Suy Niệm Tin Mừng Lễ Hiển Linh ABC - Bài 401-414 Chúng tôi đã thấy Ngôi Sao của Người ------------------------
Phúc Âm: Mt 2,1-12: "Chúng tôi từ phương Ðông đến thờ lạy Ðức Vua".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Ðông phương tìm đến Giê-rusalem. Các ông nói: "Vua người Dothái mới sinh ra hiện đang ở đâu ? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người". Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Ðức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: "Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Ðấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta". Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: "Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người". Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Ðông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình. - Ðó là Lời Chúa. -------------------- Mục Lục:
Ba vị đạo sĩ đã sụp lạy Hài Nhi Giêsu dâng tiến cho Ngài: Vàng, nhũ hương và mộc dược. Để nhận HiểnLinh ABC401
Ba vị đạo sĩ đã sụp lạy Hài Nhi Giêsu dâng tiến cho Ngài: Vàng, nhũ hương và mộc dược. Để nhận ra sứ điệp Tin Mừng thiết nghĩ chúng ta nên tìm hiểu về ý nghĩa của ba lễ vật này.
Giá trị của một quà tặng không tùy thuộc nhiều ở giá trị vật chất của nó, mà do địa vị của người cho quà và tâm tình của người đó muốn diễn tả qua món quà.
Các cuộc gặp gỡ giữa các nhà lãnh đạo quốc gia thường đi kèm với nghi thức trao tặng quà cho nhau. Trong cuộc họp thượng đỉnh ở ngoài khơi đảo quốc Malta cuối năm 1989, tổng thống của Hoa Kỳ, ông Bush, đã tặng cho chủ tịch Gorbachov của Liên Xô một viên gạch lấy từ tường ô nhục Bá Linh. Dù chỉ là một viên gạch, nhưng đây là một món quà quý giá, bởi vì tổng thống đã muốn gói ghém trong đó thiện chí xây dựng hòa bình, phá bỏ sự chia rẽ ngăn cách của nhân dân Hoa Kỳ, cũng như tất cả những ai yêu chuộng hòa bình.
Chủ tịch Gorbachov cũng đã trao tặng và nhận quà trong cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha. Nhà lãnh đạo của Liên Xô đã tặng cho Đức Thánh Cha một tập Kinh Thánh, Thánh Vịnh in vào thế kỷ 13 và 14. Món quà là cuốn Kinh Thánh có ý khẳng định rằng giá trị đạo đức và luân lý Kitô giáo là những nhân tố cần thiết để xây dựng xã hội tốt đẹp.
Đáp lại Đức Thanh Cha đã tặng cho nhà lãnh đạo Liên Xô một quyển Tân Ước có ghi hàng chữ: “Ta là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống”. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và toàn thể Giáo Hội muốn trao tặng Đức Kitô cho một xã hội đã từ lâu quên lãng Thiên Chúa.
Riêng bà Raissa, phu nhân chủ tịch Gorbachov, Đức Thánh Cha đã tặng cho bà một cổ tràng hạt. Mẹ Maria là nữ vương hòa bình. Do đó, đây là món quà rất cao quý mà một vị giáo hoàng muốn tặng cho một vị phu nhân chủ tịch hay những ai đang mưu tìm hòa bình cho nhân loại.
Món quà ghói ghém tâm tình người ban tặng. Món quà của các nhà đạo sĩ cũng đầy ý nghĩa thâm sâu như thế. Chúng ta hãy suy nghĩ về ý nghĩa của những món quà ấy.
Chúng ta hãy bắt đầu bằng mộc dược. Thời xưa người ta dùng mộc dược để ướp xác người chết trước khi đem mai táng. Chẳng hạn, vào sáng sớm ngày đầu tuần, các phụ nữ đã đem mộc dược đến mộ Chúa Giêsu. Vì mộc dược có tương quan đến sự chết, nên nó tượng trưng cho sự yếu đuối, dễ bị tổn thương của con người.
Vì thế món quà mộc dược tượng trưng cho nhân tính Đức Giêsu. Nó nói với chúng ta rằng, Đức Giêsu cũng có những yếu đuối mỏng dòn, dễ bị thương tổn vì Ngài là con người như chúng ta.
Bây giờ chúng ta nói đến nhủ hương. Ngày xưa người ta dùng nhũ hương trong việc phụng tự tôn giáo. Hương thơm và làn khói bay lên trời cao, khiến họ liên tưởng đến các vị thần linh và thần tính của các ngài. Vì thế, món quà bằng nhủ hương tượng trưng cho thiên tính của Đức Giêsu. Ngài là Thiên Chúa.
Cuối cùng chúng ta nói đến vàng. Ngày xưa người ta coi vàng là vua mọi thứ kim loại. Vì thế, vàng tượng trưng cho vương quyền. Nhà vua là vị thủ lãnh bên trên tất cả. Ông vua lý tưởng là ông vua lãnh đạo bằng tình thương. Đức Giêsu chính là vị vua như thế.
Chúng ta căn cứ vào đâu để nêu ra những ý nghĩa đó? Hơn 16 thế kỷ trước, Thánh Gioan Kim Khẩu, một thánh phụ thời xưa đã nói về ngày lễ hôm nay như sau: Các đạo sĩ là những dân ngoại nhưng họ đã ngắm nhìn và đã tin, vì những tặng vật đầy tính tượng trưng của họ đã làm chứng điều đó. Nhũ hương để tặng Thiên Chúa, vàng để tặng Vua, và mộc dược để tặng một người sẽ phải chịu chết.
Như vậy lễ Hiển Linh hôm nay có ý mừng việc Chúa Giêsu tỏ mình ra cho nhân loại, cho muôn dân. Rằng ngài là một vị Thiên Chúa cao cả vô song, là Chúa tể muôn loài, là vua trên các vua. Nhưng đồng thời ngài lại hạ mình làm người với thân phận bé nhỏ yếu đuối như chúng ta. Ngài đã chịu bách hại và chịu chết vì chúng ta. Ngay từ mới sinh, quyền lực thế gian đã muốn bách hại ngài, cụ thể là vua Herode, với những thủ đoạn lừa gạt. Ngài đã phải trốn đi qua Ai Cập. Thiên Chúa đã cho sứ thần mách bảo cho thánh Giuse đem Hài Nhi trốn qua Ai Cập đang lúc ban đêm.
Thật là đau đớn, Thiên Chúa yêu thương thế gian đã ban Con Một Ngài, thế nhưng thế gian đã chối bỏ, đã bách hại ngài. Qua sự tham lam quyền lực, danh vọng, qua tội lỗi của con người chúng ta, mà biểu trưng là Herode, đã bách hại Con Thiên Chúa.
Hiểu rộng hơn, một cuộc sống gian tham ích kỷ, lại hại người khác luôn bách hại Giáo Hội, làm cho thân thể cuả Đức Kitô mang những thương tích. Chính chúng ta cũng cần chấm dứt bách hại con Thiên Chúa qua sự tham lam quyền lực, danh vọng, và tội lỗi của chúng ta.
Chúng ta cũng cần theo gương các đạo sĩ để dâng lên Chúa những món quà… Một sự cảm thông tha thứ cho tha nhân vì nghĩ rằng con người ai cũng yếu đuối lầm lỡ, đó là món quà mộc dược. Giữa những chọn lựa của cuộc sống, ta chọn những giá trị cao cả cho dù phải hy sinh, đó là lễ vật nhủ hương. Con người ích kỷ bon chen, ta rộng lượng ban phát, chia sẻ tài năng sức lực, đó là những thỏi vàng ta dâng lên Chúa. Món quà chúng ta dâng có thể rất bé nhỏ, nhưng rất hữu dụng để cho Hài Nhi Giêsu lớn lên trong trần thế, có thể đi vào và được trần thế đón nhận.
Qua lễ Hiển Linh, Hội Thánh cho các Kitô hữu thấy Thiên Chúa không chỉ yêu thương và tỏ HiểnLinh ABC402
Qua lễ Hiển Linh, Hội Thánh cho các Kitô hữu thấy Thiên Chúa không chỉ yêu thương và tỏ mình cho những người đơn sơ như các mục đồng chăn chiên cừu ở Bêlem, nhưng Ngài còn yêu thương và tỏ mình cho cả những đạo sĩ- những người uyên bác thành tâm tìm kiếm Ngài qua những nghiên cứu hằng ngày của họ nữa.
1. Thiên Chúa yêu thương người nghèo
Thiên Chúa yêu thương người nghèo. Ngài luôn tỏ lộ và giúp đỡ những người khốn khổ bị áp bức kêu cầu Ngài. Điều này được thấy rõ qua lịch sử dân Israel: khi dân bị áp bức ở Aicập, họ kêu cầu Thiên Chúa, và họ đã được nhận lời. Ngài đã giải phóng họ qua Môsê. Khi dân Do Thái bị các dân tộc khác hà hiếp, họ kêu cầu Chúa, và Ngài đã dùng các thẩm phán để giải phóng họ. Khi dân khốn khổ trong cảnh lưu đày, họ kêu cầu Chúa, và Ngài đã dùng một vua dân ngoại là Cyrô để đưa dân Ngài trở về quê hương.
Thiên Chúa không chỉ để ý quan tâm đến tập thể to lớn, nhưng Ngài còn lưu tâm đến từng người. Không con, là một nỗi khổ của những người vợ ngày xưa. Thiên Chúa đã yêu thương và nhận lời cầu xin của mẹ Samuel, khi cho bà có con. Bà Isave vợ ông Dacaria cũng ở trong trường hợp tương tự. Anh trộm lành không còn thời cơ để lập công chuộc tội, chỉ cần một lời cầu xin, cũng được Đức Yêsu cho lên thiên đàng với Ngài ngay trong ngày anh ta chết. Thiên Chúa yêu thương người nghèo, những người chỉ trông cậy nơi một Thiên Chúa thôi.
Thiên Chúa ban cho những người ở Bêlem cơ hội để đón tiếp Thiên Chúa nhập thể, nhưng một số không nhận biết cơ hội “ngàn vàng” để đón tiếp Ngài, tuy vậy Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương và tỏ mình cho họ. Các mục đồng là những người nghèo, nghèo tiền bạc, nghèo kiến thức, nhưng họ vẫn được Thiên Chúa yêu thương và tỏ mình cho họ. Các mục đồng không lý luận, không đặt câu hỏi “tại sao”, chỉ đơn sơ đón nhận bằng tin, và họ đã được gặp Chúa trong đời của họ. Họ không chỉ gặp Chúa nơi máng cỏ hang lừa, nhưng họ còn gặp Chúa trong đời sống hằng ngày của họ, một cách rất đơn sơ như họ đã gặp Chúa nơi máng cỏ. Gặp Chúa rồi, họ lại tiếp tục công việc chăn chiên cừu trong niềm vui hân hoan suốt ngày sống. Ngày nay, những người nghèo vẫn được gặp Chúa trong cuộc sống thường ngày của họ. Họ gặp được Thiên Chúa qua trung gian con cái, vợ chồng, những người lắng nghe nỗi khổ của họ, những nhà hảo tâm.
2. Thiên Chúa yêu thương những người thành tâm tìm kiếm Ngài Thiên Chúa không chỉ yêu thương những người nghèo tiền nghèo bạc, nghèo vật chất, nhưng Ngài cũng yêu thương cả những người giầu có về kiến thức, những người thiện chí luôn đi tìm kiếm chân lý, cả khi họ có vàng nhũ hương mộc dược.
Những nhà bác học miệt mài trong phòng thí nghiệm, tìm kiếm thuốc chủng ngừa những bệnh hiểm nghèo như bệnh chó dại, bệnh đậu mùa, bệnh sốt tê liệt nơi trẻ em, tìm kiếm thuốc chống bệnh phong cùi, bệnh ung thư, bệnh huỷ hoại khả năng miễn nhiễm (SIDA, AIDS), để cứu giúp con người, để làm cho cuộc đời bớt khổ. Những nhà khoa học này, không ai thấy họ trực tiếp giúp con người, nhưng thực sự họ đã phục vụ con người rất hữu hiệu trong âm thầm và khiêm tốn. Có thể có những người làm tiền trên những miệt mài và khám phá của họ, nhưng chính họ lại làm việc rất vô vị lợi. Với những người này, Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện với họ, trong công việc thường ngày, và có lẽ chỉ Thiên Chúa mới biết và đo được công lao của họ trong việc yêu thương và phục vụ con người.
Các nhà đạo sĩ, có thể là người trổi trang nhất trong một lãnh vực nào đó, chẳng hạn như về khoa học hay triết học. Các ngài cũng có thể là những người đại diện của mỗi sắc dân, của các dân tộc. Bất cứ ai thành tâm thiện chí tìm kiếm Thiên Chúa, thì Ngài tỏ mình cho họ. Chính Ngài ban cho họ lòng khao khát chân lý, và chính Ngài là hạnh phúc của họ trong công việc hằng ngày.
3. Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người
Thiên Chúa không của riêng ai. Thiên Chúa không chỉ là Thiên Chúa của người Do Thái, không chỉ là Thiên Chúa của những người nghèo Do Thái, nhưng còn là Thiên Chúa của mọi sắc dân, của cả người nghèo lẫn người giầu, của cả người ít học lẫn người học vấn uyên bác.
Thiên Chúa không chỉ là Thiên Chúa của người Công Giáo, nhưng Ngài là Cha và là Thiên Chúa của tất cả những người tin vào Đức Yêsu Kitô. Ngài là Thiên Chúa của cả những anh em Tin Lành, Anh Giáo, Chính Thống Giáo. Ngài yêu thương tất cả những người này, vì họ là con của Ngài, và họ kêu cầu Ngài hằng ngày. Không chỉ vậy, Ngài là Thiên Chúa của cả những người chưa biết Ngài, của cả những người đang sống trong các tôn giáo khác. Ngài là Thiên Chúa của họ, và Ngài yêu thương họ không kém yêu thương chúng ta, cũng như Ngài yêu thương chúng ta không kém gì những người Do Thái.
Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người. Ngài luôn tìm đến với con người của mọi thời đại, của mọi dân tộc. Ngài yêu thương mọi dân tộc như nhau, vì tất cả đều là dân của Ngài, tất cả đều là con của Ngài. Vấn đề chính là con người có chấp nhận và đón nhận Ngài hay không. Điều này tuỳ thuộc lòng con người. Thiên Chúa là Đấng vô cùng yêu thương và thành tín. Ngài vẫn đến với con người, dù con người không tiếp nhận Ngài. Ngài vẫn chờ con người trở về với Ngài, như Ngài đã chờ anh trộm lành sám hối. Số phận và may mắn không chỉ dành cho anh trộm lành, nhưng cho cả những ai hiện tại đang cứng lòng trước tình yêu vô cùng của Ngài. Một khi biết như vậy, có nhiều người muốn có số phận của anh trộm lành, nhưng tôi lại thích được có số phận của Yoan hoặc Phêrô hơn. Tôi thích nhận ra tình yêu vô cùng của Chúa dành cho tôi lúc này, hơn là chỉ ở giây phút cuối đời.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Đâu là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa yêu thương người nghèo? Đâu là bằng chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người? 2. Nếu bạn ghét người giầu, bạn có thể sống hạnh phúc không? Nếu bạn không tìm cách giúp đỡ người nghèo, bạn có thể sống hạnh phúc thật không? 3. Với bạn, trung gian nào giúp bạn nhận ra và gặp gỡ Thiên Chúa dễ dàng nhất?
