Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi các đạo sĩ đã đi rồi, thiên thần Chúa hiện ra với ông Giuse trong lúc ngủ và bảo ông: "Hãy thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và ở đó cho tới khi tôi báo lại ông, vì Hêrôđê sắp sửa tìm kiếm Hài Nhi để sát hại Người". Ông thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người lên đường trốn sang Ai-cập đang lúc ban đêm. Ông ở lại đó cho tới khi Hêrôđê băng hà, hầu làm cho trọn điều Chúa dùng miệng tiên tri mà phán rằng: "Ta gọi con Ta ra khỏi Ai-cập". Bấy giờ Hêrôđê thấy mình bị các đạo sĩ đánh lừa, nên nổi cơn thịnh nộ và sai quân đi giết tất cả con trẻ ở Bêlem và vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo thời gian vua đã cặn kẽ hỏi các đạo sĩ. Thế là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia đã nói: Tại Rama, người ta nghe những tiếng khóc than nức nở, đó là tiếng bà Rakhel than khóc con mình, bà không chịu cho người ta an ủi bà, vì các con bà không còn nữa.
Khi Hêrôđê băng hà, thì đây thiên thần Chúa hiện ra cùng Giuse trong giấc mơ bên Ai-cập và bảo: "Hãy chỗi dậy, đem Con Trẻ và mẹ Người về đất Israel, vì những kẻ tìm hại mạng sống Người đã chết". Ông liền chỗi dậy, đem Con Trẻ và mẹ Người về đất Israel. Nhưng nghe rằng Arkhêlao làm vua xứ Giuđa thay cho Hêrôđê là cha mình, thì Giuse sợ không dám về đó.
Ðược báo trong giấc mộng, ông lánh sang địa phận xứ Galilêa, và lập cư trong thành gọi là Nadarét, để ứng nghiệm lời đã phán qua các tiên tri rằng: "Người sẽ được gọi là Nadarêô".
Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Mô-sê, cha mẹ Chúa Giê-su liền đem Người lên Giê-ru-sa-lem để hiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa”. Và cũng để dâng lễ vật cho Chúa, như có nói trong Luật Chúa, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu con.
Và đây ở Giê-ru-sa-lem có một người tên là Si-mê-on, là người công chính, kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi an của Israel. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần trả lời rằng: Ông sẽ không chết trước khi thấy Ðấng Ki-tô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giê-su đưa Người đến để thi hành cho Người những tục lệ của Lề luật. Ông bồng Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
“Lạy Chúa, bây giờ, Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an theo như lời Chúa, vì chính mắt con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Ít-ra-en dân Chúa”.
Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Si-mê-on chúc lành cho hai ông bà và nói với Ma-ri-a mẹ Người rằng: “Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Ít-ra-en phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ!”
Lúc ấy, cũng có bà tiên tri An-na, con ông Pơ-nu-ên, thuộc chi họ A-sê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm. Rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi bốn tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giê-su cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Ít-ra-en.
Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo luật Chúa, thì trở lại xứ Ga-li-lê-a, về thành mình là Na-da-rét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người. - Ðó là lời Chúa.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Hằng năm cha mẹ Chúa Giêsu có thói quen lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua. Lúc bấy giờ Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, cha mẹ Người đã lên Giêrusalem, theo tục lệ mừng ngày lễ Vượt Qua. Và khi những ngày lễ đã hoàn tất, hai ông bà ra về, trẻ Giêsu đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Người không hay biết. Tưởng rằng Người ở trong nhóm các khách đồng hành, hai ông bà đi được một ngày đàng, mới tìm kiếm Người trong nhóm bà con và những kẻ quen biết. Nhưng không gặp thấy Người, nên hai ông bà trở lại Giêrusalem để tìm Người. Sau ba ngày, hai ông bà gặp thấy Người trong đền thờ đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ, nghe và hỏi các ông. Tất cả những ai nghe Người nói đều ngạc nhiên trước sự hiểu biết và những câu Người đáp lại. Nhìn thấy Người, hai ông bà đã ngạc nhiên, và mẹ Người bảo Người rằng: "Con ơi, sao Con làm cho chúng ta như thế ? Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con". Người thưa với hai ông bà rằng: "Mà tại sao cha mẹ tìm Con ? Cha mẹ không biết rằng Con phải lo công việc của Cha Con ư ?" Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói. Bấy giờ Người theo hai ông bà trở về Nadarét, và Người vâng phục hai ông bà. Maria mẹ Người ghi nhớ những việc đó trong lòng. Còn Chúa Giêsu thì tiến tới trong sự khôn ngoan, tuổi tác và ân sủng, trước mặt Thiên Chúa và người ta. - Ðó là Lời Chúa. ------------------------------------- ---------------------------------
(Suy niệm Chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Lễ Thánh Gia nhắc chúng ta nhớ đến những năm tháng Đức Giê-su sống thầm lặng trong suốt thời ThánhGia ABC351
Lễ Thánh Gia nhắc chúng ta nhớ đến những năm tháng Đức Giê-su sống thầm lặng trong suốt thời thơ ấu và trưởng thành dưới mái ấm gia đình Na-da-rét, mẫu gương của mọi gia đình.
Hc 3: 2-6, 12-14.
Hiền nhân Si-rác khuyên con cái phải có lòng thảo kính đối với cha mẹ, nhất là khi các ngài già yếu.
Cl 3: 12-21.
Thánh Phao-lô mời gọi các tín hữu Cô-lô-xê thực hành những đức tính như “thương xót, nhân hậu, khiêm nhu, hiền từ và nhẫn nại”, đặc biệt là “yêu thương” đó là mối dây tuyệt hảo liên kết mọi thành viên nên một trong đời sống gia đình và cộng đoàn.
Lc 2: 22-40.
Tin Mừng Lu-ca trước hết tường thuật lễ thanh tẩy Đức Ma-ri-a và lễ thánh hiến Hài Nhi Giê-su ở Đền Thánh, tiếp đó gợi lên một cách ngắn gọn thời thơ ấu của Đức Giê-su ở dưới mái ấm gia đình Na-da-rét.
BÀI ĐỌC I (Hc 3: 2-6, 12-15)
Ông Si-rắc là một hiền nhân Do thái vào đầu thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên. Ông mở trường dạy học và ghi lại vốn kinh nghiệm cũng như những gẫm suy thế sự của mình. Tác phẩm của ông được viết bằng tiếng Híp-ri, sau đó được cháu nội của ông dịch sang Hy ngữ vào năm 130 trước Công Nguyên.
Tác phẩm của ông là sách dạy đạo đức về cách ăn nếp ở thực tiển. Ông viết tác phẩm nầy vì muốn trung thành với niềm tin của cha ông mình, đồng thời không muốn dân mình bị ảnh hưởng do văn hóa ngoại giáo chung quanh, đặc biệt do sức quyến rủ của sự khôn ngoan Hy lạp. Sách ông bàn đến nhiều đề tài rất đa dạng. Sách được điểm xuyết bằng những câu châm ngôn dễ nhớ và được Do thái giáo mến chuộng. Giáo Hội cũng xem sách nầy như Sách Thánh của mình.
Sách cho thấy ông nhất mực gắn bó với Lề Luật. Theo ông, việc thực hành Lề Luật là nguồn mạch khôn ngoan. Trong chương 3, hiền nhân Si-rắc khai triển phận làm con là phải có lòng thảo kính đối với cha mẹ mình, một trong Mười Giới Răn: “Ngươi hãy thảo kính cha mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi” (Xh 20: 12; Đnl 5: 16).
1. Thảo kính cha mẹ, đạo tự nhiên:
Bổn phận thảo kính cha mẹ nhất là vào lúc các ngài già yếu thuộc về những truyền thống rất lâu đời của các nền văn hóa, được các tôn giáo lẫn triết học ca ngợi. Chúng ta có thể sánh ví những lời khuyên bảo của hiền nhân Cựu Ước nầy với nhiều bản văn của Trung Quốc, Ấn Độ và Hy lạp xưa. Ở Trung Quốc cũng như ở Ấn độ, bổn phận làm con đối với cha mẹ trở thành đạo hiếu đòi buộc hết mọi người. Ở Hy-lạp, xin được trích dẫn mẫu gương của hiền nhân Socrate khuyên các con của mình phải bày tỏ tấm lòng hiếu thảo với mẹ của chúng, vì tình sâu nghĩa nặng của cha mẹ đối với mình (Xénophon, Les Mémorables, II, 2). Ở Việt Nam chúng ta, không ai không thuộc câu ca dao nầy:
“Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
2. Thảo kính cha mẹ, đạo Thiên Chúa.
Thảo kính cha mẹ không chỉ thuộc đạo tự nhiên, nhưng cũng còn chương trình của Đấng Tạo Hóa đối với con người. Cuộc sống gia đình ở Ít-ra-en được ghi khắc trong chiều kích siêu nhiên: không chỉ lưu truyền nòi gióng, mà còn truyền đạt từ thế hệ này đến thế hệ khác niềm tin của cha ông vào một Thiên Chúa duy nhất, Đấng đã tự mặc khải mình ra:
“Đức Chúa làm cho người cha được vẻ vang vì con cái, cho người mẹ thêm uy quyền với con cái” (3: 2).
Chính Đức Chúa chúc phúc cho con cái nào giữ trọn đạo hiếu với cha mẹ của mình:
“Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ Ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng” (3: 6).
Đây là lời chúc phúc cổ truyền nhất. Cuộc sống trường thọ là phần thưởng dành cho con cái có tấm lòng đạo hiếu đối với cha mẹ được đánh giá cao nhất vào thời kỳ mà những niềm hy vọng ở bên kia nấm mồ chưa được biết đến (chỉ vào thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, viễn cảnh niềm tin vào cuộc sống mai sau mới xuất hiện).
Chúng ta còn ngạc nhiên hơn nữa khi bậc hiền nhân hứa với những ai thờ cha kính mẹ sẽ được Thiên Chúa tha thứ tội lỗi của mình:
“Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm Ai kính mẹ thì tích trữ kho báu” (3: 3-4).
Trong các lời khuyên, lời khuyên cảm động nhất, chính là kính trọng cha lúc người già yếu:
“Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người” (3: 12-13).
Lý do được tác giả nêu ra:
“Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con. Thiên Chúa sẽ nhớ đến con, ngày con gặp khốn khó, và các tội con sẽ biến tan như sương muối biến tan lúc đẹp trời” (3: 14-15).
Trong Do thái giáo sau thời lưu đày Ba-by-lon, người ta rất nhạy bén trước tội lỗi và bận lòng thanh luyện nội tâm. Hiền nhân Si-rắc thuộc vào những thế hệ nầy: gẫm suy giáo huấn của các ngôn sứ. Đến phiên mình, ông ca tụng việc thực hành đức hạnh hơn việc tế tự thuần túy bên ngoài. Theo đường hướng nầy, ông khai triển rất xa như ở đây ông đánh giá việc thảo kính cha mẹ như hy tế xá tội. Tuy nhiên, chúng ta nhận ra một sự khác biệt ở đây: trong khi các ngôn sứ rất bận lòng đến ơn cứu độ của toàn thể dân chúng, thì các hiền nhân quan tâm nhiều hơn đến ơn cứu độ cá nhân.
Cuối cùng chúng ta ghi nhận rằng hiền nhân Si-rắc cẩn trọng trích dẫn “thờ cha” và “kính mẹ” gần như tương xứng với nhau. Điều nầy rất hiếm trong Cựu Ước ở đó người cha là gia trưởng thường chiếm vai trò gần như độc tôn.
BÀI ĐỌC II (Cl 3: 12-21)
Như thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thư gởi tín hữu Cô-lô-xê đã được thánh Phao-lô viết trong cảnh thánh nhân bị giam cầm ở Rô-ma vào khoảng những năm 61-63 sau Công Nguyên, vì thế nội dung của hai bức thư nầy rất gần nhau.
1. Hoàn cảnh:
Thành phố Cô-lô-xê miền Tiểu Á đã khai sinh một cộng đoàn Ki-tô hữu. Cộng đoàn nầy được Epaphras, bạn đồng hành đồng thời cũng là môn đệ của thánh Phao-lô, thiết lập. Những sai lạc đạo lý, những biện luận về quyền năng của thiên thần, những thực hành khổ chế, những khuynh hướng Do thái giáo gây nguy hiểm cho đức tin của cộng đoàn non trẻ nầy. Thánh Phao-lô hiện đang bị giam cầm, nên không thể đến tận nơi được. Vì thế, thánh nhân gởi bức thư nầy cho các tín hữu Cô-lô-xê. Thánh nhân tập chú giáo huấn của mình vào Đức Ki-tô và quy chiếu cuộc sống Ki-tô hữu vào điều cốt lõi: sống hiệp nhất với Đức Ki-tô, noi gương Đức Ki-tô, thực hành các nhân đức, đặc biệt là đức ái.
2. Nội dung:
Phụng vụ đề nghị cho chúng ta đoạn trích của thư này và mời gọi chúng ta đọc nó trong ý hướng của ngày lễ hôm nay: đời sống gia đình: “Anh em hãy có lòng thương xót, nhân hậu, khiêm nhu, hiền từ và nhẫn nại. Hãy chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau”.
Đức ái Ki-tô giáo là nguồn mạch của sự hiệp nhất và bình an trong đời sống cộng đoàn, huống gì trong đời sống gia đình, ở đó tình yêu phải là mối dây liên kết tuyệt hảo. Theo thói quen của mình, thánh Phao-lô mời gọi tạ ơn và cầu nguyện, nhất là cầu nguyện chung: “Hãy đem hết lòng biết ơn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, những khúc thánh ca, do Chúa Thánh Thần linh hứng”, nghĩa là cầu nguyện tự phát.
Đoạn thư hoàn tất với vài lời khuyên bảo đặc thù về bổn phận giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái. Thánh nhân khai triển những điều nầy trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô 5: 21-32.
TIN MỪNG (Lc 2: 22-40)
Vào ngày lễ Thánh Gia, với đoạn Tin Mừng nầy, Giáo Hội tưởng niệm hai nghi thức được cử hành cùng một lúc trong Đền Thánh Giê-ru-sa-lem: lễ thanh tẩy người mẹ là Đức Ma-ri-a và lễ thánh hiến con trai đầu lòng là Hài Nhi Giê-su.
Chung quanh con trẻ sáu tuần lễ nầy, chúng ta thấy Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se không chỉ “tuân theo Luật Chúa truyền”, nhưng họ còn ngạc nhiên bỡ ngỡ trước lời sấm của cụ già Si-mê-on về Hài Nhi. Điều nầy cho thấy thánh Giu-se đã nhận con trẻ nầy như đứa con ruột thịt của mình. Như vậy, thánh Lu-ca, vốn đã nhấn mạnh đức đồng trinh của Đức Ma-ria, không ngần ngại nói: “cha mẹ của Đức Giê-su”.
Luật Mô-sê đòi buộc người mẹ, sau bốn mươi ngày sinh con trai và sau tám mươi ngày sinh con gái, dâng hy lễ thanh tẩy: một con chiên một năm tuổi, nhưng nếu người nghèo, một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. Vì thế, của lễ của gia đình thánh là của lễ của một gia đình nghèo.
Lễ thánh hiến con trai đầu lòng là đòi buộc, nhưng không cần phải lặn lội xa xôi đem con lên Giê-ru-sa-lem để tiến dâng cho Chúa. Ở đây, thánh Lu-ca đề cao tấm lòng đạo đức tuyệt vời của Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se.
Vào giây phút Đức Giê-su được trao ban hoàn toàn vào tay của con người và được dâng tiến lên Cha Ngài, Thánh Thần linh hứng cho hai nhân vật khả kính: cụ già Si-mê-on và bà ngôn sứ An-na, mặc khải sứ mạng của Hài Nhi nầy.
1. Cụ già Si-mê-on (2: 25-35):
Cụ già Si-mê-on đang mong chờ “niềm an ủi của Ít-ra-en”, đây là tước hiệu chỉ Đấng Mê-si-a từ thời ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, tức là cuối thời lưu đày (x. Is 49: 13). Cụ nhận ra Hài Nhi nầy là Đấng Cứu Độ không chỉ của dân Ít-ra-en nhưng của muôn dân nữa. Mặc Khải nầy làm cho Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se ngạc nhiên và bỡ ngỡ. Bài thánh thi của cụ già Si-mê-on tiên báo về sứ mạng của Đức Giê-su đối xứng với bài thánh thi của ông Da-ca-ri-a tiên báo sứ mạng của con ông là Gioan Tiền Hô. Thánh Lu-ca thiết lập một sự đối xứng cuộc đời thơ ấu của hai con trẻ nầy.
“Ông Si-mê-on chúc phúc cha hai ông bà”, nhưng chỉ hướng về một mình Đức Ma-ri-a và nói với chỉ một mình Mẹ. Cụ già Si-mê-on báo trước cho Đức Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi, số phận bi thương đang chờ đợi Mẹ: Mẹ sẽ đau khổ vì dân Ít-ra-en bị chia rẻ về Con của Mẹ vì tin vào Ngài hay từ chối Ngài. Chúng ta có thể đọc thấy trong lời tiên báo nầy viễn cảnh thập giá.
2. Bà ngôn sứ An-na (2: 36-38):
Bà ngôn sứ An-na cảm tạ Thiên Chúa và lớn tiếng thông báo cho những ai mong chờ ngày Thiên Chúa giải phóng Giê-ru-sa-lem qua con trẻ nầy.
