Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Kính Mình Máu Chúa Kitô ABC Bài 201-250 Dấu Chỉ của Tình Yêu
(Thứ 6 sau lễ MMTC) --------------------------------------- Năm A:
Phúc Âm: Ga 6, 51-59: "Thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống". Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?" Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Ðây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời". - Ðó là lời Chúa.
Năm B:
Phúc Âm: Mc 14, 12-16. 22-26 :“Này là Mình Ta. Này là Máu Ta”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh không men là ngày giết chiên mừng lễ Vượt Qua, các môn đệ thưa Chúa Giêsu rằng: “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua tại đâu?” Người liền sai hai môn đệ đi và dặn rằng: “Các con hãy vào thành, và nếu gặp một người mang vò nước thì hãy đi theo người đó. Hễ người ấy vào nhà nào thì các con hãy nói với chủ nhà rằng: Thầy sai chúng tôi hỏi: ‘Căn phòng Ta sẽ ăn Lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu?’ Và chủ nhà sẽ chỉ cho các con một căn phòng rộng rãi dọn sẵn sàng và các con hãy sửa soạn cho chúng ta ở đó”. Hai môn đệ đi vào thành và thấy mọi sự như Người đã bảo và hai ông dọn Lễ Vượt Qua. - Ðang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: “Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta”. Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông: “Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người. Ta bảo thật các con: Ta sẽ chẳng còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày Ta sẽ uống rượu mới trong nước Thiên Chúa”. Sau khi hát Thánh Vịnh, Thầy trò đi lên núi Cây Dầu. - Ðó là lời Chúa.
Cuối tuần này chúng ta mừng CHÚA NHẬT LỄ KÍNH MÌNH VÀ MÁU THÁNH CHÚA.
Chúng ta nhớ lại: Buổi chiều ngày thứ Năm Tuần Thánh chúng ta đã long trọng kỷ niệm việc Chúa Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể và Truyền Chức Thánh. Hôm nay chúng ta cùng dâng Thánh Lễ kính Mình và Máu Thánh Chúa và suy niệm về Mầu Nhiệm Thánh Thể; cùng cầu xin Chúa ban cho chúng ta được thấu hiểu tình thương vô biên của Chúa trong Bí Tích Thánh Thể và thêm lòng sùng mộ, kính tin.
Các Bài Đọc Sách Thánh:
Bài Đọc 1 (Sách Đệ Nhị Luật 8:2-3, 14-16): Trên con đường dài vất vả tiến về Hứa Địa, Thiên Chúa đã nuôi Dân Chúa bằng Manna. Ngày nay, trên cuộc hành trình đầy khó khăn gian khổ tiến về Nước Trời, Chúa nuôi chúng ta bằng chính Mình và Máu Thánh Chúa hiện diện thật sự trong Hình Bánh và Rượu. Bài Đọc 2 (1 Côrintô 10: 16-17): Thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu hãy duy trì tình hiệp nhất trong yêu thương; vì chúng ta cũng được rước lấy “cùng một Tấm Bánh và Chén Rượu” là Mình và Máu Thánh Chúa. Bài Phúc Âm (Gioan 6:51-58): Chúa Giêsu nhắc đến Manna đã nuôi dân trong sa mạc, và xác quyết “Mình ta thật là của ăn và Máu Ta thật là của uống; ai ăn Mình Ta và uống Máu Ta sẽ được sống đời đời.”
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta thêm đức tin vững vàng nơi Chúa Giêsu ngự thật trong Bí Tích Thánh Thể và chúng ta hãy siêng năng đi dâng Thánh lễ và Rước Mình và Máu Thánh Chúa.
Chúng ta cũng cầu xin cho chúng ta được lòng sùng mộ Chúa Giêsu Thánh Thể: Năng đến chầu Mình Thánh, thờ lậy Chúa Giêsu Thánh Thể. Trên đất nước Hoa Kỳ, hiện nay các Nhà Thờ đều có những giờ Chầu Thánh Thể; cũng có nhiều Nhà Thờ đặt Mình Thánh Chúa để giáo dân thay nhau đến chầu suốt ngày đêm .
Chúng ta cũng nhớ cầu nguyện nhiều xin ơn thánh hóa cho các Linh Mục, các Chủ Chăn, nhất là những vị đang sống giữa chúng ta, hằng ngày dâng Thánh Lễ cho chúng ta. Nhiều người hàng ngày vẫn đọc kinh cầu cho các Linh Mục. Đó là điều rất cần thiết và cần được nhắc nhở.
Xin Chúa thương xót chúng ta, thanh tẩy và thánh hóa chúng ta, gia đình chúng ta . Xin Chúa thánh hóa các Linh Mục, các Chủ Chăn của Chúa và gìn giữ tất cả trong ơn nghĩa Chúa
Xin Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh chuyển cầu cho chúng ta. Amen! Alleluia! Alleluia!
-------------------------------
THÁNHTHỂ-202: THÁNH THỂ: MẦU NHIỆM HIỆP THÔNG VÀ CHIA SẺ
Mc 14,12-16.22-26
1. LỜI CHÚA: "Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy" (Mc 14,22)
Có một đôi vợ chồng trẻ kia mới lấy nhau được mười năm và đã có với nhau một đứa con gái 4 tuổi. Trong thời gian đó họ đã sống rất hòa hợp hạnh phúc. Mỗi ngày trước khi rời nhà đi làm buổi sáng, và chiều tối khi về đến nhà, anh chồng không khi nào quên trao cho vợ và con gái cử chỉ âu yếm kèm theo một lời yêu thương. Nhờ đó tình yêu giữa hai vợ chồng và đứa con thơ ngày một bền vững. Nhưng rồi hạnh phúc của họ đã bị đe dọa khi một hôm người chồng đi làm về bị trúng mưa và được đem đến bệnh viện điều trị. Sau khi khám bệnh, bác sĩ chẩn đoán anh bị ung thư màng phổi ác tính thời kỳ thứ ba. Một tuần sau anh qua đời. Trước khi chết, anh gọi vợ con lại gần và thều thào trăn trối: "Em và con yêu quí! Có lẽ sắp tới giờ Chúa gọi anh về. Anh đã chuẩn bị và sẵn sàng vâng theo ý Chúa. Anh chỉ tiếc một điều là không còn được sống bên em và con nữa. Trước khi đi xa, anh không có gì trối lại cho em ngoài chiếc nhẫn mà vợ chồng mình đã tặng nhau khi kết ước cách đây mười năm. Bây giờ anh xin tặng lại chiếc nhẫn kỷ vật này cho em, để mỗi lần thấy nó, em biết rằng anh vẫn luôn ở bên em và hằng cầu Chúa cho em được hạnh phúc". Nói xong, anh tháo chiếc nhẫn đang đeo và âu yếm xỏ vào tay vợ, giống như trước đây anh đã từng làm trong lễ hôn phối. Nói xong anh ra đi trước sự thương tiếc vô vàn của vợ con. Rồi anh được an táng tại đất thánh gần nhà. Từ đó, mỗi ngày người ta đều thấy một phụ nữ còn rất trẻ, đầu đội khăn tang, tay cầm bó bông, dắt theo đứa con gái còn nhỏ dại đi vào nghĩa trang. Chị ta đứng hằng giờ trước ngôi mộ cỏ mọc chưa xanh của người chồng quá cố để cầu nguyện cho anh. Trên tay chị có đeo hai chiếc nhẫn: Một chiếc của ngày thành hôn và chiếc kia là kỷ vật của chồng tặng trước khi từ giã cuộc đời.
3. SUY NIỆM:
Hơn hai ngàn năm trước đây, Đức Giêsu đã làm một công việc tương tự: Biết rằng "Giờ đã đến, Giờ Con Người phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, và Người đã yêu thương họ đến cùng" (Ga 13,1). Người đã lập phép Thánh Thể, để lại cho Hội Thánh kỷ vật là dấu hiệu của một tình yêu lớn lao tột đỉnh. Kỷ vật đó chính là Mình Máu thánh của Người dưới hình bánh rượu, làm của ăn của uống thiêng liêng để các tín hữu được hiệp thông với Người. Tin Mừng Mác-cô đã tường thuật việc Đức Giêsu lập phép Thánh Thể trong khung cảnh bữa tiệc Chiên Vượt Qua (x Mc 14,22-24), như Người đã hứa trong bài giảng về Bánh Hằng Sống tại hội đường thành Ca-phác-na-um (x. Ga 6,51-58). Vậy Đức Giêsu thiết lập phép Thánh Thể lúc nào? Ý nghĩa cũa bí tích này ra sao? Ngày nay chúng ta phải cử hành bí tích Thánh Thể thế nào để đạt hiệu quả cao nhất?
1) THIẾT LẬP BÍ TÍCH THÁNH THỂ:
Đức Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể trong bữa tiệc Chiên Vượt Qua cũng là bữa ăn cuối cùng trước khi từ biệt các môn đệ để bước vào cuộc khổ nạn, Người sử dụng bánh không men và rượu nho dùng trong bữa tiệc Vượt Qua của đạo Do thái để biến nên Thịt Máu Người, hầu ban cho những kẻ ăn Thịt uống Máu ấy sẽ được sống đời đời. Thánh Mác-cô đã thuật lại câu chuyện Đức Giêsu lập phép Thánh Thể như sau: "Cũng đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra trao cho các ông và nói: Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy. Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông: Đây là Máu Thầy, Máu Giao Ứớc, đổ ra vì muôn người" (Mc 14,22-24).
2) Ý NGHĨA CỦA BÍ TÍCH THÁNH THỂ:
Tin Mừng đã ghi nhận bốn sự kiện liên quan đến bí tích Thánh Thể như sau: Một là phép lạ Đức Giêsu biến nước lã thành rượu nho tại tiệc cưới thành Ca-na, tiên báo về việc biến rượu trở nên Máu Người trong bữa Tiệc Ly sau này (x Ga 2,1-11). Hai là phép lạ Đức Giêsu nhân bánh ra nhiều tại thành Ca-phác-na-um, sau đó Người cho biết sẽ ban Thịt Máu Người làm của ăn của uống thiêng liêng đem lại sự sống đời đời cho ai lãnh nhận (x Ga 6,1-14.32-35.48-58). Ba là bữa Tiệc Ly Vượt Qua, trong đó Người dùng bánh rượu trong tiệc Chiên Vượt Qua để thiết lập bí tích Thánh Thể và truyền cho các môn đệ: "Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy" (Lc 22,14-19). Bốn là Đức Giêsu chủ sự lễ Bẻ Bánh với hai môn đệ tại làng Em-mau, trong đó Người dùng Thánh Kinh rao giảng mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh, đồng thời lặp lại các cử chỉ và lời đọc như trong bữa Tiệc Ly. Từ đó trở thành khuôn mẫu của thánh lễ sau này (x Lc 24,13-32).
Mình Thánh Chúa là món quà quí giá nhất mà Đức Giêsu đã trao tặng cho chúng ta. Người tự hiến trọn vẹn bằng việc ban Thịt Máu Người làm của ăn thức uống để nuôi dưỡng đức tin của chúng ta và để có thể ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế (x. Mt 28,20). Mặc dù trí khôn không thể hiểu thấu mầu nhiệm này, dù giác quan chúng ta không cảm thấy có sự khác biệt giữa tấm bánh trước và sau khi truyền phép, nhưng đức tin dạy chúng ta rằng: Sau lời truyền phép của linh mục Chủ Tế trong thánh lễ thì bánh rượu liền hóa nên Mình Máu Chúa Giêsu dựa vào lời Người đã phán: "Vì Thịt Tôi thật là của ăn, và Máu Tôi thật là của uống. Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy" (Ga 6,54-56). Quả thật, chỉ có trái tim của một người Cha, một người Thầy yêu thương đến tột cùng mới có thể nghĩ ra cách thức trao tặng con cái và môn đệ một món quà vừa thiết thực lại vừa kỳ diệu đến như vậy!
3) HIỆP THÔNG VỚI CHÚA ĐỂ CHIA SẺ VỚI ANH EM:
Sau đây là một số việc các tín hữu có thể làm để đáp lại tình thương của Chúa Giêsu Thánh Thể: Mỗi ngày năng tham dự Thánh lễ và dọn mình lên rước lễ sốt sắng, năng dự giờ chầu Mình Thánh Chúa. Trong ngày chu tòan việc bổn phận, kèm thêm các việc hy sinh bác ái dâng lên Chúa với lời nguyện tắt: "Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể. Con làm việc này như dâng một bông hoa hồng lên Chúa, biểu lộ lòng yêu mến của con. Xin Chúa vui nhận và ban cho một bệnh nhân sớm được lành bệnh, cho một tội nhân sớm được hối cải, cho một người lương sớm được nhận biết và yêu mến Chúa để cũng được hạnh phúc và được sự sống đời đời với con sau này."
4. THẢO LUẬN:
1)Ta cần dọn mình trước và cám ơn sau khi rước lễ thế nào? 2)Ta cần chia sẻ Bánh Thánh Thể cho tha nhân bằng cách nào để góp phần kiến tạo Trời Mới Đất Mới công bình và yêu thương như ý Chúa muốn?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊSU. Bàn tiệc Thánh Thể do Chúa lập ra để giúp chúng con thể hiện tình yêu thương hiệp nhất. Do đó, chúng con cần tránh những hành động ích kỷ và chia rẽ, như Tông đồ Phao-lô đã cáo trách giáo đoàn Cô-rin-thô: "Trước tiên tôi nghe rằng khi họp cộng đoàn, anh em chia rẽ nhau... Khi anh em họp nhau, thì không còn phải là ăn bữa tối của Chúa. Thật vậy, mỗi người lo ăn bữa riêng của mình trước. Và như thế kẻ thì bị đói, người lại no say! Anh em không có nhà để ăn uống sao? Hay anh em khinh Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người không có của?... Cho nên thưa anh em, khi họp nhau để dùng bữa, anh em hãy đợi nhau. Ai đói thì ăn ở nhà, kẻo anh em đến họp mà hóa ra để bị kết án!" (1 Cr 11,18-22.33-34). Vậy xin Chúa giúp chúng con biết hiệp thông với cộng đoàn bằng cách vào nhà thờ dự lễ thay vì đứng bên ngoài, hiệp lời kinh tiếng hát chung cộng đoàn. Sau khi đón nhận Chúa, xin cho chúng con biết chia sẻ Chúa với tha nhân bằng vịệc đi bước trước làm quen những người mới gặp, nhường chỗ tốt cho người già cả tật bệnh và quan tâm cầu nguyện cho những người đang sống bên chúng con.
- LẠY CHÚA. Xin cho chúng con luôn ý thức rằng: "Chúng con phải sống bí tích Thánh Thể", nghĩa là phải trở nên tấm bánh được bẻ ra cho một thế giới mới. Xin cho chúng con ý thức rằng: Đức Giêsu đang ở trong chúng con và cùng hành động với chúng con. Người đang nhờ chúng con đến với tha nhân, để an ủi động viên những người lao nhọc, bênh vực những kẻ cô thế cô thân, mời gọi những kẻ tội lỗi hồi tâm sám hối, chia sẻ cơm bánh cho những ngừơi đói khát, khiêm nhường phục vụ những ngừơi bất hạnh ... Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ được Chúa ban ơn cứu độ trong ngày phán xét sau này.
X. Hiệp cùng Đức Mẹ Maria Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Đoàn kịch nói Kim Cương tuy bây giờ không còn tồn tại, nhưng những vở kịch của đoàn đã đi sâu vào lòng người. Tôi còn nhớ đến vở kịch mang tên Lá Sầu Riêng. Trong đó nói lên tình cảnh của một người đàn bà nghèo trải qua những khó khăn, gian khổ. Bà mới được quyền nuôi đứa con mà mình đã sinh ra. Mẹ góa con côi, bà phải tảo tần hôm sớm để lo cho con được nên người. Khi nó đã trở thành một vị bác sĩ và sắp thành hôn với một cô gái mà nó đã yêu thương. Bất ngờ một hôm vì nhớ con quá, bà mẹ lên thăm con mà không báo trước.
Bà bước vào nhà thấy con không được vui vì đang có cô người yêu hiện diện trong nhà. Bà mới chợt hiểu ra con mình không dám cho người ta biết về nguồn gốc nghèo khổ của mình, nhất là đối với cô người yêu. Chính vì thế anh ta không dám nhận mẹ mình trước mặt người yêu vì dáng vẽ quê mùa nghèo hèn của người mẹ. Anh ta sợ mất người yêu mà đành chối người đã sinh ra và đã hi sinh cả cuộc đời cho mình. Thấy thế, mẹ anh buồn quá mới thốt lên một câu:" Con ơi, nhớ lúc nhỏ, mẹ cho con chỉ một cái kẹo thôi, con cũng vui, nhưng bây giờ, mẹ đã cho con cả cuộc đời mà con cũng không vui được sao?" Lời nói đó đã đánh động đứa con, nó chợt hiểu ra không có gì sánh được với tình mẹ.
Khi nó chấp nhận người mẹ nghèo hèn, đã hy sinh cả cuộc đời cho nó, chẵng những nó có được người mẹ, mà trái lại người yêu nó cũng chấp nhận khi thấy một người sống có nhân nghĩa và có hiếu.
Chúng ta vừa chứng kiến lại một sự kiện lịch sử của sự cho đi, không phải chỉ một cái kẹo hay chỉ một cuộc đời, mà là cả mạng sống. "Đây là Mình Ta. . . Đây là Máu Ta." Ngài không còn giữ lại gì cho Mình, Ngài đã cho đi tất cả. Ngài tự hiến làm của ăn cho những người mà Ngài yêu thương, để nuôi dưỡng họ trong mọi hoàn cảnh. Ngài muốn hòa nhập vào chính cuộc sống của họ để nuôi dưỡng, để thông cảm, để yêu thương và để đem họ về hưởng hạnh phúc với Ngài. Trải qua thời gian, biết bao người đã cảm nhận được Tình Thương bao la đó, nên họ đã được cải hóa để có cuộc sống xứng đáng với những gì họ đã nhận được . Nhưng cũng có không ích người lo sợ, họ sợ mất đi những cái mình đang có, sợ mất đi những cái mình đang tận hưởng được, sợ mất đi chỗ đứng trên trần gian nầy, sợ mất đi những tiền tài danh vọng mà một ngày nào đó nó sẽ phản bội và từ bỏ họ. Thế mà họ lo sợ mất những thứ đó, nên họ tìm cách bám lấy nó, để rồi trong cuộc sống hằng ngày, họ sống mà không cần biết đến Đấng đã từng yêu thương họ, đã từng cho họ cuộc sống an lành, đã dám đổ máu ra và chết vì họ. Họ đã quên Đấng đã cho họ cả cuộc đời, cả mạng sống của mình. "Đây là Mình Ta. . . Đây là Máu Ta, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người. . ."
Chúa Giêsu nói với từng người trong chúng ta như thế. Lời nói đó chúng ta nghe rất thường, chút nữa đây trong thánh lễ chúng ta cũng nghe lại lời nói thâm tình đó. Có lẽ lời nói đó không đủ đánh động tâm hồn chúng ta, nên chưa thay đỗi được con người quá khô cứng này. Lời nói đó cũng không lai động nỗi con tim chúng ta, để nó biết run lên và cảm nhận được tình yêu thương bao của Đấng dám cho chúng ta cả cuộc đời, cả mạng sống của mình.
Như vậy làm sao chúng ta có thể so sánh được với người con trong vở kịch, nó nhìn thấy được những sai lầm của mình và biết sữa đỗi. Còn chúng ta, nghe nhiều quá nên không còn suy nghĩ, không còn có thể thay đỗi được nữa, mặc dù hằng ngày chúng ta vẫn dùng thức ăn của Tình yêu để nuôi sống mình. Nhưng chúng ta đến rước Chúa mà vẫn không một chút ý thức. Nếu mỗi người chịu khó suy tư về những việc mình làm, chịu khó để hết tâm trí vào những gì mình thực hiện, thì công việc của chúng ta sẽ tốt hơn, và vì thế chắc con người của mình cũng sẽ được tốt hơn. Được như thế, Thiên Chúa cũng vui mừng khi nhìn thấy Tình yêu của Ngài đã được đáp trả.
Xin Chúa ban ơn cho mỗi người chúng ta biết nhận ra tình yêu Chúa, xin Chúa cải hóa để chúng ta biết quay trở về với Tình yêu của Ngài.
Trong một dịp gặp gỡ với những bạn bè cùng lới thời phổ thông trung học, thì bất ngờ, một người bạn ngồi bên cạnh đặt câu hỏi như thế này: "Bánh Thánh trên bàn thờ mà mọi người sẽ lên nhận lấy, có phải là Mình Chúa thật sự, hay đó chỉ là một biểu tượng ?" Và con đã trả lời rằng: "Đây là một vấn đề thuộc lãnh vực đức tin. Nếu không cùng một niềm tin, thì làm sao anh có thể chấp nhận được những điều tôi nói."
Thưa anh chị em ! Câu chuyện đã kết thúc một cách ngắn ngủi như vậy. Thế nhưng dư âm của nó thì có thể nói là vẫn còn kéo dài cho tới ngày hôm nay. Và rồi hàng năm, mỗi khi đến ngày lễ này, ngày lễ kính Mình Máu Chúa Kitô, con đều nhớ lại kỷ niệm đó, một kỷ niệm không chỉ đơn giản là một lần tay bắt mặt mừng, mà dường như đó là một cơ hội Chúa gửi đến để giúp mình xác tín mạnh mẽ hơn về sự hiện diện của Chúa trong Bí tích Thánh thể.
Khi còn ở trần gian này, Đức Giêsu đã tuyên bố rằng: "Này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế." Nghĩa là trong tình thương của Chúa, Người sẽ đồng hành với chúnmg ta suốt mọi ngày trong đời sống của mình. Nếu đọc lại lời hứa này trong cái nhìn tâm lý, chúng ta sẽ thấy rằng: Đức Giêsu không thể không hiện diện trong Bí tích Thánh thể được. Bởi vì khi yêu nhau, người ta không bao giờ muốn rời xa nhau. Và nếu vì lý do nào đó mà người ta không thể ở gần nhau được, thì họ sẽ cảm thấy một nỗi trống vắng rất lớn lao, cho nên người ta mới nói rằng:
"Người đi một nữa hồn tôi mất,
một nữa hồn kia đứng dại khờ."
Bước vào trần thế này bằng con đường Tình Yêu: "Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào", Đức Giêsu cũng mang một nỗi niềm như thế. Nghĩa là trong ước mơ của Chúa luôn có bóng hình của chúng ta. Chúa hoàn toàn không hề muốn xa lìa những kẻ Người thương mến, nên đã có lần Người mở miệng kêu xin rằng: "Lạy Cha ! Con muốn rằng: con ở đâu thì những người Cha ban cho con cũng sẽ ở đó với con." Yêu là muốn gần nhau, là muốn đồng hành với nhau.
Người ta không thể cứ ở xa nhau mãi, rồi chỉ gửi biểu tượng đến thay thế cho tình yêu. Như vậy thì làm sao ta có thể nói bánh và rượu trên bàn thờ, mà chút nữa đây tôi sẽ rước lấy, chỉ là biểu tượng của Mình và Máu Chúa Kitô. Vã lại, nếu tấm bánh trên bàn thờ đó không là sự hiện diện thật của Chúa, thì rõ ràng, Người đã không yêu chúng ta bằng con người thật, mà ngược lại, đó chỉ là bóng hình của tình yêu mà thôi.
Mà nếu chỉ là bóng hình thôi thì chắc chắn rằng, tình yêu giữa Thiên Chúa và con người vẫn mãi mãi là một tình yêu dang dở. Hơn nữa, xét trong ý nghĩa: yêu là cho đi tất cả, là cho đi trọn vẹn, thì quả thật, bánh và rượu trên bàn thờ phải thật sự là thịt và máu Chúa. Bởi vì Chúa muốn ở gần với tôi và ở trong tôi, cho nên Chúa không thể và không bao giờ gửi một biểu tượng đến ở với tôi. Chính vì thế mà khi nói rằng: Bánh và rượu trên bàn thờ chỉ là biểu tượng của mình máu thánh Chúa, thì đó mới thật sự là một điều khó hiểu, vì nó hoàn toàn mâu thuẫn với hình ảnh một Thiên Chúa đầy lòng thương xót. Người đã chấp nhận chết trên thập giá để minh chứng tình yêu giữa Thiên Chúa và con người.
Thưa anh chị em ! Phụng vụ Lời Chúa ngày hôm nay xoay quanh một vấn đề rất căn bản: "Đức Kitô chính là tấm bánh mang lại sự sống đời đời cho tất cả những ai tin vào Người". Có lẽ chúng ta cũng vẫn còn nhớ phép lạ vĩ đại mà Đức Giêsu đã thực hiện để nuôi sống hơn năm ngàn người trong nơi hoang vắng. Ngày hôm ấy, liền sau khi dân chúng được no nê thừa thãi một thứ bánh đặc biệt, thì Đức Giêsu giới thiệu cho họ một thứ bánh đặc biệt hơn, cao quý hơn.
Thứ bánh đặc biệt này mới thật sự cần thiết và đem lại sự sống đời đời cho chính họ, đó chính là Mình và Máu Chúa: "Tôi chính là Bánh Trường Sinh. Ai đến với tôi sẽ không hề đói. Ai tin vào tôi sẽ không khát bao giờ". Và hôm nay đây, trong khung cảnh ấm cúng của bữa tiệc ly, bữa ăn cuối cùng với các đồ đệ của mình, Đức Giêsu đã xác nhận một lần nữa khi cầm bánh và rượu trong tay mà đọc rằng: "Này là Mình Thầy, các con hãy cầm lấy. Này là Máu Thầy, Máu Giao ước mới sẽ đổ ra cho nhiều người được ơn tha tội".
Như vậy đức Giêsu đã tìm ra được một phương thế để ở lại với các môn đệ, cũng như là với tất cả những ai tin vào Người, đó chính là Bí tích Thánh thể, Bí tích của tình thương Chúa. Và chắc chắn rằng ai trong chúng ta đang ngồi đây cũng đã tin vào Chúa Giêsu hiện điện trong Bí tích ấy. Thế nhưng chúng ta hãy dành một chút thời giờ để nhìn lại xem: thái độ bên ngoài của chúng ta có ăn khớp với niềm tin của mình không ? Nói khác đi là tôi có kính trọng đủ và coi Bí tích Thánh thể như là một thứ lương thực cần thiết cho đời sống của mình không ?
Bởi vì thực tế đã cho thấy rằng: có khi chúng ta đến với Bí tích Thánh thể, đến với Thánh lễ ngày Chúa nhật một cách gượng ép ngại ngùng. Người ta đi lễ thì tôi cũng đi. Tôi đi lễ vì sợ người ta có một cái nhìn không tốt về tôi. Tôi đi lễ vì sợ ông cha biết mình bỏ lễ ngày Chúa nhật. Vào trong nhà thờ: người ta đứng thì tôi đứng; người ta ngồi thì tôi ngồi; người ta quỳ thì tôi cũng thế; người ta đi rước lễ thì tôi cũng vậy, mà tôi hoàn toàn không có một chút ý thức nào cả. Tệ hơn nữa là tôi đang ở trong tình trạng tội nặng mà tôi vẫn ung dung đi rước lễ như mọi người. Hoặc là ngược lại với thái độ trên, tôi quá kính trọng Mình Thánh Chúa đến độ mà giờ đây thứ lương thực siêu nhiên đó đã trở thành xa lạ với tôi. Tôi luôn cảm thấy mình bất xứng thấp hèn, nên không bao giờ tôi dám đến gần, mà cũng chẳng bao giờ tôi dám rước lấy.
Thưa anh chị em ! Chúng ta cần loại trừ ngay cả hai thái độ ấy trong đời sống niềm tin của mình, bởi vì như lời một Thánh Vịnh đã viết: "Nếu Chúa tôi nhớ hoài sự lỗi, nào có ai chịu nổi được ư". Dĩ nhiên là khi muốn rước Chúa, chúng ta cần phải có một sự chuẩn bị chu đáo, ít ra là theo những điều kiện mà Giáo hội đã chỉ dạy. Thế nhưng việc rước lễ sốt sắng sẽ mang lại cho chúng ta nhiều ơn ích thiêng liêng, mà trong đó, chúng ta sẽ nhận được ơn tha thứ các tội nhẹvà những sức mạnh cần thiết để chúng ta sống cuộc đời này tốt hơn, đẹp lòng Chúa hơn.
Ước mong rằng, cùng với việc tìm kiếm lương thực nuôi dưỡng cuộc sống hàng ngày, mỗi người chúng ta cũng biết sắp xếp công ăn việc làm của mình để tìm đến với Bí tích Thánh thể, với Thánh lễ hàng ngày, hàng tuần bằng tất cả lòng tin tưởng và kính trọng, để lãnh nhận thứ lương thực thiêng liêng, một thứ lương thực mà Chúa đã bảo đảm là sẽ ích lợi và cần thiết cho cuộc sống này và đời sau vĩnh cữu. Đó chính là đều mà chúng ta cùng cầu xin Chúa cho nhau trong Thánh lễ hôm nay.
Trong bữa ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ và nói: Tất cả các con, hãy nhận lấy mà ăn, vì này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con (Ga 20, 22)
Chưa từng có nhà thần học nào dám nghỉ rằng mình hiểu và diển tả đủ về mầu nhiệm BT. Thánh Thể. Thật vậy, miệng lưỡi, tâm trí ta phải " khựng" lại trước mầu nhiệm tình yêu quá cao sâu kỳ diệu này. Trong đời thường, nhiều Kitô hữu lại xem nhẹ Thánh Thể. Nhiều người rước Mình Chúa đều đều, nhưng đời sống chẳng thay đổi bao nhiêu, có khi còn tệ hơn. Có mấy ai nghỉ tại sao Chúa Giêsu lại lập BT.TT trong một bữa tiệc. Thánh Thể liên hệ đến đời sống Kitô hữu thế nào? Chúng ta cùng suy niệm qua bài TM của ngày lễ hôm nay.
a. Mình Máu Chúa Kitô là của ăn nuôi người Kitô hữu: Chính Chúa Giêsu ý thức rõ điều đó, khi nói: " Này là Mình Thầy, này là Máu Thầy hiến ban cho các con ..." Hội Thánh tin vào Lời Chúa Giêsu nói; vì thế, qua 20 tk, Hội Thánh được sống động và tồn tại nhờ thứ lương thực này. Chính Đức Kitô đã nói: " Ai ăn thịt và uống máu Ta, sẽ được sống đời đời " . "Vì thịt Ta thật là của ăn, máu Ta thật là của uống..." (Ga 6, 54-55) "nếu các ông không ăn thịt và uống máu Ta, các ông không có sự sống nơi mình ..." (c. 6, 52).
Những điều Chúa nói trên, hoàn toàn không có tính tượng trưng, hay chỉ là nói theo nghĩa bóng (vì có người ngày nay, cũng không tin vào sự hiện diện của Chúa Kitô trong BT.TT); Thịt và Máu: chỉ toàn diện con người Đức Kitô đã hiến tế trên thập giá; dòng Máu Chúa đổ ra và cái chết của Người, đã ký kết Giao Ước mới vĩnh cửu để cho nhiều người được tha tội, nhất là trở nên của ăn nuôi người tín hữu , ngay ở đời này ...
Một số các thánh được Chúa ban cho đặc ân là: cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa trong BT. Thánh Thể; chính Chúa Giêsu mỉm cười với Cha Thánh họ Ars trong khi ngài dâng Mình Thánh Chúa lên. Bà Têrêsa Newman và Bà Marthe Robin hầu như chỉ sống nhờ Bánh Thánh thể và nước lả trong mấy mươi năm trời.
b. Tiệc Thánh Thể, chính là tái diển Hy Lễ xưa trên thập giá, và ban Thịt Máu mình hiện diện trong bánh rượu làm của ăn nuôi nhân loại "Tiệc TT cũng là bữa Tiệc Hiệp thông trong tình yêu, và trong sức sống của Thiên Chúa; vì thế khi dự Tiệc TT, mức độ hiệp thông càng lớn, ta càng giống Chúa Kitô, càng biến đổi nên như Người, sức sống thần linh càng chiếm ngự trong ta"... Chính đời sống các Thánh qua 20 tk, đã minh chứng hùng hồn cho ta về hiệu quả cuả thức ăn này, và sự hiệp thông trong cuộc sống thần linh với Thiên Chúa.
c. Gợi ý suy niệm:
* Chúng ta giử đạo đã mấy mươi năm, rước Chúa có khi đã mấy ký bánh rồi, vậy mà sự sống đời đời có ngập tràn trong ta chưa? Tình yêu của TC có đầy dẩy trong ta không? Hay ta cũng chẳng có gì khác lạ? Hội Thánh qua 20 tk, đã sống nhờ chính lương thực kỳ diệu này, còn ta thì sao? Nếu chưa có, ta có cách nào sữa đổi, để đón nhận lương thực quá kỳ diệu này?
* đi tham dự thánh lễ chính là để được ăn bánh ban sự sống, để Chúa hiện diện trong ta, cho ta được ngụp lặn trong sự sống thần linh và trong tình yêu Chúa; thế mà bao nhiêu lần ta đi lễ quá nhàm chán, đi lễ cho có, cho rồi, để không lỗi luật ngày Chúa nhật, nhất là đi lễ, rước lễ mà chẳng dọn mình xứng đáng chút nào cả. Hiểu được điều này, ta có nghỉ rằng đây là do lỗi ta, không phải do Thiên Chúa không muốn đến với ta, không muốn yêu thương ta chăng ?
Một hình ảnh dễ thấy nhất đó là cho đến ngày hôm nay, phần lớn càc nhà thờ ở Việt Nam vẫn còn nhiều người đến tham dự thánh lễ. Đó là dấu hiệu đáng mừng. Còn ở phương Tây và nhất là các nước văn minh tiến bộ thì không còn được như thế. Đó là dấu hiệu đáng buồn. Nhưng dù là dấu hiệu mừng hay dấu hiệu buồn thì bên cạnh đó vẫn có một mối bận tâm nào đó đặt ra: Không biết phần đông người ta tới nhà thà thờ dự lễ vì mục đích gì? Lý do gì? Nói cách khác, người ta quan niệm về thánh lễ ra sao. Những người không đi lễ, ít lui tới nhà thờ, họ quan niệm về thánh lễ ra sao. Còn anh chị em , chúng ta quan niệm về thánh lễ thế nào? Vì sợ tội ? Vì đó luật nên phải giữ?
Vì thế Chúa Nhật lễ Mình và Máu Thánh Chúa hôm nay, thiết tưởng đây phải là dịp để mọi người trả lời cho câu hỏi đó. Để đi tìm câu trả lời này, ta hãy bắt đầu bàn đến chính kinh nghiệm đời thường của chúng ta:
Từ một kinh nghiệm về sự hiện diện:
Trong những quan hệ thường ngày, quan hệ vợ chồng, quan hệ gia đình, quan hệ anh em, quan hệ bạn bè. Sự hiện hiện là cần thiết.
Kinh nghiệm cuộc đời nói với ta: trong một lúc náo đó, mình rơi vào nỗi cô đơn, tất cả những lời nói chung quanh đều vô nghĩa. Thế nhưng sự hiện diện của một người thân, một người bạn là cần thiết và quý giá nhất. Người đó có mặt ở đấy với ta, bên cạnh ta để trao đổi, chia sẻ, nâng đỡ, tâm sự,... với ta.Rất cần. Kinh nhgiệm trong tình yêu cũng thế. Hai người yêu nhau. Sự hiện diện bên nhau không cần nói gì với nhau. Chỉ cần anh có mặt, bên cạnh em là đủ rồi.
Đến kinh nghiệm của đức tin:
Ðức Giêsu hứa với các môn đệ: "Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" ( Mt 28,20). Lời hứa đó, không phải là lời hứa suông cũng không phải là m ơ hồ. Lời hứa đó được cụ thể bằng chính sự hiện hiện của Ngài trong mầu nhiệm Thánh Thể.
Ta hãy nghe lại lời Ðức Giêsu đã nói: "... này là Mình Thầy...này là Máu Thầy...".(Mc 14,22-24).Này là mình Thầy. Nghĩa là gì? Nghĩa là Thầy không phải hiện diện với các con nh ư một Đấng vô hình nữa. Mà đây này: Mình của Thầy, Thân Xác của Thầy đây này. Thầy đang có mặt giữa anh em, với anh em.
Các môn đệ trong buổi ban đầu của Giáo hội đã có kinh nghiệm đó. Thánh Luca thuật lại kinh nghiệm của hai môn đệ trên dường về Emmaus: "Họ đã nhận ra Người thế nào khi người bẻ bánh" ( Lc 24,35). Như thế các môn đệ đã nhận ra Chúa qua cử chỉ bẻ bánh. Cử chỉ bẻ bánh là gì nếu không phải là một cử hành mầu nhiệm Thánh Thể? Nếu không phải là Thánh lễ?
Và kinh nghhệm của chúng ta:
Kinh nghiệm của chúng ta là kinh nhiệm của cầu nguyện và gặp gỡ. Nếu ai có kinh nghiệm chầu Thánh Thể, cầu nguyện trước Thánh Thể thì họ sẽ có kinh nghiệm về sự hiện diện của Chúa Giêsu. Dấu hiệu của sự hiện diện đó là tâm hồn họ được bình an. Họ cảm nhận được sự nâng đỡ, được chia sẻ và được cảm thông. Đó cũng là kinh nghiệm của các nhà thần bí, của các tu sĩ sống đời chiêm niệm.
Vì thế, nếu anh chị em và các bạn đồng ý với tôi về những suy nghĩ này , thì xin anh chị em và các bạn đừng bao giờ nói rằng: sao tôi chẳng thấy Chúa trong phép Thánh Thể, cũng chẳng gặp được Chúa trong đời thường? Mà phải hỏi ngược lại: Sao Chúa Giêsu trong mầu nhiệm Thánh Thể chẳng thấy tôi? Vì tôi có đến với Ngài đâu mà Ngài thấy tôi!
Tất cả những chia sẻ này, chỉ muốn nói một điều này thôi: để có kinh nghiệm về sự hiện diện của Chúa ta cần có những phút giây có mặt bên Thánh Thể Chúa, nhất là trong Thánh lễ. Chính giây phút đó ta sẽ khám phá ra Chúa Giêsu đang có mặt ở đấy.
Đã đến thời điểm Đức Giêsu phải sát tế chính bản thân mình làm lễ hy sinh toàn thiêu để thờ phượng Thiên Chúa và đền tội thay cho toàn thể nhân loại. Thời điểm ấy trùng vào dịp mừng lễ Vượt qua hàng năm của người Do-thái. Và cũng nhân dịp này Đức Giêsu lập bí tích Thánh Thể, ngay trong bữa tiệc mừng lễ Vượt Qua với các tông đồ. Sự trùng hợp giữa ba biến cố này - lễ Vượt Qua, việc lập bí tích Thánh Thể, và cuộc tử nạn phục sinh của Đức Giêsu - ắt phải có một ý nghĩa rất lớn, và ba biến cố này ắt phải liên hệ với nhau rất mật thiết. Chúng ta hãy tìm hiểu.
2. Lễ Vượt Qua của người Do-thái
Đại lễ này bắt nguồn từ biến cố Thiên Chúa giải phóng dân Do-thái khỏi ách thống trị của Ai Cập, xảy ra trước Đức Giêsu khoảng 1250 năm (x. Xh 7,8-15,21). Nhờ sự can thiệp giải phóng của Thiên Chúa, dân Do-thái được vượt từ cảnh nô lệ qua tự do. Đức Giêsu cũng đến để giải phóng con người, làm cho họ vượt từ ách nô lệ tội lỗi và ma quỉ qua tình trạng tự do của con cái Thiên Chúa, từ tình trạng chết trong tội lỗi qua tình trạng sống trong ân sủng, từ đau khổ qua hạnh phúc. Ngài thực hiện sự giải phóng đó bằng cả cuộc đời của một vị Thiên-Chúa-Nhập-Thể, đặc biệt bằng cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài. Cuộc tử nạn và phục sinh này cũng là một cuộc vượt qua: vượt từ cõi chết qua cõi sống, từ tình trạng hay hư nát qua tình trạng bất diệt. Như vậy, cuộc vượt qua của dân Do-thái qua Biển Đỏ là biến cố đi trước làm hình bóng hay ẩn dụ cho cuộc vượt qua của Đức Giêsu, cũng là cuộc vượt qua của những ai tin vào Ngài: vượt từ cảnh nô lệ tội lỗi qua cảnh tự do của con cái Thiên Chúa. Vì thế, việc Đức Giêsu chọn thời điểm mừng lễ Vượt Qua để thực hiện cuộc tử nạn và phục sinh của mình bao hàm một ý nghĩa hết sức sâu xa.
