Suy Niệm Tin Mừng Lễ tro ABC Bài 101-150 Hãy Ăn Năn Sám Hối và Tin Vào Tin Mừng

Thứ tư - 06/03/2019 08:04
Suy Niệm Tin Mừng Lễ tro ABC Bài 101-150 Hãy Ăn Năn Sám Hối và Tin Vào Tin Mừng
Suy Niệm Tin Mừng Lễ tro ABC Bài 101-150 Hãy Ăn Năn Sám Hối và Tin Vào Tin Mừng
Suy Niệm Tin Mừng Lễ tro ABC Bài 101-150 Hãy Ăn Năn Sám Hối và Tin Vào Tin Mừng
------------------------------

Phúc Âm: Mt 6,1-6.16-18: "Cha ngươi, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho ngươi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng không các con mất công phúc nơi Cha các con là Ðấng ở trên trời. Vậy khi các con bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Các con có bố thí, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc con bố thí được giữ kín và Cha con, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.
"Rồi khi các con cầu nguyện, thì cũng chớ làm như những kẻ giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ trông thấy. Quả thật, Ta bảo các con rằng: họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi cầu nguyện, thì hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu xin với Cha con, Ðấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.
"Khi các con ăn chay, thì đừng làm như bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt người ta. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con, Ðấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con". - Ðó là Lời Chúa.
--------------------------------
Lễ_tro-101: BUÔNG BỎ THAM SÂN SI 2
Lễ_tro-102: TIN VÀO TÌNH YÊU SỰ THA THỨ.. 4
Lễ_tro-103: MÙA CHAY: THỜI GIAN ĐỂ ĐƯỢC XÓT THƯƠNG.. 7
Lễ_tro-104: CÔNG LÝ ĐỜI SAU.. 8
Lễ_tro-105: MỆNH LỆNH MÙA CHAY.. 12
Lễ_tro-106: HÃY TRỞ VỀ.. 19
Lễ_tro-107: SUY NIỆM THỨ TƯ LỄ TRO_A.. 23
Lễ_tro-108: SUY NIỆM THỨ TƯ LỄ TRO.. 26
Lễ_tro-109: BIẾT PHẬN MÌNH.. 28
Lễ_tro-110:  BỐ THÍ – CẦU NGUYỆN – ĂN CHAY.. 30
Lễ_tro-111: Một Mùa chay sẽ ghi dấu ấn. 33
Lễ_tro-112: Đừng phô trương. 34
Lễ_tro-113: Thân phận người 36
Lễ_tro-114: TRỞ VỀ ĐỂ TẬN HƯỞNG LÒNG XÓT THƯƠNG.. 39
Lễ_tro-115: GIỮ CHAY THẾ NÀO CHO ĐẸP LÒNG CHÚA.. 42
Lễ_tro-116: CHÂN THÀNH TRỞ VỀ.. 45
Lễ_tro-117: “XIN GỠ CHÚNG CON RA KHỎI SỰ DỮ”. 49
Lễ_tro-118: ĐỜI NGƯỜI NHƯ ĐỜI HOA.. 51
Lễ_tro-119: TRO.. 56
Lễ_tro-120: HÃY LÀM HÒA VỚI THIÊN CHÚA.. 60
Lễ_tro-121: MÙA CHAY – MÙA XUÂN.. 63
Lễ_tro-122: KIẾP NGƯỜI VÔ THƯỜNG.. 65
Lễ_tro-123: DỌN TÂM HỒN – ĐÓN CHÚA XUÂN.. 67
Lễ_tro-124: SÁM HỐI CỤ THỂ.. 68
Lễ_tro-125: KÍN ĐÁO.. 72
Lễ_tro-126: HẠT BỤI HÓA KIẾP CON NGƯỜI 75
Lễ_tro-127: MÙA CHAY VÀ THÂN TRO BỤI 77
Lễ_tro-128: Khởi đầu cho một mùa sám hối trở về. 84
Lễ_tro-129: ĂN CHAY, CHIA SẺ, CẦU NGUYỆN.. 85
Lễ_tro-130: TRỞ VỀ VỚI CHÚA.. 91
Lễ_tro-131: HOÁN CẢI NỘI TÂM(*) 93
Lễ_tro-132: CÁM DỖ.. 98
Lễ_tro-133: MÙA CHAY, CUỘC HÀNH HƯƠNG VỀ VỚI LÒNG CHA.. 100
Lễ_tro-134: SỐNG TINH THẦN MÙA CHAY.. 102
Lễ_tro-135: MÙA CHAY TRỞ VỀ.. 104
Lễ_tro-136: THẬT LÒNG TRỞ VỀ VỚI CHÚA.. 107
Lễ_tro-137: SUNG SƯỚNG ĐƯỢC SỐNG DƯỚI CÁI NHÌN.. 110
Lễ_tro-138: HÃY TỰ BIẾT MÌNH.. 113
Lễ_tro-139: ĐẤNG THẤU SUỐT MỌI BÍ ẨN.. 117
Lễ_tro-140: Ý nghĩa lễ tro đầu mùa chay. 120
Lễ_tro-141: Thứ Tư Lễ Tro Lịch Sử và Thần Học. 127
Lễ_tro-142: Hãy nhớ mình là bụi tro. 131
Lễ_tro-143: Trở  Về. 133
Lễ_tro-144: BA CỘT TRỤ.. 136
Lễ_tro-145: Ăn năn _ Lm Giuse Nguyễn Hữu An. 137
Lễ_tro-146: XỨC TRO VÀ ĂN CHAY VỀ TINH THẦN.. 141
Lễ_tro-147: SỐNG CÔNG CHÍNH THẬT.. 149
Lễ_tro-148: CÁM DỖ ĐƯỢC XỨC TRO.. 150
Lễ_tro-149: Cát bụi tuyệt vời 153
Lễ_tro-150: CHA NGƯƠI, ĐẤNG THẤU SUỐT MỌI BÍ ẨN.. 155

-------------
 

Lễ_tro-101: BUÔNG BỎ THAM SÂN SI


Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

 

Con người ta thường mệt mỏi là do tâm phiền muộn mà sinh ra nhiều hơn. Cái tâm chứa đầy tham Lễ_tro-101


Con người ta thường mệt mỏi là do tâm phiền muộn mà sinh ra nhiều hơn. Cái tâm chứa đầy tham sân si nên dễ mệt mỏi, thất vọng khi không thỏa mãn điều mình muốn. Càng tham ái, sân si nhiều càng mỏi mệt… Chỉ khi con người biết buông bỏ những tham sân si lúc ấy mới thấy tâm bình an và hạnh phúc.

Có một tỷ phú sống trong căn biệt thự xa hoa. Rồi một ngày kia mắc bệnh hiểm nghèo, ông chợt nhận ra rằng tất cả những gì là danh vọng, tiền tài và vật chất, thực ra đều hư vô như mây khói.

Vì lo sợ sẽ không sống được bao lâu nữa, ông bèn tìm đến một vị danh y để xin lời khuyên. Sau khi bắt mạch, danh y nói với ông rằng: “Bệnh của ông ngoài cách này ra thì không thuốc nào có thể chữa khỏi. Tôi sẽ kê cho ông ba đơn thuốc, ông cứ theo đó mà làm, hết đơn thứ nhất thì chuyển sang đơn tiếp theo. Ba đơn thuốc đó là: Nghỉ ngơi, cho đi và buông xuống.

Nghỉ ngơi cho tâm hồn thanh thản. Cho đi để tâm hồn hạnh phúc và buông xuống để tâm hồn không còn lệ thuộc bởi danh lợi thú trần gian.

Nhưng xem ra muốn nghỉ ngơi, hay muốn cho đi thì con người phải biết buông xả mới có tâm bình an và lòng quảng đại. Con người cần phải buông đi những lợi danh, buông đi những hận thù tranh chấp, những toan tính nhỏ nhoi thì lòng mới thanh thoát bình an. Lòng buông xả thì tâm bình an. Con người còn cần buông đi những đam mê mù quáng, buông đi những thói hư tật xấu mới tìm được hạnh phúc của tự do tâm hồn.

Nguồn gốc của tội lỗi là con người luôn chất chứa những tham sân si. Con người luôn giữ cho mình những toan tính tham lam, những nóng giận cuồng điên và những mê muội cuồng si.

  Khởi đầu mùa chay Giáo hội nhắc nhở chúng ta thân phận con người chỉ là bụi tro, một mai rồi cũng trở về tro bụi. Lợi danh, quyền quý cũng chỉ là phù vân. Không có chi tồn tại. Không có chi vững bền. Tất cả đều mong manh tan vỡ theo thời gian. Vậy tại sao chúng ta phải bận lòng với những hư vô ấy? Tại sao lòng ta lại chất chứa những tham sân si để mang phiền não cho cuộc đời? Tại sao chúng ta cứ theo đuổi phù vân mà gây nên những bễ dâu cho cuộc đời?

Hãy nhìn nhận tất cả chỉ là tro bụi để can đảm buông lòng mình cho Chúa gột rửa khỏi những toan tính trần thế, những hư danh phù phiềm, những đam mê thế tục. Hãy buông bỏ những danh lợi thú để trở về với Chúa trong chay tịnh khiêm tốn ăn năn. Khi con người buông bỏ những tham ái, sân si thì cuộc đời ta mới thanh thản, hạnh phúc, tươi vui. Khi con người buông bỏ những toan tính của danh lợi thú thì cuộc đời ta sẽ không còn những tháng ngày tranh chấp, ganh đua, bon chen giành giật lẫn nhau. . .

Hôm nay ngày Lễ Tro, từng đoàn người lũ lượt lên xức tro, nhưng liệu có mấy ai đã dám buông bỏ mọi sự để trở về với Chúa? Có mấy ai thực sự không bận lòng trước những bon chen danh vọng, quyền chức, tiền tài? Có mấy ai thực sự buông bỏ những đam mê tội lỗi, những cuồng si thấp hèn?

 Xức tro là biểu hiện lòng sám hối. Xức tro chỉ đem lại sự tươi trẻ tâm hồn khi chúng ta quyết tâm từ bỏ tội lỗi, tránh xa cám dỗ và làm lại cuộc đời. Xức tro lên đầu nói lên thân phận yếu đuối của con người và cần đến lòng thương xót của Chúa. Chúng ta nại đến lòng thương xót của Chúa để được ơn thứ tha, đồng thời nhờ nguồn ân thánh của Chúa sẽ làm mới lại cuộc đời chúng ta.

Ước gì tâm hồn chúng ta sẽ tràn ngập niềm vui khi biết sám hối ăn năn. Xin đừng ở lì trong tội khiến tâm hồn chúng ta già nua, thiếu sức sống. Xin đừng vì lối mòn tội lỗi mà đánh mất sự tươi trẻ trong tâm hồn. Xin Chúa giúp chúng ta can đảm trở về tắm gội trong đại dương bao la tình Chúa. Amen.

--------------------------------

 

Lễ_tro-102: TIN VÀO TÌNH YÊU SỰ THA THỨ


Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

 

Cách đây hơn một năm, cộng đồng mạng hết sức cảm thông và chia sẻ với một người cha đi tìm con, Lễ_tro-102


Cách đây hơn một năm, cộng đồng mạng hết sức cảm thông và chia sẻ với một người cha đi tìm con, đó là trường hợp của anh Lương Thế Huynh. Hai vợ chồng anh có một đứa con ba tuổi, bỗng nhiên bị mất tích. Anh chị nghi đưa bé đã bị bắt cóc. Người cha tội nghiệp này đã rong ruổi khắp các tỉnh thành trên toàn quốc để tìm đứa con. Trên chiếc xe honda cũ kỹ, anh để hình con trai và những lời kêu cứu: Xin mọi người thương giúp tôi tìm lại con tôi. Anh chỉ cầu mong có ai đó có thể chỉ cho anh đứa con trai bé nhỏ. Sau gần một năm trời, gặp lại anh, người ta chỉ còn thấy một thân hình tiều tụy, phờ phạc vì mệt mỏi, thiếu ăn thiếu ngủ. Tuy nhiên, trong ánh mắt và trong lời nói, anh vẫn hy vọng một ngày nào đó, anh có thể tìm lại đứa con bé bỏng của mình.

Thiên Chúa cũng đang miệt mài đi tìm chúng ta như thế. Ngài không đành lòng ngồi đó để nhìn chúng ta là những đứa con đi lạc, bị ma quỷ, tội lỗi bắt cóc, nhưng tìm kiến và đưa chúng ta trở về với tình yêu của Ngài. Mùa Chay chính là cơ hội chúng ta có thể đụng chạm đến lòng xót thương tha thứ của Thiên Chúa, là cơ hội Thiên Chúa ban để mời gọi chúng ta trở về và cũng là thời gian Thiên Chúa tìm kiếm mỗi chúng ta.

Việc trở về cùng Thiên Chúa là cha yêu thương, không chỉ dành cho người tội lỗi, mà cho hết mọi người kể cả những người công chính tốt lành. Trở về không chỉ để nói lời xin lỗi với Thiên Chúa, nhưng trước hết là để cảm nhận được tình yêu thương của một người cha, để được sà vào vòng tay ấm áp của Cha. Vì thế, mùa Chay này là cơ hội dành cho mỗi người, để làm mới lại tương quan của mình đối với Thiên Chúa. Điều Thiên Chúa chờ đợi nơi mỗi người là thái độ thành tâm thật lòng: Hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, khóc lóc và than van. Hãy xé lòng chứ đừng xé áo.

Động lực và sức mạnh giúp chúng ta quay lại với Chúa, không phải vì sợ hãi, sợ bị phạt, nhưng là tin vào tình yêu, sự nhân hậu của Thiên Chúa là Cha. Thiên Chúa của chúng ta không phải là một vị thần khắc nghiệt, cũng không là một quan tòa vô cảm, nhưng trước hết Ngài là một người cha chạnh lòng thương. Lời tiên tri Gioen diễn tả: Ngài từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, Ngài hối tiếc khi giáng họa, và tìm cách để ban ơn lành. Chính tình thương này đã thúc đẩy Thiên Chúa tìm kiếm con người để tha thứ, yêu thương và chữa lành.

Một khi thật lòng trở về với Thiên Chúa, chúng ta sẽ cảm nhận được tình thương từ nơi Ngài. Thiên Chúa sẽ không bao giờ nhớ lại quá khứ của ta, nhưng Ngài như cha hân hoan vui mừng ôm ta vào lòng, như người mục tử tìm được con chiên lạc. Thiên Chúa không chê chúng ta bẩn thỉu hôi hám vì tội lỗi, nhưng Ngài đưa chúng ta vào nhà của Ngài, cho ta chung hưởng niềm vui và hạnh phúc của Ngài. Thiên Chúa sẽ đổi mới cuộc đời chúng ta, trả lại cho chúng ta niềm vui, hân hoan và hạnh phúc trong tư cách những người con của Chúa.

Việc trở về với Thiên Chúa được thể hiện qua việc điều chỉnh lại các mối tương quan: với người khác, với Thiên Chúa và với chính mình. Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta ba mối tương quan cụ thể phải điều chỉnh và thực hành với một thái độ thành tâm thiện chí, đó là: làm việc bác ái, cầu nguyện và chay tịnh.

Chúa Giêsu cảnh báo về thái độ làm việc bác ái. Từ xưa đến nay, nhiều tôn giáo dạy làm việc bác ái, tuy nhiên người ta làm việc bác ái với nhiều mục đích khác nhau. Có người làm việc bác ái chỉ để cho lòng thanh thản sau một quãng đời có nhiều sai lỗi, gian dối; có người muốn bù lại quá khứ mình đã gây ra đau khổ, thiệt hại cho người khác; có người làm việc bác ái chỉ đơn thuần là công tác xã hội, làm bác ái để đánh bóng tên tuổi mình. Người Công giáo được mời gọi làm việc từ thiện bác ái với một mục đích và ý nghĩa riêng. Việc bác ái chia sẻ của người Công giáo phải phát xuất từ tình yêu của Thiên Chúa ngang qua trái tim và đôi tay. Vì thế, việc bác ái Công giáo không thể nhắm đến sự phô trương, danh tiếng hay thành tích dưới bất cứ hình thức nào. Việc bác ái phải xuất phát từ chỗ nhận ra anh em là hình ảnh, là hiện thân của Thiên Chúa để mình chia sẻ, giúp đỡ anh em với lòng kính trọng. Do đó, khi làm việc bác ái, đừng khua chiêng đánh trống, huênh hoang khoe mẽ, cũng đừng ghi tên, xướng danh, hay đòi hỏi bất cứ sự đáp đền nào, nhưng khi bố thì, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm. Thiên Chúa là Cha, Đấng thấu suốt mọi sự sẽ trả lại cho ta.

Trong tương quan với Thiên Chúa: Chúa chờ đợi mỗi người sự thành tâm thiện chí, tin tưởng và yêu mến. Khi cầu nguyện, anh em đừng giả hình như các biệt phái, đừng đứng ở ngã ba ngã tư, nhưng vào phòng đóng cửa lại và gặp gỡ cầu nguyện riêng tư thân mật với Thiên Chúa. Thiên Chúa không chấp nhận việc đến với Ngài chỉ có cái xác mà không có hồn, Ngài cũng không muốn nghe những lời cầu nguyện giả dối hình thức, nhưng Ngài muốn một sự gặp gỡ thân tình cá nhân giữa mỗi tâm hồn với Chúa. Thiên Chúa muốn chúng ta sống tương quan thân mật như cha với con, như bạn hữu với Chúa. Vào phòng đóng cửa lại, không có nghĩa là trốn tránh cuộc sống hiện tại, xa rời thực tế, nhưng là, cho dù giữa những bộn bề lo toan của cuộc sống, vẫn có những thời giờ tĩnh lặng, có một chỗ cho Thiên Chúa hiên diện trong tâm hồn, là nơi ta có thể gặp Chúa bất cứ lúc nào.

Trong tương quan với chính mình: Thiên Chúa muốn mỗi người biết làm chủ bản thân cùng với những ham muốn. Con người chúng ta bị chi phối, lôi kéo bởi ma quỷ, dục vọng xác thịt và thế gian, nó kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa và tôn mình làm chúa. Chúa Giêsu dạy việc giữ chay trước hết không phải là việc hành xác, không phải là việc phô trương đạo đức bên ngoài, nhưng biết làm chủ con người và những ham muốn của thể xác. Ăn chơi, hưởng thụ, sống dễ dãi buông thả là khuynh hướng tự nhiên của con người. Mùa chay là mùa Chúa muốn chúng ta, trước hết hãy giữ chay lòng, kiềm chế, làm chủ mình khỏi những ham muốn, đòi hỏi dễ dãi của bản thân. Đừng làm cho vẻ mặt rầu rĩ ủ dột bên ngoài, nhưng chỉ tỏ ra cho Thiên Chúa biết mà thôi. Thiên Chúa sẽ thấu hiểu lòng của anh em, Ngài sẽ đón nhận sự thiện chí để nâng đỡ làm cho con người chúng ta được trưởng thành, vững mạnh trong lý trí và quyết tâm.

Qua Lời Chúa hôm nay, chúng ta càng nhận ra gương mặt và trái tim yêu thương nhân hậu của Thiên Chúa là Cha. Thiên Chúa luôn cho chúng ta có cơ hội để điều chính lại bản thân và Ngài không bao giờ thất vọng về tình trạng của mỗi chúng ta. Vì thế, tin vào tình yêu Thiên Chúa, chúng ta không được phép thất vọng về chính mình và cũng đừng bao giờ thất vọng về anh chị em. Đừng bao giờ nghĩ rằng tội tôi quá nhiều, chắc Thiên Chúa không thể tha thứ cho tôi. Nói như thế là chưa đủ lòng tin vào sự nhân từ của Chúa.

Việc lãnh nhận nhúm tro rắc trên đầu hôm nay, nhắc cho mỗi người nhớ đến thân phận cát bụi mỏng manh của mình. Chúng ta sẽ không mãi ở thế gian này, tất cả sẽ phải trở về với cát bụi; cuộc sống này sẽ qua đi, mọi sự sẽ chấm dứt, chỉ có Thiên Chúa là tồn tại mà thôi. Vì thế, đừng bám víu và đừng đặt cược cuộc đời mình ở thế gian này, nhưng hãy đặt nơi Thiên Chúa. Việc nhận nhúm tro trên đầu cũng nhắc cho ta nhớ, con người chúng ta mỏng manh yếu đuối bất toàn bất túc. Vì thế, đừng chấp nhất nhau, đừng giận hờn nhau, nhưng hãy biết thông cảm và tha thứ cho nhau, cùng giúp nhau sống tốt, sống hạnh phúc ở đời này và mai sau đạt được hạnh phúc Nước Trời.

Xin Chúa cho chúng ta biết tận dụng cơ hội mùa Chay này để làm mới lại tương quan của mình đối với Thiên Chúa, với chính mình và với anh chị em. Amen.

--------------------------------

 

Lễ_tro-103: MÙA CHAY: THỜI GIAN ĐỂ ĐƯỢC XÓT THƯƠNG


Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

 “Lạy Đức Chúa, xin dủ lòng thương xót dân Ngài!” (Ge 2:17)

 

Vào thời tiên tri Giô-en, trong lúc dân đang gặp thảm họa với nạn châu chấu tàn phá, thì lời kêu gọi Lễ_tro-103


Vào thời tiên tri Giô-en, trong lúc dân đang gặp thảm họa với nạn châu chấu tàn phá, thì lời kêu gọi của vị ngôn sứ “Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giầu tình thương” là khơi dậy cả một niềm hy vọng! Thế nhưng ngay cả vị ngôn sứ cũng chỉ mới dám hy vọng, chứ chưa nắm chắc được điều gì khi ông lên tiếng: “Biết đâu Người chẳng nghĩ lại” (Ge 2:13-14). Rõ ràng ông đã ngập ngừng! Hình phạt thì chắc rồi vì đang xảy ra, và vì vậy lời kêu gọi sám hối và chay tịnh phải khẩn thiết: “hãy rúc tù và, hãy ra lệnh giữ chay thánh…” Tóm lại, cần phải xức tro và chay tịnh để mong đượcThiên Chúa  quyền năng công thẳng thương xót thứ tha khỏi hình phạt sắp giáng xuống. Trong cùng một truyền thống ngôn sứ, lời kêu gọi và phép rửa của Gio-an tiền hô sau này cũng mang nội dung tương tự: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây!” (Mt 3:10).

Thế còn Hội Thánh Chúa Ki-tô, Hội Thánh của Tin Mừng cứu độ, muốn nói với tôi điều gì khi thiết lập Mùa Chay thánh? Phải chăng cũng cùng một nội dung tương tự như các ngôn sứ đã kêu gọi dân Do Thái xưa? Nếu là như thế thì tôi thiết nghĩ: thời gian và sứ điệp này chỉ nặng ký đối với những ai hiện còn đang sống trong tội lỗi, còn thì thật nhẹ nhõm, thậm chí không cần thiết, đối với một số khác, những người đã hoặc đang sống đạo đức tốt lành. Có lẽ vì vậy mà nhiều tín hữu ‘lành thánh’, trong đó tất nhiên có nhiều linh mục và tu sĩ, có thái độ coi nhẹ thời gian này. Họ nghĩ là cứ cặn kẽ tuân giữ các qui định về ăn chay kiêng thịt, hoặc làm một số việc hy sinh (cá nhân hoặc tập thể), và thế là mùa chay tốt đẹp rồi.

Đức Giê-su thẳng thừng tuyên bố rằng: ăn chay kiểu đó không còn cần thiết nữa (xem Mt 9:14-17); ngay cả cái cách biểu lộ việc giữ chay tịnh như thời Cựu Ước của ngôn sứ Giô-en cũng không nên tồn tại. Lý do sâu xa là vì, tình thế đã thay đổi tận gốc rễ: Chàng Rể của tình yêu đã tới và vì thế than khóc, chay tịnh không còn ý nghĩa; trừ phi tình thế bị đảo ngược. Nếu thế thì các Ki-tô hữu phải tìm ra nơi Mùa Chay một nét nào đó hết sức độc đáo của Tân Ước: Chàng Rể của lòng từ nhân đã tới, và vì thế đây phải là thời gian của vui mừng và hy vọng, thời gian tập trung mọi cặp mắt hướng về Chàng; vì thế Mùa Chay trở thành quan trọng; chính vì Ki-tô hữu chúng ta không còn mong đợi trong hy vọng nữa, mà đã thật sự đón nhận và tận hưởng; ai càng đón nhận bao nhiêu thì lại càng có khả năng tận hưởng ơn cứu độ và lòng thương xót bấy nhiêu.

Nếu xưa kia Giô-en kêu gọi dân chúng giữ chay là để hy vọng được Thiên Chúa xót thương, thì ngày nay Hội Thánh của Đức Ki-tô kêu gọi giữ chay là để các tín hữu có dịp vào sâu hơn trong lòng xót thương cứu độ, nói cách khác: để khám phá rõ hơn khuông mặt nhân ái của Thiên Chúa. Đối với Ki-tô hữu “Thiên Chúa thương xót” không còn là chuyện “biết đâu”; Thập Giá Đức Giê-su đã là bảo chứng vững chắc: “Con Thiên Chúa, đấng yêu thương tôi và phó mộp mình vì tôi” (Gl 2:20). Vì thế họ nắm rất vững: sám hối, chay tịnh, kể cả làm việc lành phước đức… không phải là điều kiện để được Chúa xót thương. Thiên Chúa xót thương và yêu mến họ trước cả khi họ làm các điều ấy, vì Người yêu họ vô điều kiện, yêu hoàn toàn nhưng không, yêu tới mức độ chết cho họ ngay cả khi họ còn là những tội nhân phản nghịch. Mỗi khi mở miệng thốt lên: “Xin Chúa thương xót chúng con”,Ki-tô hữu tuyên xưng cách vững chắc niềm tin của mình vào một Thiên Chúa từ nhận và hay thương xót, hơn là cầu khẩn để mong nhận được lòng thương xót như dân Do thái trong thời Cựu Ước xưa.

Mùa chay mà Hội Thánh công bố cho tất cả mọi tín hữu qua việc xức tro hôm nay phải mang nội dung nói trên. Đối với các dự tòng và người tội lỗi, có thể còn mang dáng dấp của tinh thần Cựu Ước và các ngôn sứ, nhưng với các Ki-tô hữu trưởng thành thì Mùa Chay phải mang ý nghĩa tích cực hơn nhiều. Và đừng có lo lắng nghĩ rằng: đi sâu hơn vào lòng thương xót Chúa sẽ làm chùng đi mất sự căng thẳng của dây đàn thống hối đang réo rắt. Ngược lại là đàng khác, chính vì tâm hồn biết ca tụng lòng thương xót vô biên của Chúa mà ta sẽ càng thấy cấp bách cần phải thanh luyện mình hơn nữa, càng thấy có nhu cầu phải chay tịnh và chân thành thống hối nhiều hơn nữa, để được xứng đáng với tình yêu xót thương; đúng như câu nói của Mẹ Tê-rê-xa Kơn-ka-ta: “Chúa yêu thương tôi không phải vì tôi lành thánh, nhưng tôi nỗ lực trở nên lành thánh vì biết rằng Chúa đã yêu thương tôi”.

Lạy Chúa, xin cho con biết đón nhận sứ điệp Mùa Chay mà Hội Thánh loan truyền: “Này là mùa hồng ân, này là ngày cứu độ!” Xin cho con biết dùng thời gian 40 ngày này để đào sâu hơn nữa vào lòng Chúa xót thương và tha thứ. Và nếu trong Mùa Chay này con có thi hành được việc lành hay chay tịnh nào, thì cũng xin cho con nhờ đó mà cảm nghiệm được, và sống sâu xa hơn tình Chúa bao la. A-men.

--------------------------------

 

Lễ_tro-104: CÔNG LÝ ĐỜI SAU


Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 

Sứ điệp Mùa Chay năm nay là một bài suy niệm sâu sắc về dụ ngôn “người phú hộ và Ladarô” Lễ_tro-104


Sứ điệp Mùa Chay năm nay là một bài suy niệm sâu sắc về dụ ngôn “người phú hộ và Ladarô” (Lc 16,19-31). Lời đầu của Sứ điệp viết: “Mùa Chay là mùa thuận lợi để đi sâu vào đời sống thiêng liêng nhờ những phương tiện thánh hoá Giáo hội đã đem đến cho chúng ta: ăn chay, cầu nguyện và bố thí. Nền tảng của mọi sự là Lời Chúa, mà trong mùa này, chúng ta được mời gọi chuyên chăm lắng nghe và suy ngẫm”.

Suy tư về Lễ Tro và đời sau, trong số 3 của thông điệp, Đức Thánh Cha Phanxicô viết: Phụng vụ Thứ Tư Lễ Tro mời gọi chúng ta đến với một kinh nghiệm gần giống với kinh nghiệm của người giàu có. Khi linh mục xức tro trên đầu chúng ta, ngài lặp lại những lời này: “Hãy nhớ mình là tro bụi, và sẽ trở về bụi tro”. Quả vậy, cả người giàu và người nghèo đều chết, và phần quan trọng hơn của dụ ngôn này diễn ra ở đời sau. Hai nhân vật bỗng nhiên khám phá ra rằng “chúng ta đã chẳng mang gì vào trần gian này, thì cũng chẳng mang gì ra được” (1Tm 6,7).

Dụ ngôn phú hộ và Ladarô cho thấy có một khoảng trống không thể kết nối ở đời này và đời sau; có sự công bằng và công lý ở đời sau. Chính niềm tin vào đời sau được biểu hiện trong hành trình thiêng liêng của Mùa Chay.

Sống ở đời này, phú hộ dư ăn dư mặc, Ladarô nghèo nàn đói lả. Người phú hộ mặc toàn lụa là gấm vóc, Ladarô rách nát tả tơi. Phú hộ nhà cao cửa rộng, Ladarô lê lết bên cổng ăn xin. Phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, Ladarô không có một chút bánh để ăn. Người sống chốn thiên đàng dương thế, kẻ chịu cảnh hoả ngục trần gian.

Cái chết đến và tất cả đều đảo ngược. Đời sau, Ladarô được đưa lên mây trời, phú hộ bị đày xuống vực thẳm. Ladarô được hưởng phúc thiên đàng, phú hộ phải trầm luân hoả ngục. Có một khoảng cách nghìn trùng giữa hai người mà bên này muốn qua bên kia không được và bên kia muốn qua bên này cũng không thể. Ladarô hạnh phúc trong cung lòng tổ phụ Abraham. Phú hộ chịu cực hình nài xin với Abraham “sai Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước nhỏ trên lưỡi con cho mát vì ở đây bị lửa thiêu đốt”. Khi chết, Ladarô đã tìm được những người bạn hữu: các thiên thần, Abraham tổ phụ, những người có đức tin. Ngược lại, phú hộ chẳng có bạn bè, chẳng có trạng sư biện hộ cho hoàn cảnh của ông ta: hỏa ngục, chính là nỗi cô đơn. Nhất là ông vĩnh viễn xa lìa Thiên Chúa, vì đã sống xa cách anh em. Ðây là một cực hình khủng khiếp nhất. Vực thẳm ngăn cách con người ở đời sau là do con người đã tạo ra ở đời này. Sau khi chết, không còn có thể thay đổi được số phận. Địa ngục là do con người tự tạo ra từ đời này.

Xét cho cùng, ông phú hộ bị trầm luân địa ngục vì tội vô tâm, hững hờ, sống dửng dưng trước nỗi cùng khốn của tha nhân. Ông không có tình thương.

Vì Tình thương là căn tính của con người, nên thiếu Tình thương là sự nghèo khó thảm hại và nguy hiểm nhất. Nó tác động đến bản chất, nó làm cho con người ra thoái hóa, bần tiện và vong thân. Nó hủy diệt con người từ tâm hồn đến dung mạo, nó hạ thấp con người. Thánh Phaolô viết: “Giả như tôi được nói tiên tri, được thông hiểu mọi điều bí nhiệm và mọi lẽ cao siêu nhưng không có lòng mến, thì tôi chẳng là gì” (1Cr 13, 2). Ðó là tình cảnh của những người độc ác, những kẻ giết người, những tên tội phạm chiến tranh, những người nặng óc kỳ thị, thù oán, vu khống, ích kỷ, vụ lợi, tham ô, làm giàu trên xương máu của người khác. Sự nghèo thiếu căn tính này càng gia tăng khi nó xuất phát từ những bè phái, những băng đảng, những nhóm lợi ích, những tập đoàn chỉ biết nghĩ đến quyền lợi của phe nhóm mình mà chà đạp trên nhân phẩm, nhân quyền, sự sống và hạnh phúc của người khác hay của những dân tộc khác.

Ðối diện với những người hay những tập đoàn giàu có đầy quyền lực và quyền bính nhưng thiếu tình thương này là hàng triệu và có khi cả tỷ người cùng khốn, cô đơn, tàn tật, bệnh hoạn, bị bỏ rơi, bị xã hội khai trừ. Họ đang khao khát tình yêu, lòng thương xót, sự chia sẻ, sự cảm thông như người hành khất Ladarô không được chiếu cố, yêu thương và nâng đỡ.

“Ở đời sau, một loại công bằng được phục hồi và những bất hạnh trong đời được đền bù bằng những điều tốt lành” (Sứ điệp số 3). Tội của những người giàu là sống trong dư dật mà không biết nghĩ đến những người túng quẫn. Sự giàu sang thừa thãi làm cho người ta không còn nhạy cảm với những đau khổ của những con người sống bên cạnh họ, làm cho người ta thành đui mù điếc lác trước nhu cầu của người khác. Mùa Chay cảnh giác chúng ta: đừng bao giờ để mình trở nên giống như ông phú hộ keo kiệt, vô cảm trước nhu cầu của người lân cận.

Hành trình thiêng liêng của Mùa Chay phải bắt đầu từ tình thương: cầu nguyện, chay tịnh để sống đức ái chia sẻ.

Có một người nhà giàu nằm mơ thấy một đám rất đông những người nghèo và những người bệnh tật đang kêu xin giúp đỡ. Cảnh tượng ấy khiến ông xúc động và hạ quyết tâm sẽ đi tìm để giúp những người ấy. Sáng hôm sau ông lên xe đi tìm. Vừa ra khỏi cửa nhà, ông gặp ngay một người ăn mày đang ngửa tay xin tiền. Ông định dừng xe lại, nhưng tự nghĩ hãy đi thêm để biết thêm. Chiếc xe chạy qua những con đường, những khu chợ, những quãng trường… Càng đi ông càng thấy những người nghèo khổ đông quá. Trong đầu ông bắt đầu vẽ ra rất nhiều dự án để cứu giúp rất nhiều hạng người. Nhưng ông bối rối chưa biết phải bắt đầu từ đâu. Đến chiều, ông quay xe về nhà, và gặp lại người ăn mày trước cổng, với cũng một tư thế ấy và những lời van xin ấy. Tối hôm đó ông lại nằm mơ và lại nghe thấy những tiếng kêu xin cứu giúp. Nhưng lần này những tiếng ấy không xuất phát từ đám đông, mà từ chính người ăn mày nằm trước cổng nhà ông. Và ông hiểu ra: phải bắt đầu từ chính người ăn mày ấy.

Mẹ ThánhTêrêsa Calcutta nói: “Tôi luôn nghĩ rằng tình thương phải bắt đầu từ gia đình mình trước, rồi đến khu xóm, đến thành phố… Yêu thương những người ở xa thì rất dễ, nhưng yêu thương những người đang sống với mình hoặc đang ở sát cửa nhà mình mới là khó. Tôi không đồng ý với những cách làm ồn ào. Tình thương phải bắt đầu từ một cá nhân: muốn yêu thương một người, bạn phải tiếp xúc với người đó, gần gũi với người đó”. Ngài còn kể: “Lần kia tôi đi dự một hội nghị ở Bombay về việc cứu giúp những người nghèo. Đến cửa phòng hội, tôi thấy một người đang hấp hối. Tôi đưa người ấy về nhà, sau đó người ấy chết, chết vì đói. Đang lúc đó bên trong phòng hội, hàng trăm người đang hăng hái bàn luận về nạn đói và về vấn đề lương thực: làm thế nào để có lương thực, để có cái này, để có cái kia… Đang lúc họ vạch ra kế hoạch cho cả 15 năm, thì người này phải chết vì đói”. Ngài nói tiếp: “Tôi không bao giờ nhìn những đám đông như là trách nhiệm của tôi. Tôi chỉ nhìn đến những cá nhân, bởi vì mỗi lần tôi chỉ yêu thương được một người, mỗi lần tôi chỉ nuôi được một người. Tôi đã đưa một người về nhà, nhưng nếu tôi không đưa một người ấy về nhà thì tôi đã không đưa 42.000 người về nhà. Toàn thể công việc của tôi chỉ là một giọt nước trong đại dương. Nhưng nếu tôi không góp một giọt nước ấy thì đại dương sẽ thiếu đi một giọt”.

Người giàu thật là người biết cho, người nghèo thật là người chỉ biết nhận. Người giàu thật là người có rất ít nhu cầu nên luôn cảm thấy đủ, người nghèo thật là người có quá nhiều nhu cầu nên luôn cảm thấy thiếu. Sự giàu có thật là giàu trong tâm hồn, sự nghèo nàn thật là một tâm hồn trống rỗng. Bởi vậy cái giàu vật chất thường hay đi đôi với cái nghèo tâm hồn.

Ngay đầu Mùa Chay, Phụng vụ đã nhắc nhở ta cần phải trầm tư để chiêm niệm về thân phận: “Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về tro bụi”. Ý nghĩa của Lời Chúa quá rõ ràng: mọi người sẽ phải chết. Vậy anh lao tâm khổ trí, vất vả ngược xuôi, ganh đua tranh dành để tìm kiếm của cải, danh vọng, thú vui…, anh nỗ lực học hỏi, tìm tòi, phát minh, xây dựng… nhưng khi cái chết đến, anh mang theo được thứ gì, tất cả có nghĩa gì cho anh? Cuối cùng thì cái gì là đáng quan tâm nhất trong đời? Ðâu là bậc thang giá trị đời anh?

Xin đừng sống dửng dưng, thờ ơ, khép kín trước người nghèo, mà luôn chạnh lòng xót thương như Chúa Giêsu đã thương những người cùng khốn.

Hãy sống quảng đại cho đi, vui vẻ chia sớt, không chỉ của cải vật chất mà có khi chỉ là một nụ cười thân thiện, một cái bắt tay khích lệ, một lời nói an ủi đở nâng, một lần viếng thăm, một cuộc gặp gỡ kiến tạo sự hiệp nhất bình an. Khi chia nụ cười, ta sẽ nhận về vô số niềm vui. Khi chia vòng tay, ta sẽ nhận về mênh mông ấm áp. Khi chia quan tâm, ta sẽ nhận về bao la yêu thương. Khi chia yêu thương, ta sẽ nhận về rất nhiều hạnh phúc.

Mùa Chay năm nay, hãy siêng năng đến với Chúa Giêsu, nhận lãnh tình thương để chúng ta chân thành trao ban tình thương cho anh em. Làm việc bác ái giúp chúng ta thêm lòng yêu mến Chúa. Luôn nghĩ đến người khác giúp chúng ta biết từ bỏ mình. Biết chạnh lòng thương trước những cảnh đời nghèo khổ sẽ giúp chúng ta thăng tiến trên đường nên thánh.

--------------------------------

 

Lễ_tro-105: MỆNH LỆNH MÙA CHAY


Trầm Thiên Thu

 

Thời gian trôi chầm chầm mà lại cảm thấy nhanh. Và rồi Mùa Chay lại về… với ba việc cụ thể: trai tịnh, Lễ_tro-105


Thời gian trôi chầm chầm mà lại cảm thấy nhanh. Và rồi Mùa Chay lại về… với ba việc cụ thể: trai tịnh, cầu nguyện, và bác ái.

Mùa Chay là thời gian thuận tiện và là mùa cứu độ. Có điều đặc biệt mà ai cũng PHẢI NHỚ luôn luôn: “Memento mori – Hãy nhớ mình phải chết”. Đó là một dạng mệnh lệnh. Có nhiều mệnh lệnh, nhưng khởi đầu Mùa Sám Hối, Giáo Hội nhắc chúng ta hai mệnh lệnh của Thiên Chúa, tuy ngắn gọn nhưng quan trọng, một là mệnh-lệnh-cách-xác-định: “Hãy Xé Lòng!”, và một là mệnh-lệnh-cách-phủ-định: “Chớ Giả Hình!”.

Mệnh lệnh là điều PHẢI làm, nhưng “phải” không có nghĩa là miễn cưỡng mà là tự nguyện. Tại sao vậy chứ? Bởi vì tự cảm thấy mình quá yếu đuối, khốn nạn, cứ cố gắng mãi mà vẫn không thoát khỏi vũng-lầy-tội-lỗi.

Con người được sung sướng mà không thèm tận hưởng, được hạnh phúc mà không biết tạ ơn, được tự do mà không sử dụng đúng, đi nghe lời dụ dỗ của ma quỷ rồi “chảnh”, lên mặt kiêu căng, thế nên đau khổ xuất hiện và con người phải chịu hậu quả nhãn tiền: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3:19). Và đó cũng là định luật muôn thuở: “Đức Chúa lấy đất mà tạo ra con người, rồi lại đưa con người trở về đất. Người đã ban cho nó một số ngày và một khoảng thời gian” (Hc 17:1-2a). Sinh hữu hạn, tử bất kỳ.

Lòng người thật nham hiểm, thâm độc, như tục ngữ Việt Nam ví von: “Dò sông, dò biển, dễ dò; Nào ai lấy thước mà đo lòng người”. Văn hào Victor Hugo (1802-1885, Pháp quốc) phân tích theo kiểu quan ngại: “Trên thế giới, thứ rộng lớn nhất là ĐẠI DƯƠNG, nhưng thứ rộng lớn hơn lại là BẦU TRỜI, mà thứ còn rộng hơn cả bầu trời lại chính là LÒNG NGƯỜI”.

    MỆNH LỆNH XÁC ĐỊNH

Mệnh lệnh thứ nhất là mệnh lệnh xác định: “Hãy xé lòng!”. Xé lòng mình chứ KHÔNG xé áo hoặc xé bất cứ thứ gì khác. Xé lòng không phải để hủy hoại mà để tu sửa, đổi mới. Có những chất cay khiến chúng ta cảm thấy như xé miệng, xé lưỡi, xé họng. Có những nỗi đau khiến chúng ta như xé nát tâm can.

Từ ngữ “xé” là một tha động từ, cần có một túc từ, nghĩa là “làm rách” cái gì đó cụ thể. Có thể “xé” là hành vi chủ động hoặc thụ động, miễn cưỡng. Thiên Chúa bảo chúng ta không nên “xé áo”, vì đó là hành động của kẻ điên, vả lại như vậy là làm hư hại phương tiện vật chất cần thiết cho cuộc sống. Nhưng về tâm linh, Ngài lại muốn chúng ta “điên” thật, vì Ngài bảo chúng ta phải thực sự chủ động mà tự xé lòng mình, xé nát tâm hồn vì cảm thấy mình khốn nạn và bất xứng với Ngài. Phải “tự xé lòng” bất cứ lúc nào trong cuộc sống, nhưng đặc biệt là trong khoảng thời gian Mùa Chay, vì “đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ” (2 Cr 6:2).

Từ xa xưa tới tận thế, Thiên Chúa là Cha nhân từ vẫn dang tay chờ đợi tội nhân trở về càng sớm càng có lợi. Tội nhân đó là chính mỗi chúng ta. Sấm ngôn của Đức Chúa vẫn không ngừng mời gọi, nhất là trong Mùa Chay này: “Lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van” (Ge 2:12). Một loạt các động từ quan trọng mà Thiên Chúa muốn chúng ta làm với cả tấm lòng chứ không giả bộ hoặc giả hình, cũng không được làm sơ sài, làm chiếu lệ hoặc làm cho xong lần.

Một cách mạnh mẽ và dứt khoát, chính Thiên Chúa đã cảnh báo: “Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, Người hối tiếc vì đã giáng hoạ” (Ge 2:13). Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, tội lỗi chúng ta có thế nào thì cũng chẳng là gì, vì “dù tội đỏ như son cũng ra trắng như tuyết, có thẫm tựa vải điều cũng hoá trắng như bông” (Is 1:18), tội của cả thế gian này cũng không thể so sánh với lòng thương xót của Chúa, chỉ cần chúng ta chân thành sám hối thì Ngài sẵn sàng thứ tha ngay, và Ngài chỉ muốn thứ tha mà thôi: “Nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được?” (Tv 130:3). Nhưng chớ lấy cớ đó mà “được đằng chân lân đằng đầu”!

Vâng lệnh Thiên Chúa, ngôn sứ Giô-en nói rằng nếu chúng ta thành tâm sám hối, vì “biết đâu Người chẳng nghĩ lại và hối tiếc mà để lại phúc lành, hầu anh em có lễ phẩm và lễ tưới rượu dâng lên Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em” (Ge 2:114), nói là “biết đâu” chứ Thiên Chúa thực sự muốn tha thứ, nhưng Ngài không thể tha thứ cho người cố chấp. Ngôn sứ Giô-en kêu gọi: “Hãy rúc tù và tại Sion, ra lệnh giữ chay thánh, công bố mở cuộc họp long trọng; hãy tụ tập chúng dân, mời dự đại hội thánh, triệu tập các cụ già, tụ họp đám thiếu nhi cũng như trẻ thơ còn đang bú. Tân lang hãy ra khỏi loan phòng, tân nương hãy rời bỏ phòng khuê!” (Ge 2:15-16).

Lời mời gọi này nhắc nhớ tới việc ăn chay nghiêm ngặt của cả thành Ni-ni-vê, từ vua tới dân, từ người tới súc vật, khi được ngôn sứ Giô-na kêu gọi, và Thiên Chúa đã tha tội chết cho cả thành (x. Gn 3:4-10). Điều đó cho thấy rằng cầu nguyện và ăn chay có thể thay đổi số phận của mỗi chúng ta và người khác.

Không thể im lặng, ngôn sứ Giô-en tiếp tục kêu gọi: “Giữa tiền đình và tế đàn, các tư tế phụng sự Đức Chúa hãy than khóc và nói rằng: “Lạy Đức Chúa, xin dủ lòng thương xót dân Ngài! Xin đừng để gia nghiệp của Ngài phải nhục nhã và nên trò cười cho dân ngoại! Chẳng lẽ các dân lại được cớ mà nói: Thiên Chúa của chúng ở đâu rồi?” (Ge 2:17). Quả thật, “Đức Chúa đã nồng nhiệt yêu thương đất của Người, đã tỏ lòng khoan dung đối với dân Người, tai ương chấm dứt và dân được giải thoát” (Ge 2:18). Chứng cớ rành rành, không thể chối cãi!

Bất cứ ai trong chúng ta cũng đều là phàm nhân, đồng nghĩa với tội nhân. Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh đã xác nhận: “Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (Tv 51:7). Và vì thế, chúng ta rất cần cầu xin ơn thứ tha từ lòng thương xót của Thiên Chúa, nghĩa là chúng ta phải van xin không ngừng: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy” (Tv 51:3-4).

Được thứ tha là nhờ biết thú nhận. Vấn đề quan trọng là không được vòng vo, tránh né, hoặc đổ lỗi cho người khác – dù chỉ một phần nhỏ, mà phải thành tâm và khiêm nhường một thực-tế-thật: “Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài. Như vậy, Ngài thật công bình khi tuyên án, liêm chính khi xét xử” (Tv 51:5-6).

Hằng ngày, chúng ta vẫn cùng nhau thú tội: “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và anh chị em, tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm, và những điều thiếu sót”. Đủ kiểu phạm tội, ngũ quan là các “tòng phạm”. Thú nhận với Thiên Chúa là điều hiển nhiên, nhưng có lẽ chúng ta “ngại” thú tội với tha nhân, có thể chỉ mới làm theo “nghi thức”. Thật vậy, ngay khi chúc bình an cho nhau mà nhiều người vẫn có vẻ miễn cưỡng, làm một cách máy móc hoặc làm cho xong lần, thậm chí là “đứng bất động”.

Sự thật thì thường mất lòng. Nhưng thà mất lòng trước, được lòng sau. Một thực tế rất thật: “Chiên hiền” ở trong nhà thờ bỗng hóa “cọp dữ” khi ra khỏi nhà thờ! Ảo thuật, xảo thuật, hay là “sự lạ”? Mọi kiểu phạm tội không phải là lỗi của ai khác mà của chính mình, chúng ta cùng xác nhận ba lần: “Lỗi tại tôi mọi đàng”. Và cầu xin Thiên Chúa thương xót mà tha thứ. Nhưng Ngài chỉ tha cho chúng ta nếu chúng ta tha cho tha nhân. Đó là điều kiện ắt có và đủ để “nên hoàn thiện”, để làm thánh, nhất là trong Mùa Chay Thánh này.

Chắc chắn rằng không có ơn Chúa thì chúng ta chẳng làm gì được (x. Ga 15:5). Đã biết bao lần chúng ta ăn năn sám hối, tỏ vẻ rất chân thành, nhưng rồi chúng ta lại như “ngựa quen đường cũ”, bằng chứng minh nhiên là chúng ta vẫn dễ dàng tái phạm, để rồi phải liên tục lãnh nhận Bí tích Hòa Giải. Càng nhiều tuổi càng xưng tội nhiều lần. Thế thì có gì mà vỗ ngực khoe mẽ?

Hãy không ngừng cố gắng tu thân, tha thiết van xin ơn phù trợ và khao khát được tái tạo: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài. Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con” (Tv 51:12-14).

Bổn phận của chúng ta là cầu xin, nhưng xin để được điều này hay điều nọ chỉ là dạng “hạ cấp”, dạng “cao cấp” là không xin gì cả, mà chỉ muốn tán dương và tôn vinh Thiên Chúa: “Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài” (Tv 51:17). Biết cầu nguyện như vậy là “nên thánh” rồi. Càng sống lâu càng được nhiều ơn, dù có những ơn chúng ta không hề xin mà vẫn được Chúa thương ban – đơn giản nhất mà cần thiết nhất là không khí để sống, thế mà chúng ta vẫn không biết tạ ơn, coi đó là mặc định.

Ăn năn là động thái cần thiết, mọi nơi và mọi lúc. Thánh Phaolô kêu gọi: “Chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa. Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5:20-21). Kỳ diệu quá, chúng ta không thể nào hiểu thấu. Ngày nay vẫn có những người không tin hoặc không muốn tin điều đó, nhưng sự thật vẫn mãi là sự thật!

Rút kinh nghiệm thực tế của bản thân, Thánh Phaolô chân thành khuyên nhủ: “Anh em đã lãnh nhận ân huệ của Thiên Chúa thì đừng để trở nên vô hiệu” (2 Cr 6:1). Vâng, không thể lãng phí ơn Chúa. Quả thật, chính Thiên Chúa đã xác định: “Ta đã nhận lời ngươi vào thời Ta thi ân, phù trợ ngươi trong ngày Ta cứu độ. Vậy, đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ” (2 Cr 6:2).

    MỆNH LỆNH PHỦ ĐỊNH

Mệnh lệnh thứ nhì là mệnh lệnh phủ định: “Chớ giả hình!”. Mệnh lệnh cách phủ định là dạng nhấn mạnh của thể xác định. Giả hình là làm cho cái ảo giống như có thật, bề ngoài thấy rõ ràng y như thật mà lại không phải là thật – tương tự ảo thuật hoặc xảo thuật.

Về phương diện tâm linh, giả hình là thói đạo đức giả. Giả hình còn là thái độ lững lờ nước đôi, sống “hai lòng” hoặc “hai mặt”. Người đời còn không thể chấp nhận lối sống đó, huống chi Thiên Chúa là Đấng chí thánh (Lv 11:44-45; Lv 19:2; Lv 20:26; Lv 21:8; Tv 89:36; Tv 99:5 & 9; Is 6:3; Br 4:22; Hs 11:9; Am 4:2; 1 Pr 1:16; Ga 6:69), là Đấng công minh và chính trực (Hc 5:3; Br 2:6; Br 2:9; Đn 9:14; Tv 9:9; Tv 7:18; Tv 11:7; Tv 25:8; Tv 35:28; Tv 67:5; Tv 146:7; Ga 17:25).

Muốn tránh giả hình thì phải can đảm dứt khoát. Dứt khoát là kết thúc sự giằng co, là “tự xé” chính lòng mình chứ không nhờ ai xé dùm!

Thiên Chúa là Đấng duy nhất (Đnl 6:4; Nkm 9:6; Es 4:17; Xh 20:3; Đnl 5:7; Đnl 32:39; Gđt 8:20; Kn 12:13; Is 43:10; Is 45:6; Is 46:9; Đn 3:28-29; Đn 14:41; Hs 13:4), chỉ có Ngài là tuyệt đối, Ngài rất ghét thái độ đạo đức giả, do đó Ngài đã gay gắt lên án và cảnh cáo: “Ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3:16). Rất khó nghe. Ai thấy “sốc” là tốt!

Chắc chắn như vậy, vì Chúa Giêsu đã từng cảnh báo: “Các con hãy coi chừng men Pha-ri-sêu, tức là thói đạo đức giả” (Lc 12:1). Một lần khác, Ngài gay gắt lên án thói đạo đức giả ấy bằng cách ví von với những hình ảnh rất thực tế: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!” (Mt 23:27-28; Lc 11:42-44). Thói “đạo đức giả” hoặc “ra vẻ đạo đức” không chỉ phổ biến ở thời xưa, mà ngày nay cũng còn phổ biến lắm. Ngày xưa dễ nhận biết vì người thời đó có “tua áo dài”, nhưng ngày nay rất khó nhận biết vì quá đỗi tinh vi!

Trước mặt người đời, người ta có thể “lấy vải che mắt”, nhưng không thể “qua mặt” Thiên Chúa, vì Ngài thấu suốt mọi sự (Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6). Chẳng chóng thì chày, rồi người ta cũng sẽ phải chân nhận điều này: “Không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết” (Lc 12:2). Người Việt chúng ta cũng nói: “Cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra”. Cái gì thật thì vẫn thật, cái gì giả thì không thể là thật, chắc chắn mọi bí mật sẽ được/bị “bật mí”.

Đối với việc sống Mùa Chay, người ta thường thích “biểu diễn đạo đức”, thế nên Chúa Giêsu khuyến cáo: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, CHỚ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi bố thí, ĐỪNG cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6:1-4).

Đó là sự thật minh nhiên. Chúa Giêsu muốn người ta bố thí nhưng phải bí mật. Chúa có “chơi ép” chúng ta? KHÔNG phải vậy. Vì làm bí mật mới đáng công trạng. Thế nhưng ngày nay, chúng ta vẫn thường “đánh trống, khua chiêng” bằng nhiều kiểu mỗi khi đi xa với danh nghĩa “làm từ thiện” trong khi lại “làm ngơ” trước nỗi khổ của những người ngay bên cạnh mình. Liệu có phải là “máu Pha-ri-sêu”, là giả hình hoặc thói đạo đức giả? Và Chúa có vui chút nào không?

Về việc cầu nguyện, Chúa Giêsu bảo: “Khi cầu nguyện, anh em ĐỪNG làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy. Thầy bảo thật anh em: chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6:5-6). Với “tình huống” này, chúng ta lại nhớ tới hai người lên Đền Thờ để cầu nguyện (Lc 18:9-14). Người Pha-ri-sêu (biệt phái) rất “chảnh”, vênh váo vỗ ngực tự tôn, còn người thu thuế thì vô cùng xấu hổ và đấm ngực ăn năn, xin Chúa tha thứ.

Chúa Giêsu cho chúng ta biết “bí quyết” ăn chay hiệu quả: “CHỚ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6:17-18). Có lẽ chúng ta không khoái cái kiểu ăn chay “ngầm” như vậy, bởi vì bản chất con người thích khoe khoang, muốn được “nổi trội”, chứ không ai biết thì… chán lắm. Cái tôi thật tồi tệ!

Nhưng Chúa lại muốn chúng ta phải có “phong cách” ăn chay như vậy, nếu không thì chúng ta “đã được phần thưởng rồi”. Rất lô-gích, rất hợp lý, rất công bằng, và cũng rất… thú vị. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, câu “đã được phần thưởng rồi” được Chúa Giêsu nhắc tới BA LẦN đấy, nghĩa là chúng ta phải rất thận trọng và tỉnh táo! Chúa Giêsu còn nói thẳng luôn: “Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin” (Mt 6:7-8). Chua choa! Xem chừng “nhức óc” dữ dằn, vì Ngài dùng chữ “lải nhải”. Phải thế thôi, không nói mạnh thì không được, vì chúng ta “lì lợm” lắm!

Mùa đi, mùa tới. Thời gian luân chuyển. Một Mùa Chay nữa lại về, có lẽ không ai lại không nhớ rõ dụ ngôn “Người Cha Nhân Hậu” (Lc 15:11-32), dụ ngôn điển hình về lòng thương xót của Thiên Chúa. Ước gì mỗi người đều đủ can đảm để trở về ngay lập tức. Hãy quyết tâm sống đúng điều mình thầm nhủ:

Xé tâm hồn, xé tâm can
Ăn chay, sám hối, để san bằng đời
Đừng chần chừ nữa, tôi ơi!
Dứt khoát cuộc đời Chúa sẽ xót thương

Cái giá của Nước Trời rất mắc (đắt, đắt đỏ, tốn phí) vì phải thực hành đức tin và sám hối cả đời, lơ đãng một chút là “rớt giá” ngay. Nhưng giá vé vào Thiên Đàng cũng rất rẻ, đó là chỉ cần chân thành sám hối, chứng cớ “điển hình” là Thánh Tướng Cướp “tốt lành” Dimas (Dismas – x. Lc 23:43) đã là người đầu tiên nhận vé vào Nước Trời, và được “hộ tống” Chúa Giêsu vào Thiên Đàng ngay sau khi Ngài trút hơi thở cuối cùng. Thế thì chúng ta có “cơ may” hơn Thánh Dimas rất nhiều. Hãy cố gắng không ngừng tín thác vào lòng thương xót của Chúa, đừng bao giờ tuyệt vọng dù có thể có lúc chúng ta cảm thấy thất vọng (x. 2 Cr 4:8).

