Giêsu chỉ là một con người, Đức Giêsu xứng đáng lãnh án tử. Thực vậy, khi Đức Giêsu còn sống, nào ai biết Đức Giêsu là người có nguồn gốc thần linh, vì đâu là chứng cớ để người ta có thể tin như vậy! Chỉ khi Đức Giêsu chết và sống lại, người ta mới nhận ra những gì Đức Giêsu nói và cho mình là, là chân thực. Như vậy, chỉ sau biến cố Đức Giêsu Phục Sinh, các tông đồ mới biết chân tướng của Đức Giêsu. Nếu Đức Giêsu là kẻ lộng ngôn phạm thượng, thì Thiên Chúa đã chẳng phục sinh Ngài, còn nếu Ngài đã sống lại, nghĩa là những điều Ngài đã nói là đúng, là chân lý. Nghĩa là, Ngài và Thiên Chúa là một, Ngài ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài có trước Abraham.
Khi còn sống đời dương thế, Đức Giêsu khó có thể thoát chết, vì chân tướng của Ngài chỉ có thể được thấy rõ sau khi Ngài sống lại. Đức Giêsu bị hiểu lầm mà bị kết án tử hình, vì không ai biết Thiên Chúa là Ba Ngôi Vị, vì không ai có thể tưởng rằng Thiên Chúa có thể nhập thể làm người. Sau khi Ngài sống lại, với ơn của Thánh Thần, các tông đồ nhận ra ý nghĩa của những lời Ngài đã nói mà khi Ngài còn đang sống các ông chẳng hiểu gì. Ngài là Đấng có nguồn gốc thần linh, Ngài ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài và Cha là một, Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn tại sao người ta giết Đức Giêsu? 2. Có cách nào giúp Đức Giêsu thoát chết không? Tại sao Đức Giêsu không dùng nó?
Phụng vụ Chúa nhật này gồm hai phần thật là khác biệt: trước tiên, là phúc lành, sắp đặt và rước Lá tưởng nhớ lại cuộc khải hoàn của Chúa Giêsu Kitô tiến vào thành Giê-ru-sa-lem và thực hiện lời tiên tri của Dacaria: "Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ."(x. Dc 9, 9). Sau đó, Phụng Vụ của Giáo Hội cử hành Hy Tế Thánh Lễ, với bài đọc Tin Mừng thật dài về cuộc Khổ Nạn của Chúa chúng ta (có nhiều nơi hát) dẫn chúng ta bước ngày vào Tuần Thánh, tuần lễ thiêng liêng nhất của Năm Phụng vụ. Sau khi chúng ta tung hô Chúa Giêsu là Vua, Giáo hội mời gọi chúng ta đồng hành với Chúa Cứu Thế trong sự thống khổ, lo sợ, đau thương suốt Tuần Thánh mà Ngài muốn hoàn tất trong việc cứu chuộc chúng ta.
Sau khi đọc tường trình đầy đủ về sự Thương Khó của Đức Giêsu Kitô Chúa theo Thánh Luca. Chúng ta hãy đặt câu: Một con người như vậy sao lại kết thúc trên Thánh giá? Những kẻ chịu trách nhiệm về sự chết của Chúa Giêsu dựa trên những lý do gì?
Phaolô trong những lá thư đầu của ngài, viết vào khoảng năm 50, cung cấp cơ bản cũng một tường thuật về án tử của Chúa Kitô y như trong các sách Tin Mừng. Ngài nói "những người Do thái đã giết Chúa Giêsu" (1 Tx 2:15). Về những biến cố xảy ra tại Giêrusalem không bao lâu trước lúc ngài đến, chắc chắn Phaolô biết rõ hơn chúng ta là những người đương thời, đã một thời gian kiên trì phê chuẩn và bênh vực án tử của người Nagiaret.
Không thể đọc những tường thuật về sự Thương Khó mà không biết mọi sự xảy ra trước. Nếu đọc Bốn sách Tin Mừng, chúng ta có thể nói trong mỗi trang thể hiện rõ ràng sự khác biệt tôn giáo ngày càng lớn giữa Chúa Giêsu và một nhóm quyền thế người Dothái (Biệt Phái, Tiến Sĩ Luật, Kinh Sư) về sự giữ ngày sa bát, thái độ đối với những kẻ tội lỗi và những người thu thuế, và về sự trong sạch và sự không trong sạch.
Tin Mừng Gioan từ cuối chương 4 cho đến chương 13 được đọc trong tuần thứ IV và thứ V Mùa Chay cho chúng ta thấy rõ sự tương phản này. Vậy làm sao người ta có thể nghĩ rằng sự tương phản này cuối cùng không đóng một vai trò nào, và nghĩ rằng những người lãnh đạo Do thái đã quyết định tố cáo Chúa Giêsu cho Philatô-hầu như trái với ý muốn của họ, chỉ vì sợ một sự can thiệp quân sự của người Roma?
Philatô không phải là một người quan tâm với sự công chính đến nỗi âu lo về số phận của một người Do thái không tên tuổi; ông ta là một mẫu người cứng cỏi, độc ác, sẵn sàng đổ máu nếu có một dấu vết rất nhỏ nổi loạn (Lc 13, 1-9). Tất cả sự này là hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, ông không ra sức cứu sống Chúa Giêsu vì thương cảm nạn nhân, nhưng chỉ để ghi một điểm thắng chống lại những kẻ tố cáo Chúa Giêsu, với họ ông đã đã có xung đột từ ngày tới đất Giuđêa. Dĩ nhiên, sự này không giảm bớt trách nhiệm của Pilatô trong việc lên án Chúa Kitô, một trách nhiệm ông đã chia sẻ với những nhà lãnh đạo Do thái.
Từ những tường thuật về sự chết của Chúa Giêsu hiện diện trong Talmud và trong những tài liệu Do thái khác (tuy muộn hơn và mâu thuẩn về mặt lịch sử), một sự nổi lên: truyền thống Do thái không bao giờ từ chối sự tham gia của các nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó trong việc lên án Chúa Kitô. Họ không bênh vực mình bằng sự chối bỏ hành động, nhưng, nếu có hành động nào, họ đã chối rằng hành động đó, từ viễn ảnh Dothái, làm thành một tội ác và án tử Chúa Kitô là một án bất công.
Như vậy, đối với câu hỏi, "tại sao Chúa Giêsu bị kết án tử? " sau tất cả những nghiên cứu và những sự lựa chọn giữa hai sự được đề nghị, chúng ta phải đưa ra cũng một câu trả lời như trong các Tin Mừng là Người bị kết án vì những lý do tôn giáo. Như vậy kết luận chúng ta phải rút từ những nhận xét lịch sử này, là các thẩm quyền tôn giáo và các thẩm quyền chính trị, các thũ lãnh Công Nghị và quan tổng trấn Roma, cả hai đã tham gia, vì những lý do khác nhau, trong sự xử án Chúa Kitô.