3. Hy tế toàn thiêu và hy tế chiên vượt qua
Để cứu chuộc và giải phóng nhân loại, Đức Giêsu phải trả giá bằng đau khổ tột cùng và chết thê thảm như một của lễ vật bị sát tế dâng lên Thiên Chúa. Để hiểu được sự đau khổ và cái chết của Đức Giêsu là một hy tế thờ phượng Thiên Chúa Cha và đền tội nhân loại, và để hiểu được việc lập bí tích Thánh Thể như một của ăn tâm linh mà Đức Giêsu để lại khi bị sát tế như một lễ vật, chúng ta cần hiểu ít nhiều về lễ hy sinh toàn thiêu và lễ sát tế chiên Vượt Qua của người Do-thái.
Ngày xưa - ít nhất kể từ ông Nôê trở về sau (x. St 8,20) - dân Do-thái thờ phượng Thiên Chúa bằng cách dâng lên Ngài những hy lễ toàn thiêu. Theo tập tục được đặt ra sau này từ thời Môsê, thì người muốn dâng hy lễ toàn thiêu phải đặt tay trên con vật khi nó bị giết để nói lên mình là người chủ muốn dâng lễ vật ấy. Vị tư tế lấy máu của con vật rẩy quanh bàn thờ. Rồi con vật được chặt ra thành mảnh. Vị tư tế đặt các mảnh thịt lên bàn thờ để thiêu hủy hoàn toàn, chứ không phải thiêu cho chín để sau đó đem ăn. Ý nghĩa của lễ toàn thiêu là con người muốn biểu lộ sự toàn phục của mình đối với Thiên Chúa, là Chúa Tể của vũ trụ, có toàn quyền sinh sát trên toàn thể tạo vật. Đáng lẽ con người phải tự sát tế chính mình, nhưng nếu như thế, con người sẽ phải chết, là điều Thiên Chúa không muốn. Vì thế, con người dùng một con vật nào đó tượng trưng cho sinh mạng của mình để giết và thiêu cháy hoàn toàn. Điều này muốn nói lên lòng thành của con người, không tiếc với Thiên Chúa điều gì, vì tất cả đều thuộc về Ngài. Lễ vật toàn thiêu vừa để thờ phượng và tạ ơn Thiên Chúa, vừa để đền tội và xin ơn cho mình.
Nhưng trước ngày giải phóng dân Do-thái khỏi ách nô lệ Ai Cập, Thiên Chúa truyền dạy một hình thức sát tế mới được thực hiện vào các dịp đại lễ Vượt Qua hàng năm. Cách hy tế mới khác với cách cũ ở chỗ: trong hy tế cũ - tức hy lễ toàn thiêu - thì lễ vật bị thiêu hủy hoàn toàn, còn trong hy lễ Vượt Qua thì lễ vật cũng bị sát tế, nhưng bị không thiêu hủy hoàn toàn: thịt con vật chỉ được nướng lên để sau đó con người ăn nó (xem Xh 12,3-14). Trong nghi thức sát tế mới này con người cũng được dự phần vào lễ vật, và lễ vật trở thành của ăn nuôi dưỡng con người. Đây chính là hình bóng hay ẩn dụ cho bí tích Thánh Thể mà Đức Giêsu thiết lập vào dịp này.
4. Cuộc tử nạn của Đức Giêsu với hy lễ Thánh Thể
Cuộc tử nạn của Đức Giêsu chính là một hy lễ dâng lên Thiên Chúa Cha. Trong hy lễ này, Ngài vừa là chủ dâng, vừa là tư tế, vừa là lễ vật. Bình thường ba khoản này khác nhau; tuy nhiên, cũng có thể chủ dâng cũng là tư tế, nhưng cả hai người ấy dường như không bao giờ lại là lễ vật. Vì lễ vật là đối tượng bị giết, chịu đau khổ và chết thay cho chủ dâng hay thay cho kẻ có tội phải đền mạng. Trong hy lễ toàn thiêu này, Đức Giêsu tự nguyện làm lễ vật bị sát tế, chẳng những để thờ phượng và tạ ơn Thiên Chúa thay cho con người, mà còn để đền tội cho toàn thể nhân loại, đồng thời xin ơn tha thứ cho họ. Sự tự nguyện khủng khiếp này chỉ có thể phát xuất từ tình yêu cao cả đối với Thiên Chúa và toàn thể con người, đồng thời từ sự toàn phục đối với Thiên Chúa Cha.
Nhưng hy lễ này, Đức Giêsu không muốn thực hiện theo kiểu hy lễ toàn thiêu, trong đó lễ vật hoàn toàn bị thiêu hủy. Kiểu hy tế ấy biểu hiện tính « vì Thiên Chúa» một cách triệt để. Ngài muốn thực hiện hy lễ của Ngài theo kiểu hy lễ chiên vượt qua, trong đó lễ vật ngoài việc dâng hiến cho Thiên Chúa, còn trở nên của ăn cho con người. Kiểu hy tế này mang tính hai chiều: vừa «vì Thiên Chúa» mà cũng vừa «vì con người ». Đó là hai chiều kích căn bản trong việc nhập thể của Ngài và trong Giao Ước Mới do Ngài thiết lập. Khi tự nguyện làm lễ vật bị giết, Ngài chọn chết trên thập giá - là bàn thờ của hy tế này - được cấu tạo bằng hai chiều ngang và dọc, tượng trưng cho hai chiều kích căn bản ấy.
5. Tình yêu Đức Giêsu dành cho con người
Vì thế, trước khi ra đi chịu tử hình thập giá, tự nguyện làm « Con Chiên Vượt Qua» bị sát tế, Đức Giêsu đã lập phép Thánh Thể để lễ vật bị sát tế ấy là chính Ngài trở nên của ăn tâm linh nuôi dưỡng con người. Tôi thật xúc động khi nghĩ đến điều này. Ngài vốn là Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa, nhưng Ngài lại yêu thương con người chúng ta vô hạn. Tình yêu của Ngài đối với chúng ta là một đối trọng cho tình yêu của Ngài đối với Thiên Chúa. Và chính Thiên Chúa cũng hài lòng khi thấy Con mình biết chia sẻ cho nhân loại tình yêu mà đáng lẽ phải dành trọn vẹn cho mình. Tại sao? Chính vì Thiên Chúa cũng yêu thương con người. Điều này có phần nào tương tự như người chồng đòi hỏi người vợ phải dành trọn vẹn tình yêu và sự trìu mến cho mình, nhưng lại rất hài lòng khi thấy vợ mình chia sẻ tình yêu và sự trìu mến ấy cho con cái, vì chính người chồng cũng yêu thương con cái không kém gì người vợ. Như vậy, Ba Ngôi Thiên Chúa đã chia sẻ cho chúng ta tình yêu mà đáng lẽ các Ngài phải dành trọn vẹn cho nhau. Điều đó chúng ta thấy được nơi Đức Giêsu.
Ngài đến thế gian không chỉ nghĩ đến việc thi hành thánh ý Chúa Cha, đến việc biểu lộ tình yêu, sự vâng phục đối với Chúa Cha, mà còn nghĩ rất nhiều đến con người, đến việc sáng kiến ra những điều Ngài có thể làm cho con người. Ngài yêu con người, chắc chắn không chỉ vì con người là tạo vật của Thiên Chúa được nâng lên hàng con cái Ngài, mà còn vì thấy con người rất đáng thương, quá đau khổ do tội lỗi. Càng chia sẻ đau khổ với con người, càng cảm nghiệm được sự dày vò khó chịu của đau khổ, Ngài càng yêu thương con người hơn. Tình yêu đầy tính cảm thông đó khiến Ngài không chỉ đau khổ và chết thay cho chúng ta, mà còn mà trở nên của ăn để nuôi dưỡng chúng ta, để ở lại với chúng ta, để có thể ban sức mạnh thần thiêng cho chúng ta, để đời sống chúng ta nên mạnh mẽ, hạnh phúc hơn.
6. Áp dụng tinh thần yêu thương của Đức Giêsu vào đời sống
Thiên Chúa cảm thông và yêu thương chúng ta như vậy, lẽ nào chúng ta lại không cảm thông và yêu thương nhau? Tình yêu của Đức Giêsu có hai chiều kích: yêu Thiên Chúa và thương con người, lẽ nào chúng ta cùng là con người với nhau lại chỉ quan tâm đến Thiên Chúa mà không quan tâm đến nhau? Là một Thiên Chúa yêu thương, chắc chắn Ngài muốn chúng ta yêu thương nhau, quan tâm đến nhau hơn là quan tâm đến Ngài. Tại sao? Vì những người chung quanh chúng ta cần tình yêu và sự quan tâm của chúng ta hơn Ngài rất nhiều. Ngài là Thiên Chúa - Đấng không thiếu thốn sự gì và cũng không hề ích kỷ - Ngài không cần tình yêu và sự quan tâm của chúng ta cho bằng những người chung quanh đang sống với chúng ta. Tại sao chúng ta lại quá quan tâm tới Ngài mà bỏ rơi anh chị em mình? Trong thực tế, chính khi ta yêu thương và quan tâm đến anh chị em mình, là chúng ta yêu mến Thiên Chúa. Nếu yêu mến Thiên Chúa thì hãy bắt chước Đức Giêsu: chẳng những chấp nhận chịu khổ để anh chị em mình đỡ khổ, mà còn trở nên «của ăn» cho anh chị em mình nữa.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu là Thiên Chúa mà lại yêu thương con người như vậy, đang khi chúng con cùng là con người với nhau, cùng chịu đau khổ như nhau, mà chúng con lại không thông cảm với nhau, không yêu thương nhau, không quan tâm tới nhau. Chúng con quá ích kỷ, tình yêu của chúng con quá nghèo nàn. Xin Cha hãy ban tình yêu cho chúng con .
Giáo Hội hôm nay hân hoan mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Trong niềm vui được làm con cái Chúa, toàn thể dân Chúa quỳ gối, phủ phục trước một bí tích vô cùng cao cả: Bí Tích Thánh Thể. Đây là bí tích lớn lao đã làm cho tất cả mọi người phải suy phục tôn kính vì chính Đức Kitô đã hiến thân chịu chết để cho con người được sống và được nuôi dưỡng bằng chính Thịt Máu của Ngài. Tìm hiểu ý nghĩa của lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô là mục đích chính của chúng ta hôm nay.
Đọc lại Tin Mừng, chúng ta hiểu được một cách rất rõ ràng: "Chính Chúa Giêsu đã lập Bí Tích Thánh Thể vào chiều thứ năm tuần thánh ". Quả thực, biến cố chết của Chúa không chỉ có ý nghĩa cứu chuộc một lần rồi hết, nhưng ngang qua biến cố tử nạn phục sinh của Ngài, Chúa Giêsu đã để lại cho các môn đệ và cả nhân loại một bí tích cao cả, quí hơn mọi sự trên trần gian này: Ngài đã để lại cho nhân loại bí tích tình yêu, Ngài đã lấy chính Mình Máu của Ngài để nuôi sống nhân loại. Soi chiếu lại biến cố vĩ đại ấy, bài sách xuất hành cho thấy ông Môsê đã dựa theo các tập tục phổ quát trong toàn cõi Trung Đông, dùng máu của con bò tơ rảy trên hy lễ để nói lên ý nghĩa của giao ước giữa Thiên Chúa và dân của Người. Chúa Giêsu dùng chính ngôn ngữ của ông Môsê đã dùng để kêu mời các môn đệ dùng bữa tiệc thánh đầu tiên:" Đây là Máu của giao ước". Tuy nhiên, thư của thánh Phaolô gửi tín hữu Do Thái cho biết Giao ước mới và vĩnh cửu này sẽ được chính Máu Đức Kitô đóng ấn. Chúa Giêsu đã lập nên bí tích tình yêu, bí tích lớn lao,cao quí khiến nó có sức mạnh nuôi sống con người về mặt linh thiêng và cả về phần xác nữa. Chúa Giêsu vào chiều thứ năm tuần thánh, đã tụ họp các môn đệ lại và trong khi dùng bữa với họ, Ngài đã lập bí tích thánh thể cho con người muôn thời được hưởng nhờ. Công bố bữa tiệc ly cuối cùng, Chúa Giêsu đã để lại bí tích thánh thể:" Đương lúc họ ăn, thì Đức Giêsu cầm lấy bánh và chúc tụng rồi bẻ ra và ban cho họ,Ngài nói:" Hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Ta. ( Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối ), Ngài cầm lấy chén và tạ ơn, Ngài ban cho họ và nói rằng:" Hãy uống chén này hết thảy. Vì này là Máu Ta, Máu giao ước đổ ra vì nhiều người để nên ơn tha tội:"Hãy làm việc này mà nhớ đến Ta".( Mt 26, 26-29; Mc 14, 22-25; Lc 22,19-22 ). Chúa Giêsu đã để lại cho nhân loại một bí tích lớn lao khiến mọi người được thừa hưởng chính Mình và Máu Thánh Chúa. Đó là hồng ân, là niềm tin mà mọi người Kitô hữu đều phải tuyên xưng.
Thánh Phaolô cũng minh chứng về bí tích Chúa Giêsu đã lập ra, Ngài nói:" Chúa Giêsu trong đêm Ngài bị nộp, Ngài đã cầm lấy bánh và tạ ơn xong, Ngài đã bẻ ra mà nói: Này là Mình Ta vì các ngươi, hãy làm sự này mà nhớ đến Ta. Cũng vậy, về chén, sau khi đã dùng bữa ăn tối xong, Ngài nói: Chén này là giao ước mới trong máu Ta, các ngươi hãy làm sự này mỗi khi uống, mà nhớ đến Ta. Vì mỗi lần anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan báo sự chết của Chúa, cho tới lúc Ngài đến ( 1 Co 11, 23-26 ). Thánh Phaolô gọi là hiệp thông, vì mọi người đều thông hiệp vào một bánh và một chén rượu là Máu Đức Giêsu Kitô.
Là con cái Thiên Chúa, chúng ta cùng hiệp thông vào một bánh tức là Thân Mình và Máu Chúa Kitô. Đó là sự thông hiệp kỳ diệu trong tình thương của Chúa. Bí tích Chúa lập ra là bí tích tình thương, vì tình thương con người được liên kết trong một thân thể của Chúa. Mầu nhiệm chết và sống lại của Chúa có ý nghĩa làm cho con người được hòa hợp, liên kết trong tình yêu của Chúa. Đức Giêsu Kitô đã nối kết mọi người trong một thân thể của Chúa. Ngài là đầu và mọi người đều là chi thể của Chúa Giêsu. Ngài ước nguyện cho mọi người nên một như Cha ở trong Ngài và Ngài ở trong Cha. Trong niềm tin vì có Chúa là Cha, có Chúa nuôi dưỡng con người bằng chính Thân xác và Máu của Ngài. Chúng ta được sống trong hạnh phúc vì có Chúa nuôi dưỡng ta: Chúa là Mục Tử, có Chúa chăn nuôi ta, ta chẳng thiếu thốn gì ( Tv 21 ). Lời của Chúa thật là xác đáng và an ủi biết bao ! Do đó, hiến lễ tạ ơn Chúa để lại cho ta trong bữa tiệc thánh làm cho ta cảm thấy được hạnh phúc hân hoan. Là Chúa, Chúa đã chẳng ở trên cao xa vời ta, nhưng hằng hiện diện trong bí tích Thánh Thể, trong bữa tiệc thánh hằng ngày khi linh mục dâng hiến lễ tạ ơn, Ngài hiện diện trong nhà chầu hằng giây hằng phút. Ta được thông dự vào tiệc thánh là thông phần vào chính sự sống của Chúa Giêsu, vào chính con người đầy tình yêu của Ngài.
Ta hãy sống xứng đáng để mỗi lần khi tham dự thánh lễ, ta được dự phần vào bữa tiệc thánh đầy hân hoan và đầy sự sống của Chúa. Trong niềm tin vào Chúa Giêsu, Đấng yêu thương và Đấng luôn bênh vực chở che ta, ta hãy vững bước hiên ngang và tin tưởng vào Thiên Chúa. Ước gì Mình Máu Thánh Chúa Giêsu là nguồn lương thực linh thiêng cho mọi người chúng ta hằng ngày và nhất là suốt cả cuộc sống của đời chúng ta.
Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ nhị trong Năm Thánh Mân Côi (năm 2003) đã suy tư, chiêm niệm và dọn cho gia đình Giáo hội một bữa tiệc tinh thần thịnh soạn, đó là công bố mầu nhiệm Năm Sự Sáng, để từ đó, đời sống tinh thần của Giáo hội thêm phong phú nhờ hằng suy niệm những mầu nhiệm cực thánh này. Sở dĩ nói đến mầu nhiệm Mân Côi này là bởi vì trong đó, mầu nhiệm cuối nói đến việc Chúa Giêsu thiết lập bí tích Thánh Thể- mầu nhiệm Mình và Máu Chúa mà toàn thể Giáo hội mừng kính hôm nay. Chúng ta cùng nhau suy chiêm mầu nhiệm cực trọng này.
Chúng ta biết, Tin mừng Nhất lãm và thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô của Thánh Phaolô đều cho biết việc Chúa Kytô lập bí tích Thánh Thể trong bối cảnh trước lúc Chúa chịu khổ hình để vâng theo thánh ý Chúa Cha. Và vì thế, trình thuật về việc Chúa lập bí tích cực thánh này được các tác giả Tin mừng ghi lại rất xúc tích, được chia làm hai phần rõ ràng.
Trước hết, cũng như Mátthêu và Luca, Máccô biến bữa ăn cuối cùng của Chúa Giêsu với các tông đồ trở nên một bữa Tiệc Vượt qua của chính Chúa. Đó chính là ý nghĩa của câu hỏi mà các tông đồ đã hỏi Thầy mình. "Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt qua ở đâu?". Chúng ta lưu ý từ "dọn cho Thầy". Bởi theo các nhà chú giải Kinh thánh, "dọn cho Thầy" cũng có nghĩa là ăn tiệc Vượt qua của Thầy hay chính Thầy là tiệc Vượt qua. Như thế, tác giả Tin mừng cho thấy, bữa tiệc này không chỉ đơn thuần là một bữa tiệc chia tay, mà còn bao hàm một ý nghĩa thánh thiêng, một ý nghĩa phượng tự.
Chúa Giêsu dường như "thấy trước" những gì xảy ra như Người đã chỉ cách tỉ mỉ cho các ông cách thức đi vào thành, gặp người mang vò nước như thế nào, rồi một ám hiệu để cho biết đích thực việc Chúa sẽ thực hiện. "Thầy nhắn: căn phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt qua với các môn đệ của tôi ở đâu?". Như đã nói ở trên, một bữa tiệc không đơn thuần là ăn với uống, mà còn bao hàm ý nghĩa tinh thần, vì thế việc chuẩn bị chu đáo cho bữa tiệc cực thánh này quả là điều cần thiết
Trong bữa tiệc đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu lặp lại hai cử chỉ đúng theo nghi thức của người Dothái để mở đầu và kết thúc bữa tiệc. Theo truyền thống, bữa tiệc được bắt đầu khi chủ nhà cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng: "Đây là chiếc bánh lầm than mà cha ông chúng ta đã phải ăn khi ra khỏi ai cập" (Đnl 16,3), rồi bẻ ra trao cho mọi người. Khi ăn miếng bánh này, dân Dothái cho rằng đó chính là quà tặng của Giavê Thiên Chúa dành cho họ. Họ đón nhận chúng trong tâm tình cảm tạ tri ân. Vào cuối bữa ăn, chủ tiệc cầm chén rượu thứ ba, nâng lên đọc lời chúc tụng, kêu mời mọi người tạ ơn theo nghi thức: "Nào ta hãy tạ ơn Chúa, Người đã nuôi dưỡng ta no thoả". Mọi người đáp: "Chúc tụng Đấng đã dùng sự phú túc nuôi dưỡng ta và dùng lòng nhân hậu làm cho ta được sống". Sau đó tất cả đồng thanh hát kinh "Chúc tụng" để tạ ơn vì Giavê đã thương đoái; đồng thời cầu nguyện cho sự thịnh vượng của thành thánh Giêrusalem. Rồi mọi người chia nhau uống chén rượu này.
Khi làm lại những nghi thức của dân tộc Dothái, Chúa Giêsu đã mặc cho nghi thức này một bộ mặt hoàn toàn mới, mang ý nghĩa linh thánh và đặt chúng trong tương quan với mầu nhiệm Phục sinh của Người. Ý nghĩa đó là gì?
"Này là Mình Thầy" (Hoc est corpus meum) và "Này là Máu Thầy" (Hoc est calix sanguinis mei), chính là mầu nhiệm của bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu muốn trao ban cho con người làm của ăn của uống. Đây còn là tặng phẩm Thần linh mà Chúa Cha ban tặng cho loài người để nhờ đó, con người được tham dự vào chính sự sống Thần linh với Thiên Chúa. Như thế, khi thiết lập bí tích Thánh Thể để qua đó, dân Chúa được hưởng dùng chính Mình và Máu Chúa Kytô, Thiên Chúa muốn quy tụ, mời gọi và đón nhận mỗi người chúng ta vào dự Tiệc với Người. Bữa tiệc đó rất cụ thể, rất sinh động và sinh muôn ơn ích. Bàn tiệc mà chúng ta tham dự không đơn thuần là một bữa tiệc thông thường, mà là một bữa Tiệc Sự Sống của Thiên Chúa. Thiên Chúa mời gọi chúng ta đến kín múc nơi bàn tiệc Thánh Thể để toàn thể con người chúng ta qua việc lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa Kytô, chúng ta được hiệp thông cách trọn vẹn với Thiên Chúa, được sống chính đời sống Thần linh của Thiên Chúa. Bí tích Thánh Thể còn là một lời mời gọi chúng ta can đảm lên đường, đến với thế giới đang chia rẽ, đến với đồng loại đang đói nghèo, đau khổ, bệnh hoạn tù đày để liên kết, an ủi, nâng đỡ và cưu mang họ.
Tạ ơn Chúa đã ban tặng cho nhân loại bí tích cực thánh. Tuy nhiên, vì tầm quan trọng của việc lãnh nhận linh dược vô giá này, mà Giáo hội đòi buộc mọi tín hữu cần chuẩn bị tâm hồn thật sốt sắng, nếu không, hậu quả sẽ khôn lường. Điều này được thánh Phaolô ghi lại rất rõ ràng. "Bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa... Ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa là ăn và uống án phạt mình" (1 Cr 11, 27.29). Xin cho mỗi Kytô hữu ý thức điều trọng yếu này để không ngừng chuẩn bị tâm hồn thật sốt sắng và tinh tuyền để lãnh nhận cách xứng đáng Mình và Máu Chúa Kytô.
Theo một thống kê gần đây của viện Gallup thì đã có nhiều người Công giáo vẫn còn hoặc hoài nghi hoặc lẫn lộn về Chúa thực sự hiện diện trong hình bánh và rượu sau lúc truyền phép và ngay cả khi lên rước lễ.
Sự hoài nghi cũng chẳng là điều gì phải ngạc nhiên nhiều cho lắm. Thực thế, cách đây hơn 900 năm, một linh mục trẻ tên là Berengarius đã phủ nhận bánh ruợu đã trở thành Mình Máu Thánh Chúa sau khi truyền phép nói rằng sự thay đổi chỉ xảy ra trong tâm trí của con người mà thôi.
Nếu có những người cố tình phủ nhận thì cũng có rất nhiều người cổ động việc sùng kính mầu nhiệm rất cao cả này. Thánh Anthony thành Pađua mà Giáo Hội kính nhớ vào ngày 13/6 mỗi năm là một trong những vị thánh có lòng tin mãnh liệt vào Thánh Thể Chúa.
Chuyện kể rằng có một ông phú hộ kia thách thức bằng cách để một con lừa bị bỏ đói lâu ngày trước một bó rơm và xin Thánh nhân để Thánh Thể Chúa cạnh bên. Con lừa vội chạy ngay lại bó rơm ngửi ngửi rồi kinh ngạc làm sao, sụp bốn chân đầu cúi xuống trước hào quang Thánh Thể Chúa. Chuyện nghe có vẻ buồn cười và khó tin, nhưng như thánh Louis de Monfort nói "khi nghe chuyện về các thánh, hãy tin" vì không có gì là không thể với Thiên Chúa.
Lòng tôn sùng Thánh Thể Chúa đuợc thể hiện một cách cụ thể sống động qua không ai khác hơn là Mẹ Maria. Năm 1800, Mẹ đã hiện ra cùng Thánh Peter Julian Eymard -vị Thánh với biệt danh là Tông Đồ Thánh Thể vì lòng đặc biệt yêu kính Thánh Thể và truyền cho Thánh nhân thành lập một hội dòng chỉ để tôn sùng Thánh Thể Chúa. Đến tháng 5 năm 1856, đuợc sự hổ trợ của Đức Cố Giáo Hoàng Piô thứ 9, Thánh nhân đã thành lập Dòng Thánh Thể để cổ động việc tồn sùng Thánh Thể Chúa trên toàn thế giới.
Nếu những người phàm trần như Mẹ Maria đã trở thành Mẹ Thánh Thể và Thánh Peter Julian Eyward là Tông Đồ Thánh Thể thì mỗi chúng ta cũng đuợc kêu mời trở thành chứng nhân Thánh Thể Chúa.
Khi Mẹ thốt lên hai tiếng "Xin Vâng", Mẹ đã trở thành nhà tạm đầu tiên của Thiên Chúa. Cũng thế, mỗi khi "ăn bánh và uống chén này", chúng ta phải trở thành nhà tạm Thánh Thể Chúa, nghĩa là chúng ta phải cùng chết với Đức Kitô để có thể đuợc sống lại vinh hiển với Người. Chữ 'Amen' phải thưa khi rước lễ có ý nghĩa là chúng ta tin tấm bánh kia chính là Mình Thánh và giọt rượu kia chính là Máu Thánh Chúa. Vì thế, ngoài việc bày tỏ thái độ tuyệt đối tôn kính nghiêm trang khi lên ruớc lễ, chúng ta phải luôn tự nhắc nhở rằng khi Thiên Chúa đã trở thành hy lễ thì mỗi chúng ta cũng phải trở nên của lễ hiến tế cho Người. Và cho tha nhân.
Nói một cách khác, trong Cựu Ước chiên bò là của lễ hy tế nhưng trong Tân Ước chính chúng ta là hy lễ tiến dâng. Thánh Lễ không phải chỉ là Nghi Thức tưởng nhớ Con Chúa chịu chết trên đồi Núi Sọ hơn hai ngàn năm trước mà chính là dâng hiến hồn xác chúng ta, như lời một bài ca "Hồn con đây với xác con đây, đền vì bao tội lỗi xưa nay."
Chúa Nhật thứ hai sau lễ Hiện Xuống, Giáo Hội mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Đây là lễ rất quan trọng, vì nó diễn tả sự hiểu biết và niềm tin của Kitô hữu vào Đức Giêsu Kitô.
1. Bí tích Thánh Thể là một sáng kiến tuyệt vời
Khi Thiên Chúa đưa dân Do Thái ra khỏi Aicập, dân đã phải đi trong hoang địa bốn mươi năm trường. Giữa chốn hoang vu như vậy và không canh tác, làm sao dân có lương thực để ăn? Thiên Chúa đã cho Manna từ trời rơi xuống để nuôi dân. Đây là một điều rất lạ lùng trong lịch sử loài người. Dân Do Thái đã tưởng rằng Môsê là người đã cho dân Manna, nhưng Đức Giêsu đã đính chính: "Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi đã cho các ông ăn bánh bởi trời..." (Ga.6: 32).
Trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ, cũng là bữa tiệc Đức Giêsu và các môn đệ làm theo truyền thống Do Thái tưởng niêm lễ Vượt Qua, Đức Giêsu cầm lấy bánh và nói: "Anh em hãy cầm lấy mà ăn, này là mình thầy, sẽ bị trao nộp vì anh em;" cũng tương tự vậy, Ngài cầm lấy chén rượu, dâng lời tạ ơn và nói: "Anh em hãy cầm lấy mà uống, này là chén máu thầy, máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra vì anh em" (Mc.14: 23-24).
Bí tích Thánh Thể là sáng kiến tuyệt vời của Đức Giêsu. Bí tích Thánh Thể là biểu tượng tình yêu của Đức Giêsu cho con người, cho thấy Đức Giêsu đã tự nguyện chấp nhận cái chết, điều mà hôm sau như thể Đức Giêsu không thể nào trốn thoát được. Đức Giêsu như tấm bánh được bẻ ra nuôi sống nhiều người. Đức Giêsu là lương thực, là sự sống cho con người. "Ai không ăn bánh này, sẽ không có sự sống nơi mình" (Ga.6: 53).
2. Bí tích Thánh Thể hàm chứa một mặc khải sâu xa
"Làm sao một người lại có thể lấy máu thịt mình nuôi sống chúng ta?" (Ga.6: 52). Người ta dùng cơm bánh để sống chứ không ai ăn thịt uống máu người khác để sống. Quả thực lời nói của Đức Giêsu thật "khó nghe" đối với không chỉ con người đương thời nhưng cả với con người của mọi thời đại. Đứng trước người phát biểu lời này, người ta sẽ nghĩ, hoặc đây là một người điên, hoặc đây là một người rất đặc biệt.
Đứng trước lời nói "sống sượng" của Đức Giêsu, một số đông dân chúng đã bỏ không đi theo Đức Giêsu nữa. Cả một số môn đệ xưa nay đi theo Ngài, cũng bỏ Ngài: "Lời chi mà sống sượng thế, ai nghe cho nổi" (Ga.6: 60). Đức Giêsu cũng nhận ra điều đó; Ngài hỏi nhóm mười hai: "còn các anh, các anh có muốn bỏ đi không?" (Ga.6: 67); và Phêrô đã có một câu trả lời rất đặc biệt: "bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai, Thầy có lời ban sự sống đời đời" (Ga.6: 68). Thật sự, không thể ngờ rằng Phêrô có câu trả lời rất đặc biệt như vậy. Không có ơn từ trên, Phêrô không thể có câu trả lời như vậy. Không có ơn từ trên, người ta không thể tin bí tích Thánh Thể được.
Làm sao một người lại có thể là lương thực nuôi sống người khác? Nếu không phải là người bị khùng điên, thì hẳn phải là một người rất đặc biệt. Người này phải có một nguồn gốc thần linh. Những người chấp nhận lời nói này của Đức Giêsu, phải là người được ơn như Phêrô và các môn đệ, nhận ra nguồn gốc siêu vượt của Đức Giêsu. Nếu chỉ là phàm nhân, thì không thể lấy thịt máu mình nuôi sống người khác. Đức Giêsu là người thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn. Đức Giêsu là người thật và là Thiên Chúa thật. Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể.
3. Bí tích Thánh Thể quy tụ và phát triển Giáo Hội Chúa Kitô
Ngày xưa người Do Thái đã có thói quen tụ họp nhau vào ngày sabbát để nghe đọc Lời Chúa. Chính thánh Phaolô cũng dùng những dịp người Do Thái gặp nhau này để rao giảng Đức Yêsu phục sinh cho người Do Thái. Với niềm tin vào Đức Giêsu phục sinh, Kitô hữu tụ họp nhau để lắng nghe Lời Chúa và cử hành nghi thức bẻ bánh: "Ngài cầm lấy bánh, bẻ ra, trao cho các môn đệ mà phán..." (Mc.14: 22). Kitô hữu không chỉ tụ họp nhau để lắng nghe Lời Chúa, mà còn để ăn thịt và uống máu Chúa, để có sự sống đời đời.
Ngày xưa khi nghệ thuật in ấn chưa phổ biến, việc tụ họp nhau để nghe Lời Chúa và được nghe giải thích Lời Chúa là chuyện cần thiết. Ngày nay, với phương tiện hiện đại người ta có thể có sách Lời Chúa để đọc hằng ngày, được nghe diễn giải Lời Chúa bất cứ lúc nào người đó muốn, nên nếu chỉ để nghe Lời Chúa, thì người ta không cần đến với nhau nữa. Tuy nhiên, Kitô hữu vẫn tiếp tục tụ họp nhau, không chỉ để nghe Lời Chúa nhưng còn để tham dự nghi thức bẻ bánh, để tham dự bí tích Thánh Thể.
Hiểu như trên, người ta nhận ra nét đặc biệt của giáo huấn về bí tích tư tế thừa tác nơi Hội Thánh Công Giáo. Bí tích Thánh Thể qua thừa tác viên tư tế mang tính xây dựng Giáo Hội Chúa Kitô. Không phải tất cả mọi người đều có thể cử hành bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể không chỉ là dấu chỉ mình máu thánh Đức Giêsu Kitô, nhưng là biểu tượng, là dấu chỉ thực, vừa là dấu chỉ vừa là thực tại, là chính mình máu Đức Kitô. Chức vụ tư tế phổ quát, tư tế vương giả của mọi Kitô hữu, giúp Kitô hữu tham dự thánh lễ và rước Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Niềm tin vào bí tích Thánh Thể diễn tả sự hiểu biết sâu xa của Kitô hữu về chính Đức Giêsu, đồng thời củng cố nuôi dưỡng Hội Thánh. Đức Giêsu không chỉ là con người, nhưng còn là Thiên Chúa nhập thể. Chính Thiên Chúa xây dựng và củng cố Hội Thánh của Ngài qua bí tích Thánh Thể. Đức Giêsu Kitô củng cố và nuôi dưỡng Hội Thánh Chúa mỗi ngày.
Từ ngày tổ tông loài người sa ngã phạm tội, ông bà nguyên tổ và con cháu cắt đứt mọi tương quan tốt đẹp với Thiên Chúa, phải xa lìa Thiên Chúa vĩnh viễn và cuối cùng phải trầm luân đời đời trong cõi chết.
Không nỡ để cho loài người phải chìm ngập trong đau khổ và sự chết do tội lỗi gây ra, Thiên Chúa tìm mọi cách cứu vớt loài người để họ được sống hạnh phúc với Người luôn mãi. Thế là Thiên Chúa lên kế hoạch cứu độ loài người. Kế hoạch đó nhắm đến ba mục tiêu tối quan trọng sau đây:
- Xóa bỏ tội lỗi con người. - Kết hợp nên một với con người và ở với họ mọi ngày cho đến tận thế. - Thông ban sự sống cao cấp và viên mãn của Thiên Chúa cho loài người.
Ba mục tiêu cao cả nầy được đạt tới trọn vẹn nhờ việc Chúa Giêsu thiết lập Bí Tích Thánh Thể.
Vậy thì Bí Tích Thánh Thể là gì mà có thể mang lại hiệu quả tuyệt vời đến thế?
Có thể trả lời vắn gọn: Bí Tích Thánh Thể, còn gọi là Thánh Lễ, chính là hy tế thập giá của Chúa Giêsu đã khởi đầu cách đây hơn 2.000 năm trên đồi Can-vê và còn tiếp tục diễn tiến qua các thời đại cho đến ngày tận thế. (Giáo lý Công Giáo 1323,1366)
Trăm nghe không bằng một thấy. Muốn hiểu điều cốt yếu của Bí Tích Thánh Thể hay Thánh Lễ là gì thì cứ việc nhìn vào tượng chuộc tội, hoặc muốn thấy rõ hơn thì nhìn vào mười bốn bức tranh đường thánh giá mà các tín hữu vẫn chiêm ngắm vào mỗi ngày thứ sáu hằng tuần. Tượng chuộc tội đó, mười bốn bức họa đường thánh giá đó, minh họa cho thấy hy tế thập giá của Chúa Giêsu diễn ra thế nào. Thánh Lễ ta tham dự hôm nay chính là phần nối tiếp của hy tế thập giá đó và cũng là một với hy tế đó.
Luật Chúa đã truyền: “Tội lỗi tất phải đưa đến sự chết” (xem Ê-dê-ki-ên 18,20. Rm 5,12. Rm 6,23. Giacôbê 1,15) mà luật Chúa thì không thể xóa bỏ được. Chiếu theo luật nầy, loài người đã phạm tội nên loài người không thể thoát chết, trừ phi có ai chết thay cho họ. Thế là Ngôi Hai Thiên Chúa tình nguyện làm Đấng chết thay.
Khi dâng mình làm lễ tế trên đồi Can-vê hôm xưa, cũng là khi dâng mình trong Thánh Lễ hôm nay, Chúa Giêsu chịu đền tội và chịu chết thay cho người tội lỗi để họ được ơn tha thứ và thoát khỏi án chết đời đời. (xem glcg 1365, 1366)
2. Nhờ Thánh Lễ, Chúa Giêsu cho ta được kết hợp nên một với Người và Người ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
Làm thế nào để cho con người được nên một với Chúa Giêsu?
Chúa Giêsu có một sáng kiến tuyệt vời: Người hiện diện dưới hình tấm bánh, dưới hình rượu để cho chúng ta được ăn Người, được uống Người. Và một khi đã ăn Chúa Giêsu, chúng ta được nên cùng máu thịt, cùng một thân mình với Chúa như lời Người phán: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy.” (Ga 6, 56)
Thiên Chúa như đại dương bao la. Còn chúng ta như vũng nước nhỏ bên bờ đại dương. Khi ta rước Chúa vào lòng, ngăn cách giữa ta với Chúa không còn nữa: Ta được tan hòa vào Chúa như ao nước nhỏ tan hòa vào đại dương, nên một với đại dương, được nước đại dương làm cho trong lành.
3. Nhờ Thánh Lễ, Chúa Giêsu ban sự sống của Người cho ta.
Muốn cho cành nho rừng tiếp nhận được sự sống của cây nho vườn, thì nó phải được tháp nối nên một với cây nho vườn.
Muốn cho một bàn tay bị cắt lìa thân được tiếp nhận sự sống từ thân thể thì bàn tay đó phải được ghép nối vào thân thể, trở nên một với thân thể.
Vậy muốn cho loài người tiếp nhận được Sự Sống của Chúa Giêsu thì phải làm cho họ nên một với Chúa Giêsu.
Khi rước Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, chúng ta được hòa tan trong Chúa, Chúa với ta không còn là hai mà chỉ là một. Nhờ đó, Sự Sống đời đời của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu sẽ được thông ban cho ta như sự sống của thân thể chuyển thông cho từng chi thể. Nhờ đó, chúng ta mới được sống đời đời như lời Chúa Giêsu xác nhận: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (Ga 6,54)
Như thế, Thánh Lễ, hay nói khác đi là hy tế thập giá của Chúa Giêsu là một phương thế tuyệt vời Thiên Chúa dùng để cùng một lúc ban cho chúng ta đến ba hồng ân vô giá, đó là tha thứ tội lỗi cho chúng ta, cho ta được thông hiệp nên một với Chúa và nhất là thông ban sự sống vô cùng cao quý của chính Người cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa phải trả giá rất đắt, trả giá bằng cả cuộc đời và sinh mạng của Chúa để đem lại cho chúng con những ân huệ quá đỗi tuyệt vời. Lẽ nào chúng con lại ngoảnh mặt quay lưng hay tỏ ra thờ ơ hững hờ với những hồng ân cao vời như thế?
Xin cho chúng con sớm nhận ra hồng ân vô giá nầy để ngày ngày siêng năng tham dự Thánh Lễ và tận hưởng thiên ân.
Máu: biểu hiện của sự sống ! Con người sẽ chết nếu không còn máu trong người. Vào các cơ sở y tế để khám chữa bệnh. Điều đầu tiên các y bác sĩ cho bệnh nhân làm đó là xét nghiệm máu. Qua các chỉ số về máu, các y bác sĩ sẽ tìm biểu đồ, tìm cách điều trị một cách tốt nhất cho bệnh nhân. Như vậy, chúng ta thấy máu đóng một vai trò mang tính "sống còn" trong đời sống con người. Nhờ có máu mà con người được sống, nếu không có máu, con người sẽ phải chết.
Là người bình thường, rất cần máu. Riêng những ai mang danh mình là Kitô hữu, không chỉ cần máu bình thường như mọi người nhưng cần và cần lắm máu cứu độ mà chính Chúa Kitô đã đổ ra để cứu những con người tội lỗi.
Dừng lại một chút để đọc lại, suy gẫm lại những trang Thánh Kinh, chúng ta thấy máu là chủ đề xuyên suốt từ đầu đến cuối. Chính nhờ máu đã mang lại sự sống, đã cứu độ con người. Cách riêng trong Bí Tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đã nói rõ cho các môn đệ rằng máu Chúa sẽ đổ ra để nuôi sống con người. Ở Cựu Ước, Thánh Thể như là hình bóng đã được tiên báo cho Máu của Chúa Giêsu ở Tân Ước phải đổ ra để cứu chuộc con người.