Một đoàn lạc đà không biết từ đâu đến Giêrusalem. Những người ngồi trên lạc đà xem rất sang HiểnLinh ABC403
Một đoàn lạc đà không biết từ đâu đến Giêrusalem. Những người ngồi trên lạc đà xem rất sang trọng. Dân Giêrusalem túa đến xem ngạc nhiên. Họ nghe hỏi: “Vua Do Thái mới sinh ở đâu, chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện ở trời Đông và chúng tôi đến bái lạy Người”. Thánh Matthêu kể lại: “Vua Hêrôđê bối rối và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao”. Tại sao lại bối rối và xôn xao?
Vua Hêrôđê là người Do Thái, ông đã từng biết Kinh Thánh nói gì về Đấng Cứu Thế. Cũng như bao nhiêu người Do Thái khác, ông nghĩ rằng, Đấng Cứu Thế là một vị vua oai quyền đáng sợ. Như Gioan Tẩy Giả cũng đã loan báo, Nước Trời sắp đến rồi, phải ăn năn thống hối để đón lấy. Ngài sẽ là một Vị Thẩm Phán chí công, Ngài sẽ xét xử mọi người, Ngài sàn sân lúa của Ngài và những người gian ác sẽ phải bị trừng phạt. Cái rìu đã đặt nơi thân cây rồi, cây nào không sinh hoa trái sẽ bị đốn đi. Đó là hình ảnh về Đấng Thiên Sai của dân Do Thái thời bấy giờ. Vua Hêrôđê làm sao không bối rối khi nghe Vị Vua Công Chính ấy đã sinh ra. Ông là một vị vua rất độc ác và rất sợ mất ngai vàng của mình. Ông đã giết cả những người thân khi ông nghi họ có thể chiếm ngôi. Làm sao ông không sợ khi nghe tin một vị vua Do Thái mới ra đời?
Hêrôđê mời các thượng tế và kinh sư đến và hỏi cho biết Đấng Cứu Thế sinh ra tại đâu. Theo Kinh Thánh thì tại Bêlem, cách đó hơn mười cây số. Hêrôđê mời các nhà chiêm tinh đến và hỏi cặn kẽ về ngôi sao, xuất hiện lúc nào, ở đâu và bảo các ông sang Bêlem “dò hỏi tường tận về ông vua mới sinh đó, và khi tìm thấy hãy cho trẫm hay, trẫm cũng đến triều bái Ngài”. Sau này, khi Hêrôđê ra lệnh giết tất cả trẻ em tại Bêlem, chúng ta mới biết được ông muốn tìm Chúa để làm gì.
Các đạo sĩ ra đi về Bêlem như đã được biết, nhưng lạ thay, khi vừa ra khỏi Giêrusalem, họ thấy lại ngôi sao đã dẫn đường họ và vui mừng hướng theo ngôi sao đến “tận nơi Hài Nhi ở”. Và thánh Matthêu ghi rõ: “họ sấp mình thờ lạy Người”. Họ thờ lạy một em bé nghèo nàn không có vẻ gì là đáng chú ý. Tại sao thế?
Thánh Matthêu đã tóm gọn trong một câu tất cả những gì xảy ra lúc đó. Thực ra, những nhà đạo sĩ này không là những người ngây ngô, dễ tin. Họ cũng biết nhìn con người, biết phân biệt cân nhắc hơn thiệt. Họ là những nhà khoa học và có thể là những người biết xem diện mạo con người. Bước vào nhà chắc họ cũng phải hỏi thăm một vài điều và khi đã nhận ra đúng là ông vua mà họ đang tìm. Nhìn em bé nghèo đó, họ thấy nơi em một nét gì đó khiến họ tin. Sau đó họ dâng cho Ngài những lễ vật của họ, chứng tỏ lòng thần phục. Đó là những gì chúng ta biết về biến cố các đạo sĩ đến thờ lạy Chúa. Điều này có thể chỉ là một câu chuyện, nhưng nó mang một ý nghĩa mà thánh Matthêu không bỏ qua.
Thánh Matthêu đã nhìn biến cố này như một ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa. Ngài nhìn đó như một biến cố tiên tri. Ngài thấy thực hiện những gì tiên tri Isaia đã nhìn thấy trước cách đó gần bảy trăm năm: “Giêrusalem hỡi!... Trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi. Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước… Lạc đà từng đàn che rợp đất… tất cả những người từ Sơva kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa”.
Tiên tri đã thấy như một hứa hẹn, mọi dân tộc sẽ bước theo ánh sáng của Ngôi Lời, từ cung lòng Chúa Cha xuất hiện. Thiên Chúa đã sai Con của Người đến trần gian, không phải để chôn giấu trong một làng bé nhỏ, nhưng để chiếu sáng trên toàn cõi địa cầu, để mọi người nhờ đó mà được cứu độ.
Chúng ta đang nằm trong ánh sáng kỳ diệu đó. Ánh sáng huyền diệu của Ngôi Lời đã chiếu trong tăm tối của tâm hồn chúng ta, và chúng ta đã nhận biết Ngài. Chúng ta đang hưởng thụ vinh quang của Ngài mà không hay. Tương lai chúng ta rực sáng một niềm hy vọng không phai. Chúng ta được trở thành con Thiên Chúa, con cái ánh sáng. Hãy tạ ơn Chúa vì hồng ân Ngài ban tặng qua Người Con Một. Chúng ta có biết tạ ơn vì hồng ân đức tin không? Chúng ta có thành con cái ánh sáng như Chúa mong ước không? Cuộc sống chúng ta có lan tỏa được ánh sáng của Ngài không? Sự hiển linh của Chúa phải được tiếp nối vì “ý Chúa là cứu vớt hết mọi người” chứ không chỉ một vài người. Tiếp nối bằng những hành động đơn thường nhưng đượm đầy ánh sáng bác ái. Ông Jean Giutton, một giáo dân trí thức đã nói: “Từ khi có Chúa Giêsu, cuộc đời của mỗi người Kitô hữu trở thành một quyển Tin Mừng thứ năm”. Và một văn sĩ khác người Pháp cũng nói: “Nếu ngày nào bạn không nồng nàn yêu mến Chúa, ngày đó có nhiều người sẽ chết lạnh” ( F. Mauriac). Chúng ta lan tỏa ánh sáng Chúa bằng lòng yêu mến. Đó là thứ ánh sáng vô hình nhưng vẫn thấy được. Đó là sự hiển linh được tiếp nối và đó cũng chính là nhiệm vụ của mọi Kitô hữu.
Chúng ta lãnh nhận ánh sáng đức tin để làm gì nếu không là để chiếu sáng mọi nơi, trong gia đình chúng ta, trong nơi ta làm việc, trong mọi lãnh vực của cuộc sống. Mầu nhiệm nhập thể và giáng sinh phải được tiếp nối bằng chính con người. Thiên Chúa làm người để mọi người trở thành một tạo vật mới. Ngài nhận lấy thân phận chúng ta không phải để biểu diễn một trò ngoạn mục nào đó, nhưng để biến đổi tất cả, thần hóa tất cả. Chúng ta đã được thần hóa mà không hay biết.
Hãy đến nhà của Em Bé Giêsu như các đạo sĩ, hãy tôn thờ Ngài và dâng cho Thiên Chúa nhỏ bé đó, của lễ cuộc đời chúng ta, dâng mà không lấy lại để mọi người trở nên dụng cụ của tình yêu: “xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người”… Như thế, “người ta sẽ nhận thấy những việc lành của anh em mà ngợi khen Cha trên trời”. Ý nghĩa của lễ Hiển Linh mới trọn vẹn.
Hôm nay, Chúa Giêsu đến nhập thể lại liên tục cho đến tận thế. Ngài trở thành Tấm Bánh Tình Yêu là để thực hiện ý muốn yêu thương của Ngài. Ăn lấy Ngài không phải để cất giấu Ngài trong xó nào đó mà hiển linh Ngài cho mọi người. Chúng ta dám làm không? Ngài đang chờ đợi chúng ta dấn thân lan tỏa Ngài. Ngài khao khát biết bao được mọi người chấp nhận để cứu vớt họ và Ngài nhờ chúng ta, những con người nhỏ bé, hèn mọn, miễn là chúng ta thành tâm sống cho Ngài.
Chữ Hiển linh có nghĩa là sự mặc khải. Sau đây là một ví dụ ngắn gọn và đơn giản: Đôi khi, trong HiểnLinh ABC404
Chữ Hiển linh có nghĩa là sự mặc khải. Sau đây là một ví dụ ngắn gọn và đơn giản: Đôi khi, trong một ngày u ám, lạnh lẽo của mùa đông, một tia sáng xuất hiện trong một lớp mây dày đặc, và qua đó, chúng ta thoáng bắt được ánh nắng lấp lánh của mặt trời. Tuy nhiên, chẳng bao lâu, tia sáng bị che khuất, và mặt trời lại biến mất. Nhưng sự thoáng hiện ngắn ngủi của một thế giới sáng sủa hơn, ấm áp hơn, vẫn có thể đem lại cho chúng ta những điều kỳ diệu. Chỉ cần nhớ lại điều này thôi, sự lạ lùng của nó vẫn có thể tác động trong tinh thần của chúng ta.
Cuộc sống hằng ngày đầy rẫy những sự mặc khải nhỏ bé, đối với những ai có đôi mắt để nhìn, và có tâm trí để suy gẫm. Chúng len lỏi xuyên qua những khe hở của cuộc sống bận rộn của chúng ta – một giây phút của sự bình an, hoặc của nét đẹp, hoặc của tấm lòng tốt.
Vào ngày này, ngày Lễ Hiển Linh, bức màn bí nhiệm được vén lên, giúp cho các đạo sĩ có thể thoáng bắt được tia sáng lấp lánh của Hài Nhi ở Bêlem. Một số người nhìn vào con trẻ Giêsu Kitô, và chỉ nhìn thấy giống như một đứa trẻ khác. Những người khác, chẳng hạn như Hêrôđê, đã nhìn vào Hài Nhi như một mối đe doạ. Nhưng các đạo sĩ đã nhận ra con trẻ Giêsu như là Đấng Cứu Độ. Tất cả những người đó đều cùng có đôi mắt như nhau, tuy nhiên, với những đôi mắt đó, họ không nhìn thấy cùng những sự việc như nhau. Chính lòng tin đã đem lại khả năng cho các đạo sĩ, để nhìn xuyên thấu qua bức màn, và “thấy” sự thật ở phía sau đó.
Tuy nhiên, ngay cả đối với họ, bức màn cũng khép lại, ngôi sao biến mất, và họ phải quay trở về nhà. Kinh nghiệm về cuộc gặp gỡ Chúa đã tạo ra được sự khác biệt gì cho họ? Xét về một khía cạnh, thì cuộc gặp gỡ này không hề tạo ra sự khác biệt nào cả: Họ vẫn phải trở về với cuộc sống cũ, công việc cũ của họ v.v… Tuy nhiên, xét về một khía cạnh khác, có thể nói rằng điều đó đã tạo ra cả một thế giới, thay đổi đối với họ. Bấy giờ, họ đã có được một tầm nhìn mới, một hy vọng mới.
Đối với họ, mặc khải này đã là những giây phút đưa dẫn họ đến với chân lý bằng con đường tắt. Đó là một ánh sáng loé lên, chiếu tỏ vào cuộc sống của họ, và đem lại cho từng giây phút của cuộc sống một ý nghĩa mới. Chắc hẳn họ đã dành ra thì giờ suy gẫm, để thấu hiểu được ý nghĩa của điều mà họ phát hiện được, vào cuối cuộc hành trình đi đến Bêlem. Nhưng trong những ngày bị mây che phủ, họ rút ra được lòng can đảm và niềm hy vọng, từ mặc khải mà họ đã được ban.
Giống như các đạo sĩ, trong ngày lễ này, chúng ta phải đến thờ lạy con trẻ Giêsu Kitô. Và lại cũng giống như các đạo sĩ, chúng ta phải trở về nhà mình, và tiếp tục cuộc sống bình thường của mình. Nhưng hy vọng rằng chúng ta sẽ nhận thấy cuộc sống khác biệt hẳn, bởi vì chúng ta tự nhận thấy bản thân mình cũng khác đi. Nơi Hài Nhi thần thánh, chúng ta nhận ra được thần tính của chính mình.
Đôi khi, người ta đi hành hương những quãng đường thật dài, để tìm kiếm nhưng kinh nghiệm thiêng liêng, mà họ vẫn có thể có được ngay tại chỗ ở của họ. Chúng ta không cần phải đi đến bất cứ nơi đâu. Ngôi sao của Chúa chiếu toả ngay trước mặt chúng ta ở nơi đây. Nhờ Đức Kitô ngự đến, chúng ta không cần phải sợ hãi bóng tối nữa. Một ánh sáng đã đến với thế giới, một ánh sáng chiếu toả trong bóng tối, một ánh sáng mà không ánh sáng nào khác có thể chế ngự được.
Tin mừng Mt 2: 1 - 12: Hôm nay, Lễ Chúa Hiển Linh có nghĩa là lễ Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc, mà các nhà đạo sĩ hay được quen gọi là ba vua, đại diện cho những người lương dân đã nhận ra Ánh sao lạ sự sinh hạ diệu kỳ của Hài Nhi, họ đã tìm đến để thờ lạy Chúa Kitô.
Suy niệm:
Bạn đã bao giờ có kinh nghiệm trong đêm thanh vắng, bạn ngước lên và ngắm nhìn những vì sao HiểnLinh ABC405
Bạn đã bao giờ có kinh nghiệm trong đêm thanh vắng, bạn ngước lên và ngắm nhìn những vì sao lung linh trong bầu trời thiên thanh chưa? Ánh sao không phải chỉ để làm vật trang trí ban đêm cho bầu trời bớt tẻ nhạt. Những ánh sao là những hành tinh tự phát sáng trong dãy ngân hà mà chúng ta có thể tạ ơn Chúa vì Ngài đã tạo dựng nên vũ trụ thật đẹp này cho con người. Những người đi biển còn được truyền lại cho nhau tập nhìn lên bầu trời, xem ánh sao Bắc Đẩu, sao Hôm, sao Mai… để định hướng. Vâng, ánh sao là vật chỉ đường thật quan trọng biết bao trong một cuộc hành trình. Truyền thống Hội Thánh còn dùng ngôi sao sáu cánh là biểu tượng cho vua Đavid, ngôi sao tám cánh là biểu tượng của Đức Mẹ Maria.
