Suy niệm Chúa Nhật PS 4-A Bài 51-100 Ta là cửa chuồng chiên

Thứ năm - 11/05/2017 06:20
Suy niệm Chúa Nhật PS 4-A Bài 51-100 Ta là cửa chuồng chiên
Suy niệm Chúa Nhật PS 4-A Bài 51-100 Ta là cửa chuồng chiên

 

Suy niệm Chúa Nhật PS 4-A Bài 51-100 Ta là cửa chuồng chiên
--------------------------------------
Phúc Âm: Ga 10, 1-10"Ta là cửa chuồng chiên".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ". Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào". - Ðó là lời Chúa.

---------------------------------------------
PS 4-A51: Đức Giêsu: Mục tử nhân lành và cửa chuồng chiên. 2
PS 4-A52: Ta là cửa chuồng chiên. 5
PS 4-A53: Chủ chăn. 10
PS 4-A54: Cửa chuồng chiên – ĐTGM. Ngô quang Kiệt 12
PS 4-A55: NGƯỜI CHĂN CHIÊN VÀ KẺ TRỘM... 14
PS 4-A56: GIÁO HỘI VÀ HÌNH ẢNH ĐÀN CHIÊN.. 17
PS 4-A57: Xin cho cánh đồng của Chúa có nhiều "Thợ Gặt". 20
PS 4-A58: Cánh cửa chân chính dẫn vào cuộc đời 24
PS 4-A59: MỤC TỬ TỐT LÀNH.. 26
PS 4-A60: Chúa Giê-su là cửa chuồng chiên. 29
PS 4-A61: Xin cho những mục tử nên giống Chúa. 31
PS 4-A62: Mục tử chân chính. 35
PS 4-A63: CHỌN VÀO CÁNH CỬA GIÊSU.. 36
PS 4-A64: Ngày cầu nguyện cho Ơn Gọi 41
PS 4-A65: Sống Một Đời Theo Ơn Gọi 46
PS 4-A66: Tôi là cửa cho chiên ra vào. 50
PS 4-A67: CHÚA CHIÊN LÀNH.. 51
PS 4-A68: Mục tử & Cửa chuồng chiên. 55
PS 4-A69: Nhân loại chỉ có một Đức Kitô – Achille Degeest. 56
PS 4-A70: Thiên Chúa chọn để loan báo Tin Mừng – R. Veritas. 57
PS 4-A71: Mục Tử Nhân Lành. 60
PS 4-A72: MỤC TỬ VÀ ĐÀN CHIÊN.. 62
PS 4-A73: MỤC TỬ TỐT LÀNH.. 64
PS 4-A74: Chúa Nhật Ơn Thiên Triệu. 66
PS 4-A75: Tầm quan trọng của cửa chuồng chiên. 71
PS 4-A76: Tôi Là Cửa. 73
PS 4-A77: THÁCH ĐỐ THỜI ĐẠI 76
PS 4-A78: CHỦ CHIÊN VÀ CON CHIÊN.. 79
PS 4-A79: Chúa Nhật IV Phục Sinh. 81
PS 4-A80: Hai loại mục tử trong các thời đại 84
PS 4-A81: CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH.. 89
PS 4-A82: CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH.. 92
PS 4-A83: CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH.. 94
PS 4-A84: CHÚA CHIÊN LÀNH.. 97
PS 4-A85: Cửa chuồng chiên. 101
PS 4-A86: Mục tử thật - mục tử giả. 102
PS 4-A87: Tôi là cửa cho chiên”. 104
PS 4-A88: Thiên Chúa chọn để loan báo Tin Mừng. 106
PS 4-A89: CỬA CHUỒNG CHIÊN.. 108
PS 4-A90: CHỦ CHIÊN NHÂN LÀNH.. 110
PS 4-A91: SỐNG DỒI DÀO.. 112
PS 4-A92: MỤC TỬ ĐÀN CHIÊN.. 114
PS 4-A93: ĐIỂM TỰA BÌNH YÊN.. 116
PS 4-A94: NGƯỜI CHĂN CHIÊN.. 117
PS 4-A95: TÌM ĐƯỢC SỰ SỐNG NƠI MỤC TỬ GIÊSU.. 119
PS 4-A96: ĐỨC GIÊSU LÀ CỬA CHUỒNG CHIÊN.. 120
PS 4-A97: MỤC TỬ.. 123
PS 4-A98: ĐẤNG PHỤC SINH VẪN LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH.. 126
PS 4-A99: NHỮNG MỤC TỬ ĐỜI THƯỜNG.. 129
PS 4-A100: CHÂN DUNG MỤC TỬ NHÂN LÀNH.. 131

------------------------------------

 

PS 4-A51: Đức Giêsu: Mục tử nhân lành và cửa chuồng chiên


I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

1) Đức Giêsu, mục tử nhân lành.

 

Bài Phúc âm hôm nay nằm trong văn mạch của một cuộc luận chiến tiếp sau việc chữa lành:PS 4-A51


Bài Phúc âm hôm nay nằm trong văn mạch của một cuộc luận chiến tiếp sau việc chữa lành người mù bẩm sinh vẫn ngồi ăn xin bên cửa đền thờ, (Phúc âm Chúa nhật thứ bốn mùa chay, năm A) những người biệt phái tự xưng là sáng mắt và tự nhận là những bậc linh sư trong dân, thực ra, ngày càng chìm sâu trong sự mù quáng của mình, trong khi đó, người mù được chữa lành, không ngừng được khai sáng đến độ dám tuyên xưng mầu nhiệm Đức Giêsu, nhìn nhận Ngài là "Con Người" và là "Đấng Thiên sai bị người do thái trục xuất khỏi hội đồng và được Đức Giêsu đón nhân, ông trở thành mẫu mực của người có niềm tin, điển hình của con chiên nhận ra Người mục tử để được dẫn về cùng Chúa Cha (X. Dufour, "Đọc Tin Mừng Gioan " Tập 2, Seuil, 1990, tr. 348)." Đức Giêsu kết luận” ta đến trần gian chỉ là để cho những kẻ không thấy được thấy là những kẻ thấy trở nên đui mù" Thế rồi, tác giả Tin Mừng chuyển thẳng sang dụ ngôn vị mục tử nhân lành, một hình ảnh quen thân trong Kinh Thánh. Thật vậy, trong suốt lịch sử Do thái, Thiên Chúa luôn tự giới thiệu như là vị Mục Tử của dân người, Đấng đã chọn lấy cho mình những tôi tớ, cũng được gọi là “mục tử ", để trao cho họ trách nhiệm dẫn dắt dân Chúa theo người. Tiếc thay họ thường bất xứng với sứ vụ này và vậy các tiên tri đã loan báo một thời đại mà chính Thiên-Chúa, qua Đấng Thiên Sai, sẽ nắm quyền lãnh đạo dân người.

Ở đây Đức Giêsu tự giới thiệu mình là vị Mục Tử nhân lành, vị Mục Tử thiên sai, người gọi "tên từng con chiên một và "dẫn chúng đi ăn”! khác hẳn những tên trộm đạo đến trấn lột đoàn chiên hay những kẻ chăn thuê không bao giờ dám mạo hiểm vì đoàn Chiên. Nên đặc biệt chú ý đến kiểu nói này vì trong Thánh kinh, nó gợi lên: cuộc xuất hành đầu tiên, khi Chúa “dẫn đưa” Israel ra khỏi nhà nô lệ. (Ex 3.10 ; 6, 27; Lev. 19,36)

Lời cầu nguyện của Môsê, xin Chúa chọn người kế vị mình "một người sẽ lãnh đạo cộng đoàn,..sẽ đưa chúng ra đi và dẫn chúng trở về để chúng không trở thành những con chiên không người chăn giữ" (Nom. 27, 17)

Cuộc xuất hành mới là quyết định được các tiên loan báo “ta sẽ đưa đoàn chiên ta ra khỏi muôn dân, sẽ qui tụ chúng lại từ muôn nước và đưa chúng về cố hương" (Ez.34,l3)

Thành toàn những lời tiên tri trong Cựu Ước, Đức Giêsu là Mô-sê mới đến qui tụ đoàn dân mới của Thiên- Chúa và "dẫn đầu ","đưa họ ra đi" trong cuộc xuất hành mới, trên đường về miền đất hứa.

Đức Giêsu dùng dụ ngôn này để nói vớí người “biệt phái" là những người, theo tác giả Tin Mừng, không hiểu được điều Ngài muốn nói với họ” khiến Ngài phải đề cập đến một chủ đề mới, đó là cửa chuồng chiên.

2) Đức Giêsu là cửa chuồng chiên

"Cửa chuồng chiên" khi nói thế, Đức Giêsu muốn minh định mình là lối vào duy nhất để gặp được đoàn chiên. “để đến với đoàn chiên, hình ảnh của dân Thiên-Chúa, phải đi qua Đức Giêsu. Ngoài ngài ra, không còn cách nào để đến với dân Chúa và với sự sống. " A. Marchadour, "Tin Mừng theo thánh Gioan", Centturion, 1992,p.143).

“Cửa chuồng chiên" khi nói thế, Đức Giêsu minh ảnh mình là cửa mà mọi con chiên phải đi qua nếu muốn được tự do và đạt được sự sống viên mãn. A. Machadour viết tiếp ngoài Ngài ra, không ai có thế tự xưng là người mang ơn cứu độ cho nhân loại được. Đức Giêsu là cửa vì qua Ngài, con người đạt được ơn cứu độ và được sống, khung cảnh đền thờ cho phép ta lấy đơn vị (cửa) để cắt nghĩa tổng thể (đền thờ) Đức Giêsu tự giới thiệu mình như đền thờ mới trong đó con người tìm được tự do và sự sống".

II. BÀI ĐỌC THÊM

1) Chúa là mục tử của tôi. (H. Denis, trong "100 từ ngữ để nói lên niềm tin". Desclée de Brouwer,1993, p.149-l50)

Chúa Mục tử, Chúa là Đấng mà với Ngài, trong cảnh nghèo khó cùng cực, người ta có thể cảm nghiệm và hiểu biết được sự phong phú của Thiên Chúa, đây chính là niềm ủi an mới của mùa phục sinh này, các bạn đã là những con chiên lạc, nhưng giữa các bạn, Con Chiên không tì vết đã hiến mình, và hóa thân thành mục tử, thành người chăn giữ mạng sống quí giá của các bạn.

Mục tử, một từ dân dã, một nghề gần như đã mai một còn chăng chỉ có những du khách lâu lâu gặp thấy những người chăn cừu vùng sơn cước. Tuy nhiên chúng ta còn nhạy cảm với hình ảnh của người mục tử với chiếc tù và đang tập họp đoàn chiên, hơn thế nữa, người ta còn xúc động khám phá ra tấm lòng của Thiên Chúa, khi nhìn thấy người mục tử mệt lả vác con chiên lạc trên khi đưa trở về bầy.

Đức Giêsu chính là người muốn qui tụ về đàn chiên duy nhất của Ngài toàn cá nhân loại được thánh tẩy trong máu con Chiên, điều đó khiến ta khiêm tốn. Tôi muốn nói rằng Đức Giêsu không bao giờ quả quyết Ngài, chỉ là mục tử của các tín hữu, và chuồng chiên của Ngài chỉ gồm các Hội thánh công giáo. Trong Tin Mừng của Thánh Gioan. Ngài tự giới thiệu mình như là Đấng đưa dẫn mọi người thiện chí về đồng cỏ xanh, là đấng mà mọi người đều có thể nhận ra tiếng Ngài.

Các linh mục hay các mục tử không thể trở thành sở hữu chủ của những người mà họ phục vụ được. Vì thế, từ mọi đồng cỏ, mọi tôn giáo, mọi nền văn hóa đều có thể hướng về trời cất tiếng ca: "Chúa là mục tử tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi”.

2) Loan báo những kỳ công Chúa đã thực hiện nơi ta và nhờ ta (Tài liệu của Uỷ ban khuyến khích ơn gọi toàn quốc) Cầu nguyện cho ơn kêu gọi, ngày thế giới cầu nguyện cho ơn kêu gọi ... những bản văn được đề nghị cho ngày này mời gọi ta vừa tiến bước, vừa đi theo con đường hòa nhập vào một cộng đoàn thuộc về Đức Giêsu và mời gọi ta làm theo thánh ý Thiên Chúa, nghĩa là làm lành, sống trong tình yêu nồng nàn và thực sự của Đức Giêsu đối với thế giới bằng cách sống chiến đấu cho công bằng và qua đó biểu tỏ tất cả! niềm hi vọng trong chúng ta. Đức Kitô đã ban lời Ngài để nó thấm nhập, tăng trưởng, đâm rễ và triển nở trong đời sống chúng ta. Lời Chúa mở cửa, mời gọi đón nhận và nhận biết sự tùy thuộc vào Thiên Chúa tình yêu, Thiên Chúa của Đức Kitô Đấng biết rõ từng tên, từng người chúng ta. Ngài kêu gọi chúng ta, không phải để nhốt ta trong vòng rào mênh mông, hầu gìn giữ hay che chở chúng ta, nhưng như những con chiên mà Ngài kêu gọi, “Ngài đưa chúng ra ngoài" để nghe rõ tiếng Ngài hơn, và nhận ra con đường mà chính Ngài đã mượn, trên đó, Ngài dấn bước, ra đi và khơi dậy niềm tự do để người ta được sống và sống dồi dào.

Tất cả những điều này đều có thể thành toàn nhờ cầu nguyện, tiếp xúc thân mật với Đức Kitô, nhờ mối dây tình yêu thương hằng và liên tục giữa lòng với lòng, vì thế cầu nguyện cho ơn gọi có nghĩa là cầu nguyện cho con người, chia sẻ cuộc sống của Thiên Chúa, trở nên những cộng đoàn, xây dựng những cộng đoàn Kitô hầu sống động và tích cực. Còn về ơn gọi linh mục, tu sĩ, đừng mong những phép lạ, không phải chỉ cầu nguyện là có nhiều ơn gọi đâu… điều đó chỉ có được nếu chúng ta cầu nguyện trong chân lý, bằng cách xây dựng những cộng đoàn Kitô hữu thực sự, lúc bấy giờ, tự nhiên sẽ có những lời đáp trả. Nếu hôm nay, 5 triệu tín hữu Pháp tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô đã chết và phục sinh, thì sẽ có 5 triệu "ơn gọi” vì thế ngày nay, cần phải nói lên điều mình sống, điều mình tin, loan báo những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện nơi ta và qua ta.

------------------------------------

 

PS 4-A52: Ta là cửa chuồng chiên


I. Ý CHÍNH:
 

Qua dụ ngôn về "Cửa chuồng chiên" trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã giới thiệu:PS 4-A52


Qua dụ ngôn về "Cửa chuồng chiên" trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã giới thiệu vai trò độc đáo của Người và phải qua Người mới được ơn cứu độ, vì Người là Đấng ban sự sống và nuôi dưỡng nhân loại.

II. SUY NIỆM:

Để giúp hiểu ý nghĩa dụ ngôn này, chúng ta nên biết rằng:

- Cựu Ước đã báo trước Đấng Thiên sai sẽ đến như một mục tử Người sẽ chăn dắt (Mk 5, 3) " Ta sẽ cho chỗi dậy một mục tử duy nhất, Người sẽ chăn dắt chúng" (Ed 34, 23) .

- Trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã áp dụng hình ảnh mục tử cho mình . Ngài tự xưng là chủ chăn được sai đến với các chiên lạc của Israel (Mt 15,24 ; Lc 19,10). Riêng trong Tin Mừng thánh Gioan, bài giảng về người chủ chăn nhân lành đã mở đầu Giáo Hội để rồi sau này thánh Phêrô tiếp tục sứ mệnh chăn dắt đó (Ga 21,16).

1) “Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi":

Đây là một kiểu nói mà thánh Gioan thường dùng, để nhấn mạnh tính xác thực của một điều gì đã có trước, thực vậy, dụ ngôn “cửa chuồng chiên" là nối tiếp câu chuyện người mù từ bẩm sinh được Chúa Giêsu chữa lành, là để minh chứng Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian, vì vậy phải qua Người mới được ơn cứu độ.

“Ai không qua cửa mà vào chuồng chiên ...":

+ Chuồng chiên là hình ảnh quen thuộc của đời sống dân Do thái du mục. Ở đây Chúa Giêsu nói đến Giáo Hội ở trần gian và nước Chúa ở trên trời, tức là nước siêu nhiên.

+ Cửa chuồng chiên: mỗi chuồng chiên chỉ có một cửa chính để chiên ra vào, ai muốn được vào Giáo Hội để hưởng Nước Trời là ơn cứu độ thì phải qua duy một cửa chính mà thôi, cửa này chính là Chúa Kitô như Người đã tự nhận: “Ta là cửa chuồng chiên". Ở đây khi nói đến các mục tử giả hiệu, và theo toàn thể mạch văn, Chúa Giêsu có ý nhắm tới các người Biệt phái và Ký lục là những kẻ từ lâu đã tự đặt mình làm thủ lãnh và linh hướng của dân chúng mà không qua vị canh giữ tối cao, không lãnh nhận từ Thiên Chúa một uỷ nhiệm nào để thi hành sứ mệnh mục tử, như bọn trộm cướp, họ đã chiếm đoạt đám tín hữu vì háo danh và óc thống trị hơn là quan tâm đến thiện ích thiêng liêng của tín hữu .

2) "Còn ai qua cửa mà vào là kẻ chăn chiên":

Ở đây có ý nói đến những mục tử chân chính vào cửa đàng hoàng vì đã lãnh sứ mệnh.

+ "Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho ...":

Người mục tử chân chính là người đã được uỷ nhiệm chính thức. Ở đây Chúa Giêsu muốn nói đến chính sứ mệnh của Người, vì Người chỉ đến theo lệnh và uỷ nhiệm thần linh mà Người đã nhận từ Chúa Cha khi chịu phép rửa (Ga 1, 31-34).

+ "Và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy ...":

Chỉ có chiên là những tín hữu đích thực, mới biết ngoan ngoãn nghe theo tiếng vị mục tử của mình là Đức Giêsu, vì "Phàm ai nghe và học nơi Cha thì đến với Đức Giêsu bằng đức tin" (Ga 6, 45; 8,47).

+ "Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên"

Ở đây muốn nói đến những kẻ thực sự thuộc về chủ chăn và đáp theo tiếng Người gọi và chỉ theo một mình Người, điều này được biểu lộ qua ơn gọi của các vị tông đồ ( Ga 1,35-49) như khi Chúa gọi Philippê "Hãy theo Ta" (1,43). Qua tiếng gọi đặc biệt này Người "dẫn ra" tức là kéo họ ra khỏi thế gian (Ga 15,19)

+ " Khi đã lùa chiên mình ra ngoài ..."

Khi đã kéo họ ra khỏi thế gian, Người tiên phong dẫn họ tới đồng cỏ là Giáo Hội và tới Chúa Cha. Đặt trọn niềm tin tưởng vào Người, các con chiên "theo Người" "làm tông đồ Người” và họ biết tiếng Người: tức là đức tin cho họ một nhận thức thiêng liêng, nhờ đó họ phân biệt trong tiếng nói của vị mục tử, Chúa Giêsu, một âm vang trung thực của tiếng nói Cha trên trời, và biết rằng qua miệng của Chúa Giêsu, chính Chúa Cha đang nói (Ga 14,10) .

+ "Chúng sẽ không theo người lạ ...":

Chính sự nhận thức thiêng liêng này, tức là đức tin, khiến họ không làm môn đệ những kẻ chăn chiên xa lòng, chẳng hề được Thiên Chúa uỷ nhiệm vì không nhận ra nơi họ giọng nói của những kẻ này âm vang của lời Thiên Chúa, nên họ chạy chốn, họ chạy chốn vì những kẻ chăn chiên giả này đến để mưu sát trộm cắp và tiêu diệt đàn chiên. Ở đây muốn ám chỉ đến những người lãnh đạo dân Do Thái như các Biệt phái Luật sĩ đã gieo rắc tai hại cho dân vì những gương xấu và lầm lạc của họ.

3) "Chúa Giêsu phán dụ ngôn này ..."

Những người Biệt phái mà dụ ngôn này nhắm tới không nhận ra được bài học Chúa Giêsu dậy họ: bởi vì chiên lạ không nghe tiếng của mục tử chính danh "Các ngươi không tin vì các ngươi không thuộc đàn chiên của Ta" (Ga 10, 26).

4) "Ta là cửa chuồng chiên":

Vì những người nghe không nhận thức được bài học dụ ngôn nên Chúa Giêsu nói thêm và Ngài giải thích bằng cách Ngài tự nhận mình là cửa chuồng chiên để nêu lên chân lý phải tin nhận vào Ngài mới được cứu độ, vì chỉ có Ngài là cửa duy nhất của chuồng chiên.

5) "Tất cả những kẻ đã đến trước ...":

+ "Đến trước" ở đây không có ý nhắm tới thời gian cho bằng nhắm tới thái độ của việc làm, bình thường thì sáng sớm người chăn chiên đi thăm chuồng chiên, nếu có ai đến trước đó, nghĩa là khi còn ban đêm, thì đích thực họ là kẻ trộm cướp, tìm những lúc tăm tối để là những việc ám muội.

+ Dùng kiểu nói "Những kẻ đến trước" ở đây Chúa Giêsu có ý nói đến các Tiên tri Cựu Ước vì theo thời gian, họ đã xuất hiện trước Chúa Giêsu. Nhưng có thể Chúa nhắm những người Do thái hoặc dân ngoại tự phụ dùng sức mình mà đem lại cho nhân loại sự hiểu biết về Thiên Chúa và ơn cứu độ. Nhưng cũng có thể Chúa nhắm tới những người Biệt phái (Mt 23, 1-36 ; 9,36; Mc 6,34) và các thủ lãnh tôn giáo Israel đã gạt dân của họ xa con đường sống, tức là các Do thái đã tàn sát các Tiên tri, các Tiến sĩ thời Chúa Giêsu để ngăn chận không cho thế hệ của họ đáp lại lời mời gọi Nước Trời.

6) "Ta là cửa, ai qua Ta mà vào ...":

Chủ đề ‘cửa’ là một chủ đề rất phổ thông trong truyền thống Do thái (St 28,17; Tv 78,23; Mt 7,13-14).

+ Kiểu "Ta là cửa" ở đây Chúa Giêsu muốn nói đến tính cách của ơn cứu độ vì Ngài nói "Ta là cửa" chứ không nói “Ta là cửa chuồng chiên" như ở trên.

+ Chữ "Cửa" ở đây muốn nói lên ý nghĩa như một lối dẫn đưa vào các thực tại Thiên Quốc. Khi mở thì chữ "Cửa" diễn tả một thái độ mời gọi, đón nhận. Khi đóng, đối với bên trong thì diễn tả một sự che chở bảo vệ, đối với bên ngoài thì diễn tả sự từ chối, thanh lọc.

+ "Người ấy sẽ ra vào" ; "Ra vào" là kiểu nói Do thái có nghĩa là đi lại tự do.

Ở đây muốn nhấn mạnh sự cần thiết và quan trọng của việc phải tin vào Chúa Giêsu Kitô mới đem dân Chúa vào sự sống bằng cách cho họ tái sinh bởi nước và Thánh Thần (Ga 3,16-17)

Dân Chúa được cứu thoát nhờ Đức Giêsu giải phóng họ khỏi ách nô lệ của tội lỗi và ma quỷ, họ được vui hưởng tự do đích thực của con cái trong nhà Cha (Ga 8, 33-34). Cũng trong Chúa Kitô dân chúng tìm được thức ăn no thoả là bánh và Nước Hằng Sống, có sức dập tắt vĩnh viễn cơn đói khát thiêng liêng của con người (Ga 6,35; 4,14).

7) “Kẻ trộn có đến thì chỉ đến để ăn trộm…”

+ Ở đây Chúa Giêsu có ý nhắm tới các Ký lục và Luật sĩ. Họ là những mục tử giả hiệu, dù không được Thiên Chúa uỷ nhiệm, họ vẫn tự cai trị dân Chúa vì họ ưa tìm vinh quang và quyền lợi bản thân hơn là ưu tiên đến tiện ích cho dân Chúa (Mt 23,4-7).

+ Họ sát hại và phá huỷ dân Chúa vì những gương xấu của họ, như chính Chúa Giêsu đã tuyên bố với họ “khốn cho các ngươi, Ký lục và Biệt phái giả hình, vì các ngươi khóa Nước Trời, chận người ta lại…” (Mt 23,3-13).

8) "Còn Ta, Ta đến để chúng được sống ...":

Chúa Giêsu được sai đến để cứu chuộc dân Chúa và ban cho dân Chúa của nuôi là Bánh và Nước Hằng Sống.

* Cần lưu ý:

a) Từ Chúa Giêsu mục tử đến các tông đồ mục tử.

 Sau khi về trời công việc chăn dắt đoàn chiên của Chúa vẫn được tiếp tục "Chúa là mục tử hằng hữu không bỏ rơi đoàn chiên Chúa, nhưng nhờ các tông đồ Chúa luôn che chở giữ gìn, để đoàn chiên được hướng dẫn nhờ các vị lãnh đạo Chúa đã đặt làm mục tử coi sóc đoàn chiên thay thế Con Chúa (Kinh tiền tụng lễ các Tông Đồ).

b) Ngày Chúa nhật IV Phục Sinh còn gọi là Chúa nhật Chúa Chiên Lành (Lý do là vì các bài Tin Mừng đều trích từ Gioan 10, nội dung nói về Chúa Chiên Lành) được chọn làm Ngày Cầu Nguyện cho Ơn Thiên Triệu.

III) ÁP DỤNG:

* Áp dụng theo Tin Mừng:

Qua bài Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội muốn dậy chúng ta phải tin tưởng vào sự nuôi dưỡng che chở và giữ gìn của vị mục tử tối cao là Chúa Giêsu Kitô, và đồng thời phải biết tuân phục sự hướng dẫn và chăm sóc của các vị lãnh đạo Chúa đã đặt làm mục tử coi sóc đoàn chiên thay thế Con Chúa.

* Áp dụng thực hành:

Nghe Lời Chúa nói:

1) "Ai không qua cửa mà vào chuồng chiên": Chúa dạy chúng ta phải biết phân biệt những người chăn chiên "không qua cửa mà vào" tức là những người không được Giáo Hội chính thức uỷ nhiệm như những giáo sĩ giả, những giáo sĩ không tuân phục Giáo Hội, hoặc những vị phá giới, đồng thời cũng cần phân biệt những lý thuyết những ý thức hệ ngược với đường lối Chúa.

2) Vị mục tử đích thực là người được Giáo Hội chính thức bổ nhiệm đồng thời phải có tư cách như tận tâm chăm sóc yêu mến đoàn chiên, sẵn sàng hy sinh cho đoàn chiên và nhất là biết hướng dẫn đoàn chiên theo giáo huấn của Chúa.

3) "Ta là cửa chuồng chiên" Chúa đòi hỏi ta phải tin và sống theo Chúa Kitô mới được cứu độ. Chỉ có Chúa Kitô là con đường duy nhất dẫn ta vào sự sống đời đời.

4) Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Những ai hướng dẫn ta, lôi kéo ta, cai trị ta mà không theo đường lối của Chúa, không thông hiệp với Giáo Hội, thì đều là những kẻ nguy hại cho phần rỗi của ta, nên phải đề phòng và canh chừng những người đó.

5) Hãy tin tưởng và phục tùng những người lãnh đạo đã được Chúa uỷ thác trong Giáo Hội để chăm sóc đoàn chiên Chúa.

6) Cầu nguyện trong ngày Ơn Thiên Triệu.

+ Xin Chúa cho nhiều người quảng đại đi theo tiếng Chúa gọi.

+ Xin Chúa cho linh mục, tu sĩ trung thành với ơn gọi.

+ Xin Chúa hướng dẫn lớp trẻ về với ơn gọi.

------------------------------------

 

PS 4-A53: Chủ chăn


Chủ chăn đi trước và đoàn chiên theo sau.
 

Một trong những việc người chủ chăn thường phải làm, đó là đi trước để tìm đường nẻo bảo:PS 4-A53


Một trong những việc người chủ chăn thường phải làm, đó là đi trước để tìm đường nẻo bảo đảm và an toàn cho đoàn chiên yên hàn theo sau.

Người chủ chăn cần nhìn xa trông rộng xem có thú dữ, trộm cắp gần kề hay không? Và nhất là phải để ý đến con đường ở trước mặt, vì có những con đường sẽ dẫn tới vực thẳm nguy hiểm hay rừng rậm vướng chân, có những con đường sẽ dẫn tới ngõ cụt không lối ra. Người chủ chăn cần phải nghiên cứu kỹ xem con đường mình sẽ đưa đoàn chiên đi qua đó có khúc quanh nào nguy hiểm, có hốc đá nào cheo leo, có cỏ dại nào cần nhổ.

Người chăn chiên ở Do Thái không dễ dàng như người chăn trâu chăn bò ở Việt Nam, vì đất nước họ có quá nhiều sỏi đá và cát nóng. Nhất là vào mùa hè, người chủ chăn phải dành hết thời giờ ban ngày để phấn đấu kiếm của ăn cho đoàn chiên.

Từ đó chúng ta đi vào đời sống riêng tư. Có bao giờ chúng ta cảm nghiệm được sự dẫn dắt của Chúa, có bao giờ chúng ta nhận ra Chúa hằng đi trước mặt chúng ta hay không? Biết bao nhiêu biến cố đã xảy đến trong cuộc đời và bàn tay Chúa đã dẫn dắt chúng ta vượt qua một cách bình an mà ngày hôm nay chúng ta vẫn chưa hay biết.

Đã bao nhiêu lần chúng ta thất bại trắng tay mà rồi tới ngày hôm nay vẫn chưa phải chết đói. Biết bao nhiêu lần chúng ta gặp phải những cảnh lo âu, nhưng rồi lại được tai qua nạn khỏi. Chúng ta có biết rằng đó là bàn tay nhân từ của Chúa đã chăm sóc chúng ta hay không?

Xét mình lại, chúng ta thấy mình không xứng đáng để được hưởng những ơn huệ to lớn đó mà Chúa đã ban, và chỉ ban riêng cho chúng ta mà thôi.

Chúng ta hãy nghĩ đến trường hợp của vua Đavid. Từ khi còn là một cậu bé chăn chiên đến khi lên làm vua, đã phải đương đầu với biết bao nhiêu khó khăn. Một mình tay không đánh nhau với sư tử, chiến đấu với Goliat, có lúc ông ở kề bên tử lộ nhưng Chúa kéo ông ra khỏi. Sau này nhớ lại ông mới thấy Chúa đã chăm sóc cho ông quá nhiều và ông đã viết lên thánh vịnh 23:

- Ngài dẫn dắt tôi qua những nẻo đường ngay chính.

Phải, Ngài muốn chúng ta làm những điều tốt lành. Nếu tuân theo, chúng ta sẽ không bao giờ bị lầm lạc và hối tiếc. Thế nhưng đôi khi vì thiển cận, vì những hào nhoáng bên ngoài, chúng ta không thấy được đường nẻo của Chúa, chúng ta chống đối Ngài và làm Ngài buồn lòng.

Có những khi càng xa Chúa, Chúa càng để chúng ta bị thất bại cay đắng. Trong trường hợp ấy, người con Chúa phải biết nhận ra mình đã dại dột đi theo ý riêng và phải sớm lo trở về cùng Chúa qua tâm tình ăn năn thống hối. Còn nếu chúng ta sống công chính mà lại gặp phải buồn khổ, thì hãy bình tĩnh vì Thiên Chúa đang tinh luyện chúng ta, đang cần sự đóng góp nhỏ bé của chúng ta.

Hẳn rằng giờ đây trong chúng ta có những người đang bị ngọn sóng khổ đau vùi dập. Trước mắt là màu đen của tang chế, màu tím của bệnh tật. Không biết ngày mai sẽ ra sao? Nào cơm ăn áo mặc, nào tương lai sự nghiệp, nào con cái.

Xin hãy đặt trót niềm tin tưởng vào Chúa, Người chủ chăn tốt lành, Ngài sẽ lo liệu tất cả nếu chúng ta nương cậy nơi Ngài như một con chiên bé nhỏ. Chúa biết chúng ta không đủ sức đạp đổ những khó khăn, như vậy Chúa bảo chúng ta hãy đứng vào bày chiên của Ngài, để thấy được Ngài thực sự là chủ chăn đã hiến mạng sống vì con chiên để nhờ đó con chiên được sống và sống dồi dào hơn.

------------------------------------

 

PS 4-A54: Cửa chuồng chiên – ĐTGM. Ngô quang Kiệt


Ga 10,1-10
 

Cửa có hai công dụng.  Để đóng vào và để mở ra.  Có những cánh cửa như cửa tù ngục để giam kín: PS 4-A54


Cửa có hai công dụng.  Để đóng vào và để mở ra.  Có những cánh cửa như cửa tù ngục để giam kín phạm nhân.  Có những cánh cửa giam hãm, bưng bít con người không cho thông giao với thế giới bên ngoài.  Có những cánh cửa lò sát sinh nhốt thú vật để giết chết.  Đó là những cánh cửa đóng kín chết chóc, huỷ hoại.  Có những cánh cửa mở ra đón gió mát, đón khí trong lành, đón ánh sáng mặt trời tươi vui.  Có những cánh cửa mở ra những chân trời xa tắp, khơi lên trong tâm hồn mơ ước cao xa.  Có những cánh cửa mở ra đón nhận anh em trong tình huynh đệ thân mến.  Đó là những cánh cửa mở ra sự sống.

Hôm nay, Chúa Kitô nói: “Ta là cửa chuồng chiên”, Người đã tự nhận mình là cánh cửa.  Chúa Giêsu là cánh cửa không phải để đóng kín giam hãm đàn chiên.  Nhưng là cánh cửa mở ra.

Chúa Giêsu là cánh cửa mở ra những chân trời vô tận.

Thỉnh thoảng ta nghe có dư luân xôn xao về ngày tận thế.  Tất nhiên đó là một tin đồn thất thiệt, nhảm nhí, đượm mầu sắc mê tín dị đoan.  Nhưng tin đồn đó cũng nói lên một sự thực là: Thế giới mà chúng ta đang sống là một thế giới hạn hẹp, sinh mạng con người là bèo bọt, kiếp sống con người là mong manh.  Thật đáng buồn nếu con người chỉ có thế, bị kết án chung thân vào một thân xác mau tan rã, bị giam hãm trong một thế giới vật chất mau tàn tạ.

Chúa Giêsu Phục sinh đã phá vỡ vòng vây giam hãm đó.  Khi tảng đá lấp cửa mộ lăn ra, Chúa Giêsu đã mở ra cho nhân loại một cánh cửa.  Cánh cửa đó dẫn vào một không gian vô tận.  Từ nay con người không còn bị kết án chung thân vào thân xác mau tan rã nữa, vì Chúa Giêsu phục sinh đã mặc lấy thân xác vinh hiển không bao giờ chết.  Từ nay con người không còn bị giam hãm trong thế giới vật chất mau tàn tạ nữa, vì Chúa Giêsu Phục sinh đã mở lối ra thế giới thần linh, trong đó con người sống trong tự do, không còn bị ràng buộc trong không gian.  Đó là một thế giới mới, thế giới vĩnh hằng, không bao giờ tàn tạ, thế giới vô biên chẳng có giới hạn.

Khi mở cánh cửa vào thế giới thần linh, Chúa Giêsu đã đẩy lùi ranh giới của thế giới vật chất đến vô hạn.  Khi mở cánh cửa vào thế giới thần linh, Chúa Giêsu đã chắp cánh cho ước mơ của con người. Ước mơ ấy chẳng còn hạn hẹp trong những hạn chế của vòng vây thế giới, nhưng bay lên ngang tầm trăng sao để mơ những giấc mơ thần thánh.  Khi mở cửa và thế giới thần linh, Chúa Giêsu đã giải phóng con người khỏi cảnh ngộ nô lệ vật chất hư hèn, nâng con người lên cuộc sống tự do của con Thiên Chúa.

Chúa Giêsu là cánh cửa mở ra suối nguồn sự sống

Thật là vô lý nếu con người sống chỉ để chết.  Thật là vô lý nếu chết là hết.  Nếu định mệnh con người là như thế, thà không sống còn hơn.  Mỗi khi vào bệnh viện, ta không khỏi suy nghĩ khi nhìn những bệnh nhân rên xiết, quằn quại đau đớn hoặc thấy những tấm thân gầy còm, những khuôn mặt hốc hác.  Đó là cái chết đang sống hay là một sự sống đang chết?  Đời sống như thế còn có ý nghĩa gì không?
Chúa Giêsu đã bước vào thế giới kẻ chết để chiến đấu chống lại thần chết.  Người đã chiến thắng.  Và khi Người mở cửa mộ bước ra, Người đã mở cánh cửa dẫn vào một cuộc sống mới.  Cuộc sống mới là một cuộc sống trọn vẹn bởi vì không còn bóng dáng Thần chết.  Cuộc sống mới là một cuộc sống sung mãn bởi vì chẳng còn vết tích của đau khổ, bệnh tật, đói khát.  Cuộc sống mới là một cuộc sống siêu nhiên trong đó con người được nâng lên làm con Thiên Chúa, được tham dự vào chính sự sống của chúa.  Cuộc sống mới là một cuộc sống hạnh phúc vì được kết hợp với Thiên Chúa Ba Ngôi trong một tình yêu trọn hảo.


Như thế cuộc sống con người vẫn có một hướng đi lên, để được nâng cao, để được phong phú, để được hoàn hảo.  Chính vì thế mà dù biết cuộc sống khổ đau, người ta vẫn vui mừng khi một em bé chào đời. Chính vì thế người ta vẫn ăn mừng sinh nhật, coi đó là ngày trọng đại trong đời người.

Chính Chúa Giêsu đã biến đổi thân phận con người.  Con người sinh ra không phải để chết, nhưng để sống, sống sung mãn, sống trọn vẹn, sống vĩnh viễn trong suối nguồn sự sống.

Nhưng để mở ra cho ta những chân trời vô tận của con Thiên Chúa, chúa Giêsu đã chịu nhận lấy kiếp sống mong manh, phù du, bèo bọt của con người.  Để mở ra cho suối nguồn sự sống, Người đã phải đón nhận cái chết đau đớn.  Người chính là vị Mục tử chân chính đã thí mạng vì đàn chiên.

Chúa Giêsu quả thật là cánh cửa mở ra cho đàn chiên đi đến những chân trời xa rộng, đi đến những đồng cỏ xanh tươi, đi đến những dòng suối trong lành.

Chúa Giêsu quả là vị mục tử tốt lành luôn chăm sóc đoàn chiên, luôn nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực bổ dưỡng.  Chúa Giêsu đã đến cho ta được sống và được sống dồi dào.

Đó là cánh cửa duy nhất dẫn đến sự sống, ta hãy theo sát gót Người.  Đó là người mục tử duy nhất, ta hãy nghe tiếng Người.  Hãy đến với Người để Người đưa ta đến những chân trời xa rộng.  Hãy đến với Người để Người băng bó vết thương, xoa dịu nỗi đau và phục hồi sự sống.  Hãy đến với Người để Người đổ tràn tình yêu và sự sống vào tâm hồn ta.

TGM Ngô Quang Kiệt

1) Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên. Tôi có theo vào cửa Người hay tôi đã chọn nhầm cửa khác?

2) Chúa Giêsu là cánh cửa mở. Tôi có thường đóng cửa, ngăn không cho người khác vào?

3) Chúa Giêsu đã hiến mạng sống để mở cửa cho tôi. Tôi có sẵn sàng hi sinh để mở cửa thêm rộng không?

------------------------------------

 

PS 4-A55: NGƯỜI CHĂN CHIÊN VÀ KẺ TRỘM

 

Hôm nay Hội Thánh mừng Lễ Chúa Chiên Lành và cầu nguyện cho ơn kêu gọi. Vậy Chúa:PS 4-A55


Hôm nay Hội Thánh mừng Lễ Chúa Chiên Lành và cầu nguyện cho ơn kêu gọi. Vậy Chúa Chiên Lành là ai và cầu nguyện cho ơn kêu gọi là gì?

Thường khi nói đến chủ chăn hay chúa chiên là chúng ta nghĩ ngay đến các Giám Mục và Linh Mục. Cũng thế, khi nói đến ơn kêu gọi là chúng ta nghĩ đến ơn gọi Linh Mục và tu sĩ. Có thật sự Chúa chỉ trao nhiệm vụ chăn chiên cho hàng giáo sĩ và chỉ gọi người ta đi tu mà thôi không, hay là Người còn gọi và trao nhiệm vụ này cho nhiều người khác nhau?

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói rõ: “Ta là cửa chuồng chiên.” Để hiểu thế nào là cửa chuồng chiên, chúng ta nên biết rằng vào thời Chúa Giêsu ở Palestine, nghề chăn chiên là nghề du mục. Người chủ chiên và những người chăn chiên làm việc cho ông dẫn chiên đi khắp nơi để ăn cỏ và tìm nước uống. Đêm đến thì chiên được quây vào một chỗ và chỉ có một lối vào. Thay vì cổng thì người chủ chiên nằm ngay ở lối vào này. Ai muốn vào đàn chiên thì phải đi qua lối này. Nếu xé rào mà vào thì là kẻ trộm.

Chỉ có một Chúa Chiên Duy Nhất là Đức Kitô

Dựa vào Lời Chúa hôm nay, chúng ta có thể khẳng định rằng ngoài Đức Kitô ra thì không còn có một Chúa chiên nào khác. Người là cửa duy nhất để vào đàn chiên. Ai muốn làm con chiên của Người thì phải nghe tiếng Người và đi theo Người. Nhưng Chúa chiên thường cũng có nhiều người khác phụ Người mà chăn chiên. Ai muốn chăn chiên cho Người thì phải qua Người mà ra vào đàn chiên. Nghĩa là phải phục vụ vì danh Chúa.

Tất cả chúng ta được mời gọi làm kẻ chăn chiên cho Người

Không phải chỉ có các giáo sĩ và tu sĩ mới được mời gọi làm kẻ chăn chiên cho Chúa mà tất cả chúng ta, qua Bí Tích Thanh Tẩy, cũng được Chúa mời gọi làm người chăn chiên cho Người, mỗi người trong phạm vi và hoàn cảnh của mình.

1. Nếu còn độc thân thì con chiên của chúng ta chính là linh hồn, thân xác và tương lai của chúng ta. Chúa mời gọi mỗi người chúng ta làm chủ chính mình và quy hướng tất cả về Chúa.

2. Nếu có gia đình thì đàn chiên mà Thiên Chúa trao cho chúng ta chính là gia đình và con cái chúng ta.

3. Nếu là Giáo Lý viên, thầy cô, hay người lãnh đạo các đoàn thể trong cộng đoàn, thì đàn chiên chính là các học sinh hay đoàn viên của các đoàn thể Chúa trao.

4. Nếu là các Giám Mục, Linh Mục, hay tu sĩ thì đàn chiên chính là các giáo phân, giáo xứ hay cộng đoàn mà Chúa trao.

Nói tóm lại, Chúa mời gọi tất cả mọi người chăn chiên cho Người tùy theo đấng bậc của mình. Đối với Chúa, chăm sóc một đàn chiên nhỏ bé như bản thân, gia đình hay lớp học cũng quan trọng như chăm sóc một giáo xứ, một giáo phận hay cả Hội Thánh Hoàn Vũ, vì cá nhân và gia đình chính là những viên gạch căn bản để xây dựng những cơ sở khác của Hội Thánh.

Cầu nguyện cho ơn gọi

Muốn có nhiều ơn gọi tu trì thì trước hết cần phải có nhiều giáo dân thánh thiện. Cá nhân có thánh thiện thì gia đình mới thánh thiện. Và những cá nhân và gia đình thánh chính là những tác nhân mà Chúa dùng để thánh hóa xã hội như men được trộn trong bột. Những gia đình thánh thiện trong một xã hội tốt lành sẽ là những vườn ươm ơn gọi tu trì. Sở dĩ xã hội Âu Mỹ ngày nay thiếu ơn kêu gọi tu trì bởi vì gia đình và xã hội bây giờ chỉ là những vườn ươm cây cằn cỗi hoặc bị bỏ hoang.

Muốn có nhiều tín hữu và gia đình thánh thiện thì cần phải có nhiều Linh Mục, tu sĩ và Giáo Lý viên thánh thiện. Truyền đạo bằng lời nói thì thật dễ dàng, nhưng không đưa đến kết quả nếu lời nói không đi đôi với việc làm.

Vậy ơn gọi giáo dân và ơn gọi tu trì quấn quyện với nhau, bổ túc cho nhau và không thể tách rời nhau được. Nếu chúng ta cầu nguyện cho có nhiều Linh Mục thánh thiên mà quên cầu nguyện cho có nhiều giáo dân thánh thiện thì lời cầu nguyện của chúng ta khó mà thành tựu!

Chúa cần những người chăn chiên chân chính chứ không cần kẻ trộm hoặc người làm thuê

Người chăn chiên chân chính là người (1) “qua cửa mà vào”, tức là làm việc vì Chúa (Chúa là cửa), (2) sẵn sàng “hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên,” nghĩa là biết quên mình, biết hy sinh thì giờ, tiền bạc, danh vọng và ngay cả mạng sống mình cho những ngưởi Chúa trao phó cho mình. Họ không hành động như kẻ trộm hoặc kẻ làm thuê.

Kẻ trộm: Như Chúa đã nói, những người “không qua cửa mà vào chuồng chiên thì kẻ trộm cướp” (Ga 10:1). Tất cả những ai làm việc cho Chúa vì mục đích riêng chứ không phải để vinh danh Chúa đều bị Chúa coi như kẻ trộm vì đã “không qua cửa mà vào.” Những người ấy không những chỉ ăn trộm và hại chiên mà còn ăn cắp cả vinh danh của Thiên Chúa.

Kẻ làm thuê: “Một người làm thuê không phải là mục tử, và đàn chiên không phải là của anh ta, nên khi thấy sói đến thì anh ta bỏ đàn chiên mà chạy trốn. Nên sói bắt chiên và làm chúng bị tan tác, vì anh ta làm thuê nên không lo lắng gì cho đàn chiên” (Ga 10:12-13). Tất cả những ai làm việc cho Chúa mà còn mong muốn được tiếng khen hay phần thưởng, hoặc muốn được thấy kết quả, đều là những kẻ làm thuê, vì mong được chủ trả lương.

Ngày xưa mỗi khi nói đến ơn gọi, thường người ta chỉ nghĩ đến ơn gọi tu sĩ mà quên rằng ơn gọi chính của mọi Kitô hữu là ơn gọi nên thánh. Nên thánh là trở nên giống Chúa Giêsu, Vị Mục Tử Nhân Lành. Nên thánh là theo gương Chúa Giêsu, chết cho tội lỗi để sống lại với Người. Nên thánh là vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa. Và hôm nay Hội Thánh nhắc nhở cho chúng ta là hãy “qua cửa mà vào” nghĩa là chỉ phục vụ những người Chúa trao phó cho chúng ta vì một động lực duy nhất là yêu Chúa và làm vinh danh Chúa mà thôi. Có như thế chúng ta cũng nên giống Chúa làm mục tử nhân lành nơi đàn chiên nhỏ bé mà Người trao phó cho chúng ta. Một khi bản thân chúng ta được thánh hóa, thì gia đình chúng ta và xã hội này cũng được thánh hóa, và như thế vườn ươm ơn kêu gọi tu trì của Hội Thánh lại trở nên mầu mỡ.

Lạy Chúa xin thánh hóa mỗi người chúng con, đặc biệt là các Linh Mục của Chúa để chúng con trở thành những người chăn chiên tốt lành, biết làm mọi vì yêu mến Chúa chứ không phải như kẻ trộm có những ẩn ý riêng tư, hay như người làm thuê chỉ mong được thưởng mà thôi. Amen.


Phaolô Phạm Xuân Khôi

------------------------------------

 

PS 4-A56: GIÁO HỘI VÀ HÌNH ẢNH ĐÀN CHIÊN

 

Hôm nay Giáo Hội mừng kính lễ Chúa Chiên Lành. Các bài đọc nói về Chúa Giêsu như người:PS 4-A56


Hôm nay Giáo hội mừng kính lễ Chúa Chiên lành. Các bài đọc nói về Chúa Giêsu như người Mục Tử nhân lành luôn chăm sóc cho đoàn chiên, Người đã thí mạng sống mình cho đàn chiên "được sống và sống dồi dào". Chúa Giêsu tự nhận mình là cửa của chuồng chiên, nơi mà khi đêm về, các chiên đi vào để nghỉ ngơi, an toàn rồi sáng sớm hôm sau sẽ lại được lùa ra đồng cỏ để được ăn uống thỏa thuê.

Giáo hội Chúa tựa như một chuồng chiên, các phẩm trật trong Hội thánh chính là những mục tử nhân lành mà Chúa muốn nhắc nhớ chúng ta qua các bài đọc hôm nay.

Chúa nhật hôm nay cũng được gọi là Chúa nhật cầu nguyện cho Ơn Thiên Triệu. Giáo hội kêu mời mọi người Kitô hữu hãy liên lủy cầu nguyện, để tâm nâng đỡ, khuyến khích và nuôi dậy con cái trở nên những con chiên ngoan hiền sẵn sàng lắng nghe và đi theo tiếng Chúa, hầu có nhiều người dâng hiến đời mình cho cánh đồng truyền giáo của Chúa.

Chuồng chiên ở ngoài đồng trống bên Do thái xưa cũng như nay, được vây bằng những tảng đá cao chừng một mét bốn bề, chỉ có một lối ra vào rất hẹp để ngăn ngừa thú dữ sát hại chiên, khi đàn chiên đã vào hết trong chuồng, người mục tử khi ngủ đã dùng thân xác mình làm cửa chắn ngang để sẵn sàng đối phó với mọi động tĩnh khi người hay dã thú xâm nhập muốn hại đàn chiên, đôi khi đã phải hy sinh mạng sống mình; như Chúa Giêsu vị mục tử nhân lành đã hy sinh mạng sống để canh giữ đàn chiên vậy.

Việc Chúa hiểu biết từng con chiên của mình như hình ảnh người cha ôm hôn đứa con hoang đàng hối lỗi quay trở về. Bởi vì dưới ánh mắt nhân từ, người cha đã thương cảm về sự yếu đuối dại khờ, nông nổi của đứa con khốn khổ, và hiểu thiện chí con mình muốn hối cải. Người cha đã chạy ra xa mừng rỡ đón nhận con. Hình ảnh này phản ảnh tình yêu và ơn tha thứ của Chúa qua bí tích hòa giải.

Chúng ta thường thấy hình ảnh Chúa Giêsu với cây gậy đang đi giữa đoàn chiên, khuôn mật hiền từ và ý chí kiên nhẫn chăm sóc các con chiên đang hiện rõ trên ánh mắt trìu mến của Người, ở một bức hình khác, ta thấy Chúa đang vác một con chiên trên vai, nó bị thất lạc, Người tìm thấy nó mang về với đàn chiên của mình, đây chính là cách thế mà Chúa hằng chăm sóc những con chiên trong đàn chiên của Giáo hội Chúa ở trần gian.

Chúng ta hãy cầu nguyện cho ơn thiên triệu, xin Chúa ban nhiều linh mục để Giáo hội có nhiều mục tử chăn dắt đàn chiên trên mọi cánh đồng truyền giáo, muốn được như vậy, mọi tín hữu không những bằng lời cầu nguyện, mà con bằng cả những đóng góp và hy sinh trong công việc quản trị, thánh hóa và chăm sóc đàn chiên của Chúa. Tại các giáo xứ, mọi tín hữu quy tụ quanh cha xứ và chung tay phụ giúp các công tác mục vụ của ngài, việc cử hành phụng vụ, việc chăm sóc các người đau yếu, gìà nua neo đơn, việc thi hành công tác bác ái với những anh em khó nghèo vô gia cư, thất nghiệp đói khổ, nhất là công việc truyền giảng tin mừng Chúa Kitô cho những anh em chưa biết đến Chúa.