Thiên Chúa đã truyền lệnh: “Các ngươi PHẢI NÊN THÁNH và PHẢI THÁNH THIỆN” (Lv 11:44-45; Lv 19:2; Lv 20:7). Ngài cũng đã gọi chúng ta là “những bậc thần thánh” (x. Ga 10:34). Thế thì chúng ta phải nên thánh, và chúng ta chắc chắn là thánh nếu chân thành thân thưa: “Miserere Mei, Deus, Domine et Pater – Xin thương xót con, lạy Thiên Chúa, Đức Chúa và Thánh Phụ của con”.

Lạy Thiên Chúa chí thánh và nhân hậu, xin dạy con biết đường lối của Ngài để con cố gắng bước theo Chân lý (Tv 86:11). Xin ban Thần Khí biến đổi con ngay từ đầu Mùa Chay này để con dứt khoát với quá khứ và bắt đầu trang đời mới. Xin Đức Thánh Maria và Đức Thánh Giuse, các thiên thần, các thánh và các linh hồn cùng nguyện giúp cầu thay để con sống trọn Mùa Chay đúng Ý Chúa. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.

--------------------------------

 

Lễ_tro-106: HÃY TRỞ VỀ


JM. Lam Thy

 

Đặc tính của Mùa Chay là mùa trở về, sám hối, tha thứ, cầu nguyện và làm phúc bố thí. Là con người Lễ_tro-106


Đặc tính của Mùa Chay là mùa trở về, sám hối, tha thứ, cầu nguyện và làm phúc bố thí. Là con người mang thân phận mỏng giòn, yếu đuối và tội lỗi, vì thế sự trở về với Thiên Chúa – là nguồn Yêu Thương, nguồn Sức Mạnh và nguồn Ánh Sáng – thật là cần thiết. Trở về để được Chúa yêu thương; trở về để được Người tha thứ; trở về để được Người đổi mới và chữa lành. Trở về để thấy rằng mình luôn yếu đuối và nhận ra mình luôn cần đến Chúa. Thiên Chúa luôn nhìn những gì bên trong con người; ngược lại con người thì thường nhìn những gì ở bên ngoài. Hãy trao chiếc áo tâm hồn rách nát, sầu khổ, tội lỗi cho Chúa để Người thanh tẩy, chữa lành, và ban tràn đầy ơn cứu độ. Chính Đức Chúa đã kêu gọi người tín hữu hãy ăn chay, khóc lóc và thống thiết than van (“Hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, Người hối tiếc vì đã giáng hoạ.” – Bài đọc 1 Thứ Tư Lễ Tro: Ge 2, 12-13)

Nói về đặc tính Mùa Chay, Hiến chế về Phụng Vụ Thánh “Sacrosanctum Concilium” (số 109) đã viết: “Hai đặc tính của Mùa Chay là việc sám hối và nhất là việc nhớ lại hoặc dọn mình chịu phép Rửa Tội, chuẩn bị các tín hữu cử hành mầu nhiệm phục sinh, bằng sự nhiệt thành nghe lời Chúa và chuyên chăm cầu nguyện hơn. Hai đặc tính trên phải được trình bày rõ ràng hơn cả trong Phụng vụ lẫn giáo lý Phụng vụ.” Trên cơ sở đó, Những Quy luật tổng quát về Năm Phụng vụ và Niên lịch “Normae de Anno liturgico et Calendario” (số 27) đã đưa ra những lời chỉ dẫn cho biết ý nghĩa quan trọng của ngày Thứ Tư Lễ Tro trong năm Phụng vụ, cũng như trong suốt Mùa Chay thánh: “Phụng Vụ Mùa Chay nhằm giúp các dự tòng và các tín hữu chuẩn bị cử hành Lễ Vượt Qua. Các dự tòng được chuẩn bị qua những giai đoạn khác nhau của việc nhập đạo, còn các tín hữu thì qua vịêc tưởng niệm bí tích Thánh Tẩy và việc sám hối… Mùa Chay bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro và kết thúc ngay trước Thánh lễ Tiệc Ly. Ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay có xức tro; ngày đó khắp nơi ăn chay.”

Với Thứ Tư Lễ Tro, Giáo Hội cử hành lễ nghi làm phép tro và xức tro. Việc xức tro nhắc nhở người Ki-tô hữu: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất.” (St 3, 19). Đó chính là sự chết mà Nguyên tổ loài người đã tự gánh chịu khi nghe lời cám dỗ của ma quỷ chối bỏ hồng ân, xa lìa Thiên Chúa. Vì lỗi phạm nghiêm trọng đó của Nguyên tổ, loài người bị tội lỗi thống trị, phải sống trong đêm đen của sự chết. Chỉ đến khi Ngôi Lời nhập thể cứu độ, đem lại sự sống vĩnh cửu cho loài người, thì “ánh sáng mới bừng lên“ (Is 9, 1). Vì thế, có thể nói Mùa Chay chính là dịp giúp các Ki-tô hữu – thông qua việc tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa Ki-tô – mà nhìn rõ được thế lực ghê gớm của ma quỷ, đồng thời “nhìn lại mình” mà nhận ra được những yếu đuối mỏng giòn của bản thân trước những cám dỗ hấp dẫn cùa ba thù (1- Dục vọng của bản thân; 2- Hấp lực của thế gian; 3- Cạm bẫy của Satan); để từ đó, biết ăn năn sám hối về những sai sót, lỗi lầm đã mắc phạm. Cuối cùng, đổi mới con người của mình như một cuộc vượt qua sự chết (chết đi cùng với Chúa Ki-tô) để được sống lại thật (cùng sống lại với Người).

Như vậy thì có thể hiểu Mùa Chay là mùa toàn Giáo Hội thực hiện đời sống chay tịnh (thanh tẩy + sám hối), chuẩn bị tâm hồn đón mừng Chúa Phục Sinh. Sống chay tịnh không chỉ giới hạn trong việc “ăn chay” (theo từ nguyên thì “ăn chay” chỉ có nghĩa: “ăn không dùng thịt, cá và các chế phẩm từ thịt, cá”), mà còn bao gồm sống ngay thẳng, thật thà (nên tục ngữ VN mói có câu: “Ăn mặn nói ngay hơn ăn chay nói dối”) và nhất là sống tinh thần bác ái Ki-tô giáo. Tuy nhiên, theo thói quen, người ta thường dùng tiếng ăn chay để chỉ việc hãm mình ép xác, tu thân tích đức. Vì thế, cứ tới Mùa Chay là ai cũng nghĩ tới việc ăn chay. Vấn đề đặt ra là phải suy nghĩ xem nên ăn chay như thế nào cho đúng tinh thần Ki-tô giáo, đúng tinh thần Phúc Âm.

Tìm hiểu ý nghĩa và mục đích việc ăn chay trong Thánh Kinh thấy rất đa dạng: Các tín hữu ăn chay là để thờ phượng Thiên Chúa, làm đẹp lòng Thiên Chúa như một nghi thức tôn giáo, một việc đạo đức; để được Thiên Chúa nhậm lời khi cầu nguyện, đi kèm với cầu nguyện để khu trừ ma quỉ; để tỏ lòng ăn năn, sám hối và đi kèm với than khóc để bày tỏ sự buồn bã, hối hận, thương tiếc, lo sợ; đồng thời để đền vì tội lỗi đã phạm, cầu xin Thiên Chúa tha tội. Trong Cựu Ước thì: “Đây là sấm ngôn của ĐỨC CHÚA: “Nhưng ngay cả lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van.” (Ge 2, 12); và khi ăn chay thì: “mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van.” (Đn 9, 3). Sang đến Tân Ước, Thánh Gio-an Tẩy Giả đã sống trong sa mạc khoảng 30 năm, mặc áo lông cừu, ăn châu chấu và mật ong rừng, để tự nguyện làm “Tiếng hô trong hoang địa” kêu gọi người ta sám hối để được ơn tha tội, đón nhận Tin Mừng Cứu Độ. Đức Giê-su Thiên Chúa cũng ăn chay 40 đêm ngày trong sa mạc, chịu để Xa-tan cám dỗ, hầu chuẩn bị sứ mạng Chúa Cha đã trao phó: rao giảng và thực hiện Tin Mừng Cứu Độ.

Thật không thể ngờ cách đây hơn 2.500 năm, ngôn sứ I-sai-a đã có một quan niệm hoàn toàn mới về ăn chay: Ăn chay với mục đích đầy tính nhân đạo là thực hiện công bằng và bác ái (“Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục.” – Is 58, 6-7). Ăn chay đúng nghĩa – theo ngôn sứ I-sai-a – chính là thực hiện công bằng xã hội, là tỏ tình yêu thương với người chung quanh bằng những hành động cụ thể.

Với mục đích ấy, ngôn sứ I-sai-a lên án cách ăn chay chuộng hình thức bề ngoài mà thực chất bên trong chỉ lo kiếm lợi cho mình, áp bức kẻ khác, ăn chay để “mồm loa mép giải” cãi vã, hoặc “thượng cẳng chân hạ cẳng tay” đánh lộn tàn bạo (“Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn. Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng ĐỨC CHÚA?” – Is 58, 3-5).

Không cần nói thời đại cổ xưa ấy, mà ngay trong thế giới hiện đại cũng vẫn còn không ít cảnh ăn chay trên môi miệng, ăn chay bằng hình thức phô trương màu mè (“rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ… giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế… bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!” – Mt 23, 25-28). Hoặc giả nếu có ăn chay thực sự thì cũng chỉ giữ vì Luật buộc, mà Giáo Luật chỉ buộc ăn chay mỗi năm có 2 ngày (Thứ Tư Lễ Tro + Thứ Sáu Tuần Thánh) – 2 ngày trong khoảng thời gian 365 ngày – thì có đáng là bao, chuyện nhỏ! Quả nhiên là thế, vấn đề ăn chay nếu được thực hiện chỉ vì luật buộc, chỉ vì bổn phận, chỉ câu nệ ở hình thức, trong khi từ trong sâu thẳm của tâm hồn thì vẫn muốn tránh né, vẫn muốn làm ngược lại hoặc làm chiếu lệ, thì cũng chẳng ích gì.

Thánh Phao-lô đã vạch trần thói đời: “Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi.” (Rm 7, 18-20). Nhân tình thế thái là như vậy đó. Nên chi vấn đề ăn chay người ta chỉ thích “xé áo” (để thay vào bộ cánh hợp mốt, bảnh bao) hơn là “xé lòng”. Nếu có ngoẹo đầu, méo miệng, sùi sụt than khóc thì cũng chỉ là “nước mắt cá sấu” mà thôi! Ôi chao! Cái cảnh “thích ngồi trên tòa ông Mô-sê, đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài, ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi”, rồi “bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính mình thì lại không buồn động ngón tay vào…” (Mt 23, 1-7), vẫn xảy ra nhan nhản trên thế giới ở thế kỷ XXI này!

Vì thế, cần phải có một suy nghĩ sâu sắc hơn về vấn đề ăn chay: Thứ nhất, ăn chay là nhằm mục đích hãm mình ép xác để đền vì những tội lỗi xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân (sám hối). Thứ hai, về mặt vật chất, nếu cố gắng giảm bớt chi tiêu phung phí, rồi đem khoản cắt giảm được ấy làm công việc bác ái, từ thiện, thì việc ăn chay mới thực sự có ích. Thứ ba, không giới hạn việc ăn chay trong 2 ngày luật buộc, mà nên thực hiện bất cứ khi nào có dịp, thậm chí trong suốt cả Mùa Chay, suốt cả cuộc đời trần thế. Tóm lại, việc ăn chay cốt ở cái TRÍ (hiểu rõ việc mình làm nhằm mục đích gì) và cái TÂM (đức bác ái), không cần câu nệ ở hình thức (“Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có tình yêu, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.” – 1Cr 13, 3).

Dù công việc ăn chay hoàn toàn do chủ thể con người tự quyết định, nhưng muốn đạt hiệu quả tốt thì đừng quên cầu nguyện, bởi đó là dịp người tín hữu chính thức “trở về với Thiên Chúa” (“cầu nguyện là nâng tâm hồn và trí khôn lên với Thiên Chúa”). Ăn chay phải đi liền với cầu nguyện như Đức Giê-su đã ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày ròng rã trong hoang địa trước khi bước vào cuộc khổ nạn vì tội lỗi loài người; bởi chính Người đã truyền dạy: “Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay…Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.” (Mt 6, 16-18).

“Đấng thấu suốt những gì kín đáo” đã có lời khuyên: “Hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương” (Ge 2, 12-13). Vâng, Mùa Chay chính là mùa trở về với chính mình để có thể trở về với Thiên Chúa. Trở về với chính mình, nhìn lại mình để hiểu rằng mình được dựng nên từ tro bụi đất cát, thì một mai cũng sẽ trở về với đất cát tro bụi mà thôi. Hiểu được như thế, hiểu được “Vua Ngô ba mươi sáu cái tàn vàng, chết xuống âm phủ cũng chẳng mang được gì”, thì đừng lo tích trữ của cải vật chất mà hãy lo đầu tư vào ngân hàng Nước Trời. Một cách cụ thể là phải biết từ bỏ tất cả thế gian, từ bỏ chính mình để trở về với Thiên Chúa. Cách tốt nhất để trở về với Đấng Từ Bi Nhân Hậu chỉ có thể là “Đừng xé áo (ăn chay hình thức), nhưng hãy xé lòng (thực tâm ăn năn sám hối)”.

Nói tóm lại, “Mùa Chay là mùa thuận lợi cho việc đổi mới cuộc gặp gỡ của chúng ta với Chúa Kitô, cho việc sống trong lời Ngài, trong các phép bí tích và nơi những người láng giềng của chúng ta. Chúa, là Đấng đã chiến thắng sự lừa dối của tên cám dỗ trong bốn mươi ngày trong sa mạc, chỉ cho chúng ta thấy con đường chúng ta phải đi. Nguyện xin Chúa Thánh Thần dẫn đưa chúng ta vào một cuộc hành trình thực sự của hoán cải, qua đó chúng ta có thể tìm lại hồng ân Lời Chúa, được thanh tẩy khỏi những tội lỗi làm mờ mắt chúng ta, và phục vụ Chúa Ki-tô hiện diện nơi những anh chị em cùng quẫn của chúng ta… Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau để khi chia sẻ trong chiến thắng của Chúa Ki-tô, chúng ta có thể mở cửa lòng chúng ta đối với người yếu thế và người nghèo. Khi đó chúng ta sẽ có thể trải nghiệm và chia sẻ đầy đủ niềm vui Phục Sinh.” (Sứ điệp Mùa Chay 2017, số 3).

Trong tâm tình đó, xin cùng dâng lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, ngày hôm nay, tất cả chúng con ăn chay hãm mình, để bước vào mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng. Xin giúp chúng con hằng biết sống khắc khổ, để ngày thêm vững mạnh mà chiến thắng ác thần. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ Thứ Tư Lễ Tro). Ôi! “Bao năm trôi qua hồn con lạc bước đi xa. Quên bao ơn Cha, trầm kha bể đắm bao la. Nay con ăn năn. Hồi tâm thống hối bao lỗi lầm Đền bù bất xứng bao năm. Quyết tâm trở về Cha lành. ĐK: Hãy trở về, trở về với Cha nhân lành. Hãy trở về, trở về để sớm hồi sinh. Hãy trở về, trở về sống trong an bình. Trở về, trở về để mãi sống trong ân tình.” (TCCĐ “Hãy Trở Vè” – Lm Nguyễn Sang)

--------------------------------

 

Lễ_tro-107: SUY NIỆM THỨ TƯ LỄ TRO_A


Lm. Anthony Trung Thành

 

Mới đây xuất hiện trên mạng hình ảnh những chị em phụ nữ Trung Quốc rủ nhau xuống mồ nằm. Lễ_tro-107


Mới đây xuất hiện trên mạng hình ảnh những chị em phụ nữ Trung Quốc rủ nhau xuống mồ nằm. Khi mới nhìn thấy những hình ảnh này, chắc hẳn ai nấy đều thắc mắc là không hiểu vì sao họ lại làm như vậy?

Tuy nhiên, trên thực tế đây chỉ là một phương pháp để giảm bớt căng thẳng của chị em phụ nữ Trung Quốc sau hôn nhân đổ vỡ. Theo người sáng tạo phương pháp này (bà Liu Taijie) chia sẻ, khi nằm xuống huyệt, họ sẽ cảm nhận như mình đã chết. Khi đó, họ mới hiểu rằng còn nhiều thứ trên đời mà họ còn chưa làm được. Từ đó, những người tham gia sẽ bỏ qua quá khứ buồn đau, bắt đầu cuộc sống mới cho riêng mình. (Nguồn: Internet).

Bắt đầu Mùa Chay, Giáo Hội cũng đưa ra nhiều phương pháp để giúp chúng ta chữa trị tâm hồn: Đó là sám hối, cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí. Với lễ nghi xức tro hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta: “Hãy nhớ rằng mình là tro bụi, một mai rồi sẽ trở về bụi tro.”(St 3,19). Thật vậy, tro chỉ sự chóng qua mau tàn: Đó chính là thân phận bèo bọt của con người, như lời thánh vịnh 102 diễn tả:

Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi,
Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
Một cơn gió thoảng là xong
Chốn xưa mình ở cũng không biết mình.
(Tv 102, 15-16)

Tro chỉ sự khiêm nhường: Khi chấp nhận được xức tro trên đầu là chấp nhận sự thấp kém, chấp nhận sự chóng qua mau tàn của mình. Chính ông Abraham đã khiêm hạ trước mặt Thiên Chúa nhận mình là thân tro bụi (x. St 18,27). Tro cũng chỉ sự sám hối: Việc rắc tro trên đầu cũng là lễ nghi và là dấu chỉ lòng ăn năn sám hối của con người với Thiên Chúa (x. 2Sm 13,19; Mac 3,47 ; Eth 4,1; Mt 11,21). Khi xức tro, thừa tác viên cũng có thể dùng lời Kinh thánh sau đây để mời gọi các kitô hữu sám hối: “Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng”(Mc 1,15). Tiên tri Giô-en mời gọi chúng ta hãy sám hối thực lòng: “Các ngươi hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, nước mắt và than van” (Ge 2,12). Sám hối thực lòng là “Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo” (Ge 2,13). Đó là hành động dũ bỏ những tội lỗi trong con người chúng ta. Thánh Phaolô nói rằng cần phải phá bỏ trong chúng ta con người cũ để mang lấy con người mới (x. Col 3,1-11). Con người cũ đó là: gian dâm, ô uế, đam mê, ước muốn xấu và tham lam…giận dữ, nóng nảy, độc ác, nào là thoá mạ, ăn nói thô tục. Dũ bỏ con người cũ nhưng phải thay thế vào đó bằng những việc lành phúc đức. Mùa chay mời gọi chúng ta thay thế bằng cầu nguyện, ăn chay, làm phúc bố thí.

Việc cầu nguyện: Cầu nguyện là trò chuyện với Chúa. Cầu nguyện đối với người kitô hữu như cá cần nước để sống. Khi cầu nguyện chúng ta bắt chước gương Đức Giêsu: Ngài cầu nguyện khắp mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh, nhất là trước những vấn đề hệ trọng. Khi cầu nguyện chúng ta thi hành bổn phận Đức Giêsu dạy: Ngài dạy chúng ta cầu nguyện theo Kinh Lạy Cha; Ngài dạy chúng ta cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ; Ngài dạy chúng ta cầu nguyện cho kẻ thù; Ngài dạy chúng ta cầu nguyện để xua trừ ma quỷ, vì có những thứ quỷ chỉ có trừ được bằng cầu nguyện, như có lần Ngài nói: “Giống quỷ ấy chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi”(Mc 9,29). Khi cầu nguyện nhắc nhở chúng ta sống tín thác vào Chúa. Đức Giêsu nói: “Không có Thầy các con không thể làm được việc gì?”(x. Ga 15,5). Vậy, chúng ta hãy xét mình lại về tinh thần cầu nguyện của chúng ta như thế nào? Cầu nguyện riêng? Cầu nguyện chung? Cầu nguyện trong gia đình, ở nhà thờ ? Cầu nguyện khi thành công? Cầu nguyện khi thất bại?…

Việc ăn chay: Nhằm giúp chúng ta làm chủ các ham muốn của xác thịt, tâm hồn gia tăng cách tự do để hướng tới sự chiêm niệm về các điều thiện hảo và đặc biệt là để đền bù các tội lỗi của mình, Giáo Hội mời gọi chúng ta ăn chay. Ăn chay theo luật bao gồm việc nhịn ăn và kiêng ăn. Việc nhịn ăn: Trong ngày ăn chay không được ăn vặt, chọn một bữa ăn no, còn hai bữa kia chỉ được ăn vừa hoặc ăn ít. Việc kiêng ăn: Kiêng ăn thịt loài máu nóng như thịt heo, gà, bò, vịt…Ngày hôm nay, Giáo Hội chỉ buộc ăn chay trong hai ngày: Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh. Ngoài ra, Giáo Hội khuyến khích người kitô hữu ăn chay theo khả năng và hoàn cảnh của từng người. Đặc biệt, Giáo Hội luôn mời gọi con cái mình ăn chay theo nhiều cách thế khác nhau. Chẳng hạn: giảm bớt tiêu xài; kiêng ăn uống say sưa; không nói xấu nói hành; không xem những bộ phim xấu, những tranh ảnh khiêu dâm…Tiên tri Isaia còn cho chúng ta biết về cách ăn chay mà Thiên Chúa ưa thích nhất, đó là: “mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ, thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục? Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành”(Is 58,4-8).

Việc bố thí: Một trong những ý nghĩa của việc ăn chay là bớt phần ăn của mình để làm phúc bố thí cho người nghèo. Vì vậy, việc ăn chay và bố thí luôn đi đôi với nhau. Trong sứ điệp Mùa Chay năm 2017, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta: “Mùa chay là mùa thuận tiện để mở cửa cho tất cả những ai đang túng quẫn và nhận ra nơi họ khuôn mặt của Chúa Kitô.” Trong Tin mừng theo Thánh Mathêu, Đức Giêsu cũng cho chúng ta biết, khi làm phúc bố thí cho những kẻ bé mọn là làm cho chính Chúa, và đó cũng là điều kiện để được hạnh phúc Nước Trời. Vị Thẩm Phán mời gọi kẻ lành vào hưởng hạnh phúc nước trời bằng những lời thân thương sau đây: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi từ thưở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát các ngươi đã cho uống; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm; Ta ngồi tù, các ngươi đã hỏi han”(Mt 25,35-36).

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết vận dụng những phương pháp mà Giáo Hội đưa ra trong Mùa Chay thánh này, đó là sám hối, ăn chay, cầu nguyện và làm phúc bố thí để chữa trị tâm hồn chúng con, giúp chúng con có sức chiến đấu với sự dữ và ma quỷ. Amen.

--------------------------------

 

Lễ_tro-108: SUY NIỆM THỨ TƯ LỄ TRO


Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

 

Hôm nay, mùng 01 tháng 3 năm 2017, toàn thể Giáo hội bước vào Mùa Chay Thánh, một khởi đầu Lễ_tro-108


Hôm nay, mùng 01 tháng 3 năm 2017, toàn thể Giáo hội bước vào Mùa Chay Thánh, một khởi đầu mới thúc giục chúng ta hoán cải dẫn đến mục tiêu chắc chắn là Phục Sinh, chiến thắng của Chúa Kitô đối với sự chết. Mùa Chay là mùa thuận lợi để đi sâu vào đời sống thiêng liêng nhờ những phương tiện thánh hóa Giáo hội đã đem đến cho chúng ta: ăn chay, cầu nguyện và bố thí là ba việc cần phải làm trong Mùa Chay. Những việc chúng ta làm phải xuất phát từ cái tâm sâu thẳm hướng lên Thiên Chúa và hướng đến anh em, chứ không phải là hình thức bên ngoài. Vì thế, ăn chay, cầu nguyện cũng như bố thí là những việc được làm vì đẹp lòng Chúa, chứ không phải cho người ta thấy.

Trước hết phải khiêm nhường

Ăn chay, tiếng La tinh là jejunium, nghĩa là: “tự nhịn bất kỳ thức ăn nào“. Khi nhịn chay, con người nhận ra mình lệ thuộc vào Thiên Chúa, “hạ mình”  trước mặt Chúa, vì cảm thấy mình mỏng giòn, yếu đuối  như tác giả Thánh vịnh nói: “Phần tôi, những ngày chúng đau yếu, tôi đã từng khoác áo nhặm vào thân, lại ăn chay để hãm mình phạt xác, lòng tôi ấp ủ câu kinh lời nguyện” ( Tv 34, 13).

Khiêm nhường khi ăn chay còn để Chúa thấy rằng chúng ta chẳng là gì nếu không có Chúa và thiết tha kêu cầu Chúa: “Bấy giờ tất cả con cái Ít-ra-en và toàn dân đã lên Bết Ên; họ ngồi khóc tại đây trước nhan Ðức Chúa. Hôm ấy họ ăn chay cho đến chiều. Rồi họ dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an lên trước nhan Ðức Chúa” (x. Tl 20, 26) ; “Vua Ða-vít cầu khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà ngủ đêm thì nằm dưới đất ; Vua trả lời: “Bao lâu đứa bé còn sống, ta ăn chay và khóc lóc vì ta tự bảo: “Biết đâu Ðức Chúa sẽ thương xót ta và đứa bé sẽ sống!” (2 S 12, 16.22), nhất là nhận biết mình là tội lỗi, là hư vô và cầu xin ơn Chúa tha: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van“. (Dn 9, 3).  Việc giữ chay thể xác chỉ có ý nghĩa khi nhịn ăn đi kèm với việc trách xa tội lỗi: ” Chúng nói: “Chúng tôi ăn chay, sao Ngài không thấy, chúng tôi hãm mình, sao Ngài chẳng hay?”... Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Ðức Chúa? Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc,trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? ” (x. Is 58, 1-12), nếu không nó chỉ là phô trương.


Đừng phô trương

Chính Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Các người hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để cho thiên hạ trông thấy…khi các người bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng… Các ngươi có bố thì, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc ngươi bố thí được giữ kín. Và Cha ngươi, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho người” (Mt 6, 1-6).

Trong Kinh Thánh, Chúa tố cáo mạnh nhất cái vẻ bề ngoài, hay là giả hình. Vì khi giả hình, con người giáng cấp Thiên Chúa, họ đặt Ngài xuống hàng thứ hai, đặt tạo vật, công chúng lên chỗ nhất: “Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thí thấy tận đáy lòng” (1 Sm 16, 7). Trau dồi dáng vẻ bên ngoài của chúng ta hơn tâm hồn, có nghĩa là coi người phàm trọng hơn Thiên Chúa.

Như vậy, vẻ bề ngoài hay sự giả hình tự bản chất là một sự thiếu đức tin: nhưng đó cũng là một sự thiếu đức bác ái đối với tha nhân theo nghĩa nó có xu hướng qui những con người thành những kẻ say mê. Sự giả hình không công nhận phẩm giá thích đáng của họ, nhưng thấy họ tùy thuộc hình ảnh của chính mình. Thiếu đức tin và thiếu đức bác ái, việc làm sẽ trở nên vô ích, nên không có được công phúc gì. Vì thế cần phải


Nghe và thực hành lời Chúa dạy

“Lời Chúa là một hồng ân. Tha nhân là một hồng ân“ là chủ đề của Sứ điệp Mùa Chay năm nay 2017. Khi trưng dẫn đoạn Tin Mừng Luca (16,19-31) để quảng diễn, Đức Thánh Cha viết: Dụ ngôn bắt đầu bằng việc giới thiệu hai nhân vật chính. Người nghèo được mô tả chi tiết hơn: người ấy thật tồi tàn và không đủ sức để đứng lên. Nằm trước cửa nhà người giàu có, anh ăn những vụn bánh từ bàn của người ấy rơi xuống. Thân thể anh đầy lở loét và mấy con chó đến liếm những vết thương của anh (x. c 20-21). Một bức tranh về nỗi khốn cùng; vẽ nên một con người hèn hạ và đáng thương. Chi tiết “người phú hộ vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình” (Lc 16,19) tương phản với “anh Lagiarô nghèo” (Lc 16,20). Cuối cùng cả người giàu và người nghèo đều chết, và phần quan trọng hơn của dụ ngôn này diễn ra ở đời sau. Hai nhân vật bỗng nhiên khám phá ra rằng “chúng ta đã chẳng mang gì vào trần gian này, thì cũng chẳng mang gì ra được” (1 Tm 6,7).

Đức Thánh Cha kết luận: Gốc rễ của mọi bất hạnh của ông là không chịu nghe lời Chúa. Kết quả là ông không còn yêu mến Thiên Chúa và càng ngày càng khinh miệt người thân cận của mình. Lời Chúa thì sống động và mạnh mẽ, có khả năng biến đổi những cõi lòng và đưa chúng trở về với Chúa. Khi chúng ta đóng cửa lòng mình trước hồng ân lời Chúa, thì rốt cuộc chúng ta cũng sẽ đóng cửa lòng mình trước hồng ân là những anh chị em của chúng ta.

Vậy, để khám phá hồng ân Lời Chúa, được thanh tẩy khỏi tội lỗi đã làm cho chúng ta ra mù loà, và phục vụ Chúa Kitô hiện diện trong những anh chị em của chúng ta đang túng thiếu. Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần dẫn đưa chúng ta vào một cuộc hành trình hoán cải thật sự, quyết tâm thực hiện sự đổi mới thiêng liêng này bằng cách tham gia các Chiến dịch Mùa Chay được nhiều tổ chức Giáo hội phát động, để thăng tiến nền văn hóa gặp gỡ trong gia đình nhân loại duy nhất của chúng ta

Xin Chúa Thánh Thần nâng đỡ những quyết tâm của chúng ta trong suốt hành trình của Mùa Chay Thánh này cho nên. Amen.

--------------------------------

 

Lễ_tro-109: BIẾT PHẬN MÌNH


Lm. Jos, DĐH.

 

Tro bụi, cát bụi, có làm chúng ta xao xuyến gì không ? Mầu tím, mầu đen, hay vành khăn trắng trên đầu Lễ_tro-109


Tro bụi, cát bụi, có làm chúng ta xao xuyến gì không ? Mầu tím, mầu đen, hay vành khăn trắng trên đầu có đúng là dấu hiệu của đau thương mất mát không ? Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, chỉ “vu vơ” hay cố tình, khi ông sử dụng ca từ “cát bụi” diễn tả phận người như một quy luật: hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi… ! Cuộc sống có sinh có tử, trở về bụi tro hay đối diện với mầu tím, tuy không phải là những trở ngại, làm thay đổi phong cách an vui thụ hưởng của kiếp người, nhưng ít nhiều cũng đang thức tỉnh ta biết đến phận người đầy giới hạn.

Chẳng ai dám công bố “đóa hồng” từ nay sẽ ngát hương, hoặc có thể ra lệnh cho hoa “ngọc lan” hãy mau giảm bớt mùi thơm lại. Cũng không viện thẩm mỹ nào có thể làm cho cụ già 90 tuổi trở về nét xuân rực rỡ mười tám đôi mươi. Căn bản mà người đời áp dụng tốt khoe, xấu che, mấy ai làm điều ngược lại như vạch áo cho người xem lưng, vì thế mà xu hướng chung, người ta thường hay động viên nhau: hãy vui với phận mình. Bước vào mùa chay, mùa tập luyện, mỗi người trước hết phải biết mình bất toàn, rồi nhờ quyền năng cùng ơn Chúa, Ngài sẽ làm cho “ngọc lan” trong ta bớt thơm, “đóa hồng” tỏa ngát và tâm hồn sẽ tươi trẻ lại thuở ban đầu.

Tự nguyện xức tro lên đầu, nhắc nhớ nhau ăn chay hãm mình, hoặc suy xét về lời Chúa phán: “hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, nước mắt và than van ; xé lòng đừng xé áo”, ít ra cũng là lưu ý cho những ai muốn trở nên con cái sự sáng. Dù biết phận người rồi sẽ trở về cát bụi, biết mầu tím là mầu tang chế hay mầu tím là mầu thống hối ăn năn, tất cả chỉ có ý nghĩa khi chúng ta đặt đặt niềm tín thác vào tình yêu Chúa. Tâm hồn xinh đẹp hoặc nhơ bẩn, chúng ta không nhìn thấy, nhưng Kitô giáo chúng ta tin rằng con người tài giỏi khéo léo nhất cũng không thể giấu giếm che đậy được tội tỗi của mình.

Con người tự nhiên là thích phô trương, thích được trọng vọng, thích được hơn người, thích nổ, thích khoác lác…, dù cha mẹ và các vị làm công tác giáo dục thường nhắc bảo chớ sống hình thức, đừng giả dối, đóng kịch. Giới trẻ thích áo quần, đầu tóc giống thần tượng của mình, bậc cao niên thích kể lể về thành tích thuở xa xưa cho con cháu, trong khi ai cũng biết rõ mọi người đều lên án bệnh phô trương thành tích. Chúa Giêsu hôm nay tiếp nối tinh thần của ngôn sứ Gio-el là hãy xa tránh những gì hời hợt bên ngoài: “khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, khi ăn chay, đừng làm bộ thiểu não…, khi cầu nguyện, đừng giả hình,.. Cha ngươi….sẽ trả công cho ngươi”.

Tại sao Chúa Giêsu lại muốn chúng ta đi sâu vào tâm tình bên trong chứ không phải phô diễn bên ngoài ? Ngài chỉ rõ là Đấng thấu suốt mọi bí ẩn sẽ ghi nhận việc làm của ta, thứ đến Ngài nhắc nhớ việc cầu nguyện phải khởi đi từ lòng mến, không phải chỉ là hành động vu vơ. Sống tinh thần mùa chay mà chỉ xức tro lên đầu thì không khó, già trẻ lớn bé, người thánh thiện tội lỗi đều dễ dàng thực hiện. Nếu đợi đến khi yếu đau, không ăn không uống, không chơi bời trác táng được, rồi mới kiêng khem, cầu nguyện, mới chịu cho đi tiền bạc, thì nào ý nghĩa gì nữa !

Theo ơn khôn ngoan nhận biết Chúa yêu thương, biết mình giới hạn, chúng ta hãy phơi bày tâm tư tội lỗi của mình, hãy để Chúa làm mới lại cuộc sống, thật lòng làm hòa với Chúa làm hòa với anh chị em của ta. Sám hối chính là nhận ra con người thật của mình, nhận ra Thiên Chúa bao dung tha thứ, để hôm nay, để ngày mai chúng ta không phải hối tiếc vì chúng ta đã đặt niềm tín thác vào Đấng ta tin thờ. 40 ngày chay tịnh ở phía trước, sẽ còn là phương thế hữu hiệu để chúng ta thực thi việc mến Chúa yêu người, để được thay đổi nếp sống cũ, được nên giống Chúa Kitô hơn. Xin Chúa Giêsu tiếp tục hiện diện, đỡ nâng và tháo gỡ những vướng bận, giúp mỗi người biết sống những ngày mùa chay cho xứng hợp với tinh thần của Chúa. Amen.

--------------------------------

 

Lễ_tro-110:  BỐ THÍ – CẦU NGUYỆN – ĂN CHAY


P.Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn,

 

Bước vào Mùa Chay là bước vào Lễ Tro, hay nói cách khác Lễ Tro là nghi thức dẫn vào Mùa Chay. Lễ_tro-110


Bước vào Mùa Chay là bước vào Lễ Tro, hay nói cách khác Lễ Tro là nghi thức dẫn vào Mùa Chay. Giáo Hội dạy cho chúng ta biết ý nghĩa Mùa Chay là: Mùa chuẩn bị tâm hồn cử hành Lễ Vượt Qua. Gọi là Mùa vì kéo dài 40 ngày

Mùa Chay cho chúng ta thời giờ “sám hối”, sám hối cho chúng ta được giao hòa với Thiên Chúa, gọi tắt là “ xin lỗi “ Chúa.

Vậy, “ xin lỗi ” Chúa bằng cách nào ? Thưa, Tin Mừng hôm nay ( Mt 6, 1-6. 16 -18) cho chúng ta ba cách để sám hối: BỐ THÍ – CẦU NGUYỆN – ĂN CHAY, gọi tắt là ba trong một.

    Bố Thí: ĐỀN TỘI .
    Cầu Nguyện: XIN LỖI CHÚA, xin ơn tha thứ
    Ăn chay: Nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình.

Như vậy, ba hình thức trong môt vấn đề là SÁM HỐI.

Vâng, tai sao phải sám hối ? Trước hết khởi đi từ bài đọc I hôm nay. ( Ge, 2 , 12 -18), Thiên Chúa phán cùng Tiên Tri Giô-el: “ Các ngươi hãy ăn chay , khóc lóc và than van, và thành tâm trở về với Ta. Phải xé lòng mình ra, chớ đừng xé áo, phải quy thuận Thiên Chúa là Chúa ngươi “ ( Ge 2, 12 -13)

Như vậy, Sám Hối chính là trở về với tâm tình khiêm nhường, mọi thứ tội lỗi đều xuất phát từ sự “ kiêu ngạo”. Một người không thể sám hối, nếu họ không biết khiêm nhường, ngược lại, nếu không có tâm tình khiêm nhường, thì không biết “SÁM HỐI “ chân thành.

Hình thức sám hối chính là: BỐ THÍ – CẦU NGUYỆN – ĂN CHAY , ba hình thức trên phải thực hiện trong nơi“ KÍN ĐÁO”. Vì, bất cứ việc gì làm một cách kín đáo, tránh phô trương, khoe khoang thì lợi ích sẽ tăng them, huống chi là việc đạo đức. Vì, sám hối là việc giữa tội nhân với Thiên Chúa, có nghĩa là mình Chúa , mình ta. Sám hối là nhìn nhận thân phận “ TỘI NHÂN “ chứ không phải là việc “đạo đức “ để khoe. Đây là cốt lõi của vấn đề. Vì, “ Đây là ngày Ta thi ân, là thời giờ Ta giáng phúc “.

Rõ ràng, cách “SÁM HỐI “ của Cựu Ứơc không giống Tân Ứơc, người ta thích phô trương, thích cho mọi người biết, từ đó là” biến dạng” tính chất quan trọng của việc “SÁM HỐI”. Sám hối là biểu lộ sự chân thành, sự ăn năn, gọi là “THỐNG HỐI”, là ăn năn đau đớn. Nhận ra mình là kẻ có tội, chứ không phải người khác có tội. Vì, nếu mọi người đều biết ăn năn, thì xã hội sẽ lành mạnh, đất nước sẽ bình an, thế giới sẽ hòa bình.

Hôm nay đây, Chúa Giêsu dạy chúng ta cách “sám hối” chân thành, có nghĩa  là “sám hối” cách kín đáo. Như vậy, Chúa Giêsu đến để kiện toàn lề luật là như vậy, Người dạy chúng ta cách bố thí , cầu nguyện, ăn chay một cách “ KÍN ĐÁO “ hầu để được chính Thiên Chúa ban ơn cho chúng ta.

Sám hối cho chúng ta một tâm tình “biết ơn “ và phó thác vào Thiên Chúa là Cha nhân từ. Ba cách thế đưa chúng ta đến một sự sám hối chân thành, hầu kết hiệp được với Thiên Chúa.

Ngày nay, hình thức bố thí “khó “ làm nơi kín đáo. Không những, người ta”phô trương “ một nơi, mà còn đưa lên các trang mạng, hầu khắp mọi nơi đều biết việc làm “từ thiện “ của họ. Điều nầy , họ cũng lý giải rằng: “đèn thắp lên , phải được đặt trên giá …”. Tuy nhiên , họ cho rằng, nếu không làm vậy, lấy tiền đâu mà làm từ thiện. Điều nầy đúng khi và chỉ khi, tách rời việc “ bố thí “ của cá nhân, từng người, với “ làm từ thiện “ tập thể. ( mong dành cho sự suy tư của từng người )

Bài đọc II hôm nay (2 Cr 5, 20 – 6, 2) thánh Phaolô nói: “ … anh em đã lãnh nhận ân huệ của Thiên Chúa , thì đừng để trở nên vô hiệu”. ( 2Cr 6 , 1b) . Theo đó, chúng ta hãy làm theo Đức Kitô., Đấng không hề biết tội là gì ?

    Bố thí , không phải chỉ nghĩ về phương diện vật chất, mà còn là phương diện tâm linh. Bố thí về tình thần là làm tốt, nghĩ tốt, nói tốt cho người khác.

    Cầu nguyện , không phải đọc kinh suốt ngày, mà phải biết nhớ đến Chúa từng giây, từng phút. Vì cầu nguyện là biểu lộ một đức tin, một sự cậy trông, một lòng yêu mến tha thiết.

    Ăn chay , không phải nhịn ăn để dành, mà là thể hiện sự hãm mình, sự hy sinh, sự liên kết với cuộc khổ nạn của Đức Kitô- Giêsu. Vì, ăn chay là một trong ba cách sám hối, sám hối là tỏ lòng khiêm tốn.

Sứ Điệp Mùa Chay 2017 của Đức thánh cha Phanxico nhắc nhở cho chúng ta:

    NGHĨ ĐẾN THA NHÂN: Chia sẻ tình thương là LÒNG THUONG XÓT của Thiên Chúa, không phải bằng cơm bánh, mà bằng tinh thần trong Đức Kitô- Giêsu.

    NHÌN LẠI TỘI LỖI CỦA MÌNH: có nghĩa là khiêm tốn nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi, là “ đấm ngực “ mình, chứ đừng “ đấm mặt “ tha nhân.

    CHÚ Ý ĐẾN LỜI CHÚA: Vì Lời Chúa là một đặc ân vô giá, một ân huệ vô song , một tình thương cao cả.

Vậy, hình thức xức tro là hình thức bằng lòng, tự nguyện sám hối chân thành để được ơn tha thứ của Thiên Chúa qua giáo hôi.

Lạy Chúa Giêsu , Chúa đã dạy chúng con biết sám hối chân thành để được giao hòa với Thiên Chúa, được trở về với Lòng Thương Xót của Thiên Chúa là Cha. Xin Chúa thương ban cho chúng con được yêu mến và lắng nghe, hầu thực thi Lời Chúa, hầu đem lại mưu ích cho chúng con ./. Amen.

--------------------------------

 

Lễ_tro-111: Một Mùa chay sẽ ghi dấu ấn 

 

Ngày xưa, khi bước vào mùa Chay, người ta gặp thấy một không khí hơi buồn, đó là lời kêu gọi Lễ_tro-111


Ngày xưa, khi bước vào mùa Chay, người ta gặp thấy một không khí hơi buồn, đó là lời kêu gọi thống hối. Hiện nay mùa Chay có nguy cơ không còn ý nghĩa quan trọng bao nhiêu. Và dầu sao thì phụng vụ vẫn kiên trì kêu gọi chúng ta đón nhận mùa Chay và điều mà mùa Chay đòi hỏi đó là: dứt bỏ cuộc sống chai cứng.
Trước hết, mùa Chay cống hiến một món quà Lời Chúa rất phong phú. Sau khi mở sách lễ ở trang thứ tư lễ Tro, bạn hãy lật các trang tới lễ Lá. Sự phong phú của năm Chúa nhật này sẽ làm bạn phỉ lòng: 15 bài đọc, 5 thán vịnh, 15 lời nguyện, 5 bài kinh mở đầu! Tất cả đều quy về Phục sinh: chống trả các cám dỗ, lên đường, tìm kiếm nước Hằng sống, chúng ta được chữa khỏi những mù quáng, sự sống lại. Trong sách lễ dành cho các thánh lễ mỗi ngày, của ăn cũng rất phong phú. Nếu chúng ta muốn có quyết định trong mùa Chay này thì đây là một quyết định sẽ mang lại nhiều lợi ích cho bạn: sử dụng sách lễ đến nơi thiếu thốn.

Mùa Chay là một lời tha thiết kêu gọi nên thánh, và điều này bắt buộc chúng ta mỗi năm phải có một bản tổng kết về sức khỏe tinh thần, nhìn lại cuộc sống. Trong khi trở về tận thâm sâu cõi lòng mình như thế, việc xét mình đó sẽ dẫn dắt chúng ta tới Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu,
Không những con xa Ngài
Nhưng còn xa hơn nữa
Hãy đưa con về với con
Để từ đó con có thể đến với Ngài.
Hãy làm cho con biết sự tăm tối của con
Để con tìm kiếm ánh sáng của Ngài.
(Theo Chân phước Paul Giustiniani)

Nếu tôi nhìn thấy tôi rõ hơn, chắc tôi sẽ muốn thay đổi, sẽ…Thế thì phải nói rõ từ ngữ chính của mùa Chay, một trong những từ ngữ chính của bài Phúc âm: ăn năn hối cải. Nhất là không hạ quyết tâm: “Tôi muốn ăn năn trở lại”. Điều này không biến đổi được ai cả. Tốt hơn là quyết định nhìn ngắm Chúa Giêsu và lắng nghe Ngài: Ngài sẽ cho chúng ta lòng mong muốn trở nên tốt hơn đến nỗi chúng ta cũng sẽ được Ngài ban ơn trở lại.
Thực sự mà nói, cuộc gặp gỡ đầu tiên với Ngài trong mùa Chay, vào ngày lễ Tro có thể làm cho chúng ta bối rối. Đó vẫn là những công việc cũ rích: làm phước-cầu nguyện-ăn chay, cùng với những lời nguyện xa lạ! Chúng ta có nghĩ rằng chúng ta làm trò cười cho thiên hạ, khi chúng ta làm phước bố thí, khi chúng ta cầu nguyện, khi chúng ta ăn chay hay không?

Nhưng nếu bối cảnh có thay đổi thì lời kêu gọi vẫn là thế: bạn có bố thí hay không? Và điều đó có nghĩa là: bạn có chia sẻ hay không? Bạn có chia sẻ nhiều hơn trong mùa chay này hay không? Bạn có cầu nguyện, bạn có cầu nguyện nhiều hơn trong mùa Chay này hay không? Bạn có chấp nhận một cuộc sống kham khổ hơn hay không?….và cũng là để có thể chia sẻ được!

Không gì ngăn cấm chúng ta chọn lực những phương cách nỗ lực khác, những phương cách thăng tiến khác. Phúc âm không thiếu những gợi ý đó. Điều cổ võ chúng ta, thậm chí làm chúng ta phấn khởi, đó là một mùa Chay được thực hiện như thế có thể ghi dấu ấn sâu xa trên cuộc sống của chúng ta.

--------------------------------

 

Lễ_tro-112: Đừng phô trương

 

Thánh lễ hôm nay đưa chúng ta vào Mùa Chay Thánh, là mùa ăn năn sám hối và đền tội. Muốn Lễ_tro-112


Thánh lễ hôm nay đưa chúng ta vào Mùa Chay Thánh, là mùa ăn năn sám hối và đền tội. Muốn ăn năn sám hối thì ta phải quay về với chính mình, để thấy mình cần phải sám hối những gì, quay về với cuộc sống nội tâm kín đáo thầm lặng, mặc dầu phải sống với bao nhiêu ồn ào náo nhiệt của cuộc sống hôm nay.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy các Tông đồ: bố thí kín đáo, cầu nguyện kín đáo và ăn chay kín đáo. Đời sống đạo đức phải kín đáo. Rõ ràng là Chúa chống lại thói phô trương của người Biệt phái và Pharisiêu, cũng như của chúng ta hôm nay .

Gặp Thiên Chúa nơi kín đáo.

Trong Cựu ước, thường Thiên Chúa hiện ra với con người cách kín đáo: Chúa hiện ra với Abraham và Samuel ban đêm, hiện với một mình Môsê trên núi Sinai hay trong Nhà Tạm.

Trong Tân ước, Chúa Giêsu thường cũng tỏ ra kín đáo: sinh ra trong hang đá Bêlem giữa cánh đồng vắng, sống âm thầm ở Galilê, rút lui ban đêm vào nơi thanh vắng để cầu nguyện, vào sa mạc ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày. Là Con Thiên Chúa, nhưng Chúa tỏ ra kín đáo đến nỗi người ta chỉ tưởng Ngài là con bác thợ mộc, một người tầm thường như trăm ngàn người khác.

Vì thế hôm nay chúng ta mới hiểu được tại sao ChúaGiêsu dạy các môn đệ sống kín đáo nếu muốn gặp Cha, “Đấng hiện diện nơi kín đáo”. Các thánh tu rừng ngày xưa và sau này, từ thế kỷ thứ IV, các đan sĩ rút lui vào nơi thanh vắng, sống im lặng trong cầu nguyện để gặp Chúa. Đời sống tu trì, cầu nguyện trong thanh vắng, đem lại cho Giáo Hội sự cân bằng trong đời sống tông đồ. Đối với người tu sĩ linh mục, cũng như người kitô hữu hôm nay, sống kín đáo để gặp Chúa trong các giờ cầu nguyện, suy gẫm và chiêm niệm, là một nhu cầu sinh tử cho đời sống thiêng liêng và tông đồ .

Môi trường hướng ngoại.

Sống kín đáo với Chúa cần thiết như thế đó, thế nhưng chúng ta đang sống trong một môi trường không thuận lợi chút nào. Con người hôm nay thích phô trương, chạy theo một cuộc sống hướng ngoại, nhiều khi đánh mất cả chính mình. Đến khi phải trở về với chính mình trong yên lặng thì cảm thấy trống rỗng, khó chịu. Sống trong hoàn cảnh đó, người kitô hữu, nếu không cảnh giác thì sẽ bị lây nhiễm dễ dàng, giờ cầu nguyện sẽ trở nên trống rỗng, dễ chia trí, quì trước mặt Chúa, nhưng tâm bất tại …Vì thế nhiều tu sĩ cũng như kitô hữu, thường phàn nàn: đọc kinh cầu nguyện hay chia trí, ngủ gật ngủ gà, có thể đó là dấu chỉ đã bị bầu khí hướng ngoại của thời đại đầu độc khá đậm và đang làm băng hoại đời sống thiêng liêng và tu trì. Đó cũng là lý do khiến nhiều người đã bỏ cuộc.

Tập sống kín đáo với Chúa là một nhu cầu bức thiết của đời sống với Chúa hôm nay. Trong việc huấn luyện, đặc biệt cho giới trẻ được sinh ra và lớn lên trong môi trường hướng ngoại, người có trách nhiệm huấn luyện phải để ý đến điểm này, nếu không thì đời sống với Chúa sẽ trở thành trống rỗng. Thiếu đời sống nội tâm, sống kín đáo và thân mật với Chúa, không chóng thì chày, đờisống ki tô hữu sẽ gặp khủng hoảng .

Ngày nay, dịp nghỉ cuối tuần, người dân thành phố đổ xô về miền núi hay bờ biển, tránh xa bầu khí ồn ào của thành phố, hưởng bầu khí trong lành và sự thinh lặng giữa thiên nhiên. Có nhiều kitô hữu, mỗi năm xin đến sống trong một tu viện một vài tuần lễ để cầu nguyện và sống kín đáo với Chúa trong yên lặng. Điều đó trở thành một nhu cầu cho những ai ý thức về chính mình, để lấy lại thế quân bình. Những ngày tĩnh tâm cũng nằm trong mục đích đó, chứ không phải là một khóa bồi dưỡng kiến thức, cho dù là kiến thức đạo đức. Những bài chia sẻ là để giúp ta đi vào cuộc sống nội tâm, nên phải dành thì giờ sống thinh lặng suy gẫm và cầu nguyện nhiều hơn.

Đừng phô trương, tập rút lui vào thinh lặng của tâm hồn, hãy sống kín đáo với Chúa trong tâm hồn mình. Đó là mục đích của những cuộc tĩnh tâm Mùa Chay, cũng như là đòi hỏi của bài Tin Mừng hôm nay.

Có một người lâu năm không xưng tội, bỗng một ngày kia anh cho vợ con đi về nhà ngoại chơi một tuần; một mình anh ở nhà, xét mình để chuẩn bị xưng tội. Anh đến tòa giải tội với một cuốn tập một trăm trang, viết đầy từ đầu chí cuối. Chỉ trong thinh lặng, người ta mới thấy mình được rõ hơn.

--------------------------------

 

Lễ_tro-113: Thân phận người


– Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

 

Bước vào Mùa Chay, nghe ca khúc “Thân phận người” của nhạc sĩ Tuấn Kim như một tâm sự Lễ_tro-113


Bước vào Mùa Chay, nghe ca khúc “Thân phận người” của nhạc sĩ Tuấn Kim như một tâm sự để suy niệm.  Giai điệu và lời ca thiết tha ngân nga những thao thức, nhắc nhở mỗi người về thân phận của mình, về cõi nhân sinh: “Phù du là phận người, trăm năm như chớp mắt thôi.  Công danh như nước trôi qua cầu, đời con trôi về đâu?”

Phù du là phận người.  Mọi sự chỉ là phù vân. Sách Giảng Viên viết rằng: “Tất cả chỉ là phù vân.”  Phù là trôi nổi, huyền ảo.  Vân là mây.  Phù vân là bèo dạt mây trôi, là hay thay đổi, mau qua, tàn phai.  Mọi của cải vật chất trên trần gian này, kể cả cuộc sống của mỗi người đều là phù vân.

Phù du, phù vân diễn tả thân phận bụi tro: “Người ơi hãy nhớ, mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về tro bụi.”  Con người, dù trẻ hay già, dù giàu hay nghèo, dù sang hay hèn, dù quyền thế hay dân thường, dù tài giỏi hay bình thường… thì một mai cũng lìa khỏi  thế gian này trở về cát bụi.  Đó là định luật muôn thuở!

Trong nghi thức khai mạc Mùa Chay, các tín hữu từ giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ đến giáo dân, mọi người đều khiêm hạ nhận lấy một chút tro trên đầu.  Người giàu cũng như người nghèo, người già cũng như người trẻ, ai cũng nhận mình là thân phận bụi đất.  Nghi thức xức tro thật cảm động, vừa diễn tả lòng sám hối, vừa nói lên nguồn gốc tro bụi của đời người.

Lần lượt mỗi người, từ cụ ông cụ bà đến trẻ nhỏ bước lên để thừa tác viên rắc tro trên đầu.  Nghi thức và cử chỉ ấy giúp con người ý thức thân phận mong manh và giới hạn của mình. “Hãy nhớ ngươi được tạo dựng từ bụi tro, và sẽ trở về với bụi tro.”  Đó là lời Thiên Chúa đã phán với Ađam Evà.  Đó là lời Chúa nói với từng người khi lên xức tro.

Ý thức thân phận giới hạn mong mong của mình, để làm gì?

Để biết rằng tôi không sống mãi trong cuộc đời này, sớm muộn gì cũng đến lúc tôi trở về với Chúa, và tôi sẽ phải trả lời trước mặt Chúa về cuộc đời của mình.  Con người có sinh có tử, có hợp có tan, có khởi đầu sẽ có kết thúc.

Nghĩ về sự chết để mà sống sao cho “đẹp” đời trần thế.  Làm sao để tôi sống cuộc đời này cách ý thức hơn, với tinh thần trách nhiệm hơn, để khi đến trước mặt Chúa tôi có thể đến trong niềm vui, chứ không phải trong sự sợ hãi!

Vì thế, cử chỉ xức tro còn hàm chứa một lời mời gọi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”; hãy nhìn nhận những tội lỗi thiếu sót, những bất tất trong cuộc đời của mình, và hãy cố gắng để sửa đổi những gì còn thiếu sót đó để sống hợp với thánh ý Thiên Chúa hơn.

Đó là lời mời gọi mà Chúa gởi đến từng người qua nghi thức xức tro rất đơn sơ nhưng giàu ý nghĩa và thật xúc động.

Thứ Tư Lễ Tro mở cửa vào Mùa Chay Thánh 40 ngày.  Đây là thời gian giúp chúng ta ý thức về sự mong manh giới hạn của đời người, sống lời mời gọi sám hối và trở về với Tin mừng.  40 ngày Chay Thánh nhằm chuẩn bị cho chúng ta sống mầu nhiệm cuộc Thương khó của Chúa Giêsu, đón nhận cái chết, và mừng ngày Phục sinh của Người.

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở về thân phận mỏng dòn của con người, đồng thời mời gọi chúng ta hoán cải nội tâm trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân.

Tiên tri Gioel đã kêu gọi:“Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng.  Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, Người hối tiếc vì đã giáng họa” (Ge 2,13).  “Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo… Các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta!”  Đó là ý nghĩa cơ bản và sâu xa nhất của sự hoán cải.  Cần phải thay đổi cái nhìn, thay đổi tư tưởng và ước muốn sao cho phù hợp với giao ước tình yêu của Thiên Chúa.  Sự biến cải nội tâm ấy được biểu lộ bằng những hành động cụ thể, như từ bỏ thói quen xấu, kìm hãm con người xác thịt, thực hành chay tịnh, tất cả là để tái tập thế quân bình giữa hồn và xác.

Thứ Tư Lễ Tro khởi đầu Mùa Chay Thánh, mỗi người cố gắng thực hành những việc đạo đức như Giáo Hội mời gọi.

–     Hòa giải với Chúa và với nhau.

Do tội lỗi, con người bị cắt đứt khỏi nguồn mạch sự sống, và bị dìm vào tình trạng bi thảm của sự chết.  Thiên Chúa mời gọi con người trở về với Ngài, giao hòa trong tình con thảo và sống trong niềm vui ân sủng.