Đây là sự ghi nhận mang đậm nét của thánh ký Lu-ca. Đối với thánh Lu-ca, Giê-ru-sa-lem là trung tâm Mặc Khải. Dung mạo của hai ông bà cao tuổi nầy đại diện rất rõ nét nỗi mong chờ dài lâu của dân Ít-ra-en. Thế nên, đây là hai người tôi tớ vĩ đại của Thiên Chúa đến chứng thực rằng việc dân Ít-ra-en chuẩn bị chờ đón Đấng Mê-si-a đã đến hồi kết thúc. Họ được sánh ví như thời Cựu Ước đã đến hồi hoàn tất để nhường chỗ cho thời Tân Ước, kỷ nguyên Mê-si-a. Trong số bốn tác giả Tin Mừng, thánh Lu-ca là thánh ký nhấn mạnh nhiều nhất những giai đoạn cứu độ. 3. Lời kết (2: 39-40)
Thánh Lu-ca kết thúc đoạn Tin Mừng hôm nay với đời sống ẩn dật của Đức Giê-su trong mái ấm gia đình Na-da-rét. Thánh ký ghi nhận rất ngắn gọn cuộc đời thơ ấu của Đức Giê-su: “Còn Hài Nhi, ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh”. Lời nhận xét nầy được đặt đối xứng với lời nhận xét khác liên quan đến cuộc đời thơ ấu của Gioan Tiền Hô: “Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh” (Lc1: 80) . Tuy nhiên, thánh ký còn nói thêm về Chúa Giê-su: “Đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Chúa”. Như vậy, Đức Giê-su vĩ đại hơn Gioan Tiền Hô ngay từ thời thơ ấu.
Ai trong chúng ta cũng có gia đình. Bạn và tôi có thực sự hạnh phúc khi sống trong gia đình của ThánhGia ABC352
Ai trong chúng ta cũng có gia đình. Bạn và tôi có thực sự hạnh phúc khi sống trong gia đình của mình? Nếu trong gia đình và sống bên cạnh những người thân yêu làm cho bạn hạnh phúc, thì nó đến từ đâu, hay điều gì tạo nên? Còn nếu bạn chưa cảm nghiệm được hạnh phúc, thì tại sao? ACE rất thân mến, gia đình ngày nay hơn bao giờ hết, đang có những thách đố, khó khăn, khủng hoảng và ngay cả những đổ vỡ…Trong những bối cảnh thách đố, tế nhị như vậy, chúng ta sẽ làm gì để bảo vệ gia đình của mình và tạo nên hạnh phúc cho những người thân yêu của chúng ta. Các bài đọc Lời Chúa soi sáng và cho chúng ta những bí quyết tuyệt hảo hầu giúp chúng ta có tình yêu và hạnh phúc đích thực cho tổ ấm gia đình của mình.
Tin mừng theo Thánh Luca tường thuật việc cha mẹ Chúa Giêsu đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa vì ý thức và tin rằng Chúa Giêsu là con trai đầu lòng của hai ông bà, nhưng Ngài phải là Người thuộc về Thiên Chúa trước hết. “Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa”. Chính qua việc dâng hiến trẻ Giêsu cho Thiên Chúa, Thánh Gia thất đã giúp và nêu gương cho chúng ta nhận ra để sống giá trị ơn gọi cao quý trong đời sống hôn nhân-gia đình. Hôn nhân-gia đình chính là quà tặng ân sủng đến từ Thiên Chúa, vì yêu thương Chúa đã tuyển chọn để ban cho con người nhận ra được ơn gọi để trở nên người vợ-người chồng, người cha-người mẹ. Qua hôn nhân-gia đình ơn gọi tình yêu được gắn kết, triển nở; đỉnh cao và kết quả của tình yêu chính là con cái. Thật vậy, cha mẹ thực sự là những người được Chúa thương mời gọi để cộng tác với Ngài trong công trình tạo dựng tuyệt hảo này. Trên tất cả mọi sự, các thành viên trong gia đình đều được mời gọi để nhận ra ơn gọi tình yêu, ơn gọi nên thánh. Qua mẫu gương và ơn phúc từ Thánh Gia Thất, những ai sống trong ơn gọi gia đình phải nên sống đáp trả với lòng tin yêu, tri ân-cảm tạ. Thật vậy, cách đáp trả đẹp nhất đó chính là quyết tâm để nhận ra, thực thi thánh ý Chúa qua chính bổn phận và trách nhiệm hằng ngày.
Vấn nạn của các gia đình trẻ ngày hôm nay, ngay cả với những gia đình công giáo, những lúc gặp khó khăn thì họ liền nghĩ ngay đến giải pháp “ly dị”; họ nói và hành động rất đơn giản để đi đến giải pháp này. Khi được hỏi về những nguyên nhân làm cho hôn nhân-gia đình tan vỡ, có rất nhiều lý do được đưa ra như: không có tình yêu thương chân thành, không thể cảm thông-tha thứ, tính tình không hợp nhau…nhưng căn bản nhất của việc đổ vỡ là họ không có, hay không nhận ra ơn gọi mà Chúa đã ban cho mình trong cuộc sống gia đình; nói khác hơn gia đình không có ơn thánh Chúa Chúa hiện diện.
Bài đọc hai trong thư Thánh Phaolô gởi cho tín hữu Côlôse chính là kim chỉ nam cho những ai đang sống trong ơn gọi gia đình muốn được hạnh phúc-bình an. “Từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và hãy tha thứ cho nhau …trên hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương”. Tại sao trong đời sống hôn nhân-gia đình cần phải có và sở hữu những nhân đức quan trọng này mà không phải là lo đi tìm kiếm tiền bạc, của cải, vật chất hay danh vọng, địa vị? Ai trong chúng ta cũng muốn kiến tạo hạnh phúc-an vui cho mình và gia đình. Nhưng để tạo nên hạnh phúc đích thực không phải do chúng ta mà có, hạnh phúc là ơn thánh do Chúa thương ban, phần chúng ta phải cố gắng gìn giữ, bảo vệ và trân quý. Và bí quyết tối thượng để có hạnh phúc trong gia đình chính là: “Tất cả những gì anh em làm, trong lời nói cũng như trong hành động, tất cả mọi chuyện, anh em hãy làm vì danh Chúa Giêsu Kitô, nhờ Người mà tạ ơn Thiên Chúa Cha.”
Vấn nạn mà xã hội và gia đình ngày nay đang phải đau khổ khi đối diện, đó là khi các thành viên trong gia đình không còn quan tâm lo lắng bảo bọc che chở lẫn nhau, chỉ vì lợi ích cá nhân hay vì sự hẹp hòi ích kỷ mà họ không còn có tôn tri trật tự trong gia đình. Do đó, đạo hiếu cũng chính là chìa khóa để giúp các gia đình có được một nguồn, nền tảng vững chắc. Bài đọc một từ sách Huấn ca giúp cho chúng ta tìm lại chính căn tính, cột trụ của gia đình đó là đạo hiếu. Thờ cha, kính mẹ, tỏ lòng hiếu thảo với tổ tiên ông bà cha mẹ lúc các ngài còn sống cũng như qua đời. Phụng dưỡng, giúp đỡ và thảo hiếu với cha mẹ trong tinh thần cảm tạ tri ân chính là sự khôn ngoan để giữ được hạnh phúc cho gia đình mình.
Trên thực tế thì thật là khó, nan giải, nhiều lúc làm chúng ta cảm thấy bất lực và muốn bỏ cuộc rút lui khi gặp những khó khăn, thử thách, sóng gió của đời sống hôn nhân-gia đình. Những lúc như vậy, Thánh Gia Thất và Lời Chúa chính là nơi để chúng ta tìm đến, bám víu, nương náu và kêu xin sự trợ giúp. Ba Đấng sẽ luôn đồng hành, chuyển cầu ban ơn thánh cho chúng ta, vì các Ngài cũng đã trải qua và đã sống chứng tá trọn vẹn để nêu gương cho chúng ta. Thánh Gioan Tông đồ, tác giả sách Tin mừng, người môn đệ Chúa yêu, dẫu không mừng kính trong ngày hôm nay, nhưng trong âm thầm, Ngài cũng là thành viên của Thánh Gia Thất, vì Ngài đã rước Mẹ Maria về nhà mình, Ngài đã sống trọn vẹn cho ơn gọi chứng tá tình yêu của mình.
Lạy Thánh Gia Thất, lạy Thánh Gioan Tông đồ, xin thương che chở, bảo vệ gia đình của con và các gia đình, để mỗi gia đình luôn có Chúa là nguồn tình yêu, hạnh phúc và bình an đích thực. Amen.
(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
Bạn đã đối xử với những người xung quanh và cộng đoàn như một gia đình chưa? Tin mừng dạy ThánhGia ABC353
Bạn đã đối xử với những người xung quanh và cộng đoàn như một gia đình chưa? Tin mừng dạy bạn nên làm như thế.
Hôm nay, chúng ta cùng mừng lễ Thánh Gia Thất - Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse. Những chủ đề về gia đình và cộng đoàn rất nổi bật trong nhiều bài đọc có thể lựa chọn trong Sách Bài đọc.
Bài đọc thứ nhất có thể chọn trong sách Huấn ca hoặc Sáng thế. Bài đọc từ sách Huấn ca đưa ra sự khôn ngoan về cách thức mà cha mẹ và con cái nên tương tác với nhau như thế nào. Cha mẹ có quyền hướng dẫn và quyền hành trong việc nuôi dạy con cái, còn con cái được dạy dỗ để tôn trọng và chăm sóc cha mẹ, đặc biệt khi họ đã cao niên. Bài đọc trích sách Sáng thế là một sự kết hợp của chương 15 và 21, trong đó Thiên Chúa hứa rằng dòng dõi Abraham sẽ trở nên đông vô kể. Phần thứ hai của bài đọc là sự ứng nghiệm lời hứa qua bà Sara với việc sinh hạ Isaac. Các phần thiếu giữa hai chương bao gồm mối quan hệ giữa Abraham và bà Haga, đưa đến việc sinh hạ Ismael. Cả hai bài đọc thứ nhất này đều ghi nhận tầm quan trọng năng động giữa cha mẹ - con cái và khẳng định con cái chính là phúc lành từ Thiên Chúa, thậm chí đôi khi không tuân theo những ràng buộc sinh lý của con người, như trường hợp của Abraham và Sara.
Bài đọc thứ hai có thể trích từ thư thánh Phaolô gửi tín hữu Côlôsê hoặc thư Do Thái. Nếu chúng ta chọn thư Côlôsê, thì nên ưu tiên chọn bài đọc ngắn để loại bỏ ngôn ngữ tai hại về sự lệ thuộc của người phụ nữ. Bài đọc ngắn nhấn mạnh đến những phương cách mà một cộng đoàn nên noi theo Thiên Chúa và đối xử với nhau như một gia đình, trao yêu thương, lòng trắc ẩn, sự kiên nhẫn và tha thứ. Ngoài ra, có thể đọc bài trích thư Do Thái nếu chúng ta chọn sách Sáng thế làm bài đọc thứ nhất. Thư Do Thái suy niệm về việc Abraham sẵn lòng hiến tế Isaac, giải thích cho Sáng thế chương 22 như một dấu chỉ cho thấy đức tin của Abraham vào quyền năng và lời hứa của Thiên Chúa.
Bài Tin mừng sẽ trích từ thánh Luca và có bài dài lẫn bài ngắn. Bài đọc ngắn thiếu hầu hết nội dung tường thuật, vì vậy nên ưu tiên chọn bài đọc dài. Trong bài đọc này, Mẹ Maria và thánh Giuse dâng Hài nhi Giêsu trong Đền thờ. Các ngài dâng của lễ và đón nhận lời tiên tri từ hai thành viên của cộng đoàn, là ông Simêon và bà Anna. Trong Tin mừng Luca, việc dâng hiến này là hoạt động công khai đầu tiên mà Gia đình thánh thực hiện. Hành động này nối kết gia đình khi họ chu toàn nghĩa vụ tôn giáo được qui định trong Lề luật. Hơn nữa, cộng đoàn, mà hai ngôn sứ Simêon và Anna đại diện, đã chấp nhận và nhìn nhận tầm quan trọng của thánh gia cũng như Chúa Giêsu là Đấng Mêsia. Sự nhìn nhận và xác nhận công khai đã làm cho bản văn này thích hợp dùng trong ngày lễ Thánh Gia, vì gia đình cộng đoàn này luôn ủng hộ Thánh gia. Thêm nữa, Tin mừng còn gợi nhớ đến câu ngạn ngữ của người Phi châu “Cả làng mới nuôi được con”, vốn nêu bật vai trò của cộng đoàn trong việc trao ban tình thương cũng như hướng dẫn để trẻ em sống và phát triển.
Các bài đọc hôm này như một lời nhắc nhở rằng gia đình là tương quan nền tảng phải được nuôi dưỡng, và cộng đoàn là sự mở rộng của gia đình. Các bài đọc sẽ truyền cảm hứng cho chúng ta hầu củng cố sự nối kết với gia đình và cộng đoàn của mình.
LÒNG TIN KHÔNG ĐẮN ĐO CỦA ĐỨC MARIA VÀ THÁNH GIUSE
Trung thành với Luật Môsê, các ngài dâng hiến Hài Nhi cho Thiên Chúa và cùng Đức Giêsu dấn thân lên đường.
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Chúa Giêsu tỏ mình ra trong đền thờ.
Đây là lần Chúa tỏ mình ra trong Đền thờ, trung tâm sinh hoạt tôn giáo của người Do Thái. Cũng ThánhGia ABC354
Đây là lần Chúa tỏ mình ra trong Đền thờ, trung tâm sinh hoạt tôn giáo của người Do Thái. Cũng trong tư cách là Đấng Cứu Thế, việc tỏ mình này có liên hệ chặt chẽ với việc tỏ mình ra cho các mục đồng vùng Bêlem.
Luca làm cho các độc giả của mình liên tưởng ngay đến "Luật Môsê" ấn định một thời hạn là bốn mươi ngày kể từ ngày sinh con cho đến khi làm lễ thanh tẩy cho người mẹ trẻ. H.Cousin nhận xét: Như vậy là "Bảy mươi tuần đã trôi qua kể từ ngày Thiên Thần Gabrien loan báo Gioan Tẩy Giả chào đời ": Công cuộc giả phóng Giêrusalem được loan báo trong Isaia (Is 40-55) nay trở thành hiện thực, như lời ông Simêon rồi đây sẽ hát lên ("L'evangile de lúc", Centurion, trang 42).
Việc xảy ra tại thành đô "Giêrusalem”, nơi khi lên mười hai tuổi Đức Giêsu sẽ đi hành hương lần thứ nhất (2,42); nơi sẽ diễn ra cuộc "xuất hành" của Người (khổ nạn, chết, sống lại, lên trời) vào những ngày chót của cuộc hành hương long trọng cuối đời. Đây là điểm quan trọng, vì đối với Luca, Giêrusalem sẽ là trung tâm của biến cố Phục sinh và khởi điểm của công cuộc truyền bá Kitô giáo.
- Bối cảnh của sự việc là "Đền thờ', nơi đây Luca đã khởi đầu Tin Mừng bằng việc truyền tin cho ông Dacaria (1,5,25); nơi đây Tin Mừng Luca sẽ kết thúc bằng lời cầu nguyện của cộng đoàn các môn đệ Đức Giêsu "Hằng ở trong Đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa" (24,25). ' '
"Cha mẹ Đức Giêsu" đem con lên Giêrusalem, "để tiến dâng cho Chúa”. Luca đặt vào đây hai nghi lễ riêng biệt:
+ Một đàng theo sách Lêvi 12,8, lễ "thanh tẩy" cho người mẹ
trẻ, 40 ngày sau khi sanh con, nếu là con trai, kèm theo của lễ là “một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non" đối với gia đình nghèo.
+ Đàng khác, theo sách Xuất Hành 13,12 và để kỷ niệm ngày tổ phụ Abraham sẵn sàng dâng hiến cho Thiên Chúa người con trai duy nhất của ông là Isaac (bài đọc 2), còn có việc thánh hiến và chuộc "con trai đầu lòng”.
Có tới ba lần Luca nhấn mạnh đến ý muốn của Giuse và Maria là trung thành làm xong mọi việc "như Luật Chúa truyền”. Ngay cả những việc không tiên liệu nữa, bởi lẽ các ngài đích thân dâng tiến con trai đầu lòng theo gương bà Anna đến Nhà Chúa dâng bé Samuen vậy (1 Sam 1,22-24).
2. Ứng nghiệm những lời hứa, loan báo sứ mệnh của Đức Giêsu.
Hai nhân vật bất ngờ xuất hiện, một nam một nữ tiêu biểu cho niềm mong đợi Đấng Cứu Thế từ bao đời nay của Israel. Không hẹn, mà cả hai cùng đến gặp Maria và Giuse: "Và này đây tại Giêrusalem, có một người tên là Simêon... cũng có một nữ ngôn sứ là Anna”. Hai khuôn mặt đẹp gợi nhớ lại những vị thánh nam nữ trong Thánh Kinh kể từ Abraham là sa ra.. Hai bậc cao niên mà vì họ Hài nhi được Thánh Thần tác động, sẽ đến vén lên bức màn bao trùm biến cố để lộ ra ý nghĩa thực: nơi Hài nhi ấy các lời hứa đã được ứng nghiệm, hát nhi ấy loan báo việc sắp xảy ra.
- Trước tiên phải nói đến ông Simêon. Ông không phải là người có trách nhiệm phục vụ Đền Thờ vì ông không phải là tư tế, cũng chẳng phải là lê vi hay Kinh sư. ông chỉ là "người công chính" (nghĩa là người hoàn toàn "khớp với ý muốn của Thiên Chúa) và sùng đạo (nghĩa là người được lòng tin và niềm hy vọng của Israel hun đúc).
+ Trong Bài ca “an bình ra đi" của ông, ông chào mừng cuộc giáng lâm của Đấng cứu độ và tỏ ra mãn nguyện thấy lời Chúa hứa nay được thể hiện nơi Đức Giêsu.
Hài Nhi này đến làm cho lòng mong đợi của riêng ông và dân tộc ông được mãn nguyện; ông lên tiếng ngợi ca ơn lạ lùng Chúa đã ban cho chính ông, người trông đợi cuối cùng của Giao ước cũ, là được "bồng bế trên tay mình" Hài Nhi trưởng tử của một thế giới mới mà ông đã hình dung ra.