Những hình bóng chính yếu về Máu của Chúa Kitô trong Cựu ước là Chiên vượt qua (Xh 24,8), và máu xá tội mà thầy thượng tế đưa vào gian cực thánh trong ngày lễ xá tội (x Lv 16, 14), Tất cả những hình bóng này không bị mất đi tầm quan trọng khi Chúa Giêsu đổ máu thật sự trên thập giá vì khi thiết lập bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu cùng gợi lại ba hình bóng trên, qua những từ ngữ được Ngài sử dụng như "tưởng nhớ" (Xh 12,14); "Máu giao ước mới" và "được tha tội". Điều này được các hình bóng giúp mô tả, giải thích và làm nổi bật tính ưu việt tuyệt đối của bí tích Thánh Thể so với những hình bóng tiên trưng.
Trong Cựu ước, "Máu" đóng một vai trò quan trọng vì nó được coi là nguyên lý sự sống; "Sinh khí thân xác tụ trong huyết (Lv 17,11)" "Huyết, tức là sự sống" (Đnl 12, 23). Do đó ngày xưa Môsê đã lấy mà đóng ấn giao ước Đức Giavê muốn ký với dân (Xh 24, 3-8). Người ta đã sát tế những con bò mộng tơ, lấy máu rưới lên bàn thờ một phần, một phần rảy trên dân, chứng tỏ rằng Giao ước đã được thiết lập cách long trọng. Đây là hình bóng của Giao ước mới mà sau này chính Đức Kitô đã lâp Giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại bằng chính máu mình. Không phải như Môisen khi làm trung gian giữa Thiên Chúa và loài người, đã phải nhờ đến việc sát tế các con vật. Chính Máu của Đức Kitô đổ ra trên núi Sọ, Ngài sẽ không ngừng dâng lại trong hy tế thánh lễ để không ngừng tái diễn Giao ước của Ngài.
Trong nghi lễ Do thái, bữa ăn chiên vượt qua không phải chỉ có một tầm quan trọng hàng đầu, mà nó còn có một ý nghĩa nổi bật là tưởng nhớ một biến cố lịch sử, biến cố Thiên Chúa Giavê cứu độ dân Do thái. Ngài đã ra tay giải thoát dân Ngài khỏi ách Ai cập. Vì thế bữa ăn vượt qua có một giá trị rõ ràng do sự kiện lịch sử, mà nó có nhiệm vụ gợi lại cho người ta nhớ những điều vĩ đại mà Thiên Chúa đã làm cho họ, con chiên vượt qua nhắc lại con vật mà máu nó đã gìn giữ các nhà dân Israel xưa, khi mà máu của nó được bôi trên thành cửa làm dấu để sứ Thần Chúa "Vượt Qua" mà tha cho dân. Trong khi ăn bữa này, người ta cảm tạ Chúa vì những ơn lộc vô biên của cuộc giải thoát ấy. Nên bữa ăn này là hình bóng của bữa tiệc Thánh Thể mà Chúa Giêsu đã thiết lập trong bữa tiệc ly.
Để lập phép Thánh Thể và chuẩn bị cho giao ước mà Chúa Giêsu thiết lập giữa Thiên Chúa và loài người bằng chính giá máu của Ngài khi Ngài bị người ta đóng đinh trên thập giá. Chúa Giêsu đã chọn bữa ăn vượt qua, và lễ vượt qua "cuối cùng" này đã được chuẩn bị một cách chu đáo. Điều này các tin mừng đã thuật lại cho ta biết các môn đệ "đã chuẩn bị lễ vượt qua" như thế nào, theo các chỉ dẫn của Chúa Giêsu đã dạy (Mt 26, 17-19; Mc 14, 12-16; Lc 22, 7-13). Đặc biệt Thánh Luca còn nhắc lại Lời của Chúa Giêsu "Thầy ước ao ăn lễ vượt qua này với anh em trước khi Thầy chịu khổ nạn..." (Lc 22, 15). Qua đó Đức Kitô muốn cho ta hiểu Ngài chính là con chiên vượt qua thật, con chiên lấy máu mình để cứu độ nhân loại. Mặc dù, trong trình thuật về bữa tiệc ly, ta không thấy ám chỉ gì về con chiên, nhưng đối với các môn đệ thì biểu tượng ấy khá rõ vì việc truyền phép rượu đi liền sau khi ăn thịt chiên. Với việc truyền phép làm hai nhịp như thế, phép Thánh Thể đã bao gồm con chiên vượt qua vào trong đó, và nếu con chiên này không được nhắc đến cũng chỉ vì nó thuần túy là một hình bóng mà từ đây sẽ phải tự xóa mình đi trước thực tại: chỉ có một thực tại phải kể đến, đó là Mình và Máu Đức Kitô, "Máu sẽ đổ ra cho muôn người" cũng như xưa máu con chiên đã đổ ra để cứu các nhà dân Israel. Do đó Thánh Thể là thực tại thay thế cho hình bóng con chiên vượt qua, như lời Thánh Phaolô: "Đức Kitô, chiên vượt qua của chúng ta, đã chịu sát tế" (1 Cr 5, 7).
Sách xuất hành đã ghi lại những qui định của luật lệ về việc ăn lễ Vượt qua nhắc nhở giao ước Giavê đã ký kết với dân Do thái, cũng như việc chuẩn bị lễ như nghi thức, chọn chiên tế lễ phải vẹn toàn, không được đánh đập nó bể xương...(Xh 12, 5-47). Đây là hình bóng giao ước mới mà Chúa Giêsu sẽ thiết lập bằng chính Máu Người. Truyền thống Kitô giáo vẫn thấy hình bóng "con chiên tinh tuyền không bị gãy xương" (Xh 12.47) là chính Chúa Giêsu, chiên tinh tuyền của Đức Chúa Cha. Vì loài người tội lỗi không thể dâng lên Thiên Chúa của lễ vô tỳ tích, nên Chúa Cha đã lập ra hy tế bằng chính Con một của Người nhập thể. Do đó, chỉ có Đức Kitô có thể dâng lên Chúa Cha một hy tế Thánh thiện, vẹn toàn, là con chiên tinh tuyền. Con chiên ấy đã gánh tội trần gian và tự hiến để hủy diệt tội lỗi cho nhân loại, và con chiên này cũng không bị người ta đập gãy xương (Ga 19, 46).
Trong các lời tiên tri của Isaia nói về người tôi tớ Đức Chúa (Is 42,1-9; 49, 1-6; 50, 4-11; 50, 113-53) là người công chính, bị đè bẹp, bị nghiền nát dưới sự đau khổ vì tội lỗi của anh em mình, và được Thiên Chúa tôn vinh, là hình bóng báo hiệu Chúa Giêsu "người tôi tớ thánh thiện" (Cv 4, 27-30; 3, 26) đã chịu nhiều đau khổ, bị bắt bớ, chịu nhục hình, cuối cùng chịu sát tế trên thập giá để thiết lập giao ước cho nhân loại khỏi tội, và Người đã được tôn vinh làm Chúa với quyền năng bởi sự phục sinh từ cõi chết (Rm 1,4)
Chính Thịt và Máu của Đức Giêsu đã làm nên Bí Tích Thánh Thể. Bí Tích Thánh Thể chính là Bí Tích mang Ơn Cứu độ cho toàn thể nhân loại chúng ta. Ơn cứu độ đó đã được Thiên Chúa Cha hứa ban ngay sau khi nguyên tổ phạm tội. Bí tích Thánh Thể là bí tích của ơn cứu độ, ơn cứu độ phổ quát. Mỗi bí tích Thánh Thể (Thánh Lễ) được cử hành, dù ở bất cứ nơi đâu, dù long trọng với sự hiện diện đông đảo của nhiều người hay chỉ âm thầm lặng lẽ của cá nhân vị linh mục, bí tích Thánh Thể vẫn được cử hành, theo một nghĩa nào đó, trên bàn thờ của thế giới. Bí tích Thánh Thể là một mối dây nối kết trời và đất. Nó bao gồm và thấm nhập toàn thể thụ tạo. Con Thiên Chúa đã làm người để hoàn lại toàn thể thụ tạo cho Đấng đã kéo nó ra từ hư vô, trong một hành động chúc tụng tuyệt vời. Chính vì thế mà Ngài, Linh mục thượng phẩm đời đời, khi bước vào cung thánh vĩnh cửu nhờ máu đổ ra trên thập giá, Ngài đã hoàn lại cho Đấng Tạo Thành và là Cha toàn thể thụ tạo được cứu chuộc. Ngài thực hiện điều đó nhờ tác vụ linh mục của Giáo Hội, để tôn vinh Chúa Ba Ngôi chí thánh. Chính thực đó mới là mầu nhiệm đức tin được thực hiện trong bí tích Thánh Thể: thế gian thoát thai từ tay Thiên Chúa Tạo Thành, trở về với Ngài sau khi đã được Chúa Kitô chuộc lại.
Trong Thánh Lễ, mỗi khi chúng ta rước lễ, Hy Tế Thánh Thể tự nó hướng các tín hữu tới việc hiệp nhất thâm sâu với chúa Kitô. Qua việc rước lễ, chúng ta nhận lấy chính Ngài, Đấng đã tự hiến cho chúng ta, chúng ta nhận lấy thân mình Ngài, thân mình mà Ngài đã nộp vì chúng ta trên Thập Giá, máu mà Ngài đã đổ ra là để trở thành máu của Giao Ước mới, có mục đích rất rõ ràng là để cho nhiều người được tha tội (Mt 26, 28). Việc hiệp nhất thâm sâu với Đức Kitô qua việc rước lễ ban cho chúng ta sự sống, sự sống đời đời (Ga 6,57). Thánh Thể đích thực còn là một bữa tiệc, tiệc hiệp thông, hiệp thông giữa người rước lễ với chính Đức Kitô và qua Đức Kitô, với Thiên Chúa Ba Ngôi và với anh chị em mình. Trong bữa tiệc hiệp thông đó, Chúa Kitô tự hiến làm của ăn. Đây không phải là của ăn tượng trưng nhưng "Thịt tôi là của ăn thật, và máu tôi là của uống thật" (Ga 6,55).
Nhớ đến lời dẫn nhập vào Thánh Lễ của một Cha giáo: "Anh chị em thân mến ! Mỗi một lần chúng ta tham dự Thánh Lễ là mỗi một lần chúng ta biến đổi cuộc đời chúng ta nên một như Đức Kitô. Nếu sau khi tham dự Thánh Lễ, chúng ta không thay đổi cuộc đời chúng ta thì Thánh Lễ chúng ta tham dự thành ra vô ích. Nguyện xin Chúa Giêsu Thánh Thể, Đấng đang có mặt ở đây với Ta ...". Lời ấy, nếu nghe qua qua thì thấy chẳng có gì và nghe nhiều đôi khi người nghe sẽ nói: "biết rồi ! khổ lắm nói mãi".
Vâng ! "Biết rồi, khổ lắm nói mãi" nhưng hình như nghe cho qua lần qua lượt chứ không để những lời ấy thấm vào cuộc đời ta. Nếu như ta ý thức thật, Chúa đã đổ máu mình ra để cứu độ ta mà ta không cảm, không nhận và không biến đổi đời ta qua máu cứu độ của Ngài thì quả thật cuộc đời ta chán thật !
Nguyện xin Chúa Giêsu Thánh Thể mở lòng chúng ta để chúng ta mau mắn đến và gặp Ngài nơi Bí Tích Thánh Thể.
Nguyện xin Chúa Giêsu Thánh Thể là của ăn đích thực, là nguồn sống đích thực đến và ở lại trên cuộc đời mỗi người chúng ta để chúng ta có sức để tiếp tục đi theo Ngài trên con đường lữ thứ trần gian đầy gian nan và thử thách này.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Mác-cô kể lại việc Chúa Giê-su chuẩn bị cho bữa tiệc mừng lễ Vượt Qua với các môn đệ. Chúa đã sắp đặt nơi chốn và những thứ cần thiết qua trung gian của một người bạn thân. Người đàn ông mang vò nước là tín hiệu dẫn hai môn đệ tới địa điểm. Khi đến nơi, chủ nhà chỉ cho họ căn phòng “đã được chuẩn bị sẵn sàng”. Rồi khi lập Bí tích Thánh Thể, Chúa phán: “Đây là mình Thầy… đây là máu Thầy”. Động lực nào đã khiến Chúa Giê-su làm và phán những điều ấy? Câu trả lời hẳn là ý nghĩa đích thực của Bí tích Thánh Thể mà Phụng vụ Lời Chúa mời gọi chúng ta suy niệm.
Có lẽ chúng ta ít khi để ý tới việc Chúa chuẩn bị gần để mừng lễ Vượt Qua. Đây không phải là mừng lễ Vượt Qua như mọi năm, nhưng là lễ Vượt Qua của bản thân Chúa Giê-su, qua cuộc Thương Khó để tiến tới Phục Sinh, qua đau khổ và đổ hết máu ra để chiến thắng tội lỗi và sự chết. Nhưng quan trọng hơn cả, mừng lễ Vượt Qua lần này là để Người “ở lại” với nhân loại cho đến tận thế một cách nhiệm mầu, tức là Bí tích Thánh Thể. Vì tầm quan trọng ấy, Chúa Giê-su đã bí mật và đích thân sắp xếp, chuẩn bị cho giờ phút trọng đại thiết lập phép Thánh Thể.
Chúa Giê-su muốn ở lại với tất cả con người của mình, với chính thân thể và máu của Người. Cho nên sự hiện diện của Người không phải là hiện diện tượng trưng bằng tấm bánh hay chén rượu, mà là sự hiện diện thực sự và theo bản thể, bản thể Thiên Chúa và bản thể nhân loại của Người. Người ở lại giữa chúng ta như một giao ước, không phải giao ước bằng bia đá hay giấy tờ , mà là giao ước bằng thân thể bị trao nộp vì chúng ta và bằng máu đổ ra vì muôn người. Do đó, Chúa Giê-su lập Bí tích Thánh Thể là để “làm trung gian của một Giao Ước Mới, lấy cái chết của mình mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm” (Do-thái 9:15). Chúa Giê-su hiện diện qua Bí tích Thánh Thể là để tiếp tục yêu thương và cứu độ chúng ta. Có thể chúng ta ít khi nghĩ đến chiều kích cứu độ của Bí tích Thánh Thể, nhưng Chúa Giê-su đã nói rõ ràng về mục đích của Mình Chúa bị trao nộp và Máu Người được đổ ra là để cứu độ chúng ta. Việc này nhắc nhớ chúng ta suy nghĩ và ngưỡng mộ tình yêu của Thiên Chúa Cha, Đấng đã sai Con Một đến để cứu chúng ta. Thư Do-thái cũng nêu lên sự cộng tác của Chúa Thánh Thần trong công cuộc cứu độ này: “Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Ki-tô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa” (9:14). Bí tích Thánh Thể không lặng lẽ như chúng ta thấy qua hình ảnh ngọn đèn nhà tạm leo lét đâu, nhưng là hình ảnh diễn tả một tình yêu sôi sục của Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng muốn thực sự ở lại và tiếp tục cứu độ chúng ta.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúng ta đã thấy Chúa Giê-su rất mong muốn có một cuộc “ở lại” hạnh phúc với chúng ta, nên Người đã cẩn thận chuẩn bị lập Bí tích Thánh Thể như thế nào. Chúng ta đã chứng kiến tình yêu cứu độ của Chúa Cha dành cho chúng ta qua cuộc đời rao giảng và hy sinh mạng sống của Con Một là Chúa Giê-su. Chúng ta cũng cảm nghiệm tình yêu thánh hóa của Chúa Thánh Thần qua sự trưởng thành của Giáo Hội và đời sống đức tin lớn lên trong tâm hồn chúng ta. Tất cả những cách biểu lộ tình yêu này được thu gọn trong một dấu chỉ cuối cùng, đó là Bí tích Thánh Thể. Vậy chúng ta phải làm gì để đáp lại tình yêu lớn lao ấy?
Khi Chúa trao cho các môn đệ bánh là chính Mình Chúa, các ông đã “cầm lấy và ăn”. Khi Người trao cho họ chén rượu là Máu Người, thì “tất cả đều uống chén này”. Họ làm như thế để được “ở lại” với Chúa, để tình yêu biến đổi họ và để được Người cứu độ. Nếu Bí tích Thánh Thể không biến đổi chúng ta và không tác động chúng ta, đó là tại chúng ta vô cảm, không đáp lại tình yêu của Thiên Chúa, là tại chúng ta chỉ cầm lấy mà ăn và nhận lấy mà uống một cách vô ý thức mỗi khi lên rước lễ. Cái bệnh vô ý thức này dễ nhận thấy lắm, nhất là qua cung cách khi lên nhận Mình Máu Chúa và cám ơn Người đã ngự vào lòng chúng ta, mặc dù chúng ta không xứng đáng!
Buổi chiều ngày thứ năm tuần thánh, Chúa Giệsu và các môn đệ đã ăn bữa tiệc Vượt Qua. Trong bữa tiệc cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu, Ngài đã làm một việc để đời.Bởi vì, chỉ mình Chúa mới biết việc Ngài sẽ làm mà thôi. Các môn đệ đã tìm cho Chúa một căn phòng và các Ngài chỉ phải lo những việc bề ngoài cho bữa ăn như bánh không men, rượu nho và rau diếp đắng. Chúa Giêsu đã tiên liệu nhiều việc cho bữa tiệc Vượt Qua này…
Chiều hôm nay trong bữa tiệc cuối cùng với các môn đệ trước khi Chúa Giêsu đi chịu chết ( Lc 22, 15 ), Ngài đã làm cho các môn đệ thật bỡ ngỡ vì cũng những tấm bánh thường xuyên hằng ngày các môn đệ từng ăn, cũng chén rượu nho, Chúa Giêsu và các môn đệ vẫn uống khi Chúa Giêsu bẻ bánh và traocho các môn đệ, và nói:” Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy “ (Mc 14, 22 ). Đối với rượu nho cũng thế, Ngài nói:” Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người “ ( Mc14, 24 ). Như thế, qua hành vi tạ ơn Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu đã biến đổi tận căn và biến bánh, rượu thành Mình và Máu mình. Chịu lấy Mình và Máu Chúa là thông hiệp vào cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Chúng ta biết rằng, sau buổi chiều đáng ghi nhớ đó, ngày hôm sáu trên đồi Golgotha, Máu của Chúa đã đổ ra trên thập giá…Chúa Giêsu không còn hình tượng gì nữa. Trên Núi Sọ, Chúa Giêsu chỉ chết một lần, nhưng muôn đời sẽ không bao giờ phai nhòa, nó có ảnh hưởng trên suốt lịch sử cứu độ. Hành vi, cử chỉ của Chúa Giêsu trong nhà tiệc ly,Chúa muốn nó được lập lại mọi ngày cho tới ngày cùng tận:” Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy “ ( Lc 22, 19 ).
Hy lễ trên Núi Sọ sẽ được tái diễn hằng ngày cho đến tận thế. Đó là mầu nhiệm tình yêu, mầu nhiệm hiệp thông và là mầu nhiệm đức tin. Mầu nhiệm tình yêu bởi vì qua cái chết và sống lại của Chúa, Chúa đem hạnh phúc, đem lại ơn cứu độ cho loài người, cho con người. Mầu nhiệm thông vì qua sự chết và sống lại của Chúa, chúng con cũng được tham dự vào cái chết của Ngài…Do đó mỗi lần cử thánh lễ, vị linh mục tái diễn lại lễ hy sinh của Chúa Giêsu trên thập giá.Sự chết của Chúa Giêsu xưa trở thành hiện tại để đem lại ơn cứu độ và hạnh phúc, giải thoát cho con người khỏi mọi tội lỗi ngay lúc này và mọi thời. Tham dự thánh lễ là hiệp thông với Chúa Giêsu qua cái chết và sự phục sinh của Ngài. Khi rước mình và máu Chúa là chúng ta được kết hợp với Đấng đã yêu thương chúng ta và yêu thương cho tới cùng, yêu cho đến chết:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ) hoặc “Khi nào Ta được giương cao khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta “.
Chúng ta được tham dự thánh lễ, được hiệp thông với Đấng chết và sống lại vì chúng ta. Do đó mỗi lần rước mình và máu Đức Kitô là chúng ta sống chính đời sống của Chúa. Chúng ta chia sẻ, cảm thông và giúp đỡ mọi người bởi vì đời sống của chúng ta không còn bị giam hãm trong ích kỷ, tham lam và khép kín. Chịu lấy mình và máu thánh của Chúa là sống trong tình yêu, trong sự hiệp nhất của Đấng đã vì yêu thương con người nên đã chết cho con người. Chịu lấy Chúa vào lòng là để chính Chúa biến đổi đời mình và làm cho đời mình trở nên tinh trong hầu mình có thể chia sẻ và quảng đại giúp người khác, để họ cũng được hạnh phúc như mình.
Có Chúa ở trong lòng, chúng ta sẽ muốn đến với anh chị em,chúng ta mới được thúc đẩy đến với anh chị em vì chính Chúa đã đồng hóa với những người nghèo, người đơn côi, neo đơn, vất vả vv…
Mình Máu thánh Chúa là mầu nhiệm đức tin,nên càng nhận lãnh Chúa vào lòng, chúng ta càng hăng say, can đảm đem hiến lễ đời mình hiệp với cuộc hiến tế của Chúa Giêsu và với hy tế của anh chị em chúng ta.
Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn yêu mến,tôn kính Bí Tích Thánh Thể . Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Chúa đã lập Bí Tích Thánh Thể lúc nào và ở đâu ? 2.Rước Mình Máu thánh Chúa Giêsu để làm gì ? 3.Khi linh mục tế lễ là ai tế lễ ? 4.Khi linh mục đọc lời truyền phép là ai đọc lời truyền ? 5.Chúa tự đồng hóa mình với những ai ?
Mc 14:12-16: 12 Ngày thứ nhất của lễ Bánh Không Men, khi người ta thường sát tế chiên Vượt Qua, các môn đệ nói với Người: “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?” 13 Người sai hai môn đệ đi, và nói với họ: “Các anh hãy đi vào thành, và một người mang vò nước sẽ đón gặp các anh. Hãy đi theo người đó. 14 Người đó vào nhà nào, các anh hãy nói với chủ nhà là Thầy nói: “Cái phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu?” 15 Và người ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng lớn bên trên, được trang bị đầy đủ và đã sẵn sàng. Các anh hãy chuẩn bị ở đó cho chúng ta.” 16 Các môn đệ ra đi và vào trong thành, và các ông tìm thấy như Người đã nói với họ, và các ông đã chuẩn bị lễ Vượt Qua.
14: 22-26: 22 Trong khi họ đang ăn, cầm lấy bánh Người chúc tụng, bẻ ra, và trao cho họ và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy.” 23 Và cầm chén, Người dâng lời tạ ơn, trao cho họ, và tất cả đều uống từ chén này. 24 Và Người nói với các ông: “Đây là máu Thầy, máu giao ước đổ ra cho nhiều người. 25 Thật Thầy nói với anh em: Thầy không uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống rượu mới trong Nước Thiên Chúa.” 26 Hát thánh vịnh xong, họ đi ra đến núi Cây Dầu.
Hai đoạn kinh thánh của chúa nhật nầy không liên tục nhau; giữa chúng là đoạn Chúa Giêsu tiên báo một người trong Nhóm Mười Hai sẽ nộp Người (14:17-21). Bối cảnh chung của hai đoạn là dịp lễ Bánh Không Men của người do thái, Chúa Giêsu gởi hai môn đệ đi chuẩn bị lễ Vượt Qua cho Người và các môn đệ của Người (14:12-16); sau đó Người đến đó với nhóm Mười Hai để cử hành lễ Vượt Qua của Người (14:22-26). Ở đây, chúng ta chỉ bàn đến đoạn 14:22-26. Kết cấu của đoạn nầy gồm ba phần: 1- Trao ban thân thể: lời và hành động liên quan đến bánh (c. 22); 2- Trao ban máu: lời và hành động liên quan đến rượu (cc. 23-24); 3- Kết luận và lời tiên báo về bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa (c. 25).
Lễ Vượt Qua là dịp nhắc lại sự can thiệp quyền năng và mạnh mẽ của Thiên Chúa giải thoát dân Israel khỏi kiếp nô lệ Ai cập. Khi cử hành lễ nầy, Chúa Giêsu hướng đến Thiên Chúa và để Thiên Chúa thực hiện nơi Người một lễ Vượt Qua mới. Do đó, Người không cử hành lễ Vượt Qua theo truyền thống của người do thái, mà của chính Người. Lời và hành động liên quan đến bánh và rượu trong đoạn nầy được trình bày tương tự nhau, gồm những tác động cầm, chúc tụng, trao ban, và lời xác nhận bản tính của bánh và rượu. Chúc tụng Thiên Chúa là một phần quan trọng trong bữa ăn, vì mọi ơn lành đều do bởi Thiên Chúa. Khi làm việc nầy, Chúa Giêsu ý thức mình và máu của Người sẽ được trao ban do Thiên Chúa mà đến.
Khi trao tấm bánh đã bẻ ra, Chúa Giêsu nói: “Nầy là Mình Thầy” (c. 22). Thân thể chỉ con người trọn vẹn. Cũng một cách thế tương tự: “Nầy là máu Thầy” (c. 23) Máu là chính sự sống (x. Lv 17:11.14; Dnl 12:23). Như thế, khi ban mình và máu, Chúa Giêsu ban cả con người và sự sống của Người.
Lời trên rượu dài hơn lời trên bánh. Máu nầy được gọi là “máu giao ước”. Cách nói nầy nhắc lại việc Môsê đã rảy máu súc vật trước tiên trên bàn thờ, rồi trên dân chúng và nói: “Đây là máu giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với anh em” (Xh 24:8). Máu ấy đã ghi ấn sự cam kết đôi bên. Tuy nhiên, trong giao ước không luôn luôn phải có hai bên như thế. Ký kết giao ước trước tiên là sáng kiến của Thiên Chúa. Ngài làm giao ước khi Ngài muốn và Ngài đặt ra những quy định cho giao ước ấy (x. Stk 9:1-17; 15:8; 17:10-11). Việc Chúa Giêsu đổ máu ra là do Thiên Chúa quyết định (x. Gio 18:11). Ngài cũng quyết định luôn cách thế đổ máu ấy ra và mục đích cứu chuộc của việc đổ máu ấy (c. 24); không có một cam kết nào về phía con người ngoài việc sẵn sàng lãnh nhận máu ấy để được tha tội và cứu độ. Như Người Tôi Tớ Đau Khổ, Chúa Giêsu đổ máu ra thay cho nhiều người (x. Is 53:12); nhờ đó chẳng ai bị loại khỏi hoa trái được tha tội bởi cái chết của Người (x. 10:45; Mt 1:21; 20:28; Dt 9:22).
Sau cùng, lời tiên báo về việc uống rượu mới trong Nước Thiên Chúa cho biết Chúa Giêsu sẽ bước sang giai đoạn vinh quang sau khi đã hoàn tất việc uống chén đắng (c. 25; x. 10:35-45). Rượu mới biểu trưng sự sống và niềm vui. Rượu mới Người sẽ uống trong Nước Thiên Chúa chính là sự hiệp thông trọn vẹn và sự sống viên mãn mà Người sẽ chia sẻ với Cha Người.
Trong khi hiến dâng mình và máu cho công cuộc cứu độ của Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã cứu độ nhiều người và đưa họ vào dự tiệc hoan lạc trong nước của Cha Người.
Sự Hiện Diện Thực Sự… Bí Tích Thánh Thể và đời sống Linh Muc… Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Hòa Giải… Bí Tích Thánh Thể và Tình Yêu Hiệp nhất… Bí Tích Thánh Thể và công cuộc Truyền giáo… Việc dâng Lễ Ngày Chúa Nhật… Bí Tích Thánh Thể và Mẹ Maria…
Đã có nhiều cuộc hội thảo học hỏi về Mầu Nhiệm Thánh Thể, cũng như các Giờ Thánh ở các nơi. Nhiều Nhà Thờ tại Hoa Kỳ đã có những giờ “Chầu Thánh Thể suốt ngày đêm”. Tất cả đều để giúp chúng ta thêm lòng sùng kính Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể và ý thức mạnh mẽ hơn về sự “HIỆN DIỆN THỰC SỰ” của Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể và ‘Sống Mầu nhiệm Thánh Thể’ trong cuộc sống hàng ngày. Đó là một trong những điểm quan trọng Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói đến trong Thư Mục Vụ “Giáo Hội Từ Bí Tích Thánh Thể” (Ecclesia de Eucharistia) ( ngày 17-4-2003), cũng như trong Tông Thư “Bí Tích Thánh Thể và Công Cuộc Truyền Giáo” (Chúa Nhật Truyền Giáo 24-10-2004) và được Đức Đương Kim Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI nhấn mạnh đến trong Bài Nói Chuyện của Ngài với các Đức Hồng Y sau Thánh Lễ buổi sáng ngày 20-4-2005 (ngay sau ngày Ngài được chọn lên ngôi vị Giáo Hoàng).
Căn cứ vào các Tài Liệu trên đây, chúng ta có thể nêu lên một số điểm cụ thể sau đây để chúng ta dễ dàng “Sống Đời Sống Thánh Thể” trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta:
VỀ SỰ HIỆN DIỆN THẬT SỰ của Chúa Giêsu trong Hình Bánh và Hình Rượu: Đó là một ‘ Mầu Nhiệm Đức Tin’ (Mysterium Fidei). Trong lời Truyền Phép trong Thánh Lễ, vị Chủ tế đọc: “ Tất cả các con cầm lấy mà ăn: nầy là MÌNH THẦY … Tất cả các con cầm lấy mà uống: nầy là chén MÁU THẦY…”. Sau đó Ngài đọc: “Đây là Mầu Nhiệm Đức Tin…”
Để nhấn mạnh điều đó, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI nói “ Tôi kêu gọi mọi người trong những ngày tháng sắp tới hãy tăng cường tình yêu và sự tôn sùng Chúa Giêsu Thánh Thể và hãy bày tỏ một cách can đảm và rõ ràng sự Hiện Diện Thật Sự (the Real Presence) của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể… Do đó, các việc cử hành kính Chúa Giêsu Thánh Thể phải được “nghiêm trang, xứng đáng” để giúp chúng ta ý thức hơn và “được kết hiệp trọn vẹn với Chúa Giêsu Thánh Thể …” (Bài nói chuyện đầu tiên…)
BÍ TÍCH THÁNH THỂ và CHỨC LINH MỤC:
Đối với các LINH MỤC, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI mời gọi: “ Chức Linh Mục đã phát xuất từ “Bữa Tiệc Ly” đi đôi với Bí Tích Thánh Thể. Điều này đã được Đức Gioan Phaolô II, vị tiền nhiệm của tôi, nhấn mạnh nhiều lần: ‘Đời sống Linh Mục phải đặc biệt mang hình ảnh của Chúa Giêsu Thánh Thể !’ Ngài đã viết như thế trong thư Mục Vụ cuối cùng của Ngài về ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Việc cử hành một cách đạo đức Thánh lễ hàng ngày, trung tâm của đời sống và sứ vụ Linh Mục, sẽ góp phần vào mục đích đó.” Điểm này đã được Đức Gíao Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh: “Hy Tế Thánh thể là trung tâm và cội nguồn của toàn thể đời sống Linh Muc (Công Đồng Vatican II). Vì thế, người ta hiểu được tầm quan trọng cho đời sống thiêng liêng của các Linh Mục, cũng như cho lợi ích của Giáo hội và thế giới, nơi việc thực thi lời khuyên của Công Đồng là việc dâng Thánh Lễ hàng ngày, dù việc cử hành không thể có giáo dân hiện diện, vẫn là hành động của Chúa Kitô và Giáo Hội. Bằng cách nầy, linh mục mới đủ sức thắng vượt được tất cả những căng thẳng làm cho mình bị phân tán trong cuộc sống; mới tìm thấy trong Hy Lễ Thánh Thể, trung tâm đích thực của đời sống và tác vụ linh mục, sinh lực thiêng liêng cần thiết để đương đầu với những công việc mục vụ đa dạng. Nhờ thế, những ngày sống của linh mục sẽ thực sự trở nên Thánh Thể.” (Tông Thư Gíao Hội và Bí Tích Thánh Thể)
BÍ TÍCH THÁNH THỂ và BÍ TÍCH HÒA GIẢI:
Chúng ta được “hiệp nhất trọn vẹn với Chúa Giêsu Thánh Thể khi chúng ta lên rước Mình và Máu Thánh Chúa (thường được gọi là ‘Rước Lễ’). Nhưng chúng ta chỉ có thể rước Chúa Giêsu Thánh Thể, khi chúng ta có tâm hồn yêu thương, trong sạch và hòa hợp (hòa hợp với Thiên Chúa và hòa hợp với nhau). Nhưng là những con người yếu đuối, dễ sa ngã và hay bất hòa, chúng ta cần đến với Chúa qua Bí Tích Hòa Giải (thường được gọi là phép Giải tội). Vì thế trong Thư Mục Vụ; “Giáo Hội từ Bí Tích Thánh Thể “ Đức Gíao Hoàng Gioan Phaolô II nhắc nhở: “BÍ TÍCH THÁNH THỂ và BÍ TÍCH HÒA GIẢI là hai Bí tích được liên kết mật thiết với nhau. Nếu Thánh Thể hiện tại hóa Hy Lễ cứu độ của Thập Giá, không ngừng lưu truyền bằng bí tích, thì điều đó có nghĩa là từ Bí Tích Thánh Thể phát xuất một cuộc hoán cải liên tục, đáp lại tự chính bản thân lời khuyến cáo mà Thánh Phaolô nói với các tín hữu thành Côrintô: ‘Nhân danh Chúa Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa!’ (2Corintô 5:20). Nếu một người công giáo mang trong tâm hồn gánh nặng của một tội trọng, thì cuộc hành trình hối cải qua Bí tích Hòa Giải, trở thành một bước đường bó buộc phải đi qua, để có thể tham dự hoàn toàn vào Hy Tế Thánh Thể.” Ngài cũng đã nhắc lại lời chỉ dẫn trong sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo: “Ai biết mình đang mang tội trọng, thì phải lãnh nhận Bí Tích Hòa Giải trước khi đến Rước Lễ ” và lời khuyến cáo nghiêm khắc của Thánh Phaolô: “ Ai nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh và uống Chén nầy” (1 Cor. 11, 28). Nếu ai biết mình đang ở trong tình trạng tội trọng, thì phải xưng thú tội mình trước đã: “Bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Thánh Chúa “ (1Cor. 11, 27)
BÍ TÍCH THÁNH THỂ là BÍ TÍCH TÌNH YÊU VÀ HIỆP NHẤT:
Đức đương kim Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI trong Bài nói chuyện trên đây, nhắc nhở: “Bí Tích Thánh Thể làm cho Chúa Giêsu Phục Sinh luôn hiện diện và hiến ban chính mình cho chúng ta, trong khi mời gọi chúng ta đến tham dự Bàn Tiệc Mình và Máu Thánh Ngài. Sự kết hiệp trọn vẹn với Chúa Giêsu Thánh Thể làm nẩy sinh ra đặc tính của đời sống Giáo Hội: là sự hiệp thông giữa các tín hữu, là sự quyết tâm rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng, là lòng nhiệt thành trong các công việc Bác Ái đối với mọi người, nhất là những người nghèo khó và bé mọn…Được nuôi dưỡng và nâng đỡ bằng Bí Tích Thánh Thể, người Công Giáo sẽ không thể không cảm thấy được thúc đẩy để sống hoàn tòan hòa hợp với nhau , như Chúa Giêsu đã ước nguyện trong Bữa Tiệc Ly.”
Bí Tích Thánh Thể, Bí Tích Tình Yêu và Hiệp Nhất, cũng mời gọi và nhấn mạnh đến BỔN PHẬN THỜ PHƯỢNG CHÚA TRONG NGÀY CHÚA NHẬT, ngày kỷ niệm Chúa Phục Sinh. Đức Gíao Hoàng Phaolô II viết trong “Gíao Hội và Bí Tích Thánh Thể”: “ Sự cổ động đặc biệt hữu hiệu cho sự Hiệp nhất, đặc điểm của Bí Tích Thánh Thể, là một trong những lý do của tầm quan trọng Thánh Lễ Chúa Nhật…. Việc dâng lễ ngày Chúa nhật trở nên cần thiết cho đời sống của Giáo Hội và của các tín hữu. Tôi đã bàn rất nhiều trong Tông Thư “Ngày Của Chúa” (Dies Domini) về sự Thánh Hoá ngày Chúa Nhật. Tôi đã nhắc lại rằng: đối với các tín hữu, đi dâng Lễ (Ngày Chúa Nhật) là một nghĩa vụ cần thiết, trừ khi có những ngăn trở nghiêm trọng. Vì thế các vị chủ chăn có bổn phận tương ứng để tạo những điều kiện thuận lợi cho các tín hữu có thể giữ huấn giới trên đây (đi Lễ ngày Chúa Nhật). Gần đây nhất, trong Tông thơ “Bước Vào Thiên Niên kỷ Mới” nhằm chỉ ra đường hướng mục vụ cho Giáo Hội vào đầu Thiên Niên Kỷ III, tôi muốn làm nổi bật cách đặc biệt Thánh Lễ Chúa Nhật, nhấn mạnh vì sao Thánh Lễ Chúa Nhật có tác dụng tạo nên sự hiệp thông. Tôi đã viết: Bí Tích Thánh Thể là nơi đặc biệt để sự hiệp thông luôn được loan báo và gìn giữ. Đúng thế, nhờ tham dự vào Bí Tích Thánh Thể, ‘Ngày Của Chúa’ cũng trở nên ‘Ngày Của Giáo Hội.’ Như thế Giáo Hội có thể thực hiện một cách hiệu quả vai trò của Bí Tích Hiệp Nhất.
Gìn giữ cũng như phát triển sự hiệp nhất trong Giáo Hội là một trách nhiệm của mỗi tín hữu , và chính trong Thánh Thể, Bí Tích Hiệp Nhất của Giáo hội, các tín hữu tìm thấy một môi trường để thể hiện niềm khát vọng hiệp nhất…” Đức Giáo Hoàng cũng nhấn mạnh: “ Hơn tất cả, công việc này thuộc trách nhiệm đặc biệt của các Chủ Chăn, tùy theo cấp bậc và nhiệm vụ của mình trong Giáo Hội.”. Ngài nhắc lại lời Thánh Phaolô viết cho tín hữu thành Côrintô: “Khi chúng ta nâng Chén Tạ Ơn mà cảm tạ Thiên Chúa , chúng ta chẳng được dự phần vào Máu Chúa Kitô ư? Và khi chúng ta chia sẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là được dự phần vào thân thể Chúa Kitô sao? Bởi vì, chỉ một tấm Bánh và chúng ta được chia sẻ cùng một Tấm Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể!” (1 Corintô 10:16-17). Ngài cũng nhắc đến lời Chủ Tế đọc trong Kinh Nguyện Thánh Thể III: “Khi chúng con được Mình và Máu Con Cha nuôi dưỡng và được tràn đầy Thánh Thần của Ngài, xin cho chúng con được trở nên cùng một thân thể và một tinh thần trong Chúa Kitô.”
Sự hiệp nhất đặc biệt được biểu lộ khi chúng ta cùng đứng lên (thường có thói quen nắm tay nhau) và cùng đọc kinh Chúa Giêsu đã dạy chúng ta: “ Lạy Cha Chúng Con Ở Trên Trời…”, sau đó chúng ta chúc bình an cho nhau, thường bằng cách bắt tay nhau một cách thân thiện để biểu lộ sự hòa hợp yêu thương trước khi cùng nhau lên Hiệp Lễ (Rước Lễ), để “chia sẽ cùng một Bánh Thánh và cùng một Chén Thánh!” Mong rằng khi chúng ta chúc bình an cho nhau, chúng ta không làm ‘lấy lệ’, hoặc làm cách lạnh lùng, hoặc chỉ để ‘vui đùa’ …, nhưng với tất cả tấm lòng thành thực yêu thương của những người con của Chúa, anh chị em trong cùng một gia đình.