Sự giao hoà phải là một lời cầu nguyên khiêm tốn: “Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con đã xúc phạm đến Chúa.”  Đó là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa, diễn tả tâm tình khiêm tốn tin cậy nơi lòng nhân hậu của Thiên Chúa.  Theo gương Thánh Giuse sống thinh lặng nội tâm và đón nhận Bí Tích Hòa Giải. Cần rút lui vào thinh lặng của tâm hồn, hãy sống kín đáo với Chúa trong tâm hồn mình.  Đó là mục đích của những cuộc tĩnh tâm Mùa Chay.  Có một người lâu năm không xưng tội, bỗng một ngày kia anh cho vợ con đi về nhà ngoại chơi một tuần; một mình anh ở nhà, xét mình để chuẩn bị xưng tội.  Anh đến tòa giải tội với một cuốn tập viết đầy từ đầu chí cuối.  Chỉ trong thinh lặng, người ta mới thấy mình được rõ hơn.

Hòa giải với tha nhân.  Đó là điều Chúa Giêsu đã xác quyết: “Nếu người dâng của lễ nơi bàn thờ và ở đó nhớ ra anh em có điều bất bình với ngươi, ngươi hãy đặt của lễ đó trước bàn thờ, đi làm hòa với anh em ngươi trước đã rồi bấy giờ hãy đến mà dâng lễ vật của người.”  Bởi vậy, xin ơn giải hòa với Thiên Chúa, chúng ta cũng hãy tìm mọi cách xóa đi những xích mích, bất hòa hờn giận với người khác.

–     Hy sinh hãm mình.

Truyền thống Giáo Hội từ xa xưa giữ chay 40 ngày, nhưng vì hoàn cảnh và sự yếu đuối của con người, Giáo Hội đã giảm bớt tối đa chỉ buộc giữ chay hai ngày: thứ tư lễ tro và thứ sáu tuần thánh.  Dù vậy, tinh thần hãm dẹp xác thịt lúc nào cũng không thể bỏ qua được.  Do đó “mỗi người hãy cố giữ đời sống hoàn toàn trong sạch, lợi dụng những ngày thánh này để gột rửa những sơ suất trong các mùa khác, bằng cách chế ngự các thói hư, gia tăng cầu nguyện, siêng năng đọc sách, thành tâm thống hối, để tâm hồn được vui mừng mong đợi Lễ Phục Sinh“. (Tu luật Biển Đức).

Mùa Chay là một thời gian thuận tiện để rèn luyện tâm hồn.  Chúa Giêsu đưa ra cho chúng ta chương trình ba điểm để rèn luyện trong Mùa Chay.  Đó là ăn chay, cầu nguyện và làm việc bác ái.

Ăn chay là một phương thế hữu hiệu để rèn luyện tâm hồn.  Cầu nguyện càng sâu xa chúng ta càng thân thiết với Chúa, ai siêng năng cầu nguyện sẽ được sức mạnh cần thiết để chiến thắng các cơn cám dỗ.  Làm việc bác ái, tình yêu Chúa thực sự sẽ được thể hiện trong tình yêu mến anh em đồng loại.

Mùa Chay là những ngày thánh: “Đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ.”  Thiên Chúa lúc nào cũng sẵn sàng ban ơn cứu độ với điều kiện con người phải chuẩn bị tâm hồn để đón nhận.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con trong Mùa Chay Thánh này, biết ý thức thân phận của mình, thực thi việc phải làm là được hòa giải với Thiên Chúa, với chính mình và với anh em.

Xin Thánh Giuse hướng dẫn chúng con trong cuộc hành trình này, để chúng con có thể hoán cải bản thân và nghiệm thấy ân sủng của Thiên Chúa luôn tuôn đổ trên mỗi người chúng con, giúp chúng con được biến đổi nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô.  Amen!

--------------------------------

 

Lễ_tro-114: TRỞ VỀ ĐỂ TẬN HƯỞNG LÒNG XÓT THƯƠNG


Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

 

Ngày tết là ngày của gia đình, con cháu dù ở đâu xa cũng muốn trở về xum họp với ông bà cha Lễ_tro-114


Ngày tết là ngày của gia đình, con cháu dù ở đâu xa cũng muốn trở về xum họp với ông bà cha mẹ để cảm nhận niềm vui và hạnh phúc của gia đình. Những ngày giáp tết vừa qua, dọc đường quốc lộ, chúng ta thấy có rất nhiều anh chị em công nhân, sau một năm bôn ba vất vả, nay tết đến, họ tất bật trở về với gia đình, trên khuôn mặt còn đậm nét của sự vất vả, nhưng trong khóe mắt vẫn ánh lên niềm vui. Trong ngày tổ chức bữa cơm xa quê vừa qua dành cho anh chị em không thể về quê ăn tết, một người đã chia sẻ: Tôi vào đây làm đã mấy năm nay, công việc bấp bênh, cuộc sống khó khăn, đã ba cái tết chưa về thắp nhang cho ông bà, chưa về thăm cha mẹ, bà con. Tôi cũng hy vọng qua năm, khi nào làm ăn có tiền, tôi sẽ về thăm ông bà cha mẹ, thắp nhang cho ông bà.

Năm nay, Mùa Chay của Giáo hội trùng vào này tết, là dịp thuận lợi để chúng ta lắng nghe lời mời gọi trở về của Thiên Chúa. Nếu như ngày tết, mọi người nghe được tiếng gọi của trái tim để trở về với gia đình, thì Mùa Chay đến, chúng ta cũng nghe được tiếng gọi của Giáo hội để mau chóng trở về với Thiên Chúa là Cha yêu thương đang đợi chờ chúng ta. Nếu như ngày tết trở về quê, mỗi người thường sắm những món quà dâng tặng cha mẹ để bày tỏ lòng thảo hiếu biết ơn, thì khi trở về với Chúa là Cha, Chúa không cần chúng ta phải có quà, Chúa chỉ cần một điều duy nhất là tấm lòng thành của chúng ta muốn trở về để gặp Ngài.

Qua tiên tri Giôen, Thiên Chúa mời gọi tha thiết: Hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, khóc lóc và than van. Hãy xé lòng chứ đừng xé áo, hãy trở về cùng Thiên Chúa là Chúa của anh em. Thiên Chúa là người cha kiên nhẫn chờ chúng ta là con trở về để đón nhận tình yêu thương. Giống như ngày tết, khi đi xa trở về với cha mẹ, ta chỉ mong được vùi đầu vào vòng tay của cha mẹ, được ngửi mùi thân quen từ thuở nhỏ, thì cũng vậy, Thiên Chúa luôn giang rộng đôi tay để chờ và ôm chúng ta vào lòng, cho chúng ta được cảm nhận lòng thương xót của Chúa, được nếm hưởng lòng khoan dung tha thứ của Chúa. Vì thế, Chúa muốn chúng ta phải có một thái độ chân thành, không hình thức giả dối bên ngoài, trở về với Thiên Chúa không phải vì gượng ép hay sợ hãi, nhưng vì tin vào tình yêu và sự tha thứ của Chúa.

Lời mời gọi trở về không chỉ dành cho người tội lỗi nhưng cho tất cả mọi người, mọi lứa tuổi, từ cụ già cho đến thiếu nhi, từ tân lang cho đến người giúp việc, mọi chức vị thành phần và tất cả những ai nhìn nhận Chúa là Cha. Ngày trở về sẽ là ngày tết, ngày xum họp đại gia đình của Thiên Chúa. Ngày ấy, Thiên Chúa như người cha vui mừng hạnh phúc khi thấy con cháu xum vầy. Ngài cho mở đại tiệc để tất cả mọi người cùng tham dự vào ngày hội vui của Thiên Chúa.

Mùa tết cũng là dịp để chúng ta làm hoà và xin lỗi nhau. Cũng vậy, Mùa Chay này, Thánh Phaolô khuyên chúng ta: Hãy trở về làm hoà với Thiên Chúa và cũng là dịp để chúng ta làm hoà lại với anh em chung quanh. Thiên Chúa là Cha, không bao giờ Người chấp tội chúng ta, hơn nữa, Ngài còn cho Đức Giêsu đến để cứu chuộc chúng ta, thanh tẩy và làm cho chúng ta nên công chính. Điều đó càng giúp mỗi chúng ta thêm tin tưởng và can đảm trở về xin lỗi Chúa và nối lại mối dây thân tình hiếu thảo với Thiên Chúa.

Tin Mừng Matthew cho thấy, để thể hiện sự thành tâm hối cải, tin vào tình yêu Thiên Chúa, chúng cần thực hiện thường xuyên ba việc: bác ái, cầu nguyện và chay tịnh, hay nói cách khác đó là phải điều chỉnh lại ba mối tương quan của chúng ta: với anh em, với Thiên Chúa và với chính mình.

Tương quan với anh em – Dường như càng sống trong thế giới văn minh hiện đại, con người càng xa lìa anh em, vô cảm dửng dưng với người khác, lạnh lùng làm ngơ trước những đau khổ bất hạnh của anh em. Trở về với anh em, tức là cần nhìn nhận người bên cạnh là anh em con cùng một Chúa, họ phải được tôn trọng phẩm giá một cách xứng đáng, họ có quyền sống như một con người, có đầy đủ quyền của một con người.

Làm việc bác ái theo Tin Mừng không chỉ là việc giúp anh em một vài đồng hoặc một miếng ăn, nhưng phải là sự chia sẻ phát xuất từ trái tim yêu thương và tôn trọng anh em. Vì thế, Chúa không muốn con Chúa khi giúp đỡ anh em, lại khua chiêng gõ trống, đăng hình facebook để đánh bóng tên tuổi của mình, câu like, cầu lợi và vô tình làm tổn thương và xúc phạm đến anh em. Trái lại, cần làm việc bác ái cách âm thầm và hiệu quả như thể giúp đỡ cho người thân ruột thịt trong gia đình. Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, Ngài sẽ thấy những việc làm âm thầm của chúng ta và Ngài sẽ trả lại cho chúng ta theo như sự quảng đại chúng ta dành cho anh em.

Việc làm tiếp theo là điều chỉnh lại tương quan của chúng ta với Chúa. Yếu tố quan trọng trong tình yêu là gặp gỡ và trò chuyện. Ngày tết, khi trở về với gia đình, cha mẹ chỉ mong được nhìn thấy con cái, cùng chuyện trò tâm sự. Cũng vậy, Thiên Chúa muốn chúng ta trở về là để gặp Ngài và tâm sự với Ngài. Cuộc sống bộn bề với công việc khiến cho nhiều người không còn thời giờ tĩnh lặng dành riêng cho mình và càng không có giờ để cầu nguyện gặp gỡ Thiên Chúa, khiến chúng ta lìa xa Ngài. Có thể một ngày ta tốn rất nhiều giờ cho bạn bạn bè, cho các trang mạng và những bạn ảo trên mạng, nhưng người ta lại có rất ít giờ cho người thân và cho việc gặp gỡ Thiên Chúa. Nay Chúa muốn chúng ta gặp gỡ Chúa không phải bằng những hình thức xã giao ồn ào ngoài môi miệng, nhưng là vào phòng đóng cửa lại để cầu nguyện, tức là hãy tìm những giây phút, những nơi thật tĩnh lặng, riêng tư để có thể trải lòng ra với Chúa, cầu nguyện gặp gỡ thân mật với Chúa trong tình Cha-con.

Sau cùng là làm chủ chính mình. Tội lỗi khiến chúng ta tổn hại đến bản thân. Chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa, được Thiên Chúa yêu thương cứu chuộc. Chúng ta có một phẩm giá và ơn gọi cao quý hơn tất cả mọi loài mọi vật. Nhưng điều đó không có nghĩa chúng ta tôn thờ và coi thân xác vượt trên tất cả, nhưng trái lại, phải biết làm chủ con người và thân xác của mình. Việc chay tịnh không dừng lại ở việc ăn cái gì, ăn no hay ăn đói, nhưng quan trọng hơn cần xác định ta ăn chay để làm gì ? – Để làm chủ con người mình.

Một người có thể dễ dàng ăn kiêng theo lệnh của bác sĩ, hoặc vì lý do sắc đẹp, họ sẵn sàng ăn kiêng, tập luyện. Nhưng ăn chay không phải là ăn kiêng. Chay tịnh là một việc làm đạo đức trong tôn giáo, việc chay tịnh thể hiện ý chí, quyết tâm của con người dứt khoát không để mình bị lệ thuộc vào vật chất, không đế nó làm chủ và điều khiển bản năng của mình. Với lối sống dễ dãi, chạy theo hưởng thụ, tiêu dùng và thoả mãn ngày nay, việc chay tịnh là một thách thức với nhiều người. Nhiều người đã để mình bị lệ thuộc hoàn toàn vào vật chất, biến mình trở thành nô lệ, hoặc con nghiện cho các thú vui. Vì thế, Lời Chúa mời gọi chúng ta giữ chay không phải là làm ra vẻ rầu rĩ, ủ dột bên ngoài, nhưng phải là sự quyết tâm từ bên trong, tránh mọi sự lôi kéo của vật chất và đam mê, trong đó có sự đam mê ăn uống, để con người của mình được nhẹ nhàng thanh thoát mà đến cùng Chúa.

Chay tịnh không có nghĩa là hà tiện, nhưng còn là việc giảm bớt những chi tiêu để có thể chia sẻ với người khác ; không để mình mất quá nhiều thời giờ vào việc ăn uống cùng các thứ hưởng thụ nghiện ngập, nhưng biết dành những thời giờ đó để đến gặp gỡ với Thiên Chúa và chia sẻ với anh em. Hơn nữa qua việc làn chủ bản thân, dành thời giờ đến với Chúa và đến với anh em, việc chay tịnh có thể chữa lành được những vết thương trong tâm hồn, xoá đi những lối sống đơn điệu nhàm chán và làm cho cuộc sống của chúng ta đầy tràn tình yêu thương hơn.

Mùa Chay cũng là mùa tết thiêng liêng để chúng ta trở về xum họp, gặp gỡ Thiên Chúa và gặp lại anh em, cùng nhau làm hoà và nối lại tình yêu thương. Vì thế, mỗi người hãy tận hưởng Mùa Chay thánh này như là mùa hồng ân thương xót của Thiên Chúa để chúng ta trở về làm lại cuộc đời của mình sau bao năm xa Chúa và cũng là mùa để chúng ta làm mới lại tương quan với anh em.

Xin Chúa mở rộng vòng tay ôm chúng ta vào lòng và giúp mỗi người thực hiện được quyết tâm trong Mùa Chay thánh này. Amen.

--------------------------------

 

Lễ_tro-115: GIỮ CHAY THẾ NÀO CHO ĐẸP LÒNG CHÚA


Jos. Vinc. Ngọc Biển

 

Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta bước vào Mùa tập luyện thiêng liêng bằng việc Lễ_tro-115


Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta bước vào Mùa tập luyện thiêng liêng bằng việc xức tro và ăn chay để khởi đầu Mùa Chay Thánh. Mùa Chay được bắt đầu từ thứ Tư Lễ Tro và kết thúc vào thứ Sáu Tuần Thánh. Mùa Chay kéo dài năm tuần lễ để chuẩn bị tâm hồn mừng đại lễ Phục Sinh là đỉnh cao của niềm tin Kitô Giáo.

Tuy nhiên, ý nghĩa của việc xức tro và ăn chay nhiều khi chúng ta chỉ dừng lại ở hành vi bên ngoài, mà không có tâm tình bên trong.

Nhân ngày thứ tư Lễ Tro, chúng ta hãy làm mới lại tinh thần về ngày lễ này.

    Xức Tro

Việc xức tro lên đầu nhắc chúng ta về thân phận hữu hạn, tro bụi của kiếp người. Vì thế, Tổ Phụ Abraham đã thưa với Chúa: “Con chỉ là thân tro bụi” (St 18, 27).

Thật vậy, con người được hiện hữu trên trần gian này là do tình thương của Thiên Chúa. Nhưng tiếc thay, tình thương ấy đã bị con người lạm dụng và hướng chiều về tội lỗi thay vì biết ơn! Mỗi khi xức tro, Giáo Hội nhắc chúng ta: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1, 14) để được Thiên Chúa tha thứ.

Những ý nghĩa này được khởi đi từ những câu chuyện trong Kinh Thánh Cựu Ước, điển hình như: tiên tri Giêrêmia kêu gọi sám hối: “Thiếu nữ dân tôi ơi, hãy quấn vải thô vào mình và lăn trên tro bụi” (Gr 6, 26).  Không chỉ dừng lại ở lời khuyên, tiên tri Đanien xin Chúa cứu dân Itrael, và nêu gương cho họ khi nói và hành động: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van” (Đn 9, 3). Đến thời Giona, Đức Chúa truyền cho ông loan báo về tai ương mà Người sẽ giáng xuống trên dân, nếu dân không ăn năn sám hối. Ông đã loan báo công khai, mãnh liệt, ráo riết,  nên: “Tin báo đến cho vua Ninivê; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và ngồi trên tro” (Gn 3, 6).

Sang thời Tân Ước, Đức Giêsu vẫn giữ nguyên giá trị và ý nghĩa của việc xức tro. Tuy nhiên, Ngài hối thúc và cảnh báo sự trai lỳ cứng cỏi của dân khi nói: “Khốn cho các ngươi, hỡi Khoradin! Khốn cho ngươi, hỡi Bétxaiđa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xiđon, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối. Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, thành Tia và thành Xiđon còn được xử khoan hồng hơn các ngươi” (Mt 11, 21 – 22; x. Lc 10, 13).

Như vậy, hành động xức tro lên đầu ngoài việc công khai nhận mình là người có tội và tỏ lòng sám hối chân thành, để xin ơn thương xót của Thiên Chúa, chúng ta còn thể hiện sự quyết tâm trở về với Chúa, đổi mới tâm hồn để xứng đáng là con Chúa.

Một trong những điều thể hiện sự trở về, đó là việc chay tịnh. Tuy nhiên, giữ chay thế nào mới đúng với tinh thần mà Chúa mong muốn?

    Ăn Chay

Ăn chay khởi đi từ tinh thần thờ phượng Thiên Chúa và làm đẹp lòng Người (x. Ds 29,7; Cv 13,2),  (x. Tl 20,26; Gđt 8,6). Ăn chay còn có ý nghĩa nữa là thể hiện lòng đạo đức để được Thiên Chúa nhận lời (x. 2Sm 12,16-22; Er 8,21; để đền tội, xin Thiên Chúa tha thứ (x. Lv 23,27; Hc 34,26; Đn 10,2); hỗ trợ việc trừ Quỉ… (x. Mt 17,21).

Ăn chay còn nói lên tính vị tha là thực hiện công lý và tình thương (x. Is 58,6-7), thánh hóa bản thân, siêu thoát tinh thần để được hưởng sự sống đời đời. Không bám vúi vào của cải, sức riêng cách thái quá, vì: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4, 4).

Thật vậy, nếu không ăn chay với những mục đích đã kể trên thì sẽ trở thành công dã tràng! Điều này đã được thánh Phaolô nói: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,3).

    Cách giữ chay của người Công Giáo hiện nay

Ngày nay, tinh thần ăn chay của người Công Giáo xem ra đã bị lạm dụng, hay hướng chiều về những hành vi tiêu cực.

Có những người ăn chay, bố thí… chỉ vì mục đích được khen là đạo đức, họ ủ rột, thê lương, cốt để làm sao cho mọi người biết mình là người nghiêm chỉnh giữ chay. Lại có những người ăn chay chỉ vì vụ luật hay sợ Chúa phạt! Vì thế, nếu trong ngày, lỡ cách nào đó mà phạm luật, họ hoang mang đến bất an chỉ vì chót ăn vặt, không đúng giờ, đúng bữa… Cũng có những người tính toán đến độ ngày mai ăn chay, hôm nay ăn uống cho đã để ngày mai đỡ thèm, hoặc ăn trực nằm chờ cho qua thời gian luật định, tức là qua 24h, sau đó nhậu nhẹt hả hê. Họ làm như thế và an tâm vì đã giữ trọn ngày chay theo đúng luật. Vì thế, không lạ gì khi có những người mỉa mai cách thức ăn chay của chúng ta rằng: “thứ ba béo”; “thứ năm sung sướng”. Đáng buồn hơn nữa là: có nhiều gia đình ngày chay kiêng thịt thì lại đi mua những thứ cao lương mỹ vị như: hải sản, tôm hùm hay những thứ khác đắt tiền hơn thịt nhiều… mà không hề nghĩ rằng: tiền bớt chắt được trong ngày chay là để chia sẻ bác ái, đóng góp cho công cuộc truyền giáo và các nhu cầu khác của Giáo Hội!

Tinh thần ăn chay như thế, hẳn chúng ta thua xa nơi anh chị em các tôn giáo khác về việc giữ chay! Mặt khác, điều chúng ta dè bửu người Pharisêu hình thức khi xưa, khi họ lo giữ cho sạch chén bát bên ngoài, còn trong lòng toàn sự hận thù, ghen ghét, ích kỷ, kiêu ngạo (x. Mc 7,1-8a.14-15.21-23), thì nay, chúng ta lại đi vào chính vết xe đổ của họ. Như vậy, chúng ta chỉ là cỗ máy không hồn, hay giống chiếc thùng kêu to, nhưng thực chất nó rỗng, và đôi khi chúng ta trở thành “danh hài” hay “con hề” trên sân khấu.

Thái độ khiển trách nặng nề những người Pharisêu của Đức Giêsu: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mc 7, 6), không chừng cũng chính là lời trách móc nặng nề cho những ai hôm nay giữ chay hình thức, hời hợt.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: “Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo ” (Ge 2, 12-18); “Hãy làm hoà cùng Thiên Chúa … vì bây giờ là cơ hội thuận tiện” (x. 2 Cr 5, 20 – 6, 2).

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết sống tinh thần của ngày lễ hôm nay đó là: “Xé tâm hồn chứ đừng xé áo”. Amen.

--------------------------------

 

Lễ_tro-116: CHÂN THÀNH TRỞ VỀ


Trầm Thiên Thu

 

Lễ Tro, khởi đầu Mùa Chay Thánh. Đối với Việt Nam, hôm nay là Mồng Ba Tết. Ý Chúa rất độc Lễ_tro-116


Lễ Tro, khởi đầu Mùa Chay Thánh. Đối với Việt Nam, hôm nay là Mồng Ba Tết. Ý Chúa rất độc đáo: Ngài muốn chúng ta vui Xuân phần xác nhưng đừng quên niềm vui tâm linh của linh hồn, đặc biệt năm nay còn là Năm Thánh Lòng Thương Xót. Ý nghĩa ngày Tết Nguyên Đán năm nay rất hay.

Tại sao phải trở về? Vì đi xa, vì lạc lối, vì lầm đường. Trở về là ăn năn, sám hối, thú nhận tội lỗi, thay đổi lối sống.

Nhưng trở về đâu? Về nhà, về quê hương, về nơi mình xuất phát. NS Lê Dinh nói toạc móng heo luôn là “Trở Về Cát Bụi”. Và đó cũng là một ca khúc đời nhưng ý tưởng gần gũi với Mùa Chay của Công giáo. Ông đã cảm nhận được cuộc đời ngắn ngủi lắm, và ông xác định: “Sống trên đời này người giàu sang cũng như người nghèo khó, Trời đã ban cho ta cám ơn trời cuộc sống hôm nay. Mai kia mốt nọ, trở về cát bụi giàu, khó như nhau, Nào ai biết trước số phận ngày sau ông trời sẽ cho…”.

Thật vậy, chính Thiên Chúa đã quy định kiếp người sau khi Ông Bà Nguyên Tổ phạm tội: “Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là BỤI ĐẤT, và sẽ trở về với BỤI ĐẤT” (St 3:19).

NS Trịnh Công Sơn cũng đã từng thắc mắc: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai vươn hình hài lớn dậy?”. Nhưng ông vẫn thấy vui vì được làm cát bụi, và ông reo lên: “Ôi cát bụi tuyệt vời, mặt trời soi một kiếp rong chơi”. Rồi ông tiếp tục tự vấn và than thở: “Ôi cát bụi mệt nhoài, tiếng động nào gõ nhịp không nguôi”. Cát bụi mà cũng cảm thấy “mệt nhoài”. Kiếp người nhiêu khê quá!

Mùa Chay khởi đầu. Với người Việt, Mùa Chay thường trùng vào dịp vui nhất: Đón Xuân, ăn Tết. Có lẽ Thiên Chúa nhắc nhở dân Việt một cách đặc biệt hơn. Xuân xanh, Tết đỏ lồng trong sắc tím của Mùa Chay. Màu Tím phủ đầy: Tím lòng, tím ăn năn, tím sám hối, tím khiêm nhường, tím yêu thương, tím chia sẻ, tím cầu nguyện, tím nghĩ suy, tím tin kính,… Màu tím đẹp thánh thiện chứ không buồn ủ rũ.

CHÂN THÀNH TRỞ VỀ

Có thực sự cần thiết phải trở về? Chắc chắn RẤT CẦN, vì đó là bước đầu để được Thiên Chúa xót thương. Vả lại, chính Đức Kitô đã khuyến cáo: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3:2; Mt 4:17).

Đây là sấm ngôn của Đức Chúa: “Các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van” (Ge 2:12). Tuy nhiên, vấn đề là “xé lòng chứ không xé áo” và “trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, Người hối tiếc vì đã giáng hoạ” (Ge 2:13). Vì thế, nếu chúng ta thành tâm sám hối, nhận biết sự khốn nạn của mình, Thiên Chúa sẽ “nghĩ lại và hối tiếc mà để lại phúc lành, hầu chúng ta có lễ phẩm và lễ tưới rượu dâng lên Đức Chúa là Thiên Chúa của chúng ta” (Ge 2:14). Một sự thật kỳ diệu: Sám hối và cầu nguyện có thể thay đổi số phận của con người.

Ngày xưa, chính Thiên Chúa đã tuyên ngôn qua miệng ngôn sứ Giô-en: “Hãy rúc tù và tại Sion, ra lệnh giữ chay thánh, công bố mở cuộc họp long trọng; hãy tụ tập chúng dân, mời dự đại hội thánh, triệu tập các cụ già, tụ họp đám thiếu nhi cũng như trẻ thơ còn đang bú. Tân lang hãy ra khỏi loan phòng, tân nương hãy rời bỏ phòng khuê!” (Ge 2:16). Ai cũng phải sám hối, vì ai cũng đã từng phạm tội, sám hối cho mình và cho người khác: “Giữa tiền đình và tế đàn, các tư tế phụng sự Đức Chúa hãy than khóc và thân thưa: Lạy Đức Chúa, xin dủ lòng thương xót dân Ngài! Xin đừng để gia nghiệp của Ngài phải nhục nhã và nên trò cười cho dân ngoại!” (Ge 2:17). Quả thật, Thiên Chúa luôn nhân từ và giàu lòng thương xót: “Đức Chúa đã nồng nhiệt yêu thương đất của Người, đã tỏ lòng khoan dung đối với dân Người. Tai ương chấm dứt và dân được giải thoát” (Ge 2:18). Rõ ràng số phận đã được thay đổi nhờ biết chân thành sám hối.

Là phàm nhân, phận tro kiếp bụi, không ai vô tội, cho nên không ai lại không phải khẩn khoản cầu xin Thiên Chúa thương xót: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy” (Tv 51:3-4). Ngay cả người lành cũng sai lầm mỗi ngày bảy lần kia mà!

Trở về là sám hối, trở về là ăn năn – ai cũng biết, nhưng có thành tâm hay không lại là vấn đề khác. Nhưng để có thể trở về chân thành thì phải khiêm nhường tự nhận sự đốn hèn của mình: “Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài. Như vậy, Ngài thật công bình khi tuyên án, liêm chính khi xét xử” (Tv 51:5-6). Và rồi lại phải tiếp tục van xin: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài. Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con” (Tv 51:12-14). Chắc chắn Thiên Chúa sẽ mủi lòng mà động lòng trắc ẩn. Cầu nguyện là “sức mạnh” của con người và là “sự yếu đuối” của Thiên Chúa.

Sám hối và cầu nguyện không chỉ phải thực hiện trong mùa Chay, mà phải thực hiện suốt đời, hằng ngày, bất cứ lúc nào, như Giáo hội vẫn kêu xin hằng ngày: “Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài” (Tv 51:17).

Thánh Phaolô khuyên nhủ: “Chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa. Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5:20-21). Chúng ta không thể hiểu thấu và không thể dùng trí thông minh của phàm nhân mà lý luận về cách hành động “ngược đời” như vậy của Chúa Giêsu. Chúng ta chỉ có thể cúi đầu mà cảm phục và tạ ơn Ngài mà thôi.

Thánh Phaolô cho biết thêm: “Vì được cộng tác với Thiên Chúa, chúng tôi khuyên nhủ anh em: anh em đã lãnh nhận ân huệ của Thiên Chúa thì đừng để trở nên vô hiệu. Quả thế, Chúa phán rằng: Ta đã nhận lời ngươi vào thời Ta thi ân, phù trợ ngươi trong ngày Ta cứu độ. Vậy, đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ” (2 Cr 6:2). Sám hối lúc nào cũng cần đối với loài người chúng ta, nhưng sám hối càng cần hơn vào thời gian mùa Chay này.

TRỞ VỀ VÌ YÊU MẾN

Trở về để được Thiên Chúa xót thương, được Thiên Chúa tha thứ, và được Thiên Chúa cứu độ. Tuy nhiên, phải chân thành chứ không giả vờ, theo nghi thức. Trở về không chỉ chân thành mà còn phải vì yêu mến. Và đừng quên điều này: “Thiên Chúa thấu suốt mọi sự” (Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6). Trở về là điều cấp bách, vì thời gian không còn bao lâu nữa (x. 1 Cr 7:29).

Trở về cũng phải đúng cách: Ăn chay đúng cách, sám hối đúng cách, làm việc lành đúng cách. Chúa Giêsu hướng dẫn cách thực hiện: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng” (Mt 6:1). Chúa Giêsu sống khiêm nhường nên Ngài rất thích những người khiêm nhường. Ngài tiếp tục khuyến cáo: “Khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi” (Mt 6:2).

Cách thức của Chúa Giêsu luôn khác hẳn với chúng ta, đôi khi chúng ta cảm thấy “khó chịu” vì không được ai biết. Nhưng Chúa Giêsu lại bảo chúng ta phải âm thầm và kín đáo. Ngài kề tai nói với mỗi chúng ta: “Khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc bố thí được kín đáo. Và Cha của bạn, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho bạn” (Mt 6:3-4). Ngài không nói đùa đâu, thật 100%, đúng nghĩa đen chứ chẳng bóng gió chi cả!

Chúa Giêsu đưa ra ví dụ cụ thể để chúng ta nhận thức rõ ràng hơn: “Khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy. Thầy bảo thật anh em: chúng đã được phần thưởng rồi. Còn bạn, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của bạn, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của bạn, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho bạn” (Mt 6:5-6).

Sám hối, ăn chay, cầu nguyện, canh tân, bác ái,… Đó là “chuỗi thánh đức” liên kết chặt chẽ với nhau. Hành trình đó không là 40 năm hoặc 40 ngày, mà là hành trình cả đời, không được lơ đãng bất kỳ một giây phút nào. Ăn chay không chỉ nhịn ăn, nhịn uống, mà còn phải kiềm chế các thói hư tật xấu. Trước tiên là kiềm chế cái lưỡi. Vâng, tịnh tâm là động thái cần thiết để hồi phục – cả về thể lý lẫn tinh thần.

Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin giúp con biết dứt khoát để chân thành trở về với Ngài và trở về với tha nhân – qua việc yêu thương và tha thứ cho người khác, nhờ vậy mà con xứng đáng được thông phần đau khổ và được phục sinh với Con Một Yêu Dấu của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.

--------------------------------

 

Lễ_tro-117: “XIN GỠ CHÚNG CON RA KHỎI SỰ DỮ”


  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

 

Con người thường nhìn người khác mà ít khi nhìn lại mình. Chê trách người khác mà chẳng bao Lễ_tro-117


Con người thường nhìn người khác mà ít khi nhìn lại mình. Chê trách người khác mà chẳng bao giờ “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. Không nhìn mình, không biết mình thật đáng thương thay. Người ta kể rằng, có một con khỉ nọ đi ngang qua tấm gương, nó thấy một con khỉ cực kỳ xấu xí xuất hiện trong đám gương đó, nó đứng lại ngắm nghía con khỉ kia và tự nhủ: “Trời đất ơi, mình chưa hề thấy con khỉ nào xấu xa đến thế bao giờ”.

Đôi khi phê bình xét đoán người khác lại là một việc làm mang lại sự thích thú cho chúng ta, bởi chúng tạo cho chúng ta cảm giác mình là người tốt, hoặc ít ra cũng không phải là người tồi tệ đốn mạt. Đó là lý do khiến người ta thích soi mói, khích bác người khác. Soi mói đề tìm cách hạ bệ nhau đã gây nên biết bao đổ vỡ cho tình người với nhau. Người có quyền thì soi moi cấp dưới để khống chế, để răn đe, để trừng phạt. Kẻ dưới thì soi moi cấp trên để nói xấu và hạ bệ. Hàng xóm soi mói nhau để tìm cái xấu nơi anh em để nâng mình lên.

Nhất là không ưa nhau thì người ta luôn:”bới lông tìm vết”. Từng lời nói, từng cử chỉ cũng bị soi mói, rồi đem ra bình luận và thường là kết luận bằng sự kết án, hạ bệ lẫn nhau.

+ Có một cha xứ đã không chịu nổi sự soi mói của một số thành phần quá khích luôn rình rập để tìm kẽ hở của cha để nói xấu, chỉ trích khiến cha như một người cô đơn vì chẳng biết tin vào ai.

+ Có nhiều cô dâu không muốn ở chung với mẹ chồng vì sự xét nét từng li, từng tí của mẹ chồng, khiến cô cảm thấy mình bị xúc phạm, vì mất tự do.

+ Có những người đàn ông mà tính đàn bà luôn rỉ tai nói xấu người khác từ những chuyện nhỏ nhặt đi lại, ăn uống của người khác. .

+ Có nhiều người chồng quá mệt mỏi vì vợ thiếu tin tưởng nên luôn  soi mói rình rập chồng, khiến anh như người tù luôn có người theo dõi.

Soi mói, chỉ trích luôn luôn là điều xấu. Nó xấu vì nó phá vỡ tình người với nhau. Không còn tình người chỉ còn lý lẽ, luật lệ để kết án lẫn nhau. Đó là điều đã dẫn đến biết bao đổ vỡ tình hiệp nhất trong gia đình, trong giáo xứ.

Hôm nay chúng ta bước vào mùa chay với 40 ngày chay thánh, chúng ta lại được nghe những lời mời gọi tương tự: “Hãy sám hối”. Hãy sửa lại lỗi lầm. Hãy canh tân đời sống. Lời mời gọi đó không chỉ là tiếng gọi mời  của Chúa hay của Giáo hội mà còn là tiếng gọi mời của những người thân thương nhất của mình. Đứng quá xét nét với nhau trong lời ăn tiếng nói để rồi gây nên những đổ vỡ cho cộng đoàn và gia đình. Đừng vì lối sống ẩu thả, lười biếng, tội lội của mình mà gây nên đau khổ cho cha mẹ, anh em, bạn bè. Đừng vì những đam mê bất chính của mình để rồi phá hoại hạnh phúc gia đình của mình. Đừng vì lối sống thiếu trách nhiệm của mình mà chồng chất những gánh nặng khổ đau cho chồng, cho vợ, cho con cái của mình.  Đừng vì lợi ích cá nhân hay băng nhóm của mình mà chà đạp kẻ yếu, mà gây nên oán than bởi công lý và nhân phẩm bị chà đạp.

Hãy sống yêu thương và tôn trọng lẫn nhau. Đừng lấy quan điểm của mình, của nhóm mình để áp đặt người khác. Đừng soi mói chuyện riêng tư của anh em để kết án gây nên những chia rẽ hận thù trong cộng đoàn. Vâng, cuộc đời sẽ đẹp biết bao khi chúng ta biết bỏ đi lối sống phóng túng, vô nại, lười biếng của mình để sống có trách nhiệm với bản thân và gia đình. Cuộc đời sẽ đẹp biết bao khi chúng ta biết bỏ đi lối sống độc tài, bảo thủ, gian ác của mình để mang lại bình an cho những người đang sống bên cạnh chúng ta. Cuộc đời sẽ đẹp biết bao khi chúng ta biết bỏ đi lối sống gây gương mù, gương xấu mà làm cho biết bao tâm hồn trong trắng, thơ ngây thành mồi ngon cho ma quỷ dẫn dắt. Cuộc đời sẽ đẹp biết bao khi chúng ta biết bỏ đi lối sống soi mói, tìm cách hạ bệ nhau để sống hòa thuận êm đềm bên nhau.

Tại sao mỗi ngày chúng ta đều cầu nguyện “xin gìn giữ chúng ta khỏi mọi sự dữ”, thế mà sự dữ ấy lại do chính chúng ta gây nên cho anh em? Tại sao sự dữ lại là chính chúng ta? Chính chúng ta đã giết hại anh em của mình bằng lời nói và việc làm bất khoan dung. Chính chúng ta đã gieo khổ đau cho anh em của mình. Chính chúng ta đã và đang nuôi dưỡng sự dữ trong lòng chúng ta là những hận thù, ghen ghét, nói hành, bỏ vạ cáo gian anh em của mình. Phải chăng chúng ta phạm tội mà chúng ta chẳng hay biết? Phải chăng vì phạm tội thành thói quen đến nỗi đánh mất ý thức về tội? Như vậy chúng ta phải cầu nguyện “xin gỡ chúng con ra khỏi sự dữ”. Sự dữ không ở ngoài chúng ta. Sự dữ ở trong chính tâm hồn chúng ta.

Giờ đây, khởi đầu cho hành vi sám hối, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy xức tro trên đầu để nhớ rằng mình là cát bụi. Cát bụi cuộc đời chẳng đáng là gì, chỉ “một cơn gió thoảng cũng đủ làm biến tan đi”. Thế nên, hãy khiêm tốn để sống đúng với thân phận thọ tạo phải vâng phục Đấng Tạo Hoá, đồng thời biết sống kính trọng tha nhân. Xức tro trên đầu còn là hành vi sám hối ăn năn, vì những tham vọng kiêu căng, đã làm mất tình hiệp nhất nơi cộng đoàn. Xức tro trên đầu là nhìn nhận sự yếu hèn của mình để cần đến tình thương và ân sủng của Chúa  gìn giữ hồn xác chúng ta luôn trong sạch vẹn tuyền. Xin đừng để chúng ta tan biến đời mình bằng đời sống tội lỗi và bán rẻ linh hồn của mình cho danh lợi thú trần gian, nhưng xin Chúa giúp chúng ta luôn sống thanh thoát khỏi những quyến luyến tội lỗi trần gian. Amen.

--------------------------------

 

Lễ_tro-118: ĐỜI NGƯỜI NHƯ ĐỜI HOA


 Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

 

Những ngày gần Tết, hoa tươi và cây cảnh được bày bán khắp mọi nẻo đường phố thị. Đủ mọi Lễ_tro-118


Những ngày gần Tết, hoa tươi và cây cảnh được bày bán khắp mọi nẻo đường phố thị. Đủ mọi loại hoa kiểng, lắm màu hương sắc. Gia đình nào cũng mua hoa chưng Tết. Tôi cũng mua cây mai nhiều nụ và mấy chậu hoa hồng hoa cúc để làm đẹp phòng khách. Nâng niu, chăm sóc thật kỹ lưỡng. Mồng Ba Tết, hoa đã héo rụng đầy phòng. Phải quét rác thôi, gom cả mai cả hồng cả cúc đi đốt. Ôi Hương sắc của hoa! Hôm qua tươi đẹp, hôm nay héo tàn rụng úa. Hôm qua “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”, hôm nay quét bỏ như rác rưởi.

Mùa Chay khởi đầu với Thứ Tư Lễ Tro, nghĩ về hoa và rác như nghĩ về thân phận tro bụi của kiếp người theo lời Thánh Vịnh 102:

 Đời sống con người giống như hoa cỏ
 Như bông hoa nở trên cách đồng
 Một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi
 Nơi nó mọc không còn mang vết tích.

Đời người cũng tựa đời hoa. Khi tươi nở, hoa rực rỡ khoe sắc, hoa ngào ngạt toả hương, ai cũng yêu cũng quý. Khi ủ rũ héo tàn, hương sắc của hoa rụng úa tàn tạ, chỉ mau vứt vào thùng rác. Hôm trước nâng niu, hôm sau vứt bỏ. Một đời hoa chóng tàn phai như lời sách Giảng viên:  “Phù hoa nối tiếp phù hoa, chi chi chăng nữa cũng là phù hoa” (Gv 1,2). 

Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Thừa tác viên đọc “Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro” và xức tro trên trán tín hữu. Đây là lời Thiên Chúa báo cho Ađam biết khi nguyên tổ vừa phạm tội. Giáo Hội cũng lặp lại những lời ấy trong phần xức tro để nhắc nhở về thân phận cát bụi của con người.

Nghi thức xức tro bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do thái. Trong Cựu ước, mỗi khi muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do thái thường xức tro trên đầu, ngồi trên đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra.

Trong lúc quân đội của Assyria do Tướng hùng hổ Holoferno chỉ huy tiến vào Israel, mọi người dân Giêrusalem, cả phụ nữ và trẻ em, phủ phục xuống đất trước Ðền Thánh và bỏ tro trên đầu, giang tay lên trời, khẩn cầu Thiên Chúa (Judit 4,11). Ông Gióp, sau khi tha thiết kêu cầu Thiên Chúa cứu mình trong cơn cực khổ, hoạn nạn, bị mọi người từ bỏ, trở về với Chúa với tất cả niềm tin tưởng và thề hứa: “Lạy Chúa, con xin rút lời than phiền, trách móc, con đau đớn bỏ tro bụi trên con” (Job 42, 6). Bị đe dọa tàn phá, sau khi nghe tiên tri Giona giảng, toàn dân thành Ninivê, từ Vua đến dân thường và cả loài vật nữa, bỏ tro trên đầu, mặc áo nhặm, xin ơn tha thứ và đã được Thiên Chúa thương đến (Jona 3,5).

Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì đã phạm nhiều tội lỗi.

Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người như một nắm tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết tích.

Sách Giảng Viên viết rằng:”Tất cả chỉ là phù vân“. Phù là trôi nổi, huyền ảo. Vân là mây. Phù vân là bèo dạt mây trôi, là hay thay đổi, mau qua, tàn phai. Mọi của cải vật chất trên trần gian này, kể cả cuộc sống của mỗi người đều là phù vân.

Văn chương Việt nam khi nói tới cái gì bấp bênh, vô định, chóng tàn, thường dùng hình ảnh bọt bèo:  “Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau” (Nguyễn Du).

Bọt là bong bóng nước mong manh, tan trong chốc lát. Hình ảnh bọt diễn tả cái vắn vỏi của cuộc đời. Bèo gợi lên ý tưởng về sự lênh đênh, trôi nổi, vô định:

 ”Lênh đênh duyên nổi phận bèo.
 Tránh sao cho khỏi nước triều đầy vơi” (Ca dao).

 “Bèo dạt, mây trôi đành với phận” (Chu Mạnh Trinh)

Cuộc đời làm sao mà không bi đát khi nó là phù vân, khi nó vừa là bọt chóng tan, vừa là bèo trôi nổi, dật dờ không bến ?

Cuộc đời tuy có là bèo bọt. Phận người dù phù hoa, mau chóng tàn phai trở về bụi đất. Con người bởi đất nhưng con người không bằng đất, con người có sinh khí, có hơi thở. Con người là hoạ ảnh và hình ảnh của Đấng dựng nên mình. Sự cao cả của con người là bắt nguồn từ chính Đấng là Sự Sống, Đấng Hằng Sống, con người là hình ảnh và hoạ ảnh của Đấng vô thuỷ vô chung, nên sự sống con người mang hình thái bất diệt, vượt xa các loài được tạo dựng. Lòng thương xót của Thiên Chúa không dựng nên con người, theo cái bên ngoài của Thiên Chúa, nhưng cho con người mang hoạ ảnh và hình ảnh của Người. Theo quan niệm của Nho Giáo, con người là sự tích tụ của tinh thần và khí chất nên con người có sự sáng suốt để hiểu các sự vật. Là hoạ ảnh và hình ảnh của Thiên Chúa, con người có một phẩm giá trổi vượt trên các loài được tạo dựng, con người một phần giống Thiên Chúa bởi quyền cai quản trên vạn vật và bởi con người có trí khôn, tự do.

Ba việc đạo đức được nhắc nhở rất nhiều trong mùa chay là: Bố thí, ăn chay và cầu nguyện. Đây là ba vũ khí tuyệt hảo để chống lại sự tấn công của ma quỷ và đền bù tội lỗi mình. Những việc lành phúc đức này, khi được thi hành thì hãy làm với tất cả tấm lòng của mình; không làm để khoe khoang. Chỉ cần Thiên Chúa thấu hiểu và biết cho chúng ta là đã đủ rồi. Đừng làm để được người đời khen và vì thế mà chúng ta mất đi lời khen tặng của Thiên Chúa. (x.Mt 6,1-6).

Ăn chay và kiêng thịt, chịu tro chỉ là hình thức bên ngoài mà thôi. Canh tân nội tâm vẫn là trọng tâm của mùa chay. Kiêng bớt các tội là điều mà Thiên Chúa mong muốn. Sửa đổi tính nết để trở thành người tốt hơn, đạo đức hơn, thánh thiện hơn. Bớt nói hành, nói xấu, lười biếng việc đạo đức là điều phải thực hành.

Nói một cách hình tượng, thì con người của Mùa Vọng là một con người ÐI, con người hành hương, lòng tràn trề hy vọng đang tiến về cùng đích tối hậu của cuộc đời; con người của Mùa Phục Sinh là một con người ÐỨNG, tự do, chủ động và tự tín đối diện với thế giới, còn con người của Mùa Chay thì NGỒI trong thái độ chiêm nghiệm, trầm tư. (Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống).

Ngay đầu Mùa Chay, Phụng vụ đã nhắc nhở ta cần phải trầm tư để chiêm niệm về thân phận: “Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về tro bụi”. Ý nghĩa của lời đó quá rõ ràng: mọi người sẽ phải chết. Vậy anh lao tâm khổ trí, vất vả ngược xuôi, ganh đua tranh dành để tìm kiếm của cải, danh vọng, thú vui…, anh nỗ lực học hỏi, tìm tòi, phát minh, xây dựng… nhưng khi chết đến, anh mang theo được thứ gì, tất cả có nghĩa gì cho anh? Cuối cùng thì cái gì là đáng quan tâm nhất trong đời? Ðâu là bậc thang giá trị đời anh?

Có ba quan niệm sống có thể tạo ra một thái độ tiêu cực trước cuộc đời.

Một là cho rằng chết là hết, không còn gì tồn tại. Nếu quả thực mọi sự sẽ chấm dứt với cái chết, nếu số phận người tốt kẻ xấu đều sẽ như nhau sau khi chết, thì người ta sẽ có lý mà lập luận rằng: Ta hãy ăn uống, vui chơi, hãy hưởng thụ giây phút hiện tại cho thoả thích, vì chết rồi sẽ chẳng còn gì !

Hai là tin vào thuyết định mệnh, nghĩa là tin rằng mọi sự đã được an bài sẵn và số phận của mỗi người đã được thần thánh định đoạt. Nếu thế thì con người chẳng cần và chẳng có thể làm gì nữa, mọi cố gắng đều vô ích.

Ba là tin vào thuyết luân hồi, cuộc sống là một vòng luân chuyển, hết kiếp này qua kiếp khác. Nếu kiếp này chưa đạt cõi phúc thì sẽ chờ kiếp sau, khi được đầu thai lại, luân hồi theo vòng nghiệp chướng. Dĩ nhiên thuyết luân hồi không đương nhiên dẫn tới tiêu cực, nhưng dù sao cũng không dành cho cuộc sống hiện tại một giá trị và tầm quan trọng quyết định đối với số phận mỗi người.

Khác với ba quan niệm trên, Kitô giáo dạy rằng: Thiên Chúa thực sự giao cho ta chịu trách nhiệm về thế giới này và về sự thành công của cuộc đời chúng ta. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của con người. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc gieo mầm cho đời vĩnh cữu.

Chúa Giêsu khuyên chúng ta “phải lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa” bằng cách “ Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá”.

Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn minh hoạ bài học tỉnh thức của Mùa Chay.

Dụ ngôn người đầy tớ đợi chủ về: tỉnh thức như người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới không biết về lúc nào. Thái độ tỉnh thức là “thắt lưng cho gọn” và “thắp đèn cho sẵn”. Luôn sẵn sàng để khi chủ về thì mở cửa và ân cần phục vụ. Tỉnh thức để đợi chủ về. Người Kitô hữu chờ đợi Chúa đến trong vinh quang ngày quang lâm, chờ đợi Chúa đến trong giờ sau hết đời mình. Vì thế người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ.

Dụ ngôn người quản gia trung thành. Quản gia chỉ là quản lý mà “ ông chủ đặt lên coi sóc gia nhân, cấp phát thóc gạo đúng giờ đúng lúc”. Mỗi người chúng ta là người quản lý của Thiên Chúa. Sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ , sắc đẹp…tất cả đều là do Chúa ban tặng. Những gì mà ta có đều là của Chúa. Người quản lý khôn ngoan phải biết nhìn xa, làm sao cho sự sống, trí tuệ, tài năng… giúp ta hướng tới những giá trị vĩnh cửu.

Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức và đợi chờ với niềm hy vọng là chủ sẽ trở về.

Kitô giáo là tôn giáo của hy vọng vì dựa trên lời hứa của Thiên Chúa .Thiên Chúa hứa và Ngài sẽ thành tín thực hiện lời hứa.Thiên Chúa thực hiện từng giai đoạn và ngày càng trọn vẹn hơn.Vì thế người Kitô hữu luôn hướng về tương lai chờ đợi lời hứa cứu độ đã được thực hiện trong lịch sử và sẽ hoàn tất sau lịch sử.

Chờ đợi hướng về tương lai tức là hy vọng. Hy vọng luôn gắn liền với lòng tin. Không có đức tin hy vọng chỉ là ảo tưởng. Không có hy vọng đức tin sẽ chết khô. Nhờ đức tin chúng ta chọn đúng hướng. Nhưng chỉ có hy vọng mới làm cho ta đi tới cùng đường.

Biết mình đang đi về đâu, người có lòng tin không vì thế mà đương nhiên hết còn cảm nhận tính bi đát của cuộc đời “ phù vân, bèo bọt” vì họ vẫn là con người như mọi người, nhưng họ có một niềm hy vọng giúp họ giữ được thái độ lạc quan và an bình. Nhận chút tro trên đầu và hát lên lời Thánh vịnh “Lạy Chúa, xin thương xót con vì tình yêu thương và lòng nhân hậu của Chúa. Xin xóa sạch mọi tội lỗi con, để linh hồn con trở nên trắng như tuyết ” (TV 50,1). 

Biết rằng mình được cứu chuộc bằng giá máu Chúa Kitô, người Kitô hữu luôn có đựơc điểm tựa an toàn cho hạnh phúc đích thực.

Con người là “hoa” và cũng là “rác”, nhưng với tình yêu Chúa Kitô, con người không còn là bèo bọt, không là phù hoa mà là con người của thần khí, trổ sinh những hoa quả của Thánh Linh (Gal 5,22). Một trong những hoa trái của Thánh Linh là đức ái.

Chủ đề của sứ điệp Mùa Chay năm 2013: “Tin vào đức ái thúc đẩy lòng bác ái“, được Đức Thánh Cha trích trong Thư thứ nhất của Thánh Gioan (4,16): “Chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó“. Trong khuôn khổ của Năm Đức Tin, Đức Thánh Cha dành sứ điệp Mùa Chay cho mối tương quan giữa đức tin và đức ái. Ngài viết: “Tất cả mọi Kitô hữu, nhất là những người làm việc bác ái, cần có đức tin, là sự gặp gỡ cá nhân với Thiên Chúa trong Đức Kitô và cảm nghiệm được tình yêu của Người… Kitô hữu là những người đã được tình yêu Thiên Chúa chinh phục và do đó, dưới ảnh hưởng của tình yêu này, họ hoàn toàn cởi mở cho việc yêu thương tha nhân bằng những phương cách cụ thể.“. Đức Thánh Cha nhận xét: “Đời sống Kitô hệ tại liên tục tiến lên núi gặp gỡ Thiên Chúa để rời hạ sơn, mang tình thiêng và sức mạnh từ cuộc gặp gỡ ấy, phục vụ anh chị em với cùng tình yêu thương của Thiên Chúa”. Người Kitô hữu hoạt động bác ái biết rằng, không phải những cố gắng riêng của mình mang lại hoa trái, nhưng đúng hơn là “sáng kiến cứu độ” đến từ Thiên Chúa, từ ân sủng của Ngài. Ân sủng không giới hạn tự do và trách nhiệm của con người, nhưng quí hướng chúng về những hoạt động bác ái. Đỉnh cao của đức ái là chia sẻ Tin Mừng cho anh em: “Thực vậy, Phúc Âm Hoá là hình thức cao cả nhất của đức ái và là phương cách tốt nhất để cổ võ cho con người…Không có hành động nào tốt đẹp hơn, và bác ái hơn đối với tha nhân, là cùng chia xẻ tấm bánh của Lời Chúa, là chia sẻ với họ Tin Mừng của Phúc Âm, và giới thiệu họ vào một mối tương quan với Thiên Chúa“.

Đức bác ái Kitô giáo là tình yêu đối với Thiên Chúa giáu lòng xót thương được cụ thể hóa bằng hành động yêu thương phục vụ tha nhân. Trong sứ điệp Mùa chay 2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đề nghị mọi tín hữu “Hãy sống Mùa Chay trong Năm Thánh này một cách mạnh mẽ hơn như là khoảng thời gian đặt biệt để cử hành và cảm nghiệm Lòng Thương Xót Chúa“. Ngài mời gọi chúng ta thực thi lòng thương xót cách cụ thể: “Kỳ diệu thay, lòng thương xót Chúa chiếu tỏa nơi cuộc sống chúng ta, giúp chúng ta cũng biết yêu người lân cận và hiến thân mình cho những gì mà truyền thống Giáo Hội gọi là những việc bác ái phần xác cũng như phần hồn. Những việc làm này nhắc nhớ chúng ta rằng đức tin phải được diễn tả cách cụ thể trong mọihành động thường ngày, có nghĩa là giúp đỡ người thân cận của chúng ta về phần xác cũng như phần hồn: bằng cách cho họ ăn uống, viếng thăm, an ủi và hướng dẫn họ. Chúng ta sẽ được phán xét dựa trên những việc làm như thế. Vì thế, tôi hy vọng là đoàn dân Kitô hữu sẽ quan tâm đến những việc bác ái, về phần xác cũng như phần hồn”.

Làm việc bác ái, chúng ta sẽ sống một Mùa Chay thánh thiện.

--------------------------------

 

Lễ_tro-119: TRO


Trần Đình Phan Tiến

Thưa các bạn,

 

TRO” là hình ảnh tượng trưng của sự hữu hình, sự mỏng manh, sự yếu đuối, sự bất toàn, sự Lễ_tro-119


“TRO” là hình ảnh tượng trưng của sự hữu hình, sự mỏng manh, sự yếu đuối, sự bất toàn, sự hèn kém, sự thất bại, sự hư mất. Tóm lại, “TRO” là điều bỏ đi, vì tro là kết cục của sự hủy diệt, đó là quy luật tất yếu, hệ quả của tội. Tội nguyên tổ, tội của dòng lịch sử nhân thế, tội của cá nhân hằng ngày , hằng giờ. Vậy, “TỘI”  là gì ? Thưa, tội là “chối bỏ “ Thiên Chúa, chối bỏ, không tôn thờ Vị Thần duy nhất, Đấng Tạo Thành vạn vật cho có sự sống.

Từ tro bụi, tức vật thể từ đất mà ra, còn nhỏ hơn đất. Chúng ta đừng tưởng trên trái đất nầy là bền vững, chắc chắn. Bên trên trái đất, nhờ sức hút, mọi sinh vật được hình thành và tồn tại như chúng ta biết. Nhưng, bên trong vỏ trái đất là một trái cầu mênh mông vô định, là một khối rỗng khổng lồ. Nhưng, trong bàn tay Thiên Chúa, trái đất chỉ như một trái bóng nhỏ trong bàn tay của chúng ta. Vâng, đây là chân lý, nếu ngược chân lý nầy là hoàn toàn giả tạo, mưu chước của satan.

Hình ảnh và tính chất của tro, ai cũng biết, không ai muốn sống chung với tro. Sự thấp hèn của tro bụi là như vậy, bị xua đuổi, bị khinh khi, bị xem thường, nhưng không được bênh đỡ.

Vâng, thân phận của vật vô tri là thế, còn con người, là tạo vật có tri thức thì sao ? Thân phận và hình ảnh của bụi tro cũng chính là kết cục của thân phận con người chối bỏ Thiên Chúa. Tất cả sẽ trở về bụi tro, mọi sự tính toán, bon chen, mưu mô quỷ quyệt cũng trở về với kiếp của nó.

Chỉ duy thụ tạo siêu nhiên, là linh hồn người ta mới bất tử, vì mang hình ảnh của Thiên Chúa, vì linh hồn không thuộc bụi tro. Vì linh hồn không bất tử trong thân xác, hay nói cách khác thân xác nhuốm màu tro bụi của con người không bất tử được dù được tháp nhập với linh hồn. Bởi vì, nguyên lý ”Bụi Tro”. Từ đó , chúng ta biết, Đức Kitô, Đấng Cứu Độ nhân trần là như vậy.Người đã từ trời xuống thế,cũng chính vì để “CỨU” thế gian. Người bởi Thiên Chúa, phần Nhân Tính của Người là một mầu nhiệm siêu nhiên, sự hữu hình của Người là bởi Thần Khí Thiên Chúa, có nghĩa là không thuộc hạ giới, là tinh hoa của Đấng Tạo Thành, nguồn sung mãn từ sự vô biên. Vì vậy, nơi Người không có sự chết, mặc nhiên, tội lỗi không xâm nhập được, đó là bụi tro. Vì, tro bui bám được tất cả, nhưng, tro bụi không bám được không khí, mặc dù trong khí quyển vẫn có bụi. Vì vậy, sự phục sinh nơi Đức Kitô mới chính là hoa trái của ơn cứu độ.