Tất cả đòi hỏi sự cộng tác của mọi giáo hữu, cả về vật chất lẫn tinh thần. Ngoài ra, chúng ta còn có bổn phận phải đóng góp chính con cái của mình cho ơn gọi làm linh mục tu sĩ, hãy bắt đầu bằng việc xây dựng một gia đình thánh thiện, hạnh phúc, thứ đến là việc dạy dỗ con cái trở nên những giáo dân đạo hạnh Cho con em theo học các trường Công giáo để chờ đợi và sẵn sàng hiến dâng cho Chúa theo tiếng gọi của Người. Chúng ta cũng hãy tu luyện cá nhân, hãm mình ép xác, tập cho mình những nhân đức căn bản và tự thánh hóa bản thân; sau đó sống cuộc sống hiền hoà yêu thương, và nên gương sáng cho con cái, anh em trong gia đình, xóm giềng lân bang và nhất là ngoài cộng đồng xã hội.

Hãy đóng góp cho Chúa những người thợ gặt khỏe mạnh, cần cù và đức độ, đây chính là việc cộng tác để xây đắp chuồng chiên Chúa kiên cố hơn. Trước mắt chúng ta có biết bao gương sáng trong ơn gọi. Hơn ba chục năm qua, Cộng đoàn này đã đóng góp cho Chúa được hàng chục mục tử. Và tương lai sự đóng góp ấy vẫn còn tiếp tục lớn mạnh. Đóng góp nhân lực vẫn chưa đủ, chúng ta cần phải cầu nguyện xin Chúa gìn giữ và thánh hóa các linh mục, để các ngài trở nên những đấng chăn chiên nhân lành theo lòng mong ước của Chúa.

Các linh mục được ủy thác bởi các giám mục chăm sóc đàn chiên Chúa, phụ giúp với các ngài là các phó tế. Các linh mục chính là những mục tử mà Chúa nói đến trong phúc âm hôm nay; là người cha tinh thần của cả đoàn chiên, các cha luôn chăm sóc mọi con chiên của mình, ngài ân cần nâng đỡ những con chiên đau yếu, băng bó những con chiên thương tật và ủi an những con chiên đau buồn. Giáo hội kỳ vọng vào các cha trong việc hướng dẫn chăm sóc và chữa lành về tâm linh của mọi tín hữu, bằng việc ban phá các ơn ích qua các phép bí tích và cử hành các nghi thức phụng vụ,

Việc cộng tác với cha xứ là điều mà Chúa hằng kêu mời chúng ta; để các cha có thể mang đến sức sống dồi dào cho cộng đồng dân Chuá, tăng thêm ý chí và đức tin cho tòan thể giáo dân của Ngài. Bằng những lời giảng dạy, gương sáng và cuộc sống hiền hòa, khiêm nhường, yêu thương; các cha sẽ sốt sắng hơn trong nhiệm vụ thánh hóa, nuôi dưỡng và chữa lành cho mọi con chiên trong xứ.

Trong mọi hoàn cảnh, các linh mục vẫn luôn lo lắng về những an nguy cả tâm linh lẫn thể xác cho mọi giáo hữu. Đối với đàn chiên, vị chủ chăn luôn luôn tỉnh thức và cảnh giác để sẵn sàng bảo vệ đàn chiên của mình, nhất là luôn đối xử đại lượng, bao dung, vị tha và công bình với hết mọi tầng lớp trong xã hội, không phân biệt giàu nghèo sang hèn, thân hay sơ. Sự công bằng đối xử là nền tảng cho tình hiệp nhất chống lại bao giông bão chia rẽ trong cộng đoàn. Những bất công dù nhỏ cách mấy cũng sẽ là đầu mối tạo nên nhiều chán chường cho cả đoàn chiên. Vị mục tử nhân lành phải luôn biết hy sinh tất cả vì đàn chiên của mình.

Để có được yêu thương và sự sống an lành, để được hưởng cuộc sống trường sinh Chúa hứa, chúng ta cần phải biết lắng nghe và đi theo tiếng Chúa, chứ không phải tiếng gọi của thế gian; biết dõi bước theo những giáo huấn của Mẹ Giáo hội và đừng đi theo những đam mê bất chính của gian trần.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho các các gia đình trong xứ được bình an và nhiều ơn Chúa, xin ban cho Giáo hội có thêm nhiều mục tử, biết sống hiền từ nhân ái và khiêm nhu; biết hy sinh cho đàn chiên được sống dồi dào.


Pt. Lorensô Ngô Thế Tòng

------------------------------------

 

PS 4-A57: Xin cho cánh đồng của Chúa có nhiều "Thợ Gặt"


Xin cho cánh đồng của Chúa có nhiều "Thợ Gặt" biết dấn thân phục vụ và sống xứng đáng với chức vụ
 

Lạy Chuá xưa Chúa đã phán: Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt…” là lời hát thuờng nghe đuợc vào những ngày:PS 4-A57


“Lạy Chuá xưa Chúa đã phán: Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt…” là lời hát thuờng nghe đuợc vào những ngày Chúa nhật cầu cho ơn Thiên Triệu trong lịch Phụng vụ của Giáo hội.

Nghe lời hát này nhiều nguời cứ nghĩ đơn giản rằng Giáo hội muốn giáo hữu góp lời cầu nguyện để càng ngày càng có thêm nhiều linh mục, tu sĩ hầu đáp ứng con số giáo dân gia tăng theo thời gian. Hơn nữa cũng cần có thêm nguời dấn thân vào con đuờng tu trì để thay thế cho những mục tử đã gìa yếu, không còn khả năng phục vụ nữa.

Thật ra nghĩ như vậy là chưa hoàn toàn đúng. Giáo hội đặc biệt dành ngày Chúa nhật thư tư Phục sinh gọi là Chúa nhật Chúa Chiên Lành cũng là Chúa nhật cầu cho Ơn Thiên Triệu là Giáo hội còn nhìn xa hơn. Cần có thêm “thợ gặt” vì cánh đồng truyền giáo bao la bát ngát hãy còn để hoang vu ở nhiều nơi, nhiều chỗ. Hãy còn qúa nhiều người trên mặt đất này chưa biết Chúa vì vắng bóng nguời đi rao giảng tin mừng cứu rỗi.

Nhưng ngoài việc cầu nguyện để có đủ mục tử chăm sóc cho đoàn chiên đã có sẵn và cần có thêm nhiều “thợ gặt” để khai thác cánh đồng truyền giáo còn hoang phế, hẳn là Giáo hội còn muốn giáo hữu cầu nguyện cho sự thánh thiện và lòng nhiệt thành của các mục tử để các ngài biết sống giản dị, hy sinh và luôn tỉnh táo để biết rằng sống giữa thế gian nhưng không được theo thói tục thế gian hầu chu toàn bổn phận trong vai trò của mình. Nói cách khác Giáo hội mong muốn càng ngày càng có nhiều mục tử chân chính và giảm bớt đến mức tối thiểu con số mục tử chưa thật sự xứng đáng, chưa sống thật đúng đời tận hiến của các bậc tu trì.

Mục tử chưa xứng đáng là ai? Thưa là những mục tử thích sống an nhàn, chưa dốc toàn tâm toàn lực để hoàn thành trách vụ của nguời mục tử. Họ là những mục tử chưa sống đúng với tinh thần nghèo khó của nguời đã tuyên hứa từ bỏ tât cả để đi theo Chúa. Họ cũng là những mục tử thích huởng thụ hơn là hy sinh, đôi khi còn tiêm nhiễm thói hư tật xấu …

Có một câu chuyện vui kể về một linh mục ham ăn nhậu đến độ có lần uống qúa chén. Đến giờ làm lễ linh mục quýnh quáng mặc áo lễ chệnh choạng buớc ra làm lễ. Khi huớng về phía giáo dân, đầu óc linh mục còn nửa tỉnh nửa say cho nên thay vì nói lời chúc “Chúa ở cùng anh chị em” thì lời chúc lại biến thành câu hỏi “Chúa ở đâu rồi anh chị em?”. Tuy đây chỉ là một câu chuyện vui nhưng nó cũng phản ảnh phần nào thực trạng của một số linh mục còn ham mê thú vui vật chất, chưa thực sự sống cuộc sống đơn sơ, giản dị của nguời mục tử.

Một lần tôi đọc đuợc trên internet một câu chuyện hơi là lạ. Một giáo dân từ Mỹ về Việt Nam xin lễ nhưng bị linh mục chê ở Mỹ về mà xin lễ với bổng lễ “bèo” như vậy thì … xin lỗi. Tôi cứ tuởng đó là chuyện có một không hai ở trên đời nhưng không ngờ chính tôi cũng đã có lần gặp phải truờng hợp tuơng tự.

Tôi không rõ ở Việt Nam mỗi lần xin lễ giáo dân phải đưa bao nhiêu tiền nhưng hiện nay tại giáo xứ tôi đang ở (và tôi tin rằng ở các giáo xứ Mỹ khác cũng vậy) giáo dân chỉ cần 5 đôla nếu không đăng tên trong Bulletin của giáo xứ hay 10 đôla nếu có đăng tên để xin một ý lễ. Trong cuốn “Những Trang Nhật Ký Của Một Linh Mục” linh mục Nguyễn Tầm Thuờng kể trong một dịp sang Ấn Độ ngài đến dâng lễ tại một Dòng Kín và nhận đuợc một phong bì 50 ruppi cho ý lễ hôm đó. Linh mục cũng cho biết ở Ấn Độ trung bình một ý lễ là 30 ruppi (46.10 ruppi theo giá chợ đen hay 45.50 ruppi theo giá chính thức đổi đuợc 1 đôla Mỹ).

Theo “giá biểu” ở bên Mỹ tôi thường gửi 100 đôla về các giáo xứ nghèo ở Việt nam để xin dâng 10 ý lễ với ý nghĩ làm một công hai chuyện, vừa xin lễ lại vừa có thể giúp các linh mục tại các giáo xứ nghèo ở bên quê nhà. Thuờng thì mỗi khi tôi email hay gọi điện thoại hỏi truớc đều đuợc các linh mục vui vẻ đón nhận. Một linh mục còn nói với tôi cứ gửi về cho ngài càng nhiều ý lễ càng tốt để ngài dâng lễ lấy tiền mua vật liệu tu sửa nhà thờ. Nhưng cũng có lần bị một linh mục chê “Ở Mỹ mà như vậy thì thuờng qúa”. Linh mục tỏ vẻ ngần ngại không muốn nhận khiến tôi chưng hửng đành phải xin lỗi đã làm phiền linh mục. Tôi không dám bình phẩm gì về vịệc này chỉ cảm thấy hơi buồn.

Trong ngày Chúa nhật cầu cho ơn Thiên Triệu, giáo hữu cần cầu nguyện cho các linh mục và tu sĩ là những người đã dấn thân trong đời sống tu trì. Các ngài cũng chỉ là những con người yếu đuối không sao tránh khỏi những sai sót, lỗi lầm. Đặc biệt trong dịp này giáo hữu Việt Nam cần cầu nguyện nhiều cho các mục tử gỉa hiệu thuờng đuợc gọi là các linh mục và tu sĩ quốc doanh để họ sớm tỉnh ngộ mà quay về đường ngay nẻo chính. Mang danh linh mục, tu sĩ nhưng đức tin của họ đã bị lệch lạc, lối sống của nhiều người trong họ không còn là lối sống của nguời tin theo Chúa. Lời nói và việc làm của họ đi ngược lại với đường hướng của Giáo hội. Họ không tuân phục Tòa thánh, không vâng lời các Giám mục. Họ không còn thuộc về Giáo hội của Chúa nhưng vẫn mặc áo dòng và vẫn tự xưng là linh mục, tu sĩ.

Hẳn mọi người còn nhớ vào khoảng thời gian này năm ngoái dư luận thế giới xôn xao về việc một số giáo sĩ Ba Lan cộng tác với chế độ cộng sản trước đây. Những giáo sĩ này đã bí mật cộng tác với chế độ cộng sản và mới chỉ bị phát giác trong thời gian gần đây. Ngược lại các linh mục và tu sĩ quốc doanh tại Việt Nam đã công khai cộng tác với chế độ cộng sản. Những linh mục và tu sĩ quốc doanh này có thể lấy cớ bị áp lực hay bị bắt buộc phải cộng tác nhưng đó là chuyện của hơn 30 năm về trước kìa. Bây giờ khác rồi, họ có thể trở về với Giáo hội không còn khó khăn nữa. Vấn đề là họ có muốn hay không mà thôi.

Những mục tử gỉa hiệu này có người là đảng viên, là đại biểu quốc hội …, họ làm việc trong các “Ủy ban Đoàn kết” là tổ chức được lập ra nhằm lung lạc giáo hữu Công giáo. Trong hơn 30 năm qua họ đã cản bước tiến của Giáo hội trên quê hương, gây phiền muộn cho hàng giáo phẩm và khổ đau giáo dân Việt Nam. Thực chất họ chỉ là những con sói đội lốt mục tử. Có người đã không ngần ngại gọi những linh mục và tu sĩ quốc doanh là những kẻ đã bán linh hồn cho ma qủi.

Nhân nói đến chuyện bán linh hồn tôi nhớ đến một nhân vật trong một cuốn phim. Cuốn phim này tôi không được xem nhưng biết được nọi dung qua lời thuật của linh mục Vũ Minh Nghiễm trong một bài suy niệm của ngài.

Theo linh mục Vũ Minh Nghiễm thì cuốn phim được dàn dựng từ nhạc kịch Damn Yankees rất nổi tiếng trong thập niên 1950 tại New York. Vai chính của cuốn phim là Joe Boyd một người đã ngoài 40 tuổi. Ngay từ lúc còn nhỏ Joe hằng mơ ước được trở thành một ngôi sao sáng chói trong làng cầu baseball. Nhìn lại thấy mình đã ngoài 40 tuổi nhưng giấc mơ vẫn còn đó, Joe vẫn không ngừng mơ ước được trở thành một cầu thủ nổi tiếng.

Thế rồi một sự kiện bất ngờ đã xẩy đến. Một người lạ mặt tên là Applegate xuất hiện và nói với Joe rằng tuy chàng đã qúa tuổi để trở thành một cầu thủ nhưng Applegate có thể biến đổi Joe trở thành một thanh niên trai trẻ ở lứa tuổi đôi mươi. Applegate cũng nói có đủ quyền phép để biến giấc mơ của Joe thành sự thật. Kẻ có thể làm được những việc như thế là ai nếu không phải là Satan, quyền lực của bóng tối.

Joe biết rõ với Satan thì mọi việc đều có thể nhưng để đổi lấy giấc mơ kia chàng phải bán linh hồn cho nó. Joe rất phân vân nhưng cuối cùng chàng bằng lòng bán linh hồn với điều kiện là chàng có thể huỷ bỏ giao kèo nếu chàng muốn, vào trước ngày tranh tài để đoạt chức vô địch. Satan nghĩ một khi Joe đã đi qúa xa thì không thể nào quay trở lại để hủy bỏ giao kèo được nữa và nó bằng lòng việc mua bán với điều kiện nói trên.

Thế rồi Satan liền biến đổi Joe từ một người đã ngoài 40 tuổi thành một thanh niên 22 tuổi vạm vỡ, nhanh nhẹn, đầy nhựa sống. Joe lặng lẽ từ gĩa vợ con ra đi để bắt đầu cuộc đời mới đầy hứa hẹn.

Joe Hardy- tên gọi mới của chàng- đến Washington và xin gia nhập một đội banh ở đây như là một chân tập sự. Chỉ một sáng một chiều Joe Hardy đã trở nên một cầu thủ xuất sắc đựợc mọi người hâm mộ. Joe Hardy trở thành thần tượng của nhiều người. Joe không ngờ danh vọng của mình lại lên cao đến như vậy. Chàng không thể ngờ cuộc đời của chàng lại lên hương, hạnh phúc, tốt đẹp đến như vậy.

Thế rồi thời gian diễn ra cuộc tranh tài dành chức vô địch thế giới về môn baseball đã gần kề. Thời gian quyết định tuyệt đỉnh danh vọng của chàng cũng là thời gian giao kèo với Satan sắp đến ngày mãn hạn. Joe Hardy bỗng cảm thấy không còn hăng say với công việc. Càng lúc chàng càng cảm thấy như có một lỗ trống trong tâm hồn mà của cải, danh vọng, thú vui không lấp đầy được. Satan sắp xuất đầu lộ diện để bắt linh hồn chàng. Joe vô cùng sợ hãi nghĩ tới ngày đó và sau những dằn vặt cuối cùng Joe đã quyết định hủy bỏ giao kèo với Satan, không tham dự trận đấu. Từ đó Joe Hardy biến mất khỏi sân bóng một cách bí mật và bất ngờ giống như khi chàng xuất hiện. Ít ngày sau người ta thấy chàng trở về với gia đình dưới hình dáng của một người ngoài 40 tuổi tên là Joea Boyd.

Câu chuyện trên thật đáng để cho các linh mục và tu sĩ quốc doanh suy nghĩ. Hơn ai hết các linh mục và tu sĩ dù là linh mục và tu sĩ quốc doanh cũng đều biết lời Chúa trong sách Tin mừng của thánh Luca “Được lời lãi cả thế gian mà lỗ vốn mất linh hồn nào được ích gì”. Tự đặt mình ra ngoài Giáo hội thực ra các linh mục và tu sĩ quốc doanh cũng chẳng được lời lãi cả thế gian. Bất qúa họ chỉ được bố thí cho chút bả vinh hoa: bằng khen, mề đay, chút ít quyền lợi vật chất. Thử hỏi những thứ đó có đáng để đánh đổi cho phần rỗi linh hồn hay không?

Gần đây đã có một số nữ tu xin ra khỏi Ủy ban Đoàn kết. Đó là quyết định khôn ngoan. Các linh mục và tu sĩ quốc doanh khác hãy nhìn lại mình. Nói chẳng ai nghe, ra báo không ai thèm đọc mà mỗi năm tiêu phí của công qũy hàng mấy tỉ bạc. Nhà nước hẳn biết rõ điều đó cho nên việc dẹp bỏ các Ủy ban Đoàn kết nơi dung chứa các linh mục và tu sĩ quốc doanh sớm hay muộn cũng phải đến. Hỡi những người đi trật đường hãy mau quay trở lại. Như người cha trong dụ ngôn đứa con hoang đàng, Giáo hữu Việt Nam với tinh thần vị tha chắc chắn sẽ mở rộng vòng tay đón nhận những người sai đường lạc lối biết ăn năn trở lại. Các linh muc và tu sĩ quốc doanh, nhất là những vị tuổi tác đã cao hãy mau mau quay về kẻo không còn kịp nữa.

Vermont 10/4/2008

Lại Thế Lãng

------------------------------------

 

PS 4-A58: Cánh cửa chân chính dẫn vào cuộc đời


(Ga 10,1-10)
 

Trong cuộc sống xã hội hằng ngày, chúng ta ghi nhận có hai lớp người sống tùy thuộc một cách:PS 4-A58


Trong cuộc sống xã hội hằng ngày, chúng ta ghi nhận có hai lớp người sống tùy thuộc một cách đặc biệt vào sự tiếp cận và quan hệ với kẻ khác như một nhu cầu cần thiết. Ñó là:

• Lớp người thứ nhất là những người sống cần đến sự giúp đỡ của kẻ khác. Nhưng cả là một điều không đơn giản chút nào: Khi một người bị rơi vào con đường cùng – nghèo đói, bệnh tật, gặp tai ương hoạn nạn – và cần đến sự cứu giúp nâng đỡ của kẻ khác; thường họ chỉ gặp được thái độ dửng dưng, chối từ, chỉ gặp được những cặp mắt vô cảm, những đôi tai khép kín, những cánh tay bất động và cả con tim lạnh lùng. Người đó chỉ một mình quanh quẩn trong ngõ cụt của sự đau khổ của mình, chứ không tìm ra được lối thoát dẫn tới đồng loại. Vâng, những người sống tùy thuộc vào sự giúp đỡ của người khác, luôn cần đến sự tiếp cận của đồng loại.

• Lớp người thứ hai là những người phải tiếp cận với những người khác, do nghề nghiệp, trách nhiệm và quyền hành của họ đòi hỏi, để hướng dẫn đại chúng. Ñó là: a) Các nhà chính trị: để chiếm được phiếu tín nhiệm của cử tri và để quảng bá lập trường chính trị của mình, họ cần phải tiếp cận với quần chúng. b) Các Linh mục quản xứ: để các hoạt động mục vụ của mình có hiệu quả, các ngài cần phải giao lưu gặp gỡ với các thành phần của giáo xứ. c) Các bậc cha mẹ và các nhà giáo dục: để công việc giáo dục con cái và học trò của mình đạt được thành công, họ phải gần gũi và tiếp xúc với con cái.

Nói tắt, những ai muốn hướng dẫn hay phải hướng dẫn người khác, cần phải có sự tiếp cận với họ, cần phải tìm ra con đường dẫn tới các đối tác của mình.

Nhưng trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta lại thường gặp gỡ một số người khác mà người ta gọi là «hạng người khép kín». Họ là những người giống như những cánh cửa then gài chốt đóng kỹ càng. Người ta có thể giật chuông, gõ cửa hay gọi to tiếng, nhưng vẫn vô vọng, nhưng các cánh cửa vẫn bị khóa kín.

Tình trạng «khép kín», bất giao tiếp, thiếu thông thoáng, có thể bắt nguồn từ cách sống và tính nết của họ. Nhưng tình trạng khép kín đó cũng có thể bắt nguồn từ một nguyên nhân khác. Chẳng hạn khi người ta gõ sai cửa, hay khi người ta tìm đúng cửa nhưng lại dùng chìa khóa sai.

Một trong những cánh cửa sai lệch như thế, là: cánh cửa của ham mê quyền hành danh vọng, của hận thù, của lòng ích kỷ, địa phương tính, đố kỵ, v.v… Ai tìm cách đi qua loại cửa này, sẽ khó lòng tiếp cận được với những người đồng loại, ít là một cách lâu bền. Ai tìm cách đi qua loại cửa như thế, sẽ không vì lợi ích của những kẻ họ tìm tới. Họ chỉ lợi dụng người khác để đạt được tư lợi và tính háo thắng của họ mà thôi. Họ biến người khác thành những «con tốt», cốt làm bù nhìn cho họ điều khiển, sai khiến và trục lợi. Những ai tìm cách đi qua những loại cửa như thế để gặp gỡ người khác, thì chỉ gặp được những cánh cửa khép kín. Và nếu họ tìm cách bước qua các cửa đó bằng bất cứ giá nào để đi vào trong nhà, thì họ phải dùng tới bạo lực như những tên trộm cướp.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ñức Giêsu đã nói chính Người là cửa dẫn ta tới cùng Thiên Chúa Cha và mọi người đồng loại. Ai tìm cách đi qua cửa đó để đến với Thiên Chúa, bằng một chiếc chìa khóa đích thực, người đó sẽ đi vào được và sẽ gặp được Người. Chiếc chìa khóa đích thực đó, thánh Phaolô đã chỉ cho chúng ta trong Thư gửi Titus: «Thiên Chúa, Ñấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Người đối với nhân loại» (Tt 3,4). Vâng, tình yêu thương bác ái, tinh thần hòa giải, sự quảng đại và tha thứ, v.v.. là chiếc chìa khóa mà chúng ta có thể mở ra được lối đi dẫn đến với người khác qua cánh cửa chính trước mặt Thiên Chúa.

Người lạc quan vui tính – hay nói theo danh từ Kinh Thánh đã dùng là «lòng yêu thương» - thì dấn thân tham phần vào công cuộc xây đắp và nâng đỡ những người khác, để mọi cố gắng của họ được thành đạt, để mỗi người có thể phát huy trọn vẹn được bản sắc riêng của mình. Một người như thế là cánh cửa có thể mở ra cho hết mọi người từ cả hai phía, được mở bằng chiếc chìa khóa nhân bản và «lòng yêu thương». Thật vậy, qua lòng yêu thương của mình, người ta mở rộng cánh cửa lòng mình cho kẻ khác, và ngược lại người ta cũng tìm gặp được những cánh cửa đang mở rộng chờ đón họ từ phía những người khác.

Ñó chính chương trình sống của Ñức Giêsu, chương trình hướng dẫn nhân loại của Người, tức: không xúc phạm đến sự tự do của con người, không sai khiến, điều khiển họ, không gieo rắc sự sợ hãi, nhưng tham phần và chia sẻ cuộc sống với người khác, giúp đỡ người khác trong các cố gắng của họ, động viên và nâng đỡ người khác trong nỗ lực phát huy nhân cách họ; hay nói theo ngôn ngữ của bài Tin Mừng hôm nay là phục vụ người khác, «để họ được sống và sống một cách dồi dào» (Ga 10,10b).

Quan niệm sống như thế, tựa như một cánh cửa mở rộng dẫn tới những người khác. Chính Ñức Giêsu đã nhân danh Thiên Chúa đến với nhân loại cũng bằng cách thức đó. Vì thế, những ai đi qua cánh cửa như thế để đến với người khác thì được Thiên Chúa kêu gọi làm con cái của Người. Ñó là những người chân thành phục vụ đồng loại một cách vô vị kỷ, và qua đó, họ là những người thực sự thuộc về Thiên Chúa và được Người chúc phúc.


Lm Nguyễn Hữu Thy

------------------------------------

 

PS 4-A59: MỤC TỬ TỐT LÀNH


Chúa Giêsu nói “Ta là mục tử tốt lành” (Ga 10,11a)
 

Sau những thăng trầm ly loạn kể từ 1975, năm 2000 tôi gặp lại người bạn chí thân của tôi thời trung:PS 4-A59


Sau những thăng trầm ly loạn kể từ 1975, năm 2000 tôi gặp lại người bạn chí thân của tôi thời trung học Chủng viện Truyền Giáo Lâm Bích do Đức Hồng Y PX. Nguyễn Văn Thuận sáng lập, nay đã làm Linh mục: Lm Phanxico Xavie Trịnh Hữu Hưởng, tôi hỏi Cha: “Cuộc đời Linh Mục có vất vả lắm không ?” Cha trả lời: “Có, thật vất vả, nếu nghĩ tới mấy từ “mục tử tốt lành”. Chỉ có Chúa Giêsu mới nói được câu ấy. Mình không hề dám nói như vậy đâu, nhưng đó là lý tưởng mà cả đời mình nhắm tới”

Tôi về khoe với anh em tôi - những anh em đã làm linh mục cũng như đã lập gia đình trong gia đình Lâm Bích - câu nói của Cha Hưởng. Và anh em tôi có dịp chia sẻ cho nhau một chút hãnh diện về những linh mục xuất thân từ Chủng Viện Truyền Giáo Lâm Bích, hãnh diện về tôn chỉ mục đích của Đức Hồng Y PX đề ra, hãnh diện về đường hướng đào tạo của ban Giám Đốc Chủng Viện, hãnh diện về đời sống linh mục của anh em Lâm Bích... vì chỉ có 200 chủng sinh được đào tạo trong thời gian 1970-1975, mà đã hơn 50 chủng sinh lãnh nhận tác vụ Linh Mục, và đang làm việc khắp năm châu bốn biển. Ấy vậy mới có câu hát: “Anh em con đi, đi khắp năm châu, với tinh thần Lâm Bích”. Vâng, tinh thần Lâm Bích là ở bất cứ nơi đâu, anh em tôi cũng dẹp bỏ mọi mặc cảm về danh xưng “tu muộn”, về thời gian đào tạo, về trình độ học vấn, về những sự thua kém khác dưới cái nhìn của những anh em Linh Mục chính qui từ tiểu chủng viện, và nhắm tới ý hướng “mục tử tốt lành” để việc truyền giáo mang lại kết quả.

Chúa Giêsu nên mẫu gương “mục tử tốt lành” cho các linh mục, và để nên mẫu gương ấy, Ngài là Thiên Chúa Ngôi con làm người mà cũng đã vất vả biết chừng nào, huống chi là những con người được trao tác vụ Linh Mục. Không tự dưng mà một con người có thể “tốt”, và có thể “lành” trong cuộc đời, vì ai cũng được mẹ “mang thai trong tội” từ cái tội bẩm sinh của tổ tông, còn Chúa Giêsu thì hoàn toàn như chúng ta “ngoại trừ tội lỗi”. Cái tốt, cái lành của Thiên Chúa đã là bản chất nội tại nơi Chúa Giêsu; còn cái tốt lành của một linh mục là phải liên lỉ loại trừ những nghiêng chiều mang tính bản chất của con người ra khỏi cuộc sống mình -làm sao không vất vả được. Một cuộc đấu tranh liên lỉ nếu có ý hướng nên mục tử tốt lành. Mà phải đấu tranh liên lỉ, vì phải nên mục tử tốt lành. Là giáo dân, nếu hiểu được điều trăn trở nơi các linh mục là nên giống Chúa Giêsu Mục Tử Tốt Lành, chắc chắn phải rất thông cảm, yêu mến các linh mục của mình, và luôn cầu nguyện cho các Ngài để các Ngài có đủ lòng yêu mến sứ vụ thánh thiêng, và đủ sức chiến đấu trước mọi lôi cuốn nghiêng chiều về một đời sống tha hóa. Điều đáng tiếc trong Giáo dân là việc cầu nguyện cho các Linh Mục thì ít, mà đòi các linh mục cầu nguyện cho mình thì nhiều; lo cho các linh mục đầy đủ phần vật chất để tranh thủ sự ưu ái cho mình thì nhiều, mà giúp các Ngài nên thánh thiện, nên tốt lành thì ít. Quả thật, đời sống các linh mục thật đáng thương vì họ phải là người nên “tốt lành trước tiên” bằng một đời sống kết hiệp cả đời với sự thương khó Chúa Giêsu, thầy dạy các mục tử, thầy chí thánh. Vì thế việc cầu nguyện cho các linh mục trở nên khẩn thiết biết bao, nhất là vào thời điểm nầy, xã hội này- thời điểm xã hội mà người ta biết rõ “đánh kẻ chăn thì đoàn chiên tan tác”. Và nếu không cảnh giác, thì vô tình chúng ta lại tiếp tay cho những kẻ muốn “mục tử không còn tốt lành nữa” để không còn giá trị mục tử nữa và không có kết quả mà Chúa Giêsu mục tử tốt lành mong muốn.

“Mục tử tốt lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11b). Người mục tử tốt lành yêu thương đàn chiên vì phần lợi cho đàn chiên, không yêu thương đàn chiên vì phần lợi cho mình. Phải nói thế, vì giữa cái trào lưu vật chất nầy, sự cuốn hút của hưởng thụ không loại trừ bất cứ một ai. Không vin vào lý do cần có điều kiện phương tiện để làm việc và phục vụ để rồi lệ thuộc điều kiện đến nỗi khi không có đủ điều kiện thì không thể phục vụ tốt. Điều kiện và phương tiện của mục tử tốt lành là lòng yêu mến đàn chiên-yêu mến đến say mê như một nghệ sĩ. Ai làm công tác nghệ thuật đều có thể có cái kinh nghiệm quí giá nầy là: lắng nghe tiếng lòng thổn thức trước khi thực hiện một tác phẩm, và nhìn tận mắt tiếng lòng ấy trải ra trên tác phẩm của mình. Nghệ thuật phát xuất từ tấm lòng và tấm lòng làm nên nghệ thuật. Tôi vẫn luôn xác tín rằng Chúa Giêsu là một nghệ sĩ vĩ đại trong cuộc đời mục tử của Ngài, một nghệ sĩ nên vĩ đại vì trong Ngài và thể hiện nơi Ngài những căn tính đặc biệt mà các nghệ sĩ khát có khi cả đời không đạt được. Căn tính ấy chính là Tình Yêu không chút vụ lợi. Một tình yêu cho đi không màng danh tiếng cho mình, nhưng cho danh Cha trên trời cả sáng, không màng đáp trả cho mình, nhưng màng đến việc đáp trả cho Thiên Chúa, thu hồi về cho Chúa Cha những linh hồn quí giá. Càng yêu thương đàn chiên, và càng mất đi chính mình vì đàn chiên, giá trị siêu nhiên của một mục tử càng tăng dần theo năm tháng, cho đến mãn đời, và cho đến muôn đời. Những suy tư này không còn là mục thần học phải học của các linh mục nữa, mà hiện thời, đang là những khát khao rất thời sự của đàn chiên, của giáo dân ở khắp nơi, mà nhất là nơi các giáo xứ vùng quê Việt nam. Có lần tôi đến thăm một giáo xứ miền núi nghèo lắm, GX. Triệu Phong ở Phan rang- Cha sở là một linh mục chủng viện Lâm Bích đã từng lăn lộn giữa đời nhiều năm trong nhiều cảnh sống trước khi làm linh mục- và được mấy ông già cho biết “Cha Vianey thương giáo dân lắm, cái gì cũng lo cho giáo xứ, giáo dân, còn Cha chẳng có gì cả. Cứ nhìn cái nhà của Cha thì biết”. Còn mấy Bà Mẹ Công giáo thì nói: “Cha nhân đức lắm, đơn sơ, nghèo hèn, khiêm tốn”. Các Huynh trưởng thiếu nhi dành phần hơn: “Cha thương thiếu nhi nhất”. Vào nhà xứ, một tấm ảnh Cha Thánh Vianey thật lớn đập vào mắt tôi. Ngài nói với tôi “Mẫu gương của Chúa Giêsu Linh mục cho mình đó, Hoàng à”. Vâng, vì lợi ích cho các linh hồn, còn có biết bao linh mục đã trải lòng yêu thương của mình ra để giáo dân được sống, được bình an, và mối dây tình thân của mục tử tốt lành với đàn chiên ngoan ngày càng thêm bền chặt. Linh mục trở thành cửa công chính cho giáo dân tiến vào bên trong sự công chính của Thiên Chúa, trở thành cửa chuồng chiên, để qua các Ngài, giáo dân tiến vào bên trong sự hiệp nhất thánh thiện với nhau và với Thiên Chúa.

“Tôi là cửa cho chiên ra vào” (Ga 10,7). Chúa Giêsu mục tử tốt lành vì yêu thương các linh hồn Ngài là Cửa chuồng chiên để qua Ngài chúng ta tiến thẳng vào tình yêu Thiên Chúa như Ngài đã nói: “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. Đây là sứ vụ của Chúa Giêsu Mục tử. Thiết tưởng đây không phải là niềm kiêu hãnh vô bổ của các linh mục, nhưng là một vinh dự của thiên chức gắn liền với trách nhiệm vô cùng lớn lao là trở nên một alter Christus, trở nên một cửa chuồng chiên mới thật an tâm cho giáo dân tiến vào với Thiên Chúa. Các ngài không chỉ tiếp nối vai trò trung gian cứu thế của Chúa Giêsu trên trần gian nầy, mà có thể nói, các ngài là trung gian thật của muôn ơn cứu chuộc khi chúng ta nhìn nhận Chúa Giêsu đang thật sự hoạt động trong các Ngài. Điều quan trọng và phải khấn xin là xin cho các ngài đồng ý để cho Chúa Giêsu sống và làm việc trong các ngài bằng sự khiêm tốn từ bỏ hoàn toàn bản chất con người và mặc lấy thần tính của Chúa Giêsu trong cuộc đời. Thật đáng quí và cũng thật khó khăn vất vả, nếu không tiếp nhận nguồn ơn nhiệm mầu của Chúa.

Chúng ta vui mừng tạ ơn Chúa, tạ ơn Giáo Hội đã dành thánh lễ Chúa Nhật 4 Phục sinh để cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu Linh mục, cầu nguyện cho các linh mục, nhắc nhớ cho các linh mục sứ vụ cao cả của mình và bổn phận trở nên giống Chúa Giêsu Mục tử tốt lành, nhắc nhớ cho giáo dân bổn phận yêu mến các linh mục đúng cách là phải cảm thông với cuộc chiến đấu liên lỉ của các Ngài, phải thực sự hy sinh cầu nguyện cho các Ngài nên thánh, phải cộng tác với các Ngài cách tích cực, vô vụ lợi, và nhất là phải có trách nhiệm bảo vệ gìn giữ các Ngài thoát khỏi những mưu toan thế gian làm tục hóa thiên chức cao quí thánh thiện của Chúa Giêsu Mục Tử Tốt Lành đã trao ban như quà tặng đặc biệt chỉ riêng cho những người Chúa muốn.

Nguyện xin Chúa Giêsu Linh Mục ban muôn hồng ân cho các linh mục của Chúa và của chúng con, để các Ngài trở nên hiện thân sống động của Chúa Giêsu Mục Tử Tốt Lành, không chỉ khi cử hành hiến lễ tạ ơn mà cả trong đời sống thường ngày, mọi lúc và mọi nơi, và để qua các Ngài, chúng con tiến vào bên trong sự hiệp nhất thánh thiện với nhau và với Thiên Chúa. A men.


Pm. Cao Huy Hoàng

------------------------------------

 

PS 4-A60: Chúa Giê-su là cửa chuồng chiên


Chúa Nhật 04 Phục Sinh

“Tôi là Cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên tôi được sống và sống dồi dào". (Gioan 10, 9-10)

Cửa đóng lại để bảo vệ chở che

 

Ban đêm hầu như tất cả mọi nhà đều đóng cửa lại. Nhà có cửa đóng then cài chắc chắn thì chủ nhà: PS 4-A60


Ban đêm hầu như tất cả mọi nhà đều đóng cửa lại. Nhà có cửa đóng then cài chắc chắn thì chủ nhà ngủ mới yên giấc và tài sản trong nhà mới được bảo vệ. Vì thế, khi xây nhà, việc đầu tiên là lắp đặt cửa ngõ thật vững chắc rồi khoá lại kỹ lưỡng để người nhà được yên giấc về đêm và của cải được an toàn.

Nhưng tìm đâu trên đời nầy một thứ cửa đủ vững chắc và kiên cố có thể bảo vệ tâm hồn con người được bình an và giúp cho linh hồn họ được an toàn trước những đợt tấn công ác liệt của ác thần? Cửa nào có thể bảo vệ tâm linh con người khỏi bị công phá bởi vô vàn hung thủ của thế gian?

Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su tỏ cho thấy Ngài là thứ Cửa như thế. Ngài nói: “Tôi là Cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu”, tức là được bảo vệ. Ngài là cửa đóng lại để bảo vệ đoàn chiên trong chuồng được an toàn, không bị trộm cướp và ác thú giết hại.

Chưa bao giờ trong lịch sử nhân loại lại có nhiều cạm bẫy của ác thần, nhiều nọc độc của văn hoá sự chết, nhiều cám dỗ tệ hại lôi kéo nhân loại vào vòng sa đoạ như trong thế kỷ hôm nay.

Vô vàn sách báo xấu xa, phim ảnh đồi trụy, tư tưởng độc hại, lối sống thác loạn… được quảng bá khắp nơi trên thế giới, được tung lên mạng lưới điện toán toàn cầu làm sai lệch méo mó lương tâm con người, khiến họ xem tội ác là chuyện bình thường, xem việc phá thai, mẹ giết con là điều chính đáng, xem hôn nhân đồng tính là lẽ tự nhiên, xem việc huỷ hoại đời sống chung thuỷ của vợ chồng là điều đơn giản và cần thiết…

Trước những nguy cơ khủng khiếp như thế đang đe doạ nhân loại trên khắp thế giới, chỉ có một lá chắn vững chắc, một cánh cửa an toàn, một thành trì kiên vững là Chúa Giê-su Chúa. Giáo huấn của Ngài là tấm Cửa che chắn đoàn chiên được an toàn không kẻ thù nào xâm hại được, nếu chiên của Ngài biết đón nhận giáo huấn của Ngài.

Cửa mở ra để dẫn đưa vào đồng cỏ thiêng liêng

Không chỉ đóng lại để bảo vệ chở che, Cửa Giê-su còn mở ra để mở lối cho nhân loại tiến vào đồng cỏ thiêng liêng.

Các vị đại thánh trong Giáo Hội như Phanxicô Át-xi-di, Phanxicô Xaviê, Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su của những thế kỷ trước hay những nhân vật tầm cỡ như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Mẹ Tê-rê-xa Calcutta thời nay, nhờ được dẫn vào nuôi ăn trong cánh đồng cỏ thiêng liêng nầy nên đã được trở thành những vĩ nhân của nhân loại và những thánh nhân sáng ngời trong Hội Thánh.

Nhân loại hôm nay như đàn chiên đói khát, đói khát lương thực tinh thần cách khẩn thiết, nhưng tiếc thay, còn lắm người chưa chấp nhận bước qua Cánh Cửa Giê-su để được dẫn vào đồng cỏ tốt tươi.

Lạy Chúa Giê-su,

Nhờ Chúa là Cửa đóng lại che chắn nên chúng con được bảo vệ khỏi sự xâm nhập và tàn phá của ác thần;

Nhờ Chúa là Cửa mở ra đồng cỏ xanh, chúng con được nuôi dưỡng sung mãn trong vô vàn ân phúc của Chúa.

Xin cho nhân loại hôm nay biết nhìn nhận Chúa là Cửa, là Thành Trì chở che bảo vệ tâm linh nhân loại và xin cho mọi người nương vào Chúa như Cửa rộng mở vào đồng cỏ thiêng liêng cho muôn người được lớn lên thành người có đạo đức và phẩm chất cao đẹp.


LM Inhaxiô Trần Ngà

------------------------------------

 

PS 4-A61: Xin cho những mục tử nên giống Chúa


VietCatholic News (Thứ Sáu 11/04/2008 08:22)

Lm Thomas Túy, OP

CHÚA NHẬT 4 MÙA PHỤC SINH A

TĐCV2: 14a, 36-41; Tv 23; 1 Phêrô 2: 20b,-25; Ga 10,1-10.

Thưa quí vị,

 

Thật khủng khiếp khi nghe một linh mục thuộc miền tây nam VN trả lời phỏng vấn một đài ngọai quốc:PS 4-A61


Thật khủng khiếp khi nghe một linh mục thuộc miền tây nam VN trả lời phỏng vấn một đài ngọai quốc. Ông giả làm khách “mua hoa” người Campuchia, hòan tòan không nói được tiếng Việt, để thâm nhập các ổ nhện “nhí” ở biên giới Việt – Campuchia. Các em tuổi từ 9 đến 16 bị bán sang nước bạn để làm dịch vụ tình dục cho các khách “mua hoa” người bản địa và quốc tế. Cuộc sống của các em rất bị hạn chế, gần như tù lỏng. Một ngày phải “đi” khách không dưới 15 lần, bằng cả hai phương tiện, miệng và cơ quan giới tính. Ăn uống thiếu thốn và ít khi được phép ra khỏi “động”. Một hôm ông hối lộ chủ nhà để đưa các em đi chơi, khi ngang qua nhà thờ, ông đề nghị các em vô trong coi. Bất ngờ một em từ chối. Các em khác hỏi tại sao? Ngần ngừ một chút, em bảo mình là người Công giáo. Linh mục thấy đau nhói trong tim, nhưng không tỏ ra bề ngòai, vẫn giả vờ như không hiểu tiếng Việt.

Điểm xót xa là các em kể về việc đi khách của mình như một dịch vụ bình thường tuy ngôn ngữ bẩn thỉu nhưng như thể làm các việc hàng ngày cha mẹ sai bảo. Có em chỉ 9 tuổi, cha mẹ quá nghèo nên bán em đi lấy tiền nuôi các đứa nhỏ tuổi hơn.

Ông không có một giải pháp nào cả, các giúp đỡ từ những hội từ thiện quốc gia, quốc tế chỉ là hình thúc xoa dịu. Vấn đề cần bàn tay cương quyết của chính quyền, nhất là chính quyền địa phương. Nhưng việc này khó thực hiện vì đòi kinh phí. Mà kinh phí quốc gia chẳng có khỏan nào như vậy. Lại còn vấn đề luật pháp?

Khi nghe qua chuyện này, tôi lại nhớ đến cô dâu Việt nam tại Trung quốc, Đài loan, Nam hàn, Nhật bản. Số phận các cô xa xứ thật cô đơn, thảm thương. Một phụ nữ Mỹ mới đây báo động cho thế giới biết nạn nhân buôn bán phụ nữ, trẻ em ở Âu châu quá tệ hại. Bà coi đó là một hình thức nô lệ mới, nô lệ về tình dục và nhân phẩm: Riêng tại nứơc Mỹ, nhân dịp tháng chống lạm dụng tình dục trẻ em (April) người ta đưa ra bản thống kê, cứ 4 trẻ gái, thì một em bị lạm dụng. Tỷ lệ ở trẻ nam là 1/7 trươc khi các em được 18 tuổi. Tính tổng cộng tòan quốc là 60 triệu. (xem www.judeop.org=justice preaching).

Trước tình hình này, Phúc âm hôm nay quả là một nhức nhối. Chúa Giêsu tự nhận là “Chúa chiên lành”, hơn nữa, lại còn là cửa chuồng chiên. Nhưng chiên của Ngài luôn tìm được của ăn áo mặc, đồng cỏ xanh tươi. Ngày nay thì các linh mục, hàng giáo phẩm thay thế Chúa chăn dắt đàn chiên Thiên Chúa. Chúng ta suy nghĩ làm sao đây? Chẳng lẽ giảng suông? hô hào rỗng tuếch? xưa nay đã như vậy rồi, thì có lẽ từ nay cũng “vũ như cẩn” thôi. Dao to búa lớn chỉ đánh bẹp một con tép riu. Người ta để bụng khinh chê cấp lãnh đạo Do thái là giả hình và sai lầm. Nhưng xét cho cùng thì đúng như câu ca dao VN:“Chuột chù chê khỉ rằng hôi, khỉ mới trả lời cả họ mày thơm”. Chúng ta nên sống trung thực với Lời Chúa và ơn gọi của mình, không nên nói một đàng, sống nẻo khác.

Vì bất cứ những ai đọc bài tin Mừng hôm nay đều cảm nghiệm xúc động. Chúa Giêsu không giảng bằng lời nói suông mà chính yếu cuộc sống, cái chết và lên trời của mình vì phần rỗi nhân lọai. Ngài làm điều ấy hòan tòan tự nguyện. Chẳng ai có quyền phép ép buộc Ngài, nhưng chỉ vì tình yêu chúng ta. Ngài là Chúa chiên lành trong cả hai nghĩa đen và bóng và nghĩa nào cũng đến tận cùng thực tại. Các học giả có khuynh hướng cắt nghĩa bóng mà họ gọi là “ẩn dụ” (allegory) nhưng như vậy người ta “hạn hẹp” ý nghĩa bản văn cho một số chức vụ. Thực ra bản văn nói về hết mọi tín hữu, từng người và từng thời đại của Giáo Hội. Một khuynh hướng khác, khá phổ thông hôm nay là không ưa “ẩn dụ” nữa mà cố gắng tìm xem “đàn chiên, kẻ trộm, kẻ làm thuê, cửa chuồng chiên” là gì trong thực tế và văn hóa Hy lạp – Do thái? Họ cố gắng tránh né nhưng hệ luận khó chịu nẩy sinh từ các hình ảnh Chúa Giêsu đã sử dụng.

Tính xác thịt lòai người, luôn ngại đối mặt với thực tế không am hợp với sở thích chóng qua. Chúng ta nên học hỏi các thánh tiến sĩ, hiểu thật, hiểu rõ và áp dụng lời Chúa nghiêm ngặt, dầu có phải chấp nhân hy sinh và cái chết. Theo thánh Gioan Kim Khẩu, cửa ở đây là Lời Chúa. Cửa ấy cho phép chúng ta vào Nứơc Trời, tức các đường lối Chúa muốn chúng ta đi. Các kẻ trộm, người làm thuê là các thày rao giảng giả hình gian dối, chỉ biết lừa đảo thiên hạ. Cửa sẽ lọai trừ tất cả ra ngòai, không cho xâm nhập đàn chiên. Nếu như chúng ta rời xa Kinh Thánh, mà trèo vào lối khác, lúc ấy đàn chiên sẽ bị cứơp bóc lương thực hằng sống. Thánh Gioan đưa ra ý tưởng này từ thế kỷ thứ 5, khi ngài làm Giám mục hành Antiokia. Nhưng vẫn đúng với tình hình rao giảng hôm nay. Nhất là sau Công đồng Vat.II, người ta tự tiện áp dụng lời Chúa theo ý riêng, rồi đả kích Giáo hội là cổ hủ, lỗi thời, hiểu sai lời Chúa. Các tín hữu thực sự bị tước đọat ý nghĩa linh thiêng để chạy theo thế tục. Phụng vụ và đời sống thiêng liêng bị bóp méo theo sở thích cá nhân của mấy thày gỉa hiệu. Liệu khó nghèo Phúc Âm còn ý nghĩa gì không giữa tráo lưu vật chất hiện thời? Liệu người ta còn đọc và cầu nguyện Lời Chúa, hay lời của tiền tài? Liệu lời rao giảng của chúng ta phản ánh nội dung sách thánh hay phản ánh tư tưởng trần tục? Nếu như thánh Gioan Kim Khẩu sống lại lúc này, ngài sẽ có nhận xét thế nào về việc chúng ta tìm vào Nứơc Trời qua cánh cửa Lời Chúa? Ông cũng sẽ giúp tín hữu phân biệt đâu là Chúa chiên thật, đâu giả hiệu, đâu là lợi dụng chức thánh?

Có lẽ nên biết chút ít tập quán chăn chiên thời Chúa Giêsu để rõ hơn dụ ngôn. Chuồng chiên có khi được thiết lập giữa cánh đồng với các bụi cây thấp và cành khô, có thể chứa chung vài đòan chiên cừu. Hay có thể là một lán rộng dựa lưng vào tường, mặt khác là rào che tạm thời. Các chủ chăn nhỏ có hể dùng chung một chuồng cho các đòan vật của mình, để bảo đảm an ninh ban đêm. Một ai đó có nhiệm vụ canh gác lối vào. Lối vào lán nhỏ và đơn sơ, người canh gác có thể đơn giản nằm chắn ngang như một “cánh cửa”. Phúc âm hôm nay gợi ý các chủ chăn đến sớm và anh gác cửa cho phép vào. Mỗi người gọi riêng đòan chiên của mình và khi nghe tiếng chủ, các con chiên chạy theo anh ta. Anh ta đi trước các con chiên theo sau. Lời Phúc âm phải hiểu theo nghĩa đen như vậy.

Cho nên thánh Gioan tông đồ dùng hình ảnh để mô tả liên hệ chặt chẽ giữa Chúa Giêsu và các kẻ theo Ngài. Đồng thời gợi ý cánh cửa “Người” ngăn cản các chủ chăn giả đến quấy phá dân Thiên Chúa. Họ là những “kẻ trộm, kẻ cướp” đối lập với chúa Giêsu và các tín hữu Thiên chúa. Họ vô tình dẫn đàn chiên đi lạc, đôi khi nổi lọan vô lý khiến quân đội Rôma giết hàng lọat dân đen vô tội. Ngày nay chúng ta có thể tưởng tượng những tiếng nói giả dối như sau:

Kẻ hô hào cực đoan giải quyết mới cũ bằng chiến tranh, sát hại chứ không bằng thương lượng hòa bình.

Lao động kiệt sức vì lợi lộc riêng tư, bè phái.

Dẫn dắt thiên hạ thỏa mãn nhu cầu vật chất làm cạn kiệt thiên nhiên.

Cô lập chúng ta khỏi những nhu cầu khẩn thiết đòi hỏi dấn thân để xây dựng hai chữ “bình an” giả tạo và ích kỷ..

Lợi dụng nhiệt thành, lòng tốt của thanh niên thiếu nữ cho danh thơm tiếng tốt, ngay cả lợi lộc cho bản thân.