Chúng ta hãy gạt ra một bên bây giờ những vấn đề lịch sử, và hãy dành một lúc để chiêm ngưỡng Người. Giáo hội muốn mỗi người chúng ta phải nói thêm cho việc này là lịch sử không nói tất cả mọi sự và không nói cả sự cần thiết trọng yếu này. Bằng đức tin, Giáo hội muốn cho chúng ta biết rằng tất cả chúng ta có trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu. Chúa đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Thánh Kinh: "Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ Trời xuống thế...Người chịu đóng đanh vào Thập giá vì chúng tôi" (Kinh Tin Kính). Tất cả chúng ta đã phạm tội, nên Chúa phải chết, trách nhiệm thuộc về chúng ta.
Chúa Giêsu đã làm sao trong sự Thương Khó? Phẩm giá siêu nhân, sự kiên nhẫn vô cùng. Không một cử chỉ hay lời nói chối bỏ điều Người đã rao giảng trong Tin Mừng của Người, cách riêng các mối phúc. Và không có gì nơi Người giống sự khinh bỉ sự đau khổ đầy kiêu căng của người khắc kỷ.
Trước đau khổ và độc ác, Người run và đổ mồ hôi máu tại Giệtsêmanim, người kêu lên nỗi đau buồn của Người trên thánh giá:" Lạy Chúa con, Lạy Chúa con, nhân sao Chúa bỏ con?"
Người chết đương khi xin sự tha thứ cho những kẻ đã đóng đinh Người. Ngài đã thinh lặng, một sự thinh lằng siêu phàm: "Đức Chúa Giêsu vẫn làm thinh" (Mt 26:63). Người làm thinh trước Caipha, Người làm thinh trước quan Philatô, Người làm thinh trước vua Hêrôđê, kẻ hy vọng thấy Người làm một phép lạ (x. Lời Chúa 23:8). Bị nguyền rủa Người không nguyền rủa lại." Thơ Thứ Nhất của Phêrô nói về Người (2:23)
Sự thinh lặng chỉ bị phá vỡ một lúc trước khi sự chết "tiếng kêu lớn" từ trênThánh giá sau đó Chúa Giêsu tắt thở. Điều này làm cho viên đại đội trưởng Roma thú nhận: "Thật người này là Con Thiên Chúa."
Ước gì khi suy niệm về cái chết của Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta thêm lòng tin vào Chúa, yêu mến Chúa cách mãnh liệt hơn, và đặt tất cả lòng cậy trông vào Chúa. Chúng ta tin Chúa Giêsu đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết.
Vừa tảng sáng, hội đồng các niên trưởng trong dân nhóm họp cùng với các thượng tế và luật sĩ. Họ cho điệu Đức Giêsu đến để tra vấn… Mọi người cùng hỏi: “Ông là Con Thiên Chúa ư?” Ngài đáp: “Các ông nói đúng, Ta là Con Thiên Chúa.” Nghe thế, nộ khí bừng lên, họ đồng thanh la lớn: “Chúng ta còn cần chứng cớ chi nữa? Vì chính chúng ta đã nghe từ miệng hắn.” Đoạn tất cả bọn họ chỗi dậy và giải Ngài đến Philatô (Lc 22:66-23:1).
Các thượng tế và luật sĩ phải đưa Đức Giêsu đến Philatô bởi vì lúc bấy giờ người Do thái không có quyền lên án tử cho bất cứ ai nếu như không được chính quyền Rôma chuẩn y. Nhưng sau khi hè nhau kéo Chúa đến trước mặt quan tổng trấn, họ lại không dám tố Ngài tội lộng ngôn, vì biết như thế sẽ thất bại chua cay. Philatô sẽ cho là chuyện mê tín tôn giáo, không thuộc phạm vi xét xử của ông ta. Thế nên, để có sức thuyết phục, họ không chơi đòn tôn giáo, song là chính trị.
Chắc hẳn người Do thái còn nhớ có lần Philatô cho diễn quân vào thành Giêrusalem với các cờ hiệu có hình hoàng đế dẫn đầu. Luật Do thái cấm mang hình tượng các thần ngoại vào khuôn viên thành thánh, vì như thế là một sự sỉ nhục tôn giáo. Thời bấy giờ, hoàng đế Cêsarê được xem như một vị thần. Thế nên các vị tổng trấn trước đây, mỗi lần có cuộc diễn quân vào thành, đều cho cất bức hình của hoàng đế khỏi cờ hiệu. Nhưng đến thời Philatô, ông đã chẳng coi luật lệ tôn giáo của người Do thái ra gì, nên trong một cuộc diễn hành vào thành ban đêm, Philatô nhất quyết cho quân lính mang tượng hoàng đế đi đầu, bất chấp sự chống đối kịch liệt của người Do thái.
Khi biết Philatô không chú trọng lắm đến vấn đề tôn giáo, hội đồng người Do thái đã tố cáo Đức Giêsu về ba điểm thuộc phạm vi chính trị: thứ nhất, “Tên này, chúng tôi bắt gặp đã xúi dân nổi loạn;” thứ hai, “Tên này ngăn cản việc nộp thuế cho hoàng đế Cêsarê;” thứ ba, “Tên này xưng mình là vua” (Lc 23:2).
Cả ba điều tố cáo đều dối trá. Họ biết thế. Nhưng khi mục đích đã mù quáng lầm lạc thì phương thế đúng sai nào có quan hệ gì. Miễn sao đạt được như ý mới thôi.
Dầu rất nhạy bén với bản chất hay làm loạn của người Do thái, và dầu đã thẳng tay trừng trị những kẻ dấy loạn, “hoà máu với lễ tế của họ” (Lc 13:1), Philatô đã không bị hoả mù chính trị che mắt.
Rõ ràng Philatô thấy Đức Giêsu vô tội (Lc 23:14). Có ít nhất bốn lần ông ta tìm cách tránh né việc lên án tử cho Đức Giêsu. Lần thứ nhất, ông bảo người Do thái hãy tự giải quyết lấy chuyện nội bộ tôn giáo của mình (Gn 19:6). Lần thứ hai, ông trao vụ án qua cho Hêrôđê xét xử. Lần thứ ba, ông muốn thuyết phục người Do thái tha cho Đức Giêsu theo như quy định cho phép ông thi hành trong mỗi dịp lễ lớn. Lần thứ tư, ông đưa giải pháp dung hoà: đánh Giêsu một trận nên thân rồi thả về (Lc 23:15-23).
Muốn giết Chúa mà quan tổng trấn cứ đòi tha. Thấy ba lá bài chính trị không đi tới đâu, người Do thái quay sang con tẩy cuối cùng: “Nếu ông tha cho tên ấy là ông thất nghĩa với hoàng đế. Ai xưng mình là vua, tất làm phản với Hoàng đế” (Ga 19:12). Theo luật công bình của đế quốc Rôma, mỗi địa phương đều có quyền khiếu nại với hoàng đế về tình trạng cai trị của các quan chức Rôma. Thế nên, khi thấy chiếc ghế tổng trấn của mình bị áp đảo, khi mà tình hình vinh thân phì gia bị đe doạ, Philatô lập tức đầu hàng. Bên ngoài rất hùng, nhưng bên trong rất hèn. Công lý đã bị lợi ích cá nhân vùi dập. Bản án được thông qua. Chúa Giêsu vô tội mà phải chết.