Tro bụi là kết tinh của sự hủy diệt, tro bụi là hệ quả sau cùng của tội lỗi. Tro bụi là sự thanh tẩy. sự thanh luyện sau cùng. Chúng ta thấy, sau đống tro tàn là một trận hỏa hoạn, muốn có tro, trước tiên phải có chất cháy và lửa, còn những thứ không cháy được sẽ bị han rỉ thành bụi đất.

     Vâng, thưa các bạn, tính chất của tro bụi là thế, và con người không đón nhận ơn cứu độ từ Thiên Chúa qua Đức Giêsu – Kitô thì cùng chung số phận như thế. Qua đó, chúng ta thấy, thân phận tro bụi phản chiếu “ƠN CỨU ĐỘ” của Thiên Chúa. Thiên Chúa nâng con người lên với Ngài, bởi vì nguyên lý bụi tro, chính Thiên Chúa cũng không thay đổi, nhưng, Thiên Chúa dùng ơn cứu độ của Ngôi Lời Thiên Chúa mà biến đổi hình phạt thành ơn tha thứ. Vâng, đó là “sự thống hối”. Vâng, ơn “THỐNG HỐI” lớn hơn sự trừng phạt, tình yêu lớn hơn thù hận, bởi vì Thiên Chúa  là tình yêu. Lòng thương xót của Thiên Chúa chính là Thiên Chúa vô biên. Tuyệt đối Thiên Chúa không có kẻ thù, dù là satan. Vì , nơi Thiên Chúa không có sự oán thù, đó là bản tính Thiên Chúa. Chỉ có một kẻ thù duy nhất, đó là satan, satan được đi quấy nhiễu con người, đó là cám dỗ. Satan làm mọi thứ, nó không thích con người thống hối xin ơn tha thứ, vì nó là satan. Một ngày nào đó, satan biết “thống hối”, thì nó trở lại thiên thần.

Vâng, Thiên Chúa, con người và satan là một bàn cờ giữa tình yêu và thù hận, ganh ghét và tha thứ. Bản tính Thiên Chúa là tình yêu, nên Ngài tha thứ và muốn sự thống hối từ con người. Nhưng, satan là kẻ ngoan cố, quỷ quyệt, vì nó không biết thống hối. Nhưng, LÒNG THƯƠNG XÓT của Thiên Chúa cũng không muốn hủy diệt satan, vì satan đã xâm nhập thế gian. Vì vậy, còn lại là sự “thống hối” từ con người.

Là con cái Thiên Chúa, chúng ta dứt khoát không bước theo satan với Lời của Chúa Giêsu hôm nay. ( Mt 6, 1-6: 16 -18). Đó là sự “THỐNG HỐI”, vâng, sự bác ái , sự cầu nguyện, sự ăn chay chính là sự thống hối tốt nhất. Hay có thế nói là: “PHƯƠNG PHÁP THỐNG HỐI”.

Thống hối là “ nhìn nhận ” thân phận bụi tro. Nhìn nhận thận phận bụi tro chính là ”KHIÊM NHƯỜNG”. Khiêm nhường chính là “sự kín đáo” khi làm việc “thống hối ”, tức việc đạo đức. Theo đó, chính Chúa Giêsu đã đưa ra ba giáo huấn về phương pháp thống hối: Đó là:

    Bác ái cách kín đáo:
    Cầu nguyện cách kín đáo:
    Ăn chay cách kín đáo:

Vâng, như chúng ta biết, Chúa Giêsu đến trần gian là để kiện toàn lề luật của Thiên Chúa, chứ không phải phá bỏ lề luật, hay tự ý lập luật cho chính Người. Vì vậy, việc ăn chay, bố thí, cầu nguyện không phải Chúa Giêsu tự lập ra mà đã có từ xưa. Nhưng, Người đã kiện toàn để nên phong phú. Theo đó, cầu nguyện phải hãm mình, việc ăn chay là cách hãm mình tốt nhất. Và rồi, cầu nguyện và ăn chay để làm gì? Nếu như không biết thi ân gíáng phúc, đó là bác ái. Bái ái có nghĩa là yêu người một cách rộng ra, yêu thương tha nhân không phải là chuyện dễ làm, nhưng người Công giáo không biết bác ái thì chưa phải là người Công giáo. Vì , mục đích “ĂN CHAY” không gì khác hơn là để” cầu nguyện và làm phúc bố thí”.

Tóm lại mọi việc đạo đức đều được thực hiện một cách kín đáo, bởi vì , nếu không kín đáo khi làm việc “THỐNG HỐI”, thì khác nào” thùng rỗng kêu to”, và như vậy, “thùng rỗng” thì không chứa được nước.

Bài đọc I hôm nay( Ge 2, 12 -18), tiên tri Giô-en cho chúng ta biết hãy giục lòng sám hối, thì Thiên Chúa sẽ thứ tha. Vì, Thiên Chúa yêu thương kẻ sám hối. và nâng đỡ người lành. Nhưng, sự sám hối là sự ăn năn chân thành từ tận nơi tâm hồn con người. Vì: ”Hãy xé tâm hồn, chứ đừng xé áo, hãy ăn năn khóc lóc và than van. Hãy trở về với Thiên Chúa bằng sự tín trung chứ không bằng hình thức bên ngoài.”

Bài đọc II ( 2 Cr 5, 20 – 6, 2) thánh Phao-lô cho chúng ta biết Mùa Chay là Mùa Hồng Phúc, Mùa Cứu Độ, Mùa giao hòa với Thiên Chúa nhờ Đức Kitô. Vì ,” Thiên Chúa phán: ”Ta đã nhận lời ngươi trong thời Ta thí ân, phù trợ ngươi trong ngày Ta cứu độ”. ( C  2)

Như vậy, Lễ Tro là ngày khởi đầu Mùa Cứu Độ, vì để dọn đường bước vào Chúa Nhật I Mùa Chay, khởi đầu hành trình cứu độ của Chúa Giêsu.

Như vậy, để được “làm hòa” với Thiên Chúa , con người cần có lòng thống hối. Thống là: Đau đớn . Hối là: ăn năn. Có nghĩa là hết lòng ăn năn đau đớn, vì nếu không ăn năn vì đau đớn, thì không được gọi là thống hối. Thống hối là việc ăn năn sám hối một cách chân thành, tâm hồn phải biết đau đớn, như chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế phải chịu đau đớn thay cho chúng phần nhân tính vậy.

Như vậy, thân phận tội lỗi của con người trần gian không phải là một sự bi quan chán nản, mà là qua đó, con người biết thức tỉnh, hầu ăn năn cải thiện cuộc sống, để nhận lãnh ơn cứu độ. Để từ tro bụi, được Thiên Chúa nâng lên hàng khanh tướng.

Lạy Thiên Chúa là Đấng yêu thương, không chỉ là yêu thương, mà còn là Đấng giàu lòng thương xót, Chúa không hủy diệt những gì Chúa tạo thành. Nhưng, ban cho cơ hội sám hối, để hiệp thông cùng cuộc tử nạn và phục sinh của Con Chúa, Chúa chúng con là Đức Giêsu – Kitô, hầu cứu độ thế giới ./. Amen.

--------------------------------

 

Lễ_tro-120: HÃY LÀM HÒA VỚI THIÊN CHÚA


 AM Trần Bình An

 

Ngày 2-5-1999, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II (1978-2005) nâng Cha Pio da Pietrelcina (1887 Lễ_tro-120


Ngày 2-5-1999, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II (1978-2005) nâng Cha Pio da Pietrelcina (1887-1968) lên hàng chân phước. 3 năm sau, ngày 16-6-2002 ngài lại nâng Cha lên hàng hiển thánh.

Hôm ấy, một vị đại ân nhân người Mỹ, thường quảng đại đóng góp cho các công tác bác ái của Cha thánh Pio, từ Hoa Kỳ đích thân đến San Giovanni Rotondo. Tạm gọi là ông Thomas. Ông Thomas vui mừng đến gặp Cha Pio. Nhưng ông vô cùng bỡ ngỡ khi Cha Pio vừa đuổi vừa nói: “Hãy đi đi .. tôi không biết ông là ai!”Ông Thomas tức-tưởi khi thấy Cha Pio đối xử tàn-tệ như vậy!

Từ San Giovanni Rotondo ông xuống San Severo nơi có Cha Bề Trên Giám Tỉnh Alberto D’Apolito. Ông xin Cha Alberto tháp tùng mình đến gặp Cha Pio. Ông tự nhủ: “ Đi bên cạnh Cha Giám Tỉnh, hẳn Cha Pio sẽ nhận ra và tiếp rước mình đàng hoàng hơn!” Riêng về phần Cha Alberto sau khi nghe kể sự việc, Cha thầm nghĩ: “Nếu Cha Pio cư xử như thế, hẳn phải có một lý do chính đáng trầm trọng nào đó!”Cha dò hỏi, thì quả thật, ông Thomas đang phản bội vợ và ”mèo-mỡ” với một cô tình nhân. Cha Alberto liền đề phòng trước với ông Thomas: “Biết đâu giờ đây thấy mặt chúng ta, Cha Pio lại đuổi luôn cả hai!”

Và sự thật đã xảy ra như thế. Vừa trông thấy ông Thomas được Cha Giám Tỉnh đưa tới, Cha Pio nói ngay: “Con đi tìm luật sư biện hộ. Vậy thì hãy đi luôn cả hai!”Dĩ nhiên cả hai phải rút lui! Vì biết ông Thomas có ý định đi hành hương Assisi và Padova, Cha D’Apolito liền khuyên ông lợi dụng dịp này để xưng tội nơi một trong hai đền thánh ấy. Ông Thomas mau mắn nghe lời. Trước khi trở về Hoa Kỳ, ông Thomas ước ao trở lại San Giovanni Rotondo để gặp mặt Cha thánh Pio. Lần này ông cũng xin Cha Bề Trên Giám Tỉnh đưa mình đến gặp Cha Pio.

Vừa thấy mặt ông Thomas, Cha thánh Pio vui vẻ chào hỏi, như không hề có chuyện gì xảy ra trước đó. Cha ân cần cám ơn ông Thomas, luôn quảng đại đóng góp cho các công tác bác ái. Cha thăm hỏi rồi ôm hôn và chúc lành. Trước khi từ biệt, Cha thánh Pio dặn dò: “Giờ đây trở lại Hoa Kỳ, con nhớ sống đời Kitô hữu lành thánh. Con có hiểu không?” Ông Thomas thề hứa và xin Cha Pio an tâm. Thế nhưng khi trở lại Hoa Kỳ, ông lại yếu đuối rơi vào vòng tay cô nhân tình cũ.

Một năm trôi qua, ông ao ước trở lại San Giovanni Rotondo để thăm Cha Pio. Lần này, ông cẩn thận nhờ Cha Giám Tỉnh xin hẹn với Cha Pio trước. Cha Pio trả lời ngay: “Không! Không được đến!”

Bẵng đi một thời gian, ông Thomas quyết định dứt khoát một lần cho xong. Ông từ bỏ cô nhân tình, xin lỗi vợ hiền và quay trở về với gia đình con cái. Sau khi sắp xếp mọi chuyện ổn thỏa, ông lại nhờ Cha Giám Tỉnh, hỏi ý Cha Pio xem ông có thể đến gặp ngài không. Lần này, Cha thánh Pio trả lời ngay: “Được! Được! Hãy đến ngay!” Ông Thomas vội vã đến San Giovanni Rotondo. Ông đến thật đúng lúc, vì chẳng bao lâu sau đó, khi trở về Hoa Kỳ, ông Thomas lâm trọng bệnh và qua đời, sau khi đã giao hòa với THIÊN CHÚA, với Giáo Hội và với vợ con. (Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt, Thúc giục tội nhân hoán cải, Grande Opera Mariana”, n.2, Maggio-Giugno/2001, trang 44)

Hành trình hoà giải của ông Thomas với Thiên Chúa tuy thật gian nan, vất vả, nhưng là lời mời gọi quý giá thật hợp thời, thật chân thành và thật tha thiết dành cho tất cả những Kitô hữu nào biết thức tỉnh, sám hối, sẵn sàng dọn lòng bước vào Mùa Chay Thánh.

Trong Tin Mừng Thứ Tư Lễ Tro hôm nay, Đức Giêsu ân cần mời gọi tín hữu hãy chân thành sám hối, âm thầm cầu nguyện, kín đáo chay tịnh và lặng lẽ làm phúc, cũng như sống tâm tình người con hoang đàng, biết sám hối quay về với Người Cha Nhân Lành. Nhân tiện, Đức Giêsu phản bác mạnh mẽ thói giả hình trong việc đạo đức. 

Âm thầm Công đức

Làm phúc chưa hẳn là công đức, như làm từ thiện, giúp người khó nghèo, cô nhi, quả phụ, cứu trợ nạn nhân, dâng cúng nhà thờ, xây nhà tình thương, mà thiếu thiện tâm, thì chỉ là những việc cầu phúc vị kỷ mà thôi. Nếu không khiêm nhường, không ngay thẳng, chánh trực khi làm phúc, mà chỉ nhằm háo danh, phô trương, khoe khoang, kiêu căng, thì họ đã được thưởng công rồi.

Trong thời đại bùng nổ thông tin, dày đặc các trang mạng xã hội như: Facebook, Tencent, Google, Twitter, Skype, Yahoo,…,thì cái bả danh vọng càng được cơ hội bộc phát. Bất kể chuyện chi lớn bé, riêng tư cũng trơ trẽn đem khoe với thiên hạ. Vì vậy, Đức Giêsu cảnh báo đừng chạy theo thói đời, ganh đua, mạ bóng tên tuổi, nhất là chớ tà tâm khi làm việc phúc: “Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng không các con mất công phúc nơi Cha các con là Đấng ở trên trời.

“Người khiêm nhường như hạ mình sát đất, không còn ngã xuống đâu nữa. Người kiêu ngạo như leo trên tháp cao, rất dễ  nhào và ngã nặng khủng khiếp!” (Đườmg Hy Vọng, số 517)

Lặng lẽ Cầu nguyện

“Rồi khi các con cầu nguyện, thì cũng chớ làm như những kẻ giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ trông thấy.” Cầu nguyện mà nặng phần trình diễn, đóng kịch như người Pharisiêu là chỉ cốt yếu mong sao làm sáng danh bản thân, chẳng phải là biết ơn, tạ ơn, ca ngợi, tán dương, chúc tụng Thiên Chúa. “Quả thật, Ta bảo các con rằng: họ đã được thưởng công rồi.”

Cầu nguyện là cách biểu lộ tình yêu. Biểu lộ tình yêu đối với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần để chúng ta được sống đời đời với các Ngài. Như thế cầu nguyện có thể có nhiều mục đích.  Nhưng lý do chính cầu nguyện là để yêu mến.  Cầu nguyện là một hành vi yêu mến để liên kết chúng ta gần gũi hơn với Chúa là tình yêu. (Mark Link,S.J.The Catholic Vision  IV – 27)

Đồng thời, “cầu nguyện là nền tảng của đời sống thiêng liêng. Lúc cầu nguyện, con kết hợp, nối liền với Thiên Chúa. Bóng điện sáng nhờ nối liền với máy phát điện.” (Đường Hy Vọng, số 120)

Kín đáo Chay tịnh

Đức Giêsu tiếp tục tấn công thói gian xảo, giả hình ăn chay, hòng che đậy tâm hồn ôi ác, lấm lem, đen tối. “Khi các con ăn chay, thì đừng làm như bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt người ta.” Thay vì trở nên ơn ích, thì thói giả hình này lại còn gây thêm chất chồng tội lỗi cho người vấp phạm.

Đức Giêsu đã từng chay tịnh để chuẩn bị gặp gỡ Thiên Chúa, hoặc chuẩn bị thực hiện công trình cao cả với Thiên Chúa. Như ông Môsê và ông Êlia, Chúa Giêsu đã chay tịnh 40 đêm ngày trong sa mạc (Mc 4, 1; Xh 24, 18; 34, 28; 1V 19, 8), trước khi công bố Luật mới trong bài giảng trên núi. Tuy nhiên Chúa Giêsu cho thấy rằng chay tịnh tự nó chỉ có giá trị tương đối với các môn đệ, những người được mời tham dự bữa tiệc của Đấng Thiên Sai, thì chay tịnh nói lên thái độ sốt sắng đợi chờ Tân lang, tức là Đức Kitô (Mt 9, 14-15).

Chay tịnh của Hội Thánh vào ngày thứ Tư lễ Tro và ngày thứ Sáu Tuần Thánh nói lên ý muốn đền tội và từ bỏ tội lỗi, đó cũng là một sự chuẩn bị đón mừng lễ Phục Sinh. Chay tịnh Thánh Thể được giới hạn một giờ trước khi rước lễ – 15 phút đối với các bệnh nhân – chủ yếu đây là một cử chỉ tôn kính, là sự chuẩn bị đón nhận chính Chúa Kitô trong bí tích, làm hiện thực công trình yêu thương tuyệt diệu của Chúa. (truyenthongconggiao.org)

“Đừng hy sinh kiểu Biệt Phái, hãy hy sinh theo Phúc Âm.”(Đường Hy Vọng, số 154)

Lạy Chúa Giêsu, xin luôn thức tỉnh chúng con, đừng dại dột háo danh, mà vướng vào thói giả hình làm phúc, giả vờ cầu nguyện hay giả dối chay tịnh, càng thêm mất lòng Chúa. Vậy bước vào Mùa Chay Thánh, kính xin Chúa ban phúc lành cho chúng con biết thật tình ăn năn sám hối, để được Chúa thứ tha.

Lạy Mẹ Maria, khấn xin Mẹ cầu bầu cho chúng con canh tân, đổi mới tâm hồn, siêng năng làm việc phúc, chân tình cầu nguyện và âm thầm chay tịnh, để xứng đáng hưởng Lòng Thương Xót vào Mùa Chay Thánh này. Amen.

--------------------------------

 

Lễ_tro-121: MÙA CHAY – MÙA XUÂN


Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

 

Năm nay, thứ Tư lễ Tro trùng vào ngày 30 tết, làm nhiều người băn khoăn về việc ăn chay và Lễ_tro-121


Năm nay, thứ Tư lễ Tro trùng vào ngày 30 tết, làm nhiều người băn khoăn về việc ăn chay và kiêng thịt. Hội đồng Giám mục Việt Nam đã quy định rời ngày ăn chay vào thứ Sáu sau Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, tức là mùng 9 tết Ất Mùi. Sự trùng hợp giữa lễ Tro và ngày cuối cùng của năm âm lịch mang một ý nghĩa đặc biệt. Bởi lẽ, trong truyền thống văn hóa của dân Việt, trong ngày cuối năm, mọi người muốn đẩy xa những điều xui xẻo, thanh toán nợ nần, dọn nhà dọn cửa, trang trí tươm tất để đón Xuân về. Trong đời sống thiêng liêng của người Công giáo, Mùa Chay là mùa canh tân hối cải, trở về với Chúa, từ bỏ tội lỗi, sám hối ăn năn để tìm được niềm vui. Hơn nữa, Mùa Xuân là mùa đầu tiên của chu kỳ mới xuân, hạ, thu, đông. Mùa Xuân cũng tượng trưng cho sức sống và niềm vui hạnh phúc vì đó là thời điểm cây cối đâm chồi nẩy lộc, muôn hoa đua sắc khoe tươi diễn tả một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ. Cũng thế, Mùa Chay nhắc nhở người Kitô hữu đoạn tuyệt với quá khứ đã bị nhuốm màu tội lỗi, chỗi dậy khởi đầu một hành trình mới đến gặp Chúa là Cha. Mùa Chay cũng là thời kỳ chuẩn bị cử hành sự phục sinh của Đức Giêsu. Đó cũng là sự phục sinh của mỗi tín hữu sau khi đã sám hối chân thành. Như thế, Mùa Chay và Mùa Xuân có một điểm tương đồng, đó là sự khởi đầu, canh tân đổi mới để đạt tới niềm vui.

Lời Chúa đầu mùa Chay là một lời mời gọi thống thiết. Ngôn sứ Giôen đã kêu gọi một cuộc “tổng động viên” gửi tới mọi thành phần trong xã hội Do Thái: tư tế và dân chúng; người già và trẻ em. Tất cả đều phải sám hối để được ơn tha thứ. Lời mời gọi này quyết liệt và cấp bách đến nỗi “tân lang hãy ra khỏi loan phòng, tân nương hãy rời bỏ phòng khuê”. Tất cả những hình thức hy sinh và chay tịnh này đều nhằm kêu van lòng thương xót của Chúa để Ngài không giáng phạt.

“Hãy trở về với Ta”. Đây cũng là lời mời gọi của Chúa trong suốt lịch sử dân thánh, và cũng là lời mời gọi gửi đến thời đại của chúng ta. Bởi lẽ hết thảy chúng ta đã phạm tội. Chúng ta đã lạm dụng tự do để đi ngược lại giáo huấn của Chúa. Những thực hành đạo đức của Mùa Chay nhằm giúp chúng ta canh tân đổi mới cuộc đời, để nhờ đó, chúng ta sống trong tình con thảo đối với Chúa và tình huynh đệ đối với anh chị em.

Chúa Giêsu đã đề nghị ba thực hành cụ thể của Mùa Chay: Chia sẻ bác ái; chuyên tâm cầu nguyện; chay tịnh hy sinh. Những việc làm đạo đức này nhằm tới sửa đổi bản thân, liên kết với Chúa và hướng tới tha nhân.

Qua những nghĩa cử chia sẻ với anh chị em về tinh thần và vật chất, chúng ta thực hiện giới răn yêu thương của Chúa, nhận mọi người đều là anh chị em của con một Cha trên trời. Hơn nữa, của cải, trí tuệ, sức khỏe mà chúng ta sở hữu chỉ là Chúa trao cho chúng ta quản lý. Chúng ta có bổn phận dùng những vốn liếng ấy mà giúp đỡ anh chị em khó khăn đang sống xung quanh mình.

Qua đời sống cầu nguyện, chúng ta được liên kết mật thiết với Chúa trong tình con thảo. Lời cầu nguyện chính là những lời tâm sự chân thành giữa ta với Chúa. Nhờ cầu nguyện, chúng ta nhận được sức mạnh và nghị lực thiêng liêng để vượt lên những khó khăn của cuộc sống hàng ngày.

Qua những hy sinh chay tịnh, chúng ta kìm hãm những ham muốn hợp pháp của mình là những nhu cầu ăn uống, giải trí, vui chơi… Nhờ việc chay tịnh và hy sinh, chúng ta có thể dành ra tiền bạc vật chất và đồ dùng cho người nghèo và những ai đang túng thiếu. Nói đến chay tịnh, chúng ta thường chỉ nghĩ đến việc nhịn một vài bữa ăn. Tuy vậy, chay tịnh phải được hiểu theo nghĩa rộng hơn: đó là những nhường nhịn để không cãi vã; tiết kiệm để không hoang phí; bao dung tha thứ để không hận thù; quảng đại chia sẻ chứ không ích kỷ khép kín đối với người nghèo khổ.

Những thực hành Mùa Chay do Chúa Giêsu đề nghị nhằm tới việc cải hóa canh tân bản thân. Nhờ những thực hành này, chúng ta đến gần Chúa và đến gần anh chị em mình hơn. Mùa Chay cũng giống như mùa cây thay lá, cởi bỏ những tán lá đã già cỗi để nhường chỗ cho những mầm non sẽ mọc lên. Sau mùa lá rụng là mùa đâm chồi nẩy lộc. Sau Mùa Chay là Mùa Phục Sinh. Những cố gắng canh tân sẽ dẫn đưa chúng ta đến sự sống mới trong Chúa. Đó chính là hạnh phúc tròn đầy, là mùa xuân bất diệt.

--------------------------------

 

Lễ_tro-122: KIẾP NGƯỜI VÔ THƯỜNG


Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

 

Mùa xuân luôn gợi lên trong ta những hình ảnh đẹp. Đẹp về ánh nắng xuân. Đẹp về những nụ hoa Lễ_tro-122


Mùa xuân luôn gợi lên trong ta những hình ảnh đẹp. Đẹp về ánh nắng xuân. Đẹp về những nụ hoa. Đẹp về cây nẩy lộc đâm chồi . . .; Đặc biệt sắc màu và hương thơm của trăm hoa đã hoà vào nhịp sống tất bật của con người, từ vùng ngoại ô thôn dã đến chốn phồn hoa đô thị, tạo nên một không khí vui tươi, một quang cảnh ấm áp và thiêng liêng của ngày xuân. Muôn hoa làm đẹp cho đời, muôn hoa xoa dịu buồn đau, muôn hoa khích lệ tinh thần, muôn hoa chia sẻ mừng vui… Nhưng đáng tiếc, những nụ hoa và cả mùa xuân đều mong manh, sớm nở chiều tàn. Tất cả dường như đều đi theo định luật của vạn vật là vô thường. Chẳng có gì bền vững với thời gian. Chẳng có gì vĩnh cửu nhưng luôn chịu cảnh phù vân mong manh.

Những điều vô thường này chúng ta có thể thấy qua vạn vật và cả qua những cảnh huống cuộc đời:

Hoa đẹp . . . . . . .Hoa thơm . . . Hoa vẫn tàn
Tình nặng . . . .  .Tình sâu . . .   Tình vẫn tan
Rượu đắng . . . . Rượu cay . . . Rượu vẫn hết
Người hứa . . . . Người thề . . . Người vẫn quên
Trăng lên . . . . . .trăng tròn . . .trăng lại khuyết
Tuyết rơi . . . . . .tuyết phủ . . . tuyết lại tan
Hoa nở . . . . . . .hoa rơi . . . . . hoa lại tàn
Tình đẹp . . . . . .tình sâu . . . . .tình lại tan !
Người đẹp….. . người xấu…… rồi cũng chết
Người giàu …..người nghèo….rồi cũng hết (ST)

Tình yêu đôi lứa  là tình thề non hẹn biển. Một cái tình tưởng chừng như trường cửu nhưng vẫn cứ mong manh. Trong tình yêu nó vẫn có mầm chia ly. Nó vẫn làm cho bao người vỡ mộng để rồi ôm hận sầu đông.

Đò tình anh đã sang sông
Sao không ngoảnh lại nhìn hàng lệ rơi
Hoa kia sớm nở chiều tàn
Tình ta cũng vỡ theo chiều hoàng hôn.

Cảnh đời là cảnh vô thường. Những lời thề non hẹn biển cũng đi vào lãng quên. Cuộc đời con người cũng vô thường như vạn vật. Có hiện hữu hữu rồi cũng có từ giã. Có sum họp rồi cũng chia ly. Xem ra cuộc đời thật mong manh. Mong manh như nụ hoa sớm nở chiều tàn. Đây là phi lý của cuộc đời khiến người ta mong được có kiếp sau, với mong ước được là cây thông để tự do tự tại, tự vui thú trần gian.

Kiếp này, ta ở nơi đây
kiếp sau xin được làm cây thông buồn
mặc giông tố
mặc mưa tuôn
mặc cho thế thái quay cuồng xung quanh
Thông reo, reo giữa ngàn xanh
vui cùng gió mát trăng thanh địa đàng.

Hôm nay, ngày lễ tro như muốn nhắc nhở về thân phận mỏng dòn của kiếp người. Thân phận tro bụi rồi cũng trở về bụi tro. Kiếm tìm công danh sự nghiệp rồi cũng có ngày buông tay để trở về với bụi đất. Vun quén của cải trần gian rồi cũng ra đi với hai bàn tay trắng. Quá mải miết tìm kiếm danh lợi thú để rồi cũng có ngày nuối tiếc vì mình quá bận tâm với của phù vân. Cuộc đời thật vắn nhưng con người lại chẳng an hưởng hiện tại mà lao công vất vả tìm kiếm những thứ chẳng trường tồn.

Khi nhìn nhận sự mong manh của kiếp người sẽ giúp chúng ta biết sống thanh thoát với cõi trần. Đừng vì danh lợi thú mà làm điều sai trái. Trái với đạo đức. Trái với lương tâm. Đừng tưởng rằng mình trường sinh nên lao đầu vào đại hội trần thế chỉ để bon chen, vui chơi,  trụy lạc ; Đừng gieo vào cuộc đời những ngang trái, bất công và tội lỗi.

Khi nhìn nhận thân phận mỏng dòn của kiếp người cũng mời gọi chúng ta hãy đấm ngực ăn năn về những lạc lối của kiếp người. Hãy nhớ rằng “mọi sự là phù vân”, hãy ăn năn trước khi quá muộn, hãy sám hối và sửa lại hướng đi trước khi trở về với bụi đất. Lời bài hát của cha Kim Long như vẫn tha thiết nhắc nhở chúng ta: “Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro”.

Ước gì mỗi khi chúng ta cúi mình nhận lãnh những hạt tro không chỉ là hành vi sám hối, mà còn là dịp để nhìn nhận thân phận tro bụi của mình. Một thân phận thật mỏng giòn nên hãy biết sống cho trọn ý nghĩa của kiếp người. Một thân phân mong manh sớm nở chiều tàn như loài hoa nên hãy sống có ý nghĩa với giây phút hiện tại. Xin Chúa giúp chúng ta biết sám hối về những lạc lối của mình và hoàn thiện mình thay vì chỉ mải miết chạy theo thế trần. Amen

--------------------------------

 

Lễ_tro-123: DỌN TÂM HỒN – ĐÓN CHÚA XUÂN


Lm. Jos. DĐH

 

Một câu nói chơi đùa mà nhiều người đã nghe: rượu ngon, không có bạn hiền, (Nguyễn Khuyến); nước Lễ_tro-123


Một câu nói chơi đùa mà nhiều người đã nghe: rượu ngon, không có bạn hiền, (Nguyễn Khuyến); nước mắt thường song hành với chuyện buồn, ăn chay phải có kiêng thịt, mới đủ ý nghĩa. Đúng, khổ đau, mất mát, nhất định là phải buồn rồi, tiệc rượu có bạn hiền niềm vui sẽ tăng lên; người Tín hữu ăn chay chỉ có ý nghĩa khi chúng ta biết sám hối ăn năn. Bước vào mùa chay, chúng ta tới nhà thờ, tham dự nghi thức bỏ một chút tro lên đầu, rồi sau đó ăn chay, kiêng thịt, đó là truyền thống của Giáo hội từ xa xưa, ăn chay không kiêng thịt có phải là sám hối không ? Đặc biệt “lễ tro” năm nay nhằm ngày “30 tết”, có thể là “ngẫu nhiên” khi mà mùa xuân tới, bên ngoài ta vui, nhưng trong lòng ta vẫn dành một giờ để đến tạ ơn Chúa dịp cuối năm, để chu toàn việc xức tro.

Theo ngôn sứ Gio-el, sám hối là biết nghe Lời Chúa, là xé lòng chứ không xé áo, còn Tin mừng lại ý thức chúng ta, khi ăn năn sám hối thì hãy cẩn thận đừng phô trương. Vì bản tính loài người hay khoe khoang, phô trương việc mình làm, để mong được thiên hạ nhìn thấy, được ca tụng, được vinh danh. Tinh thần của Đức Giêsu, khiêm nhường, dù việc bác ái nhỏ đến đâu ta làm, Thiên Chúa cũng thấu biết, thế nên có ăn chay cầu nguyện, có làm việc bác ái mùa xuân, mùa chay này, đừng sợ Chúa không biết tấm lòng của ta. Mùa chay cũng dẫn đưa người Tín hữu tới lịch sử cứu độ, hiểu biết tình yêu của Thiên Chúa, và giúp chúng ta tham dự vào cuộc khổ nạn, phục sinh của Đức Giêsu Kitô.

Người Kitô hữu ăn năn sám hối khi thực sự đã chịu hy sinh mất mát một chút thời giờ cầu nguyện, một chút tiền của vật chất cho hành động bác ái đến với Chúa, đến với tha nhân. Bốn mươi ngày chay còn đưa dẫn ta đi vào con đường hy sinh, từ bỏ mình và vác lấy khổ đau của đời mình trong vui vẻ để được nên giống Chúa Giêsu.

Giáo huấn của Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay chủ yếu nhắc nhớ đến cách thức sám hối: ăn chay cho xứng hợp phải được phát xuất tự đáy tâm hồn. Năm Giáp Ngọ đang chuyển giao cho xuân Ất Mùi, việc tham dự vào phụng vụ lễ tro lúc này ít gì cũng nói lên ý nghĩa: ta vui xuân, nhưng không quên bản chất mình là người Kitô hữu. Rất có thể ở đây chúng ta đã từng ăn chay và sống mùa chay, nhưng làm sao để việc chay tịnh đẹp lòng Chúa, đúng tinh thần của Chúa, và không bị xem là hình thức ? Hẳn hội đồng Giám mục Việt Nam chúng ta chỉ mong muốn người Tín hữu hãy tham dự phụng vụ lễ tro cho xứng hợp, và nhớ ngày thứ sáu mùng 09 tết này, ta tự giác ăn chay kiêng thịt theo luật dạy.

Sống tinh thần mùa chay mà chỉ xức tro trên đầu: dễ lắm, cứ đến nhà thờ là được; nếu đợi khi yếu đau không chơi bời xả láng được nữa ta mới kiêng khem sám hối, hẳn không có ý nghĩa gì nữa ! Hoặc đợi khi lắm tiền nhiều của ta sẽ bố thí, khi ta gặp chuyện buồn rồi đi cầu nguyện, xin ơn, như thế đâu phải là ta sống niềm tin ? Thiên Chúa không muốn chúng ta chỉ bày tỏ việc sám hối bên ngoài, mà Chúa muốn chúng ta phải chấp nhận một sự thay đổi quyết liệt từ bên trong để làm mới lại cuộc sống, làm hòa với Chúa và với anh chị em mình.

Nhạc sĩ Kim Long đã viết: Hỡi người, hãy nhớ mình là tro bụi, một mai người sẽ trở về bụi tro. Gợi ý ấy chính là điệp khúc mùa chay mà năm nào ta cũng nghe; xuân vui tươi, chỉ có khi thân xác khỏe mạnh, đón Chúa xuân sẽ trọn vẹn, khi ta có tâm hồn bình an. Cầu mong mỗi người, mỗi gia đình chúng ta sẽ cảm nhận được tràn đầy tình thương Chúa trong mùa chay đi liền với mùa xuân này, vì ai trong chúng ta cũng tin tưởng, tuyên xưng Chúa là Mùa Xuân bất diệt. Amen.

--------------------------------

 

Lễ_tro-124: SÁM HỐI CỤ THỂ


Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

 

Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo hội bước vào mùa chay thánh, mùa thanh luyện chiến đấu, mùa Lễ_tro-124


Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo hội bước vào mùa chay thánh, mùa thanh luyện chiến đấu, mùa của hy sinh tiết chế, đồng thời cũng là mùa của việc đại tu, làm mới lại tâm hồn. Mùa chay không chỉ là mùa cả Giáo hội khoác lên mình một màu tím u buồn, mà là một mùa tập luyện thiêng liêng, là thời gian để mỗi người nhìn lại cuộc sống của mình để có những quyết tâm sám hối và thay đổi cụ thể. Có lẽ vì đã nghe quen tai, nên nhiều người bước vào mùa chay với một thái độ bình thường, không thiện chí, không cố gắng, hoặc là chỉ có một chút hình thức bên ngoài mà không thực tâm sửa đổi cuộc sống. Vì thế, mùa chay cũng sẽ qua đi mà tâm hồn vẫn không sinh được hoa trái tốt lành.

Giáo hội khai mạc mùa chay bằng một nghi thức lâu đời, đó là việc lãnh nhận nhúm tro được bỏ trên đầu, kèm theo lời nhắc nhở: Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về tro bụi hoặc lời mời gọi: Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Lời thứ nhất nhắc cho chúng ta nhớ đến thân phận con người mỏng manh được Thiên Chúa tạo dựng từ tro bụi, rồi tất cả sẽ trở về với tro bụi. Nhắc như thế giúp mỗi người xác định lại mục đích cuối cùng của cuộc đời mình, đâu là chính yếu, đâu là tùy phụ, đâu là mau qua, đâu là bền vững. Thân xác này dù có đẹp đẽ đến mấy rồi cũng sẽ phải tàn tạ và chết đi, trở về cát bụi. Cuộc sống trần gian này dù sang trọng, dù nghèo hèn thì cũng sẽ qua đi, chỉ có Thiên Chúa mới là bền vững. Nhận ra như thế để thấy rằng, cùng đích cuộc đời của mỗi con người là hạnh phúc Nước Trời và ơn cứu rỗi là quan trọng, còn những cái chỗ nhất chỗ nhì, những cái vinh quang, tiền của, phần thưởng của thế gian này chỉ là phù du. Vì thế, đừng lo chạy đua, tranh giành cho được tiếng tăm hoặc chỗ nhất chỗ nhì hay vinh dự trần thế, vì lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì chẳng có ý nghĩa gì cho cuộc đời mình.

Lời thứ hai: Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Đây là một lời mời gọi cụ thể được gửi đến cho mỗi người, mỗi gia đình. Sám hối là biết dừng lại để nhìn về con người, cách sống, tương quan của mình đối với Chúa, đối với anh chị em và dám thay đổi tận căn, sửa chữa tận nguyên nhân. Nói như tiên tri Giôen trong bài đọc một hôm nay, đó là trở về với Thiên Chúa một cách thực tâm trong chay tịnh, khóc lóc và than van. Hãy xé lòng chứ đừng xé áo là thật sự dám nhìn nhận sai lầm khuyết điểm của mình, đừng tìm cách biện minh, chạy tội.

Sám hối không phải vì sợ hãi Thiên Chúa trừng phạt, mà vì thấy rằng mình đã làm tổn thương đến tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là cha nhân từ, yêu thương, Ngài mời gọi chúng ta sống yêu như Ngài đã yêu, vậy mà chúng ta hờ hững, xúc phạm đến tình yêu của Người hoặc xúc phạm đến con cái của Người cũng là anh em của chúng ta. Sám hối, trở về với Thiên Chúa là tin tưởng vào lòng thương xót, khoan dung của Ngài. Tin vào lòng khoan dung không phải để chúng ta ỷ nại, nhưng giúp chúng ta hy vọng và quyết tâm sửa chữa cuộc đời.

Cũng theo tiên tri Gioen, sám hối là lời kêu gọi được gửi đến cho mọi người từ tư tế đến dân thường, từ loài người đến súc vật, mỗi người đều phải làm cho mình nên xinh đẹp, trong sạch hơn trước mặt Thiên Chúa. Sám hối là một cuộc lột xác thực sự, không phải như con rắn lột xác để trở thành con rắn lớn, mà là như con sâu, cái kén lột xác trong đau đớn để trở thành một con bướm xinh đẹp trước mặt Thiên Chúa.

Tin vào Tin Mừng là tin vào Thiên Chúa và lời hứa của Ngài, tin vào Đức Giêsu và sự hướng dẫn của Ngài. Chúa Giêsu đến để chỉ cho chúng ta biết cách sống đẹp lòng Thiên Chúa, sống cho xứng với phẩm giá con người và con Chúa. Ngài còn chỉ dẫn chúng ta con đường về với Chúa là cùng đích cuộc đời chúng ta.

Bước vào Mùa Chay, Tin Mừng chỉ cho chúng ta những việc làm cụ thể để thể hiện lòng sám hối, thể hiện quyết tâm thay đổi cuộc đời bằng ba việc: cầu nguyện, bố thí và ăn chay, nhưng trước hết vẫn là lời cảnh báo: Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, đừng phô trương cho thiên hạ thấy, bằng không, anh em sẽ mất công phúc trước mặt Cha trên trời. Cái cám dỗ triền miên của con người đó là sự khoe khoang, khoác lác, là sự kể công, kể thành tích của mình và đòi người khác phải ghi công, ghi danh của mình, hoặc đòi ưu tiên quyền lợi cách này cách khác. Một khi chúng ta để mình rơi vào cám dỗ đòi quyền lợi, đòi ưu tiên khi làm việc công phúc hoặc làm việc cho Chúa, cho Giáo hội, thì chúng ta đang đánh mất phần thưởng của Chúa. Thiên Chúa biết tất cả sự hy sinh của chúng ta, chúng ta muốn được trả ở thế gian này thì chúng ta mất phần thưởng từ tay Chúa ở trên trời.

Việc làm cụ thể của mùa chay là việc bố thí: Khi bố thí thì đừng khua chiêng đánh trống cốt để người ta khen, … vì Cha anh em, Đấng thấu suốt mọi sự sẽ trả lại cho anh. Tìm tiếng tăm hay lời khen khi bố thí, thì hành động bố thí ấy không còn là việc làm bác ái xuất phát từ sự quảng đại, cũng không phải vì lòng yêu mến Chúa, mà là vì mình, làm để mua lời khen hay nể nang của người khác. Trái lại, Chúa muốn chúng ta làm tất cả các việc bác ái phải phát xuất từ tấm lòng yêu thương, muốn chia sẻ thực sự. Như thế, bác ái Kitô giáo không chỉ là cho đi những của mình dư thừa, mà dám cho đi cả những cái mình đang cần, khi thấy anh em mình cần hơn. Chia sẻ với anh em, là nhìn thấy hình ảnh Thiên Chúa ở nơi người anh em ấy ; giúp đỡ những việc chung là góp sự hy sinh của bản thân và gia đình vào việc làm sáng danh Chúa. Vì thế, chính Chúa là Đấng sẽ trả công cho mỗi người tùy theo sự quảng đại của họ đối với Chúa và đối với anh em.

Cầu nguyện là hơi thở và là sức sống của kẻ có đạo. Cầu nguyện là thể hiện tư cách con cái Chúa, là cuộc gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa. Vì vậy, Chúa muốn mỗi người hãy vào phòng đóng cửa lại để cầu nguyện, tức là hãy vào trong sự thinh lặng của tâm hồn, để tâm hồn thật thanh thản nhẹ nhàng mỗi khi gặp gỡ Chúa. Như vậy, vào phòng đóng cửa lại để cầu nguyện có nghĩa là trò chuyện riêng tư với Chúa trong tâm hồn. Như thế, chúng ta có thể gặp gỡ và cầu nguyện với Thiên Chúa ở bất cứ nơi nào: ở nhà thờ, nơi làm việc, khi đi đường, lúc ở nhà. Cái cám dỗ rất lớn ngày hôm nay đối với nhiều người đó là lười cầu nguyện. Một tâm hồn không cầu nguyện là một tâm hồn không có sức sống. Không cầu nguyện còn là dấu chỉ của một tâm hồn kiêu căng, không biết cậy dựa vào Thiên Chúa, là sống vô ơn trước những ơn lành của Thiên Chúa. Bắt đầu từ mùa chay này, mỗi người hãy dành nhiều giờ hơn cho việc cầu nguyện, gặp gỡ Chúa mỗi ngày. Hãy tổ chức lại giờ kinh, giờ cầu nguyện mỗi tối trong gia đình, vì khi tụ họp lại bên nhau trước mặt Chúa, Chúa sẽ hiện diện và biến đổi mỗi thành viên trong gia đình nên tốt hơn. Chúa sẽ bảo vệ hạnh phúc và sự êm ấm của các gia đình.

Sau cùng là việc chay tịnh. Chay tịnh không chỉ là hình thức bên ngoài kiêng gì hoặc ăn gì, cũng không phải là hình thức ủ rũ, sầu não, ăn nhiều hay ăn ít, mà là biết kiềm chế những khoái lạc, những dục vọng, đam mê trong con người. Chay tịnh là biết làm chủ bản thân, không để mình bị buông theo những thỏa mãn xác thịt, không để mình bị lôi kéo bởi ăn uống, rượu chè say sưa. Chay tịnh còn là bớt những chi tiêu không cần thiết để làm việc bác ái công ích. Như thế, chay tịnh tức là biết cắt gọt những cái không cần thiết trong cuộc sống và giũ bỏ những tính hư tật xấu như rượu chè, cờ bạc, số đề…, để làm những việc giúp ích cho linh hồn mình và cho hạnh phúc của anh em.

Một số người lấy lý do giải trí trong gia đình để tổ chức cờ bạc từ ông bà cha mẹ đến con cháu ngồi chung một sòng. Vấn đề không chỉ là sát phạt nhau, nhưng là sự hủy hoại trật tự trong gia đình, sẽ là cá mè một lứa, là gương xấu cho con cháu. Chúa nói: những kẻ làm gương xấu cho trẻ thì thà buộc cối đá vào cổ mà quăng xuống biển còn hơn. Mùa chay này, mỗi người quyết tâm dứt khoát với những đam mê ấy.

Mùa chay cũng là dịp để mỗi người tập từ bỏ, sửa chữa một vài tật xấu cụ thể trong cuộc sống cá nhân cũng như trong gia đình của mình. Hãy dám chấp nhận một cuộc canh tân, lột xác trong đau đớn, thực hiện liên lỉ các việc đạo đức: cầu nguyện, chay tịnh và bác ái. Nói như Thánh Phaolô trong bài đọc hai hôm nay: Anh em đã lãnh nhận ân huệ của Thiên Chúa, thì đừng để trở nên vô hiệu. Mùa chay này có thể là mùa chay cuối cùng, là cơ hội cuối cùng Chúa cho ta để làm lại cuộc đời, đừng bỏ lỡ cơ hội và đừng để mùa chay qua đi cách uổng phí mà không sinh hoa trái. Amen.

--------------------------------

 

Lễ_tro-125: KÍN ĐÁO


Trầm Thiên Thu

 

Bụi tro là kiếp con người Dù dài hay ngắn vẫn đời bụi tro Bụi tro vẫn cất tiếng ca Tím màu sám Lễ_tro-125


Bụi tro là kiếp con người
Dù dài hay ngắn vẫn đời bụi tro
Bụi tro vẫn cất tiếng ca
Tím màu sám hối, đậm đà mến yêu

Mùa Chay là chuỗi 40 ngày sám hối và “chết” cho tội lỗi mình đã vấp phạm, ăn chay 40 ngày vì chúng ta muốn noi gương Chúa Giêsu (Mt 4:1-11). Buồn mà vui, màu tím ảm đạm mà xán lạn (xán: rực rỡ, lạn: sáng sủa). Đó là “khoảng chuẩn bị” nghiêm túc trong khi vui mừng chờ đón Con Thiên Chúa phục sinh: “Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người” (Rm 6:8).

Chay không chỉ là nhịn đói thể lý mà quan trọng là nhịn đói tinh thần, là tịnh tâm. Chay tịnh phải thực hành kín đáo chứ không tỏ vẻ hình thức, chay chỉ có Chúa và mình biết thôi. Phàm nhân ưa bề ngoài, thế nên kín đáo không là điều dễ thực hiện. Về động thái kín đáo, Thomas Carlyle (1795-1881, triết gia, sử gia, văn sĩ, người Scotland) nhận xét: “Sự kín đáo là thành tố của mọi điều tốt đẹp, thậm chí cả đức hạnh, cả cái đẹp cũng bí ẩn”. Người kín đáo là người thận trọng, “thận trọng là con trưởng của sự khôn ngoan” (Victor Hugo, 1802-1885).

Kinh Thánh không nói tới tục lệ Mùa Chay, nhưng có nói tới việc sám hối và rắc tro trên đầu (2 Sm 13:19; Et 4:1; Đn 9:3; Mt 11:21), hoặc ngồi trên đống tro (G 2:8). Đó là cách thể hiện sự trở về với Thiên Chúa. Trở về là điều không chỉ cần thiết mà còn cấp bách, vì phải trở về cho kịp trong lúc Thiên Chúa còn chờ đợi chúng ta, vì chính Ngài mời gọi: “Các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van” (Ge 2:13).

Khóc lóc trong lòng, đau lòng vì đã làm mất lòng Chúa, điều đó quan trọng hơn là khóc lóc bề ngoài, khóc với những giọt nước mắt cá sấu: “Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, Người hối tiếc vì đã giáng hoạ. Biết đâu Người chẳng nghĩ lại và hối tiếc mà để lại phúc lành, hầu anh em có lễ phẩm và lễ tưới rượu dâng lên Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em” (Ge 2:12-14). Nghi thức thời xưa khác nghi thức ngày nay, nhưng mục đích vẫn là chứng tỏ sự ăn năn sám hối thật lòng để nài van Thiên Chúa xót thương. Và chắc chắn Thiên Chúa xót thương, vì chúng ta còn đang sống trong Giờ Thương Xót của Thiên Chúa.

Ngôn sứ Giôen truyền lệnh của Thiên Chúa: “Hãy rúc tù và tại Sion, ra lệnh giữ chay thánh, công bố mở cuộc họp long trọng; hãy tụ tập chúng dân, mời dự đại hội thánh, triệu tập các cụ già, tụ họp đám thiếu nhi cũng như trẻ thơ còn đang bú. Tân lang hãy ra khỏi loan phòng, tân nương hãy rời bỏ phòng khuê! Giữa tiền đình và tế đàn, các tư tế phụng sự Đức Chúa hãy than khóc và nói rằng: Lạy Đức Chúa, xin dủ lòng thương xót dân Ngài! Xin đừng để gia nghiệp của Ngài phải nhục nhã và nên trò cười cho dân ngoại! Chẳng lẽ các dân lại được cớ mà nói: Thiên Chúa của chúng ở đâu rồi?” (Ge 2:15-17). Giữ chay là việc thánh, ai cũng phải thực hiện. Làm thì được phúc, không làm thì không chỉ vô phúc mà còn bị trừng phạt.

Quả thật, vì thấy dân chúng thành tâm sám hối, Thiên Chúa đã “nồng nhiệt yêu thương đất của Người, đã tỏ lòng khoan dung đối với dân Ngài” (Ge 2:18). Tội lỗi là điều ghê tởm, là điều nguy hiểm với con người, nhưng tội lỗi sẽ hóa thành “chuyện nhỏ” nếu chúng ta thành tâm sám hối: “Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông” (Is 1:18). Chúa Giêsu đã xác định với Thánh nữ Faustina: “Lòng Thương Xót của Ta lớn hơn tội lỗi của con và toàn thế giới” (Nhật Ký, số 1485). Vâng, chính Lòng Thương Xót của Thiên Chúa sẽ khỏa lấp tất cả nếu chúng ta thành tâm ăn năn, quyết tâm chừa cải, vấn đề quan trọng là đừng bao giờ lạm dụng Lòng Chúa Thương Xót.

Với tâm tình sám hối, tác giả Thánh Vịnh đã tha thiết cầu xin: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài” (Tv 51:3-6a). Biết phục thiện và nhận lỗi, Thiên Chúa tha thứ ngay, vì Ngài luôn kiên trì chờ đợi chúng ta tự thú với Ngài.

Ngài ban cho chúng ta những thứ hơn chúng ta tưởng, Ngài biết chúng ta cần gì, nhưng Ngài muốn chúng ta chứng tỏ rằng chúng ta cần Ngài. Cầu xin Ngài thương xót cũng là cách thể hiện lòng yêu mến Ngài vậy: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài. Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con” (Tv 51:12-14). Hằng ngày, không chỉ trong Mùa Chay này, mà suốt cả cuộc đời, chúng ta hãy cầu xin không ngừng: “Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài” (Tv 51:17). Cầu nguyện không chỉ là xin mà còn phải tôn vinh, chúc tụng, và tạ ơn Chúa.

Là phàm nhân cũng có nghĩa là tội nhân: “Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (Tv 51:7). Ai cũng sai lầm, phạm sai lầm là xúc phạm tới người khác, nguy hiểm nhất là xúc phạm tới Thiên Chúa, vì thế mà luôn cần sự hòa giải và sự tha thứ. Thánh Phaolô nói: “Chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa. Đấng chẳng hề biết tội là gì thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5:20-21).

Ăn chay và sám hối là việc phải làm suốt đời, đặc biệt là Mùa Chay – mùa được mệnh danh là “cơ hội thuận tiện”, mùa của lòng thương xót, mùa cứu độ. Thánh Phaolô nói: “Vì được cộng tác với Thiên Chúa, chúng tôi khuyên nhủ anh em: anh em đã lãnh nhận ân huệ của Thiên Chúa, đừng để trở nên vô hiệu. Quả thế, Chúa phán rằng: Ta đã nhận lời ngươi vào thời Ta thi ân, phù trợ ngươi trong ngày Ta cứu độ. Vậy, đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ” (2 Cr 6:1-2).

Sự kín đáo cần cả bề ngoài và bề trong, đời cũng như đạo. Thiên Chúa rất ghét thói ba hoa, thói giả hình, nói hay mà làm dở. Chúa Giêsu vừa nhắc nhở vừa ra lệnh: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng” (Mt 6:1). Hai chữ “phô trương” có vẻ “đồ sộ” lắm, nhưng không phải vậy, vì chúng ta có những kiểu phô trương rất tinh vi. Chúa biết chúng ta có “máu” này nên Ngài đã cảnh báo. Thế mà hằng ngày chúng ta vẫn “dính” thói này. Làm gì cũng muốn được khen. Tiếng khen chẳng là gì, theo gió bay tuốt luốt, ấy thế mà người ta vẫn khoái. Kể cũng lạ thật. Chắc hẳn những người này có “họ hàng” với mấy ông Pharisêu rồi!

Chúa Giêsu nói rõ ràng, nói “toạc móng heo” luôn: “Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6:2-4). Chúa nói thật chứ không đùa, nhưng rồi Chúa nói thì kệ Chúa, tay phải làm mà không cho tay trái biết thì… kỳ lắm! Thế nên người ta vẫn đua nhau làm “bảng vàng” hoặc “bằng ghi ơn” để thỏa mãn các “nhà hảo tâm” để về nhà treo cho “oai”.

Ngài còn nói thêm: “Khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy. Thầy bảo thật anh em: chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6:5-6). Rất nên “suy tư” điều Chúa Giêsu nói là “đã được phần thưởng rồi”, suy nghĩ nghiêm túc đúng hướng chứ đừng cố ý “bẻ lái” đi đâu hết!

Trình thuật Tin Mừng hôm nay dành cho ngày đầu Mùa Chay của mọi năm (cả năm A, B và C), ít nhất mỗi năm chúng ta được “nhắc nhở” một lần. Nghĩa là ai càng nhiều tuổi thì càng được “nhắc nhở” nhiều lần. Chúa Giêsu tiếp tục cảnh báo: “Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6:16-18).

Chúa Giêsu xác định rằng “họ được phần thưởng rồi”, không phải một lần mà tới ba lần, mà người Việt chúng ta thường nói là “quá tam ba bận”. Điều Ngài nói đó có nghĩa là phần thưởng đời này thôi, đời sau thì “miễn” đấy! Chúng ta không bị oan đâu, tốt nhất là đấm ngực mình chứ đừng đấm ngực ai, hãy chân thành sám hối:

Con nay biết tội mình rồi
Cầu xin Thiên Chúa nhậm lời nài van
Rửa con sạch hết oan khiên
Tha thứ lỗi lầm con trót vương mang (Tv 51)

Lạy Thiên Chúa, xin thương xót chúng con, xin giúp chúng con biết trở về với cả tấm lòng từ hôm nay, ngày mà chúng con được nhắc nhở về thân phận với chút tro tàn. Xin giúp chúng con triệt tiêu “cái tôi” mà trở nên nhỏ bé để Ngài lớn lên trong chúng con mọi nơi và mọi lúc. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

--------------------------------

 

Lễ_tro-126: HẠT BỤI HÓA KIẾP CON NGƯỜI


Lm. Jos Tạ duy Tuyền

 

Mỗi lần xức tro lên trán lại được nghe âm thanh du dương bài hát: “Là hạt bụi, con chỉ là hạt Lễ_tro-126


Mỗi lần xức tro lên trán lại được nghe âm thanh du dương bài hát: “Là hạt bụi, con chỉ là hạt bụi, rồi mai này là hạt bụi thôi”, chúng ta thấy thân phân con người sao nhỏ bé mong manh quá! Có thực kiếp người chỉ là hạt bụi vu vơ, lơ lửng giữa trời, đôi khi gây phiền toái cho ai đó khi vướng phải hạt bụi!. Hạt bụi mà có ai đó nói rằng: “chẳng chịu đứng yên một chỗ”, nhưng luôn cuốn trôi gieo trong gió, hoà lẫn trong sương, và tồn tại trong khung trời bao la rộng lớn. Một hạt bụi nhỏ bé nhưng được tự do tự tại.  Một hạt bụi có thể đi qua đại dương mênh mông, có thể cuốn theo cơn gió để đến một nơi nào đó xa, xa lắm. Hạt bụi có thể bám vào bất cứ nơi đâu dẫu đó là toà lâu đài tráng lệ hay một ngách nhỏ mà không ai để ý đến bao giờ.