Gây chán nản trong đòan thể, cộng đồng vì tư thù để đục nước béo cò..v.v…

Hậu quả là chúng ta mất đòan kết, không còn là cộng đòan duy nhất của Hội Thánh mà là đủ mọi thứ phe phái đi theo những chủ chăn khác nhau, những khuynh hướng ích kỷ, hẹp hòi. Tệ hơn nữa, vào những đồng cỏ xa lạ với những con đường nguy hiểm cho phần rỗi. Chẳng mấy tín hữu không gặp những lý thuyết này? Họ nhan nản khắp các báo chí, các ý thức hệ tiên tiến.

Vậy thì không lạ chi, Chúa nhật Phục sinh này chúng ta được nghe bài đọc Chúa chiên nhân lành và giáo thuyết của Ngài. Trong bài đọc 1 Phêrô đã vạch rõ đâu là Thiên sai thật, đâu là lừa dối đi lạc. Ông thẳng thắng tuyên bố:“ Anh em hãy tránh xa thế hệ gian tà này”. Bài đọc 2 khuyên nhủ:“Thật vậy, Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người”. Đức Kitô Phục sinh đang hiện giữa các tín hữu, Người cũng làm những chi mô tả trong Phúc âm. Cuộc sống và phương hứơng của chúng ta được Hội Thánh Ngài bảo vệ và chăm sóc chống lại những kẻ chỉ biết trộm cứơp và giết hại. Điều này khiến chúng ta được yên ủi và an tâm. Đức Giêsu biết trứơc thế giới mà các môn đệ Ngài đi rao gỉang nên đã hứa ở với chúng ta luôn mãi như một mục tử nhân lành.

Mục tử nhân lành không chỉ là ngừơi lãnh đạo đòan chiên trên danh nghĩa, nhưng biết rõ từng con chiên một:“ Ngài gọi tên từng con và dẫn chúng ra”. Phúc âm không nói chung chung, mà chi tiết nhu cầu từng con. Có những thời gian, mục tử phải biết tên từng con chiên một, vì đó là bổn phận cốt yếu của ông. Ngôn ngữ Kinh thánh, biết tên là biết ngôi vị ngừơi đó. Chẳng phải vô tình mà Chúa nhật 4 Phục sinh được dành riêng cầu nguyện cho ơn gọi linh mục. Không những để Giáo Hội thêm nhiều ơn gọi mới mà chủ yếu nhắc nhở bổn phận của các cha xứ, linh mục, chủng sinh. Ngày nay Giáo Hội cần nhiều mục tử thánh thiện biết bao.

Chúng ta phải biết lắng nghe bài Phúc âm và nhớ đến Đấng Phục sinh giữa Giáo Hội. Xin Ngài hướng dẫn và kiên cường đức tin cho mình. Vì Ngài chính là “cửa” mà thánh Gioan Kim Khẩu giải thích. Có những lúc chúng ta cảm thấy mệt mỏi, chán nản vì công việc, vì tuổi già sức yếu, vì chống đối hiểu lầm. Chúng ta cần nhìn lên Chúa, để nhận ra Ngài đã thi hành nhiệm vụ mục tử ra sao, ngõ hầu được khả năng bỏ đi những cám dỗ hưởng thụ, an nhàn. Chúng ta biết mình đang ở trong đường lối và phương hứơng tốt, tại sao không cố gắng. Câu truyện đầu bài suy gẫm hôm nay không cho phép chúng ta lơ là chức vụ.

Cho nên phải biết tên từng con chiên và nhu cầu của nó. Nghĩa là từng ngôi vị một. Không phải chỉ những quen biết qua đường hoặc vì lợi lộc. Chúng ta nên dành thời gian, sức lực, tiền bạc để đến với đàn chiên. Không có nghĩa cần thêm nhiều bạn hữu nhưng là vì bổn phận phải chu tòan. Nếu như đức tin dạy rằng Đức Giêsu biết rõ tên chiên của Ngài từng con một thì chúng ta, những mục tử, phải chu tòan bổn phận ra sao. Xin cho các mục tử suy gẫm lại vai trò của mình và giáo dân nên cầu nguyện nhiều cho họ. Amen.

(Tổng hợp theo: Sicilianô, OP)

Lm Thomas Túy OP

------------------------------------

 

PS 4-A62: Mục tử chân chính


Chúa Nhật IV Mùa Phục Sinh
 

Mục tử là thuật ngữ Cựu ước dùng để chỉ về Chúa. Trong Sáng thế ký, Gia-cóp tuyên xưng Chúa là Vị:PS 4-A62


Mục tử là thuật ngữ Cựu ước dùng để chỉ về Chúa. Trong Sáng thế ký, Gia-cóp tuyên xưng Chúa là Vị mục tử của ông từ lúc ông sinh ra. Trong thánh vịnh 23, David nói: “Chúa là mục tử của tôi, tôi chẳng còn thiếu thốn chi”. Tiên tri Isaia nói Chúa sẽ dẫn đưa Do thái khỏi chốn lưu đầy, như mục tử vác chiên trên vai (40:11). Trong Cựu ước, đã có những mục tử chính danh làm đúng ý Chúa như David, Mô-sê. Nhưng cũng có những mục tử xấu không làm tròn bổn phận. Với hạng này, tiên tri E-zê-ki-en đã cảnh cáo: “Khốn cho những mục tử nhà Is-ra-en là những kẻ, thay vì chăm sóc đàn chiên, lại chỉ chăm sóc chính mình” (Ez 34:2)

Có nhiều hình ảnh và tính cách chỉ về mục tử, cần làm rõ nét:

1-Mục tử gọi đích danh chiên của mình:

Tại Palestine, người ta thường vây hàng rào cao để lùa chiên vào và canh giữ. Cửa được mở ra mỗi buổi sáng. Chiên xem ra sợ sệt lúc ra khỏi chuồng cũng như khi trở về buổi chiều. Chỉ khi chúng nghe tiếng mục tử, chúng bắt đầu tiến lên, và khi chúng nghe mục tử gọi tên, chúng bước ra. Chúa yêu chúng ta, Chúa gọi đích danh từng người, chúng ta theo Chúa và chúng ta sẽ được cứu thoát.

2- Mục tử bước đi trước chiên:

Nhiều nơi, như ở Australia, mục tử dùng gậy hoặc dùng chó để hướng dẫn chiên. Nhưng ở Palestine, mục tử đi trước, chiên bước theo sau. Hình ảnh này nói lên Chúa dẫn dắt ta, không phải Ngài lùa ta đi. Ngài đi trước ta, ta tin tưởng bước theo Ngài.

3-Cửa chuồng chiên:

Khi chiều buông, đàn chiên không kịp về chuồng trước nửa đêm, thì mục tử lùa chiên vào trong hang, rồi anh ta nằm chắn ngay lối vào. Chiên sẽ không lang thang đi ra ngoài. Và thú dữ cũng chẳng có thể vào hang bắt chiên. Mục tử tự làm cho mình thành cửa chuồng chiên. Không một ai ra hay vào mà không bước qua anh ta. Qua hình ảnh tuyệt đẹp này, Chúa Giê-su cho ta biết chẳng có ai đến được với Thiên Chúa mà không qua Ngài.Ta chỉ được cứu thoát vì tin và đi theo tiếng gọi của Chúa Giê-su, Đấng được Thiên Chúa sai đến.

4-Kẻ trộm và cướp bóc:

Những ai không qua cửa mà vào thì không phải mục tử mà là kẻ trộm và kẻ sát hại. Ai không qua Chúa Giê-su thì kẻ ấy kéo bày chiên xa rời Thiên Chúa. Thánh Gioan ám chỉ các lãnh đạo Do-thái. Bởi họ đã trục xuất Chúa Giê-su và các môn đệ của Ngài ra khỏi hội đường của họ. Gio-an ví họ những kẻ bỏ mặc đoàn chiên cho trộm cắp và sát thủ.

Quả thực Chúa là Mục tử: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi” (TV 23)


LM Trần Xuân Lãm

------------------------------------

 

PS 4-A63: CHỌN VÀO CÁNH CỬA GIÊSU


Ngày cầu cho ơn thiên triệu linh mục-tu sĩ

Dẫn nhập đầu lễ:

 

Chúa Nhật “Chúa Chiên Lành” lại trở về trong nhịp sống Phụng vụ của Dân Chúa. Mầu nhiệm Đức Kitô, PS 4-A63


Chúa Nhật “Chúa Chiên Lành” lại trở về trong nhịp sống Phụng vụ của Dân Chúa. Mầu nhiệm Đức Kitô, Vị Mục Tử nhân lành và là “cửa chuồng chiên” lại được Phụng vụ một lần nữa khơi gợi để cộng đoàn chúng ta cùng suy tư, chiêm ngưỡng và cầu nguyện. Chúa Nhật Chúa Chiên lành năm nay lại trở về trong bối cảnh Hội Thánh tại Việt nam đang nỗ lực với định hướng mục vụ giáo dục Kitô giáo mà đối tượng chính yếu là các gia đình. Chính vì thế, trong ngày “Quốc tế thiên triệu linh mục và tu sĩ” nầy, chúng ta sốt sắng cầu nguyện cho các gia đình công giáo ý thức hơn vẽ đẹp và sự cao quý của chức linh mục và đời sống tu trì, đồng thời góp phần tích cực hơn trong việc cỗ võ và đào tạo ơn gọi thánh hiến từ trong các gia đình. Giờ đây, để xứng đáng cử hành Thánh lễ, xứng đáng sống trọn vẹn ơn gọi của Bí Tích Thánh Tẩy, là nhiệm tích đưa chúng ta vào đời sống siêu nhiên do chính Đức Kitô Vị Mục Tử Nhân Lành dẫn đưa và chăm sóc, chúng ta hãy (đón nhận Nước Thánh với tâm hồn sám hối).

Giảng Lời Chúa:

Từ xa xưa trong cựu ước, danh xưng “Mục tử” đã thấp thoáng trong ngôn ngữ Thánh kinh: Tổ phụ Giacóp đã chúc phúc cho các con trong một bài ca kinh thật dài, mà danh xưng Mục Tử được qui hướng cho Gia-vê Thiên Chúa toàn năng:

“Những cây cung của nó vẫn vững vàng,
Và những cánh tay của nó vẫn lanh lẹ,
Nhờ tay Đấng Vạn năng của Gia-cóp,
Nhờ danh Vị mục Tử, tảng Đá của Ít-ra-en.” (St 49, 24)

Nhưng các nhà Kinh Thánh học vẫn cho rằng: Danh xưng và hình ảnh Thiên Chúa - Mục tử được khắc họa rõ nét nhất qua những lời cầu nguyện nơi các thánh vịnh, đặc biệt với hai thánh vịnh 22 và 79:

“Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì” (Tv 22,1)

“Lạy Mục Tử nhà Ít-ra-en,
Ngài là Đấng chăn giữ nhà Giu-se,
Như chăn giữ chiên cừu, xin hãy lắng tai nghe !” (Tv 79,2)

Và chắc chắn danh xưng nầy, hình ảnh nầy đã được các sứ ngôn như Ê-dê-ki-en, Giê-rê-mi-a, I-sa-ia-a...tiếp tục sử dụng cách tự nhiên và triển khai thêm những ý nghĩa phong phú:

“Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, thì Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt...” (Ez 34, 11-12)

Như Mục Tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa,
Tập trung cả đoàn dưới cánh tay.
Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng,
Bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40,11)

Và rồi, trên từng cây số của hành trình lịch sử cứu độ, Thiên Chúa, Vị Mục Tử nhân lành đó, lại sai nhiều “vị chăn chiên nhân loại” thay mặt Người chăn dẫn đoàn chiên, để cho “Dân Người không bao giờ vắng bóng mục tử” (Ds 27,15-20), như Mô-sê, Gio-suê, Đa-vít...

Và cũng từ khi xuất hiện các mục tử nhân loại đó, Thiên Chúa, qua miệng các ngôn sứ, không ngừng giáo dục, đào tạo, cảnh báo để làm sao Dân Chúa vẫn có được “những mục tử như lòng Chúa mong ước” (Gr 3,15; 23,3) và loại bỏ những mục tử xấu, phản bội Thiên Chúa và lý tưởng và sứ mệnh của mình (Gr 50,6; Ez 341-10...).

Và khi thời gian tới múc mãn kỳ, Thiên Chúa đã “sai Người Con Một”, “Mục Tử của mọi mục tử”, “Đấng Chăn Chiên Lành” phản ảnh trọn vẹn ảnh hình của Chúa Cha, Vị Mục Tử mà Dân Chúa bao ngàn năm mong ước ngóng chờ, đến giữa cánh đồng nhân loại để thi hành trọn vẹn sứ mệnh cứu độ và chăn dắt “Đoàn chiên mới của Thiên Chúa”, đoàn chiên được chính Ngài hy sinh và cứu chuộc bằng giá máu, như chính Ngài đã dõng dạc tuyên bố:

“Tôi chính là Mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11)... “Ta đến để cho chiên được sống và sống phong phú” (Ga 10,10). Những ngày Phục sinh vừa qua và trong những ngày nầy, phải chăng cộng đoàn Hội Thánh đang sống lại những biến cố, sự kiện và kỷ niệm liên quan mật thiết đến “Vị Mục Tử Nhân Lành” và công trình cứu độ của Ngài, một công trình mà “kỳ công thắng lợi” chính là một đoàn chiên đông đảo qui tụ muôn tiếng nói, mọi màu da, một Hội Thánh duy nhât, thánh thiện, công giáo và tông truyền.

Nhưng sứ điệp mà chúng ta dừng lại hôm nay lại chính là “Cánh cửa chuồng chiên”, hay tạm gọi bằng một tên khác “Cánh cửa Giêsu”, như đã được chính Đức Kitô phán dạy qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu”.

1. Cánh cửa Giêsu mở ra chiều thứ Sáu !

“Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu” (Ga 10,9). Đức Kitô nói những lời nầy hình như vào thời điểm khi cuộc hành trình dưới thế trong tư cách một “phàm nhân” của Ngài sắp sửa kết thúc, khi Người thấy trước “hầu hết các môn đồ” sắp sửa “sẻ đàn tan nghé” vì đối diện với thập giá, khi trong lòng của Giuđa đang trỗi dậy một mưu đồ bội phản để khước từ “lời chân lý của thầy Giêsu và quyết chọn những đồng bạc của mấy ông tư tế...”.

Và như thế, cho dù không phải là một dự báo tiêu cực, thì chắc chắn, trong cái nhìn xuyên suốt thời gian và không gian của một Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự sống, Đức Kitô phải thấy có quá nhiều người sẽ không thèm chọn “cánh cửa Giêsu”, cũng như Ađam, Eva thay vì chọn Lời Thiên Chúa đã “vươn tay chọn trái cấm ngon lành” !

Mà có sai đâu ! Khi buổi chiều thê lương trên đồi Sọ gần tắt nắng, khi những ồn ào của âm thanh sĩ nhục và cuồng nộ vẫn còn vang vọng lưng đồi, khi các người tử tội đang quằn quoại chiến đấu với tử thần trong những phút giây hiếm hoi sau hết...thì chỉ duy có một người duy nhất đã chọn “cánh cửa Giêsu”: “Ông Giêsu ơi ! Khi Ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi” (Lc 23,32)...

Nếu “cánh cửa Giêsu” mà cử mở riết theo đúng cái “qui trình” như buổi chiều Thứ Sáu Can-Vê, và sau đó thì tuyệt nhiên không có gì xảy ra, không còn gì để nói... thì e rằng, kể từ sau buổi chiều thê lương “thứ Sáu can Vê”, chắc chẳng có con ma nào lại đi theo cái nẻo của “người trộm bên tay hữu”, cái nẻo dẫn về một “Nước Chúa” mông lung và đâu đó vời vợi xa xôi.

2. Có nhiều đấy !

Nhưng, Ngày Thứ Nhất trong tuần đã đổi thay tất cả. Con đường dẫn cô gái làng chơi hoàn lương Maria Mađalêna về “Mộ trống” đã dần dần dẫn đưa Phêrô, Gioan, Tôma, hai môn đệ Emmau...đi tới cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh từ trong cõi chết; và rồi dẫn dắt bao la bạt ngàn nhân loại muôn tiếng nói, mọi màu da lũ lượt cùng nhau ngang qua “cánh cửa Giêsu” để tiến về quê hương hằng sống.

Mà cũng thật lạ lùng ! Nhút nhát, bốc đồng như Phêrô, đã từng khiếp nhược chối Thầy trước một con đàn bà đầy tớ. Thế mà, chỉ 50 ngày sau “Biến cố Phục Sinh”, một nghị lực thần linh đã chỗi dậy trong ông, đến độ, chỉ trong một “bài làm chứng” súc tích, vắn gọn, ông đã chinh phục được một lần một “mẽ cá với 3.000 người rửa tội”. (BĐ 1: Cv 2, 41). Và rồi cũng chính với nghị lực thần linh ấy, “thay vì vâng phục loài người” để được an thân thoải mái, ông đã chọn “cánh cửa Giêsu” để phải một đời lao đao lận đận với cuộc bách hại dữ dội của Nêrô và cuối cùng chết thảm với hình khổ đóng đinh ngược đầu xuống đất.

Chính Phêrô đã cảm nghiệm sâu sắc chân lý nầy, nên Ngài đã sẻ chia như một lời di chúc mà chúng ta nghe công bố trong bài đọc 2 hôm nay:

Anh em thân mến, nếu làm việc lành và phải khổ mà anh em vẫn kiên tâm chịu đựng, thì đó là ơn Thiên Chúa ban. Anh em được Thiên Chúa gọi để sống như thế...

Mà có phải chỉ mình Phêrô đâu ! Suốt hai ngàn năm nay đã có hàng hàng lớp những con người quyết chọn “cánh cửa Giêsu” cho dù phải trả giá, nhẹ nhất thì cũng bằng một cuộc đời “nghèo khó với hành trang Tám Mối phúc Thật”, như cuộc đời của bao nhiêu linh mục, tu sĩ nam nữ, những anh chị em tông đồ giáo dân, những người thiện nguyện...và cao nhất là bằng chính mạng sống như Anrê Phú Yên và 117 Thánh Tử đạo Việt nam, như bao chứng nhân anh hùng tử đạo hữu danh hay vô danh trên khắp cùng trái đất.

3. Ngày nay, có còn không những người chọn “cánh cửa Giêsu ?”

Sau hai ngàn năm, xem ra “Cánh cửa Giêsu” vẫn chưa phải là “đồ cỗ” để phải bị vất vào sọt rác của thời gian ! Bằng chứng là mới đây, khi vừa thôi chức vụ thủ tướng vương quốc Anh, Ngài Tony Blair đã quyết chọn “cánh cử Giêsu” để đi hết những ngày còn lại với người bạn đời. Trong khi đó, cự tổng thống Liên bang Sô Viết, Gorbacheb mới vừa “mặc khải cuộc hành trình niềm tin Kitô của chính mình”.

Nhưng phải công nhận rằng: thế giới hôm nay có quá nhiều cánh cửa hấp dẫn và bắt mắt lạ kỳ đang mở toang để cám dỗ, chào mời, khiến sự chọn lựa của bao người luôn bị đặt trước một thử thách không nhỏ. Mà tâm lý nhân loại hôm nay lại thích “fastfood – mì ăn liền – mốt thời thượng”. Chính vì thế, những giá trị đạo đức truyền thống của Á Đông như “Tam cương, Ngũ thường, nhân, nghĩa, lễ, trí, tin, công dung, ngôn, hạnh, cần kiệm, liêm, chính...hay của nền tu đức Kitô giáo như: Tin, Cậy, Mến, hảm mình, ăn chay, làm phúc, khó nghèo, trong sạch, vâng phục, bác ái, vị tha, phục vụ...gần như đang “lạc lõng giữa phố chợ đông người”. mà một khi gia đình, xã hội không còn “đeo bám” các giá trị nhân bản và luân lý, đạo đức nền tảng nầy một cách anh hùng và sinh động, thì sẽ có nhiều người xa dần “cánh cửa Giêsu” để ào ạt chọn vào “cánh cửa của Satan”, được khéo ngụy trang dưới bao nhiêu hình thức dễ thương bắt mắt.

Dù sao, ở giữa lòng Hội Thánh, thời nào Chúa cũng cho mọc lên những vì sao lấp lánh. Cuối thế kỷ 20, ngôi sao “Têrêsa Calcutta” rực sáng giữa bầu trời thế giới để chiếu dọi muôn người tìm đến “Cánh cửa Giêsu” qua con đường khiêm tốn, khó nghèo để phục vụ những người dưới đáy cùng xã hội. Đầu thế kỷ 21, Đức Gioan-Phaolô II, rồi mới đây chị Chiara Lubich, người khai sinh “Phong trào Folcolare – Tổ ấm”, đã qua đời, nhưng đã để lại những di sản tinh thần quý giá giúp cho bao nhiêu con người tìm thấy “cánh cửa Giêsu” và mạnh mẽ can đảm chọn vào cánh cửa khó khăn nầy.

Mà không phải chỉ có những người mang niềm tin Kitô mới độc quyền chọn “cánh cửa Giêsu” đâu nhé. Tất cả những ai chấp nhận sống yêu thương, phục vụ, sẵn sàng xã thân vì chính nghĩa của tự do, công bình, bác ái, sẵn sàng đứng về phía của người cùng khổ để yêu thương và binh vực họ, để đồng cảm và sẻ chia như Lê thị Công Nhân, Nguyễn văn Đài, Trần Khải Thanh Thủy, cố giáo sư Hoàng Minh Chính...tất cả những người ấy, cho dù là tín đồ Phật giáo hay Cao đài, người lương, Tin Lành hay Hồi giáo...họ đang “chọn vào cánh cửa Giêsu đó nhé.” Đúng như bài thơ của một ai đó với những câu thơ viếng nhà thơ hoạn nạn Nhân văn-Giai phẩm Trần Dần mất hơn chục năm trước (1997):

Những con người
chọn những đường đi hẹp
sẽ dẫn tới bao la …
Về bên Chúa
có nhiều điều để nói …
Những lời ấy
âm vang dội lại …
Cho thế gian
bừng nở hoa hồng.

Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau và cho những ai đang dấn thân sống trong chức linh mục và đời thánh hiến mãi mãi trung thành chọn “cánh cửa nhỏ - con đường hẹp” của Chúa Giêsu, của Tin Mừng” để cho dù có phải mất mát thiệt thòi hay lao đao lận đận một cách nào đó, thì luôn hãy nhớ rằng: cánh cửa nhỏ đó, con đường hẹp đó sẽ “dẫn tới bao la...về bên Chúa...và sẽ “cho thế gian bừng nỡ hoa hồng”.


LM Giuse Trương Đình Hiền

------------------------------------

 

PS 4-A64: Ngày cầu nguyện cho Ơn Gọi


CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN NHÂN LÀNH
• NGÀY CẪU NGUYỆN ĐẶC BIỆT CHO CÁC CHỦ CHĂN TRONG GÍAO HỘI.
• NGÀY CẦU NGUYỆN CHO ƠN GỌI (World Day of Prayer for Vocation).
• KINH CẦU NGUYỆN CHO CÁC LINH MỤC ĐỤƠC ƠN THÁNH HÓA.
• KINH CẦU NGUYỆN CHO ƠN GỌI (Vocation Prayer).

 

Chúa Nhật IV Mùa Phục Sinh, thường được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Câu xướng trước:PS 4-A64


Chúa Nhật IV Mùa Phục Sinh, thường được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Câu xướng trước Phúc Âm cuả các năm A, B và C đều trích trong Phúc Âm Thánh Gioan (10,14): “Ta là Mục tử nhân lành, Ta biết chiên của Ta, và chiên của Ta biết Ta!” Các bài Phúc Âm năm A, B và C đều trích trong Phúc Âm của Thánh Gioan:10, 1-10 (Năm A); 10,11-18 (Năm B); 10, 27-30 (Năm C).

Trong các bài Tin Mừng trên đây, Chúa Giêsu xác định Ngừoi chính là cửa của đoàn chiên, và cũng chính là người chăn chiên nhân lành. Chỉ những chủ chiên nào đi theo cửa của Ngừơi (theo đường lối của Người) mới là chủ chiên thật (Gioan 10,2).

Suy nghĩ về Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, Cha M. D. Phillippe, O.P. viết những lời suy niệm sau đây:

“Mọi công việc trong cuộc đời truyền giáo của Chúa Kitô, vị Chủ Chăn Nhân Lành, đều đơn giản là những công việc của tình thương xót đối với đoàn chiên, đối với mọi người. Tuy nhiên, chính nơi cơn “hấp hối” tại vườn “Cây Dầu” và trên Thánh Giá mà chúng ta cảm nghiệm được trọn vẹn Lòng Thương Xót của Chúa.

“Mọi khổ đau của những người tội lỗi, mọi hậu quả của tội lỗi, Chúa Kitô đều vui lòng mang lấy vào mình. Không một khổ đau nào của nhân loại xa lạ với Chúa Kitô. Người thấu suốt tất cả và mang lấy tất cả vào trong thâm sâu của trái tim Người. Người đã sống những giây phút thật căng thẳng mà không ai có thể cảm nghiệm được. Người mang lấy tất cả vì tình yêu vô biên đối với mọi người chúng ta. Tình thương xót của Chúa thật huyền diệu và đi đến tuyệt đỉnh!

“Là vị Mục Tử nhân lành, Chúa Kitô biết những điều Người phải làm. Người biết từng con chiên với những yếu đuối và những nhu cầu của từng con chiên. Người biết rằng để trở nên một Mục Tử nhân lành theo đúng ý nghĩa, người chủ chăn phải yêu mạng sống của con chiên hơn mạng sống của mình; phải muốn đặt mình vào hạng những người tội lỗi, vào hạng những người bị ruồng bỏ để có thể cứu vớt mọi người; phải dám ‘tự hủy ra không’ để có thể chấp nhận mọi bất hạnh, khinh chê, và bị coi như tầm thường hơn hết mọi người!

Khổ hình Thập Giá với ý nghĩa đặc biệt trọn vẹn của khổ đau để cứu chuộc, đã tỏ cho chúng ta thấy rõ tình thương xót vô biên của Chúa. Không từ chối gì cả, Người đã chấp nhận mọi khổ đau, mọi nhục nhã, mọi gánh nặng tới mức không còn có thể chịu đựng hơn được nữa. Như vậy, lòng Thương Xót của Chúa không phải chỉ ở chỗ tìm đến để giúp đỡ những người yếu đuối, mà còn ở chỗ, như một người mẹ, cúi mình xuống tận những kẻ đã sa ngã và cúi xuống sâu hơn họ để cứu vớt họ và nâng họ lên (chứ không phải kéo họ lên; Người đã vác con chiên lạc lên vai và đưa về đoàn, đưa về lại cuộc sống).

Tự hạ mình xuống sâu thẳm, Chúa Kitô đã muốn bị coi như kẻ đáng tội hơn cả Babara (Mat-theu 27,16...), như một kẻ tội phạm công khai, như một kẻ nói phạm thượng, như một kẻ thù của lề luật Moise, kẻ không chịu giữ ngày Sabat, một kẻ nguy hiểm quấy phá dân chúng. Hơn nữa, Chúa Kitô còn muốn trở nên như một đồ vật mà người ta che mắt không dám nhìn, đến nỗi khi đã chết rồi còn bị người ta đâm vào cạnh sườn thấu tới trái tim.

“Như vậy, Tình thương xót của Chúa là một thực thể bao quát tất cả con người, không một chi thể nào trong thân thể của Người không bị thương tích, và linh hồn Người cảm thấy buồn sầu đến chết đi trong cơn hấp hối (Mat-thêu 26,38).

Hy lễ thập giá thật là một sự tôn thờ tuyệt đỉnh và cũng biểu lộ tình Chúa thương xót đến tuyệt đỉnh. Nơi trái tim của Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá vừa mang sự Thờ Phượng (Chúa Cha), vừa mang tình thương xót nhân loại như anh em để giúp đỡ họ, an ủi họ, chuộc lấy mọi tội lỗi của họ và đem lại cho họ nguồn sống mới.” (Dịch theo bản tiếng Anh, trong Magnificat, April 2005, Fourth Sunday of Easter; những chữ ở ngoặc đơn là chú thích của người dịch).

Ñọc những dòng trên đây, chúng ta càng hiểu biết sâu xa hơn tình thương xót cuả Chúa Giêsu, Ñấng Chăn chiên nhân lành, đối với đoàn chiên như thế nào, đến nỗi đã chấp nhận mọi khổ đau đến cùng cực và đổ đến giọt máu cuối cùng cho đoàn chiên của Chúa! Và khi không còn sống ở trần gian nữa, Người vẫn tiếp tục “nuôi sống đoàn con” bằng chính Mình và Máu Thánh Người hiện diện thật sự trong Hình Bánh và Hình Rượu (Bí tích Thánh Thể), và thánh hóa đoàn chiên bằng các “phép Bí tích nhiệm mầu.”

Thực sự, qua hoạt động của Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu vẫn ở với Giáo Hội “ mọi ngày cho đến tận thế!”( Mattheu 28,20) Chúa Giêsu vẫn là vị Chủ Chăn chính điều hành Giáo Hội và qua các thời đại Chúa luôn luôn dẫn dắt đoàn chiên Chúa nhờ sự lãnh đạo của các vị chủ chăn Chúa chọn. Chúa đã chọn Thánh Phêrô và các Thánh Tông đồ và thành lập Giáo Hội Chúa kể từ ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Ngài và thánh hóa các Ngài. Từ đó, qua từng thế kỷ, Chúa vẫn tiếp tục gọi và chọn một số người để làm Chủ chiên chăn dắt Ñoàn chiên Chúa.

Chúa chọn ai?

“Chúa chọn những người mà Chúa muốn (Matco 3,13 ) và trao cho những nhiệm vụ theo Thánh ý Chúa: Người thì làm Tông đồ, người thì làm Ngôn sứ, người thì chuyên rao giảng Tin mừng, người chuyên lo việc quản trị và giảng dạy... (Thơ Epheso 4,11). Không ai có quyền đặt mình vào địa vị trong Giáo Hội, nhưng tất cả đều do Chúa chọn và cắt đặt.

“Nhưng tại sao Chúa chọn con?”

Vào những ngày sắp chịu chức Linh Mục, theo sự hướng dẫn của Cha Linh hướng và Cha Giảng Phòng (giảng tĩnh tâm để chuẩn bị chịu chức Linh mục) tôi thường cầu nguyện và nói thầm với Chúa: “Tại sao Chúa chọn con?”... Rồi vào ngày Lễ Truyền Chức cũng như dịp Lễ “Mở Tay” (Lễ Tạ Ơn) tôi thật cảm động khi nghe ca đoàn hát: “Không phải vì con Chúa chọn con! Nhưng vì bí nhiệm tình yêu Chúa!.

Vâng, “không phải vì con Chúa chọn con” nhưng Chúa chọn “những ai mà Chúa muốn” (Matcô 3,13), sau khi Chúa đã lên núi một mình để cầu nguyện suốt đêm ( Luca 6,12 ). Ñó thật là một sự kỳ diệu của Ơn Gọi theo Thánh Ý Chúa. Chúa gọi Phêrô dù Ông đã “chối Chúa tới ba lần dù Chúa đã cảnh cáo Ông trước!” và lại còn đặt Ông làm Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội. Chúa đã chọn Phaolô ngay trên con đường Ông đi tìm bắt và bách hại đoàn chiên non trẻ của Chúa! Và suốt đời Ông vẫn phải mang những “yếu đuối” của mình ‘Ai yếu đuối mà tôi không yếu đuối!’... (2 Cor. 11,29 ) Mọi người được Chúa gọi và chọn đều cảm thấy mình bất xứng và thật lo lắng trước trách nhiệm được trao phó” như Ñức Ñương Kim Giáo Hoàng Benedicto XVI, khi được bầu chọn lên ngôi Giáo Hoàng, trong “Lời Tâm Tình Ñầu Tiên của Ngài” cũng chia sẻ kinh nghiệm đó: “Tôi cảm thấy bất xứng và... thật lo lắng trước trách nhiệm được trao phó...” nhưng “Ơn Chúa đủ cho tôi!” (2Cor. 12,9…); nên Ñức Giáo Hoàng cũng nói tiếp: “Tôi cảm thấy như bàn tay quyền năng của Thiên Chúa nắm chặt lấy tay tôi. Tôi như nhìn thấy ánh mắt tươi cười của Chúa và lắng nghe Chúa nói với tôi đặc biệt vào lúc này: “Con đừng sợ!”. Với tâm tình đó, những người được chọn đều khiêm tốn như Mẹ Maria để thưa lời “Xin Vâng!”.

Như vậy, chúng ta mới hiểu tại sao Chúa Giêsu đã “lên núi thức suốt đêm để cầu nguyện” (Luca 6,12) trước khi chọn các Tông đồ. Hơn nữa trong đêm trước khi tự trao mình để chịu cuộc khổ nạn để cứu chuộc nhân loại, trong Bữa Tiệc Ly, Chúa đã cúi mình xuống để rửa chân cho các Tông đồ để dạy cho các Ông bài hoc phục vụ trong khiêm tốn và Chúa đã tâm tình và căn dặn các tông đồ nhiều điều mà Phúc Âm theo Thánh Gioan đã ghi lại suốt các đoạn 13, 14, 15; còn toàn đoạn 17 ghi lại những lời Chúa Giêsu cầu nguyện thiết tha với Ñức Chúa Cha cho các Tông đồ đang hiện diện, cũng như cho các Chủ chăn qua mọi thời đại; đặc biệt trong câu “Con không xin Cha cất họ ra khỏi thế gian; nhưng xin gìn giữ họ khỏi mọi sự dữ!” (Gioan, 17,15).

Trong thời gian giúp các giáo xứ Hoa Kỳ, khi gặp gỡ Giáo dân, thường có những người sau khi chào hỏi đã nói với tôi một cách thân tình “Thank you Father for being a priest!” (Cám ơn Cha đã là một Linh Mục!”. Chúng ta thường có lòng yêu mến và hằng cầu nguyện cho các chủ chăn trong Giáo hội; nhưng đặc biệt trong ngày Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, chúng ta hãy dâng nhiều hy sinh và lời cầu nguyện cho Ñức Giáo Hoàng cũng như cho các chủ chăn trong toàn thể Giáo Hội, cách riêng các chủ chăn Chúa sai đến làm việc giữa chúng ta.

Chúa Nhật IV Mùa Phục Sinh cũng là Ngày Thế Giới đặc biệt cầu nguyện cho Ơn Gọi (World Day of Prayer for Vocations): Trong Thánh lễ cũng như trong các kinh nguyện, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện cho có nhiều người được Chúa gọi và chọn để trở nên các nhà Truyền giáo và Chủ Chăn để rao giảng và chăn dắt Ñoàn chiên Chúa.Chúng ta cũng cầu xin với Mẹ Maria, Mẹ Hàng Gíao Sĩ, chuyển cầu cho chúng ta.

KINH CẦU CHO CÁC LINH MỤC.

Lạy Chúa Giêsu/ là linh mục cao trọng, là Đấng tế lễ đời đời. Bởi lòng quá yêu dấu loài người là anh em của Chúa, nên Chúa đã mở kho tàng Trái Tin cực thánh Chúa, mà lập ra chức vị linh mục, thì nay chúng tôi cũng xin Chúa khấn đổ vào lòng các linh mục / nhửng dòng nước trường sinh / bởi lòng thương yêu vô cùng Trái Tim Chúa.

Xin Chúa sống trong mình các linh mục/ và dùng các Ngài, mà ban phát ơn lành của lòng thương xót Chúa. Xin Chúa hành động với các linh mục, và dùng các Ngài/ mà hành động trong thế gian.

Lại xin Chúa làm cho các linh mục được hoàn toàn giống Chúa, mà trung thành bắt chước các nhân đức cao trọng của Chúa, để nhân danh Chúa/ và nhờ quyền phép Chúa Thánh Thần, các Đấng ấy nhiệt thành/ làm những việc xưa Chúa đã làm/ mà cứu người ta cho được rỗi.

Lạy Đấng Cứu Chuộc loài người! Xin Chúa nhìn xem biết bao nhiêu kẻ /đang nằm trong bóng tối tăm lầm lạc. Xin Chúa xem đến vô số giáo hữu theo đường tội lỗi/ hòng sa xuống vực sâu.

Xin Chúa trông đến biết bao người bần cùng đói khát, những người dốt nát mê muội, và nhửng kẻ yếu đuối nhát hèn/ đang rên rỉ than khóc/ vì không có linh mục coi sóc, giữ gìn.

Xin Chúa dùng các linh mục mà ở lại với chúng con. Xin Chúa sống trong mình các linh mục, và dùng các Ngài mà hành động, và trở lại dưới thế gian này/ mà dạy dỗ, tha thứ, yên ủi, tế lễ/ và kết hợp mối tình yêu mến, ràng buộc lòng Chúa với loài người chúng con cho đến trọn đời. Amen

KINH CẦU NGUYỆN CHO ƠN GỌI

Lạy Thiên Chúa chí ái, Giáo Hội Chúa đã được Chúa thương ban cho những linh mục, phó tế, tu sĩ nam nữ, các thành viên tu hội đời, các tông đồ giáo dân / luôn tận hiến để hằng ngày đem Chúa đến cho mọi ngừơi trên khắp thế giới. Xin Chúa giúp các vị đó luôn kiên cường trong sứ vụ. Xin Chúa cũng kêu gọi thêm nhiều người cùng tham gia trong công cuộc phục vụ dân Chúa. Amen.


Lm Anphong Trần Đức Phương

------------------------------------

 

PS 4-A65: Sống Một Đời Theo Ơn Gọi


VietCatholic News (Thứ Bảy 12/04/2008 11:57)
 

Cuộc đời sống trên trần thế có phải cùng đích của tất cả chúng con là để được sống tốt đẹp, cho mình, gia:PS 4-A65


Cuộc đời sống trên trần thế có phải cùng đích của tất cả chúng con là để được sống tốt đẹp, cho mình, gia đình, xã hội, và là cho tất cả anh chị em hay không? Sống biết có Chúa trên cao dõi mắt nhìn. Sống lương tâm không cắn rứt là khi chúng con đặt lưng xuống giường là ngủ liền. Sống tâm hồn bình thản an vui. Sống hạnh phúc với những gì mình hiện đang có bởi Chúa ban. Sống chấp nhận với những bệnh tật, nghèo khổ, khiếm khuyết, và thiếu thốn. Sống Bình An là khi mình giới hạn sự đòi hỏi. Hãy tập bỏ cái ”Muốn” mà thay thế vào cái mình ”Cần”!

Chúng con Cần Có Chúa trong cuộc đời.

Cuộc đời chúng con không có Chúa quả là cuộc đời vô nghĩa và vô vọng. Khi chúng con không cần có Chúa chẳng khác chi chúng con tự cắt đi ống dưỡng khí. Không có Chúa cuộc đời chúng con như cá mắc cạn. Không có Chúa cuộc đời của chúng con mất cả phương hướng và lạc loài cô đơn như thiếu ánh sáng, như người mù đi trong đêm tối. Vâng cuộc đời chúng con rất Cần có Chúa. Vì Chúa là tất cả cho cuộc đời chúng con Chúa ơi!

Chúng con Cần có anh chị em để Chia Sẻ.

Tưởng tượng nếu cuộc đời chúng con mà không có anh chị em để chia sẻ để yêu thương thì quả chúng con không được bình thường? Tưởng tượng nếu chúng con bị tai nạn và thoát chết trên một côn đảo chỉ có mình và thiên nhiên thì cuộc đời thật chán chường, buồn sầu, căng thẳng, điên, và có thể đưa đến cái chết dần mòn vì không có ai chia sẻ buồn vui với. Xin cho chúng con biết nhìn cái tốt của anh chị em chúng con mà sống hòa thuận với nhau vì chính chúng con chẳng có ai là hoàn thoàn chân thiện mỹ cả! duy chỉ có Thiên Chúa mà thôi! Cho chúng con hiểu rằng con người của chúng con ai cũng đều có hai mặt tốt và xấu. Chấp nhận được cái xấu của anh chị em thì rồi dần dà anh chị em cũng chấp nhận được cái xấu của chúng con.

Ngẫm nghĩ mà thấy Chúa của chúng ta hay lắm! Mỗi người Chúa tạo dựng nên, không ai giống ai cả! Cả là một tác phẩm tuyệt diệu và tuyệt mỹ Chúa nắn nót cho từng cá nhân một. Ai cũng có tánh tốt và tánh xấu, ấy thế mà sống nhường nhịn nhau để tạo thành một mái ấm, một cộng đoàn, một xã hội, và một quốc gia có luật lệ trên dưới đàng hoàng. Có phải nếu chúng ta ai cũng giống ai và ai cũng như ai thì chẳng khác chi là người máy và tất cả chắc sẽ không ai nhường ai. Vì tôi thích ăn bánh hạnh nhân thì tất cả đều thích ăn bánh hạnh nhân thì quả sẽ có chiến tranh vì tranh dành, từ con nít cho đến người lớn.

Chúng con Cần được Thông Cảm và được Cảm Thông.

Cuộc đời nếu không có sự thông cảm và hiểu nhau thì quả chúng con sẽ không được thoải mái và bình an. Trong gia đình vợ chồng rất cần sự thông cảm lẫn nhau để không hiểu lầm mà làm mất đi hòa khí gia đình. Cha Mẹ phải biết thông cảm cho con cái và hiểu chúng để chúng tin tưởng mà không làm điều sai quấy để trở thành hư hỏng. Ngoài đời chúng con càng phải biết thông cảm vì trăm người là trăm ý. Trong gia đình mà còn có sự khác biệt hà huống gì ngoài đời là người dưng nước lã. Có thông cảm thì hiểu người hơn và ít cố chấp hơn là người thiếu hoặc hoàn toàn không có sự thông cảm.

Chúng con Cần biết Xin Lỗi và Phục Thiện.

Lậy Chúa! Đây mới là điều khó khăn nhất cho chúng con vì Lậy Chúa cái Tôi của chúng con lớn lắm Chúa ạ! Không thể nào được vì sao? Vì đó là thể diện của Chúng con và là niềm tự hào của chúng con. Xin lỗi chỉ dành cho hạng người cổ bé và nghèo khổ. Không thể nào áp dụng cho chúng con được. Ai đời quyền cao chức trọng như con mà làm gì phải mở miệng đi xin lỗi ai. Cái gì con làm cũng đều đúng cả! và không ai có quyền bảo là con làm sai. Tuyệt đối. Còn phục thiện ư!? Lại còn khó hơn là xin lỗi nữa! Có ai dám nói là con sai mà con phải cần phục thiện? Công nhân mà con nghe được là mất việc ngay với con.

Xin cho chúng con biết bỏ bớt cái Tôi để còn nhìn thấy anh chị em đang cần sự giúp đỡ của chúng con. Để đừng nói những lời nặng nhẹ mà buồn lòng anh chị em của chúng con. Bởi chúa ban cho tất cả chúng con quyền làm người bằng nhau và kính trọng lẫn nhau. Ai có dư phân phát cho ai không có. Ai may mắn sống trong nhung lụa chia sẻ cho kẻ đói ăn. Ai lành lặn tìm đến với người khuyết tật để an ủi họ. Ai có lòng và trái tim giống Chúa sẽ tìm đến tất cả anh chị em ai có nhu cầu, dù một nụ cười, một câu nói, chịu lắng nghe, một cái ôm vỗ về, tất tất chẳng đòi hỏi tiền bạc nhưng là cả một tấm lòng và trái tim biết rung động trước tình cảnh của anh chị em.

Chúng con Cần sống Khiêm Nhường và Bác Ái.

Lậy Chúa sống trên đời ăn thua nhau có mỗi cái chức quyền và thế lực mà Chúa lại bảo con khiêm nhường ư!? Không thể nào được đâu Chúa ơi! Cha Mẹ chúng con đã tốn bao nhiêu tiền của để chạy chức vụ cho con mà bảo con cúi đầu khiêm nhường sao được? Chạy tiền đâu có ít hở Chúa? Giữa con người và con người chỉ khác nhau có ở chỗ đó! Đi đâu là phải được đón rước và phục dịch như ông bà hoàng thì con mới hả hê và thỏa thích. Được mọi người biết đến. Được mọi người cúi đầu chào. Được gọi ông ông và bẩm bẩm thì con mới ưa mà bố thí chứ không thì cút xéo, con không cần biết họ là ai.

Lậy Chúa! Con có biết sống Bác Ái đấy chứ như vừa mới đây con có bố thí cho một Cô Nhi Viện và được báo chí và đài truyền hình nói rất nhiều về con, Chúa không hay biết gì ư!? Hình của con còn đầy trên mấy mặt báo. Cho như thế thì con mới cho chứ Chúa lại bảo con cho tay trái mà đừng để cho tay mặt nó biết. Đôi khi tay mặt của con nó thấy cho nhiều quá nó lấy bớt lại thì cũng có sao đâu!? Đời con còn dài Chúa ơi! Con thích cứ mỗi tháng lại thấy cái mặt con trên vài tờ báo như vậy mới là có tiếng trong giới thương mại và trong giới của những tai to mặt bự chứ Chúa. Chúa cũng đâu đến nỗi khe khắt và hạn hẹp với con phải không Chúa, đâu có đáng chi để Chúa để ý!?.

Chúng Con Cần Biết Cảm Tạ Thiên Chúa.

Cuộc đời là những chuỗi ngày dài Cảm Tạ. Cảm Tạ Thiên Chúa Quyền Uy Toàn Năng Hằng Hữu của chúng con. Xin cho chúng con biết cảm tạ Thiên Chúa ngày đêm, từng giây từng phút, và từng ngày tháng trôi qua cho đến hết cuộc đời ngắn ngủi giới hạn của chúng con. Cảm tạ Chúa luôn ban cho chúng con mọi thứ, mọi điều, mọi cái chúng con là, và mọi cái chúng con đã, đang, và sẽ có. Xin cho chúng con biết cảm nhận Tình Yêu Vô Biên mà Chúa đã Hy Sinh cho tất cả con cái của Ngài.

Xin cho chúng con biết chấp nhận cuộc sống hiện tại dù thiếu thốn, tật bệnh, cực khổ, buồn sầu, neo đơn, già nua, bệnh của thời đại là đua đòi tranh chấp và bon chen, mệt mỏi, và căng thẳng đến đâu chăng nữa! Có Chúa là chúng con có Tất Cả. Chúa sẽ ban cho chúng con thêm Sức Mạnh, Ơn Bền Đỗ, Phó Thác, và Cậy Trông, thì mục đích sống nơi trần gian này sẽ Biến Thành những chuỗi ngày vui Hạnh Phúc Trong Tình Yêu của Chúa và anh chị em của chúng con. Xin cho chúng con biết chấp nhận mà đừng kêu ca than thân trách phận. Bởi càng than thì chúng con càng chưa nhận biết Tình Yêu của Chúa? Bởi càng than thì chúng con chưa biết sống hy sinh bỏ mình mà sống cho Chúa và cho anh chị em? Bởi càng than thì sự cám dỗ càng mạnh sẽ dễ dàng làm cho chúng con xa Chúa hơn vì tiền bạc vì những mối lợi vô bổ và rất nguy hiểm cho Linh Hồn của chúng con.

Chúng Con Cần Biết Sống Theo Ơn Gọi của chúng con.

Lậy Chúa! Vâng xin cho chúng con biết sống một cuộc đời Theo Ơn Gọi của chúng con mỗi ngày cho nên dù chúng con là ai đi chăng nữa! là một học sinh nghèo, một công nhân, một nông dân, một ăn mày, một người bán vé số, một thầy dòng, một sơ, một linh mục, một luật sư, bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ, thầy giáo, nhân viên công xưởng, thương gia, v.v…

Cùng đích của một cuộc đời Vĩnh Cửu là tất cả chúng con được trở về Quê Cha của chúng con ở Trên Trời. Một nơi mà Hạnh Phúc Sẽ Muôn Đời luôn được bên cạnh Ba Ngôi Thiên Chúa là Cha là Con và là Thánh Thần. Amen.

Xin Như Một Tông Đồ

Lậy Chúa! Xin cho con như Tông Đồ Ngài.
Được đến khắp chốn khắp nơi trên địa cầu.
Truyền giảng Nước Chúa đến nơi cho mọi nhà.
Đem An Bình của Chúa đến muôn nơi.

Lậy Chúa! Xin cho con luôn bên cạnh Ngài.
Từ bỏ tất cả thế gian không nề hà.
Dù phải vất vả sống hy sinh từng ngày.
Chỉ mong được Hạnh Phúc mãi không lo.

Lậy Chúa! Xin cho con luôn an phận đời.
Đừng phải dính bén thiết tha trên bạc tiền.
Đừng phải mắc lỗi trước Thiên Nhan của Ngài.
Luôn Phụng Thờ vì sống có bao lâu.

Lậy Chúa! Xin cho con yêu thương mọi người.
Dù có những lúc phải nghe không thuận lòng.
Dù có những lúc mắt gai nhưng phải đành.
Xem cuộc đời là gió thỏang mây bay.

ĐK:
Lậy Chúa! Xin cho con qua cuộc sống này.
Dù đường đi quanh co dẫn về Nước Trời.
Lậy Chúa! Đôi khi mây giăng mù lối về.
Chỉ cần có Chúa Giúp Sức Dắt Con Đi.
Chỉ cần có Chúa Giúp Sức Kéo Con Về. ... Nẻo Ngay.


Tuyết Mai

------------------------------------

 

PS 4-A66: Tôi là cửa cho chiên ra vào


CHỦ NHẬT IV PHỤC SINH

Tin mừng: Ga 10, 1-10.

“Tôi là cửa cho chiên ra vào.”

Bạn thân mến,

 

Chủ nhật hôm nay Giáo Hội chọn làm ngày “Chúa chiên lành”, tức là ngày cầu nguyện cho ơn thiên:PS 4-A66


Chủ nhật hôm nay Giáo Hội chọn làm ngày “Chúa chiên lành”, tức là ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu, ngày hôm nay, bạn và tôi đều đặt trọng tâm vào vị mục tử nhân lành của mình là Chúa Giê-su, và khi chúng ta đặt trọng tâm vào Ngài, thì chúng ta cũng sẽ yêu mến các mục tử trên thế gian của chúng ta, đó chính là Đức Giáo Hoàng, các giám mục và các linh mục cũng như các phó tế, chính các ngài là những mục tử bằng xương bằng thịt của chúng ta ngay tại trần gian này.

Giáo Hội của Chúa Giê-su như một ràn chiên, và chỉ có những mục tử được Ngài chọn bởi việc xức dầu tấn phong làm mục tử, tức là làm người phục vụ đoàn chiên Chúa ở trần gian này, mà cụ thể và rõ ràng nhất là cha sở và giám mục địa phận của chúng ta.

Có một lúc nào nó bạn thấy cha sở của bạn nổi giận la mắng giáo dân, bạn hãy bình tâm cầu nguyện cho ngài và tìm cách giúp ngài hoàn thành sứ mạng mục tử nhân lành của mình, bởi vì cha sở cũng là một con người với những bất toàn; có một lúc nào đó bạn nghe người ta phê bình các linh mục của Giáo Hội, bạn đừng vội vàng xét đoán các ngài, bởi vì sự xét đoán vội vàng thì luôn đem lại lợi nhuận cho ma quỷ và những người chống đối và ghét Giáo Hội của Chúa, nhưng bạn hãy cầu nguyện cho các ngài, bởi vì các ngài cũng là những con người tội lỗi và bất toàn...