Nhưng nếu chỉ thế thôi thì chẳng có gì lạ lắm, vì như hôm nay, vẫn còn biết bao người vô tội phải mang án tử. Biết bao tù nhân phải lên ghế điện cách oan uổng. Biết bao thai nhi bị ném vào thùng rác cách vô tình và vô trách nhiệm. Song điều đáng nói ở đây là Đức Giêsu, Đấng vô tội, đã tự nguyện chấp nhận cái chết bất công đó để giải án bất nhân cho con người.
Bản án càng nói lên tính chất hàm hồ, giả dối, ác độc, ghen tị, ích kỷ nơi con người bao nhiêu càng làm nổi bật tình thương cứu độ nơi thập giá của Đức Kitô bấy nhiêu. Sự sống của ơn cứu độ đã thật sự tuôn trào từ thập giá. Những chứng từ sau đây đã khẳng định điều đó:
Thứ nhất, lời kêu van thống thiết “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23:34) đã phát ra từ miệng Đức Giêsu trên khổ giá. Một nhà chú giải Kinh thánh nhận xét: “Chúa Giêsu đã nói nhiều câu tuyệt vời, nhưng câu ‘xin tha cho chúng’ trên thánh giá là một trong những câu tuyệt vời nhất.” Thiên Chúa đã can thiệp bằng cách đón nhận khổ đau để tha thứ tội lỗi con người.
Từ Thánh giá lời hứa Nước Trời cũng được trao ban. Đức Giêsu nói với [người trộm lành]: “Hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng làm một với Ta” (Lc 23:43). Như thế, ơn cứu độ đã linh nghiệm. Loài người được ơn thoát khỏi án chết để tiến vào cõi sống.
Thánh Luca cũng ghi nhận: đoàn lũ dân chúng khi nhìn lên thánh giá, chứng kiến cảnh Chúa Giêsu trút hơi thở đã đấm ngực ăn năn. Cả viên bách quản cũng phải thốt lên: “Đúng thật, ông này là người công chính” (Lc 23:47). Như thế, lời Chúa Giêsu nói “Khi được giương cao lên mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta” đã được ứng nghiệm. Người ta đã nhận ra Đức Giêsu là ai. Và khi tin nhận ra Ngài, họ có được sự sống đời đời nơi tâm hồn (Ga 3:15).
Thế đấy, Đức Giêsu-như lời vị tông đồ dân ngoại xác quyết-Đấng không hề biết tội, nhưng vì ta, Ngài đã tình nguyện trở thành tội nhân và gánh chịu hậu quả của tội là sự chết ô nhục trên Thập giá. Vậy, chúng tôi nài xin anh em hãy mau làm hoà và trở về cùng Thiên Chúa. Vì “đây là thời đại sủng; đây là ngày cứu độ” (2 Cr 5:20 – 6:2).
Hôm nay bắt đầu Tuần Thánh, tuần trọng đại nhất trong năm và Chúa nhật Lễ Lá là Chúa nhật khởi đầu sự Thương Khó Chúa. Hôm nay, Giáo hội bắt đầu đọc lại cuộc Thương Khó Chúa Giêsu theo Thánh Luca. Chúng ta có thể nói rằng Luca đã chia thành 3 ý tưởng chính:
Một là người đặt câu hỏi: Vì sao đời của Chúa lại đến nông nỗi này? Và người đã đi tìm nguyên do sâu xa: Đó là quyền lực ma quỉ. Cuộc tử nạn là cuộc đối đầu giữa Chúa Giêsu và ma quỉ, giữa sự thiện và sự ác. Khi Chúa Giêsu chịu ma quỉ cám dỗ trong rừng vắng, Luca kết thúc câu chuyện bằng một câu: “Ma quỉ rút lui để chờ dịp khác” (4, 18). Thì nay dịp ấy đã đến. Ma quỉ vào trong lòng tên phản bội là Giuđa (22, 3). Ma quỉ muốn sàng Phêrô và các môn đệ như sàng gạo (22, 31), và cuộc đau thương trong vườn Giệtsimani được mô tả như là giờ của quyền lực tối tăm đã đến.
Trong cuộc giao tranh giữa Chúa Giêsu và quyền lực tăm tối ấy, Luca cho ta thấy Chúa đã dùng hai thứ khí giới Ngài quen dùng. Trước hết là sự cầu nguyện. Ngài sấp mình xuống cầu nguyện, mồ hôi chảy hòa với máu (22, 40-44). Rồi Ngài tỏ ra nhân từ tha thứ, Ngài đón tên phản bội, Ngài chữa lành đứa đầy tớ bị Phêrô chém đứt tai, Ngài quay lại nhìn Phêrô vừa chối thầy, Ngài an ủi những phụ nữ khóc than, Ngài cầu cho những kẻ đóng đinh, hứa Thiên đàng cho người ăn trộm, và lời cuối cùng là một lời phó thác: “Con xin phó linh hồn con trong tay cha” (23, 46).
Sau cùng, qua tất cả tường thuật của Luca về cuộc tử nạn, chúng ta thấy nổi bật lên sự vô tội của Chúa. Philatô tuyên bố: Ta không thấy tội gì nơi người này (23, 4), Herođê cũng không thấy Ngài có tội gì, nên dạy đem trả lại cho Philatô (23, 11). Các người phụ nữ Gierusalem cũng không cầm được nước mắt (23, 27-31). Người trộm lành trên thập giá cũng nói lên rằng: “Ông không làm điều gì trái!” (23, 41). Và sau khi Chúa chết, người đội trưởng cũng kêu: “Người này là người công chính” (23, 42), và dân chúng ra về đấm ngực ăn năn vì đã đổ máu một người vô tội.
Ngài là Con Chiên vô tội đã gánh lấy tội lỗi thế gian, tội của chúng ta hết thảy.
Thánh Anphongsô nói: “Tuần Thánh là tuần của Tình yêu, chúng ta hãy đem hết tình để sống những ngày Thánh này. Chúng ta hãy trở về với Chúa. Chúa đang chờ ta và tha thứ cho chúng ta”.
Tại một ngôi Thánh đường ở bên Đức người ta còn thấy một pho tượng Thánh giá chuộc tội đặc biệt: Chúa bị treo trên thập giá, nhưng một tay thì còn bị đóng đinh vào thập tự giá, còn tay kia lại buông rũ xuống thân mình. Số là trước đây có một người có tội đã hết lòng sám hối ăn năn đến quì trước pho tượng này. Ông ăn năn nhưng vẫn còn run sợ không biết Chúa có tha cho không? Thì bỗng nhiên, một cánh tay Chúa rút ra khỏi lỗ đinh và ôm chầm lấy cổ ông trong một bộ điệu yêu thương và tha thứ và cánh tay ấy còn thấy ngày nay nơi pho tượng lịch sử.
Chúa cũng đang chờ chúng ta để tha thứ! Chúng ta hãy đến với Chúa trong tuần trọng đại này.
Chúng ta vừa nghe bài Phúc Âm về việc Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem trong tiếng hoan hô tưng bừng của các môn đệ và dân chúng Do Thái. Chúng ta xem việc Chúa Giêsu tiến vào thành bằng phương tiện gì? Việc này có ý nghĩa như thế nào? Bây giờ các em thiếu nhi cho thầy biết:
1. Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem bằng phương tiện gì? Con lừa. 2. Việc Chúa Giêsu cưỡi lừa vào thành Giêrusalem có ý nghĩa gì? Nói lên Ngài là vua.
Thầy cũng xin nói cho các em biết vài chi tiết về con lừa: trong đất nước Do Thái thời đó, con lừa là con vật làm phương tiện cho đức vua, mà đặc biệt trong ngày nhậm chức của đức vua. Các em cũng thấy vua Salômon cũng cưỡi lừa trong ngày lên ngôi của mình.
Hôm nay Chúa Giêsu tiến vào thành với tư cách là một vị vua thì rất đúng, vì Ngài là vua là Chúa của cả vũ trụ kia mà!
3. Nhưng thầy xin hỏi tiếp các em: vua Giêsu có điểm gì khác biệt so với các vua khác? Thưa Ngài là vua công chính, vua hòa bình, vị vua rất khiêm nhu, hiền từ. 4. Các môn đệ và những người xung quanh đã làm gì khi Chúa Giêsu trên lưng lừa tiến vào thành? Thưa họ dùng những cành lá tung hô. Họ hô lên: "Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời"!
Đúng rồi, những cử chỉ của dân chúng quá đỗi vui mừng khi thấy Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem. Đa phần dân chúng đều trông mong Đức Giêsu sẽ làm vua để cải tổ đất nước Do Thái. Nhưng thực chất, cử chỉ tiến vào thành của Đức Giêsu là rất can đảm, vì Ngài thực hiện trọn vẹn thánh ý Chúa Cha,tiến vào để gánh lấy tội của con người, tiến vào thành để chịu chết. Chúng ta cũng biết, sự hiềm khích của các Biệt Phái và Pharisêu đối với Chúa Giêsu đã đến mức cao độ. Trong khoảng thời gian này, trong kinh thành Giêrusalem đã có lệnh lùng bắt Đức Giêsu như một tên tội phạm. Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem như một vị vua khiêm nhu và luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha cho dù biết mình phải chết tủi nhục.
Hôm nay, chúng ta nhìn vào sự can đảm, sẵn sàng chịu đau khổ, chịu chết của Chúa Giêsu mà kiểm điểm lại đời sống đức tin của mình. Chúng ta là những người có đạo, nhưng khi gặp thử thách gian truân, chúng ta có dám tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa không; Hay chúng ta cũng xử sự như những người không có đức tin? Còn các em thiếu nhi, các em có hãnh diện về niềm tin của mình vào Chúa cho các bạn cùng lớp, cùng trườngvới mình chưa? Điển hình khivào quán ăn nơi công cộng, các em có dám làm dấu Thánh Giá và đọc kinh tạ ơn Chúa trước khi ăn chưa? Hay các em có dám nói về đạo khi được các bạn thắc mắc chưa? Thầy thiết tưởng, những cử chỉ nhỏ bé như vậy sẽ nuôi trồng đời sống đức tin của mình mỗi ngày một trưởng thành hơn. Lạy Chúa Giêsu, xin giúp cho chúng con lòng can đảm, xin ban thêm đức tin cho chúng con. Amen.
Rambrandt là một danh hoạ người Ý nổi tiếng nhất của TK 17. Một trong những bức hoạ nổi tiếng nhất của ông là bức tranh có hình ba cây thập giá. Khi nhìn vào bức tranh ai cũng bị thu hút ngay: giữa 2 cây thập giá của 2 tên trộm là thập giá của Chúa Giêsu. Dưới cây thập giá có cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét. Khi nhìn kỷ hơn, giữa đám đông đằng đằng sát khí kia người ta thấy có một gương mặt quen quen, đó chính là gương mặt của danh hoạ Rambrandt. Qua bức tranh, tác giả như muốn nói rằng: không có ai mà không dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu ...
Hôm nay là Chúa Nhật lễ lá, Giáo Hội mời gọi chúng ta tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Trong bài thương khó mà vừa nghe, chúng ta thấy:
Sự thâm độc của những nhà lãnh đạo Do Thái, họ đã tìm mọi cách để giết Chúa Giêsu.
Sự hèn nhát của các môn đệ thân yêu: tất cả các ông đều bỏ chạy trong lúc Chúa Giêsu cần đến các ông nhiều nhất.
Hôm nay cũng tái diễn sự tàn nhẫn của những người lính, họ đánh đập Chúa Giêsu một cách dã man.
Cũng thế, đám đông dân chúng trước đó đã nhiệt liệt ủng hộ Chúa Giêsu: họ chặt lá thay cờ để tung hô rước Chúa, họ lấy áo của ình trải xuống đường làm thảm cho Chúa đi. Tất cả cùng tung hô: "Hoan hô con vua Davit, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến". Họ xem Chúa Giêsu là vị vua của họ.
Thế mà nay, khi Chúa Giêsu bị kết án, dân chúng cũng thật đông, họ cũng hăng hái hô thật to. Nhưng lần này không phải tiếng tung hô mà là những lời kết án: "Giết nó đi, đóng đinh nó vào thập giá".
Không ai vô tội trước cái chết của Chúa Giêsu, như bức tranh của Rambrandt, khi vẽ khuôn mặt của chính mình vào trong đám đông kết án Chúa. Khi suy niệm cuộc thương khó hôm nay, chúng ta cũng thấy bóng dáng mình tham gia vào cuộc kết án và đóng đinh Chúa.
Chúng ta có thể là Giuđa, khi chạy theo lợi lộc trần gian mà đánh mất lương tâm của mình.
Chúng ta cũng có thể là Phêrô chối Chúa: trong cuộc sống thường ngày ta không dám nhận mình là người Công Giáo, không dám làm chứng cho Chúa trước những bất công xảy trong cuộc sống mà đáng lẽ chúng ta phải lên tiếng.
Chúng ta cũng có thể là đám đông dân chúng gào thét đòi lên án Chúa khi nói xấu, phê bình chỉ trích người khác...
Chúng ta cũng có thể trở nên bọn lý hình dữ tợn, hành hạ Chúa cách tàn nhẫn, khi ở trong môi trường gia đình, hay cách đối xử ác tâm của ta đối với anh chị em lối xóm.
Khi từ thập giá nhìn xuống, Chúa thấy tội lỗi của chúng ta, thấy sự xúc phạm của con người đối với Chúa. Nhưng khi nhìn lên thập giá, chúng ta sẽ thấy được tình thương của Chúa. Tình yêu của chúa thể hiện qua sự tha thứ và thứ tha không ngừng, miễn là chúng ta biết chạy đến để đón nhận tình thương tha thứ. Chính vì tình yêu mà Chúa đã chiến thắng tất cả, tha thứ tất cả.
Khi suy niệm về cuộc thương khó của Chúa Giêsu hôm nay, cách riêng trong tuần thánh này, chúng ta hãy ý thức lại tình trạng tội lỗi của mình và quyết tâm từ bỏ, vì mỗi khi chúng ta phạm tội là chúng ta kết án, đóng đinh và giết chết Chúa.
Ước mong trong tuần thánh này là dịp để mỗi người chúng ta cảm nhận rõ nhất về tình yêu, sự tha thứ của Chúa. Và qua đó sẽ là động lực giúp chúng ta vươn lên, chạy đến với Chúa để đón nhận ơn tha thứ. Chính khi đón nhận ơn tha thứ đó là lúc chúng ta nhận lãnh ơn cứu độ. Amen
Tuần báo THIS WEEK đã đăng bài giới thiệu với độc giả một vườn bách thú nổi tiếng tên là Nai Hăng Tinh (Night Hunting)- "Cuộc săn đêm". Đây là một vườn bách thú duy nhất trên thế giới mở cửa vào mỗi buổi tối từ 19g30 đến 24g00. Vườn tọa lạc trên một khu đất rộng khoảng 40 mẫu tây. Vườn bách thú này hiện có trên 1000 con thú thuộc 100 chủng loại khác nhau,. Chúng đến từ khắp các quốc gia trên thế giới. Trong số này có khoảng 40 con thuộc lọai thú quý hiếm. Mỗi đêm có khỏang 3000 du khách đến tham quan cảnh sống của các thú vật về đêm. Dưới ánh sáng mờ ảo, thú vật xem ra đang chìm đắm trong giấc ngủ thư thái và bình an.
Tuy nhiên ông giám đốc vườn bách thú lại cho biết suy nghĩ của ông như sau: "Một trong những điều đáng lo ngại của chúng tôi là hành động nghịch phá của một số du khách. Chẳng hạn: Một số người thì đập mạnh vào chuồng của thú dữ, số khác thì la lối om sòm phá tan sự thinh lặng cần cho việc thưởng lãm vẻ đẹp tự nhiên". Và tờ báo bình luận bằng một câu đáng cho chúng ta suy nghĩ, và cũng phù hợp với tâm tình người tín hữu phải có trong Tuần Thánh này: "Bóng đêm làm cho nhiều loài thú hoang thiếp ngủ, nhưng lại làm cho thú tính trong lòng một số người thức dậy !".
3. SUY NIỆM:
1) Ý nghĩa của Lễ Lá: Phụng vụ Lễ Lá gợi lên cho chúng ta ba ý nghĩa như sau.
- Một là "Giờ đã đến": Lễ Lá tưởng niệm cuộc khải hòan của Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem trước khi chịu khổ nạn, là dấu chỉ "giờ" đã đến: Đức Giê-su biết mình phải làm gì và đã chấp nhận đi con đường Chúa Cha đã định là "qua đau khổ thập giá để vào vinh quang phục sinh", như hạt lúa mì rơi xuống đất có chết đi mới sinh nhiều bông hạt.
- Hai là tôn vinh Vua hòa bình. Ðây là lần đầu tiên Đức Giê-su để cho dân chúng tung hô Người: "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời". Người ngồi trên lừa khải hòan vào thành Giê-ru-sa-lem. Cũng vì việc này mà sau đó Người đã bị xét xử và bị kết án tử hình thập giá. Bản án của Người được viết bằng ba thứ tiếng: Do thái, La tinh và Hy lạp như sau: "Giê-su Na-da-rét Vua dân Do Thái". khai mào một vương quốc của sự thật và sự sống, vương quốc của yêu thương và an bình như Người đã nói với Phi-la-tô: "Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự thật. Ai tôn trọng sự thật thì nghe tiếng tôi".
- Ba là suy niệm về cuộc khổ nạn của Đức Giê-su: Qua bài Thương Khó, Hội Thánh nhắc nhở các tín hữu hãy liên kết sự đau khổ gặp phải trong cuộc sống hằng ngày với sự đau khổ của Đức Giê-su trên cây thập giá. Khi chấp nhận chịu đựng các điều trái ý gặp phải hằng ngày là chúng ta cùng chia sẻ gánh nặng của Đức Giê-su. Từ nay đau khổ và sự chết không làm cho con gười thất vọng, nhưng là đường dẫn đưa vào trong vinh quang phục sinh.
2) Chúng ta phải làm gì?:
- Kết hiệp với cuộc tử nạn của Đức Giê-su: Chấp nhận đi theo Đức Giê-su trên đường thánh giá là chúng ta sẵn sàng đón nhận mọi nỗi đau khổ do bệnh tật cũng như các tai nạn và những điều trái ý gặp phải trong cuộc sống hằng ngày, liên kết với sự đau khổ của Đức Giê-su trong cuộc khổ nạn. Hãy năng cầu nguyện với Chúa Cha noi gương Chúa Giê-su trong vườn Cây Dầu: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin cất chén đắng này xa Con, nhưng xin đừng theo ý Con một theo ý Cha mà thôi".
- Tỉnh thức và cầu nguyện luôn: Chúa Giê-su đã kêu gọi các môn đệ "Phải tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ! Vì tinh thần thì mau lẹ, nhưng xác thịt lại yếu hèn !" Tỉnh thức và cầu nguyện đồng nghĩa với bước đi trong ánh sáng của Chúa Giê-su là Mặt Trời Công Chính. Ánh sáng đó chính là Lời Chúa. Chỉ có Chúa Giê-su mới "là con đường, là sự thật và là sự sống". Bước đi trong ánh sáng của Người, vâng nghe Lời Người, chắc chắn chúng ta sẽ không bị lạc lối, sẽ chiến thắng được các cơn cám dỗ của ma quỷ và sẽ đạt tới quê trời hạnh phúc muôn đời.
- Quyết tâm sống tình yêu thương cụ thể: bằng việc giúp đỡ một người đang gặp khó khăn hoặc người đang đau khổ tinh thần lấy lại niềm vui và hy vọng. Tập nhìn những người đau khổ bệnh tật không được chăm sóc như Chúa Giê-su bị bỏ rơi trên cây thập gía, và nhiệt tình phục vụ họ như phục vụ chính Chúa Giê-su, để sau này được Người ban thưởng hạnh phúc Nước Trời (x Mt 25,40).
4. THẢO LUẬN: Trong những ngày mùa Chay này, mỗi người chúng ta nên làm những việc cụ thể nào để xua trừ bóng tối tội lỗi ra khỏi con người của chúng ta?
5. NGUYỆN CẦU
LẠY CHÚA GIÊ-SU,
Vì Chúa đã lập phép Thánh Thể để làm của ăn nuôi dưỡng chúng con, xin cho những người nghèo luôn có cơm ăn áo mặc hằng ngày. Vì Chúa đã xao xuyến trong vườn cây Dầu, xin cho chúng con đủ sức đương đầu với những khó khăn gặp phải trong cuộc sống. Vì Chúa đã bị kết án bất công, xin cho chúng con biết can đảm bênh vực công lý. Vì Chúa đã bị xỉ nhục và nhạo báng, xin cho các người bé mọn được tôn trọng nhân phẩm. Vì Chúa đã chịu vác thập giá nặng nề, xin cho những ai đang đau khổ trên giường bệnh, nhận được sự nâng đỡ ủi an. Vì Chúa đã bị lột áo và bị đóng đinh vào thập giá, xin cho sự hiền hòa nhân ái luôn chiến thắng bạo lực hung tàn. Vì Chúa đã giang tay chịu chết trên thập giá, xin cho các đôi vợ chồng đang xa lìa được nối lại tình yêu ban đầu. Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui hân hoan, xin cho chúng con biết vui vẻ đón nhận mọi sự khó xảy đến và phó thác cậy trông vào tình thương quan phòng của Chúa.
Chúa Giêsu mặc khải là Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai, Đấng đến thế gian để đem sự an bình cho nhân loại, chứ không phải Đấng đến để đem hận thù, chiến tranh và đổ vỡ. Chúa đến thế giới vì yêu thương con người, yêu thương loài người. Sự yêu thương nhân loại của Chúa Giêsu được diễn tả bằng việc Người cưỡi trên mình lừa tiến vào Giêrusalem...
Chúa Giêsu hoàn toàn ý thức vai trò, trách nhiệm và hết sức can đảm tiến vào Giêrusalem. Tin Mừng Gioan 12, 14-15 viết: " Đức Giêsu tìm thấy một con lừa và cỡi lên nó, đúng như lời Kinh Thánh dạy: Hỡi thành Sion, đừng sợ, này đây Vua ngươi đến, Ngài đang cỡi trên một chú lừa con". Khi tiến vào Giêrusalem, dân chúng vẫy các cành thiên tuế và reo vang:" Hosanna ! Vạn tuế Đấng nhân danh Chúa mà đến ! Hoan hô Vua Israen ". Thánh Gioan kết thúc bài mô tả việc Chúa vào Thành Thánh: " Lúc đó các môn đệ Đức Giêsu chưa hiểu điều ấy, nhưng khi Đức Giêsu đã được tôn vinh, họ mới nhớ lại lời Thánh Kinh viết điều này về Ngài và chính họ đã thực hiện điều ấy cho Ngài " ( Ga 12, 16 ). Chúa Giêsu đã đến không phải để được hầu hạ, Ngài đến để phục vụ mọi người. Chúa Giêsu đến không để kết án người khác, Ngài đến để thứ tha cho họ. Chúa Giêsu đến để những người khác được thực hiện giấc mơ của họ. Chúa đến để cho chiên được sống và sống dồi dào ( Ga 10, 10 ).
Suốt cuộc đời của Chúa Giêsu là thực hiện ý Thiên Chúa Cha mà ý của Chúa Cha là sai Đức Giêsu đến trần gian để yêu thương mọi người. Do đó, Ngài đã bày tỏ tấm lòng yêu thương của Người: Người đã làm các phép lạ, đã chữa lành bệnh hoạn tật nguyền, đã xua trừ ma quỉ, dạy dỗ dân chúng, yêu thương trẻ em, đồng bàn với những người tội lỗi tha thứ cho các tội nhân. Hôm nay, Chúa Giêsu đã quyết định lên Giêrusalem để thực thi ý định của Chúa Cha: chết trên thập hình tự giá để ban hạnh phúc và ơn cứu độ cho con người, cho nhiều người.
Tuy nhiên, trước khi làm tròn ý định của Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu đã phải chịu thử thách. Satan đã nhập vào Giuđa Iscariot và y đã ra hiệu bằng một cái hôn để quân dữ bắt Ngài. Phêrô đã chối Chúa ba lần và các môn đệ khác đều bỏ Chúa mà chạy trốn. Chúa Giêsu đã hoàn toàn cảm thấy bị bỏ rơi. Ngài đã cầu nguyện để chiến thắng cám dỗ.
Chúa Giêsu vẫn tỏ ra nhẫn nhục, chịu đựng và nhân từ trước khi hoàn thành sứ mạng Chúa Cha trao phó là chết và chết trên thập giá. Chúa cảm thông và nhắc nhở Giuđa về tình nghĩa Thầy trò. Ngài chữa lành tên đầy tớ bị Phêrô chém đứt tai. Ngài nhìn Phêrô với ánh mắt trìu mến thứ tha. Ngài an ủi những người phụ nữ than khóc Ngài. Ngài thứ tha cho những kẻ làm hại, đóng đinh Ngài trên thập giá. Ngài thương tha thứ và ban thiên đàng cho người trộm lành biết ăn năn hối cải...
Và rồi, Chúa đã chết trên thập giá để nói lên tình yêu tuyệt đối và sâu đậm đối với nhân loại, đối với con người. Thánh Gioan đã viết lại Lời Chúa:" Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống về người mình yêu " ( Ga 15, 13 ).
Chúng ta hãy cùng Thầy Alois, viện phụ Taizé suy niệm: " Ngày Lễ Lá, Đức Giêsu hiền lành và khiêm nhường tiến vào thành Giêrusalem, ngồi trên lưng lừa.Dân chúng đón rước Người với một niềm vui bao la.Làm sao giúp các Kitô hữu trẻ ngày nay, cũng có một niềm vui đơn sơ, hoàn toàn tin tưởng vào Đức Kitô ? Chúng ta nên chú ý để niềm vui này, trước hết phải là nội tâm, được nuôi dưỡng bằng một lời cầu nguyện chung, được nâng đỡ bằng những khúc ca với tinh thần ca tụng...".
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hiền lành, khiêm nhường cỡi trên mình lừa để vào thành thánh Giêrusalem để được người ta tung hô, nhưng là để thực hiện ý của Thiên Chúa Cha: đau khổ, chết trên thập giá để cứu độ muôn dân. Xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn tin tưởng vào tình yêu cứu độ của Chúa. Amen.
Có lẽ nhận xét sau đây của đức cha Helder Camara giúp chúng ta dễ hiểu đau khổ và cái chết của Đức Kitô trong tuần này: "Một số linh hồn giống như cây mía, khi bị bầm dập nghiền nát, vắt ép trong chiếc máy làm đường, nó chỉ cho ra mật ngọt mà thôi." Đau khổ của Đức Giêsu cũng vậy, nó ban cho nhân loại hạnh phúc trong tình yêu thần linh. Đau khổ của Ngài không trực tiếp cứu thế giới, mà chỉ là phương tiện. Yếu tố chính yếu cứu thế giới là tình yêu. Tình yêu khiến Ngài chịu đau khổ và cái chết vì nhân loại.
Đó là lý do tại sao trong suốt Phúc Âm Luca, Chúa Giêsu luôn miệng nói với đám đông: "Tôi phải đi lên Giêrusalem." Và ngày hôm nay, câu mở đầu của Tin Mừng là: "Bấy giờ Đức Giêsu dẫn đầu các môn đệ, tiến lên Giêrusalem." Trình thuật tiếp tục kể về giai đoạn cuối cùng của cuộc hành trình định mệnh này. Ngài cưỡi trên lưng lừa con và toàn dân tung hô: Hoan hô con vua Đavít, Đấng ngự đến nhân danh Thiên Chúa. Chúc tụng Thiên Chúa trên các tầng trời. Đây là khoảnh khắc cao điểm của Chúa Giêsu và các môn đệ, không khoảnh khắc nào mang tính quyết định như hôm nay, mặc dầu các môn đệ không hiểu biết gì! Và chúng ta cũng được dẫn vào mầu nhiệm tuần thánh.
Chúa Giêsu tiến vào thành thánh từ phía đông. Phía đông là phía mặt trời mọc. Một ngày mới bắt đầu. Chúa Giêsu cũng báo hiệu một kỷ nguyên mới cho nhân loại. Kỷ nguyên với mặt trời cứu độ xuất hiện. Bóng tối của bao nhiêu thế kỷ đã bị đẩy lui, những nếp sống cũ không còn thống trị nữa. Chết không phải là tận cùng. Thành công kinh tế, chính trị, văn hoá, quân sự... không còn là tiêu chuẩn để đo lường con người sinh ra trên mặt đất này. Bạo lực không còn là phương tiện để đàn áp đối thủ. Hôm nay, Chúa Giêsu, các môn đệ, đám đông vào thành thánh khởi sự một ngày mới cho toàn thể nhân loại. Nó nói với mỗi linh hồn: Thiên Chúa không hề lãng quên tình trạng đen tối của bất cứ ai. Xin đừng nghi ngờ. Các đau khổ của nhân loại không rơi vào tai điếc. Thiên Chúa đã chú ý lắng nghe và Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem để cứu chuộc.
Thực vậy, nếu chúng ta để ý, Giêrusalem là biểu tượng của thế giới này. Lúc ấy, Giêrusalem là thành phố rất quan trọng và nổi tiếng. Nó là trung tâm tôn giáo, chính trị của người Dothái và cả miền trung đông. Đi lên Giêrusalem là một niềm vui. Người ta hồ hởi lên thành thánh trong các dịp lễ lớn. Người Dothái đạo đức không hề thíêu sót bổn phận lên Giêrusalem để dâng lễ vật và tham dự các nghi thức. Đối với tín hữu Dothái, Giêrusalem là biểu tượng vĩ đại của lòng tin và danh dự dân tộc, nhất là ngôi đền đẹp đẽ nguy nga mà cha ông đã dày công xây dựng. Các lễ nghi đều diễn ra trong đền thánh hay chung quanh đền. Nhưng đối với người Rôma, Giêrusalem cũng là thành phố quan trọng về mặt quân sự, chính trị. Không những quyền bính Dothái nằm ở đó, mà quyền bính đế quốc cũng hội tụ ở đó. Như vậy Giêrusalem về nhiều mặt, là trung tâm của thế giới Dothái mà người Rôma phải lưu ý. Như vậy, hôm nay Chúa Giêsu bước vào một nơi mà các quyền lực đạo đời tập trung. Ngài vào với một tư cách đặc biệt, một sứ mệnh đặc biệt, vào dịp lễ đặc biệt của dân tộc Dothái, lễ vượt qua, kỷ niệm cha ông họ được thoát vòng nô lệ Ai cập.
Đức Giêsu và các môn đệ hiểu rõ cuộc hành trình này nguy hiểm biết bao. Các thế lực đạo đời không thể làm ngơ sự có mặt của Chúa và các môn đệ. Quan điểm tôn giáo về Thiên Chúa, về con người, về đền thờ, về tập tục, về luật Môsê đe doạ nền an ninh chung. Lòng hào hiêp đối với tội nhân, lòng thương cảm đối với những kẻ bên lề gây rối loạn xã hội. Nhất là lời dạy về Nước Trời, trực tiếp đối lập với truyền thống cha ông. Còn đối với chính quyền Rôma, Ngài thách thức sức mạnh của họ, trong việc đàn áp kẻ yếu thế bằng bạo lực tàn nhẫn. Đó là tình hình Giêrusalem khi Đức Giêsu bước vào cổng thành: "Hoan hô con vua Đavít, Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến, vinh quang trên các tầng trơì."
Chẳng lạ gì các quyền bính thế tục mau chóng tìm bắt Chúa, thẩm tra Ngài, kết án và đóng đinh. Đó cũng là số phận của những ai muốn thiết lập Nước Trời trong xã hội, trên thế giới hôm nay. Giêrusalem chính là biểu tượng của các vị thần mà chúng ta tôn thờ: tiền bạc, chức quyền, sắc dục, tiện nghi, giàu có, tiếng tăm, địa vị. Giêrusalem tân thời của chúng ta là đủ mọi loại thoả hiệp với thế gian để được an toàn tôn giáo, chính trị mà làm ngơ trước bất công, bóc lột. Chúng ta có thể bằng lòng với hiện trạng. Việc chi phải lên Giêrusalem? Cứ trung lập và giảng giải những điều vô hại, tránh xa những rắc rối, cầu nguyện và hy vọng lên thiên đàng. Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu vào thành Gierusalem "giơ mặt chai như đá" và thách đố mỗi người theo gương Ngài, chống đối Gierusalem tân thời. Chúng ta khuất phục ai? Tôn thờ ai? Thoả hiệp với ai? Ai điều khiển cuộc đời chúng ta? Chúng ta lẩn tránh những trách nhiệm nào? Tiếng Chúa gây hiệu quả nào nơi chúng ta? Phúc Âm đòi hỏi chúng ta bổn phận nào? Cứ đặt những câu hỏi như vậy, chúng ta sẽ nhận ra thiếu sót của mình.
Trong một lớp giáo lý, cha xứ hỏi các học viên: Chúng con nghĩ thế nào về Chúa Giêsu: Ngài thành công hay thất bại? Sau lúc yên lặng và suy nghĩ, một thiếu niên đứng dậy trả lời: Thưa cha, thất bại thê thảm. Thế lực đền thờ chẳng tin vào Ngài, cho Ngài là một mối đe doạ, sai bắt và giết đi, các môn đệ trốn hết, chẳng thất bại là gì? Và họ muốn cha xứ giải quyết vấn đề! Cha xứ chỉ lên cây thánh giá, ôn tồn nói: Đó, cờ hiệu chiến thắng của chúng ta là tượng chịu nạn. Khi người tín hữu gặp cái dữ thì không trốn chạy để được an toàn, mà đối đầu trực tiếp với nó. Cái dữ luân lý phải bị đánh bại bằng bất cứ giá nào, ngay cả khi phải thiệt mạng. Chúa Giêsu làm đúng như vậy. Các con bảo Ngài thất bại hay thành công? Thưa, thành công, cả lớp đồng thanh nói. Vậy thì chúng ta không được chạy trốn, cha xứ tiếp, người công giáo không được lảng tránh đối đầu với cái dữ.
Thiết tưởng ý nghĩ của cha xứ đã rõ ràng. Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã đánh bạc với thế gian và Ngài đã thua. Nhưng từ cái thua ấy mà chiến thắng nảy sinh. Thiên Chúa đã hành động qua Đức Kitô. Ngài đã thua, nhưng tất cả nhân loại đều thắng. Vậy đạo công giáo làm nhiều hơn là giải thích đau khổ và sự chết. Nó cống hiến cho cái chết và đau khổ một ý nghĩa. Chúa Giêsu đã cứu chuộc đau khổ của nhân loại. Cho nên đau khổ của mỗi người phải góp phần cứu rỗi thế giới: "Những ai không vác thập giá mình mà theo, thì chẳng xứng đáng là môn đệ ta." Trốn tránh đau khổ chẳng giúp ích được gì, chỉ làm đau khổ tăng thêm. Đối đầu với nó mới là giải pháp làm giảm thiểu đau khổ trên thế giới.
Vậy, mỗi người chúng ta phải liên kết với Chúa Giêsu đi lên Gierusalem tân thời "giơ mặt chai như đá" với các xấu xa của lòng mình, của thế gian. Giống như Chúa Giêsu, có thể Gierusalem mới đặt chúng ta vaò tình huống thất bại. Chúng ta phải gánh lấy chê cười, nhục nhằn và cả cái chết. Hằng ngày chúng ta phải trực diện với những sức mạnh thù nghịch ghê gớm: Giáo dục thế tục, giải trừ thánh thiêng, cổ võ phá thai, trợ tử, hô hào bạo lực, những tổ chức xã hội đen, những dụ dỗ ngon ngọt, thần mammon. Phải can đảm lắm mới giữ vững lập trường theo Chúa lên Gierusalem và kinh nghiệm những gì Chúa đã trải qua. Chúng ta được Chúa mời gọi vác thập gia và khinh chê những giá trị trước đây mình trân trọng. Nhưng trước hết hãy để Chúa Giêsu vác thập giá đi tiên phong, chúng ta sẽ theo Ngài. Theo một cách cương quyết và trung thành. Theo Ngài vào Gierusalem tân thời với những thách thức của nó. Chúng ta không sợ thương tích nếu thật lòng yêu mến Chúa Kitô, nhắm thẳng con đường vâng phục Chúa Cha. Có lẽ chúng ta phải gánh chịu thiệt thòi với Ngài, đồng hoá với thất bại của Ngài. Nhưng ngang qua cái chết và phục sinh của Ngài, chúng ta kinh nghiệm sức sống mới.
Tại sao hôm nay giơ cao cành lá và vẫy chào Đức Kitô? Có phải chiến thắng rồi sao? Có phải mọi thứ trên thế giới đã đi vào ổn định? Có phải không còn đau khổ nữa? Không đúng vậy. Thế giới vẫn còn vô số những khổ cực. Chiến tranh vẫn đang tiếp diễn ở nhiều nơi trên thế giới. Người ta đang tranh giành khốc liệt quyền lực, ảnh hưởng, thị trường, sức mạnh kinh tế, chính trị, quân sự. Còn đầy dẫy xìke, ma tuý, aids, khủng bố, bạo lực. Chúng ta không thể nhắm mắt với thực tế rồi giơ cao cành lá vẫy chào! Thế giới còn quá nhiều gian khổ, bất công. Nhưng hôm nay Đức Kitô vào thành thánh để cứu chuộc nó. Chúa thẳng thắn đối diện với tội lỗi để tẩy trừ nó khỏi thế gian, giải phóng loài người khỏi kiếp nô lệ satan và chúng ta được tự do như dân Dothái xưa. Chẳng phải đó là nỗi vui mừng lớn lao sao? Chẳng phải đó là lý do chính đáng để đám đông xưa và chúng ta hôm nay đón chào sao? Các thần Hylạp ngày xưa đã chịu thua sự dữ, họ bị kìm kẹp không lối thoát, cho nên các triết gia Hylạp phát triển một hệ thống triết lý định mệnh rất phong phú: Các thần lại chào thua tài trí của mình. Đến thời đông phương cống hiến học thuyết phiếm thần, thì con người lại rơi vào vòng luẩn quẩn của nghiệp chướng, luân hồi. Nguyền rủa số phận, nguyền rủa cái dữ là phạm thượng, vì cái dữ cũng là thần!
Chúa Giêsu chiếng thắng tất cả não trạng đó, cứu chuộc đau khổ, trả lại hạnh phúc cho nhân loại. Hôm nay khởi sự tiến trình ấy, chúng ta không có lý do để vui mừng sao? Thực sự Chúa vào thành thánh của mỗi tâm hồn. Nơi đó tích tụ mọi rác rến của bản tính sa ngã: kiêu ngạo, dâm dục, giả hình, cùng với những thất bại khổ đau, để biến đổi chúng nên thánh thiện. Đường lối của Ngài như bài đọc hai hôm nay chỉ ra: Vâng lời Thiên Chúa cho đến chết và chết trên thập giá. Ngài đi ngược hẳn với nếp sống của chúng ta, để thánh hoá nó. Ngài chọn thánh thánh mỗi người để chịu đau khổ và sống lại vinh quang. Chúng ta chẳng còn con đường nào khác ngoài việc noi gương Ngài. Đường lối kiêu căng giả hình của cấp lãnh đạo Do thái và quyền bính Rôma phải bị loại bỏ. Nhưng vừa đúng lúc tới cổng thành, tưởng chừng như chiến thắng đã đến nơi thì Chúa Giêsu oà lên khóc. Vì sao? Quý vị hẳn đoán ra: Thế gian từ chối Ngài, hành hạ và đóng đinh Ngài. Liệu đó là thái độ của bạn, của tôi trước sự hiện diện của Chúa? Nếu chúng ta hằng ngày chọn thế gian và những sung sướng của nó thì đúng vậy. Chúng ta chỉ là những kẻ giả hình không hơn không kém. Nhưng nếu chúng ta thực sự là môn đệ Chúa, chúng ta phải từ chối hoàn toàn bản thân mình, đi theo Ngài vào thành. Lúc ấy chúng ta có lý do để giơ cao cành lá, đón chào ơn cưú độ. Giây phút sống lại chẳng còn bao xa. Amen.