Quả thực nếu kiếp người chỉ là hạt bụi thì mong manh quá! Thì vô ích quá! Thì phiền toái quá! Nhưng hạt bụi đã hoá kiếp con người. Là hạt bụi nhưng Thiên Chúa đã biến thành con người có tình yêu, có sự sống. Là hạt bụi nhưng có trái tim con người biết yêu, biết ghét, biết vui, biết buồn. Một hạt bụi thật tuyệt vời mà Thiên Chúa đã tạo thành. Một Hạt bụi mà Trịnh Công Sơn đã hát lên rằng:

“Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai vươn hình hài lớn dậy
Ôi cát bụi tuyệt vời. Mặt trời soi một kiếp rong chơi
Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai tôi về làm cát bụi
Ôi cát bụi mệt nhoài
Tiếng động nào gõ nhịp không nguôi
Bao nhiêu năm làm kiếp con người
Chợt một chiều tóc trắng như vôi
Lá úa trên cao rụng đầy
Cho trăm năm vào chết một ngày

Phải chăng là hạt bụi hoá kiếp thành người nên con người vẫn mang những vô tư của hạt bụi, vẫn gây nên những phiền toái cho tha nhân, vẫn đóng bụi thêm theo thời gian bởi thói hư tật xấu, và những đam mê lầm lạc? Phải chăng vì mang thân phận hạt bụi nên con người vẫn bị những cơn lốc của lòng tham danh lợi thú làm cho con người mất định hướng, chao đảo giữa mênh mông của cuộc đời. Là hạt bụi nên con người vẫn mang tính mỏng dòn, yếu đuối. Phải chăng đó là lý do mà giáo hội luôn mời gọi con người sám hối để thanh luyện mình mỗi ngày nên tốt hơn, nên đẹp hơn? Con người cần sám hối vì đã có những lần gây phiền toái cho tha nhân. Con người cần sám hối vì đã có những lần gây nên gương mù gương xấu, làm ô uế môi trường bởi thói hư tật xấu của mình.
Hôm nay, được gọi là ngày Lễ Tro, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy xức tro trên đầu để nhớ rằng mình là cát bụi. Cát bụi cuộc đời chẳng đáng là gì, chỉ “một cơn gió thoảng cũng đủ làm biến tan đi”. Thế nên, hãy khiêm tốn để sống đúng với thân phận thọ tạo là phải vâng phục Đấng Tạo Hoá. Là hạt bụi nhưng được Chúa yêu thương tạc vẽ nên hình hài một con người giống hình ảnh Thiên Chúa, thế nên, hãy sống đúng với phẩm giá cao quý của mình. Xức tro trên đầu còn là hành vi sám hối ăn năn, vì những tham vọng kiêu căng, sống bất tuân lệnh Chúa đã gây nên biết bao sự dữ cho nhân gian. Xức tro trên đầu là nhìn nhận sự yếu hèn của mình để cần đến tình thương và ân sủng của Chúa  gìn giữ hồn xác chúng ta luôn trong sạch vẹn tuyền. Xin đừng để chúng ta tan biến đời mình bằng đời sống tội lỗi và bán rẻ linh hồn của mình cho danh lợi thú trần gian. Nhưng xin Chúa giúp chúng ta luôn sống thanh thoát khỏi những quyến luyến tội lỗi trần gian. Amen

--------------------------------

 

Lễ_tro-127: MÙA CHAY VÀ THÂN TRO BỤI


Lm. Giuse Đinh lập Liễm

 

Trong việc xức tro hôm nay Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình Lễ_tro-127


Trong việc xức tro hôm nay Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người lìa xa Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là hậu quả của tội lỗi. Vì thế, phải “quay trở lại” một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ “canh tân” trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ.

 Để thể hiện sự thống hối trong Mùa Chay, chúng ta phải làm gì ? Chắc chắn có nhiều việc phải làm và mỗi người có một chương trình riêng, nhưng thiết tưởng chúng ta phải thực hiện 3 điều mà Chúa Giêsu muốn cho chúng ta thực hành theo bài Tin Mừng hôm nay: đó là cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí.

 1. Hãy cầu nguyện

 Cầu nguyện là một việc làm đẹp ý Chúa, mà ai cũng có thể làm được, ở đâu ta cũng có thể cầu nguyện được; chính vì thế Chúa Giêsu đã dạy: ”Các con hãy cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ”(Lc 22,40). Mà không những Chúa chỉ dạy chúng ta cầu nguyện, mà Chúa còn làm gương cầu nguyện nữa, nhiều chỗ trong Tin Mừng đã nói rõ (Lc 22,42; Ga 11,41-42). Còn rất nhiều đoạn khác trong Tin Mừng nói về việc Chúa Giêsu cầu nguyện, đặc biệt Chúa dạy chúng ta kinh Lạy Cha (Mt 6,9-13).

 Cầu nguyện là một vấn đề cần thiết và rất quan trọng, nó là vấn đề sinh tử.
 Thánh Gioan Kim Khẩu đã so sánh sự cần thiết của lời cầu nguyện với chuyện cá trong nước. Bao lâu cá ở trong nước, nó vẫn sống, hoạt động và tăng trưởng, nhưng nếu nó bị bắt ra ngoài, chắc chắn nó sẽ chết. Cũng vậy, con người muốn sống siêu nhiên thì phải cầu nguyện, nếu không cầu nguyện họ sẽ mất ơn Chúa giúp, rồi dần dà họ sẽ mất sự sống siêu nhiên không khác nào cá phải chết vì không có nước.

 Thánh Bênađô cũng đã so sánh sự hô hấp cần thiết cho con người như thế nào, thì lời cầu nguyện cũng cần thiết cho con người như vậy. Đối với linh hồn, cầu nguyện cần thiết cũng như hô hấp cần cho cơ thể con người. Nếu con người hô hấp khó khăn thì thân xác sẽ trở thành tiều tụy, và nếu hô hấp đình chỉ thì con người sẽ chết. Cũng thế, khi ta ít cầu nguyện, thì linh hồn biến thành bạc nhược, và khi ta không cầu nguyện tí nào, thì linh hồn ta sẽ chết trước mặt Chúa.

 Thế nào là cầu nguyện ?

 Các nhà tu đức học thường định nghĩa cầu nguyện là nâng tâm hồn lên cùng Chúa, hay cầu nguyện là cuộc trò chuyện giữa ta với Chúa. Thật thế, cầu nguyện là tâm tình với Chúa, thưa truyện với Chúa bằng tâm tư và ngôn ngữ của chính ta, như con cái thỏ thẻ với cha mẹ những tình cảm yêu mến, những nhu cầu xin Chúa thương ban, hoặc kể cho Chúa nghe những tâm sự vui buồn, lòng biết ơn…

 Có những khi ta vui quá, hay buồn quá tự lòng ta không biết nói gì với Chúa, hoặc khi có đông người muốn có chung một lời cầu nguyện thì Giáo hội mới lập nên những lời kinh chung giúp chúng ta cùng nhau cầu nguyện. Do đó, cầu nguyện không chỉ là đọc kinh, đọc những công thức một cách máy móc, còn lòng trí thì để vào chuyện đâu đâu. Với kinh nguyện thì miệng đọc lòng ta phải kết hợp với lời kinh để suy gẫm với Chúa, với Đức Mẹ, các thánh… theo nguyên tắc “khẩu tụng tâm suy”.

 Chúng ta thường nghe rất nhiều, đôi khi đã tham dự buổi cầu nguyện nhờ những kỹ thuật như: thiền, yoga, cầu nguyện theo cách của cộng đoàn Taizé, Béatitude (cộng đoàn Phúc thật), Chemin neuf (Con đường mới)… Những buổi tổ chức cầu nguyện như thế càng ngày càng được nhiều nơi tổ chức và hấp dẫn nhiều người vì những lợi ích sau: làm cho chúng ta “dễ nâng lòng lên với Chúa”, tạo cho chúng ta những bầu khí và tâm tình sốt sắng, ham thích cầu nguyện và thấy như Thiên Chúa ở bên chúng ta, lắng nghe chúng ta và an ủi chúng ta thật nhiều. Tóm lại, những kỹ thuật này góp phần tích cực vào cho buổi cầu nguyện. Điều này không ai có thể chối cãi được.

 Nhưng nếu, cầu nguyện là trò chuyện với Chúa như bạn bè, cũng như tình bạn bè không cần kỹ thuật, thì cầu nguyện cũng không cần theo một kỹ thuật nào mà nó phải phát xuất tự trong lòng với những tâm tình riêng tư một cách tự nhiên và chân thành.

 Truyện: Con chỉ nghe.

 Một cụ già có thói quen ngồi bất động hằng giờ ở cuối nhà thờ. Một ngày nọ, cha xứ hỏi cụ là Chúa đã nói gì với cụ. Cụ trả lời:

 – Thưa cha, Chúa chả nói gì cả, Ngài chỉ nghe con.
 – Vậy à ? Thế thì cụ nói gì với Chúa ?
 – Dạ, con cũng chẳng nói gì, con chỉ nghe Chúa !

 Thực ra, đỉnh cao của cầu nguyện là hoàn toàn kết hợp với Chúa, lúc đó không còn ai nói ai nghe mà chỉ có sự im lặng, để con tim nói với nhau. Chúng ta có thể nói đây là một sự thinh lặng hùng biện, không nói gì mà lại nói rất nhiều. Vì thế cầu nguyện có 4 mức độ:

 – Tôi nói, Chúa nghe.
 – Chúa nói, tôi nghe.
 – Không ai nói, cả hai cùng nghe.
 – Không ai nói, không ai nghe. Đây là sự thinh lặng tuyệ đối.

 Phải chăng người đời cũng hiểu sự thinh lặng hùng biện là thế nào:

 Nước mắt nói lời của mắt,
 Hương hoa nói lời của hoa,
 Lặng im nói lời đôi ta !

 Ngoài ra chúng ta còn thực hiện lời Chúa dạy: ”Các con hãy cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ”(Lc 22,40). Làm sao chúng ta có thể cầu nguyện luôn khi chúng ta có trăm ngàn công việc phải làm ? Cầu nguyện ở đây là biến mọi công việc thành lời nguyện.

 Cầu nguyện đẹp lòng Chúa nhất là trong mọi công việc hằng ngày, ta hãy có tâm lòng cùng làm việc với Chúa, và làm vì yêu mến Chúa và phục vụ tha nhân. Qua đó những việc ta làm, những lời ta nói luôn luôn hướng về Chúa, cho Chúa và cho tha nhân… biến những lời nói việc làm của ta thành những việc lành, việc thiện như thánh nữ Têrêsa Hài Đồng nhặt một cọng rác, khâu một mũi kim cũng làm vì mến Chúa. Chúa muốn ta cầu nguyện liên tục là như vậy, chứ Chúa không bảo ta đọc kinh liên tục để khỏi sa chước cám dỗ đâu !

 2. Hãy ăn chay

 Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Chay, đã là Mùa Chay thì phải ăn chay. Nhưng phải ăn chay như thế nào thì mới đúng cách và hữu ích ?

 Mùa Chay gợi nhớ 40 ngày chay tịnh của Chúa Giêsu trong hoang địa, mà Ngài đã trải qua trước khi đi vào sứ vụ công khai. Chúng ta đọc thấy trong Tin mừng: ”Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào trong hoang địa, để chịu quỉ cám dỗ. Ngài ăn chay ròng rã 40 đêm ngày, và sau đó, Ngài thấy đói” (Mt 4,1-2).

 Giống như ông Maisen đã ăn chay trước khi đón nhận những tấm bia lề luật (x.Xh 34,28), và việc ông Êlia ăn chay trước khi gặp Chúa ở núi Horép (x. 1V 19,8). Đức Giêsu cũng vậy, qua việc cầu nguyện và ăn chay, đã chuẩn bị cho sứ vụ đặt trước mặt Ngài, sứ vụ được đánh dấu vào lúc khởi đầu, bằng một cuộc chiến đấu nghiêm trọng với kẻ cám dỗ.

 Tôn giáo nào cũng có ăn chay như Do thái giáo, Hồi giáo, Phật giáo… nhưng phương cách và mục đích của họ lại khác nhau.

 Người Do thái ăn chay bằng cách nhịn ăn từ sáng đến chiều (Giona 3,7-8; Samuel 14,24). Tập tục ăn chay bằng cách nhịn ăn từ rạng đông cho đến khi mặt trời lặn, ngày nay vẫn còn được anh chị em Hồi giáo tuân giữ trong suốt tháng Ramadan. Trong khi ấy, anh chị em Phật giáo lại ăn chay vào mồng một và ngày rằm, bằng cách vẫn ăn no, nhưng kiêng không ăn thịt của bất cứ động vật nào, chỉ ăn thực vật.

 Ngày xưa, người Công giáo cũng ăn chay giống như người Do thái là nhịn ăn từ sáng cho đến chiều. Ngày nay người Công giáo chúng ta ăn chay một năm có hai lần vào ngày thứ Tư Lễ Tro và Thứ sáu Tuần thanh, và chỉ cần ăn ít đi vào buổi sáng và buổi chiều, đồng thời kiêng thịt vào hai ngày đó.

 Chúng ta thấy việc ăn chay ngày nay rất đơn giản, đơn giản hơn các tôn giáo khác, nhưng việc ăn chay này có ý nghĩa nào đối với người Kitô hữu ? Thánh Tôma tiến sĩ đã giải thích cho chúng ta:

 – Thứ nhất: để kềm chế sự thèm muốn của xác thịt. Nhờ chay tịnh, sẽ giữ được sự trong sạch. Trong Cựu ước cũng đề cập đến: ”Sự thèm muốn bị kềm chế lại bởi kiêng rượu, thịt”.

 – Thứ hai: nhờ vào sự chay tịnh để tâm hồn chúng ta gia tăng một cách tự do, hướng đến sự chiêm niệm về những điều thiện hảo của thiên đàng. Tiên tri Daniel cũng được Thiên Chúa mạc khải sau khi ăn chay ba tuần lễ.

 – Thứ ba: ăn chay để đến bù cho những tội lỗi của mình. “Hãy đến với ta bằng cách thay đổi hoàn toàn tâm hồn ngươi, trong chay tịnh và trong khóc lóc”.

 Thánh Augustinô cũng đã nhấn mạnh trong một bài giảng về cầu nguyện và ăn chay: ”Chay tịnh làm sạch sẽ tâm hồn, gia tăng trí khôn, hướng xác thịt đến thần linh, thể hiện con tim thống hối và khiêm nhường, chẻ nhỏ những đám mây thèm muốn, dập tắt đám lửa dâm dục và đốt lên ánh sáng thật sự của đức ái”.

 Từ xa xưa, tiên tri Isaia đã có ý kiến về việc ăn chay và đã vạch vẽ cho dân Do thái biết cách ăn chay cho đẹp lòng Thiên Chúa: ”Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các người kêu tới trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày các ngươi phải thực hành khổ chế ? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa” ?

 “Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm ? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ, thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục ? Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành”(Is 58,4-8).

 Trong sứ điệp Mùa Chay 2009, Đức Thánh Cha bênêdictô XVI đã nói: ”Trong thời đại chúng ta, chay tịnh dường như đã đánh mất điều gì thuộc về ý nghĩa thiêng liêng, và trong một nền văn hóa có đặc điểm là tìm kiếm hạnh phúc vật chất, nó đảm nhiệm vai trò chữa bệnh để chăm sóc thân thể. Chắc hẳn chay tịnh đem lại lợi ích cho hạnh phúc thể lý, nhưng đối với người tín hữu, trước tiên nó là “một phương thế chữa trị” để chữa lành tất cả những gì ngăn cản họ sống phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Trong tông hiến Paenitemini năm 1966, Người Tôi Tớ Thiên Chúa Phaolô VI thấy nhu cầu trình bầy chay tịnh trong khuôn khổ ơn gọi của mọi Kito hữu “không còn sống cho chính mình, nhưng cho Đấng đã yêu thương và hiến thân vì mình, và sống cho anh chị em của mình”(x. Ch. 1).

 Như vậy ăn chay thể xác không quan trọng bằng ăn chay tinh thần, nghĩa là từ bỏ ý riêng của mình để sống theo ý Chúa, loại bỏ tính ích kỷ và mở rộng con tim để yêu mến và đón nhận tha nhân, phục vụ anh chị em và đem hạnh phúc đến cho mọi người. Đúng là:

 “An mặn nói ngay, còn hơn ăn chay nói dối” (Tục ngữ).

 3. Hãy làm phúc bố thí

 Mùa Chay là thời gian khám phá ra các nhu cầu của anh chị em mình và nhắc nhở chúng ta tìm mọi cách để gặp gỡ và giúp đỡ những người đau khổ thể xác cũng như tinh thần.

 Trong sứ đệp Mùa Chay năm 2002, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II trích dẫn câu nói của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi cho tín hữu Côrintô: ”Bạn có gì mà bạn đã không lãnh nhận (1Cr 4,7). Và ngài tiếp: ”Một khi đã nhìn nhận như thế thì bạn phải yêu mến anh chị em và hy sinh cho họ”.

 Làm phúc bố thí và ăn chay là những phương thế liên hệ mật thiết với nhau để giúp chúng ta ăn năn hối cải. Làm phúc bố thí có nghĩa là chia vui sẻ buồn với người khác, giúp đỡ người ta, nhất là những ai lâm cảnh thiếu thốn, phân phát cho người ta không nguyên của cải vật chất mà cả tinh thần nữa. Chính vì thế, chúng ta phải tỏ ra cởi mở đối với người khác, biết nhận ra những nhu cầu của họ và cảm thông những nỗi đau buồn của họ, đồng thời tìm cách đáp ứng những nhu cầu đó và làm cho những đau thương của họ vơi nhẹ đi.

 Như vậy, cầu nguyện để kết hợp với Thiên Chúa đồng thời cũng hướng chúng ta tới tha nhân. Khi chúng ta đòi hỏi đối với bản thân và quảng đại đối với tha nhân, nhất là đối với những ai đau khổ và thiếu thốn là chúng ta sống kết hợp với Đức Kitô chịu đau khổ và bị đóng đinh vì Người tự đồng hóa với họ như Người nói: ”Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi từ thưở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát các ngươi đã cho uống; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm; Ta ngồi tù, các ngươi đã hỏi han”(Mt 25,35-36).

 Truyện: Cho đi tất cả.

 Một người kia rất nghèo và vẫn thường nghĩ mình là người nghèo khổ nhất trên khắp mặt đất này. Thế rồi, một hôm ông ta lên đường và gặp một người hành khất khác còn nghèo khổ hơn mình hơn nữa. Ông dừng lại chào hỏi và nói:

 – Từ trước tới nay tôi vẫn tưởng mình là người nghèo khổ nhất trong thiên hạ, thế mà hôm nay gặp anh tôi thấy anh còn nghèo hơn tôi nữa, vì đến cái che nắng che mưa trên đầu anh cũng không có.

 Người hành khất đáp:

 – Này ông bạn ơi, xin ông đừng quên rằng mỗi người nghèo trên đường đi của mình đều gặp thấy những người khác còn nghèo khổ hơn nữa. Đó là điều duy nhất an ủi chúng ta hơn cả, bởi vì mình vẫn còn có thể cho đi người khác một cái gì đó.

 Nghe vậy, người ấy liền giơ tay lên đầu lấy mũ trao cho người nghèo không có mũ. Dọc đường, người ấy lại gặp một người khác nghèo hơn nữa không có manh áo che thân, và người ấy liền cởi áo mình ra trao cho người kia. Tiếp tục con đường hành trình, người ấy lại gặp những người khác nghèo hơn nữa và trao cho mỗi người một chút cái mình có. Sau cùng, người ấy chỉ còn đôi dép trong chân và cảm thấy hài lòng sung sướng vì còn có thể tiếp tục đường đi.

 Khi hoàn tất cuộc hành trình, người nghèo ấy thấy mình đến trước cửa thiên đàng và nhận ra mình chỉ còn hai bàn chân đi đất, thân mình hoàn toàn ở trần
 Mẩu truyện trên đây nói lên ý nghĩa sâu xa của tinh thần nghèo khó là gì. Thật vậy, chúng ta thường nghe nói: ”Không ai nghèo khó đến nỗi không có gì để cho đi và cũng không ai giầu có đến nỗi không có thể lãnh nhận được gì thêm nữa”.

 Cái phải cho đi khó hơn là chính bản thân mình, khi nào chúng ta chưa biết cho đi chính mình chúng ta vẫn chưa phải là người nghèo khó nhất. Cho đi chính bản thân mình mới là điều kiện căn bản không thể thiếu sót để nhận lãnh tất cả, tức là nhận lấy tình yêu và chọn con đường yêu thương.

 Làm sao có thể chọn yêu thươngkhi chúng ta cảm nghiệm được tình thương quá ít ỏi, khi chung quanh chúng ta vẫn còn nhiều hận thù và mọi hình thức ích kỷ ?

 Phải, chúng ta vẫn có thể chọn yêu thương bắt đầu từ những bước nho nhỏ có thể được. Có thể bắt đầu từ một nụ cười, từ một lời nói âu yếm, một lời khích lệ cảm thông, một lời chào hỏi thân tình, một sự quan tâm chú ý, một đồng tiền nhỏ bé, một món quà đơn sơ. Đó là những bước tiến nho nhỏ trên con đường yêu thương, như những cái chấm nối lại thành một đường thẳng. Cũng vậy, những hành động yêu thương nho nhỏ sẽ ghép lại thành con đường yêu thương dài cho đến khi đạt tới nguồn tình yêu là chính Thiên Chúa (R. Veritas).

 Mùa Chay đòi hỏi chúng ta thống hối để kết hiệp mật thiết vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, để cùng hưởng sự Phục sinh vinh hiển của Người. Vì vậy, cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí là thực hành sống những điều cốt yếu của tinh thần Mùa Chay.

--------------------------------

 

Lễ_tro-128: Khởi đầu cho một mùa sám hối trở về

 

Thứ tư lễ tro là ngày khởi đầu cho một mùa sám hối trở về. Mùa chay tịnh. Như dân thành Ninivê xưa Lễ_tro-128


Thứ tư lễ tro là ngày khởi đầu cho một mùa sám hối trở về. Mùa chay tịnh. Như dân thành Ninivê xưa xức tro lên đầu, ăn năn khóc lóc vì những lỗi lầm xúc phạm đến Thiên Chúa. Ngày nay, người Kitô hữu cũng thú nhận thân phận yếu đuối, tội lỗi của mình qua việc lãnh nhận tro bụi. Những hạt tro nhắc nhớ thân phận con người được Thiên Chúa nắn tạo từ chúng và mai sau, khi kết thúc cuộc đời này, con người cũng phải trở về bụi tro mà thôi.

Bài Tin Mừng của ngày lễ tro hôm nay nói về sự công chính của người Do Thái dựa trên 3 lãnh vực: Bố thí, cầu nguyện và ăn chay.

Từ câu 1 đến câu 4, Thánh sử Matthêu nói đến cách cư xử của chúng ta cần phải có khi thực thi tinh thần bác ái, giúp đỡ anh em trong cảnh gian nan, khốn khổ: “khi làm việc lành phúc đức... chớ phô trương... khua chiêng, đánh trống...” Bố thí là một công việc tốt, cần làm đối với tha nhân. Chúa Giêsu không đả phá hay công kích việc bố thí, nhưng Ngài cảnh giác về thái độ mà người Do Thái cần phải có khi thực hiện việc bác ái này. Ngài khẳng định những phô trương, khoe mẽ ầm ĩ là “cốt để người ta khen” (c.2) và như vậy là đã được người đời thưởng rồi, còn cần chi Thiên Chúa thưởng nữa. Bên cạnh đó, Ngài chỉ cho một cách bố thí “đừng để tay trái biết việc tay phải làm” (c. 3) nghĩa là cần khiêm tốn, âm thầm hết sức có thể, không tìm tự mãn, tự hãnh diện về công viêc mình làm ngay ở trong lòng, trong chính con người của mình. Chỉ như thế. Thiên Chúa mới trả công cho ta được.

Ngày nay, người Kitô hữu sống tinh thần bác ái thế nào ? Có người khi bố thí hoặc công đức, yêu cầu khi khánh thành một công trình nào đó phải được nêu danh giữa cộng đoàn hoặc phải có điều kiện này nọ, Nhưng cũng có những bà góa gom góp tất cả những gì mình có mà chỉ nói: Xin đừng nêu tên con hoặc chỉ đề: một người vô danh ... Chúng ta hãy tự xét, xem mình thuộc hạng người nào.

Trong câu 5 và 6, Chúa Giêsu dạy về cách thức cầu nguyện. Cầu nguyện là gặp gỡ Thiên Chúa, là đối diện với Thiên Chúa trong thâm sâu tâm hồn. Lời cầu nguyện cũng cần khiêm tốn trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người đời. Đừng đọc kinh dài dòng lê thê hay lớn tiếng cầu nguyện nơi công cộng phố xá chỉ “cốt để người ta thấy” (c. 5). Thiên Chúa lên án về việc này “dân này chỉ thờ ta bằng môi miệng”. Trong thực tế, chúng ta cũng thấy điều này. Có nhiều người đi lễ hằng ngày, đọc kinh rất nhiều, nhưng trong cuộc sống họ lại thiếu bác ái, thiếu niềm tin. Họ hay  “Tin vơ, thờ quấy”. Niềm tin của họ không sâu nên dễ chạy theo mê tín, dị đoan. Cách sống này đã khiến một số bạn trẻ không muốn cầu nguyện thậm chí không muốn giữ đạo nữa, khi thấy ông bà cha mẹ “theo đạo” chứ không “hành đạo”.

Lãnh vực thứ 3 là ăn chay. Đây là một hành vi sám hối tự bản thân. Thái độ cần có khi chúng ta ăn chay, đó là: “chớ rầu rĩ... ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy”. Nếu để ý, chúng ta thấy Chúa Giêsu nhấn mạnh và nhắc đi nhắc lại các câu: “để cho người ta thấy”. Ngài muốn nói: khi làm việc lành trên, chúng ta không tìm tự mãn vênh vang nơi bản thân hoặc tìm tiếng khen tiếng chê nơi con người, mà là “Đấng thấu suốt những gì kín đáo sẽ trả công cho. Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta cần sống thật con người của mình với ý hướng ngay thẳng là luôn tìm và chu toàn ý Ngài. Và Thiên Chúa, Đấng thấu  rõ tâm can từng người, sẽ trả công cân xứng cho ta trong ngày sau hết.

Ngày nay, trong Giáo Hội Việt nam có qui định 2 ngày ăn chay. Đó là thứ tư Lễ Tro và thứ sáu Tuần Thánh. Nhiều người nghĩ rằng: ăn chay là giữ đúng giờ qui định, không ăn vặt, là kiêng thịt ... Nhưng họ quên mất “giữ chay lòng”. Là từ bỏ tội lỗi, con người xấu xa mà trở về đường ngay nẻo chính, là tiết kiệm, không ăn uống xa hoa để giúp đỡ người cùng khổ. Họ giữ chay miệng, nhưng chay lòng, tai, mắt lại không giữ được.

Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết tuân giữ Lời Chúa truyền, đó là ăn chay, bố thí, cầu nguyện trong tâm tình của người con thảo đối với cha mình, để thế giới này bớt khổ đau, thêm hạnh phúc. Lúc ấy chúng con mới xứng đáng là con của Cha trên trời, và thế giới này nhận ra khuôn mặt thánh thiện của Thiên Chúa trong cách sống hằng ngày của chúng con. Amen.

--------------------------------

 

Lễ_tro-129: ĂN CHAY, CHIA SẺ, CẦU NGUYỆN


 – Lm. Giuse Đinh Quang Thịnh

THỨ TƯ LỄ TRO- Năm B

 

Ngôn sứ Giôen trong Bài đọc I, kêu gọi hết mọi tầng lớp người từ lớn đến nhỏ phải ăn chay cầu Lễ_tro-129


Ngôn sứ Giôen trong Bài đọc I, kêu gọi hết mọi tầng lớp người từ lớn đến nhỏ phải ăn chay cầu nguyện, để Chúa cất bớt tai họa đang xảy ra: cào cào, châu chấu phá hết mùa màng, làm mọi người lâm cảnh chết đói (x Ge 2,12-18). Hội Thánh mượn tâm tình này của người Do Thái để nhắc nhở mọi Kitô hữu đừng nhắm mắt làm ngơ trước sự tàn phá của tội lỗi vô cùng tai hại, nó không chỉ làm khổ người phạm tội mà thôi, mà bất cứ tội nào cũng che khuất vinh quang Thiên Chúa, làm cho đồng loại phải đau khổ. Đan cử người con thứ làm tiêu tán hết tài sản người cha đã chia cho. Hậu quả là anh quá tủi nhục, đói khát đến nỗi cám heo cũng không có mà ăn, nhờ vậy làm anh tỉnh ngộ mà trở về với cha và thưa: “Con đã phạm tội với Trời và với cha (đồng loại)” (x Lc 15,21).

Thánh Gioan Tẩy Giả kêu gọi mọi người sám hối trở về với Chúa thể hiện bằng làm lành: “Hãy sinh quả phúc đức xứng với lòng hối cải” (Mt 3,8). Nhằm kích động các tín hữu sinh quả phúc đức, Hội Thánh muốn chúng ta tìm hiểu ý nghĩa trong  nghi thức xức Tro đầu mùa Chay để biết ăn chay, chia sẻ và cầu nguyện.

Ý nghĩa nghi thức xức tro: dấu chỉ lòng sám hối.

Vào thời Giáo Hội sơ khai, ngày đầu mùa Chay thánh, cả cộng đoàn dân Chúa kêu gọi những người phạm tội trọng: ngoại tình, giết người, bỏ Đạo, phải mau kíp trở về đường ngay nẻo chính. Ai phạm một trong các tội đó, đầu phải cạo trọc và trát tro lên, rồi ra trình diện giữa cộng đoàn Phụng Vụ, vị Giám mục chủ sự đứng ra nhận lòng sám hối của phạm nhân, và kêu gọi mọi người phải cầu nguyện cho hối nhân thực hành Lời Kinh Thánh kêu gọi: “Xưa các con chỉ nghĩ đến chuyện xa lìa Thiên Chúa,thì một khi trở về,các con phải nỗ lực gấp mười mà tìm kiếm Chúa” (Br 4,28). Trong Nghi Thức Sám Hối của dân Do Thái, vị tư tế Aharon sẽ ấn tay vào vào đầu con dê và xưng thú mọi tội lỗi của dân Israel trút trên đầu nó, rồi đuổi nó vào sa mạc (x Lv 16,20-22), thế là hối nhân phải sống tách khỏi cộng đoàn, không được tham dự Phụng Vụ, trong thời gian 40 ngày cả cộng đoàn dân Chúa đều hợp ý với Giám mục cầu nguyện cho hối nhân. Đến ngày thứ Năm Tuần Thánh, hối nhân được trở lại cộng đoàn Phụng Vụ, được Đức Giám mục, chủ sự Nghi Lễ ban ơn xá giải. Có thế hối nhân mới được trở lại tham gia mọi sinh hoạt Phụng Vụ một cách bình thường.

Ngày nay, Hội Thánh không còn giữ Nghi thức đó nữa, mà canh tân bằng việc vị chủ sự cộng đoàn Phụng Vụ xức tro trên đầu mọi Kitô hữu, để giữ lại ý nghĩa và giá trị Nghi thức Sám Hối thời Giáo Hội sơ khai. Hội Thánh phải canh tân  Nghi Thức Sám Hối thời Giáo Hội sơ khai, vì:

–   Về mặt tâm lý: Nếu làm như thời Giáo Hội sơ khai thì nhiều tội nhân không đủ can đảm ra thú tội.

–   Về mặt tín lý: Không hẳn ba loại tội: ngoại tình, giết người, bỏ Đạo, mới là tội trọng gây tai họa, mà trong tình yêu của con người đối với Thiên Chúa,có thể nói tội nào cũng là trọng, cho nên mọi người, từ vị chủ sự cộng đoàn cho tới mọi thành phần dân Chúa cần phải sám hối ăn năn, để trở về với Chúa.

Công thức đọc khi xức tro nói lên lý do và ý nghĩa việc sám hối. Có hai công thức được chọn một trong hai:

    Hoặc đọc là: “Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng” (Mc 1,15).

    Hoặc đọc là: “Ta là thân cát bụi, sẽ trở về cát bụi” (St 3,19).

Giáo huấn của Công Đồng Vat.II kêu gọi dân Chúa đặc biệt trong mùa Chay, phải mau sám hối mà trở về nẻo chính đường ngay để được kết hợp với Chúa Giêsu Phục Sinh. Lời kêu gọi này có hai đặc tính:

* Theo Hiến Chế Phụng Vụ số 109: Mang tính cá nhân, mỗi người phải sám hối tội mình, hoặc là để chuẩn bị lãnh Bí tích Thánh Tẩy, hoặc là nhớ lại muôn hồng ân đã lãnh nhận từ khi được làm con Chúa, nên cầu nguyện cho mọi tội nhân, để cả cộng đoàn cùng nhau trở về canh tân đời sống Đạo, như lời thánh Phaolô nói: “Anh em hãy nghĩ đến nhau mà lo đôn đốc lòng mến trong các việc lành” (Dt 10,24).

* Theo Hiến Chế Phụng Vụ số 110: Việc sám hối không chỉ kêu gọi mỗi cá nhân giục lòng ăn năn trong lòng, mà còn phải bày tỏ ra bề ngoài, mang chiều kích xã hội.

Phải bày tỏ lòng sám hối bề ngoài, cụ thể:

   – Ăn chay và kiêng thịt. Theo Giáo Luật số 97 và 1252 quy định về Luật Ăn Chay: “Những tín hữu từ 18 đến 60 tuổi buộc phải ăn chay trong hai ngày: Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh, chỉ được ăn một bữa no trong ngày ; tuổi từ 14 cho đến chết, thì ngày chay còn phải kiêng thịt”.

   – Ý nghĩa việc ăn chay và kiêng thịt: Kiêng thịt trong những ngày chay không có nghĩa ăn thịt là xấu, như niềm tin của nhà Phật, nhưng vì thịt là loại thực phẩm đắt tiền, ta phải bớt hưởng thụ cùng với việc ăn chay để có thêm của cải mà chia sẻ, hoặc làm những việc lành phúc đức, đặc biệt là phát triển Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh  (x Điều răn thứ 5 mới của Hội Thánh – xem Giáo Lý Mới số  2041-2043). Bởi đó người có ý thức về việc ăn chay, không phải ăn chay kiêng thịt để có dư tiền của cho ngày mai ăn sang trọng hơn, cũng không phải bỏ ăn thịt lại mua thực phẩm khác đắt tiền hơn. Ví dụ: tôm hùm… Kiểu ăn chay như thế làm sao có thêm tiền của để chia sẻ ?

Vào thời Giáo Hội sơ khai, mọi tín hữu ăn chay kiêng thịt suốt 40 ngày, đến ngày thứ Năm Tuần Thánh, người ta góp lại cho Hội Thánh số của cải dành dụm chắc chắn được rất nhiều. Hội Thánh dùng để bày tỏ lòng yêu mến đối với những người nghèo đói, cũng như góp phần vào những công việc mục vụ của cộng đoàn địa phương, hoặc của Hội Thánh  phổ quát.

Ăn chay với ý hướng sám hối tội để được kết hợp với Chúa Giêsu.

Trong tâm tình ăn chay, Đức Giêsu dạy: “Khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả làm ra vẻ thiểu não để cho thiên hạ thấy mình ăn chay. Làm như thế đã được phần thưởng nơi người đời. Còn anh em, khi ăn chay hãy rửa mặt cho sạch, chải dầu cho thơm, để chỉ muốn Thiên Chúa thấy, Ngài thấu suốt nơi kín đáo sẽ trả lại cho anh em” (Mt 6,16-18).

“Chớ rầu rĩ, hãy rửa mặt cho sạch, và chải dầu thơm”: có nghĩa là:

1/ Con người được Chúa giải phóng, không nô lệ cho tội lỗi, không nô lệ cho đam mê xác thịt. Vì: “Kẻ nô lệ không được ở trong nhà, con mới được ở trong nhà” (Ga 8,34-35). Vào thời Đức Giêsu, chỉ có con vua mới được xức dầu trên đầu, nên ta cần biểu lộ cho người đời biết ta là con Vua Trời. Mặt khác, không sống nô lệ cho tội lỗi mới là người có danh thơm tiếng tốt, quý giá hơn dầu thơm xức trên đầu. Lời Kinh Thánh nói: “Tiếng thơm hơn dầu thơm, thì ngày chết hơn ngày sinh” (Gv 7,1).

2/ Người thuộc về Thiên Chúa: Xức dầu thơm trên đầu còn có nghĩa là để Thiên Chúa chiếm đoạt và điều khiển con người của ta. Lời Thánh Kinh nói: “Dầu-Xức anh em đã lãnh nơi Ngài, hiện lưu lại trong anh em, nên anh em không cần nhờ ai dạy bảo. Phải hơn như Dầu-Xức của Ngài dạy anh em về hết mọi sự, và là sự thật không phải là sự dối trá, nên chiếu theo điều Dầu-Xức đã dạy: anh em hãy lưu lại trong Ngài” (1 Ga 2,27). Một khi ta đã được kết hợp với Dầu-Xức là Chúa Kitô, thì ta được vinh dự “tỏa ra hương thơm của Chúa Kitô giữa người được cứu độ và những kẻ bị hư đi” (2Cr 2,15).

Làm việc lành cụ thể là chia sẻ của cải.
Khi chia sẻ phải ý thức hai điều sau đây:
Làm việc lành không phô trương công đức.

Đức Giêsu dạy: “Khi làm việc lành phúc đức đừng phô trương để thiên hạ thấy. Làm lành tay phải đừng cho tay trái biết, đừng khua chiêng đánh trống, biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá,mong được người ta khen! Làm như thế, đã được lãnh thưởng nơi người đời thì mất phần thưởng nơi Cha trên trời” (x Mt 6,1-4: Tin Mừng).

Lời giáo huấn trên Chúa chỉ nhắm dạy chúng ta: đừng làm vì danh lợi nơi tay người đời, mà làm lành chỉ cần Chúa biết, đợi lãnh thưởng từ tay Thiên Chúa thì lớn lao hơn. Do đó, nếu ta làm việc lành mà người khác biết, họ khen ta, thì ta nói với họ: Chúa dạy tôi như vậy, vì Chúa muốn mọi người làm “việc lành để trở nên như ngọn đèn soi sáng cho mọi người trong thế gian” (x Mt 5,13-16).

Tôn trọng đồng loại.

Đức Giêsu không dạy ta đem của bố thí, vì bố thí là hạ phẩm giá người khác, tự coi mình là một chủ nhân ông! Nhưng Ngài dạy ta phải chia sẻ (Hy-ngữ là Sedakah). Người biết chia sẻ là người ý thức: của cải Chúa ban không dành riêng cho mình, mà còn cho người khác . Bởi vì trái đất này Chúa dựng nên không trao riêng cho ai, nhưng cho hết mọi người làm chủ, nên mỗi người, gia đình, quốc gia, phải được hưởng phần của cải chính đáng (x Hiến Chế Vui Mừng Và Hy Vọng số 69). Nhất là chia sẻ không chỉ nhằm giải quyết bụng đói của đồng loại, mà đó là dấu chỉ tình yêu để cho mọi người nhận ra Thiên Chúa là Cha chung, Ngài yêu thương hết mọi phàm nhân. Có thế việc chia sẻ mới quy hướng lòng tha nhân thuộc về Thiên Chúa. Đức Giêsu nói ai làm như thế là làm cho “kẻ bé nhỏ” – người được Chúa Kitô cứu độ trong Hội Thánh, cũng chính là làm cho Ngài (x Mt 25,34-40).

Việc chia sẻ còn có giá trị thanh tẩy tội mình và làm cho ta được sống. Ông Tôbya dạy con: “Cầu nguyện kèm theo đời sống chân thật, chia sẻ đi đôi với đời sống công chính, thì tốt hơn có của mà ở bất công ; làm phúc chia sẻ thì hơn là tích trữ vàng bạc. Việc chia sẻ cứu cho khỏi chết và tẩy sạch tội lỗi. Người chia sẻ thì được sống lâu dài” (Tb 12,8-9). Thánh Phêrô cũng nói: “Đức Ái phủ lấp muôn vàn tội lỗi” (1Pr 4,8).

Cầu nguyện.

Đức Giêsu dạy: “Đừng thích đứng nơi công cộng để cầu nguyện hòng cho người ta thấy, hãy vào phòng đóng cửa lại và cầu nguyện cùng Cha trên trời, Đấng hiện diện cả nơi bí ẩn” (Mt 6,5-6: Tin Mừng).

“Cầu nguyện phải vào phòng đóng cửa lại”: Câu này nhằm ba ý nghĩa:

–   Khi cầu nguyện phải “đóng cửa lòng”, tức là gác bỏ bớt những công việc làm ăn trong cuộc sống, để đặt việc tìm kiếm ý Chúa mà thực hành, hơn tìm kiếm những thực tại ở trần gian này, như Đức Giêsu nói: “Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước và sự công chính của Ngài, còn những điều khác Ngài sẽ ban thêm cho” (Mt 6,33). Như thế khi cầu nguyện đừng để xác nơi Nhà Thờ còn hồn thì chu du khắp nơi trên thế gian, lo tính toán những chuyện đời.

–   Cầu nguyện “đóng cửa tâm hồn” không cho hướng về thế gian mà phải “mở cửa lòng” hướng về Thiên Chúa, và đặt niềm tin tuyệt đối vào Ngài là Đấng Toàn Năng, chỉ duy mình Ngài biến dữ ra lành, biến chết ra sống. Cụ thể như ông Daniel biết lệnh vua cấm không được cầu nguyện với Thiên Chúa, một chỉ cầu khẩn nơi vua. Nhưng Daniel lên lầu đóng các cửa phòng lại, chỉ mở một cửa hướng về Giêrusalem mà cầu nguyện với Thiên Chúa, xin Chúa cứu ông khỏi tay độc ác của vua (x Dn 6,11) ; hoặc như ngôn sứ Êlysa, khi ông cầu nguyện cho con của bà Lớn thành Shunem đã chết được sống lại, ông phải đóng tất cả các cửa phòng lại cầu nguyện với Thiên Chúa mà thôi ! (x  2V 4,33).

–   Cầu nguyện “đóng cửa lòng”, không hứng theo xác thịt để phải chết, mà là hứng theo Thần Khí để được sống và bình an (x Rm 8,6). Cụ thể thú tội mình với Chúa trong khiêm nhường là lãnh nhận các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Giao Hòa và Bí tích Thánh Thể. Như thánh Phaolô thay mặt Đức Kitô mà kêu gọi: “Nhân danh Đức Kitô, tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa. Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta trở nên công chính” (2Cr 5,20-21: Bài đọc II). Vậy ta hãy cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm” (Tv 51/50,3: Đáp ca).

Ngạn ngữ Đức có câu: “Ngã vào tội là người, ở trong tội là quỷ”. Và thánh Isaac, Viện Phụ Đan viện Sao Mai nói: “Có hai điều chỉ thích hợp với một mình Thiên Chúa, đó là vinh dự được nghe thú tội và quyền tha thứ. Chúng ta phải thú tội với Người, và trông đợi Người tha thứ cho chúng ta. Nhưng Chúa Kitô chỉ muốn tha tội cho chúng ta qua Hội Thánh Ngài thiết lập”.

Vậy trong Mùa Chay, Hội Thánh dùng Lời Chúa kêu gọi: “Ngày hôm nay, anh em chớ cứng lòng, nhưng hãy nghe tiếng Chúa.” (Tv 95/94,7b.8a: Tung Hô Tin Mừng). Nghe tiếng Chúa cụ thể ta dựa vào Tin Mừng trong Thánh Lễ hôm nay, Chúa tha thiết kêu gọi mọi người hãy đi bốn bước: Sám Hối – Ăn Chay – Chia Sẻ – Cầu Nguyện, để tìm lại sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cuộc sống, như Ngài nói: “Bao lâu Tân Lang (Đức Giêsu) còn ở với khách dự tiệc cưới, thì không ai ăn chay. Nhưng sẽ đến những ngày Tân Lang bị cất đi (lúc ta phạm tội), và bấy giờ người ta sẽ ăn chay” (x Mc 2,19-20).

--------------------------------

 

Lễ_tro-130: TRỞ VỀ VỚI CHÚA


- Lm. Vinhsơn Trần Minh Hòa

THỨ TƯ LỄ TRO- Năm B

Con người, thân phận bụi tro

Cộng đoàn phụng vụ thân mến,

 

Con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm (x.Tv 8,5). Con người Lễ_tro-130


Con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm (x.Tv 8,5). Con người chẳng là gì trước mặt Chúa, có chăng, họ chỉ là một thụ tạo quá thấp hèn. Bởi Chúa đã biết con người được dựng nên bằng gì, Người vẫn nhớ chúng ta là cát bụi (x. Tv 103,14). Con người chỉ là cát bụi. Chính Thiên Chúa đã yêu thương và tự do nhào nắn con người từ bụi đất và thổi sinh khí, trao ban sự sống cho con người (x, St 2,7). Từ thân phận bụi tro, Thiên Chúa đã cho con người trở thành một thụ tạo cao trọng khi chính Ngài đã dựng nên con người giống hình ảnh Thiên Chúa (x. St 2,17). Vì thế, mỗi người cần gắn bó mật thiết với Thiên Chúa để luôn giữ được hình ảnh Thiên Chúa nơi mình. Quay lưng lại với Thiên Chúa, con người sẽ gặp thất bại ê chề.

Trở về với Thiên Chúa.

Dân Do Thái đã trải nghiệm sự thất bại ê chề này. Họ đã nhìn mọi thiên tai thất bại và sự dữ xảy đến với họ dưới cái nhìn đức tin. Vì đã quay lưng lại với Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự thiện, nên họ phải gánh chịu sự dữ là nạn mất mùa. Trước nạn đói kém, tiên tri Gioen mời gọi họ trở về với Thiên Chúa: “Các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van”.

Sự ăn năn sám hối này phải là hành vi thay đổi tận căn, nghĩa là sám hối phải xuất phát tự cõi lòng chân thực chứ không phải chỉ có những việc làm bề ngoài. Vì thế, vị tiên tri đã kêu gọi: “Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng”. Nếu toàn dân cùng nhau sám hối, muôn lòng trở về với Chúa, dân Do Thái có quyền hy vọng vào một ngày tươi sáng. Khi đó, họ sẽ gặt hái được hoa hạnh phúc, họ sẽ nhận được lễ phẩm và lễ tưới rượu. Bởi vì, Thiên Chúa là Đấng rất từ bi, chắc chắn Ngài sẽ tha thứ cho những kẻ thực lòng sám hối.

Trong suốt thời Cựu Ước, dân Do Thái thường xuyên lỗi phạm với Thiên Chúa nhưng họ cũng mau mắn trở về với Ngài. Tội lỗi và sám hối cứ đan xen nhau trong suốt lịch sử dân Do Thái. Tuy nhiên, tâm tình sám hối, trở về với Thiên Chúa luôn da diết và vang vọng không ngừng. Thánh vịnh 50 đã bày tỏ tâm tình sám hối này. Tội nhân ý thức rõ về những tội lỗi của mình nhưng quyết tâm trở về với Chúa và tin chắc rằng, Thiên Chúa sẽ rộng lòng thứ tha.

Tới thời Tân ước, mặc dù Thiên Chúa đã biến Đức Giêsu thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã không cất những yếu đuối của con người. Mặt khác, Ngài cho con người được tự do chọn lựa vận mệnh đời mình. Vì thế, dù người tín hữu được giá máu Chúa Kitô cứu chuộc, họ vẫn còn phạm tội, vẫn còn quay lưng lại với Thiên Chúa. Thánh Phaolô trong thư thứ hai gửi tín hữu thành Côrintô đã mời gọi dân thành hãy làm hòa với Thiên Chúa. Bởi lẽ, tội lỗi đã phá huỷ những liên hệ hài hòa giữa con người với Thiên Chúa, còn sám hối là tái lập những liên hệ ấy.

Sống tương quan mật thiết với Thiên Chúa.

Cộng đoàn phụng vụ thân mến, thân bụi tro nếu đặt trong bàn tay Thiên Chúa sẽ được nhào nắn và thổi sức sống thần linh để trở nên con người, giống hình ảnh Thiên Chúa. Ngược lại, nếu ai đó lạm dụng phẩm giá cao quý của mình là hình ảnh của Thiên Chúa mà quay lưng lại với Ngài thì sớm muộn gì, người đó cũng trở về cát bụi. Vì thế, trở về với Thiên Chúa, sám hối tội lỗi mình để mỗi người có thể tương quan mật thiết với Thiên Chúa.

Sống tương quan mật thiết với Thiên Chúa không chỉ là thái độ thành tâm sám hối sau khi đã phạm tội nhưng còn trải dài đời sống mình dưới mắt Chúa. Nghĩa là, mỗi người luôn sống đẹp ý Chúa với niềm xác tín rằng, Chúa luôn hiện diện khắp mọi nơi và thấu suốt hành vi cũng như tâm can mỗi người tầng gang tấc (x. Gr 11,20). Vì thế, mọi hoạt động của mỗi người cần quy hướng về Chúa chứ không phải vì người khác hay vì hư danh. Nghĩa là, mọi hành vi đạo đức bái ái như cầu nguyện, ăn chay, bác ái đều vì lòng mến Chúa chứ không phải để được người đời khen ngợi. Bởi lẽ, sau khi mỗi người nhắm mắt xuôi tay, chẳng ai có thể cho nắm tro tàn trỗi dậy. Nhưng với Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, Đấng đã tạo dựng con người từ bụi đất, sẽ cho thân phận của chúng ta được sống muôn đời.

Ước mong, mỗi lần chịu tro trên đầu, chúng ta ý thức thân phận mình là bụi tro đã được Thiên Chúa yêu thương nâng lên giống hình ảnh Thiên Chúa. Vì thế, mỗi người cần đáp đền tình yêu Thiên Chúa bằng đời sống tương quan mật thiết với Ngài, qua hành vi lắng nghe và thực hành lời Chúa để khi nhắm mắt xuôi tay, chúng ta có quyền mong đợi Thiên Chúa sẽ cho thân xác bụi tro của mỗi người được trở nên giống thân xác vinh hiển của Chúa Giêsu Kitô và sống hạnh phúc với Ngài muôn đời.

--------------------------------

 

Lễ_tro-131: HOÁN CẢI NỘI TÂM(*)


- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

THỨ TƯ LỄ TRO – NĂM C

 

Vào Thứ Tư Lễ Tro nầy, ngưỡng cửa Mùa Chay, Phụng Vụ Lời Chúa nhắc nhở chúng ta ý nghĩa Lễ_tro-131


Vào Thứ Tư Lễ Tro nầy, ngưỡng cửa Mùa Chay, Phụng Vụ Lời Chúa nhắc nhở chúng ta ý nghĩa của thời gian cầu nguyện, sám hối và thực thi đức ái như chuẩn bị tâm hồn đón mừng mầu nhiệm Phục Sinh, mầu nhiệm tha thứ và ban sự sống.

Ge 2: 12-18
Bài Đọc I được trích từ sách Giô-en, vị ngôn sứ kêu gọi hoán cải trong thời kỳ tai ương hoạn nạn. Vị ngôn sứ cho thấy quyền năng của việc cầu nguyện, sám hối và nhất là hoán cải tận đáy lòng như thế nào để đạt được ơn tha thứ của Thiên Chúa.

2Cr 5: 20-6: 2
Trong thư thứ hai gởi các tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô khuyên các tín hữu hãy làm hòa với Thiên Chúa nhờ, bởi và trong Đức Ki-tô; nhờ đó họ có thể thay đổi cuộc sống.

Mt 6: 1-6, 16-18
Tin Mừng Mát-thêu ghi lại giáo huấn của Đức Giê-su liên quan đến việc bố thí, cầu nguyện và ăn chay, những hành vi mà chúng ta phải chu toàn đừng bận lòng về những xét đoán của người đời, nhưng chỉ dưới cái nhìn của Chúa Cha, Đấng thấu suốt những gì kín đáo.

BÀI ĐỌC I (Ge 2: 12-18)
Ngôn sứ Giô-en kêu gọi toàn thể dân chúng Giu-đa hãy sám hối và cầu nguyện: hãy ra sức khẩn nài Thiên Chúa và xin ơn tha thứ, vì hai tai họa đã giáng xuống trên quê hương: một năm hạn hán gây tang tóc và nạn châu chấu hoành hành. Thậm chí người ta không còn mang hiến lễ hằng ngày đến Đền Thờ vì không còn dầu, rượu, bột (Ge 1: 4-12, 16-20; 2: 2-11).

Không thể định vị biến cố này về phương diện lịch sử, vì chúng ta không biết ngôn sứ Giô-en đã sống vào thời đại nào: có thể vào cuối thế kỷ thứ bảy trước Công Nguyên, trước cuộc lưu đày Ba-by-lon, hay có thể đầu thế kỷ thứ năm trước Công Nguyên, sau cuộc lưu đày. Mặt khác, vị ngôn sứ đưa ra hai thiên tai mà ông miêu tả như một ví dụ điển hình cơn thịnh nộ của Đức Chúa vào ngày Chung Thẩm.

Sám Hối:

Ngôn sứ kêu mời hãy hết lòng trở về với Chúa kèm theo những cử chỉ sám hối: ăn chay, khóc lóc, van nài thống thiết, xé áo, những cử chỉ này gợi ra những nghi thức tang chế và diễn tả những tâm tình buồn phiền của con người trước tội lỗi của mình; ăn chay hổ trợ lời cầu nguyện và cũng diễn tả thái độ khiêm hạ. Nhưng ông không nhấn mạnh những cử chỉ nầy. Điều cốt thiết là “thay lòng đổi dạ”: “Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng”.

Hết lòng trở về với Thiên Chúa không phải thực hiện trong nỗi xao xuyến nhưng trong niềm tin tưởng. Thiên Chúa tỏ mình ra “nhân hậu và từ bi, chậm giận và giàu tình thương” như Ngài đã tự định nghĩa về mình trước ông Mô-sê (Xh 34: 6). Với lời cầu nguyện chân thành, “biết đâu Thiên Chúa chẳng nghĩ lại mà hối tiếc vì đã giáng họa”.

Hiệp nhau cầu nguyện:

Trước những tai ương, toàn dân, dù các cụ già, thiếu nhi, hay trẻ thơ, tân lang hay tân nương, hãy hiệp nhau mà khẩn khoản van nài Thiên Chúa

Tân lang được nêu lên ở đây vì Luật cho phép họ miễn trừ mọi công tác và nghĩa vụ quân sự trong một năm: “Khi một người đàn ông mới cưới vợ, thì người ấy không phải đi lính, và người ta sẽ không bắt làm công tác nào; người ấy sẽ được miễn, được ở nhà một năm , và sẽ là niềm vui cho người vợ mới cưới” (Đnl 24: 5). Nhưng trong trường hợp nầy, mọi quyền ưu tiên phải nhường chỗ cho tình liên đới và hiệp thông trong lời cầu nguyện.

Còn các tư tế phải khóc than và nguyện cầu “giữa tiền đình và tế đàn”. Tế đàn ở đây là bàn thờ dâng hiến lễ toàn thiêu được định vị ở sân trong của Đền Thờ, được gọi “sân Tư Tế”. Khi băng qua hàng hiên phía tây, người ta ở trong tiền sảnh, đối diện với bàn thờ dâng hiến lễ toàn thiêu, và qua đó, đối mặt với chính thánh điện mà người ta hướng lời cầu nguyện về. Chính ở nơi tiền sảnh này mà ngôn sứ Giô-en đặt các tư tế Đền Thờ trong tư thế cầu nguyện.

Chính vì việc hoán cải tận đáy lòng và những lời khẩn nguyện chân thành mà Thiên Chúa đã đáp trả (ngôn sứ gợi lên sau đó tai ương chấm dứt, sự phồn vinh trở lại và mưa xuống trên các đồng cỏ, vân vân).

BÀI ĐỌC II (2Cr 5: 20-6: 2)

Thánh Phao-lô với tư cách “sứ giả thay mặt Đức Ki-tô” cũng kêu gọi các tín hữu Cô-rin-tô hãy hoán cải.

Hoàn cảnh:

Chúng ta biết rằng trong thư thứ hai gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô nầy, thánh nhân phác họa một bức tranh về Sứ Vụ Tông Đồ, có tầm mức cao cả và phần thưởng dành cho nó. Theo cách nầy, ngài trả lời cho các tín hữu Cô-rin-tô, những người đã coi thường lời rao giảng của ngài và đàm tiếu về tước vị Tông Đồ của ngài.

Thánh Phao-lô vặn lại. Thánh nhân biết rất rõ ngài chỉ là khí cụ của Thiên Chúa, chỉ là người trung gian, nhưng người trung gian đã được Thiên Chúa ủy quyền với tư cách là “sứ giả thay mặt Đức Ki-tô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy”. Xa hơn một chút, thánh nhân tự định nghĩa về mình là “cộng tác viên của Thiên Chúa”.

Một trong những sứ vụ Tông Đồ được giao phó cho ngài mà thánh nhân gọi là “thừa tác viên của sự hòa giải”. Từ ngữ “hòa giải” không được dùng thông thường trong các thư của thánh nhân, nhưng lại tóm gọn thành quả hy tế của Đức Ki-tô: hòa giải con người với Thiên Chúa. Thánh nhân sẽ khai triển hai khía cạnh cốt yếu của sự hòa giải: Hòa giải là sáng kiến của Thiên Chúa và có giá trị tức thời.

Sáng kiến của Thiên Chúa.

“Nhân danh Đức Ki-tô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa”. Qua cách diễn tả nầy, thánh Phao-lô cho hiểu rằng hòa giải đến từ sáng kiến của Thiên Chúa, ân ban nầy đứng hàng đầu và nhưng không, Thiên Chúa phải trả một giá rất đắc, bởi vì Đức Ki-tô, “Đấng chẳng biết tội là gì, Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người”.

Nhưng lời van xin: “Hãy làm hòa với Thiên Chúa”, không hàm chứa một thái độ thụ động. Thánh nhân thường nói ở nơi khác: “Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Giê-su Ki-tô” (Rm 6: 11; Cl 2: 13, Ep 2: 3-4, vân vân). Nếu chúng ta đã đón nhận ân ban nầy (nhờ phép Rửa), phải làm cho ân sủng mà chúng ta nhận được đâm bông kết trái.