Rồi ngỏ lời trực tiếp với hài nhi, ông chào mừng con trẻ là Đấng Mêsia " là "ơn cứu độ " của Thiên Chúa, một ơn cứu-độ vượt khỏi biên giới Israel và có liên can tới mọi dân tộc, bởi lẽ hài nhi Giêsu này "là ánh sáng soi đường cho dân ngoại”. Ông kết thúc bài ca khi loan báo rằng nhiệm vụ trông đợi của Ông đã đến hồi kết thúc: "Giờ đây ông có thể ra đi an bình”.
Những lời tiên tri của ông Simêon khiến cho cha mẹ Hài Nhi "ngạc nhiên”, đồng thời cũng gây cho ông bà những thắc mắc đi đôi với sự hài lòng (xem dưới).
+ Thế rồi, sau khi chúc phúc cho cha mẹ Hài nhi, ông nói với Maria một lời tiên tri đau buồn, tương phản với niềm vui được bày tỏ trong Bài Ca: "Này, người con của bà đây...ông loan báo cảnh "chia rẽ”, sẽ có sự chia lìa vì Đức Giêsu: những kẻ ủng hộ Người thì người sẽ là sức mạnh vực họ chỗi dậy, những ai chống đối người, thì Người khiến họ phải "vấp ngã”. Bởi lẽ, R.Meynet chú giải "Chúa không áp đặt ơn cứu độ của người cho ai cả; người chỉ đưa ra, chỉ "dành sẵn cho muôn dân”, cho mọi dân tộc cũng như cho Israel. Người chỉ kêu mời người ta đón nhận trong tự do. Nhưng rnọi người đều sẽ phải quyết định. Đức Giêsu không phải là một chứng cứ không thể phi bác người là một dấu chỉ trước niềm tin và tự do của con người. Nhiều người trong Israel sẽ từ chối Người, nhưng những người khác sẽ chấp nhận đi theo Người. Nơi các dân tộc cũng thế thôi. Mọi người sẽ bị phân rẽ, ngay cả giữa cha mẹ mình, ngay cả Đức Maria cũng sẽ phải chịu thử thách ấy. Sự ngạc nhiên của cha mẹ Người là sự ngạc nhiên của lòng tin trộn lẫn với những thắc mắc và sự hài lòng trước những biến cố bất ngờ này. Trước xì-căng-đan của thập giá, lòng tín của Đức Maria cũng như của tất cả các môn đệ đều sẽ phải trải qua cơn xâu xé dày vò" ("L'evangile se lon saint lúc – Analyse rhétorique". Cerf, trang 40).
Và này đây một nhân vật khác, bà Anna, mà Luca gọi là "nữ ngôn sứ”. J. Potin viết: "Bà cũng là hình ảnh người phụ nữ thánh thiện của Kinh Thánh. Bà kết hôn từ thuở niên thiếu, nhưng có lẽ chịu phận son sẻ, giống như bà mẹ của Samuen đã một thời hiếm muộn; bà ở goá để tưởng nhớ chồng, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phụng Thiên Chúa trong đền Thờ. Qua bà, cả một đoàn lũ đông đảo các phụ nữ thánh thiện Israel đang dâng lời cảm tạ Thiên Chúa vì từ nay Người khởi sự thực hiện việc giải thoát dân Người" ("Jésus, l'histoire vraie", Centurion, trang 95).
Phần cuối câu truyện không quên nhắc lại việc cha mẹ Đức Giêsu trung thành tuân thủ Lề Luật. Rồi bằng ít lời vắn gọn, Luca tóm kết tất cả cuộc đời thơ ấu của Đức Giêsu ở Nagiarét như sau: "Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Nagiarét, miền Galilê. Còn Hài Nhi, ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ơn nghĩa cùng Thiên Chúa”.
Ơn khôn ngoan mà Hài Nhi được tràn đầy, chẳng bao lâu nữa người ta sẽ thấy biểu lộ trong trình thuật tìm gặp lại con trong Đền thờ (Lc 2,46-47).
BÀI ĐỌC THÊM.
1. "Một khởi đầu mới mong manh”.
(L. Sintas, trong "Parole du Dteu pour la méditation ét l'homélie. Năm B", Médiaspaul. trang 22-23).
Để ghi nhớ việc tổ phụ Abraham hiến tế con đầu lòng cho Thiên Chúa, Luật truyền cho mọi con trai đầu lòng phải được hiến dâng cho Chúa (...). Maria và Giuse tuân thủ Luật Chúa truyền. Vì hai ông bà nghèo, nên dâng một cặp bồ câu non làm của lễ.
Hôm nay nghi lễ hiến dâng này có một tầm mức thật là độc đáo. Nếu đúng là mọi Hài Nhi ra đời đều là ơn huệ của Thiên Chúa mà mọi cha mẹ phải nhìn nhận và vui mừng, thì điều đó càng đúng biết bao đối với trường hợp của Hài Nhi Giêsu. Không ai trong số những người được trông thấy Maria và Giuse tiến vào Đền thờ hôm ấy, hiểu được điều ấy. Các môn đệ, các thánh sử thực ra chỉ hiểu rõ điều này sau khi Chúa phục sinh. Chỉ tới lúc ấy các ông mới nhận ra sự cao cả lạ lùng của Đức Giêsu, Đấng các ông đã sống kề cận trong ba năm qua. Sự cao cả lạ lùng đó Đức Giêsu đã có từ lúc đức Maria mang thai và sinh ra Người, dầu rằng lúc đó còn bị che giấu. Chỉ sau biến cố phục sinh, các ông mới có thể viết Tin Mừng về thời thơ ấu của Đức Giêsu là làm nổi bật được tính cách độc nhất vô nhị của Người.
Nơi bản thân ông Simêon, Luca như đọc được một bản tóm tắt toàn bộ mầu nhiệm ấy. Simêon là một con người được nhào nặn trong lòng tin của Israel. Nếu ông được coi là một người công chính, thì điều đó có nghiã là nơi ông, người ta gặp được sự thánh thiện của những chính nhân đầy lòng tin. Ông giữ một vị trí chính đáng trước mặt Thiên Chúa, trước lề luật của Thiên Chúa, cũng như trước mặt mọi người. Bởi được viết sau biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống, nên Luca có thể gọi đích danh nhiệt tình thúc đẩy ông Simêon lên Đền Thờ, là sức mạnh dun dũi của Thánh Thần. Chúa Thánh Thần được giới thiệu ở đây như là sức mạnh duy nhất kiến tạo nên dân Chúa, dẫn dắt dân trong lòng tin (...). Sự hiệp nhất sống động giữa Cựu ước và Tân ước được biểu lộ ra bằng một biến cố. Một ông già mà cả đời đã được nuôi dưỡng trong lòng tin của tổ phụ Abraham giờ đây tiến đến trước Đấng Mêsia của lời hứa và được khao khát từ bao đời. Ông già ấy giờ đây ẵm bế trên tay mình Đấng Mêsia kia và hát lên-lời ca chúc tụng và tri ân Thiên Chúa:
Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi (...).
Ông già ấy có thể qua đi. Vậy thì ngọn lửa thiêng kia phải được trao lại cho ai? Trao cho một hài nhi bé bỏng. Điều này muốn nói lên rằng giai đoạn đầu mới lạ này quả là mong manh bé nhỏ. Nước Thiên Chúa giống như một hạt giống dù là loại hạt nhỏ nhất, nhưng vẫn hứa hẹn sẽ trở nên một cây to lớn. Nó cũng nói lên tầm quan trọng của Thánh Gia trong vai trò được trao phó và gìn giữ hạt giống mỏng manh kia. Quả là mong manh bé nhỏ khi toàn bộ thế lực sự ác sẽ ập đến tấn công hạt giống ấy. Và ông Simêon cũng nói cho Maria hay một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà. Cuộc khổ nạn đã có mặt ngay từ đây rồi. Phải, người ta sẽ chia rẽ vì hài nhi này. Trẻ ấy sẽ làm cho nhiều người phải vấp ngã. Thực tế cho thấy hận thù ghen thét dường như toàn thắng. Những thù địch của Đức Giêsu sẽ thắng được Người. Họ sẽ kết tội và đóng đinh Người.
Tuy nhiên, cũng chính Giêsu ấy sẽ làm cho nhiều người được chỗi dậy. Phục sinh đã được loan báo và ơn cứu độ của Thiên Chúa sẽ đem đến một cuộc phục hồi lớn lao vô cùng. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã danh sẵn cho muôn dân.
Đó chính là lý do khiến nữ ngôn sứ Anna, lúc ấy cũng tới nơi để cùng hát lên những lời tán tụng Thiên Chúa với ông Simêon.
2. “ Trung tín với thần khí”
(Đức Cha L.Daloz, trong "diệu a visité son peuple"; Desclée de Brouwer, trang 21-22).
"Để chu toàn các điều Luật truyền, cha mẹ Đức Giêsu đem Người lên Đền Thờ dâng tiến cho Thiên Chúa, và dâng của lễ nghèo hèn là "một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non" dành cho việc thanh tẩy Đức Maria. Được Thần Khí thúc đẩy, ông Simêon lên Đền Thờ gặp hai ông bà. "Ông Simêon là người đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa? Hoạt động của thần Khí là sợi đây nối kết mọi hoàn cảnh xảy ra khi Đức Giêsu giáng sinh. Công trình Thần Khí thực hiện thì sung mãn, phong phú và hưng phấn. Câu truyện trong hai chương đầu của Tin Mừng Luca mang dấu ấn rõ rệt về hoạt động của Thần Khí. Những biến cố luôn hàm ý về tương lai, và người ta đã linh cảm được sứ mệnh phổ quát của Đức Giêsu. Những nhân vật như Maria, Dacaria, Êlisabét, Simêon và nữ ngôn sứ Anna đều là những người loan báo ơn giải thoát mà hạt giống đã được chôn vùi trong thế giới chúng ta. Các ngài đều làm chứng rằng ơn cứu độ đã tới và hết sức vui mừng.
Thần Khí hoạt động dựa trên các ngôn sứ, Thần Khí ấy của Thiên Chúa tràn đầy vũ trụ, đến thực hiện các lời hứa và ban ơn thông hiểu. Qua miệng ông Simêon, Thần Khí tỏ cho thấy ánh sáng đang đi vào thế giới và người Con của Đức Maria nắm giữ vai trò quyết định. Người con ấy sẽ là dấu hiệu cho người ta chống đối, khi phanh phui ra những tranh cãi của nhiều tâm hồn. Chúng ta hết thảy đều liên can tới điều mạc khải này vì nó cũng phanh phui những tranh chấp trong tòng ta. Cũng Thần Khí ấy của Thiên Chúa còn thâm nhập vào nơi sâu thẳm của bản thân ta và thúc đẩy ta, phải nhận biết Đấng ban ơn cứu độ. Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại ”... Chỉ mình Thần Khí mới có thể mở mắt ta đón nhận ánh sáng này. Như ông già Simêon, như nữ ngôn sứ Anna, tâm hồn ta phải biết lắng nghe và nhạy bén với làn gió âm thầm của Thần Khí. Như vậy, chúng ta mới có thể đón nhận Đức Kitô - Anh sáng.
Khi viết "Họ phải được thanh tẩy" (c.22), Lc nói về ai? Theo luật Môisen, Chúa Giêsu có buộc ThánhGia ABC355
1. Khi viết "Họ phải được thanh tẩy" (c.22), Lc nói về ai? Theo luật Môisen, Chúa Giêsu có buộc phải được thanh tẩy không? 2. Lc nhấn nạnh đến khía cạnh nào của nghi thức này : đến việc thanh tẩy Maria hay đến việc trình dâng Chúa Giêsu? Tại sao? 3. Tại sao mọi con trai đầu lòng phải được chuộc lại? 4. Đâu là ý nghĩa thành ngữ "sự an ủi của Israel" 5. Trong đoạn văn đây, Lc đề cập đến mấy lần hoàn tất các quy định của luật Môisen? Làm sao giải thích chuyện này, biết rằng ông viết cho độc giả gốc ngoại đạo? 6. Làm sao giải thích c.35 về lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn Maria? 7. Làm cách nào đặt giai thoại này vào trong thần học của hai chương đầu nói về thời thơ ấu của Chúa Giêsu?
1. Phần cuối cùng trong Tin Mừng thời thơ ấu theo Luca được làm thành bởi hai giai thoại có chung một khung cảnh là Đền thờ Giêrusalem. Chắc đây không phải là sư ngẫu nhiên Tin Mừng đã được khai mào bằng một trình thuật có khung cảnh là Đền thờ: việc truyền tin cho Dacaria và chấm dứt bằng nhữg tiếng liên quan tới Đền thờ: Họ (các Sứ đồ) hằng ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa'' (24,53). làm như vậy Lc muốn cho thấy con người của Chúa Giêsu là Đền thờ có liên hệ mật thiết với nhau.
Chủ ý của Lc trong đoạn văn này là nói tới việc Hài nhi Giêsu đến trong Đền thờ Giêrusalem- Phần đầu của trình thuật mô tả cho ta cơ hội. Cơ hội này là cái tập tục Do thái truyền buộc mọi phụ nữ, sau khi sinh con 40 ngày, phải "đem lên trước cửa Trường Tao phùng (Lều hội họp) cho tư tế một con chiên 1 tuổi để làm lễ thượng tiến và một bồ câu non hay chim cu để làm lễ tạ tội" (Lv 12,6). "Nhược bằng không thể sắm được một con chiên thì y thị sẽ lấy hai chim cu hay hai bồ câu non" (Lv 12,8). Đây là điều mà Luca ghi lại cho ta về Maria (2.24) Tuy nhiên bản văn của ông có một điểm dị thường. Ông nói đến ngày mà theo luật Môisen, họ phải được thanh tẩy" (2,22). Thế nhưng luật Môisen chỉ đề cập tới người đàn bà. Điều này cho ta thấy chuyện duy nhất làm bận tâm Lc là sự hiện diện không những của Maria, mà còn của Giuse và của Chúa Giêsu tại Ciêrusalem nữa. Kiểu nói như được rút ngắn lại. Bản văn đúng ra phải ghi thế này : "Khi dến ngày mà theo luật Môisen, Maria phải được thanh tẩy, thì họ đón Người lên CỊiêrusalem".
Ngoài điểm dị thường trên, Lc còn thêm hai điểm đặc biệt nữa. Trước hết là về luật buộc Cha mẹ phải thánh hiến cho Thiên Chúa môt cậu trai đầu lòng. Đây là một luật có từ thời xa xưa, liên hệ đến súc vật cũng như con người (Xh 13,1). Nó nói lên việc Thiên Chúa được quyền dành riêng cho Ngài của đầu mùa của mọi vật sống. Chính bản văn Xuất hành này đã được Luca trích ra (2,23). Và theo thói quen, cha mẹ sẽ chuộc lại đứa trẻ ( Xh 13,13) Nhưng đây Lc không nhắc đến quán lệ này. Trái lại. Ông nói đến việc trình dâng Hài Nhi, việc mà luật. Chẳng hề đề cập tới. Tuy vậy Lc vẫn cho rằng việc trình dâng này phù hợp với lề luật (2,23 và 27). Hình như ở đây Lc đã lẫn lộn (hay cố ý nhập làm một) việc thánh hiến và chuộc lại các trẻ đầu lòng? mà luật có buộc và không bao hàm chuyện phải đến Đền thờ với việc cha mẹ Chúa Giêsu, trình dâng Người tại Đền thờ cho Thiên Chúa, dịp họ đến đó để thanh tẩy Maria. Rõ ràng là đối với Lc, điểm chính yếu là việc trình dâng đứa trẻ. Giuse và Maria đem Chúa Giêsu lên Giêrusalem để trình dâng Người cho Chúa (2,22). Như đã nói, việc trình dâng này chẳng hề là một điều luật buộc. Vậy đâu là ý nghĩa đích thực của nó?
2. Trên phương diện lịch sử thì đây hẳn là một sáng kiến của cha mẹ Chúa Giêsu, có liên hệ không phải với một quy định chung, song với tính cách riêng của đứa trẻ. Maria và Giuse biết rõ Người thật là "thánh" (x. 1,35 ), rằng Người đã được thánh hiến cho Thiên Chúa một cách siêu tuyệt. Việc trình dâng đứa trẻ tại Đền thờ là dấu họ thừa nhận sự thánh hiến đó. Chúa Giêsu không cần phải được thánh hiến, Người đã được thánh hiến trong chính mình rồi. Người thuộc một loại như Đền thờ, vì bóng (mây) từng biểu trưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đền thờ, đã bao trùm lấy Ngươi kể từ lúc đầu thai.
Nhưng Lc đã tô điểm, trình bày lại sự kiện lịch sử vừa nói để làm nổi bật tính cách tư tế của Chúa Giêsu. Và điều này liên hệ với thần học của ông một cách mật thiết. Và cũng từ dó nhiều điểm khác trong bản văn sắp được sáng tỏ. Trước nhất là chính hạn từ "trình dâng". Chữ paristanai không phải đã được Lc chọn cách vô ý. Chữ này đã được Cựu ước đặc biệt dùng khi nói về các tư t.ế và Lêvi "túc trực trước thánh cung" (Đnl 17,12; 18,5). Thành thử chữ "trình dâng" (présentation) có một ý nghĩa tư tế hoàn toàn. Nó nhằm cho thấy Hài nhi Giêsu là thượng tế của Giao ước mới. Đây là chủ đề sẽ được khai triển trong thư Do thái về sau (9, 11-14.). Ngoài ra, cũng chính trong cùng bối cảnh tế tự, chữ paristanai còn chỉ việc tiến dâng một của lễ nào đó. Vì thế nó lại có một ý nghĩa tế lễ. Như ta thấy trong Rm 12,1: anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động cho Thiên Chúa". Như vậy, Chúa Giêsu được trình bày vừa như là vị tư tế dâng lễ, vừa như là hy lễ được tiến dâng lên.