Mục tử là những người chăn dắt đàn chiên và luôn luôn đi trước để hướng dẫn và sẵn sàng đương đầu với những ác thú rình mò cắn xé chiên của mình. Nhưng có một lúc nào đó bạn thấy vị mục tử của bạn chỉ biết sống hưởng thụ bởi sự cung cấp vật chất quá đầy đủ của đoàn chiên, hoặc bạn thấy những mục tử nơi Giáo Hội địa phương của mình quá bon chen lo lắng cho bản thân mà không màng đến chuyện săn sóc cho các linh hồn của giáo dân, thì bạn cần phải gia tăng lời cầu nguyện cho các các ngài nhiều hơn nữa, bởi vì Chúa Giê-su không muốn các con chiên của mình thờ ơ trước những sai trái và khuyết điểm của mục tử của mình.

Bạn thân mến,

Chủ nhật ngày Chúa chiên lành hôm nay, bạn sẽ thấy Chúa Giê-su rất yêu thương đoàn chiên của Ngài, mà đặc biệt là yêu thương bạn, bởi vì Ngài dạy cho chúng ta biết ai là mục tử chân chính, và ai là mục tử “dỏm”, qua việc hy sinh mạng sống cho đoàn chiên của mình. Đó chính là tình yêu mà Chúa Giê-su –vị mục tử nhân lành- đã thực hiện để các mục tử mà Ngài chọn biết noi gương ấy mà hết lòng vì đàn chiên của mình.

Bạn nhớ luôn cầu nguyện cho các mục tử của mình, nhất là cha sở và tất cả những ai vì yêu mến Giáo Hội mà tận hiến đời mình cho Chúa để cứu các linh hồn.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.

--------------------------------------
http://vietcatholic.net/nhantai
http://360.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com


Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

------------------------------------

 

PS 4-A67: CHÚA CHIÊN LÀNH


CHÚA NHẬT 4 MÙA PHỤC SINH

(Các bài đọc: CvTđ 2, 14a. 36-41; 1Pr 2, 20b-25; Ga 10, 1-10)

 

Các bạn hãy thử hình dung: nhà thờ này là một phòng hội, ở giữa có đặt một thùng phiếu, các bạn được yêu:PS 4-A67


Các bạn hãy thử hình dung: nhà thờ này là một phòng hội, ở giữa có đặt một thùng phiếu, các bạn được yêu cầu viết tên người nào mình hâm mộ nhất; và chắc là khi khui thùng phiếu, chúng ta sẽ nhận được rất nhiều cái tên khác nhau, tùy theo mỗi người chấm và tùy theo mỗi người đứng ở góc độ nào để chấm. Nếu là nhạc sĩ thì có thể có những cái tên như Hoài An, Võ Thiện Thanh, Trịnh Công Sơn, Ngô Thụy Miên… Nếu là ca sĩ thì có thể có những cái tên như Hồng Nhung, Mỹ Linh, Mỹ Tâm, Hồ Ngọc Hà, Lam Trường, Đan Trường, Đàm Vĩnh Hưng… Nếu là diễn viên điện ảnh thì có thể là Lí Liên Kiệt, Lương Gia Huy, Củng Lợi, Chung Tử Di, Jan Do Gun, Kim Nam Ho… Nếu là những cầu thủ thì có thể có David Bechkam, Thierry Henri, Roger Federer, Michael Jordan … Nếu là những doanh nhân thành đạt thì có thể có Bill Gates, J.K. Rowling… Nếu là những người đấu tranh cho quyền con người thì có Mahatma Gandhi, Mẹ Teresa Calcutta, Abbé Pierre, Somaly Mam… Và còn nhiều cái tên khác nữa. Thậm chí biết đâu trong số lá phiếu ấy cũng có thể có lá phiếu dành cho cha Vũ Khởi Phụng, cha Nguyễn Chấn Hưng, cha Nguyễn Xuân Thủy, cha Mai Xuân Lâm, cha Lê Trọng Cung, cha Tạ Xuân Hòa đang có mặt tại đây, hay một cha, một thầy, một soeur hoặc một bạn nào đó…

Thế nhưng, tất cả những cái tên ấy chỉ thỏa mãn một vài sở thích hay một vài khát vọng của bạn: âm nhạc, điện ảnh, thể thao, kinh tế, xã hội, tôn giáo, học tập… Chẳng ai trong số đó và trong nhiều người khác nữa có thể đem lại hạnh phúc trọn vẹn cho bạn, cả về thời gian lẫn về nội dung. Càng không có ai cho bạn hưởng một hạnh phúc vượt lên cả sự chết và sự dữ. Hôm nay Giáo Hội giới thiệu cho chúng ta nhân vật ấy để chúng ta dồn phiếu chọn Ngài. Đó chính là Giê-su người Nadarét, nước Do-thái, đã sống cách đây hơn 2000 năm, đã làm và nói biết bao điều kì diệu, đã chết và đã sống lại vì chúng ta, và bây giờ đang hiện diện giữa chúng ta.

Một hình ảnh rất tuyệt vời có thể giúp ta hình dung về Đức Giê-su ấy: ĐứC GIÊ-SU CHÚA CHIÊN LÀNH, ĐứC GIÊ-SU NGƯờI MụC Tử TốT LÀNH. Người Chăn Chiên tốt lành không chỉ là người quan tâm đến sức khỏe của bầy chiên: tìm đồng cỏ màu mỡ và nguồn nước tinh khiết nhất cho chiên ăn uống, tìm nơi che nắng che sương và tránh mưa tránh lũ. Người Chăn Chiên tốt lành còn là người gần gũi chiên tới mức ăn ở chung với chiên, biết chiên tường tận tới tên của từng con một hay tới cái hay cái dở của mỗi con. Đáng kể nhất là Người Chăn Chiên tốt lành dám liều lĩnh vì đàn chiên: luôn luôn đi trước đàn chiên để hứng “hòn tên mũi đạn”, liều bỏ tất cả để đi tìm cho bằng được con chiên lạc, hy sinh tới cả thân mình để bảo vệ chiên trước bầy sói (Bài Tin Mừng)

Những hình ảnh vừa kể không phải chỉ là những hình ảnh bóng gió, mà sự thật còn đi xa hơn thế nữa. Như thánh Phê-rô cho biết: “Đức Giê-su đã chịu khổ vì chúng ta. Ngài không hề phạm tội; chẳng ai thấy Ngài nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa, Ngài không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe, nhưng một bề phó thác cho Chúa Cha. Tỗi lỗi chúng ta, Ngài mang vào thân thể để đưa lên thập giá, và nhờ đó, một khi tội của chúng ta đã tiêu tan, chúng ta được sống đời công chính” (Bài đọc 2), Đức Giê-su làm tất cả những điều ấy, không chỉ để chúng ta có thêm cỏ tươi để ăn, nước mát để uống, thảo nguyên bát ngát để chạy nhảy, sạch bóng chó sói để an tâm nhởn nhơ… Ngài chịu chết và sống lại là để thổi Thần Khí của Ngài vào trong chúng ta, biến chúng ta thành con người mới và bắt đầu sống một cuộc đời mới. Đúng là sự CỨU ĐỘ của Thiên Chúa: chúng ta vừa được tha tội vừa được sung mãn mọi mặt; và không chỉ một nhóm người nào đó ngoan đạo được hưởng mà là tất cả mọi người, kể cả những người trước đây không lâu đã từng hô hào đòi giết Ngài (Bài đọc 1).

Đứng trước một Chúa Chiên Lành quá đẹp và quá tốt như thế, bạn sẽ làm gì nào ?

Có những người cảm kích trước tình thương của Chúa và nghe thấy trong lòng mình tiếng Ai đó mời gọi mình hãy lấy tình yêu đáp lại tình yêu ấy, không phải ở mức vừa vừa mà càng nhiều càng tốt, không phải cho riêng mình mà tìm cách lôi kéo nhiều người về với đàn chiên của Chúa để cũng được nếm trải tình thương của Chúa. Họ không coi việc làm này là chuyện gặp chăng hay chớ, “khi vui thì làm, khi buồn thì thôi”, mà coi đây là nghiệp là nghề của mình. Họ cam kết trước mặt Chúa và Giáo Hội sẽ làm chiên ngoan của Chúa và học tập làm người chăn chiên tốt lành của Chúa. Nếu có sống khó nghèo và giản dị, độc thân và khiết tịnh, vâng phục và khiêm tốn, huynh đệ và cộng đoàn, nếu có thinh lặng và nguyện cầu, phục vụ và làm việc… thì đó cũng là để làm chiên của Chúa và học tập làm người chăn chiên của Chúa, hoặc nói cho cùng, để lấy tình yêu đáp lại tình yêu. Chúng ta gọi đó là những người đi tu, những người dâng mình cho Chúa.

Xem ra như thế đời tu rất phong phú và sinh động, chứ không cằn cỗi và tẻ nhạt như nhiều người lầm tưởng. Hai chữ TÌNH YÊU – dù là yêu Chúa hay yêu loài người – cũng đã làm cho tâm hồn bao nhiêu người rạo rực, trí óc bao nhiêu người bừng tỉnh, tay chân bao nhiêu người khua động… Chỉ có điều, như đức giáo hoàng Benedictô XVI nói trong thông điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu” (“Deus caritas est”), tình yêu ấy phải luôn được thanh lọc và nâng cao, đi từ tình yêu có phần nào vị kỉ và nặng tình cảm tiến tới tình yêu ngày càng vị tha và siêu nhiên, đi từ tình yêu hay đòi quà tặng đến tình yêu của trách nhiệm và hy sinh. Đồng thời nói tới quá trình thanh lọc và nâng cao tình yêu là nói tới một hành trình, kéo dài cả đời, trong đó có vui có buồn, có thăng có trầm, có thành công và thất bại, có điều đáng khen và điều đáng tiếc, có thánh thiện và tội lỗi… Chính vì thế, người đi tu không những phải nỗ lực thật nhiều, mà còn cần đến những nâng đỡ của người chung quanh, những lời cầu nguyện của người khác.

Có điều lạ là dù thế giới hôm nay có ghét những gì là thiêng liêng và có nghi ngờ những gì là vô vị lợi, có điều là lạ dù ở nhiều nơi trong Giáo Hội các ki-tô hữu ngày càng sa sút trong đức tin và ở một số nơi Giáo Hội nói chung và đời tu nói riêng đang bị bách hại, vẫn luôn luôn có người đi tu, vẫn luôn luôn có những ki-tô hữu muốn làm chiên ngoan của Chúa và tập làm chủ chăn của Chúa. Thậm chí Chúa Thánh Thần vẫn luôn luôn khơi dậy những sáng kiến bất ngờ, những hình thức mới mẻ cho đời tu hôm nay. Có người còn nói: chính vì thế giới lạnh lùng với những gì là thiêng liêng và siêu nhiên, chính vì Giáo Hội đang sa sút trong đức tin, chính vì Giáo Hội đang gặp khó khăn, mà vẫn còn người đi tu, luôn có người đi tu. Đức cố giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã từng nói trong tông thư của ngài về “Đời Tu” (‘Vita consecrata”): đời tu là một khía cạnh thiết yếu của Giáo Hội, đến nỗi người ta thật khó hình dung Giáo Hội không có đời tu. Đời tu vừa là công cụ giúp Giáo Hội thể hiện tình thương của Thiên Chúa cho con người qua biết bao hoạt động của các tu sĩ, vừa là lời nhắc nhở Giáo Hội không quên ơn gọi hay sứ mạng trước hết của Giáo Hội chính là lấy tình thương đáp lại tình thương Thiên Chúa, chính là trở thành đàn chiên ngoan của Thiên Chúa và cùng với Thiên Chúa, chăn dắt nhân loại.

Các bạn trẻ thân mến,

Nói tới đây, có thể nhiều bạn trẻ cho rằng đời tu thật là tuyệt vời, nhưng dành cho ai đó chứ không phải cho tôi. Tôi còn quá nhiều bận tâm để lo toan, nhiều giấc mơ phải hoàn thành. Vả lại, Chúa có đâu bắt buộc mọi người phải đi tu. Đó là chưa nói: ở đâu không rõ, chứ tại các giáo phận miền Bắc này số người đi tu vẫn còn đông lắm ! Hay phải nói thành thật và khiêm tốn, tôi vừa bất tài vô tướng vừa lắm điều xấu xa, có tham gia đời tu thì chỉ chuốc thất bại cho mình và làm hỏng người khác.

Phải, bạn có nhiều bận tâm để lo toan và nhiều giấc mơ phải hoàn thành. Thì cứ lo toan những bận tâm nào cần thiết và hãy hoàn thành những giấc mơ nào chính đáng đi. Nhưng xin đừng dập tắt lời mời gọi này, xin hãy nuôi dưỡng nó cho tới khi nào thấy phải trả lời dứt khoát, xin hãy thỉnh thoảng dừng lại suy nghĩ thêm về lời mời gọi ấy.

Phải, đời tu không phải là nếp sống bắt buộc đối với mọi ki-tô hữu. Nhưng bạn có nỡ lòng nào bịt tai không nghe lời mời gọi réo rắt của Chúa: “Con hãy theo Ta”. Bạn có đành lòng khi thấy tận mắt biết bao con chiên lạc bầy, biết bao con chiên ốm yếu tình thương, biết bao con chiên nhơ nhớp phẩm giá, biết bao con chiên thậm chí không biết có một Mục Tử hết sức yêu thương mình…

Phải, đời tu ở Việt Nam vẫn còn sung túc, “không có mợ thì chợ vẫn đông”. Nhưng bạn có biết đâu chỉ có 6% người Việt Nam là Công Giáo – chưa kể trong số đó có mấy phần trăm là Công Giáo chính hiệu ! Trong tổng số dân của các tỉnh thành tổng giáo phận Hà Nội có mặt là 6 triệu người chỉ có hơn 300.000 người Công Giáo, chỉ được 89 linh mục và hơn 300 tu sĩ phục vụ ! Bạn có biết đâu số người không tin và số người hưởng ứng nếp sống vô thần và duy vật đang tăng theo cấp số nhân, thậm chí cấp lũy thừa; đang khi đời tu đang tăng theo cấp số cộng, thậm chí tại các thành phố lớn số người đi tu đã đi xuống từ lâu và tại nông thôn số người đi tu đã chững lại. Đó là chưa kể những nhu cầu của con người và xã hội hôm nay cần sự phục vụ của Giáo Hội lại càng ngày càng phức tạp, càng ngày càng cấp thiết !

Phải, đời tu là một nếp sống lí tưởng. Nhưng có ai sinh ra là đã thành linh mục hay tu sĩ đâu. Đời tu là một hành trình dài cho phép chúng ta nhận ra và biết quẳng đi dần những gì làm cản trở bước đi, cho phép chúng ta nhận ra và tích lũy dần những công cụ cần thiết cho đời tu. Có mấy ai nghĩ Augustinô, Phanxicô Assisi, Inhaxiô Loiôla… sẽ hoán cải và đi tu, khi đã chìm ngập trong những triết lí sai lạc, những thú vui đáng trách và những tham vọng điên cuồng. Đó là mới chỉ kể ra vài người đi tu thời trước. Còn biết bao tâm hồn tận hiến cho Chúa ngày hôm nay cũng đã bắt đầu và tiếp tục hành trình tu trì của mình cách vất vả, có lúc phải “te tua, tơi tả” vì hành trình tu trì ấy. Thật ra, nguyên việc dám theo đuổi một giấc mơ thánh thiện và cao cả, lại sẵn sàng đầu tư công sức cho điều ấy, cũng đã là một điều hết sức đáng khen rồi với các bạn trẻ ngày hôm nay.

Để kết thúc, tôi xin mượn một hình ảnh rất quen thuộc với các bạn trẻ chúng ta: Banh đã được tung lên. Phần còn lại là của bạn – những người đang ở trên sân chơi của cuộc đời, sân chơi Nước Trời. Bạn hãy đá thế nào để banh vào lưới, để banh đến đích phải đến. A-men.


LM Đặng Xuân Thành

------------------------------------

 

PS 4-A68: Mục tử & Cửa chuồng chiên

 

Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu hai hình ảnh. Hình ảnh thứ nhất: PS 4-A68


Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu hai hình ảnh. Hình ảnh thứ nhất đó là người mục tử.

Trong Cựu Ước, dân Do Thái thường dành tước hiêu này cho Thiên Chúa. Ngài chính là người mục tử, đã dẫn dắt họ qua sa mạc, qua biển Đỏ để tiến vào miền đất hứa. Ngài đã chăm sóc, dưỡng nuôi họ bằng manna, bằng chim cút, bằng suối nước vọt lên từ tảng đá. Như người mục tử gắn liền số mạng với đoàn chiên, thì Thiên Chúa cũng và đã luôn ở giữa dân Ngài để chia sẻ những buồn vui gian khổ với họ dưới sương sớm và nắng chiều.

Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng đã tự sánh ví mình như người mục tử nhân lành. Khác với những kẻ chăn thuê và giữ mướn, những kẻ trộm cướp và lợi dụng, người mục tử đích thực chỉ biết phục vụ đoàn chiên và giải thoát đoàn chiên khỏi mọi sự dữ. Đổi lại, con chiên nghe tiếng người mục tử, hăm hở đi theo và tỏ lòng yêu mến quyến luyến với người mục tử. Người ấy sẽ đi trước để bảo vệ đoàn chiên. Còn đoàn chiên thì theo sau một cách ngoan ngoãn, để rồi cuối cùng sẽ đến được nơi đồng cỏ xanh và nơi dòng suối mát. Chính Ngài đã phán: Ta đến để chúng được sống và được sống một cách dồi dào. Thực hiện mục đích ấy, Ngài đã phải trả bằng một giá rất đắt, bằng chính mạng sống của mình.

Hình ảnh thứ hai, đó là hình ảnh của chuồng chiên. Mỗi khi tổ chức Năm Thánh, thì trong ngày khai mạc và bế mạc, Đức Giáo Hoàng sẽ chủ sự một nghi lễ đặc biệt, đó là đóng và mở một cánh cửa lớn nằm bên phải đền thờ thánh Phêrô. Nghi lễ ấy có nền tảng trong Kinh Thánh tượng trưng cho ơn thánh đổ xuống nhân loại, cho cuộc trở về toàn thắng của đức vua, cho nơi gặp gỡ của sự bình an và hiệp nhất.

Với lời khẳng định: Ta là cửa chuồng chiên, ai qua Ta mà vào thì được cứu rỗi, người ấy sẽ tìm thấy của nuôi thân, Chúa Giêsu muốn nói lên rằng: Nơi Ngài, chúng ta sẽ gặp gỡ Thiên Chúa và anh em. Nơi Ngài, chúng ta được cứu rỗi và tìm thấy niềm hạnh phúc Nước Trời.

Còn chúng ta thì sao? Hãy đến với Đức Kitô và bước đi theo sự dẫn dắt của Ngài, như lời Thánh Phaolô đã diễn tả: xưa kia anh em là những con chiên lạc, giờ đây anh em đã trở về cùng vị mục tử Đấng canh giữ linh hồn anh em.

Để kết luận, tôi xin kể lại mẩu chuyện sau đây: Trời mùa đông giá rét, một đêm nọ, vua thánh Venceslaô đi đến nhà thờ để viếng Thánh Thể. Viên thị vệ theo hầu xuýt xoa vì giá lạnh, nhưng thánh nhân bảo: Cứ chịu khó đi theo và đặt bàn chân ngươi lên vết chân ta. Viên thị vệ làm như vậy và cảm thấy ấm hẳn lên.

Với chúng ta cũng vậy. Theo dấu chân của vị mục tử nhân lành, chúng ta sẽ được bình an và hạnh phúc bởi vì Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi.

------------------------------------

 

PS 4-A69: Nhân loại chỉ có một Đức Kitô – Achille Degeest.


(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
 

Nền văn minh cơ giới khiến chúng ta quen thấy các bãi đậu xe hơn là các chuồng chiên. Để hiểu: PS 4-A69


Nền văn minh cơ giới khiến chúng ta quen thấy các bãi đậu xe hơn là các chuồng chiên. Để hiểu rõ bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta cần gợi lại trong trí tưởng tượng một trong những quang cảnh đời sống thôn dã quen thuộc vào thời Đức Kitô. Những người chăn chiên chiều đến lùa đàn súc vật của mình vào một ràng để cho một người trong bọn trông coi, canh giữ cửa ra vào suốt đêm. Kẻ toan tính vào trong ràng để giết trộm buộc phải trèo qua rào. Chiên thuộc các bầy khác nhau biết tiếng người chăn mình. Sáng đến, người ấy tới trước cửa, người canh mở cửa cho ông ta. Nghe tiếng gọi mà chúng nhận ra không lầm lẫn. Chiên mỗi bầy tụ lại chung quanh người chăn của mình rồi ra đi đến đồng cỏ. Chúa Giêsu tự ví mình như người chăn chiên và đoàn lũ đông đảo của gia đình nhân loại Ngài ví như đoàn chiên. Ngài biết toàn thể loài người, cũng như từng người riêng biệt. Đối với nhân loại đã không có ai và sẽ không có ai được như Ngài. Ngài không những là người chăn chiên mà còn là cửa ràn chiên. Người ta chỉ hiểu biết thâm sâu cộng đoàn nhân loại bằng cách nhờ vào sự thông hiểu của Đức Kitô. Có nhiều đường lối khác, nhưng ít hay nhiều đó là những đường đột nhập. Những lời mời gọi con người mà không có cung giọng, tiếng nói của Đức Kitô dẫn đưa họ đến những mục đích không có được sự toàn vẹn, như ơn cứu độ Đấng Kitô Cứu Chúa duy nhất mang lại.

1) Các chiên của Ngài, Ngài gọi từng con một.

Điều này có nghĩa là Chúa biết mỗi người riêng biệt. Ngài biết được vì Ngài là Thiên Chúa. Đó chẳng phải là một sự kiện khiến lòng ta phấn khởi sao? Chúng ta sống trong một xã hội giảm trừ dần dần con người vào chỗ vô danh của một lá phiếu điện toán. Vì hiện nay giá trị độc nhất của nhân vị càng tiêu tán dần, nên người ta phản ứng lại bằng việc học hỏi cách khoa học vấn đề các tương giao liên vị. Làm như thế, người ta lại phá huỷ thêm tính chất liên lạc hợp nhất của nhân vị. Còn lại được gì? Đối với người Kitô hữu còn lại việc Thiên Chúa biết đến mình, biết đến chỗ thâm sâu độc nhất và không thể thông truyền của mình. Khi trong đám đông có lúc chúng ta cảm thấy hết sức trơ trọi cô độc, hãy nhớ đến một Đấng thông hiểu chúng ta tường tận riêng biệt. Hãy nhớ đến một giọng nói hoà hợp với khả năng đón nghe bên trong chúng ta.

2) Ta đến để chúng được sống

Sự sống Đức Kitô mang lại cho chúng ta là điều mà người ta gọi là ơn thánh hoá, một sự thông phần vào chính cuộc sống của Thiên Chúa. Tại thế này chúng ta đang sống những chặng khởi đầu, chờ đợi hồi triển nở đầy đủ khi chúng ta được hoàn toàn thông hiệp vào sự phục sinh của Chúa. Ngay tự bây giờ trí khôn, ước muốn, tâm hồn chúng ta đã được hưởng nhờ hồng ân Thiên Chúa. Khả năng hiểu biết sự thật, ước muốn điều thiện được tăng cường đến một mức vượt quá sức tự nhiên. Không bao giờ một mình trí khôn chúng ta biết được mầu nhiệm Ba Ngôi chí thánh. Không bao giờ tâm hồn chúng ta tự mình khám phá được niềm hy vọng lớn lao. Chính Đức Giêsu Kitô mang sự sống của con cái Thiên Chúa đến cho chúng ta. Đó chẳng phải là sự sống đầy tràn quý nhất hay sao?

------------------------------------

 

PS 4-A70: Thiên Chúa chọn để loan báo Tin Mừng – R. Veritas.


(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Anh chị em thân mến,

“Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa chọn để loan báo Tin Mừng và thông truyền Ơn Cứu Độ”,

 

Đó là tựa đề của Sứ Điệp Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gởi đến cộng đoàn chúng ta trong: PS 4-A70


Đó là tựa đề của Sứ Điệp Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gởi đến cộng đoàn chúng ta trong ngày Lễ Chúa Nhật Chúa Chiên Lành cũng là Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi Linh Mục, Tu Sĩ Nam Nữ. Vậy hôm nay, tôi xin chia sẻ với anh em nội dung sứ điệp này của Đức Giáo Hoàng.

“Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa chọn để loan báo Tin Mừng và thông truyền Ơn Cứu Độ”. Vậy là chúng ta đều có một ơn gọi chung. Dù sống đời sống vợ chồng hay chịu chức thánh, linh mục hay tu sĩ, tất cả đều được Thiên Chúa chọn để công bố Tin Mừng và chuyển thông ơn Cứu Độ. Đây không phải là một trách vụ đơn độc, riêng lẻ mà là trách vụ chung của Giáo Hội (x. LBTM. 60). Đó là ơn gọi chung của Giáo Hội. Cùng với ơn gọi chung ấy, còn có ơn gọi đặc biệt với những trách nhiệm riêng biệt trong Giáo Hội. Đó là những ơn gọi tiến đến tác vụ linh mục, ơn gọi đời sống thánh hiến của các tu sĩ nam nữ hoạt động thừa sai và đời sống chiêm niệm.

Trong sứ điệp này, Đức Thánh Cha đặt trọng tâm của ơn gọi linh mục, tu sĩ, vào đời sống của cộng đoàn Kitô hữu. Vì “cũng như hạt giống trổ sinh dồi dào hoa trái nơi mảnh đất tốt thế nào thì ơn gọi cũng tăng triển và trưởng thành trong cộng đoàn Kitô hữu như vậy”. Chúng ta phải khởi đi từ các cộng đoàn để chuẩn bị cho một mảnh đất phì nhiêu, cho hạt giống ơn gọi nẩy mầm, trổ sinh hoa trái. Vì chỉ có các cộng đoàn Kitô hữu sống động mới có thể làm nẩy sinh các ơn gọi, vun trồng, chăm sóc các ơn gọi và làm cho các ơn gọi phát triển, như một người mẹ hằng lưu tâm đến hạnh phúc, đến sự tăng trưởng của các con cái mình. Vì thế, tác nhân chủ động và tiên phong trong việc cổ võ ơn gọi chính là cộng đoàn Giáo Hội: từ Giáo Hội toàn cầu cho tới Giáo Hội địa phương, cũng như từ Giáo Hội địa phương cho tới từng giáo xứ và từng thành phần Dân Chúa (x. Tông huấn Các Mục Tử, số 41).

Ngày nay, trước những thách đố của thế giới hiện đại, cần phải có nhiều lòng dũng cảm sống Tin Mừng hơn nữa, để dám dấn thân cổ võ ơn gọi; như Đức Kitô đã kêu mời hãy cầu xin không ngừng để có những thợ làm vườn nho, cho Nước Chúa được lan rộng khắp nơi (x. Mt 9,37-38). Hơn lúc nào hết, ngày nay cần phải làm cho mọi thành phần Dân Chúa nhận biết và xác tín rằng: tất cả mọi thành phần trong Giáo Hội, không trừ một ai, đều có ân sủng và trách nhiệm chăm sóc các ơn gọi (x. Tông huấn Các Mục Tử, số 41). Đức Thánh Cha kêu gọi các cộng đoàn giáo phận và giáo xứ phải dấn thân chăm sóc cho ơn gọi linh mục và đời sống thánh hiến, đặc biệt bằng việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện và phục vụ người nghèo.

Trước hết, cộng đoàn phải biết lắng nghe Lời Chúa để nhận ra ánh sáng hướng dẫn tâm hồn con người. Khi Kinh Thánh trở thành sách của cộng đoàn, chúng ta sẽ dễ dàng nghe và hiểu được tiếng nói của Chúa. Đấng kêu gọi chúng ta. Hơn nữa, cộng đoàn phải biết khẩn khoản cầu nguyện để có thể thực hiện được ý định của Thiên Chúa. việc cầu nguyện mang lại sức mạnh giúp ta đón nhận cách tích cực lời mời gọi của Chúa, để dấn thân phục vụ đời sống tinh thần và vật chất của anh em. Cộng đoàn cũng phải nhạy cảm trước sứ mạng truyền giáo để đem ơn Cứu Độ đến cho những người chưa nhận biết Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc nhân loại. Nếu cộng đoàn hết lòng sống mệnh lệnh của Đức Kitô: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19) chắc chắn cộng đoàn đó sẽ không thiếu những người trẻ quảng đại muốn dâng hiến đời mình để đảm nhận trách vụ loan báo Tin Mừng cho con người thời đại. Cuối cùng, cộng đoàn phải biết mở ra cho việc phục vụ người nghèo. Một mẫu sống khiêm tốn và từ bỏ, thẳng thắn chọn lựa đứng về phía những người nghèo, dấn thân trợ giúp những anh chị em túng thiếu và đau khổ. Những điều đó góp phần tạo nên một môi trường thuận lợi cho ơn gọi nảy sinh, vì phục vụ Tình Yêu là ý nghĩa nền tảng của mọi ơn gọi.

Thưa anh chị em, trong phần cuối sứ điệp, một lần nữa, Đức Thánh Cha lại kêu gọi các giám mục, các linh mục Dòng cũng như Triều, các giáo lý viên và các bạn trẻ phải ý thức trách nhiệm chăm sóc mục vụ ơn gọi trong cộng đoàn Giáo Hội: Khi làm cho cộng đoàn Giáo Hội sinh động, các linh mục có thể khơi dậy các ơn gọi, cổ võ các thiếu niên nam cũng như nữ được Thiên Chúa kêu gọi, hướng dẫn các em qua những hướng dẫn tinh thần và cuộc sống vui tươi phục vụ anh em.

Các giáo lý viên là những người tiếp xúc trực tiếp với các thanh thiếu niên, nhất là suốt thời gian chuẩn bị lãnh nhận các Bí tích khai tâm Kitô giáo, các giáo lý viên cũng có trách nhiệm góp phần giúp các em sống trọn vẹn lời mời gọi của Thiên Chúa. Đức Thánh Cha: “Cha muốn nói với các con, các con thân mến, cha trìu mến lập lại những lời này với các con: Hãy quảng đại hiến cuộc đời mình cho Đức Kitô. Đừng sợ hãi! Các con không có gì phải sợ, vì Thiên Chúa là Chúa của lịch sử và của vũ trụ. Hãy để những khát vọng về những kế hoạch vĩ đại và cao thượng lớn lên trong các con. Hãy nuôi dưỡng cảm thức về tình liên đới: đó là dấu chỉ Thiên Chúa hành động nơi tâm hồn của các con. Hãy sẵn sàng sử dụng các tài năng mà Đấng Quan Phòng đã trao ban cho các con, vì cộng đoàn của các con. Các con càng sẵn sàng dâng hiến chính mình cho Thiên Chúa và tha nhân, các con sẽ càng khám phá ra ý nghĩa đích thực của đời sống. Thiên Chúa mong đợi nhiều nơi các con!”.

Thưa anh chị em, tôi xin kết thúc nội dung tóm lược sứ điệp Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi bằng một lời nguyện của Đức Thánh Cha: “Lạy Chúa, xin gởi cho chúng con những người hướng dẫn tinh thần mà cộng đoàn chúng con đang cần: những linh mục thực sự của một Thiên Chúa sống động, những người được ánh sáng Lời Ngài soi chiếu, để có thể nói về Ngài và dạy người khác nói với Ngài. Xin hãy làm cho Giáo Hội của Ngài lớn mạnh nhờ sự phát triển của những con người thánh hiến, những người dâng hiến tất cả cho Ngài để Ngài cứu độ tất cả mọi người”. Amen.

------------------------------------

 

PS 4-A71: Mục Tử Nhân Lành


CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH

Năm A – 15/05/2011

Tin Mừng: Ga 10, 1-10

“Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ.” Đức Giêsu kể cho họ nghe dụ ngôn đó. Nhưng họ không hiểu những điều Người nói với họ.

Vậy, Đức Giêsu lại nói: “Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ. Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”.

Chia sẻ:

Vị mục tử nhân lành

 

Trong cuốn sách có tựa đề “The Holy Land” (Vùng Đất Thánh), John Kellman đã mô tả một cái: PS 4-A71


Trong cuốn sách có tựa đề “The Holy Land” (Vùng Đất Thánh), John Kellman đã mô tả một cái chuồng chiên ở ngoài đồng như sau: Nó có một bức tường bằng đá chung quanh, cao khoảng bốn bộ (cỡ 1,4 mét) và chỉ có một lối vào. Kellman kể rằng ngày nọ, một du khách Thánh Địa đã trông thấy một cái chuồng chiên ngoài đồng gần Hebron. Anh du khách hỏi người mục tử đang ngồi cạnh đó: “Cửa chuồng ở đâu?” Người mục tử liền đáp: “Tôi chính là cửa chuồng”. Đoạn người mục tử kể cho du khách nghe anh ta nằm chặn ngang lối vào chật hẹp đó, không có chú chiên nào có thể bỏ chuồng ra đi, và cũng chẳng có con thú rừng nào có thể đi vào mà không bước qua mình anh ta.

Câu chuyện này có thể gợi mở cho chúng một vài ý tưởng liên quan đến bài Tin Mừng hôm nay:

Bối cảnh lịch sử

Vào thời Đức Giêsu, khi màn đêm buông xuống, các mục tử (các người chăn chiên) lùa đàn chiên của họ vào chuồng. Nếu ở gần làng, họ sẽ lùa chúng vào cái chuồng công cộng; còn nếu ở xa làng, thì họ sẽ lùa chúng vào một cái chuồng ở ngoài đồng hoặc đôi khi trong một cái hang. Các mục tử làm thế là để che chở bầy chiên khỏi sương đêm lạnh lẽo và để khỏi bị thú rừng tấn công.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói đến cả hai loại chuồng trên.

Phần đầu bài Tin Mừng, Ngài ám chỉ đến loại chuồng công cộng, đặc biệt nhắc đến lúc sáng sớm, khi người mục tử đến chuồng làng công nhận bầy chiên của mình để dẫn chúng đi ăn cỏ suốt ngày.

Phần sau của bài Tin Mừng, Chúa Giêsu ám chỉ đến loại chuồng ở ngoài đồng, đặc biệt Người nói đến lối ra vào duy nhất và chật hẹp của cái chuồng mà bầy chiên phải đi qua: “Tôi là cửa cho chiên ra vào.… Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.”

Mối tương giao và hiến thân của mục tử cho đàn chiên

Đàn chiên là một nguồn thu nhập chính đối với người dân du mục. Do đó, người mục tử phải hiện diện bên đàn chiên gần như suốt cả ngày lẫn đêm. Vì thế, anh có thể biết rõ con nào khoẻ mạnh, con nào đau yếu, con nào hay bỏ bầy… và anh cũng biết cách chăm sóc cho từng con chiên một.

Chúa Giêsu đã mượn hình ảnh người mục tử chăm sóc cho đàn chiên để nói về mối tương giao và sự hiến thân của Người cho chúng ta. Giống như người mục tử, Chúa Giêsu cũng luôn hiện diện với chúng ta 24 giờ mỗi ngày: “Ta sẽ luôn ở cùng các con cho đến ngày tận thế” (Mt 28,20). Người cũng biết rõ mỗi người chúng ta một cách thật thân mật và sâu xa. Ngài biết ai trong chúng ta yếu kém về đức tin, ai trong chúng ta thường dễ ngã lòng, ai trong chúng ta thường hay bỏ bầy đi hoang...

Tôi là cửa cho chiên ra vào

Chúa Giêsu đã tự ví Người như là cửa chuồng chiên. Ai muốn đi vào với đàn chiên và phục vụ đàn chiên thì người đó sẽ đi qua cửa chính mà vào. Tất cả mọi lối đi khác đều là lối đi của quân trộm cướp. Qua hình ảnh này, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng, chỉ có một cung cách phục vụ duy nhất đó là phục vụ như Người đã phục vụ, nghĩa là phải luôn sẵn sàng hiến thân mình cho và vì tha nhân. Ai sống và phục vụ như Chúa Giêsu thì kẻ ấy thuộc về Người, còn ai sống ngược lại cung cách phục vụ ấy thì kẻ đó chỉ là quân trộm cướp mà thôi.

Gợi ý chia sẻ

Chúa Giêsu là cửa đàn chiên, Ngài luôn đem lại cho chiên (các tín hữu) lương thực, sự sống và sự tự do. Còn tôi, tôi đã săn sóc cho gia đình và cộng đoàn của tôi tới đâu rồi?

Học viện Đa Minh

------------------------------------

 

PS 4-A72: MỤC TỬ VÀ ĐÀN CHIÊN


“Nhân danh Thiên Chúa, nhân danh những người đau khổ mà lời than khóc của họ vang vọng lên tới trời xanh… Tôi van xin anh em, tôi ra lệnh cho anh em: Nhân danh Thiên Chúa, hãy chấm dứt đàn áp! Chấm dứt chém giết!”.
 

Đó là lời nói lập đi lập lại nhiều lần của Đức TGM. Oscar Romero, vị mục tử của đàn chiên trong: PS 4-A72

 

Đó là lời nói lập đi lập lại nhiều lần của Đức TGM. Oscar Romero, vị mục tử của đàn chiên trong tổng giáo phận San Salvador, nói với quân đội và chính quyền độc tài El Salvador vào

thập niên 80, khi cuộc nội chiến bùng nổ trong quốc gia vùng Nam Mỹ này.

Đức TGM. Oscar Romero là Giám mục của người nghèo, của công lý và sự thật. Ngài lên tiếng đòi quyền sống cho những người bị giết hại, đòi công lý cho những người bị áp bức… Ngài là tiếng nói can trường bất khuất thay cho những người có miệng nhưng không có tiếng nói, cho những người bị đàn áp trong một xã hội đầy bất công, bóc lột và chém giết lẫn nhau.

Để bênh vực đàn chiên của mình, để bảo vệ công lý và sự thật. Vị mục tử đáng kính và can trường đã phải trả một giá máu bằng chính mạng sống của Ngài. Vào ngày 24/03/1980, trong lúc đang cử hành Thánh lễ tại nhà nguyện của Bệnh viện Chúa Quan Phòng. Ngài đã bị chính quyền và quân đội giết hại bằng một phát đạn bắn vào ngực.

Vị mục tử của tổng giáo phận San Salvador đã nằm xuống, nhưng tinh thần tranh đấu cho người nghèo và người bị áp bức đã không nằm xuống. Máu của Ngài đã đổ ra vì công lý và sự thật để cho công lý và sự thật không bị đi vào quên lãng, nhưng được chắp cánh bay cao. Mạng sống của Ngài đã hy sinh vì đàn chiên để đàn chiên được sống, và sống dồi dào …

***

Bạn thân mến! Rải rác khắp nơi trong thế giới chúng ta đang sống hôm nay, vẫn còn biết bao vị mục tử đáng kính và can trường như Đức TGM. Oscar Romero. Các Ngài đã và đang chăn dắt đàn chiên của mình một cách oai hùng, đã anh dũng bênh vực và hy sinh cho đàn chiên của mình, đã dóng lên tiếng nói cho công lý, sự thật và nhân phẩm con người. Các Ngài đã gục ngã khi đang thi hành sứ vụ. Các ngài là hy vọng cho xã hội và cho cả thế giới hôm nay, vì các ngài chứng tỏ rằng tình yêu Chúa Kitô mạnh hơn bạo lực và sự thù hận. Các ngài không tìm kiếm sự tử đạo nhưng sẵn sàng thí mạng sống để bênh vực cho đàn chiên, để bảo vệ công lý và sự thật, và nhất là để giữ lòng trung tín với Tin Mừng mà các ngài đã được trao ban.

Tin Mừng Chúa nhật hôm nay cũng nhắc đến vị “Mục Tử Nhân Lành”. Đó chính là Đức Giêsu, Ngài là “cửa chuồng” (Ga:10.8) và qua đó từng con chiên được đưa vào chuồng để ngủ đêm an toàn, tránh được nanh vuốt của thú dữ. Chính nơi cửa chuồng này, người mục tử sẽ đứng cầm gậy kiểm điểm từng con chiên của mình, không để một con nào bị lạc mất. Và cũng chính nơi cửa chuồng này, người mục tử đứng chờ từng con chiên, dẫn chúng ra đi ăn mỗi buổi sáng. Đó là lúc các chiên nghe và nhận biết tiếng gọi của mục tử. Ngài gọi tên từng con rồi dẫn chúng ra. Ngài đi trước, các chiên theo sau. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ. "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi."(Ga:10.27).

Chiên đã trở thành điều vô cùng quý giá đối với mục tử chân chính, đến nỗi mục tử dám hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên, để chiên được sống và sống dồi dào. Khác với mục tử giả hiệu là người chăn thuê. Họ bỏ chiên mà chạy khi gặp sói dữ và đàn chiên sẽ ra tan tác. Họ chỉ đến để giết hại và phá hủy đàn chiên. (Ga:10.12)

Ngày nay đôi khi người ta thường hay giới hạn ý nghĩa của chữ "mục tử" cho những người lãnh đạo tôn giáo. Nhưng thật ra, chữ “mục tử” còn dành cho tất cả những ai đảm trách việc trông coi và lãnh đạo: trông coi một gia đình; một hội đoàn; một xứ đạo hay một giáo phận… Lãnh đạo một phường; một quận; một tỉnh hay một quốc gia… một cách nào đó, đều có thể gọi là “mục tử”.

Mọi quốc gia, mọi giáo hội… tất cả đều rất cần có những Mục Tử Nhân Lành, hơn là việc có thật nhiều “anh hùng”. Câu chuyện sau đây minh họa điều đó.

Có hai người thuộc hai quốc gia nói chuyện với nhau:

- Tôi rất khâm phục đất nước anh, vì nước anh có rất nhiều “anh hùng”.

- Thế đất nước anh có nhiều “anh hùng” không ?

- Rất tiếc, đất nước tôi ít anh hùng lắm !

- Lạ nhỉ, đất nước tôi nhiều "anh hùng", thế mà sao vẫn cứ nghèo nàn và lạc hậu, còn đất nước anh không có "anh hùng" mà sao lại phát triển và dân chúng lại giàu có như vậy ?

- À, đất nước tôi không có nhiều “anh hùng”, nhưng bù lại có được khá nhiều “Mục Tử Nhân Lành”

***

Lạy Chúa Giêsu!
Chúa chăn dắt con, con chẳng thiếu thốn chi
Trong đồng cỏ xanh rì, Người cho con nằm nghỉ.
Người đưa con tới giòng nước trong lành, và bổ sức cho con.
Dầu qua thung lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Amen

Tổng hợp từ R. Veritas

------------------------------------

 

PS 4-A73: MỤC TỬ TỐT LÀNH


CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH

CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH, năm A

 ( cầu cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ )

Ga 10, 1-10

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi  DCCT

 

Một trong những bức ảnh ấn tượng nhất đối với tôi vẫn là bức tranh ảnh vẽ Chúa Giêsu đang: PS 4-A73


Một trong những bức ảnh ấn tượng nhất đối với tôi vẫn là bức tranh ảnh vẽ Chúa Giêsu đang vác con chiên trên vai và xung quanh Ngài là cả một bầy chiên. Hình ảnh này vẫn theo tôi mãi và giờ đây tôi đang phục vụ anh chị em Dân tộc Kơho, thì hình ảnh những đàn dê, những đàn cừu vẫn là những gì rất thiết thân, gần gũi tôi.Dù rằng cừu dê lúc này ít thấy nơi những cánh đồng, nơi những gia đình người Dân tộc, nhưng dẫu sao hình ảnh Chúa Giêsu vác chiên trên vai vẫn gây xúc động thật nhiều nơi tôi. Hôm nay, Giáo Hội mừng lễ Chúa chiên lành, nhìn vào Chúa đang vác chiên, quả thực ai cũng có những cảm nghĩ thật cảm động. Hình ảnh ấy là lời mời gọi thúc bách đến những người nam, người nữ hãy quảng đại, dấn thân tận hiến cuộc đời mình để phục vụ Nước Chúa trong sứ vụ linh mục và ơn gọi làm tu sĩ nam nữ…

Đức Giêsu là mục tử tốt lành. Người yêu thương từng con chiên và yêu thương cả đàn chiên. Thánh vịnh 22 ( 23 ) nói về “ Chúa chiên lành “. Mọi người chúng ta đều nghĩ về Chúa Giêsu, nhưng thực tế Thánh Vịnh nói về Chúa Cha. Tuy nhiên, trong mầu nhiệm Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần là một. Do đó, nói về Cha cũng đồng thời nói về Con và Thánh Thần. Chúa Giêsu đã đến trong thế gian mang theo tình yêu của gia đình, tức là Thiên Chúa Ba Ngôi. Nơi gia đình, Thiên Chúa Ba Ngôi, tình yêu luôn tràn đầy. Chúa Giêsu đã nói:” Tôi biết chiên của tôi “. Biết ở đây có nghĩa hiểu rõ ràng những nhu cầu, những điều cần thiết cho thể xác và linh hồn. Chính vì thế, mọi người hãy tin tưởng nơi Người. Khi Chúa nói:” Chiên tôi thì nghe tiếng tôi “, có nghĩa các chiên chỉ nghe tiếng một mình Người, đừng nghe bất cứ tiếng người nào khác, chỉ có Người là mục tử duy nhất chân thật. Chúa cũng đã nói:” Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào “ ( Ga 10, 10 ). Chúa muốn nói Người dẫn chiên trên những đồng cỏ xanh tươi và bên những dòng suối nước mát. Người nuôi dưỡng nhân loại bằng chính lương thực vô giá là Mình Máu của Người.

Để tiếp nối sứ mạng của Người nơi trần gian này, Chúa Giêsu đã chọn nhiều môn đệ, nhiều tông đồ làm cánh tay nối dài của Người để rao giảng Tin Mừng và để dẫn dắt giáo dân. Chúa Giêsu đã sai các mục tử đến hướng dẫn giáo dân và tiếp nối công việc của Chúa ở trần gian này. Ngày Chúa nhật IV Phục sinh, Đức Thánh Cha đã dành ngày này để cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và ơn gọi tu sĩ nam nữ. Chắc chắn Hội Thánh luôn cần đến những mục tử tốt lành để phục vụ Giáo Hội và con chiên. Chúng ta hãy cầu nguyện cho có nhiều linh mục, tức các mục tử tốt lành để tiếp nối công việc cứu độ của Chúa. Xin cho có nhiều linh mục đạo đức, thánh thiện như lòng Chúa mong ước. Chúng ta phải cầu nguyện nhiều và chính chúng ta phải trở thành đàn chiên tốt.

Chúa Giêsu đã từ trời xuống trong lòng Thiên Chúa Ba Ngôi có từ đời đời và tuyệt đối thánh thiện, ba lần thánh. Còn các linh mục là những người xuất thân và đến từ những gia đình trần gian. Chúng ta cầu nguyện cho các Ngài luôn là những mục tử tốt lành, đạo đức, thánh thiện biết nuôi dưỡng giáo dân như Chúa Giêsu, nghĩa là luôn biết yêu thương giáo dân, sẵn sàng hy sinh vì giáo dân và sốt sắng dọn bài giảng tốt, mang lại những hoa trái tốt đẹp cho giáo dân.

Chúng ta phải luôn nâng đỡ các linh mục và cầu nguyện cho các linh mục để các Ngài sống như Chúa Giêsu đã sống, đã làm: “ Yêu như Thầy yêu “ và “ Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ).

Lạy Chúa Giêsu, Mục tử tốt lành xin tiếp tục ban cho thế giới, cho nhân loại các Mục tử như lòng Chúa mong ước. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:

1.Mục tử tốt lành là gì ?
2.Chúa Giêsu là Mục tử thế nào ?
3.Ta đến cho chiên được sống và sống dồi dào nghĩa là sao ?
4.Thế giới đang cần các Linh mục thế nào ?
5.Chúng ta muốn các Linh mục giảng giải làm sao ?

------------------------------------

 

PS 4-A74: Chúa Nhật Ơn Thiên Triệu


Chúa Nhật 4 Mùa Phục Sinh Năm A

 (Cv 2,14a.36-41; 1P 2,20b-25; Yn 10,1-10)

 Phúc Âm: Yn 10, 1-10

"Ta là cửa chuồng chiên".

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ". Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào".

Suy Niệm:

Chúa Nhật IV Phục Sinh

Cv 2,14a.36-41; 1P 2,20b-25; Yn 10,1-10

 

Chúa Nhật hôm nay (thường) là Chúa Nhật Ơn Thiên Triệu để cầu nguyện cho các ơn gọi và đặc: PS 4-A74


Chúa Nhật hôm nay (thường) là Chúa Nhật Ơn Thiên Triệu để cầu nguyện cho các ơn gọi và đặc biệt ơn gọi Linh mục chăn dắt đoàn chiên của Chúa. Nhưng đó chỉ là ý nghĩa mới thêm vào gần đây. Chứ trước kia Phụng vụ chỉ quen gọi Chúa nhật này là Chúa nhật Chúa Chiên Lành, vì lẽ các bài đọc nhấn mạnh việc Chúa là Mục tử. Chúng ta muốn hiểu biết ơn gọi Linh mục để khao khát, cầu nguyện, cổ võ và nâng đỡ, phải nhìn vào Đấng là Mục tử các linh hồn. Có yêu mến Người và các tư cách của Người, chúng ta mới thấy muốn được Người chăn dắt và mới tha thiết với ơn gọi Linh mục. Tiếc là Phụng vụ không thể đọc hết cho chúng ta nghe cả bài Tin Mừng Yoan về Chúa Chiên Lành, vì dài quá. Chúng ta chỉ được nghe khúc đầu thôi và khúc này lại nói đến cửa ràn chiên hơn là nói đến chính Chúa chiên. Nhưng hiểu kỹ, khúc Tin Mừng vừa nghe vẫn phong phú và có thể soi sáng cho hai bài đọc kia.

 A. Chúa Kitô Là Cửa Ràn Chiên

Muốn nhận ra sức mạnh của đoạn văn Yoan, chúng ta nên biết: bấy giờ ở Yêrusalem người ta mừng lễ cung hiến (10,22). Đền thờ Yêrusalem được Salomon xây đã bị tàn phá. Sau lưu đày người ta xây lại. Nhưng dưới thời đô hộ Hylạp nó biến thành một ngôi đền ngoại đạo. Nghĩa quân Macabê nổi dậy, đánh đuổi bọn Hylạp xâm lăng, cung hiến lại Đền thờ vào năm -165. Hàng năm, người Dothái kỷ niệm ngày trọng đại này. Nó vừa có ý nghĩa tôn giáo, tức là thanh tẩy Đền thờ; vừa có ý nghĩa dân tộc, là xua đuổi những kẻ làm cho Đền thờ ra ô uế. Vào thời Chúa Yêsu, bầu khí lễ cung hiến rất căng thẳng. Dân chúng chờ đón một Macabê mới đến giải phóng Đất nước khỏi ách Rôma; những chính trị gia xôi thịt muốn lợi dụng cơ hội để xưng vương xưng tướng; nhà cầm quyền canh chừng mọi xáo trộn. Chính trong bầu khí ấy, người Dothái hỏi Chúa Yêsu: "Nếu quả Ông là Đức Kitô, xin nói trắng ra với chúng tôi" (c. 24). Đầu óc họ thật đã quá căng thẳng. Vì thế một lời Chúa nói ra sẽ vô cùng quan trọng. Không những Người ý thức như vậy; Người còn tăng thêm phần quan trọng cho lời Người sắp nói khi long trọng mở đầu bằng những tiếng như sau: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi...".