Giá trị tức thời:

Thành quả của việc hòa giải với Thiên Chúa nhờ Đức Ki-tô mặc khải rằng ngày cứu độ đã đến. Thánh Phao-lô trích dẫn sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị gởi cho những người lưu đày ở Ba-by-lon để loan báo cho họ giờ giải thoát sắp đến gần: “Ta sẽ nhận lời ngươi vào thời ta thi ân, phù trợ ngươi trong ngày Ta cứu độ” (Is 49: 8).

Thánh nhân đặt lời trích dẫn nầy vào thời hiện tại: “Ta đã nhận lời ngươi vào thời Ta thi ân, phù trợ ngươi trong ngày Ta cứu độ”, bởi vì sấm ngôn đã được ứng nghiệm. Diễn ngữ “ngày Ta cứu độ” mang ý nghĩa kinh thánh: “thời đại”. Thời đại nầy được hiểu giữa biến cố Phục Sinh và ngày Quang Lâm của Đức Giê-su, tức thời chung cuộc, thời mà cuộc hoán cải của muôn dân sẽ được thực hiện. Nhưng đối với mỗi người Ki-tô hữu, cuộc hoán cải không được trì hoản: chính bây giờ là lúc thuận tiện, bây giờ là lúc phải tận dụng thời gian ngắn ngũi nầy để thánh hóa bản thân mình.

TIN MỪNG (Mt 6: 1-6, 16-18)

Đoạn trích Tin Mừng nầy thuộc phần thứ hai của bài diễn từ trên núi. Đức Giê-su vừa thiết lập một sự đối xứng giữa những giới luật Mô-sê và những đòi hỏi mới mà Ngài đề xuất: “Anh em đã nghe Luật dạy… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết”. Ngài đặt dấu nhấn trên việc nội tâm hóa luật luân lý. Ở đây, Đức Giê-su đan cử những ví dụ rất thích đáng và đối lập hai thái độ; vì thế, Ngài chọn ba việc thiện của Do thái giáo: bố thí, cầu nguyện và ăn chay.

Bố thí:

Huấn thị bố thí được ghi trong Lề Luật: “Anh em đừng có lòng chai dạ đá , cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em nghèo túng… Anh em phải cho một cách rộng rãi, và khi cho thì đừng miễn cưỡng; thật vậy vì việc đó, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ chức phúc cho anh emtrong mọi việc anh em làm và mọi công trình tay anh em thực hiện. Vì trong đất của anh em sẽ không thiếu người nghèo, nên tôi truyền cho anh em: hãy mở rộng tay giúp người anh em khốn khổ, nghèo khó của anh em, trong miền đất của anh em” (Đnl 15: 7-11). Huấn thị nầy chiếm một chỗ quan trọng trong văn chương kinh sư. Các sách minh triết cũng thường ca ngợi đức hạnh này. Nhờ Tin Mừng Gioan, chúng ta biết rằng Đức Giê-su, dù nghèo, cũng đã thực thi bố thí một cách kín đáo (Ga 13: 29). Bố thí không phải là một cử chỉ phô trương cho thiên hạ thấy, bởi vì Thiên Chúa là “Cha của anh em, Đấng thấu suốt những gì kín đáo”.

Cầu nguyện:

Đối với việc cầu nguyện, Đức Giê-su căn dặn cũng theo một cách thức như vậy: “Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh em”. Đức Giê-su đã nêu gương. Các tác giả Tin Mừng, đặc biệt thánh Lu-ca tường thuật cho chúng ta rằng Đức Giê-su thường tách riêng một mình để cầu nguyện “trong nơi vắng vẽ”, “trên núi cao cô tịch”, vào lúc đêm xuống.

Đức Giê-su không khinh thường việc cầu nguyện cộng đoàn, huống chi lời cầu nguyện phụng vụ. Rõ ràng Ngài không bao giờ công bố bất cứ lời nào chống lại hội đường; Ngài đã tham dự phụng tự hội đường, ở đó Ngài đã ngỏ lời; chính Ngài, Ngài đã công khai cầu nguyện trước các môn đệ và trước đám đông. Nhưng việc cầu nguyện mà Ngài lên án là đạo đức giả, chính là cầu nguyện cốt nhằm cho thiên hạ thấy mà ngợi khen mình. Cầu nguyện là đi vào trong mối tương quan thân thiết với Thiên Chúa, Đấng ngự trong cõi thâm sâu của lòng bạn.

Ăn chay:

Luật Mô-sê chỉ đòi buộc một ngày ăn chay đó là ngày lễ Xá tội. Nhưng cũng có những ăn chay tùy ý, ăn chay tùy hoàn cảnh và ăn chay vì lòng đạo đức. Người Pha-ri-sêu ăn chay vì lòng đạo đức vào ngày thứ hai và thứ năm trong tuần.

Đức Giê-su đòi hỏi một sự biện phân tinh tế trong việc thực hành ăn chay. Khi ăn chay, đừng làm ra vẻ gì là mình ăn chay để không ai thấy là anh ăn chay ngoài trừ “Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo”. Đây là bài học về lòng khiêm hạ và tôn trọng sự thật. Hành vi tôn giáo có thể không đạt được mục đích nếu ý hướng sai lầm.
Nhưng điều Đức Giê-su đặc biệt muốn mặc khải, được lập lại đến ba lần như điệp khúc, đó là sự hiện diện của Thiên Chúa trong cõi thâm sâu nhất của con người. Đây là tôn giáo “thờ phượng Chúa Cha trong tinh thần và sự thật” mà Đức Giê-su đã mặc khải cho người phụ nữ Sa-ma-ri.
-------------------
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt

--------------------------------

 

Lễ_tro-132: CÁM DỖ


- ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

THỨ TƯ LỄ TRO- NĂM C

 

Cám dỗ là chuyện xưa như trái đất. Từ khi có con người, đã có cám dỗ. Hẳn ta không thể quên Lễ_tro-132


Cám dỗ là chuyện xưa như trái đất. Từ khi có con người, đã có cám dỗ. Hẳn ta không thể quên chuyện hai ông bà nguyên tổ sa chước cám dỗ của ma quỷ. Dân Do Thái, khi bị nô lệ dưới ách người Ai cập thì muốn được tự do. Nhưng khi lang thang 40 năm trong sa mạc, phải chịu đói khát, lại bị cám dỗ quay trở lại Ai cập để được no ấm. Nhưng có thể nói, 3 cơn cám dỗ mà Đức Giêsu phải đương đầu hôm nay gồm tóm tất cả mọi thứ cám dỗ mà ta thường gặp.

+ Cơn cám dỗ thứ nhất: thoả mãn tức khắc mọi nhu cầu.

Sau khi Đức Giêsu ăn chay 40 đêm ngày. Ma quỷ đề nghị Người biến đá thành bánh mà ăn. Thật là một đề nghị hợp lý. Đói thì phải ăn. Muốn ăn thì phải có bánh. Nhưng có bánh bằng cách nào mới là vấn đề. Không phải cứ có nhu cầu là phải thoả mãn ngay. Và nhất là không được dùng những cách không hợp đạo lý để thoả mãn những nhu cầu của mình. Cơm bánh tượng trưng cho những nhu cầu thiết yếu của con người. Nhu cầu của con người thì có nhiều và có khuynh hướng ngày càng gia tăng. Vì thế cơn cám dỗ thoả mãn nhu cầu ngày càng lớn.

+ Cơn cám dỗ thứ hai: muốn có quyền lực thống trị.

Ma quỷ biết Đức Giêsu muốn cứu độ loài người, nên đề nghị tặng Người tất cả các nước trên trần gian. Có lẽ nhiều người nghĩ rằng đề nghị của ma quỷ là hợp lý. Cứ có quyền thống trị trên hết mọi dân nước rồi nói gì người ta chẳng nghe. Chúa sẽ không phải mất công chịu đau khổ chịu chết. Chỉ cần quỳ xuống thờ lạy ma quỷ, vua quan dân chúng các nước sẽ răm rắp tuân theo. Thật là tiện lợi. Quyền lực là một cơn cám dỗ muôn đời của nhân loại. Từ ngàn xưa, vua chúa các nước đã không ngừng gây chiến để tranh giành quyền lực. Ngày nay, trong các cuộc chiến mới, người ta không còn giết nhau bằng gươm đao, súng đạn, nhưng bằng quyền lực kinh tế, khoa học, kỹ thuật. Tuy êm đềm nhưng cuộc chiến vô cùng khốc liệt. Cơn cám dỗ về quyền lực thống trị không những không suy giảm mà còn mãnh liệt hơn.
+ Cơn cám dỗ thứ ba: tìm những điều kỳ lạ.

Muốn những chuyện thần kỳ. Muốn làm được những việc kinh thiên động địa. Muốn có những thành công lẫy lừng. Cơn cám dỗ này thúc đẩy người ta đổ xô đi tìm phép lạ. Cơn cám dỗ xây tháp Ba ben từ ngàn xưa vẫn còn tiếp diễn.

Xuyên qua những cơn cám dỗ ấy ta thấy ma quỷ thật vô cùng tinh khôn và hiểm độc.

Với cơn cám dỗ thứ nhất, ma quỷ muốn xô đẩy con người làm nô lệ cho dục vọng. Xúi giục con người chỉ tìm thoả mãn những bản năng thấp hèn. Giới hạn con người vào sự sống xác thịt. Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu của ma quỷ khi Người cho biết con người không chỉ có đời sống thể lý mà còn có đời sống tâm linh. Người nâng cao phẩm giá con người khi quyết tâm chống lại cơn cám dỗ thoả mãn những nhu cầu thân xác để chăm lo cho sự sống tâm linh.

Với cơn cám dỗ thứ hai, ma quỷ muốn biến con người thành nô lệ cho tham vọng, nô lệ cho ma quỷ. Vì ham hố chức quyền, vì mưu cầu danh vọng mà đánh mất tự do của mình, cam tâm làm nô lệ cho ma quỷ. Vì tham vọng mà đánh mất chính mình. Đức Giêsu vạch trần âm mưu đen tối của ma quỷ khi cương quyết chối từ danh vọng quyền thế. Người còn chỉ cho ta con đường duy nhất phải theo đó là thờ phượng Thiên Chúa. Chỉ có thờ phượng Thiên Chúa mới đem đến cho con người tự do đích thực, tự do trong tâm hồn, không bị nô lệ một tham vọng nào.

Với cơn cám dỗ thứ ba, ma quỷ đẩy con người vào nô lệ cho cuồng vọng. Điên cuồng đến chống lại Thiên Chúa. Dùng Thiên Chúa để phục vụ cho những ước vọng ngông cuồng của mình. Không đến với Chúa trong tâm tình của người con thảo đối với Cha hiền. Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu của ma quỷ. Người chỉ cho ta con đường của người con hiếu thảo. Người con hiếu thảo tin cậy phó thác và luôn làm theo ý Cha, chứ không bao giờ dám thách thức Cha. Người con hiếu thảo vâng lệnh Cha sai bảo chứ không bao giờ dám sai bảo Cha.

Cám dỗ của ma quỷ hiểm độc vì nó tiến từng bước: Từ hạ thấp phẩm giá con người khi khiến con người làm nô lệ cho dục vọng đến cướp mất tự do của con người khi xúi giục con người nô lệ cho ma quỷ. Và sau cùng đi đến chỗ tận cùng là chối bỏ Thiên Chúa, không coi Thiên Chúa là cha. Cám dỗ càng hiểm độc vì ma quỷ đã khéo léo học những âm mưu thâm hiểm trong lớp vỏ nhung lụa, êm ái, hợp lý và đầy quyến rũ của những nhu cầu, quyền lực và uy tín.

Ngày nay, những cơn cám dỗ của ma quỷ vẫn như những chiếc bẫy giăng ra để trói buộc con người trong vòng nô lệ. Cám dỗ càng ngày càng tinh vi và càng ngọt ngào hơn nên càng hiểm độc hơn. Muốn chống trả được những cơn cám dỗ, ta phải bắt chước Đức Giêsu dùng những vũ khí sắc bén, đó là ăn chay cầu nguyện, thấm nhuần Lời Chúa và luôn sống tâm tình của người con thảo đối với Chúa.

Lạy Chúa, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

    Bạn đã gặp nhiều cơn cám dỗ, bạn đã chống trả những cơn cám dỗ như thế nào?

    Có những việc lúc đầu bạn thấy là tốt. Mãi sau này bạn mới biết là xấu. Bạn có nghĩ đó là âm mưu của ma quỷ không?

    Bạn có ý thức rằng ma quỷ vẫn đang hoạt động mạnh mẽ trong thế giới ngày nay không?

    Mùa Chay này, bạn sẽ làm gì để phòng chống âm mưu ma quỷ?

--------------------------------

 

Lễ_tro-133: MÙA CHAY, CUỘC HÀNH HƯƠNG VỀ VỚI LÒNG CHA


 – Trích Logos C

THỨ TƯ LỄ TRO- NĂM C

 

Người ta kể rằng: Trong khu rừng thanh vắng có ngôi chùa do một vị sư già trụ trì cùng với một Lễ_tro-133


Người ta kể rằng:

Trong khu rừng thanh vắng có ngôi chùa do một vị sư già trụ trì cùng với một chú tiểu. Vị sư già rất yêu thương chú tiểu, coi chú như người môn sinh yêu quý, hết lòng dạy dỗ chỉ Bảo. Có điều là chú tiểu thường xuyên gây ra những lầm lỗi. Mỗi lần có lỗi, chú xin lỗi thì vị sư già lại tha thứ. Một lần kia, vị sư già nói với chú: “Nếu con không giảm Bớt những lầm lỗi thì e rằng một ngày kia ta sẽ không thể nói lời tha thứ với con”.

Ngày tháng trôi qua, lời nói của vị sư già đã thành sự thật. Hôm ấy, chú tiểu leo trèo nghịch mgợm trong chùa, đã làm rớt cây đèn từ điện thờ xuống. Cây đèn này có chân Bằng sứ cổ quý giá đã Bể tan tành trên sàn nhà. Chú tiểu sợ hãi chạy vào rừng sâu.

Đến chiều, chú tiểu hối hận nên trở về xin lỗi sư phụ. Về đến nơi, chú tiểu Bàng hoàng và vô cùng đau khổ khi nhìn thấy ngôi chùa chỉ còn là đống đổ nát với tro tàn. Chú có ngờ đâu cây đèn rớt xuống sàn nhà đã Bắt lửa và thiêu rụi ngôi chùa. Vị sư già chết cháy trong đó. Có lẽ ông chết trong lúc cố sức cứu chữa ngôi chùa. Đến lúc ấy chú tiểu mới nhớ lại lời vị sư: “Một ngày kia, ta sẽ không thể nói lời tha thứ với con”.
Chú tiểu đi lang thang khắp nơi và than khóc suốt đời cho một lầm lỗi không được tha thứ.

Mười năm sau, một vị sư trẻ xuất hiện và dừng Bước tại nơi ấy. Trên đống đổ nát hoang tàn của ngôi chùa năm xưa, vị sư ấy đã xây dựng ngôi chùa mới. Sau đó đã trụ trì nơi đây và nổi tiếng là vị sư có tấm lòng nhân từ cứu nhân độ thế. Vị sư ấy chính là chú tiểu năm xưa trở về để chuộc lại lỗi lầm cũ.

Nếu vị sư già kia mãi mãi không thể nói lời tha thứ với người môn sinh của mình thì Thiên Chúa lại làm được điều ấy. Khi con người nói lời xin lỗi thì Ngài luôn luôn đáp trả và không ngừng nói lời thứ tha. Thiên Chúa tha thứ cho con người mãi mãi.

Sám hối là nói lời xin lỗi. Sám hối là một cuộc trở về. Sám hối là làm hòa cùng Chúa và anh em. Sám hối là tác động “trỗi dậy và đi về cùng Cha”. Sám hối là quay lưng lại với quá khứ tội lỗi để hướng mặt về tương lai, gặp gỡ tình yêu và lòng tha thứ.

Sự trở về Bao hàm sự từ Bỏ. Từ Bỏ một nơi xa lạ mà về một nơi thân thương quen thuộc. Sự trở về cũng nói lên hình ảnh của một kẻ lữ thứ xa quê, nay về với mái ấm gia đình. Sự trở về cũng hàm ẩn ý nghĩa của sự thay đổi. Thay đổi một chỗ ở, thay đổi một hướng đi,…nhất là thay cũ đổi mới, thay một cái xấu Bằng một cái tốt hơn. Vì thế, trở về chính là một cuộc hoán cải, một sự canh tân. Trở về là đổi mới con người và cuộc sống.

Như thế, mùa chay là thời gian tốt nhất để ta thực hiện cuộc hành hương trở về với tình yêu của Thiên Chúa và anh em mình.

Lễ Tro là khởi điểm của cuộc hành trình trở về trong mùa chay. Nghi thức làm phép tro và xức tro phát xuất từ nghi thức thống hối và hòa giải thời xưa trong Giáo Hội. Ngày nay, việc Bỏ tro trên đầu chỉ còn mang ý nghĩa tượng trưng của lòng sám hối. Khi nhận ra thân phận tro Bụi thấp hèn của mình: “Hỡi người hãy nhớ mình là Bụi tro, một mai người sẽ trở về cùng Bụi tro”, chúng ta hãy khiêm tốn trông cậy vào tình thương tha thứ của Chúa. Nhất là khi được Giáo Hội nhắc nhở: “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”, chúng ta cũng ý thức để canh tân đổi mới chính mình.

Cũng như lời Tiên Tri Gioen kêu gọi dân Do Thái sám hối: “Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo các ngươi”, sám hối phải xuất phát từ cõi lòng chân thực, chứ không phải chỉ có những việc làm Bề ngoài. Việc xức tro trên đầu chỉ là dấu hiệu cho việc “xức tro tâm hồn”. Nghĩa là chúng ta phải thật lòng nhận ra thân phận tội lỗi của mình mà hối cải.

Cũng như Thánh Phaolô đã nài nỉ giáo đoàn Côrintô: “Hãy làm hòa cùng Thiên Chúa”, thì đó cũng là lời kêu gọi dành cho chúng ta hôm nay. Sám hối là nói lời xin lỗi với Chúa và anh em. Đây không phải là lời xin lỗi suông, nhưng là cuộc hòa giải thật sự, xuất phát từ trái tim khao khát được thứ tha.

Phụng vụ mùa chay không dùng màu rực rỡ, nhưng dùng màu tím trầm lắng và âm thầm để nhắc nhở chúng ta đừng phô trương những việc làm đạo đức và Bác ái. Nhưng hãy thực hiện những việc ấy với thái độ khiêm tốn và âm thầm. Đây chính là lời dạy của Chúa trong Tin Mừng Matthêu: việc Bố thí, cầu nguyện và ăn chay phải là những nghĩa cử xuất phát từ nội tâm và lòng yêu mến chân thành.

Ngày 31 tháng 01 năm 2004 vừa qua, khoảng 2 triệu người Hồi Giáo đã hành hương về thánh địa Mecca. Trong một nghi lễ gọi là “ném đá Satan”, mọi người dùng đá để ném vào một cây cột tượng trưng cho ma quỷ. Vì hiếu kỳ và sự cuồng tín, hàng trăm ngàn người đã dẫm đạp lên nhau để tiến lên xem cử hành nghi lễ. Kết quả là 244 người thiệt mạng và mấy trăm người khác Bị thương.

Cuộc hành hương trở về với Chúa trong mùa chay không phải là một nghi lễ với những hình thức Bên ngoài, nhưng chính là cuộc hành trình tâm hồn của những người con khao khát trở về trong vòng tay yêu thương của người Cha.

--------------------------------

 

Lễ_tro-134: SỐNG TINH THẦN MÙA CHAY


-  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế OP

THỨ TƯ LỄ TRO- NĂM C

 

Chúng ta đã vào Mùa Chay. Cũng như mọi năm, Mùa Chay bắt đầu từ thứ tư Lễ Tro và kéo Lễ_tro-134


Chúng ta đã vào Mùa Chay. Cũng như mọi năm, Mùa Chay bắt đầu từ thứ tư Lễ Tro và kéo dài trong 40 ngày. 40 ngày này nhằm chuẩn bị cho chúng ta sống mầu nhiệm cuộc Thương khó của Chúa Giêsu, đón nhận cái chết và mừng ngày Phục sinh của Người. Ngòai ra, Mủa Chay còn nhắc cho chúng ta thời gian 40 đêm ngày Chúa ăn chay cầu nguyện, trước khi công khai ra truyền đạo, để mặc khải cho nhân lọai sứ mệnh cứu nhân độ thế của Người. Trong Mùa Chay, Hội thánh muốn đón nhận sứ điệp cứu độ với một tấm lòng quảng đại đặc biệt. Vì thế, Hội thánh rất chú ý lắng nghe những lời của Chúa Kitô loan báo Nước Thiên Chúa. Lời nói cuối cùng của Người chính là cái chết trên cây thập tự để làm lễ giao hòa chúng ta với Thiên Chúa.

Vậy có ba ý tưởng chính cho chúng ta suy nghĩ và đem ra thực hành trong Mùa Chay.

Thánh giá

Trong Mùa Chay, mọi người chúng ta phải chú ý đặc biệt nhìn lên thánh giá để tìm hiểu thêm ý nghĩa hùng hồn mà thánh giá muốn nói với chúng ta. Khi nhìn lên thánh giá, chúng ta không chỉ nhớ lại những biến cố đã xẩy ra cách đây hơn hai ngàn năm mà còn đón nhận một bài học gửi cho thời đại chúng ta, cho người ngày nay vì “Đức Kitô hôm qua cũng như hôm nay và muôn đời vẫn là một” (Dt 13,8). Thánh giá của Người là một lời kêu mời mạnh mẽ thúc giục chúng ta ăn năn hối cải và thay đổi đời sống, vì chính Ngừoi đã bằng lòng chịu chết treo trên cây thập tự để cứu chuộc chúng ta, để biến đổi chúng ta từ tình trạng là những kẻ thù nghịch với Thiên Chúa trở nên con cái và thừa hưởng gia nghiệp muôn đời. Cho nên, chúng ta phải coi lời kêu gọi này là gửi đến cho mỗi người và mọi người nhân dịp Mùa Chay. Nói khác đi, sống Mùa Chay có nghĩa là nhờ Chúa Giêsu mà thay đổi đời sống và qui hướng về Thiên Chúa.

Cầu nguyện

Ý tưởng thứ hai là cầu nguyện. Trong Tin Mừng, rất nhiều lần Đức Giêsu nói đến cầu nguyện và gắn liền cầu nguyện với thay đổi đời sống. Phải cầu nguyện, tiếp xúc với Thiên Chúa mới mong thay đổi được đời sống, vì nhờ cầu nguyện, con người chúng ta được lay động thức tỉnh, do đấy nhìn ra những điều cần phải thay đổi trong đời sống của mình mà ăn năn hối cải. Trong Mùa Chay, chúng ta phải cầu nguyện, cố gắng cầu nguyện, tìm ra thời giờ và những nơi để cầu nguyện. Cầu nguyện đưa chúng ta ra khỏi thái độ dửng dưng và làm cho chúng ta nhậy cảm với những điều có liên quan đến Chúa và các linh hồn. Cầu nguyện cũng giáo dục lương tâm chúng ta và Mùa Chay rất thích hợp cho công việc này. Trong Mùa Chay, Hội thánh nhắc bảo chúng ta phải xưng tội để lương tâm được trong sạch mà sống mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô, không phải trong phụng vụ mà thôi nhưng trong cả tâm hồn nữa.

Ăn chay, chia sẻ

Làm phúc, bố thí và ăn chay là những phương thế liên hệ mật thiết với nhau để giúp chúng ta ăn năn hối cải. An chay không chỉ có nghĩa là bớt ăn hay không ăn mà còn có nghĩa là thắng mình, là đòi hỏi với chính mình, sẵn sàng từ chối ăn uống và chấp nhận hy sinh những vui thích.Và làm phúc có nghĩa là chia vui sẻ buồn với người khác, giúp đỡ người ta, nhất là những ai lâm cảnh thiếu thốn, phân phát cho người ta không nguyên của cải vật chất mà cả tinh thần nữa. Chính vì thế, chúng ta phải tỏ ra cởi mở đối với người khác, biết nhận ra những nhu cầu của họ và cảm thông những nỗi đau buồn của họ, đồng thời tìm cách đáp ứng những nhu cầu đó và làm cho những nỗi đau thương của họ vơi nhẹ đi.

Như vậy, cầu nguyện để kết hợp với Thiên Chúa đồng thời cũng hướng chúng ta tới tha nhân. Khi chúng ta đòi hỏi đối với bản thân và quảng đại đối với tha nhân, nhất là đối với những ai đau khỗ và thiếu thốn là chúng ta sống kết hợp với Chúa Kitô chịu đau khổ và bị đóng đinh vì Người tự đồng hóa với họ như Người nói: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đã hỏi han.” (Mt 25, 35-36)

Trong Mùa Chay, chúng ta thường nghe đọc: “Đây là lúc Chúa thi ân, đây là ngày Chúa cứu độ.” Vậy chúng ta hãy tận dụng thời gian này vì là thời thuận tiện và là thời Chúa ban ơn để chúng ta sám hối và tin vào tin Mừng như Chúa dạy: “Thời kỳ đã mãn và triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào tin Mừng.” (Mc 1, 15)

--------------------------------

 

Lễ_tro-135: MÙA CHAY TRỞ VỀ


– Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC

THỨ TƯ LỄ TRO- NĂM C

Thưa anh chị em,

 

Mùa Chay, Giáo hội mời gọi chúng ta bước vào hành trình “chiến đấu thiêng liêng”, bằng việc Lễ_tro-135


Mùa Chay, Giáo hội mời gọi chúng ta bước vào hành trình “chiến đấu thiêng liêng”, bằng việc canh tân cải thiện đời sống, để chúng ta cảm nghiệm sâu hơn tình Chúa yêu thương. Đây là thời gian hết sức đặc biệt, Thiên Chúa dang rộng đôi tay chờ đón chúng ta trở về, trở về để được Chúa yêu thương, trở về để được Ngài tha thứ.

Cuộc hành trình nào ra đi cũng có ngày trở về: Người Do thái, sau bao nhiêu năm đi lưu đầy nơi đất khách quê người bên Aicập, rồi Chúa cũng dẫn đưa họ trở về miền đất Hứa.

Chúa Giêsu từ trời cao xuống đất thấp để cứu độ nhân loại, rồi sau khi hoàn tất chương trình cứu độ Ngài cũng trở về cùng Thiên Chúa Cha.

Người con hoang đàng sau khi bỏ nhà ra đi ăn chơi phung phí hết tiền của rồi cũng trở về nhà cha mình.

Tương tự như thế, đời sống đạo của chúng ta là một cuộc hành trình đức tin đang tiến về quê trời. Trong cuộc hành trình dài này, hằng năm Giáo Hội thiết lập Mùa Chay 40 với ngày, mục đích giúp các tín hữu sống tâm tình:

1/ Trở về với Chúa, bằng việc sám hối và cầu nguyện
2/ Trở về với chính mình, bằng việc ăn chay và xưng thú tội lỗi
3/ Trở về với tha nhân, bằng việc tha thứ và bố thí

Bước vào đầu Mùa Chay, Giáo hội cử hành việc xức tro và ăn chay kiêng thịt. Ở trong Thánh Kinh:

Tro diễn tả thân phận mong manh mau qua của con người: ” Hỡi người! Hãy nhớ mình là bụi tro, rồi mai ngày sẽ trở về đất bụi”.  Có nhiều người thắc mắc ngày xưa người Do thái ăn chay rắc đầy tro trên đầu, ngồi cả trên đống tro, mà ngày nay chỉ xức có một chút ít tro thôi sao?

Việc xức tro là để tỏ lòng  sám hối. Xức nhiều tro mà trong lòng không thật tình sám hối thì có ích gì? Vì thế, ngày nay Giáo Hội chỉ dùng một chút tro tượng trưng nhưng nhắc nhớ ta. Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn.

Hãy xức tro vào tâm hồn, để thấy tâm hồn ta hoen ố vì tội lỗi. Hãy xức tro vào tâm hồn, để thấy rõ ta đã bôi tro trát trấu vào khuôn mặt Thiên Chúa, làm lem luốc khuôn mặt Giáo hội, làm ô danh cho đạo Thánh Chúa, mỗi khi ta cố tình phạm tội trọng, làm gương mù gương xấu cho người khác.

Hãy xức tro vào tâm hồn, để thấy rõ ta đã làm cho mối quan hệ với tha nhân bị tổn thương, vì những tham vọng, ích kỷ, nhỏ nhen của ta.

Hãy xức tro vào tâm hồn, để khi làm bất cứ việc gì, hãy nhớ đến ngày tận cùng của đời ta.

Cũng có người khác lại thắc mắc, tại sao ngày xưa Giáo hội ăn chay trong 40 ngày, mà ngày nay chỉ còn có hai ngày là Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh?.

Giáo hội giản lượt việc ăn chay vào hai ngày trong một năm, không có ý coi nhẹ, nhưng Giáo hội muốn tránh thái độ ăn chay theo hình thức, để tập trung vào việc ăn chay trong tâm hồn.

Mục đích ăn chay nhắc nhớ ta:

Hãm dẹp những gì làm mất lòng Chúa và làm phiền lòng anh em.

Nhịn đói một bữa cơm không bằng nhịn nói một lời có thể làm buồn lòng người khác.

Nhịn ăn một miếng thịt không bằng nhịn đi một thói xấu của người bên cạnh.

Nhịn một bữa cơm ngon không bằng nhường nhịn, tha thứ, và làm hoà với nhau.

Kìm chế cơn đói không bằng kềm chế miệng lưỡi,  nói hành, nói xấu người khác.

Kìm chế cơn khát không bằng kiềm chế tính nóng nảy của mình.

Chính vì thế mà tiên tri Dô-el đã kêu gọi dân chúng thời Cựu Ước: “Hãy xé lòng chứ đừng xé áo”. Người Do thái có tục lệ khi ăn chay thì xé áo ra, đó là một hình thức sám hối. Nhưng điều quan trọng hơn là tâm hồn phải thực sự sám hối.

Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những tham lam, ích kỷ, chỉ  biết lo vun đắp cho mình mà không biết chia cơm xẻ áo cho người khác.

Xé áo không bằng xé lòng ta khỏi tính lười biếng, khô khan, nguội lạnh, sống vô trách nhiệm.

Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những giận hờn chia rẻ.

Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, chúng ta mới đến gần Chúa hơn, sống tình thân mật với Chúa. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, chúng ta mới sống bác ái với tha nhân.

Người Do Thái thời Cựu Ước ăn chay rất nhiều, thế nhưng các ngôn sứ đã lên tiếng tố giác: một thứ ăn chay nặng hình thức, và ngay cả Chúa Giêsu cũng lên tiếng tố giác về một thứ ăn chay như thế. Cho nên, Chúa bảo chúng ta khi ăn chay, thì xức nước hoa lên đầu cho thơm, mặt mày thì tươi tắn lên, để người ta không biết mình ăn chay, nhưng có Chúa biết là đủ rồi.

Đó là một vài gợi ý của việc xức tro và chay tịnh. Giờ đây, chúng ta cùng nhau bước sang phần cử hành việc xức tro.      

--------------------------------

 

Lễ_tro-136: THẬT LÒNG TRỞ VỀ VỚI CHÚA


Suy niệm thứ Tư lễ Tro

Lm. Mt.

 

Chuyện ngụ ngôn về miếng đất sét kể: Có người tình cờ nhặt được miếng đất sét có màu sắc và Lễ_tro-136


Chuyện ngụ ngôn về miếng đất sét kể: Có người tình cờ nhặt được miếng đất sét có màu sắc và hương thơm của hoa hồng. Vô cùng kinh ngạc, ông ta hỏi:

–         Đất sét ơi, hãy nói cho ta biết mi là gì, một viên ngọc đáng giá, là viên kim cương quý hiếm hay viên đá kỳ diệu nhất trên đời?

Đất sét trả lời:

–         Tôi chỉ là miếng đất sét tầm thường như bạn bè của tôi.
–         Thế sao mi có hương thơm và vẻ đẹp kỳ diệu như vậy?
–         Tôi sẽ nói cho ông biết điều bí mật đó: Vì tôi sống gần một bông hồng.

Con người cũng là nắm đất sét được Thiên Chúa chạm đến, nên trở nên cao quí nhờ thấm đẫm tình thương và ân huệ của Người. Sách Sáng Thế viết: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.” (St 2, 7) Con người chỉ là bùn đất, nhưng vì được Thiên Chúa chuyển thông sinh khí, nên có sự sống và vượt trổi hơn muôn vật muôn loài. Chẳng những thế, Đấng Tạo Thành còn cho hưởng sự sống vĩnh cửu, ơn khôn ngoan, tự do và thay quyền của Người để coi sóc muôn loài. Nhưng khi bất trung với Thiên Chúa, con người như diều đứt dây, mất tất cả và trở về với tro bụi. Trong nghi thức xức tro hôm nay, Giáo Hội nhắc nhở: “Ta là thân cát bụi, sẽ trở về cát bụi.”
Con người chối từ Đấng Tạo Thành, nhưng Người không bỏ rơi họ. Thật vậy, ngay khi nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa đã hé mở chương trình cứu độ loài người qua lời kết án con rắn: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó.” (St 3, 15)

Chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa thể hiện rõ nét qua việc Người kiên trì dạy dỗ trong yêu thương, tìm kiếm để tha thứ và ban ơn. Ngay trong thời Cựu Ước, qua các tổ phụ, các ngôn sứ, Thiên Chúa dạy dỗ loài người qua dân ưu tuyển là Israen. Mỗi lần dân này lầm đường lạc lối, Người tha thiết kêu gọi họ trở về: “Các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Ðừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Ðức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương.” (Ge 2, 12-13)

Khi thời gian viên mãn, Con Thiên Chúa đến trần gian không ngoài mục đích tìm kiếm những người đang chìm đắm trong tối tăm của sự chết, đưa họ về nguồn ánh sáng và sự sống. Chính Đức Giêsu đã nói: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” (Mt 9, 13) Vì thế, ngay khi khởi đầu sứ vụ cứu thế, Người đã kêu gọi: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” (Mc 1, 15)

Về phía con người, ngay từ thời nguyên tổ, vì không đủ tin vào tình thương của Chúa, nên tìm hướng đi riêng nhằm thỏa mãn những đam mê và tận hưởng khoái lạc như  ý họ muốn. Tiếc rằng,  khi quay lưng lại với Đấng là sự sống và hạnh phúc đích thật, con người đánh mất tất cả, tâm hồn trống rỗng và khắc khoải khôn nguôi.

Chỉ khi trở về và tìm gặp Chúa, tâm hồn chúng ta mới được bình an, cuộc sống có ý nghĩa vì đạt tới hạnh phúc thật. Bởi lẽ, Chúa là cùng đích, là sự sống và hạnh phúc viên mãn của toàn thể nhân loại.

Nhưng nhiều lần chúng ta chỉ sám hối theo thói quen với công thức có sẵn như đấm ngực khi đọc “kinh thú nhận”. Có người giả vờ hối hận để hài lòng một ai đó, họ như đứa trẻ sợ cha mẹ trách mắng nên đến với bí tích hòa giải mà chẳng thật lòng sám hối và khao khát ơn tha thứ. Cũng có người quyết thay đổi khi bị đau ốm hay gặp rủi ro, đến lúc mọi sự an toàn hơn, lại không muốn duy trì quyết tâm ấy nữa. Giuđa, sau khi phản bội Thầy cũng đã cảm thấy xót xa, ray rứt và hối hận, nhưng vì không tin vào tình thương tha thứ của Chúa nên tự đi tìm cái chết.

Trở về với Chúa cách chân thành phải xuất phát từ tấm lòng muốn hoán cải, khao khát đổi mới, ước ao nên hoàn thiện và đặt niềm tin vào tình thương của Người như Phêrô, Augustinô và biết bao những người thành tâm thiện chí được lịch sử Giáo Hội ghi lại.

Đứa bé tập đi, nó vấp té và khóc, rồi đứng dậy, cố bước tới với chút kinh nghiệm vừa có, chẳng bao lâu sau, nó bước đi vững vàng và chạy nhảy thuần thục. Tương tự như vậy, bản tính con người vốn yếu đuối và giới hạn nên dù có quyết tâm chúng ta cũng dễ sai phạm nhiều lần cùng một nết xấu, nhưng nhờ ơn Chúa, với quyết tâm, sự kiên trì, nhẫn nại và lòng khiêm tốn, chắc chắn chúng ta sẽ tiến bộ trên đường nên thánh.

Có nhiều cách giúp chúng ta trở về với Chúa, nhưng cầu nguyện, thực thi bác ái và chay tịnh vẫn là ba phương thế căn bản và truyền thống.

Cầu nguyện: nhờ những giây phút đặt mình trước mặt Chúa, chúng ta nghe được tiếng Chúa, nhận biết thánh ý Người; đồng thời nhận ra tội lỗi, sự bất trung và những khuyết điểm cần thanh tẩy nơi tâm hồn. Nhờ cầu nguyện, chúng ta còn đón nhận ơn Chúa để hoàn thành những ước nguyện và quyết tâm lành thánh của mình.

Thực thi bác ái: những lỗi lầm của chúng ta thường liên quan đến tha nhân. Nhiều khi chúng ta để lòng thù ghét, giận dữ, vu khống, lừa dối… và thờ ơ trước nỗi khổ của những người thân cận. Thực thi bác ái, không chỉ là giúp đỡ về vật chất mà còn là tha thứ, sống công bằng, quan tâm và yêu thương mọi người.

Chay tịnh: những đam mê trần tục làm chúng ta xa rời Thiên Chúa, chối bỏ ân huệ của Người, và tự đánh mất sự sống cùng với hạnh phúc vĩnh cửu. Như chiếc dây cương điều khiển chú ngựa đi đúng đường, nhờ chay tịnh, chúng ta tập kìm chế ngũ quan, thắng vượt các đam mê, loại bỏ tính tham lam, sự giận hờn, nhờ thế chúng ta có thể sống theo ý Chúa và trở nên môn đệ của Người.

Sám hối và canh tân theo tinh thần Tin Mừng là việc chúng ta phải thực hiện suốt đời,  và mùa chay là dịp thuận tiện, là mùa tập luyện thiêng liêng, để nhờ chuyên chăm cầu nguyện, thực thi bác ái và chay tịnh, chúng ta có thêm sức mạnh cùng với sự kiên trì để luôn biết trở về với Chúa thật lòng.

Xin Chúa chúc phúc và nâng đỡ tất cả chúng ta, nhất là trong mùa chay thánh này, để nhờ biết thật lòng trở về với Người, tâm hồn nên trong sạch và được hưởng dồi dào niềm vui ơn cứu độ.

--------------------------------

 

Lễ_tro-137: SUNG SƯỚNG ĐƯỢC SỐNG DƯỚI CÁI NHÌN


CỦA NGƯỜI CHA
Suy niệm thứ Tư lễ Tro
Chú giải của Fiches Dominicales

I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

 

Đức Giêsu vùa nêu lên sự công chính mới đối lại với “Lẽ công chính của các kí lục và biệt phái” Lễ_tro-137


Đức Giêsu vùa nêu lên sự công chính mới đối lại với “Lẽ công chính của các kí lục và biệt phái” trong năm phản đề liên tiếp. Trong đoạn Tin Mừng dành cho lễ tro, Đức Giêsu đề cập đến ba cột trì cấu thành nền đạo đức do thủ giáo mà ta cũng gặp thấy trong mọi tôn giáo khác: bố thí ngày nay ta gọi là chia sẻ (1-4)  cầu nguyện (5-6); và chay tịnh ( 16,18).

Thay vì hạ giá chúng, ở đâu, trước khi nói riêng từng điều một Ngài chỉ cho ta biết phải thực thi chúng với tinh thần: “Nếu các ngươi muốn nên công chính, hãy tránh làm những việc này trước mặt người đời để phô trương công chính đích thực hệ tại việc khuôn mình” theo thánh ý Thiên Chúa là Đấng duy nhất biết rõ tận đáy lòng người

1.Chia sẻ dưới ánh mắt Chúa Cha.

Claude Tassin giải thích: Là một trong những yếu tố nền tảng của Do thái giáo, bố thí giữ vai trò của những cơ quan tương trợ trong xã hội văn minh ngày nay, và diễn tả tình huynh đệ mà Giao ước đòi buộc giúp đỡ người nghèo sẽ xoá tội (Tob. 12, 9) và có giá trị như một lễ hi sinh (Sir.4, 6,7,10)”. (Tin Mừng theo thánh Matthêu, Centunon, 1991, tr. 72 ) Đức Giêsu không hề chối bỏ giá trị thiêng liêng này, nhưng ngài tố giác lối thực hành phô trương của nó. Bố thí phải được thực thi “không phải để được người ta ngợi khen không phải để quảng cáo chính mình (đúng nghĩa của giả hình là như vậy) nhưng “trong âm thầm”, phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa, Đấng đuy nhất có thể đánh giá cử chỉ: “Cha ngươi nhìn thấy điều ngươi làm âm thầm, và Ngài sẽ thưởng công cho ngươi”.

Đức cha Daloz nhìn nhận: “Nguy cơ mà Đức Giêsu đòi ta cảnh giác …nặng về bề ngoài cho người ta thấy…không phải là mối nguy hiểm hão huyền, ngay cả trong thời đại của chúng ta, dưới những hình thức tân thời… sự vô vị lợi, sự kín đáo, âm thầm trong những cộng đoàn Giáo Hội cũng chẳng dễ hơn trong các hiệp hội trần thế. các thành viên, các người hữu trách hay những nhà tôn chức, chúng ta chẳng thường bị cám dỗ giữ riêng cho mình những việc phục vụ hay những công trình mà ta đã đổ vào đó lòng quảng đại, để làm nổi bật trước mặt mọi người quyền hành và công đức của chúng ta đó sao… ” Đức Giêsu phán: “Thật, Ta bảo thật các ngươi, họ đã được thưởng công rồi”!.

Những gì ta không tìm cách giữ lại cho mình, Thiên Chúa có thể thu nhận, lòng quảng đại không mắc nợ…cử chỉ chia sẻ chỉ có ý nghĩa trọn vẹn trong tình yêu nhưng không, chỉ nình Thiên Chúa mới có thể tính được tình yêu và thước đo tình yêu là vô biên!”

2. Cầu nguyện dưới ánh mắt của Chúa Cha.

Cầu nguyện càng không thể được thực thi “cho người ta ngắm” “để khoe khoang trước mặt người đời” nhưng để nói với “Cha trong nơi kín ẩn”: “Cha ngươi thấu suốt việc ngươi làm trong nơi kín ẩn và Người sẻ thưởng công cho ngươi”.

Đức cha Daloz viết tiếp: “Đức Gíêsu không ngừng mời mọi ta có sự chính thực của tấm lòng, có sự sống nội tâm đích thực. Phải tích cực sử dụng những phương tiện để khi gặp gỡ riêng tư, cá nhân với Chúa Cha, ta không buồn chán… khi có một cuộc gặp gỡ quan trọng với Thiên Chúa, Đức Giêsu bảo ta lánh vào nơi kín đáo để tránh nguy cơ tìm kiếm ánh mắt con người thay vì ánh mắt Thiên Chúa. Cầu nguyện để được “người ta nhìn ngắm” thay vì cầu nguyện với Cha “Đấng thấu suốt tận đáy lòng”, là phá hỏng, là làm sai lạc mục đích của kinh nguyện; đó là một hình thức sùng bái ngẫu tượng, chuyển hướng lời kinh lên Đấng chí tôn thành sự thủ lợi cho riêng mình ” (Sách đã dẫn, tr.66). 

3. Chay tịnh dưới ánh mắt Chúa Cha.

Cl.Tassin chú giải tiếp: “Chay tịnh, tự cơ bản là dấu chỉ sự tang chế, chẳng hạn, hằng năm, người ta kỉ niệm việc đền thờ bị phá hủy bằng một ngày ăn chay nhưng người Do thái đạo đức nhận biết còn có một lý do chay tịnh khác, nghiêm trọng hơn những tai họa của quốc gia, đó là tội lỗi, cái chết thực sự của mối tương giao sống động với Thiên Chúa. Những nhórn hội tôn giáo giữ nhiều ngày chay tịnh thống hối, như người biệt phái giữ chay hai lần một tuần; người ta thêm vào đó những dấu hiệu tang tóc đặc biệt: không tắm rửa, không xức dầu thơm. ” .(Sách đã dẫn, tr. 77)

Đức Giêsu không hề chối bỏ giá trị của chay tịnh. Nhưng Ngài cảnh giác các tông đồ chống lại việc giữ chay để khoe khoang. Phải giữ chay, không phải để thu hút những cái nhìn thán phục của người khác, và để tỏ ra mình là người tốt” , nhưng người ta phải phó thác hoàn toàn dưới cái nhìn của Chúa Cha: “Cha ngươi biết điều ngươi làm trong nơi kín đáo: Ngài sẽ thưởng công cho ngươi”.  Hơn một lần, khi tường thuật lại những lời của Đức Giêsu, thánh Mátthêu muốn thuyết phục các tín hữu, còn trung tín với tập tục này rằng người không chấp nhận việc tìm cách xây dựng danh tiếng cho mình thay vì phó thác theo thánh ý Chúa Cha.

Đức cha Daloz còn xác quyết: “Nguy cơ giả hình, nhưng thực chất, không hề đe dọa chúng ta, cần có một nhận thức khác để giữ cho việc chay tịnh Kitô giáo ý nghĩa đích thực của nó. Trong một thế giới lẫn lộn giữa tôn giáo và trần tục, thái độ của niềm tin đích thực đòi ta hiểu rõ ý nghĩa ấy của chay tịnh. Chỉ cần trở về với giáo huấn của Đức Giêsu là đủ. Chay tịnh mà Ngài nói ở đây trước tiên không phải là một sự thanh tẩy hay giải phóng cá nhân, một nỗ lực, một sự khổ hạnh để dược tự chủ hơn, nó cũng không chỉ là sự giải phóng của tinh thần nhờ sự thiếu thốn của thân xác, để ta có thể chiêm ngắm tốt hơn những thực trại thiêng liêng.

Đức Giêsu cũng không hề coi nó là một phương cách để liên đới với những người đói hay là một sự thiếu thốn để dễ bề chia sẻ. Tất cả những điều đó điều tốt và hữu ích và Hội Thánh, phụng vụ, và các tác giả tu đức . . .căn dặn chúng ta như vậy. Chay tịnh đích thực giúp ta hết tự quí, giúp ta lột trần mình trước mặt Thiên Chúa. Đây không phải một thành tích thiêng liêng…. Đây là phương thế giúp ta nên hèn mọn trước măt Chúa một của lễ là chính con người của ta khi cố gắng sống khổ hạnh, nhưng theo ơn thiêng mà chính Thiên-Chúa ban cho kẻ, trong đêm tăm tối và trần trụi, tin yêu và tâm tưởng,  phô mình dưới ánh mắt Ngài, không kiếm tìm kết quả nào… như kinh nguyện, như bố thí, sự chay tịnh đích thực mà Đức Giêsu mời gọi các môn đệ của mình diễn ra trong cảnh kín đáo của mối tương giao với Chúa Cha, trong cảnh kín đáo của niềm tin” (Sách đã dẫn, tr.82)

II. BÀI ĐỌC THÊM:

“Dưới ánh mắt Chúa Cha“: J’guillet, “Đức Giêsu trong niềm tin của các môn đệ tiên khởi” (Desclĩe de Brouwer,1995,p. 119-120. )

Nếu các môn đệ đã học được cách gọi Thiên-Chúa là Cha một cách đơn sơ, thì chính là do Đức Giêsu đã biết cách giúp họ chia sẻ kinh nghiệm phụ tử của nình. Và bài giảng trên núi còn vọng lại trong ta sự chia sẻ này. Với sự xác quyết độc nhất vô nhị của Đức Giêsu khi nói về Cha anh em như một thực tại mà họ đã từng biết, theo kiểu gặp gỡ song phương giữa Thiên-Chúa và con cái người, thân thiết như một người Cha chú tâm đến con người với tất cả những nhu cầu của họ. Mối thân thiết song phương này bừng lên trong điệp khúc được lập đi lập lại ba lần trong bài giảng: Cha ngươi nhìn thấy ngươi, đây là ba loại việc lành, không được ghi trong Lề luật, lưng là cách mà những người Do thái đạo đức nhất tìm được dịp chứng tỏ lòng quảng đại của nình, và “vượt lên trên” sự công chính theo lề luật: cầu nguyện, bố thí và chay tịnh Đức Giêsu không hề kết án lòng quảng đại mà Ngài sẽ đề nghị các môn đệ mình làm thêm ấy. Nhưng Ngài cảnh giác họ chống lại sự khoe khoang của những kẻ “giả hình” chỉ tìm cách thu hút sự thán phục của quần chúng. Và cả ba lần, Ngài đối chọi cái nhìn hời hợt của con người với cái nhìn xác đáng của Đấng mà Ngài gọi bằng một tên mới: Cha của anh.

Còn ánh, khi bố thí đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo: Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh.

Còn anh khi cầu nguyện hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo sẽ trả công cho anh. Còn anh, khi ăn chay, nên rửa măt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo và Cha của anh Đấng thấu suốt những gì kín đáo sẽ trả công cho anh. (Mt 6,4.6.18).

Điều mà Cha có thể trả công cho con cái mình, không phải là một sự tương xứng mà ta có thế cân đong đo đếm, một phần thưởng trả cho những nỗ lực của chúng mà có thể nói, đây là lời đáp trả cho những cử chỉ của chúng: chúng dâng cho Thiên Chúa món quà bé nhỏ của chúng, để đổi lấy nụ cười của người như những trẻ thơ vẫn làm, và Cha đáp trả chúng bằng nụ cười mênh mang như tình yêu của một vị Thiên-Chúa”.

--------------------------------

 

Lễ_tro-138: HÃY TỰ BIẾT MÌNH


(Ge 2, 12-18; 2 Cr 5, 20. 6, 2; Mt 6, 1- 6. 16 - 18)
 

Mahatma Gandhi, vị lãnh tụ tinh thần của người Ấn Độ đã tự thuật một câu chuyện liên quan đến Lễ_tro-138


Mahatma Gandhi, vị lãnh tụ tinh thần của người Ấn Độ đã tự thuật một câu chuyện liên quan đến cuộc đời của ngài lúc còn nhỏ như sau:

“Hồi ấy, mới 15 tuổi, tôi đã lấy trộm một chiếc vòng vàng của cha tôi và đem bán để lấy tiền trả nợ. Lấy được vàng, có tiền trả nợ, lòng tôi lúc bấy giờ nhẹ nhõm và sung sướng vì đã giải quyết được một việc quan trọng! Tuy nhiên, niềm vui chỉ đến trong chốc lát, vì ngay sau đó, nó đã  nhường lại cho sự áy náy, mất bình an ngự trị.

Sau đó, tôi quyết định làm một cuộc cách mạng, đó là viết tội lên một tờ giấy và trình lên cha tôi. Kết quả, sau khi đọc những lời thú tội của tôi, trong thinh lặng, ông đã xé tờ giấy đó thành nhiều mảnh nhỏ và nói với tôi: ‘Biết mình là điều rất tốt’”.

1.       Hãy tự biết mình

Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta bước vào Mùa Chay Thánh bằng việc cử hành nghi thức xức tro trên đầu. Nơi nghi thức này, Giáo Hội mời gọi mỗi người: “Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng”; hoặc: “Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi”.

Qua lời mời gọi ấy, Giáo Hội hướng chúng ta về một thực tại, đó là: ý thức thân phận mỏng manh của đời người với những yếu đuối, tội lỗi của kiếp nhân sinh. Vì vậy, cần phải trở về với Chúa.

Trở về với Chúa để được đón nhận ơn tha thứ. Trở về với Chúa để làm lại cuộc đời.

Tuy nhiên, để trở về với Chúa cách thực sự và ý nghĩa, điều quan trọng, đó là hãy “tự biết mình”.

Bao lâu ta không biết mình, bấy lâu lòng ta tự mãn, tự kiêu, và sẽ không cần phải sám hối.

Thật vậy, dù trong trần gian này, chúng ta có là tổng thống, chủ tịch nước, vua chúa, quan quyền hay thường dân; giàu có hay nghèo hèn; khỏe mạnh hay đau yếu; đẹp trai, xinh gái hay xấu xí, già hay trẻ; được trọng vọng tôn vinh hay bị coi thường, khinh bỉ; hoặc đang nổi danh như cồn hay âm thầm chốn lao tù…Tất cả phải thuộc nằm lòng bài học quan trọng này, đó là: thân xác ta từ bụi tro mà ra, thì một mai sẽ trở về cát bụi. Cuộc sống của ta như hoa kia sớm nở tối tàn, vắn vỏi tựa bóng câu. Vì thế, cái chết nó có thể đến với hết mọi người và bất thình lình như một tên trộm hay như ông chủ đi ăn cưới về lúc đêm khuya.

Chính vì vậy, mỗi khi lãnh nhận tro xức trên đầu, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy biết mình và nghiêm túc để nghĩ đến thân phận, giới hạn của con người, đồng thời cần phải biết sám hối, ăn năn trở về với Chúa để xin Người xót thương.

Tuy nhiên, sám hối không thôi thì chưa đủ, Lời Chúa còn mời gọi chúng ta hãy ra khỏi sự kiêu ngạo, ích kỷ, an thân để đi đến hành động cụ thể, đó là: cầu nguyện, ăn chay và thi hành bác ái.

2.       Hãy xé lòng chứ đừng xé áo

Lời ngôn sứ Giôen nhắc cho chúng ta về cách thức sám hối, ngài kêu gọi: “Hãy xé lòng, đừng xé áo" (Ge 2,13  ),

Khi kêu gọi như thế, tiên tri Giôen muốn dân chúng hãy có tinh thần sám hối thực sự, tinh thần ấy phải phát xuất tự đáy lòng của mình chứ không chỉ hình thức bên ngoài như ủ rũ héo hon, sầu lo, đau đớn…, mà là thay đổi từ ánh mắt, cách nhìn, tư tưởng trong niềm tin và hân hoan.

Sự sám hối ấy phải luôn luôn diễn tiến ngang qua chính bản thân của mỗi người. Tuy nhiên, vì chúng ta là dân Thiên Chúa, là một cộng đoàn, nên mọi thành phần đều có sự liên kết mật thiết với nhau và đều có can hệ với nhau trong các việc tốt cũng như xấu, phúc cũng như tội. Vì vậy, ngoài việc chúng ta làm một cuộc hoán cải nội tâm cá nhân với Chúa, mỗi người còn phải thể hiện sự quyết tâm thay đổi đời sống ấy bằng những hành vi cụ thể như cầu nguyện, ăn chay, hy sinh, hãm mình, từ bỏ và thi hành việc bác ái với tha nhân.

Trước tiên là cầu nguyện âm thầm và kín đáo:

Khi nói đến cầu nguyện âm thầm và kín đáo: Đức Giêsu muốn nói đến sự khiêm nhường thẳm sâu phải có lúc cầu nguyện. Khi con người đến với Thiên Chúa, nếu không khiêm nhường, ắt sẽ không thể đi vào mối tương quan với Người được. Hình ảnh và thái độ của người Pharisêu và người Thu Thuế lên đền thờ cầu nguyện cho ta thấy hệ quả sự kiêu ngạo và khiêm nhường khi hai người trở về!

Mặt khác, âm thầm và kín đáo còn có ý nói đến một tâm hồn với đời sống nội tâm sâu xa. Khi có một chiều sâu tâm linh, người ta không cần phải lải nhải lắm lời mới hy vọng Thiên Chúa nhận lời, mà ngược lại, điều quan trọng, đó là chiêm ngắm, lắng nghe và nhạy bén với Thánh Ý Thiên Chúa để mau mắn thi hành.

Thứ đến là ăn chay: ngay sau khi dạy cho các môn đệ về thái độ cầu nguyện, tiếp theo, Đức Giêsu đã chỉ ra cho các ông việc cần làm, đó là ăn chay. Ở đây, Đức Giêsu không hướng dẫn xem ăn chay như thế nào cho đúng theo nghĩa đen, mà Ngài nhấn mạnh đến tinh thần của sự việc:

"Khi các ngươi ăn chay thì chớ sầm mặt lại như bọn giả hình (....) Còn ngươi ăn chay thì đầu hãy xức dầu, và mặt mày hãy lau rửa..." (x. Mt 6, 16-18).
Đức Giêsu không thể chấp nhận việc ăn chay của người môn đệ giống như những người Pharisêu và những người Dothái đương thời, đó là mỗi khi họ ăn chay, họ tỏ ra rầu rĩ, thiểu não, tang thương.

Ngược lại, Ngài muốn người môn đệ phải hân hoan khi ăn chay, vì ăn chay là để đón chờ chàng rể đến. Thế nên tránh những thứ chè chén say sưa hay khuôn mặt rầu rĩ…

Cuối cùng, đó là thi hành bác ái: nếu cầu nguyện là để gặp gỡ Thiên Chúa; ăn chay là để hy sinh hãm mình đền tội, thì việc chia sẻ bác ái chính là điều kiện để hoàn thiện hai điều trên, vì: mến Chúa mà không yêu người là nói dối; yêu người trên đầu môi chóp lưỡi thì thật là đáng khinh bỉ. Nhưng mến Chúa thì luôn gắn liền với yêu người.

Khi Đức Giêsu kêu gọi chia sẻ cho người nghèo, Ngài muốn chúng ta hãy mở rộng tấm lòng của mình cách đặc biệt, cụ thể, để Chúa đến với cõi lòng chúng ta ngang qua những hành vi chia sẻ cho người nghèo.