Tuy nhiên, cũng chính trong tương quan với bối cảnh tế tự vừa nói mà chúng ta sẽ giải thích các điểm dị thường đã nhận thấy trong, bản văn Luca. Các điểm này không xuất phát từ sự sơ xuất, bất cẩn của tác giả, nhưng từ những chủ ý rõ rệt. Lc sử dụng các dữ kiện lịch sử theo cách thức làm nổi bật cái ông muốn trình bày. Chẳng hạn như câu trích dẫn Xh 13,2 (mà chúng ta đã bảo là có liên hệ với một quy khoản không được đề cập tới trong giai thoại) đã được giữ vì có ý niệm "thánh hiến", ý niệm mà tiếng Hy lạp diễn tả qua câu "sẽ được gọi là thánh hiến (hagios=thánh) cho Thiên Chúa". Thành thử chẳng có một ám chỉ nào đến điểm cốt yếu của quy khoản cả, tức là sự chuộc lại đứa bé. Điều này cho thấy Lc không quan tâm đến việc chu toàn quy khoản của lề luật. Sau cùng, việc dâng làm hy lễ (thusia) một cặp chim cu hay bồ câu, là việc thực ra gắn liền với nghi thức thanh tẩy, thì được đặt liên hệ với việc trình dâng. Hầu làm nổi bật hơn nữa tính cách tế tự và tư tế của việc này.
Thàntl thử đoạn văn của Lc có thể tóm tắt như sau. Ở nền tảng có một dữ kiện lịch sử là việc Maria lên Giêrusalem để cử hành nghi thức thanh tẩy. Và nhân dịp này, Chúa Giêsu được cha mẹ Người thánh hiến cho Thiên Chúa, để xác nhận rằng con mình thuộc về Thiên Chúa thực. Đàng khác cũng có quy khoản chuộc lại con đầu lòng, mà Giuse đã hoàn tất trong những hoàn cảnh khác. Lc thu nhận các dữ kiện này của truyền thống và chỉ giữ lại những yếu tố nào khả dĩ giúp cho ông trình bày Chúa Giêsu là Đấng Messia tư tế thôi. Ông đặc biệt làm nổi bật các hạn từ "trình dâng". thánh hiến cho Thiên Chúa", "dâng hy lễ". Đây là một trường hợp mà Lc không biên soạn theo lối chú giải, nhưng trực tiếp sử dụng các sự kiện lịch sử có liên quan đến các kỷ niệm đã được bảo tồn trong môi trường Nadarét.
3. Nhưng còn hạn thế nữa , Lc 1.5-2,22 cung cấp cho ta một thời biểu liên tục : đây là một sự kiện đặc biệt mà chắc chắn không chỉ phát xuất từ mối ưu tư muốn chính xác trên phương diện lịch sử. Khi Gioan, trong phần đầu Tin mừng của ông (1,29.35.43; 2,1), đã tính tháng ngày cái tuần lễ tiên khởi của đời sống công khai Chúa Giêsu (tuần bắt đầu với phép rửa của Gioan Tẩy giả và chấm dứt với việc tỏ hiện vinh quang" trong 2,11) thì hoàn toàn chỉ vì giá trị biểu tượng của con số 7 và vì muốn nhấn mạnh ý nghĩa cánh chung của tiệc cưới trong đó Chúa Giêsu ban một thứ rượu nho nhiệm mầu) chứ chẳng phải vì ưa ngày thánh chính xác như chúng ta hiện nay Cũng một ý tưởng như vậy khi ông nhấn mạnh thời biểu 7 ngày sau hết của Chúa Giêsu ( 11, 55; 12. 1.12; 13, 1 ; 18,28, 19,14.31.42; 20,1). Vậy một khi đã xét đến thời đại của văn thể như thế, chúng ta phỏng đoán được rằng tác giả Tin mừng thời thơ ấu cũng đã có một ưu tư như Gioan. Ông đã muốn liên kết việv tỏ hiện từ đầu của thiên sứ Gabriel trong Đền thờ với việc tỏ mình của Chúa Giêsu cũng trong Đền thời đó: liên kết bằng một con số đầy ý nghĩa nói lên ý nghĩa mầu nhiệm của biến cố thứ hai.
Chúng ta tính xem thì sẽ thấy rõ. Có 6 tháng (Lc 1,26 và 36) kể từ khi truyền tin cho Dacaria đến lúc truyền tin cho Maria, tức 180 ngày nếu tính 30 ngày mỗi tháng theo thói quen Thánh kinh ; 9 tháng từ khi truyền tin đến sinh nhật, tức 270 ngày; 40 ngày từ Sinh nhật đến lúc trình dâng Chúa Giêsu cho Thiên Chúa (Lv 12,3). Tổng cộng là 490 ngày (180+270 140) tức 70 tuần lễ.
Thế mà theo lời tiên tri của Đn 9,21-24, thì sau 70 tuần, Israel sẽ phải được thanh tẩy khỏi lỗi lầm và cung thánh đền thờ Giêrusaleln sẽ được thánh hiến lại. Lời tiên tri này, viết theo văn thể khải huyền, nhắm đến việc xúc phạm Đền thờ dưới thời Antiochus Epiphane IV và đến việc tái hiến thánh và thánh và cung hiến nó sau cuộc chiến thắng của Giuđa Macahê. Nhưng sau đấy, lời tiên tri thường xuyên được giải thích trong Do thái giáo như một sấm ngôn thiên sai. Hình như Lc, qua việc thiết lập một thời biểu kỹ lưỡng, đã muốn liên kết lời tiên tri với việc trình dâng Chúa Giêsu. Một cuộc khảo sát chăm chú bản trình thuật của Lc xác nhận rằng ông đã có ý hướng này thực. Tuy nhiên, vì cuộc khảo sát đòi hỏi một phân tích khá tỉ mỉ, nên xin độc giả tham cứu tác phẩm nổi tiếng của R Laurenlin (Structure et théologie de Luc 1-2. Paris. Gabalda. 1957, tr.50-56). Kết luận công việc phân tích của mình, tác giả Laurentin bảo: qua việc song chiếu với Đn. Lc muốn cho thấy việc Chúa Giêsu vào Đền thờ khai mào việc cư ngụ có tính cách cánh chung của "Vinh quang" (Simêon gọi Chúa Giêsu là Vinh quang Israel) Giavê, việc cư ngụ mà bao ngôn sứ đã từng tiên hứa.
Đàng khác, việc song chiếu này còn được xác nhận bởi lời tiên tri Ml 3, lời tiên tri nhắm đến Gioan Tẩy giả và vai trò tiền hô của ông mà Luca đã trích nguyên văn khi tường thuật cuộc truyền tin cho Dacaria. Lời tiên tri đó viết như thế nào "Này Ta sai thần sứ của Ta để vén đườg bạt lối trước nhan Ta. Và thình lình sẽ đến nơi đền thờ của Người vị Chúa mà các ngươi tìm kiếm" (Ml 3,1 ). Ở đây cũng vậy, có nhiều chi tiết minh xác sự song chiếu giữa bản văn Malaki là bản văn Luca (x. Laurentin, tr.56-60). Thành thử nếu nghiên cứu kỹ lưỡng, ta sẽ thấy rằng: việc Chúa Giêsu vào Đền thờ dịp trình dâng là dấu thực hiện nhiều sấm ngôn tiên báo việc Giavê long trọng tiến vào Đền thờ Ngài khi chấm dứt thời kỳ trông đợi Đấng Messia. Vì thế ta hiểu tại sao ông Simêon. khi thấy Vinh quang Giavê rồi, liền tuyên bố là giờ đây mình có thể chết. Đó là ý nghĩa cuối cùng của kinh nunc dimittis, bài thánh ca cánh chung tuyệt hảo.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Theo luật Môisen": người ta có thể thắc mắc tại sao Luca nhấn mạnh quá nhiều đến việc Thánh Gia hoàn tất các nghi thức Do thái. Nếu nhớ Luca là môn đệ của Phaolô, ta sẽ tìm ra được lý do tuyệt diệu trong suy tư sau đây của thư Galata: "Khi thời viên mãn đến, Thiên Chúa đã sai Con của Ngài, sinh bởi người nữ, sinh dưới quyền Lề luật, để giải phóng những kẻ ở dưới quyền Lề luật, ngõ hầu ban quyền nghĩa tử: cho ta. Và bởi vì anh em là nghĩa tử, nên Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con Ngài đến trong lòng anh em, chính Thần khí kêu lên: Abba, Cha ơi! Cho nên anh em không còn là nô lệ, nhưng là con; mà nếu là con, thì cũng là kẻ thừa tự thể theo (ý của) Thiên Chúa" (14,4-7). Bản văn này làm sáng tỏ Tin mừng thời Thơ ấu cách lạ lùng thật. Vì chẳng có nơi nào cho thấy rõ ràng Chúa Giêsu thật là Con Thiên Chúa, sinh bởi người nữ; chẳng có nơi nào mà Tin mừng nhấn ngạnh mãnh liệt việc Người tuân giữ các quy khoản Lề luật như đoạn văn hôm nay.
"Họ phải được thanh tẩy": Theo luật Môisen trong Lv 12 thì sau khi sinh con trai, người mẹ trở nên ô uế trong 7 ngày xét theo luật phụng tự (nghĩa là không được chạm đến vật gì đã thánh hiến cũng như tham dự phụng vụ tại Đền thờ) và tiếp đó phải ở riêng trong nhà 33 ngày nữa. Sau thời gian thanh tẩy theo nghi thức ấy bà phải đến Đền thờ dâng một của lễ. Người ta ngạc nhiên khi nghe thánh sử bảo: Họ phải được “thanh tẩy", vì chỉ mình người mẹ là cần chuyện này mà thôi. Có thể giải thích như sau: họ phải được thanh tẩy. Nghĩa là việc thanh tẩy này có liên can tới họ; thanh tẩy là điều bắt buộc đối với một mình người mẹ do việc sinh con ra, là việc sinh nở thì vừa liên hệ tới bà mẹ và liên hệ tới đứa bé. Người
ta cũng có thể ức đoán rằng Lc quan niệm lễ nghi thanh tẩy như được thi hành trong thực tế, nghĩa là có kèm theo nghi thức trình dâng đứa trẻ. Nếu thế thì đây là một lễ nghi tại Đền thờ trong đó Maria dâng các lễ tế tiên liệu cho việc thanh tẩy, đồng thời lợi dụng cơ hội để trình dâng Hài Nhi Giêsu. Nhưng dù sao chắc một điều là Giuse không dính dáng gì đến việc "họ được thanh tẩy", vì Lề luật chẳng hề buộc người chồng phải thanh tẩy.
"Và khi đến ngày, theo luật Môisen. họ phải được thanh tẩy, thì họ đem người lên Giêrusalem": Hai chữ “họ” của câu này xem ra giống nhau, nhưng văn mạch cho thấy là không phải vậy; chữ "họ" thứ nhất nhắm Maria và Giêsu, chữ "họ" thứ hai nhắm Maria và Giuse; câu văn hơi sai đôi chút. Vì Luca quá muốn gãy gọn mà lại quên lưu ý là các đại danh từ số nhiều đi liền nhau đây không chỉ cùng nhân vật. Tuy nhiên ý nghĩa cũng khá rõ ràng. Việc trình dâng Hài Nhi tại Đền thờ này không có trong lề luật. Chỉ việc chuộc đứa bé là truyền buộc thôi. Nhưng Luca chẳng hề nói qua một tiếng đến lễ nghi chuộc Chúa Giêsu đó, mà chỉ đề cập tới việc dâng trình Người. Ông lại còn nhấn mạnh đến việc trình dâng này bằng cách liên kết vào đó hai văn từ của lề luật mà thật ra chỉ liên hệ tới việc chuộc con. Làm như vậy là để mặc cho việc trình dâng một ý nghĩa long trọng: dâng hiến và thánh hiến. Thành thử đối với Luca, việc long trọng trình dâng Chúa Giêsu cho Giavê hôm nay tương đương với việc chu toàn cách thiêng liêng nguyên tắc pháp luật của Xh 13, theo đó mọi con trai đầu lòng (và nhất là Đứa Con đầu lòng này) đều thuộc về Giavê. "Một người tên là Simêon” Tên này rất thông dụng thời đó. Có kẻ đã đồng hóa ông Simêon với một giáo sĩ tên Simêon, con của Hillel và cha của Gamaliel, cả ba đều là những đại giáo sĩ ở Giêrusalem. Nhưng việc đồng hóa này không bảo đảm. Lời kinh Nunc dimittis quả cho thấy Simêon là một cụ già, song Luca chẳng quả quyết điều này một cách minh nhiên. "Niềm an ủi của Israel": Từ Is 40, 1; 51, 12; 61,2... từ ngữ này ám chỉ thiên sai thời đại.
“Thánh Thần ở trên ông": Theo ngôn ngữ Cựu ước (Ds 11, 17.11,25.29; 2V 2, 15; Is 11,2; 41, 1; Ed 11,5), thành ngữ này muốn nói Simêon là ngôn sứ. “Đức Kitô của Chúa": Đây là tước hiệu cổ truyền của Đấng thiên sai trong Cựu ước Hy lạp (1Sm 24,7,11; 26, 9. 11. 16.23; 2 Sm 1, 14. 16...) và tương đương với tước hiệu "Đấng Messia của Giavê”. Đừng lẫn lộn với thành ngữ Kitô Chúa" (thành ngữ riêng biệt của Lc trong Tin mừng, x. 2, 11) mà người ta thấy trong Ac 4,20 bản Hy lạp) và Tv Salomon 17,36 cũng như trong Phaolô nhiều lần về sau. Tước hiệu "Kitô Chúa" này rõ ràng có một ý nghĩa siêu việt mà những đồng hóa Đấng Messia với Giavê. Nó giàu nghĩa hơn tước hiệu "Đức Kitô của Chúa".
"Cha mẹ": Vì đã nhấn mạnh nhiều đến việc đầu thai đồng trinh của Chúa Giêsu, nên Lc không ngần ngại dùng chữ. "cha mẹ Người" (x. cc. 41.43) và ngay cả "cha Người" (cc. 33.48). Các sao lục viên vẫn thường thay các hạn từ vừa nói bằng chữ Maria và Giuse để làm nổi bật sự kiện Chúa Giêsu chỉ có một Cha ở trên trời.
"Giờ đây, lạy Chúa...": Sấm ngôn nơi cc.29-32 này tương ứng với thánh ca Dacaria về Gioan Tẩy Giả trong Lc 1,67-79; nhưng thay vì cảm hứng từ các Thánh vịnh, ở đây sấm ngôn mượn lời của sách Isaia đệ nhị, phần thứ hai, và công bố rằng trong Chúa Ciêsu, ơn cứu độ đã được ban tặng. Thánh thi này đã được dùng trong kinh nguyện phụng vụ của Giáo Hội (kinh tối) từ thế kỷ V (x. Hiến pháp Sứ đồ 7,48).
"Theo lời Ngài": Các chữ này làm ta liên tưởng tới việc Thánh Thần đã mặc khải (c.26) cho Simêon biết ông sẽ được nhìn thấy Đấng Messia trước khi lìa đời.
"Anh sáng rạng soi dân ngoại": Việc cứu rỗi dân ngoại lần đầu tiên được loan báo ở đây trong tác phẩm Lc. Nhưng nó chỉ cược công bố cách minh nhiên rõ ràng từ sau mặc khải phục sinh (Lc 24,47).
“Vinh quang của Israel dân Ngài": Tước hiệu này rất đặc biệt. Nó đưa ta về đoạn Xh 40,35: "Đám mây bao phủ nhà tạm và Vinh quang Giavê lấp đầy chỗ Thần cư ". Đây là việc Vinh quang đi vào trong cung thánh; và Vinh quang chính là Giavê. Ở đây cũng vậy, cũng nói về Vinh quang trong cung thánh, nhưng Vinh quang được mạnh dạn đồng hóa với Chúa Giêsu: người là Vinh quang. Có một dấu chứng nói lên ý tưởng táo bạo này là: theo quan niệm Cựu ước, ai đã thấy Giavê (Xh 19,21; 33,20; Lv 16,2; Ds 4,20) hoặc chỉ nghe Ngài nói thôi (Xh 20,10, Đnl 5,24-26; 18,16) đều phải chết. Thế mà trong giai thoại trình dâng Chúa Giêsu đây, các thành ngữ "thấy cái chết" (2,26), “thấy Chúa Kitô của Chúa" (2,26), thấy... Vinh quang" (2,30.32) lại liên quan mật thiết với nhau. Môisen đã không vào lều tạm vì sợ chết (Xh 40,35). Simêon thấy "vinh quang" và có thể lìa trần. Theo lối chơi chữ trong bản văn, thì ông "thấy" Vinh quang đồng thời với cái chết.
“Cha mẹ người đều kinh ngạc": Lc cố ý cho thấy sau các lần mặc khải đầu tiên ở 1,31-35 và 2, 11. 14, cha mẹ Chúa Giêsu vẫn chưa quán triệt hết mầu nhiệm của Người.
