Suy niệm Chúa Nhật PS 4-A Bài 151-200 Ta là cửa chuồng chiên -------------------------------------- Phúc Âm: Ga 10, 1-10"Ta là cửa chuồng chiên".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ". Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào". - Ðó là lời Chúa.
Mở đầu Tin Mừng Chúa nhật IV, Mùa Phục sinh, năm A, Chúa Giêsu đã xác định: “Ai không qua PS 4-A151
Mở đầu Tin Mừng Chúa nhật IV, Mùa Phục sinh, năm A, Chúa Giêsu đã xác định: “Ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên.” (Ga 10 : 1-2) Và Chúa Giêsu nói thêm: “ Ta là cửa chuồng chiên… Ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân.” (Ga 10: 7-9). Tại sao Chúa ví mình là Cửa chuồng chiên? Ai không qua cửa ấy mà vào, là trộm cướp. Ai qua cửa mà vào, thì được cứu rỗi, tìm được của nuôi thân.
Cửa chuồng chiên là cửa dành cho người chăn chiên và chiên ra vào. Chỉ có người chăn chiên đích thực mới được người giữ cửa mở cho ra vào. Chiên nghe theo tiếng người ấy. Người chăn chiên gọi đích danh từng con chiên và dẫn ra. Người chăn chiên đi trước và đàn chiên theo sau, vì chúng quen tiếng người chăn chiên, và trốn chạy khi nghe tiếng người lạ.
Cửa chuồng chiên ấy là Adam mới, là Chúa Giêsu Kitô đã xuống thế gian mang thân phận yếu hèn của con người, đã giang hai tay trên cây Thánh giá, đã chết đối với tội lỗi, đã phục sinh, và nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. “Cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghiã là được sống,” (Rm. 5: 18). Để trở nên công chính, để được người chăn chiên dẫn qua cửa chuồng chiên, chúng ta cũng phải đóng đinh con người cũ do tội lỗi thống trị để không còn làm nô lệ tội lỗi nữa,
Cửa chuồng chiên ấy là Bí Tích Thanh Tẩy mà chúng ta đã đón nhận để trở thành con Thiên Chúa, như trong thư gửi tín hữu Rôma (Rm 6: 3-4), Thánh Phao lô đã viết: “ Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh thẩy, để thuộc về Chúa Giêsu Kitô, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới.”
Cửa chuồng chiên ấy là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Cũng như Thánh Phaolô viết trong thư thứ 1 gửi tín hữu Rôma (Rm. 8: 38 -39), chúng ta cũng tin chắc rằng: “ cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương qủy lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.”
Cửa chuồng chiên ấy là Thần Khí của Chúa Giêsu Kitô. Con chiên không có Thần Khí, không được làm con Thiên Chúa, không thuộc về Chúa Kitô, không thể đi qua cửa chuồng chiên. “ Ai sống theo tính xác thịt, thì hưóng về những gì thuộc tính xác thịt; còn ai sống theo Thần Khí, thì hướng về những gì thuộc Thần Khí.” (Rm. 8:5)
Cửa chuồng chiên ấy là Tin Mừng cứu độ. Người chăn chiên biết từng con chiên và ngược lại, từng con chiên biết người chăn chiên. Làm sao để biết chủ chăn của mình? Qua Kinh Thánh, nhất là Tin Mừng, chúng ta biết người chăn chiên ấy; và chúng ta sẽ biết rõ người chăn chiên ấy hơn khi chúng ta biết sống gần gủi và thân mật hơn với các chiên khác trong cùng đàn chiên.
Cửa chuồng chiên ấy là cửa công chính, cửa lòng tin, là Chúa Giêsu Kitô, Đấng Công Chính. Chúng ta được “ Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Chúa Giêsu Kitô… nhờ ân huệ của Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc được thực hiện trong Chúa Giêsu Kitô.” (Rm. 3: 22-23)
Cửa chuồng chiên ấy là Hội Thánh Chúa. Khi dùng dụ ngôn này và tự cho mình là chuồng chiên, Chúa Giêsu muốn chúng ta hiểu rằng cánh cửa ấy luôn mở rộng, đón mời hết mọi người. Không qua cánh cửa Giáo Hội, là chúng ta không thuộc đàn chiên của Chúa, không được Người bảo vệ, chở che; và như thế là làm mồi ngon cho kẻ trộm hay sói rừng. Đàn chiên con và chiên mẹ đã được Chúa giao phó cho Thánh Phêrô cai quản.
Xét theo tính cách làm chiên, là Kitô hữu, chúng ta phải có những nhiệm vụ và hưởng được những đặc ân như sau :
- được người chăn chiên biết đến, được gọi đích danh từng con chiên một, được nuôi dưỡng nơi bàn Tiệc Thánh Thể. Chúa Giêsu Tử Nạn- Phục Sinh là nguồn cứu độ cho toàn thể nhân loại, cho từng con người. Người muốn chăn dắt, gìn giữ, nuôi sống từng người một. Chúng ta sẽ phải làm gì để dáp lại Lòng Thương Xót vô bờ ấy? chúng ta đã biết gì về người chăn chiên nhân hậu ấy?
- được người chăn chiên gọi đích danh; nhưng chúng ta có đáp lại lời kêu gọi ấy không? hay đáp lại ở mức độ nào? Bổn phận của chúng ta là biết tiếng gọi của chủ chăn. Chỉ một tiếng thôi là tiếng Giêsu. Không có tiếng nào khác để chiên nghe theo mà được yên ổn, an vui, sống mạnh và sống hạnh phúc.
- được chủ chăn bảo vệ. Chúng ta tin tưởng rằng Chúa Giêsu đã lấy mạng sống mình để bảo vệ, để cứu thoát chúng ta khỏi tội lỗi, khỏi cái chết hủy diệt để đưa chúng ta vào sự sống Phục sinh vĩnh cửu. Chúng ta có chịu để cho Chúa bảo vệ hay lại đi tìm những chỗ dựa khác như tiền tài, danh vọng, quyền lực, tiện nghi vật chất...? Chúng ta có vểnh tai mà nghe tiếng chủ chăn gọi để chạy đến với Người liền hay thích nghe theo tiếng gọi của xác thịt, của tội lỗi ? Thích lang thang phiêu du vào những cuộc mạo hiểm trần gian tuy vẫn biết sói rừng đang rình rập, kẻ trộm là tội lỗi, xác thịt, ý riêng, ghen ghét đang gài bẩy ?
- biết phân biệt tiếng người lạ, tiếng người chăn thuê với tiếng đích thực của người chủ chăn. Với người chăn thuê, họ sẽ chạy trốn khi sói rừng xuất hiện, mặc cho đàn chiên tản mác. Họ không thí mạng sống vì đàn chiên, vi đàn chiên không thuộc về họ.
- biết sống liên kết với các chiên khác. Chúng ta có thái độ nào khi cùng các chiên khác đang gặm cỏ trên đồng? Đố kỵ hay thân thiện? Nhường nhịn chia sẻ hay ganh ghét tranh phần? Thương yêu hay hận thù? Tiếp đón, giúp đỡ hay làm ngơ bỏ mặc? Cộng tác hay dửng dưng? Đối thoại hay khép kín?
Lạy Chúa, xin cho chúng con an tâm làm bổn phận Chúa đã giao phó, vì Chúa luôn ở bên chúng con để đáp ứng cho chúng con mọi nhu cầu khác. Xin biến đổi chúng con để từ nay chi biết lắng nghe tiếng Chúa kêu gọi, dù có mãi mê gặm cỏ đâu đâu, cũng biết chạy về ngay với Chủ Chăn của mình
Mỗi khi nhìn thấy những đau khổ của tha nhân hay những bất hạnh xảy ra chung quanh, trong tâm PS 4-A152
Mỗi khi nhìn thấy những đau khổ của tha nhân hay những bất hạnh xảy ra chung quanh, trong tâm hồn tôi lại phảng phất lời bài hát Dấu chân của Đức Cố Giám mục Giuse Vũ Duy Thống với giai điệu mượt mà:
“Bao nhiêu dấu chân qua, bấy nhiêu niềm cảm tạ.
Đôi khi có những bước phôi pha, mà hình bên bóng chẳng rời xa.
Hôm nao thấy dấu chân đôi: Đó là Chúa đi bên tôi.
Hôm nào còn một dấu chân thôi: Là bởi vì Chúa ẵm tôi lên rồi”.
Lời bài hát dựa trên một giấc mơ kể rằng: Có một chàng trai ngày nào cũng đi dạo bộ với Chúa Giêsu trên bãi biển rất êm ả và bình yên. Chàng thích thú vì những dấu chân song hành như hai người bạn. Đến một ngày sóng to gió lớn, chàng lại chỉ thấy có một dấu chân. Trong hoảng hốt và sợ hãi, chàng hỏi Chúa đi đâu lúc cuộc đời đầy biến động. Chúa trả lời: “Chính những lúc ấy Ta đang bồng bế con trên tay”.
Suy nghĩ của chàng thanh niên cũng là suy nghĩ của nhiều người chúng ta. Khi đau khổ dường như chỉ thấy dấu chân của mình lê thê bước, nhưng đâu hiểu rằng dấu chân ấy là chính Chúa đang nỗ lực dìu chúng ta qua khổ nạn.
Nhìn vào lịch sử cứu độ chúng ta thấy có rất nhiều vị thánh đã được Thầy Giêsu dìu qua khó khăn những đoạn đường đắng cay của cuộc đời. Chúng ta thử đồng hoá mình với những nhân vật trong Tin Mừng để thấy Chúa sẽ không bỏ rơi chúng ta bao giờ. Nhất là trong những lúc bị hiểu lầm, bị kết án, bị khổ đau bởi nghèo đói và bệnh tật.
Hãy nhìn xem một Madalena bị xã hội lên án, ruồng bỏ…lại được ngồi dưới chân Chúa. Một Giakêu bị xếp vào hạng người bất chính, lại được Chúa đồng bàn ăn uống…
Hãy nhìn xem người bất toại đã quá nửa đời người nằm ăn xin ở Betsaida hay người phụ nữ bị băng huyết đã quá khổ bởi bệnh tật, và biết bao người phong hủi sống lấy lất bên ngoài xã hội, thế mà Chúa đã đến và giải cứu họ.
Hãy nhìn xem những người bị ma quỷ khống chế đến nỗi chẳng còn là người, sống lây lất, điên rồ thế mà Chúa đã cho họ trở về trong tự do của con người.
Dường như Chúa không bỏ rơi một ai đang đau khổ, điều cần là sự kiên nhẫn trong lời cầu nguyện và luôn xác tín sự hiện diện của Chúa trong đời sẽ giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong cuộc sống đầy gian truân.
Lời Chúa hôm nay, Chúa Giêsu sánh ví tình thương của mình như tình thương của người mục tử dành cho đàn chiên. Người mục tử tốt lành đầy yêu thương luôn gắn bó với đàn chiên, luôn sẵn sàng hy sinh cả mạng sống mình vì lợi ích đàn chiên. Ngài chính là vị mục tử mà bài đáp ca đã ca ngợi rằng: Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tuơi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính. Lạy Chúa, dầu qua thung lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có chúa ở cùng con”.
Người mục tử không bỏ đàn chiên mà hết lòng ra tay cứu giúp. Ngài vẫn tiếp tục cúi xuống băng bó từng vết thương và cõng trên vai và đưa về ràn trong tình yêu bao bọc của Ngài.
Giữa khủng hoảnh Covid 19 nhân loại cảm tưởng như đang đơn độc đối phó với sự dữ, khiến chúng ta cảm thấy mệt mỏi và sợ hãi. Nhưng hãy tin vào Thiên Chúa. Ngài im lặng cũng có lý do. Giống như cha mẹ khi thấy con cái khổ đau, tuy không nói ra nhưng vẫn tìm cách để cho con cái bớt khổ đau. Thiên Chúa chúng ta tốt lành, chắc Ngài cũng khổ nhiều khi nhân loại chìm trong khổ sầu. Ngài cũng đang nói với chúng ta giữa cơn gian nguy này, hãy để lòng mình trong thinh lặng sẽ nghe được tiếng sáo của người mục tử đang gọi đàn. Hãy về hợp đoàn. Hãy đến với lòng thương xót của Chúa để tìm sự bình an giữa trăm bề sự dữ. Hãy để Thiên Chúa lo liệu mọi sự cho chúng ta và hãy an tâm phó thác nơi Ngài. Amen
Trong nhiều thập niên gần đây Giáo Hội Công Giáo có diễm phúc là có được những Vị Giáo Hoàng PS 4-A153
Trong nhiều thập niên gần đây Giáo Hội Công Giáo có diễm phúc là có được những Vị Giáo Hoàng vĩ đại khiến cả thế giới phải ngưỡng mộ: từ Đức Gioan XXIII, Đức Phaolô VI, Đức Gioan Phaolô I và II cho đến Đức Bênêđitô XVI và Đức Phanxicô, các Vị Giáo Hoàng trên đều là các vĩ nhân về thánh thiện và khôn ngoan. Nhưng trước hết các vị Giáo hoàng kể trên đều là các MỤC TỬ NHÂN LÀNH đúng như lời của Thầy Chí Thánh Giêsu Kitô: “Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào!”
Mừng Lễ Chúa Chiên Lành năm nay chúng ta hãy chiêm ngắm dung nhan Chúa Giêsu Kitô, là Con Một Thiên Chúa và là Chúa chúng ta, được phản chiếu trên gương mặt hiền từ và đời sống thánh thiện của các vị Giáo hoàng cũng như của các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ và Giáo Dân đã hy sinh cho đoàn chiên, nhất là trong thời dịch cúm Covid-19 này. II. LẰNG NGHE/ĐỌC LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (Cv 2,14a.36-41): "Thiên Chúa đã tôn Người làm Chúa và làm Đấng Kitô" Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô cùng với mười một Tông đồ đứng ra, lên tiếng nói rằng: "Xin toàn thể nhà Israel hãy nhận biết chắc rằng: Thiên Chúa đã tôn Đức Giêsu mà anh em đã đóng đinh, lên làm Chúa và làm Đấng Kitô".
Nghe những lời nói trên, họ đau đớn trong lòng, nói cùng Phêrô và các Tông đồ khác rằng: "Thưa các ông, chúng tôi phải làm gì?" Phêrô nói với họ: "Anh em hãy ăn năn sám hối, và mỗi người trong anh em hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để được tha tội; và anh em nhận lãnh ơn Thánh Thần. Vì chưng, đó là lời hứa cho anh em, con cái anh em, và mọi người sống ở phương xa mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi đến". Phêrô còn minh chứng bằng nhiều lời khác nữa, và khuyên bảo họ mà rằng: "Anh em hãy tự cứu mình khỏi dòng dõi gian tà này". Vậy những kẻ chấp nhận lời ngài giảng, đều chịu phép rửa, và ngày hôm ấy có thêm chừng ba ngàn người gia nhập đạo.
2.2 Trong bài đọc 2 (1 Pr 2,20b-25): "Anh em đã trở về cùng Đấng canh giữ linh hồn anh em" Anh em thân mến, khi làm việc lành, nếu anh em phải nhẫn nhục chịu đau khổ, đó mới là ân phúc trước mặt Thiên Chúa. Anh em được gọi làm việc đó, vì Đức Kitô đã chịu đau khổ cho chúng ta, lưu lại cho anh em một gương mẫu để anh em theo vết chân Người. Người là Đấng không hề phạm tội, và nơi miệng Người không thấy điều gian trá. Bị phỉ báng, Người không phỉ báng lại; bị hành hạ, Người không ngăm đe; Người phó mình cho Đấng xét xử công minh; chính Người đã gánh vác tội lỗi chúng ta nơi thân xác Người trên cây khổ giá, để một khi đã chết cho tội lỗi, chúng ta sống cho sự công chính; nhờ vết thương của Người, anh em đã được chữa lành. Xưa kia, anh em như những chiên lạc, nhưng giờ đây, anh em đã trở về cùng vị mục tử và Đấng canh giữ linh hồn anh em.
2.3 Trong Bài Tin Mừng (Ga 10,1-10): "Ta là cửa chuồng chiên" Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ". Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào".
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung (Thiên Chúa là Đấng nào?)
Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
- Là Thiên Chúa Cha, Đấng đã đặt Chúa Giêsu - Đấng đã bị người Do-thái treo trên thập giá - làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô.
- Là chính Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chịu đau khổ vì chúng ta, để lại một gương mẫu cho chúng ta dõi bước theo Người. Người không hề phạm tội; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe; nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình. Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà chúng ta đã được chữa lành.
- Là Chúa Giêsu Kitô là Mục Tử, Đấng đã đến trần gian để qui tụ mọi người (chiên lạc) thành một đoàn chiên và chăm lo cho chiên (là chúng ta) được sống và sống dồi dào.
3.2 Sứ Điệp Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?)
Qua ba bài Sách Thánh hôm nay, sứ điệp của Lời Chúa hay giáo huấn của Chúa là chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu Kitô là Đức Chúa, là Đấng Kitô và là Mục Tử; và hãy nhập vào đoàn (ràn) chiên của Người để được sống và sống dồi dào!
[Được sống và sống dồi dào trong bản văn Phúc âm Gioan là có sự sống siêu nhiên, sự sống thần linh, sự sống của Thiên Chúa. Có sự sống của Thiên Chúa thì sẽ sống kết hợp mật thiết (hiệp thông) với Thiên Chúa và hiến thân cho những giá trị của Nước Trời và cho tha nhân, cách riêng cho những người cần được hướng dẫn, chăm lo, nâng đỡ và ủi an (qua hình ảnh những con chiên lạc.)]
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
Chúng ta đáp lại lời mời gọi hay sứ điệp của Chúa bằng cách đến với Chúa Giêsu Kitô là Đức Chúa, là Đấng Kitô và là Mục Tử và đón nhận từ Người sự sống thần linh.
4.1 Đến Chúa Giêsu Kitô là Đức Chúa, là Đấng Ki-tô và là Mục Tử để nhìn nhận Người là Chúa; là Đấng được xức dầu và sai đi; là Chúa Chiên Nhân Lành đã hiến mạng sống cho.vì chiên.
4.2 Nhận sự sống thần linh từ Chúa Giêsu Kitô là Đức Chúa, là Đấng Kitô và là Mục Tử để chúng ta sống kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần; và để chúng ta cống hiến thời gian, tài năng và của cải cho tha nhân, nhất là cho những người yếu kém, bị khinh khi, thiệt thòi nhất chung quanh chúng ta.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 "Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô" Chúng ta hãy cầu nguyện cho các dân các nước, nhất là cho những người chưa nhận biết Chúa Giêsu Kitô là Đức Chúa và là Đấng Ki-tô, để họ sớm nhận ra và đón nhận Người.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 “Người đã chịu đau khổ vì chúng ta, để lại một gương mẫu cho chúng ta dõi bước theo Người" Chúng ta hãy cầu nguyện cho toàn thể Hội Thánh Chúa Kitô - nhất là cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ -, để mọi Kitô hữu càng ngày càng nên giống Chúa Giêsu Kitô hơn.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” Chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả giáo dân trong giáo xứ chúng ta để mọi người nhận được sự sống thần linh dồi dào mà Chúa Giêsu Kitô là Mục Tử Nhân Lành ban tặng cho những kẻ thuộc về Người và đi theo Người.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ” Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người thành tâm thiện chí để họ tìm thấy lối vào Vương Quốc của Chúa Giêsu Kitô là Vương Quốc Tình Thương và Cứu Độ.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Xin Đức Giêsu phục sinh, Mục Tử nhân lành cho chúng ta biết đi theo Ngài “tới dòng nước trong PS 4-A154
TMĐP- Xin Đức Giêsu phục sinh, Mục Tử nhân lành cho chúng ta biết đi theo Ngài “tới dòng nước trong lành” là bí tích rửa tội; biết vào “bàn tiệc Ngài dọn sẵn” là bí tích Thánh Thể ; biết để Ngài “xức dầu thơm trên đầu” là bí tích Thêm Sức (x. Tv 22, 2.5.); và biết sám hối trở về với Ngài là Thiên Chúa giàu lòng thương xót nhờ bí tích Hoà Giải (x. Cv 2,36).
Bất cứ ai khi đón nhận Thiên Chúa vào cuộc đời mình đều đặt câu hỏi: đâu là tương quan giữa tôi với Thiên Chúa? Thiên Chúa là ai đối với tôi, và tôi là gì trước mặt Ngài ?
Kinh Thánh Cựu Ước trả lời chúng ta câu hỏi trên khi xác tín: “Thiên Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính… Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trươc mặt quân thù. Đầu con Chúa xức dầu thơm, ly rượu con đày tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời” (Tv 22, 1-3.5-6).
Và trong Tân Ước, chính Đức Giêsu cũng khẳng định Ngài là mục tử nhân lành: Ngài gọi tên từng con chiên và chiên nghe tiếng Ngài; Ngài đi trước chiên và chiên theo Ngài; Ngài biết chiên và chúng nhận ra Ngài; Ngài cho chiên ăn uống thoả thuê, no đủ; Ngài bảo vệ mạng sống của chiên, và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì chiên (x. Ga 10,3-11). Với những chiên lạc đàn, Ngài đi tìm cho kỳ được. Tìm được rồi, Ngài mừng rỡ vac lên vai (x. Lc 15,4-5); với những chiên chưa thuộc ràn này, Ngài đưa chúng về, và chúng sẽ nghe tiếng Ngài, “vì chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Ga 10,16).
Nhưng ai sẽ được là chiên của Đức Giêsu?
Thánh Phêrô khẳng định: Đó là tất cả những ai sám hối , chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội, và nhận được ân huệ là Thánh Thần (x. Cv 2,38) khi trả lời câu hỏi “Chúng tôi phải làm gì?” (Cv 2,37) của những người đến nghe ngài làm chứng về Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người trong ngày lễ Ngũ Tuần của người Do Thái, sau khi Đức Giêsu sống lại từ cõi chết như lời Ngài đã hứa.
Thánh nhân còn nhấn mạnh: sở dĩ chúng ta được kêu gọi sám hối để trở về với Thiên Chúa, vì tất cả chúng ta đều là tội nhân đáng chịu hình phạt, nhưng “tội lỗi của chúng ta, chính Đức Giêsu đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính” (1P 2, 24), vì Người đã mang những vết thương mà chúng ta đã được chữa lành (x. 1P 2,24). Và thánh tông đồ trưởng kết luận: “Quả thật, trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em” (1 P 2,25).
Như thế, hạnh phúc của người Kitô hữu là biết mình là chiên thuộc đoàn chiên của Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành, Đấng không chỉ chăm lo, săn sóc đoàn chiên, mà còn hiến dâng chính mạng sống mình làm lương thực cho “chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Đoàn chiên ấy là Giáo Hội, tập thể gồm tất cả những người tin vào Đức Giêsu và đi theo Ngài. Họ thuộc mọi thời đại, mọi sắc dân, tiếng nói, trình độ, thành phần xã hội, nghĩa là không trừ ai, vì không ai là người xa lạ trong Giáo Hội ; không ai là người ngoại quốc, ngoại cuộc trong đoàn chiên của Đức Giêsu, Đấng yêu thương mọi người và cứu độ toàn thể nhân loại.
Vì không ai là người xa lạ trong gia đình Giáo Hội, nên mọi thành phần gắn bó, hiệp thông, hiệp nhất với nhau, vì “chỉ có một thân thể, một Thần Khí, một niềm hy vọng”; “chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa, một Thiên Chúa, cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep 4,4.5-6).
Vì tất cả mọi người được kêu gọi vào đoàn chiên của Đức Giêsu, mà Giáo Hội tuy bản chất thánh thiện và mọi phần tử thuộc Giáo Hội được mời gọi nên thánh như Thiên Chúa là Đấng Thánh (x. Mt 5,48), cũng vẫn mãi là gia đình của những đứa con yếu đuối, èo uột, khó nuôi cần được âu yếm, chăm sóc; đoàn chiên có những chiên ngỗ nghịch, bướng bỉnh, xa đàn, lạc đàn cần được thương xót, tìm về; nơi nương náu trú ẩn an toàn tràn đầy yêu thương, dung thứ của tội nhân ở bước đường cùng bất hạnh.
Vì thế, chúng ta đừng đòi hỏi một Giáo Hội chỉ toàn những đấng thánh, một gia đình không có vấn đề, một đoàn chiên không có chiên ghẻ lở, đau bệnh, nhưng đón nhận và yêu thương Giáo Hội như gia đình nhân loại của Thiên Chúa với người tốt kẻ xấu, người thánh thiện, nhân đức, kẻ tội lỗi, hoang đàng, và tất cả đều được Thiên Chúa xót thương cứu chuộc, vì tin nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa Cứu Độ.
Xin Đức Giêsu phục sinh, Mục Tử nhân lành cho chúng ta biết đi theo Ngài “tới dòng nước trong lành” là bí tích rửa tội; biết vào “bàn tiệc Ngài dọn sẵn” là bí tích Thánh Thể ; biết để Ngài “xức dầu thơm trên đầu” là bí tích Thêm Sức (x. Tv 22, 2.5.); và biết sám hối trở về với Ngài là Thiên Chúa giàu lòng thương xót nhờ bí tích Hoà Giải (x. Cv 2,36).
Sinh ra làm người, bất cứ ở thời đại nào, giai cấp, mầu da, ốm yếu, hay mạnh khoẻ, tất cả đều PS 4-A155
Sinh ra làm người, bất cứ ở thời đại nào, giai cấp, mầu da, ốm yếu, hay mạnh khoẻ, tất cả đều là kết quả của yêu thương, dù ta có đón nhận sự thật đó không, thì tâm tư sâu thẳm vẫn tra hỏi ta. Đấng bậc sinh thành có phải là người quản lý không, khi các ngài vừa uốn nắn rèn luyện dạy dỗ con cháu như vị thầy, vừa hầu hạ chăm sóc chúng như một tôi tớ trung thành ? Là con là cháu, hẳn không ai lại hỏi: có thật ông bà là bố là mẹ tôi không ? Là con chiên ngoan hiền, sẽ không có tình trạng tách đoàn đi hoang, nghi ngờ hoặc bất phục tùng chủ chiên. Là người tín hữu, không ai lại lăn tăn về cội nguồn của mình, nhưng mỗi người đều phải trả lời: tôi đang sống tình hiệp thông với Vị Mục tử Giêsu như thế nào trong hoàn cảnh hôm nay ?
Trong bóng tối, ta không thể phân biệt được kẻ xấu người tốt, nhưng ngay cả giây phút nguy hiểm đến tính mạng, ta vẫn có tự do để làm việc tốt, trở thành người hữu ích. Ý thức sứ mạng người mục tử chăn dắt đoàn chiên Chúa Cha giao phó, Đức Giêsu mời gọi mỗi người hãy cùng Ngài lưu tâm đến vị trí của mình đối với cộng đồng xã hội, vì Thiên Chúa sẽ hỏi: bạn đang sống vô tư, vô lo, hay vô tâm trước gia đình nhân loại. Để mở rộng tầm nhìn, đi sát gần hơn về trách nhiệm và bổn phận của mỗi người, Đức Giêsu đã thật rõ ràng khi cho biết: “Tôi là cửa cho chiên ra vào ; ai qua Tôi mà vào thì sẽ được cứu”. Thực tế thì rất nhiều điều ta không thể hình dung, tưởng nghĩ ra được, cần phải người có chuyên môn, có kinh nghiệm, họ nói và không sợ sai lạc: bí quyết lớn nhất của thành công là thành thật.
Để nói lên tầm quan trọng của người đứng đầu, cha ông chúng ta đã kết nối tinh thần với trách nhiệm hết sức tế nhị: con dại cái mang, tội quy về trưởng. Người trẻ lại có những mơ ước đầy ẩn ý: hy sinh đời bố, củng cố đời con. Đúng, ở đời người ta chú trọng nhiều đến số lượng hơn là chất lượng, quan tâm đến quyền lợi hơn là nghĩa vụ, nghĩ đến thụ hưởng hơn là đầu tư. Dù truyền thống là dân du mục, người Do-thái vẫn thích có một Đức Giêsu chỉ mãi là cửa chuồng chiên, là người bảo vệ họ, hơn là ngôn sứ. Dù là người kitô hữu, nhưng ai cũng mơ ước được vinh quang, được hồng phúc của Đấng Phục sinh, mấy ai muốn theo Đức Giêsu chịu đau khổ, chịu chết treo thập giá vì đường tình yêu.
Hôm nay đây, Vị Mục tử Giêsu nói đến vị trí “cửa chuồng chiên”, xem ra có vẻ khó hiểu hoặc không mấy áp đặt, nếu như Chúa nói đến cửa quyền lực, cửa hạnh phúc ở trần thế này, hẳn người Do-thái và chúng ta nữa, sẽ dễ dàng và thích thú hơn khi tin theo Ông Giêsu. Rất nhiều người đổ lỗi vì bản chất yếu đuối, nên tôi thích cánh cửa thông thoáng, thích cánh cửa mang vác được nhiều của cải vật chất, do đó tôi sợ cánh cửa chật hẹp, quy củ, sợ cánh cửa có mùi đau khổ thập giá Đức Kitô ! Cũng trong ý tưởng đó, người ta muốn được quản lý tài sản, được quyền chi tiêu tự do, được thống trị đoàn chiên, mấy ai muốn theo Đức Giêsu, để được gọi là người quản lý trung kiên trong đoàn chiên gò bó kỷ luật ! Người quản lý theo tinh thần Mục tử Giêsu, sẽ mãi mãi là người phục vụ, là người vệ sĩ trong tình hiệp thông nên một với Giêsu.
Quy luật ở đời: tất cả những ai muốn vào nhà, đều phải qua cửa, vì họ không thể chui, hoặc không thể bay. Tất cả những ai muốn gia nhập đoàn chiên của Đức Kitô tiến đến đồng cỏ hạnh phúc, đều phải có khởi đầu qua cánh cửa Giêsu. Ngày hôm nay, khái niệm về làm con quan chức, làm con sếp, làm con đại gia, nhiều người thích, và nhiều người vẫn thắc mắc, tại sao Đức Giêsu không nói tôi là vị tướng tài giỏi, tôi là người giầu tiền lắm của ? Chắc chắn phải khôn ngoan và dồi dào kinh nghiệm, các đấng bậc mới có những lời tâm huyết với thế hệ con cháu: mỹ phẩm tốt nhất là nụ cười, nữ trang quý nhất là sự khiêm tốn, và trang phục đẹp nhất là sự tư tin. Theo Mục tử Giêsu, sẽ không phải là để tận hưởng vinh hoa phú quý ở đời này, nhưng sự hiệp nhất nên một trong đoàn chiên Giêsu, người ta sẽ thấy bình an, tự tin, khi mỗi người đang xây dựng và thể hiện sự trung thành với sứ mạng riêng của mình.
Chúa nhật 4 phục sinh hôm nay, Giáo hội dành đặc biệt cho việc cầu nguyện cho ơn gọi linh mục tu sĩ, còn Vị mục tử Giêsu vẫn đang giải thích cho nhân loại về ý nghĩa của cánh cửa hạnh phúc. Và Đấng phục sinh sẽ còn tiếp tục minh chứng về tình yêu trong tư cách là “cửa chuồng chiên”. Tìm kiếm hạnh phúc thật, thao thức được ở trong đoàn chiên mà Chủ Chiên Giêsu hướng dẫn, chỉ đạo, đó là mơ ước đúng, đẹp. Người ta chỉ có thể đến với “cánh cửa Giêsu”. Khi dám buông bỏ những ham muốn tiền tài địa vị thế trần, người ta chỉ có thể gặp được sự sống thật, hạnh phúc thật, khi có ước muốn làm chiên ngoan, từng bước, từng bước, sống tốt, sống đúng, sống đẹp, trọng trách người quản lý của mình. Amen.
Ưu tư trong cuộc đời người tín hữu sống trong ràng buộc giữa trần thế, làm sao để sống tự do PS 4-A156
Ưu tư trong cuộc đời người tín hữu sống trong ràng buộc giữa trần thế, làm sao để sống tự do trong ân sủng?. “Sống trong thế gian mà không thuộc về thế gian” như lời cầu nguyện của Chúa Giêsu với Chúa Cha trong lời nguyện hiến tế chương 17 phúc âm Thánh Gioan. Xin chia sẻ nhân đọc sách của linh mục Anselm Grun, tu sỹ dòng Biển Đức, trong cuốn “Chinh phục sự tự do nội tâm” với bức thư gửi tín hữu Titô của Thánh Phaolô mô tả sự tự do trong ba chiều kích: chừng mực, công chính, và lòng đạo là ba khái niệm trong triết học Hy lạp.
Chừng mực.
Sống chừng mực giống như nước, mềm mại, khoan dung và cũng cần có lúc như thác lũ… Như thế, đôi khi cũng sai lầm nếu mềm mỏng quá, nếu nghiêm khắc quá, người xưa thường nói: “biết đâu là vừa!”.
Chừng mực có nhiều khía cạnh trong cuộc sống, trong nhân cách, trong giao tiếp, trong hành sự. Chừng mực theo từ ngữ triết học Hy Lạp là thông minh, hiểu biết, liêm chính, đạo hạnh, hiểu biết đúng về thực tại.
Bugental là nhà tâm lý trị liệu cho rằng: “nhiều người cố gắng vô ích để trở thành điều họ tưởng phải là”. Cố gắng để trở nên như ai đó hoặc như con người như mình mong muốn điều ấy được ví như người mộng du, thiếu thực tại. Thánh Phaolô nói về sống chừng mực cơ bản trong thư gửi cho Titô : tiết độ, đàng hoàng, điềm đạm, lành mạnh về đức tin, đức mến, sự kiên nhẫn…lời nói lành mạnh, đoan trang trong cách ăn mặc (Xem Titô 2). Sống chừng mực là trở về với cách sống đơn giản, chân thành, yêu thương, nhận biết Chúa đang sống cùng. Nghĩa là nhờ Chúa dạy bảo đường lành, biết sống như Chúa mong muốn, với Chúa như người bạn, vừa ở trong vừa là người đồng hành.
Công chính.
Theo người Do Thái, người công chính là người sống chu toàn lề luật của Chúa được chỉ bảo trong sách thánh và biết tôn trọng chính mình. Thánh Phaolô chỉ dẫn trong thư gửi Titô: “Nhưng khi lòng từ hậu ái nhân của Thiên Chúa, Ðấng cứu thoát ta đã hiển linh, thì Người đã cứu ta, không phải do tự các việc ta làm trong đàng công chính, nhưng là chiếu theo lòng thương xót của Người, nhờ phép rửa tái sinh và sự canh tân đổi mới của Thánh Thần, Người đã đổ xuống trên ta một cách dồi dào phong phú nhờ Ðức Yêsu Kitô, Cứu Chúa của ta, ngõ hầu khi đã được giải án tuyên công nhờ ơn Ngài, chiếu theo hi vọng, ta được thừa hưởng cơ nghiệp sự sống đời đời.” (Titô 3, 4 – 7).
Không do chúng ta làm các việc trong đàng công chính, nghĩa là không được ngộ nhận nhờ những việc làm đó mà mình được cứu rỗi. Đó cũng là cách sống đúng với mình, không phải ảo tưởng, cố gắng là trước mặt người khác. Đời tu theo cha Alselm Grun một số tu sỹ đã làm mọi việc thiêng liêng, đạo đức, như là lấy sự kiêng nể và sự tôn trọng của bề trên, anh chị em và cả Thiên Chúa nữa, đáp lại sự chờ mong của mình. Điều đánh mất của đời sống như thế là mất chính mình, mất đi niềm vui đích thực nơi Chúa.
Lòng đạo
Lòng đạo theo từ ngữ Hy lạp là: “cúi mình trước nhan Chúa”. Vâng phục thánh ý Người.
Theo Bugental có một từ làm thao thức không nguôi trong lòng mỗi người là ”Thiên Chúa”. Gặp gỡ Thiên Chúa mỗi ngày là một gặp gỡ sâu thẳm trong tâm hồn. Thánh vịnh 138 Đavit đã thưa lên “Chúa biết tất cả về con”. Cái biết làm đảo lộn cuộc đời như Tin mừng Thánh Gioan gợi lên là sự sống sung mãn, dồi dào nơi Chúa: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10).
Tất cả mọi việc làm của con người tùy thuộc vào Thiên Chúa, Thánh phaolô nói việc lành phúc đức là bản chất của người Kitô hữu “Hiển linh vinh quang của Thiên Chúa lớn lao và là Cứu Chúa của ta, Ðức Yêsu Kitô, Ðấng đã thí mình vì ta để chuộc ta khỏi mọi tội ác và tẩy rửa lấy cho mình một dân làm sở hữu nhiệt thành với việc lành phúc đức.” (Tito 2, 13 – 14).
Thật sự sống ơn giải thoát là nơi Chúa, Thánh Phaolô đã reo lên: “Ai sẽ tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Ðức Kitô? Phải chăng là gian truân, bĩ cực, bắt bớ, đói khát, trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo ư”? Như đã viết: Vì Người chúng tôi bị sát phạt suốt ngày, chúng tôi bị kể như chiên lò sát. Nhưng trên các điều ấy hết thảy, chúng ta toàn thắng, nhờ Ðấng đã yêu mến chúng ta. (Rm 8, 35 – 37)
Đã là người, ai cũng có tai để nghe. Nhưng nghe và lắng nghe thì khác nhau. Để lắng nghe thật PS 4-A157
Đã là người, ai cũng có tai để nghe. Nhưng nghe và lắng nghe thì khác nhau. Để lắng nghe thật sự, chúng ta không chỉ cần có một đôi tai có thính lực, nhưng hơn hết chúng ta phải có một con tim tràn đầy tình yêu và có cái nhìn của Chúa.
Chúa Giêsu đã nói: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10, 27). Chúa Giêsu đã tự ví mình như một người mục tử, người mục tử nhân lành đã hy sinh tính mạng vì đoàn chiên. Là người mục tử, Chúa Giêsu luôn đi bước trước để diễn tả tình yêu dịu hiền dành cho đoàn chiên. Chúng ta là những con chiên thuộc đoàn chiên của Chúa. Mỗi ngày, chúng ta được Người dưỡng nuôi bằng chính Mình và Máu thánh của Người. Người vẫn lên tiếng nơi cõi sâu thẳm của tâm hồn chúng ta. Lời Người vẫn làm rung động trái tim chúng ta, chất vấn lương tâm chúng ta cả trước và sau những chọn lựa. Chúng ta có nghe được lời của Người không? Có những lúc, chúng ta mải mê đi tìm một đồng cỏ khác mà kẻ thù đã khéo bày vẽ cho chúng ta. Chúng ta tự tách mình ra khỏi đoàn chiên và chúng ta đã bị lạc. Chúa Giêsu đang tìm kiếm chúng ta. Người đã thấy chúng ta đang bị mắc kẹt trong bụi rậm của những đam mê xấu, bị trói buộc bằng những ham muốn trần tục. Người lên tiếng gọi chúng ta. Hãy lắng nghe lời Người đang thổn thức, hãy để Người chạm vào những vết thương đang rỉ máu của chúng ta, và can đảm để Người cởi trói cho chúng ta, kéo chúng ta ra khỏi những cạm bẫy của tội lỗi. Người sẽ chữa lành cho chúng ta.
Chúa Giêsu biết rõ từng người trong chúng ta. Người biết chúng ta đang ở trong tình trạng nào và đang đói khát điều gì. Cái biết của Người làm cho chúng ta được lớn lên, đó là một sự hiểu biết phát sinh sự sống. Chúng ta đã biết Người như thế nào? Chúng ta có ngày càng thêm hiểu biết và yêu mến Người không? Chúng ta nhận biết tiếng nói của Người ra sao? Chúa Giêsu không đến với chúng ta bằng xương bằng thịt như cách Người đã ở giữa các môn đệ ngày xưa. Ngày hôm nay, Người vẫn đến với chúng ta ngang qua người anh chị em. Đức Cha Pierre Lambert de la Motte- Đấng sáng lập dòng nữ Mến Thánh Giá, trong bức tâm thư gửi các nữ tu của Ngài, đã nhắn nhủ: “Nhưng điều hết sức quan trọng là phải thực hành mọi việc thay cho Chúa Giêsu Kitô, Người muốn đích thân làm những việc đó mà không thể được, nên dùng một số người do Người tuyển chọn và ban đầy tinh thần của Người là tinh thần trung gian, để tiếp nối cuộc đời lữ thứ và hy sinh của Người cho đến tận thế”. Ai trong chúng ta cũng có thể trở thành trung gian Chúa Giêsu dùng để đến với người khác và yêu thương họ như chính Người đã yêu thương. Người đã chẳng dạy chúng ta rằng: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau” (Ga 15, 12.17). Đó là giới răn mới của Chúa Giêsu đã truyền dạy cho người môn đệ. Là chiên thuộc một đoàn chiên duy nhất được quy tụ bằng chính giá máu của Con Thiên Chúa, chúng ta hãy cùng nhau lắng nghe lời yêu thương của Chúa mỗi ngày và cùng giúp nhau nhận ra tiếng nói của Người nơi nội tâm mình và ngang qua những vị trung gian Chúa dùng.
Lạy Chúa Giêsu là mục tử nhân lành! Cảm tạ Chúa đã luôn yêu thuơng con và cho con được ở trong đoàn chiên của Chúa. Mỗi ngày, xin Chúa hãy mở tai con cho con nghe lời của Chúa. Xin hãy mở đôi mắt con để con nhận ra Chúa nơi người anh chị em. Xin hãy biến đổi tâm hồn con, cho con được Chúa chạm vào và để con được sống bằng chính sự sống của Chúa. Amen.
“Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống, và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Mỗi người chúng ta có nhiều khát vọng cho chính mình. Nhưng khát vọng sâu xa nhất mà dường PS 4-A158
Mỗi người chúng ta có nhiều khát vọng cho chính mình. Nhưng khát vọng sâu xa nhất mà dường như ai cũng đi tìm cho mình là được sống và sống hạnh phúc. Trước khát vọng ấy, không ít người lên đường đi tìm lối đường để sống hay những phương thức để sống. Có người tìm cuộc sống hạnh phúc dựa trên danh vọng tiền tài, cũng có người tìm cuộc sống bằng cách trộm cướp, bạo lực. Cứ như thế, chúng ta cứ mãi đi tìm mà không tìm thấy hạnh phúc đích thật. Bởi vì, những gì ta kiếm tìm chỉ ở bên ngoài cuộc sống, mà những cái bên ngoài không bao giờ đem lại cho ta cảm giác no thỏa và bền vững bên trong tâm hồn. Chỉ khi chúng ta có bình an trong lòng, lúc đó chúng ta mới cảm nhận được mình được sống và đang sống hạnh phúc. Khi chúng ta cứ mãi đi tìm, thì đã có một Đấng đang đứng ngay bên, hay đang đi cùng chúng ta, Ngài sẵn sàng ban cho chúng ta tất cả những điều chúng ta khát. Ngài đã nói: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Chúa Giêsu đã vâng lời Chúa Cha bằng việc tự hạ mình làm thân phận con người. Ngài không đến trong địa vị giàu sang nhưng đến trong một gia đình nghèo. Ngài đón nhận những con người mà Chúa Cha trao ban trở thành chính mình. Ngài ôm ấp họ vào lòng và bao bọc họ. Ngài thánh hiến chính mình để cứu họ khỏi tội lỗi (x.Ga 17,1-19). Ngài dùng nhiều cách để cho họ nhận ra và cảm nếm tình yêu của Chúa Cha và của Ngài dành cho họ thế nào. Khi đứng trước nhóm người Pharisêu, Chúa Giêsu đã lấy những hình ảnh thực đang diễn ra trong cuộc sống thường ngày để nói với họ Ngài là ai. Ngài ví mình là ông chủ và con người là đoàn chiên. Là ông chủ, Ngài xây cho đoàn chiên ngôi nhà có người giữ cửa là các thiên thần và chỉ có một lối ra vào đó là Ngài. Ai trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai qua cửa ấy mà vào là người tốt lành. Ngài tiếp tục ví mình là người chăn chiên. Người chăn chiên biết rõ từng con và rất quan tâm, nhạy bén với tiếng kêu cứu của chúng; là người luôn đi đằng trước quan sát mọi sự xung quanh và dẫn đoàn chiên đến đồng cỏ xanh có suối mát trong lành. Ngài không những là Đấng đem lại sự sống cho thân xác đoàn chiên mà còn đem lại cuộc sống thần linh cho đoàn chiên. Ngài nói: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ” (Ga 10, 9). Ngài là cửa cho đoàn chiên bước đến với Chúa Cha. Vì không ai đến với Chúa Cha mà không qua Ngài (x.Ga 14, 6). Ngài là Đấng Bảo Trợ cho chúng ta trước mặt Chúa Cha (x.1Ga 2,1). Nhưng có mấy ai nhận ra Ngài!
Ngày hôm nay, chúng ta càng không thể nhận ra Ngài vì chúng ta không thấy việc Ngài xuống thế và phục sinh. Chúng ta lại là con người đầy yếu đuối dễ bị cuốn hút vào những gì là trước mắt hơn. Điều đó càng cho chúng ta thấy lời Chúa nói rất đúng: “Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,19). Lòng tin vào Chúa không phải là hão huyền nhưng có căn cứ là dựa trên các tông đồ là những người đã làm chứng cho Chúa Phục Sinh bằng cuộc sống và cái chết của mình sau khi Chúa Giêsu về trời. Theo dòng lịch sử, lòng tin được tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác. Các vị mục tử là những người tiếp nối Thầy mình để chăm sóc linh hồn chúng ta. Các ngài là những con người đã được Chúa chọn và cắt đặt để bảo vệ và coi sóc đoàn chiên. Là con chiên thuộc về đoàn chiên của Chúa, chúng ta hãy lắng nghe và mau mắn đi theo chủ chăn của mình, dầu rằng vị chủ chăn hiện tại vẫn còn nhiều bất toàn. Vì vậy, các ngài cần sự cộng tác và sự nâng đỡ của đoàn chiên, vì các ngài vẫn mang thân phận con người. Chúa Giêsu yêu chúng ta, Ngài không mong chúng ta đền đáp nhưng để cứu độ chúng ta Ngài cần chúng ta cộng tác. Đó là một khám phá mà thánh Augutinô đã chia sẻ. Bởi vậy, chúng ta hãy cộng tác và lắng nghe các vị mục tử đang dẫn dắt mình, cùng thêm lời cầu nguyện cho các ngài để các ngài luôn biết lắng nghe và mau mắn làm theo thánh ý Chúa.