BÍ TÍCH THÁNH THỂ và CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO:
Sau cùng, chúng ta cũng không quên tính cách truyền giáo trong Bí tích Thánh Thể. Trong Tông Thơ “ Bí Tích Thánh Thể và Công Cuộc Truyền Giáo”, Đức Gíao Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh: “Bí Tích Thánh Thể xây dựng Hội Thánh và Hội Thánh thực hành Bí Tích Thánh Thể… Sau Thánh Lễ, vị Chủ tế chia tay Cộng Đoàn với lời “Ite, Missa Est!” “Thánh Lễ đã xong, anh chị em hãy ra đi!”. Mọi người hãy cảm thấy được sai đi như là ‘Những NhàThừa Sai của Bí Tích Thánh Thể’ để đem đến các nơi hồng ân lớn nhất mà họ đã được lãnh nhận. Thực tế là bất kỳ ai đã được gặp gỡ Chúa Kitô trong Bí Tích Thánh Thể không thể không công bố tình yêu xót thương của Đấng Cứu Thế bằng chính cuộc đời của mình.” Trong thơ Mục vụ “Giáo Hội Từ Thánh Thể”, có đoạn Đức Gíao Hoàng cũng nhắc đến tính cách ‘ hiệp thông và phục vụ’ của Bí Tích Thánh Thể, khi nhắc đến việc Chúa Giêsu đã rửa chân cho các Tông Đồ trước khi Ngài lập Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Truyền Chức Thánh; sau đó Đức Gíao Hoàng viết: “ Loan truyền việc Chúa chịu chết cho tới khi Chúa lại đến (1Cor. 11,26) đòi buộc những ai tham dự vào Tiệc Thánh Thể phải cương quyết dấn thân biến đổi đời mình, để một cách nào đó cuộc sống ấy hoàn toàn trở thành ‘Thánh Thể’. Chính hoa quả của sự biến đổi đời mình và sự dấn thân biến đổi thế giới theo đường lối Tin Mừng, làm sáng tỏ tính cách cánh chung của việc cử hành Bí tích Thánh Thể và của tất cả đời sống Kitô Giáo: “Lạy Chúa Giêsu xin ngự đến !” (Kh. 22,20)
Khi cùng nhau ‘lên đường’ chúng ta đừng quên cùng ‘lên đường ‘ với Mẹ Maria, mà Đức Gioan Phaolô II gọi là “Người Phụ Nữ của Thánh Thể” và là ‘NHÀ CHẦU (Tabernacle) đầu tiên trong lịch sử’. Trong Tông thư “Bí Tích Thánh Thể và Công Cuộc Truyền Giáo”, Đức Gíao Hoàng nhắc lại lời Ngài đã viết trong Tông Thư “Giáo Hội từ Bí Tích Thánh Thể”: “Ngắm nhìn Đức Maria, chúng ta biết được quyền năng biến đổi hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể. Nơi Mẹ, chúng ta thấy thế giới được canh tân trong tình yêu. Mẹ Maria, ‘Nhà Chầu’ đầu tiên trong lịch sử, sẽ chỉ cho chúng ta thấy Chúa Kitô và đem đến cho chúng ta chính Chúa Kitô, Ngài là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống (Gioan14:16). Nếu ‘Hội Thánh’ và ‘Bí Tích Thánh Thể’ được hiệp nhất không thể tách rời, thì cũng có thể áp dụng điều này cho sự hiệp nhất giữa Mẹ Maria và Bí Tích Thánh Thể”.
Như vậy, sau khi đã được thông hiệp với nhau và nuôi dưỡng bằng Mình và Máu Thánh Chúa, chúng ta được thêm kiên cường về Đức Tin, Tình yêu và tinh thần Hiệp Nhất. Chúng ta ra đi, ra đi cùng với Mẹ Maria, đi về các môi trường sống hàng ngày (gia đình, học đường, xưởng thợ, xí nghiệp v.v…) để đem Tin Mừng Tình thương của Chúa đến cho mọi người và mọi nơi. Chúng ta cùng chung tay xây dựng hạnh phúc và hòa bình cho gia đình và thế giới chúng ta!
“Thánh Lễ đã hết chúng con ra về,
Tâm tư hân hoan reo mừng trong Chúa.
Thánh Lễ nối kết chúng con nên một,
Ra đi chung xây cuộc đời bác ái!
Xin tạ ơn Chúa muôn đời,
Chúng con xin tạ ơn Chúa muôn đời!” (Kim Long)
Đoạn thư hôm nay là tâm điểm của thư gửi tín hữu Do-thái. Mục đích của thư là khích lệ tín hữu hãy tin tưởng và kiên trì khi bị thử thách, nhìn lên Đức Ki-tô như gương mẫu hy sinh. Người đã đi qua đau khổ và cái chết để trở nên hy tế có hiệu năng tuyệt đối dâng lên Thiên Chúa. Theo gương Đức Ki-tô và kết hợp với Người, tín hữu phải đưa công việc thờ phượng vào chính cuộc sống của mình. Hy tế của tín hữu cần được kết hợp với hy tế ngợi khen của Đức Ki-tô, biểu lộ qua đức ái và phục vụ tha nhân, nhờ đó họ được tha thứ tội lỗi và đến cùng Thiên Chúa Cha. Sau khi cho thấy nhược điểm của Đền Thờ, của giao ước cũ và những hy tế theo luật cũ, đoạn thư Do-thái trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay hướng về Đức Ki-tô là vị Thượng Tế thập toàn và là Đấng đã thể hiện mọi lời hứa về việc thờ phượng Thiên Chúa cách hoàn hảo, để trình bày ý nghĩa và giá trị của máu Đức Ki-tô đã đổ ra vì chúng ta.
a) Sự trổi vượt của Đức Ki-tô, vị Thượng Tế thập toàn
Để hiểu sự trổi vượt của Đức Ki-tô, chúng ta cần biết vai trò của vị tư tế thời Cựu Ước. Tư tế là người thi hành sự trung gian giữa Thiên Chúa và dân Người qua hai hình thức: phục vụ việc phượng tự và phục vụ Lời Chúa. Trong việc thờ phượng, tư tế là người bảo vệ hòm bia giao ước, tiếp đón tín hữu đến nhà Chúa và chủ tọa các nghi lễ phụng vụ. Tuy nhiên hoạt động chính yếu của ngài là dâng lễ hy tế. Trong hoạt động này, ngài biểu lộ trọn vẹn vai trò trung gian: tiến dâng Thiên Chúa lễ vật của tín hữu và chuyển lại cho họ phúc lành của Thiên Chúa. Mỗi năm một lần vào ngày lễ Xá tội, vị Thượng tế lãnh đạo hàng tư tế biểu lộ vai trò trung gian tối cao của mình khi ngài dâng lễ khẩn cầu cho toàn dân được tha thứ mọi tội.
Sự trổi vượt của Đức Ki-tô được minh chứng qua một số yếu tố liên quan tới chức vụ tư tế. Những yếu tố này tại Đền Thờ chỉ có tính cách tương đối và tạm thời, trong khi cùng những yếu tố ấy nơi Đức Ki-tô lại là tuyệt đối và vĩnh cửu:
- Nơi chốn để Đức Ki-tô gặp gỡ Thiên Chúa không còn là Lều Hội Ngộ dệt bằng sợi vải quý, nhưng là chính thân thể phục sinh của Người.
- Đến dâng hy lễ cho Thiên Chúa, Đức Ki-tô không dùng đến máu dê bò như vị thượng tế vẫn làm, nhưng Người lấy chính máu Người đã đổ ra trên thập giá.
- Vị thượng tế năm nào cũng phải vào cung thánh một lần để dâng lễ xá tội và phải lập đi lập lại hoài, trong khi Đức Ki-tô vào cung thánh chỉ một lần là đủ. - Hiệu năng của việc thượng tế dâng hy lễ là xá tội cho dân trong năm ấy mà thôi, còn hy tế của Đức Ki-tô thì đem lại ơn cứu chuộc vĩnh viễn.
- Máu dê bò chỉ làm cho thân xác dân chúng được khỏi nhiễm uế, còn máu Đức Ki-tô thanh tẩy tội lỗi trong tâm hồn chúng ta. Máu của Đức Ki-tô cao quý và giá trị hơn mọi thứ máu súc vật đến độ không thể so sánh được, vì Người là Đấng chí thánh có thể diệt trừ tội lỗi để kết hợp con người với Thiên Chúa.
- Yếu tố quan trọng nhất nói lên sự trổi vượt của hy tế Đức Ki-tô, đó là sự hiện diện của Thánh Thần. Thánh Thần đã đưa việc tế lễ của Chúa Giê-su từ cấp độ loài người lên cấp độ của Thiên Chúa. Chỉ ở cấp độ Thiên Chúa, hy tế mới có đủ hiệu lực xóa bỏ tội lỗi của loài người.
b) Máu Chúa Ki-tô
Giống như mọi tôn giáo cổ xưa, Do-giáo cũng nhận máu có tính cách thần thiêng và tượng trưng cho sự sống. Vì tính cách thần thiêng và tượng trưng ấy, máu có tầm quan trọng đặc biệt trong phụng vụ xá tội. Ngày lễ Xá tội, vị thượng tế vào nơi cực thánh, đem theo máu các hy vật dâng lên Thiên Chúa để xin ơn xá tội cho mình và cho dân chúng. Theo thư Do-thái, việc làm của vị thượng tế trong Cựu Ước được coi là hình bóng tiên báo Đức Ki-tô lên trời với máu mình để cứu chuộc chúng ta.
“Những việc đưa tới sự chết” đều phát xuất từ cội nguồn là tội lỗi. Tội lỗi đã làm chúng ta “mất máu” hoặc tiêu diệt từ từ sự sống linh hồn chúng ta. Những việc làm tội lỗi của chúng ta được máu Chúa Giê-su xóa bỏ và phục hồi sự sống thiêng liêng nơi chúng ta. Chúa Giê-su tiếp máu sự sống của Thiên Chúa cho chúng ta, để chúng ta được sống và sống phong phú mà “xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống.” Người đã lấy hết máu của Người để tiếp máu cho một nhân loại đang chết lần mòn vì mất máu do tội lỗi. Người đã lấy máu ban sự sống của Thiên Chúa để tạo thành một nhân loại mới, một dân tộc được cứu chuộc. Tuy Người cũng phải chết vì hết máu, nhưng Thiên Chúa toàn năng đã cho Người sống lại từ kẻ chết để trở nên “phúc lộc của thế giới tương lai,” tức là phúc trường sinh đã thể hiện ngay tự bây giờ.
c) Bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta suy niệm về ý nghĩa cứu chuộc của Bí tích Thánh Thể
Có lẽ chúng ta quá quen với ý tưởng “Thánh Thể là của nuôi linh hồn,” nên ít khi nghĩ tới ý nghĩa cứu chuộc của Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô. Có lẽ việc cho rước Mình Thánh mà không cho rước Máu Thánh cũng ảnh hưởng tới não trạng ấy. Mặc dù Giáo Hội đã khẳng định rằng khi chúng ta rước Mình Thánh Chúa thì cũng chứa đựng cả Máu Thánh Chúa trong đó, chúng ta vẫn ít khi nghĩ tới ý nghĩa của Máu Thánh Chúa Ki-tô. Máu Đức Ki-tô là máu Tân Ước. Không có máu dê bò rẩy lên dân chúng, thì họ không được thanh tẩy; không có máu Đức Ki-tô đổ ra, thì không có ơn tha thứ. Cho nên máu Đức Ki-tô có hiệu lực xóa tội con người (Dt 9:18-28) và cho tội nhân được đến gần Thiên Chúa (Dt 10:19). Hơn thế nữa, Máu Thánh Người còn bảo đảm cho việc thánh hóa (10:29; 13:12) và đem chúng ta gia nhập vào đàn chiên của Chúa Chiên Lành (13:20).
Khi lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa một cách xứng hợp là chúng ta để cho hiệu năng cứu chuộc của Máu Thánh Chúa sinh hiệu quả đích thực: Ai ăn thịt và uống máu Ta thì được sống muôn đời, và Ta sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết (Ga 6:54).
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Xét lại hiện tượng “mất máu” của tôi để tìm ra nguyên do tại sao sự sống thiêng liêng của mình cứ èo uột, nếu không nói là chết đến nơi.
Mỗi khi lãnh nhận Bí tích Hòa giải, tôi có nghĩ tới tầm quan trọng của Máu Đức Ki-tô đã đổ ra trên thập giá không? Những suy niệm ấy sẽ giúp tôi những tâm tình nào mỗi khi đi xưng tội?
Thư Do-thái mời gọi tôi kết hiệp với hy tế của Chúa Giê-su và sống sự kết hiệp ấy bằng cách thực thi bác ái và phục vụ. Nói khác đi, việc rước Mình Máu Thánh Chúa phải đưa tôi đến yêu thương và phục vụ anh chị em. Tôi đã làm như thế chưa?
Cầu nguyện kết thúc Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát một bài về Thánh Thể.
Có một mẩu chuyện kể lại rằng: Trước khi từ giã mái nhà Nagiarét để lên đường rao giảng Phúc Âm, Chúa Giêsu đã hỏi Đức Mẹ: Thưa Mẹ, Mẹ muốn con để lại gì cho Mẹ sau những năm Mẹ đã giúp đỡ và an ủi con? Đức Mẹ đã trả lời: Mẹ chỉ mong được đứng cạnh con dưới chân thánh giá vào ngày thứ sáu hầu kết hiệp với hy lễ của con.
Đúng thế, kết hiệp với hy lễ của Đức Kitô cũng chính là điểm cao đẹp nhất mà người tín hữu chúng ta phải thực hiện. Để hiểu được điều đó, chúng ta hãy nhìn lên bàn thờ và chúng ta sẽ thấy những gì? Trước hết vị linh mục thượng phẩm chính là Chúa Giêsu. Sau khi thiết lập và cử hành thánh lễ đầu tiên vào chiều thứ năm tuần thánh, Ngài còn tiếp tục hiện diện và cử hành trong mỗi thánh lễ. Bởi vì nếu không có Chúa Giêsu thì cũng chẳng có thánh lễ. Và như sách giáo lý đã dạy, qua bàn tay linh mục chính Chúa Giêsu cử hành thánh lễ và dâng lên Chúa Cha của lễ tinh tuyền, bởi vì Đức Chúa Giêsu là linh mục đời đời theo dòng Melchisédech.
Bên cạnh Chúa Giêsu là vị linh mục, đã lãnh nhận bí tích Truyền Chức Thánh. Nhờ ngài mà bánh rượu sẽ trở nên Mình và Máu Thánh Đức Kitô. Nhờ ngài mà thánh lễ được cử hành ở khắp mọi nơi trên mặt đất này. Như chúng ta đã thấy trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã truyền chức linh mục cho các môn đệ, rồi trong dòng thời gian, các môn đệ lại truyền chức cho những người khác, như vậy quyền dâng tiến hy lễ và truyền phép được chuyển thông cho đến tận cùng thời gian. Vị linh mục rao giảng Lời Chúa, tha thứ tội lỗi và nhất là cử hành thánh lễ.
Thế nhưng, trong thánh lễ chúng ta không chỉ dừng lại ở đó để rồi có một thái độ thụ động, mơ mộng hay ngủ gục. Chúng ta không xem lễ như xem một vở kịch, một cuốn phim, nhưng chúng ta thực sự tham dự bằng cách kết hiệp tâm tình với những lời vị linh mục đọc và những việc vị linh mục làm. Và dưới một góc độ nào đó thì trong thánh lễ chúng ta cũng là những người cử hành, những người dâng tiến.
Để chuẩn bị cho con mình trong thánh lễ mở tay, có một bà mẹ đã cẩn thật trồng một đám lúa mì. Sau khi đã thu hoạch, bà xay thành bột rồi làm thành những chiếc bánh. Và trong ngày con bà cử hành thánh lễ đầu tiên, thì chính bà đã đem những tấm bánh ấy đến nhà thờ để dâng tiến.
Hơn thế nữa, trong ngày chịu phép rửa tội, chúng ta cũng đã được xức dầu để thánh hiến cho Thiên Chúa và như thế chúng ta cũng được tham dự vào chức vụ linh mục của Chúa Giêsu, và chúng ta gọi đó là chức linh mục cộng đồng của mọi người tín hữu, khác với chức linh mục thừa tác của những người được tuyển chọn qua bí tích Truyền Chức Thánh. Bởi đó trong thánh lễ chúng ta cũng thi hành chức vụ linh mục, chúng ta cộng tác với Chúa Giêsu, chúng ta góp phần bằng của lễ cuộc đời chúng ta, đó là những lao công vất vả và những hy sinh gian khổ chúng ta gặp phải. Chúng ta đừng bao giờ nghĩ rằng: cử hành thánh lễ là việc của Chúa Giêsu và các linh mục chứ không phải là việc của tôi. Bởi đó tôi có thể nghĩ đến những chuyện khác trong khi tham dự thánh lễ. Có ý thức vai trò của mình, chúng ta mới tham dự thánh lễ một cách sống động và việc tham dự sống động này mới thực sự đem lại lợi ích cho chúng ta.
Một cuốn phim mang tựa đề: “Cậu bé Marcellino” kể lại câu chuyện sau đây:
Ở cổng nhà dòng nọ có cậu bé bị bỏ rơi, một thầy dòng đã đem về nhà dòng nuôi. Với thời gian, cậu bé lớn lên, khôn ngoan và tinh nghịch. Vốn tính nghịch ngợm, cậu bé bị cấm không được leo lên kho trên gác. Nhưng vì tò mò, ngày nọ Marcellino đã leo lên kho trên gác. Cậu sửng sốt khi thấy có một người khổng lồ bị treo trên Thánh giá. Nghĩ rằng người này đang đói, nên ngay đêm đó, Marcellino đã lẻn vào bếp ăn cắp bánh và rượu đem lên cho người bị treo trên Thánh giá. Từ đó, ngày ngày cậu bé cứ âm thầm tiếp tế lương thực cho con người khốn khổ ấy. Thế rồi, một ngày nọ người khổng lồ ấy xuống khỏi Thánh giá, đến bên cạnh cậu bé và hỏi:
- “Con thích điều gì nhất”. Cậu bé đáp: - “Con muốn được thấy mẹ con”. Người khổng lồ liền nói: - “Con hãy nhắm mắt lại và ngủ say”.
Ngày hôm sau, các tu sĩ trong nhà không thấy Marcellino nữa, họ đi tìm khắp nơi và cuối cùng thấy cậu bé đã chết trong vòng tay của Chúa Giêsu trên Thánh giá. Anh chị em thân mến, đối với Marcellino trong câu chuyện trên, bánh và rượu là ngôn ngữ cậu bé dùng để nói với Chúa Giêsu: “Con yêu mến Chúa”, “Con muốn được săn sóc Chúa, nuôi dưỡng Chúa”. Còn đối với Chúa Giêsu, bánh và rượu Ngài ban qua Bí tích Thánh Thể là dấu chỉ của tình yêu hiến thân để trở thành lương thực nuôi sống chúng ta, và Ngài muốn chúng ta mở rộng tâm hồn để đón nhận.
Mở rộng tâm hồn đón nhận Ngài trong Thánh Thể, con người mới có thể mở rộng trái tim và đôi bàn tay để đón nhận Ngài nơi tha nhân. Chúa Giêsu là Bánh từ trời xuống để lôi kéo họ về với Thiên Chúa. Chia sẻ sự sống thần linh nơi bàn tiệc Thánh Thể, người tín hữu được mời gọi chia sẻ cơm bánh hằng ngày với tha nhân. Và kỳ diệu thay, chính khi chia sẻ với tha nhân, người tín hữu cảm nhận được sự sống trường sinh và hạnh phúc đích thức tràn ngập tâm hồn.
Thưa anh chị em, Bí tích Thánh Thể là Bí tích của Tình Yêu. Vì yêu thương chúng ta, Chúa Giêsu đã có một sáng kiến lạ lùng là lấy chính Thịt Máu của Ngài làm của ăn của uống để nuôi sống chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định: Chính Ngài là của ăn và của uống Chúa Giêsu ban hoàn toàn khác với manna và mạch nước trong sa mạc: “Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời”. Chúa Giêsu không nhằm thoả mãn cái đói cái khát thể xác. Thế nên, Ngài xác quyết: “Thịt Tôi thật là của ăn, Máu Tôi thật là của uống”. Vậy Bánh Ngài ban chính là Thịt Máu Ngài. Cụm từ “Thịt Máu” ở đây không những bao gồm tất cả những gì nuôi sống linh hồn con người để đưa đến sự sống vĩnh cửu, mà còn ám chỉ đến Mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đã nhập thể mang lấy xác phàm trong thân phận con người và đã đổ máu ra trên Thập giá để cứu chuộc nhân loại. Ngài đã chấp nhận trở thành của ăn của uống là những cái thường tình nhất của cuộc sống chúng ta để đưa chúng ta đến sự sống vĩnh hằng.
Vì lý do đó, Thánh Phaolô đã nhấn mạnh đến việc hiệp thông với Chúa Giêsu Thánh Thể là kết hiệp mật thiết với chính Chúa Kitô, nghĩa là đồng hoá với Ngài, nên giống Ngài trong tư tưởng, ngôn ngữ và cuộc sống: “Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu tôi, người ấy sẽ ở trong Tôi và Tôi ở trong người ấy”. Không bí tích nào giúp chúng ta sống “với Chúa, nhờ Chúa và trong Chúa” bằng bí tích Thánh Thể. Từ đó, Thánh Phaolô dám khẳng định: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Từ việc kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể sẽ đưa chúng ta đến việc hiệp nhất với các anh chị em tín hữu. Vì liên kết với Chúa Kitô, nên chúng ta cũng liên kết với nhau để làm thành một thân thể duy nhất trong Chúa Kitô, điều mà Thánh Phaolô gọi là “Nhiệm thể Chúa Kitô”. Ăn Thịt và uống Máu Chúa Kitô là lãnh nhận một động lực mạnh mẽ nhất để dẹp bỏ và xua tan những mối bất đồng, những mâu thuẫn sâu xa nhất để chỉ còn trở nên với Chúa Kitô một thân xác và một linh hồn. Sự hiệp nhất của cộng đoàn Kitô hữu trong Bí tích Thánh Thể có sức mạnh thu phục những khách bàng quan, những người xa lạ đến với Giáo Hội, như các tín hữu thời sơ khai đã từng chinh phục và đem lại ảnh hưởng lớn lao cho thế giới ngoại giáo: Họ nói với nhau: “Kìa xem coi họ (các tín hữu Kitô) yêu thương đoàn kết với nhau biết chừng nào!” (x.Cv 2,42-47).
Anh chị em thân mến, “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Tất cả chúng ta đều được mời đến dự tiệc Thánh Thể. Thế nhưng có khá đông người tham dự Thánh lễ mà không tiếp rước Mình Máu Thánh Chúa. Phải chăng Thánh lễ đối với họ chỉ còn là một nghi thức và bổn phận phải làm, chứ không còn là sự sống được trao ban và lãnh nhận? Hoặc phải chăng vì thấy việc rước lễ xem ra không có hiệu quả trong đời sống, nên họ thất vọng và không muốn rước lễ nữa? “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Chẳng lẽ được mời đến dự tiệc mà chẳng ăn uống gì, chỉ ngồi đó “nhìn miệng” các thực khách, rồi ra về mà lòng vẫn u sầu và bụng vẫn đói meo? Thiết tưởng không phải vô ích khi khẳng định lại điều này: Chẳng bao giờ chúng ta đến với người khác thực sự, nếu không kết hợp thâm sâu với Chúa Kitô.
Đức Cha Helder Camera, Tổng Giám Mục Giáo phận Récite ở Braxil, đã chia sẻ kinh nghiệm thống nhất đời sống hoạt động và chiêm niệm của ngài thế này: “Mỗi sáng, tôi được nuôi dưỡng bằng Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể, rồi suốt ngày, tôi gặp gỡ Đức Kitô nơi anh chị em tôi. Cũng một Chúa Giêsu ở trên bàn thờ và ngoài đường phố”. Có lẽ chúng ta dễ quên chân lý này: Hiệp nhất với Chúa Kitô phải đưa đến sự hiệp nhất với anh em. Nói cách khác, hiệp nhất với Chúa Kitô đang hiện diện ẩn dấu nơi anh chị em mình, nhất là nơi những người nghèo đói và bất hạnh (x.Mt 25). Và chúng ta cũng hay quên rằng: Hiệp nhất sự sống phải được thể hiện trong sự hiệp nhất lối sống. Lối sống của Chúa Giêsu Thánh Thể là lối sống của tình yêu tự hiến để cho nhân loại được sống, là phục vụ đến hy sinh mạng sống để làm giá cứu chuộc muôn người.
Được nuôi dưỡng cùng một Bánh Thánh –là Thịt Máu Chúa Giêsu- chúng ta được mời gọi chia sẻ chén cơm hằng ngày cho anh em và dấn thân hoạt động cho một trật tự công bằng, huynh đệ, cho cuộc sống ấm no hạnh phúc của mọi người trên thế giới hôm nay.
Sau đó Bác sĩ Ricardo Castanon Gomez đã thu xếp để cho so sánh báo cáo xét nghiệm của phép lạ tại Buenos Aires với báo cáo xét nghiệm của phép lạ tại Lanciano, và một lần nữa, ông cũng không cho biết xuất xứ của hai mẫu xét nghiệm. Những chuyên viên thực hiện công trình so sánh này kết luận rằng hai báo cáo liên quan đến những mẫu xét nghiệm đến từ cùng một người. Họ còn cho biết rằng hai mẫu đều thuộc loại nhóm máu AB dương tính. Máu còn mang đặc tính của một người được sinh ra và sống tại Trung Đông.
Chỉ có đức tin vào hành động phi thường của Chúa mới cho chúng ta câu trả lời thỏa đáng! Chúa muốn chúng ta ý thức rằng Người thực sự hiện diện trong Bí tích Thánh Thể. Phép lạ ThánhThể tại Buenos Aires là một dấu hiệu phi thường được khoa học công nhận. Qua phép lạ này, Chúa Giêsu muốn đưa chúng ta đến một đức tin sống động khi tin vào sự hiện diện thực sự của Người trong Bí tích Thánh Thể, thực sự chứ không phải tượng trưng. Chỉ với con mắt đức tin chứ không phải bằng mắt trần chúng ta mới có thể thấy Người dưới hình bánh rượu đã được truyền phép. Trong Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu nhìn thấy và yêu thương chúng ta và Người mong muốn cứu giúp chúng ta.
(Tổng giám mục Bergoglio trở thành Hồng y năm 2001, và phép lạ này được công bố sau những cuộc nghiên cứu lâu dài). Đừng bỏ lỡ cơ hội xem trong đoạn video dưới đây Bác sĩ Castanon, từ vô thần trở nên công giáo, giải thích bằng tiếng Tây Ban Nha (có phụ đề tiếng Anh và có hình ảnh đi kèm) phép lạ này!
-------------------
From: Thuy Diep Luu <thuy_diep1@yahoo.ca>;
To: <>;
Subject: Fw: Miracle à Buenos Aires !
Sent: Tue, Jun 18, 2013 5:13:09 PM Une belle histoire, une preuve éclatante de l'amour de Jésus-Eucharistie...
Chúa Giêsu và các môn đệ đang đứng trước một cử toạ đông đảo, đói lời Chúa cũng như đói cơm bánh. Lúc ấy, trời đã về chiều mà địa điểm tụ họp lại là một nơi hoang vắng. Thánh Luca đã ghi lại Chúa Giêsu và các môn đệ có hai cách đối xử hoàn toàn khác biệt nhau trong cảnh huống đặc biệt ấy.
Các môn đệ thì đề nghị Chúa Giêsu giải tán đám đông để mỗi người tự lo liệu lấy cái ăn và nghỉ ngơi cho mình. Thật là đơn giản. Các môn đệ và cả Thầy của họ khỏi bận tâm vất vả, mặc dù giải pháp các ông đề nghị có thể đưa đến một tình trạng xáo trộn có thể là khung khiếp. Chúng ta thử mường tượng cả một đám đông, mà nguyên số đàn ông đã lên tới 5000, kéo vào một vài làng gần đó, chắc hẳn là không có những siêu thị hiện đại dư đầy hàng hoá, để sục sạo mua bán cái ăn thức uống. Cảnh giành giật, cấu xé nhau không thể không xảy ra. Và cảnh tượng ấy hiển nhiên là trái nghịch với cảnh Nước Thiên Chúa mà Chúa Giêsu vừa mới rao giảng cho họ. Các môn đệ như muốn giới hạn sứ vụ của các ông và cả của Chúa Giêsu vào những việc ngày nay quen gọi là việc đạo. Thực ra cứ lý tự nhiên mà xét, vào lúc này không thể làm gì hơn là giải tán để mỗi người tự lo liệu lấy. Giải pháp riêng xem ra vẫn dễ hơn và khoẻ hơn. Chẳng phải chúng ta nghĩ oan cho các môn đệ. Bởi vì ngay Chúa Giêsu cũng đã ra lệnh cho các ông: Các con hãy cho họ ăn đi. Các ông đã trả lời: Chúng ta chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá, trừ khi chúng con phải đi mua thức ăn cho tất cả đám đông này.
Nhưng Chúa Giêsu thì lại có một thái độ khác hẳn. Ngài không thể bỏ mặc đám đông đã đi theo Ngài. Sứ mạng của Ngài, như Ngài đã từng khẳng định: Không phải là mưu tìm cơm áo cho những kẻ thiếu thốn bởi vì chính Ngài đã bỏ trốn khi đám đông tìm Ngài để tôn Ngài lên làm vua sau khi được Ngài làm phép lạ cho họ ăn no nê. Nhưng Ngài không giới hạn sứ mạng của Ngài vào những việc thiêng liêng, để rồi làm ngơ trước cái đói, cái khó khăn, cái cùng quẫn của con người. Và ở đây Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ của Ngài bài học, đó là phải biết quan tâm về cuộc sống của những người chung quanh. Mọi sự đều được bắt đầu từ sự quan tâm này. Đồng thời không có sự quan tâm này thì mọi sự đều trở nên khó khăn. Trái lại, khi đã có sự quan tâm nhập cuộc, thì tình hình khó khăn sẽ được giải quyết như bởi một phép lạ. Dĩ nhiên, sự quan tâm đến người khác đòi hỏi chúng ta phải đầu tư sức lực, trí tuệ và khả năng để đáp ứng những nhu cầu của họ. Và như thế sự quan tâm cũng có nghĩa là tự hiến mình cho kẻ khác.
Và Chúa Giêsu đã thể hiện tới cùng sự quan tâm này nơi chính bản thân của Ngài, bởi vì Ngài đã ban chính thịt máu Ngài, nghĩa là trọn vẹn cuộc sống của Ngài cho kẻ khác: Các con hay cầm lấy mà ăn vì này là mình Ta. Các con hãy cầm lấy mà uống vì này là máu Ta. Cử hành Thánh Thể chính là lặp lại cử chỉ tự hiến của Chúa Giêsu: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta. Thánh Thể không phải chỉ là một nghi lễ, nhưng hơn thế nữa còn là một thái độ sống, một sự quan tâm, một sự dấn thân vì hạnh phúc của người khác.
Lễ nào không phải là lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu hay sao, mà phụng vụ còn phải đặt ra ngày lễ hôm nay? Đó là vấn đề đã được tranh luận sôi nổi ở cuối thế kỷ XIII và đầu thế kỷ XIV trước khi lễ kính trọng thể Mình Máu Thánh Chúa Giêsu được phổ biến ở mọi nơi. Trước đó, tức là trong hơn 10 thế kỷ đầu của Kitô giáo, Hội Thánh vẫn cử hành thánh lễ tạ ơn, nhưng không nghĩ tới việc đặt ra một ngày lễ đặc biệt để tôn thờ Chúa Giêsu ngự nơi Thánh Thể. Hội Thánh coi Thánh Thể là lương thực hàng ngày nên không để ý quan sát, mà chỉ quan tâm lãnh nhận. Sang đến cuối thế kỷ XII, vì có người đặt vấn đề sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể, Hội Thánh mới thấy việc chiêm ngưỡng và suy nghĩ về bí tích này là cần thiết. Lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu được đặt ra để nói lên niềm tin vào việc Chúa ngự nơi Thánh Thể. Và niềm tin này đòi hỏi việc tôn thờ xứng đáng, biểu hiện trong thái độ chầu Mình Thánh và kiệu Mình Thánh. Đó còn là những việc mà chúng ta muốn làm hôm nay cùng với việc dự lễ và rước lễ để nói lên lòng tin yêu của chúng ta đối với bí tích Thánh Thể.
Nhưng cho dù chính đáng, những cách thức biểu lộ niềm tin này vẫn không cần thiết bằng việc kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể mà Hội Thánh vẫn quan tâm ngay từ đầu. Và những bài đọc Kinh Thánh hôm nay muốn giúp chúng ta làm công việc này.
Bánh rượu trong tay Melkisedek.
Bài sách Khởi Nguyên đưa chúng ta về một thời đại xa xưa, thời của tổ phụ Abraham. Hôm ấy vị tổ phụ đi giao chiến để cứu anh em mình là gia đình ông Lót. Abraham đã toàn thắng. Trên đường về có vua ở Sôđôma ra đón để chúc mừng và tỏ tình thân thiện. Lại có vua ở Salem là Melkisedek cũng ra gặp gỡ.
Tác giả sách Khởi Nguyên chỉ dùng có ba câu để thuật lại câu truyện. Nhưng đây là ba câu đã có ảnh hưởng lớn trong truyền thống của Kinh Thánh. Hết mọi từ ngữ đều có ý nghĩa. Melkisedek, nếu chiết tự thì có nghĩa là Vua Công Chính. Và Salem không những là tên được đồng hóa với Giêrusalem mà còn gợi lên tư tưởng Hòa Bình. Chắc chắn câu truyện kể ở đây đã thành danh tiếng vì nó đã xảy ra tại Giêrusalem, ở ngay thời của tổ phụ dân Chúa. Người ta truyền tụng nó để đề cao Giêrusalem, và để nói lên rằng: thủ đô của dân Chúa đã được vị tổ phụ của dân tộc đặt chân đến.
Hơn nữa, ở đây, nơi đô thị ‘Hòa Bình’ này, vị tổ phụ đã gặp một nhân vật ‘mầu nhiệm’. Ông không phải chỉ là vua, mà còn mang danh hiệu là ‘ông vua công chính’. Về sau người ta đã cố gắng tìm hiểu lai lịch của ông, nhưng mọi nỗ lực chỉ đi đến một kết luận: ông như không cha không mẹ; ông đột nhiên xuất hiện rồi lại biến mất tăm hơi. Ông là con người mầu nhiệm, y như thái độ của ông trong câu truyện này.
Ông ra đón Abraham, nhưng khác hẳn với vua Sôđôma đã ra gặp vị tổ phụ. Vì mặc dù là Vua Salem, ông đã không nghênh đón ‘người đại thắng khải hoàn’ theo cung cách triều đình, nhưng với tác phong là tư tế; vì theo tục lệ đông phương thời ấy, hoàng đế cũng là tư tế. Ông mang bánh và rượu ra. Ông làm một cử chỉ tôn giáo. Ông chúc lành cho Abraham và ông ca tụng Chúa Tối Cao. Ông dùng chính vị Chúa của mình là Đấng Tối Cao dựng nên trời đất để chúc phúc. Ông làm cho Abraham như phải cúi đầu và dâng cho ông thập phân về hết mọi sự.
Có lẽ hàng tư tế Do Thái đã thích câu truyện này và muốn lợi dụng tối đa. Họ nhắc đi nhắc lại để cho con cái Israel phải quý việc nộp thập phân huê lợi cho hàng tư tế, vì chính vị tổ phụ đã làm như thế!
Nhưng phần lớn truyền thống Cựu Ước lại chú ý đến vai trò tư tế của Melkisedek và vị Chúa Tối Cao mà ông tôn thờ. Ngài là Đấng dựng nên trời đất, nên Ngài cũng là chính Giavê, Chúa của dân Israel. Ngài đã phó địch thù trong tay Abraham, và như vậy Ngài là Chúa toàn năng của tất cả mọi người, cả khi người ta không biết Ngài. Tất cả những tư cách này khiến con cái Israel –cũng như tổ phụ Abraham thấy ngay Ngài cũng là Thiên Chúa của họ và Giêrusalem thật là nơi thánh địa, vì từ đầu vẫn là đô thị của Thiên Chúa.
Điều này cũng nói lên quan niệm của Cựu Ước không coi tôn giáo tự nhiên, tôn thờ Đấng dựng nên trời đất, như tôn giáo của các dân ngoại. Ngoại giáo là tà giáo, chứ tôn giáo tự nhiên thờ Đấng Tối Cao là chính giáo ở thời chưa được mạc khải, nên vẫn đáng trọng.
Tuy nhiên Cựu Ước chưa chú trọng đến bánh rượu ở trên tay Melkisêdek như phụng vụ muốn cho chúng ta phải làm trong ngày hôm nay. Những của lễ kia, nằm trên tay vị tư tế mầu nhiệm của tôn giáo tôn thờ Đấng Tối Cao là hình ảnh báo trước bánh rượu sẽ được đôi tay của vị tư tế đạo mới dâng lên sau này. Thiên Chúa, Đấng dựng nên trời đất, ngay từ buổi đầu của lịch sử dân Chúa, đã tỏ ra muốn dùng bánh rượu làm lễ vật. Những của lễ này nằm trên tay Melkisêdek nói lên lòng tôn thờ tự nhiên, chuẩn bị cho việc tôn thờ hoàn chỉnh sau này.
Do đó ngày nay trong Thánh lễ, chúng ta dâng lên Chúa bánh rượu ‘là hoa mầu ruộng đất và lao công vất vả của con người’ để trở nên Mình và Máu Chúa Kitô. Thánh lễ của chúng ta kiện toàn lễ dâng của Melkisêdek. Bánh rượu trên tay vị tư tế này đang chờ được vị thượng tế đạo mới thánh hóa. Và như vậy, Thánh lễ của chúng ta đã bắt nguồn từ xa xưa và kiện toàn mọi lễ dâng từ thời Abel qua Melkisêdek và cho tới nay. Chúng ta không dâng lễ ở ngoài lịch sử, nhưng dâng tất cả lịch sử làm của lễ khi nhận lấy bánh rượu đã được dâng từ thời Melkisêdek để trở nên bánh nuôi sống và của uống thiêng liêng cho chúng ta. Và Melkisêdek là hình ảnh báo trước về Chúa Kitô và các tư tế của Người, trong đó có cả chúng ta. Do đó, mỗi khi dâng lễ, chúng ta lại nhớ tới vị tư tế xa xưa này. Mỗi khi cầm bánh rượu, chúng ta như nắm lấy tất cả thiên nhiên và lịch sử. Chúng ta muốn tất cả trở thành lương thực nuôi dưỡng chúng ta sau khi đã biến đổi nên Mình và Máu Chúa Giêsu. Chính Người với lễ hy sinh của Người nối kết và hoàn chỉnh mọi lễ dâng của các thế hệ xa xưa cũng như của những thế hệ sau này. Chúng ta hãy nhìn Người trong hành vi tế lễ.
2. Bánh rượu trong tay Chúa Giêsu.
Chắc chắn, khi còn ở trần gian và sống với các môn đệ, Đức Giêsu đã nhiều lần cầm lấy bánh rượu. Nhưng có thể nói, môn đệ đã quên hết mọi lần khác để chỉ nhớ lại một lần, lần xảy ra trong bữa ăn tối sau hết trước khi Ngài ra đi chịu chết.
Lần ấy Người đã cầm lấy bánh rượu một cách khác thường, không thể quên được, đến nỗi mỗi khi nhắc lại đã có lần nào Người cầm bánh rượu, là môn đệ lại nhớ đến lần này và lấy cử chỉ, thái độ của Người trong lần này để mô tả mọi lần khác. Chính vì vậy mà hôm nay chúng ta xem bài thư Phaolô trước nói đến lần Đức Giêsu cầm lấy bánh rượu ở bàn Tiệc ly. Rồi chúng ta mới nói đến bài Tin Mừng kể việc Đức Giêsu cầm lấy bánh để chia trong một dịp khác.
Việc này xảy ra trước bữa Tiệc ly; nhưng như đã nói, môn đệ Chúa đã kể lại việc này theo ‘khuôn mẫu’ của việc Người cầm lấy bánh rượu ở trong bữa ăn cuối cùng. Thành ra, chính bài thư Phaolô sẽ giúp chúng ta hiểu bài Tin Mừng, mặc dù câu truyện kể ở đây đã xảy ra trước, nhưng đã được viết lại sau và theo kinh nghiệm bàn Tiệc ly.
Thánh Phaolô viết đoạn thư này vào khoảng năm 57, căn cứ vào truyền thống chân thật, đây là điều người đã nhận được nơi Chúa, tức là bắt nguồn từ Chúa để truyền lại cho tín hữu. Do đó, đây là sự kiện chân thật. Chỉ có uy tín chân thật này mới có thể làm cho giáo dân Côrintô suy nghĩ và sửa mình.