"Người có mệnh làm cớ cho nhiều người bổ nhào và chỗi dậy trong Israel": Chúa Giêsu là nhân vật bắt ta phải quyết định chọn lựa. Trong Người hoàn tất cái sấm ngôn hình như tiềm ẩn trong các lời Simêon nói: “Đối với các người, Ngài (Giavê) sẽ là cơ hội thánh hóa, là đá vấp phạm, là thạch nham nên dịp trượt ngã cho đôi nhà Israel, là tròng lưới là là cạn bẫy cho dân Giêrusalem. Lắm người sẽ trượt nhà trên đó; chúng ngã lăn và tan xương, chúng sẽ sa bẫy và bị chụp" (Is 8, 14). Nhưng lời tiên tri sau đây cũng đúng cho Chúa Giêsu: "Này Ta đặt trên Sion một viên đá hoa cương, viên đá góc quý giá làm nền. Ai cậy tin vào viên đá này sẽ không nao núng" (Is 28,16). Khi buộc mỗi người phải chọn theo hay chống lại người, Chúa Giêsu sẽ là dấu chỉ gây cớ vấp phạm. “Và hồn bà, một mũi gươm sẽ đâm thâu qua":
Câu này từ lâu đặt ra cho các nhà chú giải nhiều vấn đề lóc búa. Một số dựa theo Origène (Reuss, Bleek...) cho rằng lưỡi gươm là sự nghi ngờ sẽ đâm thâu suốt cuộc đời Maria, nỗi nghi ngờ về lai lịch sâu xa của Quý tử; nhưng lối chú giải này không mấy phù hợp với phần còn lại của Tin mừng là xem ra là một lối giải thích có tính cách tâm lý học vô bằng cứ. Lối giải thích cổ truyền (từ paulin de no le và thánh Augustin) đã xem lưỡi gươm chính là việc Maria hiệp thông và nỗi đớn đau của đứa con tử nạn. Lối giải thích này dĩ nhiên có thể chấp nhận, nhưng không chắc chắn. Quả thế, nó cắt đứt chuyển thông liên tục của bản văn và xem ra đưa vào đấy một dấu ngoặc (BJ và Nguyễn thế Thuấn đặt câu nói giữa hai gạch ngang) là như thế là ngược lại với thói quen của người sêmita. Tiếp đến, nó quá thu gọn tư tưởng vào cá nhân con người Maria, một điều xem ra ngược với nhãn giới của thánh sử, vì đối với ông cũng như đối vật mọi tác giả Tân ước, tâm lý các nhân vật không đáng lưu tâm bằng vai trò của họ trong lịch sử cứu rỗi; người ta thấy rõ điều này trong các quang cảnh của thời Thơ ấu, trong đó Maria bao giờ cũng chỉ đóng một vai trò phụ thuộc sánh với vai trò Chúa Giêsu. Sau cùng lối giải thích cổ truyền đây quá quy chiếu về đồi Canvê mà loại bỏ mọi cái khác.
Gần đây, việc chú giải câu này đi theo một chiều hướng khác biệt. Trong Cựu ước, hình như lưỡi gươm vẫn thường được xem như là biểu tượng của sự đối kháng và chia rẽ (Ed 12. 14). Hơn nữa, Isaia lại còn bảo Thiên chúa đã biến miệng Người tôi tớ thành một "lưỡi gươm sắc bén" (49,2). Hình ảnh này đã được Khải Huyền lấy lại khi nói về Chúa Kitô (1.16; 2, 12. 16; 19, 15.21). Khi nhớ rằng viên Ky mã trong Khải huyền, mà miệng võ trang bằng một lưỡi gươm sắc bén, được gọi là “Ngôi lời Thiên Chúa" (Kh 19, 13) và khi lưu ý rằng Is 49,2 đi trước Is 49,6 là đoạn gọi Người Tôi tớ là "ánh sáng muôn dân", thì ta phải lập tức nghĩ rằng cả hai câu này đã có trung tâm trí lực khi ông viết các câu 32.35a và rằng lưỡi gươm phân rẽ Israel làm đôi (c.34) chính là Lời mặc khải đến trong Chúa Giêsu, lời cứu độ nhưng cũng là lời phán xét (x. Dt 4, 12). Thế mà hình như chắc là trong hai chương đầu này. Luca trình bày Maria như là Nữ tử Sion, nghĩa là Israel nhân cách hóa (x. chứng minh dài dòng của Laurentin, sđd, tr.148- 163). Theo viễn ảnh như vậy, có thể Lc còn muốn tiếp tục việc nhân cách hóa này (trong quang cảnh trình dâng Chúa Giêsu và có lẽ rằng chính vì xét như là Nữ tử Sion mà Maria đã được Simêon ngỏ lời ở c.35a: trong con người của bà. Chính Israel sẽ bị gươm của Giavê xuyên thấu.
Lối chú giải này (của Sahlin. Black, Laurentin. Boismard, Benoit...) có lợi điểm là làm cho c.35a thuần nhất với văn mạch của nó. Thay vì nằm trong ngoặc đơn, thì câu này trở thành một khâu trong chuỗi khai triển; nó t.iếp tục tư tưởng của câu trước và chuẩn bị cho tư tưởng kế tiếp theo. Chúng ta đã thấy mối liên lạc giữa c.34 và 35a: cơn khủng hoảng gây ra trong Israel bởi "dấu chỉ vấp phạm" được mô tả, theo Edêkien, như lưỡi gươm Giavê đâm thâu tâm hồn (dân Chúa). Còn c.35b thì đưa ra một kết luận ăn khớp: thử thách gây nên do việc Chúa Giêsu đến rồi đây sẽ vạch trần bí ẩn của mọi tâm hồn khi đòi con người phải chọn lựa theo hay chống Chúa Giêsu.
Được hiểu một cách ăn khớp với nhau như thế, cc.34-35 sẽ cân xứng tuyệt vời với các cc.30-32. Lời tiên tri của Simêon phân chia thành một bức song bình: một bên là việc chiếu soi dân ngoại và ơn cứu độ phổ quát, vốn tựng trưng cho vinh quang Israel; bên kia là cơn khủng hoảng trong chính Israel, cơn khủng hoảng sẽ khiến nhiều con cái tuyển đến ngã gục. Đó là tất cả bi kịch của lịch sử cứu rỗi, được Lc trình bày trong Tin mừng và sách công vụ; tấm bi kịch này được Simêon loan báo ở đây cách vắn tắt nhưng vô cùng mạnh mẽ.
Để biện minh cách tiêu cực cho lối giải thích vừa nêu, chúng ta hãy đưa ra một bắt bẻ quan trọng đối với lối giải thích cổ truyền. Trong Tin mừng Luca, chẳng có chỗ nào nói đến việc Maria hiệp thông vào số phận đau đến của Chúa Giêsu cả. Dĩ nhiên người ta có quyền giả thiết bà đã hiệp thông một cách nào đó. Nhưng nếu Luca đã muốn ngụ ý điều này khi đặt trên miệng Simêon lời tiên tri bí ẩn, thì hẳn sau đó ông đã cho thấy việc hiệp thông được thể hiện trong nhiều sự kiện rõ rệt. Thế mà Lc đã chẳng nhắc đến tên Trinh nữ trong số các người đàn bà theo dõi việc đóng đinh thập giá.
"Ngày đêm tham dự phụng tự (Nguyễn Thế Thuấn: “Bà không rời khỏi đền thánh, thờ Chúa ngày đêm”): Nét này, mà người ta còn gặp lại trong Lc 18,7; Cv 20,31; 26,7, hình như hơi lý trưởng hóa. Vì dù sao, các phụ nữ không được phép ở lại đêm trong khuôn viên Đền thờ.
"Họ trở về Galilê, đến Nagiarét...": Đây chỉ là một lối tóm tắt, hoàn toàn theo kiểu của Luca. Matthêu cho thấy Thánh Gia đã ở lại Bêlem khá lâu (Mt 2,11), và thời hạn cuộc lưu trú này tùy thuộc vào ngày giờ gán cho cuộc thăm viếng của các đạo sĩ. Dựa vào Mt 2, 16, có người bảo là hai năm. Nhưng dầu giả thiết thế nào chăng nữa, thì việc Trình dâng tại Đền thờ cũng phải xảy ra trước cuộc Hiển Linh. Vì khó cho rằng Giuse, mà trong suốt thời thơ ấu của Chúa Giêsu luôn luôn tỏ ra khôn ngoan thận trọng, ai đi lôi kéo cơn lôi đình của Hêrôđê xuống trên đứa bé. Thành thử việc trở lại Nagiarét mà Luca nói ở đây trước tiên giả thiết việc lui về Bêlem rồi chạy trốn đến biên giời Ai Cập (hợp với Mt 2,13-15), và trùng hợp với việc định cư tại Nagiarét mà Mt 2,19-23 đã nói.
KẾT LUẬN
Với nhiều điển tích, nhiều ám chỉ Kinh thánh, Luca cho thấy việc Trình dâng Chúa Giêsu tại Đền thờ khai mào thời đại thiên sai, cái thời đại đã được các ngôn sứ xưa loan báo và được đánh dấu bằng việc Vinh quang của Giavê long trọng tiến vào Đền thờ.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Từ thuở ấu thơ, ngay cả khi chưa nói được. Chúa Giêsu đã hoàn tất các lời Kinh thánh. Hôm nay, Ngài thực hiện lời hứa đã ban cho Đanien (9,21-24), cho Malaki (3,1) và cho biết bao ngôn sứ khác ngày xưa. Hôm nay, trong con người trẻ bé Giêsu, chính Thiên Chúa trở lại cung thánh bị bỏ phế của Ngài. Vì, dù tội Israel thế nào chăng nữa, Thiên Chúa vẩn luôn trung thành với lời mình đã hứa. Sự thất trung của Israel chỉ làm trì hoãn việc thực hiện các lời hứa này, chứ không thể hủy bỏ chúng được. Trong cuộc đời chúng ta cũng thế. Ngày chúng ta được Rửa tội, Thiên Chúa đã nhận chúng ta làm nghĩa tử Ngài. Rồi dù chúng ta có lắm bất trung, Ngài vẫn không khi nào ruồng rẫy. Dù tội chúng ta có xua đuổi Ngài ra khỏi cung thánh lòng ta, Ngài vẫn tìm mọi cách giúp chúng ta ăn năn thống hối. Hôm nay chúng ta hãy mở rộng cung thánh chúng ta cho Ngài, hãy mời Chúa Kitô đã từ nay vinh hiển đến ở mãi trong cuộc đời chúng ta, hãy cùng với Người tận hiến bản thân cho Thân phụ chí hảo của Người, để chúng ta cũng được trở nên "ánh sáng" (2,32) chiếu soi hết mọi người sẽ gặp chúng ta.
2. Hành động của Thánh Thần có mặt khắp cả bài Tin mừng hôm nay. Chính Thánh Thần ở trên Simêon (c.25) đã mặc khải cho ông biết ông sẽ thấy Đấng Messia trước khi qua đời (c.26), đã thúc đẩy ông vào Đền thờ ngay lúc Chúa Giêsu đến (c.27). Đối với chúng ta cũng vậy, chúng ta có thể sống dưới sự hoạt động của Thánh Thần cách thường xuyên nếu chúng ta ở trong ơn nghĩa thánh và biết chăm chỉ tuân theo những thúc đẩy bên trong của Ngài. Thánh Thần cũng có thể trở nên trong chúng ta một nguồn sáng giúp ta hiểu rõ hơn đức tin và bổn phận chúng ta, một nguồn sức mạnh và năng lực thiêng liêng giúp ta can đảm sống trọn đời môn đồ Chúa, một nguồn linh ứng cho lời cầu nguyện cũng như cho cuộc sống chúng ta thường ngày.
3. Simêon và Anna đã suốt đời chờ đợi giờ được cho xem thấy Chúa Kitô. Đối với chúng ta, họ là những tấm gương hy vọng và trung tín. lòng trung tín của họ đã được ân thưởng: họ được niềm vui bồng ẵm trên tay “Ang sáng dân ngoại”, “Vinh quang Israel", đích thân Thiên Chúa. Chúng ta cũng được hồng ân như vậy mỗi lần đi rước lễ. Chúng ta hãy chuẩn bị tiếp lấy ân sủng này trong sự trung tín mong chờ và đón nhận nó với tất cả tâm tình biết ơn như Simêon và Anna.
4. Maria và Giuse đã chấp hành hoàn hảo mọi yêu sách của Lề luật Môisen. Các đấng lại vâng phục dẫn độ còn thi hành thói quen đạo đức là Trình dâng con trai đầu lòng tại Đền thánh, một điều là luật không đòi hỏi. Sở dĩ các đấng đã đi quá Lề luật như thế, đó là vì các đấng đã tuân phục với tình yêu chứ không vì sợ hãi.
5. Maria, thụ tạo tinh tuyền nhất trong lịch sử nhân loại, đã khiêm tốn chấp hành nghi thức thanh tẩy. Phần chúng ta là những người đã bị tội lỗi làm cho ra vô cùng ô uế, chúng ta cũng hãy khiêm tốn lãnh nhận bí tích cáo giải để được thanh tẩy tâm hồn. Cho đến tận thế, Chúa Giêsu vẫn là dấu chỉ vấp phạm (c.34) vì buộc con người phải chọn lựa theo hay chống lại Ngài. Phần chúng ta, hãy làm lại việc dấn thân theo Ngài vô điều kiện. Nếu chúng ta trung thành với Ngài, thì "ân sủng Thiên Chúa cũng sẽ ngự xuống" (c.40) trên chúng ta và đổ đầy cuộc đời chúng ta niềm vui và ánh sáng.
7. Maria và Giuse đã ngạc nhiên khi nghe những điều Simêon và Anna nói về Quý tử. Sở dĩ ngạc nhiên, là vì các Đấng chưa hoàn toàn quán triệt mầu nhiệm sâu xa bao phủ con mình. Dù được sống thân mật với Chúa Giêsu, các đấng cũng phải tiến tới trong đức tin. Nhưng đức tin các đấng được đào sâu vì các đấng "gẫm suy mọi sự ấy trong lòng" (2,19). Đối với chúng ta, cũng chẳng có gì lạ nếu chúng ta không hiểu hết mầu nhiệm của Thiên Chúa. Dù đã qua 20 thế kỷ, Giáo Hội vẫn luôn luôn tiếp tục đào sâu mầu nhiệm Chúa Kitô. Như Chúa Kitô, đức tin chúng ta phải lớn lên, triển nở trong sức mạnh và ân sủng. Đức tin chúng ta, chính là sự tăng trưởng liên tục và dần dần của Chúa Kitô trong chúng ta.
Qua Lời Tổng Nguyện của ngày lễ hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa ThánhGia ABC356
Qua Lời Tổng Nguyện của ngày lễ hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã muốn đề cao Thánh Gia như một tấm gương xán lạn, để mọi người chúng ta bắt chước. Ước gì chúng ta cũng biết học đòi mà ăn ở đúng lễ nghĩa gia phong, sống đùm bọc lẫn nhau trong tình yêu mến, hầu chúng ta được chung hưởng niềm an vui vĩnh cửu trong nhà Chúa trên trời.
Để có thể ăn ở đúng lễ nghĩa gia phong, và sống đùm bọc lẫn nhau trong tình yêu mến, chúng ta phải quy hướng về Đức Kitô, để chiêm ngắm tình yêu của Đức Kitô dành cho chúng ta. Trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thánh Phaolô đã gợi lại tình yêu của Đức Kitô dành cho Hội Thánh, để nhắc nhở mỗi người chúng ta sống đúng vị trí của mình trong gia đình: Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Cùng với Đức Maria và ông Giuse, Đức Giêsu trở về Nadarét, sống vâng phục các ngài.
Trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã coi Gia Đình Nadarét là Trường Học của Tin Mừng: Tại đây, chúng ta học được phương pháp giúp ta hiểu Đức Kitô là ai. Tại đây, chúng ta nhận ra cần phải quan sát khung cảnh nơi Người cư ngụ giữa chúng ta: địa điểm, thời gian, phong tục, ngôn ngữ, nghi lễ tôn giáo, và tất cả những gì Đức Giêsu đã sử dụng để mặc khải chính mình cho thế gian. Tại đây, mọi sự đều lên tiếng, mọi sự đều có ý nghĩa.
Trong bài đọc một của Thánh Lễ, Đức Chúa đã hứa cho Ápraham một dòng dõi, sách Sáng Thế tường thuật như sau: Đức Chúa đã đưa ông ra ngoài và phán: “Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không.” Người lại phán: “Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó!” Ông tin Đức Chúa, và vì thế, Đức Chúa kể ông là người công chính.
Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 104, vịnh gia đã xác quyết: Chính Đức Chúa là Thiên Chúa chúng ta, giao ước đã lập ra, muôn đời Người nhớ mãi, nhớ lời đã cam kết đến ngàn thế hệ! Đó là điều đã giao ước cùng Ápraham, đã đoan thề cùng Ixaác.
Bài đọc hai của Thánh Lễ, được trích từ thư gửi tín hữu Hípri, cho thấy: nhờ đức tin, ông Ápraham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp. Ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, cả bà Xara vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín.
Thiên Chúa là Đấng Tín Trung, đặt niềm trông cậy nơi Người, chúng ta sẽ không phải thất vọng bao giờ, trong Kinh Cậy, chúng ta tuyên xưng: Vì Chúa là Đấng phép tắc và lòng lành vô cùng, đã phán hứa sự ấy, chẳng có lẽ nào sai được. Qua Gia Đình Nadarét, chúng ta học được bài học trông cậy, phó thác của Mẹ Maria, của thánh Giuse, và hơn hết, chúng ta học được từ nơi Đức Giêsu mẫu gương hoàn toàn tin tưởng vâng phục thánh ý Chúa Cha: Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Chúa Cha. Do đó, Chúa Cha đã dùng chính Con Một của Người để phán dạy chúng ta, như câu Tung Hô Tin Mừng mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay: Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử.