Đó là lời giáo đầu của một sấm ngôn, của một sứ điệp đến từ Thiên Chúa. Lời ấy nhắm thẳng vào đối thủ, những người Dothái đầu mục trong dân. Họ là trộm là cướp, chứ không phải là người chăn chiên. Lời ấy có lẽ cũng nhắm những kẻ lăm le muốn xách động quần chúng để lên chức lãnh đạo. Vì tất cả họ chỉ là những kẻ "không ngang qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng lên từ chỗ nào khác". Có gì làm chứng điều ấy? Chúa Yêsu không cần dài dòng, không cần triết lý. Người thực tế và đi sát với quần chúng. Người chỉ vào họ mà bảo: "thì cứ xem, chiên không đi theo người lạ, nhưng trốn tránh người ấy, vì chúng không nhận biết tiếng những người xa lạ". Chính phản ứng của chiên lột mặt nạ bọn trộm cướp.

Lời Chúa thật minh bạch và xác đáng. Người Dothái có thể giận lắm, nhưng không làm gì được. Rõ ràng Chúa Yêsu phủ nhận tư cách lãnh đạo của họ. Nhưng Người không thể để chiên không có người chăn, dân không có người phục vụ. Người chưa nói thẳng: "Người chăn chiên tốt, chính là Ta!" (c.11). Người bắt đầu phác họa chân dung người mục tử đích thực để dân nhận ra người chăn chiên tốt, người lãnh đạo thật. Người nói: Người chăn chiên ngang qua cửa mà vào; được người giữ cửa mở cho; chiên nghe tiếng người ấy; kẻ ấy gọi tên từng con, xua chiên của mình ra và đi trước chúng.

Toàn là những nét tả thực tế và chân thật; nhưng hiểu theo bình diện Nước Trời, đó là những nét phác ra hình ảnh Đức Kitô. Người không đến tự ý, nhưng được Chúa Cha sai phái. Những kẻ giữ giao ước của Chúa đón nhận Người. Họ nghe lời Người; Người gọi tên họ; Người dẫn đưa họ ra khỏi chốn tội lỗi cầm giữ để đi đến chỗ nghỉ ngơi, có cỏ xanh rì bổ sức. Và khi đi như vậy, chính Người sẽ đi trước mở đường cứu rỗi cho các linh hồn.

Chúng ta phải giật mình trước những lời lẽ minh bạch trên. Hình ảnh người mục tử xưa nay của chúng ta thụ động và ủy mị quá! Có thể đó là một hình ảnh thi vị: người chăn chiên dịu dàng đang ôm một con chiên trên cổ, giữa một cánh đồng thật xanh, xa xa nhiều con chiên đang gặm cỏ ngoan ngoãn. Hình ảnh Chúa Yêsu vẽ ra về người mục tử thì lại khác: đó là người đến với đàn chiên, hiểu biết chiên và dẫn chiên ra khỏi chỗ tù hãm, đi đến những chân trời đầy sự sống. Đó là hình ảnh một Môsê dẫn chiên ra khỏi đất nô lệ, băng qua sa mạc cằn cỗi và tiến vào Hứa địa tràn sữa và mật. Đó là hình ảnh một Đấng Cứu thế đến cứu dân và đưa dân vào hạnh phúc trường sinh. Hình ảnh ấy vẽ trước về Đức Yêsu Tử nạn-Phục sinh; và vì vậy, đoạn Tin Mừng này được đọc sau ngày Chúa sống lại.

Phải thú thật, Lời Chúa mới nghe ai đã hiểu? Chính vì vậy mà Yoan viết: người Dothái không hiểu Ngài nói những gì với họ (c.6). Bó buộc Ngài phải nói lại và nói trắng ra. Ngài lại phải trịnh trọng mở đầu bằng những tiếng: quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi. Bao nhiêu kẻ đã đến trước Ta, hết thảy đều là trộm là cướp.

Chắc chắn Chúa không có ý nói đến những tiên tri được sai đến trước Người đâu. Những vị ấy đã "vui mừng nghĩ đến ngày của Người". Họ đã rao giảng về Người, vì Luật pháp và Tiên tri đều làm chứng cho Người. Họ đã "đi qua cửa ràn chiên là chính Người mà đến" bởi lẽ chính vì Người mà họ đến. Ở đây, Người nhắm thẳng vào địch thủ, những người Dothái đầu mục trong dân, những kẻ "có đến thì chỉ để đánh cắp, sát hại và hủy diệt" (c.10). Nói theo Êzêkiel, họ là mục tử xấu, ích kỷ và chỉ lo bóc lột chiên. Họ chất lên vai kẻ bề dưới những gánh nặng mà chính họ không đưa cả đến ngón tay ra mà động vào.

Thế nên người mục tử tốt, phải là kẻ biết bỏ mình để phục vụ chiên. Đó là dấu chỉ chắc chắn về người chăn chiên thật. Do đó, Chúa kết luận: "Ta đã đến là để chiên được có sự sống và có một cách dồi dào". Lời này dĩ nhiên chỉ ứng nghiệm khi Chúa đã chịu chết và sống lại. Người đã hy sinh mạng sống mình để chúng ta nhận được dư đầy ơn Thánh Thần, biểu hiện sự sống mới phong phú dồi dào.

Thành ra một lần nữa ta lại thấy vì sao Phụng vụ đọc bản Tin Mừng này trong mùa Phục sinh. Và đoạn trích hôm nay có hai phần nhưng cùng một ý. Chúa Yêsu muốn khẳng định với những kẻ muốn biết Người là ai rằng: Người là Chúa Chiên chân thật và duy nhất. Người hiểu biết chiên với tình trạng khổ sở hiện tại của nó. Người sẽ đưa nó ra, giải phóng nó, đi trước nó, chịu đựng mọi cuộc tấn công thay cho nó, hy sinh mạng sống vì nó, để nó được sự sống dồi dào.

Nhưng thật ra, đó chỉ là những tư tưởng sâu kín của bản văn; chứ theo mặt chữ, Chúa Yêsu chỉ trực tiếp nói Người là Cửa chiên; gián tiếp Người mới nói mình là Chúa Chiên. Cửa chiên và Chúa chiên là hai quan niệm khác nhau, nhưng trong ý Chúa Yêsu cũng chỉ là một. Khi nói mình là Cửa chiên, Người chỉ nhằm nêu lên ý nghĩa và công dụng của cửa ràn là cản trở người lạ và để cho chiên ra vào tự do và sinh sống thoải mái. Đó là công việc và phận sự của Chúa chiên: xua đuổi sài lang cướp phá đàn chiên và dẫn chiên đến đồng cỏ thảnh thơi. Chúng ta không nên câu nệ vào danh từ, vì chữ viết thì giết chết, nhưng phải tìm ra tinh thần trong chữ viết để nuôi sống mình. Mà giáo lý ban sự sống cho chúng ta nơi bản văn Tin Mừng này là: Đức Yêsu Kitô, qua việc Tử nạn và Phục sinh đã chứng tỏ Người là Chúa chiên thật, Chúa chiên tốt, đã dùng sự chết của mình để dẫn chúng ta ra khỏi tội và đi đến sự sống dồi dào. Chúng ta hãy đi theo Người.

 B. Theo Đức Kitô

Thánh Phêrô khuyên nhủ chúng ta như vậy trong hai bài Công vụ và Thánh thư. Nói với dân chúng trong ngày lễ Ngũ Tuần, thấy họ đầy thiện chí muốn được ơn cứu độ, Vị Tông đồ trưởng vạch ra cho họ con đường phải đi: hãy ăn năn và chịu rửa nhân Danh Đức Kitô để lĩnh ơn tha tội và ơn Thánh Thần (c.38).

Ăn năn thống hối, không phải là việc xưa nay người ta không biết. Lãnh phép rửa, người ta cũng đã làm khi nghe Yoan giảng. Điều mới lạ trong đề nghị của Phêrô là tin vào Đức Yêsu Kitô, người mà họ đã giết. Như vậy niềm tin này bao hàm sự công nhận việc làm trước đây của họ là tội lỗi và nhận thức Đức Yêsu Kitô bây giờ đã được tôn vinh và được đặt làm Thẩm phán của kẻ chết và kẻ sống. Người ta phải "từ bỏ, thoát ra khỏi thế hệ tà vạy" là hàng ngũ tội nhân của những kẻ đã giết Chúa Yêsu, để bước sang hàng ngũ của Người, tức là đi theo, nhập vào đàn chiên của Người.

Nói thực ra, trước đây họ chẳng theo ai, họ giống như chiên lạc bơ vơ, trôi dạt như bọt biển theo sóng gió. Lúc họ dùng tay kẻ vô đạo giết Chúa, họ cũng chỉ tạm thời cùng hô như bọn đầu mục xúi bẩy; sau đó họ lại tan rã như chiên lạc. Giờ đây Phêrô bảo họ hãy "quay mặt về với Đấng chăn dắt linh hồn anh em" là Đức Yêsu Kitô.

Việc thống hối ăn năn và lãnh nhận phép Rửa bây giờ có ý nghĩa mới. Đó là những việc làm nhân Danh Đức Yêsu, những việc phục tùng Người và để kết hợp với Người, những việc đi qua Người như cửa chiên để tìm thấy sự sống mới mà hiệu quả tức thời là được tha thứ tội lỗi và đổ đầy Thánh Thần.

Những việc đó, chúng ta đã làm khi tin và chịu phép Rửa tội nhân Danh Đức Yêsu. Nhưng chúng ta còn phải làm khi ăn năn và chịu phép Giải tội để trở về với Đấng chăn dắt linh hồn chúng ta mỗi khi chúng ta đã dại dột trẽ ngang lạc đàn đi làm việc tội lỗi. Giờ đây, đang ở trong đàn chiên Chúa, chúng ta phải làm gì?

Bài thư Phêrô dẫn chúng ta đi xa hơn, mặc dầu trong bài Tin Mừng Yoan đã bảo chúng ta biết thái độ của chiên tốt là biết tiếng mục tử và đi theo Người. Chúng ta phải nghe tiếng Chúa nói trong Kinh Thánh mà đi theo lời mục tử. Thế mà trong mùa Phục sinh này luôn luôn chúng ta được nghe đi nhắc lại lời sau đây: Luật pháp và Tiên tri đã tiên báo Đức Kitô phải chịu đau khổ để vào nơi vinh quang. Người đã chết để chúng ta được sống. Người mục tử tốt đã thí mạng sống mình cho chiên. Bài thư Phêrô lấy lại hình ảnh Người Tôi tớ đau khổ trong sách Isaia để kể lại cuộc Tử nạn-Phục sinh của Đức Kitô và khuyên bảo chúng ta hãy đi theo vết chân của Người. Vậy như Người đã chịu thương khó vì chúng ta, thì chúng ta phải coi như là ơn gọi và ân sủng khi được kiên trì chịu thử thách và đau khổ.

Chắc chắn thư Phêrô được viết vào lúc Giáo hội đang gặp bắt bớ ở nhiều nơi. Nhưng nếu cứ quay mặt nhìn vào Đấng Mục tử chăn dắt linh hồn chúng ta, thì chắc chắn lời khuyên kiên trì chịu thử thách kia vẫn thường xuyên có giá trị. Vì nếu chúng ta phải dõi theo vết chân Người, thì vì Người là người mục tử đích thực, đến giải phóng chiên, dẫn đầu đi trước và bỏ mạng mình vì chiên, thì chiên nào cũng phải sẵn sàng trở thành Chiên Vượt qua. Và có như vậy mới được lãnh nhận sản nghiệp Lời Hứa dành cho chúng ta từ đời đời.

Nói gì xa xôi, giờ đây tham dự Thánh Lễ là hướng nhìn về Đấng chăn dắt linh hồn chúng ta. Người sẽ tỏ ra là Mục tử đích thực và tốt lành, đi trước chúng ta trong mầu nhiệm Tử nạn để trở thành Cửa chiên đưa chúng ta vào kho tàng ơn thiêng và sự sống dồi dào trong Thiên Chúa. Cử hành mầu nhiệm này nơi bàn thờ lẽ nào chúng ta lại không sẵn sàng tiếp nối trong đời sống để nỗ lực phấn đấu xây dựng cuộc đời thánh thiện hơn?

Hôm nay, ngày Ơn Thiên Triệu, hiểu hơn về Người Mục tử chân thật, ý thức hơn về vai trò của Người trong đời sống chúng ta, ai lại không khát khao nhìn thấy trong Giáo hội có nhiều kẻ bắt chước Người, tiếp nối vai trò của Người để dẫn đưa chiên ra khỏi nơi khổ sở, đi đến chốn đầy sự sống thảnh thơi? Chúng ta xin Chúa ban cho Giáo hội được thêm nhiều đấng chăn chiên như vậy. Chúng ta cầu xin và giúp đỡ để các vị mục tử đảm đang thi hành sứ vụ đi đầu và hy sinh. Chính chúng ta cũng phải theo dõi vết chân Đấng chăn chiên tốt để cả chiên mẹ chiên con trong Giáo hội làm thành một đàn chiên theo một Chúa Chiên.

Xin Đấng là Mục tử các linh hồn ban tinh thần để chúng ta hết thảy là những chiên biết nghe tiếng Người.

 (Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

------------------------------------

 

PS 4-A75: Tầm quan trọng của cửa chuồng chiên


CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH

Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng  (Gio-an 10:1-10)

 

Chúa Giê-su là Mục Tử Nhân Lành, đó là ý tưởng chính của chương 10 sách Tin Mừng Gio-an: PS 4-A75


Chúa Giê-su là Mục Tử Nhân Lành, đó là ý tưởng chính của chương 10 sách Tin Mừng Gio-an.  Tuy nhiên trước khi đi vào đề tài ấy, Chúa Giê-su giúp chúng ta hiểu sự sống của đàn chiên tùy thuộc vào hai yếu tố quan trọng:  cửa chuồng chiên và người chăn chiên.  Bài Tin Mừng hôm nay quảng diễn ý tưởng thứ nhất:  Chúa Giê-su là cửa chuồng chiên.

          Cái cửa nhà chúng ta ở không kém phần quan trọng nên thường được trang bị chu đáo.  Không những nó cần một ổ khóa an toàn mà còn phải làm sao trông cho đẹp mắt nữa.  Tại vì nó phần nào liên hệ tới mạng sống chúng ta.  Nhưng còn hơn thế nữa, cái cửa của chuồng chiên có thể nói là gắn liền với sự sống của các con chiên.  Nên sau khi nói đến vai trò của cửa chuồng chiên và sứ mệnh của người chăn chiên, Chúa Giê-su không ngại trước hết ví mình là “cửa chuồng chiên”.

          Quả thực dụ ngôn cửa chuồng chiên khó hiểu đối với những người Do-thái nghe Chúa nói không phải vì đó là hình ảnh xa lạ, mà chính là họ không hiểu Người áp dụng câu chuyện như thế nào.  Ít ra họ có vài câu hỏi chính:  Nếu ràn chiên là dân Ít-ra-en như họ từng đọc Thánh Vịnh 23, thì chuồng chiên là cái gì, ai là cửa và ai là người giữ cửa?  Người Do-thái không muốn hiểu những câu hỏi này, hay nói khác đi, họ không muốn nhìn nhận vai trò và sứ mệnh của Chúa Giê-su.  Ý của Chúa Giê-su muốn nói chuồng chiên là Ít-ra-en Mới, tức Giáo Hội, cửa chuồng chiên là chính Chúa Ki-tô và người giữ cửa là Thiên Chúa Cha.  Chúa Cha mở cửa chuồng chiên Giáo Hội bằng cách sai Con Một Người đến làm cửa chuồng chiên là nguồn ơn cứu độ, đồng thời cũng làm người chăn chiên để dẫn nhân loại tới đồng cỏ vĩnh cửu.  Tầm quan trọng của cửa chuồng chiên vô cùng lớn lao.  Nếu cánh cửa đó cứ luôn đóng chặt, nhốt các con chiên ở trong chuồng, thì chiên sẽ chết đói.  Nhưng ban đêm nếu cánh cửa đó không đóng lại, mạng sống con chiên sẽ gặp nguy hiểm vì sói dữ đang gầm gừ bên ngoài chuồng chiên.  Một hình ảnh thật đơn sơ, nhưng lại vô cùng ý nghĩa để diễn tả sứ mệnh cứu độ của Chúa Giê-su.  Hình ảnh Đức Gia-vê chăn dắt dân Ít-ra-en đã đẹp thế nào trong Cựu Ước, thì hình ảnh Chúa Giê-su vừa là cửa chuồng chiên vừa là người chăn chiên lại càng đẹp hơn trong Kinh Thánh Tân Ước gấp bội.  Chủ đề cái mới thay thế cái cũ trong sách Tin Mừng Gio-an được nói lên rõ ràng trong việc Chúa Giê-su khẳng định Người là Mục Tử Nhân Lành vậy.

          Ở đây, Chúa Giê-su cũng đề cập đến lý do tại sao Người được Chúa Cha sai đến.  Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.  Đúng vậy, nhân loại đã bị lên án chết vì tội tổ tông, đã không còn là con cái Thiên Chúa hằng sống nữa.  Nhưng Chúa Giê-su đã được sai đến để thực hiện đức công chính của Thiên Chúa, lấy cái chết trên thập giá hòa giải nhân loại với Thiên Chúa và phục hồi chức phận làm con cái Chúa cho họ, nghĩa là cho họ được sống.  Tuy nhiên không phải chỉ là sống bình thường, mà là sống dồi dào, đầy tràn sự sống của Thiên Chúa qua Chúa Ki-tô như cây nho chuyển thông sự sống đến các cành nho.

Sống sứ điệp Tin Mừng

          Có khi nào tôi đọc kỹ và suy niệm chương 10 sách Tin Mừng Gio-an chưa?  Nếu chúng ta biết ơn cha mẹ đã cho chúng ta sự sống thì chúng ta càng phải biết ơn Chúa Giê-su trăm ngàn lần vì sự sống Thiên Chúa mà Người đem lại cho chúng ta.  Nguồn sống của Thiên Chúa dâng tràn từ mạch nước Ki-tô “vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Gio-an 4:14).  Có lẽ câu nói của Chúa Giê-su, “Tôi là cửa.  Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu”, phải là đề tài để chúng ta suy niệm hằng ngày.  Đó là câu trả lời cho mọi thắc mắc của chúng ta về ý nghĩa cuộc sống.  Sống mà không “qua cửa Ki-tô” thì chỉ là cuộc sống thể chất.  Còn sống trong mối tương quan mật thiết với Chúa Ki-tô là “cuộc sống dồi dào”.  Chúng ta ra vào cửa chuồng chiên là       hình ảnh gặp gỡ Chúa qua việc cầu nguyện và suy niệm, lãnh nhận bí tích và nhất là sống tất cả những gì Người đã dạy và làm để chúng ta được cứu độ.

Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

------------------------------------

 

PS 4-A76: Tôi Là Cửa


Chúa Nhật IV Phục Sinh A

Gio 10:1-10: 1 "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: kẻ nào không ngang qua của mà vào ràn chiên, nhưng từ chỗ nào khác, thì nó là trộm là cướp. 2 Còn kẻ nào ngang qua cửa mà vào, kẻ đó mới là người chăn chiên. 3 Kẻ ấy được người giữ cửa mở của cho, và chiên nghe tiếng kẻ ấy. Và chiên của mình, kẻ ấy gọi tên từng con, và dẫn chúng đi. 4 Khi đã xua chiên của mình tất cả ra rồi, thì kẻ ấy đi trước chúng, và chiên theo sau kẻ ấy, vì chúng nhận biết tiếng kẻ ấy. 5 Chúng đã không theo sau người lạ, nhưng chúng trốn tránh người ấy vì chúng không nhận biết tiếng những người xa lạ!" 6 Đức Yêsu nói dụ ngôn đó cùng họ, mà họ không hiểu Ngài nói những gì với họ.

7 Vậy Đức Yêsu lại nói:"Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Cửa ràn chiên, chính là Ta! 8 Bao nhiêu kẻ đã đến trước Ta, hết thảy đều là trộm là cướp; nhưng chiên đã không nghe chúng. 9 Cửa vào, chính là Ta! Ai ngang qua Ta mà vào thì sẽ được cứu; nó sẽ vào, sẽ ra, và sẽ gặp được lương thực. 10 Trộm có đến, thì chỉ để đánh cắp, sát hại và hủy diệt. Ta đã đến, là để chúng được có sự sống, và có một cách dồi dào.

 

Đoạn 10:1-10 là phần đầu của chương 10 chủ yếu bàn về chân dung của Chúa Giêsu-Mục Tử: PS 4-A76


Đoạn 10:1-10 là phần đầu của chương 10 chủ yếu bàn về chân dung của Chúa Giêsu-Mục Tử Tốt Lành và tương quan của Mục Tử nầy với đàn chiên. Vào cuối chương 9, người mù sau khi đã nghe tiếng Chúa Giêsu và biết Người là ai, đã tin vào Người và trở nên môn đệ của Người (9:37). Trong khi đó, người Pharisêô nghĩ rằng Chúa Giêsu là một “người tội lỗi” (9:24); bởi đó, họ đã không tin vào Người và trở nên mù lòa. Người mù bẩm sinh đã không đi theo họ. Trong chương 10, Chúa Giêsu trình bày Người là “Cửa” tương phản với chân dung của những người “trộm và cướp”. Công việc của Người cũng tương phản với hành động của họ trong tương quan với đàn chiên. Và đàn chiên sẽ nhận ra Mục tử của chúng và đi theo Người, thay vì theo những người “trộm cướp”.

Có thể phân chia đoạn tin mừng nầy thành hai phần, và mỗi phần đều bắt đầu bằng câu “Quả thật, quả thật, Tôi nói với anh em” (c. 1 và 7): - Dụ ngôn về Người Mục tử (10:1-6); - Giải thích về hình ảnh Người Mục tử (10:7-10).

Dụ ngôn về Người Mục tử (10:1-6)

 Đoạn 10:1-6 có thể phân chia nhỏ lại như sau: - Phân biệt người chăn chiên và trộm cướp: qua cửa mà vào (cc. 1-3a); - Thái độ của đàn chiên đối với họ (cc. 3b-5); Phản ứng của người nghe dụ ngôn (c. 6).

Cụm từ “Quả thật, quả thật, Tôi nói với anh em” được dùng để dẫn vào cách long trọng một tuyên bố. Tuyên bố đầu tiên là qua cách đến với đàn chiên, người ta có thể phân biệt ai là người chăn chiên và ai là người trộm cướp. Người trộm cướp không qua cửa mà vào chuồng chiên (c. 1). Còn người chăn chiên thì qua cửa, lối bình thường, mà vào với đàn chiên (c. 2).  Thyra, “cửa” chỉ bất cứ loại cửa cổng, cửa ra vào. Chuồng chiên có nhiều loại. Vào thời đó, chuồng chiên thường là một khoảnh đất, được vây quanh bởi những viên đá chất lên thành bức tường. Cửa chuồng chiên là lối ra vào giữa hàng rào bằng đá ấy.

Thái độ và tương quan của chiên đối với người chăn chiên và người trộm cướp (cc. 3b-5). Sau khi phân biệt ai là người chăn chiên thật, Gioan nói đến thái độ của chiên đối với những người nầy. Đối với người chăn chiên, chiên nghe tiếng người nầy (c. 3) và đi theo (c. 4b); trong khi đó, chiên không đi theo người trộm cướp vì chiên không nhận biết tiếng của người nầy (c. 5). “Giọng nói/tiếng” của người chăn chiên rất quan trọng. Qua tiếng nói, người chăn chiên có thể thông tin và thông hiệp với chiên. “Tiếng” của chàng rể gọi lên niềm vui nơi bạn bè của chàng (3:29). “Nghe tiếng” dẫn đến sự sống. Những người nghe tiếng Chúa được sống (5:25; 11:43). Do đó, nghe tiếng gợi lên lòng tin tưởng và kèm theo hành động là đi theo. Người mù đã nghe tiếng của Chúa Giêsu, trong khi các người Pharisêô từ chối (x. 9:27). Không nghe tiếng có nghĩa là từ chối tin vào và không hành động theo (x. 5:38). Việc “nghe tiếng” nầy còn được tiếp tục bàn đến trong các câu 10:16.27; 18:37). Hơn nữa, việc gọi được “tên từng con chiên” là điểm phân biệt căn bản giữa người chăn chiên và người trộm cướp. Người chăn chiên biết tên từng con chiên. “Tên từng người” chính là người ấy, không nhầm lẫn với ai khác. “Gọi” được tên là biết người ấy (x. 1:48). Khi người chăn chiên gọi tên từng con chiên có nghĩa là đã biết tường tận từng con một. Việc làm của người chăn chiên là mở cửa. Động từ “mở”, anoigô, được dùng rất nhiều lần trong chương 9. Chúa Giêsu đã mở mắt người mù (9:7.14.17.21.26.30.32). Mở để cho người mù thấy ánh sáng. Người chăn chiên mở cửa để dẫn chiên đến đồng cỏ xanh (c. 9). Việc làm của người trộm cướp sẽ được bàn ở câu 10:10.

Ghi nhận của thánh sử (c. 6). Có một sự tương tự giữa sự ghi nhận nầy và sự mù loà không hay biết của người Pharisêô (9:40-41). Trong đoạn trước, người Pharisêô có mắt sáng nhưng không thấy. Ở đây họ nghe, nhưng không hiểu; cũng là điếc vậy.

Giải thích về hình ảnh Người Mục tử (10:7-10)

Trong đoạn nầy Chúa Giêsu trình bày chân dung tương phản của cả người chăn chiên và người trộm cướp, cũng như công việc của họ liên quan đến đoàn chiên. Người chăn chiên được nói đến nhiều hơn.

Sau công thức long trọng, một tuyên bố về người chăn chiên: “Tôi là cửa của các con chiên” (c. 7), “Tôi là cửa” (c. 9). Xem thêm ở các câu 11 và 14. Câu “cửa của các con chiên” cần nhiều giải thích. Đây là sở hữu cách chỉ hướng và mục đích. Do đó có thể dịch mang tính giải tthích là “cửa hướng về các con chiên”, và “cửa cho các con chiên”. Câu “Tôi là cửa của các con chiên” đều bao hàm cả hai ý nghĩa nầy. “Cửa hướng về các con chiên” nghĩa là Cửa nầy đóng kín với ai đứng ngoài cửa, và mở ra cho ai đứng bên trong. Như thế, Cửa giữ đàn chiên khỏi trộm cướp (10:1-2). Và chiên nào qua Cửa nầy mà vào bên trong thì được che chở an toàn, “được cứu”; đó là ý nghĩa của động từ sozô, “giữ khỏi bị tổn hại”, “cứu”. “Cửa cho các con chiên” nghĩa là Cửa nầy khi mở ra, mở ra ngay hướng đồng cỏ xanh. Chiên đi ra ngoài và tìm thấy ngay nguồn sống (c. 3-4.9). Đó chính là sự sống, zôe, mà Chúa Giêsu mang tới khi Người đến thế gian nầy (c. 10). Như thế, Chúa Giêsu vừa là Cửa, vừa là Người Mục tử. Sự sống và sự an toàn của chiên đều lệ thuộc vào Người.

Chúa Giêsu là Cửa, và các người chăn chiên khác muốn đến với phải đi qua Người. Nếu đi lối khác, họ là người trộm cướp (c. 1). Ở đây Người khẳng định là những người đến “trước Người” đều là trộm cướp. Chữ kheptô, “trộm cướp” ngoài những lần ở đây được dùng trong 12:6 để chỉ Giuđa Iscariốt. Theo mạch văn, trộm cướp là người đến với chiên không qua lối chính thức là cửa. Họ là những người đến mà chiên không mong đợi, và cả người chăn chiên. Hơn nữa, “trộm cướp” trong 12:6, chỉ Giuđa Iscariốt, được hiểu là Giuđa lợi dụng vị thế của mình mà kiếm lợi cho bản thân. Nếu hiểu chữ “trộm cướp” như thế là đúng, có thể đi đến kết luận là “những người đến trước” Chúa Giêsu, không thể là các tổ phụ, các vua hay các ngôn sứ của Thiên Chúa sai đến, mà là những người cứu thế giả giữa dân do thái, và ở đây là các Pharisêô và kinh sư. Những người nầy liên tục tranh luận với Chúa Giêsu. Họ không tin vào Người; nghĩa là không qua cửa của Chúa Giêsu. Do đó, họ không phải là các lãnh đạo do Thiên Chúa gởi đến (x. 7:48; 9:16). Họ đã lạm dụng quyền bính mà hướng dẫn dân chúng cách mù lòa (x. 9:40). Hành động của họ là giết, thyô, và hủy diệt, oppólymi; đối nghịch việc ban sự sống của Người Mục tử (c. 10; x. 3:16; 3:39; 17:12; 18:9).

Chúa Giêsu là Cửa duy nhất. Ai muốn đến với Chúa Cha, nguồn mạch sự sống duy nhất, phải đi ngang qua Người (14:6). Người cũng chính là sự sống. Người đến trần gian để đàn chiên của Người được sự sống dồi dào.

Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến

------------------------------------

 

PS 4-A77: THÁCH ĐỐ THỜI ĐẠI


Chúa Nhật 4A phục sinh
 

Nhân loại đang xâu xé vì quyền lợi khác nhau.  Thực tại càng trở nên phức tạp vì những cái: PS 4-A77


Nhân loại đang xâu xé vì quyền lợi khác nhau.  Thực tại càng trở nên phức tạp vì những cái nhìn trái ngược nhau.  Giữa cảnh đời như thế, làm sao tìm được hướng sống ?  Đức Giêsu là câu trả lời đúng nhất cho ai muốn tìm hạnh phúc đích thực.

SỐNG DỒI DÀO.

Thế giới như một căn nhà nhiều cửa.   Có những cửa dẫn đến hang trộm cướp.  Nếu mở sai cửa, con người có thể chui vào những căn hầm chật chội thiếu ánh sáng và nguy hiểm cho mạng sống.   Nhưng nếu được soi dẫn và chuẩn bị, con người có thể chọn đúng cửa dẫn đến hạnh phúc.  Đức Giêsu đã tự xưng: “Tôi là cửa.” (Ga 10:9)   Nhân loại có nghe thấy tiếng Người không ?    Người là cửa dẫn đến nguồn sống đích thực là Thiên Chúa Cha.   Không những là cửa dẫn đến bến bờ bình an, Đức Giêsu còn là “Vị Mục Tử” (1 Pr 2:25) dẫn tôi vào “đồng cỏ xanh tươi, tới dòng nước trong lành và bổ sức tôi.” (Tv 22:2-3a)   Nhờ đó, tôi có thể “nghe tiếng” (Ga 10:3) và “nhận biết tiếng” (Ga 10:4) Người.   Tương quan giữa Người và tôi ngày càng đậm đà thắm thiết như giữa mục tử và con chiên.    Người biết tôi không như  một con số vô hồn, nhưng biết rõ tôi như một đối tượng tình yêu chiếm một vị thế độc đáo trong tim Người.   Quả thực, khác với những nhà lãnh đạo trần thế, Vị Mục Tử “gọi tên từng con” (Ga 10:3) như đã gọi đích danh cô Maria buổi sáng phục sinh.    Nhờ thế Người mới có thể “chăm sóc linh hồn anh em” (1 Pr 2:25) với một tình yêu vô cùng sống động và cụ thể.    Thực vậy, “tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính.” (1 Pr 2:24)   Không còn gì bảo đảm cho tôi hơn khi “Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.” (Tv 22:3b)   Bởi vậy, “dầu qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.” (Tv 22:4)   Trong khi đó, vì không “có Chúa ở cùng”, biết bao người tư bề khốn khổ.

Giữa cảnh trộm cướp đang hoành hành khắp nơi, muốn được cứu sống, con người cần phải tìm một nơi an toàn.   Chẳng có ngả nào an toàn hơn Đức Giêsu, Đấng từng quả quyết: “Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu.” (Ga 10:9)  Tìm đến những ngả khác, con người sẽ bị mắc vào mưu mô ác thần và bị tiêu diệt.   Thực tế kinh hoàng đó chính Chúa phơi bày ra ánh sáng: “Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp.   Kẻ trộm đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy.” (Ga 10:1.10)   Trộm cướp chỉ biết trục lợi.    Trái lại, Vị Mục Tử chân chính là “Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em.   Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe.” (1 Pr 2:21.23)  Người đành mất tất cả vì chúng ta.   Người hiền lành như Con Chiên bị đem đi giết (Is 53:7).   Nhưng Người cũng là vị Mục tử oai hùng như  Giavê (Tv 23; Is 40:11; Ed 34:1-16), Đấng nuôi sống dân thời giao ước mới (Lc 15:4-7; Mt 18:10-14).

Chính vì thế, “Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô” (Cv 2:36) của toàn thể vũ trụ.   Từ nay, sống dưới “côn trượng Người bảo vệ, con vững dạ an tâm.” (Tv 22:4)   Đó là lý do tại sao Đức Giêsu đã hứa: “Thầy để lại bình an cho anh em.” (Ga 14:27)   Muốn hưởng được sự bình an, tức ơn cứu độ đó, “anh em phải sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội ; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần.” (Cv 2:38)   Nhờ đó, chúng ta mới “được sống, và sống dồi dào.” (Ga 10:10)   Nhờ sức sống vô cùng mãnh liệt đó,  Giáo Hội mới có thể vượt lên trên mọi thách đố và đáp ứng những đòi hỏi của nhân loại hôm nay.  

THÁCH ĐỐ HÔM NAY.

Một trong những thách đố hôm nay đó là quyền sống của con người.   Nhân loại hôm nay đang xa dần nguồn sống.   Bởi thế, nhiều người không tôn trọng sự sống. Thế nhưng, mới đây ĐHY Nguyễn văn Thuận lại cho rằng “từ lâu chủ đề nhân quyền vẫn là nền tảng các cuộc chạm trán giữa Giáo Hội và văn hóa thời đại, nay lại trở nên điểm gặp gỡ những người cam kết bảo vệ và cổ động cho nhân phẩm, bất kể họ là những người tin hay không tin.” (Zenit 15/04/02)   Nhưng như thế không có nghĩa thách đố đã chấm dứt.   Vẫn còn đó những người ồn ào đòi quyền phá thai, tạo sinh vô tính, an tử, đồng tính luyến ái v.v. Đó là những cửa tử thần dắt nhân loại vào trong cõi chết.   Văn hóa tử thần đang hoàng hành khắp nơi.

Trong nền văn hóa tử thần đó, giới trẻ bị ảnh hưởng nặng nề nhất.   Bởi vậy, cần phải giới thiệu cho họ Đức Giêsu như cửa dẫn đến sự sống.   Đức Giêsu muốn gởi một sứ điệp cho giới trẻ biết về chiều hướng hiện tại và tương lai con người.   Đồng thời, Người cũng muốn cho các bạn thấy giá trị đích thực nâng cao nhân loại không nằm ở phía những lực lượng tử thần, nhưng nằm trong tay Đấng “là sự sống lại và là sự sống.” (Ga 11:25)   Chính vì thế, “nội dung Tin Mừng mang theo một sứ điệp tôn giáo và thần học, nhưng cũng là một sứ điệp về nhân loại và nhân chủng học” và mối hiệp nhất hai phương diện ấy “đặt nền tảng trên Đức Kitô, Thiên Chúa thật và là người thật.” (ĐHY Tettamanzi: Zenit 15/04/02)  

Khi trình bày sứ điệp đó cho nhân loại, Giáo Hội cho mọi người thấy nền tảng nhân quyền là “nhân phẩm của từng người”, bắt nguồn từ chính nhân tính Đức Kitô.  Đó là đóng góp lớn nhất Giáo Hội cống hiến cho nhân loại (Gianni Letta: Zenit 15/04/02).   Phải trình bày làm sao để những giá trị lớn lao đó thu hút giới trẻ.   Mỗi một quyết định hôm nay đều ảnh hưởng lớn tới nếp sống tương lai nhân loại.    Phải làm sao để giới trẻ có thể lựa chọn con đường sống.  Nếu không, lúc nào cũng có lực lượng tử thần phục kích giới trẻ và đưa vào những ngưỡng cửa diệt vong.  

Muốn giúp giới trẻ tránh xa những nguy cơ đen tối đó, theo Tân Bề Trên Tổng quyền Dòng Salesien trước hết cần nhận định: “Giới trẻ có những giá trị cao cả khác với thế hệ tôi, nhưng mãnh liệt.   Thế nhưng, họ có những mặt yếu, chẳng hạn thiếu cương quyết trong việc chọn lựa những quyết định tối hậu trường kỳ hay vĩnh viễn.   Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng như vậy, vì có những nhóm theo đuổi cuộc hành trình trưởng thành nhân bản và thiêng liêng, giữ những cam kết với Giáo Hội.” (Pascual Chávez Villanueva,: Zenit 15/04/02)   Theo cha, chắc chắn chúng ta có thể hấp dẫn giới trẻ.   Vì càng chiêm ngắm Đức Kitô càng thấy rõ sức sống vô cùng mãnh liệt trào dâng từ tình yêu vô biên nơi trái tim Chúa.

Tương lai thuộc về những ai đem lại cho tuổi trẻ hôm nay niềm hi vọng và sức sống dồi dào.  Sức sống đó chắc chắn phải bắt đầu từ việc “chiêm niệm Đức Kitô, tìm kiếm một kinh nghiệm thần bí cho phép chúng ta vượt quá lòng đạo đức và đưa tới một cuộc dấn thân sâu xa vào cuộc sống, khởi đầu lại từ Đức Kitô và nhìn vào thế giới, nhưng đặt nền tảng trên niềm xác tín vào niềm hi vọng Kitô.”   (Pascual Chávez Villanuev,: Zenit 15/04/02)   Đó chính là sứ mạng lớn lao của chứng nhân Tin Mừng trong một thời đại đầy những thách đố.   Thế nhưng, không thách đố nào có thể làm chùn bước người môn đệ Đức Kitô.   Trong khi dấn thân, họ luôn ý thức sứ mạng làm chứng là một hồng ân vĩ đại.   Thật vậy, “nếu làm việc lành và phải khổ mà anh em vẫn kiên tâm chịu đựng, thì đó là ơn Thiên Chúa ban.  Anh em được Thiên Chúa gọi để sống như thế.” (1 Pr 2:20-21)   Đức Giêsu đã sống trọn vẹn hồng ân và ơn gọi lớn lao đó để trở thành niềm hi vọng và sự sống duy nhất cho toàn thể nhân loại.   Cũng thế, “nếu anh em cố gắng kiên tâm ghi dấu tình yêu Tin Mừng trên công việc của anh em, anh em sẽ có thể thực hiện sứ mạng đầy hiệu quả và vui tươi.   Hãy sống thánh  !   Như anh em quá rõ, sự thánh thiện là công tác nòng cốt của anh em, cũng như của mọi Kitô hữu,” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 15/04/02) để làm cho Đức Kitô thành nguồn sống hấp dẫn nhân loại, nhất là giới trẻ hôm nay.

Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP

------------------------------------

 

PS 4-A78: CHỦ CHIÊN VÀ CON CHIÊN


CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH,năm A

Ga 10,1-10

 

Một trong những hình ảnh gây ấn tượng và mãi ghi khắc trong tâm hồn của tôi là hình ảnh: PS 4-A78


Một trong những hình ảnh gây ấn tượng và mãi ghi khắc trong tâm hồn của tôi là hình ảnh Chúa Chiên Lành. Tôi đã thấy hình này trên một bức tranh khá lớn lúc tôi còn nhỏ bé. Tuy nhiên, bức tranh Chúa Chiên Tốt đã làm cho tôi xúc động, đáng yêu và giữ mãi trong tâm trí. Bây giờ lớn lên là linh mục tôi càng cảm thấy hình ảnh Chúa Chiên Lành thật đáng quí, đáng yêu biết bao.

CHÚA YÊU CHÚNG TA: Chúa yêu thương nhân loại, yêu thương con người, yêu thương mỗi người chúng ta. Điều kỳ diệu vẫn là Chúa yêu thương chúng ta trước, Chúa đi bước trước đến với chúng ta trái ngược với ý nghĩ chúng ta tưởng mình yêu thương Chúa trước. Chúa yêu thương con người vô điều kiện, yêu thương vô bờ bến. Tình yêu của Ngài đối với chúng ta là tình yêu vô vị lợi, tình yêu tự hiến:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu mến”( Ga 15, 13 ). Chúa Giêsu là mục tử tốt lành, Người biết chiên của Người và chiên của Người biết Người ( Ga 10, 14 ). Người yêu thương đàn chiên và yêu thương từng con chiên một. Đọc Thánh Vịnh 22 ( 23 ), Thánh Vịnh “ Chúa Chiên Lành “, chúng ta như được ấm áp lên vì Chúa yêu thương chiên của Người, dẫn chiên đến các cánh đồng cỏ xanh tươi và những dòng suối mát trong lành. Chúa hiểu biết đàn chiên và từng nhu cầu của mỗi con chiên. Người biết những gì con người cần cho linh hồn cũng như thể xác của họ. Do đó, con người không sợ sệt, không lo âu, không xao xuyến, con người phải tin tưởng nơi Người. Chúa muốn mỗi người, mọi người chỉ nghe tiếng gọi yêu thương duy nhất của Người, tiếng gọi cứu độ và ơn giải thoát của Người. Chúa luôn yêu cầu con người, mỗi người hãy đặt sinh mạng, cuộc đời của mình trong bàn tay nhân từ của Người, đừng nghe theo bất cứ tiếng gọi nào vì có thể đó là tiếng gọi của tiền tài, danh vọng, tình dục, thế gian và ma quỷ.Chúa nói:” Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”( Ga 10, 10 ). Chúa muốn chiên của Người được sống tràn trề bên dòng suối Lời của Chúa và được Chúa nuôi dưỡng bằng chính Mình Máu Thánh của Người. Chúa là cửa ràn chiên, Chúa quả quyết Người là Đấng cứu thế đến cứu chuộc mọi người, ai muốn được cứu độ phải đến với Người, tin vào Người và sống theo lời Người dạy.

NGÀY CẦU NGUYỆN CHO ƠN GỌI: Hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ nam nữ. Vâng, Chúa cũng đã đến trong một gia đình có cha có mẹ để dạy cho nhân loại hiểu rằng con người phải phát xuất từ một gia đình trân thế. Chúa đã đến từ trời, từ gia đình của Thiên Chúa ngang qua một gia đình được Thiên Chúa Cha tuyển chọn từ đời đời. Người đã lớn lên, rồi tới giờ Chúa Cha định, Người đã mời gọi các môn đệ, các tông đồ đi theo Người. Chính vì thế, công cuộc cứu chuộc của Người cần được nhiều người cộng tác. Chúa mời gọi có nhiều tâm hồn quảng đại, tự nguyện đi theo Người để góp tay vào công việc cứu thế của Người. Nhân loại và đặc biệt mỗi người chúng ta cần cầu nguyện để cho có nhiều thanh niên nam, nữ dấn thân vô điều kiện, vô vị lợi để phục vụ đàn chiên của Chúa, bởi vì chiên không thể nào thiếu chủ chiên được. Mọi Kitô hữu phải siêng năng cầu nguyện, cổ vũ ơn gọi linh mục và tu sĩ, khích lệ, động viên tinh thần và góp tài chánh để các Chủng Viện, các Đại Chủng Viện, các Nhà Dòng có thêm vật chất để nuôi dưỡng và đào tạo ơn gọi. Đặc biệt các giáo xứ, giáo họ phải nâng đỡ ơn gọi và góp phần vào công việc đào tạo linh mục và tu sĩ cho giáo phận, cho nhà dòng. Giáo xứ, giáo họ và từng gia đình cần gây nên bầu khí đạo đức, đặc biệt từng gia đình cần khơi lên lòng ước ao cho con mình biết dâng mình cho Chúa bằng chính đời sống gương mẫu của gia đình mình. Nhờ đời sống gương mẫu, nhờ sự khuyến khích động viên của từng gia đình, ơn gọi sẽ nẩy sinh từ những gia đình đạo đức và biết cổ vũ ơn gọi. Chúa là cửa Chuồng Chiên và Chuồng Chiên là Giáo Hội, cửa đi vào Hội Thánh là tin vào Chúa Giêsu. Chuồng Chiên cũng là Nước Trời mà cửa chính phải qua cũng là Chúa Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho có nhiều thanh niên nam nữ biết dấn thân làm linh mục và trở nên tu sĩ thánh thiện nhiệt thành để nhiều người được nhận biết Chúa là Mục Tử Tốt Lành, là Chuồng Chiên, là Nước Trời. Amen.

Linh mục  Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

------------------------------------

 

PS 4-A79: Chúa Nhật IV Phục Sinh

 

Sự sống và sự sống mới là đề tài phải được nói đến trong thời gian cử hành sự Phục Sinh của: PS 4-A79


Sự sống và sự sống mới là đề tài phải được nói đến trong thời gian cử hành sự Phục Sinh của Chúa Giê-su, vì mục đích Người được sai đến trần gian là để phục hồi sự sống đã bị tội lỗi và ma quỷ làm mất đi.  “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống, và sống dồi dào” (Ga 10:10).  Các bài đọc hôm nay trình bày Chúa Ki-tô như nguồn sống mới của ta và mối quan hệ của ta với Người là căn bản cho sự sống ấy được phát triển sung mãn.

1.  Gia nhập đoàn chiên của Chúa:  “Hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo” (bài trích sách Công vụ Tông Đồ – Cv 2:14a,36-41)

          Sau khi Chúa Giê-su lên trời và sai Thánh Thần xuống, công việc rao giảng Tin Mừng được khởi sự lập tức và ngay từ lúc đầu đoàn chiên của Chúa đông đảo người mới theo đạo.  Bài giảng của thánh Phê-rô đã đánh động những người đến nghe.  Đợt rửa tội đầu tiên khoảng ba ngàn người.  Họ nhận lãnh ơn tha tội để làm con cái Chúa và ân huệ Thánh Thần để sống đời sống mới, sự sống mà Chúa Giê-su, Mục Tử Nhân Lành, đã chết để chuộc lại cho các con chiên của Người.  Vậy thánh Phê-rô đã giảng gì về vị Mục Tử Nhân Lành này? 

          Bài đọc trích sách Công vụ Tông Đồ của Chúa Nhật trước ghi lại bài giảng của thánh Phê-rô nói về sứ mệnh của Chúa Giê-su và cái chết cũng như Phục Sinh của Người.  Kết thúc bài giảng, ngài mời gọi dân chúng hãy nhìn nhận trách nhiệm về cái chết của Chúa Giê-su và hãy tin Người là Đức Chúa và Đấng Ki-tô.  Ngài nói:  “Đức Giê-su mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô”.  Điểm chủ yếu của bài giảng là cho thấy hành động của những người nghe đối nghịch với hành động của Thiên Chúa về Chúa Giê-su.  Nhân loại thì treo Chúa Giê-su lên thập giá để giết chết thân xác Người.  Còn Thiên Chúa thì cho Chúa Giê-su chỗi dậy từ cõi chết và tôn vinh Người làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô.  Nghe thánh Phê-rô giảng giải như vậy, họ nhận ra việc làm xấu xa của họ, đồng thời cũng nhận ra lòng yêu thương vô biên của Thiên Chúa, nên họ đã lãnh nhận phép rửa và ân huệ Thánh Thần.  Thiên Chúa đã cho cái chết của Chúa Giê-su nảy sinh sự sống mới.  Là những con chiên lạc quay lưng với Thiên Chúa, giờ đây những người nghe Phê-rô giảng đã sám hối quay về với Thiên Chúa và được quy tụ dưới cánh tay chăm sóc của Mục Tử Nhân Lành.  Đoàn chiên của Thiên Chúa không chỉ gồm những người nghe Phê-rô hôm ấy tại Giê-ru-sa-lem, nhưng còn là con cháu họ “và tất cả những người ở xa, tất cả những người mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi”. 

          Ở đây ta nhận ra đường lối Thiên Chúa kêu gọi và quy tụ nhân loại vào đoàn chiên của Vị Mục Tử Nhân Lành, đó là người ta được nghe giảng về Chúa Giê-su Ki-tô, họ sám hối và lãnh nhận phép rửa cùng ân huệ Thánh Thần.  Tuy nhiên đấy mới là khởi đầu cho một hành trình đức tin.  Vì thế, thánh Phê-rô đã cho thấy một hướng đi mới của đoàn chiên:  “Anh em hãy tránh xa thế hệ gian tà này để được cứu độ”.  Muốn bước theo Mục Tử Nhân Lành để tiến về đồng cỏ xanh tươi vĩnh cửu, đoàn chiên cần phải đoạn tuyệt với “thế hệ gian tà”, phải loại bỏ nếp sống cũ tội lỗi để mặc lấy lối sống mới của Thánh Thần.

2.  Bước theo Chúa Giê-su, Vị Mục Tử và Đấng chăm sóc linh hồn  (bài Thánh thư – 1 Pr 2:20b-25)

          Bài giảng mở đầu của thánh Phê-rô đã đưa một số đông đảo người Do-thái tại Giê-ru-sa-lem vào đoàn chiên Ít-ra-en Mới.  Sau đó, với sứ mệnh thay mặt Chúa Giê-su để chăm sóc đoàn chiên của Người dưới trần gian, vị giáo hoàng tiên khởi Phê-rô ưu tư lo lắng cho anh chị em tín hữu của ngài.  Tuy đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn, các con chiên của Đức Ki-tô vẫn luôn luôn bị cám dỗ thử thách không muốn đi theo Người nữa.  Do đó, trong thư gửi cho Ki-tô hữu, ngài nhắc nhở họ đừng phản bội ơn gọi được sống theo Chúa Ki-tô.  Đã chọn lối sống mới của Vị Mục Tử thì các con chiên cũng sẽ chịu cùng số phận như Người, nghĩa là làm việc lành thì phải chịu khổ và phải kiên tâm chịu đựng.  Gương mẫu sống của Chúa Ki-tô quả rõ ràng.  Người sống hoàn toàn cho ta, vì ta, phó thác mạng sống Người cho ta, như Vị Mục Tử thí mạng sống mình vì con chiên. 

Thánh Phê-rô có lối nói đặc biệt, đơn sơ và cảm động:  ngài muốn gợi lại dĩ vãng để nhắc nhở hiện tại.  “Xưa kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử”.  Có thể ngài nói từ kinh nghiệm sống của ngài:  Trước kia tôi, Phê-rô, đã chối bỏ và phản bội Thầy, nay tôi được trao phó việc chăm sóc đoàn chiên của Thầy!  Vậy giờ đây, như tôi đang cố gắng chu toàn sứ mệnh Đức Ki-tô trao cho tôi là chăm sóc anh em, thì anh em cũng hãy trung thành bước theo chân Vị Mục Tử của chúng ta.  Chính thánh Phê-rô đã cảm nghiệm được tình yêu thương của Vị Mục Tử dành cho kẻ thay mặt Người chăm sóc đoàn chiên.  Sau khi tiên báo Phê-rô sẽ chối Thầy, Chúa Giê-su đã đặc biệt tỏ lòng ưu ái đối với ông:  “Si-mon, Si-mon ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo.  Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin.  Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22:31-32).  Thầy đã cầu nguyện cho ông và đã để lại cho ông một gương mẫu là chịu đau khổ vì tha nhân.  Ta cứ nhìn vào cuộc sống của Phê-rô thì biết ngài đã trung thành như thế nào khi ngài phục vụ Đức Ki-tô và Giáo Hội, chịu đau khổ vì đoàn chiên đến chết vì bị đóng đinh ngược vào thập giá.  Kinh nghiệm “chiên lạc” chẳng cần thiết trong đời ta lắm sao!  Đời Ki-tô hữu bao giờ mà chẳng có những kinh nghiệm chiên lạc và quay về với Vị Mục Tử.  Chính những kinh nghiệm ấy sẽ tôi luyện đức tin và lòng trung thành của ta, nhất là lòng tin tưởng vào sự chăm sóc của Vị Mục Tử.