Ánh sao được tiên tri Balaam loan báo trong Sách Dân Số rằng “một vì sao xuất hiện từ Giuđêa, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24,17). Hôm nay, Lễ Chúa Hiển Linh có nghĩa là lễ Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc, mà các nhà đạo sĩ hay được quen gọi là ba vua, đại diện cho những người lương dân đã nhận ra Ánh sao lạ sự sinh hạ diệu kỳ của Hài Nhi, họ đã tìm đến để thờ lạy Chúa Kitô. Như vậy, Chúa Giêsu giáng thế để cứu độ không chỉ cho riêng người tín hữu Do Thái mà còn cho cả lương dân, không chỉ cho những người am hiểu đạo thánh mà còn cho những người bé mọn thất học chăn cừu chăn dê. Chúa Giêsu là Đấng Cứu Chuộc muôn dân để không ai thấy mình bị loại trừ khỏi ơn cứu chuộc.
Muốn tìm đến Chúa, người tín hữu trước tiên cần phải quay về Kinh Thánh làm trung tâm, làm điểm tựa. Các thượng tế và luật sĩ tại kinh thành Giêrusalem được Hêrôđê triệu tập, để hỏi họ xem họ có biết trong truyền thống Kinh Thánh có cho biết nơi mà Đức Kitô sinh hạ không? Họ tâu nhà vua rằng: “Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Đấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta”. Như vậy nhờ Kinh Thánh, lẽ ra họ đã có thể nhận ra Đấng Cứu Chuộc.
Ngoài Kinh Thánh ra, chúng ta cũng có thể tìm gặp Chúa nơi những dấu lạ xung quanh, mà ba nhà đạo sĩ đã tìm gặp qua ánh sao. Trong cuộc sống thường ngày chúng ta, nếu để ý, chúng ta sẽ nhận ra rất nhiều dấu lạ, có những dấu mà chúng ta quen đến nỗi vô tình không nhận ra, dấu lạ Chúa cho chúng ta có thể thức dậy sau một đêm ngủ bình an, dấu lạ Chúa ban cho chúng ta hết ơn lành này đến ơn lành khác dẫu chúng ta là con người mỏng giòn và yếu đuối còn nhiều bất xứng và tội lỗi.
Nhưng với một số bạn trẻ lại để đời mình chạy theo những “ngôi sao” là diễn viên, ca sĩ, hay cầu thủ… khiến họ trở nên những fans cuồn, ăn mặc như diễn viên, kiểu tóc như cầu thủ, sẵn sàng đợi ca sĩ hàng giờ đồng hồ ở sân bay, mất ăn mất ngủ chỉ để được gặp “ngôi sao của họ”. Nhưng họ có biết rằng bên cạnh đó cũng có những vì sao âm thầm như Anrê giúp đưa em mình là Phêrô đến với Chúa, Nathanael nhờ Philiphê mà anh trở nên môn đệ Chúa. Những vì sao ấy là những người lớn tuổi, là cha mẹ, là thầy cô, tu sĩ… đang nêu gương bằng đời sống, bằng lời chỉ bảo để chúng ta cũng có thể tìm gặp Chúa. Vậy đến lượt chúng ta cũng hãy trở nên vì sao ở giữa thế gian bằng một lối sống tốt lành, trở nên nhân chứng của Chúa giữa trần gian.
Một bức hoạ cổ có hình hài nhi Giêsu trong lòng mẹ và HiểnLinh ABCtừ phương Ðông đã mang tới vàng, nhũ hương và mộc dược đang quỳ đã bao lần được vẽ trên tranh, từ loại thô sơ cho đến những bức huy hoàng lộng lẫy trong các giáo đường. Vị vua đầu tiên là Gaspar, dâng vàng trong một cái khay. Quỳ sau ông là Melchior, mặc bộ đồ nghi lễ nghiêm trọng đang xông hương trước trẻ thơ Giêsu. Sau cùng là ông Balthazar người da đen xứ Ấn Ðộ hay Saba gì đó?
Nhưng có một giai thoại xưa kể rằng HiểnLinh ABCtừ xa tới Bethléem, vào hang đá để dâng của lễ trước Trẻ Thơ nhưng chưa làm Trẻ Thơ cười. HiểnLinh ABCđứng dậy cáo từ và trong lòng chưa được mãn nguyện. Khi bóng những con lạc đà của họ biến mất tận chân trời thì vị Vua thứ tư xuất hiện. Từ vùng Ba Tư, ông đã chỗi dậy và từ bỏ tất cả: kho rượu quí lâu đời, dòng nước mát bên nhà, người vợ hiền thân yêu, ông mang theo ba viên ngọc quí để dâng cho vị Vua mới sinh mà ông đã thấy vì sao một buổi tối nọ. Ông đã tìm ra nơi này nhưng quá trễ. Tới tay không, không còn những viên ngọc quí nữa, ông từ từ bước vào hang đá. Trời đã xế chiều, thánh Giuse xắp xếp cỏ khô cho ban tối, Mẹ Maria bế Trẻ Thơ Giêsu trong lòng. Mẹ khẽ hát ru con ngủ. Vị Vua xứ Ba Tư hơi do dự, rồi ông tiến đến và quì xuống trước hai mẹ con và bắt đầu kể:
Thưa Ngài! Tôi đến sau các vị Vua khác đã tới trước chúc tụng Ngài và dâng củu lễ. Tôi cũng có của lễ để dâng Ngài, đó là ba viên ngọc rất quí từ biển Ba Tư, nhưng bây giờ tôi không còn chúng nữa. Khi tôi dừng nghỉ chân ở một quán trọ, tôi thấy một ông già râu tóc đã bạc trắng đang lên cơn sốt nằm gần lò sưởi để tìm hơi nóng. Ông ta làm tôi nhớ đến cha tôi. Ông không có một đồng xu nào để nhờ thầy thuốc cứu chữa, vì thế tôi đã lấy ra một viên ngọc và đưa cho chủ quán để kêu thầy thuốc săn sóc cho ông già; nếu ông ta chết thì dùng viên ngọc để lo chôn cất chu đáo cho ông.
Ngày hôm sau, tôi tiếp tục lên đường. Tôi thúc con lừa đi hết cỡ để đuổi kịp ba vị vua đi trước. Trong một thung lũng vắng, bỗng nhiên tôi nghe những tiếng kêu từ một bụi cây, một đám người đang vây quanh một người đàn bà trẻ để cướp bóc. Tôi biết không thể nào chống lại họ nên tôi phải lấy ra một viên ngọc cho đám vô lại để họ tha cho người thiếu nữ. Tôi tiếp tục lên đường, trong thắt lưng chỉ còn một viên ngọc, tôi sẽ tới Bethléem chiều nay để chúc mừng Ngài. Nhưng khi đi đến một ngôi làng nhỏ, tôi thấy lửa cháy khắp làng, bọn lính theo lệnh vua Hérôđê đang tìm giết tất cả những bé trai chưa đầy hai tuổi. Rồi một người lính đang cầm chân một đứa bé giơ lên, hắn nói với bà mẹ đứa bé rằng sẽ thả đứa bé vào ngọn lửa. Thấy bà mẹ van xin thống thiết, tôi đã lấy viên ngọc cuối cùng cho tên lính để hắn trả đứa bé lại cho người mẹ. Bà mẹ cám ơn tôi, rồi ôm lấy đứa bé và chạy trốn ngay. Giờ tôi tới đây chỉ với hai bàn tay trắng. Xin ngài thứ lỗi cho tôi ". Hang đá chìm trong thinh lặng sau khi vị Vua kể hết chuyện của ông. Thánh Giuse đã dọn cỏ xong và đang trầm ngâm suy nghĩ. Mẹ Maria ngắm nhìn Trẻ Thơ. Chúa Hài Ðồng nhìn vị Vua Ba Tư với khuôn mặt rạng rỡ và mỉm cười.
Là thành phần trong Giáo Hội, xin cho chúng con ý thức với sứ mạng phổ quát của mình, được mời gọi đáp ứng những khát vọng sâu xa của con người mọi nơi, mọi thời khi họ tìm kiếm Thiên Chúa bằng việc tốt con thực thi, bằng gương lành con thể hiện, bằng lối sống của một người Kitô hữu chứng danh. Lạy Chúa, xin cho những ai tìm gặp Chúa nơi con đều không thất vọng bao giờ. Amen.
Hôm nay, HiểnLinh ABCtrên đường tìm đến thờ lạy tương phản lạ thường. Tương phản giữa Giêrusalem HiểnLinh ABC406
Hôm nay, HiểnLinh ABCtrên đường tìm đến thờ lạy tương phản lạ thường.
Tương phản giữa Giêrusalem và Bêlem: Giêrusalem, thủ đô hoa lệ, trung tâm văn hoá chính trị của nước Do thái, nhưng đã khước từ, không đón tiếp Đấng Cứu thế. Trong khi đó, Bêlem, một thị trấn bé nhỏ, nghèo nàn lại là nơi đón tiếp Đấng Cứu thế hạ sinh.
Tương phản giữa những người có đạo và những người ngoại đạo: Các bậc chức sắc thông thạo Kinh thánh, nhưng chỉ ngồi im tại kinh thành, không chịu lên đường, nên không gặp được Đấng Cứu thế. Trái lại, ba nhà đạo sĩ mà ta quen gọi là Ba Vua, là những người ngoại đạo, không am tường Kinh thánh, nhưng đã biết tìm tòi học hỏi, dấn thân lên đường, nên đã gặp được Chúa.
Tương phản giữa Vua giả và Vua thật: Hêrôđê được gọi là Vua, nhưng lại cứ nơm nớp lo âu, sợ mất ngai vàng, nên tìm cách tiêu diệt người khác. Trong khi đó, Đức Giêsu Kitô, Vua Trời lại thản nhiên bình an trong cảnh khó nghèo, mở rộng vòng tay đón tiếp mọi người xa gần.
Tất cả những tương phản ấy đáng cho ta suy nghĩ. Đấng Cứu thế không đến theo cơ chế, nhưng rất bất ngờ. Người không đến trong những cung điện sang trọng nhưng đến trong một chuồng bò tăm tối, hôi tanh. Người không đến trong quyền lực nhưng trong sự yếu đuối, khiêm nhường.
Tất cả những tương phản ấy khiến ta phải lo sợ. Không phải cứ có đạo là gặp đựơc Chúa. Không phải cứ giỏi giáo lý là biết Chúa. Muốn gặp được Chúa phải có thiện chí đi tìm. Muốn biết Chúa, phải dấn thân lên đường.
HiểnLinh ABClà những người ngoại đạo đến từ rất xa, nhưng đã trở nên gương mẫu cho ta trong việc đi tìm và hiểu biết Chúa. Các Ngài là những tâm hồn thiện chí.
Là những tâm hồn thiện chí, luôn luôn khao khát điều lành, nên các Ngài luôn để tâm tìm kiếm. Đêm đêm ngước mắt lên trời cố dò tìm dấu vết thần linh. Chắc chắn không phải chỉ trong phút chốc mà các Ngài phát giác ra ngôi sao lạ, nhưng phải trải qua nhiều năm tháng kiên trì chiêm ngắm bầu trời, cặn kẽ theo dõi đường chuyển dịch của các vì tinh tú, các Ngài mới có thể nhận biết ngôi sao lạ khi nó xuất hiện.
Việc đi theo ngôi sao lạ cũng không giản đơn. Trước hết việc lên đường đòi phải ra khỏi nhà, giã từ những tiện nghi dễ chịu, từ bỏ những sinh hoạt quen thuộc, chấp nhận những thiếu thốn, những nguy hiểm, những bất tiện trên đường đi. Thiện chí của các Ngài rất cao, nên khi ngôi sao biến mất, các Ngài vẫn không nản lòng bỏ cuộc, nhưng tìm mọi cách vượt qua khó khăn, tìm mọi cách để đến gặp được Chúa. Chúa đã chúc lành cho thiện chí của các Ngài, nên đã cho các Ngài được gặp Chúa.
Đời sống chúng ta là một cuộc đi tìm Chúa. Trong cuộc đi tìm, ta phải có thiện chí như Ba Vua, biết dấn thân lên đường, biết phấn đấu chấp nhận hy sinh gian khổ, biết kiên trì không nản lòng bỏ cuộc khi gặp thử thách.
HiểnLinh ABCkhông thể đến với Chúa nếu không có ngôi sao dẫn đường. Hôm nay, Chúa muốn mỗi người chúng ta là một ngôi sao lạ, loan báo tình thương của Chúa, đưa dẫn những tâm hồn thiện chí đến với Chúa. Hãy là ngôi sao sáng trong đời sống công bình. Hãy chiếu sáng đức thương yêu của Chúa. Hãy toả ánh sáng ấm áp tình người. Qua những làn ánh sáng ấy, mọi người sẽ nhận biết và tìm về với Thiên chúa là ánh sáng chân thật.
Để kết thúc, tôi xin kể một câu chuyện có thật. Một buổi chiều, một người lái xe con đi trên con đường miền núi vắng vẻ. ở một khúc quanh, người ấy phát hiện một gia đình bị hỏng xe. Đường vắng, trời tối, họ lo âu sợ hãi vì đó là đoạn đường thường xảy ra cướp bóc. Biết sửa chữa xe, nên người ấy đỗ xe, xuống giúp sửa chữa. Xe hỏng nặng. Người ấy phải chui vào gầm xe, tháo ra từng bộ phận. Tối mịt xe mới nổ máy. Cả gia đình mừng rỡ, muốn trả công cho người ấy. Nhưng người ấy không lấy công. Cả gia đình cám ơn rối rít và xin địa chỉ hẹn ngày lên thăm. Khi lên thăm, gia đình mới biết đó là một vị giám mục. Gia đình đem lòng cảm phục và xin theo đạo cả nhà. Vị Giám mục ấy chính là một Đức Cha ở cao nguyên Trung phần vào những năm 60.
Nhân dịp đầu năm mới, tôi xin cầu chúc tất cả anh chị em có một đời sống đạo trong sáng như ngôi sao sáng để đưa dẫn nhiều tâm hồn về với Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. HiểnLinh ABCthiện chí ở những điểm nào? 2. Bạn có gặp thử thách trong đời sống đạo không? Khi gặp thử thách, bạn đã ứng xử thế nào? 3. Theo bạn, cách nào hữu hiệu nhất để làm chứng cho Chúa: giảng giáo lý, tranh luận, sống bác ái? 4- Tuần này, bạn quyết tâm làm gì để thực hành Lời Chúa?
Ánh sáng muôn dân”, đó là nội dung Hiến chế tín lý về Giáo hội của Công đồng Vaticano II, được công HiểnLinh ABC407
“Ánh sáng muôn dân”, đó là nội dung Hiến chế tín lý về Giáo hội của Công đồng Vaticano II, được công bố vào năm 1964. Văn kiện này được mở đầu như sau: “Chúa Ki-tô chính là ánh sáng muôn dân, vì vậy Thánh Công đồng tha thiết mong muốn soi dẫn mọi người bằng ánh sáng của Người, đang chiếu tỏa trên khuôn mặt Giáo hội, để Tin Mừng được loan báo cho mọi loài thụ tạo” (số 1).
Danh xưng “Ánh sáng muôn dân” không phải do Giáo hội gán cho Chúa Giê-su, nhưng đây là lời tuyên bố của Đức Chúa trong sách Ngôn sứ I-sai-a: “Này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất” (Is 49,6) Xin lưu ý là những lời này được vị ngôn sứ tuyên bố vào lúc dân Do Thái đang lưu đày ở Ba-bi-lon, khoảng giữa thế kỷ thứ sáu trước Công nguyên. Đây là lời khích lệ động viên dân lưu đày, cho họ biết chắc sẽ có ngày trở về cố hương. Chính trong bối cảnh này mà chúng ta nghe Bài đọc I của Thánh lễ hôm nay. Vào cuối thời lưu đày, ngôn sứ I-sai-a được say sưa chiêm ngắm thị kiến về một Giê-ru-sa-lem là trung tâm của thế giới. Đó là một thành phố tỏa sáng, mà ánh sáng này là vinh quang của Đức Chúa. Vào ngày đó, muôn dân sẽ tuôn đổ về đây, mang theo những sản vật địa phương để cung tiến Đức Chúa. Người người đều vui mừng rạng rỡ. Đây là ngày của Đức Chúa. Đây cũng là ngày hạnh phúc đong đầy đối với ai tin vào Chúa và phó thác nơi Ngài.
Ánh sáng của Giê-ru-sa-lem, dù có chói lọi, cũng chỉ là ánh sáng hữu hạn. Ánh sáng mà Giáo hội muốn giới thiệu với chúng ta hôm nay là Ánh Sáng muôn dân, là chính Đức Giê-su Ki-tô. Người là Con Thiên Chúa, đã sinh hạ tại Bê-lem cách đây hơn hai ngàn năm. Người vẫn đang sống trong Giáo hội, để qua các thành viên của Giáo hội tỏa sáng khắp mọi miền thế giới. Ngày lễ hôm nay được gọi là lễ “Hiển Linh”. Từ này dịch từ chữ Epiphany (tiếng Anh), là một thuật ngữ diễn tả việc Thiên Chúa tỏ mình trong Cựu ước. Tuy vậy, nếu trong Cựu ước, Thiên Chúa tỏ mình qua các dấu chỉ biểu tượng như bụi gai cháy bừng, đám mây, cột lửa hay lời nói từ trời, thì đã đến thời Thiên Chúa tỏ mình qua chính Con của Ngài. Ba vua hay ba nhà đạo sĩ từ phương Đông đã nhìn thấy điều ấy qua điềm triệu là ngôi sao lạ. Các ông là những học giả, chuyên nghiên cứu về thiên văn. Ngôi sao lạ năm xưa đã chuyển tới các ông lời mời gọi, hãy đến để thờ lạy Vua mới sinh. Các ông đã lên đường, rời bỏ quê hương, chấp nhận những bất tiện cho một hành trình dài. Khi đến Giê-ru-sa-lem, các ông không còn nhìn thấy ngôi sao, nhưng các ông không nản. Các ông đã gặp vua Hê-rô-đê, nhờ các chuyên viên Kinh Thánh tìm tòi. Chúa đã ban thưởng cho sự kiên nhẫn của các ông. Vừa ra khỏi Giê-ru-sa-lem, ngôi sao lạ lại hiện ra dẫn đường. Nhiều nhà chú giải đã cắt nghĩa sự vắng bóng ngôi sao trên nền trời Giê-ru-sa-lem: có thể là tại thủ đô đã có Đền thờ và kho tàng mạc khải. Người ta có thể sưu tầm và tìm kiếm để thấy những chỉ dẫn trong các sách ngôn sứ. Những chuyên viên Kinh Thánh tại cung điện hoàng gia đã tìm thấy lời ngôn sứ Mi-kha: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt dân Ta sẽ ra đời” (x. Mk 5,2-5). Các nhà đạo sĩ đã tìm thấy câu trả lời và các ông tiếp tục lên đường.
Các đạo sĩ không phải là người Do Thái. Các ông là “dân ngoại”. Qua sự kiện này, Chúa Giê-su tỏ mình cho các dân tộc. Cuộc tỏ mình này như một khẳng định: ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện qua Đức Giê-su Ki-tô là ơn cứu độ có tính hoàn vũ, như mặt trời chiếu ánh sáng tới mọi dân. Không một dân tộc nào bị loại trừ. Tình thương của Thiên Chúa trải rộng đến mọi thế hệ và đến tận cùng thế giới. Đến lúc này, lời Chúa phán trong ngôn sứ I-sai-a năm xưa đã thành hiện thực: “Này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất”.
Như trên đã nói, Ánh sáng được ngôn sứ I-sai-a tiên báo chính Đức Giê-su. Trước sự ngỡ ngàng của những người đồng bào, Người đã quả quyết: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12). Để chứng minh điều này, Đức Giê-su đã chữa lành cho người mù bẩm sinh. Anh này vừa được chữa lành con mắt thể xác, vừa được sáng con mắt tâm hồn, để nhận ra Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và tin vào Người (x. Ga 9,1-41). Ngày hôm nay, Đấng Cứu thế vẫn tiếp tục chiếu tỏa ánh sáng của Người vào những góc khuất trong cuộc đời và trong tâm hồn chúng ta. Lắng nghe và thực hành Lời Chúa sẽ giúp chúng ta bước ra khỏi tăm tối và đến với ánh sáng ngàn đời, vì “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119,105).
Người mù bẩm sinh trong Tin Mừng thánh Gio-an đã được chữa lành và tin vào Đức Giê-su. Cũng vậy, trải dài qua bề dày của lịch sử, rất nhiều người đã đón nhận ánh sáng của Đức Giê-su, và cuộc đời họ đã được canh tân. Họ đã bước ra khỏi bóng tối để sống như con cái của sự sáng. Ánh sáng thần thiêng là Đức Giê-su đã bao bọc và ban cho họ sức mạnh phi thường. Tuy vậy, nếu người mù bấm sinh được chữa lành và mở rộng trái tim để tôn nhận Chúa Giê-su, thì một số người Do Thái lại căm ghét Chúa và tìm cớ để bắt bẻ Người. Trường hợp vua Hê-rô-đê cũng tương tự. Hơn ai hết, ông hiểu ý nghĩa của lời ngôn sứ Mi-kha, nhưng tham vọng mù quáng đã dẫn ông tới những quyết định tội lỗi, đó là âm mưu giết hại các trẻ vô tội ở vùng Bê-lem. Ánh sáng vẫn quảng đại chiếu soi, nhưng con người đón nhận lại ở nhiều cách thức khác nhau. Có những người trung thành thiện chí, nhưng cũng có những người cứng lòng mưu mô. Vua Hê-rô-đê nói với ba nhà đạo sĩ: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người”. Những lời xem ra rất trân trọng ấy lại chứa đựng một âm mưu nham hiểm. Hê-rô-đê sợ vị vua mới sinh sẽ chiếm đoạt ngai vàng, nên ông đã muốn tiêu diệt ngay từ trong trứng nước để trừ hậu hoạ. Nhưng quyền năng của Thiên Chúa vượt lên tất cả mọi mưu mô của người đời. Các nhà đạo sĩ đã nhận được điềm báo đi lối khác để về quê hương mình.
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Trong khi thế giới chào đón vị Vua Hòa bình, thì đây đó trên thế giới, chiến tranh và bạo loạn xảy ra liên tiếp, nhất là tại hai quốc gia Ucraina và Israel. Nguyên nhân của chiến tranh đến từ sự ích kỷ, tự mãn và cố chấp của con người. Lời cầu chúc bình an tại cánh đồng Bê-lem năm xưa, dường như bị át đi bởi tiếng bom đạn và tiếng kêu la của những thường dân vô tội. Chúng ta cầu nguyện cho hòa bình được tái lập tại hai quốc gia này và trên toàn thế giới. Xin cho thế giới nhận ra Đức Giê-su là Hoàng tử Bình an. Ai đón nhận và thực thi giáo huấn của Người, sẽ thực sự tìm thấy an bình. Vương quốc hòa bình mà Chúa Giê-su loan báo, để thành hiện thực, cần có nỗ lực và thiện chí.
Khi tuyên xưng Đức Ki-tô là ánh sáng đời ta, ta phải luôn bước theo con đường Người chỉ dẫn. Người tin Chúa cũng được chính Chúa Giê-su gọi là “con cái ánh sáng”. Chúa cũng nói với chúng ta: “Các con là ánh sáng thế gian”. Như thế, đời sống Ki-tô hữu phải rập khuôn theo mẫu gương Chúa Giê-su, để mỗi ngày trở nên giống như Người. Như Đức Ki-tô đã và đang tỏa ánh sáng của Người trên khuôn mặt Giáo hội, mỗi tín hữu cũng phải tỏa sáng bằng những việc làm thiện hảo, và bằng phong cách sống xứng hợp với Tin Mừng.
Lạy Chúa Ki-tô là Ánh sáng trần gian, xin soi sáng chúng con, và xin làm cho chúng con trở thành những ngọn nến thiêng tỏa sáng giữa đời. Kính chúc quý vị và anh chị em một năm mới an bình, hạnh phúc.
Không sợ Thiên Chúa chối bỏ, chỉ sợ con người bưng tai bịt mắt để khỏi nhận ra Thiên Chúa mà HiểnLinh ABC408
Không sợ Thiên Chúa chối bỏ, chỉ sợ con người bưng tai bịt mắt để khỏi nhận ra Thiên Chúa mà thôi. Từ ngàn xưa, Thiên Chúa vẫn chỉ một đường lối, đó là trung thành ngỏ lời với con người.
Chúa sử dụng mọi cách thức, mọi hoàn cảnh, mọi chiều kích để thế giới này, vũ trụ này nói chung và nơi cuộc đời của từng người nói riêng, ghi đậm dấu ấn lòng thương xót của Chúa.
Thiên Chúa luôn tìm cách để gần gũi, để nên một với con người. Vì thế, Thiên Chúa không ngừng yêu thương tỏ mình cho con nguời. Chính Chúa Kitô là bằng chứng lớn lao cho tình yêu ấy.
Về phía con người, lẽ ra phải khát khao, phải vui mừng đón nhận, và đón nhận bằng tất cả niềm hạnh phúc của một thụ tạo được Đấng Tạo Hóa cúi xuống đoái thương, thì ngược lại, họ lại phản bội, lại ghanh ghét, chối từ, lắm lúc muốn thay quyền Thiên Chúa...
Càng là những người nắm quyền hành, mang bộ mặt đạo đức, lại có thể càng là kẻ kiêu ngạo, có khi lại là kẻ chống đối Thiên Chúa.
Ngày Chúa Giêsu giáng sinh, qua thiên thần, Chúa tỏ mình cho các mục đồng. Những người bị coi là thấp bé này, mở lòng đón nhận mạc khải của Chúa. Còn các đạo sĩ ngoại giáo, chỉ bằng ánh sao lạ trên bầu trời phương Đông, Chúa đã ngỏ lời với họ. Các đạo sĩ chân thành đón nhận mạc khải. Bởi vậy, những tâm hồn đơn hèn, khiêm nhu của các mục đồng, của các đạo sĩ hạnh phúc nhiều vì là những người đầu tiên đón nhận Tin mừng Giáng sinh.
Trong khi để ngỏ lời với Hêrôđê và cả thành thánh Giêrusalem, thì không phải chỉ là ánh sao, nhưng "thế giá" bội phần. Bởi tỏ mình qua ánh sao, dù có lạ, có sáng đến đâu, trước sau vẫn chỉ là ánh sao.
Hoàng triều Hêrôđê và Giêrusalem được Thiên Chúa gởi chính con người là bản thân các đạo sĩ mang theo Tin mừng Giáng sinh để ngỏ lời, đồng thời lời Kinh Thánh lại được mở ra: "Hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi, vị lãnh tụ chăn dắt Israen dân Ta sẽ ra đời" (Mk 5, 2 ; 2 Sm 5, 2; Mt 2, 6). Chúa dành cho Hêrôđê và Giêrusalem vị trí quan trọng trong việc mạc khải mầu nhiệm Giáng Sinh của Ngài.
Thiên Chúa vẫn trung thành và mãi mãi trung thành, dù con người có khép lòng mình lại, khép rất chặt, Thiên Chúa vẫn yêu thương mời gọi, vẫn kiên nhẫn đợi chờ, vẫn tha thiết lấp đầy khát vọng của họ bằng chính sự hiến thân của mình, trao ban chính mình làm gia nghiệp đời đời của họ.
Đáng tiếc cho Hêrôđê và những kẻ thuộc về ông! Tất cả đã không một chút mảy may muốn mở lòng để nhận ra Thiên Chúa đang ngỏ với mình.
Thật chua chát, bởi Hêrôđê và quần thần không là kẻ ngoại, không ở xa xôi, hẻo lánh, tận trời Đông nào, lại ở rất gần nơi Đấng làm người vừa giáng sinh.
Họ không nghèo, không dốt nát như các mục đồng, nhưng đầy đủ phương tiện: nguồn Kinh Thánh nắm trong tay; những nhà thông luật và hiểu biết Kinh Thánh luôn vây quanh, sẵn sàng giải thích Kinh Thánh; phương tiện vật chất có thừa..., lại trở nên những tâm hồn chết lạnh vì thiếu vắng Thiên Chúa.
Hóa ra cái giàu của hoàng triều Hêrôđê lại chính là cái nghèo, nghèo không thể tưởng, ngèo đến mức trần trụi, đáng thương.
Họ chỉ có mỗi bản thân của mình mà thôi.
Ích kỷ đến thế làm sao có thể gặp Thiên Chúa, Đấng chỉ có yêu và xả thân vì yêu.
Ích kỷ đến thế, vì thế cũng độc ác không vừa. Không những ông đóng chặt cửa lòng trước tin vui Chúa Cứu Thế giáng trần, mà còn sợ Ngài tranh giành ngai vàng của ông, đến nỗi thẳng tay thanh trừng sự sống của Ngài.
Không có Thiên Chúa trong lòng mình, không có bất cứ điều gì người ta không dám làm, dù tàn nhẫn đến đâu. Thực tế dù không thể giết Thiên Chúa làm người, Hêrôđê đã giết chết vô vàn trẻ sơ sinh Dothái.