Lạy Chúa, chúng con là những con chiên đã được Chúa quy tụ về đoàn chiên duy nhất của Chúa. Xin cho chúng con nhận ra tiếng Ngài và mau mắn vâng nghe qua sự dẫn dắt của các vị mục tử đang hiện diện với chúng con. Xin Chúa cũng ban Thánh Thần Tình Yêu trên các ngài, để các ngài luôn yêu thương đoàn chiên của mình và dẫn dắt đoàn chiên đi đúng con đường Chúa muốn. Amen.
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội cử hành Chúa Nhật IV Phục Sinh, được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên PS 4-A159
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội cử hành Chúa Nhật IV Phục Sinh, được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, để cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Hình ảnh người mục tử và đoàn chiên là hình ảnh nổi bật trong thánh lễ này.
Đối với người Việt Nam, hình ảnh mục tử và đoàn chiên thì khá xa lạ, nhưng đối với người Do Thái, hình ảnh này rất gần gũi, quen thuộc và quan trọng. Bởi vì, người Do Thái sống bằng nghề chăn nuôi, nuôi chiên cừu. Người mục tử có một tầm quan trọng trong lịch sử của họ. Vì thế, về mặt xã hội, họ dùng hình ảnh người mục tử để áp dụng cho những vị vua của mình. Về mặt tôn giáo, người Do Thái áp dụng hình ảnh để diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và dân Người. Thiên Chúa là mục tử chăn dắt đoàn chiên dân Người.
Trong Cựu Ước, Thánh Vịnh 23 diễn tả: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì, trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi (Tv 23,1-2).
Trong Tân Ước, hình ảnh lý tưởng về người mục tử tốt lành được thể hiện một cách đầy đủ và cụ thể nơi Đức Giêsu. Chính Người đã tự giới thiệu mình: “Tôi chính là mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10,14). Đức Giêsu chính là vị mục tử nhân lành và chúng ta là đoàn chiên của Người.
Tuy nhiên, dựa vào đâu để chúng ta nhận ra Đức Giêsu là mục tử nhân lành?
Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta ít nhất là ba tiêu chuẩn sau đây về người mục tử nhân lành, phân biệt với người chăn thuê.
Tiêu chuẩn thứ nhất: đó là người mục tử tốt lành là người “biết” đoàn chiên của mình. Theo Kinh Thánh, cái biết ở đây không phải chỉ là cái biết thuần lý trí, vô cảm, nhưng là đi vào tương quan gần gũi, mật thiết và hết lòng yêu mến đoàn chiên. Người mục tử sống gần gũi giữa đoàn chiên, lăn lộn với đoàn chiên, biết từng con chiên, con béo hay con gầy, con khỏe hay con bệnh tật, người mục tử đều biết rõ từng hoàn cảnh của mỗi con chiên. Trái lại, người chăn thuê thì không “biết chiên” của mình, là người chỉ làm việc vì tiền công, không phải vì yêu mến đoàn chiên.
Tiêu chuẩn thứ hai, người mục tử đích thực là người chăm sóc, đi trước và bảo vệ đoàn chiên khỏi sự tấn công của lũ sói, dẫu phải đối diện với nguy cơ phải bỏ mạng; còn người chăn thuê là người chỉ làm việc vì tiền công, không phải vì lòng yêu mến đoàn chiên, và thường họ chẳng có yêu mến gì đoàn chiên.
Tiêu chuẩn thứ ba, tiêu chuẩn cao nhất của người mục tử tốt lành là dám hiến dâng mạng sống mình vì đoàn chiên. Còn người chăn thuê chỉ tìm kiếm lợi tức và trục lợi từ đoàn chiên mà không dám hy sinh gì vì đoàn chiên.
Các bài đọc hôm nay là những lời chứng hùng hồn về người mục tử nhân lành đó. Trong bài đọc I, trích sách Công Vụ, Thánh Phêrô được tràn đầy Thánh Thần, đã có một bài giảng xuất thần về Người mục tử nhân lành: “Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô” (Cv 2,36). Bài giảng này đã đánh động và làm cho 3000 người trở lại.
Một cách tuyệt vời trong bài đọc II, thánh Phêrô nói về mẫu gương của vị mục tử nhân lành: “Thật vậy, Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. Người không hề phạm tội; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe; nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình” (1 Pr 2,22-23).
Như vậy, Đức Giêsu chính là vị mục tử đã hiến dâng mạng sống mình vì đoàn chiên, Người đã chấp nhận chết trên thập giá vì tội lỗi chúng ta, và sau ba ngày Người phục sinh vinh hiển để cứu độ chúng ta. Đấng Phục Sinh là Đức Chúa và là Đấng Cứu Độ loài người. Bởi lẽ, Người đã chiến thắng sự dữ, đã đập tan xiềng xích tội lỗi và là người đầu tiên đi vào sự sống mới của Thiên Chúa. Sự phục sinh của Đức Kitô là nền tảng cho sự sống vĩnh cửu của chúng ta. Đức Giêsu chính là vị mục tử dẫn con người tới sự sống mới này. Người đến để chiên được sống và sống dồi dào.
Nhưng khi cử hành Chúa Nhật Chúa Chiên Lành trong Mùa Phục Sinh, Giáo Hội muốn nói với chúng ta điều gì đó hơn nữa. Đấng Phục Sinh chính là vị mục tử nhân lành, Người không chỉ hiến mình cho chúng ta một lần mà thôi, nhưng Người còn tiếp tục hiến mình cho chúng ta nơi bí tích Thánh Thể. Vì Đấng Phục Sinh chính là Chúa Giêsu Thánh Thể. Nơi Thánh Thể, như là mục tử, Người tiếp tục hiến mình thành của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta.
Như thế, khi cử hành thánh lễ này, Giáo Hội mời gọi chúng ta suy niệm và sống ba bài học sau đây:
1) Đấng Phục Sinh tiếp tục hiện diện với chúng ta qua bí tích Thánh Thể để nuôi sống chúng ta là đoàn chiên của Người. Vì thế, chúng ta được mời gọi hãy đến tham dự thánh lễ, nơi đó Chúa nuôi dưỡng chúng ta qua bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể.
2) Chúa Giêsu chia sẻ sứ vụ mục tử của mình cho Đức Giáo Hoàng, các giám mục và các linh mục. “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi” (Ga 10,27). Chúng ta là đoàn chiên của Chúa, chúng ta được mời gọi lắng nghe tiếng nói của Huấn Quyền, của Đức Giám Mục và các linh mục hướng dẫn, ngõ hầu chúng ta cũng lắng nghe tiếng Chúa trong Giáo Hội của Người.
3) Ngày hôm nay, các linh mục phải đối diện với nhiều áp lực và thách đố trong sứ vụ mục tử của mình, chúng ta được mời gọi cầu nguyện cho các linh mục, cộng tác tích cực với cha xứ để xây dựng giáo xứ của mình phát triển không ngừng. Cách riêng, hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu, chúng ta sốt sắng cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều ơn gọi tu trì và nhất là biết cổ võ ơn thiên triệu bằng sự giúp đỡ của mình cho công cuộc đào tạo ơn gọi linh mục. Amen!
Trước khi ra khỏi nhà bắt đầu ngày làm việc, chúng ta đi qua nhiều cửa, nào là cửa phòng ngủ, cửa PS 4-A160
Trước khi ra khỏi nhà bắt đầu ngày làm việc, chúng ta đi qua nhiều cửa, nào là cửa phòng ngủ, cửa phòng tắm, cửa tủ lạnh và cửa cuối cùng là cửa cổng. Cửa cổng là cửa đầu tiên, khởi đầu cho một ngày làm việc; cửa cổng cũng là cửa cuối cùng chấm dứt một ngày làm việc. Câu nói ‘Thiên Chúa là khởi nguyên và là cùng đích’, hay dùng mẫu tự trong ngôn ngữ Hy Lạp là alpha và omega, hai mẫu tự đầu tiên và cuối cùng để diễn tả ‘bắt đầu và kết thúc’, diễn tả một công việc, hay một ngày từ sáng tinh sương cho đến khi mặt trời khuất bóng. Nó còn dùng diễn tả đời con người, từ lúc sinh ra cho đến khi sinh vào cõi trường sinh. Áp dụng câu nói này vào đức tin thì Thiên Chúa là nguồn gốc, nguồn mạch sự sống của mỗi người Kitô hữu. Ta khởi đầu sự sống từ Thiên Chúa và kết thúc cuộc đời cũng trong Thiên Chúa. Ngài là cánh cổng đời ta từ khởi sự cho đến hoàn thành; Ngài cho ta sinh vào đời, và Ngài cho ta sinh vào cuộc sống mới.
Cửa cổng còn là hàng rào ngăn cách giữa riêng tư và chung. Bên trong cánh cổng thuộc về đất tư, bên ngoài cánh cổng dành chung cho mọi người. Nơi nào cũng có luật lệ riêng của nó và vì thế đời sống nơi dó khác biệt. Đức Kitô cho biết Ngài là Đấng chăn chiên nhân lành và đồng thời Ngài còn là cánh cửa chuồng chiên. Hình ảnh cánh cổng chuồng chiên nêu rõ một số đặc tính của cánh cổng. Cánh cổng không di chuyển, đứng trụ, chịu nắng nóng ban ngày, chịu lạnh ban đêm, chịu gió bão, mưa phùn, mưa đá. Mùa nắng cũng như mùa lạnh, trưa hè cũng như đêm đông, cánh cửa hấng chịu tất cả. Đứng vững cho đến khi mục rã, thì thay cánh cổng mới. Ngày cũng như đêm, cánh cổng ngăn chặn thú hoang và ngay cả trộm cắp. Tất cả không được tự nhiên ra vào mà phải phấn đấu vượt qua, phải chui rúc, phải phá bỏ hàng rào đó mới có thể vượt qua. Cánh cổng không những bảo vệ vật dụng trong nhà mà còn bảo vệ tất cả những gì bên trong cánh cổng. Đức Kitô tự nhận Ngài là cửa chuồng chiên, nhận diện chiên ra vào hàng ngày, nhận biết chúng và chúng nhận biết Ngài. Chủ chuồng chiên là người đầu tiên mở cổng mỗi sáng. Nếu có kẻ thù rình rập thì cũng là người đầu tiên phải đối phó. Chủ cánh cổng cũng là người ra sau cùng trước khi khoá cổng. Chủ chuồng chiên làm chủ đàn chiên, coi sóc, bảo vệ, mang lại an toàn cho đàn chiên và là người cuối cùng khoá cổng sau khi đàn chiên vào chuồng. Hình ảnh cánh cổng là hình ảnh mang í nghĩa bảo vệ, che chở, giữ an toàn. Cánh cổng phân chia giữa thiện và ác, giữa ngày và đêm.
Có sự khác biệt giữa người chăn chiên thuê và người làm chủ đàn chiên. Người chăn thuê đặt an toàn của họ trên đàn chiên, nếu cần phải trốn tránh, họ sẵn sàng bỏ rơi đàn chiên cho đến khi an toàn mới lộ diện. Đấng chăn chiên nhân lành coi sự an toàn, sự sống của đàn chiên như chính sự sống mình. Ngài không bỏ chạy khi gặp nguy hiểm, nhưng đứng ra đối diện với sự dữ, bảo vệ đàn chiên và sẵn sàng chiến đấu cho sự an toàn của đàn chiên. Ngài nghe tiếng chiên và chiên nhận biết tiếng Ngài. Ngài dẫn đàn chiên đến nơi có cỏ non, tươi, có suối nước trong, có bóng mát cho chiên nghỉ buổi trưa hè, có nơi tránh tuyết lạnh mùa đông. Chiên lạc Ngài tìm vác về, chiên thương tích Ngài vỗ về, băng bó và chiên ốm đau được chăm sóc chu đáo. Đấng chăn chiên lành coi sóc chiên cả ngày lẫn đêm. Ban ngày Ngài cho chiên ra để chúng chạy nhảy, để chúng ăn no, tắm mát cùng với những chiên khác; đêm đến Ngài coi sóc bảo vệ, trông chừng để chiên có giấc ngủ ngon. Trong chuồng chiên luôn có bình an, tình cảm đầm ấm chiên dành cho nhau; trong chuồng chiên không có tranh chấp, không có hận thù và không có đau khổ về vật chất cũng như tinh thần. Đó là nơi an bình, thanh thản, vui tươi, cuộc sống hài hoà, không phải lo lắng, cũng không sợ tai ương bởi Chủ Nhân lành lo tất cả mọi sự cho chiên.
Đức Kitô, Đấng chăn chiên nhân lành, coi sóc đàn chiên của Ngài, coi sóc Giáo Hội Ngài, nơi trần thế. Ngài hiện diện, kề bên, ngày cũng như đêm, luôn đồng hành với chiên trong mọi tình huống, mọi khó khăn của cuộc sống. Đau khổ, ốm đau, bệnh tật, bách hại, tù đầy nơi trần thế bởi vì đàn chiên và Giáo Hội Chúa đang trên đường lữ hành, đang trên đường về miền ‘Đất Hứa’. Cho đến khi nào vào chuồng chiên lúc đó mới thực sự có cuộc sống an bình. Nơi nước trời vắng bóng sự chết; nơi đó không còn chiến tranh; nơi đó bệnh tật bị tiêu diệt tận gốc rễ; nơi đó tràn đầy ánh sáng, bình an, hạnh phúc ngập tràn. Điều này đến vào cuối ngày, đến vào cuối đời người. Mỗi người trong chúng ta, xin học từ Đấng chăn chiên lành sống tinh thần vị tha, bác ái yêu thương, bắt đầu từ gia đình và thể hiện nơi cộng đoàn đức tin mình đang sống và lan tràn ra ngoài xa hội.
----------------------------
PS 4-A161: MỤC TỬ TỐT LÀNH HY SINH MẠNG SỐNG VÌ ĐOÀN CHIÊN
Lm.Jos Đỗ Đức Trí
Cả thế giới xúc động khi nhìn tấm hình Đức Thánh Cha Phanxicô vào ngày Chúa nhật 22/3. Ngài PS 4-A161
Cả thế giới xúc động khi nhìn tấm hình Đức Thánh Cha Phanxicô vào ngày Chúa nhật 22/3. Ngài đứng từ ban công đền thờ thánh Phêrô, nhìn xuống quảng trường với nỗi đau buồn hiện trên gương mặt. Trước mặt Ngài là một quảng trường trống vắng, không một bóng người hành hương. Cả đoàn chiên của Ngài đã phải tan tác vì chạy dịch Coronavirus. Càng xúc động hơn nữa, vào chiều Thứ Sáu 27/3, dưới cơn mưa làm ướt đẫm quảng trường, một mình Ngài, vị giáo hoàng 84 tuổi, chỉ còn lại một lá phổi, bước đi những bước nặng nề vì trách nhiệm, Ngài đem Thánh Thể Chúa ban phép lành và cầu xin bình an cho cả thế giới. Hình ảnh thật xúc động, khiến cho các tờ báo lớn của thế giới phải chạy hành tựa: “Cả trời cao cũng phải đổ nước mắt.” Lúc đó dường như cả thế giới ngước mắt hướng nhìn về Đức Giáo Hoàng với tất cả niềm hy vọng. Ngài biết Ngài đang mang một sứ mạng lịch sử để cứu nguy cho cả nhân loại, dẫn dắt đoàn chiên Chúa đã trao cho Ngài vượt qua thử thách: “Con hãy chăn dắt các chiên con chiên mẹ của Thầy.”
Lời của Chúa hôm nay đang được diễn tả cách sống động và cụ thể qua hình ảnh của Đức Giáo Hoàng Phanxicô mà chúng ta đang chứng kiến việc Ngài đã và đang làm cho Giáo Hội, cho thế giới, cách đặc biệt trong những tháng vừa qua. Cả thế giới đang bị bầy sói Coronavirus tấn công khiến cho nhân loại bị tan tác, sợ hãi, đoàn chiên bị hoang mang tản loạn. Lãnh nhận sứ mạng từ vị Mục tử Giêsu, kế vị Thánh Phêrô, Đức Giáo Hoàng có nhiệm vụ củng cố đức tin cho anh em và bênh vực bảo vệ đoàn chiên khỏi sói dữ tấn công.
Chúa Giêsu cho thấy sự khác biệt giữa mục tử thật và kẻ chăn thuê: “Người chăn thuê không phải là mục tử và vì chiên không thuộc về hắn, nên khi thấy sói đến nó bỏ chiên mà trốn. Sói sẽ vồ lấy chiên và làm cho chiên tản loạn.” Đức Thánh Cha Phanxicô đã không sợ hãi đại dịch đang bao vây thành Vatican, cho dù sức khoẻ của Ngài không tốt. Ngài vẫn làm việc và liên tục đưa ra những hướng dẫn cho Giáo Hội, Ngài làm mọi cách để nâng đỡ đời sống đức tin cho dân Chúa. Trước đó, vị giám mục giám quản giáo phận Roma tuyên bố đóng cửa các nhà thờ, Đức Thánh Cha đã phải can thiệp và nhắc cho mọi người rằng: “Đừng để cho con virus sợ hãi tấn công chúng ta. Người tín hữu lúc này cần được đến với Chúa Giêsu Thánh Thể để cầu nguyện, để được nâng đỡ.” Vì thế, các cửa nhà thờ lại được mở ra, trở thành nơi trú ẩn trong đời sống đức tin cho các tín hữu. Đức Thánh Cha đi bộ đến Đền thờ Đức Bà Cả, Ngài phó dâng nhân loại cho Đức Mẹ. Ngài đưa ra sáng kiến ngày cầu nguyện, giờ cầu nguyện chung của cả Giáo Hội cầu cho thế giới. Đặc biệt là vào ngày 27/3 Ngài đã ban phép lành cho thành Roma và thế giới để cầu xin ơn bằng an. Đây là phép lành thông thường Ngài chỉ thực hiện vào hai dịp trọng đại trong năm là lễ Giáng Sinh và Phục Sinh. Nhìn hình ảnh vị đại diện Chúa Kitô, người kế vị thánh Phêrô một mình bước những bước chân già nua mệt mỏi trên các bậc đá trơn trượt, khiến cho cả thế giới chạnh lòng. Người ta có thể cảm nhận được sự đau khổ trong lòng của Ngài qua ánh mắt. Ngài đã bước đến chân tượng Chúa chịu nạn để ôm lấy Chúa và cầu nguyện cho Giáo Hội. Trong bài giảng trước đó, Đức Thánh Cha kêu gọi con cái trong Giáo Hội “đừng sợ” nhưng hãy chạy đến với Chúa Giêsu và kêu với Ngài: “Thầy ơi! Xin cứu chúng con với, chúng con chết mất.” Ngài quả quyết rằng: Chúa vẫn hiện diện trên con tàu Giáo Hội. Ngài đang ngồi ở đàng lái để điều khiển con tàu Giáo Hội. Ngài chỉ đang ngủ một chút thôi, hãy đến đánh thức Người dậy. Chúa sẽ ra lệnh cho sóng gió yên lặng.
Bài đọc một, Sách Công Vụ cho thấy một hình ảnh Phêrô thi hành nhiệm vụ chủ chăn mà Chúa trao phó. Nếu như những ngày trước đây, chúng ta thấy một Simon Phêrô bồng bột, hèn nhát trong cuộc thương khó của Chúa, thì nay Phêrô hiên ngang mạnh dạn trong vai trò là thủ lãnh Giáo Hội, là người anh trong số Mười Hai, là người tiên phong trên hành trình truyền giáo. Mới cách đây không lâu, Phêrô và các trông đồ còn nhút nhát, sợ hãi, ẩn nấp trong căn nhà Tiệc ly, thì hôm nay với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các ông đã mạnh dạn đứng dậy, bước ra với thế giới. Phêrô đã thể hiện vai trò chủ chăn, người được Chúa Giêsu trao phó sứ mạng chăm sóc đoàn chiên Chúa, ông đã nói với dân chúng rằng: “Toàn thể nhà Israel phải biết chắc điều này: Đức Giêsu mà anh em đã treo lên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Kitô. Nghe vậy, họ đau đớn trong lòng và hỏi ông Phêrô và các tông đồ: Thưa các ông, vậy chúng tôi phải làm gì? Ông Phêrô đáp: Anh em hãy sám hối và chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để được ơn tha tội. Và anh em sẽ nhận được ân huệ là Chúa Thánh Thần.”
Những lời giảng ngắn gọn của Phêrô trong hoàn cảnh này, như là luồng điện chạm vào trái tim, tâm hồn của người Do Thái. Họ hối hận về hành vi và đời sống của họ và ăn năn sám hối. Trong những tháng vừa qua chúng ta cũng đang thấy điều này đang được thực hiện qua vị Đại diện Chúa Kitô ở trần gian. Có những lúc các vị chủ chăn đưa ra những lời khích lệ động viên an ủi, nhằm xoa dịu nỗi đau đớn hoảng loạn của nhân loại. Nhưng cũng có nhiều lần Ngài chỉ cho thấy những lối sống sai trái, những cám dỗ nguy hiểm đang kéo nhiều người xa lìa Thiên Chúa. Ngài cũng mời gọi con cái Giáo Hội cùng sám hối quay trở lại với đòi hỏi của Tin Mừng, sống theo con đường của Chúa Kitô để được ơn giải thoát.
Trở về với con đường của Đức Kitô và Tin Mừng, tức là trở lại với đúng vị trí và ơn gọi của mình là con của Giáo Hội, là đoàn dân của Chúa, đặt mình dưới sự hướng dẫn của Mục Tử Giêsu. Đi theo con đường của Đức Kitô, chắc chắn không phải là con đường thênh thang rộng rãi, nhưng là con đường hẹp. Con đường này đòi chúng ta phải chấp nhận hy sinh và từ bỏ, hy sinh cái tôi, tự ái và những cái riêng, từ bỏ những hành lý cồng kềnh khiến chúng ta mệt mỏi trong cuộc sống. Thánh Phêrô còn nhấn mạnh: “Anh em thân mến, nếu làm việc lành và phải khổ mà anh em vẫn kiên tâm chịu đựng, thì đó là ơn Thiên Chúa ban. Anh em được Thiên Chúa gọi để sống như thế.”
Thưa quý OBACE cử hành ngày lễ Chúa Chiên Lành hôm nay, chúng ta tạ ơn Chúa vì Chúa đã thương chọn chúng ta và cho chúng ta được làm con chiên dưới sự hướng dẫn chăm sóc của Ngài. Chính Chúa Giêsu là mục tử của chúng ta; Ngài đã dùng lời của Ngài dạy dỗ chúng ta và dùng tình thương, sự tha thứ để chữa lành và nâng đỡ chúng ta. Vị mục tử Giêsu đã hy sinh mạng sống để bảo vệ chúng ta khỏi tay sói dữ là ma quỷ, Ngài cứu chuộc và còn dâng tặng cả máu thịt mình làm của ăn của uống nuôi sống đoàn chiên. Xin cho chúng ta luôn tin tưởng yêu mến và sống gắn bó hết mình với vị mục tử Giêsu.
Vị mục tử Giêsu còn tiếp tục hướng dẫn chúng ta qua các vị chủ chăn được Chúa tuyển chọn và trao phó cho việc thay mặt Chúa củng cố đức tin, chăm sóc hướng dẫn chúng ta trong thời đại mới này. Giáo Hội chính là đoàn chiên của Chúa. Sống trong Giáo Hội, chúng ta được hưởng sự chăm sóc yêu thương và được nuôi dưỡng bằng các bí tích cũng như các ân sủng của Chúa trao cho Giáo Hội. Vì thế, chúng ta được mời gọi trở thành những con chiên ngoan, sẵn sàng lắng nghe và tin tưởng bước theo sự hướng dẫn dạy bảo của Hội Thánh. Đừng bao giờ để mình thành những con chiên xa đàn, dẫn đến lạc đàn, vì sự kiêu căng tự ái hay vì những trái ý, nhưng khiêm tốn đón nhận, cộng tác và có trách nhiệm với cộng đoàn Giáo Hội vì lợi ích chung.
Qua bí tích Rửa tội Chúa cũng cho mỗi người được tham dự vào chức năng mục tử của Chúa Giêsu. Vì vậy, mỗi chúng ta được mời gọi trở nên mục tử đích thật, hy sinh vì đoàn chiên, chăm lo cho đoàn chiên nhỏ bé của mình trong gia đình, nơi cộng đoàn. Chúng ta cũng phải học theo gương mục tử Giêsu để dám hy sinh cả mạng sống vì những người Chúa trao cho mình. Dùng đời sống gương sáng và những lời dạy bảo để hướng dẫn con cái đi theo con đường của Chúa Kitô. Kiên nhẫn tìm kiếm và tha thứ khi con cái sai lạc, yêu thương đón nhận và bao dung để mở đường cho con cái quay về. Đừng bao giờ dựng hàng rào hay ngăn cản lối về của con cái hoặc của anh chị em mình.
Chúng ta tiếp tục cầu nguyện cho các vị chủ chăn của chúng ta: Đức Giáo Hoàng, các giám mục và các linh mục là những người đang mang trên vai trách nhiệm chăm sóc bảo vệ và hướng dẫn đoàn chiên Giáo Hội. Các Ngài cũng là những con người giới hạn, yếu đuối cả thể xác, tinh thần nên rất cần lời cầu nguyện và sự cảm thông của chúng ta. Xin cho chúng ta chu toàn sứ vụ vừa là con chiên ngoan của Chúa, vừa là con chiên trưởng thành trong Giáo Hội và đồng thời cũng là chủ chiên trong gia đình mình. Amen.
Mục Tử Thật Hy Sinh Mạng Sống. Người Làm Thuê Bỏ Mặc Đàn Chiên. Đó là “bí quyết” chính Chúa PS 4-A162
Mục Tử Thật Hy Sinh Mạng Sống Người Làm Thuê Bỏ Mặc Đàn Chiên
Đó là “bí quyết” chính Chúa Giêsu đã “bật mí” để có thể phân biệt người thật và việc thật, hoặc người giả và việc ảo, và được Thánh sử Gioan đã ghi lại. (Ga 10:11-12)
Ngày xưa, khi thấy đám đông lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương họ và nói với các môn đệ: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” (Mt 9:37-38)
Với lòng thương xót vô tận, Ngài không muốn ai phải sống èo uột, mà chỉ muốn mọi người được sống dồi dào, sống viên mãn, sống đúng nhân vị và nhân phẩm của con người, đồng thời cũng được hưởng nhân quyền và sự tự do đích thực. Ngài không chỉ muốn chúng ta được hạnh phúc đời sau mà còn được hạnh phúc ngay đời này.
Nếu chúng ta muốn được hạnh phúc như vậy thì chắc chắn phải “đi qua” Đức Giêsu Kitô – Đấng chịu chết và phục sinh. Thật vậy, Đức Giêsu Kitô là Con Đường duy nhất dẫn đến Chúa Cha (Ga 14:6) và là Nguồn Sống Viên Mãn. (Ga 10:10) Ngài không chỉ nuôi sống chúng ta bằng ân sủng mà đặc biệt là chính Mình Máu Ngài để chúng ta được sống dồi dào, vì Ngài là Thiên Chúa của người sống chứ không là Thiên Chúa của người chết. (Mt 22:32; Mc 12:27; Lc 20:38) Đó là vấn đề thực sự quan trọng.
Tuy nhiên, nếu muốn được sống viên mãn thì mỗi “cành nho” chúng ta phải nối kết với Cây Nho Thật để được truyền nhựa-yêu-thương. (Ga 15:1-17) Cây có nhiều nhựa thì có nhiều sức sống, con người cũng vậy, đặc biệt là sự sống tâm linh, sự sống từ Thiên Chúa, sự sống dồi dào thực sự.
Người ta sẽ biến đổi hoàn toàn để trở thành một con người mới khi được tái sinh bởi Đức Giêsu Kitô. Ngày xưa, sau khi Chúa Giêsu phục sinh, ông Phêrô đứng chung với Nhóm Mười Một lớn tiếng nói với tất cả những người đang cư ngụ tại Giêrusalem, và họ lắng nghe ông nói: “Toàn thể nhà Israel phải biết chắc điều này: Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô.” (Cv 2:36) Nghe thế, họ đau đớn trong lòng, rồi họ hỏi ông Phêrô và các tông đồ khác: “Thưa các anh, vậy chúng tôi phải làm gì?” (Cv 2:37) Biết hỏi như vậy là dấu hiệu tốt lành, vì chứng tỏ tâm hồn đã thực sự sám hối lỗi lầm, khao khát điều tốt và ước muốn hướng thiện. Chắc chắn ước muốn thì sẽ được, như người Pháp có câu: “Vouloir, c’est pouvoir.”
Ông Phêrô nghe họ hỏi vậy thì đáp: “Anh em hãy SÁM HỐI, và mỗi người hãy CHỊU PHÉP RỬA nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần. Thật vậy, đó là điều Thiên Chúa đã hứa cho anh em, cũng như cho con cháu anh em và tất cả những người ở xa, tất cả những người mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi.” (Cv 2:38-39) Ông Phêrô còn dùng nhiều lời khác để long trọng làm chứng và khuyên nhủ họ. Rồi ông nói: “Anh em hãy TRÁNH XA thế hệ gian tà này để được cứu độ.” (Cv 2:40) Những ai đã đón nhận lời ông thì đều xin được lãnh nhận phép rửa, muốn được tái sinh để hy vọng được vào Nước Trời. (Ga 3:5) Ngay trong ngày hôm ấy, có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo. Cây đức tin có sức sống thật mạnh.
Khoa học tiến bộ, ngày nay có phương tiện định vị toàn cầu giúp người ta định hướng, nhưng vẫn có thể lạc lối, chắc chắn chỉ có Chúa Giêsu mới chính là “định vị kế” chuẩn mực nhất. Người nào nhận biết được như vậy thì luôn an vui tín thác vào Thiên Chúa quan phòng và xác định: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.” (Tv 23:1-3) Thực sự an bình, thanh thản.
Đồng thời người đó cũng luôn an tâm vững chí, và hạnh phúc thân thưa: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên.” (Tv 23:4-6) Thật vậy, ai tuân giữ lời dạy của Đức Kitô thì không bao giờ phải chết. (Ga 8:51) Điều Chúa hứa sẽ luôn chính xác tuyệt đối, chẳng bao giờ sai chút nào.
Tín nhân không xa lạ với lòng nhân hậu và tình thương của Chúa, vì đó chính là Lòng Thương Xót mà ngày nay đang rất phổ biến khắp nơi trên thế giới, từ thành thị tới thôn quê, từ người già tới người trẻ, bởi vì không ai lại không là tội nhân, và vì thế mà bất cứ ai cũng cần đến Lòng Chúa Thương Xót. Hằng ngày, khi cầu nguyện bằng Kinh Mân Côi, chúng ta nhiều lần kêu xin: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con, xin cứu chúng con cho khỏi hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những linh hồn cần đến Lòng Chúa Thương Xót hơn.” Đó là lời nguyện Đức Mẹ dạy ba trẻ tại Fátima. Thế nhưng cũng rất có thể vì quen quá hóa nhàm, và rồi chúng ta không thực sự chú ý hoặc không cảm nhận lời cầu tha thiết như vậy. Linh hồn nào cũng cần được Thiên Chúa thương xót, dù người đó còn sống hay đã qua đời.
Theo bản tính phàm nhân, con người có thất tình (hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục). Đời sống tâm linh được lồng trong đời thường, và cũng có những cảm xúc khác nhau. Do đó, chúng ta luôn phải cố gắng không ngừng, sơ sảy một chút là té nhào ngay. Đôi khi còn có những điều trái tai, gai mắt, và chúng ta phải nỗ lực vượt qua chính mình. Thánh Phêrô đặt vấn đề: “Nếu có tội mà anh em bị đánh đập và đành chịu thì nào có vẻ vang gì? Nếu làm việc lành và phải khổ mà anh em vẫn kiên tâm chịu đựng, đó là ơn Thiên Chúa ban.” (1 Pr 2:20) Thật thế sao? Hãy nghe Thánh Phêrô giải thích: “Anh em được Thiên Chúa gọi để sống như thế. Thật vậy, Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. Người không hề phạm tội; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe; nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình.” (1 Pr 2:21-23) Đó là sống theo Thánh Ý Thiên Chúa.
Là Nguồn Sống nhưng Chúa Giêsu đã chịu bị giết chết, không phải Ngài đáng bị như vậy, mà Ngài chịu thay chúng ta, Ngài chịu chết để chúng ta có cơ hội sửa sai và có thể phục sinh vinh quang như Ngài: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành. Quả thật, trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em.” (1 Pr 2:24-25) Chúa Giêsu chết vì tội lỗi của chúng ta, Ngài cũng muốn chúng ta phải dám chết cho tội lỗi của mình – và của người khác, nhờ đó mà được sống lại và có sức sống của Đấng Phục Sinh Giêsu Kitô.
Chúa Giêsu là ai và là gì? Chính Ngài xác định Ngài là Con Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống, (Ga 14:6) đồng thời Ngài còn là Cửa, (Ga 10:9) chính Cửa này dẫn vào Nguồn Sống Viên Mãn của Thiên Chúa: “Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ.” (Ga 10:1-5) Nghe nói vậy, người ta không hiểu Chúa Giêsu nói gì. Tại sao? Bởi vì hiểu theo ý loài người và muốn hiểu theo ý riêng mình.
Điều đó không chỉ khó hiểu đối với nhóm Pharisêu hồi đó, mà còn khó hiểu đối với cả chúng ta ngày nay, thậm chí có khi chúng ta còn không muốn hiểu. Thật vậy, những lời Chúa Giêsu nói nghe không thấy có gì “gay gắt,” nhưng thực ra hiểu rồi thì mới cảm thấy “đụng chạm” và “nhức óc” lắm, vì Ngài muốn nhấn mạnh đến tính chất nhân lành cần thiết của Mục Tử, nghĩa là người đó phải thể hiện lòng thương xót và dám thí mạng vì đoàn chiên.
Trong cơn đại dịch Corona, nhiều linh mục đã xả thân nơi tuyến đầu để cứu giúp những người không may bị nhiễm bệnh dịch, mặc dù có thể nguy hiểm tới tính mạng của mình. Đó là tấm gương sáng của những người theo Thầy Chí Thánh Giêsu.
Đề cập lòng trắc ẩn, chắc hẳn không thể quên tấm gương sáng chói của Thánh tử đạo Maximilian Maria Kolbe, linh mục Dòng Phanxicô. Ngài sinh ngày 08-01-1894, tử đạo ngày 14-08-1941 tại trại tập trung Auschwitz của Đức Quốc Xã hồi thế chiến II. Ngài được mệnh danh là vị tử đạo bác ái, vì ngài đã chạnh lòng thương xót mà dám chết thay cho một tử tù còn vợ con. Ngài được Thánh GH Gioan Phaolô II tuyên thánh ngày 10-10-1982, được tôn phong là bổn mạng của những người nghiện ma túy, các tù nhân chính trị, các gia đình, các ký giả, và phong trào bảo vệ sự sống. Thánh GH Gioan Phaolô II đã tôn ngài làm “Thánh Bổn Mạng của Thế Kỷ Khó Khăn Chúng Ta.” Thánh Maximilian đã nỗ lực thúc đẩy phong trào tận hiến và phó thác cho Đức Mẹ, do đó ngài được mệnh danh là Tông Đồ Tận Hiến cho Đức Mẹ. Chính cái chết của ngài là đỉnh điểm của sự sống hoàn toàn tận hiến cho Đức Mẹ, ngài được gọi là “Gã Khờ của Đức Mẹ,” vì ngài đã làm mọi thứ vì Đức Mẹ. Thật tuyệt vời!
Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành đích thực, Ngài yêu thương mọi người, và Ngài chỉ muốn mọi người “đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm,” (1 Ga 3:18) nhất là những người được lãnh nhận tác vụ linh mục, họ cũng PHẢI là những mục tử nhân hậu, PHẢI biết phục vụ chứ không hưởng thụ. (Mt 20:28) Tuy nhiên, thời nào cũng vẫn thấy có những người thích dùng quyền và ra lệnh hơn là khiêm nhường phục vụ vì yêu thương. Con sâu làm rầu nồi canh. Có lần Đức Phanxicô đã cảnh báo các giám mục: “Mục tử có nguy cơ bị mê hoặc bởi viễn tượng nghề nghiệp, bởi cám dỗ về tiền bạc, và những thoả hiệp theo tinh thần thế gian.” Lần khác ngài còn nhấn mạnh rằng giám mục là người được chọn để PHỤC VỤ một Giáo Hội duy nhất, vì thế KHÔNG ĐƯỢC tìm kiếm một việc gì khác ngoài việc phục vụ Giáo Hội, và ngài đã nói thẳng: “Nếu tìm kiếm một việc gì khác thì chính giám mục đó đang ngoại tình.” Tấm gương mờ của “giám mục xa hoa” Franz Peter Tebartz van Elst (người Đức) còn đó, và rồi ông đã bị đình chỉ nhiệm vụ hồi tháng 10-2013. Chắc hẳn Mục Tử Giêsu buồn lắm!
Gương có nhiều loại – to hoặc nhỏ, sáng hoặc mờ. Một loại “gương lạ” là ĐGM Sebastianappan Singaroyan, 68 tuổi, GP Salem, bang Tamil Nadu, Ấn Độ. Sau 19 năm thi hành sứ vụ giám mục, ngài từ chức giám mục để làm cha phó tại một họ đạo nghèo, và ngày 09-03-2020, ĐTC Phanxicô đã chấp nhận. Ngài là một người nổi tiếng là “giám mục của dân” qua cách sống thanh bần và gần gũi với mọi người.
Khi đề cập vấn đề “nhạy cảm” như vậy, có những người cảm thấy “nhột” (chính họ nhột hoặc nhột dùm), nhưng phải nhột như vậy mới có thể “qua cơn mê” mà kịp thức giấc. Chúng ta chỉ tâng bốc nhau bằng những lời khen sáo rỗng để lấy lòng nhau thì chẳng lợi ích gì, thay vì dìu nhau vào miền ánh sáng thì lại đưa nhau vào con đường mê lầm. Dám nhìn thẳng vào sự thật mới là người yêu sự thật, và nhờ đó mới có thể thành nhân. Sợ sự thật hoặc tránh sự thật là đồng lõa với sự giả dối, đừng biện hộ vì thế này hoặc thế nọ, và cũng đừng ảo tưởng “chiếc bánh vẽ” nào đó.
Thật chí lý với nhận định của đại nhân Tuân Tử: “Người chê ta mà chê đúng thì là thầy ta, người khen ta mà khen đúng thì là bạn ta, những kẻ nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy.” [Xin được “mở ngoặc” nhỏ: Câu nói này thường thấy người ta sai sót cho là của Khổng Tử.]
Tương tự, khi đọc Lời Chúa thì người ta chỉ thích đọc những câu “vừa ý mình,” tránh những câu “chói tai” càng nhiều càng tốt. Người ta nói rất mạnh khi gặp đoạn Kinh Thánh không “đụng chạm” tới mình, nhưng lại “bẻ lái” khi gặp đoạn Kinh Thánh “hóc búa,” vì có những câu “va chạm” mạnh quá, thế nên họ cảm thấy… “nhột” và rất ngại ngùng, cứ lùng bùng lỗ tai.
Chúa Giêsu luôn thẳng thắn, dù lời Ngài nói ra có thể “mất cả xảo long.” Nhưng không thể khác được. Cũng vậy đối với Kinh Thánh – Lời Chúa. Có lúc Lời Chúa làm cho chúng ta vui mừng phấn khởi, nhưng có lúc lại khiến chúng ta xấu hổ, đau lòng. Nhưng ai dám chịu nỗi đau đó thì mới khả dĩ “bừng cơn mê” mà sớm thành nhân và nên hoàn thiện. Chỉ có thuốc đắng mới khả dĩ chữa lành bệnh tật – cả bệnh của thân xác và tật của tâm hồn.
Mục Tử Giêsu xác định: “Tôi là cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp, nhưng chiên đã không nghe họ. Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” (Ga 10:7-10) Mục Tử Nhân Lành là vậy, luôn sống và hành động vì người khác, vì đoàn chiên. Ai không là chủ chiên nhân hậu như Đức Giêsu Kitô thì chỉ là “thợ chiên” (chăn thuê) mà thôi. Đi qua Cửa đó sẽ phải chịu “đau nhức” lắm. Bức tượng càng đẹp thì càng chịu đục đẽo và chà xát nhiều.
Liên quan sự viên mãn, Thánh Phaolô có mơ ước và cũng là lời kêu gọi: “Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Kitô ngự trong tâm hồn; xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, để cùng toàn thể dân thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức Kitô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa.” (Ep 3:17-19) Trong lời kinh hòa bình, Thánh nghèo khó Phanxicô Assisi đã nguyện ước thực tế mà sâu sắc: “Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.” Và ngài tin chắc: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.” Đó chính là sức sống mãnh liệt của những người thực sự tin Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa Ngôi Hai, Đấng nhập thể làm người, là Con Chiên hiến tế và đã từ cõi chết sống lại vinh quang.
Trong Việt ngữ, mẫu tự kép CH được phát âm là “chờ” – bắt đầu cả hai chữ Chủ Chiên. Ý nghĩa thật thâm thúy: CHỜ và CHO. Ai chờ và chờ ai? Chờ gì và cho gì? Và CH còn bắt đầu chữ CHẾT – Chịu Chết. Chúa Giêsu đã sống các mẫu tự kép CH như vậy.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin ban cho chúng con sự sống của Ngài, để chúng con đủ sức mạnh mà hành động vì chân lý đích thực, và mỗi người sống như một “Kitô khác” chứ không “khác Kitô.” Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Trong thánh lễ an táng và cầu hồn, đáp ca được đọc hay hát thường là bài “Chúa là Mục tử” hoặc PS 4-A163
Trong thánh lễ an táng và cầu hồn, đáp ca được đọc hay hát thường là bài “Chúa là Mục tử” hoặc “Chúa chăn nuôi tôi”, trích từ Thánh vịnh 23. Lời ca sâu lắng, tha thiết và gợi hình, giúp cộng đoàn phụng vụ thêm lòng sốt sắng, giúp thân nhân gia đình người quá cố được ơn an ủi và niềm hy vọng. Thực ra, Thánh vịnh này không chỉ diễn tả việc Chúa dẫn đưa một người đã qua đời về vương quốc vĩnh cửu, mà còn diễn tả sự quan phòng yêu thương của Chúa đối với con người trong suốt cuộc đời. Ngài luôn chăm sóc chúng ta, ân cần chu đáo như một mục tử đối với đoàn chiên.
Trong xã hội du mục của người Do Thái thời xưa, hình ảnh người mục tử và đoàn chiên rất gần gũi đối với nền văn hóa và cuộc sống hằng ngày. Đi đâu ta cũng có thể gặp thấy đồng cỏ xanh, đoàn chiên thư thái ăn cỏ bên dòng suối mát lành dưới dự chăm sóc của các mục tử.
Trong Cựu ước, hình ảnh mục tử và đàn chiên đã được dùng để diễn tả mối quan tâm của Thiên Chúa đối với dân riêng của Ngài. Khi kêu cầu danh Chúa, người Do Thái đạo đức thân thưa với Chúa: “Lạy Mục tử nhà Ítraen, Ngài là Đấng chăn giữ nhà Giuse như chăn giữ chiên cừu, xin hãy lắng tai nghe! (Tv 79,2). Cũng như mục tử chăm sóc yêu thương đàn chiên, tác giả Thánh vịnh muốn xin Chúa chăm sóc, nhất là cứu vớt bảo vệ những ai đang bị chao đảo. Nếu đọc tiếp, chúng ta sẽ thấy tác giả diễn tả tình trạng gây hoang mang, khi nói về vườn nho là dân Ítraen: “Tường rào nó, vậy sao Ngài phá đổ? Khách qua đường mặc sức hái mà ăn! Heo rừng vào phá phách, dã thú gặm tan hoang”. trước bối cảnh đau thương đó, ông không thất vọng, trái lại phó thác và cầu xin với niềm xác tín: “Lạy Chúa…xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời, để chúng con được ơn cứu độ” (Tv 79,20).
Sau khi long trọng mừng lễ Phục Sinh, Phụng vụ mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng Chúa Giêsu ở một khía cạnh đặc biệt: Người là Mục tử nhân lành. Chính Chúa Giêsu đã dùng danh xưng này và Người đã thể hiện là một mục tử đặc biệt qua cái chết trên thập giá. Người đã hy sinh mạng sống vì đoàn chiên. Người đã thi hành đức yêu thương ở mức độ hoàn hảo nhất, vì : “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Nhờ máu Chúa Giêsu đổ ra trên thập giá, nhân loại được giao hòa với Chúa Cha. Những ai đón nhận giáo huấn của Chúa Giêsu và chuyên tâm thực hành, người ấy sẽ được kể như con chiên trong đàn chiên của Người. “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và sẽ gặp được đồng cỏ”. Đây vừa là một lời khẳng định vừa là một lời hứa. Những ai tin vào Chúa Giêsu và đi theo Người thì sẽ không bao giờ thất vọng, vì Người là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Trong bài giảng đầu tiên vào ngày lễ Ngũ tuần, Thánh Phêrô khẳng định Chúa Giêsu là Đấng Kitô và là Chúa. Người đã chịu đóng đinh trên thập giá. Người giống như mục tử, vì sự bình an và sự sống của đàn chiên, đã hy sinh mạng sống mình. Bài giảng hùng hồn đã khiến cử tọa khóc lóc đau đớn trong lòng, và đã có thêm ba ngàn người xin gia nhập Đạo Chúa trong ngày hôm ấy (Bài đọc I).
Các đức tính của vị mục tử được Thánh Phêrô tông đồ nêu rõ: trung thành, chân thật, phó thác cho Thiên Chúa Cha (Bài đọc II). Cũng như mọi con chiên phải nghe theo mục tử, mỗi tín hữu được mời gọi hãy bắt chước các nhân đức của Đấng đã hy sinh mạng sống vì hạnh phúc con người. Bài học lớn nhất mà chúng ta học được nơi cây thập giá, đó là sự hy sinh vì tha nhân, sống vì người khác, để đem hạnh phúc cho họ.
Vị mục tử đã hy sinh mạng sống vì đàn chiên không phải chỉ là một nhân vật của lịch sử xa xưa, nhưng hôm nay Người đang sống. Người vẫn đang dẫn đưa chúng ta đến bến bờ của sự sống, đó là các bí tích và niềm vui của ân sủng. Giáo Hội là một đàn chiên, có Chúa Giêsu là mục tử. “Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào”. Chúa Giêsu khẳng định Người là hướng đi cho tất cả những ai muốn đạt tới hoàn thiện. Vào “cửa” có tên là Giêsu là học cùng Người để lĩnh hội giáo huấn Người chỉ dạy. Người cũng là một trường học dạy sự hiền lành và khiêm nhường. Ngôi trường này luôn mở rộng cửa để đón tiếp mọi người. Tại ngôi trường này, con người được gặp gỡ Chúa Cha và gặp gỡ anh chị em trong tình thương mến. Nhờ việc đón nhận và thực hành giáo huấn của Chúa, cuộc đời của chúng ta được biến đổi. Sự biến đổi này thật lạ lùng đến mức làm cho người môn đệ được trở nên như hiện thân của Thày Giêsu trong lời nói, suy nghĩ và việc làm.
“Hỡi bạn là Kitô hữu, hãy luôn tự hào vì danh xưng ấy” (Thánh Lêô cả Giáo Hoàng). Mỗi chúng ta hãy cảm thấy vinh dự và vui mừng vì được mang danh Chúa Giêsu, đồng thời hãy góp phần mình làm cho đàn chiên Giáo Hội luôn vững mạnh, tỏa sáng giữa lòng đời. Giữa một cuộc sống còn nhiều góc khuất do tội lỗi và hận thù gây, hãy làm cho Giáo Hội thực sự là Ánh Sáng Muôn Dân, rạng soi thế giới.
Bài phúc âm Chúa nhật hôm nay nói lên mối dây thân tình giữa người tín hữu với Chúa Giêsu, giữa PS 4-A164
Bài phúc âm Chúa nhật hôm nay nói lên mối dây thân tình giữa người tín hữu với Chúa Giêsu, giữa mục tử và đoàn chiên. Một mối giao hảo tự do, không ép buộc, tạo nên do niềm tin tưởng và hiểu biết giữa mục tử và các con chiên. Đó cũng là hình ảnh giữa cuộc sống nội tâm, sự giao thân của người kitô hữu với Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu thường ví chúng ta là đoàn chiên của Ngài, và Ngài là Đấng chăn chiên.
Hôm nay, Ngài còn ví Ngài là cửa chuồng chiên. Nhờ cửa, các chiên của Ngài là chúng ta bước ra để tìm gặp ơn cứu rỗi. Đi qua cửa Chúa Giêsu có nghĩa là chúng ta phải tìm đến gặp gỡ Ngài. Có như thế, Ngài mới có thể gọi tên từng con chiên, và từng con chiên mới có thể nhận biết tiếng chủ chăn.
– Ngài là mục tử, Ngài đã đến để gọi các con chiên của Ngài. Và các chiên khi nghe gọi, nhận biết tiếng mục tử, liền theo ra, và một khi đã được gọi ra, tất cả các chiên theo mục tử.
– Chiên đặt hết tin tưởng vào mục tử, mục tử đi đâu thì chiên theo đó. Chiên sống bằng niềm tin cậy vô biên vào người chăn. Sự sống còn, cứu rỗi của chiên là niềm phó thác của chiên nơi mục tử.
– Trong chiều hướng đó, bài giảng về mục tử nhân từ hôm nay cho thấy rõ Chúa Giêsu là mcụ tử duy nhất của đoàn chiên là Giáo Hội. Chính Ngài đã gọi từng chiên nhập vào đoàn. Và chính Ngài giữ sự kết hợp giữa các chiên.
– Chúng ta cần phải thắt chặt mối thân tình của chúng ta với Chúa Giêsu. Chúng ta phải lắng nghe lời Ngài và cậy tin phó thác nơi Ngài. Chỉ có Ngài là chủ chiên và tất cả chúng ta là một đoàn chiên. Ngài mu6ón đoàn chiên của Ngài duy nhất là một.
– Ngoài ra, chúng ta còn phải tìm sống hợp nhất với anh em, và cùng anh em theo Chúa Giêsu, vị Mục Tử nhân hậu.
“Ai yêu mến Ta, thì sẽ giữ lời Ta, và Cha Ta sẽ yêu mến nó, và chúng Ta sẽ đến và cư ngụ trên người đó” (Ga 14, 23)
Lạy Chúa Giêsu, Mục Tử nhân hậu, xin giúp con luôn bước đi theo Chúa, và biết lắng nghe tiếng Chúa, nhất là biết thực thi lời Chúa dạy để đạt tới hạnh phúc bất diệt.
Cánh cửa vừa mở, những tia nắng theo đó ùa vào thích thú. Chàng thanh niên bước vào và gọi PS 4-A165
Cánh cửa vừa mở, những tia nắng theo đó ùa vào thích thú. Chàng thanh niên bước vào và gọi từng con chiên. Ban sáng, thời tiết thật mát mẻ. Mây trắng vắt ngang nền trời từng sợi mỏng manh. Từng chú chiên ngoan ngoãn đi ra khỏi ràn. Anh lấy bình nước đeo bên hông, tay cầm chắc cây gậy cũ kỹ. Đóng xong cánh cửa còn ướt sương, anh bước lên đi trước, cả đàn chiên túc tắc theo sau. Cả đàn chiên nghe tiếng của anh bởi tiếng nói rất quen thuộc ấy sẽ dẫn chúng tới đồng cỏ xanh rì và suối nước trong lành. Ở đó, chúng sẽ được thỏa thuê. Anh chăm sóc đàn chiên, từng con một. Ánh mắt tinh tường của anh phóng thật xa, trong tay vẫn cầm chắc cây gậy. Anh luôn trông chừng đàn sói kẻo chúng đến vồ chiên làm chiên tan tác. Nếu có sói đến, anh sẽ dùng cây gậy thô sơ ấy để xua đuổi chúng đi. Anh sẵn sàng xả thân để bảo vệ đàn chiên. Vì anh là mục tử. Chiều đến, khi đàn chiên đã về ràn đầy đủ và mạnh khỏe, anh đóng cửa ràn và nụ cười thoáng hiện trên môi. Vai áo anh còn ướt đẫm mồ hôi. Mùi mồ hôi hòa lẫn với mùi chiên, khó mà tách biệt được.
Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành
Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành gọi từng người môn đệ. Như những con chiên hiền lành, các môn đệ đi theo Thầy ngang dọc khắp miền, tới nhiều vùng đất, gặp gỡ nhiều người. Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành đi trước dẫn đường, các môn đệ theo sau đến nơi Người dẫn họ tới: vào Hội đường hay ngang dọc khắp miền Galilê, ghé thăm vùng đất Samari hay lên Giêrusalem. Theo Thầy, các ông thấy những việc tốt đẹp Thầy làm, từng lời giảng dạy đầy tình thương và uy quyền của Thầy. Các ông vui sướng khi danh Thầy được người đời tôn vinh. Được thơm lây, lòng các ông thỏa thuê. Ước mơ sắp đến ngày thành tựu.
Chúa Giêsu- Cửa sự sống
Kìa sói đến vồ lấy chiên và làm chiên tan tác. Thầy Giêsu bị nộp, các môn đệ hoảng loạn chạy tan tác, chỉ có vài người đi theo Thầy xa xa. Vị mục tử Giêsu đã bị nộp vào tay phường tội lỗi và bị xử tử. Người không chỉ mang trên mình mùi chiên nhưng hơn thế, Người đã thí mạng mình vì đoàn chiên. Sói dữ làm chiên tan tác nhưng chính Người sẽ thâu tập lại. Người chính là Cửa sự sống. Ai qua Người thì sẽ được cứu.
Trong đám người hỗn loạn và đầy phẫn nộ, thấp thoáng bóng cây thập giá mà chính Thầy Giêsu đang vác lấy để lên đồi Canvê. Ngài đang dẫn đường để đưa họ tới một đồng cỏ xanh tươi và một nguồn suối mới. Chính trên ngọn đồi chết chóc ấy, Người sẽ hiến chính thân mình trở nên đồng cỏ xanh tươi và sẽ đổ máu mình ra thành dòng suối trong lành để ban cho các ông một sự sống mới. Đường thập giá là đường thương đau nhưng không phải là đường của sự chết. Chính Giêsu đã bước đi bằng con đường ấy và dùng tình yêu của mình để cứu độ nhân loại tội lỗi. Từ đây, nhân loại được nuôi dưỡng bởi một nguồn sống mới được kín múc từ Đấng Tình Yêu. Bởi Thầy đến để cho chiên được sống và sống dồi dào. Chính Mục tử Giêsu sẽ chăm sóc linh hồn của từng người con bé nhỏ. Đường Thầy đã đi qua, chính các môn đệ cũng sẽ đi tiếp.
Tâm hồn các ông đã sầu khổ khi chứng kiến cái chết tức tưởi của Thầy, buồn đau và thất vọng khi giấc mộng hão huyền chỉ tựa làn khói trắng bay lên từ đống tro tàn. Chẳng còn đâu ngày nào Thầy được tôn vinh, chẳng còn đâu những tháng ngày bên Thầy yêu dấu. Chúa Phục sinh mang đến cho các ông niềm vui ngập tràn. Từ cánh cửa đóng kín im ỉm vì sợ hãi, Ngài hiện diện giữa các ông và ban bình an, thổi Thần Khí đổi mới tâm hồn các ông. Từ đây, người ta sẽ thấy một Phêrô mạnh dạn rao giảng Tin Mừng Phục Sinh và luôn vui mừng khi được chịu đau khổ vì danh Thầy; một Gioan càng yêu Thầy mãnh liệt và thâm sâu hơn, một Anrê miệt mài trên từng chặng đường truyền giáo… Bởi các ông đều đi qua Cửa Sự Sống và tìm được đồng cỏ. Các ông được cứu khi đã kiên vững đi trên con đường Thầy đã đi qua. Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống.
Chiên lạc trở về
Như những con chiên lạc được trở về với Mục Tử nhân lành, chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi bằng một tình yêu rất riêng. Được sống trong mái nhà Hội Thánh, chúng ta được Người chăm sóc linh hồn, dưỡng nuôi bằng chính Thánh Thể – nguồn tình yêu bao la, được dạy dỗ và hướng dẫn bước đi trên con đường sự sống. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa đã luôn yêu và chọn gọi chúng ta dù chẳng ai trong chúng ta xứng đáng lãnh nhận ơn cao quý ấy. Người đã mang vào thân mình tội lỗi chúng ta để cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Là những con chiên bé nhỏ và yếu đuối, chúng ta hãy lắng tai nghe tiếng gọi thân thương của Người, đi theo Người trên con đường Người dẫn chúng ta. Chỉ nơi Giêsu, chúng ta mới được thỏa no tâm hồn.
Lạy Chúa, Chúa biết rõ từng người chúng con dù cho chúng con chưa kịp thưa lên cùng Chúa điều chi. Chúa đã hiến mình vì yêu chúng con. Xin cho các linh mục của Chúa luôn thấm mùi chiên, có đôi tai tâm hồn thính nhạy trước tiếng Chúa, có con tim thật rộng lớn để dẫn dắt đoàn chiên trên đường về nhà Cha. Xin cho mỗi chúng con là những Kitô hữu luôn biết trở về với Mục Tử nhân lành là chính Chúa để được Người chăm sóc linh hồn chúng con. Amen.
Cuộc sống như dòng nước chảy. Mỗi chúng ta không tự đi tự chạy. Chúng ta cần người dẫn dắt PS 4-A166
Cuộc sống như dòng nước chảy. Mỗi chúng ta không tự đi tự chạy. Chúng ta cần người dẫn dắt. Bên cạnh chúng ta là cha mẹ, anh chị em và người có trách nhiệm sẽ dẫn ta đi. Nhưng, người âm thầm dẫn đi và bảo vệ chúng ta tốt nhất là Chúa Giêsu. Bài Tin Mừng của Thánh Gioan cho chúng ta biết Ngài dẫn dắt và bảo vệ chúng ta thế nào.
Chiên là loài hiền lành, mắt kém và chân yếu. Vì thế, thú dữ dễ dàng tấn công. Tuy vậy, nó lại biết lắng nghe. Chiên cũng là con vật mà xưa kia người Do Thái xem như một gia tài, một người bạn hay một thành viên gia đình. Chúng được ôm ấp và ngủ chung với người nhà như ngày nay chúng ta thường ôm thú cưng vậy. Vì thế, Chúa Giêsu đã lấy hình ảnh đàn chiên để nói lên tương quan của Ngài với chúng ta.
Ngài ví chúng ta như đàn chiên. Những con chiên yếu đuối dễ sa ngã. Chúng cần người bảo vệ yêu thương. Chúa Giêsu đã đặt mình vào vị trí cánh cửa ra vào cho đàn chiên. Ngài nói: “Tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào”( x. Ga 10,7). Một cánh cửa có chức năng đóng và mở. Cửa đóng lại khi đàn chiên vào chuồng nghỉ ngơi và mở ra khi chúng đi ăn. Ngài làm như vậy để được ở gần chúng, được gặp gỡ chúng mỗi ngày. Khi đàn chiên đi ăn, người trở thành người chăn chiên chăn dắt chúng ta. Ngài nói: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (x Ga 10,9). Là người chăn chiên, Ngài sẽ đi đầu để bảo vệ và dẫn chúng đến những đồng cỏ tốt, những dòng nước mát. Khi đàn chiên gặp thú dữ, Ngài ra sức bảo vệ. Nếu con nào bị thương, Ngài băng bó và vác nó lên vai mà đi. Ngài cũng không để con nào bị lạc. Ngài khác những kẻ chăn chiên thuê. Những người chăn chiên thuê, họ làm vì cuộc sống mưu sinh, nên khi thú dữ hay kẻ ác tới họ liền bỏ chạy. Còn Chúa Giêsu thì lao mình ra để đánh lạc hướng thú dữ và chết thay cho đàn chiên. Ngài đã làm như vậy qua những lời giảng dạy, chịu những đòn roi và lời sỉ vả, đã chết và sống lại. Ngài trở thành người chăn chiên tốt lành của chúng ta. Chính Ngài đã nói: “Tôi chính là mục Tử nhân lành”. Người Mục Tử vẫn ở với chúng ta và chăn dắt chúng ta mỗi ngày. Ngài ẩn mình nơi các Giám mục, Linh mục và các tu sĩ.
Ngày hôm nay nền kinh tế phát triển, chúng ta dễ dàng bị cám dỗ bởi những sự nhẹ nhàng, những lời nói thách thức nhau và những cuộc chơi làm chúng ta không còn là con chiên hiền lành nữa. Chúng ta sẽ bị lô kéo, dễ bỏ đàn chiên và bị lạc lối. Chúng ta hãy tỉnh thức và tin tưởng vào Chúa, vị Mục Tử nhân lành.
Lạy Chúa, hôm nay là lễ Chúa Chiên Lành, chúng con xin Chúa ban ơn tiếp sức cho các Giám mục, Linh mục và các tu sĩ có một tấm lòng nhiệt thành và một tình yêu bao la để dẫn dắt đàn chiên là chúng con, để chúng con không bao giờ xa rời Chúa. Là đàn chiên, chúng con xin Chúa cho chúng con luôn luôn là con chiên ngoan, biết lắng nghe, được chữa lành, được vác trên vai. Nhờ đó, chúng con mãi thuộc trọn về Ngài trên con đường theo Ngài. Amen.
Trong Giáo Hội có rất nhiều vị mục tử thánh thiện và gương mẫu, đáng để chúng ta noi theo. Nhưng PS 4-A167
Trong Giáo Hội có rất nhiều vị mục tử thánh thiện và gương mẫu, đáng để chúng ta noi theo. Nhưng, mẫu gương tuyệt hảo nhất chính là Đức Giêsu, vị Mục tử nhân lành khả kính, Đấng mà Giáo hội hôm nay mời gọi chúng ta quy hướng về. Giáo hội dành riêng ngày Chúa nhật tuần 4 mùa Phục sinh với các bài đọc Lời Chúa để chúng ta học hỏi nơi Đức Giêsu, nguyên mẫu mục tử cho tất cả mọi người.
Tình yêu mục tử nơi Chúa Giêsu được hiển thị rõ nét qua ba chiều kích : Vị mục tử biết chiên của mình, vị mục tử lặn lội đi kiếm tìm con chiên lạc, và vị mục tử nhân lành đã hy sinh mạng sống cho đoàn chiên.
Mục tử nhân lành ‘biết’ các chiên của mình
Trong Tin mừng Gioan chương 10, Chúa Giêsu đã nói về đặc nét căn bản này. Trước hết, vị Mục tử nhân lành biết rõ các con chiên trong đàn mình :“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10,27). Đây không phải là cái biết của tri thức, nhưng đó là thái độ biết chiên được biểu tỏ bằng sự hiệp thông sâu xa. Trong Tin mừng Gioan, Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần nói về việc Ngài biết Chúa Cha và thi hành những công việc được Chúa Cha trao phó (Ga7,29; Ga 8,19; Ga 9,55,…). Cũng tương tự như thế, Ngài mời gọi các học trò của mình bắt chước Ngài, hãy ‘biết’ các con chiên, giống như Ngài. Chúa là vị Mục tử nhân lành luôn luôn biết các con chiên thuộc đàn của mình.
Để diễn bày thái độ ‘biết’ chiên, Đức Giêsu đã đi vào trần gian, chia thân sẻ phận với chúng ta. Ngài vui với người vui, khóc với người khóc. Ngài đi dự tiệc cưới tại Cana để chung chia niềm vui với đôi uyên ương trẻ. Ngài thổn thức trước cái chết của đứa con trai bà góa thành Naim. Chúa cũng rơi lệ khi đứng trước ngôi mộ của Lazarô, người bạn nghĩa thiết. Đức Giêsu là Thiên Chúa rất Thiên Chúa, đồng thời Ngài cũng là một con người rất con người, gần gũi với cuộc sống đời thường, sống giống hệt như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.
Trong một bài giảng mùa chay, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng khuyến mời các vị mục tử đừng bao giờ ‘mỏi mệt’ để biết các con chiên của mình và người Mục tử phải có ‘mùi chiên’. Cụ thể, Đức Thánh Cha vẫn hay đến thăm các nhà tù, đã từng cúi xuống rửa chân cho các thiếu niên phạm pháp, đã ngồi ăn uống với những người vô gia cư… Điều Đức Thánh Cha thực hiện, không phải là một học thuyết mới lạ mang tính cách mạng, nhưng Ngài chỉ muốn sao chép lại cách sống của Chúa Giêsu, vị Mục tử nhân lành luôn biết các con chiên của mình, và mang nơi mình ‘mùi’ của từng con chiên.
Mục tử nhân lành đi kiếm tìm con chiên bị lạc
Chúa Giêsu không phải là một lý thuyết gia. Ba dụ ngôn mà Thánh Luca viết lại trong chương 15 diễn bày chân dung cứu thế và lòng thương xót của một vị mục tử đích thực. Đó là dụ ngôn kể về người đàn bà đi tiềm kiếm đồng bạc bị mất, dụ ngôn người chăn chiên lặn lội tìm kiếm con chiên đi lạc, và nhất là dụ ngôn đứa con hoang đàng trở về trong sự vui mừng tột độ của người Cha. Chúa đã chọn cái chết bi thương trên Thập giá để diễn bày lòng thương xót và sự tha thứ vô điều kiện đối với các tội nhân. Phán quyết của Đức Giêsu, một vị quan tòa đầy lòng thương xót khi Ngài nói với người phụ nữ phạm tội ngoại tình, cũng là phán quyết Chúa ngỏ trao tới từng người chúng ta, là những tội nhân đáng phải chết : “Tôi không kết án chị đâu. Hãy về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Trong một bài giảng tại Missouri bên Hoa kỳ, Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận đã dí dỏm nói rằng Đức Giêsu là một học sinh rất dốt toán. Ngài coi con số 1 lớn hơn con số 10. Ngài cũng là một kinh tế gia khá tồi, vì dám liều bỏ lại 99 con chiên khỏe mạnh để lặn lội đi tìm kiếm một con què quặt đang đi lạc. Ngài cũng là một kẻ đãng trí và hay quên. Ngài không nhớ cô gái đang ngồi khóc bên chân Ngài là một cô gái điếm khét tiếng, cũng quên mất tên tử tù bị đóng đinh bên cạnh Ngài là một tay gian phi nguy hiểm với một quá khứ đặc kín tội ác… Bởi vì, Chúa Giêsu luôn mãi là một Mục tử nhân lành, và Ngài mắc phải một căn bệnh kinh niên, đó là bệnh dễ quên. Căn bệnh lú lẫn và hay quên của Chúa thật đáng yêu biết bao.
Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên
Chúa Giêsu đã nói: “Tôi đến để chúng được sống và sống dồi dào.” Thánh giáo phụ Irênê cũng đã viết : “Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống”. Để chúng ta được sống và sống dồi dào, Đức Giêsu đã chấp nhận cái chết khủng khiếp giống hệt một tên tử tội đốn mạt nhất. Ngài đã nói: “Cha tôi đã làm việc, và tôi cũng luôn làm việc”. Công việc của Ngài là hy sinh mạng sống để đem lại sự sống cho con người, phục hồi cho ta phẩm giá cao quý được làm con Thiên Chúa. Thánh Phanxicô Salê đã nói: “Điều linh thánh nhất trong tất cả mọi điều linh thánh là làm việc cho thiện ích các linh hồn (Divinissimum divinorum est opere ad lucrum animorum)”. Điều linh thánh ấy, Đức Giêsu đã thực hiện trong 3 năm rao giảng và cao điểm cuối cùng là Ngài chấp nhận cái chết oan ức trên Thập giá để cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Ngài trở nên nguyên mẫu cho tất cả chúng ta, vì Ngài là Mục tử toàn hảo, đã hy sinh ngay cả mạng sống cho đoàn chiên.
Kết luận
Một linh mục trẻ đã chia sẻ tâm sự của mình trên blog như sau: “Tôi có một người bạn và cũng là một người anh rất thân thương. Ngài là một linh mục, lớn tuổi hơn tôi, và hình ảnh của vị linh mục đó luôn in đậm dấu ấn trong cuộc đời tôi. Ngài được bề trên sai về coi sóc một giáo xứ mới thành lập, và Ngài cũng là Cha xứ đầu tiên của giáo xứ đó. Giáo dân rất quý mến Ngài, vì Ngài hiền lành, luôn sống yêu thương chan hòa với mọi người. Ngài đặc biệt quan tâm tới những người nghèo, những người bệnh tật, những cụ già đơn chiếc và đặc biệt Ngài quý mến các trẻ em. Nhưng có một số vị trong ban hành giáo lại không thích Ngài. Lúc đầu họ ngấm ngầm chống đối, rồi dần dần ra mặt phản kháng công khai. Có điều kỳ lạ, là giáo dân trong giáo xứ cho dầu kính phục Cha xứ, nhưng đã bị ban trùm lôi kéo và dần dần quay lại chống đối Ngài. Một kết cục rất đau buồn đã xảy ra, là đến một ngày đã sắp xếp, cả xứ kéo vào nhà xứ và dã tâm đập chết Cha xứ mà trước đây họ rất nể phục. Người ta báo cho chính quyền, chính quyền cũng làm ngơ và ra vẻ như đồng thuận. Bà cố của Cha khi nghe tin, đã rất đau khổ, tâm hồn tan nát như chết đứng. Tuy nhiên, bà cố không bao giờ than trách và chẳng tỏ dấu buồn bực hay trách cứ một ai. Dần dần, danh tiếng Ngài được nhiều người biết đến. Từ khắp nơi, người ta kéo đến giáo xứ để tưởng nhớ đến Ngài và cầu nguyện trước di ảnh của Ngài như một vị Thánh.
Người ta mới thắc mắc và hỏi: “Thế, Cha xứ đó tên là gì, và ở đâu ? Chúng tôi cũng muốn đến kính viếng và học hỏi nơi cuộc sống của Ngài”. Vị linh mục trẻ kia mới trả lời: “Ngài ở rất gần đây và cũng chẳng xa xôi gì. Tên Ngài quen thuộc lắm. Vị Cha xứ đáng kính đó tên là Giêsu”.
Giêsu chính là vị Mục tử khả ái, người Mục tử nhân lành. Ngài đã trở nên khuôn mẫu tuyệt hảo nhất cho tất cả mọi người chúng ta hôm nay, nhất là cho các anh em linh mục.
Hôm nay Chúa nhật Chúa Chiên Lành, ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục và Tu PS 4-A168
Hôm nay Chúa nhật Chúa Chiên Lành, ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục và Tu sĩ. Bài Tin mừng thánh Gioan giới thiệu cho chúng ta Đức Giêsu là vị mục tử nhân lành và là Đấng Cứu độ duy nhất của nhân loại, Ngài yêu thương đàn chiên, sống chết cho đàn chiên, hy sinh tất cả cho đàn chiên để đàn chiên được sống: “Tôi là mục tử nhân lành. Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào… Tôi là cửa chuồng chiên…” (Ga 10, 8-10).
Thời xưa, dân Do Thái là dân du mục, đa số sống bằng nghề chăn chiên, hình ảnh người mục tử và đàn chiên rất thân quen với người Do Thái và là chủ đề lớn trong Thánh kinh.
Người mục tử nhân lành chính là Thiên Chúa. Đàn chiên là dân Irael. Trong tân ước, Đức Giêsu tự khẳng định mình là mục tử nhân lành và tất cả mọi người trong Giáo hội đều là những con chiên của Chúa. Theo truyền thống của đạo Công giáo, người tín hữu được gọi là con chiên.
Theo William Barclay, vào thời Chúa Giêsu, có hai loại chuồng chiên. Trong các làng xã thường có một chuồng chiên công cộng, nơi tập trung tất cả các bầy chiên lại khi những người chăn chiên trở về nhà vào lúc ban đêm. Những con chiên này được bảo vệ bằng một cửa vững chắc mà chỉ có người chăn giữ đàn chiên mới có chì khoá để mở. Đức Giêsu nói: “Ai qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người giữ cửa mở cửa cho anh ta vào”(Ga 10, 2).
Loại chuông chiên thứ hai, khi đàn chiên đi ăn cỏ ở xa trên cánh đồng, hoặc đồi cỏ vào mùa ấm áp, đàn chiên không trở về làng vào ban đêm, thì các con chiên được quy tụ trong một chuồng chiên ở ngoài cánh đồng hay ngọn đồi. Chuồng chiên ở ngoài trời này là một bức tường đá vây chung quanh, có một lối ra vào và không có cửa. Ban đêm, ngoài mục tử nằm chắn ngang lối ra vào, không có con chiên nào ra chuồng, hoặc con thú nào vào chuồng mà không bước qua người mục tử. Nói một cách khác, Người Mục Tử là cửa chuồng chiên. Vì thế, Chúa Giêsu mới nói: “Tôi là cửa chiên ra vào” (Ga 10, 7-10). Khi Đức Giêsu nhận mình là cửa chuồng chiên, thì Ngài muốn nói Ngài là Đấng Cứu độ duy nhất của nhân loại hôm qua, hôm nay và mãi mãi và Ngài cũng là vị Mục Tử nhân từ. Đó là nội dung chính của bài Tin mừng hôm nay.
1. Đức Giêsu là mục tử nhân lành. Hình ảnh người mục tử tốt lành gợi cho chúng ta Thiên Chúa yêu thương con người, luôn hiện diện với chúng ta trong mọi hoàn cảnh cuộc sống lúc vui buồn, khi đau yếu lúc mạnh khoẻ, gắn bó thân thiết với đàn chiên “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28, 20). Thánh vịnh 23 chúng ta đọc ở phần đáp ca nói là sự quan tâm của Thiên Chúa đối với đàn chiên “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì”.
– Người mục tử nhân lành biết rõ từng con chiên: “Ta biết chiên của Ta, và chiên của Ta biết Ta” (Ga 10, 14). Biết theo nghĩa Thánh kinh không chỉ biết tên, gọi tên từng con chiên, mà còn hiểu biết tâm tư, nguyện vọng, những nhu cầu của con chiên để đáp ứng, phục vụ đàn chiên thật tốt. Sự hiểu biết tương quan tình thương thân mật và chân thành “Người mục tử tất cả vì đàn chiên”.
– Người mục tử nhân lành hy sinh mạng sống vì đàn chiên, sẵn sàng đương đầu với sói dữ, với kẻ trộm kẻ cướp để bảo vệ đàn chiên, vì mỗi con chiên đều quý giá vô cùng. Ngài bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc, Ngài sẵn sàng: “hy sinh mạng sống cho đàn chiên” (Ga 10,11). Đức Giêsu đã chết và phục sinh để đem ơn cứu độ cho tất cả nhân loại.
Người con chiên ngoan hiền:
Người tín hữu được gọi là con chiên của Chúa. Người con chiên ngoan hiền phải hội đủ điều kiện sau đây:
– Biết chủ chiên của mình là Đức Giêsu Kitô, yêu mến Người, tôn thờ Người và nhìn nhận Đức Giêsu Kitô là Vị lãnh đạo tối cao của mình.
– Biết lắng nghe tiếng chủ chăn, nghĩa là biết lắng nghe và thực hành lời Chúa, để cho lời Chúa thấm sâu vào tâm hồn, quyết tâm sống theo luật Chúa trong mọi hoàn cảnh thường ngày, luôn biết thưa có với Chúa và nois không với sự xấu.
– Đi theo và bước theo Chúa Giêsu Kitô phục sinh để tiến về cuộc sống vĩnh cửu qua cuộc sống chứng nhân: yêu thương và phục vụ mọi người, noi gương Đức Giêsu Kitô.
– Người Kitô có bổn phận học hỏi, lắng nghe, tuân giữ lời Chúa. Đó là bổn phận thiêng liêng vô cùng quan trọng, vì nghe và thực hành lời Chúa bảo đảm cho ta ơn cứu độ.
Bài Tin Mừng hôm nay (CN IV/TN-A – Ga 10, 1-10) trình thuật về dụ ngôn “Vị Mục Tử nhân PS 4-A169
Bài Tin Mừng hôm nay (CN IV/TN-A – Ga 10, 1-10) trình thuật về dụ ngôn “Vị Mục Tử nhân lành”. Ngay ở câu mở đầu, Thánh Gio-an ghi lại Lời Đức Giê-su nói với cộng đồng người Do-thái: “Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử.” Nếu bình thường nghe nói tới cái cửa chuồng chiên, bất kỳ ai cũng chỉ nghĩ đó là một công cụ bảo vệ đàn chiên. Cửa chỉ mở ra khi muốn cho đàn chiên đi ăn cỏ ngoài đồng, nó sẽ được đóng lại khi chiên đã vào hết trong chuồng. Như vậy, khi suy niệm bài Tin Mừng, đa số hay chú ý đến vai trò chủ nhân của đàn chiên, đó là Đức Giê-su Ki-tô, vị Mục Tử Nhân Lành. Đức Ki-tô đã dùng dụ ngôn nói về ràn chiên và nhấn mạnh đến vai trò người chủ. Người chủ đích thực sẽ vào ràn chiên bằng cửa chính và chiên sẽ nghe lời ông chủ, bởi ông biết tên từng con chiên và chúng nhận biết tiếng của ông. Ngoài ra, những kẻ không theo cửa chính mà vào, lại trèo lối khác, thì đó chỉ có thể là kẻ trộm, kẻ cướp.
Nghe dụ ngôn này, đáng lẽ những người Do-thái phải hiểu rằng Đức Ki-tô muốn nói đến những kẻ tin theo Người giống như đàn chiên ngoan hiền và Người chính là Mục tử chăn dắt đàn chiên đó. Tiếc một điều là họ chẳng hiểu, khiến Đức Ki-tô phải nói rõ hơn: “Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ. Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” (Ga 10, 7-10). Cũng vì thấy Đức Ki-tô khi thì nói đến người chủ của đàn chiên, bây giờ lại tự nhận mình là cửa ràn chiên, khiến cho bộ mặt của đám đông càng thêm ngơ ngác. Điều đó cho thấy họ vẫn chưa hiểu Người nói gì; nên cuối cùng, Đức Ki-tô phải nhấn mạnh: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Ga 10, 11).
Đức Ki-tô cho biết Người là vị Mục tử nhân lành thì điều đó là hiển nhiên, nhưng tại sao Người lại nói Người là cửa chuồng chiên? Chuồng chiên có cửa là để đón nhận và bảo vệ đàn chiên. Khi chiên đã vào hết trong ràn, thì cửa được đóng chặt để tránh sói dữ. Tránh được sói dữ nhưng khó tránh được con người nếu con người đó là kẻ trộm kẻ cướp, vì chúng sẽ đào tường khoét vách mà vào. Suy nghĩ sâu hơn một chút sẽ thấy khi Đức Ki-tô tự nhận Người là cửa chuồng chiên, thì cũng có nghĩa là Người kêu mời tất cả mọi người hãy đến cùng Người với một niềm tin và một tấm lòng trung thực công chính. Nói rõ hơn, khi đã qua cửa Giê-su mà vào thì chỉ có thể là những con chiên ngoan hiền biết nghe lời chủ. Cũng có thể có sói dữ lẫn lộn trong đoàn chiên (giống như cỏ lùng trong ruộng lúa), nhưng tất nhiên chúng không vào bằng cửa chính – cửa Giê-su Ki-tô – mà là trèo vào bằng cửa khác, đó chỉ có thể là kẻ trộm kẻ cướp mà thôi. Rõ ràng Đức Ki-tô vừa là xuất phát điểm, vừa là đích điểm cho hành trình của người Ki-tô hữu. Người là cửa để đón nhận và bảo vệ đoàn chiên, đồng thời Người cũng là vị Mục tử nhân lành chăn dắt đoàn chiên đó (“Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” – Ga 10, 9-10).
Đức Giê-su Ki-tô mời gọi tất cả mọi con chiên, không phân biệt chiên “nội” hay chiên “ngoại” như kiểu phân biệt của những kinh sư Do-thái thời đó (“Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử.” – Ga 10, 16). Điều làm cho những con chiên Ki-tô hữu vui mừng hãnh diện nhất, là được chính Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật mời gọi hãy qua chính cửa Giê-su mà vào làm chiên con trong ràn chiên của Thiên Chúa. Còn đáng vui mừng hãnh diện hơn thế nữa khi được thấy không chỉ những tín hữu là con chiên của Thiên Chúa, mà chính vị Mục tử nhân lành chăn dắt mình cũng là một con chiên – Chiên Thiên Chúa – được sát tế để cứu chuộc tội lỗi cho đoàn chiên nhân thế (“Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian” – Ga 1, 29). Như vậy, Thiên Chúa đã thương yêu con cái của mình, coi chúng như đoàn chiên ngoan ngoãn dễ thương, nên mới ban Con Một xuống thế để chăn dắt đoàn chiên đó, đồng thời hy sinh chính mạng sống mình làm “chiên sát tế” để đem lại ơn cứu rỗi cho chiên con.
Ngoài ra, khi nói về “cửa chuồng chiên” đón nhận những con chiên ngoan hiền vào trong “ràn chiên”, Đức Ki-tô còn dạy cho người tín hữu biết về ý định của Người sẽ thành lập Giáo Hội (ràn chiên) để nuôi dưỡng những con chiên sẽ là những thành phần trung kiên của Giáo Hội tương lai. Ràn chiên Giáo Hội được xây trên Tảng Đá Phê-rô (“Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” – Mt 16, 18) và cũng chính Phê-rô sẽ là Mục tử kế nghiệp Mục Tử nhân lành Giê-su Ki-tô trực tiếp chăm sóc những chiên con trong ràn chiên của Chúa. Ràn chiên Giáo Hội sẽ phát triển và trường tồn với những mục tử (giám mục, linh mục thừa tác vụ Linh Mục Thượng Phẩm Giê-su) chăn dắt đoàn chiên Ki-tô hữu.
Ý thức được vấn đề như vậy, người Ki-tô hữu hãy cầu xin cho mọi thành phần của Giáo Hội sống đúng và sống trọn vẹn vai trò của mình: Ai được chọn làm mục tử thì luôn luôn phải là người mục tử tốt theo gương Chúa Giê-su; và xin cho đoàn chiên luôn biết đoàn kết thương yêu nhau, cùng nghe theo tiếng nói đích thực của vị Mục Tử Nhân Lành Giê-su thông qua các mục tử trong ràn chiên Giáo Hội, để ai nấy đều “được sống và sống dồi dào” Tình Yêu của Chiên-Sát-Tế-Giêsu-Kitô. Ước được như vậy. Amen.
Trong tất cả hình ảnh về chúa Giesu, tưởng không có hình ảnh nào gợi lòng trắc ẩn yêu thương hơn PS 4-A170
Trong tất cả hình ảnh về chúa Giesu, tưởng không có hình ảnh nào gợi lòng trắc ẩn yêu thương hơn hình ảnh Mục Tử Nhân Lành. Trước thời đức Giesu, hình ảnh mục tử nói lên sự dịu dàng và chăm lo cho loài người qua Thiên Chúa. Mục tử và đoàn chiên là hai hình ảnh nổi bật giữa một sa mạc nóng bức, khô cằn và đầy nguy hiểm, trong đó người mục tử là người bảo vệ chiên đồng thời cũng bảo vệ những kẻ di hành trong sa mạc, giúp họ có nơi trú ẩn, tránh sự ám hại của kẻ cướp. Trong Kinh Thánh và thời Cận Đông cổ đại, từ “mục tử” còn là một danh diệu có tinh chính trị ám chỉ bổn phận của vua đối với dân, hàm ý quan tâm, lo lắng, sẵn sàng hy sinh vì dân. Hình ảnh mục tử cũng nói lên một quyền lực.
Toàn thể câu chuyện Mục Tử Nhân Lành trong bài tin mửng Gioan hôm nay (Ga 10:1-21) là tiếp tục đề tài phê phán những người biệt phái ở cuối chương 9 tin mừng Gioan. Người mục tử nuôi dưỡng đoàn chiên có nghĩa là bảo vệ chiên chống lại kẻ thù, sẵn sàng chiến đấu khi gặp thú dữ. Roi của mục tử chính là khí giới dùng để chống trả thú rừng, còn gậy là khí cụ có tính chống đỡ, biểu tượng cho sự săn sóc và lòng trung thành.
CỔNG VÀ CỬA Ở ISRAEL
Để tìm hiểu ý nghĩa về cổng chuồng chiên, chúng ta thử coi lại từ cổng trong Israel cổ đại. Cổng của Zion biểu trưng ý tưởng dẫn đưa đến trước mặt Thiên Chúa. Khi tiên tri Isaiah nói về ngày hòa bình thế giới, người diễn tả nó là thời đại mà “Cổng Thiên Chúa sẽ mở liên tục suốt ngày đêm, không bao giờ đóng.” (Is 60:11) Cũng giống vậy, bàn thờ lễ vật toàn thiêu thì không để trong nhà tạm mà đặt trước “lối vào trướng tao phùng” (Xh 40:6). Chúa Kito đã hoàn thành tất cả những điều đó: Ngưới là cửa, qua đó chúng ta có thể đến với Thiên Chúa Cha (Ep 2:18). Người là “đường và là đường hằng sống” (Dt 10:20). Lời thánh vịnh Mùa Vọng nói về cổng (Tv 24:7-10) như sau:
Hỡi cổng, Hãy nhấc đầu lên Hỡi cổng vạn đại, Hãy mở rộng ra Để vua vinh hiển lâm trào! Vua vinh hiển là ai? Là Chúa quyền uy đấng hùng anh, Là Chúa anh hùng nơi trận địa!
Hỡi cổng, Hãy nhấc đầu lên Hỡi cổng vạn đại, Hãy mở rộng ra Để vua vinh hiển lâm trào! Vua vinh hiển là ai? Là Chúa thiên binh, Là Chúa chủ nhà, là vua hiển vinh!
CỔNG CHUỒNG CHIÊN TRONG TÂN ƯỚC
Trong bài Tin Mừng hôm nay (Ga 10:1-10), chúa Giesu nói về hai loại chuồng chiên trước khi tỏ lộ chính Người là cổng chuồng chiên. Trong hai câu đầu, Chúa nói về chuồng chiên cộng đồng mà mỗi đêm mục tử lùa chiên vào. Chuồng chiên có cổng rất vững chắc chỉ có thể mở được bằng chìa khóa của thủ lãnh mục tử.
Những câu tiếp theo nói về loại chuồng chiên thứ hai. Loại này dùng để giử chiên vào những đêm chiên ở ngoài đồng (như đêm Chúa giáng sinh). Đây là loại chuồng tạm thời có đá bao quanh và mở ra ở khúc cuối. Chính mục tử sẽ là cổng chuồng; mục tử nằm ngang cổng mà ngủ. Nếu chiên rời chuồng hay sói xâm nhập bắt chiên thì chúng phải đi qua cổng. Mục tử chính là cổng.
CỔNG CHIÊN Ở JERUSALEM
Khi đức Giesu xác định về mình thì Người không nói Người là Mục tử nhân lành mà là cổng chiên. Ở bức tường cổ bao quanh Jerusalem có một cái cổng ở hướng Bắc dùng để lùa súc vật từ những vùng lân cận vào để làm của tế lễ, gọi là cổng chiên. Một khi đã vào bên trong để hiến tế thì không có đường nào khác có thể ra khỏi thành ngoài cổng đã đi vào. Vậy hướng duy nhất là ở đó để được hiến tế vì tội lỗi nhân loại. Đối với khán thính giả đầu tiên nghe Chúa giảng vể chiên thì họ bị chạm vì những lời Chúa nói: “Ta nói cho các ngươi một sự thật, Ta là cổng chiên…Ta là cổng, bất cứ ai qua ta thì sẽ được cứu. Người đó sẽ ra vào, và kiếm được đồng cỏ xanh tươi” (Ga 10:7-9). Ngay chính trong phạm vi thành lúc mà chiên đang bị bách hại, đức Giesu cũng đã tuyên bố: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào. Ta là Chúa Chiên Lành” (Ga 10: 10-11).
Khi nói về chiên, Đức Giesu có ý ám chỉ chiên đang bị tàn sát, không giống mục tử và chiên bình thường đang vô tư hưởng thú trên những sườn đồi đầy cỏ xanh tươi như chúng ta tưởng. Trái lại săn sóc chiên kiểu chúa Giesu đòi hỏi một cài gì hơn cả những bàn tay dịu dàng và con mắt hiền từ. Chiên phải được bảo vệ tránh khỏi tử thần. Đức Giesu giảng rằng bất cứ ai vào trong đoàn chiên mà không qua cửa này –cửa đức Giesu- thì là kẻ trộm và kẻ cướp. Không một ai đến với Cha Ta mà không phải qua Ta. Chính chúa Giesu là cổng, qua đó mục tử đến với chiên. Do đó chỉ có những mục tử thực sự mới được Người chấp nhận. Những câu 7-8 là hình ảnh cổng để cho mục tử đến với chiên. Những câu 9-10 là hình ảnh cổng để cho chiên ra vào. Những người biệt phái, vì không qua cổng chúa Giesu, nên là kẻ trộm. Những ai đi qua cổng này thì được chúa Giesu ban sự sống.
MỤC TỬ GƯƠNG MẪU
Chúa Giesu là nước sự sống, bánh sự sống và cổng sự sống. Người là mục tử gương mẫu theo ba cách: Trước nhất, Người đã hy sinh mạng sống người vì chiên. Người biệt phái là những kẻ làm thuê nên không trung thành với chiên. Mục tử trung thành, giống như David hồi xưa, thì bảo vệ đoàn chiên. Thứ đến, Người biết chiên một cách cặn kẽ thân mật nên người yêu thương và chăm sóc chúng ngày đêm. Đó là lý do người chết vì chiên. Tình yêu của người vượt quá cả “chính chiên của người” trong cộng đồng thánh Gioan vươn tới tất cả những ai tin vào Người. Thứ ba, đức Giesu là cổng chiên, không phải là cửa bẫy, mà là lối vào an toàn đầy tình yêu thương của Thiên Chúa, để được mục tử nhân lành bảo vệ.
Chúa Kito không phải chỉ là cổng, người còn là vua đi vào đền thánh và là đền thánh có cửa dẫn lối! Vào thời cổ đại, danh xưng “cửa thiên đàng” là bầu trời từ đó Thiên Chúa ban cho chúng ta manna (Tv 78:22), nhưng hiện nay chúa Kito là bánh thật đến từ trời (Nicodemus). Jacob đã nhìn thấy “cửa đi vào thiên đàng” (St 28:17) tại đền thánh ở Bethel, nhưng khi thánh tử đạo Stephen nhìn vào đó thì ngài thấy “vinh quang Thiên Chúa và chúa Giesu”. (Cv 7:55) Chúa Kito không chỉ mời gọi chúng ta vào vương quốc thiên đàng qua Người, mà còn để lại chìa khóa cho các môn đệ và quả quyết rằng “Các anh ràng buộc ai ở dưới đất thì trên trời cũng rang buộc, tha cho ai thì trên trời cũng tha” (Mt 16: 18-20).
KỶ NIỆM CUỘC VIẾNG THĂM CỦA THÁNH MỤC TỬ TẠI DENVER
Chúng ta hẳn vẫn chưa quên bài giảng của thánh Gioan Phaolo II về bài Tin Mừng hôm nay trong ngày giới trẻ thế giới năm 1993 ở Denver, Colorado, USA, ngày vọng 14-8-1993 tại công viên Cherry Creek State Park ở Denver. ĐTC đã nói:
“….Nơi Chúa Giesu Kito, Thiên Chúa Cha đã nói lên tất cả sự thật về tạo dựng. Chúng ta tin rằng trong sự sống, sự chết và phục sinh của chúa Giesu, Thiên Chúa Cha đã tỏ lộ tất cả tình yêu của Ngài cho nhân loại. Vì vậy chúa Kito đã gọi mình là “Cổng Chiên” (Ga 10:7) Là cổng chiên, Người đứng canh chừng mọi tạo vật tin tưởng vào Người. Người dẫn dắt họ đi vào đồng cỏ xanh tươi: “Ta là cổng, bất cứ ai đi qua ta thì sẽ được an bình. Họ đi ra vào và tìm được đồng cỏ tươi mát” (Ga 10:9).
“…Thiên niên kỷ thứ ba sắp tới, Giáo Hội biết rằng mục tử nhân lành vẫn tiếp tục, như đã luôn luôn tiếp tục, là hy vọng chắc chắn của nhân loại. Chúa Giesu Kito không bao giờ ngừng là “cổng chiên”. Dù cho lịch sử tội lỗi của nhân loại chống lại sự sống, thì Người vẫn không bao giờ ngừng nhắc lại với cùng một nhiệt huyết và tình yêu thương câu nói: “Ta đến để cho chiên được sống, và sống dồi dào” (Ga 10:10).
“…Đức Kito -mục tử nhân lành- hiện diện giữa chúng ta, giữa muôn dân, giữa mọi quốc gia, mọi thế hệ và chủng tộc, như là đấng đã hy sinh mạng sống vì chiên”. …Đúng vậy, mục tử nhân lành hy sinh mạng sống, nhưng rồi Ngườ lấy lại (Ga 10:17). Trong cuộc sống mới phục sinh, Người trở thành –theo lời thánh Phaolo- thần khí ban sự sống (1Cr15:45), đấng bây giờ có thể ban sự sống cho tất cả những ai tin vào Người.”
“Hy sinh mạng sống –lấy lại mạng sống- mạng sống lại được ban cho. Trong Người, chúng ta có sự sống mà Người đã liên kết với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Nếu chúng ta tin vào Người. Nếu chúng ta là một với Người qua tình yêu như Chúa nói “Ai yêu Thiên Chúa thì phải yêu thương anh em mình” (1Ga 4:21).”
ĐÔI LỜI KẾT: SUY NIỆM TRONG TUẦN VỀ MỘT VÀI TỰ VẤN
Đức Giesu nói: Chiên sẽ nhận biết tiếng mục tử và không đi theo kẻ lạ Tôi đã lắng nghe tiếng gọi của Mục Tử Nhân Lành thế nào? Tôi tìm cách nghe tiếng Người ở đâu? Tôi có bước theo lối Người chỉ dẫn không? Đức Giesu nói: Người đến để cho chúng ta sống, và sống cách dồi dào Chúa ám chỉ gì trong câu nói đó? Tôi có sống cuộc sống dồi dào mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng tôi không?
Đức Giesu nói: Người còn có những chiên khác không thuộc về đoàn chiên, nhưng chúng cũng cần phải gia nhập đoàn chiên. Nhiều học giả tin rằng Người có ý nói dân ngoại là những người không chờ mong đấng thiên sai nhưng họ đã hân hoan tiếp nhận Tin Mừng
Những ai là chiên ở thế giới ngày nay cần phải gia nhập đoàn chiên? Chúng ta làm gì để đem họ về với đoàn chiên Chúa Kito?
Ai cũng biết điếc là khổ. Người điếc bị người ta coi khinh và còn xem họ như những người chuyên PS 4-A171
Ai cũng biết điếc là khổ. Người điếc bị người ta coi khinh và còn xem họ như những người chuyên làm phiền người khác. Điều đáng buồn là người ta thường thiện cảm với người mù, người què, nhưng lại thường nổi xung và bực bội với người điếc.
Có một lần tôi đi xức dầu bệnh nhân, sau khi nói chuyện, tôi hỏi bà cụ có muốn xức dầu không? Bà liền nói: con đâu có đau đầu đâu! Hóa ra bà bị điếc tưởng tôi nói bà có đau đầu không?
Điều đáng buồn là người điếc lại cho không biết mình bị điếc nên vẫn vô tư sống.
Có một người đàn ông đi gặp bác sĩ để kể về người vợ của mình. “Tôi cho rằng vợ tôi bị điếc, cô ấy chả nghe thấy tôi nói gì mà toàn khiến tôi phải nhắc lại”.
Người bác sĩ trả lời: “Được rồi, bây giờ anh cứ về nhà. Tối nay đứng cách vợ 6 m và nói một điều gì đó. Nếu bà nhà không trả lời, đứng lại gần 2 m nữa và nhắc lại. Cứ tiếp tục như thế để xem mức độ ngễnh ngãng của bà ấy nặng đến mức nào”.
Người chồng trở về nhà và thực hiện đúng theo chỉ dẫn. Ông đứng cách vợ 6 m khi bà đang thái thịt trong bếp và hỏi: “Cưng à, tối nay mình ăn gì vậy?”. Ông không nghe thấy câu trả lời. Ông đứng gần lại 2 m nữa và hỏi lại. Vẫn không có câu trả lời. Ông đứng gần thêm 2 m. Vẫn chẳng thấy gì. Cuối cùng, ông tiến sát lại sau vợ và hỏi: “Em yêu, tối nay mình ăn gì?”.
Cô vợ bực mình quát: “Đây là lần thứ 4 rồi nhá – thịt bò hầm!”.
Ai cũng biết điếc là khổ. Điếc là cách ly với thế giới bên ngoài. Điếc là khổ mình và phiền toái với người bên cạnh. Thế mà, cuộc đời vẫn còn đó những kẻ giả điếc làm ngơ. Họ cố tình bịt tai để khỏi nghe tiếng đồng loại kể cả tiếng Thiên Chúa. Họ giả điếc để sống theo ý mình. Họ cố tình gạt ra ngoài tiếng nói của lương tâm, của sự thật và chân lý. Họ bất chấp lề luật. Họ bỏ ngoài tai lời khuyên dạy của Thiên Chúa và tha nhân. Con người của kẻ giả điếc là tự tách mình ra khỏi cộng đồng xã hội để sống theo ý riêng.
Hôm nay, Chúa bảo “chiên Ta thì nghe tiếng Ta”. Chúa mời gọi chúng ta là con Chúa hãy sống theo giáo huấn của Chúa. Hãy bước đi theo đường lối của Ngài. Bước đi theo sự dẫn dắt của Ngài để được bảo vệ, chở che. Ngài sẽ bảo vệ chúng ta như mục tử bảo vệ đàn chiên khỏi sự tấn công của sói dữ. Ngài sẽ dẫn chúng ta đến đồng cỏ xanh tươi bên dòng suối mát là ân sủng của Ngài luôn đong đầy trên cuộc đời chúng ta. Bước đi theo Ngài thì sẽ không đói, không khát bao giờ.
Lời mời gọi: “chiên Ta thì nghe tiếng Ta” còn là tiếng mời gọi con người làm điều lành tránh điều dữ. Ngài tha thiết kêu mời con người sống trong tình bác ái yêu thương. Sự bác ái không chỉ dừng lại ở việc yêu người yêu mình mà còn yêu cả kẻ thù. Tình yêu thương không dừng lại việc không làm tổn thương đến ai mà còn biết giúp đỡ, chia sẻ với nhau trong vui buồn cuộc đời.
Hôm nay, ngày dành riêng để cầu nguyện cho ơn gọi làm linh mục và tu sĩ, chúng ta hãy xin cho giới trẻ hôm nay nghe được tiếng Chúa kêu mời giữa biết bao ồn ào của cuộc đời. Xin cho họ không chỉ lắng nghe được tiếng nói của sự thật, của chân lý giữa xã hội đầy lừa đảo bon chen mà còn dấn thân bước đi theo tiếng Chúa kêu mời. Chúng ta cũng xin Chúa cho những bậc làm cha, làm mẹ biết giáo dục và hướng dẫn con cái sống tinh thần tin mừng để cống hiến cho Giáo hội những mần giống ơn gọi tốt lành.
Nguyện xin Chúa Giêsu, mục tử nhân lành chúc lành cho hết thảy những ai đang khao khát dâng hiến cuộc đời để phục vụ cho lợi ích tha nhân và Nước Trời. Amen.
G. A. Smith đã tả hình ảnh người chăn chiên như sau “Trên một cánh đồng khô cỏ cháy, ban đêm PS 4-A172
G. A. Smith đã tả hình ảnh người chăn chiên như sau “Trên một cánh đồng khô cỏ cháy, ban đêm chỉ có tiếng chó hú, người chăn chiên với gương mặt tỉnh táo, đôi mắt nhìn xa, màu da cháy nắng, mình đeo khí giới, đứng dựa trên cây gậy, mắt chăm chú nhìn bầy chiên đang ăn”. Phúc Âm Thánh Gioan cho biết thêm một tính cách nữa của người mục tử vào buổi sớm khi đưa chiên ra ngoài: “chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra” (Ga 10, 3). Hai đặc tính quan trọng của người mục tử: Mạnh mẽ và hiểu biết.
Mạnh mẽ.
Người mục tử được phác họa hình ảnh uy nghiêm, thủ lĩnh tinh thần, dẫn dắt con người đi trên đường chân lý và cứu thoát.
Cánh đồng cỏ dưới ánh mắt quan sát và bảo vệ của người mục tử, bảo đảm nơi ăn uống, nghỉ ngơi cho đoàn chiên an toàn. Đó là hình ảnh hiển đạt của những con người học biết về chân lý, không còn lo sợ gì, họ làm việc và tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay. Chính nghĩa bạn, Chúa sẽ làm rực rỡ tựa bình minh, công lý bạn, Người sẽ cho huy hoàng như chính ngọ.” (Tv 37, 5 – 6).
Người mục tử sống tùy thuộc vào không gian, vì cần đi tìm đồng cỏ ở giữa những triền núi và cả những nơi đồng bằng. Không gian chăn thả nhiều hiểm nguy rình rập, đòi hỏi người mục tử có đôi mắt tinh tường, màu da xám nắng, mình đeo khí giới. Hình tượng người mục tử giữa đồng khô cháy nắng, nói lên tính chất can trường, hy sinh, chấp nhận mọi gian khổ cho đoàn chiên.
Ngay trong hoàn cảnh đó, cũng nói lên một hình ảnh khác nữa mà Chúa muốn huấn luyện dân Người cần trở nên những chiến sỹ can trường: “Từ thời ông Gioan Tẩy Giả đến giờ, nước trời phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy, và những kẻ mạnh mẽ can đảm mới chiếm được.” (Mt 11, 12)
Hiểu biết.
Người mục tử đồng hóa với con chiên của mình. Vai trò người chăn chiên không phải là một nghề nghiệp, nên Tin Mừng cũng nói về những người chăn thuê: “Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên.” (Ga 10, 12 – 13).
Người mục tử sống chết với đoàn chiên của mình. Hình tượng này nói lên ý nghĩa mật thiết giữa Chúa và dân Người. Chúa Giêsu đã nên một với con người, vận mạng của con người là vận mạng của chính Chúa. “Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành.” (Is 53, 5).
Biết và gọi tên. Am hiểu là một trong những tố chất cần thiết cho người mục tử. Đàn chiên hoàn toàn theo sự khôn ngoan của người dẫn dắt, biết cánh đồng nào cỏ xanh tươi; biết nhìn trời đoán được thời tiết, gió dông, bão, hay yên lành; biết dự đón trước chỗ nghỉ đêm cho đàn chiên; biết tên từng con chiên, khi lạc còn gọi về; biết phân biệt từng tiếng thú dữ, cọp beo, sư tử, chó sói… Nhiều điều cần biết và am hiểu, đồng thời người mục tử còn là người biết cầu nguyện, để phó dâng đàn chiên cho Chúa, vì chính Chúa là Người Mục Tử nhân lành và chính thức hướng dẫn đàn chiên.
Xin Chúa hướng dẫn chúng con trên đường chân lý, tình yêu và hiệp thông để chúng con tiếp tục sứ vụ làm cho Danh Chúa ngày càng tỏa sáng.
Năm 1925, cha Gioan Cassaein được thụ phong linh mục, thuộc Hội Thừa Sai Paris. Một năm PS 4-A173
Năm 1925, cha Gioan Cassaein được thụ phong linh mục, thuộc Hội Thừa Sai Paris. Một năm sau, cha có tên trong danh sách 8 vị đi truyền giáo tại Châu Á. Đến Việt Nam, Ngài được Đức Giám mục Sài Gòn cử đi làm công tác mục vụ truyền giáo tại Di Linh, một vùng đất của anh em dân tộc K’Ho. Đến vùng đất xa lạ này, cha đã học tiếng K’Ho, sau đó đến thăm viếng các gia đình dân tộc trong vùng, nói với họ bằng ngôn ngữ của họ. Lúc bấy giờ, ở Việt Nam hầu như chưa nhiều người biết về cuộc sống của các anh chị em dân tộc cao nguyên, cha Gioan Cassein đã lặn lội vào các buôn làng để thăm viếng và chăm sóc cho các anh em dân tộc này. Cha đã gặp rất nhiều anh chị em dân tộc bị bệnh phong, bị mọi người bỏ rơi trong rừng, đói khát vì thiếu thốn, đau đớn vì bệnh tật. Cha đã đưa những người này về nhà mình để chăm sóc, lau rửa vết thương cho họ và đã lập nên Trại Phong Di Linh ngày nay. Cả cuộc đời cha đã gắn bó với anh em dân tộc, coi họ như con ruột của mình và dành hết cả cuộc đời chăm sóc phục vụ họ.
Năm 1941, cha được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám mục Tông tòa Giáo phận Sai Gòn. Ba năm sau, dịp lễ Thánh Gioan Baotixia là bổn mạng của ngài, cũng là ngày Đức Cha Gioan Cassein nhận được kết quả xét nghiệm bị lây bệnh phong. Ngài không buồn, nhưng đã vui mừng trả lời vị linh mục đem kết quả đến cho ngài rằng: Đây là món quà mừng lễ bổn mạng tôi. Thế là tôi lại được trở lại với những người bệnh phong Di Linh. Đức Cha đã xin từ chức Giám mục và về sống với anh chị em dân tộc bệnh phong và dành cả cuộc đời tận tụy hy sinh cho anh chị em dân tộc ở đây. Ngài mất năm 1973 sau một cuộc đời không mệt mỏi thi hành nhiệm vụ của người chủ chiên tận tụy hy sinh hết cả cuộc đời, mạng sống mình vì đoàn chiên. Cuộc đời và gương sống của Đức cha Gioan Cassain giúp chúng ta dễ hình dung lời khẳng định của Chúa Giêsu hôm nay: Ta là mục tử nhân lành.
1/ Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống vì đoàn chiên. Mục tử và chiên trong văn hóa, đời sống của người Do Thái có những mối tương quan hết sức đặc biệt. Con chiên và đàn chiên không chỉ là tài sản, không chỉ là vật nuôi, nhưng còn thực sự là bạn, là người thân của gia đình. Người Do Thái có thể bồng ẵm, ăn ngủ với chiên, coi chiên như thành viên của gia đình.
Chúa Giêsu đã khẳng định tình yêu và sự hy sinh của Ngài cho nhân loại cũng giống như tình thương của người mục tử dành cho đàn chiên của mình. Là mục tử, Chúa Giêsu đã chấp nhận từ bỏ địa vị vinh quang của một vị Thiên Chúa để đến ở với đoàn chiên, yêu thương chăm sóc cho đoàn chiên nhân loại như cha mẹ yêu thương, chăm sóc cho con. Mục tử Giêsu đã kiên nhẫn và dùng tình thương để dẫn dắt, chỉ bảo cho nhân loại bước đi trên con đường an toàn, đến đồng cỏ sự sống, uống nguồn suối tình yêu của Thiên Chúa. Ngài chỉ cho chúng ta biết cách để đề phòng và xa tránh sói dữ là ma quỷ, tránh những vực sâu của tội lỗi, để chúng ta có thể bước đi trên con đường đưa tới hạnh phúc thật.
Khi con người sa ngã lạc lối, nghe theo lời dụ dỗ của ma quỷ, Mục tử Giêsu đã ân cần tìm kiếm chúng ta về. Chúa không hề trách chúng ta, cũng không loại trừ khinh miệt, nhưng đã dùng các Bí tích để yêu thương chăm sóc, chữa lành nhũng vết thương thể xác và tâm hồn, ban ơn tha thứ cho chúng ta. Mục tử Giêsu không ngại khó khăn nguy hiểm đến tính mạnh để chiến đấu với bầy sói dữ là ma quỷ, đem lại sự an toàn cho chiên.
2/ Sau khi đã trải qua cuộc tử nạn thập giá, Mục tử Giêsu đã sống lại, đã tiêu diệt thần chết. Ngài đã quy tụ tất cả đàn chiên lại chung quanh Ngài và trao phó đàn chiên cho sự chăm sóc, hướng dẫn của Giáo Hội. Chúa Giêsu còn tiếp tục dùng Thánh Thần để quy tụ tất cả muôn dân trở nên một đàn chiên duy nhất, không ai bị lạc ra khỏi tình thương và sự quan tâm của Ngài. Mục tử Giêsu tiếp tục nuôi dưỡng đàn chiên Giáo Hội bằng chính Máu Thịt của Ngài và hướng dẫn đàn chiên bằng Lời của Ngài và dùng các mục tử, cộng tác viên để tiếp tục yêu thương và phục vụ đàn chiên Ngài đã cứu chuộc.
Giáo Hội là đoàn chiên của Mục tử Giêsu, mỗi chúng ta là con chiên trong đoàn chiên của Ngài. Chúng ta không phải là một con số trong đàn chiên, mà mỗi người luôn được Chía Giêsu yêu thương cách riêng biệt và đặc biệt. Chúa Giêsu đưa ra hai tiêu chí để xác định những ai thuộc về đoàn chiên của Ngài: Tôi biết chiên của tôi và chiên tôi biết tôi. Như thế, để thực sự là chiên trong đoàn chiên của Chúa, chúng ta phải để cho Chúa biết chúng ta và chúng ta phải biết Chúa và nghe được tiếng Chúa.
3/ Là con chiên của Chúa, thuộc đoàn chiên là Giáo Hội, trước hết, chúng ta phải để cho Chúa biết chúng ta. Để cho Chúa biết có nghĩa là chúng ta phải dám mở lòng mình ra với Thiên Chúa, để cho Chúa dễ dàng đi vào tâm hồn, để cho Chúa dạy bảo, uốn nắn cuộc đời chúng ta. Chúa biết chúng ta yếu đuối, giới hạn, chúng ta cần đến ơn Chúa ; vì vậy, Chúa không ngừng ban ơn trợ giúp và dùng các Bí tích làm phương thế, là sức mạnh để bổ sức cho chúng ta
Chiên của Ta thì biết Ta và nghe tiếng Ta. Biết Chúa không chỉ là sự hiểu biết một số kiến thức hay lý tuyết về Thiên Chúa, nhưng là sự gắn bó nhận biết bằng trực giác, bằng tình yêu như con cái biết về bố mẹ mình. Biết mình được Chúa yêu thương, biết Chúa luôn muốn cho chúng ta hạnh phúc và Ngài hướng dẫn chúng ta đạt tới hạnh phúc đích thực. Như con cái biết cha mẹ mong đợi gì nơi mình, ta cũng phải biết Chúa mong đợi gì nơi chúng ta: Ngài mong chúng ta luôn ở bên Ngài, sống hiếu thảo với Ngài và tuân giữ Lời của Ngài; Ngài muốn chia sẻ với ta mọi lo toan của cuộc sống, và còn muốn gánh vác mọi nhọc nhằn cho cuộc đời của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng ngại ngần đến với Mục tử Giêsu, nghỉ ngơi trong vòng tay yêu thương, chăm sóc của Ngài và để cho Ngài an ủi, nâng đỡ, bổ sức cho ta.
Là con chiên của Chúa, biết Chúa, chúng ta còn phải cùng chia sẽ với khao khát của Mục tử Giêsu: Tôi còn những chiên khác không thuộc đàn này. Tôi sẽ đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng Tôi. Mục tử Giêsu khao khát mong mỏi đưa các anh em khác về chung một đàn chiên, khao khát ấy cũng sẽ phải là khao khát của mỗi chúng ta. Chúng ta sẽ phải cùng với Ngài để đem các anh chị em khác về với Chúa, để họ cùng được sống trong tình thương và sự săn sóc của Ngài, cùng được nghe Lời của Ngài và cùng đạt đến đồng cỏ hạnh phúc Nước Trời.
4/ Là thành viên trong đàn chiên Giáo Hội địa phương là Giáo phận, Giáo xứ, chúng ta đang được sống trong sự chăm sóc của các mục tử đã được Chúa Giêsu tuyển chọn và ủy thác. Các ngài cũng là con chiên trong đoàn chiên của Chúa như mỗi chúng ta, nhưng các ngài được tuyển chọn để nhân danh Mục tử Giêsu yêu thương, phục vụ, chăm sóc và hướng dẫn anh chị em mình. Vì thế, chúng ta cũng được mời gọi cầu nguyện để các ngài hết lòng tận tụy hy sinh vì đoàn chiên theo gương Mục tử Giêsu; yêu mến, cộng tác giúp đỡ các chủ chăn để các ngài xứng đáng là những mục tử được Chúa trao phó và chu toàn việc chăm sóc chiên của Chúa. Chúng ta còn phải sống như những thành viên trưởng thành trong đoàn chiên của Giáo xứ, tích cực góp phần mình vào việc xây dựng tình hiệp thông, hiệp nhất trong đoàn chiên và cùng với chủ chăn để phục vụ và chăm sóc cho những anh chị em khác đang cần đến sự chăm sóc yêu thương của chúng ta.
Xin Chúa cho mỗi người luôn ý thức mình là con chiên trong đoàn chiên của Chúa, thuộc về Chúa để chúng ta chú tâm bước theo sự hướng dẫn của Mục tử Giêsu và làm theo lời chỉ dạy của Ngài để chúng ta có thể cùng với các anh chị em khác bước vào đồng cỏ Nước Trời với Chúa. Amen.
Khi xây nhà, quan tâm hàng đầu của chủ nhà là lắp đặt các khuôn cửa thật vững chắc để bảo PS 4-A174
Khi xây nhà, quan tâm hàng đầu của chủ nhà là lắp đặt các khuôn cửa thật vững chắc để bảo vệ cho bản thân cũng như cho tài sản của mình. Khi vắng nhà hoặc vào ban đêm, chủ nhà phải khóa cửa cài then cẩn thận để bảo đảm cho người nhà được yên giấc và của cải được an toàn.
Người ta có thể tìm thấy trên thị trường nhiều loại cửa vững chắc và kiên cố để bảo vệ người nhà và tài sản, nhưng biết tìm đâu ra một thứ cửa đủ kiên cố có thể bảo vệ linh hồn con người được an toàn trước những đợt tấn công khốc liệt của ác thần?
Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su tự giới thiệu mình như một thứ Cửa cho chuồng chiên. Khi Cửa đóng lại, chiên bên trong được an toàn; khi Cửa mở ra, đoàn chiên sẽ được dẫn tới đồng cỏ xanh tốt.
Cửa đóng lại để bảo vệ chở che
Chúa Giê-su nói: “Tôi là Cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu”. Như thế, Ngài tự xem mình như cánh cửa được đóng lại sau khi đoàn chiên đã vào bên trong chuồng chiên. Nhờ đó, đoàn chiên được bảo vệ an toàn, không bị trộm cướp và ác thú giết hại.
Chưa bao giờ trong lịch sử nhân loại lại có nhiều cạm bẫy của ác thần, nhiều nọc độc của văn hoá sự chết, nhiều cám dỗ tệ hại lôi kéo nhân loại vào vòng sa đoạ như trong thế kỷ hôm nay.
Vô vàn sách báo xấu xa, phim ảnh đồi trụy, tư tưởng độc hại, lối sống thác loạn… được quảng bá khắp nơi trên thế giới, được tung lên mạng lưới điện toán toàn cầu làm sai lệch méo mó lương tâm con người, khiến người ta xem tội ác là chuyện bình thường, giải quyết tranh chấp bằng bạo lực là chính đáng, xem hôn nhân đồng tính là lẽ tự nhiên, xem việc huỷ hoại đời sống chung thuỷ của vợ chồng là chuyện nhỏ…
Trước những nguy cơ khủng khiếp như thế đang đe doạ nhân loại trên khắp thế giới, chỉ có một lá chắn vững chắc, một cánh cửa an toàn, một thành trì kiên vững là Chúa Giê-su. Giáo huấn của Ngài là tấm Cửa che chắn đoàn chiên được an toàn không kẻ thù nào xâm hại được, nếu chiên của Ngài biết lắng nghe.
Cửa mở ra để dẫn đưa vào đồng cỏ thiêng liêng
Không chỉ đóng lại để bảo vệ chở che, Cửa Giê-su còn mở ra để mở lối cho nhân loại tiến vào đồng cỏ thiêng liêng. “Tôi là Cửa. Ai qua tôi … thì sẽ gặp đồng cỏ… Phần tôi, tôi đến để cho chiên tôi được sống và sống dồi dào (Gioan 10, 9-10).
Các vị đại thánh trong Giáo hội như Phan-xi-cô Át-xi-di, Phan-xi-cô Xa-vi-ê, Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su của những thế kỷ trước hay những nhân vật tầm cỡ như thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, Mẹ thánh Tê-rê-xa Calcutta thời nay… nhờ được nuôi ăn trong cánh đồng cỏ thiêng liêng nầy nên đã được trở thành những danh nhân của nhân loại và những thánh nhân sáng ngời trong Hội thánh.
Nhân loại hôm nay như đàn chiên đói khát, đói khát lương thực tinh thần cách khẩn thiết, nhưng tiếc thay, còn lắm người chưa chấp nhận bước qua Khung Cửa Giê-su để được dẫn vào đồng cỏ thiêng liêng để bồi bổ cho tâm linh mình.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa là Cửa đóng lại che chắn nên chúng con được bảo vệ khỏi sự xâm nhập và tàn phá của ác thần;
Chúa là Cửa mở ra đồng cỏ xanh, nên chúng con được nuôi dưỡng sung mãn với vô vàn ân phúc của Chúa.
Xin cho nhân loại hôm nay biết tin nhận Chúa là Đấng bảo vệ che chở và dưỡng nuôi họ, nhờ đó mọi người được vui hưởng hồng phúc và hoan lạc muôn đời.
Mục Tử Giêsu là một Mục Tử của Tân Ứơc, Vị Mục Tử Nầy đã thể hiện sứ mạng Thiên Sai cao PS 4-A175
Mục Tử Giêsu là một Mục Tử của Tân Ứơc, Vị Mục Tử Nầy đã thể hiện sứ mạng Thiên Sai cao cả đã minh chứng “cuộc tình” này với “đàn chiên” bằng cuộc Tử Nạn để “cứu thoát” đàn chiên.
Vâng, thưa quý vị, thưa các bạn “ chết vì kẻ thù ” thì không thiếu, nhưng “chết cho kẻ thù” thì không ai có thể làm được điều ấy, vì “dại gì mà làm”. Nhưng, Đức Kitô không “chết cho kẻ thù”, mà là : “ chết cho người mình yêu”. Vì , Người đã nói : “ … Ta đến để cho chiên của Ta được sống, và sống dồi dào” (Ga 10, 10 b).
Như vậy, Mục Tử Giêsu không nói suông, mà là đã thực thi như Lời Người nói.
Vâng, Đoạn Tin Mừng hôm nay có thể có 03 ý chính :
Chúa Giêsu giải thích và minh định sứ vụ của Người là “Cửa Chuồng chiên” Nhưng người Dothai không hiểu sứ vụ của Chúa Giêsu. Nhiệm vụ cao cả của sứ vụ Mục Tử Tối Cao duy nhất của Chúa Giêsu. Thưa quý vị, Chúa Giêsu nói : “ Tôi là cửa cho chiên ra vào…” ( c7b), sau khi Người đã nói cho người Dothai biết “ý nghĩa” của cái cửa chuồng chiên. Cửa chuồng chiên bên Dothai không hẳn nhiên như cửa chuồng trâu, bò ở Việt Nam. Cửa chuồng chiên ở Dothai có khi chỉ là một cái vòng tròn, do người chăn chiên vẽ ra và chiên theo tín hiệu ấy mà vào. Dù bằng cách nào đi nữa, thì “cái cửa” chuồng chiên thật quan trọng, bởi vì nó nói lên nhu cầu thân thiết, quen thuộc của đàn chiên và người chủ chăn.
Nghề chăn chiên khá quen thuộc vì phổ biến bên Nước Dothai từ xa xưa, có thể nói từ nguyên sơ, người Dothai đã quen thuộc với nghề chăn chiên. Đặc tính của con chiên là con vật nuôi, hiền lành, thì dễ nhút nhát, sợ hãi với thú dữ và người lạ.
Chúa Giêsu dùng hình ảnh thân quen đó mà mô tả “sứ mạng mục tử “ của Người, bởi vì tính cánh của chiên là như thế, thì người chăn chiên phải “yêu thương” săn sóc đàn chiên của mình đúng với tính cách của chiên. Người chăn chiên phải biết đặc tính của từng con chiên mà mình chăn dắt. Phải săn sóc như chúng được săn sóc., vỗ về yêu thương. Vì thế, người chăn chiên là “cái cửa ” để cho chiên ra vào, có nghĩa là sự giám sát, sự săn sóc, sự biết rõ từng con chiên một. Con chiên nào bệnh hoạn ốm đau thì người chăn chiên phải biết.
Tai sao Chúa Giêsu dùng hình ảnh “con chiên”, “người chăn chiên” để giàng dạy cho người Dothai? Thưa, vì Thiên Chúa muốn dùng hình ảnh gần gũi, quen thuộc đối với người Dothai là “hình ảnh con chiên”. Chiên là động vật hiền lành,người chăn nuôi khai thác được lợi tức từ nghề nuôi chiên, lấy lông, sữa, thịt. Đó là theo hình ảnh tự nhiên, còn hình bóng siêu nhiên, thì đoàn dân Chúa, tức “giáo dân” được trao cho những người mục tử Cựu Ứoc chăn dắt, thì họ ra sức khai thác theo nghĩa đen, giống như khai thác con chiên một cách không thương tiếc. Theo đó, Thiên Chúa ban Đấng Cứu Thế cho thế gian, ví như “con chiên” hiền lành được đem đi sát tế.
Khi Người đến thế gian, Người loan báo sứ vụ của Người như một “Mục Tử” nhân lành vì đoàn chiên. Hình bóng con chiên tự nhiên, được Chúa Giêsu nhân cách hóa hình ảnh “con chiên Nước Trời”. Vâng, vì vậy, Chúa Giêsu là Chủ chăn đàn chiên Nước Trời, người đến thế gian để chăn dắt đàn chiên của Thiên Chúa là chúng ta. Người Chủ chăn “đó” không bóc lột, không xén long, không vắt sữa, không làm thịt chiên. Mà trái lại , Người chăm sóc tận tình từng con chiên một, lấy chính Thịt, Máu mình để nuôi chiên. Vậy, ý nghĩa Chúa Giêsu ví mình như ” cái cửa “ là vậy đó. “ Cái Cửa” đ1o chỉ cho biết Người là Đấng duy nhất và đích thật chăn giữ đàn chiên của Thiên Chúa, để phân biệt với “kẻ chăn thuê” hay người lạ, tức phần tử bất hảo.
Vâng, ý nghĩa đoạn Tin Mừng ( Ga 10, 1- 10) hôm nay là đoạn Tin Mừng cho chúng ta biết sứ vụ cứu chuộc của Chúa Giêsu chính là “tình yêu cứu độ duy nhất” bởi Thiên Chúa. Bởi vì, là “cửa chuồng chiên”, Chúa Giêsu vừa là ông chủ, vừa là Người chăn chiên, chứ không phải là kẻ chăn thuê, khác với hình ảnh chăn thuê, Chúa Giêsu minh họa rõ nét về Người chăn chiên nhân lành. Những, hình ảnh nầy không có trong Cựu Ứơc. Chúng ta nhớ lại trong Cựu Ứơc, có lần Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ đối với những thầy tư tế Lê-vi là những người đã bóc lột dân chúng, việc dâng lễ trong đền thờ đã xúc pah5m đến Thiên Chúa, tội lỗi phía sau bàn thờ, những người con trai của những thầy tư tế đã xúc pah5n đến thiên Chúa. Tất cả những thứ tội lỗi phạm đến việc thờ phượng , không tuân giữ giới răn của Thiên Chúa, đến độ họ dâng lễ vật, máu chiên, bò để đền tội, nhưng cũng không nguôi lòng Thiên Chúa, vì thế, Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu Độ cho muôn dân là Đức Giêsu – Kitô. Vì vậy, để hiểu rõ hơn Đoạn Lời Chúa hôm nay, chúng ta trở về với Cựu Ứơc. Vì vậy, lễ tế Cựu Ứơc không sánh với Lễ Tế Tân Ứơc là chính giao ước của Thiên Chúa đã thiết lập qua Đức Kitô và chính Người đã thực hiện, vì thế, Người là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian, để cho chiên được sống và sống dồi dào
Đọan Tin Mừng hôm nay một lần nữa xác tín , Đức Kitô đã trở nên Vị Mục Tử duy nhất của Tân Ứơc . vị Mục Tử đã đến để cho chiên được sống và sống dồi dào, chứ không phải “ăn” của dân, mà là “cho “dân ăn và ăn no nê.
Theo đó, hôm nay là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành là ngày cầu cho ơn Thiên Triệu, tức “ơn gọi từ Trời”, chứ không phải từ nơi phàm nhân. Hình ảnh Vị Mục Tử Nhân Lành GIÊSU chính là những hình ảnh mục tử thừa tác ngày nay theo đúng nghĩa đen và nghĩa bóng. Vậy, linh mục ngày nay không phải là “ Chúa Kitô khác” ( Alter Christus), nếu như vậy, cũng có thể hiểu là :”khác Chúa Kitô”, như vậy là không đúng. Phải nói là : “chính ( như ) Chúa Kitô”, có nghĩa là : “ Christum ipsum directio” mới sát nghĩa. Mong thay !
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Vị mục Tử nhân lành, Chúa đã đến vì đoàn chiên thân yêu và chính Chúa đã hiến mạng sống vì đoàn chiên, để cho chiên được sống và sống dồi dào. Xin cho mọi thời có nhiều người đáp lại tiếng Chúa để họ biết sống như chính Chúa là hy sinh hiến mạng sống mình vì đoàn chiên, như vậy, họ được xứng đáng tháp nhập vào Chúa như “cành liền cây”, quả thật , họ sẽ được trổ sinh hoa trái./. Amen.
Quan niệm về người giữ cửa hay người gác cổng của một cơ quan hành chánh, một công ty xí PS 4-A176
Quan niệm về người giữ cửa hay người gác cổng của một cơ quan hành chánh, một công ty xí nghiệp, dân gian vẫn hiểu họ chỉ là những cá nhân bình thường trong xã hội. Người nổi tiếng, các y bác sĩ tài đức, giáo sư giỏi, họ luôn bị thu hút về thành phố lớn, nơi dân trí có trình độ cao, với hy vọng sẽ có thu nhập khá hơn. Hình ảnh “bắt mắt” chưa chắc đã phải là những hình ảnh chuẩn mực, hoạt động có ích đâu giới hạn bởi một vài cá nhân, đất nước vững mạnh là nhờ mối liên kết chặt chẽ giữa các phần tử xã hội. Thực tế thì tài giỏi đức độ, người thành đạt hay kém may mắn, giầu nghèo, địa vị, tất cả vẫn đang sống chung trong sự bao bọc của gia đình nhân loại, dù ta đã ý thức hoặc chưa đủ ý thức.
Hàng ngày và từng phút giây trong đời, con người đang tự do hít thở nguồn sinh lực rất thiêng liêng, cơ hội ấy, nỗi niềm ấy, có người thật hạnh phúc, có người vẫn đang thất vọng vì cuộc sống của họ chỉ là mảng tối lý thuyết. Vì quanh ta, không ít trường hợp đang tự đánh mất đi giá trị thiêng liêng của gia đình Giáo hội, quên đi sự che chở yêu thương của cộng đồng xã hội. Thật câu ca dao mà tiền nhân ta đúc kết quả là thấm thía: cây cao bóng mát không ngồi, ra ngồi chỗ nắng, trách trời không râm. Hôm nay tuần 4 Phục Sinh, Giáo hội mời gọi chúng ta hiệp thông cầu nguyện cho ơn gọi linh mục tu sĩ, cầu nguyện thì ai cũng cầu rồi, nhưng cầu nguyện theo tinh thần của Chúa thì chưa biết thế nào ?
Ở trong gia đình huyết thống, gia đình nhân loại, hay sống trong một gia đình “bề thế”, mỗi thành viên đều có một chỗ đứng, có chung niềm hạnh phúc, có chung nguồn yêu thương. Đức Giêsu hôm nay gợi lên cho chúng ta thấy vị trí “cửa chuồng chiên” thật quan trọng, được sánh ví như nhà phải có cửa để ra vào, chiên cừu thì phải có nơi ăn chốn ở, đối tượng nào cũng cần được chăm sóc bảo vệ. Khi cho thấy “chuồng chiên” phải có cửa, đàn chiên phải có “chủ”, chiên đến đồng cỏ xanh tươi, trở về chuồng trại bình an, không thể thiếu người chăn chiên đủ nhiệt huyết. Trong bối cảnh thật giả lẫn lộn, mức độ nắm bắt của con người thì vẫn giới hạn, Chúa Giêsu đã xác nhận: “Ta là cửa chuồng chiên”.
Ngày hôm nay, con người vẫn đầy thiếu sót bất toàn, Đức Giêsu không cần ta tìm kiếm dấu vết của thật giả, tốt xấu, nhưng hãy tin lời Ngài: “Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân”. Để được bảo vệ chăm sóc, để đạt tới hạnh phúc đời đời, không phải là lúc ta dò hỏi đâu là mục tử tốt lành, cánh cửa cứu rỗi hiện ở đâu ? Nhưng hãy suy xét tôi có đang chung sống trong đại gia đình nhân loại, tôi có tin Đức Giêsu là Mục tử đang dẫn dắt đoàn chiên không ? Vị Mục tử Giêsu sẽ không hỏi ta thẻ sinh viên đâu, cũng sẽ không hỏi ta sử dụng ngôn ngữ nào, Ngài sẽ hỏi bạn có tin Đấng chịu tử nạn phục sinh không, và bạn đang sống niềm tin đó thế nào ?
Ngày hôm nay, cánh cửa nào cũng có then cài, một số cổng, cửa còn có bảo vệ, có ca-me-ra giám sát, không dễ gì ta có sự tự do để tùy ý ra vào, dù làm việc tốt hay xấu. Riêng cánh cửa Giêsu thì lúc nào cũng rộng mở, Ngài tiếp nhận và mời gọi chúng ta chung sống mãi với Đại gia đình Hội Thánh, Ngài còn sẵn lòng làm “vệ sĩ” cho từng tâm hồn ta, nếu ta muốn. Ngày hôm nay, người tín hữu chúng ta vẫn hiểu, Đức Giêsu chính là cánh cửa duy nhất dẫn ta đến sự sống đời đời, Vị Mục tử Giêsu sẽ hiểu chiên, chỉ Mục tử Giêsu mới đủ tình yêu thương biến đổi tâm hồn của chiên. Ngày hôm nay cánh cửa Giêsu vẫn thông thoáng, không giới nghiêm, không phân biệt, nhưng luôn đặt để ta trong qui trình yêu thương để được nên giống Đấng đã chết và sống lại vì gia đình nhân loại.
Cha ông chúng ta có câu: máu ai cũng đỏ, nước mắt ai cũng mặn, trái tim ai chẳng phải rung đập. Rõ ràng tình quê hương, tình gia đình, hay tình huynh đệ, tất cả đều đẹp, và đang được chung sống trong gia đình Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”. Đấng phục sinh đang mời gọi từng tâm hồn, hãy cùng với Ngài tiếp tục mở rộng cánh cửa yêu thương, để qua đó trách nhiệm và bổn phận được làm tròn đầy, ta sẽ hạnh phúc hơn khi chung sống trong Đại gia đình của Chúa. Xin Vị Mục tử Giêsu tiếp tục ban ơn, ban điều kiện, để tất cả mọi nhà, mọi tâm hồn được nên một đàn chiên duy nhất mà Chúa đã yêu thương thiết lập. Amen.
Ai không qua cửa mà vào, Đi qua lối khác, trèo rào nhảy dô. Đó là trộm cướp hồ đồ, Giả nhân PS 4-A177
Ai không qua cửa mà vào, Đi qua lối khác, trèo rào nhảy dô. Đó là trộm cướp hồ đồ, Giả nhân bất nghĩa, nông nô gian tà. Ai mà qua cửa vào ra, Chúa chiên dẫn dắt, hải hà yêu thương. Nhiệt tâm đi trước dẫn đường, Đàn chiên theo lối, tựa nương tháng ngày. Đồng xanh cỏ mới tràn đầy, Bên dòng suối mát, sum vầy thảnh thơi. Chăm nom sức khỏe mọi thời, Con nào yếu bệnh, tới nơi chữa liền. Chính Ta là cửa chuồng chiên, Dủ lòng thương xót, nhân hiền bao dung. Xả thân yêu mến đến cùng, Chiên Ta nghe tiếng, tín trung gọi mời. Lãnh ơn cứu độ muôn đời, Ban cho sự sống, cao vời biết bao. Đàn chiên được sống dồi dào, Chúa Chiên chiến thắng, bước vào vinh quang.
Kinh Thánh Cựu Ước dùng hình ảnh con chiên hiền lành trong nhiều vai trò khác nhau. Chiên gánh tội thay cho người ta. Dùng chiên để hiến tế. Giết chiên để tưởng niệm mỗi dịp lễ Vượt Qua. Chiên bị đem xén lông không kêu ca. Hình ảnh con chiên qúa quen thuộc trong các cuộc dâng tiến lễ toàn thiêu của người Do-Thái.
Chúa Giêsu được thánh Gioan Tẩy giả giới thiệu là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian. Thiên Chúa là mục tử tốt lành. Người mục tử chăm sóc từng con chiên. Người mục tử uốn nắn và sửa trị từng con chiên trong tình yêu thương. Chúa Giêsu được gọi là Chúa Chiên Lành. Chúa Chiên hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Chúa Chiên sống chết với bày chiên của mình. Người tin Chúa được gọi là con chiên, hình ảnh chiên con bước theo chủ chiên.
Chủ chiên tốt lành là chủ chiên đi trước và đàn chiên theo sau. Chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Truyện kể: Có hai đàn chiên ở chung một chuồng. Sáng sớm người chủ chăn hô to Marah, tất cả các chiên của ông rời chuồng đi theo ông. Người thợ chăn kia thấy thế lấy làm ngạc nhiên. Ông mượn áo choàng và gậy của người chăn chiên, ông hô Marah, nhưng chẳng có con chiên nào để ý đến. Ông hỏi người chăn chiên: Có khi nào chiên của ông đi theo người khác không? Chủ chiên nói rằng: Có chứ, đôi khi con chiên bị bệnh hay cứng đầu. Nó sẽ đi theo người khác. Chiên ngoan hiền sẽ theo chủ của nó.
Chúng ta có Chúa Giêsu là Đấng chăn chiên tốt lành. Chúa đã lập Giáo Hội và trao quyền chăm sóc cho các tông đồ và những người kế vị các ngài. Trong Giáo Hội, Chúa tiếp tục chăn dẫn đoàn chiên tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi. Nơi có nguồn sống ân điển và sự sung mãn. Chúa bồi dưỡng đàn chiên qua các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể.
Hình ảnh chủ chiên tốt lành là hình ảnh của các cha mẹ, thầy cô, các tu sĩ, linh mục, những người có trách nhiệm hướng dẫn tinh thần. Họ là mẫu gương đi trước, hướng dẫn cho đoàn con cái theo sau sống con đường chính trực. Họ cần hiểu biết nhu cầu của từng cá nhân, từng thành viên. Hiểu được tâm trạng và hoản cảnh khó khăn của từng người. Với sự cảm thông, họ có thể cùng nâng đỡ, ủi an và khuyến khích nhau sống đạo.
Chúa Chiên đã hy sinh cho đoàn chiên. Các bậc cha mẹ và thầy dạy được mời gọi trở nên những chủ chăn tốt. Biết dẫn dắt con cái đến dòng suối mát của yêu thương và thông cảm. Con cái ngoan hiền biết nghe theo lời của chủ chăn. Xin Chúa cho chúng con luôn là những con chiên ngoan hiền biết lắng nghe và bước theo tiếng chủ chiên.
Từ rầt xa xưa, hình ảnh người chăn chiên là hình quen thuộc. Đoàn chiên và người chăn chiên đã PS 4-A178
Từ rầt xa xưa, hình ảnh người chăn chiên là hình quen thuộc. Đoàn chiên và người chăn chiên đã bước vào lịch sử cứu độ cách hết sức êm đềm, thân thiện như chính bản chất vốn có của con chiên và người dẫn dắt nó. Vì thế, có quá nhiều hình ảnh liên quan đến mục tử và chiên – Thiên Chúa và loài người.
1. Thiên Chúa là Mục Tử Nhân Lành.
– Ngay những trang đầu Kinh Thánh, văn hoá du mục đã gắn liền với ơn gọi của Thiên Chúa, khi Người trao cho con Người: Thiên Chúa tuyển chọn các tổ phụ Abraham, Ixaác, Giacóp, Môsê… từ nơi đồng cỏ, giữa đoàn chiên… Nhiều tiên tri lãnh nhận ơn kêu gọi của Thiên Chúa đang khi chăn dắt đàn chiên của mình…
– Trải qua các thời kỳ: tổ phụ, thủ lãnh, tiên tri và quân chủ, Thiên Chúa không ngừng huấn luyện, đào tạo dân riêng. Chính Thiên Chúa trao ban sáng kiến cứu độ và dạy toàn dân đợi chờ ơn cứu độ. Thiên Chúa luôn đi bước trước trong sáng kiến để thiết lập giao ước và duy trì sự trung thành với giao ước.
– Từng trang Kinh thánh, mỗi lần nhắc tới Đấng Thiên Sai của tương lai, Đấng Cứu Tinh, Đấng Mêsia, tất cả đều dùng hình ảnh người chăn chiên ám chỉ “Đấng nhân danh Chúa mà đến” sẽ là Mục Tử chăn dắt dân Thiên Chúa trong đường lối chính trực, công minh.
– Đặc biệt, Thánh vịnh nhiều lần ca tụng Thiên Chúa là Chủ Chăn bênh vực, chăm lo cho dân Người:
* “Lạy Chúa, chính Ngài là khiên che thuẫn đỡ, là vinh dự của con, là Đấng cho con được ngẩng đầu bất khuất” (Tv 3, 4).
* “Con ẩn náu bên Ngài, xin cứu vớt và giải thoát con” (Tv 7, 2).
* Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.
Lạy Chúa, dầu qua lũng âm, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa.
Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23).
Suốt bao nhiêu ngàn năm, hình ảnh chủ chăn và đoàn chiên vẫn là hình ảnh đẹp, trở thành chủ đề xuyên suốt lịch sử ơn cứu độ.
Qua đó, Thiên Chúa bộc lộ chính mình là Mục Tử Nhân Lành, tràn tình yêu, đầy lẽ sống, luôn dịu dàng. Đấng là Mục Tử Nhân Lành không chỉ sẵn sàng mà còn không ngừng trao ban cho con người là đoàn chiên mà Người chăn dắt chính bản thân Người qua sự quan phòng lãnh đạo quyền năng, nhân từ, rộng lượng.
Thiên Chúa thể hiện, chính Người gầy dựng đàn chiên, tức dân riêng của Người. Thiên Chúa không ngừng gìn giữ, bảo vệ họ, để dù trải qua không biết bao nhiêu sóng gió, nhất là những lúc họ quỵ ngã trong tội, họ phản bội và vô ơn với Người, hay khi họ phải mang thân nô lệ, bị chà đạp quyền sống, lầm lũi hoang mang trong sa mạc đằng đẳng bốn mươi năm, hoặc bị phác lưu tủi nhục… Tất cả chỉ đặt dấu ấn của một mình Thiên Chúa, Đấng dẫn dắt, chăm sóc bằng bàn tay uy lực và từ ái.
2. Chúa Giêsu, hiện thân của Thiên Chúa nơi trần gian.
Chúa Giêsu là nguồn mạc khải trọn vẹn về Chúa Cha và của Chúa cha, để qua Người, khi thể hiện mình là Mục Tử Nhân Lành, Chúa Giêsu cho biết, từ nơi Người, Chúa Cha đón nhận chúng ta, yêu thương chúng ta, tha thứ cho chúng ta, ban cho chúng ta sự sống thần linh để chúng ta sống và sống dồi dào.
– Bởi chính Chúa Giêsu là Mục Tử, nên Chúa ưu ái với các mục tử. Ngay buổi bình minh của Tân Ước, trong đêm Chúa giáng sinh, chỉ các mục đồng mới trở thành những người đầu tiên lãnh nhận tin mừng giáng sinh và sứ mạng loan báo tin vui cứu độ Con Thiên Chúa đã giáng trần.
– Chúa Giêsu, vốn là Thiên Chúa, lại chấp nhận trở thành một trong những thân phận hèn kém, mong manh như chúng ta. Người hoàn toàn vâng thánh ý Chúa Cha để hòa mình với trần gian sống khiêm nhường trong gia đình Nagiaret nghèo khó.
– Chúa Giêsu, một đời làm người nơi dương thế, là một đời kể từ khi sinh ra, sống, chết, sống lại, được vinh thăng trên trời là để mang ơn cứu độ cho chúng ta.
Nhất là trong những năm ra đi công khai, Chúa Giêsu luôn tận tụy rao giảng Tin Mừng nước trời, Tin mừng tình yêu. Chúa đồng sớt chia và chấp nhận mọi khó khăn, mệt nhọc, mọi phản ứng chống đối.
Nhiều lần Chúa chạnh lòng thương những ai bơ vơ không người chăn dắt. Chúa thực hiện nhiều phép lạ chữa lành nhiều bệnh tật. Chúa yêu thương quan tâm những người nghèo, người bị bỏ rơi, người bị gạt ra bên lề đời sống tôn giáo và xã hội…
– Chúa Giêsu chăm sóc, bảo vệ đoàn chiên cho đến tận cùng. Không ai có thể cướp chiên khỏi tay Chúa. Không ai có thể lấy đi sự sống đời đời mà chiên nhận được từ nơi Chúa.
– Nhiều lần Chúa Giêsu khẳng định: Ta Là Người Chăn Chiên Tốt Lành. Chúa không chỉ minh họa sự tốt lành bằng dụ ngôn Con chiên lạc và người chăn tìm kiếm rồi vui mừng vác chiên lên vai trở về, mà đến khi hoàn tất hành trình dương thế, chính Chúa sẵn sàng hiến thân nhận lấy cái chết tủi nhục trên thánh giá cứu chuộc đàn chiên mà Chúa lãnh nhận trách vụ chăn dắt.
Chúa Giêsu vui nhận thánh giá để nói lên tình yêu có một không hai trên cõi đời. Đó là tình yêu của một vì Thiên Chúa cao sang hạ cố chính mình, chết cho loài thụ tạo mà mình dựng nên.
Mãi mãi Chúa Giêsu tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng đoàn dân bằng chính thịt máu Người. Đó là sáng kiến độc đáo mà Chúa Giêsu thiết lập để mãi mãi tiếp tục hiện diện giữa đoàn dân của Người bằng phương cách bí tích. Nhờ Thánh Thể, Chúa ở lại và đồng hành với dân Người cho đến muôn đời.
3. Chúng ta là mục tử cho nhau.
Cách đây hơn hai năm, tôi chít lên đầu vành khăn tang tiễn đưa người ông của mình, một linh mục cao niên, nhưng qua đời khá đột ngột. Kế tiếp, tôi tiễn đưa người bạn mới ngoài năm mươi tuổi, làm linh mục chưa đầy hai mươi năm. Chẳng lâu sau, tôi tiếp tục bàng hoàng chia tay một linh khác trong giáo phận nhà, cũng chưa tròn sáu mươi. Vài ngày trước , tôi lại tham dự thánh lễ an táng một linh mục giáo sư Đại Chủng viện mới ngoài sáu mươi…
Tất cả đều giống nhau: Họ rời trần thế quá đột ngột, trong khi tất cả còn đang hoạt động, sức sống vẫn căng tràn, độ nhanh nhạy trong những giải quyết, những liên đới, những quyết đoán… đều chưa có dấu hhiệu suy giảm…
Những cái chết như thế, gieo trong lòng người ở lại không ít thương đau, tiếc nhớ. Chỉ có niềm an ủi trong đức tin mới có thể xóa nỗi nghẹn ngào cho bất cứ ai có liên quan thân tình với người nằm xuống.
Tuy thời gian có thể sẽ làm lành mọi vết thương, và lớp bụi của nó có thể phủ lấp để đẩy mọi thứ vào quá khứ, thậm chí vào quên lãng. Nhưng với người hay hoài niệm, chắc phải cần đến độ dài năm tháng…
Sở dĩ người còn ở lại khó quên là vì tất cả họ đã từng hiện diện bằng một đời tận tụy trong chức năng mục tử. Họ noi gương Chúa Giêsu Mục Tử để thi hành cách tốt nhất, triệt để nhất ơn gọi làm mục tử của mình.
Nói như thánh Augustinô: “Cho anh chị em, tôi là giám mục, cùng với anh chị em tôi là Kitô hữu”, tôi nhận ra nơi họ hình ảnh sống động của Augustinô hôm nay. Bởi họ đã từng sống ơn gọi linh mục vì anh chị em, và làm Kitô hữu với anh chị em.
Tuy nhiên, chúng ta đừng giới hạn chức năng mục tử cho giám mục, linh mục mà thôi, nhưng tất cả chúng ta là mục tử cho nhau. Trong từng vai trò theo khả năng mà ơn gọi của mình đòi hỏi, có thể là cha mẹ, anh chị em, bè bạn, những người thân thuộc, những người ở gần bên nhau, những người có trách nhiệm về người khác…, đều có nghĩa vụ lôi kéo nhau về đàng lành, noi gương đời sống thánh thiện, gây ảnh hưởng về một lối sống công chính cho nhau…
Là mục tử cho nhau, chúng ta cùng nhìn lên Chúa Giêsu Mục Tử mà học nơi Người tinh thần vâng phục trong mọi hoàn cảnh, mọi biến cố của đời mình, để luôn luôn đặt thánh ý Thiên Chúa lên trên mọi sự, mọi quyết định, mọi hành động.
Chúa ta học nơi Chúa Giêsu lòng khiêm nhường, hiền hậu và sự hy sinh dâng hiến, dù phải dâng hiến cả bản thân, cả cuộc sống, cả quyền lợi tư riêng của mình.
Chúng ta học nơi Chúa Giêsu đời sống công chính, để luôn luôn tiến đi chỉ trên một con đường, đó là sự thánh thiện mà thôi.
Ước mong, mỗi chúng ta là mục tử cho nhau, sẽ giúp đỡ nhau để cùng tiến về hạnh phúc vĩnh cửu như Chúa muốn.
Chúa nhật Thứ tư Phục sinh hôm nay được gọi là Chúa nhật Chúa Chiên Lành, vì trong bài Tin PS 4-A179
Chúa nhật Thứ tư Phục sinh hôm nay được gọi là Chúa nhật Chúa Chiên Lành, vì trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu tự ví mình là Cửa Chuồng Chiên và Mục Tử Tốt Lành của chúng ta. Người biết rõ từng người chúng ta, và vì yêu thương, Người hy sinh mạng sống để bảo vệ, gìn giữ chúng ta được bằng an, và dẫn chúng ta tới sự sống thật.
Chúng ta nên biết, ngày xưa ở xứ Palestin, người ta nuôi chiên rất đông. Ban đêm, các mục tử dẫn các đàn chiên của mình vào một cái chuồng chung, và chia phiên nhau bảo vệ canh gác ở ngay cửa ra vào. Ðến sáng, từng mục tử đến chuồng và đứng ở cửa dùng tiếng gọi các con chiên trong đàn mình. Vì các con chiên đã quen tiếng mục tử nên đi theo ra khỏi chuồng đến những đồng cỏ. Cũng vậy, nếu chúng ta là chiên thật của Chúa Giê-su thì chúng ta sẽ nhận ra tiếng và đi theo Người. Ngày nay, Chúa dùng Lời Chúa và giáo huấn của Giáo hội để nói với chúng ta, và nếu chúng ta tin thật Chúa là Mục Tử Tốt Lành của chúng ta, chúng ta sẽ đi theo và thực hành những điều Người dạy bảo.
Có một câu chuyện được kể như sau. Một thanh niên rất thích cuộc sống di chuyển mọi nơi để trình diễn của đoàn xiệc, nên anh đến xin một công việc làm, việc gì cũng được. Người giám đốc mướn và giao cho anh công việc phụ tá cho người huấn luyện và điều khiển những con sư tử. Người huấn luyện sư tử là một phụ nữ trẻ đẹp và đang chuẩn bị một buổi tập luyện. Cô vào chuồng, đội nón và mặc một bộ đồ sặc sỡ nhiều màu rất đẹp. Sau đó cô cầm một cái cây ra lệnh cho các con sư tử chạy và bò chung quanh. Các con sư tử tuân theo mệnh lệnh chạy, bò chung quanh và sau đó quì xuống trước mặt cô để được cho ăn. Cô huấn luyện sau đó nói với người thanh niên: “Anh nghĩ anh có thể làm được việc đó không?” Người thanh niên trả lời: “Tôi chắc chắn sẽ làm được việc đó. Nhưng điều trước tiên, cô phải đem mấy con sự tử này ra khỏi chuồng!”
Ông bà anh chị em thân mến. Như những con sư tử nhận ra tiếng và tuân theo mệnh lệnh của người huấn luyện mình, Chúa Giê-su nói với chúng ta qua bài Tin mừng con chiên trong đàn thì nhận ra tiếng gọi và làm theo mệnh lệnh của người chủ chăn mình. Chiên sẽ không đi theo những người lạ, vì không nhận ra tiếng của người lạ. Những người Pha-ri-siêu lúc đó không nhận ra điều Chúa muốn nói với họ, vì họ không chấp nhận Người là chủ chăn của mình. Họ không nghĩ rằng Chúa đang đề cập đến họ. Chúa cho họ biết họ không còn là những chủ chăn thực, vì họ không dẫn dân riêng của Chúa tới công lý, sự thật và thánh thiện. Họ đến và vào với đàn chiên bằng lối khác, không bằng cửa chính. Cửa ở đây là chính Chúa Giê-su, và vì cửa là lối vào duy nhất để vào chuồng chiên, cho nên Chúa Giê-su cũng là người duy nhất có thể đưa chúng ta đến với Thiên Chúa.
Chúng ta thấy Chúa Giê-su dùng hình ảnh cửa để ám chỉ đến chính Người là cửa chuồng chiên. Ai vào và đi ra qua Người sẽ được bảo vệ, gìn giữ và tìm được đồng cỏ xanh tươi và dòng suối mát. Chúng ta biết cửa rất quan trọng. Cửa cho chúng ta vào ngôi nhà trong đó có những người thân yêu và cũng là nơi trú ẩn an toàn. Cửa mở ra để chúng ta đi ra tiếp xúc với những người khác hay để đi làm sinh sống, hay đi tham dự những sinh hoạt bên ngoài như đi thờ phượng và làm những công việc bác ái. Cửa còn ngăn chặn những người lạ, hay ngăn chặn những người trộm cắp. Chúa Giê-su dạy bảo chúng ta rằng nếu cửa rất cần thiết và quan trọng cho chúng ta, thì chính Người cũng vậy. Nếu Chúa dự phần vào việc chúng ta ra và vào trong cuộc sống, hay khi chúng ta đặt Chúa ở trọng tâm cuộc sống, hay khi chúng ta xin Chúa chúc lành cho những công việc, những hoạt động trong cuộc sống, thì chúng ta sẽ được Chúa gìn giữ, che chở và chúng ta sẽ cảm nhận được sự bình an và bảo đảm. Theo kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa và để tiếp tục sứ mệnh của Chúa Giêsu, Người Mục Tử Tốt Lành, Chúa thương chọn những mục tử để phục vụ dân Chúa, đó là các giám mục và linh mục. Các vị cũng có những trách nhiệm và bổn phận như những mục tử là bảo vệ, gìn giữ, chăn dắt và dạy dỗ dân Chúa. Trách nhiệm ấy thật cao cả những cũng thật khó khăn và nặng nề! Cao cả vì các vị phải noi gương Chúa Giê-su, trở thành sứ giả của Người, sống yêu thương và hy sinh, để phục vụ cộng đồng dân Chúa được giao phó cho các vị. Các vị chủ chăn có một vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống thiêng liêng của cộng đoàn dân Chúa. Khó khăn và nặng nề vì các vị cũng vẫn là những con người phàm trần với nhiều yếu đuối và đam mê như mọi người khác. Chính vì thế mà Giáo hội tha thiết kêu gọi tất cả mọi Kitô hữu cầu nguyện cách đặc biệt cho các vị. Vì không có ơn Chúa, thì làm sao các vị có thể chu toàn được những công việc mà Tin mừng đòi hỏi. Ngoài ra, Giáo hội còn kêu gọi mọi người hy sinh cộng tác với các vị, có lòng bác ái và quảng đại trong công việc xây dựng Nước Chúa và làm sáng danh Chúa.
Tôi xin được chia sẻ với ông bà anh chị em một phát biểu chân thành của một giáo dân như sau: “Vị chủ chăn gần chúng ta nhất là cha xứ. Tất cả công việc, những sự hy sinh của ngài cho giáo xứ gần như mọi người không để ý đến. Hầu hết mọi người chỉ đi xem lễ rồi ra về, không giúp gì cho cha xứ, dù chỉ một việc nhỏ mọn là nhặt một cái rác, hay thu dọn bánh kẹo của con mình rơi xuống thảm. Nhiều người đi lễ chỉ cho 1 hay 2 đô la, nhưng muốn cho xứ tổ chức cái nọ cái kia. Có những điều cha xứ dạy hay khuyên bảo mà chúng ta không đồng ý, thì chúng ta chê bai, chống đối. Hay khi cha xứ có những lầm lỗi nhỏ thì chúng ta bàn ra, tán vào, thậm chí nói xấu, hoặc tìm cách gây những chia rẽ. Thay vì tiếp tay để giúp giáo xứ đoàn kết, thì có khi chúng ta lại kiêu căng, tự cao, tự ái, chia bè, chia nhóm để chống đối làm cho giáo xứ điêu tàn. Con chiên có thể bỏ đàn đi nơi khác, đi nhà thờ khác, nhưng chủ chăn, cha xứ thì không thể bỏ giáo xứ của mình. Đó là lời phát biểu chân thành của một giáo dân để chúng ta cùng suy nghĩ.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì hồng ân được thuộc về đàn chiên của Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết trung thành lắng nghe và sống những lời Vị Mục Tử Nhân Lành dạy bảo, và qua các các vị chủ chăn đại diện cho Chúa ở trần gian. Xin Chúa cũng gởi thêm cho chúng ta nhiều mục tử tốt lành biết noi gương Chúa, hết lòng yêu thương và sẵn lòng hy sinh cho đàn chiên được Chúa trao phó.
Sau khi đã tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Giê-su, Phụng vụ Chúa nhật này suy PS 4-A180
Sau khi đã tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Giê-su, Phụng vụ Chúa nhật này suy tư về ý nghĩa thể hiện qua cái chết của Người. Chúa Giê-su đã chết vì đàn chiên, như người mục tử nhân lành, yêu thương những con chiên của mình.
Chúa nhật thứ bốn của mùa Phục sinh được gọi là “Chúa nhật Chúa Chiên lành”. Cả ba năm của chu kỳ Phụng vụ đều chọn bài Tin Mừng theo thánh Gio-an, lần lượt triển khai bài giảng của Chúa Giê-su về người mục tử, được thuật lại trong chương 10. Thực ra, đây là cuộc tranh luận giữa Chúa Giê-su và những người biệt phái Do Thái. Người ta thường nói: mọi so sánh đều khập khiễng. Quả vậy, nếu chúng ta so sánh giữa hình ảnh người mục tử với đàn chiên và Chúa Giê-su với các tín hữu, chúng ta sẽ thấy rõ sự khập khiễng ấy. Bởi lẽ khi Đức Giê-su tuyên bố Người là mục tử, thì những người tin theo Chúa không cách biệt Người, như người chăn chiên với đàn vật.
Hình ảnh mục tử và đàn chiên mà Chúa Giê-su dùng không phải là một ý tưởng mới mẻ. Trong Cựu ước, các ngôn sứ, nhất là ngôn sứ Ê-dê-ki-en và ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã dùng hình ảnh này để diễn tả sự quan tâm chăm sóc của Thiên Chúa đối với Dân Ngài. Ngài như một mục tử dẫn dắt đàn chiên, chăm lo cho từng con chiên. Chúa Giê-su cũng lấy lại giáo huấn của Cựu ước. Điều mới mẻ ở đây, là người mục tử sẵn sàng hy sinh mạng sống và chấp nhận chết vì đàn chiên (x. Ga 10,15). Chúa Giê-su cũng khẳng định, Người đến từ Chúa Cha. Chúa Cha biết rõ Người và Người cũng biết rõ Chúa Cha. Như thế, nếu hình ảnh người mục tử trong Cựu ước biểu thị mối quan tâm của Thiên Chúa, thì nay, hình ảnh ấy đã trở nên hiện thực nơi chính Con của Ngài, Đấng đã làm người để đồng hành với con người. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en cũng nói đến những mục tử là những trung gian Thiên Chúa đặt lên để chăm sóc Israel. Trong số đó, có những mục tử giả và có những mục tử thật. Có những mục tử chỉ nhằm bóc lột đàn chiên mà không quan tâm đến số phận của những con chiên đi lạc hoặc đau ốm. Chúa Giê-su là Mục tử đích thật và là Mục tử nhân lành. Người đã trực tiếp đến trần gian để dẫn dắt nhân loại. Nếu các giám mục, linh mục được gọi là “mục tử”, thì chỉ là những cộng sự viên và là những cánh tay nối dài của Chúa, làm việc theo lệnh truyền của Người. Các ngài cũng phải luôn là phản ánh của vị Mục tử qua cuộc đời mình. Chính vị Mục tử Giê-su, Đấng đã chết và đã Phục sinh, đang hiện diện giữa chúng ta, để dẫn dắt, giáo huấn và chỉ dạy chúng ta trong cuộc sống hằng ngày.
Ngay từ thời Giáo hội sơ khai, các tông đồ và các tín hữu đã ý thức sự hiện diện của Đấng Phục sinh giữa cộng đoàn những người tin. Trong bài giảng ngày lễ Ngũ Tuần, thánh Phê-rô đã can đảm minh chứng với khách hành hương: Đức Giê-su đã chết trên thập giá và đã sống lại. Chắc chắn lời giảng của Phê-rô phải đầy nhiệt huyết và hùng hồn, nên đàn chiên hôm ấy đã tăng thêm được ba ngàn người. Những người gia nhập cộng đoàn tín hữu đều tin rằng họ gia nhập đàn chiên có Chúa Giê-su là Mục tử. Người đã chấp nhận chết trên thập giá, như người mục tử đã chấp nhận cái chết để đem lại sự an toàn và hạnh phúc cho đàn chiên của mình.
Người mục tử đích thực thì yêu mến đàn chiên và hiểu từng con chiên. Trong ba năm rao giảng Tin Mừng Cứu độ, Chúa Giê-su đã chứng minh Người là mục tử giàu lòng thương xót. Chính Người là vị Mục tử sẵn sàng để lại chín mươi chín con chiên để vào rừng tìm cho bằng được một con chiên bị lạc.
Hình ảnh người Mục tử hy sinh vì đàn chiên giới thiệu với chúng ta về tình thương vô bờ của Thiên Chúa, thể hiện qua Đức Giê-su Ki-tô. Hình ảnh ấy cũng giúp chúng ta tìm thấy nghị lực bước đi trong cuộc đời đầy thăng trầm tăm tối. Thánh Phao-lô đã quả quyết với chúng ta: Đức Giê-su khổ nạn là nguồn hy vọng cho chúng ta. Nhờ sự nâng đỡ của Đấng chịu đóng đinh, chúng ta có thể vượt lên mọi khó khăn thử thách. Theo thánh Phao-lô, khi phạm tội, người tín hữu giống như con chiên lạc; khi sám hối và trở về với Đức Giê-su, chúng ta hoà nhập với đàn chiên để đi theo vị Mục tử của mình (Bài đọc II).
Chúa nhật Chúa Chiên Lành cũng là ngày Thế giới cầu nguyện cho ơn gọi. Chúng ta hãy xin Chúa soi sáng và thúc đẩy nhiều bạn trẻ dấn thân đáp lại lời mời gọi của Người để trở nên tông đồ trong lý tưởng làm linh mục và tu sĩ.
“Chúa là Mục tử chăn dắt tôi….” Lời Thánh vịnh rất quen thuộc thường được hát lên trong Phụng vụ, diễn tả tình thương và sự ân cần của Thiên Chúa đối với những ai tin tưởng cậy trong nơi Ngài. Xin cho mỗi chúng ta luôn ý thức sự hiện diện của Chúa, nhờ đó chúng ta tìm được hạnh phúc và bình an, như con chiên luôn được êm ấm giữa đàn chiên của mình. Amen.
Chúa Giê-su đã từng nói với Tô-ma: “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến PS 4-A181
Chúa Giê-su đã từng nói với Tô-ma: “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Với Tin Mừng chương 10 theo thánh Gio-an, Chúa Giê-su tự nhận mình là “Mục tử tốt lành” (x. Ga 10,14).
Sau khi đã tự mô tả là một người mục tử tốt lành, Chúa Giê-su lại nhận mình là cửa chuồng chiên khi tuyên bố: “Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên… Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và được của nuôi thân” (Ga 10,7.9).
Chúa Giê-su có ngụ ý gì khi công bố “Ta là cái cửa”? Những ai vào cửa Giê-su thì sẽ nhận được điều gì? Ngược lại, đến với kẻ trộm thì sẽ nhận được điều gì? Mỗi người chúng ta làm gì để giúp nhiều người đến với Chúa mà được ơn cứu độ?
Sau khi kể cho những người Pharisiêu nghe về ẩn dụ người chăn chiên thật và kẻ trộm chiên, nhưng họ không hiểu ý Người (x. Ga 10,6). Vì thế, Chúa giải thích thêm, Người là cái cửa vào chuồng chiên, ai vào cửa này thì sẽ được cứu rỗi, tự do đi lại và tìm gặp đồng cỏ xanh tươi (x. Ga 10,7-9). Nhưng ai đi theo kẻ trộm thì sẽ bị cướp, bị giết.
Để hiểu rõ ý tưởng của Chúa Giê-su, chúng ta biết rằng, ở nước Do Thái, đối với những người du mục chăn chiên, bò, lừa. Khi đêm đến chiên được nhốt trong chuồng có rào và chỉ có một cánh cửa duy nhất được khóa lại để bảo vệ chiên. Nhưng những khi chiên ngủ đêm ngoài đồng thì ngay tại vị trí chiên có thể ra vào được, người chăn sẽ nằm chắn ngay trước cửa, và tất cả chiên nào muốn ra hay vào đều phải bước qua người chăn. Đó là ý nghĩa của lời công bố “Ta là cái cửa” của Chúa Giê-su.
Hình ảnh về cửa chuồng chiên này đối với chúng ta thì rất lạ, còn đối với người Do thái lại là hình ảnh rất quen thuộc. Chúa Giê-su tự ví mình như cửa chuồng chiên và như người mục tử tốt lành. Cả hai hình ảnh này đều nói lên tình thương yêu chăm sóc và sự bảo vệ mà Người dành cho chúng ta, là những con chiên trong đàn chiên do Người chăn dắt.
Cửa chuồng chiên là lối cho chiên ra vào chuồng để được bảo vệ an toàn và được sống, ngụ ý ám chỉ ai qua Cửa Giê-su mà vào thì người ấy mới là mục tử thực sự của Thiên Chúa và mới được hưởng ơn cứu độ Chúa ban cho (x. Ga 10,9). Thánh Gio-an Kim Khẩu nói: “Khi Đức Giê-su đưa chúng ta đến với Chúa Cha, Người nhận mình là Cửa. Khi Người săn sóc dưỡng nuôi ta, Người nhận mình là Mục Tử”.
Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi lần thứ 60 sẽ diễn ra vào ngày 30 tháng 4, Chúa Nhật IV Phục Sinh, còn được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành với chủ đề “Ơn gọi: Ân sủng và Sứ vụ”. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô nhấn mạnh đến sự được chọn trước cả khi tạo thanh vũ trụ, mỗi người một phận vụ, nhưng được kêu gọi quy tụ cùng nhau. “Lời kêu gọi của Thiên Chúa bao gồm việc ‘sai đi’. Không có ơn gọi nếu không có sứ vụ. Không có hạnh phúc và sự tự nhận thức đầy đủ trừ khi chúng ta mang đến cho người khác sự sống mới mà chúng ta đã tìm thấy” (x. Sứ điệp cho ngày Thế giới Cầu nguyện cho Ơn gọi 2023. Thánh Phaolô VI Giáo hoàng đã bắt đầu sự kiện thường niên vào năm 1964).
Đức Thánh Cha Phan-xi-cô viết: “Ngày này là một cơ hội quý báu để nhớ lại với sự kinh ngạc rằng lời mời gọi của Thiên Chúa là ân sủng, là hồng ân trọn vẹn, đồng thời là một cam kết mang Tin Mừng đến cho người khác”.
Trong Sứ điệp của mình, Các ơn gọi được “kết hợp với nhau trong việc ‘ra đi’ để chiếu tỏa khắp thế giới sự sống mới của vương quốc Thiên Chúa” nhấn mạnh rằng mọi ơn gọi trong Giáo hội – giáo dân, linh mục, tu sĩ, hay đời sống thánh hiến – phối hợp với nhau trong một bản giao hưởng hài hòa.
Mọi ơn gọi được “kết hợp với nhau trong việc ‘ra đi’ để chiếu tỏa khắp thế giới sự sống mới của Vương quốc của Thiên Chúa”.
Đức Thánh Cha viết tiếp: “Tất cả mọi người trong Giáo hội đều là những người phục vụ theo đặc sủng của mỗi người, trong khi ơn gọi chung của chúng ta là “yêu thương trao hiến chính mình… Những người trong Thừa tác vụ có chức thánh – Linh mục, Giám mục và Phó tế – được “đặt để phục vụ việc rao giảng, cầu nguyện và thúc đẩy tinh thần hiệp thông của Dân thánh của Thiên Chúa”.
Hiện nay nhiều nơi trên thế giới đang thiếu trầm trọng ơn gọi linh mục tu sĩ, nhất là Âu Châu, Mỹ Châu. Có nhà thờ không có linh mục nên đành phải đóng cửa hoặc bán đi để trả nợ. Cũng có nhiều dòng tu bị giải thể vì không còn lớp tu sĩ trẻ kế thừa. Chúng ta hãy cầu nguyện cho ơn Thiên triệu linh mục, tu sĩ. Hãy đóng góp phần mình vào việc mở mang Nước Chúa.
Mục Tử Thật Hy Sinh Mạng Sống, Người Làm Thuê Bỏ Mặc Đàn Chiên. Ngày xưa, Thiên Chúa PS 4-A182
Mục Tử Thật Hy Sinh Mạng Sống Người Làm Thuê Bỏ Mặc Đàn Chiên.
Ngày xưa, Thiên Chúa nguyền rủa: “Khốn cho các mục tử Israel, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Nào mục tử không phải chăn dắt đàn chiên sao? Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, còn đàn chiên lại không lo chăn dắt. Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc. Chiên của Ta tán loạn vì thiếu mục tử và biến thành mồi cho mọi dã thú, chúng tán loạn. Chiên của Ta tản mác trên các ngọn núi, trên mọi đỉnh đồi. Chiên của Ta tản mác trên khắp mặt đất, thế mà chẳng ai chăm sóc, chẳng ai kiếm tìm.” (Ed 34:2-6)
Ngày nay, ĐHY Robert Sarah (bộ trưởng Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích từ 23-11-2014 đến 20-2-2021) nhận định: “Các giám mục làm phân tán đàn chiên mà Chúa Giêsu đã ủy thác cho họ sẽ bị Thiên Chúa phán xét một cách không thương xót và nghiêm khắc.” Chính Chúa Giêsu xác định: “Tôi đến để cho chiên được SỐNG và SỐNG DỒI DÀO,” (Ga 10:10) và Ngài hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28:20) Còn Thánh Phaolô cảnh báo: “Một số cành cây ô-liu đã bị chặt đi, còn bạn là ô-liu dại đã được tháp vào đó, và cùng được hưởng sự sống dồi dào từ rễ cây ô-liu chính. Vì thế, bạn đừng có lên mặt khinh dể các cành khác.” (Rm 11:17-18)
Xưa nay người ta thường đề cập nỗi khổ của mục tử nhưng ít (hoặc không) chú ý tới nỗi khổ của chiên, nhất là những đàn chiên vất vưởng, những con chiên đau khổ vì bị bỏ rơi, bị hành hạ, bị áp bức,… phải chịu đựng vì thấp cổ bé miệng, kêu không thấu, mà có kêu cũng chẳng ai thèm nghe. Thảo nào người ta nói: “Buôn có bạn, bán có phường.” Sự thật nào cũng phũ phàng lắm!
Ngày xưa, khi thấy đám đông lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương họ. Ngài nói với các môn đệ: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” (Mt 9:37-38) Vì thương xót, Ngài không muốn ai phải sống èo uột, mà chỉ muốn mọi người được sống dồi dào, sống viên mãn, sống đúng nhân vị và nhân phẩm của con người, đồng thời cũng được hưởng nhân quyền và sự tự do đích thực. Chắc chắn phải “đi qua” Chúa Giêsu Kitô mới có thể được như vậy, vì Ngài là Con Đường duy nhất dẫn đến Chúa Cha (Ga 14:6) và là Nguồn Sống Viên Mãn (Ga 10:10) cho mọi người.
Thật vậy, Chúa Giêsu Kitô không chỉ nuôi sống chúng ta bằng ân sủng mà đặc biệt là chính Mình Máu Ngài để chúng ta được sống dồi dào, vì Ngài là Thiên Chúa của người sống chứ không là Thiên Chúa của người chết. (Mt 22:32; Mc 12:27; Lc 20:38) Nếu muốn sống viên mãn thì mỗi cành nho phải nối kết với Cây Nho Thật để được truyền “nhựa yêu thương.” (Ga 15:1-17) Cành cây nào có nhiều nhựa thì có nhiều sức sống, con người cũng vậy, đặc biệt là sự sống tâm linh – sự sống viên mãn từ Thiên Chúa.
Người ta sẽ biến đổi thành con người mới hoàn toàn nếu được tái sinh bởi Chúa Giêsu Kitô. Cụ thể là Phêrô. Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, ông Phêrô đứng chung với Nhóm Mười Một lớn tiếng nói với tất cả những người đang cư ngụ tại Giêrusalem: “Toàn thể nhà Israel phải biết chắc điều này: Chúa Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô.” (Cv 2:36) Nghe thế, họ đau đớn trong lòng, và hỏi ông Phêrô cùng các tông đồ khác: “Thưa các anh, vậy chúng tôi phải làm gì?” (Cv 2:37)
Hỏi như vậy là dấu hiệu tốt lành, chứng tỏ tâm hồn đã thực sự sám hối, ước muốn hướng thiện, khao khát điều tốt. Nghe họ hỏi, ông Phêrô nói: “Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần. Thật vậy, đó là điều Thiên Chúa đã hứa cho anh em, cũng như cho con cháu anh em và tất cả những người ở xa, tất cả những người mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi.” (Cv 2:38-39)
Ngoài ra, ông Phêrô còn dùng nhiều lời khác để long trọng làm chứng và khuyên nhủ họ. Rồi ông nói: “Anh em hãy tránh xa thế hệ gian tà này để được cứu độ.” (Cv 2:40) Những ai đã đón nhận lời ông thì đều xin được lãnh nhận phép rửa, muốn được tái sinh để hy vọng được vào Nước Trời. (Ga 3:5) Ngay hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo. Chúa Thánh Thần tác động rõ ràng. Ngày nay người ta có phương tiện định vị toàn cầu giúp không lạc lối, nhưng chỉ có Chúa Giêsu mới chính là “định vị kế” chuẩn mực nhất. Nhận biết được vậy thì người ta sẽ an vui tín thác vào sự quan phòng và tiền định của Ngài, vì họ xác định: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.” (Tv 23:1-3)
Họ luôn an tâm và hạnh phúc thân thưa: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên.” (Tv 23:4-6) Thật vậy, ai tuân giữ lời dạy của Đức Kitô thì không bao giờ phải chết. (Ga 8:51) “Lòng nhân hậu và tình thương” đó không hề xa lạ, vì đó chính là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa mà ngày nay đang rất phổ biến khắp nơi trên thế giới, từ thành thị tới thôn quê, từ người già tới người trẻ, vì không ai không là tội nhân, và vì thế mà không ai lại không cần đến Lòng Chúa Thương Xót.
Hằng ngày, khi đọc Kinh Mân Côi, chúng ta nhiều lần kêu cầu: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con, xin cứu chúng con cho khỏi hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những linh hồn cần đến Lòng Chúa Thương Xót hơn.” Nhưng cũng rất có thể vì quen quá hóa nhàm nên chúng ta không thực sự chú ý hoặc không cảm nhận lời cầu tha thiết như vậy. Đời sống tâm linh được lồng trong đời thường, vẫn có đủ thất tình (hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục) theo bản tính phàm nhân. Do đó mà chúng ta luôn phải cố gắng không ngừng, sơ sảy một chút là té nhào ngay. Chúng ta luôn phải “vượt qua chính mình” vì có những điều không vừa ý mình. Tội trong tư tưởng đáng sợ lắm!
Thánh Phêrô đạt vấn đề: “Nếu có tội mà anh em bị đánh đập và đành chịu thì nào có vẻ vang gì? Nếu làm việc lành và phải khổ mà anh em vẫn kiên tâm chịu đựng, đó là ơn Thiên Chúa ban.” (1 Pr 2:20) Và ông giải thích: “Anh em được Thiên Chúa gọi để sống như thế. Thật vậy, Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. Người không hề phạm tội; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe; nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình.” (1 Pr 2:21-23) Cái khó là “im lặng” và “phó thác” cho Chúa.
Chúa Giêsu là Nguồn Sống nhưng đã chịu chết để chúng ta có cơ hội sửa sai và có thể phục sinh vinh quang như Ngài: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành. Quả thật, trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em.” (1 Pr 2:24-25) Chúa Giêsu chết vì tội lỗi của chúng ta, nghĩa là chúng ta cũng phải dám chết cho tội lỗi của chính mình – và tội lỗi của người khác, nhờ đó mà được sống lại và được sống viên mãn trong Đấng Phục Sinh.
Chúa Giêsu là Con Đường, là Sự Thật, là Sự Sống, (Ga 14:6) và là Cửa (Ga 10:9) dẫn vào Nguồn Sống Viên Mãn của Thiên Chúa: “Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ.” (Ga 10:1-5) Người ta không hiểu khi nghe Ngài nói vậy. Tất nhiên không chỉ khó hiểu đối với những người thuộc nhóm Pharisêu hồi đó, mà còn khó hiểu đối với cả chúng ta ngày nay.
Thật vậy, những lời Chúa Giêsu nói nghe không thấy có gì “gay gắt,” nhưng thực ra hiểu rồi thì cảm thấy “đụng chạm” và “nhức óc” lắm, vì Ngài muốn nhấn mạnh đến tính chất cần thiết của Mục Tử Nhân Lành. Mục tử đó phải thể hiện lòng thương xót và dám liều mạng vì đoàn chiên. Nói đến lòng trắc ẩn, và đặc biệt trong Tháng Hoa, chắc hẳn nhiều người còn nhớ gương yêu thương sáng chói của Thánh tử đạo Lm. Maximilian Maria Kolbe [*]. Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành đích thực, yêu thương mọi người, và chỉ muốn mọi người “đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm,” (1 Ga 3:18) phải phục vụ chứ không được hưởng thụ, (Mt 20:28) thế nhưng vẫn thấy có những người thích dùng quyền và ra lệnh hơn là khiêm nhường phục vụ vì yêu thương.
Có lần ĐGH Phanxicô đã cảnh báo các giám mục: “Mục tử có nguy cơ bị mê hoặc bởi viễn tưởng nghề nghiệp, bởi cám dỗ về tiền bạc, và những thỏa hiệp theo tinh thần thế gian.” Có lần ngài nhấn mạnh rằng giám mục là người được chọn để phục vụ một Giáo Hội duy nhất, vì thế không được tìm kiếm một việc gì khác ngoài việc phục vụ Giáo Hội, và ngài đã nói thẳng: “Nếu tìm kiếm một việc gì khác thì chính giám mục đó đang ngoại tình.” Gương “giám mục xa hoa” Franz Peter Tebartz van Elst (người Đức) còn đó, và rồi ông đã bị đình chỉ nhiệm vụ hồi tháng 10-2013, sự cố 10 năm rồi nhưng không bao giờ cũ.
Thời gian gần đây có nhiều chuyện rắc rối liên quan mục tử trong Giáo Hội tại Việt Nam. Chắc chắn Mục Tử Giêsu đau khổ lắm! Nhắc tới những điều “nhạy cảm” như vậy, có những người “nhột” (chính họ nhột hoặc nhột dùm), nhưng phải nhột như vậy mới có thể “thức giấc.” Chúng ta chỉ tâng bốc nhau bằng những lời khen sáo rỗng để lấy lòng nhau thì có ai lợi gì không, hay lại chỉ dìu nhau vào con đường mê lầm? Dám nhìn thẳng vào sự thật mới là người yêu sự thật, và nhờ đó mới có thể thành nhân. Sợ sự thật hoặc tránh sự thật là đồng lõa với sự giả dối.
Khi đọc Lời Chúa, người ta chỉ thích những câu “vừa ý mình,” tránh những câu “chói tai” càng nhiều càng tốt. Người ta nói rất mạnh khi gặp đoạn Kinh Thánh không “chạm” tới mình, nhưng lại “bẻ lái” khi gặp đoạn Kinh Thánh “hóc búa,” vì có những câu “chạm” mạnh quá, nên cảm thấy… “nhột” và tránh né. Lời Chúa là thế, có lúc khiến chúng ta vui mừng phấn khởi, nhưng có lúc làm chúng ta đau điếng. Có dám chịu “nỗi đau” đó thì mới khả dĩ “bừng tỉnh cơn mê” mà sớm thành nhân. Chỉ có thuốc đắng mới “đã” tật mà thôi!
Mục Tử Giêsu xác định: “Tôi là cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp, nhưng chiên đã không nghe họ. Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” (Ga 10:7-10) Mục Tử Nhân Lành là vậy, luôn sống và hành động vì người khác, vì đoàn chiên, vì sự thật. Ai không là chủ chiên nhân hậu như Ngài thì chỉ là “thợ chiên” (chăn thuê) mà thôi, qua loại “cửa” này thì chết chắc!
Liên quan sự viên mãn, Thánh Phaolô kêu gọi: “Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Kitô ngự trong tâm hồn; xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, để cùng toàn thể dân thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức Kitô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa.” (Ep 3:17-19) Trong lời kinh hòa bình, Thánh Phanxicô Assisi có nguyện ước thực tế và sâu sắc: “Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.”
Và ngài tin chắc: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.” Đó chính là sự sống dồi dào và viên mãn của những người tin Chúa Giêsu Kitô là Thánh Tử hóa thành nhục thể, chịu chết và phục sinh. Chúa Giêsu đã cứu độ chúng ta bằng Bửu Huyết vô giá, nhờ đó mà chúng ta được phục hồi cương vị làm con và được sống viên mãn.
Lạy Thiên Chúa hằng hữu và nhân lành, xin cho mọi người biết sống vì Ngài trong mọi hoàn cảnh. Xin cho các giáo sĩ sống theo chuẩn mực của Mục Tử Giêsu đặt ra, để đoàn chiên không phải chịu khổ, nhưng được sống dồi dào và phát triển đúng ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Thomas Aq. Trầm Thiên Thu.
---------------- [*] Lm. Kolbe là tu sĩ Dòng Phanxicô, sinh ngày 8-1-1894, tử đạo ngày 14-8-1941 tại trại tập trung Auschwitz của Đức Quốc Xã, thế chiến II. Ngài được tuyên xưng là vị tử đạo bác ái vì đã động lòng trắc ẩn mà chịu chết thay cho một tử tù có vợ con. Ngài được tuyên thánh ngày 10-10-1982, được tôn làm thánh bổn mạng của người nghiện ma túy, tù nhân chính trị, gia đình, ký giả, phong trào bảo vệ sự sống, và là “Thánh Bổn Mạng của Thế Kỷ Khó Khăn” này. Ngài được mệnh danh là Tông Đồ Tận Hiến cho Đức Mẹ vì đã nỗ lực thúc đẩy phong trào tận hiến và phó thác cho Đức Mẹ, và được gọi là “Gã Khờ của Đức Mẹ” vì đã làm mọi thứ cho Đức Mẹ. Chính cái chết của ngài là đỉnh điểm của “sự sống hoàn toàn tận hiến cho Đức Mẹ.” -----------------------------------
Bài Tin Mừng chúng ta suy niệm hôm nay là phần đầu của diễn từ ‘Chúa Chiên Lành’ trong Tin PS 4-A183
Bài Tin Mừng chúng ta suy niệm hôm nay là phần đầu của diễn từ ‘Chúa Chiên Lành’ trong Tin Mừng theo Thánh Gio-an. Trong phần này, Đức Giê-su đã công bố Người là cửa ràn chiên và con chiên nào ở trong ràn chiên của Người thì có sự sống, và cuộc sống của chúng thật phong phú và dồi dào.
Đức Giê-su, khi loan báo như thế, có ý cho chúng ta nhận ra sự khác biệt giữa người chăn chiên và kẻ trộm cướp. Người chăn chiên chăm sóc, bảo vệ và quan tâm đến sự sống của chiên, còn kẻ trộm cướp thì hủy diệt. Người chăn chiên dắt chiên từ cửa để ra và vào ràn, còn kẻ trộm cướp thì không làm như thế, chúng vượt rào để ăn cắp chiên.
Với nhiệm vụ của người chăn chiên, Đức Giêsu chỉ có một mối bận tâm duy nhất, đó là làm cho các con chiên sống bằng sự sống của Thiên Chúa, cuộc sống của các con chiên trong ràn thuộc về Người càng ngày càng dồi dào và phong phú hơn.
Cuộc sống phong phú của các con chiên không lệ thuộc vào số lượng, sự giầu có, thành công hay được người khác tán thưởng và công nhận; nhưng cuộc sống phong phú mà chúng ta nói ở đây là một cuộc sống có chất lượng như Đức Giê-su đã làm gương. Điều mà Đức Giê-su đã sống và muốn dậy chúng ta theo gương Người là: quan tâm, yêu thương, ban phát, lo lắng, bảo vệ, săn sóc cho những người thuộc về Người, cho những ai mà Chúa Cha đã ban cho Người.
Thưa anh chị em,
Như vậy, chúng ta nhận ra hình ảnh của người mục tử mà chúng ta gọi là lãnh đạo. Trách nhiệm của người lãnh đạo không lệ thuộc vào con số những người thuộc về họ, nhưng đời sống của những người thuộc về họ mới là mối quan tâm hàng đầu của người lãnh đạo. Muốn được như thế, người lãnh đạo cần học hỏi từ những người được phục vụ. Một nhà lãnh đạo giỏi hãy nhớ rằng lãnh đạo không phải là thực thi quyền lực mà là trao quyền và thúc đẩy những người thuộc về họ cùng nhau thi hành bổn phận đã được trao ban.
Sự thèm khát quyền lực, tài sản và uy tín là kẻ thù của người mục tử. Thế gian tìm những điều này. Những người làm chính trị hay kinh doanh thì lấy lợi nhuận làm tiêu chuẩn, là thước đo của thành công. Cho nên họ phải cẩn thận bằng không họ sẽ bị sa vào vòng xoáy của những thử thách khiến họ biến thành các mục tử xấu, chỉ biết lợi dụng đàn chiên để làm thỏa mãn cho cái tham vọng của mình. Mục tử theo tinh thần của Đức Giê-su thì không được phép hành động như thế.
Một cách thực tế, chúng ta cũng nên can đảm nhìn nhận rằng có một số người, tuy rằng rất nhỏ, bậc cha mẹ không phải là người chăn chiên tốt vì họ chỉ tìm kiếm vinh quang cho bản thân qua con cái. Họ sử dụng quyền lực để ngăn cấm hay bộc lộ cho con cái biết mình có uy quyền hầu che dấu cái tôi được chứa đựng trong sự yếu đuối của chính họ. Họ thống trị hơn là tạo điều kiện thuận lợi cho con cái phát triển hầu có thể đối thoại và tìm ra phương thức tốt nhất trong việc giáo dục mà mục tiêu là sự lớn khôn của con cái họ. Họ sợ con cái của họ sẽ hư hỏng hay là vấp phải những sai lầm mà chính họ đã trải nghiệm, rồi chính vì nỗi lo sợ đó họ dùng quyền để dọa nạt, ngăn cấm thay cho đối thoại, thông cảm và yêu thương. Cuối cùng là sự xa cách có thể dẫn đến đổ vỡ trong gia đình, giữa hai thế hệ.
Các giáo sĩ và tu sĩ cũng có thể thất bại trong vai trò lãnh đạo nếu họ không hành xử như hình ảnh của Chúa Chiên Lành. Đôi khi họ có thể còn tệ hơn cả những "chính trị gia" mà chúng ta lên án. Các mục tử trong đạo Chúa đôi khi đã sai lầm khi che đậy tham vọng, ước mong thành công của mình bằng cụm từ “nhu cầu mục vụ” hay “chúng tôi vẫn là con người” hay “đó cũng chỉ là lỗi nhỏ, mới phạm lần đầu,” hay một lời biện minh, nói dối khiêm tốn để che đậy cái tôi. Thậm chí, các nhà lãnh đạo có thể kêu gọi những người cộng tác thảo luận về một dự án đã được quyết định bởi họ vì tôi có quyền. Như vậy, họ đã lợi dụng uy quyền một cách đáng xấu hổ khi bắt mọi người phải chấp thuận quyết định của họ vì họ có quyền!
Thưa anh chị em,
Sau cùng, chúng ta nên nhớ rằng, các nhà lãnh đạo trong dân về đời cũng như đạo đều được gọi là mục tử. Mục tử tốt lo cho đoàn chiên. Mục tử xấu lợi dụng chức vụ để thu lợi cho mình thì có ai nghe theo bao giờ! Nếu có người hùa theo thì cũng vì lợi nhuận, đến khi tan đàn thì lại cấu xé nhau.
Chỉ có mình Chúa Giê-su phục sinh mới là vị mục tử nhân hậu. Tất cả chúng ta là cộng sự của Người. Muốn hoàn tất sứ mạng được trao phó, trong vị trí riêng của từng người, chúng ta được mời gọi kết hợp với Chúa là đấng chủ chăn duy nhất, là mục tử nhân hậu. Còn chúng ta tuy được ban tặng cho danh hiệu đó; nhưng chúng ta vẫn còn và luôn luôn là những con chiên trong ràn chiên của Chúa.
Hẳn anh chị em còn nhớ khi trao quyền cho Thánh Phê-rô, Chúa Phục Sinh đã ba lần hỏi Phê-rô có yêu mến Người không. Và cũng ba lần Người nói hãy chăn dắt các chiên của Thầy. Chiên thuộc về Chúa còn Phê-rô chỉ là người cộng tác. Ý thức và biết rõ nhiệm vụ cũng như vị trí của mình, nên Thánh Phê-rô đã chia sẻ như sau: “Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tuỵ. Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên.” (1Pet 5:2-4)
Tóm lại, chỉ mình Đức Giê-su là Đấng chăn chiên tốt lành, nhân ái và thiện hảo. Cả thế giới và mọi người sống trong đó là ràn chiên thuộc về tay Người. Người đã chết để bảo vệ và trao ban cho ràn chiên sự sống, một cuộc sống phong phú và dồi dào; và không ai có thể lấy mất được.
Còn chúng ta, mỗi người đều là những người chăn dắt ràn chiên, nhỏ hay lớn, trong gia đình, ngoài xã hội, hay trong bất kỳ một cơ cấu hay tổ chức nào mà Thiên Chúa trao phó. Nói cách khác, khi chúng ta được mời gọi chăm sóc, hướng dẫn, nuôi sống và bảo vệ cuộc sống của người khác là lúc chúng ta thực hiện nhiệm vụ mục tử. Các công việc đó không chỉ là hành động mà còn được phát xuất từ mối quan hệ yêu thương và quan tâm của chúng ta dành cho nhau. Cao cả và khó khăn.
Chúng ta không thể nào chu toàn trọn nhiệm vụ cao cả của mình, nếu không sống theo gương mẫu của Người Chăn Chiên duy nhất là Đức Ki-tô, Đấng đã chấp nhận mọi đau khổ, sẵn sàng hy sinh thân mình để mở cánh cửa và ban cho các con chiên trong ràn được một cuộc sống phong phú và tràn đầy. Còn chúng ta, ngày hôm nay, trong nhiệm vụ đã được trao phó, cũng phải sống sao cho vơi đi những đau khổ mà thế gian đang phải gánh chịu để làm cho cuộc sống của người khác được thăng hoa hơn.
Cầu chúc anh chị em chu toàn ơn gọi đã được kêu mời, tiếp tục ra đi và làm như Chúa Chiên Lành đã làm. Amen!
Ngày 24 tháng 2 năm 1954, xảy ra một vụ cướp ngân hàng tại thủ đô Paris nước Pháp. Một thanh PS 4-A184
Ngày 24 tháng 2 năm 1954, xảy ra một vụ cướp ngân hàng tại thủ đô Paris nước Pháp. Một thanh niên tên Jacques Fesh đã dùng súng bắn trọng thương một nhân viên ngân hàng, sau đó giết chết một nhân viên cảnh sát, đồng thời làm một số người qua đường bị thương. May mà nhân viên công lực đã tóm cổ được hắn.
Tại phiên tòa, phạm nhân không hề hối hận về tội đã phạm mà còn ngạo nghễ khiêu khích mọi người có mặt. Ban đầu người ta nghi hắn mắc bệnh tâm thần, nhưng trắc nghiệm tâm lý và điều tra lý lịch cho thấy tên Jacques này chỉ là một đứa con được cưng chiều quá hóa ra mất dạy. Thật thế, Jacques Fesh là quý tử của một chủ ngân hàng giàu sụ nước Bỉ. Cho tới tuổi 24, cậu muốn chi được nấy, không hề thiếu thốn sự gì. Cậu đã phung phí tuổi xuân trong ăn chơi, lười biếng và ương ngạnh; học trường nào cũng chỉ được vài bữa là bị đuổi. Đầu năm 1954, cậu nổi hứng đòi bố mẹ cho tiền mua một chiếc thuyền buồm trị giá tới 2 triệu francs. Bị từ chối, Jacques xách súng đi cướp ngân hàng, thành kẻ sát nhân, bị sa lưới pháp luật và phải lãnh án tử hình.
Nhưng trong ba năm ngồi tù chờ đợi ngày lên máy chém, chàng đã say mê đọc Kinh Thánh, gặp được lòng thương xót của Thiên Chúa và trở thành một hối nhân đích thực. Chàng bắt đầu ý thức rõ về tội lỗi mình nên tìm chuộc lại bằng cách hết sức giúp đỡ bạn đồng tù, nối lại tình yêu với người vợ trẻ và gặp gỡ Thiên Chúa mỗi ngày qua kinh nguyện. Chàng liên tục gởi thư cho vợ và trong mỗi lá thư, người ta đều đọc thấy bề sâu của một tâm hồn dần dần đổi mới nhờ được biết Chúa Ki-tô. Trong một lá thư, chàng tâm sự: “Em yêu, trước kia anh chỉ là một cái xác động đậy mà thôi. Nay anh thâm tín rằng đây là lần đầu tiên trong đời, anh thực sự sống, sống cách dồi dào”. Một ngày trước khi bước lên máy chém, chàng viết: “Cuộc hành quyết sẽ xảy ra ngày mai, lúc 4 giờ sáng. Xin cho ý Chúa được nên trọn ! Em yêu, trong 5 tiếng đồng hồ nữa, anh sẽ được gặp Chúa Ki-tô. Tạm biệt ! Đợi em trên thiên đàng”.
Ngày 06-04-1957, sau khi chịu Mình Thánh Chúa, Jacques đã hiên ngang bước lên máy chém. Đội lính canh pháp trường hôm đó cho biết: họ chưa bao giờ thấy một tử tội bước lên đoạn đầu đài với lòng dũng cảm, can trường và bình thản như vậy, y như một vị thánh tử đạo. Các lá thư anh viết cho vợ được in thành sách dưới cái tên “Ánh sáng trên đoạn đầu đài” và đã làm chấn động mọi giới. Năm 1987, Đức Hồng y Jean-Marie Lustiger, Tổng Giám mục Paris, đã cho lập hồ sơ về cuộc đời anh, và năm 1993 đã ký đơn xin phong chân phước cho anh. (Xem thêm Wikipedia).
1. Chúa là sự sống dồi dào
Tử tội Jacques Fesh đúng là người trong lúc nguy cấp, đã biết dùng ba số điện thoại khẩn để gọi Thiên Chúa, nghĩa là ba câu Tin Mừng sau đây: Lc 1,37: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” - Mt 25,40 : “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất này của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” - Ga 10,10 : “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”.
Ngay khi nghĩ đến câu Ga 10,10 này, kết thúc của bài Tin Mừng hôm nay, ngay khi mặt giáp mặt với nó, thì ý tưởng sống dồi dào phải tràn ngập tâm trí miệng lưỡi chúng ta và phải làm cho lời cầu nguyện của chúng ta toát lên nét thỏa thuê kinh ngạc. Đa phần ta đến với Thiên Chúa là để phàn nàn hay xin xỏ. Với Ga 10,10, chúng ta nhìn ngắm Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần đang hạnh phúc vì được làm chúng ta thỏa mãn.
Thiên Chúa có thể cho chúng ta sống dồi dào, cảm thức đó thường thấy trong Thánh Kinh. Có nhiều bản văn, nhưng thiết tưởng cùng với Ga 10,10 thì hay hơn hết vẫn là Thánh vịnh 22 (Chúa là Mục tử chăn dắt tôi) và Thánh vịnh 64: “Chúa làm vang tiếng reo cười, cửa đông sáng sớm cửa đoài chiều hôm. Thăm trái đất, Ngài tuôn mưa móc, cho ngập tràn phú túc giàu sang, suối trời trữ nước mênh mang, dọn đất sẵn sàng đón lúa trổ bông. Tưới từng luống san từng mô đất, khiến dầm mưa cho hạt nẩy mầm, bốn mùa Chúa đổ hồng ân, Ngài gieo màu mỡ ngập tràn lối đi. Vùng hoang địa xanh rì ngọn cỏ, cảnh núi đồi hớn hở tươi xinh, chiên cừu phủ trắng đồng xanh, lúa vàng dưới lũng rung rinh dạt dào, câu hò tiếng hát trổi cao” (cc. 9-14).
Ta biết nhiều người, than ôi, có cái gì đó để viết một thánh vịnh khác hẳn; họ sẽ phàn nàn về một cuộc sống quá nặng nhọc, vắng tiếng cười, chẳng phú túc giàu sang. Nhưng không thể tin rằng câu Ga 10,10 chỉ là một bọt nước xinh xắn vỡ tan ngay khi chạm phải thực tế. Nếu Đức Giê-su đến “để chiên có sự sống dồi dào”, thì phải lật qua lật lại khẳng định này cho tới khi thấy nó là một niềm hy vọng phải đặt vào mọi bàn tay. Trước mặt Đức Giê-su không có những kẻ may mắn và kém may mắn, Người là một may mắn đối với tất cả. Khác nhau theo mỗi cuộc đời, nhưng luôn luôn là cơ may để sống đến cùng, sống tận mức.
2. Để dồi dào sự sống Chúa.
Thế tại sao lại có biết bao cuộc đời thiếu máu, ẻo lả ? Thưa vì nếu có những tín hữu thật sự nhảy chúi vào trong đức tin, thì lắm kẻ khác lại chỉ nhúng ngón chân cách rụt rè. Điều đó từng làm Đức Giê-su đau khổ và tức giận, vì thiên hạ như trói tay Người: “Đồ cứng lòng ! Ta có thể làm tất cả nhưng cho những ai tin thôi” (x. Mc 9,23).
Hãy ngắm nhìn một đức tin mạnh mẽ và bạn sẽ thấy rằng tất cả trở thành khả hữu đối với người tin đến độ đó. Bạn sẽ khám phá ra rằng cuộc sống “dồi dào” có trong bất kỳ mọi hoàn cảnh, kể cả những hoàn cảnh tồi tệ nhất như trường hợp tử tội Jacques Fesh trên đây. Ai có ngờ nổi một sự đổi đời tuyệt diệu như thế. Anh chẳng phải là người trộm lành của thế kỷ XX ư ? Rồi những hoàn cảnh thường thấy hơn như khi bị gặm nhấm bởi mối lo về tiền bạc, khi đi vào trong đường hầm của một cơn bệnh thập tử nhất sinh, khi tình yêu hay niềm tin bị bội phản, khi không còn những tài năng thu hút tình bạn và tạo được thành công. Đối với chúng ta tất cả, những người luôn đụng phải các giới hạn ấy, câu Ga 10,10 là một mạc khải quan trọng, chờ đợi đức tin của chúng ta. Thậm chí và nhất là một đức tin hay hỏi: - Ta đến để đời con được đầy tràn - Lạy Chúa, con tin Ngài, nhưng xin chỉ cho con thấy làm sao cùng với Ngài, con có thể đổ đầy đời con. Nó đang sổ ra, nó đang bế tắc, nó đang cạn dần !
Cùng một thử thách nghiền nát người này và ban cho người kia một kiểu tái sinh, đức tin nơi nhiều kẻ đã có thể giật nhiều ân huệ cần thiết để thay đổi cuộc đời họ. Nhưng phần lớn trường hợp, và đây là một điều kinh khủng, người ta cầu nguyện mà chẳng thật sự tin vào đó. Trung tâm Thánh Mẫu Lộ-đức (Pháp Quốc) hay La Vang (Việt Nam) là một thí dụ. Ở đấy có ít phép lạ lành bệnh, nhưng biết bao cuộc đời bị giam hãm trong thân xác và con tim đã từ đó trở về mà được giải thoát. Bình an của họ, nụ cười của họ cho thấy từ nay đời họ đã đặc biệt đầy tràn. Xin được lặp lại : với Chúa Ki-tô, người ta bao giờ cũng có thể khởi công, tiến tới, hay ít nhất biết chịu đựng đến độ vẫn sống đẹp đời mình. Người ta cuối cùng đã tìm được phương thế để hiện hữu hơn bằng cách yêu mến hơn. Và với tình yêu này, ta làm cho thiên hạ chung quanh mình an vui sung sướng. Tất cả đó chẳng phải là “sống dồi dào” sao?
Lm. Phêrô Phan Văn Lợi.
-----------------------------------
PS 4-A185: CHÚA GIÊSU, VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH VÀ CỬA CHO CHIÊN RA VÀO
Một lần nữa “Chúa Nhật Chúa Chiên Lành”, Chúa Nhật thứ tư sau Lễ Phục Sinh, lại đến với PS 4-A185
Một lần nữa “Chúa Nhật Chúa Chiên Lành”, Chúa Nhật thứ tư sau Lễ Phục Sinh, lại đến với chúng ta. Trọng tâm suy niệm hôm nay là đoạn Tin mừng theo thánh Gioan, chương 10, nói về Chúa Giêsu với tư cách là người chăn chiên tốt lành và cửa chuồng chiên.
Phải thừa nhận so sánh Chúa Giêsu là người chăn chiên thì sinh động hơn khi so sánh Ngài với một cái cửa vô tri vô giác. Làm thế nào Chúa Giêsu có thể là cả hai cùng một lúc? Thực ra hai hình ảnh này là một ẩn dụ hàm chứa nhiều tầng lớp ý nghĩa nói về chiên cừu, người chăn chiên, cửa, người giữ cửa, người làm thuê, khách lạ, kẻ trộm, kẻ cướp và chó sói. Tất cả những điều này đều xuất hiện trong đoạn Tin mừng hôm nay, và tất cả các yếu tố của phép ẩn dụ được mở rộng này góp phần trình bày Chúa Giêsu là ai và chúng ta là ai trong mối tương giao với Ngài.
Chúa Giêsu bắt đầu bằng cách mô tả Ngài không phải là ai. Ngài không phải là những kẻ lén lút “không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào” (Ga 10: 1). Chúa Giêsu khẳng định ngay: “người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp” (Ga 10: 1). Trái lại, “ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử” (Ga 10: 2). Người mục tử là người thế nào? Người khác và bầy chiên của ông ứng xử với ông như thế nào? Chúa Giêsu muốn cho thấy rõ hành vi và cung cách của người mục tử đích thực là như thế này: “Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau” (Ga 10: 3-4). Rồi Ngài liền cho thấy lý do: “vì chúng nhận biết tiếng của anh” và bấy giờ Chúa Giêsu mới cảnh báo: “Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ” (Ga 10: 4-5), ám chỉ đến những người Pharisêu, vốn vừa chất vấn Ngài:“Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?” (Ga 9: 41). Thánh Gioan dường như muốn nhấn nhá, nói đến vậy rồi mà “họ không hiểu những điều Ngài nói với họ” (Ga 10: 6); những người Pharisêu, vốn là những bậc thầy trong dân, quả thực đã tự hỏi và cũng đã tự trả lời! Có vẻ như trong tình huống những người nghe vẫn “đui mù tâm trí” mà không hiểu, Chúa Giêsu đành phải nói thẳng ra: “Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào” (Ga 10: 7), và Ngài không do dự khẳng định luôn: “Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ. Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ” (Ga 10: 8-10). Sau đó Chúa Giêsu mặc khải sứ mạng, căn tính của Ngài và cách thế Ngài dùng để thực hiện sứ mạng mà vì đó Ngài được sai đến trần gian: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào. Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Ga 10: 10).
Chức năng của cửa là đóng lại để giữ chiên ở cùng với nhau trong chuồng vào ban đêm, an toàn khỏi kẻ trộm và kẻ cướp. Vào ban ngày, cửa được mở ra để chiên đi ra ngoài, theo người chăn của chúng, đến đồng cỏ. Cánh cửa và người chăn cùng hoạt động vì hạnh phúc của đàn chiên, để đàn chiên phát triển. Chúa Giêsu vừa là cửa vừa là mục tử; Ngài canh giữ và bảo vệ chiên của mình khỏi nguy hiểm, và Ngài cung cấp thức ăn cho chiên, “để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10: 10).
Bài giảng này của Chúa Giêsu nối tiếp ngay sau khi Ngài chữa lành cho người mù từ thuở mới sinh trong chương 9, ngay trước chương này. Thánh Gioan không viết chèn vào giữa hai chương này một câu nào sau khi Chúa Giêsu nói với những người Pharisêu: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: "Chúng tôi thấy", nên tội các ông vẫn còn!” (Ga 9: 41). Thay vào đó, Chúa Giêsu ngay lập tức bắt đầu bài giảng về chiên, cửa và người chăn chiên. Do đó, bài giảng này giải thích lý do Ngài đã thực hiện phép lạ để phục hồi thị lực cho người mù.
Cách sắp xếp này của thánh Gioan cho phép người đọc có một số liên tưởng nhất định. Những người Pharisêu đã thẩm vấn người mù trong chương 9 Gioan được cho là những người chăn dắt Israel, những người chăm sóc, bảo vệ và nuôi dưỡng dân chúng. Nhưng thực tế, họ trục xuất người mù được Chúa Giêsu chữa lành ra khỏi hội đường của họ, không chấp nhận tin rằng Chúa Giêsu và công việc chữa lành của Ngài đến từ Thiên Chúa. Họ quan tâm đến việc bảo vệ quyền lực và thẩm quyền của họ hơn là chăm lo cho hạnh phúc của người dân, ngay cả của những người “thấp cổ bé họng”!
Sau khi đã phục hồi thị giác cho người mù, Chúa Giêsu tìm kiếm anh ta một lần nữa khi anh ta bị trục xuất khỏi hội đường và đưa anh ta vào cộng đoàn những người theo Ngài: “Chúa Giêsu nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Ngài hỏi: "Anh có tin vào Con Người không? " Anh đáp: "Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?" Chúa Giêsu trả lời: "Anh đã thấy Ngài. Chính Ngài đang nói với anh đây." Anh nói: "Thưa Ngài, tôi tin." Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Ngài” (9:35-38). Đối với người mù, sự cứu rỗi không chỉ là nhận được ánh sáng thể xác mà còn là ánh sáng tâm linh, nhận ra Chúa Giêsu là ai, tin vào Ngài và trở thành một thành phần trong cộng đoàn những người tin và theo Ngài. Anh đã đi theo tiếng nói của Chúa Giêsu và điều đó đã dẫn anh đến cuộc sống mới. Những ngày bị cô lập của anh đã qua rồi; giờ đây anh biết mình là một thành viên quý giá trong đoàn chiên của Chúa Giêsu, được chăm sóc và bảo vệ.
Ngày nay, với tư cách là những người theo Chúa Giêsu, trong hoàn cảnh của chúng ta, việc được bảo vệ bởi cánh cửa và người chăn chiên, là Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ, và vui hưởng cuộc sống dồi dào, có ý nghĩa gì đối với chúng ta không?
Điều quan trọng cần lưu ý là cánh cửa không dùng để loại trừ, không cho phép chúng ta đóng mình lại trong “cái tôi hoặc chúng tôi”, rồi nghĩ mình là chiên thật của Chúa Giêsu, còn những người khác là người bên ngoài. Nếu chúng ta sử dụng cửa theo cách đó, chúng ta sẽ trở nên giống như những người Pharisêu đã đuổi người mù ra khỏi hội đường của họ. Mục đích của cửa không phải là để ngăn những con chiên khác. Thật vậy, Chúa Giêsu nói: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Ga 10: 16). Mục đích của cửa còn là mở ra tiếp nhận tất cả những ai muốn trở nên thành viên của đàn chiên để được bảo vệ chống lại tất cả những kẻ trộm, kẻ cướp và chó sói đe dọa đến sự sống của mình, như sứ mệnh Chúa Giêsu ba lần giao phó cho vị tông đồ trưởng Phêrô: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy… Hãy chăn dắt chiên của Thầy… Hãy chăm sóc chiên của Thầy” (Ga 21: 15-17).
Có rất nhiều kẻ trộm và kẻ cướp trong thế giới của chúng ta, những kẻ tìm cách ăn cắp, ăn cướp, giết chóc và hủy diệt. Ngoài ra còn có “Những người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên” (Ga 10: 12-13). Thậm chí có những con sói đội lốt chiên hoặc đội lốt người chăn cừu, đến gần bầy chiên không phải vì quan tâm đến nhu cầu của chiên, hoặc để bảo vệ chiên khỏi nguy hiểm; nhưng mục đích là để ăn thịt chiên: “Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi. Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai…Nên hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu. Cây tốt không thể sinh quả xấu, cũng như cây xấu không thể sinh quả tốt…Vậy, cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai” (Mt 7: 15-20).
Vậy thì sự sống dồi dào mà Chúa Giêsu hứa ban là gì? “Sự sống” hay “sự sống đời đời” trong Tin mừng theo thánh Gioan không chỉ nói về sự sống sau khi chết. Đó là sự sống bắt đầu ở đây và bây giờ; đó là biết một Thiên Chúa chân thật và Chúa Giêsu Kitô là Đấng Chúa Cha sai đến, là vị Mục Tử Nhân Lành, Đấng thực sự quan tâm đến chúng ta. Đó là sự sống hôm nay trong cộng đoàn, được bình an và được chăn dắt, được dưỡng nuôi như một thành viên của đàn chiên, trong đồng cỏ xanh tươi là phụng vụ các bí tích, là giáo huấn chân thật của “Giáo hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”, là sự hiệp thông nên một với Thiên Chúa Ba Ngôi, nhờ Chúa Giêsu Kitô, “để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta…Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một: Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một” (Ga 17: 21-23). Đó là sự sống tràn đầy ý nghĩa, có giá trị vĩnh cửu mai sau.
“Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ” (Ga 10: 5). Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có nhận ra tiếng nói của vị mục tử tốt lành hơn tất cả những tiếng nói khác của trần gian hứa hẹn nhiều sự sung sướng vốn mau qua không? Làm thế nào chúng ta có thể nhận ra tiếng nói đó? Chúng ta hãy nghe thánh Phêrô nói trong bài đọc thứ hai: “Quả thật, trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em” (1 Pr 2:25) và ngài chỉ bảo: “Thật vậy, Chúa Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Ngài. Ngài không hề phạm tội; chẳng ai thấy miệng Ngài nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa, Ngài không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe; nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình. Tội lỗi của chúng ta, chính Ngài đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính.” (1 Pr 2: 21-23).
Khi nghe đến CỬA bạn nghĩ đến gì? Riêng tôi, tôi lập tức nghĩ ngay đến KHUÔN THƯỚC. Thật vậy PS 4-A186
Khi nghe đến CỬA bạn nghĩ đến gì? Riêng tôi, tôi lập tức nghĩ ngay đến KHUÔN THƯỚC. Thật vậy, chẳng có cửa nào mà lại không có khuôn thước cả. Cửa chuồng chiên mà Đức Giê-su nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay cũng vậy, cũng có nhưng khuôn thước của chính cánh cửa đó! “Tôi là CỬA” khuôn thước của CỬA GIÊ-SU có ba chi tiết rất đặc biệt này:
1. THẲNG: Cửa Giê-su là cửa THẲNG THẮN chứ không cong queo.
Hễ "có" thì phải nói "có", "không" thì phải nói "không". Thêm thắt điều gì là do ác quỷ (Mt 5:37).
Thầy là đường là SỰ THẬT và là sự sống, không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy (Ga 14:6)
2. RỘNG: Cửa Giê-su là cửa RỘNG RÃI chứ không hẹp hòi, không ích kỷ.
Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại… (Lc 6:38) Cho thì có phúc hơn là nhận… (Cv 20:35) Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi (Mt 5:42)
3. CAO: Cửa Giê-su là cửa CAO THƯỢNG chứ không tầm thường.
Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em…Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi?” (Mt 5:43-46)
Bạn thân mến, để được Chúa bảo vệ, cứu chữa, để được Ngài chăm sóc, để được sống dồi dào và sung mãn, Chúa Giê-su đã chỉ cho chúng ta biết, chúng ta PHẢI QUA NGÀI. “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ”
Chúng ta nhất đinh phải đi qua cánh cửa Giê-su, nếu không thì chắc chắn, bạn và tôi sẽ bị đói, sẽ bị khát, và sẽ bị nguy hiểm trăm bề trước những mưu mô của sói dữ là ma quỷ.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau, xin Chúa soi sáng, ban cho chúng ta trí khôn ngoan, để bạn và tôi NHẬN RA CÁNH CỬA GIÊ-SU và phấn đấu hết sức mình để bước qua CỬA GIÊ-SU bằng cách:
1/ Sống ngay thẳng thật thà, không gian dối, không lừa đảo ai, không gian lận của ai. Xin ghi nhớ thuộc lòng lời của Chúa phán: “Hễ "có" thì phải nói "có", "không" thì phải nói "không". Thêm thắt điều gì là do ác quỷ mà ra”
2/ Sống rộng rãi, quảng đại, biết chia sẻ và cho đi thời giờ, tài năng, sức lực, tiền bạc, của cải vật chất… cho những công việc chung của cộng đoàn, của giáo xứ, cho trường Giáo Lý Việt Ngữ, cho việc truyền giáo, cho việc đào tạo chủng sinh và tu sĩ, cho những nạn nhân của thiên tai bão lụt, cho những người kém may mắn, nghèo khó…
“Mỗi lần các ngươi [giúp đỡ] cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25:40).
3/ Tha thứ và bỏ qua những lỗi lầm của nhau. Ai cũng có lỗi lầm, chẳng ai toàn vẹn cả, “Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha”(Lc 6:37).
Khi sống ngay thẳng, thật thà, quảng đại biết chia sẻ và tha thứ cho tha nhân, thì lúc đó chúng ta đang bước qua cánh cửa Giê-su, ở trong đó bạn và tôi chắc chắn sẽ được bảo vệ, được cứu…sẽ gặp được đồng cỏ…và sẽ được sống và sống dồi dào sung mãn.
Hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng mình cầu nguyện cho các vị mục tử và cầu nguyện cho ơn gọi đi tu làm linh mục làm tu sĩ. Xin bạn cầu nguyện cho hàng Giáo Phẩm và Giáo Sĩ được ơn khiêm nhường, trung thành phục vụ, và xin hãy cầu nguyện, động viên, cổ võ, khuyến khích các con, các cháu, mời các bạn trẻ đến tham dự những ngày Come & See mà các Dòng tu tổ chức. Xin chân thành cảm ơn.
Chúa nhật này đặc biệt nói về Chúa Chiên Lành và ơn Cứu chuộc. Cả hai bài đọc 1 (Cv 2:14a,36-41) PS 4-A187
Chúa nhật này đặc biệt nói về Chúa Chiên Lành và ơn Cứu chuộc. Cả hai bài đọc 1 (Cv 2:14a,36-41) và 2 (1Pr 2:20b-25) và bài Tin Mừng Phúc Âm thánh Gioan (Ga 10:1-10) đều nêu lên những việc chúng ta phải biết và tin và phải làm để được ơn Cứu chuộc do Chúa Giêsu Kito đã chịu chết và phục sinh.
Bàn về Chúa Chiên Lành và ơn cứu chuộc, bài Tin Mừng Phúc Âm thánh Gioan hôm nay (Ga 10:1-10) với một văn từ đầy sức mạnh và uy quyền chắc nịch được chia làm hai phần. Phần đầu được trình bày dưới hình thức một dụ ngôn. Phần hai là cắt nghĩa dụ ngôn đó. Thánh Gioan đã giảng giải rộng ra ý nghĩa của dụ ngôn trong phần này.
Tiêu đề của chương 10 Tin Mừng thánh Gioan, là “Mục tử nhân lành hay Chúa Chiên Lành”. Ở đây Chúa Giêsu dùng 2 hình ảnh khác nhau để làm nổi bật sự săn sóc ân cần của Chúa đối với những ai theo Chúa. Hình ảnh thứ nhất về người chăn chiên hợp pháp và có uy quyền, là Chúa Chiên Lành, là những người mà tiếng nói của họ được chiên nhận biết và họ nhận ra chiên của mình từng con một với tên tuổi rõ ràng. Vị chăn chiên này không dẫn dắt chiên của mình đi lạc đường hoặc lợi dụng chiên để ăn cắp hay mưu cầu tư lợi, lại có một liên hệ thắm thiết và chân thật với chiên. Nhưng những người biệt phái đã không hiểu ý chúa Giêsu ám chỉ họ là những mục tử giả.
Hình ảnh thứ hai mà chúa Giêsu nói là “cái cổng”. Chúa ám chỉ Chúa chính là cái cổng, một đặc thù của Chúa Chiên Lành để bảo vệ chiên. Nó ngăn cản “kẻ trộm, kẻ cướp”, ngăn cách những kẻ chăn chiên giả ra khỏi đoàn chiên. Ám thị này nói về ơn Cứu Chuộc. Khi những ai đi qua cổng này, những ai đến để nghe tiếng nói, lời nói của Chúa Giêsu và tin vào Chúa thì sẽ đến được với Cha Người và được cứu rỗi. Những kẻ chăn chiên giả sẽ phá hoại chiên, ý nói phá hoại Giáo Hội. Họ không vào với đoàn chiên qua cửa chính thức mà đi loanh quanh hoặc leo rào mà vào là kẻ gian, là kẻ chăn chiên giả.
Chúa Giêsu là “Mục Tử Nhân Lành, là Chúa Chiên Thực” thì ban sự sống dồi dào cho chiên. Chúa Giêsu chính là cái cổng đáng tin cậy dẫn đưa mọi người đến với Thiên Chúa. Người chính là đường dẫn đưa đến ơn cứu độ thật. Không qua Người không được ơn cứu độ. Tóm lại, Chúa Giêsu là “Chúa Chiên, mục tử nhân lành”. Người biết chiên của Người và chiên của Người biết Người. Ai gia nhập đoàn chiên của Người thì được bình an.
Chiên là con vật quen thuộc đối với người Do-thái. Người ta nuôi chiên thành từng đàn trên những PS 4-A188
Chiên là con vật quen thuộc đối với người Do-thái. Người ta nuôi chiên thành từng đàn trên những đồng cỏ. Chiên cho con người nhiều thứ cần dùng như sữa, thịt, len, da… Người ta thương chiên vì thái độ hiền lành của chúng: “như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông” (Is 53,7). Ở Israel, chiên bao giờ cũng phải có người chăn, Vì luôn có những hiểm nguy do chiên đi lạc đàn hay do dã thú. Người mục tử ngày đêm lo cho sự an toàn và hạnh phúc của chiên. Ngày phải đưa chiên đi tìm những đồng cỏ mới (1 Sbn 4,39-40), Đêm phải thức để canh phòng cho chiên (Lc 2,8). Tương quan giữa người mục tử và chiên thật thân thiết, Đến nỗi gần như là tương quan giữa người với người (2 Sm 12,3). Trong bài Tin Mừng hôm nay, ta cũng thấy tương quan thân thiết ấy. Người mục tử đường đường chính chính đi qua cửa mà vào, chứ không lén lút như kẻ trộm leo rào mà vào (Ga 10,1). Anh được người giữ cửa mở cửa cho. Trong ràn chiên có thể có mấy đàn chiên ở chung. Anh gọi đàn chiên riêng của anh bằng giọng của anh, gọi chúng bằng tiếng kêu mà chỉ chúng mới hiểu là tiếng của chủ. Khi cả đàn chiên của anh nhận ra tiếng của người chăn, chúng sẽ theo sự dẫn dắt của anh để ra khỏi ràn. Anh đi trước, chúng theo sau. Tiếng của anh, bóng của anh, là hướng để chúng đi tới. Chúng an tâm vì biết mình đang đi theo ai. Như thế đàn chiên trông có vẻ ngây ngô, ngờ nghệch, nhưng lại có sự bén nhậy trong việc nhận ra mình nên đi theo ai. Không phải ai gọi cũng theo đâu, mà phải đúng tiếng gọi quen thuộc của chủ mình, với nét rất đặc biệt. Người lạ đừng hòng đánh lừa chiên, đừng hòng nhái tiếng gọi của chủ. Vì chiên chẳng những không theo, lại còn chạy trốn vì sợ (Ga 10,5). Người lạ hay kẻ trộm kẻ cướp đều mưu tìm ích lợi cho mình, Bằng cách ăn trộm, giết hại và phá hủy đàn chiên (Ga 10,10). Đức Giêsu nhận mình là người mục tử nhân hậu. Ngài phán: “Tôi đến để chiên có sự sống và có dồi dào” (Ga 10,10). Ngài trao sự sống đó bằng cách hy sinh sự sống của chính mình. Đức Giêsu cũng nhận mình là Cửa ràn chiên (Ga 10,7.9). Nếu ai qua Cửa Giêsu mà vào thì sẽ được cứu. Qua Cửa này mà đi vào thì được bảo đảm an toàn, qua Cửa này mà đi ra thì sẽ gặp được đồng cỏ xanh non (Ga 10,9). Thiên Chúa của dân Israel thường được ví như một mục tử, vừa bổ sức, vừa dẫn dắt, lại vừa bảo vệ đoàn chiên (Tv 23; Is 40,11). Đức Giêsu nhận mình là Mục tử tốt lành của đàn chiên (Ga 10,11), và trong lần hiện ra bên bờ hồ Galilê sau phục sinh, Ngài đã muốn Phêrô chăn dắt đàn chiên của Ngài (Ga 21,15-17). Trong Chúa nhật thứ tư sau Lễ Phục sinh, Chúa nhật Chúa Chiên Lành, Giáo Hội mời chúng ta cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục tu sĩ. Giáo Hội cần mục tử cho cánh đồng thế giới với 7 tỷ rưỡi con người. Có những chiên ở trong ràn, và chiên ở ngoài ràn. Cả chiên ở ngoài ràn cũng là chiên của Mục Tử Giêsu (Ga 10,16). “Tôi phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng Tôi, và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một người mục tử” (Ga 10,16). Đó là ước mơ của Chúa Giêsu. Chỉ mong chúng ta làm cho tròn ước mơ đó. CẦU NGUYỆN Xin hãy gọi tên con, lạy Chúa Giêsu, xin hãy gọi tên con. Những khi con tất bật vì bộn bề công việc, xin hãy gọi tên con để nhắc nhở con, như Chúa đã gọi tên chị Mác-ta đang dọn bữa. Những khi con đi lạc đường mà không hay biết, xin hãy gọi tên con và kêu con trở lại, như Chúa đã gọi tên anh Sa-un trên đường đi Đa-mát. Những khi con khóc lóc và tìm kiếm Chúa, xin hãy gọi tên con để con thấy Chúa ở ngay bên, như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng bên mộ. Những khi con sa ngã vì quá tự hào, xin hãy gọi tên con nhiều lần, và hỏi con nhiều lần về tình yêu, như Chúa đã gọi tên anh Simon bên hồ Galilê trước khi trao cho anh sứ mạng. Lạy Chúa Giêsu, xin hãy âu yếm gọi tên con, như một con chiên trong đàn chiên của Chúa. Và xin viết tên con trong lòng bàn tay.
Sau khi long trọng mừng lễ Phục Sinh, Phụng vụ mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng Chúa Giêsu ở PS 4-A189
Sau khi long trọng mừng lễ Phục Sinh, Phụng vụ mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng Chúa Giêsu ở một khía cạnh khác: Người là Mục tử nhân lành. “Người mục tử” là hình ảnh chính Chúa Giêsu đã dùng để diễn tả sứ mạng của Người, là sứ mạng Thiên sai. Hình ảnh này không phải là điều gì mới lạ, vì các ngôn sứ trong Cựu ước đã diễn tả Thiên Chúa như một mục tử. Chúng ta có thể đọc thấy trong giáo huấn của ngôn sứ Giêrêmina và Egiêkien. Như người mục tử chăm sóc đàn chiên thế nào, Thiên Chúa luôn săn sóc dân riêng Ngài đã chọn như vậy. Ngài biết những nhu cầu của đàn chiên. Ngài còn biết tên của từng con cũng như tính nết của chúng. Những điều này cho thấy tình yêu thương của Thiên Chúa đối với con người. Suốt bề dày lịch sử Cựu ước, Ngài luôn che chở, hướng dẫn và bao dung nhân từ đối với dân riêng Ngài đã chọn, mặc dù nhiều lần dân lầm lỗi bội phản.
Trong xã hội du mục của người Do Thái thời xưa, hình ảnh người mục tử và đàn chiên rất gần gũi đối với với cuộc sống hằng ngày. Đi đâu ta cũng có thể gặp thấy đồng cỏ xanh, đàn chiên thư thái ăn cỏ bên dòng suối mát lành dưới dự chăm sóc của các mục tử. Khi dùng hình ảnh người Mục tử, Chúa Giêsu tiếp nối giáo huấn của Cựu ước. Tuy vậy, hình ảnh người mục tử nơi Chúa Giêsu mang nhiều nét mới mẻ. Đây là người mục tử dám hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Người chấp nhận chết cho chiên được sống. Người không chỉ chăn dắt đàn chiên mà còn ban cho đàn chiên sự sống. Tôi đến để cho chiên được sống, và sống dồi dào. Qua cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu hiến mạng sống mình cho đàn chiên và thông ban cho đàn chiên sự sống thiêng liêng.
Khi quả quyết: Tôi là cửa. Đức Giêsu muốn nhấn mạnh, Người là mẫu mực cho chúng ta. Các tác giả Phúc âm đã phác họa chân dung của Chúa Giêsu trong các tác phẩm của mình. Tất cả đều muốn khẳng định: Chúa Giêsu là dung mạo phản ánh lòng thương xót của Chúa Cha, qua sự khiêm nhường, dấn thân phục vụ con người. Mỗi tín hữu, tức là mỗi con chiên trong đàn chiên của Chúa phải nhìn lên Đức Giêsu là vị Mục tử của mình để noi gương Người trong đời sống. Như thế là chúng ta bước qua cửa có tên là Giêsu, để được quy tụ và được giáo huấn, với mục đích sẽ trở nên hoàn thiện từng bước ngay khi còn sống trên trần gian. Ai qua cánh cửa có tên là Giêsu, sẽ tìm được nơi nương ẩn và được cứu rỗi.
Hình ảnh người Mục tử gắn liền với Cộng đoàn đức tin, tức là Giáo Hội. Trong bài giảng đầu tiên vào ngày lễ Ngũ tuần, Thánh Phêrô khẳng định Chúa Giêsu là Đấng Kitô và là Chúa. Người đã chịu đóng đinh trên thập giá. Người giống như mục tử, vì sự bình an và sự sống của đàn chiên, đã hy sinh mạng sống mình. Bài giảng hùng hồn đã khiến cử tọa khóc lóc đau đớn trong lòng, và đã có thêm ba ngàn người xin gia nhập Đạo Chúa trong ngày hôm ấy (Bài đọc I). “Anh em hãy tránh xa thế hệ gian tà này để được cứu độ”. Tránh xa gian tà, tức là từ bỏ lối sống không phù hợp với danh hiệu Kitô hữu như: bạo lực, dâm ô, giận hờn, ghen ghét, chia rẽ suy đồi luân thường đạo lý. Những tệ nạn này cản trở chúng ta đến với Chúa và làm chúng ta trượt dốc xuống vực thẳm của tội lỗi.
Hình ảnh người Mục tử nhân lành nhắc nhớ chúng ta: nhờ Bí tích Thanh tẩy, người tín hữu được tháp nhập vào đàn chiên của Chúa tức là Giáo Hội. Chúa Giêsu là Đầu của Giáo Hội. Giáo Hội là thân thể huyền nhiệm của Chúa Giêsu. Mỗi chúng ta là chi thể trong thân thể ấy. Cũng như nơi thân xác con người, chỉ khi nào mọi chi thể liên kết gắn bó chặt chẽ với đầu, thì thân thể ấy mới khỏe mạnh. Mỗi tín hữu cũng phải liên kết với Đức Giêsu là Đầu của Giáo Hội. Hiệp thông gắn bó với Đầu, chúng ta cũng phải hiệp thông gắn bó với anh chị em mình, để làm thành một cộng đoàn Giáo Hội vững chắc, không ngừng tiến triển và diễn tả sự thánh thiện trong đời sống hằng ngày.
Những ai đã lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy mà không hiệp thông với Giáo Hội, được so sánh như con chiên lạc. Thánh Phêrô lưu ý chúng ta như vậy. Ngài viết: “Quả thật, trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với vị Mục tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em” (Bài đọc II). Tin tưởng cậy trông nơi Đấng Phục sinh, đó là điều kiện cần thiết để chúng ta hiệp thông với vị Mục tử và hiệp thông với anh chị em mình, tức là cộng đoàn Giáo Hội.
Giáo Hội không giống như một tổ chức trần thế. Giáo Hội cũng không phải do con người lập nên. Chính Chúa Giêsu là Đấng sáng lập Giáo Hội. Chính Chúa Phục sinh đã trao cho thánh Phêrô và những người kế vị nhiệm vụ lãnh đạo, và thay Người săn sóc, quy tụ đàn chiên. Những đế chế hay những quốc gia trần thế, dù có hùng mạnh đến đâu chăng nữa, chỉ vang bóng một thời rồi đến lúc phải cáo chung. Giáo Hội của Chúa trường tồn qua mọi thời, thấm nhập và góp phần làm thăng hoa các nền văn hóa và các truyền thống nơi các quốc gia. Sở dĩ Giáo Hội trường tồn, vì có Đức Giêsu phục sinh luôn hiện diện và hướng dẫn, như người mục tử chăn dắt đàn chiên.
Sự hiện diện và dẫn dắt của vị Mục tử được diễn tả trong Thánh vịnh quen thuộc. “Chúa là Mục tử”. Lời Thánh vịnh đem lại cho chúng ta sự bình an: Dù qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Nhờ sự dẫn dắt của vị Mục tử Giêsu, chúng ta tìm được cảm giác thư thái an bình, như con thơ nằm trong lòng mẹ: Lòng nhân hậu và tình thương Chúa, ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người, những ngày tháng, những năm dài triền miên. Còn hình ảnh nào đẹp đẽ hơn để diễn tả tình yêu thương của Chúa dành cho những ai tin tưởng và phó thác nơi Người? Thánh vịnh 23 này thường được hát trong Thánh lễ an táng và cầu hồn. Lời ca sâu lắng, tha thiết và gợi hình, giúp cộng đoàn phụng vụ thêm lòng sốt sắng, giúp thân nhân gia đình người quá cố được ơn an ủi và niềm hy vọng. Thực ra, Thánh vịnh này không chỉ diễn tả việc Chúa dẫn đưa một người đã qua đời về vương quốc vĩnh cửu, mà còn diễn tả sự quan phòng yêu thương của Chúa đối với con người trong suốt cuộc đời. Ngài luôn chăm sóc chúng ta, ân cần chu đáo như mục tử đối với đàn chiên.
Chúa nhật IV Phục sinh cũng được gọi là Chúa chiên lành. Đây là dịp để chúng ta bày tỏ tình hiệp thông với Đức Thánh Cha Phanxicô, vị Mục tử tối cao của Giáo Hội Công giáo và là người kế vị Thánh Phêrô tông đồ. Chúng ta cầu nguyện cho Ngài và cho các vị chủ chăn trên toàn thế giới, được ơn can đảm, khôn ngoan để có thể dẫn đưa Dân Chúa đến đồng cỏ xanh tươi và đến suối mát trong lành, tức là hưởng trọn vẹn tình yêu ngọt ngào của Chúa, là phần thưởng cho những ai tin cậy yêu mến Người. Xin Chúa ban cho Giáo Hội hoàn vũ và các Giáo Hội địa phương luôn vững mạnh trước phong ba bão táp trần gian.
“Dù qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn”. Thế giới hôm nay đang hoảng loạn trước đại dịch COVID-19, giống như đang qua bờ vực thẳm. Hơn ba triệu người đã lây nhiễm. Mấy trăm ngàn người đã chết vì dịch bệnh. Lòng trông cậy Chúa sẽ giúp chúng ta tìm được sự an bình giữa cơn đại nạn, đồng thời tin tưởng Chúa sẽ cứu với nhân loại.
“Hỡi bạn là Kitô hữu, hãy luôn tự hào vì danh xưng ấy” (Thánh Lê-ô cả Giáo Hoàng). Mỗi chúng ta hãy cảm thấy vinh dự và vui mừng vì được mang danh Chúa Giêsu, đồng thời hãy góp phần mình làm cho đàn chiên Giáo Hội luôn vững mạnh, tỏa sáng giữa lòng đời. Giữa một cuộc sống còn nhiều góc khuất do tội lỗi và hận thù gây, hãy làm cho Giáo Hội thực sự là Ánh Sáng Muôn Dân, rạng soi thế giới. Nguyện xin Chúa Giêsu Kitô, vị Mục tử nhân lành, dẫn đưa nhân loại ra khỏi vực thẳm của tội lỗi và của dịch bệnh đang đe dọa thế giới. Xin Người cho chúng ta được ơn an bình. Amen.
Hôm nay Giáo Hội mời gọi cầu nguyện cho ơn thiên triệu tu sĩ và linh mục. Chúng ta nhìn lên PS 4-A190
Hôm nay Giáo Hội mời gọi cầu nguyện cho ơn thiên triệu tu sĩ và linh mục. Chúng ta nhìn lên Đức Yêsu như vị mục tử tuyệt vời.
Để chúng được sống và được sống dồi dào
Hình ảnh người chăn chiên thời xa xưa: người chăn chiên dẫn đàn chiên tới đồng cỏ và suối nước. Người chăn chiên lo bảo vệ chiên khi có sói rừng tới muốn ăn thịt chiên.
Đức Yêsu là vị mục tử Thiên Chúa ban cho dân. Vị mục tử nhân hậu này luôn cảm thương dân (Mt.9, 36), đối nghịch với những mục tử không biết thương xót đàn chiên, chỉ lo tìm tư lợi và vun xén cho mình (Ed.34).
Chúa Yêsu là cửa chuồng chiên. Ngài là mẫu mực, Ngài là cửa để chiên vào ra, qua Ngài chiên có chỗ an toàn để ngơi nghỉ, qua Ngài những người chăn chiên được ký thác dẫn chiên đến chốn an lành.
"Ta đến để chúng được sống, và được sống dồi dào" (Ga.10, 10). Đức Yêsu đã tới, để chúng ta được sống:
Ngài trở thành lương thực nuôi sống ta qua bí tích Thánh Thể (Ga.6, 54-58; Mt.26, 26-29), Ngài có lời đem lại sự sống đời đời (Ga.6, 68)
Ngài là sự thật giải phóng ta khỏi nô lệ (Ga.8, 32; Gl.5, 1)
Ngài mặc khải cho biết Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng (Ga.3, 16; 17, 23).
Nếu Thiên Chúa yêu chúng ta như vậy, chúng ta còn sợ gì nữa (Rm.8, 31.35.38)!
Những khó khăn của đời sống dâng hiến
Đâu là thập giá của những người sống đời dâng hiến và những người sống đời gia đình? Câu hỏi này được đặt ra hôm nay nhân ngày Giáo Hội hoàn vũ cầu nguyện cho ơn thiên triệu, nhằm giúp những người sống bậc hôn nhân thông cảm và nâng đỡ những người sống đời dâng hiến!
Trong cuộc chia sẻ của một nhóm sinh viên, nhiều bạn cho rằng người đi tu có đời sống thanh thản và ít gặp khó khăn, nhưng cũng có một số bạn cho rằng khó khăn lớn nhất của tất cả mọi người- dù sống đời dâng hiến cũng như sống đời gia đình- là làm sao vượt qua chính mình, vượt qua những khuynh hướng hạ đẳng nơi mình: ham tiền ham danh và thoả mãn xác thịt! Có bạn nhận xét: có vị khi còn là thầy, thì hy sinh hãm mình; nhưng khi đã là "cha" rồi, thì người đó trở lại tinh thần ngoài đời "ham tiền bạc, danh vọng và xác thịt"!
Đức Yêsu-Ngôi Lời nhập thể- đã nên giống con người mọi đàng trừ tội! Ngài cũng bị cám dỗ về miếng ăn, về danh vọng, về quyền hành (Mt.4, 1-11). Tương tự vậy, người sống đời dâng hiến cũng giống như anh chị em mình mọi đàng, họ cũng bị cám dỗ về mọi phương diện như những người sống ngoài đời. Vấn đề chính là phải vượt qua.
"Hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ" (Lc.22, 40.46). Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người sống đời dâng hiến, để họ biết cầu nguyện mỗi người, và để họ vượt thắng được cám dỗ trong đời sống thường ngày.
Lời mời gọi
Ngày xưa Đức Yêsu đã nhìn và đem lòng yêu thương anh thanh niên giầu có, và mời gọi anh bán tất cả để theo Ngài, nhưng Ngài đã thất bại! Anh ta đã từ chối lời mời gọi của Ngài (Mc.10, 17-22)! Con người luôn tự do trước lời mời gọi của Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu nguyện, để có nhiều người quảng đại đáp trả tiếng Chúa gọi sống đời dâng hiến trong bậc sống tu sĩ hoặc linh mục.
Đời sống dâng hiến, không đơn thuần là một giai cấp xã hội nhưng chính yếu được hình thành bởi những hành vi dâng hiến "liên tục", đòi người ta phải liên lỉ quảng đại sống "dâng hiến" và "từ bỏ" trong từng hành vi sống. Thế nên, có những người chỉ quảng đại đáp trả lúc đầu, và sau đó cuộc sống của họ không còn là đời sống dâng hiến nữa:
hoặc họ "bỏ cuộc giữa đàng",
hoặc nếu không bỏ cuộc thì họ thành gánh nặng cho những người sống với họ, và lúc đó cuộc sống của họ không còn "gương sáng" nữa!
Chúng ta hãy cầu nguyện xin Chúa cho những người đang sống đời sống dâng hiến được quảng đại đáp trả tiếng Chúa mời gọi trong từng giây phút của cuộc sống.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn đâu là thập giá lớn nhất của những người sống đời dâng hiến và của những người sống đời hôn nhân? 2. Đâu là hình ảnh người mục tử mà bạn mong ước? 3. Theo bạn, làm gì để nâng đỡ những người đang sống ơn gọi tu sĩ và linh mục?
Chúa Nhật cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ
Gặp gỡ Đức Yêsu Phục Sinh, là một hồng ân nhưng đồng thời hàm chứa một sứ mạng. Mỗi Kitô PS 4-A191
Gặp gỡ Đức Yêsu Phục Sinh, là một hồng ân nhưng đồng thời hàm chứa một sứ mạng. Mỗi Kitô hữu đều nhận lãnh sứ mạng làm chứng cho Đức Yêsu phục sinh, cụ thể là bằng đời sống trung tín, kiên nhẫn và đức hạnh của mỗi người.
1. Các tông đồ trở thành chứng nhân
Các tông đồ là những người đã được gặp gỡ Đức Yêsu Phục Sinh, và cũng là những người đã được diễm phúc theo sát Đức Yêsu khi Ngài rong ruổi khắp đất nước Do Thái để rao giảng Tin Mừng (Cv.1, 21-22).
Tuy dù các tông đồ là những người nhát đảm sợ sệt, yếu kém về trình độ học vấn, nhưng các Ngài là những người đã được sống với Đức Yêsu, và được gặp gỡ Đức Yêsu phục sinh, nên các Ngài là những chứng nhân. Các ngài chỉ làm chứng điều các ngài đã thấy đã nghe, các ngài chỉ nói lên sự thật (Cv.4, 20). Các ngài là rường cột của Giáo Hội, hiểu theo nghĩa Giáo Hội tựa trên lời chứng của các ngài.
Các tông đồ đã làm chứng, là nói lên sự thật mà các ngài đã kinh nghiệm: đã nghe và đã thấy. Tin hay không tin, đó là quyền và tự do của mỗi người. Không ai có thể làm cho người khác tin, nếu không phải là Thánh Thần (1Cor.12, 3). Tin Đức Yêsu phục sinh, tin Đức Yêsu là Thiên Chúa nhập thể, đó là một hồng ân vô cùng lớn “phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga.20, 29).
2. Đức hạnh của những người tin vào Đức Yêsu Phục Sinh
Thiên Chúa đã ban ơn để nhiều người đón nhận Tin Mừng: tin vào Đức Yêsu phục sinh. Kitô hữu là những người bình thường như bao người khác, họ cũng sống giữa trần gian, cũng có cùng những ưu tư và bận tâm như bao người, cũng chia sẻ thân phận con người như bao người khác. Chính Đức Yêsu cũng đã chia sẻ thân phận con người như bao người khác, như họ mọi đàng.
Khi tin vào Đức Yêsu, họ được mời gọi sống như Đức Yêsu đã sống, đối diện và phản ứng với mọi biến cố trong cuộc đời như Đức Yêsu đã đối diện và hành xử. Và khi làm như vậy, họ thành con người khác, có lối hành xử đặc biệt “giống như Đức Yêsu đã sống và hành xử”.
Kitô hữu không phải là người nhu nhược không dám “đánh trả” người khác, nhưng họ muốn theo gương thầy chí thánh là Đức Yêsu: đưa má cho kẻ giựt râu, chìa má cho kẻ muốn đánh, yêu thương tha thứ ngay cả những kẻ làm hại mình. Để làm được như vậy, phải là người dũng mãnh và có ơn đặc biệt của Thiên Chúa.
3. Ơn gọi mục tử
Trong mọi thời đại, Thiên Chúa vẫn mời gọi một số người trở thành mục tử nhân hậu theo gương Đức Yêsu một cách đặc biệt. Những mục tử này cũng là người như bao người khác, họ cũng có trí khôn bình thường, cũng có những yếu đuối và khuyết điểm, nhưng Chúa muốn gọi họ và họ đã quảng đại đáp trả.
Các tu sĩ là những người muốn tận hiến cuộc đời cho Chúa, để chỉ sống với Chúa như các tu sĩ trong dòng kín, hay để sống với Chúa và phục vụ Ngài qua tha nhân như các tu sĩ các dòng hoạt động. Các tu sĩ là những người có ba lời khấn: khó nghèo, khiết tịnh và vâng lời. Các tu sĩ dòng có đời sống cộng đoàn chung với nhau, còn các tu hội đời tuy dù có ba lời khấn nhưng họ sống giữa đời và không sống chung với nhau thành cộng đoàn.
Các linh mục cũng có những linh mục dòng hay triều. Các linh mục dòng cũng sống như bao tu sĩ nam nữ khác, chỉ có điều họ là linh mục. Các linh mục triều (phần lớn là coi xứ đạo) không có ba lời khấn với Chúa như các tu sĩ, nhưng các ngài cũng hứa sống độc thân và vâng phục giám mục bản quyền trong giáo phận các ngài thuộc về. Đời sống độc thân của các linh mục thuộc Giáo Hội Công Giáo Roma là một kỷ luật. Đời sống độc thân, cũng là một hy sinh và thập giá đối với các linh mục. Nếu không có ơn Chúa đặc biệt, một người không thể sống ơn gọi khiết tịnh được.
Chúng ta hãy cầu nguyện để Chúa ban cho nhiều người đáp trả tiếng Chúa mời gọi trở thành linh mục. Thêm nữa, chúng ta cũng nhớ nâng đỡ các ngài, vì tuy dù sự trung thành và bền đỗ trong đời sống linh mục tuỳ thuộc Chúa và mỗi linh mục, nhưng Thiên Chúa lại muốn ban ơn đó qua trung gian của những giáo dân mà các linh mục đó tiếp xúc với. Chúng ta hãy cầu nguyện cho các ngài, vì một mục tử tốt lành sẽ giúp đoàn chiên sống an bình hạnh phúc hơn trên con đường lữ hành về với Chúa. Xin Chúa hoàn tất những gì Ngài đã khởi sự, đặc biệt nơi các linh mục.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Lời chứng của các tông đồ có đáng tin không? Tại sao? 2. Tại sao bạn tin Đức Yêsu phục sinh? Tại sao bạn tin Ngài là Thiên Chúa nhập thể? 3. Sống tốt là một ơn gọi. Bạn nghĩ sao về điều này?
Đoạn Tin Mừng Gioan hôm nay chỉ là giáo đề của chương 10 nói về cửa chuồng chiên và mục PS 4-A192
Đoạn Tin Mừng Gioan hôm nay chỉ là giáo đề của chương 10 nói về cửa chuồng chiên và mục tử. Chúng ta có dịp suy niệm về hình ảnh của người mục tử nhân lành trong những đoạn sau,vào những năm khác. Tuy nhiên chúng ta vẫn có thể thấy xuất hiện hình ảnh của người mục tử với đàn chiên. Chúa Giêsu nói đến người mục tử nhiều lần và Ngài muốn dùng hình ảnh ấy để nói lên mối liên hệ giữa Ngài và chúng ta, đàn chiên Ngài chăn dẫn, đàn chiên mà Ngài chuộc lại bằng chính Máu Thánh Ngài.
Hình ảnh người mục tử rất quen thuộc với người miền Trung Đông, vì đa số sống bằng nghề nuôi chiên. Chúng ta không nuôi chiên, chúng ta không thể hiểu mối liên hệ thân thiện của người nuôi chiên với đàn chiên. Mục tử ôm ẳm chiên con từ thuở bé và nâng niu chiên như một đứa bé. Con chiên lại là một con thú rất hiền lành và ngoan, dễ dạy, mỗi con chiên đều biết tên của mình. Khi dẫn chiên, mục tử chỉ cần đi trước và cả đàn chiên đi theo sau. Khi dừng lại, chiên mới tản mát ra để ăn cỏ. Chúa Giêsu dùng hình ảnh người mục tử là để chúng ta hiểu được mối liên hệ hết sức thân thiện của Ngài với chúng ta. Ngài rất gần và luôn chăm sóc giữ gìn chúng ta như mục tử chăm sóc chiên mình. Các thánh vịnh mà chúng ta thường hát đi hát lại đã nói lên điều đó.
Chúng ta có phải là chiên của Ngài không? Chúng ta có theo Ngài như chiên theo sau mục tử không? Hay chúng ta chỉ chạy theo những tên trộm cướp chỉ làm hại chiên? Ăn thịt chiên mà không chăn chiên? Họ cám dỗ chúng ta bằng tiền bạc, danh lợi và đưa chúng ta vào vực thẳm của gian ác. Nhiều người trong chúng ta đã chạy theo những miếng mồi ngon của thế gian, tưởng rằng đó là hạnh phúc. Thực sự những miếng mồi của thế gian thật hấp dẫn, nhưng chúng chỉ là tro bụi. Chúa Giêsu không hấp dẫn lắm nhưng chỉ có Ngài mới thực sự thương chúng ta và mang lại hạnh phúc thật cho chúng ta: “Tôi đến để cho chiên được sống và được sống dồi dào”.
Chúa Giêsu dùng một hình ảnh khác để biểu lộ khuôn mặt khả ái của Ngài là cửa chuồng chiên.
Chúng ta cũng cần hiểu hình ảnh cửa chuồng chiên như thế nào. Khi đi chăn chiên, mỗi mục tử có một số chiên, lùa từ đồng cỏ này đến đồng cỏ khác. Đến mỗi nơi, mục tử gởi chiên của mình trong một chuồng chiên tập thể để ngủ ban đêm, để chiên có chỗ an toàn không bị trộm và chó sói. Đến sáng, mục tử đến và gọi chiên mình và đưa đi ra đồng cỏ. Chủ chuồng chiên có trách nhiệm trông coi chuồng chiên ban đêm.
Chúa Giêsu tự ví mình như cửa chuồng chiên, ngụ ý cho chúng ta thấy Ngài là nơi chiên ra vào an toàn. Ngài là cửa dẫn vào chuồng như Ngài đã nói: “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”.
Cửa là nơi ra vào nhưng cũng là cái gì bảo đảm an toàn cho chiên. Muốn vào chuồng chiên phải đi ngang qua cửa. Người nào không đi qua cửa là kẻ gian. Chiên sẽ an toàn khi cửa đã được gài cẩn thận. Cánh cửa rất cần thiết. Chúng ta không thể tưởng một tòa nhà mà không có cửa. Một tòa nhà mà ai ra vào tùy ý thì tòa nhà đó không phải là một tòa nhà mà chỉ là một mái nhà chợ người ta đến trưng bày hàng hóa, và người ta dọn về sau khi đã bán xong. Chúa Giêsu là sự an toàn của chúng ta. Ngài cũng là cửa duy nhất dẫn chúng ta đến với Chúa Cha. Ngài là Đấng chăn chiên nhân lành, bảo vệ chúng ta, nuôi dưỡng chúng ta, cho chúng ta được sống dồi dào. Sự sống dồi dào không phải chỉ là được no đủ vật chất mà chính là được chiếm hữu Chúa Kitô. Thánh Phaolô đã nhiều lần nói đến điều đó: “Tôi coi mọi sự như rơm rác chỉ cần biết Chúa Giêsu Kitô mà thôi”. Vì chỉ có Ngài là sự thật và là sự sống. Không có Ngài chúng ta không thể sống sung mãn vì con người vật chất chỉ là phù phiếm chóng qua, và cuối cùng chỉ còn là tro bụi.
Thế giới hôm nay là một căn nhà không có cửa. Tất cả mọi sự nhơ nhớp, xấu xa, gian ác, chết chóc đều ùa vào mà không có gì ngăn chặn. Nhiều người đã tự hỏi: Không biết rồi đây thế giới này sẽ đi về đâu, con người sẽ là gì? Người ta sống hôm nay để làm gì? Nhiều người tiên đoán một sự phá sản toàn diện của con người, vì con người hôm nay như một con ngựa không có dây cương, một tòa nhà không có cửa, thú tính và bản năng trở thành bá chủ.
Người Công giáo chúng ta không thể là một tòa nhà không có cửa. Chúng ta có cửa là Chúa Giêsu. Ngài đã đến trong trần gian này, mang thân phận con người để trở thành cánh cửa an toàn cho chúng ta. Nếp sống và những gì Ngài dạy là cánh cửa ngăn chặn mọi sai lầm, chỉ cho chúng ta hướng đi chính xác. Ngài là Đường dẫn chúng ta vào sự sống đời đời, Ngài là Sự Thật, theo Ngài chúng ta không sợ sai lầm. Ngài là Sự Sống, sống trong Ngài chúng ta mới được sung mãn.
Hai hình ảnh xen lẫn vào nhau: cánh cửa chuồn chiên và người mục tử vẽ lên khuôn mặt khả ái của Chúa chúng ta. Chúng ta thật diễm phúc! Cần thấy được diễm phúc đó, cần nhìn vào Ngài thật lâu để in sâu hình ảnh thân thương của Ngài vào tâm hồn và yêu mến Ngài hơn. Chính Ngài đã nói: “Ai đến với Ta, Ta sẽ không xua đuổi ra ngoài”. Ngài luôn mở rộng vòng tay đón tiếp. Ngài là Tình Yêu. Đến với Ngài, Ngài sẽ dẫn chúng ta vào đồng cỏ xanh của Lời Ngài, Ngài sẽ nuôi chúng ta không phải bằng của ăn hay hư nát mà bằng chính Thịt Máu Ngài. Có mục tử nào đã nuôi chiên mình bằng chính Thịt Máu mình? Ngài đáng yêu như thế nào? Nhưng chúng ta có thực sự yêu Ngài không? Chúng ta có thấy rằng tình yêu của Ngài ngọt ngào như thế nào không? Ăn lấy Ngài, chúng ta không cảm thấy được yêu thương tuyệt vời sao? “Ôi! Lòng trí các anh thật chậm tin…” Chúng ta giống như các môn đệ thành Emmau, đi với Ngài trong cuộc sống mà không nhận ra Ngài, ăn lấy Ngài mà vẫn không biết Ngài, không yêu mến Ngài.
Chúng ta tìm đâu ra hạnh phúc? Trần gian này có gì để chúng ta chạy theo? Những người quyền thế đã chiếm hết rồi. Rồi họ cũng thành đàn chiên mà tử thần chăn dẫn thôi. Hưởng thụ rồi cũng tiêu vong. Thánh vịnh đã nói: “Con người cũng chỉ là con vật một ngày kia phải chết”. Chỉ có Chúa mới là hạnh phúc đích thực mà thôi.
Chúa Giêsu, vị Mục Tử Thần Linh của chúng ta đang có mặt, Ngài gọi chúng ta từng tên một để dẫn chúng ta vào vùng đất yêu thương của Ngài. Hãy lắng nghe tiếng Ngài và theo Ngài. Ngài vẫn đến nuôi chúng ta hằng ngày bằng chính Thịt Máu thần linh của Ngài. Hãy đến ăn lấy của ăn quí báu này để bước vào cuộc chiến với Ngài, cuộc chiến cho tình yêu Ngài thống trị. Ngài biết chúng ta phải cực nhọc như thế nào để trung thành với Ngài. Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta, chúng ta hãy ở lại trong tình yêu của Ngài. Chỉ có tình yêu đó mới có thể giúp chúng ta kiên trì chịu đựng: “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng sống với Ngài. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Ngài”.
Chủ đề: "Hình ảnh mục tử nhân lành làm nổi bật mối tương giao và sự hiến thân của Chúa Giêsu PS 4-A193
Chủ đề: "Hình ảnh mục tử nhân lành làm nổi bật mối tương giao và sự hiến thân của Chúa Giêsu cho mỗi người chúng ta."
Vào thời Chúa Giêsu, khi màn đêm buông xuống, các mục tử lùa đàn chiên của họ vào chuồng. Nếu ở gần làng, họ sẽ lùa chúng vào cái chuồng công cộng, còn nếu ở xa làng, thì họ sẽ lùa chúng vào một cái chuồng ở ngoài đồng hoặc đôi khi trong một cái hang. Các mục tử làm thế là để che chở bầy chiên khỏi sương đêm lạnh lẽo và khỏi lũ thú rừng. Trong bài Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu ám chỉ đến cả hai loại chuồng trên.
Phần đầu bài Phúc âm, Ngài ám chỉ đến loại chuồng làng công cộng, đặc biệt nhắc đến lúc sáng sớm, khi người mục tử đến chuồng làng công cộng nhận bầy của mình để dẫn chúng đi ăn cỏ suốt ngày, Chúa Giêsu nói: "Người giữ cửa sẽ mở cửa cho anh ta; chiên anh sẽ nghe tiếng anh khi anh gọi tên từng con một và dẫn chúng ra. Khi mang chúng ra rồi, anh đi phía trước, lũ chiên đi theo anh vì chúng nhận biết giọng nói của anh"
Phần sau của bài Phúc âm, Chúa Giêsu ám chỉ đến loại chuồng ở ngoài đồng đặc biệt Ngài nói đến lối vào chật hẹp trong chồng mà bầy chiên phải đi qua. Chúa Giêsu nói: "Ta là cửa chuồng chiên...... Ai bước qua Ta mà vào thì sẽ được cứu: người ấy sẽ vào, và ra, rồi tìm được đồng cỏ" Trong cuốn sách nhan đề The Holy Land (vùng đất thánh). John Kellman mô tả một cái chuồng chiên ngoài đồng như sau: nó có một bức từơng bằng đá chung quanh cao khoảng bốn bộ (cỡ 1m4) và một lối vào. Kellman kể rằng ngày nọ một du khách Thánh Địa đã trông thấy một cái chuồng chiên ngòai đồng gần Hebron. Anh du khách hỏi người mục tử đang ngồi cạnh đó: "Cửa chuồng của anh ở đâu? Người mục tử liền đáp: "Tôi chính là cửa chuồng". Đoạn người mục tử kể cho du khách nghe anh ta nằm chặn ngang lối vào chật hẹp đó. không có chú chiên nào có thể bỏ chuồng đi ra, và cũng chẳng có con thú rừng nào có thể đi vào mà không bước qua mình anh ta.
Có hai điều nổi bật trong câu chuyện dễ thương này. Thứ nhất là tính cách duy nhất ngày càng tăng lên giữa người mục tử và bầy súc vật của anh. Phần lớn đàn chiên được nuôi để lấy len. Một mục tử phải hiện diện với bầy chiên của mình 365 ngày một năm, và thường là đủ 24 giờ một ngày. Người mục tử phải biết rõ chiên mình đến mức phải biết con nào có móng mềm, con nào đau vì ăn bậy, con nào hay bỏ bầy chạy rông... Thứ hai là sự hiến thân sâu sắc của người mục tử cho bầy chiên, thậm chí liều mạng sống cho chúng.
Chính trong bối cảnh này, chúng ta có thể hiểu rõ hơn điều Chúa Giêsu mường tượng trong tâm trí khi Ngài nói: "Ta là mục tử nhân lành" (Ga 10: 11). Chúa Giêsu muốn nói rằng, mối tương giao và sự hiến thân của Ngài cho chúng ta tương tự như mối tương giao và sự hiến thân của người mục tử cho bầy chiên mình. giống như người mục tử. Chúa Giêsu luôn hiện diện với chúng ta 365 ngày mỗi năm, 24 giờ mỗi ngày. Ngài đã từng nói với các môn đệ: "Ta sẽ luôn ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28: 20).
Giống như người mục tử, Chúa Giêsu cũng biết rõ mỗi người chúng ta một cách thân mật sâu xa. Ngài biết ai trong chúng ta yếu kém về đức tin, ai trong chúng ta thường dễ ngã lòng, ai trong chúng ta thường hay bỏ bầy đi rông. Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Ngài luôn luôn ở đó để giúp đỡ chúng ta. Và nếu lỡ chúng ta bỏ bầy đi rông thì Ngài sẽ bỏ lại 99 con chiên để đi kiếm chúng ta. Điều Thiên Chúa nói với dân riêng Ngài qua miệng tiên tri Isaia, cũng chính là điều Chúa Giêsu đích thân nói với mỗi người chúng ta: "Đừng sợ, Ta gọi ngươi bằng tên... Người rất quí báu đối với Ta... Đừng sợ! này đây Ta ở với ngươi" (Isaac newton 43: 1, 4-5).
Bài Phúc âm hôm nay đặc biệt thích hợp cho ngày các bà mẹ. Giống như người mục tử, giống như Chúa Giêsu, một bà mẹ luôn có mối tương giao gần gũi sâu sắc với bầy con hoặc gia đình mình. không có gì mà bà mẹ không làm để bảo vệ cho bầy con khỏi cơn nguy hiểm. Và bà sẵn sàng đi đến bất cứ nơi nào để tìm kiếm đứa con lầm đường lạc lối. Tình yêu của một bà mẹ dành cho gia đình vẫn hoạt động ngay cả khi tự thân bà không thể bảo vệ cho bầy con của bà nữa.
Có câu chuyện thật dễ thương trong cuốn tự thuật của Jimmy Cagney, nam diễn viên nổi tiếng ở HollyWood. Câu chuyện xảy ra vào thời tuổi trẻ của Cagney khi mẹ ông đang nằm trên giường chờ chết. Chung quanh giường có 4 cậu con trai đều mang tên Cagney và cô em gái duy nhất của họ là Jeannie. Vì bị nhồi máu cơ tim, bà Cagney không nói được nữa. Sau khi lần lượt bá cổ cả năm đứa con, bà liền giơ cánh tay phải, cánh tay duy nhất còn hoạt động đựơc lên. Jimmy mô tả những gì xảy ra sau đó:
"Mẹ tôi dùng ngón tay chỉ Harry rồi chỉ vào ngón trỏ của bàn tay vô dụng của bà, sau đó chỉ tôi rồi chỉ vào ngón giữa, rồi chỉ Eddie rồi chỉ vào ngón áp út, chỉ Bill rồi chỉ vào ngón út, chỉ Jeannien rồi chỉ vào ngón cái. Đoạn bà cầm ngón cái để vào giữa lòng bàn tay, rồi áp chặt ngón cái dưới bốn ngón kia tụm lại. Sau đó bà dùng bàn tay còn khỏe vỗ nhẹ lên nắm đấm bàn tay trái" (James Cagney).
Jimmy nói rằng cử chỉ của mẹ ông thật tuyệt vời. Mọi người đều biết ý nghĩa của cử chỉ ấy tức bốn anh em có bổn phận che chở cho bé Jeannie sau khi mẹ họ qua đời. đó là một cử chỉ đẹp và đầy ý nghĩa mà không lời nào có thể diễn tả hay hơn.
Tôi vui mừng vì chúng ta có ngày dành riêng cho các bà mẹ để nhắc nhở chúng ta về bản chất của người mẹ và để nhắc nhở các bà mẹ về sứ vụ mà Chúa kêu gọi họ.
Tôi vui mừng vì ngày các bà mẹ trùng hợp với Chúa nhật hôm nay với những lời Chúa Giêsu nói về người mục tử. Bởi vì sự thân mật và sự hiến thân trọn vẹn của một bà mẹ cho gia đình mình là một phản ảnh hoàn hảo sự thân mật và hiến thân trọn vẹn của người mục tử cho bầy súc vật của anh. Và hơn tất cả, tình thân và sự hiến thân cho gia đình của một bà mẹ phản ảnh hoàn hảo tình thân mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta.
Vì thế, chúng ta hãy hân hoan vui mừng và cầu xin cho ngày hôm nay sẽ kéo các thành viên trong gia đình gần lại với nhau hơn, đồng thời quí chuộng lẫn nhau hơn, đặc biệt đối với bà mẹ của họ.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy chân dung của người mục tử tốt lành. Trong Cựu Ước, dân PS 4-A194
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy chân dung của người mục tử tốt lành. Trong Cựu Ước, dân Do Thái thường dành tước hiệu này cho Thiên Chúa. Ngài chính là người mục tử, đã dẫn dắt họ qua sa mạc, qua biển Đỏ để tiến vào miền đất hứa. Ngài đã chăm sóc, dưỡng nuôi họ bằng manna, bằng chim cút, bằng suối nước vọt lên từ tảng đá. Như người mục tử gắn liền số mạng với đoàn chiên, thì Thiên Chúa cũng, đã và sẽ luôn ở giữa dân Ngài để chia sẻ những buồn vui gian khổ với họ dưới sương sớm và nắng chiều. Rồi trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng đã tự sánh ví mình như người mục tử nhân lành. Khác với những kẻ chăn thuê và giữ mướn, những kẻ trộm cướp và lợi dụng, người mục tử đích thực chỉ biết phục vụ đoàn chiên và giải thoát đoàn chiên khỏi mọi sự dữ. Đổi lại, con chiên nghe tiếng người mục tử, hăm hở đi theo và tỏ lòng yêu mến quyến luyến với người mục tử. Người mục tử luôn đi trước để bảo vệ đoàn chiên, còn đoàn chiên thì theo sau một cách ngoan ngoãn, để rồi cuối cùng sẽ đến được nơi đồng cỏ xanh, dòng suối mát. Như Chúa đã phán: Ta đến để chúng được sống và được sống một cách dồi dào. Thực hiện mục đích ấy, Ngài đã phải trả bằng một giá rất đắt, bằng chính mạng sống của mình. Cho nên, trong bài đáp ca, chúng ta đã ca ngợi rằng: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tuơi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính. Lạy Chúa, dầu qua thung lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng con”.
Ngày 27/04/2014, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã được Giáo hội tôn phong lên bậc hiển thánh. Người là một môn sinh đã hoạ lại rõ nét hình ảnh mục tử là Thầy Chí Thánh Giêsu. Người mục tử luôn làm việc không nghỉ ngơi. Cho dù tuổi đã cao lại thêm bệnh tật kéo dài, thế mà ngài vẫn đến với đoàn chiên, vẫn cất cao tiếng gọi đoàn chiên, vẫn là chỗ dựa thật vững chắc và an toàn cho đoàn chiên, là Giáo hội. Đến nỗi khi ngài qua đời, Đức tổng Giám mục Leônardo Sandri, thứ trưởng Ngoại giao Toà Thánh đã nói với toàn thể thế giới rằng: “Hôm nay, chúng tôi như những đứa con mồ côi”. Theo gương Chúa Giêsu, trong thời nạn đại dịch Covid 19 này, chúng ta thấy rất nhiều Linh mục đã qua đời, người ta đạt câu hỏi tại sao Linh mục, mục tử coi sóc đoàn chiên mà lại chết nhiều như thế? Là vì phần lớn các linh mục đã xả thân liều mình vì đoàn chiên đang lâm nguy tử vì bệnh Covid, các Ngài đến chăm sóc an ủi và làm các bí tích sau cùng cho đoàn chiên nên đã bị lây nhiễm và qua đời. Cụ thể hơn có một vị Linh mục đã nhường máy trợ thở cho một thanh niên và rồi Ngài cũng đã qua đời vì bệnh Covid 19.
Hôm nay lễ Chúa chiên lành, chúng ta dâng lời cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho Giáo hội luôn có những mục tử như lòng Chúa mong ước. Cảm tạ Thiên Chúa đã thương chăm sóc, chở che và gìn giữ cuộc đời chúng ta trong tình thương quan phòng qua Chúa Giêsu, qua Mẹ Hội thánh và các vị mục tử. Vì thế, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh người mục tử với đoàn chiên để nói về Người với nhân loại, cách riêng đối với Hội Thánh là từng người Kitô hữu chúng ta. Giống như người mục tử trong bài Tin Mừng là biết đích danh từng con một, đi trước đoàn chiên và không để cho chiên nghe tiếng người lạ… Chúa Giêsu cũng khẳng định Ngài là mục tử biết từng người chúng ta luôn chăm sóc chúng ta và tâm sự với từng con chiên để giúp chúng ta không nghe theo tiếng của quỷ dữ, của thế gian, của những xác thịt tội lỗi. Người mục tử đi trước đoàn chiên, đi trước nhân loại, bảo vệ nhận loại, không để cho nhân loại bị rơi vào tay của quỷ, của sự chết bằng cái chết thập giá và phục sinh của Người. Người đã mang lại sự sống dồi dào cho đoàn chiên là những kẻ thuộc về Người. Vì vậy, Hội Thánh dành ngày hôm nay để cầu nguyện cho ơn thiên triệu cho những người tận hiến cho Chúa vì Nước Chúa luôn biết sống dấn thân trọn vẹn, biết hy sinh xả kỷ vì quyền lợi của đoàn chiên để đoàn chiên được tràn đầy ân sủng, bình an và tình yêu của Thiên Chúa. Đặc biệt, chúng ta cũng cầu nguyện cho chính chúng ta vì mỗi người chúng ta cũng là mục tử trong giáo xứ, trong cộng đoàn và trong gia đình hay bạn bè thân thuộc của chúng ta với vai trò chức việc, làm chồng, làm vợ, làm cha mẹ và làm con cái: Người làm chồng biết yêu thương và chung thủy với vợ, không ngoại tình, không bạo lực. Người làm vợ cũng vậy, biết yêu thương, chung thủy và phục tùng chồng để vợ chồng được hạnh phúc. Bậc làm cha, làm mẹ biết sẵn sàng yêu thương đón nhận con cái mà Chúa ban cho, biết nuôi nấng, dạy dỗ con khôn lớn, biết chăm sóc gìn giữ từng người con khỏi những nguy hiểm trong cuộc sống hiện tại. Người làm con biết hiếu thảo, vâng lời và phụng dưỡng cha mẹ để làm đẹp lòng Chúa; Người chức việc biết xây dựng tinh thần yêu thương, hiệp nhất và phục vụ để xây dựng một giáo xứ, cộng đoàn, gia đình hay môi trường chúng ta đang sống thành cộng đoàn hiệp nhất, chia sẻ, yêu thương phục vụ và tha thứ. Nguyện xin Chúa Giêsu Kitô là Mục Tử nhân lành, xin chúc lành và thánh hóa cho những ước nguyện và quyết tâm của chúng con. Amen.
Hôm qua, tôi đọc trên báo điện tử một bài báo về viết về một Bà mẹ phi thường gần 10 năm ăn PS 4-A195
Hôm qua, tôi đọc trên báo điện tử một bài báo về viết về một Bà mẹ phi thường gần 10 năm ăn cám nuôi 4 con học đại học ở xã Diễn Hạnh, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Bà mẹ đó là bà Tăng Thị Lộc, chồng bà bị cụt một chân vì mắc bệnh phong. Gia đình nhà chồng cũng là một gia đình nghèo, đông con. Khi bà về nhà chồng, cha mẹ chồng chia cho vợ chồng bà một mảnh đất và dựng cho một túp lều nhỏ để chui ra chui vào. Từ khi lấy chồng, bà đã thực sự thấm thía thế nào là nghèo, là cơ cực, đói khát. Cái đói đó thấm thía hơn bao giờ hết khi lần lượt 4 đứa con của bà ra đời, vì chưng mỗi lần mang thai và sinh ra con ra, chưa bao giờ bà biết thế nào là một ngày nghỉ đẻ, cũng chưa bao giờ bà được tẩm bổ, bồi dưỡng như những người phụ nữ khác mang thai và sinh con. Cũng một phần vì thế mà con cái bà giờ đều thấp bé, gầy gò. Nhưng ngay cả trong cảnh cùng khổ ấy, người mẹ kiên cường vẫn lạc quan, bà kể: “Nhờ trời thương, nên ngần ấy năm ăn cám, tôi vẫn khỏe như người ta ăn cơm, vẫn lao động và nuôi ngần ấy đứa con. Mà tôi ăn cám riết thành quen, đến nỗi không còn cảm giác khó ăn nữa. Đều đặn mỗi bữa tôi ăn 3 bát cám ngon lành. Người ta nhìn hoàn cảnh tôi, ai cũng nói tôi khổ. Nhưng ở trong cái khổ đó, tôi không thấy mình khổ. Khổ vì chồng, vì con, vì tương lai con cái, thì khổ thế chứ khổ nữa tôi vẫn chịu được. Qủa thế, gần 10 năm trời ăn cám lợn để ki cóp từng đồng nuôi 4 người con ăn học, có những lúc tôi đã đứng giữa cánh đồng nắng chang chang và òa khóc vì tưởng rằng không còn đủ sức thực hiện ước mơ nhìn thấy con ăn học thành tài, nhưng tình yêu và sức mạnh phi thường của một người mẹ đã giúp tôi vượt qua tất cả, để giờ đây sau một chặng đường dài đầy khó khăn của cuộc đời mình, tôi đã có thể mỉm cười khi thấy 4 người con của mình đều đã học xong đại học và có những bước đi vững vàng trong cuộc sống”.
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội long trọng mừng lễ Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, và rõ hơn hết Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy chân dung của người mục tử tốt lành đó là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chiên lành. Người mục tử luôn gắn liền đời mình, sống chết với đàn chiên tựa như người mẹ gắn liền với định mệnh đời con. Người mẹ được Thiên Chúa sắp đặt để bảo vệ đứa con, chăm sóc đứa con, dậy dỗ và gìn giữ đứa con khỏi những nguy hiểm trong suốt hành trình cuộc đời dù phải ăn cám như người mẹ kia. Không có mẹ đứa con sẽ không lớn nổi thành người. Cũng vậy, không có chủ chiên nhân lành, đàn chiên cũng không thể có đồng cỏ xanh tươi, có suối mát ngọt ngào nếu không được người mục tử miệt mài tìm kiếm cho đàn chiên. Đàn chiên sẽ không thể sống an toàn khỏi cạm bãy, khỏi thú dữ rình chờ, nếu không có chủ chiên canh phòng với đầy đủ trách nhiệm và đầy yêu thương.
Chúa Giêsu hôm nay sánh ví tình thương của mình như tình thương của người mục tử dành cho đàn chiên. Người mục tử tốt lành đầy yêu thương luôn gắn bó với đàn chiên, luôn sẵn sàng hy sinh cả mạng sống mình vì lợi ích đàn chiên, để cho đàn chiên được sống dồi dào cả thể xác lẫn tâm hồn. Cụ thể, trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã khẳng định rằng: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Dồi dào ở chỗ nào? Thưa rõ ràng, nhìn vào trọn cuộc sống dương gian của Chúa Giêsu, từ lúc chào đời cho đến chết và phục sinh, chúng ta thấy Chúa Giêsu luôn hy sinh tất cả để cho chúng ta được tất cả phần hồn lẫn xác. Thứ nhất, vì chúng ta, “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2,6-7). Thứ hai, vì thương yêu chúng ta, Chúa Giêsu đã mạc khải Chúa Cha (Ga 8,19) và căn tính của mình cho mọi người biết Ngài là Con Thiên Chúa (Ga 10,36), là Đấng Mêsia (Ga 1,36-41) được Chúa Cha sai đến (Ga 3,17a). Ngài còn mạc khải Nước Thiên Chúa để phàm ai tin vào Ngài sẽ được Nước ấy làm gia nghiệp (Ga 3,5) và được sống muôn đời (Ga 3,15). Thứ ba, vì yêu thương chúng ta, Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa đến thế gian như người tôi tớ phục vụ và cứu độ hết mọi người (Ga 5,20-27). Cuối cùng, vì yêu thương chúng ta, Chúa Giêsu đã hiến thân mình trên cây thập giá để cho mọi người được hưởng tình yêu dạt dào của Thiên Chúa (Ga 14,1-3). Cho nên, trong bài đọc hai, Thánh Phêrô xác tín rằng: “Thật vậy, Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì anh em. Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành. Quả thật, trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em”.
Thánh Gioan Phaolô II là một môn sinh đã hoạ lại rõ nét hình ảnh mục tử của Thầy Chí Thánh Giêsu. Người mục tử luôn làm việc không nghỉ ngơi. Cho dù tuổi đã cao lại thêm bệnh tật kéo dài, thế mà ngài vẫn đến với đàn chiên, vẫn cất cao tiếng gọi đàn chiên, vẫn là chỗ dựa thật vững chắc và an toàn cho đàn chiên. Đến nỗi khi ngài qua đời, Đức tổng Giám mục Leônardo Sandri, thứ trưởng Ngoại giao Toà Thánh đã nói với toàn thể thế giới rằng: “Hôm nay, chúng tôi như những đứa con mồ côi”. Qủa thế, Thánh Gioan Phaolô II là một mục tử canh giữ hoà bình không chỉ cho đàn chiên mà cho hàng tỉ người trên khắp hành tinh này. Người mục tử với 26 năm chăn dắt đàn chiên của Chúa đã không ngừng bảo vệ quyền sống của con người, nhất là của các thai nhi. Người mục tử đã không ngừng đi đến tận cùng thế giới để gieo rắc an bình, công bình, tha thứ và yêu thương. Người mục tử đã đi đến cùng đường để quy tụ đàn chiên, để tìm kiếm các con chiên lạc đưa về một mối và cuối đời, trong những tiếng nấc hoà trộn với hơi thở bị ngắt quãng, ngài đã nói với đàn chiên đang canh thức cầu nguyện cho ngài trong giờ lâm chung rằng: “Ta đã đi tìm kiếm các con. Và bây giờ các con đã đến với Ta. Ta xin cám ơn các con”.
Uớc gì qua Lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta biết dâng lời cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho Giáo hội luôn có những mục tử như lòng Chúa mong ước. Nhất là tri ân Thiên Chúa đã thương chăm sóc, chở che và gìn giữ cuộc đời chúng ta trong tình thương quan phòng của Chúa. Và nhất là phải biết luôn cảm tạ tri ân Thiên Chúa đã ban cho chúng ta có một mục tử nhân lành là Chúa Giêsu đã hy sinh tất cả để cho chúng ta được sống và sống dồi dào.
Lạy Cha chúng con ở trên trời, qua Đức Giêsu Kitô Con Cha, chúng con cảm nhận được tình thương và quyền năng vô biên của Cha. Dù cuộc đời có sóng gió đến đâu thì bàn tay quyền uy và yêu thương của Cha luôn bảo vệ và chở che chúng con. Xin cho chúng con hoàn toàn tin tưởng và phó thác mọi sự cho Cha, nhờ đó, chúng con luôn bình an, hạnh phúc mà vui sống. Amen.
Khi nói đến “Ơn Thiên Triệu”, ơn gọi để trở nên và sống thiên chức Linh mục và Tu sĩ. Câu PS 4-A196
Khi nói đến “Ơn Thiên Triệu”, ơn gọi để trở nên và sống thiên chức Linh mục và Tu sĩ. Câu hỏi được đặt ra: Làm Linh mục, Tu sĩ để làm gì? Có phải là để được có cuộc sống sung sướng, bớt đau khổ-vất vả? Hay là để có địa vị cao và nhiều quyền lực? Hoặc là để có nhiều của cải tiền bạc chăng? Chắc chắn câu trả lời: đi tu, không phải là để đạt được những điều nêu trên. Thế nhưng, có người vẫn nghĩ và cho rằng “đi tu làm ông Cha thì sướng, giàu có, vì làm Cha là sẽ làm vua một cõi, có thể ra lệnh, sai khiến người này người kia, được người khác hầu hạ, phục vụ mình…”; bên cạnh đó cũng có suy nghĩ rằng “đi tu sẽ khổ, vất vả; khi về già thì cô đơn buồn chán, tủi thân…”Dù suy nghĩ thế nào, nhưng thực tế, ơn gọi sống đời Linh mục và Tu sĩ đang gặp rất nhiều khó khăn thử thách về cả số lượng lẫn chất lượng; nên xã hội ngày nay hơn bao giờ hết đang rất cần những con người quảng đại, hy sinh dấn thân để đáp lại tiếng mời gọi của Chúa trở nên những Linh mục và Tu sĩ như lòng Chúa mong ước. Được trở nên Linh mục và Tu sĩ là một ơn ban nhưng không mà Thiên Chúa ban cho những ai mà Ngài kêu gọi họ một cách đặc biệt; và họ đã đáp trả lại tiếng mời gọi của Chúa với lòng tín thác và lòng mến. Ơn gọi Linh mục và Tu sĩ để làm gì? Có phải là ơn để ban cho con người được chọn hay là không? Các bài đọc Lời Chúa hôm nay sẽ soi sáng cho chúng ta.
Trong bài TĐCV, Phêrô cảm nhận được chính ơn gọi Tông đồ của mình, là rao giảng về Thiên Chúa, rao giảng và làm chứng về tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Con người ở mọi thời đại, luôn khao khát tìm kiếm niềm hạnh phúc đích thực, mà điều này chỉ có Thiên Chúa là Đấng ban cho chúng ta. Với Phêrô làm sao chúng ta có thể đến với Thiên Chúa để được Ngài ban ơn nếu như không có ai rao giảng và giới thiệu Chúa cho họ. Do đó, được rao giảng về Chúa vừa là một ân ban nhưng không, vừa là một sứ vụ-lệnh truyền từ Thiên Chúa dành cho những ai tin và chấp nhận Ngài. Để có thể rao giảng về Chúa, người Tông đồ trước hết phải là người đã sống thân mật với Chúa với lòng tin và lòng mến. Chính nhờ đó, qua sự rao giảng và đời sống chứng tá, thì người khác mới có thể đến với Chúa, tin vào Chúa và cảm nhận được ơn ban của Chúa qua người tông đồ. Thật vậy, qua việc rao giảng của Phêrô và các Tông đồ, nhiều người đã tin vào lời các Ngài rao giảng và đã được chịu phép rửa “ngày hôm ấy có thêm chừng 3000 người gia nhập đạo”. Đây chính ơn gọi và sứ vụ dành cho những ai muốn sống và dấn thân trong sứ vụ Linh mục và Tu sĩ để tiếp tục con đường mà các Tông đồ của Chúa đã dấn thân.
Thư thứ 1 của Phêrô một lần nữa cũng khẳng định về sứ vụ của người Tông đồ, được chọn và sai đi để hướng dẫn, giúp người khác đến cùng và đến với Thiên Chúa. Người Tông đồ không hướng người khác về mình, nhưng về Thiên Chúa; vì chỉ nơi Thiên Chúa, con người mới tìm được ơn tha thứ, thánh hóa và bình an. Đây chính là niềm hạnh phúc đích thực mà con người đang tìm kiếm.
Tin mừng của Gioan hướng chúng ta đến và tin vào Đấng mà Thiên Chúa sai đến, Đức Giêsu - vị Mục tử nhân lành, đầy tình yêu thương mà Thiên Chúa muốn trao cho chúng ta. Hình ảnh mà Chúa Giêsu tuyên bố “Ta là cửa chuồng chiên” theo Gioan là hình ảnh rất đẹp và phong phú, hình ảnh này gợi lên sự gần gũi, thân mật giữa Thiên Chúa và con người. Nơi “cửa chuồng chiên” hễ ai đến và vào đó, thì họ sẽ được Thiên Chúa chở che, Ngài sẽ ban cho họ được sự an toàn và hạnh phúc. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định “Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào”.
Anh chị em thân mến, ơn gọi của mỗi người chúng ta là để trở nên những con người thánh, đây là ơn gọi phổ quát. Bên cạnh đó, Chúa cũng kêu mời một số người cách cụ thể hơn trong ơn gọi sống đời tận hiến, để quảng đại, hy sinh dấn thân chính cuộc sống, sứ vụ và lý tưởng của mình cho Chúa, cho Giáo hội và tha nhân. Chúa mời gọi những con người này hãy trở nên khí cụ tình yêu thương và ân sủng của Chúa cho tha nhân. Nhờ Giáo hội, và qua những con người sống đời tận hiến, anh chị em của mình được nhận biết Chúa, hiểu rõ về Chúa, tin và chấp nhận Chúa. Chúa là Đấng ban ơn, che chở phù trì, người Tông đồ và người sống đời tận hiến chỉ là khí cụ được Chúa tuyển chọn và sử dụng, hầu ơn Chúa được trao ban và chuyển tải một cách trọn vẹn cho anh chị em mình. Xin Chúa, vị “Mục Tử Nhân Lành” thương ban cho Giáo hội và xã hội có nhiều người trẻ biết quảng đại để luôn dấn thân đáp lại tiếng Chúa để sống đời tận hiến với lòng tín thác yêu thương. Amen.
Tin mừng Ga 10: 11-18: Hôm nay là ngày Giáo Hội cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ. Không cần nói thêm chi nhiều, chúng ta chắc cũng ý thức nhu cầu linh mục cấp bách đến thế nào cho Giáo Hội chúng ta...
Ngày nay, tại Palestine, cũng còn có thể chứng kiến được cảnh chăn chiên mà Chúa Giêsu đã từng PS 4-A197
Ngày nay, tại Palestine, cũng còn có thể chứng kiến được cảnh chăn chiên mà Chúa Giêsu đã từng chứng kiến cách đây hơn 2000 năm.
Cảnh những người mục tử Bedouin mang những đàn chiên trở về nhà từ những cánh đồng cỏ khác nhau sau một ngày đi ăn cỏ.
Thường vào lúc hoàng hôn, các đàn chiên khác nhau cùng kéo về qui tụ ở một chỗ uống nước.
Chúng trà trộn lẫn lộn với nhau từ 8 hay 9 đàn nhỏ trở thành một bầy chiên lớn.
Mặc dù lẫn lộn chung với nhau nhưng những chủ chăn không hề lo sợ chiên lạc bầy.
Đến giờ ra về, mỗi chủ chiên thổi lên một tiếng gọi riêng biệt – một tiếng còi, tiếng tiêu, tiếng sáo, hay tù và – thì những con chiên trong đàn sẽ tự động rời khỏi đám đông theo đàn của mình mà về chuồng.
Chúng tự biết chúng thuộc về đàn nào, chúng nghe tiếng gọi của người chủ chăn và đi theo. “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi”(Ga 10,27)[1]
Chiên và chủ chiên biết nhau Chiên rất thân thiện với chủ chăn.
Khi đàn chiên đang nằm ngủ êm đềm, người chủ chiên có thể bước đi ngay giữa đàn chiên mà không gây rối loạn hay gây mất ngủ cho con nào cả.
Trong khi đó chỉ một bước chân của người lạ mặt xâm nhập vào chuồng chiên đang lúc chiên nằm ngủ cũng đủ gây kinh hoàng và hoảng hốt cho cả đàn chiên.
Dường như chiên đã coi người chủ chăn như một thành phần rất thân thuộc của chúng. Và sự liên hệ mật thiết phát triển dần dần đến độ chủ chăn có thể phân biệt và hiểu tiếng kêu của từng con chiên, tiếng kêu đau thương hay tiếng kêu hoan lạc.
Chiên nghe lệnh của người chủ chăn để biết khi nào đi kiếm ăn hay lúc nào lên đường trở về nhà. Ngoài ra, người chủ chăn còn biết cả tên gọi và đặc tính của từng con chiên nữa.
Tận hiến cho đoàn chiên
Người chủ chăn rất tha thiết với đàn chiên, họ coi đàn chiên như một phần trong thân thể mình.
Họ không yên tâm khi một con chiên đi lạc. Họ không đành lòng bỏ con chiên bị thương mà không băng bó. Họ sẵn sàng vác cho chiên trên vai khi không đi được hoặc khi bị đi lạc. Đức Giêsu nói “Sẽ không ai cướp được đàn chiên khỏi tay tôi được”.
Bằng cách này, Người đang nhấn mạnh rằng đối với Người, đàn chiên quý giá đến thế nào. Nếu có Người giúp đỡ, thì không bao giờ có một điều xấu nào có thể xảy ra cho bất cứ người nào trong số họ.
Khi kẻ làm thuê trông coi đàn chiên, thì lũ chó sói không gặp rắc rối nào trong việc rình bắt đàn chiên. Ngay khi kẻ làm thuê nhìn thấy một con chó sói đang tiến lại gần, thì hắn ta liền bỏ rơi đàn chiên. Hắn chỉ nghĩ đến một điều duy nhất là làm sao thoát thân cho an toàn.
Người chủ tốt lành của đàn chiên thì không như vậy. Họ bảo vệ đàn chiên chống lại sự tấn công của lũ sói, thậm chí họ còn sẵn sàng liều mất mạng sống của mình nữa.
Hôm nay là ngày Giáo Hội cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ.
Không cần nói thêm chi nhiều, chúng ta chắc cũng ý thức nhu cầu linh mục cấp bách đến thế nào cho Giáo Hội chúng ta: chúng ta đang thiếu linh mục.
Rất nhiều họ đạo không có linh mục.
Ngày xưa Chúa Giêsu đã chỉ cho các môn đệ thấy những đồng lúa chín vàng và bảo "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Chúng con hãy cầu nguyện xin chủ ruộng cho thêm thợ gặt đến đồng lúa của Ngài".
Chúa biết nhu cầu của chúng ta, nhưng Chúa muốn chúng ta phải cầu xin thì Chúa mới ban ơn. Xin gì?
Xin cho có nhiều thiếu niên, thanh niên quảng đại dâng mình cho Chúa để phục vụ các linh hồn.
Xin cho những người đang theo tiếng gọi của Chúa hôm nay, tức là các chủng sinh, các tu sĩ nam nữ, các em dự tu, được bền tâm vững chí. Dù hoàn cảnh có nhiều khó khăn, nhưng Chúa đã nói "Ai bền đỗ tới cùng thì sẽ được cứu rỗi".
Xin cho các linh mục của chúng ta được xứng đáng là những phương tiện tốt Chúa dùng để ban ơn cho đoàn Dân Chúa, nghĩa là xin cho các ngài được thánh thiện và bình an chăm lo cho đàn chiên. Amen. --------------------- [1] Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, tr 171
Tin mừng Ga 10: 11-18: Đức Giêsu nói với người Do Thái rằng: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên...
Vào ngày 27-4-2017 tỉnh Quảng Ninh Khánh thành cổng chào hoành tráng nhất nước, Công trình PS 4-A198
cổng chào tỉnh Quảng Ninh được xây dựng trên quy mô trên 120 ha,với tổng số vốn đầu tư gần 200 tỷ đồng. Hình dáng bề ngoài nhìn thật lạ mắt, thế nhưng tự hỏi không biết cổng chào đồ sộ với kinh phí hàng trăm tỉ đồng sẽ mang lại những lợi ích thiết thực nào cho dân cư Quảng Ninh và cho những ai đi qua cổng chào, hay cũng chỉ là nhằm đến “cái nhất nước” và cho “sướng con mắt”?
Trong khi đó, một hình ảnh trái ngược được Tin Mừng hôm nay trình bày vê một cánh cửa, cũng có thể hiểu là một cánh cống, không in dấu những quảng cáo rực rỡ, không phô bày sự hoành tráng đồ sộ, không có nhưng hoạ tiết điêu khắc nghệ thuật, nhưng đó là một cánh của với dáng vẻ bề ngoài rất đơn sơ, rất đỗi bình thường: cánh của của một chuồng chiên. Nhưng cánh của này lại rất đỗi đặc biệt, rất kỳ lạ bởi nó không được đục đóng bởi những cây gỗ hay bằng bất cứ vật liệu xây dựng nào, cánh cửa được làm bằng xương thịt con người, nhưng là con người đã được Thần Khí Thiên Chúa thánh hoá trở thành nơi cho Ngôi Lời nhập thể, chính Đức Giêsu Kitô. Vâng, chính Người đã minh định: Tôi là cửa cho chiên ra vào.
Quả thật, Đức Giêsu, cửa chuồng chiên không được hình thành bởi hàng ngàn tỉ, nhưng bởi một tài tài sản không thể nào diễn tả được, đó là tình yêu vô bờ vô bến của Thiên Chúa dành để cho con người. Đức Giêsu, vì yêu thương nên đã vâng theo Thánh ý Cha, nhập thể làm người, ở giữa con người và cứu chuộc con ngừoi. Cửa chuồng chiên, hình ảnh mà Đức Kitô muốn chỉ về mình, không đứng vô hồn giữa trời đất để người ta chiêm ngắm, không đóng im lìm giữa chốn lao xao kẻ quá người lại, nhưng đó là cánh của của sự cứu độ, vì ai qua của này mà vào chuồng chiên thì sẽ được cứu, đây là cánh cửa của lòng thương xót, bởi Đức Kitô hiện diện trên trần gian để cứu vớt, là ánh cửa của sự sống, vì chình Đức Kitô sẽ nuôi sống đàn chiên no nê bằng chính Thịt và Máu Người. Đức Kitô đã khẳng định: tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.
Cánh cửa chuồng chiên Giêsu không đứng chơ vơ một mình, nhưng được kết nối với chuồng chiên, Thật vậy, Người là cửa cho chiên ra vào, nơi chốn cho chiên ra vào chính là Giáo Hội. Chuồng chiên Giáo Hội không là nơi được vây kín hàng rào luật lệ, nhưng là cánh đồng bát ngát để chiên được no thoả, là dòng suối mát để chiên nghỉ ngơi, là nơi đàn chiên được che chở giữ gìn bằng tình yêu hiến dâng của người mục tử, nơi đàn chiên tìm được sự bình an bằng tình thương huynh đệ của những người môn đệ Chúa Kitô.
Cửa chuồng chiên luôn kiên vững qua mọi thời đại cho tới ngày cánh chung. Điều đó được thể hiện qua sự uỷ thác của Chúa cho các Tông đồ và được tiếp tục nơi nhưng người kế vị các ngài. Vâng, tình yêu Chúa đối với con người luôn bền vững không bị đứt đoạn. Cho nên, để cho công trình cứu chuộc luôn hiện thực trong thời gian con người lữ hành tiến đến cùng đích của mình, Chúa Giêsu cho dẫu đã về trời, Người đã không để chuồng chiên mất cửa, Người vẫn hiện diện, cửa chuồng chiên vẫn là nơi để những ai ra vào sẽ được cứu rỗi. Để thực hiện điều đó Người đã thiết lập Bí tích truyền chức thánh, và qua những người được Người tuyển chọn, ơn cứu độ tiếp tục được trao ban. Đó là lý do Chúa nhật hôm nay Giáo Hội đặc biệt cầu nguyện cách riêng cho ơn thiên triệu, và cách chung cho đời sống thánh hiến.
Lạy Chúa, tình yêu Chúa dành cho chúng con thật nhiệm lạ, chẳng biết lấy gì đền đáp cho cân, chỉ biết dùng lời cầu nguyện và những việc việc làm thiết thực để nâng đỡ, khích lệ ơn gọi dấn thân làm linh mục, để tiếp tục công việc của Chúa như là Cửa chuồng chiên, hầu mang ơn cứu độ cho những ai ra vào Cửa đó. Amen.
Mỗi khi chúng ta nghe nói đến ơn gọi, chúng ta thường nghĩ ngay đến đời sống dâng hiến, trở PS 4-A199
Mỗi khi chúng ta nghe nói đến ơn gọi, chúng ta thường nghĩ ngay đến đời sống dâng hiến, trở thành Linh mục, hay tu sĩ. Nhưng chẳng lẽ ơn gọi, ân sủng của Chúa chỉ hạn hẹp và đặc cách cho bậc sống ơn gọi tu trì, dâng hiến thôi hay sao? Phải chăng Chúa chỉ gọi và chọn một số ít người để thực hiện kế hoạch cứu độ yêu thương của Chúa? Trên thực tế, trong Giáo Hội có ba ơn gọi chính: sống tu trì dâng hiến, sống đời sống gia đình, giáo dục đức tin, nuôi dưỡng ơn gọi và sống độc thân vì lý tưởng cao đẹp như hy sinh cả đời lo cho các em mồ côi, những ai neo đơn khốn khổ, v.v…Một khi chúng ta nhìn ơn gọi theo hướng này, thì chúng ta không thể phủ nhận: số người được mời gọi sống bậc sống gia đình là nổi trội hơn hẳn. Tuy nhiên, trong Phụng Vụ hôm nay - Lễ Chúa Chiên Lành - Giáo Hội dành trọn ngày hôm nay cầu nguyện cho ơn thiên triệu, cho các bạn trẻ dám can đảm lắng nghe, đón nhận và bước theo tiếng Chúa mời gọi trở nên môn đệ của Người trong bậc sống thánh hiến.
Trước hết, ơn gọi là một đặc sủng mà chính Thiên Chúa ban tặng. Một khi là ân sủng thì con người chúng ta không thể nào tự ban phát, hoặc tự làm ra, hoặc tự nỗ lực hầu đáp ứng điều kiện để nhận lãnh. Và vì Thiên Chúa ban, nên không dựa trên tiêu chuẩn của con người như thành công, tài năng, khôn ngoan, lanh lợi, thành tựu, diện mạo tuấn tú hay xinh đẹp…, nhưng nhờ vào tình thương, lòng xót thương vô biên của Người mà chúng ta được chọn giữa vô số đông đảo giáo dân như Thánh Phao-lô xác tín: “tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa,…tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không phải tôi, mà là ơn Thiên Chúa cùng với tôi” (x. 1Cr 15, 10).
Trong cuộc đời, chúng ta thường thấy nhiều mảnh đời đáng thương, gia thế neo đơn, kinh tế không ổn định, con cái phải bỏ học, oằn lưng gánh gồng cùng cha mẹ làm lụng mưu sinh qua ngày, và không khỏi ước mơ thoát cảnh cơ cực, nghèo khổ này. Như thế, có nhiều bạn trẻ lấy đó làm động lực để tìm hiểu ơn gọi, hoặc muốn trở thành người cứu sinh cho gia đình mà chọn đời sống ơn gọi tu trì! Ngược lại, nhiều người trong chúng ta cứ nghĩ ai đó có một quá khứ không mấy đẹp đẽ như bán vé số nuôi gia đình, bán dạo, nghèo cùng đinh thì không thể được chọn làm Linh mục của Chúa; hoặc nghĩ ai đó sống trong cảnh sung túc tại thành phố, chốn phồn hoa đô thị cũng không thể sống ơn gọi tu trì! Lối suy nghĩ hay tư tưởng này vốn dĩ là của con người chúng ta, chứ không phải ý định của Thiên Chúa; vì một khi nhận biết ơn gọi chính là nhận biết Thiên Chúa - Người đang mời gọi chúng ta.
Nhưng làm sao để nhận ra điều này? Thánh Tê-rê-sa Cal-cút-ta đã từng nói: “Sự bình an/nền hoà bình khởi sự từ nụ cười”, và cũng sự bình an này bắt đầu từ gia đình. Vì thế, ơn gọi cũng chớm nở từ trong gia đình, qua việc chia san tình yêu thương, hy sinh của cha mẹ đối với con cái, qua việc tha thứ cho nhau, qua việc cùng nhau cảm nghiệm ơn Chúa thông truyền trong mỗi giờ nguyện gẫm, trong giờ cơm chung với nhau, trong từng giây phút hằng ngày…Một lần được chuyện trò cùng với Sr. Angela, Tổng quyền dòng Nữ Tu các Thiên Thần, và con đã mạo muội hỏi Sơ: “Theo Sơ, vì sao ngày nay ơn gọi lại ít dần?”, Sơ không ngần ngại trả lời: “Ngày trước, nhiều người đi tu nhờ vào các câu chuyện về Hạnh các Thánh, những lúc cha mẹ nói chuyện với con cái về Thiên Chúa, về Giáo Hội. Còn ngày nay, cha mẹ không có thời gian chuyện trò với con cái, lại càng không có thời giờ nói cho con cái nghe về Chúa, các Thánh và Giáo hội…!” Thiết nghĩ, đây cũng có thể là thực trạng khan hiếm ơn gọi tại Nhật và nhiều nơi trên thế giới chăng? Một khi con người sung túc, tiện lợi, đời sống vật chất tuy không quá giàu sang nhưng thoải mái nhờ biết bao nhiêu tiện ích của công nghệ, khoa học kỹ thuật đã chi phối đời sống thiêng liêng, đời sống gia đình. Cha mẹ lao vào công việc làm lụng vất vả hầu chỉ cho con cái đời sống thể lý cường tráng, học vấn thành công, mà quên mất việc đơn giản nhưng quan trọng, đó là: tạo mối tương quan với con cái, chuyện trò, nói với con về đời sống đạo, kể những mẫu chuyện nho nhỏ về các Thánh, về Chúa, về Giáo hội và về cảm nghiệm ơn Chúa trong đời sống.
Thứ đến, ơn gọi không chỉ lãnh nhận đặc sủng, lời mời của Thiên Chúa rồi ‘cất giấu’ hay ‘giữ riêng’ cho mình, mà nó gắn liền với sứ mệnh, một trách vụ đặc biệt như thánh Phê-rô trong bài đọc I đã can đảm rao truyền Lời Chúa, làm chứng cho Chúa Ki-tô Phục Sinh cho hết mọi người, nhất là cho mọi người có tấm lòng thiện chí đón nhận, “Xin toàn thể nhà Is-ra-en hãy nhận biết chắc rằng: Thiên Chúa đã tôn Đức Giê-su mà anh em đã đóng đinh lên làm Chúa và làm Đấng Ki-tô” (Cv 2, 36). Dĩ nhiên, chúng ta không thể làm được trách vụ nặng nề này nếu không có bàn tay nâng đỡ, sự đồng hành của Chúa Chiên Lành. Với giới hạn của bản thân, chúng ta luôn tín thác, cộng tác với Chúa thì mọi việc sẽ trở nên đẹp lòng Chúa vì “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời; chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta. Điều mà Cha Ta ban cho Ta, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Ta” (Ga 10, 27-29). Ngoài việc tín thác, tin tưởng vào Thiên Chúa, chúng ta cần được rèn luyện, trau dồi kỹ năng cần thiết, và nhất là trung tín với Người đã mời gọi-chọn chúng ta. “Thiên Chúa mời gọi chúng ta không phải để trở nên những người thành công, mà để trở thành những người tín trung” (trích từ châm ngôn của Thánh Tê-rê-sa Cal-cút-ta). Để rồi, một ngày nào đó, chúng ta cũng được “đứng trước ngai vàng và trước Con Chiên trong một đám đông không thể đếm được, thuộc mọi nòi giống, dòng họ, dân tộc và tiếng nói…họ mặc áo trắng dài, tay cầm lá vạn tuế” (x. Kh 7, 9).
Giờ đây, con xin mời cộng đoàn cùng thinh lặng trong giây lát để cùng lắng nghe tiếng tâm hồn, cũng là nơi mà Chúa đang muốn đến gặp gỡ và chuyện trò với chúng ta:
Lạy Chúa Chiên Lành từ nhân Người dẫn con đi, ân cần rạng khơi Tới nguồn suối mát thảnh thơi Trên đồng xanh cỏ, nghỉ ngơi con nằm Xin thêm chủ chăn âm thầm Rao truyền sớm tối, thăng trầm biến tan…Amen!
(Chú giải và Suy niệm của Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X)
CÂU HỎI GỢI Ý
Phải hiểu thế nào công thức nhập đề long trọng ở câu 1. Đoạn văn này là một dụ ngôn hay ám dụ PS 4-A200
1. Phải hiểu thế nào công thức nhập đề long trọng ở câu 1. Đoạn văn này là một dụ ngôn hay ám dụ? 2. Hình ảnh người chăn chiên và đàn chiên có thường gặp trong Thánh Kinh không? 3. Phải lồng hình ảnh này vào trong khung cảnh đời sống xứ Palestine như thế nào? 4. Chúa Giêsu là mục tử trong nghĩa nào? 5. Chúa Giêsu là cửa (cửa chiên) theo nghĩa nào?
CHÚ GIẢI
1. Trong Tin Mừng Gioan, công thức nhập đề long trọng “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi” (c.1) luôn luôn thêm vào những gì đi trước một lý chứng mới và mạnh hơn, nhưng không đưa vào một đề tài mới. Vì thế ám dụ tiếp theo được nối kết với câu chuyện người mù. Thật vậy, việc người mù bị trục xuất khỏi Israel giả và sự kiện Chúa Giêsu đón nhận lại anh, là những dữ kiện mà ám dụ sắp đào sâu ý nghĩa: “Chính để phán xét” (9, 39): lời này là câu tóm kết của ám dụ.
Chúng ta nói: ám dụ. Gioan gọi là paroimia: so sánh hãy dụ ngôn. Thật ra cả hai cũng chỉ nhấn mạnh tới ý nghĩa ẩn tàng. Trong ám dụ, các yếu tố khác nhau phải được chuyển qua một bình diện ý tưởng khác và chính ám dụ gợi ra sự chuyển dịch này. Hơn nữa lời nhập đề không cho phép ta dừng lại ở nghĩa đen. Người ta không bắt đầu một trình thuật hoặc một bài mô tả bằng câu: “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi …”. Việc chuyển dịch, ta thấy có ngay trước mắt: ràn chiên ám chỉ dân Chúa; các kẻ chăn chiên thật và giả là Chúa Giêsu và các nhà lãnh đạo dân chúng; chiên là những tín hữu lắng nghe tiếng nói của người chăn: Thành ra mục đích của ám dụ là đánh dấu sự phân biệt giữa đàn chiên thật và đàn chiên giả. Có nhiều điểm tương đồng với ám dụ cây nho thật (15,1- 8).
2. Để nói về vai trò tôn giáo của Người nơi dân Do thái, Chúa Giêsu dùng hình ảnh người mục tử, mà Thánh kinh năng dùng vì nó giúp liên tưởng dễ dàng đến đám dân du mục này. Đàn chiên thường là tài nguyên độc hữu của, dân du mục; thật thế những gì là cần thiết về thức ăn (bơ, qua, thịt), áo mặc (len), họ đều lấy từ đó. nhưng nếu đàn vật đã quý giá trên lưỡng diện lợi ích, thì càng quý hơn trên bình điện tình cảm. Sống mãi với đàn chiên, người mục tử dần dà biết từng con một và yêu thương chúng; anh ta xem các con vật này như bạn đường của mình, và nâng chúng lên hàng thân thuộc một cách nào đó, theo như bài dụ ngôn tuyệt vời của ngôn sứ Nathan kể cho Đavít (2 Sm 12, 1- 4).
Chính vì những lý do ấy mà người chăn chiên luôn luôn lo lắng cho đàn chiên: anh ta theo sát từng con, đem đến đồng cỏ xanh tươi nhất, ở đâu cũng lo cho chúng khỏe mạnh và an toàn; chiều tối, anh dẫn về chuồng chung và giao cho người canh giữ ban đêm đứng gác trước cửa.
Người Do thái đã sớm nhìn thấy trong những thực tại quen thuộc đó một biểu tượng hùng hồn cho những thực tại tôn giáo; hình ảnh mục tử mô tả đúng Giavê trong vai trò và tình cảm của Ngài đối với Israel, cũng như hình ảnh đàn chiên nói lên những gì Israel tiêu biểu đối với Thiên Chúa, là đối tượng chủ yếu của lòng Ngài mến yêu và quan tâm lo lắng, là kho tàng quý giá nhất của Ngài ở trên trần gian (Ed 34, 11- 16).
Rồi từ Giavê, hình ảnh mục tử được áp dụng cho những kẻ Ngài ủy nhiệm việc hiện thân cách hữu hình, bên cạnh Israel, cái vai trò Mục tử tối cao vô hình của Ngài: Môisen, Đavít, các vua, các thủ lãnh chính trị cũng như các tư tế, tất cả đều là mục tử phụ tá do ủy nhiệm thần linh, là người thay mặt của Mục tử vô hình, có nhiệm vụ trung thành diễn tả vai trò và tâm tình của Ngài đối với Israel. Các mục tử xấu, tức những kẻ thay vì lo nuôi dưỡng đàn chiên Chúa, lại lợi dụng để nuôi chính mình, thì Mục tử tối cao sẽ không quên trừng trị (Ed 34, 1- 10) Ngài sẽ dành quyền chăn dắt đàn chiên cho một Mục tử biết mặc ấy hoàn toàn vai trò và tâm tình của Ngài (Ed 34,23- 31). Đó Chính là hậu cảnh của bài trần thuyết hôm nay, trong đó Chúa Giêsu, vị Mục tử được Thiên Chúa ủy nhiệm và nhiệt thành cho đến chết, tự giới thiệu mình đối nghịch với nhóm biệt phái là những kẻ thiếu nhiệt thành cũng như ủy nhiệm.
Ngoài chương 34 tuyệt vời của ngôn sứ Êdêkien nói trên, ta cũng hãy nhắc lại một vài bản văn Cựu ước đã dùng hình ảnh người mục tử và đàn chiên: Is 40, 10-11 ; Gr 23, 1- 4 ; Tv 23 v.v… Thành thử không lạ gì trong Tân ước, hình ảnh này được lấy lại cách chi tiết hoặc chỉ thoáng qua thôi, như dụ ngôn con chiên lạc (Mt 18,12-14; Lc 15,4-7) ; câu nói (logion) về đàn chiên nhỏ bé (Lc 12, 32), chiên và dê (Mt 25, 31- 46), các ngôn sứ giả tự xem mình là mục tử (Mt 7, 15), đàn chiên mà chủ chăn bị người ta đánh để phận tán chiên (Mc 14,27, Ml 20, 31 ; x. Ga 16, 32), chiên lạc nhà Israel (Mt 10, 6 ; 15, 24 v.v…) (Cv 20, 28 ; Ep 4, 11 ; 1 Pl 2, 25 ; 5, 2- 4 ; Dt 13, 20 ; Kh 12, 5 ; 19, 15).
3. Ám dụ mô tả một mảnh đời sống thường nhật tại Palestine. Chuồng chiên là thành phần không thể thiếu của thắng cảnh xứ đó. Đấy là một hàng rào hình chữ nhật hoặc hình vuông, dùng để nhốt chiên thuộc nhiều đàn khác nhau vào ngủ ban đêm. Ban đêm, chiên được một người canh giữ. Sáng lại, các mục tử (hoặc người chăn thuê) đến tìm chiên. Người canh mở cửa cho kẻ chăn với tiếng kêu đặc biệt, anh ta gọi chiên của mình. Và đàn vật đi ra từng con, qua một cánh cửa hẹp, trong lúc người chăn lấy gậy đếm chúng. Khi chiên đã ra khỏi chuồng, người mục tử đi trước và dẫn chúng đến đồng cỏ. Cũng có trường hợp một mục tử dẫn chiên thuộc nhiều chuồng khác nhau (10, 16).
Phân biệt người chăn với kẻ trộm không khó gì. Người chăn vào chuồng bằng cửa chính còn kẻ trộm nhảy qua hàng rào. Nhưng bây giờ cửa chỉ là chuyện phụ thuộc. Người canh gác không phải là kẻ duy nhất biết phân biệt mục tử với tên trộm, chính đàn chiên cũng biết ám dụ nhấn mạnh điểm này. Phản ứng của bầy chiên cũng giống như phản ứng của anh mù bẩm sinh. Lắng nghe Chúa Giêsu mặc cho nhóm Biệt phái phản đối, con người công chính trên đã phân biệt được mục tử với bọn trộm cắp.
Dĩ nhiên người Do thái chả hiểu tí gì những lời của Chúa Giêsu. Họ không phải là chiên trong đàn chiên Giavê (9,40).
4. Là Mục tử chân thật, trước tiên Chúa Giêsu xác định rõ cái gì phân biệt Người với các mục tử giả hiệu. Nếu có ai ban đêm xâm nhập chuồng chiên mà không đi qua người canh gác đứng ở cửa vào thì đó là kẻ trộm. Theo toàn thể văn mạch, Chúa Giêsu nhắm các người Biệt phái và Ký lục là những kẻ từ lâu đã tự đặt mình làm thủ lãnh và linh hướng của dân chúng mà không qua Vị Canh giữ tối cao, không lãnh nhận từ Thiên Chúa một ủy nhiệm nào để thi hành sứ mệnh đó cả; như bọn trộm cướp, họ đã chiếm đoạt đám tín hữu vì háo danh và óc thống trị hơn là vì quan tâm đến thiện ích thiêng liêng của tín hữu (cc. 8. 10).
Sau đó, Chúa Giêsu mô tả thái độ quen thuộc của người mục tử chính hiệu (cc. 2- 6) ; dùng con đường thông thường, ông ta được người giữ cổng dẫn vào chuồng chiên; được chiên của mình nhận biết và lắng nghe – chúng chạy trốn mọi kẻ chăn khác ông gọi chúng bằng một tiếng kêu đặc biệt và dẫn chúng đi tới đồng cỏ. Qua bức tranh đơn giản ấy, Chúa Giêsu muốn mô tả thái độ riêng của Người; để chứng tỏ rằng Người hội đủ mọi điều kiện cần thiết cho Mục tử chính hiệu của Israel.
Để đến với Đàn chiên Thiên Chúa, Người đã mượn con đường thông thường, vì Người chỉ tới theo mệnh lênh và ủy nhiệm thần linh mà Người đã nhận từ Cha khi chịu phép rửa (1, 31- 34). Đóng vai trò gác cửa do ủy nhiệm thần linh, Gio-an Tẩy giả đã mở cửa cho người và đã giới thiệu Người với dân chúng, đặc biệt với môn đồ của ông (1, 23- 31). Nicôđêmô và nhiều kẻ khác cũng công nhận vị Tôn sư có một sứ mệnh chính thức lãnh từ Thiên Chúa (3, 2).
Như các môn đồ (1, 35- 49) và anh mù bẩm sinh cho thấy chỉ có chiên, là những tín hữu thật, với biết ngoan ngoãn nghe tiếng Người: vì “phàm ai nghe và học nơi Cha, thì (chỉ có kẻ ấy) đến với Chúa Giêsu” bằng đức tin (6, 45 ; 8, 47). Chiên Người vị Mục tử gọi bằng tên của chúng, nói với chúng như với Philipphê: “Hãy theo Ta” (1, 43). Qua tiếng gọi đặc biệt đó, Người kéo họ ra khỏi thế gian (15, 19) và khỏi Do thái giáo, rồi tiên phong dẫn họ tới đồng cỏ (Giáo hội) và tới Chúa Cha. Đặt trọn niềm tin tưởng vào Người, các con chiên “theo Người”, làm môn đồ Người, vì họ biết tiếng Người: đức tin cho họ một thứ khứu giác thiêng liêng, một cảm thức gần như bản năng về những thực tại thần linh, nhờ đó họ phân biệt trong tiếng nói Chúa Giêsu một âm vang trung thực của tiếng nói Cha trên trời và biết rằng qua miệng của Người, chính Cha đang nói (14,10) ; đó là điều khiến họ không làm môn đồ cho một kẻ chăn chiên xa lạ, chẳng hề được Thiên Chúa ủy nhiệm: vì không nhận ra nơi giọng nói kẻ này âm vang của Lời Thiên Chúa, nên họ chạy trốn tên xâm nhập đó, kẻ đến để sát hại, trộm cắp và tiêu diệt đàn chiên (c. 10).
Những người Biệt phái mà dụ ngôn này nhắm tới chả bắt được bài học Chúa Giêsu dạy họ: bởi vì chiên lạ không nghe tiếng của mục tử chính danh: “Các ngươi không tin vì các ngươi không thuộc đàn chiên của Ta” (10, 26).
5. Để bổ túc hình ảnh trước, Chúa Giêsu dùng những kiểu nói rất mạnh chỉ rõ cái làm cho người khác biệt hơn cả với nhóm Biệt phái trong sứ vụ của Người nơi dân Israel. “Ta là cửa đàn chiên”. Thiên Chúa đã lùa chiên Ngài vào chuồng chiên chật hẹp của Israel, đặt dưới sự che chở của hàng rào Lề luật trong lúc chờ đợi vị chủ chăn sẽ một ngày kia đem chúng vào những đồng cỏ mênh mông của Giáo hội. Ám chỉ đến lời sấm của Mica (2,13), Chúa Giêsu tuyên bố Người là cửa, là cái phương thế Thiên Chúa thiết định để từ chuồng chiên chật hẹp trên, người ta đi vào nước Chúa bao la to rộng. Chỉ có Người mới đưa tín hữu vào mảnh đất sống rộng lớn ấy, bằng cách cho họ tái sinh bởi nước và Thần khí (3,3-6), hầu họ được cứu rỗi và ma quỷ, họ vui hưởng tự do đích thực của con cái trong nhà Cha (8, 34- 44). Cũng trong Người, họ tìm được thức-ăn no thoả là bánh và nước hằng sống, có sức dập tắt vĩnh viễn cơn đói khát thiêng liêng của con người (6, 35 ; 4, 14).
Mọi công cuộc của Người, đặc biệt nhất là việc ban “bánh sẽ lưu lại trong mỗi người như nguồn sống vĩnh cửu” (6, 27) và việc ban “Thần khí vọt đến sự sống đời đời” (4,14), chứng nhận rằng Chúa Giêsu không có ưu tư nào khác ngoài việc làm cho chiên của Người được sống sự sống thần linh, với một cường độ không ngừng tăng triển, đối lại với những hạng chăn chiên giả chỉ tìm cách sát hại chiên theo sự xúi giục của Satan, tên giết người.
Các ký lục và luật sĩ đã đến trước Chúa Giêsu. Họ là những tay đạo chích: dù không dược Thiên Chúa ủy nhiệm, họ vẫn tự ý đặt mình cai trị dân vì ưa tìm vinh quang và quyền lực hơn là ưu tư thiện ích cho tín hữu. “Trong mọi việc, họ hành động để được người ta để ý … ; họ sinh cỗ nhất trong bữa tiệc, chỗ lớn nơi hội đường, ưa được bái chào ngoài đường phố …, khoái được thiên hạ xưng hô là “Rabbi” … Họ bó những “gánh nặng đặt trên vai người khác, còn chính họ lại không muốn lấy ngón tay đụng vào” (Mt 23,4-7). Họ còn là bọn cướp đến sát hại và hủy diệt, như lời Chúa Giêsu tuyên bố với họ trong những câu mạt sát của Người: “Khốn cho các ngươi, Ký lục và biệt phái giảhình, vì các ngươi khóa nước Trời chặn người ta lại ! các ngươi sẽ chẳng vào đã rồi, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào khốn cho các ngươi, Ký lục và Biệt phái giả hình, các ngươi rảo khắp biển cả đất liền để chinh phục dẫu một người tòng giáo, song khi nó đã tòng giáo, thì các ngươi lại biến nó thành con cái hỏa ngục gấp đôi các ngươi ! … ” (Mt 23, 13- 15).
May thay, các chiên thật đã chẳng nghe theo lũ chăn chiên giả này, vì không nhận ra trong tiếng của họ Lời Mục tử tối cao.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Kẻ nào ngang qua cửa mà vào, kẻ đó mới là người chăn chiên". Câu này phải dịch vậy vì bản văn Hy lạp không có mạo từ trước chữ. "Người chăn chiên”, nhưng đúng hơn nên dịch: "là một người chăn chiên": vì như thế mới thích hợp với hoàn cảnh thực tế của xứ Palestine, bởi có nhiều người chăn cùng nhốt chiên của mình trong cùng một chuồng.
"Kẻ ấy gọi tên từng con". Bản văn Hy lạp viết: katonoma, mà có lẽ đôi khi người ta dịch quá sát chữ là "từng con bằng tên của nó". Thực ra, ngay cả thời bây giờ, mục tử xứ Palestine chỉ đặt tên cho những con chiên chính của đàn. Cha Jaussen có kể ra nhiều thí dụ điển hình trong cuốn Naplouse, tr. 305. Thành thử ở đây nói rằng mỗi con chiên có một tên riêng thì hơi quá đáng. Một vài tác giả ưa dịch "Kat onomat” là từng con một" (BJ) hoặc là "riêng từng con" (Jouon). Dù chọn cách giải thích nào đi nữa, thì ý tưởng chính vẫn là Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến chiều kích cá vị trong mối tương quan giữa Người với các môn đồ, ngược lại với kẻ mị dân chỉ đối xứ với người ta như những đám đông không tên tuổi.
"Bao nhiêu kẻ đã đến, thảy đều là trộm là cướp": Đây không có ý nói về các ngôn sứ của Cựu Ước, nhưng là về những người, trong xã hội Do thái cũng như trong thế giới lương dân, thường tự hào là kẻ mang lại cho con người sự hiểu biết về các thực tại thần linh và ơn cứu độ bằng các phương thế riêng của họ.
KẾT LUẬN
Giữa lòng Israel cũng như giữa lòng Giáo Hội, có hai hạng người: những kẻ thực sự thuộc về đấng chăn chiên, biết đáp lại tiếng gọi của một mình Người, và những kẻ không hề lại vì họ chẳng bao giờ thuộc về Đấng ấy.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Thánh Gioan kể lại cho ta một ám dụ, một kiểu so sánh, điều họa hiếm trong Tin Mừng của ngài. Do đó có thể nghĩ rằng ngài muốn gán cho ẩn dụ này một tầm quan trọng đặc biệt. Dụ ngôn được nói cho người Biệt phái và muốn gởi đến họ một sứ điệp thiết yếu.
Biệt phái tự phụ mình là người hướng dẫn kẻ khác nhân danh Thiên Chúa; họ rất ghen với Chúa Giêsu vì Người được lòng dân và làm họ mất uy tín. Thành thử giữa Chúa Giêsu và họ, có một sự tranh chấp ảnh hưởng. Chúa Giêsu sắp nói rõ cho họ biết họ đã ảnh hưởng ra sao và chính Người đã ảnh hưởng thế nào trên đàn chiên Israel.
2) Chúa Giêsu là cửa vào, Người không loại bỏ một ai khỏi ơn cứu rỗi. "Người đến để tất cả nhân loại có sự sống dồi dào", ngay cả những kẻ Biệt phái vốn từ khước Người. Khi xưng mình là cửa vào, Chúa Giêsu không còn cách nào rõ hơn để xác quyết độc quyền của Người trong việc thông ban ơn cứu rỗi. Người khẳng định rằng người ta không thể tranh chấp với Người được, vì Người là cửa cứu rỗi duy nhất mà tất cả phải chấp nhận đi qua, và không ai có đặc ân được miễn, ngay cả những kẻ xem ra được trao phó một chức quyền thiêng liêng trong cộng đoàn tín hữu.
3) Giáo huấn này rất quan trọng và khẩn yếu. Chúng ta có thật sự tin rằng không có một người hướng dẫn nào khác, một vị Thầy nào khác, một lối đi nào khác cho con người ngoài Chúa Kitô không? Có nhiều Kitô hữu, khi phải nói lên điều này hôm nay, đều cảm thấy hầu như lúng túng; họ có cảm tưởng rằng mình tự gán cho mình nhiều đặc ân và đặc quyền trên những người khác. Vì ước mong hiệp nhất thiếu sáng suốt, vì khoan dung thiếu quân bình hoặc vì lẫn lộn các giá trị nên họ cảm thấy hầu như hổ thẹn về lòng tin của họ vào Chúa Giêsu Kitô. Thật vậy, người ta chẳng bảo rằng mọi tôn giáo đều có giá trị như nhau, mọi học thuyết và mọi Giáo Hội đều chính đáng miễn là ta thành thật đó sao? Nhưng khi xưng mình là cửa duy nhất, Chúa Giêsu đã dẹp tan mọi lối biện luận hồ đồ này. Chẳng phải là tất cả mọi người không mang danh hiệu Kitô hữu cách chính thức đều bị ở ngoài chuồng chiên cả đâu nhưng, Chúa Giêsu muốn nói rằng ngay cả người ngoại giáo nào có thiện chí, người vô thần nào cố gắng sống ngay thẳng theo lương tâm, đều đã chỉ nhờ một mình Chúa Kitô mà được như vậy. Thành ra những ai, thuộc về chuồng chiên của Chúa Kitô mà không ý thức rõ ràng, đều phải qua cửa vào là chính Người vậy.
4) "Chiên Người, Người gọi từng con một". Có nghĩa là Chúa biết mỗi một người cách đặc biệt. Người có thể biết như vậy vì Người là Thiên Chúa. Đó chẳng phải là một sự kiện đánh động chúng ta cách mãnh liệt đó sao?