Tuy nhiên, ngay cả việc bác ái, Đức Giêsu dạy chúng ta phải ý tứ khi chia sẻ, Ngài nói: đừng gõ trống khua chiêng, đừng để tay trái biết việc tay phải làm. Nếu không thi hành trong lòng mến và vô vị lợi như thế, thì việc bác ái của chúng ta sẽ chỉ là công dã tràng mà thôi.

Mong sao, khi Mùa Chay đến, mỗi người chúng ta hãy làm mới lại mối tương quan với Đấng thấu suốt sự kín nhiệm qua việc năng kết hiệp mật thiết và sâu lắng trong đời sống cầu nguyện để được Người nhận lời. Đồng thời, hãy “tự biết mình” là con người mỏng dòn, yếu đuối và đầy rẫy tội lỗi, nên rất cần một hành động sám hối để xin ơn tha thứ và quyết tâm quay trở về với Thiên Chúa. Cuối cùng, đó là thi hành việc bác ái qua hành vi tha thứ cho người xúc phạm đến mình; hay một nghĩa cử bao dung, liên đới với những người mà họ không ưa mình, đồng thời, hãy rộng tay giúp đỡ vật chất cho những anh chị em túng nghèo chung quanh chúng ta.
Được như thế, chúng ta bước vào Mùa Chay Thánh đúng với tâm tình mà Chúa và Giáo Hội mong muốn. Ngược lại, nếu chỉ giữ đạo cách hình thức, hời hợt, lễ nghi bề ngoài, mà tâm hồn không một chút rung động, tâm trí không một chút suy tư và liên đới, thì hết Mùa Chay này đến Mùa Chay khác đến rồi lại đi, nhưng tâm hồn và đời sống của chúng ta vẫn chỉ trơ trơ như gỗ đá, hay như một cỗ máy biết nói.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn trợ lực, để trong suốt Mùa Chay này, chúng con biết sống theo tinh thần Chúa đã dạy để được hưởng ơn cứu chuộc của Chúa mang lại. Amen.

Jos. Vinc. Ngọc Biển

--------------------------------

 

Lễ_tro-139: ĐẤNG THẤU SUỐT MỌI BÍ ẨN


SẼ TRẢ CÔNG CHO ANH EM

 

Bắt ðầu vào Mùa Chay, Giáo Hội cho nghe ðoạn Tin Mừng kể lời huấn dụ của Chúa Giêsu về Lễ_tro-139


Bắt ðầu vào Mùa Chay, Giáo Hội cho nghe ðoạn Tin Mừng kể lời huấn dụ của Chúa Giêsu về việc lành phúc ðức trong Mùa Chay là: Bố thí, cầu nguyện và giữ chay. Tuy nhiên, ðối với Chúa Giêsu, việc giữ những ðiều luật này không hệ tại ở số lượng mà là ở tinh thần, làm vì ai và vì mục ðích nào:

"Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng”.

Cả ba việc mà Chúa Giêsu dạy hôm nay đều có hai vế rõ ràng: “đừng và nên” Đừng như bọn giả hình khoe khoang và nên kín đáo không cho tay trái biết việc tay phải làm.
 
1. Khi làm phúc bố thí

Làm phúc bố thí là một việc đạo đức cần có trong việc chuẩn bị tâm hồn cho Chúa và để đền tội. Và đặc biệt đó là một công việc cụ thể của tinh thần Mùa Chay. Tuy nhiên, việc làm phúc nhiều hay ít không quan trọng, mà quan trọng ở cách làm phúc.

“Khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi”.

Có lẽ Chúa Giêsu cũng đã chứng kiến quá nhiều cảnh các người biệt phái Pharisiêu làm phúc hay dâng cúng chỉ nhằm để thiên hạ thấy mà ngợi khen họ, chẳng hạn việc các ông khệ nệ trịnh trọng giơ cao thả những quan tiền vào thùng bên cạnh một bà goá nghèo nhẹ nhàng bỏ vào thùng ba đồng kẽm nhỏ.

Thật ra, thời nào cũng thế, thiếu gì những người làm từ thiện với điều kiện được quay phim chụp hình đăng lên báo này đài nọ. Được cám ơn trịnh trọng, được mời ngồi chỗ danh dự trong các sự kiện đặc biệt.

Đâu đó, nơi nhà thờ nọ một người xin dâng cúng cái bàn thờ bằng đá dăm bảy chục triệu với điều kiện khắc tên mình bên dưới, hay tại nhà thờ kia ân nhân ủng hộ hàng trăm triệu nhưng phải khắc tên họ trên cột hay trên bia kỷ niệm…

Những cách làm như thế, thì Chúa Giêsu bảo rằng họ đã được phần thưởng rồi, phần thưởng đó là lời ca tụng của người đời, chứ chẳng có ký lô nào trước mặt Thiên Chúa. Vì trong mắt Chúa Giêsu, của cho không bằng cách cho, hàng trăm quan tiền của trọc phú chưa chắc đáng giá bằng ba đồng kẽm của bà goá, gánh cỏ của bác nông dân để nuôi ngựa kéo xe chở gạch xây dựng nhà thờ đáng giá hơn vạn lần hàng tỉ đồng của người phú hộ được khắc tên trên cột nhà thờ.

Chúa bảo rằng, khi làm phúc đừng để cho tay trái biết việc tay phải làm, nghĩa là không nhằm tìm vinh quang nơi sự ca tụng của người đời, nhưng có Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự, Người chuẩn nhận lòng thành của chúng ta.
 
2. Khi cầu nguyện

Điều cần tránh: “khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy. Thầy bảo thật anh em: chúng đã được phần thưởng rồi”.

Chúa Giêsu cũng từng lấy dụ ngôn về hai người lên đền thờ cầu nguyện: người biệt phái thì đứng thẳng, dang tay khoe khoang ca tụng về công đức của mình trước bàn thờ, còn người thu thuế đứng xa đấm ngực cầu xin ơn tha thứ. Và trong mắt Chúa, công đức mà huênh hoang khoe khoang chỉ là zéro, lòng khiêm hạ âm thầm cầu xin mới có trọng lượng.

Vấn đề ở đây cũng cần xác định, không phải Chúa Giêsu hạ thấp việc cầu nguyện có tính cộng đồng nơi công cộng, để rồi có nhiều người biện minh “giữ đạo tại tâm” mà không bao giờ đến nhà thờ để tham dự thánh lễ, kinh nguyện chung và các bí tích. Nhưng Chúa Giêsu nhấn mạnh đến thái độ cầu nguyện, nghĩa là không phải để được mọi người ca tụng mình đạo đức, mà là để Thiên Chúa thấu suốt mọi bí ẩn mà chuẩn nhận cho lòng thành của chúng ta.
 
3. Khi ăn chay

"Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi”.

Người Do Thái có một cuộc“đại chay” bắt buộc nhân ngày lễ xá tội. Đồng thời họ cũng có những cuộc chay tịnh khác mang tính cách tập thể, chẳng hạn vào các ngày tổ quốc gặp hoạn nạn. Ngoài ra, những người đạo đức còn ăn chay vì lòng sốt sắng, như các môn đệ của Gioan Tẩy giả và những người Biệt Phái, họ thường ăn chay mỗi tuần hai lần. Chung quy lại, ăn chay đối với Do Thái Giáo bao gồm ba ý nghĩa chính:

- Để tỏ lòng sám hối và xin ơn.
- Đợi chờ Đấng Cứu Thế đến giải phóng dân khỏi ách đô hộ ngoại bang.
- Lòng đạo đức.

Như thế, tự bản chất việc ăn chay của người Do Thái là một phương thế rất tốt, và chính Chúa Giêsu cũng ủng hộ việc chay tịnh là phương thế để chống lại ma quỷ và chước cám dỗ. Nhưng ở đây, Người nhấn mạnh đến tinh thần ăn chay chứ không phải sự tỏ lộ ra bên ngoài như đầu tóc bù xù, mặc đồ xuếch xoác, mặt mày ủ rũ, thiểu não… để thiên hạ khen là đạo đức thánh thiện.

Chúa Giêsu dạy: “Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh”. Dĩ nhiên là không phải cứ hễ giữ chay là phải xức nước hoa hay bận đồ đẹp hoặc giả bộ vui vẻ, mà là sự kín đáo âm thầm chỉ mình ta với Chúa. Không tìm vinh danh nơi lời ca tụng người đời, mà là để Thiên Chúa được vinh danh nơi sự hi sinh hãm mình của chúng ta.

 Tóm lại, làm phúc bố thí, cầu nguyện và ăn chay là ba sinh hoạt chính trong đời sống đạo đức và là tinh thần của việc giữ mùa chay thánh, nhưng để trở thành phương thế đền tội và có công phúc trước mặt Chúa không hệ tại ở số lượng hay được ghi nhận từ người đời, mà là xuất phát từ tấm lòng chân thành cùng với tâm tình riêng tư giữa ta với Chúa.

 Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã từng vào sa mạc để ăn chay cầu nguyện bốn mươi ngày đêm, xin cho chúng con cũng biết dùng mùa chay thánh này, để sống thật tốt với việc làm phúc, cầu nguyện và ăn chay theo tinh thần Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen.

--------------------------------

 

Lễ_tro-140: Ý nghĩa lễ tro đầu mùa chay


Suy niệm thứ tư lễ tro

Hỏi:

 

Ngày Lễ Tro có nói trong Kinh thánh không? Xin cho biết đoạn nào trong Cựu ước hay Tân ước ? Lễ_tro-140


Ngày Lễ Tro có nói trong Kinh thánh không? Xin cho biết đoạn nào trong Cựu ước hay Tân ước ? Lễ Tro có ý nghĩa gi?

Đáp:

Lễ Tro nhắc nhớ tín hữu về nguồn gốc của mình: Thiên Chúa dựng nên con người từ bụi đất, sách Sáng thế đoạn 2 câu 7: "Thiên Chúa lấy bụi từ đất (dust) nặn ra con người , thổi sinh khí vào lỗ mũi và con người trở nên một sinh vật".

- Trong lễ Tro, thứ Tư đầu mùa Chay, chủ tế nhắc lại tập tục trong Cựu ước: khi người ta tỏ lòng sám hối tội lỗi mình, người ta thường xức tro trên đầu và mặc áo nhặm (áo dệt bằng lông thú vật, mặc vào rất ngứa ngáy khó chịu)

Khi giáo dân xếp hàng lên chịu tro, chủ tế xức tro trên đầu ngươòi ta, hoặc theo kiểu bên Mỹ, vẽ hình thánh giá trên trán, và nói: "Hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro".

- Dù nguồn gốc của con người hèn kém như tro, như bụi đất, nhưng con người được Thiên Chúa yêu thương, cứu chuộc, và sau này sẽ được sống lại để hưởng phúc đời đời.

Hãy gắng ăn năn đền tội, lập công phúc để được hạnh phúc muôn đời

(3 phần trình bày)

Phần chính 1:

THỨ TƯ LỄ TRO

LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA THẦN HỌC PHỤNG VỤ

Ngày Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ Sách Sáng thế: Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro. Lời Kinh thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người qua biểu hiệu "bụi tro" được dùng trong Kinh thánh và trong nghi lễ ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay. Trong bài viết này tôi sẽ nói qua về lịch sử và ý nghĩa thần học phụng vụ của Ngày Thứ Tư Lễ Tro.

1. Lịch sử Thứ Tư Lễ Tro

Những Quy luật tổng quát của Năm phụng vụ nói về ngày Thứ Tư Lễ Tro như sau: "Mùa Chay bắt đầu từ Thư Tư Lễ Tro và kết thúc ngay truớc Thánh lễ Tiệc Ly. Ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay có xức tro; ngày đó khắp nơi ăn chay" (số 28 và 29). Lời chỉ dẫn này cho chúng ta biết ý nghĩa của Ngày Thứ Tư Lễ Tro trong Năm phụng vụ, cũng như trong suốt Mùa Chay thánh. Với Thứ Tư Lễ Tro, Giáo hội bắt đầu Mùa Chay. Ngoài ra trong cơ cấu phụng vụ của ngày này, Giáo hội cử hành lễ nghi làm phép tro và xức tro.

Trong truyền thống phụng vụ từ thế kỷ thứ 7, Ngày Thứ Tư Lễ Tro là một ngày quan trọng, và không một lễ nào có thề vượt lên trên. Người ta cũng gọi ngày này là "Ðầu Mùa Chay" (Caput ieiunii), hay " Ðầu Mùa ăn chay 40 ngày" (Caput Quadragesimalis). Việc ăn chay trong Mùa này đã có từ thời Ðức Giáo Hoàng Gregoriô Cả (590-604).

Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ một nghi thức nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống hối công cộng thời xưa. Lịch sử phụng vụ về việc thành hình Nghi thức cử hành bí tích thống hối và hòa giải, cũng như định chế Giáo hội về một số sinh hoạt đặc biệt, đã có tục lệ bỏ tro cho hối nhân công cộng đã phạm một số tội nặng cách công khai, mà mọi nguời đều biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình . . . Những người này bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Ðể được nhận lại trong cộng đoàn, họ phải làm việc thống hối công cộng theo định chế Giáo hội đưa ra. Vào ngày thứ tư trước Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay, những hối nhân công cộng này sẽ tụ tập lại tại nhà thờ chính tòa, và sau khi xưng thú tội của mình, họ sẽ được Ðức Giám mục trao cho chiếc áo nhậm mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình. Sau đó họ bị đưổi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định đi tới một tu viện để ở đó và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ. Vào sáng thứ năm Tuần thánh, các hối nhân này tụ tập lại tại nhà thờ chính tòa, được Ðức Giám mục xem xét việc thực hành thống hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hòa với cộng đoàn. Từ đây họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích. Tại Rôma, vào thế kỷ thứ 7, các hối nhân công cộng tập họp tại một số nhà thờ tước hiệu (tituli) của thành phố, cũng như tại 4 Ðại Vương cung thánh đường thánh Phêrô, thánh Phaolô ngoại thành, thánh Gioan Lateranô và Ðức Bà Cả, để cử hành nghi lễ như vừa nói trên đây.

Về sau định chế thống hối công cộng không còn nữa, tuy nhiên lễ nghi bỏ tro vẫn còn giữ lại trong ngày Thứ Tư Lễ Tro. Ðầu tiên chỉ có các tín hữu lãnh nhận tro trên mình. Về sau các Ðức Giáo hoàng và tín hữu đều lãnh tro, để tỏ lòng thống hối. Sang thế kỷ thứ 10, thì có việc làm phép tro và một lời nguyện kèm theo bắt chước cơ cấu thánh lễ, nghĩa là có lời nguyện giống như Kinh nguyện thánh thể, và việc lãnh nhận tro như khi cử hành việc rước lễ.

Vào thế kỷ thứ 11, cũng tại Rôma, Ðức Giáo Hoàng tập họp các giáo sỹ, giáo dân tại nhà thờ thánh Anastasia. Ngài làm phép tro, bỏ tro cho mọi người, sau đó tất cả đi kiệu về nhà thờ thánh nữ Sabina ở đồi Aventino. Trong khi đ kiệu, Ðức Giáo Hoàng và cộng đoàn hát kinh cầu các thánh. Tất cả đều mặc áo nhậm, đi chân không, để tỏ lòng thống hối ăn năn. Khi đoàn kiệu đến nhà thờ thánh Sabina, Ðức Giáo Hoàng đọc lời xá giải và cộng đoàn cùng hát bài "Chúng ta hãy thay đổi đời sống, Xức tro và ăn chay hãm mình, khóc than vì lỗi lầm đã phạm. Hãy khẩn cầu Thiên Chúa chúng ta. Vì Người rất từ bi nhân hậu sẵng sàng tha thứ mọi tội khiên" (Immutemur, xc. Ge 2, 13). Sau đó ngài cử hành thánh lễ. Ðó là trạm đầu tiên (statio) của Mùa Chay. Ngày nay vào Thứ Tư Lễ Tro, Ðức Giáo Hoàng cũng đến làm phép tro và bỏ tro tại nhà thờ thánh nữ Sabina theo truyền thống xưa. Trước đó có cuộc rước kiệu từ nhà thờ thánh Anselmô cũng trên dồi Aventino. Tại nhà thờ thánh nữ Sabina, ngài công bố sứ điệp Mùa Chay cho toàn thể Giáo hội (Sứ điệp Mùa Chay năm 2002 mang tựa đề: Anh em đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho đi nhưng không [Mt 10,8]).

Vào năm 1091, Công đồng Benevento (Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ bỏ tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Trong khi bỏ tro, vị linh mục đọc lời: "Ta là thân cát bụi sẽ trỏ về cát bụi" (St 3, 19). Tro này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Chúa nhật Lễ Lá năm trước để lại. Trước công cuộc canh tân phụng vụ của Công đồng chung Vaticanô II, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro được cử hành trước thánh lễ. Vào năm 1970, khi công bố Sách Lễ Rôma được tu chính, thì lễ nghi này được cử hành sau phần phụng vụ lời Chúa. Ngoài câu trích từ Sách Sáng thế, còn có thêm một công thức dùng khi bỏ tro, lấy từ Phúc âm: "Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng" (Mc 1,15). Với công thức mới này được thêm vào, thì biểu hiệu "tro" đã mang thêm một ý nghĩa mới nữa đó là việc canh tân đời sống trong suốt Mùa Chay thánh. Sau đây là một trong hai lời nguyện làm phép tro: "Lạy Chúa, Chúa nhân từ đối với ai khiêm tốn, và tha thứ cho kẻ biết ăn năn. Xin nghe lời chúng con khẩn nguyện và rộng tay giáng phúc cho hết thảy chúng con sắp nhận lấy tro này, để chúng con kiên trì giữ bốn mươi ngày chay thánh, và nhờ đó được nên tinh tuyền, xứng đáng cử hành mầu nhiệm Vượt qua của Ðức Kitô, Con Một Chúa, Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời" (còn có một lời kinh khác trong Sách Lễ Rôma).

2. Ý nghĩa việc bỏ tro và ngày Thứ Tư Lễ Tro

Trong Cựu Ước, việc xức tro và mặc áo nhậm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel. Tro chỉ thân xác chúng ta là bụi tro, sẽ phải chết (xc. St 3,18.27; Giob 34, 17; Gr 6, 26; 25, 34; Est 4,13; Is 58, 5; Dn 9,3; Giona 3,6; Giudith 4,16; 9,1).

Trong truyền thống các đan sĩ và tụ viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và sự khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Vì thế, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martino thành Tours bên Pháp đã nói: "Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi". Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó còn trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết. Các tu sĩ cũng có thói quen trộn tro vào bánh như của ăn. Ðó là một hình thức hãm mình nhiệm nhặt mà các tu sĩ phải giữ.
Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tồ, và hậu quả là con người xa Thiên Chúa, ttốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là một hậu quả của tội lỗi. Vì thế cần phải "quay trở lại" một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ "canh tân" trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ. Ðàng khác suy tư về bụi tro, để cho thấy sự yếu hèn của mình và tính cách tùy thuộc vào Thiên Chúa vì con người được Ngài tạo dựng. Nhưng Thiên Chúa đoái thương và ban ơn cứu rỗi. Phụng vụ đã diễn tả nền tảng này qua các biểu hiệu và các lời kinh của ngày Thư Tư Lễ Tro.

Cùng với một số biểu hiệu khác được Giáo hội dùng trong Mùa Chay, như mầu áo lễ tím, không đọc Kinh Vinh Danh, không trưng bông hoa trên bàn thờ, không dùng đàn trong thánh lễ, bụi tro cũng được dùng để cho thấy tính cách thống hối của Mùa Chay và thân phận của con người hay chết.

Nói tóm lại, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro trong ngày Thứ Tư Lễ Tro gợi ra cho tín hữu về một thời điểm quan trọng đang bắt đầu liên hệ tới ơn cứu rỗi của họ, đó là Mùa Chay. Ðồng thời, lễ nghi khởi đầu này cũng đề ra cho tín hữu một hành trình phải đi theo trong thời gian suốt Mùa Chay.

Hành trình đó là thực hành các việc làm biểu lộ sự thống hối, sống bác ái; đàng khác, tín hữu cũng phải đi sâu vào tâm tình thống hối, khi suy tư về thân phận con người, về lỗi lầm của mình và nhu cầu khẩn thiết phải trở về, phải canh tân cuộc sống. Tuy nhiên, tín hữu không làm những việc này trong ý thức khổ

(Theo Tinh Thần)

Phần 2: "Tro"

Ý NGHĨA “TRO”

(MJTRUONGLUAN C.Ss.R)

Hàng năm, mỗi người Công Giáo đều đến tham dự Thánh Lễ vào Thứ Tư đầu Mùa Chay. Còn được gọi là Thứ Tư Lễ Tro.

“Tro” có ý nghĩa gì đối với con người? Có liên quan gì đến đời sống Đức Tin người Công Giáo chúng ta? Và tại sao lại phải xức “tro” trên trán?

Từ ngàn xưa vào thời Cựu Ước, “tro” đã mang hai ý nghĩa nhắc nhớ con người phải biết sống như thế nào. Thứ nhất, “tro” tượng trưng cho “sự thống hối ăn năn” và thứ hai, cho “đời sống khiêm nhường.”

Trong sách Sáng Thế 18:27, chúng ta nghe Abraham tự thú nhận: “Này tôi quả đường đột thưa với Chúa tôi – tôi chỉ là tro bụi.”

Về sau vào thế kỷ thứ 4 Công Nguyện, Giáo Hội mới bắt đầu dùng tro trong các nghi thức phụng vụ. Trong thời điểm này, những kẻ tội lỗi và hối nhân rắc tro trên thân mình. Họ bị trục xuất ra khỏi cộng đoàn trong một thời gian ngắn để thống hối ăn năn vì những trọng tội họ đã phạm – như tội phản đạo, chối đạo, sát nhân và ngoại tình.

Đến thế kỷ thứ 7, nghi thức thống hối này đã biến dạng và được áp dụng vào ngày Thứ Tư Lễ Tro. Kẻ có tội phải mặc áo nhặm và xức tro trên mình. Đồng thời, phải sống xa gia đình suốt cả Mùa Chay. Những người này không được bước vào Nhà Thờ và cũng không được nói chuyện với bất cứ một ai. Họ phải làm việc đền tội, cầu nguyện và ngủ dưới đất hoặc trên rơm và cũng không được tắm rửa hoặc cắt tóc cạo râu. Vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh, những hối nhân này được ban ơn xá giải và trở về với gia đình.

Truyền thống này bắt đầu phổ biến và được áp dụng cho toàn thể Giáo Hội hoàn vũ vào thế kỷ thứ 11 – dưới triều đại của Đức Thánh Cha Urbanô đệ II.

Ngày nay, vào mỗi Thứ Tư Lễ Tro, các linh mục dùng tro gạch dấu thánh giá trên trán của bản thân mình và từng giáo hữu. Tro này chính là tro của những chiếc lá vạn tuế của Lễ Lá năm trước đã được đốt đi. Tro nhắc nhở các giáo hữu về thân phận con người. Con người được dựng nên từ bụi tro. Tro được sức lên trán để khắc ghi vào tâm trí thực tại cát bụi của con người chúng ta. Vì vậy, khi dùng tro ghi dấu Thánh Giá trên trán, linh mục sẽ đọc: “Ta là thân cát bụi – sẽ trở về cát bụi” (St 3:19) hoặc “Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng” (Mc 1:15).

THẾ THÌ “MÙA CHAY” và “LỄ TRO” CÓ LIÊN CAN GÌ ĐẾN TÔI?

Lá vạn tuế năm trước được đốt đi thành tro là một dấu chỉ thích đáng cho ý nghĩa của Mùa Chay. Lá vạn tuế năm trước được đốt đi cốt ý mời gọi mỗi một tín hữu chúng ta phải nhìn lại cuộc sống của chúng ta trong năm qua. Ta phải xét lại những thói hư tật xấu, cách cư xử và thái độ sống của mình đối với tha nhân. Ta phải thiêu đốt tất cả những gì xấu xa tội lỗi của ta thành tro bụi và quyết tâm tu sửa cuộc đời mình.

Đồng thời, ta cũng cương quyết theo gương Chúa Giêsu bước vào sa mạc cát bụi để đối diện kẻ thù của mình – chính là Satan. Satan hằng luôn xúi dục ta chiều theo tính đam mê xác thịt, ham hố quyền hành và tham lam tiền của. Nhìn nhận mình là bụi cát, ta noi gương Chúa Giêsu sống tín thác, tự khiêm và kính sợ Thiên Chúa.

Thiên Chúa kêu gọi chúng ta trở nên một tạo vật mới. Ngài muốn tái tạo và ban ơn cứu độ cho chúng ta. Song Ngài chỉ có thể tái tạo và cứu độ chúng ta khi nào ta tự hạ để nhìn nhận thân phận cát bụi của mình. Chỉ lúc đó, như Thánh Vương Đavít nói, Thiên Chúa sẽ: “Cất nhắc tôi lên từ đống phân tro.”

Mùa Chay trao tặng cho chúng ta cơ hội để thay đổi và hoán cải cuộc đời. Tro là dấu chỉ nhắc nhở chúng ta thực tại Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa.

TÔI PHẢI LÀM GÌ ĐÂY?

Nếu quý anh chị em thật sự muốn thực hiện những điều sau đây, thì chúng ta cần phải xin ơn can đảm để nói thật và sống thật với bản thân và với Thiên Chúa. Điều kiện căn bản và tiên quyết là: Sống Thật.

MỘT VÀI ĐỀ NGHỊ: Web

Gia đình tề tựu với nhau trong giờ cầu nguyện. Trong buổi cầu nguyện, ông bà, cha mẹ và mỗi một người con trong gia đình nêu lên một thái độ, cách ăn nết ở, hoặc một cách cư xử nào đó mà mình muốn thay đổi để làm cho mối tình gia đình chan hòa đầm thắm hơn.

Thí dụ về thái độ cần sửa đổi:

- Bất cập: “Đâu phải việc của tôi đâu mà tôi phải “xía” vào. Đổi thành quan tâm và tích cực hơn: “Tôi có thể giúp được gì không?”

- Ôm đồm: “Không có tôi thì chẳng có ai làm được gì cả.” Đổi thành chia sẻ, cộng tác và thoát ly – không dính bén: “Tôi cần sự giúp đỡ của bạn.”

- Hấp tấp – Nhiều người tự bào chữa rằng làm nhanh làm lẹ tức là nhanh nhẹ, tháo vác, sáng trí. Nhiều công việc kéo dài trì trệ vì hấp tấp. Đổi lại thành điềm đạm, thận trọng và nhẫn nại hơn.

- Lê thê – chậm chạp cà rề. Nói cách khác, lười. Đổi lại thành phấn khởi, tổ chức và chủ động hơn.

Thí dụ về cách ăn nết ở:

- Dọn dẹp phòng ở hằng ngày.
- Gìn giữ vệ sinh cá nhân thường xuyên: đầu tóc, quần áo, thân thể . . .
- Tập thể dục thường xuyên để gìn giữ sức khỏe
- Bớt ăn bớt uống.
- Bỏ bớt những đam mê về phim ảnh, rượu bia, thuốc lá.
- Đọc kinh cầu nguyện thường xuyên hơn
- Đọc một đoạn Thánh Kinh mỗi ngày và suy niệm

Thí dụ về cách cư xử:

- Thay vì âu sầu, đổi thành tươi vui với người.
- Thay vì dửng dưng, đổi thanh niềm nở tiếp đón – chào hỏi người thân, khách lạ hoặc bạn đồng nghiệp.
- Thay vì nói lại chuyện xấu của người khác – tức là phao đồn tin xấu, thì tìm những điều tốt để bản thảo và noi theo.
- Thay vì chê trách nhau, khen ngợi và cảm ơn nhau nhiều hơn.
- Thay vì nói một lời có nhiều ngụ ý ám chỉ, thì nói lời đơn thành yêu mến, khích lệ người nghe.
- Thay vì nói lời làm buồn lòng hoặc gây hoang mang, nghi kỵ và phân bì cho người nghe, thì ta quyết tâm nói những điều có lợi, tức là tạo niềm vui, bình an và tin tưởng cho người nghe.

2. Đặt ra kế hoạch giúp đỡ người nghèo. Để dành tiền lẽ, đồ hộp, quần áo, thức ăn khô, rồi chọn một ngày trong tháng, đem đến Nhà Xứ hoặc một cơ quan từ thiện nào đó để để trao tặng.
-------------------------
Nguồn: http://www.mehangcuugiup.org

--------------------------------

 

Lễ_tro-141: Thứ Tư Lễ Tro Lịch Sử và Thần Học

 

Trong lễ Tro, thứ Tư đầu mùa Chay, chủ tế nhắc lại tập tục trong Cựu ước: khi người ta tỏ Lễ_tro-141


Trong lễ Tro, thứ Tư đầu mùa Chay, chủ tế nhắc lại tập tục trong Cựu ước: khi người ta tỏ lòng sám hối tội lỗi mình, người ta thường xức tro trên đầu và mặc áo nhặm.

Trong lễ Tro, thứ Tư đầu mùa Chay, chủ tế nhắc lại tập tục trong Cựu ước: khi người ta tỏ lòng sám hối tội lỗi mình, người ta thường xức tro trên đầu và mặc áo nhặm.

Hỏi: Ngày Lễ Tro có nói trong Kinh thánh không? Xin cho biết đoạn nào trong Cựu ước hay Tân ước ? Lễ Tro có ý nghĩa gi?

Đáp: Lễ Tro nhắc nhớ tín hữu về nguồn gốc của mình: Thiên Chúa dựng nên con người từ bụi đất, sách Sáng thế đoạn 2 câu 7: “Thiên Chúa lấy bụi từ đất (dust) nặn ra con người , thổi sinh khí vào lỗ mũi và con người trở nên một sinh vật”.

– Trong lễ Tro, thứ Tư đầu mùa Chay, chủ tế nhắc lại tập tục trong Cựu ước: khi người ta tỏ lòng sám hối tội lỗi mình, người ta thường xức tro trên đầu và mặc áo nhặm (áo dệt bằng lông thú vật, mặc vào rất ngứa ngáy khó chịu)

Khi giáo dân xếp hàng lên chịu tro, chủ tế xức tro trên đầu ngươòi ta, hoặc theo kiểu bên Mỹ, vẽ hình thánh giá trên trán, và nói: “Hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro”.

– Dù nguồn gốc của con người hèn kém như tro, như bụi đất, nhưng con người được Thiên Chúa yêu thương, cứu chuộc, và sau này sẽ được sống lại để hưởng phúc đời đời. Hãy gắng ăn năn đền tội, lập công phúc để được hạnh phúc muôn đời

Phần chính 1

THỨ TƯ LỄ TRO

LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA THẦN HỌC PHỤNG VỤ

Ngày Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ Sách Sáng thế: Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro. Lời Kinh thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người qua biểu hiệu “bụi tro” được dùng trong Kinh thánh và trong nghi lễ ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay. Trong bài viết này tôi sẽ nói qua về lịch sử và ý nghĩa thần học phụng vụ của Ngày Thứ Tư Lễ Tro.

1. Lịch sử Thứ Tư Lễ Tro

Những Quy luật tổng quát của Năm phụng vụ nói về ngày Thứ Tư Lễ Tro như sau: “Mùa Chay bắt đầu từ Thư Tư Lễ Tro và kết thúc ngay truớc Thánh lễ Tiệc Ly. Ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay có xức tro; ngày đó khắp nơi ăn chay” (số 28 và 29). Lời chỉ dẫn này cho chúng ta biết ý nghĩa của Ngày Thứ Tư Lễ Tro trong Năm phụng vụ, cũng như trong suốt Mùa Chay thánh. Với Thứ Tư Lễ Tro, Giáo hội bắt đầu Mùa Chay. Ngoài ra trong cơ cấu phụng vụ của ngày này, Giáo hội cử hành lễ nghi làm phép tro và xức tro.

Trong truyền thống phụng vụ từ thế kỷ thứ 7, Ngày Thứ Tư Lễ Tro là một ngày quan trọng, và không một lễ nào có thề vượt lên trên. Người ta cũng gọi ngày này là “Ðầu Mùa Chay” (Caput ieiunii), hay ” Ðầu Mùa ăn chay 40 ngày” (Caput Quadragesimalis). Việc ăn chay trong Mùa này đã có từ thời Ðức Giáo Hoàng Gregoriô Cả (590-604).

Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ một nghi thức nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống hối công cộng thời xưa. Lịch sử phụng vụ về việc thành hình Nghi thức cử hành bí tích thống hối và hòa giải, cũng như định chế Giáo hội về một số sinh hoạt đặc biệt, đã có tục lệ bỏ tro cho hối nhân công cộng đã phạm một số tội nặng cách công khai, mà mọi nguời đều biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình . . . Những người này bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Ðể được nhận lại trong cộng đoàn, họ phải làm việc thống hối công cộng theo định chế Giáo hội đưa ra.

Vào ngày thứ tư trước Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay, những hối nhân công cộng này sẽ tụ tập lại tại nhà thờ chính tòa, và sau khi xưng thú tội của mình, họ sẽ được Ðức Giám mục trao cho chiếc áo nhậm mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình. Sau đó họ bị đưổi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định đi tới một tu viện để ở đó và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ. Vào sáng thứ năm Tuần thánh, các hối nhân này tụ tập lại tại nhà thờ chính tòa, được Ðức Giám mục xem xét việc thực hành thống hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hòa với cộng đoàn. Từ đây họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích. Tại Rôma, vào thế kỷ thứ 7, các hối nhân công cộng tập họp tại một số nhà thờ tước hiệu (tituli) của thành phố, cũng như tại 4 Ðại Vương cung thánh đường thánh Phêrô, thánh Phaolô ngoại thành, thánh Gioan Lateranô và Ðức Bà Cả, để cử hành nghi lễ như vừa nói trên đây.

Về sau định chế thống hối công cộng không còn nữa, tuy nhiên lễ nghi bỏ tro vẫn còn giữ lại trong ngày Thứ Tư Lễ Tro. Ðầu tiên chỉ có các tín hữu lãnh nhận tro trên mình. Về sau các Ðức Giáo hoàng và tín hữu đều lãnh tro, để tỏ lòng thống hối. Sang thế kỷ thứ 10, thì có việc làm phép tro và một lời nguyện kèm theo bắt chước cơ cấu thánh lễ, nghĩa là có lời nguyện giống như Kinh nguyện thánh thể, và việc lãnh nhận tro như khi cử hành việc rước lễ.

Vào thế kỷ thứ 11, cũng tại Rôma, Ðức Giáo Hoàng tập họp các giáo sỹ, giáo dân tại nhà thờ thánh Anastasia. Ngài làm phép tro, bỏ tro cho mọi người, sau đó tất cả đi kiệu về nhà thờ thánh nữ Sabina ở đồi Aventino. Trong khi đ kiệu, Ðức Giáo Hoàng và cộng đoàn hát kinh cầu các thánh. Tất cả đều mặc áo nhậm, đi chân không, để tỏ lòng thống hối ăn năn. Khi đoàn kiệu đến nhà thờ thánh Sabina, Ðức Giáo Hoàng đọc lời xá giải và cộng đoàn cùng hát bài “Chúng ta hãy thay đổi đời sống, Xức tro và ăn chay hãm mình, khóc than vì lỗi lầm đã phạm. Hãy khẩn cầu Thiên Chúa chúng ta. Vì Người rất từ bi nhân hậu sẵng sàng tha thứ mọi tội khiên” (Immutemur, xc. Ge 2, 13). Sau đó ngài cử hành thánh lễ. Ðó là trạm đầu tiên (statio) của Mùa Chay. Ngày nay vào Thứ Tư Lễ Tro, Ðức Giáo Hoàng cũng đến làm phép tro và bỏ tro tại nhà thờ thánh nữ Sabina theo truyền thống xưa. Trước đó có cuộc rước kiệu từ nhà thờ thánh Anselmô cũng trên dồi Aventino. Tại nhà thờ thánh nữ Sabina, ngài công bố sứ điệp Mùa Chay cho toàn thể Giáo hội (Sứ điệp Mùa Chay năm 2002 mang tựa đề: Anh em đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho đi nhưng không [Mt 10,8]).

Vào năm 1091, Công đồng Benevento (Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ bỏ tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Trong khi bỏ tro, vị linh mục đọc lời: “Ta là thân cát bụi sẽ trỏ về cát bụi” (St 3, 19). Tro này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Chúa nhật Lễ Lá năm trước để lại. Trước công cuộc canh tân phụng vụ của Công đồng chung Vaticanô II, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro được cử hành trước thánh lễ. Vào năm 1970, khi công bố Sách Lễ Rôma được tu chính, thì lễ nghi này được cử hành sau phần phụng vụ lời Chúa. Ngoài câu trích từ Sách Sáng thế, còn có thêm một công thức dùng khi bỏ tro, lấy từ Phúc âm: “Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng” (Mc 1,15). Với công thức mới này được thêm vào, thì biểu hiệu “tro” đã mang thêm một ý nghĩa mới nữa đó là việc canh tân đời sống trong suốt Mùa Chay thánh. Sau đây là một trong hai lời nguyện làm phép tro:

“Lạy Chúa, Chúa nhân từ đối với ai khiêm tốn, và tha thứ cho kẻ biết ăn năn. Xin nghe lời chúng con khẩn nguyện và rộng tay giáng phúc cho hết thảy chúng con sắp nhận lấy tro này, để chúng con kiên trì giữ bốn mươi ngày chay thánh, và nhờ đó được nên tinh tuyền, xứng đáng cử hành mầu nhiệm Vượt qua của Ðức Kitô, Con Một Chúa, Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời” (còn có một lời kinh khác trong Sách Lễ Rôma).

2. Ý nghĩa việc bỏ tro và ngày Thứ Tư Lễ Tro

Trong Cựu Ước, việc xức tro và mặc áo nhậm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel. Tro chỉ thân xác chúng ta là bụi tro, sẽ phải chết (xc. St 3,18.27; Giob 34, 17; Gr 6, 26; 25, 34; Est 4,13; Is 58, 5; Dn 9,3; Giona 3,6; Giudith 4,16; 9,1).

Trong truyền thống các đan sĩ và tụ viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và sự khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Vì thế, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martino thành Tours bên Pháp đã nói: “Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi”. Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó còn trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết. Các tu sĩ cũng có thói quen trộn tro vào bánh như của ăn. Ðó là một hình thức hãm mình nhiệm nhặt mà các tu sĩ phải giữ.

Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tồ, và hậu quả là con người xa Thiên Chúa, ttốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là một hậu quả của tội lỗi. Vì thế cần phải “quay trở lại” một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ “canh tân” trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ. Ðàng khác suy tư về bụi tro, để cho thấy sự yếu hèn của mình và tính cách tùy thuộc vào Thiên Chúa vì con người được Ngài tạo dựng. Nhưng Thiên Chúa đoái thương và ban ơn cứu rỗi. Phụng vụ đã diễn tả nền tảng này qua các biểu hiệu và các lời kinh của ngày Thư Tư Lễ Tro.

Cùng với một số biểu hiệu khác được Giáo hội dùng trong Mùa Chay, như mầu áo lễ tím, không đọc Kinh Vinh Danh, không trưng bông hoa trên bàn thờ, không dùng đàn trong thánh lễ, bụi tro cũng được dùng để cho thấy tính cách thống hối của Mùa Chay và thân phận của con người hay chết.

Nói tóm lại, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro trong ngày Thứ Tư Lễ Tro gợi ra cho tín hữu về một thời điểm quan trọng đang bắt đầu liên hệ tới ơn cứu rỗi của họ, đó là Mùa Chay. Ðồng thời, lễ nghi khởi đầu này cũng đề ra cho tín hữu một hành trình phải đi theo trong thời gian suốt Mùa Chay.

Hành trình đó là thực hành các việc làm biểu lộ sự thống hối, sống bác ái; đàng khác, tín hữu cũng phải đi sâu vào tâm tình thống hối, khi suy tư về thân phận con người, về lỗi lầm của mình và nhu cầu khẩn thiết phải trở về, phải canh tân cuộc sống. Tuy nhiên, tín hữu không làm những việc này trong ý thức khổ
Nguồn tin: tinvui.org

--------------------------------

 

Lễ_tro-142: Hãy nhớ mình là bụi tro


"Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro, một mai sẽ trở về bụi tro”

 

Liệu chúng ta có cần phải nhắc lại câu đó không? - Chúng ta có biết mình yếu đuối, giới hạn, nghèo Lễ_tro-142


- Liệu chúng ta có cần phải nhắc lại câu đó không?

- Chúng ta có biết mình yếu đuối, giới hạn, nghèo khó, giòn mỏng và bất lực không?

- Liệu có cần nhắc nhớ cho chúng ta rằng cuộc đời là ngắn ngủi, tuổi già không phải chỉ là những người tóc bạc mà còn cả chúng ta đấy, này các bạn trẻ?

- Có cần phải nhắc đi nhắc lại rằng chúng ta đều bị lên án tử hình, chỉ có điều sớm hay muộn thôi? Sách Giảng Viên nói: “Mọi sự đều đi về một mối, mọi sự đều đến từ bụi đất, mọi sự đều trở về bụi đất”.

Con người hiện đại cố gắng tránh né cái chết cũng vô ích, họ biết rằng họ đang phải đương đầu với cái chết trên khắp nẻo đường của cuộc sống. Cái chết là một bãi chiến trường rộng lớn, nơi mà trong lúc chờ đợi mình đến đó, thì thỉnh thoảng lại thấy người thân hoặc anh em họ hàng mình đi trước.

Giới hạn lớn nhất, yếu đuối lớn nhất của con người là tội lỗi. Người thời nay cố gắng tống khứ quan niệm này…Còn chúng ta, đừng cho mình là công chính, đừng quên Pharisieu giả hình và hãy trở nên một người thu thuế.

Hãy thẳng thắn kiểm điểm tội lỗi mình, vì tội là kẻ thù ngăn cản chúng ta lớn lên về đời sống tự nhiên lẫn siêu nhiên. Tội lỗi từ chối ơn gọi của chúng ta trở nên trọn lành như Cha chúng ta trên trời.

Tuy nhiên chúng ta đừng nghiền ngẫm mãi tội lỗi chúng ta!

Trái lại, mùa chay mời gọi chúng ta hãy sống lại và tái sinh.

Và điều quan trọng là biết dừng lại để nghĩ về cuộc đời mình, để suy tư về từng khoảnh khắc cuộc đời mình. Tại sao tôi sống? Tôi sống thế nào?

Mùa chay không phải là nghiên cứu sự đau khổ để mà đau khổ… Mùa chay chính là mùa tỉa cành để tăng thêm sự sống. Michel Quoist viết: “Sự ăn năn hối hận của kitô giáo không bao giờ là một sự đau khổ để mà đau khổ, nhưng luôn là bỏ đi những hoa quả dại hoặc thối, để có được một mùa bội thu”.

Ăn chay không phải chỉ là giữ cho đúng luật, mà điều căn bản là để có lợi cho đời sống thiêng liêng: chúng ta gần Chúa, có Chúa và có lòng quảng đại với những người khốn cùng.

Thực sự chúng ta là tội nhân, nhưng chúng ta đã có Đấng cứu Độ. Chúng ta là tội nhân đã được tha thứ.

Thật tuyệt vời đối với chúng ta! Chúng ta đã đón nhận ơn tha thứ từ nơi Thiên Chúa, đúng hơn là xin ơn tha thứ. Sự dữ ở sâu xa trong chúng ta và tự chúng ta không có khả năng chữa lành. Nhưng Chúa Kitô đã chiến thắng sự dữ và cứu chuộc tất cả. Chúng ta hãy khiêm nhường và tin tưởng chạy đến Ngài.

Michel Quoist viết tiếp: “Nếu bạn là nạn nhân của tội lỗi, Thiên Chúa đến với bạn để yêu bạn hơn và để cứu chữa bạn. Hãy để cho Ngài làm, sau khi phạm tội, bạn hãy kết hợp với Ngài hơn là trước khi phạm tội.. Và bạn sẽ cảm thấy vui mừng biết ơn”.

Đó là tất cả ý nghĩa của đầu mùa chay này.

Hãy sống trọn vẹn Bí tích Giải Tội! Nếu không có bí tích này con người luôn ở trong tình trạng tội lỗi. Hãy nghe lời mời gọi tha thiết của Thiên Chúa: “Các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc và thống thiết than van”.

Đúng là Thiên Chúa bắt đầu quỳ xuống trước mặt chúng ta để mời gọi chúng ta trở về, vì “Đức Chúa đã nồng nhiệt yêu thương đất của Người, đã tỏ lòng khoan dung với dân Người”.

Vì thế trong Mùa Chay này chúng ta hãy cầu nguyện, thanh tẩy, ăn chay, chia sẻ trong thầm lặng và kín đáo. Chúa Cha trên trời biết tất cả và biết chúng ta làm được những gì và sẽ trả công cho chúng ta …

Lm. Gioan Đặng Văn Nghĩa

--------------------------------

 

Lễ_tro-143: Trở  Về

 

Ngày nay, tại thành phố Hiroshima, Nhật Bản, người ta thường thấy một bà lão già nua đi lang Lễ_tro-143 Fb


Ngày nay, tại thành phố Hiroshima, Nhật Bản, người ta thường thấy một bà lão già nua đi lang thang khắp các đường phố, chìa ra cho khách qua đường xem một chiếc nhẫn vàng đã xỉn màu và lặp đi lặp lại:

– Hãy tha lỗi cho tôi … Xin làm ơn, tha lỗi cho tôi !

Bà lão ấy tên là Yoko. Người ta kể lại câu chuyện về bà như sau:

Vào năm 1945, lúc ấy Yoko 14 tuổi, mồ côi cha mẹ. Cô chỉ còn lại bà ngoại là người thân thích. Trước khi chết, vì nghèo khổ, bà ngoại cô đã gửi cô đến giúp việc cho một gia đình giàu có. Bà luôn nhắc đi nhắc lại với cô như một lời trăn trối:

– Cháu phải luôn chăm chỉ, đáng tin và trung thực. Nếu không thì hãy coi chừng, tai họa lớn đấy !

Một ngày kia, ông chủ của Yoko qua đời. Chỉ có một mình cô bên cạnh khi ông ta chết. Cô đã ăn cắp chiếc nhẫn trên tay người chết và bỏ trốn.

Khi Yoko băng qua một ngọn đồi, chỉ trong một khoảnh khắc, một quầng lửa lớn bỗng bùng lên xé nát bầu trời. Ánh sáng chói lòa phủ chụp xuống ! Yoko ngất lịm đi …

Lúc đó là 8 giờ 15 phút ngày 15/8/1945, giờ phút kinh hoàng khi quả bom nguyên tử của Mỹ ném xuống thành phố Hiroshima và biến tất cả thành một đống hoang tàn.

Khi tỉnh dậy, Yoko không còn nhớ gì ngoài lời nói của bà ngoại: “Cháu hãy chăm chỉ, đáng tin và trung thực, nếu không thì hãy coi chừng, tai họa lớn đấy !”.
Từ đó trở đi, trong cơn điên loạn, Yoko lang thang khắp nơi, đi tìm một ai đó để nói lời xin lỗi. Nhưng dường như tất cả đều đã chết ! (Truyện của K. Elizabeth, Australia).

“Hãy tha lỗi cho tôi !”. Đó cũng phải là lời nói của mọi người chúng ta trong suốt mùa chay này. Lời nói đó xuất phát từ đáy tâm tư, từ trong sâu thẳm của tâm hồn chúng ta. Đó phải là tiếng nói nghẹn ngào của một trái tim muốn quay trở về.

“Hãy tha lỗi cho tôi !” không phải là một lời nói lịch sự mà người ta thường nói với nhau trong cuộc sống hằng ngày, nhưng đó chính là tâm tình sám hối ăn năn thật sự khi nhận ra sự yếu đuối bất toàn của mình. Sám hối chính là trở về cùng Chúa và anh em.

“Hãy tha lỗi cho tôi !” là tiếng nói của sự hòa giải, là nhịp cầu đã gãy được nối lại, là khởi đầu cho một cuộc trở về …

Hôm nay, ngày Lễ Tro, khởi đầu mùa chay thánh. Tất cả phụng vụ mùa chay là một lời mời gọi tha thiết của Giáo Hội: Hãy trở về ! /

Màu tím.

Người ta coi màu tím là màu của tang tóc, chia ly. Nhưng trong mùa chay, màu tím mang ý nghĩa của sự trở về: trở về để làm hòa với Chúa và anh em. Lễ phục tím vị linh mục mặc trong mùa chay luôn nhắc nhớ chúng ta về cuộc trở về đó.

Màu tím là sự hòa trộn giữa màu xanh dương và màu đỏ. Màu xanh tượng trưng cho niềm hy vọng, màu đỏ là biểu tượng của hy sinh. Như thế, màu tím là sự kết hợp của niềm hy vọng và sự hy sinh. Điều đó gợi lên ý nghĩa: cuộc trở về nào cũng đòi hỏi sự hy sinh và sự từ bỏ. Nhưng trong hy sinh và từ bỏ bao giờ cũng ánh lên niềm hy vọng. Vì vậy, trong mùa chay, chúng ta không trở về trong buồn thảm và thất vọng, nhưng trở về trong niềm tin yêu và hy vọng.

Bụi tro.

Tro tàn là tất cả những gì còn lại sau một đám cháy. Tro tượng trưng cho sự tàn lụi và tiêu tan. Tro là dấu tích của một cuộc thiêu huỷ, là kết quả của sự loại bỏ, là biểu hiệu của sự kết thúc. Tro gợi lên định mệnh tất yếu của con người là phải chết, như Giáo Hội vẫn nhắc nhở: “Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về cùng bụi tro” (St 3, 19).

Nghi thức làm phép tro và xức tro phát xuất từ việc thống hối và hòa giải vào thời xưa trong Giáo Hội. Ngày nay, việc bỏ tro lên đầu vẫn còn mang ý nghĩa tượng trưng của lòng sám hối.

Tuy nhiên, trong đống tro tàn luôn ẩn giấu những đốm than hồng. Trong tro tàn lạnh lẽo thường chứa đựng hơi ấm nồng nàn. Bỏ tro lên đầu không phải là gieo vãi sự thất vọng bi thương, nhưng là khơi lên ngọn lửa tình yêu trong những tâm hồn lạnh giá. Sám hối cũng là cuộc trở về để tìm lại hơi ấm của tình Chúa, tình người.

Tiên tri Gioen kêu gọi dân Do Thái hãy sám hối ăn năn: “Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo các ngươi”. Sám hối phải xuất phát từ cõi lòng chân thực, chứ không phải chỉ là việc làm bề ngoài. Việc bỏ tro lên đầu nhắc nhớ chúng ta về thân phận bụi tro của mình. Nhưng cũng còn lưu ý chúng ta hãy biết “bỏ tro trong tâm hồn” với lòng thống hối xuất phát từ nội tâm.

Thánh Phaolô khuyên tín hữu Côrintô: “Hãy làm hòa cùng Thiên Chúa”. Đó cũng là lời khuyên dành cho chúng ta hôm nay. Mùa chay là thời gian thuận tiện nhất để chúng ta làm hòa cùng Chúa và tha nhân. Vì thế, sám hối trong mùa chay là gì nếu không phải là đến với lòng thương xót thứ tha của Thiên Chúa và đi bước trước đến với tha nhân trong tinh thần hòa giải. Đó là cuộc trở về trọn vẹn nhất.

Thánh Matthêu phác họa những con đường trở về với Chúa và mọi người bằng những việc làm cụ thể: bố thí, cầu nguyện và ăn chay. Đó không phải là những con đường của sự phô trương, nhưng luôn có khởi điểm từ nội tâm với lòng khiêm tốn chân thành.

Một người lính Mỹ trở về quê hương sau nhiều năm tham chiến ở Việt Nam. Từ San Francisco, anh gọi điện thoại về nhà gặp người cha:

– Thưa cha, con đã giải ngũ và sắp về nhà. Nhưng con có điều xin phép cha. Con muốn dẫn một người bạn cùng về nhà mình.

Người cha đáp:

– Ồ ! Được thôi, cha mẹ sẵn sàng đón tiếp bạn con.

Nhưng người con nói tiếp:

– Nhưng có điều này cha mẹ nên biết: anh ấy bị thương rất nặng trong chiến tranh, mất một tay và một chân. Anh ấy không còn nơi nương tựa. Xin cha mẹ cho anh ấy sống cùng chúng ta.

Người cha đáp:

– Cha mẹ rất tiếc khi nghe điều này. Chúng ta không thể cưu mang một người tàn tật như vậy. Đó là một gánh nặng đè lên vai chúng ta.

Sau khi nài xin một hồi lâu không được, người con đành gác máy.

Vài ngày sau đó, họ đột nhiên nhận được một cú điện thoại từ cảnh sát San Francisco báo tin con trai họ nhảy lầu tự sát. Anh ta đã chết.

Họ vội vàng đến nơi để nhận xác con. Khi nhìn thấy con, họ bàng hoàng và đau xót khi nhận ra con mình chỉ còn một tay và một chân. Anh ta chính là người lính tàn tật xin được trở về đoàn tụ cùng gia đình mà bị từ chối.

Thiên Chúa luôn mở rộng lòng thương xót để đón nhận và tha thứ cho các tội nhân. Trong mùa chay này, chúng ta hãy đứng lên, với lòng sám hối ăn năn, can đảm trở về với Chúa.

--------------------------------

 

Lễ_tro-144: BA CỘT TRỤ


“Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy” (Mt 6,1).

 

Mở đầu Mùa Chay, Giáo Hội muốn chúng ta thực hành một số việc đạo đức mà người Do Thái Lễ_tro-144


Mở đầu Mùa Chay, Giáo Hội muốn chúng ta thực hành một số việc đạo đức mà người Do Thái xưa thường làm. Đó là bố thí, cầu nguyện và ăn chay. Đây cũng là ba việc đạo đức tiêu biểu được xem như ba cột trụ nâng đỡ toàn bộ đời sống đạo đức của người Kitô hữu chúng ta hôm nay. Trong đó, cầu nguyện là bổn phận đối với Chúa, nghĩa là chúng ta cần phải dành thời giờ hơn nữa trong việc phụng thờ Người. Chay tịnh là bổn phận đối với bản thân, nghĩa là chúng ta cần phải khắc phục bản thân để hoàn toàn thuộc về Chúa trong phẩm giá của người con Chúa. Bố thí là bổn phận đối với tha nhân, nghĩa là chúng ta cần nhạy cảm hơn về nhu cầu của những người anh em xung quanh chúng ta để giúp đỡ và phục vụ họ. Tuy nhiên, Chúa muốn chúng ta khi làm những việc này phải tránh hết mọi thái độ phô trương. Đừng giống như các Luật sĩ và Biệt phái, chỉ chú trọng đến vẻ bề ngoài, nhưng hãy làm mọi việc cách kín đáo. Bởi, nếu chúng ta làm những việc lành để người đời khen tặng thì Thiên Chúa kể là ta đã được thưởng công rồi và sẽ không ban thưởng cho ta nữa.

Qua Lời Chúa hôm nay, chúng ta cần thức tỉnh lại tinh thần của mình khi làm những việc đạo đức, hay khi thi hành những việc thiện trong công tác tông đồ truyền giáo. Chúng ta phải tránh hoàn toàn những thái độ như cầu nguyện giữa ngã ba đường, ủ rũ khi ăn chay hay khua chiêng đánh trống khi làm việc bác ái. Chúng ta phải ý thức rằng chúng ta làm mọi việc vì Chúa và vì lợi ích cho tha nhân chứ không phải vì mưu lợi cho bản thân.

Lạy Chúa, chúng con xin tạ ơn Chúa vì đã cho chúng con thời gian thuận tiện của mùa Chay Thánh này, để chúng con xét duyệt lại cuộc đời và những thiếu sót, lệch lạc nơi bản thân chúng con. Xin Chúa giúp chúng con biết nhận rõ những yếu hèn đang hiện hữu nơi con người chúng con để cùng với ơn can đảm Chúa ban, chúng con sẽ sống 40 ngày Chay Thánh cùng với ba cột trụ đạo đức cách sốt sắng và đẹp ý Chúa hơn cả. Amen.

--------------------------------

 

Lễ_tro-145: Ăn năn _ Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 

Có một món ăn các nhà hàng nhiều sao không quen thết đãi, nhưng những quán ăn tôn giáo lại Lễ_tro-145


Có một món ăn các nhà hàng nhiều sao không quen thết đãi, nhưng những quán ăn tôn giáo lại xem như đặc sản của mình. Món ăn ấy người đời không quen thưởng thức, nhưng kẻ có đạo lại tìm đến ăn như một thứ lương thực sớm tối. Món ăn ấy không có trong thực đơn của những đầu bếp trứ danh nhưng luôn gặp thấy trên bàn ăn của Giáo Hội lữ hành. Món ăn ấy đơn giản lắm nhưng lại là món ăn có đầy đủ mọi hương vị chua cay mặn chát ngọt bùi của quá khứ hiện tại tương lai. Món ăn chữa bệnh nhưng đồng thời cũng là món ăn bổ dưỡng tâm linh.

Món ấy là món gì? Thưa đó là món “ăn năn sám hối”, một món ăn màu tím truyền thống của Mùa Chay.

Đó không phải là món ăn mới nhưng luôn có diệu cảm mới dành cho những ai biết ăn đúng cách. Đó không phải là món ăn lạ, nhưng luôn là những phép lạ tâm linh dành cho những ai biết ăn đúng liều lượng. Đó không phải là món ăn đặc sản chỉ thết đãi trong thời gian cao điểm như Mùa Vọng Mùa Chay, mà là món quanh năm ngày tháng mở cửa cho hết mọi người bất kể giàu nghèo lớn bé. Đó không phải là món ăn cầu kỳ trong các nhà hàng quý tộc, mà thực ra là một nhịp cầu vô cùng kỳ diệu dẫn ta ra khỏi tình trạng tối tăm và dẫn ta bước tới đời sống thánh ân. (x. Làm Nụ Hoa Trắng. ĐGM Vũ Duy Thống).