Họ vẫn hội họp nhau để cử hành ‘bữa tiệc của Chúa’. Nhưng Phaolô thấy chẳng có vẻ gì là ‘của Chúa’ cả. Gần giống các bữa tiệc tôn giáo của dân ngoại rồi. Bởi vì ai đến ăn, cũng mang phần riêng của nhà mình tới. Người có nhiều thì ngồi chung với nhau ăn nhậu một cách tham lam và khinh bỉ những người khác. Những người này nghèo hơn, mang theo phần ít, ngồi ăn một cách buồn bã. Người ta chỉ mượn ‘Nhà của Chúa’ để mang đồ ăn của ‘nhà mình’ tới. Người ta lợi dụng buổi lễ tôn giáo để ăn uống chứ không cử hành ‘bữa ăn tối’ của Chúa nữa.
Thế nên để sửa dạy giáo dân của Ngài, Phaolô nhắc lại thế nào là ‘bữa ăn’ đích thực của Chúa. Người làm cho họ nhớ giáo huấn chân truyền. Và sự thật ấy thế này: trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu đã cầm lấy bánh và tạ ơn xong, Người đã bẻ ra và nói: “Này là Mình Ta… vì các ngươi…”. Cũng vậy về Chén, sau khi dùng bữa tối xong, Ngài nói: “Chén này là Giao Ước Mới trong Máu Ta, các ngươi hãy làm sự này mỗi khi uống mà nhớ đến Ta”.
Chỉ trong mấy câu vắn tắt, Phaolô đã thuật lại tất cả sự thật. Người nói rõ việc ấy xảy ra trong đêm Đức Giêsu bị nộp. Thế nên việc ban bánh rượu này cho môn đệ gắn liền với cuộc khổ nạn của Người. Và ‘Bữa Ăn Của Chúa’ luôn luôn mang sắc thái của bữa Tiệc ly.
Đó cũng là bữa ăn Vượt Qua của người Do Thái, nhắc lại việc Chúa cứu dân ra khỏi Ai Cập và tin tưởng cầu xin cùng chờ đợi Chúa còn tiếp tục giải cứu nữa trong tương lai cho đến khi có giao ước mới và vĩnh cửu như lời các ngôn sứ của Chúa từng loan báo. Và trong bữa ăn này, việc giết một con chiên để lấy máu bôi lên cửa là việc cốt yếu. Thế mà khi chia bánh rượu cho môn đệ, Đức Giêsu lại tuyên bố: đây là Mình Ngài bị nộp và đây là chén Máu Ngài sẽ đổ ra. Người còn gọi đó là chén giao ước mới. Do đó, rõ ràng Người đã tự coi, tự hiến mình nên Chiên Vượt Qua để mang đến ơn cứu độ mà các ngôn sứ từng loan báo.
Các môn đệ không lầm. Họ thấy rõ với các cử chỉ của Chúa Giêsu đã khai trương thời đại mới. Người đã thay thế bữa ăn Vượt qua của người Do Thái bằng bữa ăn của Người hôm nay. Có thể họ chưa hiểu rõ những lời về Mình và Máu, vì phải đợi đến ngày hôm sau khi thấy Mình Ngài bị nộp và Máu Ngài chảy ra họ mới biết hết ý nghĩa. Nhưng họ đã cảm thấy chắc chắn Chúa Giêsu muốn dùng các cử chỉ của Người hôm nay để ký kết giao ước mới, chấm dứt đạo cũ và nghi lễ cũ. Từ nay bước sang thời đại cứu độ và nếp sống mới. Và nghi lễ mới cũng đã được thiết lập, vì Đức Giêsu đã bảo: ‘Phải làm sự này mà nhớ đến Người’. Tức là mỗi khi nhớ đến Ngài, nhớ đến để hiệp thông với Ngài trong hành vi cứu độ để được Giao Ước mới, phải làm việc Ngài vừa làm, tức là phải cầm lấy bánh rượu mà làm như Ngài.
Thế mà giáo dân Côrintô đâu có làm như thế! Thánh Phaolô phải bảo họ ‘mỗi lần anh em ăn bánh và uống chén ấy, anh em loan báo sự chết của Chúa… anh em làm bất xứng, thì sẽ mắc tội đối với Mình và Máu Chúa.
Những lời này tuyên bố rõ ràng có sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể. Bánh rượu đã trở nên Mình Máu Thánh Chúa. Nếu ngày lễ hôm nay có ý nói lên niềm tin Chúa hiện diện nơi Bánh Thánh, Rượu Thánh, thì những lời thánh Phaolô vừa nói đã đạt yêu cầu. Nhưng mục đích của thánh Phaolô không phải chỉ muốn nói đến sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể; Người muốn rằng người ta phải hiệp thông với Chúa, có tâm tình của Chúa để cử hành tiệc Bánh Rượu.
Đây là bữa ăn Vượt qua. Người ta phải ôn lại và ôm lấy tất cả lịch sử từ trước cho đến nay với tâm tình tạ ơn, nhưng cũng với ‘ý thức xót xa vì bao nhiêu khiếm khuyết để ước mong được cứu độ nhờ giao ước mới. Người ta sẽ cầm lấy bánh và chén rượu. Và lúc ấy theo lời Chúa Giêsu đã nói, người ta nhớ đến Người, nhớ đến cuộc Tử Nạn hồng phúc của Người. Người ta tham dự, thông phần lễ hy sinh Người đã dâng để được vượt qua, sống lại, hướng về ngày vinh quang Người trở lại. Bánh rượu trên tay Chúa, vì thế, không còn phải chỉ là bánh rượu như trên tay Melkisêdek nữa. Nếu trên tay vị tư tế mầu nhiệm này, bánh rượu tượng trưng cho thiên nhiên, thì trên tay Chúa Giêsu, bánh rượu mang thêm ý nghĩa lịch sử và giao ước cũ. Đó không phải chỉ là hoa mầu ruộng đất, nhưng còn là lao công vất vả của con người. Thiên nhiên và con người đều phải trở nên tạo vật mới, nhờ mầu nhiệm Chúa Giêsu nơi bí tích bánh rượu mà chúng ta còn tiếp tục dâng trên bàn thờ.
3. Bánh rượu trên tay chúng ta.
Dĩ nhiên khi dâng bánh rượu, chúng ta phải có những tâm tình như trên vừa nói; vì lời thánh Phaolô nói với tín hữu ở Côrintô cũng là để cho chúng ta. Nhưng mục đích cuối cùng của Phaolô không phải chỉ muốn nhắc cho chúng ta nhớ ‘Bữa Ăn Của Chúa’, mà còn khuyên chúng ta vì tính chất của bữa ăn như vậy, nên phải cử hành tiệc Thánh Thể mà gia tăng bác ái. Bữa ăn của Chúa phải là bữa ăn huynh đệ.
Ở đây chúng ta hãy nhớ bài Tin Mừng Luca. Chúng ta đã nói cử chỉ cầm bánh rượu của Đức Giêsu nơi bàn Tiệc ly đặc sắc quá khiến mỗi khi nhắc lại những lần khác mà Đức Giêsu cầm lấy bánh rượu, các môn đệ lại nhớ đến các cử chỉ của Người ở bàn Tiệc ly và dùng chúng làm khuôn mẫu để diễn tả. Điều này rõ ràng trong bài Tin Mừng hôm nay. Thánh Luca kể hôm ấy Chúa muốn thết đãi những người đi theo Chúa vào nơi hiu quạnh. Người cho họ ngả mình xuống thành từng cỗ, mỗi cỗ độ năm mươi… Rồi Người cầm lấy bánh và hai con cá. Người ngẩng mặt lên trời và chúc tụng trên bánh và cá, đoạn bẻ ra và ban cho môn đệ để họ thết đãi dân chúng.
Chúng ta bảo bữa ăn này báo trước bàn Tiệc ly và nhất là bàn tiệc Thánh Thể trong Hội Thánh; hay chúng ta phải nói các bữa ăn Thánh Thể và bàn Tiệc ly đã cung cấp cho thánh Luca mọi yếu tố để thuật lại một câu truyện xảy ra trước? Dĩ nhiên câu truyện này cũng có ý báo trước những việc xảy ra sau… nhưng chính những sự kiện xảy ra sau đã đem ý nghĩa đến cho câu truyện xảy ra trước và cung cấp cho nó những tài liệu để diễn tả.
Chúng ta không cần nói thêm điều ấy nữa. Nhưng vì thánh Luca đã nhìn vào bàn tiệc Thánh Thể trong Hội Thánh để thuật câu truyện đã xảy ra nơi sa mạc, thì chúng ta hãy xem ngoài các yếu tố báo trước bàn Tiệc ly và tiệc Thánh Thể, thánh Luca còn muốn chú trọng đến điểm nào nữa? Dường như tác giả đã chú ý đến vai trò của các Tông Đồ. Lúc đầu họ muốn giải tán dân vì thấy bất lực cung cấp lương thực cho dân. Nhưng được Chúa gợi ý cho dân ăn, họ nhiệt tình muốn đóng góp tất cả và sẵn sàng làm thêm. Chúa bảo họ tổ chức cho dân ngả mình xuống thành từng cỗ. Ngài trao bánh cá cho họ phân phát… cuối cùng còn thu được 12 giỏ mảnh vụn, đúng số 12 Tông Đồ.
Những điều ấy há không đáng suy nghĩ sao? Trong bàn tiệc Thánh Thể, Chúa muốn chúng ta phải biết nghĩ đến nhu cầu của anh em. Có thể chúng ta bất lực, nhưng Chúa sẽ giúp. Mình Máu Người còn trao cho chúng ta để chia sẻ, huống nữa là của ăn vật chất và tài năng tự nhiên mà Chúa đã đặt trong tay mỗi người. Chúng ta không phải chia sẻ những của ấy sao? Chúng ta sợ mất mát thiệt thòi sao, khi thấy cuối cùng còn thu lại được 12 giỏ vụn?
Chắc chắn Hội Thánh ban đầu đã hiểu rằng bàn ăn của Chúa cũng phải là bàn tiệc huynh đệ, nên khi cử hành mầu nhiệm Thánh Thể, Hội Thánh cũng tổ chức việc chia sẻ nâng đỡ vật chất. Giáo dân Côrintô đã quên phương diện này, nên thánh Phaolô đã phải nhắc lại. Lời thánh Phaolô hôm nay cũng chất vấn chúng ta: chúng ta sốt sắng tôn thờ Thánh Thể, nhưng có biết chia sẻ với nhau một cách thực tế không, để không một ai phải thiếu thốn quá đang khi những người khác thì no đầy?
Thế nên hôm nay chúng ta phải suy nghĩ về cả ba bài đọc, để khi long trọng tôn thờ Chúa trong Thánh Thể, chúng ta ý thức thêm về nhiệm vụ bác ái, để mỗi lần cử hành bàn tiệc của Chúa chúng ta lại nghĩ đến bàn ăn của anh em. Nơi bàn tiệc thánh được Chúa nuôi thì sự sống mới chúng ta nhận được phải đưa chúng ta đến với anh em và chia sẻ số phận với anh em để khi trở lại dâng lễ, chúng ta có bánh rượu là hoa mầu ruộng đất và lao công của con người dâng lên để trở thành bánh nuôi sống và của uống thiêng liêng cho tất cả chúng ta.
Trong ngày lễ kính Mình Máu Chúa Kitô, Giáo Hội cho chúng ta nghe đoạn Tin Mừng về phép lạ bánh hóa nhiều. Đây là phép lạ duy nhất được cả bốn Phúc Âm thuật lại. Đây cũng là một phép lạ công khai trước mặt một số đông người. Năm chiếc bánh và hai con cá trở thành lương thực nuôi khoảng năm ngàn người mà vẫn còn dư mười hai thúng miếng vụn. Thánh sử Luca nhấn mạnh đến vai trò của nhóm Mười Hai trong phép lạ này. Chính họ đã chủ động xin Chúa Giêsu giải tán đám đông để những người này tìm chỗ ăn, chỗ ở. Và Chúa Giêsu dường như muốn đưa ra một thách đố cho nhóm Mười Hai: "Chính các con hãy cho họ ăn". Hãy lo cho họ sau khi đã được nghe giảng về Nước Thiên Chúa, được chữa lành khỏi mọi tật bệnh. Các môn đệ thấy mình bất lực trước nhiệm vụ này dù mới đây họ đã được sai đi rao giảng và chữa bệnh vàđã thành công. Điều duy nhất họ có trong tay là năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng chừng ấy thấm vào đâu so với nhu cầu của dân chúng: "Ở nơi thanh vắng này, dù có tiền cũng không mua được đủ bánh". Chúa cần các môn đệ nhìn nhận sự bất lực của họ, để rồi Ngài mời gọi họ cộng tác vào việc nuôi sống dân chúng. Các môn đệ, theo lệnh của Chúa Giêsu, đã chia đám đông thành từng nhóm nhỏ. Chính các ông đã trao bánh và cá cho Chúa Giêsu để rồi nhận lại từ tay Ngài và trao cho đám đông. Phép lạ đã xảy ra trên bánh này khi Chúa Giêsu chúc tụng và bẻ ra. Chúng ta không tưởng tượng nổi số lượng khổng lồ bánh và cá đã phát sinh từ hành vi bẻ ra này. Bẻ ra và trao đi trở thành phép lạ nhân lên không ngừng.
Có thể hôm nay chúng ta cũng thấy mình đứng trước những nhu cầu lớn lao của con người. Nhân loại vẫn ở trong tình trạng đói về nhiều mặt. Hàng giờ có biết bao trẻ em chết đói trên thế giới này. Trong tay chúng ta chỉ vỏn vẹn vài tấm bánh nhỏ, chúng ta lúng túng và thấy mình bất lực. Nếu chúng ta dám trao cho Chúa Giêsu tất cả những gì chúng ta có; nếu chúng ta để cho Ngài thánh hóa những cố gắng nhỏ bé của mình; nếu chúng ta chỉ coi mình là người cộng tac của Thầy Giêsu đến phục vụ con người, thì phép lạ vẫn có thể xảy ra hôm nay. Chúng ta vẫn có thể nuôi cả thế giới no nê và dư dật, nếu chúng ta biết cộng tác với Chúa.
Chúng ta đọc lại câu 16 đoạn Tin Mừng trên: "Chúa Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ để các ông dọn ra cho đm đông". Khi kể lại cử chỉ của Chúa Giêsu làm lúc lập bí tích Thánh Thể, thánh Maccô cũng sử dụng bốn động từ trên đây. Và trong biến cố hai môn đệ về Emaus, chúng ta cũng thấy thánh Luca dùng lại bốn động từ này: "Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho họ". Cử chỉ quen thuộc này đã làm cho hai môn đệ nhận ra Chúa Giêsu. Giáo Hội thời khai sinh hẳn đã thấy sự liên hệ giữa phép lạ bánh hóa nhiều và bí tích Thánh Thể. Trong cả hai trường hợp, Chúa Giêsu đều dùng một cử chỉ mà mời người khác ăn tấm bánh Ngài trao cho. Rất có thể ý định lập bí tích Thánh Thể được khơi mào từ sau phép lạ bánh hóa nhiều. Những chiếc bánh vật chất như đã giảm cơn đói cho một số người nhất định trong một thời gian nhất định. Mana ngày xưa trong sa mạc cũng không cho người ta sự sống sau cái chết.
Bữa tiệc ly không phải là một hành vi đột xuất không suy nghĩ trước. Trái lại, Chúa Giêsu đã phải bận tâm với mơ ước nuôi cả nhân loại, nuôi họ bằng chính bản thân Ngài và ban cho họ sự sống vĩnh cửu: "Này là mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con. Này là chén máu Thầy, sẽ đổ ra cho các con". Chúa Giêsu mời chúng ta ăn tấm bánh và uống chén rượu đã được thánh hiến để có dịp tham dự vào cái chết và sự phục sinh của Ngài; vào chính bản thân Ngài. Bí tích Thánh Thể là sáng kiến của một tình yêu biết tìm kiếm.
Cựu ước đã hứa rằng trong những ngày sắp đến, Thiên Chúa sẽ nuôi dân Người dư dật. Chúa Giêsu đã làm trọn lời hứa đó phần nào qua phép lạ bánh hóa nhiều. Nhưng đó cũng chỉ là hình bóng của bí tích Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập sau này. Khi thông hiệp với Chúa Kitô Phục Sinh với hình bánh và hình rượu, chúng ta còn cần đến đức tin, chúng ta mong chờ ngày được tham dự bữa tiệc ở Nước Trời, nơi chúng ta thông hiệp trọn vẹn với Ngài, không qua bức màn đức tin nữa nhưng diện đối diện. Chúa Giêsu đã bẻ bánh nhiều lần trong cuộc đời của Ngài. Đời Ngài được kết tinh trong hành vi bẻ bánh. Tấm bánh trong bữa tiệc ly đã trở thành tấm thân Ngài được bẻ ra và trao cho con người qua cái chết trên thập giá: "Hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy". Giáo Hội thời khai sinh đã không quên mệnh lệnh đó, họ tiếp tục cử hành bí tích Thánh Thể mà họ gọi là lễ bẻ bánh tại các nhà riêng của tín hữu. Bẻ bánh trở thành nét đặc trưng của cộng đoàn Kitô sơ khai. Nghi thức này thường được cử hành vào ngày Chúa Nhật, ngày thứ nhất trong tuần.
KHI NGƯỜI TA BIẾT CHIA BÁNH CHO NHAU THÌ THẾ GIỚI SẼ KHÔNG CÒN NẠN ĐÓI
Phép lạ bánh là phép lạ duy nhất được cả bốn tác giả Tin Mừng cùng thuật lại, và có tác giả thuật: THÁNHTHỂ-225
Phép lạ bánh là phép lạ duy nhất được cả bốn tác giả Tin Mừng cùng thuật lại, và có tác giả thuật đến hai lần như Matthêu (Mt 14, 13-21 và15, 32-38.) và Mác cô (6,35-44 và 8, 1-10) Luca ( 9, 12-17) và Gioan (6, 1-13). Như vậy, chắn chắn sự kiện nầy chứa đựng một nội dung hết sức quan trọng.
Nội dung đó là: khi người ta biết chia bánh cho nhau, thì thế giới sẽ không còn nạn đói.
Tài nguyên trái đất gồm hoa màu ruộng đất, các loài gia súc cầm thú, chim trời cá biển... được Thiên Chúa dựng nên dư thừa để nuôi những cư dân trên mặt đất.
Thế thì tại sao có nhiều người đói?
Sở dĩ có nhiều người đói vì có một số người thu gom cho mình thật nhiều, tích trữ cho mình dư dật nên mới xảy ra tình trạng "người thì ăn không hết, người thì làm không ra".
Một chủ tiệc hào phóng dọn ra một ngàn phần ăn đủ cho một ngàn người ăn uống no say. Nhưng có một số khách mời khoẻ hơn, nhanh tay hơn, chạy vào phòng tiệc vơ vét nhiều thực phẩm cho mình, lại còn tọng đầy những túi mang theo để dành cho ngày mai, cho con cháu... thế là những khách mời đến sau phải đói.
Thế giới hôm nay cũng là một phòng tiệc vĩ đại mà Thiên Chúa dọn sẵn cho mọi người. Lương thực trên đất, dưới biển có dư cho mọi người hưởng dùng. Nếu cùng nhường nhau mà ăn, thì không ai phải thiếu đói.
Nhưng tiếc thay, có những người nắm trong tay những nhà máy lớn, nắm bắt công nghệ tiên tiến nên đã thu vén cho mình dư đầy của cải, khiến cho những người không có phương tiện sản xuất, không thủ đắc những công nghệ mới đành phải chịu cảnh thiếu đói.
Qua phép lạ bánh hôm nay, Chúa Giê-su khẳng định với mọi người rằng: nếu ai cũng biết chia sẻ số bánh ít ỏi đang có cho nhau, thì tất cả mọi người đều no đủ, không những no đủ mà còn dư.
Hôm ấy, dân chúng theo Chúa Giê-su, say mê nghe lời Ngài giảng dạy quên cả giờ về. Khi ngày tàn, nhóm Mười Hai đề nghị Chúa Giê-su giải tán đám đông để họ kịp trở về các làng mạc chung quanh kiếm thức ăn, vì hiện nay mọi người đang ở nơi hoang vắng.
Chúa Giê-su bảo các môn đệ: "Chính anh em hãy cho họ ăn". Các môn đệ đáp: "Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá, lấy gì nuôi đủ cả năm ngàn người ăn?"
Thế rồi "Chúa Giê-su truyền cho dân chúng ngồi xuống, Ngài lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông."
Các môn đệ trố mắt nhìn Chúa Giê-su kinh ngạc! Chừng nầy cá và bánh thì ai ăn ai nhịn? Thôi thì cứ theo lệnh Chúa mà làm. Các vị phân phát phần bánh và cá ít ỏi cho dân. Noi gương các môn đệ, trong đám đông cũng có một số người mang theo chút lương thực dự phòng, cũng mang phần ăn ít ỏi của mình ra mà trao cho người bên cạnh. Thế là người nầy trao qua, người kia chia lại, mọi người tỏ lòng hào phóng với nhau. Và đang khi họ chấp nhận trao phần bánh ít ỏi của mình cho người khác thì phép lạ xảy ra: bánh càng trao đi thì càng được tăng thêm nhiều, cá càng được chia ra thì lại phát sinh gấp bội, nhiều đến nỗi cả năm ngàn người ăn không hết còn dư lại cả mười hai thúng đầy!
Phép lạ nầy cũng như hũ bột của bà goá Sa-rép-ta. Dù đang giữa cơn hạn hán trầm trọng, dù nạn đói hoành hành khắp nơi, dù chỉ còn chút bột ít ỏi trong hũ và chút dầu còm cõi trong bình, bà goá thành Sa-rép-ta vẫn vâng theo lời tiên tri Ê-li-a truyền dạy, đem phần ăn ít ỏi của mình cống hiến cho người khác. Thế là hũ bột không vơi, bình dầu không cạn cho đến khi Chúa cho mưa xuống làm hoa trái tốt tươi. (I Vua 17, 7-16).
Nếu hôm nay, nhân loại biết nghe theo lời Chúa Giê-su: "Các con hãy cho họ ăn" để rồi mọi người biết chia bánh cho người người chung quanh mình, thì chắc chắn nạn đói sẽ không còn tồn tại trên mặt đất nầy.
* * *
Xin mượn lời kể của Mẹ Têrêxa thành Cacutta để thay cho phần kết: Ngày nọ, có một thiếu phụ và tám đứa con dại đến gõ cửa xin gạo. Từ nhiều ngày qua, bà và các con của bà không có được một hạt cơm trong bao tử. Mẹ Têrêxa đã trao cho bà một túi gạo. Người đàn bà nhận gạo, cám ơn và chia ra làm hai phần... Ngạc nhiên về cử chỉ ấy, Mẹ Têrêxa hỏi bà tại sao lại phân làm hai. Người đàn bà nghèo khổ ấy trả lời: "Tôi dành lại một phần cho gia đình người Hồi Giáo bên cạnh nhà, vì đã mấy ngày qua họ cũng không có gì để ăn".
Mẹ Têrêxa kết luận như sau: Thế giới này sẽ hết nghèo đói nếu người ta biết chia sẻ cho nhau.
Đêm hôm trước ngày Người chết, Đức Giêsu ngồi vào bàn tiệc với các Tông đồ. Nhóm nhỏ quy tụ: THÁNHTHỂ-226
Đêm hôm trước ngày Người chết, Đức Giêsu ngồi vào bàn tiệc với các Tông đồ. Nhóm nhỏ quy tụ xung quanh bàn tiệc gợi lên sự gần gũi, thân mật, ấm cúng, tín thác và yêu thương. Nhưng nếu có phản bội bước vào trong khung cảnh ấy thì sự chia cắt tình cảm càng sâu xa hơn, và tổn thương gây ra càng nhiều hơn. Khi sự rạn nứt xảy ra giữa những người rất thân nhau thì sự giải quyết gay go hơn so với những người không thân nhau đến thế.
Giuđa cũng đã có mặt. Tại sao ông ta lại tham dự bữa Tiệc Ly khi mà ông ta đã có ý định phản bội Đức Giêsu? Có lẽ, ông ta muốn tạo ra cảm tuởng rằng mọi việc vẫn bình thường, và do đó Đức Giêsu sẽ không có chút nghi ngờ nào.
Bản tường thuật của bữa Tiệc Ly của Phaolô là bản cổ nhất mà chúng ta có trong Tin Mừng. Ông viết: “Trong đêm Người bị phản bội, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: Anh em hãy cầm lấy bánh mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy”.
Một câu đập vào mắt của chúng ta. Đó là “Trong đêm Người bị phản bội”. Chính trong đêm ấy chứ không phải một đêm nào khác. Thay vì đoạn tuyệt với các Tông đồ, Người cho họ một dấu chỉ của tình yêu Người: Người ngồi ăn bữa tối thân mật với họ. Rồi Người nói: “Anh em hãy làm việc này để nhớ đến Thầy”. Đó là cách mà họ phải nhớ đến Người. Chính trong đêm đó, một người trong bọn họ đã phản bội Người.
Chúng ta không nên nghĩ rằng Đức Giêsu không bị sự phản bội của Giuđa làm tổn thương. Người đã bị tổn thương một cách sâu xa. Thánh Gioan nói rằng khi Người bắt đầu nói về kẻ phản bội “Người đau buồn sâu sắc”. Và chắc chắn là thế. Người đã đích thân tuyển chọn và đào tạo Giuđa. Giuđa đã nghe những lời Người giảng dạy và chứng kiến những phép lạ của Người. Giuđa là một người trong vòng thân cận. Thế mà giờ đây, ông ta định phản bội Người. Sự phản bội của một người bạn càng gây ra nhiều sự tổn thương và khó khăn hơn khi đối phó với sự phản bội của một kẻ thù.
Đối phó với sự phản bội là một việc rất gay go. Tuy nhiên, những người bị phản bội có thể có được niềm an ủi từ sự kiện Đức Giêsu đã cảm thấy bị phản bội như thế nào. Họ không thể cho rằng mình không bị phản bội làm tổn thương. Đức Giêsu cho thấy Người bị tổn thương như thế nào và đã bộc lộ bằng lời nói. Điều quan trọng là chúng ta phải đối phó với sự tổn thương như thế nào. Nó có thể làm cho chúng ta chua chát hơn và cám dỗ chúng ta trả thù.
Dù cảm thấy bị tổn thương, Đức Giêsu không trả đũa Giuđa. Người cũng đã từ chối bêu xấu ông ta trước mặt những người khác. Nhưng khi đưa cho Giuđa miếng bánh nhỏ (một cử chỉ bạn bè), Người để ông ta biết rằng Người biết kế hoạch của ông ta. Và khi từ chối lấy tay chỉ thẳng vào ông ta, Người để cánh cửa mở rộng cho ông ta quay lại với tập thể.
Điều Giuđa làm cũng gây ra sự tổn thương cho các Tông đồ khác. Dẫu sao, ông ta cũng là một người của họ. Họ đã tin tưởng ông ta và cùng ông ta chia sẻ mọi việc. Họ nghĩ rằng họ biết ông ta, nhưng ông ta đã trở mặt làm một kẻ phản bội. Khi phản bội Giêsu, ông ta cũng đã phản bội họ.
Chúng ta không nhớ đêm ấy vì sự phản bội của Giuđa. Chúng ta nhớ đêm ấy vì ơn lành mà Đức Giêsu để lại cho chúng ta dù rằng có sự phản bội đó. Thánh Thể sẽ giúp đỡ chúng ta bình phục trước sự phản bội mà bàn tay người khác đã gây ra cho chúng ta. Và Thánh Thể cũng giúp chúng ta không trở thành kẻ phản bội của bất kỳ ai khác.
Suy niệm về Bí tích Thánh Thể, các bài Tin Mừng của chu kỳ phụng vụ trình bày những góc cạnh khác THÁNHTHỂ-227
Suy niệm về Bí tích Thánh Thể, các bài Tin Mừng của chu kỳ phụng vụ trình bày những góc cạnh khác nhau về việc Chúa Giêsu ban Mình và Máu Thánh Người cho nhân loại. Năm A, với bài Tin Mừng Gioan 6:51-58, ta lắng nghe lời giảng của chính Chúa Giêsu nói về ý nghĩa và hiệu quả của Thánh Thể. Bài Tin Mừng năm B (Mc 14:12-16.22-26) kể lại chính biến cố Chúa lập Bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc ly. Năm nay (C), bài Tin Mừng Luca kể lại phép lạ Chúa làm cho bánh hóa nhiều nuôi đám đông dân chúng và các Tông đồ giúp Chúa phân phát bánh cho họ. Ta thử tìm hiểu ý nghĩa của phép lạ này và suy nghĩ về bữa tiệc Thánh Thể của toàn thể Giáo Hội mà ta tham dự.
1) “Dân chúng đi theo Người... Người tiếp đón họ, nói với họ về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được chữa”
Chúa Giêsu sai các Tông đồ đi tập sự loan báo Tin Mừng trong một thời gian. Khi trở về, họ vui vẻ thuật lại cho Người những gì họ đã thực hiện. Nhưng con đường huấn luyện còn dài và các ông còn cần rất nhiều những chỉ bảo dạy dỗ. Do đó, Chúa Giêsu đưa các ông về Bét-xai-đa, tránh xa đám đông dân chúng để các ông có cơ hội chia sẻ kinh nghiệm tông đồ và học hỏi thêm. Thế mà dân chúng cũng biết được Người đang ở đâu và tìm đến với Người.
Dân chúng đi theo Người vì nhiều lý do. Một đàng Chúa Giêsu có quyền lực thu hút dân chúng. Đàng khác dân chúng có những nhu cầu chỉ có Chúa Giêsu mới có thể giúp họ được thỏa đáng. Giữa Chúa Giêsu và dân chúng đã bắt đầu có một mối quan hệ, quan hệ giữa Mục Tử nhân lành và đoàn chiên. Trong quan hệ ấy, họ cần đôi tay giang rộng của Chúa để tiếp đón họ, lắng nghe những thao thức trăn trở của họ. Họ cần nghe được một giáo lý mới mẻ đem lại cho họ luồng sinh khí mới, chứ không phải mớ luật lệ nặng nề máy móc như họ vẫn thường phải nghe và tuân giữ. Họ có bao nhiêu vết thương cần được chữa lành, vết thương thể xác do bệnh tật hay lam lũ, vết thương tinh thần do mất mát đổ vỡ trong cuộc sống hoặc bị xã hội áp bức bất công. Trong hoàn cảnh ấy, Chúa Giêsu đã cảm thông với họ bằng trái tim của Thiên Chúa. Thánh sử mô tả Chúa Giêsu đã thi hành sứ mệnh đối với dân chúng như thế nào: “Người tiếp đón họ, nói với họ về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được cứu chữa” (Lc 9:11).
Đối với các Tông đồ, các ông vừa thực tập việc tông đồ nên đã bắt đầu biết theo gương Thầy, quan tâm tới người khác. Nhưng các ông chỉ có thể đưa ra những sáng kiến hợp lý và trong tầm mức loài người thôi. Giải pháp tốt nhất các ông đề nghị để giải quyết vấn đề của dân chúng lúc này là “Xin Thầy cho đám đông về” để họ tự lo cho những nhu cầu ăn uống ngủ nghỉ của họ. Tuy nhiên lòng nhiệt thành rao giảng Tin Mừng của Chúa và lòng khao khát đón nhận Tin Mừng của dân chúng còn to lớn hơn cả những nhu cầu cấp thiết của họ nữa. Vì thế, Chúa có lối giải quyết của Người.
2) “Chúa Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá...”
Ta cứ tưởng tượng ra khung cảnh hơn năm ngàn người, chưa kể đàn bà và trẻ em, yên lặng và trang nghiêm ngước mắt nhìn lên Chúa Giêsu. Trước khi làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, Người không hô hoán phù phép như một ảo thuật gia, cũng không nghênh ngang đắc chí như một người ban phát ân huệ cho đám lê dân. Nhưng Người có những cử chỉ cung kính, trân trọng và cầu nguyện: “ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông”, đúng như một bữa ăn gia đình Do-thái.
Phong cách ấy được lập lại trong bữa Tiệc Ly khiến ta xác tín phép lạ hóa bánh ra nhiều này là hình bóng báo trước biến cố trọng đại Chúa lập Bí tích Thánh Thể. Đám đông dân chúng là hình ảnh Giáo Hội, với những người anh chị em có những nhu cầu chỉ Chúa Giêsu mới đáp ứng cho họ. Không chỉ là những nhu cầu “tìm chỗ trọ và kiếm thức ăn”, nhưng là những nhu cầu thiêng liêng, đói khát lời Chúa và tình yêu Thánh Thể của vị Mục Tử nhân lành. Giáo Hội quây quần chung quanh bàn tiệc Thánh Thể, để đón nhận lời Chúa và rước lấy Mình Máu Thánh Chúa làm lương thực. Cũng giống như đám đông dân chúng ngày xưa đi theo Chúa cần đến phép lạ bánh và cá hóa nhiều, thì Giáo Hội mọi thời cũng cần Thánh Thể trong cuộc hành trình theo Chúa đi về nhà Cha. Phép lạ bánh hóa nhiều chỉ xảy ra một hoặc hai lần, nhưng phép lạ bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu thì xảy ra từng giờ từng phút khắp nơi trên mặt đất khi các linh mục dâng Thánh Lễ.
Về phép lạ hóa bánh ra nhiều, thánh Luca đã ghi lại sự phong phú dư dật của bữa ăn lạ lùng: “Mọi người đều ăn, và ai nấy được no nê. Những miếng vụn còn thừa, người ta thu lại được mười hai thúng”. Suy nghĩ về sự phong phú của Bí tích Thánh Thể, ta có thể cảm nghiệm được tình yêu của Chúa bao la như thế nào. Sự phong phú này được thể hiện qua mỗi Thánh Lễ, giúp ta nhớ lại lời Chúa Giêsu đã hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Tình yêu của Thiên Chúa đầy tràn đến độ không những Người sai Con Một đến ở giữa nhân loại, mà Người Con ấy còn tự nguyện ở lại với họ mọi ngày cho đến tận thế. Cùng với tình yêu của Thiên Chúa, ta cũng nhận ra tình yêu của con người. Đến với Bí tích Thánh Thể và Thánh Lễ, mọi người lãnh nhận tình yêu của Chúa, nhưng cũng sẵn sàng biểu lộ tình yêu thương nhau, để sự phong phú tình yêu được lan tràn theo mọi chiều kích dọc ngang.
3) “Chính anh em hãy cho họ ăn”
Thánh Thể là phương cách biểu lộ tình yêu. Chúa Giêsu muốn ở gần ta nên Người chọn phương cách này để làm thỏa mãn cơn đói Thiên Chúa của ta. Người truyền dạy các môn đệ: Chính anh em hãy cho họ ăn. Trong tinh thần chia sẻ “cùng một bánh và một chén”, Bí tích Thánh Thể đưa ta đến hành động. Nếu ta đã được phúc lãnh nhận tình yêu Thiên Chúa, thì đến lượt ta cũng phải chia sẻ tình yêu đó với anh chị em. Dĩ nhiên, vốn liếng tình yêu của ta thật nghèo nàn, giống như các Tông đồ “chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá”. Nhưng Chúa chỉ cần có thế thôi, Người sẽ sử dụng sự nghèo nàn của ta để thực hiện sự phong phú của Bí tích Thánh Thể.
Điều quan trọng khác để ta sống Bí tích Thánh Thể là ta có biết nhận ra sự đói khát của anh chị em hay không. Các Tông đồ đi theo Chúa nên đã học theo gương Chúa lo lắng cho tha nhân. Các ông đã nhận ra được những nhu cầu của dân chúng, dù chỉ là những nhu cầu vật chất. Dần dần, họ nhận ra những nhu cầu tinh thần và thiêng liêng của nhân loại và đã ra đi thi hành sứ mệnh rao giảng Tin Mừng. Cũng vậy, nếu ta không uốn nắn con tim và tập nhạy cảm trước những nhu cầu của anh chị em, ta sẽ không thể nhận ra được những nhu cầu ấy. Những người đi theo Chúa đâu có kêu ca với các Tông đồ là họ đang đói lắm. Thế mà các ông nhận ra được. Tình yêu đích thực luôn nhìn thấy trước được những nhu cầu người khác chưa nói lên.
4) Suy nghĩ và cầu nguyện
Thánh Lễ là bữa tiệc của toàn thể Giáo Hội. Nhưng tôi có ý thức tầm quan trọng của Thánh Lễ không? Tôi có sống ngoài vòng liên kết tình yêu của Thánh Thể không?
Thánh Thể liên kết tôi với Chúa và tôi với anh chị em. Vậy sự liên kết ấy đòi tôi phải làm những gì cho Chúa và cho anh chị em?
“Chính anh em hãy cho họ ăn” có phải là một mệnh lệnh quá đáng đối với tôi không? Tôi đã làm được gì để xoa dịu cơn đói tinh thần của anh chị em?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa đến với chúng con dưới dạng tấm bánh bình thường. Tấm bánh chẳng nói gì, chỉ biết lặng lẽ chờ đợi. Tấm bánh hiện diện là để phục vụ con người. Tấm bánh quá đỗi mong manh, nhỏ bé, có thể bị ẩm mốc làm hư hoại, và tan rất mau sau khi được nhận lãnh. Lạy Chúa Giêsu, có cái gì tương tự giữa phận làm người và phận làm bánh của Chúa. Xin cho chúng con biết cách đến với con người hôm nay: đơn sơ, khiêm hạ, không chút vinh quang hay quyền lực. Nhờ ăn tấm bánh của Chúa, chúng con cũng trở nên tấm bánh ngon, được bẻ ra để đáp ứng khẩu vị của nhiều người. Ước gì chúng con dám rước Chúa đi vào mọi vùng mờ tối của lòng mình, để sự hiện diện của Chúa trong con được lớn lên. Và ước gì chúng con trở thành những Nhà tạm di động, đem Chúa đến cho đồng bào và quê hương chúng con. A-men.”
"Tôi muốn con tôi sống" đó là lời của bà Susanna Petrosyan đã thốt ra và được báo chí nhắc lại. Thực ra, có bà mẹ nào lại không muốn con của mình được sống đâu ? Thế nhưng trường hợp của bà Petrosyan và đứa con gái 4 tuổi của bà không giống như những trường hợp của nhiều bà mẹ khác, vì hai mẹ con bà này là nạn nhân của cơn động đất khủng khiếp tại Armeni, thuộc liên bang Sô Viết hồi tháng 12 năm 1987. ( chuyện)
Sau khi động đất, cũng giống như hàng ngàn người khác, cả hai mẹ con bà Petrosyan đều bị lấp vùi dưới hàng trăm ngàn tấn gạch, đá và xi măng, nhưng họ may mắn nằm lọt vào trong một khoảng trống nhỏ chỉ vừa đủ chỗ cựa quậy mà thôi. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hũ mứt và chẳng mấy chốc hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó, cô gái 4 tuổi mới kêu: "Mẹ ơi, con khát quá. Mẹ cho con uống nước". Nhưng lấy nước đâu bây giờ ?
Tiếng kêu khát của con cứ tiếp tục làm cho bà mẹ vừa đau lòng vừa lúng túng. Nhưng tình mẫu tử thiêng liêng đã gợi cho bà một ý nghĩ táo bạo: đó là lấy những giọt máu cuối cùng của bà cho con uống để cầm cự với tử thần. Lúc đó, người mẹ đáng thương mới lấy tay sờ sẫm và vớ được một miếng kính bể. Bà lấy miếng kính cắt đầu ngón tay trỏ và đút ngón tay vào miệng con bảo con mút. Em bé mút ngón tay của mẹ một lúc rồi nói: "Mẹ cắt một ngón tay nữa cho con mút thêm". Bà liền cắt một ngón tay nữa nhưng vì trời lạnh quá nên bà không thấy đau đớn gì nữa... Sau khi được cứu sống, người đàn bà thuật lại rằng: "Lúc đó, tôi biết thế nào tôi cũng chết, nhưng tôi muốn con tôi được sống". ( Vietnamese Missionaries in Asia, Tôi Muốn Con Tôi Sống )
Trình thuật Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay, ý nghĩa Thánh Thể được diễn tả khái quát, qua sự kiện Chúa Giêsu làm phép lạ, với 5 chiếc bánh và 2 con cá, phục vụ cho 5.000 đàn ông, không kể trẻ em và phụ nữ. “Mọi người đều ăn, và ai nầy đều no nê. Những miếng vụn còn thừa, người ta thu lại được mười hai thúng” ( Lc 9, 17 ).
Hy tế hằng ngày
Hiện nay, hằng ngày mầu nhiệm Thánh Thể vẫn tiếp tục được tôn vinh và cử hành trong các thánh đường trên toàn thế giới. Tình Yêu Thiên Chúa vẫn tràn đầy, phong phú như sương sa, vẫn dưỡng nuôi các linh hồn đang khao khát, thiếu thốn, mệt nhọc, trên Đường Hy Vọng.
Cuộc hy tế của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế, xóa tội trần gian, vẫn còn tiếp tục tái hiện qua Thánh Lễ. Công cuộc cứu độ của Chúa vẫn tiếp diễn cho đến tận thế. Nhưng đáng tiếc, bây giờ khuynh hướng tục hóa lan tràn, khiến cho nhiều con chiên ngoảnh mặt làm ngơ, lầm tưởng mầu nhiệm Thánh Thể chỉ như một nghi thức hoài cổ, kỷ niệm nào đó, chẳng hề liên quan đến họ.
Phép lạ: Năm 1263, một Linh Mục người Đức cử hành Thánh Lễ ở Nhà Thờ kính Thánh Christiana. Lúc bẻ bánh, đột nhiên, cha thấy Mình Thánh không còn là hình bánh, mà đã biến thành Thịt và Máu thực. Những giọt máu loang ra thấm ướt tấm khăn Thánh trên bàn thờ. Cha vội gấp khăn lại, nhưng gấp tới đâu, máu thấm ra tới đó, máu thấm qua 25 lần vải. Vị Linh Mục vừa cảm động vừa sợ hãi đến mức không tiếp tục Thánh Lễ được nữa.
Ngài tới yết kiến Đức Giáo Hoàng Urbanô và kể lại sự kiện ấy. Đức Giáo Hoàng sai một Giám Mục đến rước Mình Thánh cùng tấm khăn đẫm máu về Tòa Thánh đặt ở Nhà Thờ Chánh Tòa cho Giáo Dân đến thờ kính. Năm sau ( 1264 ), vào ngày mồng 8 tháng 9, Người ra sắc dụ lập lễ kính Thánh Thể trong toàn Giáo Hội như chúng ta mừng kính hôm nay ( Noel Quesson, Đây là Mình Thầy ).
Lương thực trường sinh
Trước khi bước vào cuộc khổ nạn và chết nhục nhã, đau đớn trên thập giá, Chúa Giêsu đã lập Giao Ước Mới bằng cách hy tế chính thân mình. Người không tế lễ bằng chiên, bò như giao ước cũ. Người hiến tế chính thân mình để gánh tội lỗi trần gian, giải thoát con người khỏi quyền lực ma quỷ, để giao hòa với Thiên Chúa. Như thế, con người mới hy vọng sống muôn đời.
“Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, Chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” ( Ga 6, 51 ).
Mỗi khi đón rước Thánh Thể, chúng ta được vinh dự đón Chúa Giêsu ngự vào mình. Người thánh hóa bản thân chúng ta, liên kết chúng ta chặt chẽ với Thiên Chúa. Người ban muôn ân sủng, an ủi, dưỡng nuôi linh hồn và thân xác, cùng ban sự sống muôn đời.
“Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì ở lại trong Tôi và Tôi ở lại trong người ấy” ( Ga 6, 56 ).
Trong bữa tiệc ly, Đức Kitô cho biết Người sẽ đổ máu ra để cứu rỗi toàn thể nhân loại, khi Người cầm chén rượu và nói: “Tất cả các con hãy cầm lấy mà uống. Này là chén Máu Thầy, Máu giao ước mới, sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội” ( Mt 26, 27 – 28 ).
Hiệp thông và chia sẻ
Năm chiếc bánh và hai con cá được Chúa Giêsu cầm lên dâng lời chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa, rồi trao cho các môn đệ phân phát cho dân. Tất cả mọi người đều được no đủ và dư thừa.
Nhưng mầu nhiệm Thánh Thể còn cao sang gấp bội. Chính Chúa Giêsu trở nên của ăn thiêng liêng, cho phép chúng ta cùng hiệp thông với Thiên Chúa và tha nhân.
Nhờ lương thực Thánh Thể, chúng ta trở nên như Người và Người trở nên chúng ta. Như thế, chúng ta được thông phần vào bản tính Thiên Chúa. Đồng thời, tất cả tín hữu Kitô khi đón rước Người đều trở nên anh chị em của nhau
Trước đây, dân chúng được chia sẻ cùng năm chiếc bánh và hai con cá trong tình bằng hữu. Nay được chia sẻ mầu nhiệm Thánh Thể, mọi người cũng đều được ăn uống trong tình huynh đệ, như hai môn đệ Emmau, đã nhận ra Chúa Phục Sinh chính vào lúc Người: “cầm lấy bánh chúc tụng, đoạn bẻ ra trao cho hai ông…” ( Lc 24, 30 – 31 ).
Trong Anh ngữ, từ “companionship” ( tình bằng hữu ) có nguồn gốc từ Latinh “Cum Panis” nghĩa là cùng chia sẻ bánh cho nhau. Chỉ là bạn hữu thân thiết mới chia nhau của ăn. Có lẽ từ đó bắt nguồn từ sự kiện Chúa Phục Sinh, chia sẻ tấm bánh với hai môn đệ Emmau kể trên.
Cho và đền đáp mới duy trì mối tương quan tốt đẹp. Vậy, chúng ta lấy gì đáp lại Chúa Thánh Thể ? Nếu không phải dâng lên những niềm vui, nỗi buồn, những khó khăn, cực nhọc, những vất vả lo toan, ưu tư, hy vọng và cả những tội lỗi, yếu đuối vấp phạm.
Hiến dâng lên tất cả những gì chúng ta có, dù chẳng tốt đẹp, chẳng xứng đáng, mà còn tầm thường, thậm chí bất xứng nữa. Chú bé trong Tin Mừng đã dâng lên Chúa Giêsu tất cả lương thực chú đem theo, gồm 5 tấm bánh và 2 con cá mộc mạc và dân dã. Chúa vẫn hân hoan vui vẻ tiếp nhận và thánh hóa.
Tóm lại, chúng ta dâng lên tất cả những gì chúng ta có trong đời thường, tựa như hy lễ hiến dâng lên Thiên Chúa, như dấu chỉ tình yêu đáp trả Đấng đã yêu thương cứu chuộc chúng ta khỏi sự chết đời đời.
Như thế, chúng ta không thể thờ ơ với Bàn Tiệc Thánh. Bàn tiệc duy nhất cao quý vô cùng trên thế gian. Cố gắng thu xếp, từ bỏ hết các rào cản do công việc, hay thú vui, để hân hoan và nhiệt thành tham dự Thánh Lễ. Nhất là sốt sắng Rước Lễ mỗi khi có thể, đề đến đáp tình yêu Thiên Chúa đã dành cho chúng ta.
Rước Chúa vào lòng là thắt chặt mối liên kết hòa giải với Thiên Chúa, đồng thời hòa giải với anh chị em trong cuộc sống thường nhật mới thật sự có ý nghĩa và chân thành đồng hành với Chúa.
Khi chúng ta hy sinh, tha thứ và bác ái với tha nhân chính là lúc chúng ta nhìn thấy Chúa trong anh chị em, là lúc chúng ta đem mầu nhiệm Thánh Thể vào đời, vào ngay môi trường đang sống.
Mặt khác, những hy sinh, đau khổ chúng ta vui lòng chịu vì người khác sẽ là những lễ vật chân thật, đơn sơ, mộc mạc của cuộc đời, chúng ta dâng tiến Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban muôn hồng phúc cho các Linh Mục, đã hiệp thông tái hiện mầu nhiệm Thánh Thể, để cho đàn chiên được sống, và sống dồi dào. Xin Chúa ban cho con tình yêu nồng nhiệt với Thánh Thể, để con được hòa giải với Thiên Chúa và với tha nhân.
Lạy Mẹ Maria, con tri ân Mẹ đã “Xin Vâng”, đón nhận, cưu mang Chúa Giêsu trong cung lòng. Nay con cũng được vinh dự đón rước Chúa. Xin dạy con biết cảm tạ, tri ân và tôn vinh Thánh Thể. Nhờ Tiệc Thánh, xin cho con được hiệp nhất với Chúa và với mọi người. Amen.
AM. TRẦN BÌNH AN
-------------------------------
THÁNHTHỂ-229: BẠN NGHĨ GÌ KHI NHẬN MÌNH VÀ MÁU CHÚA GIÊSU
Thân thể Đức Kitô bao hàm nhiều ý nghĩa: hoặc dùng để chỉ Thánh Thể Người hoặc để chỉ Thân Mình của Giáo Hội, trong đó Chúa Kitô là đầu mà chúng ta là chi thể. Bài viết ngắn này xin trình bày ý nghĩa thứ hai. Bài viết mong muốn mỗi chúng ta nhận thức lại khi đón nhận Bí Tích Thánh Thể.
Đặc tính con người là nhục thể, Thiên Chúa là Thần Khí. Khi nhập thể làm người, Chúa Giêsu đã chia sẻ đời sống nhục thể như loài người. Khi Đức Kitô chịu nạn, chịu chết trên thập giá, Tin Mừng đã trình bày cái chết thể lý của Đức Giêsu. Tuy vậy mầu nhiệm cứu chuộc vẫn chưa dừng ngay sự chết, mà nó còn tiếp tục bởi sự phục sinh của Đức Kitô, một sự sống lại bằng xương, bằng thịt. Nhưng thân thể Đức Kitô trước và sau cuộc tử nạn là khác nhau, trước đó là thân thể huyết khí, sau đó là thân thể thần thiêng.
Khi tham dự Thánh Lễ, Thiên Chúa không chỉ mời gọi chúng ta nhớ lại Tình Yêu của Ngài với đỉnh cao là cuộc khổ nạn, mà còn kêu gọi chúng ta thông phần vào cuộc khổ nạn ấy, nghĩa là “hãy đi và chết cùng người”. Nhớ lại cuộc khổ nạn của Chúa trong từng ngày thì tốt, nhưng dám hiến thân mình để cùng chết như Ngài thì tốt hơn nhiều. Đây là cách hữu hiệu nhất để tuyên xưng và loan truyền việc Chúa chịu chết và phục sinh.
Có người nói rằng: người Công Giáo tin, nhưng không thực hành như niềm tin của mình. Chúng ta cùng nghiệm lại bản thân với câu nói trên ?
Chúng ta rất dễ chọn lựa một bữa tiệc rượu thịt hơn là bữa tiệc Mình-Máu Chúa, mặc dù miệng vẫn đọc “phúc cho ai được mời dự tiệc chiên Thiên Chúa”. Chúng ta có thể tham dự, tưởng nhớ cuộc tử nạn của Đức Kitô hàng ngày nhưng bản thân thì chẳng chịu vác thập giá lên đồi Gongôtha, và từ chối đóng đinh xác thịt chính mình. Chúng ta luôn miệng cầu xin Đức Tin nhưng ít thực hành Đức Tin.
Khi nhận Mình và Máu Chúa, chính Ngài muốn dùng Mình và Máu Con Chiên để biến máu huyết chúng ta cùng một máu huyết với Ngài. Như vậy, máu huyết của nhục thể của mỗi cá thể lúc nhận lãnh sẽ nhường chỗ cho máu huyết của Thần Khí. Khi nói Mình và Máu Chúa là lương thực nuôi dưỡng tâm linh, thì lương thực ấy không chỉ dừng lại để nuôi phần tâm linh chỉ sống ở mức tồn tại, mà Thiên Chúa muốn, nguồn lương thực ấy nuôi dưỡng chúng ta ngày càng lớn lên và giống hình ảnh của Ngài theo thời gian.
Bí Tích Thánh Thể là nguồn mạch nuôi dưỡng Giáo Hội mà các chi thể là các Kitô hữu. Nếu chúng ta tách rời ra khỏi Thiên Chúa thì nguồn mạch nuôi sống phần thần khí bị mất đi trong con người, như thể cành cây lìa khỏi thân cây. Về ý này Chúa Giêsu bảo: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm được gì” ( Ga 15, 5 ).
Khi nhận thức chúng ta cùng là chi thể của Đức Kitô nhờ nhận lãnh Mình và Máu của Ngài, chúng ta cũng nhận ra rằng, các Kitô hữu là anh em nhau, nên tinh thần yêu thương và hiệp nhất giữa các Kitô hữu vì thế cũng sáng tỏ và dễ hiểu. Nhờ Mình-Máu Chúa nuôi dưỡng, phần siêu nhiên trong thân thể con người ngày càng lớn mạnh, đồng nhĩa với phần nhục thể ngày một nhỏ đi, do đó thân thể chúng ta xứng đáng trở thành đền thờ của Thiên Chúa.
Thánh Lêô cả nói: “Sự thông phần vào Mình và Máu Chúa Kitô không gì khác hơn là biến chúng ta thành điều mà chúng ta nhận lãnh”. Còn Thánh Cirilô thành Giêrusalem cho rằng: “Nhờ Thánh Thể, chúng ta thành đồng thân thể và máu huyết với Chúa Kitô”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu sâu sắc Bí Tích Thánh Thể – Bí Tích của Tình Yêu để biết đáp lại cũng bằng một Tình Yêu.
Bài Đọc 2 Thánh Lễ hôm nay ( 1Cr 11, 23 – 26 ), Thánh Phaolô nhắc lại việc Chúa Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể và Chúa tha thiết mời gọi các Tông Đồ tiếp tục cử hành Thánh Thể cho đến ngày tận thế: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”.
“Việc này”, không là một nghi thức, một cách thức: cầm bánh, đọc lời chúc tụng, tạ ơn… nhưng là việc hiến tế đời mình, trở nên của ăn, thức uống cho mọi người. “Việc này”, hẳn phải hiểu một là việc trở nên lễ tế hiệp cùng lễ tế Chúa Giêsu, hai là việc tế lễ cho Thiên Chúa Cha, mà cả hai, từ ngữ nhà Đạo gọi nôm na là “làm Lễ”.
Có thể có nhiều người còn nhớ những kỷ niệm ấu thơ thật đẹp, được cha mẹ dẫn đến Nhà Thờ và sốt sắng tham dự Thánh Lễ với cha mẹ. Nhờ vậy, có khi thuộc lòng cả những lời xướng đáp trong Thánh Lễ, thuộc lòng cả cử chỉ Phụng Vụ của Linh Mục trên bàn thờ. Không ít cậu bé đã về nhà bắt chước Linh Mục “làm Lễ”. Cha mẹ thật vui mừng vì thấy con trai mình “tập làm Lễ”. Khi con trai tập làm Lễ, thì cha mẹ lại mơ ước, cầu xin cho con trai mình được làm Linh Mục để làm Lễ.
“Làm Lễ”, từ ngữ nhà đạo cổ xưa ấy, rất dân gian mà thật tuyệt vời. Một Linh Mục “làm lễ” hẳn không chỉ là cử hành đúng nghi thức Thánh Lễ, để chính nhờ chỉ một lời của Linh Mục mà bánh rượu kia trở nên Máu Thịt Chúa Giêsu, nên lương thực thiêng liêng cho ai ăn Thịt uống Máu này được sống đời đời, mà còn chính Linh Mục ấy trở nên lễ tế toàn thân xác linh hồn cho Thiên Chúa Cha, hiệp với của lễ là chính Chúa Giêsu, mà dâng lên cho Thiên Chúa Cha để đền tội lỗi thay cho nhân loại. Ngài vừa là lễ tế, vừa là người tế lễ, lại vừa là chính chiếc bàn để tế lễ.
“Việc này” mà Chúa Giêsu nói tới trong khi lập Bí Tích Thánh Thể, đã được báo trước từ “việc này” của một em bé “làm Lễ” trong phép lạ bánh cá hóa ra nhiều. “Năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ” là phần ăn nuôi sống em bé ngày hôm đó. Thế nhưng, em không ngại ngùng hiến dâng phần sự sống của mình cho hàng ngàn người. Chắc chắn là em bé không hiểu chuyện gì ngoài việc hiến dâng. Và khi đã dâng, liệu em có liều lĩnh không, có dại dột không khi không màng đến sự sống của bản thân mình nữa. Nếu là tôi, là bạn, hẳn chúng ta phải lo cất giấu bớt đi để mình được no trước đã. Các Tông Đồ cũng thấy cái ít ỏi chỉ đủ cho một em bé ăn ấy, nên bảo: “Chừng ni thì thấm vào đâu cho cả ngàn người ! ? !” Em bé đã làm Lễ, em bé đã tự nguyện dâng sự sống mình để mọi người được sống.
Chúa Giêsu làm Lễ: là lễ tế, Ngài hiến mạng sống mình trở nên của ăn uống thiêng liêng nuôi linh hồn chúng ta. Ngài tế lễ, dâng sự sống của chính mình cho Thiên Chúa Cha, để Thánh Thần thánh hóa nên của ăn cho mọi người được sống.
Hiểu theo cách này, thì giữa hai việc làm Lễ của cậu bé và của Chúa Giêsu có tương quan. Và từ đó, có thể nói rằng hiện có bao nhiêu con người hèn hạ thấp kém nhất trong cuộc đời cũng đang làm Lễ, nếu họ biết kết hợp sự hy sinh mạng sống mình với Chúa Giêsu mà dâng lên cho Thiên Chúa Cha.
Bà bán cháo lòng ở chợ Trà Cổ vẫn còn đang “làm Lễ” với cái xe đẩy cũ kỹ khắp chợ khi con bà đã chịu chức Phó Tế ở Roma. Bà bán vé số vẫn còn đang “làm Lễ” ở quán cà phê, quán ăn quanh thị trấn Cam Đức, Cam Lâm khi con bà đã là một Linh Mục SVD ở Sàigòn. Bà góa bán tạp hóa ở Tân Bình cũng đang “làm Lễ” miệt mài với hóa đơn, hàng tạp khi con bà đã xong năm cuối ở Đại Chủng Viện Xuân Lộc. Chị H. tật nguyền vẫn tiếp tục “làm Lễ” với gánh chè xôi nước vì đứa con bịnh bại liệt não từ nhỏ đến nay 14 năm rồi vẫn nằm một chỗ không hơn. Bao nhiêu người trong đời sống gia đình cũng đang “làm Lễ”: hy sinh từng ngày để bảo toàn hạnh phúc hôn nhân, xây dựng cơ đồ Đức Tin và vật chất cho con cháu.
Cả bạn và cả tôi, cả chúng ta, mỗi người cũng đang “làm Lễ”, đang cử hành Bí Tích Thánh Thể ngay trong cuộc đời mình, nếu mỗi cố gắng hy sinh của mình, trở nên sự sống phần xác, trở nên niềm vui thiêng liêng, trở nên niềm hy vọng vào Tình Yêu Chúa hiển hiện trong đời.
Thiết tưởng, “làm việc này mà nhớ đến ta” không chỉ đóng khung trong việc làm Lễ của các Linh Mục Thừa Tác, để rồi, khi nghe nói “Giáo Dân làm Lễ” thì bỗng có vài người dị ứng cho rằng đó là chủ thuyết của mấy người chống phá Giáo Hội. Cũng nên đề nghị bỏ đi cái não trạng xa xưa về hai từ “làm Lễ”, bỏ đi cái dị ứng cao ngạo, và thay vào đó, nên khích lệ các tín hữu “làm Lễ” theo cách của mình: “không đọc lời truyền phép” như Linh Mục với chức Tư Tế Thừa Tác, nhưng hiến tế cả sự sống mình cho người khác được sống theo nghĩa Tư Tế Cộng Đồng.
Ai được quyền đọc lời truyền phép thì cứ “đọc lời truyền phép”, còn ai không được quyền ấy, thì cứ “làm việc này”: là hiến thân, là bẻ vụn chiếc bánh đời mình ra chia cho người khác được ăn và được sống. Chiếc bánh bằng bột mì, bột gạo, chiếc bánh bằng bột Lời Chúa, bằng bột đời sống công chính, chiếc bánh bằng bột các nhân đức khiêm nhường, hy sinh, phục vụ, chiếc bánh bằng bột sẻ chia, an ủi, chạnh lòng, quan tâm, giúp đỡ… Tất cả phải là chiếc bánh của Tình Yêu, kết hiệp với Chúa, phải được bẻ ra vì yêu Chúa, vì chính Chúa Giêsu.
Nếu không khơi gợi ý nghĩa “làm Lễ” nơi Giáo Dân, hẳn họ cứ mãi chìm trong sự thoái thác đùn đẩy trách nhiệm hoàn toàn cho các Linh Mục, họ sẽ không dám tận dụng cơ hội, ý nghĩa quí giá này mà cộng tác với việc cử hành Thánh Lễ, cử hành Bí Tích Thánh Thể trong đời mình. Hóa ra, đời mình thật vô nghĩa, thật nhàm chán, nhất là trong thời đại vô cảm “không chịu bẻ bánh” này.
“Trong Thánh Lễ sáng thứ hai, ngày 27.5.2013, tại Vatican, Đức Thánh Cha Phanxicô phê bình thứ văn hóa chỉ tìm kiếm an sinh thoải mái và bị thu hút vì những gì làm tạm thời.
Đức Thánh Cha đặc biệt nói đến hai thứ "giàu sang văn hoá", trước tiên là thứ văn hoá tìm kiếm an sinh thoải mái, làm cho chúng ta bớt can đảm, trở nên lười biếng và ích kỷ hơn. Sự an sinh thoải mái này là một thứ 'thuốc mê'. Trong não trạng đó, người ta không muốn có hơn một đứa con vì sợ không thể đi nghỉ hè, không thể đi nơi này nơi kia, hoặc không mua được nhà cửa hay tìm kiếm các thứ tiện nghi khác.
Đức Thánh Cha nói: "Tôi đã nghe có người muốn làm Linh Mục, nhưng không muốn kéo dài quá 10 năm. Hoặc nhiều cặp kết hôn, tuy không nói ra, nhưng họ chỉ muốn kết hôn bao lâu tình yêu còn kéo dài, rồi sẽ tính sau". Hai thứ giàu sang đó cản trở chúng ta tiến bước. Tôi nghĩ đến bao nhiêu người nam nữ đã bỏ quê hương của họ để đi làm Thừa Sai trọn đời: đó là một điều chung kết. Nhưng tôi cũng nghĩ đến bao nhiêu người nam nữ đã bỏ nhà mình để kết hôn trọn đời; đây cũng là sự theo Chúa Giêsu cận kề ! Đó là một điều chung kết !" ( SD 27.5.2013 )
Trở lại chuyện cậu bé tập làm Lễ, ước mong mọi người cũng tập “làm Lễ” trong cuộc đời mình, tập “bẻ chiếc bánh đời mình ra” để nên sự sống phần xác và phần hồn cho mọi người.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Mình Thánh Máu Thánh Chúa là sinh lực thiêng liêng cho chúng con. Xin cho chúng con cũng biết bẻ tấm bánh đời mình ra mà hiến trao cho mọi người. Amen.
Ngỡ ngàng đến tột cùng trong tâm trí. Tôi ngước mắt lên, nhìn đăm đăm vào Chúa. Chúa đang ngồi trước mặt; đôi mắt yêu thương nhìn từng người. Cái nhìn ngọt ngào làm sao, dịu êm biết mấy. Rồi rất đỗi dịu dàng. Ngài cầm lấy chiếc bánh không men, bẻ ra, trao cho từng người và nói: “Tất cả các con hãy cầm lấy mà ăn, vì này là mình Thầy”. Sao Thầy không cho cả chiếc bánh, mà lại bẻ ra từng phần, để mỗi người chỉ được một phần. Chỉ có một sự sống duy nhất thôi con. Mỗi người chúng con, là một phần sống của Thầy. Thầy trao cho mỗi người một phần, nhưng cũng là trọn vẹn sự sống của Thầy. Tình yêu không thể phân chia con ạ! Mà tình yêu là một sự hiệp nhất. Từng người nhận sự sống của Thầy, nhưng không tách ra khỏi Thầy, và cũng không tách ra khỏi nhau. Tất cả vẫn ở trong Thầy, và nên một với Thầy và với nhau.
Các con hãy cầm lấy mà ăn. Lời mời gọi gởi đến mọi người, không trừ một ai. Thầy mời con cầm lấy. Cái gì thế thưa Thầy? Tiền hay vàng bạc đá quý. Không, những thứ đó là những thứ tầm thường vật chất hư hỏng. Tặng vật Thầy trao, phải là món quà vô giá từ trời xuống. Cao quý hơn tất cả. Tiền bạc, đá quý, không thể nuôi sống con người, cùng lắm cũng chỉ là nguyên nhân tạo được điều kiện, để nuôi sống sự sống thân xác. Món quà Thầy trao, không những chỉ nuôi được thân xác, mà còn nuôi được sự sống linh hồn thần linh.
Vì này là mình Thầy. Chúa ơi! Lạ lùng quá. Không thể hiểu được. Đây là mình Thầy sao? Miếng bánh mà! Đúng, miếng bánh đó nhưng bề ngoài thế thôi, còn bên trong Ta đã thay đổi bản tính của nó rồi; bằng một quyền năng vô biên của một Thiên Chúa, Đấng duy nhất, sắp đặt bản tính của mọi sự vật, mới có thể làm được. Nhưng sao khi cầm lấy và ăn con thấy mùi vị của bánh chứ không phải mùi vị của thịt? Tầm thường thế con. Nếu Ta cho con hưởng mùi vị của thịt, con sẽ sợ. Bản tính con người không phải giống ăn thịt tươi. Tặng vật Ta trao cao siêu, phải vượt qua những đối tượng của ngũ quan, mà chỉ duy nhất, với con mắt đức tin, con mới có thể nhận ra được.
Cầm lấy mà ăn đi con. Sao con rụt rè thế? Hay tại bàn tay con nhơ nhớp? Hay con bị ma quỷ xúi giục, muốn từ chối, để sự sống của Ta không ở trong con và bóng tối của hỏa ngục lại tiếp tục thống trị hồn con. Ta đang mời con đó. Đến tòa giải tội rửa tay, rửa hồn đi con, để rồi cầm lấy mà ăn. Lương thực này, sẽ tăng sức cho hồn con; và sẽ làm cho sự sống vĩnh cửu sẽ triển nở trong con. Gợi ý suy niệm:
1- Bạn thấy có ai yêu bạn bằng Chúa chưa? 2- Có bao giờ bạn từ chối lời Chúa mời gọi hay chưa?
Ngày đã bắt đầu tàn. Thật đông những người thiện chí: Họ đi theo Chúa, có người từ tảng sáng, có người từ lưng chừng. Nhưng có một điều giống nhau, là đã thủy chung đi theo, cho đến cuối ngày. Họ đi theo, say mê nghe Chúa giảng, quên hết cả thời gian. Bị Lời Chúa lôi cuốn, đưa họ vào những chân lý cao sâu, cho nên họ say mê là phải. Nhưng rồi! họ đói họ mệt. Họ là con người, cho nên nhu cầu của thực tại đòi hỏi.
Cái đám đông trên năm ngàn người ồn ào, vừa vui, nhưng cũng vừa mệt ấy, làm các tông đồ hoảng sợ. Các ông đến để yêu cầu Chúa giải tán họ về. Nhưng không! Chúa bắt các ông phải đối diện với trách nhiệm trước mặt. Tình yêu không cho phép trốn chạy. Chua biết thực tại trước mắt và Chúa thương họ. Dĩ nhiên, Chúa cũng thừa biết, cái giới hạn và bất lực của các môn đệ mình. Nhưng dù sao, cũng phải dám can đảm mà nhận trách nhiệm. Sự can đảm ấy không là liều lĩnh, nhưng là vì có Chúa để cậy Tin: “Các con hãy cho họ ăn; và bảo họ ngồi xuống thành từng vòng tròn; cứ 50 người một.” Một vòng tròn khép kín; tròn lắm và giống lắm một chiếc bánh tròn.
Và mỗi người đều giơ tay ra nhận bánh và cá. Họ nhận nguồn sinh lực từ trời. Chiếc bánh và con cá họ đang cầm trên tay đó, là tình yêu của Chúa trao ban. Chúa đang chăm sóc cho sự sống thân xác của họ; để khởi đi từ đây, họ có thể hiểu dần ra sau này, về bí tích nhiệm mầu Thánh Thể, mà Chúa sẽ làm. Mỗi người một tấm bánh, mỗi người một con cá. Nhưng tất cả đều từ bàn tay của Chúa, đều từ tình yêu của Ngài.
Khởi đi từ những lời giảng dạy trước đó, họ đã đọc ra được cái mục đích mà Chúa hướng tới, đó là Sự Sống Thần Linh bên trong. Cho nên, điều mà Chúa vun đắp, là phần sự sống của linh hồn mỗi người. Họ quây quần, ngồi cạnh nhau, mà ăn uống vui vẻ. Đúng thật là bữa ăn “thân ái”, mà người ta vẫn quen gọi là Agapê. Không có phân biệt ở đây, về kẻ giàu, người nghèo; kẻ giỏi, người dốt. Tất cả đều ngồi cạnh nhau, yêu thương và vui vẻ với nhau. Bữa tiệc thần thiêng mà sau này Chúa sẽ tổ chức, để mời gọi họ vào tham dự cũng thế. Đến với bàn tiệc thánh, người ta phải khiêm tốn và quên hết hận thù. Phải để lòng mình thật thanh thản, ngập đầy tình yêu thương.
Cũng giống như bánh và cá, hôm nay đó là Tình yêu trao ban của Chúa, Tấm bánh nhiệm mầu Chúa ban trong bí tích Thánh Thể, cũng là Tình yêu của Chúa, nhưng khác biệt xa hơn, và vượt lên cao hơn, vì là chính Mình Máu Thánh của Chúa, chứ không còn là bánh và cá nữa.
Câu hỏi: 1- Bạn có nhận ra tình yêu của Chúa, mỗi khi rước lễ không? 2- Bạn có chuẩn bị gì khi lên rước lễ?
Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã dùng đất nắn nên hình hài ( St 2, 7 ). Từ đó Tổ Tông loài người mang tên Đất ( St 4, 25; 5, 1 – 3 ). Ađam, tiếng Do Thái nghĩa là đất.
Để cứu Dân Ngài thoát khỏi nô lệ Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ khô chân, lập giao ước Sinai với dân, Thiên Chúa đã dùng Môsê. Môsê, tiếng Do Thái nghĩa là nước ( Xh 2, 10 ).
Khi xây dựng Giáo Hội, Thiên Chúa lại dùng một con người đánh cá tầm thường, khi thì hùng hổ tuốt gươm bảo vệ Thầy Giêsu ( Lc 22, 50 ), khi thì sợ hãi chối quanh trước một đầy tớ gái ( Lc 22, 56 – 57 ). Người ấy Chúa Giêsu đặt tên là Đá ( Mt 16, 18 ). Kêpha, tiếng Do Thái nghĩa là đá. Như vậy, lịch sử sáng tạo, Lịch Sử Cứu Độ quyện đan với những cái tên gọi tầm thường: Đất, Nước, Đá. Bánh và rượu
Chúa Giêsu đã dùng bánh rượu làm nên Mình và Máu Thánh của Người. Bông lúa và trái nho là những sản phẩm thông thường và cần thiết nhất mà ruộng đất cống hiến cho con người. Bánh và rượu có thể tầm thường nhưng lại là những gì gần gũi và cần thiết nhất cho cuộc sống hàng ngày của con người. Chính Chúa Kitô đã muốn trở nên gần gũi và cần thiết đó. Người muốn bánh và rượu trở nên Thịt Máu Người để nuôi sống chúng ta hàng ngày.
Tình yêu Chúa Kitô làm nên sáng kiến tuyệt vời. Vì yêu thương hết mọi người, Chúa đã muốn trở nên bé nhỏ tầm thường trong thân phận một người thợ mộc ở Nadarét để có thể ở giữa mọi người, từ kẻ hèn cho đến người sang trọng, từ người thánh thiện cho đến kẻ tội lỗi, từ người Do Thái cũng như dân ngoại. Để trở thành của ăn nuôi mọi người, Chúa đã muốn trở thành tấm bánh ly rượu. Chỉ khiêm tốn và giản dị thế thôi để mọi người có thể ăn, chứ không phải là một bữa ăn đắt giá dành cho bậc quyền quý sang giàu.
Khi sinh ra đời, Chúa đã chọn cái chuồng bò. Khi sống ở Nadarét Chúa đã muốn làm một người thợ giữa những người lao động khác. Khi bắt đầu rao giảng Tin Mừng, Chúa đã chọn những người tầm thường trong xã hội làm bạn đồng hành, làm bạn tâm phúc thừa kế sự nghiệp. Trong giờ sau hết, Chúa đã chọn tấm bánh ly rượu, chọn khung cảnh một bàn ăn giữa bạn bè, chọn một tư gia để Tạ Ơn, trong đó người vừa là chủ tế vừa là của lễ. Và Chúa muốn Giáo Hội tiếp tục lễ Tạ Ơn theo cách thức của Người bằng những phương tiện đơn sơ là tấm bánh ly rượu.
Chỉ cần một bông lúa, một chùm nho đủ làm nên tấm bánh ly rượu. Không cần cái gì cao sang đắt giá, to lớn như con bò, con bê, con cừu mà đạo Do Thái vẫn tế lễ trong đền thờ. Với tấm bánh ly rượu, Chúa Giêsu còn muốn cho của lễ Tạ Ơn phải chính là sản phẩm hoa màu ruộng đất, lao công con người, của ăn thức uống căn bản và phổ biến nhất của con người.
Chúa Giêsu là bông lúa, là chùm nho mọc lên từ ruộng đất thế gian, nơi Người nhập thể làm người. Người đã biến đổi trong thân thể Người là Con Thiên Chúa và cũng là con loài người tất cả tinh hoa của ruộng đất, trở thành bông lúa chùm nho. Từ bông lúa bị nghiền nát, từ chùm nho bị ép, nghĩa là từ cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại. Chối từ cám dỗ của Satan hoá đá thành bánh, nhưng Chúa Giêsu đã tự ý biến đổi đời mình thánh Tấm Bánh để nuôi dưỡng con người.
“Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống”. Chắc hẳn không ai hiểu câu nói này theo kiểu các yêu tinh muốn ăn thịt Đường Tăng, trong truyện Tôn Ngộ Không. Yêu tinh quyết tâm bắt cho được Đường Tam Tạng để ăn thịt. Nó tin rằng ăn thịt vị cao tăng này thì sẽ được trường sinh bất tử.Tôi nghĩ rằng giả như có ai giết Chúa Giêsu để ăn thịt Người ( theo kiểu các yêu tinh ăn thịt Đường Tăng ) thì người ấy vẫn chết như thường, và về mặt tâm linh thì cũng chẳng được ích lợi gì. Vì câu nói “Thịt Tôi thật là của ăn, và máu Tôi thật là của uống” của Chúa Giêsu không thể hiểu theo nghĩa vật chất. “Thịt và Máu” ở đây không phải là thịt và máu huyết vật chất. “Của ăn và của uống” ở đây cũng không phải là của ăn và của uống vật chất. Những từ đó phải hiểu theo nghĩa tâm linh. Chúa Giêsu chính là lương thực đem lại sự sống và sự phát triển tâm linh thật sự.
3. Hy lễ cứu độ
Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu chính là một hy lễ dâng lên Chúa Cha. Trong hy lễ này, Người vừa là tư tế vừa là lễ vật. Trên Thập giá, Chúa Giêsu đã đổ máu ra. Bằng cái chết cứu độ, Người đã thiết lập giao ước mới. Tự nguyện làm “Con Chiên Vượt Qua” bị sát tế, Chúa Giêsu đã lập phép Thánh Thể để lễ vật bị sát tế ấy trở nên của ăn tâm linh nuôi dưỡng con người.
Chúa Giêsu ở giữa nhân loại trong Bí Tích Thánh Thể. Để trở nên nguồn sống tâm linh trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đi qua Tử nạn và Thập giá.
Thánh Thể là Mình Chúa hy sinh bị nộp, bị giết vì chúng ta: “Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em”. Chén Máu của Chúa là Máu giao ước, Máu của Đấng Cứu Thế đổ ra trên thập giá. Bởi đó Thánh Thể và Thánh Giá là hai mầu nhiệm của một tình yêu tự hiến của Chúa Kitô. Không có Thánh giá, Thánh Thể không có ý nghĩa. Không có Thánh Thể, Thánh Giá chỉ là thất bại.
Thánh Thể và Thánh giá Chúa Kitô là hai cớ vấp phạm cho trí tuệ con người hơn 20 thế kỷ qua. Thánh giá Đức Kitô là sự điên rồ đối với người Hy lạp đi tìm sự khôn ngoan, là dại dột đối với người Do Thái tìm dấu lạ và mãi mãi là mầu nhiệm thẳm sâu với lý trí.
Thánh Thể, bánh rượu nên Mình và Máu Chúa Kitô. Sự hiện đích thực của Con Thiên Chúa, làm lương thực vĩnh cửu là mầu nhiệm khó hiểu đối với đầu óc con người không có niềm tin. Khi nghe lời tuyên bố của Chúa Giêsu: “Thịt Ta là của ăn, Máu Ta là của uống cho sự sống muôn đời”, người Do Thái phản ứng rất mạnh: “Làm sao ông có thể lấy thịt máu của ông cho chúng tôi ăn được ?” ( Ga 6, 52 ); ”Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao ? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống ?” ( Ga 6, 42 ). Trước phản ứng dữ dội của họ, Chúa Giêsu không rút lời, không cải chính, nhưng còn giải thích và khẳng định thêm “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại ngày sau hết” ( Ga 6, 54 ); sâu xa hơn là con người được đi vào sự kết hiệp mật thiết với Người: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì ở lại trong Tôi và Tôi ở lại trong người ấy” ( Ga 6, 56 ). Trước mạc khải này, nhiều môn đệ liền nói: “Lời này chướng tai qua, ai mà nghe nổi ?” ( Ga 6, 60 ). Từ lúc đó, “Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa” ( Ga 6, 66 ).
Như thế, người ta chỉ nhìn nhận Chúa Giêsu về phương diện con người, phủ nhận bản tính Thiên Chúa của Người. Chúa Giêsu cho dân chúng và các môn đệ thấy rõ mầu nhiệm Phục Sinh trong Bánh Hằng Sống “Lời Thầy nói với anh em là Thần khí và là sự sống.Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt có ích gì” ( Ga 6, 63 ). Quả thật, chúng ta chỉ có thể hiểu được Bí Tích Thánh Thể qua mầu nhiệm Nhập Thể, Tử Nạn, Phục Sinh mà thôi.
Vậy có thể nói, cả mầu nhiệm Đức Kitô đều hội tụ trong Bí Tích Thánh Thể. Từ công cuộc nhập thể làm người, rao giảng Tin Mừng, đến khổ hình thập giá, sống lại vinh quang; Đức Kitô đang ngự bên hữu Chúa Cha và ban lương thực thần thiêng đều hàm chứa trong Bí Tích Thánh Thể. Bí Tích Thánh Thể gói trọn cuộc đời Chúa Kitô và không có gì thuộc về Người mà không hội tụ trong Bí Tích Thánh Thể. Từ Thánh Giá đến Thánh Thể là hành trình của con đường tình yêu tự hiến. Thánh Lễ là cử hành hy tế cứu độ của Chúa Giêsu từ mầu nhiệm Thánh giá đến tình yêu Thánh Thể. Bí Tích Thánh Thể là một sáng kiến của tình thương Thiên Chúa.Của ăn vật chất chỉ dừng lại ở việc nuôi dưỡng, bảo tồn sự sống hữu hạn của con người.Để sống đời đời, con người được mời gọi ăn và uống Thịt Máu Chúa, nguồn ơn cứu độ nhân loại.
Đất nước đá cũng như bánh và rượu là những thực tại tầm thường trong cuộc sống, nhưng một khi đã gắn với Lịch Sử Cứu Độ là nó trở nên những điều kỳ diệu.
Cuộc sống chúng ta với Thiên Chúa cũng thế. Sống đời sống thiêng liêng, siêu nhiên một cách tự nhiên. Sống đời sống tự nhiên một cách thiêng liêng, siêu nhiên.
Lạy Chúa Giêsu, con cám ơn Chúa đã cho con hàng ngày được ăn một miếng Bánh đơn sơ, nhỏ bé để con được kết hợp mật thiết với Thiên Chúa Vô Cùng. Xin cho cho tâm hồn con luôn kết hợp với Chúa, để được Chúa dẫn vào cuộc sống muôn đời. Amen.
Người ta kể lại rằng tại biển khơi Bắc Ái Nhĩ Lan một chiếc tàu của nước Tây Ban Nha đã bị chôn THÁNHTHỂ-234:
Người ta kể lại rằng tại biển khơi Bắc Ái Nhĩ Lan một chiếc tàu của nước Tây Ban Nha đã bị chôn vùi cách đây cả 400 năm. Trong số báu vật tìm thấy ở tàu, người ta phát hiện một chiếc nhẫn cưới đàn ông bằng vàng ròng, trên mặt nhẫn có chạm hình một cánh tay nắm một trái tim với những dòng chữ như sau:” Anh không thể cho em điều gì hơn thế nữa”. Hình ảnh và lời nói trên đây có thể dùng để mô tả chủ đề thánh lễ Mình và Máu thánh Chúa Kitô hôm nay…
TÌNH YÊU MẠNH HƠN SỰ CHẾT:
Người đàn ông luôn mang ở ngón tay mình chiếc nhẫn cưới có hình cánh tay nắm trái tim với dòng chữ tuyệt vời, sâu xa không thể diễn tả trọn vẹn bằng ngôn ngữ lòai người. Trái tim diễn tả tất cả tình yêu. Tình yêu mạnh hơn tất cả, mạnh hơn sự chết. Mặc dù bị chôn vùi dưới đáy đại dương, chiếc nhẫn của người đàn ông nào đó luôn nói lên sự thật này:” Tình yêu tuyệt diệu, tình yêu linh thiêng”. Đức Giêsu cũng vậy, Ngài đến trần gian vì Thiên chúa Cha yêu thương loài người:” Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã sai con Một…”. Chính vì yêu thương con người, Chúa Giêsu không ham danh lợi lộc trần gian, Ngài đã sẵn sàng chịu chết treo trên thập giá để cho con người được sống. Chúa Giêsu trước khi về cùng Cha của Ngài đã có sáng kiến tuyệt vời là hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể, để luôn ở mãi với con người, với loài người trở nên lương thực thiêng liêng nuôi sống thân xác và linh hồn con người. Sáng kiến tuyệt diệu ấy, Chúa Giêsu đã thực hiện vào chiều thứ năm tuần thánh sau khi Chúa đã rửa chân cho các môn đệ. Chúa dậy cho các môn đệ: “ Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích Tình Yêu”. Chính vì thương yêu mà Chúa đã lập Bí Tích Thánh Thể và những ai rước lấy Mình và Máu Chúa cũng phải có lòng thương yêu hiệp nhất với nhau như thánh Phaolô nói:” Chén chúc tụng Ta cầm mà đội ơn, lại không phải là thông phần Mình Chúa Kitô sao ? Vì chưng chỉ có một bánh, nên ta tuy là nhiều, ta cũng chỉ là một thân mình, vì hết thảy ta cùng chia phần một bánh”( 1 Co 10, 16-17). Bí Tích Thánh Thể giúp con người vững mạnh trong cuộc hành trình tiến về quê trời:” Tôi là Bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống”( Ga 6, 51 ). Khi mời gọi con người:” Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, Chúa Giêsu muốn mời gọi con người hãy sống yêu thương và phục vụ, hãy trao ban nhưng không như Chúa đã hy sinh tự hiến vì yêu thương:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu”( Ga 15, 13 ). Lãnh nhận Mình và Máu Chúa Kitô, người Kitô hữu sống trong hợp nhất, yêu thương vì thế họ cũng chia sẻ tình yêu ấy cho tha nhân bằng việc bác ái yêu thương, bằng sự sẻ chia cơm bánh, ân huệ mà họ đã lãnh nhận nhưng không cho người khác.Lãnh nhận Thánh Thể là người Kitô hữu được nhận lấy sự sống mới, sự sống trường sinh của Đức Kitô.
MÌNH VÀ MÁU CHÚA KITÔ CHÍNH LÀ THÂN XÁC SỐNG ĐỘNG CỦA CHÚA GIÊSU:
Qủa rất kỳ lạ và không thể tưởng tượng được khi người Kitô hữu rước Mình và Máu Chúa Kitô là nhận lấy chính thân xác sống động của Chúa Giêsu. Đây chính là Đức Giêsu đã được cưu mang trong cung lòng của Đức Trinh Nữ Maria bởi phép Chúa Thánh Thần. Đây chính là thân xác của Chúa Giêsu đã sinh ra tại Bêlem, đã lớn lên, đã sinh sống 30 năm ở Nagiarét. Đây cũng chính là Đức Giêsu đã bị treo trên thập giá để cứu chuộc nhân lọai và chính là Đức Giêsu phục sinh từ cõi chết. Đây là điều hầu như không thể tưởng tượng nổi, nhưng đó lại chính là sự thật hòan toàn. Vâng, chỉ mình Thiên Chúa mới yêu thương con người đến như thế !
TA PHẢI CÓ THÁI ĐỘ NÀO ĐỐI VỚI BÍ TÍCH THÁNH THỂ:
Thánh Thể là bữa tiệc thánh, bữa ăn tuyệt vời. Thánh Thể là hy lễ đền tội, hy lễ tạ ơn. Thánh Thể ban sự sống mới, sự sống đời đời. Thánh Thể là thể hiện đời sống huynh đệ, bác ái, đời sống chia sẻ vv…Trước một Bí Tích cao vời, nhiệm mầu, chúng ta phải năng đến kính viếng, tôn thờ, giữ sự nghiêm trang đứng đắn trong nhà thờ, nhất là siêng năng tham dự thánh lễ và hiệp lễ sốt sắng. Đặc biệt phải dọn lòng trong sạch để xứng đáng rước Chúa ngự vào linh hồn mình.
Tại Đại Hội Quốc Tế về Thánh Thể lần 45, Đức Thánh Cha đã kêu gọi:” Chúng ta không thể rước Mình Thánh Chúa Kitô mà đồng thời lại sống xa lạ với những người đang đói khát, kẻ bị bóc lột, tù đầy hay đau yếu”.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con càng ngày càng yêu mến Bí Tích Thánh Thể.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, trung tâm của Giáo Hội, trung tâm của: THÁNHTHỂ-235
Hôm nay chúng ta mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, trung tâm của Giáo Hội, trung tâm của đời sống đức tin, trung tâm của giáo xứ và đời sống của mỗi người như Công đồng Vatican II đã nói: "Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống Kitô giáo", "Bí tích Thánh Thể tích chứa tất cả của cải thiêng liêng của Giáo Hội: Đó chính là Đức Kitô."
Vào năm 1263, một linh mục từ Prague, thủ đô Tiệp Khắc, đi hành hương tới Rôma cầu xin Thiên Chúa gia tăng đức tin cho ngài vì đang có những nghi ngờ về ơn kêu gọi. Trên đường tới Rôma, ngài ngừng lại ở một thị xã cách Rôma 70 dặm về phía bắc. Tại đây, trong thánh lễ, khi truyền phép ngài nâng cao bánh lễ lên, tấm bánh đã trở nên thịt và bắt đầu chảy máu. Những giọt máu đã chảy xuống trên tấm khăn thánh nhỏ màu trắng trên bàn thờ. Năm sau, 1264 Đức Giáo Hoàng Urban IV đã thành lập lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, và ngài đã yêu cầu thánh Thomas Aquinas sáng tác một bài ca cho ngày lễ. Thánh Thomas đã viết ra hai bài nổi tiếng là "Tantum Ergo" và "O Salutaris" mà chúng ta vẫn thường hát khi chầu Thánh Thể. Tấm khăn thánh mang những vết máu vẫn còn được lưu giữ tại vương cung thánh đường Orvieto, phía bắc thành phố Roma.
Mặc dù phép lạ thánh thể này đã dẫn tới việc thiết lập ngày lễ Mình và Máu Chúa Giêsu, nhưng phép lạ Thánh Thể nổi tiếng ở Lanciano, cũng tại Ý, đã xảy ra nhiều thế kỷ trước vào năm 700. Câu chuyện xảy ra tại nhà thờ thánh Legonzanô khi một linh mục dòng thánh Basiliô đang dâng thánh lễ bỗng trở nên nghi ngờ sự hiện diện thực sự của Mình Máu Thánh Chúa trong hình bánh rượu. Lúc truyền phép, sự lạ liền xảy ra ngay trong tay vị linh mục. Bánh trở nên thịt sống và rượu trở nên máu tươi rồi đông đặc lại thành 5 cục to nhỏ. Tuy đã trải qua 1300 năm rồi, ngày nay vẫn còn thấy rõ miếng bánh đã biến thành thịt này có màu hơi nâu, nhìn dưới ánh sáng thấy màu hồng được đặt trong một mặt nhật quý giá. Và năm cục máu màu vàng nghệ được đặt trong một chén thánh bằng kính trưng bày ở nhà thờ Lancianô để giáo dân tự do kính viếng.
Trong 12 thế kỷ qua, giáo quyền đã cho làm nhiều cuộc giám nghiệm vào những năm 1574, 1637, 1770, 1886. Mới đây vào năm 1971 và 1981 một phòng thí nghiệm của bệnh viện đã thử nghiệm lại bằng những thiết bị khoa học tối tân. Công việc được trao cho ông Odoardo Linoli, giáo sư môn giải phẫu nhân hình, kiêm giáo sư mô học bệnh lý, hóa học và hiển vi học, với sự cộng tác của giáo sư Ruggero Bertelli thuộc đại học đường Siena. Kết quả được công bố vào ngày 04.03.1971 trước các vị trong giáo quyền, chính quyền, các giới khoa học, văn học và báo chí:
- Thịt và máu này là thịt và máu thật, của một người có máu AB đã sống. - Thịt được lấy ra từ mô cơ tim (myocardium), một phần thịt của trái tim, một cách khéo léo tuyệt vời như do một nhà phẫu thuật tài giỏi. Điều này có nghĩa là từ trái tim của Chúa Giêsu, Thánh Tâm. Đây chính là biểu tượng của tình yêu. - Thịt và máu không có vết tích của một chất nào được dùng để ướp xác cả. - Trong máu có các chất clorua, phốt pho, magnesium, potassium, sodium và calcium.
Các di tích này được lưu trữ bao nhiêu thế kỷ một cách tự nhiên, lại chịu ảnh hưởng của những xúc tác vật lý, không khí, sinh vật mà vẫn giữ nguyên tình trạng như thế là một hiện tượng kỳ lạ, khoa học không sao giải thích được. Hơn thế nữa, điều lạ lùng là nếu đem cân một cục máu, trọng lượng vẫn bằng tổng số của cả năm cục. Đem cân riêng lẻ từng cục hay cân chung lại với nhau tổng số vẫn không thay đổi.
Đây là hai phép lạ Thánh Thể trong tổng số khoảng 22 các phép lạ khác xảy ra ở khắp nơi trên thế giới. Những phép lạ này trả lời cho những nghi ngờ về sự hiện diện thực của Chúa Giêsu qua hình bánh và rượu. Lòng đạo đức và sự trung thành của chúng ta sẽ tùy thuộc vào sự ràng buộc bởi mệnh lệnh của Chúa Giêsu đã ban trước ngày chịu nạn: "Anh em hãy làm việc này để tưởng nhớ Thầy."
Một trận động đất kinh hoàng đã xảy ra tại Arménie hổi tháng 12 năm 1987. Trong số hàng ngàn: THÁNHTHỂ-236
Một trận động đất kinh hoàng đã xảy ra tại Arménie hổi tháng 12 năm 1987. Trong số hàng ngàn người bị chôn vùi dưới đống gạch vụn, co hai mẹ con bà Suzana. Cả hai may mắn lọt vào một khoảng trống nhỏ, nên còn sống sót. Tất cả lương thực của họ chỉ là một hũ mứt, nhưng chẳng mấy chốc, hũ mứt cũng hết. Lúc đó cô con gái mới bốn tuổi đã kêu lên: Mẹ ơi, con khát quá, mẹ cho con uống nước nhé. Người mẹ lúng túng, biết tìm đâu cho ra nước bây giờ. Một ý nghĩ táo bạo bỗng nảy sinh trong đầu óc bà, đó là phải lấy những giọt máu cuối cùng của mình cho con uống, để cầm cự với tử thần. Bà tìm được một mảnh kính vỡ, cắt đầu ngón tay và bảo con mút. Đứa bé mút những giọt máu từ đầu ngón tay của người mẹ. Sau khi hai mẹ con được cứu sống, người mẹ kể lại rằng: Lúc bấy giờ tôi chỉ có một ý nghĩ, đó là phải làm thế nào cho con tôi được sống.
Với chúng ta cũng vậy. Trong suốt cuộc đời trần gian, Chúa Giêsu cũng chỉ có một ý nghĩ, cũng chỉ có một mục đích, đó là phải làm thế nào cho chúng ta được sống, không phải chỉ sự sống phần xác, mà còn là sự sống phần hồn. Chính vì sự sống phần hồn của chúng ta, mà Ngài đã chấp nhận cái chết tủi nhục trên thập giá, để cứu chuộc chúng ta. Và hơn thế nữa, Ngài còn thiết lập bí tích Thánh Thể, để làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta và để ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, bởi vì hiện nay với bí tích Thánh Thể và với Thánh Lễ được cử hành, hy lễ tiến dâng lên Chúa Cha và của ăn trao ban cho chúng ta không ngừng được tiếp diễn.
Thế nhưng, chúng ta đã có thái độ nào đối với bí tích Thánh Thể cũng như đối với Thánh Lễ? Tại nhiều nước Tây Phương, số giáo dân tham dự Thánh Lễ ngày Chúa nhật giảm sút một cách đáng kể. Điển hình tại Pháp, chỉ có 10% giáo dân tham dự mà thôi. Còn tại Việt Nam, mặc sù số người tham dự còn nhiều, nhưng có một số lại đứng ngoài nhà thờ, nói chuyện và hút thuốc trong khi Thánh Lễ đang được cử hành. Họ đi lễ chỉ vì sợ lỗi luật, sợ phạm tội, chứ chẳng có lấy một chút tâm tình và một chút yêu mến.
Trong Thánh Lễ, không phải chỉ có vai trò của vị chủ tế, mà hơn thế nữa, vai trò của người tín hữu cũng không kém phần quan trọng. Họ không phải chỉ xem lễ, như một khán giả xem đá bóng, xem cải lương, nhưng họ tham dự và cùng cử hành Thánh Lễ. Nói cho cùng, chẳng có hai Thánh Lễ giống hệt nhau, vì chính cuộc sống của người tham dự đã thay đổi.
Mỗi Thánh Lễ, tôi cảm thấy có một điều gì đó cần thống hối cách đặc biệt. Mỗi Thánh Lễ, tôi cảm thấy mình muốn đặt trên đĩa thánh một chút cố gắng, một chút đau khồ, một chút ước mơ riêng tư của tôi. Tôi không dự lễ với đôi bàn tay trắng, nhưng tôi dự lễ với lễ vật của riêng tôi. Lễ vật ấy là chính cuộc đời tôi.
Đồng thời trong Thánh Lễ, lời Chúa tác động trên tôi, rồi mỗi khi lên rước lễ, tôi nhớ rằng Ngài đã trở nên tấm bánh được bẻ ra cho tôi, thì tôi cũng phải trở nên tấm bánh được bẻ ra cho anh em tôi.
Thánh Lễ sẽ không nhàm chán, khi chúng ta biết nối dài Thánh Lễ trong cuộc sống. Và mỗi khi tham dự Thánh Lễ, chúng ta mang đến nơi bàn thờ của lễ xuất phát từ lòng cuộc đời mỗi người chúng ta.
"Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết nhưng tôi muốn con tôi được sống". Đó là lời của bà Susanna sau khi được cứu trong trận động đất ở Ácmêni vào tháng 12-1987.
Trong số hàng ngàn người bị vùi lấp dưới đống gạch, có hai mẹ con bà Susanna may mắn còn sống: THÁNHTHỂ-237
Trong số hàng ngàn người bị vùi lấp dưới đống gạch, có hai mẹ con bà Susanna may mắn còn sống sót. Cô con gái bốn tuổi đòi uống nước. Tìm đâu ra nước khi hai mẹ con không có lối ra? Tình mẫu tử đã gợi lên cho bà một ý nghĩ táo bạo, đó là rạch ngón tay mình chảy máu để cho con mút. Đứa bé đã đỡ khát nhờ máu người mẹ. Nó đã sống cho đến khi cả hai mẹ con được cứu. Câu truyện trên giúp ta hiều phần nào bí tích Thánh Thể.
Đức Giêsu đã chết để chúng ta được sống. Ngài chấp nhận chịu đổ máu qua cái chết thập giá, và Ngài muốn máu Ngài trở nên thức uống cho chúng ta.
Trong các nhà thờ, vào dịp lễ Giáng sinh, thường có những người ngoài Kitô giáo đến dự lễ. Cũng có ít người tò mò lên "ăn bánh thánh". Họ ngạc nhiên vì tấm bánh mỏng manh, nhạt nhẽo. Nhưng họ sẽ ngạc nhiên hơn nhiều nếu chúng ta bảo họ: "Ăn tấm bánh đó là ăn thịt Chúa, uống chén rượu đó là uống máu Chúa". Thật là kinh khủng, làm sao có chuyện như vậy?
Đây là mầu nhiệm đức tin, không dễ giải thích cho người ngoài.
Tất cả bắt đầu từ ước muốn lạ lùng của Đức Giêsu. Ngài muốn nuôi nhân loại bằng chính con người Ngài. Ngài muốn trở thành đồ ăn thức uống cho nhân loại: "Các con hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy. Các con hãy cầm lấy mà uống, đây là Máu Thầy."
Mình và Máu tượng trưng toàn thể con người Đức Giêsu. Nên khi rước lễ, ta không chỉ rước thịt mình Ngài, mà rước lấy cả con người Ngài dưới dạng tấm bánh. Rước lễ là gắn bó với một ngôi vị: "Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy (c.56).
Rước lễ không phải là đón nhận một xác chết, nhưng là gặp gỡ Đức Giêsu đã chết và nay đã phục sinh. "Như tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, kẻ ăn tôi cũng sẽ sống nhờ tôi như vậy" (c.57).
Rước lễ là đón lấy sự sống từ Đấng đang sống, cũng là sự sống duy nhất bắt nguồn từ Chúa Cha.
Hôm nay, Đức Giêsu phục sinh có một lối hiện diện mới mẻ. Ngài không hiện diện dưới dạng một con người, nhưng dưới dạng đồ ăn, đồ uống.
Như thế cả vật chất bất động cũng được nâng lên, cả lao công của con người cũng được thánh hiến. Vật chất trở thành biểu tượng cho sự hiện diện thần linh. Vật chất có chỗ trong thế giới của Thiên Chúa.
Ước gì thế giới vật chất ở quanh ta cũng nên thánh, nhờ được chia sẻ trong yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bài Tin Mừng hôm nay có 10 từ "sống". Bí tích Thánh Thể là bí tích ban sự sống. Bạn có thấy thánh lễ đem lại sức sống cho bạn không? Nếu không, tại sao? Bạn nghĩ gì về thái độ của bạn khi rước lễ? Đó có phải là một cuộc gặp gỡ thân tình không? Bạn có chuẩn bị gì khi rước lễ? Bạn có dành những giây phút lặng lẽ để tâm sự với Chúa sau rước lễ không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, có một ngọn đèn dầu gần Nhà Tạm, ngọn đèn đỏ mời con dừng bước chân, và nhắc con về sự hiện diện của Chúa.
Con mong sự hiện diện ấy lan tỏa khắp nơi, để đâu đâu cũng thấy những ngọn đèn đỏ.
Nơi xóm nghèo mùa mưa nhớp nháp, nơi lớp học tình thương lúc chiều tà, nơi những trung tâm phục hồi nhân phẩm, nơi bảo sanh viện nâng niu sự sống của trẻ thơ, nơi khách sạn năm sao, nơi quán bia đầu ngõ, nơi các tiệm cho mướn băng video, nơi tình yêu trong ngần của đôi bạn trẻ...
Nhưng lạy Chúa, trước hết, xin cho đời con là một ngọn đèn, xin cho chúng con là những ngọn đèn màu đỏ, mời người ta dừng lại, trầm tư, và gặp được Chúa.
Cả các Kitô hữu cũng ngỡ ngàng trước bí tích Thánh Thể. Ăn thịt và uống máu người mình yêu là: THÁNHTHỂ-238
Cả các Kitô hữu cũng ngỡ ngàng trước bí tích Thánh Thể. Ăn thịt và uống máu người mình yêu là điều khủng khiếp chẳng ai dám nghĩ tới. Nhưng Đức Giêsu lại muốn nuôi cả nhân loại bằng Thịt và Máu Ngài. Và thực sự Ngài đã nuôi ta bằng cái chết thập giá - ở đó Ngài đã hy sinh Máu Thịt mình.
Đúng hơn, Ngài nuôi chúng ta bằng sự sống của Ngài: sự sống được trao đi qua cái chết tự nguyện, và sự sống được lấy lại qua phục sinh vinh quang.
Đức Giêsu ban cho ta Tấm Bánh (c.51). Ngài còn tự nhận mình là Tấm Bánh (cc.48.51): Tấm Bánh có sự sống và Tấm Bánh ban sự sống. Tôi là Tấm Bánh: đó là định nghĩa của Đức Giêsu về mình.
Định nghĩa này có làm ta ngạc nhiên không? Bánh là cái gì ăn được và đem lại sự sống. Bánh không sống cho mình, nhưng cho người khác.
Chấp nhận là bánh có nghĩa là chấp nhận mất mình, mà chỉ khi mất mình như thế, bánh mới thật là bánh, mình mới thật là mình. Thật ra bánh vẫn hiện diện và nên một với người ăn. Đức Giêsu là Tấm Bánh đặc biệt. Khi tôi ăn, Ngài thành tôi và biến tôi thành Ngài. Một sự ở lại hai chiều, một sự hiệp thông sâu thẳm.
"Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy" (c.56).
Rước lễ là đón lấy dòng sự sống, chấp nhận sống nhờ. Đức Giêsu sống nhờ Cha và chúng ta sống nhờ Đức Giêsu (c.57). Như cành nho sống nhờ thân cây nho, chúng ta cũng sống nhờ, nghĩa là sống trong và sống cho Chúa.
Trong nhiều thế kỷ, Hội Thánh đã từng có thái độ nhìn và thờ lạy Thánh Thể hơn là cầm lấy mà ăn. Động từ ăn được nhắc đến 8 lần trong bài Tin Mừng này, như một lời mời gọi tha thiết của Đức Giêsu.
Ngày nay, người ta rước lễ nhiều hơn trước. Tiếc thay lắm khi cuộc gặp gỡ này khá vội vã, thiếu chuẩn bị và cũng thiếu đối thoại thân tình.
Tôi lên rước lễ chỉ vì mọi người trong hàng ghế đã lên. Phút thinh lặng sau rước lễ cũng bị cắt ngắn. Tôi phải về ngay vì phải lấy xe, vì nhà thờ đóng cửa... Chính vì thế rước lễ chẳng gây được âm vang nào nơi tôi. Nó trở thành một thói quen, một nghi thức thuần tuý.
Tôi lên ăn một vật thánh, thay vì đón một người.
Ít khi có vị khách quý nào bị thường xuyên tiếp đón lạnh nhạt như thế! Rốt cuộc chẳng có cuộc gặp gỡ nào xảy ra, nên tôi vẫn cứ là tôi như trước.
Hãy dự lễ như người đi dự tiệc Lời Chúa, Mình Chúa. Chỉ ai biết ăn, biết thưởng thức và nghiền ngẫm, người ấy mới gặp được sự sống và gặp được Giêsu.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa đến với chúng con dưới dạng tấm bánh bình thường. Tấm bánh chẳng nói gì, chỉ biết lặng lẽ chờ đợi. Tấm bánh hiện diện là để phục vụ cho con người. Tấm bánh quá đỗi mong manh, nhỏ bé, có thể bị ẩm mốc làm hư hoại, và tan rất mau sau khi được nhận lãnh.
Lạy Chúa Giêsu, có cái gì tương tự giữa phận làm người và phận làm bánh của Chúa. Xin cho chúng con biết cách đến với con người hôm nay: đơn sơ, khiêm hạ, không chút vinh quang hay quyền lực. Nhờ ăn tấm bánh của Chúa, chúng con cũng trở nên tấm bánh ngon, được bẻ ra để đáp ứng khẩu vị của nhiều người. Ước gì chúng con dám rước Chúa đi vào mọi vùng mờ tối của lòng mình, để sự hiện diện của Chúa trong con được lớn lên. Và ước gì chúng con trở thành những Nhà Tạm di động, đem Chúa đến cho đồng bào và quê hương chúng con. Amen.
Theo giáo lý của Hội thánh "Bản chất của Bí tích Thánh Thể không chỉ là bữa ăn chung, mà còn và: THÁNHTHỂ-239
Theo giáo lý của Hội thánh "Bản chất của Bí tích Thánh Thể không chỉ là bữa ăn chung, mà còn và trước tiên là hiện tại hóa hy lễ thập giá. Thiếu giá trị hy tế, Mầu Nhiệm Thánh Thể không có ý nghĩa và chỉ có giá trị như là một buổi gặp gỡ giao hảo và huynh đệ" (BT cứu độ).
Vì thế, hôm nay chúng ta cùng nhau khơi gợi lại ý nghĩa và những giá trị thiêng liêng của thánh lễ để qua đó chúng ta sẽ tham dự thánh lễ một cách tích cực và sốt sắng hơn. Vậy, thánh lễ là gì?
Thánh lễ là diễn lại cuộc hy tế của Chúa Giêsu ngày xưa trên thập giá, là bàn tiệc Nước Trời mà chúng ta được mời gọi tham dự; là thông phần khổ nạn và phục sinh của Chúa Kitô, vì thế, khi chúng ta tham dự thánh lễ, là chúng ta đóng vai trò của: - Đức Trinh Nữ Maria: Mẹ dâng lên Thiên Chúa Cha lời xin vâng trọn vẹn qua sự hiệp thông với Con yêu qúy để cứu độ trần gian. Chính Mẹ đã kết hợp đau khổ từ trái tim của mình với đau khổ máu đổ tuôn rơi của Con để mang lại mùa xuân cứu rỗi cho trần gian.
Cũng vậy, khi chúng ta đi dâng thánh lễ, là chúng ta đem những lao công vất vả trong ngày của mình, những khổ đau trong tâm hồn, đem những tâm tình vui tươi, lạc quan của mình, hợp với của lễ trên bàn thờ là Đức Kitô dâng lên Thiên Chúa Cha, để nhờ Đức Kitô, xin Ngài ban ơn cho chúng ta, tha tội cho chúng ta và xin ơn cứu độ cho toàn thể thế giới. Một sự hy sinh vất vả của một đời lao nhọc để đem lại nguồn sống và hạnh phúc cho mái ấm gia đình, là một lễ vật tuy không đổ máu nhưng cô quặng trong những giọt mồ hôi, những giọt nước mắt chảy ngược vào tim. Đó là một hiến tế mà bổn phận đòi hỏi chúng ta phải chu tòan. Đó là lễ vật mà hằng ngày chúng ta có thể thưa lên với Chúa: "Xin Chúa nhận lễ vật bởi tay cha để tôn vinh danh Chúa và sinh ơn ích cho toàn thể Hội thánh Người.
- Chúng ta cũng đóng vai trò của thánh Gioan Tông đồ, đã gan dạ đứng kề bên thập giá như một chứng nhân cho cái chết hiến tế của Thầy Chí Thánh Giêsu. Gioan không chạy trốn như bao môn đệ khác. Gioan không bàng quang như bao người khách qua đường, nhưng ông đứng dưới chân thập giá như muốn nói lên tấm lòng sẵn lòng cùng Thầy trải qua cuộc thương khó đau thương.
Cuộc sống của chúng ta luôn có thánh giá, thánh giá trong bổn phận, trong trách nhiệm, trong những lao nhọc của công ăn việc làm, trong những ưu tư lo lắng cho con cái, cho hạnh phúc gia đình. Đó là thánh giá mà Chúa đang cần chúng ta ôm lấy vào cuộc đời mình. Không trốn tránh thập giá, nghĩa là không lẩn trốn đau khổ, lẩn trốn trách nhiệm. Cuộc đời này ai cũng muốn an nhàn nhưng để được hưởng những tháng ngày an nhàn thì cần phải có những ngày tháng lao động cực khổ. Có gieo - có gặt. Có trồng mới có ngày hưởng nếm những thành quả của mình.
- Cuối cùng, khi tham dự thánh lễ là chúng ta thông hiệp vào Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Chúng ta được kết hợp nên một trong Chúa Kitô. Chúa Kitô là Đầu Hội Thánh đã dâng chính mình làm tế lễ, còn chúng ta là những chi thể trong nhiệm thể của Người, chúng ta cùng ăn một bánh, cùng uống một chén thánh là chính Mình Máu Thánh Chúa Kitô, chúng ta có cùng chịu hiến tế chính mình như Đức Kitô là Đầu của Hội thánh hay không? Liệu rằng, chúng ta có thể đứng nhìn Chúa chịu sát tế, còn mình không chịu làm gì cả, hay chỉ đứng đó như những khách bàng quang, đứng bên vệ đường nhìn xem máu Chiên Con vô tội đang đổ ra vì loài người, mà lòng mình không cảm thấy một chút hổ thẹn hay ái ngại lương tâm? Chúa Kitô vẫn đang đổ máu vì tội lỗi loài người. Giáo hội vẫn đang hiệp thông với đau khổ của Con Chiên Thiên Chúa, còn chúng ta sẽ đóng góp phần vụ gì trong việc đền tội cho thế giới và cứu độ trần gian? Chúng ta biết rằng, trên bàn thờ tế lễ Giáo hội buộc phải có tượng Chúa chịu nạn, chính là để nhắc nhở chúng ta phải hy sinh, phải dâng hiến mình như Chúa Giêsu đã hiến dâng. Phải đóng góp phần chúng ta như Mẹ Maria đã đóng góp chính nỗi đau khổ xé nát lòng mình, hiệp thông với đau khổ của Chúa Giêsu để dâng lên Chúa Cha. Phải đóng góp phần chúng ta như Gioan đứng sát cây thập giá để nói lên tình yêu thuỷ chung sắt son với Thầy, cho dù phải cùng Thầy trải qua những cam go của đỉnh đồi Calve.
Thiết tưởng để thánh lễ thực sự mưu ích cho phần rỗi chúng ta và cho toàn thể nhân loại. Mỗi người chúng ta cũng phải biết gom góp hy sinh mỗi ngày như những hạt lúa bị nghiền nát, như trái nho ép thành chén rượu mới có của lễ để dâng trên bàn thờ. Đó chẳng phải là mồ hôi nước mắt trong lao công con người làm nên hay sao? Đó chẳng phải là những hy sinh, những chén đắng trong cuộc đời mà mỗi người chúng ta đang chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa hay sao?
Lạy Chúa, xin nhận lấy hạt lúa chấp nhận phân huỷ, mục nát là cuộc đời chúng con. Dưới cối xay của bổn phận trong bậc sống của mình, của những thập giá đắng cay trong những thất bại, bị bỏ rơi, bị hiểu lầm,... Xin cho con được nghiền nát cho Chúa, cho dẫu tâm hồn và thân xác của con có tan nát nhưng xin cho ngọn lửa tình yêu mến làm con trở nên một tấm bánh tinh tuyền hiến dâng cho Thiên Chúa. Amen.
Sự sống nhân thế hệ tại ăn và uống, uống ăn, ăn uống cứ quẩn quanh và sinh ra rất nhiều phiền: THÁNHTHỂ-240
Sự sống nhân thế hệ tại ăn và uống, uống ăn, ăn uống cứ quẩn quanh và sinh ra rất nhiều phiền toái. Ăn thế nào cho ngon, cho sang, cho bổ, cho khỏe. Đó là công việc của nhân thế, thế nhân thường sử dụng lời nói “làm ăn”. Làm lụng vất vả để có cái ăn, điều ấy thật tốt lành, “cũng như lao động là vinh quang”, dùng sức lao động tạo ra cái ăn là vinh quang.
Từ đầu sáng thế, Thiên Chúa tạo dựng nên con người, chưa cần làm lụng vẫn có cái ăn. Qủa thật là thiên đàng, nhưng rồi vì án phạt con người phải làm lụng vất vả mới có cái ăn, cuối cùng con người phải “chết”. Vì thân xác con người đã mang án phạt, nên con người phải chết, nghĩa là cái ăn của trần thế chỉ mang lại sự sống nơi thế gian, cho dù nhân thế có ăn uống cao lương mỹ vị, sơn hào hải sản quý đến đâu đi nữa, con người cũng không thể duy trì sự sống trên trần gian, như vậy tại sao con người phải chết? rõ ràng là án phạt nguyên tổ. Như vậy nhân thế chờ mong điều gì nơi Đấng Tạo Thành. Há chẳng phải là ơn cứu độ sao? Ơn cứu độ để làm gì? Há chẳng phải là để được sống và sống muôn đời sao?
Sống muôn đời mà phải làm lụng vất vả, tìm kế sinh nhai, lao động là vinh quang vì cái ăn, thì sống đời đời để làm gì? Có khác gì với đời sống thế trần đâu?
Như vậy ăn uống luôn gắn liền với sự sống của con người, ngay cả khi họ chết rồi, họ cũng được thân nhân cúng cơm, cúng nước và cúng giỗ hằng năm. Cái ăn, cái uống không thể tách rời nhân thế khi sống ở thế trần hay khi về âm phủ, chầu âm ty.
Thật đáng thương cho nhân thế, nếu không có lương thực vĩnh cửu, trường tồn, thì họ chỉ biết lấy cái ăn làm chuẩn mực cho cuộc sống trên dương thế cũng như âm phủ. Triết lý sống trần thế chỉ có thế thôi!
Nhưng, “Thiên Chúa đã yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian, để ai TIN vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Như vậy rõ ràng, Thiên Chúa không bỏ mặc thế gian. Thiên Chúa đã ban sự sống từ Thiên Chúa cho thế gian một lần nữa, sau lần sáng thế. Nhưng sự sống nơi Thiên Chúa được trao ban qua Con MỘT của Ngài là Đức Kitô Giêsu. Chỉ có đấng từ trời mới ban cho Lương thực bởi trời, tức là Thần Lương, Thần Lương tức không còn là lương thực tự nhiên như cơm bánh, nước và rượu nữa, vì những thứ đó tự bản chất không phải là Thần Lương. Thần lương tức lương thực siêu nhiên, chỉ ăn một lần mà sống mãi, đó là Niềm TIN. Thật vậy, khi nhân thế chỉ TIN vào Đấng cứu thế Giêsu một lần là đủ cho họ, nhưng niềm tin cũng cần nuôi dưỡng để nó lớn lên và trưởng thành, như vậy, chúng ta cần kết hiệp với Đấng Cứu thế thường xuyên, liên tiếp khi nào có thể, để Thần lương huyền nhiệm vì tình yêu sẽ nâng đỡ chúng ta trong mọi nơi, mọi lúc, cho đến khi chúng ta được Chiêm ngưỡng vinh quang của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay, được Đấng Giêsu Kitô quả quyết cách xác thực chính Thần Lương từ trời là “THỊT và MÁU” của Người, nghĩa là phần nhân tính hữu hình của Đấng thiên sai không phải là sự hư nát, tiêu hao như phần nhân tính của phàm nhân. Bởi vì, Người là Thiên Chúa, ăn THỊT và uống MÁU Chúa Giêsu là Tin tuyệt đối vào mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa làm Người, ở giữa nhân loại. Sự sống Người mang đến cho nhân loại là mầu nhiệm nhập thể và làm Người cùng với phần Thiên tính là Thiên Chúa của Người. Bí tích Thánh Thể không thể hiểu theo nghĩa hẹp, khi Chúa Giêsu còn ở trần gian, mà là khi Người đã hoàn tất mầu nhiệm cứu độ. Mầu nhiệm cứu độ bao gồm sự nhập thể – nhập thế làm Người, tử nạn và phục sinh. Bánh và rượu thánh không mang lại sự cứu độ vì nó không phải là Thần Lương, nó không cho sự sống trường sinh, ví nó là phương tiện hữu hình của trần gian. Không có giá trị nào thay thế THỊT và MÁU Chúa Giêsu được. Vì chính Thân Thể hữu hình “ấy” được treo lên, thì THỊT và MÁU “ấy” sẽ trở nên Thần Lương CHO NHỮNG AI TIN VÀO NGƯỜI LÀ THIÊN CHÚA.
“Vì thịt Tôi thật là của ăn, và máu Tôi thật là của uống” (c 55), chứ không phải bánh và rượu là của ăn và của uống nữa. Thịt và Máu của Chúa Giêsu chính là lương thực đích thực nuôi sống nhân thế đời đời và những ai đón nhận thì không hề đói khát, vì Thần lương vĩnh hằng chính là Thiên Chúa duy nhất. Đến đây, xin nhớ đến linh hồn thân phụ tôi, người mà luôn thì thầm bên tai tôi, mỗi khi tham dự Thánh lễ Misa, khi tôi còn thơ ấu.
Khi linh mục đọc lời truyền phép và dâng bánh lễ lên: Thầy cả làm gì khi dâng bánh? Thầy cả lấy dĩa thánh có bánh lễ dâng lên, bánh ấy trở nên Mình Thánh Đức Chúa Giêsu. Thầy cả làm gì khi dâng rượu? thầy cả rót rượu nho vào chén Thánh, rượu nho trở nên Máu Thánh Đức Chúa Giêsu và một chút nước lã,hai chất ấy chỉ Máu và Nước bởi cạnh nương long Chúa đã chảy ra khi Người chịu treo trên cây Thánh Giá. Thầy cả rửa tay thì kẻ giúp làm gì? Kẻ giúp đổ nước trên ngón tay thầy cả để chỉ lòng ăn năn sám hối, ta cũng phải rửa linh hồn ta cho sạch và ăn năn thảm thiết về tiền khiên ta đã phạm, để xứng đáng dâng thánh lễ cực trọng nầy.
Như vậy, bánh và rượu là hình thức tượng trưng cho THỊT và MÁU Chúa Giêsu Kitô, Đấng từ trời mà đến, đem lại sự sống vĩnh cửu cho những ai tin và đón nhận và làm no thỏa mọi khao khát của nhân loại.
Lạy Chúa Giêsu, con tin vào Chúa, xin Chúa trợ giúp lòng tin yếu kém của con. Amen.
-------------------------------
THÁNHTHỂ-241: Hồng ân Thánh Thể – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Khi thông ban Sự Sống của chính mình cho nhân loại, Thiên Chúa ban cho họ một hồng ân cao quý hơn hết mọi hồng ân, một quà tặng tuyệt vời trên tất cả mọi món quà
Không gì trên đời quý bằng sự sống. Dù có bị thiên tai mất hết ruộng vườn, tài sản, nhà cửa, tiền: THÁNHTHỂ-241
Không gì trên đời quý bằng sự sống. Dù có bị thiên tai mất hết ruộng vườn, tài sản, nhà cửa, tiền bạc, nhưng chưa phải chết thì vẫn còn may.
Được sống là một hồng phúc lớn nhất, là một ân huệ vượt trên hết mọi ân huệ. Theo nhà văn Jack London thì "thà làm một con chó sống còn hơn làm một con sư tử chết". Làm một con chuột sống còn hơn một con voi chết! Thế nên người ta thường nói: "Mạng sống quý hơn đống vàng".
Vì yêu thương con người trên hết mọi sự, nên Thiên Chúa muốn dành cho họ quà tặng cao quý hơn tất cả mọi quà tặng, đó là sự sống; nhưng Thiên Chúa không chỉ ban sự sống sinh vật mà còn thông ban cả Sự Sống của chính Thiên Chúa cho con người nữa.
Thông ban sự sống thần linh
Thiên Chúa Cha là Cội Nguồn của Sự Sống. Sự Sống bắt nguồn từ Chúa Cha. Người thông ban Sự Sống của Người cho Chúa Con (Chúa Cha nhiệm sinh Chúa Con). Chúa Giêsu xác nhận sự sống của Người từ Chúa Cha mà đến: “Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha” (Ga 6, 57)
Một khi nhận được sự sống từ Chúa Cha, Chúa Giêsu không giữ lại cho riêng mình, nhưng tìm cách thông truyền Sự Sống cao quý ấy cho nhân loại.
Bằng cách nào?
Muốn cho cành nho rừng tiếp nhận được sự sống của cây nho vườn, thì nó phải được tháp nối để nên một với cây nho vườn.
Muốn cho một bàn tay bị cắt lìa thân được tiếp nhận sự sống từ thân thể thì bàn tay đó phải được ghép nối vào thân thể, trở nên một với thân thể.
Vậy muốn cho loài người tiếp nhận được Sự Sống của Chúa Giêsu thì phải làm cho họ nên một với Chúa Giêsu.
Thế nên, Chúa Giêsu lập nên bí tích Thánh Thể, hiến ban Thịt và Máu Người, dưới hình bánh rượu, làm của ăn cho nhân loại, để cho những ai lãnh nhận Mình Máu thánh Người thì được nên một với Người, được ở lại trong Người: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy.”
Những ai “ở lại trong Chúa Giêsu và có Chúa Giêsu ở lại trong người ấy”, thì tất nhiên Sự Sống của Chúa Giêsu sẽ được thông ban cho người ấy.