3.  Qua cửa để được sống và sống dồi dào (bài Tin Mừng – Ga 10:1-10)

          Trước khi tuyên bố mình là Mục Tử Nhân Lành, Chúa Giê-su đã dùng một dụ ngôn để nói lên vai trò của Người đối với các mục tử của đoàn chiên Thiên Chúa:  dụ ngôn cửa ràn chiên.  Ít-ra-en dân Chúa được gọi là đoàn chiên đặt dưới sự chăm sóc của các mục tử, tức các nhà lãnh đạo đời cũng như đạo.  Nhưng hầu hết các mục tử đó lại không phải là những mục tử tốt, trái lại họ là “những kẻ chỉ biết lo cho mình” (Ed 34:1-10) chứ không chăm sóc đoàn chiên.  Do đó, Thiên Chúa “sẽ đòi lại chiên của Người”, quy tụ các con chiên lạc từ khắp nơi và trao cho Vị Mục Tử Nhân Lành là Đức Ki-tô chăm sóc.  Để gia nhập đoàn chiên Ít-ra-en Mới này, người ta phải đi qua cửa là Đức Ki-tô để nhận được sự sống mới.  Dụ ngôn “cửa ràn chiên” được dùng để nói lên vai trò của Chúa Giê-su trong đoàn chiên mới của Thiên Chúa.  Cánh cửa Ki-tô mở ra để ta được vào làm chiên của Thiên Chúa, rồi cánh cửa Ki-tô cũng mở để chiên đi ra và theo mục tử đến cánh đồng cỏ xanh tươi với suối mát trong lành (Tv 22).  Cánh cửa Ki-tô đóng lại sau khi chiên đã trở về ràn, nghỉ ngơi trong bình an và không sợ bất cứ thú dữ hiểm nguy nào.  Các mục tử đích thực của ràn chiên là những người sống quan hệ mật thiết với chiên đã được trao phó cho mình chăm sóc.  Quan hệ đó được mô tả bằng những từ thật dễ thương như “nghe tiếng, gọi tên từng con, nhận biết tiếng mục tử”, hoặc nói vắn tắt là “biết”.  Thánh Giáo Hoàng Grê-gô-ri-ô đã giải thích từ “biết” như sau:  “Tôi nói ‘biết’ không có nghĩa là ‘biết’ nhờ đức tin, nhưng là ‘biết’ nhờ đức mến.  Tôi nói ‘biết’ không có nghĩa là ‘biết’ được diễn tả qua thái độ tin, nhưng là ‘biết’ được diễn tả qua việc làm” (Bài giảng của thánh Grê-gô-ri-ô Cả, giờ Kinh Sách Chúa Nhật IV Phục Sinh).

          Chúa Giê-su kể dụ ngôn cửa ràn chiên và các mục tử chân chính, nhưng “người Do-thái” hoặc nói đúng ra là nhóm Pha-ri-sêu và các kẻ thù của Chúa đã không hiểu hoặc không muốn hiểu ý nghĩa dụ ngôn.  Chúa Giê-su là cửa ràn chiên đem lại sự sống đích thực hoặc ơn cứu độ cho nhân loại.  Các mục tử “đi qua cửa mà vào” tức là những mục tử trung thành và kết hiệp với Vị Mục Tử Nhân Lành mới là những mục tử đích thực.  Ràn chiên Ít-ra-en Mới của Thiên Chúa được trao cho Chúa Ki-tô và các mục tử chân chính chăm sóc để được dẫn đến đồng cỏ xanh tươi là ơn cứu độ.

          Có lẽ ta thường không mấy lưu ý tới đoạn Tin Mừng về cửa ràn chiên cho bằng đoạn tiếp theo về Chúa Giê-su tuyên bố Người là Mục Tử Nhân Lành.  Nhưng nếu xét theo ý nghĩa cứu độ, thì dụ ngôn cửa ràn chiên và lời Chúa tuyên bố “Tôi là cửa cho chiên ra vào… Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu” mang tầm mức vô cùng quan trọng, vì nguồn sống mới là chính Đức Ki-tô để ta múc ra từ mối quan hệ với Người sự sống và sự sống dồi dào.

4.  Sống Lời Chúa

          Chúa Nhật IV Phục Sinh được mệnh danh là Chúa Nhật Chúa Chiên Nhân Lành.  Chúa Giê-su Phục Sinh quả thực là Vị Mục Tử Nhân Lành và ta là đoàn chiên Chúa chăn nuôi.  Cảm động nhất là nghĩa cử hy sinh mạng sống mình của Vị Mục Tử để đem lại sự sống cho đoàn chiên.  Đề tài Mục Tử Nhân Lành không những mời gọi ta suy tôn lòng Chúa yêu thương và muốn cứu độ ta, nhưng cũng là dịp để ta xét mình, như thánh Grê-gô-ri-ô đã đề nghị:  “Anh em đã nghe đọc về mối nguy luôn đe dọa chúng tôi là các mục tử, anh em cũng hãy dựa vào những lời của Chúa mà đánh giá những mối nguy đang đe dọa anh em.  Hãy xem mình có phải là con chiên của Chúa không, có biết Chúa không, có biết ánh sáng chân lý không” (Bài giảng).  Ta cầu xin được làm con chiên của Chúa, nhưng cũng không quên cầu cho các mục tử Người sai đến chăm sóc ta.

Suy nghĩ:  Tôi suy nghĩ và trả lời những câu hỏi thánh Grê-gô-ri-ô đặt ra.  “Hãy xem mình có phải là con chiên của Chúa không, có biết Chúa không, có biết ánh sáng chân lý không?”

Cầu nguyện:  Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Đức Ki-tô, vị Mục Tử oai hùng của chúng con, đã khải hoàn tiến vào thiên quốc;  xin cho chúng con là đoàn chiên hèn mọn cũng được theo gót Người vào chung hưởng hạnh phúc vô biên.  Ngưởi là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.  A-men.  (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật IV Phục Sinh)

Lm. Đaminh Trần đình Nhi

------------------------------------

 

PS 4-A80: Hai loại mục tử trong các thời đại


Chúa Nhật thứ 4 Phục Sinh

 (17-4-2005)

ĐỌC LỜI CHÚA

·        Cv 2,14a.36-41: (36) Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô.

·        1Pr 2,20b-25: (21) Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. (25) Trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em.

 ·       TIN MỪNG: Ga 10,1-10

Vị Mục Tử nhân lành

 (1) «Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. (2) Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. (3) Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. (4) Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. (5) Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ». (6) Đức Giêsu kể cho họ nghe dụ ngôn đó. Nhưng họ không hiểu những điều Người nói với họ.

 (7) Vậy, Đức Giêsu lại nói: «Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào. (8) Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ. (9) Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. (10) Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào».

CHIA SẺ

 

Câu hỏi gợi ý:

 

Trong Tin Mừng Gioan, đoạn về Mục tử Nhân lành được đặt ngay sau đoạn về việc Đức Giêsu: PS 4-A80


1.      Trong Tin Mừng Gioan, đoạn về Mục tử Nhân lành được đặt ngay sau đoạn về việc Đức Giêsu chữa người mù bẩm sinh. Điều đó có ý nghĩa gì?

2.      Trong bài Tin Mừng về Mục tử Nhân lành, Đức Giêsu đối chọi hai hình ảnh: người mục tử đích thực với người làm thuê. Thời ấy, hai hạng người ấy là những ai? Thời nay, hai hạng người ấy có còn tồn tại không? Nếu còn, thì là ai?

3.      Làm sao phân biệt được mục tử đích thực và mục tử dỏm?       

Suy tư gợi ý:

1.      Bối cảnh của bài Tin Mừng

Trong Tin Mừng Gioan, đoạn nói về vị Mục Tử nhân lành (Ga 10,1-21) được tiếp nối ngay sau đoạn nói về việc Đức Giêsu chữa người mù từ thuở mới sinh (Ga 9,1-41), điều này không phải không có ý nghĩa. Bài về việc chữa người mù (Ga 9) mô tả chân dung của những mục tử dỏm, mang danh mục tử nhưng trong thực tế chỉ là kẻ chăn thuê; và bài kia (Ga 10) mô tả chân dung của người mục tử đích thực, sẵn sàng sống chết vì đàn chiên.

Trong bài Tin Mừng về người mù được chữa lành, những mục tử dỏm – hay những người Pharisêu – được mô tả là những người chỉ quan tâm đến những luật lệ của tôn giáo chứ không quan tâm đến con người. Họ chỉ muốn bắt dân chúng thi hành những luật lệ tôn giáo chứ không màng gì đến những nhu cầu thực tế cần được cứu giúp của dân chúng. Còn Đức Giêsu – người mục tử đích thực – thì hành động ngược lại. Đối với Ngài, «ngày sabát», cũng như lề luật và tôn giáo, «được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày sabát», hay cho lề luật và tôn giáo (Mc 2,27); còn họ thì quan niệm ngược lại. Họ muốn thần thánh hóa lề luật và tôn giáo hơn cả con người, đang khi chính con người – vốn «được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa» (St 1,27; 9,6) và «giống như Thiên Chúa» (St 1,26) – đáng lẽ phải được coi là linh thánh hơn rất nhiều. Tôn giáo và lề luật chỉ là những phương tiện phục vụ con người, đưa con người về với Thiên Chúa. Con người mới chính là mục đích của tôn giáo và lề luật. Ngược lại người Pharisêu, Đức Giêsu chủ trương: «Ta muốn lòng nhân», tức tình thương giữa con người với nhau, «chứ đâu cần lễ tế» (Mt 12,7). Ngài coi chuyện làm hòa với anh em mình, tức cách cư xử yêu thương giữa con người với nhau, còn quan trọng hơn việc dâng của lễ trên bàn thờ (x. Mt 5,23-24).

Người Pharisêu coi chuyện «nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng» cho đền thờ là điều rất quan trọng, nhưng lại chủ trương «bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng thành thật» (Mt 23,23). Họ coi vàng trong đền thờ còn trọng hơn cả chính đền thờ (x.23,16-17), coi lễ vật trên bàn thờ còn trọng hơn cả bàn thờ (x.23,18-19). Sở dĩ họ phải quan trọng hóa lề luật, lễ tế, các nghi thức bề ngoài và những chuyện phụ thuộc (x. Mt 23,16-22) đồng thời dạy mọi người quan niệm như vậy… vì có làm thế, vai trò của họ mới được coi trọng, được đề cao, và mọi người mới chịu dâng cúng vào đền thờ cho nhiều, nhờ đó họ mới có những lợi lộc cụ thể. Nếu quan trọng hóa theo chiều ngược lại như chủ trương của Đức Giêsu, là quan trọng hóa con người, thái độ tâm linh bên trong, nhấn mạnh đến «công lý, tình thương và lòng thành thật» như những điều cốt yếu nhất của lề luật, thì rõ ràng họ đâu còn lợi lộc gì.

Họ dạy dân chúng quan niệm sai lầm như thế là một thủ thuật để có lợi nhuận. Vì thế, Đức Giêsu gọi họ là «những kẻ dẫn đường mù quáng» (Mt 23,16), là «những người mù dắt người mù» (Mt 15,14). Tuy nhiên, điều khiến cho họ bị kết án không phải là chuyện họ mù, nhưng là chuyện họ không bao giờ nhận mình là mù, là sai, mà cứ ngoan cố cho mình là đúng, là sáng, lại còn buộc mọi người phải tung hô mình là đúng, là sáng nữa: «Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: “Chúng tôi thấy”, nên tội các ông vẫn còn!» (Ga 9,41).

2.      Người mục tử đích thực khác với người mục tử dỏm

Qua bài Tin Mừng, ta thấy điều cốt yếu khiến người mục tử đích thực khác với người mục tử dỏm là điểm này: Người mục tử đích thực thì thật sự yêu thương đàn chiên, luôn luôn nghĩ đến sự sống, lợi ích hay hạnh phúc của đàn chiên, thậm chí quên cả lợi ích hay sự sống của mình, nên sẵn sàng sống chết vì đàn chiên: «Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên» (Ga 10,11). Mối bận tâm lớn nhất của người mục tử đích thực là làm sao để «chiên được sống và sống dồi dào» (10,10), dồi dào về tâm linh, và nếu có thể được thì cả thể chất hay vật chất nữa: Đức Giêsu cũng lo chữa bệnh, trừ quỷ và lo cả miếng ăn cho dân chúng khi thấy cần. Vì đối với người mục tử đích thực, đàn chiên không phải là những con vật mà là con người, là «hình ảnh của Thiên Chúa», Đấng mà họ tôn thờ và hết lòng yêu mến. Sự thánh thiện của người mục tử đích thực hệ tại tình yêu thương mà họ dành cho đàn chiên.

Còn người mục tử dỏm thì chỉ nghĩ đến lợi ích và sự sống của mình, «không thiết gì đến chiên» (10,13), «nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy», chấp nhận để «sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn» (10,12). Đối với những mục tử dỏm này, đàn chiên có vẻ chỉ là những con vật có bổn phận cung cấp sữa và thịt để họ ăn uống thỏa thuê, cung cấp những phương tiện để họ sống xa hoa, giàu có. Ngôn sứ Êdêkiel đã mô tả hạng mục tử này như sau: «Khốn cho các mục tử Ítraen, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Sữa chiên thì các ngươi uống, len thì các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, nhưng đàn chiên thì lại không lo chăn dắt. Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc» (Ed 34,2-4).

3.      Hai hạng mục tử trong các thời đại

Bất kỳ thời đại nào, bất kỳ xã hội hay tôn giáo nào cũng luôn luôn có hai loại mục tử nói trên. Các mục tử đích thực, biết yêu thương và hy sinh cho đàn chiên thì thời nào cũng có. Họ làm cho bộ mặt của xã hội và của các tôn giáo trở nên hấp dẫn, lôi cuốn, đáng kính đáng yêu hơn. Họ là hiện thân và là phản ảnh trung thực của Đức Giêsu, vị Mục tử Nhân lành, trong các thời đại, là con người nối dài của Ngài để cứu độ thế giới suốt dòng lịch sử. Nơi họ quy tụ rất nhiều nhân đức, tinh thần hy sinh. Họ là tinh hoa của nhân cách con người, là kết tinh của tình yêu nhân loại. Một trong những đặc tính căn bản của họ là lúc nào cũng làm việc, và không bao giờ hết việc để làm, nhất là trong một thế giới đầy dẫy đau khổ như hiện nay. Tình yêu đồng loại thúc đẩy họ làm việc liên tục, vô vị lợi. Tất cả những ai đến với họ đều được tiếp đón ân cần và như nhau, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn. Giả như có sự phân biệt nào đó thì bao giờ sự ưu đãi cũng nghiêng về phía người nghèo, người đau khổ.

Nhưng song song với những mục tử đích thực ấy, luôn luôn có những mục tử dỏm, cũng mang danh mục tử, cũng được phong chức mục tử, nhưng không có tâm hồn mục tử chút nào. Đối với họ, mục tử chỉ là một nghề nghiệp để kiếm sống, một nghề tương đối được ưu đãi trong xã hội và trong tôn giáo, vừa được mọi người nể nang kính trọng, vừa dễ kiếm tiền một cách khá nhàn nhã. Do chức năng phải giảng dạy, họ cũng rao giảng giáo lý, điều hay lẽ phải, cũng khuyên bảo mọi người thực hiện những điều tốt lành đạo đức, nhiều khi rất hùng hồn hấp dẫn, nhưng chính bản thân họ thì… không thực hiện. Với những lời họ khuyên bảo, ta nên áp dụng lời của Đức Giêsu: «Tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng làm theo, vì họ nói mà không làm» (Mt 23,3). Một cách nào đấy, họ vô tình phá hoại gương mặt tôn giáo của họ trong tâm trí mọi người, làm các tâm hồn thất vọng về tôn giáo ấy vì lối sống ích kỷ của họ.

Rất dễ nhận ra loại mục tử này qua những đặc tính sau đây:

– đối xử phân biệt rõ ràng giữa giàu nghèo: ưu đãi và kính nể người giàu, bạc đãi và khinh thường người nghèo.

– sống xa hoa, giàu sang bất chấp chung quanh và kế cận mình có biết bao người đang túng thiếu, nghèo khổ rất cần được họ giúp đỡ.

– bách hại những ai dám nói sự thật về con người mình.

– ai nhờ việc gì cũng phải có tiền mới hăng hái làm.

Một số người công giáo nhận xét: hiện nay, càng ngày càng có nhiều người tin Chúa nhưng không còn tin vào Giáo Hội, và có nhiều người đã từ bỏ Giáo Hội để theo những giáo phái khác có tình người hơn. Nhận xét đó có thể đúng. Và nếu đúng thì mọi người công giáo – nhất là các vị mục tử trong Giáo Hội – đều nên xét lại chính mình. Rất có thể người công giáo đã không sống đúng những điều căn bản nhất của Tin Mừng là sống công bằng và yêu thương, mà chỉ lo chu toàn những nghi thức tôn giáo bên ngoài. Và cũng rất có thể tỷ lệ giữa các mục tử đích thực và các mục tử dỏm không còn được như xưa: số các mục tử dỏm đã tăng lên rất nhiều. Thiết tưởng vì tương lai và sự phát triển của Giáo Hội, mọi người công giáo – đặc biệt các vị mục tử – đều có trách nhiệm phải chấn chỉnh lại cách sống của mình, và phải điều chỉnh lại tỷ lệ ấy.

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, nếu nói Giáo Hội thiếu mục tử thì không đúng lắm, vì nếu thiếu mục tử thì chắc hẳn mọi mục tử sẽ làm việc suốt ngày không xuể. Nhưng trước mắt mọi người thì rõ ràng có khá nhiều mục tử xem ra rất nhàn nhã, nếu có bận thì bận việc gì khác chứ không phải là việc của mục tử. Có lẽ đúng hơn là Giáo Hội thiếu các mục tử đích thực, những mục tử thật sự luôn quan tâm để đàn chiên «được sống và sống dồi dào». Xin Cha ban cho Giáo Hội, không phải chỉ là những mục tử, mà là những mục tử đích thực.          

 Joan Nguyễn Chính Kết

------------------------------------

 

PS 4-A81: CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH


(Gio-an 10: 1-10)

 

Trong những thế kỷ đầu của Giáo Hội, hình ảnh Chúa Giê-su là vị Mục Tử Nhân lành là hình: PS 4-A81


Trong những thế kỷ đầu của Giáo Hội, hình ảnh Chúa Giê-su là vị Mục Tử Nhân lành là hình ảnh nổi bật nhất.  Ta có thể gặp thấy hình ảnh này ngay cả trong hang Toại đạo khi cuộc bách hại khốc liệt xảy ra tại Rô-ma.  Còn gì an ủi và khích lệ cho bằng khi trông lên hình vẽ Chúa Giê-su đang vác một con chiên trên vai hoặc Người đang đi giữa một đàn chiên nhởn nhơ trong đồng cỏ.  Hình ảnh ấy thật là ý nghĩa: với những ai đang giữ vững đức tin thì vị Mục Tử ấy khích lệ và tìm cách làm cho đức tin họ được vững vàng hơn nữa;  với những ai vì yếu đuối nên đang lạc đàn thì vị Mục Tử sẽ đi tìm rồi vác họ lên vai đem về;  với những ai đang đau khổ thì vị Mục Tử sẽ vỗ về...  Như thế ta hiểu được tại sao Giáo Hội sơ khai lại thích hình ảnh Đấng Chăn chiên lành hơn tất cả những hình ảnh khác.  Giáo Hội giữ chủ đề Chúa Giê-su là Mục Tử Nhân lành cho tất cả chu kỳ năm A, B và C là muốn nói lên vai trò quan trọng nhất của Chúa Giê-su Phục Sinh:  là Mục Tử Nhân lành, Chúa Giê-su đưa đoàn chiên là nhân loại mới mà Người cứu chuộc tiến về quê hương vĩnh cửu.

 a)  “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”

          Để diễn tả khao khát muốn tỏ lòng thương cảm và chăm sóc đối với nhân loại, Chúa Giê-su đã dùng tỉ dụ người chăn chiên, mặc dù hình ảnh này không được dân chúng cho là tốt đẹp.  Đối với xã hội thời ấy, những người chăn chiên không được tôn trọng, vì họ thường để mặc cho đoàn vật của mình gặm cỏ trên đất người khác, và nhất là vì họ quanh năm sống ngoài đồng nên thường nhơ bẩn, không giữ luật thanh tẩy của Do-thái.  Vậy mà Chúa Giê-su lại áp dụng hình ảnh ấy cho mình:  Người kể ra những việc làm của người chăn chiên chăm sóc cho đàn chiên mình:  vào chuồng chiên, gọi tên từng con chiên và chiên nhận biết anh, đi trước đàn chiên.

          Qua những việc làm chăm sóc ấy, Chúa Giê-su muốn diễn tả tình yêu chăm sóc của Thiên Chúa được thể hiện nơi Người là Mục Tử Nhân lành.  Quan hệ sống động giữa chiên và vị Mục Tử được nói lên qua việc nhận biết tiếng của nhau.  Như ta đã nhiều lần gặp, từ “biết” trong Kinh Thánh không chỉ là hành động của tri thức, nhưng của tình cảm và trái tim.  Quan hệ sống động là phương thức truyền thông tình yêu giữa hai cuộc sống.  Mà tình yêu thì nảy sinh sự sống, như thánh Gio-an Tông đồ đã nhiều lần nói đến trong thư của ngài.  Cho nên “Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra...”  Ta có được hiện diện trên vũ trụ và được sự sống, đó là do tình yêu tạo dựng của Thiên Chúa.  Tiếp đến, tổ tông loài người làm mất đi sự sống thì Thiên Chúa vì yêu thương lại tìm cách phục hồi sự sống cho họ.  Hễ nói đến sự sống là phải nói tới tình yêu.  Sự sống mà không có tình yêu thì đúng là “người chết đang bước đi.”  Thiên Chúa chỉ muốn ta được sống.  Cho nên qua miệng Chúa Giê-su, Thiên Chúa nói với ta:  “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.”

          Mặc dù Chúa Giê-su đã dùng tỉ dụ mục tử để nói lên tình yêu chăm sóc của Thiên Chúa, “nhưng họ không hiểu những điều Người nói với họ.”  Do đó Chúa Giê-su dùng một tỉ dụ khác để giải thích tỉ dụ thứ nhất.  Người ví mình là cửa chuồng chiên.  Cửa nhà của ta cũng quan trọng cho sự sinh tồn của ta, thì cửa chồng chiên lại càng quan trọng đối với bầy chiên.  Chuồng chiên chỉ có một lối mở để chiên ra vào.  Ban ngày chiên ra và theo mục tử tới đồng cỏ.  Ban đêm chiên theo mục tử về và qua cửa mà vào chuồng để tránh thú dữ rình rập.  Qua hình ảnh này, ta nhận ra tầm quan trọng của cái cửa chuồng chiên và đồng thời cũng nhận ra vai trò của Chúa Giê-su.  Thiên Chúa Cha thường được Thánh Vịnh và ngôn sứ Ê-dê-ki-en mô tả như vị Mục tử (Tv 23).  Dân mới của Thiên  Chúa phải qua Chúa Ki-tô để đến với vị Mục tử của họ.  Vậy Chúa Giê-su là con đường duy nhất dẫn ta đến với Chúa Cha, để ta tiếp tục được chia sẻ sự sống của Thiên Chúa và được sống đời đời.

 b)  “Chúng sẽ không theo người lạ, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ”

          Khẳng định như trên, Chúa Giê-su ám chỉ những người không muốn gia nhập đoàn chiên của Người.  Để hiểu hoàn cảnh đáng buồn này, có lẽ ta cần trở lại với điều thánh Gio-an viết:  “Nhưng họ không hiểu những điều Người nói với họ.”  Có thể là họ hiểu, nhưng họ không muốn hiểu.  Thánh Gio-an chứng minh là họ không muốn hiểu bằng câu truyện Chúa chữa anh mù từ lúc mới sinh.  Với phép lạ này, ta thấy một điều mỉa mai là người mù lại sáng con mắt thiêng liêng để nhận ra Chúa Giê-su là ai, trong khi những người sáng mắt như những người Pha-ri-sêu và kinh sư thì lại cứ muốn ở trong sự mù lòa thiêng liêng của mình mà chối từ Chúa Giê-su và sứ mệnh của Người.  Họ đúng là những “kẻ trộm” muốn ăn cắp chiên trong đàn chiên của Chúa Giê-su.  Hoặc họ là những kẻ lạ đối với đàn chiên của Chúa.  Họ đưa đàn chiên của họ đi theo lề luật và trăm ngàn điều cấm đoán.  Họ đâu muốn sẵn sàng chết cho đàn chiên, trái lại là những kẻ làm ra vẻ đạo đức đấy, nhưng lại “nuốt cả gia tài bà góa.”  Lối chăn chiên của họ là làm sao củng cố địa vị.

          Chúa Giê-su đã can đảm chống lại những rình rập của họ để bảo vệ cho đàn chiên của Người.  Người cảnh giác con chiên của Người trước những tiếng người lạ.  Những tiếng ấy là tiền bạc, quyền lực, thù oán, những giá trị được thế gian đề cao.  Có rất nhiều kẻ chăn chiên giả hiệu đang hô hào chống lại những giáo lý của Chúa và của Giáo Hội. 

          Nói lên đặc tính của đàn chiên Người là không theo người lạ, rõ ràng là cách Chúa Giê-su nhấn mạnh đến sự quyến luyến giữa đàn chiên với Người.  Nhưng có thể nghe được tiếng Chúa ở đâu?  Tiếng của Chúa Giê-su được nói qua Giáo Hội, trong Phụng vụ, mục vụ, các bí tích và trong kinh nguyện.  Tiếng của Chúa Giê-su ở trong lương tâm ta, trong những nhu cầu của anh chị em, trong những ai nói cho ta biết chân lý.  Tiếng của Chúa Giê-su gặp được trong tình yêu biết cho đi và biết lãnh nhận...  Hễ theo Chúa là thế nào ta cũng nhận ra được tiếng của Người, khác hẳn với tiếng của người lạ hoặc những kẻ thù của Chúa Giê-su.

 c)  Suy nghĩ và cầu nguyện

          Tôi có nhận ra tình yêu và ý tốt của vị Mục Tử Nhân lành là luôn luôn lo lắng cho sự sống của tôi không?  Hay tôi vẫn chưa nhận ra tại sao vị Mục Tử Nhân lành đã chết trên thập giá cho tôi?  Làm sao tôi có thể nhận ra được lòng yêu thương ấy?

          Cũng như chiên ra vào qua cửa để được sống và được bình an.  Tôi đã đến với Chúa Giê-su để được sống và bình an bằng những cách nào?

          Tôi có nhìn thấy tương lai của tôi là sự sống và sống đời đời trong Chúa Giê-su Phục Sinh không?  Tôi có để cho Người dẫn tôi trong sự sống ấy hay tôi đang đi tới sự chết?  Nếu lạc đàn, tôi làm sao quay về hoặc kêu cứu vị Mục Tử Nhân lành?

 Câu nguyện:

          “Chúa là mục tử chăn dắt tôi,
          tôi chẳng thiếu thốn gì.
          Trong đồng cỏ xanh tươi,
          Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành
          và bổ sức cho tôi.
          Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính
          vì danh dự của Người.
          Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u
          con sợ gì nguy khốn,
vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Ngài bảo vệ,
con vững dạ an tâm.
Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc
ngay trước mặt quân thù.
Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm,
ly rượu con đầy tràn chan chứa.
Lòng nhân hậu và tình thương Chúa
ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,
và tôi được ở đền Người
những ngày tháng, những năm dài triền miên.”
                             - Thánh Vịnh 23

   Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

------------------------------------

 

PS 4-A82: CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH


CHÚA NHẬT IV-PHỤC SINH

 

Cuộc khủng hoảng ơn gọi làm linh mục là một vấn đề lớn cho Giáo Hội khắp nơi, cách riêng tại: PS 4-A82


Cuộc khủng hoảng ơn gọi làm linh mục là một vấn đề lớn cho Giáo Hội khắp nơi, cách riêng tại những vùng đô thị hóa, công nghiệp hóa tiên tiến. Với những tai tiếng do các vụ xì-căng-đan những thập niên gần đây trong giới linh mục, càng làm cho vấn đề trở nên trầm trọng hơn. Hình ảnh linh mục trở nên tồi tệ giữa một thế giới tràn ngập những hình ảnh sống động và hấp dẫn. Đó là một thực tế phải đối diện. Ngay trong lòng của một kitô hữu bình thường nhất, linh mục không còn là một địa chỉ trong cuộc sống thường ngày mà họ cần ghé qua.

          Chúng ta không thể cứ ngồi đó để nguyền rủa bóng tối, bởi vì chẳng giải quyết được vấn đề. Hãy thắp lên dù chỉ một ngọn nến, và bóng tối bị đẩy lùi. Tôi nhớ một văn sỹ đã có ý tưỡng tuyệt vời ấy. Hình ảnh rước nến Phục Sinh đêm thứ bảy Tuần Thánh phải là câu trả lời thiết yếu cho mỗi thời đại. Trong đêm Vọng ấy, Linh Mục đã lấy lửa mới thắp sáng Nến Phục Sinh là hình ảnh Đức Kitô Phục Sinh, và mọi người đã châm lửa từ nến Phục Sinh làm rực sáng đêm tối. Đúng như Đức Thánh Cha trong tông thư "Khởi Đầu Ngàn Năm Thứ Ba" đã viết "Hãy bắt đầu lại từ Đức Kitô."

          Thực ra cho dù giữa một "thế hệ tà vạy" như thế hệ các Tông Đồ mà Thánh Phêrô đã phải lên tiếng trong bài giảng đạo tiên khởi của Ngài, thế hệ đã trực tiếp đóng đanh Đức Giêsu, thì vẫn còn đấy một số tuy thật ít người, đã đem lửa Thánh Thần của Đức Kitô Phục Sinh ra đi, và cuối cùng họ đã làm rực sáng cả thế giới Đế Quốc Roma trong ánh sáng yêu thương và giải thoát.

          Họ đã làm gì ?

          Không phải là lời lẽ khôn ngoan của khoa hùng biện, không phải là những thành quả kinh bang tế thế: nhưng thật đơn giản: họ chỉ cùng nhau làm nên chung quanh họ một cộng đoàn có một sự gắn bó hiệp thông từ sự cầu nguyện, đến học hỏi giáo lý, đến lễ nghi bẻ bánh và sự chia sẻ trong đời thường. Sự hiệp thông xuất phát từ đáy thẳm tâm hồn mỗi con người mà có thể mượn hình ảnh sự gắn bó giữa vị Mục Tử Nhân Lành trong Tin Mừng với từng con chiên của Ngài để diễn tả. Sự hiệp thông đặt nền tảng duy nơi Tình Yêu của Đức Giêsu. Ngay cả trong gian nan thử thách, kể cả trong những kinh nghiệm đớn đau về tội lỗi, mỗi cộng đoàn đều đã khẳng định được như thánh Phêrô trong đoạn thư hôm nay "Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em", "Tội lỗi chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá", họ nhận ra Người vẫn là Vị Mục Tử đi trước họ, đang nói với họ, đang dẫn họ đến đồng cỏ màu mỡ: Vì Người "đến để cho chiên được sống và sống dồi dào".

          Có thể phải suy nghĩ nhiều hơn về từng cộng đoàn tiên khởi ấy.

          Nhưng ít ra chúng ta phải thấy được sự thật này là: đã có một cám dỗ mãnh liệt vào thời điểm ấy muốn gán ghép công trạng cho những Tông Đồ như Phaolô đã nói tới trong thư 1 Corintô: "Thật vậy, thưa anh em, người nhà của bà Khơ-lô-e cho tôi hay tin có chuyện bè phái giữa anh em. Tôi muốn nói là trong anh em có những luận điệu như: "Tôi thuộc về ông Phao-lô, tôi thuộc về ông A-pô-lô, tôi thuộc về ông Kê-pha, tôi thuộc về Đức Ki-tô. Thế ra Đức Ki-tô đã bị chia năm xẻ bảy rồi ư? Có phải Phao-lô đã chịu đóng đinh vào khổ giá vì anh em chăng? " Lời khẳng định này của Thánh Phaolô cũng làm vọng lại lời khẳng định của Phêrô: "Chính nhờ lòng tin vào danh Người, mà danh Người đã làm cho kẻ anh em nhìn và biết đây trở nên cứng cáp; chính lòng tin Người ban đã cho anh này được khỏi hẳn như thế, ngay trước mắt tất cả anh em." Nỗ lực của người tông đồ chân chính và trong sáng là ở điểm thiết yếu ấy. Họ phải xây dựng một cộng đoàn đích thực được sống bởi sự sống của Đức Kitô, một cộng đoàn thánh thiện bởi sự thánh thiện của Đức Kitô.

          Đã không ít những mục tử trải qua các thời đại đã không trung tín với ơn gọi của mình. Từ thời Cựu Ước tiên tri Êzêkien đã tố giác họ, và Giáo Hội vẫn thường lặp lại lời cảnh báo ấy. Bất chấp những thủ đoạn và sự bất xứng ấy, Thiên Chúa vẫn kêu gọi, vẫn tuyển chọn, vẫn tấn phong các mục tử cho Dân Người, vì như thánh Phaolô nói không phải "bình sành" là quan trọng mà là "kho tàng" chứa trong đó: "Nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi."

          Ngay từ thời các tông đồ đã xuất hiện "kitô giả" nói gì ở thời đại hôm nay. Vấn đề là một cộng đoàn gắn bó với "Sự sống thật" "Sự thánh thiện thật" "Vị Mục Tử Tối Cao" là Đức Kitô, thì giữa cộng đoàn ấy các "kitô giả" không có thể thao túng, và giữa họ sẽ luôn có mục tử theo lòng Chúa mong muốn.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên

------------------------------------

 

PS 4-A83: CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH


Thánh ca và lời nguyện mở đầu

Kinh Thánh:       1 Phê-rô 2: 20-25

 

Điều khiến chúng ta ngạc nhiên về cách Phụng vụ Lời Chúa trích dẫn thư 1 Phê-rô cho bài đọc: PS 4-A83


Điều khiến chúng ta ngạc nhiên về cách Phụng vụ Lời Chúa trích dẫn thư 1 Phê-rô cho bài đọc hôm nay là đoạn thư nằm trong mạch văn nói về bổn phận của người tôi tớ đối với chủ mình. Đặc điểm của việc trích dẫn hôm nay là Phụng vụ muốn dùng hình ảnh người tôi tớ và bổn phận của họ đối với chủ mình để làm hình ảnh áp dụng cho chính Đức Giê-su và cho chúng ta, để từ đó rút ra bài học sống thân phận làm con cái Thiên Chúa. Mở đầu nói về bổn phận của người tôi tớ đối với chủ, thánh Phê-rô nhấn mạnh đến thái độ "hãy tuân phục chủ với tất cả lòng kính sợ" và "chấp nhận những nỗi khổ phải chịu một cách bất công vì lòng tôn kính Thiên Chúa." Tiếp theo, thánh Phê-rô mời gọi người nô lệ (và cả chúng ta hôm nay) hãy nhìn lên Đức Ki-tô, để nhận ra những thái độ ấy cũng đã được thể hiện hoàn toàn khi Người sống thân phận làm Con Thiên Chúa và làm Vị Mục Tử nhân lành của chúng ta. Vậy qua cách trích dẫn này, Phụng vụ muốn dùng đoạn thư 1 Pr 2:2-25 để giúp chúng ta suy niệm về Chúa Giê-su là Vị Mục Tử nhân lành, chủ đề phụng vụ của Chúa Nhật IV Phục Sinh. Chúng ta hãy bước theo lối sống của Chúa Giê-su trong thân phận "nô lệ" của Người để học bài học sống tinh thần Phục Sinh.

          a) Thân phận Đức Ki-tô: "Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ" (Pl 2:7)

          Đức Ki-tô đã trở nên nô lệ vì chúng ta để chúng ta có thể từ bỏ làm nô lệ cho tội lỗi cũng như phục tùng những tham vọng thế trần. Trong thư thứ nhất này, thánh Phê-rô thường nhắc nhở chúng ta về những đau khổ và sự chết Đức Ki-tô phải chịu như là Người Tôi Tớ Đau khổ của Thiên Chúa. Tất cả những gì Người phải chịu đều là "những nỗi khổ phải chịu một cách bất công vì lòng tôn kính Thiên Chúa." Thánh Phê-rô đã trích dẫn ý chính của đoạn sách ngôn sứ I-sai-a 53:4-9.12 nói về Người Tôi Trung của Đức Chúa để nói lên lòng tuân phục và kiên tâm chịu đựng của Chúa Giê-su. Mặc dù Người ở "địa vị ngang hàng với Thiên Chúa", nhưng Người đã tự ý nhận lấy thân phận tôi đòi và hoàn toàn tuân phục thánh ý Chúa Cha. Mặc dù "Người không hề phạm tội và không nói một lời gian dối", nhưng Người vẫn vui lòng chịu chết thay cho kẻ gian ác vì Người muốn một lòng tôn kính và phó thác cho Chúa Cha.

          Tất cả những hình ảnh cảm động của một Người Tôi Trung, một Bạn Hữu sẵn sàng hy sinh mạng sống vì những kẻ mình yêu, một Trưởng Tử của nhân loại mới, đều nhắm diễn tả Chúa Giê-su là "Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn." Động lực tình yêu đã giúp Chúa Giê-su sống tuân phục và kiên tâm chịu đựng. Vì yêu thương chúng ta, Người đã đặt ích lợi của chúng ta lên trên quyền lợi của cá nhân mình và chấp nhận mọi bất công. Vì chúng ta, Người đã từ chối sử dụng những quyền lợi thế gian cho phép: quyền trả đũa khi bị nguyền rủa, quyền dọa giẫm khi phải chịu đau khổ, quyền được sống khi mình vô tội. Vì chúng ta, những con chiên lạc, Vị Mục Tử nhân lành đã vui lòng hy sinh mạng sống.

          b) Thân phận chúng ta: "Trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em" (1 Pr 2:25)

          Suy niệm về Vị Mục Tử nhân lành, thánh Phê-rô muốn nêu lên những đức tính kiên nhẫn, hiền lành và khiêm nhượng của Chúa Giê-su, để làm sức mạnh củng cố đức tin của Ki-tô hữu đang phải "chịu khổ vì sự công chính" (3:14) và "bị sỉ nhục vì danh Đức Ki-tô" (4:14). Hình ảnh và thân phận của Chúa Giê-su giúp chúng ta nhìn lại quá khứ và hiện tại của mình để vững lòng hy vọng vào tương lai. Cái quá khứ của thân phận chiên lạc, ốm đói, bên vờ vực thẳm và đầy nguy hiểm (Ed 34:5-6) đã được biến đổi là nhờ Đức Ki-tô chịu đau khổ vì chúng ta và mang vào thân những tội lỗi chúng ta. Đức Ki-tô đã đến để ban cho chúng ta tất cả những gì chúng ta hiện có, đó là: "Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào" (Ga 10:10). Sự thay đổi thân phận từ căn rễ ấy, tự sức riêng chúng ta không bao giờ thực hiện nổi. Nhưng là vì "tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống" (1 Ga 4:9).

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

          Qua gương kiên nhẫn chịu đựng của Chúa Giê-su, tôi sẽ nhìn như thế nào những đau khổ và gian nan thử thách mình đang chịu?

          Đức Ki-tô, Vị Mục Tử nhân lành, đã hoàn toàn sống chết cho đoàn chiên mà không một lời than trách. Còn tôi, mới có một chút hy sinh cho gia đình, cho xứ sở mà đã kể công, kêu trời như bọng. Tôi sẽ làm gì để thay đổi não trạng thiếu kiên tâm ấy?

          Thánh Phê-rô gợi lại quá khứ và khẳng định hiện tại của chúng ta. Với quá khứ và hiện tại ấy, tôi sẽ thưa gì với Chúa trong các giờ cầu nguyện của mình? Chúng giúp tôi có thái độ nào để sống đời sống mới của Ki-tô hữu?

          Lý tưởng và mời gọi của Chúa Giê-su là "Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào"đã gắn liền với thân phận quá khứ và hiện tại của chúng ta. Vậy tôi sẽ đáp lại như thế nào để mỗi ngày được tràn đầy thêm sức sống của Chúa Giê-su?

Cầu nguyện kết thúc

          Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng đọc lời nguyện sau đây:

          Lạy Chúa, Chúa đã chịu chết và sống lại, xin dạy chúng con biết chiến đấu trong cuộc chiến mỗi ngày để được sống dồi dào hơn.

          Chúa đã khiêm tốn và kiên trì nhận lấy những thất bại trong cuộc đời cũng như mọi đau khổ của thập giá, xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách chúng con phải gánh chịu mỗi ngày, thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến và trở nên giống Chúa hơn.

          Xin dạy chúng con biết rằng chúng con không thể nên hoàn thiện nếu như không biết từ bỏ chính mình và những ước muốn ích kỷ.

          Ước chi từ nay, không gì có thể làm cho chúng con khổ đau và khóc lóc chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa phục sinh. Chúa là mặt trời tỏa sáng Tình Yêu Chúa Cha, là hy vọng hạnh phúc bất diệt, là ngọn lửa tình yêu nồng nàn; xin lấy niềm vui của Người mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ và trở thành mối dây yêu thương, bình an và hiệp nhất giữa chúng con. A-men. - Mẹ Têrêxa Calcutta

(Trích RABBOUNI, lời nguyện 84)

Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

------------------------------------

 

PS 4-A84: CHÚA CHIÊN LÀNH


(21-04-2002)

 NGHE

* Bài đọc 1: Cv 2,14a.36-41

(36) Vậy toàn thể nhà Ít-ra-en phải biết chắc điều này: "Đức Giê-su mà anh em đã treo trên thập gía, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô"

(38) "Anh em hãy sám hối và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần"

* Bài đọc 2: 1 Pr 2,20b-25

(20b) Nếu làm việc lành và phải khổ mà anh em vẫn kiên tâm chịu đựng, thì đó là ơn Thiên Chúa ban. (21) Anh em được Thiên Chúa gọi để sống như thế. Thật vậy Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. (22) Người không hề phạm tội; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. (23) Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà không ngăm đe; nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xứ công bình. (24) Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập gía, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành. (25) Quả thật, trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em.

* Bài Tin Mừng: Ga 20,1-10: Vị Mục Tử nhân lành

(1) "Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. (2) Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. (3) Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. (4) Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. (5) Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ." (6) Đức Giê-su kể cho họ nghe dụ ngôn đó. Nhưng họ không hiểu những điều Người nói với họ.

(7) Vậy Đức Giê-su lại nói: "Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên vào. (8) Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ. (9) Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp đồng cỏ. (10) Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào"

NGẪM

* Câu hỏi gợi ý

 

Chiên và người chăn chiên" là một hình ảnh đã lạc hậu? 2. Vị mục tử nhân lành có những nét: PS 4-A84


1. "Chiên và người chăn chiên" là một hình ảnh đã lạc hậu?

2. Vị mục tử nhân lành có những nét đặc trưng nào?

3. Tại sao Hội Thánh lấy ngày chủ nhật Chúa Chiên Lành làm ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, tu sĩ?

* Suy tư gợi ý

1. "Chiên và người chăn chiên" có thể là lạc hậu về hình ảnh, nhưng không hề lạc hậu về ý nghĩa tôn giáo:

Đối với người Việt chúng ta thì hình ảnh "chiên và người chăn chiên" không phải là một hình ảnh gần gũi, vì xứ sở chúng ta không thuộc vùng Cận Đông với nghề chăn nuôi chiên cừu như Pa-lét-tin xưa. Hơn nữa trong khi cả đất nước đang nói đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà chúng ta cứ nhắc đi nhắc lại câu chuyện "đàn chiên với mục tử", thì e rằng chúng ta bị coi là những người lạc hậu! Nhưng nếu đi sâu vào ý nghĩa và biểu tượng tôn giáo của hình ảnh "chiên và mục tử" thì chúng ta lại chẳng thấy lạc hậu tí nào. Vì chưng những người tin ở Thiên Chúa đều xác tín rằng họ luôn được Thiên Chúa và Chúa Ki-tô quan tâm và tận tình chăm sóc, không chỉ về phương diện tâm linh mà về mọi phương diện con người, không chỉ ở đời sau mà ở cả đời này lẫn đời sau. Mối tương quan gắn bó giữa người chăn và con chiên là hình ảnh sống động, cụ thể của mối tương quan giữa Thiên Chúa và người tín hữu.

2. Những nét đặc trưng của Vị Mục Tử nhân lành

Đức Giê-su đã công bố Người là Vị Mục Tử nhân lành, với những nét đặc trưng sau đây:

* Vị Mục tử nhân lành hết lòng yêu thương những người thuộc về mình. Vì yêu thương nên Người quan tâm đến mọi người và đến từng người. Càng quan tâm thì càng biết tường tận: biết họ muốn gì? họ cần gì? họ có thể gặp phải những nguy cơ cạm bẫy hay thử thách nào?

* Vị Mục tử nhân lành luôn đi đầu, đi trước tức hướng dẫn, lãnh đạo đoàn chiên, tức đứng mũi chịu sào, gánh chịu mọi khổ cực cho người thuộc về mình. Vị ấy sẽ đem chiên đến những miền an toàn, có suối mát và cỏ xanh, để chiên được ăn uống no nê, được nghỉ ngơi thoải mái. Chiên sẽ tăng trưởng cả về chất lượng lẫn số lượng. Thậm chí vị Mục tử sẽ hy sinh mạng sống vì chiên.

3. Lý do Hội Thánh lấy ngày chủ nhật Chúa Chiên Lành làm ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục tu sĩ

Bản tin Hiệp Thông (tiếng nói của Hội đồng Giám Mục Việt Nam) số 11, ra ngày 15 tháng 02 năm 2002 (trang 8-9) cung cấp cho chúng ta những con số cụ thể và đáng chúng ta suy nghĩ trong ngày hôm nay:

(1): Tổng dân số của Việt Nam hiện là: 80.489.857 người (76.683.203 dân tộc kinh + 3.806.654 dân tộc thiểu số). (2): Tồng số công giáo của 25 giáo phận: 5.324.492 người (5.065.105 dân tộc kinh + 259.387 dân tộc thiểu số). (3): Tổng số linh mục của 25 giáo phận: 2.526 Lm (2.133 triều + 393 dòng). (4): Tổng số tu sĩ trong 25 giáo phận: 11.282 Ts (1.524 nam + 9.758 nữ). (5): Tổng số chủng sinh của 25 giáo phận: 1.765 Cs (1.044 đang học + 318 học xong + 403 dự bị). (6): Tổng số giáo lý viên của 25 giáo phận: 45.858 Glv (671 giáo phu + 219 có lương + 44.968 không có lương).

Nếu chia bình quân số giáo dân cho số linh mục (triều dòng, khoẻ yếu) thì một linh mục phải phục vụ 2.107 giáo dân. Nếu chia bình quân tổng số dân Việt Nam cho số linh mục (triều dòng, khoẻ yếu) thì một linh mục phải phục vụ 31.865 người. Nếu chia bình quân số giáo dân cho số tu sĩ (nam nữ, khoẻ yếu) thì một tu sĩ phải phục vụ 472 giáo dân. Nếu chia bình quân tổng số dân Việt Nam cho số tu sĩ (nam nữ, khoẻ yếu) thì một tu sĩ phải phục vụ 7.134 người. Nếu chia bình quân tổng số người VN không công giáo cho tổng số người VN công giáo thì một người VN công giáo phải giúp cho 14 người VN không công giáo biết Chúa và gia nhập Giáo hội.

Nguyên nhìn vào những con số trên, chúng ta cũng đã thấy được nhu cầu to lớn về nhân sự của Giáo hội Việt Nam trong sứ mệnh sống, làm chứng và loan báo Tin Mừng mà Giáo hội đã nhận được từ chính Chúa Giê-su. Đã đành rằng ngày nay trách nhiệm sống, làm chứng và loan báo Tin Mừng không chỉ của riêng các linh mục, tu sĩ mà của mọi Ki-tô hữu. Nhưng các linh mục, tu sĩ vẫn là lực lượng quan trọng nhất, là lực lượng nòng cốt và đầu tầu trong lãnh vực này. Thế nhưng ơn gọi linh mục, tu sĩ càng ngày càng giảm sút trong các Giáo hội địa phương, thậm chí giảm trầm trọng trong một số Giáo hội. Riêng tại Việt Nam, thì tình hình có mấy nét riêng sau đây: (1) Việc thanh niên nam nữ muốn vào chủng viện, dòng tu còn gặp nhiều cản trở từ những qui định của Nhà Nước. (2) Việc các Giám mục, Dòng tu gửi các linh mục, tu sĩ đến nơi cần gửi, đặc biệt đến vùng sâu vùng xa, cũng chẳng dễ dàng gì. (3) Ơn gọi tu trì đã có dấu hiệu sút giảm ở thành thị, nhất là ở các quận nội thành.

Vì thế cho nên chúng ta không chỉ cầu xin Thiên Chúa ban cho Giáo hội -nhất là Giáo hội Việt Nam- nhiều linh mục, tu sĩ tài đức thánh thiện, nhiệt thành mà chúng ta còn phải nài xin Thiên Chúa tạo thuận lợi cho các ứng sinh linh mục tu sĩ được đào tạo đến nơi đến chốn và cho các linh mục tu sĩ có điều kiện cần thiết để thực thi sứ vụ của mình.

NGUYỆN

Lạy Thiên Chúa Cha là Chủ cánh đồng truyền giáo, là Chủ vườn nho: xin Cha gửi nhiều thợ gặt, thợ hái nho lành nghề đến những nơi, những người cần các thợ ấy!

Lạy Chúa Giê-su là Mục Tử nhân lành, Chúa đã hiến tặng cuộc đời của Chúa cho nhân trần: xin Chúa hãy lôi kéo các linh mục, tu sĩ sống theo gương Chúa, sống giống như Chúa: hy sinh, quảng đại và yêu thương để mọi người được sống và sống dồi dào!

Lạy Chúa Thánh Thần là Thần Khí, là Lửa: xin Chúa đổ tràn lửa nhiệt thành truyền giáo vào mọi tâm hồn Ki-tô hữu, nhất là tâm hồn các linh mục, tu sĩ và người trẻ, để biến họ thành những thợ gặt hăng say nhiệt thành trong cánh đồng của Thiên Chúa.

Giê-rô-ni-mô Nguyễn Văn Nội

------------------------------------

 

PS 4-A85: Cửa chuồng chiên

 

Ngày nọ, có một du khách viếng thánh địa, nhìn thấy một chuồng chiên ngoài đồng, anh ta bèn hỏi: PS 4-A85


Ngày nọ, có một du khách viếng thánh địa, nhìn thấy một chuồng chiên ngoài đồng, anh ta bèn hỏi người mục tử đang ngồi cạnh đó rằng: Cửa chuồng của anh ở đâu? Người mục tử trả lời: Tôi chính là cửa chuồng. Đoạn người mục tử kể cho du khách nghe anh ta lùa bầy chiên vào chuồng mỗi khi chiều xuống như thế nào. Sau đó anh ta nằm chặn ngang lối vào chật hẹp đó. Không một chú chiên nào có thể bỏ chuồng mà đi ra, cũng chẳng thú rừng nào có thể đi vào mà không bước qua anh ta.

Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, qua đó Chúa Giêsu tự sánh ví mình như cửa chuồng chiên và như người mục tử nhân lành. Cả hai hình ảnh này đều nói lên sự hiểu biết, sự chăm sóc và sự bảo vệ Ngài dành cho chúng ta, là những con chiên được Ngài hướng dẫn.

Thực vậy, người mục tử thường phải hiện diện với bầy chiên của mình 365 ngày trong một năm, và 24 giờ trong một ngày. Người mục tử ấy phải biết rõ chiên mình: con nào đau, con nào mạnh, con nào có móng mềm, con nào bỏ bầy đi lạc.