1/ Ăn năn sám hối

Trong nghi thức khai mạc Mùa Chay, các tín hữu từ giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ đến giáo dân, mọi người đều khiêm hạ nhận lấy một chút tro trên đầu. Người giàu cũng như người nghèo, người già cũng như người trẻ, ai cũng nhận mình là thân phận bụi đất. Nghi thức xức tro thật cảm động, vừa diễn tả lòng sám hối ăn năn, vừa nói lên nguồn gốc tro bụi của đời người. Lần lượt mỗi người, từ cụ ông cụ bà đến trẻ nhỏ bước lên để thừa tác viên rắc tro trên đầu. Nghi thức và cử chỉ ấy giúp con người ý thức thân phận mong manh và giới hạn của mình. “Hãy nhớ ngươi được tạo dựng từ bụi tro, và sẽ trở về với bụi tro”. Đó là lời Thiên Chúa đã phán với Ađam Evà. Đó là lời Chúa nói với từng người khi lên xức tro.

Ý thức thân phận giới hạn mong mong của mình, để làm gì? Thưa là để biết rằng tôi không sống mãi trong cuộc đời này, sớm muộn gì cũng đến lúc tôi trở về với Chúa, và tôi sẽ phải trả lời trước mặt Chúa về cuộc đời của mình. Con người có sinh có tử, có hợp có tan, có khởi đầu sẽ có kết thúc. Nghĩ về sự chết để mà sống sao cho “đẹp” đời trần thế. Làm sao để tôi sống cuộc đời này cách ý thức hơn, với tinh thần trách nhiệm hơn, để khi đến trước mặt Chúa tôi có thể đến trong niềm vui, chứ không phải trong sự sợ hãi!

Vì thế, cử chỉ xức tro còn hàm chứa một lời mời gọi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”; hãy nhìn nhận những tội lỗi thiếu sót, những bất tất trong cuộc đời của mình, hãy tỏ lòng ăn năn sám hối và hãy cố gắng để sửa đổi những gì còn thiếu sót đó để sống hợp với thánh ý Thiên Chúa hơn.

2/ Năm bước ăn năn (x. Bài giảng lễ Tro 2007, ĐTGM Phaolô Bùi Văn Đọc).

Mùa Chay là mùa đặc biệt dành cho sự trở về của người biết ăn năm sám hối. Sự trở về này gồm nhiều giai đoạn, phần lớn xảy ra trong nội tâm. Ăn năm sám hối bắt đầu từ nội tâm, từ cõi lòng.

Bước đầu tiên của hành trình ăn năn sám hối là ý thức tội lỗi. Trong thâm sâu của cõi lòng, trong nội tâm, chúng ta thấy mình có tội, nhận ra tội lỗi của mình. Chúng ta phán xét chính mình, nhận điều xấu mình đã làm, hay cái tâm địa xấu xa của mình. Đối với nhiều người, bước đầu tiên này đã là khó. Nhiều người trong thời đại hôm nay dù đã làm bao nhiêu điều xấu, vẫn không thấy mình có tội. Họ đã đánh mất ý thức tội lỗi, và đó là nguy cơ lớn nhất của nhân loại ngày nay.

Bước thứ hai là sự hối hận, đau buồn, ray rứt trong lòng vì những điều xấu mình đã làm. Sự đau buồn này là một liều thuốc đắng, chữa lành cho vết thương tội lỗi. Sự ăn năn phản tỉnh của một con người sau khi đã lỡ làm điều ác, sẽ làm cho người đó trở nên tốt hơn, sâu sắc hơn.

Bước thứ ba là sự gặp gỡ Thiên Chúa trong nội tâm, là một sự gặp gỡ trong tin yêu. Khi đã lỡ phạm tội, nhiều người rất hối hận, vì yêu Chúa. Càng yêu Chúa, chúng ta càng hối hận, càng hối hận chúng ta càng yêu Chúa. Chúng ta gặp gỡ Chúa, thú nhận tội lỗi với Chúa và xin Chúa tha thứ. Chắc chắn Chúa tha thứ và ban lại cho chúng ta niềm vui và sự bình an. Giai đoạn này Chúa cho chúng ta cảm nghiệm được Tình yêu và lòng thương xót của Chúa.

Bước thứ tư là quyết tâm thú nhận tội lỗi của mình, không những với Chúa, mà còn với Giáo hội. Giai đoạn này, cần phải lướt thắng sự ngại ngùng trong việc xưng tội, nói ra sự thật và tất cả sự thật với cha giải tội là đại diện cho Chúa và cho Hội Thánh. Giai đoạn này cũng rất cần thiết, vì nó biểu lộ sự chân thực của lòng thống hối, tránh cho chúng ta ảo tưởng và sự chủ quan.

Bước thứ năm là thực sự sửa đổi đời sống. Sống khác đi, không sống như cũ nữa, không làm điều ác nữa; dứt khoát với tình trạng tội lỗi mà mình đang mắc phải. Giai đoạn này rất khó và đòi hỏi sự hy sinh, sự chiến đấu với chính mình, và sự chiến thắng, làm chủ được chính mình. Chính vì thế mà cần rất nhiều ơn Chúa, cần sự giúp đỡ của những anh chị em đồng đạo với mình.

Để có thể canh tân đổi mới đời sống cách hữu hiệu và bền bỉ, phải cầu nguyện rất nhiều như lời Chúa dạy. Cầu nguyện âm thầm kín đáo trong lòng, chứ đọc kinh bên ngoài thôi chưa đủ. Rồi phải ăn chay, nghĩa là phải nhịn, không chỉ nhịn ăn mà thôi, có khi còn phải nhịn nói, nhịn thỏa mãn sở thích của mình, kiềm hãm tình cảm nóng giận. Và cuối cùng hãy tập làm việc lành, tập giúp đỡ những người nghèo khổ hơn mình.

3/ Muốn ăn năn phải hãm mình

Xã hội càng duy vật và giàu có, người ta càng có khuynh hướng quên đi một số quy luật cơ bản của đời sống tinh thần. Quy luật xem ra bị lãng quên nhiều nhất chính là ăn năn sám hối, để rèn luyện ý chí hầu có thể làm chủ bản thân. Trong mọi cuộc đấu tranh, sự đấu tranh với bản thân là gay go hơn cả. Chính vì thế có một số người, sau khi đã đấu tranh thất bại với bản thân thì hoàn toàn nản chí, không còn muốn đấu tranh với chính mình nữa và thường xuyên chiều theo con người hư đốn của mình. Có những người khác, vì không bao giờ đấu tranh với chính mình, nên chỉ dành thời giờ và sức lực để đấu tranh chống tha nhân và ức hiếp người yếu thế.

Mùa Chua là mùa ăn năm sám hối. Mục đích của việc ăn năn sám hối là hãm mình. Hãm con người mình lại, hãm bớt dục vọng, hãm bớt đam mê, hãm bớt thói hư tật xấu, hãm bớt sự tham lam của cải, hãm bớt sự hung hăng gây chiến, hãm bớt lòng tự cao tự đại, hãm bớt cả những sở thích thường nhật. Sự hãm bớt như thế có một tác dụng rất lớn, nếu được thực hành thường xuyên sẽ tạo cho ta một nội lực một sức mạnh giúp ta làm chủ bản thân khi cần thiết. Ðức tính tự chủ dễ nảy sinh và phát triển nơi những con người quen hãm mình. Và chính đức tính ấy làm cho con người thực sự tự do, làm chủ bản thân, không nô lệ chính mình vào bất cứ điều gì. Thoạt nghĩ tới thì sự hãm mình có vẻ là một sự gò bó, giới hạn, cắt xén, làm cho con người không còn được tự do thoải mái. Chính vì thế mà nhiều người trong xã hội hôm nay, kể cả những người có đạo, thậm chí cả những người sống đời tu trì, không thích hãm mình, và hầu như không còn hãm mình nữa. Ðó là lý do của sự xuống dốc về đạo đức trong gia đình và ngoài xã hội[i].

Giáo Hội biết rõ cứ sự thường người ta không thích hãm mình, nên thường dạy hy sinh đi đôi với sự hãm mình. Hy sinh là tự nguyện chết đi, là thông phần với cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu, kết hợp với hiến tế thập giá của Ngài. Hy sinh làm những điều mình không thích quả thật là từ bỏ chính mình để bước theo Chúa. Hy sinh là liều mất sự sống, thì sẽ được sống, là đánh mất bản thân, thì sẽ gặp lại bản thân. Hy sinh là chết đi để được vui sống muôn đời. Hy sinh là đi con đường thập giá dẫn tới vinh quang Phục Sinh. Nếu không có động lực nào thúc đẩy thì con người rất ngại hy sinh hãm mình. Nhưng khi có động lực là tình yêu, con người có thể hy sinh dễ dàng. Hãm mình hy sinh không còn là gánh nặng, trái lại còn trở nên nhẹ nhàng cho những ai đang yêu Chúa và yêu những người khác. Chính vì thế mà hãm mình hy sinh thường đi chung với cầu nguyện. Có cầu nguyện, tiếp xúc với Chúa, gặp gỡ Chúa, cảm nghiệm tình yêu của Chúa, chúng ta sẽ sẵn sàng hy sinh nhiều thứ, và dễ dàng làm chủ bản thân mình. Đời sống cầu nguyện thường được nuôi dưỡng bằng những hy sinh nho nhỏ trong đời sống thực tế mỗi ngày.

Mùa Chay là thời gian thuận tiện để cầu nguyện, để ăn năn sám hối để hy sinh hãm mình, nhờ đó mà canh tân bản thân mình ngày mỗi hoàn thiện hơn.

--------------------------------

 

Lễ_tro-146: XỨC TRO VÀ ĂN CHAY VỀ TINH THẦN


 LM ĐAN VINH- HHTM

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Mt 6,1-6.16-18

(1) Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời ban thưởng. (2) Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. (3) Còn anh khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, (4) để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh. (5) Và khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: Chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư cho người ta thấy. Thầy bảo thật anh em: Chúng đã được phần thưởng rồi. (6) Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh.

(16) Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: Chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. (17) Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, (18) để không ai thấy là anh ăn chay, ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh.


2. Ý CHÍNH:

 

Đức Giê-su đòi môn đệ phải làm các việc đạo đức phù hợp với tinh thần mới của Người:  - Đối với Lễ_tro-146


Đức Giê-su đòi môn đệ phải làm các việc đạo đức phù hợp với tinh thần mới của Người:

- Đối với tha thân: Phải quảng đại chia sẻ cơm bánh vật chất.-
- Đối với Thiên Chúa: Phải chuyên cần cầu nguyện.
- Đối với bản thân: Phải năng ăn chay hãm mình đền tội.

Điều cốt yếu khi làm các việc ấy là phải làm trong tinh thần khiêm tốn: Tránh khua chiêng đánh trống khi bố thí để tìm tiếng khen; Tránh cầu nguyện ở chỗ đông người để được ca tụng; Tránh làm bộ mặt rầu rĩ khi ăn chay để cho người ta biết mình đang ăn chay.

3. CHÚ THÍCH:

- C 2-4: + Bố thí: Thời Đức Giê-su, bố thí là việc công chính bậc nhất (x. Hc 7,10). Hình như người ta ưa làm việc bố thí công khai, nên dễ đưa tới thái độ phô trương bề ngoài, nhằm để được người khác ca tụng. + Đừng có khua chiêng đánh trống: Rất có thể những người Pharisêu thời bấy giờ dùng chiêng trống để loan báo cho người ăn xin nghèo khó tập trung lại nhận quà. Tuy nhiên, không thấy bản văn nào nói đến việc này. Do đó ta có thể coi đây chỉ là một ví dụ có tính phóng đại để khuyến cáo môn đệ phải khiêm tốn khi làm các việc đạo đức. + Chúng đã được phần thưởng rồi: Lời khen của người đời chính là phần thưởng dành cho những ai làm việc bố thí chỉ nhằm khoe khoang. Do đó, họ sẽ không được công phúc thiêng liêng trước mặt Thiên Chúa sau này. + Đừng “cho tay trái biết việc tay phải làm”: Là một kiểu nói có nghĩa là cần phải giữ kín, không cho người khác biết việc tốt mình đang làm.

- C 5-6: + Cầu nguyện: Chính Đức Giê-su đã làm gương và dạy các môn đệ về sự cầu nguyện (x. Mt 14,23). Theo Người thì lời cầu nguyện phải có những đặc tính sau: Phải khiêm tốntrước Thiên Chúa và người đời (x. Lc 18,10-14;Mt 6,5-6); Phải chân thành, phát xuất tự đáy lòng (x. Mt 6,7); Phải tin tưởngvào lòng nhân từ của Thiên Chúa (x. Mt 6,8 ; 7,7-11) và phải kiên trìnài xin (x. Lc 11,5-8 ; 18,1-8). Lời cầu nguyện sẽ chỉ được nhận lời khi cầu xin với lòng tin mạnh(x. Mt 21,22), cầu xin nhân danh Đức Giê-su(x. Mt 18,19-20), và cầu xin những ơn thực sự ích lợi cho phần rỗi đời đời (x. Mt 7,11).+ Chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư cho người ta thấy: Ở đây Đức Giê-su không đả kích việc cầu nguyện công khai và cộng đồng (x. Mt 18,19-20), nhưng Người chỉ trích ý đồ của người cầu nguyện là muốn phô trương công đức để được người đời ca tụng. + Hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu nguyện cùng Cha của anh: Đức Giê-su gợi lại cách thức của ngôn sứ Êlia cầu nguyện khi làm phép lạ (x. 2V 4,33).

- C 16-18: + Ăn chay: Đã từ rất lâu, dân Ítraen có tục ăn chay mỗi khi có tang chế(x. 2 Sm 3,35), khi cầu xin Chúa một ơn đặc biệt(2Sm 12,16). Ăn chay theo luật Môsê là nhịn ăn uống vào ban ngày. Trong thời gian ăn chay, người ta không được tắm rửa, phải để râu tóc mọc dài, và mặc một loại quần áo bằng vải thô đặc biệt. Thời Đức Giê-su, dân Do thái chỉ buộc phải ăn chay trong ngày lễ Xá tội(x. Lv 16,29-31; Cv 27,9), và trong ngày kỷ niệm Đền thờ bị tàn pháhoặc trong những lúc gặp thiên tai. Riêng các người Pharisêu còn tự nguyện ăn chay thêm mỗi tuần hai lần(x. Lc 18,12). + Còn anh, khi ăn chay...: Đức Giê-su muốn cho các môn đệ của Người phải ăn chay trong sự khiêm tốn: thay vì rắc tro lên đầu, để râu tóc bù xù, quần áo dơ bẩn...như người Biệt phái thường làm, thì họ cứ rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm như mọi ngày khác, để cho người ta không biết mình đang ăn chay.

4. CÂU HỎI:

1) Hãy cho biết ba việc đạo đức người Do thái đạo đức quen làm là những việc gì?
2) Theo Đức Giê-su: cầu nguyện đúng đắn phải có những đặc tính nào? Muốn đạt được hiệu quả thì lời cầu nguyện phải có những điều kiện nào?
3) Luật Môsê dạy dân Do thái ăn chay như thế nào?
4) Thời Đức Giê-su, dân Do thái buộc ăn chay những ngày nào? Và người Pharisêu thì ăn chay những ngày nào?
5) Đức Giê-su dạy môn đệ phải ăn chay cách nào để làm đẹp lòng Thiên Chúa?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Còn anh khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm” (Mt 6,4).

2. CÂU CHUYỆN: NƠI NÀO TRONG NHÀ THỜ LŨ CHUỘT ÍT BỊ QUẤY RẦY NHẤT?

Có một con chuột cống sống trong một ngôi nhà thờ cổ ở miền quê. Một hôm nó đi lang thang trong nhà thờ để kiếm cái gì ăn cho đỡ đói. Bỗng nó gặp một con chuột khác cũng đang đi tìm thức ăn như nó. Thế là hai con chuột liền làm quen với nhau và hỏi thăm chỗ ở của nhau. Con thứ nhất tâm sự: “Tớ đang sống chui rúc dưới gầm tòa giải tội trong ngôi nhà thờ này, nhưng chẳng mấy khi được yên thân. Vì lúc nào cũng có người đến xưng tội làm mất giấc ngủ của tớ!”. Nghe vậy, chuột thứ hai tỏ ra thông cảm với bạn và nói: “Vậy thì bồ hãy dọn đến ở chung với tớ. Chỗ tớ đang ở vừa ấm áp sạch sẽ, lại vừa yên tĩnh và ít bị người ta quấy rầy!” Chuột thứ nhất ngạc nhiên hỏi: “Có một chỗ ở như thế thật ư? Vậy bạn hãy cho tớ biết đó là chỗ nào vậy? “. Chuột thứ hai liền đáp: “Đó là cái thùng quyên góp tiền bạc giúp đỡ người nghèo. Nó nằm ngay tại cuối nhà thờ này đấy!”.

2) BÁC ÁI CHIA SẺ LÀ CÁCH ĂN CHAY ĐẸP LÒNG CHÚA HƠN CẢ:

Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện. Ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Ðể thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi nào ông ít ăn chay và không cầu nguyện thì ngôi sao bị lu mờ đi. Khi ông gia tăng ăn chay cầu nguyện thì ngôi sao lại rực sáng lên.

Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Khi ông chuẩn bị lên đường thì một bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng với ông lên núi. Thày trò hăng hái lên đường. Đường càng lên cao thì càng dốc và khó đi. Mặt trời mỗi lúc càng nắng gắt. Hai thày trò đều bị ướt đẫm mồ hôi và khát nước, nhưng theo luật ăn chay nghiêm ngặt nên không ai dám uống nước. Vị ẩn tu không dám uống vì sợ phá chay mất công phúc trước mặt Chúa. Nhưng khi thấy em bé mỗi lúc mệt thêm, vị ẩn tu thương hại em nên mở chai nước ra uống. Lúc ấy em bé mới dám mở chai của mình ra uống. Uống nước xong, em cảm thấy khỏe hơn và mỉm cười rất tươi để tỏ lòng cám ơn thày. Thày ẩn tu ngước mắt nhìn lên ngôi sao trên đỉnh núi vì sợ ngôi sao kia biến mất vì mình đã không hãm mình. Nhưng lạ thay, trên đầu núi thày thấy không phải một mà lại có đến hai ngôi sao sáng cùng xuất hiện. Thì ra, để thưởng công lòng bác ái yêu thương người khác của thày, Chúa đã cho thêm một ngôi sao nữa. 

3. THẢO LUẬN:

1) Trong kinh “cải tội bảy mối có bảy đức”, bạn thấy mình thường hay sai phạm mối tội đầu nào nhất ?
2) Bạn quyết tâm sẽ làm gì cụ thể để chừa bỏ được thói xấu ấy trong những ngày Mùa Chay này?

4. SUY NIỆM:

1) BA VIỆC CẦN LÀM TRONG MÙA CHAY LÀ XỨC TRO, ĂN CHAY VÀ BỐ THÍ:

a)Ý nghĩa của việc xức tro lên đầu:

Hội thánh cử hành nghi thức làm phép và xức tro để khai mạc Mùa Chay Thánh. Trong nghi lễ xức tro, Hội Thánh nhắc nhở mọi tín hữu chúng ta: “Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro. Một mai người sẽ trở về bụi tro”.

Khi lãnh tro lên đầu là chúng ta nhận mình chỉ là tro bụi như tổ phụ  Áp-ra-ham xưa đã thưa với Đức Chúa: “Con chỉ là thân tro bụi” (St 18, 27), đồng thời chúng ta cũng bày tỏ lòng sám hối và tin vào Đức Giê-su như Người đã kêu gọi khi khởi đầu công cuộc rao giảng Tin Mừng: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1, 14).

Thời ngôn sứ Gio-na, Đức Chúa truyền cho ông loan báo cho dân thành Ni-ni-vê tội lỗi về tai ương mà Người sẽ giáng xuống trên thành nếu họ không chịu hồi tâm sám hối. Lúc đầu Gio-na chạy trốn Đức Chúa và con thuyền gặp bão và Gio-na bị ném xuống biển bão mới yên. Ông đã nằm trong bụng cá và ba ngày sau, cá đã há miệng nhả ông nằm trên bãi biển thuộc thành Ni-ni-vê. Ông đã chịu khuất phục ý Chúa và bắt đầu thi hành sứ mạng kêu gọi dân Ni-ni-vê sám hối. Nghe ông rao giảng và chứng kiến phép lạ nằm trong bụng cá của ông, từ vua đến dân đều ăn năn sám hối: “Vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và ngồi trên tro” (Gn 3, 6). Nhờ đó thành Ni-ni-vê đã được Đức Chúa thương xá tội và tha không hành phạt nữa.

Sang thời Tân Ước, giá trị và ý nghĩa của việc xức tro vẫn được Đức Giê-su công nhận như phương thế bày tỏ lòng ăn năn sám hối khi chê trách dân hai thành phố Do thái là Kho-ra-din và Bét-xai-đa như sau: “Khốn cho các ngươi, hỡi Kho-ra-din! Khốn cho ngươi, hỡi Bét-sai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đon, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối. Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, thành Tia và thành Xi-đon còn được xử khoan hồng hơn các ngươi” (Mt 11, 21 - 22; x. Lc 10, 13).

Như vậy, khi chịu tro lên đầu, ngoài việc công khai nhận mình là người tội lỗi và tỏ lòng sám hối xin Thiên Chúa dủ lòng thương tha thứ, chúng ta còn thể hiện sự quyết tâm trở về với Chúa, đổi mới tâm hồn để xứng đáng trở nên con cái Thiên Chúa.

b) Ăn Chay đền tội:

Ngay từ thời các vua, dân Ít-ra-en đã có thói quen ăn chay mỗi khi có tang chế(x. 2 Sm 3,35), khi cầu xin Chúa một ơn đặc biệt(2 Sm 12,16), trong ngày kỷ niệm Đền thờ bị tàn pháhoặc trong những lúc gặp thiên tai. Đến thời Chúa Giê-su, các người Pha-ri-sêu còn tự nguyện ăn chay thêm mỗi tuần hai lần(x. Lc 18,12).

Về cách thức ăn chay: Luật Mô-sê quy định ăn chay là sự tự nguyện nhịn ăn uống vào ban ngày. Trong thời gian ăn chay, người ta không được tắm rửa, phải để râu tóc mọc dài, và mặc một loại quần áo bằng vải thô đặc biệt. Luật buộc ăn chay trong ngày lễ Xá tội(x. Lv 16,29-31; Cv 27,9),

Ăn chay thể hiện tinh thần thờ phượng Thiên Chúa và là hành vi đẹp lòng Người (x. Ds 29,7). Ăn chay còn có ý nghĩa thể hiện lòng thành tín để xứng đáng được Thiên Chúa nhận lời cầu xin (x. 2Sm 12,16-22); để thể hiện tinh thần sám hối đền tội, xứng đáng được Chúa tha thứ (x. Lv 23,27); Ăn chay hỗ trợ hiệu quả cho việc trừ Quỉ... (x. Mt 17,21). Ăn chay còn nói lên tính vị tha là thực hiện công lý và tình thương (x. Is 58,6-7). Ăn chay là phương thế thánh hóa bản thân, siêu thoát tinh thần để được hưởng sự sống đời đời. Ăn chay giúp chúng ta không còn bám víu vào của cải vật chất đời này, không cậy dựa vào sức riêng mình cách thái quá mà biết cậy dựa vào Lời Chúa như Chúa dạy: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt 4,4).

Tuy nhiên, việc ăn chay chỉ có giá trị trước mặt Chúa và nhận được ơn Chúa ban nếu được thực hiện trong tinh thần khiêm hạ như lời Đức Giê-su: “Khi ăn chay, anh em chớ làm bộ mặt rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em: chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay, ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh” (Mt 6,16-18).

c) Làm phúc bố thí bới lòng mến Chúa:

- Các việc đạo đức như ăn chay cầu nguyện cần thể hiện lòng mến Chúa yêu người mới có giá trị như thánh Phao-lô dạy: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,3).

- Tiếp đến một việc đạo đức thiết thực cần được thực hiện trong mùa Chay là bố thí chia sẻ cơm bánh vật chất cho những người nghèo đói. Đây là việc khó thực hiện nếu thiếu lòng quảng đại, nhưng nó sẽ mang lại ích lợi lớn lao và còn là phương thế hữu hiệu giúp chúng ta hồi tâm sám hối và làm việc đền tội cân xứng, như sứ thần Ra-pha-en đã khuyên hai cha con Tô-bi-a như sau: “Bố thí mà đi đôi với đời sống công chính, thì tốt hơn giàu có mà ăn ở bất công. Làm phúc bố thí thì tốt hơn là việc tích trữ vàng bạc. Việc bố thí làm cho chúng ta khỏi chết và giúp tẩy sạch mọi tội lỗi, đồng thời còn giúp người bố thí sống lâu” (x Tb 12,8-9).

Sở dĩ bố thí khó thực hiện vì “Đồng tiền liền khúc ruột”, nhưng bù lại, bố thí sẽ làm phát sinh ích lợi lớn lao, giúp chúng ta ý thức về giá trị tương đối của tiền bạc, như Đức Giê-su đã khuyên chàng thanh niên giàu có: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10,21).

2) CHÚNG TÔI PHẢI LÀM GÌ TRONG MÙA CHAY NÀY:

a) Phải tránh thói ăn chay hình thức vụ luật và phô trương của người Biệt Phái:

- Có những người ăn chay vì vụ luật hoặc vì sợ bị Chúa phạt: Những người này ăn chay để khỏi mắc tội. Do đó nếu trong ngày chay lỡ quên ăn vặt, ăn không đúng giờ... thì đâm ra lo lắng áy náy. Cũng có những người ăn chay cách tính toán để vừa giữ luật lại vừa thỏa mãn thói mê ăn của mình: Ngày mai ăn chay thì hôm nay sẽ tổ chức ăn uống no say để ngày mai đỡ thèm như thói tục “Thứ Ba Béo” của một số nước Âu châu. Có người cố nhịn ăn cho đến 24g tức là cuối ngày Thứ Tư, ngay sau đó họ nhậu nhẹt hả hê suốt đêm. Họ làm như thế để an tâm là mình đã giữ trọn ngày chay theo giáo luật.

- Cũng có người trong ngày chay buộc kiêng thịt để tỏ lòng sám hối thì lại mua những thứ đắt tiền như: hải sản, tôm hùm, cá hồi…. Ăn chay như vậy không khác gì cách ăn chay của người Pha-ri-sêu và dân Do thái xưa đã bị Đức Chúa quở trách: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mc 7,6).

b) Phải ăn chay trong tinh thần chay tịnh kết hiệp với việc bác ái:

Ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm lời Đức Chúa: “Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm?Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục? Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành. Đức công chính ngươi sẽ mở đường phía trước, vinh quang Đức Chúa bao bọc phía sau ngươi. Bấy giờ, ngươi kêu lên, Đức Chúa sẽ nhận lời, ngươi cầu cứu, Người liền đáp lại: "Có Ta đây!" Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở gông cùm, cử chỉ đe doạ và lời nói hại người, nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói, làm thoả lòng người bị hạ nhục,thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu toả trong bóng tối, và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ. Đức Chúa sẽ không ngừng dẫn dắt ngươi, giữa đồng khô cỏ cháy, Người sẽ cho ngươi được no lòng; xương cốt ngươi, Người sẽ làm cho cứng cáp. Ngươi sẽ như thửa vườn được tưới đẫm như mạch suối không cạn nước bao giờ” (Is 58,6-11).

c) Làm gì cụ thể trong Mùa Chay này ?

Mục đích của Mùa Chay là giúp ta trở về với Chúa và với anh em bằngcách ăn năn sám hối tội lỗivằng việc xức tro, ăn chay, cầu nguyện, làm việc lành.

** Ngày nay Hội Thánh chỉ xức một chút tro trên đầu các tín hữu để khẳng định: Xức tro nhiều ít không quan trọng bằng việc phải xức tro trong tâm hồn. Để thấy tâm hồn mình đang bị ô uế vì tội lỗi. Để thấy rõ ta đã bôi tro trát trấu vào khuôn mặt vô cùng thánh thiện của Thiên Chúa, đã làm lem luốc khuôn mặt khả ái của Hội Thánh, đã làm ố danh cho đạo thánh Chúa. Xức tro vào tâm hồn để mối quan hệ giữa chúng ta với tha nhân đang bị vẩn đục vì thói  ích kỷ nhỏ nhen của ta để lòng ta cảm thấy đau đớn, hối hận và quyết tâm cải tà quy chánh.

- Ăn chay không phải chỉ là nhịn ăn một hai bữa cơm nà nhằm nhắc nhớ ta hãy hãm dẹp các đam mê bất chính, các thói hư tật xấu, hãm dẹp những gì làm mất lòng Chúa và làm buồn lòng anh em.Khi giản lược việc ăn chay chỉ vào hai ngày trong một năm, không phải vì Hội Thánh coi nhẹ việc ăn chay, nhưng vì muốn tránh sự ăn chay hình thức bề ngoài, để giúp các tín hữu tập trung vào việc ăn chay trong tinh thần: Nhịn ăn một chén cơm không bằng nhịn nói một lời xúc phạm người khác. Nhịn ăn một miếng thịt không bằng nhịn một cử chỉ khinh thườnganh em. Nhịn ăn một bữa cơm ngon không bằng nhường nhịn, tha thứ, sẵn sàng làm hòa với nhau. Kiềm chế cơn đói không bằng kiềm chế cơn nghiện rượu, nghiện ma túy, nghiện cờ bạc.Kiềm chế cơn khát không bằng kiềm chế các dục vọng, loại bỏ thói tham lam và tính hay tự ái kiêu ngạo.

** Ngôn Sứ Giô-en trong phụng vụ lễ Tro kêu gọi dân Do thái: “Hãy xé lòng chứ đừng xé áo”. Người Do-thái có tục lệ khi ăn chay, thống hối thì xé áo ra. Đó là một hình thức biểu lộ sự thống hối. Điều quan trọng là tâm hồn phải thực sự sám hối. Xé áo không bằng xé lòng khỏi các tham lam, ăn ở bất công. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi sự lười biếng, khô khan, nguội lạnh. Xé áo không bằng xé lòng khỏi những dính bén danh lợi thú trần gian. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói gian dối, đạo đức giả như người Biệt Phái..

Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới gạt bỏ được những chướng ngại ngăn cản ta đến với Chúa. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới đến gần Chúa, sống thân mật với Chúa, hưởng được tình thương bao dung của Chúa.

Để ăn chay trong tinh thần và để hướng lòng về tha nhân, chúng ta hãy biến việc ăn chay thành những hành động bác ái cụ thể.Mỗi ngày trong Mùa Chay, bớt chi tiêu một chút, để gửi tiền giúp những nơi nghèo khổ, bị thiên tai, những đồng bào dân tộc vùng sâu vùng xa… Nhờ thế, việc ăn chay của ta sẽ không chỉ là hình thức, nhưng là những hy sinh thực sựvà trở nên những việc làm thiết thực đầy tình bác áihuynh đệ.

TÓM LẠI: bản chất của việc ăn chay là sự hãm mình đền tội, là kiêng ăn bớt tiêu để lấy tiền dư ra chia sẻ bác ái giúp đỡ người nghèo đói, tích cực góp phần vào công cuộc truyền giáo và cộng tác giúp cho Hội Thánh ngày một phát triển cả về vật chất cũng như tinh thần!

5. NGUYỆN CẦU

ẠY CHÚA GIÊ-SU. Cùng với toàn thể Hội thánh, chúng con đã bước vào Mùa Chay. Chúng con xin tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con một thời kỳ thuận tiện để duyệt xét cuộc đời chúng con, hầu bù đắp những thiếu sót, sửa chữa những lệch lạc nơi con người chúng con. Xin Chúa hãy chiếu ánh sáng của Chúa trên chúng con, để chúng con nhận ra con người thật của mình và quyết tâm đổi mới để trở thành môn đệ của Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

--------------------------------

 

Lễ_tro-147: SỐNG CÔNG CHÍNH THẬT


“Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng không các con mất công phúc nơi Cha các con là Đấng ở trên trời” (Mt 6,1).

 

Sống công chính và được kể là công chính trong tương quan đối thần và đối nhân vốn là điều Lễ_tro-147


Sống công chính và được kể là công chính trong tương quan đối thần và đối nhân vốn là điều con người mong muốn. Nhưng trong thực tế, sự công chính dễ bị người ta hiểu sai do sự nhập nhằng giữa việc sống công chính thật và sự giả bộ bên ngoài, dễ bị lạm dụng và sử dụng như phương tiện để đạt được mục đích trần thế mà không phải là Chúa. Trong ngày đầu tiên của Mùa Chay thánh, ta được mời gọi đến với Đức Giêsu để học nơi Người bài học sống sự công chính thật.

Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu xác định thái độ của các phần tử Nước Trời để đối lại với thái độ của những người giả hình. Nếu hạng giả hình khua chiêng đánh mõ khi bố thí, đứng nơi công cộng lúc cầu nguyện, nét mặt thiểu não cho mọi người thấy họ ăn chay, thì môn đệ chân chính không nhớ việc mình bố thí, cầu nguyện kín đáo trong phòng, xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt để việc mình ăn chay không ai biết. Trong giáo huấn của Đức Giêsu, điều bị kết án nơi hạng người giả hình không phải là hành vi bố thí, việc cầu nguyện công khai, cũng chẳng phải là việc ăn chay, mà là thói phô trương, không qui hướng những hành vi đạo đức đó về Thiên Chúa – vị Thiên Chúa là Cha trong tương quan với con người. Đức Giêsu muốn tương quan này phải mang dấu ấn là sự tin tưởng, tín nhiệm, nhất là sự chân thật nơi mỗi người môn đệ. Thiên Chúa là Đấng không thể bị lừa dối bởi những chuyện bề ngoài, đóng kịch. Trước nhan Ngài, điều đáng kể không phải là những lời nói suông và hành động bề ngoài, mà chính là ý hướng tốt của con người.

Nhìn vào thực tế xã hội, ta thấy không ít những tổ chức, tập thể hay các cá nhân nỗ lực trong việc thi hành bác ái, tương trợ những nơi và những người đau khổ. Ta có quyền lạc quan, tin tưởng và cảm tạ Chúa vì những nghĩa cử cao đẹp của họ. Nhưng đôi khi ta cảm thấy ái ngại khi biết chủ ý thật phía sau những hành động đó chỉ để được nổi danh hơn. Là Kitô hữu, ta phải là người sống công chính thật, ta không cần ẩn núp để làm việc thiện. Trái lại, cần “phải chiếu dãi trước mắt mọi người”, để nhờ đó thiên hạ được dẫn tới Thiên Chúa. Đồng thời, người Kitô hữu không được làm việc thiện trong chủ ý mong người đời biết đến và ca tụng, vì bấy giờ ánh sáng họ sẽ bị che lấp bởi kiêu căng và ích kỉ. Cách thức sống sự công chính theo Tin Mừng chính là chiều sâu nội tâm của các ý hướng, là quên mình và ưu tiên cho danh dự và quyền lợi của Thiên Chúa. Vì thế, nhờ ánh sáng và sức mạnh của Lời Chúa trợ lực, mỗi người chúng ta quyết tâm từ nay thay đổi tinh thần và cách sống của bản thân để Mùa Chay thánh thật sự trở thành thời gian hồng phúc.

Lạy Chúa, sứ điệp Mùa Chay mời gọi mỗi người trong chúng con phải có tinh thần sám hối, chay tịnh, cầu nguyện và làm việc bác ái, để qua các phương thế đó, chúng con được sống lại trong tình yêu thương với Chúa và tha nhân. Chúng con nài xin Chúa cho chúng con biết thật lòng quay trở về với Chúa, sống một đời sống công chính thật, để xứng đáng đón nhận ân sủng mà Chúa trao ban cho mỗi người chúng con trong Mùa Chay thánh này. Amen.

--------------------------------

 

Lễ_tro-148: CÁM DỖ ĐƯỢC XỨC TRO


(Thứ Tư Lễ Tro)

- Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa - Ban Mê Thuột

 

Vừa đọc cái tựa bài viết, hẳn nhiên không ít người phân vân tự hỏi: người viết có ấm đầu chăng Lễ_tro-148


Vừa đọc cái tựa bài viết, hẳn nhiên không ít người phân vân tự hỏi: người viết có ấm đầu chăng hay người viết đã lạc đạo? Để có thể phân bua hay gọi là giải thích cho sự thắc mắc thường tình ở trên, xin được cùng nhau xem xét một vài hiện tượng rất phổ biến trong sinh hoạt nhà đạo chúng ta. Đó là việc người người tranh nhau hôn kính Thánh Giá Chúa ngày Thứ Sáu Tuần Thánh và người người đua nhau đến để được xức chút muội than trên đầu vào ngày Thứ Tư Lễ Tro, ngày khởi đầu mùa Chay Thánh.

Nói rằng người người thì cũng chẳng hàm hồ, vì ngay một trong những hình ảnh của Nước Trời mà Chúa Giêsu đã từng ví là các bé thơ trong trắng vẫn được bố mẹ hay anh chị bồng đến để lãnh nhận chút tro hay được bố mẹ “dí mũi” vào tượng chuộc tội để chúng được hôn chân Chúa. Nói rằng người người thì cũng chẳng là phóng đại theo hình thái văn chương ngoa ngữ, vì không ít người đang ngần ngại đến toà cáo giải nhưng vẫn không thể bỏ việc hôn chân Chúa hay cúi đầu nhận tro. Vậy thử hỏi cớ nguyên nào có các hiện tượng ấy? Xin được mạo muội vạch ra một vài lý do, cho dù chưa hẳn là xác đáng nhưng hy vọng có thể giúp chúng ta suy nghĩ thêm chút gì.

1. Tâm lý chung thường xem cái gì hiếm thì quý: Mỗi năm chỉ một lần được hôn chân Chúa giữa cộng đoàn. Cũng thế mỗi năm chỉ một lần cử hành nghi thức xức tro. Tượng chuộc tội, có thể nói là không còn hiếm với ngày nay. Đã là Kitô hữu Công giáo thì hầu như nhà nào cũng có tượng chuộc tội vì dư khả năng để mà có. Các tượng đời mới lại xem ra có mỹ quan hơn so với trước đây. Trừ một số người có thói quen đạo đức, thì ít có ai “hôn Chúa” dăm bảy lần trong năm chứ đừng nói gì là hằng ngày. Cái tượng mà hằng năm được trưng ra để tín hữu hôn chân vẫn để hay treo đâu đó trong phòng thánh, nhưng thử hỏi có mấy ai đến “hôn chân” ngoài ngày Thứ Sáu Tuần Thánh.

Giả như nghi thức xức tro diễn ra hằng ngày hay hằng tuần, giả như nghi thức “hôn chân Chúa” cũng được cử hành hằng tuần hay hằng ngày thì chắc chắn có chăng chuyện người người tranh dành nhau vì không thể bỏ?

2. Tâm lý không muốn bị mất phần trong những sự gọi là của chung: “Một miếng giữa làng bằng cả sàng trong bếp”. Câu ngạn ngữ này dù chưa phản ánh cách sít sao nhưng cũng nói lên cái tâm lý không muốn bị mất phần. Đêm tiệc ly, khi Chúa Giêsu nói với Phêrô rằng nếu không để Chúa rửa chân thì sẽ không được dự phần với Người thì dù chẳng biết là phần gì, Phêrô đã sợ mất phần nên vội xin không chỉ rửa chân mà rửa cả tay và đầu! (x.Ga 13, 6-11). Trong một cuộc họp hay hội chung, có phát một tờ giấy tài liệu đơn giản, nếu mình không có thì cũng cảm thấy thiếu thiếu gì đó. Đúng là chuyện bình thường kiếp người cho dù bản thân là linh mục hay tu sĩ.

3. Tâm lý muốn biểu hiện tâm tình cách chung chung, như mọi người: để biểu lộ tâm tình sám hối cách chung chung như lên chịu chút tro thì hầu như rất dễ thực hiện. Vừa nhanh, vừa chẳng cần xưng thú điều gì cách cụ thể, thì việc chịu tro đã trở thành “một cám dỗ” khó bỏ qua. Giả như Hội Thánh thay đổi hình thức lãnh nhận bí tích hoà giải bằng việc chịu tro thì người người, nhà nhà sẽ nô nức lãnh nhận “bí tích hoà giải kiểu này” hằng ngày không chừng. Cái tâm tình chung chung tuy vẫn có tác dụng của nó nhưng hiệu quả thì hạn chế và chóng qua. Sám hối là để đổi thay, không biết có được bao nhiêu người nhận tro bày tỏ sự sám hối đã có được quyết tâm thay đổi? Yêu mến Chúa là để dõi theo chân Chúa, nên một với Chúa, sống như Chúa sống. Không biết có được bao nhiêu người bày tỏ sự mến yêu Chúa qua việc hôn chân Chúa đã có được nỗ lực đi theo chân Chúa, sống và yêu thương như Chúa đã sống và yêu thương?

Mùa chay thánh lại về. Các nghi thức, nghi lễ, các cách thức sống đạo được lập ra nhằm giúp ta sám hối ăn năn, thay đổi cuộc sống như xức tro, ăn chay, hôn chân Chúa, ngắm đàng Thánh Giá, ngắm nguyện các sự thương khó Chúa Giêsu… quả là tốt đẹp đáng trân trọng và phát huy. Những tâm tình đạo đức vốn có giá trị và chỗ đứng của chúng trong đời sống đạo, đời sống đức tin. Tuy nhiên, lời dạy của Mẹ Hội Thánh về việc tôn kính Đức Maria chắc chắn cũng không thể sai khi áp dụng với những hình thức đạo đức của mùa Chay. “Các tín hữu hãy nhớ rằng lòng tôn sùng chân chính không hệ tại ở tình cảm chóng qua và vô bổ, cũng không hệ tại ở một sự dễ tin phù phiếm, nhưng phát sinh từ một đức tin chân thật…” (GH 67).
Chước cám dỗ luôn có đó. Ma quỷ như sư tử luôn rảo quanh chúng ta như tìm mồi cắn xé (x.1P 5, 8). Chước cám dỗ mà ẩn sâu trong các hình thức đạo đức thì lại càng khó nhận diện để chống trả. Nếu chỉ hài lòng với một vài tình cảm đạo đức như “thấy thương Chúa”, “thấy mình là kẻ tội lỗi”… mà thôi chứ không thay đổi cuộc sống để nên tốt hơn, quảng đại hơn, thánh thiện hơn… thì cũng rất dễ sa chước cám dỗ. Quả thật, những câu chuyện thật như bịa “cười ra nước mắt” về việc sống đạo mùa chay vẫn chưa có hồi kết.

“Tên kia, đứng lại, lấy tiền ra, nộp ông đây”. Cha thánh Gioan Vianey nhân một buổi đi kẻ liệt trong ngày thứ Tư Lễ Tro về, cảm thấy có cái gì lành lạnh như con dao nhọn dí ở sau lưng, ngài nói: “Tôi không có tiền, nhưng hôm nay trời lạnh quá, mời anh điếu thuốc”. “Ồ, xin lỗi cha, trời tối quá, con không nhận ra cha. Xin cám ơn cha, hôm nay thứ Tư lễ Tro, ngày ăn chay, con không dám hút thuốc, kẻo phá chay”.

Một chuyện khác: “Sao chúng con đánh nhau?” Cha xứ hỏi hai thiếu niên.  Một em thút thít trả lời: “Thưa cha, bạn ấy dành hôn chân Chúa, xô con té”.

Lại một chuyện khác nữa: Đêm thứ Tư Tễ Tro, cha xứ thấy đèn một phòng học giáo lý còn sáng, ngài đến để tắt đèn bỗng thấy năm, sáu giáo lý viên còn ở đó. “Sao giờ này chúng con còn ở đây? Họp hành gì khuya thế! “Thưa cha - Một giáo lý viên gãi đầu thú nhận - dạ chúng con chờ đồng hồ điểm 12 giờ đêm để nhậu mà khỏi phá chay”. Cha xứ chào thua, tuy nhiên, vốn quá cẩn thận việc giữ luật, ngài căn dặn: “Nhưng cha cấm chúng con không được vặn đồng hồ chạy nhanh đó nghen, nhanh một phút cũng không được!”. Chuyện mùa chay còn tiếp…

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa - Ban Mê Thuột

--------------------------------

 

Lễ_tro-149: Cát bụi tuyệt vời


Thứ tư Lễ Tro - Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 

Nhạc Trịnh Công Sơn rất triết lý. Mùa Chay lại về, tôi thích nghe bài ca "Cát Bụi": Hạt bụi nào Lễ_tro-149


Nhạc Trịnh Công Sơn rất triết lý. Mùa Chay lại về, tôi thích nghe bài ca "Cát Bụi":

Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi, để một mai vươn hình hài lớn dậy.
Ôi cát bụi tuyệt vời, mặt trời soi một kiếp rong chơi.
Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi.
Ôi cát bụi mệt nhoài, tiếng động nào gõ nhịp không nguôi.
Bao nhiêu năm làm kiếp con người, chợt một chiều tóc trắng như vôi
Lá úa trên cao rụng đầy, cho trăm năm vào chết một ngày.

Cát bụi, con người chỉ là cát bụi. Hạt bụi tuyệt vời khi hoá kiếp thân tôi. Hạt bụi mệt nhoài khi tôi trở về làm cát bụi. Khi dùng hình ảnh hạt bụi để nói về thân phận con người, Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã lấy nguồn cảm hứng trong Thánh Kinh Sáng Thế: Thiên Chúa dùng bùn đất tạo dựng Ađam, sau khi Ađam phạm tội bất phục tùng, Thiên Chúa phạt ông và con cháu sau này cũng sẽ trở về với cát bụi. (x. St 1, 26 - 3, 24).

Nghĩ cho cùng, tất cả mọi người cũng chỉ là những hạt bụi hoá thân thành kiếp nhân sinh, sớm muộn cũng sẽ tàn lụi với thời gian. Do đó nỗi khắc khoải ngàn đời của con người là tìm kiếm ý nghĩa của sự hiện hữu, ý nghĩa của đau khổ, ý nghĩa của giải thoát, ý nghĩa của cuộc sống. Vấn nạn mà con người chưa tìm được câu trả lời chính là:

Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi?

Hạt bụi nào hoá kiếp thân bạn?

Và Hạt bụi nào hoá kiếp thân xác chúng ta?

Một vòng quay,một trăm năm, một kiếp người có là mấy! "Chợt một chiều tóc trắng như vôi". Không phải là trắng như bông, trắng như mây hay trắng như tuyết mà là như vôi đổ xuống huyệt mồ. Trịnh Công Sơn không bi quan, ông chỉ nói lên điều ông cảm nghiệm thấm thía về sự mong manh của kiếp người. Cuộc đời đẹp biết bao, sự sống cao quý biết dường nào, nhưng nó cũng như "đoá hoa vô thường". Xét cho cùng, đã là con người sinh ra trên đời, mặc dù có sống lâu trăm tuổi, có vẫy vùng ngang dọc cách mấy, từ bụi tro hóa kiếp nhân sinh, cuối cùng rồi cũng trở về bụi tro. Đó là một thực tế, nhìn nhận và đối diện với nó cách can đảm để có thể đưa tới một cuộc sống tốt đẹp hữu ích và có ý nghĩa.

Mùa Chay muốn nhắc nhở chúng ta quay về với sự thật của thân phận con người "Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai rồi sẽ trở về bụi tro...". Phụng vụ Giáo Hội muốn diễn tả rằng: cuộc đời này mong manh vắn vỏi, bởi thế nó rất hệ trọng. Số phận đời đời của mỗi người được quyết định trong thời gian tạm bợ này. Người theo Đạo Phật thì tin ở sự đầu thai kiếp sau, luân hồi nghiệp báo. Đối với Kitô hữu thì vĩnh cửu được gieo mầm trong hiện tại. Không để thời gian trôi qua cách phung phí. Đời người chỉ có một lần. Được mất chỉ có một cơ hội.

Thân phận mỏng dòn mà Phụng vụ Mùa Chay nhắc cho chúng ta đừng quên, không phải chỉ có liên quan đến phần xác hay chết của phận người mà còn cả về mặt tinh thần cũng mong manh yếu đuối. Thánh Phaolô đã diễn tả kinh nghiệm đó trong thư Rôma "Điều tôi muốn làm thì tôi lại không làm, nhưng điều tôi không muốn làm thì tôi lại cứ làm... Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn tôi lại cứ làm... Tôi khám phá ra luật này là khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm tôi vui thích vì luật của Chúa, nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tôi... tôi thật là một người khốn nạn. Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác hay chết này?" (Rm 7, 15.19. 21-24) .

Ý thức về sự yếu đuối và tội lỗi của mình, về khuynh hướng xấu, sự bất lực nơi bản thân để mỗi người nổ lực giải thoát khỏi sự thống trị khắc nghiệt của tội lỗi và đó là khởi đầu cho ơn hoán cải và ơn cứu độ.

Mùa Chay mời chúng ta vào sa mạc với Chúa Giêsu. Sa mạc là nơi hoang vu trơ trọi, mênh mông. Ở đó người ta mất hết mọi điểm tựa, không còn chi để "chia trí, lo ra", chẳng hạn như ngoại cảnh ồn ào, các hoạt động, các thú vui, các quan hệ xã hội. Chỉ còn ta với ta và buộc ta phải quay về với mình trong sự đơn độc của chính mình. Trong sự quay về đó ta có cơ may nhìn thấy những điều cốt yếu nhất khi đối diện với chính lòng mình.

Con người chúng ta thường sống hời hợt bên ngoài, tan loãng ra trong trăm thứ linh tinh hay phụ thuộc khác. Mùa Chay mời gọi chúng ta đi vào sa mạc, nghĩa là tạo một sự trống vắng nào đó, một sự thinh lặng của các giác quan của trí khôn và của cõi lòng, một sự rút lui vào trong tâm khảm mình để có thể phân định đâu là cái chính cái phụ, đâu là cái cùng đích và cái phương tiện. Đây chính là lúc hồi tâm.

Biềt mình mỏng dòn, nhưng con người theo Phụng vụ Mùa Chay lại không phải là con người mềm yếu, uỷ mị, ngả nghiêng theo mọi lời mời mọc cám dỗ. Con người Mùa Chay dũng cảm chiến đấu. Như Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời hoạt động công khai. Chúa vào sa mạc và tuyên chiến với Satan tức là với mọi mãnh lực của sự ác một cách không khoan nhượng và Ngài đã chiến thắng. Người Kitô hữu là người biết nói không với tội lỗi, là người dám bơi ngược dòng "Giữa một thế hệ gian tà sa đoạ, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời" (Pl 2, 15). Người Kitô hữu không cố ý sống lập dị khác người, song đứng trước điều xấu, dù là khi cả xã hội đều làm điều xấu đó, họ vẫn không được ngã theo. Họ phải can đảm từ chối một cơ hội làm giàu bất chính, một liên minh bất công, một mối quan hệ tội lỗi... Dĩ nhiên điều đó không dễ chút nào nhưng đã là môn đệ Đức Giêsu, họ không có chọn lựa nào khác.

Con người theo Phụng vụ Mùa Chay biết mình tự thân chỉ là cát bụi, nhưng là "cát bụi tuyệt vời". Nó vẫn tuyệt vời ngay khi trở về với cát bụi trong một chiều "lá úa trên cao rụng đầy", chứ không phải chỉ tuyệt vời khi "vươn hình hài lớn dậy" mà thôi.

Đức tin dạy cho chúng ta biết rằng "Hạt bụi" là chúng ta, được tình yêu Thiên Chúa gọi vào hiện hữu và chia sẽ sự sống bất diệt của Người. Kiếp người cho dù có đau thương, có bi đát, đôi lúc tưởng chừng bóng tối lấn lướt ánh sáng, nhưng cuối cùng sự sống, chân lý, tình thương vẫn mạnh hơn tất cả.

Ước gì mỗi người Kitô hữu đều có bản lãnh của Đức Giêsu để chiến thắng sự nặng nề, nhỏ mọn của bản thân; luôn luôn cậy dựa vào Thiên Chúa, sống Mùa Chay thánh thiện để đón nhận nhiều Ơn Phúc Chúa ban.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

--------------------------------

 

Lễ_tro-150: CHA NGƯƠI, ĐẤNG THẤU SUỐT MỌI BÍ ẨN


“CHA NGƯƠI, ĐẤNG THẤU SUỐT MỌI BÍ ẨN, SẼ TRẢ CÔNG CHO NGƯƠI”.

 

Đó là câu chủ lực được lặp đi lặp lại 3 lần trong Bài Tin mừng hôm nay với mỗi công viêc đạo Lễ_tro-150


Đó là câu chủ lực được lặp đi lặp lại 3 lần trong Bài Tin mừng hôm nay với mỗi công viêc đạo đức mà Kitô hữu thực hành: BỐ THÍ – CẦU NGUYỆN – ĂN CHAY.

Câu chủ lực như một điệp khúc của một bài ca hay nhất trong Mùa Chay thánh 2019.

Tại sao chỉ đề câp đến 3 việc đạo đức này? Trong khi còn vô số việc đạo đức khác?

Thưa 3 công việc đạo đức này đã diễn tả đầy đủ mối tương quan sâu sắc giữa con người với nhau và tương quan với Thiên Chúa. Nên chỉ cần 3 việc đạo đức này là đủ.

THIÊN CHÚA LÀ ĐẤNG THẤU SUỐT MỌI BÍ ẨN.

Quả đúng như vậy, Chúa nhìn rất rõ mọi động cơ, mọi nguyên nhân khi ta thực hiện các việc đạo đức. Ngài nhìn rất rõ khi ta làm những việc đó vì lý do gì.

Ngài nhìn rất rõ và thấu suốt mọi bí ẩn hơn cả khi ta nhìn vào chính ta.

Có nhiều khi cái tham vọng: thích phô trương, thích háo danh, thích được người khác ca tụng, khen ngợi trên các mặt báo, trên các phương tiện thông in đại chúng, như facebook, Youtube,… đã làm mờ mắt ta, thúc đầy ta làm những việc đạo đức mà ta cứ ngỡ mình làm vì thành ý, vì yêu mến Chúa,vì muốn thực thi đức bác ái, yêu thương.

Sự giả hình đó nhiều khi chính ta không ý thức được chỉ vì thói quan, vì quan niệm đã ăn sâu vào ta, nhưng Chúa nhìn rất rõ.

Ta thường đeo quá nhiều mặt nạ khi sống ở đời này và chính cái thói quen đeo mặt nạ này, chính cái mặt nạ đó đã trở thành mặt thật của ta.

Vì khi đeo mặt nạ ta phải sử dụng một lớp keo dính, và vì hay đeo mặt nạ quá nên mặt nạ đã dính chặt vào mặt ta, nó biến thành mặt của ta lúc nào không biết mà ta không thể gỡ được nữa.

Các người Biệt phái, Luật sĩ là những mẫu gương điển hình cho sự giả hình này nên sự giả hình đã trở thành bản chất cố hữu của họ.

Bài Tin mừng hôm nay, Chúa đã vạch trần sự giả hình này trong cả 3 công việc đạo đức mà Chúa đã đề câp. Cụ thể:

+ BỐ THÍ:

“khi các con bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ” (Mt 6, 2)

+ CẨU NGUYỆN:

“khi các con cầu nguyện, thì cũng chớ làm như những kẻ giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ trông thấy”. (Mt 6, 5)

+ ĂN CHAY:

“Khi các con ăn chay, thì đừng làm như bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt người ta” (Mt 6, 16).

Trái lại khi làm các việc đạo đức này, Chúa khuyên các Kitô hữu:

“…khi cầu nguyện…., thì hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu xin với Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con” (Mt 6, 3 – 4).

Phải vào phòng, đóng cửa lại, có nghĩa phải thực hiện các việc đạo đức thật kín đáo, không cho người ta thấy, chỉ có mình Thiên Chúa thấy mà thôi.

Rồi còn có khi phải làm như người không thực hiện các viêc đó nữa.

BÍ MẬT – KÍN ĐÁO.

Đó là thái độ và cung cách mà Chúa muốn cho con cái Ngài phải có.

Bí mật – Kín đáo, đến nỗi tay trái không biết việc tay phải làm; phải vào phòng, đóng kín cửa lại; “xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn chay”.

“CHA NGƯƠI SẼ TRẢ CÔNG CHO NGƯƠI”.

Kitô hữu chân chính khi làm các việc đạo đức này không nhắm đến mục đích được Thiên Chúa trả công, vì nếu còn ý nghĩ này, há chẳng phải ta làm các việc đó vì vụ lợi sao?

Nhưng cho dù ta không muốn được Chúa trả công, nhưng Chúa Giêsu nói: “CHA NGƯƠI SẼ TRẢ CÔNG CHO NGƯƠI”.

Thiên Chúa vẫn trả công cho ta về những gì ta đã làm, cả việc tốt lẫn việc xấu, ngay cả những việc nhỏ nhặt nhất như cho một chén nước lã

Chúa không trả ở đời này, Ngài cũng trả ở đời sau. Thiên Chúa không bao giờ lãng quên với những gì ta đã làm và đã sống.

Sự trả công của Chúa vô cùng to lớn so với những gì ta đã làm.

Sự trả lại của Thiên Chúa thật hạnh phúc sung sướng (đối với việc thiện, việc tốt đẹp ta làm). Nhưng cũng thật kinh khủng, đáng sợ (nếu đó là việc xấu).

Như Chúa đã từng nói:

“Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.” (Lc , 38).

Chúa sẽ đong lại cho ta cũng bằng chính cái đấu ta đã đong cho anh em, nhưng ở đây Ngài ĐÃ DẰN, ĐÃ LẮC VÀ ĐẦY TRÀN. Sự trả lại thật gấp bội.

--------------------------------
 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây