Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 7-A Bài 1-21 Lạy Cha, xin hãy làm vinh hiển Con Cha
(X. Chúa Lên Trời...) ---------------------------------- Phúc Âm: Ga 17, 1-11ª: “Lạy Cha, xin hãy làm vinh hiển Con Cha”.
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Gioan. Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và nói: “Lạy Cha, giờ đã đến, xin hãy làm vinh hiển Con Cha, để Con Cha làm vinh hiển Cha. Vì Cha đã ban cho Con quyền trên mọi huyết nhục, để con cũng ban sự sống đời đời cho mọi kẻ Cha đã giao phó cho Con. Sự sống đời đời chính là chúng nhận biết Cha, là Thiên Chúa duy nhất chân thật, và Ðấng Cha đã sai, là Giêsu Kitô. Con đã làm vinh hiển Cha dưới đất, Con đã chu toàn công việc mà Cha đã giao phó cho Con. Giờ đây, lạy Cha, xin hãy làm cho Con được vinh hiển nơi Cha, với sự vinh hiển mà con đã có nơi Cha, trước khi có thế gian. Con đã tỏ danh Cha cho mọi kẻ Cha đã đưa khỏi thế gian mà ban cho Con. Chúng thuộc về Cha, và Cha đã ban chúng cho Con, và chúng đã tuân giữ lời Cha. Bây giờ chúng biết rằng những gì Cha ban cho Con, đều bởi Cha mà ra. Vì những lời Cha ban cho Con thì Con đã ban cho chúng và chúng đã lãnh nhận, và biết đích thực rằng Con bởi Cha mà ra, và chúng tin rằng Cha đã sai Con. Con cầu xin cho chúng, Con không cầu xin cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho Con, bởi vì chúng là của Cha. Và mọi sự của Con là của Cha, và mọi sự của Cha cũng là của Con, và Con đã được vinh hiển nơi chúng. Con không còn ở thế gian nữa, nhưng chúng vẫn còn ở thế gian, phần Con, Con về cùng Cha”. - Ðó là Lời Chúa.
Chúa nhật hôm nay nối tiếp Chúa Thăng Thiên và Hiện Xuống. Giáo Hội nhớ lại khoảng thời gian từ ngày Chúa ra đi đến ngày Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, một nhóm 120 người đã tụ tập tại một phòng cao ở Giêrusalem. Họ đã làm gì? Luca trả lời: Họ đã chờ đợi và cầu nguyện trong tình bác ái yêu thương. Đó là hình ảnh Giáo Hội tiên khởi, trong đó “họ đồng tâm kiên trì cầu nguyện, cùng với mấy người phụ nữ và bà Maria Mẹ Chúa Giêsu với các anh Ngài”.
Luca nhắc lại hai đặc tính của việc cầu nguyện cộng đồng, ấy là đống tâm và cầu nguyện. Đó ãung là lời căn dặn của Thầy rất nhiều lần. Lời kinh mang nặng tính cách suy tư và im lặng. Nhất là bên cạnh Đức Mẹ, lời kinh Magnificat. Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, hướng về bao nhiêu ơn lành Chúa đã ban trong những ngày đã qua và về biến cố gì sắp xảy đến như Thầy đả nói trước.
Gioan có mặt trong tuần cầu nguyện đặc biệt ấy và nhớ lại bài kinh dài hơn của Chúa, cùng trong nhà tiệc ly này sau khi Chúa lập nên phếp Thánh Thể.
Bản kinh này Thánh Cyrilô thành Alexandria gọi là Kinh Tư tế, trong khi nhiều nhà chú giải thời ấy gọi là Kinh Hiệp Nhất. Vì sự Hiệp nhất nhắc đi nhắc lại nhiều lần, hau kinh Hiến Tế.
Thánh gioan Kim Khẩu gọi bản kinh này là “Một cuội đối thoại lớn tiếng” khác mọi lần, Chúa có thói quen cầu nguyện một mình trong im lặng.
Lời Kinh Hiến tế nói được là có hai phần. Trước hất Ngài ngửa mặt lên cao để nhìn thấy Giáo Hội tương lai và việc rao giảng Tin Mừng: “Vì Cha đã ban cho các con quyền trên mọi huyết nhục để con cũng ban sự sống đời đời cho mọi kẻ cha đã trao phó cho con. Sự sống đời đời chính là chúng nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất chân thật và Đấng Cha đã sai là Chúa Kitô”.
Thứ đến, ngài nói lên những ý chỉ Ngài muốn dâng lời cầu nguyện. Ngài cầu nguyện trước tiên cho chính mình. Ngài xin gì? “Lạy Cha, giờ đã đến, xin hãy làm vinh hiển Con Cha để Con Cha làm vinh hiển Cha”. Trong cả cuộc đời công khai, Chúa Giêsu hằng nhắm đến giờ của Đức Chúa Cha sẽ điểm, Ngài chấp nhận. Nhưng đó cũng là lúc Ngài được tôn vinh trong máu đào và nước mắt trong vườm Giệtsimani cũng như trên đồi Golgotha. Ngài chấp nhận tất cả. Đó la phương cách ngài tôn vinh Cha Ngài.
Rồi Chúa cầu nguyện cho các môn đệ và tất cả những ai tin vào lời của họ rao giảng. Ngài xin cho họ sự gì? “Xin gìn giữ chúng trong hiệp nhất như chúng ta là một”. Sự hiệpnhất ấy phát xuất từ sự hiệp nhất giữa Cha và Con.
Đó là lời kinh và tạm biệt của Chúa, “Con không còn ở thế gian mữa, nhưng chúng vẫn còn ở lại thế gian, phần con, con về cùng Cha”.
Chúa ra đi nhưng Chúa sai Đức Chúa Thánh Thần xuống để thực hiện một cuộc cách mạng; canh tân thế giới. Sứ mạng đó, hoài bão lớn đó, Chúa trao cho mỗi người chúng ta thi hành với “quyền lực Chúa Thánh Thần”. Mỗi ngày chúng ta phải chuẩn bị một “Lễ Hiện Xuống mớ”, danh từ Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII dùng để diễn tả công đồng Viticanô II, một biến cố không ai ngờ trước, kể cả vị Giáo Hoàng khả kính, trong đó tinh thần hiệp nhất đã được đề cao và thể hiện.
Một thái độ của thân thể diễn tả việc cầu nguyện đôi mắt của Đức Giêsu diễn tả thái độ của tất cả hữu thể của Người là hướng về Chúa Cha Đức Giêsu không ngừng ngước mắt lên cao. Người cầu nguyện nhiều và khẩn thiết bạn hữu của người rõ ràng đã ghi nhận cử chỉ ấy nhiều lần. Ví dụ như trước khi hóa bánh ra nhiều (Mátthêu 14,19) trước khi chữa một người vừa câm vừa điếc (Máccô 7,34) trước khi làm Ladarô sống lại (Gioan 11,41).
Ở đây, ngay sau bữa ăn cuối cùng, một thời gian ngắn trước giờ hấp hối ở vườn Ghếtêmani, sự cầu nguyện của Đức Giêsu tạo thành đỉnh cao của Tin Mừng thứ tư. Sau khi đã bộc bạch những lời tâm sự sau cùng cho các môn đệ, từ lúc này Đức Giêsu ngở lời với Chúa Cha.
“Lạy Cha..."
Tất cả những lời cầu nguyện của Đức Giêsu bắt đầu bằng lời dịu dàng Đó (Gioan 11,41 ; Mátthêu 11,25).
"Giờ đã đến..."
Giờ! Đây là giờ duy nhất. Giờ của Đức Giêsu. Người đã hướng về giờ ấy từ lúc ban đầu người đã nghĩ đến giờ ấy từ dấu chỉ đầu tiên cùa Người, ở tiệc cưới Cana miền Galilê (Gioan 2,4). Và giờ hẹn ấy thường xuyên trở lại trong trí óc Người (Gioan 7,6-7,30-8,20-13,l-16,25-16,32-17,1).
Trong vẻ bề ngoài của con người, các "biến cố" nối tiếp nhau gần như tình cờ, rời rạc, thường có vẻ trái ngược nhau không có lý do rõ ràng đối với Đức Giêsu, mọi sự vật đầu được hướng về một "mục đích" sẽ đạt được vào đúng thời gian, đúng ngày giờ của nó những giờ của câu chuyện thánh thiêng này được tính bằng phút, như thời gian tính bằng phút của một kế "hoạch kinh tế hay chính trị chính xác. Vậy giờ ấy là giờ gì"
"Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha..."
Ngày nay, ai dám đòi mình được tôn vinh? Đức Giêsu có sự táo bạo Đó. Vậy Người là ai mà dám có sự tụ hào như thế? "Xin Cha tôn vinh con Cha?" nhưng rõ ràng khía cạnh khiêu khích này của lời cầu nguyện bộc lộ cho chúng ta thấy bản thể sâu xa của Người: đây không phải là lời cầu nguyện của con người.. đối với một con người, một lời cầu nguyện như thế là không thể có nhưng Giờ của Đức Giêsu, điều này chúng ta biết rõ, chính là giờ chết vinh quang của Người, với hai khía cạnh luôn luôn được liên kết vào nhau trong Tin Mừng Thánh Gioan: Thập giá và Phục Sinh!
Phải, giờ vinh quang của Đức Giêsu đã đến: Thập giá của Người.
Và vinh quang này của Đức Giêsu cũng chính là vinh quang của Thiên Chúa đã đến giờ mà tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện một cách viên mãn mọi ý định của Thiên Chúa đạt đến cùng đích vào giờ duy nhất ấy. Ôi thánh giá, vinh quang duy nhất của Chúa Cha và Chúa Con !
Trong mọi tôn giáo, người ta thường tạo ra cho mình những ý tưởng sai lầm về vinh quang và sự toàn năng của Thiên Chúa, bằng cách đồ lại những ý tưởng ấy trên những “vinh dự” những “vương miện” , những "nghi lễ của các vĩ nhân trần thế khi họ khoa trương như những con công xòe đuôi trong vườn thú nhiệt đới, Những vinh .quang của Thiên Chúa không phải là :hương xông, khôi đốt", không phải là "đèn chùm", cũng không phải là "hào quang dởm". Vinh quang của Người chính là thập giá. Vinh quang của Người chính là tình yêu.
Trong truyền thống Kinh Thánh vinh quang chính là đặc tính của Thiên Chúa. Tiếng Do Thái; “kabôd" gợi lên ý tưởng “sức nặng", trọng lượng. thế khác với tiếng Pháp (và cả tiếng Việt), từ "vinh quang" không hề gởi ra điều gì có vẻ bề ngoài rực rỡ, tráng lệ, tiếng tăm mà các phương tiện truyền thông rất mê thích và than ôi, điều Đó có thể tồn tại nhưng không có giá trị thật. Vinh quang theo nghĩa Kính Thánh, chính là sức nặng thật của một sự vật xác định tầm quan trọng có hiệu quả khách quan của nó. Như thế niềm tự hào duy nhất của Đức Giêsu Nadarét được giải thích: là người duy nhất trong nhân loại, Người có thể yêu cầu sức nặng thật, bản thể thật của Người được biểu lộ. Và sự biểu lộ ấy, chính là thập giá!
"Theo quyền năng Cha đã ban cho Người trên mọi phàm nhân để Người ban sự sồng đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người".
Đó là một con người đáng thương sắp chết và chết một cách khủng khiếp ngày mai! Các bạn hay xem cách người ấy nói: Sắp chết như mỗi người chúng ta... vậy mà người ấy nói rằng mình có quyền năng trên mọi phàm nhân" người là ông chủ của sự sống người ban sự sống!
Rõ ràng Người đang nói về một đời sống khác với đời sống mà Người sẽ để mất trong vài giờ nữa trên đồi Gôngôtha. Vậy thì Người là ai? Người có thể ban sự sống đời đời bằng cách nào, nếu Người chỉ là một con người, như chúng ta?.
“Mà sự đời đời Đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô".
Đây là câu trả lời cho câu hỏi của chúng ta Đức Giêsu là ai? Người là khuôn mặt của Thiên Chúa.
“Phần con, con đã tồn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho con làm. Vậy, lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh con bên Cha: Xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian"
Cuộc khổ nạn - tôn vinh chỉ mới bắt đầu: Giuđa Íscariốt vừa mới rời khỏi nhóm để bắt đầu công việc của y. Vả lại, đối với Đức Gìêsu, trong thâm tâm Người mọi sự xem như đã hoàn tất: "Con đã tôn vinh Cha", Người nói:
"Xin Cha tôn vinh con!". Phải, bi kịch thập giá phải được soi sáng người ta không thể nói rằng: đây là một sự thất bại. Người ta phải nhìn thấy rằng, đây là vinh quang của Vua Mêsia hiến dâng mạng sống mình vì anh em và vì Cha của Người. Tiếng vua này ít gặp trong Tin Mừng theo Thánh Gioan, trừ trong bài giảng về "bánh sự sống" (Gioan 6,15) trong Đó Đức Giêsu đã dứt khoát từ chối làm vua nhưng tiếng vua ấy trở lại mười hai lần suốt cuộc khổ nạn (Gioan 18,19) “Xin Cha hãy tôn vinh con!". Sự sống lại của Đức Giêsu là chữ ký của Thiên Chúa đặt trên thập giá theo luật Do Thái, thập giá có thể xuất hiện như sự kết án Đức Giêsu. Người bị tiêu diệt như một tiên tri giả, kẻ lạc giáo, kẻ phạm thánh...Người bị lột mặt nạ một cách công khai...
Thiên Chúa không đến đưa Người xuống thập giá! Thế rồi cái chết ấy của con người Giêsu không còn là một sự thất bại, một lối đi vào hư vô mà trái lại, là sự lên ngôi vua của Người: Người lấy lại vinh quang mà Người vẫn được hưởng bên Chúa Cha trước khi có thế gian". Giá treo cổ ô nhục, bởi sự sống lại trở thành dấu chỉ của vinh quang.
Vậy người bị Đóng đinh, chịu chết ấy là ai? Đó là Đấng Hằng sống người tham dự vào chính vinh quang của Thiên Chúa.
“Những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con, con đã cho họ biết danh Cha. Họ thuộc về Cha, Cha đã ban họ cho con, và họ đã tuân giữ lời Cha. Giờ đây, họ biết rằng tất cả những gì Cha ban cho con đều do bởi Cha, vì con đã ban cho họ lời mà Cha đã ban cho con".
Từ ngữ “ban cho" trở lại như một điệp khúc (tám lần trong bài Tin Mừng hôm nay). Ban cho! Phải suy nghĩ về từ này. Ban cho là đức tính đặc thù của Thiên Chúa. Làm Cha trước hết là ban cho, bởi vì ban cho là yêu thương.
Chúa Cha đã ban quyền bính cho Chúa Con trên mọi sinh vật... Chúa Cha ban vinh quang cho Chúa Con. Chúa cha ban lời cho Chúa Con, lời mà Người phải nói ra... Chúa Cha ban các tín hữu cho Chúa Con...
Nhưng Chúa Con nhận được mọi sự từ Chúa Cha, đến lượt mình có thể ban tất cả cho con người.
Chúa Con "ban lời” mà Người đã nhận...
Chúa Con "ban sự sống đời đời" cho các tín hữu...
Vậy Đức Giêsu ấy là ai? Người là Đấng làm cho các tín hữu biết "Thiên Chúa người là Lời của Thiên Chúa. Ở đây Thánh Gioan lấy lại một từ trong phần lời tựa sách Tin Mừng của ngài: "o Logos", ở số ít. Kế Đó thánh sử khẳng định rằng Ngôi Lời duy nhất này đã nói bằng lời con người, ở số nhiều: “rèmata", “lời tiếng", "lời nói"...
Trước ân huệ ấy, tức sự ban cho lời, phản ứng của con người là gì?.
"Họ đã nhận những lời ấy, họ biết thật rằng con đã từ Cha mà đến, và họ đã tin là Cha đã sai con".
Con người không thể thụ động trước ân huệ mà Thiên Chúa ban cho họ. Họ luôn được tự do. Họ có thể Đón nhận... hoặc từ chối. Họ có thể nhận biết... hoặc không biết. Họ có thể tin... hoặc không tin ba động từ để xác định thái độ của đức tin.
“Con cầu nguyện cho họ. Con không cầu nguyện cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho con, bởi vì họ thuộc về Cha. Tất cả những gì của con đều là của Cha, tất cả những gì của Cha đều là của con; và con được tôn vinh nơi họ”.
Các tín hữu ở đây không được gọi là môn đệ hay tông đồ...nhưng là: “những người cha đã ban cho con", một cách gọi dịu dàng. Mầu nhiệm của một sự kêu gọi đến từ rất xa. Bạn hữu của Đức Giêsu được Chúa Cha ban cho Người. Họ không thuộc về "thế gian”. Họ thuộc về Thiên Chúa. Họ thuộc về Đức Giêsu.
Nhân đây, chúng ta cầu nguyện dựa vào công thức tuyệt vời của sự hỗ tương, cách diễn dạt hoàn hảo của tình yêu: “Tất cả những gì của con là của Chúa và tất cả những gì của Chúa là của con" nếu ở trần gian này tình yêu của chúng ta được như thế thì quả là chân thật đôi khi chúng ta mơ đến điều Đó. Nhưng chúng ta cần biết rằng tình yêu hoàn hảo ấy hiện hữu, nơi nào Đó: Trong Thiên Chúa... giữa Chúa Cha và Chúa Con. Và tình yêu này cũng được ban cho chính chúng ta.
“Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế gian i phan con, con đến cùng Cha"
Đức Giêsu ra đi. Nhưng, sau sự ra đi ấy, không phải là sự trống rỗng người đã để lại địa chỉ của Người! Người đã thành lập một Giáo Hội trong thế gian giao cho Giáo Hội trách nhiệm theo đuổi công việc của Người: Làm cho người ta biết Chúa Cha... mở những cánh cửa của sự sống đời đời ban cho còn người lời Chúa...Chúng ta cần biết Đức Giêsu đã nói với Chúa Cha về chúng ta nhiều biết bao, theo cách thức ấy! Đức Giêsu tiếp tục không ngừng lời cầu nguyện ấy trong lúc này, Đức Giêsu cầu nguyện cho “những kẻ mà Chúa Cha đã ban cho Người nhưng họ đang ở trong thế gian”
Mark Twain là một trong những văn sĩ nổi tiếng ở Hoa Kỳ. Mặc dầu ông vốn là người thô kệch và không được học nhiều, thế mà sức hấp dẫn lớn lao và trí thông minh đã làm cho ông được đón nhận vào giới thượng lưu và văn chương của Hoa kỳ và Âu châu.
Một trong những cuộc hành trình đi nước ngoài, ông đã nhận lời mời dự tiệc ban tối với Hoàng đế nước Đức. Khi cô con gái bé của ông Mark Twain nghe biết điều đó, liền kêu lên: “Ba ơi, bây giờ ba biết mọi người trên thế giới phải không ba , trừ ra Thiên Chúa !”
Về mặt này, hàng triệu người giống như Mark Twain. Họ biết nhiều người, họ biết nhiều thứ, nhưng họ không biết Thiên Chúa. Phải, trong lòng mỗi con người, trong lòng bạn và trong lòng tôi, có một khát vọng tìm biết Thiên Chúa. Hôm nay, Chúa nói với chúng ta: “Sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất, chân thật, và là Đấng Cha đã sai là Giêsu Kitô”. Làm thế nào chúng ta có thể biết Thiên Chúa ?
Làm thế nào chúng ta biết được một người nào đó ? Bạn nói chuyện với họ, lắng nghe khi họ nói chuyện với bạn. Khi thưa chuyện với Chúa, chúng ta gọi đó là cầu nguyện. Chúng ta thưa chuyện với Ngài trong từng lời của thánh lễ này, trong mỗi bài hát. Bạn hãy tham dự thánh lễ bằng cả tâm trí.
Bạn hãy thưa chuyện với Chúa, bằng những lời riêng của bạn. Hãy ca ngợi Chúa, tạ ơn Ngài, xin Ngài tha thứ và ban phúc lành. Rồi bạn hãy lắng nghe Ngài.
Thiên Chúa nói với chúng ta trong các bài Kinh Thánh của thánh lễ này. Ngài nói với chúng ta trong những lúc thinh lặng cùng Hiến Tế thánh này. Ngài nói với chúng ta trong ánh sáng mặt trời và cơn mưa trút nước, trong gió thổi và trong thinh lặng, trong những biến cố vui buồn hàng ngày.
Chúng ta biết Thiên Chúa qua muôn vật Ngài đã tạo thành, cây cối nói cho chúng ta về Thiên Chúa: “Chỉ duy Thiên Chúa dựng nên cậy cối”. Mỗi đám mây, và vì tinh tú, mỗi lá cỏ và bông lúa, mỗi cá nhân nói cho chúng ta về Thiên Chúa. Ngài tạo thành tất cả. Ngài tạo thành Bành và Rượu, chúng ta sẽ dâng lên Ngài trong ít phút nữa. Ngài làm nên Mình và Máu đức Giêsu mà Ngài ban lại cho chúng ta trong lúc hiệp lễ.
Như Hoàng đế nước Đức mời văn sĩ Mark Twain cùng bẻ bánh, để họ có thể biết nhau tốt hơn, thì Thiên Chúa mời gọi bạn và tôi cùng bẻ bánh với Ngài trong thánh lễ, để chúng ta có thể biết nhau tốt hơn.
Chúng ta biết nhờ những người nói nhiều về Thiên Chúa: các linh mục, các văn sĩ công giáo. Phải, và nhờ mẹ chúng ta nữa. Mẹ chúng ta không chỉ nói mà còn tỏ cho chúng ta biết Thiên Chúa.
Thiên Chúa nói với chúng ta trong mỗi bài giảng, mỗi lần học tập Thánh Kinh, mỗi bài báo viết về đao, mỗi lần tĩnh tâm, mỗi tuần đại phúc – và chúng ta cũng thưa chuyện với Chúa.
Đó là lý do Mẹ Giáo hội xin chúng ta cầu nguyện, thưa chuyện với Chúa ít là mỗi sáng, mỗi chiều và lúc dùng bữa. Đó là lý do chúng tôi xin bạn tham gia tích cực vào Thánh lễ, đọc Thánh kinh và văn chương công giáo.
Trong bài đọc I hôm nay, Đức Maria, các tông đồ và một số anh em “đồng tâm kiên trì cầu nguyện” mong chờ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Bạn hãy liên kết với các Ngài. Bạn hãy thưa chuyện với Chúa. Bạn hãy lắng nghe Ngài. Rồi chúng ta sẽ biết Thiên Chúa.
Bài Tin mừng hôm nay tràn ngập tâm tình yêu mến của Chúa Giêsu. Đó là tâm tình yêu mến với Đức Chúa Cha, Đấng mà Chúa Giêsu luôn gắn bó, luôn kết hiệp chặt chẽ, luôn vâng phục. Và hôm nay trước giờ phút sắp hoàn thành nhiệm vụ. Chúa Giêsu mong ước được về với Đức Chúa Cha. Tâm tình yêu mến cũng hướng Chúa Giêsu về các môn đệ. Chúa thương các ông còn ở lại trần gian với bao nguy cơ rình rập. Nên Chúa cầu nguyện cho các ông và xin Đức Chúa Cha thương nâng đỡ các ông.
Xuyên qua những lời cầu nguyện, những tâm tình tha thiết của Chúa Giêsu, ta thấy Người đã hoàn thành vai trò trung gian giữa Thiên Chúa và con người ở 3 khía cạnh.
Chúa Giêsu là trung gian chuyển cầu. Con người chưa biết Thiên Chúa nên cũng chưabiết cầu nguyện. Và chắc chắn là lời cầu nguyện của con người, nếu có, cũng không xứng đáng dâng lên trước toà Thiên Chúa, vì con người quá hèn lại còn tội lỗi nữa. Trong hoàn cảnh ấy, Chúa Giêsu đã là một trung gian thế giá không những dâng lời cầu nguyện của con người lên Thiên Chúa mà còn đích thân cầu nguyện cho con người. Hôm nay, người tha thiết nói với Đức Chúa Cha: “Con cầu nguyện cho họ”. Người không chỉ cầu nguyện cho các môn đệ yêu dấu, mà còn cầu nguyện cả cho những kẻ thù ghét hành hạ, giết chết Người. Trên thập giá, lúc gần tắt hơi, Người còn cầu nguyện: “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ lầm không biết”.
Chúa Giêsu là trung gian nối kết. Chúa Giêsu là Thiên Chúa làm người. Là Thiên Chúa, Người ngang hàng với Thiên Chúa, hiểu biết về Thiên Chúa. Là con người, Người đã sống như một con người với tất cả những buồn vui sướng khổ. Là Thiên Chúa, nên Người có thểgiới thiệu Thiên Chúa cho con người như Người nói: “Con đã cho họ biết danh Cha… vì con đã ban cho họ lời mà Cha đã ban cho con”. Là con người nên Người thông cảm với con người, có thể là đại diện, là trung gian cho con người với Đức Chúa Cha. Người đã nối kết Thiên Chúa với con người. Người là nhịp cầu nối đất trời với đất. Nhất là qua cuộc cứu chuộc, Người đã phá đổ bức tường ngăn cách, xoá bỏ thù hận, hoà giải con người với Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là trung gian cứu độ. Chúa Giêsu xuống trần gian để cứu độ loài người. Để cứu độ loài người, Chúa Giêsu hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá. Người đã nêu gương tâm tình hiếu thảo để chuộc lại sự bất hiếu của loài người. Người đã nêu gương vâng phục để chuộc lại sự bất tuân của loài người. Người đã hoàn thành nhiệm vụ tôn vinh Chúa Cha như Người nói: “Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho con làm”. Người đã mở ra con đường cứu độ để từ nay tất cả những ai muốn được cứu độ phải đi tìm con đường ấy. Đó là chu toàn nhiệm vụ Thiên Chúa trao phó cho mỗi người trong cuộc sống trần gian. Đó là sống tâm tình hiếu thảo với Đức Chúa Cha. Tâm tình hiếu thảo được biểu lộ qua sự hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, cho dù phải đau khổ, phải chết. Con người Chúa Giêsu là con đường duy nhất. Vì dù ta có chu toàn nhiệm vụ, vâng phục Thánh ý Chúa Cha trong mọi sự, ta cũng chỉ được ơn nghĩa qua Chúa Giêsu, nhờ công ơn Chúa Giêsu mà thôi.
Tạ ơn Chúa Cha đã ban cho ta Chúa Giêsu Kitô, Đấng yêu thương mặc khải cho biết Chúa Cha. Tạ ơn Chúa Giêsu Kitô đã chấp nhận thân phận loài người để ở giữa chúng ta, hoàn toàn thông cảm với thân phận yếu đuối con người chúng ta. Tạ ơn Chúa Giêsu Kitô đã mở cho ta con đường đi về với Chúa Cha, để cho ta được sự sống đời đời.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1)Bạn có tâm tình gắn bó với Đức Chúa Cha như Chúa Giêsu không?
2) Bạn ý thức vai trò trung gian của Chúa Giêsu như thế nào?
3) Bạn sẽ làm gì để sống niềm tin tưởng vào Chúa Giêsu như Đấng Trung Gian duy nhất?
William Allen White, một chủ bút nổi tiếng của tờ báo "Emporia Gazette", là một thành phần nhiệt thành của Đảng Dân Chủ. Một lần ông phải đi tham dự một buổi họp mặt của Đảng Cộng Hòa với tư cách là một phóng viên chính trị. Khi buổi họp khai mạc, người chủ hội đã mời ông White dâng lời nguyện chung. William Allen White đã từ chối ngay, "Không, tôi sẽ không cầu nguyện ở nơi đây bởi vì hai lý do. Thứ nhất là bởi vì tôi không được huấn luyện để cầu nguyện nơi chung. Thứ hai là bởi vì tôi không muốn Chúa biết tôi hiện diện ở nơi đây."
Sự tiến triển đời sống tâm linh của chúng ta bị hạn hẹp ở những phạm vi nào mà chúng ta cố ý để trốn tránh Thiên Chúa. Chúng ta cần phải biết rằng khi chúng ta càng biết đem Chúa vào từng lãnh vực của cuộc sống chúng ta thì mối tình của chúng ta sẽ càng khăng khít hơn, và chúng ta sẽ cảm nghiệm được sự hiện diện của Ngài bên ta một cách thiết thực hơn.
Chúng ta có lẽ còn nhớ câu chuyện "Người đàn bà góa dâng cúng hai xu". Chúa Giêsu ngồi bên thùng dâng cúng của Đền Thờ, và Ngài nhìn thấy nhiều người bỏ vào thùng rất nhiều tiền. Tuy nhiên, điều Ngài nhận thấy là cho dù người ta có bỏ vô thùng dâng cúng rất nhiều, nhưng họ chỉ dâng cho Thiên Chúa những của dư, hoặc là họ làm như thế bởi vì họ đi tìm danh vọng. Món quà họ dâng cho Chúa không có chút thành tâm nào cả. Có lẽ một số trong chúng ta ngày nay cũng đang hành động như số người này.
Đến khi Chúa Giêsu nhìn thấy người đàn bà góa chỉ bỏ vô thùng dâng cúng có hai xu thì Ngài đã ca ngợi tấm lòng của bà ấy. Dĩ nhiên, đồng tiền dâng cúng là một điều cần thiết để giúp xây dựng cộng đoàn và làm cho nó tồn tại, thế nhưng, không phải vì đó mà chúng ta lạm dụng việc này để đạt một mục đích khác. Chúng ta bỏ tiền vô nhà thờ, nhưng chúng ta nên làm việc này với một tâm tình như người đàn bà góa. Bà đã làm với tất cả tấm lòng chân thành và yêu mến của bà. Chính vì lòng mến của bà mà bà đã không quản ngại dâng cho Chúa tất cả những gì bà có.
Có lẽ khi xét mình, chúng ta sẽ thấy rằng ở một lãnh vực nào đó, chúng ta nói với Chúa rằng "Xin Chúa tránh chỗ này trong cuộc sống của con! Đây là điều bí mật của con! Xin Ngài đừng đụng tới..." Kết quả là chúng ta đuổi Chúa ra khỏi những nơi quan trọng trong cuộc sống của chúng ta, và đồng thời chúng ta cũng ngăn cản ơn thánh xuống trên chúng ta.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã cầu nguyện với Chúa Cha rằng, "Phần Con, Con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho Con làm. Tất cả những gì của Con đều là của Cha, tất cả những gì của Cha đều là của Con" (Ga 17, 4.10).
Chúng ta hãy nói với Chúa rằng, "Lạy Chúa, đây là tất cả cuộc sống của con, tất cả mọi hành vi trong ngoài của con, kể cả tiền bạc của cải! Con yêu Chúa! Con muốn bộc lộ tình yêu của con đối với Chúa! Tất cả những gì con có đều bởi Chúa ban cho con!"
Nhiều người trong chúng ta thường phản ứng như thế này:
Họ lớn tiếng ca ngợi vàcảm tạ Thiên Chúa khi gặp được những may mắn và thành công, nghĩa là khi cuộc đời mỉm cười với họ.
Thế nhưng, họ lại vội vã xúc phạm và nguyền rủa Thiên Chúa khi gặp phải những bất hạnh và khổ đau, nghĩa là khi cuộc đời trở thành một gánh nặng đè xuống trên vai họ.
Còn chúng ta thì sao?
Chúng ta nên nhớ rằng mình là người môn đệ của Đức Kitô bị đóng đanh. Vì thế, những gian nan và thử thách, những khổ đau và buồn phiền, những bắt bớ và cấm cách chỉ là chuyện thường tình, không bao giờ thiếu vắng trong cuộc sống của chúng ta.
Tuy nhiên, điều quan trọng và cần thiết, đó là chúng ta phải biết kết hợp những khổ đau của chúng ta với cuộc thương khó của Đức Kitô. Lúc đó, đau thương sẽ là đường lên ánh sáng, gian khổ sẽ là đường về vinh quang và thập giá sẽ là đường dẫn chúng ta tới sự phục sinh.
Thánh Phêrô đã nói với chúng ta:
- Anh em hãy vui mừng vì được thông phần vào sự thống khỏ của Đức Kitô để khi vinh quang của Ngài tỏ hiện, anh em sẽ được vui mừng hoan hỉ.
Đứng trước những khổ đau, thay vì hậm hực tức tối, chúng ta phải biết nhìn nó bằng cặp mắt đức tin. Tư tưởng sau đây của một tu sĩ Ấn độ rất đáng cho chúng ta suy nghĩ:
- Khi người đàn bà vò chiếc áo của mình rồi đập nó trên dòng nước, thì bà ta không có ý vùi dập nó, trái lại, bà muốn nó được trắng hơn, sạch hơn để mặc trong những ngày lễ. Cũngvậy, khi Thiên Chúa thử thách con người và tẩy rửa nó bằng nước mắt, thì Ngài cũng muốn nó được trở nên giống Ngài hơn.
Chúng ta khóc lóc và tuyệt vọng khi mất đi một người thân yêu. Thế nhưng, khi mất đi một sự còn quí giá hơn cả những người thân yêu, thì tại sao chúng ta lại không khóc lóc: đó là khi chúng ta mất đi chính bản thân chúng ta.
Cha Chevrier đã viết như sau:
- Chính những khổ đau đã tôi luyện chúng ta trở nên những con người thực sự.
Hay như tục ngữ cũng đã nói:
- Lửa thử vàng, gian nan thử đức.
Có một vị thừa sai ở Bắc cực, ngày kia đã cằm một tượng thánh giá lớn trong tay để hôn. Nhưng vì trời quá lạnh khiến cho vị thừa sai ấy không còn làm chủ được những hành động của mình nữa.
Vì tê cóng khiến tay bị run, nên vị thừa sai ấy đã để cho tượng thánh giá đập vào môi và tạo nên một vết thương chảy máu.
Đây quả là một hình ảnh đẹp và có ý nghĩa.
Thực vậy, chúng ta phải hoàn tất công cuộc khổ nạn của Đức Kitô. Ngày hôm nay, Ngài không còn đổ máu, nhưng đến lượt chúng ta: môi niệng, thân thể, trái tim cũng như tâm hồn chúng ta phải đổ máu.
Bởi đó, hãy bước đi với Chúa trên con đường thập giá, để nhờ đó chúng ta sẽ được chia sẻ phần vinh quang phục sinh với Ngài.
Vào một buổi tối thứ bẩy, thầy giáo cùng với đội bóng của nhà trường đáp máy bay trở về sau một cuộc thi đấu. Thế nhưng máy bay bị trục trặc nghiêm trọng, phải đáp xuống khẩn cấp. Trong lúc hoảng hốt, một em học sinh đã kêu to. Xin thầy hướng dẫn chúng em cầu nguyện, tất cả chúng em đều sợ hãi lắm. Thầy giáo liền cầu nguyện lớn tiếng thay cho mọi người. Mấy phút sau, máy bay đáp xuống an toàn, không phát nổ và không có ai bị thương.
Tối hôm sau, thầy giáo đến nhà thờ cùng với gia đình và dâng lễ tạ ơn. Và trước khi đi ngủ, ông đã đóng cửa phòng và quì gối cầu nguyện:
- Lạy Chúa, mặc dầu con không biết được kế hoạch và ý định của Chúa, nhưng kể từ nay, con sẽ nhấn mạnh cho đám thanh thiếu niên được con huấn luyện biết rằng: Còn có điều quan trọng cho cuộc đời hơn là chỉ biết chơi bóng đá. Và giúp họ biết rằng Chúa đã dành cho cuộc đời chúng con một mục đích.
Từ câu chuyện trên và dựa vào nền tảng Kinh Thánh, chúng ta thấy có ba hình thức cầu nguyện.
Thứ nhất là cầu nguyện riêng, nghĩa là cầu nguyện một mình, giống như ông thầy giáo đã làm trong phòng riêng của mình trước khi đi ngủ.
Thứ hai là cầu nguyện theo nhóm, nghĩa là khi chúng ta cùng với gia đình hay bè bạn thân tín cầu nguyện chung với nhau, giống như ông thầy giáo cùng với các em đã làm khi chiếc máy bay lâm nạn . Cuối cùng là cầu nguyện cộng đồng, nghĩa là khi chúng ta cầu nguyện cùng với cộng đồng Kitô hữu rộng lớn hơn, giống như trường hợp ông thầy và gia đình đi dâng lễ tạ ơn.
Trong cuộc đời, Chúa Giêsu cũng đã cầu nguyện dưới ba hình thức này. Trước hết Ngài đã cầu nguyện một mình. Sau một ngày vất vả, thì ban đêm, Ngài thường lên núi hay tìm một nơi thanh vắng để cầu nguyện, tâm sự, kết hiệp với Chúa Cha.
Tiếp đến Ngài cũng đã cầu nguyện trong những nhóm nhỏ, như với gia đình, với bè bạn. Các gia đình Do Thái thường có thói quen cầu nguyện chung với nhau. Và gia đình của Chúa Giêsu hẳn không nằm ngoài thói quen đó…
Rồi Ngài cũng thường cầu nguyện với các môn đệ. Phúc âm thánh Luca kể lại: Ngài đem Phêrô, Gioan và Giacôbê theo Ngài lên núi để cầu nguyện.
Sau cùng, Ngài đã cầu nguyện chung với cộng đoàn. Phúc âm đã nhiều lần nói rằng: Theo lệ thường, Chúa Giêsu đến hội đường vào ngày Sabbat để cầu nguyện. Từ mẫu gương của Chúa Giêsu, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy trong sách Tông đồ Công vụ, các môn đệ đầu tiên cũng đã cầu nguyện như thế. Chúng ta gặp thấy Phêrô cầu nguyện một mình, rồi các môn đệ tụ tập nhau thành từng nhóm nhỏ cầu nguyện, và cuối cùng chúng ta gặp thấy họ nhóm họp thành cộng đoàn để cầu nguyện như khi cử hành nghi thức bẻ bánh.
Còn chúng ta thì sao? Cho đến ngày hôm nay, chúng ta đã cầu nguyện như thế? Chúng ta đã thực sự gặp gỡ, tâm sự và trò chuyện với Chúa trong những giây phút cầu nguyện hay chưa?
Bài Phúc âm hôm nay, trích từ “Cuộc nói chuyện cuối cùng” của Chúa Giêsu với các môn đệ ở Bữa Ăn Tiệc Ly, và thường được gọi là “Lời cầu nguyện của Đức Giêsu, Thầy cả Thượng phẩm”. Trong Cựu Ước, những thầy thượng phẩm thường dâng lời cầu nguyện với công thức: trước hết, cầu nguyện cho chính họ, rồi cho những người thân nhân, và sau cùng cho toàn thể cộng đoàn Israel.
Theo cùng một công thức, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho chính Ngài, rồi sau đó cho các môn đệ của Ngài, và sau cùng cho tất cả mọi người tin tưởng vào Ngài. Bài Phúc âm hôm nay chỉ gồm phần Chúa Giêsu cầu nguyện cho chính Ngài và một phần cầu nguyện cho các môn đệ. Chúng ta nhận thấy có hai điểm nổi bật:
1) Chúa Giêsu vô cùng yêu mến Cha trên trời của Ngài: Các nhà chú giải Thánh Kinh đếm được trong Phúc âm của Gioan, Chúa Giêsu dùng chữ “Abba, Cha” để chỉ về Thiên Chúa ít nhất 170 lần. Riêng trong toàn thể lời cầu nguyện này, chữ “Abba, Cha” đã được dùng tới 59 lần. Và trong tất cả các thư của thánh Phaolô đều mở đầu bằng việc tuyên xưng Thiên Chúa là Cha.
2) Chúa Giêsu cũng vô cùng yêu mến các môn đệ của Ngài: Trong lời cầu nguyện này, Ngài đã nhắc đến họ 49 lần.
Trong ngôn ngữ Do Thái cổ Aramaic, tiếng “Abba” là một từ rất đặc biệt dùng diễn tả sự thân mật yêu thương, nồng nàn nhất. Đặc biệt vì hình thức tự nhiên của nó, không khách sáo, không kiểu cách, không hình thức. Đây là một mạc khải đầy ngạc nhiên mà Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết. Ngài mời gọi chúng ta kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, một người Cha yêu mến và săn sóc chúng ta.
Tình yêu đó được diễn tả trong chương trình sáng tạo và cứu chuộc con người. Trong bài giáo lý “Thiên Chúa là Tình Yêu” vào dịp mừng Năm Thánh 2000, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết: “Chân lý Thiên Chúa là tình yêu làm nên đích điểm của tất cả những gì đã được mạc khải, “qua các tiên tri và trong những ngày sau hết này qua Người Con”… Tình yêu vẫn là một diễn đạt của quyền toàn năng đối diện với sự dữ, với tội lỗi của các thụ sinh. Chỉ có tình yêu toàn năng mới có thể rút được sự lành từ sự dữ, sự sống mới từ tội lỗi và sự chết thôi. Tình yêu như một quyền lực ban sự sống và làm sinh động. Tình yêu hiện diện trong toàn thể mạc khải”.
Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh đến tình yêu Thiên Chúa khi loài người chuẩn bị bước sang ngàn năm Thứ Ba với tâm thức đầy kiêu căng và tự phụ của mình. Hơn bao giờ hết, con người ngày nay tỏ ra chống lại với một Thiên Chúa của tình thương. Họ có khuynh hướng muốn loại trừ tình yêu Thiên Chúa ra khỏi đời sống và ra khỏi cõi lòng của con người.
Đang khi con người càng ngày càng muốn đặt niềm tin vào chính mình và vào thế giới vật chất, thì họ cũng càng ngày càng gặp nhiều vấn đề nan giải. Bạo lực, chiến tranh, nghèo đói, bất công, thù hận… dường như đã gia tăng theo sự phát triển của nền văn minh hiện đại mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã gọi là nền “văn hóa của sự chết”!
Con người ngày nay đã cố tình muốn quên đi diễm phúc tinh thần cao cả và vinh quang khôn lường được làm con cái Thiên Chúa, để mặc vào những ảo ảnh phù vân của vật chất và trần gian như Đức cố Hồng Y John Henry Newman đã nhận xét:
“Sự giàu có là vị thần vĩ đại của ngày nay: rất nhiều người, tầng tầng lớp lớp người tự nhiên tôn vinh vị thần này. Người ta đo hạnh phúc bằng cái thước của tài sản, và người ta đo sự đáng kính cũng bằng cái thước này… Người ta xác tín như vậy vì tin rằng có tiền thì làm gì cũng được. Như vậy sự giầu có là một trong những thần tượng của ngày nay. Một thần tượng khác nữa là danh vọng… Được danh tiếng, được người ta biết đến mình, có tiếng vang trên thế giới (đó là danh tiếng trên báo chí), đã được người ta coi là một sự thiện, là sự thiện tối cao, và một điều được người ta thật sự tôn quý”.
Diễm phúc được làm con cái Thiên Chúa được Giáo Hội diễn tả như sau: “Thiên Chúa đã đặt chúng ta ở thế gian này để nhận biết Ngài, phụng sự Ngài và yêu mến Ngài, và như vậy chúng ta sẽ được lên thiên đàng. Vinh phúc cho ta được dự phần vào bản tính thần linh và được tham dự vào sự sống vĩnh cửu. Với cuộc sống vĩnh cửu, con người bước vào vinh quang của Chúa Kitô và được hưởng sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa”.
Thiên Chúa không chỉ mời gọi chúng ta tham gia vào tình yêu và hạnh phúc của Ba Ngôi Thiên Chúa, nhưng Ngài còn nỗ lực kiếm tìm chúng ta như tìm kiếm một con chiên lạc. Công cuộc kiếm tìm này khởi sự với sự Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Thiên Chúa đi tìm con người vì họ đã được dựng nên theo hình ảnh Ngài, giống như Ngài. Bởi từ đời đời Ngài đã yêu thương họ. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã diễn tả như sau:
“Thiên Chúa đi tìm kiếm con người là sở hữu đặc biệt của Ngài bằng một đường lối không giống như các tạo vật khác. Con người là sở hữu của Thiên Chúa bởi việc yêu thương chọn lựa: Thiên Chúa tìm kiếm con người theo tấm lòng hiền phụ rung cảm của mình”.
Cha Anthony De Mello đã ghi lại cảm nghiệm làm con cái Thiên Chúa của ngài như sau: “Tôi sống mối quan hệ rất tốt với Chúa. Tôi trò chuyện với Ngài, cầu xin, chúc tụng, tạ ơn Ngài. Nhưng tôi cứ có cảm giác khó chịu là Ngài muốn tôi nhìn vào mắt Ngài. Nhưng tôi không nhìn. Tôi chỉ nói và nhìn ra nơi khác nếu tôi cảm thấy như thể Ngài đang nhìn tôi. Tôi thường xuyên nhìn ra nơi khác như thế, vì tôi sợ ! Tôi nghĩ rằng cặp mắt Ngài sẽ tố giác tôi về những tội lỗi nào đó chưa chừa được ! Hoặc là cặp mắt đó sẽ đòi hỏi tôi phải làm điều gì đó. Cuối cùng, một ngày kia, tôi thu hết can đảm và nhìn lên. Không có tố giác ! Chẳng có đòi hỏi ! Cặp mắt ấy chỉ muốn nói: “Cha yêu con !” Tôi nhìn lại nữa. Cũng vẫn lời nhắn nhủ ấy: “Cha yêu con !” Tôi bước ra ngoài, và như thánh Phaolô xưa, tôi khóc”.
Trong cuốn “Abba, Lạy Cha !” khi suy niệm về kinh Lạy Cha, Đức Cha Bùi Tuần chia sẻ: “Chúa Giêsu nói: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Thiên Chúa là Cha, không phải chỉ là Cha của Chúa Giêsu, mà cũng là Cha của tôi, của bạn, của chúng ta. Cha trên trời của chúng ta có vô vàn vẻ đẹp. Nhưng có một đặc điểm mà thánh Phaolô đã cho là rất đẹp, rất quan trọng, rất cần nêu lên, đó là lòng thương xót – Deus Dives in Misericordia – Thiên Chúa giầu lòng thương xót. Đó là một hình ảnh rất đúng và cũng rất dễ hiểu về Thiên Chúa”.
Khi khẩu súng máy mới bắt đầu được phát minh, đã có một vấn đề xảy ra. Nếu khẩu súng máy bắn liên tục trong một thời gian sẽ làm nóng đỏ nòng súng lên và gây ra kẹt đạn. Trong một số trường hợp, nòng súng có thể bị nổ tung ra. Lúc ban đầu đã có hai biện pháp đơn giản được đưa ra để giải quyết vấn đề này: hoặc là thay đổi nòng súng khác, hay tạm ngưng bắn trong một thời gian nào đó.
Sự dồn dập và căng thẳng của cuộc sống vật chất đang đè nén trên tâm hồn con người giống như nòng súng đã bị nóng đỏ lên, cần phải làm cho nó mát lại hoặc được nghỉ ngơi. Con người cần phải trở về nguồn sức mạnh thần linh thực sự của mình và nhận biết tình yêu Thiên Chúa như Chúa Giêsu đã mời gọi: “Sự sống đời đời đó là nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô”.
Trong quyển sách “The Gift of Peace”. Đức cố Hồng Y Joseph Bernadin đã kể về tình yêu của cha ngài đối với con cái. Khi ngài vừa lên 4 tuổi, cha ngài đã bị bệnh ung thư, và trải qua một cuộc giải phẫu ở vai trái. Một hôm đến nhà người bạn chơi, vô tình ngài bị ngã từ lan can hiên nhà rơi xuống đất, rồi khóc thét lên… Ngay lập tức, cha ngài nhẩy qua lan can phóng xuống đất, bồng ngài lên và hỏi: “Con có sao không?” Nằm gọn trong cánh tay của cha rồi, ngài mới nhận thấy máu đỏ từ vết thương mới mổ ở vai đã chảy ra, ngấm qua những lớp băng, ướt vai áo sơ mi trắng ngắn tay của cha. Người cha đã không kể gì đến vết thương mới mổ, mà chỉ lo cho tính mạng của người con. Thật là một tình yêu hy sinh đến quên mình vì con cái của một người cha nhân ái.
Thiên Chúa là Cha chúng ta ở trên trời cũng yêu thương con cái vô cùng, như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã dùng lời Thánh Kinh mà nói rằng: “Chân lý, được mạc khải nơi Chúa Kitô, về Thiên Chúa là “Người Cha giầu lòng Thương Xót”, cho chúng ta thấy Ngài đặc biệt gần gũi với con người, nhất là khi con người chịu đau khổ, bị đe dọa ở ngay giữa cuộc hiện hữu và phẩm vị của mình”.
Hôm nay là Chúa Nhật và là tuần cuối cùng của Mùa Phục Sinh 50 ngày. Chủ đề "Thày là sự sống" của Mùa Phục Sinh từ Chúa Nhật IV Phục Sinh vẫn tiếp tục nơi bài Phúc Âm của Chúa Nhật VII Phục Sinh hôm nay. Bài Phúc Âm hôm nay là phần đầu của Lời Nguyện Tiệc Ly. Lời Nguyện Tiệc Ly của Chúa Giêsu được Giáo Hội chia ra làm ba phần cho ba bài Phúc Âm của ba Chu Kỳ Phụng Vụ A, B và C, thuộc Chúa Nhật VII Phục Sinh hằng năm. Theo nội dung của mình, có thể nói, Lời Nguyện Tiệc Ly là đoạn Phúc Âm Tâm Điểm của riêng Bốn Phúc Âm và của chung Toàn Bộ Thánh Kinh. Vì đoạn Phúc Âm này cho thấy Toàn Diện Mạc Khải Thần Linh về Dự Án Cứu Độ cũng như Công Cuộc Cứu Độ của Thiên Chúa. Ý chính của Lời Nguyện Tiệc Ly này là "sự sống đời đời", một sự sống được Con thông ban cho Giáo Hội (phần nhất), một Giáo Hội ở thế gian song không thuộc về thế gian (phần hai), để Giáo Hội được hiệp nhất nên một với Cha và Con cho thế gian nhờ Giáo Hội mà được sự sống (phần ba).
Vì tính cách quan trọng của Lời Nguyện Tiệc Ly này, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu từng câu một:
"Lạy Cha, đã đến giờ rồi! Xin hãy tôn vinh Con Cha để Con Cha cũng được tôn vinh Cha, vì Cha đã ban cho Người quyền bính trên toàn thể nhân loại, để Người ban sự sống đời đời cho những ai Cha đã trao cho Người. (Sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Giêsu Kitô)".
"Đã đến giờ rồi!" Đây là giây phút tuyệt đỉnh của Lời Nhập Thể trong tất cả thời gian sống trên trần thế của Người, đến nỗi, nếu không có giây phút này, cũng không cần đến giây phút Nhập Thể, cũng không có giây phút Tạo Dựng, không có gì cả. "Xin hãy tôn vinh Con Cha để Con Cha cũng được tôn vinh Cha": Sở dĩ "giờ" khắc Chúa Giêsu nói đến ở đây vô cùng quan trọng như vậy, là vì đó là giây phút Thiên Chúa Thần Hiển. Không phải là một cuộc thần hiển như những cuộc thần hiển biểu hiện trong Cựu Ước, như cuộc thần hiển ở bụi gai cháy mà không bị thiêu rụi (x Ex 3:2), hay cuộc thần hiển trên núi Sinai trước khi Thiên Chúa ban Thập Giới (x Ex 19:16). Mà chính là một Thực Tại Thần Linh Hiện Thực, một cuộc Thần Hiển tỏ hiện tất cả Nội Tâm của Thiên Chúa. Ở chỗ, Cha tôn vinh Con và Con tôn vinh Cha. Cha tôn vinh Con, ở chỗ, Cha chứng tỏ Con thực sự là Con của Cha, thực sự là Đấng Ngài sai. Và Con tôn vinh Cha, ở chỗ, Con chứng tỏ rằng Con được Cha sai, Con từ Cha mà đến. Và Cuộc Thần Hiển Thực Tại Thần Linh về việc Cha Con tôn vinh nhau này được thực hiện qua Biến Cố Vượt Qua, như đã chia sẻ ở Chúa Nhật VI Phục Sinh Năm A: "Cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu Kitô thực sự là việc 'Thày đi để dọn chỗ cho các con', một biến cố là tuyệt đỉnh Mạc Khải Thần Linh: 'Thày ở trong Cha' qua việc Tử Giá, dấu chứng tỏ Người được Cha sai; và 'Cha ở trong Thày' qua việc Phục Sinh, dấu Cha chứng tỏ Chúa Kitô đúng là 'Đấng Cha sai'".
"Vì Cha đã ban cho Người quyền bính trên toàn thể nhân loại, để Người ban sự sống đời đời cho những ai Cha đã trao cho Người". Sở dĩ có Cuộc Thần Hiển Vượt Qua vô tiền khoáng hậu, Cuộc Thần Hiển của "giờ" khắc quan trọng nhất trong lịch sử tạo vật nói chung và lịch sử loài người nói riêng này cần phải thực hiện, cần phải xẩy ra, là vì Thiên Chúa muốn cho "toàn thể nhân loại" được thông hưởng Sự Sống Thần Linh của Ngài trong Con Ngài là Lời Nhập Thể. "Quyền bính trên toàn thể nhân loại" đây không phải là khả năng thông ban "sự sống đời đời", mà là tư cách "quyền bính" của Con Ngài khi nhập thể, tức tư cách đóng vai "là trưởng tử của tất cả mọi tạo vật" (Col 1:15), "là trưởng tử của một đàn em đông đúc" (Rm 8:29), "là đầu của thân thể Giáo Hội" (Col 1:18). Và đó là lý do thành phần đầu tiên và trên hết Con cho tham hưởng "sự sống đời đời" đây chính là "những ai Cha đã trao cho Người". Điển hình là thành phần tông đồ chứng nhân tiên khởi, nền tảng của Giáo Hội Chúa Kitô (x Eph 2:20), thành phần sẽ được trực tiếp lãnh nhận "sự sống đời đời" từ Người, cũng là thành phần cần phải thông ban "sự sống đời đời" này cho "toàn thể nhân loại".
"(Sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Giêsu Kitô)". Phải, "toàn thể nhân loại" nói chung, và thành phần "những ai Cha đã trao cho Con" nói riêng, được thông hưởng "sự sống đời đời" đây tức là được Lời Nhập Thể ban cho họ có một Kiến Thức Thần Linh, để nhờ đó họ có thể "nhận biết": Cha là Thiên Chúa và Con là Đấng Thiên Sai, hay có thể "nhận biết" Thực Tại Thần Linh "Thày ở trong Cha và Cha ở trong Thày", một Thực Tại được Chúa Giêsu mạc khải ở Phúc Âm Chúa Nhật V Phục Sinh Năm A, một Thực Tại được hiện thực bằng Cuộc Vượt Qua của Lời Nhập Thể, một Biến Cố Thần Hiển Cha tôn vinh Con, Con tôn vinh Cha.
"Con đã tôn vinh Cha trên mặt đất này, bằng cách chu toàn những gì Cha đã bảo Con làm. Giờ đây, Cha ơi, xin hãy ban cho Con vinh hiển ở bên Cha, vinh hiển Con có nơi Cha trước khi thế gian được tạo thành. Con đã tỏ danh Cha cho những người Cha đã trao cho Con trên thế gian. Những người Cha đã trao cho Con này là của Cha; họ đã giữ lời Cha. Giờ đây họ nhận biết rằng tất cả những gì Cha đã ban cho Con đều từ Cha mà đến. Con đã ký thác cho họ sứ điệp Cha đã trao phó cho Con, và họ đã nhận lấy sứ điệp này. Họ đã thực sự biết rằng Con từ Cha mà đến, họ tin rằng chính Cha là Đấng đã sai Con".
"Con đã tôn vinh Cha trên mặt đất này, bằng cách chu toàn những gì Cha đã bảo Con làm". Đúng thế, đường lối duy nhất để Lời Nhập Thể có thể chứng thực mình là Đấng Thiên Sai đó là "chu toàn những gì Cha đã bảo Con làm". Và chính khi "chu toàn những gì Cha đã bảo Con làm" là "Con đã tỏ Cha ra" (Jn 1:18), tức đã làm cho Cha được nhận biết "trên trái đất này". Ở chỗ, đã cho riêng Dân Chúa nhận biết rằng "Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất", một Vị Thiên Chúa của Giao Ước, của Lời Hứa, và cũng là Vị Thiên Chúa đã trung thành giữ những gì Ngài hứa, trung thành với giao ước của mình, bất chấp việc con người trắng trợn và liên lỉ bất trung, như Lịch Sử Cứu Độ của dân Do Thái trong Cựu Ước cho thấy.
"Giờ đây, Cha ơi, xin hãy ban cho Con vinh hiển ở bên Cha, vinh hiển Con con có nơi Cha trước khi thế gian được tạo thành". Chính vì "Con đã tôn vinh Cha trên trái đất này, bằng cách chu toàn những gì Cha đã bảo Con làm" như thế mà Con cũng tỏ cho thế gian thấy rằng Con chính là Con Cha. "Vinh hiển ở bên Cha, vinh hiển Con có nơi Cha trước khi thế gian được tạo thành" " là ở chỗ đó, là ở chỗ Con là Con Cha, "là phản ảnh vinh quang Cha, là hiện thân đích thực của bản thể Cha" (Heb 1:3). Một "phản ảnh vinh quang" và "một hiện thân" mà khi "hóa thành nhục thể" (Jn 1:14), Con đã thể hiện rõ ràng qua việc "chu toàn những gì Cha đã bảo Con làm".
"Con đã tỏ danh Cha cho những người Cha đã trao cho Con trên thế gian. Những người Cha đã trao cho Con này là của Cha; họ đã giữ lời Cha. Giờ đây họ nhận biết rằng tất cả những gì Cha đã ban cho Con đều từ Cha mà đến". Vẫn biết Con có "quyền bính trên toàn thể nhân loại", nhưng, trước hết và trên hết, "Con đã tỏ danh Cha cho những người Cha đã trao cho Con trên thế gian". Bởi vì, "Những người Cha đã trao cho Con này là của Cha", tức thành phần Cha "lôi kéo" (Jn 6:44), hay Cha "cho phép" (Jn 6:65), mới có thể "giữ lời Cha", tức mới có thể "đến cùng" Con (là Lời Cha), hay mới có thể "chấp nhận" (Jn 1:12) Lời Nhập Thể: "Giờ đây họ nhận biết rằng tất cả những gì Cha đã ban cho Con đều từ Cha mà đến" là như thế. Hay họ nhận biết Con từ Cha mà đến, Con "là hiện thân đích thực của bản thể Cha" cũng vậy.
"Con đã ký thác cho họ sứ điệp Cha đã trao phó cho Con và họ đã nhận lấy sứ điệp này. Họ đã thực sự biết rằng Con từ Cha mà đến, họ tin rằng chính Cha là Đấng đã sai Con". Cũng chính vì "những người Cha đã trao cho Con trên thế gian" biết chấp nhận Con như thế mà "Con đã ký thác cho họ sứ điệp Cha đã trao phó cho Con và họ đã nhận lấy sứ điệp này". Nghĩa là, "họ đã thực sự biết rằng Con từ Cha mà đến, họ tin rằng chính Cha là Đấng đã sai Con". Vì "sứ điệp Cha đã trao phó cho Con" để "Con ký thác cho họ" cũng chính là nội dung của những gì họ nhận biết, những gì họ tin, đó là "Con từ Cha mà đến và Cha là Đấng đã sai Con".
"Con cầu nguyện cho những người này - Con không cầu cho thế gian, song cho những người Cha đã trao cho Con, vì họ thực sự là của Cha. (Như tất cả mọi sự thuộc về Con đều là của Cha thế nào thì tất cả những gì thuộc về Cha đều là của Con). Chính ở nơi họ mà Con được vinh hiển. Con không còn ở thế gian này nữa, nhưng những người này còn ở thế gian khi Con về cùng Cha".
"Con cầu nguyện cho những người này - Con không cầu cho thế gian, song cho những người Cha đã trao cho Con, vì họ thực sự là của Cha". Sở dĩ "Con cầu nguyện cho những người này", mà "không cầu cho thế gian", không phải là vì thế gian đáng ghét, hay thế gian không đáng được cầu nguyện cho, nhưng dầu sao thế gian nói chung vẫn không cao qúi bằng "những người Cha đã trao cho Con, vì họ thực sự là của Cha", đồng thời cũng là của Con nữa: "mọi sự của cha cũng là của con" (Lk 15:31) là như thế: "(Tất cả mọi sự thuộc về Con đều là của Cha thế nào thì tất cả những gì thuộc về Cha đều là của Con như vậy)". Một lý do nữa làm Con hết sức qúi trọng "những người Cha đã trao cho Con", chẳng những qua việc cầu nguyện cho họ, mà còn tỏ Danh Cha cho họ, ký thác sứ điệp của Cha cho họ, nghĩa là cho họ tất cả những gì Con có, là vì "chính ở nơi họ mà Con được vinh hiển", mà Con được nhận biết Con từ Cha mà đến, Con chính là Con Cha, một vinh hiển Con đã có nơi Cha trước khi thế gian được tạo thành: "Từ ban đầu đã có Lời; Lời ở nơi Thiên Chúa và Lời là Thiên Chúa" (Jn 1:1).
"Con không còn ở thế gian này nữa, nhưng những người này còn ở thế gian khi Con về cùng Cha". Câu cuối cùng này trong Lời Nguyện Tiệc Ly ở phần thứ nhất cho Chúa Nhật VII Phục Sinh Năm A hôm nay là một câu kết theo kiểu lưng chừng, chưa trọn nghĩa, còn cần phải được tiếp nối… nơi bài Phúc Âm cho Chu Kỳ Phụng Vụ Năm B của cùng Chúa Nhật VII Phục Sinh hôm nay.
Vấn đề thực hành sống đạo:
Nhờ Bí Tích Rửa Tội, Kitô hữu chúng ta đã thuộc về thành phần "những người Cha đã trao cho Con". Bởi thế, dù bản thân vô cùng bất xứng, chúng ta cũng thực sự trở nên hết sức cao trọng trước nhan Chúa Giêsu Kitô. Đến nỗi, dù chỉ là một con chiên lạc duy nhất trong đàn 100 con, Người cũng đi tìm nó cho bằng được, và vui mừng vác thập giá trên vai mang nó về (x Lk 15:4-5). Hay dù chúng ta có phung phá hết gia tài ân sủng được chia cho chúng ta nơi Phép Rửa, Người cũng mong mỏi chúng ta trở về với Người, và khi vừa thấy chúng ta quyết tâm từ bỏ tội lỗi, Người liền tự động chạy đến ôm chặt lấy chúng ta trong tòa giải tội, trả lại cho chúng ta nhân đức và công nghiệp đã mất bởi tội, và mở tiệc Thánh Thể ăn mừng chúng ta sống lại (x Lk 15:11-24). Tất cả chỉ vì chúng ta "thực sự là của Cha". Thế nhưng, đáp lại, chúng ta đã sống như lòng Người mong đợi ở chúng ta chưa: "chính ở nơi họ mà Con được vinh hiển"?
Đối với nhiều người chúng ta, những biên giới yêu thương của chúng ta rất hẹp hòi và hạn chế. Có lẽ chúng ta chỉ yêu thương các thành viên trong gia đình của mình và một vài người nào đó mà thôi. Có lẽ chúng ta chỉ nói đến việc yêu thương những người nghèo khó, cô đơn và bất hạnh, nhưng cũng chỉ sơ sơ vậy. Và có lẽ chúng ta chẳng bao giờ đề cập đến việc yêu thương những đối thủ của mình. Đối với nhiều người chúng ta, dường như có một cái nẹp khổng lồ bao quanh cuộc sống của chúng ta, không cho chúng ta lớn lên và triển nở. Hậu quả là cuộc sống chúng ta trở nên khép kín đối với những người ngoài cuộc, những người xa lạ, những người không giống như chúng ta. Chúng ta phân loại tha nhân thì dễ hơn là yêu thương họ. Đối với một số người, trong cuộc sống hình như chỉ có duy một sự phát triển, đó là danh sách những đối thủ của họ mà thôi.
Thế nhưng Thiên Chúa, với tình yêu thương bao la, vẫn quan tâm đến chúng ta. Thiên Chúa muốn giải thoát chúng ta khỏi sự hẹp hòi ấy. Thiên Chúa muốn chúng ta thong dong để được sống thật sung mãn. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta biết rằng: Bao lâu những chiếc nẹp khổng lồ kia chưa được tháo bỏ, thì thế giới này và tâm hồn của chúng ta vẫn chưa có bình an đích thực.
Câu chuyện tiên tri Giona trong Cựu Ước là một ví dụ điển hình về con người hẹp hòi. Tiên tri Giona lẩn tránh lệnh truyền đến công bố tình yêu thương và lòng thương xót của Thiên Chúa cho dân thành Ninivê. Tại sao? Bởi vì họ nằm trong danh sách những đối thủ của Israel. Họ là những người ngoại đạo, những người xa lạ. Tiềm năng con người của tiên tri Giona đã bị trói gò vào sự hẹp hòi ấy. Tiên tri Giona trong câu chuyện ấy đại diện cho chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và đầy thù hận; đại diện cho não trạng "dân Chúa chọn," một não trạng vạch ra những hạn chế cho tình yêu thương và lòng thương xót của Thiên Chúa.
Trong Tân Ước, vấn đề cũng tương tự như vậy. Ngay từ ban đầu, các môn đệ của Chúa Giêsu đã vấp phải vấn đề này. Khi Chúa Giêsu dừng lại nói chuyện với người phụ nữ Samaria, các môn đệ lấy làm khó chịu, vì hai nguyên nhân. Thứ nhất, nam nhân Do thái đức hạnh không bao giờ chuyện trò với phụ nữ xa lạ. Thứ hai, phụ nữ ấy không phải là người Do thái, mà là dân ngoại, một người xa lạ, một loại kẻ thù.
"Tại sao Chúa lại mất thì giờ vì người phụ nữ ấy? Bà ta có phải là dân ta đâu." Thế nhưng Chúa Giêsu đã đến sửa đổi tất cả. Các môn đệ vẫn chưa nhận ra rằng Chúa Giêsu đã đến không phải để tôn vinh dân Do thái thành một dân tộc đặc quyền. Chúa Giêsu đến để đưa họ vào một tác vụ giao hòa.
Chúa Giêsu đã đến giúp chúng ta hiểu thêm những tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa, giữa chúng ta với nhau, và giữa chúng ta với tất cả mọi người. Vì thế, trong Bài Giảng Trên Núi, chúng ta nghe Chúa dạy, "Các ngươi đã nghe truyền cho người xưa, 'Hãy yêu thương đồng bào và ghét thù địch.' Còn Ta, Ta bảo các ngươi: Hãy yêu thương địch thù và cầu nguyện cho những kẻ bách hại các ngươi. Như vậy, các ngươi sẽ trở nên con cái Cha các ngươi ở trên trời" (Mt 5:43-45). 7 Nhạc sĩ cello tài danh Pablo Casals đã sáng tác bản Oratorio dựa trên sự kiện Chúa Kitô giáng sinh và đặt tên ngắn gọn là "Máng Cỏ." Khi đã 85 tuổi, Pablo Casals quyết định thực hiện một chuyến lưu diễn vì hòa bình. Bất chấp tuổi già sức yếu, ông đã trình diễn tác phẩm "Máng Cỏ" tại Bắc và Nam Mỹ, Anh, Pháp, Ý, Đức, Hungary, Israel, và hàng chục nơi khác. Theo lời ông, "Ở mọi nơi, người ta đói khát hòa bình... Mỗi buổi diễn đối với tôi là một lời tái xác định đầy tin tưởng rằng: Không phải các dân tộc trên thế giới, nhưng là những hàng rào nhân tạo do các chính phủ dựng lên đã chia cắt các dân tộc" (Kahn, Albert E., "Joy and Sorrows, reflections by Pablo Casals" (Simon and Schuster, 1970)).
Trong thông điệp gửi đến Hội nghị Hòa Bình Thế Giới năm 1967 tổ chức tại thành phố Geneva, nhạc sĩ Pablo Casals đã viết, "Chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên mà nhân loại đã thực hiện những điều kỳ diệu và có những tiến bộ vượt bậc; một kỷ nguyên mà nhân loại đã lên đường chinh phục các vì sao. Thế nhưng, trên hành tinh này, chúng ta vẫn tiếp tục sống như một lũ man di. Chẳng khác nào bầy man di, chúng ta cũng sợ những người lân bang trên trái đất; chúng ta võ trang chống lại họ và họ võ trang chống lại chúng ta. Đã đến lúc phải chấm dứt điều ấy nếu như nhân loại muốn tồn tại. Chúng ta phải làm quen với thực tế này, đó là chúng ta là những con người. Tình yêu tổ quốc là một điều tuyệt đẹp. Thế nhưng vì sao tình yêu phải dừng lại ở đường biên giới?"
Theo Chúa Giêsu: Tình yêu không nên dừng lại ở đường biên giới! "Nếu các ngươi yêu thương những người yêu thương các ngươi, thì còn công trạng gì? Và nếu các ngươi chỉ chào hỏi anh chị em mình, thì có đáng công gì? Dân ngoại không làm như thế ư?
Bác sĩ Albert Schweitzer có lần đã nói: "Sức mạnh của các lý tưởng thật khôn lường. Chúng ta không nhìn thấy một sức mạnh nào trong một giọt nước. Nhưng nếu giọt nước ấy lọt vào khe nứt của một tảng đá rồi đông cứng lại, nó có thể tách đôi tảng đá ấy ra. Khi bốc hơi, giọt nước có thể đẩy pistons của nhiều động cơ rất mạnh. Một điều gì đó đã xảy ra khiến cho giọt nước biến thành một sức mạnh tích cực và hiệu quả. Các lý tưởng cũng vậy. Các lý tưởng là những ý tưởng. Bao lâu còn là những ý tưởng suông, thì sức mạnh tiềm tàng trong đó vẫn chưa sinh hiệu quả. Sức mạnh ấy chỉ sinh hiệu quả một khi đã thấm nhuần trong một nhân cách đã được tôi luyện."
Năm 1967, người ta xuất bản một quyển sách, trong đó, tác giả bàn về một từ mới, đó là từ "peacefare-cuộc chiến hòa bình." Đây là một ý tưởng đẹp, vì từ "cuộc chiến hòa bình" đối nghịch với từ "warfare-chiến tranh." Tác giả cho biết, "Chúng ta phải xông pha vì cuộc chiến hòa bình hệt như chúng ta đã vì chiến tranh. Mưu cầu hòa bình cho thế giới không phải là chuyện dễ dàng, và hòa bình sẽ chẳng bao giờ có được nếu chúng ta không tập trung cho nó toàn thể sức lực, sự dấn thân, và hy sinh mà chúng ta đã dành cho chiến tranh." Cuộc chiến hòa bình là một ý tưởng tuyệt vời. Mưu cầu hòa bình vẫn mãi là một ý tưởng, một sức mạnh tiềm tàng phải được vận dụng.
Lịch sử nhân loại trên địa cầu cho đến lúc này và kể cả hiện nay, thực ra chỉ là vấn đề hòa bình. Trên bình diện cá nhân, rất hiếm khi chúng ta nghiệm được sự bình an đích thực trong tâm trí: quá nhiều áp lực đè nặng trên chúng ta; quá nhiều thứ lôi kéo chúng ta đủ mọi hướng. Danh từ "hòa bình" hàm ý một sự toàn vẹn, hợp nhất, thế nhưng chúng ta lại phân tán. Hơn nữa, kể từ ngày Cain ganh ghét, lùng kiếm vũ khí trong tầm tay để sát hại em mình và coi đó như một phương cách để giải quyết những khó khăn, chúng ta đã và đang sống hệt như thế. Khuynh hướng hung hãn, bạo lực, ganh ghét, thù hận vẫn bao phủ trên từng người chúng ta.
Chúa Giêsu đã hứa, "Phúc cho những ai kiến tạo hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa." Chúa Giêsu cho biết: Mỗi người chúng ta có thể trở nên một phần giải pháp. Trong hoàn cảnh cuộc sống cá nhân, mỗi người chúng ta đều có cơ hội áp dụng ý tưởng hòa giải vào thực tế. Người Kitô hữu chúng ta hy vọng rằng: Ngày ấy sẽ đến khi "cuộc chiến hòa bình" sẽ trùm phủ thế giới này như một đại dương uy hùng. Tuy nhiên, nếu mỗi người chúng ta, trong hoàn cảnh cuộc sống của mình, không bắt tay trút đổ vào đại dương ấy, từng giọt nước một, thì niềm hy vọng hòa bình tuyệt đẹp kia cũng chẳng đi đến đâu.
Trong một bức thư gửi cho Thiên Chúa, một bé gái tên là Harriet Ann đã viết, "Lạy Chúa, Chúa có hiện hữu thật không? Một số người không tin có Chúa. Vậy nếu Chúa có, xin Chúa hãy làm một việc gì nhanh nhanh lên." Một bé gái khác tên là Margo thì viết, "Lạy Chúa, bố con giỏi lắm. Bố con có thể giúp Chúa." Còn Chúa Giêsu có lẽ sẽ viết, "Nghe đây thế giới, Cha Ta giỏi lắm. Người có thể giúp các con."
"Còn Ta, Ta bảo các ngươi: Hãy yêu thương kẻ thù địch, và cầu nguyện cho kẻ bách hại các ngươi. Như vậy, các ngươi sẽ trở nên con cái Cha các ngươi trên trời."
Trích dịch "The Sunday Sermons Collection, Voicings Publications, Ventor, NJ".
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Trước khi xảy ra một biến cố lớn, một cuộc cách mạng quyết liệt, một cơn giông tố dữ dội, trời PS 7-A12
Trước khi xảy ra một biến cố lớn, một cuộc cách mạng quyết liệt, một cơn giông tố dữ dội, trời đất cũng như cảnh vật đều im hơi lặng tiếng yên tĩnh bất động như chết.
Trước khi khai mạc một thời đại loan truyền Tin mừng cứu độ muôn dân cho đến tận cùng trái đất, các môn đệ đã sống im lặng lạ lùng trong một căn lều đóng kín hoàn toàn cách ly với thế tục.
Sự im lặng đó khởi đầu từ sau khi Thầy trao nhiệm vụ mới và chứng kiến Thầy lên trời, các ông rời bỏ núi Ô liu, nơi Thầy long trọng cầu nguyện thánh hóa các ông và dâng hiến mình làm của lễ hy sinh trên Thánh giá lên Đức Chúa Cha, cũng nơi đây, chính Thầy đã giơ chân tay và cạnh sườn Thầy cho các ông xem thấy lỗ đinh, lưỡi đòng đâm Thầy chết và bây giờ Thầy đã sống lại, đến ban bình an và Thánh thần cho các ông.
Trong khung cảnh đầy hình ảnh sống động và chan hòa tình Thầy trò đó, “tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện, cùng với mấy phụ nữ, với Đức Maria, mẹ Chúa Giêsu, với anh em của Người”.
Một bầu không khí cầu nguyện sốt sắng như vậy, khiến tâm trí, tình cảm và toàn thân các ông hoàn toàn được thu hút vào tâm tình tha thiết thương mến của Thầy, của từng cử chỉ, dáng điệu uy nghi, nhân từ của Thầy, với những lời nói, giọng điệu khoan thai êm ái của Thầy, đến mọi nơi, mọi lúc Thầy sống thân thiết bên các ông. Giờ đây các ông cảm thấy đầy hối hận, thật đáng tiếc, nhưng tâm hồn các ông hoàn toàn an bình, một thứ bình an không thể có cho thế gian, nhờ thế các ông được an tâm, vững chí tin tưởng mạnh mẽ vào tình yêu bao dung hi sinh cả mạng sống của Thầy cho các ông, để các ông chuẩn bị đón nhận Chúa Thánh Thần, chuẩn bị ra tay chèo lái, xông pha thi hành nhiệm vụ mới mà Thầy vừa trao cho các ông.
Trước mắt các ông, là lệnh truyền của Thầy về sứ mệnh truyền giáo (Mt. 10), các ông sẽ phải xông pha vào những nơi sói rừng, sẽ bị bắt nộp cho các hội đồng, các vua quan, bị đánh đập và cả bị giết nữa. Vì họ đã ghét Thầy, bắt bớ, đánh đập và giết Thầy thì họ cũng sẽ làm cho các con tất cả như vậy vì danh Thầy (Ga. 15, 18-20) Cho dù gian nan nguy hiểm đến đâu, các ông vẫn thấy mình thật diễm phúc được nên giống Thầy, được lãnh sứ mệnh vô cùng cao cả mà Chúa Cha đã trao phó cho Thầy: “Như Cha đã sai Con, thì Con cũng sai họ đến thế gian” (Ga. 17, 18)
Để thực thi sứ mệnh cứu độ muôn dân, các ông đã được Thầy cầu nguyện Chúa Cha ban cho các ông sự sống đời đời, được những lời mặc khải Chúa Cha ban cho Chúa Con để các ông nhận biết Thiên Chúa duy nhất và chân thật, các ông còn được Chúa Cha tuyển chọn giữa thế gian mà ban cho Chúa Con để các ông được đức tin mạnh mẽ, để các ông tuân giữ và thực hiện lời Chúa Cha.
Như vậy, các ông đã được bảo đảm chắc chắn sẽ được sự sống đời đời, các ông sẵn sàng chịu mất mạng sống ở đời này, chịu mất hết lời lãi cả thế gian để được sống đời đời, các ông không còn sợ kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Hơn nữa các ông còn được thông phần “tất cả những gì Cha đã ban cho Con thì Con đã ban cho họ” (Ga. 7, 8). Còn ơn phúc lạ lùng nào hơn nữa! Các ông đã được cả gia tài Thiên Chúa, cả nguồn chân lý, nguồn ơn thánh vinh quang vô cùng, cả nguồn tình yêu ruột thịt của Chúa Cha và Chúa Con, cả hạnh phúc muôn đời của Thiên Chúa.
Bây giờ chỉ còn điều duy nhất là các ông thiết tha xin Chúa Thánh Thần xuống soi sáng và ban sức mạnh cho các ông đi thi hành nhiệm vụ tôn vinh Thiên Chúa, rao giảng Tin mừng cho muôn dân để họ biết tôn vinh Thiên Chúa, như “Thầy đã ngước mắt lên trời mà nói rằng:
Chương 17 của Tin Mừng Gioan là “lời nguyện hiến tế” của Chúa Giêsu. Được gọi là lời nguyện PS 7-A13
Chương 17 của Tin Mừng Gioan là “lời nguyện hiến tế” của Chúa Giêsu.
Được gọi là lời nguyện hiến tế vì là lời cầu xin của Chúa Giêsu trước khi bước vào cuộc khổ nạn, chịu sát tế, hiến mình làm của lễ dâng lên Chúa Cha để chuộc tội nhân loại.
Bài Tin Mừng hôm nay là phần đầu của lời nguyện hiến tế, Chúa Giêsu thưa với Chúa Cha là Người sẽ ban cho các môn đệ sự sống đời đời: đó là nhận biết Chúa Cha và tin vào Người là Đấng được Chúa Cha sai đến.
Chúa Giêsu muốn hễ ai thuộc về Người thì nhận biết Thiên Chúa. Điều này đòi hỏi phải năng suy gẫm Lời Chúa, kiên trì cầu nguyện, tham dự phụng tự, để nhận được ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Đấng trao ban các ơn hiểu biết và khôn ngoan (x.Cl 1,9). Từ ơn hiểu biết sẽ phát sinh tình yêu và các việc lành: Đây là khởi điểm của sự sống đời đời, trước khi tín hữu được thấy tỏ tường dung nhan Thiên Chúa viên mãn mai sau.
Lời khẳng định của Chúa Giêsu thật rõ ràng: “Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người. Mà Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Đức Giê-su Ki-tô” (Ga 17,2-3).
Được biết Thiên Chúa và nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai thật không dễ dàng, bởi vì việc nhận biết Thiên Chúa và tin vào Chúa Giêsu không phải do trí hiểu hay thực nghiệm khoa học, mà là một ân ban của Thiên Chúa, như Chúa Giêsu đã nói: « Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ nếu Chúa Con không mặc khải cho, và cũng không ai đến được với Chúa Con nếu Chúa Cha không lôi kéo họ”.
Mọi tín hữu khi nghe lời này của Chúa Giêsu, thật là hạnh phúc khi được biết Thiên Chúa là Cha và tin vào Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ và là Chúa của mình.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con là những người đã tin Chúa là Đấng được Chúa Cha sai đến để cứu độ chúng con; chúng con cũng được Chúa mặc khải cho biết Thiên Chúa là Cha sáng tạo và yêu thương săn sóc chúng con. Xin cho chúng con cũng biết dâng hiến cuộc đời mình để tôn vinh Cha trên trời như Chúa đã tôn vinh Chúa Cha khi hoàn tất công trình mà Cha giao phó là cứu độ chúng con. Amen.
Bước vào Chúa nhật thứ VII Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội chuẩn bị tâm hồn chúng ta mừng Đại PS 7-A14
Bước vào Chúa nhật thứ VII Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội chuẩn bị tâm hồn chúng ta mừng Đại lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Trước khi về trời, Đức Giêsu đã hứa với các môn đệ trong bữa tiệc ly là không bỏ chúng ta mồ côi, Người sẽ gửi Chúa Thánh Thần đến, để trong mọi sự con người tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô.
Các thánh Tông Đồ đã qui tụ bên Đức Maria để cầu nguyện, noi gương các ngài, chúng ta cũng hãy hăng hái chuẩn bị sẵn sàng, cầu nguyện và thực hành đức bác ái, đón Chúa Thánh Thần, Đấng từ Chúa Cha hiện xuống trên chúng ta, và thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con kêu lên cùng Chúa, xin Ngài lắng nghe, alléluia; hồn con thưa cùng Chúa: mắt con tìm kiếm thánh nhan Ngài, lạy Chúa, con tìm kiếm Chúa, xin đừng ẩn mặt, alléluia, alléluia”.
Toàn bộ Phúc Âm thánh Gioan chương 17 là diễn từ ly biệt, được kết thúc bằng kinh nguyện vô cùng cảm động của Chúa Giêsu dâng lên Cha. Kinh nguyện mở đầu bằng lời khẩn cầu danh Cha, ca tụng Ngôi Cha và Ngôi Con (câu 1-5). Chúa Giêsu xin “Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha” (Ga 17, 1).
Hôm nay, Chúa Giêsu nói với chúng ta về vinh quang mà Người đã chia sẻ từ đời đời với Chúa Cha; vinh quang mà Chúa muốn chia sẻ với chúng ta cũng như các môn đệ của mình qua cái chết và sự phục sinh của Chúa. Cách đây ít ngày, chúng ta đã mừng lễ Chúa lên Trời, và tuần sau chúng ta sẽ mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta được mời gọi suy tư về mọi điều Chúa Giêsu đã dạy khi Người còn tại thế và cầu xin Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các thánh Tông Đồ. Chúa Giêsu luôn làm gương cho chúng ta noi theo: “Con đã làm vinh hiển Cha dưới đất. Con đã chu toàn công việc mà Cha đã giao phó cho Con” (Ga 17,4); mọi thành phần trong Giáo hội phải tiếp tục công việc tương tự trên trần gian.
Chúa Giêsu từ Chúa Cha mà đến để hoàn thành công việc mà Chúa Cha đã trao phó, cụ thể là cứu chuộc loài người, được các môn đệ biết đến. Đối với các ông, chắc chắn Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa làm người: “Chúng biết đích thực rằng Con bởi Cha mà ra, và chúng tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17, 8).
Nên Chúa Giêsu xin cho các môn đệ: “Con cầu xin cho chúng; Con không cầu xin cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho Con” (Ga 17, 9). Người cầu xin cho cả chúng ta là những kẻ nhờ các môn đệ mà tin vào Chúa. Chúng ta có mở lòng mình ra và tin chắc như thế không ? Với đức tin vững vàng, chúng ta sẽ tham dự vào vinh quang của Thiên Chúa. Thánh Ignatio Loyaga khuyên chúng ta: “Nếu anh em yêu mến vinh quang, thì hãy tìm kiếm trong sự thật duy nhất là Thiên Chúa”.
Chúa Giêsu được tôn vinh và nay trở về cùng Cha, tuy nhiên, Người sẽ không bỏ chúng ta mồ côi và Người sẽ xin Chúa Cha gửi Chúa Thánh Thần xuống trên chúng ta. Chúa Giêsu Kitô, Đấng bầu cử cho các môn đệ sẽ luôn hiện diện trong Hội Thánh, chúng ta sẽ tiếp tục công việc của Người và Người sẽ giúp chúng ta trong những lúc khó khăn mà chúng ta gặp phải trong thế gian.
Thánh Công Đồng Vaticanô II nhắn nhủ chúng ta rằng, muốn thi hành ý muốn của Chúa Giêsu, việc cần thiết phải làm là hiệp nhất: “Vì ngày nay ở nhiều nơi trên thế giới, nhờ ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy, rất nhiều cố gắng nhằm tiến tới hiệp nhất đầy đủ theo ý muốn của Chúa Giêsu Kitô đang được thực hiện bằng kinh nguyện, lời nói, việc làm, nên Thánh Công Ðồng này khuyến khích tất cả mọi người công giáo hãy nhận ra các dấu chỉ thời đại để khéo léo tham gia vào công cuộc hiệp nhất.
Phải hiểu danh từ “phong trào hiệp nhất” là những hoạt động và sáng kiến được phát động và tổ chức nhằm cổ võ sự hiệp nhất các Kitô hữu, tùy theo những nhu cầu khác nhau của Giáo Hội và những thời cơ thuận tiện. Trước hết như là mọi cố gắng loại bỏ những lời nói, phán đoàn và việc làm không đúng với hoàn cảnh của các anh em ly khai xét theo công bình và chân lý, vì nếu không sẽ gây thêm khó khăn trong việc giao tiếp với họ. Thứ đến là trong các buổi hội thảo với tinh thần tôn giáo giữa các Kitô hữu thuộc nhiều Giáo Hội hay Cộng Ðoàn khác nhau, có sự “đối thoại” giữa các nhà chuyên môn thấu triệt vấn đề, và mỗi người sẽ giải thích cặn kẽ giáo lý của Cộng Ðoàn mình và trình bày minh bạch những nét độc đáo của giáo lý ấy. Có đối thoại như thế mọi người mới hiểu biết đúng hơn và tôn trọng đúng mức giáo lý cũng như đời sống của mỗi Cộng Ðoàn; cũng nhờ đó mà các Cộng Ðoàn dần dần hợp tác được với nhau rộng rãi hơn trong mọi công cuộc mưu ích chung mà lương tâm Kitô hữu nào cũng đòi hỏi; lại cũng nhờ đó, họ hợp nhau cầu nguyện chung mỗi khi có cơ hội thuận tiện. Sau cùng mọi người hãy kiểm điểm coi mình có trung thành với ý muốn của Chúa Kitô về Giáo Hội không, để rồi hăng hái tiến hành việc canh tân và cải tổ đúng như bổn phận đòi hỏi.
Khi các tín hữu của Giáo Hội Công Giáo khôn ngoan và kiên nhẫn thực hiện tất cả các điều ấy dưới sự giám sát của các chủ chăn tức là họ đã đóng góp cho việc thực hiện công bình và chân lý, sự hòa thuận và hợp tác, tình huynh đệ và đoàn kết. Với đường hướng này, khi đã vượt được mọi trở ngại ngăn cản sự hiệp thông hoàn toàn của Giáo Hội, dần dần mọi Kitô hữu sẽ đoàn tụ qua việc cử hành Phép Thánh Thể duy nhất, hiệp nhất trong một Giáo Hội độc nhất; sự hiệp nhất mà Chúa Kitô từ ban đầu đã rộng ban cho Giáo Hội của Người. Chúng tôi tin rằng sự hiệp nhất ấy tồn tại mãi trong Giáo Hội Công Giáo và hy vọng rằng mỗi ngày sẽ bành trướng thêm cho đến tận thế”. (Công Đồng Vaticanô II Sắc Lệnh về Hiệp Nhất, “Unitatis redintegratio ” số 4)
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã cầu xin cho chúng con, xin cử Chúa Thánh Thần đến, để Ngài giúp chúng con thực hành những điều Chúa muốn. Amen.
Bài Tin Mừng hôm nay được mô tả trong khung cảnh chiều ngày thứ năm thánh, lúc Chúa Kitô PS 7-A15
Bài Tin Mừng hôm nay được mô tả trong khung cảnh chiều ngày thứ năm thánh, lúc Chúa Kitô biết giờ chết của Ngài đang đến gần. Khi đó tâm trạng của Ngài thế nào?
Không còn nghi ngờ gì: trước hết Ngài dâng lên Chúa Cha lời cầu nguyện dài và thống thiết nhất mà chúng ta vẫn quen gọi là lời cầu nguyện hiến tế. Trong lời cầu nguyện tình con này, Ngài hướng về Cha 3 lần, và nhất là Ngài nghĩ đến tất cả những ai mà Người sắp phải từ biệt. Tất nhiên là Ngài nghĩ đến 12 các tông đồ, nhưng chỉ còn 11 ông trung thành thôi, nhưng Ngài cũng nghĩ đến tất cả những kitô hữu trên thế giới tin cậy vào Ngài.
Vâng, Ngài nghĩ đến chúng ta. Ngài biết quá rõ tâm trạng của con người thường bị cám dỗ chia rẽ. Đó chính là mối ưu tư nhất nên Ngài cầu nguyện tha thiết để sau khi Ngài ra đi, những ai tin vào Ngài cảm thấy sâu xa là phải hiệp nhất với nhau. Ngài không xin một điều gì khác ngoài sự hiệp nhất.
Câu chuyện tháp Babel trong Kinh Thánh là biểu tượng của sự chia rẽ. Và từ đó chia rẽ càng ngày càng lớn: chia rẽ giữa vợ chồng, chia rẽ giữa dân tộc này với dân tộc khác, chia rẽ giữa những người cùng chung sống bên nhau trong một cộng đoàn, trong một gia đình và trong một họ đạo.
Đương nhiên những sự chia rẽ giữa những người có đạo làm Chúa Kitô đau khổ nhất. Nếu Chúa Kitô cầu nguyện tha thiết cho vấn đề này, chính là vì Ngài biết rõ sự chia rẽ sẽ là điều bất lợi kinh khủng để tiến vào nước Chúa. Trong đêm chuẩn bị phải ra đi, Ngài có một cái nhìn bao quát xuyên suốt qua nhiều thời đại. Ngài nghĩ đến Giáo Hội. Sự chia rẽ lớn nhất giữa Giáo Hội Đông Phương và Giáo Hội Tây Phương, rồi sau đó là Tin Lành và Anh Giáo…Tại vườn Cây Dầu, Ngài biết cái chết vì yêu của Ngài cũng khó có thể dập tắt được sự ghét ghen sâu xa của con người. Chính vì vậy mà Ngài cầu nguyện tha thiết: “Xin cho họ nên một”.
Sự hiệp nhất này chỉ có thể thực hiện được nếu dựa vào sự hiệp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là Ba Ngôi vị hoàn toàn khác nhau. Nhưng 3 ngôi vị này hiệp nhất với nhau để chỉ là một Thiên Chúa mà thôi.
Hiệp nhất giữa người kitô hữu với nhau là dấu chỉ để thế giới tin vào Chúa Kitô. Tôn giáo không tạo nên những thách đố. Tôn giáo cũng không có khả năng chặn đứng được các xung đột. Chúa Kitô rất đau khổ khi thấy gương xấu những người tín hữu chúng ta chia rẽ lẫn nhau. Ngài nói với chúng ta: “Chẳng lẽ Chúa Cha lại sai Thầy xuống trần gian để chúng con xâu xé nhau vì danh Thầy sao?” Người ta có thể tin vào tình yêu của Chúa Cha thế nào được nếu các con cái Người chém giết lẫn nhau?
Trong thời gian gần đây, xuất hiện một thứ tôn giáo được gọi là “Hội Thánh Đức Chúa Trời”. Sự xuất hiện thứ tôn giáo này một hình thức nào đó cũng làm hoang mang cho những người công giáo chúng ta còn kém đức tin...và cũng có thể cản trở phần nào cho công cuộc truyền giáo của người công giáo chúng ta...
Vì thế, chúng ta phải là những người thợ xây dựng sự hiệp nhất, là trung gian nối kết mọi người lại với nhau, là biểu tượng như Chúa Kitô là cây cầu cạn nối kết tình yêu giữa Thiên Chúa với con người. Hãy hiệp nhất ngay trong gia đình và trong cộng đoàn của chúng ta.
Dĩ nhiên, điều không tránh khỏi là cũng có những cuộc tranh luận và cãi cọ lẫn nhau. Điều đó không quan trọng. Hiệp nhất không phải chỉ theo kiểu bề ngoài. Hãy tìm lại điều nối kết chúng ta lại một cách sâu xa nhất: đó là tình yêu của chúng ta với Chúa Kitô. Mối dây liên kết này dựa trên nền tảng của bí tích Thánh Thể và được đổ be-tông hóa bằng chính sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Gia đình hoặc cộng đoàn là nơi đặc biệt nhất để chúng ta học sống hiệp nhất mà vẫn tôn trọng sự khác biệt của nhau. Dù có những khó khăn nhất định nào đó, hãy tin tưởng vào Chúa Kitô, Ngài vẫn tiếp tục cầu nguyện cho chúng ta.
- Hãy hiệp nhất đức tin với cuộc sống hằng ngày của chúng ta:
+ Đừng là người độc thân ở nhà thờ, có nghĩa là vợ đi cầu nguyện, đi lễ, còn chồng cứ ở nhà;
+ Đừng là người vô đạo cứ ở nhà tất cả mà không đến nhà thờ đọc kinh hoặc không đi lễ, viện cớ là “đạo tại tâm”.
- Hiệp nhất giữa chiêm niệm và hành động, giữa Mattha và Maria.
- Hiệp nhất giữa vật chất và tinh thần. Chúng ta cũng đừng nên lặp lại tư tưởng cũ rích: vật chất có trước hay tinh thần có trước nữa!
- Hiệp nhất giữa tình yêu của chúng ta đối với Chúa và với những người thân cận: không thể yêu người này mà lại không yêu người khác.
- Hiệp nhất giữa nói và làm.
- Hiệp nhất giữa bề ngoài và bề trong.
- Hiệp nhất giữa dâng hoa, rước hoa với lòng tôn sùng Đức Mẹ, đó là biết tìm hiểu đâu là Thánh Ý Chúa để mà sống cho tốt hơn trước những biến cố của cuộc đời.
Boris Vian, một thi sỹ công giáo viết: “Tôi muốn một thế giới mà mọi người yêu mến nhau và muốn điều thiện cho nhau; một thế giới mà tình yêu và vui mừng luôn làm chủ, một thế giới chỉ nghe thấy tiếng đàn ghi-ta, sáo trúc và vĩ cầm để quên đi những thứ khác”.
Chúa Giêsu luôn ước mơ giao hoà, nối kết toàn thể nhân loại để một ngày nào đó Ngài sẽ giới thiệu nhân loại đó cho Cha của Ngài. Amen!
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan ghi lại lời cầu nguyện tha thiết của Thầy Giêsu với Chúa PS 7-A16
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan ghi lại lời cầu nguyện tha thiết của Thầy Giêsu với Chúa Cha cho chính mình, cho các môn đệ và còn mãi cho những người theo Chúa sau này trong tương lai là chúng ta. Trong lòng mến thiết tha, Người thân thưa với Cha mọi điều về đoàn con dấu yêu, trong mối tương quan đậm đà, với bao nhiêu lắng lo khắc khoải khi Người sắp về cùng Cha.
“Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta.” Đức Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ được hiệp nhất trong tình thương, để khi gặp gỡ họ, người ta nhận ra họ là môn đệ của Người. Tình thương ấy cao thượng và vô điều kiện. Chính người đã biểu lộ tình thương này là yêu đến chết và dám chết cho người mình yêu. Cho đến hôm nay chúng con vẫn chưa cảm nhận và sống một tình yêu như vậy, nên Chúa vẫn hằng cầu nguyện với Chúa Cha cho chúng con. Chúa vẫn chờ đợi để chúng con nhận ra tình yêu và lòng thương xót của Chúa mà nhìn lại chính mình và mở lòng đón nhận tình yêu của Chúa. Chính tình yêu thương và hạnh phúc trong Chúa giúp chúng con sống hiệp nhất với nhau, để chúng con được ở trong Chúa và Chúa ở trong chúng con.
Đức Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ và chúng ta khỏi bị bách hại: “Con đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian. Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian.” Người ra đi nhưng họ còn ở lại trần gian để tiếp tục sứ mệnh của Người. Người lo lắng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần, giúp họ vượt qua những khó khăn khi thi hành sứ vụ. Họ có thể bị thù ghét, bách hại vì niềm tin.
Đức Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ và chúng ta được thánh hiến trong sự thật: “Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật. Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian. Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến.” Chính Người đã hiến thánh chính mình làm lễ vật để kính tiến lên Chúa Cha. Hôm nay đây chúng con được thánh hiến trong sự thật là Lời Cha để thánh hóa mình và tha nhân. Thiên Chúa là Cha nhân từ đầy yêu thương muốn cho tất cả chúng con được ơn cứu độ. Còn chúng con là con người yếu đuối mỏng dòn hay sa ngã. Nhưng nếu chúng con nhìn nhận và trở về với Chúa sẽ được cứu độ và được sống hạnh phúc muôn đời.
Lạy Chúa Giêsu! xin sai Thánh Thần Chúa đến ở với mỗi người chúng con, cho chúng con được sức mạnh vượt thắng ác thần và được thánh hiến trong tình yêu của Chúa. Trong Thánh Thần chúng con được đổi mới, cả trong cộng đoàn chúng con, giúp chúng con sống hiệp nhất yêu thương trong cuộc đời và hăng hái ra đi loan báo Tin Mừng cho đời đẹp hơn. Amen.
Trong lời cầu nguyện với Chúa Cha sau bữa tiệc ly (x. Ga, chương 17), Chúa Giêsu đã ca tụng PS 7-A17
Trong lời cầu nguyện với Chúa Cha sau bữa tiệc ly (x. Ga, chương 17), Chúa Giêsu đã ca tụng và tôn vinh Chúa Cha. Người cũng xin Chúa Cha tôn vinh Người, vì Người đã đến trần gian để thực hiện ý của Chúa Cha. Vì trung thành với Thánh ý Chúa Cha, mà Người đã vui lòng chấp nhận thập giá và chết trên thập giá. Cũng trong lời cầu nguyện này, Chúa Giêsu xin Chúa Cha tôn vinh những ai trung tín theo Người để làm môn đệ của Người. Hành trình đức tin của người Kitô hữu chính là hành trình tôn vinh Thiên Chúa. Đó cũng là hành trình đạt tới vinh quang mà Thiên Chúa ban cho những ai yêu mến và trung tín với Người.
Nguyện cho Chúa được tôn vinh. Đó là điều ước nguyện đầu tiên trong kinh nguyện duy nhất mà Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ, tức là kinh “Lạy Cha”. Nếu chúng ta ước mong để Chúa được tôn vinh, điều đó không có nghĩa là Thiên Chúa bị lệ thuộc và chỉ được tôn vinh do con người. Không phải vậy, bản chất Thiên Chúa là vinh quang thánh thiện. Sự thánh thiện và vinh quang đã có từ ngàn đời. Vì Thiên Chúa là Đấng tự hữu, là Đấng vô thủy vô chung. Nếu chúng ta cầu nguyện để “xin cho Danh Cha được cả sáng”, là chúng ta mong ước cho nhân loại nhận ra vinh quang mà Thiên Chúa vốn có. Bởi lẽ con mắt và lý trí loài người bị che phủ, nên họ không nhận ra vinh quang của Ngài. Việc nhận ra vinh quang Thiên Chúa sẽ đem lại hạnh phúc và ơn cứu rỗi cho con người.
Con người có thể tôn vinh Thiên Chúa bằng cách nào?
Như Chúa Giêsu đã tôn vinh Thiên Chúa qua việc tuân hành Thánh ý của Chúa Cha, người tín hữu có thể tôn vinh Chúa Cha qua việc thực thi ý Chúa. Đó cũng là điều chúng ta cầu nguyện trong kinh Lạy Cha: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Thực hiện ý Chúa đôi khi đi ngược lại với quan điểm và lối suy nghĩ của con người, vì “như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng của Ta cũng vượt xa tư tưởng của các ngươi bấy nhiêu”. Thiên Chúa thấu suốt tư tưởng thầm kín của con người, trong khi con người chỉ nhìn thấy những gì bề ngoài. Những suy tư tính toán và định hướng của con người, có thể là tốt trong một thời điểm nào đó, nhưng lại không có giá trị vững bền. Thực thi ý Chúa trước hết là cầu xin Ngài soi sáng để biết đâu là điều Chúa muốn nơi cuộc đời mình, trong hiện tại cũng như trong tương lai, đồng thời xin Ngài ban sức mạnh để chúng ta có thể thực hiện được những gì Ngài muốn. Thực thi ý Chúa đôi khi đòi hỏi phải hy sinh và kiên trì. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu là gương mẫu cho chúng ta: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cất chén này xa con, nhưng xin đừng theo ý con, mà theo ý Cha”. Như một vận động viên chấp nhận khổ luyện, chắc chắn sẽ thành tài, những ai chuyên tâm thực thi ý Chúa sẽ được Ngài ban thưởng. Chuyên tâm thực thi ý Chúa, chính là những nỗ lực để tôn vinh Ngài.
Ơn gọi của người Kitô hữu là nên thánh. Chúa Giêsu đã nhắc lại giáo huấn của Cựu ước: “Các người hãy nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành”. Cuộc đời người Kitô hữu cũng chính là hành trình nên thánh. Thời gian sống trên trần gian là quà tặng Chúa ban cho chúng ta, và để chúng ta sử dụng có ý nghĩa, đem lại hạnh phúc cho bản thân và giúp đem niềm vui cho tha nhân bạn bè. Khi người Kitô hữu sống thánh thiện, là họ phản ánh vinh quang của Thiên Chúa. Bởi lẽ sự thánh thiện nơi chúng ta chính là một phần nhỏ của sự thánh thiện xuất phát từ Thiên Chúa. Thiên Chúa là nguồn mạch của sự thánh thiện. Sự thánh thiện nơi con người đều xuất phát từ Thiên Chúa. Như thế, mặc dù còn sống nơi trần gian, nhưng khi cố gắng sống thánh thiện là chúng ta đã nếm trước hạnh phúc Thiên đàng. Thánh Irenê, một Giáo phụ lừng danh người Hy Lạp ở đầu lịch sử Giáo Hội đã khẳng định: “Vinh quang Thiên Chúa là con người sống vui”. Khi con người sống hạnh phúc thì họ phản ánh vinh quang và sự thánh thiện của Thiên Chúa. Hạnh phúc trọn vẹn cũng là một tên gọi khác của sự thánh thiện. Khi cố gắng nên thánh, là chúng ta tôn vinh Thiên Chúa.
Con người sống trên trần gian không như những ngôi sao cô đơn, nhưng hòa hợp với tha nhân để làm nên bản hòa tấu tuyệt vời của cuộc sống. Sự khác biệt về sở thích, ngành nghề, quan điểm, tài năng… tạo nên sự phong phú đa dạng, như những nốt nhạc trầm bổng của một bản hợp xướng cuộc đời. Tình liên đới, lòng bác ái sẻ chia mà con người dành cho tha nhân sẽ làm tăng thêm vẻ đẹp của cuộc sống. Trong thời gian đại dịch viêm phổi Vũ Hán (COVID-19) vừa qua, tình liên đới được thể hiện một cách tuyệt vời. Nhiều cá nhân cũng như tập thể đã thể hiện truyền thống tương thân tương ái, “lá lành đùm lá rách”, “một miếng khi đói bằng một gói khi no”, quảng đại giúp đỡ những người túng thiếu nghèo đói trong lúc đại dịch. Nhiều người không nhân danh một tổ chức hoặc tôn giáo nào, mà chỉ làm việc thiện theo sự mách bảo của trái tim. Đối với những tín hữu Công giáo, việc bác ái trở nên có ý nghĩa hơn, nếu nó được thực hiện vì Chúa. Chúa Giêsu đã đồng hóa với người tù đày, nghèo đói, cô đơn bất hạnh và bị bỏ rơi bên lề cuộc đời. Người khẳng định: khi chúng ta giúp đỡ những người như thế, là chúng ta giúp đỡ chính Chúa (x. Mt 25, 31-46). Những nghĩa cử bác ái được thực hiện “với danh nghĩa là môn đệ của Thày Giêsu”, đồng thời cũng diễn tả vinh quang Thiên Chúa giữa đời, và làm bừng lên giữa cuộc đời còn nhiều tăm tối những ngôi sao hy vọng, những ngọn nến của lòng nhân ái yêu thương. Khi thực hiện bác ái đối với tha nhân là chúng ta tôn vinh Thiên Chúa.
Cuộc sống được so sánh như một cuộc lữ hành. Bước vào đời, ta là thân lữ khách. Hành trình cuộc đời có những êm ả, nhưng cũng không thiếu bão giông. “Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Những khó khăn ta gặp phải như những thử thách giúp ta được tôi luyện và trưởng thành. Giữa những mâu thuẫn xung đột, đôi khi trở nên rất nghiêm trọng, người Kitô hữu được mời gọi trở nên những nhà kiến tạo hòa bình, xây dựng một xã hội nhân ái. Chúa Giêsu được gọi là “Hoàng tử hòa bình”. Người đến thế gian để xóa bỏ bức tường ngăn cách giữa các dân tộc, nhất là xóa bỏ khoảng cách giữa Thiên Chúa và con người do tội lỗi gây nên. Vì mang danh Kitô hữu, chúng ta cũng có sứ mạng xây dựng hòa bình nơi trần thế. Những cố gắng hòa giải, giảm thiểu và xóa bỏ xung đột giữa những cá nhân cũng như những tập thể, đều nhằm diễn tả vinh quang Thiên Chúa, làm cho Vương Quốc yêu thương của Người sớm được thể hiện nơi cuộc sống của chúng ta. Khi cố gắng hòa giải và kiến tạo hòa bình, là chúng ta tôn vinh Thiên Chúa.
Thiên Chúa là Đấng vô hình, nhưng Ngài đã trở nên hữu hình nơi Đức Giêsu Kitô và hôm nay Ngài vẫn đang hiện diện nơi trần thế. Kitô hữu là người được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô. Qua cách sống và thiện chí của người tín hữu, Thiên Chúa đang thực thi lòng thương xót của Ngài. Chúng ta hãy cùng tôn vinh Thiên Chúa bằng chính cuộc đời của chúng ta, để Ngài đuợc nhận biết và được yêu mến. “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thày ở điểm này: là anh em thương yêu nhau” (Ga 13,35). Khi nỗ lực và cố gắng làm cho Chúa được nhận biết, chính là việc làm nhằm tôn vinh Thiên Chúa.
Lời nguyện tha thiết của Chúa Giêsu xin cho chúng ta nên một như Chúa Cha ở trong Chúa Con PS 7-A18
Lời nguyện tha thiết của Chúa Giêsu xin cho chúng ta nên một như Chúa Cha ở trong Chúa Con và Chúa Con ở trong Chúa Cha” (x.Ga 17, 21) vang lên trong phụng vụ hôm nay, Chúa nhật cuối của mùa Phục Sinh, khi mà chúng ta đang chuẩn bị tâm hồn mừng Chúa Thánh Thần hiện xuống như lời Đức Giêsu đã hứa với các môn đệ trong bữa tiệc ly trước khi về trời.
Khi đến giờ rời bỏ thế gian mà về cùng Đức Chúa Cha, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ nhiều điều, toàn bộ Phúc Âm thánh Gioan chương 17 là một bằng chứng. Sau một loạt diễn từ ly biệt, được kết thúc bằng kinh nguyện vô cùng cảm động Chúa Giêsu dâng lên Cha. Kinh nguyện mở đầu bằng lời khẩn cầu danh Cha, ca tụng Ngôi Cha và Ngôi Con (Ga 17, 1-5). Thứ đến là xin “Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha” (Ga 17, 1). Và sau cùng là lời cầu xin cho các môn đệ.
Xin cho chúng nên một
Chúa Giêsu thấu hiểu những yếu đuối mỏng giòn của các môn đệ, nên Người tha thiết cầu xin Cha cho họ được hiệp nhất trong tin yêu, để các ông có thể thi hành sứ mạng rao giảng tin Mừng Nước Thiên Chúa, một sứ mạng vô cùng khó khăn và đầy những thử thách, các ông phải tự mình đương đầu. Dù sống giữa thế gian, nhưng không thuộc về thế gian, hoạt động của các ông không qui về mình hay hướng về người khác, nhưng qui hướng về Chúa. Đó là lý do khiến Chúa Giêsu cầu nguyện: “Xin cho họ nên một như Cha ở trong con và con ở trong Cha” (Ga 17, 21). Nhờ “sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần“, được ràng buộc “bởi sợi dây bình an“, tất cả họ sẽ “duy trì sự hiệp nhất của Thần khí… Chỉ có một Thân mình và một Thần khí ” (Ep 4, 3 – 4), giúp họ hợp nhất cùng nhau.
Vì muốn hiệp nhất muôn người trong Thiên Chúa, nên Chúa Cha đã sai Chúa Giêsu đến thế gian để thánh hiến họ trong chân lý. Khi đầu thai trong lòng Trinh Nữ Maria, Chúa Giêsu đã thực hiện một sự hiệp thông đầy kinh ngạc giữa bản tính Thiên Chúa với bản tính loài người “Đức Giêsu Kitô, là Thiên Chúa thật và là người thật” (Kinh Tin Kính). Trong cuộc Thương Khó, Người đã xuống ngục tổ tông, nhà tù giam hãm chúng ta để giải thoát và đưa chúng ta lên cùng Thiên Chúa.
Chúa Giêsu ban vinh quang cho các môn đệ: “Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con” (Ga 17, 22). Vinh quang ở đây là Chúa Thánh Thần, Đấng liên kết con người với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã ban cho họ vinh quang khi nói, “Hãy lãnh nhận lấy Chúa Thánh Thần” (Ga 20, 22). Chúa Giêsu đã nhận được vinh quang khi mặc lấy bản tính loài người chúng ta, bản tính đã được tôn vinh trong Thánh Thần. Vinh quang Người đã có “trước khi tạo thành thế gian” (Ga 17,5) liên kết nhân loại nên một trong Chúa.
Xin Cha gìn giữ chúng
Trong suốt thời gian ở giữa các môn đệ, Chúa Giêsu đã trung thành gìn giữ họ. Khi trở về cùng Cha, Người không vắng mặt, Người cầu xin Cha cho họ, để họ giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi, là Cha và Con và Thánh Thần.
Chúa Giêsu đến thế gian để hoàn thành sứ mạng mà Chúa Cha đã trao, đến lượt các môn đệ, họ cũng được trao cho một sứ mạng (x. Ga 13, 1). Chúa Giêsu không xin Cha đưa họ ra khỏi thế gian, nhưng xin gìn giữ họ khỏi những hiểm nguy của thế gian (x. Ga 17, 15). Vì nếu đưa họ ra khỏi thế gian thì sứ mạng tông đồ của họ chấm dứt. Xin Cha gìn giữ họ khỏi bị thế gian lây nhiễm, và thánh hoá họ trong sự thật (x. Ga 17, 17), xin cho họ được tràn đầy Thần Chân Lý. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu làm sáng tỏ: “Chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian” (Ga 17,16).
Chúa Giêsu xuống tận vực thẳm của con người để kéo con người lên vì: “Thiên Chúa là Tình Yêu“. Đây là tột đỉnh của Mạc Khải. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu thôi thúc chúng ta hiệp nhất với Thiên Chúa, và trong vinh quang đầy quyền thế Chúa Giêsu không ngừng cầu nguyện và gìn giữ để: “Không một ai trong chúng bị mất” (Ga 17,12).
Xin thánh hiến họ
Lời khẳng định trên cho thấy Chúa Giêsu và các môn đệ không thuộc về thế gian. Để hoạt động trên thế gian và trong thế gian, mà không liên can đến thế gian, nghĩa là được miễn dịch khỏi thế gian, các môn đệ cần phải được hiến thánh (x. Ga 17-19).
Khi muốn bảo vệ các môn đệ khỏi Sự Dữ trong thế gian, Chúa Giêsu đã tự thánh hiến chính mình, Người nhấn mạnh đến tầm quan trọng là “viên mãn trong Thiên Chúa” khi “ở trong tình yêu“. Nguồn gốc của sự thánh hiến này là trung thành với Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Chúa Cha, Đấng tự hiến chính mình. Người ban Chúa Thánh Thần cho họ và xin cho họ sớm đạt được điều Người cầu xin. Chúa Thánh Thần là sự hiệp nhất của Chúa Cha và Chúa Con, liên kết tâm hồn họ với Chúa Cha, kết hợp trái tim tội lỗi của chúng ta với Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế. “Con đã ban lời Cha cho chúng, và thế gian đã ghét chúng, vì chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian” (Ga 17, 14). Họ đã nhận được Lời, từ “Logos”, Ngôi Lời của Thiên Chúa, đã trở thành nhục thể và ở giữa chúng ta (Ga 1, 14).
“Lời Cha là chân lý “(Ga 11, 14). Bản chất của Lời là ở với Chúa Cha, đó là chân lý. Kể từ khi Người cho họ tham dự vào sứ mạng của Chúa Con (x. Ga 10, 36 và Ga 17, 18), họ cũng phải tham gia vào sự thánh thiện của Thiên Chúa. Người đã chọn và cắt đặt họ để họ sinh nhiều hoa trái. Đức Giêsu được thánh hiến trong sự thật. Người cũng xin Chúa Cha thánh hiến họ “trong sự thật“. Sự thánh hiến này không phải là bên ngoài nhưng nó là sự thật, sâu sắc, thực sự.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã cầu xin cho chúng con được hiệp nhất. Xin liên kết chúng con nên một trong tình yêu của Chúa với Chúa Con trong Chúa Thánh Thần. Amen.
Trong mức độ nào, “lời nguyện thượng tế” này đã được Chúa Giêsu thực sự phát biểu? Phải chăng PS 7-A19
1. Trong mức độ nào, “lời nguyện thượng tế” này đã được Chúa Giêsu thực sự phát biểu? Phải chăng đây là bản sao từng chữ những lời Chúa Giêsu đã nói? hay chỉ là một bài kinh do thánh sử góp nhặt soạn ra?
2. Gọi lời kinh này là “lời nguyện thượng tế” có đúng không?
3. Lời Chúa Giêsu xin Chúa Cha hãy tôn vinh Người phải chăng hơi vụ lợi?
4. Phải hiểu câu 3 thế nào?
5. Phải hiểu ra sao lời Chúa Giêsu nhắc đến “vinh quang mà Con đã có nơi Cha trước khi có thế gian” (c.5) ? Có đúng là lời nhắc đến sự tiền hữu đời đời không ?
6. Chúa Giêsu đã dùng danh nghĩa nào để phó thác môn đồ mình cho lòng nhân ái của Thiên Chúa (c. 6- 8) ?
7. Khi Chúa Giêsu bảo rằng Người không cầu xin cho thế gian, thì phải hiểu chữ “thế gian” này theo nghĩa nào?
CHÚ GIẢI
1. Cả hai diễn từ giã biệt đều kết thúc bằng cùng một lời nguyện ca tụng việc tôn vinh Chúa với cung giọng long trọng và tràn đầy hân hoan. Một khi thốt lên lời “Ta đã thắng thế gian” (16, 33) thì Chúa Giêsu đã vượt qua ngưởng cửa của vĩnh cửu. Vì vậy lời nguyện này phải được coi như là một kinh Tiền Tụng phụng vụ mà Chúa đã đọc hay hát cách long trọng vào chính lúc Người đi vào vinh quang của Người. Thánh Gioan cho Chúa nói như thể Người đang còn trong thế gian (17, 13. 19) nhưng đồng thời như thể đã rời bỏ thế gian rồi (17, 4. 11 . 12. 18) Trong tâm trí thánh sử thì Chúa Con trở về trong lòng Chúa Cha khi hát lên bài ca hoan lạc ấy (1, 18 ; 13, 1- 3).
Nhìn vào cách trình bày lời nguyện thiên giới này, ta thấy phải loại bỏ ngay giả thuyết cho rằng đây chỉ là bản sao từng chữ một thánh thi đã được đọc lên trong căn phòng cử hành bữa Tiệc ly. Tuy nhiên cũng không được phép xem nó như là một bản kinh do thánh sử hoặc một ngôn sứ nào đó trong Giáo Hội tiên khởi sáng tác ra. Nhờ cách cấu tạo cũng như nhờ những yếu tố cơ bản nhất, lời kinh này gắn liền với biến cố lịch sử Tiệc ly. Gioan bắt lấy những cử chỉ đã thực hiện, những lời nói đã phát biểu lúc bấy giờ để mặc cho chúng một ý nghĩa trọn vẹn và đích thật dưới ánh sáng của Thần khí. Việc cử hành lễ Vượt qua thường có kèm theo những kinh nguyện phụng vụ, nhưng bản tường thuật ngắn gọn của các Tin mừng Nhất lãm và của Phaolô cho phép chúng ta đoán rằng trong bữa tối cuối cùng ấy, Chúa Giêsu đã sửa đổi một vài nghi thức để mang lại cho việc cử hành lễ này một ý nghĩa hoàn toàn mới lạ.
Bữa ăn tối này là nguồn gốc lễ Vượt qua của Giao ước mới, phát xuất từ việc cử hành Giao ước cũ. Thành thử ta có thể cho rằng việc biến đổi bữa ăn Vượt qua tất nhiên kéo theo một sự thay đổi các chủ đề mà Chúa đã dùng trong kinh nguyện phương kế tiếp bữa ăn. Nội dung của nhưng thêm bớt này đã không được giữ lại cho chúng ta. Điều đó chẳng những là do thái độ tế nhị và kính trọng của thánh sử đối với lời kinh của Chúa, Đấng thường cầu nguyện trong nơi thanh vắng, nhưng còn do sự bất kham thực tế của thánh sử. Cho dầu có trí nhớ sắc bén đến đâu ông cũng không thể ghi lại từng chi tiết những điểm thay đổi được thực hiện cách bộc phát trong suốt buổi phụng vụ của Bữa ăn cuối cùng. Về bài kinh của Chúa, chúng ta chỉ giữ lại được một vài lời nguyện ngắn mà thôi (Ga 11 .41- 42 ; 12, 27- 28).
Bởi vậy, không nên coi lời nguyện thượng tế này như một cuốn băng ghi lại các câu nói của Chúa Giêsu, vì lẽ Tin Mừng thường ngắn gọn, vì thực tế không thể nào nghe cùng nhớ được tất cả trong những hoàn cảnh như vậy, và nhất là vì Gioan có mục đích rõ rệt là trình bày một tổng hợp về các biến cố. Nhưng cũng không kém liều lĩnh táo bạo khi xem lời nguyện này như một sáng tác của chính thánh sử, bởi lẽ những chỗ đề cập đến “Giờ”, những điểm chung với diễn từ bánh sự sống (ch.6), cái hoàn cảnh-biên giới giữa cuộc sống trong thế gian và cuộc sống bên chúa Cha của lời nguyện, niềm ưu tư mà lời nguyện bộc lộ đối với những ai còn ở trong thế gian, và sau cùng những ám chỉ về sự phản bội (17, 12), về sứ mạng của các môn đồ đầu tiên, về sự từ bỏ mình cho đến chết, tất cả đều là âm vang của hoàn cảnh lịch sử của bữa Tiệc ly.
2. Phải cho lời nguyện này nhan đề gì? Truyền thống, mà tác giả Tin lành David Chytraeus (1531 – 1600) đã thâu lượm và tóm tắt dưới hình thức ngắn gọn, đã gọi đây là lời nguyện thượng tế. Các nhà chú giải hiện đại thì thích gọi là lời nguyện tế hiến hay lời nguyện truyền chức hơn, vì theo họ thì trong lời nguyện này, Chúa Kitô tự hiến làm lễ vật dâng lên Chúa Cha và thánh hiến các môn đồ Người để họ chu toàn sứ mệnh. Thật ra, việc Chúa Giêsu trao ban, dâng hiến mạng sống, dù là nền tảng của cả bài diễn từ, vẫn chỉ được đề cập đến một lần mà thôi (17, 19) giống như việc thánh hiến các môn đồ cho sứ mạng vậy (17,17- 19). Nhiều nhà chú giải khác lại muốn coi sự hiệp nhất là chủ đề chính của lời nguyện; những thực ra, ý tường hiệp nhất, dù rất quan trọng, cũng chỉ lui tới trong ba câu (11 .21 .22). Thành thử nên dùng cách gọi của truyền thống. Với tư cách là thượng tế (như thánh Cyrille thành Alexandriẹ đã nhấn mạnh, PG 74, 505- 508), nghĩa là với tư cách đại diện cho những kẻ tin – của thời hiện tại cũng như tương lai = Chúa trở về với Cha Người và cầu khẩn Cha cho những ai mà Người đại diện, vì Người “đã được chọn giữa loài người và thay cho loài người” (Dt 5, 1). Người là vị Thượng tế duy nhất. Trong dịp biểu lộ hành vi thượng tế này, Người nhìn lại sứ mạng đã hoàn tất (cc. 1-8) và cầu xin cho những kẻ được giao phó cho Người, cho tiểu tổ đầu tiên (cc.9-19) cũng như cho các thế hệ mai sau (cc.20-23), ngõ hầu một ngày kia tất cả được hiệp nhất với Người trong vinh quang sẽ tới (cc 24-26).
3. Như trong diễn từ (13. 31), Chúa Giêsu bắt đầu lời nguyện bằng cách đề cập đến vinh quang người chờ đợi nơi Cha, cái vinh quang mà rồi cũng sẽ hướng về việc tôn vinh chính Cha. Giáo lý căn bản trong Tin Mừng thứ 4 chính là vai trò mặc kải Chúa Cha này của Ngoi Lời nhập thể vậy. Nhưng để mặc khải Thiên Chúa, thì những đặc quyền thần linh phải tỏa sáng trong Người. Nếu Cha không cho Con ra khỏi cuộc Khổ nạn mà “Giờ đã đến” (12,23), nghĩa là không ban cho Con chiến thắng ma quỷ thế gian và sự chết, thì coi như sứ mạng của Người nơi loài người đã thất bại. Thiên Chúa vẫn không được nhìn nhận và sẽ còn bị xúc phạm hơn trong dĩ vãng nữa. Việc tôn vinh con nay sắp khởi sự trên thập giá (Ga 3, 14. 8, 28 ; 12, 32. 34), sẽ chỉ hoàn tất vào ngày Cha phục sinh Người và đặt ngồi bên hữu mình, để cùng với Người thống trị muôn đời muôn kiếp.
Thành ra không có vấn đề xem một lời nguyện như thế là khấn xin vinh quang cho chính mình (7, 18 ; 8, 50 ; 9, 3 ; 11, 4 ; 31), để làm phần thưởng vì đã hoàn thành sứ mạng. Vì việc tôn vinh Con chỉ có mục đích tôn vinh Cha: Do việc Con được đón nhận cách hữu hình vào trong vinh quang của Cha, và do việc mở rộng vinh quang ấy bằng đức tin vào Người cũng như tin vào Cha nhờ người (14, 13 ; 15, 8 ; x. 12, 24 ; 16, 14), nên sự tôn vinh Con cũng là tôn vinh Cha, vì chính vinh .quang c ủa Cha tỏ hiện trong Con. Và đấy cũng là ý nghĩa của sứ mạng Chúa Giêsu, là mục đích mà vì đó Người đã được mặc lấy quyền năng: làm cho mọi người biết Chúa Cha và như thế ban cho họ sự sống đời đời.
4. “Sự sống đời đời là chúng nhận biết Cha là Thiên Chúa độc nhất chân thật và Đấng Cha đã sai là Giêsu Kitô, (c.3). Sự sống đời đời hệ tại việc nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất chân thật và Đấng Ngài đã sai là Giêsu Kitô. Câu này không có nghĩa là con người phải nhận biết Cha như là Thiên Chúa duy nhất chân thật, và Chúa Giêsu như là Đấng Kitô (làm như Chúa Giêsu chẳng phải là Thiên Chúa), nhưng đúng hon có nghĩa là mọi người phải nhận biết Cha, Đấng vốn là Thiên Chúa duy nhất chân thật, và sứ giả của Thiên Chúa Cha, tức là Chúa Giêsu Kitô. Cha được gọi là Thiên Chúa duy nhất chân thật để chống lại các thần minh giả tạo của đa thần giáo. Còn tên Giêsuu Kitô (dùng một lần thứ hai nơi Ga 1, 17), mà thời Chúa Kitô chưa được dùng và chỉ xuất hiện lần đầu tiên trong các thư Phaolô làm cho ta ngạc nhiên vì nằm trên miệng Chúa Giêsu. Giả thuyết khá hơn hết cho rằng có lẽ khi biên soạn, Gioan đã chịu ảnh hưởng của thói quen Kitô giáo thời đó nên đã đưa vào danh xưng đầy đủ Giêsu-Kitô Cha đã sai Thầy vì “Đấng Cha đã sai” hoặc “Chúa Kitô Cha đã sai”. nhưng nếu cứ cho rằng Chúa Giêsu đã tự gọi mình như thế, thì phải xem tiếng Kitô như là một thuộc từ (1Ga 2, 22 ; 5, 1).
Sự sống đời đời là chính sinh hoạt của Thiên Chúa vĩnh cửu Đối với Cha, sự sống này là biết Con mình trong tình yêu, trong sự thông hiệp trọn vẹn cả bản tính lẫn mọi phong phú thần linh (15, 26 ; 6, 27) ; đối với Người, nó hệ tại việc nhận biết Cha Người, chiên ngưỡng Cha với tình yêu và nhận nơi Cha tất cả: sự sống, giáo lý, sứ mạng, công việc và ngay cả môn đồ (17, 7- 8 ; 4, 34).
Được Cha ủy nhiệm, Chúa Kitô ban cho các kẻ tin được thông phần vào sự sống ấy, vào sinh hoạt của Thiên Chúa Ba Ngôi. Đối với họ cũng vậy, sự sống này là “nhận biết” Thiên Chúa hằng sống, là phối hợp với Ngài một cách thiêng liêng, là đồng hóa một cách nào đó với mầu nhiệm Ngài để chiêm ngắm Ngài từ bên trong. Vì thế sống là thấy và yêu mến Thiên Chúa duy nhất chân thật, Cha của Chúa Giêsu và là Cha của họ, Đấng không ngừng ban cho họ sự sống, cử động và hữu thể trong lãnh vực tự nhiên cũng như siêu nhiên. Sống là “biết” Chúa Kitô cũng một cách tương tự, bằng trí khôn và con tim, là nhìn nhận Người như Đang được sai, Con Thiên Chúa, Messia, là yêu mến Người và theo Người với các tước hiệu trên. Sống là tin vào Người với đức tin chân thật (20,31). Sau cùng, sống là “biết” Thánh Thần, Đấng sinh động các tín hữu (14, 17). Được tham dự đích thực vào sinh hoạt của Thiên Chúa như thế, đời sống Kitô hữu quả là việc chiêm ngắm với lòng yêu thương Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trong chúng ta vậy.
5. Trong giờ hoàn tất sứ mạng dưới đất này, Chúa Giêsu biết chắc rằng Người được nhận vào trong vinh quang của Chúa Cha. Chuyển động được mô tả ở đây đại nghịch với chuyển động đã được phác họa trong Bài Tựa đề. Theo bài Tựa, Chúa Giêsu từ bên Thiên Chúa, từ thế giới riêng biệt của thần linh đi xuống thế gian với tư cách Ngôi Lời, tư cách kẻ tỏ hiện Cha, để nên ánh sáng và sự sống cho nhân loại. Vâng, “Ngôi Lời đã thành xác phàm và đã lưu trú giữa chúng tôi” (1, 1- 14). Từ nay, Người bỏ “thế gian” để được tin linh bên Chúa Cha, được ban thưởng vinh quang mà Người không ngừng chiếm hữu, vì thực sự Người đã có vinh quang ấy trước khi thế giới được tạo thành (17, 24 ; 11- 2. 14 ; 58 ; 1Ga 1, 2. 3 ; 2, 13). Dù thật là Thiên Chúa, Người đã muốn vinh quang ấy, hình thái bên ngoài của thần tính Người, bị bức màn nhân tính phủ lấp một thời gian. Người đã mặc lấy hình dáng nô lệ (Pl 2, 7). Nhưng bây giờ Người trở về lại cái hình thức hiện hữu đặc thù của người trong vinh quang của Thiên Chúa Cha Người.
Nhiều công trình nghiên cứu mới đây đã cố gắng dựa vào những giải thích có vẻ đúng để giảm bớt tầm mức của lời xác quyết quan trọng về sự tiền hữu của Chúa Giêsu ấy, bằng cách cho rằng nó chỉ nói lên lòng người xác tín sẽ lãnh nhận vinh quang mà Chúa Cha đã dành cho Người ngay trước khi có vũ trụ. Nhưng những chứng từ văn bản đáng tin cậy nhất như câu song song 24, bài Tựa (1, 1-2. 14: vinh quang bên Cha) và văn mạch tổng quát của Tin mừng thứ Tư đều bênh vực lối giải thích cho rằng đây là lời ám chỉ đến vinh quang mà Chúa Gỉêsu, nhờ sự tiền hữu của người, đã có trước khỉ vũ trụ tạo thành. Nếu việc tỏ hiện vinh quang xảy ra vào cuối đời của Chúa Giê-su có tầm mức quan trọng như thế đối với Gioan, thì phải chăng đó cũng là một bằng chứng cho thấy Chúa Giêsu phát xuất từ vinh quang Chúa Cha? Ở đây, cái vinh cửu ở cùng đích bảo đảm cho cái vĩnh cửu nguồn gốc vậy.
6. Lời cầu cho các môn đồ (17,6tt) đặt nền tảng trên vai trò mà môn đồ sẽ phải thực hiện, trên các mối tương quan đặc biệt nối kết họ với Tôn Sư, trên thái độ trung tín của họ đối với Người. Lời nguyện khởi đầu bằng việc trình bày các danh nghĩa phó thác họ Cho lòng nhân ái của Chúa Cha. 1/ Họ là những người được tuyển chọn cách đặc biệt và tách ra khỏi thế gian (ek tou kosmou) bằng ơn gọi riêng. 2/ Họ thuộc về Chúa Cha (soi ban), họ trung thành với Ngài như những người Do thái tốt lành và đạo đức 3/. Nhưng Chúa Cha đã giao họ cho Con, ka moi nus dedêkas, để trở thành môn đồ của Con, để lãnh nhận các huấn lệnh và chỉ thị của Người, để theo người trong suốt cuộc đời công khai và để tiếp tục công việc của Người sau khi Người ra đi. 4/. Và họ đã để Cha giao cho mà không chống cự, họ đã tin vào tiếng Chúa Con. Nói thế rồi, Chúa Giêsu mới có thể cho họ biết Danh Cha; Danh Cha không những chỉ bản tính hay phẩm tính đích thực của Thiên Chúa mà thôi, song còn là sự kiện tuyệt vời này nữa: Thiên Chúa là Cha và Ngài có một người con. Tất cả Tin mừng chỉ trình bày có thế Các môn đồ đã lãnh nhận (elabon), đã trung thành gìn giữ (tetêrêkasin) những lời Chúa Giêsu lấy từ nơi Cha mà truyền cho họ (8, 40 ; 12, 49 ; 15, 15 ; 1, 14). Như vậy, họ đã biết rằng Chúa Giêsu từ Cha mà ra, cùng đã tin rằng Người là Đấng Cha sai đến. Hai câu cuối này bổ túc cho nhau. Câu thứ nhất có liên quan đến một chân lý đức tin (16, 27- 30). Và hình như thánh sử dùng hai động thì: egnôkan (họ đã nhìn nhận) và epistousan (họ đã tin) hầu như không khác biệt gì nhau (6, 69). Cả hai đều nhắm đến một sự hiểu biết bằng đức tin: nghĩa là biết Chúa Giêsu là Đấng được sai phát xuất từ cung lòng Chúa Cha, là Người Con đã sống bên Ngài trước khi vũ trụ được tạo thành.
7. Lời nguyện cầu cho các môn đồ (c. 9) là một hình thức mở rộng lời cầu xin cho được tôn vinh (c. 1) ; vì chính nhờ lòng kiên trì và sứ mạng của các môn đồ này mà danh Thiên Chúa, được giao phó cho Chúa Giêsu, sẽ được tôn vinh trên trái đất, như Chúa Giêsu nói ở câu 10 : “Con đã được tôn vinh nơi chúng”. Chủ đề “đối kháng giữa môn đồ và thế gian”, nổi bật trong phần thứ hai của diễn từ sau hết (nhất là trong 15, 18- 16, 4a), bây giờ lại xuất hiện trong lời kinh cuối cùng của Chúa Giêsu. Các môn đồ sẽ được để ở lại trong thế gian (c. 11) song họ không thuộc về thế gian (cc. 14. 16) cũng như Nước của Thầy họ chẳng thuộc về thế gian vậy (18,36). Vì là những người khách lạ trong thế gian, nên nguyên sự hiện diện của họ cũng đủ gây xáo trộn rồi. Chúa Giêsu đã ban cho họ lời của Thiên Chúa (c. 14) và sai họ đi vào thế gian (c. 18) nhưng thế gian đã phản ứng lại . bằng hận thù ghen ghét (c.14).
Làm thế nào để dung hòa ý tưởng Chúa Giêsu sai môn đồ mình vào thế gian với ý tưởng Người từ chối cầu nguyện cho thế gian (c. 9)? một vài nhà phê bình muốn làm dịu bớt sự cứng rắn của câu: “Con không cầu xin cho thế gian” bằng cách cho rằng trong bữa Tiệc ly, Chúa Giêsu chỉ quan tâm đến các môn đồ của người thôi, và tạm gác thế gian qua một bên nhưng không loại trừ (Schwanck, Braun, Durand, Van den Bussche v.v) Thái độ của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Gioan thường được giải thích như thế qua truyền thống Nhất lãm trong đó Chúa Giêsu truyền lệnh phải cầu nguyện cho kẻ thù nghịch (Mt 44; Lc 23, 34) và qua huấn lệnh của thánh Phaolô dạy cầu nguyện cho mọi người (1Tm 2, 1). Nhưng cố gắng làm dịu bớt câu 17,9 như thế là không tôn trọng đủ tư tưởng “nhị nguyên” của Gioan.
Khởi đầu sứ vụ, Chúa Giêsu quả quyết là Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con một mình cho thế gian (3, 16). Tuy nhiên, việc Con đến đã gây nên một cuộc xét xử (3, 18- 19), đến nỗi thế gian” trở thành biểu tượng cho những ai từ khước Chúa Giêsu và ở dưới quyền lực của Satan (1Ga 5,19) Đầu mục hay thủ lãnh của thế gian (12, 31 ; 14, 30). Thế gian đã bị lên án trong chính bản thân của thủ lãnh nó (16, 11); và như vậy là thế gian không thể nào nên đối tượng cho lời cầu nguyên được, nó chỉ có cách im mồm (16, 8- 11) và chịu bại trận (1Ga 5,4-5). Hy vọng duy nhất của thế gian, kosmos, chính là thôi trỏ thành thế gian. Thế gian này phải qua đi vậy (1 Ga 2, 17).
Sở dĩ các môn đồ được Chúa Giêsu sai đến trong thế gian, đó cũng chính vì cùng một mục đích như người khi được sai đến. Không phải để biến đổi thế gian nhưng để thách thức nó: Trong mỗi thế hệ, trên trái đát vẫn có một nhóm người Thiên Chúa ban cho Chúa Giêsu và nhiệm vụ của các môn đồ là tách biệt con cái sự sáng này ra khỏi môi trường của con cái tối tăm đang bao vây họ. Những ai được ban cho Chúa Giêsu sẽ nhận ra tiếng người trong và qua sứ mạng của các môn đồ và sẽ quy tụ với nhau trong hiệp nhất (c. 11c).
Cộng đoàn Ki-tô hữu này sẽ là đối tượng cho thế gian ghen ghét, nhưng Chúa Giêsu không mong ước cho họ thoát khỏi sự thù nghịch ấy. Để tình yêu sâu đậm của Người được tỏ lộ, chính Chúa Giêsu há chẳng bỏ thế gian mà không đương đầu với sự thù nghịch của Thủ lãnh thế gian đó sao? (14, 30- 31). Tương tự như thế, mỗi một kẻ theo người cũng phải chạm trán với ác thần (17, 15 ; x . 1Ga 2, 15- 1. 7 về những quyến rũ của thế gian), nếu muốn ở với Chúa Giêsu mãi mãi (17, 24). Chúa Gíêsu biết rằng các môn đồ mình cần được nâng đỡ trong cuộc chiến cánh chung này một cuộc chiến xảy ra không phải tại Halmagêđon (Kh 16, 16) nhưng trong tâm hồn của mỗi người . Vì vậy Người cầu xin Thiên Chúa gìn giữ môn đồ được an toàn nhờ danh Thiên Chúa đã được ban cho Người (17, 11). Quyền lực che chở của danh Thiên Chúa là một đề tài Kinh Thánh thông dụng đã được xác nhận trong sách Châm ngôn 18, 10 : “Danh Giavê là đồn kiên cố ! Người công chính tới ẩn náu ở đó sẽ được an toàn”. Nếu hữu lý khi bảo rằng, đối với Gioan, danh đó là Egôeimi, “Ta là”, thì ta có một trường hợp điển hình cho thấy danh xưng này che chở thật sự các môn đồ, trong Ga 18, 5- 8: đó là khi Chúa Giêsu nói: Egô eimi, thì những kẻ đến bắt Người đều ngã lăn ra, chẳng làm gì được; và Chúa Giêsu buộc họ phải để cho môn đồ Người ra đi mà không bị phiền toái.
Đối với nhiều Ki-tô hữu hiện đại, một thái độ như thế trước thế gian xem ra kỳ lạ, nếu không muốn nói là bóp méo tinh thần tồng đồ đích thực của Kitô giáo. Vào một thời đại dấn thân mà mọi người đều quan tâm đến vai trò của Giáo Hội trong thế giới hiện đại, thì việc Đức Giêsu của Gioan từ chối cầu xin cho thế gian như thế là một chuyện chướng kỳ, một cớ vấp phạm. Tuy vậy, sự thù nghịch đối với thế gian không phải riêng gì của Gioan trong Tân ước. Giacôbê 4, 4 có nói với Kitô hữu: ‘Thiết nghĩa với thế gian là thù nghịch với Thiên Chúa” . Trong 1 Gl 1, 4, thánh Phaolô cũng bảo rằng Chúa Kitô đã phó mình vì tội lỗi ta để giải thoát ta khỏi thế gian hiện tại xấu xa”. ‘Dĩ nhiên thái độ nghi ngờ đối với thế gian được coi là xấu xa không phải là tất cả sứ điệp Tân ước vì Tân ước còn chứa đựng nhiều đoạn hàm ý việc dấn thân vào thế gian. Nhưng nếu kitô hữu tin rằng Kinh Thánh có một quyền xét xử và sửa phạt nào đó, thì những đoạn vừa nói những đoạn đề cập vấn đề dấn thân) có ý nghĩa hơn đối với những thời mà Giáo hội có khuynh hướng tách khỏi thế gian, trong lúc -những đoạn như ta thấy trong Gioan thì lại mang một sứ điệp cho cái thời đại nào quá lạc quan một cách ngây ngô, tin rằng có thể sửa đổi thế gian hoặc có thể củng cố những giá trị của nó mà không cần phải biến đổi các giá trị ấy đi.
Để kết thúc, ta hãy ghi nhận rằng niềm xác tín sẽ gặp phải thù nghịch trong thế gian không được làm cho các môn đồ buồn sầu. Lời Chúa Giêsu hứa sự phù trợ của Thiên Chúa đủ cất đi mọi nỗi sầu buồn và mang lại cho môn đồ một niềm vui sung mãn (c. 13). Chủ đề “niềm vui giữa sự thù nghịch của thế gian” đã xuất hiện hai lần trong phần hai của diên từ sau hết (16, 20- 24). Dĩ nhiên, sự phối hợp đầy nghịch lý này là một chủ đề thông dụng của Kitô giáo, ví dụ như Mt 5, 11 : “Phúc cho các con nếu người ta lăng mạ và bắt bớ các con vì cớ Ta” hoặc 1Tx 1, 6 “Anh em đã nhận lấy Lời giữa bao nỗi gian truân, trong sự hoan hỉ của Thánh Thần”.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Con đã tỏ danh Cha”: Sứ mạng của Chúa Giêsu thật ra không phải là thông truyền một danh xưng mới, nhưng là làm cho người ta nhận thái được thực tại cửa Chúa Cha qua lời nói, việc làm và bản thân của Người (x. 12, 28 ; 10, 38 ; 14, 7- 11 ; 1, 18).
“ Con không cầu xin cho thế gian”. Tiếng thế gian chỉ toàn thể những ai từ khước Thiên Chúa vì đóng kín trong nỗi tự mãn của mình; lời nguyện của Chúa Giêsu chỉ nhắm đến những kẻ được kéo ra khỏi thế gian để làm thành cộng đoàn các môn đồ của Chúa Giêsu.
“Và như thế Con đã được tôn vinh trong chúng”. Các thiện ích thiêng liêng do Chúa Giêsu mang đến càng tỏ hiện thực tại của việc Người thông hiệp với Chúa Cha chừng nào, thì vinh quang đích thực càng biểu lộ không phải quyền năng nhưng là cộng đoàn tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con chừng ấy, cộng đoàn mà các môn đồ được tham dự.