Thế nhưng, hiểu biết về con chiên mà thôi chưa đủ, người mục tử ấy còn phải dám hiến thân cho bầy chiên của mình, thậm chí dám hy sinh cả mạng sống của mình nữa, trong những trường hợp hiểm nguy. Chính trong bối cảnh này mà chúng ta có thể hiểu rõ hơn lời xác quyết của Chúa, khi Ngài nói: Ta là mục tử nhân lành. Thực vậy, Ngài muốn cho chúng ta hay: mối tương giao và sự hiến thân của Ngài cho chúng ta cũng giống như mối tương giao và sự hiến thân của người mục tử cho bầy chiên của mình.

Giống như người mục tử, Chúa Giêsu luôn hiện diện giữa chúng ta 365 ngày trong một năm và 24 giờ trong một ngày. Ngài đã từng nói với chúng ta: Này, Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.

Giống như người mục tử, Chúa Giêsu cũng biết rõ mỗi người chúng ta một cách vừa thân mật lại vừa sâu xa. Ngài biết ai trong chúng ta đang yếu kém về đức tin, ai trong chúng ta thường ngã lòng, ai trong chúng ta hay bỏ bầy để đi hoang. Ngài không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Trái lại, Ngài luôn ở cạnh chúng ta để nâng đỡ, phù trợ. Và nếu như chúng ta có lầm đường lạc lối, thì chính Ngài sẽ tìm kiếm chúng ta.

Điều Thiên Chúa nói với dân riêng của Ngài qua môi miệng tiên tri Isaia, cũng chính là điều Chúa Giêsu muốn nói riêng với mỗi người chúng ta, đó là: Đừng sợ, Ta đã gọi ngươi bằng tên riêng của ngươi. Đừng sợ, ngươi rất quý báu đối với Ta. Và đừng sợ, vì này đây Ta ở với ngươi luôn mãi.

------------------------------------

 

PS 4-A86: Mục tử thật - mục tử giả

 

Xã hội hôm nay thật lắm chuyện thị phi! Cuộc đời cứ như: "Vàng thau lẫn lộn". Hàng thật – hàng: PS 4-A86


Xã hội hôm nay thật lắm chuyện thị phi! Cuộc đời cứ như: "Vàng thau lẫn lộn". Hàng thật - hàng già đã khó phân biệt mà người tốt, người xấu càng khó phân biệt hơn. Có những mặt hàng giả mà như thật. Có người phải ngậm đắng nuốt cay khi bỏ tiền mua hàng thật nhưng lại phải lấy đồ giả. Có người vì cả tin nghe người nên bị lừa đến thân bại danh liệt. Kẻ bị lừa tình mà ôm hận suốt đời. Kẻ bị lừa tiền mà tan hoang cửa nhà. Có kẻ giả nhân giả nghĩa để đánh lừa đồng loại và vun quén cho bản thân. Kẻ thất đức lại sống trên nhung lụa. Người công chính phải tù tội lầm than vẫn còn đó trong kiếp người hôm nay. Đó là kết quả tất yếu của chủ nghĩa thực dụng. Đặt quyền lợi cá nhân lên trên lợi ích tập thể. Con người lấy mình làm trung tâm nên mọi sự đều quy về mình. Tìm hạnh phúc cho mình. Tìm vinh danh cho mình. Vì hạnh phúc của mình nên sẵn sàng bỏ rơi đồng loại, cho dù đó là cha, là mẹ, cho dù đó là vợ chồng hay con cái. Sự thật phũ phàng đó đang là căn bệnh trầm kha của xã hội hôm nay.

Có biết bao cha mẹ đã đang tâm giết các thai nhi vì sợ đứa con sinh ra sẽ thêm phần ăn, thêm gánh nặng cho gia đình. Có biết bao vợ chồng đã đứt gánh giữa đường chỉ vì một mối tình riêng, một quan hệ bất chính. Có biết bao người con đã bỏ rơi cha mẹ trong đói khổ, già yếu, bệnh tật vì còn phải lo cho chính bản thân mình.

Xem ra thế giới hôm nay đang thiếu dần hai chữ hy sinh. Không có hy sinh làm sao có ân nghĩa. Không có ân tình, ân nghĩa nên người ta đâu cần hy sinh và đối xử tốt với nhau. Câu chuyện "Anh phải sống" của Khái Hưng không còn là văn học phản ánh hiện thực xã hội hôm nay nữa! Nó chỉ còn là huyền thoại, một dĩ vãng đã qua.

Chuyện kể rằng: có hai vợ chồng trẻ đi đốn củi vào mùa nước lũ. Chiều tối, khi trở về họ đặt củi trên chiếc thuyền lan mong manh, nhỏ bé để xuôi theo dòng nước trở về. Thình lình một dòng lũ từ những sườn núi ồ ạt tuôn xuống dòng sông, tạo thành một dòng xoáy mỗi lúc một mạnh khiến chiếc thuyền lan nhỏ bé của họ bể vỡ tan tành. Người chồng cố níu kéo vợ khỏi bị nước lũ cuốn trôi. Nhưng dòng nước xoáy mỗi phút giây trôi qua lại ồ ạt và mạnh mẽ. Sức lực của chồng xem ra càng đuối dần khi phải gồng mình để thoát thân và cứu vợ. Người vợ thấy sức chịu đựng của chồng đã cạn kiệt, nên đành buông tay ra để mặc cho dòng nước lũ cuốn trôi, chỉ kịp gào thét trong mưa giông và nước lũ: "anh phải sống để nuôi dạy đàn con".

Tác phẩm "Anh phải sống" đã một thời đi vào lòng người, vì nó phản ánh quá trung thực về tình yêu của những con người dám hy sinh cho gia đình, cho xóm ngõ, cho dân tộc. Nhưng xem ra, tác phẩm này không còn chỗ đứng trong xã hội hôm nay. Vì giá trị con người hôm qua được đo bằng tấm lòng biết xả thân vì đồng loại, biết quên mình vì gia đình, vì dân tộc, còn giá trị của con người hôm nay được cân nhắc bằng tiền bạc và địa vị. Người càng có lắm tiền nhiều của càng được kính trọng, nể vì. Người càng có địa vị cao càng có nhiều kẻ hầu người hạ. Có mấy ai dùng quyền để phục vụ vô vị lợi cho tha nhân? Có mấy ai dùng tiền để mua lấy tình bạn? Thế giới đã đổi thay! Cách sống cũng đổi thay. Con người chạy theo lợi nhuận. Mọi quan hệ, mọi việc làm đều được cân nhắc thiệt hơn. Vì quyền lợi của mình mà bỏ rơi đồng loại. Vì lợi ích của mình mà chà đạp lên danh dự, nhân phẩm người khác. Lòng đại nghĩa hy sinh đã bị chôn vùi khi đặt quyền lợi mình trên lợi ích của anh em.

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta cái nhìn tương phản của hai loại mục tử. Mục tử thật và mục tử giả. Mục tử thật luôn hết mình vì đàn chiên. Mục tử giả chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử thật thì hy sinh cho đàn chiên. Mục tử giả chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử thật luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên no đầy. Mục tử giả chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình. Họ sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của đàn chiên. Chúa Giêsu đưa ra khuôn mẫu mục tử nhân lành là chính Chúa. Cả cuộc đời không tìm an nhàn cho bản thân. Ngài dong duổi gió bụi để tìm từng con chiên lạc đưa về ràn. Vì sự sống của đàn chiên, Ngài sẵn sàng đối phó với sự dữ để bảo vệ đàn chiên. Ngài đã chấp nhận cái chết để đàn chiên được sống.

Đó cũng là mẫu gương cho mỗi người chúng ta. Mỗi người chúng ta đều là mục tử của Chúa khi chúng ta có nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ anh em mình. Mỗi người chúng ta đều phải có trách nhiệm trước sự an nguy của đồng loại. Mỗi người chúng ta đều có bổn phận đẩy lùi sự dữ đang hoành hành trong môi trường sống của chúng ta. Không ai được phép bàng quan trước sự dữ đang bủa vây gia đình, xóm làng của mình. Không ai được phép vô trách nhiệm trước bữa no bữa đói của cha mẹ, con cái hay hàng xóm láng giềng. Nếu mỗi người chúng ta đều biết sống có trách nhiệm với anh em thì dòng đời này sẽ bớt đi những trái ngang, sẽ vơi đi những giọt nước mắt buồn đau, tủi hờn. Nếu mỗi người chúng ta đều biết đưa vai gánh đỡ gánh nặng cho anh em, và biết dùng đôi vai làm điểm tựa nâng đỡ anh em, thì cuộc đời này sẽ là một thiên đàng mà con người đang hưởng nếm những giây phút ngọt ngào nhất của tình người, của hạnh phúc yêu thương.

Đây cũng là điều kiện để có được sự sống trường sinh. Vì "ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sống muôn đời.

Nguyện xin Chúa Giêsu mục tử luôn phù hộ nâng đỡ và giúp chúng ta biết sống hiến thân mạng sống vì anh em. Amen.

------------------------------------

 

PS 4-A87: Tôi là cửa cho chiên”


(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)

 

Chúng ta vẫn ở trong mùa Phục sinh, mùa của sự sống tươi mới. Đức Giêsu là người mục tử chăn: PS 4-A87


Chúng ta vẫn ở trong mùa Phục sinh, mùa của sự sống tươi mới.

Đức Giêsu là người mục tử chăn chiên.

Khác với kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy, Ngài đến để chiên có sự sống, và có một cách dồi dào (c. 10).

Hãy nhìn những nét đặc trưng của người mục tử đích thực.

Anh đi vào ràn chiên hay chuồng chiên bằng cửa, đường đường chính chính, chứ không lén lút trèo qua tường rào (cc. 1-2). Người giữ cửa quen anh và mở cửa cho anh. Chiên cũng quen anh và quen tiếng của anh. Tiếng của anh là dấu hiệu quan trọng để chiên nhận ra và phân biệt anh với người lạ hay kẻ trộm (cc. 3-5).

Chiên nghe tiếng của anh (c. 3). nhưng không nghe tiếng người khác (c. 8). Anh trìu mến gọi tên từng con, vì anh biết rõ chiên của mình.

Khi dẫn chúng ra ngoài chuồng, anh đi trước dẫn đường, chúng yên tâm theo sau chứ không chạy trốn, vì chúng biết mình đang đi theo ai và sẽ được dẫn đến đâu. Rõ ràng có sự hiểu nhau, gần gũi giữa chiên và mục tử.

Nhưng Đức Giêsu không chỉ là Mục tử chăn chiên.
Ngài còn tự nhận mình là Cửa cho chiên ra vào (c. 7. 9).

Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Khi Ngài đưa ta đến với Cha, Ngài nhận mình là Cửa. Khi Ngài săn sóc ta, Ngài nhận mình là Mục Tử.”

Cửa chuồng chiên nhằm để chiên đi vào và tìm được sự an toàn. Cửa cũng nhằm để chiên đi ra và tìm được đồng cỏ nuôi sống.

Chỉ ai qua Cửa Giêsu mà vào mới được cứu độ.

Ai ra vào Cửa Giêsu mới tìm thấy đồng cỏ xanh tươi (c. 9). Cửa Giêsu cũng giúp phân biệt mục tử giả và thật.

Mục tử giả sẽ không dám đến với chiên qua Cửa Giêsu.

Mong sao cho Giáo Hội có nhiều mục tử gần gũi với chiên, biết gọi tên từng con chiên và đem lại cho chiên hạnh phúc. Và mong sao chiên có khả năng nhận ra tiếng nói của người mục tử.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, Chúa nhận mình là Tấm Bánh, vì Chúa muốn nuôi tâm linh chúng con.
Chúa nhận mình là Cây Nho, vì Chúa muốn trao cho chúng con dòng nhựa sống.
Chúa nhận mình là Mục tử nhân lành, vì Chúa muốn dẫn chúng con đến nơi đồng cỏ.
Chúa nhận mình là Cửa, vì Chúa mở cho chúng con sự phong phú của Nước Trời.
Chúa nhận mình là Con Đường, vì Chúa là Đấng duy nhất dẫn chúng con đến với Chúa Cha.
Chúa nhận mình là Ánh sáng, vì Chúa có khả năng khuất phục bóng tối trong thế gian này.
Chúa nhận mình là Sự Thật, vì Chúa vén mở cho chúng con khuôn mặt của Thiên Chúa.
Chúa nhận mình là Sự Sống và là Sự Sống Lại, vì Chúa không để cho chúng con bị cái chết chôn vùi.

Lạy Chúa Giêsu,
tạ ơn Chúa vì mọi điều Chúa định nghĩa về mình đều hướng đến hạnh phúc cho chúng con, và đều cho chúng con sự sống thâm sâu của Chúa. Xin cho chúng con chấp nhận Chúa là Anpha và Ômêga, là Khởi Nguyên và là Tận Cùng của cuộc đời mỗi người chúng con. Amen.

------------------------------------

 

PS 4-A88: Thiên Chúa chọn để loan báo Tin Mừng.


(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’ – Radio Veritas Asia)

Anh chị em thân mến,

 

Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa chọn để loan báo Tin Mừng và thông truyền Ơn Cứu Độ: PS 4-A88


“Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa chọn để loan báo Tin Mừng và thông truyền Ơn Cứu Độ”, đó là tựa đề của Sứ Điệp Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gởi đến cộng đoàn chúng ta trong ngày Lễ Chúa Nhật Chúa Chiên Lành cũng là Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi Linh Mục, Tu Sĩ Nam Nữ. Vậy hôm nay, tôi xin chia sẻ với anh em nội dung sứ điệp này của Đức Giáo Hoàng.

“Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa chọn để loan báo Tin Mừng và thông truyền Ơn Cứu Độ”. Vậy là chúng ta đều có một ơn gọi chung. Dù sống đời sống vợ chồng hay chịu chức thánh, linh mục hay tu sĩ, tất cả đều được Thiên Chúa chọn để công bố Tin Mừng và chuyển thông ơn Cứu Độ. Đây không phải là một trách vụ đơn độc, riêng lẻ mà là trách vụ chung của Giáo Hội (x. LBTM. 60). Đó là ơn gọi chung của Giáo Hội. Cùng với ơn gọi chung ấy, còn có ơn gọi đặc biệt với những trách nhiệm riêng biệt trong Giáo Hội. Đó là những ơn gọi tiến đến tác vụ linh mục, ơn gọi đời sống thánh hiến của các tu sĩ nam nữ hoạt động thừa sai và đời sống chiêm niệm.

Trong sứ điệp này, Đức Thánh Cha đặt trọng tâm của ơn gọi linh mục, tu sĩ, vào đời sống của cộng đoàn Kitô hữu. Vì “cũng như hạt giống trổ sinh dồi dào hoa trái nơi mảnh đất tốt thế nào thì ơn gọi cũng tăng triển và trưởng thành trong cộng đoàn Kitô hữu như vậy”. Chúng ta phải khởi đi từ các cộng đoàn để chuẩn bị cho một mảnh đất phì nhiêu, cho hạt giống ơn gọi nẩy mầm, trổ sinh hoa trái. Vì chỉ có các cộng đoàn Kitô hữu sống động mới có thể làm nẩy sinh các ơn gọi, vun trồng, chăm sóc các ơn gọi và làm cho các ơn gọi phát triển, như một người mẹ hằng lưu tâm đến hạnh phúc, đến sự tăng trưởng của các con cái mình. Vì thế, tác nhân chủ động và tiên phong trong việc cổ võ ơn gọi chính là cộng đoàn Giáo Hội: từ Giáo Hội toàn cầu cho tới Giáo Hội địa phương, cũng như từ Giáo Hội địa phương cho tới từng giáo xứ và từng thành phần Dân Chúa (x. Tông huấn Các Mục Tử, số 41).

Ngày nay, trước những thách đố của thế giới hiện đại, cần phải có nhiều lòng dũng cảm sống Tin Mừng hơn nữa, để dám dấn thân cổ võ ơn gọi; như Đức Kitô đã kêu mời hãy cầu xin không ngừng để có những thợ làm vườn nho, cho Nước Chúa được lan rộng khắp nơi (x. Mt 9,37-38). Hơn lúc nào hết, ngày nay cần phải làm cho mọi thành phần Dân Chúa nhận biết và xác tín rằng: tất cả mọi thành phần trong Giáo Hội, không trừ một ai, đều có ân sủng và trách nhiệm chăm sóc các ơn gọi (x. Tông huấn Các Mục Tử, số 41). Đức Thánh Cha kêu gọi các cộng đoàn giáo phận và giáo xứ phải dấn thân chăm sóc cho ơn gọi linh mục và đời sống thánh hiến, đặc biệt bằng việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện và phục vụ người nghèo.

Trước hết, cộng đoàn phải biết lắng nghe Lời Chúa để nhận ra ánh sáng hướng dẫn tâm hồn con người. Khi Kinh Thánh trở thành sách của cộng đoàn, chúng ta sẽ dễ dàng nghe và hiểu được tiếng nói của Chúa. Đấng kêu gọi chúng ta. Hơn nữa, cộng đoàn phải biết khẩn khoản cầu nguyện để có thể thực hiện được ý định của Thiên Chúa. việc cầu nguyện mang lại sức mạnh giúp ta đón nhận cách tích cực lời mời gọi của Chúa, để dấn thân phục vụ đời sống tinh thần và vật chất của anh em. Cộng đoàn cũng phải nhạy cảm trước sứ mạng truyền giáo để đem ơn Cứu Độ đến cho những người chưa nhận biết Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc nhân loại. Nếu cộng đoàn hết lòng sống mệnh lệnh của Đức Kitô: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19) chắc chắn cộng đoàn đó sẽ không thiếu những người trẻ quảng đại muốn dâng hiến đời mình để đảm nhận trách vụ loan báo Tin Mừng cho con người thời đại. Cuối cùng, cộng đoàn phải biết mở ra cho việc phục vụ người nghèo. Một mẫu sống khiêm tốn và từ bỏ, thẳng thắn chọn lựa đứng về phía những người nghèo, dấn thân trợ giúp những anh chị em túng thiếu và đau khổ. Những điều đó góp phần tạo nên một môi trường thuận lợi cho ơn gọi nảy sinh, vì phục vụ Tình Yêu là ý nghĩa nền tảng của mọi ơn gọi.

Thưa anh chị em, trong phần cuối sứ điệp, một lần nữa, Đức Thánh Cha lại kêu gọi các giám mục, các linh mục Dòng cũng như Triều, các giáo lý viên và các bạn trẻ phải ý thức trách nhiệm chăm sóc mục vụ ơn gọi trong cộng đoàn Giáo Hội: Khi làm cho cộng đoàn Giáo Hội sinh động, các linh mục có thể khơi dậy các ơn gọi, cổ võ các thiếu niên nam cũng như nữ được Thiên Chúa kêu gọi, hướng dẫn các em qua những hướng dẫn tinh thần và cuộc sống vui tươi phục vụ anh em.

Các giáo lý viên là những người tiếp xúc trực tiếp với các thanh thiếu niên, nhất là suốt thời gian chuẩn bị lãnh nhận các Bí tích khai tâm Kitô giáo, các giáo lý viên cũng có trách nhiệm góp phần giúp các em sống trọn vẹn lời mời gọi của Thiên Chúa. Đức Thánh Cha: “Cha muốn nói với các con, các con thân mến, cha trìu mến lập lại những lời này với các con: Hãy quảng đại hiến cuộc đời mình cho Đức Kitô. Đừng sợ hãi! Các con không có gì phải sợ, vì Thiên Chúa là Chúa của lịch sử và của vũ trụ. Hãy để những khát vọng về những kế hoạch vĩ đại và cao thượng lớn lên trong các con. Hãy nuôi dưỡng cảm thức về tình liên đới: đó là dấu chỉ Thiên Chúa hành động nơi tâm hồn của các con. Hãy sẵn sàng sử dụng các tài năng mà Đấng Quan Phòng đã trao ban cho các con, vì cộng đoàn của các con. Các con càng sẵn sàng dâng hiến chính mình cho Thiên Chúa và tha nhân, các con sẽ càng khám phá ra ý nghĩa đích thực của đời sống. Thiên Chúa mong đợi nhiều nơi các con!”.

Thưa anh chị em, tôi xin kết thúc nội dung tóm lược sứ điệp Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi bằng một lời nguyện của Đức Thánh Cha: “Lạy Chúa, xin gởi cho chúng con những người hướng dẫn tinh thần mà cộng đoàn chúng con đang cần: những linh mục thực sự của một Thiên Chúa sống động, những người được ánh sáng Lời Ngài soi chiếu, để có thể nói về Ngài và dạy người khác nói với Ngài. Xin hãy làm cho Giáo Hội của Ngài lớn mạnh nhờ sự phát triển của những con người thánh hiến, những người dâng hiến tất cả cho Ngài để Ngài cứu độ tất cả mọi người”. Amen.

------------------------------------

 

PS 4-A89: CỬA CHUỒNG CHIÊN


Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

 

Kẻ nào ngang qua cửa mà vào, kẻ đó mới là người chăn chiên". Câu này phải dịch vậy vì bản: PS 4-A89


"Kẻ nào ngang qua cửa mà vào, kẻ đó mới là người chăn chiên". Câu này phải dịch vậy vì bản văn Hy lạp không có mạo từ trước chữ. "Người chăn chiên”, nhưng đúng hơn nên dịch: "là một người chăn chiên": vì như thế mới thích hợp với hoàn cảnh thực tế của xứ Palestine, bởi có nhiều người chăn cùng nhốt chiên của mình trong cùng một chuồng.

"Kẻ ấy gọi tên từng con". Bản văn Hy lạp viết: katonoma, mà có lẽ đôi khi người ta dịch quá sát chữ là "từng con bằng tên của nó". Thực ra, ngay cả thời bây giờ, mục tử xứ Palestine chỉ đặt tên cho những con chiên chính của đàn. Cha Jaussen có kể ra nhiều thí dụ điển hình trong cuốn Naplouse, tr. 305. Thành thử ở đây nói rằng mỗi con chiên có một tên riêng thì hơi quá đáng. Một vài tác giả ưa dịch "Kat onomat” là từng con một" (BJ) hoặc là "riêng từng con" (Jouon). Dù chọn cách giải thích nào đi nữa, thì ý tưởng chính vẫn là Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến chiều kích cá vị trong mối tương quan giữa Người với các môn đồ, ngược lại với kẻ mị dân chỉ đối xứ với người ta như những đám đông không tên tuổi.

"Bao nhiêu kẻ đã đến, thảy đều là trộm là cướp": Đây không có ý nói về các ngôn sứ của Cựu Ước, nhưng là về những người, trong xã hội Do thái cũng như trong thế giới lương dân, thường tự hào là kẻ mang lại cho con người sự hiểu biết về các thực tại thần linh và ơn cứu độ bằng các phương thế riêng của họ.

KẾT LUẬN

Giữa lòng Israel cũng như giữa lòng Giáo Hội, có hai hạng người: những kẻ thực sự thuộc về đấng chăn chiên, biết đáp lại tiếng gọi của một mình Người, và những kẻ không hề lại vì họ chẳng bao giờ thuộc về Đấng ấy.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1) Thánh Gioan kể lại cho ta một ám dụ, một kiểu so sánh, điều họa hiếm trong Tin Mừng của ngài. Do đó có thể nghĩ rằng ngài muốn gán cho ẩn dụ này một tầm quan trọng đặc biệt. Dụ ngôn được nói cho người Biệt phái và muốn gởi đến họ một sứ điệp thiết yếu.

Biệt phái tự phụ mình là người hướng dẫn kẻ khác nhân danh Thiên Chúa; họ rất ghen với Chúa Giêsu vì Người được lòng dân và làm họ mất uy tín. Thành thử giữa Chúa Giêsu và họ, có một sự tranh chấp ảnh hưởng. Chúa Giêsu sắp nói rõ cho họ biết họ đã ảnh hưởng ra sao và chính Người đã ảnh hưởng thế nào trên đàn chiên Israel.

2) Chúa Giêsu là cửa vào, Người không loại bỏ một ai khỏi ơn cứu rỗi. "Người đến để tất cả nhân loại có sự sống dồi dào", ngay cả những kẻ Biệt phái vốn từ khước Người. Khi xưng mình là cửa vào, Chúa Giêsu không còn cách nào rõ hơn để xác quyết độc quyền của Người trong việc thông ban ơn cứu rỗi. Người khẳng định rằng người ta không thể tranh chấp với Người được, vì Người là cửa cứu rỗi duy nhất mà tất cả phải chấp nhận đi qua, và không ai có đặc ân được miễn, ngay cả những kẻ xem ra được trao phó một chức quyền thiêng liêng trong cộng đoàn tín hữu.

3) Giáo huấn này rất quan trọng và khẩn yếu. Chúng ta có thật sự tin rằng không có một người hướng dẫn nào khác, một vị Thầy nào khác, một lối đi nào khác cho con người ngoài Chúa Kitô không? Có nhiều Kitô hữu, khi phải nói lên điều này hôm nay, đều cảm thấy hầu như lúng túng; họ có cảm tưởng rằng mình tự gán cho mình nhiều đặc ân và đặc quyền trên những người khác. Vì ước mong hiệp nhất thiếu sáng suốt, vì khoan dung thiếu quân bình hoặc vì lẫn lộn các giá trị nên họ cảm thấy hầu như hổ thẹn về lòng tin của họ vào Chúa Giêsu Kitô. Thật vậy, người ta chẳng bảo rằng mọi tôn giáo đều có giá trị như nhau, mọi học thuyết và mọi Giáo Hội đều chính đáng miễn là ta thành thật đó sao? Nhưng khi xưng mình là cửa duy nhất, Chúa Giêsu đã dẹp tan mọi lối biện luận hồ đồ này. Chẳng phải là tất cả mọi người không mang danh hiệu Kitô hữu cách chính thức đều bị ở ngoài chuồng chiên cả đâu nhưng, Chúa Giêsu muốn nói rằng ngay cả người ngoại giáo nào có thiện chí, người vô thần nào cố gắng sống ngay thẳng theo lương tâm, đều đã chỉ nhờ một mình Chúa Kitô mà được như vậy. Thành ra những ai, thuộc về chuồng chiên của Chúa Kitô mà không ý thức rõ ràng, đều phải qua cửa vào là chính Người vậy.

4) "Chiên Người, Người gọi từng con một". Có nghĩa là Chúa biết mỗi một người cách đặc biệt. Người có thể biết như vậy vì Người là Thiên Chúa. Đó chẳng phải là một sự kiện đánh động chúng ta cách mãnh liệt đó sao?

------------------------------------

 

PS 4-A90: CHỦ CHIÊN NHÂN LÀNH


Ga 10, 1 – 10

Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào ...

Anh chị em thân mến,

 

Chúa nhật hôm nay được gọi là chúa nhật:Chúa chiên lành; chủ đề này dựa vào bài Phúc âm trong: PS 4-A90


Chúa nhật hôm nay được gọi là chúa nhật:Chúa chiên lành; chủ đề này dựa vào bài Phúc âm trong thánh lễ, nhất là dựa vào lời tự xưng của Chúa Giêsu: "Ta là Mục tử tốt lành...Ta biết các chiên Ta, và chiên Ta biết Ta". Có người nói: Chúa Giêsu nói như thế là quá lố, vì họ không tin Chúa...Thực ra, Chúa Giêsu là Chúa của Sự Thật, làm sao Người có thể nói thêm nói bớt, làm sao Người có thể dối gạt ta được? Con người do ảnh hưởng tội nguyên tổ, nên tánh còn xấu xa, con người mới dối gạt, lừa đảo nhau... Đây chính là chủ đề mà Hội Thánh muốn chúng ta suy niệm trong ngày chúa nhật hôm nay...

a/. Có một vài điều chúng ta cần lưu ý: Chúa Giêsu là mục tử tốt lành, nên Người:

Luôn hiện diện bên đàn chiên: Chúa Giêsu thực là vị mục tử tốt lành, vì chính Chúa nói: "Thầy sẽ luôn ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.." Sau khi Chúa về trời cho đến hôm nay, Hội thánh luôn cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong Hội Thánh, tuy là sự hiện diện không hữu hình như xưa khi Chúa đi giảng dạy bên các tông đồ; nhưng rõ ràng các thánh, cả các người tín hữu luôn thấy Chúa hiện diện ngay trong cuộc sống của mình....

Cha Phaolô Mừng, sau năm 1975, được về làm sở Cái Đôi, một họ đạo ven biển của tỉnh Trà Vinh, nay gọi là Huyện Duyên Hảị Trong một thời gian khá lâu, có đến 10 năm, Cha không bao giờ đi đâu cả, ngay cả khi cuối năm, phải đi tĩnh tâm hàng năm, chung với các Cha, Cha cũng không đi nữa... Có người hỏi Cha: Tại sao vậy Cha cười cười và trả lời: "nước đổ ra biển, có khi nào nước đổ trở lên nguồn?" Sau này, sau những năm 1990, có người mới hỏi lại Cha về chuyện cũ, Cha lúc đó mới trả lời rõ ràng: "đó là thời kỳ bao cấp, rất khó khăn, mình là chủ chăn mà, bỏ họ đạo mà đi coi chừng mất nhà thờ, mất họ đạo, ai thường cho mình. Thà là...cứ bám trụ, có chết cùng chết với họ đạo...." Rõ ràng đây là một tấm gương mục tử sáng chói luôn hiện diện vui buồn, sướng khổ với họ đạo....

Biết rõ từng con chiên: Chúa Giêsu, vị mục tử tốt lành, nên Người biết rõ từng con chiên: con nào đau ốm - con nào bị tật nguyền - con nào thiếu thốn... Không có bất cứ điều gì khác lạ nào nơi con chiên mà vị Mục tử Giêsu không biết; chính vì lẽ đó mà Chúa Giêsu đã nói, không hề có chút kiêu kỳ: "Ta biết con chiên của Ta, và chiên của Ta cũng biết Ta".

Trong đời cha Thánh Curé D'Ars, ngài có thói quen hầu như mỗi khi viếng Chúa hay nguyện gẫm, ngài thường đem theo quyển sổ các gia đình công giáo trong họ đạọ Người ta nói ngài lật từng trang, xem qua các gia đình và cầu nguyện cho họ. Cha Thánh họ Ars hầu như biết rõ từng con chiên trong họ đạo của cha....

Hy sinh tính mạng mình vì đàn chiên: Ai đã đọc qua thiên hồi ký ghi lại cuộc hành trình truyền giáo của các cha Thừa sai Paris, cho người Thượng (ngày hôm nay là địa phận Kontum và Buôn ma Thuột), sẽ thấy vô cùng cảm phục vì sự hy sinh, vì sự bỏ mình vì đàn chiên của các ngàị Sống giữa rừng thiêng nước độc, đủ mọi thứ hiểm nguy, ăn uống thiếu thốn, dã thú, bệnh tật kiết lỵ, rét rừng, triều đình rình rập bắt bớ, thái độ e dè của kẻ ngoại cuồng tín. Vậy mà các ngài vẫn không sợhãi, vẫn sẳn sàng chết cho Chúa Kitô và các linh hồn. Gương hy sinh liều mình như thế, thử hỏi ngày nay chúng ta có gì để so sánh bằng các ngài không? Rõ ràng các ngài muốn bắt chước gương cao cả của Thầy Chí Thánh mình .....

b/. Gợi ý sống và chia sẻ: Chúa Kitô thực sự là Mục tử tốt lành. Các thánh cũng là những mục tử tốt lành, theo gương Chúa Kitộ Còn phần chúng ta, chúng ta có muốn là những con chiên tốt lành của Chúa Kitô không?

------------------------------------

 

PS 4-A91: SỐNG DỒI DÀO


Ga 10, 1 – 10

 

Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào". Đây là những lời nói phát xuất từ tình yêu và tấm: PS 4-A91


"Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào". Đây là những lời nói phát xuất từ tình yêu và tấm lòng của người mục tử sống hết mình vì đoàn chiên của mình. Nhưng đồng thời khi nghe những lời yêu thương này có người sẽ tự hỏi: thế nào là sống và sống dồi dào nghĩa là gì? Nơi những người chưa có niềm tin hoặc niềm tin còn non kém thì có lẽ sẽ tự hỏi rằng: Nếu Ngài không đến thì chúng tôi sẽ chết hết hay sao? Đâu là ý nghĩa của vấn đề mà Chúa Giêsu nói với chúng ta? Chúng ta hãy tìm hiểu vấn đề với ý nghĩa đích thực của nó.

1.Thế nào là sống?

Nếu hiểu chữ sống là "có sinh khí và hoạt động" thì có lẽ nhiều người sẽ nói rằng: tôi đâu có tin Chúa và cũng chẳng cần Chúa đâu mà tôi vẫn sống và sống mạnh khoẻ đây. Thật ra, đó là thái độ của con người còn mê lầm và chưa nhận ra sự thật. Sự thật là Chúa đã dựng nên con người và ban cho họ sự sống trong tình yêu quan phóng của Ngài dù con người có nhận ra điều đó hay không?

Nhưng ở đây, khi Chúa Giêsu nói: "Ta đến để cho chúng được sống" thì từ "sống" mang một ý nghĩa sâu xa hơn nhiều.Nó vượt lên trên ý nghĩa là "có sinh khí và hoạt động". Sự sống mà Chúa Giêsu mang đến cho những ai tiếp nhận Ngài chính là sự sống đích thực và vĩnh cửu vì Ngài là nguồn của sự sống. Chúa Giêsu đã nhiều lần khẳng định: "Ta là nước hằng sống, là Bánh trường sinh, là sự sống lại và là sự sống".

Dân Do thái ngày xưa đã sống trong sa mạc 40 năm trường và được ăn bánh mà họ gọi là bánh bởi trời là Manna để trải qua thời gian sa mạc đó. Nhưng đó không phải là bánh bởi trời đích thực vì bánh đó không phải là bánh của sự sống và không có khả năng ban sự sống cho con người.Chính Chúa Giêsu mới là: "Bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn và họ đã chết. Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời" (Ga 6, 58).

Đức Giêsu cũng tỏ ra cho người phụ nữ xứ Samaria rằng: chính Ngài là Nước hằng sống khi chị này đến lấy nước tại giếng mà họ tự hào là của tổ phụ Giacop để lại.. Chúa nói: "ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ còn khát nữa và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời" (Ga 4, 14).

Với phép lạ Chúa Giêsu phục sinh cho Lazarô, Ngài cũng tỏ cho chúng ta thấy Ngài chính là sự sống: "Ta là sự sống và là sự sống lại" (Ga 11,25).

Như vậy, Chúa Giêsu đến với con người trong tư cách là mục tử nhân lành, mục tử hiến mạng sống mình vì đoàn chiên là chúng ta, để qua Ngài là nước hằng sống, là bánh trường sinh, là sự sống . . . Chúng ta có được sự sống đích thực. Với sự chết và sự sống lại của Đức Giêsu, Ngài đã ban cho chúng ta tất cả những gì Ngài đã phán với chúng ta: Ta là Nước hằng sống, là Bánh trường sinh, là sự sống, là Sự sáng trần gian . . .

2. Sống dồi dào là thế nào?

Nếu chúng ta nghĩ rằng sống dồi dào là sống tiện nghi, dư ăn dư để . . . thì có lẽ chúng ta cũng không thấy cần Chúa Giêsu đến với chúng ta làm gì. Vì thực tế, có nhiều người không hề tin Chúa mà họ vẫn sống giàu sang, của cải dư đầy, không thấy thiếu một thứ gì cả.

Nhưng "sống dồi dào" theo ý của Chúa Giêsu là sống vui tươi, hạnh phúc và tự do dù có thể họ không giàu sang và thành đạt theo kiểu thế gian.

Sống dồi dào là sự sống của những con người tràn đầy Thần Khí của Thiên Chúa. Mà Thần Khí vốn là tự do "Gió muốn thổi đâu thì thổi". Vì thế, ai còn bị ràng buộc bởi bất cứ điều gì dù là tiền của, công việc, gia đình, luật lệ . . . thì họ quả là người đáng thương dù cho họ có đầy đủ mọi thứ của cải trần gian.

Tự do là phẩm giá cao trọng quí nhất của con người. Vậy chúng ta có thật là người tự do chưa? Hãy kiểm điểm xem điều gì còn làm cho chúng ta bận tâm hay đang trói buộc chúng ta, khiến chúng ta chưa có được sự sống dồi dào của Chúa. Hãy chạy đến với Đức Giêsu để chính Ngài sẽ ban lại cho chúng ta sự sống đích thực và được sống dồi dào.

Hôm nay cũng là ngày mà Giáo hội dành cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ. Chúng ta hãy cầu xin cho Hội thánh Chúa có nhiều người biết quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa để sống đời hiến dâng vì Chúa, vì Nước Trời và vì hạnh phúc của con người.

Chúng ta cũng hãy cầu xin Chúa cho các vị đang có trách nhiệm hướng dẫn và lãnh đạo dân Chúa biết noi gương Chúa Giêsu đến để làm cho chiên được sống và sống dồi dào qua đời sống hy sinh, dấn thân và phục vụ.

------------------------------------

 

PS 4-A92: MỤC TỬ ĐÀN CHIÊN


Ga 10, 1 – 10

 

Chúa nhật hôm nay được gọi là Chúa Nhật chúa chiên lành, là ngày dành cầu nguyện đặc biệt: PS 4-A92


Chúa nhật hôm nay được gọi là Chúa Nhật chúa chiên lành, là ngày dành cầu nguyện đặc biệt cho ơn gọi giáo sĩ và tu sĩ. Hình ảnh mục tử chăn dắt đàn chiên thường được dùng để diễn tả những người có trách nhiệm lãnh đạo Giáo hội, có nhiệm vụ chăm do đời sống giáo dân. Hình ảnh này được bắt nguồn từ trong Cựu Ước. Tiên tri Eâzêkiel đã dùng hình ảnh đàn chiên và chủ chiên để báo trước rằng Chúa sẽ đến dẫn dắt Israel như mục tử chăn dắt đàn chiên. Đến thời Tân Ước, Chúa Giêsu cũng tự xưng Thầy là mục tử tốt lành.

Hình ảnh mục tử có vẻ xa lạ đối với người Việt nam hôm nay. Nhưng đối với người Palestine thời ấy, đầy là hình ảnh rất đẹp. Nó diễn tả sự gần gũi, quan tâm chăm sóc hết mình trong liên hệ chủ chăn và đàn chiên. Sự hiện diện gắn bó của mục tử đối với đàn chiên là không thể thiếu.

Đời sống của mục tử tại Palestine rất vất vả. Không có bầy chiên nào dám ăn cỏ nếu không có người chăn chiên bên cạnh. Vì thế, người chăn chiên không hề được nghỉ ngơi. Những vùng cỏ ít, chiên phải đi dông dài, không hàng rào bảo vệ, người chăn phải luôn luôn dõi theo đàn không rời mắt. Công việc của người chăn chiên không chỉ có tính cách thường trực mà còn có khả ngăn gặp nhiều nguy hiểm nữa. Phải tìm cách chống trả với những bầy thú dữ như sói , hay những lần phải đối mặt với những tên trộm cướp đến bắt chiên. Có thể nói những đặc điểm nổi bật nhát của người chăn chiên là: thường xuyên canh thức theo dõi, can đảm không sợ hãi, khiên nhẫn yêu thương bầy chiên mình.

Vì những đặc điểm ấy, Chúa Giêsu đã lấy người chăn chiên để nói về chính bản thân Ngài. Ngài đến trần gian và hy sinh tất cả cho đàn chiên là những con người yếu hèn, tội lỗi. Chúa Giêsu là người chăn chiên tốt lành. Ngài sẵn sàng hy sinh mạng sống để tìm và cứu vớt những con chiên đi lạc xa đàn ( Mt 18,12; Lc 15,4). Ngài động lòng thương xót dân chúng vì họ như chiên không có người chăn dắt (Mt 9,36; Mc 6,34). Chúa Giêsu chính là vị mục tử trung thành của Thiên Chúa. Ngài đã tự nguyện đón nhận săn sóc bầy chiên chứ không phải làm cách miễn cưỡng, làm vị nhiệt tình chứ không vì ham lợi, không lạm dụng địa vị để đánh đập ức hiếp đàn chiên nhưng nều gương lành yêu thương trìu mến.

Người ta bảo, mối liên hệ giữa chiên và người chăn chiên ở Palestine rất khác ở Anh quốc. Ở Anh người ta nuôi chiên để giết lấy thịt. Còn ở Palestine thì không, nuôi chiên để lấy lông làm len. Vì thế mà chiên được sống nhiều năm hơn vớichủ nên có mối liên hệ thân tình. Thân tình đến độ chiên biết rõ tiếng chủ và chủ biết rõ đắc điểm của từng con chiên. Đối với chủ chăn Giêsu, Ngài không chỉ biết nhưng còn quan tâm, tích cực hơn nữa Ngài còn ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ diệt vong. Đây là một ân huệ lớn lao cho những chiên nào thuộc đàn của mục tử Giêsu.

Ngày nay, Giáo hội có những người tiếp tục công việc chăn dắt của Chúa Giêsu. Đó là những Giám mục, Linh mục, tu sĩ. Họ là người tự nguyện dấn thân bước theo vị mục tử Giêsu. Chúng ta cầu nguyện cho họ có nhiều nghị lực trung thành phục vụ Hội thánh Chúa. Giáo hội ngày nay rất cần những mục tử, nhất là những mục tử tốt lành: những mục tử sẵn sàng xả thân vì đàn chiên, những mục tử quan tâm chăm lo đàn chiên, những mục tử luôn thao thức phục vụ đàn chiên để "chiên được sống và sống dồi dào".

Thực tế, giới trẻ ngày nay dường như chẳng mấy quan tâm đến ơn gọi làm linh mục tu sĩ. Có nhiều lý do khiến các bạn trẻ chẳng màn gì đến ơn gọi: Chính từ nhận thức và hoàn cảnh sống làm cho họ ngại ngùng khi nói đến dấn thân hay từ bỏ. Trong gia đình ít con, con cái có học vị cao thì cha mẹ không dễ gì cho con cái đi tu. Vì sợ chúng phải khổ sở và không muốn chúng bị "xuống đời". Giới trẻ cũng quên nếp sống tự do, tự lập nhiều sáng tạo, sáng kiến. Chính vì thế, họ sợ gặp căng thẳng với nếp sống kỷ luật và hình thức tu trì hiện nay. Nhiều bạn trẻ cảm thấy tiến trình thành người linh mục, tu sĩ quá nhiêu khê, đòi hỏi phải từ bỏ nhiều thứ quá và họ sợ không thể làm nổi. Do đó, dù cho họ có tinh thần dấn thân phục vụ đi chăng nữa nhưng trước những khó khăn, thách đố cuộc sống dễ làm cho họ ngó lơ, miễn bàn khi nhắc đến đời sống tu trì dấn thân.

Chúa Giêsu luôn mời gọi mỗi người tiếp bước theo Ngài trong nhiệm vụ chăn dắt. Hình ảnh Mục tử nhân lành Giêsu sẽ không mờ nhạt đi nếu Giáo hội vẫn còn những con người dám xả thân phục vụ vì hạnh phúc con người, vì tương lai của Giáo hội và vì lý tưởng cao đẹp là mỗi ngày có thêm nhiều người nhận biết Thiên Chúa là tình yêu.

------------------------------------

 

PS 4-A93: ĐIỂM TỰA BÌNH YÊN


Ga 10, 1 – 10

 

Trong khuôn viên Đại Chủng Viện Thánh Quý - Cần Thơ có một tiểu cảnh với chủ đề "nương tựa": PS 4-A93


Trong khuôn viên Đại Chủng Viện Thánh Quý - Cần Thơ có một tiểu cảnh với chủ đề "nương tựa". Tiểu cảnh nầy 80% được tạo nên từ phế liệu: một khung bê-tông của tường rào hư bỏ ra, một ống cống không còn sử dụng được nữa, những đoạn dừa, những cây cao sâm banh chết... Tất cả chúng được sơn chút màu và được xếp tựa vào nhau thành những hình tam giác, hình mái nhà... Chúng cùng tựa vào nhau để tồn tại, để làm nên tiểu cảnh đẹp. Nếu thiếu một thứ trong chúng, người ta không thể hiểu được đó là gì. Tiểu cảnh này được các chủng sinh rất yêu thích vì nó nhắc nhớ tinh thần yêu thương nâng đỡ nhau mà mục tiêu đào tạo của chủng viện luôn đặt hàng đầu.

Vâng, con người mang xã hội tính, cần nương tựa vào nhau để tồn tại. Tuy nhiên, con người chưa phải là điểm tựa lý tưởng cho con người. Chỉ có Thiên Chúa mới là điểm tựa an toàn nhất, như một danh nhân đã nói: "Đừng dựa vào cây, cây sẽ đổ; đừng dựa vào người, người sẽ chết. Hãy dựa vào Thiên Chúa". Hay nói khác đi, Đức Kitô Phục Sinh là nơi tựa nương không hề ngã đổ, vì "Đức Kitô đã chết nhưng Người đã sống lại, cái chết không còn quyền chi đối với Người nữa" (Rm 6,9).


Phúc Âm hôm nay nêu lên cho chúng ta hình ảnh một người chủ chăn tốt lành. Người chủ chăn đó không ai khác hơn là Đức Kitô - Đấng "Thiên Chúa đã đặt lên làm Chúa và làm Đấng Kitô" (Cv 2,36), "Đấng chăm sóc linh hồn anh em" (1 Pr 2,25). Người đã tuyên bố: "Ta là cửa chuồng chiên... Ta đến cho chiên được sống và sống dồi dào" (Gn 10,10). Bạn có vui không khi có được một chỗ dựa an toàn như thế? Chỉ có chủ chăn tốt mới nhẫn nại chăm sóc chiên. Ngài quan tâm đoàn chiên đến nỗi biết tên từng con một. Ngài đi trước hướng dẫn đoàn chiên trong cuộc hành trình. Trong lúc chiên nghỉ ngơi thì Ngài là người canh cửa, bảo vệ đoàn chiên khỏi hiểm nguy của kẻ thù.

Trong cuộc sống đời thường, giữa những khó khăn thất bại, tôi cứ nghĩ rằng do mình bất tài, do mình thiếu cố gắng. Tôi cay cú và bực dọc, than thân trách phận. Thỉnh thoảng được thành công, tôi tự hào, tự mãn đó là sức lực của tôi, là phần tôi đáng được hưởng. Cuối cùng, dẫu được hay thua thì tôi vẫn là tôi với thân phận mỏng giòn, chỉ lanh quanh với những sự ảo huyền. Tôi đã không biết đặt hy vọng của mình nơi Chúa. Tôi cao ngạo nghĩ rằng tự sức mình làm được mọi sự. Ở bên Chúa ngọt ngào êm ái biết là đường nào mà tôi đâu biết.

"Hãy đến với Ta hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng nề, Ta sẽ bổ sức cho... Ách của Ta thì êm ái, gánh của Ta thì nhẹ nhàng" (Mt 11,28). Tựa vào Chúa, tôi đâu phải hụt hẫng, hoang mang. Ngài luôn bao bọc tôi, ôm ấp tôi trong bóng cánh của Ngài. Đôi lúc Ngài tập cho tôi bước đi trên chính đôi chân của mình, Ngài để tôi vấp ngã để tôi cứng cáp hơn, nhưng không bao giờ Ngài đẩy tôi vào chỗ hiểm nguy.

"Chúa là nơi con nương tựa, con còn sợ gì ai" (x. TV 22). Đức Phật cho rằng: "Đời là bể khổ". Điều này không sai. Tuy nhiên, chúng ta - các Kitô hữu - không lo âu, sợ hãi vì chúng ta có Chúa. Người luôn nâng đỡ chăm sóc cho chúng ta. Ước gì bạn không phải bận lòng với những thách đố của cuộc sống, vì Chúa luôn cùng đi và cùng làm với bạn.

"Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Ngài, Ngài sẽ ra tay" (Tv. 37)

------------------------------------

 

PS 4-A94: NGƯỜI CHĂN CHIÊN


Ga 10, 1 – 10

 

Người mục tử nhân lành phải được thể hiện qua hành động với đoàn chiên, nghĩa là phải đi qua cửa: PS 4-A94


Người mục tử nhân lành phải được thể hiện qua hành động với đoàn chiên, nghĩa là phải đi qua cửa mà vào, chiên nghe tiếng của anh ta; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra... anh đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng anh. Còn ngược lại, nếu ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm. Theo toàn thể văn mạch, Chúa Giêsu muốn nhắm đến các người biết phái và ký lục là những kẻ tự cho mình là lãnh đạo dân, hướng dẫn về đời sống thiêng liêng, nhưng thực ra họ chỉ là những kẻ háo danh và chỉ quan tâm đến thiện ích riêng tư của họ.

Thông thường chúng ta hay nghĩ mục tử là những người lãnh đạo, là những người hướng dẫn trong cộng đoàn họ đạo. Nhưng thực ra mục tử cũng có thể được hiểu rộng ra là các bậc cha mẹ trong gia đình. Chúa Chiên Lành hôm nay chính là mẫu gương cho các bậc cha mẹ noi theo. Ta cũng được Chúa trao cho những linh hồn để trông coi, dẫn dắt, là những người mục tử nhưng hành động của chúng ta có giống Chúa Giêsu Nhân Lành hay chúng ta vẫn còn đang hành động giống như kẻ trộm?


Vậy cha mẹ phải ăn ở thế nào cho đáng là chúa chiên lành của con cái mình.

Tự trong sâu thẳm đáy lòng với khuynh hướng tự nhiên cha mẹ dễ dàng chăm sóc hy sinh vì hạnh phúc của chính con mình. Trong thực tế có rất nhiều cha mẹ đã yêu thương con, chăm sóc cho con, lo cho con đầy đủ không để con cái thiếu thứ gì, như thế có thể gọi là mới làm tròn phận sự về phần xác. Còn về phần hồn thì sao? Ta đã quan tâm đủ đến con cái chưa? "gọi tên từng con" để chúng không bị lạc vào thế giới hiện đại của công nghệ thông tin, với những trò chơi và hình ảnh không thích hợp với tuổi của chúng. Ta có Ta có tránh cho chúng chơi với những bạn bè xấu, ta có cất bỏ những dịp đưa chúng đến sự xa hoa, truỵ lạc không? Nếu ta không làm như vậy thì ta không phải là chúa chiên lành, vì người mục tử nhân lành thì anh ta "đi trước và chiên đi theo sau" biết chỗ nào nguy hiểm để cho chiên tránh, biết chọn ngọn cỏ tốt cho chiên ăn, chỗ an toàn cho chiên nằm.

Hơn thề, ta có sẵn sàng hy sinh những tham vọng của ta, nếu Chúa gọi con cái chúng ta dâng mình cho Chúa hay không? Hay chúng ta chỉ ích kỷ muốn cho con cái chúng ta vâng theo những tính toán đời này của chúng ta, mà không cho chúng theo ơn Chúa kêu gọi. Nếu chúng ta làm như vậy, thì chúng ta không hành động như Chúa Chiên Lành, vì Chúa Chiên Lành sẵn sàng hy sinh vì con chiên chứ không cần lời lãi ở con chiên. Nếu làm như thế chúng ta có khác gì các Kinh sư và người Pharisêu. Chúng ta có biết từng con chiên của ta như Chúa không? Ngài có thể gọi "đích danh từng con" chứng tỏ Ngài rất hiểu và biết nằm lòng sự khác của các con để không bị nhầm lẫn con này với con kia. Trong đoàn chiên gia đình cũng thế, cha mẹ là những người chăn chiên cũng phải hiểu rõ tính nết từng đứa con mình, để mà sửa đổi những tính hư nết xấu, biết dẫn chúng đến những đồng cỏ nhân đức cho chúng ăn, có như vậy chúng mới có thể trở thành những con chiên mập, béo tốt và giúp ích cho tương lai được.