Trong bài Tin Mừng, ông Simêôn đã nói với Đức Maria: “Cháu bé này được đặt làm duyên cớ cho nhiều người Ítraen ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.” Trong mầu nhiệm thứ tư của Năm Sự Vui, chúng ta xin cho được vâng lời chịu lụy. Trong Mầu Nhiệm Vui, đã có xen lẫn bi kịch, trong gia đình, để có thể ăn ở đúng lễ nghĩa gia phong, và sống đùm bọc lẫn nhau trong tình yêu mến, chúng ta phải bắt chước Gia Đình Nadarét: vâng phục thánh ý Chúa, đón nhận tất cả những gì Chúa gửi đến với lòng biết ơn. Khi vâng giữ những gì Chúa truyền dạy, chắc chắn, chúng ta sẽ phải đối mặt với một thực tế: thua thiệt, mất mát, tuy nhiên, chúng ta hãy cứ can đảm, tin tưởng, cậy trông, tín thác vào Chúa như Gia Đình Nadarét xưa, giao ước đã lập ra, muôn đời Chúa nhớ mãi, Chúa sẽ can thiệp và giải cứu chúng ta thoát khỏi những tình cảnh éo le, bi đát nhất, vấn đề là, chúng ta có đặt trọn niềm trông cậy vào Chúa hay không mà thôi.
Người tình lý tưởng là người đã trải qua quãng thời gian dài chuẩn bị, là người tự nguyện trở thành ThánhGia ABC357
Người tình lý tưởng là người đã trải qua quãng thời gian dài chuẩn bị, là người tự nguyện trở thành chỗ dựa vững chắc cho bạn đồng hành của mình ? Đồng ý rằng, tình yêu thì không mầu, không mùi, ấy vậy tình yêu luôn được gọi là đẹp, là hấp dẫn, nhưng lời khuyên về tình yêu dù không lạc quan, vẫn có nhiều người quan tâm: thật khó làm sao, khi mà vừa yêu vừa sáng suốt. Và những ai thật bình tĩnh, kẻ đó sẽ không vướng phải vòng luẩn quẩn ở đời, họ mới đủ tư cách để nói: cám ơn trời đã cho con đôi tai để nghe được hai phía, nghe cả lời khen, cả lời chê. Hôm nay đây, nói đến hạnh phúc gia đình, bậc cha mẹ chẳng hề có ý định thay đổi lập trường, với quan niệm: trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời tiết hạnh là câu giữ mình. Tình yêu, hạnh phúc, thì trẻ hay già, bằng cấp nhiều hay ít, hạnh phúc vẫn không thừa không dư: chữ trung thì để phần cha, chữ hiếu phần mẹ, đôi ta chữ tình.
Lớn mãi trong tình yêu, có chăng, thời gian đủ thấm sẽ trở nên mạnh mẽ, nếu không, cụ già Simêon làm sao trung thành, kiên nhẫn, ngày ngày lui tới đền thờ cầu nguyện chờ trông ơn cứu độ ? Lớn mãi trong tình yêu, một cách diễn tả về tính năng động, người ta dám hy sinh cả đời và chọn lựa hạnh phúc to lớn ở tương lai. Tám mươi bốn năm sống niềm tin, nữ tiên tri Anna đã gặp, đã thấy, đã trở thành chứng nhân tình yêu, cho dẫu niềm vui ơn cứu rỗi chỉ rõ ràng cụ thể nơi Bé Giêsu. Có hay không, triết lý cuộc sống vô cùng dứt khoát: thực trạng ở đời, người tốt, việc tốt, nếu bị đóng khung lại, thì quả là nguy hiểm hơn những kẻ xấu đang nhởn nhơ chế nhạo xã hội. Tính chất phong phú của tình yêu không được vun đắp, triển nở, ắt sẽ lùi, hoặc không tồn tại với tháng năm.
Lớn mãi trong tình yêu, lớn mãi, lớn hoài, nhưng không “béo phì”, mà sẽ trở nên vĩ đại, nên hoàn hảo trong tình yêu, dù mức độ yêu thương giữa cha mẹ với con cháu, tình yêu giữa vợ chồng với nhau có sự chênh lệch. Tình yêu được nuôi dưỡng không phải bằng “bơ sữa” hay tiền vàng, tình yêu quả là kỳ diệu, được sánh ví như sự khác biệt duy nhất giữa một ngày tốt đẹp, hoặc một ngày tồi tệ, tùy thuộc vào chính thái độ của chúng ta. Tình yêu được lớn lên, được trưởng thành, là nhờ biết hy sinh, quảng đại tha thứ, hầu làm ấm lại niềm vui trên thuận dưới hòa, bổn phận và trách nhiệm trước sứ mạng riêng của mình. Dâng tiền của vào nhà Chúa, dù là một đôi chim gáy hoặc một cặp bồ câu non, sẽ không là điều khó với nhưng tâm hồn đạo đức ngày ngày đến nhà thờ cầu nguyện.
Đừng nghĩ rằng cứ ước mơ chính đáng sẽ thành công, cứ kiên nhẫn như cụ già Simêon, cứ tin tưởng như nữ tiên tri Anna, tất nhiên kết quả hạnh phúc sẽ đến. Không phải thế đâu, sự trưởng thành và giá trị tình yêu được lớn lên, đều khởi đi từ hoạt động của tình yêu Giêsu, tình yêu cứu độ, tạm gọi là hiệp nhất nên một. Phải từ hai bàn tay, nhiều bàn tay mới vỗ thành tiếng kêu, tiếng pháo tay giòn giã. Lớn mãi trong tình yêu, trưởng thành trong tình yêu, sẽ không phải là nói được nhiều ngôn ngữ thuyết phục, cứ làm được những việc đại sự là ổn. Thực ra là khi ta hiểu, khi ta cảm nhận được những việc bé nhỏ nhất nơi anh chị em đang làm cho mình. Trưởng thành trong tình yêu, lớn mãi trong trong tình yêu, cũng là cách nói mỗi chúng ta phải biết sống bằng việc hành động theo thánh ý Chúa, chứ không phải trên lý thuyết môi miệng.
Cũng từ đau khổ, từ những góc khuất nơi gia đình, xã hội, người ta đã truyền lại một quan điểm hết sức mơ hồ: muốn ngủ ngon thì đừng lấy vợ, muốn không nợ thì đừng có yêu ! Vâng, lớn mãi trong tình yêu, hạnh phúc thật trong tình yêu: gia đình Thánh Gia, gia đình cụ Simêon, gia đình con cháu nữ tiên tri Anna. Tất cả như đã và đang đồng hành, khích lệ chúng ta hãy đặt trọng tâm vào niềm tín thác nơi Đấng Emmanuel, hãy đầu tư bằng chính những hy sinh, thời gian, cho sự hiệp nhất, liên đới trách nhiệm, bảo vệ đức tin sống động hơn. Xin Thánh Gia, Đấng đã trung tín với thánh ý Chúa, Thánh Cả đã gìn giữ bao bọc chở che Mẹ Maria, Chúa hài nhi Giêsu, xin tiếp tục trợ giúp chúng con. Xin thương chuyển cầu, giúp đoàn con nơi dương thế được lớn mãi, được trưởng thành thật trong Đại gia đình của Chúa. Amen.
Hôm nay ngày lễ Thánh Gia thất. Chúng ta vui mừng vì có một gia đình tràn đầy yêu thương hạnh ThánhGia ABC358
Hôm nay ngày lễ Thánh Gia thất. Chúng ta vui mừng vì có một gia đình tràn đầy yêu thương hạnh phúc và thành đạt như gia đình Thánh gia. Dẫu biết rằng, để gia đình hạnh phúc thì các ngài đã phải vượt qua rất nhiều những gian nan vất vả mới có được mái ấm gia đình hạnh phúc ấm no. Tuy nhiên, điểm sáng nơi gia đình Thánh gia chính là người con mà Thánh Kinh nói rằng: càng lớn càng khôn ngoan và nhân đức trước mặt Thiên Chúa và mọi người”. (Lc 2,52)
Chúa Giê-su chính là người con, là niềm tự hào của cha mẹ, vì Ngài đã sống hiếu thảo vâng lời và nhất là luôn đẹp lòng Thiên Chúa và mọi người. Có được người con như thế đúng là niềm tự hào của cha mẹ, và là động lực để cha mẹ dầu cuộc đời đầy gian khó nhưng vẫn hạnh phúc vì nhìn thấy con càng lớn càng khôn ngoan và nhân đức.
Ngày xưa khi còn nhỏ tôi vẫn thường tự đặt câu hỏi tại sao các bậc cha mẹ lại thường hay thức khuya dậy sớm như vậy ? Lớn lên tôi mới biết đánh thức cha mẹ không phải tiếng gà cục tác hay là đồng hồ báo thức, mà là gánh nặng, cuộc sống và trách nhiệm…
Hóa ra họ thức khuya dậy sớm vì phải lo cho đàn con. Cha mẹ là những ông Bụt, là thần tiên mà Thiên Chúa đã tạo dựng để chở che, bao bọc dưỡng nuôi chúng ta. Cuộc sống của cha mẹ tuy vất vả khi nuôi con khôn lớn nhưng vẫn không một lời than vãn, không một tính toán thiệt hơn.
Ấy vậy mà, thực tế lại có những người con chẳng biết cha mẹ ở quê vất vả kiếm được đồng tiền khó đến mức nào, chỉ biết lao đầu vào ăn chơi phá phách, không chịu học hành rồi đàn đúm, đua đòi theo chúng bạn. Hàng tháng vẫn quen với việc được nhận tiền trợ cấp từ gia đình đều đặn, không may có tháng bố mẹ túng thiếu gửi tiền chậm hoặc ít hơn tháng trước một chút là bắt đầu giận dỗi, vùng vằng, dọa bỏ học này nọ. . .
Tôi lại nhớ đến câu nói vui của cô giáo đã từng nói: “sinh viên hôm nay hay có kiểu lừa tiền của những người quan trọng để đi tiếp đãi những đứa không quan trọng”. Một số kiểu lý do xin tiền điển hình của giới trẻ là: Xin tiền học phí nhưng nhiều hơn mức học phí phải đóng thực tế….để bao cho chúng bạn ăn chơi. .. Ăn trộm tiền cha mẹ để tổ chức sinh nhật vui vẻ với bạn bè . ..
Vô tình nhiều người con đã vui chơi trên sự vất vả của mẹ cha. Và còn đau lòng hơn nữa, khi ở đâu đó ta vẫn thấy những nghịch tử lừa dối cha mẹ, cãi lời cha mẹ, có khi còn hành hung cha mẹ để lấy tiền tiêu xài phung phí với chúng bạn.
Tại tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã mở phiên tòa xét xử đối tượng Hoàng Duy Khương trú tại thôn Còn Chuông, huyện Văn Quan về hai tội danh: Giết người và Cướp tài sản. Đau lòng hơn khi bị hại trong vụ án lại chính là mẹ ruột của y
Theo cáo trạng, đối tượng Khương khi đang còn là học sinh lớp 8 đã nghiện chơi game, do muốn có tiền mua điện thoại để chơi game nên Khương xin tiền mẹ đẻ là bà Hoàng Thị Gái nhưng không được nên nảy sinh bực tức. Biết mẹ để tiền trong người nên Khương đã dùng chiếc khăn quàng đỏ được xoắn lại thành sợi dây rồi siết cổ giết chết mẹ khi bà đang ngồi xem ti vi.
Chính những lối sống vô ơn, hỗn láo và thiếu lòng hiếu thảo đã khiến không ít người bị dằn vặt lương tâm suốt cuộc đời khi cha mẹ đã ra đi về với Chúa. Sự nuối tiếc, hối hận muộn màng là vết thương sẽ làm nhói con tim mỗi khi ký ức hiện về những cách hành xử thiếu kính trọng với mẹ cha.
Thế nên, hôm nay xin được góp nhặt một bài thơ “Đừng” để nhắc nhở những người con Đừng làm cho cha mẹ đau buồn mà hãy sống làm sao cho mái ấm gia đình mình tràn ngập tình yêu thương. Bài thơ viết như sau:
Đừng ăn chơi. Khi Mẹ còn cực khổ. Đừng đua đòi. Khi Cha đổ mồ hôi. Đừng vô tâm. Sống chỉ biết mình thôi. Đừng mê muội. Mộng mơ hư ảo. Đừng xa hoa. Khi Mẹ già tần tảo. Đừng hão huyền. Gây phiền não Cha yêu. Đừng ra đường. Với cái mặt tự kiêu. Đừng cao ngạo. Mà chê bai kẻ yếu. Đừng phung phí. Khi gia đình túng thiếu. Đừng vì tiền. Mà bất hiếu song thân. Đừng cãi lời. Khi Cha Mẹ khuyên răn. Đừng vội vã. Phân chia lối sống. Đừng quá lời. Khi mình máu đang nóng. Đừng bỏ nhà. Khi Cha Mẹ ngóng trông. Đừng dại khờ. Với suy nghĩ chưa thông. Đừng kiêu ngạo. Khi mình còn dốt nát. Nếu ko học chữ đừng bạn sẽ hối hận.
Xin Chúa Giê-su là mẫu gương cho mọi người con giúp chúng ta biết sống hiếu thảo với mẹ cha, và luôn biết sống như Chúa luôn “hiền lành và khiêm nhường” để biết kính trên nhường dưới và sống hòa thuận với nhau trong tình yêu của Chúa. Amen.
Mỗi người sinh ra và lớn lên đều cần có một gia đình. Một gia đình lành mạnh mang lại nhiều ThánhGia ABC359
Mỗi người sinh ra và lớn lên đều cần có một gia đình. Một gia đình lành mạnh mang lại nhiều niềm vui, hạnh phúc không chỉ cho các thành viên mà còn lan tỏa tới những nơi họ hiện diện. Gia đình ngày nay chịu nhiều thử thách đến từ nhiều phía, ngay trong gia đình và xã hội chung quanh tác động, cùng những công việc bấp bênh. Chúng ta hãy cầu nguyện cho các gia đình bình an nhờ ơn Chúa giúp.
Có rất nhiều lời khuyên cho các gia đình, nhiều sách vở nói đến hạnh phúc gia đình. Có rất nhiều. Nhưng dường như cũng có nhiều nghịch lý, càng nhiều lý thuyết, lời dạy, lại càng ngày có những hôn nhân đổ vỡ, gia đình thêm nhiều bất hạnh.
Xu hướng xã hội gây tổn thương gia đình từ bên trong. Đó là một xã hội nhấn mạnh đến tiêu thụ và hưởng thụ cuộc sống đến mức buông thả. Trong các nghiên cứu, nhất là những bộ phim, những bản nhạc. Từ hoạt hình đến những phim bộ, bản hit, thường có những nội dung, gia đình đổ vỡ, những đứa trẻ bơ vơ, những bất đồng trong tình yêu, tình yêu và đam mê… Những nội dung xem ra chỉ là những giải trí, nhưng âm thầm ảnh hưởng vào lối sống của những người trẻ, dẫn đến nhiều gia đình thiếu kiên nhẫn trong tình yêu và tha thứ…
Gia đình lúc nào cũng có những khó khăn. Tình trạng đầu tiên của gia đình Nazareth. Hành trình về Giêrusalem để khai sổ bộ. Những cuộc chiến tranh, những chính sách hà khắc, những quốc gia đói nghèo, những nơi không kiếm được việc làm… Nguyên nhân đẩy gia đình rời bỏ nơi quê nhà, lưu lạc đến những vùng đất mới mưu sinh. Không có chỗ trọ đàng hoàng, chỉ vì thu nhập quá ít ỏi. Ông bà Giuse – Maria ở chuồng bò sinh con. Những gia đình di dân chỉ kiếm được chỗ trọ trong một mái nhà tôn khoảng 3 – 4 – 5 m2 hoặc rộng hơn chút ít. Buổi tối về nghỉ sau cả ngày làm việc, nóng bức, chen chúc, ăn vội xong bữa, nhiều việc thu xếp tranh thủ nghỉ qua đêm, mai đi làm sớm. Bao nỗi khổ nhọc, đè nặng. Cuộc sống di dân, tạm bợ để sống, làm sao đủ điều kiện sinh dưỡng con tốt lành như ý muốn.
Những tấn công từ các chính sách, xã hội, môi trường. Thánh gia vội vã đưa con trẻ lên đường trốn qua Ai cập ngay trong đêm. Câu chuyện Thánh gia nói lên tình yêu của cha mẹ dành cho con cái. Không ai có tình yêu đủ lớn dành cho con cái bằng tình yêu của cha mẹ. Tình yêu ấy không chỉ lo cho con những lương thực, kinh phí học hành đầy đủ. Tình yêu cha mẹ đặc biệt và quan trọng, bảo vệ cho con khỏi những lệch lạc của lối sống. Tránh cho con những nguy hại ngay từ thơ ấu, khi tiếp xúc với smartphone, truyền hình, sách báo, giải trí. Bảo vệ không chỉ thể lý, cha mẹ còn bảo vệ cho con những nguy hại ảnh hướng đến tinh thần và tâm hồn và đạo nghĩa. Bao nỗi nhọc nhằn như khi xưa Thánh gia trốn sang Ai cập và ở đó sinh nhai, rồi trở về lại Nazareth. Cha mẹ Chúa Giêsu cũng hoàn thành được việc nuôi dưỡng người con nên người, nên thánh.
Gia đình có rất nhiều khó khăn, cần có Chúa đồng hành, Người giúp sức. Có Chúa mách bảo cho Giuse: Đón nhận Đức Maria về làm vợ, trốn sang Ai cập, báo về lại Nazazreth. Cần có Chúa giữ gìn và bảo vệ, tăng sức mạnh cho cha mẹ, ban ơn cần thiết để cha mẹ biết bảo vệ con trước các mối nguy hại, đồng hành với con, cầu nguyện cho con.
Xin Chúa trợ giúp cho các gia đình, nhất là các gia đình đang gặp khó khăn trong đời sống hôn nhân, gia đình, việc giáo dục, việc đạo nghĩa.
Các bài đọc trong lễ Thánh Gia đều hướng đến đời sống đức tin của hai gia đình thánh thiện, một ThánhGia ABC360
Các bài đọc trong lễ Thánh Gia đều hướng đến đời sống đức tin của hai gia đình thánh thiện, một của Cựu Ước và một của Tân Ước.
Bài đọc một được chọn từ sách Sáng Thế cho chúng ta gương sống đức tin của gia đình Ápraham và Xara.
Đây là một gia đình hiếm muộn, không con, chịu nhiều cay đắng do những thị phi, đàm tiếu của thiên hạ, kiểu “cây độc không trái, gái độc không con”.
Ápraham tuy được Thiên Chúa Giavê hứa : “Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi” (St 12,2), khi Thiên Chúa gọi ông và ông vâng lời rời bỏ xứ sở, họ hàng, nhà cha mẹ mà đi tới đất Thiên Chúa chỉ cho ông (x. St 12,1), nhưng Xara, vợ ông vẫn không có thai, như lời ông than thở với Thiên Chúa : “Lậy Chúa là Chúa Thượng, Chúa sẽ ban cho con cái gì? Con ra đi mà không con cái, và người thừa tự gia đình con là Êliede, một người Đamát… Chúa coi, Chúa không ban cho con một dòng dõi, và một gia nhân của con sẽ thừa kế con” (St 15,2-3).
Phần Xara, vì không sinh được cho Ápraham một người con nào, nên rất đau khổ, buồn tủi như tâm sự của bà với chồng : “Tôi bị xỉ nhục là tại ông đấy! Chính tôi đã đặt nữ tỳ của tôi vào lòng ông. Thế mà từ khi nó thấy mình có thai, nó coi khinh tôi” (St 16,5).
Nhưng Ápraham đã tin vào lời hứa của Thiên Chúa, và “Đức Chúa đã kể ông là người công chính” (St 15,6), khi ban cho ông Ixaác làm con nối dõi. Tuy thế, đức tin của ông còn bị thử thách nặng nề, khi Thiên Chúa gọi ông và bảo ông : “Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Ixaác, hãy đi đến xứ Môrigia mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho” (St 22,2).
Qủa thực, gia đình Ápraham – Xara đã trải qua những năm tháng dài buồn tủi vì không có con. Sở dĩ buồn tủi, vì con cái là hạnh phúc của cha mẹ, con cái là dấu chỉ gia đình được chúc phúc, con cái là niềm hãnh diện của gia tộc, con cái là giây liên kết chặt chẽ tình nghiã vợ chồng. Thế mà ông bà hiếm muộn không con. Nhưng đến khi có con, và con khôn lớn, lại phải đem con đi sát tế làm của lễ, như ý muốn của Thiên Chúa, thì hỏi có thử thách nào lớn lao, khinh khủng hơn không?
Gia đình thánh thiện thứ hai trong Tân Ước là gia đình của thánh Giuse, Đức Maria và Chúa Giêsu. Gia đình này cũng không thiếu sóng gió, bởi ngay khi hai ông bà chưa về sống chung, thì bà đã có thai bởi phép Chúa Thánh thần, và ông, vì yêu mến, tôn trọng, “không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19). Rồi những biến cố dồn dập xô đẩy gia đình thánh vào những cảnh huống đau lòng như phải sinh con trong chuồng chiên lừa, “đặt con trong máng cỏ” (Lc 2,16), phải trốn sang Ai Cập để bảo toàn tính mạng của con (x. Mt 2,13-18), và Tin Mừng Luca với lời tiên báo như dao sắc cắt lòng của cụ già Simêon về Đức Giêsu ngày ông bà dâng con trong đền thờ: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ítraen ngã xuống hay đứng dậy. Cháu còn là dấu hiệu cho nhiều người chống báng ; và như vậy ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (Lc 2,34-35).
Như thế, sự thánh thiện của gia đình hệ tại ở niềm tin vào Thánh ý tốt lành của Thiên Chúa, như các thành viên của hai gia đình thánh đã tuyệt đối tin vào ý muốn của Thiên Chúa, mặc dù ý muốn thánh thiện, và tốt lành ấy đã nhiều lúc làm tan nát tâm can.
Tin vào Thánh Ý tốt lành của Thiên Chúa là tin Thiên Chúa không muốn gì ngoài hạnh phúc của con người, không chọn điều gì có hại cho con người, ảnh hưởng xấu đến con người, nhưng hạnh phúc của con người đang sống chính là vinh quang của Ngài. Niềm tin ấy làm cho gia đình bình an trước mọi thử thách, tín thác trong mọi hoàn cảnh bi thương, bế tắc, vì tin rằng bất cứ thử thách nào, bất cứ đau thương nào cũng nằm trong Thánh Ý tốt lành của Thiên Chúa.
Gia đình thánh thiện còn là gia đình tin vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa, như Ápraham đã tin và đem con lên núi sát tế làm của lễ như Thiên Chúa dậy, nhưng tình thương quan phòng của Thiên Chúa đã sai sứ thần từ trời gọi ông : “Ápraham! Ápraham!… Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa. Ông Ápraham ngước mắt lên nhìn, thì thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông Ápraham liền đi bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn tiêu thay cho con mình” (St 22,11-13).
Thực vậy, sự thánh thiện hệ tại ở đức tin, như Aben “nhờ đức tin, đã dâng lên Thiên Chúa một hy lễ cao qúy hơn hy lễ của ông Cain ; nhờ đức tin, ông Noê được Thiên Chúa báo cho biết những gì người ta chưa thấy ; nhờ đức tin, lúc chào đời, ông Môsê đã được cha mẹ giấu đi ba tháng, bởi vì ông bà thấy đứa trẻ khôi ngô, và không sợ sắc chỉ nhà vua” (Dt 11,4.7.23) ; nhờ đức tin, người phong hủi đã được sạch, anh đầy tớ của viên sĩ quan đại đội trưởng đã khỏi bệnh, nhiều người đau ốm, bị qủy ám đã đuợc chữa lành (x. Mt 8,1-16). Cũng nhờ đức tin của hai chị Mácta và Maria, Ladarô đã được gọi ra khỏi mồ (x. Ga 11,1-44), và con trai bà goá thành Nain đã được Đức Giêsu cho sống lại (x. Lc 7,11-17).
Mừng lễ Thánh Gia, chúng ta xin Chúa ban đức tin cho các gia đình, để nhờ tin vào Thánh Ý tốt lành và Tình Yêu quan phòng của Chúa, các gia đình có Chúa hướng dẫn, đồng hành, như Ítraen trên đường về Đất Hứa, đã có “Đức Chúa đi đằng trước họ : ban ngày thì ở trong cột mây để dẫn đường, ban đêm thì ở trong cột lửa để soi sáng, nên họ có thể đi cả ban ngày lẫn ban đêm” (Xh 13,21), để gia đình luôn đi với Chúa và với nhau cả trong vui mừng lẫn sầu thương, trong thành công lẫn thất bại, trong an bình lẫn gian truân.
Ngày xưa, cả xóm đạo quê ta vẫn luôn râm ran tiếng kinh cầu nguyện: “Lạy Chúa! Chúng con hứa ThánhGia ABC361
Ngày xưa, cả xóm đạo quê ta vẫn luôn râm ran tiếng kinh cầu nguyện: “Lạy Chúa! Chúng con hứa biến gia đình chúng con thành nhà cầu nguyện, tối sáng đọc kinh, thành trường học đạo, bồi dưỡng đức tin, thành nơi luyện đức; nhất là đức nhẫn nại, bác ái và hi sinh. Kính xin Chúa nhậm lời chúng con cầu nguyện. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen”. Những lời kinh ấy đã nuôi dưỡng đức tin cho bao thế hệ. Giờ kinh gia đình trở thành một nhịp cầu gắn kết mọi người trong đức tin, gia tăng lòng mến Chúa yêu người và gieo niềm cậy trông vào Thiên Chúa. Để giữa những thách đố trong cuộc sống, mọi người trong gia đình luôn biết noi theo gương mẫu tuyệt vời của gia đình Thánh Gia kề vai sát cánh và nâng đỡ nhau, dìu nhau tìm đến phó thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa.
Các gia đình ngày nay có còn trở thành “nhà cầu nguyện, tối sáng đọc kinh, thành trường học đạo, bồi dưỡng đức tin, thành nơi luyện đức; nhất là đức nhẫn nại, bác ái và hi sinh” như lời nguyện cầu của ông bà ngày xưa không?
Theo chân Mẹ Maria và Cha Giuse, ta cũng lên Đền Thờ cầu nguyện. Các ngài lên Đền Thờ để dâng con đầu lòng là Hài Nhi Giêsu lên Thiên Chúa. Ta cũng ngẫm về ngày ta được cha mẹ bế lên nhà thờ để lãnh bí tích Rửa tội. Ta đã được thuộc trọn về Thiên Chúa, được làm con cái của Ngài từ ngày ấy. Ta đã nhận lấy Thánh Thần nhưng ta có ý thức để sống trong ân sủng của Người không, có thi hành chức vụ ngôn sứ của mình không? Ta có nhớ rằng, mình là con cái Chúa, có nỗ lực sống sao cho xứng với danh nghĩa ấy không? Nghĩ vậy, ta thầm cám ơn cha mẹ mình. Còn nhớ ngày nào, khi ta mới bi bô tập nói, mẹ đã dạy ta đọc kinh. Những lời kinh Kính Mừng, Lạy Cha vang trên môi của một đứa trẻ thật sự rất đẹp. Tối đến, ta đã sung sướng khi được cha cõng đi nhà thờ. Nhờ các ngài dạy dỗ, ta biết yêu mến Thiên Chúa, kính mến Mẹ Maria. Đức tin của ta nhờ thế mà cũng được triển nở. Gia đình đã luôn luôn là một cái nôi ấm áp cho tuổi thơ, đó cũng là cái nôi đức tin đầu tiên và quan trọng nhất của mỗi người. Tấm gương của ông Simêon thật sự đã đánh động lòng ta. Ông là một người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ítraen, và Thánh Thần hằng ngự trên ông (x. Lc 2, 23). Ta vui mừng khi nhận ra hình ảnh tuyệt vời của ông bà mình nơi cụ Simêon, những con người một đời truyền lửa đức tin cho con cháu. Chắc hẳn, các ngài đã luôn được sống trong Thánh Thần.
Noi gương Mẹ Maria và Cha Giuse, những bậc làm cha làm mẹ trong gia đình sẽ là điểm tựa vững chắc cho con cái, là những người thầy giáo đầu tiên để truyền dạy đức tin cho con cái. Cha mẹ sẽ là gương sáng cho con cái noi theo. Chắc hẳn, trẻ Giêsu đã học nơi Mẹ Maria lòng thương người, sự nhạy bén và rất nhiều đức tính tốt đẹp khác. Người cũng học nơi Cha Giuse sự cần cù, nhẫn nại, bác ái và hy sinh. Cha Giuse và Mẹ Maria đã luôn tín thác vào Thiên Chúa. Lòng tín thác ấy của các ngài cũng đã thấm nhuần nơi tâm hồn của Đức Giêsu. Cũng vậy, có biết bao người cha người mẹ đã luôn là tấm gương sáng cho con cái. Dù cuộc sống có trăm chiều thử thách, nếu biết cậy trông vào Thiên Chúa như gia đình Thánh Gia, ta cũng sẽ luôn tìm gặp được niềm vui, sự bình an và hạnh phúc.
Lạy Chúa là Cha nhân lành! Cảm tạ Cha đã cho chúng con gương mẫu tuyệt vời là gia đình Thánh Gia. Xin ban ơn cho gia đình chúng con biết cùng nhau cầu nguyện, giúp nhau chu toàn bổn phận của mình, sống xứng đáng là con cái Chúa. Chúng con xin cất lên lời nguyện cầu: “Lạy Thánh Gia! Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse là ba Đấng rất thánh ở trần gian, là gương mẫu và bảo trợ các gia đình Công Giáo. Chúng con đến với Thánh Gia để chiêm ngưỡng đời sống tốt lành của Thánh Gia và noi theo gương nhân đức mà Thánh Gia để lại cho chúng con…” (kinh Gia đình Thánh Gia). Nhờ lời chuyển cầu của các Ngài, xin Chúa nhậm lời chúng con. Amen.
Gia đình là trường học và là chỗ dựa duy nhất cho mỗi người. Theo giáo lý Hội thánh Công giáo ThánhGia ABC362
Gia đình là trường học và là chỗ dựa duy nhất cho mỗi người. Theo giáo lý Hội thánh Công giáo: Gia đình là trường học tuyệt hảo dạy sống tương quan với nhau. Con cái lớn lên không ở chỗ nào tốt hơn là trong một gia đình hiệp nhất, bao bọc bởi sự âu yếm và tình yêu, bởi sự tôn trọng và trách nhiệm đối với nhau (x. Youcat Chương 2 số 368). Trường học gia đình làm cho các thành viên hạnh phúc nhưng cũng là nơi chất chứa nỗi đau khi gia đình bị đỗ vỡ để chỉ còn là chốn khách trọ qua đường. Vậy thì điều gì khiến cho gia đình có thể gắn bó với nhau?
Từ lúc Mẹ mang thai Hài Nhi Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse đã trải qua nhiều gian nan vất vả. Khi đến ngày dâng con trong Đền Thờ, các ngài đã nghe những lời chúc phúc của cụ già Simêôn. Cụ cũng nhắn nhủ: “Cháu bé này được đặt làm duyên cớ cho nhiều người Ítraen ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà. Như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra” (Lc 2, 34-35). Lời cụ già Simêon không chỉ là lời chúc tụng mà cả những lời tiên báo trước những đau khổ sắp xảy ra với Mẹ. Nhưng lời ấy không làm Mẹ bận tâm buồn phiền, bực tức hay nản lòng. Mẹ một lòng tin tưởng vào Thiên Chúa và sẵn sàng đón nhận mọi sự.
Phần chúng ta, chúng ta thường sống trên dư luận, chúng ta thường lắng nghe và tin vào những lời tiêu cực của người khác về những người sống gần bên mình. Nhiều gia đình đã đổ vỡ vì tin vào những lời nói không hay từ người khác về vợ hay chồng mình. Từ đó, nhiều gia đình luôn sống trong bạo lực, không chỉ bạo lực bằng hành động mà còn bằng lời nói. Lời nói như một con dao sắc nhọn gây tổn thương tận sâu trong tâm hồn. Bên cạnh đó, nhiều trẻ em đã bị cha mẹ bỏ rơi, phải sống cùng ông bà hay phải đến các trại trẻ mồ côi. Thật là khủng khiếp nếu chúng ta chỉ nghe những tác động từ bên ngoài mà không lắng nghe và đối thoại với người thân hay đối tượng của mình, cũng không để cho mình có khoảng thời gian suy nghĩ hay nghe tiếng lương tâm hướng dẫn. Khi gặp vấn đề gì, chúng ta thường mau chóng giải quyết và giải quyết cho nhanh. Việc đánh nhanh rút lẹ đó đã để lại hậu quả khó lường. Điều chúng ta học được nơi Mẹ và Thánh Giuse là sau khi nghe những lời nói của cụ già, các ngài không nản lòng nhưng trở về, suy đi nghĩ lại trong lòng và tiếp tục nuôi dưỡng Chúa Giêsu theo ý Thiên Chúa muốn. Ước chi mỗi người chúng ta luôn sống trong tâm tình lắng nghe và đón nhận nhau, để mọi người trong gia đình mãi sống trong bình an của Chúa.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa đã cho chúng con được chiêm ngắm mẫu gương gia đình Nadarét. Xin cho chúng con biết noi gương Thánh Gia sống tin tưởng vào Thiên Chúa và biết lắng nghe nhau trong mỗi biến cố của cuộc sống. Amen.
“Lung linh, lung linh tình mẹ tình cha; lung linh, lung linh cùng một mái nhà; lung linh, lung linh cùng buồn cùng vui; lung linh, lung linh hai tiếng gia đình”. Lời bài hát Ba ngọn nến lung linh vang lên trong trái tim tôi nhân ngày mừng lễ Thánh Gia Thất hôm nay. Lễ Thánh Gia Thất làm tôi nhớ đến gia đình huyết thống của mình và một lần nữa tôi chiêm ngắm mẫu gương của cộng đoàn nữ tu Mến Thánh Giá.
Với mỗi người Á Châu, gia đình là một tình cảm thiêng liêng, cao quý mà mỗi dịp lễ, tết đều muốn sum họp. Gia đình là lớp học dạy tôi làm người đầu tiên mà người thầy, người cô không ai khác là chính bố mẹ tôi. Con Chúa Cứu Thế đã muốn khởi đầu sứ mạng của mình ngay trong một gia đình bình thường, giản dị.
Thánh Giuse là người cha theo luật và chính ngài là người cưu mang Chúa Giêsu và Đức Maria bằng sức lao động của mình. Có lẽ, chính từ nơi thánh Giuse mà Chúa Giêsu đã học được một nghề để làm phương kế sinh nhai. Chắc hẳn, Chúa Giêsu đã thường bộc lộ sự ngưỡng mộ và tình cảm đối với ngài. Còn với Đức Maria thì sao? Từ Đức Maria, Chúa Giêsu đã học được một số cách diễn đạt, một số ngạn ngữ phổ biến đầy khôn ngoan mà sau này Người sử dụng trong các bài giảng. Tôi nhận thấy rằng: giữa thánh Giuse và Đức Maria tồn tại một tình yêu thánh thiện, một tinh thần phục vụ và niềm khao khát hạnh phúc cho nhau. Tôi cảm nghiệm, gia đình của Chúa Giêsu là gia đình thánh thiện, gương mẫu, tốt lành, khuôn mẫu của các nhân đức tự nhiên, mau mắn thực thi ý Chúa một cách chính xác.
Một gia đình kitô hữu phải là một mô phỏng của mái ấm Nadarét, một nơi có rộng chỗ cho Thiên Chúa ngự trị giữa tình yêu mà các thành viên dành cho nhau. Thực trạng của các gia đình trẻ hiện nay làm cho tôi thao thức. Vì có nhiều gia đình đã, đang và sẽ rơi vào tình cảnh đổ vỡ, con cái bị thiếu tình thương của mẹ hoặc bố. Với tình trạng đó, nếu các mái ấm kitô giáo bắt chước mái ấm của Thánh gia ở Nadarét thì ắt hẳn là những mái ấm rạng rỡ và vui tươi.