Thế giới vẫn đầy người học rộng, nghiêng cứu giỏi, hoạt bát, tinh ranh… Không thiếu triết gia lý luận sắc bén, người vô thần có quyền to lộng đẹp, chánh trị gia lãnh nhiều chức tước tha hồ thao túng trong bàn tay sắt, nhiều nhà khoa học giỏi, nhiều kẻ thành đạt trong nhung lụa, nhiều kẻ đỗ đạt hết bằng cấp này đến bằng cấp khác… Họ được thế gian coi là xuất chúng, uyên thâm...
Nhưng họ thuộc nòi giống Hêrôđê. Có mấy ai trong họ nhìn thấy ánh sáng từ trời cao chiếu soi cõi lòng. Có mấy ai trong họ nhìn thấy bất cứ một ánh sáng nào của lòng tin, của con đường về hạnh phúc trường cửu...
Dòng dõi Hêrôđê kiêu ngạo, muôn đời vẫn không tìm thấy Thiên Chúa, vẫn sống trong u tối, vẫn là kẻ ngu dốt dù họ đầy những tri thức thực nghệm…
Hãy khiêm nhường như Đạo Sĩ. Xin Chúa ban tình yêu nồng nàn, đức tin đơn sơ, cõi lòng mềm dẻo sẵn sàng để Chúa uốn nắn thành người tha thiết tìm Chúa qua mọi thời gian sống, nơi mọi hoàn cảnh, mọi biến cố của đời mình.
Thiên Chúa chỉ là Thiên Chúa của kẻ đơn sơ, tâm thành, hướng thiện. Ba Đạo Sĩ cúi mình bước vào hang đá kính thờ Hài Nhi không ngai vàng, không quyền lực, nghèo đến nỗi sinh ra nơi hang lừa, máng cỏ… Nhưng họ có tình yêu, lòng sốt mến, sự chân thành. Họ gặp Đấng là Thiên Chúa của lòng họ.
Chỉ có thiện tâm mới có thể gặp Thiên Chúa, Chân Lý trường tồn của đời người...!
Kẻ không có thiện tâm, dù có tuyên xưng mình thờ Chúa vạn lần, vẫn là kẻ giết Chúa!...
Thờ Chúa và vẫn giết Chúa, tưởng chừng là điều mâu thuẫn, khó nghe. Nhưng nếu cứ mãi đuổi theo lối sống Hêrôđê, điều khó hiểu ấy lại là sự thật!
Tin Mừng Mátthêu hôm nay trình bày cho người đọc thấy Thiên Chúa mạc khải chính Ngài cho HiểnLinh ABC409
Tin Mừng Mátthêu hôm nay trình bày cho người đọc thấy Thiên Chúa mạc khải chính Ngài cho tất cả mọi người, không phân biệt ai, dù là người Do thái hay dân ngoại phương xa, như các đạo sĩ từ Phương đông. Thiên Chúa mạc khải chính mình qua Chúa Giêsu, Vị Vua mà con người cần tìm đến.
1. Tìm kiếm Thiên Chúa để thờ phượng Ngài
Các đạo sĩ từ phương đông đến Giêrusalem để tìm kiếm vị vua mới sinh của dân Do Thái. Các đạo sĩ này đi khắp Giêrusalem để hỏi dân chúng xem vua ở đâu vì họ thấy ngôi sao của ngài xuất hiện và đến để thờ lạy ngài: “Có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi: "Đức Vua dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Ngài xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Ngài” (Mt 2:1-2). Các đạo sĩ này là ai? Tiếng Hy Lạp sử dụng từ μάγοι – Magoi – nghĩa là những “đạo sĩ” hay “nhà thông thái”. Họ là những “chuyên gia” về chiêm tinh nhưng kiến thức chuyên môn của họ có thể bao quát hơn, bao gồm cả y học, tiên tri và giải mộng. Họ được người cùng thời coi là những người khôn ngoan trong việc giải thích ý nghĩa các vì sao. Họ từ phương đông đến nghĩa là họ đến từ Babylon, Ba Tư hoặc Ả Rập. Vậy đây là những nhà chiêm tinh của dân ngoại ở phương đông. Không phải là vô lý khi nghĩ rằng đoàn của họ không chỉ có ba người. Có thể họ có cả một đoàn tùy tùng đông đảo vì khoảng cách di chuyển là rất xa, từ khu vực Babylon, Ba Tư, Ả Rập đến Giuđêa. Họ đi hàng trăm dặm để tìm Vị Vua mới sinh theo cách giải thích thiên văn của họ.
Qua ngôi sao lạ, Thiên Chúa dẫn dắt những nhà chiêm tinh này tìm ra Vị Vua và thờ lạy Ngài. Thiên Chúa dùng khoa học đương đại của họ để cho thấy có một Vị Vua mà bất cứ ai, dù ở phương trời nào, cũng cần phải thờ phượng. Các nhà thông thái phương Đông này, đại diện cho các dân tộc ngoại giáo trên thế giới vào thời Chúa Giêsu, đã bắt đầu tìm thấy nơi Chúa Giêsu câu trả lời cho việc tìm kiếm và thực hiện các khát vọng sâu xa trong cõi lòng của họ.
Tôi có như các nhà thông thái phương đông, đi tìm Hài Nhi Giêsu và thấy Ngài là một Vị Vua đáng thờ lạy không? Tôi có hiểu ý nghĩa của việc thờ lạy như sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo chỉ bảo không: “Hành vi đầu tiên của nhân đức thờ phượng là thờ lạy. Thờ lạy Thiên Chúa, nghĩa là nhận biết Ngài là Thiên Chúa, là Đấng Tạo Hoá và Cứu Độ, là Chúa và Chúa tể của mọi loài đang hiện hữu, là Tình Yêu vô biên và hay thương xót” (số 2096)?
Sứ điệp đầu tiên của Vị Vua: sự chống báng.
“Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao” (Mt 2:3) Tại sao thế? Các nhà thông thái tuyên bố vua dân Do Thái đã ra đời và đang “tìm đến bái lạy Ngài.” Phản ứng của người dân Giêrusalem và các nhà lãnh đạo không phải là sự phấn khởi do sự xuất hiện của Vị Vua đến cứu dân mình. Không, họ không vui mừng, trái lại họ cảm thấy hoảng hốt và bối rối trước tin tức này. Hêrôđê và Giêrusalem chưa sẵn sàng đón nhận Vị Vua. Thực ra, họ rất lo sợ trước tin Ngài đến.
Vì vậy, các thượng tế và kinh sư của Giêrusalem được Hêrôđê triệu tập “hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu” (Mt 2:4) Họ trả lời rằng: “Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời” (Mt 2:5) Đây là lời của tiên tri Mica trong chương 5, câu 1. Các thượng tế và kinh sư trích dẫn đoạn văn liên quan đến việc “vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời”. Lẽ ra khi trích dẫn lời này của tiên tri Mica, họ phải cảm thấy vô cùng phấn khởi, tràn đầy hy vọng và niềm vui, vì Vị Vua sẽ đưa dân trở lại và chăn dắt dân mình trong sức mạnh của Thiên Chúa: “Ngài sẽ chăn dắt, dựa vào quyền lực Thiên Chúa của ngài. Và dân chúng sẽ được an cư” (Mica 5:3). Thế nhưng, trái lại, một bầu không khí căng thẳng bao trùm. “Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện” (Mt 2:7). Ông ta làm ra vẻ cũng quan tâm đến việc thờ phượng Vị Vua giống như những nhà thông thái này. Ông bảo các nhà thông thái: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Ngài” (Mt 2: 8). Nhưng mục đích của ông ta không phải là tôn thờ mà là tiêu diệt Hài Nhi (2:13).
Phản ứng đầu tiên mà quyền lực thế trần dành cho Chúa Giêsu là thái độ thù địch. Chúa Giêsu khiến sự thù địch lộ diện. Tại sao lại có sự thù địch như thế? Hêrôđê, vua xứ Giuđêa, không bao giờ chấp nhận phục tùng một vị vua nào khác ở vùng đất này. Ông sợ mất quyền lực, và để duy trì sự kiểm soát dân, ông ta sẵn sàng giết bất cứ ai mà ông ta coi là đối thủ. Đó là lý do thực sự cho sự thù địch chống lại Chúa Giêsu. Tác giả thánh vịnh cho thấy rõ: “Vua chúa trần gian cùng nổi dậy, vương hầu khanh tướng rập mưu đồ chống lại Chúa, chống lại Đấng Người đã xức dầu phong vương” (Tv 2:2).
Chúng ta không muốn phục tùng một vị vua nào hết. Chúng ta muốn làm vua trên cuộc đời của chính mình. Chúng ta không muốn ai bảo chúng ta điều gì đúng và điều gì sai. Không có quy tắc nào dành cho tôi, vì tôi tự do, tôi là chủ nhân của chính mình. Sự xuất hiện của Chúa Giêsu đặt chúng ta trước sự chọn lựa: theo Ngài, đón nhận Ngài là Chúa, là Vua, lắng nghe và làm theo Lời Ngài hoặc chống lại Ngài như có lần Ngài nói: “Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán” (Lc 11:23).
Dửng dưng trước sự hiện diện của Thiên Chúa
Trước sự xuất hiện của Chúa Giêsu các thượng tế và kinh sư đã làm gì? Họ không làm gì cả. Họ thờ ơ. Họ biết kinh thánh. Họ có thể hiểu được kinh thánh đang nói về điều gì. Nhưng Sách Thánh không tác động gì đến tấm lòng của họ. Họ không quyết tâm đi theo các nhà thông thái cho đến khi gặp được Chúa Giêsu. Họ không muốn tìm kiếm Vị Vua mới.
Đây cũng có thể là tình trạng của chúng ta. Chúng ta có thể biết kinh thánh, nhưng Lời Chúa chưa khiến cuộc đời chúng ta biến đổi. Các tín hữu làm những việc khiến bản thân trông có vẻ giữ đạo nhưng chẳng có bao nhiêu thực chất. Sự sùng kính của họ dành cho Thiên Chúa có nguy cơ chỉ là lễ nghi bề ngoài. Chúa Giêsu chỉ còn là một mối quan tâm thoảng qua. Chúng ta sẽ không thù địch chống lại Chúa Giêsu và những người theo Ngài. Nhưng chúng ta cũng sẽ không cống hiến hết mình, không làm gì nhiều cho Chúa Giêsu. Người ta không cần đến Thiên Chúa trong một thế giới ngày càng dửng dưng, thiếu hiểu biết về tâm linh, dẫn đến tinh thần sa sút. Sự dửng dưng tâm linh là bởi sự thiếu nghiêm túc đối với những câu hỏi lớn của cuộc đời: Tôi có tin vào Thiên Chúa không? Tôi dành cho Thiên Chúa bao nhiêu chỗ trong đời tôi? Tôi có hành xử theo Lời Chúa không? Lễ nghi, kinh sách…có giúp tôi lên đường tìm gặp và thờ lạy Chúa Giêsu, Vua các vua, tôn vinh Ngài là Đấng Cứu độ và là Đấng Emmanuel đang sống giữa chúng ta không?
Cuộc sống của chúng ta vốn bị khép kín trong vòng tròn lao nhọc kiếm miếng ăn, vui chơi, nghỉ ngơi, sanh con đẻ cái…khiến chúng ta dễ quên những điều cao cả. Sự dửng dưng này là dấu hiệu của thời đại ngày càng bị tục hóa, ảnh hưởng bởi lối nghĩ mọi thứ đều là tương đối.Chúng ta biết quá nhiều về những điều nhỏ nhặt và quá ít về những điều lớn lao. Chúng ta không còn muốn nhìn các vì sao trên trời cao và tìm hiểu ý nghĩa của chúng. Tôi còn muốn đi tìm ý nghĩa cho sự hiện hữu của mình trong thế giới này không? Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu Kitô, có phải lả điểm quy chiếu cho mọi tâm tư, lời nói, hành vi và thái độ của tôi không? Đây cần phải là những câu hỏi dành cho tôi, vào lúc này hay lúc khác, nhất là trong những khoảnh khắc tự ý thức lặng lẽ và tỉnh táo nhất.
Tôn thờ Thiên Chúa cách đích thực
Các thượng tế và kinh sư của Giêrusalem và Hêrôđê không nhìn thấy ngôi sao nào, bởi vì họ không chăm chú tìm kiếm những sự trên trời. Họ bận tâm và mải mê những chuyện dưới phàm trần, ngay cả việc thờ phượng Thiên Chúa cũng chỉ là việc tế tự tôn giáo, là nghi lễ khói hương, che giấu quyền lực và quyền lợi phía sau.
Liệu tôi cũng có phần nào như họ, đúng như Chúa Giêsu nói sau này: “Những kẻ đạo đức giả kia, ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân” (Mt 15:7-9)?
Trong khi đó các đạo sĩ đã đi một quãng đường rất xa, hy sinh nhiều thứ để tìm kiếm Chúa Giêsu. Họ sẽ không dừng lại cho đến khi họ tìm thấy Chúa Giêsu. Khi tìm được Chúa Giêsu, họ tôn thờ Chúa Giêsu bằng những lễ vật đắt giá.
Đây là bản chất của sự tôn thờ. Tôn thờ không phải là đến nhà thờ nhưng cõi lòng vẫn dửng dưng, tâm hồn mơ màng ở một chốn mông lung nào đó. Tôn thờ không có nghĩa là làm cho xong các nghi lễ luật định. Tôn thờ là tuyên bố Thiên Chúa cao cả trên hết mọi thứ trong cuộc đời để rồi chúng ta dám dâng hiến mọi thứ và cả cuộc đời mình cho Ngài. Chúng ta thấy điều này ở những nhà thông thái này: “Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng” (Mt 2:10). Thật là niềm vui lớn lao đến độ khi họ đã tìm thấy Hài nhi, họ “sấp mình thờ lạy Ngài” (Mt 2;11). Tôn thờ Thiên Chúa có nghĩa là chúng ta tìm kiếm Ngài trong vui mừng, nhất là khát mong được sống với Ngài, và nhờ Ngài, được sống với mọi người, như anh chị em một gia đình, trong mầu nhiệm hiệp thông, như Thánh Phaolô diễn tả trong bài đọc thứ hai: “Mầu nhiệm đó là: trong Chúa Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3:6).
Rabindranath Tagore (1861-1941) là một đại thi hào không những của Ấn-độ mà còn cả thế giới HiểnLinh ABC410
Rabindranath Tagore (1861-1941) là một đại thi hào không những của Ấn-độ mà còn cả thế giới. Nhờ đã sáng tác nhiều bài thơ có sắc thái thần bí (tôn giáo) hay ái quốc cũng như nhiều tiểu thuyết và bi kịch giá trị, ông đã được giải Nobel Văn chương năm 1913. Dù là người theo Ấn giáo, Tagore vẫn để lộ trong các tác phẩm mình (đặc biệt thi phẩm “Lời dâng”) niềm tin vào một vị Thượng Đế độc nhất và nhân hậu. Sau đây là một lời cầu nguyện trích từ thi phẩm đó : “Lạy Chúa, đây là lời cầu nguyện con dâng lên Chúa. Xin hãy đánh bật gốc bệnh hủi này trong trái tim con. Xin ban cho con sức mạnh đảm nhận cách nhẹ nhàng các nỗi buồn và niềm vui của con. Xin ban cho con sức mạnh làm cho tình yêu của con đầy những hoa trái phục vụ. Xin ban cho con sức mạnh là chẳng bao giờ hất hủi người nghèo khổ cũng như quỵ lụy trước cường quyền. Xin ban cho con sức mạnh nâng tâm trí mình lên khỏi những phù phiếm thường nhật. Và xin ban cho con sức mạnh đem dũng lực con tùng phục thánh ý Chúa với tình yêu”. Tagore quả đứng trong hàng ngũ lương dân đi tìm Thiên Chúa theo sau ba nhà đạo sĩ mà bài Tin Mừng nhắc nhớ hôm nay.
1. Ai là Vua đích thật?
“Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì…”. Đó là những tiếng duy nhất, vắn gọn Mt dùng để nói về việc Giáng sinh. Quả là ít ỏi ! Khác với Lu-ca, Mát-thêu xem ra ít quan tâm đến biến cố xét như biến cố. Ngược lại, rõ ràng ông cố ý cho các độc giả biết “ý nghĩa” của việc sinh hạ này. Và ông trình bày ý nghĩa đó trong trình thuật các nhà chiêm tinh, một trình thuật được khai triển dài dòng, mà nếu chú ý, thì ta sẽ thấy như một thứ nhập đề cho toàn bộ Tin Mừng theo thánh Máttthêô.
Mới bắt đầu, Mátthêu đã đặt cạnh nhau hai tước hiệu đối nghịch: vua Hê-rô-đê… vua dân Do-thái… Đây như hai thành phần hóa học gặp nhau thì nổ. Quả thế, câu hỏi được mấy ông ngoại quốc vừa đi vừa lặp lại trong các đường phố nhỏ hẹp của Giê-ru-sa-lem hẳn đã vang bên tai người Do-thái như một lời mỉa mai cay độc. Nên ta hiểu tại sao nó khiến Hê-rô-đê đa nghi phải bối rối. Nhờ lịch sử, ta biết ông đã trải qua suốt đời trong nỗi ám ảnh bị mất quyền lực, nhìn thấy âm mưu khắp mọi nơi, luôn ru rú trong các “pháo đài”, và đã ra lệnh giết ba con trai, mẹ vợ, thậm chí cả bà vợ Ma-ri-am-me yêu quý.
Nhưng ý nghĩa mà Mt gán cho tước hiệu “Vua dân Do-thái” thì sâu xa hơn nhiều, vì “Nước Trời” sẽ là một trong những chủ đề ưa thích của ông. Ngay từ khởi điểm, Mt đã loan báo vị Vua của Vương quốc ấy. Ngay trang đầu tiên của Tin Mừng ông, có một vương miện bị giành giật: ai thật sự là “vua” dân Do-thái? Hê-rô-đê, chúa tể quyền lực, sát nhân và độc dữ ? Hay Giê-su nhỏ bé, yếu hèn, tay không, và sẽ chết như nạn nhân vô tội? Chính vào trang cuối cùng của Phúc Âm ông, theo một phương pháp đóng khung rất thông dụng trong văn chương sê-mít, Mt sẽ gán cho Đức Giê-su tước hiệu “vua dân Do-thái này” : “Vạn tuế Đức Vua dân Do-thái!”, binh lính sẽ nói vậy (Mt 27,29) ; “Người này là vua dân Do-thái”, Phi-la-tô sẽ cho viết thế trên đầu Đức Giê-su bị đóng đinh, để nêu rõ “lý do kết án Người” (Mt 27,37); “Nếu hắn là vua Ít-ra-en, hắn hãy xuống khỏi thập giá”, mọi ký lục và thượng tế sẽ cười ồ như vậy (Mt 27,42).
Ngay từ khi mới sinh, Mt gợi ý cho ta, Đức Giê-su chỉ là một ông vua khiêm tốn, hình ảnh của “Người Tôi trung Đau khổ” trong I-sai-a, “ông vua ngồi trên lưng lừa” (Mt 21,5) trong cuộc khải hoàn thoáng qua ngày Lễ lá, ông vua không đến để “được hầu hạ nhưng để hầu hạ” (Mt 20,28) và sẽ yêu cầu môn đệ “chớ thống trị nhưng hãy làm đầy tớ” (Mt 20,25.26). Vương quyền ông vua này không thuộc thế gian, chẳng có gì giống vương quyền Hê-rô-đê cả : nó sẽ chỉ tỏ lộ cách ngược đời trong cuộc Khổ nạn.
“Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người”. Hôm nay, Giáo Hội liên kết với trình thuật Hiển linh này một bản văn của I-sai-a, được chọn trong vô vàn bản văn Thánh Kinh loan báo việc Đấng Thiên sai (Mê-si-a) đến như một “ánh sáng” (Bài đọc 1) : “Đứng lên, bừng sáng lên, Giê-ru-sa-lem hỡi, vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân ; còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi. Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước…” (Is 60,1-6). Ánh sáng Thiên sai ấy, chắc bạn còn nhớ, đã được hát mừng trong mùa Vọng và trong thánh lễ “đêm” Giáng sinh: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng… vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta” (Is 9,1.5).
Trong chủ đề “ngôi sao” có cả một ý nghĩa mà thánh Phê-rô sẽ khai triển khi nói đến đức tin như “sao mai mọc lên soi chiếu tâm hồn anh em” (2Pr 1,19). Ngôi sao thành thử tượng trưng cho ánh sáng, ân sủng, hành động của Thiên Chúa đã âu yếm nhìn các đạo sĩ lương dân đang đi tìm Đấng Cứu Thế. Đừng băn khoăn tìm xem đó phải chăng là một sao chổi ! Trong đời tôi, cũng có một ân sủng hướng dẫn tôi đến chỗ khám phá Đức Giê-su. Phải chăng tôi có can đảm theo nó bất cứ nó đưa đi đến chỗ nào, thậm chí đến trước máng cỏ và thập giá, đến trước Hài nhi yếu đuối và Giê-su tử tội ?
2. Thái độ trước vị Vua này.
“Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại”. Chính giữa trình thuật Hiển linh, Mt đưa ra hai “thái độ” mà chúng ta thường gặp thấy lại suốt Tin Mừng của ông:
* Một đàng là thái độ từ chối của các thủ lãnh chính trị và tôn giáo Do-thái. Lẽ ra họ phải là những kẻ đầu tiên thừa nhận Đấng Mê-si-a. Thế nhưng họ đã làm gì? “Lo sợ”, “băn khoăn”, chẳng động đậy! Ngay từ đầu, họ đã tìm cách giết Đức Giê-su. Ta tưởng như đã nghe tiếng la buồn thảm Người thốt ra trên thành thánh: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu… Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi! Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, mà các ngươi không chịu” (Mt 23,27.37).
* Đàng khác, là thái độ “đón tiếp” của các nhà chiêm tinh ngoại đạo này. Tuy ít được chuẩn bị để nhận ra Đấng Mê-si-a, chính họ đã động đậy, đã đi tìm Người, và cũng chính họ, thay vì “lo lắng”, đã cảm thấy “một niềm vui lớn lao”. Người ta tưởng đã nghe được chính kết luận của Mátthêu: “Vậy anh em hãy ra đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19).
Trên thực tế, trang Tin Mừng này nhắm mục đích giải thích cho độc giả Ki-tô hữu gốc Do-thái trong các thế kỷ đầu tiên biết tại sao Giáo Hội phần lớn gồm Ki-tô hữu gốc dân ngoại, đang khi Thiên Chúa đã mạnh mẽ cam kết với Ít-ra-en. Mt cho thấy Đức Giê-su, Cứu tinh mong đợi, là Đấng đến cho mọi người, và “Ít-ra-en mới” gồm hết thảy những ai, Do-thái hay dân ngoại, “bái lạy” tôn thờ Đức Giê-su. Điều đó đã được loan báo bởi mọi lời sấm theo chiều hướng “cứu độ phổ quát” rồi : Giê-ru-sa-lem phải trở thành thủ đô của mọi dân tộc ; ơn cứu độ xuất phát từ đó nhưng không phải chỉ dành cho con cháu Áp-ra-ham : “Lạc đà từng che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha : tất cả những người từ Sơ-va kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa” (Is 60,6). Thánh vịnh 71, được hát lễ Hiển linh, lấy lại cùng chủ đề của lúc mở đầu : “Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm, hàng vương giả sẽ về (Giê-ru-sa-lem) triều cống”. Và cũng chính Mt sẽ nói lại rằng chư dân “sẽ từ Đông Tây mà đến dự tiệc với Áp-ra-ham” (Mt 8,11). Một lần nữa, ta lại thấy cuốn Tin Mừng này được biên soạn ra sao.
Vâng, các “chiêm tinh gia” tượng trưng cho hết thảy dân ngoại mọi thời. Đừng hiểu từ “dân ngoại” này theo nghĩa xấu ! Trong số bạn hữu chúng ta, có lắm người hoàn toàn chân thành trong các xác tín của họ, sống một đời chính trực, có ý thức công bằng và phục vụ rất cao, có một gia đình gương mẫu, và chu toàn phận sự nghề nghiệp của họ cách hoàn hảo. Tuy nhiên, họ không biết Đức Giê-su Ki-tô theo nghĩa mạnh. Hiển linh là lễ của tất cả những ai không biết Đấng Cứu Thế, của mọi ai có đức tin khác với chúng ta, mọi ai mà Thiên Chúa yêu thương, soi sáng, lôi kéo với ân sủng vô hình của Người, mà Tagore hay Gandhi là một ví dụ.
Nhưng vì cớ nào sao ngôi sao đã không trực tiếp dẫn các đạo sĩ trực tiếp tới Bê-lem, đến bên Đức Giê-su? Vì cớ nào phải vòng qua Giê-ru-sa-lem, qua các “tư tế và ký lục”? Vì Thiên Chúa trung tín với các lời hứa của Người, vì ơn cứu độ phải đi qua dân Do-thái (x. Rm 9,10-11) trước khi đến với toàn thể nhân loại. Việc vòng qua Giê-ru-sa-lem cũng còn một ý nghĩa nữa. Đó là vì không thể bỏ qua “Lời Chúa”, “Kinh Thánh” nếu muốn minh nhiên gặp gỡ Đức Ki-tô. Phần chúng ta thì sao ? Phải chăng chúng ta suy niệm Lời Chúa không mệt mỏi?
Thần học gia kiêm triết gia Albert Schweitzer nói: “Cuộc sống trở nên khó khăn hơn khi chúng HiểnLinh ABC411
Thần học gia kiêm triết gia Albert Schweitzer nói: “Cuộc sống trở nên khó khăn hơn khi chúng ta sống vì người khác, nhưng nó cũng trở nên đẹp đẽ và hạnh phúc hơn.” Nhà giáo dục William Arthur Ward nói: “Ba chìa khóa dẫn tới cuộc sống mãn nguyện: quan tâm người khác, dám làm vì người khác, chia sẻ với người khác.” Văn sĩ Mark Twain nói: “Lòng tốt là thứ ngôn ngữ mà người điếc có thể nghe và người mù có thể thấy.”
Thiện tâm và điều thiện liên quan lẫn nhau, vì người tốt quan tâm điều tốt – sống tốt và làm việc tốt. Đó là bổn phận của mọi người. Có thiện tâm mới có bình an đích thực. Các đạo sĩ, nhà thông thái, nhà chiêm tinh,... không chỉ 3 người mà nhiều người. Họ là những người thiện tâm, cùng đi tìm “nhân vật đặc biệt.” Từ Đông phương xa xôi, họ miệt mài đi theo Ánh Sao Lạ dẫn đường đến Belem, được diện kiến Vương Nhi Giêsu và Song Thân của Ngài. Họ đã Ngài là Ngôi Hai hóa thành nhục thể, làm người để chia ngọt sẻ bùi với thân phận thế nhân. Đó là cách Chúa tỏ mình cho muôn dân – gọi là Hiển Linh.
Từ ngàn xưa, Kinh Thánh đã báo trước: “Một ánh sáng rạng ngời sẽ chiếu soi khắp mười phương đất; từ viễn xứ, người trăm họ kéo đến với ngươi. Và dân cư tận chân trời góc biển sẽ tới hát mừng danh thánh Chúa, tay bưng lễ vật dâng tiến Vua Trời. Muôn thế hệ sẽ làm cho ngươi hoan hỷ, và tên ngươi, thành được Chúa chọn, sẽ lưu truyền hậu thế đến ngàn năm.” (Tb 13:13) Ánh Sáng đó là vinh quang Thiên Chúa, là Đức Kitô giáng sinh tại Belem. Ánh Sáng đó chiếu tỏa khắp nơi, bóng tối phải lùi bước ở bất cứ nơi nào có Ánh Sáng. Thật vậy, “tất cả bóng tối trên thế gian cũng không thể che khuất ánh sáng của một ngọn nến.” (Thánh Phanxicô)
Thật khổ, Đức Maria sắp lâm bồn mà không có chỗ trọ, Chồng đành đưa Vợ ra cánh đồng và có cái hang để nghỉ chân. Không người thân thích, không ai giúp đỡ. Chồng vất vả lo cho Vợ từ A đến Z. Chồng không hề than thở, chỉ âm thầm hành động. Vợ sinh xong, được mẹ tròn con vuông là vui lắm rồi. Sau đó lại được đám mục đồng ghé thăm, rồi thêm các đạo sĩ ghé thăm. Nhưng chuyện đời chưa hết, bộ phim “khổ” còn dài…
QUYẾT CHÍ
Có hai dạng quyết chí: Tốt và Xấu. Các đạo sĩ quyết chí tìm kiếm Chúa. Vua Hêrôđê quyết chí giết hại Chúa.
Người trị vì lúc đó là vua Hêrôđê. Ông ta thấy mấy nhà chiêm tinh vào hỏi thăm: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” (Mt 2:1-2) Nghe vậy, vua Hêrôđê tá hỏa, xay xẩm mặt mày, cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua sợ có kẻ nổi loạn để tiếm ngôi, ông liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: “Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách ngôn sứ, có nói về miền đất Giuđa, nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel sẽ ra đời.” (Mt 2:6) Thế là vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện, phái họ đi Bêlem và dặn: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy thì về báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người.” (Mt 2:8)
Họ an tâm lên đường khi nghe nhà vua nói thế, họ không hề biết ông ta có mưu đồ thâm độc, vì ông ta chỉ muốn bảo vệ “cái ghế” của mình thôi. Các đạo sĩ tiếp tục đi theo ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, dẫn đường họ đến tận nơi. Ngôi sao dừng lại, “họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là cô Maria, liền sấp mình thờ lạy Người.” (Mt 2:11) Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. Họ tìm và gặp, họ thành tâm và được đền bù.
Trước khi ra về, họ được báo là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, và họ đã đi lối khác mà về xứ mình. Các đạo sĩ đã nỗ lực tìm kiếm và được thỏa mãn, họ tin và can đảm vào đời, tránh sự dữ (ác nhân Hêrôđê) và hành động tích cực. Sống tốt không chỉ là “làm lành, lánh dữ” mà còn phải tích cực hành động để bảo vệ những gì tốt đẹp – công lý, sự thật, việc thiện, tha thứ, yêu thương, chính trực,...
MIỆT MÀI
Thánh Vịnh gia tâm sự: “Nghĩ về Ngài, lòng con tự nhủ: hãy tìm kiếm Thánh Nhan. Lạy Chúa, con tìm thánh nhan Ngài, xin Ngài đừng ẩn mặt.” (Tv 27:8-9a) Đó là phong cách của người tốt, người có thiện tâm. Tìm kiếm Thiên Chúa là hành động liên lỉ của tín nhân, vì Kinh Thánh nhắn nhủ: “Hãy tìm Đức Chúa khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người ở kề bên.” (Is 55:6) Cái gì cũng có kỳ hạn nhất định, giờ thương xót cũng sẽ có hồi kết.
Vì thương xót, Chúa Cha đã hứa ban Ngôi Con từ mấy ngàn năm trước và đã hiện thực đúng lời hứa đó: Ngôi Hai làm người ở với loài người – Emmanuel. Chúng ta là những người nô lệ tội lỗi, nhưng “nô tì kiếp” của chúng ta được Chúa Giêsu đến tháo gỡ mọi gông cùm tội lỗi, được thừa nhận là con của Thiên Chúa, vì thế ngôn sứ Isaia kêu gọi: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi.” (Is 60:1-2) Thật hạnh phúc cho nhân loại!
Chúng ta không chỉ được giải thoát và trở nên con cái Thiên Chúa, mà chúng ta còn được Ngài quan tâm, chăm sóc và nâng niu: “Con trai từ phương xa tới, con gái được ẵm bên hông.” (Is 60:4) Thế nên chúng ta không thể không vui cười hớn hở, mặt mày rạng rỡ, cõi lòng rạo rực, vui như hội và vui như tết. Hài Nhi sinh ra nơi hang chiên lừa hôi tanh trong đêm tối ở cánh đồng hoang vu Belem chính là Vương Nhi, là Thái Tử của Thiên Hoàng. Ngài đến để giao hòa đất với trời, đồng thời cũng để “xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.” (Tv 72:6)
Tuy nhiên, các vua chúa trần gian được tiền hô hậu ủng, kẻ hầu người hạ, họ nghèo mà giàu, hèn mà sang. Còn Ông Vua Nghèo Giêsu lại ĐẾN ĐỂ PHỤC VỤ chứ không được ai phục vụ, Ngài “đến không để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn,” (Lc 5:32) Ngài “đến để tìm và cứu những gì đã mất,” (Lc 19:9) và Ngài “đến để cho con người được sống dồi dào.” (Ga 10:10) Cách làm của Vua Nghèo quá “ngược đời,” nhân loại không thể hiểu hết. Tại sao? Vì Chúa biết tỏng tư tưởng chúng ta thế nào, như Ngài đã nói: “Tư tưởng của Tôi không phải là tư tưởng của quý vị, và đường lối của quý vị không phải là đường lối của Tôi.” (Is 55:8) Ngài giàu sang mà tự nguyện sống nghèo hèn.
Mặc dù vậy, triều đại của Vua Nghèo lại “đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn,” (Tv 72:7) để rồi “mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước thảy đều phụng sự.” (Tv 72:11) Ngài là Vua các vua, là Chúa các chúa, nhưng Ngài vô cùng nhân từ, luôn THEO SÁT đồng bào, luôn tậN TỤY với đám dân nghèo, cương quyết BẢO VỆ công lý và chân lý. Ngài trực ngôn và hành động để “giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Ngài ra tay tế độ.” (Tv 72:12-13)
Các hiền triết từ Đông phương thấy Ánh Sao Lạ, họ biết có một “dị nhân” vừa xuất hiện, thế là họ không quản ngại đường xa hiểm trở, mau mắn và quyết tâm lên đường tìm cho ra “dị nhân” kia. Và ánh sao dẫn đường đã dừng lại trên một hang chiên lừa hẻo lánh ngoài cánh đồng vắng.
Các đạo sĩ không chỉ thông thái, có học thức, mà còn giàu có. Họ thấy Bé Giêsu oe oe ngọ nguậy trong máng cỏ, bên cạnh chỉ có hai Cô Chú “nhìn thấy thương,” nghèo kiết xác, và lũ chiên lừa, nhưng họ vẫn tin thật rằng Trẻ Sơ Sinh kia là “dị nhân” mà họ muốn tìm gặp, rồi họ can đảm bước vào triều yết. Thật khó tin, y như cổ tích vậy. Nhưng đó là sự tuyệt đối. Rồi họ dâng những lễ vật cao quý nhất mà họ đã đem theo.
Ngày nay, chúng ta được dạy đó là mầu nhiệm, không thấy Hàn Gia lúc đó nên chúng ta tin. Nếu tận mắt chứng kiến thì chưa chắc chúng ta tin Em Bé Giêsu chính là Ngôi Hai Thiên Chúa. Vậy là chúng ta may mắn lắm. Thánh Phaolô cho biết: “Về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô.” (Ep 3:2-3) Thật đặc biệt, vì “Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết mầu nhiệm này, nhưng nay Ngài đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các tông đồ và ngôn sứ của Người.” (Ep 3:5)
Và đây là lời giải thích: “Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.” (Ep 3:5-6) Một lần nữa, chúng ta lại thật may mắn và hạnh phúc vì được “thừa kế gia nghiệp” của Thiên Chúa, nên một thân thể và cùng chia sẻ với Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta không thể ngồi yên mà phải hành động cụ thể.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con miệt mài tìm Chúa và can đảm hành động. Xin “ánh sao” Ý Chúa luôn soi sáng suốt hành trình trần thế để chúng con thi hành Thánh Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Hôm nay, chúng ta mừng Lễ Hiển Linh, còn gọi là Lễ Ba Vua. Tuy nhiên, hầu hết các nhà chuyên HiểnLinh ABC412
Hôm nay, chúng ta mừng Lễ Hiển Linh, còn gọi là Lễ Ba Vua. Tuy nhiên, hầu hết các nhà chuyên môn về Thánh Kinh đều cho rằng chẳng có vua chúa trần gian nào đến bái thờ hài nhi Giêsu hết, ngoại trừ Vua Hê-rô-đê, một bạo chúa đã tìm cách giết Người. Vậy, ai là những người đã đến từ Phương Đông để tôn thờ Hài Nhi? Họ là các nhà chiêm tinh, thông thái chuyên nghiên cứu thiên văn và nhìn ngắm sao trời để đoán ra vận mạng của môt số người nổi tiếng. Tuy hành trình và mục tiêu kiếm tìm của họ đáng cho chúng ta ngưỡng mộ và noi gương. Nhưng việc hệ trọng hơn cả là việc Thiên Chúa tỏ mình trong thân phận con người cho muôn dân; chứ không chỉ cho dân Do Thái mà thôi.
Hiển Linh giúp chúng ta nhận ra chiều kích tràn đầy của việc Giáng Sinh. Giáng Sinh dù thế nào vẫn chỉ là cuộc viếng thăm của Thiên Chúa dành cho dân Israel, dân riêng của Ngài. Với Lễ Hiển Linh, mầu nhiệm đó đạt đến mức toàn diện. Thiên Chúa sinh ra làm người và tỏ mình không chỉ cho dân Do Thái; mà còn tỏ mình cho muôn dân muôn nuớc, bao gồm cả chúng ta nữa. Việc tỏ mình là sáng kiến của Thiên Chúa, không ai có thể yêu cầu hay buộc Ngài phải làm chuyện đó.
Nhưng, nếu chúng ta không nhận biết, không đón nhận và không loan báo cho nhau thì quả là một điều thiếu sót. Như thế, biến cố này đóng một vai trò thật quan trọng trong hành trình niềm tin và cách sống đạo của chúng ta.
Ngày xưa, có nhiều người đã gặp Đức Giêsu. Họ đã cùng lớn lên với Người tại Na-za-reth. Họ đã dong duổi theo Người trên bước đuờng rao giảng, từ làng này qua làng kia, từ tỉnh này đến thành phố kia. Họ còn đuợc Người nuôi ăn trong cơn đói khát. Họ đã chứng kiến các phép lạ. Cuối cùng thì sao, đâu cũng hoàn đấy? Dân Na-za-reth, dân Ga-li-lê-a hay dân Giê-ru-sa-lem cũng tìm cách bỏ Người.
Nhưng các nhà chiêm tinh hôm nay lại khác. Họ đã không nhận ra sự xuất hiện của Thiên Chúa bằng truyền thống, hay tìm ra Chúa qua mớ giáo lý kinh điển do cha ông truyền lại. Thiên Chúa đã đến trong hoàn cảnh, lối sống và khả năng chuyên môn của họ. Ngài đã xuất hiện ngay trong tầm nhận biết của họ. Cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và họ cũng giống như việc Chúa kêu gọi các môn đệ của Người. Người đã đến trong lúc Phê-rô và các bạn đồng nghiệp đang chài lưới để kiếm ăn. Người đã đến trong lúc Phaolô thi hành bổn phận chống lại Người. Người gọi Mat-thew khi ông ta đang ngồi thu thuế. Không ai có đặc quyền hay đặc lợi. Sáng kiến là của Thiên Chúa. Ngài đã đến ngay tại nhà, trong hoàn cảnh riêng của mỗi người. Chúng ta hãy tìm hiểu cách thế và con đường tìm đến Chúa của các nhà chiêm tinh thông thái.
Hành trình tìm kiếm của họ không dễ dàng. Dù có ngôi sao dẫn đuờng, nhưng ngôi sao lại có lúc ẩn lúc hiện. Cũng có lúc các ông bị mất dấu; không phải do các ông đi lạc; nhưng ngôi sao không xuất hiện thì biết lối nào để đi. Trong hoàn cảnh đó, họ không hề thất vọng; tiếp tục tìm kiếm bằng cách dò hỏi những ai đã đuợc tiên báo về sự xuất hiện của con trẻ Giê-su. Đó là các thượng tế và kinh sư của đạo Do Thái, dân riêng của Chúa; nắm giữ trong đầu các lời loan báo của các ngôn sứ về nơi chốn của vị lãnh tụ, đấng chăn dắt dân của Thiên Chúa sẽ ra đời.
Các nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó biết theo kinh điển mà không hề cất bước đi tìm nên cái biết của họ đã chẳng giúp gì cho họ. Vua Hê-rô-đê cũng biết; nhưng điều mà vua biết không đem vua lại gần Chúa; trái lại cái biết đó lại là nguyên nhân đem đến cho vua nỗi lo sợ. Phát sinh từ nỗi sợ hãi hoang tưởng, sợ mất quyền hành; vua đã tìm cách tiêu diệt bằng cách giết lầm hơn bỏ sót, ông ta đã giết hết những ai là mầm mống đe doạ sẽ lật đổ ngai vàng của ông.
Hành trình tìm kiếm của các nhà chiêm tinh không phải là mối bận tâm của Thánh Sử. Qua trình thuật này, Ngài muốn nhấn mạnh đến chuơng trình của Thiên Chúa dành cho mọi dân tộc. Việc Chúa tỏ bầy, Chúa hiển linh là một sáng kiến phát sinh từ kho tàng ân huệ của Thiên Chúa. Ngôi sao cũng là một cách thức để dẫn đưa họ. Thậm chí, Chúa có thể dùng cả những kẻ gian ác như Vua Hê-rô-đê như là cách thức soi sáng, cung cấp thông tin giúp họ khỏi lạc hướng. Như vậy, Thiên Chúa luôn soi sáng cho những ai tha thiết tìm ơn cứu độ, dù đôi khi họ cảm thấy ánh sáng lúc ẩn lúc hiện, đường đi không rõ và tương lai lại mịt mù.
Thiên Chúa đã làm người, đã tỏ chân tướng đích thật của Ngài cho chúng ta nhận biết. Nhưng chúng ta đã làm gì để việc hiển linh của Thiên Chúa trở thành lời chứng sống động trong cuộc sống mình? Cũng có lúc chúng ta cảm thấy Chúa quá gần gũi, sát bên mình và thúc giục chúng ta ra đi để thực hiện các việc cả thể.
Với ý ngay lành chúng ta tuởng như là Chúa rất cần chúng ta để làm các việc phi thường ấy… Nhưng rồi con đường tìm kiếm Chúa đâu dễ dàng, thêm một lần, lòng oán than, trái tim nặng chĩu. Chán nản, buông xuôi và thất vọng khiến ta muốn bỏ cuộc. Nhưng có một điều khiến ta ngạc nhiên và ngạc nhiên luôn mãi là Thiên Chúa không chán, không thất vọng về ta. Ngài dùng đủ mọi cách thức để bộc lộ và hướng dẫn chúng ta: Từ ngôi sao lúc ẩn lúc hiện, đến người không tin như Hê-rô-đê và các bậc vị vọng am tường đạo Chúa.
Thiên Chúa vẫn dùng họ, không chừa một ai, để hỗ trợ, động viên, nhắn gửi cho ta một sứ điệp là ta vẫn đáng tin, đừng chán nản, hãy tiếp tục lên đuờng, căng buồm vượt gió ra khơi.
Anh chị em thân mến,
Với trình thuật Hiển Linh, Thiên Chúa tỏ mình cho mọi người biết rằng: với Chúa không ai là ‘người dưng khác họ’, chẳng ai là người ngoài cuộc hết. Tất cả đều được mời gọi đón nhận ơn cứu độ. Ai ai cũng đựợc diễm phúc làm con của Ngài. Ai ai cũng đuợc mời gọi sống để làm chứng về sự hiện diện của Thiên Chúa. Con đuờng làm chứng về việc tỏ mình, hiển linh của Thiên Chúa không nằm xa và ở ngoài khả năng của chúng ta. Nó nằm ngay bản thân, trong gia đình, giữa vợ chồng và con cái, giữa kẻ tin và người không tin, giữa những ai đủ can đảm để cho chất ‘người’ lớn hơn và bóp nghẹt chất con (vật) của mình. Đó chính là:
Những nụ cuời, các câu nói cảm thông hơn là trách móc, ghen tỵ và oán than nhau.
Những con tim mở rộng hơn để khoan hồng và dung thứ cho những thiếu sót và bất toàn của nhau.
Các bàn tay nhân ái để đón tiếp hơn là loại bỏ, hất hủi và xua đuổi nhau.
Các công việc tìm kiếm và thực thi lời Chúa – lời yêu thương, nâng đỡ, hỗ trợ và khích lệ nhau, chứ không chỉ ngồi đó mà kêu nài Lậy Chúa và Lậy Chúa xuông thôi đâu.
Đó là một số đề nghị tiêu biểu mà ai trong chúng ta cũng có thể thực hiện. Tất cả đều là cơ hội để vinh quang của Thiên Chúa được tỏ hiện qua lối sống chứng nhân, tuy tầm thường nhưng lại chứa đựng quyền năng và sức mạnh của Thiên Chúa. Cầu xin được như thế. Amen!
Qua bài Tin Mừng của ngày lễ Hiển Linh, tôi thấy ba nhà chiêm tinh đã phải đương đầu với rất HiểnLinh ABC413
Qua bài Tin Mừng của ngày lễ Hiển Linh, tôi thấy ba nhà chiêm tinh đã phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, thử thách, nguy hiểm và kể cả chán nản thất vọng khi các ngài rời bỏ quê hương xứ sở để theo ánh sao lạ. Trước khi cất bước ra đi, họ phải do dự, đắn đo suy nghĩ rất nhiều về chuyện phải bỏ lại đàng sau lưng vợ con, gia đình, sự nghiệp…Rồi trên cuộc hành trình, họ đã phải đối diện với khí hậu khắc nghiệt, ngày nóng, đêm lạnh, với sự thiếu thốn về những tiện nghi tối thiểu, nào là thú dữ, nào là nguy cơ trộm cướp, rồi phải ăn bờ ngủ bụi…Rồi khi đến Giê-ru-sa-lem, họ bị mất ánh sao dẫn đường, đây có thể nói là giai đọan căng thẳng và đen tối nhất! Thế nhưng cuối cùng, ba nhà chiêm tinh đã đến đích điểm, đã gặp đư ợc Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa làm người.
Câu hỏi mà tôi muốn mời bạn cùng suy nghĩ đó là, nhờ đâu và làm cách nào mà ba nhà chiêm tinh đã hoàn tất cuộc hành trình đi tìm Chúa như vậy? Tôi nghĩ ba nhà chiêm tinh đã nhờ vào LÒNG TIN.
* Các ông TIN rằng ngôi sao xuất hiện trên bầu trời đó chính là ngôi sao của Đấng Cứu Tinh.
* Các ngài TIN rằng, nếu có công đi TÌM thì các ông sẽ GẶP
* Các nhà chiêm tinh TIN rằng, GẶP được Đấng Cứu Thế rồi thì cuộc đời của họ sẽ hạnh phúc và bình an hơn.
Nhờ LÒNG TIN sắt đá và kiên vững ấy, cho nên các ngài đã chiến thắng được những sự sợ hãi, nguy hiểm, vượt qua tất cả những gian khổ , nguy hiểm... kể cả những mưu mô xảo quyệt c ủa vua Hêrôđê, và đã đến đích điểm bình an.
Bạn thân mến, nhìn vào cuộc hành trình đi tìm Chúa của ba nhà chiêm tinh, tôi nghĩ cuộc hành trình đi tìm Chúa của chúng mình và của những Kitô hữu khác, cũng chẳng khác gì của các ngài. Trên cuvẫn còn thường xuyên độc hành trình đi tìm Chúa, chúng ta đãối diện với những gian nan, khó khăn , đang, và thử thách, cám dỗ và những nguy hiểm nữa. Thế nhưng vì không đủ niềm tin, hay ít là chưa đủ lòng tin, cho nên nhiều lúc người ta đã bỏ cuộc. Cuộc hành trình đi tìm Chúa của họ bị gián đoạn, hay bị bỏ ngang khi họ gặp những chướng ngại vật, khi gặp phải những ngăn trở trên đường đi tìm Chúa của h ọ. Không nhiều lắm đâu nhưng cũng không phải là ít!
* Sau khi hồ sơ về vụ lạm dụng tính dục của Theodore McCarrick được Tòa Thánh công khai hóa, nhiều Kitô hữu đã cảm thấy chán nản, thất vọng, tức giận, bỏ lễ, bỏ nhà thờ, bỏ giáo hội và bỏ luôn cả Chúa, vì cách làm việc câu thả và hành xử thiếu khôn ngoan của các giới chức bên Tòa Thánh.
* Không ít người bị lung lay niềm tin, chán nản, thất vọng, và chắc không ít người trong số họ đã bỏ cuộc, không muốn tiếp tục cuộc hành trình đi tìm Chúa nữa, khi họ nghe tin các Giám Mục không thống nhất với nhau về việc từ chối không cho các chính trị gia, những người công khai ủng hộ phá thai, được rước lễ.
* Nhiều Kitô hữu tại Hoa Kỳ cũng như nhiều quốc gia trên thế giới đã bỏ cuộc, không còn muốn đến với Chúa, không còn thiết tha đến việc đi tìm Chúa, vì họ cho rằng Giáo Hội quá khắt khe về vấn đề ngừa thai, phá thai và hôn nhân đồng tính!
Bạn có muốn bỏ cuộc như họ không? Hay bạn muốn hoàn tất cuộc hành trình đi đến với Chúa giống như ba nhà chiêm tinh khi xưa? Nếu bạn muốn bỏ cuộc thì tôi xin bạn hãy suy nghĩ lại. Nếu không thì xin bạn hãy ráng:
* Thứ nhất, noi gương bắt chước các Tông đồ, cầu nguyện lien lỉ, xin Chúa ban thêm lòng tin cho chúng ta. “Lạy Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17:5)
* Thứ hai, phải bám lấy Chúa và trông cậy vào sự trợ giúp của Ngài, bởi chính Ngài đã hứa: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11:28).
* Thứ ba, phải ghi nhớ nằm lòng, không có ai tránh khỏi hay được miễn trừ khỏi những gian nan, khốn khó và thử thách trên cuộc hành trình đi tìm Chúa cả! Nobody! Kể cả Đức Maria, là Đấng đầy ơn Phúc Đức Chúa Trời ở cùng bà…
Hôm nay là ngày lễ Hiển Linh, chúng ta cầu nguyện xin Chúa ban thêm lòng tin cho chúng ta, để giữa những sóng gió ba đào của cuộc đời, giữa những lúc chán nản, ê chề, thất vọng, khi gặp những gương mù gương xấu trong giáo hội … bạn và tôi sẽ noi gương bắt chước ba nhà chiêm tinh khi xưa, can đảm chấp nhận tất cả mọi hy sinh, gian nan thử thách, và kiên trì khi gặp những song gió, thử thách, và đi đến cùng đích của cuộc hành trình, phải đến để gặp cho bằng được Đức Giêsu Kitô, là Thiên Chúa và là nguồn sự sống lại của chúng ta.
Chỉ khi nào tôi và bạn GẶP được Chúa thì lúc đó cuộc đời của chúng mình mới có bình an, hạnh phúc và mới có sự sống đời đời. Đừng bỏ cuộc nửa chừng, uổng lắm bạn nhé! Xin Chúa chúc lành, ban bình an và gìn giữ bạn luôn sống trong tình yêu thương của Ba Ngôi Chí Thánh.
Lễ Hiển Linh “Epiphaino” được cử hành vào ngày Chúa Nhật thứ hai sau lễ Giáng Sinh, là một HiểnLinh ABC414
Lễ Hiển Linh “Epiphaino” được cử hành vào ngày Chúa Nhật thứ hai sau lễ Giáng Sinh, là một trong những lễ trọng lâu đời nhất trong niên lịch Ki-tô giáo. Được nhiều người biết đến với tên gọi là lễ Ba Vua, và do các truyền thống đi kèm, lễ này chủ yếu cử hành việc Đức Ki-tô Cứu Thế xuất hiện, tỏ mình cho thế gian, với tư cách là Thiên Chúa, Con Người và là Vua. Lễ Hiển Linh cử hành biến cố ba nhà đạo sĩ đến thờ lạy Chúa Hài Đồng (Mt 2, 1-12).
Lễ Hiển Linh “Epiphaino” có ý nghĩa quan trọng là Thiên Chúa tự mặc khải trong nhân tính của Ðức Ki-tô, tự làm cho mình có thể trông thấy được qua các Đạo Sĩ.
Lễ Hiển Linh cũng mạc khải cho nhân loại biết về thần tính của Đức Giê-su Con Thiên Chúa làm người. Người là Vua, là Thiên Chúa được biểu lộ qua 3 lễ vật mà các Đạo Sĩ tiến dâng: Vàng, Nhũ Hương và Mộc Dược.
Các Đạo Sĩ đến quỳ gối trước vị vua mà quyền năng bao trùm vạn vật; không phải bằng quân đội và vinh quang cá nhân mà bằng tình yêu vô bờ qua việc phục vụ và tự hiến chính mình, dâng cho Chúa Hài Nhi Vàng. Khi dâng Vàng, các Đạo sĩ nhìn nhận vương quyền của Đức Ki-tô, hậu duệ cuối cùng của dòng dõi Đa-vít, như ngôn sứ I-sai-a đã tiên báo: “Một chồi non sẽ trồi ra từ gốc Giê-sê, một mầm non sẽ mọc lên từ cội rễ ấy, Thánh Thần của Yavê sẽ ngự trên vị này …” (Is 11, 1-2).
Các Đạo Sĩ cũng dâng cho Chúa Trầm Hương là họ đã nhìn nhận thiên tính của Đức Ki-tô ngay từ khi hạ sinh. Hương Trầm bay tỏa lên cao ngụ ý muốn nói: Vương quốc của Chúa Ki-tô không thuộc về thế gian này, như Chúa Giê-su đã tuyên bố với Phi-la-tô trong cuộc thẩm vấn. Quyền lực mà Chúa Giê-su Ki-tô có được là do Chúa Cha ban cho và đó là ý nghĩa của lễ dâng trầm hương vì sản vật này dành riêng cho Thiên Chúa trong các nghi lễ tại Đền Thờ.
Thế còn Mộc Dược? Mộc Dược, thứ hương liệu dùng để băng bó vết thương và tẩm liệm xác chết. Khi nhập thể, quả thật Con Thiên Chúa đã hoàn toàn thông phần vào kiếp con người, chia sẻ vận mệnh của mỗi người từ khi sinh ra cho đến lúc chết đi, ngoại trừ tội lỗi, mà không cần sử dụng đến quyền năng Thiên Chúa. Nên khi dâng Chúa Hài Đồng Mộc Dược là họ tin nhận Chúa Giê-su là Thiên Chúa thật và là người thật. Các Đạo Sĩ là ba người ngoài Do Thái, được coi là dân ngoại nhưng đã tìm hiểu và tin nhận Chúa Giê-su là Chúa của mình. Vì thế ngày lễ này được coi là ngày lễ của niềm tin.
Tin Mừng chẳng nói thêm gì về các Đạo Sĩ, ngoài việc nói họ đến từ phương Đông. Người ta thường cho rằng họ là các thành viên của một trong sáu giai cấp của xứ Ba Tư cổ xưa. Vừa là tư tế, nhà thiên văn và chiêm tinh, những người có học thức cao này không chỉ phục vụ cho tôn giáo mình mà họ biết rõ các nghi lễ và thực hành, nhưng họ cũng có kiến thức về khoa học rất rộng, nhất là thiên văn, chuyên giải thích các giấc mộng và những dấu hiệu thiên văn. Trong nhiều xứ sở, họ là cố vấn của triều đình.
Đối với các Đạo sĩ này, sự xuất hiện trên trời một hiện tượng thiên văn bất thường (như sao chổi hay sự giao nhau của các hành tinh) là dấu hiệu của một biến cố lịch sử quan trọng như ngày sinh của một nhân vật hàng đầu. Thật vậy, ý tưởng rất phổ thông trong thế giới cổ đại là có một sự tương quan giữa con người và vị trí của những vì sao nào đó ở trên trời.
Thánh sử Mát-thêu không nêu con số chính xác các Đạo sĩ, cũng không nói họ là vua. Trong các bức họa hay tranh ghép cổ thời, người ta vẽ hai, ba, bốn ông hay nhiều hơn thế nữa, các Ki-tô hữu ở phương Đông quen tính đến hơn chục ông. Con số ba theo truyền thống chắc chắn là do ba lễ vật dâng lên cho Chúa Ki-tô. Ta cũng có thể thấy sự lựa chọn con số này biểu trưng cho Ba Ngôi. Về việc trình bày các Đạo sĩ như là những vị vua, cưỡi trên lưng lạc đà, đầu đội vương miện, có cả đoàn tuỳ tùng đi theo, hình ảnh này là do ngôn sứ Isai đã loan báo rằng người ta sẽ thấy các vị vua lên đường đến thờ lạy Thiên Chúa thật tại Giê-ru-sa-lem: “Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước (…) Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha; tất cả những người từ Sa-ba kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương và loan truyền lời ca tụng Chúa” (Is 60, 1-6).
Mừng lễ Chúa Hiển Linh hôm nay, chúng ta, những con người ở thời đại công nghệ với sự phát triển đột phá về trí tuệ nhân tạo học ở nơi các nhà Đạo Sĩ. Họ là những người thông thái, học thức. Họ đã dùng khối óc và con tim, cùng với ơn Chúa ban và chuyên chăm học hỏi mà có được. Họ tính toán để khám phá ra Ngôi Sao xuất. Họ can đảm cất bước lên đường tìm đến đến Bê-lem để thờ lạy Chúa Hài Nhi là Vua thật cả và trời đất, là Thiên Chúa thật và là người thật, đó là hành trình của các Đạo sĩ.
Việc các Đạo sĩ đến Bê-lem để thờ lạy Chúa Hài Nhi dạy chúng ta phải biết kiếm tìm Thiên Chúa bằng cả khối óc lẫn con tim. Kiến thức của mình thôi chưa đủ. Như các Đạo Sĩ, họ còn dò hỏi các luật sĩ và tiến sĩ Luật, các nhà chuyên môn về Kinh Thánh là chính Mạc Khải của Thiên Chúa. Cũng thế, kiến thức của chúng ta không đủ để giải thích tất cả: chúng ta cần phải đọc Kinh Thánh, lắng nghe các ngôn sứ, cả thời xưa lẫn thời nay, để nhờ đó, chúng ta có thể nhận biết khuôn mặt thật của Thiên Chúa và tình yêu Ngài mang đến cho mọi loài thụ tạo. Amen. mục lục