Trong một cộng đoàn, không chỉ có mục tử mới có bổn phận với con chiên, mà con chiên cũng có bổn phận với người mục tử. Nếu mục tử nhân lành biết chiên của mình, thì con chiên cũng phải "biết tiếng của anh". Ta là con chiên của Chúa, ta có thật sự biết Chúa và đi theo Chúa chưa? Hỡi ơi nhiều người Công Giáo thú nhận mình biết Chúa rất hời hợt. Có lẽ họ chỉ biết có Chúa. Còn những lời Người dạy qua các bài Giáp lý, Kinh Thánh đã được học từ nhỏ thì nay không còn nhớ gì hết. Không những thế, con chiên còn phải nghe lời và theo Người nữa. Khi nhìn lại mình chúng ta phải lấy làm xấu hổ vì đã không vâng lời Người bằng đoàn chiên vâng lời kẻ chăn. Trong khi Chúa hằng đi trước để chỉ lối cho ta. Vì thế nếu ta luôn "đi theo sau" chân Người, thì không bao giờ bị lạc đường sai lối. Nếu chúng ta có gặp nguy hiểm, hoạn nạn gian khổ, thì hãy nhớ rằng Chúa đã trải qua và chúng ta chỉ đi theo Người.

Lạy Chúa Giêsu là Mục Tử nhân lành, xin cho con được biết Chúa, nghe Chúa, theo Chúa và trở nên giống Chúa để cùng được đoàn tụ trên nước thiên đàng với Chúa. Amen

------------------------------------

 

PS 4-A95: TÌM ĐƯỢC SỰ SỐNG NƠI MỤC TỬ GIÊSU


Ga 10, 1 – 10

 

Có thể nói ưu tư lớn nhất của con người là sự sống. Chính vì sự sống này mà ngày ngày con người: PS 4-A95


Có thể nói ưu tư lớn nhất của con người là sự sống. Chính vì sự sống này mà ngày ngày con người phải tất bật lo toan để kiếm cho được chén cơm, manh áo. Vì sự sống ấy nên mỗi khi ra đường ngồi trên xe gắn máy hai bánh chúng ta buộc phải đội nón bảo hiểm. Cũng vì sự sống ấy mà nhiều lúc các bác sĩ gần như phải chiến đấu với thần chết từng giây phút cho bệnh nhân của mình. Vì thế, cái quý nhất của con người đó là sự sống.

Hơn nữa, người Công giáo chúng ta còn tin sự sống của mỗi người là quà tặng cao quý mà Thiên Chúa ban cho. Hay nói khác hơn sự sống của con người chúng ta phát xuất từ Thiên Chúa. Cho nên, muốn bảo đảm được sự sống của mình không cách nào khác là chúng ta phải cậy dựa vào Thiên Chúa. Hiểu được tâm trạng ấy nên hôm nay Chúa Giêsu nói với từng người chúng ta: "Ta đến để cho chiên đ ược sống và sống dồi dào " (Ga 10, 10). Chúa Giêsu đã tự ví mình như người mục tử nhân lành đem lại sự sống cho chúng ta là những con chiên của Người. Ðây là hình ảnh rất quen thuộc với người Do thái.

Thật vậy, chúng ta biết Chúa Giêsu được sai xuống trần gian này là để hoàn tất ý định yêu thương ngàn đời của Chúa Cha. Bởi lẽ, ý định yêu thương ngàn đời của Thiên Chúa là muốn con người được sống dồi dào và hạnh phúc. Ðáng tiếc là con người đã đánh mất. Dù vậy, Thiên Chúa vẫn không chịu thua. Thiên Chúa đã tìm mọi cách để giúp con người tìm lại sự sống trọn vẹn ấy.

Chúng ta đang sống trong Mùa Phục sinh. Mùa Phục sinh nhắc ta nhớ đến chính Chúa Giêsu đã chịu đau khổ và sự chết nhưng chính Người đã sống lại. Ðó là niềm tin căn bản của mỗi người chúng ta. Do đó, nếu chúng ta biết đi theo sự hướng dẫn của Người và nhất là biết sống như Người chắc chắn chúng ta sẽ tìm lại được sự sống thật.

Hôm nay cũng là ngày cầu cho ơn thiên triệu. Trước hết chúng ta hãy nhớ cầu nguyện cho những người được chia sẻ sứ mạng mục tử của Chúa Giêsu: các Linh mục của Chúa biết sống theo gương của Người. Ðó là biết tận tâm, tận lực để hiến trọn cuộc đời phục vụ những người được trao phó. Ðồng thời chúng ta cũng cầu nguyện cho ngày càng có nhiều bạn trẻ dám can đảm dấn thân vào đời sống tu trì

------------------------------------

 

PS 4-A96: ĐỨC GIÊSU LÀ CỬA CHUỒNG CHIÊN


Ga 10, 1 - 10
Jos. Vinc. Ngọc Biển


 

Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta được hỏi hay chính mình đặt ra cho mình câu hỏi: "Đức Giêsu: PS 4-A96


Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta được hỏi hay chính mình đặt ra cho mình câu hỏi: "Đức Giêsu là ai?". Đây có thể là câu hỏi quan trọng nhất trong cuộc đời của con người nói chung và của những người tin Đức Giêsu nói riêng. Tuy nhiên, câu hỏi đó hôm nay chúng ta được chính Đức Giêsu mặc khải khi nói: "Ta là cửa chuồng chiên".

Tại sao lại là "cửa chuồng chiên?"

1.     Cửa chuồng chiên là gì?

Trước khi nói đến "cửa chuồng chiên", chúng ta nên nhắc lại hình ảnh người mục tử chăn chiên nơi đất nước Dothái:

Ở đất nước này, người ta thường hay có những đàn gia súc như chiên hoặc cừu. Mỗi đàn như thế thường có người chăn dắt. Bổn phận của các mục tử chăn chiên chính là lo sao tìm được cho chúng những đồng cỏ xanh tươi, những dòng suối mát trong lành. Bảo vệ chúng khỏi bị tấn công bởi những sói dữ, hùm beo... Khi chăm lo cho chúng như thế, người mục tử phải biết rõ từng con: con nào đau ốm; ghẻ lở; con nào đi hoang, lạc đàn... Biết để làm gì? Thưa để yêu thương, để chăm sóc... để có tương quan thân tình.

Khi đêm về, người mục tử có trách nhiệm dẫn chiên về dàn và cho chúng vào chuồng. Lúc này, họ lại được ví như "cửa chuồng chiên".

Hình ảnh "cửa chuồng chiên" là một hình ảnh được dùng để biểu đạt cho sự an toàn.

Thật vậy, khi nói đến cửa thì ai cũng hiểu là để đóng vào hoặc mở ra. Khi đóng vào thì như một sự bảo vệ để khỏi bị kẻ thù tấn công và trộm cắp. Đóng vào để tránh sương gió lùa vào. Đóng vào thì mọi người an tâm ngon giấc. 

Còn khi cánh cửa mở ra, thì như chào đón một luồng gió mới vào nhà, làm cho nhà khỏi bị ẩm mốc, hôi hám. Mở ra là để cho mọi người và súc vật trong nhà được tự do ra vào, lui tới...

2.     Đức Giêsu là Mục Tử và là Cửa Chuồng Chiên

Khi tự cho mình là Mục Tử và Cửa Chuồng Chiên, Đức Giêsu muốn sống những đặc tính của người mục tử và vai trò của cửa chuồng chiên trong khi thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Mặt khác, Ngài cũng muốn giới thiệu và trao cho các Tông đồ và môn đệ những đặc tính của người mục tử nhân lành và cửa chuồng chiên trong Giáo Hội.

Thật vậy, Đức Giêsu chính là Mục Tử Nhân Lành, Ngài đã biết rõ từng con chiên, Ngài đã yêu thương chúng và làm cho chúng được hạnh phúc. Ngài đã chữa lành mọi vết thương thân xác và tâm hồn để cho chiên được bình an, và Ngài đã hy sinh cả mạng sống để cho chiên được sống và sống dồi dào.

Khi mời gọi các Tông đồ, môn đệ và những ai dấn thân trên con đường loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu cũng mời gọi họ hãy đi trên con đường mà Ngài đã đi. Con đường đó là gì, nếu không phải là con đường của hiền lành, khiêm nhường, vâng lời và yêu thương. Con đường đó chính là con đường của hạt lúa mục nát, con đường của thánh giá...?

Trở nên như Ngài, tức là cũng phải trở nên như những cánh cửa của chuồng chiên. Như vậy, các ngài như là người lính canh chừng. Canh chừng cho khỏi kẻ thù tấn công là những thứ học thuyết vô bổ, tạm thời, chóng qua vô ích. Canh chừng để đàn chiên không bị kẻ thù gian dối, lọc lừa và tội lỗi lôi kéo. Canh chừng như một người cha, người mẹ canh giấc ngủ của con mình. Nếu cần, hình ảnh người Mục Tử hi sinh cả mạng sống của mình cho đoàn chiên cũng là lời mời gọi cho các mục tử ngày nay trong Giáo Hội.

3.     Mọi kitô hữu đều là mục tử nhân lành và cửa chuồng chiên

Khi nói đến ngày thế giới cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu, nhiều người nghĩ đây là ngày dành riêng cho các linh mục và tu sĩ. Nghĩ như vậy không sai. Nhưng nếu hiểu theo nghĩa rộng, thì hôm nay cũng là ngày của mỗi chúng ta, những người đã lãnh nhận Phép Rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi để thi hành chức năng Tư tế, Ngôn sứ và Vương đế của Đức Giêsu Kitô.

Vì thế, khi kết hợp với Đức Giêsu là vị Mục Tử tối cao,  mỗi người đều có thể và như một trách nhiệm phải là mục tử cho mình và gia đình mình.

Mục tử cho mình và gia đình, tức là hãy tự lo cho chính mình. Lo cho chính mình là biết làm điều lành, tránh điều ác. Biết trở nên gương sáng, chứng nhân cho người khác. Những bậc làm cha mẹ khi thi hành sứ vụ mục tử này chính là sống sự chung thủy với nhau, trở thành những người mẫu mực, khôn ngoa, Luôn làm gương sáng, yêu thương các con mình. Biết lo cho các con mình được học hành, trao dồi đạo đức cho chúng, dạy cho chúng biết mến Chúa và yêu người... Biết cảnh giác và canh trừng trước những nguy hại của thời buổi kinh tế thị trường, công nghệ thông tin... Biết giáo dục con cái hướng thiện, làm ăn chân chính...

Với những người làm con, chúng ta nghĩ ngay đến bổn phận trước tiên phải có chính là sự hiếu kính với ông bà, cha mẹ, tổ tiên... biết làm những gì có lợi cho đời sống thiêng liêng trước rồi mới nghĩ đến các lợi vật chất sau.

Nói chung, mọi thành phần trong gia đình phải lo chu toàn bổn phận cách tốt đẹp trong sự yêu mến Chúa, kính trọng và yêu thương nhau, để xây dựng tình đoàn kết, hiệp nhất trong gia đình.

Làm được như thế, ấy là lúc chúng ta thể hiện vai trò mục tử phổ quát của mình cách rõ nét nhất.

Mong thay, trong năm "Tân Phúc Âm Hóa Gia Đình", mỗi người hãy trở nên mục tử của chính mình, gia đình và tha nhân... Lấy nền tảng Lời Chúa để hướng dẫn hành vi của chúng ta. Lấy tình thương làm căn cốt. Lấy tình huynh đệ làm động lực...

4.     Cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu

Hôm nay, Giáo Hội cũng dành riêng Chúa Nhật này để cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu; đồng thời Giáo Hội cũng muốn mọi thành phần trong Giáo Hội biết liên đới với nhau để cùng giúp nhau chu toàn sứ mạng đem Chúa đến cho muôn dân.

Vì thế, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các bạn trẻ, biết quảng đại đáp lại lời mời gọi đầy yêu thương của Chúa, sẵn sàng dấn thân trên con đường loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Xin cũng cầu nguyện cho các linh mục đang làm mục vụ khắp nơi trên thế giới, được trở nên mục tử đích thực của Chúa giữa trần gian. Gặp được nhiều điều thuận lợi trong khi thi hành sứ vụ. Xin cũng nhớ đến các linh mục đang gặp khó khăn trên hành trình ơn gọi cũng như sứ vụ loan báo Tin Mừng. 

Và mỗi người chúng ta cũng hãy đóng góp phần mình vào trong việc vun trồng ơn gọi bằng cách khuyến khích con em mình tiến bước trên hành trình dâng hiến; sẵn sàng hy sinh dâng con cho Chúa, đồng thời quảng đại giúp đỡ các Chủng Viện, Dòng Tu trong khả năng của mình, để góp phần vào việc đào tạo ơn gọi linh mục, tu sĩ cho Chúa và cho Giáo Hội.

Lạy Chúa, tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con những mục tử là các linh mục. Xin Chúa tiếp tục thánh hóa các ngài, để các ngài trở nên những mục tử như lòng Chúa ước mong. Xin Chúa cũng đón nhận sự chân thành, cộng tác của mỗi người chúng con trong việc bảo vệ, cổ võ và vun trồng ơn Thiên Triệu. Amen.

------------------------------------

 

PS 4-A97: MỤC TỬ


Ga 10, 1 - 10
Lm. Giuse Trần Việt Hùng


 

Chúa Kitô đã sống lại và khởi đầu một hành trình mới. Chúa Giêsu đã hoàn tất sứ mệnh xuống: PS 4-A97


Chúa Kitô đã sống lại và khởi đầu một hành trình mới. Chúa Giêsu đã hoàn tất sứ mệnh xuống thế làm người, rao giảng Tin mừng cứu độ, chịu mọi sự khốn khó cho đến chết, chết trên thập giá và đã sống lại hiển vinh. Chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa tiếp tục ban phát ân sủng cho mọi người ở mọi thời. Thời gian chuẩn bị đã mãn và hồng ân cứu độ gần kề, mỗi người hãy mở rộng tâm hồn đón nhận ơn cứu độ bằng cách ăn năn sám hối và chịu phép rửa. Trong thơ thánh Phêrô đã loan tin: Anh em hãy ăn năn sám hối và mỗi người trong anh em hãy chịu phép rửa, nhân danh Đức Giêsu Kitô để được tha tội và anh em nhận lãnh ơn Thánh Thần ( Tđcv 2, 39). Suốt dọc lịch sử ơn cứu độ, dân Chúa luôn được các tiên tri, các ngôn sứ và các thầy dậy luôn nhắc nhở hãy sám hối, hãy trở về cùng Thiên Chúa và tránh xa đường gian tà tội lỗi. Khi Chúa Kitô khi bắt đầu ra rao giảng Tin Mừng cũng đã mời gọi mọi người hãy ăn năn sám hối vì Nước trời đã gần đến.

Nước trời đã đến và đang hiện diện giữa chúng ta. Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế đã đến. Cửa Nước trời đã mở. Ai muốn vào Nước trời thì phải đi qua cửa hẹp. Chúa Kitô là cửa và là Mục tử tốt lành. Chúa Giêsu nói: Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên (Ga 10, 2). Chúa Kitô là Đấng Trung Gian của vạn vật và là Đấng Cứu Chuộc loài người. Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta một lối ngõ vào Nước trời: Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân (Ga 10, 9). Ngài là nguồn mạch ban sự sống. Chúng ta không có Danh nào khác, ngoài danh Đức Kitô chịu đóng đinh. Nước trời được ví như kho tàng châu báu chôn giấu trong thửa ruộng, nước trời giống như người đi gieo hạt giống nơi cánh đồng và nước trời cũng giống như hạt cải bé tí đã trở thành cây lớn...Chúa Giêsu đã mở cửa Nước trời đón nhận mọi người có lòng thành muốn chung hưởng hạnh phúc muôn đời.

Chúng ta biết có rất nhiều con đường và nhiều cửa dẫn chúng ta vào Nước trời. Nhưng đâu là con đường chính thật? Chúa Giêsu phán: Ta là đường, là sự thật và là sự sống (Ga 14,6). Chúa là mục tử tốt lành. Qua Chúa Giêsu, chúng ta sẽ tìm được của nuôi thân và thỏa khát trong nguồn suối mát. Ngài biết nhu cầu tâm linh của từng con chiên. Chúng ta hãy chạy đến với lòng thương xót của Chúa. Chúa sẽ nâng đỡ bổ sức cho. Có rất nhiều người cũng đang nỗ lực tìm kiếm Chúa trong những hoàn cảnh và môi trường sống khác nhau. Có những người chưa bao giờ được nghe nói về Thiên Chúa hoặc chưa bao giờ được nghe Tin Mừng cứu độ. Có nhiều người vẫn cố gắng đi tìm chân lý sự sống nhưng chưa được giác ngộ. Trong thế giới hôm nay, chúng ta thấy xuất hiện rất nhiều các tôn giáo khác nhau. Chung qui tất cả các tôn giáo đều mong muốn đi tìm ý nghĩa của cuộc sống đời này và hạnh phúc viên mãn đời sau. Nói chung, tất cả các tôn giáo đều cố gắng giúp các tín đồ vào qua các cánh cửa hẹp giúp tu thân luyện tánh để nên tốt lành.

Thực tế cuộc sống cũng không thiếu những thành phần lạm dụng đội lốt chủ chiên dẫn dắt bầy chiên đi lạc đường. Họ chạy theo thị hiếu của con người và muốn mở một lối riêng tìm vào nước trời. Biết rằng chúng ta không thể đi tìm một tổ chức tôn giáo hoàn hảo tuyệt đối ở trần gian để đi theo. Vì các thành viên của các tôn giáo đều là những con người yếu đuối, tội lỗi và dễ lầm lạc. Trong đạo Kitô Giáo, chúng ta có Chúa Kitô là đầu nhiệm thể và tất cả chúng ta là chi thể mầu nhiệm Chúa Kitô nên được gọi là Hội Thánh. Giáo Hội lữ hành dưới thế bao gồm đủ mọi thành phần có những người thánh thiện và cũng có những người yếu đuối tội lỗi. Chúa Kitô mong muốn cứu chuộc mọi người, không phân biệt giai cấp, mầu da, chủng tộc, ngôn ngữ và cả niềm tin. Con đường cứu độ đã mở. Mỗi cá nhân có quyền tự do quyết định chấp nhận hay không. Thiên Chúa không ép buộc chúng ta phải vào Nước trời, nhưng cửa Nước Trời đang mở và Chúa sẵn sàng đón nhận.

Sau khi phục sinh từ cõi chết, Chúa Giêsu đã đích thân gặp gỡ từng môn đệ để qui tụ họ lại. Chúa đã sai họ ra đi làm nhân chứng cho những gì mắt thấy và tai nghe. Thánh Phêrô ý thức vai trò của người thủ lãnh, ngài đã không chùn bước nhưng luôn khuyên dạy và làm gương: Phêrô còn minh chứng bằng nhiều lời khác nữa và khuyên bảo họ mà rằng: Anh em hãy tự cứu mình khỏi dòng dõi gian tà này (Tđcv 2, 40). Mỗi người có trách nhiệm về chính đời sống mình. Chúa không cứu chuộc chung chung hay một khối đông mà là từng cá nhân. Chúa muốn từng tâm hồn cải đổi và trở về cùng Chúa. Chúng ta tự do trả lẽ về mình trước mặt Chúa. Về vấn đề đời sống tâm linh, chúng ta không thể sống dựa dẫm vào nhân đức hay sự thánh thiện của người khác. Chúa đến kêu gọi và cứu độ từng con người. Mỗi người có sự kết hợp mật thiết riêng tư với Chúa và không ai có thể thay thế.

Theo gương của Chúa Giêsu, mục tử nhân lành, mỗi vị chủ chăn nên học biết sự khao khát và nhu cầu của từng tín hữu. Gần gũi với từng cá nhân trong tình trạng tâm hồn và hoàn cảnh sống của họ. Chúng ta thường có khuynh hướng đối xử theo đàn, theo đoàn và theo nhóm, mà quên đi những nhu cầu thầm kín của mỗi tâm hồn. Khi xưa, Chúa chọn và gọi tên từng tông đồ vào làm vườn nho của Chúa. Ngày nay cũng thế, ơn Chúa ban cho mỗi người một khác, nhưng đều mưu cầu lợi ích chung cho toàn Giáo Hội. Mỗi cá nhân được mời gọi để thể hiện chức năng và khả năng riêng biệt để góp phần chung trong các sinh hoạt của Nhiệm Thể Chúa Kitô. Chúng ta chỉ có một vị thủ lãnh là Chúa Kitô Phục Sinh. Nhìn lên thập giá Chúa để cùng suy niệm và sống sứ mệnh đã được trao ban.

Truyện kể: Một nhà truyền giáo, lần đầu tiên đến Trung Hoa, giảng về Chúa Giêsu cho một nhóm dân bản địa. Khi ngài kết thúc, một người nói: Phải, chúng tôi đã biết ngài: Ngài đã sống ở đây. Nghe thế, nhà truyền giáo liền nói: Không, Đức Giêsu sống ở nước khác, cách đây gần 2000 năm rồi. Nhưng người đó vãn khăng khăng bảo: Chúng tôi đã thấy Chúa. Chúa đã sống trong làng này. Chúng tôi biết Ngài. Rồi ông dẫn nhà truyền giáo đến Nghĩa Trang và chỉ cho thấy ngôi mộ của một nhà truyền giáo khác, đã từng sống với họ, phục vụ họ và cuối cùng an giấc nơi cộng đoàn của họ.

Thánh Phêrô đã chứng kiến cuộc khổ nạn của Thầy Chí Thánh từ đầu cho tới khi kết thúc. Phêrô đã chia sẻ về thái độ của Chúa Giêsu đang khi bị hành xử: Bị phỉ báng, Người không phỉ báng lại; bị hành hạ, Người không ngăm đe, Người phó mình cho Đấng xét xử công minh (1Petr 2, 23). Chúa Kitô phó thác mọi sự trong tay Chúa Cha. Người chịu đựng mọi nhục hình mà không hề than van và kêu trách. Người đã đi qua tất cả mọi chặng đường khổ đau dưới thế, nếm đủ mọi khổ cực cay đắng và đã hiến thân trọn vẹn để chuộc lại sự sống cho loài người. Chúa tiếp tục hiện diện giữa loài người để mong cầu sinh ích cho mọi tâm hồn. Lời Tin Mừng của Chúa có thể bị chế diễu, bị tẩy chay và chống đối, nhưng Chúa Kitô vẫn kiên nhẫn chờ đợi sự thay lòng đổi dạ của mỗi tâm hồn. Quí giá biết bao khi có một tâm hồn tội lỗi biết quay trở về đường ngay nẻo chính.

Điều kiện tiên quyết để bước vào cửa Nước trời là lòng ăn năn sám hối và trở về. Chúng ta là tín hữu rất hạnh phúc vì có lời Tin Mừng, có Giáo Hội, có cộng đoàn và có Chúa Kitô là mục tử tốt lành. Chúng ta đừng sợ hãi. Hãy đứng dậy, hướng về phía trước và can đảm tuyên xưng niềm tin vào Chúa Kitô sống lại. Chúng ta không còn bị bơ vơ lạc lõng, nhưng cùng sống chung trong một đàn chiên theo một Chúa Chiên: Xưa kia, anh em như những chiên lạc, nhưng giờ đây, anh em đã trở về cùng vị mục tử và Đấng canh giữ linh hồn anh em (1Petr 2, 25). Giá máu châu báu của Chúa sẽ không trở thành vô ích nhưng mang lại sự sống và sự sống thật.

Lạy Chúa, Chúa la Mục Tử Nhân Lành, xin chữa lành và tẩy sạch mọi vết nhơ trong tâm hồn chúng con. Xin dẫn đưa chúng con vào nguồn sống đích thực để cùng được chung hưởng hạnh phúc trường sinh bất diệt.


------------------------------------

 

PS 4-A98: ĐẤNG PHỤC SINH VẪN LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH


Lm. Phêrô Lê Văn Chính 

 

Chúa nhật thứ 4 Phục sinh vẫn gọi là lễ Chúa chăn chiên lành và là ngày ơn gọi. Chúa Giêsu tự nhận: PS 4-A98


Chúa nhật thứ 4 Phục sinh vẫn gọi là lễ Chúa chăn chiên lành và là ngày ơn gọi. Chúa Giêsu tự nhận cách long trọng Người là Cửa chuồng chiên, ai đi qua cửa mà vào sẽ được cứu, Người là Đấng chăn chiên biết tên từng con chiên và dẫn chiên đi đến chỗ nghỉ ngơi an bình. Mừng lễ này trong bối cảnh của Mùa Phục sinh giúp chúng ta khám phá ưu tư của Đấng Phục sinh cũng như lời mời gọi của Người đối với mỗi người chúng ta và thúc đẩy chúng ta nhận ra tiếng của Đấng Phục sinh và khôn ngoan tỉnh thức để theo người để được dẫn đến những nguồn sự sống sung mãn.

Hình ảnh Người chăn chiên đã được sách tiên tri Isaia (Is 40) dùng để nói về Thiên Chúa là Đấng chăn chiên, Người bồng chiên con và dẫn dắt chiên mẹ và dẫn đưa chúng tới những đồng cỏ xanh tươi. Vì thế phải khẳng định trước hết những hình ảnh Người chăn chiên được dùng để nói , mọi ý tưởng về tình yêu thương chăm sóc để dẫn đưa đến sự sống vĩnh cửu đều qui về Thiên Chúa và được thực hiện cách cụ thể trong lịch sử nhân loại bởi người Con một của Thiên Chúa. Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu lại dùng chính hình ảnh cửa chuồng chiên để nói về chính mình nhắc nhở cho chúng ta người đến để thực hiện cách cụ thể sống động những gì đã được báo trước qua hình ảnh của tiên tri Isaia,  bằng cách khẳng định người là cửa chuồng chiên, hình ảnh gợi lên sự bảo vệ, sự an toàn, sự sống bình an và sung mãn đứng trước những hiểm nguy luôn rình rập.

Khi nói về cửa chuồng chiên, Chúa Giêsu đã tự nói về mình như là Người chăn chiên đích thực. Người chăn chiên qua cửa mà vào và gọi các con chiên của mình, và chiên nghe tiếng của người chăn. Người chăn chiên gọi tên từng con và dẫn chúng đi và chúng theo Người. Giữa người chăn chiên và các con chiên có một sự thân quen, gần gũi thân mật. Người chăn chiên bảo vệ và dẫn dắt đoàn chiên của mình, nuôi dưỡng đoàn chiên của mình bằng cách gọi tên chúng không ngừng, ngược lại các con chiên gắn bó thân mật với người chăn bằng cách không ngừng nghe tiếng của người chăn. Chúa Giêsu còn cảnh giác bằng cách nói tới dấu chỉ nhận ra những kẻ trộm. Kẻ trộm vào chuồng chiên không qua cửa nhưng trèo vào, kẻ trộm không biết tên của chiên và chiên không nhận tiếng của kẻ trộm và không theo kẻ trộm. Trong sự quan tâm phân biệt giữa Người là kẻ chăn chiên thật và những kẻ trộm, Chúa Giêsu như muốn ưu tư lôi kéo chúng ta về với Người, dành chúng ta cho Người, giúp chúng ta càng ngày càng nhận biết Người hơn nữa bằng cách lắng nghe tiếng của Người để gắn bó với Người để được sống và biết phân biệt những kẻ trộm để đừng đi theo họ.

Người Chăn Chiên đích thực này cũng chính là Cửa chuồng chiên. Cửa chuồng chiên là hình ảnh nói lên tình yêu thương trìu mến của Người chăn chiên này đối với mỗi người. Cửa chuồng chiên nói lên nhiều điều về những tâm tình, những ưu tư của Chúa Giêsu Phục sinh đối với mỗi người chúng ta. Người luôn mời gọi, luôn ưu tư quan tâm chăm sóc mỗi người, người muốn bảo vệ và gìn giữ đoàn chiên. Cửa chuồng chiên còn muốn nói lên lời mời gọi chúng ta hãy đi vào, hãy đến để được sống trong sự bảo vệ của người chăn chiên đích thật này. Đây cũng chính là những tâm tình của Mùa Phục sinh, Chúa Giêsu, người chăn chiên là Đấng Phục sinh đầy tràn sự sống và Người vẫn luôn nhận biết từng con chiên của mình và vẫn hằng yêu thương chăm sóc cho mỗi người.  Người muốn ban tặng sự sống  sung mãn của Người cho các con chiên. Những hình ảnh người chăn chiên, cửa chuồng chiên, con chiên nhấn mạnh sự chọn lựa một thái độ khôn ngoan để được sống và tránh được những nguy hiểm của kẻ thù luôn rình rập làm hại mạng sống của mình. Con chiên phải luôn nhận biết tiếng của người chăn để đi theo, ngược lại con chiên phải luôn biết phân biệt kẻ trộm để đừng đi theo họ.

Trong tường thuật của Sách Công vụ, chúng ta hiểu thái độ của những con chiên biết nhận ra tiếng của người chăn chiên. Những người do thái, sau khi nghe thánh Phêrô cùng các tông đồ khác rao giảng đã mạnh mẽ và can đảm tuyên xưng long tin vào Đức Giêsu. Họ đã mau mắn tin vào Đức Giêsu, họ thực sự hối cải và họ đã đón nhận đức tin và chịu phép rửa.  Đó là những thái độ và chọn lựa của những con chiên biết nhận ra tiếng chủ chiên. Những người do thái này, sau khi nghe thánh Phêrô giải thích, họ đã nói: “chúng tôi phải làm gì?”. Sau đó họ đã đón nhận phép rửa và số người lên đến ba ngàn người. Những người này đã nghe tiếng người chăn chiên, họ sẽ hình thành cộng đoàn Kitô giáo đầu tiên được nói tới trong sách Công vụ tong đồ, và rồi chính họ sẽ là những người rao giảng Tin mừng để loan báo niềm tin cách hiệu quả, xây dựng Giáo hội của Chúa. Công cuộc rao giảng Tin mừng ban đầu hiệu quả do những cố gắng truyền giáo của những cộng đoàn kitô giáo nhiệt thành này.

Bức thư thứ nhất của thánh Phêrô cũng trình bày hình ảnh của Người chăn chiên hiến dâng mạng sống như thế nào và trở nên gương mẫu cho chúng ta trong đời sống hằng ngày. Thánh Phêrô nhấn mạnh gương mẫu của Đức Kitô, người chăn chiên đích thực: Đức Kitô chịu đau khổ vì anh em , để lại cho anh em  gương mẫu để anh em  theo bước chân người. Người bị phỉ báng, người đã không phỉ báng lại; bị hành hạ, người không ngăm đe. Người phó mình cho Đấng xét xử công minh. Chính Người đã gánh vác tội lỗi chúng ta nơi thân xác người trên khổ giá. Chính nhờ những vết thương của người mà chúng ta được chữa lành”. Sống mầu nhiệm Phục sinh đó là chúng ta cũng bắt đầu sống theo những tâm tình và tiếng gọi của Người chăn chiên và cửa chuồng chiên này. Chúng ta được mời gọi sống nhẫn nạn khi chịu đau khổ theo gương của Đức Giêsu đã chịu trong cuộc thương khó của Người, đó cũng là biết nghe theo tiếng của người chăn chiên đích thực. Nhiều khi chúng ta cảm nghiệm đang sống trong mùa Phục sinh mà hụt hẩng thế nào đó, cảm thấy buồn phiền chán nản, hay hoang mang vì thất bại trong công ăn việc làm, công danh sự nghiệp. Đó là vì chúng ta chưa nhận ra tiếng của người chăn chiên Giêsu. Sống mầu nhiệm Phục sinh cũng là học biết sống như Đức Giêsu, bị phỉ báng mà không phỉ báng lại, bị hành hạ mà không ngăm đe, bởi vì Người phó mình cho Đấng xét xử công minh. Mùa Phục sinh thức đẩy chúng ta đón nhận sự sống sung mãn của Đấng Phục sinh khi đi theo con đường mà Đấng Phục sinh đã là gương mẫu cho chúng ta.


------------------------------------

 

PS 4-A99: NHỮNG MỤC TỬ ĐỜI THƯỜNG


Ga 10, 1 - 10
LM Đaminh Đặng Văn Cầu


 

Cách đây vài tuần, một bạn trẻ Công giáo đến nói với tôi: Thưa Cha, khi con hát bài "Chúa là: PS 4-A99


Cách đây vài tuần, một bạn trẻ Công giáo đến nói với tôi: Thưa Cha, khi con hát bài "Chúa là Mục tử Người dẫn lối chỉ đường cho con đi...", có mấy bạn không công giáo ở cùng phòng với con thắc mắc: Chúa là Mục Tử nhân lành ở chỗ nào? Đâu là đồng cỏ, là suối mát cho bạn được an nghỉ thảnh thơi? Nhiều người Công giáo, "con chiên" của Chúa, vẫn đói, vẫn nghèo, vẫn rách, "chạy bữa sáng mất bữa tối", họ đâu có được sung sướng no thỏa? Hay như chính bản thân bạn, cơm áo gạo tiền của bạn là do cha mẹ bạn cung cấp chứ có do Chúa chiếc gì ban cho đâu?

Đúng là thời @, thời di động, thời thực dụng, thời giá cả leo thang có khác, người ta chỉ nghĩ tới cơm-áo-gạo-tiền mà ít nghĩ đến những yếu tố cao hơn, quý hơn, cần hơn, có thể đem lại hạnh phúc hơn những thứ đó.

Tôi trả lời bằng cách kể cho bạn đó nghe một câu chuyện tại thành phố quê tôi:

Có hai vợ chồng nọ là cán bộ về hưu, cả hai là người Công giáo đã đóng góp tuổi thanh xuân của mình nơi chiến trường rồi sau đó về làm cán bộ tại địa phương: Chồng làm kế toán, vợ làm cán bộ phụ nữ phường. Lấy nhau muộn nhưng họ cũng có được một hoàng tử và một công chúa (Họ vẫn gọi chúng như thế). Họ được phân một căn phòng tại một căn hộ tập thể. Gia cảnh nghèo với những bữa cơm đạm bạc nhưng trong nhà không thiếu những tiếng cười của cả trẻ con lẫn người lớn. Đến bữa cơm, những người bên cạnh thường nghe chị vợ mời anh chồng: "Anh ăn miếng đùi gà này đi" hoặc "các con ăn miếng cá thu này nhé". Anh chồng mời lại: "Thì em cũng phải ăn đi cho nóng chứ". Những người hàng xóm bảo nhau: Nhà ấy nghèo mà ăn sang thật, ngày nào cũng thịt với cá.

Một hôm những đứa con của họ sang hàng xóm chơi, họ hỏi chúng: Hôm nay nhà cháu ăn cơm với gì? Chúng đáp: Nhà cháu ăn cơm với rau muống, tương bần và cá khô. Họ lại hỏi chúng: Các bác vừa thấy bố mẹ các cháu và các cháu mời nhau ăn thịt, ăn cá cơ mà? Chúng đáp: Đó là bố mẹ cháu và chúng cháu muốn động viên nhau ăn cho ngon miệng nên đã nghĩ ra trò chơi đó. Mẹ cháu gắp một miếng rau hay miếng cá khô cho bố cháu và nghĩ ra một món ăn nào đó thật ngon để mời bố cháu hay chúng cháu. Thế là mọi người cứ ăn miếng rau đó và tưởng tượng ra những thức ăn khác nên rất ngon miệng.Họ mới vỡ lẽ: À ra thế. Chả bù cho nhà các bác, thức ăn ngon mà cứ mạnh ai người nấy ăn chứ chẳng ai mời ai bao giờ.

Vừa lúc đó có một vật gì bay qua chỗ hai đứa bé và rơi ra hành lang. Thì ra đó là chiếc bánh Chô-cô-pie của mấy đứa trẻ nhà giàu. Sau khi đã ăn chán chê, chúng cãi nhau rồi dùng những chiếc bánh đó để ném nhau. Một lúc sau, hai đứa bé xin phép ra về. Ra tới hành lang, đứa anh thò tay ra ngoài ban công, cố gắng với lấy cái bánh của những đúa con nhà giàu vừa vứt đi. Nó lau sạch rồi đưa cho em nó. Đứa em không chịu: Công anh nhặt lên, anh phải ăn chứ. Đứa anh đáp: Em ăn đi, anh ăn rồi, thỉnh thoảng đi học bọn bạn anh vẫn cho anh mà. Đứa em vẫn không chịu: Vậy thì anh phải ăn với em một nữa. Nói rồi nó bẻ chiếc bánh làm đôi đưa cho anh nó một nửa và hai đứa cùng ăn trong tiếng cười vui vẻ.

Nhìn thấy cảnh này, mấy người hàng xóm rất cảm động. Một người trong bọn họ nói: Tôi sẵn sàng đổi cả cái nhà ba tầng cùng với tiền tỷ để có được hai đứa con như hai đứa trẻ này.

Tôi nói với bạn trẻ: Bạn thấy đấy, tiền bạc bạn có thể làm ra nhưng có những cái bạn không thể làm ra và cũng không thể dùng tiền bạc để mua hay đánh đổi được.

Chúa không trực tiếp đưa cho bạn cơm áo gạo tiền nhưng Chúa ban cho chúng ta cả vũ trụ này với nhứng tài nguyên phong phú, tiền rừng bạc bể. Nhìn vào vũ trụ này bạn có thể thấy Chúa quả là vị Mục Tử nhân lành, tài tình và chu đáo.

Cái bạn có thể làm được, sản xuất ra được như cơm áo gạo tiền thì Chúa không làm thay bạn nhưng Chúa trợ giúp bạn vì bạn là con người có lý trí và tự do chứ không phải là con vật. Nhưng có những cái bạn không thể sản xuất ra được, thí dụ "không khí", thì Chúa cho bạn và bạn có thể thở thoái mái mà không mất tiền.

Chúa ban cho bạn có cha mẹ, anh em, bạn bè để bạn yêu và được yêu. Ngài thông ban cho bạn và cho mọi người tình yêu của Ngài nên trong mỗi người luôn có khát vọng yêu và được yêu.

Chúa qua cha mẹ và những người thân của bạn để hướng dẫn săn sóc bạn.
Nếu Chúa trực tiếp ban cho bạn tất cả mọi thứ mà không qua cha mẹ và người thân của bạn thì thử hỏi mối quan hệ của bạn với họ sẽ ra sao?

Nhưng trên những thứ đó, Chúa còn ban cho bạn, tôi và mọi người một vị Mục Tử Nhân Lành, Đấng dầy An Sủng và Chân Lý, Đấng hy sinh chính mạng sống để tôi, bạn và cho mọi người được sống dồi dào phong phú trong An Sủng và Lời của Ngài. Đó cũng chính là điều mà tác giả Thánh Vịnh 22, TV mà bạn vẫn hát, đã cảm nghiệm và tiên báo.

Đồng cỏ xanh và suối mát là Tình Yêu, Ơn Thánh và Lời Chúa
Đồng cỏ xanh tươi và dòng suối mát ở ngay trong tâm hồn bạn, nơi gia đình, bố mẹ và bạn bè của bạn.
Đồng cỏ xanh và dòng suối mát ở ngay chunh quanh bạn, trong thiên nhiên, trong môi trường mà bạn tiếp xúc.

Gia đình hạnh phúc mà tôi kể trên đây đã nhận ra điều đó. Họ biết họ không thể sống mà không có Tình Yêu, không có Chúa ở với họ và trong họ.

Họ chiêm ngưỡng và cảm nghiệm tình yêu của Vị Mục Tử Nhân Lành để đến lượt họ, họ cũng hy sinh cho người khác giống như Ngài.

Đấng Mục Tử nhân lành "biết" các chiên của mình và các chiên cũng "biết" mục tử của mình thì họ cũng vậy, họ biết nhau, biết Chúa hiện diện trong nhau, biết nhu cầu của nhau, biết những điểm mạnh điểm yếu của nhau để chia sẻ và giúp nhau thăng tiến.

Mỗi ngày Chúa Nhật, mỗi buổi tối, họ đến kín múc Tình Yêu và sức sống nơi Ngài qua việc cầu nguyện và lắng nghe Lời Ngài để trải rộng Tình Yêu và sức sống đó cho nhau, để tắm mát trong dòng sông Yêu Thương, để nuôi dưỡng nhau bằng chính Tình Yêu của Chúa Giêsu Thánh Thể và như vậy họ chính là NHỮNG MỤC TỬ ĐỜI THƯỜNG, hình ảnh của Đấng Mục Tử Nhân Lành.

Tôi và bạn, chúng ta đều được mời gọi trở nên những người mục tử đó để rồi từ cái căn bản, cái môi trường yêu thương đó sẽ có những người dấn thân mạnh hơn, sâu hơn, xa hơn trong ơn gọi tận hiến.


------------------------------------

 

PS 4-A100: CHÂN DUNG MỤC TỬ NHÂN LÀNH

 

Hai hình ảnh không thể thiếu về người chăn chiên được Đức Giêsu mô tả trong Tin Mừng Gioan về PS 4-A100


Hai hình ảnh không thể thiếu về người chăn chiên được Đức Giêsu mô tả trong Tin Mừng Gioan về Mục Tử nhân lành là “Tiếng gọi chiên”, và “Cửa cho chiên ra vào” (Ga 10,7), để làm nổi bật sứ vụ của người chăn chiên là “gọi tên từng con và dẫn chúng ra” đến đồng cỏ xanh, suối nước trong “để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,3.10).

Quan sát người chăn chiên với đoàn chiên của anh: Anh không ngớt gọi từng con, và nhắc nhớ, khuyến khích, động viên chúng. Làm như chúng hiểu anh nói gì, dặn dò gì, nên khi người lạ nói, người lạ lên tiếng thay anh, chúng không hiểu và ngơ ngác nhìn nhau tỏ vẻ nghi ngờ, sợ hãi, vì “chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ” (Ga 10,4-5).

Khi ra vào chuồng, đoàn chiên cũng chờ tiếng nói của mục tử, và tuyệt đối không ra khỏi chuồng khi không có mặt người chăn giữ chúng, vì chúng sợ bị kẻ trộm bắt đi. Chúng cũng không liều lĩnh trốn khỏi chuồng đi lang thang một mình trong rừng, vì biết có nhiều sói dữ rình rập, chực chờ vồ lấy chúng, và ăn thịt (x.Ga 10,12).

Với hình ảnh “tiếng nói của mục tử”, Đức Giêsu nhắc đến sứ vụ của Ngài là Ngôi Lời của Thiên Chúa, là Tiếng Nói của Thiên Chúa với nhân loại, cũng như toàn bộ Cựu Ước là lịch sử “Thiên Chúa nói với con người”, và con người tin vào Ngài nhờ lắng nghe tiếng Ngài.

Như thế, Thiên Chúa đã là người đi bước trước đến với con người bằng “mở lời” nói với con người, như trực tiếp nói với Ápraham, Môsê, và gián tiếp qua các ngôn sứ nói với dân Ngài trong Cựu Ước. Cũng vậy, trong Tân Ước, Thiên Chúa đã sai sứ thần Gabrien mở lời với Đức Maria ở ngày Truyền Tin, và chính Đức Giêsu đã trực tiếp mở lời kêu gọi các môn đệ bên bờ hồ Galilê: “Các anh hãy theo tôi!” (Mt 4,19). 

Thiên Chúa luôn mở lời trước, đề nghị trước, mời gọi trước, và dành cho con người toàn quyền trả lời đồng ý hay không đồng ý, chấp thuận hay khước từ, với tất cả tự do được Thiên Chúa tuyệt đối tôn trọng. Đó là lý do có rất nhiều người đã được Đức Gêsu “mở lời” mời làm môn đệ, nhiều người được gọi theo Ngài, nhưng con số đáp trả rất ít, số người trả lời tích cực không nhiều, như thánh Gioan đã viết: “Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga 1,1) “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian, và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,10-11).

Tiếp đến, Đức Giêsu chọn hình ảnh Cửa chuồng chiên, bên cạnh hình ảnh Tiếng Gọi khi nói về người mục tử nhân lành, vì đoàn chiên cần chuồng để được an toàn, cần nơi có cửa nẻo khép kín, có hàng rào ngăn chặn để người lạ, kẻ trộm, sói dữ không thể đột nhập, xâm phạm, phá hoại, cắn giết. Và chỉ khi được ở trong chuồng có cửa khép cẩn thận, có chủ chăn trông nom, đoàn chiên mới thoải mái, bình an.

Là Cửa, người chăn chiên vừa thi hành trách nhiệm gìn giữ, che chở, vừa thực hiện bổn phận giải phóng, khi tập cho đoàn chiên trưởng thành với ý thức tự do, vì chuồng chiên không là trại giam, và người gác cửa chuồng chiên không làm công việc của công an gác cổng nhà tù, bởi chiên có quyền đi ra đi vào: đi vào để ngủ nghỉ an toàn, để khỏi bị mưa ướt, sương lạnh, để kẻ trộm và sói dữ không lợi dụng sơ hở, trống trải mà “giết hại, phá hủy”, cướp đi mạng sống, đồng thời đi ra để “gặp được đồng cỏ” (Ga 10,9), hầu được “sống và sống dồi dào” (Ga 10,9-10).       

Thực vậy, Đức Giêsu nhận mình là Mục Tử nhân lành: mục tử biết nói với chiên, và chiên lắng nghe tiếng Mục Tử (x. Ga 10,3). Nói điều này, Đức Giêsu nhấn mạnh tầm quan trọng của tiếng nói, bởi không tiếng nói giữa mục tử và đoàn chiên, không trao đổi giữa chúa chiên và con chiên, không đối thoại giữa người chăn dắt và đám đông được chăn dắt, thì không thể có đoàn chiên đúng nghiã, không thể có chuồng chiên an bình, không đấu đá, và không thể có đoàn thể chiên, cộng đoàn chiên “được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).

Nhưng ai phải nói với ai, và ai giữ phần quyết định thành - bại trong đối thoại, để “mục tử nghe được tiếng chiên, và chiên nghe biết tiếng mục tử”, mà không ngược lại: chủ chiên và chiên, cả hai không ai chịu nghe ai”?

Hỏi tức trả lời, vì chủ chiên là người nói trước, người mở lời, và trách nhiệm đầu tiên của mục tử là nói với đoàn chiên, nên nếu mục tử không nói, không muốn nói, không biết nói gì, hoặc nói mà chiên không hiểu, thì qủa thực đối thoại không đạt chuẩn thành công. Tệ hơn, nếu chủ chiên chỉ nói những gì mình muốn, những gì có lợi cho riêng mình, nói những chuyện không thuộc phận vụ phải nói, nói những chuyện không liên quan đến hạnh phúc của đoàn chiên, không đáp ứng nhu cầu sống của đoàn chiên, không giải quyết những vấn đề thiết thực của đoàn chiên, thì coi như tương quan chủ chiên - đoàn chiên bị tắc nghẽn, đóng băng. Nhưng còn tệ hơn gấp bội, nếu chủ chăn dùng quyền “mở lời, nói trước” của mình mà độc thoại, độc diễn, độc chiếm micrô để “thánh tướng” khoe khoang thành tích, đánh bóng “cái tôi”, mỉa mai, chỉ trích những con chiên không ngoan ngùy, dễ bảo, “mắng vốn mắng lời” người này người nọ, bôi bác, hạ nhục đám này, trách móc, thĩa bãi xa gần phe nhóm kia làm cho chuồng chiên mất bình an, đoàn chiên  chia rẽ, hoang mang, hoảng lọan.

Cũng thế, nếu đoàn chiên thấy cửa chuồng ngày càng giống cổng nhà giam, cửa sắt trại tù, thì chúng sẽ không hớn hở nối đuôi nhau chạy vào chuồng để được nghỉ ngơi, thư giãn. Trái lại, nếu mặt người giữ cửa hung bạo, dữ dằn, lại nóng giận “đằng đằng sát khí”, dò xét, đe dọa thì chiên sẽ nói nhỏ với nhau và cùng tìm đường chuồn, không về chuồng nữa để thoát thân, bảo toàn mạng sống, dù đời lang bạt sẽ nhiều rủi ro, và cuộc sống “không cửa không nhà” hứa hẹn nhiều vất vả, nhọc nhằn.

Vì thế, Đức Giêsu không chỉ mô tả “suông và hời hợt” hình ảnh Tiếng Nói và Cửa chuồng chiên, mà không căn dặn các môn đệ điều phải làm để là Tiếng Nói của chủ chiên đích thực, và Cửa bảo đảm an toàn và hạnh phúc của đoàn chiên. Trái lại, Ngài đã dậy các môn đệ là những mục tử nối bước chân chăn chiên của Ngài bài học quan trọng như bửu bối để trở nên mục tử nhân lành như Ngài. Bài học, bửu bối đó chính là Tình Yêu sẵn sàng hiến mạng sống của chủ chiên cho đoàn chiên mình chăn dắt. 

Vâng, Đức Giêsu đã lấy chính mạng sống để bảo đảm cho Tiếng Nói đích thực và Cửa an toàn của Mục Tử nhân lành, bởi “không tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống mình cho người mình yêu” (Ga 15,13), khi qủa quyết: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mang sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11).

Vì yêu đến sẵn sàng hiến mạng, nên sẽ không có mục tử từ chối nói với đoàn chiên của mình, vì Mục Tử nhân lành là người yêu thương chiên, “biết chiên” (Ga 10,14) và “gọi tên từng con” (Ga 10,3); sẽ không có mục tử độc thoại, khống chế, áp đặt, bắt chiên phải gục đầu, nhắm mắt nghe mà không được đối thoại, vì mục tử nhân lành là người có đủ tư cách để nói: “Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10,14), bởi biết nhờ trao đổi, trao đổi để hiểu biết nhau hơn; sẽ không có chủ chăn không biết cách nói, hoăc không biết nói gì, vì khi yêu thương đoàn chiên đến độ “tự ý hy sinh mạng sống mình”, trong khi “mạng sống của mình không ai lấy đi được” (Ga 10,18), thì nội dung Tiếng Nói của mục tử sẽ là tình yêu mãnh liệt của chủ chiên nhân lành dành cho đoàn chiên, và chính trái tim đầy “tình yêu chiên” sẽ chỉ cho người chăn chiên cách nói hay nhất, cách nói dễ thương nhất, cách nói ân tình cha con nhất, cách nói thuyết phục nhất, cách nói tuyệt vời của Chúa Thánh Thần có sức biến đổi trái tim, đổi mới cuộc đời của đoàn chiên, để chiên không phải thiếu gì, nhưng được thỏa thuê no đầy, thảnh thơi, hạnh phúc bên bờ suối trong, trên đồng cỏ xanh rì.

Thực vậy, chỉ với tình yêu “sẵn sàng hiến mạng sống mình cho đoàn chiên”, người chăn chiên mới chu toàn được sứ vụ là Tiếng Nói và Cửa cho đoàn chiên. Cũng với tình yêu mãnh liệt và liều lĩnh là dâng hiến cả mạng sống, mục tử mới có thể trở thành mục tử nhân lành, người chăn dắt nhân hậu, và khi đó, không cần phải có tài hùng biện, hay “thôi miên”, lôi cuốn, cũng chẳng cần văn chương hoa mỹ, với những ngôn từ có cánh, mục tử nhân lành vẫn đánh động tâm hồn đám chiên ghẻ lở, ngang ngược; vẫn đưa về chuồng những chiên lầm đường lạc lối trót nghe lời dụ dỗ ngon ngọt của sói rừng; vẫn được đoàn chiên chăm chú lắng nghe, nhất là mãi mãi được đoàn chiên yêu thương, tín nhiệm, để  trao đổi tâm tư, trút bỏ tâm sự, cởi mở cõi lòng với chủ chăn, cho Tin Mừng Cứu Độ của Thiên Chúa được đón nhận, như người đàn bà Samari ngoại đạo đã trân trọng nghe và chân thành nói với Đức Giêsu bên bờ giếng Giacóp. Nhờ vậy, bà đã nhận ra Ngài là Mục Tử nhân lành, là Đấng Thiên Chúa sai đến trong thế gian để yêu thương và cứu độ mọi người, không trừ ai.

Jorathe Nắng Tím

----------------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây