Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Hiện Xuống ABC Bài 451-500 Chúa Thánh Thần là Đấng Phù Trợ -----------------------------------------
Lễ Vọng: Phúc Âm: Ga 7,37-39; "Phát sinh nước hằng sống"
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Gioan. Vào ngày cuối cùng và trọng đại của dịp lễ, Chúa Giêsu đứng lên giảng lớn tiếng rằng: "Ai khát nước hãy đến cùng Ta và uống; ai tin nơi Ta, thì như lời Thánh Kinh dạy: từ lòng họ nước hằng sống sẽ chảy ra như giòng sông". Người nói điều ấy về Chúa Thánh Thần mà các kẻ tin nơi Người sẽ lãnh lấy, vì bởi Chúa Giêsu chưa được tôn vinh. - Ðó là Lời Chúa.
***** Chính ngày ABC Phúc Âm: Ga 20,19-23: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con: Các con hãy nhận lấy Thánh Thần".
Cách đây 50 ngày, Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu Phục Sinh, và Chúa Nhật tuần trước, lễ Chúa HiệnXuống ABC451
Cách đây 50 ngày, Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu Phục Sinh, và Chúa Nhật tuần trước, lễ Chúa Giêsu lên trời. Hôm nay Giáo hội mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống và cũng là thánh lễ kết thúc Mùa Phục Sinh.
Trong thánh lễ hôm nay, cộng đoàn chúng ta suy ngắm hoạt động của Chúa Thánh Thần trong lịch sử ơn cứu độ, và sự hiện diện hoạt động của Ngài nơi các Tông đồ và trong Giáo hội để chúng ta biết sống niềm tin theo sự hướng dẫn của Ngài.
1. Hoạt động của Chúa Thánh Thần trong lịch sử cứu độ
Chúng ta không thể tìm trong Cựu ước Mạc khải trọn vẹn về Chúa Thánh Thần như trong Tân ước, nhưng chúng ta có thể tìm trong đó rất nhiều tư tưởng phong phú và nhiều màu sắc về thực tại được gọi là Thánh Thần Thiên Chúa.
Trước hết, trong sách Sáng thế, câu đầu tiên ghi: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước.” (St 1,2)
Như vậy, sự hiện diện của “Thần Khí Thiên Chúa” bay là là trên mặt nước là một cách diễn tả quyền năng của Thiên Chúa biến đổi hư vô, tối tăm và sự chết thành sự hữu, ánh sáng và sự sống. Và qua Lời Thiên Chúa phán mọi sự được tạo dựng: Ánh sáng, trời đất, tinh tú, cỏ cây, súc vật…
Còn khi tạo dựng sự sống con người-biến xác thể bùn đất thành thân thể sinh động-Thiên Chúa trao ban hơi thở, Thần Khí của Ngài cho con người để con người có sự sống: “Thiên Chúa đã nắn hình người với bụi lấy từ đất đai và Người hà hơi vào mũi nó và người đã thành mạng sống” (x.St 2,7)
Như thế “thổi hơi” gợi lại công trình sáng thế, đặc biệt với con người. Và qua lời tiên báo về việc tái tạo Israel của ngôn sứ Ezechiel (x.Ed 37,9), ngôn sứ cũng nói về việc Thiên Chúa trao ban Thần khí mới, quả tim mới cho con người. Như thế, Thần Khí Thiên Chúa đã thực hiện việc tạo dựng mới.
Rồi trong Tân ước, cũng chính Thần Khí, hơi thở của Thiên Chúa luôn hiện diện từ khi Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người cho đến ngày Giáo hội được khai sinh.
Mở đầu sứ vụ, Đức Giêsu được Thần Khí Thiên Chúa Thánh hiến và sai đi loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa. Trên bước đường truyền giáo, Ngài đã rao giảng về lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, luôn rộng lượng thứ tha cho người tội lỗi ăn năn hối cải để được ơn tha tội.
Trong ngày Phục sinh, Chúa Kitô sống lại hiện ra với các Tông đồ, Thánh Gioan nhấn mạnh: “Ngài thổi hơi trên họ và nói với họ: Hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Thần Khí nơi Chúa Kitô Phục sinh làm cho các Tông đồ nên những con người mới: từ sợ hãi nên vui mừng hân hoan. Thần Khí đã tác động và biến đổi các Tông đồ kể từ lễ Ngũ Tuần sau Phục sinh, trở thành những chứng nhân can đảm, bất khuất, vượt qua mọi khó khăn, dù bị tù đày để loan báo Tin Mừng (x.Cv 2,28) 2. Chúa Thánh Thần, sức mạnh các hoạt động Tông đồ:
Biến cố Ngũ tuần cũng gọi là lễ Hiện Xuống là bước khởi đầu cho những hoạt động kế tiếp mà Thánh Thần thực hiện trên toàn thế giới và trong cuộc sống con người.
Sách Công vụ Tông đồ mô tả sự kiên này một cách thi vị và theo trình tự thời gian: 40 ngày sau khi sống lại, 10 ngày sau khi lên trời: “Chúa Thánh Thần ngự đến trong khung cảnh tiếng động, gió mạnh và lưỡi lửa đậu trên đầu mỗi người và ai nấy được đầy tràn Thánh Thần” (Cv 2,1-4).
Còn bài Tin mừng thánh lễ hôm nay (Ga 20,19-22), Thánh Gioan tường thuật lại Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra đứng giữa các Tông đồ và nói rằng: “Bình an cho anh em. Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em… Hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Như thế trước lúc về trời, Chúa Giêsu đã truyền cho các Tông đồ rao giảng sự thống hối và làm phép rửa cho muôn dân được tha tội và được ơn cứu độ.
Vì thế, sứ vụ chính yếu của Người Tông đồ là rao giảng sự thống hối và cầu bình an cho mọi người. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Corintô đã quả quyết: “mọi sự đều do tự Thiên Chúa, Đấng đã giảng hoà ta lại với chính mình Người nhờ Đức Kitô và đã ban cho chúng tôi được giúp việc giảng hòa” (2Cr 5,18). Nhưng chỉ trong sức mạnh của Thánh Thần, người Tông đồ mới đảm nhận được sứ vụ cao cả ấy. Chính Thánh Phaolô đã cảm nghiệm được những hoa trái phát sinh khi có Thánh Thần trong mình, Ngài nói: “Hoa trái của Thánh Thần là bác ái, hoan lạc, bình an, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ”.
Ngày xưa, Thánh Thần của Đấng Phục Sinh đã đến, Ngài mở ra cho các môn đệ một chân trời mới của cuộc sống mới. Các môn đệ đã mạnh dạn đi vào thế giới, mang tin vui đến cho mọi người, dù hoàn cảnh có thuận buồm xuôi gió hay gặp những trắc trở gian nan. Ngày nay, người Kitô hữu cũng lãnh nhận Thánh Thần, để có thể đi ra khỏi cánh cửa khép kín vì sợ hãi, mà mở rộng cõi lòng đón nhận và đến với tha nhân với vòng tay nối kết mang nguồn vui ơn cứu độ của Chúa đến cho con người. Do đó, lễ Hiện xuống không chỉ là ngày khai sinh Giáo hội, mà lễ Hiện xuống vẫn đang tiếp diễn, nghĩa là, Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động trong Giáo hội, để canh tân thế giới ngày nay.
3. Vai trò thiết yếu của Chúa Thánh Thần trong đời sống Kitô hữu:
Ngày nay trước viễn cảnh một thế giới ngập tràn bạo lực và khủng bố, chỉ dựa vào những giải pháp trần thế nhân loại không thể đẩy lùi được bao lực và khủng bố, bởi vì “oán không bao giờ diệt được oán”. Vậy chỉ có tình thương tha thứ “dĩ hòa vi quý” mới là giải pháp tối ưu giải quyết tận căn của chủ nghĩa bạo lực và khủng bố.
Do đó, điều quan trong trong công việc: “Tông đồ giáo dân” người Kitô hữu phải trở nên “khí cụ bình an của Chúa” (Mt 10,12; Rm 12,18) phải cảm nghiệm được tình yêu thương của Thiên Chúa đang ở trong mình và biết chia sẻ tình yêu đó với mọi người xung quanh (1Tx 2,8). Để thực thi được sứ mạng đó, Giáo hội phải truyền giáo, nhất là: “Giáo hội tại Châu Á phải là một Giáo hội truyền giáo. Theo ý định của Thiên Chúa là cứu độ hết mọi người, thế mà hôm nay rất ít người Châu Á biết Chúa và tin theo Chúa”. Quả thật Châu Á, trong đó có Việt Nam, có số dân đông nhất năm châu, mà chỉ có 3% dân số tin theo Chúa. Đó là nỗi thao thức của Người Kitô hữu trong Giáo hội.
Vì thế, hơn bao giờ hết, người tín hữu cần ý thức vai trò quan trọng thiết yếu của Chúa Thánh Thần, vì Ngài chính là căn nguyên sự sống và hoạt động của Giáo hội. Không có Thánh Thần thì cũng chẳng có điều chi thành tựu. Ngài đến để thông ban sự sống, để thánh hóa, để canh tân, để khai mở một cộng đoàn gia đình nhân loại mới trong Đức Kitô. Là Thần Chân Lý, Ngài đến để soi sáng cho mọi người biết điều hay lẽ phải, thúc giục người tội lỗi trở về nẻo chính đường ngay, hướng dẫn và đổi mới tâm tư nên người thánh thiện, biến đổi thế giới nên công bình bác ái.
Vậy cộng đoàn phụng vụ hãy mở rộng cõi lòng để đón Chúa Thánh Thần. Xin Người ban lửa thiêng để tấm lòng được ấm áp và lộ trình cuộc đời được soi sáng, tránh xa u mê lầm lạc, luôn biết đi theo và đi đúng con đường Ngài chỉ dẫn.
Hãy canh tân và đổi mới tâm hồn ngõ hầu người tín hữu trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Hãy làm điều gì cho Chúa, cho Hội Thánh và có ích cho anh chị em mình. Cụ thể như tận tình yêu thương, kính trọng phẩm giá của những người bất hạnh, nghèo khổ…
“Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” lệnh truyền đó của Chúa Giêsu hôm nay cũng được chuyển đạt đến người Kitô hữu chúng ta, để chúng ta lên đường với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, chúng ta nhiệt tâm làm chứng cho sự thật, cho Tin Mừng cứu độ của Thiên Chúa trong thời đại hôm nay như các Tông đồ ngày xưa.
Hồng Y Carlo Martini nói: "Kinh nghiệm của Lễ Hiện Xuống (Cv 2,3-13) chính là Tin Mừng truyền HiệnXuống ABC452
Hồng Y Carlo Martini nói: "Kinh nghiệm của Lễ Hiện Xuống (Cv 2,3-13) chính là Tin Mừng truyền thông".
Truyền thông là làm cho con người có khả năng để nghe để hiểu, có khả năng để loan báo và có khả năng để chuyển thông một sứ điệp. Trong ngày Lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần đã khai thông mọi tương giao, phá vỡ bức tường đã bị đóng kín từ sự kiện tháp Babel. Truyền thông Tin Mừng chính là mang tin vui đến cho mọi người.
Năm Thánh 2000, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận giảng tuần tĩnh tâm cho Giáo Triều Rôma, trong bài giảng "Hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần", ngài kể về tác động của Chúa Thánh Thần như một ân ban chuyển thông ánh sáng và niềm tin cho anh chị em người Hmong.
"Chúa Thánh Thần sống và hoạt động trong trái tim những kẻ nghèo nàn và khiêm hạ, trong tâm hồn đạo đức bình dân, trong tình liên đới, trong đau khổ. Ngài ở đó như trạng sư và thông dịch các ứớc muốn và lời cầu xin của chúng ta.
Tôi còn nhớ câu chuyện này.
Một ngày nọ, một cha sở miền Bắc Việt Nam thấy có một nhóm người dân tộc thiểu số Hmong muốn đến gặp ngài. Cha hỏi họ:
- Anh chị em từ đâu đến?
- Chúng con từ Lai Châu, (nơi quân đội Pháp đã thua trận Điện Biên Phủ năm 1954). Chúng con đã vượt núi rừng đi bộ suốt 6 ngày nay.
- Lạy Chúa tôi! Để làm gì vậy?
- Chúng con muốn được rửa tội ngay bây giờ.
- Không thể được! Không có một linh mục hay giáo lý viên nào cả trong vùng của anh chị em, anh chị em không biết gì về đạo hay kinh nguyện, thì làm sao chịu phép Rửa tội được.
- Chúng con đã học tất cả từ một đài phát thanh phát đi từ Phi luật tân.
- Mà đài phát thanh nào? Đâu có đài phát thanh Công giáo nào có chương trình bằng thổ ngữ của anh chị em đâu!"
- Đó là đài phát thanh "Chân Lý".
- Một đài phát thanh Giáo Hội Công Giáo, và bây giờ anh chị em lặn lội đến đây để xin trở thành Công giáo. Thật là điều lạ!
-Vị linh mục thật cảm kích bỗng thốt lên: Đây là một lễ Hiện Xuống mới. Đây chính là tác động của Chúa Thánh Thần!
Rồi cha lại hỏi nhóm người Hmong: Anh chị em có thể ở lại đây lâu hơn không?
- Thưa cha, không the được. Chúng con chỉ đem theo 14 ngày cơm: 12 ngày đi đường và 2 ngày học hỏi và đọc kinh cầu nguyện.
Cả nhóm đã được rửa tội và chịu phép Thêm sức, rồi được dự Thánh lễ đầu tiên trong đời và được rước Mình Thánh Chúa.
- Anh chị em sẽ không có Thánh Lễ nào nữa, anh chị em không có nhà thờ. Anh chị em sẽ làm thế nào?
- Ban chiều tối, chúng con tụ họp nhau từng hai ba gia đình để nghe đài phát thanh và cầu nguyện chung và cùng nhau học hỏi ve đạo. Ngày Chúa Nhật chúng con ra ruộng cày cấy, nhưng đúng 9 giờ 30, chúng con ngưng làm việc thả trâu tự do ăn cỏ và chúng con dự Thánh Lễ qua đài phát thanh Chân Lý phát từ Manila. Một Lễ Hiện Xuống mới của thế kỷ XX." (Chứng Nhân Hy Vọng, trang 235-237).
Hiến chế Tín lý về Mạc khải của CĐ Vaticanô II có nói: "Mạc Khải là việc Thiên Chúa 'Truyền Thông Chính Mình' cho nhân loại" (DV 6). Với biến cố Hiện Xuống, việc truyền thông của Thien Chúa được hoàn tất nơi Đức Kitô và tiếp tục được nối dài trong Giáo Hội nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Lễ Hiện Xuống khai mở những "kênh truyền thông" mới. Vì thế, "Giáo Hội Công Giáo nhận thấy mình có bổn phan dùng các phương tiện truyền thông xã hội để loan báo ơn cứu độ và dạy con người biết sử dụng chúng cho đúng đắn" (Inter Mirifica, số 3). Chúa Thánh Thần là linh hồn Giáo Hội. Ngài tác động và canh tân Giáo Hội thực thi sứ vụ loan Tin Mừng: "Giáo Hội canh tân và thanh tẩy chính mình không bao giờ ngừng dưới hoạt động của Chúa Thánh Thần" (Vui mừng và Hy vọng, 21). Sách Công Vụ Tông Đồ đã minh chứng hùng hồn về điều ấy.
Suốt mùa Phục Sinh, các bài đọc 1 được trích trong sách Công Vụ Tông Đồ.
Một nhà chú giải Thánh Kinh đã gợi hứng đổi Công Vụ Tông Đồ thành Công Vụ của Chúa Thánh Thần. Bốn sách Tin Mừng là Phúc Âm của Chúa Giêsu, còn Công Vụ Tông Đồ chính là Phúc Âm của Chúa Thánh Thần.
Sách Công Vụ Tông Đồ là một trong những tài liệu lịch sử quý giá nhất của Thánh Kinh. Đó là lịch sử hiện hữu duy nhất của Kitô giáo được viết ra trước thế kỷ thứ III. Nhờ đó chúng ta biết rõ sự lớn dậy của Kitô giáo ở Palestina hay về công cuộc Truyền Giáo tại Syria, Tiểu Á, Hylạp và Rôma. Bình minh của một kỷ nguyên mới bắt đầu ló dạng.
Giáo Hội đã sống tuổi thanh xuân của mình giữa lòng Đế quốc Rôma. Giáo Hội đối diện với ba thách đố lớn là Do thái giáo, chính trị Rôma và triết học Hy lạp. Giáo Hội phải bung ra khỏi Do thái giáo, hội nhập vào triết học Hylạp để lan rộng trên toàn đế quốc Rôma. Chỉ vơi những người dân chài Galilê ít học, chỉ với một Phaolô nhiệt thành, thế mà Giáo Hội lớn mạnh không ngừng trước bao thử thách thời đại.
Chính Chúa Thánh Thần đã không ngừng dẫn dắt Giáo Hội. Đúng như lời Thánh Irênê đã nói: "Ở đâu có Thánh Linh của Đức Kitô ở đó có Hội Thánh. Ở đâu có Hội Thánh ở đó có Thánh linh và ân sủng".
Sách Công Vụ Tông Đồ trình bày lịch sử dưới ánh sáng đức tin. Sau khi Phó tế Stêphanô bị ném đá thì khởi đầu cuộc bắt bớ rộng lớn chống Giáo Hội ở Giêrusalem. Cộng đoàn Kitô hữu ở đây bị phân tán, nhiều tín hữu thoát khỏi đô thị đi tìm nơi ẩn náu. Họ đi tới đâu là rao giảng Tin Mừng tại đó. Chính đây là lúc câu nói thời danh của văn hào Tertuliano được ứng nghiệm "Máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống làm nảy sinh các Kitô hữu".
Các cộng đoàn Diaspora được thành lập. Họ hội nhập vào văn hoá địa phương để rao giảng Tin Mừng.
Kinh nghiệm sống đức tin của cộng đoàn tín hữu sơ khai là bài học quý giá cho chúng ta. Họ bị nhận chìm trong gian truân thử thách, nhưng chính lúc ấy họ cảm nhận sự hiện diện và hoạt động mãnh liệt của Chúa Thánh Thần. Như ngọn gió cuốn bay những hạt giống để rồi hạt giống lại gieo mầm sống mới ở nơi khác, ngọn gió Chúa Thánh Thần qua những cơn bách hại cũng mang lại những hiệu qủa lạ lùng. Càng bị bách hại Giáo Hội càng lớn mạnh không ngừng.
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam; sau sắc dụ cấm đạo của vua Cảnh Thịnh, các cuộc bắt đạo gay gắt khiến cho những người tín hữu ở các vùng Quảng Trị, Cổ Vưu, Thạch Hãn, Hạnh Hoa chạy vào rừng núi La Vang để trốn tránh. Đức Mẹ đã hiện ra an ủi, trợ giúp. La Vang đã trở thành trung tâm hành hương của Giáo Hội Việt Nam. Các chỉ dụ cấm đạo dưới thời vua Minh Mạng, Tự Đức đã phân tán các cộng đoàn Kitô hữu. Họ xuôi vào Nam trốn tránh, đen vùng đất mới, rừng thiêng nước độc. Họ khai khẩn điền địa và lập nên những cộng đoàn mới. Nhờ đó, khi các vị Thừa Sai đến Truyền Giáo, hạt giống Đức Tin được nảy mầm và phát triển nhanh chóng.
Như hạt giống gieo xuống đất và chờ đợi, những cơn mưa đầu mùa tuôn đổ, hạt giống âm thầm đón nhận sức sống, nảy mầm, bén rễ, lớn nhanh. Những cộng đoàn tín hữu đang sống đức tin thầm lặng đã gặp được các chủ chăn nên lớn mạnh và nhiều giáo xứ đã được thành lập. Chỉ trong nhãn giới đức tin, chúng ta mới nhận ra sức tác động mãnh liệt Chúa Thánh Thần. Trong mọi thử thách, Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần nâng đỡ. Trong mọi biến cố đau thương, Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần an ủi dẫn dắt. Mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời đều là lời mời gọi, lời nhắn nhũ, lời cảnh báo. Đi tìm Thánh Ý Chúa, con người cần biết giải mã các biến cố ấy trong ánh sáng đức tin.
Ngày nay, có lẽ không còn những cơn bắt bớ và bách hại như xưa. Thế nhưng, những gian nan, những thử thách vẫn không thiếu trong đời sống đức tin. Thời đại hôm nay là thời đại xẻ núi lấp sông, vượt trùng dương, chinh phục không gian, xa lộ thông tin, kỹ thuật số, toàn cầu hoá...Nhưng xã hội hôm nay đang bị tục hoá với muôn ngàn cám dỗ ngọt ngào tinh vi của ma quỹ. Xã hội đang đánh mất chiều kích siêu hình, không còn cảm thức về tội lỗi. Giáo Hoi phải đối diện với một xã hội mà như triết gia hiện sinh Jean Paul Sartre đã nói: "Thiên Chúa phải chết để cho con người được tự do".
Người ta đang xây dựng một xã hội không có Thiên Chúa, tôn giáo bị tách ra khỏi xã hoi. Con người mãi mê chạy theo lối sống hưởng thụ thực dụng, cá nhân chủ nghĩa.
Như thế người Kitô hữu phải sống và diễn tả niềm tin của mình như thế nào đây?
Lời Chúa chiếu ánh sáng soi đường. Chúa Giêsu đã loan báo: "Đấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con" (Ga 14, 26).
Khi được Chúa Thánh Thần đổ tràn ơn thieng trong đời, chúng ta sẽ yêu mến Chúa, được Chúa Cha và Chúa Giêsu ngự đến trong tâm hồn (Ga 14,21), được Chúa ban sự bình an tuyệt vời, bình an không như thế gian ban tặng (Ga 14,27). Chúa Thánh Thần chính là chìa khoá mở ra cuộc sống mới trong Đức Kitô. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta làm được mọi sự trong ân sủng Đức Kitô. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta sống Tin Mừng, vượt qua các thách đố thời đại như cộng đoàn tín hữu sơ khai đã vượt qua mọi trở ngại để loan báo và mở rộng Nước Chúa.
Chúa Thánh Thần luôn bảo đảm cho sự nguyên vẹn của mạc khải. Ngài dẫn dắt Giáo Hội ngay giữa những kênh truyền thông mới mẻ của thế giới kỹ thuật số hôm nay. Kitô hữu phải là con người biết lắng nghe, lắng nghe Thiên Chúa và lắng nghe con người để qua sự hỗ trợ của các phương tiện truyền thông, sứ điệp Tin mừng được lan xa. Các phương tiện truyền thông xã hội như sách báo, phim ảnh, thi ca, nghệ thuật, sân khấu, tuồng kịch, thánh nhạc, kiến trúc, hội họa, truyền thanh, truyền hình, internet...đều có tầm ảnh hưởng lớn đối với công cuộc truyền thông Tin Mừng trong thời đại hôm nay.
Giáo Hội luôn thao thức những vấn đề của thời đại mình đang sống. Chúa Thánh Thần là ngọn gió thổi các cánh buồm của Giáo Hội hướng đến đại dương của "nền văn hóa mới" này.
Thư Chung HĐGMVN 2011 đưa ra định hướng: "Trong tác động của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội tại Việt Nam cần xác tín và sống đúng với căn tính của mình, củng cố sự hiệp thông, phát huy nhiệt tình truyền giáo, để chu toàn sứ vụ yêu thương và phục vụ của Đức Kitô trên đất nước này". (Số 9).
Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình thuộc HĐGMVN đã đưa ra bản "Nhận định một số tình hình tại Việt Nam hiện nay" vào ngày 15/5/2012. Bản Nhận Định đã lần lượt điểm qua tình hình trong các lãnh vực về nền kinh tế Việt Nam, luat đất đai, môi trường xã hội, pháp luật, chủ quyền quốc gia về biên cương và hải đảo, môi trường sinh thái, vai trò của trí thức, giáo dục và y tế, tôn giáo. Trong mỗi lãnh vực, có nhìn nhận những thành tựu, nhưng chủ yếu là vạch rõ, nhiều lúc bằng những ngôn từ mạnh, các mặt tiêu cực bệnh hoạn đang làm cho đất nước lâm nguy. Một điều có ý nghĩa là bản Nhận Định đề ngày "15 tháng 5 năm 2012, kỷ niệm 121 năm Thông Điệp Rerum Novarum". Bức thông điệp của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII được coi như mở đường cho các đường lối, chủ trương và hoạt động xã hội của người Công Giáo từ hơn một thế kỷ nay (Năm ngoái trong Giáo Hội đã có nhiều sinh hoạt để đánh dấu tròn 120 năm ngày công bố thông điệp này; dĩ nhiên Rerum Novarum còn được bổ túc và triển khai liên tục bởi các thông điệp khác sau này, cũng thường được công bố vào các ngày kỷ niệm 15/5, để cập nhật với những biến chuyển của xã hội). Như vậy là khi chọn ngày 15/5 để đưa ra bản Nhận Định, Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình của Hội Đồng Giám Mục đã có ngụ ý kêu gọi Dân Chúa dấn thân phục vụ xã hội ngay trong các lãnh vực mà xã hội chúng ta đang mắc phải những "căn bệnh trầm kha". (Lm Vũ Khởi Phụng).
Ở đâu có Thần Khí là ở đó bừng lên niềm vui. Mùa xuân làm cho vạn vật bừng dậy màu xanh sự sống, Thần Khí làm cho mọi tâm hồn tràn đầy sức sống mới. Gioan Tẩy Giả "nhảy mừng trong lòng mẹ". Đức Maria hát lên bài ca Magnificat. Các Mục đồng hớn hở đi Bêlem. CácTông Đồ trở nên những con người mới. Các Thánh Tử Đạo hiên ngang tiến ra pháp trường. Và chúng ta cũng được trở nên con cái Thiên Chúa, sống chứng nhân cho tình yêu, can đảm loan báo Tin Mừng Phục Sinh trên mọi nẻo đường phục vụ.
Hội thánh được thành lập vào ngày lễ Ngũ Tuần, ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống. Từ đây HiệnXuống ABC453
1. Hội thánh được thành lập vào ngày lễ Ngũ Tuần, ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống. Từ đây với một nhóm người nhỏ bé, dần dần Hội thánh trở nên lớn mạnh và lan rộng khắp nơi. Có thể nói hồn sống và động lực của Hội thánh là Chúa Thánh Thần, đúng như lời Chúa Giêsu đã hứa với các Tông đồ: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn.”(Ga 16,13) Chính vì tin tưởng vào lời hứa ấy mà trải qua bao thăng trầm và biến động suốt mấy ngàn năm lịch sử, Hội thánh vẫn không tỏ ra nao núng. Nếu không có Chúa Thánh Thần và không được Người bảo trợ, Hội thánh đã biến mất từ lâu rồi. Về điểm này, một tác giả đã viết: “Không có Thánh Thần thì Thiên Chúa vẫn còn ở xa, Chúa Kitô vẫn thuộc về dĩ vãng, Tin Mừng là những hàng chữ chết, Hội thánh là một tổ chức đơn thuần, truyền giáo là tuyên truyền, thờ phượng là hồi tưởng, hành động Kitô giáo là một thứ luân lý nô lệ.”1
Nhưng may thay đã có Chúa Thánh Thần và Người vẫn đang hoạt động từ xưa cho đến nay. Thiết tưởng chúng ta nên đọc lại một vài đoạn về Người trong sách Công vụ Tông đồ để thấy được vị trí và ảnh hưởng của Người trong Hội thánh. Sở dĩ nói đến Công vụ Tông đồ vì đó là một cuốn sách trong các sách Tân Ước nói về Chúa Thánh Thần nhiều hơn cả.
Trong mấy câu trích dẫn trên đây, phần trước là lời ngôn sứ loan báo từ ngàn xưa (Ge 3,1-3), phần sau là điều đã được thực hiện thời các Tông đồ (Cv 2). Quả vậy ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống cũng là ngày ứng nghiệm lời loan báo của các ngôn sứ, đặc biệt là ngôn sứ Gio-en (3,1-2). Ơn Chúa Thánh Thần được ban cho mọi người, dù có lúc thánh Phê-rô và các thánh Tông đồ khác chiếm một vị trí riêng và đóng một vai trò nổi bật. Khi giải thích cho quần chúng sự việc đang xảy ra trước mắt họ, thánh Phê-rô loan báo Chúa đã sống lại và cho biết thành quả của cuộc thọ hình là tuôn đổ Thần Khí. Các Tông đồ đã được tràn đầy Thần Khí: “Họ cầu nguyện xong thì nơi họ họp nhau rung chuyển; ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu mạnh dạn nói lời Thiên Chúa.” (Cv 4,31)
Thần Khí được tuôn đổ xuống trên các Tông đồ ngày lễ Ngũ Tuần. Từ ngày ấy về sau, Thần Khí vẫn không rời khỏi các ông, nhưng mức độ cao thấp, mạnh yếu thì có thay đổi lên xuống tùy lúc tùy thời. Điều ấy giải thích được tại sao có phong trào Thánh Linh hiện nay. Tất cả những người đã chịu phép Rửa và phép Thêm sức đều đã nhận được ơn Chúa Thánh Thần, nhưng ơn ấy có thể hoạt động bất cứ lúc nào ở những mức độ khác nhau, theo như gió muốn thổi đâu thì thổi (Ga 3,8) nghĩa là theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.
2. Công vụ 5,3
3 "Ông Phê-rô mới nói: “Anh Kha-na-ni-a, sao anh lại để Xa-tan xâm chiếm lòng anh, khiến anh lừa dối Thánh Thần mà giữ một phần giá thửa đất.”
Trên đây là một câu nói về trường hợp ông Kha-na-ni-a bán đất đem nộp tiền cho các Tông đồ. Nhưng ông không nộp hết, còn giữ lại một phần. Hành động này bị coi như một lời nói dối. Nói dối người đại diện Hội thánh cũng là nói dối Chúa Thánh Thần. Hội thánh và Chúa Thánh Thần đồng hóa với nhau. Sự đồng hóa này cho thấy mối dây ràng buộc Hội thánh với Chúa Thánh Thần chặt chẽ như thế nào, khiến thánh I-rê-nê phải viết: “Ở đâu có Hội thánh, ở đấy có Thần Khí của Thiên Chúa. Ở đâu có Thần Khí của Thiên Chúa, ở đấy có Hội thánh và tất cả nguồn ân sủng của Người. Và Thần Khí chính là chân lý, là sự thật.”2 Nói dối ai là nói dối một người nào đó, ở đây nói dối Chúa Thánh Thần cũng là nói dối một người. Người đó là một Ngôi Vị, Ngôi Ba trong Ba Ngôi Thiên Chúa. 3. Công vụ 5,32 và 15,28
32 “Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng giữ Lời Người.”
28 “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này.”
Thánh Thần được trưng dẫn như người làm chứng và quyết định cùng với các Tông đồ. Như thế có nghĩa là Chúa Thánh Thần đóng một vai trò trọng yếu trong việc điều khiển Hội thánh và các Tông đồ là những người làm việc dưới quyền điều động và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Vai trò và ảnh hưởng của Người thật lớn lao.
4. Cv 8,29.39; 10,19; 13,2-4
29 “Thần Khí nói với ông Phi-líp-phê: “Tiến lên, đuổi kịp xe đó.” 39 Khi hai ông lên khỏi nước, Thần Khí Chúa đem ông Phi-líp-phê đi mất, và viên thái giám không còn thấy ông nữa. Nhưng ông tiếp tục cuộc hành trình, lòng đầy hoan hỉ.”
19 “Ông Phê-rô vẫn còn phân vân về thị kiến thì Thần Khí bảo ông: “Kìa có ba người đang tìm ngươi.”
2 “Một hôm, đang khi họ làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay thì Thánh Thần phán bảo: “Hãy dành riêng Ba-na-ba và Sao-lô cho Ta,để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy làm. 3 Bấy giờ họ ăn chay cầu nguyện, rồi đặt tay trên hai ông và tiễn đi. Vậy, được Thánh Thần sai đi, hai ông xuống Xê-lêu-ki-a, rồi từ đó đáp tàu đi đảo Sýp.”
Đọc những dòng trên đây, chúng ta thấy gì?
Trước hết là thấy Thánh Thần sai đi. Người sai ông Phi-líp-phê đi gặp viên thái giám để làm phép Rửa cho ông ấy. Thứ đến là Người sai ông Phê-rô tới gặp đại đội trưởng Co-nê-li-ô, giảng dạy rồi làm phép Rửa cho ông này và cả gia đình ông. Cuối cùng, Người chọn riêng ông
Phao-lô sai đi giảng dạy các người ngoại giáo.
Như vậy đã rõ là ở đây Chúa Thánh Thần đóng vai trò kêu gọi và sai phái. Người kêu gọi và sai đi làm việc tông đồ. Đó là nhiệm vụ của Hội thánh trong buổi sơ khai và mãi mãi sau này. Nếu không có Chúa Thánh Thần khơi động và thúc đẩy, chắc chắn công việc không thể tiến triển như chúng ta thấy. Vì thế phải nói là Chúa Thánh Thần đóng một vai trò rất quan trọng trong mọi sinh hạot của Hội thánh, nhất là trong công cuộc truyền giáo lúc ban đầu.
5. Công vụ 9,31
3 “Hồi ấy trong khắp miền Giu-dê, Ga-li-lê và Sa-ma-ri, Hội thánh được bình an, được xây dựng vững chắc và sống trong niềm kính sợ Chúa, và ngày một thêm đông nhờ Thánh Thần nâng đỡ.”
Đây là một thời kỳ rất tốt đẹp: “Hội thánh được bình an và xây dựng vững chắc. Không còn hồ nghi gì nữa: cảnh tưởng đó là một ơn huệ lớn lao của Chúa Thánh Thần. Phải có bàn tay của Chúa Thánh Thần, Hội thánh mới được như vậy.
Còn nếu không được như thế thì sao? Đó cũng là do ý của Chúa Thánh Thần. Người muốn như thế để thanh luyện và làm cho Hội thánh ý thức rằng mình không có thành trì nào vững chắc ở trần gian. Có điều, dù vậy, Hội thánh vẫn không bị tan vỡ vì luôn luôn có Chúa Thánh Thần giữ gìn che chở. Người ta bảo rằng ít có khi nào Hội thánh được bằng yên năm mươi năm liền: được bằng yên ở chỗ này thì gặp rắc rối ở chỗ kia. Âu đó cũng là số phận thông thường của Hội thánh, và có như vậy Hội thánh mới tin vào sự nâng đỡ và sức hoạt động của Chúa Thánh Thần mà kiên trì tiến bước. Thông thường người ta dễ ru ngủ mình bằng những thành công và do đấy có thể bị sa lầy lúc nào chẳng hay. Có lẽ vì muốn cho Hội thánh phải luôn luôn cảnh giác mà Chúa Thánh Thần để cho Hội thánh sống trong tình trạng bấp bênh và an ninh tạm thời trong từng gian đoạn, để Hội thánh nhớ rằng mình vẫn phải cậy dựa vào Chúa Thánh Thần. Vả lại, Chúa Giêsu cũng đã nói: “Giả như anh em thuộc về thế gian thì thế gian yêu thương cái gì thuộc về nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em ra khỏi thế gian,nên thế gian ghét anh em.” (Ga 15,19)
Nếu từ trước đến nay, phần đông chúng ta quen nghĩ rằng Thánh Thần xa xôi và trừu tượng lắm, thì bây giờ qua mấy đoạn văn tiêu biểu trích dẫn trong sách Công vụ Tông đồ, chúng ta nên thay đổi lối nhìn và cách nghĩ về Người. Người ở trong chúng ta và giữa lòng Hội thánh. Người đã chỉ huy, điều khiển sinh hoạt của Hội thánh lúc ban đầu và luôn canh chừng Hội thánh trong suốt dòng lịch sử. Gần đây, Qua Công đồng Va-ti-ca-nô II, Người vẫn chứng tỏ sự hiện diện và gần gũi của Người bên cạnh Hội thánh. Nếu hiện nay, có những người thích cầu nguyện chung hay riêng một cách sâu sắc, thích trở về với sự chiêm niệm như xưa và nhấn mạnh đến việc ngợi khen Chúa, ước ao hiến mình trọn vẹn cho Chúa Kitô, luôn sẵn sàng đáp lại tiếng gọi của Thánh Thần, siêng năng đọc Kinh thánh nhiều hơn, tận tâm giúp đỡ anh em và sẵn sàng phục vụ Hội thánh thì chúng ta có thể coi đó là hoạt động kín đáo và mầu nhiệm của Thánh Thần, hồn sống của Hội thánh.3
Cuối cùng, nếu cố gắng mang Thánh Thần ở trong mình, chúng ta sẽ giống như những đồ vật sạch trong, khi được ánh mặt trời chiếu vào, sẽ trở nên rực rỡ và và phát ra một thứ ánh sáng mới. Những ai mang Thần Khí, được Thần Khí soi dẫn thì cũng thành những con người thiêng liêng chiếu giãi ân sủng lên những người khác như vậy.4
Một thiếu nữ mới từ thành phố Paris của nước Pháp trở về. Cả thân xác và tinh thần của Ma-đa-len HiệnXuống ABC454
Một thiếu nữ mới từ thành phố Paris của nước Pháp trở về. Cả thân xác và tinh thần của Ma-đa-len đã bị hao mòn tột độ. Cha mẹ cô lấy làm ghê sợ trước những lời nói phạm thượng và thô tục thường xuyên phát ra từ miệng lưỡi của đứa con hư hỏng.
Một người thuộc làng bên cạnh chỉ quen biết với gia đình Ma-đa-len sơ qua mà thôi, đó là chị Mônica. Mônica cảm thấy không thể dửng dưng trước hiện tượng nói trên. Một hôm, Mônica đến gần căn nhà bi thảm ấy, thì nghe thấy Mađalen đang gào théo một bản nhạc thô tục và chán đời với những điệp khúc gợi cảm nhớp nhúa và khiêu khích. Chị Mônica tự nhiên muốn rút lui nhưng bất ngờ nghe thấy chính tiếng của người mẹ của Mađalen gào thét:
Mày là đồ gái điếm trơ trẽn
- Mày là đồ gái điếm trơ trẽn... có im cái mồm mày đi không?
Mađalen càng giận dữ hét lên:
Bà đừng la lối làm chi mất công! Tôi sẽ tự tử ngay bây giờ đây. Như thế cho tiện. Chẳng phiền hà gì đến ai, cả bà lẫn tôi.
Chị Mônica đứng sững sờ. Nghe những tiếng la hét loại đó, chị không thể không rợn tóc gáy. Chị cảm thấy có bổn phận phải can thiệp. Trước khi gõ cửa, chị hắng giọng để báo trước. Rồi chị bước qua cánh cửa đã bị mọt ăn một cách thê thảm.
Khi ấy Mađalen đang ngồi gần lò sưởi với vẻ giận dữ ghê gớm. Cô đang lồng lộn sẵn sàng tuôn ra những lời thô tục. Nhưng ánh sáng từ cặp mắt của người mới bước vào bao trùm và ngăn cản Mađalen. Mônica tiến lại bên Mađalen với tất cả sự trìu mến như chưa bao giờ người thiếu nữ này đã nhận được từ nơi gia đình mình. Mônica nhẹ nhàng lên tiếng:
- Chị đi ngang qua đây... Em có thể cho chị xin một ly nước được không?
Mađalen đứng dậy lấy nước cho khách. Khách lặng lẽ uống thứ nước táo rữa ấy rồi nói:
- Em vui lòng đan cho chị mấy búp len này. Việc này, bình thường chắc chẳng thích thú gì đối với em. Nhưng chị rất lấy làm quí được có tương quan với em.
Chị Mônica vừa nói vừa tiến lại ngồi trên chiếc ghế thấp bên cạnh Mađalen. Đột nhiên chị ấp ủ đôi bàn tay của Mađalen trong bàn tay của chị và nói:
- Mađalen ơi, em đã đau khổ quá nhiều. Nếu em muốn, em có thể coi chị như một người bạn.
Một sức mạnh tinh thần tỏa ra từ Mônica. Mađalen nghiệm thấy sức mạnh đó nên chấp nhận để yên đôi bàn tay đã trở nên ngoan ngoãn của cô trong bàn tay chị Mônica. Mađalen muốn trả lời nhưng cô nghẹn ngào chỉ còn biết khóc. Những giọt nước mắt lặng lẽ nhỏ dài trên đôi má cằn cỗi của cô. Cô bắt đầu thổn thức:
- Đã ba năm nay, em không thể khóc được!
Đứa con bà giờ đây có thể được cứu
Bà mẹ của Mađalen cũng nức nở. Bà biết rằng đứa con của bà giờ đây có thể được cứu thoát.
Nhân vật Mônica trong câu chuyện nói trên thực tỏ ra là một con người có sức thu hút phi thường. Chỉ xuất hiện trong chốc lát, con người ấy đã hoàn toàn làm chủ được tình hình.
Từ đâu phát sinh ra một ơn biến đổi lạ lùng đến như vậy, cả nơi người con, lẫn người mẹ? Phải chăng đó chính là biến cố của Chúa Thánh Thần Hiện Xuống vẫn còn nối dài trong lịch sử? Chính lúc tội giết chết là lúc Thiên Chúa biểu dương quyền lực để mang lại sự sống cho kẻ tuyệt vọng.
Họ đau đớn hỏi: Chúng tôi phải làm gì?
Xưa tông đồ Phêrô đã đặt người Do Thái vào đúng bối cảnh của tội ác là họ đã giết chết Đấng Kitô của Thiên Chúa nên họ đã đau đớn trong lòng và hỏi ông Phêrô và các tông đồ rằng: "Thưa các anh, vậy chúng tôi phải làm gì?" Rồi Phêrô đã cho họ biết rằng họ phải sám hối và mỗi người phải chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để được ơn tha tội. Và hôm đó đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo (Cv 2,36-41). Nay trong giây phút cực kỳ giận dữ với người mẹ, Mađalen chỉ còn thấy tự sát là con đường duy nhất ở trước mặt. Đó là lúc chị Mônica cảm thấy có sức mạnh nội tâm đòi chị phải can thiệp để cứu sống một linh hồn. Chị là hiện thân của tình yêu và lòng quí chuộng đối với những giá trị cao quí nhất còn thức tỉnh nơi cõi lòng Mađalen. Cuối cùng Mađalen đã chọn tình yêu và sự sống thay vì chọn hận thù và sự chết. Mađalen đã ngoan ngoãn để bàn tay mình ở yên trong lòng bàn tay chị Mônica. Và Mađalen đã khóc trong khi mẹ cô cũng nức nở với hai hàng lệ sám hối. Quả thật, đúng như lời thánh tông đồ Phaolô nói là: "Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội" (Rom 5,20). Tất cả biến cố Chúa Thánh Thần Hiện Xuống đều được tóm gọn trong câu nói đó.
Riêng bài Tin Mừng hôm nay về Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ gồm hai phần. Trước hết Đức Giêsu cho các môn đệ thấy tay và cạnh sườn Người để các ông thâm tín rằng đó là chính Thầy các ông: Đấng đã chịu khổ hình thập giá nhưng nay đã sống lại (cc.19-20). Kế đến Đức Giêsu ban cho các ông Thánh Thần và sai các ông đi với sứ mạng tháo gỡ tội khỏi loài người để họ được tự do (cc.21-23).
Đấng Toàn năng và Toàn mến
cc.19-20 cho thấy một Đức Giêsu không những là Đấng toàn năng mà còn là Đấng toàn mến. Hãy đặt mình vào bối cảnh các môn đệ còn trong tình trạng lo âu sợ hãi. Nguồn gốc của lo âu ấy chính là Thầy các ông: Nếu Thầy các ông mà bị người ta đấu tố, bị lên án và bị giết trên khổ hình thập giá, thì số phận riêng của các ông thật là chao đảo. Nhưng toàn bộ nỗi lo âu sợ hãi đó đã được tháo gỡ nơi Đức Giêsu toàn năng, Đấng đã toàn thắng mọi gian nan thử thách và tử thần! Tùy ở mức độ các môn đệ tin vào quyền năng của Thầy các ông mà các ông được tự do và bình an. Nhưng Thầy các ông nay sống lại còn là Đấng toàn mến. Hãy coi các dấu đinh trên tay, nhất là hãy coi cạnh sườn Thầy bị đâm thâu qua: Tất cả đều cho thấy Thầy các ông là Đấng toàn mến. Không có dấu vết nào nơi hiện hữu của Thầy mà lại không phải là để ban tặng cho các môn đệ: "Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế, bởi phép Đức Chúa Thánh Thần Người đã chịu thai trong lòng Đức Trinh Nữ Maria và đã làm người. Người đã chịu chết thời Phongxiô Philatô..." Đó là lời tuyên tín về Đấng toàn mến như các tông đồ đã để lại.
c. 21 Không chỉ cho các môn đệ thấy Đức Giêsu phục sinh sai phái các ông, mà còn cho thấy việc sai phái đó tiếp nối chính việc Chúa Cha sai phái Chúa Giêsu. Các ông được sai đi để tham dự vào chính công trình cứu nhân độ thế do Chúa phục sinh thực hiện.
Một cuộc tạo dựng mới
c. 22 Chúa Giêsu phục sinh "thổi hơi vào các môn đệ." Ở đây điều được hiểu về một cuộc tạo dựng mới vượt trên cuộc tạo dưng về sự sống tự nhiên (St 2,7; Kn 15,11). Chúa Giêsu ban cho các môn đệ Thánh Thần là nguyên ủy của sự sống mới. Hồng ân Thánh Linh gắn liền với việc các ông được sai phái. Vì lời Đức Giêsu nói là thần khí và là sự sống mới (Ga 3,34; 6,63).
Các môn đệ được sai đi là để rao giảng Lời Đức Giêsu hầu làm cho người nghe trở nên Con Thiên Chúa (x. Ga 13,20).
c. 23 Đức Giêsu đã được ông Gioan Tẩy Giả giới thiệu là Chiên Thiên Chúa Đấng xoá tội trần gian (Ga 1,29). Các môn đệ của Đức Giêsu sẽ tiếp tục sứ mạng của Đức Giêsu là ban ơn tha tội. Quyền năng được ban cho các ông để tha tội gắn liền với Chúa Thánh Linh là Đấng thanh luyện và ban sự sống cho loài người (Ed 36, 25-27; 37, 3-6).
Như vậy việc cô Mađalen ra mềm lòng đã là một ơn lạ lùng. Nhưng ơn đó cần được tiếp nối bằng quá trình gặp gỡ Chúa Giêsu là Đấng toàn năng và toàn mến. Người mới có những lời mang lại sự sống đời đời (Ga 6,68). Chính do Người mà ơn tha tội được ban ngang qua những thừa tác viên được Người sai phái.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Điều gì nơi cách hành xử của chị Mônica đã khiến cô Mađalen ra mềm lòng: Cái nhìn trìu mến đầu tiên? Một số hành vi nhờ cậy trong tầm tay của Mađalen như xin một ly nước, yêu cầu đan mấy búp len? Lời đề nghị đáp ứng đúng nhu cầu nơi Mađalen là "Em đã đau khổ quá nhiều. Nếu em muốn, em có thể coi chị như một người bạn"? Hay bạn nghĩ tới những điều khác?
2. Theo tinh thần của bài Tin Mừng hôm nay điều gì cần được tiếp nối cuộc biến đổi đầu tiên nơi Mađalen? Gặp gỡ Đức Kitô trong cầu nguyện hàng ngày? Trở nên người môn đệ của Chúa Giêsu qua việc hấp thụ lời Người giảng dạy? Chịu phép rửa tội? Lãnh nhận bí tích hoà giải? v.v...
Gió, Lửa và Nước “bộ ba độc đáo” gồm những thứ mềm nhất và bình thường nhất, nhưng đó lại HiệnXuống ABC455
Gió, Lửa và Nước “bộ ba độc đáo” gồm những thứ mềm nhất và bình thường nhất, nhưng đó lại là những thứ mạnh nhất và quan yếu nhất trong cuộc sống, ba thứ ấy mạnh đến nỗi không gì có thể cưỡng lại.
GIÓ có thể tiếp nhận, thổi bay và chuyển hóa mọi thứ, dù những thứ xấu xa và dơ bẩn nhất. Gió luôn tự hào, không buồn khổ hay tủi nhục. Gió có dung tích rộng lớn, gọi là Đại Phong, có khả năng di động và chuyển hóa phi thường.
LỬA có thể tiếp nhận và đốt cháy mọi thứ, dù những cái xấu xa và dơ bẩn nhất. Lửa không vì thế mà cảm thấy buồn tủi, chán chường, hoặc ghen ghét. Lửa có dung tích rộng lớn, gọi là Đại Hỏa, có khả năng thiêu đốt và chuyển hóa tất cả mọi thứ.
NƯỚC có thể tiếp nhận và rửa sạch mọi thứ, dù những cái xấu xa và dơ bẩn nhất, người ta có đổ xuống nước mọi thứ nhưng nước vẫn bình thản, không lệ thuộc hoặc cảm thấy oán hờn, tủi nhục. Nước cũng có dung tích rộng lớn, gọi là Đại Thủy, có khả năng di động và chuyển hóa kỳ diệu.
Gió, Lửa và Nước luôn dạy chúng ta nhiều bài học sống: Nếu tâm chúng ta có khả năng chuyển hóa và di động, chúng ta cũng có thể tiếp nhận và chuyển hóa tất cả mọi thứ đau khổ mà người khác trút lên chúng ta, và những thứ ấy không thể gây xáo trộn tâm hồn chúng ta, không thể tước mất sự bình an và hạnh phúc trong tâm hồn chúng ta: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu” (Rm 8:39).
Nước liên quan Phép Rửa, cũng gọi là Bí tích Thánh tẩy: “Khi Đức Giêsu chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra. Ngài thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Ngài” (Mt 3:16). Như vậy, Nước cũng liên quan Chúa Thánh Thần. Những gì đơn giản nhất thường bị coi thường. Chúa Thánh Thần cũng thường không được chúng ta “nhắc tới”, dù Ngài không ngừng hoạt động trong cuộc đời chúng ta. Hãy thành tâm thân thưa với Chúa Thánh Thần: “Lạy Ngôi Ba Thiên Chúa, chúng con xin lỗi Ngài!”.
TIẾP NHẬN THÁNH THẦN…
Sách Công vụ Tông đồ kể: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một” (Cv 2:1-3).
Hai hình ảnh xảy ra liên tiếp: Gió và Lửa. Gió là không khí. Không khí là thứ tối cần thiết, vì thiếu không khí trong vài phút thì người ta không thể sống nổi. Làn gió do quạt máy không làm người ta sảng khoái, nhưng chỉ một chút gió hiu hiu cũng đủ làm người ta tỉnh táo và cảm thấy hồi phục ngay. Tuy nhiên, nếu gió mạnh quá thành lốc hay bão thì chẳng gì có thể chống lại, cả tòa nhà cao lớn cũng bị gió thổi sập trong tích tắc. Lửa làm người ta ấm áp trong mùa Đông giá lạnh, một đốm lửa dễ dàng bị thổi tắt, nhưng đốm lửa đó cháy lan như những vụ hỏa hoạn thì con người chỉ biết đứng nhìn mà “cười ra nước mắt”. Nước cũng rất mềm, dễ ngăn cản, ai muốn làm gì thì làm, nhưng một khi Nước “nổi giận” thì con người không thể ngăn cản, chạy cũng không kịp: Triều cường, vỡ đê, lụt lội, sóng thần,…
Gió, Lửa và Nước như thế đấy, vừa yếu vừa mạnh, vừa mềm vừa cứng. Và đó chính là Thần Khí Chúa, là Đức Chúa Thánh Thần, là Thánh Linh, là Thần Chân Lý, là Ngôi Ba Thiên Chúa.
Khi Gió thổi tới và Lửa đậu trên đầu thì mọi người được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho. Hiện tượng “nói tiếng lạ” xảy ra ngay lập tức, nhiều người ngạc nhiên và hỏi nhau: “Thế nghĩa là gì?” (Cv 2:12), nhưng một số khác lại chế nhạo: “Mấy ông này say bứ rồi!” (Cv 2:13). Không lạ sao được khi họ nói đủ thứ tiếng vậy mà họ vẫn hiểu nhau, đặc biệt là ai nghe cũng thấy họ nói tiếng của mình. Nhưng tất cả là để “loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!” (Cv 2:11; Tv 86:11).
Có Chúa Thánh Thần thì người yếu đuối cũng thành khỏe mạnh, người nhút nhát cũng thành người bạo dạn, người run sợ cũng thành người can đảm. Chắc hẳn mỗi chúng ta cũng đã từng cảm nghiện được Chúa Thánh Thần tác động như vậy. Vì thế, chúng ta phải thốt lên: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi! Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!” (Tv 104:1). Thiên Chúa tạo dựng mọi thứ, nếu “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi” (Tv 104:29). Thật vậy, “sinh khí của Ngài do Ngài gửi tới, chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này” (Tv 104:30). Chính Chúa Thánh Thần là Đấng canh tân mọi thứ, chúng ta có làm được gì cũng là nhờ Ơn Chúa, do đó chúng ta phải quyết tâm: “Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Ngài vui thoả, đối với tôi, niềm vui là chính Chúa” (Tv 104:34).
… ĐỂ SỐNG CHỨNG NHÂN
Chúa Giêsu đã nhiều lần động viên chúng ta: “Đừng sợ!” (Mt 10:26; Mt 10:28; Mt 10:31; Mt 14:27; Mt 17:7; Mt 28:5 & 10; Mc 5:36; Mc 6:50; Lc 1:13 & 30; Lc 2:0; Lc 5:10; Lc 12:4; Lc 12:7; Lc 12:32; Lc 21:9; Ga 6:20). Sách Khải Huyền nhắc lại và giải thích: “Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ” (Kh 1:17-18). Lúc sinh thời, chính Chân phước GH Gioan Phaolô cũng rất thích câu nói đó: “Đừng sợ!”. Không sợ thì mới dám “vào đời”, dám “ra khơi”, dám hành động và dám bảo vệ công lý, dám sống theo chân lý của Thiên Chúa (Tv 26:3).
Thánh Phaolô nói: “Tôi xin nói với anh em là hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thoả mãn đam mê của tính xác thịt nữa” (Gl 5:16), và giải thích: “Tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn” (Gl 5:17). Thánh Phaolô nói chi tiết hơn: “Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn, thì anh em không còn lệ thuộc Lề Luật nữa. Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy” (Gl 5:18-21a). Chắc chắn rằng “những kẻ làm các điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa” (Gl 5:21b).
Trên đây là những điều ngược với Chúa Thánh Thần, còn những điều thuận với Chúa Thánh Thần? Đó là “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5:23). Tất nhiên, chẳng có luật nào chống lại những điều như thế – dù là luật đời. Thánh Phaolô nói: “Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê” (Gl 5:24). Trong Chuỗi Mân Côi, ở mầu nhiệm thứ 5 của Mùa Thương, Giáo hội dạy: “Ta hãy xin cho được đóng đinh tính xác thịt vào Thánh giá Chúa”. Đó là từ bỏ chính mình theo tác động của Chúa Thánh Thần. Và “nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước. Chúng ta đừng có tìm hư danh, đừng khiêu khích nhau, đừng ganh tỵ nhau” (Gl 5:25-26).
Chúa Giêsu đã hứa: “Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Ngài là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Ngài sẽ làm chứng về Thầy” (Ga 15:26). Và Ngài cũng đã giữ đúng lời hứa đó. Nhưng Ngài cũng trao trách nhiệm cho mỗi chúng ta: “Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu” (Ga 15:27). Sống chứng nhân là bổn phận chung. Chúa Giêsu nói “anh em” không có nghĩa là chỉ có phái nam, còn phái nữ “khỏe re”. Lúc đó Ngài nói với các Tông đồ nên chỉ nói “anh em”, không có từ “chị”, nữ giới đừng vì thế mà “tự ái”, “đùn đẩy” hoặc “né tránh” trách nhiệm. Nhưng ngày nay phải được hiểu là “anh chị em” (ngôi thứ hai số nhiều – you, vous, vosotros, voi), cả nam và nữ.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã nhắn nhủ: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi” (Ga 16:12). Ngài biết chúng ta “không có sức chịu nổi” vì chưa được lãnh nhận Thần Chân Lý. Ngài xác định: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Ngài sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Ngài sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Ngài nghe, Ngài sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. Ngài sẽ tôn vinh Thầy, vì Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga 16:13-14). Vì Ba Ngôi là Một nên Chúa Giêsu nói: “Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy” (Ga 16:15a). Và một lần nữa, Chúa Giêsu nhắc lại: “Ngài lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga 16:15b). Vậy là đã rõ ràng và chắc chắn, đúng như Đức Kitô đã hứa: “Thầy ở cùng anh chị em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28).
Lạy Chúa, xin soi sáng và dẫn chúng con đi theo đường chân lý của Ngài (Tv 25:5). Cuộc sống phàm nhân luôn nhiêu khê đủ thứ, xin Chúa luôn đồng hành và nâng đỡ chúng con theo đúng Thánh Ý của Ngài, để chúng con can đảm thể hiện yêu thương mọi người trong từng nhịp thở. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
Lễ Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Tin Mừng (Ga 20,19-23) gợi lại cho chúng ta việc Chúa HiệnXuống ABC456
Lễ Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Tin Mừng (Ga 20,19-23) gợi lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu ban Bí tích Thêm Sức đầu tiên cho các Tông đồ, và mời gọi chúng ta nhớ lại Bí tích Thêm Sức chính chúng ta đã lãnh nhận, cùng mong ước mỗi chúng ta dùng ơn Thánh Thần mà sinh hoa kết trái trong đời sống Đức Tin. Mỗi tín hữu được lãnh Bí tích Thêm Sức như Ấn Tín Chúa Thánh Thần với nguồn Bảy Ơn cao trọng ơn Khôn Ngoan, ơn Hiểu Biết, ơn Biết Lo Liệu, ơn Sức Mạnh, ơn Thông Minh, ơn Đạo Đức và ơn Biết Kính Sợ Chúa. Bí tích Thêm Sức chỉ lãnh nhận một lần trong đời, nhưng hiệu quả thì trường cửu, ấn tín không hư mất.
Như vậy, ơn Chúa Thánh Thần đã ban sẵn sàng cho mỗi tín hữu như một vốn liếng quý giá, như gói tư trang thiêng liêng để mỗi tín hữu được trưởng thành hơn, vững vàng hơn khi bước vào cuộc đời để sống Đức Tin và làm chứng cho Thiên Chúa.
Thế nhưng, thiết tưởng, trong khi Chúa Thánh Thần không hề quên chúng ta, thì ngược lại chúng ta quên Chúa Thánh Thần. Bởi, ơn thì đã nhận, nhưng nhận rồi để đấy hay cất đâu đấy, không dùng, hoặc không ý thưc mình cần phải dùng, nên mới có nguy cơ chuốc lấy những thất bại trong hành trình Đức Tin.
Còn tệ hơn nữa, đôi khi ta không dùng ơn Khôn Ngoan của Chúa Thánh Thần để xua trừ sự dại dột trong ta, mà còn kiêu căng cậy dựa, khoe khoang tự đắc về sự khôn ngoan của mình, nên chi, chúng mình đã tự lao đầu vào vực trầm luân dại dột.
Các Ơn khác của Chúa Thánh Thần cũng vậy, phải là nguồn sức thiêng kỳ diệu giúp chúng ta vượt qua những thử thách, gian nan và anh dũng bước đi trong ân sủng, trong bình an chứ? Tại sao các tín hữu của Chúa lại vong ân bội nghĩa đến mức vô tâm vô tình với 7 Ơn cao trọng như thế?
Mỗi khi làm việc gì, ta đọc, ta hát kinh Đức Chúa Thánh Thần, hoặc kinh “Cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con đặng biết việc phải làm…”, nhưng trong thực tế, chúng ta lại muốn làm việc chúng ta thích làm, hơn là chịu làm theo sự hướng dẫn của Thần Khí.
Đến khi vỡ chuyện rồi, thất bại rồi, có người vẫn chưa ngộ ra lý do vì chúng ta đã cậy sức mình quá lẽ, mà không cậy vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Mẹ tôi dặn: “Mỗi khi con cầu nguyện với Chúa Thánh Thần và thinh lặng lắng nghe Ngài hướng dẫn, ấy là một lần con được thêm sức”.
Cụ thể hơn, trong suốt cuộc đời, từ trẻ làm Nữ Hộ Sinh ở Bệnh viện Grall Qui Nhơn, cho đến lúc về già làm “Bà Mụ Vườn”, mẹ tôi vẫn thầm thĩ nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần trong từng ca giúp người ta sinh nở. Có lần mẹ tôi kể cho chị em chúng tôi: “Bệnh viện thì xa, phương tiện không có, mà thai có dấu hiệu nguy tử trong bụng rồi, mẹ chỉ còn cách xin Chúa Thánh Thần giúp cho biết phải làm gì để cứu sống cả mẹ cả con. Và chỉ trong một thoáng rất nhanh, Người đã giúp Mẹ có giải pháp tức khắc. Kết quả là tốt đẹp. Mẹ tròn, con không được vuông lắm, nhưng cứu kịp. Chúa Thánh Thần tinh thông mọi nghề nghiệp, mọi công việc và Người có đủ giải pháp tốt nhất cho mọi tình huống con à!”
Lời mẹ tôi dặn ngày ấy, tôi nghĩ, đã được rút ra từ những kinh nguyện Chúa Thánh Thần và kinh nghiệm sống của mẹ trước những thách đố hết sức gay go của đơi sống Đức Tin.
Vâng, bóng tối ngập tràn thế gian. Tội lỗi chồng chất. Đau thương ngút ngàn. Mỗi tâm hồn, mỗi gia đình đều có mảng tối đang bao vây, đang che chắn ánh sáng của Tin Mừng, ánh sáng thiêng liêng của nguồn Bình An. Nhưng dù cửa nhà ta, cửa cõi lòng ta có đóng kín như cửa nhà các môn đệ Chúa Giêsu vì sợ hãi hay vì một lý do nào khác, thì Chúa Giêsu vẫn có thể hiện đến và ban Thánh Thần của Thiên Chúa cho chúng ta.
Tại sao chúng ta đóng kín cửa, vô tâm với Chúa Thánh Thần, hoặc không màng đến nguồn trợ lực thiêng liêng, quý giá của Chúa Thánh Thần? Vì cảnh nghèo khổ cơ bần chăng? Hay vì những đau thương quá sức chịu đựng của kiếp người không còn phẩm giá, nhân vị, hoặc trong tình trạng thấp dưới mức bình thường? Vì bị xem thường, đàn áp, có la đến khản giọng khàn hơi cũng không hề nghe được lời đáp cứu chăng?
Trong phút giờ bi đát ấy, có bao giờ ta khẩn thiết kêu cầu đến Chúa Thánh Thần: “Lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; Đấng ban ân huệ, Đấng soi sáng tâm hồn, xin ngự đến!” Và có lúc nào chúng ta nhận ra mình đang có được Chúa Thánh Thần là “Đấng an ủi tuyệt vời, là khach trọ hiền lương của tâm hồn, là Đấng uỷ lạo dịu dàng, là sự nghỉ ngơi trong cảnh lầm than, là niềm an ủi trong lúc lệ rơi” như một lần được thêm sức chưa?
Hãy khiêm tốn nhìn nhận sự yếu hèn của mình, để khẩn khoản sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Hãy thinh lặng cung kính đi vào lối sâu thẳm của thượng trí Thiên Chúa để nhận ra trí hiểu biết bé nhỏ nông cạn của mình. Hãy loại trừ tính chủ quan kiêu căng về khả năng, quyền lực của mình, để đón nhận Ánh Sáng Người soi dẫn.
Xin chia sẻ một chút, chúng tôi là một nhóm làm công việc hơi chuyên biệt, và may mắn là chúng tôi có một anh trưởng nhóm rất đạo đức, quen gọi là anh Ba. Anh Ba có nhiều sáng kiến hay, kế hoạch mới, và cũng đã có nhiều sáng kiến, kế hoạch luôn thành công tốt đẹp. Tuy nhiên, không phải là tất cả. Một lần, anh Ba đưa ra một kế hoạch, một dự phóng để anh em bàn bạc. Đa số không thuận vì thấy không khả thi. Anh Ba mời mọi người vào phòng cầu nguyện, xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Sau một giờ thinh lặng cầu nguyện, anh Ba trở lại phòng họp và tuyên bố: “Như vậy là đúng ý Chúa Thánh Thần rồi. Chúng ta chỉ việc bắt tay vào thực hiện thôi”. Hơn một năm thực hiện, xảy ra bao điều bất ổn, có thể nói là kế hoạch ấy… thất bại! Chúng tôi ngồi lại với nhau để rút kinh nghiệm: Đừng áp đặt ý chủ quan của mình thành ý của Chúa Thánh Thần. Nhưng cũng qua lần thất bại ấy, chúng tôi như được thêm một lần thêm sức.
Quả thực, nếu thành tâm với Chúa Thánh Thần trong hành trình Đức Tin, cách nào đó, chúng ta được ơn nhận ra sự can thiệp kỳ diệu của Chúa Thánh Thần trong mọi tình huống và mỗi lần ấy, như một lần thêm sức.
Anh N., hơn 30 năm ca trưởng nhiệt thành của một giáo xứ trong 5 giáo xứ kỳ cựu nhất giáo phận, có tuổi hơn một thế kỷ, tâm sự với tôi chuyện gia đình:
“Anh ơi, em bị cha sở phạt “thẻ đỏ” rồi anh H. ơi, phải “ra sân” hội đồng mục vụ, “ra sân” cả bên ca đoàn nữa, chỉ vì con gái em nó lỗi luật. Đã vậy, nhà trai không cho con họ theo Đạo, đòi cưới luôn, không phép tắc. Để giữ thai đứa cháu ngoại 4 tháng, vợ chồng em đành buông xuôi, mặc họ tổ chức đám cưới bên nhà họ. Mình không làm gì. Em đã trình bày với cha sở, nhưng cha khuyên em nên nhận… “thẻ đỏ” để làm gương! Một tháng nay rồi. Phó thác het cho Chúa, nhưng vẫn không thấy bình an. Mấy ngày đầu nản lắm, tủi nhục tư bề, đau khổ triền miên, vợ chồng em mất ăn mất ngủ. Sau một tuần kinh nguyện, em ngộ ra điều này: nơi đâu có tội lỗi, nơi đó có ân sủng. Ân sung chắc chắn không qua con đường Bí tích, vì tình trạng tội lỗi của con gái em, nhưng em tin và cầu nguyện với Chúa Thánh Thần, Người sẽ giúp con gái của em làm chứng cho Chúa trong gia đình nhà người ta. Vậy, em yên tâm được một chút rồi, mới gọi điện chia sẻ với anh đây”.
Ước gì mỗi chúng ta nhận ra điều kỳ diệu của Chúa Thánh Thần trong thế giới hôm nay, như anh bạn ca trưởng đã khám phá chiều kích mới của ân sủng: Sự can thiệp Chúa Thánh Thần trong mọi tình huống, như một lần thêm sức.
Lạy Chúa Thánh Thần, “Cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con đặng biết việc phải làm, cùng khi làm, xin Chúa giúp đỡ, cho mỗi kinh mỗi việc chúng con từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen”.
Nhiều năm trước đây Leonard LeSourd, cựu chủ bút tờ Guidepost, ngồi ăn tối với mười người khác HiệnXuống ABC457
Nhiều năm trước đây Leonard LeSourd, cựu chủ bút tờ Guidepost, ngồi ăn tối với mười người khác. Họ đang bàn tán về một cuốn phim về Đức Giêsu. Bỗng dưng một phụ nữ trẻ, hiển nhiên là nhàm chán cuộc đối thoại, lên tiếng, “Nói cho cùng, có ai muốn giống Đức Giêsu đâu?” Một sự im lặng nặng nề lan ra cả phòng. Sau đó cuộc đối thoại chuyển sang một hướng khác.
Về sau LeSourd tự nhủ, “Tại sao nhận xét của người phụ nữ đó đã tạo nên một sự im lặng nặng nề?”
Ông kết luận rằng, một số người cảm thấy bị đe doạ bởi nhận xét đó. Những người khác, có lẽ, cũng nhàm chán cuộc đối thoại như bà này. Và những người khác nữa đã không biết nhiều về Đức Giêsu để thấy rằng họ có thích Người hay không.
Sau đó LeSour tự hỏi mình về sự hiểu biết về Đức Giêsu. Ông kết luận rằng, trong cuộc đời ông từng biết đến năm Đức Kitô.
Đầu tiên ông gặp Đức Giêsu trong lớp giáo lý. Ông được giới thiệu về Đức Giêsu dưới hình thức một người có cái nhìn nghiêm khắc mà hình ảnh được treo đầy trên các tường lớp giáo lý.
Hình ảnh Giêsu này không tạo được một ấn tượng nơi đứa trẻ chín tuổi mà nó chỉ thích chơi banh hơn là tìm hiểu về một người đã sống cách đây 2,000 năm trong một nước thật xa.
Và vì vậy Đức Giêsu đầu tiên mà LeSourd biết đến là một “Đức Kitô không có thật”, chỉ hiện diện trong tâm trí non nớt của ông.
LeSourd gặp Đức Giêsu thứ hai trong khuôn viên đại học. Đây là Đức Kitô trong lịch sử. Đó là Đức Kitô có ấn tượng mạnh mẽ trên lịch sử đến nỗi ngay cả những người không phải là Kitô Hữu cũng gọi Người là “nhân vật vĩ đại nhất lịch sử.”
Nhưng Đức Kitô lịch sử này không chạm đến ông LeSourd một cách cá biệt. Người cũng chỉ là một vĩ nhân, giống như Lincoln. Ông nói, “Đưa Đức Kitô vào khung cảnh này là một giải pháp đơn giản trong thời gian đại học và bốn năm làm phi công cho Không Quân. Đức Giêsu lịch sử này không dính dáng đến bất cứ gì tôi muốn thi hành.”
Và như thế Đức Kitô thứ hai mà LeSourd gặp là “Đức Kitô lịch sử.”
LeSourd gặp Đức Kitô thứ ba sau khi ra khỏi quân ngũ, ông kiếm được một công việc với tờ Guidepost là phỏng vấn người ta về đức tin. Trong thời gian phỏng vấn này, ông ngạc nhiên khi biết nhiều người thành công trong đời đã sống theo những giảng dậy của Đức Giêsu.
Không bao lâu, ông thấy mình tìm đọc Phúc Âm để biết nhiều hơn về những giảng dậy này. Và như thế LeSourd gặp Đức Kitô thứ ba là “Đức Kitô bậc Thầy”.
LeSourd gặp Đức Kitô thứ tư trong cuộc tĩnh tâm. Chủ đề của buổi tĩnh tâm là cam kết với Đức Giêsu. Trong buổi tĩnh tâm, một người trẻ đứng lên và nói với người khác nghe làm thế nào anh đã đi đến một nguyện đường, quỳ xuống, và cam kết cuộc đời cho Đức Giêsu.
LeSourd cảm thấy bối rối vì sự hoàn toàn cởi mở của người trẻ này. Nhưng đồng thời, ông cũng muốn có được điều mà người trẻ này đã tìm thấy trong nguyện đường đó.
Bởi thế, trước khi cuộc tĩnh tâm chấm dứt, LeSourd đến một nhà nguyện, quỳ xuống, và cam kết cuộc đời mình cho Đức Giêsu. Ông nhớ lại giây phút không thể quên đó như sau:
“Tôi thấy mình ở trong nhà nguyện, quỳ trước bàn thờ, nói lời cầu thật đơn sơ, ‘Lậy Chúa, con không biết làm thế nào con lại ở đây, nhưng con muốn trao phó cuộc đời của con cho Chúa.’”
Và như thế LeSourd gặp gỡ Đức Giêsu thứ tư. Đó là “Đức Kitô Cứu Thế”. Đó là Đức Kitô đã sống trong ông một cách sâu xa và riêng tư.
Từ ngày đó trở đi, Đức Giêsu trở nên tâm điểm và hướng đi đời ông.
Và như thế sự hiểu biết của LeSourd về Đức Kitô đi từ “Đức Kitô không có thật” đến “Đức Kitô lịch sử” đến “Đức Kitô bậc Thầy” và đến “Đức Kitô Cứu Thế.”
Điều này đưa chúng ta đến Đức Kitô thứ năm và sau cùng. LeSourd gặp gỡ Đức Kitô sau cùng một cách bất ngờ.
Một ngày kia ông thấy mình bị cám dỗ dữ dội. Đó là loại cám dỗ lớn mà tất cả chúng ta đều thỉnh thoảng cảm thấy.
LeSourd cảm thấy mình sa ngã. Ông cuống cuồng tìm đến điều gì đó để bám víu vào. Ông tìm thấy điều đó trong sự cam kết mà ông đã thực hiện với Đức Giêsu nhiều năm trước đây trong cuộc tĩnh tâm.
Ông cũng tìm thấy những điều khác nữa. Ông đã tìm thấy sự tương giao ý nghĩa nhất chưa từng có với Đức Giêsu.
Đó là sự tiếp xúc với “Đức Kitô ở bên trong”. Đó là sự tiếp xúc với Đức Kitô Phục Sinh, là người đã khởi sự sống ở bên trong các môn đệ khi Chúa Thánh Thần ngự xuống trên họ vào Chúa Nhật Hiện Xuống cách đây 2,000 năm.
Giờ đây mọi sự trong Tân Ước bắt đầu phù hợp với nhau. LeSourd nhìn thấy làm thế nào các Tông Đồ thường cam kết với Đức Giêsu trong sự tha thiết bất chợt. Nhưng khi sự cám dỗ lớn đến với họ, họ đã rơi vào con đường cũ.
Giuđa phản bội Đức Giêsu, Phêrô chối bỏ Người, và phần còn lại đã bỏ trốn.
Mãi cho đến ngày Hiện Xuống, khi các ông nhận được Thần Khí của Đức Giêsu, lúc đó các Tông Đồ mới thực sự biến đổi.
Vào ngày Hiện Xuống đầu tiên 2,000 năm trước, thần khí của Đức Giêsu phục sinh bắt đầu ngự trong các môn đệ cách mạnh mẽ.
Và đó là điều chúng ta cử mừng hôm nay. Chúng ta mừng ngày quan trọng đó trong lịch sử Kitô Giáo khi, qua sự ngự đến của Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu phục sinh bắt đầu ở trong các môn đệ với một sự hiện diện cá biệt.
Chúng ta có thể so sánh sự gia tăng từ từ của LeSourd trong sự hiểu biết về Đức Giêsu với năm giai đoạn tăng trưởng của một thực vật.
Đức Kitô đầu tiên, “Đức Kitô không có thật” của thời thơ ấu của ông, tương ứng với hạt mầm của cây này. Đó chỉ là khởi đầu.
Đức Kitô thứ hai, “Đức Kitô lịch sử”, tương ứng với thân phát sinh từ hạt giống.
Đức Kitô thứ ba, “Đức Kitô bậc thầy”, tương ứng với nụ hoa mà nó từ từ sẽ hình thành ở đầu cuống hoa.
Đức Kitô thứ tư, “Đức Kitô Cứu Thế”, tương ứng với bông hoa nở ra từ nụ.
Đức Kitô thứ năm, “Đức Kitô ở bên trong”, tương ứng với trái cây được hình thành từ bông hoa của cây này.
Chính giai đoạn thứ năm và sau cùng này mà chúng ta mừng lễ Hiện Xuống. Đó là sự hiện diện của “Đức Kitô ở bên trong” trong Hội Thánh như một tổng thể và trong mỗi người chúng ta một cách riêng tư.
Ngày xưa, cách đây hơn 2.000 năm, có một chú bé người Phi châu tên là Emmanuel dễ thương và HiệnXuống ABC458
Ngày xưa, cách đây hơn 2.000 năm, có một chú bé người Phi châu tên là Emmanuel dễ thương và hay thắc mắc, tò mò. Ngày nọ, chú đã hỏi vị thầy giáo trong làng: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?”. Thầy giáo chỉ biết gãi đầu và nói: “Nói thực là Thầy không biết”. Sau đó Emmanuel đến với nhà trí thức, các bậc trưởng thượng trong vùng cũng với câu hoi đó, nhưng tất cả chẳng ai biết. Và thế là chú lang thang từ vùng này qua xứ nọ để tìm cho được câu trả lời cho vấn nạn: “Thiên Chúa nói bằng ngôn ngữ nào?”. Nhưng từ Đông sang Tây, từ châu lục này đến châu lục kia… Emmanuel vẫn chưa nhận được câu trả lời.
Thế rồi một đêm nọ, sau khi đã kiệt sức vì muôn dăm đường dài, Emmauel cũng đến được một thành phố nhỏ nọ, tên là Bêlem. Chú bé cố đi tìm một chỗ nghỉ đêm trong quán trọ. Nhưng cac quán trọ đều cửa đóng then cài vì đầy người. Thế là chú bé Emmanuel đành lặn lội ra giữa cảnh đồng hoang tìm một cái hang ngoại thành để qua đêm. Tới mãi khuya chú mới tìm được một cái hang đang còn leo lét bóng đèn dau. Nhưng khi bước vào, thì ra trong hang đã có một đôi vợ chồng và một hài nhi bé tí mới sinh đang trú ngụ. Nhìn thấy chú, bà mẹ trẻ liền nói: “Hân hạnh đón chào Emmanuel, chúng ta đang mong chờ con”.
Chú bé quá sửng sốt! Làm sao bà nầy biết tên chú? Và chú càng ngạc nhiên hơn khi nghe bà nói: “Đã từ lâu con đi tìm kiếm khắp thế giới để hỏi xem Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Giờ đây, hành trình của con kể như đến đích, vì đêm nay chính mắt con đã thấy được Thiên Chúa nói bằng thứ ngôn ngữ nào. Ngài nói bằng “ngôn ngữ tình yêu”. Bởi vì “Thiên Chúa đã yêu thế gian đên nổi đã ban Con Một” (Ga 3,16).
Trái tim Emmanuel trào dâng xúc động. Chú vội vã quỳ gối xuống trước hài nhi và mừng rỡ khóc lên. Giờ đây, chú đã biết rằng thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu, thứ tiếng mà mọi người thuộc bất cứ dân tộc hay thời đại nào cũng đều có thể hiểu được…
Và thế la Emmanuel vui mừng ở lại hang Bêlem vài ngày để giúp Đức Maria và Thánh Giuse, sau đó đã lên đường loan báo cho mọi người “Tin Mừng” vừa mới nhận được: Thiên Chúa nói bằng ngôn ngữ tình yêu. Emmanuel đã ra đi trong tâm niem rằng: “Nếu tôi muốn kể cho mọi người biết Chúa dùng thứ tiếng nào để nói, thì chính tôi cũng phải nói bằng thứ tiếng Chúa nói, tức ngôn ngữ của tình yêu. Bởi đó chính là thứ tiếng duy nhất mà mọi người trên thế gian đều hiểu được. Và kể từ ngày đó, trên muôn dặm đường dài cuộc sống, Emmanuel đã dùng “ngôn ngữ tình yêu’ để nói và sống với mọi người…
Thế giới mà chúng ta đang sống hôm nay có quá nhiều thứ ngôn ngữ: ngôn ngữ chính trị, ngôn ngữ ngoại giao, ngôn ngữ làm ăn, ngôn ngữ thương mại, ngôn ngữ bụi đời… Và cũng vì có quá nhiều thứ ngôn ngữ mà lại thiếu vắng ngôn ngữ tình yêu nên đã xảy ra bao nhiêu là tấn thảm kịch: chiến tranh, khủng bố, bạo lực, bóc lột, kỳ thị, hận thù… Đứng trước một thế giới như thế, phải chăng sứ điệp của ngày Lễ Hiện Xuống là một nhắc bảo, một gọi mời để tất cả chúng ta hãy tìm lại thứ ngôn ngữ của Thiên Chúa đã dùng để nói với chúng ta: ngôn ngữ tình yêu.
Quả thật, ngôn ngữ của chính trị, ngoại giao, thương mại, kinh tế, đảng phái… không bao giờ là ngôn ngữ của yêu thương, hoà bình, khoan dung, tha thứ. Nếu có chăng, thì chỉ là những hư từ rỗng tuếch, mị dân, giả dối để che đậy những âm mưu đen tối bên trong.
Cũng vì lẽ đó mà ngang qua biên giới của các dân các nước trên thế giới hôm nay, vẫn còn ngổn ngang những tháp “Babel dang dở của tình liên đới, hoà bình, hiệp nhất”.
Ai cũng biết, nhân loại đã có một thời thất bại khi cùng nhau xây tháp Babel. Lý do đơn giản vì “ngôn ngữ bất đồng” và không ai hiểu được tiếng nói của nhau (x. St 11,1-8).
Trước khi xảy ra sự kiện đó, Kinh Thánh đã nói với chúng ta rằng: có một nguyên do đã làm cho con người thay đổi cái ngôn ngữ thuở ban đầu Thiên Chúa đã dạy cho: nguyên do đó chính là tội lỗi. Chính tội lỗi đã khiến Ađam không còn nhìn nhận Eva như “xương bởi xương mình, thịt bởi thịt mình” để bao bọc, chở che, mà sẵn sàng đỗ thừa để khỏi dây dưa hệ luỵ: “chính người đàn bà…”. Cũng chính tội lỗi đã khiến người anh ruột Cain đã không còn nói với em là Abel bằng ngôn ngữ của huynh đệ tình thâm, máu mủ ruột thịt, nhưng bằng ngôn ngữ của ghen tương, đố kỵ đến nổi ra tay sát hại em ruột giữa cánh đồng.
Quả thật khi con người không còn nói Lời của Thiên Chúa, không còn sử dụng ngôn ngữ của Thiên Chúa, ngôn ngữ của những người con cùng một Cha, ngôn ngữ của anh chị em trong một mái nhà của gia đình Thiên Chúa… thì tội lỗi và sự chết đã nhập vào thế gian.
Và Thiên Chúa đã hoạch định cả một chương trình kỳ diệu để “Lời của Thiên Chúa”, để ngôn ngữ của Thiên Chúa được sử dụng trên trần gian hầu mang sự sống lại cho nhân loại.
Phải chăng, để khởi đầu cho lộ trình dài thăm thẳm đó, Thiên Chúa đã dùng dòng nước vĩ đại của cơn Đại Hồng Thuỷ để thanh tẩy địa cầu; tiếp theo là ngọn lửa hỏa hào với cuồng phong sấm nổ trên đỉnh núi Sinai để hình thành một dân tộc của Giao ước tiến về hứa địa. Nước đại hồng thuỷ hay lửa trên đỉnh Sinai đều là nhưng chuẩn bị và báo trước dòng nước sống và lửa thanh tẩy của Thánh Thần trong thời Giao ước mới.
Thật vậy, kể từ phép rửa khai mạc sứ vụ cứu thế của Chúa Giêsu nơi dòng sông Giođan; hay chính xác hơn, kể từ khi có những dòng “máu và nước tuôn ra từ trái tim của Đấng Bị Đóng Đinh”, Lời của Thiên Chúa đã tái lập sự sống, ngôn ngữ của Thiên Chúa đã chiến thắng tội lỗi, sự chết, hận thù, chia rẽ… Kể từ dạo ấy, kẻ nào “đến với Ngài và tin vào Ngài thì từ nơi họ sẽ tuôn chảy một nguồn nước sống”. Nguồn nước sống ấy chính là sức mạnh của Chúa Thánh Thần, sức mạnh tác sinh sự sống từ cõi chết, sức mạnh tẩy sạch tội khiên, sức mạnh dựng xây hiệp nhất.
Trước cửa nhà các Thánh Tông đồ hôm nay, sách Công vụ Tông đồ đã mô tả thật chính xác, thật sinh động về cuộc khai trương một “công trình Babel mới” mà tất cả các công nhân trên công trường này cho dù muôn phương cách biệt, muôn sắc tộc, màu da… đều có thể nghe và hiểu chung một sứ điệp, một Tin Mừng do các Tông đồ loan báo, những người được chính Đức Kitô ban tặng Thánh Thần trước tiên ngay khi Ngài vừa mới sống lại: “Anh em hãy lãnh nhận Thánh Thần…”; những người mà hôm nay, Chúa Thánh Thần đã long trọng tuôn xuống bằng những hình lưỡi lửa để biến đổi toàn diện con người các ông và trao cho các ông sứ vụ loan báo Tin Mừng và xây dựng Hội Thanh: “… vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa” (Cv 2,11).
Một nhân loại bị phân tách và chia rẽ của tháp Babel ngày xưa giờ đây được Chúa Thánh Thần quy tụ về mot mối nhờ hồng ân của nhiệm tích Thánh Tẩy. Từ đây, đoàn Dân Mới này sẽ nói với nhau bằng một thứ ngôn ngữ mới, ngôn ngữ của Tin Mừng, ngôn ngữ tình yêu của con cái Thiên Chúa.
Thế nhưng xem ra, sau 2.000 năm, Hội Thánh, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh, miệt mài với công trình xây dựng Vương quốc Thiên Chúa, dạy dỗ và quảng bá ngôn ngữ của Tin Mừng của Đức Kitô, xem ra nhân loại chưa đón nhận và thực hiện được bao nhiêu. Ngươi ta còn dành lại cho mình quá nhiều thứ ngôn ngữ ích kỷ, kiêu căng, hẹp hòi và thù ghét.
Vì thế, “Ngày Lễ Ngũ Tuần” lại cần thiết biết bao phải được thể hiện trên mọi miền Giáo Hội, trên mọi cộng đoàn Dân Chúa. Tất cả mọi thành phần Hội Thánh cần phải được Ngọn Lửa của Thánh Linh thanh tẩy thường xuyên để tẩy sạch những cáu bẩn của kiêu căng và tự ái, của giả hình và thoả hiệp, của mị dân và trần tục, của khiếp nhược và bất khoan dung…
Nói cách khác, phải để Chúa Thánh Thần làm nguyên lý sự hợp nhất trong Giáo Hội chứ không phải nhân danh một thế lực hay một trào lưu, một ý thức hệ nào, bởi vì mọi đặc sủng và ơn thánh đều bắt đầu từ mot Thần Khí, một Chúa là Thiên Chúa duy nhất.
Khẳng định trên đây của Thánh Phaolô không phải chỉ mang tính thời sự trong bối cảnh của cộng đoàn Kitô Côrintô đang gặp sự chia rẽ mà phải chăng, đang rất thời sự trong bối cảnh Giáo hội Việt Nam và Hội Thánh hoàn vũ. Qua ơn thánh của Bí tích Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể, mọi tín hữu phải ý thức trở lại sự hiệp nhất này, sự hiệp nhất trong Chúa Giêsu Kitô, Con Người mới, Ađam mới, ông tổ của một nhân loại mới.
Chính trong ý hướng này, chúng ta cùng lặp lại lời cầu nguyện trong kinh Ca tiếp liên để cầu cho nhau và cho Hội Thánh:
Xin Chúa rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa cho lành nơi thương tích. Xin uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng, chỉnh đốn lại chỗ trật đường. Xin Chúa ban cho các tín hữu, là những người tin cậy Chúa, được ơn bảy nguồn. Xin ban cho họ được huân nghiệp nhân đức, được hạnh phúc cứu độ và được hoan hỉ đời đời. Amen. Alleluia!
Một ngày nọ, một Cha sở Miền Bắc Việt Nam thấy có một nhóm người dân tộc thiểu số Hmông HiệnXuống ABC459
Một ngày nọ, một Cha sở Miền Bắc Việt Nam thấy có một nhóm người dân tộc thiểu số Hmông muốn đến gặp ngài. Cha hỏi họ:
“Anh chị em từ đâu đến đây?”
“Chúng con đến từ Lai Châu (Tây Nam giáp Điện Biên Phủ). Chúng con đã vượt núi rừng đi bộ suốt 6 ngày nay”
“Lạy Chúa tôi! Để làm gì vậy?”
“Chúng con muốn được rửa tội ngay bây giờ.”
“Không thể được, không có một Linh mục hay giáo lý viên nào cả trong vùng anh chị em. Còn anh chị em không biết gì về đạo hay kinh nguyện, thì làm sao chịu phép rửa tội được?’
“Chúng con đã học tất cả từ đài phát thanh phát đi từ Phi Luật Tân.
“Mà đài phát thanh nào? Đâu có đài phát thanh Công Giáo nào có chương trinh phát bằng thổ ngữ anh chị em đâu!”
“Đó là đài phát thanh “Nguồn Sống.”
“Một đài phát thanh Tin Lành, và bây giờ anh chị em lặn lội đến đây để xin trở lại Công Giáo. Thật là điều lạ!”
Vị Linh mục thật cảm kích bật thốt lên: “Đây là một lễ Hiện Xuống Mới. Đây chính là tác động của Chúa Thánh Thần! Chúa Thánh Thần!” Rồi cha lại hỏi đám người Hmông:
“Anh chị em có thể ở lại đây lâu hơn không?”
“Thưa cha không thể được. Chúng con chỉ đem theo 14 ngày cơm: 12 ngày đi đường và 2 ngày học hỏi và đọc kinh cầu nguyện.” Cả nhóm đã được Rửa Tội và chịu phép Thêm Sức, rồi được dự Thánh lễ đầu tiên trong đời và được rước Mình Thánh Chúa.
“Anh chị em sẽ không có Thánh lễ nào nữa, anh chị em không có nhà thờ, anh chị em sẽ làm thế nào?
“Ban chiều tối, chúng con tụ họp nhau từng hai ba gia đình, để nghe đài phát thanh và cầu nguyện chung, và cùng nhau học hỏi về đạo. Ngày Chúa Nhật, chúng con ra ruộng cày cấy, nhưng đúng 9 giờ 30, chúng con ngưng làm việc, thả trâu tự do ăn cỏ và chúng con dự Thánh le qua đài phát thánh Chân Lý, phát từ Manila.”
Chúa Thánh Thần sống và hoạt động trong trái tim những kẻ nghèo nàn và khiêm hạ, trong tâm hồn đạo đức bình dân, trong tình liên đới, trong đau khổ. Ngài ở đó như trạng sư và thông dịch các ứớc muốn và lời cầu xin của chúng ta. (TGM Fx Nguyễn Văn Thuận, Chứng Nhân Hy Vọng)
Trong thời đại thông tin toàn cầu, Lời Chúa được phát đi bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, thậm chí cả những thổ ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam, như tiếng Hmông, Sê Đăng, Gia rai,… Đó là dấu chỉ rất rõ ràng một Lễ Hiện Xuống Mới trên Giáo Hội Việt Nam. Những giọt máu đào của các vị Tử Vì Đạo tiền nhân hào hùng, đã nhờ Chúa Thánh Thần, biến thành những hạt giống Đức Tin đâm chồi nảy lộc trên cao nguyên Tây Bắc xa xôi, hẻo lánh.
Tin Mừng theo Thánh Gioan của lễ Hiện Xuống hôm nay, thuật lại khi các Tông Đồ đang còn hoảng hốt, lo âu, sợ hãi, cửa đóng then cài, thì Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra, chúc bình an đến hai lần. Bình an trong bối cảnh khốn quẫn, khắc nghiệt, cũng như bình an ra đi phiêu lưu rao giảng. Đức Giêsu trao ban Thánh Thần làm Đấng Phù Trợ an ủi: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.”
Đấng Phù Trợ
Trong hai chương 15 và 16 Tin Mừng Thánh Gioan, Đức Giêsu ân cần, cặn kẽ giới thiệu tầm quan trọng vô cùng của Đức Chúa Thánh Thần. Ngài là Đấng Phù Trợ và là Thần Chân Lý của các Tông Đo và tín hữu Kitô. Với làn gió mạnh, những Lưỡi Lửa biểu hiện, Đức Chúa Thánh Thần đã tác động tích cực đến các Tông Đồ vào ngày lễ Ngũ Tuần (Cv 2, 1-13). Các ngài liền mở toang cửa, can đảm bước ra ngoài, rao giảng cho toàn thể đông đảo dân chúng tứ phương, vốn bất thân thiện, đang tham dự đại lễ tại Giêrusalem. Lạ lùng thay, bất cứ dân nước nào, dân tộc nào hiện diện, cũng hiểu được lời rao giảng nhiệt thành của các Tông Đồ.
Đức Chúa Thánh Thần đã thực sự nâng đỡ, trợ giúp, hồi sinh, cải hoá, đổi mới tâm hồn, cũng như phục sức, tăng lực cho các Tông Đồ, vốn rất yếu đuối, sợ hãi, thất vọng sau cuộc khổ nạn của Thầy Giêsu. Biến đổi thật ngoạn mục, thật kinh ngạc, các ngài trở nên chứng nhân anh dũng của Đức Giêsu - Chịu - Đóng - Đinh.
Ngài còn hiệp nhất tất cả Kitô hữu nên một Hội Thánh trong tình yêu vô biên của Thiên Chúa. “Vì chưng trong cùng một Thánh Thần, tất cả chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể, cho dù là Do thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do: tất cả chúng ta được tràn đấy một Thần Khí duy nhất.” (1Cr 12, 13)
Ngài đem lại những điều tích cực, thiết yeu và khởi sắc cho những mối tương quan nhân loại, giữa cộng đồng, gia đình, bằng những hoa thơm trái ngọt quý giá: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ.” (Gl 5, 22-23)
“Con hãy hợp tác để tạo nên “Mùa Xuân Mới” cho Hội Thánh. Con hãy chuẩn bị các tâm hồn đón nhận “Một lễ Hiện Xuống Mới” trong Hội Thánh. Con hãy nên cánh cửa mở ra, để đón làn gió mát dịu ngập tràn, làm tươi sáng Hội Thánh.” (Đường Hy Vọng, số 657)
Thần Chân Lý
Nhờ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống, các lời giảng dạy của Chúa Giêsu trước kia mới được giải mã, ngời sáng, như gạt giống được gieo vào lòng đất tốt đủ độ ẩm yêu cầu, mới có the nảy mầm đâm chồi, xanh tốt vươn lên. Ngài soi sáng mở lòng các Tông Đồ nhận biết chân lý muôn thuở, sự thật về Đức Giêsu, ý thức về Thiên Chúa Ba Ngôi, Giao Ước mới, Luật mới, cũng như sứ vụ phải thực hiện. Đồng thời, Ngài đã khai sinh ra Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền, hiện diện trong môi trường thế gian thù nghịch, như ánh sáng xua tan bóng tối.
Thần Chân Lý sẽ giảng giải cho tất cả những người thiện tam, mong đợi chính đạo, sự thật và sự sống, Ngài còn đóng vai trò ngôn sứ, tiên báo, cảnh giác. Ngài cũng tôn vinh Chúa Giêsu: ‘Khi Thần Chân lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật, vì Người không tự mình ma nói, nhưng Người nghe gì thì sẽ nói vậy, và Người sẽ bảo cho các con biết những việc tương lai. Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con.” (Ga 16, 13 -14)
Ngài còn là Trạng Sư, tận tình bào chữa, bảo vệ, bênh vực người Kitô hữu trước thế gian thù địch, đố kỵ, ganh ghét, đổ vạ cáo gian. Hơn nữa Ngài còn thánh hoá người Kitô hữu trở nên con cái Thiên Chúa."Khi người ta đưa anh em ra trước hội đương, trước mặt những người lãnh đạo và những người cầm quyền, thì anh em đừng lo phải bào chữa làm sao, hoặc phải nói gì, vì ngay trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy cho anh em biết những điều phải nói." (Lc 12, 11-12)
“Thời đại mới, nhu cầu mới, phương pháp mới. “Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế,” và Ngài ban cho Hội Thánh lễ Hiện Xuống mới. (Đường Hy Vọng, số 296)
Lạy Đức Chúa Thánh Thần, xin tái hiện xuống chúng con hằng ngày, hằng giờ, để chúng con luôn được tái sinh, luôn can đảm sống theo Lời Chúa, Tông truyền và giáo huấn Hội Thánh, xin thánh hoá chúng con trở nên chứng nhân hy vọng đích thực và chân truyền.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đầy ơn phúc Đức Chúa Thánh Thần, xin Mẹ cầu bầu cho chúng con cũng được lãnh nhận tràn trề bảy Ơn Đức Chúa Thánh Thần: “khôn ngoan, hiểu biết, lo liệu, sức mạnh, thông thái, đạo đức, và kính sợ Thiên Chúa,” để chúng con luôn nồng nàn kính mến, tôn thờ Chúa và yêu thương phục vụ tha nhân. Amen.
Lễ Chúa Thánh Linh Hiện Xuống phát xuất từ Lễ Pentecost của người Do Thái. Pentecost là từ HiệnXuống ABC460
Lễ Chúa Thánh Linh Hiện Xuống phát xuất từ Lễ Pentecost của người Do Thái. Pentecost là từ ngữ Hy Lạp có nghĩa là 50, quen gọi là Lễ Ngũ Tuần. Đây là lễ kết thúc mùa thu hoạch, khởi đầu từ Lễ Vượt Qua trước đó 50 ngày. Lễ này dần dần được mặc nhiều đặc tính tôn giáo để kỷ niệm việc Chúa ban hành Thập Giới tại núi Sinai qua Maisen và việc Chúa thiết lập Israel làm Dân Riêng Chúa tuyển chọn. Những đặc tính của Lễ Pentecost được Kitô Giáo canh tân bằng nhiều ý nghĩa mới có tính cách tôn giáo như sau:
* Hoa Mầu của mùa thu hoạch được thay thế bằng những Hồng Ân của Chúa Thánh Linh ban xuống cho con cái được tuyển chọn. * Luật Cựu Ước xưa được thay thế bằng Tân Luật Yêu Thương của Chúa Kitô. * Dân Riêng Israel được thay thế bằng Dân Thánh mới là Giáo Hội Công Giáo Chúa Kitô thiết lập.
I. XIN CANH TÂN BỘ MẶT THẾ GIỚI
Hôm nay, chúng ta hân hoan cùng với toàn thể Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ, long trọng mừng Lễ Chúa Thánh Linh Hiện Xuống, chúng ta thành tâm tha thiết dâng lên Chúa lời nguyện cầu: "Lạy Chúa, xin sai Thánh Thần Chúa đến và xin canh tân bộ mặt thế giới!"
Tại sao thế giới chúng ta đang sống hôm nay lại cần phải được canh tân, được đổi mới? Như chúng ta đã thấy, thế giới vật chất ngày càng được văn minh tiến bộ: Các nhà khoa học mỗi ngày lại khám phá ra được những sự kỳ diệu trong thiên nhiên, phát minh ra những máy móc tân kỳ, đơn giản và tiện lợi, giúp cho đời sống con người ngày càng thoải mái, dễ chịu và hạnh phúc. Người ta còn chế tạo ra được những phản lực cơ, những hỏa tiễn để thám hiểm không gian, đổ bộ tới các hành tinh để gây thế lực kiểm soát được các quốc gia yếu kém hơn mình. Cậy vào những phát minh tân kỳ khoa học đó, con người lại sinh lòng kiêu căng tự phụ, quá tự tin vào tài năng và khoa học với trí óc hạn hữu của mình, trở nên mù tối, dám chối bỏ cả Thiên Chúa, phủ nhận quyền năng và công trình sáng tạo của Ngài đã được hiện thể trong vũ trụ bao la như những dấu tích của lòng Ngài yêu thương nhân loại.
Chính vì lòng kiêu căng vô ơn đó, mà những văn minh khoa học, đã không làm cho con người được hạnh phúc; mà trái lại, còn làm cho con người ngày càng thêm mê tín dị đoan, đến nỗi tôn thờ khoa học, nô lệ cho bản ngã hư hèn, coi vật chất và thụ tạo như chúa tể. Họ đã biến thế giới này trở thành cổ hủ, lỗi thời, với biết bao tệ đoan, đồi phong bại tục, các triết thuyết lầm lạc, luân lý đồi bại... Tất cả các tội lỗi này đang dâng lên trời cao, trêu cơn nghĩa nộ Thiên Chúa, đáng Chúa trừng phạt, đúng như lời Đức Mẹ đã mạc khải tại La Salette và Fatima.
II. MỆNH LỆNH CẢI THIỆN ĐỜI SỐNG
Thời Giáo Hội sơ khai, Chúa Thánh Linh đã hiện xuống Giáo Hội để trào đổ muôn ơn phúc xuống trên các Tông Đồ, các Môn Đệ, các Tín Hữu với biết bao sự lạ lùng, những phép lạ phi thường; biến cải các Tông Đồ từ những con người hèn nhát, sợ sệt, yếu đuối, dốt nát trở nên dũng cảm, anh hùng, khôn ngoan, thông thái; can đảm làm chứng nhân cho Chúa, sẵn sàng liều mạng sống mình vì vinh danh Thiên Chúa. Nhờ ơn Chúa, các ngài đã thực hiện biết bao phép lạ phi thường, nhưng luôn luôn với một lòng khiêm nhu thánh thiện, để chứng minh cho chân lý các ngài rao giảng, khiến mọi người sửng sốt bỡ ngỡ thán phục, ăn năn sám hối tội lỗi, trở về với Thiên Chúa.
Ngày nay, dù nhân loại kiêu căng tội lỗi, mặt đất đã ra ô uế đồi bại, nhưng tình Chúa yêu thương nhân loại vẫn không nỡ giáng phạt cân xứng với tội phạm; Chúa Kitô đã gởi Mẹ Ngài đến ban bố mệnh lệnh cải thiện đời sống, kêu gọi loài người cấp tốc, bỏ đàng tội lỗi, trở về làm hòa với Thiên Chúa, để đáng được lãnh nhận ơn tha thứ và hưởng sự bình an hạnh phúc chân thật của ơn làm con Chúa.
Nhưng sứ điệp Mẹ ban truyền tại Fatima đã được loài người hưởng ứng và tuân theo tới mức nào? Là con cái Chúa, là con ngoan thảo của Mẹ, chúng ta đã làm gì để hài lòng Chúa và Mẹ? Chúng ta đã đáp lại lời kêu gọi cải thiện đời sống của Mẹ tại Fatima chưa? Mỗi ngày chúng ta hãy tự kiểm điểm, để chân thành trả lời đúng với tiếng lương tâm trước tôn nhan Chúa và Mẹ.
III. NGHĨA VỤ TIẾP TỤC SỨ MẠNG CỨU THẾ
Lời Chúa phán với các Tông Đồ qua sứ điệp Tin Mừng, hôm nay Chúa cũng phán với mỗi người chúng ta: "Các con hãy nhận lãnh Chúa Thánh Linh" (Jn 20:22). Rồi Chúa cũng trao cho chúng ta sứ mạng tông đồ: "Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con!" (Jn 20:21). Mỗi người chúng ta đều đã đón nhận Chúa Thánh Linh và các ơn Ngài ban, được trở nên con Chúa ngày chúng ta lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy; được trở nên chứng nhân, nên người truyền bá Danh Chúa cho muôn dân khi chúng ta lãnh Nhiệm Tích Thêm Sức. Không những chúng ta có nghĩa vụ phải cải thiện đời sống, phải đổi mới tâm hồn, phải canh tân cuộc sống, mà chúng ta còn có nghĩa vụ phải cộng tác với toàn thể Giáo Hội, tiếp tục Sứ Mạng Cứu Thế Chúa đã ủy thác; chinh phục các linh hồn trở về với Chúa, tức là làm cho thế giới được đổi mới, được canh tân, được nên tốt đẹp, xứng đáng là Vương Quốc Chúa Kitô hiển trị.
Tại thành phố Tokyo, Nhật Bản, có một khu phố thật nghèo nàn, bẩn thỉu, dơ dáy với biết bao điều thương luân bại lý, khiến ai cũng chán ghét khinh bỉ, không ai thèm nhòm ngó quan tâm đến, ngoại trừ những cảnh sát an ninh luôn rình rập để chặn bắt những kẻ phạm pháp trong các băng đảng trộm cắp, cướp của giết người. Vì thế, nơi đây người ta đã đặt cho nó cái tên là "Ổ Chuột" hay "Sào Huyệt Du Đãng".
Nhưng trong lúc mọi người đều khinh bỉ, thì cô Maria, một nữ sinh viên trong đại học y khoa, lại thường hay lui tới quan sát thăm hỏi vào những ngày rảnh rỗi cuối tuần. Động lòng thương những con người xấu số, cô đã quyết định bỏ học, để đến đây sống với họ trong cảnh nghèo nàn bẩn thỉu. Cô đã đi gõ cửa từng nhà, kêu xin những nhà hảo tâm, các cơ quan từ thiện để có được những quần áo, đồ dùng, tiền bạc đem về giúp đỡ họ. Chỉ sau một thời gian vắn, cái "Ổ Chuột" và "Sào Huyệt Du Đãng" dơ dáy nghèo nàn bẩn thỉu này đã biến đổi, cảnh nghèo khó bớt dần, những tội ác không còn nữa và đặc biệt hơn hết, nhiều người đã tìm thấy chân lý, tự nguyện xin học giáo lý để trở lại Công Giáo. Mọi người đều cảm phục trước tấm lòng hy sinh cao cả của cô nữ sinh viên trẻ tuổi, đến nỗi họ tôn cô như một vị Đại Ân Nhân và như một bà Mẹ Hiền của họ, ai cũng mến phục và tôn trọng nghe lời cô. Nhưng mới chỉ thời gian chưa đầy một năm phục vụ những con người xấu số tại đây, vì quá lao tâm lao lực lo cho họ, cô đã lâm bệnh và qua đời cách thánh thiện. Mọi người đều thương tiếc và tôn trọng cô như một vị Thánh, như một sứ giả hòa bình và tình yêu thương Chúa sai đến để cải hóa, để canh tân trần gian. Đức Tổng Giám Mục Giáo Phận Tokyo đã đích thân đến chủ tọa Lễ An Táng và ca ngợi công đức của cô, cùng với nhiều vị quan khách trong Giáo Quyền cũng như trong Chính Quyền và một số đông đảo quần chúng từ khắp nơi đổ về, vì đã từng nghe biết danh tiếng và ngưỡng mộ cô.
Kết Luận
Là những bậc phụ huynh, chúng ta đã nỗ lực tìm cách biến đổi gia đình chúng ta nên tốt đẹp, thuận hòa, hạnh phúc chưa?
Là những con cái Chúa, chúng ta đã nỗ lực làm việc tông đồ để Chúa được vinh danh, góp công vào việc canh tân thế giới, cải thiện nhân loại, xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn trong hòa bình chân chính, xứng đáng trở nên một Vương Quốc thánh thiện của Chúa Kitô nơi trần gian, như sứ điệp Mẹ Maria đã ban truyền tại Fatima chưa?
Có một câu truyện kể rằng: Một hôm thần dữ Xa-tan triệu tập tất cả các sứ giả của hắn lại, để HiệnXuống ABC461
Có một câu truyện kể rằng: Một hôm thần dữ Xa-tan triệu tập tất cả các sứ giả của hắn lại, để sai đến trần gian với sứ mạng duy nhất là giải thích cho con người biết Thiên Chúa đã chết rồi. Các sứ giả ra đi. Nhưng không bao lâu sau tất cả trở về. Thần dữ Xa-tan ngạc nhiên hỏi: "Tại sao cac ngươi thực hiện công tác nhanh thế, hay là có chuyện gì trục trặc?". Các sứ giả đồng thanh đáp: "Thưa ngài, chúng tôi không còn việc gì để làm nữa. Bởi vì tất cả những nơi chúng tôi đi qua trên trần gian, nơi nào con người cũng sống như thể Thiên Chúa đã chết thật rồi. Họ ghen ghét nhau, họ gian tham, trộm cắp, sa đọa, họ chém giết nhau...không có gì xấu mà con người không làm. Dù nhiều người vẫn còn xưng mình là kẻ tin Thiên Chúa, nhưng cách sống của họ không hề biểu lộ niềm tin này, mà ngược lại như là loan báo Thiên Chúa đã chết rồi. Như vậy chúng ta đâu cần tốn công thuyết phục con người nữa".
Con người sống như thể Thiên Chúa đã chết. Đó là một lời cảnh tỉnh nghiêm trọng đáng cho chúng ta, những môn đệ của Chúa Giêsu, suy nghĩ để kiểm điểm lại đời sống của mình. Vài chục năm gần đây, người ta tỏ ra lo ngại cho Giáo Hội, khi thấy có một số đông Ki-tô hữu tại nhiều nước Âu Châu dửng dưng với đạo. Đạo hầu như chẳng còn ảnh hưởng gì đối với họ; đạo hầu như đứng ngoài cuộc sống của họ. Phải chăng Ki-tô giáo đã qua những ngày hưng thịnh và đang đi vào giai đoạn lụi tàn? Phong trào "Thời Mới", một phong trào mang tính tôn giáo huyền bí hàm hồ, đang phát triển tại Mỹ và Âu Châu xác tín rằng: Kỷ nguyên Ki-tô giáo sắp qua đi và một kỷ nguyên mới với một tôn giáo mới đang xuất hiện.
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đã đến trần gian để thi hành sứ mạng cứu chuộc loài người. Ngài đã sống kiếp người như chúng ta, Ngài đã giảng dạy, loan báo Tin Mừng. Cuối cùng, Ngài đã chấp nhận đau thương và chết nhục nhã trên thập giá để hoàn tất sứ mạng cứu chuộc của Ngài. Ngài đã chết thật, nhưng không phải là chết luôn, trái lại, Ngài đã sống lại và sống mãi. Ngài vẫn hiện diện trên trần gian dưới nhiều hình thức, đặc biệt là qua Chúa Thánh Thần.
Quả thực, ngay từ khi tại thế, Chúa Giêsu đã sống dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần, nhưng Ngài chưa ban Thánh Thần cho các môn đệ. Chúa Giêsu phải ra đi, rồi mới cử Thánh Thần đến với họ được, nghĩa là Ngài phai được tôn vinh, mới có thể ban Thánh Thần cho họ. Vì thế, ngay buổi chiều ngày Phục Sinh, Chúa Giêsu đã hiện ra thổi hơi vào các môn đệ và ban Thánh Thần cho họ; đồng thời ban cho họ quyền tha tội. Như vậy, Chúa Giêsu đa ban Chúa Thánh Thần, và các tông đồ đã nhận được Chúa Thánh Thần ngay chiều ngày Phục Sinh.
Tuy nhiên, để đánh dấu việc các tông đồ thực sự thoát khỏi tình trạng "khép kín" vì sợ hãi hay nuối tiếc quá khứ, và "mở cửa" lao mình về phía trước để công bố Tin Mừng Phục Sinh cho các dân tộc, đem ơn hòa giải đến cho mọi người, hầu qui tụ mọi người vào trong đại gia đình của Thiên Chúa...Chúa Thánh Thần đã hiện xuống với các tông đồ một cach long trọng và rõ ràng với những dấu hiệu bề ngoài như gió thổi mạnh, lưỡi lửa xuất hiện trên đầu họ. Gió và lửa là những dấu hiệu để chứng tỏ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Và liền theo đó, mọi người được tràn đay Chúa Thánh Thần.
Như vậy, Chúa Thánh Thần đã đến với các tông đồ, đã biến đổi họ thành những con người mới, đã tác động nơi họ để trở thành những chứng nhân cho Đức Kitô và loan báo Đức Kitô cho mọi người. Chúa Thanh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa và ngọn lửa Ngài đậu trên đầu các tông đồ không gì khác chính là ngọn lửa tình yêu. Chính ngọn lửa đó đã thúc giục các tông đồ mở toang cánh cửa đã đóng kín vì sợ hãi, để mạnh dạn ra đi loan báo Tin Mừng tình yêu. Từ đó cho đến nay, Chúa Thánh Thần vẫn không ngừng hoạt động nơi từng con người thiện chí, từng Kitô hữu, đang hăng say hoạt động để đem chân lý, bình an, yêu thương và hy vọng đến với những ngươi chung quanh.
Mỗi người Kitô hữu hôm nay cũng đã được lãnh nhận Chúa Thánh Thần khi chịu phép Rửa tội và Thêm sức. Nhưng chúng ta đã cộng tác với Chúa Thánh Thần thế nào? Chúng ta có để Chúa Thánh Thần gọt giũa, loại bỏ khỏi chúng ta tính ích kỷ, hẹp hòi không? Chúng ta đã làm gì và đang làm gì cho thế giới này, cho những người sống chung quanh chúng ta được sưởi ấm bởi ngọn lửa tình yêu của Chúa Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận? Thật là đau đớn cho Thiên Chúa và Giáo Hội khi những người mang danh Kitô hữu, những môn đệ của Chúa, lại sống ích kỷ, ghen ghét nhau, cạnh tranh nhau...Nếu ngày nay biết bao người chưa biết đến tình yêu thương của Chúa, có lẽ một phần trách nhiệm là do chúng ta; có lẽ chúng ta phải đấm ngực mình mà nhận rằng: vì chúng ta chưa sống tốt, chưa làm chứng nhân, vì trong chúng ta còn nhiều ích kỷ, nhỏ nhen, hẹp hòi...
Mừng lễ Chúa Thánh Thần, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta vai trò quan trọng của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống từng người chúng ta, và mời gọi chúng ta cùng cộng tác với Chúa Thánh Thần để đổi mới chính mình, đổi mới cuộc sống của mình, để cuộc đời chúng ta trở thành chứng tá cho Thiên Chúa tình yêu. Chúng ta phải dùng chính cuộc sống tốt lành của mình để làm chứng cho Thiên Chúa hằng sống, để xác quyết rằng: Thiên Chúa đang sống và đang hành động trong trần gian.
Trong bài giảng Thánh lễ Chúa nhật 4/6/2017 tại đền thánh Phê-rô, Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô đã HiệnXuống ABC462
Trong bài giảng Thánh lễ Chúa nhật 4/6/2017 tại đền thánh Phê-rô, Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô đã giải thích ý nghĩa của lễ Ngũ tuần qua những biểu tượng đọc thấy trong các bài Sách Thánh: “Lễ phụng vụ mà chúng ta mừng hôm nay quen được gọi là “Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống”, hay nói tắt là “lễ Hiện xuống”. Trong nguyên ngữ Hy-lạp và La-tinh, danh xưng là “Ngũ tuần” (Pentecostes), nghĩa là 50 ngày, bắt nguồn từ lịch phụng vụ của người Do Thái. Năm mưoi ngày sau lễ Vượt qua tưởng niệm cuộc giải phóng khỏi cảnh nô lệ bên Ai-cập, người Do Thái mừng lễ Ngũ tuần kỷ niệm việc Chúa thiết lập giao ước trên núi Si-nai. Trong Tân Ước, sách Tông đồ công vụ đã gắn biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống với lễ Ngũ Tuần, diễn ra năm mươi ngày sau khi Chúa Phục sinh. Khi chú giải đoạn văn này, các giáo phụ đã ví biến cố như là việc ban hành Hiến chương thành lập Hội Thánh; trong đó quy định các nhân tố của Giáo hội tiên khởi (các Tông đồ) được phái đến muôn dân, rao giảng Tin mừng qua các ngôn ngữ của các dân tộc.” (nguồn: Đài Vatican).
Với Đức Ki-tô, khi nói về Chúa Thánh Thần, thì Người lại nói đó là ngọn lửa: Sau khi kể dụ ngôn “Hãy canh thức chờ chủ về” (Lc 12, 35-48), Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12, 49). Tuy rằng ngọn lửa ấy luôn hiện diện trong Đức Giê-su, trong tất cả những Lời dạy và việc làm của Người, nhưng chưa có dịp “bùng lên” như Người mong muốn. Phải chờ tới ngày Lễ Ngũ Tuần, ngọn lửa ấy mới thực sự bùng lên thành những lưỡi lửa đậu trên đầu các Tông đồ “từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho.” (Cv 2, 1-5).
Bài Tin Mừng hôm nay (Ga 20, 19-23) trình thuật việc Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra với các Tông đồ vào ngày thứ nhất trong tuần. Cứ thử tưởng tượng đang có mặt tại nơi các môn đệ Chúa tề tựu, sẽ thấy nét mặt người nào cũng đầy ưu tư. Họ vừa chứng kiến một biến cố kinh hoàng làm tan biến mọi hy vọng. Thôi, thế là hết, giấc mộng được làm Tả Hữu Thừa tướng của Vua Giê-su (Ông Gio-an và ông Gia-cô-bê xin được ngồi bên tả bên hữu Đức Vua Giê-su – Mc 10, 35-40) đã hoàn toàn tan biến, vì Người đã chịu chết nhục nhã trên thập giá, xác Người lại do chính bản thân mình táng trong hang đá! Những cuộc hiện ra của Chúa dường như vẫn chưa đủ để giúp họ được hăng hái và xác tín vào sứ mệnh Người muốn họ thi hành. Họ vẫn còn sợ hãi đến nỗi khóa chặt cửa và sống trong một bầu khí thinh lặng nặng nề. Sự hiện diện của Mẹ Ma-ri-a ở giữa họ là chiếc phao cuối cùng để họ bám víu.
Mọi người đang chờ đợi “sự bất ngờ” từ trời đến! Và quả thực “sự bất ngờ” đã đến dưới hình thức “tiếng động như tiếng gió mạnh” và “những hình lưỡi giống như lưỡi lửa”. Ai cũng nghe được tiếng động ấy và lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một, không trừ một ai. Tiếng động và lưỡi lửa ấy chính là Chúa Thánh Thần, Tình yêu của Thiên Chúa, Thần Khí của Đức Ki-tô. Chúa Thánh Thần đã đổi mới tâm hồn các môn đệ. Người đã lấy tình yêu để đốt cháy mọi sợ hãi, và lấy tiếng động của gió mạnh để thay thế sự yên lặng nặng nề đang làm tê liệt cộng đoàn đức tin bé nhỏ. Người giúp họ hăng hái nhiệt thành đáp lại mệnh lệnh của Chúa Giê-su: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thi Thầy cũng sai anh em”. Thế là cánh cửa đã bị khóa chặt vì sợ hãi nay mở tung ra. Trước mặt dân chúng (không chỉ cư dân tại Giê-ru-sa-lem và những người Do Thái sùng đạo từ các dân thiên hạ trở về, mà cả những dân ngoại thuộc các nước chung quanh), các môn đệ Chúa không chút sợ hãi và lên tiếng rao giảng. “Đám đông kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các Tông đồ nói tiếng bản xứ của mình” (Cv 2, 6). Mọi sự hoàn toàn đổi mới.
Có một vấn nạn: Chúa Giê-su đã ban Thánh Thần cho các môn đệ ngay từ khi Người mới sống lại, vậy tại sao mãi tới 50 ngày sau (vào ngày Lễ Ngũ Tuần) Chúa Thánh Thần mới thực sự đến với các Tông đồ? Sở dĩ vậy, vì Thiên Chúa muốn mạc khải cho loài người biết mọi việc Người làm đểu thể hiện tình yêu vô bờ bến của Người đối với nhân loại. Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng chỉ cần phán một lời thì tất cả tội lỗi của loài người sẽ được tha thứ hết, nhưng như thế thì con người – vì được tự do và với sự hiểu biết hạn chế, bất toàn – sẽ không thể hiểu được ân sủng vô cùng cao quý ấy, và chắc chắn sẽ tiếp tục sai lầm, tiếp tục sống đời tội lỗi một cách vô tư. Hoá cho nên tất cả những sự kiện – từ biến cố Giáng Sinh đến cuộc khổ nạn, rồi phục sinh và lên trời vinh hiển của Chúa Giê-su đều được thể hiện một cách cụ thể, để con người thấy tận mắt (thực mục sở thị) mà tin vào Thiên Chúa. Đến như vậy mà loài người vẫn còn không ít những kẻ hoài nghi, không tin. Vậy đó! Vì thế, nên vẫn rất cần thiết cho các môn đệ và cho tất cả mọi người một ngày Lễ Ngũ Tuần vậy.
Sách Xuất hành có viết về Lễ Vượt Qua trong Cựu Ước: “Đó là lễ tế Vượt Qua mừng ĐỨC CHÚA, Đấng đã vượt qua các nhà của con cái Ít-ra-en tại Ai-cập, khi Người đánh phạt Ai-cập và cho các nhà chúng ta thoát nạn.” (Xh 12, 27). Vì được Thiên Chúa thương giải thoát khỏi ách nô lệ Ai-cập, và ban cho mười giới luật để đóng ấn giao ước giữa Chúa và dân của Người (trên núi Si-nai), nên dân Ít-ra-en đã mừng biến cố này hết sức long trọng vào đúng ngày thứ 50 sau lễ Vượt Qua. Vì thế, ngày này được gọi là lễ Ngũ Tuần (“Pentecost”: ngày thứ 50). Bước sang thời kỳ Tân Ước, thì cuộc vượt qua khổ nạn, chiến thắng sự chết và sống lại hiển vinh của Chúa Ki-tô cũng đúng vào dịp mừng Lễ Vượt Qua và 50 ngày sau (vào đúng Lễ Ngũ Tuần) thì biến cố hiện xuống của Đức Thánh Linh xảy ra. Biến cố ấn tượng và hết sức lạ lùng này được Sách Công vụ Tông Đồ tường thuật lại một cách rất thuyết phục:
“Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho.” Sự kiện lạ lùng xảy ra khiến đám đông dân chúng hiện diện ”sửng sốt, thán phục và nói: “Những người đang nói đó không phải là người Ga-li-lê cả ư? Thế sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta? Chúng ta đây, có người là dân Pác-thi-a, Mê-đi, Ê-lam, Mê-xô-pô-ta-mi-a, Giu-đê, Cáp-pa-đô-ki-a, Pon-tô, và A-xi-a, có người là dân Phy-ghi-a, Pam-phy-li-a, Ai-cập, và những vùng Li-by-a giáp giới Ky-rê-nê; nào là những người từ Rô-ma đến đây; nào là người Do-thái cũng như người đạo theo; nào là người đảo Cơ-rê-ta hay người Ả-rập, vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!” (Cv 2, 1-4.7-11).
Kinh Thánh nói đến Chúa Thánh Thần bằng nhiều danh xưng như: Thần Khí, Thần Chân Lý, Đấng Bào Chữa, Đấng An Ủi, Đấng Bảo Trợ… (xc. Giáo lý HTCG số 691-693). Vì là Ngôi Ba Thiên Chúa kết hợp mật thiết với Ngôi Cha và Ngôi Con, nên Thánh Thần đã hiện diện cả trong Cựu Ước và Tân Ước, suốt dọc quá trình lịch sử cứu độ từ khởi nguyên đến tận cùng. Ngay từ tạo thiên lập địa, Thánh Thần đã hiện diện trong công trình sáng tạo vũ trụ và trong con người của Thiên Chúa (“Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước.” – St 1, 1-2; “ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.” – St 2, 7-8).
Thời kỳ Cựu Ước cũng vậy, Thánh Thần luôn hiện diện bên dân Chúa và với các ngôn sứ trong mọi trường hợp, điển hình như “Ông Sa-mu-en cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu. Thần khí ĐỨC CHÚA nhập vào Đa-vít từ ngày đó trở đi.” (1Sm 16, 1-13); “Thần khí của ông Ê-li-a đã ngự xuống trên ông Ê-li-sa.” (2V 2, 15). Không chỉ có sách Sa-mu-en và sách Các Vua như vừa dẫn, mà hầu hết các sách Cựu Ước đều trình thuật những sự kiện chứng minh có sự tác động rất mạnh của Thánh Thần vào những việc Thiên Chúa thực hiện thông qua các ngôn sứ, tư tế hay các vua: Thánh Thần là Đấng ban sự sống thể lý cho con người (G 33, 4); là Đấng phục sinh kẻ chết về thể lý cũng như tinh thần (Ed 37, l4); là Đấng bảo tồn toàn thể sự sống trên trái đất (G 34, 14-15). Thánh Thần còn là Tác giả các sách Cựu Ước mà các ngôn sứ chỉ là người ghi chép lại sự linh hứng của Người (Dcr 7, 12; Mk 3, 8; Nkm 9, 30.29).
Đến thời Tân Ước thì phải nói một điều Chúa Thánh Thần luôn hiện diện trong tất cả mọi sự kiện diễn ra trên trái đất, cụ thể là nơi vùng đất được tuyển chọn (It-ra-en). Chính Đức Giê-su cũng luôn luôn nhắc đến vai trò đặc biệt của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần cũng chính là Thiên Chúa vì “Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” (Ga 4, 24). Không những Đức Ki-tô giảng dạy cho các môn đệ hiểu về sức mạnh và sự cần thiết của Chúa Thánh Thần trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng; mà chính Người cũng luôn chịu sự tác động của Thánh Linh khi Người chịu phép rửa tại sông Gio-đan (Mt 3, 13-17), khi Người được Thần Khi dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ (Mt 4, 1-11), khi Người giảng dạy (Mt 10, 19-20 ; Ga 7, 38-39 ; Ga 14, 16-18 ; Ga 15, 26 ; Ga 16, 7-8…) và thậm chí cả khi Người chịu chết trên thập tự (diễn tả giây phút từ trần của Đức Giê-su, Thánh sử Gio-an viết là “Người gục đầu xuống và trao Thần Khí” – Ga 19, 30), rồi sống lại hiển vinh (“Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Ki-tô sống lại từ cõi chết.” – Rm 8, 11).
Còn đối với Giáo hội, thì Chúa Thánh Thần hoạt động như thế nào? Ngay từ khi Chúa Giê-su thiết lập Hội Thánh thì Chúa Thánh Thần đã hoạt động thông qua Đức Ki-tô (mỗi khi Người chào các môn đệ, Người đều nói “Bình an cho anh em” hay “Thầy ban bình an của Thầy cho anh em”, sự bình an đó chính là Chúa Thánh Thần vậy; hoặc cũng có khi Người nói thẳng: ”Nói xong Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” – Ga 20, 21-23). Tuy nhiên phải đến ngày Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần mới thực sự hiện xuống trên các thánh Tông đồ.
Vì thế, Lễ Hiện Xuống là ngày khởi đầu cho hoạt động truyền giáo của Giáo hội, là “Sinh Nhật” của Hội Thánh Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần đã biến cải các Tông đồ trở nên những người can đảm, những người thông hiểu Kinh Thánh và nhớ lại các điều Chúa Giê-su đã giảng dạy, đặc biệt là ân sủng “vẫn nói tiếng Ga-li-lê quê hương của mình, nhưng người nghe lại nghe thành tiếng nói bản xứ của họ”. Các Tông đồ không còn “đóng kín cửa vì sợ người Do Thái” (Ga 20, 19); nhưng bắt đầu rao giảng cho dân chúng đang tụ họp chung quanh nơi các ngài ở (Cv 2, 14…) và đã có nhiều người ăn năn sám hối và xin chịu Phép Rửa để gia nhập Hội Thánh Chúa (Cv 2, 41).
Có thể nói trong cuộc tử nạn của Chúa Giê-su thì các Tông đồ cũng chết theo Người. Sự sợ hãi, co cụm vào nhau không dám hoạt động, khiến cho môi trường sinh hoạt của các Tông đồ mất hết sinh khí và chỉ giới hạn trong một gian phòng nhỏ đóng kín các cửa. Nhưng khi Chúa Phục Sinh và nhất là từ ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống thì sinh khí bùng phát, các Tông đồ như được từ cõi chết cùng sống lại với Đức Ki-tô. Đúng là Giáo hội tiên khởi đã cùng chết với Đức Ki-tô và được tái sinh bởi Thần Khí Thiên Chúa vậy.
Vì thế mới coi ngày Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là ngày sinh của Giáo hội (“Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.” (Rm 8, 11). Từ ngày đó, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, công cuộc truyền giáo của Giáo hội tiếp tục phát triển và cho đến ngày nay, Giáo hội đã hiện diện trên khắp năm châu bốn biển, đem Tin Mừng Cứu Độ đến cho mọi người, để “ai tin thì sẽ được cứu rỗi” (Mc 16, 16…). Qua dòng thời gian, Chúa Thánh Thần vẫn luôn đồng hành và chở che Giáo hội qua “mọi cơn gian nan thử thách!”, qua bao cuộc “bách hại” khủng khiếp.
Như vậy thì Đức Thánh Linh luôn hiện diện ở khắp mọi nơi và trong mọi thời điểm, còn nói Chúa Thánh Thần hiện xuống chỉ là cách nói nhằm làm sáng tỏ sự thật về Ngôi Ba Thiên Chúa. Đó là Đấng Thánh, là Thần Khi Sự Thật luôn kết hợp mật thiết với Ngôi Cha và Ngôi Con trong mọi công trình của Thiên Chúa (từ sáng tạo vũ trụ và con người, đến hồng ân cứu độ, từ khởi nguyên tới tận cùng). Một cách cụ thể, khi nòi Chúa Thánh Thần hiện xuống, là để miêu tả hình ảnh thật (Chim Bồ Câu, Lưỡi Lửa, Ánh Sáng…) từ trời cao bay xuống đậu trên những vật thể hữu hình, và đó cũng chính là những mạc khải của Thiên Chúa để con người hiểu được mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa.
Ôi! Lạy Chúa Ki-tô Phục Sinh! Chúa đã ban Thánh Thần cho Giáo hội ngay từ ngày mới thiết lập và cũng nhờ thế mà Giáo hội ngày nay đã hiện diện trên toàn thế giới. Tuy nhiên, những người biết và tin vào Thiên Chúa trên thế giới vẫn còn là thiểu số. Xin Chúa thương ban cho chúng con được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần để chúng con được như các Tông đồ thủa xưa tái sinh trong Thần Khí mà vững bước trên con đường loan báo Tin Mừng, đem Chúa đến cho mọi người, ở mọi nơi, trong mọi lúc của cuộc đời con. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen. Alleluia! Alleluia!
Bài đọc 1 trích Sách Tông đồ Công vụ hôm nay thuật lại cho chúng ta nghe sự kiện Chúa thánh thần HiệnXuống ABC463
Bài đọc 1 trích Sách Tông đồ Công vụ hôm nay thuật lại cho chúng ta nghe sự kiện Chúa thánh thần hiện xuống. Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần tức là 50 ngày sau lễ Vượt qua, lúc đó các Tông đồ đang hội họp trong phòng cầu nguyện bỗng từ trời có tiếng gió thổi mạnh, và có những ngọn lửa hiện xuống, chia ra thành nhiều hình lưỡi đậu trên họ. Quang cảnh thật kỳ lạ, nhưng lập tức mọi người đều nhận thấy ngay đây là việc của Chúa. Qua tiếng gió thổi mạnh và hình lưỡi lửa hiện đến, mọi người cũng nhận biết rằng Chúa muốn chứng tỏ một hành động cách mạnh mẽ và rõ ràng của Ngài cho các ông.
Mà thực vậy, chúng ta thấy các Tông đồ bỗng dưng sốt mến, nhiệt thành khi nhận được Chúa Thánh Thần như các tiên tri trong những giây phút xuất thần và thiêng liêng nhất. Các Tông đồ lập tức nói được những tiếng lạ, can đảm và bạo dạn ca tụng các kỳ công và việc lạ lùng của Chúa một cách công khai giữa đám đông dân chúng. Thấy sự lạ, người ta kéo nhau lại coi. Không ai đếm được số người bao nhiêu và thuộc những dân nước nào, nhưng vì hôm đó là ngày lễ lớn, các người Do thái đi làm ăn hay sống ở nơi xa cũng về dự lễ. Tác giả sách Tông đồ Công vụ kể tên 12 nơi, từ Đông sang Tây lấy Giuđêa làm chính, có ý ám chỉ rằng, tất cả mọi nơi trên mặt đất này đều được Chúa gọi về để tham dự hồng ân Ngài đã từng hứa ban. Như lời tiên tri Gioel đã tuyên bố từ lâu trong Cựu ước rằng: “Sẽ đến ngày Ta đổ Thần trí Ta trên mọi người; già trẻ trai gái hết thảy sẽ nói tiên tri và tiếng lạ.”
Như vậy, ngày hôm nay, việc đó đã xảy đến. Quả thật Thiên Chúa đang hành động kỳ diệu nơi các Tông đồ. Họ là người Galilêa, thế mà mọi người đang nghe họ nói về Chúa trong thứ ngôn ngữ của mình. Rõ ràng Chúa muốn dùng họ để đoàn tụ muôn dân lại trong một niềm tin, khác với cảnh xây tháp Babel ngày xưa, anh em một nhà mà bỗng dưng nói tiếng xa lạ không còn hiểu nhau nữa. Gia đình nhân loại từ ngày đó đã bị phân rẽ và chia rẽ, kình địch nhau vì họ kiêu căng, tự cao muốn chống lại Chúa. Hôm nay các Tông đồ, những con người Galilêa yếu kém, đã được Chúa Thánh Thần biến đổi, tràn đầy lòng yêu mến Chúa, đang nhiệt tâm ca tụng và nói lên những lời sốt sắng về niềm tin của họ vào Chúa Ki-tô để đoàn tụ muôn dân lại trong một cộng đoàn dân Chúa.
Các Tông đồ cũng hiểu rõ ý nghĩa của những ngọn lửa xuất hiện trên đầu các ông. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã dùng lửa để báo hiệu việc Chúa hiện diện và dẫn dắt dân đi trong u tối và để thánh hóa chấp nhận các lễ vật. Các lưỡi lửa hôm nay cũng nói lên việc Chúa hiện diện, thánh hoá, soi sáng, khích lệ cộng đoàn Tông đồ của các ông. Vì thế các Tông đồ xác tín vào Chúa hơn để can đảm ra đi rao giảng và làm chứng cho Chúa. Thế nhưng cùng với việc các Tông đồ nói được tiếng lạ và hình lưỡi lửa hôm nay còn làm chứng cho sự kiện Chúa Thánh Thần muốn đặt vào lòng Giáo hội sơ khai bản tính can đảm, sốt sắng và nhiệt thành để biến cả thế giới nên một gia đình đầy bác aí yêu thương.
Trong ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống mà chúng ta mừng hôm nay, Chúa cũng muốn chúng ta sống lại tất cả ý nghĩa của ngày lễ Chúa Thánh Thần, để chúng ta thấy sự lạ lùng cả thể của ngày lễ, và nhất là để chúng ta đem tất cả những ý nghĩa và sự lạ lùng đó vào đời sống đạo, đời sống đức tin của chúng ta. Như các Tông đồ của Chúa trong ngày lễ Hiện xuống được tràn đầy Thánh Thần can đảm làm chứng nói lên niềm tin đoàn tụ muôn dân lại thế nào, thì hôm nay chúng ta cũng phải trở thành những con người thu hút người ta về với Chúa, và hiệp nhất với nhau thành một gia đình cộng đoàn giáo xứ và Giáo hội. Người khác sẽ nhận ra và tin vào Chúa Ki-tô Phúc sinh nhờ thái độ sống đạo sốt sắng và nhiệt thành, nhờ lòng xác tín, và nhờ lòng can đảm trung thành sống Lời Chúa, trở thành những nhân chứng của Chúa Ki-tô của chúng ta.
Bởi vì hôm nay, trên thế giới và trong xã hội này, còn nhiều sự thù hằn, tranh chấp, đàn áp, khủng bố cũng như hiểm họa chiến tranh và sự dữ như những vụ tàn sát học sinh trong các trường học như tại tiểu bang Texas mấy ngày vừa qua, ngoài ra chúng ta còn thấy những gia đình vợ chồng không hòa thuận, tan nát, chia rẽ, có những người vì bị vật chất lôi cuốn bỏ niềm tin, sống thờ ơ và xa Chúa, và nhiều người sống trong sự lo âu, sợ hãi vì nhiều lý do, Thiên Chúa cũng vẫn đang còn muốn ban Thánh Thần Người cho những ai cầu xin. Và Chúa Thánh Thần muốn tiếp tục hoạt động trong các cộng đoàn, trong mỗi Kitô hữu như ngày trước, để đem bình an, sự an ủi và hy vọng đến cho người khác.
Ðặc biệt trong Thánh lễ này, Thiên Chúa đang muốn đổ Chúa Thánh Thần xuống để biến đổi và thánh hóa, ban cho chúng ta những người đang sum họp nơi đây ơn can đảm và sốt mến, để chúng ta biết hy sinh, sống bác ái và quảng đại cộng tác với Chúa đem tình yêu và ơn cứu độ đến cho mọi người.
Chúng ta cùng hướng lòng và dâng lên với Chúa lời cảm tạ, tri ân vì những việc lạ lùng Chúa đã làm cho chúng ta. Nhất là Thánh Thể mà chúng ta sắp chịu lấy, là Mình Máu Thánh Chúa, là sự sống mạnh mẽ đầy yêu thương tuôn trào ra từ Thân Thể Chúa, để ai lãnh nhận, chính họ sẽ không sống nữa, nhưng là chính Chúa và Thánh Thần của Người sống ở trong họ.
Chúng ta xác tín khi ra về tùy theo phận sự và công việc, nếu chúng ta tiếp tục để cho Chúa sống ở trong chúng ta, thì như lời Thánh thư hôm nay nói, chính Chúa Thánh Thần tác động, làm việc và hành động ở trong mọi người chúng ta. Và như vậy, một Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn công việc của mọi người chúng ta, tuy nhỏ bé và khiêm tốn, nhưng cũng là những sự thúc đẩy người khác quy tụ lại trong cùng một gia đình yêu thương của Chúa Ki-tô. Đồng thời cũng làm cho các sự lầm lạc tối tăm, chia rẽ hận thù, tranh chấp khủng bố, tàn sát và giết người dần dần bị loại ra.
Chúng ta nhận biết vai trò của Chúa Thánh Thần rất quan trọng trong đời sống Ki-tô hữu và trong Giáo hội, vì vậy một Thượng phụ đã không ngần ngại quả quyết rằng: “Không có Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa sẽ ở xa. Đức Ki-tô bị khép lại ở trong quá khứ. Tin mừng chỉ là những dòng chữ chết. Hội thánh sẽ chỉ là một tổ chức bình thường. Công việc truyền giáo sẽ trở thành một việc tuyên truyền không hơn không kém. Rồi việc cầu nguyện, thờ phượng chỉ còn là một thứ tưởng niệm, và những sinh hoạt Ki-tô giáo sẽ chỉ là một thứ đạo đức nô lệ và hình thức.”
Xin Chúa Thánh Thần luôn luôn ngự trong tâm hồn và thúc đẩy chúng ta hành động vì yêu thương và cho yêu thương, để chúng ta được sống bình an, ơn sủng và hạnh phúc đời này và đời sau trong vinh quang Nước Chúa.
Các bài đọc Cựu Ước trong lễ vọng Chúa Thánh Thần hiện xuống chuẩn bị tâm hồn chúng ta đón HiệnXuống ABC464
Các bài đọc Cựu Ước trong lễ vọng Chúa Thánh Thần hiện xuống chuẩn bị tâm hồn chúng ta đón nhận ơn Chúa Thánh Thần bằng giúp nhớ lại Lời Hứa của Thiên Chúa với nhân loại đã được ký kết trong Giao Ước mới.
Bài đọc thứ nhất nhắc chúng ta Chúa Thánh Thần là nguyên lý của sự Hiệp Nhất, bởi không có Chúa Thánh Thần, nhân loại không thể hiệp nhất, vì kiêu căng, tự mãn như loài người đã nói với nhau trong câu chuyện tháp Babel: “Ta hãy xây cho mình một thành phố, và một tháp có đỉnh cao chọc trời. Ta phải làm cho danh ta lẫy lừng, để khỏi bị phân tán trên mặt đất” (St 11,4).
Bài đọc hai trích từ sách Xuất Hành cho chúng ta thấy sự can thiệp của Chúa Thánh Thần trong việc sống trung thành với Giao Ước, bởi không có ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta không thể nghe tiếng Chúa và giữ Giao Ước của Ngài; không thể là con dân của “một vương quốc tư tế, một dân thánh” (Xh 19,6).
Bài đọc ba : ngôn sứ Êdêkien cực tả vai trò quyết định của Chúa Thánh Thần trong việc “hồi sinh những bộ xương khô“ (x. Ed 37,1-14) khi tuyên sấm trên các xương khô: “Đây Ta sắp cho thần khí nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ được sống”. Và “thần khí liền nhập vào những người đã chết; chúng được hồi sinh và đứng thẳng lên: Đó là cả một đạo quân lớn, đông vô kể” (Ed 37,5.10).
Bài đọc bốn mặc khải sức mạnh của Chúa Thánh Thần trên hết mọi người, bất kể nam nữ, con cái hay đầy tớ, nô bộc qua sấm ngôn của ngôn sứ Giôen: “Ta sẽ đổ thần khí Ta trên htế thảy người phàm. Con trai, con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, người già được báo mộng, thanh niên thấy thị kiến. Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ thần khí Ta trên tôi nam tớ nữ” (Ge 3, 1-2).
Tóm lại, Chúa Thánh Thần là Đấng có mặt và giữ một vai trò rất quan trọng trong công trình Tạo Dựng, cũng như Cứu Chuộc của Thiên Chúa Ba Ngôi, điều mà thánh Phaolô đã củng cố những gì các ngôn sứ trong Cựu Ước đã tuyên sấm về Chúa Thánh Thần:
a. Chúa Thánh Thần là Đấng chỉ bảo, nâng đỡ Giáo Hội trên đường lữ hành Hy Vọng.
Ngài viết cho giáo đoàn Rôma: “Chúng ta đã lãnh nhận Thần Khí như ân huệ mở đầu, nhưng còn trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn quyền làm con, nghĩa là cứu chuộc thân xác chúng ta nữa. Quả thế, chúng ta đã được cứu độ, nhưng vẫn còn phải trông mong” (Rm 8,23-24).
b. Chúa Thánh Thần dậy chúng ta cầu nguyện, và cầu nguyện với chúng ta:
“Vì là những kẻ yếu hèn”, nên “chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta…”, “và Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can, biết Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho dân thánh đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8, 26-27). Đó là lý do trước bất cứ cử hành phụng vụ công tư nào, Giáo Hội đều khiêm tốn nài xin ơn Chúa Thánh Thần, khẩn khoản xin Chúa Thnáh Thần ngự đến.
c. Chúa Thánh Thần đổi mới con người “xác thịt“ và làm cho chúng ta trở nên con người mới thuộc về Đức Giêsu, và là con Thiên Chúa:
Bởi “nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người, đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8, 11), để không phải sợ sệt như người nô lệ, “nhưng Thần Khí làm cho anh em nên nghiã tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: “Ápba !Cha ơi!” với Thiên Chúa” ( Rm 8,15).
Quả thực, Chúa Thánh Thần không thể vắng mặt trong đời sống của người môn đệ Đức Giêsu, không thể thiếu trên đường lữ hành Hy Vọng của Giáo Hội, vì Ngài là Sức Sống của Chúa Ba Ngôi, sức sống của Tình Yêu Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu đã qủa quyết điều này khi nói với các môn đệ: “Nếu anh em yêu mến Thày, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14, 15- 16).
Khi nói điều này, Đức Giêsu đặt ra cho những người muốn đi theo Ngài một điều kiện, đó là “Yêu Mến”, vì Chúa Thánh Thần là Tình Yêu của Chúa Cha và Chúa Con, nên Ngài chỉ đến và “ở lại luôn mãi” với những ai yêu mến, bảo trợ những người biết mến yêu Thiên Chúa và thương yêu đồng loại.
Cũng vì là Thánh Thần Tình Yêu, nên Ngôi Ba Thiên Chúa cũng chỉ đến “dạy và làm chúng ta nhớ lại” mọi điều Đức Giêsu đã truyền dậy, như Đức Giêsu đã ân cần căn dặn các môn đệ: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”, mà mọi điều Đức Giêsu đã truyền dạy được tóm lại trong lời trăn trối trước khi lên đường đi chịu chết: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 12).
Thần hiện xuống. Một cách nào đó, chúng ta cũng mừng sinh nhật của Giáo hội. Bởi lẽ, chính HiệnXuống ABC465
Thần hiện xuống. Một cách nào đó, chúng ta cũng mừng sinh nhật của Giáo hội. Bởi lẽ, chính biến cố hiện xuống đã đánh dấu chính thức sự hiện diện của Kitô giáo. Biến cố này không chỉ biến đổi các thánh tông đồ thành những nhân chứng kiên dũng của Đức tin Kitô giáo, nó cũng biến đổi thái độ và niềm tin của những ai gặp gỡ họ. Nhờ thế, cộng đồng Kitô giáo đã xuất hiện và phát triển. Chính từ biến cố này, sứ điệp của Tin mừng đã từng bước thẩm thấu và làm thay đổi nền văn minh của nhân loại. Bộ mặt của thế giới đã dần dần được biến đổi (x. Cv 2: 4- 11). Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống thiết nghĩ chúng ta nên nhìn lại đâu là nguồn sức mạnh thực sự đã và đang làm thay đổi bộ mặt của nhân loại và bộ mặt của thế giới này? Làm sao chúng ta có thể sử dụng nguồn sức mạnh này để được thay đổi cũng như để thay đổi lối sống và hoàn cảnh của chúng ta hôm nay?
Đức thượng phụ Ignatius of Laodicea đã nói rằng: không có Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa thật xa lạ, Đức Giêsu chỉ đơn giản là nhân vật độc đáo của lịch sử, Tin mừng chỉ là một cuốn sách cổ, Giáo hội cũng chỉ là một tổ chức như bao tổ chức khác, quyền lực là để thống trị, truyền giáo chỉ là tuyên truyền, phụng vụ chỉ là một hoài cổ, công việc của người kitô hữu chỉ là nô lệ; nhưng với Chúa Thánh Thần, Đức Kitô đã phục sinh và đang hiện diện, Tin mừng là nguồn mạch của sự sống, Giáo hội là sự hiệp nhất trong đời sống của Chúa Ba Ngôi, quyền lực là để phục vụ và giúp con người đạt được sự tự do toàn vẹn nơi Thiên Chúa, sứ mạng truyền giáo được khơi nguồn sức sống nơi chính Chúa Thánh Thần, phụng vụ là tưởng nhớ và nếm thử đời sống sung mãn của ân sủng nơi Thiên Chúa, công việc của người kitô hữu thì được thánh hóa.
Như vậy, chính Chúa Thánh Thần đã thay đổi bộ mặt của nhân loại và bộ mặt của thế giới này. Nếu không có Ngài, công việc của chúng ta trở nên vô ích và chỉ phục vụ cho những mục đích thấp hèn của con người. Tôi nhớ lại cách đây mấy năm, khi mà chúng tôi đang cắp sách tới trường thần học. Khi đề cập đến Chúa Thánh Thần và đời sống của Giáo hội. Thật bất ngờ khi mà một cha bạn của tôi xin đặt một câu hỏi cho cha giáo sư: thưa cha, thế Chúa Thánh Thần đã ở đâu và đang ở đâu, khi mà có biết bao công việc đã đi ngược lại với những đòi hỏi của Tin mừng. Một câu hỏi trời giáng đã làm yên lặng cả lớp học. Mọi người cứ ngỡ rằng Cha sẽ bị đuổi ra khỏi lớp học. Thế nhưng, cha giáo đã trả lời: đây là một vấn đề mà tất cả chúng ta cần tìm hiểu trong hoàn cảnh hiện tại của chúng ta. Chỉ sau khoảng hai tháng chính ngài đã có một bài "đi tìm một câu trả lời cho câu hỏi: Chúa Thánh Thần ở đâu trong thời đại của chúng ta?" Có lẽ hôm nay chúng ta cũng cần một câu trả lời cho chính chúng ta.
Chúng ta không phủ nhận dù chúng ta có nhìn thấy những tia sáng của hy vọng, nhưng tối tăm, khó khăn và những thách thức của cuộc sống luôn bủa vây cuộc đời của chúng ta. Trong hoàn cảnh này, có lẽ biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống sẽ là bài học cần thiết cho chúng ta. Các tông đồ xưa cũng đã từng phải đối mặt với những khó khăn của chết chóc, hiểu lầm, hiểu khác, hiểu sai, hiểu ngược. Và rồi bách hại, chán nản, bỏ cuộc, etc. Thế nhưng, phải nói rằng họ có một niềm tin sâu sắc đủ vào lời hứa của Đức Kitô. Họ đã kiên trì cầu nguyện. Họ đã lãnh nhận chính Chúa Thánh Thần (x. Ga 20: 21- 22). Họ đã được biến đổi và họ đã làm thay đổi thế giới (x. Cv 2: 1- 11). Phải chăng chúng ta đang cần học lại kinh nghiệm này của các thánh tông đồ?
Chúng ta tin tưởng rằng Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và đồng hành với Hội thánh. Ngài hướng dẫn và thánh hóa Giáo hội. Chính vì thế mà Chúa Giêsu dám mạnh mẽ khẳng định rằng: không có quyền lực nào có thể phá đổ Hội thánh. Sẽ luôn luôn có những con người được tuôn đổ đầy tràn ơn Chúa Thánh Thần, để Giáo hội phát triển trong mọi mặt. Những chứng nhân nổi bật trong Giáo hội đã gây ảnh hưởng lớn trên toàn thế giới trong những năm gần đây chúng ta có thể kể đến mẹ Teresa Calcuta và Đức giáo hoàng John Paul II. Có thể chúng ta chưa phát hiện ra còn nhiều những con người đang âm thầm góp sức biến đổi những tiêu cực trong xã hội của chúng ta. Rất có thể một số là chính anh em của chúng ta đây? Chúng ta có thể tin tưởng chắc chắn rằng, Giáo hội sẽ luôn đứng vững, phát triển và trao ban ơn cứu độ cho muôn dân.
Tôi nhớ một câu chuyện khá thú vị. Một ngày kia Napoleon Bonaparte, với đầy uy quyền, nói với một Đức hồng y rằng: Tôi có thể tiêu diệt Giáo hội nếu như các ngài không theo mệnh lệnh của tôi. Vị hồng y khiêm tốn trả lời: Xin chúc mừng ngài, ngài thật uy quyền! Chính chúng tôi, nhiều linh mục của Giáo hội đã cố gắng thực hiện điều đó qua nhiều thế kỷ. Thật đáng tiếc, họ đã thất bại. Giáo hội vẫn tồn tại đầy sức sống. Nhưng Napoleon Bonaparte đã thất bại, bị khổ sai, và chết trong sự nhục nhã! Chúa Thánh Thần có thể biến đổi mọi sự nên tốt đẹp, kể cả tội lỗi của chúng ta.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, tôi có vài câu hỏi muốn được đặt ra cho chúng ta. Đã bao nhiêu lễ hiện xuống tôi đã tham dự? Chúa Thánh Thần đã thực hiện những gì trong cuộc đời tôi? Làm sao để lễ Hiện xuống năm nay có những thay đổi thực sự trong cuộc đời tôi?
Chúng ta đã chìm sâu trong lời cầu nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần từ lễ Chúa lên trời. Tôi nghĩ rằng Thiên Chúa không ngừng tuôn đổ ơn Chúa Thánh Thần trên chúng ta. Câu trả lời rất có thể không phải là Chúa Thánh Thần ở một nơi nào đó và Ngài không hoạt động. Ngài luôn hiện diện và thực thi công việc của Ngài trong thế giới này. Vấn đề là ở chính chúng ta! Liệu tôi có nghe tiếng Ngài? Tôi có tìm kiếm Ngài không? Tôi có đón tiếp Ngài không? Tôi có sẵn sàng để Ngài thực hiện công việc thánh hóa của Ngài qua tôi không? Chúa Thánh Thần sẽ không thể thực hiện điều gì, nếu như chúng ta từ chối Ngài! Câu trả lời sẽ là của mỗi người chúng ta. Để nhận ra Chúa Thánh Thần và để Ngài hoạt động trong cuộc đời chúng ta - chắc chắn chúng ta không thể hơn các thánh tông đồ xưa - chúng ta cần cầu nguyện. Chúng ta không cần nói dài, nhưng đối thoại thường xuyên hơn với Ngài. Chúng ta cũng không cần nói nhiều, nhưng hãy mở lòng ra để đón nhận. Max Handel chia sẻ: cầu nguyện giống như chúng ta bật công tắc điện lên. Chúng ta không là nguồn điện năng. Nhưng chúng ta mở đường cho nguồn điện tuôn chảy qua và trong chúng ta. Đây có phải là cách mà chúng ta thường cầu nguyện? Nếu ngược lại, ai đang hoạt động trong chúng ta?
Có Chúa Thánh Thần, không có gì là không có thể. Nếu chỉ cậy vào tài năng của chúng ta, rất nhiều chuyện sẽ không có thể. Như vậy, nếu chúng ta nghĩ rằng chuyện gì đó không thể, thì rất tiếc rằng chúng ta đang bắt Chúa Thánh Thần phục vụ cho chúng ta. Hãy tin tưởng vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần, như Đức Kitô đã và đang tin tưởng nơi chúng ta. Đây là kinh nghiệm của những người "liều" đã hiến dâng cuộc đời cho sứ điệp của Tin mừng. Chính họ đã làm thay đổi biết bao con người. Chính họ đã làm thay đổi bộ mặt của thế giới. Thật đơn giản, họ tin tưởng nơi Chúa. Họ biết Chúa có thể thực hiện những điều phi thường qua con người mỏng dòn của họ. Chính những con người đơn sơ, thậm chí không may mắn được cắp sách tới trường như hầu hết các môn đệ của Giêsu - mà một bài giảng có thể hoán cải từ 3 đến 5 ngàn người! Đâu là phép lạ? Đâu mới thực sự là sức mạnh? Khi họ chấp nhận để Chúa Thánh Thần hiện diện nơi mình. Khi họ chấp nhận để Chúa Thánh Thần nói qua con người và miệng lưỡi mình. Khi họ chấp nhận để cho "ngôn ngữ" của Chúa Thánh Thần được nói lên. Với "ngôn ngữ" của Chúa Thánh Thần, mọi sự có thể được biến đổi, lòng người có thể thay đổi, tội lỗi sẽ được tha. Chúng ta học được gì qua những kinh nghiệm này?
Có lẽ điều lo lắng lúc này không phải làm sao tôi có thể thay đổi chồng tôi, vợ tôi, bạn tôi, con tôi, kẻ thù tôi, người tội lỗi, etc? Làm sao tôi có thể dạy họ? Làm sao tôi có thể thuyết phục họ? Câu hỏi nào đang trong đầu ban? Không cần quan tâm bao nhiêu câu hỏi. Có một điều đơn giản hơn, chúng ta nên quan tâm - câu khẳng định của Đức Giêsu: Bình an cho anh em...Anh em hãy lấy Thánh Thần (Ga 20: 21- 22). Nếu chúng ta chấp nhân điều này - chính Thánh Thần sẽ là người thực hiện. Không ai trong chúng ta có thể làm phép lạ. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể thực hiện. Đâu là sức mạnh có thể làm thay đổi? Hy vọng đây sẽ là thánh lễ Hiện xuống đặc biệt trong đời chúng ta.
“Xin ban cho họ thần trí khôn ngoan và thông hiểu, thần trí lo liệu và sức mạnh, thần trí suy biết và đạo đức – xin ban cho những người này đầy ơn kính sợ Chúa.” (Nghi thức Thêm Sức, lúc đặt tay)
Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa mỗi ơn trong 7 ơn Chúa HiệnXuống ABC466
Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa mỗi ơn trong 7 ơn Chúa Thánh Thần.
Xin thú thật mãi cho tới những năm gần đây vẫn không sao phân biệt nổi những ơn này khác nhau làm sao. Nhất là mấy ơn đầu: 1) Khôn ngoan, 2) Hiểu biết 3) Thông minh. Ba ơn này chẳng là một hay sao, tuy mức độ có chênh nhau hơn kém… . Như khi người ta khen con cái mình rằng là nó nhỏ nhưng nó khôn lắm, nó thông minh lắm, nó hiểu nhanh lắm, ta thấy ba cái khen đó, nó “xêm xêm”: chẳng khác gì đầu đề một quyển sách châm biếm của nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ Azit Nêxin: “Con chúng ta giỏi thật !”
Sách “Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo” năm 1992 có nhắc tới 7 ơn này hai lần, một trong phần Nghi thức bí tích Thêm sức (số 1299) và một trong phần Hiệu quả bí tích (số 1303), nhưng chỉ liệt kê chứ không có một dòng giải thích.
Vậy muốn hiểu rõ 7 ơn Chúa Thánh Thần, ta phải coi lại bản gốc của nó: Isaia 11,2. Các nhà chuyên môn đã làm giúp ta, ta chỉ việc thu lấy kết quả của họ. Vì quả thật nếu dịch các ơn đó từ tiếng Hipri rồi Hy lạp qua Latinh, rồi mới từ Latinh chuyển qua tiếng Việt chúng ta đọc, thì thật khó lòng hiểu nổi các ơn đó muốn nói gì. Cần phải dịch lại mới sáng tỏ nội dung. Chúng ta sẽ không khởi đầu từ ơn khôn ngoan mà đi từ ơn thứ bảy, ơn dễ hiểu nhất để ngược lên tới ơn trên cùng là ơn khôn ngoan.
7- Ơn thứ bảy là ơn kính sợ Đức Chúa Trời. Đây là ơn mà đọc lên chúng ta hiểu ngay muốn nói gì. Kính sợ là úy kính, một tâm tình mà ở trần thế này con người cần có thì mới mong tránh loạn tặc. Khi một người nào đó ngang tàng, coi trời bằng vung, không biết sợ trời là gì, thì người ấy có thể làm mọi sự và thường là những điều tệ hại nhất.
6- Nhưng một ơn khác của Chúa Thánh Thần làm cho ơn kính sợ này trở nên tình yêu, đó là ơn đạo đức. Sáu là ơn đạo đức: nghe “đạo đức”, ta nghĩ ngay đạo đức là năng đi nhà thờ, năng đọc kinh lần hạt. Nhưng đó mới là những diễn tả. Đạo đức chính là Đạo làm con. Một người con năng đến với cha là người con có hiếu. Và nếu cần dịch lại thì sẽ là ơn sùng hiếu (pietas). Ơn thứ 7 cho ta kính sợ Chúa, nhưng không phải kính sợ Chúa như một ông vua đầy uy quyền sát khí, một lời nói là đầu rơi, một chau mày là người chết. Nhưng ơn kính sợ Chúa cộng với ơn sùng hiếu này khiến ta kính sợ Chúa như người Cha của chúng ta. Đây phải là một ơn riêng của Chúa Thánh Thần khiến ta mới có thể dám xem Chúa là Cha của mình (x. Ga 4,6 ; Rm 8,15).
5- Năm là ơn mạnh bạo hoặc ơn mạnh sức. Đây không phải là sức khoẻ phần xác thôi, nhưng là sự dũng cảm của một người con Chúa can trường và vui vẻ thực hiện ý của Cha mình. Do đó có thể dịch ơn mạnh bạo là ơn dũng cảm.
Thực vậy để thực hiện chứ không phải chỉ biết thôi –ý của Chúa- nhiều khi chẳng dễ nuốt ngon ăn. Phải dũng cảm lắm mới được. Chúa Giêsu đã nói: Từ ngày Gioan Tẩy Giả đến giờ, Nước Trời ở dưới sức cường bạo, và chỉ những ai mạnh bạo mới được vào Nước Trời (Mt 11,12). Một chỗ khác, Chúa Giêsu nói: Không phải cứ kêu ‘Lạy Chúa, lạy Chúa’ mà được vào Nước Trời, nhưng là thi hành ý của Cha Ta (Mt 7, 21). Móc nối 2 câu này ta thấy phải dũng cảm lắm mới thực thi được ý Chúa để có thể chiếm Nước Trời.
4- Bốn là ơn lo liệu. Ơn thứ năm mạnh bạo cho ta sự dũng cảm để làm theo ý Chúa, nhưng chính ơn lo liệu này, dịch rõ hơn phải là ơn chỉ giáo cho ta biết đâu là ý Chúa trong từng trường hợp cụ thể. Trong Tam Quốc Chí, Khổng Minh Gia Cát Lượng trao cho Triệu Tử Long trên đường sang Đông Ngô 3 túi gấm trong đó có sẵn những chỉ dẫn. Khi cần thì cứ mở cẩm nang (túi gấm) để biết phải làm gì, làm gì, làm gì. Tới bờ sông, mở túi gấm 1, gặp quả núi mở túi gấm 2…
Vì thế ơn lo liệu tức là ơn cẩm nang, ơn túi gấm, ơn chỉ giáo: (conseil) là ơn hiểu biết ý Chúa trong từng trường hợp cụ thể để ơn dũng cảm cho ta sức mạnh thi hành.
Ba ơn còn lại liên hệ đến chữ BIẾT. Nhưng mỗi ơn cho ta biết Chúa mỗi cách.
3- Ba là ơn thông minh. Dịch như trong lời nguyện của Bí tích Thêm sức sẽ dễ hiểu hơn: ơn suy biết. Là ơn mình suy từ thiên nhiên vạn vật mà biết có Chúa là Đấng Tạo Hoá. Cách biết Chúa bằng lối này Chúa Thánh Thần ban cho rất nhiều người. Nhìn chiếc đồng hồ có các bánh xe ăn khớp nhau, ta suy biết có người làm ra đồng hồ. Thì nhìn trời đất muôn vật với trật tự lạ lùng, ta suy ra có ông Trời là Tạo Hoá. Đây là cách biết Chúa sơ đẳng nhất: biết Chúa qua thiên nhiên, biết Tạo Hoá qua mọi thọ tạo. Trước đây dịch là ơn thông minh. Dịch là ơn suy biết thì có lẽ thông minh hơn !
2- Ơn suy biết là biết Chúa qua thọ tạo (Science). Cách biết Chúa cao hơn là biết Chúa qua mạc khải. Đây chính là ơn thứ hai: hai là ơn hiểu biết, hay dịch đúng hơn: ơn thấu hiểu, ơn thông hiểu. Không phải là hiểu biết thường qua thọ tạo, nhưng là hiểu biết thấu đến chính Tạo Hoá đó đã tỏ mình ra với con người. Tiếng chuyên môn gọi là mặc khải. Nói rõ hơn, ơn này đòi hỏi ta phải tin nữa. Tin Thiên Chúa là Lời – Lời nói với con người – cụ thể là tin Kinh Thánh là Lời ngỏ của Chúa cho nhân loại. Ơn này cũng còn có nghĩa là hiểu lời ngỏ của Chúa nữa: nói nôm na là hiểu và giải thích Kinh Thánh. Các nhà chú giải Thánh Kinh có lẽ nhận được ơn này nhiều. Tất cả thuộc phạm vi của ơn thấu hiểu.
1- Và cuối cùng là ơn khôn ngoan: một là ơn khôn ngoan. Chữ “khôn ngoan” chưa nói được gì cả về ơn thứ nhất trong 7 ơn Chúa Thánh Thần này. Phải móc nối với một câu trong sách Khôn Ngoan ta mới khôn ra được, mới sáng trí hơn: Xin rộng ban cho tôi, Đức Khôn Ngoan hằng ở bên toà Chúa (Kn 9,4). Hoặc trong sách Huấn ca: Khôn ngoan đều xuất phát bởi Chúa, và khôn ngoan ở với Người muôn đời (Hc 1, 1). Vậy ơn khôn ngoan dịch cách khôn ngoan hơn phải là ơn thượng trí, tức là ơn “biết” Chúa thật sự, biết theo nghĩa Kinh Thánh—có thể nói như thế: Adong biết Eva, sinh ra Cain. Ơn thượng trí cho ta biết Chúa thật sự bằng cách bay vút lên trời (thượng trí mà !) để sống thân mật, sống kết hợp, sống kề cận ở ngay bên Chúa, nếm được Chúa, cảm được Ngài: Đức khôn ngoan hằng ở bên toà Chúa.
Chúa Thánh Thần cũng ban ơn thượng trí này cho một số vị tuy còn trong thân xác trần gian, nhưng ngất trí, được đưa thấu tận trời xanh để cảm, để nếm Chúa, để -nói theo lối nói của kẻ đã được đưa lên tầng trời thứ ba: có trong thân xác hay ngoài thân xác, người ấy không biết- đưa lên để nghe những lời khôn tả mà loài người không được phép nói lại. “Về một người như thế, tôi sẽ tự hào.” Phaolo thuật như vậy trong 2Cr 12, 1-6.
Nhiều vị thánh khác, nhất là thánh nữ, được ơn thượng trí kết hợp với Chúa trong khi cầu nguyện. Toma Celano thì nói về Phanxicô Assisi như sau, “khi cầu nguyện, không phải là thánh nhân cầu nguyện mà Phanxicô là hiện thân của sự cầu nguyện” -một kiểu nói khác của sự kết hợp chiêm niệm, của ơn thượng trí. (Nếu các thánh khó khăn lắm mới được ơn này, thì hình như ta dễ dàng được ơn thượng trí, ngất trí này hơn, nhất là trong tuần phòng gặp những bài giảng khô và lâu, tức gặp những chuyên viên gây mê giỏi !). Thôi ta hãy khoan vội xin ơn thượng trí này, mà ta hãy cứ thấy Chúa bằng ơn suy biết khi đi dạo vườn hoa cây cối nơi TGM này. Xin Chúa Thánh Thần cho ta biết hô lên Eureka như Archimede ngày xưa khi ta khám phá được ý nghĩa hay ho của Lời Chúa qua ơn thấu hiểu. Ta hãy xin cho ta biết ý Chúa muốn ta làm gì hôm nay, chốn này, qua ơn chỉ giáo. Lại xin ơn dũng cảm để ta thực thi điều Chúa chỉ giáo. Và như thế ta là người con thật của Chúa là Cha qua ơn sùng hiếu và ơn kính sợ.
[Còn nếu ta xin thẳng ơn thượng trí để “biết” Chúa, kết hợp với Chúa ngay từ đầu tuần phòng, thì chẳng cần mấy bài giảng của đức cha, chẳng cần lân la đến nhà thờ lễ lạy, vì ta đã đắm chìm trong Ngài rồi, thì quả là “khôn ngoan,” mà dịch là ơn khôn ngoan cũng chẳng sai vậy !]
[Ghi chú: ta thấy các ơn đi từng cặp:
- ơn sùng hiếu làm cho ta kính sợ Chúa như con kính sợ Cha
- ơn dũng cảm làm cho ta dám thực hiện ý Chúa trong giây phút hiện tại mà ơn chỉ giáo cho ta biết đâu là ý của Ngài lúc này.
- ơn suy biết cho ta biết Chúa qua thọ tạo thiên nhiên để rồi nhờ ơn thấu hiểu giúp ta biết Ngài ngỏ lời với con người.
- cuối cùng, khi biết Chúa thì yêu Ngài (vô tri bất mộ): lúc đó biết theo nghĩa thông thường trở thành “biết” theo nghĩa Kinh thánh, tức là yêu, là kết hợp với Chúa qua ơn thượng trí.]
Bảy Ơn:
1. ơn Khôn ngoan (dịch lại là ơn Thượng trí, ơn kết hợp thân thiết với Chúa) 2. ơn Hiểu biết (dịch lại là ơn Thấu hiểu, hiểu biết Chúa qua mạc khải) 3. ơn Thông minh (dịch lại là ơn Suy biết, biết Chúa qua suy ra từ vạn vật) 4. ơn Lo liệu (dịch lại là ơn Chỉ giáo, chỉ cho ta biết đâu là ý Chúa trong từng trường hợp cụ thể) 5. ơn Mạnh bạo (dịch lại là ơn Dũng cảm, dám can đảm thực thi ý Chúa mà ơn Chỉ giáo cho biết) 6. ơn Đạo đức (dịch lại là ơn Sùng hiếu, ơn kính sợ Chúa trong tư cách là con của Cha, chứ không phải bề tôi của vua) 7. ơn Kính sợ (không cần dịch lại)
Biến cố Thánh Thần hiện xuống là biến cố cực kỳ quan trọng đối với Giáo hội, xem như biến cố HiệnXuống ABC467
Biến cố Thánh Thần hiện xuống là biến cố cực kỳ quan trọng đối với Giáo hội, xem như biến cố khai sinh Giáo hội.
Thánh Luca đặt biến cố này vào ngày lễ Ngũ Tuần của người Do Thái, đang lúc thánh Gioan xem việc trao ban Thánh Thần nằm ngày sau khi Chúa Giêsu sống lại.
Thánh Gioan muốn liên kết ơn Thánh Thần với sự phục sinh của Chúa chứ không là một biến cố riêng biệt. Trên thánh giá, lúc Chúa sắp tắt thở, các thánh sử khác chỉ nói Ngài trút linh hồn hay tắt thở, nhưng Gioan thì nói: “Ngài trao Thần Khí”, cố ý nói rằng Chúa Thánh Thần tiếp nối ngay công trình cứu chuộc của Ngài. Thời của Thánh Thần bắt đầu ngay khi Chúa Giêsu chết và tiếp tục cho đến tận thế. Chúng ta đang sống trong thời đại của Thánh Thần. Đối với Gioan, việc trao ban Thánh Thần không liên hệ với một biến cố nào mà chỉ tùy thuộc vào Chúa Giêsu mà thôi. Chính Ngài đã nói: “Nếu Thầy không ra đi thì Thánh Thần sẽ không đến”.
Đối với Luca, việc trao ban Thánh Thần là biến cố khởi đầu cho sứ vụ tông đồ của Giáo hội. Dù có sự khác biệt về quan điểm, hai thánh sử vẫn xem biến cố Thánh Thần hiện xuống là biến cố quyết định đối với Giáo hội.
Chính Chúa Giêsu đã căn dặn các tông đồ phải ở lại trong thành cho đến khi nhận lãnh “quyền năng từ trời ban xuống”.
Trong Kinh Thánh, Chúa Thánh Thần được nói đến từ trang đầu tiên đến trang cuối. Thánh Thần sáng tạo bay là trên cảnh hỗn man đầu tiên. Trong đoạn cuối của sách Khải Huyền, Thánh Thần và Tân Nương nói: “Xin Ngài ngự đến”. Điều này chứng tỏ rằng Ngài là đầu của cuộc sáng tạo vũ trụ và con người, Ngài cũng là cuối của mọi sự, và mọi sự sẽ kết thúc trong Ngài.
Chúng ta không thể nhìn thấy Ngài, nhưng Ngài luôn hoạt động trong mọi biến cố, trong lịch sử và trong mọi người. Tất cả những gì là thiện hảo, là chân thật và yêu thương đều phát xuất từ Ngài, ngay cả trong những người chưa bao giờ biết Ngài. Trong Cựu Ước, Ngài hoạt động rõ rệt nhất trong các tiên tri, những sứ giả của Ngài. Ngòi bút của các tác giả Kinh Thánh đã viết cho Ngài. Ngài thấm nhuần từng lời Kinh Thánh.
Ngài xuất hiện rõ rệt hơn trong mọi giai đoạn của đời sống Chúa Giêsu, từ ngày truyền tin cho đến kết cuộc là phục sinh. Ngài tiếp tục hoạt động trong Giáo hội như Đấng Bảo Trợ Thần Linh cho đến tận thế.
Thánh Thần đã được ban cho các Tông đồ, cho Giáo hội và cho mỗi người chúng ta để kiện toàn công cuộc cứu chuộc của Chúa Cha.
Nói đến Thánh Thần, nhiều người tưởng Ngài là một Đấng cao vời thánh thiện, cách biệt muôn trùng. Không, Ngài rất gần, Ngài tràn ngập mọi sự.
Cha Antôn de Mello bảo chúng ta phải hít thở Thánh Thần vì Ngài đang tràn ngập trong không khí. Ngài vô hình, nhưng chúng ta có thể khám phá ra Ngài khắp nơi, trong tâm hồn, trong cách ăn nói, hành động của chúng ta. Tất cả những gì phát xuất từ tình yêu chân thật đều mang một ánh sáng của Ngài. Ngài xuất hiện trong một lời tha thứ, trong một cử chỉ thân tình, trong ánh mắt cảm thông, trong một sự im lặng chịu đựng, trong một nụ cười thân thiện… Mỗi người chúng ta đều tràn ngập Thánh Thần nếu chúng ta không bị vẩn đục vì kiêu căng hay tội lỗi…
Thánh Thần được Chúa Giêsu trao ban như hơi thở của Ngài. Hơi thở là sự sống. Chúng ta có thể hiểu là Ngài gìn giữ sự sống thần linh trong chúng ta, sự sống mà chúng ta đã lãnh nhận trong phép Rửa Tội và Thêm Sức.
Thánh Thần cũng được ban cho Giáo hội để mang lại ơn tha thứ: “Anh em tha tội ai, người ấy được tha”.
Ngày lễ Ngũ Tuần, ngọn bão thần linh đã thổi vào các Tông đồ khiến các ngài như bị cuốn trôi theo chiều gió của Ngài. Các Tông đồ đã trở nên những con người mới, sáng suốt và can đảm.
Thánh Thần xuất hiện như một ngọn lửa, đã tinh luyện miệng lưỡi của tiên tri Isaia, hôm nay đã đốt cháy những gì là con người tự nhiên, biến các ngài thành những con người “thần thiêng” như thánh Phaolô đã nói. Con người vật chất đã được biến đổi. Họ không còn e ngại sợ sệt, đóng cửa mà hiên ngang làm chứng.
Miệng lưỡi của các ngài đã được thanh tẩy trong ngọn lửa Thánh Thần, và mọi người đều nghe các ngài nói trong chính tiếng bản xứ của mình.
Ngày nay, các phương tiện truyền thông càng ngày càng tinh vi, có thể thống nhất thế giới bằng làn sóng điện. Mọi sự trên thế giới thu gọn trong một chiếc máy nhỏ cầm tay. Nhưng buồn thay! Thay vì thống nhất, con người càng bị chia rẽ. Hố sâu giữa các dân tộc càng ngày càng sâu hơn. Thay vì truyền thông sự lành thì sự dữ càng thống trị nặng nề hơn. Trong một thế giới bị phân tán, chúng ta cảm thấy lạc lõng hơn, bềnh bồng theo triều sóng thông tin. Chúng ta cần lắng nghe tiếng nói của Thánh Thần trong khối thông tin khổng lồ và ô hợp kia để tìm thấy những dấu hiệu thời đại, nỗ lực tìm những mối dây liên kết trong sự lành, biến đổi mọi sự thành cảm thông và yêu thương.
Sứ mệnh của chúng ta là “không rập theo thói thế gian”, không phải để thế gian chi phối mà gom góp những mãnh vụn tình yêu đang trôi giạt theo làn sóng hận thù, kết lại để phục vụ mọi người.
Trong Thánh Thần, chúng ta sẽ làm được nhiều việc mà chúng ta tưởng như không thể. Chỉ cần nỗ lực và tin tưởng. Thánh Thần luôn hỗ trợ những cố gắng của chúng ta.
Khí giới của chúng ta không phải là những hỏa tiển hạt nhân, tàu ngầm hay oanh tạc cơ mà là niềm tin đơn thành và mãnh liệt. Chúng ta sẽ không tan vỡ trong làn sóng hận thù, gian ác mà qua cơn sóng, chúng ta vẫn bền tâm tiến bước… Thế giới càng u tối, Thánh Thần sẽ giúp chúng ta thắp lên những ngọn lửa tin yêu nhỏ bé nhưng vẫn bền tâm tỏa sáng.
Sống yêu thương không mỏi mệt. Đó là sứ mệnh Chúa Giêsu trao cho chúng ta. Thế gian đang cần chúng ta, cần những con người dám sống cho sự thật và tình yêu.
Vũ trụ có qua đi, tình yêu vẫn tồn tại: “Anh em đừng sợ, Thầy đã thắng thế gian”. Thắng bằng tình yêu. Chúng ta đang đi vào cuộc chiến thắng cuối cùng đó, trong tin yêu. Hy vọng của chúng ta vẫn cháy sáng miễn là chúng ta không “dập tắt Thánh Thần” trong ta.
Thánh Thần đã được ban để hỗ trợ sự yếu hèn của chúng ta, cầu nguyện trong chúng ta, nhưng chúng ta có cùng Ngài cầu nguyện không? Chúng ta đủ dung tích để chứa đựng kho tàng Thánh Thần không? Hãy tẩy sạch mọi chướng ngại để Thánh Thần Chúa thênh thang hoạt động trong chúng ta. Chúng ta nhỏ bé nhưng chính Thánh Thần chọn những gì là yếu kém, là không có gì, để thắng những gì là mạnh mẽ của thế gian. Tin tưởng là một ngọn lửa nhỏ, nhưng không biển cả nào dập tắt được, vì nó phát xuất từ Thánh Thần Tình Yêu.
Chúng ta có thể nói như Chúa Giêsu: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi rao giảng cho người nghèo khó…” Chúng ta hãy căng buồm lên để Chúa Thánh Thần thổi gió của Ngài vào cánh buồm của chúng ta. Chúng ta dám ra khơi mà không sợ bị chìm.
Chúa Giêsu đang ngủ trong thuyền của chúng ta. Ngài đã đến trong chúng ta nhờ của ăn thần linh Ngài trao ban hằng ngày. Chúng ta còn e ngại gì mà không dám ra khơi, không dám sống cho tình yêu? không dám phục vụ hết mình? không dám làm chứng cho Thiên Chúa Tình Yêu? Thời nay là thời của nhân chứng. Thế giới vẫn đang chờ đợi Tin Mừng Cứu Độ. Hãy cùng với Thánh Thần xông pha vào cuộc sống để làm men trong bột, làm muối cho đời.
Các bài đọc thánh lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống xoay quanh hai chủ đề chính tường thuật biến HiệnXuống ABC468
Các bài đọc thánh lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống xoay quanh hai chủ đề chính tường thuật biến cố lịch sử Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ như lời Chúa Giêsu đã hứa, biến đổi con người yếu đuối của các ngài thành những kẻ hiểu biết và phân biệt mầu nhiệm Thiên Chúa. Và ý nghĩa thứ hai là ý nghĩa thiêng liêng đi liền biến cố lịch sử của biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống. Chúa Thánh Thần là linh hồn của đời sống Kitô của mỗi tín hữu trong nhiệm thể duy nhất của Chúa. Biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống trong ngày lễ Ngũ tuần của người Do Thái năm mươi ngày sau lễ vượt qua. Người Do Thái mừng lễ Giao Ước, nhắc nhở Giao Ước của Thiên Chúa đã ký kết với dân của Thiên Chúa đã chọn. Và mỗi thành phần của dân Chúa chọn cam kết sống trung thành với Giao Ước này, Chúa Giêsu đến để thiết lập Giao Ước mới bằng chính máu của Ngài trên cây thập giá, và qua việc chọn ngày lễ Ngũ tuần để thực hiện biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ. Chúa Giêsu muốn cho các ngài hiểu rằng từ nay, đây là ngày lễ của Giao Ước mới, từ Giao Ước mới này, Giáo Hội được khai sinh, và từ Giao Ước mới này, mỗi tín hữu được mời gọi sống đời sống mới, một cuộc sống làm chứng cho Chúa Kitô.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống mỗi người chúng ta được mời gọi nhớ lại và dấn thân thực hành Giao Ước mới đã được Chúa Giêsu Kitô thực hiện cho mỗi người chúng ta. Chúa Thánh Thần hiện diện trong Giáo Hội, hướng dẫn Giáo Hội và qua các thời đại, vẫn phát triển, vẫn trung thành, mặc dù, đôi khi có những sa ngã, những sai lầm, những tội lỗi làm cho một số người xa lìa Giao Ước mới.
Biến cố lịch sử Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ không những chỉ có chiều kích thiêng liêng canh tân cá nhân mà thôi, nhưng còn có chiều kích Giáo Hội nữa, liên kết mọi kẻ tin Chúa và lãnh nhận Thánh Thần trong cùng một cộng đoàn, một thân thể sống liên đới với nhau, như bài đọc thứ hai nhắc lại cho chúng ta. Nhưng đồng thời cũng là một cộng đoàn có tổ chức, có một lãnh đạo chịu trách nhiệm thừa hành quyền lãnh nhận từ Chúa, như được nhấn mạnh nơi bài Phúc Âm, Chúa Giêsu đến ban bình an, đổi mới các tông đồ rồi trao quyền cho họ: “Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. Các con tha tội cho ai thì người đó được tha. Các con cầm buộc ai thì người đó bị cầm buộc”. Các tông đồ lãnh nhận Chúa Thánh Thần vừa đồng thời chia sẻ quyền thần linh tha tội của Chúa, sống bên cạnh Chúa nhiều năm trước đã nhìn thấy Chúa thực hiện những phép lạ, để chứng minh quyền tha tội của các ngài, nên khi nghe lời Chúa phán, các tông đồ hiểu rõ hơn ai hết. Những lời này có nghĩa gì. Các ngài được biến đổi để trở thành người tiếp tục sứ mạng của Chúa: “Hãy ra đi rao giảng cho mọi dân nước những gì Thầy đã truyền cho các con, dạy họ tuân giữ những gì Thầy đã truyền và rửa tội cho họ”.
Mỗi thành phần trong Giáo Hội đều đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần nhưng trong những cấp bậc khác nhau, qua bí tích rửa tội và thêm sức qua bí tích chức thánh, trở thành tác viên thánh của Chúa. Mỗi người chúng ta đều đã được canh tân, được biến đổi để chu toàn những tác vụ khác nhau, nhưng cùng một Thánh Thần.
Ước cho ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống mời gọi mỗi người chúng ta trở về với ơn gọi nguyên thủy của mình, trở về với sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, canh tân đời sống cá nhân và chu toàn sứ mạng trong sự hiệp nhất và hiệp thông của cùng một nhiệm thể Chúa Kitô. Xin Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và hướng dẫn cuộc đời chúng ta thực hiện thánh ý Chúa.
Trước khi về với Chúa Cha, và trong quyền năng của Đấng Phục Sinh, Đức Giêsu đã trao cho HiệnXuống ABC469
Trước khi về với Chúa Cha, và trong quyền năng của Đấng Phục Sinh, Đức Giêsu đã trao cho các môn đệ Thần Khí của Người, ‘Người thổi hơi vào các ông và bảo: “anh em hãy nhận lấy Thánh Thần!”; vậy thì Thánh Thần là ai mới được?
Phúc âm ghi lại hai từ vựng Đức Giêsu dùng để chỉ nhân vật này: ‘Thần Khí’ (Divine Spirit) có nguồn gốc Cựu Ước, và ‘Đấng Bảo Trợ’ (Paraclet) một danh xưng hoàn toàn mới.
Trong Cựu Ước thần khí Chúa có nghĩa là ‘sức mạnh của Đức Chúa’, tức đơn thuần là một thuộc tính của Thiên Chúa. Trong ngôn ngữ Tân Ước của Đức Giêsu, Thần Khí là một nhân vật biệt lập: Thánh Thần (Holy Spirit) xuất phát từ Chúa Cha và Chúa Con. Và còn hơn thế nữa, khi chuyển từ Cựu Ước qua Tân ước, chính nội dung của thuộc tính ‘sức mạnh’ cũng đã bị thay đổi hầu như hoàn toàn: từ sức mạnh của quyền uy biến thành sức mạnh của lòng thương xót, từ sức mạnh của phán quyết xét xử trở thành sức mạnh của cứu độ thứ tha. Chính vì lẽ đó mà một danh xưng mới cần được chế tác để biểu thị nhân vật này đó là: ‘Đấng Bảo Trợ’.
Đương nhiên là hiểu được nội dung của từ vựng mới này (nguyên ngữ Hy Lạp là parakletos) không phải chuyện đơn giản; đây đã từng là điều gây tranh cãi giữa các nhà chú giải và dịch thuật Thánh Kinh. Tác giả Gio-an đã sử dụng từ vựng này cả trong cuốn Phúc âm thứ tư lẫn trong lá thư thứ nhất của ngài (xem Ga 14:16.26, 15:26,16:7, 18:36; và 1 Ga 2:1). Danh xưng này được áp dụng cho chính Đức Giêsu trước hết, và cho nhân vật sẽ được Người phái đến sau này: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một ‘Parakletos’ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14:16). Parakletos có thể hiểu là người bênh vực, là trạng sư, là cố vấn, là người an ủi đỡ nâng, là người đứng về phe kẻ tin trước tòa án tối cáo để khỏi bị kết án… Trong 1 Ga 2:1 chính Đức Giêsu được gọi bằng danh xứng Parakletos: “Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha; đó là đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính”. Do đó, Thánh Thần chỉ là ‘Đấng Bảo Trợ khác’ (Allon Parakleton) được phái đến sau khi Đức Giêsu trở về nhà Cha.
Thánh Thần chính là: ‘khí lực cứu độ và thứ tha của Đức Kitô Giêsu’. Hiểu biết Thánh Thần trong nội dung đó quả là điều tối quan trọng. Toàn bộ cuộc đời Đức Giêsu, suốt cuộc sống và nhất là qua cái chết thập giá của Người, chỉ là biệu hiện và thực thi lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa là Cha; do đó chỉ trong Thần Khí, Kitô hữu mới thật sự thấu hiểu được một Thiên Chúa từ nhân, như Đức Giêsu muốn mạc khải cho biết: “Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều” (Ga 14:26). Sau ngày Đức Giêsu về trời, điều kiện tối cần để trở thành môn đệ chính là nhận lãnh Đấng Bảo Trợ này, “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”; về điều này Đức Giêsu khảng định cách thẳng thắn: “Thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (Ga 14:17). Như vậy, Thánh Thần không phải là một nhân vật xa lạ gì đối với các tín hữu: Người hòa nhập vào niềm tin của mỗi Kitô hữu đặt nơi Đức Giêsu - Parakletos. Thánh Phao-lô đã hiểu và diễn tả Thánh Thần như thế trong tất cả các thư của ngài (đặc biệt xem Rm 8:15 và Gl 4:6).
Đức Giêsu trước khi ra đi để về với Cha, đã hứa ban Đấng Bảo Trợ của Người cho các môn đệ; sau khi sống lại từ cõi chết Người đã thổi hơi Thánh Thần trên môn đệ; trong ngày lễ Ngũ Tuần, Parakletos - Thánh Thần đã bốc cháy dữ dội trên các tông đồ và mọi kẻ tin (với tâm điểm hiện diện là Đức Maria); và thế là niềm tin vào Giêsu - Paracletos bắt đầu bùng lên trên khắp mặt đất. Kể từ ngày đó, Hội thánh trở thành một tập thể những người được Thánh Thần tác động, để có thể tuyên xưng và loan truyền cho mọi người, mọi thế hệ biết: “Giêsu Kitô là Cứu Chúa”, là Thiên Chúa - Đấng từ nhân.
Rồi cũng trong tác động của cùng một Thánh Thần này, mà Đức Maria - đệ nhất tín hữu đã được các thế hệ Kitô hữu sau này cầu khẩn dưới danh xưng ‘trạng sư’ (advocata nostra); tước hiệu này quả xác đáng lắm thay! Nhưng không chỉ Đức Maria, mà toàn thể Hội Thánh và mỗi Kitô hữu chúng ta, đặc biệt các linh mục của Đức Kitô trong Thần Khí, cũng phải trở thành người bảo trợ - trạng sư (parakletos - advocatus) cho những người nghèo khổ và tội lỗi nhất, để minh chứng cách cụ thể rằng Thánh Thần Chúa vẫn còn tiếp tục hiện diện cách sinh động giữa lòng nhân thế. Don Bosco đã từng là như thế đối với các thanh thiếu niên nghèo và bị bỏ rơi; do đó ngài đòi các tu sĩ Sa-lê-diêng của mình chính xác điều này: ‘trở thành dấu chỉ và người mang tình yêu của Thiên Chúa đến cho các thanh thiếu niên’. Cũng vậy, rất nhiều vị thánh khác như cha sở họ Ars - thánh Jean Marie Vianney, hay Mẹ Tê-rê-xa Kơn-ka-ta đã đối sử với các tội nhân đớn hèn và những kẻ cùng khổ, thông qua việc trao ban bí tích giải tội và các việc bác ái phục vụ. Chính qua việc thể hiện mình là ‘parakletos’ mà chúng ta có thể đo lường được đức tin của mình và sức sống Thánh Thần trong ta!
Lạy Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ, xin hãy ở lại trong con bằng sức mạnh yêu thương mà chính Người đã nhận được từ Đức Kitô Giêsu; xin Người nối kết con với Đức Giêsu Thập Giá, để con có thể đón nhận cách trọn vẹn sự bảo trợ thần linh của Người. Trong và nhờ sự dẫn dắt của Mẹ Maria, xin hãy biến đổi con, và mọi phẩm trật trong Hội Thánh Chúa, được trở thành các tác nhân mang lại niềm hy vọng và cậy trông cho hết thảy mọi người, đặc biệt những ai tội lỗi, yếu đuối và nghèo hèn nhất… trong tác động mãnh liệt của Người là Thánh Thần bảo trợ và là Đấng ủi an. Amen.
Trong một lần giáo huấn, Chúa Giêsu đã quả quyết với các tông đồ: “Sự gì các con cầm buộc dưới HiệnXuống ABC470
Trong một lần giáo huấn, Chúa Giêsu đã quả quyết với các tông đồ: “Sự gì các con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc. Sự gì các con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở”. Và hôm nay, sau ngày Phục sinh, trong một lần hiện ra với họ, Chúa Giêsu đã phán: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai thì tội người ấy bị cầm lại”. Khi nói lên lời đó, Ngài chính thức thiết lập Bí tích Giải tội, ủy thác cho Hội thánh quyền năng tha thứ và cầm buộc. Quyền năng này không chỉ được trao ban cho các tông đồ nhưng còn thông chuyển đến các đấng kế vị là các giám mục và những linh mục hiệp thông với các ngài. Qua lời tuyên bố thiết lập Bí tích Giao hòa Chúa Giêsu muốn nói với các vị thừa tác viên đầu tiên và những người kế nghiệp rằng: một khi dưới đất họ đọc lên lời tha tội “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” thì lập tức trên trời Ngài sẽ chuẩn y, và dù tội con người có thẫm như máu đào cũng sẽ được biến đổi tinh trắng như bông.
Trong Tông thư Reconciliation and Penance, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã khẳng định: “Khơi dậy lòng sám hối và thay đổi tâm hồn nhân thế cùng trao ban cho con người tặng phẩm giao hòa chính là sứ mạng đặc thù của Hội thánh khi tiếp nối công trình cứu độ của Đấng sáng lập”. Có người đặt vấn đề: Tại sao lại phải đi xưng tội với một linh mục? Tới thẳng với Chúa không được sao? Lẽ dĩ nhiên Chúa Giêsu có trăm muôn ngàn cách tha thứ tội lỗi con người, nhưng phương cách Ngài “làm người” để cứu thế và “chọn con người” để thi hành quyền ý định của Thiên Chúa cũng có đó một số lý do khiến cho việc xưng tội với một linh mục trở nên cần thiết.
Catholicism and Life có chỉ ra những lý do như sau:
Thứ nhất, vì “có những tội được tha và có những tội bị cầm” nên hối nhân phải xưng tội mình ra thì linh mục mới có thể xác định được tội nào được tha và tội nào bị cầm.
Thứ hai, việc xưng tội với một linh mục sẽ giúp cho con người trở nên khiêm tốn. Người ta dễ chừa tội hơn khi biết rằng nếu mình phạm, mình sẽ phải xưng.
Thứ ba, chắc chắn hối nhân sẽ đón nhận được ơn thánh hóa từ Bí tích Hòa giải. Nhưng trước đó, họ sẽ nhận được những lời khuyên hữu ích từ vị linh mục, giúp họ thăng tiến hơn trên đường thiêng liêng. Thêm vào đó, có không ít khuynh hướng nhiệm nhặt hay buông thả khiến cho có người quá khắt khe, thấy điều chi cũng tội, hay có người quá lỏng lẻo đến nỗi bao tội tày trời cũng cho là chẳng có gì ghê gớm. Thậm chí có khi còn biện minh để lương tâm thấy tội nhẹ đi hay không còn tội lỗi gì nữa. Vì vậy, nếu không có sự trợ giúp của vị linh mục làm sao người ta có thể quân bình với chính mình và chân thành với Thiên Chúa được. Cuối cùng, khi ban ơn tha tội, vị linh mục thay mặt Chúa sẽ bảo đảm ơn tha thứ cho hối nhân. Đối với người đi “xưng thẳng” với Chúa, ai sẽ đoan quyết cho điều đó? Chắc chắn không ai hết.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cảnh cáo những người cho mình không cần Bí tích Giải tội như sau: “Thật là điên rồ và kiêu căng đối với những ai tự ý coi thường phương thế trao ban ơn sủng và cứu thoát mà chính Chúa Giêsu thiết lập, nhất là đối với những kẻ cho rằng không cần đến Bí tích Giải tội để được tha tội”.
Có nhiều người vì ý thức lệch lạc nên coi thường xưng tội, nhưng cũng có không ít người vì đánh mất cảm thức về tội nên không còn thấy cần đi xưng tội nữa. Thậm chí có người xấu hổ ngại ngùng khi phải thú nhận tội mình với kẻ khác. G. K. Chesterton, một nhà văn trở lại Công giáo đã viết: “Không việc gì phải xấu hổ về những dại dột của mình... Đã là con người không ai không có lỗi lầm, nhưng lỗi lầm kinh khủng nhất của con người là cho mình không có lỗi”. Thánh Gioan tông đồ viết thẳng thừng hơn: “Nếu ta nói: ta không có tội là ta tự lừa dối mình, và sự thật không có trong ta”. Trái lại, “Nếu ta xưng thú tội lỗi mình thì người trung tín và công chính đủ để tha thứ tội lỗi cho ta, và tẩy ta khỏi mọi bất chính”.
Một điều luôn gắn liền với Bí tích Giải tội là “ấn tòa” mà tất cả mọi linh mục phải tuân giữ. Không một điều gì nghe trong tòa mà cha giải tội lại được phép nói ra cho người thứ ba, dù tính mạng của mình bị đe dọa hay an ninh quốc gia được bảo toàn.
Lịch sử Giáo hội ghi nhận biết bao hình ảnh hào hùng của những con người dám lấy máu đào bảo vệ đức tin, trong đó cũng có hình ảnh của những linh mục dám lấy mạng sống bảo vệ “ấn tòa giải tội”.
Cha Gioan Nepomucene là mẫu gương tiêu biểu trong thế kỷ 14. Ngài là cha giải tội của hoàng hậu Jane, nước Bohemia. Vua Wenceslaus là người đa nghi và ghen tuông. Vì muốn biết hoàng hậu đã làm điều chi thầm lén nên vua yêu cầu cha Gioan thuật lại những gì nàng xưng ra với ngài.
Tưởng rằng quyền lực và uy thế của mình có thể khui được ít nhiều bí mật nơi miệng cha Gioan, nhưng vua đã lầm. Vị linh mục của Chúa nhất quyết không hé lộ bất cứ điều gì. Kết quả, ngài bị nhốt vào hầm tối, và một đêm kia, bị nhận nước cho đến chết.
Ba trăm năm sau, khi khai quật lăng mộ cha Gioan, những người hữu trách ngỡ ngàng chứng kiến thân thể ngài mục hoàn toàn, ngoại trừ chiếc lưỡi vẫn nguyên vẹn như lúc còn sống. Ngày nay, trên chỗ ngài bị giết người ta dựng lên một tượng đài, phía dưới chân có khắc dòng chữ: “Nơi đây vị chứng nhân của ấn tòa giải tội đã nằm xuống”.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao ban cho các tông đồ món quà vô giá là Chúa Thánh Thần và quyền năng tha tội. Sứ mạng của các ngài và những người kế vị sẽ là việc làm nảy sinh hoa trái cho toàn nhân loại. Biết khiêm tốn mở lòng đón nhận ơn tha thứ, con người sẽ tìm thấy bình an và sự sống đích thực, dù thần chết có đang hăm he rình chờ. Biết tìm đến cùng tòa cáo giải, tâm hồn sẽ được chữa lành và ngập tràn hân hoan.
(Phục sinh, 40 ngày sau Lên Trời, 10 ngày sau (Ngũ Tuần) Hiện xuống.) Là lịch của Lc
Ga.20, 22: Ngưòi thổi hơi vào các ông... Thiên Chúa hành động bằng Lời+ hơi thở- Thần khí - luôn HiệnXuống ABC471
Ga.20, 22: Ngưòi thổi hơi vào các ông...
Thiên Chúa hành động bằng Lời + hơi thở- Thần khí - luôn luôn như vậy. Lời là ý định của Thiên Chúa đựoc công bố ra bên ngoài (ad extra). Nói và thở đi liền nhau. Nín thở không nói được. Thần khí đi liền theo lời để lời được thực hiện hay chính thần khí thực hiện lời nói làm cho lời là lời quyền năng của Thiên Chúa. Không có thần khí kèm theo thì lời không có quyền năng, không thực hiện đựoc ý định của Thiên Chúa. Thiên Chúa là một và ba: Chỉ một Thiên Chúa duy nhất(1)được biết qua hành động bằng lời (2) và khi nói lời thì Thiên Chúa cũng thở(3) Không có Chúa nào khác. Lời nói và hơi thở phát xuất từ một Thiên Chúa duy nhất và là của một mà thôi. Lời không là một Chúa khác, hơi thở cũng không là một Chúa khác. Thiên Chúa thở hơi vào mủi của Adam không ban cho Adam một Chúa Thánh Thần (có lẽ Adam lầm tưởng vậy). Hơi thở là biểu tượng của sự sống, ý nói Thiên Chúa ban cho Adam một chút sự sống của mình (một chút thôi). Từ ngữ làm khó người Việt Nam khi nói Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần (rỏ ràng là ba Chúa). Trong khi tiếng la tinh: Pater et Filius et Spiritus Sanctus. Tiếng Pháp: Le Père et le Fils et l'Esprit Saint. Rồi văn hoá Hy lạp và la tinh ưa thần thoại, thần vị hoá như thần chết,thần dử.... Vì Thiên Chúa thở hơi. Phải từ Thiên Chúa hơi thở mới phát xuất dược nên Chúa Giêsu phải về với Cha mới gởi (xin Cha, Cha đã hứa) hơi thở đến thế gian được. Lời và hơi thở phát xuất từ Thiên Chúa như từ một nguồn gốc chung. Nên không nói Cha, Con và Thánh Thần mà nói Cha và Con và Thánh Thần. Ngày Phục Sinh Chúa Giêsu thở hơi và nói 'hãy nhận lảnh thần khí' nhưng chẳng thấy rụt rịt gì, êm ru.Nhưng không có nghĩa là không có gì mà là bắt đầu từ từ, tiệm tiến. Lc nói rỏ: Người ở lại 40 ngày, dạy dổ cho đủ điều rồi mới Thăng Thiên và 10 ngày sau- lễ Ngủ Tuần Thánh Thần mới xuống như làn gió mạnh'ào ào', như lưởi lữa đốt đầu các tông đồ các ông không thể chịu nổi phải bùng nổ, phá cửa chạy ra , la lớn ai ai cũng nghe thấy. Thở hơi là dấu chỉ một bắt đầu mới, một tạo dựng mới. Hiện Xuống là thực hiện mới. Thở hơi lần thứ nhất không kết quả. Lần thứ hai là tái tạo, là cứu độ: kết quả ấn tượng. Thời gian 40 ngày ở lại dạy dổ cho đủ điều và 50 ngày lễ Ngủ Tuần thời gian coi là đủ để sự hiện diện và tác động của Đấng Phục Sinh bằng thần khí thấm nhập và kết quả qua sự cảm nghiệm và tin chắc của các phần tử đựơc tuyển chọn. Hiện Xuống là đánh dấu sự biến đổi và bùng nổ không còn kềm chế được. Thánh Thần là thần khí quyền năng của Thiên Chúa nhưng hành động cách vô hình như Đấng Bảo Trợ, nhiệm vụ là nhắc nhớ, giúp hiểu và biết áp dụng vào những thực tế khác nhau của cuộc sống. Cần có vai chính hành động là con ngưòi. Không có sự cộng tác của con người Thánh thần dù là chính quyền năng của Thiên Chúa đành cũng bó tay. Tội không tha được là tội chóng lại Thánh Thần. Dụng cụ càng tốt kết quả càng cao. Như chuyện người đốn cây mướn. Rất nhiệt tình. Làm không dám nghĩ tay để mài búa. Ngày đầu đốn được 50 cây, hôm sau còn 40, hôm sau còn 30, hôm sau còn 15. Ông chủ gọi lại bảo: anh lấy tiền rồi thôi khỏi đốn cây nữa. Anh lấy làm lạ nói: Tôi làm tận tình, không lúc nào ngơi tay, sao ông đuổi việc tôi? Tại vì anh không có búa bén. Có búa bén mới đốn được nhiều cây. Ông chủ cho anh cơ hội nhưng anh không biết làm tốt. Hãy cộng tác với Thánh Thần.Hãy là công cụ tốt cho Thánh Thần xử dụng. Lưu ý đến những cách hiểu không đúng về Thánh Thần: Chỉ cầu xin, để Thánh Thần làm hết, ngoan ngoản vâng theo Thánh Thần mà không làm, không có sáng kiến...... hoặc cứ làm rồi đổ cho Thánh Thần, trói tay Thánh Thần, cầm tù Thánh Thần......Thánh Thần bó tay.
(Suy niệm của Lm. Jude Siciliano, OP - Anh Em HV Đaminh chuyển ngữ)
Tôi thực sự thắc mắc không hiểu nổi lần đầu tiên các môn đệ lãnh nhận Thánh Thần thì như thế HiệnXuống ABC472
Tôi thực sự thắc mắc không hiểu nổi lần đầu tiên các môn đệ lãnh nhận Thánh Thần thì như thế nào? Và những bài đọc Sách thánh hôm nay dường như cũng không thể giải quyết cho thắc mắc này của tôi. Không biết có giống như thánh Luca mô tả trong sách Công vụ Tông đồ, khi các môn đệ "tề tựu ở một nơi" thì có tiếng động như tiếng gió mạnh ùa vào trong nhà và có hình giống như lưỡi lửa đậu xuống trên mỗi người? Hay việc đó xảy ra như thánh Gioan mô tả, đức Giêsu vào trong nhà dù các cửa đều đóng kín, và nói với các ông: "Bình an cho anh em," nói rồi Người thổi hơi ban Thánh Thần cho các ông? Tại sao một biến cố quan trọng như việc trao ban sự sống, ân huệ đức tin nền tảng của Thánh Thần lại được mô tả khác nhau vậy?
Việc Thánh Thần ngự xuống thì chẳng gây ngạc nhiên gì cho những ai đã quen với văn phong Kinh thánh. Từ "thần khí" trong tiếng Hippri là "ruah," nghĩa là gió, hơi thở hay sự chuyển động của không khí, xuất hiện hơn 90 lần trong bản văn Kinh thánh bằng tiếng Hippri. Đó là nguyên lý của sự sống và sức mạnh và qua Thánh Thần, Thiên Chúa biểu lộ sức mạnh và ý chí của Ngài. Ngay phần đầu của sách Sáng thế, nhờ "Thần Khí của Chúa," bao phủ trên cái hỗn mang và trên mặt nước, mà Thiên Chúa bắt đầu công cuộc sáng tạo.
Trong bản văn bằng tiếng Hippri, Thần Khí chỉ được ban cho trong một giai đoạn (Kn 15,16). Những ai được ban cho Thần Khí thì cũng được phú cho một ân huệ đặc biệt để hoàn thành những mục đích của Thiên Chúa. Chẳng hạn như, Salomôn được ban cho Thần Khí đức khôn ngoan (Kn7,7). Những nhà lãnh đạo Israen được Thần Khí của Thiên Chúa làm cho nên mạnh mẽ, và các ngôn sứ, được tràn đầy Thần Khí để nói nhân danh Thiên Chúa (Is 61,1 và Lc 4,18)
Tân Ước chỉ ra một sự liên tục của một Thần Khí đã hiển lộ trước đây. Từ Hylạp để chỉ Thần Khí là "pneuma" và có cùng nghĩa với từ "ruah" trong tiếng Hippri. Tin mừng Luca và Sách Công vụ Tông đồ chú trọng đến công việc của Thần Khí. Thần Khí là sợi chỉ dệt nên hai công trình của Ngài. Ở cuối Tin mừng, Đức Giêsu ra lệnh cho các Tông đồ và họ phải ở lại Giêrusalem cho đến khi nhận được "điều Cha đã hứa" (Lc 24,49).
Thánh Luca xác định rõ Lễ Hiện Xuống là ngày Thánh Thần được ban. Lúc ban đầu, đó là ngày lễ tạ ơn, rồi sau đó nó được liên hệ tới việc ban tặng lề luật tại núi Sinai (Đnl 16,9-21). Vào ngày Lễ Hiện Xuống, cộng đoàn sa mạc ở Qumran đón nhận thêm những thành viên mới, những người tuyên xưng lòng khao khát được trở thành một dân trong giao ước với Thiên Chúa. Thánh Luca đặt ân huệ của Thánh Thần vào ngày lễ tạ ơn truyền thống, hình thức luân lý, một sự dấn thân và hiến dâng mới mẻ.
Thánh Thần của Thiên Chúa đã ở với dân Israen khi họ vượt qua sa mạc và chiến đấu chống lại dân ngoại để tiến về đất hứa. Khởi đầu với phép rửa của Người, Thánh Thần đã ban sức mạnh và gìn giữ đức Giêsu qua cơn cám dỗ trong hoang địa, trong sứ vụ, sự khổ nạn, chết và phục sinh. Cũng chính Thánh Thần đó giờ đây được ban cho cộng đoàn. Hôm nay, chúng ta chứng kiến hoa trái đầu tiên của Thánh Thần khi các môn đệ bước ra khỏi nơi ẩn trốn để rao giảng cho đám đông với các thứ tiếng khác nhau. Sách Tông đồ Công Vụ sẽ cho thấy làm thế nào mà Giáo hội tiên khởi đã chuyển từ một cộng đoàn nhỏ những môn đệ người Do Thái đi theo Đức Giêsu trở thành một cộng đoàn Kitô hữu diễn tả tình yêu, bình an, tha thứ và chữa lành của Người cho thế giới.
Vì thế, nếu như tôi dẹp những khuynh hướng của mình qua một bên để sắp xếp và dành thời gian cho lễ Hiện Xuống này, lắng nghe những gì thánh Luca dạy bảo, thì tôi lắng nghe và học được những điều sau. Đức tin của chúng ta không giống như những kho tàng đem cất giấu và xem như một vật gia truyền dễ vỡ. Ngược lại, chúng ta có cuộc sống sinh động, tràn trề phấn khởi và bùng cháy của Thiên Chúa khi chúng ta họp nhau cầu nguyện và ý thức làm thế nào chúng ta là giáo hội trong thế giới này.
Chúng ta đối điện với một thế giới không niềm tin, yếm thế, mộng tưởng, và suy yếu đạo đức. Chúng ta vẫn bình thản và "giữ đức tin", hoặc chúng ta có thể làm như những gì thánh Luca mô tả trong cộng đoàn tiên khởi: tự tin bước ra thế giới bên ngoài và nói với đám đông đang hoang mang mà chúng ta bắt gặp. Chúng ta biết những hạn chế của mình và có thể đoán xem, như chúng ta nghĩ, làm sao mà chúng ta có thế thất bại trong việc làm chứng cho niềm tin mà Thánh Thần mời gọi chúng ta. Chúng ta không biết chắc mình sẽ được sai đến nơi đâu, nhưng kết quả gặt hái này cho chúng ta xác tín rằng có sự sáng tạo và ân sủng tuôn trào của Thiên Chúa ở với chúng ta. Thánh Luca mô tả đó như là cơn gió mạnh và như ngọn lửa. Nếu chúng ta có thể tin tưởng thánh Luca, thì điều đó khiến chúng ta can đảm khi chúng ta bị chất vấn về niềm tin của mình, hay khi chúng ta được mời gọi để diễn tả lòng tin ra bên ngoài bằng hành động cụ thể.
Nếu chúng ta không thể gim chặt hay đóng hộp Thánh Thần được, thì làm sao chúng ta có thể mong có được sự mô tả ngắn gọn và thích hợp về ơn Thánh Thần mà đức Giêsu dành cho các môn đệ của Người. Giờ đây chúng ta nói đến sự biểu tỏ liên tục của ân sủng Chúa Thánh Thần.
Tin mừng Gioan bắt đầu với mạc khải cho Gioan Tẩy Giả về một đấng, "trên người ấy ngươi sẽ thấy Thánh Thần ngự xuống và ở lại..." (1,33). Đến cuối Tin mừng, vào đêm Phục Sinh, thánh Gioan nói cho chúng ta làm thế nào Đức Kitô phục sinh thổi hơi trên các môn đệ và ban cho họ Thần Khí. Những câu chuyện liên quan trong Tin mừng Gioan cũng hàm chứa rất nhiều ý nghĩa về Thánh Thần. Ví dụ, trong câu chuyện Đức Giêsu gặp gỡ người đàn bà Samaria, đức Giêsu mô tả Thánh Thần như "nước hằng sống" làm vọt lên trong mỗi người ân sủng của đời sống vĩnh cửu. Sau đó, trong suốt bữa Tiệc Ly, đức Giêsu hứa ban Thần Khí đến 4 lần. Người dùng từ Hylạp "parakletos" để mô tả Thần Khí, từ này mang nghĩa là an ủi và bào chữa.
Thánh Gioan nối kết sự đau khổ, cái chết và sự phục sinh của đức Giêsu trong một khoảnh khắc mà ngài gọi là "Giờ." Vì thế, khi đức Giêsu thổi Thần Khí sáng tạo của Người trên các môn đệ vào chiều ngày Phục Sinh và chỉ thị họ đi giải tội cho tội nhân, biến cố này không bị tách khỏi "giờ"; vinh quang đi liền với đau khổ. Thông điệp tha thứ mãi mãi của cộng đoàn, được Thần Khí của chúa Giêsu hỗ trợ không phải là mất giá trong cộng đoàn - hy sinh cá nhân chỉ có thể đến vì một sự đối nghịch của một thế giới không thứ tha.
Khi ngừng thở là chúng ta chết. Thần Khí của đức Giêsu ở với cộng đoàn cùa Người như hơi thở của cộng đoàn. Người sẽ không hủy bỏ quà tặng của hơi thở trao ban sự sống của Người. Giống như Thiên Chúa đã thổi hơi vào Ađam để làm cho ông "sinh động", vào Lễ Hiện Xuống cũng chính Thần Khí đó sinh ra một cộng đoàn sinh động và tha thứ. Giờ đây, nguồn mạch sự sống mới của Thần Khí giúp chúng ta tiếp tục sứ vụ yêu thương và tha thứ của đức Giêsu.
Nhiều năm sau khi Tin mừng này được viết, Giáo hội sử dụng bản văn này như một nguồn liệu nói về Bí tích Hòa giải. Nhưng những Kitô hữu tiên khởi có lẽ đã dùng đoạn văn này cho Bí tích Rửa tội: những người dự tòng chấp nhận thì được rửa tội. Những ai không đón nhận Tin mừng thì không được nhận phép Rửa tội.
Như chúng ta trân trọng đặc quyền của thánh Luca tường thuật biến cố Hiện Xuống trong Tin mừng của ngài và thông điệp mà ngài muốn chuyển cho giáo hội của ngài, chúng ta cũng để cho thánh Gioan kể lại câu chuyện này với cách của riêng ngài cho những nhu cầu cụ thể của cộng đoàn của ngài. Đức Giêsu không còn hiện diện thể lý với chúng ta, nhưng Người cũng không rút lên một ngọn núi xa xôi nào đó trong vũ trụ này để chờ ngày trở lại với chúng ta. Cả hai trình thuật nói với chúng ta rằng hôm nay đức Giêsu vẫn hiện diện với chúng ta cách tròn đầy vì Thần Khí của Người đang ở giữa chúng ta - như những cá nhân hay cộng đoàn Hội thánh.
Trong suốt những lần khủng hoảng trầm trọng đối với Giáo hội của chúng ta, chúng ta tin tưởng và hy vọng Thánh Thần sẽ hướng dẫn chúng ta trong sự thật và dạy chúng ta ý nghĩa của Giáo hội Chúa Kitô. Hôm nay, chúng ta xin Thánh Thần ban cho chúng ta ơn sủng của lòng tha thứ - không phải cho những người khác nhưng là cho chúng ta, cho Giáo hội và những nhà lãnh đạo của chúng ta.
Lễ Hiện Xuống này, chúng ta xin đức Giêsu thổi Thánh Thần của sự tha thứ trên chúng ta. Chúng ta nài xin Thánh Thần chữa lành cho những người vô tội đã bị xúc phạm. Chúng ta nài xin Thiên Chúa thực hiện những gì Ngài đã làm thuở ban đầu - tạo nên chúng ta từ đất sét dễ vỡ thành con người mới và sống động, hội thánh của Chúa Giêsu Kitô, thở bằng sức mạnh của Thần Khí của Người và, bằng chính hành động tha thứ của chúng ta, trao ban cũng một Thần Khí tha thứ đó trên những ai cần.
Chúng ta phải tin tưởng rằng trong ngày Lễ Ngũ Tuần đức Giêsu sẽ thổi trên chúng ta một sự đổi mới, vì những ngày này chúng ta giống như những vận động viên chạy đường dài đang thở hổn hển. Ai biết được chúng ta còn phải chạy bao xa nữa? Chúng ta cần Thần Khí để hoàn tất hành trình của mình.
(Suy niệm của Lm Jude Siciliano OP - Chuyển ngữ: Anh em HV Đaminh Vò Vấp)
Với lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta đã kết thúc 50 ngày mùa Phục sinh. Từ giây phút HiệnXuống ABC473
này trở đi, chúng ta sẽ làm chứng, như trong các bản văn Tân Ước, về đời sống mà Chúa Thánh Thần mang lại cho Giáo hội. Chúng ta gọi hôm nay là "sinh nhật của Giáo hội". Rõ ràng từ chính thái độ mâu thuẫn của các tông đồ trong suốt hành trình sứ vụ của Đức Giêsu và sự phân tán khi Người bị bắt và bị giết chết, cho thấy rằng nếu không có sự can thiệp của Thiên Chúa, thì đã không có một Giáo hội đi loan báo Tin mừng của Đức Giêsu Kitô - đó là tầm quan trọng và sự cần thiết của Lễ Hiện Xuống.
Sau khi Đức Giêsu phục sinh và hiện ra nhiều lần với các tông đồ, Người biết rằng họ cần một sự biến đổi tinh thần để có thể trở thành nhân chứng cho Người. Vì thế, cuối Tin mừng Luca (24,47) và đầu sách Công vụ tông đồ (Cv 1,8), Đức Giêsu chỉ thị cho các tông đồ phải chờ đợi sức mạnh từ trên ban xuống cho các ông qua việc Thánh Thần hiện xuống.
Thánh Luca gắn khởi đầu của Giáo hội với Đại lễ Ngũ Tuần của người Dothái và cho biến cố này xảy ra ở Giêrusalem. Đó là năm mươi ngày (tiếng Hylạp - Pentecoste) sau biến cố Xuất hành và là cuối mùa thu hoạch lúa mì. Một số người cử hành lễ này như là thời gian nhớ lại việc Chúa ban Lề Luật trên núi Sinai. Vì thế, lễ này được xem như thời khắc để hoàn thành và cũng để khởi đầu một sự canh tân trong lịch sử Israel.
Với chuyện xảy ra vào Lễ Ngũ Tuần tại Giêrusalem, thánh Luca cho thấy sự liên tục của lịch sử cứu độ mà Thiên Chúa đã khởi sự từ dân Dothái. Isaia (Is 2,2-4) đã hứa rằng tất cả các dân nước sẽ đến Giêrusalem nơi Đức Chúa sẽ thiết lập vương triều của Người trên trần gian. Vì thế, danh sách các dân nước được liệt kê trong bài đọc hôm nay (Cv 2,9-11). Giống như trong văn chương Kinh thánh, danh sách này mang ý nghĩa biểu tượng nói đến dân từ Đông sang Tây và khắp cả Rôma. Vào lễ Ngũ tuần tại Giêrusalem, là thời điểm và nơi chốn thích hợp để Thiên Chúa khởi sự một triều đại mới trải dài đến "tận cùng trái đất" - mà Rôma là biểu trưng. Như ngôn sứ đã hứa, triều đại này khởi sự với việc ban tặng Thánh Thần.
Lễ Hiện Xuống diễn ra hằng năm vào thời điểm này và tại một số giáo xứ, lễ được tổ chức với việc đọc sách thánh và hát thánh ca bằng những thứ ngôn ngữ khác nhau. Một vài giáo xứ thậm chí còn tổ chức lễ hội ẩm thực của dân bản địa, nhất là đối với những người mới nhập cư vào xứ này. Đây là những cử hành tuyệt vời về sự đa dạng của Giáo hội và cũng là sự nhắc nhở cụ thể về điều mà những người được nghe các Tông đồ tràn đầy Thánh Thần đang nói với họ: "Những người đang nói đó không phải là người Galilê cả ư? Thế sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta?"
Chúng ta mới được nhắc nhở về một Giáo hội đa dạng thì mạnh mẽ thế nào. Trong những ngày tĩnh tâm giáo xứ gần đây, một người mới được rửa tội cho tôi biết về lý do mà anh cảm thấy mình được mời gọi gia nhập vào Giáo hội. Anh đã thăm giáo xứ vào một Thánh lễ Chúa Nhật. Một người Mỹ gốc Phi ngồi bên phải và một người di dân Việt Nam ngồi bên trái anh. Anh cho biết: "tôi quyết định gia nhập Giáo hội vì tôi đã thấy sự đa dạng của các thành phần trong Giáo hội, và cảm thấy Giáo hội cũng mở ra cho tôi một cơ hội nữa. Vì thế, tôi đã ghi danh vào lớp Khai Tâm Kitô giáo và đã được lãnh nhận Phép rửa cách đây hai năm".
Trong một số môi trường như ở sở làm, trường học, chính trường, những khác biệt như thế có thể dựng nên những bức tường ngăn cách, chia rẽ người ta, đặc biệt là nhóm thiểu số. Nói thực lòng, những chia rẽ và định kiến như thế cũng đang tồn tại ngay trong các giáo xứ của chúng ta: những người cũ thường nắm khư khư thói quen, lịch trình và chống lại tất cả những gì mà những người tới sau đóng góp dựa trên quan điểm và lối thực hành niềm tin của họ. Chúng ta được nhắc nhở rằng lễ Hiện Xuống không chỉ là một sự bùng nổ của âm thanh và quang cảnh cách đây rất lâu; nhưng là không ngừng đòi chúng ta phải nhìn lại chính mình như Giáo hội và cách mà chúng ta cùng nhau thực hành niềm tin ấy.
Trong khi những cử hành lễ Hiện Xuống của giáo xứ đang cố gắng diễn tả sự đa dạng tuyệt vời mà Thánh Thần mang lại cho cộng đoàn, thì chính những kiểu cử hành ấy có thể cũng đã bị biến thành yếu tố địa phương và nhàm chán. Để rồi ai đó sẽ ngán ngẩm thốt lên "Lễ Hiện Xuống nào mà chẳng cử hành như thế". Nhưng ngược lại, Thánh Thần không mang lại những gì đã định sẵn và thành ra thường lệ, nhưng Người đến trong hình lưỡi lửa và cơn gió. Nhiều người không muốn đối diện với những gì bất ngờ và hoang mang trong đời sống đức tin của mình. Họ phản kháng: "đời tôi đã quá đủ những báp bênh rồi. Tôi muốn đời sống đạo của mình nhẹ nhàng và dễ chịu - xin đừng có thêm lửa hay gió máy gì nữa!" Các cơ quan tổ chức thì có xu hướng chống lại những thay đổi và sự thích nghi. Thế giới thấy khó chịu với những người mộng mị hay những kẻ hoang tưởng. Chúng ta dễ xua đuổi họ hoặc kê toa thuốc để họ "bình tĩnh lại".
Lễ Hiện Xuống nhắc nhở rằng không bao giờ ta có thể biết Thánh Thần sẽ hoạt động ra sao và nơi người nào. Đại Lễ nhắc ta phải mở to đôi mắt mở rộng đôi tai, nếu không chúng ta có thể đánh mất sức sống mới mà Thánh Thần thổi vào cuộc đời ta. Có thể Thánh Thần có điều muốn nói với ta qua: một thành viên hội đồng giáo xứ có ý kiến ngược với đa số; một người vô gia cư phàn nàn về cách anh bị đối xử trong nhà ăn giáo xứ; một bạn trẻ phàn nàn về thánh lễ Chúa Nhật dành cho giới trẻ thì chán ngắt; linh mục về hưu, tham dự ngày Chúa Nhật và không ngừng nhắc nhở "tinh thần của Vatican II"; một ca trưởng thúc giục ca đoàn phải chia bè ra mà hát; một mục sư Tin Lành mời chúng ta cùng nhau cộng tác trong việc tạo thêm chỗ ở cho những người không nhà; nhóm bảo vệ quyền sống muốn thúc đẩy để ngăn chặn nạn phá thai hay án tử...
Thánh Thần không chỉ đến với những người có quyền lực hay sức mạnh vì, "mọi người đang tề tựu ở một nơi". Thánh Thần là một sự cân bằng, vì đó mà lối cân đong cũ nay không còn giá trị nữa; quý vị không thể biết được ai là người đang mang Thánh Thần hay nói thay Thánh Thần. Chúng ta thường cho rằng những người có học nhất sẽ đưa ra lời quyết định, vì dù sao họ cũng là "những người thông thái". Mặc dù hôm nay chúng ta có thể đang cử hành lễ trọng này trong giáo xứ, để chứng tỏ sự phong phú của hội thánh, song Lễ Hiện Xuống vẫn đánh động chúng ta. Đó là việc chúng ta để cho làn gió phi thường tràn ngập con thuyền tâm linh của mình và để cho ngọn lửa thiêu rụi những chống đối dai dẳng trong ta.
Khi đi xem một trận bóng chày và đám đông xung quanh đang hò reo cổ vũ cho đội nhà, thì niềm phấn khởi đó có tính lây lan và chúng ta sẽ thấy mình chẳng mấy chốc đã tham gia vào đám đông đó. Đó là lý do tại sao chúng ta vui mừng cử hành lễ Hiện Xuống. Thánh Thần của Thiên Chúa được biểu lộ qua lòng thành kính và nhiệt tâm của những người xung quanh ta, có thể cũng lây lan. Thiên Chúa không ngừng thổi chính mình vào trong cộng đoàn đang quy tụ, truyền hứng khởi cho chúng ta, như Phêrô và các đồng bạn của ông khi họ nhận được Thánh Thần lần đầu tiên tại Giêrusalem.
Các ông không say rượu, như đám đông ngày ấy nghĩ về họ, nhưng các ông say ngất Thánh Thần. Chẳng lẽ không có gì ngạc nhiên khi một niềm tin mãnh liệt như thế đã lây lan ra toàn Giêrusalem và lôi kéo nhiều người vào trong cộng đoàn được Thánh Thần hình thành hay sao?
Lửa là biểu tượng của Chúa Thánh Thần. Tác giả sách Công vụ Tông đồ kể lại: vào ngày lễ Ngũ HiệnXuống ABC474
Lửa là biểu tượng của Chúa Thánh Thần. Tác giả sách Công vụ Tông đồ kể lại: vào ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống như hình lưỡi lửa trên mỗi tông đồ trong lúc các ông đang cầu nguyện xung quanh Đức Maria. Kể từ giây phút Chúa Thánh Thần ngự đến, các ông trở thành những chứng nhân can đảm của Đấng Phục sinh. Họ mở tung cánh cửa trước đó còn đóng kín. Họ mạnh mẽ rao giảng về Đức Giêsu. Lời giảng ấy có sức thuyết phục đến nỗi trong ngày hôm ấy có ba ngàn người xin theo Đạo. Ngọn lửa là Thánh Thần có sức mạnh thật kỳ diệu. Đó là ngọn lửa thần linh.
Công dụng của lửa trước hết là để sưởi ấm. Vào thời cuộc sống còn hoang sơ cũng như hiện nay tại miền thôn quê hẻo lánh, người ta cần có lửa để sưởi ấm vào mùa đông. Chúa Thánh Thần là Đấng sưởi ấm tâm hồn chúng ta. Do tội lỗi, tâm hồn chúng ta trở nên băng giá, sức sống bị bóp nghẹt. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta được ơn tha tội và được hồi sinh, trở nên ấm áp bình an. Chúa Thánh Thần vừa ban cho chúng ta sự ấm áp của tình Chúa, vừa giúp chúng ta tìm thấy sự ấm áp của tình người, nhờ đó mối tương quan với tha nhân sẽ được cải thiện, chan hòa và bừng cháy yêu thương. Bài Tin Mừng hôm nay kể lại, vào chính ngày Phục sinh, Chúa Giêsu hiện đến với các môn đệ. Lúc đó các ông đang buồn sầu hoang mang sợ hãi. Chúa đã sưởi ấm tâm hồn các ông bằng Thánh Thần. Nhờ vậy, nỗi buồn nơi các ông biến mất, các ông vui mừng vì được thấy Chúa và tin vào những gì Người đã dạy trước đó.
Công dụng của lửa cũng để soi sáng. Trong đêm tối, ngọn lửa sẽ giúp người ta không lạc đường và tránh được những nguy hiểm. Chúa Thánh Thần là Đấng soi sáng tâm hồn các tín hữu, nhờ đó họ biết đường ngay nẻo chính và không bị lạc đường. Con đường lý tưởng là chính Chúa Giêsu. Điểm tới của con đường ấy là hạnh phúc đích thực, vì con đường này dẫn chúng ta đến với Chúa Cha. Cuộc sống trần gian như dòng sông trôi về muôn hướng, nhờ ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn, chúng ta biết chọn hướng đi đem lại hạnh phúc cho tương lai cuộc đời mình. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần, mỗi người Kitô hữu cũng trở nên ánh sáng để soi cho những ai lầm đường lạc lối, chỉ cho họ thấy con đường chân lý, cảnh báo những nguy hiểm giúp họ an vui.
Chức năng của lửa cũng là để tôi luyện. Những thanh sắt thô sơ, nhờ tác động của lửa, sẽ trở thành dụng cụ công hiệu sắc bén trong đời sống hằng ngày. Nhờ Chúa Thánh Thần giúp sức, người tín hữu sẽ trở nên chiến sĩ của Chúa Kitô, góp phần chinh phục thế gian và làm cho vương quốc tình yêu lan rộng. Cuộc tôi luyện nào cũng cần phải hy sinh gian khổ. Để trở nên dụng cụ của Chúa, chúng ta phải để Chúa Thánh Thần thanh luyện, như lửa luyện sắt. Được trang bị sức mạnh của Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ can đảm và trung thành với Chúa trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Các Thánh tử đạo là những người được Chúa Thánh Thần tôi luyện, nên các ngài không khuất phục trước cường quyền và bạo chúa, kiên quyết một niềm theo Chúa Kitô và trung tín đến cùng.
Chúa Thánh Thần tác động nơi cuộc đời người tín hữu, uốn nắn điều chỉnh, để nhờ đó, bớt đi những nết xấu, tăng thêm nhân đức. Ngài tưới gội ân sủng của Ngài nơi chúng ta, làm cho sự sống vui tươi lạc quan hơn. Thánh Phaolô so sánh Giáo Hội như một thân thể, gồm nhiều chi thể khác nhau. Chi thể nào cũng quý, cũng đáng trọng. Chính Chúa Thánh Thần nối kết các chi thể trong thân thể Giáo Hội để tạo nên sự hài hòa đồng bộ. Nhờ Chúa Thánh Thần mà các chi thể hiệp thông với nhau, chia sẻ vui buồn và nâng đỡ nhau trong cuộc sống, đồng thời góp phần làm cho thân thể được lớn mạnh.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến! đó là lời cầu nguyện của cả Giáo Hội hoàn vũ trong những ngày này. Thực ra, Chúa Thánh Thần đã đến từ ngày Lễ Ngũ Tuần và chưa bao giờ Ngài lìa xa chúng ta. Ngài hiện hữu trong vũ trụ như hơi thở đối với một thân xác. Ngài hiện diện trong Giáo Hội như linh hồn làm cho Giáo Hội sống và hoạt động. Khi cầu xin Ngài ngự đến, là chúng ta tái khám phá sự hiện diện và hoạt động của Ngài, đồng thời mở rộng tấm lòng để Ngài thực sự đi vào mọi lãnh vực đời sống của chúng ta. Như thế, chúng ta sẽ được Ngài soi sáng, sưởi ấm, thanh luyện và thánh hóa. Cuộc sống sẽ chan hòa niềm vui khi có Chúa Thánh Thần ngự trong chúng ta.
Lễ Ngũ Tuần là một lễ lớn của người Do Thái. Lễ này quy tụ mọi người Do Thái tản mác khắp HiệnXuống ABC475
Lễ Ngũ Tuần là một lễ lớn của người Do Thái. Lễ này quy tụ mọi người Do Thái tản mác khắp mọi nơi về Giêrusalem để tham dự lễ long trọng này. Đây cũng là lễ khai sinh một Giáo Hội truyền giáo, một Giáo Hội được mời gọi ra chỗ sâu để thả lưới, một Giáo Hội đi ra khỏi vỏ ốc của mình, đi tới các vùng ngoại biên để loan báo Tin Mừng.
Theo lời Chúa Phục Sinh hứa với các môn đệ :” Thầy ra đi thì ích lợi hơn cho các con…Đấng phù trợ là Thánh Thần sẽ đến “. Do đó, Nhóm mười một, các người phụ nữ đạo đức và Mẹ Maria, đang tụ họp cầu nguyện trên một căn phòng trong thành. Chúa Phục Sinh hứa khi về trời, Cha Người sẽ sai Thánh Thần đến với họ. Qủa thực, trong ngày Lễ Ngũ Tuần, các môn đệ, những người phụ nữ và Mẹ Maria đã vô cùng sung sướng lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Dù rằng Thánh Thần không hề có hình dáng để cho họ chiêm ngưỡng. Nhưng dân chúng đông đảo từ khắp nơi tuôn đến, họ thuộc mọi thành phần, mầu da, tiếng nói. Đây quả là một ngày hội tụ của muôn dân. Thánh Thần như hình lưỡi lửa bổ xuống trên đầu họ. Các môn đệ của Chúa lúc đó tự nhiên nói được mọi thứ ngôn ngữ của nhiều dân tộc khác nhau trên thế giới. Việc nói được các ngôn ngữ theo như Sách Công Vụ Tông Đồ 2,1-11 là một ơn. Ơn nói được các ngôn ngữ là ơn của Chúa Thánh Thần. Việc nói được tiếng mẹ đẻ của các dân tộc là một ơn cao trọng vì như thế Tin Mừng dễ thấm nhuần vào tâm hồn của những người dân bản địa. Thánh Thần giúp liên kết mọi người lại với nhau dù họ thuộc mầu da, tiếng nói, văn hóa, xã hội khác nhau. Thánh Thần cũng biến Hội Thánh trở thành Hội Thánh của mọi dân tộc. Xưa hình ảnh câu chuyện tháp Babel cho chúng ta nhận ra điều này :” Khi con người sống chia rẽ,không hiểu ý nhau thì công việc có dự tính mấy cũng sẽ thất bại “. Người xưa thường nói :” Mưu sự tại Nhân, thành sự tại Thiên “ là thế ! Con người có kế hoạch, có mưu kế, nhưng nếu trời không giúp, không tán thành thì chẳng bao giờ việc làm của con người có thể thành công được.
Lễ Ngũ Tuần khai sinh Giáo Hội loan báo Tin Mừng. Nên, bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Mỗi người chúng ta cũng được mời gọi truyền giáo. Chúa Phục Sinh nói :” Như Cha đã sai THầy, Thầy cũng sai anh em “. Nói thế rồi, Chúa sống lại thổi hơi vào các Tông Đồ và bảo :” Các con hãy nhận lấy THánh THần “ ( Ga 20, 21-22 ). Chúa Giêsu đã sinh ra tại Châu Á các đây hơn 2019 năm rồi. Lục địa Á Châu là một lục địa mênh mông rộng lớn với nhiều ngôn gữ, nhiều tôn giáo khác nhau. Lục địa này làm sao có thể nhận ra Chúa Giêsu, tin và đi theo Ngài. Đây là một vấn nạn lớn đặt ra cho toàn thể Hội Thánh. Ngôn ngữ hiểu được là bước đầu giúp con người nhận ra Chúa và tin theo Người:” Chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa “ ( Cv 2, 11 ). Vấn đề đặt ra vẫn là ngôn ngữ, phong tục, tập quán, văn hóa ! Chúng ta phải hiểu nhuần nhuyền ngôn ngữ của Á Châu, hiểu được những văn hóa, tập quán, phong tục vv của họ, chúng ta mới có thể trình bầy mạc khải cao sâu về Thiên chúa cho họ. Công việc này là công việc của Chúa Thánh Thần với sự cộng tác mật thiết của mọi thành phần dân Chúa. Công Đồng Vaticanô II do thánh Giáo Hoàng Gioan 23 triệu tập, được mệnh danh là Công Đồng của Chúa Thánh Thần. Đây là một lễ Ngũ Tuần mới trong thời đại mới.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta ghi nhớ ba điều sau đây:
-Lễ Ngũ Tuần là lễ khai sinh Hội Thánh truyền giáo. Đây là lễ hiệp nhất mọi dân tộc, mọi mầu da, mọi tiếng nói. Chúa Thánh Thần nối kết mọi người lại với nhau trong tình yêu duy nhất vì Thiên Chúa là tình yêu.
-Lễ Ngũ Tuần vẫn luôn tiếp nối trong đời sống của Hội Thánh vì Chúa Thánh Thần là hơi thở, là sức sống của Hội Thánh.
-Lễ Ngũ Tuần mời gọi mọi Kitô hữu trên toàn thế giới hãy hướng về lục địa Á Châu vì nơi đây chính Chúa Giêsu đã sinh ra cách đây 2019 năm. Đây là một lục địa mênh mông rộng lớn với một dân số đông đảo, với ngôn ngữ, văn hóa, phong tục, tập quán và là một lục địa đa tôn giáo. Chúng ta hãy cầu nguyện và cầu nguyện không ngừng để Danh Chúa được tôn vinh và nhiều người được biết Chúa và tin Chúa nơi lục địa này.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến đổi mới chúng con để chúng con luôn sẵn sàng và mau mắn loan báo Tin Mừng cho nhiều người chưa biết Chúa.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Tại sao các Tông đồ lại nói được nhiều thứ tiếng ? 2.Lễ Ngũ Tuần là lễ gì ? 3.Để đón nhận Chúa Thánh Thần, các tông đồ, những người phụ nữ đạo đức, và Đức Mẹ đã làm gì ? 4.Chúa Giêsu sinh ra ở lục địa nào ? 5.Chúng ta có cần Chúa Thánh Thần không ?
Ngôi Hai Con Thiên Chúa là Đức Jêsu Kitô xuống thế thi hành sứ mạng cứu chuộc cách tốt đẹp HiệnXuống ABC476
Ngôi Hai Con Thiên Chúa là Đức Jêsu Kitô xuống thế thi hành sứ mạng cứu chuộc cách tốt đẹp mĩ mãn. Ngài về cùng Chúa Cha và cũng là nơi Ngài xuất phát từ nguyên thuỷ. Ngôi Ba Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần được sai xuống trần gian để giải thích, làm sáng tỏ í nghĩa giáo huấn của Đức Kitô. Bắt đầu từ các tông đồ và sau này cho tất cả những ai đặt niềm tin và lòng mến vào Đức Kitô. Theo nghĩa trên dân Chúa lúc nào cũng có Thiên Chúa ở cùng. Thiên Chúa luôn hiện diện và đồng hành với dân Ngài qua hai hình thức: hữu hình và vô hình. Hữu hình chính là hình ảnh qua sự hiện diện của Đức Kitô nơi trần thế; vô hình là qua sự hiện diện của Thánh Thần Chúa trong cuộc sống của các Kitô hữu. Thiên Chúa luôn đồng hành với Kitô hữu trong mọi tình huống của cuộc sống, như chính Đức Kitô đã tuyên bố: Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế Mt 28,20. Sự hiện diện của Thánh Thần Chúa trong dân Ngài chính là thực hiện trọn vẹn điều hứa trên. Sự hiện diện của Thánh Thần Chúa bắt đầu một kỉ nguyên mới, một thời đại mới, thời đại của Thánh Thần. Đây là thời đại mà Đức Kitô cách nào đó tỏ lộ cho các môn đệ biết khi Ngài nói cùng các ông: Hạnh phúc thay cho những ai không thấy mà tin Gn 20,29. Đây là thời đại của Đức tin đặt niềm tin vàoTin Mừng của Đức Kitô. Thánh Thần Chúa khai mở một chân trời mới cho những ai yêu mến Đức Kitô. Thánh Thần sẽ hướng dẫn Kitô hữu bước theo con đường Đức Kitô đã vạch ra và đã đi qua. Thánh Thần Đấng mắt trần không thể nhìn thấy sẽ biến đổi xác phàm của Kitô hữu trở nên giống Đức Kitô hơn. Đây là kỉ nguyên Đức Kitô không còn hiện diện bằng xương thịt như trước nữa, nhưng qua cầu nguyện, Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa cùng đồng hành với họ, trong mọi tình huống của cuộc sống. Đây là thời đại tình yêu và giáo huấn của Đức Kitô không còn phải là hai nhưng là một, quyện chặt lấy nhau như sợi giây thừng. Không có tình yêu và lòng mến của Đức Kitô sẽ không thể nào nhận biết Thiên Chúa. Để nhận biết Thần Chân Lí, điều quan trọng nhất là yêu mến Đức Kitô. Qua Đức Kitô, Kitô hữu nhận biết chân lí sự thật. Thần Chân Lí sẽ giáo huấn, nhắc nhớ (Gn 14,26), kết hợp (Gn 14,16) và làm chứng Đức Kitô là Con Thiên Chúa (Gn 15,26).
Các tông đồ nhận biết Thánh Thần Chúa tích cực hoạt động trong cuộc sống các Ngài, không phải các Ngài đáng được hưởng điều đó mà chính là tình yêu không bờ bến của các Ngài, biến những điều không thể thành có thể. Để đáp trả tình yêu Chúa thì không gì xứng đáng, thích hợp hơn là dùng tình yêu đáp trả tình yêu. Thiên Chúa yêu thương con người, con người đáp lại bằng tình yêu chân thành của con tim mình. Đức Kitô về trời mà không để khoảng trống nào trong lòng các Kitô hữu bởi có sự hiện diện của Thánh Thần Chúa trong tâm hồn các Kitô hữu. Chính sự hiện diện này làm cho tâm hồn các tông đồ cảm thấy bình an, lòng trí của các tông đồ tràn đầy niềm vui và các tông đồ hăng hái tiến bước trên cánh đồng truyền giáo. Đong đầy bởi Thánh Thần Chúa, các tông đồ bước những bước tiến dài, từ học trò của Đức Kitô, các tông đồ trở thành thầy giảng dậy về Đức Kitô. Niềm vui do của cải, vật chất và quyền thế không dẫn con người đến cùng Thiên Chúa bởi tự bản chất chúng không có tình yêu và lòng mến Thiên Chúa. Chỉ có tình yêu Chúa mới dẫn con người đến yêu mến Thiên Chúa. Vì thế Đức Kitô nói Ngài ban cho Kitô hữu món quà mà thế giới không có để trao ban. Yêu mến Đức Kitô chính là lắng nghe lời Đức Kitô và thực hiện điều Đức Kitô truyền dậy. Lắng nghe tiếng Đức Kitô nói nhỏ nhẹ, êm dịu trong tâm hồn mỗi người. Qua cầu nguyện chung với nhau Kitô hữu cũng nhận được tiếng nói của Thiên Chúa nói với cộng đoàn đức tin Kitô. Chúng ta cầu xin biết lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa qua cầu nguyện và qua biến cố trong cuộc sống.
Lạy Thần Khí Sáng Tạo xin hãy đến, viếng thăm tâm trí các tín hữu Chúa…” Đó là một lời ca HiệnXuống ABC477
“ Lạy Thần Khí Sáng Tạo xin hãy đến, viếng thăm tâm trí các tín hữu Chúa…” Đó là một lời ca tuyệt vời. Chúa Thánh Thần lặng lẽ ở bên cuộc đời tôi. Người không có một khuân mặt cụ thể có thể ngắm nhìn nhưng sự hoạt động của Người mạnh mẽ đến nỗi đã làm cho tôi lớn lên, đã thay đổi cuộc đời tôi. Người làm cho tâm trí tôi phải thao thức, đợi chờ và tràn đầy hy vọng.
Chúa Thánh Thần đã làm cho tôi nên thụ tạo mới, cho tôi được làm con của Thiên Chúa khi Người đến tràn đầy trong tâm hồn tôi khi tôi được lãnh bí tích rửa tội. Tôi đã lớn lên trong bầu khí gia đình đầm ấm. Cha mẹ tôi đã dạy dỗ tôi, chăm sóc tôi mỗi ngày. Tôi còn nhớ những kỷ niệm tuyệt vời nơi mái ấm gia đình. Nhớ những ngày cả nhà cùng nhau đi nhà thờ đọc kinh hay mỗi khi bão lũ về không thể đến nhà thờ được thì trước bàn thờ của gia đình, cả nhà tôi quây quần đọc kinh sáng tối. Nơi bầu khí gia đình, tôi nhận ra sự hiện diện của Thần Khí Sáng Tạo. Người đã soi sáng cho cha mẹ tôi trước những khó khăn của cuộc sống và đồng hành với cha mẹ tôi trong việc nuôi dạy con cái, chính tôi cũng nhận ra sự hiện diện của Người khi cảm nhận sự thôi thúc mạnh mẽ trong tâm hồn, mách bảo tôi làm lành lánh dữ. Trong bầu khí cầu nguyện, các tông đồ cũng đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Người làm cho các ông trở nên những chứng nhân của Chúa Kitô với tâm hồn nhiệt thành và can đảm.Các vua chúa trần gian từng tấn phong các cận thần để họ phục vụ cho đất nước. Khi được lãnh Bí Tích Thêm Sức tôi cũng được tấn phong để “bén rễ sâu hơn vào việc làm con cái Thiên Chúa, trong đó tôi được gọi Thiên Chúa là Apba Cha ơi!” (x. GLHTCG 1303). Tiếng nói của Thiên Chúa ngày càng trở nên rõ ràng hơn trong suất đời tôi. Chúa Giêsu đã ban Lời của Người để dạy tôi cách sống làm con cái Chúa. Thiết nghĩ tình yêu cũng không có khuân mặt nhưng tình yêu hiện diện ở mọi nơi. Thánh Thần Tình Yêu được Chúa Kitô đặt vào trái tim tôi như là bảo chứng. Để nhờ đó tôi được bước đi đến gần Thiên Chúa hơn. Tôi đã được lãnh nhận ấn tín của Chúa Thánh Thần: Thần Khí không ngoan và thông hiểu, Thần Khí sức mạnh và lo liệu, Thần Khí suy biết và đạo đức, Thần Khí của sự kính sợ Thiên Chúa. Tôi luôn cầu nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng khi làm bất cứ việc gì. Tôi đã lãnh nhận rất nhiều từ tình yêu nhưng không của Thiên Chúa nhưng nhiều lúc tôi đã sống cách hờ hững và đi ngược lại với sự thôi thúc của Ngài. Lúc đó Lời Chúa chất vấn tôi, nhắc nhở tôi: “Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau” (Ga 15,17). Tôi dâng lên Ngài giọt nước mắt sám hối. Ngài ban cho tôi sự kiên nhẫn với chính mình, biết chờ đợi và hy vọng. Tôi đã chỉ yêu theo cách tôi muốn nhưng Chúa Thánh Thần nhắc tôi phải yêu như Thầy Giêsu đó là lời mời gọi tôi ngay hiện tại: yêu tất cả nơi từng người cụ thể.
Lạy Thần Khí Sáng Tạo, Đấng luôn dẫn dắt con mọi điều. Xin đốt lòng con yêu mến Chúa và không ngừng đổi mới tâm hồn con. Xin kéo con trở về bên Chúa và yêu thương đón nhận con. Amen.
Thánh Thần khấn xin ngự đến! Hồn con đang mong chờ Ngài…” Thánh Thần chính là Đấng HiệnXuống ABC478
“Thánh Thần khấn xin ngự đến! Hồn con đang mong chờ Ngài…” Thánh Thần chính là Đấng Bảo Trợ mà Chúa Giêsu hứa ban cho các môn đệ để Người dẫn các ông đến sự thật toàn vẹn (x.Ga 16,13). Thánh Thần chính là Đấng đang được mong chờ và luôn là vị thượng khách mà mỗi người tín hữu muốn đón rước.
Bấy giờ trong căn phòng đóng kín cửa, các môn đệ sợ người Do thái. Các ông họp nhau cầu nguyện. Thánh Thần ngự đến phá tan sự sợ hại. Người hiện xuống nơi tâm hồn các ông và ban đầy tràn ân sủng. Các môn đệ đã nhận được bình an và mở lòng đón nhận lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga20,22-23). Từ khi Hội Thánh được thiết lập và đón nhận sứ mạng Chúa trao, Hội Thánh được lớn mạnh và Lời Chúa ngày càng lan tràn, Thánh Thần cũng được ban cho dân ngoại. Thế nhưng ngày nay vẫn còn có những dào cản của sợ hại, ích kỷ làm cho các tín hữu của Chúa đóng cửa nhà mình và khép chặt cửa lòng. Họ đang cần sự hiện diện của Thánh Thần. Lễ ChúaThánh Thần hiện xuống một lần nữa lại làm cho tâm hồn các tín hữu được hân hoan. Bình an mà Chúa Giêsu ban tặng sẽ lưu lại nơi sâu thẳm tâm hồn, để dù sống giữa cảnh thế sự thăng trầm, họ vẫn trở nên muối và ánh sáng cho trần gian, trở thành những chứng nhân sống động về một Hội Thánh hiệp nhất trong yêu thương.
Chúa Thánh Thần vẫn mãi là Đấng Bảo Trợ, là Thần Khí Sáng Tạo của Thiên Chúa, là suối nguồn yêu thương cho mọi tín hữu. Ngài sẽ làm cho tâm hồn ta được đổi mới. Ta có sẵn sàng đón Chúa đến với tâm hồn ta không? Hãy để Chúa chữa lành những tổn thương nơi tâm hồn ta, hàn gắn những tương quan bị đổ vỡ để tình người được hiệp thông; những thù hận sẽ được xóa bỏ tội lỗi được thứ tha là nhịp cầu yêu thương được xây dựng. Đó là khi ta biết hy sinh một ý riêng để con tim được triển nở và mở rộng, biết từ bỏ mình để có được niềm vui nội tâm, dám sống theo kỷ luật để xây dựng tự do thiêng liêng của con cái Thiên Chúa (x.Hc 66).
Lạy Chúa Thánh Thần xin ngự đến nơi tâm hồn con. Xin cho con được đổi mới, dám sống cho sứ mạng Chúa trao để nên thánh ngay trong bậc sống của mình. Xin giúp con ý thức thân phận tội lỗi của mình và tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa. Mỗi ngày xin làm cho con nhớ lại những ân huệ Chúa ban và lệch truyền của Chúa để con biết sống xứng đáng là con cái Chúa. Trở nên tạo vật mới trong Chúa Thánh Thần.
Khi ở trong một cầu thang máy bị hư, chúng ta cảm thấy rất ngột ngạt và khó thở. Hơi thở gắn HiệnXuống ABC479
Khi ở trong một cầu thang máy bị hư, chúng ta cảm thấy rất ngột ngạt và khó thở. Hơi thở gắn bó chặt chẽ với nhịp điệu của thân xác và tinh thần. Khi lo lắng, sợ hãi, chúng ta cảm thấy khó thở, ngột ngạt và nặng nề. Khi tức giận hơi thở chúng ta dồn dập, mệt mỏi và không nói thành lời. Ngược lại khi hơi thở chúng ta đều đặn, nhẹ nhàng và khoan khoái thì đem lại sự dễ chịu và bình an.
Hơi thở là một trong những hình ảnh nói về Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu đã thổi hơi đó vào các môn đệ và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,22-23). Chúa Thánh Thần hiện diện trong thế gian như khí trời. Ngài đã hiện diện ngay từ công trình tạo dựng trời đất: “Thần Khí Thiên Chúa bay là trên mặt nước” (St 1,2). Ngài là Thần Khí sự thật. Hôm nay Chúa Giêsu thổi hơi cho các môn đệ để trao ban Thần Khí. Chính Thần Khí sẽ làm cho các ông được biến đổi trở thành con người mới: Từ sợ hãi trở nên vui mừng hân hoan ra đi rao giảng, trở thành những chứng nhân can đảm, bất khuất, vượt qua mọi gian nan để thi hành sứ mạng.
Không có hơi thở chúng ta sẽ chết. Không có Thần Khí, chúng ta sẽ không thể sống. Chính Chúa Thánh Thần là hơi thở đời sống cho cả thể xác và tinh thần Thánh Phaolô mời gọi chúng ta hãy bước đi theo Thần Khí (x.Pl 5,16-18). Chính Chúa là Thần Khí, và ở đâu có Thần Khí của Chúa, thì ở đó có tự do (x.2Cr 3,17). Tự do nơi Thiên Chúa không làm cho chúng ta bị ràng buộc, bị lệ thuộc vào thế gian nhưng làm cho chúng ta có sự tự do và bình an đích thực trong Thần Khí. Nhờ Thần Khí tác động, chúng ta được đổi mới về tâm trí và được mặc lấy con người mới (x.Ep 4,23-24).
Chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa và hân hoan cất lời ca ngợi và mở tâm hồn đón nhận ơn Chúa Thánh Thần là sức mạnh, khôn ngoan, lo liệu, đạo đước, thông minh, hiểu biết, kính sợ Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, cảm tạ Chúa đã trao ban thần Thần Khí cho chúng con. Xin cho mỗi người chúng con luôn sống dưới tác động của Thần Khí mà vững bước đi về nhà Cha. Để sự hiện diện của chúng con là dấu chỉ của sự hiệp nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa. Amen.
Theo dõi các bài đọc trong Thánh lễ ngày trong tuần từ sau lễ Chúa Giê-su Lên Trời đến lễ HiệnXuống ABC480
Theo dõi các bài đọc trong Thánh lễ ngày trong tuần từ sau lễ Chúa Giê-su Lên Trời đến lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta thấy Giáo Hội cố gắng trình bày những điểm giáo lý về Chúa Thánh Thần, Đấng mà Chúa Giê-su đã xin Chúa Cha sai đến làm Đấng Bảo Trợ cho các môn đệ Người. Đặc biệt với những bài đọc hôm nay, chúng ta được diễm phúc hiện diện tại nơi các môn đệ Chúa tụ họp để lãnh nhận Thánh Thần theo như thánh sử Lu-ca tường thuật. Chúng ta cũng được thần học gia Phao-lô giúp suy niệm về vai trò của Chúa Thánh Thần trong việc xây dựng Giáo Hội và trong tinh thần hiệp nhất của mọi chi thể thuộc Nhiệm Thể Chúa Ki-tô. Ngoài ra, một điều hết sức quan trọng là giống như các môn đệ Chúa ngày xưa đã được nhận lãnh Thánh Thần, chúng ta cũng được Chúa Giê-su “thổi hơi” vào và Người phán: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là một biến cố hết sức quan trọng, do đó thánh sử Lu-ca đã ghi lại những chi tiết ý nghĩa nhất trong bốn câu đầu của chương 2 sách Công vụ Tông Đồ. Có lẽ cách tốt nhất để chúng ta “có mặt” trong biến cố này là hãy đọc từng chữ từng câu, đồng thời hình dung ra cảnh tượng Chúa Thánh Thần hiện xuống như thế nào. Thời gian là lễ Ngũ Tuần, tức ngày dân Do-thái kỷ niệm việc Chúa ban Lề Luật cho ông Mô-sê. Lề Luật Mô-sê giúp dân Do-thái sống như dân riêng của Thiên Chúa thế nào thì Luật Mới, luật yêu thương của Chúa Ki-tô, cũng được ban cho chúng ta để sống xứng đáng làm môn đệ của Người như vậy. Ngày xưa Thiên Chúa đã hiện ra trên núi với mây khói và sấm sét khiến dân chúng run sợ, còn hôm nay Thánh Thần đến trong chỉ một tiếng động và như tiếng gió mạnh, rồi Người xuất hiện như “những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu trên từng người một”. Lửa làm cho dân Ít-ra-en kinh hãi không dám đến gần ngọn núi, còn lửa Thánh Thần thì dịu dàng đậu xuống trên từng người, không làm họ sợ hãi, trái lại còn ban cho họ khả năng “nói các thứ tiếng khác” nữa. Tuy nhiên các môn đệ Chúa Giê-su được Thánh Thần ban cho khả năng nói các thứ tiếng khác không phải để mạnh ai nấy nói và gây ra chia rẽ, mà là để họ nói cùng một ngôn ngữ, ngôn ngữ của tình yêu Thiên Chúa, ngôn ngữ của Tin Mừng Đức Ki-tô và ngôn ngữ hiệp nhất của Chúa Thánh Thần. Thánh Lu-ca không quên ghi lại cảm nghiệm ngạc nhiên của dân chúng tứ xứ tại Giê-ru-sa-lem khi họ hiểu được thứ ngôn ngữ mới của các môn đệ Đức Ki-tô. Ngôn ngữ tình yêu và bác ái Ki-tô quả thực đã vượt qua mọi ranh giới ngôn ngữ loài người để hiệp nhất chúng ta trong cùng một tinh thần của Thiên Chúa!
Tiếp đến, bài đọc trích thư 1 Cô-rin-tô là một suy niệm về nguyên lý hợp nhất của Chúa Thánh Thần. Thánh Thần được ban cho chúng ta trên hai chiều kích: cá nhân và cộng đồng. Là mỗi cá nhân Ki-tô hữu, chúng ta lãnh nhận Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ, là để Người giúp mỗi người chúng ta sống theo tinh thần của Chúa Ki-tô, hoặc nói theo thánh Phao-lô là để chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô. Thánh Thần giúp ta “nhớ lại” mọi điều Chúa Giê-su đã dạy, nhớ lại nghĩa là chúng ta sống lời Chúa, không chỉ nhớ lại như học thuộc lòng, mà là đem thể hiện trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Trên bình diện cộng đồng như gia đình, cộng đoàn, giáo xứ và Giáo Hội, Thánh Thần hiện diện nơi chúng ta dưới hình thức các hoạt động và các việc phục vụ. Nhờ sự hướng dẫn của Thánh Thần, tất cả các hình thức này đều nhắm đến cùng một mục đích là xây dựng Nhiệm Thể Chúa Ki-tô là Giáo Hội. Tuy mỗi người chúng ta làm những công việc khác nhau với những khả năng khác nhau, nhưng mục đích cuối cùng là cùng nhau làm cho danh Chúa được rạng sáng hơn. Vì thế, thánh tông đồ dám khẳng định rằng: “Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất”. Đúng vậy, vì lợi ích của cá nhân chúng ta và cộng đồng, ai ai cũng đều được đầy tràn Thánh Thần cả!
Sau hết, bài Tin Mừng kể lại một cử chỉ ý nghĩa của Chúa Giê-su Phục Sinh khi Người hiện ra với các môn đệ. Sau khi chúc bình an cho các môn đệ và sai họ đi, Chúa Giê-su “thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”. Thiên Chúa đã thổi hơi vào lỗ mũi A-đam để ông có sự sống. Chúa Ki-tô thổi hơi vào các môn đệ Người để họ có Thánh Thần. Thần Khí Thiên Chúa đã đem sự sống đến cho nhân loại và muôn vật trong cuộc tạo dựng vũ trụ ban đầu, còn Thánh Thần, Đấng hiện xuống hôm nay, sẽ ở lại với các môn đệ Chúa Ki-tô để giúp họ cộng tác vào một cuộc tạo dựng mới. Họ sẽ là những người đóng góp vào đại cuộc đưa mọi người hòa giải với Chúa và với nhau. Thánh Thần là nguyên lý hợp nhất sẽ cùng với chúng ta được sai đi để thực hiện một nhân loại mới: “Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau” (Tv 133:1).
Sống sứ điệp Lời Chúa
Thánh Thần không phải là điều gì hiện diện một cách mông lung, nhưng là sức sống, tình yêu và tinh thần của Chúa Ki-tô đầy tràn trong chúng ta. Vậy ý thức sự đầy tràn này rất quan trọng, vì chúng ta sẽ làm mọi sự dưới sức thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, để mỗi lời nói cũng như hành động của ta đều là kết quả của những gì đầy tràn trong lòng được phát ra bên ngoài và xây dựng sự hợp nhất.
Sau khi sáng tạo nên trời đất bao la hùng vĩ cùng muôn sinh vật diệu kỳ trong hoàn vũ, Thiên Chúa HiệnXuống ABC481
Sau khi sáng tạo nên trời đất bao la hùng vĩ cùng muôn sinh vật diệu kỳ trong hoàn vũ, Thiên Chúa vẫn chưa hài lòng với công trình tạo dựng của mình. Ngài muốn sáng tạo thêm một kiệt tác vượt trội hơn tất cả những gì mà Ngài đã dựng nên.
Thế là Ba Ngôi Thiên Chúa bàn tính với nhau: “Chúng ta hãy tạo nên con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để chúng làm chủ cá biển chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật trên mặt đất” (St 1, 26).
Và Thiên Chúa khởi sự tạo dựng con người. Ngài lấy bùn đất, nắn thành hình một con người, được gọi là A-đam, trông rất tuyệt vời, các thiên thần đều tấm tắc khen ngợi… Dầu vậy, A-đam vẫn còn trơ trơ bất động, vô tri, vô cảm… vì chưa có sự sống.
Thế rồi Thiên Chúa thổi hơi vào lỗ mũi A-đam (St 2,7) tức thì A-đam bắt đầu mở mắt, cựa mình và vươn vai chỗi dậy thành một con người đầy sức sống, lại còn có tư duy, có tình cảm, có lương tâm, có tự do, có óc sáng tạo… mang dấu ấn và bản sắc của Thiên Chúa.
Thế là nhờ hơi thở mà Thiên Chúa truyền cho, A-đam được tiếp nhận sự sống và trở thành thủy tổ loài người trên khắp địa cầu.
Tiếc thay, con người tuyệt vời được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Ngài lại lâm vào vòng sa đọa, đánh mất phẩm chất cao đẹp mà Thiên Chúa đã phú cho và phải mang lấy án phạt đời đời. Vì thế, Thiên Chúa phải lên kế hoạch kiến tạo một thế hệ nhân loại mới.
Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người khởi đầu công cuộc nầy. Ngài quy tụ những môn đệ đầu tiên và dùng những vị nầy để làm phát sinh dân mới của Thiên Chúa .
Nhưng khi Chúa Giê-su chịu khổ nạn và được tôn vinh, không còn cận kề các môn đệ như trước, các môn đệ cảm thấy lạc lõng cô đơn như đoàn chiên không chủ, như rắn mất đầu. Các ngài sống âm thầm, im hơi lặng tiếng, co cụm trong phòng đóng kín vì sợ người Do-Thái, khác gì A-đam lúc chưa đón nhận hơi thở của Thiên Chúa.
Thế rồi “Vào ngày thứ nhất trong tuần – và cũng là ngày thứ nhất trong lịch sử nhân loại mới – nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái (Ga 20, 19-20). Mười một Tông đồ tuy còn đó, nhưng các ông tự giam mình trong căn phòng u tối. Bấy giờ các ông như những thân xác không hồn, như những hình hài không còn sự sống.
Và như thuở ban đầu, Thiên Chúa thổi hơi vào lỗ mũi Ađam để thông truyền sự sống cho ông, thì nay Chúa Giêsu cũng thổi hơi trên các Tông đồ đang co cụm như những thân xác không hồn để thông ban Chúa Thánh Thần cho họ. “Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20, 22).
Một khi đã được ban Thánh Thần, các Tông đồ bắt đầu đón nhận Sự Sống mới. Các ông như những xác chết được hồi sinh, được trở nên can trường mạnh mẽ, thoát ra khỏi căn phòng đóng kín như hầm mộ u tối chôn vùi các ông suốt mấy tuần qua, để ra đi khắp các nẻo đường, loan báo Tin mừng cứu độ. Chính nhờ biến cố trọng đại này mà các môn đệ của Chúa Giêsu mới chấp nhận vô vàn gian khổ để loan báo Tin mừng và xây dựng Hội thánh Chúa khắp nơi.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho đoàn con của Chúa luôn khao khát Thánh Thần như con thơ khát sữa mẹ, như cây cỏ khát mưa nguồn và luôn biết mở lòng đón nhận Thần Khí Chúa truyền ban; nhờ đó, mỗi người sẽ nhận được sự sống siêu nhiên và viên mãn do Chúa Thánh Thần ban tặng.
Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là chúng ta kết thúc Mùa Phục Sinh. Biến cố Chúa Thánh Thần HiệnXuống ABC482
Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là chúng ta kết thúc Mùa Phục Sinh. Biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống trong ngày lễ Ngũ Tuần là ứng nghiệm lời Chúa Giêsu hứa với các tông đồ: “Thầy sẽ xin Cha và Người sẽ ban cho các con một Đấng phù trợ khác”(Ga 14,16). Đồng thời, đây cũng là ngày khai sinh Hội Thánh. Chúng ta dành một vài phút để cùng chia sẻ với nhau Chúa Thánh Thần là ai?. Và là Đấng nào?.
Trước hết, trong Kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng: Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Ba, bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra. Người cùng được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con.
Tiếp đến, Chúa Thánh Thần là Đấng chân thật. Chính Chúa Giêsu đã giới thiệu cho các tông đồ: “ Khi nào Thần chân lý đến, Ngài sẽ hướng dẫn các con tới sự thật vẹn toàn…” (Ga 16,13). Thật vậy, Chúa Thánh Thần đến phá tan sự dối trá, dạy dỗ những điều hay lẽ phải, ban ơn soi sáng cho các tông đồ nhớ lại những điều Chúa Giêsu đã giảng dạy (Ga 20, 26). Nâng đỡ các ông trong lời nói cũng như hành động, và hướng dẫn các ông giảng dạy những chân lý Tin mừng.
Chúa Thánh Thần còn thêm sức mạnh thiêng liêng cho các vị tử đạo, dạy bảo họ nói những lời lẽ khôn ngoan, mạnh mẽ tuyên xưng danh Chúa trước mặt vua chúa quan quyền, cho dù máu chảy đầu rơi. Như lời Chúa Giêsu căn dặn: “Khi người ta bắt nộp các con, thì đừng lo nghĩ phải nói làm sao và nói gì, vì lúc đó không phải các con nói, nhưng là Thánh Thần sẽ nói trong các con” (Mt 10,19-20).
Chúa Thánh Thần gìn giữ Hội Thánh luôn vững vàng trong sự thật, không hề sai lầm khi dạy điều gì về đức tin hay phong hoá. Đồng thời, còn ban cho Giáo Hội nhiều vị thông thái lỗi lạc viết những điều chân lý, để phi bác những tà thuyết và những trào lưu văn hoá nguy hại đức tin.
Chúa Thánh Thần là Đấng an ủi. Chúa Giêsu biết trước sau khi về trời các tông đồ và Hội thánh sơ khai sẽ gặp rất nhiều gian nan thử thách trong việc mở mang Giáo Hội. Cho nên, Ngài không bỏ các tông đồ mồ côi, nhưng sai Thánh Thần đến với các ông.
Thật vậy, trong ngày lễ Ngũ Tuần, khi các tông đồ tụ họp nhau trong nhà cầu nguyện, cửa vẫn đóng kín vì sợ người Do thái. Vậy mà, khi Chúa Thánh Thần hiện xuống thì đổi mới lòng dạ các tông đồ cách lạ lùng. Từ những người dốt nát trở nên thông thái nói được nhiều thứ tiếng; từ những người nhút nhát trở nên mạnh mẽ tung cửa ra, hiên ngang đi rao giảng Tin mừng, mà không sợ bất cứ quyền lực trần gian nào áp bức.
Nhờ ơn Chúa Thánh Thần ban ơn giúp sức, các nhà truyền giáo không sờn lòng nản chí khi ra đi rao giảng Tin mừng. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần đến an ủi, mà các tông đồ cũng như các vị tử đạo đã can đảm làm chứng cho Chúa, sẵn sàng chịu mọi hình khổ cho dù máu chảy đầu rơi.
Anh chị em thân mến,
Ngày nay, Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động trong lòng Hội Thánh. Tất cả chúng ta đã lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần trong ngày Rửa tội và Thêm sức. Do đó, chúng ta cũng được mời gọi làm chứng cho Chúa trong nhiệm vụ, trong khả năng, trong môi trường sống của mình.
Vì thế, chúng ta hãy can đảm mở tung cửa lòng còn đóng kín của mình ra, để luồng gió Thánh Thần thổi vào đổi mới chúng ta. Xưa kia, thánh Phêrô nhờ ơn Chúa Thánh Thần tác động, mà Ngài mạnh dạn đứng lên với những lời lẽ khôn ngoan đầy sức thuyết phục, làm cho nhiều người phải đấm ngực ăn năn trở lại cùng đạo thánh Chúa.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta tha thiết xin Chúa Thánh Thần đến biến đổi và canh tân bộ mặt trái đất này. Đồng thời, xin Ngài như làn gió mát xua tan những bóng đêm tội lỗi, và đốt lên trong tâm hồn chúng ta ngọn lửa yêu mến Chúa nồng nàn thắm thiết.
Ước gì, trong đời sống thường ngày, với thân phận con người có nhiều giới hạn và yếu đuối, rồi có khi rơi vào hoàn cảnh không được may mắn như những người khác, làm cho chúng ta lo buồn hơn là an vui, đau khổ hơn là hạnh phúc. Thì giờ đây, xin Chúa Chúa Thánh Thần Đấng ban sự sống, ban ơn đổi mới mọi sự trong ngoài, giúp chúng ta tìm thấy niềm vui trong đời sống đạo. Đồng thời, xin Ngài thêm ơn khôn ngoan và sức mạnh giúp chúng ta sống xứng đáng là con cái Chúa hơn. Amen.
Chúa Nhật Lễ Hiện Xuống, bài đọc 1 kể: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu HiệnXuống ABC483
Chúa Nhật Lễ Hiện Xuống, bài đọc 1 kể: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho… mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa” (Cv 2, 1-4).
Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy, tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1, 8).
Với sức mạnh của Thánh Thần, Thánh Phêrô và các Tông Đồ đã ra đi rao giảng Tin Mừng cho đến tận cùng trái đất. Trong mọi thời đại, bằng mọi ngôn ngữ, Giáo Hội khắp thế giới tiếp tục tuyên xưng những kỳ công Thiên Chúa và kêu gọi các dân tộc, các quốc gia tiến đến với đức tin, hy vọng và cuộc sống mới trong Đức Kitô.
Làm chứng trong quyền năng Thánh Thần Chúa Giêsu nói đến sứ vụ làm chứng của Chúa Thánh Thần: “Là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em từng ở với Thầy ngay từ đầu” (Ga 15, 26-27). Làm chứng cho Chúa Giêsu chỉ có thể thực hiện trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, chứ không thể chỉ bằng sức lực của con người.
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nói rằng, Chúa Thánh Thần là Linh hồn của Giáo hội và nếu không có Chúa Thánh Thần, Giáo hội sẽ chỉ là một tổ chức nhân đạo (x. huấn từ trưa Chúa nhật 31-5-2009). Sách Công vụ các Tông đồ đã minh chứng hùng hồn về điều ấy: Chúng tôi xin làm chứng cùng với Thánh Thần là… (Cv 5, 32); Thánh Thần và chúng tôi quyết định là…(Cv 15,28).
Thánh Phaolô, một tông đồ đầy kinh nghiệm về Thánh Thần đã sống và đã nói : “Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa” (1Cr 2,4); “Giờ đây, bị Thần Khí trói buộc, tôi về Giêrusalem, mà không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng : xiềng xích và gian nan đang chờ đợi tôi.” (Cv 20,22-23).
Thời đại hôm nay, Giáo hội toàn cầu và mỗi Giáo hội địa phương phải đương đầu và đối phó với nhiều vấn nạn và thách thức gay go mà thế giới và thực tế cuộc sống gợi nên. Xử lý tình huống và chọn lựa một hướng đi phù hợp với tin mừng cứu độ của Đức Giêsu chẳng đơn giản chút nào. Dù rằng trong Giáo hội không thiếu những con người tầm cỡ, khôn ngoan, đạo đức và thức thời. Nhưng khởi động, diễn biến và kết thúc mọi vấn đề vẫn luôn là, và phải là tác động của Thánh Thần. Bằng không đó chỉ là sự ‘khôn ngoan đối đáp người ngoài’ theo lẽ tự nhiên của “một tổ chức nhân đạo”, chứ không phải của Giáo hội Chúa Kitô. Chính “Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì” (Ga 6,63). Tuy dù Thánh Thần và Giáo hội có phải công bố hay lên tiếng những điều ngược với lỗ tai người đương thời, kể cả người tin hay không tin, nhưng cuối cùng vẫn chính là : “Thánh Thần và chúng tôi quyết định !”.
Làm chứng trong quyền năng Thánh Thần, tất cả đều được gợi hứng và thúc đẩy bởi giáo huấn của Hội Thánh và Tin Mừng của Chúa Giêsu.
Giáo hội tiếp nối sứ mạng Chúa Giêsu Chúa Giêsu là Người Con có kinh nghiệm trọn vẹn về tình yêu của Chúa Cha, biết rõ ý muốn của Chúa Cha, biết rõ chương trình cứu độ của Chúa Cha. Ngài là chứng nhân trung thành của Chúa Cha, chỉ nói những điều Chúa Cha muốn, thi hành những điều Chúa Cha truyền dạy.
Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. Chúa Thánh Thần tiếp nối sứ mạng chứng tá của Chúa Giêsu, cùng với Giáo hội và trong lòng Giáo hội.
Sứ mạng làm chứng của Giáo hội luôn luôn thể hiện cùng với và trong Chúa Thánh Thần. Giáo hội đã được Chúa Phục Sinh thổi hơi vào và trao ban Thánh Thần. Chúa Thánh Thần từ đó luôn ở với Giáo hội và trong Giáo hội. Giáo hội đã luôn nổ lực làm chứng cho Chúa Giêsu, trải dài suốt hai nghìn năm lịch sử, trải qua những thăng trầm những phong ba bão táp của trần thế.
Sứ mạng làm chứng của người kitô hữu: Mỗi người Kitô hữu được sinh ra nhờ phép rửa ở trong lòng Giáo hội và được xức dầu thánh một cách đặc biệt trong Bí tích Thêm sức, được lãnh nhận Chúa Thánh Thần để thông phần sứ mạng làm chứng của Giáo hội.
Trong Bí tích Thêm Sức nhận lãnh, không những các ơn Chúa Thánh Thần, mà là chính Chúa Thánh Thần được ban cho chúng ta như một sức mạnh từ trên cao, như là “Thần lực của Thiên Chúa”. Đó là sức mạnh của Tình yêu mạnh hơn sự chết biểu lộ nơi Sự Sống lại của Chúa Giêsu, sức mạnh của Chân lý và Sự Thật. Đó là sức mạnh cuốn hút của cái Đẹp không phai tàn của Thiên Chúa, của cái Đẹp thần linh tiềm ẩn trong mọi cái đẹp đích thực.
Kitô hữu phải là con người biết lắng nghe, lắng nghe Thiên Chúa và lắng nghe con người để qua sự hỗ trợ của các phương tiện truyền thông, sứ điệp Tin mừng được lan xa. Các phương tiện truyền thông xã hội như sách báo, phim ảnh,thi ca, nghệ thuật, sân khấu, tuồng kịch, thánh nhạc, kiến trúc, hội họa, truyền thanh, truyền hình, internet…đều có tầm ảnh hưởng lớn đối với công cuộc truyền thông Tin Mừng trong thời đại hôm nay.
Giáo Hội luôn thao thức những vấn đề của thời đại mình đang sống. Chúa Thánh Thần là ngọn gió thổi các cánh buồm của Giáo Hội hướng đến đại dương của “nền văn hóa mới” này. Có Chúa Thánh Thần đồng hành và hướng dẫn, chúng ta trở nên những chứng nhân của Chúa Giêsu đem Tin Mừng đến khắp muôn nước muôn dân.
Nhạc sĩ, Ca sĩ làm chứng cho Thiên Chúa Tuyệt Mỹ Chúa là Chân Thiện Mỹ, nên sức mạnh của Chân Thiện Mỹ là “Thần Lực” của chính Chúa. Muốn làm chứng cho Chúa là Chân Thiện Mỹ, phải có Thần lực của Chúa. Nếu chúng ta có sức mạnh của Chúa để làm chứng cho Ngài, thì đó là làm chứng chứng cho Thiên Chúa là cội nguồn của Chân Thiện Mỹ.
Có thể diễn tả nét đặc trưng: các Giám mục, Linh mục là những chứng nhân cho chân lý; những người làm việc bác ái xã hội làm chứng cho sự thiện; Nhạc sĩ, Ca sĩ làm chứng cho cái đẹp.
Chiêm ngắm và diễn tả vẽ đẹp thần linh có tác dụng làm cho con người say mê. Những nghệ sĩ chân chính như các nhạc sĩ, ca sĩ, thi sĩ, họa sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư hay cả những biên đạo múa…đều là những người phục vụ cho cái đẹp, cũng là những chứng nhân rất cần thiết cho thế giới. Dĩ nhiên trong thế giới nghệ thuật, cũng như trong mọi lãnh vực khác của cuộc sống, vẫn có những phản chứng từ, có thể có tác dụng huỷ hoại tâm linh con người, như những thứ âm nhạc kích thích lòng tà dâm, những phim đồi truỵ, các thứ phim ảnh bạo lực…
Khi yêu những bông hoa, dòng suối, núi non, biển cả, chúng ta chìm vào trong thiên nhiên, ca hát ngợi khen Thiên Chúa cùng với các tiếng nói đa dạng của thiên nhiên, đó là làm chứng cho Thiên Chúa Đấng Tuyệt Mỹ.
Nhạc sĩ là chứng nhân cho vẻ đẹp thần linh. Nhạc sĩ viết thánh ca phụng vụ cùng chung mục đích với phụng vụ là tôn vinh Thiên Chúa và thánh hoá con người.
Thánh nhạc phải thánh thiện vì nó có nguồn gốc là thánh, kèm theo lời ca của phụng vụ thánh, kèm theo những tác động thánh của phụng vụ và vì đó là lời cầu nguyện của Dân Chúa.Thánh nhạc được viết vì phụng vụ.Nhạc sĩ viết thánh ca để giúp người khác cầu nguyện. Lời của những bài thánh ca sử dụng chính thức trong phụng vụ luôn là lời cầu nguyện của Giáo hội. Như vậy người sáng tác thánh ca phải cầu nguyện mà sáng tác ra. Nếu như Linh mục cầu nguyện để soạn bài giảng thì Nhạc sĩ cầu nguyện để viết thánh ca. Một bài thánh ca hay được tạo ra bởi 2 lần cầu nguyện: người sáng tác cầu nguyện và người hát cầu nguyện, đựơc như vậy thì hát hay là cầu nguyện 2 lần.
Ca đoàn hát lễ cũng hát trong cung cách cầu nguyện. ĐGH Urbanô nói rằng: Nhạc là vì lễ chứ không phải lễ vì nhạc.Trong thông điệp “ Đấng Trung Gian”, ĐGH Piô XII đã viết “Ước gì tiếng hát toàn dân vang lên tới trời”. Giáo hội muốn giáo dân tham dự tích vào phụng vụ và thánh ca là lời cầu nguyện của Dân Chúa.
“Hiến Chế Thánh Nhạc Trong Phụng Vụ” số 121, nói đến vai trò các nhạc sĩ Công Giáo. Ngoài kiến thức chuyên môn, Giáo hội đòi hỏi các nhạc sĩ những tiêu chuẩn cơ bản là nhạc sĩ phải có đời sống Kitô hữu đích thực thể hiện qua đức tin mạnh mẽ, đời sống đạo đức và tinh thần cầu nguyện. Nhạc sĩ sáng tác trong lúc cầu nguyện, không chỉ trong nhà thờ mà mọi nơi mọi lúc, nhạc sĩ chân chính có thể cầu nguyện để viết thánh ca.
ĐGH Piô X cũng dạy rằng: Thánh nhạc phải thánh, phải loại bỏ những gì là phàm tục không phải chỉ nơi bản chất thánh nhạc mà cả nơi người sáng tác và cách thể hiện.
Thánh nhạc đòi hỏi rất nhiều nơi các nhạc sĩ. Nhưng thực tế của cuộc sống với biết bao khó khăn. Phải bôn ba để nuôi sống gia đình, ít khi được quan tâm. Nhạc sĩ làm việc âm thầm vì Chúa vì Giáo hội. Đổi lại sự lao nhọc trong công việc, nhạc sĩ có nhiều niềm vui và hạnh phúc nơi các đứa con tinh thần của mình. Nhiều người đón nhận, nhiều Nhà thờ, nhiều cộng đoàn hát thánh ca của mình để tôn vinh Thiên Chúa, ca ngợi Đức Mẹ, các Thánh, đó là phần thưởng lớn lao cho nhạc sĩ sáng tác.
Nếu như cách loan báo Tin mừng Tình yêu hay nhất và hữu hiệu nhất của người Kitô hữu là loan báo bằng cuộc sống yêu thương và phục vụ thì Nhạc sĩ loan báo Tin mừng bằng những bài thánh ca đựơc viết khi cầu nguyện; dấn thân phục vụ trên con đường nghệ thuật cao quý. Nhạc sĩ làm chứng nhân cho cái đẹp thánh thiện nâng tâm hồn con người lên với Thiên Chúa Tuyệt Mỹ.
Ở đâu có Thần Khí là ở đó bừng lên niềm vui. Mùa xuân làm cho vạn vật bừng dậy màu xanh sự sống. Thần Khí làm cho mọi tâm hồn tràn đầy sức sống mới. Gioan Tẩy Giả “nhảy mừng trong lòng mẹ“. Đức Maria hát lên bài ca Magnificat. Các Mục đồng hớn hở đi Bêlem. Các Tông Đồ trở nên những con người mới. Các Thánh Tử Đạo hiên ngang tiến ra pháp trường. Các Nhạc sĩ, Ca sĩ sống chứng nhân cho cái đẹp, loan báo Tin Mừng Phục Sinh trên mọi nẻo đường phục vụ.
Trong Bữa Tiệc Ly, trước khi chịu khổ nạn, Chúa Giê-su đã hứa với các Tông đồ: “Thầy sẽ xin HiệnXuống ABC484
Trong Bữa Tiệc Ly, trước khi chịu khổ nạn, Chúa Giê-su đã hứa với các Tông đồ: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi…” (Ga 14, 16). Trước khi về Trời, Đức Ki-tô cũng nói với các Tông đồ: “anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ, anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1, 8).
Chúa Thánh Thần ban ơn thánh hóa, biến cải các Tông đồ từ những con người chỉ mơ ước “một vương quốc trần gian” (“Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó hỏi Người rằng: “Thưa Thầy có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc It-ra-en không?” – Cv 1, 6) được ơn soi sáng nhìn rõ thực tại Nước Trời và hiểu đầy đủ hơn về các điều Chúa Giê-su giảng dạy. Hơn nữa, từ những con người nhát đảm, sợ sệt, ở trong nhà “đóng kín cửa” (“Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em.” – Ga 20, 19), các ông trở nên những con người can đảm “mở cửa ra” để hăng hái ra đi rao giảng và làm chứng cho Chúa Phục Sinh ngay vào ngày Lễ Ngũ Tuần; lúc đó đang có nhiều người từ các nơi tụ họp về Giê-ru-sa-lem để mừng Lễ.
Chú tâm đọc và suy niệm Lời Chúa Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, thấy giữa bài đọc 1 (Cv 2, 1-11) và bài Tin Mừng (Ga 20, 19-23) có một chi tiết hơi lạ, đó là: Trong bài Tin Mừng, các Tông đồ được Chúa Ki-tô Phục Sinh thổi hơi ban Thánh Thần (Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ.” – Ga 20, 22-23), còn bài đọc 1 thì trình thuật Thánh Thần Hiện Xuống dưới hình lưỡi lửa trên các Tông đồ trong Ngày Lễ Ngũ Tuần. Như vậy thì Thánh Thần do Đức Ki-tô thổi hơi ban cho các môn đệ và Thánh Thần hiện xuống trong ngày Lễ Ngũ Tuần có khác nhau chăng? Nếu khác thì khác ở chỗ nào? Nếu chỉ là một Thánh Thần thì tại sao các tông đồ lại nhận được tới hai lần và bằng hai cách khác nhau? Những băn khoăn này còn gặp ở ngay trong Lời dạy của Đức Ki-tô: Khi bước vào cuộc khổ nạn thì Người nói: “Thầy sẽ xin Chua Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14, 16). Giờ đây Người lại thổi hơi và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (tức là chính Đức Ki-tô ban Thánh Thần cho các môn đệ).
Thực ra, Thánh Thần được Đức Ki-tô Phục Sinh thở hơi trên các Tông đồ và Thánh Thần hiện xuống trong ngày Lễ Ngũ Tuần chỉ là một Thánh Thần duy nhất. Ấy cũng bởi vì Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa cũng tức là Thiên Chúa thật như Ngôi Cha và Ngôi Hai. Mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa có thể cùng lúc hiện diện ở khắp mọi nơi, “ở trên trời, dưới đât và cả trong nơi âm phủ nữa” (Pl 2, 10).Tuy nhiên, nếu là một Thánh Thần duy nhất thì tại sao các Tông đồ lại lãnh nhận tới hai lần? Lý do của sự kiện này có thể giải trình theo trình tự thời gian và theo cường độ đức tin. Theo trình tự thời gian thì 2 lần cách nhau 50 ngày. Lần thứ nhất và cũng là ngày thứ nhất tính từ thời điểm Chúa Ki-tô Phục Sinh, khi các Tông đồ còn đang sợ hãi ẩn nấp vì Thầy mình đã chết. Còn lần thứ hai là vào thời điểm các Tông đồ đang hân hoan vì Thầy mình đã Phục Sinh và đang thao thức chờ đợi lời hứa của Thầy trở thành hiện thực, để có đủ dũng khí thi hành sứ vụ mà Thầy đã trao phó.
Đó là về thời điểm các Tông đồ lãnh nhận Thánh Thần, nhưng như thế thì cũng chẳng có gì đáng để băn khoăn. Điều đáng lưu ý là vì sao lại có lần thứ hai các Tông đồ được đón nhận Chúa Thánh Thần? Vấn đề này sẽ sáng tỏ khi nhìn lại quá trình đức tin của các Tông đồ. Theo Thầy vì tin Thầy là Đấng Cứu Độ, là Đấng có thể làm cho mình trở thành những kẻ “lưới người như lưới cá”, vậy mà khi thì tuyên xưng Thầy là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật, lúc lại tưởng Thầy là ma; thậm chí tới khi Thầy đã sống lại và hiện ra để ban Thần Khí cho các ngài, mà vẫn còn cảnh “Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma” (Lc 24, 37).
Vừa mới khẳng định chắc nịch: “Dù có phải chết, con cũng không chối Thầy”, thì ngay sau đó đã chối phăng: “Tôi thề là không biết người ấy”. Tin Thầy đến độ đòi được ngồi bên tả bên hữu Thầy khi Thầy được vinh quang, vậy mà khi Thầy bước vào thời điểm mà chính Thầy khẳng định: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người” (Ga 13, 31), tức là lúc chính thức bước vào cuộc thương khó để cứu độ nhân loại, thì “Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết” (Mt 26, 56). Vậy đó! Xem thế thì đủ rõ đức tin của các môn đệ vẫn chưa thật sự kiên định. Và vì thế, rất cần Thần Khí Chúa đến với các ngài không chỉ hai lần mà nhiều lần hơn nữa để củng cố và tăng trưởng đức tin.
Hành trình đức tin của mọi tín hữu cũng vậy thôi và đừng nói là 2 lần, có không ít người đến năm lần bảy lượt Thánh Thần đến, thậm chí còn cư ngụ luôn ở trong lòng (“Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” – 1Cr 3, 16; “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao?” – 1Cr 5, 19); vậy mà đức tin vẫn như “nước đổ lá khoai” chẳng đọng lại được chút nào! Hoá cho nên vẫn rất cần phải có lần thứ hai Thánh Thần đến với các Tông đồ và nói chung là các tín hữu để không những chỉ củng cố đức tin cho vững mạnh mà còn phát triển vươt bậc nữa. Thật thế, lần thứ hai Thánh Thần đến với các Tông đồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần đã ban lòng can đảm, sự khôn ngoan và nhất là khả năng ngôn ngữ có thể nói nhiều thứ tiếng khác ngoài tiếng bản địa của các ngài.
Vấn đề các Tông đồ có thể nói nhiều thứ tiếng khác ngoài tiếng bản địa của các ngài, đó là một mầu nhiệm được chính những người nghe làm chứng (“Những người đang nói đó không phải là người Ga-li-lê cả ư? Thế sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta? Chúng ta đây, có người là dân Pác-thi-a, Mê-đi, Ê-lam, Mê-xô-pô-ta-mi-a, Giu-đê, Cáp-pa-đô-ki-a, Pon-tô, và A-xi-a, có người là dân Phy-ghi-a, Pam-phy-li-a, Ai-cập, và những vùng Li-by-a giáp giới Ky-rê-nê; nào là những người từ Rô-ma đến đây; nào là người Do-thái cũng như người đạo theo; nào là người đảo Cơ-rê-ta hay người Ả-rập, vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!” – Cv 2, 7-11).
Và cho đến hiện nay thì bất kỳ ai khi nhìn lại lịch sử Giáo hội, cũng phải ngạc nhiên đến sửng sốt trước sự tồn tại bền vững và phát triển vượt bậc. Đó phải chăng là một món quà độc đáo, món quà vô giá mà Đức Ki-tô đã ban tặng các môn đệ, và nói chung là tất cả mọi tín hữu (“Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” – Ga 20, 22-23)? Điều đó cho thấy chỉ có một Thánh Thần nhưng Người đến với các môn đệ, với Giáo hội và nói chung là tất cả mọi tín hữu, với nhiều hình ảnh và kiểu cách khác nhau, vào những thời điểm khác nhau, tuỳ theo những đặc sủng Người ban cho mỗi người mỗi khác (“Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung.” – 1Cr 13, 4-7).
Như vậy thì Đức Thánh Linh ở trong Ngôi Cha và Ngôi Hai Thiên Chúa, cả Ba Ngôi hiện diện trong nhau, tồn tại trong nhau, cùng một lúc có thể hiện diện ở khắp mọi nơi. Còn nói Chúa Thánh Thần hiện xuống chỉ là cách nói nhằm làm sáng tỏ sự thật về Ngôi Ba Thiên Chúa. Đó là Đấng Thánh, là Thần Khi Sự Thật luôn kết hợp mật thiết với Ngôi Cha và Ngôi Con trong mọi công trình của Thiên Chúa (từ sáng tạo vũ trụ và con người, đến hồng ân cứu độ, từ khởi nguyên tới tận cùng). Một cách cụ thể, khi nói Chúa Thánh Thần hiện xuống, là để miêu tả cụ thể hình ảnh thật (Chim Bồ Câu, Lưỡi Lửa, Ánh Sáng…) từ trời cao bay xuống đậu trên những vật thể hữu hình, và đó cũng chính là những mạc khải của Thiên Chúa để con người vốn chỉ thích đươc “thực mục sở thị” (trông thấy nhãn tiền) hiểu được mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Quả thật, món quà mà Đấng Cứu Thế ban tặng các môn đệ, rộng ra là toàn Giáo hội, rất độc đáo, một món quà vô giá! Chính vì thế, Công đồng Va-ti-ca-nô II được coi là một Lễ Hiện Xuống mới, vì Công Đồng đã định hướng việc canh tân Giáo hội, đem tinh thần đối thoại hiệp thông với Thiên Chúa và với hết mọi người, để cùng với Chúa Thánh Thần thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Món quà vô giá của Chúa Giê-su Ki-tô là Thánh Thần; mà hoa trái của Thánh Thần là hiệp nhất trong yêu thương phục vụ. Cứ nhìn vào Hội Thánh thì đủ rõ: Giáo hội tiên khởi với 12 thành viên (Tông đồ Ma-thi-a đã thay thế Giu-đa It-ca-ri-ốt) đã phát triển khắp năm châu bốn biển với số tín hữu Công Giáo hiện nay ước tính trên một tỷ người (“Theo hồ sơ thống kê được hãng tin Fides loan báo nhân Ngày Thế giới truyền giáo năm 2017, số tín hữu Công giáo trên thế giới năm 2015 gia tăng, chiếm khoảng 17,7% dân số thế giới, với gần 1,3 tỷ tín hữu.” – Wikipedia).
Tóm lại, “Chúa Thánh Thần sẽ mang đến sức mạnh biến đổi của Ngài, một sức mạnh độc nhất vô nhị, một sức mạnh vừa có tính quy tâm vừa có tính ly tâm. Là sức mạnh quy tâm, bởi vì sức mạnh ấy hoạt động nơi trung tâm, nơi sâu thẳm trong trái tim ta. Sức mạnh ấy mang đến hiệp nhất và đẩy lùi chia rẽ, mang đến bình an và đẩy lùi phiền não, mang đến sức mạnh và đẩy lùi cám dỗ. Trong bài đọc hai, Thánh Phao-lô nhắc chúng ta nhớ điều này, khi ngài viết rằng: hoa trái của Thần Khí là niềm vui, bình an, trung tín, tự chủ (Gl 5, 22). Chúa Thánh Thần ban cho ta tình thân gắn bó với Chúa, ban sức mạnh nội tâm để ta tiếp tục tiến bước. Là sức mạnh ly tâm, bởi vì đó là lực đẩy để đi ra ngoài. Thần Khí ở trong chúng ta, để đẩy chúng ta đi ra các vùng ngoại biên, để đẩy chúng ta đi ra mọi vùng ngoại vi của nhân loại. Ngài cho chúng ta thấy gương mặt Thiên Chúa, Ngài cũng mở tâm hồn chúng ta trước các anh chị em mà chúng ta gặp gỡ. Ngài sai chúng ta đi và làm cho chúng ta trở thành chứng nhân. Ngài đổ vào lòng chúng ta đầy tình yêu, lòng từ nhân, lòng quảng đại, sự dịu hiền.” (Bài giảng của ĐTC Phan-xi-cô ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống 20/5/2018).
Ôi! “Lạy Chúa, Chúa đã cử Thánh Thần đến thanh hóa Giáo hội ngay từ buổi sơ khai, và sai đi rao giảng Tin Mừng cứu độ. Hôm nay khi mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng con nài xin Chúa tiếp tục công trình Chúa đã thực hiện và tuôn đổ ơn Chúa Thánh Thần cho mọi tín hữu trên khắp cùng thế giới. Chúng coin cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống).
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Tông đồ. Theo Tin mừng của HiệnXuống ABC485
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Tông đồ. Theo Tin mừng của Gioan, Đức Giêsu đã ban Thánh Thần cho các Tông đồ ngay chiều ngày Phục sinh :”Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần”(Ga 20,22). Tuy nhiên chúng ta nên tránh xa cảm tưởng có sự xẩy ra hai lần việc Thánh Thần được ban cho long trọng lúc ban đầu. Luca và Gioan nói về cùng một việc : Chúa sống lại ban ơn Chúa Thánh Thần và khai mạc sứ mạng của Giáo hội. Sự khác nhau của hai ông về thời điểm là do quan điểm thần học của mỗi ông. Hay nói khác đi, lễ Hiện xuống là ngày Đức Giêsu đặc biệt giới thiệu Giáo hội cho muôn dân muôn nước.
Trước khi về trời, Đức Giêsu đã căn dặn các môn đệ hãy ở lại trong thành chờ đợi Chúa Thánh Thần. Vâng lệnh Chúa, 120 môn đệ cùng với Đức Maria tụ họp nhau cầu nguyện trong nhà, có lẽ nhà Tiệc ly. Chúa Thánh Thần đã hiện xuống trên các ông với tiếng gió thổi ào ào và những hình lưỡi lửa đậu trên đầu các ông. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, các ông nói được nhiều thứ tiếng lạ, ai cũng có thể hiểu được và sau đó các ông can đảm đi rao giảng Đức Kitô Phục sinh cho mọi người.
Ngày nay, lễ Hiện xuống vẫn còn tiếp diễn trong Giáo hội. Chúa Thánh Thần vẫn còn hoạt động trong Giáo hội vì Ngài là Đấng soi sáng, đổi mới, ban bình an và niềm vui cho mọi người. Ngài là hồn sống của Giáo hội. Nếu không có Ngài thì mọi hoạt động trở nên trống rỗng. Ngài cũng vẫn hoạt động trong mỗi người chúng ta với Bảy ơn cả của Ngài để soi sáng, hướng dẫn và giúp chúng ta nên thánh.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1 : Cv 2,1-11.
Trước khi về trời, Đức Giêsu đã hứa ban Thánh Thần cho các môn đệ. Vâng theo lời căn dặn của Chúa Phục sinh, ngày lễ Ngũ tuần, các môn đệ tụ họp tại nhà Tiệc Ly để chờ đón nhận điều Ngài đã hứa.
Sáng hôm đó, đang khi các môn đệ cầu nguyện cùng Đức Maria, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống trên các ông. Mọi người nhận thấy Chúa Thánh Thần hiện xuống với hình lưỡi lửa đậu trên đầu các ông. Và sau đó các ông nói được những thứ tiếng lạ, mọi khách hành hương đều thấy họ nói được tiếng bản xứ của mình một cách thành thạo.
Lưỡi tượng trưng cho lời nói. Lửa tượng trưng cho tình yêu và lòng nhiệt thành. Nhờ Chúa Thánh Thần, các môn đệ đã nhiệt thành rao giảng Tin mừng, làm chứng cho Đức Kitô khắp mọi nơi.
+ Bài đọc 2 : 1Cr 12,3b-7.12-13.
– Thánh Phaolô nhắc nhở cho tín hữu Côrintô một số điều :
– Nguồn gốc mọi đặc sủng là Chúa Thánh Thần. Ngài ban các đặc sủng ấy cho từng người tùy nhu cầu, không ai giống ai.
– Tuy nhiên các đặc sủng ấy không phải để phục vụ cho các nhân, nhưng tất cả đều nhằm phục vụ lợi ích chung của cộng đoàn.
– Hội thánh được coi như một thân thể, cần phải có sự hợp nhất các chi thể. Vì thế, mọi tín hữu phải tránh sự chia rẽ để cùng hợp lực xây dựng thân thể Hội thánh.
+ Bài Tin mừng : Ga 20,19-23.
Theo Gioan làm chứng, việc trao ban sứ mạng và ban Thánh Thần đã xẩy ra ngay lần đầu tiên Đấng Phục Sinh hiện ra với các môn đệ vào chiều ngày Phục sinh. Như vậy, căn bản mầu nhiệm Chúa Thánh Thần hiện xuống đã được biểu lộ trọn vẹn.
Tuy nhiên, theo quan điểm của Luca thì Thánh Thần được ban hôm lễ Ngũ tuần. Theo bài Tin mừng, Chúa Thánh Thần đã ban cho các Tông đồ những ơn :
– Ơn Bình an, đặc trưng của thời Messia.
– Ơn Tha tội, nhờ đó con người được hưởng niềm vui và bình an.
– Ơn Trợ giúp, nhờ đó Giáo hội ra đi để loan báo Tin mừng cứu độ.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
I. BỐI CẢNH NGÀY LỄ HIỆN XUỐNG.
Ý nghĩa bài Tin mừng hôm nay. Phụng vụ chọn lựa bài Tin mừng này trong ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống cho cả ba năm A,B,C là vì trong bài này thánh sử Gioan đã kể lại việc Đức Giêsu ban Thánh Thần cho các Tông đồ “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Việc ban Thánh Thần biểu lộ ý nghĩa : Chúa Thánh Thần là căn nguyên sự sống và hoạt động của các Tông đồ. Vì thế qua việc mừng lễ này Giáo hội muốn cho chúng ta xác tin hơn về vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời sống Giáo hội và đời sống của mỗi người chúng ta, để chúng ta tha thiết hơn trong việc cảm tạ và cầu nguyện với Chúa Thánh Thần trong đời sốâng hằng ngày.
Tại nhà Tiệc Ly. Ngày lễ Phục sinh Đức Giêsu đã ban Thánh Thần cho các Tông đồ (Ga 20,21-23). Nhưng ngày lễ Hiện xuống Chúa Thánh Thần đến một cách long trọng và là ngày khai sinh Giáo hội hay ngày giới thiệu Giáo hội cho muôn dân (Cv 2,1-13). Cũng như qua bí tích Rửa tội, chúng ta nhận Chúa Thánh Thần rồi, nhưng qua bí tích Thêm sức, chúng ta lãnh nhận Chúa Thánh Thần cách long trọng và dồi dào để trở thành chiến sĩ Chúa Kitô.
Lễ Ngũ Tuần là một trong ba đại lễ của người Do thái. Lễ này được mừng 50 ngày sau lễ Vượt qua, là để tạ ơn Chúa vì mùa thu hoạch lúa mì vừa kết thúc và cũng là để kỷ niệm Thiên Chúa ban Lề luật trên núi Sinai.
Trước khi về trời Đức Giêsu đã ra lệnh cho môn đệ đi rảo giảng Tin mừng, rồi Ngài thêm :”Nhưng hãy đợi trong thành cho đến khi các con được mặc lấy quyền năng bởi trời”, và 120 người ấy đã hoàn toàn vâng theo. Dầu phần lớn trong số họ không có nhà cửa gì tại thủ đô, nhưng vẫn trung thành họp nhau cầu nguyện để trông chờ ứng nghiệm điều Đức Giêsu đã hứa.
Trong số 120 người tụ họp tại nhà Tiệc Ly, có Đức Maria, các tông đồ và một số người khác. Theo như thánh Phaolô đã kể lại trong thư thứ nhất Côrintô 15,6 thì 500 người đã cùng được gặp Chúa khi Ngài hiện đến sau Phục sinh, chúng ta không hiểu tại sao họ lại không hiện diện trong dịp họp mặt này. Sách Công vụ Tông đồ cũng ghi đặc điểm của cuộc hội họp này là “Tất cả đều kiên tâm nhất trí cầu nguyện liên tục cùng với Đức Maria”.
Sách Công vụ Tông đồ còn ghi :”Mọi người đang tề tựu tại một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác lạ, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho”(Cv 2, 1-4).
Trong Kinh Thánh lửa cũng được dùng để chỉ về chức vụ của Chúa Thánh Thần. Như gió thổi và làm cho loài người tươi mát thế nào, thì lửa lại tiêu sạch rơm rác hôi thối chung quanh nhà chúng ta khiến xóm giềng dễ chịu. Chúa Thánh Thần sẽ tác động để đời sống tốt lành của chúng ta tỏa hương, gây ảnh hưởng tốt, và Chúa đưa tới vinh quang đời sống tốt đẹp của chúng ta.
Tiếng gió động ào ào tượng trưng sức sống thần khí, khi Thiên Chúa dựng nên con người, Thiên Chúa đã thổi hơi vào thẳng người được dựng nên bằng bùn đất. Hơi thở thần khí đã biến bùn đất thành Adong sống động. Từ đó Adong trở thành người đầy sức sống tốt lành và tràn đầy sinh lực hạnh phúc. Luồâng gió mới của thần khí nay cũng thổi vào khắp các cơ thể xác thịt của Tông đồ biến đổi các ông thành chi thể mới của Đức Kitô chứa đầy những đặc sủng để các ông phục vụ nhiều việc khác nhau vì ích chung nhờ Thánh Thần đang hoạt động nơi các ông (Vũ khắc Nghiêm).
Qua càc bài đọc trong Thánh lễ hôm nay chúng ta có thể gọi lễ Hiện xuống là ngày khai sinh Giáo hội, hay ngày Đức Giêsu giới thiệu Giáo hội cho muôn dân, nhưng đồng thời Chúa cũng cho biết lễ Hiện xuống vẫn còn tiếp diễn, nghĩa là Chúa Thánh Thần vẫn còn hoạt động mạnh mẽ bên trong Giáo hội, ví dụ : Công đồng Vatican II là một lễ Hiện xuống mới. Công đồng đã quyết định một cách bất ngờ và đã canh tân Giáo hội cho phù hợp với bước tiến của thế giới ngày nay.
II. NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA CHÚA THÁNH THẦN.
Chúa Thánh Thần, Đấng soi sáng. Tuy đã ở với Đức Giêsu gần 3 năm trời, các môn đệ cũng chưa hiểu thấu được những lời Ngài dạy, những việc Ngài làm. Chẳng hạn một ngày nọ Đức Giêsu nói với các môn đệ :”Con người sẹ phải bị nộp vào tay người ta, họ sẽ giết Ngài nhưng ba ngày sau khi chết Ngài sẽ sống lại”. Thánh Marcô liền chú thích thêm :”Nhưng các môn đệ chẳng hiểu điều Ngài muốn nói và họ sợ hãi không dám hỏi Ngài”(Mc 9,31-32).
Tương tự như thế, sau khi mô tả Đức Giêsu cỡi lừa tiến vào thành Giêrusalem vào Chúa nhật lễ lá, thánh Gioan nói rằng :”Thoạt tiên các môn đệ Ngài không hiểu được điều này, nhưng sau khi Đức Giêsu được vinh hiển thì họ nhớ lại những điều này đã được viết về Ngài”(Ga 12,16). Hoặc dịp khác, có lần Đức Giêsu bảo các nhà cầm quyền ở Giêrusalem :”Hãy tiêu hủy đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ dựng lại”. Đoạn thánh Gioan chú thích thêm :”Tuy nhiên Đức Giêsu có ý nói về đền thờ thân xác Ngài. Do đó, khi Ngài từ cõi chết sống lại, các môn đệ nhớ lại Ngài đã nói điều này, và nhờ đó họ tin vào Kinh Thánh và những lời Đức Giêsu đã nói ra”(Ga 2,20-22).
Điều gì đã xẩy ra cho các môn đệ Đức Giêsu giúp họ thấu hiểu được những điều này ? Đó chính là điều Đức Giêsu đã từng nói :”Chúa Thánh Thần mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, sẽ dạy cho các con mọi sự và sẽ nhắc nhở cho các con mọi điều Thầy đã nói với các con”(Ga 14,26).
Nói cách khác, điều làm cho các Phúc âm có giá trị dường ấy là vì chúng đã được viết dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần, Đấng ngự đến vào dịp lễ Hiện xuống. Chúa Thánh Thần đã ban cho các môn đệ Đức Giêsu sự thấu hiểu mới mẻ về các lời dạy của Đức Giêsu. Chính sự thấu hiểu này đã được các Phúc âm ghi lại.
Chúa Thánh Thần, Đấng đổi mới. Khi được lãnh nhận sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các Tông đồ đã được đổi mới hoàn toàn. Được sức lay động và đầy lửa Thánh Thần, các Tông đồ cùng lên tiếng cao rao những kỳ công của Thiên Chúa. Thánh Phêrô, lòng đầy Thánh Thần, đã hùng hồn thuyết giảng về Đức Giêsu chịu Thương khó và Phục sinh. Có 3000 người xin được rửa tội. Giáo hội được khai sinh từ đó vào ngày lễ Ngũ tuần. Thánh Thần đến, Giáo hội khai sinh.
Tác động của Chúa Thánh Thần trên Giáo hội thật mãnh liệt. Chỉ một nhóm Tông đồ nhỏ, sợ hãi, co cụm, hoang mang, lúc nào cũng cửa đóng then cài. Thế mà giờ đây khi được tràn đầy Thánh Thần họ đã trở nên mạnh mẽ phi thường, hiên ngang, can trường làm chứng và loan báo Tin mừng Phục sinh. Các ngài được trang bị bằng quyền năng Chúa Thánh Thần để bẻ gẫy sức mạnh của sự dữ, tội lỗi.
Dù bị đe dọa đòn vọt, dù gông cùm tù tội, các ngài vẫn trung kiên một lòng tin vào Chúa. Các ngài đã lấy máu đào minh chứng cho lời rao giảng. Dù bị đàn áp, bách hại, Giáo hội vẫn lớn mạnh không ngừng. Hai mươi thế kỷ qua, con thuyền Giáo hội do người dân chài Galilê cầm lái vẫn lướt qua mọi thăng trầm của lịch sử với muôn vàn thử thách giông tố để luôn đi tới.
Vậy bí quyết ẩn tàng trong đó và lý do tồn tại của Giáo hội là gì nếu không phải chính là sức mạnh , là quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Truyện : Các nữ tu tại Vendée.
Các chị dòng tại tu viện Vendée nước Pháp không quên rằng Chúa Thánh Thần là quan trọng. Trong thời kỳ cách mạng Pháp, nhiều linh mục và nữ tu bị giết. Toàn thể các chị ở tu viện Vendée bị kết án lên máy chém. Chị nào cũng hiểu lên máy chém ghê sợ chừng nào, nhưng không một chị nào tỏ ra sợ sệt chút gì hết. Trái lại, đứng sát bên nhau, các chị cất tiếng hát bài thực du dương. Đứng trước cái chết, các chị vẫn ca hát, và bài hát các chị hát là bài thánh ca “Xin Chúa Thánh Thần ngự đến” (Diamond, Đồng cỏ non, tr 93).
Chúa Thánh Thần, Đấng ban bình an. Khi Đức Giêsu đi vào cuộc Khổ nạn, các môn đệ buồn sầu lo lắng, tâm trạng hoang mang không biết tương lai sẽ ra sao, nhưng khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các ông được bình an và niềm vui, không còn sợ sệt gì nữa, nhưng lòng rất thanh thản. Đức Giêsu đứng giữa các ông và nói :”Bình an cho các con”. Còn một niềm vui nữa là đem bình an và tha thứ cho những người khác :”Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha”.
Nhiều khi chúng ta rơi vào tâm trạng sợ sệt, bất an, mặc cảm tội lỗi. Khi đó chúng ta co cụm lại, rút lui vào nỗi cô đơn của mình và không muốn gặp ai cả. Tình trạng này thật là buồn chán. Phải sống trong tình trạng này thì chẳng khác nào như đã chết. Do đó cần phải có ai đó giúp chúng ta thoát khỏi tâm trạng bất thường ấy. Người ấy là ai ? Thưa chính là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là Đấùng tái tạo những gì suy sụp và hư mất.
Truyện : Nhà biên kịch Henri Ghéon.
Henri Ghéon là một nhà biên kịch nổi tiếng của Pháp, cũng là một người tội lỗi trong đệ nhị thế chiến, ông ở trong một tâm trạng bất an, đã quay trở lại với Chúa. Ôâng đến xin lãnh bí tích Giải tội và ông đã kể lại tâm trạng của mình lúc xưng tội như sau :”Hai tay tôi ôm đầu, miệng bập bẹ run run, tôi đổ dòng tội tuôn ra như thác…. Tôi cảm thấy một thứ cặn đắng, từng ngụm, từng ngụm trào ra khỏi các thớ thịt con tim tôi với tất cả khối nặng đó, với tất cả chất độc đó đã đè nén tôi suốt hai mươi năm nay. Tôi cố cựa quậy đổ dốc nó ra cho linh mục giải tội. Và Thiên Chúa đã nghe lời tôi :”Hãy về Bình an. Thánh Thần đã ngự trong con” ! Tôi trẻ lại hai mươi tuổi; hai mươi năm tôi lỗi. Một niềm vui sướng mới lạ tràn ngập tâm hồn tôi. Tôi chạy, tôi nhảy, tôi bay, tôi không còn cảm thấy xác thịt nặng nề của tôi nữa”…
III. CHÚA THÁNH THẦN HOẠT ĐỘNG TRONG GIÁO HỘI.
Phải hiểu biết về Chúa Thánh Thần. Chúng ta có thể nói khi Đức Giêsu lên trời là chấm dứt thời kỳ của Ngài ở trần gian và nhường chỗ cho thời kỳ của Chúa Thánh Thần. Đức Giêsu đã thực hiện và hoàn tất chương trình cứu độ nhưng Chúa Thánh Thần mới là Đấng ban phát công nghiệp ấy cho chúng ta qua bí tích.
Chúa Thánh Thần vẫn còn tiếp tục những công việc của Đức Giêsu trong Giáo hội, không những Ngài hoạt động một cách chung chung, mà Ngài còn hoạt động trong từng người, soi sáng, thúc đẩy mỗi khi chúng ta cầu nguyện, khi chúng ta hành động.
Khi học giáo lý chúng ta học và biết nhiều về Chúa Cha cũng như về Chúa Con. Thế nhưng nếu có ai hỏi chúng ta về Chúa Thánh Thần, về những việc Ngài đã làm cũng như về vai trò của Ngài trong cuộc sống, thì rất có thể chúng ta sẽ trả lời không hơn gì những tín hữu Eâphêsô thưở trước. Thực vậy, thánh Phaolô đã hỏi họ :”Các ngươi đã nhận Chúa Thánh Thần chưa” ? Và họ đã trả lời :”Chúng tôi chưa hề hay biết có một Chúa Thánh Thần”. Phải, Thánh Thần là Thiên đã bị quên lãng trong đời sống.
Sách giáo lý đã cho biết : Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra, cùng một bản tính, cùng một quyền năng như hai Ngôi cực trọng ấy. Làm sao chúng ta biết được Thiên Chúa có Ba Ngôi và Ngôi thứ Ba lại là Chúa Thánh Thần ? Sở dĩ chúng ta biết được là vì Đức Giêsu đã mạc khải cho chúng ta.
Thực vậy, khi Đức Giêsu chịu phép rửa ở sống Giorđan, thì Tin mừng đã ghi nhận : Bấy giờ trời mở ra, Thánh Thần lấy hình chim bồ câu mà ngự xuống, rồi từ trời có tiếng phán :”Này là Con Ta yêu dấu đẹp lòng Ta mọi đàng”. Hoặc trước khi về trời, Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ:”Các con hãy đi giảng cho muôn dân, rửa tội cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
Rất may công đồng Vatican II đã dành cho Chúa Thánh Thần một chỗ quan trọng khiến chúng ta tìm hiểu vai trò quan trọng của Ngài trong đời sống Giáo hội và trong từng người.
Trong mạch sống Giáo hội, tác động của Chúa Thánh Thần thật vô cùng quan trọng cho Giáo hội cũng như mỗi người chúng ta. Không những cần cho những thừa tác viên của Giáo hội để chu toàn phận sự mà còn cần cho mọi người để sống đức tin và bác ái. Mọi cố gắng của Giáo hội và của mỗi người đều cần có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, nếu không sẽ trở nên lố bịch và vô vọng, như Đức Thượng phụ Athenagoras, Giáo chủ Constantinople đã nói :”Nếu cuộc sống thiếu vắng Chúa Thánh Thần thì Thiên Chúa sẽ nghìn trùng xa cách. Đức Kitô chỉ là một nhân vật quá khứ. Tin mừng chỉ là một mớ chữ không hồn. Giáo hội khác nào một cơ cấu cứng nhắc, biến quyền bính thành thống trị điêu ngoa, và giảng dạy chỉ là tuyên truyền láo khoét, việc thờ phượng chỉ là phù phép, và luân lý sẽ thành xiềng xích vong nô”(Phạm văn Phượng).
Những ân ban của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần hoạt động trong chúng ta bằøng những ân ban của Ngài mà chúng ta gọi là Bảy ơn cả của Chúa Thánh Thần với mục đích soi sáng, hướng dẫn và giúp ta nên thánh.Thiết tưởng chúng ta cần tìm hiểu từng ơn của Ngài.
Ơn Khôn ngoan là ơn giúp chúng ta nâng cao tâm hồn lên trên mọi sự vật mau qua trên mặt đất, để hướng về những sự không mau qua, những sự vĩnh cửu.
Ơn thông hiểu ; như một đèn pha thần thánh, chiếu tỏa sáng làn chân lý Chúa tỏ ra cho chúng ta, giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa các chân lý ấy.
Ơn lo liệu : như một địa bàn ơn thần thánh, trong những khó khăn, bối rối trong đời sống. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta biết phải làm gì để vinh danh Chúa và cứu vớt linh hồn chúng ta cũng như anh em chúng ta.
Ơn sức mạnh : nghĩa là can đảm. Chúa Thánh Thần cho chúng ta sự can đảm thiêng liêng cần thiết để giữ luật Chúa và luật của Giáo hội. Tử đạo là điển hình cao nhất của ơn sức mạnh.
Ơn hiểu biết : là giúp ta phán đoán đúng đắn các tạo vật, giúp biết sử dụng kiến thức đúng đắn. Ơn hiểu biết không phải chỉ để thâu thập các sự kiện về thế gian, nhưng là đặt chúng ta trong liên quan và trật tự.
Ơn đạo đức : là tình yêu và lòng nhiệt thành của con người đối với Cha mình, là ước muốn của người con mong làm đẹp ý Cha mình. Như một ân huệ của Chúa Thánh Thần, ơn đạo đức giúp ta tôn kính và yêu mến Chúa là Cha chúng ta. Nó giúp ta thi hành những gì đẹp lòng Chúa, yêu giúp đỡ anh em, yêu cầu nguyện và yêu Lời Chúa.
Ơn kính sợ Chúa : là ơn giúp ta sợ làm mất lòng Chúa. Không phải sợ hãi như nô lệ sợ chủ, nhưng sợ làm phiền lòng Đấng yêu thương chúng ta. Đấng chúng ta yêu mến. Như Kinh Thánh nói :”Kính sợ Chúa là khởi đầu sự khôn ngoan” (Arthur Tonne).
Đây là mầu nhiệm của lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống : Chúa Thánh Thần soi sáng tâm trí con người, và qua việc soi sáng cho họ biết về Chúa Kitô chịu đóng đinh chết và đã sống lại. Chúa Thánh Thần chỉ cho biết con đường để trở nên giống Chúa hơn, nghĩa là trở nên “sự biểu lộ và phương thế” của tình yêu, một tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa (x. TĐ Deus caritas est, số 33). Được qui tụ lại với Mẹ Maria lúc Giáo hội mới được khai sinh, giờ đây Giáo hội cầu nguyện như sau :”Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến ! Xin hãy đổ tràn xuống tâm hồân các tín hữu, và đốt lên trong họ ngọn lửa Tình Yêu Chúa”. Amen.
Các bản văn Phụng Vụ hôm nay ít nhiều đều nói về Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần có một HiệnXuống ABC486
Các bản văn Phụng Vụ hôm nay ít nhiều đều nói về Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần có một vai trò rất quan trọng trong chương trình sáng tạo, cứu độ và thánh hoá loài người của Thiên Chúa. Hoạt động của Chúa Thánh Thần rất phong phú và đa dạng. Nhân lễ Chúa Thánh Thần hôm nay chúng ta sẽ nói về một số những hoạt động của Người.
A..Trước hết là hoạt động của Chúa Thánh Thần trong lịch sử ơn Cứu độ.
Câu đầu tiên của sách Thánh ghi như thế này: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Ðất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước”.
Như vậy ngay từ giây phút đầu tiên khi trời đất muôn vật vừa được tạo thành thì Thần Khí TC đã có mặt để thực hiện việc sáng tạo nên muôn loài muôn vật và cả con ngưởi.
Rồi trong Tân ước, cũng chính Thần Khí đó luôn có mặt từ lúc Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người cho đến ngày Giáo Hội được sinh ra.
Thánh Luca ghi lại những giây phút đầu tiên thật cảm động :”Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.“
CTT hoạt động trong Giáo hội sơ khởi và thực hiện bao nhiêu việc lạ lùng qua các tông đồ như lời của Chúa Giêsu :”Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất.”
Và CTT luôn hiện diện, hoạt động trong Hội thánh và trong mỗi người chúng ta cho đến ngày tận cùng thế giới. (Theo “Con đường hạnh phúc”).
Bây giờ chúng ta hãy dừng lại trước biến cố mà sách TĐCV đã tường thuật lại một cách đặc biệt hôm nay. Chúa Thánh Thần đã đổi mớicác tông đố của Chúa. Đầu tiên là đổi mới trí khôn.
Chúng ta biết các Tông đồ xưa là những người làm nghề chài lưới, ít học. Suốt 3 năm ở bên cạnh Chúa Giêsu, các ngài đã được Chúa dạy dỗ nhiều điều nhưng các ngài không hiểu. Vậy mà sau khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, trí khôn các ngài như được mở ra. Không những các ngài hiểu biết về Chúa, hiểu biết giáo lý của Chúa, mà còn có thể đi giảng dạy cho người khác nữa.
Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người thất học nên hiểu biết. Ngài đã đổi những tâm trí u mê thành sáng suốt.
Thứ đến là đổi mới ý chí.
Từ khi Chúa Giêsu bị bắt và bị kết án, các Tông đồ sống trong sợ hãi. Các ngài đã trốn chạy. Các ngài đã chối Chúa. Các ngài ẩn nấp trong nhà đóng kín cửa. Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, con người các ngài đã hoàn toàn thay đổi. Các ngài mở tung cửa ra đi rao giảng Tin mừng cho mọi người. Bị đe dọa, các ngài vẫn không sợ. Bị đánh đòn, các ngài vẫn kiên cường. Không gì có thể ngăn cản các ngài rao giảng, làm chứng cho Đức Kitô phục sinh. Sau cùng tất cả các ngài đã chịu đổ máu, hiến mạng sống mình để làm chứng cho Chúa.
Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người yếu đuối nên vững mạnh. Ngài đã biến những con người nhút nhát nên can đảm.
Sau cùng là đổi mới trái tim.
Trước kia các ngài còn mang nặng những ước mơ trần tục. Theo Chúa để mong được chức trọng quyền cao, mong được ngồi bên tả bên hữu Chúa, tranh dành nhau chỗ cao chỗ thấp. Có thể nói, trước kia các ngài theo Chúa vì bản thân, vì chính các ngài. Các ngài chưa yêu mến Chúa bằng yêu mến bản thân. Nhưng từ khi được ơn Chúa Thánh Thần, trái tim của các ngài đã hoàn toàn thay đổi. Từ nay các ngài không còn tranh dành nhau chỗ cao chỗ thấp, ngồi bên tả hay bên hữu. Nhưng các ngài biết sống nhường nhịn yêu thương. Từ nay các ngài dành trọn trái tim cho Chúa, yêu mến đến sẵn sàng chịu mọi đau khổ, và nhất là sẵn sàng chết vì Chúa.
Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Đã biến đổi những trái tim chai đá thành những trái tim bằng thịt. Đã biến đổi những trái tim ích kỷ thành những trái tim yêu thương.
Chính vì thế mà khi bàn về vai trò của Chúa Thánh Thần đối với Giáo Hội, Thượng phụ Athénagoras không ngần ngại mà quả quyết: “Không có Thánh Thần, Thiên Chúa sẽ ở xa, Đức Kitô bị khép lại ở trong quá khứ, Tin Mừng sẽ chỉ là những dòng chữ chết. Hội Thánh sẽ chỉ là một tổ chức bình thường, quyền bính sẽ trở thành một thứ áp bức, và công việc truyền giáo sẽ trở thành một việc uyên truyền không hơn không kém. Rồi việc tế tự, một trong những sinh hoạt quan trọng nhất trong đạo của chúng ta sẽ chỉ còn là một thứ tưởng niệm và hoạt động Kitô giáo sẽ chỉ là một thứ đạo đức nô lệ.”
Hôm nay ta hãy tha thiết xin ơn Chúa Thánh Thần đến đổi mới con người xưa cũ của ta.
Đổi mới Trí khôn u mê không hiểu Lời Chúa, không nhận biết thánh ý Chúa thành trí khôn biết bén nhạy với Lời Chúa, nhất là với sự soi sáng của Chúa Thánh Thần
Đổi mới Ý chí bạc nhược không đủ sức làm việc lành, hèn nhát không dám làm chứng cho Chúa thành ý chí biết phục thiện và can đảm làm chứng cho chân lý.
Đổi mới Trái tim nhơ uế vì những ích kỷ nhỏ nhen, vì những ham muốn trần tục thành trái tim quảng đại, biết tha thứ và yêu thương.
Xin được kết thúc bắng một chứng từ rất cảm động đã xảy ra tại một giáo xứ nọ.
Trong giáo xứ tôi có cụ già tên là Thomas ngoài trăm tuổi. Cụ thường sống cô đơn vì các bạn cùng tuổi với cụ đã ra đi. Một hôm cụ lâm bệnh và qua đời. Tôi tự nhủ:
– Chắc không có ai đến dự đám tang của cụ. Vì thế tôi nhất định đến tiễn cụ đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Hôm ấy lại là ngày xấu trời, mưa tầm tả. Theo sau xe tang không có một bóng người, đường xá vắng tanh. Khi xe chạy tới cổng nghĩa trang, tôi thấy có một người đàn ông trong y phục quân đội đứng đợi. Ông đi theo xe tang đến huyệt và có mặt trong suốt thời gian an táng. Trước khi hạ huyệt ông đưa tay ngang trán, nghiêm chỉnh chào cụ Thomas như một vị vua.
Chôn cất xong, tôi đi theo ông ra cổng nghĩa trang. Một cơn gió mạnh bay tốc áo mưa, để hộ ra mấy cái huy chương trên áo ông. Thì ra ông không chỉ là một binh lính thường mà còn là một sĩ quan cao cấp. Như đọc được sự tò mò của tôi, ông nói:
– Có lẽ ông ngạc nhiên vì sự có mặt của tôi hôm nay trước linh cửu của cụ Thomas. Trước đây cụ là thầy dạy của tôi. Lúc đó tôi là một đứa trẻ tinh nghịch làm khổ cụ rất nhiều. Tôi được như ngày hôm nay là nhờ ơn của cụ. Vì thế hôm nay tôi đến tạ ơn và chào vĩnh biệt cụ, với tất cả tấm lòng trìu mến tri ân của tôi đối với cụ
* *
Câu chuyện trên đây cho chúng ta thấy đâu là sức mạnh của hạt giống được gieo vào mảnh đất là tâm hồn người đàn ông nầy.
Ai đã làm cho lời giáo hóa và gương sáng của cụ Thomas sinh hoa trái? Đâu là sức mạnh đổi mới tâm hồn đứa trẻ tinh nghịch nên một con người có thế giá?
Đó chính là hoạt động của Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần đã âm thầm tác động làm cho những lời dạy và tấm lòng tốt của cụ Thomas đem đến những kết quả lạ lùng như thế.
Thánh Thần Mạnh Mẽ Luôn Nâng Đỡ. Nhân Thế Yếu Hèn Được Độ Trì. Chính Chúa Giêsu đã HiệnXuống ABC487
Thánh Thần Mạnh Mẽ Luôn Nâng Đỡ Nhân Thế Yếu Hèn Được Độ Trì
Chính Chúa Giêsu đã xác định: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16:13). Thần Khí sự thật là ai? Đó chính là Chúa Thánh Thần – Thiên Chúa Ngôi Ba.
Chúng ta tôn xưng Ngôi Ba Thiên Chúa với nhiều Thánh Danh: Thánh Linh, Thần Khí, Đấng Sáng Tạo, Đấng Canh Tân, Đấng Bảo Trợ, Đấng An Ủi, Thần Chân Lý, Thần Hòa Bình, Thần Công Lý,… và là Đấng tác động những điều đề cập trong Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo.
Quả thật, Chúa Thánh Thần rất quan trọng đối với các tín nhân. Thánh Gioan Maria Vianney nói: “Trước khi chúng ta lãnh nhận Chúa Thánh Thần, chúng ta giống như người mang gánh nặng của tuổi tác và tật nguyền, nhưng khi Chúa Thánh Thần ngự xuống trong chúng ta rồi, chúng ta liền được biến đổi trở nên trẻ trung, xinh đẹp và tràn đầy nghị lực. Người yêu mến Chúa Thánh Thần sẽ cảm nghiệm mọi thứ vui sướng trong mình. Thánh Thần dẫn chúng ta giống như một người mẹ dẫn dắt đứa con nhỏ, hoặc giống như một người sáng dẫn một người mù. Những người yêu mến Chúa Thánh Thần sẽ thấy việc cầu nguyện đầy hoan lạc đến nỗi họ không thấy có đủ giờ để cầu nguyện”. Thánh Augustinô dùng cách so sánh: “Linh hồn có vai trò đối với thân xác con người thế nào thì Thánh Thần cũng có vai trò như vậy đối với Giáo Hội – Nhiệm Thể Chúa Kitô”.
Chúa Thánh Thần tác động rạch ròi và nghiêm túc, Thánh Maria Faustina Kowalska cho biết: “Chúa Thánh Thần không nói với linh hồn nào chia trí và lắm lời. Chúa Thánh Thần nói qua những soi động lặng lẽ của người với linh hồn tịnh tâm, linh hồn biết giữ thinh lặng”. Chúng ta rất cần Ngài, thế nên phải cố gắng theo ý Ngài.
Trong cuộc sống, ai cũng cần có người bảo vệ, che chở, nâng đỡ, hướng dẫn, chỉ bảo,… Ngày nay, muốn bảo đảm phần nào cho cuộc sống, người ta mua nhiều loại bảo hiểm: Bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sinh mạng, bảo hiểm giao thông, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tài chính,… Cuộc sống đời thường còn lo như vậy huống chi cuộc sống tâm linh. Nghĩa là cuộc sống tâm linh của chúng ta còn cần hơn, và rất cần được bảo hiểm đặc biệt. Đó là “mua” bảo hiểm linh hồn qua Đấng Bảo Trợ – tức là nhờ Thần Khí Thiên Chúa.
Nhưng đối với đời thường, các loại bảo hiểm chỉ là cách bảo hiểm thế gian, là dạng “khoán”, theo kiểu “khoán trắng”, còn bảo hiểm tâm linh không thể “khoán” theo kiểu như vậy, mà luôn phải cố gắng.
Theo Kinh Thánh, sách ngôn sứ Isaia cho biết rằng Thần Khí Thiên Chúa là “thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa” (Is 11:2). Và có điều thú vị này: “Lòng kính sợ Đức Chúa làm cho Người hứng thú, Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói, nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo trong xứ sở” (Is 11:3-4a). Xã hội luôn cần công lý như vậy, nhất là đối với xã hội Việt Nam ngày nay.
Qua lời ngôn sứ Isaia, có 6 ơn Chúa Thánh Thần được liệt kê. Nhưng người Công giáo vẫn thường nghe nói có 7 ơn Chúa Thánh Thần. Thế là thế nào? Chúng ta biết rằng số 7 là con số hoàn hảo theo Kinh Thánh, Giáo Hội thêm một ơn nữa để cho đủ con số 7, bản dịch Hy Lạp cũng như bản dịch Latin đều thêm một Thần Khí nữa là Thần Khí hiếu nghĩa (đạo đức). Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần không chỉ tác động “hạn chế” trong 6 hoặc 7 ơn đó. Ngài là Ngôi Ba Thiên Chúa, thế nên Ngài tác động và hiện thân trong mọi điều tốt lành – vì Thiên Chúa là Đấng thiện hảo, chỉ có điều thiện mà thôi.
Chúa Giêsu về trời nhưng chúng ta không cô đơn hoặc bất lợi, mà chúng ta còn được hưởng lợi ích nhiều hơn nữa, bởi vì Chúa Thánh Thần đến tiếp tục hành động để an ủi, giúp đỡ và canh tân thế gian. Sách Công vụ cho biết: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một” (Cv 2:1-3). Gió và Lửa, đó chính là Chúa Thánh Thần. Sau khi được tràn đầy ơn Thánh Thần, mọi người bắt đầu nói các thứ tiếng lạ, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho. Hoạt động của Chúa Thánh Thần vô cùng kỳ diệu, mầu nhiệm!
Không thể tả hết tác động của Chúa Thánh Thần. Một trong các ơn mà ai cũng cần có là Ơn Thông Minh. Nhờ trí thông minh mà có tài khéo léo, linh động, nhờ đó có thể xoay xở những lúc gặp khó khăn trong cuộc sống, đặc biệt là những người hoạt động trong lĩnh vực sáng tạo (sáng tác văn, thơ, nhạc, họa, điêu khắc, thiết kế,…). Họ rất cần Đấng Sáng Tạo soi sáng và hướng dẫn chi tiết để có những ý tưởng mới lạ và độc đáo, sinh lợi cho nhân loại.
Sau khi các tông đồ nhận lãnh Chúa Thánh Thần, tại Giêrusalem có những người Do-thái sùng đạo kéo đến vì thấy “sự lạ”. Họ rất kinh ngạc vì ai cũng nghe thấy các tông đồ nói chính ngôn ngữ bản xứ của họ. Thế nên họ sửng sốt và thán phục lắm. Đúng là trên cả tuyệt vời. Mỗi người nói tiếng bản xứ của mình, thế nhưng ai nghe cũng hiểu. Rồi họ vui mừng bảo nhau: “Vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!” (Cv 2:11). Tuy nhiên, cũng có những người không hiểu ất giáp gì nên buông lời chế nhạo: “Mấy ông này xỉn quá rồi!” (Cv 2:13). Chín người, mười ý, chẳng ai có thể làm vừa lòng hết mọi người. Đúng là kẻ dốt thì lại thích khoe mẽ, chảnh chọe!
Như Chúa Giêsu đã nói, Ngài về trời nhưng không bỏ chúng ta mồ côi, vì Ngài lại trao ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta, và đó chính là thời đại của Chúa Thánh Thần. Ngôi Ba Thiên Chúa không ngừng hoạt động trong mọi người từ khi được lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy và Ngài bảo trợ chúng ta suốt đời này. Mặc dù chúng ta thường lãng quên Ngài, nhưng Ngài lại không bao giờ quên chúng ta và vẫn tác động trong chúng ta suốt đêm ngày. Vì thế, chúng ta cần noi gương Thánh Vịnh gia mà tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi!” (Tv 104:1a). Và không quên thân thưa: “Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!” (Tv 104:1). Cầu xin Ngài bỏ qua cho chúng ta!
Chắc chắn ai cũng biết rằng nếu không có Chúa, chúng ta chỉ có nước “bó tay” và cuộc sống mau chóng bị “trục trặc” liền. Có một thứ đơn giản nhất nhưng lại quan trọng nhất – đó là KHÔNG KHÍ. Một ơn tuyệt vời như vậy mà hầu như chúng ta không hề biết tạ ơn. Thật vậy, Thánh Vịnh gia đã minh định: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi. Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này” (Tv 104:29-30). Sinh khí là sinh lực, là sự sống, tức là Chúa Thánh Thần đang hoạt động trong mỗi chúng ta liên tục, suốt ngày suốt đêm. Chỉ ngộp thở một thoáng thôi, con người phải được cấp cứu và phải được hỗ trợ thở bằng bình khí ôxy ngay lập tức.
Bởi vậy, hãy nhận biết mà tạ ơn Chúa và xưng tụng Ngài: “Vinh hiển Chúa, nguyện muôn năm tồn tại, công trình Chúa làm Chúa được hân hoan” (Tv 104:31). Đồng thời cũng hãy tự nhủ như lời thề hứa: “Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Người vui thoả, đối với tôi, niềm vui là chính Chúa” (Tv 104:34). Đối với nhân loại, như thế là người “biết điều”. Và chắc chắn Thiên Chúa cũng chẳng quên đâu!
Với cách nói rõ ràng, Thánh Phaolô chỉ ra những gì thuận hoặc nghịch với Chúa Thánh Thần: “Những ai bị tính xác thịt chi phối thì không thể vừa lòng Thiên Chúa. Nhưng anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em. Ai không có Thần Khí của Đức Kitô, thì không thuộc về Đức Kitô” (Rm 8:8-9). Cách phân định rất rạch ròi, rất chính xác. Rồi Thánh Phaolô lại đưa ra phản đề: “Nhưng nếu Đức Kitô ở trong anh em, thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em ĐƯỢC SỐNG, vì anh em đã ĐƯỢC TRỞ NÊN CÔNG CHÍNH” (Rm 8:10). Ôi, thật là tuyệt vời biết bao! Bởi vì mặc dù thân xác chúng ta có phải chết vì trót lỡ phạm tội thì Chúa Thánh Thần lại làm cho sống. Ơn Tái Sinh ấy vô cùng cao cả, thật đáng để chúng ta tạ ơn!
Và rồi Thánh Phaolô còn cho biết thêm: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8:11). Những “cái nếu” như thế thật là diễm phúc cho chúng ta – những tội nhân yếu hèn.
Trước mặt Thiên Chúa, bất cứ ai cũng là “con nợ” của Ngài, đặc biệt là đối với Chúa Thánh Thần. Thế nhưng món nợ đó không phải mang nợ đối với tính xác thịt, để rồi sống theo tính xác thịt: “Nếu sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống” (Rm 8:13). Lại một “cái nếu” rất thú vị nữa.
Các tín nhân được trở nên con cái của Thiên Chúa là nhờ Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn. Đó là “món nợ lớn” của mỗi chúng ta. Cũng chính nhờ Thần Khí mà chúng ta được trở nên nghĩa tử, nhờ đó mà chúng ta được vinh dự kêu lên: “Áp-ba! Cha ơi!” (Rm 8:15). Là phàm nhân cát bụi, là thụ tạo, thế mà lại được phép gọi Thiên Chúa là Cha. Quá kỳ diệu! Không chỉ vậy, Chúa Thánh Thần còn “chứng thực cho thần trí chúng ta rằng CHÚNG TA LÀ CON CÁI THIÊN CHÚA, được thừa tự và đồng thừa kế với Đức Kitô” (Rm 8:16-17a). Chúng ta không dám mơ vì bất xứng, nhưng Thiên Chúa lại ban cho quyền đó. Tại sao vậy? Thánh Phaolô đưa ra lý do chính đáng: “Một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người” (Rm 8:17b). Nghe chừng đơn giản, nhưng đó cũng chính là điều-kiện-ắt-có-và-đủ để chúng ta có thể dám nhận mình là Kitô hữu, đặc biệt là tín nhân Công giáo Rôma.
Trước khi Chúa Giêsu về trời, nơi Ngài đã xuất phát, Ngài đã căn dặn các đệ tử: “Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì thì chính Thầy sẽ làm điều đó. Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14:14-16). Cùng với Thánh Thể, đó cũng là một bảo chứng cho lời Ngài đã hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Cũng đừng quên rằng khi muốn gặp Đức Kitô thì hãy đọc Kinh Thánh – Lời Chúa, Ngài sẽ trò chuyện với chúng ta qua tác động của Chúa Thánh Thần.
Thánh Thể và Lời Chúa không thể tách rời. Đức Giêsu đã xác quyết: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” (Ga 14:23-24). Ngài đưa ra một hệ lụy với mức nối kết chặt chẽ quá. Chúng ta nghe nhiều, biết nhiều, và kinh nghiệm cũng nhiều về “chữ” YÊU, điều mà Chúa Giêsu nhắc nhở rất nhiều lần, nhưng có lẽ hầu như chúng ta nghe và biết mà lại cảm thấy bình thường. Thực sự mấy ai sống đúng nghĩa chữ YÊU của Chúa Giêsu? Liệu có phải là chúng ta đang KHÔNG CẦN sự tác động của Chúa Thánh Thần? Hay là Chúa Thánh Thần ĐÃ tác động mà chúng ta KHÔNG MUỐN vâng lời? Dù là ai và ở cương vị nào thì đó cũng là điều đáng quan ngại lắm, bởi vì con người rất dễ ảo tưởng và mạo nhận!
Quả thật, Chúa Giêsu đã xác định: “Các điều đó, Thầy ĐÃ nói với anh em, đang khi còn ở với anh em” (Ga 14:25a). Thầy Giêsu nói nhiều lắm rồi, nói mãi mà chúng ta vẫn chưa thấy “ngứa” tai. Ngài đã biết, biết lắm, biết rõ, Ngài cũng rất thấu hiểu và rất cảm thông, thế nên Ngài lại phải tiếp tục hứa: “Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ DẠY anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em NHỚ LẠI mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14:25b-26). Ôi, Chúa Thánh Thần thật tuyệt vời, vì Ngài nhắc chúng ta nhớ những gì Chúa Giêsu đã giáo huấn.
Thế thì thật may mắn và thật hạnh phúc cho phàm nhân khốn nạn chúng ta. Vấn đề còn lại là chúng ta có CAN ĐẢM vâng lời mà làm theo Ý Ngài hay không, tức là chúng ta có chấp nhận cách tác động của Chúa Thánh Thần hay không. Rất đơn giản nhưng cũng rất phức tạp – thậm chí là nhiêu khê. Điều cần lưu ý là đừng bao giờ làm theo ý mình hoặc có ý vinh danh mình, mà hãy noi gương Đức Mẹ “xin vâng” và nhất quyết vinh danh một mình Thiên Chúa mà thôi. Phục vụ là điều cần thiết, và cũng là điều Chúa Giêsu đã dạy, đã làm gương, và đó cũng là mệnh lệnh – nghĩa là không thể muốn được phục vụ hoặc không muốn phục vụ người khác.
Trong âm nhạc chỉ có 7 nốt nhưng chúng có thể kết hợp để biến hóa thiên hình vạn trạng, đủ dạng và đủ loại, tạo cảm hứng không bao giờ cạn kiệt hoặc tận cùng. Đối với âm thể, nốt cảm âm là nốt quan trọng so với các nốt khác. Trong 7 ơn Chúa Thánh Thần, ví như 7 nốt trong giai điệu cuộc đời của chúng ta, tất nhiên ơn nào cũng quan trọng trong việc kết hiệp với Chúa Thánh Thần, nhưng có thể có một ơn nào đó quan trọng hơn tùy mỗi người – cung cao hay thấp hoặc dài hay ngắn cũng được, nhưng cung đời của chúng ta phải hòa âm với cung của Chúa Thánh Thần để vào giai kết trọn tuyệt vời nhất. Thánh Basilliô cho biết: “Nhờ hiệp thông với Thánh Thần, chúng ta trở nên người của Thánh Thần, được trở lại Địa Đàng, được dẫn vào Nước Trời và tình nghĩa tử, được ban cho lòng tin tưởng để gọi Thiên Chúa là Cha, để thông phần vào ân sủng của Đức Kitô, để được gọi là con cái sự sáng và dự phần vào vinh quang đời đời”.
Lạy Chúa Thánh Thần – Ngôi Ba Thiên Chúa, chúng con chân thành xin lỗi Ngài vì chúng con hay lãng quên Ngài, nhưng Ngài vẫn không ngừng tác động nơi chúng con. Xin Ngài thương tha thứ cho chúng con về thói xấu “sống chảnh”, hợm hĩnh và ích kỷ. Cúi xin Ngài luôn ngự trị trong linh hồn chúng con, biến chúng con thành khí cụ canh tân thế gian theo Thánh Ý Chúa Cha. Xin Thần Khí Chúa canh tân Nước Việt và thế giới. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Khi còn bé, hầu hết các trẻ em chúng ta say mê những câu chuyện được trích dẫn trong sách ‘Sấm HiệnXuống ABC488
Khi còn bé, hầu hết các trẻ em chúng ta say mê những câu chuyện được trích dẫn trong sách ‘Sấm Truyền Cũ’ hay còn gọi là các sách ‘Cựu Ước’. Các tình tiết của câu chuyện trở nên sống động hơn bởi tài kể truyện của các dì phước và mấy ông bà quản giáo. Họ là những người tràn đầy kinh nghiệm trong việc dậy giáo lý bằng những câu chuyện như thế này. Một trong những truyện tích mà tôi còn nhớ đó là cuộc chiến giữa cậu bé Đa-vít của Ít-ra-en và anh chàng khổng lồ Go-li-át bên Phi-lip-tinh.
Câu chuyện đó được tóm tắt như sau:
Vào thời đó, dân Phi-lip-tinh và dân Ít-ra-en thường xuyên xẩy ra các cuộc giao chiến. Trong một trận chiến kia, quân Phi-lip-tinh cử đấu thủ tên là Go-li-át bước ra gây chiến với quân lính Ít-ra-en. Người khổng lồ này cao khoảng 3 thước, mình mặc áo giáp và trang bị vũ khí của một vị dũng tướng. Với vẻ uy nghi bộc lộ một sức mạnh phi thường, Go-li-át ra đứng trước hàng quân ròng rã 40 ngày, liên tục thách đố quân lính Ít-ra-en bằng những lời khiêu khích như: “Hãy chọn lấy một người và nó hãy xuống đây với ta. Nếu nó đủ mạnh để chiến đấu với ta và hạ được ta, thì chúng tao sẽ làm nô lệ chúng bay. Còn nếu ta mạnh hơn và hạ được nó, thì chúng bay sẽ làm nô lệ chúng tao và sẽ hầu hạ chúng tao.” Vua Sa-un và toàn thể quân lính Ít-ra-en nhìn thấy tướng uy nghi của Go-li-át thì đã khiếp sợ, và khi nghe tiếng áp đảo của ông ta lại càng kinh khiếp hơn; thế là không một ai trong quân đội của Ít-ra-en dám ra đương đầu với Go-li-át.
Đến một ngày kia, có chàng thiếu niên tên là Đa-vít, làm nghề chăn cừu, chưa đủ tuổi gia nhập quân ngũ. Cậu có biệt tài bắn ná, trăm phát trăm trúng. Vào một hôm, cha cậu, ông Gie-sê sai cậu mang thực phẩm ra thăm ba người anh của cậu đang đóng quân tại cuộc giao chiến đó. Cậu đến trại binh vào lúc quân đội hai bên đang dàn trận tuyến đối đầu nhau. Khi nghe những lời thách thức và khinh thường quân đội Ít-ra-en của Go-li-át, Đa-vít đã vào xin vua Sa-un cử mình ra để nghinh chiến với đấu thủ. Thoạt đầu, khi nhìn thấy cậu, nhà vua do dự nhưng sau cùng vua Sa-un đã bị thuyết phục bởi các lý lẽ và chứng từ mà cậu đưa ra và cử cậu ra trận tuyến. Vũ khí của cậu chỉ là cây gậy, dây phóng đá và mấy hòn đá bỏ vào túi.
Khi nhìn thấy cậu bé, chỉ đứng tới ngang hông của mình nên Go-li-át coi thường và bằng giọng khinh bỉ đã nói với Đa-vít rằng: “Tao là chó hay sao mà mầy cầm gậy đến với tao? Đến đây, tao sẽ đem thịt mày làm mồi cho chim trời và dã thú.” Đa-vít đáp trả tên Phi-lip-tinh rằng: “Mày mang gươm, mang giáo, cầm lao mà đến với tao. Còn tao, tao đến với mày bằng sức mạnh của Thiên Chúa mà mày thách thức. Ngay hôm nay, Thiên Chúa sẽ nộp mày vào tay tao…” Nói xong, Đa-vít thọc tay vào bị, rút ra một hòn đá, rồi dùng dây phóng mà ném trúng vào trán tên Phi-lip-tinh. Hòn đá cắm sâu vào trán, khiến nó ngã sấp mặt xuống đất; cậu chạy lại và dùng gươm đâm và chặt đầu Go-li-át. Thế là Đa-vít thắng Go-li-át và quân Phi-lip-tinh thua trận và tháo chạy không còn manh giáp nào.
Câu chuyện về cuộc giao chiến giữa Đa-vít và Go-li-át nói trên giúp cho chúng ta nhận ra bài học, đó là sức mạnh và uy quyền của Thiên Chúa luôn đánh bại sức mạnh của quyền lực chống lại Ngài. Go-li-át cậy vào sức mạnh của bản thân nên đã bị bại; còn Da-vít đã dùng sức mạnh nội tâm, một nguồn sức mạnh của Thiên Chúa, chiến đấu và chiến thắng cho Thiên Chúa nên tuy nhỏ con nhưng cậu đã đánh bại người không lồ.
Đó là những gì đã xẩy ra cho các môn đệ trước và sau ngày Lễ Ngũ Tuần.
Trong hành trình theo Chúa, các môn đệ đã tìm kiếm sức mạnh và quyền uy của thế gian. Và cho đến lúc trước khi Chúa Phục Sinh được cất nhắc về trời, trong hàng ngũ các môn đệ vẫn còn có ông đã hỏi Chúa rằng: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?” Tham vọng quyền bính, óc quyền lực và dùng sức mạnh để chinh phục và chiến thắng vẫn còn trong tâm não và quan niệm sống của các môn đệ. Các ông vẫn còn mê quyền uy và sức mạnh để chiến thắng địch thù.
Vì thế, những gì Chúa ban, những điều Người truyền dậy vẫn như ‘nước đổ lá khoai’. Trong các lần hiện ra, Người đều thổi hơi, thông truyền sức mạnh và Thần Khí cho các môn đệ thế mà các ông vẫn ù lì, không cất bước để ra đi thực hiện lịnh truyền vì lo sợ!
Thế mà, những gì xẩy ra cho họ vào dịp Lễ Ngũ Tuần đã gây kinh ngạc cho mọi người. Vẫn biết rằng Thần Khí và sức mạnh của Thiên Chúa không chỉ đến một lần. Thần Khí đã được trao ban ngay khi Đức Giê-su bị treo trên Thánh Giá. Người đã thực hiện cuộc trao ban Thần Khí qua việc trút hơi thở từ thân xác sống động của Người xuống trên những ai đứng dưới chân Thập Giá mà đại diện của toàn thể nhân loại là Mẹ Người và những ai mà Chúa yêu thương.
Trong ngày lễ Ngũ Tuần hôm nay, các ông đã để cho quyền lưc của Thiên Chúa qua sức mạnh của Thần Khí thúc đẩy. Đó là sức mạnh nội tâm, luồng gió tái sinh thổi tung mọi thứ rào cản, kéo các ông lại gần và thông cảm cũng như hiểu biết nhau hơn. Cho dù những người qui tụ tại Giê-ru-sa-lem ngày hôm đó vẫn còn nói các thứ tiếng khác nhau, nhưng trên hết mọi sự, ngôn ngữ của con tim, tiếng nói cũa cõi lòng, sức mạnh của lòng mến đã bao trùm và đẩy các ông và cử tọa, là những người nghe các môn đệ loan báo Tin Mừng Phục Sinh, gần nhau hơn.
Thần Khí Thiên Chúa đã hiện diện nhưng không ép buộc con người phải đón nhận. Thần Khí như mầm hạt giống, không phát triển trong một giây lát, nhưng lớn lên từ từ cho đến lúc bung ra thì không còn chỉ là những nụ hoa mà trở thành những bông hoa rực rỡ muôn mầu trong vườn hoa muôn mầu muôn sắc của Thiên Chúa. Như vậy, người tín hữu có thể được gọi là những con người tràn đầy Chúa Thánh Thần, là những con người đã để cho Thần Khí bao phủ, chỉ đạo và hướng dẫn.
Vậy Thần Khí ở đâu?
Nhìn lại lịch sử cứu độ chúng ta nhận biết rằng Thánh Thần đã hiện diện và không ai có thể tách Ngài ra khỏi sự sống của Chúa Cha và Chúa Con được. Chúa Thánh Thần là sự sống của Thiên Chúa, Đấng không ngừng hoạt động trong dòng lịch sử nhân loại, trong lòng Hội Thánh và trong cuộc đời của mỗi người chúng ta. Thần Khí Thiên Chúa không chỉ là quà tặng của Thiên Chúa mà chính là sự sống của chúng ta.
Trong trình thuật tạo dựng của sách Sáng Thế Ký, tác giả đã truyền tải cho chúng ta một kinh nghiệm tôn giáo thật sâu sắc về sự hiện diện của Thần Khí Thiên Chúa. Bằng hình ảnh của ông thợ gốm, tác giả đã mô tả việc Thiên Chúa tạo dựng nên con người qua việc nặn, đắp tượng. Tượng đất, tương gỗ muôn đời vẫn mãi là pho tượng bất động nếu Thiên Chúa không thổi ‘Thần Khí’ vào lỗ mũi. Như vậy sự sống con người, ngay từ ngày đầu, đã thuộc về Thiên Chúa.
Trong hành trình tiến về ‘Đất Hứa’, Thánh Thần đã hiện diện và hoạt động không ngừng trong tiến trình hình thành để trở thành dân riêng cư ngụ nơi mảnh đất mà Chúa đã hứa; như lời của ngôn sứ I-sa-i-a đã quả quyết “Thần Khí Đức Chúa đã đưa họ về chốn nghỉ ngơi” (Is 63,14).
Thần Khí Thiên Chúa hiện diện với Đức Giêsu. Người làm mọi việc với Chúa Thánh Thần: Người đầy Thánh Thần, đã bỏ bờ sông Gio-đan và được Thần khí đưa vào sa mạc (Lc 4:1). Người bắt đầu sứ vụ với Chúa Thánh Thần (Lc 4:14 và 18). Với Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu đã chọn nhóm 12 (Cvtđ 1:2); và với Thần Khí, Người đã hiến mình làm của lễ hy sinh không tì vết mà dâng lên Cha. (Dt 9:14). Ngay trong giây phút từ gĩa cõi trần, Người gục đầu xuống mà trao ban Thần Khí (Gioan 19:30). Duới chân Thập Giá có Mẹ Người và toàn thể những ai mà Chúa yêu thương, mà ở đây hình ảnh biểu tương được dùng là Thánh Gioan. Thật ra, ai trong chúng ta lại không đuợc Chúa yêu thương. Nói khác đi, ngay trong giây phút Đức Giêsu đi về cùng Cha, Người đã trao ban Thần Khí cho Hội Thánh, đó cũng là chủ đích mà Thánh Luca đã ghi lại trong sách Tông đồ công vụ.
Nhìn lại lịch sử của Hội Thánh, cho dù ai có khó tính đến đâu, thì người đó cũng không thể phủ nhận được hoạt đông của Thần Khí Thiên Chúa vẫn hiện diện trong lòng Hội Thánh. Nhất là qua những thời điểm đen tối nhất, Hội Thánh lại nhận thấy quyền năng của Thần Khí hoạt động hữu hiệu hơn cả.
Sau cùng, đối với các tín hữu, chúng ta mang trong mình sức mạnh của Thiên Chúa. Chính sức mạnh của Thần Khí giúp chúng ta hy vọng rằng: dù đời sống con người có ra sao; ngay cả lúc yếu đuối, tội lỗi thì Thần Khí của Thiên Chúa sẽ ban sức mạnh cho sự yếu đuối, ban ơn bình an khi tha thứ tội lỗi cho chúng ta như Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”
Như vậy: Bình an, lịnh truyền ra đi, quyền năng và sức mạnh của Chúa Thánh Linh để tha thứ là những gì Chúa muốn cho con người thực hiện trong cuộc sống. Nói khác đi, chỉ có sức sống và sự đổi mới của Thần Khí mới làm cho con người dễ dàng thông cảm, hiểu biết, đón nhận và tha thứ cho nhau một cách chân thật hơn.
Sức mạnh của Thần Khí là thế: truyền ban sự sống, ban ơn tái tạo. Thần khí Thiên Chúa luôn ở với chúng ta, dù nhiều lúc chúng ta không ý thức về sự hiện diện đó. Nhưng Thần Khí của Thiên Chúa vẫn âm thầm hoạt động, cả những lúc chúng ta không ngờ. Chỉ có một việc mà chúng ta cần làm là để cho hơi thở của Thần khí biến đổi chúng ta, làm mới lại tất cả. Ngài đã, đang và mãi họat động. Phần chúng ta hãy cảm nhận bằng lòng tin về sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Qua hoạt động của Ngài, chúng ta đuợc diễm phúc gia nhập vào hàng ngũ của những người đi theo Ðức Giêsu và được chọn để làm chứng cho cuộc đời và sự Phục Sinh của Người. Alleluia, Alleluia!
Trong tất cả mọi sứ mạng của Giáo Hội và nhất là trong đời sống đức tin, Chúa Thánh Thần đóng HiệnXuống ABC489
Trong tất cả mọi sứ mạng của Giáo Hội và nhất là trong đời sống đức tin, Chúa Thánh Thần đóng một vai trò hết sức quan trọng, vì thế cho nên Thánh Phaolô đã nói: “Không ai có thể kêu Đức Giêsu là Chúa nếu không là trong Chúa Thánh Thần” (1 Cr 12:3b). Sách Giáo Lý Công Giáo số 683 cũng khẳng định rằng: “Để tiếp xúc với Đức Kitô, trước hết phải được Chúa Thánh Thần đánh động. Chính Ngài đến đón chúng ta và khơi dậy niềm tin trong chúng ta… Sự sống có nguồn mạch nơi Chúa Cha và được ban tặng cho chúng ta trong Chúa Con, đã được thông ban cho chúng ta bởi Chúa Thánh Thần một cách thâm sâu…”
Còn nữa, Tin Mừng của Thánh Gioan còn cho chúng ta biết, Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa, là nguồn gốc của sức mạnh, sự khôn ngoan thông thái, là nguồn sống, là Đấng Bảo Trợ, và là Đấng Cố Vấn Kỳ Diệu (Ga 14:26).
Vì vai trò của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội và trong đời sống đức tin của Giáo Hội quan trọng như vậy, cho nên trước khi cầu nguyện, chia sẻ Lời Chúa, học hỏi Kinh Thánh, tĩnh tâm, hội thảo, lần Chuỗi Mân Côi … các tín hữu luôn luôn bắt đầu bằng những bài hát, hoặc đọc kinh cầu xin ơn trợ lực của Chúa Thánh Thần.
Bạn thân mến, tin vào sự hiện diện, nhận thức được vai trò quan trọng của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội và trong đời sống đức tin của chúng ta là một điều tốt! Thế nhưng tôi nghĩ chỉ có tin như vậy thôi thì chưa ăn thua gì cả! Chúng mình phải làm sao đó, để mối quan hệ giữa chúng mình với Chúa Thánh Thần càng ngày mật thiết hơn, thì đời sống đức tin của chúng mình mới phong phú và triển nở hơn.
Làm thế nào để cho mối quan hệ giữa tôi và Chúa Thánh Thần mỗi ngày thêm mật thiết đây? Xin hãy SIÊNG NĂNG CẦU NGUYỆN VỚI NGÀI, vì Đức Chúa Thánh Thần là nguồn mạch của bác ái, vui vẻ, bình an, nhẫn nhục, kiên tâm, tốt lành, nhân từ, hiền hậu, trung tín, khiêm tốn, tiết dục, [và] khiết tịnh (GLCG # 1832).
Nói cách khác, nếu bạn và tôi muốn kết hiệp mật thiết với Chúa Thánh Thần và ước mong Ngài ngự trị trong tâm hồn của chúng mình một cách dồi dào và phong phú, thì chúng mình phải luôn luôn nhớ đến, và cầu nguyện với Chúa Thánh Thần, thành tâm xin Ngài ban cho chúng mình: ƠN SỨC MẠNH – ƠN THÔNG MINH – ƠN KHÔN NGOAN – ƠN HIỂU BIẾT – ƠN LO LIỆU – ƠN ĐẠO ĐỨC & ƠN KÍNH SỢ CHÚA. Ví dụ:
• Khi thức giấc, bạn hãy xin với Chúa Thánh Thần ban cho bạn ƠN THÔNG MINH & ƠN BIẾT LO LIỆU để bạn có thể sống hòa nhã, vui vẻ, kiên nhẫn với những người mà bạn sẽ gặp gỡ, với những người mà bạn sẽ làm việc chung, và với những khách hàng khó tính, hay gây khó khăn cho bạn.
• Khi phân vân, bối rối, khi bạn không biết quyết định ra sao, hay không biết phải hành xử như thế nào cho đúng, cho phải đạo, bạn hãy thầm thĩ thưa với Chúa Thánh Thần: "Xin Chúa Thánh Thần ban cho con ƠN KHÔN NGOAN & ƠN HIỂU BIẾT để con có những quyết định đúng và đúng như ý Chúa muốn."
• Khi đau khổ, lúc buồn sầu, khi bị thất bại, khi người thân qua đời, khi bệnh tật, khi bị tai nạn… bạn hãy xin Chúa Thánh Thần ban cho ƠN SỨC MẠNH để bạn có thể can đảm chịu đựng, đủ sức vượt qua những thử thách, và không bị mất niềm tin vào Chúa.
• Khi cảm thấy ươn lười, không muốn đi tham dự thánh lễ, khi ngại ngùng vào tòa giải tội...Bạn hãy xin Chúa Thánh Thần ban cho bạn ƠN ĐẠO ĐỨC.
• Trước khi mở iPhone, iPad, laptop, Computer ... Bạn hãy bỏ ra một vài giây cầu xin Chúa Thánh Thần ban cho bạn ƠN KÍNH SỢ ĐỨC CHÚA, nhờ vậy, bạn sẽ không bị cám dỗ xem những hình ảnh, những video clips dâm ô, hay nghe những câu chuyện hoa tình, tục tĩu ...
Ước chi bạn và tôi luôn siêng năng cầu nguyện với Chúa Thánh Thần, cầu nguyện ở mọi nơi, vào mọi lúc. Ngài ở gần với chúng ta lắm, Ngài sẵn sàng nâng đỡ và an ủi chúng mình, chỉ cần bạn và tôi mở miệng ra, thành tâm khấn xin với Ngài, thì Ngài sẽ trợ giúp cho chúng mình ngay lập tức!
Xin Chúa Thánh Thần gìn giữ, chúc lành, ban cho bạn và gia đình của bạn Bảy Ơn Thánh của Ngài, để bạn và những người thân yêu của bạn được sống đẹp lòng Chúa và được an vui hạnh phúc mỗi ngày.
“Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta” (Gr 31,33).
Bài trình thuật về hành động của các Tông đồ mà chúng ta nghe trong ngày Lễ Chúa Thánh Thần HiệnXuống ABC490
Bài trình thuật về hành động của các Tông đồ mà chúng ta nghe trong ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống hôm nay bắt đầu bằng việc “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi” (Cv 2,1) Theo thứ tự thời gian, giống như lễ Vượt qua, Lễ Ngũ tuần trước hết là một lễ của người Do Thái. Nếu cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Chúa Giêsu tương ứng với ngày lễ Vượt Qua của người Do Thái, thì đó là vì Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế được chờ đợi, đã hoàn thành Lễ Vượt Qua này hoàn toàn giải phóng Dân Chúa khỏi ách nô lệ của tội lỗi và sự chết. Chúng ta chỉ có thể hiểu Lễ Vượt Qua mới của Chúa Giêsu khi coi Lễ Vượt Qua trước đây của người Do Thái là dấu chỉ báo trước của Lễ Vượt Qua mới đó. Tương tự như vậy đối với Lễ Hiện Xuống, việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên cộng đoàn đầu tiên trong ngày lễ trọng Ngũ tuần này của người Do Thái không phải là không có ý nghĩa. Ý nghĩa Kitô giáo của ngày lễ này bắt nguồn từ ý nghĩa mà người Do Thái gán cho ngày Lễ Ngũ Tuần.
Người Do Thái tổ chức lễ Ngũ Tuần, trùng vào ngày thứ năm mươi sau khi Chúa Kitô Phục sinh, ý nghĩa đầu tiên của lễ này là lễ dâng hoa quả đầu mùa cho Thiên Chúa. Các loại trái cây đầu tiên của ruộng đất được mang đến Đền thờ (x. Xh 23,16; Lv 23, 15-20). Nhưng nhanh chóng, một ý nghĩa khác phát sinh trong phụng vụ Do Thái, liên quan đến cuộc xuất hành. Theo tính toán của các giáo sĩ Do Thái, lề luật được ban cho Môsê tại Sinai năm mươi ngày sau Lễ Vượt Qua đầu tiên. Từ một ngày lễ liên kết với chu kỳ của thiên nhiên, Lễ Ngũ Tuần đã được biến đổi thành một lễ liên kết với lịch sử cứu độ. Chính ý nghĩa này chắc chắn đã hướng dẫn Thánh Luca viết trình thuật về Lễ Hiện Xuống trong Sách Công Vụ Các Tông Đồ vì nó mang những nét đặc trưng về sự hiển hiện của Thiên Chúa tại Sinai: một cơn gió khủng khiếp và lửa: “bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một” (Cv 2, 2-3).
Hơn nữa, chính nhờ sự kết nối này mà các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên đã tìm kiếm ý nghĩa sâu xa của ân huệ Chúa Thánh Thần. Trong khảo luận về Chúa Thánh Thần, Thánh Augustinô viết: “Ai lại không bị sự trùng hợp ngẫu nhiên này và đồng thời sự khác biệt này làm cho kinh ngạc? Năm mươi ngày phân cách việc cử hành Lễ Vượt Qua với ngày Môsê nhận lề luật do ngón tay Thiên Chúa viết trên các tấm bàn đá; và cũng vậy, năm mươi ngày sau cái chết và sự sống lại của Đấng đã bị dẫn đi thiêu sinh, giống như một con chiên, thì ngón tay của Thiên Chúa, tức là Chúa Thánh Thần, đã làm tràn đầy các tín hữu đang họp lại với nhau bằng chính Ngài. Đột nhiên, những lời tiên tri của Giêrêmia và Êdêkiel về giao ước mới được ứng nghiệm: “Đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Israel sau những ngày đó - sấm ngôn của Chúa. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta” (Gr 31,33).
Với giao ước mới, từ một luật bên ngoài và thành văn, bao gồm một tập hợp các nghĩa vụ đạo đức và phụng tự, chúng ta chuyển sang một luật nội tâm, sự hiện diện của Thiên Chúa trong cõi lòng con người. Điều mà Êdêkiel đã nhìn thấy trước và nói: “Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt. Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành” (Ed 36,26-27).
Vì vậy, lễ Ngũ Tuần đối với người Kitô hữu là lễ trao ban lề luật chân thật, là chính Chúa Thánh Thần được tuôn đổ trong tâm hồn chúng ta. Theo quan điểm này, chúng ta có thể hiểu Chương VIII của Thư gửi tín hữu Rôma, mà chúng ta đã đọc một đoạn trích, trong đó Phaolô đối lập luật của Thánh Thần vốn ban sự sống với lề luật Môsê vốn không có khả năng cứu thoát. Thật vậy, chỉ có Chúa Thánh Thần vốn được tuôn đổ vào lòng chúng ta nhờ đức tin và phép rửa mới có thể giúp chúng ta đạt được ơn cứu độ mà Chúa Giêsu đã thực hiện. Bất cứ lề luật nào, bất cứ văn bản nào, cùng lắm, cũng chỉ cung cấp cho chúng ta kiến thức về điều thiện và điều ác, nhưng nó không phải là luật thành văn cho phép chúng ta thực hiện điều tốt. Ở đầu chương VIII của Thư gửi tín hữu Rôma, Phaolô nói rõ, đó là “Thật vậy, luật của Thần Khí ban sự sống trong Chúa Kitô Giêsu, đã giải thoát tôi khỏi luật của tội và sự chết” (Rm 8, 2). Trong Thư gửi tín hữu Galát thánh Tông đồ chỉ rõ rằng “Vậy thì Lề Luật đi ngược lại với những lời hứa của Thiên Chúa sao? Không phải thế. Thật vậy, giả như có một luật nào đã được ban cho con người mà lại có khả năng làm cho sống, thì quả là người ta được nên công chính nhờ Lề Luật” (Gl 3,21).
Đó là lý do tại sao luật mới do Chúa Giêsu ban hành, theo nghĩa chặt chẽ, không phải được ban hành trên Núi Các Mối Phúc, mà là luật được khắc sâu trong lòng vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Chắc chắn, chúng ta có thể coi rằng các giới luật của Tin Mừng hoàn hảo hơn và cao hơn các giới luật của Môsê, tuy nhiên, nếu chỉ mình chúng, các giới luật đó sẽ vẫn vô hiệu. Nếu chỉ cần công bố các điều răn mới đã là đủ rồi, thì chúng ta không thể giải thích sự cần thiết cứu độ trong cuộc Khổ nạn của Chúa Kitô cũng như sự cần thiết của sự hiện xuống của Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu chỉ cần chỉ ra cho người ta biết đâu là lề luật tốt lành phải theo, rồi chết một cách thanh thản như một bậc thầy thông thái tốt lành được vây quanh bởi các môn đồ đã đạt đến sự hoàn hảo nhờ sự dạy dỗ của ngài, như vậy là đủ. Nhưng cuộc đời của Chúa Giêsu và của các tông đồ cho chúng ta thấy rằng điều đó là chưa đủ, vì dù họ là những người ngay từ đầu đã lắng nghe và đi theo Chúa Giêsu, nhưng vẫn không thể trung thành với Ngài; và họ vẫn im lặng cho đến khi Chúa Thánh Thần ngự đến.
Do đó, nếu không có ơn Chúa Thánh Thần, thì ngay cả Tin Mừng, ngay cả điều răn mới về tình yêu thương lẫn nhau, cũng sẽ vẫn là một thứ luật xưa cũ, một thứ câu chữ cằn cỗi vô sinh. Vì điều răn mới về tình yêu thương không phải là điều răn hiểu theo câu chữ, điều răn đó là điều mới mẻ bởi vì tình yêu thương đó được tuôn đổ trong lòng chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần, chính Ngài là lề luật mới. Vì vậy, Thánh Gioan viết:
“Anh em thân mến, đây không phải là một điều răn mới tôi viết cho anh em, nhưng là một điều răn cũ mà anh em đã có ngay từ lúc khởi đầu. Điều răn cũ ấy là lời mà anh em đã nghe. Nhưng đó cũng là một điều răn mới tôi viết cho anh em, - điều ấy thật là thế nơi Chúa Giêsu và nơi anh em - bởi vì bóng tối đang qua đi và ánh sáng thật đã tỏ rạng” (1 Ga 2,7-8).
Ân huệ Thánh Thần là cần thiết để đạt được sự sống đã hứa, và mọi diễn ngôn đều là vô hiệu, Thánh Thomas Aquinas khẳng định điều đó trong bản tóm tắt thần học của mình khi ngài nhận xét về lời khẳng định của Phaolô “câu chữ giết chết, chỉ có Thánh Linh mới làm cho sống.” Thánh Thomas nói, “Câu chữ ở đây ám chỉ bất cứ văn bản nào được viết mà vẫn còn ở bên ngoài con người, ngay cả khi đó là văn bản của các giới luật luân lý có trong Tin Mừng. Từ đó Ngài kết luận rằng ngay cả câu chữ của Tin mừng cũng sẽ giết chết, nếu trong con người, ân sủng chữa lành của đức tin không được thêm vào” (Summa Theologica. I-IIae, q. 106 a.2).
Biết được sự khác biệt giữa luật thành văn cũ và luật mới của Thánh Thần không chỉ là một vấn đề lý thuyết của sự hiểu biết ít hay nhiều về đức tin, mà đó còn là một vấn đề thực tiễn dẫn đến những hậu quả cụ thể cho cuộc sống của chúng ta.
Việc bước đi từ giao ước cũ sang giao ước mới không chỉ được thực hiện bằng sự gắn kết trí tuệ hoặc đạo đức đối với các giá trị của Tin Mừng, nhưng căn bản bằng cách đón nhận Chúa Thánh Thần, là Đấng đổi mới tâm hồn chúng ta. Một Kitô hữu không phải là người tin vào câu chữ của Tin mừng, nhưng là người tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Đấng đã đến trong xác phàm và nhờ đó nhận được Thánh Thần khiến mình trở người con. Việc tuân theo các giá trị của Tin mừng chỉ đến sau đó, sau khi đã gắn kết trong đức tin vào mầu nhiệm được mạc khải nơi con người của Chúa Giêsu Kitô. Chính Chúa Thánh Thần được tuôn đổ trong tâm hồn chúng ta mới là Đấng ban sự sống và làm cho cuộc sống của chúng ta phù hợp với các giới luật của Tin Mừng.
Việc bước sang lề luật của Thánh Thần được thực hiện một cách bí tích bởi phép thánh tẩy của chúng ta, nhưng nó phải được thực hiện ngay trong hiện tại và trong tâm hồn nơi cuộc sống của mỗi người chúng ta. Tất cả chúng ta đều được sinh ra với ham muốn xác thịt chống lại tinh thần, tất cả chúng ta được sinh ra với nỗi sợ hãi của kẻ nô lệ đối với một vị Thiên Chúa thẩm phán, tất cả chúng ta được sinh ra với sự tin cậy vào công việc con người hơn là vào đức tin nơi Chúa Kitô, tất cả chúng ta đều được sinh ra dưới lề luật của tội lỗi. Tóm lại, ngay từ khi sinh ra, chúng ta đã là những người xưa cũ, vấn đề là cần phải trở thành những con người mới trong Chúa Kitô, được đổi mới nội tâm bởi Chúa Thánh Thần, Đấng đã kêu lên trong chúng ta “Abba, Cha ơi!” (Gl 4:6). Origen viết: “Đừng nghĩ rằng việc đổi mới cuộc sống được thực hiện một lần duy nhất từ lúc ban đầu là đủ; cần phải đổi mới chính sự đổi mới, liên tục, mỗi ngày.” Mỗi ngày, chúng ta phải khước từ rơi trở lại lề luật xưa cũ.
Thánh Thần của Chúa Kitô, nét đặc thù của giao ước mới, chủ yếu không phải là sự biểu lộ ra bên ngoài của quyền năng làm phép lạ hoặc ban đặc sủng, nhưng là một nguyên lý bên trong của cuộc sống mới. Trên hết, một Lễ Hiện Xuống mới phải đổi mới trái tim của Giáo Hội và của các Kitô hữu bằng cách đón nhận luật mới là Thần Khí của Thiên Chúa. Kitô giáo không công bố một học thuyết, nhưng bày tỏ con người mới được tạo ra theo hình ảnh của Chúa Kitô. Chủ yếu không phải là vấn đề tuân theo các quy tắc bên ngoài, nhưng là việc đón nhận và hiến dâng chính mình cho Thánh Thần, Đấng ngự trong chúng ta trong sự vâng phục của Đức tin. Chỉ có Chúa Thánh Thần là nền tảng, là nguyên lý, là luật mới hướng dẫn cuộc sống của chúng ta.
Lm. Antoine-Marie, OCD - https://www.carmel.asso.fr Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung
Linh mục Archibald Brown là một tông đồ người Mỹ rất nhiệt thành hăng say truyền giáo. Ngài HiệnXuống ABC491
Linh mục Archibald Brown là một tông đồ người Mỹ rất nhiệt thành hăng say truyền giáo. Ngài đã đem nhiều lương dân cố chấp và giáo dân nguội lạnh trở lại đạo, đã hòa giải nhiều gia đình dòng họ tranh chấp nhau. Được hỏi về bí quyết của sự thành công ấy, cha trả lời: “Câu đáp thật đơn giản. Đã 50 năm tôi chắp đôi bàn tay và dòng điện Chúa Thánh Linh đi qua đó không ngừng. Chúng ta hãy mở các pin nội tâm của chúng ta để đón nhận dòng điện của Chúa Thánh Linh”.
Mục sư Charles Haddon Spurgeon (1834-1892), một nhà truyền giáo người Mỹ nổi tiếng khác, thuộc phái Baptist (Trưởng tẩy), cũng từng nói trong một bài giảng: “Nếu không có Thánh Thần, chúng ta nên đóng kín nhà thờ, niêm phong các cửa, đặt một thánh giá đen ở đó và thưa với Chúa: ‘Lạy Chúa, xin hãy thương xót chúng con’. Nếu các giáo sĩ không có Thánh Thần, tốt hơn họ đừng rao giảng Lời Chúa, và giáo dân nên ở nhà mà ngủ. Nếu các giáo dân không có Thánh Thần, thì nên nhớ mình đang bước theo kẻ khác, mình như cây cối không sinh hoa trái được”.
1. Chúc bình an để môn đệ ban ơn hòa giải
Cuộc đời và lời nói của hai nhà truyền giáo nêu trên là một minh chứng cho những gì Đức Giê-su hứa ban và thực hiện sau ngày sống lại. Vào chiều Phục sinh ấy, khi hiện ra Người đã hai lần chúc cho các Tông đồ đang hội họp (có lẽ tại nhà Tiệc ly): “Bình an cho anh em” và giữa hai lần chúc ấy, Người tỏ cho họ thấy dấu đinh nơi tay chân và vết đâm cạnh sườn mình. Lời chúc bình an trước và sau khi nhắc lại cuộc Tử nạn xem ra nằm trong ý hướng đặc biệt của Đức Giê-su. Thật vậy, việc lặp lại lời chúc cho thấy đây không phải là một công thức chào hỏi thông thường. Người muốn nói bình an được chúc ban là thứ bình an tích hợp các dấu vết của cuộc Tử nạn, và như thế vượt quá bình an thường thấy. Nỗi đau khổ biệt ly không thể biến thành một niềm vui chóng qua làm ta quên mất cuộc Khổ nạn. Nó phải trở nên một niềm vui hằng cửu, được chín muồi trong khổ đau; đó là niềm vui của Đức Giê-su cũng như của các môn đệ, thứ niềm vui không ai có thể cướp mất (x. Ga 16,20-22). Niềm vui này là niềm vui của mùa gặt, kết quả từ sức cần lao và gian khổ của cuộc Tử nạn (x. Ga 4,38; 17,13).
Nhìn lại, chúng ta thấy Tin Mừng đã mở ra với mầu nhiệm Vui: Thánh Thần, ngay từ đầu cuộc hiện hữu nhân loại của Đức Giê-su, đã tạo nên hai niềm vui lớn: Ê-li-za-bét, chị họ Đức Ma-ri-a, nhảy mừng vì được Mẹ Đấng Cứu thế viếng thăm; và Ma-ri-a, dưới sự thúc đẩy của Thánh Thần, hát lên niềm vui của mình trong kinh “Hồn tôi ngợi khen Chúa”. Ít lâu sau đó, các thiên thần loan báo cho các mục đồng một cuộc đản sinh gây bao phấn khởi vui mừng cho cả bàn dân thiên hạ. Ba năm Đức Giê-su đi rao giảng cũng là ba năm loan báo cho nhân loại một “Tin Mừng”. Nay thì niềm vui, nỗi mừng ấy đã lên tới tột đỉnh nhờ cuộc Tử nạn-Phục sinh của Đức Giê-su.
Sau khi chúc bình an, Người lập tức “giao sứ mệnh” cùng “ban hành trang” cho các Tông đồ. Sứ mệnh đó là tha tội, hòa giải, nối kết lại con người với Thiên Chúa. Môn đệ đã được hưởng bình an của Thầy, giờ đây họ phải gieo bình an đó qua việc tha tội. Quyền tha và cầm tội ban ở đây cho các Tông đồ và những người kế vị trong Giáo Hội, được diễn tả quá rõ ràng qua chính những lời của Đức Ki-tô, đến nỗi truyền thống Công giáo đã luôn công nhận đó như là lời thiết lập bí tích Cáo giải. Đây là điều đã được công đồng Tren-tô định tín chống lại phái Lu-thê-rô, những kẻ chỉ cho đó là quyền rao giảng sự tha tội cho các tín hữu ăn năn sám hối. Công đồng quả quyết dựa vào câu: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”: Đức Giê-su sai các môn đệ không những với cùng một mục đích như Người là cứu rỗi thế giới nhờ việc rao giảng Chân lý và ơn tha tội, mà còn với một quyền lực như Người.
2. Ban Thánh Thần để môn đệ thông sự sống mới
Hành trang đó là ánh sáng và sức mạnh của Thánh Thần. Giờ đây, họ được Thánh Thần tái tạo để thi hành sứ mệnh của họ. Việc trao ban Thần Khí ở đây không nói lên chuyện tái sinh các môn đệ trong Nước Trời và trong sự sống siêu nhiên (x. Ga 3,3-8) cho bằng nói lên sứ mệnh được trao cho họ là thôi thúc kẻ khác đến cùng chính sự sống ấy để được tái sinh trong Thánh Thần sau khi đã hoán cải.
Như Thiên Chúa đã thổi hơi sự sống cho con người đầu tiên (x. St 2,7; Kn 15,11), Đức Giê-su cũng thổi Thánh Thần vào trong các môn đệ. Cử chỉ của Người nối tiếp một trong những chủ đề được ưa chuộng nhất trong Thánh Kinh: Thánh Thần, hơi thở Thiên Chúa ban, luồng gió Thiên Chúa thổi (ruah trong tiếng Hip-ri và pneuma trong tiếng Hy-lạp, mà ta vẫn dịch là “Thần Khí”, đều có nghĩa nguyên thủy là gió, hơi thở). Người ta không thấy gió, chẳng biết nó đi đâu và ngừng lại chỗ nào. Chỉ thấy gió rít gào và gầm thét. Gió bẽ gãy và bứt tung. Gió chở mây và mang bụi. Gió tàn phá và cho đất được màu mỡ. Đây là chủ tể của sự sống, khi thì tưới mát, lúc lại đốt thiêu. Nghĩa là ta chỉ nhận ra gió qua muôn vàn hiệu quả. Hơi thở của Thiên Chúa cũng vậy. Người len lỏi khắp nơi. Người bẻ gãy, bứt tung, tàn phá những gì trong chúng ta đang chống lại tình yêu, dĩ nhiên với điều kiện chúng ta chìu theo hoạt động của Người; Người cũng làm tươi mát, biến đổi nên phì nhiêu những tâm hồn phó thác cho Người hoạt động. Hơi thở của Thiên Chúa không ngừng thổi trong tâm hồn chúng ta, một cách vô hình nhưng sinh nhiều hiệu quả.
Tuy nhiên, ta cũng tự hỏi tại sao theo Gio-an, Thần Khí đã được trao ban cho các môn đệ ngay từ ngày Phục sinh, trong lúc Giáo Hội sơ khai cho rằng Thần Khí đã được tuôn tràn trong dịp lễ Ngũ tuần (x. Cv 2,1-4). Đã có nhiều câu giải đáp. Sau đây là hai cố gắng trả lời khá hấp dẫn.
a- Theo một vài tác giả, chớ nên dung hòa Gio-an và Công vụ, bằng cách giả thiết Gio-an nói đến việc trao ban Thần Khí lần thứ nhất, còn Lu-ca nói đến việc trao ban Thần Khí lần thứ hai. Không có dấu chỉ nào cho thấy tác giả này biết tới hay để ý tới vấn đề tác giả kia đang bàn. Và như thế có thể nói mỗi tác giả đều mô tả cùng một biến cố: chỉ có một Thần Khí được Đấng Phục sinh và Lên trời trao ban cho môn đệ [*]. Nhưng hai tác giả diễn tả cách khác nhau tùy khuynh hướng thần học riêng của mỗi người. Không thấy hiện tượng các tác giả trình bày khác nhau cùng một biến cố thuộc sứ vụ Đức Giê-su đó sao? Đặc biệt việc Gio-an và Công vụ chỉ định hai thời điểm khác nhau cho việc trao ban cùng chính một Thần Khí mang nhiều ý nghĩa. Có lẽ Gio-an muốn nói Thần Khí chính là hoa quả trực tiếp và đầu mùa của cuộc Tử nạn-Phục sinh (ngay nơi chương 19 câu 30, ông đã viết: “Người gục đầu xuống và ban Thần Khí”). Còn khi đặt việc trao ban Thần Khí vào lễ Ngũ Tuần, Lu-ca hẳn muốn nói lễ Hiện Xuống hoàn thành cuộc Vượt qua của Đức Giê-su, như Giao ước Xi-nai hoàn tất cuộc Vượt qua của dân Do-thái. Như dân này thực sự trở thành dân riêng của Thiên Chúa sau lễ Ngũ tuần, các tín hữu cũng thực sự trở thành dân mới Giáo Hội sau ngày Hiện xuống. Điểm đáng chú ý là hai tác giả đều đặt việc trao ban Thần Khí sau khi Đức Giê-su đã về với Chúa Cha, dù hai ông quan niệm việc về cùng Cha cách khác nhau hẳn.
b- Lối giải đáp thứ hai theo một đường khác, có tính thần học hơn là chú giải. Một số tác giả quan niệm việc trao ban Thần Khí được thực hiện cách tiệm tiến. Thần Khí không phải là một thực tại tĩnh, để trong túi như một đồ vật giá trị. Đối với tín hữu, Thần Khí là sự sống tuyệt hảo. Người được trao ban không ngừng, chẳng những vào lễ Ngũ tuần mà cả sau đó (nếu không muốn nói là trước đó nữa, ngay từ trong Cựu Ước). Việc tuôn tràn Thần Khí dịp Phục sinh, Hiện xuống và các dịp sau đó đều là những dấu chỉ của cùng một thực tại đã biến đổi thế giới (x. Ga 3,3-8) từ khi Đức Giê-su được tôn vinh (x. Ga 7,37-39). Việc phân biệt hai lần trao ban Thần Khí vào ngày Phục sinh và lễ Ngũ tuần chỉ là tùy phụ, nhất là đối với Gio-an, vì theo ông, hai biến cố này phát xuất từ cùng một “Giờ”. Mọi cuộc tuôn đổ Thần Khí chỉ là một. Ngày Phục sinh, các môn đệ nhận Thần Khí để thi hành sứ mệnh; Thần Khí trở lại trên họ khi dân mới của Thiên Chúa được thiết lập và giới thiệu (x. Cv 2,1-4), sau đó Người tiếp tục phù trợ họ luôn mãi. Thật khó chọn lối giải thích nào. Dù sao đây là chuyện phụ thuộc, vì các thế hệ Ki-tô hữu đầu tiên đã bình thản thâu nhận vào trong quy điển cả hai cách trình bày việc trao ban Thần Khí.
Như thế, Thiên Chúa ban cho chúng ta không những các hồng ân thụ tạo và đầy giới hạn của Người, nhưng còn ban chính mình Người, với tự do của tình yêu Người. Ân huệ cao vời đó gọi là Thánh Thần. (Thông điệp “Chúa Thánh Thần” số 10, và tông thư “Ngàn Năm thứ ba đang tới” số 44 gọi Người là “Ngôi vị Tình yêu”, “Ân Huệ bất thụ tạo”). Người thuộc về chúng ta. Người hiện diện trong mỗi tâm hồn kêu cầu Người với lòng khiêm nhường và tin cậy. Có thể nói Người là Thiên-Chúa-ở-trong-chúng-ta, như Cha là Thiên-Chúa-ở-trên-chúng-ta, và Đức Giê-su là Thiên-Chúa-ở-bên-chúng-ta. Người thuộc về chúng ta đến nỗi không thể nói con người là gì mà không thêm yếu tố này là Thiên Chúa cũng là một thành phần trong hữu thể của con người. Thiên Chúa đã trở thành Thiên-Chúa-của-chúng-ta. Đó là tất cả sứ điệp của lễ Hiện xuống!
Lm. Phêrô Phan Văn Lợi --------- [*] Xin xem lại bài chú giải tuần trước NGÀY TỪ BIỆT của chúng tôi về biến cố Chúa Lên Trời.
Phút thiêng liêng nhuần gội ánh thiều quang, Thiên hạ bình và trời tuôn ơn phước. (dẫn từ thơ HiệnXuống ABC492
Phút thiêng liêng nhuần gội ánh thiều quang, Thiên hạ bình và trời tuôn ơn phước. (dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)
Ánh thiều quang, nay nhuần gội khắp dân gian, muôn ơn phước, Thiên hạ bình, trời đổ tuôn ơn phước Chúa ban, như trình thuật còn diễn tả từng chữ, rất đủ nghĩa.
Trình thuật, nay thánh sử ghi về Lễ Hội trải dài từ Chay Mùa tâm tịnh cho đến Phục Sinh quang vinh mà người Do thái vẫn mừng kính vào độ Xuân về có hái gặt suốt 50 ngày dài, sau Vượt Qua. Mãi sau, người Do thái mới thay đổi ngày này thành đại lễ kỷ niệm mừng Giao ước Chúa thực hiện với dân con ở Sinai núi thánh bừng bừng niềm vui khó phai mờ.
Ngay buổi đầu, sau cái chết và sự trỗi dậy của Chúa, đã thấy hai nhóm đạo ở Giêrusalem nổi lên tìm về Đất Hứa. Nhóm đầu, cũng khá đông, gồm những người đạo hạnh từ khắp nơi đổ về. Họ về, từ đất miền thuộc xứ Giuđêa, Mêsôpôtamia, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập và Lybia, tức: đến từ khắp mọi nơi. Nơi nào cũng rộn rã người Do thái ồn ào/náo động tụ tập về để mừng kính lễ hội. Nhóm thứ hai nhỏ hơn, nhưng gồm các đấng bậc đã từng theo chân Chúa bước trong âm thầm/lặng lẽ rất đợi chờ, nguyện cầu.
Họ thật chẳng biết mình cầu nguyện là nguyện và cầu cho ai. Để làm gì? Bởi, thời gian cứ lặng lẽ trôi nhiều tháng ngày sau cái chết của Chúa, thế mà nhóm đạo này vẫn ẩn mình trong bóng tối, cứ hãi sợ mọi chuyện xảy đến sẽ liên lụy đến bản thân.
Có thể, các ngài chỉ muốn về lại thăm chốn cũ người xưa, nơi Chúa bỏ mình chết rất nhục nhưng rồi Ngài Phục Sinh quang vinh. Hai nhóm đạo chẳng quan hệ gì với nhau. Nhóm đông người, đến từ các nơi, lại không biết rằng những người theo Chúa đang có mặt ở nơi đó. Và, nhóm nhỏ gồm các đấng bậc/đồ đệ lại chẳng muốn mọi người biết các ngài đang hiện diện ở chốn này.
Nhưng, chuyện phải đến lại đã đến với các đấng bậc từng hãi sợ. Các ngài lại đã xuất hiện trước công chúng lôi kéo sự chú ý của mọi người. Và, sự việc xảy đến khiến các ngài tràn đầy Thần Khí Chúa đổ tràn từ bên trên. Chuyện xảy đến, như một thứ “trời long đất lở” có sấm sét, có lửa ngọn thiêu đốt tâm can người người, đem đến cho họ nhiều nghị lực, có tâm thức.
Lửa hồng hâm nóng, khiến các ngài trở nên tươi mát, đổi mới, rất lành lặn. Lửa hồng sưởi ấm, còn đem đến với các ngài nhiều ơn lạ khác. Nên, các ngài bèn tiến ra ngoài, nói chuyện với người chưa một lần quen biết đến như một xác chứng:
“Đức Giêsu, dù đã chết hôm trước, nay Ngài vẫn sống và đã gửi Thần Khí đến với mọi người.”
Và lúc đó, mọi người bất chợt nói được tiếng Aram, ngôn ngữ cổ xưa của Do thái.
Người có mặt, cũng đều nghe và hiểu sự việc bằng chính ngôn ngữ của mình. Và khi ấy, lại thấy xảy ra một bộc phá dứt bỏ mọi lằn ranh/ngăn cách của ngôn ngữ, địa dư và sắc tộc. Sự việc xảy ra không mang dáng dấp của rẽ chia/phân cách. Mỗi người đều cảm nhận sự việc xảy đến bằng chính văn-hoá cũng như văn-minh/lề thói của người mình. Tất cả, là thông điệp rõ nét, rất dễ hiểu. Là, sự kiện mới, đã xảy đến với muôn dân.
Mỗi người và mọi người, nay hiểu rằng Thần Khí Chúa kích động mọi người phổ biến sứ điệp Ngài tặng ban để ý Ngài được thể hiện và phổ biến khắp mọi nơi trong thánh hội, và cuộc sống. Thể hiện, nhờ thanh tẩy. Phổ biến, nhờ Thần Khí Chúa mang sức sống đến hầu người người tự thánh-hoá bản thân. Đôi khi, nhiều người lại vẫn nghĩ: nhờ Thần Khí Chúa run rủi, nên mọi người mới có được giờ phút thăng hoa, phấn khởi. Người khác lại cứ hiểu: Thần Khí Chúa vẫn lặng lẽ xuất hiện ở hậu trường sự sống cố hỗ trợ việc chỉnh sửa mọi sai sót/lỡ lầm ngõ hầu người người mới truyền bá được Tin Vui Ngài mang đến.
Cũng có lúc, nhiều người cứ lầm tưởng rằng đôi lúc Thần Khí Chúa cũng vắng mặt khỏi hiện trường sự sống, khiến họ cứ đơn độc, lẻ loi. Nhưng thánh Phaolô lại bảo: Thần Khí đến với ta, thường vào lúc ta sướng vui, quyết thương yêu đùm bọc và đối xử tử tế với mọi người. Nhìn vào cuộc sống của Chúa, người người đều thấy Ngài luôn có mặt ở cạnh bên, nếu ta biết sống thực đường lối Ngài khuyến nghị, tức: cứ để Thần Khí hướng dẫn và phô diễn cuộc sống ấy với mọi người.
Nhưng, với thế giới ta hiện sống, nay đã có vấn đề. Vấn đề, nay thấy xuất hiện hai nhóm người cũng khác biệt. Một, gồm những người sống rải rác khắp đó đây, từng nghe biết Chúa. Biết rằng, Ngài đã chết đi cho tội lỗi của con người và Ngài đã Phục Sinh quang vinh. Biết rằng, vào lễ Ngũ Tuần, Ngài đã gửi Thần Khí Chúa đến với dân con mọi người. Người người đều biết, do tiếp cận mạng truyền thông, vi tính. Nên, ngày nay chẳng một ai cần đến các nhà truyền giáo kiểu xưa cũ cứ đem đến với họ những lời là lời, mà họ chẳng hiểu lời đó có nghĩa gì. Lời đó, có đòi họ sống giống Chúa không, trên thực tế. Làm như thể, họ chưa từng biết đến những chuyện như thế. Làm như thể, những điều họ nghe biết chẳng liên can gì đến cuộc sống thực tế. Cũng chẳng giống như ngôn từ họ sử dụng. Nên, mọi người chỉ cần các “thừa sai” nào biết và sống như Chúa từng sống, mà thôi.
Nhóm còn lại là chúng ta, tức thánh hội của Chúa rất hôm nay. Nhóm của ta cũng trân quý lời Chúa gửi đến với ta. Cũng hiểu đôi chút về Ngài. Nhưng, vẫn không biết cách loan truyền nhận thức ấy với dân gian, ở khắp chốn. Cũng “đi” nhà thờ hàng tuần, nhưng không “đến”. Tức, chẳng hấp thụ thêm được điều gì. Có chăng, cũng chỉ đôi ba ý tưởng vặt vãnh từ bài chia sẻ của vị chủ trì thôi, để rồi ao ước mình có được hy vọng.
Ao ước, có được một Ngũ Tuần khác khi đó Chúa sẽ đổ muôn ơn lành đến với ta và mọi người; ngõ hầu ta hiểu biết chuyện của Chúa, như một số Đức Giáo Hoàng vẫn dùng lời để diễn tả về “lễ Ngũ Tuần mới” rồi sẽ đến, nhưng chưa đạt.
Dân con Đạo Chúa nay lại bảo: lễ Ngũ Tuần là đảo-đề về những gì từng xảy đến hồi tháp Babel, trong Cựu Ước. Cũng cùng truyện kể về tháp như thế do con người làm, khiến dân chúng khi đó lại cứ tập tành phát âm thành nhiều tiếng rất mới nhưng chỉ để nói và gây nhiều ngộ nhận. Ngộ nhận nhiều thứ. Ngộ nhận đến độ, người nói tiếng lạ chẳng hiểu nhau. Lễ Ngũ Tuần hôm nay phải hiểu là Lễ Hội này đã cắt bỏ mọi rẽ chia/phân cách. Là, dịp để mọi người hiểu nhau hơn. Hiểu, cả vào khi có người nói bằng ngôn ngữ lạ ít sử dụng. Xem như thế, Lễ Ngũ Tuần đã đảo ngược được thực trạng tháp Babel của mọi thời. Cả đến hôm nay, cũng như thế.
Bởi thế nên, thay vì bảo: “Họ sáng chế ra ngôn ngữ mới (tức tên mới) cho họ”, thì mọi người lại vẫn nói: “Họ tự đặt tên cho chính mình”, hoặc tìm cách để nên như thế. Và, vấn đề còn tiềm ẩn bên trong mỗi người. Bởi, khi tự đặt tên cho, là ta tự nói nhiều về mình. Nhiều đến độ không nghe người khác nói gì nữa.
Thành thử, Ngũ Tuần hôm nay là dịp để Thần Khí đến với dân con/đồ đệ của Chúa để họ trở nên khiêm hạ. Ngũ Tuần, là dịp để không còn ai tự đặt tên cho mình, nữa. Làm thế, để con dân Chúa không còn cho mình là nhân vật quan trọng, lại rất nổi. Nổi đến nỗi, không nói về Đức Chúa là Đấng cuốn hút mọi người đến với Ngài. Làm như thế, là họ đã tự giảm giá và nghĩ rằng nay có nhiều cách thế để biết Chúa, chứ không chỉ có mỗi đường lối của Giáo hội mình. Làm thế, để ta nhận ra rằng: nếu cứ tập trung vào mỗi đường lối của riêng mình và cho mình là quan trọng, thì đó là hành xử cách bạo tàn với người khác.
Ngũ Tuần, nay là lễ hội để dân con của Chúa biết sống cởi mở, tử tế. Cởi mở/tử tế, để đón nhận cả những người thua kém mình, khác với mình để họ gia nhập vào với cộng đoàn mình sống. Và, đó là lúc những người khác với mình bắt đầu hiểu Chúa hơn. Từ đó, sẽ cảm thông, truyền đạt và trao đổi. Để rồi, ta sẽ sẻ san cho nhau mọi sự tốt đẹp, kể cả nhận thức bằng trực giác, nói năng hoặc diễn đạt. Đó, là ý nghĩa của Lễ Ngũ Tuần, rất hôm nay.
Vậy, Lễ này có nghĩa gì với thời hiện tại? Nếu, Ngũ Tuần được gọi là ngày sinh của Hội thánh, thì nay xin chúc Hội thánh mình có được ngày sinh quá sức đẹp. Tuy thế, ta cũng nên làm sao có được lễ Ngũ Tuần đẹp hơn nữa, ngõ hầu trở nên loại hình thánh Hội mà Thần Khí Chúa vẫn muốn ta trở thành vào buổi Lễ Ngũ Tuần rất tiên khởi, thời Chúa vừa Phục Sinh, rất quang vinh.
Thần khí Chúa muốn con dân mình trở nên tử tế, khiêm hạ và cởi mở. Biết, bao gộp hết mọi người vào với thánh hội mình. Biết lắng nghe người khác nói. Và, sẵn sàng sống đường lối và cách nói năng ra sao để mình thần phục lập trường của người khác. Chứ không chỉ lẻo mép, nói rất nhiều mà chẳng nói được ngôn ngữ của người thời đại, rất hôm nay.
Nên chăng, có một Hội thánh rất như thế? Nếu vậy, ta hãy nguyện cầu như sau:
“Lạy Thánh Thần Chúa, xin đến Chữa lành vết thương lòng ở nơi con Kiện toàn và canh tân uy lực của đời con, Và tẩy rửa vết nhơ con lỡ phạm. Hãy bẻ cong tâm can cùng nguyện ước vẫn đông cứng Để con tim đông lạnh của con nay tan chảy, hầu sưởi ấm lòng người lạnh lẽo. Hãy dẫn dắt những người vẫn trật đường, đi chập chững…” Tâm nguyện thế rồi, cũng nên ngâm thêm lời thơ của nghệ sĩ ở đời vẫn hát giòng thơ Đạo, rằng:
“Ta há miệng, cho nguồn thơm trào vọt, Đường thơ bay, sáng láng như sao sa… Trên lụa trắng, mười hai hàng chữ ngọc. Thêu như thêu, rồng phượng kết tinh hoa.” (Hàn Mặc Tử - Nguồn Thơm)
Thơm một nguồn, cả ngôn ngữ lẫn tình thơ Thần Khí Chúa đem đến dân con, hết mọi người. Nguồn thơm trào vọt, để người người lại sẽ thưởng ngoạn ơn thiêng Chúa gửi, hôm trước đến bây giờ.
Kitô giáo được khai sinh vào Ngày Lễ Ngũ Tuần, ngày mà Thánh Thần Thiên Chúa cũng là Thánh HiệnXuống ABC493
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Kitô giáo được khai sinh vào Ngày Lễ Ngũ Tuần, ngày mà Thánh Thần Thiên Chúa cũng là Thánh Thần của Chúa Giêsu Kitô xuống trên các Tông Đồ là cộng đoàn những người tin theo Chúa Giêsu Kitô và làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh. Thánh Thần luôn đồng hành cùng Hội Thánh từ ngày đó đến nay, không lúc nào Người vắng bóng; nên người tín hữu chúng ta cũng có thể cảm nghiệm được sự hiện diện và hành động của Chúa Thánh Thần. Nhưng có những thời điểm chúng ta có thể cảm nghiệm một cách mạnh mẽ và sâu sắc hơn sự hiện diện và hành động của Chúa Thánh Thần, như trong những ngày này: chúng ta có Đức Phanxicô trên ngôi vị Giáo Hoàng và chúng ta vừa mới có hai Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII và Gioan Phaolô II là hai Thánh Giáo hoàng của Công Đồng Vatican II là Công Đồng của canh tân đổi mới và trở về nguồn.
Chúng ta hãy đọc lại những đoạn Thánh Kinh về Thánh Thần mà cảm nghiệm sâu sắc hơn nữa sự canh tân đổi mới mà Người đem đến cho các tâm hồn và Hội Thánh.
II. ĐỌC & LẰNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (Cv 2,1-11): "Các vị được tràn đầy Chúa Thánh Thần và bắt đầu lên tiếng nói" Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, tất cả các môn đệ đều tề tựu một nơi, bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp. Lại có những lưỡi như thể bằng lửa xuất hiện và rải rác đậu trên từng người. Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tuỳ theo Thánh Thần ban cho họ nói.
Khi ấy, cư ngụ tại Giêrusalem, có những người Do-thái đạo đức từ khắp các nước dưới gầm trời tụ về. Nghe tiếng ấy phát ra thì đoàn lũ tuôn đến, tâm trí bỡ ngỡ, vì mỗi người đều nghe các môn đệ nói tiếng thổ âm của mình. Mọi người đều sửng sốt và bỡ ngỡ nói rằng: "Nào tất cả những người đang nói đây không phải là người Galilê ư? Nhưng tại sao mỗi người chúng tôi lại nghe họ nói tiếng bản xứ của chúng tôi: Chúng tôi là người Parthi, Mêđi, Êlam, Mêsopotamia, Giuđêa, Cappađôcia, Pôntô, Tiểu Á, Phrygia, Pamphylia, Ai-cập, Lybia, cận Cyrênê, và người Rôma cư ngụ ở đây, là Do-thái và tòng giáo, là người Crêta và Á-rập, chúng tôi đều nghe họ nói tiếng của chúng tôi mà ca tụng những kỳ công của Thiên Chúa!"
[Mọi người đều sửng sốt bỡ ngỡ nói với nhau rằng: "Thế này nghĩa là gì?" Nhưng lại có người khác nhạo báng rằng: "Họ đầy rượu rồi".
2.2 Trong bài đọc 2 (1 Cr 11,3b-7,12-13): "Trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể" Anh em thân mến, không ai có thể nói "Đức Giêsu là Chúa" mà lại không do Thánh Thần. Vậy có nhiều thứ ân sủng, nhưng chỉ có một Thánh Thần. Có nhiều thứ chức vụ, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều thứ công việc, nhưng chỉ có một Thiên Chúa, là Đấng làm mọi sự trong mọi người. Sự xuất hiện của Thánh Thần được ban cho từng người, tuỳ theo lợi ích.
Cũng như chỉ có một thân thể nhưng có nhiều chi thể, mà các chi thể tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể, cho dù là Do-thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do: tất cả chúng ta đã uống trong một Thánh Thần.
CA TIẾP LIÊN
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, và tự trời toả ánh quang minh của Ngài ra! Lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; Đấng ban ân huệ, Đấng soi sáng tâm hồn, xin ngự đến! Lạy Đấng an ủi tuyệt vời, là khách trọ hiền lương của tâm hồn, là Đấng uỷ lạo dịu dàng. Chúa là sự nghỉ ngơi trong cảnh lầm than, là niềm an ủi trong lúc lệ rơi. Ôi sự sáng chứa chan hồng phúc, xin chiếu soi tràn ngập tâm hồn tín hữu của Ngài. Nếu không có Chúa trợ phù, trong con người còn chi thanh khiết, không còn chi vô tội. Xin Chúa rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa cho lành nơi thương tích. Xin uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng, chỉnh đốn lại chỗ trật đường. Xin Chúa ban cho các tín hữu, là những người tin cậy Chúa, được ơn bảy nguồn. Xin ban cho họ được huân nghiệp nhân đức, được hạnh phúc cứu độ và được hoan hỉ đời đời. (Amen. Alleluia.)
2.3 Trong bài Tin Mừng (Ga 20,19-23): "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con: Các con hãy nhận lấy Thánh Thần" Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con!" Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại".
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
- Là Thiên Chúa Cha, Đấng đã ban Thánh Thần cho các môn đệ Chúa Giê-su trong ngày Lễ Ngũ Tuần khiến họ rao giảng Chúa Giê-su Ki-tô bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, để mọi người có mặt ở Giê-ru-sa-lem dịp lễ ấy đều có thể nghe và hiểu nội dung các bài giảng của các tông đồ.
- Là Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh, Đấng
* đã ban bình an cho các tông đồ: "Bình an cho anh em!”
* đã thổi hơi trên các tông đồ để ban Thánh Thần cho họ: “Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.”
* đã giao sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho các tông đồ: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em."
* đã ban cho các tông đồ quyền tha tội: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."
- Là Chúa Thánh Thần, Đấng
* đã xuống trên các tông đồ để làm cho họ nên can đảm, mạnh mẽ và khôn ngoan,
* đã đổ tràn các đặc sủng trên các tín hữu để làm cho họ nên một cộng đoàn, một thân thể hiệp nhất, yêu thương và phong phú trong phục vụ và hoạt động.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?): Qua ba bài Sách Thánh hôm nay, chúng ta khám phá ra sứ điệp hay giáo huấn của Lời Chúa hôm nay gồm hai nội dung:
- Nội dung thứ nhất là: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần!”
Mỗi người chúng ta hãy tự hỏi xem
+ Chúng ta đã thực sự đón nhận Thánh Thần chưa?
+ Chúa Thánh Thần thể hiện sự hiện diện và hoạt động của Người như thế nào trong tâm/trí và cuộc sống hàng ngày của chúng ta?
- Nội dung thứ hai là: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em!”
Mỗi người chúng ta hãy tự hỏi xem
+ Chúng ta có ý thức về sứ mạng được sai đi của mình không?
+ Chúng ta thi hành sứ mạng ấy thế nào trong đời sống hàng ngày của chúng ta?
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như người bạn sống với bạn mình, như môn đệ sống với Thầy. Sống bằng cả một tấm lòng yêu thương, tôn kính và tuân phục!
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa hay giáo huấn của Lời Chúa qua 4 bước:
- Bước 1: Đón rước Chúa Thánh Thần và đầu phục Người. Đã chịu Phép Rửa Tội và Thêm Sức là chúng ta đã đón nhận Chúa Thánh Thần vào lòng mình rồi. Nhưng có thể là chúng ta chưa ý thức về sự kiện đó và chưa biết cách sống với Chúa Thánh Thần đang ngự trong lòng chúng ta. Vậy chúng ta hãy đánh thức Người dậy bằng những lời cầu xin được lặp đi lặp lại nhiều lần trong ngày: “Lạy Chúa Thánh Thần đang ngự trong lòng con, xin Người tỏ mình và hành động trong con!”
- Bước 2: Để cho Chúa Thánh Thần hoạt động trong/qua chúng ta. Trước hết, chúng ta phải tạo một khoảng tĩnh lặng trong tâm trí và cuộc sống của chúng ta để có thể nghe được tiếng của Chúa Thánh Thần. Kế đến, chúng ta hãy để Người thúc đẩy chúng ta làm những gì Người soi sáng.
- Bước 3: Ý thức sứ mạng được sai đi của mình, nhờ/qua việc
* đọc, suy niệm Lời Chúa và cầu nguyện mỗi ngày, * chia sẻ Lời Chúa trong nhóm nhỏ, * học hỏi Thánh Kinh và cầu nguyện với Lời Chúa, * rèn luyện tâm linh, * thực thi các việc bác ái, từ bỏ và dấn thân.
- Bước 4: Thực thi sứ mạng được sai đi của mình, bằng cách * chu toàn bổn phận trong gia đình, cộng đoàn và xã hội, * tham gia đóng góp vào công cuộc Loan Báo Tin Mừng của Giáo Hội,
* mạnh dạn ra đi làm chứng cho Chúa và Tin Mừng.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 “Bình an cho anh em” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các dân các nước, nhất là cho các dân tộc đang phải chịu cảnh dịch bệnh coronavirus hay chiến tranh tàn phá, để họ được hưởng một nền hòa bình chân chính và vững bền.
Xướng: Chúng ta hãy cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần!” Chúng ta hãy cầu nguyện cho toàn thể Hội Thánh Chúa Kitô - nhất là cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ -, để mọi Kitô hữu được tràn đầy Thánh Thần của Chúa Kitô.
Xướng: Chúng ta hãy cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người” Chúng ta hãy cầu nguyện cho giáo dân của giáo xứ/cộng đoàn/cộng đồng chúng ta, để mọi người biết quý trọng và triển khai các ơn huệ của Thánh Thần trong việc xây dựng cộng đoàn gia đình, giáo xứ và xã hội một cách hài hòa và vững mạnh.
Xướng: Chúng ta hãy cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” Chúng ta hãy cầu nguyện cho những nhà truyền giáo thời nay để họ kiên trì trong sứ vụ loan báo Tin Mừng cho những người chưa nhận biết Chúa.
Xướng: Chúng ta hãy cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Trước khi về trời Chúa Giêsu không chỉ có lệmh truyền và lời hứa với các môn đệ mà Chúa còn HiệnXuống ABC494
Trước khi về trời Chúa Giêsu không chỉ có lệmh truyền và lời hứa với các môn đệ mà Chúa còn dành cho các ông quà tăng quý gía: đó là ơn bình an và Thánh Thần. Ơn bình an là thứ mà các môn đệ Chúa Giêsu rất cần để sống trong mọi hoàn cảnh và giữa bầy sói. Thánh Thần sẽ cùng với Chúa Giêsu Phục Sinh đồng hành và bảo trợ cho các ông trong cuộc hành trinh sống và truyền đạo. Chúng ta hãy dành chút thời gian suy niệm về hai món quà quý gía mà Chúa Giêsu ban tặng cho các môn đệ.
II. LẰNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Ga 20,19-23: Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con!" Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con! Như Cmha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại".
III. SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Ga 14,15-21:
3.1 Ơn bình an mà Chúa Giêsu ban tặng các môn đệ trước khi về trời: Không có gỉ khó hiều về tâm trạng rối bời của các môn đệ của Giêsu: vừa lo buốn, thất vọng vừa mất phương hướng sau khi Thầy và Chúa của các ông bị giới lãnh đạo đến thờ và chính quyền ngọai bang giết chết. Vì thế các ông rất cần được trấn an, được vỗ về. Thánh Gioan ghi lại “Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con!" Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa.”
3.2 Thánh Thần mà Chúa Giêsu ban tặng các môn đệ trước khi về trời: Không chỉ ban ơn bình an cho các môn đệ Chúa Giêsu còn ban cho các ông Thánh Thần mà Người đã hứa: “Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại". Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ mới sẽ cùng với Chúa Giêsu Phục Sinh đồng hành và hỗ trợ các môn đệ trên con đường đựoc sai đi.
IV. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Ga 14,15-21:
4.1 Chúng ta hãy xin Chúa Giêsu ban bình an cho chúng ta: Cuộc sống của chúng ta đầy dẫy những khó khăn thử thách, những cám dỗ và lôi cuốn khiến chúng ta mất bình an và lo lắng. Chúng ta rất cần ơn bình an của Chúa. Hãy tha thiết cầu xin Người ban cho chúng ta on ấy.
4.2 Chúng ta hãy đón nhận Thánh Thần củaChúa Giêsu bằng việc mở lòng ra đón nhận Thánh Thần của Chúa Phục Sinh . Có Thánh Thần chúng ta sẽ có sức mạnh và ơn khôn ngoan cần thiết để sống đức tin và loan báo Tin Mừng Cứu độ cho những ngừoi xung quanh.
V. Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN
KHAI MỞ: Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu Kitô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban cho chúng con Con Một Cha là Chúa Giêsu Kitô là Đấng đã ban on bình an và Thánh Thần cho các môn đệ trước khi về Trời. Xin Cha nghe lời chúng con cầu xin.
1.-«Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con!» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho càng ngày càng có nhiều người nhân được ơn bình an của Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
2.- «Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa». Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ để các vị ấy luôn đuọc sống trong niềm vui của Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
3.- « Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con! Như Cmha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho giáo dân trong giáo xứ chúng ta luôn ý thức mình là kẻ được sai đi như chính Chúa Giêsu.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
4.- «Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho tất cả các Kitô hữu cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Thánh Thần và ơn tha tội mà Chúa Giêsu đã ban cho Hội Thánh.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
LỜI KẾT:
Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã ban Con Một Cha là Chúa Giêsu cho chúng con; Trước khi về Trơi Người đã ban ơn bình an và Thánh Thần cho các môn đệ.
Chúng con xin dâng lên Cha lời tri ân cảm tạ ngợi khen và quyết tâm sống theo sự hướng dẫn và bảo trợ của Thánh Thần. Chúng con cầu xin Chúa nhận danh Chúa Giêsu Kitô Con Cha Chúa chúng con. Amen.
Sàigòn ngày 27 tháng 05 năm 2023 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta nghe hai bài đọc về biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống (Cv 2, HiệnXuống ABC495
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta nghe hai bài đọc về biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống (Cv 2,1-11; Ga 20,19-23). Trong bài Tin Mừng theo thánh Gioan, Đức Giêsu phục sinh bất ngờ đến với các môn đệ vào ngày thứ nhất trong tuần, khi họ còn hoảng sợ đóng cửa sau cái chết của Thầy. Ngài nhẹ nhàng cho họ thấy những vết thương, để họ tin Đấng đang sống và đang đứng trước mặt họ chính là người Thầy bị đóng đinh, đã chết và được chôn táng. Ngài chuyển lại cho các ông sứ mạng Ngài đã lãnh nhận từ Chúa Cha: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.” Chính vào giây phút này mà Lễ Hiện Xuống bắt đầu. Thầy Giêsu thở hơi trên các môn đệ, hơi thở của sự sống thần linh. Ngài nói với họ: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.” Đây là món quà quý nhất Ngài hứa ban khi được Chúa Cha tôn vinh. Đây là Đấng Bảo Trợ mà Ngài đã nhiều lần nhắc đến. Lễ Hiện Xuống thứ nhất diễn ra cách thân mật, riêng tư giữa Thầy trò, trong bầu khí của một căn phòng đóng kín. Còn năm mươi ngày sau lễ Vượt Qua, cũng tại căn phòng này, Vào dịp lễ Ngũ Tuần, lại diễn ra một lễ Hiện Xuống khác. Lần này không có Chúa Giêsu, vì Ngài đã về nhà Cha, nhưng có tới 120 người tụ họp, có cả các phụ nữ (Cv 1,15). Bỗng nhiên từ trời có một tiếng lớn giống như tiếng gió thổi mạnh, rồi xuất hiện những lưỡi như lưỡi lửa đậu trên từng người. Thế là mọi người được tràn đầy Thánh Thần, Và bắt đầu nói được tiếng của các dân tộc mà mình không quen biết. Tiếng ầm vang của gió chẳng những ùa vào đầy căn phòng trên lầu, mà còn lôi kéo sự chú ý của những người Do-thái sùng đạo từ khắp nơi trên mặt đất đổ về Giêrusalem mừng lễ. Họ ngỡ ngàng khi thấy một nhóm người có khả năng nói thứ tiếng của vùng mình sống, khiến mình hiểu được. Hai trình thuật trên đây về lễ Hiện Xuống có những nét khác biệt, và có những nét giống nhau. Đức Giêsu thở hơi để ban Thánh Thần cho môn đệ cách nhẹ nhàng, trong bầu khí thân tình của Thầy trò gặp lại nhau. Niềm vui thì có, nhưng nỗi sợ vẫn còn. Sau khi nhận Thánh Thần, các môn đệ vẫn chưa dám mở cửa. Năm mươi ngày sau, trong cơn gió mạnh chuyển rung, Thánh Thần đến trên từng người trong nhà dưới hình lưỡi lửa. Lần này, Phêrô đã can đảm đứng ra để giảng bài giảng đầu tiên mời gọi người nghe hoán cải và chịu phép rửa, để được ơn tha tội và lãnh nhận Thánh Thần (Cv 2,38). Các môn đệ đầu tiên đã không giữ Thánh Thần cho riêng mình. Họ coi việc nhận lấy Thánh Thần là điều cốt yếu (Cv 19,1-7). Thánh Thần là Đấng vượt qua mọi ranh giới quốc gia, ngôn ngữ. Ngài đã bất ngờ ngự xuống trên dân ngoại (Cv 11,15). Ngài phá vỡ thảm kịch tháp Babel bằng cách làm người ta hiểu nhau, và đem lại sự hiệp nhất mà vẫn giữ sự đa dạng. Hôm nay Giáo Hội đã lan khắp thế giới, các cánh cửa đã mở tung. Chúng ta đã được lãnh bí tích Thêm sức, và được sai vào thế gian. Nhưng chúng ta không chỉ lãnh nhận Thánh Thần một lần trong đời. Chúng ta được Ngài hướng dẫn, trợ lực, từng giây từng phút. Ước gì Thánh Thần luôn ở với, ở bên và ở trong chúng ta (Ga 14,16-17), Để giúp chúng ta gặp được Giêsu.
LỜI NGUYỆN
Lạy Cha, xin ban cho chúng con Thánh Thần. Vì không có Thánh Thần, Cha sẽ là Đấng nghìn trùng xa cách, Đức Kitô trở thành nhân vật của quá khứ, Sách Tin Mừng là mớ chữ vô hồn, Hội Thánh chẳng khác nào một tổ chức. Vì không có Thánh Thần của Cha, quyền uy trở thành quyền thống trị, truyền giáo thành tuyên truyền, việc phụng tự trở thành một thứ sùng bái, cách hành xử của kitô hữu thành thứ đạo đức của nô lệ. Nhưng nếu có Thánh Thần, vũ trụ này được nâng lên, những đau đớn để sinh ra Nước Cha không vô nghĩa, Đức Kitô phục sinh thật sự có mặt, Tin Mừng thành sức sống vô bờ, Hội Thánh có nghĩa là hiệp thông. Nếu có Thánh Thần của Cha, quyền uy của Hội Thánh là phục vụ, truyền giáo trở thành một lễ Hiện Xuống mới, phụng vụ là một tưởng niệm và là một thực tại, các hành động của con người mang tính thần linh. Lạy Cha, xin ban Thánh Thần cho chúng con. (dựa theo của Đức Thượng phụ Athenagoras)
Theo Tin Mừng Thánh Gio-an, vào buổi chiều của chính ngày Phục sinh, tức là ngày thứ nhất HiệnXuống ABC496
Theo Tin Mừng Thánh Gio-an, vào buổi chiều của chính ngày Phục sinh, tức là ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giê-su phục sinh đã ban Thánh Thần cho các môn đệ. Trong lúc các cửa nhà đều đóng kín, Chúa Giê-su hiện đến với các ông, và cùng với lời cầu chúc bình an, Chúa thổi hơi trên các ông kèm theo lời tuyên bố: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (x. Ga 20, 19-23).
Theo tác giả sách Công vụ Tông đồ, thì Chúa Thánh Thần lại đến với các môn đệ trong ngày lễ Ngũ Tuần, tức là năm mươi ngày sau lễ Vượt Qua. Chúa Thánh Thần ngự đến, trong lúc các ông sốt sắng cầu nguyện, với sự hiện diện của Đức Ma-ri-a, Mẹ của Chúa Giê-su.
Thực ra, Chúa Thánh Thần là quà tặng mà Đấng Phục sinh ban cho các môn đệ ngay từ khi Người từ cõi chết sống lại. Ngày lễ Ngũ Tuần chỉ là sự công khai biểu dương sức mạnh của Ngài, và cũng để chứng minh những gì Chúa Giê-su đã hứa trước đó về việc sẽ xin Chúa Cha sai đến một Đấng Phù trợ. Đây cũng là ngày Giáo Hội được giới thiệu chính thức với toàn thể thế giới. Vì vậy mà lễ Hiện Xuống được coi như ngày khai sinh của Giáo Hội. Giáo Hội đã được thành lập từ khi Chúa Giê-su quy tụ những ai tin vào Người, và cộng đoàn những người tin ấy đã được long trọng giới thiệu với toàn thể thế giới vào ngày lễ Ngũ Tuần. Tính chất hoàn vũ được thể hiện qua việc thánh Phê-rô rao giảng bằng một thứ ngôn ngữ (có thể đó là tiếng Hipri), mà khách hành hương đến từ khắp nơi đều có thể hiểu được. Chính Chúa Thánh Thần tác động nơi thánh Phê-rô, đồng thời mở lòng khách hành hương, giúp họ hiểu được Chân lý mà thánh Phê-rô rao giảng, đồng thời chấp nhận gia nhập cộng đoàn mới mẻ này. Ngay trong ngày hôm ấy, số tân tòng đông đến ba ngàn người (Cv 2,41).
Kể từ giây phút Đấng Phục sinh ban Thánh Thần cho các tông đồ, Chúa Thánh Thần đã luôn hiện diện trong Giáo Hội. Kể từ ngày lễ Ngũ Tuần năm ấy, Ngôi Ba Thiên Chúa luôn hoạt động nơi các tín hữu. Ơn ban của buổi chiều ngày Phục sinh cũng chính là Lửa ngự đến trên các tông đồ. Chúa Thánh Thần là quà tặng bình an của Chúa Giê-su ban cho toàn thế giới.
Những bài giáo lý sơ đẳng nói với chúng ta: Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa. Ngài bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra. Ngài là Tình yêu. Ngài cũng là linh hồn của Giáo Hội. Nhờ Chúa Thánh Thần hoạt động không ngừng, mà Giáo Hội của Chúa Ki-tô đứng vững trước mọi cơn bão táp của lịch sử, để luôn trung thành với giáo huấn của Chúa Giê-su.
Những kiến thức trên đây hoàn toàn chính xác, nhưng mới chỉ là lý thuyết. Ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống vừa nhắc chúng ta sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội, vừa mời gọi chúng ta hãy luôn sống theo sự hướng dẫn của Ngài. “Hãy sống theo Thần Khí!”. Thánh Phao-lô nhắc đi nhắc lại với các tín hữu Ga-lát điều này. Cuộc sống nơi thế gian là một cuộc chiến không ngừng. Đó là cuộc chiến giữa tối tăm và ánh sáng, giữa tội lỗi và thánh thiện. Người tín hữu muốn nên trọn lành, phải lựa chọn sống theo Thần Khí, tức là lắng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần. Giữa bao âm thanh hỗn độn ồn ào của cuộc sống xô bồ, cần có tâm hồn thinh lặng và thiện chí lắng nghe. Chúa Thánh Thần vẫn đang ngỏ lời với chúng ta. Ngài là “ngôn ngữ” của Thiên Chúa. Hình lưỡi lửa đậu xuống trên các tông đồ cho thấy Ngài vừa là lửa, vừa là ngôn ngữ. Lửa để sưởi ấm. Ngôn ngữ để dạy dỗ.
Cuộc sống là cuộc chiến đấu khắt khe và nghiệt ngã. Để giúp các tín hữu Ga-lát hiểu rõ hơn cuộc chiến đấu này, thánh Phao-lô đã liệt kê những việc làm của xác thịt và những hoa quả của Thánh Thần. Có đến 15 nết xấu được liệt kê, trong khi đó chỉ có 9 đức tính được gọi là hoa trái của Chúa Thánh Thần (x. Bài đọc II). Điều này chứng minh sự nghiệt ngã và cam go của cuộc sống. Sống trên đời, con người bị giằng xé giữa tội lỗi và ân sủng. Không ít người đã không thắng nổi chính mình, và đã rơi vào vòng xoáy của những tham vọng trần thế, dập tắt lửa Thánh Thần để buông theo cơn lốc đam mê.
Như thế, đón nhận Chúa Thánh Thần chính là thực thi những hoa trái của Ngài trong cuộc sống cụ thể của chúng ta. Những hoa trái này được thánh Phao-lô liệt kê như sau: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ. Chúa Thánh Thần vừa là Đấng ban cho chúng ta những hoa trái này, đồng thời Ngài cũng chính là những hoa trái này ở mức độ hoàn hảo nhất. Ngài chính là quà tặng bình an mà Đấng Phục sinh ban tặng cho thế giới của chúng ta.
Lễ Hiện Xuống năm nay cũng là Chúa nhật cuối cùng của Tháng Hoa kính Đức Mẹ. Như xưa Mẹ đã hiện diện giữa các môn đệ vào giây phút Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, nay xin Mẹ giúp chúng ta đón nhận Quà tặng bình an. Nhân loại hôm nay đang bị tổn thương trầm trọng do chia rẽ, xung đột và bạo lực. Xin Chúa ban Thánh Thần bình an của Ngài để nâng đỡ và nối kết chúng ta.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Lễ Chúa Thánh Thần chính là lễ hiệp nhất muôn dân. “Ngài hiện xuống nơi họ tụ họp... Chúng ta HiệnXuống ABC497
1) Lễ Chúa Thánh Thần chính là lễ hiệp nhất muôn dân. “Ngài hiện xuống nơi họ tụ họp... Chúng ta từ các dân thiên hạ trở về Giêrusalem, đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan truyền những kỳ công của Thiên Chúa” (Bài đọc I - Cv. 2, 1-11).
a) Chính sức mạnh của Thánh thần đã hiệp nhất các môn đệ lại nhà Tiệc ly, đã hiệp nhất các dân thiên hạ lại Giêrusalem, chính Thánh thần đã cho họ nghe tiếng nói của mình về những kỳ công của Thiên Chúa. Tiếng nói đó chính là tiếng nói của Thánh thần.
Tại sao muôn dân nghe được tiếng nói của Thánh Thần? Thưa Thánh Thần đã hiệp nhất họ nên một thân thể của Đức Kitô. Trong Bài đọc II Thánh Phaolô đã giải thích: “Tất cả chúng ta là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đều đã chịu phép rửa nhờ một Thánh Thần để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thánh Thần duy nhất” (1Cr. 12, 13). Đức Kitô và Thánh thần hiệp nhất nên một, thì tất cả các bộ phận trong Đức Kitô cũng tràn đầy Thánh thần nên họ đều nghe, đều hiểu, đều lãnh nhận được tiếng của Thánh thần.
b) Thánh Phaolô còn cho thấy rõ: Đây là sự hiệp nhất trong đa dạng, không phải thứ hiệp nhất trong đơn điệu, gò ép, buồn tẻ: Có nhiều đặc trưng khác nhau, nhưng chỉ có một Thánh Thần, có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Đức Chúa, có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng chỉ có một Thiên Chúa hoạt động trong mọi người. Thánh Thần tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung.
Người thì được ơn khôn ngoan để giảng dạy Người thì được ơn hiểu biết để trình bày Người thì được ơn Đức tin để hoạt động mạnh mẽ Người thì được ơn chữa bệnh Người thì được ơn làm phép lạ Người thì được ơn nói tiên tri Người thì được ơn nói tiếng lạ Người thì được ơn giải thích tiếng lạ
Nhưng chính Thánh Thần duy nhất làm tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách theo ý Ngài (1Cr. 12, 4-11)
Chỉ có Thánh thần mới đầy sức mạnh quy tụ được muôn dân thiên hạ, làm cho muôn bản chất, sắc thái văn hóa của muôn người khác nhau nên một trong Đức Kitô.
Thiên Chúa đã sáng tạo vũ trụ vạn vật với muôn hình vạn trạng tinh vi kỳ diệu khác nhau, nhưng hòa điệu duy nhất với nhau để hòa tấu nên một bài ca chúc tụng quyền năng lạ lùng của Thiên Chúa.
Trong công trình cứu độ, còn hơn nữa, Chúa Thánh thần tuôn tràn sức sống mãnh liệt của Thiên Chúa, như tiếng gió ào ào vang dội khắp muôn phương để thánh hóa muôn dân sống thể hiện bản chất văn hóa thiêng liêng cao quý của mình, của dân tộc mình, làm rạng rỡ vinh quang Thiên Chúa như muôn loài hoa phô bày hương sắc riêng của chúng làm đẹp thiên nhiên, làm thơm môi trường.
2) Trước những chuyển biến của thời đại ngày nay, Đức Giáo Hoàng Gioan 23 cùng với Công đồng Vatican II đã cầu xin cho Giáo hội, cho thế giới “một lễ Hiện xuống mới”. Công đồng Vatican II, một Công đồng vĩ đại nhất trong lịch sử Giáo hội, cũng là một hội nghị hiệp nhất vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới, vì trong hội nghị của Công đồng, ngay kỳ họp I năm 1962 đã có 2.152 nghị phụ, cho đến kỳ họp IV năm 1965 đã có 2.391 nghị phụ gồm Hồng Y, Giám mục từ khắp nơi trên thế giới về Rôma để họp, chưa kể hàng ngàn chuyên gia lỗi lạc khác.
Công đồng đã chứng tỏ cho thế giới thấy tầm quan trọng và khẩn thiết của sự hiệp nhất, đề cao sự hiệp nhất lên hàng đầu, cho nên có 4 kỳ họp thì 3 kỳ của 3 năm đầu đều nói đến hiệp nhất.
Kỳ họp I từ 11 tháng 10, đến 8 tháng12 năm 1962 đã thảo luận đến sự hiệp nhất Kitô hữu và Giáo hội.
Kỳ họp II từ 29 tháng 9 đến 4 tháng 12 năm 1963 bàn về lược đồ hiệp nhất.
Kỳ họp III từ 14 tháng 9 đến 21 tháng 11 năm 1964 chung quyết và công bố các sắc lệnh hiệp nhất với 2137 phiếu thuận, 11 phiếu không đồng ý và không có phiếu nào chống đối.
Chính Đức Giáo Hoàng Gioan 23 lúc hấp hối, miệng Ngài đã liên lỉ lập lại câu này: “Làm sao để trở nên một” (Lữ Hành Hy Vọng 556).
3) Tại sao phải trở nên một?
Bởi vì chính Thiên Chúa là Đấng duy nhất đã sai “Con Một mình đến thế gian để cứu chuộc nhân loại, đoàn tụ họ nên một. Trước khi tự hiến làm lễ vật tinh tuyền trên Thánh giá, Người đã cầu cùng Chúa Cha cho các tín hữu rằng: “Xin cho hết thảy được hiệp nhất như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để chính họ cũng được nên một trong Ta, cho thế gian tin rằng Cha đã sai Con” (Ga. 17, 21). Người đã thiết lập trong Giáo hội của Người nhiệm tích Thánh Thể kỳ lạ vừa là dấu chỉ, vừa thể hiện sự hiệp nhất của Giáo hội. Người ban cho các môn đệ một giới răn mới là tình thương yêu nhau và ban Thánh thần an ủi, bảo trợ và sự sống để ở với họ mãi mãi (Sắc Lệnh Hiệp Nhất - số 2).
Thế giới cũng đang đi về hướng hiệp nhất: Hiệp nhất Châu Âu, hiệp nhất Đông Nam Á, Thái Bình Dương, Trung Đông... để sống hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển, đúng câu “đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”.
Chúa Thánh thần hiện xuống đã thúc đẩy các môn đệ mở tung căn phòng đóng kín, ra đi thực hiện nhiệm vụ hiệp nhất muôn dân như Chúa Giêsu đã trao phó cho các ông trước lúc Người lên trời “Hãy nhận lấy Thánh thần để đến với muôn dân, rửa tội cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần để muôn dân trở nên môn đệ Thầy” (Mt. 28, 29).
Không còn thứ hiệp nhất nào hơn nữa: Một sự hiệp nhất Thiên Chúa với loài người, một sự hiệp nhất nên một gia đình Thiên Chúa, một sự hiệp nhất trời và đất. Không có gì phá vỡ sự hiệp nhất đó, trừ có tội lỗi. Chính tội lỗi đã cắt đứt dây tình yêu hiệp nhất giữa Thiên Chúa và loài người.
Nay Con Thiên Chúa đã chiến thắng tội lỗi, rửa sạch tội lỗi trong Thánh thần, cho nên bài Tin mừng hôm nay nói: “Hãy nhận lấy Thánh thần, hãy tha tội cho họ”, để thực hiện một kỳ công hiệp nhất, “cho họ nên một trong Chúng Ta” (Ga. 17, 21).
Lạy Cha, xin ban cho Giáo hội “một lễ Hiện xuống mới” để canh tân bộ mặt trái đất, xin Thánh thần Tình yêu xuống đốt lửa kính mến trong lòng chúng con và mọi người để thực hiện sự hiệp nhất, một đức tin, một phép rửa, một Thiên Chúa là Cha muôn dân.
Muốn tìm hiểu một nhà văn, người ta cần đọc các tác phẩm của nhà văn đó; muốn biết rõ tài HiệnXuống ABC498
Muốn tìm hiểu một nhà văn, người ta cần đọc các tác phẩm của nhà văn đó; muốn biết rõ tài nghệ một kiến trúc sư, người ta cần nhìn xem công trình xây dựng của ông ta. Tương tự như thế, muốn hiểu thêm về Chúa Thánh Thần, chúng ta hãy nhìn xem kiệt tác của Ngài là thánh Phao-lô.
Phao-lô tàn phá Hội Thánh
Ban đầu, Phao-lô là một thanh niên nhiệt thành trong đạo Do Thái. Anh có ác cảm với Chúa Giê-su và môn đệ của Ngài. Thế là anh tìm mọi cách bắt bớ những người theo Chúa Giê-su và rắp tâm tiêu diệt Hội thánh non trẻ của Ngài bằng mọi giá (Gal 1,13).
“Anh đến gặp các thượng tế, xin thư giới thiệu đến các hội đường ở Đa-mát, để nếu thấy người nào theo Đạo, bất luận đàn ông hay đàn bà, thì bắt trói giải về Giê-ru-sa-lem” để trừng trị (Cv 9,1-2).
Phao-lô xây dựng Hội Thánh
Thế rồi, sau biến cố ngã ngựa trên đường vào thành Đa-mát để bắt bớ các Ki-tô hữu, Phao-lô đột nhiên chuyển hướng 180 độ và đổi đời cách lạ lùng. Từ một người “hằm hằm đe dọa giết các môn đệ Chúa” (Cv 9,1), Phao-lô trở nên người hăng say, nhiệt thành, dốc hết tâm lực xây dựng Hội thánh Chúa bất chấp gian khổ, đói khát, ngục tù xiềng xích và cái chết. Ngài viết về đời tông đồ của mình như sau:
Trong công cuộc loan báo Tin mừng, tôi đã vượt lên những người khác, “hơn nhiều vì công khó, hơn nhiều vì ở tù, hơn gấp bội vì chịu đòn và bao lần suýt chết. Năm lần tôi bị người Do-thái đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi! Tôi còn hơn họ, vì phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. Tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng. Ngoài ra, nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội thánh! Có ai yếu đuối mà tôi lại không cảm thấy mình yếu đuối? Có ai vấp ngã mà tôi lại không cảm thấy lòng sôi lên?” (2C 11, 23- 29).
Và khi từ giã các vị kỳ mục trong giáo đoàn Ê-phê-sô để lên Giê-ru-sa-lem, thánh Phao-lô nói với các ông rằng: “Giờ đây, do Thánh thần thúc đẩy, tôi đi Giê-ru-sa-lem, mà không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó… Khi tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi. Nhưng mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng giá gì, miễn sao tôi chạy cho hết chặng đường, chu toàn nhiệm vụ tôi đã nhận từ Chúa Giê-su, là long trọng làm chứng cho Tin mừng về ân sủng của Thiên Chúa” (Cv 20, 22-24).
Như thế, thánh Phao-lô vui lòng chịu đựng tất cả mọi gian lao khốn khó và sẵn sàng chịu chết, miễn sao hoàn thành sứ mạng cao quý mà Chúa Giê-su đã giao phó cho ngài.
Đến đây, một câu hỏi lớn chợt đến với chúng ta: Bởi đâu một thanh niên trước đây căm ghét đạo thánh Chúa, bắt bớ các tín hữu, rắp tâm tiêu diệt Đạo Chúa cho bằng được… bỗng dưng lại trở thành một tông đồ hăng say, nhiệt thành, sẵn sàng hy sinh mạng sống và dốc hết tâm lực để xây dựng Hội thánh mà trước đây anh quyết tâm đạp đổ?
Thánh Phao-lô cho ta câu trả lời chính xác: Nhờ Chúa Thánh Thần.
Chính Chúa Thánh Thần soi sáng dạy dỗ cho Phao-lô am hiểu tường tận giáo lý Chúa Giê-su, đã tuyển chọn thánh Phao-lô và Barnaba làm tông đồ cho dân ngoại, đã bắt buộc Phao-lô lên Giê-ru-sa-lem chịu nhiều khốn khổ để làm chứng cho Chúa Giê-su (Cv 20,22), đã ban sức mạnh và lòng nhiệt thành cho Phao-lô để sống chết vì Chúa Giê-su.
Như thế, ta có thể quả quyết rằng: Thánh Phao-lô là “kiệt tác” của Chúa Thánh Thần.
Nhìn vào “tác phẩm” tuyệt vời này, ta biết Chúa Thánh Thần luôn hoạt động mạnh mẽ trong Giáo hội, đã đào tạo một tên đồ tể giết hại tín hữu Chúa trở nên một tông đồ nhiệt thành, dốc hết tài năng, trí tuệ và tâm huyết của mình để phụng sự Hội thánh Chúa Ki-tô.
Ngoài ra, Chúa Thánh Thần còn tác động nhiều cách khác nhau để giúp cho nhận loại nhận biết và tôn thờ Thiên Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần, Chúa đã đào tạo hung thần Phao-lô, người bắt đạo năm xưa, trở nên vị tông đồ số một, thì xin Chúa cũng đoái nhìn đến chúng con và đào tạo chúng con nên những tông đồ nhiệt thành trong xã hội hôm nay, để chúng con nối gót thánh Phao-lô, không ngại gian nguy khó nhọc, kiên tâm bền chí giới thiệu Chúa cho bao người chung quanh. Amen.
Mỗi khi cử hành Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống hay Ngày Lễ Ngũ Tuần, con thiết nghĩ: chúng HiệnXuống ABC499
Mỗi khi cử hành Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống hay Ngày Lễ Ngũ Tuần, con thiết nghĩ: chúng ta thường hồi tưởng ngày mỗi người chúng ta được hân hoan, vinh dự đón nhận bảy ơn Chúa Thánh Thần qua cử chỉ đặt tay và sức dầu Thánh của Đức Giám Mục Giáo phận. Kế đến, mỗi gia đình sum vầy, quây quần lại với nhau chụp hình với Đức Cha và quý Cha; và theo lệ thường tình, lễ xong thì lạc vì lễ lạc thường đi đôi với nhau mà! Chẳng hiểu thế nào, được nhận bí tích Thêm Sức xong rồi, ông bà và anh chị có cảm nghiệm được ơn Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy tâm hồn chúng ta chăng? Và rồi, chúng ta có can trường, can đảm như được Thần Khí tăng thêm sức mạnh hầu sống chứng tá, sống đạo, thực hành Lời Chúa trong gia đình, nơi chòm xóm, trường học, công sở, và ngoài xã hội chăng?
Đọc lại và suy niệm các bài đọc hôm nay, chúng ta cùng nhau nhìn lại đời sống đức tin, mối tương quan với nhau trong cộng đoàn, và gương làm chứng tá của mỗi người chúng ta mỗi ngày nhé! Trong ngày Lễ Ngũ Tuần, các môn đệ ‘ai nấy đều tràn đầy Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho.’ (x. Cv 2, 4) Thần Khí Thiên Chúa ngự xuống trên các Tông Đồ như lời Chúa Giê-su đã hứa trước khi Ngài lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Một điều chúng ta xác tín rằng: Thần Khí Chân Lý luôn thúc đẩy mỗi người chúng ta biết cộng tác với ơn sủng Ngài, biết ra khỏi con người câu nệ, ấu trĩ, tội lỗi, nhút nhát, v.v..., hơn thế nữa, biết dẹp bỏ những thói quen vô bổ, đam mê trần tục, thói đời dẫn chúng ta đến hư vô. Nhưng còn chúng ta, chúng ta đã biết mở toan cõi lòng đón nhận Thần Khí và dâng trọn con người mình hầu Ngài làm việc, hoạt động qua thân phận yếu hèn của chúng ta như Ngài đã ngự xuống trên các Tông Đồ xưa kia và thực hiện bao điều kỳ công nơi các dân thiên hạ tề tụ tại Giê-ru-sa-lem chăng?
Hơn nữa, Thần Khí Chân Lý này làm chúng ta trở nên nghĩa tử, trở nên con cái Thiên Chúa. Thần Khí mang lại cho chúng ta lòng can trường, can đảm, chứ chẳng phải Thần Khí khiến chúng ta trở nên nô lệ, nhát đảm, sợ sệt (x. Rm 8, 15) như thánh Phao-lô khẳng khái nhắc nhở giáo đoàn Rô-ma. Và nhờ Thần Khí, chúng ta được vinh dự lớn lao, kêu lên “Abba, Cha ơi” như tấm lòng của một người con thảo dâng trọn niềm thành tín, phó thác nơi người cha hết mực thương yêu mình. Một lời kêu lên cùng Chúa Cha ‘Cha ơi’, ‘Bố ơi’ hay ‘Ba ơi’ cho thấy Thiên Chúa cúi xuống, hạ mình chấp nhận thân phận yếu đuối, mỏng dòn của mỗi người chúng ta để nhấc chúng ta lên bậc con cái của Ngài dầu trăm ngàn lần chúng ta bất xứng, hay quay lưng, thờ ơ với tình yêu Ngài dành trọn cho chúng ta qua Cuộc Tử Nạn-Phục Sinh của Con Một Người. Mặc khác, lời gọi đơn sơ ấy còn cho ta thấy rằng: Thiên Chúa không câu nệ, cung cách, phức tạp hay phân biệt giai cấp, phẩm trật, mà Ngài hoà đồng, muốn xây dựng tình liên đới, tình thân thương như mối tương quan khăn khít giữa người cha với đứa con thơ của mình vậy. Chính nhờ Thần Khí Chân Lý chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa (x. Rm 8, 16). Và nhờ Thánh Thần Chúa, bức tường ngăn cách giữa Thiên Chúa và loài người bị vỡ tan. Thay vào đó, khoảng cách ấy được lấp đầy bởi hình ảnh một vị Thiên Chúa như người cha thương yêu dang rộng đôi tay trìu mến, đón nhận, âu yếm và ôm ấp con thơ mình vào lòng. Ngài dẹp tan những hố sâu ngăn cách, những gì làm cản trở mối tình thân da diết này. Còn chúng ta, chúng ta đã can đảm, đón nhận Thần Khí, hầu ta dám dẹp bỏ con người ích kỷ, câu nệ, lòng cao ngạo, thái độ chụp mũ của bản thân mình mà bước tới anh chị em khác, tha thứ, đón nhận họ với cả lòng thành như Thiên Chúa đã gạt bỏ, chẳng màng đến sự bất xứng của ta mà rộng lượng hải hà, bao dung thứ tha, giang rộng đôi tay mời gọi ta trở về với Ngài chưa?
Thần Khí Sự Thật được ban xuống cho chúng ta như một Đấng Bảo Trợ khác như Chúa Giê-su xác tín trong đoạn Tin Mừng hôm nay (Ga 14, 15-16; 23b-26). Chính Thánh Thần Chúa sẽ dạy chúng ta những gì mà Chúa Giê-su đã nói, đã làm: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em...” (x. 14, 26). Vì vậy, mỗi khi chúng nghe lời đồn thổi rằng: có thần khí dạy những điều được cho là mới mẻ nhưng lại khác hoàn toàn, hoặc ngược lại với những lời dạy của Đức Giê-su, thì lúc ấy, chúng ta dám quả quyết: đó không phải là Thần Khí Sự Thật, mà trái lại, đó là thần khí gian tà, mê hoặc, hoặc thần khí thế gian, v.v...Vì vậy, chúng ta phải biết phân định đâu là Thần Khí Chân Lý, và từ đó biết lắng nghe, tuân giữ những gì Chúa Giê-su căn dạy qua Lời Hằng Sống (Lời Chúa), qua Giáo Hội; cũng như luôn can đảm bên vực cho chân lý, cho sự thật.
Sau cùng, chúng ta cùng đồng tâm nhất trí dâng lên Thiên Chúa lời ngợi khen cảm tạ khôn nguôi, và tạ ơn Người đã ban Thần Khí, nguồn Tình Yêu Thần Tính cho chúng ta. Xin Chúa Thánh Thần luôn soi sáng chúng ta biết phân định, bênh vực cho chân lý, sự thật và biết mở lòng, cam đản thực hành những gì Ngài thúc đẩy mỗi người chúng ta trong tư tưởng, lời nói và việc làm.
Lạy Chúa Thánh Thần xin Ngài ngự đến Đốt lửa bừng cháy tình mến trong con Thần Khí Chân Lý dẫn dắt vuông tròn Sống luôn trọn vẹn, đời con xếp vần…. Amen!
Trong kho tàng văn chương Ấn giáo có ghi lại câu chuyện như sau: Có một chàng thanh niên đến HiệnXuống ABC500
Trong kho tàng văn chương Ấn giáo có ghi lại câu chuyện như sau: Có một chàng thanh niên đến thưa với vị thầy tu đắc đạo trên một ngọn núi rằng: “Thưa thầy, trước đây con theo học nhiều đạo rồi nhưng con chưa tìm được chính đạo, con nghe nói Thầy là vị thầy tu đắc đạo, hôm nay con đến đây xin được tầm đạo, mong sau này con cũng tu được đắc đạo như Thầy”. Vị sư cười và nói tôi sẽ nhận anh. Anh chàng thanh niên mừng lắm vui vẻ, sáng sớm hôm sau anh chạy đến nói: “Thưa Thầy, hôm nay bắt đầu học đạo, xin Thầy hãy dạy bảo con đi!” Anh muốn Thầy truyền đạo nhanh như vậy là vì mong được mau đắc đạo càng sớm càng tốt, mau nổi tiếng…” Vị Thầy trả lời: “Hôm nay anh quét nhà, nấu cơm, rửa chén”. Anh thanh niên nghe xong hơi đỏ mặt vì nghĩ rằng mình tới đây học đạo mà, sao Thầy bảo làm chuyện này. Nhưng, anh nghĩ vì tương lai thôi mình tạm làm theo lệnh Thầy, biết đâu ngày mai ổng dạy đạo cho mình. Thế rồi, ngày mai, ngày mốt và ngày kia ngày nào Thầy cũng bảo một câu: quét nhà, nấu cơm, rửa chén. Một hôm, anh chàng thanh niên tức quá nói với Thầy rằng: “Thưa Thầy, con tới đây là để học đạo, để tu cho đắc đạo chứ đâu phải để làm ba chuyện này. Tưởng gì chứ như vậy, con xin bye bye Thầy nhé. Con xuống núi đây. Vị Thầy nói: “Được nhưng trời tối rồi, sáng mai anh xuống cũng chẳng muộn mà. Chàng thanh niên ở lại và sáng sớm mai. Ông Thầy đưa người thanh niên đến một dòng sông. Thầy bảo hai Thầy trò mình xuống tắm cho mát. Thầy trò cùng trầm mình xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát, vị Thầy đưa anh ta ra giữa dòng sông rồi túm lấy anh và dìm xuống nước hồi lâu, cho anh ngộp thở, anh sợ muốn chết và kêu cứu. Vị Thầy đưa anh vào bờ, khi anh ta tỉnh táo Thầy mới hỏi anh: “Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?” Không một chút suy nghĩ, người đệ tử đáp: “Thưa thầy, con cần nhất là hơi thở”. Thầy nói tiếp đấy muốn đắc đạo thì phải có hơi thở của đạo, tức là sống đạo.
Sự sống của chúng ta có là nhờ có hơi thở, mà hơi thở là do Thiên Chúa ban tặng. Cụ thể, Sách Sáng Thế kể: “ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2,7). Rõ ràng, Thiên Chúa đã thổi hơi thở vào Ađam, con người đầu tiên, để Ađam có sự sống. Chúa Giêsu Phục Sinh hôm nay cũng đã lặp lại hành động ấy khi Ngài xuất hiện giữa các môn đệ và thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Nhận lấy Thánh Thần là nhận lấy hơi thở của Thiên Chúa, nhận lấy hơi thở của Thiên Chúa là nhận lấy sự sống của Thiên Chúa, sự sống của Thiên Chúa đó là Thánh Thần là Thần Khí, là Hơi Thở của Thiên Chúa. Cho nên, hơi thở của Thiên Chúa có tên là Thánh Thần ban cho chúng ta không chỉ là hơi thở của thân xác làm cho chúng ta sống mà còn làm cho chúng ta có sự sống của Thiên Chúa đồng thời là dưỡng khí để nuôi sự sống Thiên Chúa trong ta.
Thứ nhất, Chúa Thánh Thần làm cho ta có sự sống thân xác và sự sống của Thiên Chúa ở chỗ nào? Sách Sáng Thế kể thuở tạo thiên lập địa, cả vũ trụ chưa nên hình nên dạng, chưa có sự sống. Trời đất là một khối hỗn mang. Thánh Thần Chúa bay là là trên mặt nước và ban sự sống cho muôn loài trong đó có loài người đầu tiên là Ađam và Eva. Cho nên, Giáo lý Hội Thánh dạy con người được Thiên Chúa tạo dựng nên có xác và hồn. Thân xác chúng ta là do cha mẹ sinh ra, còn linh hồn là sự sống con người được tạo dựng trực tiếp bởi Thiên Chúa chứ không phải do cha mẹ “sinh sản”; vì vậy Hội Thánh dạy chúng ta quý trọng sự sống tự nhiên và sự sống siêu nhiên của mình cũng như của người khác, và do đó, cấm mọi hình thức phạm đến sự sống con người vì chỉ Thiên Chúa là nguồn sự sống và chỉ Ngài có quyền can thiệp vào sự sống (SGLHTCG, số 366). Đó là sự sống thân xác, còn sự sống thần linh, tức là sự sống của Thiên Chúa cũng chính Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta. Cụ thể, trong bí tích Rửa Tội, nước là một biểu tượng nói lên tác động của Chúa Thánh Thần. Nước Rửa Tội thật sự nói lên rằng việc chúng ta được sinh vào đời sống thần linh được ban trong Chúa Thánh Thần. Cho nên, không lạ trong Tin Mừng Gioan kể rằng có một người tên là Ni-cô-đê-mô đến gặp Đức Giê-su ban đêm. Ông nói với Người: "Thưa Thầy, chúng tôi biết: Thầy là một vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến. Quả vậy, chẳng ai làm được những dấu lạ Thầy làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người ấy." Đức Giê-su trả lời: "Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên." Ông Ni-cô-đê-mô thưa: "Một người đã già rồi, làm sao có thể sinh ra được? Chẳng lẽ người đó có thể trở vào lòng mẹ lần thứ hai để sinh ra sao? " Đức Giê-su đáp: "Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3,1-6) Thứ hai, hơi thở của Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần là dưỡng khí nuôi sự sống trong chúng ta ở điểm nào? Bài đọc 1, Sách Công Vụ Tông Đồ kể khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho. Và kể từ khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các tông đồ trở nên khác hẳn. Trước kia các ngài nhút nhát sợ hãi, nay các ngài mạnh dạn hăng hái. Trước kia các ngài chỉ là những ngư phủ thất học, không am hiểu giáo lý, nay các ngài cất tiếng rao giảng Tin Mừng cho mọi người thuộc đủ mọi tầng lớp, mọi chủng tộc. Trước kia các ngài còn nghĩ đến bản thân, tranh giành nhau chỗ cao chỗ thấp, nay các ngài chỉ nghĩ đến Nước Chúa, sẵn sàng hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần đã đổi mới tâm hồn các ngài. Các ngài đã nhận được sự sống mới, sự sống của Chúa, để sống vì Chúa và sống cho Chúa.
Ngày chịu Phép Rửa Tội và Thêm Sức, chúng ta đã nhận được hơi thở của của Chúa Thánh Thần và được Chúa Thánh Thần dưỡng nuôi linh hồn ta qua bảy ơn Chúa Thánh Thần: Khôn ngoan, thông hiểu, lo liệu, sức mạnh, suy biết, đạo đức và kính sợ Chúa. Tuy nhiên có nhiều chỗ trong linh hồn và trong đời sống ta không có sự sống của Chúa Thánh Thần vì tội đã ngăn cản ơn thánh và làm chết đi nhiều phần trong linh hồn. Những dục vọng, đam mê, tham vọng, tinh thần thế tục giống như vi trùng len lỏi vào linh hồn và đời sống đức tin của chúng ta làm cho sự sống của Chúa bị tổn thương và sự sống đời đời của ta gặp nguy hiểm. Nhưng, mỗi người chúng ta ai ai giờ nay cũng có hơi thở của Chúa Thánh Thần thật sự bên trong, Ngài ban cho mỗi người mỗi đặc sủng khác nhau để làm cho đời sống đức tin của mỗi người chúng ta phong phú tràn đầy và toả ra bên ngoài bằng những hoa trái trong cuộc đời mà Thánh Phaolô diễn tả là bình an, hoan lạc, yêu thương, hiền hoà, nhẫn nại, chịu đựng, tha thứ và phục vụ vì lợi ích chung.
Ước gì qua Lời Chúa của ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm nay, xin cho mỗi người mỗi ngày hãy biết hít lấy hơi thở Chúa Thánh Thần qua cầu nguyện nhờ đó chúng ta được Chúa Thánh Thần đến và sống trong ta, hướng dẫn và giúp đời sống đức tin của chúng ta sống một cách mạnh mẽ và dồi dào trong đời sống hằng ngày đồng thời giúp ta biết tẩy bỏ lối sống tội lỗi, lối suy nghĩ, lối cư xử xưa cũ theo tinh thần thế tục, để sống một đời sống mới là sẵn sàng sống và thi hành Lời Chúa dạy và dấn thân phục vụ Thiên Chúa và tha nhân một cách chân tình. Amen.