Với nhũng nữ tu Mến Thánh Giá, gia đình Nadarét là mẫu gương cho từng người, từng cộng đoàn và Hội dòng. Như trong Hiến chương của Bảy Hội dòng Mến Thánh Giá Tổng Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, ở điều 17 chương II, chị em noi gương gia đình Nadarét tạo bầu khí bình an, yêu thương, tin tưởng nhau để Đức Khiết Tịnh được bảo toàn và triển nở dễ dàng hơn. Cũng như sống Đức Vâng Phục thánh hiến với tâm tình XIN VÂNG của Mẹ Maria và thánh Giuse (x. HC 30) và sống đời sống cộng đoàn theo gương mẫu tuyệt vời là gia đình Nadarét (x. HC 41).
Ước gì Chúa Giêsu – Vua vũ trụ- Vua các gia đình hiện diện trong mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn dòng tu như Người đã hiện diện tại Cana để ban ánh sáng, niềm vui, bình an và sức mạnh cho từng người đặc biệt Ngài đã hiện diện trong gia đình Nadaret năm xưa, xin Ngài cũng luôn hiện diện với từng gia đình, từng cộng đoàn dòng tu, để chúng con luôn sống yêu thương, phục vụ như gia đình Thánh Gia xưa.
Albert Einstein đã xác định: “Môi trường là tất cả những gì không phải là tôi.” Cái gì không phải ThánhGia ABC364
Albert Einstein đã xác định: “Môi trường là tất cả những gì không phải là tôi.” Cái gì không phải của mình thì không ai có quyền phá, nếu phá sẽ phạm trọng tội – vì không chỉ liên quan Tạo Hóa mà còn ảnh hưởng tha nhân. Will Durant nói: “Chuẩn mực đạo đức tự biến đổi phù hợp với điều kiện môi trường.”
Bất cứ cái gì – hữu hình và vô hình – cũng có sự liên đới. Môi trường phải sạch thì con người mới có thể sống khỏe mạnh, có khỏe mạnh thì mới có thể sống vui, có vui sống thì mới có thể sống hữu ích. Môi trường ô nhiễm thì nguy hiểm về mọi thứ. Môi trường gia đình cũng không ngoài sự liên đới như vậy.
Ai cũng có gia đình nên cảm thấy bình thường, nhưng thật ra gia đình rất quan trọng, vì gia đình là tế bào gốc đối với cả xã hội và tôn giáo, cả đời thường và tinh thần. Thánh Phanxicô Salê nói: “Bậc gia đình là bậc sống đòi phải nhân đức và kiên trung hơn bất kỳ bậc sống nào khác. Đó là một cuộc thực hành khổ chế trường kỳ.” Mẹ Teresa Calcutta đặt vấn đề: “Bạn có thể làm gì để xây dựng hòa bình thế giới? Hãy về nhà và yêu thương gia đình của mình.”
Khi nhập thể làm người, Chúa Giêsu đã chọn cách sinh ra trong một gia đình bình thường, với những con người sống bình thường nhưng sống thánh thiện. Điều đó chứng tỏ gia đình quan trọng lắm. Gia đình là một cộng đồng nhỏ, gồm những người sống chung và gắn bó với nhau bởi các mối quan hệ tình cảm, quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng hoặc quan hệ giáo dục.
Thánh Gia là mẫu gương cho mọi gia đình, cho riêng mỗi thành phần trong gia đình – từ người cao niên nhất tới người trẻ tuổi nhất. Bộ ba “cha – mẹ – con” như một tam giác liên quan lẫn nhau mọi khía cạnh và mọi góc độ, và như chiếc kiềng giữ vững gia đình trước mọi nghịch cảnh.
Nhận xét của nữ phi công Amelia Mary Earhart (1897-1937, Hoa Kỳ) có liên quan gia đình: “Người ta càng làm nhiều, thấy nhiều và cảm nhận nhiều, người ta càng có thể làm được nhiều, và càng biết đánh giá chân thực về những điều cơ bản như gia đình, tình yêu và thấu hiểu sự đồng hành.” Nữ tác giả Karen Armstrong (sinh năm 1944, Anh quốc) nhận định: “Gia đình là trường học của lòng khoan dung, vì nó luôn tồn tại và dạy chúng ta cách sống với những người khác.” Vâng, gia đình là Bến Bình An của bất cứ ai, và cũng là nơi trú ẩn an toàn giữa xã hội nhiễu nhương ngày nay.
Nói đến gia đình thì không thể bỏ qua chữ hiếu – bổn phận và trách nhiệm của con cái đối với song thân phụ mẫu. Sống hiếu đễ có nhiều ích lợi, Kinh Thánh cho biết: “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu. Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe. Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng. Người đó phục vụ các bậc sinh thành như phục vụ chủ nhân.” (Hc 3:3-7) Cha mẹ quan trọng bởi vì họ là những người đại diện Thiên Chúa để dưỡng dục con cái. Ai cũng chỉ có một gia đình, nhưng người ta không thể chọn cha mẹ và gia đình, mặc dù có thể tự chọn nhiều thứ. Cha và mẹ đều có một vị trí quan trọng riêng, không thể thay thế, nhưng bổ túc lẫn nhau. Tuy nhiên, người mẹ luôn gần gũi và ảnh hưởng tới con cái nhiều. Người ta có thể lừa vài người mọi lần, và có thể lừa mọi người vài lần, nhưng không ai có thể lừa được người mẹ. Mắt người mẹ mờ dần vì tuổi tác nhưng lại sáng hơn và nhìn thấu suốt con cái.
Mặc dù con cái PHẢI hiếu kính cha mẹ, nhưng Thiên Chúa vẫn coi đó là “công trạng” của con cái: “Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con. Thiên Chúa sẽ nhớ đến con, ngày con gặp khốn khó, và các tội con sẽ biến tan như sương muối biến tan lúc đẹp trời.” (Hc 3:14-15) Ngược lại, bất hiếu là trọng tội, tất nhiên Thiên Chúa sẽ trừng trị: “Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ mình, sẽ bị Đức Chúa nguyền rủa. Con ơi, hãy hoàn thành việc của con một cách nhũn nhặn, thì con sẽ được mến yêu hơn người hào phóng.” (Hc 3:16-17) Thiên Chúa rất công bằng và nghiêm minh.
Rất chí lý với câu nói về chữ hiếu trong Kinh Phật: “Tột cùng thiện, không gì bằng có hiếu; tột cùng ác, không gì bằng bất hiếu.” Thế nhưng trong thực tế đời thường, chúng ta vẫn thấy có những nghịch tử dám hành hạ mà thậm chí còn sát hại cha mẹ mình. Tội ác tày trời! Tục ngữ ví von giản dị mà thâm thúy: “Có cha, có mẹ thì hơn – Không cha, không mẹ như đờn đứt dây.” Dây đàn đứt thì còn nối lại được, cha mẹ mất rồi thì con mãi mãi mồ côi, không gì có thể khỏa lấp. Vậy mà vẫn có những người con độc ác, bởi vì họ quá ích kỷ.
Có thể nói được rằng mọi thứ khởi đầu từ gia đình. Gia đình là tế bào yêu thương, thực sự cần thiết để nuôi dưỡng cuộc sống và tạo nên Tổ Ấm. Thánh Vịnh gia nói: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may.” (Tv 128:1-2) Gia đình như cây cối, mỗi thành viên là những rễ nuôi cả thân cây. Thân cây có cành và lá – mỗi thành viên gia đình: “Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn.” (Tv 128:3) Mọi thứ được thể hiện rõ nét tại bàn ăn, cũng vì thế mà bữa ăn rất quan trọng để duy trì hạnh phúc gia đình. Đối với các Kitô hữu, có bàn tiệc khác còn quan trọng hơn: Bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể. Các giờ kinh trong gia đình, thường là giờ kinh tối, cũng là một “bàn tiệc” cần thiết để nối kết nhau.
Đó là hạnh phúc gia đình, là hồng ân, là “phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người.” (Tv 128:4) Tất cả đều “nhờ Ngài, với Ngài, và trong Ngài” như Chúa Giêsu xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” (Ga 15:5) Lời cầu chúc này thực sự quan trọng với mọi người: “Xin Chúa từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con cháu.” (Tv 128:5-6) Quả thật, gia đình quan trọng khôn tả, đến nỗi người ta không thể sống nổi nếu không có gia đình.
Gia đình là tế bào của xã hội và Giáo Hội. Tế bào là đơn vị cấu tạo cơ bản của sự sống. Trong cơ thể con người có hàng nghìn tỷ tế bào, chúng giúp cơ thể tạo dưỡng chất từ thức ăn, chuyển hóa dưỡng chất thành năng lượng, và đem lại các chức năng đặc biệt. Tế bào còn chứa nguyên liệu di truyền và khả dĩ tự tạo nhiều bản sao từ chính chúng. Tế bào khỏe thì cơ thể mạnh, tế bào yếu thì cơ thể đuối, và tinh thần cũng ảnh hưởng. Tế bào đột biến, phát triển không theo quy trình tự nhiên, có thể gây ung thư và dẫn tới cái chết. Tế bào cần thiết thế nào thì gia đình cũng cần thiết như vậy, không gì có thể thay thế.
Đối với Kitô hữu, gia đình không chỉ là “tế bào gốc” mà còn là “tế bào thánh.” Tại sao? Bởi vì mọi thứ của gia đình đều được dâng lên Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương” (Cl 3:12a). Do đó, chúng ta phải có trách nhiệm lẫn nhau: “Anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. Ước gì ơn bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó. Bởi vậy, anh em hãy hết dạ tri ân.” (Cl 3:12b-15)
Chúng ta nhận được điều ước rất đặc biệt của Thánh Phaolô: “Ước chi lời Đức Kitô ngự giữa anh em thật dồi dào phong phú. Anh em hãy dạy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan. Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng. Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha.” (Cl 3:16-17) Nhiều lần thánh nhân đã đề cập tâm tình tạ ơn, vì tạ ơn là điều quan trọng. Lời tạ ơn của chúng ta không thêm gì cho Chúa nhưng lại sinh ích lợi cho chính phần rỗi của chúng ta. Thật kỳ diệu vô cùng!
Thánh Phaolô khuyên những người sống đời hôn nhân: “Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ. Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng.” (Cl 3:18-21)
Còn trong Ep 5:21-28, Thánh Phaolô đề cập việc sống đạo trong gia đình và nhấn mạnh sự tùng phục lẫn nhau với lòng kính mến Đức Kitô: “Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, người làm chồng hãy yêu thương vợ như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh, chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình, yêu vợ là yêu chính mình.” Đức Maria và Đức Giuse là gương sáng về đời sống phu thê.
Rất đặc biệt là chính Con Thiên Chúa đã sinh sống trong một gia đình, và Ngài cũng giữ luật như mọi người. Trình thuật Lc 2:22-40 cho biết: Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy (tẩy trần) theo luật Môsê, bà Maria và ông Giuse đem Con Trẻ lên Giêrusalem để tiến dâng cho Chúa theo luật truyền: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa.” Và hai ông bà cũng giữ đúng luật: dâng một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non.
Hôm đó, có ông Simêôn là người công chính và sùng đạo, ông luôn mong chờ niềm an ủi của Israel. Ông được Thánh Thần báo cho biết rằng ông sẽ không chết trước khi được thấy Đấng Kitô. Và ông lên Đền Thờ sau khi được Thần Khí thúc đẩy.
Cũng vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục theo luật truyền, ông Simêôn ẵm lấy Hài Nhi và hân hoan chúc tụng Chúa qua bài ca “An Bình Ra Đi” – Nunc Dimittis: “Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel Dân Ngài.” Ông mãn nguyện và mãn nhãn, không còn mong gì ở đời này nữa. Một khi đã cảm nghiệm Thiên Chúa, người ta không cần gì khác nữa. Ông Simêôn thật diễm phúc lúc cao niên, thật tuyệt vời!
Lúc đó chắc hẳn ai cũng thấy lạ. Chính Đức Maria và Đức Giuse cũng rất ngạc nhiên về lời của ông Simêôn nói về Hài Nhi Giêsu. Sau đó, ông Simêôn chúc phúc cho hai ông bà và nói với với Đức Maria: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng. Và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.” Lời tiên tri kỳ lạ, đáng suy tư lắm.
Và Thánh Luca còn cho biết thêm rằng, hôm đó cũng có nữ ngôn sứ Anna, con ông Pơnuên, thuộc chi tộc Ase, nhiều tuổi rồi. Sau khi xuất giá, bà sống với chồng được 7 năm rồi ở goá, nay đã 84 tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, luôn ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. Ngay lúc ấy, bà tiến đến, cảm tạ Thiên Chúa, và cũng nói về Hài Nhi cho những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem. Thời điểm lịch sử đáng nhớ. Lời tiên tri hàng ngàn năm trước giờ đây đã ứng nghiệm, rõ ràng Hài Nhi Giêsu là Đấng Cứu Độ và là tặng phẩm tuyệt đối dành cho nhân loại.
Thi hành xong mọi việc theo luật truyền, Đức Maria và Đức Giuse đưa Con Trẻ trở về Nadarét. Kinh Thánh cho biết một điều đặc biệt: “Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.” Ước mong mỗi chúng ta cũng được như vậy, đồng thời trưởng thành cả về đức tin và đức ái.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con nhận thức và ý thức về vai trò của mình trong gia đình riêng, trong gia đình xã hội, và trong đại gia đình Giáo Hội, để chúng con có thể tự bảo vệ mà không lây nhiễm cái xấu cho người khác. Xin Ngài ban những ơn cần thiết cho mọi người phát triển đúng định hướng của Ngài mị lúc và mọi nơi. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa, và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non.
I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG LU-CA (2,22-40):
22 Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa, 23 như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa”, 24 và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. 25 Hồi ấy ở Giê-ru-sa-lem, có một người tên là Si-mê-ôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. 26 Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa. 27 Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, 28 thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: 29 “Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. 30 Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ 31 Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: 32 Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài.”
33 Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Si-mê-ôn vừa nói về Người. 34 Ông Si-mê-ôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; 35 và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.”
36 Lại cũng có một nữ ngôn sứ tên là An-na, con ông Pơ-nu-ên, thuộc chi tộc A-se. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, 37 rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. 38 Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giê-ru-sa-lem.
39 Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê. 40 Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.
II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG LU-CA (1,26-38):
Cha mẹ Đức Giê-su là những người Do-thái ngoan đạo và sống thanh bần: Đức Ma-ri-a và Thánh ThánhGia ABC365
2.1 Cha mẹ Đức Giê-su là những người Do-thái ngoan đạo và sống thanh bần:
Đức Ma-ri-a và Thánh Cả Giu-se là hai người tín hữu Do-thái ngoan đạo và sống thanh bần. Vì thế mà các ngài tuân theo lể luật Mô-sê một cách thành khẩn và hiến dâng con mình cho Thiên Chúa cũng như dâng lễ vật khiêm tốn trong Đền Thờ:
”Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa”, và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non”
2.2 Hài Nhi Giê-su là Đấng được dân Ít-ra-en mong đợi:
”Hồi ấy ở Giê-ru-sa-lem, có một người tên là Si-mê-ôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa. Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: “Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài.”
2.3 Hài Nhi Giê-su là Đấng sẽ khiến người ta phải chọn lựa:
“Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.”
2.4 Hài Nhi Giê-su đã chọn một nếp sống ẩn dật, khiêm nhường:
Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê. Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.
III. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG LU-CA (1,26-38):
3.1 Tôi học theo gương sống thanh bần đạo hạnh của Thánh Gia Na-da-rét
Thánh Gia Na-da-ét là tấm gương sống động cho gia đình và cá nhân tôi trong việc tuân giữ Luật Lệ của Thiên Chúa và trong nếp sống thanh bần đạo hạnh, giữa một xã hội tôn thờ đồng tiển và chạy theo quyền chức. Vì không dư giả về kinh tế và không có địa vị xã hội, gia đình và bản thân tôi không được ai trọng vọng. Nhưng gia đình tôi và tôi được bình an và hạnh phúc, vì được nên giống Thánh Gia Na-da-rét!
3.2 Tôi bắt chước lối sống khiêm nhường, ấn dật của Chúa Giê-su Con Thiên Chúa
Trong những năm sống trong Chủng Viện và Dòng Tu, tôi luôn được lôi cuốn bởi những tấm gương khó nghèo, thánh thiện như chân phước Charles de Foucauld, Thánh Vincent de Paul, cha Chevrier…. Các ngài là những tấm gương phản chiếu cách sống động đời sống của Đức Giê-su Na-da-rét. Khi trở lại đời sống người giáo dân, hoàn cảnh xã hội và khả năng cá nhân cũng chỉ giúp tôi sống ngày qua ngày, nên tôi dễ dàng sống khiêm nhường và ẩn dật. Tôi lấy thế là đủ và hạnh phúc.
IV. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG LU-CA (1,26-38):
Lạy Thánh Gia Na-da-rét, con dâng lời ngợi khen và cảm phục các Ngài. Chúa Giê-su là Thiên Chúa mà chọn nếp sống ẩn dật, khiêm cung. Thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a là cha là mẹ Đức Giê-su mà sống thanh bần và đạo hạnh.
Nhìn vào Thánh Gia Na-da-rét, gia đình con và bao gia đình khác được an ủi khích lệ dường nào. Gia đình Na-da-rét gần gũi với chúng con quá chừng. Con chân thành cảm tạ Thiên Chúa, cảm tạ Chúa Giê-su, Mẹ Ma-ri-a và Thánh Giu-se!
Xin Ba Đấng chúc lành cho con và gia đình con.
Xin Ba Đấng chúc lành cho các gia đình, nhất là cho các gia đình trẻ và các gia đình gặp khó khăn thử thách.