KẾT LUẬN
Cộng đoàn đầy tình huynh đệ, tình gia đình của Bữa Tiệc ly vẫn không ngừng hiện hữu, tồn tại. Chẳng phải vì muốn che chở đùm bọc nhau cho khỏi những tai ương của lịch sử hoặc vì sợ thế gian đâu, nhưng vì Giáo Hội hôm nay còn cảm thấy nhu cầu phải tái ý thức rằng mình đã được đặc tuyển cách nhưng không, còn cảm thấy nhu cầu phải bền vững trong kinh nguyện hiệp nhất với Chúa Giêsu là Thượng tế vĩnh cửu của mình.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Như để chứng tỏ một cách tuyệt đối mối thân tình của mình, Chúa Giêsu lớn tiếng cầu nguyện trước mặt các môn đồ: người mặc khải cuộc sống nội tâm bí ẩn nhất, sâu thẳm nhất và trào phun mãnh liệt nhất của Người. Người muốn nhờ trung gian của thánh sử Gioan để làn sóng âm thanh của những lời ấy thấu đến chúng ta. Nghĩa là Người đã nghĩ đến chúng ta. Đúng hơn là bây giờ đây chúng ta đang hiện diện trong một lời cầu nguyện không bị giới hạn trong thời gian. Khi Chúa Giêsu bảo là Người cầu nguyện cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người, thì có nghĩa là Người cầu nguyện cho chúng ta. Và sở dĩ Người cầu nguyện lớn tiếng là để biểu lộ ý hướng đưa chúng ta vào trong tư tưởng, trong đà nội tâm và trong trạng thái tâm hồn của Người. Người kêu mời chúng ta hiệp thông với Người vậy.
2. Lời nguyện này của Chúa Giêsu thật vô cùng khích lệ cho chúng ta là những kẻ đang mong chờ hiểu biết Thiên Chúa chân thật; sự hiểu biết ấy, theo ngôn ngữ Thánh Kinh, không phải là sự hiểu biết thuần túy tri thức hay tình cảm, nhưng là sự thông hiệp sâu đậm với Chúa Cha nhờ Chúa Kitô. Chúng ta thường khổ sở mong chờ vì hình như Chúa chậm tỏ mình cho chúng ta, hình như thế gian cùng não trạng của nó che khuất người khỏi chúng ta bằng muôn nghìn cách và sẽ kìm chế mọi nỗ lực của chúng ta. Chúa Giêsu biết rõ các điều ấy và “lời nguyện thượng tế” của Người là một lời cầu bầu không ngừng cho hết thảy những ai, dù ý thức rằng mình được Chúa tuyển chọn, nhưng đôi khi vẫn mất kiên nhẫn vì cực nhọc đấu tranh, cho những ai cần biết rằng Chúa Kitô, dù vắng mặt, vẫn không bỏ rơi họ.
3. Lời nguyện của Chúa Giêsu vừa khích lệ vừa soi sáng cho ta biết phải cầu nguyện thế nào. Chúa Giêsu cầu xin Cha cho những gì sắp xảy đến cho Người đem lại vinh quang cho Thiên Chúa và ích lợi cho tha nhân. Cũng thế, đời chúng ta có lúc phải trải qua những giây phút thật đầy thử thách, khi ấy chúng ta dễ bị cám dỗ xin chúa giảm bớt hoặc cất đi nỗi đau thương, niềm sợ hãi hoặc băn khoăn lo lắng của chúng ta. Lời cầu nguyện kiểu đó không phải là xấu xa, đáng loại bỏ; nhưng nếu chúng ta biết noi gương Chúa Kitô, thì lúc đó chúng ta sẽ hiểu được rằng lời cầu nguyện đích thực là lời cầu xin cho vinh quang Thiên Chúa và lợi ích tha nhân được bảo toàn, cho dù cơn thử thách quá nặng nề mà chúng ta phải gánh lấy đưa chúng ta đến thất bại. Đó chính là kiểu mẫu của lời nguyện vừa khiêm tốn vừa tha thiết nồng nàn mà Chúa Giêsu trình bày cho chúng ta khi nài xin Cha tôn vinh Người.
4. Cả và lời nguyện của Chúa Giêsu còn là một khích lệ vô cùng quý báu; vì khi thưa với Cha Người là giai đoạn đầu của công việc Người đã hoàn tất, khi dựa vào sự thành công ấy để xin được sức mạnh cần thiết cho giai đoạn tiếp theo, Người vẽ cho chúng ta thấy dung mạo của người tín hữu đang sống trong thế gian và đang chờ đợi ý định của Thiên Chúa hoàn tất vĩnh viễn. Đó là những người đàn ông và đàn bà mà Chúa Cha dã ban cho Chúa Kitô; Chúa Kitô đã ban cho họ lời Người, họ biết rằng tất cả những gì Chúa Giêsu nói đều do Chúa Cha mà đến; họ tin chắc rằng họ sẽ có được sự sống đời đời, sẽ sống thông hiệp với Cha nhờ Con. Trong thời gian chờ đợi dễ mất kiên nhẫn này, nghe lại những lời vừa nói không ích lợi sao? Qua chính cách Chúa Giêsu nói với Chúa Cha về chúng ta, chúng ta biết được rằng mình không bị quên lãng, mình rất đáng giá đối với các Ngài và mình sẽ được thông hiệp vào tình yêu hỗ tương của hai Đấng. Chớ gì sự xác tín này biến thành niềm vui và sức mạnh cho chúng ta.
Chúa Giêsu hôm nay tha thiết dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa Cha. Ngài cầu xin Chúa Cha PS 7-A20
Chúa Giêsu hôm nay tha thiết dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa Cha. Ngài cầu xin Chúa Cha tôn vinh mình: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con bên Cha. Xin Cha ban cho Con vinh quang mà Con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian.”
Vinh quang của Chúa Giêsu là gì? Chính là cây thập giá. Giờ Chúa bước vào tử nạn cũng chính là giờ Chúa bước vào vinh quang, giờ Chúa trở về với Chúa Cha. Chúa Cha sẽ tôn vinh Ngài. Thế nhưng Chúa Giêsu không tìm kiếm vinh quang cho riêng mình. Chúa được tôn vinh thì Chúa Cha cũng được tôn vinh: ‘Xin Cha tôn vinh Con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha.’
Tôn vinh bằng cách nào? Bằng việc Ngài chu toàn công việc của Chúa Cha: “Phần Con, Con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao phó cho Con làm.”
Công trình Chúa Cha giao phó cho Chúa Giêsu thực hiện là gì ? Là cứu độ và ban sự sống đời đời cho nhân loại. “Mà sự sống đời đời của nhân loại chính là tin nhận Chúa Cha là Thiên Chúa duy nhất, chân thật và Đấng Cha sai đến là Giêsu Kitô.”
Chúa Giêsu không chỉ cầu nguyện cho mình mà Ngài cầu nguyện cho các môn đệ nữa: “Lạy Cha, Con cầu nguyện cho những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho Con. Họ đã tuân giữ lời Cha. Họ biết và tin thật rằng Con đã từ Cha mà đến. Con cầu nguyện cho họ, chứ không cầu nguyện cho thế gian.”
Tại sao Chúa Giêsu không cầu nguyện cho thế gian mà chỉ cầu nguyện cho các môn đệ? Bởi thế gian và những kẻ thuộc về nó, vốn thù nghịch với Thiên Chúa, không có khả năng tin nhận và yêu mến Chúa Giêsu như lời thánh Giacôbê đã dạy: “Thiết nghĩ ai yêu thế gian, thì tự coi mình là thù nghịch với Thiên Chúa”(x.Gc 4,4). Một thế gian như thế không thể là đối tượng cầu nguyện của Chúa Giêsu được.
Còn các môn đệ là những người được chọn giữa thế gian, để thuộc về Chúa Cha và tin theo Chúa Giêsu là Đấng được Chúa Cha sai đến cứu độ trần gian: “Con không cầu nguyện cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha ban cho Con, bởi vì họ thuộc về Cha.”
Các môn đệ là những người thuộc về Chúa và tin vào Chúa, chứ không thuộc về thế gian và tin vào thế gian, nhưng họ vẫn sống trong thế gian, có bổn phận phải thông truyền cho thế gian lời của Chúa Cha mà họ đã lãnh nhận từ Chúa Giêsu. Đó là tất cả Tin mừng.
Sống trong thế gian mà không thuộc về thế gian, nhưng lại thuộc về Chúa, nên các môn đệ bị thế gian ghen ghét và vu khống đủ điều. Thánh Phêrô dạy rằng: “Nếu bị sỉ nhục vì danh Đức Kitô thì thật là có phúc… Đừng có ai phải chịu khổ vì tội giết người, trộm cắp, gian tham… Nếu có ai chịu khổ vì danh hiệu Kitô hữu, thì đừng xấu hổ, nhưng hãy tôn vinh Thiên Chúa vì được mang danh hiệu đó”(x.1Pr 5,12-19).
Vâng, hãy hãnh diện vì là người Kitô hữu! Hãy vui mừng khi phải chịu đau khổ vì Đạo thánh Chúa! Tiếc thay nhiều người Kitô hữu quên mất điều này! Ho sợ khó ngại khổ vì Chúa, họ xấu hổ không dám xưng mình là người có Đạo, nhưng lại chẳng xấu hổ, chẳng ngại khó sợ khổ khi làm những điều xằng bậy:
Buôn gian bán lận chẳng ngại, nhưng lại ngại làm điều tốt.
Trộm cắp, ngoại tình, giết người thì chẳng xấu hổ, nhưng lại xấu hổ khi phải làm dấu thánh giá, đọc kinh cầu nguyện trước bữa ăn và trước khi đi ngủ trong môi trường xã hội hôm nay.
Đi ‘buôn dưa lê’, nói hành nói xấu thì chẳng ngại, nhưng lại ngại khi phải đi lễ, đọc kinh sớm tối, học giáo lý, làm việc bác ái.
Vì tình vì tiền mà phải thức khuya dạy sớm, chịu nắng nôi, rét mướt cũng chẳng kêu ca phàn nàn, nhưng vì Đạo vì Chúa mà phải thức khuya dạy sớm, thì lại kêu ca phàn nàn.
Sẵn sàng hy sinh chịu khó để làm vui lòng người đời và đạt được chức quyền, nhưng lại chẳng vui lòng hy sinh chịu khổ vì Chúa vì Đạo.
Người Kitô hữu mà sống như thế là mâu thuẫn với chính mình và trái ngược với Tin Mừng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn sẵn sàng hy sinh vì Chúa vì Đạo, để chúng con luôn thuộc về Chúa, chứ không thuộc về thế gian. Amen
Sau khi Đức Giêsu được đưa về trời để ngự bên hữu Thiên Chúa Cha và làm chủ tể mọi loài, thì PS 7-A21
Sau khi Đức Giêsu được đưa về trời để ngự bên hữu Thiên Chúa Cha và làm chủ tể mọi loài, thì Giáo Hội mà Ngài thiết lập bắt đầu chính thức hoạt động dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần qua các Tông đồ.
Khi chính thức hoạt động, các Tông đồ luôn luôn xác tín rằng: đời sống cầu nguyện trong sự hiệp nhất là điều căn cốt để xây dựng và phát triển Giáo Hội. Mặt khác, sự ghét ghen, chống đối, sỉ nhục, đánh đập và ngay cả giết chết… sẽ làm cho người môn đệ trở nên đồng hình đồng dạng với Thầy Giêsu hơn.
Như vậy, nếu Đức Giêsu đã tôn vinh Thiên Chúa Cha bằng chính đời sống chứng tá, nhất là cái chết trong đau thương trên thập giá, thì người môn đệ của Đức Giêsu cũng không thể có con đường nào tốt đẹp và làm vừa ý Thiên Chúa Cha khi chúng ta tôn vinh Người cùng một cách thức như Đức Giêsu.
Đây chính là những nét quan trọng trong sinh hoạt Giáo Hội thời sơ khai mà phụng vụ Lời Chúa hôm nay qua các bài đọc đã lần lượt mặc khải cho chúng ta.
1. Cầu nguyện là nền tảng căn cốt để xây dựng Giáo Hội
Nhìn lại lịch sử Giáo Hội, chúng ta thấy hình ảnh và đời sống của các Kitô hữu thời ban sơ thật là lý tưởng, chân tình và chất phát. Họ đồng tâm nhất trí với nhau trong mọi sự, nhất là đời sống cầu nguyện. Cùng một tâm hồn và một tấm lòng là điều mà các Kitô hữu tiên khởi đã sống.
Quả thật, các Tông đồ đã thấy được tầm quan trọng của việc cầu nguyện, nên các ngài đã không ngừng làm gương và thúc đẩy các Kitô hữu gia tăng cầu nguyện, để củng cố đức tin, lòng mến và nhất là tìm ra thánh ý Chúa để thi hành.
Không cầu nguyện, sẽ không có niềm xác tín mạnh mẽ. Không cầu nguyện sẽ kiêu ngạo. Không cầu nguyện sẽ làm cho tâm hồn trai lỳ, u mê chẳng còn nhạy bén với thánh ý Thiên Chúa. Không cầu nguyện sẽ không biết yêu thương và phá vỡ sự hiệp nhất…
Xác tín được tầm quan trọng của cầu nguyện, nên các Tông đồ đã trung thành với lời cầu nguyện qua mọi hoạt động tập thể, chẳng hạn như: trong các cuộc quy tụ cộng đoàn để tham dự nghi thức bẻ bánh (x. Cv 2, 42-46), chọn ông Mátthia (x. Cv 1, 24), xin Chúa ban Thánh Thần xuống (x. Cv 8,15), khi bị bách hại (x. Cv 4, 24-31; 12,5-12), cầu cho các vị truyền giáo (x. Cv 13,3; 14,23). Việc cầu nguyện riêng cũng thường gặp ở nhiều trường hợp, như ông Têphanô cầu nguyện khi bị ném đá (x. Cv 7,59-60), ông Saolô khi trở lại (x. Cv 9, 11), ông Phêrô tại nhà ông Conêliô (x. Cv 10, 9; 11,5).
Như vậy, cầu nguyện trong sự hiệp nhất là yếu tố rất cần thiết trong tiến trình xây dựng Giáo Hội. Không hiệp nhất, Giáo Hội sẽ có nguy cơ tan rã. Thấy được tầm quan trọng này, nên Đức Giêsu đã không ngớt cầu nguyện để xin Chúa Cha cho các môn đệ của mình được hiệp nhất theo khuôn mẫu của chính Thiên Chúa Ba Ngôi, ngõ hầu các ông đứng vững trước những thử thách đau thương khi thi hành sứ vụ.
2. Giáo Hội được lớn lên nhờ thử thách
Nếu đời sống và hoạt động của Đức Giêsu luôn luôn bị chống đối gắt gao, đến nỗi Ngài đã phải chấp nhận cái chết để tôn vinh Thiên Chúa Cha, thì vẫn cùng một hệ quả như vậy, các môn đệ sẽ gặp những chống đối, bắt bớ, đánh đập và ngay cả bị giết chết… Nói cách khác, đời sống của người môn đệ được gắn liền với thập giá và cái chết. Đây chính là mẫu số chung cho tất cả những ai bước theo Đức Giêsu trên con đường sứ vụ.
Điều này đã được chứng minh nơi Giáo Hội sơ khai. Cộng đoàn tiên khởi đã chịu sự bách hại, bắt bớ tàn khốc kéo dài suốt 300 năm trường. Sự bách hại ấy đã không ngừng buông tha con cái của Chúa trên khắp năm châu ở mọi thời.
Trước biết bao nhiêu khó khăn thử thách như vậy, người môn đệ Đức Kitô đôi khi vì yếu đuối do sợ hãi nên bị những cám dỗ bỏ cuộc, buông xuôi. Thấu hiểu điều đó, nên thánh Phêrô, trong tư cách là người đứng đầu Giáo Hội, đại diện Chúa Kitô ở trần gian, ngài đã lên tiếng an ủi: “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỷ” (1 Pr 4, 13).
Chính vì điều này đã làm cho tinh thần của người môn đệ được củng cố, bởi vì nhờ nó mà được thông phần với Đức Kitô chịu đóng đinh để mai ngày được phục sinh vinh hiển với Ngài.
Tuy nhiên, vì sức con người có giới hạn, nên Chúa Thánh Thần sẽ là thầy dạy luôn bên cạnh để giúp cho người môn đệ thêm sức mạnh, biết nói gì, làm gì để đáp trả trước những khó khăn do con người gây nên (x. Mc 13,11).
Như vậy, dù trong hoàn cảnh nào, người môn đệ vẫn luôn tự hào và hãnh diện trong sự khiêm tốn để tôn vinh Thiên Chúa trong Thần Khí và sự thật.
3. Thiên Chúa Cha được tôn vinh
Khi nói về việc tôn vinh Thiên Chúa Cha, chúng ta thấy Đức Giêsu chính là mẫu mực để mỗi người noi theo. Thật vậy, trong suốt cuộc đời tại thế của Ngài, từ lời giảng dạy đến hành động, tất cả đều hướng con người về việc tôn vinh Thiên Chúa Cha. Việc tôn vinh mà Đức Giêsu đã thi hành và dạy cho các môn đệ cũng như mọi người thực hiện, đó là giúp cho họ “biết danh Cha, thuộc về Cha và tuân giữ lời Cha”.
Biết danh Cha qua chính Đức Giêsu, vì Ngài đã phán: ai biết Ta là biết Đấng đã sai Ta. Khi biết Chúa Cha, chúng ta được ở lại trong tình yêu của Thiên Chúa Cha nếu chúng ta ở lại trong Đức Giêsu và vâng nghe lời Ngài chỉ dạy.
Nhưng lựa chọn để thuộc về Chúa Cha khi đã biết Người không phải lúc nào cũng êm xuôi, mà ngược lại, luôn luôn gặp phải những cạm bẫy chông gai, chống đối, thử thách và ngay cả cái chết.
Khi đã hoàn tất sứ vụ tôn vinh Thiên Chúa Cha trên trần thế, Đức Giêsu đã trao phó sứ mạng tôn vinh Chúa Cha cho Giáo Hội, để Giáo Hội tôn vinh Thiên Chúa trong chân lý và tình yêu.
Kể từ khi nhận lãnh trách nhiệm, từ thời các Tông đồ cho đến ngày nay, Giáo Hội không ngừng tôn vinh Thiên Chúa Cha trong Đức Giêsu và nhờ Chúa Thánh Thần.
4. Sống sứ điệp Lời Chúa
Cùng một sứ vụ và trách nhiệm trong lòng mến, người tín hữu Kitô luôn được mời gọi hãy ở lại trong tình yêu của Thiên Chúa Cha qua Đức Giêsu để tôn vinh Người.
Một trong những điều mà chính Đức Giêsu đã tôn vinh Thiên Chúa Cha và đã được Người rất ưng ý, đó là làm chứng cho sự thật và thể hiện tình yêu thương của Thiên Chúa cho mọi người.
Trong xã hội hôm nay, sự thật luôn luôn bị coi thường nếu không muốn nói là bị đe dọa. Ngược lại, sự gian dối lại lộng hành và lên ngôi đến chóng mặt.
Trước thực trạng ấy, người môn đệ là người thuộc về Đức Giêsu, mà Đức Giêsu đến để làm chứng cho sự thật, đồng thời Ngài cũng mời gọi ai đứng về phía sự thật thì thuộc về thần dân trong Nước của Ngài.
Như vậy, người tín hữu Kitô phải là người làm cho sự thật được sáng tỏ trong những lời nói, lựa chọn, quan điểm và hành vi của mình. Chúng ta không thể chấp nhận một người tín hữu với những khái niệm và lựa chọn mù mờ giữa sự thật và gian dối.
Mặt khác, vì Thiên Chúa là tình yêu, nên chúng ta thuộc về Thiên Chúa, thì chắc chắn chúng ta phải thi hành luật yêu thương trong cuộc sống của mình. Nếu không yêu thương, nhất là không yêu thương những người kém may mắn và bị loại ra bên lề, thì bấy lâu chúng ta đang phản lại bản chất của Thiên Chúa và mâu thuẫn với chính chúng ta.
Thiết nghĩ, sống và chu toàn những điều trên, ấy là chúng ta đang tham gia vào công việc tôn vinh Thiên Chúa Cha cách thiết thực nhất, bởi vì Thiên Chúa sẽ được tôn vinh khi chúng ta làm cho hình ảnh của Người được tỏa sáng qua hành vi, lời nói và việc làm của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban Chúa Thánh Thần xuống trên chúng con để chúng con biết nhận ra, ở lại và tôn thờ Thiên Chúa Cha cách trung thành và yêu mến. Xin cho chúng con biết hãnh diện để tôn thờ Thiên Chúa Cha trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, ngoc hầu mai ngày chúng con được trực diện trước tôn nhan Chúa để tôn thờ Người mãi mãi không ngừng. Amen.