Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu được Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ. Khi Người đã nhịn ăn bốn mươi đêm ngày, Người cảm thấy đói. Và tên cám dỗ đến gần, nói với Người rằng: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy khiến những hòn đá này biến thành bánh". Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: "Có lời chép rằng: 'Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra'". Bấy giờ ma quỷ đưa Người lên Thành thánh, và đặt Người trên góc tường Ðền thờ, rồi nói với Người rằng: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống đi, vì có lời chép rằng: Ngài đã ra lệnh cho các Thiên Thần đến với ông, và chư vị đó sẽ nâng đỡ ông trên tay, để ông khỏi vấp chân vào đá". Chúa Giêsu đáp: "Cũng có lời chép rằng: "Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi". Quỷ lại đưa Người lên núi rất cao, và chỉ cho Người xem thấy mọi nước thế gian và vinh quang của những nước đó, rồi nói với Người rằng: "Tôi sẽ cho ông tất cả những cái đó, nếu ông sấp mình xuống thờ lạy tôi". Bấy giờ Chúa Giêsu bảo nó rằng: "Hãy lui đi, hỡi Satan! Vì có lời đã chép: "Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi, và chỉ phụng sự một mình Ngài". Bấy giờ ma quỷ bỏ Người. Và các thiên thần tiến lại, hầu hạ Người. - Ðó là lời Chúa.
“Chúa chịu Satan cám dỗ và các Thiên Thần hầu hạ Người”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Người ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu Satan cám dỗ, sống chung với dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Người. Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng của nước Thiên Chúa, Người nói: “Thời giờ đã mãn, và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”. - Ðó là lời Chúa. ----------------------------------
Hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta chính thức bước vào Mùa Chay. Mùa Chay được bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro. Để có thể nắm được trọn vẹn ý nghĩa của Mùa Chay theo Phụng Vụ của Giáo Hội, chúng ta hãy nhìn tổng quan về phụng niên của Giáo Hội.
Căn cứ vào Dự Án Cứu Rỗi của Thiên Chúa, Phụng Niên có thể được chia làm 3 phần tiêu biểu cho 3 Mùa Phụng Vụ chính:
Phụng Niên Phần Nhất cử hành phụng vụ mầu nhiệm "Chúa Kitô: Sự Sống Tỏ Hiện", gồm có thời điểm Mùa Vọng, Đại Lễ Giáng Sinh, Mùa Giáng Sinh và Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh;
Phụng Niên Phần Hai cử hành phụng vụ mầu nhiệm "Chúa Kitô: Sự Sống Thông Ban"', gồm có thời điểm Mùa Chay, Tuần Thánh (nhất là Tam Nhật Thánh), Đại Lễ Phục Sinh và Mùa Phục Sinh;
và Phụng Niên Phần Ba cử hành phụng vụ mầu nhiệm "Chúa Kitô: Sự Sống Tái Sinh", bao gồm Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi, Lễ Mình Máu Thánh Chúa, Lễ Thánh Tâm Chúa, Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh, và Lễ Chúa Kitô Vua.
Vậy Mùa Chay rơi vào giai đoạn Phụng Niên Phần Hai, phần Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô "Sự Sống Thông Ban". Tuy nhiên, tột đỉnh của Mầu Nhiệm Chúa Kitô "Sự Sống Thông Ban" chỉ hiện thực khi Chúa Kitô từ trong kẻ chết sống lại mà thôi. Bởi đó, nếu Mùa Vọng là thời điểm hướng về và dọn đường cho Chúa Kitô "Sự Sống Tỏ Hiện" thế nào, thì Mùa Chay cũng là thời điểm hướng về và dọn đường cho Chúa Kitô "Sự Sống Thông Ban" như vậy.
Theo sự sắp xếp của Giáo Hội, Mùa Chay, giai đoạn 40 ngày, (kể từ Thứ Tư Lễ Tro đến Chúa Nhật Lễ Lá), giai đoạn tưởng niệm 40 năm trường dân Do Thái đi qua sa mạc trước khi vào Đất Hứa, hay 40 đêm ngày tiên tri Elia đi đến Núi Horeb để gặp Chúa, nhất là 40 đêm ngày chay tịnh của Chúa Kitô trong hoang địa trước khi Người chính thức tỏ mình ra cho chung dân Do Thái.
Trong 6 tuần lễ 40 ngày của Mùa Chay này, Phụng Vụ Lời Chúa của ba Chu Kỳ A, B, C giống nhau ở Chúa Nhật Thứ Nhất, về biến cố Chúa Kitô chay tịnh, Chúa Nhật Thứ Hai, về biến cố Chúa Kitô biến hình, và Thứ Sáu, về biến cố Chúa Kitô vinh hiển vào thành Giêrusalem cùng với việc Người tử nạn.
Chu Kỳ Phụng Vụ Năm A, B và C chỉ khác nhau ở ba tuần còn lại. Phúc Âm cho Chu Kỳ Năm A và B hoàn toàn theo Thánh Gioan trong cả ba tuần này, trong khi đó Chu Kỳ Năm C chỉ theo Phúc Âm Thánh Gioan ở tuần thứ năm.
Về ba tuần 3, 4 và 5 này của Mùa Chay, nếu Năm A thiên về yếu tố nhân sinh và Năm B thiên về yếu tố Thần Linh (như được chia sẻ dưới đây), thì Năm C bao gồm cả hai yếu tố này, qua những bài Phúc Âm nói về việc ăn năn hối cải để được cứu độ ở Chúa Nhật Thứ Ba, về đứa con hoang đàng và lòng cha thương xót ở Chúa Nhật Thứ Tư, cũng như về người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình trước một Chúa Kitô thứ tha nhân hậu ở Chúa Nhật Thứ Năm.
Riêng về chu kỳ Năm B, vì lời loan báo tiên khởi của Chúa Giêsu ở Phúc Âm Thánh Marcô đặt yếu tố mạc khải thần linh trước yếu tố đức tin nhân sinh (xem Mk 1:15), nên ba tuần lễ giữa của Mùa Chay theo Phúc Âm Thánh Gioan cho chu kỳ này đã nhấn mạnh đến thân phận của Chúa Kitô, mạc khải của Thiên Chúa: Người sẽ tử nạn như một đền thờ bị phá hủy (Chúa Nhật Thứ 3); Người sẽ tử nạn như con rắn đồng được treo lên trong sa mạc (Chúa Nhật Thứ 4); và Người sẽ tử nạn như hạt lúa miến cần phải bị mục nát đi (Chúa Nhật Thứ 5). Ngược với Phúc Âm theo Thánh Marcô, lời loan báo tiên khởi của Chúa Giêsu theo Phúc Âm Thánh Mathêu, như đã nhận định ở bài chia sẻ cho Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh, lại đặt yếu tố đức tin nhân sinh trước yếu tố mạc khải thần linh (xem Mt 4:17).
Đó là lý do chúng ta thấy Giáo Hội đã cố ý chọn ba bài Phúc Âm theo Thánh Gioan cho chu kỳ Năm A là chu kỳ vốn theo Phúc Âm Thánh Mathêu này theo chiều hướng đức tin nhân sinh, hơn là yếu tố mạc khải thần linh như trong chu kỳ Năm B. Không phải hay sao, Phúc Âm theo Thánh Gioan cho ba tuần giữa của chu kỳ Năm A đã hoàn toàn thiên về yếu tố đức tin nhân sinh, thứ tự như sau: Chúa Nhật Thứ Ba về người phụ nữ Samaritanô, Chúa Nhật Thứ Bốn về người mù từ lúc mới sinh, và Chúa Nhật Thứ Năm về Lazarô chết đã đến lúc xông mùi trong mồ?
Mùa Chay: Ý Nghĩa và Mục Tiêu
Yếu tố nhân sinh trước yếu tố thần linh nơi Phúc Âm Thánh Mathêu cho chu kỳ Phụng Vụ Năm A càng sáng tỏ hơn nữa nơi Chúa Nhật Thứ Nhất và Thứ Hai Mùa Chay, chẳng những sáng tỏ ở riêng chu kỳ Năm A, mà còn ở cả chu kỳ Năm B và C nữa.
Thật vậy, nơi cả ba chu kỳ A, B và C, yếu tố nhân sinh (chay tịnh) của Chúa Nhật Thứ Nhất, theo thứ tự, thực sự đã xẩy ra trước yếu tố thần linh (biến hình) của Chúa Nhật Thứ Hai. Việc Giáo Hội cố ý sắp xếp hai bài Phúc Âm ở cả ba chu kỳ A, B, C cho hai Chúa Nhật đầu tiên của Mùa Chay như thế, nghĩa là sắp xếp cho việc Chúa Giêsu chay tịnh ở Chúa Nhật Thứ Nhất ngay trước việc Chúa Giêsu biến hình ở Chúa Nhật Thứ Hai, đã cho chúng ta thấy chẳng những ý nghĩa lẫn mục tiêu của Mùa Chay đối với việc chay tịnh Kitô giáo, mà còn cho thấy cả bí ẩn nơi Dự Án Cứu Độ lẫn Công Cuộc Cứu Độ của Thiên Chúa nữa.
Trước hết, về ý nghĩa và mục tiêu của Mùa Chay, chay tịnh, một hành động tiêu biểu cho việc bỏ mình nói chung, không phải là hành động tự hủy diệt mình đi, mà là để thăng tiến hơn, để làm chủ mình hơn, để sinh nhiều hoa trái hơn, tức là để, theo ngôn từ của chính Chúa Kitô, "vượt qua sự chết mà vào sự sống" (Jn 5:24), đúng như thân phận của chính bản thân Người, như Người đã ba lần khẳng định với các môn đệ biết về tương lai khổ nạn và tử giá của Người, đó là: "Người sẽ sống lại vào ngày thứ ba" (Mt 16:21, 17:23, 20:19).
Thật vậy, nếu Chúa Giêsu thực sự là Đấng Thiên Sai, Người phải là Đấng Vượt Qua, tức là Đấng phải chịu khổ nạn, tử giá rồi mới phục sinh, bằng không, nếu chỉ có vinh quang và quyền uy thế lực, Người chỉ là một Kitô giả. Đấng Thiên Sai là Đấng Vượt Qua, đó là tất cả ý nghĩa và cốt lõi của mầu nhiệm Nhập Thể. Đó cũng là tất cả Dự Án Cứu Độ và Công Cuộc Cứu Độ của Thiên Chúa được hiện thực và thực hiện nơi Lịch Sử Cứu Độ. Chính vì biết mình là Đấng Thiên Sai, cũng như biết mình phải Vượt Qua để hoàn tất sứ vụ Thiên Sai của Người, nên khi vừa nghe vị trưởng tông đồ đoàn Phêrô, dù vị này chỉ hoàn toàn theo lòng ngay và hết sức mộ mến Người, lên tiếng muốn can ngăn Người trong việc thực hiện Công Cuộc Cứu Độ, hoàn toàn phản nghịch lại với Dự An Cứu Độ của Thiên Chúa, Đấng đã sai Người, Chúa Giêsu liền nghiêm thẳng khiển trách nặng lời: "Đồ Satan, hãy xéo đi cho khuất mắt Ta! Ngươi chẳng biết phán đoán theo chuẩn mực của Thiên Chúa gì cả, mà chỉ toàn là theo kiểu cách của loài người thôi" (Mt 16:23).
Theo Phúc Âm, có hai dấu chứng tỏ ai thực sự là Đấng Thiên Sai, một là Thần Linh, như chiều hướng của các Phúc Âm Nhất Lãm, và hai là Chân Lý, như chiều hướng của Phúc Âm Thánh Gioan.
Thật vậy, theo Phúc Âm Thánh Gioan trình thuật, Chúa Giêsu đã thực hiện trong suốt cuộc đời trần gian của Người những gì "làm chứng cho chân lý" (Jn 18:37). "Chân lý" cho thấy Người thực sự là Đấng Thiên Sai, bằng cách, như Người chứng tỏ cho dân Do Thái thấy "Tôi từ trời xuống không phải để làm theo ý mình mà là ý Đấng sai" (Jn 6:38; x.4:34), "cho đến chết trên thập giá" (Phil 2:8). Chính vì Người thực sự là Đấng Thiên Sai và lúc nào cũng chỉ biết "chu toàn mọi sự theo lệnh truyền của Thiên Chúa" (Mt 3:15), như lời Người thú nhận để khắc phục Gioan Tẩy Giả phải làm phép rửa cho Người, mà, theo các Phúc Âm Nhất Lãm, Người đã được Thiên Chúa chứng nhận và xức dầu Thần Linh khi Người vừa bước lên khỏi nước. Và việc đầu tiên Chúa Giêsu làm ngay sau khi lãnh nhận phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả, đó là, như Phúc Âm Thánh Mathêu hôm nay cho biết, "được đưa vào sa mạc để chịu ma quỉ cám dỗ", một việc được cả ba Phúc Âm Nhất Lãm đều cho biết là do "Thần Linh" thúc đẩy (Mt 4:1; x. Mk 1:12; Lk 4:1). Nếu việc nào được thực hiện do "Thần Linh" thúc đẩy, dù chưa chính thức là việc tỏ mình ra cho dân Do Thái, như việc Người rao giảng đầy uy quyền hay việc làm đủ thứ các phép lạ, cũng đều chứng tỏ Người thực sự là Đấng Thiên Sai thế nào, thì việc Người "vào sa mạc" nói riêng, và tất cả mọi việc âm thầm Người làm nói chung trong thời gian 30 năm ẩn dật của Người ở Ai Cập và Nazarét, cũng đều là những việc chứng tỏ Người thực sự là Đấng Thiên Sai, chẳng hạn như việc Người tự ý "ở trong nhà của Cha" (Lk 2:49) năm lên 12 tuổi.
Cám Dỗ: Chủ Đích và Đường Lối
Vậy tại sao Thần Linh lại thúc đẩy Chúa Giêsu vào sa mạc để "ăn chay bốn mươi đêm ngày", nếu bản thân của Chúa Giêsu không có tội lỗi gì cả, kể cả mầm mống tội lỗi là đam mê nhục dục là những gì cần phải chế ngự và bỏ đi?
Thật ra, theo chiều hướng của bài Phúc Âm theo Thánh Mathêu hôm nay, "Chúa Giêsu được Thần Linh đưa vào sa mạc" không phải là để "ăn chay bốn mươi đêm ngày" mà là "để chịu ma quỉ cám dỗ". Tức là, nếu hiểu theo bài Phúc Âm này, thì việc "ăn chay bốn mươi đêm ngày" chỉ là cách thức hay phương tiện đưa đến mục tiêu là "để chịu ma quỉ cám dỗ" mà thôi. Nếu ma qủi không làm gì được Chúa Giêsu, nghĩa là không thể nào cám dỗ được Người, thì Người quả thực là Đấng Thiên Sai.
Vậy việc Chúa Giêsu "ăn chay bốn mươi đêm ngày" tự nó không phải là việc đền tội hay hãm mình phạt xác cho khỏi sa ngã phạm tội, trái lại, là việc để Người có thể chứng tỏ Người thực sự là Đấng Thiên Sai, nhờ đó, nhân loại tội lỗi bắt chước làm theo những gì Người đã làm cũng sẽ được thánh hóa bởi giá trị của việc đã được Thần Linh hóa bởi Người.
Việc chay tịnh và hãm mình của Kitô hữu thực sự đã được Chúa Giêsu thánh hóa bằng việc "ăn chay bốn mươi đêm ngày" của Người, ở chỗ, nhờ việc này, nhờ việc bắt chước Chúa Kitô chay tịnh hãm mình, đúng hơn nhờ việc kết hợp với Chúa Kitô khi bắt chước Người trong việc hãm mình chay tịnh, Kitô hữu sẽ làm chủ được bản thân mình, tức sẽ không bị "sa chước cám dỗ", trái lại, họ sẽ được "cứu cho khỏi sự dữ" (Mt 6:13), như chính Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan sau cuộc cám dỗ đủ kiểu của hắn.
Nếu mục tiêu của việc Chúa Giêsu "vào sa mạc" không phải là để "ăn chay bốn mươi đêm ngày", mà là "để chịu ma quỉ cám dỗ" thế nào, thì việc ma quỉ cám dỗ Chúa Giêsu cũng không phải chỉ là việc hắn làm theo bản chất vốn gian trá của hắn (x Jn 8:44), như hắn từng làm với tất cả mọi người tội lỗi ở dưới quyền thống trị của hắn, mà là hắn muốn biết rõ chân tướng của nhân vật kỳ lạ này thực sự là ai, có phải "là Con Thiên Chúa" nhập thể làm người hay chăng?
Nếu một khi biết được nhân vật Giêsu Nazarét này thực sự "là Con Thiên Chúa" nhập thể làm người, hắn sẽ không dám động đến Người nữa, vì hắn thừa biết hắn sẽ không thể nào trực tiếp đương đầu với Người nổi, tuy nhiên, hắn cũng sẽ hết sức cố gắng để gián tiếp ngăn trở Công Cuộc Cứu Độ của Người theo Dự Án Cứu Độ của Thiên Chúa, chẳng hạn, bằng việc không cám dỗ và thúc đẩy dân Do Thái hận thù Người và đòi giết Người. Rất tiếc, cho dù hắn có khám phá ra nhân vật Giêsu Nazarét trong sa mạc bấy giờ quả thực "là Con Thiên Chúa" nhập thể làm người đi nữa, "với những ý nghĩ kiêu căng của chúng" (Lk 1:51), Satan và bọn ngụy thần của hắn (x Rev 12:9) cũng không thể nào ngờ được rằng Đấng Thiên Sai lại phải Vượt Qua, hay cũng là Đấng Vượt Qua quá sức tưởng tượng của một loài tạo vật như chúng.
Qua việc ma quỉ cám dỗ Chúa Giêsu như được Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại hôm nay đây, chúng ta có thể suy đoán được rằng, từ ngày Satan bắt đầu tung hoành "quyền lực tối tăm" (Col 1:13) của hắn trên trái đất, trên loài người, hắn đã không bao giờ được yên ổn, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ vương quốc của hắn một ngày kia sẽ bị "Con Thiên Chúa" nhập thể làm người xuất hiện phá hủy (x 1Jn 3:8). Hắn cai trị loài người mà lại sợ loài người, sợ bị "giòng dõi người nữ đạp dập đầu" (Gen 3:15) của mình. Bởi thế, lúc nào hắn cũng "rình chực" (Rev 12:4) xem trong số thần dân loài người của hắn có nhân vật nào đáng chú ý chăng. Nếu có thì ăn tươi "nuốt" (Rev 12:4) sống ngay tại chỗ. Bởi thế đâu có lạ gì, khi vừa xuất đầu lộ diện, Hài Nhi Giêsu đã bị Hêrôđê truy lùng sát hại rồi vậy (x Mt 2:13). Như thế, trong việc truy lùng sát hại "Con Thiên Chúa" làm người này, có thể hắn cũng đã đến cám dỗ Gioan Tẩy Giả trong hoang địa để xem thánh nhân có phải "là Con Thiên Chúa" chăng, vì thấy "thánh nhân dị chúng nhân". Như thế, công cuộc "cám dỗ" của Satan trước hết và trên hết là nhắm vào việc truy lùng và sát hại "Con Thiên Chúa" nhập thể làm người, hơn là dùng để tác hại đám thường nhân, thành phần vốn ở dưới quyền thống trị và sai khiến của hắn, ở chỗ, hắn đã hoàn toàn chi phối và điều khiển họ bằng chính đam mê nhục dục của họ (x Jas 1:14). Vậy để thi hành đường lối cám dỗ hiểm độc này đối với những nhân vật không đội trời chung như Chúa Giêsu, hắn đã thực hiện như thế nào, nếu không phải chính hắn đích thân ra tay và dồn dập tấn công Người cả ba yếu điểm một lúc nơi là nhục dục, tham lam và hoang đường (x. 1Jn 2:16).
Trong cuộc cám dỗ Chúa Giêsu, Phúc Âm Thánh Mathêu và Luca đều thuật lại việc hắn tấn công ba yếu điểm này nơi Chúa Giêsu để xem Người có phải "là Con Thiên Chúa" nhập thể làm người hay chăng? Tuy nhiên, trong khi Phúc Âm Thánh Luca thuật lại cuộc cám dỗ này theo thứ tự nhục dục (ham mê ăn uống), tham lam (giầu sang phú quí) và hoang đường (thử thách Thiên Chúa, tôn thờ ngẫu tượng), thì Thánh Mathêu thuật lại thứ tự cuộc cám dỗ này ngược lại ở hai yếu điểm cuối: nhục dục, hoang đường và tham lam. Riêng về yếu điểm thứ nhất là nhục dục, một yếu điểm đều được cả hai Phúc Âm thánh Mathêu và Luca thuật lại là Chúa Giêsu đã bị Satan tấn công trước hết, một yếu điểm mà bị bại thì kể như cửa thành đã bị bật mở, địch quân sẽ ùa vào chiếm cứ lập tức, chúng ta có thể đặt vấn đề ở đây là, nếu chỉ vì đói mà ăn thì có tội hay chăng, có xấu hay chăng, vì lúc ấy, theo Phúc Âm thuật lại: "sau khi đã ăn chay 40 đêm ngày Người cảm thấy đói"? Đúng thế, vấn đề là ở chỗ này. Ở chỗ, ngay chưởng đầu tiên Satan tung ra để tấn công mình, chưởng về ăn uống, Chúa Giêsu đã chứng thực Người quả thực là Đấng Thiên Sai, Đấng được Thần Linh điều khiển và đến chỉ để làm theo ý Đấng đã sai chứ không phải ý riêng của mình, khi Người từ chối không tự động biến đá thành bánh mà ăn theo lời xui giục của Satan, nghĩa là Người không ăn chỉ vì đói tự nhiên, nhất là không ăn theo chước cám dỗ của Satan. "Người ta sống không nguyên bởi bánh, song bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra", như lời Chúa Giêsu trích dẫn Thánh Kinh để chống lại chước cám dỗ của Satan là thế đó. Tới đây, chúng ta thấy chay tịnh là để chúng ta có thể dễ dàng "nghe và giữ Lời Chúa" như Mẹ Maria (Lk 11:28).
Vấn đề thực hành sống đạo: Tại sao Thánh Gioan Tẩy Giả nhận ra Chúa Giêsu (x Mt 3:14) ngay khi Người đến xin thánh nhân làm phép rửa cho, Đấng thánh nhân thú là đã không hề biết Người (x Jn 1:33), trong khi Satan khôn lanh lại không nhận ra? Phải chăng, trước hết, vì thánh nhân có một tinh thần khiêm nhượng, luôn sống trong sự thật, còn Satan kiêu ngạo, "không có sự thật nơi mình" (Jn 8:44)?
Sau nữa, vì thánh nhân được Thiên Chúa đã soi động cho biết (x Jn 1:33). Và sau hết vì thánh nhân đã sống hết sức thanh thoát trong hoang địa như "Đấng đến sau", Đấng cũng đã sống ẩn dật 30 năm và bắt đầu xuất đầu lộ diện bằng chay tịnh 40 đêm ngày trong hoang địa. Đúng thế, chỉ khi nào con người chúng ta sống thanh thoát, sống sa mạc, ở chỗ xa lánh tất cả những gì thuộc về thế gian là nhục dục, tham lam và hoang đường, chúng ta mới có thể ở với Chúa Kitô và nhận ra Người (x Jn 1:39), mới có thể vào Đất Hứa, mới có thể cùng Người lên Núi Biến Hình như bài Phúc Âm Chúa Nhật Hai Mùa Chay thuật lại, và Đồi Tử Giá.
Đã có một thời, Việt Nam và Trung Quốc trở thành kẻ thù của nhau vì tranh giành quần đảo: MC 1-ABC202
Đã có một thời, Việt Nam và Trung Quốc trở thành kẻ thù của nhau vì tranh giành quần đảo Trường Sa. Việt Nam bảo quản đảo Trường sa thuộc lãnh thổ Việt Nam. Trung quốc bảo Trường sa là của Trung quốc. Bên nào cũng muốn mình là chủ nhân của quần đảo này, và vì thế, chiến tranh đã xảy ra.
Có một chút gì tương tự như thế trong đời sống thiêng liêng của con người. Thiên Chúa luôn muốn lôi kéo con người về với Người. Người làm thế chỉ vì yêu thương và muốn cho con người hạnh phúc. Trong khi đó, ma quỷ cũng tranh thủ để con người thuộc quyền chúng. Ma quỷ làm thế vì chúng là thù địch của Thiên Chúa. Chúng muốn dẫn dụ con người, đối tượng của tình yêu Thiên Chúa ra khỏi bàn tay của Người.
Hai sự việc có vẻ giống nhau, nhưng thật ra, giữa chúng có một sự khác biệt khá quan trọng. Sự khác biệt đó là: Những hòn đảo thì vô tri nên chúng không có khả năng để chọn lựa thuộc về ai. Trái lại, con người có lý trí để suy nghĩ, có tự do để chọn lựa. Tự do chọn lựa giữa sự sống và sự chết, giữa Thiên Chúa và ma quỷ. Trải qua dòng lịch sử, ta thấy con người đã thể hiện rất rõ khả năng chọn lựa này. Chỉ tiếc một điều là: Không phải ai cũng chọn lựa Thiên Chúa và chọn lựa sự sống. Bên cạnh những người chọn lựa sự sống, không thiếu những người chọn sự chết cho mình. Bên cạnh những người chọn lựa Thiên Chúa, có không ít những người đã tình nguyện làm tôi tớ ma quỷ mà điển hình là ông bà nguyên tổ loài người. Sau khi Thiên Chúa đã chỉ vẽ cho hai ông bà con đường về cõi sống, thì lập tức ma quỷ cũng bày ra lối vào tử địa. Đong đưa trước hai con đường, nhưng cuối cùng hai ông bà đã đi vào nẻo đường dẫn tới sự chết. Giằng co trước mệnh lệnh của Thiên Chúa và lời dụ dỗ của ma quỷ, nhưng cuối cùng hai ông bà đã bước vào chiến tuyến của ma quỷ và quay lưng lại với Thiên Chúa. Thế là thảm cảnh xảy ra cho hai ông bà cũng như cho con cháu. Và cái chết muôn đời xuất hiện trước mắt như là kết quả của sự chối từ Thiên Chúa. Cuộc chiến bại đầu tiên này đã mở màn cho cho các cuộc chiến bại liên tiếp xảy ra sau này cho các thế hệ con cháu ông bà. Sự chối từ Thiên Chúa của ông bà trong buổi ban đầu ấy đã mở màn cho các lần chối từ Thiên Chúa của con cháu ông bà sau này. Thay cho Thiên Chúa đích thực, con người lại dựng nên cho mình nhiều thứ Thiên Chúa khác để tôn thờ như tiền bạc, của cải vật chất, danh vọng, chức quyền, những đam mê bất chính, những dục vọng thấp hèn… Tất cả những thứ đó đã được con người thời đại hôm nay thần thánh hóa và tôn thờ như Thiên Chúa. Người ta thần phục những Thiên Chúa ấy. Người ta quỳ gối trước những Thiên Chúa ấy như những tên nô lệ ngoan ngùy quỳ trước ông chủ của mình. Người ta hãnh diện và hân hoan bước theo những Thiên Chúa ấy mà không biết rằng vực thẳm đang ở trước mặt.
Chúa Giêsu cũng đã trải qua những cơn cám dỗ của đời người. Và ma quỷ cũng đã tìm cách để giật Người ra khỏi vòng tay Thiên Chúa Cha. Không chỉ một lần khi khởi đầu đời sống công khai, nhưng những cơn cám dỗ ấy đã diễn ra triền miên trong suốt chiều dài cuộc đời của Người. Ngay cả trong lúc Người đang quằn quại trên thập giá, ma quỷ vẫn chưa buông thả Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi”. Rất nhiều lần bị cám dỗ, nhưng thái độ duy nhất của Chúa Giêsu trong tất cả các cơn cám dỗ là chiến đấu. Chiến đấu không ngơi nghỉ, chiến đấu nhờ lời Thiên Chúa. Chiến đấu nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Không bao giờ Người thỏa hiệp hay nhân nhượng. Đối với Chúa Giêsu: Cha là trên hết. Chỉ mình Cha là tuyệt đối. Chỉ mình Cha là lẽ sống. Chính như thế đó mà Người đã trả lại được cho chúng ta tước vị làm con Thiên Chúa mà ông bà nguyên tổ và chính chúng ta đã đánh mất. Chính như thế đó mà Người đã kéo chúng ta ra khỏi cõi chết để đưa vào cõi sống ngàn thu.
Chúng ta muốn được làm con cái Chúa hay con cái ma quỷ, muốn sống hay chết là tùy chúng ta. Chính thái độ của chúng ta trước những cơn cám dỗ trong đời sẽ cho ta biết rõ điều đó.
Ngày 24/05/1979, Ông MC . Namara, chủ tịch Ngân hàng Thế giới 11 năm, đã cảnh giác thế giới mỗi năm phung phí vào việc sản suất võ khí giết người 30 tỷ đô la với 500.000 bác học và kỹ sư.
Ngày 26/08/1986, đài Hànội loan tin Mỹ dự trù 1.000 tỷ đô la vào nghiên cứu chiến tranh tinh cầu. Mỹ dã ba lần thử bắn hỏa tiễn phá vệ tinh đang bay. Đó là cách hủy diệt loài người.
Lúc nào thế giới cũng chọn sự chết hơn sự sống. Adam Eva dù được sống sung sướng trong vườn thượng uyển đầy của ngon vật lạ dưới bóng cây sự sống, cây sự thiện của Thiên Chúa, ông bà vẫn chạy theo tử thần (Bài 1).
Phần Đức Giêsu, Người đã chạy theo Thánh thần, theo thần Sự sống. Dù phải sống trong hoang địa khô cằn kham khổ, Ngài vẫn chọn lối sống hiến dâng toàn thân cho Cha trên trời. Ngài không màng chi lương thực lạc thú danh vọng và của cải vật chất. Ngài thực sự chỉ chuyên lo sống mật thiết trọn vẹn trong tình cha con với Thiên Chúa. Trong những giờ phút linh thiêng nhất đó, quỷ dữ đã mò tới tấn công mãnh liệt để phá vỡ mối tình thắm thiết giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa, như nó đã phá vỡ cuộc sống thân thiết giữa Adam và Thiên Chúa. Nó không muốn Người được làm Con Thiên Chúa nên nó nói: Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hóa nên bánh, ... thì hãy gieo mình xuống ... Nó tôn Ngài làm Con Thiên Chúa để phỉnh lừa Ngài theo nó. Nếu trổ tài làm theo quỷ, tất nhiên là thuộc về quỷ, đâu còn thuộc về Thiên Chúa nữa. Ôi, lậy Chúa, quỷ dữ cực kỳ xảo quyệt !
Đức Giêsu sống trên dương thế như một vị cứu tinh đứng giữa sự sống và sự chết, giữa trời và hỏa ngục, như Adam Eva đứng giữa cây sự sống và sự chết, giữa Thiên Chúa và quỷ dữ. Adam Eva đã bị quỷ dữ đánh lừa. Trái lại, Đức Giêsu đã luôn luôn chọn Thiên Chúa không để quỷ dữ đánh bại, Người phải đánh bại quỷ dữ để giải phóng loài người thoát ách tử thần quỷ dữ.
Tử thần thứ nhất là cơn đói khát của thân xác, lúc nào cũng đòi lạc thú, nấp bóng dưới dạng no say, si mê tứ khoái: mê rượu, mê dâm, mê bạc, mê ma túy. Càng mê càng khổ, đến tan xác mới hết mê. Đức Giêsu đã chiến thắng quỷ dữ đó bằng sống lời Chúa: “Người ta sống không nguyên bởi bánh nhưng bởi mọi lời Thiên Chúa phán ra”.
Tử thần thứ hai là kiêu ngạo thử thách Thiên Chúa phải làm cho mình những điều lạ lùng càn dở: “Cứ gieo mình xuống Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ nâng đỡ bạn khỏi vấp chân vào đá”, làm theo quỷ nịnh hót chắc chắn tan xác, nên Đức Giêsu đã nói: “Ngươi đừng thử thách Thiên Chúa”. Người đã đánh bại quỷ dữ bằng đường lối sống hoàn toàn hạ mình xuống, phó thác trọn vẹn vâng theo thánh ý Chúa, dù phải chịu đau khổ và chết trên thập giá.
Tử thần thứ ba là tiền của, biết bao nhiêu kẻ đã phục mình xuống luồn cúi chạy chọt vì tham ô, móc ngoặc, phạm những tội tầy trời. Salômôn hàng năm thâu vào kho 666 tạ vàng, cứ ba năm ông cho đoàn tầu đi chở vàng bạc châu báu ngọc ngà về. Sống trên núi vàng tiền của, ông phục mình xuống thờ lạy tà thần trụy lạc, làm ô danh Thiên Chúa đã ban cho ông được khôn ngoan nhất thiên hạ. Mạc đăng Dung, một kẻ vũ phu, ham giầu, ham danh, đã chiếm ngôi vua Lê chiêu Tôn, tưởng được hưởng mọi vinh hoa phú quý. Ai ngờ phải tự trói mình đi đến tận ải Nam Quan quỳ lậy nộp mình cho quân Minh xin tha chết. Một vết nhơ nhất trong lịch sử Việt Nam. Quỷ đã dùng bả vinh hoa đó nhử bao nhiêu người xuống hố diệt vong.
Trước những mưu mô hiểm độc của quỷ dữ, Đức Giêsu đã quyết liệt đuổi quỷ cút đi lập tức: “Quỷ satan kia, xéo đi ! vì ngươi phải thờ lậy Thiên Chúa là Chúa ngươi, và thờ lậy một mình Người mà thôi”.
Lậy Chúa Giêsu, Chúa đã thẳng tay xua đuổi quỷ xéo đi, nhưng “chúng vẫn còn rình mò chúng con như sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cấu xé” (1Pr. 5). Xin Chúa mau đến giải thoát chúng con khỏi nanh vuốt tử thần quỷ dữ, cho chúng con an tâm vững chí sống theo lời Chúa và tiến bước trên đường phụng sự Chúa đến hơi thở cuối cùng. Amen.
‘Cám dỗ’ là từ chìa khóa của phụng vụ các bài đọc hôm nay. Trong bài đọc 1, con rắn đã xảo quyệt dụ dỗ Ađam và Eva. Đức Giêsu, cũng đã bị ma quỷ cám dỗ trong hoang địa (Tin Mừng). Tuy nhiên, trong khi Ađam- Eva đã sa ngã, đã xấu hổ vì tội của họ, Đức Giêsu đã chiến thắng cám dỗ, giải thoát chúng ta khỏi mọi xiềng xích của tội (bài đọc 2). Do đó Đức Giêsu trở thành Ađam mới, đích thực, là mẫu mực lý tưởng của nhân loại được Thiên Chúa yêu mến.
Sứ Điệp Niềm Tin
Cám dỗ là điều thường tình trong đời sống con người. Vô số những mánh khoé quỷ quyệt của sự dữ làm hại cuộc đời của một người trưởng thành, có trách nhiệm và tự do. Không ai trên trần đời này mà không bị cám dỗ. Satan, Thủ lãnh thế gian này, chỉ muốn gieo rắc sự dữ cho mọi tạo vật của Chúa. Ađam và Eva đã bị hai cám dỗ cùng một lúc: họ muốn hiểu biết hết mọi sự và muốn hoàn toàn làm chủ cuộc đời. Cho đến ngày nay, nhân loại vẫn đang khao khát sự hiểu biết vô tận và vẫn muốn làm chủ hoàn toàn cuộc sống mình. Họ muốn đạt đến cây trái cấm, hơn là muốn vui thỏa hạnh phúc với những điều Thiên Chúa ban tặng. Họ tưởng rằng Thiên Chúa cấm đoán họ chỉ vì Ngài muốn bắt họ làm nô lệ và phục tùng, như một con chó ngoan ngoãn. Con người nhận định Thiên Chúa, không như một người cha, mà như là một đối thủ, một thù địch. Sự thật hoàn toàn trái ngược:
Thiên Chúa có cấm đoán điều gì, cũng chỉ vì yêu thương ta, vì Ngài biết rằng điều cấm làm hại chúng ta. Đáng thương thay, con người không tin ở Chúa, đã giơ tay hái trái cấm. Họ đã bỏ rơi Chúa và tự giam mình trong sự khốn nạn và trần trụi của lòng kiêu căng. Rồi họ mới nhận ra điều mà họ đã cho là tự do, đều giả dối, độc ác. Mỗi người đều cảm nghiệm nơi chính bản thân mình những hệ lụy của tội. Đức Giêsu, là con người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi, cũng đã bị cám dỗ. Đức Kitô đã bị cám dỗ nhiều lần trong đời Ngài. Thánh Matthêu tập chú vào những cám dỗ buổi đầu sứ mạng công khai của Đức Giêsu. Ngài đã bị cám dỗ cũng giống như dân Ítraen ngày xưa trong hành trình sa mạc: quyền lực và giàu sang. Dân ítraen đã quỵ ngã trước những cám dỗ, còn Đức Giêsu thì chiến thắng vẻ vang. Theo thánh Augustinô, chúng ta sẽ chiến thắng mọi cám dỗ nếu ta biết liên kết với Đức Kitô trong chay tịnh, cầu nguyện và sám hối. Cơn cám dỗ lớn nhất của con người là tin rằng mình vĩ đại “như Thiên Chúa”. Lời khuyên quan trọng nhất của Đức Giêsu Kitô đó chính là mẫu gương của Ngài. Dù mang nơi mình sự cao cả của một Thiên Chúa, Đức Giêsu vẫn là một con người. Và giống như ta, Ngài cũng là đối tượng của cám dỗ. Ađam và dân Ítraen đã cho thấy sự mỏng giòn và nhỏ bé của thân phận con người trước cám dỗ. Đức Giêsu, trái lại, luôn biểu lộ sự cao cả của Ngài, và qua chiến thắng, Ngài mời gọi ta và giúp ta thực hành giống như Ngài.
Gợi ý Mục Vụ.
Cám dỗ luôn rảo quanh, rình rập, vồ lấy ta. Điều cần quan tâm là mọi người phải luôn trong tư thế chuẩn bị đối đầu với cám dỗ. Đừng nghĩ rằng chỉ có tuổi trẻ mới bị cám dỗ. Mùa Chay là cơ hội thuận lợi để trình bày những tiêu điểm của cám dỗ và tội lỗi trong những những sinh hoạt của con người: cám dỗ đi theo “một tôn giáo khác”, dễ dải và thích thú hơn, cám dỗ hưởng thụ vật chất, ngẫu tượng do tay con người tạo ra, cám dỗ chống đối bất tuân với chính quyền cũng như giáo quyền, cám dỗ bất đồng chỉ vì muốn bất đồng, cám dỗ gian dối, tham nhũng, ngoại tình, phá thai, gian dâm… Những thứ cám dỗ ấy vây phủ chúng ta. Một bài giáo lý có chiều sâu về sự tự do và về trách nhiệm trước Chúa và lương tâm, rất cần thiết. Trong cơn cám dỗ, ta chứng tỏ cho thấy mình xử dụng tự do của mình có đúng đắn không. Ngày nay, đang có khuynh hướng chối bỏ trách nhiệm về những việc mình làm. Môi trường, yếu kém về tâm lý….(là những lý do được đưa ra) làm cho ta khỏi bị khiển trách. Cần phải phản ứng lại. Thay vì giảm nhẹ trách nhiệm, ta cần cố gắng giúp cho mọi người tự do đích thực và có trách nhiệm thực sự về những hành vi của họ. Nếu không, thay vì cải thiện xã hội, ta sẽ đẩy nó rơi vào tình trạng khinh thường tất cả và đến sự băng hoại.
Trước khi bắt đầu sứ vụ rao giảng công khai, Chúa Giêsu vào hoang địa ăn chay cầu nguyện bốn mươi đêm ngày. Sau đó ma quỷ đến cám dỗ Chúa về ba thứ: miếng ăn, kiêu ngạo và danh vọng.
CÁM DỖ VỀ MIẾNG ĂN:
Biết Chúa trong suốt bốn mươi đêm ngày không ăn uống gì, chắc hẳn phải đói lắm, ma quỷ khôn khéo lợi dụng cái đói bụng để cám dỗ Chúa. Chúng đưa ra một hòn đá và bảo Chúa hãy truyền cho nó biến thành bánh mà ăn. Tại sao ma quỷ không đem ngay bánh tới để cám dỗ mà lại dụ dỗ Chúa làm phép lạ cho đá hóa thành bánh ? Điều đó cho chúng ta biết ma quỷ không cám dỗ Chúa về sự mê ăn uống, bởi vì một người ăn chay trường được thì không phải là người mê ăn, một tấm bánh có gì đáng mê ăn, hơn nữa, một người đói cần ăn, không có gì là xấu, cho nên, ở đây ma quỷ muốn cám dỗ Chúa dùng sai khả năng, sai mục đích, dùng uy quyền vô lý, ma quỷ muốn Chúa biểu diễn một phép lạ không có lý do chính đáng. Nếu Chúa làm phép lạ thì Chúa không còn uy quyền trên ma quỷ nữa, vì đã vâng phục chúng. Nếu Chúa làm phép lạ thì chứng tỏ Chúa không còn tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa Cha nữa. Nếu Chúa làm phép lạ thì mắc mưu ma quỷ, nghĩa là chúng bảo Chúa hãy sử dụng quyền phép mà giải quyết việc đói bụng. Nhưng chúng thất bại hoàn toàn, Chúa không chê cơm bánh, Chúa cũng không làm phép lạ, Chúa đã dùng sức mạnh của chính lời Chúa trong Kinh Thánh để chiến thắng cám dỗ. Chúa bảo cho ma quỷ biết: “ Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra”.
CÁM DỖ VỀ KIÊU NGẠO:
Ma quỷ đưa Chúa lên nóc đền thờ Giêrusalem và xúi bẩy Chúa nhảy xuống. Nếu Chúa nhảy xuống thì thật là một hành động ngoạn mục, giả như bị chết hay bị thương thì càng tốt, còn nếu không hề hấn gì như lời Thiên Chúa nói là Thiên Chúa sẽ ra lệnh cho thiên thần đỡ nâng, thì Chúa sẽ được mọi người ở dưới vỗ tay tung hô ca tụng và được biết đến như một người Thiên Chúa sai đến. Như vậy, khi xúi giục Chúa nhảy xuống là ma quỷ đã khích động lòng kiêu ngạo vốn thường có nơi mỗi người. Quả thực, ma quỷ muốn Chúa kiêu ngạo như chúng. Tính kiêu ngạo thường ẩn núp dưới hai hình thức: là tôn trọng mình cách vô lối và muốn mọi người khác phải đề cao mình. Ma quỷ là cha thần kiêu ngạo, chúng đem kiêu ngạo vào mọi lãnh vực, đó là điểm rắc rối của cuộc đời. Biết bao người đã là nạn nhân của lòng tự ái, lòng háo danh, tự hào tự phụ về tài năng, sắc đẹp và cả nhân đức nữa. Nhưng một lần nữa Chúa Giêsu lại chiến thắng ma quỷ và bảo cho chúng biết qua lời Kinh Thánh: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”, nghĩa là đừng đòi hỏi Thiên Chúa làm phép lạ vô ích.
CÁM DỖ VỀ DANH VỌNG:
Ma quỷ lại đưa Chúa lên núi cao, chỉ cho Chúa thấy khắp bàn dân thiên hạ, thấy mọi vinh quang phú quý uy quyền, rồi hứa biếu Chúa tất cả nếu bằng lòng uốn gối quỳ thờ lạy chúng. Thờ lạy tức là vâng phục, là đầu hàng. Lời dụ dỗ của ma quỷ rất hấp dẫn, vì dân Do Thái lúc bấy giờ đang trông đợi một Đấng Mêsia trần thế, một anh hùng, một vị cứu tinh đến giải thoát dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc. Vì thế, ma quỷ xúi Chúa thờ lạy chúng đi là được ngồi ngay vào ghế đó. Cờ đến tay rồi, còn chờ gì nữa không cầm mà phất lên. Nhưng Chúa Giêsu đã từ chối bằng câu Kinh Thánh: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.
Sự kiện cám dỗ này dạy chúng ta nhiều điều, chúng ta hãy nhớ ba điều sau đây:
Thứ nhất, là con người, chúng ta có rất nhiều nhu cầu, nhưng vấn đề là phải biết: đâu là nhu cầu chính yếu đâu là nhu cầu phụ thuộc. Kinh Thánh cho biết chỉ có hai thứ nhu cầu mà thôi: nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Nhu cầu vật chất là cơm ăn, áo mặc, nhà cửa, nhu cầu tinh thần là sự sống vĩnh cửu, con người phải có hai nhu cầu đó mới sống được. Chúa đã dạy: “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Trời”. Nghĩa là trong khi lao động để tìm kiếm những nhu cầu vật chất chúng ta đừng quên tìm kiếm những nhu cầu tinh thần trước hết.
Thứ hai, chúng ta cần phải cảnh giác trước những gì là hình thức hào nhoáng bên ngoài. Nhiều người dễ bị lầm, đến khi nhận ra thì đã quá muộn và đụng phải một thực tế phũ phàng. Vì thế, đừng để cho vẻ hào ngoáng bên ngoài cám dỗ. Những ai chạy theo vẻ bên ngoài thì sẽ chỉ gặp cái vỏ bên ngoài. Cái thực chất mới đáng theo đuổi. Thực chất nằm ở trong những gì giá trị lâu dài chứ không nằm trong những gì hào nhoáng nhất thời.
Thứ ba, là con cái Chúa, mặc nhiên chúng ta trở thành mục tiêu tấn công của ma quỷ. Ma quỷ rất tinh quái và xảo quyệt, thánh Phaolô gọi chúng là một kẻ thù hiểm độc, một nhà chiến lược đầy tội ác, chúng dùng mọi cách để cám dỗ chúng ta. Vì thế, chúng ta phải đứng về phe Chúa, phải nương nhờ vào sức mạnh của Chúa mà chiến đấu, nếu không chúng ta sẽ dễ dàng bị thất bại. Nương nhờ vào Chúa bằng cách chăm chỉ cầu nguyện, ăn chay, sống chân thật, ngay thẳng, đọc Kinh Thánh và dùng Lời Chúa để chiến thắng cám dỗ như Chúa đã làm gương.
• BÀI ĐỌC 1: Sáng thế 2,7-9; 3,1-7= CÁM DỖ VÀ TỘI LỖI - Phó tế Nguyễn Định Tội của ông bà nguyên tổ: Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng…./ Sin of Our First Parents: Then the eyes both of them were opened, and they realized that they were naked.
• BÀI ĐỌC 2: Rôma 5, 12-19= Những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính thì sẽ được sống./ Those who receive the overflowing grace and gift of justice live and reign through the one man, Jesus Christ.
• TIN MỪNG (Gospel): Mat 4, 1-ABC11= Xatan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.../ Get away, Satan! It is written: The Lord, your God, shall you worship and him alone…
A-Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: (Some points of Reflection, live out and share)
1- Cám dỗ để chọn lựa: Là người Tín hữu sau khi chịu phép Rửa, có tự do và trách nhiệm thì tất nhiên phải có thử thách để chọn lựa, Chúa Kitô cũng vậy: “Bấy giờ Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu ma quỉ cám dỗ.” (Mat 4, 1) Chính Chúa Thánh Thần lúc nào cũng đi với Ngài trong khi bị cám dỗ và lúc rao giảng. Đời sống của tôi cũng vậy, Ngài luôn đi bên tôi để che chở và dẫn dắt tôi trong mọi lúc, nếu tôi khiêm tốn cậy nhờ và tin tưởng vào Ngài. Chia sẻ kinh nghiệm khiêm tốn cầu nguyện khi bị cám dỗ.
2- Cương quyết chống Cám dỗ: Bạn thấy trong ba lần chịu cám dỗ, Chúa Giêsu đều dùng Kinh Thánh để chống lại ma quỉ một cách mạnh mẽ: “Xa-tan kia xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi…” (Mat 4, 10) Nếu bạn thật sự tin vào Lời Chúa để chống lại cơn cám dỗ, bạn sẽ thắng. Dân Ít-ra-en xưa đã bị vấp ngã trong sa mạc vì lẩm bẩm kêu trách Chúa, thiếu khiêm tốn và cầu nguyện. Chúa cho bạn một bài học khị bị cám dỗ. Nói về cách chiến thắng sau một cơn cám dỗ của bạn.
3- Không nghe lời phỉnh gạt: Con rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật đã đặt câu hỏi với bà Evà và bà đã nói: Thiên Chúa đã bảo: ‘Các ngươi không được ăn, không được đụng tới kẻo phải chết. Và con rắn đã nói với bà: “Chẳng chết chóc gì đâu!” (St 2, 3-4) Mỗi ngày tôi phải trải qua những lôi cuốn của thế gian, ma quỉ, xác thịt của bằng những thúc đẩy khôn khéo, lừa đảo, mưu mô, xảo quyệt, khêu gợi lòng tham lam, gây cho nhiều Tín hữu phải sa ngã đáng thương. Cảm nhận những sa ngã hiện nay của các Tín hữu.
4- Lòng thương xót Chúa: Thánh Phaolô nói lên sự sa ngã của Adam, đã làm cho ân sủng của Thiên Chúa là ban cho nhân loại Đức Giêsu Kitô, giúp con người sa ngã được trở nên công chính thật là lớn lao: “Quả vậy, những ai được Thiên Chúa ban cho ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, sẽ được sống và được thống trị.” (Rom 5, 17) Vâng, lòng thương xót Chúa qúa nhiều với tôi như: Sức khỏe, học vấn, việc làm, cha mẹ, vợ chồng, con cháu và nhiều ơn khác nữa. Sự quyết tâm trở thành người công chính của tôi.
B- Câu Kinh Thánh đánh động tôi chọn làm Châm ngôn sống tuần này: (The Best of God’s Word)
BẤY GIỜ ĐỨC GIÊSU ĐƯỢC THẦN KHÍ DẪN VÀO HOANG ĐỊA ĐỂ CHIỤ MA QUỈ CÁM DỖ
At that time Jesus was led by the Spirit into the desert to be tempted by the devil. (Mat 4, 1)
C- Ngay bây giờ tôi phải làm gì để thắng cám dỗ: (So what am I doing/ For Action)
1/ Khiêm tốn và cầu nguyện với Lời Chúa luôn. 2/ Xa lánh ngay các dịp làm mình dễ sa ngã. 3/ Không nghe lời phịnh nịnh, tâng bốc. 4/ Chu toàn tốt bổn phận gia đình và xã hội…
D- Bạn và tôi cùng cầu nguyện và Sống cầu nguyện: (I pray and practice / pray in Action)
Lạy Cha, Đức Giêsu đã cương quyết nói với ma quỉ: Xa-tan kia, xéo đi ! Xin giúp con mạnh mẽ chống lại các dịp tôị, đang lôi cuốn con trong cuộc sống nhiều xô bồ, và quyễn rũ hôm nay nhất là tiền và tình.
1/ Đức Giêsu được Thần Khí dẫn và hoang địa để chịu ma quỉ cám dỗ. Đã là con người như chúng ta nên phải chịu thử thách và phải có sự chọn lựa. Qua cám dỗ đã chứng tỏ Ngài thực là con Thiên Chúa. Còn tôi qua những thủ thách, cám dỗ, tôi đã có hành động nào? Những gì làm đã tôi vấp ngã?
Jesus was led into the desert by the Spirit to be tempted by the devil. ( Math. 4, 1 )
2/ Trong ba cám dỗ Đức Giêsu phải chịu là: về của ăn - về quyền thế - về của cải. Ngài đã anh dũng chiến đấu với Satan bằng Lời Chúa trong Kinh Thánh và đã thắng! Bạn đã học hỏi Kinh thánh được bao nhiêu để thắng cám dỗ? Trong gia đình và đoàn thể có cần chia sẻ Lời Chúa không? Taị sao ?
At this, Jesus said to him, "Away with you, Satan! Scripture says:…Scripture has it…; ( Math. 4, 4-10 )
3/ Trong thư gởi Rôma, thánh Phaolô viết: "…nhờ một người duy nhất đã vâng Lời Thiên Chúa thì muôn người sẽ thành người công chính." Adam là căn nguyên của tội lỗi, Đức Giêsu là nguồn mạch sự sống. Làm sao để gia đình tôi sống bình an và hạnh phúc? Tôi đang làm gì cho Giáo xứ và xã hội?
… one man"s disobedience … through one man"s obedience all shall become just. ( Rom. 5, 19 )
4/ Sách sáng thế viết: "Còn trái trên cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đã bảo: Các ngươi không được ăn, không được động tới,kẻo phải chết." Nhân loại và tội lỗi đang phá trật tự mà Thiên Chúa muốn khi sáng tạo con người. Tôi sống thế nào trong cuộc sống nhiều cãm bẫy hôm nay? Việc tôi quyết làm ?.
B- Tôi chọn câu Kinh Thánh hay nhất làm Châm ngôn Sống: ( The Best God"s Word )
• NGƯỜI TA SỐNG KHÔNG PHẢI CHỈ NHỜ CƠM BÁNH, NHƯNG CÒN NHỜ
MỌI LỜI MIỆNG THIÊN CHÚA PHÁN RA. ( Math.4, 4 )
C- Ngay bây giờ tôi phải làm gì để Sống theo Lời Chúa: ( So what am I doing? For action )
• Tôi chọn 1 trong 4 Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A đề áp dụng vào đời sống.
• Tôi cầu nguyện- đọc Lời Chúa--tránh tham ăn uống- địa vị-vật chất-biết lắng nghe người khác…
D- Tôi luôn Cầu nguyện và Sống lời tôi Cầu nguyện: ( I pray and practice / Prayer in action )
1- Lạy Chúa, trong ba lần liên tiếp bị cám dỗ, Đức Giêsu đã dùng Lời Kinh Thánh để đối đáp lại ma quỉ. Xin cho con biết nhớ Lời Chúa dạy và cầu nguyện thật nhiều khi bị thử thách trong cuộc sống.
2- Thánh Phaolô đã nói: Vì một người mà tội lỗi đã xâm nhập vào trần gian và tội lỗi gây nên sự chết. Xin Chúa dạy con luôn tỉnh thức để tránh xa các dịp nguy hiểm lôi cuốn của thế gian.
3- Sách Sáng thế cho biết: Bà Evà đã nghe lời con rắn hái trái cây ăn rồi đưa cả cho chồng cùng ăn. Xin gíup con biết sáng suốt và can đảm thi hành Lời Chúa trong mọi cám dỗ về vật chất.
Lời hay ý đẹp: HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH LÀ MỘT CUỘC HY SINH VÀ TỬ ĐẠO LIÊN TIẾP TRONG ƠN CHÚA ĐỂ LÀM THÀNH CỦA LỄ SỐNG ĐỘNG.
Trong một câu chuyện thân mật giữa một tu sĩ già 70 tuổi và một tu sĩ trẻ, tu sĩ trẻ tâm sự: "Ở cái tuổi của tôi, cơn cám dỗ tôi cảm thấy phải chiến đấu dữ dằn nhất là làm sao giữ được tâm hồn trong sạch. Không hiểu tới tuổi nào thì cám dỗ mới chịu tha!" Vị tu sĩ già cười và tếu táo nói: "Tuổi 70". Thế rồi vào một ngày nọ khi hai tu sĩ đang coi TV giải trí, bất thình lình hình ảnh hai anh chị yêu nhau thân mật hiện lên. Đêm về hai tu sĩ chứng kiến cảnh chiến đấu trằn trọc của vị tu sĩ già: "Không được! Không được! Tội lỗi! Tội lỗi! Xin Chúa thương xót con!". Sáng hôm sau, tu sĩ gia gặp tu sĩ trẻ và nói: "Bạn còn nhớ những gì tôi nói với bạn hôm nao về vấn đề cám dỗ không? Về cái tuổi không còn bị cám dỗ nữa đó? Tôi lầm rồi. Đúng ra là 71 tuổi chứ không phải là 70".
Câu chuyện cho thấy cám dỗ thử thách là một kinh nghiệm lâu dài trong suốt cuộc đời tại thế. Cám dỗ đến với mọi người bất kể tuổi tác, nam nữ, hay cấp bậc văn hoá. Cám dỗ đến với mỗi người cách khác nhau, tùy theo tính tình, hoàn cảnh sống, và khả năng của mỗi người. Cám dỗ chỉ kết thúc khi ta nhắm mắt lìa đời.
Thiên Chúa cho phép cám dỗ xảy ra như phương thế giúp chúng ta chứng tỏ tình yêu đối với Ngài, lớn lên trong nhân đức, và trưởng thành hơn. Thánh Phaolô cho biết Thiên Chúa không để cho chúng ta bị cám dỗ quá sức mình, ám chỉ là Thiên Chúa cho phép cám dỗ xảy ra trong giới hạn của chúng ta. Vì thế cám dỗ không phải là tội. Chúng ta tin chắc rằng những cám dỗ chúng ta gặp hàng ngày cũng nằm trong ý định của Thiên Chúa đối với chúng ta.
Trong bài Phúc âm hôm nay, thánh Matthêô trình bày cho chúng ta hình ảnh Chúa Giêsu bị ma quỉ cám dỗ trước khi Người bắt đầu sứ mạng công khai rao giảng Tin mừng. Trong ba cơn cám dỗ ma quỉ xúi giục Ngài: thứ nhất hãy biến đá thành bánh, thứ hai hãy thi hành quyền bính trên dân chúng, và thứ ba hãy cứu mình khỏi phải chết.
Trong cơn cám dỗ thứ nhất ma quỷ đề nghị với Chúa là Ngài có thể chiếm được sự kính trọng và biết ơn của dân chúng bằng việc đáp ứng nhu cầu vật chất của họ. Chúa đã chống lại chước cám dỗ bằng việc nhìn nhận là trong cuộc sống còn nhiều cái quan trọng hơn thỏa mãn giác quan. Chỉ có của ăn vật chất không thì chưa đủ.
Trong cơn cám dỗ thứ hai, ma quỷ đề nghị với Chúa là Ngài có thể biểu diễn quyền lực phi thường để làm cho dân chúng kinh ngạc và do đó có thể thu hút lôi kéo họ. Chúa Giêsu đã thẳng thắn khẳng định là Ngài không muốn dùng quyền phép để ép dân chúng theo ý Ngài. Thứ quyền bính đó là thứ quyền bính của ma quỷ, chỉ trói buộc dân chúng. Chúa Giêsu muốn tình yêu của con người được tự do dâng hiến. Ngài mời gọi họ trở nên con cái Chúa chứ không muốn ép họ.
Trong cơn cám dỗ thứ ba, ma quỷ cám dỗ Ngài tránh né con đường thánh giá đau khổ đưa tới cái chết thê thảm. Chúa Giêsu đã từ chối con đường vinh quang thế tục và chấp nhận con đường thánh giá đau khổ. Chính con đường phục vụ và đau khổ thập giá đã chiến thắng sự chết và dẫn tới sự phục sinh vinh quang.
Chúa Giêsu bị cám dỗ trong mọi lãnh vực như chúng ta, nhưng Ngài đã không phạm tội. Ngài được đầy tràn Thánh Thần, Đấng đã nâng đỡ Ngài qua cơn cám dỗ và giúp Ngài chiến thắng thần dữ. Ngài dựa trên Lời Chúa như một vũ khí vũng chắc để đối phó với tất cả những cám dỗ thử thách. Ngài thật là gương mẫu cao cả đáng cho chúng ta noi theo trong việc đối phó với mọi chước cám dỗ.
Mùa Chay là cơ hội tốt giúp chúng ta sống gần Chúa và tiến tới sự đầy tràn của Chúa Thánh Thần. Chúng ta hãy bắt chước Chúa Giêsu chấp nhận của an và sức mạnh của Thiên Chúa và can đảm từ chối đường lối của ma quỷ, từ chối của ăn và quyền lực nọ trao tặng. Chúng ta hãy tin tưởng Thiên Chúa sẽ nâng đỡ chúng ta trong tất cả những gian nan thử thách.
Chúa Kitô đã làm người. Ngài đã sống một mùa chay. Mùa Chay và thân phận con người thật gần gũi bởi vì mùa chay có cám dỗ, có chiến đấu và có tự do lựa chọn. Chuyện kể Chúa Kitô đã vào sa mạc bốn mươi đêm ngày để ăn chay, cầu nguyện và chịu cám dỗ. Lần thứ nhất khi Chúa đói, kẻ cám dỗ bảo Ngài biến đá thành bánh. Lần thứ hai khi Chúa đứng trên đỉnh đền thờ, kẻ cám dỗ bảo Ngài hãy gieo mình xuống. Lần thứ ba khi cho Chúa xem thấy mọi vẻ đẹp và vinh quang trần thế, kẻ cám dỗ hứa sẽ ban cho các điều đó nếu Ngài cúi mình xuống thờ lạy. Với những cám dỗ này, kẻ thù của Chúa có ý muốn cho Ngài hoặc chối bỏ thân phận làm người của mình, hoặc làm nô lệ cho những khuynh hướng tự nhiên của con người. Chúa Kitô đã vượt thắng mọi cám dỗ!
Chúa Giêsu đã không dùng quyền năng Thiên Chúa của mình để biến đá thành bánh, biến cứng thành mềm, biết khó thành dễ để thỏa mãn những nhu cầu của mình. Ngài cũng không gieo mình từ đền thờ để "trình diễn", để chứng minh và được ngưỡng mộ. Ngược lại, Chúa đã chịu đói, chịu khát, chịu yếu đuối và bị giới hạn vì Ngài chấp nhận đó là thân phận con người. Qua đó, Chúa cùng chịu yếu đuối và chia sẻ với chúng ta sự đói khát, những nhu cầu bình thường của cuộc sống. Ngài chia sẻ với chúng ta không chỉ những thiếu thốn cơm bánh mà còn cả những đói khát tình thương, đói khát công bình, đói khát tự do... Chúa hiểu thế nào là đói, là khát và dạy chúng ta chấp nhận đó là thân phận con người, nhưng đồng thời Ngài cũng dạy chúng ta làm một người con tự do của Thiên Chúa và chính Ngài đã làm gương cho chúng ta không nên lệ thuộc vào những ân huệ của trần gian. Trong sa mạc của Chúa Kitô hơn 2000 năm trước cũng như sa mạc của mỗi người chúng ta hôm nay, giữa những đói lạnh, thiếu thốn, hoang vắng, cô đơn, hao mòn của cuộc sống, ai lại chẳng mơ ước giây phút giàu sang sung sướng, có bạn bè vui chơi, có địa vị quyền thế, có an toàn hưởng thụ, được danh tiếng kính nể... Và chúng ta có thể bị cám dỗ một đời nô lệ cho những điều này hoặc cúi mình khuất phục trước sự dữ để đạt được những lợi lộc và chút vinh quang trần thế ban tặng.
Mùa Chay của Chúa Kitô không chấm dứt sau bốn mươi đêm ngày vất vả chiến đấu trong sa mạc. Đó chỉ là hình ảnh khởi đầu và còn kéo dài cho đến khi Chúa thở hơi cuối cùng trên Thánh giá. Chúa đã thi hành sứ mạng rao giảng bằng kiếp sống nay đây mai đó, chịu nhiều thiếu thốn, nghèo khổ, đón nhận nhiều khó khăn do sự cứng lòng, hiểu lầm, báo thù, ghen tương, đố kỵ của những người cùng thời. Ngài chẳng có chút địa vị, chức phận nào trong hàng tư tế, vương giả dân Do thái ngoài "căn cước" độc nhất:"Con bác thợ mộc Giuse làng Nazareth" (Mt 13:35). Ngài chịu bách hại bởi những nhà lãnh đạo Do thái, các Tư tế, Luật sĩ, Biệt phái... bị chối bỏ bởi những Tông đồ, bạn hữu thân thiết của Ngài, và chết nhục nhã trên Thánh giá sau khi bị tước đoạt hết mọi sự... Rồi trong giây phút cuối cùng trên Thập giá, Chúa Kitô lại một lần nữa bị cám dỗ và thách thức nhảy xuống khỏi Thập giá để chứng minh quyền năng là Con Thiên Chúa!
Chúng ta bắt đầu bước vào mùa chay của năm Phụng vụ. Nhưng thật ra, cuộc sống của mỗi người là một mùa chay liên lỉ, bởi vì chúng ta thường xuyên gặp cám dỗ và phải luôn chiến đấu, để sống tinh thần của Chúa Kitô. Chúng ta nhiều lúc phải cam chịu thiếu thốn, đói khát mà không xử dụng tự do, khả năng của mình để tìm thỏa mãn, phụng sự cho chính mình và sống ích kỷ. Đôi lúc chúng ta bị coi như thất thế, ngu dại và bị giới hạn, yếu đuối bởi vì chúng ta tôn thờ và tùng phục đường lối của Thiên Chúa. Và rất nhiều khi chúng ta phải chịu thiệt thòi, từ chối những vui thú và vinh dự của trần gian để trung thành phụng sự Chúa.
Chúa Giêsu đã có lần nhắc nhở chúng ta: "Các con không thuộc về thế gian này..."(Gio 15:19). Mùa chay là lúc chúng ta nhận rõ hơn những khuynh hướng cám dỗ và hiểu thế nào là thân phận con người. Mùa chay cũng là lúc chúng ta vào sa mạc với Chúa Kitô và xin Chúa giúp ta chiến đấu với những cám dỗ của đời sống. Lạy Chúa, xin giúp chúng ta biết chiến đấu và sống trọn mùa chay thánh của chúng con. Amen.
1) Đối với người Do thái thế kỷ I, "sa mạc" và "cám dỗ" gợi lên điều gì?
2) Trình thuật này liên hệ với trình thuật Phép Rửa nhờ chữ nào? Chữ đó có nghĩa mạnh hay chỉ có nghĩa thuần túy thời gian?
3) Phải đọc lại Đệ Nhị Luật chương 8 và ý nghĩa cuộc thử thách trong sa mạc.
4) Phải hiểu như thế nào việc Chúa Giêsu vượt thắng cách vẻ vang cơn cám dỗ mà dân Do thái đã vấp ngã? Dựa trên hậu cảnh Cựu Ước, hãy rút ra ý nghĩa thần học ba cuộc cám dỗ Chúa Giêsu?
5) Cơn cám dỗ phải chăng chỉ nhắm đến sự nghiệp của Đấng Messia, bằng cách gợi lên một thiên sai chủ nghĩa giả tạo thần kỳ hoặc chính trị? Hay là nhắm đến chính con người Đấng Messia, bằng cách tách Người khỏi Thiên Chúa với một thứ chủ trương vô thần thực tiễn?
6) Làm sao Chúa Kitô có thể bị cám dỗ? Điều đó có nghĩa gì? Hãy so sánh với cơn hấp hối, với Pl 2, 6 tt và Dt 5,7tt.
7) Các thiên sai chủ nghĩa bị Chúa Giêsu chống báng phải chăng chỉ là những hiện tượng lỗi thời, hay ta vẫn còn thấy giữa thế kỷ XX này quanh ta? trong ta?
8) Thân phận người Kitô hữu phải chăng là một thân phận bị cám dỗ triền miên?
*******
1) Có lẽ Chúa Giêsu đã mặc khải cho các môn đồ Người biến cố mà ngay từ lúc bắt đầu cuộc sống công khai Người đã trải qua với một kinh nghiệm thấm thía. Giáo Hội sơ khai đã đón nhận mặc khải ấy về nguồn gốc đích thực của cám dỗ (Satan) như là lời sửa sai quan niệm Cựu ước, vốn cho rằng cám dỗ là do Thiên Chúa: Mt đã phóng đại dữ kiện giản lược mà ông đã thu nhận từ truyền khẩu. Trình thuật của ông có vẻ như là một cấu trúc văn chương, một sáng tác tưởng tượng nhằm khai thác các giá trị thần học tiềm tàng trong biến cố có thực. Đây là những dấu chỉ cho thấy trình thuật của ông thực là một sáng tác: cuộc đối thoại với Satan, việc đem Chúa Giêsu lên thượng đỉnh Đền thờ, ngọn núi cao từ đó có thể trông thấy "tất cả các nước thiên hạ", lối trích dẫn nhiều câu trong diễn từ thứ hai của Môisen nói với dân (Đnl 8,3; 6,16; 6,13). Sáng tác văn chương này đặt cơ sở trên ba cuộc cám dỗ của Israel trong sa mạc:
- Sau khi được ăn manna một thời gian, Israel đòi ăn thịt (Ds 11, 4-34)
- Môisen gõ phiến đá hai lần (Ds 20, 1 -13)
- Giai thoại con bò vàng (Xh 32, 1-ABC 8)
Matthêu cho thấy Chúa Giêsu tổng lược cả ba kinh nghiệm của dân Isarel và đã chiến thắng vẻ vang trong khi Israel lại vấp ngã. Xin nói qua là sách Đệ Nhị Luật cũng là sách chỉ nam của cộng đoàn thiên sai là Giáo Hội: các chương đầu của Công Vụ Sứ Đồ ghi lại những bước đầu của Giáo Hội sơ khai, đã cảm hứng theo Đệ Nhị Luật.
2) Giữa phép rửa Chúa Giêsu và cơn cám dỗ, có một liên hệ rõ ràng: chính Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu lúc ở sông Giođanô đã đưa người vào sa mạc, không phải để tra cứu lề luật và tìm lại tinh thần Giao ước như nhóm Essêni, cũng chẳng phải để tổ chức kháng chiến như phái Nhiệt thành, song để chịu ma quỷ cám dỗ (4,1). Học thuyết thiên sai của Chúa Giêsu phải được thử thách. Và cuộc thử thách này là một giai đoạn cần thiết trong ơn gọi làm Israel mới của người. Vì là Đấng đáp ứng nỗi chờ mong của dân, Người phải sống tất cả chiều kích của lịch sử họ: tạm trú tại Ai cập (2,13-15), vượt sông Giođanô (2, 13-17 -so sánh với Gs 3), cám dỗ ở sa mạc (4, 1-ABC11).
3) Giai thoại cám dỗ trong sa mạc xảy ra như để xác nhận việc Chúa Kitô hoàn toàn chấp nhận thánh ý Chúa Cha: gạt bỏ mọi hình thức thiên sai chủ nghĩa mà Thiên Chúa không muốn (trước hết là thứ thiên sai chủ nghĩa cánh chung có tính cách báo phục của Gioan Tẩy giả và của Qumrân, thứ đến là thiên sai chữ nghĩa xác thịt, uy hùng hay chính trị mà Israel trông chờ), Chúa Kitô chấp nhận đường lối thiên sai khổ đau, là đường lối duy nhất phù hợp với thánh ý Chúa Cha.
4) Lối giải thích mang màu sắc thiên sai về ba chước cám dỗ (tức lối giải thích liên kết trình thuật này với trình thuật phép rửa trước đây) là lối giải thích lưu ý nhiều đến chỗ đứng của đoạn văn trong văn mạch của các chương này cũng như của các vấn đề tổng quát của một. Tuy nhiên lối giải thích này không loại bỏ các lối giải thích khác đã từng được truyền thống công nhận như:
- Lối giải thích luân lý: Chúa Kitô tự nguyên chịu các chước cám dỗ lớn của nhân loại: những dục vọng của xác thịt và tinh thần, để rồi vượt thắng các cám dỗ đó cách khải hoàn, và nhờ dấy nên gương mẫu cho đời ki tô hữu; Lối giải thích song đối kiểu mẫu: Chúa Kitô, Ađam mới, chịu một cơn cám dỗ "tổ tông" mới, để nhờ lòng vâng phục hiếu thảo của Người mà chuộc lại cuộc nổi loạn nguyên thủy (x. trình thuật mạc về cuộc cám dỗ này và thần học của Phaolô về Ađam mới);
- Lối chú giải cánh chung học: qua cuộc chiến đấu này, Chúa Kitô tiên báo cuộc khải hoàn vinh thắng cuối cùng của Người trên các quyền lực sự dữ (lối giải thích của Lc).
5) Chủ đề sa mạc chiếm một chỗ đứng đáng kể trong Kinh Thánh, vì sa mạc là một dữ kiện địa lý quan trọng trong thế quân bình kinh tế và nhân chủng của xứ Palestine. Ảnh hưởng của địa thế này không phải là nhỏ đối với lịch sử dân Thiên Chúa. Lịch sử này lưu lại hai kỷ niệm xem ra mâu thuẫn, mà có người đã muốn coi như. là hai chủ đề có nguồn gốc khác nhau, nhưng kỳ thực chỉ là hai phương diện của một thực trạng. Cuộc lưu ngụ trong sa mạc trước tiên được trình bày như là thời kỳ lý tưởng trong cuộc sống của tuyển dân, thời kỳ mà tuyển dân được các điều kiện thuận lợi nhất ớể phát huy lý tưởng tôn giáo của mình, và đã sống lý tưởng đó cách tuyệt hảo. Đàng khác thời gian lưu ngụ trong sa mạc cũng. được xem như là một thử thách, như một hình phạt, phạt tội phàn nàn và bất tuân. Sa mạc vừa là nơi tĩnh tâm và thanh luyện, vừa là nơi phát sinh chước cám dỗ và xóa tội. Vì thế trong suốt lịch sử dân Israel, sa mạc vẫn là nơi hun đúc sức mạnh sinh động của quốc gia (tất cả các khuôn mặt lớn trong dân đều đến sa mạc lập kế hoạch, hay nung nấu lại lòng nhiệt thành) và cũng là nơi thử thách.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Bấy giờ Chúa Giêsu được Thần khí dẫn vào sa mạc": Chữ bấy giờ nói lên mối liên hệ giữa trình thuật này với trình thuật Chúa Giêsu chịu phép rửa. Lát nữa ta sẽ thấy mối tử hệ thần linh của Chúa Giêsu đã được công bố lúc người chịu phép rửa) hệ tại chỗ nào. Trạng từ "bấy giờ" ở đây (cũng như ở 3, 13 chẳng hạn) có một giá trị chuyển mạch hơn là giá trị thời gian. Tiếng "để chịu cám dỗ" nói rõ ràng ý định của Thiên Chúa, như trong đoạn văn trước. Bởi ma quỷ: một chữ Hy-lạp trước tiên có nghĩa là "đứa vu khống" rồi "kẻ buộc tội". Vì thế bản 70 đã dùng chữ này để dịch chữ "Satan". Ngữ vựng của phần dẫn nhập trình thuật này tương tự với ngữ vựng của Đnl 8,2 (bản 70) và ám chỉ đến cảnh huống của Israel trong sa mạc: "Hãy hồi tưởng lại tất cả con đường mà Giavê Thiên Chúa của ngươi đã dẫn ngươi đi (cùng một động từ Hy lạp như Matthêu) trong sa mạc, với dụng ý là hạ ngươi uống, thử thách ngươi (cùng một động từ Hy lạp như Matthêu) và biết đáy lòng ngươi".
"Người đã giữ chay 40 ngày và 40 đêm": 40 là con số chẵn thường được Kinh Thánh dùng để chỉ một thời gian khá dài: 40 ngày lụt đại hồng thủy (St 7,4), 40 năm Israel lưu trú trong sa mạc (Xh 16, 35; Ds 14, 33; Đnl 29, 5), 40 năm trị vì của Đavít (1Sm 5,4), 40 ngày trước khi phá hủy thành Ninivê (Gn 3), 40 ngày giữa cuộc Phục Sinh và Thăng Thiên của Chúa Giêsu ... Chi tiết xác định "40 đêm " là của riêng Matthêu (Luca chỉ nói "40 ngày") và ám chỉ đến 40 ngày và 40 đêm mà Môisen đã trải qua trên núi của Giavê "không ăn bánh cũng chẳng uống nước" (Xh 24, 1-ABC8: giữ chay sau cuộc thần hiển, và trong 34,28: giữ chay sau cuộc tái lập Giao ước). "40 đêm" có lẽ cũng ám chỉ đến cuộc chay trường của Elia trên núi Horeb (1V 19,8: sau khi được thần hiển và trao sứ mệnh). Cả hai nhân vật lên này của Cựu ước, những vị gồm tóm trong bản thân Lề luật và Ngôn sứ, sẽ tái xuất hiện trong cuộc Biến hình của Chúa Giêsu (biến hình = thần hiển; cuộc thần hiển này được tiếp nối với việc thiết lập Giao ước mới bằng Tử Nạn-Phục Sinh). Chắc hẳn Matthêu muốn cho thấy việc giữ chay của Chúa Giêsu một cách nào đó tổng lược kinh nghiệm của Môisen và Elia, cũng như cuộc cám dỗ sẽ tổng lược lịch sử Israel trong sa mạc. Ở đây không nên hỏi cơ thể con người, xét về mặt tự nhiên, có thể giữ chay trong bao lâu! Cũng như trong trường hợp Môisen (suốt 40 ngày không uống nước!), chính Thiên Chúa trực tiếp nâng đỡ Chúa Giêsu. Chúa Kitô sống nhờ lòng tín thác vào Thiên Chúa. Thành ra việc cảm thấy đói sau 40 ngày được xem như là một cuộc thử thách: Chúa Giêsu có thể nghĩ Thiên Chúa đã bỏ rơi mình. Và đó là điểm đưa đến cám dỗ đầu tiên.
Cám dỗ đầu tiên (cc. 3-4)
"Nếu Ngài là Con Thiên Chúa". (c.3) là công thức dẫn vào chước cám dỗ thứ nhất và thứ hai. Tiếng "Con Thiên Chúa”; nhắc lại lời phán từ trời trong cảnh trước đây và đầu tiên có nghĩa là "Đấng Messia" (x.ghi chú BJ). Công thức này cho thấy ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu như là Đấng Messia, thủ lãnh của dân mới Thiên Chúa. "Nếu Ngài là ..." không nhằm nói lên nỗi nghi ngờ của ma quỷ, nhưng cố khơi lên trong Chúa Giêsu niềm hoài nghi. Dưới chân thập giá, chính người Do thái sẽ thay thế Satan để cám dỗ Chúa Giêsu một cách tương tự: "nếu ông là con Thiên Chúa" (Mt 27,40). Hai chước cám dỗ này song song với nhau: chúng nhằm thúc đẩy Chúa Giêsu sử dụng các quyền lực thiên sai Người có để mưu cầu tư lợi, hay đúng hơn để thoát khỏi cảnh hiểm nghèo (đói trong sa mạc, chết trên thập giá).
"Hãy truyền cho các viên đá này thành bánh”: Cơn đói mà Chúa Giêsu đột nhiên cảm thấy đã là một chi tiết giúp ta giải thích cơn cám dỗ đang bủa vây Người. Tuy nhiên, còn có một chi tiết giàu ý nghĩa hơn trong câu trả lời của Chúa Giêsu trích lại Đnl 8,3. Văn mạch của Đnl 8,3 cho thấy dân Israel nghi ngờ Giavê, thay vì tự hạ và chấp nhận tùy thuộc một mình Ngài: “Hãy hồi tưởng lại tất cả con đường Giavê Thiên Chúa của người đã dẫn ngươi đi, qua sa mạc, trong 40 năm, với dụng ý là hạ ngươi xuống cùng để thử cho biết ngươi có gì nơi đáy lòng, xem người có giữ các lệnh truyền của Ngài chăng. Ngài đã hạ ngươi xuống, đã để ngươi phải chịu đói; rồi Ngài lại cho ngươi ăn manna ngươi chưa từng biết và cha ông ngươi cũng không hề biết, để dạy cho ngươi hay là người ta không sống nhờ bánh mà thôi, nhưng sống nhờ mọi điều xuất ra từ miệng Giavê" (Đnl 8, 2-3).
Chước cám dỗ mà Israel phải. chịu, đó là cơn đói khát Thiên Chúa cho dân trải qua để thử lòng tín thác của họ. Nhưng dân đã phàn nàn, đã hối tiếc các thức ăn của xứ Ai cập, và càu nhàu đòi lương thực. Chúa Giêsu cũng đang sống trong một tình trạng tương tự như dân Israel. Bị đói, Người có thể nghĩ Thiên Chúa đã bỏ rơi người. Ma quỷ đến dụ dỗ Người nghi ngờ Thiên Chúa và hãy cậy dựa vào chính quyền năng thần thông mà Người vừa mới nhận lúc được thánh hiến làm Đấng Messia. Có thể Chúa Giêsu sẽ dùng quyền đó để mưu cầu tư lợi trái nghịch với thánh ý Thiên Chúa. Khi dụ dỗ Chúa Giêsu nghi ngờ và bất tuân, ma quỷ muốn Người cắt đứt liên lạc với Thiên Chúa. Đáp lời lại, Chúa Giêsu xác quyết Người chẳng muốn dùng các phương thế riêng của mình để được sống, nhưng muốn hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa. Người chỉ cậy dựa vào Thiên Chúa (27,43).
Cám dỗ thứ hai (cc.5-7)
"Thành thánh" là một thành ngữ Do Thái thông dụng để chỉ Giêrusalem (Mt 27, 53; Kh 11,2). Ma quỷ dụ dỗ dựa vào lại Tv 91,11: điều đã được hứa cho mọi người đạo đức, càng phải có giá trị hơn đối với Đấng Messia: chắc chắn Thiên Chúa sẽ bảo vệ Người. Chúa Giêsu trả lời bằng cách trích dẫn Đnl 6,16 là câu nhắc lại giai thoại Massa (Xh 17, 1-ABC7). Israel đã dám thử thách Thiên Chúa khi nói: “Có Chúa giữa chúng ta hay không?". Họ không ngại đòi Thiên Chúa ban cho một dấu chỉ là phép lạ nước đột xuất từ tảng đá. Nếu gieo mình từ thượng đỉnh Đền thờ theo như lời Satan dụ dỗ, là Chúa Giêsu đã buộc Thiên Chúa phải thực hiện một phép lạ. Cuối cơn cám dỗ thứ nhất, Chúa Giêsu đã nép mình dưới sự quan phòng chở che của Thiên Chúa. Ma quỷ dụ dỗ Người lợi dụng sự che chở này, như Israel ngày xưa, bằng cách đòi hỏi Thiên Chúa can thiệp Thành ra xét cho cùng đây là việc áp đặt ý muốn con người trên Thiên Chúa.
Một vài giới bình dân Do thái hình dung Đấng Messia như sẽ khai mào sứ vụ của mình trên chóp đỉnh Đền thờ; nơi đó Người phải loan báo việc giải phóng Israel. Vì thế có lẽ Satan đã gợi ý cho Chúa Giêsu ra mắt dân chúng theo cách phù hợp với quan niệm bình dân này, đi ngược với kế hoạch của Thiên Chúa.
Cám dỗ thứ ba (cc. 8- 10)
"Một ngọn núi cao" từ đó có thể xem thấy "tất cả các nước thiên hạ" là một điều dị thường. Sở dĩ Matthêu giữ lại chi tiết kỳ quái này của truyền thống Tin Mừng, là vì muốn trung thành với truyền thống bao quanh con người Môisen: Thiên Chúa đã chỉ cho Môi sen, đứng trên núi Nêbo, thấy toàn thể Đất Hứa (Đnl 31, 1-ABC4). Tương quan Môisen-Giêsu, mà Matthêu luôn đề cập đến, còn được nổi bật ở đây. Đất Hứa ở đây trở thành lãnh địa tuyệt hảo mà Chúa Giêsu sẽ tiếp nhận lúc Phục Sinh: “mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Ta" (28,18) như lời hứa của Tv 2, 6-8.
"Tôi hiến cho Ngài hết mọi điều đó, nếu Ngài phục mình bái lạy tôi". Đây là cám dỗ thờ bò vàng, thờ các ngẫu thần, là cám dỗ tự biến mình thành vị thần dễ xài, trấn an, vị thần được dùng để đem đi giao chiến, chinh phục địa cầu, vị thần mà ta có thể thương thuyết mặc cả: "Tôi hiến tất cả điều đó cho Ngài, nếu Ngài phục mình bái lạy tôi". Chính Chúa Giêsu đã hiểu chước cám dỗ thứ ba này theo nghĩa ấy, vì câu Người trả lời Satan trích lại một đoạn Đệ Nhị Luật, trong đó rõ ràng đề cập đến việc thờ ngẫu thần: "Ngươi hãy coi chừng kẻo lãng quên Giavê Đấng đã đem ngươi ra khỏi Ai Cập, khỏi nhà tôi mọi. Ngươi sẽ kính sợ Giavê Thiên Chúa của ngươi; ngươi sẽ phụng thờ Ngài, sẽ thề nhân danh Ngài. Đừng đi theo các thần khác, thần của các dân ở chung quanh ngươi, vì Giavê Thiên Chúa của ngươi, ở giữa ngươi, là Thiên Chúa ghen tương" (Đnl 6,12-15).
Qua việc trích dẫn đoạn văn này, Chúa Giêsu xác quyết Thiên Chúa đích thực không phải là một thần tượng mà ta có thể mua chuộc các hồng ân. Giavê không mua bán mặc cả. Ngài đòi phải tin yêu và vâng phục vô điều kiện. Ngài chẳng phải là con bò vàng "đi trước chúng ta” mà người ta có thể sử dụng như một khí cụ để chinh phục. Chúa Giêsu từ chối đi vào con đường mà Thiên Chúa không muốn Đấng Messia của Ngài dấn thân, là đường vinh thắng rạng rỡ (bằng việc cậy dựa vào các ngẫu thần), đưa đến việc thống trị hoàn vũ. Vì bị tiêm nhiễm giấc mơ khải huyền bình dân, Phêrô sẽ chống đối việc tiến lên Giêrusalem để chịu tử nạn. Chúa Giêsu sẽ trả lời ông như đang trả lời ở đây: "Hỡi Satan, hãy xéo đi" (16,23 cũng có cùng động từ như 4,10 những chỉ thêm chữ "sau Ta"). Trong cả hai trường hợp, Chúa Giêsu xác quyết ý định của Người là hoàn toàn tuân theo kế hoạch của Thiên Chúa, dù "tư tưởng của Thiên Chúa không phải là tư tưởng của loài người" (16,23). Đối lại với việc Israel say mê thờ ngẫu thần (các ngẫu thần được xem như là khí cụ để chinh phục), việc Chúa Giêsu gắn bó vào Thiên Chúa hệ tại chỗ loại bỏ mọi ngẫu thần để chỉ phụng sự Thiên Chúa đích thực. Vì thế, Chúa Giêsu sẽ thể hiện kiểu mẫu Messia mà Thiên Chúa đã trù định, là làm người Tôi tớ bị lăng nhục và đau khổ mà Isaia đã loan báo. Dĩ nhiên, Người không từ chối việc chinh phục thế giới, nhưng sẽ chỉ chinh phục bằng thập giá mà thôi.
“Họ hầu hạ Người": Việc các thiên sứ hầu hạ Chúa Giêsu nói lên chân lý này: Chúa Giêsu đã được phong vương ở sông Giođan. Họ cho thấy Nước Trời đã đến bên loài người vì triều đình thiên quốc đang chầu chực quanh Người Con Yêu Dấu. Tuy nhiên các thiên sứ này chỉ can thiệp sau khi Chúa Giêsu đã vượt thắng cơn cám dỗ. Ở đây hình như Matthêu tiên báo điều sẽ xảy ra trong cuộc Tử nạn. Là Đấng có thể xin cấp ngay "hơn 12 cơ binh thiên sứ" (26,53) để thoát khỏi khổ hình thập giá, Chúa Giêsu đã muốn hoàn tất Kinh thánh và phó mình cho Chúa Cha. Sau khi Người đã thắng vượt cơn cám dỗ, các thiên sư mới đến hầu hạ Người, và sau khi Người phục sinh, các thiên sứ mới đi báo tin cho các môn đồ (28, 2-7).
KẾT LUẬN
Đoạn Tin Mừng này của Matthêu trước tiên hoàn toàn mang ý nghĩa thần học. Nó được soạn thảo và lưu truyền không nhằm cho ta biết về một giai thoại trong cuộc đời Chúa Giêsu cho bằng giúp ta hiểu cách Người đã thi hành vai trò Messia ra sao. Satan, một thời gian ngắn trước khi Chúa Giêsu ra mắt công khai, đã cố làm cho Người bất tuân với Chúa Cha bằng cách gợi lên trong Người tâm tình tự lập, muốn từ khước địa vị làm Con để tự do sử dụng các quyền hành Người đã được ban cho. Nhưng thay vì tự chiếm đoạt quyền lực và ỷ mình được Thiên Chúa tuyển chọn như Biệt phái và Sađucêô, Chúa Giêsu đã xóa mình trước mắt Chúa Cha, như dã xóa mình trước mặt Gioan Tẩy giả và sẽ còn xóa mình suốt cả cuộc đời, cho đến lúc chết. Thay vì chiều theo quan niệm của nhân gian về Đấng Messia uy hùng, vinh thắng, Chúa Giêsu đã chấp nhận quan niệm Đấng Messia-tôi tớ khiêm cung.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Satan đã đề nghị Ađam trở thành Thiên Chúa: "Ngươi sẽ nên như các thần minh" (St 3,5). Còn đối với Chúa Kitô, nó đề nghị người sử dụng quyền năng thiên sai như một đặc quyền, một khí cụ. Xét cho cùng, tội lỗi luôn luôn là một ý muốn thống trị. Thế mà Thiên Chúa đã cứu thoát con người khỏi tội lỗi nhờ sự yếu đuối của Chúa Kitô, Đấng đã chọn lấy thân phận tôi tớ, và hoàn toàn phó thác vào tay Thiên Chúa.
2) Cám dỗ luôn luôn xoay quanh Lời Chúa, hoặc để vi phạm hoặc để xuyên tạc ý nghĩa. Con rắn quỷ quyệt trong St 3 đã nói ngược Lời Chúa. Nó bảo: "Thiên Chúa đã phán: các ngươi chẳng được ăn cây nào trong vườn cả! ... Các ngươi chẳng chết chóc đâu. Nhưng vì Thiên Chúa biết rằng mắt các ngươi sẽ mở ra ...". Tên cám dỗ trong Tin Mừng cũng yêu cầu Chúa Giêsu sử dụng Lời Chúa để biến đá thành bánh, và giải thích lệch lạc ý nghĩa Thánh Vịnh để đẩy Người thử thách Thiên Chúa. Nó cám dỗ Chúa Giêsu sử dụng Lời sáng tạo, Lời cứu rỗi để mưu cầu lợi riêng. Nhưng Chúa Giêsu đã tuân phục và đón nhận Lời Thiên Chúa: "Đã chép rằng ..."
3) Khi tình nguyện trở nên người Tôi Tớ chứ không trở nên kẻ thống trị, Chúa Giêsu đã cứu rỗi chúng ta. Người mặc khải cho chúng ta một Thiên Chúa tình yêu, mà ta có thể bắt chước bằng cách tự hạ, tự chối bỏ chính mình. Thiên Chúa đã đến gần nhân loại trong con người của Con Ngài, không phải để bắt nhân loại làm nô lệ, nhưng để phục vụ nhân loại với tư cách là tôi tớ bị đóng đinh.
4) Chúa Giêsu bị cám dỗ, bởi vì xét như là con người, Người phải chứng minh mình là "Con yêu dấu". Chính vì thế Người phải trải qua, cách cụ thể trong nhân tính của mình, cái kinh nghiệm thế nào là sống như con cái Thiên Chúa, nghĩa là chỉ chờ đợi hạnh phúc ở nơi Thiên Chúa mà thôi. Người Kitô hữu cũng phải trải qua cơn cám dỗ tương tự và phải chọn lựa giữa sự tự tôn cá nhân, coi thường Thiên Chúa và anh em, với thái độ hiếu thảo phục vụ Thiên Chúa và mọi người.
Trước khi thuật lại hoạt động và việc giảng dạy của Chúa Giêsu, các thánh sử muốn chúng ta hiểu rõ hơn Ngài là ai. Chúa Giêsu không phải là một nhân vật lịch sử trong số nhiều nhân vật khác; người ta sẽ không gợi lại một chuỗi lịch sử giữa hàng trăm nhân vật khác. Người ta sắp nói đến một ai đó tuyệt đối duy nhất và về một biến cố đảo lộn lịch sử đến độ từ nay về sau người ta sẽ nói một sự kiện nào đó xảy ra “Trước Giêsu Kitô” và “Sau Giêsu Kitô”.
Đó là lý do tại sao đã có tiếng chuông này: “Lúc bấy giờ Chúa Giêsu xuất hiện!”. Và việc tỏ bày thiên tính lúc chịu phép rửa cùng với sự mạc khải phi thường này: “Đây là Con Ta”. Anh thanh niên 30 tuổi này, anh thợ mộc tầm thường người Nazarét này là Con Thiên Chúa! Nhưng tức thì tiếng nói của quỷ dữ vang lên suốt những thế kỷ ở nơi nào người ta nói về Giêsu: “Nếu Ngài là Con Thiên Chúa...”. Đó là tiếng đồn nghi ngờ.
Đó cũng là tiếng nói của chúng ta. Chúng ta khó thích ứng với Chúa Giêsu. Chúng ta không thực sự sống với Ngài theo cách của Ngài. Chúng ta thường lơ là đối với Ngài, ít tin chắc vào Ngài. Và đột nhiên, theo kiểu của Satan, chúng ta bắt Ngài chứng minh quyền lực của Ngài: “Xin Chúa làm cái này cho con, thay đổi cái nọ, tỏ mình ra nhiều hơn nữa, chế ngự thế giới cho tốt hơn. Nếu Ngài thật sự là Con Thiên Chúa”. Như vậy, khi chúng ta là quỷ đối với Chúa Giêsu, thì chúng ta cũng là quỷ đối với chính chúng ta, chúng ta mất cơ may sống điều gì đó với Ngài. Một ngày kia Ngài đã phải nói với Phêrô: “Hỡi Satan, hãy cút đi!” (Mt 16,23). Phêrô không muốn Chúa Giêsu phải đau khổ và phải chết. Chúng ta muốn Chúa Giêsu như thế nào? Chúng ta xen vào lời này điều gì, một lời có thể là ca tụng hoặc quỷ quái: “Vì Ngài là Con Thiên Chúa?”
Không bao giờ chúng ta chú ý đủ đến Chúa Giêsu của Phúc Âm. Chính vì điều này mà các Phúc Âm đã được viết ra, để cùng chiêm ngắm và suy niệm, chúng ta càng có thể sống mầu nhiệm này: Thiên Chúa ở trong một con người. Bản văn nổi tiếng viết về ba cám dỗ trước hết là để làm sáng tỏ con người của Chúa Giêsu. Ta đừng vội tìm trong đó những cuộc đấu tranh của chính chúng ta. Chắc chắn chúng có trong đó, vì rằng Chúa Giêsu là mẫu mực của chúng ta nơi mọi sự. Nhưng chúng ta trước hết hãy xét đến cuộc đấu tranh của Ngài đã, chúng ta sẽ biết được nhiều điều về Ngài.
Trước khi phát hiện Ngài qua thái độ và lời nói của Ngài, Ngài cho chúng ta thâm nhập vào trong con tim của Ngài, nơi mà một con người thực hiện những lựa chọn quyết định. Chúa Giêsu như thế nào lúc bị cám dỗ thì Ngài sẽ như vậy suốt cuộc đời công khai của Ngài, không gì lay chuyển được. Do đó tầm quan trọng của đoạn văn này không chỉ đơn giản là một khúc dạo đầu mà là một cuộc đấu tranh triệt để trong đó chúng ta khám phá ra sức mạnh của một con người trong sức mạnh của Chúa Giêsu.
Phải, Ngài là Con Thiên Chúa, nhưng cũng là người thật, và chúng ta khó lòng chấp nhận Ngài. A! Nếu chúng ta có thể bịa ra Chúa Giêsu! “Vì Ngài là Con Thiên Chúa, Ngài có thể làm được tất cả”. Không, Ngài không thể làm được tất cả, không hơn gì chúng ta; những câu trả lời trong cuộc cám dỗ chứng tỏ Ngài thuộc “thân phận con người”. Ngài sẽ sống trọn cuộc sống thực của con người bị hạn hẹp và chuốc lấy thất bại.
Mặc dầu có sự yếu đuối, sự yếu đuối thực sự của con người, Ngài sẽ chiến thắng bởi vì Ngài hoàn toàn phó thác vào Cha Ngài. Chiêm ngắm Chúa Giêsu chính là được nâng lên với Chúa Cha và bước vào niềm hy vọng. Trước giờ phút hoang mang cuộc khổ nạn, Phúc Âm tức khắc muốn cho chúng ta một mẫu mực thân hữu với Chúa Giêsu: chúng tôi hay lui tới một kẻ chiến thắng. Vào lúc đen tối nhất, Phúc Âm nói: “Hãy tin tưởng!”
Chúa Giêsu là người tin vào Chúa Cha và có sứ mạng khắc sâu vào trí não chúng ta cũng niềm tin đó: tin vào Cha chúng ta ở trên trời. Đó là điều mà các câu trả lời ngắn, chắc chắn và dứt khoát của Ngài cho ta thấy. Ngài là Con (Thiên Chúa), vâng, và với tư cách là Con, Ngài chờ đợi tất cả nơi Cha. Nhưng Ngài vất bỏ ý tưởng của Satan: cám dỗ sử dụng quyền lực của Thiên Chúa cho riêng Ngài, cho cái đói, cho vinh quang của riêng Ngài. Còn tệ hơn nữa là cho vinh quang của Satan! Ngài chỉ tìm cách vâng theo dự định của Cha, và chính như thế mà Ngài mạc khải Cha cho chúng ta: điều mà Thiên Chúa muốn sẽ nói cho chúng ta biết Thiên Chúa là như thế nào.
Cuộc đấu tranh chống Satan làm chúng ta khám phá ra nơi Chúa Giêsu sự khôn ngoan Lời Chúa và sự tuyệt đối trong niềm tin của Ngài: con người sống vì Thiên Chúa, con người không thử quyền năng của Thiên Chúa và con người chỉ tôn thờ Thiên Chúa mà thôi. Có được ba xác tín này. Chúa Giêsu có thể tiến bước trên những con đường khó khăn nhất, cuộc sống của Ngài sẽ không được bảo vệ và dầu vậy cuộc sống của Ngài sẽ vinh quang. Chúng ta sẽ khám phá ra chính sự trộn lẫn giữa cuộc sống khó khăn và cuộc sống khải hoàn này khi đọc sách Phúc Âm. Chúng ta sẽ biết được làm thế nào một con người có thể là Con Thiên Chúa: là người thật và là Thiên Chúa thật.
Ma quỷ, thờ quỷ và những hiện tượng liên quan đến chúng là những điều có tính cách thời sự ngày nay, và làm cho một số đông trong xã hội chúng ta phải bối rối.
Thế giới kỹ thuật và kỹ nghệ của chúng ta đầy dẫy những nhà ảo thuật, phù thủy, những người theo thuyết thần bí, theo thuyết duy linh, thầy bói, thầy bùa, thầy chú, cũng như những tà giáo thờ Satan thật sự. Bị đuổi ra khỏi cửa, ma quỷ lại vào qua cửa sổ. Bị đức tin xua đuổi, chúng trở lại qua ngả mê tín dị đoan.
Cảnh Chúa Giêsu chịu cám dỗ trong hoang địa được đọc trong Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay giúp cho chúng ta thấy vấn đề một cách rõ ràng hơn. Trước hết, có ma quỷ hay không? Điều đó có nghĩa là chữ “ma quỷ” thực sự ám chỉ một cá thể có trí thông minh và ý chí, hay chì là một biểu tượng, một cách nói về tổng thể những sự dữ về luân lý trên thế gian, một sự vô thức tập thể, một bệnh tâm thần tập thể, vv…?
Nhiều người thông thái không tin rằng có ma quỷ theo nghĩa thứ nhất. Nhưng cũng phải ghi nhận rằng có nhiều tác giả vĩ đại, như Goethe và Dostoyevsky, thực sự đặt nặng sự hiện diện của Satan. Baudelaire, không phải thiên thần, đã nói rằng “cách lừa đảo hay nhất của quỷ là làm cho người ta tin rằng không có nó.”
Bằng chứng chính của sự hiện diện của ma quỷ trong Tin Mừng là nhiều lần Chúa chữa những người bị quỷ ám, bởi vì những niềm tin của người thời xưa về nguồn gốc của một số bệnh tật có thể đã ảnh hưởng đến việc giải thích các biến cố này. Bằng chứng là việc ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu trong hoang địa. Đời sống của nhiều vị thánh đã chiến đấu không ngừng với ông hoàng tăm tối cũng là những bằng chứng rằng có ma quỷ. Các ngài không phải giống như “Don Quixote” đánh nhau với quân thù tưởng tượng. Ngược lại, các ngài là những người rất thực tế, và khỏe mạnh về tâm thần.
Nếu nhiều người coi việc tin rằng có ma quỷ là ngớ ngẩn, vì họ dựa vào sách vở, họ bỏ nhiều thì giờ tìm kiếm trong thư viện; nhưng ma quỷ không quan tâm gì đến sách vở, chúng để tâm đến con người, nhất là các vị thánh.
Làm sao một người bết về Satan nếu chưa bao giờ gặp thực sự Satan, mà chỉ có những tư về Satan trong các truyền thống văn hóa, tôn giáo, và chủng tộc? Họ cho rằng họ biết chắc chắn về vấn đề này và cảm thấy mình trổi vượt, coi tất cả như “thuyết huyền bí thời trung cổ.”
Nhưng đó là một chắc chắn giả tạo. Giống như một người đi đâu cũng khoe là mình không sợ sư tử, và chứng minh điều này bằng cách nói rằng mình thấy nhiều hình vẽ sư tử mà không bao giờ cảm thấy sợ chúng cả. Ngược lại, đương nhiên là những người không tin có Thiên Chúa thì cũng không tin có ma quỷ. Nhưng thật là một thảm cảnh cho những ai không tin có Thiên Chúa mà lại tin có ma quỷ!
Nhưng điều quan trọng nhất mà Đức Tin Kitô cho chúng ta biết không phải là việc có ma quỷ hay không, mà là việc Đức Kitô đã đánh bại chúng. Đối với các Kitô hữu, Đức Kitô và ma quỷ không ngang hàng nhau, nhưng là những nguyên tắc trái ngược nhau, giống như một số tôn giáo theo thuyết nhị nguyên coi đó là trường hợp giữa lành và dữ. Chúa Giêsu là Chúa duy nhất; còn Satan chỉ là thụ tạo “đã trở thành dữ.” Nếu Satan được phép có quyền trên con người bởi vì con người có quyền chọn lựa theo phe nào mình muốn, đồng thời cũng để cho con người đừng quá tự hào (xem 2Cor 12:7), tin rằng mình có thể tự lập mà không cần một Đấng Cứu Độ nào. Theo một bài hát về tôn giáo của người Mỹ Da Đen “Satan Già hóa điên (Old Satan is crazy)” thì “Nó (Satan) bắn để huỷ diệt linh hồn tôi, nhưng bắn trật nên thay vì thế lại hủy diệt tội lỗi tôi”.
Có Đức Kitô chúng ta chẳng phải sợ gì. Không có chi và chẳng ai có thể làm hại được chúng ta, trừ khi chính chúng ta cho phép chúng. Các Giáo Phụ ngày xưa đã nói rằng, sau khi Đức Kitô đến, thì Satan như con chó bị cột ở cổng sân: nó có thể sủa và tấn công tùy thích, nhưng nếu chúng ta không lại gần nó thì nó chẳng làm hại gì được chúng ta.
Trong hoang địa Chúa Giêsu đã tự giải thoát Mình khỏi tay Satan để Người có thể giải thoát chúng ta! Đây là tin vui mà chúng ta dùng để bắt đầu cuộc hành trình Mùa Chay đi đến Phục Sinh
Trong Chúa Nhật I Mùa Chay, cả ba bài Tin Mừng (Chu kỳ Năm A, B, C) đều nói đến việc Chúa Giêsu "để cho qủy (Satan) cám dỗ". Tuy nhiên, chúng ta có thể để ý đến một số điểm sau đây, trước khi đi đến một vài suy tư áp dụng vào tinh thần sống Mùa Chay Thánh của mỗi người chúng ta:
Bài Tin Mừng Năm B trích trong Tin Mừng Thánh Mátcô (1:12-15) chỉ nhắc đến việc Chúa Giêsu 'chịu Satan cám dỗ' mà không ghi lại các chi tiết; trong khi Tin Mừng theo Thánh Mátthêu (4:1-11) (Năm A) và Tin Mừng theo Thánh Luca (4:1-3) (Năm C) thì tường thuật đầy đủ hơn; tuy nhiên, trong bài Tin Mừng theo Thánh Mátthêu, thì lần cám dỗ thứ hai là cám dỗ "gieo mình xuống khỏi tường Đền Thánh", lần thứ ba là cám dỗ "vinh quang thế gian"; còn trong Tin Mừng theo Thánh Luca thì lần cám dỗ thứ hai là cám dỗ "vinh quang thế gian", còn lần thứ ba là "gieo mình xuống khỏi tường Đền thờ"; riêng lần cám dỗ thứ nhất đều là "hóa bánh ra nhiều".
Cả ba lần chịu cám dỗ, Chúa Giêsu đều dùng lời "Thánh Kinh" để chống lại 'tên cám dỗ'. Sau ba lần cám dỗ không được, qủy (Satan) bỏ đi "chờ dịp khác" (theo Thánh Lucca) và "các Thiên Thần đến hầu hạ Ngài" (theo Thánh Mátthêu). Riêng Thánh Mátcô có nói đến sự việc 'Chúa Giêsu sống giữa lòai vật trong hoang địa'.
Về địa điểm khi Chúa bị cám dỗ, cả ba Tin Mừng đều ghi là "nơi hoang địa", còn thời gian là sau (trong) 40 đêm ngày (nhịn ăn uống). Ngòai ra cả ba sách Tin Mừng đều ghi lại việc Cám dỗ sau biến cố Chúa Giêsu đến xin Thánh Gioan Baotixita làm "phép Rửa cho Ngài" và Thánh Thần Chúa hiện ra dưới hình chim bồ câu đậu xuống trên Ngài và có tiếng từ trời nói: "Đây là Con yêu dấu của Cha…". Như vậy, biến cố Chúa chịu cám dỗ đó xãy ra vào những ngày mở đầu cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu; vì thế bài Tin Mừng theo Thánh Mátcô (Năm B) có nói đến việc Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng Nước Trời và nói: "Thời giờ đã tới; Nước Thiên Chúa đã đến gần; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng".
"Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng" là chương trình sống cho Mùa Chay, và cũng là chương trình sống cho cả cuộc đời chúng ta trong suốt cuộc hành trình Đức Tin (vừa dài, vừa nhiều gian khổ, và đầy những cám dỗ thử thách) tiến về "Hứa Địa" là "Quê hương thật của chúng ta! ('Sinh ký tử quy', Sống gửi, thác về là như vậy!).
Nhờ ơn Chúa giúp, chúng ta cố gắng thắng cơn cám dỗ; 'ma quỷ bỏ đi!' nhưng 'chờ dịp khác!' và như vậy cuộc đời của con người chúng ta luôn phải đối diện với cám dỗ và thử thách. Vì thế Giáo Hội ở trần gian còn được gọi là Giáo Hội chiến đấu (đối với Giáo Hội trên trời là Giáo hội chiến thắng, và Giáo hội đau khổ nơi luyện tội). Đã chiến đấu thì cũng có lúc thắng, lúc bại. Có những khi vì yếu đuối, chúng ta trót sa ngã phạm tội cách này, cách khác. Lúc đó chúng ta cần ăn năn sám hối và nhờ lòng tin vào "Chúa là Đấng Từ bi và Nhân hậu, Người đại lượng và chan chứa tình thương…" chúng ta can đảm đứng dậy và tiếp tục cuộc hành trình qua sa mạc cuộc sống, nhờ 'Cột Lửa' là ánh sang Đức Tin soi dẫn… Cứ đi và đi mãi đến cuối cuộc đời.
Có vô vàn cơn cám dỗ khác nhau; nhưng tất cả đều quy về ba mối chính: DANH – LỢI – THÚ… Ham danh, ham lợi ham phú quý là bản tính của con người. Ai cũng muốn địa vị cao sang, ai cũng muốn giàu có ai cũng ham thích thú vui.
Chúa Giêsu đã "để cho qủy cám dỗ" để dạy chúng ta: Phải chấp nhận cám dỗ và thử thách (cf. Tho Roma 12, 12 ) ; nhưng để thắng cám dỗ chúng ta phải kiên trì cầu nguyện, suy niệm Lời Chúa (Kinh Thánh) "vì tinh thần thì mạnh mẽ, nhưng thể xác thì yếu đuối…" (Mátthêu 26:41). Hạ mình khiêm tốn, "nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro…"; Thiên Chúa yêu thương và nâng đở những người có tinh thần khó nghèo và khiêm tốn; 'vì Kinh Thánh có lời viết: Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng ; nhưng ban ơn cho những người có lòng khiêm nhường' (Giacôbê 4:6…) . Hành trình Đức Tin là một cuộc "đồng hành"; chúng ta cần thông cảm yếu đuối của nhau, tha thứ và cầu nguyện chung cho nhau, nâng đở lẫn nhau, "chị ngã, em nâng…" thay vi lên mặt tự phụ, khinh chê, dèm pha và kết án người khác.
"Cầu nguyện… hãm mình (ăn chay)… và sống tinh thần bác ái yêu thương (làm phúc, bố thí), là những phương thế tuyệt vời để thắng cám dỗ, để đền tội, để được Thiên Chúa yêu thương, tha thứ và giúp đở chúng ta trên con đường về quê thật là Nước Hằng Sống.
Xin Chúa thương chúc lành cho mỗi người chúng ta trong Mùa Chay Thánh năm nay. Xin Mẹ Maria và các Thánh chuyển cầu cho chúng ta.
Chịu ma quỷ cám dỗ, Đức Giêsu đã có lựa chọn của một Người Con, phó thác trọn vẹn thân phận trong tay Cha. Câu chuyện được xem như điển hình cho tất cả những thử thách Người phải chịu cho đến hơi thở sau cùng.
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Trung thành với phép rửa đã nhận, một chọn lựa trước sau như một của Đức Kitô.
Cả ba Tin Mừng Nhất lãm đều thuật lại câu chuyện Đức Giêsu chịu ma quỷ cám dỗ trong hoang địa, và cả ba đều nối kết chặt chẽ câu chuyện này với phép rửa Người đã nhận trong dòng sông Giođan. Thánh sử Máccô viết: "Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở đó bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ" (MC l,12). Thánh Luca kể: "Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về, và được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu quỷ cám dỗ” (Lc 4,1). Còn thánh sử Matthêu cũng nhấn mạnh rằng nếu Chúa Giêsu, sau khi đã chịu phép rửa, chịu quỷ cám dỗ, là vì Người được Thần Khí đưa dẫn. Cũng chính Thần Khí ấy đá đáp xuống và ngự trên Người, bên bờ sông Giođan, trong lúc có tiếng từ trời phán rằng: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”.
Câu chuyện Đức Giêsu chịu cám dỗ J.Guillet nhận định theo cả ba Tin Mừng Nhất lãm, gắn liền với câu chuyện Chúa chịu phép rửa. Matthêu viết rõ: "Ngay sau khi ngự trên Đức Giêsu, Thần Khí dẫn Người vào hoang địa chịu quỷ cám dỗ (Mt 4,1). Bài tường thuật về cơn cám dỗ và phép rửa của Chúa làm thành một tập hợp riêng, liên can đến quãng thời gian Đức Giêsu chưa thực sự bắt đầu sứ vụ công khai của Người. Không hoàn toàn lặng lẽ ẩn mình như trong thời thơ ấu, nhưng Chúa có vẻ như để mình bị động từ bên ngoài: Từ Thiên Chúa là Đấng đã lên tiếng phán, từ Thần Khí dẫn Người vào hoang địa, và điều lạ lùng là ngay cả từ ma quỉ, cho nó lân la lại gần, dụ dỗ Người, và hình như có thể điều khiển được cả thân xác Người. Người ta có thể xem lúc này chỉ giai đoạn chuẩn bị. Thực ra đây là một luồng sáng chiếu rọi trước vào suốt lịch sử đang đến: lịch sử của Con Thiên Chúa và lịch sử của cả nhân loại. Toàn thể cuộc đời của Đức Giêsu, diễn ra trong ánh sáng của tiếng Chúa Cha xác nhận: đây là Con yêu dấu của Ta, dù bên cám dỗ cứ tha hồ rên rỉ: "Nếu ông là Con Thiên Chúa".
Trong lúc bài tường thuật của Máccô rất ngắn gọn vỏn vẹn chỉ có một câu, thì Matthêu và Luca không ngần ngại dàn dựng cả một câu chuyện đầy tính biểu tượng. Đây là một hình thức văn chương khá quen thuộc đối với những độc giả của các ông, là những người đã thấm nhuần văn hóa Do Thái. Xung quanh ba cơn cám dỗ con số tượng trưng cho sự viên mãn đầy đủ. Câu chuyện muốn tổng hợp tất cả cơn cám dỗ liên lỉ mà Chúa Giêsu phải chịu cho đến giây phút cuối cuộc đời.
Và để cho thấy rõ ràng, Đức Giêsu với tư cách là Môsê mới, đang thực hiện lại cuộc hành trình của Dân Thiên Chúa tiến về Đất hứa, Matthêu và Luca đã cố ý lựa chọn mặc dù khác nhau đôi chút về thứ tự "ba nơi chốn có tính cách biểu tượng của lịch sử Israel, đó là: Hoang địa, là nơi Dân Chúa chịu thử thách đầu tiên; Đền Thờ, là chỗ Dân Chúa tụ họp để tôn thờ sự hiện diện của Thiên Chúa, Núi Cao là nơi Môsê sẽ nhận lệnh Lề luật của Chúa, và núi Nê-bô là địa điểm từ đó ông đã nhìn về Đất Hứa" (J.Potin, Jésus, l'histoire vraie, Centurion, 1994 trang 114).
2. Giữa hoang địa - Niềm cậy trông tuyệt đối vào Thiên Chúa.
Cơn cám dỗ đầu tiên có khung cảnh là "hoang địa". Đối với dân tộc Do Thái, đây là nơi chốn tượng trưng cho sự gần gũi Thiên Chúa, đồng thời cho sự thử thách làm sáng tỏ đáy lòng con người (chay tịnh, nhịn đói là nhằm thử lòng mình đối với Thiên Chúa); Hoang địa còn là nơi có tính cách biểu tượng cho mọi khởi đầu: Đức Giêsu ăn chay ở đây suốt bốn mươi đêm ngày, cũng như Môsê ngày xưa trên núi Sinai, trước khi đón nhận luật Giao ước. J.Guillet viết: đối với cư dân miền Palestine, hoang địa vừa là một phong cảnh cụ thể, nhìn thấy được từ đỉnh của dãy núi chính, vừa là một kỷ vật gợi nhớ lại thời các tổ phụ, đồng thời cũng là hình ảnh đầy ý nghĩa về những cách Thiên Chúa đã xử sự với dân Người. Có khi là những tai họa khổ đau Người để dân phải chịu, có khi là niềm an ủi, vỗ về Người dành cho họ. Trong ký ức của người Do thái, hành trình đi qua hoang địa vừa là quãng thời gian thiêng liêng của biến cố núi Sinai, cũng như của việc ban bố Lề luật, vừa là giai đoạn đen tối của thói kêu ca lẩm bẩm và những hành động chống đối của dân chúng, thời gian của Thiên Chúa và cũng là thời gian của ma quỉ, chính Đức Giêsu đã tự ý bước vào đó" (sđd, trang 44-45).
- Trong hoang địa, khi chịu cái đói thử thách "để cho biết lòng dạ chúng ra sao" (Nhị Luật 8,2), con cái Israel đã nghi ngờ Thiên Chúa. Họ đã tỏ ra không dám cậy dựa vào một mình Lời Chúa, không dám tin tưởng vào các lời hứa của Người. Họ lẩm bẩm kêu ca: "Thà rằng chúng ta chết bởi tay Thiên Chúa ở đất Ai Cập thời ấy được ăn uống no nê" (Xh 16,3). Và Người đã ban mana xuống cho họ.
- Trong hoang địa, Đức Giêsu cũng phải trải qua cơn cám dỗ như thế: cơn cám dỗ về sự dễ dãi tiện nghi, muốn ‘có tất cả, có liền’. Hãy truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi, tên cám dỗ đã dụ Người.
- J.Radermakers giải thích: "Tiếng nói đã mời mọc Đức Giêsu biến đá sỏi sa mạc thành mâm đồ ăn ngon, thành tiếng nói của bản năng và xác thịt loài người luôn có xu hướng bóp nghẹt sự sống của Thiên Chúa" (Au fil de l'Evangile selon saint Matthieu”, trang 67). Nhưng Đức Giêsu đã có lựa chọn của "Người Con"; Người đáp lại bằng cách trích dẫn sách Đệ Nhị Luật, chương 8 câu 3, liên hệ đến câu chuyện về bánh manna; "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra". Trái với dân Israel trong hoang địa xưa, Đức Giêsu hoàn toàn phó thác nơi Chúa Cha, Người chỉ cậy dựa vào một mình Lời của Thiên Chúa. Rồi đây trong suốt cuộc đời hoạt động của Người, Đức Giêsu sẽ trở thành mục tiêu công kích của những, đối thủ. Họ đòi Chúa phải cho họ thấy những dấu chỉ tỏ tường, để minh chứng điều Người tự xưng về mình. "Bấy giờ, có những người thuộc phái Pharisêu là phái Xa-đốc lại gần Đức Giêsu”, Matthêu dùng lại từ ngữ của bài tường thuật Cám Dỗ, và để thử Người, thì xin Người cho thấy một dấu lạ từ trời" (Mt 16,1). Nhưng cho đến giây phút cuối, Đức Giêsu vẫn muốn là một Đấng Cứu Thế nghèo, nhận lãnh tất cả từ Chúa Cha.
3. Trên nóc Đền Thờ - Chấp nhận con đường đau khổ.
Cơn cám dỗ thứ hai có khung cảnh là nóc "Đền Thờ", nơi là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện và che chở Dân của Người.
- Trong hoang địa, khi chịu cái khát thử thách, con cái Israel đã phải trải qua đêm tối của đức tin, khiến họ nghi ngờ và chống đối. Thiên Chúa đã dẫn họ vào hoang địa phải chăng để bỏ rơi họ trong cảnh tuyệt vọng "Có thực Thiên Chúa ở với chúng ta hay không? (Xh 17), họ lẩm bẩm với nhau như thế. Họ đã đi đến chỗ "thách thức" Thiên Chúa xem Người: có thể cung cấp nước uống cho họ trong hoang địa, họ "thử thách Người".
- Đức Giêsu cũng phải trải qua cơn cám dỗ như thế: cơn cám dỗ về quyền lực. "Gieo mình xuống đi!", tên cám dỗ xúi Người bằng cách xuyên tạc một câu của thánh vịnh 90: "Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá”.
Một lần nữa, Đức Giêsu đã có chọn lựa của "Người Con"; Người đáp lại bằng cách trích dẫn sách Nhị Luật, chương 6, câu 16, liên hệ đến chuyện dân Do Thái kêu ca, và Thiên Chúa đã ban cho họ mạch nước tràn trề từ tảng đá: "Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”. Khác với Israel trong hoang địa xưa, Đức Giêsu không bao giờ tìm cách thử xem Thiên Chúa có hiện diện trong cuộc đời mình hay không. Người bước đi mà không cho dấu chỉ nào, không yêu cầu bằng chứng nào, trong suốt sứ vụ, và nhất là trên thánh giá, vào giờ phút đen tối nhất, khi chính Chúa Cha cũng lặng thinh, Đức Giêsu đã chịu cơn cám dỗ: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy tự cứu lấy mình và xuống khỏi thập giá đi”, những đối thủ của Chúa đã buông lời thách thức, lập lại lời của tên cám dỗ trước kia. Nhưng Đức Giêsu, cho đến cùng vẫn trung thành với chọn lựa là một vị Cứu Thế khiêm cung, hoàn toàn phó thác mình cho Chúa Cha.
4. Trên núi cao - chọn lựa một đường lối cứu thế, bằng phục vụ.
Cơn cám dỗ thứ ba, theo Tin Mừng Matthêu, có khung cảnh "một ngọn núi rất cao". Nghe nói đến địa điểm này, người Do Thái chắc chắn sẽ liên tưởng đến ngọn núi Nê-bô ông Môsê đã lên để nhìn từ biệt Đất Hứa. Trên đó, Thiên Chúa đã chỉ cho ông xem thấy toàn bộ miền đất (Đnl 34,1), và thêm: "Miền đất này, ngươi sẽ chẳng được vào” (Đnl 34,4). Ở đây, Đức Giêsu là Môsê mới, đang chuẩn bị dẫn dắt đoàn dân của Người đến Đất Hứa Nước Trời, Người được tên cám dỗ chỉ cho thấy tất cả các nước thế giới và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy.
- Trong hoang địa, con cái Israel bị hoang mang trước tương lai bất định, đã chịu thua cơn cám dỗ. Họ đã bỏ quên Thiên Chúa độc nhất, Đấng đã cứu họ khỏi đất Ai Cập, để chạy theo các thần ngoại khác dễ dãi, dễ sai khiến, dễ chiều theo ý muốn của họ, sẵn sàng bảo đảm cho họ giấc mơ quyền lực và mộng bá chủ: "Hãy làm cho chúng tôi những vị thần để đi trước chúng tôi", họ yêu cầu ông Aaron (Xh 32,33); và Aaron đã làm cho họ một con bò vàng.
- Chính Đức Giêsu cũng đã phải trải qua cơn cám dỗ như thế: cơn cám dỗ về sức mạnh trần thế, dụ dỗ Người theo đuổi một đường lối cứu thế kiểu trần gian, chiều theo những mong đợi và tham vọng loài người. "Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi", tên cám dỗ hứa hẹn với Chúa như thế. Lần thứ ba, Đức Giêsu lại có chọn lựa của "Người Con". Người đáp lại bằng cách trích dẫn Sách Nhị Luật, chương 8, câu 17-18, hiển nhiên có liên can với câu chuyện bò vàng: "Satan kia, xéo đi! Vì có lời chép rằng: ngươi phải bái lạy Đức Giêsu là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi. Khác xa dân Israel xưa trong hoang địa, Đức Giêsu khước từ mọi thỏa hiệp: Người dứt khoát đi theo con đường cứu thế bằng phục vụ chứ không phải bằng sức mạnh thống trị.
- Trong suốt sứ vụ, Đức Giêsu phải thường xuyên đương đầu với cơn cám dỗ ấy. Cơn cám dỗ đến không chỉ từ phía những đối thủ hay đám đông dân chúng đi theo mà thôi, nhưng còn ngay từ những bạn hữu của Người, những kẻ Người sẽ giao trách nhiệm kế tục sứ mạng của Người. "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy”, Phêrô đã lên tiếng can ngăn, thay mặt cho cả nhóm không muốn thấy Đức Giêsu, Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, mà phải rơi vào số phận bi đát như thế. Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại". Và Đức Giêsu đã nghiêm khắc đáp lại, tương tự lời Người đã nói với tên dỗ: "Satan, lui lại đằng sau Thầy! Anh cản lối Thầy vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người (Mt 16,16-23). Cho đến cùng, Đức Giêsu vẫn chọn làm một vị Cứu Thế tôi tớ đau khổ mà các ngôn sứ đã loan báo.
J. Potin kết luận: "Nếu Đấng được Thiên Chúa chọn đã vẻ vang vượt qua được cơn cám dỗ lần này, thì thử thách thực sự vẫn còn trước mắt. Như thánh sử Luca kết ở cuối câu chuyện: "Sau khi đã xoay hết cách để cám Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ (Lc 4,13). Đâu là khuôn mặt cứu thế mà Đức Giêsu phải đảm nhận. Phải chăng là khuôn mặt của Đavit, người của Thiên Chúa, và cũng là người của những cuộc chinh chiến chống lại quân thù. Phải chăng là khuôn mặt của Người Tôi Tớ Thiên Chúa mà chúng ta sẽ thấy được khắc họa ngày càng rõ nét. Matthêu và Luca có ý cho thấy ngay trước bắt đầu sứ vụ, vừa lãnh phép rửa xong, Đức Giêsu đã chọn lựa. Đấng được Thiên Chúa chọn, là Con Thiên Chúa, đã dứt khoát chọn lấy sự vâng phục trọn vẹn Lời của Thiên Chúa" (Sđd, trang 117).
BÀI ĐỌC THÊM
1. Mối liên lạc thâm sâu giữa Phép Rửa và cám dỗ: (“J.Guillet, "Jésus la foi des premiers disciples" Desclée de Brouwer, 1995, trang 46-47).
"Mối liên lạc thâm sâu giữa Phép Rửa và cám dỗ chính là mối liên lạc của đức tin, nơi Đức Giêsu và nơi chúng ta. Cơn cám dỗ rõ ràng là một trong những chỗ mà người ta không thể nào hiểu được Đức Giêsu nếu không nói đến niềm tin của Người. Sống nhờ những gì Thiên Chúa ban cho, hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa, một mình đối diện trước hư không, trước một tương lai vô định, dưới nhiều dạng khác nhau, đó chính là kinh nghiệm của đức tin. Và nếu, theo các sách Tin Mừng, kinh nghiệm ấy đi liền với biến cố Phép Rửa, là bởi vì trong biến cố ấy, nó đóng một trai trò rất quan trọng. Và bằng chứng đây là vấn đề của đức tin, đó là những cám dỗ của Đức Giêsu cũng chính là những cám dỗ của Dân Chúa trong hoang địa. Khi thắng những cám dỗ ấy, Chúa muốn đồng thời chỉ cho họ thấy họ đang thiếu cái gì và hôm nay Người mang đến cho họ cái gì. Bây giờ nếu trung thành với những chỉ dẫn của các sách Tin Mừng, đối chiếu hai biến cố phép rửa và cám dỗ của Đức Giêsu, người ta sẽ có thể nhận ra được chỗ đứng đặc biệt của đức tin nơi cả hai đoạn. Kết quả đối chiếu bề ngoài có vẻ mâu thuẫn: phép Rửa là nơi tràn ngập sự hiện diện của Thiên Chúa, là nơi vang rền tiếng phán từ trời cao, trái lại, cám dỗ là chỗ của sự xa vắng, của đói khát, của trống trải hư không. Phải nói rằng Đức Giêsu đã lần lượt nếm qua cả hai kinh nghiệm chính yếu trên.
Đối lại với lối giải thích nông cạn đó, chúng ta phải để ý đến cách suy luận rất rõ của các Tin Mừng, đến sự nhấn mạnh của các sách ấy vào mối liên lạc thâm sâu giữa hai khoảng khắc. Không phải chỉ đơn giản là sự tương phản ở hiện tượng bên ngoài, nhưng là một sợi dây nối hết sâu bên trong. Trong câu chuyện này hay câu chuyện kia, nội dung vẫn là Chúa Con trong tương quan với Thiên Chúa. Là Con Thiên Chúa, điều đó mang đến một lúc hai ý nghĩa không thể tách rời nhau: là lắng nghe tiếng nói yêu thương của Chúa Cha, và trọn vẹn vâng phục thánh ý Người. Cả hai làm thành đức tin, đức tin của Con Thiên Chúa.
Đúng là người tín hữu thường phải sống đức tin trong tâm trạng xa vắng và đêm tối tâm hồn. Không có sự xa vắng đó, đức tin sẽ biến chất và tiêu tan thành một thứ thị kiến ảo ảnh. Nhưng ngay trong tâm trạng xa vắng đó người tín hữu kinh nghiệm một sự gặp gỡ, một sự hiện diện. Thánh Gioan Thánh Giá đã xây dựng toàn bộ học thuyết của mình trên lời dạy này: nhận biết Thiên Chúa qua đức tin chính là đã đạt được Người trong chân lý của Người, ngay từ cuộc đời này. Cuộc gặp gỡ trong đêm tối này, niềm xác tín thường chỉ là vô thức này, chính là trung tâm, cốt lõi của đức tin chân thực, chỉ với một đức tin như vậy chúng ta mới nhận biết một vị Thiên Chúa thật. Đức tin một trật vừa là ánh sáng rực rỡ, Vừa là bóng tối thẳm sâu. Cũng thế, một cách bất khá phân ly, ánh sáng của Phép Rửa cùng với đêm tối của Cám Dỗ, làm nên đức tin của Đức Giêsu Kitô, mầm mống của đức tin chúng ta.
2. “Những cám dỗ của Đức Giêsu cũng là của chúng ta hôm nay”.
"Chúng ta thấy: những cám dỗ của Đức Giêsu cũng là của chúng ta hôm nay. Chẳng có gì phải ngạc nhiên. Chúng ta biết rằng nơi Đấng là Đầu, toàn Thân Mình đã chiến thắng cám dỗ. Chính nhờ cậy dựa vào Người mà đến lượt mình chúng ta có thể thoát được cạm bẫy của tên cám dỗ. Đức Giêsu dạy chúng ta phải đương đầu như thế nào: bằng cách chạy đến với Lời Chúa. Lời Chúa soi đường chỉ lối cho chúng ta đi. Lời Chúa chở che, bảo đảm cho chúng khỏi bị lầm lạc. Thật là nguy hiểm nếu chúng ta để mình buông theo xu hướng tự nhiên của loài người? ma quỉ cũng không mong gì hơn chúng ta đồng lõa với chúng như thế. Khi ấy Lời Chúa sẽ là thành lũy bảo vệ chúng ta.
Trong mùa chay, Hội Thánh nhắc nhở ta rằng đời ta là một cuộc hành trình hướng đến Phục Sinh, hướng đến thời điểm Đức Giêsu, qua cái chết và sự phục sinh của Người, sẽ dẫn đưa ta vào cuộc sống đích thực, vào cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa. Đó là một cuộc hành trình đầy khó khăn và thử thách, rất giống với chuyến đi qua sa mạc.
Chính nơi sa mạc mà, đang khi tiến về đất hứa, dân Israel đã lãng quên trong chốc lát Thiên Chúa của họ và bắt đầu thờ lạy con bò vàng.
Đức Giêsu cũng đi qua sa mạc, và Người cũng bị Xa-tan cám dỗ thờ lạy quyền lực và thành công. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã dứt khoát khước từ mọi quyến rũ của ma quỷ và cương quyết hướng về sự thiện đích thực duy nhất:
“Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.
Điều đã xảy ra với dân Israel và với Đức Giêsu thì cũng xảy ra với chúng ta. Trong cuộc sống hàng ngày, ta cũng bị cám dỗ lựa chọn một giải pháp dễ dãi hơn. Những cám dỗ này hứa hẹn với ta hạnh phúc và mời mọc ta hãy coi trọng những gì là hiệu quả nhất, những gì là đẹp nhất và những gì là khoái lạc, và hãy muốn sở hữu của cải và có quyền lực. Những điều này tự bản thân chúng có thể là tích cực, nhưng chúng cũng có thể bị tuyệt đối hóa và thường được xã hội của chúng ta đề cao như những ngẫu tượng đích thực.
Khi ta không nhận biết và chẳng thờ lạy Thiên Chúa, thì tất yếu những “thần” khác xuất hiện, và những kiểu thờ phượng như chiêm tinh và ma thuật bắt đầu tái xuất hiện.
Đức Giêsu nhắc nhở ta rằng ta nên tìm sự thành toàn của mình không không phải ở nơi những cái chung cuộc sẽ qua đi, mà ở việc đặt mình trước mặt Thiên Chúa, Đấng tác tạo mọi loài, và nhận biết Người là Đấng Tạo Hoá, là Chúa của lịch sử, là Mọi Sự cho ta, là Thiên Chúa!
Nếu ở trên Trời, nơi chúng ta đều đang hướng về, ta sẽ không ngừng ca tụng Người thì tại sao ta không bắt đầu ngay ở đây và bây giờ việc ca tụng đó?
Đôi khi ta cảm thấy một nỗi khao khát muốn thờ lạy Người bằng cách ca tụng Người tận trong đáy lòng ta, trong sự hiện diện thinh lặng của Người nơi nhà tạm và trong việc cử hành phụng vụ Thánh Thể.
“Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.
Nhưng “thờ lạy” Thiên Chúa nghĩa là gì? Đó là một thái độ ta cho phép mình chỉ hướng về Người mà thôi. Thờ lạy nghĩa là thưa với Thiên Chúa: “Chúa là mọi sự”, nghĩa là “Chúa là Chúa”, và con được ban ơn, đặc ân trong đời là nhận biết Chúa.
Thờ lạy cũng có nghĩa là nói: “Con là hư vô”. Và ta không chỉ nói suông. Để thờ lạy Thiên Chúa, ta cần phải đặt bản thân sang một bên và để cho sự hiện diện của Người hiển trị nơi ta và trên thế gian. Điều này hàm nghĩa một cuộc chiến không ngừng nhằm chống lại những thần tượng giả mà chúng ta bị cám dỗ dựng nên trong cuộc sống của ta.
Cách thế chắc chắn nhất để trở nên một thí dụ sống động rằng ta là hư vô và Thiên Chúa là mọi sự, là hãy hết sức tích cực. Ta có muốn hãm dẹp tư tưởng của ta qua một bên không? Ta chỉ cần nghĩ đến Thiên Chúa và sống theo những tư tưởng của Người được mạc khải trong Phúc Âm.
Ta có muốn chết đi cho ý riêng của mình không? Ta chỉ cần ôm chặt lấy thánh ý của Người được bày tỏ cho ta trong mọi giây phút hiện tại.
Ta có muốn từ bỏ những ước muốn hỗn độn không? Ta cần đổ đầy tâm hồn của ta lòng yêu mến Thiên Chúa và yêu thương những người bên cạnh bằng cách chia sẻ những lo âu, những khổ đau, những vấn đề, và những niềm vui của họ.
Nếu ta biết yêu thương, thì việc tự xóa mình đi lúc nào cũng xảy ra mà ta chẳng hay. Bằng cách sống sự hư vô của mình, cuộc đời ta khẳng định sự vĩ đại của Thiên Chúa và chứng tỏ rằng Người là mọi sự. Việc này tự nhiên dẫn đưa ta đến sự thờ lạy chân chính đối với Thiên Chúa.
“Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.
Cách đây nhiều năm, khi chúng tôi khám phá ra rằng thờ lạy Thiên Chúa nghĩa là công bố sự vĩ đại của Người trên sự hư vô của mình, chúng tôi đã sáng tác bài ca này:
“Nếu sao tắt ngấm trên trời, Nếu mỗi ngày đều kết thúc, Nếu sóng tiêu tán trong biển, Không bao giờ trở lại, Thì tất cả điều này là vì vinh quang của Chúa. Ước gì mọi thụ tạo ca tụng Chúa:
“Chúa là mọi sự!” Và mọi sinh vật nói với mình: “Tôi là hư vô!”
Kết quả của việc ta trở nên hư vô vì tình yêu là sự hư vô của ta liền được lấp tràn bởi Đấng là Mọi Sự, bởi Thiên Chúa, Đấng chiếm hữu tâm hồn ta.
Chúa nhật I Mùa chay hướng chúng ta về mầu nhiệm vượt qua của Chúa Giêsu. Và Chúa nhật này cũng đưa chúng ta đến một khung cảnh, đến một sự việc bất ngờ và kỳ diệu. Chúa Giêsu, Ngôi Hai xuống thế làm người, ngày hôm nay đã bị ma quỷ cám dỗ. Thực tế, đây là một mầu nhiệm bởi vì ma quỷ làm sao dám đối diện với Vua Trời Đất cao cả…
Quả thực, Chúa Giêsu “ vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu “
( Pl 2, 6-9 ). Như thế, ngoại trừ tội lỗi, Chúa Giêsu đã nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria và đã làm người. Nên, Ngài là con người giống chúng ta trong mọi sự. Chúa Giêsu đã phải đối đầu với cám dỗ và Ngài đã chống trả dứt khoát. Trái ngược với Ông bà nguyên tổ: Ađam và Evà. Hai Ông bà nguyên tổ trong vườn địa đàng đã bị con rắn là ma quỷ cám dỗ, nhưng nguyên tổ đã sa ngã vì bất trung với Thiên Chúa. Còn Chúa Giêsu khi sửa soạn sứ vụ công khai của Ngài, Ngài đã đi vào nơi hoang địa để đương đầu với ma quỷ trong những cám dỗ chết người, nhưng Ngài đã một mực trung thành với thánh ý của Thiên Chúa Cha và ý chí ấy đã đưa Ngài từ Sa mạc hoang vu, tới dòng sông Giorđăng, từ Giêrusalem đến vườn Cây Dầu, nơi đây, ma quỷ còn thử thách Ngài nặng nề hơn nữa, cám dỗ Ngài bỏ sứ mạng cứu thế của Ngài. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lúc nào cũng đầy Thánh Thần và Ngài đã luôn chiến thắng những cám dỗ do ma quỷ bầy ra để kéo Ngài ra khỏi Thiên ý của Chúa Cha. Ngày Lễ Lá , chúng ta thấy Chúa Giêsu thốt lên trong vườn Cây Dầu khi Ngài đang hấp hối:” Lạy Cha, nếu có thể được, thì xin cất chén đắng này khỏi con “. Nhưng, Chúa Giêsu luôn kiên nhẫn, luôn kết hiệp mật thiết với Chúa Cha trong lời cầu nguyện. Chính vì thế, Ngài luôn nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần và Ngài luôn hết mình tuân phục Thánh ý của Thiên Chúa cha:” Nhưng xin theo ý Cha, đừng theo ý của Con “.
Chúa Giêsu đã luôn đi theo con đường của Thiên Chúa Cha. Đó là con đường cứu độ, con đường tình yêu. Chúa Giêsu đã đi từ đau khổ, chết tới phục sinh. Đó là Mầu nhiệm Vượt Qua. Đó là cuộc đau khổ hồng phúc của Chúa Giêsu. Bởi vì, Ngài đi qua thống khổ, bị kết án tử hình, bị treo trên Thập giá, bị táng trong mồ và sau ba ngày, Ngài đã sống lại khải hoàn. Đây là mầu nhiệm vì nó được giấu kín trong sự khôn ngoan khôn lường của Thiên Chúa Cha.
Ba cám dỗ về của ăn, tiền tài vật chất, danh vọng là ba cám dỗ đã làm cho biết bao người ngã gục trước nanh vuốt đen tối của ma quỷ. Chúa Giêsu đã anh dũng chiến thắng tội lỗi, cám dỗ và sự chết. Ngài đã đi từ cõi chết đến cõi sống, đi từ bóng tối tới ánh sáng trường sinh, vĩnh cửu.
Chúa Giêsu đã chết và đã vinh thắng sự chết, khải hoàn sống lại vinh quang. Ngài đã chết cho chúng ta được sống, Ngài đã gánh tội của chúng ta không như tội nhân mà là Đấng giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi. Mầu nhiệm phục sinh là chân lý hướng dẫn người Kitô hữu trong suốt cả cuộc hành trình đức tin dưới thế. Đặc biệt, Mùa chay ba phương thế: ăn chay, cầu nguyện, bố thí là ba phương cách truyền thống giúp người Kitô hữu kết hiệp với Chúa Giêsu và giúp người Kitô hữu hợp nhất với lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, với lễ Vượt Qua của mỗi người chúng ta để rồi chúng ta có thể thốt lên:” Xin cho ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời“. Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết phó thác vào sự quan phòng của Chúa và ban cho chúng con sức mạnh của Chúa Thánh Thần để chúng con vững mạnh trong đức tin mà chiến thắng mọi cạm bẫy của ma quỷ. Amen. Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
"Chúa Giêsu nhịn ăn bốn mươi ngày đêm, và chịu cám dỗ".
Khi ấy, Chúa Giêsu được Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ. Khi Người đã nhịn ăn bốn mươi đêm ngày, Người cảm thấy đói. Và tên cám dỗ đến gần, nói với Người rằng: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy khiến những hòn đá này biến thành bánh". Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: "Có lời chép rằng: 'Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra'".
Bấy giờ ma quỷ đưa Người lên Thành thánh, và đặt Người trên góc tường Đền thờ, rồi nói với Người rằng: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống đi, vì có lời chép rằng: Ngài đã ra lệnh cho các Thiên Thần đến với ông, và chư vị đó sẽ nâng đỡ ông trên tay, để ông khỏi vấp chân vào đá". Chúa Giêsu đáp: "Cũng có lời chép rằng: "Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi".
Quỷ lại đưa Người lên núi rất cao, và chỉ cho Người xem thấy mọi nước thế gian và vinh quang của những nước đó, rồi nói với Người rằng: "Tôi sẽ cho ông tất cả những cái đó, nếu ông sấp mình xuống thờ lạy tôi". Bấy giờ Chúa Giêsu bảo nó rằng: "Hãy lui đi, hỡi Satan! Vì có lời đã chép: "Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi, và chỉ phụng sự một mình Ngài". Bấy giờ ma quỷ bỏ Người. Và các thiên thần tiến lại, hầu hạ Người.
Danh từ "Mùa Chay" có vẻ chỉ còn "vang bóng một thời", nghĩa là nhắc lại thời xa xưa mà Giáo hội ăn chay hầu như suốt cả Mùa (trừ Chúa nhật). Ngày nay chúng ta chỉ còn giữ chay 2 ngày (thứ tư lễ Tro và thứ Sáu Tuần Thánh). Thế nên có thể nghĩ đến việc tìm ra một danh từ khác. Chẳng hạn có thể bắt chước La văn hay Pháp văn gọi Mùa này là "Mùa Tứ Tuần" hoặc "Mùa 40 ngày" (qua dragesima, carême).
Tuy nhiên nếu giữ lại danh từ "Mùa Chay" cũng vẫn tốt, để nhớ lại nguồn gốc, ý nghĩa và tinh thần của những tuần lễ trước Tam Nhật Vượt Qua.
Là vì như chúng ta đã biết, Phụng vụ của Giáo hội đã khởi đầu với việc cử hành "Ngày Chúa nhật" để tôn kính Ngày Chúa sống lại. Và ngày Chúa nhật giáp năm Chúa Nhật Phục Sinh đã được cử hành long trọng một cách đặc biệt, bằng cách tổ chức "Tam Nhật Vượt Qua", tức là ba ngày trước lễ Phục sinh. Người ta ăn chay, hãm mình để thực hiện mầu nhiệm Tử nạn của Chúa ở nơi mình, hầu xứng đáng mừng việc Chúa sống lại.
Nhưng ba ngày thật quá ít đối với những ai thấy mình nhiều tội hoặc đã sống lâu trong tình trạng tội lỗi. Và những tội nhân công khai chắc cần phải có thời giờ nhiều hơn, để tập sống đạo đức trở lại. Chẳng bao lâu, Tam Nhật Vượt Qua đã trở thành nhiều tuần lễ. Và để mở đầu, người ta tổ chức ngày rắc tro trên đầu và mặc áo nhặm để đưa các tội nhân muốn thống hối vào Mùa ăn chay đền tội. Đó là ý nghĩa ngày Thứ Tư Lễ Tro hiện nay.
Chúng ta có thể tự hỏi vì sao lại chọn ngày thứ Tư? Trước khi có Tam Nhật Vượt Qua để dọn tâm hồn mừng giáp năm Ngày Chúa sống lại, dần dần trong Hội Thánh có thói quen chuẩn bị lễ mỗi ngày Chúa nhật. Và hai ngày được chọn để làm công việc này là thứ Tư và thứ Sáu, vì theo lối tính thời gian, nhiều người nghĩ rằng Chúa Kitô đã bị bắt ngay từ đêm thứ Ba rạng ngày thứ Tư và Người đã tử nạn vào ngày thứ Sáu. Thế nên muốn kết hợp với mầu nhiệm Thương Khó của Người, Phụng vụ đã khởi sự tinh thần thống hối vào ngày thứ Tư. Và các kinh lễ ngày thứ Tư và thứ Sáu trong tuần vẫn có vẻ đặc biệt hơn những ngày khác.
Cuối cùng để Mùa ăn chay đền tội được thêm ý nghĩa mầu nhiệm, Phụng vụ đã quy định thời gian 40 ngày để gợi lại 40 ngày Đức Kitô ăn chay trong sa mạc. Nhưng lòng sốt sắng vẫn có khuynh hướng nối dài thêm; thành ra trước đây đã có những Chúa nhật 70, 60 và 50, mà bây giờ không còn nữa. Và để bắt chước Đức Kitô trong những ngày ấy sống bằng Lời Chúa, Giáo hội đã muốn giúp đỡ các tội nhân thống hối bằng cách lấy kho tàng mạc khải mà giáo huấn họ lại.
Công việc giáo huấn này lại trùng với việc chuẩn bị các tân tòng đón nhận ơn phép Rửa tội trong Đêm Phục Sinh. Thành ra, Mùa Chay hiện nay mang nhiều ý nghĩa:
* nối dài Tam Nhật Vượt Qua: Giáo hội muốn con cái mình sửa soạn tâm hồn dự lễ giáp năm Ngày Chúa Phục Sinh;
** đặc biệt đối với những tội nhân công khai muốn trở về nếp sống đạo đức, Giáo hội cống hiến cho họ thời gian đền tội và cải tạo.
*** Và với các tân tòng sẽ lãnh nhận bí tích Rửa Tội trong Đêm Phục sinh, Giáo hội tổ chức việc giáo huấn ở nhịp độ khẩn trương.
Những ý nghĩa đó chan hòa trong Phụng vụ Mùa Chay, khi ẩn khi hiện. Mọi hạng người, tân tòng, tội nhân và thánh hữu đều có thể tìm thấy và phải đến tìm được trong mầu nhiệm Chúa ăn chay 40 ngày, ân sủng của việc Chúa chịu chết hầu cải tạo tâm hồn và đời sống để xứng đáng hát bài ca ALLÊLUIA mừng sự sống đã phục sinh, bài ca mà mùa này không hát nữa để sẽ được hát lại với tâm hồn mới mẻ.
Chúng ta hãy nhờ Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể giúp đỡ, để đổi mới tâm hồn trong Mùa Chay này.
Suy Niệm:
Chúa Nhật I Mùa Chay A
Kn 2,7-9; 3,1-7; Rm 5,12-19; Mt 4,1-11
Câu truyện Đức Kitô bị cám dỗ, tuy rất quen thuộc nhưng vẫn gây nhiều chú ý. Người ta muốn hiểu từng chi tiết, phân tích tỉ mỉ các cơn cám dỗ mà Chúa đã phải chịu. Rồi bài đọc I hôm nay lại nói về việc Ađam - Evà bị cám dỗ và sa ngã trong vười địa đàng khiến chúng ta có khuynh hướng gọi Chúa Nhật I Mùa Chay là Chúa Nhật Nói Về Cám Dỗ hoặc Thử Thách. Kiểu gọi đó lại hợp với Mùa Chay vì là mùa phải phấn đấu chống lại tội lỗi.
Nhưng nếu hiểu như vậy, Ngày hôm nay không làm nổi bật ý nghĩa của Ngày Chúa Nhật nữa, là phải đề cao mầu nhiệm Phục sinh. Chính bài thư Rôma cho ta thấy chủ ý của Phụng vụ khi trích đọc hai câu truyện kia. Thánh Phaolô nói: như do một người mà nhân loại đã chết, thì nay do một Vị mà tất cả được sống. Chúa nhật này vì thế mừng chiến thắng của Đức Kitô để cứu chuộc loài người sa ngã, hầu giúp chúng ta phấn khởi và vững vàng bước vào Mùa Chay.
Chúng ta hãy xem loài người đã sa ngã thế nào và Đức Kitô đã chiến thắng làm sao, để chúng ta liên kết với Người hầu sống đúng tinh thần Mùa Chay Thánh.
A. Loài Người Đã Sa Ngã
Câu truyện Ađam-Evà sa ngã đã làm hao tổn nhiều giấy mực. Chúng ta không được coi đây như là bản văn mới được viết vài năm. Có lẽ nó đã được 3,000 tuổi và được viết trong một bối cảnh thật xa lạ với chúng ta, tuy cũng có một vài nét khá gần gũi. Nó thuộc loại văn "khôn ngoan", phát triển sau thời Lưu đày.
Thời ấy, con người suy nghĩ nhận ra rằng ở mọi nơi đều có tội lỗi; và tội lỗi ở ngay trong tâm hồn mỗi người. Tội lỗi có đủ mọi bộ mặt, nhưng sâu xa đều là những hình thức bất tuân phục tiếng nói trong trắng, thần thiêng trong lòng con người. Diễn tả sự kiện ấy thế nào đây? Một tác giả "khôn ngoan" được ơn linh hứng đã viết ra câu chuyện nguyên tổ.
Ađam là "Người"; Evà là "Bà". Ađam-Evà là đàn ông và đàn bà, là loài người, là Nguyên tổ đã được Thiên Chúa dựng nên với hai yếu tố "thác là thể phách, còn là tinh anh". Mang yếu tố thể phách có thể thác đi, loài người là tạo vật chưa có hạnh phúc đầy đủ và bảo đảm. Nhưng Thiên Chúa đã thương cất nhắc họ lên một bậc, khi đưa họ đặt vào vườn địa đàng, hình ảnh về một trạng thái hạnh phúc bất tận, vì trong đó có cây hằng sống. Chỉ có một điều kiện: con người phải nhớ đây là tình trạng ân huệ nhưng không, lệ thuộc vào lòng tốt của Thiên Chúa, nên đáng lý con người luôn phải mến yêu kết hợp với Người.
Nhưng sự thật đã không như vậy. Và để diễn tả việc sa ngã này, tác giả sách Khởi nguyên đã lồng lời mạc khải trong bộ áo văn chương của thời đại. Giáo lý của Chúa thật đơn sơ: tội lỗi hoàn toàn không phải bởi Chúa, nhưng do ngây ngô khờ dại của loài người muốn tự kiêu. Giáo lý ấy diễn tả làm sao cho người sống cách đây 3,000 năm? Thời ấy người ta hay nói đến những thứ cây hằng sống và những cây ban khôn dại; người ta cũng coi rắn là loài quỷ quyệt và là thần sinh đẻ. Tác giả Thánh kinh mượn ngay những hình ảnh văn chương ấy để diễn tả Lời mạc khải. Con rắn dụ dỗ người ta ăn trái cây khôn dại. Nó sắc sảo nên đã cám dỗ Evà là người yếu đuối và là người đã không trực tiếp được nghe lệnh Chúa. Nó đảo lộn lệnh Ngài: "Các ngươi không được ăn cây nào trong vườn ư?", đang khi Chúa dạy được ăn mọi thứ cây, trừ cây biết tốt xấu. Và nói xuyên tạc ý nghĩa lệnh truyền: chẳng chết chóc gì đâu! Chỉ có điều Thiên Chúa biết: ngày nào ăn nó, các ngươi sẽ nên như những Thiên Chúa. Nó phỉnh lòng hiếu thắng tự kiêu của Evà, lôi bà vào tội bất vâng phục, khiến cả Ađam cũng sa ngã.
Điều quan trọng không phải là những chi tiết của câu truyện mặc dầu về phương diện văn chương, tâm lý, bản văn rất có giá trị. Chủ ý của tác giả chỉ muốn trình bày một số thực tại: mọi người đều tội lỗi, tội lỗi không phải bởi Chúa nhưng bởi Satan quỷ quyệt; nó ranh mãnh vặn vẹo tiếng nói thần linh trong lòng con người và phỉnh lòng tự ái của họ; con người khờ dại nghe theo nó, phạm tội bất vâng phục, và khi mở mắt ra thì thật là bẽ bàng... Chúng ta có thể suy nghĩ nhiều hơn nữa về những sự kiện trên, nhưng để cử hành Phụng vụ chúng ta chỉ cần nhận biết loài người đã sa ngã phạm tội, đã bại trận hoàn toàn, chỉ còn biết chờ mong ơn cứu vớt. Và ơn Chúa cứu độ đã đến nơi Đức Yêsu Kitô, Chúa chúng ta, như bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy.
B. Đức Kitô Đã Chiến Thắng
Thánh Matthêô đã tường thuật tỉ mỉ. Bản văn rõ ràng, nhưng che giấu nhiều ý tứ quan trọng.
Trước hết, sự việc đã xảy ra vào lúc Đức Kitô khởi sự công trình cứu thế. Người vừa chịu phép rửa của Yoan; được Thánh Thần hiện xuống; và có tiếng Chúa Cha tuyên bố: "Đây là Con Chí Ái của Ta". Người được Thánh Thần đưa vào sa mạc để chịu cám dỗ như Israel đã được cột lửa dẫn vào hoang địa để chịu thử thách. 40 đêm ngày của Người trong sa mạc khác nào như 40 năm của Israel nơi hoang địa vì Người là Israel mới đến cứu Israel cũ. Hơn nữa, Người là Môsê mới. Và như Môsê cũ đã ở trên núi 40 đêm ngày trước khi ban Luật pháp cho dân, Người cũng muốn sống một thời gian như thế ở nơi u tịch trước khi ban bố Luật pháp Nước Trời. Người ta cũng có thể thời gian 40 ngày này gợi lại hình ảnh một Êlya, sau 40 ngày trên đường đi gặp Thiên Chúa, đã cảm thấy đói mệt.
Chính lúc cơ thể Người thay đổi như vậy, Satan đã đến gần. Nó chưa hiểu rõ Người, vì 30 năm ở Nagiarét Người âm thầm và khiêm nhu quá! Nó vừa được nghe tuyên bố Người là Con Thiên Chúa; nhưng có thật vậy không? Lập trường và đường lối của Người như thế nào? Nó muốn biết. Nó cần phải thử. Nó nắm lấy cơ hội Người đang đói. Nó đi từ chính tước hiệu Người là Con Thiên Chúa, để xem "bộ mặt đích thực" của Người. Nó vừa xúi, vừa thử: nếu Ông là Con Thiên Chúa hãy hóa những viên đá này nên bánh. Nhưng câu trả lời của Người đã làm nó chưng hửng. Người trích dẫn câu sách Thứ luật (8,2-5) gợi lại câu chuyện Israel ngày xưa nơi sa mạc bị thử thách khi đói ăn (Xh 16). Israel cũ đã ngã, nhưng Israel mới không thể như vậy. Người nói: "Con người không sống nguyên nhờ bánh, nhưng còn nhờ Lời Thiên Chúa". Người không sống nhờ phương tiện vật chất; Người đã có một thứ lương thực khác: đó là Thánh Ý của Chúa Cha. Người không đến để tìm sự sống cho bản thân. Đã có Chúa Cha ban sự sống đích thực cho Người, vì Người là Con Chúa Cha. Satan không thể lầm về con người của Người nữa.
Nhưng còn sứ mạng của Người? Chắc chắn Người đến để thiết lập thời đại cánh chung, thời đại phân biệt tốt xấu lành dữ. Các tiên tri nói rằng khi đến thời đại ấy nhiều người sẽ xuất hiện bảo mình là Kitô. Và thiên hạ sẽ được chứng kiến nhiều trò ngoạn mục. Ngài Yêsu, Con Thiên Chúa đây là Kitô thuộc loại nào? Giả hay thiệt? Satan tạo nên một bối cảnh cánh chung. Nó đưa Người vào thành thánh và đặt trên thượng đỉnh Đền thờ để như có quần chúng đông đảo ở dưới chân đang chờ đợi dấu thiêng điềm lạ, đến nỗi có thể có cả những sự can thiệp của các thiên thần. Chính danh từ thành thánh đã báo hiệu thời kỳ cánh chung rồi. Satan dùng ngay khí giới Đức Kitô đã dùng. Nó trích Lời Chúa để hy vọng vô hiệu hóa "thứ gươm hai lưỡi đó", nếu làm được cho Người lạm dụng Lời Chúa, lạm dụng sứ mạng và quyền lực được trao phó cho Người. Nó bảo: nếu Ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống vì như đã chép, Người sẽ lịnh cho các thiên thần đến đỡ... Nó đâu ngờ được Người sẽ trả lời: lại có chép: Ngươi đừng thử thách Thiên Chúa. Câu sách Thứ Luật này (6,16) lại gợi đến một chuyện ở hoang địa, kể trong sách Xuất hành (17). Chính ở Massa, dân đã thử thách Chúa, để xem Chúa có ở giữa họ hay không? Đức Kitô ý thức chắc chắn Thiên Chúa ở với Người. Người không thử thách Chúa. Người không cần làm chứng về mình, như các kitô giả phải tạo ra uy tín mà họ không có. Chính Chúa Cha đã làm chứng về Người ở sông Yorđan; và sẽ làm chứng huy hoàng hơn nữa trong mầu nhiệm Phục sinh.
Satan cố gắng một lần cuối cùng. Nó muốn biết rõ thái độ của Người đối với nó. Người phải trực tiếp nhìn vào nó. Và như vậy, nó đưa Người lên núi cao, bày cả thế gian ra trước mắt Người, chỉ cho Người thấy tất cả vương quốc của nó. Nó bảo Người chỉ cần lạy nó một cái là được tất cả. Nó thật không ngờ: cảnh tượng này nhắc Người nhớ tới hôm Môsê được dẫn lên núi cao để bao quát Hứa địa chảy sữa và mật. Dân sẽ được đất đó làm sở hữu, nhưng họ phải tránh tà giáo và chỉ được thờ một Thiên Chúa mà thôi. Tiếng của Môsê còn vang rõ trong Xuất hành (23,23), trong Thứ luật (16,16). Và hình ảnh Êlya, người chiến sĩ vô địch chống tà giáo, còn như đang đứng cao với ngọn núi Karmel. Đức Yêsu lập tức cất tiếng: Satan, xéo đi! Bị gọi đúng tên, nó biến mất, để lại một Đức Yêsu toàn thắng, được các thiên thần đến phục vụ. Chúng ta cũng hãy đến với Người để được đưa ra khỏi tình trạng sa ngã của loài người.
C. Liên Kết Với Đức Kitô
Đó là mục đích của Phụng vụ và của bài thơ Phaolô hôm nay. Bài thơ này muốn là gạch nối giữa bài sách Khởi Nguyên và bài Tin Mừng.
Chúng ta đã thấy tất cả loài người sa ngã hay ít ra đã thấy gương sa ngã của Ađam-Evà là tiêu biểu giống đàn ông đàn bà chúng ta. Chúng ta dễ đồng hóa mình với hai nguyên tổ, tức là cũng nhận ra mình là tội nhân trong cả loài người tội lỗi. Trong khi đó, nhìn vào chiến thắng của Đức Kitô, chúng ta thấy Satan đã bị đánh bại. Nhưng đó là chiến thắng của riêng Người, hấp dẫn chúng ta thật nhưng chưa có gì móc nối ta vào chiến thắng đó. Bài thư Phaolô đáp lại chờ mong của chúng ta, đem đến một tin mừng cứu độ: Đức Kitô đã chiến thắng cho chúng ta hết thảy và vì chúng ta hết thảy. Người là người con duy nhất của Thiên Chúa đã đến làm lại lịch sử của Dân Chúa để cứu chuộc toàn dân đã lầm lẫn. Người là Môsê mới được gửi đến để giúp dân không còn thử thách Chúa nữa, một tin vững vàng Ngài đang ở với mình và vì thế chỉ được thờ một mình Ngài mà thôi. Người cho những ai tin vào ơn gọi làm con Chúa được liên đới với Người. Và sự liên đới này hữu lý và sâu xa hơn sự liên đới với Ađam tội lỗi.
Đó là ý của bài thư Phaolô. Nó xoay quanh tư tưởng liên đới. Chúng ta dễ thấy mình liên đới với Ađam vì rõ ràng chính chúng ta cũng tội lỗi. Án tử mà chúng ta hết thảy đang mang trong mình là bằng chứng rõ rệt. Ý thức ấy sẽ đưa chúng ta vào tuyệt vọng, nếu không có một sự liên đới khác, sâu xa và hoàn toàn hơn. Sự liên đới này không kinh nghiệm được, nhưng hoàn toàn tựa vào niềm tin. Chính niềm tin cứu sống loài người. Trong Cựu Ước, Chúa đã cứu những ai tin Người. Nay dưới thời Tân Ước, Người cũng cứu những ai tin vào Người Con Chí Ái của Người. Và tin vào người Con này, thì phải bắt chước, sống ơn gọi làm con như Người.
Do đó, con đường Mùa Chay dẫn tới vinh quang Phục sinh là con đường bảo đảm và phát huy ơn gọi làm con Chúa. Ở bất cứ chặng đường nào, dường như vẫn có tiếng nói nhắc nhở chúng ta: nếu là con Thiên Chúa... thì chúng ta phải liên kết với Đức Kitô và phấn đấu như Người.
Dĩ nhiên cám dỗ có nhiều thứ; nhưng chung quy mọi cám dỗ đều muốn kéo ta ra khỏi ơn gọi làm con Chúa. Mà ơn gọi này, ở nơi ta cũng như ở nơi Đức Kitô, không thể tách rời khỏi ơn cứu thế. Ai ý thức mình là con Chúa cũng phải coi mọi người là anh em và đưa tất cả anh em về Nhà Cha. Nên hết mọi cám dỗ, khi muốn kéo ta ra khỏi ơn gọi làm con Chúa, cũng đồng thời lôi ta ra khỏi tình anh em. Và vì thế Mùa Chay phải là mùa phải trở về với cộng đồng vì là mùa phải trở về với Thiên Chúa. Chúng ta hãy có tinh thần yêu tha nhân, yêu đồng bào hơn; hãy sửa chữa những thái độ ích kỷ và phát huy tinh thần phục vụ công ích; hãy muốn cứu thế để được cứu độ, vì có thương xót mới được xót thương.
Đức Kitô giờ đây ban Thịt Máu Người cho ta. Tâm hồn Người thật quảng đại, nên chỉ có những ai quảng đại mới đáng đón nhận Người. Xin Người ngự vào lòng chúng ta, giúp chúng ta bảo toàn và phát huy ơn gọi làm con Chúa, để tăng ý thức mọi người là anh em ở nơi ta, hầu lòng mến Chúa ở nơi ta trở thành lòng mến yêu và phục vụ mọi người.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Các sách Tin Mừng Nhất lãm đều ghi lại Chúa Giê-su bị cám dỗ trong hoang địa. Thời điểm là sau khi Người lãnh phép rửa của ông Gio-an và trước khi thi hành sứ vụ rao giảng. Cám dỗ trong hoang địa khi Chúa Giê-su sắp bắt đầu đi rao giảng và cám dỗ trong Vườn Dầu khi Người sắp kết thúc sứ mệnh với cái chết trên thập giá, cả hai muốn nói lên rằng xuyên suốt cuộc đời thi hành sứ mệnh, Chúa Giê-su luôn luôn phải đối phó với cám dỗ, hoặc thử thách tư bề. Chiến thắng cám dỗ hôm nay và chiến thắng cám dỗ trong Vườn Dầu bằng thái độ tuân phục thánh ý Chúa Cha báo trước việc Chúa Giê-su chiến thắng ma quỷ, thần chết và tội lỗi. Bài Tin Mừng hôm nay mời chúng ta suy nghĩ về cám dỗ đối với việc thi hành sứ mệnh của Chúa Giê-su.
Trước hết, chúng ta thử nhìn vào diễn tiến cám dỗ của Xa-tan như thế nào. Thánh Mát-thêu chia cám dỗ làm ba giai đoạn: trong hoang địa biến đá thành bánh ăn , từ trên nóc Đền Thờ thử thách quyền năng Thiên Chúa và trên ngọn núi rất cao sấp mình bái lạy Xa-tan. Trong cả ba cám dỗ, Xa-tan đều xúi giục Chúa Giê-su chỉ nên nghĩ đến tư lợi và đừng quan tâm tới Thiên Chúa và kế hoạch cứu độ của Người. Nó muốn thuyết phục Người rằng quyền năng Thiên Chúa là để phục vụ cho nhu cầu cá nhân, như bánh ăn, sự yên ổn và vinh hoa lợi lộc thế gian.
Vậy Chúa Giê-su đã chống trả như thế nào? Người là Lời Thiên Chúa, là “bánh từ trời xuống”, là bánh ban sự sống. Sứ mệnh của Người là đem lại sự sống đời đời cho nhân loại, chứ không phải sự sống tạm bợ trần gian. Người phải sống “nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra”, sau đó Người mới có thể đem lại sự sống cho đoàn chiên và cho chúng được sống dồi dào (Gio-an 10:10).
Thay vì nhảy xuống từ nóc Đền Thờ để Thiên Chúa sai thiên sứ đỡ chân cứu lấy mạng sống, Chúa Giê-su đã tự nguyện để quân lính đóng đinh Người vào thập giá, giương lên cao, nhờ đó Người cứu độ nhân loại và đem tất cả về sum họp với Thiên Chúa Cha.
Sau hết, trên núi rất cao Chúa Giê-su đã khước từ mọi thứ vinh hoa Xa-tan muốn dành riêng cho Người nếu Người chọn nó thay vì chọn Thiên Chúa. Người khước từ lời mời mọc đó, vì Người muốn chấp nhận việc bị lột bỏ tất cả, từ quần áo cho đến danh dự, chịu nhục nhã trên thập giá để đem lại cho nhân loại vinh quang của chính Thiên Chúa là Đấng tạo dựng muôn vật muôn loài.
Dù diễn tả thế nào đi nữa thì những cám dỗ Chúa Giê-su phải đương đầu đều là những xúi giục làm ngược lại sứ mệnh Chúa Cha trao phó. Đây chỉ là những diễn tả cụ thể về cám dỗ. Nhưng chắc chắn trong khi thi hành sứ vụ, Chúa Giê-su vẫn tiếp tục phải đương đầu với cùng những cám dỗ này, những cám dỗ và chống trả xảy ra trong nội tâm Chúa Giê-su. Chúa Giê-su thường xuyên tới chỗ thanh vắng cầu nguyện, thí dụ sau khi dân chúng muốn tôn Người lên làm vua (Gio-an 6:15; Lu-ca 5:15). Người cầu nguyện như thế là để được sức mạnh mà chiến thắng cám dỗ và trung thành với sứ mệnh.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Sứ mệnh nào cũng có cám dỗ. Làm linh mục tu sĩ có những cám dỗ đối với sứ mệnh theo Chúa và phục vụ các linh hồn. Làm vợ chồng hay cha mẹ thì có những cám dỗ trước những bổn phận gia đình hoặc tình yêu hôn nhân. Cám dỗ đi theo sứ mệnh như hình với bóng. Nhưng cũng vì bị cám dỗ, chúng ta mới biết Chúa, biết mình và biết ma quỷ thế gian. Chúa là sức mạnh và là núi đá cho chúng ta ẩn nấp. Chúng ta phải cầu nguyện luôn để khỏi sa chước cám dỗ. Còn ma quỷ luôn rình rập, bây giờ tạm “bỏ đi, nhưng chờ đợi thời cơ” sẽ trở lại (Lu-ca 4:13).
Nhưng bên cạnh mỗi cám dỗ của ma quỷ, chúng ta lại có chiến thắng của Chúa Giê-su. Chiến thắng đó là mẫu gương và khích lệ cho chúng ta cố gắng phấn đấu mỗi khi bị cám dỗ. Cùng đích của cám dỗ là muốn chúng ta quay lưng lại với Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta chỉ cần nhớ: Phải thờ phượng một mình Chúa mà thôi!
Giữa những thách đố, con người vẫn cố sức vươn lên. Vươn lên như Đức Giêsu trong hoang địa sau khi chiến thắng những thách đố lớn lao trong thân phận con người.
SÓNG GIÓ.
Trần gian là một hành trình đi tìm cái tôi. Cái tôi ích kỷ hay đầy bản lãnh. Bản lãnh đó chỉ được xác định sau những thách đố hay sóng gió cuộc đời. Chỉ cần so sánh một chút giữa Eva và Đức Giêsu sẽ thấy ngay khác biệt lớn lao giữa hai cái tôi đó.
Evà được “Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.” (St 2:7). Bà muốn sống độc lập với Thiên Chúa, muốn dành quyền qui định luật luân lý của Thiên Chúa. Vì muốn “được tinh khôn” (St 3:6) như Thiên Chúa, bà đã nghe theo lời con rắn, giơ tay “hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình; ông cũng ăn.” (St 3:6) Ông bà tưởng mình trở thành “vị thần biết điều thiện điều ác.” (St 3:5) Nhưng thực tế “họ thấy mình trần truồng” (St 3:7) như con vật. Vỡ mộng. Trắng tay. Đúng như lời Chúa nói: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất.” (MC 8:35; Lc 9:24; Mt 10:39; Ga 12:25) Ông bà đánh mất chính mình ngay khi muốn xác định chính mình là ai. Từ sự mất mát đó, “tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết.” (Rm 5:12)
Trái lại, Đức Giêsu đã hoàn toàn tìm thấy cái tôi của mình ngay khi đành mất chính mình. Người không tìm cách xác định thế đứng độc lập với Thiên Chúa Cha. Nhưng Người muốn cho mọi người thấy chỉ có thể tìm được chính mình trong Thiên Chúa mà thôi. Qua ba cơn cám dỗ, Đức Giêsu mạc khải bản lãnh vô cùng vững chắc của mình trong vũ trụ. Thật vậy, sau khi “ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, Người thấy đói” (Mt 4:2) Quỉ liền tấn công vào điểm yếu nhất của con người Chúa lúc đó. Ai chẳng nghĩ, “có thực mới vực được đạo.” Nhưng thật bất ngờ. Trong cơn đói cồn cào, Người vẫn khẳng khái: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4:4) Còn hơn cơm bánh, lời Chúa là nguồn sống của cả vũ trụ, vì “nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành.” (Ga 1:3). Muốn hay không, con người phải hoàn toàn lệ thuộc vào ý Chúa.
Chính vì thế, có lần Người đã tâm sự với các môn đệ: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy.” (Ga 4:34) Nhờ xác định được nguồn sống đích thực như thế, Đức Giêsu đã đem lại sự sống phong phú cho toàn thể nhân loại. Thực vậy, “nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính.” (Rm 5:19) Khác hẳn với nguyên tổ, Đức Giêsu đã vâng lời Thiên Chúa Cha tuyệt đối. Sự lệ thuộc đó đã không đánh mất tính cách độc lập. Trái lại, Đức Giêsu đã xác định được vị thế mình một cách vững chắc hơn. Người không chiều theo những nịnh bợ rẻ tiền để biểu dương quyền năng một cách lố bịch. Trước những lời nịnh hót: “Nếu ông là con Thiên Chúa …” , Đức Giêsu đã khẳng khái đáp: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.” (Mt 4:7) Như vậy, mặc dù ý thức mình phải lệ thuộc vào nguồn sống là Thiên Chúa, Người vẫn không quên mình là Con Thiên Chúa ngang hàng với Chúa Cha.
Sau khi đã xác định vị thế siêu việt đó, Đức Giêsu mới thấy rõ hướng đi trước mặt. Nếu làm theo ý Satan, Đức Giêsu sẽ trở thành một kẻ giàu sang nhất trần gian (x.Mt 4:8-9). Nhưng Người sẽ đánh mất bản ngã và tương quan với Thiên Chúa. Người không còn là Con Thiên Chúa và trở thành kẻ phản loạn như Satan. Rất may, nhờ Thần Khí dẫn đường chỉ lối, Đức Giêsu đã chiến thắng cơn cám dỗ vô cùng hiểm độc này. Người đã chọn Thiên Chúa như cứu cánh duy nhất của cuộc đời. Tiếng Người mạnh mẽ vang lên: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi.” (Mt 4:10) Đó là hướng sống rất sáng tỏ đối với Đức Giêsu. Nhưng không phải một lần xác nhận là đủ. Thách đố đó không ngừng nổi lên trong cuộc đời.
Không vượt qua nổi cơn cám dỗ đó, con người sẽ thành mồi ngon cho những ngẫu tượng. Ngẫu tượng đó là chính cái tôi với những chiều kích cồng kềnh dị hợm. Chính khi cố gắng tôn thờ ngẫu tượng kinh tởm này, con người sẽ đánh mất căn tính. Con người sẽ mất phương hướng và hoàn toàn trống rỗng. Tâm hồn trở thành mảnh đất mầu mỡ phát sinh những tư tưởng khủng bố, dâm đãng, cướp bóc, nghiện ngập.
CƠ HỘI LỚN.
Thế giới hôm nay con người đang đẩy đồng loại vào những thảm cảnh chưa từng thấy. Thảm cảnh đó “thường là con đẻ của chủ nghĩa ích kỷ vô trách nhiệm.” (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit 13/02/2002) Nếu không tìm lại được con người đích thực của mình, nhân loại sẽ còn bị những ngẫu tượng hướng dẫn vào những ngõ cụt. Mất hết tương lai. Trái đất sẽ thành một nghĩa trang khổng lồ. Trước tình trạng bi đát đó, “chúng ta cảm thấy cần Thiên Chúa giúp chúng ta phục hồi niềm tin và niềm vui cho cuộc sống.” (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit 13/02/2002) Thiên Chúa sẽ giúp nếu chúng ta biết vượt lên như Đức Giêsu giữa bao thách đố trong hoang địa.
Với một hình thức rất hấp dẫn, những thách đố đầy ma lực đó chỉ nhằm kéo Đức Giêsu ra khỏi tình yêu Thiên Chúa. Nhưng đầu hàng trước những ma lực đó, chắc chắn Đức Giêsu càng lún sâu vào con đường lệ thuộc ma quỉ và đánh mất căn tính của mình. Những thực tại vật chất là những xiềng xích bên ngoài và tính kiêu ngạo là gông cùm bên trong sẽ cột chặt cái tôi của Người trong hố diệt vong.
Nhân loại hôm nay đang quay cuồng với những cái tôi phì nộn. Con người có quá nhiều nhu cầu giả tạo đến nỗi “mọi người đều nghĩ rằng mỗi chọn lựa và hành động phải bị luật cung cầu thị trường chi phối. Họ tưởng chỉ có lợi nhuận tối đa mới là định luật tối cao. Giữa lúc đó, niềm tin Kitô lại trình bày một lý tưởng bất vụ lợi, xây dựng trên tự do đầy ý thức của cá nhân, bắt nguồn từ tình yêu chân chính,” (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit 13/02/2002) tức là Thiên Chúa. Tình yêu ích kỷ không bao giờ có thể hiểu được lời Chúa: “Chúng con đã nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không.” Những tính toán nhỏ nhen ích kỷ đang làm cho các tương quan hôm nay biến chất và tan rã. Làm sao tìm được cơ hội nối lại những tương quan đó ?
“Mùa chay là một cơ hội Thiên Chúa quan phòng cho con người hồi tâm, vì giúp chúng ta chiêm niệm về mầu nhiệm tình yêu lạ lùng của Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên chúng ta để sống hạnh phúc và qui hướng vạn vật về thiện hảo đích thực này.” (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit 13/02/2002) Nhận định rõ tình yêu lớn lao đó là bước đường vô cùng cần thiết nối lại tương quan nhân loại hôm nay. Nếu không có những giây phút lắng đọng tâm hồn, chúng ta không thể thấy được lòng Cha yêu thương như thế nào. Những phản kháng và phản chứng hôm nay đều phản ánh một sự vô ý thức về tình yêu Thiên Chúa. Trong thinh lặng, con người sẽ khám phá thấy “chính vì yêu thương vô bờ, Thiên Chúa đã tạo dựng nên chúng ta và đã tiền định để chúng ta hoàn toàn hiệp thông với Người. Vì thế, Thiên Chúa cũng muốn chúng ta đáp trả tình yêu Người một cách quảng đại, tự do và ý thức.” (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit 13/02/2002) Chỉ khi nào đáp trả tình yêu như thế, tôi mới thành công trên bước đường tôi đi tìm tôi. Tình yêu đã chính là sức mạnh đẩy tôi lên tới Thiên Chúa và đến với anh em. Tôi sẽ tìm được tôi trong tương quan sung mãn đó.
Phụng vụ Lời Chúa mùa Chay và Phục Sinh một đàng hướng về công cuộc cứu độ của Chúa Giê-su tronng những năm cuối cùng của Người trên trần gian, nhưng đồng thời cũng nhắm đến nhân loại là đối tượng của việc cứu độ. Trong lịch sử cứu độ, ta không thể không nói đến cám dỗ và tội lỗi là những gì đã làm cho nhân loại mất đi căn tính con Thiên Chúa của họ. Sa ngã do cám dỗ và thắng vượt cơn cám dỗ là hai câu truyện tương phản trong các bài đọc hôm nay. Ngoài ra, thánh Phao-lô cũng giúp ta hiểu ý nghĩa của hai biến cố tương phản ấy.
1. Sa chước cám dỗ (bài đọc Cựu Ước – St 2:7-9; 3:1-7)
Cám dỗ là sự xúi giục của ma quỷ muốn ta làm điều xấu trái với luân lý và lề luật đạo đức. Trong câu truyện Cựu Ước hôm nay, ma quỷ được tiêu biểu là con rắn cám dỗ ông bà nguyên tổ. Câu truyện không nhằm diễn tả tâm lý con người, mặc dù ta có thể dễ dàng nhận thấy điều ấy, nhưng nó muốn nói lên ý nghĩa thần học về cám dỗ và tội lỗi. Vì “rắn là loài xảo quyệt” nên phương thức cám dỗ của nó cũng hết sức tinh vi.
Thiên Chúa đã tạo dựng A-đam và E-và và Người dạy họ phải tuân phục Người, là không được ăn “trái trên cây ở giữa vườn”. Trái cây ở giữa vườn hay ở góc vườn thì cũng có gì khác nhau đâu. Cho nên mệnh lệnh “không được ăn trái cây ở giữa vườn” chỉ là một dấu chỉ nói lên ý muốn của Thiên Chúa là con người phải tuân phục Thiên Chúa. Không ăn trái cây ấy tức là tuân phục Thiên Chúa. Còn nếu cứ ăn trái cây ấy tức là không tuân phục Người và là điều xấu. Vậy ma quỷ đã cám dỗ con người không tuân phục Thiên Chúa như thế nào?
Trước hết đặc điểm của cám dỗ là không vội vàng. Ma quỷ từ từ đưa người ta đi từ thật tới giả. Nó bắt đầu tấn công người đàn bà trước. Có lẽ vì tâm lý của người phụ nữ bén nhạy hơn và thích bề nổi hơn. Nó gợi chuyện và tìm một cánh cửa mở cho cám dỗ, đặt câu hỏi để có một câu trả lời thật. “Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn hay sao?” Dĩ nhiên câu trả lời dần dần đưa tới vấn đề là tại sao Thiên Chúa chỉ cấm họ ăn trái trên cây ở giữa vườn. Lý do của Thiên Chúa là nếu ăn vào thì “sẽ phải chết”. Nếu họ tuyệt đối tin vào lời Thiên Chúa bảo “sẽ phải chết” thì đã không có chuyện. Nhưng ma quỷ đã đánh lừa họ, gieo nghi vấn trong lòng họ về lời Thiên Chúa với cách giải thích xem ra hết sức có lý: “Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác”. Cám dỗ dừng lại ở đây và để cho ý chí tự do của con người cân nhắc lựa chọn. Câu truyện diễn tả giai đoạn cám dỗ này bằng hình ảnh “người đàn bà thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn”. Lý lẽ của ma quỷ đã mạnh, lại thêm những đặc tính của trái cấm thật hấp dẫn. Thế là cuộc giằng co của ý chí tự do nơi con người càng thêm sôi động và con người đã sử dụng ý chí tự do để lựa chọn không tuân phục mệnh lệnh Thiên Chúa. Đó là đường đi nước bước của cám dỗ, lừa dối bằng cách đặt cái giả vào cái thật và đưa ra những lý do có vẻ thật để bênh vực cho việc xấu. Câu truyện Kinh Thánh còn nói lên sự bành trướng và ảnh hưởng của cám dỗ qua việc không những người đàn bà ăn trái cấm trước, mà còn “đưa cho cả chồng đang ở đó với mình”.
Ông bà nguyên tổ sa ngã chước cám dỗ là vì không tuyệt đối tin vào lời Chúa và chỉ lo cho cái tôi của họ. Bao giờ cám dỗ cũng đi theo cùng một thể thức ấy. Con người có ý chí tự do là chuyện tốt. Nhưng sử dụng nó để chọn lựa đúng thì đòi hỏi ta phải biết phân định đâu là tinh thần của Chúa và đâu là tinh thần ma quỷ thế gian.
2. Thắng vượt cám dỗ (bài Tin Mừng – Mt 4:1-11)
Nếu A-đam nguyên tổ đã thảm bại trước cám dỗ, thì Chúa Giê-su là A-đam Mới lại đã hoàn toàn chiến thắng cám dỗ. Tuy câu truyện Tin Mừng chia ra làm ba cám dỗ khác nhau, nhưng ta có cảm tưởng như chúng muốn trình bày một phương thức chiến thắng cám dỗ đi ngược lại cách thức đưa tới thảm bại của ông bà nguyên tổ.
Vậy trong cám dỗ thứ nhất lúc Chúa Giê-su thấy đói, tên cám dỗ thử thách Người về nhu cầu sự sống thể lý. Nếu quả thực Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa, Người có thể sử dụng quyền năng Thiên Chúa để biến hòn đá thành bánh, rồi cũng có thể biến mái lều tranh thành lâu đài sang trọng hoặc bất cứ cái gì làm cho cuộc sống được tiện nghi thoải mái và hơn những người khác. Biến hòn đá thành bánh để ăn đang khi đói ở giữa sa mạc là điều hợp lý. Nhưng nếu Người thực hiện phép lạ ấy thì ta tin rằng Người khó có thể dừng lại và sẽ tiếp tục lạm dụng quyền năng để làm những điều không cần thiết! Đối với Chúa Giê-su, sự sống đích thực không phải do những gì bề ngoài, nhưng là do “mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra”. Trong câu truyện ở vườn địa đàng, lời miệng Thiên Chúa phán ra là: “Các ngươi không được ăn, không được động tới (trái trên cây giữa vườn), kẻo phải chết”. Nguyên tổ đã không thi hành lời ấy nên đã phải chết. Về phần Chúa Giê-su, “lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4:34).
Trong cám dỗ thứ hai, ma quỷ thử thách Chúa Giê-su về lòng tin vào Thiên Chúa. Tin là phó thác mọi sự trong tay Chúa để Danh Người được rạng ngời, chứ không phải là thử thách quyền năng Người để ta được mọi người khâm phục ngưỡng mộ. Nếu Chúa Giê-su gieo mình từ trên cao xuống mà bình yên vô sự thì Thiên Chúa đâu có được lợi gì, nhưng Chúa Giê-su sẽ được dân chúng trầm trồ ca tụng là Đấng đầy quyền năng! A-đam và E-và muốn được khôn ngoan, thông biết mọi sự, nghĩa là họ không còn muốn nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng tạo dựng ra mình nữa. Nhưng với Chúa Giê-su, Người thực sự nhìn nhận “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Ma-ri-a, và đã làm người” để tuân phục và thi hành thánh ý Thiên Chúa.
Trong cám dỗ cuối cùng, Chúa Giê-su đã hoàn toàn nhìn nhận thân phận con người của Người và bổn phận phải thờ phượng Thiên Chúa. Ông bà nguyên tổ muốn ăn trái cấm để được mở mắt ra và “sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác”. Còn Chúa Giê-su thì muốn làm một người phàm đúng nghĩa và làm người tôi trung của Đức Chúa. E-và “thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn” nên đã hái và ăn. Còn Chúa Giê-su từ trên núi cao “thấy tất cả các nước thế gian và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy”, thì lại xác tín bổn phận phải thờ phượng một mình Đức Chúa mà thôi.
Tóm lại, để chiến thắng cám dỗ, Chúa Giê-su lúc nào cũng đặt Thiên Chúa trên hết. Lòng tin của Người nơi Thiên Chúa là tuyệt đối. Lời Thiên Chúa là đèn soi cho Người bước đi (Tv 118:105). Tuân phục Thiên Chúa là lý tưởng Người ôm ấp và thực hiện trong suốt cuộc sống từ lúc nhập thể trong lòng Đức Ma-ri-a cho đến khi tắt thở trên thập giá.
3. Chỉ vì một người duy nhất và chỉ nhờ một người duy nhất (bài đọc Tân Ước – Rm 5:12-19)
Suy niệm về hai biến cố đối nghịch này trong lịch sử nhân loại, thánh Phao-lô Tông đồ đã tóm tắt thành một chân lý vô cùng sâu xa về lịch sử cứu độ. Chủ đề cứu độ được ngài kết luận như sau: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính” (Rm 5:19). Lịch sử tội lỗi và lịch sử cứu độ là hai thực tại đối nghịch. Việc làm của hai nhân vật, A-đam và Chúa Giê-su tương phản nhau, đã không tuân phục và đã tuân phục. Hậu quả của hai việc làm ấy cũng đối nghịch nhau, căn tính biến thành tội nhân và căn tính trở nên người công chính. Tuy nhiên khi so sánh, thánh Phao-lô cho ta cảm tưởng hiệu quả của ơn cứu độ lớn lao hơn hậu quả của tội lỗi. “Nhưng ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5:20). Trong bài Công bố Tin Mừng Phụ Sinh, Giáo Hội đã không ngần ngại lập lại sự so sánh này. “Ôi! Tội A-đam quả là cần thiết, tội được xóa bỏ nhờ cái chết của Đức Ki-tô. Ôi! Tội đã hóa thành hồng phúc, nhờ tội, chúng con mới có được Đấng Cứu Tinh cao cả dường này”. Sự trổi vượt của ân sủng trên tội lỗi đem lại cho ta niềm hy vọng vững chắc rằng ta sẽ được cứu độ và phải được cứu độ. Đây cũng là nền tảng của Phụng vụ Mùa Chay và Phục Sinh, là Phụng vụ trình bày lịch sử cứu độ ở cực điểm của nó và mời gọi ta đáp lại tình yêu cứu độ của Thiên Chúa.
4. Sống Lời Chúa
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay giống như một luận đề thần học về lịch sử cứu độ. Chắc chắn Giáo Hội muốn trình bày như thế để ta hiểu được ý nghĩa đích thực của mùa Chay và Phục Sinh. Tuy nhiên hiểu là một chuyện, nhưng quan trọng hơn đó là ta có mở lòng đón nhận ơn cứu độ, đồng hành với Chúa Ki-tô, A-đam Mới, để tiến bước trở về với căn tính đích thực của ta và được ở lại với Cha trên trời.
Suy nghĩ: Ma quỷ nói với Chúa Giê-su: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy…” Mỗi lần như vậy, Chúa Giê-su đã làm ngược lại để chứng tỏ và giữ vững danh phận Con Thiên Chúa của Người. Vậy mỗi khi bị cám dỗ lớn hay nhỏ, tôi có nhắc nhở mình thực sự là con Thiên Chúa không?
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa toàn năng, hằng năm Chúa ban cho chúng con bốn mươi ngày chay thánh, để tôi luyện hồn xác chúng con. Xin giúp chúng con sống những ngày khắc khổ ấy, để học biết Đức Ki-tô và dõi theo gương Người, hầu xứng đáng hưởng ơn Người cứu độ. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. A-men. (Lời nguyện nhập lễ, Chúa Nhật I mùa Chay)
• St 2,7-9.3,1-7: (4) Rắn nói với người đàn bà: (5) «Ngày nào ông bà ăn trái cây đó, ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác». (6) Bà liền hái trái cây ăn, rồi đưa cho chồng cũng đang ở đó; ông cũng ăn.
• Rm 5,12-19: (15) Sự sa ngã của Ađam không sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Nếu chỉ vì một người sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng Thiên Chúa ban nhờ Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy.
(1) Bấy giờ Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ. (2) Người ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó, Người thấy đói. (3) Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Người và nói: «Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi! » (4) Nhưng Người đáp: «Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra».
(5) Sau đó, quỷ đem Người đến thành thánh, và đặt Người trên nóc đền thờ, (6) rồi nói với Người: «Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá». (7) Đức Giêsu đáp: «Nhưng cũng đã có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi».
(8) Quỷ lại đem Người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, (9) và bảo rằng: «Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi». (10) Đức Giêsu liền nói: «Xatan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi». (11) Thế rồi quỷ bỏ Người mà đi, và có các sứ thần tiến đến hầu hạ Người.
1. Có cám dỗ nào mà ta có chấp nhận cho xảy ra thì nó mới xảy ra không? Có cám dỗ nào ta không muốn mà nó vẫn đến không? Hai loại cám dỗ ấy, có loại nào có lợi hay có hại cho ta không?
2. Ý chí tự do của ta đóng vai trò nào khi bị cám dỗ? Ta có chịu trách nhiệm khi chiều theo cơn cám dỗ không?
3. Ma quỷ có lợi dụng những gì có trong ta để cám dỗ ta không? Nếu ta không có những thứ ấy thì ma quỷ có còn cám dỗ được ta nữa không?
Suy tư gợi ý:
Trong đời sống tâm linh và đạo đức, chúng ta thường gặp hai loại cám dỗ mà chúng ta cần phân biệt: những cám dỗ mà ta tự cho phép xảy ra, và những cám dỗ hoàn toàn ngoài ý muốn của ta.
1. Tự cho phép bị cám dỗ là sự liều mình nguy hiểm
Nhiều khi ta bị cám dỗ là do ta tự nguyện hay liều mình chấp nhận để mình bị cám dỗ. Cám dỗ loại này có ý chí tự do của ta tham dự vào. Vì thế, nếu ta thua cơn cám dỗ thì ta phải chịu trách nhiệm nhiều hơn, nghĩa là tội ta nặng hơn. Do đó, nếu tự lượng sức thấy không nắm chắc phần thắng, thì người khôn ngoan không bao giờ liều chấp nhận để mình bị cám dỗ. Chẳng hạn muốn giữ đức khiết tịnh trong đời sống tu trì cũng như đời sống hôn nhân thì không nên tự cho phép mình giao du quá thân mật và tùy tiện với những người khác phái. Tương tự như muốn kiêng ăn thì đừng để những thức ăn thật ngon trước mặt.
Câu chuyện sau đây minh họa vấn đề này: «Hai vị tăng kia khi trở về chùa phải băng qua một dòng suối rộng đầy nước. Lúc đó, trời sắp tối, có một cô gái cũng muốn băng qua suối nhưng không biết làm cách nào vì không có phương tiện. Thấy thế, vị sư già bèn bồng cô gái qua suối. Khi về tới cổng chùa, vị sư trẻ hỏi vị sư già: “Tại sao thầy lại liều mình đụng chạm tới thân thể phụ nữ như vậy?” Vị sư già trả lời: “Tôi đã bỏ cô gái đó ở ngay bờ suối, tại sao thầy lại đem cô gái về tới tận đây?”».
Vị sư trẻ không dám giúp đỡ cô gái là rất khôn ngoan, vì thầy thấy đó là một sự liều mình nguy hiểm. Nếu thầy đụng chạm tới thân thể cô gái, có thể thầy sẽ phát sinh những tư tưởng không lành mạnh, chẳng những ngay lúc ấy mà còn lâu dài về sau, ảnh hưởng tai hại cho việc tu tập của thầy. Sự sa ngã trong tư tưởng và kết quả tai hại của nó đối với thầy có thể lớn hơn nhiều so với sự thiệt hại của cô gái nếu cô không được giúp đỡ.
Tuy nhiên vị sư già giúp đỡ cô gái như thế cũng rất đúng, vì ông đã già không còn ham muốn nhiều nữa, thêm vào đó, bản lãnh tu tập cũng đã cao, việc thắng lướt cơn cám dỗ là chuyện dễ dàng đối với ông. Vả lại, lòng từ bi đòi hỏi ông phải ra tay giúp đỡ. Vì thế, sự đụng chạm đến thân thể cô gái chẳng làm ông bị thiệt hại gì. Thật vậy, dù ông đã bồng cô gái qua suối, nhưng tư tưởng của ông «đã bỏ cô gái đó ở ngay bờ suối». Còn vị sư trẻ, tuy không đụng chạm đến cô gái, nhưng bằng tư tưởng, thầy đã đem cô gái về tới tận cổng chùa! May mà thầy từ chối giúp đỡ cô gái! Nếu không thì tư tưởng thầy còn đem cô gái về tới tận đâu nữa!?
Không biết xa tránh những cám dỗ, tự tìm cám dỗ cho mình, hoặc liều mình dấn thân vào những hoàn cảnh khiến mình bị cám dỗ… là những hành động thiếu khôn ngoan và rất nguy hiểm. Và những người tự nguyện để chịu cám dỗ như vậy thường là chẳng chóng thì chầy, cũng bị sa chước cám dỗ. Vì hành động như thế chứng tỏ mình đã có một chiều hướng là sẵn sàng chấp nhận phạm tội rồi!
2. Bị cám dỗ ngoài ý muốn là hồng ân của Thiên Chúa
Tuy nhiên, những cơn cám dỗ hoàn toàn ngoài ý muốn của ta, không do ta mong muốn, lại là những gì cần thiết và ích lợi để ta trưởng thành hơn về tâm linh. Thật vậy, ta phải cám ơn Thiên Chúa đã để ta bị cám dỗ, vì nhờ đó ta mới biết được mình đã yêu Thiên Chúa và thương tha nhân đến mức độ nào, sự thánh thiện của ta được tới đâu. Những cơn cám dỗ giống như những bài trắc nghiệm để chính ta hoặc người khác biết bản lãnh tâm linh ta tới đâu. Thật vậy, mặc dù tổ chức những kỳ thi rất tốn kém, nhưng mọi trường học (từ tiểu học đến đại học), mọi quốc gia, đều phải tổ chức các kỳ thi để xác định được trình độ học vấn và tài năng của các học sinh, sinh viên. Điều đó cho thấy việc trắc nghiệm tài năng – tức các kỳ thi – là một nhu cầu cần thiết và tự nhiên trong đời sống con người.
Trong đời sống tâm linh cũng vậy, ai cũng muốn tiến tới trong đời sống tâm linh, nên cần phải có những cơn cám dỗ, là những dịp trắc nghiệm để ta biết bản lãnh và sự tiến triển tâm linh của ta tới đâu, lòng yêu mến Thiên Chúa và thương yêu tha nhân của ta thế nào để tiếp tục tiến tới. Thiên Chúa trắc nghiệm ta không phải để Ngài biết – vì Ngài không cần trắc nghiệm thì cũng đã biết – mà để chính ta và mọi người biết. Con người thực của ta được bày tỏ rõ rệt hơn khi bị cám dỗ. Cuộc đời ông Gióp là một trường hợp điển hình. Thiên Chúa đã biết rõ lòng trung thành của ông, nhưng Ngài muốn ông Gióp chứng tỏ cho chính ông và mọi người thấy sự trung thành ấy (G 1,11-12; 2,5-6).
Nếu ta thật sự yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, thì mọi cám dỗ đều trở thành những dịp để ta chứng tỏ tình yêu thương ấy và bản lãnh tâm linh của ta. Chỉ những người không có bản lãnh, không có trình độ mới sợ bị trắc nghiệm, vì qua trắc nghiệm họ mới lòi cái dốt, cái kém của họ ra. Vì thế, cần nhìn một cách tích cực về những cơn cám dỗ, đừng nhìn nó như một cái gì tiêu cực. Nếu cám dỗ là một điều xấu, bất lợi cho tâm linh của ta, chắc hẳn Thiên Chúa đã không để nó xảy ra cho ta. Có nhìn tích cực về nó, hiểu được sự cần thiết và ích lợi của nó, ta mới lợi dụng được nó, nó mới trở nên ích lợi cho ta. Vả lại, còn có ơn Chúa luôn giúp ta thắng cám dỗ nữa.
3. Cơ cấu tâm lý của cám dỗ
Tất cả mọi người, ai cũng đều thấy trong bản thân mình có hai khuynh hướng nội tại ngược chiều nhau:
– Khuynh hướng tốt lôi ta lên để ta trở thành người vị tha, yêu Thiên Chúa và thương tha nhân, sẵn sàng hy sinh cho Thiên Chúa và tha nhân. Người tốt là người để cho lực này thắng thế và càng ngày càng đi lên. Lực này chính là ân sủng của Thiên Chúa nâng đỡ ta.
– Khuynh hướng xấu kéo ta xuống để ta trở thành người ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình và làm lợi cho mình, sẵn sàng hy sinh vinh quang Thiên Chúa và quyền lợi tha nhân cho lợi ích của mình. Người xấu là người để cho lực này thắng thế và càng ngày càng đi xuống. Khi khuynh hướng xấu này đang cố kéo ta xuống, đó chính là lúc ta bị cám dỗ.
Trong hầu hết mọi trường hợp, hai lực đó ngang bằng với nhau. Và chính ý chí tự do của ta là yếu tố quyết định lực nào thắng: vào chính lúc bị giằng co giữa hai lực ấy, ta thật sự muốn ngả theo lực nào thì lực đó sẽ thắng. Chính vì thế ta chịu trách nhiệm về việc ta thắng hay thua cơn cám dỗ.
Khi bị cám dỗ, nếu không sáng suốt, ta sẽ bị đánh lừa vì sự khéo léo ngụy trang của Satan; hắn là tiêu biểu cho khuynh hướng xấu ở trong ta. Đối với những người có tham vọng, hắn dùng chính những tham vọng hết sức hấp dẫn ấy để cám dỗ ta: hắn dụ hễ làm theo ý hắn thì ta sẽ đạt được tất cả những gì ta ham muốn. Chẳng hạn đối với bà Eva, hắn khơi lên trong bà tham vọng muốn được bằng Thiên Chúa, và đề nghị thực hiện tham vọng ấy bằng cách ăn trái cấm. Đối với những người tương đối đạo đức, Satan thường dùng những chiêu bài thánh thiện để dụ dỗ: chẳng những có lợi cho mình mà còn đúng ý Chúa nữa. Chẳng hạn, khi cám dỗ Đức Giêsu, Satan luôn dùng những câu có thật trong Kinh Thánh để thuyết phục Đức Giêsu, để Ngài lầm tưởng làm theo ý hắn thì không chỉ lợi cho mình mà còn hợp với ý Thiên Chúa nữa. Được cái này lại được luôn cả cái kia thì còn gì khôn ngoan bằng!? Hắn còn có thể sử dụng ngay những nhu cầu hết sức chính đáng của con người – như cái ăn, cái mặc, tiền bạc, nhà cửa – để cám dỗ con người làm theo ý hắn. Chẳng hạn khi Đức Giêsu đói, hắn dụ Ngài sử dụng quyền năng Thiên Chúa để hóa đá thành bánh mà ăn. Hắn khéo léo lắm! Nên phải cẩn thận!
Do đó, nếu ta từ bỏ mọi tham vọng, diệt trừ tham sân si, đừng ham sướng sợ khổ, sẵn sàng chấp nhận nhu cầu của mình không được thỏa mãn, nhất là quyết tâm «từ bỏ chính mình» – tức coi nhẹ «cái tôi» của mình, đừng coi nó quan trọng quá – để có thể «vác thập giá mình mà theo Chúa» (Mt 16,24) thì Satan sẽ khó tìm ra cách để cám dỗ ta.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, khi Cha để con bị cám dỗ hầu con trưởng thành hơn trong tình yêu và bản lãnh tâm linh, thì Cha luôn ban cho con không chỉ đủ mà còn dư tràn sức mạnh để con chiến thắng cám dỗ. Thánh Phaolô đã từng kinh nghiệm: «Ở đâu tội lỗi lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội» (Rm 5,20). Điều quan trọng để con nhận được sức mạnh và ân sủng đó là con phải tin tưởng vào quyền năng và sự dư tràn của ân sủng và sức mạnh Cha ban. Xin cho con tin tưởng vững chãi vào ân sủng Cha.
Trong cuộc đời làm người ai ai cũng phải trải qua những giây phút khủng hoảng. Trong những lúc đó tất cả mọi chuyện to nhỏ đều trở thành một vấn nạn. Kẻ đó tìm một câu trả lời trước khi lựa chọn, quyết định cho tương lai đời mình. Giai đoạn chuyển tiếp từ tuổi ấu thơ sang tuổi thành niên là một giai đoạn quan trọng trong đời người. Tuổi dậy thì chứa đầy hỗn loạn. Thân xác bỗng dưng biến đổi và phát triển khác thường. Con người bị ép buộc tham dự vào một cuộc phiêu lưu để khám phá ra mình là ai. Nhiều chuyện thần thoại đã mô tả về giai đoạn này. Dĩ nhiên, nhân vật chính luôn là một chàng trai. Anh phải từ giã mái ấm gia đình, chấp nhận mạo hiểm một mình tiến vào rừng sâu nước độc, nơi chứa đầy cạm bẫy của yêu tinh quỷ nữ! Anh ta phải vượt qua mọi thử thách từ bên trong lẫn bên ngoài. Anh ta được tôi luyện. Khi trở về, anh giống như được đầu thai làm một con người hoàn toàn mới, đủ tài trí và khả năng gánh vác những trọng trách được giao phó.
Bài Phúc âm hôm nay cũng nói về thời gian thử thách tương tự của Đức Giêsu. Ngài được Thánh Thần dẫn đưa vào hoang địa, giang sơn của quỷ dữ. Ngài ăn chay hãm mình, sống trong cô tịch, hoàn toàn không có gì để đề phòng âm mưu của kẻ xấu luôn bám sát, chờ cơ hội thuận lợi để thu thập. Thử thách làm nảy sinh một hoài nghi cơ bản: Những gì từ trước tới nay tôi cho là tốt đẹp bây giờ có vẻ vô nghĩa. Những gì tôi cho là tội lỗi xấu xa giờ đây hình như chứa đầy hứa hẹn. Khi đối diện đương đầu với dụ dỗ Đức Giêsu dần dần khám phá ra mình là ai, đâu là sứ mạng của mình. Thời gian sống trong sa mạc là giai đoạn quan trọng trong đời của Đức Giêsu. Trong thời gian này Ngài cảm nhận một cách sâu xa sự mỏng dòn trong thân phận con người. Mặc khác, Ngài đã sống mật thiết thân tình với Chúa Cha, giúp Ngài ý thức về trọng trách được Chúa Cha giao phó. Ngài trở nên chín chắn trưởng thành, có thể bước vào cuộc đời công khai, công bố Tin mừng cứu độ. Bởi vậy, sa mạc không phải chỉ là nơi chết chóc, tăm tối mà còn là nơi gặp gỡ chính Thiên Chúa.
Trong sa mạc Đức Giêsu hiểu thấu những yếu đuối cơ bản của con người. Cám dỗ đầu tiên nhắm vào sự đói khát. Có đầy đủ của ăn là một nhu cầu căn bản của cuộc sống con người. Thân xác đòi hỏi quyền lợi của nó và sẽ trở nên kiệt quệ nếu như nhu cầu này bị cự tuyệt, không được đáp ứng. Dĩ nhiên chúng ta ăn để sống, nhưng chúng ta sống không phải chỉ để ăn, để uống. Do đó, con người giống như bị bà nhập khi nghĩ rằng, ý nghĩa của cuộc sống con người chỉ đặt trên cơ bản của vật chất và sự hưởng thụ. Con người chia sẻ những nhu cầu thuộc thân xác với tất cả mọi sinh vật khác, nhưng khát vọng của con người còn trổi vượt hơn, đi ra ngoài giới hạn này. Chính vì thế chúng ta có thể nói rằng, nhu cầu lớn nhất của con người thuộc về đời sống tâm linh: „Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra”. Đời sống con người không phải là một cuộc sống no say nhưng là một cuộc đời sung mãn về mọi mặt.
Thử thách thứ hai nhắm vào khát vọng quyền lực. Bởi vì muốn chứng tỏ quyền lực của mình, bảo đảm chỗ đứng của mình, kẻ ấy ra sức tìm cách hạ bệ kẻ khác, ra sức chèn ép, trèo lên đầu lên cổ người khác và nếu cần sẵn sàng bước qua xác chết! Tranh đấu quyền lực là chuyện xảy ra như cơm bữa từ trong gia đình đến ngoài xã hội, đặc biệt trong môi trường chính trị và kinh doanh, … Đức Giêsu không đầu hàng dụ dỗ. Ngài sẵn sàng từ bỏ quyền thế và bạo lực. Ngài chọn con đường yêu thương vô vị lợi.
Dụ dỗ thứ ba nhằm chối bỏ Thiên Chúa là Đấng sáng tạo càn khôn. Đặc biệt con người ngày nay nghĩ rằng, mình có thể đạt được tất cả mà không cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa. Tất cả đều dựa vào khả năng của bản thân. Ngày Chúa nhật không đi lễ nhà thờ chẳng thấy mình mất mát gì! Nhìn nhận giới hạn của mình, nhìn nhận thân phận thụ tạo của mình là một điều không dễ dàng. Thiên Chúa đòi hỏi con người tin vào Ngài, mặc dầu không ai có thể chứng minh và nhìn thấy Thiên Chúa.
Mùa chay chính là một lời mời gọi sáng tạo một mảnh sa mạc trong cuộc đời mình, mời gọi xa rời cảnh huyên náo, bon chen, xô bồ để có thể gặp gỡ Thiên Chúa, lắng nghe tiếng Ngài trong cô tịch. Bởi vì sa mạc, đối với Đức Giêsu cũng như mỗi người chúng ta, là nơi giúp khám phá sự thật, nơi chúng ta có thể đối diện với chính mình để nhận biết mình là ai và Thiên Chúa muốn gì nơi tôi.
Nghĩ đến mùa Chay là chúng ta nghĩ đến mùa xuân. Bởi vì từ Lent (mùa Chay) trong Đức ngữ có nghĩa là “mùa xuân.” Trong nhiều ngôn ngữ khác (thí dụ Tây-ban-nha: Cuaresma, hoặc Pháp: Carême), “mùa Chay”, tên của mùa trước lễ Phục Sinh là bởi từ La-tinh có nghĩa là “40”, giúp chúng ta nhận ra một điều quan trọng đang diễn ra là điều được Kinh Thánh nói tới. 40 ngày của mùa Chay ám chỉ 40 ngày Chúa Giê-su chịu ma quỷ cám dỗ trong hoang địa (Mt 4:1-11; Mk 1:12-13; Lk 4:1-13). Nhưng nếu xét theo những bài Tin Mừng thuật lại Chúa Giê-su chịu cám dỗ, luôn luôn được sử dụng trong Chúa Nhật thứ nhất mùa Chay, ta nhận thấy những bài đọc này lần lượt đưa chúng ta đi xa hơn. Những cám dỗ Chúa Giê-su chịu đã nhắc nhớ đến Ít-ra-en chịu cám dỗ bốn mươi năm trong hoang địa trên đường tiến về Đất Hứa. Dựa theo hướng dẫn của Phụng vụ, bài học hỏi thêm về Giáo lý này muốn khám phá một số đề tài Kinh Thánh chủ yếu về mùa Chay.
Bốn mươi năm
Con số 40 là con số rất quen thuộc trong Kinh Thánh. Trong câu truyện ông Nô-ê và trận đại hồng thủy, trời mưa ròng rã 40 đêm ngày (St 7:4,12,17; 8:6). Sau khi ký kết giao ước trên Núi Xi-nai, ông Mô-sê ở với Thiên Chúa trên núi 40 đêm ngày (Xh 24:18). Khi ngôn sứ Ê-li-a bị hoàng hậu I-de-ven cho người tìm giết, ông đã chạy trốn để thoát mạng và lên đường luôn 40 ngày đêm cho đến khi tới núi của Thiên Chúa là Khô-rếp (Xi-nai) (1 V 19:8). Con số 40 cũng xuất hiện trong Tân Ước. Chúa Giê-su chịu cám dỗ trong hoang địa bốn mươi đêm ngày; bốn mươi ngày sau khi sống lại, Người lên trời (Cv 1:3).
Như vừa nói ở trên, dân Ít-ra-en đóng trại tại vùng sa mạc phía nam, cận kề với Đất Hứa. Những người thám thính đi trước để thăm dò đất đai đã hoàn tất công việc sau 40 ngày (Ds 13:25). Họ đưa về một báo cáo rất lạc quan về vùng đất, nhưng cũng cho biết một số dân bản xứ thật đông đảo và hùng mạnh. Mặc cho ông Gio-suê và Ca-lép khích lệ, dân chúng vẫn sợ hãi không muốn tiến vào Đất Hứa. Từ chối không tiến vào chứng tỏ họ thiếu lòng tin vào lời hứa của Gia-vê cách trầm trọng. Cho nên giống như một sự trừng phạt, dân chúng phải lang thang 40 năm, nghĩa là cứ một ngày của những người đi thám thính thì dân bị phạt một năm đi lang thang.
Những con số trong Kinh Thánh thường không hiểu theo nghĩa đen, nhưng mang một ý nghĩa biểu tượng. Con số chúng ta thường gặp nhiều nhất là con số 40 khiến chúng ta phải đặt câu hỏi. Vậy nghĩa biểu tượng của con số 40 là gì? Theo một phương diện, nó nói lên một thời gian lâu dài hơn, nhưng không phải chỉ như vậy mà thôi. Thời gian lâu dài ấy còn có ý nghĩa theo nội dung của nó: đó là thời gian của thiếu thốn, phấn đấu, thử thách. Thực sự ngoài Kinh Thánh ra, người ta cũng thấy có việc sử dụng con số này. Nhưng trong Kinh Thánh, nghĩa thứ ba (thần học) nảy sinh. Bốn mươi nói lên một giai đoạn chuẩn bị cho hành động đặc biệt của Thiên Chúa; đó là một thời ân sủng.
Theo sách Sáng Thế, sau trận lụt, một cuộc tạo dựng mới khởi đầu. Sau khi ông Mô-sê chuyện vãn với Thiên Chúa, giao ước được đổi mới. Sau khi dân Ít-ra-en lang thang trong hoang địa, họ sẽ vào Đất Hứa. Sau cuộc lữ hành của Ê-li-a, Thiên Chúa củng cố ông để ông lại tiếp tục tác vụ ngôn sứ. Sau khi Chúa Giê-su chịu cám dỗ, Người bắt đầu thi hành sứ vụ cứu thế. Sau khi Người lên trời, chúng ta bước vào thời đại của Giáo Hội. Vào cuối mùa Chay, chúng ta cử hành Tuần Thánh và đại lễ Phục Sinh.
Hoang địa
“Thời gian” lang thang ít nhiều mang tính cách biểu tượng, vậy còn nơi chốn thì sao? Chắc chắn Ít-ra-en biết rõ hoang địa thực sự là gì, vì hoang địa này đúng là những vùng phía nam, tây nam và phía đông bên kia sông Gio-đan. Hoang địa là nơi không có nước và thức ăn, vì rất ít cây cỏ mọc được ở đó. Hoang địa cũng là nơi có những loài vật nguy hiểm. Hoang địa là nơi cùng cực, dĩ nhiên chẳng ai muốn chọn lựa để sống.
Hoang địa cũng có thể mang ý nghĩa biểu tượng. Trong tôn giáo vùng Ca-na-an, một vị thần đặc biệt tên là Mot (cũng có nghĩa là “thần chết”) đã phụ trách một nơi nóng nảy, khô khan, cằn cỗi, tức là hoang địa, đồng thời cũng phụ trách một thời gian nóng nực, khô ráo, cằn cỗi, tức là mùa hè. Hết mưa là cây cỏ khô héo và chết. Hoang địa là nơi tung hoành quyền lực của Thần Chết/Mot, nơi người ta phải trực diện với những vấn đề căn bản của con người. Trong Tin Mừng, Chúa Giê-su chịu cám dỗ trong hoang địa hãy đóng vai một thứ Mê-si-a khác, chọn con đường biểu dương quyền lực và những pha ngoạn mục thay vì khiêm nhường phục vụ. Tuy nhiên cơn cám dỗ ấy vẫn còn tiếp tục đeo đẳng qua suốt sứ vụ của Chúa Giê-su cho tới ngay trước khi chết, lúc Người bị thách thức hãy bước xuống khỏi thập giá đi.
Nhiều nhà tu đức ngày nay nói về “kinh nghiệm hoang địa.” Đây là một thứ kinh nghiệm tĩnh tâm khi người ta dành riêng một thời gian để chú tâm, suy xét, tự hỏi và trả lời những vấn đề căn bản thuộc đời sống thiêng liêng. Không cần thiết phải là một “hoang địa” thực sự, vì điều này không thể thực hiện được. Mùa Chay là “kinh nghiệm hoang địa” mỗi năm của Giáo Hội, là cuộc tĩnh tâm để đặt lại những vấn đề căn bản.
Thời gian của hành trình
Thời gian Ít-ra-en trong hoang địa không chỉ là thời gian lang thang không có định hướng và mục đích. Thực ra cuộc hành trình của họ đã khởi từ Ai-cập và kết thúc tại đồng bằng Mô-áp trước khi chuẩn bị vào Đất Hứa Ca-na-an. Thời gian diễn tiến theo thứ tự từng giai đoạn, từ Ai-cập đến Xi-nai là nơi họ dừng chân khoảng gần một năm, rồi từ đó tiến về Mô-áp.
Hai cám dỗ đối với hành trình này đã xảy ra và người ta phải đối phó. Trước hết là cám dỗ hãy dừng lại để an cư lạc nghiệp chứ đừng tiếp tục đi nữa, khi người ta bảo: “Đủ rồi! Cứ ở lại đây đi!” Trên đường đi, có những nơi để nghỉ ngơi một thời gian, thí dụ tại ốc đảo Ca-đê Bác-nê-a (Ds 13:26; 20:1), nhưng thời gian phải di chuyển đã đến, nên họ “cứ lệnh Đức Chúa mà lên đường” (Ds 9:17-18; 10:11-13). Trong sách Đệ Nhị Luật, Mô-sê nhắc nhớ cuộc khởi hành từ núi Xi-nai: Thiên Chúa phán: “Các ngươi ở núi này đã lâu rồi. Hãy chuyển hướng và lên đường...” (Đnl 1:6-7). Cộng đồng bị cấm không được ở lại quá lâu. Một chủ đề tương tự cũng gặp thấy trong những trình thuật Tin Mừng về cuộc Biến đổi hình dạng của Chúa Giê-su trên núi (Chúa Nhật thứ hai mùa Chay). “Lạy Ngài, chúng con ở đây, hay quá! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều” (Mt 17:4). Nhưng họ phải xuống núi. Vậy đây có phải là một cám dỗ chúng ta phải đối phó trong cuộc sống Ki-tô hữu không? Thiên Chúa trong Kinh Thánh là một Thiên Chúa tiếp tục kêu gọi chúng ta phải bước ra khỏi những hiện tại yên ổn thoải mái để dấn thân vào những tương lai liều lĩnh và không biết được.
Cám dỗ thứ hai còn tệ hơn theo một nghĩa nào đó. “Họ nói với ông Mô-sê: ... sao ông lại đưa chúng tôi vào chết trong sa mạc?” (Xh 14:11). Không nhgững họ muốn dừng lại hành trình mà họ còn muốn đổi ngược hành trình ấy. Họ muốn đi trở lại. Cho dù họ đã nhìn thấy những dấu lạ điềm kỳ Thiên Chúa đã thực hiện vì họ, họ vẫn mong là đừng xảy ra những điều đó. Họ muốn trở về Ai-cập!
Cám dỗ thứ hai cũng là cám dỗ về thần tượng, mê hoặc (nhất là đối với những người sùng đạo) và rất thường thấy. Đó là lưu luyến với dĩ vãng. Dĩ vãng xem ra hấp dẫn hơn, chắc chắn và bảo đảm hơn. Tốt quá rồi! Chúng tôi đã ở đó mà, đâu còn lạ gì. Điều làm cho dĩ vãng hấp dẫn, đó chính là vì nó là quá khứ và tốt hơn cả là nó đừng quá mới. Lòng lưu luyến tùy thuộc vào khoảng cách và chủ ý quên đi điều nào mình muốn. Ai trong chúng ta mà chẳng nhớ về dĩ vãng; đây là điều cốt yếu. Nhưng khi nhớ về dĩ vãng, chúng ta đưa dĩ vãng vào trong hiện tại để giúp chúng ta sống cho tương lai. Trái lại, khi lưu luyến, chúng ta lại muốn đem hiện tại vào trong dĩ vãng để tránh né tương lai.
Điều này chúng ta thường thấy rõ qua lời mời gọi của Kinh Thánh! Chúng ta nghe lời kêu gọi “Hãy trở lại với Kinh Thánh! Hãy trở lại với Kinh Thánh!”, chứ có bao giờ nghe “Hãy tiến đến với Kinh Thánh!” đâu! Vậy khi trở lại với Kinh Thánh, chúng ta sẽ gặp thấy ở đó một Thiên Chúa luôn luôn đi trước chúng ta, kêu gọi chúng ta tiến đến một điều gì đó không biết được cũng như tiến vào một tương lai. Vậy đây có phải là một cám dỗ chúng ta phải đối phó trong cuộc sống Ki-tô hữu không?
Chúng ta đã nhìn vào những khía cạnh tổng quát kinh nghiệm hoang địa của Ít-ra-en. Giờ đây chúng ta xét kỹ hơn những gì đã xảy ra trong hoang địa. Đó là nơi của giao ước, thử thách và sự hiện diện.
Nơi của giao ước
Điều chính yếu xảy ra cho dân Ít-ra-en trong hoang địa là giao ước giữa họ với Gia-vê tại núi Xi-nai. Nhưng trước hết chúng ta có thể đặt câu hỏi: “Tại sao Thiên Chúa không đưa Ít-ra-en qua Biển Đỏ tới thẳng Ca-na-an?” Dĩ nhiên đây là mục tiêu cuối cùng, nhưng còn một mục tiêu trung gian có tầm quan trọng hàng đầu. Ông Mô-sê đã từng lập đi lập lại với vua Pha-ra-ô: “Đức Chúa, Thiên Chúa của người Híp-ri, đã sai tôi nói với bệ hạ: Hãy thả dân Ta ra, để chúng đi thờ phượng Ta trong sa mạc” (Xh 7:16). Dân của Đức Gia-vê tới Xi-nai để học biết thờ phượng Đức Gia-vê.
Nhưng có lẽ chúng ta có thể đi sâu hơn một chút. Trong tình huống bị áp bức, vấn đề có hai mặt: Một số người bị áp bức bởi vì kẻ áp bức họ là người khác. Lịch sử chứng minh rất rõ ràng rằng hầu như khi một dân tộc được giải phóng khỏi áp bức thì chẳng bao lâu chính họ lại trở thành những kẻ áp bức người khác. Nạn nhân của áp bức hôm nay lại trở thành những kẻ áp bức ngày mai. Vấn đề là cả hai đều cùng chung một số giá trị; họ đồng ý về những vấn đề căn bản, nhưng lại bất đồng về cách sắp xếp những vấn đề ấy. Cho nên cái vòng áp bức vẫn cứ tiếp tục.
Giả như dân Ít-ra-en vừa mới được giải phóng khỏi áp bức của Ai-cập mà đi thẳng tới Ca-na-an và khôi phục quyền lực, thì tại sao họ lại chẳng thay đổi chút nào vậy? Cho nên thay vì thẳng tới Ca-na-an, họ phải đến Xi-nai và ở lại một thời gian dài để “điều chỉnh thái độ.” Giao ước với Đức Gia-vê là Thiên Chúa giải phóng họ khỏi áp bức, đã kêu gọi họ phải có một cái nhìn về thực tại khác hẳn, một toàn bộ giá trị mới và một lối sống hoàn toàn khác. Sống giao ước thực sự, đó là biết thờ phượng Thiên Chúa và biết lo lắng cho quyền lợi cũng như nhu cầu của kẻ khác. Phương cách duy nhất bẻ gẫy xiềng xích áp bức là phải trở nên một kẻ tôi tớ của Đức Gia-vê.
Trong thời gian chịu cám dỗ ở hoang địa, Chúa Giê-su cũng bị cám dỗ hãy sống theo những giá trị hoàn toàn khác với những giá trị của Chúa Cha. Vậy Người sẽ làm Đấng Mê-si-a như Thiên Chúa muốn, hay Người sẽ đi theo đường lối dễ được người ta tiếp nhận theo trào lưu văn hóa hơn, tức là bằng quyền lực và tạo uy tín bằng những pha đẹp mắt? Chúng ta đã biết câu trả lời thế nào rồi.
Trong mùa Chay, chúng ta xét lại đời sống qua việc chia sẻ giao ước của Đức Ki-tô. Chúng ta cũng được kêu gọi hãy nhìn thực tại và những giá trị hoàn toàn khác biệt với những giá trị của những văn hóa chung quanh chúng ta. Chúng ta có thực sự đem những giá trị của Chúa vào trong cuộc sống chúng ta không?
Nơi thử thách
Hoang địa là nơi Ít-ra-en đã chịu thử thách về lòng trung thành với Đức Gia-vê và cũng là nơi họ nhiều lần phản bội lòng trung tín của Người. Điều gì thử thách lòng tin của Ít-ra-en? Họ không có gì để uống; Thiên Chúa ban cho họ nước trong lành phun ra từ tảng đá (Xh 17:2-7). Họ không có thức ăn; Thiên Chúa gửi man-na đến cho họ (Xh 16). Họ bị kẻ thù đe dọa từ bên ngoài, trước hết là người Ai-cập, rồi đến người A-ma-lếch (Xh 17:8-15); sau này họ phải đối phó với những kẻ thù khác (Ds 21:1-3, 21-35; 25:16-18). Ngoài ra lại còn những tranh chấp quyền lực bên trong cộng đồng nữa. Tranh chấp quy vào quyền lãnh đạo giữa Mô-sê và A-ha-ron (Ds 12:1-16; 14:1-4; 16:1-35).
Hoang địa là nơi của những cùng cực, nên những chọn lựa sẽ rõ ràng và dứt khoát hơn. Thức ăn và nước uống là những gì cốt yếu cho con người để sinh tồn thể lý. Được an toàn trước những đe dọa bên ngoài và yên ổn nội bộ là những gì cần thiết để sinh tồn về mặt xã hội. Những nhu cầu này là hợp lý, nhưng giữa hoang địa chúng dễ trở thành những cám dỗ lung lạc đức tin của Ít-ra-en: Liệu họ có giữ vững đức tin vào Thiên Chúa, Đấng đã đem họ bình yên ra khỏi Ai-cập và dẫn dắt họ trong hoang địa không? Họ thường thất bại. Không dễ gì họ gột rửa mau chóng được những giá trị lối sống trước kia của họ.
Trong hoang địa, Chúa Giê-su cũng chịu cám dỗ về thức ăn; nhưng không như Ít-ra-en, Người đã giữ niềm tin vào Thiên Chúa. Còn chúng ta thì sao? Có thể chúng ta cũng nói: chúng tôi muốn mạnh dạn theo Chúa – và thực sự muốn – nhưng vẫn có nhiều sức mạnh từ bên trong và bên ngoài luôn lôi kéo chúng ta đi và đẩy chúng ta đến chỗ thờ ngẫu tượng. Chính những nhu cầu hợp lý nhất (thí dụ thức ăn, nước uống, an ninh, trật tự nội tâm) lại có thể trở thành những thần tượng quyến rũ nhất. Vậy phụng sự Chúa có thực sự là nền móng cho cuộc đời chúng ta không?
Nơi của sự hiện diện
Hoang địa là nơi của những đe dọa cho sự sống và những đe dọa của sự chết. Dân Ít-ra-en chịu thử thách xem họ có thực sự tin rằng Thiên Chúa của họ, Thiên Chúa ban sự sống, có ở với họ hay không.
Ban đầu cuộc xuất hành, Thiên Chúa đã kêu gọi ông Mô-sê từ bụi gai bốc cháy và sai ông đi dẫn dân chúng ra khỏi Ai-cập. “Ông Mô-sê thưa với Thiên Chúa: “Bây giờ, con đến gặp con cái Ít-ra-en và nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi con: Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?” Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: “Ta là Đấng Hiện Hữu.” (Xh 3:13-14). Câu trả lời huyền nhiệm của Thiên Chúa ngầm hiểu rằng “Ta sẽ ở với các ngươi/Ta hiện diện và quan tâm đến các ngươi” (xem Xh 3:12, 16-17).
Cùng với bảo đảm Thiên Chúa sẽ ở với họ qua ý nghĩa “Tên” của Người, còn có những dấu chỉ hữu hình nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa: Hòm Bia và Nhà Tạm. Nhà Tạm là một đền thờ di động để dân có thể mang theo trong cuộc hành trình; Hòm Bia, một ngai tòa di động để Thiên Chúa ngự, được giữ trong Nhà Tạm. Những dấu chỉ hữu hình này nhắc nhớ rằng Thiên Chúa tiếp tục hiện diện nơi giữa dân Người. Dù đóng trại hay đang trên đường di chuyển, họ không còn phải sợ hãi vì Đức Gia-vê đang ở với họ.
Chúa Giê-su bao giờ cũng sống trong quan hệ mật thiết với Thiên Chúa. Là Ki-tô hữu, chúng ta được bảo đảm rằng Chúa Giê-su thực sự là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Em-ma-nu-en, Mt 1:23), và chính Người đã bảo đảm với chúng ta: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28:20). Giữa những vật lộn, cám dỗ, hành trình, liệu chúng ta có thực sự tin rằng Thiên Chúa ở với chúng ta không? Hoang địa là nơi để nuôi dưỡng niềm tin Thiên Chúa thực sự ở cùng chúng ta.
Trong 40 ngày mùa Chay, chúng ta chia sẻ với toàn thể Giáo Hội “kinh nghiệm hoang địa” hằng năm. Những vấn đề chúng ta phải đối phó, căn bản vẫn là cùng những vấn đề chúng ta đã gặp thấy trong thời Cựu Ước cũng như Tân Ước. Đó là những đề tài sẵn sàng để chúng ta thực hành trong mùa Chay, những đề tài chúng ta theo đó để sắp đặt những việc làm trong mùa Chay là cầu nguyện, ăn chay và bố thí. Kinh Thánh làm chứng rằng không biết rõ chi tiết về tương lai cũng không sao. Nhưng chúng ta biết rõ điều quan trọng nhất về tương lai, đó là chúng ta không cô độc, nhưng “Chúa ở cùng chúng ta!” Những lời Chúa phán với dân Ít-ra-en cũng là những lời Người phán với chúng ta: “Đừng sợ, này Ta ở với chúng con” (xem St 28:15; Xh 3:12). Những gì tương lai đem lại, chúng ta sẽ đón nhận; chúng ta sẽ kiên trì cho tới chết. Tóm lại, mùa Chay đang trông chờ Phục Sinh! Michael D. Guinan, O.F.M. Trích tài liệu Catholic Update,C0205, tháng 2, 2005 (Lm. Trần Đình Nhi chuyển ngữ)
Những chủ đề thay thế là cách trình bày thường thấy trong các sách Tin Mừng. Thí dụ trong Tin Mừng Gio-an, Giáo Hội là Vườn nho mới thay thế cho Ít-ra-en là vườn nho cũ trong Cựu Ước. Thánh Mát-thêu ngay từ những câu truyện đầu tiên trong sách Tin Mừng về sứ vụ công khai của Chúa Giê-su, đã có ý trình bày Chúa Giê-su là Ít-ra-en Mới, thay thế cho Ít-ra-en thời Cựu Ước. Kinh Thánh Cựu Ước, nhất là sách Xuất Hành, kể lại dân Chúa tuyển chọn là Ít-ra-en đã được đưa vào sa mạc để chịu thử thách xem họ có thực sự trung thành với Đức Chúa hay không. Kết quả là họ thường thất bại. Còn Chúa Giê-su, Người cũng được Thánh Thần đưa vào hoang địa để chịu thử thách về lòng trung thành với kế hoạch của Thiên Chúa Cha và lòng tín thác vào thánh ý Chúa Cha, Người đã toàn thắng trong những thử thách ấy. Cách trình bày của thánh Mát-thêu sẽ giúp ta dễ dàng hiểu được bản chất của những cám dỗ Chúa Giê-su chịu trong hoang địa và cũng giúp ta nhận ra được bản chất của những cám dỗ trong hoang địa tâm hồn mình.
a) Cám dỗ về căn tính: “Nếu ông là Con Thiên Chúa”
Trong ba cám dỗ Chúa chịu thử thách, hai lần ma quỷ đều mở đầu bằng điều kiện “Nếu ông là Con Thiên Chúa”, rồi nó đề nghị một việc làm chứng minh điều kiện đó là đúng. Nhưng tinh tế là ở điểm ma quỷ lại đề nghị một việc làm đi ngược với kế hoạch của Thiên Chúa và trái với tinh thần làm Con Thiên Chúa!
Trong cám dỗ thứ nhất, Chúa Giê-su bị xúi giục hãy dùng đường lối “làm phép lạ” để thu hút dân chúng, thay vì lao nhọc lê bước rao giảng Tin Mừng. Phép lạ là phương thế lôi cuốn đám đông dễ nhất. Kinh nghiệm thường ngày cho ta thấy sức mạnh của “phép lạ.” Hễ nghe nói đâu có phép lạ chữa bệnh là người người ùn ùn kéo tới. Tin đồn Đức Mẹ hiện ra chỗ này hay chỗ kia tung ra là ngày hôm sau đã thấy hàng đoàn xe đò chở “khách hành hương” đến đó! Trong khi thi hành sứ vụ cứu thế, Chúa Giê-su cũng làm nhiều phép lạ, nhưng mục đích không phải để thu hút hay lấy lòng dân chúng. Trái lại, sau khi chữa lành cho một bệnh nhân, Chúa Giê-su còn nghiêm cấm họ không được nói ra, như ta thường thấy trong Tin Mừng Mác-cô. Đối với Chúa Giê-su, phép lạ chỉ là cơ hội giúp người ta nhận ra lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa mà cảm tạ Người, hoặc là những dấu chỉ nói cho họ biết Nước Trời đã đến gần. Do đó Chúa Giê-su vẫn chọn con đường của Thiên Chúa, kiên trì gieo hạt giống Lời Chúa và nhẫn nại chờ đợi cho nó mọc lên và sinh hoa kết trái. Chứ nếu Chúa Giê-su đi con đường tắt “làm phép lạ” thì Người đâu còn phải là Con Thiên Chúa nữa!
Cám dỗ thứ hai cũng có mặt sâu sắc của nó. Ta có thể gọi nôm na đây là cám dỗ “thân quá hóa nhờn” (familiarity breeds contempt). Chúa Giê-su bị cám dỗ đi ra ngoài quan hệ mật thiết với Thiên Chúa. Người không lạm dụng tình yêu và chăm sóc Thiên Chúa đặc biệt dành cho mình mà làm những chuyện nổi tiếng cho cá nhân mình. Gieo mình xuống từ trên nóc đền thờ mà vẫn an toàn thì làm gì mà không lừng danh! Nhưng Người không làm chuyện “cáo mượn oai cọp” để mua lấy chút hư danh cho cá nhân mình. Ngày xưa Ít-ra-en trong sa mạc đã thử thách Thiên Chúa quá nhiều vì họ không thực tâm tin vào tình yêu và chăm sóc Thiên Chúa dành cho họ hơn mọi dân tộc khác. Giờ đây, Chúa Giê-su là Ít-ra-en Mới, không đi vào vết chân của dân được tuyển chọn thời Cựu Ước. Người luôn luôn giữ phận làm Con, một niềm trân trọng tình yêu của Thiên Chúa và hằng cố gắng sống chân lý: “Người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm; vì điều gì Chúa Cha làm, thì người Con cũng làm như vậy” (Ga 5:19).
Có biết bao nhiêu cám dỗ muốn ta đừng sống như con cái Chúa. A-đam là con Thiên Chúa, nhưng ông đã trở thành kẻ thù (kẻ tội lỗi) với Thiên Chúa vì ông muốn tự mình thay đổi căn tính, không tuân phục Chúa và ăn trái cấm, “muốn nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” (St 3:5). Làm những điều tội lỗi là phản bội căn tính của mình. Căn cước Ki-tô của ta luôn bị thử thách giữa dòng đời và là một câu hỏi trước mỗi hành động, lời nói và tư tưởng của ta: Nếu tôi thực sự là Ki-tô hữu, thì tôi phải làm, nói và suy nghĩ như thế nào?
b) Cám dỗ về chức phận phụng sự Thiên Chúa: “Nếu ông sấp mình bái lạy tôi”
Đạo làm con phải tôn kính và thảo hiếu với cha mẹ. Sau hai cám dỗ lươn lẹo và tinh vi, giờ đây Xa-tan đánh một đòn quyết liệt, trực tiếp: “Nếu ông sấp mình bái lạy tôi, tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó.” Được tất cả các nước thế gian và mọi vinh hoa phú quý, nếu Chúa Giê-su chỉ chấp nhận một điều kiện dễ dàng: sấp mình bái lạy Xa-tan. Xưa kia, ông Mô-sê nhìn từ đỉnh núi Nê-bô đã thấy tất cả miền đất màu mỡ chung quanh. Giờ đây, Chúa Giê-su còn thấy tất cả thế giới và sự giàu sang của nó. Mồi lớn lao bao nhiêu thì cám dỗ càng mạnh mẽ bấy nhiêu! Chúa Giê-su đối lại cũng bằng một đòn hết sức mạnh mẽ. Người trích dẫn lời Kinh Thánh tóm tắt tất cả những nguyên tắc trong chương 6 – 8 sách Đệ Nhị Luật: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi.”
Tại Xi-nai, dân Ít-ra-en đã bỏ Thiên Chúa để bái lạy con bò đúc bằng vàng. Trái lại, Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa, đã thực thi lời hiệu triệu Ít-ra-en (Shema), cốt lõi của toàn bộ Lề Luật: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng, hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6:4-5). Các học giả Kinh Thánh giải thích “hết lòng” là tuyệt đối chọn điều tốt mà thôi, “hết dạ” là luôn sẵn sàng chấp nhận quên đi sự sống, và “hết sức” là quảng đại hy sinh tất cả những gì mình có. Nếu hiểu như vậy thì Chúa Giê-su là gương mẫu tuyệt đối cho việc “bái lạy”, phụng sự Thiên Chúa. Người luôn chọn thi hành thánh ý Chúa Cha, hiến thân cho sứ mệnh và hy sinh mọi sự kể cả mạng sống cho lợi ích của toàn thể nhân loại. Như thế, Người đích thực là “người Con yêu dấu làm đẹp lòng Cha mọi đàng” (Mt 3:17).
Có lẽ thánh Mát-thêu, qua câu truyện Chúa Giê-su chịu cám dỗ, muốn nhắc nhở cộng đoàn Ki-tô hữu của ngài và tín hữu hôm nay phải coi chừng về cám dỗ xa lìa Thiên Chúa, giống như dân Ít-ra-en xưa. Cũng như Chúa Giê-su, những Ki-tô hữu đích thực phải luôn theo gương Người mà trung thành phụng thờ Thiên Chúa.
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Hiểu được bản chất những cơn cám dỗ của dân Ít-ra-en và của Chúa Giê-su đã chịu, tôi nhận định thế nào về cám dỗ sâu xa nhất và nguy hiểm nhất tôi đang phải đối phó hiện thời?
Tôi đang thi hành sứ mệnh nào Chúa trao cho tôi? Đâu là cám dỗ khi thi hành sứ mệnh ấy? Tôi đã chống trả thế nào?
Thánh Mát-thêu viết về Chúa Giê-su chiến thắng cám dỗ: “Thế rồi quỷ bỏ Người mà đi, và kìa các sứ thần đến hầu hạ Người.” Phần tôi, chiến thắng được cám dỗ là nhờ kết hiệp với Chúa Giê-su. Vậy mỗi lần thắng cơn cám dỗ, tôi đã có những tâm tình nào?
Cầu nguyện:
“Lạy Chúa Giê-su, giàu sang, danh vọng, khoái lạc là những điều hấp dẫn chúng con và không cho chúng con tự do ngước lên cao để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn. Xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời. Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi bán tất cả những gì chúng con có, để mua được viên ngọc quý là Nước Trời. Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng trước những lời mời gọi của Chúa, không bao giờ ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương Chúa dành cho từng người trong chúng con. A-men.” (Trích RABBOUNI, lời nguyện 13)
1. Con người được làm từ "bụi" của đất, nghĩa là giá trị của nó thấp hơn đất. Đất là một chất dẽo dễ nắn thành người. Trong khi bụi, bản chất của nó là rời rạc, là cái không còn dùng vào việc gì nữa, chỉ tội làm nhơ bẩn mọi thứ. Chúa không dùng đất nắn thành người, nhưng dùng bụi. Sự kiện này nói lên hai điều: Thiên Chúa quyền phép vô cùng. Và Con người không là gì nếu Thiên Chúa không thông truyền hơi thở của Ngài là sự sống.
2. "Thiên Chúa thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật". Sự sống chỉ có được do Thiên Chúa và chỉ có mỗi một mình Ngài là Chúa tể của sự sống. Chúng ta không có quyền trên sự sống.
3. Con người được quyền dùng mọi thứ cây trong vườn có nghĩa con người là chủ vạn vật. Con người được trường sinh bất tử vì được phép dùng cả hoa trái của cây trường sinh.
4. Trừ một cây con người không được phép dùng, đó là cây biết lành biết dữ. Nghĩa là dù con người được thông truyền sự sống thần linh của Thiên Chúa, nhưng con người vẫn là thụ tạo. Còn Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo. Con người phải chấp nhận thân phận của mình. Nếu một khi con người cho mình là Chúa tể Càn khôn, con người phạm tội kiêu ngạo và đáng nhận hình phạt muôn kiếp.
5. Thực tế con người đã phạm tội kiêu ngạo và đã nhận hình phạt trầm luân. Án phạt này có gien di truyền cho con cháu ngàn đời sau.
BÀI ĐỌC 2: Rm 5, 12-19
Thánh Phaolô so sánh giữa Adam và Đức Kitô. Adam và Đức Kitô đều là những trưởng tử. Nhưng vì bất tuân, Adam đã khai sinh chế độ tội lỗi và sự chết. Vì vâng phục, Đức Kitô đã mở đầu chế độ ân sủng.
BÀI TIN MỪNG: Mt 4,1-11
Bấy giờ Đức Giê-su được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỉ cám dỗ. Người ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó, Người thấy đói. Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Người và nói: "Nếu Ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!" Nhưng Người đáp: "Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra".
Sau đó, quỷ đem Người đến thành thánh, và đặt Người trên nóc đền thờ, rồi nói với Người: "Nếu Ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi ! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho Thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá". Đức Giê-su đáp "Nhưng cũng đã có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi".
Quỉ lại đem Người lên một hòn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, và bảo rằng: "Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi". Đức Giê-su liền nói: "Xa-tan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phương một nình Ngài mà thôi". Thế rồi quỉ bỏ Người mà đi, và kìa các sứ thần tiến đến hầu hạ Người.
CÂU HỎI GỢI Ý:
1. Có ma quỉ thật không? 2. Đức Giê-su không có gien tội tổ tông sao lại cũng bị cám dỗ? 3. Cái gì làm nền tảng cho các cơn cám dỗ? Đức tính nào sẽ hoá giải các cơn cám dỗ?
SUY TƯ GỢI Ý:
1. Có ma quỉ thật không?
Thưa có. Ma quỉ là một lực lượng thù địch độc lập. Ma quỉ còn được gọi là thần dữ. Ta không biết nó xuất hiện khi nào, nhưng chắc chắn là có trước khi Adam được dựng nên. Adam bị "con rắn" phỉnh gạt. Đức Giê-su chịu "ma quỉ" cám dỗ. Con rắn là hình tượng của ma quỉ. Ma quỉ thuộc loài vô hình. Đó là các thiên thần bất tuân lệnh Chúa, phạm tội kiêu ngạo , muốn tự cho mình là Đấng Sáng Tạo. Khi đã là thần dữ rồi, cũng do tính kiêu ngạo không muốn thấy con người được hạnh phúc hơn mình, thần dữ lại ra sức cám dỗ con người phạm tội để bị án phạt giống mình. Trong ba cơn cám dỗ của Chúa Giê-su, tác nhân duy nhất là ma quỉ. Thế còn thế gian và xác thịt? Ta thường nghe, cơn cám dỗ đối với chúng ta do ba tác nhân thực hiện: Ma quỉ, thế gian và xác thịt.
Tuy nhiên thế gian tự nó không phải là xấu, nếu chúng ta hiểu thế gian là thế giới hữu hình chung quanh chúng ta. Thế gian này cũng do chính Thiên Chúa dựng nên để phục vụ chúng ta. Nó chỉ xấu khi ma quỉ dùng nó để che đi hiện thực vĩnh hằng đời sau. Xác thịt ta tự nó cũng không phải xấu. Nếu không có thân xác thì ta sẽ là thiên thần hoặc ác thần mà không phải là con người. Xác thịt chỉ mang bộ mặt xấu khi nó bị ma quỉ dùng để che khuất mắt ta những gì là tinh thần, là thần khí tồn tại bất diệt, là linh hồn thiêng liêng của mỗi người. Nói chung, thế gian và xác thịt, vì bị tổn thương do sự di truyền tội nguyên tổ, nên rất dễ bị thần dữ dụ khị. Tóm lại, mọi cơn cám dỗ là do ma quỉ mà ra.
2. Đức Giê-su không bị tội nguyên tổ, sao cũng bị cám dỗ ?
Chúng ta thường nghĩ rằng, chỉ những người phạm tội nguyên tổ mới bị cám dỗ. Không đúng. Đã là con người, ai cũng có tự do để chọn lựa giữa điều thiện và điều ác, giữa cái xấu và tốt, giữa Thiên Chúa và ma quỉ. Ma quỉ đã có trước con người và có trước Đức Giê-su với tư cách là con người. Chính vì vậy mà Chúa Giê-su phải bị đặt trong một hòan cảnh thử thách để Người tự khẳng định và chứng tỏ thái độ làm con Thiên Chúa. Duy chỉ Thiên Chúa là Đấng Sáng tạo mới không hề bị cám dỗ. Hiểu như thế Ta mới thấy ý nghĩa xin vâng của Đức Maria. Đức Maria có tự do, nghĩa là Ngài có quyền từ chối cộng tác vào công cuộc cứu độ của Thiên Chúa. Thế mà Mẹ đã chọn sự Đồng công Cứu chuộc. Chúng ta cũng có tự do để chọn Chúa hoặc quỉ dữ. Nhưng vì tự thân chúng ta yếu đuối do tội nguyên tổ, luôn hướng chiều về điều xấu, nên ta cần có ân sủng của Chúa nâng đỡ để ta có đủ sáng suốt và nghị lực chọn Chúa và theo Chúa.
3. Cái gì làm nền tảng cho các cơn cám dỗ? Phương cách hoá giải?
Ta thấy rằng, chính vì kiêu ngạo mà một số thần thánh hoá ra thần dữ. Thần dữ có kinh nghiệm về điểm yếu chết người này nên nó cứ lấy bài học này làm cái bẫy để giăng con người. Thần dữ kích thích sự kiêu ngạo của Adam và Eva và cả hai đã ngã quị. Thần dữ biết đem thế gian ra để lôi kéo con người ham của phù vân, lấy đó làm vật trang sức cho mình. Con người nghĩ rằng nếu nó giàu có sang trọng thì nó được đánh giá hơn người: Kiêu ngạo. Thần dữ biết đem cái tôi của con người ra làm mồi nhữ, dó chính là quyền thế, hư danh. Con người nghĩ rằng, nếu có quyền cao chức trọng thì sẽ được tôn vinh hơn người: Kiêu ngạo. Tóm lại, thần dữ luôn kích thích sự kiêu ngạo của con người để con người dễ vấp phạm.
Muốn hoá giải các cơn cám dỗ, điều kiện tiên quyết là đức khiêm nhường. Chúng ta khiêm nhường nhận rõ thân phận yếu hèn luôn cần sự nâng đỡ của ân sủng. Đến đây, chúng ta nhớ lại câu kết luận nỗi tiếng của Đức cố Giáo Hoàng Gio-an Phaolô I: "Trên Thiên Đàng không thiếu những phần thu đĩ điếm, nhưng không có chỗ cho kẻ kiêu ngạo. Dưới hoả ngục không thiếu những hồng y giám mục, nhưng không có chỗ cho kẻ khiêm nhường".
CẦU NGUYỆN:
Lạy Chúa, xin trang bị cho con tấm lòng khiêm nhu của Chúa, để con có thể tránh được sự háo danh của Luxiphe, sự tự kiêu của Adam, sự đố kỵ ghen hờn của Cain. Lạy Mẹ Maria, xin mẹ luôn nhắc con lời tụng niệm của Mẹ: ".vì Chúa luôn đoái thương đến phận hèn tớ nữ của Ngài."
Phần thứ hai của chương 5, thư gửi giáo đoàn Rô-ma, trình bày một so sánh giữa A-đam và Đức Ki-tô. Trình bày này rất quan trọng đối với giáo lý của Giáo Hội về tội nguyên tổ. Mặc dù lối lý luận của thánh Phao-lô lòng vòng, nhưng điểm chính của vấn đề có thể coi như cô đọng ở câu 18:
Tóm lại, cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống.
Một người đã sa ngã. Đó là A-đam đã không vâng lời Thiên Chúa, ăn trái cây sự sống mà Người đã cấm trong Vườn Địa đàng. Hành động bất tuân của ông đã gây nên hậu quả là con cháu ông bị lên án. Nhưng một người đã thực hiện lẽ công chính: Chúa Ki-tô. Hành động công chính của A-đam mới, tức là Chúa Ki-tô, Đấng đã vâng lời Chúa Cha suốt cuộc đời và nhất là trong Vườn Dầu, vâng lời cho đến chết trên thập giá (xem Pl 2:6-11), đã giải án và phục hồi sự sống cho mọi người.
Mục đích của so sánh là để làm nổi bật lên dung mạo Chúa Ki-tô và lượng hải hà của ân sủng và tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại tội lỗi. Nơi A-đam và nơi Chúa Ki-tô có sự đối chọi giữa sự chết và sự sống, giữa Lề Luật và ân sủng, giữa tội lỗi và ơn được nên công chính. Bố cục bài đọc hôm nay rõ ràng. Phần đầu của bài đọc (cc. 12-14) đề cập tới con người A-đam, hành động của ông, hậu quả của hành động ấy là sự chết và sự hiện diện của Lề Luật giúp người ta nhận ra mình yếu đuối chứ không ngăn chặn được quyền lực của tội lỗi. Phần thứ hai của bài đọc (cc. 15-19) nói về Chúa Ki-tô. Thánh Phao-lô đã khéo léo sử dụng cách song đối, nêu lên việc làm của A-đam cùng với hậu quả, rồi ngay sau đó khẳng định một thực tại đối nghịch của ân sủng Thiên Chúa. So sánh nào cũng đưa tới kết luận: ân sủng Thiên Chúa dồi dào hơn cả hậu quả tác hại do sự sa ngã của A-đam (cc. 15 và 20).
Giáo lý trên của thánh Phao-lô trình bày về tội nguyên tổ và ơn công chính hóa giúp chúng ta nhận ra điều này: tình trạng tội lỗi của mọi người trong A-đam đối nghịch với tình trạng đầy ân sủng của mọi người trong Chúa Ki-tô. Như thế, A-đam và Chúa Ki-tô là hai vị nguyên thủ của hai thứ nhân loại: nhân loại tội lỗi và nhân loại được cứu chuộc. Cuộc sống chúng ta thuộc về một trong hai thứ nhân loại ấy. Nếu chúng ta vẫn còn ở trong A-đam, tức là trong con người tội lỗi, thì chúng ta sống trong tội lỗi và sự chết, làm nô lệ cho những dục vọng và ước muốn xấu xa. Nhưng nếu chúng ta ở trong Chúa Ki-tô, chúng ta sống trong ân sủng và Thánh Thần (thánh Phao-lô dành nguyên chương 8 Thư Rô-ma để nói về đời sống này); chúng ta không còn làm nô lệ cho dục vọng và ước muốn xấu nữa, vì quyền lực của Thần Khí Chúa Ki-tô hoạt động trong chúng ta và giúp chúng ta sống đẹp lòng Thiên Chúa.
Hiểu được ý của thánh Phao-lô qua đoạn thư hôm nay, chúng ta mới thấy rõ tại sao Phụng vụ Lời Chúa chọn nó làm bài đọc Tân Ước cho Chúa Nhật I mùa Chay. Có thể Giáo Hội muốn đề cập tới vấn đề tội lỗi vào đầu mùa Chay, để chúng ta biết nhìn nhận tình trạng tội lỗi mình để đáp lời gọi của Chúa qua Giáo Hội mà ăn năn hối cải. Cũng có thể Giáo Hội muốn trình bày khởi đầu lịch sử cứu rỗi để dần dần đưa chúng ta tới cử hành Mầu nhiệm Phục Sinh là tột đỉnh của Phụng vụ. Nhưng nếu nhìn theo khía cạnh thực hành thì bài đọc Tân Ước hôm nay đề ra cho chúng ta một chương trình sống mùa Chay. Giữa hai chọn lựa, sống trong A-đam và sống trong Chúa Ki-tô, chúng ta phải dứt khoát chọn một, vì không ai làm tôi hai chủ. Song song với bài học luân lý, chúng ta cũng không quên là bài đọc đề cao quyền lực của tình yêu Thiên Chúa, sự phong phú của ân sủng. Nhất là điều thánh Phao-lô ngầm hiểu ở đây: ân sủng cần hiểu theo chính giá trị của nó hơn là theo nhu cầu của nhân loại. Nói khác đi, ân sủng là chính Ân Sủng, nghĩa là Chúa Ki-tô. Bởi vậy, tâm tình xứng hợp nhất chúng ta phải luôn có, đó là luôn nhận biết và đáp lại Ân Sủng của Thiên Chúa: "Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta!" (Rm 7:25).
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Tôi thường chỉ nghĩ về những tội lỗi của tôi theo con số và loại tội hay là nghĩ về tình trạng tội lỗi của tôi? Khác biệt nhau thế nào? Và suy xét về tình trạng tội lỗi sẽ giúp tôi hối cải như thế nào?
Giáo lý của thánh Phao-lô có giúp tôi ý thức thêm về tội xã hội, hoàn cảnh xã hội tội lỗi, và quyết tâm góp phần vào việc xây dựng một cộng đoàn, một xã hội lành mạnh hơn không? Nhóm và tôi có thể làm gì trong khả năng của mình?
Tôi phải vạch ra một chương trình "sống trong Chúa Ki-tô" cho mùa Chay này. Chia sẻ chương trình ấy với nhóm và xin nhóm nâng đỡ mình.
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát một bài thích hợp, hoặc đọc Thánh ca "Đức Ki-tô, tôi trung của Thiên Chúa" (Pl 2:6-11) trong Kinh Chiều I các Chúa Nhật, Các Giờ kinh Phụng Vụ.
Đức Giê-su Ki-tô Vốn dĩ là Thiên Chúa, Mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, Mặc lấy thân nô lệ, Trở nên giống phàm nhân, Sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, Vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người Và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, Cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, Muôn vật phải bái quỳ; Và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, Mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giê-su Ki-tô là Chúa."
Cám dỗ là một trong những thực tại khó nhận biết nhất trong cuộc sống của mỗi người chúng ta. Khó nhận biết là vì nó vô hình vô dạng, vì nó muôn màu muôn vẻ. Nguy hiểm hơn thế nữa là vì nó rất êm ái, dịu dàng và nó lại rất phù hợp với bản năng và sở thích của mỗi người chúng ta.
Bài Phúc Âm hôm nay ghi nhận ba cơn cám dỗ mà Chúa Giêsu đã phải chịu, Thật ra, ba cơn cám dỗ này là đại diện tiêu biểu cho tất cả các cơn cám dỗ thường ngày của mỗi người chúng ta. Nó bao gồm ba lãnh vực mà có lẽ con người quan tâm nhiều nhất đó là: tiền tài, danh vọng và quyền lực.
1. Cơn cám dỗ thứ nhất: Hoá đá thành bánh.
Nhiều người nghĩ rằng, cơn cám dỗ này chỉ có thể xảy ra với Chúa Giêsu chứ làm sao mà cám dỗ chúng ta được. Vì chúng ta làm sao mà hoá đá thành bánh được? Thưa không. Hơn bao giờ hết, cơn cám dỗ này thường xuyên đeo bám chúng ta, không những thế nó còn được tinh vi hoá một cách đa dạng và phong phú. Nó len lỏi vào trong cuộc sống chúng ta với đủ mọi thứ hình thức mời gọi hấp dẫn, với những lý lẽ rất thuyết phục, nó được đội lốt dưới những sự việc xem ra rất đạo đức. Ai trong chúng ta chẳng muốn "ngồi mát mà ăn bát bát vàng", muốn có được đủ mọi thứ mà không phải lao động vất vả, muốn Chúa làm phép lạ cho ta khỏi phải cực nhọc. Tệ hơn nữa, đôi khi chúng ta còn tham lam vơ vét, bóc lột hoặc là chèn ép anh em để tích luỹ, làm giàu cho một mình chúng ta. Muốn biến hoá tất cả tài sản cua người khác thành của chúng ta. Đó chính là cơn cám dỗ hoá đá thành bánh thời nay của mỗi người chúng ta.
2. Cơn cám dỗ thứ hai: Nhảy từ trên nóc đền thờ xuống.
Đền thờ lúc đó là nơi tập trung rất nhiều người, nếu nhảy từ trên nóc xuống mà không hề hấn gì, chắc chắn mọi người sẽ trầm trồ thánh phục và khen ngợi. Danh tiếng sẽ nổi nang lừng lẫy.
Chúng ta cũng vẫn thường bị cám dỗ nhảy từ trên nóc đền thờ xuống mỗi khi chúng ta sống phô trương. Đây cũng chính là căn bệnh của thời đại. Người ta đua nhau phô trương. Phô trương tài cán, phô trương bằng cấp, phô trương thành tích, phô trương tiền của, phô trương thế lực, thậm chí phô trương cả thân thể...
Không ít người đã bỏ ra hàng trăm triệu cho một bữa tiệc sinh nhật, mua chiếc điện thoại với giá 120 triệu, kinh khủng hơn có người còn dám bỏ ra 20 triệu đô để thực hiện chuyến du lịch lên cung trăng... Tất cả những điều này với mục đích gì nếu không phải là muốn chứng tỏ mình là người giàu sang, sành điệu, làm cho người đời kính nể, thán phục. Hay nói cách khác là để lôi kéo sự chú ý về mình. Đó là cơn cám dỗ về danh vọng.
3. Cơn cám dỗ thứ thứ ba: Bái lạy quỷ sẽ có được quyền lực.
Cơn cám dỗ thứ ba này nghe có vẻ lộ liễu, trắng trợn, xem ra khó mà thuyết phục được ta. Vì chẳng ai muốn bỏ Chúa để bái lạy ma quỷ đâu. Nhưng trên thực tế thì khác, nhiều khi chúng ta vẫn bái lạy ma quỷ mà chúng ta không biết hoặc chúng ta biết mà chá chẩn làm ngơ như không biết vậy, để lương tâm khỏi bị cắn rứt.
Thật vậy, nhiều người công giáo khi buôn bán vẫn đặt tượng thần tài trong góc nhà, vẫn cúng bái ông địa để được ăn nên làm ra. Nhiều người vẫn đi xem bói toán, vẫn coi ngày coi tháng, vẫn tin dị đoan nhảm nhí. Nhiều người vẫn phủ nhận mình là người công giáo để được thăng quan tiến chức. Như vậy một cách nào đó chúng ta đã gạt Chúa ra một bên và bái lạy ma quỷ rồi.
Mùa chay là mùa sám hối, hãy mau trở về với Chúa vì Chúa đang chờ đợi từng người chúng ta. Lời Chúa hôm nay là một nhắc nhở rất đúng lúc, là một cảnh báo khẩn thiết cho chúng ta. Nhiều khi chúng ta cũng bận rộn mải mê trong vòng xoáy của xã hội, với những trói buộc của tiền tài danh vọng và quyền lực mà chúng ta không nhận ra, chúng ta cứ nghĩ đó là những chuyện thường tình, bởi vì ai cũng làm như vậy mà chứ có phải mình tôi đâu. Tôi không làm thì người khác cũng làm... Chúng ta cũng thường đưa ra những lý do rất thuyết phục cho những việc làm sai trái của chúng ta để rồi chúng ta cứ an tâm sống trong tội lỗi mà không biết.
Chúng ta hãy tha thiết xin ơn Chúa giúp chúng ta hồi tâm trở về với Chúa, và luôn luôn cảnh giác trước những mời gọi hấp dẫn của thế gian, trước những cơn cám dỗ của thời đại. Chúng ta hãy xét xem những cám dỗ nào đang trói buộc chúng ta và giúp ta can đảm nói "không" trước những cám dỗ đó như gương của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay. Chúng ta hãy bắt chước Chúa Giêsu, dứt khoát:
• Không nghe theo ma quỷ để được thoả mãn nhu cầu cá nhân, mặc dù rất cần. • Không tìm danh vọng để được tung hô, mặc dù nó nằm trong tầm tay. • Không màng quyền lực để tránh khỏi thập giá, mặc dù rất dễ.
Nhưng một lòng vâng theo thánh ý Chúa Cha, cho dù có phải đau khổ và phải chết. Amen.
Hôm nay cùng với Giáo Hội, chúng ta bước vào Mùa Chay. Mùa Chay kéo dài 40 ngày, tương ứng vời 40 ngày cầu nguyện và chay tịnh của Đức Giêsu trong sa mạc trước khi Người bắt đầu cuộc đời công khai rao giảng Tin Mừng.
Mở đầu Mùa Chay, Giáo Hội trình bày cho chúng ta thấy Đức Giêsu chịu ma quỷ cám dỗ. Mặc dù thật sự bị cám dỗ, nhưng Đức Giêsu luôn trung thành với Chúa Cha và với sứ vụ mà Cha Người giao phó.
Đời sống của chúng ta là một cuộc thử thách, là một cơn cám dỗ triền miên, từ ngày này qua ngày khác. Chúng ta sẽ gặp phải những khó khăn, chúng ta sẽ phải đương đầu với những quyến rũ, lôi cuốn hấp dẫn của ma quỷ. Vì thế, thử thách và cám dỗ là một cái gì gắn liền với bản tính nhân loại, nó làm thành thân phận của mỗi người chúng ta. Cùng nhìn lại những cơn cám dỗ Đức Giêsu, ta dễ dàng nhận thấy:
Khởi đầu ma quỷ đánh ngay vào nhu cầu vật chất, nó cám dỗ về cơm bánh là những nhu cầu thiết yếu nhất của con người. Thật vậy, con người chúng ta cần phải ăn uống và cần phải có những nhu cầu vật chất tối thiểu để sống. Điều đó không xấu. Nhưng chúng ta nhìn kỹ lại thì nhận thấy rằng chúng ta thường bị cám dỗ chỉ sống dựa vào những nhu cầu vật chất của thân xác mà thôi. Nhiều khi chúng ta lo kiếm ăn, đến nỗi không còn nghĩa đến việc tìm kiếm những giá trị tinh thần và đạo đức nữa. Tôi lo đi làm việc kiếm tiền suốt ngày kể cả ngày Chúa Nhật không còn giờ để đọc kinh, cầu nguyện, suy gẫm Lời Chúa, ngay cả việc tham dự thánh lễ Chúa nhật! Khi ma quỉ phóng đại nhu cầu, muốn cho Đức Giêsu tưởng rằng con người chỉ là vật chất, vật chất là tất cả đời sống, vật chất nên sống chỉ nhờ cơm bánh vật chất. Đức Giêsu đã chỉ cho chúng ta thấy: "Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh", vật chất không phải là tất cả, cơm bánh vật chất của trần gian là cần, nhưng còn có thứ cao hơn, nâng con người một bước cao hơn đó là bánh tinh thần của trời cao và nó cần thiết hơn. Vì thế, bên cạnh chăm lo của ăn vật chất, chúng ta cần phải chăm lo của ăn thiêng liêng cho phần tinh thần, linh hồn của chúng ta nữa. Đó chính là Lời Chúa và Mình Máu Người.
Kế đến chúng ta cũng dễ bị cám dỗ về danh vọng, về sự thành công trong cuộc sống. Đồng ý rằng thành công trong cuộc sống là một điều rất tốt và nên làm. Nhưng chúng ta thường bị cám dỗ chỉ sống để thành công, muốn thành công với bất cứ giá nào, mặc dù phải làm những chuyện không tốt như lừa dối, gian lận, chà đạp người khác... thành công để vênh vang, tự đắc, để giữ thể diện và thỏa mãn tự ái của mình. Chắc chắn Đức Giêsu không muốn chúng ta bị lạc vào đường cám dỗ như thế.
Cuối cùng, chúng ta dễ bị cám dỗ về quyền lực thống trị. Chúng ta muốn mình làm Vua thiên hạ, làm Vua của mọi người. Đôi khi chúng ta lại muốn ý kiến mình là quan trọng trong đám đông, mọi người phải nghe mình nói, ý kiến của tôi là số một, không còn ai hơn tôi cả...Thực tế mà nói, là con người, mỗi người trong chúng ta đều có một trách nhiệm, một quyền hành nào đó đối với gia đình hay trong xã hội, đúng hơn là một bổn phận mà mình phải chu toàn. Có quyền hành, có trách nhiệm là để phục vụ, để hoàn thành trách nhiệm và bênh vực công lý. Nhưng xem kỹ lại, chúng ta thấy mình thường bị cám dỗ là lẫn lộn giữa quyền hành và lòng tham vọng thống trị. Do đó, Lời Thiên Chúa còn vang vọng: "Ngươi phải bái lạy Đức Chúa". Bái lạy có nghĩa ở đây là nhìn nhận mình là thần dân của Chúa, bổn phận mình là làm đẹp lòng Chúa, vừa ý Chúa, đó còn là làm sáng danh Chúa. Vì thế, trong Mùa Chay này, chúng ta hãy kiểm điểm lại con người mình, xem lại những lỗi lầm mà chúng ta đã phạm. Nó cũng giống với những con cám dỗ của Chúa Giêsu. Nói cách khác, những cơn cám dỗ mà Đức Giêsu chịu trong sa mạc cũng là những cơn cám dỗ của mỗi người chúng ta về vật chất, hào nhoáng bên ngoài và quyền hành. Đức Giêsu đã chiến thắng. Người cũng muốn chúng ta tham dự vào chiến thắng của Người.
Mục đích cuối cùng của ma quỉ là xúi giục ta phản loạn, không sống tâm tình người con hiếu thảo với Chúa, chống lại Chúa và sau cùng là lìa xa Thiên Chúa. Người ta đã rơi vào bẫy của ma quỉ nên đã không sống tâm tình người con hiếu thảo, muốn lìa bỏ cha mình, muốn lên bằng cha mình, muốn chống lại cha mình. Tuy đã thắng trong trận đầu tiên, Đức Giêsu vẫn bị ma quỷ cám dỗ trong suốt cuộc đời. Cơn cám dỗ có khi thì đến từ những người tin theo Chúa, muốn tôn Chúa làm vua để được ăn no nê bánh vật chất. Khi thì đến từ những người chống đối, xin phép lạ từ trời xuống. Có lúc ma quỷ mượn chính những người thân tín như Phêrô, để ngăn cản Chúa Giêsu thực thi ý Đức Chúa Cha. Có lúc ma quỷ dùng cái chết ghê sợ để uy hiếp tinh thần, mong Chúa Giêsu lùi bước để tìm ý riêng mình. Nhưng Đức Giêsu đã chiến thắng cơn cám dỗ vì Người luôn tìm ý Chúa Cha. Dù phải chiến đấu trong mồ hôi vất vả, Người vẫn nói: "Lạy Cha xin đừng theo ý con, nhưng xin theo ý Cha". Ma quỷ vẫn đang tiếp tục tạo nên những cơn cám dỗ, và nhiều khi chúng ta phải mắc bẫy của ma quỷ. Ta mắc bẫy của ma quỷ khi ta đuổi theo, mải mê những nhu cầu tiêu thụ quá đáng. Ta rơi vào âm mưu của ma quỷ khi ta muốn có tất cả và có tức khắc. Ta hoàn toàn nằm trong vòng tay ma quỷ, khi ta dùng mọi phương tiện để thỏa mãn những nhu cầu, bất chấp ý Thiên Chúa.
Mùa Chay này Chúa kêu gọi chúng ta trở về với Chúa nghĩa là chống lại ma quỷ. Muốn đủ sức chống lại ma quỷ, tôi phải luyện tập bỏ ý riêng mình để làm theo ý Chúa. Biết mình là những con người yếu đuối nên Giáo Hội dùng Mùa Chay để giúp chúng ta ăn năn sám hối tội lỗi, và ý thức về ơn gọi của mình hơn. Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta cảnh giác mình như:
Một là chỉ tin tưởng một mình Chúa, thờ phượng Chúa. Tin tưởng vào vào Chúa sẽ giúp ta biết nương tựa Chúa mà chống trả với cơn cám dỗ. Ta cần phải cầu nguyện, liên kết với Chúa Thánh Thần để Người hướng dẫn ta biết sống đẹp lòng Chúa.
Hai là không cộng tác với ma quỷ. Hãy mạnh dạn nói không với cám dỗ ngay từ đầu. Chúng ta thường nghĩ rằng cám dỗ phải lén lút và rón rén đến cửa sau nhà chúng ta. Có thể là như vậy nhưng không hẳn. Nhiều khi nó đến ngay trước cửa nhà. Chúng ta biết đó là sai và không nên làm. Nhưng chúng ta tự nhủ: đâu có sao, nhằm nhò gì, đâu có ai biết. Hay tệ hại hơn, chúng ta lại tự biện minh rằng thực sự đâu có gì là sai. Con người có một tài năng vô cùng khéo léo để lý lẽ và biện minh cho cái cách mình phạm tội. Hãy nhận diện ra sự nguy hiểm của cám dỗ ngay khi nó mời gọi và quyết định dứt khoát.
Ba là chúng ta đặt ra cho mình một chương trình sống cho mùa Chay bằng việc cầu nguyện, làm việc bác ái, hy sinh, giúp đỡ tha nhân nhiều hơn. Thiên Chúa sẽ ban sức mạnh để chúng ta đủ sức chống lại mọi chước cám dỗ, nếu chúng ta biết sống trọn tình con thảo, tin cậy, phó thác vào Người.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết cậy dựa nhờ sức mạnh của Chúa. Nhờ đó, chúng con sẽ chiến thắng những con cám dỗ đang rình rập, tấn công và lôi cuốn chúng con. Amen.
Chúa Giêsu được Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa để chịu cám dỗ ....
Anh chị em thân mến,
Mùa Chay là mùa Hội Thánh kêu mời chúng ta hãy chân thành sám hối, thành tâm lắng nghe Lời Chúa và chuyên cần cầu nguyện. Mùa chay cũng nhắc nhở mọi tín hữu hãy tỉnh thức đề phòng mọi thử thách, cám dỗ của ma quỉ, nhất là không để nó lợi dụng, làm hại mình...Vì thế, Lời Chúa của ngày chúa nhật hôm nay, nói đến hai cuộc cám dỗ: một: là trong vườn địa đàng của Adam + Evà. Kết quả hai ông bà thất bại te tua, lôi kéo con cháu hư mất đời đời. Hai: là của Chúa Giêsu trong hoang địa, như là Adam mới, đại diện cho cả nhân loại; kết quả Chúa chiến thắng hoàn toàn, đem lại ơn cứu rổi cho cả loài người. Đây chính là bài học mà Hội thánh muốn chúng ta suy niệm trong chúa nhật hôm nay...
a/. Cuộc cám dỗ đầu tiên: chính ma quỉ gieo vào lòng Adam + Evà, tính tự kiêu và ngờ vực Thiên Chúa: Ông bà ăn trái đó đi, sẽ không chết đâu; nhưng mắt ông bà sẽ mở ra và sẽ sáng như TC...Mọi ý định tốt lành của Thiên Chúa đều bị đặt vấn đề, trở thành những ý xấu. Chúa cấm ông bà ăn vì sợ ông bà biết điều thiện ác như Thiên Chúa. Ma quỉ là chúa của sự nham hiểm, quỉ quyệt; vì thế ông bà không hiểu được, nên đã sập bẩy: đó là tội...
Cuộc cám dỗ thứ hai: cũng do chính ma quỉ, đã cám dỗ Chúa Giêsu trong hoang địa. Kết quả: ma quỉ thua cuộc. Chúa Giêsu, là Adam mới, đã toàn thắng. Trước hết, khi cám dỗ Chúa Giêsu, nó cũng nhắm vào tính kiêu căng: Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy truyền cho hòn đá này hóa thành bánh mà ăn...Ma quỉ dựa vào thực tế vì Chúa đói; nhưng nó rất xảo quyệt muốn tách Chúa Giêsu ra khỏi sứ mạng cao cả của Người. Chúa thực sự đang đói, nhưng Chúa từ chối thẳng thừng đề nghị của ma quỉ, vì Người luôn hướng về Thiên Chúa và luôn tìm làm đẹp Ý Chúa mà thôi, nên Người dùng lời Chúa mà trả lời nó: Người ta sống không nguyên bởi cơm bánh, mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.
Ma quỉ chưa chịu thua, nên đề nghị Chúa biểu dương quyền lực mình bằng cách nhảy từ nóc đền thờ xuống, để mọi người phải thán phục quyền năng Chúa. Một lần nữa, ma quỉ muốn Chúa Giêsu vì tính kiêu căng, muốn tách ra khỏi sứ mạng mình, và ra khỏi cả liên hệ mật thiết với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần...nhưng Chúa Giêsu quá rõ tâm địa xảo trá của nó, nên đã dùng lời Kinh Thánh mà nói: Ngươi không được thử thách Chúa là Thiên Chúa của ngươi ...
Sau cùng, ma quỉ lại nhắm vào tính kiêu căng, tham lam giàu sang thế gian. Nó nói: nếu ông thờ lạy tôi, tôi sẽ cho ông quyền trên tất cả các nước ấy... Dĩ nhiên trận này Chúa cũng thắng, nhưng rõ ràng, cám dỗ này là cái cám dỗ suốt cuộc đời của Chúa. Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng muốn tôn Chúa lên làm vua... Một lần khác, khi đang giảng dạy, dân chúng và cả pharisêu thách thức Chúa làm một dấu lạ trên trời hay dưới đất để họ tin...Rồi trong vườn cây dầu, hấp hối cùng cực, chính Chúa cũng xin Chúa Cha cho mình khỏi uống chén đắng ô nhục này. Điều đó muốn nói, các cơn cám dỗ quá nặng nề, dù vậy Chúa vẫn vượt qua được, vì Chúa hoàn toàn vâng phục Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá...
b/. Câu hỏi: Có người nói: tại sao Chúa Giêsu là Thiên Chúa lại chịu để ma quỉ cám dỗ?- Thưa vì ma quỉ chỉ cám dỗ Chúa trong bản tính loài người mà thôi; hơn nữa vì khiêm hạ, Chúa chịu cám dỗ, vì Người với tính cách là Adam mới, là Anh cả của nhân loại, đã sẵn sàng nhận chịu cám dỗ và chiến thắng chúng, nêu gương cho nhân loại chúng ta...
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Cám dỗ của Chúa Giêsu cũng là cám dỗ của mỗi người chúng ta: biến đá thành bánh để, ai cũng tham sống sợ chết - thích sung sướng ở đời, thích tỏ quyền uy mình hơn mọi người khác - ham thích giàu sang vinh quang trần gian, muốn mình làm vua, muốn mình trên trước người khác... Chúa Giêsu đã sống khiêm tốn thẳm sâu, nên mới có thể chiến thắng ma quỉ, ta có muốn bắt chước Chúa Giêsu không?
Hòa cùng niềm vui của cả dân tộc Việt nam, chúng ta đang sống trong những ngày đầu của năm mới Mậu Tý. Năm mới thì ai ai cũng mong muốn được đổi mới. Cái mới thì phải tốt và chất lượng hơn cái cũ. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cũng cho chúng ta thấy một điều mới hết sức quan trọng. Đó là Ađam mới. Ađam mới ấy chính là Chúa Giêsu.
Ađam cũ đã bị ma quỷ đánh ngã gục. Chỉ vì không vâng lời Chúa, chỉ vì muốn bằng Thiên Chúa. Ma quỷ nói: "Chẳng chết chóc gì đâu! Nh ưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn vào sẽ biết cả tốt xấu " (St 3, 4 ). Nghe lời ấy bà Eva đã không kềm lòng đ ược nên đã sa vào tròng của nó. Đáng lẽ, Ađam phải cứng rắn hơn nhưng ông cũng không hơn gì Eva. Cho nên cả hai đã hoàn toàn để mình bị khuất phục bởi sự tinh ranh của ma quỷ.
Ngược lại, Ađam mới là Chúa Giêsu đã không chịu thua sự tinh ranh ấy. Ađam mới đã chiến thắng lẫy lừng trước những lời dụ ngon dỗ ngọt của ma quỷ. Do đâu mà Chúa Giêsu đã chiến thắng được sự khôn lanh của ma quỷ. Chúa Giêsu đã lời ma quỷ: "Ng ười ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra " ( Mt 4, 4). Như thế, bí quyết để chiến thắng ma quỷ đó là làm theo thánh ý Chúa Cha. Chúng ta biết trọn đời Chúa Giêsu luôn lấy lời Chúa Cha làm lương thực nuôi sống mình (Ga 4, 34 ).
Đây là điều rất đáng cho chúng ta suy nghĩ về chính bản thân mình trong những ngày đầu năm mới này. Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng cảm nhận được rằng hằng ngày chúng ta cũng đang chịu những cám dỗ của ma quỷ như tổ tông cũng như của Chúa Giêsu. Ma quỷ nó rất khôn khéo. Nó hay đánh vào những điểm yếu của con người chúng ta. Từ khi tổ tông phạm tội thì khuynh hướng không vâng theo Lời Chúa luôn tiềm ẩn trong chúng ta. Do đó, nếu chúng ta không noi gương Chúa Giêsu - Ađam mới thì thảm họa của tổ tông ngày xưa cũng sẽ xảy ra nơi chúng ta.
Sống kiếp con người nơi trần thế này, ai trong chúng ta cũng thường gặp những thách đố và cám dỗ trong cuộc sống. Có nhiều người ý thức và nhẹ nhàng vượt qua, nhưng cũng có rất nhiều người đã rơi vào những cạm bẫy của ma quỷ và trở thành kẻ nô lệ của chúng một cách đáng thương. Vấn đề đặt ra cho chúng ta bây giờ là làm sao có thể vượt qua những cám dỗ đó. Đâu là sức mạnh và trợ lực an toàn cho chúng ta?
Chúng ta đang bước vào Chúa nhật thứ I Mùa Chay, mùa dành riêng cho việc kêu gọi con người hãy ăn năn sám hối và trở về với Thiên Chúa để nhận lãnh lòng thương xót và ơn tha thứ của Ngài.
Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta một mẫu gương tuyệt vời về sự chiến đấu trước những cơn cám dỗ đụng chạm trực tiếp đến những nhu cầu thiết yếu và phổ biến nhất của con người. Mẫu gương đó chính là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Trước khi khởi đầu sứ mạng rao giảng Tin mừng, Ngài đã được dẫn vào sa mạc để chịu ma quỷ cám dỗ. Có lẽ có rất nhiều ý nghĩa xung quanh vấn đề này, nhưng có lẽ chúng ta thấy được nhất là ý nghĩa nêu gương của Chúa Giêsu qua những cơn cám dỗ mà Ngài đã chịu. Ma quỷ rất gian xảo và tinh vi trong mọi cố gắng nhằm quyến dụ con người đi vào con đường chết, trở thành những kẻ chống đối Thiên Chúa hay thử thách Thiên Chúa. Đức Giêsu Kitô, Người Con vẹn toàn của Thiên Chúa đã chiến thắng Ma Quỷ và vạch trần những âm mưu xảo trá của chúng vì chúng vốn là cha của những kẻ gian trá.
Cơm áo bạc tiền luôn là nổ băn khoăn và lo lắng của biết bao nhiêu con người. Cuộc sống bận rộn suốt ngày đêm cũng chỉ xoay quanh vấn đề này. Người còn nghèo khó thì muốn cố gắng làm sao để có đủ cơm ăn áo mặc. Người khá giả một chút thì muốn giàu có hơn. Còn người đã giàu có rồi thì tìm cách làm sao để giữ vững cơ nghiệp của mình, tìm cách hưởng thụ và làm sao để cho danh tiếng của mình vang xa, cho thiên hạ nể nang mình . . . Có thể nói, không ai tìm thấy thoả mãn với những nhu cầu vật trong cuộc sống này. Chính vì lý do này mà con người dễ dàng rơi vào những cơn thèm khát mang tính danh, lợi, thú do ma quỷ giăng mắc khắp nơi. Khắp nơi đều nghe thấy con người kêu khổ: nghèo cũng khổ, giàu cũng khổ, cũng khóc như ai. Như vậy hạnh phúc đích thực không có nơi trần gian này, mà chỉ tồn tại nơi Thiên Chúa mà thôi.
Có một anh nông dân rất nghèo, làm việc vất vả suốt ngày quanh năm nhưng cơm không đủ ăn, áo chẳng đủ mặc. Rồi anh nghe người ta đòn rằng, ở trên núi có một thiền sư pháp thuật cao lắm, ông có thể làm cho người nghèo trở nên giàu có dễ như trở bàn tay. Thế là anh nông dân này bèn hỏi han đường sá để tìm đến với vị thiền sư đó. Cuối cùng thì anh cũng gặp được vị thiền sư tài giỏi ấy. Anh liền bày tỏ với vị thiền sư nổi khổ tâm của anh và ước nguyện được giúp cho thoát khỏi cảnh nghèo túng. Vị thiền sư nói: "tưởng chuyện gì khó chứ chuyện ấy thì quá dễ. Nhưng mà không được , vì nó nguy hiểm lắm". Anh nông dân ấy nói: Chỉ có cái nghèo mới nguy hiểm và tôi chỉ sợ cái nghèo thôi. Ngoài ra tôi không sợ gì nữa cả".
Cuối cùng thì vị thiền sư cũng bằng lòng làm theo yêu cầu của anh ta và căn dặn: "Đây ta truyền cho ngươi câu thần chú này. Mỗi lần ngươi đọc câu thần chú này thì lập tức có một con quỷ hiện ra và nó sẽ làm tất cả những gì ngươi sai khiến nó. Nhưng hãy nhớ. Khi nó hiện ra rồi thì ngươi phải có cái gì đó cho nó làm, nếu không nó sẽ vặn cổ ngươi đó". Thế là anh nông dân nghèo đó hí hửng ra về mang theo câu thần chú mà anh cố gắng nhớ trong đầu. Về đến nhà, anh liền niệm câu thần chú ấy, và lập tức có một con quỷ hiện ra để sẵn sàng chờ lệnh của anh. Anh liền bảo nó xây cho anh một toà lâu đài lộng lẫy vào hạng bậc nhất thế giới. Tưởng đâu mấy tháng mới xong, không ngờ chỉ có 3 phút là xong. Anh liền bảo nó đi tìm cho anh một cô mỹ nữ về làm vợ, vì trước đây chẳng có ai thèm lấy anh. Tưởng mấy ngày mới xong, nào ngờ cũng chỉ có 2 phút là xong. Anh liền bảo nó dọn cho anh một bữa ăn ngang hàng với các bậc vua chúa trần gian. Tưởng mấy tiếng đồng hồ mới xong, ai ngờ chỉ có 1 phút là xong. Lúc này anh ta mới sợ hãi và cuống cuồng lên vì biết lấy gì mà sai nó làm nữa đây. Con quỷ liền thúc giục anh ra lệnh cho nó làm, nếu không nó sẽ vặn cổ anh ngay đấy. Anh nông dân sợ hãi quá liền sai nó đưa anh ta đi gặp vị thiền sư ngay. Khi gặp được vị thiền sư thì anh khóc lóc thảm thiết và nói lên nổi sợ hãi của anh. Vị thiền sư mới nói với anh: "Ta đã nói với anh rồi, nó nguy hiểm lắm mà anh không chịu nghe ta. Thôi ta chỉ cho ngươi cách này là ngươi hãy về nhà và sai nó ngồi vuốt đuôi chó cho thẳng ra. Thế là con quỷ đó ngồi vuốt đuôi con chó cho đến vĩnh cửu!
Chúng ta hay tưởng tượng và cho rằng ước mơ của mình và của con người trong cuộc đời này nó lớn lắm. Nhưng quay đi quẫn lại cũng chỉ là chuyện làm sao tôi được giàu có, được ăn sung mặc sướng, được vợ đẹp con ngoan mà thôi. Nó không lớn như chúng ta tưởng đâu! Vì thế, nếu chúng ta không biết làm cho cuộc đời của mình có những ước mơ cao thượng hơn chuyện cơm áo bạc tiền thì chúng ta quả là những con người đáng tội nghiệp ở trần gian này!
Ma quỷ vì hiểu rõ những suy tính và ước muốn của con người là chỉ quanh quẩn trong những chuyện như thế, nên chúng không ngừng cám dỗ con người làm sao có thật nhiều của cải, hưởng thụ thật nhiều, cố tạo uy quyền cho mình thật nhiều . . . bất chấp những thủ đoạn gian ác và nguy hiểm.
Chúng ta hãy nhìn vào gương của Chúa Giêsu để học cùng Ngài và xin Ngài giúp chúng ta biết cách chiến đấu và chiến thắng trước những cơn cám dỗ tinh vi và nguy hiểm của ma quỷ trong cuộc sống đời thường của chúng ta. Phương thế đế chúng ta có thể chiến thắng với những mưu chước của ma quỷ là hãy hướng về Thiên Chúa, kiếm tìm thánh ý Thiên Chúa trong cuộc đời này như Đức Giêsu đã nêu gương cho chúng ta. Hãy cảnh giác với việc lạm dụng Lời Chúa hay giải thích sai lệch Lới Chúa để đi tìm những điều nhằm thoả mãn cho mình.
Có rất nhiều người mở miệng ra là nói Lời Chúa nhưng chỉ toàn tìm những câu Lời Chúa nghe có vẻ là lạ rồi giải thích theo ý của mình và cuối cùng là dẫn anh đến một cuộc sống hoàn toàn sai lệch. Ma quỷ trong khi cám dỗ Đức Giêsu cũng không ngừng trích dẫn Lời Chúa hầu giăng lưới chụp bắt Đức Giêsu và làm cho Đức Giêsu trở thành người thách thức Thiên Chúa và nghi ngờ Thiên Chúa. Nhưng Đức Giêsu đã tỉnh thức trước những mưu chước đó và đã chiến thắng cách vẻ vang nhờ Ngài áp dụng Lời Chúa cách đúng đắn.
Ở thành phố lâu năm, ai mà chẳng cảm thấy thấm mệt với cái ngột ngạt đầy nghẹt và ứ đọng của cuộc sống thường ngày.
Thời giờ thì đầy nghẹt bề bộn từ sáng đến tối khó mà tìm được phút thanh thản cho chính mình; đường xá đầy nghẹt xe cộ xếp hàng mà nhích từng bước một; đầu óc luôn đầy nghẹt các vấn đề suy nghĩ mỗi ngày một chồng chất; nhà cửa đầy nghẹt đồ đạc máy móc chẳng còn chỗ len chân; tủ quần áo đầy nghẹt thời trang mới sắm không còn chỗ nhét, vậy mà vẫn còn thấy chưa đủ; ngay cả cái bụng mang hơi hám Mỹ cũng đầy nghẹt phì mỡ phát triển không đều một cách thảm hại...
Và như vậy, đầy nghẹt đã trở thành nét tiêu biểu của thời nay, qua câu truyện kể về một đệ tử muốn tìm môn sư để học đạo sống.
Khi đến gặp Thầy, đệ tử đặt rất nhiều thắc mắc đòi Thầy phải giải đáp. Thay vì trả lời những câu hỏi của học trò mới, Thầy lấy ra một ly nước đầy để trên bàn, rồi lấy một ấm trà vừa lắng nghe vừa tiếp tục rót vào ly nước, khiến cho nước trà chảy tràn ra ngoài ướt đẫm chung quanh. Lấy làm lạ, anh học trò mới nhắc Thầy vì tưởng Thầy đãng trí, nhưng Thầy làm như không nghe thấy mà cứ tiếp tục rót. Một lúc sau khi trò ngưng hỏi thì Thầy cũng ngưng rót, rồi Thầy trầm trầm bảo người trẻ mới tới:
"Lòng anh đã quá đầy như ly nước trà này. Thầy có rót gì thêm cũng tràn ra vô ích mà còn làm ướt át chung quanh. Anh hãy về đi, lúc nào lòng anh có khoảng trống thì trở lại!"
CÕI TRỐNG VỜI VỢI
Muốn dành cho mình một khoảng trống và thử đi tìm cảm nghiệm cõi trống vời vợi "chân không diệu hữu" như đã từng được nghe trong nhiều truyền thống tôn giáo, đặc biệt trong Đạo Chúa, tháng 3 năm 2000 tôi đã trở lại sa mạc Arizona tức sa mạc Sonora lần thứ ba. Lần này tôi dành cả một tháng trời để tập sống trong một trung tâm tịnh niệm ngay trong vùng cây xương rồng loại cao lớn saguaro.
Trung tâm tịnh niệm này có nhiều lều nhỏ (hermitage) rải rác cách biệt cho mỗi người giống như kiểu "tu rừng". Ban đầu cái gì cũng làm cho mình khó chịu hết. Ăn uống thật khem khổ như kiểu ăn chay hằng ngày, không bia, không rượu, chủ yếu là bánh, rau và nước lạnh, họa huần mới có một chút thịt. Mỗi ngày đi lấy một khay nhỏ đồ ăn về lều ăn riêng như kiểu khất thực, may mà không đói quá để phải tìm ăn "châu chấu và mật ong rừng." Và suốt ngày mọi người đều giữ thinh lặng không nói chuyện với ai. Lều không có Tivi, không có báo chí tin tức gì, không thư từ liên lạc với ai, không có dây điện thoại, nên cũng không có e-mail hay internet gì hết. Và cũng không có xe. Từ phi trường Tucson được xe loại "stagecoach" chở tới địa điểm sa mạc này rồi chôn chân luôn.
Khí hậu sa mạc thật khắc nghiệt: ban trưa nóng kiểu mùa hè và ban đêm độ nhảy xuống đột ngột đúng cái lạnh của mùa đông. Vậy mà lều tôi ở không có máy lạnh và máy sưởi thì hư. Gió lộng lên rất bất thường, đập rầm rầm đe dọa làm rợn cả người. Không khí rất khô làm cong cả giấy, làm nứt và bong da, cả người như bị dị ứng sẩn cả lên. Sau hơn nửa tháng tôi mới thấy cơn mưa đầu tiên chẳng được mấy hạt nước mà gió giật đùng đùng muốn lật cả lều và vần vũ mù mịt cả sa mạc. Và chỉ nửa giờ sau gió nổi lên, nhiệt độ liền nhảy xuống thành mùa đông lạnh cóng.
Chung quanh chỉ có đất đá khô cằn với những cây xương rồng saguaro to lớn oai vệ có những cánh tay vươn cao trong tư thế cầu nguyện bất kể đêm hay ngày, nóng hay lạnh. Ở đây không có bọ cạp hay rắn lửa như sa mạc người Do Thái, nhưng có ít nhất là bẩy loại xương rồng khác nhau. Đáng sợ nhất lại là loại nhỏ nhất, mọc len lỏi lẩn trong những chùm cây thấp, vô ý là cả một tảng gai li ti bám chặt vào quần áo và xỉa thẳng vào da.
Nhưng trong bầu khí sa mạc mở trống bao la này tâm hồn thật thảnh thơi. Những buổi sớm mặt trời lên từ rặng núi xa hay những buổi chiều mặt trời xuống tỏa ánh sáng huyền ảo tô màu cho những cây xương rồng saguaro trở nên thật sinh động và hút hồn như cả một rừng người đang đứng vươn cao tay hướng lên trời với những ống sáo thẳng tắp trổi lên những điệu nhạc rất thầm lặng nhưng mang một âm hưởng kỳ bí lạ lùng.
Vào sa mạc là trở thành lòng trúc trống, tự nhiên phải buông bỏ mọi tiện nghi và sở thích. Cảnh trí khô khan đều đều đến nhàm chán chứ không hùng vĩ hay thơ mộng gì cả như vùng Grand Canyon, Sedona, Yosemite... Không có gì mới mẻ gây thích thú hào hứng lúc đầu cả. Không có "áo quần lả lướt hay cây sậy phất phơ trước gió" kiểu "gió đưa cành trúc la đà" nên thơ cả!
ĐIỆU MÚA CỦA TRIỆU SAO
Nhưng chỉ sau một tuần là mình quen dần với những cái xem ra tầm thường nhàm chán. Những cây xương rồng khô cằn bỗng mang nét đặc sắc riêng, không theo tiêu chuẩn ở phố. Được cái lợi là chả cần tiền bạc mua bán gì; quần áo thì mặc sao cũng được, thậm chí mặc đẹp một chút là thấy lạc lõng và mắc cở với những cây saguaro chả có gì mà sang trọng oai vệ quá sức kia. Cái bụng phì mỡ của mình được san đẽo bớt gồ ghề đi; chỉ sau mười ngày là phải thắt đai lưng hẹp lại một nấc, rồi hai nấc. Điệu này ở lâu chắc cũng bị khoét thành ống sáo mất thôi!
Và mình bắt đầu biết mê sa mạc. Đưa đi một đống sách mà mình hết muốn đọc. Cả sa mạc mở rộng đang là một cuốn sách kỳ bí cho mình bước chân vào. Kìa, hai con nai và mấy con thỏ rừng bỗng xuất hiện ngay bên, thản nhiên thong thả bước đi như chẳng có gì phải sợ hãi đề phòng ai, rồi ba bốn con vật thật lạ đen đen như một loại heo mò đến gần lều kiếm đồ ăn. Thú nhất là nghe chim hót. Ở đây có nhiều loại chim rất lạ, thích đứng mãi trên đỉnh chòm gai cây saguaro mà hót rất dài mà thanh thản sảng khoái cùng độ, một tuyệt phẩm vừa sáng tác tại chỗ mà không cần đăng ký giữ bản quyền, ai có tai thì mặc sức mà nghe khỏi trả tiền. Đây đúng là một loại "thornbird" chứ gì. Ông van Beethoven xưa chỉ được mấy con chim ở bờ suối Heiligenstadt gợi hứng mà sáng tác được bản hòa tấu Pastorale để đời, nhưng chắc là thua xa bản hòa tấu của loại chim này.
Bầu trời ở đây cao và rộng hơn ở thành phố nhiều. Mình bỗng cảm nghiệm bầu trời này chính là một ngôi nhà thờ vĩ đại nhất, ngôi nhà vòm bao la lồng lộng với biết bao trang điểm kỳ ảo nhất. Chỗ này được xếp bằng một chùm sao hình chữ T, chỗ kia đặt những rặng cây saguaro lớp lang thứ tự, lại đẩy từng luồng gió đến phe phẩy mơn man lòng người. Mình thường dâng lễ riêng một mình ở lều, đôi khi đưa bàn nhỏ ra giữa sa mạc mà dâng lễ hòa nhập với muôn ngàn bài ca vang vọng giữa không trung vời vợi.
Mấy đêm nay trăng mọc rất sớm, mới chiều chiều đã ló lên vui vẻ chào thiên hạ rồi. Và ban đêm thì vằng vặc rải ánh sáng huyền ảo vào không trung bất tận. Mình vào lều pha một tách trà nóng ra đứng nhìn trăng và triệu triệu ngôi sao lấp lánh diệu ảo kia. Ở phố vẫn có trăng sao như thế này chứ, vậy mà có bao giờ mình được hưởng phút giây thần tiên như lúc này. Mình đứng đến khuya lắm mà chẳng muốn đi ngủ, làm như ngủ giữa lúc trăng sao đang ca hát nhảy múa thế kia thì có vẻ phí phạm quá. Mấy tối liền mình bỗng bốc cơn mơ mộng, đứng mãi mỏi cổ thì vác mền quấn kỹ ra nằm thật lâu giữa sa mạc trời lạnh mà nhìn lên học chiêm ngưỡng sao trời. Kìa, ngôi sao Bắc Đẩu đang nháy mắt cười đưa duyên. Chỉ cần nhìn hai chân của chiếc ghế trong chòm sao Gấu Lớn gạch một đường thẳng về tay trái là tới. Sao Bắc Đẩu chính là ngôi sao cuối cùng ở cái đuôi của chòm sao Con Gấu Nhỏ. Cả triệu triệu tỉ tỉ ngôi sao đang cùng ca vũ nhịp nhàng. Mặt trời của mình cũng chỉ là một ngôi sao li ti trong vũ trụ giữa muôn vàn ngôi sao. Trái đất chưa phải là một ngôi sao, mà chỉ là một chấm đen nhỏ xíu phản chiếu lờ mờ từ ánh sáng mặt trời. Sao Antares còn sáng hơn mặt trời 400 lần. Mặt trời tưởng rằng đứng một chỗ, nhưng thực ra đang cùng cả thái dương hệ chạy về hướng chòm sao Hercules với một tốc độ khủng khiếp là 12 dặm mỗi giây, tức trên 43 ngàn dặm một giờ.
Sa mạc ban ngày đã trống bao la mà ban đêm mới thực sự là một cõi trống huyền nhiệm, chỉ còn lại một bầu trời mở rộng thăm thẳm. Lúc này mình không còn là người ngoài nhìn ngắm bầu trời nữa mà muốn tan biến hòa nhập vào cõi trống vô biên này. Trời đã về khuya, mọi vật chung quanh trở thành một màn đen sịt, không còn màu sắc kích thước như thường thấy; những gì mình cho là to lớn cao giá sáng chói mọi khi sao bây giờ tự nhiên bị đổi tầm mức và giá trị, trở thành nhỏ bé đến tội nghiệp.
TIN VUI GỬI CÂY TRÚC TẦM THƯỜNG
Nhà tâm lý nổi tiếng nhất của thời đại là Carl Jung đã chứng minh và áp dụng công thức tâm lý trị liệu làm cho con người hồi phục toàn mãn bằng việc xả trống. Ông gọi qui trình này là Individuation, với bước khởi đầu là Unveiling the Persona, tức là buông xả con người giả tạo của mình đi. Chẳng lạ gì kịch nghệ Á Đông thường hay đeo hay vẽ mặt nạ, có ý diễn tả rằng trong cuộc sống người ta ít khi hành xử bằng con người thật của mình, mà thường bằng những ước vọng và đánh giá của xã hội. Nên mình cứ phải luôn nghe theo một thứ lệnh vô hình, cứ phải gồng mình mà phồng lên cho hợp tiêu chuẩn. Nghĩa là con người ít khi được sống tự do để thực sự là mình. Vậy là càng tìm mình thì càng mất chính mình, càng đầy thì càng vơi.
Nhưng con người đâu dễ tự xả trống làm vơi mình được! Kinh Thánh nói rõ, trước khi bắt đầu công cuộc rao giảng Tin Vui, Chúa Giêsu đã được dẫn vào sa mạc để ăn chay, để cho lòng mở trống như một cây trúc cho Thần Khí làm việc, cũng là lúc nhận diện và chế ngự được những bóng đen vốn mai phục sai khiến điều khiển con người, khiến con người luôn bị hành hạ bởi lòng ham hố chất đầy vật chất, tham vọng, thành công... mà chẳng bao giờ thỏa. Và trong suốt mấy năm hoạt động, Chúa Giêsu vẫn thường luyện thần lực trong những nơi thanh vắng, vẫn tìm được cảm nghiệm sa mạc tĩnh lặng trong cuộc sống thường ngày..
Những chuyện đau buồn trong cuộc sống tưởng là những hòn đá làm mình vấp ngã, không ngờ lại chính là những nhát dao của nhà nghệ sĩ đại tài là Thần Khí đục khoét cho thân trúc tầm thường trở thành ống sáo. Thần Khí đã dẫn mỗi người vào sa mạc cuộc đời như đã dẫn tiên tri Hosea vào nơi thanh vắng mà thì thầm tâm sự, đồng thời cũng là lúc thanh luyện để có khoảng trống cho gió trời thổi vi vu mà rung lên Khúc Sáo Ân Tình, để Người mang qua lũng qua đồi, rung lên khúc sáo một trời yêu đương.
CÂY SÁO MỌC CÁNH
Bước vào cái bầu khí đất trời bao la vô hạn sa mạc là tự nhiên thấy lòng mình sao nhỏ nhen chi lạ, không còn đủ can đảm kéo ghì cái thành quách kiên cố bao phủ con người mình bấy lâu nữa. Cõi trống sa mạc đang là một ống sáo mọc cánh thật thênh thang vút cao. Mình cũng muốn hòa nhập vào cõi trống huyền diệu này, hòa nhập vào một sức sống bao la hơn, hòa nhập vào một nhịp sống của đất trời mở rộng mà trở thành một ống sáo lâng lâng bay bổng.
Trong cõi trống bao la này, con người không cần phải suy niệm về Đấng Huyền Nhiệm nữa, mà chứng nghiệm được Người thật sinh động, chạm đến tay Người đang lướt trên những lỗ sáo đời mình. Và như một mâu thuẫn không giải thích nổi, là trong cái tĩnh lặng và trống rỗng hầu như tuyệt đối này, một cảm nghiệm toàn mãn đầy tròn bao phủ. Thật lạ. Và con mắt cũng được mở ra để bước vào cuộc sống với một nhãn quan mới:
Bài hát tôi đã rũ sạch điểm tô lòe loẹt, không còn kiểu cách huênh hoang. Đồ trang sức sẽ ngăn cách Người với tôi, làm giảm đi thân tình, làm động đạc át cả tiếng thì thầm nhè nhẹ. Trước mặt Người lòng hợm hĩnh thơ văn nơi tôi chết trong thẹn thùng. Này tôn sư đời tôi, tôi xin đến ngồi dưới chân Người! Xin biến đời tôi thành bình dị, thẳng ngay, như cây sáo trúc Người phả đầy âm nhạc vào trong. (Tagore, Lời Dâng #7)
(từ tác phẩm Khúc Sáo Ân Tình, Thời Điểm xuất bản) Lm. Dũng Lạc Trần Cao Tường
Thánh ký ghi cơn cám dỗ sau khi Chúa Giêsu chay tịnh 40 đêm ngày là một việc làm thử thách Thiên Chúa: “Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa của ngươi (Mt 4:7), và tên cám dỗ là ma quỉ: “Chúa Giêsu được Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa để chịu ma quỉ cám dỗ” (Mt 4:1) hay Satan: “Satan hãy cút khỏi mặt ta” (Mt 4:10). Qua trình thuật của Mathêu, có ít nhất 3 điểm khiến ta phải suy nghĩ về trường hợp Chúa Giêsu phải chịu cám dỗ:
- Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn Chúa Giêsu vào hoang địa để chịu cám dỗ. - Cám dỗ là một sự thử thách đối với Thiên Chúa. - Tên cám dỗ là Satan hay đồ đệ của chúng.
1. Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn Chúa Giêsu vào hoang địa để chịu cám dỗ:
Bình thường, từ ngữ sa ngã, làm điều xấu xa, tội lỗi, được coi là những hệ qủa của yếu đuối, của khuyết điểm tâm lý, tâm linh hoặc thể lý. Thiên Chúa nhân lành, thông minh, thánh thiện không can dự gì vào những cám dỗ hay yếu đuối ấy. Nhưng theo Mathêu đã ghi, thì cám dỗ không hẳn chỉ là từ phía ma quỉ, hoặc chỉ thuần túy do những ước muốn của đam mê, dục vọng con người. Trong cơn cám dỗ, con người vẫn thấy có sự hiện diện và cho phép của Thiên Chúa. Một cách nhân loại hơn, Thiên Chúa muốn nhìn thấy thiện chí, tình yêu và sự trung thành của con người qua những cám dỗ và thử thách. Cám dỗ, do đó, vừa là dịp thử luyện, vừa là cơ hội cho những vấp ngã của con người.
2. Cám dỗ là một sự thử thách đối với Thiên Chúa:
Chính do sự có mặt và cho phép của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã nói với tên cám dỗ Ngài: “Đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi” (Mt 4:7), và điều này có thể hiểu thêm rằng, khi một cơn cám dỗ xẩy tới, nó không chỉ thuần túy mang lại chiến thắng hay sa phạm của phía con người, mà còn trực tiếp ảnh hưởng và liên quan đến cả Thiên Chúa nữa. Thiên Chúa không thể bị cám dỗ hay sa phạm. Tuy nhiên do việc Ngài ban phép hoặc làm ngơ cho cám dỗ xẩy đến với con người, nên một cách nào đó, Ngài cũng như tham dự vào chiến thắng hay sa phạm của chúng ta trong những thử thách hay cám dỗ. Như vậy, khi chúng ta chiến thắng cám dỗ, tức là Thiên Chúa đã chiến thắng Satan. Hoặc ngược lại, khi chúng ta sa phạm, thì không chỉ chúng ta sa phạm, thua trận, mà nó còn là cớ để Satan cười nhạo Thiên Chúa, vì Ngài đã tạo dựng nên con người, và đã đặt con người trước những thử thách. Có lẽ vì thế nhiều người và nhiều Kitô hữu đã từ chối hoặc không muốn trực diện với cám dỗ. Đối với họ, cám dỗ là một hành động xui xẻo, một yếu đuối, một vụng về, hay một khuyết điểm của trí tuệ, hay thể xác. Nó cũng có thể hiểu là một thúc đẩy có tính cách tâm lý. Những điều này khi xẩy ra sẽ không có sự tham dự của Thiên Chúa hay quỉ thần. Và vì suy nghĩ như vậy, họ không quan tâm đến việc chiến thắng cám dỗ, vì họ đã sống và hành động như những gì mà cơn cám dỗ có thể xẩy ra. Qua cái nhìn tu đức, họ là những người sống trong đam mê và tội lỗi.
3. Tên cám dỗ là Satan hay đồ đệ của chúng:
Và tên cám dỗ kia chính là ma quỉ hoặc Satan. Trong trường hợp của Chúa Giêsu, thì chính Satan đã cám dỗ Ngài, chứ không phải do các đồ đệ của hắn. Có lẽ vì trước con mắt của hắn, một người như Chúa Giêsu thì đồ đệ của hắn không phải là đối thủ.
Thật vậy, những cám dỗ của hắn đưa ra đối với Chúa Giêsu thì phải là một tay thượng hạng như hắn mới có thể nghĩ ra và ứng dụng được. Hắn không dùng những chiêu thức có tính cách tầm thường để cám dỗ Ngài, nhưng dùng chính lời của Đức Chúa Trời, lời của Thánh Kinh là những gì mà Chúa Giêsu vẫn suy niệm, sống, và rồi ra, Ngài sẽ rao giảng để thách đố Ngài. Những từ ngữ như: “nếu ông là Con Thiên Chúa”, “có lời chép rằng”, và “nếu ông cúi mình thờ lậy tôi”. Những thử thách này hoàn toàn phát xuất từ niềm tin sâu xa và đi vào thâm cung của việc tôn thờ và phục tùng Thiên Chúa. Nếu Chúa Giêsu tự ý dùng quyền riêng của mình để châm chước, hoặc qua mặt Thiên Chúa, hay ít nhất áp đảo Satan trong những thách thức ấy, lập tức Ngài không còn phải là đối thủ của hắn nữa.
Nhưng liệu con người ngày nay có tin rằng Satan vẫn hiện hữu và đang hoành hành trên trái đất không? Qua văn chương, nghệ thuật, hoặc sự tin tưởng chung, con người vẫn nói đến ma quỉ, thế giới ma quỉ, thế giới siêu hình. Nhiều người vẫn tin vào tà ma, bói thuật, cầu cơ, xin xâm...như một hình thức mặc nhiên tin nhận có đời sau, có thế giới siêu hình. Nhưng trong thực hành đã quên sự hiện diện và những hoạt động của ma quỉ và Satan. Điều này chúng ta có thể nhìn thấy qua quan niệm và lối sống của con người trong xã hội hiện nay. Trong đó, với những quan niệm và lối sống chấp nhận và ủng hộ phá thai. Chủ trương ly dị, đồng tính và và hôn nhân đồng tính. Tôn thờ dục vọng, và thân xác. Một nền văn hóa và văn minh mà theo Đức Gioan Phaolô II, là thứ văn hoá “sự chết”.
Người ta chỉ tưởng tượng Satan hay ma quỉ với những hình thù xấu xa, kỳ quái với hai cái sừng trên đầu, với những cái răng nanh dài, và với cái đuôi nơi một thân thể lông lá. Nhưng ít ai cho một chàng trai hào hoa, một cô gái nõn nà, duyên dáng, hoặc một thức giả với những kiến thức uyên bác là những Satan trá hình, khi những người này dùng sắc đẹp, vẻ quyến rũ, và những hiểu biết để dẫn ta vào con đường đam mê, trụy lạc, và bất chính. Là những người cha, người mẹ, người tình đang thúc dục và cưỡng ép ta phá thai sau khi đã lỡ lần qua chính sự thúc đẩy và dụ dỗ của họ. Là những đồng nghiệp đang thách thức hoặc chỉ vẽ cho ta những mánh khoé gian lận và lường gạt người khác. Satan hay người làm công việc của Satan cám dỗ ta trong những trường hợp như thế cũng chỉ là một. Cái chủ đích sau cùng là ta sa phạm, và làm điều Thiên Chúa không muốn chúng ta làm. Nô lệ cho cái bụng là một điều xấu xa. Nhưng cách thức ăn uống, chạy chọt, và mánh mung để có tiền làm nô lệ cho cái bụng còn là một điều tồi tệ hơn.
Tên cám dỗ. Ma Quỉ. Satan. Dù chúng ta thấy hay không thấy, tin hay không tin, nhưng những gì đang xẩy ra trong thế giới chung quanh ta đang nói với chúng ta về một sự thật này, chúng ta thật sự đang được đặt vào một cơn cám dỗ mà trong suốt cuộc đời này với hai thế lực: lương thiệt và bất lương, tốt lành và thấp hèn, thần trí hay xác thịt, Chúa hay Satan. Và trong trận chiến ấy, Satan và đồ đệ chúng vẫn đang có mặt trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Và như Chúa Giêsu đã dậy: “Hãy tỉnh thức kẻo sa chước cám dỗ”.
Lậy Chúa xin ở bên chúng con và giúp chúng con giao chiến với một địch thủ mà với khả năng riêng của con người của chúng con, chúng con sẽ không thể nào chiến thắng nổi là Satan hay đồ đệ của chúng.
Giáo Hội lập ra Mùa Chay Thánh như một cơ hội thuận tiện, kêu gọi chúng ta ăn năn đền tội, thống hối cải thiện và trở về làm hòa với Thiên Chúa, hòa giải với tha nhân, để lãnh ơn tha thứ mọi lỗi lầm.
Chay tịnh có mục đích giúp chúng ta phương tiện chế ngự bản năng thú tính, trị dẹp tính mê nết xấu, điều khiển các dục vọng, khử trừ các mầm mống tội lỗi.
Mùa Chay Thánh còn có mục đích giúp chúng ta lập công phúc, chia sẻ cơm bánh, áo quần, đồ dùng, của cải cho người nghèo túng; cầu nguyện cho tội nhân bỏ đàng lầm lạc trở về chính lộ, người công chính được thông phần sự đau khổ và cái chết của Chúa Kitô, để tỏ lòng yêu mến đền đáp phần nào lòng Chúa yêu thương chúng ta.
Nhờ chay tịnh, chúng ta được canh tân tâm hồn, đổi mới cuộc sống, tiến bước trên đường hoàn thiện, mặc lấy con người mới của Chúa Kitô.
I. TẠI SAO CHÚNG TA PHẢI CHAY TỊNH
Bài sách Khởi Nguyên chúng ta vừa nghe cho chúng ta thấy, nguyên tổ chúng ta là Adam Evà đã thua chước cám dỗ, nghe theo rắn già Satan, bất tuân lệnh Chúa, ăn trái cây trường sinh, để được nên thông minh như thần thánh. Do tội phản bội đó, con người đã trở nên thù nghịch với Thiên Chúa, bị Thiên Chúa trừng phạt, truất quyền làm con Chúa, phải đau khổ và phải chết. Cũng do trọng tội đó, con người đã trở nên hư trụy, bản năng rối loạn, thân xác làm ngụy với linh hồn, linh hồn chống lại Thiên Chúa, thích sống buông thả phản lại với những giới luật và tinh thần của Người.
Thánh Phaolô đã xác quyết với chúng ta: "Do một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và do tội lỗi mà có sự chết, và thế là sự chết đã truyền đến cho mọi người, vì lẽ rằng mọi người đã phạm tội" (Rom 5:12). Tội nguyên tổ đã truyền lại cho cả dòng giống là tất cả chúng ta. Cũng chính bởi tội đã gieo mầm mống làm phát sinh biết bao tính mê nết xấu trong con người chúng ta. Đó là tất cả ác quả của tội nguyên tổ lưu truyền.
Để Mùa Chay Thánh của Giáo Hội mang lại lợi ích, chúng ta hãy lắng nghe và thực thi lời kêu gọi tha thiết của Thánh Tông Đồ: "Tôi là sứ giả của Đức Kitô, tôi năn nỉ nài xin anh chị em hãy trở lại làm hòa với Thiên Chúa" (2 Cor 5:20).
Thánh Phaolô còn xác quyết những lý do đòi chúng ta phải chay tịnh khi ngài viết: "Ai thuộc về Chúa Kitô, thì phải đóng đanh thân xác cùng với các tính mê nết xấu vào thập giá" (Gal 5:24). Ngài còn quả quyết mạnh mẽ hơn: "Nếu anh chị em sống theo xác thịt, anh chị em sẽ phải chết; nếu anh chị em biết dùng tinh thần mà cầm hãm xác thịt, anh chị em sẽ được muôn đời hằng sống" (Rom 8:13).
II. CHIẾN THẮNG MƯU CHƯỚC QUỈ DỮ
Adam Evà, nguyên tổ chúng ta đã sa ngã phạm tội vì nghe theo lời dụ dỗ đường mật của Satan, ăn trái cây trường sinh để được khôn ngoan thông biết như thần thánh, vì kiêu căng bất tuân lệnh Chúa, nên đã chuốc lấy án phạt đời đời cho chính mình và truyền lại cho toàn thể miêu duệ là tất cả chúng ta biết bao ác quả của tội lỗi.
Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta tấm gương vô cùng khiêm nhu của Chúa Cứu Thế, Ngài đã đến trần gian để tuân phục thánh ý Chúa Cha. Dầu là Thiên Chúa cao cả, quyền uy vô cùng, nhưng Ngài đã che giấu bản tính Thiên Chúa của Ngài và chịu ma quỉ cám dỗ, để nêu gương cho chúng ta biết can đảm chiến thắng mưu kế thần dữ, không phải cậy vào sức riêng chúng ta, nhưng nhờ bởi Đấng ban sức mạnh cho chúng ta.
Chúa Kitô đã bị ma quỉ cám dỗ về ba thứ tội căn bản và phổ thông nhất, mà ai trong chúng ta cũng dễ bị mắc phải, đó là lòng ham mê danh vọng, lợi lộc trần gian, lạc thú đê hèn:
1. Sau 40 ngày chay tịnh trong rừng vắng, Chúa cảm thấy đói, Satan thừa cơ lợi dụng cám dỗ Chúa về sự ham mê ăn uống, hắn đến nói với Chúa: "Nếu Ông là Con Thiên Chúa, hãy biến hòn đá này trở nên bánh mà ăn". Chúa đã đáp lại: "Người ta không chỉ sống bằng cơm bánh, nhưng còn bằng mọi lời bởi miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt 4:3-4).
Mê ăn uống, ham nhậu nhẹt say sưa, thèm muốn nhục dục đê hèn, khoái thú cờ bạc, xì ke, ma túy... Đó là những cám dỗ về thú vui vật chất trần gian. Không ai thoát khỏi những cám dỗ này, nó trường kỳ theo đuổi tấn công chúng ta mãi tới lúc chết, vì trong chúng ta sẵn có mầm mống những lăng loàn hư trụy này nơi bản thân con người.
2. Satan thấy mình bị thất bại, hắn lại bày mưu khác khi đem Chúa lên nóc Đền Thờ và nói với Ngài: "Nếu Ông là Con Thiên Chúa, Ông hãy gieo mình xuống đi, vì có lời Thánh Kinh chép rằng: Thiên Chúa sẽ sai Sứ Thần Người đến nâng đỡ để chân Ngài khỏi vấp phải đá". Chúa đáp: "Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi" (Mt 4:6-7). Là Thiên Chúa, Chúa toàn năng muốn làm gì cũng được, nhưng Chúa muốn nêu cho chúng ta tấm gương khiêm hạ không ham chuộng hư danh.
Ai trong chúng ta tự nhiên cũng ham thích hư danh, mong được tha nhân khen ngợi, ca tụng, tâng bốc... Cái bả danh vọng thường làm cho con người sinh kiêu căng tự cao tự đại, vươn mình lên cao và khinh dể người khác.
3. Dầu đã hai lần thất bại, Satan vẫn chưa buông tha, hắn đưa Chúa lên núi thật cao, chỉ cho Chúa xem thấy vinh hiển các nước trần gian và nói với Ngài: "Nếu Ông sấp mình lậy tôi, tôi sẽ tặng Ông tất cả". Chúa đã đáp lại: "Satan, hãy xéo đi! Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng sự duy một mình Ngài" (Mt 4:9-10).
Lợi lộc trần gian là một loại cám dỗ khá triền miên trong cả cuộc sống con người chúng ta. Ai trong chúng ta lại không tự nhiên cảm thấy lòng ham muốn được giầu sang, nhiều của cải, lắm ruộng đất... Đam mê này dẫn con người đến chỗ tôn thờ và làm nô lệ tiền của, coi tiền của như chủ tể, như cùng đích và tìm mọi cách để trục lợi, có khi còn dùng cả những phương tiện bất hảo để tước đoạt, để thu tích bao nhiêu có thể theo lòng tham vô đáy của mình.
III. PHƯƠNG THẾ CHIẾN THẮNG CÁM DỖ
Thánh Kinh đã viết: "Như lửa thử vàng, gian nan thử người công chính". Khi chúng ta bị cám dỗ chưa phải là tội, chỉ khi nào chúng ta đã hiểu biết đầy đủ mà còn chấp nhận và hành động theo chước cám dỗ mới thực là tội. Chiến thắng bằng cách không chiều theo chước cám dỗ để trung thành với Chúa, lại được công phúc đáng trọng thưởng. Vì thế, cám dỗ cần như phương thế, như cơ hội chứng minh lòng chúng ta có trung tín với Chúa hay không. Chúa để cám dỗ xảy đến có mục đích là để tôi luyện chúng ta nên tinh ròng trong sạch hơn; hơn nữa, cám dỗ còn là cơ hội giúp chúng ta lập thêm công phúc, nhất là Chúa còn dùng nó như phương tiện hữu hiệu giúp thánh hóa bản thân, biến đổi chúng ta dần dần nên giống Chúa Kitô hơn, miễn là chúng ta biết sẵn sàng đón nhận và lợi dụng như quà yêu Chúa ban tặng, can đảm chiến đấu tới thắng lợi cuối cùng, bằng lòng tin cậy tuyệt đối vào ơn Chúa trợ giúp.
Kết Luận
Bởi tội bất tuân phục của nguyên tổ, mà muôn người trở thành tội nhân; bởi đức tuân phục của Chúa Kitô, mà muôn người được nên công chính.
Xin Chúa cho chúng con được thấm nhuần tinh thần tuân phục thánh thiện của Chúa Kitô, để chúng con biết chay tịnh và trị dẹp bản năng thú tính lăng loàn nơi con người chúng con. Xin cho chúng con biết can đảm kềm chế những dục vọng xấu xa, những khuynh chiều bất chính, nhất là cho chúng con biết can đảm triệt hạ những mầm mống tội lỗi trong bản thân hư hèn của chúng con.
Cậy nhờ sức mạnh của tinh thần và những lời giáo huấn, cũng như những gương lành Chúa đã thực hiện và ơn thánh Chúa ban trợ giúp, chớ gì chúng con biết lợi sự chay tịnh trong Mùa Chay Thánh này, để chúng con toàn thắng mưu chước thần dữ Satan hỏa ngục, lập công phúc và thánh hóa bản thân, cứu độ tha nhân như Chúa và Giáo Hội đang mong muốn.
Mùa Chay đã bắt đầu được bốn hôm, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng còn nhớ mình đã làm gì trong thánh lễ khai mạc Mùa Chay hôm thứ Tư vừa rồi. Việc bỏ tro trên đầu chẳng qua chỉ là hình thức bên ngoài để gợi nhớ về nguồn gốc hèn hạ của mình. Sứ điệp bên trong của việc xức tro mà Giáo Hội muốn nhắn gửi tới từng người mới là điều quan trọng. Sứ điệp đó không gì khác hơn là "Hãy ăn năn thống hối và đón nhận Tin Mừng."
Thật vậy, nếu chỉ ăn năn thống hối mà không đón nhận và sống Tin Mừng thì tinh thần Mùa Chay chỉ mới thực hiện được có một nửa mà thôi, và rồi lòng thống hối ăn năn đó cũng chẳng bền vững được lâu. Nói cách khác, nếu không được Tin Mừng hậu thuẫn thì những dốc quyết của chúng ta sẽ gãy đổ nửa chừng, hoặc nếu may mắn lắm thì cầm cự cho đến hết Mùa Chay để rồi sau đó lại trở về như cũ. Kinh nghiệm cho thấy hầu như không Mùa Chay nào qua đi mà chúng ta lại không đấm ngực ăn năn vì đã để cho những dốc quyết của mình bị sứt mẻ cách này cách khác. Vì Mùa Chay là mùa chúng ta phải chịu nhiều cám dỗ nhất, đặc biệt là trong hai ngày ăn chay và các thứ Sáu hằng tuần.
Chính Chúa Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay cũng chẳng ngoại lệ. Sau khi ăn chay bốn mươi đêm ngày để chuẩn bị cho việc rao giảng, Ngài bị ma quỉ tấn công tới tấp. Để đánh đuổi và lướt thắng những cám dỗ của Satan, Chúa Giêsu đã dùng đến Thánh Kinh để hậu thuẫn cho lý lẽ của Ngài. Chính vì vậy mà bên cạnh lời mời gọi các tín hữu thống hối ăn năn, Giáo Hội còn khuyến khích chúng ta đón nhận Tin Mừng. Vì chỉ có Tin Mừng mới là vũ khí giúp chúng ta đủ sức chống trả với cám dỗ của Satan và là năng lực để tiếp tục tẩy trừ những nết xấu sau khi Mùa Chay chấm dứt. Tin Mừng còn là kim chỉ nam giúp ta nhận định đâu là việc phải làm và đâu là điều phải tránh.
Mùa Chay là mùa làm phúc bố thí, là mùa giúp nhau khôi phục lại hình ảnh Thiên Chúa trong con người, đặc biệt là đối với những anh chị em hèn mọn và kém may mắn. Mặc dầu sống trong một môi trường khác biệt với xã hội thời Chúa Giêsu, lời mời gọi của Mùa Chay năm nay sẽ dẫn chúng ta vào hoang địa của thời đại để chịu những cám dỗ mà Chúa Giêsu đã chịu 2000 năm trước. Ngày xưa Satan cám dỗ Chúa Giêsu dùng quyền năng để truyền cho đá trở thành bánh như thế nào, thì ngày nay nó cũng dụ khị con người của thời đại dùng bạo lực và quyền hành để biến những trẻ nhỏ thành những tấm bánh lợi lộc cho riêng mình, qua việc lạm dụng sức lao động và phái tính của trẻ em như vậy. Ngày nay Satan không dại gì mà xuất hiện với cái "ba chia" trên tay và cái đuôi nhọn hoắc để quyến rũ người ta thờ lạy nó nữa, nhưng lại ẩn hiện trong lòng tham của con người đối với tiền bạc, và trong việc lạm dụng xương máu của giới bần cùng trong xã hội, để củng cố địa vị và tìm cầu vinh quang cho riêng mình. Thay vì xúi người ta gieo mình xuống vực thẳm để thử quyền phép Chúa, thì Satan lại xúi giục con người ngày nay chạy đua với quyền phép Thiên Chúa qua việc ủng hộ phá thai và tìm cách sản sinh người nhân tạo - còn gọi là "human cloning"...
Nhờ lời cầu bầu của Mẹ Maria, ước gì cuộc hành trình Mùa Chay năm nay của mỗi người chúng ta luôn được nâng đỡ bởi lời cầu nguyện sốt sắng, bởi lòng thống hối thật sự và bởi việc chú tâm giúp đỡ những anh chị em hèn mọn, vì khi ra tay giúp đỡ họ chính là lúc chúng ta chung tay xây đắp tương lai của nhân loại, của Giáo Hội, của cộng đoàn, và của chính mỗi người chúng ta vậy. (Lm. Tuấn-Bình, CMC )
Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi… (Mt 4,1-11)
“Bụng đói thì đầu gối phải bò”. Đó là câu mà các cụ ngày xưa thường nói để ám chỉ khi đói thì có thể làm bất cứ những gì, mặc dầu có thể là việc đê tiện, hèn hạ, phản bội nhau chăng nữa để có miếng ăn. Chắc hẳn việc đói này không lạ gì với những người đã vượt biên, những người đã từng trải qua nhiều năm trong trại cải tạo. Có một linh mục sau nhiều năm tù cải tạo, khi sang Mỹ ngài được hỏi: ”Trong tù cái gì làm cha khổ nhất”? Ngài trả lời: ”Đói. Đói lắm!”
Khi đói quá, thân thể trở nên bạc nhược, tâm trí không còn sáng suốt. Ngay cả trong việc đạo, chúng ta cũng thường nghe nói: ”Có thực mới vực được đạo”. Nếu không tổ chức những bữa ăn thì khó mà lôi cuốn được nhiều người tham gia những công tác chung. Chính vì điểm này mà sau khi Chúa Giêsu đã nhịn ăn bốn mươi đêm ngày, nên ma quỷ biết được điểm yếu của thân xác mà cám dỗ Chúa biến hòn đá trở nên bánh mà ăn.
Trong đời chúng ta, không nhiều thì ít, chúng ta cũng có những lần bị đói khát phần xác. Nhưng có thể nhiều lần chúng ta đã quên đi cái đói của linh hồn. Thân xác cần bổ dưỡng bao nhiêu thì linh hồn cũng cần bổ dưỡng bấy nhiêu. Nếu linh hồn không được no đủ thì cũng trở nên bạc nhược, tiều tụy, không còn sức mạnh để hướng dẫn thân xác. Khi linh hồn đói khát thì trở nên mù quáng, không phân biệt được thật, giả. Chúa Giêsu đã trả lời cho ma quỷ: ”Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”.
Ma quỷ khôn lanh đã dùng chiêu bài khác để cám dỗ Chúa là sự vinh quang của thế gian. Tiền của làm hoa mắt con người. Có tiền mua tiên cũng được. Bá chủ một quốc gia giầu có thì sung sướng biết bao! Cái bả vinh hoa phú quý đã làm nhiều người xa Chúa. Vì mải mê làm tiền nên không còn giờ cho cho gia đình, cho con, và cho Chúa nữa. Càng làm ra tiền thì lại càng muốn có nhiều tiền hơn, vì người giầu thì tham việc. Vì thiếu tiền trong cuộc sống mà nhiều người đã và đang là những nạn nhân của những con buôn tình dục và những việc bất chính khác. Tiền của, danh vọng đã trở nên thần tượng không thể thiếu, nên người ta cố gắng mọi cách chạy theo, và như thế tiền của trở nên Chúa tể, con người trở thành nô lệ.
Người ta thường thay đổi cuộc sống tùy theo hoàn cảnh giầu hay nghèo. Có nhiều người khi đồng tiền không được dư giả thì cuộc sống trong gia đình êm ấm, sống đạo tốt lành; đến khi khá giả thì cuộc sống thay đổi hẳn, gia đình không còn đằm thắm nữa! Khi lắm tiền, chồng thì mải mê trong những cuộc vui, đủ đen, không còn giờ cho gia đình, cho Chúa; vợ thì lo mua sắm chưng diện, sửa sang thân hình cho cân đối hơn; con cái thì du hí với bạn bè, không thèm tham gia các đoàn thể nữa.
Tóm lại, qua bài Phúc âm hôm nay Chúa muốn chúng ta coi chừng 3 kẻ thù đang tìm cách tấn công ta từng giờ từng phút, đó là: xác thịt, ma quỷ và thế gian. Đó là những kẻ thù nguy hiểm nhất và gần ta nhất, vì nó ở trong ta, là Xác Thịt hay chính con người của mình. Xin đừng quá tự tin là mình sẽ kìm hãm được những đòi hỏi của xác thịt, hay sẽ chống trả được những cám dỗ. Chúng ta phải luôn cầu nguyện và cố gắng tránh xa các dịp cám dỗ. Mùa chay là mùa mỗi người nên dừng lại để xét mình, kiểm điểm lại cuộc sống. Chúa Giêsu chịu khổ hình và chịu chết vì tội lỗi của ai? Nếu Chúa chịu khổ hình và chịu chết cho tôi thì tôi phải làm gì để đền đáp lại ơn cứu chuộc này. Ăn chay, hãm mình và cầu nguyện là những việc cần thiết để thánh hoá cuộc sống của mỗi người.
Lạy Chúa, hằng ngày con mải mê tìm kiếm của nuôi phần xác mà chểnh mảng tìm kiếm của ăn phần hồn. Xin cho con biết dùng Mùa Chay này bằng việc lắng nghe Lời Chúa, và chú tâm vào việc phụng thờ Chúa là Thiên Chúa duy nhất mà thôi.
Mở đầu cuốn Thánh Kinh là chuyện Chúa dựng nên trời đất và loài người. Chuyện kể như sau:
Từ ban đầu, Thiên Chúa dựng nên trời đất. Đất chưa thành hình và tối tăm bao phủ vực thẳm. Chúa phân ánh sáng ra khỏi tối tăm và đặt phần sáng là ngày và tối là đêm. Chúa lại dựng nên bầu trời, nên đất biển, dựng nên hạt giống, chim chóc, súc vật, thú rừng, côn trùng, dựng nên loài người giống hình ảnh Chúa. Ngài cho họ ăn mọi thứ cây trừ ra cây trái cấm thì Chúa cấm. Người đàn bà thấy cây đó tốt lành, vui mắt liền bẻ một trái mà ăn và trao cho chồng ăn nữa. Tức thì mắt cả hai người đều mở ra và nhận thấy mình trần truồng, nên lấy lá kết lại mà che thân.
Chúa gọi. Adam, Ađam ngươi ở đâu? Ađam và vợ ẩn trong bụi cây khuất mặt Chúa. Chúa liền gọi Ađam, Ông nghe tiếng Chúạ liền thưa: Người đàn bà Chúa cho tôi làm bạn đã cho tôi ăn, nên tôi trần truồng không dám ra trước mặt Chúa. Chúa hỏi người đàn bà: Sao ngươi làm thế?
Bà thưa con rắn đã dụ tôi ăn. Chúa phán với con rắn: Bởi vì mi đã dụ dỗ, nên mi bị chúc dữ giữa các loài súc vật. Mi phải bò bằng bụng và ăn bùn đất suốt đời mi. Ta sẽ khiến mi và người nữ hiềm nhau, cả dòng dõi mi và dòng dõi người nữ. Ngươi sẽ bị người nữ đạp dập đầu mi, còn mi thì rình cắn gót chân người. Ngài lại phán: Còn người đàn bà sẽ phải gia tăng đau khổ. Sẽ phải sinh con trong đau khổ, phải phục tòng chồng và chồng sẽ làm chủ ngươi suốt đời. Cả hai sẽ phải đuổi ra khỏi vườn địa đàng, phải đổ mồ hôi nước mắt mới có của mà ăn. Ngươi sẽ trở về với bụi đất. Bởi đó mà sinh ra tội trên thế gian này.
Cũng có chuyện:
Vào thế kỷ thứ 4, thánh Gioan Chrysostômô bị vua Arêadiô bắt đi đầy vì tội ngài không chịu cúng tế các thần Lamã. Cả triều đình hiến kế: cho ngài chịu các hình phạt:
- Giam nó vào sa mạc nóng cháy. - Giam y vào ngục tối. - Chém đầu hắn cho chết chóng vánh. Nhưng họ lại lý luận: - Đầy ải tên cứng đầu chỉ vô ích vì nó vui chịu vì Chúa nó. - Đầy vào sa mạc thì hắn xa loài người nhưng hắn không xa Thiên Chúa của hắn. - Giết hắn thì hắn lại về với Chúa của hắn sớm. Chỉ còn có một cách duy nhất là trị tội hắn, làm cho hắn phạm tội, một hình phạt đau đớn nhất vì hắn sợ tội.
Giáo Hội dùng 3 bài đọc cho Chúa Nhật mùa chay hôm nay để chúng ta thấy rõ cái thâm độc của tội và cám dỗ phạm tội.
Bài sách Sáng Thế đoạn (2:7-9) vạch ra cho chúng ta thấy kế hoạch của ma qủy. Cám dỗ được là hậu quả của tội đến liền. Cám dỗ như đường mật nhử ruồi. “Ôi nàng tiên hiền hậu của Adam dấu ái ơi. Ăn một trái đó có chết gì đâu. Thiên Chúa biết rằng: ngày nào nàng tiên nâng tay hái trái đó mà ăn thì sẽ như một bùa phép, nàng sẽ mở mắt ra, thấy mình khôn ngoan sáng láng như Thiên Chúa, biết lành biết dữ, biết hết nọi sự như Ngài, nên Ngài cấm đó thôi”.
Ôi khốn nạn chừng nào! Lời đường mật làm cho cả một thế giới tối tăm sụp xuống con người, khiến con người khờ dại mất hết cả trí khôn sáng suốt, mất khôn dồn ra dại. Con người hóa ra nặng nề, yếu đuối, vất vả, khổ sở, chết chóc.Thánh Phao lô nói: ”Tội và hậu quả của tôị đã cai trị trần gian, nó bám sát con người không rời ra nữa.” (Rom.5:12). Tội là một hành động có ý thức của con người chống lại với lệnh truyền tốt lành của Chúa.
Tội có chủ quyền trên con người không?
Dù tội đã du nhập thế gian nhưng không có quyền gì trên con người. Con người có quyền tự do lựa chọn, khước từ. Tội chỉ thành hình sau khi ý thức hệ con người muốn.
Cái gì đưa đến muốn?
Thưa chước cám dỗ. Thánh Phaolô đã quả quyết: ”Chính Chúa Kitô xuống trần gian, là con người như mọi người ngoại trừ tội lỗi”. Ma quỷ đã cám dỗ Ngài 3 lần nhưng vô ích. Tội không vào được Ngài vì Ngài không muốn, Ngài khước từ quyết liệt từ phút đầu. Chước mốc cám dỗ đến chưa phải là tội. Hành động đem đến cho ta một niềm tin: Tin rằng mình không muốn phạm tội. Tin rằng mình chiến thắng cám dỗ. Tin rằng mình không có tội. Tin rằng mình được Chúa giúp cho chiến thắng.
Vì Chúa Kitô xuống thế để cứu chúng ta khỏi tội. Ngài đã lập công để con người được ơn thánh. Ngài bó tay nếu thiếu sự cộng tác với ơn Chúa.
Chính mình dễ phạm tội là do yếu đuối, do mình từ chối cộng tác với ơn Chúa, thất bại vì coi thường cám dỗ. Cám dỗ là kế hoạch khiêu khích ta phạm tội. Ta phải tỉnh thức và cầu nguyện để được sự trợ giúp của Chúa. Xa tránh cám dỗ là kế phản công mạnh.
Mùa Chay thực sự đến với ta. Hãy thức sự thức tỉnh con tim tìm về với Chúa. Hãy đánh động lương tâm đã một thời xa Chúa. Hãy trở về, hỡi con người. Ơn cứu độ đang chờ lòng chúng ta thống hối. (20.2.2005).
Chúng ta đã bước vào mùa chay, mùa sám hối. Sám hối là quay về nếu như mình đã đi lạc. Thực ra, ngay từ đầu, nguyên tổ loài người đã đi lạc do đã chọn lựa sai: chọn ý riêng thay vì ý Chúa. Rất may là Đức Giêsu, Ađam mới, đã sửa lại cái sai đó: trong những cơn cám dỗ khi bắt đầu sứ vụ của Ngài, Ngài đã nhất quyết chọn làm theo ý Thiên Chúa.
Cuộc đời chúng ta cũng dệt bằng một chuỗi những chọn lựa. Hôm nay chúng ta hãy suy gẫm về sự chọn lựa của nguyên tổ và của Đức Giêsu. Chúng ta xin Chúa soi sáng và trợ lực để khi đứng trước những cám dỗ thường xuyên trong đời, chúng ta luôn biết chọn lựa như Đức Giêsu.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
+Chúng ta là con cái Thiên Chúa vì chúng ta được dựng nên giống hình ảnh Ngài. Lẽ ra chúng ta phải luôn sống trước nhan Ngài và vâng phục thánh ý Ngài. Nhưng chúng ta lại thường làm ngược ý Ngài và sống như không có Ngài.
+Chúng ta là em của Đức Kitô. Lẽ ra chúng ta phải luôn ghi nhớ và làm theo Lời Ngài. Nhưng chúng ta thường quên Lời Ngài, nhất là khi đứng trước những cơn cám dỗ.
+Chúng ta có ý thức về thân phận tội lỗi của mình và quyết tâm chiến đấu với khuynh hướng ích kỷ, tham lam, kiêu ngạo, ươn lười của mình không?
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc Cựu Ước (St 2,7-9 3,1-17)
Đây không phải là một bài tả chân đúng y sự việc đã diễn ra, mà là một vở tuồng mà trong đó tác giả sử dụng nhiều hình ảnh tượng trưng để chuyển đạt những ý tưởng giáo lý về tình thương của Thiên Chúa, về cám dỗ, về quyền tự do chọn lựa của con người và hậu quả của sự chọn lựa ấy. Ta có thể coi bài tường thuật này như là một vở bi kịch, vở bi kịch đầu tiên trong lịch sử loài người.
Vở bi kịch gồm 3 màn:
+Màn 1 là tình thương của Thiên Chúa: Ngài đã dựng nên loài người từ hai yếu tố là vật chất ("bụi đất") và thần linh ("hơi thở" của Ngài). Ngài lại còn ban cho con người một cuộc sống hạnh phúc ("vườn Êđen").
+ Màn 2 là cám dỗ: Satan ("con rắn") khéo léo lái con người sang một hướng lệch lạc: không nhớ đến tình thương Thiên Chúa mà chỉ nghĩ đến sự cấm đoán của Ngài; không thấy những ân huệ của Ngài mà lại nghĩ rằng Ngài ganh tị sợ con người bằng Ngài; thay vì vâng lời Thiên Chúa thì lại làm theo ý riêng để tự mình "biết lành biết dữ". Cám dỗ đã len vào con người qua các giác quan (mắt nhìn, miệng thèm, đưa tay hái).
+ Con người được đặt trước một sự chọn lựa căn bản: hoặc làm con Thiên Chúa và vâng theo ý Ngài, hoặc "muốn bằng Thiên Chúa" nên theo ý riêng mình.
+ Tiếc thay, nguyên tổ loài người đã chọn sai, gây hậu quả tai hại cho cả loài người.
2. Đáp ca: Tv 50
Thánh vịnh 50 là tiếng kêu van thống thiết của loài người con cháu nguyên tổ: ý thức thân phận tội lỗi của mình nhưng vẫn trông cậy vào tình thương xót thứ tha của Thiên Chúa.
3. Bài Tin Mừng (Mt 4,1-11)
Cũng là một vở kịch với những hình ảnh tượng trưng ("sa mạc" khô cằn đối lập với "vườn Êđen" xanh tươi, những hòn đá, mỏm núi cao, tháp đền thờ). Vở kịch này tương phản với vở đầu tiên và đi đến một kết thúc tốt đẹp.
+Sau tội nguyên tổ, thân phận loài người đổi thay hẳn: không sống trong vườn Êđen tươi mát mà phải sống trong sa mạc khô cằn.
+Cám dỗ vẫn đeo bám Đức Giêsu để xúi Ngài chọn sai: a/ chuộng những thứ vật chất thỏa mãn cho nhu cầu cuộc sống thân xác (bánh) mà bỏ quên lương thực nuôi dưỡng cuộc sống thần linh (Lời Chúa); đối với Thiên Chúa thì không chú ý vâng theo ý Ngài mà lại bắt Ngài phải chìu ý mình; b/ không thờ phụng một mình Thiên Chúa nhưng lại tôn thờ những vinh hoa lợi lộc của thế gian.
+ Đức Giêsu là Ađam mới đã cương quyết chọn vâng phục Thiên Chúa nên đã chiến thắng tất cả các cơn cám dỗ ấy.
4. Bài thánh thư (Rm 5,12.17-19)
Thánh Phaolô đã nhìn lại hai vở kịch ấy và rút ra kết luận: Đức Giêsu là Ađam mới mang lại một tương lai mới cho loài người: "Chỉ vì một người không vâng lời Thiên Chúa mà muôn người bị liệt vào hạng tội nhân, thì nhờ một người đã vâng lời Thiên Chúa mà muôn người cũng sẽ được kể là công chính". Kết luận này khuyến cáo hãy coi chừng nguy hiểm lớn nhất là sự không vâng phục, đồng thời kêu gọi một người học theo gương Đức Giêsu luôn vâng phục thánh ý Thiên Chúa.
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Chọn lựa
Một tục lệ: ngày thôi nôi của một đứa bé, người ta quen đặt trước mặt nó nhiều món đồ (thí dụ một cây viết, một cái cày nhỏ, một cây súng v.v.). Người ta hồi hộp xem nó chọn món nào và từ đó suy đoán về tương lai của nó (chọn cây viết: sẽ là nhà trí thức; chọn cái cày: sẽ làm ruộng; chọn cây súng: sẽ đi lính). Tuy hơi dị đoan, nhưng tục lệ này nói lên hai ý tưởng khá sâu sắc:
a/ con người luôn phải lựa chọn;
b/ đã quen chọn thế nào thì sẽ tiếp tục chọn thế ấy. Người ta nói "cuộc sống là một chuỗi của lựa chọn". Quen chọn đúng thì sống tốt, quen chọn sai thì sống xấu.
2. Nhìn thẳng vào thực tại cám dỗ
+ Chúng ta đừng nuôi ảo tưởng về một thế giới mà mọi sự đều tốt lành. Thân phận con người là sống giữa thế gian mà trong đó thiện ác, lành dữ lẫn lộn.
+Chính vì thế, khi Con Thiên Chúa xuống thế làm người, chính Chúa Thánh Thần đã dẫn Người vào sa mạc để đối diện với các cơn cám dỗ.
+Người ta sống tốt không phải bằng cách che mắt giấu mặt để khỏi nhìn thấy điều xấu, mà trái lại bằng cách nhìn thẳng vào điều xấu và chiến đấu để chiến thắng nó.
+Trong Mùa Chay, mỗi người hãy nhìn thẳng vào nội tâm mình. Không phải chỉ nhìn những mặt tốt, mà nhất là phải nhìn thẳng vào những mặt xấu, những thứ "tham, sân, si" đang âm thầm nhưng mãnh liệt khống chế mình.
+ Và hãy nhìn vào cuộc chiến đấu của Đức Giêsu. Người đã thắng nhờ đâu? Nhờ làm theo Lời Thiên Chúa và thực hiện thánh ý Thiên Chúa.
3. Tái lập bậc thang các giá trị
+"Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh...": Qua lời này, Chúa không bảo chúng ta đừng tìm cơm bánh, nhưng Ngài nhắc chúng ta đừng chỉ tìm cơm bánh.
+ Bị quay cuồng trong cuộc sống vật chất, con người dễ bị cuốn hút theo vật chất: từ tình trạng quân bình dành mối quan tâm đồng đều cho những nhu cầu tinh thần và vật chất, chúng ta dần dần bị cám dỗ xén bớt phần tinh thần để vun đắp thêm cho phần vật chất, và cuối cùng chỉ còn có vật chất và vật chất.
+Mùa chay là khoảng thời gian thích hợp cho chúng ta lùi lại để có một khoảng cách sáng suốt mà nhận định lại các bậc thang giá trị đời mình, theo tiêu chuẩn mà Đức Giêsu đưa ra: "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh mà còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra".
+ Những việc làm được Giáo Hội khuyến khích trong Mùa Chay cũng nhằm giúp chúng ta tái lập lại các bậc thang giá trị: tự ý giảm bớt ăn uống, làm chủ những khuynh hướng của mình, quan tâm tìm hiểu ý Chúa và lắng nghe Lời Chúa hơn v.v.
4. Ý muốn hướng dẫn hành động
+Ý muốn là động cơ và là sức mạnh. Bởi đó người ta nói "Ý lực". Không có những hành động ngẫu nhiên vô tình. Mọi hành động đều đi theo sau một ý muốn dẫn dắt.
+ Muốn điều đúng và tốt thì sẽ hành động đúng và cuộc đời sẽ tốt.
+ Nhưng ý muốn riêng không hẳn là luôn luôn đúng và tốt. Bởi thế con cái còn khờ dại thì nên làm theo ý muốn của cha mẹ, học trò còn non kém thì tốt nhất nên theo ý hướng dẫn của thầy cô. Trong những trường hợp này, vâng lời trở thành con đường khôn ngoan nhất và tốt đẹp nhất.
+ Ađam Evà đã theo ý của ma quỷ và theo ý riêng dẫn đến kết quả bi thảm cho cả loài người. Ngược lại Đức Giêsu dù là Con Thiên Chúa nhưng đã quyết luôn làm theo ý muốn của Chúa Cha và đã cứu chuộc loài người: "Chỉ vì một người không vâng lời Thiên Chúa mà muôn người bị liệt vào hạng tội nhân, thì nhờ một người đã vâng lời Thiên Chúa mà muôn người cũng sẽ được kể là công chính".
5. Cám dỗ của Đức Giêsu và của chúng ta
Một cuốn phim đã làm xôn xao dư luận một thời (khoảng năm 1989) là phim "Cơn cám dỗ cuối cùng của Đức Kitô" (The Last Temptation of Christ), phỏng theo quyển tiểu thuyết cùng tên của nhà văn hy lạp Nikos Kazantzakis. Cuốn phim và quyển tiểu thuyết mô tả lúc Đức Giêsu bị treo trên thập giá. Ngài đã ngất đi và thấy mình rời bỏ thập giá để trở lại cuộc sống bình thường. Ngài đi tìm lại nàng Mađalêna, cưới nàng làm vợ. Sau đó Ngài lại tìm đến với hai chị em Matta và Maria và cũng cưới luôn hai người này. Ngài có rất nhiều con và sống rất hạnh phúc.
Báo chí và các đài phát thanh đưa tin rằng khi cuốn phim được trình chiếu lần đầu, những người có đạo đã đập phá rạp chiếu bóng tan tành, đến nỗi lần chiếu sau phải chiếu ở một rạp đặc biệt được cô lập bởi chung quanh toàn là nước để khỏi bị đập phá lần nữa.
Thực ra cốt chuyện cũng chẳng có gì xúc phạm cho lắm. Tuy tác giả có nói Đức Giêsu rời khỏi thập giá và cưới 3 người vợ, có nhiều con, nhưng đó chỉ là một cơn cám dỗ của Ngài mà thôi. Cuối cùng Ngài đã lắc đầu không theo cơn cám dỗ đó. Sau đó Ngài tỉnh lại vẫn thấy mình đang bị treo trên thập giá, và Ngài hô lớn một tiếng kêu chiến thắng "Thế là đã hoàn tất", rồi Ngài tắt thở, hoàn tất đời mình trong tâm tình luôn trung thành với Chúa Cha.
Trong đoạn mở đầu quyển tiểu thuyết của mình, Nikos Kazantzakis đã trình bày rõ ý hướng của ông: Ông tin Đức Giêsu vừa là Chúa vừa là người. Và ông muốn nhìn Ngài dưới khía cạnh làm người, vì thế ông đã tưởng tượng những cơn cám dỗ và những cuộc chiến đấu vô cùng cam go mà con người Giêsu đã phải đương đầu và đã anh dũng chiến đấu như thế nào. Mục đích là để càng thấy rõ hơn Đức Giêsu chính là mẫu mực cho con người chúng ta, để chúng ta cảm phục Ngài hơn và để khuyến khích chúng ta can đảm hơn trong khi chiến đấu với những cơn cám dỗ của chính chúng ta. Tác giả đã thổ lộ: "Trong khi viết, tôi đã cảm động đến phát khóc. Tôi chưa bao giờ cảm thấy máu của Chúa rơi từng giọt vào tim tôi với sự ngọt ngào như vậy, với nỗi đớn đau như vậy".
6. Chuyện minh họa
Có 3 người mục tử, mỗi người coi sóc một đàn chiên. Một đêm mùa đông vừa gió vừa mưa. Khi 3 người đang ngủ thì nghe có tiếng chó sói.
+ Người thứ nhất tung chăn thức dậy định ra ngoài xem xét tình hình. Nhưng nghe tiếng mưa rơi gió rít, anh ngại ngùng và trở vào giường ngủ tiếp.
+ Người thứ hai cũng thức dậy, mặc thêm quần áo mở cửa đi ra. Nhưng một đợt nước mưa quất ngay vào mặt anh làm anh bỏ ngay ý định ra ngoài. Anh cũng trở vào giường nằm xuống, kéo chăn đắp kín và ngủ tiếp.
+ Người thứ ba cũng thức dậy, cũng mặc quần áo, và cũng ra ngoài. Dù gió lạnh, dù mưa ướt, anh vẫn cố chịu đựng, đi đến tận chỗ đàn chiên của anh để xem. Khi đã thấy chiên mình an toàn, anh mới trở vào nhà ngủ tiếp.
Trong 3 người đó, ai là người hiểu biết rõ nhất về sự khắt nghiệt của gió và mưa? Dĩ nhiên là người thứ ba.
Cũng thế, người hiểu rõ nhất về cám dỗ là người đã chiến đấu và chiến thắng nó.
Vì vậy, nếu ta muốn học cách đương đầu với cám dỗ, đừng học với những kẻ tội lỗi, mà hãy học với những vị thánh.
Như trong các bài đọc hôm nay, chúng ta đừng học với dân Israel trong thời xuất hành ở sa mạc, mà hãy học với Đức Giêsu.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến
Mùa Chay là thời gian thuận tiện để người kitô hữu sám hối tội lỗi và quay trở về với Chúa, vì Chúa không muốn cho người có tội phải chết, nhưng muốn họ sám hối ăn năn để được sống. Với quyết tâm xa lánh tội lỗi và đổi mới đời sống, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin.
1. Ngày xưa / Chúa đã sai ngôn sứ Giona đến kêu gọi dân Ninivê ăn năn hối cải / Ngày nay Chúa cũng bảo Hội Thánh khuyên nhủ các kitô hữu sám hối lỗi lầm / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết sống trọn vẹn tinh thần khắc khổ của Mùa Chay / để đền tội và tôi luyện xác hồn.
2. Miếng ăn / danh vọng / địa vị / tiền bạc / thú vui / nhiều khi làm đảo điên lòng người / băng hoại xã hội / xói mòn niềm tin / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người / đặc biệt là giới trẻ chưa có kinh nghiệm sống / biết khôn ngoan tránh xa những cám dỗ bất chính / những cạm bẫy tinh vi đầy dẫy trong cuộc sống thường ngày.
3. Dù đã có nhiều cuộc tranh đấu cho sự bình đẳng giữa người nam và người nữ / nhưng trong thực tế / ở nhiều nơi trên thế giới này nay / người phụ nữ vẫn bị coi thường / nhân phẩm bị chà đạp / thân xác bị xem như một món hàng kinh doanh / thậm chí bị đày đọa / bị đối xử thô bạo ngay trong gia đình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai có trách nhiệm / biết luôn tìm cách giúp người phụ nữ sống xứng với nhân phẩm của mình.
4. Chúa Giêsu nói / "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh / nhưng nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra" / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng sống theo lời Chúa dạy trong Tin Mừng / nhờ đó mà trở nên những công dân gương mẫu.
CT: Lạy Chúa, xin cho chúng con thấm nhuần lời Chúa dạy, để chúng con biết chế ngự những đam mê và dục vọng trần thế, nhờ đó mùa chay thánh này đem lại nhiều lội ích cho chúng con. Chúng con cầu xin...
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha: Hôm nay khi đọc Kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đặc biệt chú ý đến lời xin cuối cùng: "Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ".
- Sau kinh Lạy Cha: Chủ tế đổi giọng khi đọc đến câu "Xin đừng chấp tội lỗi chúng con, nhưng xin nhìn đến đức tin của Hội Thánh Chúa; xin đoái thương ban cho Hội Thánh được bình an và hiệp nhất theo thánh ý Chúa"
VII. GIẢI TÁN
Anh chị em sắp trở lại nhịp sống bình thường, với bao cám dỗ và bao điều phải chọn lựa. Cầu chúc anh em sẽ biết chọn ý Chúa theo gương Đức Giêsu. Anh chị em hãy ra về bình an.
Có một tù nhân bị giam trên một tháp cao đến nỗi không ai có thể trèo xuống được. Thế mà anh ta vẫn vượt ngục an toàn bằng cách mỗi ngày anh ta nhổ hai sợi tóc xe lại với nhau. Và sau một thời gian khá lâu anh ta đã làm được một sợi dây bằng tóc dài, rồi qua cửa sổ anh ta thả sợi dây tóc đó xuống tới mặt đất và một người bạn đợi sẵn ở dưới liền buộc một sợ chỉ vào sợi tóc, cuối sợi chỉ lại buộc một sợi ni-long, cuối sợi ni-lông lại buộc một sợi dây thừng nhỏ, cuối sợi dây thừng nhỏ lại buộc một sợi dây thừng lớn. Thế là người tù dùng sợi dây thừng lớn này để vượt ngục thành công.
Câu chuyện này muốn trình bày cho chúng ta biết đường lối và sách lược của ma quỉ cám dỗ bản tính yếu đuối của con người cũng tương tự như cách vượt ngục của tên tù.
Chúng ta đều biết rằng đã là người thì ai cũng mang sẵn trong mình những đam mê dục vọng xấu xa, những hư hèn tội lỗi, nhưng đồng thời chúng ta cũng có một trí khôn, một lương tâm để phân biệt phải trái, xấu tốt, ngoài ra còn có những luân thường đạo lý soi sáng hướng dẫn để giúp ta chọn lựa cho tốt, cho đúng. Nhờ những phương thế trợ lực ‘nhân chi sơ tính bản thiện’ mà chúng ta đã có thể giam tù những đam mê dục vọng nổi loạn của con người, nhưng ma quỉ đã giúp chúng đủ mọi cách để vượt ngục từ từ.
Hơn nữa ma quỉ ít khi cám dỗ ta phạm tội trọng ngay từ đầu vì làm như thế sẽ ít thành công, nhưng chúng cám dỗ ta phạm tội nhẹ dần dần quen thói rồi mới xúi dục con người phạm tội nặng. Chúng hành động thế nào để cơn cám dỗ này tiếp đến cơn cám dỗ khác, cứ tiếp tục mãi cho đến khi con người hoàn toàn theo chúng để phạm tội nặng.
Chúa Giêsu cũng đã bị cám dỗ như thế: chúng không cám dỗ Chúa quì xuống thờ Satan ngay, nhưng chúng dẫn từ sự mê ăn uống, thích được ca tụng rồi mới đến chỗ phản bội Chúa Cha. Do đó ma quỉ không bao giờ cám dỗ ta nói dối cách trầm trọng nếu trước đó chưa tập cho ta dối trá những điều nhỏ mọn, chúng không bảo ta ăn cắp một món đồ lớn ngay nếu chúng chưa đưa ta vào thói ăn cắp vặt, chúng không xúi ta đánh nhau, giết nhau, thù nhau, nếu trước đó chưa chuẩn bị cho ta quen thói nóng nảy, hung hăng, tự tôn tự mãn.
Vậy đứng trước sách lược và sự tấn công của ma quỉ ta phải đối phó như thế nào? Để việc đối phó được hữu hiệu và thành công thì điều trước tiên chúng ta phải thâm tín rằng: là người ai cũng bị cám dỗ, khi chưa ưng theo thì sự cám dỗ chưa thành tội, càng bị cám dỗ là dấu hiệu được Chúa yêu. Tuy nhiên để thắng vượt cơn cám dỗ và không phạm tội mất lòng Chúa, ta bắt chước Chúa thực hiện ba điều sau đây:
1-Phải cầu nguyện luôn: vì cơn cám dỗ bao giờ cũng phát xuất cõi lòng rồi mới đưa đến hành động bên ngoài. Kẻ đỡ đầu cho những xúi dục thầm kín là ma quỉ nên với sức ta khó đứng vững khi chống trả. Do đó ta phải cậy nhờ vào ơn Chúa giúp vì chỉ có Ngài mới ban thêm sức mạnh thần linh cho ta để ta đủ sức chiến đấu với ma quỉ. 2-Phải có quyết tâm: nếu cám dỗ bắt đầu từ tâm thì cũng chính từ tâm ta phải có dốc quyết là luôn luôn sẵn sàng tỉnh thức đề phòng. Một tâm hồn cứ sống thờ ơ nguội lạnh, không chút thao thức đạo đức thì dễ buông theo cơn cám dỗ của quỉ ma.
3-Phải dứt khoát: để khỏi sa vào nanh vuốt của ma quỉ, ta phải khôn ngoan dứt khoát ngay từ đầu của cơn cám dỗ dù đó là một xúi dục nhỏ thoáng qua. Ai không sa ngã lỗi nhỏ thì khó mà phạm tội nặng.
Không ai trong chúng ta dám vỗ ngực cho mình đủ sáng suốt, đủ nghị lực, đủ khôn khéo để chơi với ma quỉ mà không bị hại cả xác lẫn hồn. Chúa chịu cám dỗ để nói với chúng ta rằng hãy tỉnh thức đề phòng chước cám dỗ của ma quỉ và hãy luôn cầu cứu nơi Chúa mới đủ sức thành công.
Ai yêu bóng đá đều say mê theo dõi những trận đấu đỉnh cao giữa các đội ngoại hạng Anh, hoặc giữa các đội tranh Cúp C1. Ta say mê vì các cầu thủ siêu hạng phô diễn kỹ thuật cá nhân điêu luyện, các đội bóng di chuyển chiến thuật kỳ ảo, các bài bản tinh vi của các huấn luyện viên bậc thầy, các pha phối hợp đẹp mắt giữa các cầu thủ. Không phải tự nhiên mà các cầu thủ chơi bóng giỏi đến mức độ nghệ thuật như thế. Họ phải mất nhiều thời gian tập luyện. Tập luyện để đạt được kỹ thuật cá nhân điêu luyện. Tập luyện để có thể lực dẻo dai. Tập luyện để có những xử lý thông minh theo tình huống. Tập luyện để hiểu nhau tiến đến những pha phối hợp nhịp nhàng ăn ý. Những buổi tập rất nghiêm ngặt, đòi hỏi cầu thủ phải có quyết tâm cao, có tinh thần kỷ luật nghiêm túc. Ai không chịu nổi các bài tập khó, sẽ bỏ cuộc. Ai vượt qua được những buổi tập nghiêm túc sẽ trở thành những cầu thủ giỏi.
Đời sống tâm linh là một cuộc chiến đấu. Chiến đấu với ba thù: ma quỷ, xác thịt, thế gian. Để có đủ khả năng chiến đấu, ta phải được rèn luyện, phải trải qua những thử thách. Đức Giêsu, sau khi chịu phép rửa, được Thánh Thần đưa vào hoang địa để chịu thử thách.
Hoang địa là nơi hoang vu không nhà không cửa, không người thân, không cây cối, tức là không có một tiện nghi tối thiểu nào, không có một nguồn trợ lực nào. Chỉ có cát đá, thú dữ, ma quỷ, tức là chỉ có những khó khăn thách đố bắt ta phải chiến đấu, phải đương đầu.
Cuộc chiến đấu thứ nhất mà Đức Giêsu phải trải qua là cuộc chiến đấu với thiên nhiên. Người sống trong hoang địa phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt. Tại các sa mạc cát phủ, đêm thì lạnh thấu xương, ngày thì nóng như thiêu. Hầu như không có thực phẩm. Người sống trong hoang địa phải chịu đói, chịu khát, chịu cái nóng nung người, chịu cái lạnh cắt da, chịu tất cả mọi thiếu thốn của đời sống thường ngày. Xưa, dân Do Thái được Chúa đưa vào nơi hoang địa để huấn luyện trước khi đưa họ vào Đất Hứa. Trong hoang địa, người Do Thái không chịu nổi những thiếu thốn, nên đã nhiều lần nổi loạn chống lại Chúa, chống lại ông Môsê, muốn quay trở lại làm nô lệ bên Ai cập để được ăn no ngủ kỹ. Trái lại, tổ phụ Abraham đã chấp nhận vượt qua hoang địa, nên đã tới Đất Hứa, tiên tri Êlia đã vượt qua hoang địa 40 đêm ngày, nên đã đi đến núi của Thiên Chúa. Và hôm nay, Đức Giêsu đã thắng được cái lạnh, cái nóng và nhất là đã thắng được cái đói cái khát, đã hoàn toàn làm chủ được bản thân trước những nhu cầu của thân xác. Cuộc chiến đấu thứ hai mà Đức Giêsu phải trải qua là cuộc chiến đấu chống lại ma quỷ. Thiên Chúa cho phép ma quỷ thử thách con người. Từ tạo thiên lập địa, hai ông bà nguyên tổ đã bị ma quỷ cám dỗ và đã thua cuộc. Ông thánh Gióp cũng đã bị ma quỷ thử thách, mất hết tài sản, mất hết con cái, mất hết danh dự. Nhờ kiên quyết trung thành với Chúa đến cùng, ông đã thắng được ma quỷ. Đức Giêsu đã thắng vượt mọi cơn cám dỗ ma quỷ đưa tới nhờ Người vững lòng tin ở Thiên Chúa. Những cơn cám dỗ của ma quỷ thường là cám dỗ về đức tin. Adong và Evà không vững lòng tin nên đã sa ngã. Ông thánh Gióp vững lòng tin nên luôn đứng vững qua mọi thử thách. Đức Giêsu luôn vững niềm tin vào Chúa Cha, nên đã chiến thắng mọi cơn cám dỗ thâm độc nhất của ma quỷ.
Cuộc chiến đấu thứ ba mà Đức Giêsu đã trải qua là cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để tìm thánh ý Chúa Cha. Hai ông bà nguyên tổ đã tìm ý riêng hơn ý Chúa, nên đã đi trệch đường. Đức Giêsu luôn tìm thánh ý Chúa Cha, nên Người đã từ bỏ con đường rộng để đi vào con đường hẹp, từ bỏ con đường dễ để đi vào con đường nghèo hèn, từ bỏ con đường riêng tư để đi vào con đường Chúa Cha đã định. Nên Người đã toàn thắng trong cuộc chiến đấu.
Hoang địa không phải chỉ là nơi thử thách. Hoang địa còn là nơi gặp gỡ Chúa. Sau khi đã thắng vượt tất cả các cuộc thử thách, ta sẽ gặp được Chúa, sẽ sống thân tình với Chúa và sẽ hoàn toàn thuộc về Chúa. Ông Môsê, sau 40 đêm ngày ở trên núi Sinai, đã trở nên bạn nghĩa thiết của Chúa. Mặt ông trở nên sáng láng đến nỗi dân Do Thái không dám nhìn thẳng vào. Tiên tri Êlia, sau khi đi 40 đêm ngày, đã tới núi của Chúa và đã gặp được Chúa. Đức Giêsu đã gặp gỡ Chúa Cha, đã tìm được ý Chúa Cha và đã kết hiệp mật thiết với Chúa Cha đến độ từ nay Người trọn vẹn thuộc về Chúa Cha. Thánh ý Chúa Cha đã trở thành kim chỉ nam hướng dẫn đời Người. Thi hành thánh ý Chúa Cha trở thành lương thực nuôi dưỡng Người. Người sẽ hy sinh tất cả, kể cả mạng sống để cho thánh ý Chúa Cha được nên trọn. Chính vì thế mà Người đã được gọi là “Con yêu dấu” của Chúa Cha.
Trong Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi ta hãy vào hoang địa với Đức Giêsu để chịu thử thách, để rèn luyện đời sống tâm linh cho vững mạnh, kiên cường. Ta không có điều kiện để vào nơi hoang vắng, nhưng ta vẫn có thể vào hoang địa của cuộc đời.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, thiếu thốn trong đời sống, dù đói nghèo vẫn giữ được tâm hồn tự do, không chịu nô lệ vật chất.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là kiên cường chống trả mọi cơn cám dỗ ma quỷ đưa tới, luôn vững niềm tin vào Chúa dù gặp những khó khăn thử thách.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là từ bỏ những ý riêng để luôn tìm thánh ý Chúa, sẵn sàng thực hành thánh ý Chúa, dù có phải đau đớn, thiệt thòi.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là giữ tâm hồn bình an thanh thản để gặp gỡ Chúa, tiếp xúc thân mật với Chúa, hoàn toàn thuộc về Chúa để trở nên “Con yêu dấu” của Chúa.
Nếu ta chuyên tâm rèn luyện trong suốt mùa Chay, tâm hồn ta sẽ trở nên vững mạnh chống lại được những cám dỗ ma quỷ đưa tới; nhanh nhẹn dấn thân vào những việc đạo đức không ngại khó khăn vất vả; quen từ bỏ ý riêng để tuân theo ý Chúa và sẽ trở nên Con hiếu thảo của Chúa.
Trình thuật cơn cám dỗ của Chúa Giêsu được đặt trong bối cảnh cuộc đời của Chúa Giêsu trước khi Ngài bắt đầu sứ vụ rao giảng công khai. Địa điểm của chỗ cám dỗ này là Núi Quruntur vẫn còn ngày nay, một vùng núi đá chập chùng nằm giữa Jericho và Jerusalem. Nếu một người vào tu viện và leo lên đỉnh núi, họ có thể nhìn thấy rõ Đền Thờ Jerusalem từ đây. Chúa Giêsu bị cám dỗ để chọn lựa cách cứu chuộc con người: Cách dễ nhất và nhanh nhất để con người tin vào Ngài là làm phép lạ cho dân có của ăn và ban cho họ tất cả những gì họ muốn như của cải, danh vọng, uy quyền..., như sau khi Chúa làm phép lạ nuôi 5000 người, họ đã toan tính tôn Ngài làm vua nên Ngài phải bảo các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia, giải tán dân chúng, còn Ngài lên núi cầu nguyện (Jn 6:); Cách khó nhất và lâu nhất là giáo dục để họ nhận ra sự thật, giúp họ kiên nhẫn thực hành, và vượt qua đau khổ để đạt tới ơn cứu độ; cách này đòi hỏi Ngài phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng trên Thập Giá để mang lại ơn cứu độ cho con người.
1/ Ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu.
(1) Cám dỗ thứ nhất về sự ăn uống: Trình thuật kể “Người ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó, Người thấy đói.” Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Người và nói: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!" Quỉ biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, nó cũng biết Ngài mang bản tính con người nên cảm thấy đói sau khi ăn chay, và nó biết để bảo vệ sự sống, một người sẽ không nghĩ tới gì khác hơn là tìm được của ăn cho đỡ đói, nên nó cám dỗ Ngài làm phép lạ bằng cách hóa đá thành bánh ăn.
Nhưng Chúa Giêsu đáp lời quỉ và dạy chúng ta một bài học quan trọng: "Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra." Con người là một tổng hợp của hồn và xác, như thân xác cần bánh ăn mới có thể sống cách thể lý, linh hồn cũng cần được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa thì mới có thể sống về phương diện tâm linh được. Sống phần tâm linh quan trọng hơn sống phần xác, vì đó là cuộc sống đời đời. Thế mà biết bao nhiêu người sống như không có hồn, như không phải chết, qua việc họ dành trọn vẹn thời giờ cho việc mưu sinh và bỏ qua việc học hỏi Lời Chúa. Chẳng lạ gì mà họ bị rơi vào hết cơn cám dỗ này đến cơn cám dỗ khác, và quằn quại trong đau khổ.
(2) Cám dỗ thứ hai về làm phép lạ: Sau đó, quỷ đem Người đến thành thánh, và đặt Người trên nóc đền thờ, rồi nói với Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá." Quỉ biết người Do-thái rất thích chứng kiến hay được hưởng phép lạ, và đa số dân chúng, nhất là dân Việt-nam rất thích phép lạ. Nếu muốn con người tin, Thiên Chúa chỉ cần cho họ thấy phép lạ!
Chúa Giêsu trả lời quỉ và dạy con người bài học thứ hai: "Nhưng cũng đã có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi." Phép lạ được làm là để khơi dậy đức tin trong tâm hồn con người: nếu một người đã có niềm tin, phép lạ không còn cần nữa; nhưng nếu một người cứng lòng, dù có chứng kiến biết bao phép lạ họ vẫn không tin. Chúng ta thấy rõ điều này nơi các người trong Thượng Hội Đồng, họ vẫn không tin Chúa và còn tìm cách hủy diệt Người. Hơn nữa, niềm tin dựa trên phép lạ không vững bền; nếu không thấy phép lạ nữa, con người sẽ đánh mất đức tin. Họ muốn biến và điều khiển Thiên Chúa thành máy làm phép lạ thay vì họ phải biết tin tưởng vào tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa, như những gì quỉ nói: “Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá.”
(3) Cám dỗ thứ ba cho giàu sang phú quí: Quỷ lại đem Người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, và bảo rằng: "Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi." Cám dỗ này cho chúng ta thấy rõ ràng sự gian dối của ma quỉ, vì tất cả những thứ quỉ hứa cho thuộc về Thiên Chúa, không thuộc về chúng.
Chúa Giêsu trả lời quỉ và dạy con người bài học thứ ba: "Satan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi." Đây là điều răn thứ nhất và quan trọng hơn cả. Có thể nói không một tín hữu nào không biết điều răn này; nhưng thực hành giới răn này trong cuộc sống thì không dễ dàng, vì biết bao người đã vì lợi lộc không chịu thờ phượng Thiên Chúa, lại quì sụp lạy ma quỉ. Cám dỗ này phải mở mắt cho con người hiểu rõ họ được sở hữu điều gì hoàn toàn là do bởi Thiên Chúa, chứ không từ ma quỉ, hay do bởi sức mình, hay bởi những thế lực khác.
2/ Những điều căn bản cần thiết để vượt qua chước cám dỗ
Trước tiên, kiến thức về Thiên Chúa và về con người là điều kiện chủ yếu để vượt qua cám dỗ. Để có kiến thức này, các tín hữu cần bỏ thời giờ để học hỏi về Thiên Chúa qua Thánh Kinh và những giáo huấn của Giáo Hội. Không biết Kinh Thánh là không biết Thiên Chúa và không biết những dự tính và đường lối của Thiên Chúa dành cho con người. Biết những điều này, con người sẽ nhận ra ngay những cạm bẫy gian dối của ma quỉ và không dễ rơi vào. Thứ đến, niềm tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa cũng không kém quan trọng. Con người phải vững tin Ngài sẽ không bỏ mặc con người phải đương đầu với ma quỉ, nhưng sẽ sai các thiên thần và những người tốt lành đến giúp đỡ và bảo vệ các con cái của Ngài, như đã sai các thiên thần đến nâng đỡ và bảo vệ Chúa Giêsu sau cuộc cám dỗ. Sau cùng, nhược điểm của con người là nghi ngờ sự hiện hữu, tình thương, và sự quan phòng của Thiên Chúa. Nhiều người lo sợ không biết có Thiên Chúa hay không, và nếu có, không biết Ngài có để mắt săn sóc đến họ không; vì thế, họ nghĩ phải tự mình lo liệu lấy cho chắc ăn.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta chỉ là loài thụ tạo vì yêu thương Thiên Chúa đã dựng nên, và có rất nhiều giới hạn. Chúng ta phải diệt trừ tội kiêu ngạo và bất tuân bằng cách tập luyện cho có được hai nhân đức khiêm nhường và tuân phục như Đức Kitô đã làm gương cho chúng ta.
- Chúng ta cần phải loại trừ cách nhìn ích kỷ và cá nhân của thế gian để học cái nhìn xả kỷ và tập thể của Thiên Chúa. Một người phạm tội, mọi người đều chịu; một người làm phúc, mọi người đều thông phần. Chỉ một lối sống như thế mới giúp chúng ta loại bỏ mọi cãi cọ, ghen tương tranh dành, ly dị, chiến tranh và đáp ứng được giới luật yêu thương như lời Chúa truyền dạy.
- Mọi cám dỗ đều có thể thắng vượt được nếu chúng ta chịu khó học hỏi Lời Chúa, và tập luyện để làm cho đức tin cho chúng ta mỗi ngày một thêm vững mạnh và kiên cường hơn.
Mùa Chay là mùa Hội Thánh kêu mời chúng ta hãy chân thành sám hối, thành tâm lắng nghe Lời Chúa và chuyên cần cầu nguyện. Mùa chay cũng nhắc nhở mọi tín hữu hãy tỉnh thức đề phòng mọi thử thách, cám dỗ của ma quỉ, nhất là không để nó lợi dụng, làm hại mình...Vì thế, Lời Chúa của ngày chúa nhật hôm nay, nói đến hai cuộc cám dỗ: một: là trong vườn địa đàng của Adam + Evà. Kết quả hai ông bà thất bại te tua, lôi kéo con cháu hư mất đời đời. Hai: là của Chúa Giêsu trong hoang địa, như là Adam mới, đại diện cho cả nhân loại; kết quả Chúa chiến thắng hoàn toàn, đem lại ơn cứu rổi cho cả loài người. Đây chính là bài học mà Hội thánh muốn chúng ta suy niệm trong chúa nhật hôm nay...
a/. Cuộc cám dỗ đầu tiên: chính ma quỉ gieo vào lòng Adam + Evà, tính tự kiêu và ngờ vực Thiên Chúa: Ông bà ăn trái đó đi, sẽ không chết đâu; nhưng mắt ông bà sẽ mở ra và sẽ sáng như TC...Mọi ý định tốt lành của Thiên Chúa đều bị đặt vấn đề, trở thành những ý xấu. Chúa cấm ông bà ăn vì sợ ông bà biết điều thiện ác như Thiên Chúa. Ma quỉ là chúa của sự nham hiểm, quỉ quyệt; vì thế ông bà không hiểu được, nên đã sập bẩy: đó là tội...
Cuộc cám dỗ thứ hai: cũng do chính ma quỉ, đã cám dỗ Chúa Giêsu trong hoang địa. Kết quả: ma quỉ thua cuộc. Chúa Giêsu, là Adam mới, đã toàn thắng. Trước hết, khi cám dỗ Chúa Giêsu, nó cũng nhắm vào tính kiêu căng: Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy truyền cho hòn đá này hóa thành bánh mà ăn...Ma quỉ dựa vào thực tế vì Chúa đói; nhưng nó rất xảo quyệt muốn tách Chúa Giêsu ra khỏi sứ mạng cao cả của Người. Chúa thực sự đang đói, nhưng Chúa từ chối thẳng thừng đề nghị của ma quỉ, vì Người luôn hướng về Thiên Chúa và luôn tìm làm đẹp Ý Chúa mà thôi, nên Người dùng lời Chúa mà trả lời nó: Người ta sống không nguyên bởi cơm bánh, mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.
Ma quỉ chưa chịu thua, nên đề nghị Chúa biểu dương quyền lực mình bằng cách nhảy từ nóc đền thờ xuống, để mọi người phải thán phục quyền năng Chúa. Một lần nữa, ma quỉ muốn Chúa Giêsu vì tính kiêu căng, muốn tách ra khỏi sứ mạng mình, và ra khỏi cả liên hệ mật thiết với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần...nhưng Chúa Giêsu quá rõ tâm địa xảo trá của nó, nên đã dùng lời Kinh Thánh mà nói: Ngươi không được thử thách Chúa là Thiên Chúa của ngươi ...
Sau cùng, ma quỉ lại nhắm vào tính kiêu căng, tham lam giàu sang thế gian. Nó nói: nếu ông thờ lạy tôi, tôi sẽ cho ông quyền trên tất cả các nước ấy... Dĩ nhiên trận này Chúa cũng thắng, nhưng rõ ràng, cám dỗ này là cái cám dỗ suốt cuộc đời của Chúa. Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng muốn tôn Chúa lên làm vua... Một lần khác, khi đang giảng dạy, dân chúng và cả pharisêu thách thức Chúa làm một dấu lạ trên trời hay dưới đất để họ tin...Rồi trong vườn cây dầu, hấp hối cùng cực, chính Chúa cũng xin Chúa Cha cho mình khỏi uống chén đắng ô nhục này. Điều đó muốn nói, các cơn cám dỗ quá nặng nề, dù vậy Chúa vẫn vượt qua được, vì Chúa hoàn toàn vâng phục Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá...
b/. Câu hỏi: Có người nói: tại sao Chúa Giêsu là Thiên Chúa lại chịu để ma quỉ cám dỗ?- Thưa vì ma quỉ chỉ cám dỗ Chúa trong bản tính loài người mà thôi; hơn nữa vì khiêm hạ, Chúa chịu cám dỗ, vì Người với tính cách là Adam mới, là Anh cả của nhân loại, đã sẵn sàng nhận chịu cám dỗ và chiến thắng chúng, nêu gương cho nhân loại chúng ta...
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Cám dỗ của Chúa Giêsu cũng là cám dỗ của mỗi người chúng ta: biến đá thành bánh để, ai cũng tham sống sợ chết - thích sung sướng ở đời, thích tỏ quyền uy mình hơn mọi người khác - ham thích giàu sang vinh quang trần gian, muốn mình làm vua, muốn mình trên trước người khác... Chúa Giêsu đã sống khiêm tốn thẳm sâu, nên mới có thể chiến thắng ma quỉ, ta có muốn bắt chước Chúa Giêsu không?
Chúng ta đã cùng với toàn thể Giáo Hội bước vào Mùa Chay Thánh hôm thứ Tư lễ Tro vừa qua. Khởi đầu Mùa Chay Thánh với việc xức tro. Cử chỉ bỏ chút tro lên đầu và vị chủ sự mời gọi: "Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng", Giáo Hội muốn mời gọi con cái của mình khiêm tốn và ý thức thân phận con người chẳng là gì cả, chỉ là bụi tro mà thôi.
Hôm nay, với Chúa Nhật I Mùa Chay, bài Tin Mừng thánh Mátthêu trình thuật cho chúng ta thấy việc Đức Giêsu vào hoang địa ăn chay và sau đó bị Ma Quỷ cám dỗ, nhưng Ngài đã chiến thắng.
Qua đó, Giáo Hội muốn nhắc cho con cái của mình là: hãy sám hối để bắt đầu bước vào hành trình tập luyện và chiến đấu thiêng liêng. Trong hành trình ấy, mẫu gương của Đức Giêsu trong sa mạc hôm nay được hiện lên như một động lực, điểm tựa cho mỗi chúng ta.
1. Ma Quỷ cám dỗ Đức Giêsu
Khi đón nhận thánh ý Thiên Chúa Cha qua việc vâng lời tuyệt đối khi nhập thể và nhập thế, Đức Giêsu đã trở nên Cứu Chúa của nhân loại. Vì thế, khởi đầu cuộc sống công khai, Ngài đã vào hoang địa ăn chay 40 đêm ngày, để tìm thánh ý Thiên Chúa Cha, hầu chu toàn ý định của Người. Sau khi chay tịnh, Đức Giêsu cảm thấy đói, vì thế, nhân cơ hội này, Ma Quỷ đã tiến đến và cám dỗ Ngài.
Cám dỗ đầu tiên mà Ma Quỷ tấn công Đức Giêsu chính là cám dỗ về của ăn nuôi thân. Lợi dụng lúc Đức Giêsu đói, Ma Quỷ đã không bỏ lỡ cơ hội ngàn năm có một này, nên hắn đã tiến lại gần và nói: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi!" (Mt 4, 3). Ma Quỷ thật tinh vi, nhưng Đức Giêsu đã không bị những thứ lương thực chóng tàn, mau hết làm cho Ngài sa ngã, vì thế, Ngài đã chiến thắng ngay từ cơn cám dỗ đầu tiên khi nói cho chúng biết lương thực của Ngài chính là làm theo ý Thiên Chúa Cha. Ngài nói: "Ðã có lời chép rằng: 'Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra'" (Mt 4,4).
Cơn cám dỗ thứ hai mà Ma Quỷ muốn tấn công chính là đề nghị Đức Giêsu sử dụng quyền lực. Vì thế, nó đã nói: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: 'Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá'" (Mt 4,6).
Tuy nhiên, Ma Quỷ đã lầm khi tưởng rằng Đức Giêsu sẽ sử dụng quyền lực theo kiểu thế gian, để trổ tài theo ý của nó bằng những cú nhảy đẹp mắt, những pha ngoạn mục. Nhưng lại thêm một lần nữa chúng thất bại và chịu tác dụng ngược lại khi Đức Giêsu cho chúng biết rằng: "Ngươi chớ thử thách Ðức Chúa là Thiên Chúa của ngươi" (Mt 4, 7). Khi cám dỗ Đức Giêsu như thế, Ma Quỷ nghĩ rằng Đức Giêsu sẽ mắc bẫy để sử dụng ý riêng của Ngài thay cho thánh ý Thiên Chúa Cha. Nhưng không! Đức Giêsu đã đi theo con đường khiêm tốn mà Chúa Cha muốn nơi Ngài.
Thất thế lần hai, Ma Quỷ vẫn chưa chịu thua, chúng tấn công lần thứ ba. Lần này chúng nhắm tới danh vọng. Ma Quỷ đã nịnh hót Đức Giêsu, và "đem Người lên một ngọn núi cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, và bảo rằng: 'Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi'" (Mt 4, 8-9). Nhưng lần cuối cùng này chúng vẫn thất bại và chịu sự quở trách nặng nề của Đức Giêsu, đồng thời Ngài cũng xác định danh giới của chúng khi nói: "Xatan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: 'Ngươi phải bái lạy Ðức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi'" (Mt 4, 10).
Qua câu nói này, Đức Giêsu khẳng định thật rõ Ngài là Con Thiên Chúa, nên chỉ có bổn phận phục quyền và tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi.
Như vậy, cả ba lần cám dỗ, chúng đều lãnh nhận những thất bại. Nếu chúng tập trung vào: thú, lợi, danh, để hy vọng hạ gục được Đức Giêsu, để Ngài phải phục quyền chúng, và nhất là nó muốn phá vỡ chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha. Tuy nhiên, ý định đó đã không thành, vì Đức Giêsu đã lựa chọn con đường Thiên Chúa Cha muốn, đó là con đường tự hủy nhờ đức vâng lời.
2. Ma Quỷ cám dỗ chúng ta
Cơm, áo, gạo, tiền, vinh hoa, phú quý, quyền cao, chức trọng luôn gắn liền với thực tại của con người. Con người luôn hướng chiều về những điều đó vì mục đích sinh tồn của bản năng nơi loài thụ tạo. Vì thế, người ta chấp nhận và làm mọi cách để đạt được những mục đích trên.
Ma Quỷ là loài tinh quái, xảo quyệt. Nó đánh trúng tim đen của con người. Nó biết rất rõ nhu cầu và điểm yếu của chúng ta. Thực vậy, những nhu cầu như ăn uống, danh vọng, địa vị, chức quyền và sau cùng là tự phụ, khoe khoang, kiêu ngạo luôn theo sát mỗi người từ lúc sinh ra đến lúc nhắm mắt xuôi tay.
Cái quỷ quyệt của chúng là đưa ra những chiêu thức rất hấp dẫn, toàn là màu hồng để quyến rũ con người. Nhưng thực ra, những điều mà chúng cám dỗ ta chỉ là nửa sự thật mà thôi, chứ không phải sự thật tuyệt đối. Một khi con người sa lầy trước cám dỗ của nó, con người mới ngỡ ra là nó đã đưa mình vào những ảo vọng hão huyền.
Cách thức của chúng dùng chính là qua một trung gian, một cơ hội hay một sự vật:
Qua trung gian là con người, chúng tìm cách để người nào đó rủ rê dần dần ta phạm tội. Lúc ban đầu chỉ là những chuyện lặt vặt, nhỏ bé hằng ngày. Tuy nhiên, dần dà lâu ngày thành quen. Tội nhẹ, rồi dẫn đến tội trọng. Nay ăn cắp quả ổi là chuyện bình thường; ngày mai ăn chộm con gà cũng chẳng sao; ngày mốt lấy con trâu, rồi cuối cùng giết người cướp của.
Từ chuyện rất nhỏ, nhưng nó làm cho con người trai lỳ lương tâm và mất dần cảm thức về tội, nên chúng ta không lạ gì khi thấy nhiều người cứ nhởn nhơ trong vũng lầy tội lỗi mà vẫn tự hào mình là người tốt. Những người như thế, thường tìm mọi cách để ngụy biện cho hành vi sai trái của mình. Họ dùng những phương tiện xấu để biện minh cho mục đích tốt. Họ sẵn sàng làm từ thiện để che lấp những tội ác như tham nhũng, bóc lột và buôn gian, bán lậu. Hay nói cách khác, họ dùng hình thức rửa tiền để che đậy những việc làm mờ ám của mình.
Thật vậy, là con người, ai cũng muốn có cơm no, áo ấm, rồi dần dần dẫn đến tình trạng ăn ngon mặc đẹp, tiếp theo chính là thỏa mãn xác thịt, ăn chơi trác táng và cứ như thế, chẳng mấy mà dẫn đến "Cực lạc sinh bi ai?". Đây chính là cơn cám dỗ đầu tiên mà Ma Quỷ đã cám dỗ Đức Giêsu.
Cơm cám dỗ thứ hai mà trước kia Ma Quỷ cám dỗ Đức Giêsu, thì ngày nay, nó cũng không buông tha chúng ta. Thật vậy, nó tấn công chúng ta về quền lực, vinh quang, phú quý để làm cho ta ra mê muội và tìm mọi cách để đạt được những điều ta muốn dù là bất chính.
Cám dỗ cuối cùng mà nó tấn công Đức Giêsu là tham lam, danh vọng. Ngày nay, nó vẫn thường cám dỗ chúng ta như thế. Nó đánh đúng sào huyệt tham sân si của con người, rồi sau đó, con người phải tôn thờ nó. Xin nhắc rằng, Ma Quỷ nó làm được nhiều thứ để cám dỗ con người, nhưng chỉ có một điều mà nó không làm được, đó là không cho con người được hạnh phúc thật và sự sống đời đời mà thôi.
Như vậy, Ma Quỷ đã cám dỗ Đức Giêsu về 3 điểm, đó là: thú, lợi, danh. Đến lượt chúng ta, nó cũng không ngừng tấn công chúng ta về những điểm trên.
Nhưng, như Đức Giêsu đã chiến thẳng, còn chúng ta ngày nay thì sao? Mỗi khi đứng trước cám dỗ, chúng ta phải làm gì?
3. Khi bị cám dỗ ta phải làm gì?
Mỗi khi cám dỗ đến với chúng ta, xin hãy nhớ lại lời Đức Giêsu cảnh báo để thêm sự cẩn trọng, hầu không vì kiêu ngạo mà mắc vào cạm bẫy của chúng: "Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ" (Mt 26, 41). Hay Đức Giêsu nói với Phêrô về sự nguy hiểm của chúng: "Simon, Simon ơi, kìa Xatan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo" (Lc 22,31). Và khi thánh Phêrô đã cảm nghiệm rõ nguy hiểm của Ma Quỷ, nên ngài đã cất lên lời khuyên nhủ: "Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì Ma Quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tiìm mồi cắn xé" (1Pr 5,8).
Nhiều người quá coi thường chúng nên dần đi vào con đường mà chúng vạch ra cho lúc nào không hay.
Thật vậy, có nhiều người vì ích kỷ, nên sinh ra cố chấp với anh chị em trong cộng đoàn, rồi kết cục bỏ Chúa và không tham gia sinh hoạt đoàn thể vì tính kiêu ngạo của mình. Những người như vậy, họ theo đạo vì ông này bà nọ, chứ không phải vì Chúa. Bởi vậy, khi họ có chuyện khúc mắc với anh chị em thì họ bỏ luôn Chúa, vì đâu biết rằng những người kia, họ chỉ là phương tiện, là cầu nối để ta gặp được Chúa, chứ không phải họ là Chúa. Đây là cách mà Ma Quỷ thường hay tấn công vào những người thiếu sự khiêm tốn, cố chấp.
Lại có những người luôn nghĩ mình là tốt lành, thánh thiện, nên không sợ gì sa ngã vào con đường tội lỗi, vì thế, họ không ngần ngại khi được bạn bè rủ rê đi vào chốn ăn chơi trụy lạc vì nghĩ rằng: tướng Quỷ cũng không bao giờ quyến rũ được mình. Tuy nhiên, biết bao người đã trở thành nô lệ của chúng chỉ sau vài cuộc ăn chơi. Riết thành quen, không đi thấy nhớ. Hay cũng có những người nghĩ rằng mình cũng cần phải thâm nhập thực tế để cứu giúp những người tội lỗi ra khỏi cuộc sống bê bối của họ, nhân danh việc tốt để dẫn đưa anh chị em thoát khỏi vòng tội lỗi, tuy nhiên, cũng lại không ít người đã thay đổi vai trò. Từ người cứu giúp chuyển dần sang thành người đi theo và cùng nhau phạm tội. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là chúng ta coi thường mối nguy hiểm của công việc và coi thường sự sự khôn ngoan, tinh xảo của Ma Quỷ.
Thấy được sự nguy hiểm này, nên Đức Giêsu mới dạy các môn đệ cầu nguyện trong kinh Lạy Cha: "Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ", và trong kinh Ăn Năn Tội cũng có câu: "Nhờ ơn Chúa thì con sẽ tránh xa dịp tội". Trong dân gian, trải qua cuộc sống, người ta đúc kết thành kinh nghiệm và khuyên: nếu lượng sức mà không vượt qua được thì hãy "đào vi thượng sách".
Thực vậy, sức con người thì giới hạn, vì thế, không thể nào chống trả được những cơn cám dỗ. Nếu muốn chiến thắng, chúng ta phải cậy dựa vào ơn Chúa. Nói như thánh Phaolô: "Với Ðấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết" (Pl 4,13).
Khi chúng ta cậy dựa vào ơn Chúa và đi theo con đường của Chúa, chúng ta dùng chính võ khí của Đức Giêsu để chiến đấu. Võ khí đó là gì? Thưa! Đó là sự khiêm tốn và vâng lời, đơn sơ, chân thật. Mọi sự sẽ qua đi, chỉ có Chúa là tồn tại, vì thế, phải cẩn trọng trong việc lựa chọn trước những trào lưu tục hóa như ngày nay. Đứng trước sự lựa chọn, thánh Phaolô đã cho chúng ta một kiểu mẫu: "Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi truyệt vời, là được biết Ðức Kitô Giêsu, của tôi, vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Ðức Kitô" (Pl 3, 8). Ăn chay, cầu nguyện và bố thí chính là xác định thật rõ về sự giới hạn của chúng ta với Đấng Tuyệt Đối. Ăn chay để hãm dẹp nết xấu và ý thức được thân phận mong manh của mình. Cầu nguyện chính là xin Chúa trợ giúp và cùng đồng hành với chúng ta để chúng ta chiến đấu chống lại Ba Thù. Bố thí chính là vượt ra khỏi sự ích kỷ vốn là mầm mống của tội lỗi, để sống hiệp thông, liên đới với anh chị em.
Lạy Chúa Giêsu, xưa kia Chúa đã chiến đấu và chiến thắng Ma Quỷ. Giờ đây, xin giúp chúng con chiến thắng được Ba Thù, để thuộc trọn về Chúa như Chúa thuộc trọn về Thiên Chúa Cha. Amen.
Ở núi Phong Khê đất Thục có một giống đười ươi có bộ mặt giống như người. Chúng biết nói cười và máu của chúng được người ta dùng làm thuốc nhuộm quần áo rất tốt, nên các thợ săn thường tổ chức săn bắt chúng. Biết được loài đười ươi này thích uống rượu và đi guốc, thợ săn đã đem rượu và guốc đến bày la liệt trên một cánh đồng trống để nhử chúng, rồi ẩn núp ở nơi kín đáo chờ đợi. Dù sống sâu trong rừng, nhưng loài đười ươi lại có khứu giác rất nhậy nên chúng đã ngửi thấy mùi rượu thơm liền kéo nhau tìm đến cánh đồng uống rượu. Tuy các con già đời đoán biết đó là bẫy của bọn thợ săn, nên đã nhắc nhở cho cả bầy rằng: "Hãy cảnh giác, đừng khờ dại uống rượu đi guốc kẻo bị mắc mưu của bọn người độc ác kia đó". Cả bầy nghe vậy liền buồn bã bỏ đi. Nhưng rồi một con bị mùi rượu thơm hấp dẫn không thể cưỡng lại, liền tỏ ra bất chấp lời khuyên khôn ngoan kia và rủ đồng bọn quay trở lại. Rồi "quen mui thấy mùi ăn mãi", chúng tranh giành nhau chí choé nốc cạn hết bầu rượu này đến bầu rượu khác. Đến lượt các con già cả khôn ngoan tuy biết là nguy hiểm, nhưng không thể cưỡng được sự hấp dẫn của rượu, cũng lao vào uống no say. Sau đó chúng xỏ chân vào guốc bên cạnh bước tới bước lui ngả nghiêng trông thật tức cười. Bấy giờ bọn thợ săn liền hò nhau từ chỗ ẩn nấp, nhất tề xông đến vây bắt. Thấy bọn thợ săn, bầy đười ươi đáng thương liền bỏ chạy tán loạn. Nhưng chân đi guốc không quen, bị té nhào vào nhau và bị bọn thợ săn bắt gọn không sót một con.
Than ôi! Biết rõ người ta đặt bẫy hại mình, mà vẫn lao vào ăn uống đến nỗi tất cả đều bị mất mạng thì thật ngu dại hết sức! Đối với nhiều người hôm nay thì rượu chè, cờ bạc, trai gái, hút chích sì-ke ma túy... là những thứ làm mất nhân tính, biến mình trở thành những kẻ bất lương trộm cướp giết người, rồi còn có thể bị lây nhiễm HIV-AIDS. Thế mà vẫn có không ít người nhắm mắt lao mình vào những đam mê chết người đó thì không phải khờ dại lắm sao ?
Đối với các cơn cám dỗ về đam mê sắc dục và ma túy, thì đừng bao giờ nghĩ rằng mình có đủ bản lãnh để chống trả lại được, và cần phải theo lời cổ nhân dạy: "Tam thập lục kế: Đào vi thượng sách" (Ba mươi sáu phương thế thì chạy trốn là phương thế hay nhất). Đừng bao giờ thử hút chích sì ke ma túy, thử đi bia ôm, thử đánh số đề một lần... Vì nếu thử dù chỉ một lần mà thôi thì đã bắt đầu trở thành con nghiện và là người xấu thuộc về ma quỷ rồi vậy !
Cũng như xưa, ngày nay ma quỷ thường cám dỗ chúng ta về ba phương diện như sau:
+ Một là về THÚ VUI:
Ma quỷ xúi Đức Giê-su biến các viên đá cuội trở thành bánh mì mà ăn, tức là dùng quyền năng Thiên Chúa để thỏa mãn các nhu cầu vật chất thể xác, giống như dân Ít-ra-en trong hoang địa ngày xưa đã kêu trách Đức Chúa và Mô-sê khi họ bị đói khát và thèm thịt thà và các thứ rau thơm mà họ đã từng ăn khi còn ở Ai cập (x. Xh 16,3). Ngày nay ma quỷ cũng thường cám dỗ chúng ta tìm thỏa mãn các đam mê xác thịt bất chính như ăn chơi sa đọa, rượu chè say xỉn, chơi cờ bạc số đề và hút chích sì-ke ma túy...
+ Hai là về DANH VỌNG:
Ma quỷ xúi Đức Giê-su nhảy từ nóc Đền thờ xuống để được người đời khen ngợi và để thử thách đòi Thiên Chúa phải chứng tỏ quyền năng bằng việc ra tay làm phép lạ cứu ngài thóat chết (x. Lc 23,35). Ngày nay ma quỷ cũng thường cám dỗ chúng ta thử thách quyền năng Thiên Chúa khi đòi Ngià làm phép lạ trái với định luật tự nhiên do Ngài an bài chung trong vũ trụ thiên nhiên để chiều theo sở thích cá nhân riêng tư của chúng ta !
+ Ba là QUYỀN LỢI:
Ma quỷ xúi Đức Giê-su sấp mình thờ lạy nó để được nó ban cho quyền hành trên muôn nước và được hưởng các thứ lợi lộc giàu sang (x. Xh 32,6). Ngày nay ma quỷ cũng thường cám dỗ chúng ta chối bỏ Thiên Chúa và tôn thờ sức mạnh của tiền tài, chọn làm những việc bất chính miễn là có nhiều tiền như: buôn bán sì ke ma túy, mở quán bia ôm, cà phê tươi mát, tin theo thầy bói, đồng bóng, cầu cơ, buôn lậu, tham nhũng, sản xuất hàng nhái...
2) PHƯƠNG THẾ ĐỂ CHIẾN THẮNG MA QUỶ CÁM DỖ:
Đức Giê-su đã chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ bằng các phương thế như sau:
+ ĂN CHAY CẦU NGUYỆN:
Người đã vào hoang địa ăn chay cầu nguyện suốt 40 đêm ngày. Ma quỷ đã đánh thẳng vào điểm yếu của Đức Giê-su là tình trạng bị đói để xúi Người biến đá thành bánh ăn. Nhưng nhờ nội lực mạnh mẽ do ăn chay cầu nguyện, mà Người đã chiến thắng ma quỷ. Sau này Người cũng dạy các môn đệ phải dùng phương thế chay tịnh cầu nguyện như sau: "Giống quỷ ấy chỉ trừ khử được bằng lời cầu nguyện thôi" (MC 9,29).
+ HỌC SỐNG LỜI CHÚA:
Để đáp lại sự trích dẫn Lời Chúa của ma quỷ, Đức Giê-su cũng dùng Lời Thánh Kinh để bắt chúng phải câm miệng. Lời Chúa chính là ánh sáng chỉ đường và là nguyên tắc ứng xử của Đức Giê-su. Chẳng hạn: Đáp lại lời xúi biến đá thành bánh, Đức Giê-su nêu cao Lời Chúa trong Sách Thánh: "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh" (Đnl 8,3). Đáp lại cám dỗ thờ lạy ma quỷ để được hưởng quyền hành lợi lộc của nó, Đức Giê-su nêu ra Lời Chúa trong Sách Thánh: "Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và thờ phượng một mình Người mà thôi" (x. Đnl 6,13). Đáp lại cám dỗ gieo mình từ nóc Đền thờ xuống, Đức Giê-su đưa ra Lời dạy của Chúa trong Sách Thánh: "Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi" (x. Đnl 6,16).
3) ÁP DỤNG CỤ THỂ:
a) Bị thử thách cám dỗ là thân phận của con người: Ðức Giê-su tuy là Con Thiên Chúa nhưng Tin Mừng cho thấy Người cũng đã trải qua cơn cám dỗ của ma quỷ. Người chịu cám dỗ để nêu gương chiến đấu và chiến thắng các chước cám dỗ của ma quỷ cho loài người chúng ta học tập noi theo. Qua việc bị ma quỷ cám dỗ, Đức Giê-su cho thấy Người cũng là một con người giống như chúng ta mọi đàng nên sẽ thông cảm với sự yếu đuối cũng như tội lỗi của chúng ta như tác giả thư Do thái đã viết: "Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Ðấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội" (Dt 4,15). Tuy nhiên dù bị cám dỗ như ta, nhưng Người đã chiến thắng ma quỷ cám dỗ để nêu gương sáng cho chúng ta.
b) Phân biệt giữa cám dỗ và phạm tội:
Thực ra cám dỗ không nhất thiết là điều xấu, và có thể lại còn cần thiết nữa. Thật vậy, bị ma quỷ cám dỗ chính là dịp để chứng tỏ tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và tha nhân và chứng tỏ sự vâng phục của ta. Vì loài người chúng ta không thể chứng tỏ lòng yêu mến, vâng phục nếu không bị thử thách, nghĩa là chưa có cơ hội để có thể không vâng lời và không yêu mến như lời Thánh Kinh: "Lửa thử vàng, gian nan thử người công chính" (Cn 17,3).
Đối với người bình thường thì hay gặp cám dỗ chọn lựa giữa hai điều tốt xấu, qua đó sẽ chứng tỏ họ thuộc loại người nào. Còn đối với những người ở trình độ cao hơn, thì cám dỗ là sự lựa chọn giữa hai điều đều tốt, và họ phải chọn điều nào tốt hơn, để chứng tỏ quyết tâm lên bậc thánh thiện hơn. Thiên Chúa cũng muốn ta chứng tỏ rằng ta coi tình yêu của Ngài giá trị hơn nhà cửa, ruộng vườn, của cải, thậm chí hơn cả tình cảm anh em, cha mẹ, vợ con của ta, bằng cách cho ta có dịp chọn giữa Ngài và những giá trị ấy.
3. Chọn điều nào khi bị cám dỗ giữa hai điều tốt:
a. Ứng với cám dỗ thứ nhất của Ðức Giê-su là nhu cầu sự sống: Chẳng hạn giữa tình yêu Thiên Chúa và mạng sống của mình, các thánh tử đạo đã chọn tin yêu Thiên Chúa và sẵn sàng chấp nhận chịu chết. Trong cuộc đấu tranh cho công lý, mục sư Martin Luther King đã coi công lý, tình yêu đối với người bị áp bức hơn sự an toàn và mạng sống. Cuối cùng ông đã chết và được cả thế giới ngưỡng mộ tôn vinh. Những người nói trên đã chọn về phía đấu tranh cho công lý và tình thương những kẻ bị áp bức. Ngược lại, nếu vì muốn được an toàn, muốn bảo vệ nồi cơm hay sự thoải mái đang có mà chọn im lặng trước sai trái bất công, đồng nghĩa với sự lõa với điều xấu là chúng ta đã chịu khuất phục trước sự cám dỗ của quỷ dữ.
b. Ứng với cám dỗ thứ hai của của Ðức Giê-su là nhu cầu muốn được nổi danh: Thực ra chuộng danh thơm tiếng tốt để gia tăng uy tín và là người có sĩ diện... đều là những giá trị cao quí, như Nguyễn công Trứ đã viết: "Ðã mang tiếng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông". Nhưng vẫn có những giá trị cao hơn công danh, uy tín nói trên... Đó là những giá trị về tâm linh. Nếu để được thăng tiến bản thân mà "thượng đội hạ đạp" là ta đã coi những giá trị tự nhiên cao hơn giá trị tâm linh. Tội lỗi phát sinh từ sự lựa chọn không chính đáng ấy.
c. Ứng với cám dỗ thứ ba của Ðức Giê-su là nhu cầu quyền lực, muốn mọi sự xảy ra theo ý của mình: Trong xã hội, cũng cần phải có chính quyền như lời thánh Phao-lô. Nếu tranh giành quyền lực bằng phương thế chính đáng để có thể phục vụ lợi ích xã hội thì là điều đáng khuyến khích. Nhưng nếu tranh giành quyền hành vì vụ lợi ích kỷ thì lại không tốt, như ông kinh sư đã phát biểu hợp ý Đức Giê-su: "Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ " (MC 12,33). cám dỗ chính là dịp để chứng tỏ lòng "mến Chúa yêu người" của các tín hữu chúng ta.
4. Phương cách chống trả cơn cám dỗ: Ngày nay khi bị cám dỗ, chúng ta cần chống trả bằng những phương cách như sau:
+ "Đào vi thượng sách": Tránh tò mò truy cập các trang phim ảnh xấu trên mạng internet
+ Năng đọc kinh Lạy Cha để cầu xin Chúa: "Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ".
+ Xin ơn Chúa Trợ giúp khi bị cám dỗ: Làm dấu thánh giá và kêu cầu ơn Chúa như thánh Phê-rô xưa: "Thưa Ngài, xin cứu con với!" (x. Mt 14,30-32); Dứt khoát xua đuổi ma quỷ noi gương Đức Giê-su: "Xa-tan kia, xéo đi ! Vì đã có lời chép rằng: "Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi !" (Mt 4,10).
+ Chọn một việc hợp sở thích như đọc sách, xem phim truyền hình, đi bơi lội hay chơi một môn thể thao lành mạnh, thăm bạn bè, tham gia hội đoàn Công giáo Tiến hành để cùng "hiệp sông Tin Mừng" hằng tuần và chu toàn công tác tông đồ truyền giáo được cấp trên trao phó.
4.THẢO LUẬN: Bạn nên chọn ơPhương thế nào hiệu quả và dễ áp dụng nhất trong các phương thế trên để chiến thắng ma quỷ cám dỗ trong Mùa chay này?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hôm nay con rất cảm phục thái độ cương quyết không khoan nhượng của Chúa khi đương đầu với ma quỷ cám dỗ. Chính nhờ ăn chay cầu nguyện suốt bốn mươi đêm ngày, mà Chúa đã được gia tăng nội lực tinh thần. Chính nhờ luôn vâng theo sự hướng dẫn của Thần Khí, mà Chúa đã luôn chọn làm theo thánh ý Chúa Cha và cương quyết xua đuổi ma quỷ cám dỗ: "Xa-tan kia, xéo đi!".
- LẠY CHÚA. xin giúp con biết nghe theo lời khuyên của thánh Phê-rô: "Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự" (1 Pr 5,6-9). Nhờ đó, con sẽ trở nên con ngoan hiếu thảo, luôn làm đẹp lòng Chúa Cha, noi gương Chúa khi xưa.
Năm phụng vụ lại xoay vần với Mua chay thánh. Đây là một cuộc hành trình đức tin bền bỉ, mãi mãi, không ngừng của người Kitô hữu.Đây là dịp thuận và là cơ hội thích hợp cho mọi Kitô hữu ăn năn, sám hối quay trở về với Chúa, với anh em.Mùa chay là mùa giúp người Kitô hữu hiểu thế nào là lòng nhân hậu thứ tha của Thiên Chúa.Mùa chay giúp người Kitô hữu đi vào cuộc thống khổ, sự chết và sống lại của Chúa Giêsu. Chính vì thế Mùa chay là Mùa người Kitô được Chúa ban nhiều ân huệ cách đặc biệt, nhưng Mùa chay cũng đòi hỏi người Kitô hữu cởi bỏ con người cũ, mặc lấy đời sống mới và mặc lấy chính Đức Kitô.
Bài đọc I trích trong Sách Sáng Thế Ký cho hay Thiên tạo dựng nên Ông Ađam và Bà Eva, hai Ông Bà nguyên tổ được sống hạnh phúc trong vườn Địa đàng, tuy nhiên vì phản nghịch lại lời Chúa căn dặn, nghe lời con rắn là ma quỉ cám dỗ, nên Ađam và Eva đã bị Thiên Chúa đuổi ra khỏi vườn Địa đàng. Đàn ông phải vất vả, đổ mồ hôi mới có miếng ăn. Đàn bà phải mang nặng đẻ đau.Nọc độc là sự chết đã lan tràn trên con người. Thế gian tưởng như đã tan tành theo tội lỗi. Thiên Chúa không bỏ rơi con người.Nên đã sai Con Một Yêu Dấu của Ngài là Đức Giêsu đến trần gian để cứu rỗi con người, cứu độ thế gian.
Bài đọc hai thánh Phaolô nói với tín hữu Roma:" Nơi đâu tội lỗi ngập tràn, nơi đó chứa chan ân sủng ". Điều này cho chúng ta hiểu rõ Thiên Chúa giầu lòng thương xót luôn yêu thương, tha thứ tội lỗi cho con người.Đáp ca là một lời cầu nguyện:" Lạy Chúa, xin dủ lòng xót thương, vì chúng con đắc tội với Ngài ".
Cả hai bài đọc và đáp ca cho chúng ta thấy:" Thiên Chúa là Đấng nhân từ, là Cha giầu lòng thương xót ". Chúa yêu thương con người và không bao giờ muốn con người phải hư đi. Hãy đọc Tin mừng dụ ngôn đồng tiền đánh mất, người con hoang đàng, con chiên lạc, người phụ nữ ngoại tình, tất cả nói lên tấm lòng đầy yêu thương của người Cha. Abba " Cha ơi " là lời gọi thân thương của mọi người kêu lên Thiên Chúa vì Ngài là Cha. Để khai mạc sứ vụ công khai, rao giảng Tin Mừng, giới thiệu Nước Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã vào trong sa mạc để ăn chay, cầu nguyện, kết hợp với Chúa Cha.
Tin Mừng thánh Matthêu trong trích đoạn hôm nay cho hay Chúa Giêsu đã lướt thắng mọi chước ma quỉ cám dỗ. Bởi vì, ma quỉ cứ tưởng chúng đánh vào Chúa như đói, khát, tiền tài, danh vọng là Chúa có thể bị chùn bước.Tuy nhiên chúng đã hoàn toàn thất vọng vì Chúa là Chúa, không bao giờ ma quỉ có thể lừa dối được Ngài.Ma quỉ nói thế này:" Nếu Ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi ". Hay " Nếu Ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá".Hay quỉ nói:" Tôi sẽ cho Ông tất cả những thứ đó!Nếu Ông sấp mình bái lạy tôi ". Thật là kinh khủng những cơn cám dỗ đó. Nhưng Chúa đã lướt thắng và thẳng tay đuổi ma quỉ. Chúa Giêsu đã thắng tất cả nhờ vững tin vào Thiên Chúa Cha.
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta gặp biết bao thử thách cám dỗ, chúng ta đừng liều lĩnh phạm tội. Chúng ta phải luôn luôn bám chặt lấy Chúa. Chúa yêu thương mọi người, nhưng Chúa đòi hỏi con người phải vững tin vào Ngài. Chúng ta biết Chúng ta yếu đuối, do đó, chúng ta phải luôn tỉnh thức,cầu nguyện.Nhìn lên Chúa để thấy chúng ta còn đầy thiếu xót, đầy khiếm khuyết, chúng ta cần có ơn tha thứ của Chúa:" Lạy Chúa chúng con là kẻ tội lỗi, xin Chúa thư tha tội lỗi cho chúng con".
Mùa chay là dịp tốt, là cơ hội thuận tiện để ăn năn, sám hối, biến đổi đời sống, nhìn vào Chúa hơn là nhìn vào ta, vì nhìn vào ta, ta dễ chủ quan cho là mình tốt lành...Nhìn vào Chúa để chúng ta xấu hổ mà hối lỗi vì Chúa đã phán:" Hãy trở nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện "" Hãy học cùng Chúa vì Chúa hiền lành và khiêm nhượng". Chúng ta hãy cầu nguyện để khỏi sa vào cạm bẫy của ma quỉ.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chiến thắng ma quỉ, đã chiến thắng mọi cơn cám dỗ ma quỉ giăng mắc, xin Chúa ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con biết tỉnh thức, xa tránh mọi tội lỗi, xa tránh mọi mưu mô của ma quỉ.Xin Chúa tha thứ tội lỗi cho chúng con vì chúng con đắc tội với Chúa.Amen.
Chuẩn bị cho sứ vụ rao giảng nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu phải trải qua 40 ngày chay tịnh trong hoang địa miền Giuđê và chịu nhiều sự cám dỗ. Trình thuật Tin mừng còn cho thấy Chúa Kytô chính là Môsê mới và cơn cám dỗ của Ngài cũng chính là những cơn cám dỗ mà khi xưa dân Dothái phải đương đầu khi tiến về Đất hứa.
Đối với dân Dothái, hoang địa không chỉ là nơi con người đến gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa mà còn là nơi- thông qua những thử thách, trắc nghiệm lòng trung tín của họ đối với Người. Chính vì thế, dân Dothái xưa phải trải qua 40 năm trường trong hoang địa, Môsê trải qua 40 ngày đêm, không ăn không uống, trên núi Xinai để đón nhận Thánh Luật và nay, Chúa Giêsu cũng trải qua 40 đêm ngày chay tịnh, chịu cám dỗ để thực thi công trình cứu chuộc.
Cám dỗ đầu tiên ma quỷ đưa ra nhằm đúng vào lúc Chúa Giêsu đang đói. Theo ma quỷ, điều Chúa Giêsu cần hẳn nhiên sẽ là những nhu cầu thiết yếu hằng ngày, đó là cơm bánh. Suy nghĩ như thế, ma quỷ liền "tung chưởng", đánh vào dạ dày, nhằm hạ gục Người. "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi". Ma quỷ nghĩ rằng đã một lần, chúng đã hạ "knock out" dân Dothái xưa với chiêu bài này, thì lần này chúng hy vọng cũng sẽ hạ "đo ván" Chúa Giêsu như vậy. Thế nhưng, chúng đã lầm. Đối với Chúa Giêsu, nhu cầu cơm áo gạo tiền là cần thiết, nhưng không đáng quan trọng bằng Lời Thiên Chúa. "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra". Trích từ sách Đệ nhị luật, Chúa Giêsu muốn cho ma quỷ biết chân lý này: rằng ở trên đời, sức mạnh của con người nằm ở chỗ tín thác vào Lời Chúa, vào tình yêu và sự quan phòng của Người chứ không phải suốt ngày chỉ nghĩ đến vấn đề bao tử, ham ăn non nghĩ.
Thất bại không làm ma quỷ thối chí, chúng lại bày trò tiếp theo. Lần này xảy ra trên nóc thành thánh Giêrusalem. Viện dẫn Thánh vịnh 90, ma quỷ đánh thẳng vào trái tim, đánh thẳng vào tình phụ tử và nó tin Chúa Giêsu chắc chắn phải "trắc nghiệm" tình yêu của Chúa Cha để cho mọi người nhân phép lạ này tin vào Người. Mặt khác, với chiêu thức này, ma quỷ nghĩ rằng chúng sẽ thành công, bởi lời lẽ trong Thánh vịnh 90 mà chúng trích dẫn không chỉ nói về Đấng Mêsia mà còn nói đến bất cứ người Dothái nào tín trung, tuân giữ lệnh truyền của Giavê Thiên Chúa. Vì thế, họ luôn luôn nhận được sự trợ giúp đến từ Giavê Thiên Chúa. Không những thế, hẳn ma quỷ còn biết sự thật lịch sử đã từng xảy ra trong dân Dothái, khi dân trải qua những ngày tháng sống không có nước uống. Lần đó, ngay tại Rơphiđim mà sau này ông Môsê đặt tên là Maxa và Mơriva, dân chúng đã ta thán, gây sự với ông Môsê nhằm thách thức Giavê Thiên Chúa để thử xem có thật Giavê ở giữa họ hay không. Dân chúng đã thử thách Giavê Thiên Chúa, bắt Người thực hiện điều họ muốn (x. Xh 17,1-7).
"Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi". Chúa Giêsu không rơi vào cạm bẫy của ma quỷ bởi Người hiểu rằng, tin vào Thiên Chúa không có nghĩa là bắt Thiên Chúa biểu diễn ma thuật, làm những điều kinh thiên động địa mà chính là niềm tín thác cậy trông. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu còn biết rằng, là Con, Người không có quyền thử thách Cha mình, tất cả đều do Cha an bài, định liệu. Thử thách Cha, bắt Cha làm theo ý mình, là phản bội, là quay lưng lại với tình yêu của Người.
Cám dỗ cuối cùng xảy ra trên núi cao, có thể là núi Nêbô- nơi Môsê đã nhìn thấy toàn bộ miền đất mà dân Chúa sẽ định cư (x. Đnl 34, 1-ABC4). Không giống như hai lần trước, lần này, ma quỷ đánh vào khối óc, đánh vào cái đầu tham vọng quyền lực và mộng bá chủ và hy vọng Chúa Giêsu sẽ tùng phục chúng. Tùng phục và thờ lạy chúng, ma quỷ muốn khoét sâu vào mối quan hệ giữa Chúa Cha với Người nhằm cắt đứt mối quan hệ Cha - Con, một mối tương quan bất khả phân. Hẳn chúng ta còn nhớ trong lịch sử Dothái, hơn một lần giống quỷ này đã thành công khi tách rời mối tương quan giữa Giavê Thiên Chúa với dân Người khi dân chúng không muốn thờ lạy Giavê mà chỉ muốn thờ lạy con bò vàng do chính tay mình tạo ra (x. Xh 32,1-4). Một lần nữa Chúa Giêsu lại chiến thắng. Người chiến thắng bởi Người biết rằng quyền hành, danh vọng và địa vị không đến từ tay của những kẻ cơ hội, những kẻ "đục nước béo cò" mà đến từ chính bàn tay của Chúa Cha. Chính Chúa Cha mới là người nắm giữ toàn quyền thống trị và trao ban những đặc ân này cho những ai tuân hành thánh ý Người.
Những cạm bẫy mà Chúa Giêsu chịu hôm nay hoạ lại những cạm bẫy mà khi xưa dân Dothái đã chịu. Đây cũng chính là những cạm bẫy mà chúng ta sẽ gặp phải trên đường đời. Đứng trước những cạm bẫy đó, dân Dothái đã ngã gục, còn Chúa Giêsu đã chiến thắng. Chúa Giêsu chiến thắng không nhờ vào sức riêng mình mà chính do niềm tín thác trọn vẹn trong tình yêu Thiên Chúa là Cha Người. Ước gì người Kytô cũng biết lấy đó làm thước đo, làm kim chỉ nam cho cuộc sống ngõ hầu trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta cũng có thể dựa vào Lời Chúa, nhờ ơn thánh Chúa để chiến thắng những cạm bẫy do ma quỷ giăng ra.
Bắt đầu Mùa Chay, phụng vụ mời gọi chúng ta cùng với Đức Kitô vào hoang địa để sống thân mật với Thiên Chúa, gặp gỡ Người. Ngay bài đọc I, sách Khởi Nguyên cho thấy Adam và Evà cũng có một thời gian sống thân tình với Thiên Chúa trong vườn Eden. Nhưng trong vườn này Adam và Evà bị cám dỗ và đã sa ngã. Còn Chúa Giêsu vào vườn để chịu cám dỗ nhưng Người đã thắng Satan như bài Tin Mừng Mathêu hôm nay tường thuật. Sau này Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Roma đã so sánh giữa Adm cũ và Adm mới, giữa sự phản bội của Adam cũ với sự trung tín của Adam mới. Chính nhờ Ngài mà mọi người mới được ơn cứu độ.
Chúng ta sẽ cùng với Chúa Giêsu vào sa mạc:
1/ Hòan cảnh:
Đầu đời sứ vụ công khai, Chúa Giêsu cần có một thời gian để suy nghĩ và họach định chương trình. Người vào hoang địa để gặp gỡ Thiên Chúa, đồng thời để chịu cám dỗ. Ma quỉ đã lợi dụng nơi vắng vẻ này để tấn công Chúa Giêsu, và đây cũng là ý định của Thiên Chúa, Ngài muốn Đức Kitô chia sẻ thân phận làm người của chúng ta và thân phận của dân tộc Người. Thật vậy, là thân phận con người đương nhiên bị cám dỗ. Chúa Giêsu tuy là Thiên Chúa nhưng Người đã hủy mình ra không, trở thành giống chúng ta (x.Pl.2,7; Dt.3,17). Chính vì thế,Thiên Chúa đã muốn Con Ngài bị cám dỗ chẳng những để chia sẻ số phận của chúng ta mà còn đưa chúng ta đến chỗ chiến thắng cám dỗ, vì Ngài đồng nhất với chúng ta, nên cuộc chiến thắng của Ngài là của ta. Vì Ngài đã chiến thắng Satan nên Ngài có thể lãnh đạo chúng ta trong cuộc chiến chống Satan. Ngòai ra Ngài cũng muốn liên đới với dân Ngài, vì dân Do Thái đã bị thử thách 40 năm trong hoang địa. Thần Khí đưa Đức Giêsu vào hoang địa để chay tịnh 40 đêm ngày chính là để Đức Giêsu cảm nghiệm và liên đới với dân trong những khó khăn thử thách trước đây.
Đối với Chúa Giêsu việc Satan tìm cách cám dỗ Ngài không chỉ xẩy ra một lần ở giai đọan đầu đời công khai, mà trong suốt hành trình rao giảng (x. Mt.14,13-23; 15,32-39; 16,22-23; 27,39-44 ....)
2/ Ba lọai cám dỗ:
Cám dỗ I:
Của ăn Satan tấn công Chúa vào chính lúc đói. Nó biết lợi dụng thời cơ, vì khi con người đói đến độ mạng sống bị đe dọa thì bản năng sinh tồn vùng lên, người ta vừa tuyệt đối hóa cơm bánh lại vừa vô cùng ích kỷ. Satan cám dỗ Đức Giêsu làm phép lạ hóa đá thành bánh. Mục đích của nó là muốn Chúa Giêsu: Thôi sống thân phận làm người, và không chia sẻ nỗi khốn khổ của dân nghèo đói trong hoang địa, và nhất là nó muốn Ngài sử dụng quyền làm Thiên Sai để cứu mình, phục vụ cho mình thay vì cứu người và phục vụ người.Nhưng Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan bằng cách dựa vào Lời Chúa để chiến đấu và phó thác trong tay Cha cách tuyệt đối, đồng thời Ngài cũng tương đối hóa lương thực giữa lúc mà lẽ ra người ta truyệt đối hóa nó.
Trong cuộc đời rao giảng, ma quỉ còn lợi dụng lòng thương xót của Chúa đối với dân chúng để cám dỗ về vấn đề này như Mt.14,13-23. Nó muốn Chúa Giêsu dùng quyền Thiên Sai để tìm cơm bánh cho mình, và còn muốn Ngài đi trệch đường Thiên Sai, không đi theo con đường Người Tôi Tớ mà đi theo con đường giải quyết bằng phép lạ, lo cứu đói cho dân thay vì cứu độ. Nó cũng muốn nhân dịp Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho dân chúng, để cám dỗ dân đi tìm một Đấng Thiên Sai cơm bánh thay vì tìm Đấng Thiên Sai cứu độ dám hiến mình làm của nuôi họ.
Cám dỗ II:
Lòng trông cậy Trong cơn cám dỗ này Satan sử dụng ngay tâm trạng của Đức Giêsu để cám dỗ Ngài: Ngài dựa vào Kinh Thánh và lòng tin cậy Thiên Chúa, thì ma quỉ dùng ngay một câu Kinh Thánh đòi lòng tin cậy phó thác để cám dỗ. Ma quỉ dụ dỗ Chúa Giêsu thôi chấp nhận thân phận làm người vì làm người tất yếu phải sống theo qui luật của thế giới tự nhiên, nó muốn Chúa Giêsu bắt Thiên Chúa can thiệp để mình không sống theo qui luật tự nhiên không vì một lý do gì cả. Đó chính là từ khước thân phận làm người. Như thế là dùng quyền Thiên Sai để phục vụ mình, đòi Thiên Chúa làm phép lạ cho mình coi, buộc Thiên Chúa ra tay che chở mình xem, bắt Thiên Chúa phải phục vụ mình thay vì mình phải phụng sự Thiên Chúa, đặt Thiên Chúa vào tình thế phải ra tay che chở mình thay vì đặt mình trong tình thế phải tuân ý Thiên Chúa cách tuyệt đối.
Thế nhưng Chúa Giêsu vẫn dùng Thánh Kinh để chiến thắng Satan, điều Chúa Giêsu nhấn mạnh là không lạm dụng tình thương của Thiên Chúa cho tình yêu vị kỷ của con người, không đặt Thiên Chúa trong điều kiện phải làm phép lạ. Cơn cám dỗ này còn theo Chúa Giêsu lúc Ngài bị đóng đinh trên Thập Gía, những kẻ qua đường, lính tráng và cả tên trộm bên tả Chúa Giêsu cùng những thượng tế, ký lục và hàng niên trưởng đều thách thức Chúa Giêsu xuống khỏi Thập Giá...( x. Mt.27, 39-44)
Cám dỗ III:
Quyền lựcSatan dụ dỗ Chúa Giêsu phục lạy nó, nhận nó làm Chúa. Ở đây có nghĩa là: đến với quyền năng bằng con đường của ma quỉ chứ không phải bằng con đường của Thiên Chúa. Đường của Thiên Chúa là đường đi của Người Tôi Tớ đau khổ. Ngòai con đường đó đều là những con đường trệch với đường Thiên Sai, là những con đường Thiên Chúa không muốn.
Chúa Giêsu lại dùng dùng Lời Chúa thích hợp để xua đuổi dứt khóat, tức khắc khước từ cám dỗ và Ngài coi Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối. Cám dỗ thứ ba này Chúa Giêsu lại bị chính Phêrô, người mà Ngài đặt làm thủ lãnh đã cám dỗ Ngài khi cản ngăn Chúa Giêsu đi chịu khổ nạn và bị Ngài nguyền rủa là Satan, là tên cám dỗ (x.M.16,22-23). Như thế thì tất cả những gì kéo Ngài ra khỏi con đường Thiên Sai đều là cám dỗ.3/ Hội Thánh và chúng ta có bị ba lọai cám dỗ này không ?
Trong lịch sử lòai người, khởi từ lúc cơm bánh thiếu thốn thì con người đã tuyệt đối hóa cơm bánh và xử dụng những tài năng để phục vụ mình thay vì phục vụ người khác. Tệ hơn nữa, tài năng được trao ban là để phục vụ người khác thì con người lại dùng các tài năng ấy mà bóc lột người khác thay vì giúp ích cho nhân lọai, chỉ vì người ta tuyệt đối hóa tiền của, tuyệt đối hóa quyền lực để phục vụ mình. Cơn cám dỗ này trải dài suốt lịch sử nhân lọai. Đức Kitô cũng bị dằn vặt bởi cơn cám dỗ này và Hội Thánh cũng không thóat khỏi.
Cơn cám dỗ thứ hai xẩy đến khi chúng ta không chịu sử dụng những điều kiện tự nhiên Chúa ban để mà hành động, cứ bắt Thiên Chúa ra tay làm phép lạ để giải quyết các vấn đề của chúng ta, cám dỗ này thường gặp trong đời sống Kitô hữu. Chỉ chạy đến Chúa khi bị khốn khó, bị lâm nguy và xin Ngài làm phép lạ để giải thóat....
Khi nào chúng ta bị địa vị lôi cuốn, bị chức quyền thu hút mà dùng những phương tiện không chính đáng để đọat lấy thì chúng ta bị cám dỗ thứ ba này. Và khi Hội Thánh đi theo con đường đắc thắng thay vì khiêm hạ đau khổ của Người Tôi Tớ thì khi ấy Hội Thánh bị cám dỗ lọai này.4/ Sứ điệp Tin Mừng:Thái độ của Chúa Giêsu đối với cuộc cám dộ dạy tôi phải có thái độ nào đối với cơn cám dỗ ?Chúa Giêsu chịu cám dỗ giúp tôi hiểu gì hơn về Đức Giêsu ?Tôi phải xử dụng các tài năng Thiên Chúa ban cho như thế nào ? Và phải có thái độ nào đối với vật chất ?Lạy Cha, Đức Kitô đã dùng Lời Chúa để phá tan những cám dỗ của Satan, xin cho chúng con biết chuyên cần học hỏi và tích cực sống Lời Chúa, để như Lời Chúa như kim chỉ nam giúp chúng con thắng vượt được mọi mưu thâm chước hiểm của ba thù là ma quỉ, thế gian, xác thịt Amen.
Mặc dù mới chỉ là ngày Mồng Năm Tết, nhưng bước vào Nhà Thờ, có lẽ mỗi người chúng ta thấy bầu khí phụng vụ có sự thay đổi. Lễ phục trong phụng vụ đã chuyển sang màu Tím. Các bình hoa đã được cất bớt đi. Tiếng đàn cũng không còn rộn ràng như những ngày đầu Xuân... Tất cả những điều đó như muốn nhắc mỗi người chúng ta rằng: phụng vụ đã bắt đầu bước vào Mùa Chay. Khi nói đến "mùa Chay", chắc hẳn gợi lên trong tâm trí của từng người chúng ta việc sám hối. Chúng ta cần sám hối vì trong cuộc sống của mình, chúng ta đã không thiếu lần lầm lỡ, không thiếu lần làm những điều mà mình không muốn.
Do đó, để giúp con cái mình nhận thức rõ hơn điều này, ngay trong Chúa Nhật I Mùa Chay này, mẹ Giáo Hội mời gọi mỗi người chúng ta theo bước Đức Giêsu vào hoang địa, để nhận mặt lại tên cám dỗ và những mưu kế của nó, để rồi theo gương Đức Giêsu, và nhờ sự trợ lực của Ngài, chúng ta cũng có thể chiến thắng nó.
1. KHUÔN MẶT TÊN CÁM DỖ:
CÁM DỖ 1: BIẾN ĐÁ THÁNH BÁNH .
Khởi sự cho sứ vụ công khai của mình, ngay sau khi chịu phép Rửa bởi Gioan, Đức Giêsu "được Thánh Thần dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ". Tại đây, Đức Giêsu đã "nhịn ăn bốn mươi đêm ngày" và sau đó "Người cảm thấy đói". Và ngay lập tức tên cám dỗ ra tay hành động. Nó nói với Đức Giêsu: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy khiến những hòn đá nầy biến thành bánh".
Đây là một cám dỗ rất dễ gặp trong cuộc sống của mỗi người chúng ta. Nó cũng rất tế nhị, vì gắn liền với bản năng tự nhiên của con người: bản năng sinh tồn. Hơn nữa, nhìn qua bên ngoài, nó còn có vẻ hợp lý với suy nghĩ tự nhiên của con người: đói thì ăn, khát thì uống. Cơn cám dỗ này hôm nay vẫn tồn tại dưới dạng một hình thức khác, chẳng hạn như lý luận: "Có thực mới vực được đạo", nghĩa là đặt ưu tiên cho "cái bụng, cái trước mắt" trước lãnh vực "siêu nhiên, đời sống tinh thần". Hay nói theo cách nói của thánh Phaolô: "Họ lấy cái bụng làm Thiên Chúa" (Pl 2, 19). Thế rồi dựa vào lý luận này, chúng ta cứ tự biện minh cho sự khô khan, nguội lạnh của mình. Và thế là ừng bước một, tên cám dỗ dẫn chúng ta đi xa dần Thiên Chúa.
CÁM DỖ 2: NGHI NGỜ SỰ HIỆN DIỆN CỦA THIÊN CHÚA .
Kế đó, tên cám dỗ đã đưa Đức Giêsu lên góc tường của Đền Thờ rồi nói với Ngài: "Nếu ông là Con Thiên Chúa hãy gieo mình xuống đi, vì có lời chép rằng: Ngài đã ra lệnh cho các thiên thần đến với ông, và chư vị đó sẽ ngâng đỡ ông trên tay, để ông khỏi vấp chân vào đá". Đây là một cám dỗ nghi ngờ về sự hiện diện của Thiên Chúa. Cám dỗ này rất dễ gặp, nhất là những khi chúng ta gặp thử thách, gian nan: Tin và sống công chính thì được lợi lộc gì? Nó còn là một thách thức trong đời sống đức tin khi phải đối diện với mầu nhiệm về sự dữ: Tại sao người sống bất công vẫn gặp may?
Mặt khác, cám dỗ này vẫn còn mang tính thời sự của nó mỗi khi chúng ta đặt mình trong dịp tội. Mỗi lần đi bia ôm, karaokê ôm, uống café ôm, hay bạn bè với những người xấu, ngồi coi đánh bạc, nhậu nhẹt, xem film sex ... phải chăng là những lần chúng ta đang thử thách Thiên Chúa? Cám dỗ này còn là cám dỗ đòi những sự kiện giật gân bên ngoài, đòi những phép lạ. Chính Chúa Giêsu, trong suốt hành trình sứ vụ vẫn tiếp tục đối diện với cơn cám dỗ này. Đám đông dân chúng đi theo Ngài vẫn luôn đòi một dấu lạ
(x. Mt 16, 1-ABC4). Nhất là khi bị treo trên thập giá, Đức Giêsu cũng đã gặp lại thử thách này. Đám đông đứng dưới chân thập giá đã lớn tiếng thánh thức Đức Giêsu: "Nếu mày là Con Thiên Chúa! Hãy xuống khỏi thập giá đi nào!" (Mt 27, 40).
CÁM DỖ 3: THỜ NGẪU TƯỢNG
Thất bại trong hai cám dỗ đầu tiên, giờ đây, tên cám dỗ đã đưa ra trước mắt Đức Giêsu mọi vinh quang trần thế để lôi kéo Ngài quay lưng trở lại với Thiên Chúa. Đây cũng là một cơn cám dỗ rất dễ gặp trong đời thường vì nó gắn liền với những lợi lộc vật chất thấy ngay trước mắt: tiền bạc, danh vọng, quyền thế ... Nó đánh ngay vào cái gọi là sự đam mê quyền lực của mỗi người chúng ta. Ngay trong vườn Địa Đàng, ông bà Nguyên Tổ đã không thể đứng vững cơn cám dỗ này, khi nghe con rắn nói: "Ngày nào các ngươi ăn trái ấy,... các ngươi sẽ biết thiện ác như thần thánh". Ông bà đã lập tức hái và ăn trái cây Thiên Chúa cấm. Và con người hôm nay cũng thế. Đã có biết bao nhiêu người không ngần ngại dùng đủ mọi thủ đoạn, kể cả việc "giết người, phản thầy, hại bạn" để đoạt cho được quyền lực về trong tay mình.
Đây là cám dỗ đặt quyền lực và vinh quang trần thế vượt trên tất cả. Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Philip đã nhận xét về những người này như sau: "Họ lấy cái bụng làm Thiên Chúa, vinh quang đặt nơi điều đáng phải xấu hổ, họ chỉ biết nghĩ đến những điều dưới đất" (Pl 3, 19).
Qua một vài điểm tìm hiểu như thế, chúng ta thấy tên cám dỗ không chỉ có vào thời Đức Giêsu, nhưng vẫn đang tiếp tục tấn công mỗi người chúng ta hôm nay. Đó là cơn cám dỗ về của ăn, cám dỗ chúng ta ngã lòng khi nghi ngờ về sự hiện diện của Thiên Chúa, hoặc là sự lôi kéo chúng ta đặt mình trong dịp tội; đó còn là cám dỗ về lòng khao khát quyền lực và vinh quang trần thế trong mỗi người chúng ta Và cuối cùng, mặc dù ranh ma, nhưng cuối cùng tên cám dỗ đã phải thất bại ê chề. Nó đã phải rút lui trong nhục nhã trước lòng tin, sự cậy trông và lòng mến sắt son của Đức Giêsu nơi Thiên Chúa Cha.
2. PHƯƠNG THẾ VƯỢT THÁNG CƠN CÁM DỖ:
Nhìn lại cuộc chiến thắng của Đức Giêsu, chúng ta có thể rút ra các bài học như sau:
Thứ nhất, Đức Giêsu đã có một thái độ dứt khoát về sự chọn lựa của mình. Sự chọn lựa này không chỉ trong tư tưởng mà thể hiện ra ngay bên ngoài. Ngài nói với tên cám dỗ: "Xéo đi! Sa tan! Vì có lời chép: Ngươi phải thờ lạy Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng sự một mình Ngài". Đây quả là một lời mạnh mẽ, rõ ràng nói lên chọn lựa kiên quyết của Đức Giêsu đối với chương trình của Chúa Cha. Đối với Đức Giêsu: "Người ta sống không chỉ nhờ bánh, nhưng là nhờ vào mọi lời xuất từ miệng Thiên Chúa". Và để sống trọn vẹn sự chọn lựa này, Đức Giêsu đã dành trọn cuộc đời mình để thi hành ý muốn của Chúa Cha. Đối với Đức Giêsu, Thánh Ý Chúa Cha là trên hết. Nó vượt trên cả bánh ăn cho thân xác, và trên cả mọi vinh quang trần thế. Đức Giêsu đã luôn thi hành điều này một cách tuyệt đối trong suốt cuộc đời của mình, Ngài đã từng nói với các môn đệ bên bờ giếng Giacóp: "Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta" (Ga 4, 34a; x. Lc 22, 42; Pl 2, 8).
Kế đó, là việc sống gắn bó và sự cậy dựa vào ơn Chúa. Trở lại với các bài đọc, chúng ta thấy trong vườn Địa Đàng, ông bà Nguyên tổ đã dùng lý luận của mình để đối thoại với tên cám dỗ, nên đã thất bại cách thảm hại. Còn trong bài Tin mừng, Đức Giêsu đã hoàn toàn dùng lời Chúa để trả lời cho tên cám dỗ, nên Ngài đã chiến thắng vẻ vang, và "các thiên thần đã đến hầu hạ Ngài".
Giờ đây, trong những ngày đầu Năm Mới Âm lịch và cũng là những ngày đầu của Mùa Chay, nhờ sự cầu bầu của Mẹ Maria, và nhất là ân sủng của Đức Giêsu trong bí tích Thánh Thể, mỗi người chúng ta hãy quyết tâm chọn Chúa làm cùng đích của cuộc đời mình. Đồng thời, trong Năm Mới này, chúng ta hãy siêng năng đọc và suy gẫm Lời Chúa, nhờ đó, chúng ta sẽ có đủ sự khôn ngoan để nhận ra khuôn mặt của tên cám dỗ, và có đủ nghị lực và sức mạnh để chiến thắng nó. Amen.
Nếu không có bài Tin Mừng hôm nay, người ta dễ dàng nghĩ rằng sở dĩ Đức Giê-su hoàn toàn vô tội là vì Ngài không bị hề cám dỗ. Nhưng đoạn Tin Mừng này cho thấy chính Đức Giê-su - dù là Con Thiên Chúa, có bản tính thần linh hoàn toàn trong sạch - cũng bị ma quỉ cám dỗ. Thật là một mạc khải bất ngờ, đáng ngạc nhiên và rất lý thú, đồng thời cũng là điều an ủi chúng ta, tạo động lực cho chúng ta thắng những cơn cám dỗ xảy đến.
Đức Giê-su là Thiên Chúa mà cũng bị cám dỗ, nên chúng ta vốn là người phàm, nếu có bị cám dỗ, dù nặng nề tới đâu, cũng là chuyện dễ hiểu. Điều đó có nghĩa: đã là con người thì đều bị cám dỗ. Và sự kiện Đức Giê-su bị cám dỗ chứng tỏ Ngài đích thực là con người y như chúng ta. Kinh Thánh cho biết Ngài cũng yếu đuối như chúng ta, nhờ vậy Ngài rất thông cảm với sự yếu đuối cũng như tội lỗi của chúng ta: "Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội" (Dt 4,15). Qua câu Kinh Thánh trên, ta lại được biết rằng tuy bị cám dỗ như ta, nhưng Ngài khác với ta ở chỗ không hề phạm tội, nghĩa là Ngài đã luôn luôn thắng mọi cơn cám dỗ, không bao giờ sa ngã.
2. Tội lỗi là sự chọn lựa SAI giữa hai điều tốt
Thiên Chúa đã chấp nhận để cho chúng ta - kể cả Đức Giê-su - bị cám dỗ. Điều đó cho thấy cám dỗ không phải là một điều xấu. Trái lại có thể đó là một điều cần thiết. Thật vậy, bị cám dỗ là một dịp để ta chứng tỏ tình yêu của mình đối với Thiên Chúa và tha nhân, và sự vâng phục của ta đối với Ngài. Vì một người không thể chứng tỏ rằng mình yêu mến, vâng phục... nếu không hề bị thử thách, nghĩa là chưa có cơ hội để không vâng lời, không yêu mến. "Lửa thử vàng, gian nan thử người công chính" (Cn 17,3), "Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?" (Nguyễn công Trứ).
Khi bị cám dỗ, có khi ta phải chọn lựa giữa điều tốt và điều xấu. Điều này thường xảy ra cho người có tâm linh còn non yếu, để họ có dịp chứng tỏ họ đứng hẳn về phía tốt. Còn những người đã lên tới những bậc thang tâm linh cao, thì khi bị cám dỗ, họ thường phải lựa chọn giữa hai điều đều là tốt cả, nhưng lương tâm buộc họ phải chọn điều tốt hơn, để chứng tỏ sự quyết tâm tiến tới trọn hảo. Chẳng hạn trong cơn cám dỗ đầu tiên của Đức Giê-su, việc biến đá thành bánh để ăn khi đói chẳng có gì là xấu. Trái lại, ăn khi đói còn là một điều cần thiết để sống còn. Sớm muộn gì thì Ngài cũng phải ăn để sống, nhưng có thể lúc đó chưa tới thời hạn ăn như Ngài đã quyết định từ đầu. Như vậy Ngài phải chọn lựa giữa hai điều đều là tốt cả: một là thỏa mãn nhu cầu ăn để sống, hai là tự chủ để thực hiện đúng điều mình đã quyết định từ trước về thời hạn nhịn ăn khi mà nhịn thêm ít lâu nữa cũng chẳng hại gì. Quyết định nào cũng đều chứng tỏ lập trường của mình là đã coi trọng cái nào hơn cái nào.
Nhờ có hai đối tượng phải lựa chọn mà ta chứng tỏ được ta quí đến mức độ nào cái giá trị mà ta chọn lựa. Nếu phải lựa chọn một viên kim cương khá to với một lượng vàng, chắc chắn ai cũng chọn viên kim cương, và sự lựa chọn ấy không chứng tỏ được giá trị đích thực của viên kim cương. Nhưng nếu phải lựa chọn giữa 100 lượng vàng với viên kim cương, mà ta chọn viên kim cương, thì chứng tỏ ta đã coi viên kim cương có giá trị hơn số vàng ấy (đương nhiên có người chọn khác ta). Thiên Chúa cũng muốn ta chứng tỏ rằng ta coi tình yêu của Ngài giá trị hơn nhà cửa, ruộng vườn, của cải, thậm chí hơn cả anh em, cha mẹ, vợ con của ta, bằng cách tạo dịp để ta lựa chọn giữa Ngài và những giá trị ấy. Và đó chính là cám dỗ.
3. Những nhu cầu chính đáng trong những cơn cám dỗ
Trong ba cơn cám dỗ của Đức Giê-su, ta thấy những cơn cám dỗ luôn luôn dựa trên những nhu cầu và giá trị hết sức thực tế và chính đáng của đời sống con người. Những cơn cám dỗ luôn luôn đặt ta giữa hai loại giá trị: một là những giá trị hết sức thực tế của đời sống, hai là những giá trị tâm linh (tình yêu đối với Thiên Chúa, với tha nhân, chân lý, công lý, lý tưởng, v.v...). Nhờ đó ta có dịp chứng tỏ ta coi trọng giá trị nào hơn. Sau đây là những nhu cầu thực tế của đời sống được dùng trong những cơn cám dỗ:
a. Ứng với cám dỗ thứ nhất của Đức Giê-su là nhu cầu sự sống (sự an toàn bản thân, ăn uống, tình dục, sự thoải mái, giàu sang): Sự sống là một giá trị rất lớn Thiên Chúa ban cho ta, ta có nhiệm vụ quí trọng và bảo vệ nó, nhưng không phải là với bất cứ giá nào. Có những giá trị còn cao hơn sự sống. Chẳng hạn giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và chính sự sống mình, các thánh tử đạo xưa đã chọn tình yêu Thiên Chúa và sẵn sàng chấp nhận cái chết.
Trong cuộc đấu tranh cho công lý, chống áp bức bất công, những người đấu tranh như Martin Luther King (Mỹ da đen), ĐGM Oscar Romero (Salvador), LM Jerzy Popieluszko (Ba Lan)... đã coi công lý, tình yêu đối với người nghèo, người bị áp bức hơn sự an toàn bản thân, thậm chí hơn cả mạng sống. Chắc chắn họ cũng rất quí sự sống và sự an toàn bản thân, nghĩa là cũng sợ chết, sợ bị tra tấn, phiền nhiễu... Nhiều khi họ bị cám dỗ chọn lựa sự sống, sự an toàn bản thân hơn những giá trị kia. Nhưng lựa chọn cuối cùng và dứt khoát của họ là công lý xã hội và tình thương đối với với những kẻ bị áp bức. Ngược lại, ta cũng thấy có biết bao người vì muốn được an toàn bản thân, muốn bảo vệ nồi cơm hay sự thoải mái đang có được của mình, của gia đình mình, mà sẵn sàng câm lặng trước bất công, sẵn sàng đồng lõa hoặc làm tay sai cho những thế lực gây bất công... Họ đã quí sự sống và nồi cơm, địa vị của họ hơn công lý.
b. Ứng với cám dỗ thứ hai của của Đức Giê-su là nhu cầu phình to bản ngã (muốn được nổi danh, được nể phục, được coi là quan trọng, được khen tặng, được thỏa mãn tự ái và tính kiêu ngạo): Ai cũng cho "cái tôi" của mình là quan trọng, muốn mình là "cái rốn của vũ trụ", và không muốn bị ai xúc phạm. Trong một chừng mực nào đó, thì điều đó là tốt, nhờ đó mới phát sinh lòng tự trọng, giữ uy tín, muốn thăng tiến, v.v... Nhưng vượt quá chừng mực đó thì trở thành điều xấu. Nói chung, danh thơm tiếng tốt, uy tín, sĩ diện... đều là những giá trị hết sức cao quí, đến nỗi Nguyễn công Trứ để phải thốt lên: "Đã mang tiếng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông", hoặc "Không công danh thà nát với cỏ cây", "Trót sinh ra thì phải có chi chi, chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu". So với những loại giá trị bình thường, ta nên coi danh dự, công danh của mình cao hơn. Vì không coi trọng danh dự, uy tín, ta sẽ bị coi là tiểu nhân. Nhưng vẫn có những giá trị cao hơn công danh, uy tín... đó là những giá trị tâm linh như đã nói trên. Nếu để thăng tiến, phát triển bản thân mà ta phải đối xử thiếu tình người, phải hạ kẻ khác xuống, coi người khác là công cụ, là bàn đạp, là vật hy sinh cho mình, sẵn sàng "đội trên đạp dưới", thì có nghĩa là ta đã coi những giá trị ấy cao hơn công lý và tình thương. Tội lỗi phát sinh từ sự lựa chọn sai trái ấy.
c. Ứng với cám dỗ thứ ba của của Đức Giê-su là nhu cầu thống trị (thích quyền lực, thích làm chủ để điều khiển, muốn mọi sự phải xẩy ra theo ý mình): đây cũng là một nhu cầu rất lớn trong tâm lý con người. Ai cũng thích người khác chiều ý mình, thích áp đặt ý mình lên người khác. Quyền lực cũng là một giá trị. Trong xã hội, cần phải có những người có quyền lực, có quyền ép buộc người khác làm theo lệnh mình. Nhưng quyền lực ấy là để phục vụ xã hội, để tạo an ninh, trật tự và công lý trong xã hội, làm xã hội trở nên tốt đẹp hơn. Quyền lực này có thể đạt được một cách chính đáng bằng tài năng và đức độ của mình nhằm phục vụ xã hội. Nhưng cũng có thể đạt được bằng những phương tiện không chính đáng nhằm được hưởng những đặc quyền đặc lợi trong xã hội chứ không phải để phục vụ. Người sử dụng quyền lực luôn luôn phải lựa chọn giữa hai giá trị: lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể. Nếu hành động vì lợi ích tập thể thì là thánh thiện, nếu chỉ vì lợi ích cá nhân thì là tội lỗi.
Thiên Chúa luôn luôn muốn chúng ta đặt nặng tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân trên hết mọi sự, mọi giá trị: "Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ" (MC 12,33). Chúng ta sẽ có dịp chứng tỏ lòng yêu mến ấy của chúng ta trong những cơn cám dỗ.
CẦU NGUYỆN
Chúa nói với tôi: "Những cám dỗ xảy đến với con là do thánh ý của Cha. Cha muốn con có dịp chứng tỏ tình yêu của con đối với Cha, và đối với những giá trị tâm linh mà Cha hằng yêu quí, như "Công Lý, Tình Thương và Lòng Thành Thật" (Mt 23,23). Nếu con yêu mến Cha thật sự, con phải chứng tỏ được tình yêu ấy trong những cơn thử thách ấy. Sự thành công hay thất bại trong những cơn cám dỗ ấy giúp con xác định được tình yêu của con đối với Cha như thế nào, nó giúp con hiểu biết chính con hơn".
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giê-su như một Mô-sê Mới, lãnh đạo một cuộc Xuất Hành Mới. Người còn là hiện thân của dân Ít-ra-en Mới vào sa mạc để sống lại kinh nghiệm của dân Ít-ra-en xưa trong sa mạc và trên núi Xi-nai (x Đnl 8,2-4). Có điều khác với Ít-ra-en xưa đã vấp ngã trước cám dỗ của ma quỷ khi trải qua sự đói khát, kiêu ngạo và tôn thờ tà thần, Đức Giê-su đã qua các cơn thử thách cám dỗ mà vẫn trung thành với sứ mạng của mình. Người muốn nêu gương cho chúng ta hôm nay về phương cách chống trả các cơn cám dỗ thế nào.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-ABC4:
+ Được Thần Khí dẫn vào hoang địa: Thần khí đã ngự xuống trên Đức Giê-su, giờ đây lại hướng dẫn Người vào nơi hoang vắng, có lẽ là một hang núi gần thành Giê-ri-cô.
+ Để chịu quỷ cám dỗ: Cám dỗ đồng nghĩa với sự thử thách do ma quỷ thực hiện. Khi bị cám dỗ mà chiều theo thì mới phạm tội. Còn nếu bị cám dỗ mà chống trả được thì lại có công. Đức Giê-su cũng trải qua sự thử thách, nghĩa là phải lựa chọn giữa tốt và xấu. Thần Khí đã đặt Đức Giê-su vào một hoàn cảnh để Người tự khẳng định lập trường và chứng tỏ là Con hiếu thảo luôn làm đẹp lòng Chúa Cha.
+ Bốn mươi đêm ngày: Cũng như Mô-sê trước khi nhận hai bia đá Giao ước, đã lên núi bốn mươi ngày đêm, ăn chay cầu nguyện (x. Đnl 9,9), và sau đó lại ăn chay thêm bốn mươi ngày đêm để nài xin Đức Chúa nguôi giận mà tha tội cho dân Ít-ra-en đã vi phạm Giao ước khi đúc tượng bê vàng mà thờ lạy (x. Đnl 9,18). Ngoài ra con số bốn mươi trong Thánh Kinh nhằm để ám chỉ một thời gian khá dài như: lụt đại hồng thủy suốt bốn mươi ngày đêm, dân Ít-ra-en đi trong hoang địa bốn mươi năm, Vua Đa-vít cai trị bốn mươi năm, bốn mươi ngày giữa lễ Phục Sinh và lễ Thăng Thiên… Sở dĩ Đức Giê-su có thể ăn chay nhịn đói suốt bốn mươi ngày đêm là nhờ ơn Chúa nâng đỡ.
+ Nếu ông là Con Thiên Chúa: Tước hiệu này thuộc nội dung các lời hứa về Đấng Mê-si-a con vua Đa-vít (x. Tv 2,7; 89,27). Ngoài ra tước hiệu này nới Đức Giê-su còn mang ý nghĩa về Thần tính của Người.
+ Hãy truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi: Ma quỷ xúi giục Đức Giê-su hãy biến các viên đá cuội thành bánh mì mà ăn. Chúng hy vọng có thể do bị đói khát, Người sẽ quên vai trò Đấng Mê-si-a để làm theo ý riêng hơn là vâng theo thánh ý Thiên Chúa.
+ Đã có lời chép: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh…”: Đây là lời trong Sách Đệ Nhị Luật (8,3) mà Đức Giê-su đã chọn để sẵn sàng vâng phục Thiên Chúa, nhờ đó Người đã chiến thắng cơn cám dỗ của ma quỷ. Sau này Người cũng nói: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34).
- C 5-7:
+ “Hãy gieo mình xuống đi”: Ma quỷ xúi Đức Giê-su thử thách quyền năng Thiên Chúa khi gieo mình từ trên cao rơi xuống để buộc Thiên Chúa phải ra tay làm phép lạ cứu cho khỏi chết.
+ Có lời chép rằng: “Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn…”: Ma quỷ đã nêu ra câu Thánh Vịnh này theo nghĩa đen (Tv 91,11-12).
+ Nhưng cũng đã có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách…”: Đây là câu lời Chúa trong sách Đệ nhị luật: “Anh em đừng thách thức Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, như anh em đã thách thức ở Ma-xa” (Đnl 6,16). Trái với dân Ít-ra-en xưa đã đòi Đức Chúa phải làm dấu lạ để chứng minh quyền năng của Ngài, còn Đức Giê-su hoàn toàn tin cậy và không thử thách quyền năng của Chúa Cha bằng việc đòi Ngài phải làm dấu lạ bề ngoài (x. Ga 6,30-33).
- C 8-11:
+ Đem Người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian…: Câu này nhắc lại sự kiện xưa kia Mô-sê lên núi Nê-bô và đã được Đức Chúa cho nhìn thấy tất cả Miền Đất Hứa (x. Đnl 31,1-4). Nay ma quỷ cũng tác động làm cho Đức Giê-su tưởng tượng ra mình đang ở trên núi và nhìn thấy những của cải châu báu để cám dỗ Người hãy thờ lạy nó như chúa tể để được nó ban cho của cải trần gian.
+ Xa-tan kia, xéo đi !: Xa-tan nghĩa là “tên cám dỗ”. Sau này Đức Giê-su cũng xua đuổi Phê-rô giống như thế khi ông cám dỗ Người đừng chấp nhận con đường thập giá theo ý Chúa Cha (x. Mt 16,23).
1) HỎI: Cám dỗ là gì ? Bị cám dỗ thì đã phạm tội chưa ? Ta cần làm gì để khỏi sa chước cám dỗ của ma quỷ, thế gian và xác thịt mình ?
ĐÁP:
- Cám dỗ là việc ma quỷ xúi giục một người phạm tội chống lại Thiên Chúa khi cố tình không vâng lời Chúa dạy để vi phạm các giới răn Ngài truyền.
- Mỗi cơn cám dỗ thường có ba giai đoạn: Một là ma quỷ gợi lên một hình ảnh, một tư tưởng xấu trong tâm trí người ta. Hai là ma quỷ xúi người ta thỏa mãn đam mê dục vọng ấy bằng sự ưng thuận. Ba là sự chọn lựa tự do: nếu chiều theo ma quỷ tức là phạm tội và làm Chúa buồn. Còn nếu từ chối không nghe theo ma quỷ, họ sẽ được Chúa chúc phúc và sẽ làm cho Chúa vui.
- Để khỏi sa chước cám dỗ của ma quỷ, chúng ta hãy noi gương Chúa Giê-su: Năng hãm mình và ăn chay để tập làm chủ bản năng của mình, siêng năng học sống Lời Chúa, vì Lời Chúa sắc bén như thanh gươm hai lưỡi có thể chiến đấu với ma quỷ như Đức Giê-su đã nêu gương (x. Mt 4,4.7.10), năng cầu xin ơn Chúa ban ơn trợ giúp và luôn làm theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần như Đức Giê-su đã luôn theo sự hướng dãn của Thần Khí (x.Mt 4,1).
2) HỎI: Đức Giê-su bị ma quỷ cám dỗ trong tâm trí hay trong thực tế ?
ĐÁP: Việc quỷ đặt Đức Giê-su lên nóc Đền thờ, đem Người lên một ngọn núi cao và chỉ cho Người xem tất cả vinh hoa lợi lộc của các nước trên thế gian… cho thấy Đức Giê-su có bị ma quỷ cám dỗ, nhưng chúng chỉ cám dỗ Người trong tâm trí, chứ không thực sự đem Người từ nơi này đến nơi kia.
3) HỎI: Đức Giê-su trải qua cơn cám dỗ của ma quỷ nhằm mục đích gì?
ĐÁP: Sau khi chịu phép Rửa của Gio-an và được Thần Khí hiện xuống xức dầu thiêng liêng tấn phong làm Đấng Ki-tô, Đức Giê-su đã được Thần Khí dẫn vào hoang địa ăn chay 40 đêm ngày và chịu ma quỷ cám dỗ. Sở dĩ Người chịu ma quỷ cám dỗ là nhằm ba mục đích như sau:
- Một là để trải qua những sự thử thách của nguyên tổ A-đam E-và xưa trong vườn địa đàng (x St 3,1-24), và của dân Ít-ra-en trong cuộc Xuất Hành (Đnl 8,2-4). Vì Người là A-đam Mới và là Ít-ra-en Mới của Thiên Chúa trong thời Tân Ước (x Rm 5,18-19).
- Hai là để nêu gương ăn chay cầu nguyện cho các tín hữu, nhờ đó chúng ta sẽ làm chủ được bản thân và sẽ dễ dàng chiến thắng ma quỷ cám dỗ chúng ta hưởng thụ các lạc thú bất chính (x Mt 17,21; MC 9,29)..
- Ba là để nêu gương vâng theo sự hướng dẫn của Thần Khí hay Chúa Thánh Thần: Nếu chúng ta biết nghe theo sự hướng dẫn của Thần Khí qua việc siêng năng học sống Lời Chúa, chúng ta sẽ luôn vâng lời Chúa phán hơn là nghe theo ma quỷ để làm theo ý mình, như Đức Giê-su có lần đã quở trách ông Si-mon Phê-rô (x Mt 16,21-23).
2. CÂU CHUYỆN: TAM THẬP LỤC KẾ: ĐÀO VI THƯỢNG SÁCH
Ở núi Phong Khê đất Thục có một giống đười ươi có bộ mặt giống như người. Chúng biết nói cười và máu của chúng được người ta dùng làm thuốc nhuộm quần áo rất tốt, nên các thợ săn thường tổ chức săn bắt chúng. Biết được loài đười ươi này thích uống rượu và đi guốc, thợ săn đã đem rượu và guốc đến bày la liệt trên một cánh đồng trống để nhử chúng, rồi ẩn núp ở nơi kín đáo chờ đợi. Dù sống sâu trong rừng, nhưng loài đười ươi lại có khứu giác rất nhậy nên chúng đã ngửi thấy mùi rượu thơm liền kéo nhau tìm đến cánh đồng uống rượu. Tuy các con già đời đoán biết đó là bẫy của bọn thợ săn, nên đã nhắc nhở cho cả bầy rằng: “Hãy cảnh giác, đừng khờ dại uống rượu đi guốc kẻo bị mắc mưu của bọn người độc ác kia đó”. Cả bầy nghe vậy liền buồn bã bỏ đi. Nhưng rồi một con bị mùi rượu thơm hấp dẫn không thể cưỡng lại, liền tỏ ra bất chấp lời khuyên khôn ngoan kia và rủ đồng bọn quay trở lại. Rồi “quen mui thấy mùi ăn mãi”, chúng tranh giành nhau chí choé nốc cạn hết bầu rượu này đến bầu rượu khác. Đến lượt các con già cả khôn ngoan tuy biết là nguy hiểm, nhưng không thể cưỡng được sự hấp dẫn của rượu, cũng lao vào uống no say. Sau đó chúng xỏ chân vào guốc bên cạnh bước tới bước lui ngả nghiêng trông thật tức cười. Bấy giờ bọn thợ săn liền hò nhau từ chỗ ẩn nấp, nhất tề xông đến vây bắt. Thấy bọn thợ săn, bầy đười ươi đáng thương liền bỏ chạy tán loạn. Nhưng chân đi guốc không quen, bị té nhào vào nhau và bị bọn thợ săn bắt gọn không sót một con.
Than ôi! Biết rõ người ta đặt bẫy hại mình, mà vẫn lao vào ăn uống đến nỗi tất cả đều bị mất mạng thì thật ngu dại hết sức! Đối với nhiều người hôm nay thì rượu chè, cờ bạc, trai gái, hút chích sì-ke ma túy… là những thứ làm mất nhân tính, biến mình trở thành những kẻ bất lương trộm cướp giết người, rồi còn có thể bị lây nhiễm HIV-AIDS. Thế mà vẫn có không ít người nhắm mắt lao mình vào những đam mê chết người đó thì không phải khờ dại lắm sao ?
Đối với các cơn cám dỗ về đam mê sắc dục và ma túy, thì đừng bao giờ nghĩ rằng mình có đủ bản lãnh để chống trả lại được, và cần phải theo lời cổ nhân dạy: “Tam thập lục kế: Đào vi thượng sách” (Ba mươi sáu phương thế thì chạy trốn là phương thế hay nhất). Đừng bao giờ thử hút chích sì ke ma túy, thử đi bia ôm, thử đánh số đề một lần… Vì nếu thử dù chỉ một lần mà thôi thì đã bắt đầu trở thành con nghiện và là người xấu thuộc về ma quỷ rồi vậy !
Cũng như xưa, ngày nay ma quỷ thường cám dỗ chúng ta về ba phương diện như sau:
+ Một là về THÚ VUI:
Ma quỷ xúi Đức Giê-su biến các viên đá cuội trở thành bánh mì mà ăn, tức là dùng quyền năng Thiên Chúa để thỏa mãn các nhu cầu vật chất thể xác, giống như dân Ít-ra-en trong hoang địa ngày xưa đã kêu trách Đức Chúa và Mô-sê khi họ bị đói khát và thèm thịt thà và các thứ rau thơm mà họ đã từng ăn khi còn ở Ai cập (x. Xh 16,3). Ngày nay ma quỷ cũng thường cám dỗ chúng ta tìm thỏa mãn các đam mê xác thịt bất chính như ăn chơi sa đọa, rượu chè say xỉn, chơi cờ bạc số đề và hút chích sì-ke ma túy…
+ Hai là về DANH VỌNG:
Ma quỷ xúi Đức Giê-su nhảy từ nóc Đền thờ xuống để được người đời khen ngợi và để thử thách đòi Thiên Chúa phải chứng tỏ quyền năng bằng việc ra tay làm phép lạ cứu ngài thóat chết (x. Lc 23,35). Ngày nay ma quỷ cũng thường cám dỗ chúng ta thử thách quyền năng Thiên Chúa khi đòi Ngià làm phép lạ trái với định luật tự nhiên do Ngài an bài chung trong vũ trụ thiên nhiên để chiều theo sở thích cá nhân riêng tư của chúng ta !
+ Ba là QUYỀN LỢI:
Ma quỷ xúi Đức Giê-su sấp mình thờ lạy nó để được nó ban cho quyền hành trên muôn nước và được hưởng các thứ lợi lộc giàu sang (x. Xh 32,6). Ngày nay ma quỷ cũng thường cám dỗ chúng ta chối bỏ Thiên Chúa và tôn thờ sức mạnh của tiền tài, chọn làm những việc bất chính miễn là có nhiều tiền như: buôn bán sì ke ma túy, mở quán bia ôm, cà phê tươi mát, tin theo thầy bói, đồng bóng, cầu cơ, buôn lậu, tham nhũng, sản xuất hàng nhái…
2) PHƯƠNG THẾ ĐỂ CHIẾN THẮNG MA QUỶ CÁM DỖ:
Đức Giê-su đã chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ bằng các phương thế như sau:
+ ĂN CHAY CẦU NGUYỆN:
Người đã vào hoang địa ăn chay cầu nguyện suốt 40 đêm ngày. Ma quỷ đã đánh thẳng vào điểm yếu của Đức Giê-su là tình trạng bị đói để xúi Người biến đá thành bánh ăn. Nhưng nhờ nội lực mạnh mẽ do ăn chay cầu nguyện, mà Người đã chiến thắng ma quỷ. Sau này Người cũng dạy các môn đệ phải dùng phương thế chay tịnh cầu nguyện như sau: “Giống quỷ ấy chỉ trừ khử được bằng lời cầu nguyện thôi” (MC 9,29).
+ HỌC SỐNG LỜI CHÚA:
Để đáp lại sự trích dẫn Lời Chúa của ma quỷ, Đức Giê-su cũng dùng Lời Thánh Kinh để bắt chúng phải câm miệng. Lời Chúa chính là ánh sáng chỉ đường và là nguyên tắc ứng xử của Đức Giê-su. Chẳng hạn: Đáp lại lời xúi biến đá thành bánh, Đức Giê-su nêu cao Lời Chúa trong Sách Thánh: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Đnl 8,3). Đáp lại cám dỗ thờ lạy ma quỷ để được hưởng quyền hành lợi lộc của nó, Đức Giê-su nêu ra Lời Chúa trong Sách Thánh: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và thờ phượng một mình Người mà thôi” (x. Đnl 6,13). Đáp lại cám dỗ gieo mình từ nóc Đền thờ xuống, Đức Giê-su đưa ra Lời dạy của Chúa trong Sách Thánh: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (x. Đnl 6,16).
3) ÁP DỤNG CỤ THỂ:
a) Bị thử thách cám dỗ là thân phận của con người: Ðức Giê-su tuy là Con Thiên Chúa nhưng Tin Mừng cho thấy Người cũng đã trải qua cơn cám dỗ của ma quỷ. Người chịu cám dỗ để nêu gương chiến đấu và chiến thắng các chước cám dỗ của ma quỷ cho loài người chúng ta học tập noi theo. Qua việc bị ma quỷ cám dỗ, Đức Giê-su cho thấy Người cũng là một con người giống như chúng ta mọi đàng nên sẽ thông cảm với sự yếu đuối cũng như tội lỗi của chúng ta như tác giả thư Do thái đã viết: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Ðấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4,15). Tuy nhiên dù bị cám dỗ như ta, nhưng Người đã chiến thắng ma quỷ cám dỗ để nêu gương sáng cho chúng ta.
b) Phân biệt giữa cám dỗ và phạm tội:
Thực ra cám dỗ không nhất thiết là điều xấu, và có thể lại còn cần thiết nữa. Thật vậy, bị ma quỷ cám dỗ chính là dịp để chứng tỏ tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và tha nhân và chứng tỏ sự vâng phục của ta. Vì loài người chúng ta không thể chứng tỏ lòng yêu mến, vâng phục nếu không bị thử thách, nghĩa là chưa có cơ hội để có thể không vâng lời và không yêu mến như lời Thánh Kinh: “Lửa thử vàng, gian nan thử người công chính” (Cn 17,3).
Đối với người bình thường thì hay gặp cám dỗ chọn lựa giữa hai điều tốt xấu, qua đó sẽ chứng tỏ họ thuộc loại người nào. Còn đối với những người ở trình độ cao hơn, thì cám dỗ là sự lựa chọn giữa hai điều đều tốt, và họ phải chọn điều nào tốt hơn, để chứng tỏ quyết tâm lên bậc thánh thiện hơn. Thiên Chúa cũng muốn ta chứng tỏ rằng ta coi tình yêu của Ngài giá trị hơn nhà cửa, ruộng vườn, của cải, thậm chí hơn cả tình cảm anh em, cha mẹ, vợ con của ta, bằng cách cho ta có dịp chọn giữa Ngài và những giá trị ấy.
3. Chọn điều nào khi bị cám dỗ giữa hai điều tốt:
a. Ứng với cám dỗ thứ nhất của Ðức Giê-su là nhu cầu sự sống: Chẳng hạn giữa tình yêu Thiên Chúa và mạng sống của mình, các thánh tử đạo đã chọn tin yêu Thiên Chúa và sẵn sàng chấp nhận chịu chết. Trong cuộc đấu tranh cho công lý, mục sư Martin Luther King đã coi công lý, tình yêu đối với người bị áp bức hơn sự an toàn và mạng sống. Cuối cùng ông đã chết và được cả thế giới ngưỡng mộ tôn vinh. Những người nói trên đã chọn về phía đấu tranh cho công lý và tình thương những kẻ bị áp bức. Ngược lại, nếu vì muốn được an toàn, muốn bảo vệ nồi cơm hay sự thoải mái đang có mà chọn im lặng trước sai trái bất công, đồng nghĩa với sự lõa với điều xấu là chúng ta đã chịu khuất phục trước sự cám dỗ của quỷ dữ.
b. Ứng với cám dỗ thứ hai của của Ðức Giê-su là nhu cầu muốn được nổi danh: Thực ra chuộng danh thơm tiếng tốt để gia tăng uy tín và là người có sĩ diện... đều là những giá trị cao quí, như Nguyễn công Trứ đã viết: ”Ðã mang tiếng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông”. Nhưng vẫn có những giá trị cao hơn công danh, uy tín nói trên... Đó là những giá trị về tâm linh. Nếu để được thăng tiến bản thân mà “thượng đội hạ đạp” là ta đã coi những giá trị tự nhiên cao hơn giá trị tâm linh. Tội lỗi phát sinh từ sự lựa chọn không chính đáng ấy.
c. Ứng với cám dỗ thứ ba của Ðức Giê-su là nhu cầu quyền lực, muốn mọi sự xảy ra theo ý của mình: Trong xã hội, cũng cần phải có chính quyền như lời thánh Phao-lô. Nếu tranh giành quyền lực bằng phương thế chính đáng để có thể phục vụ lợi ích xã hội thì là điều đáng khuyến khích. Nhưng nếu tranh giành quyền hành vì vụ lợi ích kỷ thì lại không tốt, như ông kinh sư đã phát biểu hợp ý Đức Giê-su: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ “ (MC 12,33). cám dỗ chính là dịp để chứng tỏ lòng “mến Chúa yêu người” của các tín hữu chúng ta.
4. Phương cách chống trả cơn cám dỗ: Ngày nay khi bị cám dỗ, chúng ta cần chống trả bằng những phương cách như sau:
+ “Đào vi thượng sách”: Tránh tò mò truy cập các trang phim ảnh xấu trên mạng internet
+ Năng đọc kinh Lạy Cha để cầu xin Chúa: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”.
+ Xin ơn Chúa Trợ giúp khi bị cám dỗ: Làm dấu thánh giá và kêu cầu ơn Chúa như thánh Phê-rô xưa: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” (x. Mt 14,30-32); Dứt khoát xua đuổi ma quỷ noi gương Đức Giê-su: “Xa-tan kia, xéo đi ! Vì đã có lời chép rằng: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi !” (Mt 4,10).
+ Chọn một việc hợp sở thích như đọc sách, xem phim truyền hình, đi bơi lội hay chơi một môn thể thao lành mạnh, thăm bạn bè, tham gia hội đoàn Công giáo Tiến hành để cùng “hiệp sông Tin Mừng” hằng tuần và chu toàn công tác tông đồ truyền giáo được cấp trên trao phó.
4.THẢO LUẬN: Bạn nên chọn ơPhương thế nào hiệu quả và dễ áp dụng nhất trong các phương thế trên để chiến thắng ma quỷ cám dỗ trong Mùa chay này?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hôm nay con rất cảm phục thái độ cương quyết không khoan nhượng của Chúa khi đương đầu với ma quỷ cám dỗ. Chính nhờ ăn chay cầu nguyện suốt bốn mươi đêm ngày, mà Chúa đã được gia tăng nội lực tinh thần. Chính nhờ luôn vâng theo sự hướng dẫn của Thần Khí, mà Chúa đã luôn chọn làm theo thánh ý Chúa Cha và cương quyết xua đuổi ma quỷ cám dỗ: “Xa-tan kia, xéo đi!”.
- LẠY CHÚA. xin giúp con biết nghe theo lời khuyên của thánh Phê-rô: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự” (1 Pr 5,6-9). Nhờ đó, con sẽ trở nên con ngoan hiếu thảo, luôn làm đẹp lòng Chúa Cha, noi gương Chúa khi xưa.
Có rất nhiều lần trong đời, chúng ta đã thắng được cám dỗ là vì chúng ta chợt nhớ căn tính của mình là người Công giáo. Hôm nay trong bài Tin Mừng, thánh Mát-thêu ghi lại việc ma quỷ cám dỗ Chúa Giê-su, ít nhất đã có hai lần tên quỷ cám dỗ đề cập đến căn tính của Người: Nếu ông là Con Thiên Chúa… Căn tính thuộc về bản chất chúng ta, nhưng lại có thể vừa là lợi khí ma quỷ dùng để xúi giục chúng ta làm điều ngược lại với căn tính, vừa là sự chắc nhở giúp chúng ta chống lại cám dỗ. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay thực là một bài học sống động Chúa Giê-su để lại cho chúng ta, giúp chúng ta biết phải đối phó với cám dỗ như thế nào.
Mỗi lần nói cho Chúa Giê-su biết về căn tính của Người là “Con Thiên Chúa”, Xa-tan đều đề nghị Người hãy làm một việc để có vẻ như “chứng minh” cho căn tính ấy. Nhưng thực ra thâm ý của Xa-tan là cám dỗ Người “khoe khoang” và kiêu hãnh với căn tính ấy. Rồi hậu quả tiếp theo là sự kiêu căng sẽ khiến Chúa Giê-su hành động theo kế hoạch của riêng mình, chứ không theo kế hoạch của Thiên Chúa.
Trước hết, là Con Thiên Chúa, dĩ nhiên Chúa Giê-su có đầy đủ quyền năng để “truyền cho những hòn đá hóa bánh”. Mục tiêu của phép lạ mà Xa-tan muốn Chúa Giê-su thực hiện là gì nếu không phải chỉ là làm hết cơn đói của Chúa sau bốn mươi ngày ăn chay? Nhưng Con Thiên Chúa không sử dụng quyền năng để thỏa mãn tư lợi, mà sau này Người sẽ biến năm cái bánh và hai con cá hóa nhiều để nuôi đám đông dân chúng! Hơn nữa, mục đích của phép lạ biến hòn đá thành bánh chỉ là để ăn cho hết đói, còn hóa bánh ra nhiều là để biểu dương lòng nhân từ của Thiên Chúa đối với nhân loại. Đối với cám dỗ thứ hai, Chúa Giê-su coi hành động gieo mình xuống từ nóc Đền Thờ mà vẫn được an toàn không phải là hành động của người Con tin vào sự chở che của Cha mình, nhưng là hành động thử thách quyền năng Thiên Chúa.
“Ép buộc” Thiên Chúa phải gìn giữ cho mình được an toàn thì đâu phải là hành vi do động lực tình yêu, nhưng hàm chứa những ý đồ khác. Có thể đấy là lợi dụng căn tính Con Thiên Chúa để tạo danh tiếng cho mình, vì khi một người nhảy từ nóc đền thờ xuống mà vẫn bình yên, thì sẽ gây được tiếng vang và thán phục từ đám dân chúng! Sau cùng, cám dỗ bái lạy ma quỷ để được lợi lộc từ các nước trên thế gian quả thực là một cám dỗ nhắm thẳng vào căn tính đích thực của Chúa Giê-su. Nếu Người thay đổi căn tính của mình, thay vì làm Con Thiên Chúa và tùng phục Thiên Chúa thì sẽ làm con Xa-tan, Người sẽ được thỏa mãn với mọi sự của thế gian! Nhưng Chúa Giê-su đã nắm vững lấy căn tính đích thực của Người, vì chỉ có Thiên Chúa Cha mới là Đấng để con người Giê-su bái lạy và thờ phượng mà thôi!
Sống sứ điệp Tin Mừng
Tại sở làm, tôi thấy có người gian lận, hoặc không làm việc cần mẫn nhưng phí phạm thời giờ của sở. Thế là tôi bị cám dỗ: người ta làm như thế có sao đâu, vậy tại sao tôi phải chăm chỉ hoặc tránh mọi phung phí làm hại vật chất của sở làm gì? Lúc ấy, tôi hãy nhớ lại mình là người con của Chúa, là người Công giáo! Tại trường học, tôi thấy nhiều bạn ăn mặc lố lăng, phong cách không đàng hoàng, bồ bịch lung tung, sử dụng ma túy, có khi còn phá thai nữa. Đôi khi tôi cũng thấy “ngứa ngáy” muốn buông theo lối sống của họ, hoặc sợ mình bị chê là cổ lỗ, không hợp thời trang, hoặc bị họ xa lánh. Để thắng cám dỗ, tôi hãy nói với mình: tôi chẳng phải là người Công giáo hay sao?
Nhớ lại căn tính của mình là người Công giáo, hoặc là con cái Chúa, nhất định là một phương thức tốt để chống lại cám dỗ. Sau khi lãnh nhận phép rửa của thánh Gio-an, Chúa Giê-su đã nghe tiếng Chúa Cha phán: “Con là Con yêu dấu của Ta. Con làm đẹp lòng Ta mọi bề”. Lời khẳng định ấy nằm sâu trong tâm trí Chúa Giê-su và trở thành khí giới lợi hại và mạnh mẽ để chiến thắng mọi thứ cám dỗ. Cũng vậy, khi được rửa tội, chúng ta thực sự là con yêu dấu của Cha trên trời và là em của anh trưởng Giê-su. Căn tính này đòi hỏi chúng ta phải sống làm sao cho phù hợp với những danh hiệu đích thực của chúng ta!