Điều tuyệt vời là Sự Sống mà Chúa Giêsu thông ban, qua việc tiếp nhận Mình Máu Người, không phải là sự sống sinh vật có thể bị lụi tàn theo năm tháng mà là Sự Sống vĩnh cửu không bao giờ tàn phai.
“Đức Giêsu nói với người Do-thái rằng: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6, 51)
“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.” (Ga 6, 54)
Thế là thông qua việc ăn Mình và Máu Chúa Giêsu, con người được nên “cùng một thân mình, cùng một dòng máu” với Chúa Giêsu và do đó, Sự Sống thần linh của Chúa Giêsu sẽ được thông ban cho họ.
Khi thông ban Sự Sống của chính mình cho nhân loại, Thiên Chúa ban cho họ một hồng ân cao quý hơn hết mọi hồng ân, một quà tặng tuyệt vời trên tất cả mọi món quà.
Biến đổi con người thành Chúa Giêsu
Ngoài ra, khi tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giêsu trong Bí Tích thánh thể, chúng ta còn được biến đổi để nên một Giêsu khác. Thánh Giáo hoàng Lê-ô Cả khẳng định:
“Thực thế, chúng ta thông phần Mình và Máu Chúa Kitô là để được biến thành Đấng chúng ta rước lấy” (trích bài giảng của thánh Lê-ô cả giáo hoàng, trong bài đọc kinh sách ngày thứ tư, tuần 2 phục sinh)
Giáo huấn của Hội Thánh còn dạy cho biết nhờ tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giêsu, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa:
“Khi bạn ăn uống Mình và Máu Đức Kitô, bạn nên một với Người, cùng một thân mình, cùng một dòng máu. Như thế, chúng ta trở thành những người mang Đức Kitô, có Mình Máu Người thấm nhập khắp toàn thân. Nhờ vậy, theo lời thánh Phê-rô, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa.” (trích bài giáo huấn cho các tân tòng tại Giê-ru-sa-lem trong bài đọc kinh sách ngày thứ bảy, tuần bát nhật phục sinh)
Lạy Chúa Giêsu, Hồng ân Chúa ban thật vô cùng lớn lao và quý báu nhưng tiếc thay, nhiều người không nhận biết nên tỏ ra hững hờ. Xin cho tâm hồn chúng con tràn đầy hoan lạc trước hồng phúc vô giá và khao khát tiếp nhận hồng ân nầy với hết lòng cảm tạ tri ân.
Vào một ngày đẹp trời, một chiếc xe Limousine bóng loáng tự nhiên chạy đến và đậu ngay trước cửa nhà tôi. Một chàng trai trong mộng, một người dưng khác họ, bước xuống. Anh đi thẳng vào nhà và dìu tôi ra xe. Chúng tôi trực chỉ nhà thờ. Trước mặt cộng đoàn và linh mục, anh cầm lấy tay tôi và đọc: "Anh nhận em làm vợ và hứa giữ lòng chung thủy với em... để yêu thương và tôn trọng em suốt đời anh." Lời gì mà êm ngọt quá! Lời hôn ước đó chỉ kéo dài mười lăm giây, nhưng dư âm còn vang vọng cả cuộc đời. Hôn ước như thấm vào từng thớ thịt đường gân. Tôi như run lên. Niềm vui truyền khắp thân thể. Tôi cảm thấy tê tê nơi đầu ngón tay và nơi tận con tim. Nỗi sung sướng chỉ nổi lên ít phút. Nhưng tôi đã phải trả giá bằng bao nhiêu mồ hôi, nước mắt.
Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy hôn ước của chúng tôi giống giao ước của Chúa quá. Thiên Chúa đã cưới dân Do Thái. Chúa Giêsu đã chọn Giáo hội làm hiền thê. Chúa đã phải trả một giá quá mắc để hoàn thành một giao ước tuyệt vời. Chúa đã chết để giao ước thành sự thật. Chết đi để đem lại sự sống cho nhân loại. Cũng thế, tôi cũng phải "chết" đi mỗi ngày để cho tình yêu triển nở và gia đình vươn lên. Sự sống thăng hoa...
Sự sống vô cùng huyền nhiệm. Nhưng những gì đang xảy ra trong cuộc sống thường phủ che phần huyền nhiệm đó, đến nỗi con người dễ lãng quên hay đánh mất khả năng khám phá độ sâu của sự sống.
Hôm nay Chúa Giêsu muốn mạc khải một huyền nhiệm còn sâu hơn huyền nhiệm của sự sống tự nhiên. Đó là sự sống Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động mãnh liệt trong trần gian. Không dễ gì nhìn được sự huyền nhiệm siêu việt đó.
Làm sao có thể moi lên tự cõi thẳm sâu của cuộc sống một giá trị và ý nghĩa lớn lao như những thực tại Chúa mạc khải hôm nay? Thực tại đó hoàn toàn bị che dấu và đã gây kinh ngạc cho mọi người. Nhưng sự thật vẫn là sự thật. Chúa Giêsu trở thành thịt và máu nuôi sống muôn dân trong hiện tại và tương lai vĩnh hằng (x. Ga 6:53-54).
Trước hết, có thực trong Thánh Thể, Chúa thực sự hiện diện bằng xương thịt như khi Chúa còn sống nơi trần gian không? Không! Vì sự hiện diện ấy luôn mang tính bí tích. Nói khác, sự hiện diện nóng bỏng đó vẫn bị một lớp vỏ bất động là bánh rượu che phủ bên ngoài. Tuy thế, cũng không thể nói sự hiện diện đó chỉ có ý nghĩa biểu tượng.
Vậy Chúa Giêsu có ý gì khi quả quyết: "Đây là mình Thầy. Đây là máu Thầy"(Mt 26,26-28)? Phân tích cú pháp công thức truyền phép, người ta thường khẳng định có Chúa hiện diện thực sự trong Thánh Thể. Thực tế, trong công thức truyền phép đó, động từ "là" không loại trừ ý nghĩa biểu tượng (x. Ed 5,5). Không thể thuyết phục người ta tin nhận thực tại Thánh Thể, qua những cấu trúc ngữ pháp.
Vậy căn cứ vào đâu để có thể quả quyết Chúa Giêsu hiện diện đích thực bằng Huyết Nhục trong Thánh Thể? Nên nhớ, chính Chúa đã quả quyết Thánh Thể là một giao ước mới (x. Lc 22,19-20). Theo văn hóa Sêmít, muốn lập giao ước, đòi phải có lễ vật thực sự. Nếu chỉ có những dấu chỉ hay biểu tượng của những lễ vật đó, không thể lập giao ước (x. St 15,9-18; Xh 24,5; New Catholic Encyclopedia 2003:5, 411). Theo kinh nghiệm bản thân, tôi cũng thấy cả hai đứa chúng tôi phải là những con người thật, hôn ước mới thành sự. Tôi không thể cầm lấy tay của một tượng đồng hay gỗ để nói lời hôn ước. Dù tượng đó bằng vàng hay kim cương cũng chẳng giá trị gì đối với lời hôn ước của tôi. Tương tự, nếu Chúa Giêsu không hiện diện thực sự, Thánh Thể không thể trở thành giao ước nối kết Thiên Chúa với nhân loại.
Giao ước này chắc chắn phải vượt xa giao ước trong Cựu ước và đưa tất cả những lễ xóa tội thời Cựu ước tới mức viên mãn (x. Nhóm Phiên Dịch Các giờ Kinh Phụng Vụ: Lời Chúa Cho Mọi Người, tr. 446). Vì là giao ước, Thánh Thể trở thành nơi Chúa Giêsu dâng hiến chính mình để vinh danh Chúa Cha và cứu độ toàn thể nhân loại. Sở dĩ Thánh Thể có một năng lực vô cùng lớn lao vì Thần Khí đã biến đổi Mình Máu con người phục sinh của Chúa Giêsu thành của ăn nuôi sống dân Chúa. Như thế, khi rước Mình Máu Chúa, con người đón nhận vào huyết mạch sự sống Thiên Chúa và trở nên một với Người. Như thế, Chúa không chỉ hiện diện trong Thánh thể, nhưng trong chính con người đã ăn thịt và uống máu Người. Sự sống con người được hòa nhập và trở thành một với Chúa (x. Ga 6,56-57). Không còn phân biệt đâu là Chúa, đâu là dân Chúa nữa (x. Ga 6,57).
Sự sống đó thấm sâu vào tận xương tủy và kéo dài đến đời đời. Chỉ có sự hiệp nhất viên mãn với Chúa mới có thể giúp tín hữu vượt qua những giới hạn cuộc sống và bảo đảm cho họ sống mãi trong cõi vĩnh hằng. Nếu lương thực bình thường còn đem lại sức mạnh, niềm vui và hạnh phúc, thì làm sao lương thực thiên thần lại không nhân lên ngàn lần những hiệu quả tốt đẹp tương tự?! (Our Sunday Visitor's Encyclopedia of Catholic Doctrine, ed. by Russell Shaw, p. 207: "Thánh Thể duy trì và tăng cường ân sủng trong người rước lễ; Thánh Thể có quyền tha tội nhẹ và làm cho con người vững mạnh để chống lại tội lỗi; Thánh Thể là niềm vui thiêng liêng cho những tâm hồn sốt sắng.") Bởi đó, Thánh Thể góp phần, nếu không nói là nguyên nhân, làm cho cuộc đời thêm tươi sáng.
Đó là những hiệu quả vô cùng lớn lao Thánh Thể có thể làm cho cá nhân. Nhưng không phải chỉ dừng lại ở đó. Thánh Thể còn có khả năng quy tụ tất cả tín hữu và làm cho họ trở thành một thực tại lớn lao trên thế giới hôm nay và tương lai (Our Sunday Visitor's Encyclopedia of Catholic Doctrine, ed. by Russell Shaw, p. 207: "Thánh Thể làm cho Giáo hội trở thành một cộng đoàn tín hữu, Dân Thiên Chúa, khiến Giáo hội thành toàn như thành đô Thiên Chúa, Giêrusalem mới."). Con mắt đức tin nhìn thấy những nét cực kỳ huyền diệu và sức mạnh vô song của Thánh Thể đang hoạt động trong cộng đoàn Dân Chúa và biến Giáo hội thành một chứng nhân và trung gian hòa giải giữa nhân loại.
Tất cả mọi năng lực Giáo hội đều nằm trong Thánh Thể. Nhưng không thể quên Thánh Thể là một giao ước. Đó là một sáng kiến của Chúa Giêsu, kết quả của một tình yêu nhưng không và vĩ đại. Nếu Chúa không quan tâm tới phần rỗi đời đời của chúng ta, nhất định Người đã không lập bí tích Thánh Thể. Nếu không có "bánh hằng sống," thế gian vẫn phủ màu tang tóc của thần chết và đầy những địch thù Thiên Chúa. Rất may Thánh Thể đã hiện diện để đem lại sự sống và phục sinh những gì đã tiêu vong trong biển trần gian.
Khi rước lấy Thánh Thể, Kitô hữu trở thành Thánh Thể giữa trần gian. Họ có mặt ở đâu, Thánh Thể hiện diện ở đó. Thật vậy, "tất cả bản tính nội tại của Giáo hội đều được mạc khải trong Thánh Thể. Khi tham dự các Mầu Nhiệm Thánh, các tín hữu trở thành ‘các người thân thuộc' của Chúa Kitô. Đồng thời, ngay từ bây giờ họ cảm nghiệm trước công cuộc thần linh hóa trong giao ước đang nối kết bền chặt thiên tính với nhân tính" (Gioan Phaolô II: Tông thư Orientale Lumen, 02/05/1995) Thật là tuyệt vời!
Không phải đợi tới đời sau mới thấy được công cuộc thần linh hóa kỳ diệu trong giao ước đó. Ngay từ bây giờ, giao ước đó đang tìm thấy bóng dáng của mình trong giao ước hôn nhân. Nói khác, giao ước đó củng cố và là mẫu mực cho giao ước hôn nhân. Nhưng để lập giao ước mới trong bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu phải đổ đến giọt máu cuối cùng (x. Mt 26,28). Chính vì thế, muốn giao ước hôn nhân tồn tại và sinh hoa kết quả, Kitô hữu cũng phải trả giá bằng chính cuộc sống đầy hy sinh. Làm sao có đủ đức tin để thấy được tất cả bản chất và vẻ đẹp của giao ước Thánh Thể trong giao ước hôn nhân hôm nay? Làm sao có thể xác định vị thế và vai trò của mình để biến giao ước đó thành hiện thực trong gia đình cũng như ngoài xã hội? Khi rước lễ, họ làm mới lại giao ước giữa Thiên Chúa và con người, giữa Chúa Kitô và Giáo hội. Khi sống đời gia đình, họ làm cho giao ước mới ngày càng mới hơn.
Lạy Chúa, xin cho con luôn tin tưởng vào giao ước Chúa đã ký kết bằng Máu Chúa trong bí tích Thánh Thể, để mỗi ngày con càng trở nên giống Thánh Thể hơn. Amen.
(Trích trong ‘Cùng đọc Tin Mừng’ của Lm. Trần Ngà)
Mekong là một trong 12 con sông lớn nhất thế giới, với chiều dài 4,800 km, phát xuất từ Tây Tạng,: THÁNHTHỂ-243
Mekong là một trong 12 con sông lớn nhất thế giới, với chiều dài 4,800 km, phát xuất từ Tây Tạng, chạy dọc theo suốt chiều dài của tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), qua Myanmar (Miến Điện), Thái Lan, Lào, Cambodge, Việt Nam và cuối cùng hoà nhập với biển Đông, đem lại sự sống cho tôm cá, cho các loài thảo mộc, tưới xanh ruộng đồng, đem lại lương thực cho hàng triệu cư dân thuộc nhiều quốc gia nằm trong lưu vực của nó.
Sự sống thần linh, tức sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, một sự sống tuyệt vời và miên viễn, cũng tuôn chảy dạt dào và không ngừng không nghỉ như một dòng sông không bao giờ vơi cạn và sự sống ấy được thông ban cho vô vàn tín hữu của Thiên Chúa khắp nơi.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy cho ta biết Sự Sống thần linh bắt nguồn từ Thiên Chúa Cha [Chúa Cha là Đấng hằng sống". Ga 6,57] và được thông ban cho Chúa Con cũng như Chúa Thánh Thần, ["Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha." Ga 6, 57]. Thế là nơi Ba Ngôi, Sự Sống dồi dào sung mãn như nước đầu nguồn của một dòng sông cả. Như nước sông Mekong không ngưng đọng đầu nguồn nhưng tuôn đổ tràn trề xuống vùng hạ lưu, Sự Sống của Ba Ngôi Thiên Chúa cũng không dừng lại nơi Ba Ngôi nhưng tiếp tục thông ban cho nhân loại.
Nhưng làm sao nhân loại có thể đón nhận được Sự Sống thần linh của Thiên Chúa? Sở dĩ Chúa Giêsu được tiếp nhận Sự Sống từ Chúa Cha là nhờ Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ngài. [Có lần Chúa Giêsu ngỏ lời với Philipphê: "Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?... Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy" (Ga 14, 10-11)] Vậy nếu chúng ta muốn được tiếp nhận Sự Sống thần linh từ Chúa Giêsu thông ban, thì chúng ta cũng phải tìm cách ở trong Chúa Giêsu và để cho Chúa Giêsu ở trong chúng ta.
Cách đó thật quá dễ dàng vì chính Chúa Giêsu đã quảng đại mách bảo cho mọi người: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy" (Ga 6, 56)
Ngoài ra, theo bài giáo huấn cho các tân tòng tại Giê-ru-sa-lem thì "khi bạn ăn uống Mình và Máu Đức Kitô, bạn nên một với Người, cùng một thân mình, cùng một dòng máu. Như thế, chúng ta trở thành những người mang Đức Kitô, có Mình Máu Người thấm nhập khắp toàn thân" (trích bài đọc Kinh Sách mùa Chay & Phục Sinh, bản dịch của nhóm PVGK trang 456).
Một khi được ở trong Chúa Giêsu, trở nên đồng huyết nhục với Chúa Giêsu thì tất nhiên Sự Sống của Chúa Giêsu (vốn không hề lụi tàn) sẽ được chuyển thông cho người lãnh nhận. Người ấy được mang lấy sự sống bất tử của Thiên Chúa trong chính bản thân mình nên được sống đời đời. Chính vì thế nên Chúa Giêsu mới nói là "ai ăn Thịt và uống Máu tôi sẽ được sống đời đời." (Ga 6, 54)
Thế là nhờ Bí Tích Thánh Thể, Sự Sống của Ba Ngôi Thiên Chúa đã được khơi dòng: Cội nguồn Sự Sống từ Chúa Cha được thông ban cho Chúa Con và Chúa Thánh Thần từ trước muôn đời, nay được thông ban cho những ai lãnh nhận Mình và Máu thánh Chúa Giêsu.
Thật là ân huệ tuyệt vời, Sự Sống thần linh của Ba Ngôi Thiên Chúa được ban tặng nhưng không cho nhân loại, và khi chúng ta tiếp nhận lấy Mình và Máu thánh Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, chúng ta đang chiếm hữu Sự Sống của Thiên Chúa, Sự Sống đời đời, cho chính mình ngay từ hôm nay.
* * *
Con người sẵn sàng trả giá tiền triệu, tiền tỉ và nếu cần bán cả gia tài để có được thuốc tốt giúp phục hồi sức khoẻ hay chống trả những căn bệnh hiểm nghèo đe doạ mạng sống. Vậy nay Chúa Giêsu biếu không cho chúng ta phương dược trường sinh hoàn toàn miễn phí và rất dễ chiếm hữu, lẽ nào chúng ta lại coi thường. Lạy Chúa Giêsu, chúng con đời đời ghi nhớ công cha nghĩa mẹ vì các ngài đã cộng tác với Chúa ban tặng cho chúng ta sự sống tạm bợ đời nầy.
Còn Chúa, không những Chúa thực sự ban cho chúng con sự sống tạm bợ đời nầy mà còn sẵn sàng thông ban cả Sự Sống thần linh đời đời không hề tàn lụi, lẽ nào chúng con vẫn tiếp tục tỏ ra vô ơn với Chúa là Đấng rộng ban cho chúng con ân huệ vô cùng cao quý nầy.
Một trong những cuốn sách nổi tiếng và bán chạy nhất là cuốn "On Death và Dying" (Hấp Hối và Chết). Tác giả cuốn sách này diễn tả sự chết qua 5 giai đoạn sau đây: 1) Giai đoạn từ chối và không chấp nhận cái chết (denial), 2) Giai đoạn tức giận (anger): "Tại sao tôi lại chết?" 3) Giai đoạn mặc cả (bargaining) để tìm một lúc khác thuận lợi hơn, 4) Giai đoạn chán nản ngã lòng (depress), 5) Giai đoạn cuối cùng là chấp nhận (acceptance).
Tất cả mọi người chúng ta cho dù ở giai đoạn cuối của những cơn bệnh nạn hiểm nghèo hay ở bất cứ lúc nào, tùy theo mỗi người, thì ai cũng phải đối diện với sự chết. Từ lúc chúng ta lọt lòng mẹ là chúng ta bắt đầu cuộc hành trình tiến đến sự chết.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói với chúng ta thêm một giai đoạn thứ 6 mà tác giả ở trên đã không nhắc tới. Giai đoạn này là câu hỏi mà nhiều người phải đương đầu đó là "Chúng ta sẽ đi đâu sau khi chết?"
Đã có rất nhiều thuyết về sự sống đời sau mà con người đã vẽ lên bằng trí tưởng tượng trong phạm vi của loài người. Mỗi một dân tộc đều có những nét đặc điểm của họ. Đối với người Hy Lạp ngày xưa, họ cho rằng cuộc sống đời sau như là một nơi cực lạc chan chứa niềm hạnh phúc và không có bất cứ một thay đổi gì về vấn đề thời tiết. Đối với người Ái Nhĩ Lan, sự sống đời sau giống như một hòn đảo của những người được chúc phúc (Island of the Blest). Trên hòn đảo này đầy những cây ngon vật lạ, mọi người đều vui mừng không ngớt, không có đêm hay ngày gì cả, và cũng không có tiếng khóc hay than van.
Tân Ước thì không cho chúng ta hình ảnh về thế giới đời sau theo tính cách của loài người. Tân Ước cũng không nói cho chúng ta biết kỹ lưỡng về những thiết kế của Nước Trời. Tân Ước cho chúng ta một vài hình ảnh như: Thành thánh Giêrusalem mới, kho tàng châu báu, căn nhà với nhiều chỗ ở, quốc gia mà Chúa Kitô làm Vua.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta một bài học rất quan trọng đó là linh hồn bất tử và sự sống đời sau. Ngài trao ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Ngài: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh Ta sẽ ban tặng, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống" (Ga 6:51).
Chúa Giêsu chính là Bánh ban sự Sống. Ngài chính là sự hoàn thiện của chúng ta. Ngài chính là đích điểm mà chúng ta phải đi tới. Ngài đã trả lời cho câu hỏi mà nhiều người vẫn còn thắc mắc, "Sự sống đời đời là cái gì?" Đức Giêsu ngước mắt lên trời và cầu nguyện: "Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. Thật vậy, Cha đã ban cho Con quyền trên mọi phàm nhân là để Con ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Con. Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô" (Ga 17:1-3).
Sự sống đời đời là nhận biết Cha, Đấng đã sai Con Một Ngài xuống thế gian để ban cho chúng ta Bánh Hằng Sống. Sự sống đời đời là đón nhận Chúa Giêsu, Bánh Hằng Sống từ trời xuống.
Thường thì khi yêu thương ai chúng ta muốn ở gần, kề cận bên người mình thương. Nhiều khi chỉ cần ở bên nhau, nhìn nhau là tâm hồn thấy đủ, chẳng cần phải nói nhiều lời. Có cách gần gũi như giữa bạn hữu thân tình với nhau. Có cách thân mật như giữa vợ chồng gần nhau. Tuy nhiên tất cả đều giới hạn ở chỗ tuy gần nhau, nhưng vẫn chỉ ở bên nhau, ở ngoài nhau mà thôi.
Bằng một sáng kiến tuyệt vời, sáng kiến của một Vị Thiên Chúa, vượt quá mọi suy nghĩ, mọi phương thế của người phàm, Chúa Giêsu bày tỏ tình yêu của người một cách tuyệt đỉnh khi lập Phép Thánh thể, để ở lại với chúng ta, trước khi về trời. Thật vậy, khi nói: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy" (Ga 6,56) Chúa Giêsu không chỉ muốn ở gần, mà còn ở trong những người thương mến, khi họ rước Chúa. Mỗi khi rước Mình và Máu Thánh Chúa, chúng ta không biến Chúa thành thịt máu chúng ta, theo cách thông thường chúng ta ăn uống lương thực làm của nuôi thân xác, nhưng Chúa Phục sinh sẽ biến đổi chúng ta một cách nào đó nên giống Chúa, Đấng ba lần thánh, Nguồn hạnh phúc viên mãn, Sự Sống đời đời. Như vậy, khi ban Phép Thánh Thể, Thiên Chúa muốn ban điều trọn hảo cho những người mà Chúa yêu thương. "Yêu nhau là muốn điều tốt cho người mình yêu", Thánh Tôma Aquinô đã nói như vậy.
Chúa ngự trong tâm hồn những ai rước Chúa với lòng tin tưởng, trông cậy và yêu mến, chẳng những để biến họ nên giống Chúa, mà còn để đem lại hạnh phúc cho họ là sự sống đời đời, vì Chúa chính là Nguồn Sự Sống. "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống" (Ga 6,51). Sống hoài, sống mãi, là nỗi khát khao của con người mọi thời. Muốn được sống đời đời thì phải sống với Chúa, sống trong Chúa, sống nhờ Chúa, qua việc rước Chúa. Chúa ở đâu, Chúa cũng muốn người được Chúa yêu thương ở đấy và sự sống đời đời là điều kiện cần thiết để những ai được Chúa yêu thương và yêu thương Chúa được sum họp muôn đời với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Phép Thánh Thể là sáng kiến của một tình yêu tuyệt đỉnh mà Chúa dành cho hết mọi người, nếu chúng ta biết tin vào Chúa (Ga 6,35-36) và ăn uống Mình Máu Thánh Chúa (Ga 6,51).
Xin cho chúng con biết đáp trả lòng yêu thương vô bờ của Chúa bằng việc siêng năng dự lễ, viếng Thánh Thể và năng rước lễ một cách sốt sắng. Amen
Trong quyển "Sống Một Nghệ Thuật" có một chuyện tình được xếp vào hàng chuyện tình đẹp nhất Trung Quốc 2006: Một ông cụ 70 tuổi đã tự tay đẽo 6.000 bậc thang để giúp người vợ 80 tuổi của mình trèo lên núi, hay nói đúng hơn đó là cái hang mà họ đã sống 50 năm qua. 50 năm trước, chàng trai Liu Guojiang đem lòng yêu Xiu Chaoqing, một goá phụ đã có con. Quá mệt mỏi bởi những lời đàm tiếu, chống đối, ngăn trở của gia đình, bạn bè, họ đã bỏ nhà lên hang động này sống ẩn dật để được trọn vẹn yêu nhau. "Anh có chắc là không hối tiếc không?". Đó là câu hỏi Xiu thường hỏi chồng. "Chừng nào chúng mình còn làm việc cần cù, cuộc sống chắc chắn sẽ tốt lên" . Đó là câu trả lời của Liu.
Vâng, sức mạnh của tình yêu là thế đó. Không có điều gì có thể quật ngã được sức mạnh ấy. Tình yêu nơi nhân loại chính là hình bóng của tình yêu nơi Thiên Chúa. Và nơi Thiên Chúa, tình yêu cũng được cụ thể hoá bằng hành động. "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian... để nhờ Người Con nầy mà thế gian được cứu" (Ga 3,16-17). Tột đỉnh của tình yêu ấy là cái chết đau thương của Đức Giêsu trên thập giá, "Ngài đã tự hiến mình để trở nên của ăn của uống cho toàn dân".
Vâng, Con Một Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô đã nói: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống... Bánh Ta ban tặng chính là thịt Ta đây, để cho thế gian được sống" (Ga 6,51). Điều gì mà khó hiểu và man rợ như vậy? Ăn thịt người ư? Sao có thể như thế được? Chúng ta không thể hiểu đoạn văn một cách thô sơ và hết sức con người như thế. Nhưng nếu hiểu cách đó thì cũng không có gì đáng sợ lắm đâu! Chẳng phải nàng Thoại Khanh đã từng lóc thịt mình để nuôi mẹ chồng hay sao? Cái uyên thâm của câu chuyện này là lòng hiếu thảo tuyệt vời của nàng dâu. Cái cảm động trong câu chuyện tình của ông Liu là tình yêu mãnh liệt của hai ông bà. Vượt trên tất cả, cái đáng ca tụng ngàn đời trong hành động nuôi dân bằng chính Thịt Máu của Đức Kitô là tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại. Nó đẹp và cao quý hơn bất cứ thứ tình cảm nào khác là bởi vì bản thân là Thiên Chúa nhưng Ngài đã hạ mình, thí mạng cho đám tội nhân là chúng ta. Ngài đã cho ta được tái sinh và tham dự vào thiên tính của Ngài đang khi chúng ta còn trong cõi chết.
Đức Giêsu về trời không có nghĩa là chấm hết mọi hoạt động của Ngài nơi trần gian. Ngài vẫn ở với chúng ta, nơi Bí tích Thánh Thể. Qua tay vị Linh mục, Ngài từng ngày hiện diện trong tâm hồn con người, trở nên cao lương mỹ vị cho cuộc lữ hành về Nước Trời của con người. Bao lâu trên trái đất này còn con người thì Đức Giêsu vẫn nhẫn nại hiến tế chính mình cho họ, trong đó có bạn vào tôi.
Tôi không thể hiểu được điều huyền nhiệm trong những hành động của Thiên Chúa. Tôi cũng không cắt nghĩa được những lời nói trong Kinh Thánh một cách rõ ràng như các nhà thần học. Nhưng có một điều tôi không bao giờ sai lầm là Thiên Chúa đã - đang và sẽ yêu tôi, cho dù tôi bất xứng đến mức nào. Ngài yêu tôi trước khi tôi yêu và nhận ra Ngài. Ngài đến với tôi cả khi tôi từ chối Ngài. Ngài cứu vớt tôi ngay lúc tôi chẳng hy vọng. Ngài xem tôi là bạn hữu trong lúc tôi không đáng là tôi tớ. Ngài yêu tôi trọn vẹn trong tất cả những điểm tốt và hạn chế của tôi.
Một tình yêu như thế có được xem là tình yêu đẹp nhất không thưa bạn? Đức Giêsu "xẻ thịt" mình để lại cho nhân loại như để bổ túc thêm cho những hành động và lời mời gọi yêu thương của mình. "không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người thí mạng sống vì bạn hữu của mình" (Ga 15,13). Đức Giêsu đã thí mạng vì chúng ta. Vậy bạn có dám thí mạng vì Ngài và vì người khác không? Tình yêu này không chỉ đẹp mà còn cao cả nữa.
Sau khi làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để nuôi năm ngàn người ăn. Nhân cơ hội này Đức Giêsu đã mặc khải cho dân chúng biết một thứ bánh trường sinh đó là: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta để cho thế gian được sống".
Chắc chắn khi nói lời này cùng với thái độ của Chúa làm cho mọi người Do Thái hiểu rằng Chúa không có ý nói bóng, mà Ngài đã quả quyết một sự thật "Thịt Ta" nên họ ngạc nhiên khó hiểu "làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?". Vì từ trước đến nay chưa thấy ai nói và làm điều này. Chúa biết tâm lý họ rất rõ, biết họ còn đang thắc mắc, nhưng Ngài không đính chính hay giải thích, mà tiếp tục quả quyết một cách mạnh mẽ hơn "Thật Ta bảo thật ác người: "Ai an thịt và uống máu Ta thì có sự sống đời đời".
Một điều thật dễ hiểu trong cuộc sống, nếu muốn tồn tại thì phải cần có lương thực, hay nói đúng hơn thức ăn không thể thiếu cho cơ thể, vì nó cung cấp năng lượng cho cơ thể sống và phát triển. Tương tự, linh hồn ta cũng cần có lương thực hằng ngày để "sống", thứ lương thực đã được Đức Giêsu đem đến hơn hai mươi thế kỷ. Qua Bí Tích Thánh Thể Ngài tiếp tục là của ăn để nuôi linh hồn ta.
Thật là một mầu nhiệm lạ lùng của tình yêu Thiên Chúa. Ta tin tưởng Chúa ở khắp nơi hằng gìn giữ lo lắng cho con người. Còn hơn thế nữa, Ngài ngự một cách đặc biệt qua hình bánh rượu và linh hồn để ta được sung mãn trong đời sống siêu nhiên, được nếm ngay từ đời này mùi vị thiên đàng. Chỉ có tình thương mà chúng ta được những hồng ân to lớn như thế, chứ nếu xét theo công trạng thì chúng ta có là gì so với Ngài, chúng ta có làm được gì để xứng đáng được hưởng một ơn như vậy. Thật ra trí khôn con người không thể hiểu được, chúng ta chỉ biết lấy lòng khiêm nhường mà ta ơn Chúa hết lòng hết sức mình.
Ngày xưa, trong xã hội phong kiến, thì các dân không bao giờ được nhìn vị vua của mình. Chúa còn cao cả quyền năng hơn tất cả các vị vua. Vì vậy, chỉ cần được chiêm ngắm từ xa đã là một điều mãn nguyện và hạnh phúc vô cùng. Nhưng để thể hiện tình yêu của mình vị Vua này lại dùng một phương thế thật lạ lùng, là ngự trong hình bánh rượu để chúng ta được cùng đến với Ngài, kết hợp với Ngài, và chính Mình máu Ngài nên lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng đời sống siêu nhiên của chúng ta.
Chúa đã lập ra Bí tích Thánh Thể để kết hiệp mật thiết với linh hồn chúng ta, vì chính Chúa đã khẳng định như một phần thưởng cho những kẻ tin: "Ai ăn thịt Ta và uống Máu Ta thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy". Chúa được ví như là thân nho chúng ta là ngành, vì thế chúng ta hãy biết mút lấy nhựa sống từ thân. Nếu chúng ta muốn được sống mãi mãi, muốn kết hợp với Chúa và với nhau, thì phải là "cành" chưa rời khỏi "Thân", là cành chưa khô héo bệnh tật. Tội lỗi là bệnh tật, tính hư nết xấu làm cho ta bị sâu, bị úa tàn, và hơn nữa nó có thể làm cho ta bị lìa khỏi cây. Vậy, chúng ta phải luôn "cắt tỉa, chăm sóc" bằng cách giữ gìn các giới răn và sống theo luật Chúa, ăn năn sám hối mỗi ngày để xứng đáng kết hợp với Chúa qua Bí Tích Thánh Thể. Như lời thánh Phaolô đã khuyên nhủ: "Ai chịu Mình Thánh máu Thánh cách bất xứng là ăn và uống hình phạt mình, vì đã phạm tới Mình Thánh, Máu Thánh".
Lạy Chúa, Phép Thánh Thể là của ăn thiêng liêng không thể thiếu trong linh hồn, vậy mà nhiều khi chúng con lại thờ ơ không biết quý trọng. Chúng con lại thật là xấu hổ khi lại cố gắng tìm kiếm, quý trọng những lợi lộc vất chất thế gian là của phù vân giả trá. Xin cho chúng con biết khát khao tìm kiếm những của ăn không bao giờ hư nát, đó là Mình và Máu Thánh Chúa, một dấu chứng của tình yêu vĩnh cửu . Amen
Chương trình của Thiên Chúa từ đời đời là tạo dựng con người để con người thông hiệp với Ngài. Thuở ban đầu, Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh mình. Ngài thường xuyên đến nói chuyện với hai ông bà nguyên tổ của chúng ta trong tâm tình thân mật. Tuy nhiên ông bà nguyên tổ trong một lúc yếu lòng đã nghe theo lời ma quỷ mà từ khước tình yêu Thiên Chúa đối với mình. Vì muốn đưa con người trở lại tình trạng ơn nghĩa với Người, Người đã hứa ban Đấng Cứu Chuộc và đã ban Mình Máu Chúa Kitô ở lại trong hình Bánh Rượu cho chúng ta được thường xuyên gặp gỡ thân mật với Người.
Để thực hiện công cuộc cứu chuộc, Thiên Chúa đã chọn một dân riêng để chúc phúc và tỏ tình thương của người hầu cứu độ mọi người mọi thời. Đến thời đến buổi,Thiên Chúa đã sai con mình đến làm Emmanuel nghĩa là Thiên Chúa ở với loài người, cho chúng ta thông dự vào tình yêu Chúa Ba Ngôi, nên một với Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Chúa Giêsu đến trần gian để chúng ta được ở trong Ngài và trở nên con cái Chúa, cho chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha. Ngài đã tiếp tục ở với nhân loại bằng cách trở nên của ăn nuôi sống linh hồn trong Bí tích Thánh thể. Chính Mình Máu Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể là Bánh đem lại sự sống mới.
Thánh Thể là chóp đỉnh của mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa là Bí tích cao trọng nhất vì không chỉ trao ban ân sủng mà trao chính Tác giả của ân sủng, Đấng là Thiên Chúa muôn loài lại trao hiến bản thân phục vụ loài người. Điều này giống như sự điên dại vì yêu thương của người mẹ đối với đứa con lêu lổng: mẹ sẵn sàng cho đi tất cả bản thân miễn sao con mình nhận ra được lòng yêu thương của người mẹ mà cải hoá, sửa đổi nên người. Chúng ta chưa yêu mến Chúa là vì chúng chưa thấy Chúa yêu mình. Thật ra chúng ta chỉ nghe người khác nói Chúa yêu chứ chưa cảm nghiệm tình yêu Chúa trong cầu nguyện, trong cuộc sống hằng ngày nên chưa thực lòng đáp lại, chỉ làm vì nhiệm vụ cho an tâm, miễn không phải sa hoả ngục thôi!
Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể là một sáng kiến táo bạo như không còn phân biệt địa vị Thiên Chúa và thụ tạo thấp hèn. Ngài đã đến làm người nghèo và bị coi như tử tội nữa! Chính Phêrô còn không hiểu được: "Thầy mà lại rửa chân cho con sao ?"( Ga 13, 6) hay có lần Phê-rô trách Thầy: "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy." (Mt 16, 22). Lúc đó có lẽ các tông đồ còn chưa hiểu Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhưng chỉ coi là con người đặc biệt được Thiên Chúa sai đi làm nhiệm vụ Messia giải phóng dân Do thái. Thật quá ngỡ ngàng cho các tông đồ và chúng ta: một vị Thiên Chúa mà làm người chịu khổ hình bởi tay kẻ ác chết rên thánh giá và tiếp tục lấy thịt máu mình nuôi dưỡng cộng đoàn tín hữu.
Thánh thể đòi người tín hữu phải tham dự vào Hy Tế để có niềm vui Phục sinh, được tham dự vào chiến thắng của Ngài trên sự ác và hưởng hạnh phúc cùng với Ngài mai sau. Như vậy Thánh Thể cũng là câu trả lời cho những thắc mắc vì sao con người phải chịu đau khổ. Đau khổ của thánh giá đưa tới niềm vui lớn hơn là cùng được dự phần với Chúa Giêsu trong địa vị làm con Chúa. Khi chúng ta rước lễ, với tâm tình hiệp thông đó, cuộc sống chúng ta sẽ được biến đổi, sẵn sàng đón nhận thánh ý Chúa như Đức Kitô trên thánh giá và bảo đảm sẽ sống lại như Đức Kitô.
Thánh Gioan đã định nghĩa: "Thiên Chúa là tình yêu". Quả thật, Thiên Chúa luôn yêu thương con người và yêu họ đến cùng, dù cho con người có bất trung hay chưa nhận ra được tình yêu đó. Bí tích Thánh Thể là sáng kiến độc đáo và tuyệt vời của Thiên Chúa để Ngài có thể được sống bên những người mà Ngài yêu mến. Đức Giêsu Kitô đã hứa: "Này đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20). Bí tích Thánh Thể là biểu lộ tình yêu vô thuỷ vô chung và tuyệt vời ấy: yêu đến cùng.
Với Bí tích Thánh Thể, không những con người được hưởng nhờ Thần lương để nuôi sống linh hồn mình mà cả vật chất bất động cũng được nâng lên, cả công lao của con người cũng được thánh hiến. Vật chất trở thành biểu tượng cho sự hiện diện thần linh. Như thế, vật chất có chỗ trong thế giới của Thiên Chúa.
Ta hãy nhớ lại ý hướng và ước muốn lạ lùng của Đức Giêsu của Chúa Giêsu khi Ngài lập Bí tích Thánh Thể: "Trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng" (Ga 13,1).Như thế đã đủ cho chúng ta cảm nghiệm được tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta và giúp chúng ta nhận ra được chương trình của Ngài dành cho tạo vật. Thiên Chúa luôn nhất quán trong mọi hành động của Ngài. Thiên Chúa không làm việc nửa vời, không yêu nửa chừng, không làm việc tuỳ hứng, nhưng Ngài làm việc gì thì Ngài làm đến nơi đến chốn. Tình yêu thuộc về bản tính của Thiên Chúa. Tình yêu của Thiên Chúa là tình yêu toàn năng. Ngài làm mọi sự chỉ vì yêu.
Một câu chuyện cảm động được kể lại từ chính một bà mẹ và đứa con 4 tuổi của bà được cứu sống sau một trận động đất ở Ac-mê-ni vào tháng 12 năm 1987. Người mẹ đó là bà Susanna. Bà nói: "Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết, nhưng tôi muốn cho con tôi được sống". Trong trận động đất kinh khủng ấy, hàng ngàn người bị vùi lấp dưới đống gạch trong đó có hai mẹ con bà Susanna nhưng bà và con bà được may mắn còn sống sót. Cô con gái 4 tuổi của bà đòi uống nước. Nhưng tìm đâu ra nước cho nó uống khi hai mẹ con không có lối ra? Tình mẫu tử đã gợi cho bà một ý nghĩ táo bạo. Bà đã rạch cho ngón tay của mình chảy máu để cho con mút. Đứa bé đã đỡ khát nhờ máu của người mẹ và nó đã sống cho đến khi hai mẹ con được cứu sống.
Câu chuyện cảm động trên giúp chúng ta hiểu được phần nào về Bí tích Thánh Thể. Đức Giêsu đã tự nguyện chịu chết để cho chúng ta được sống. Ngài chấp nhận chịu đổ máu qua cái chết Thập giá để cứu sống chúng ta. Ngài muốn Máu của Ngài trở nên thức uống cho chúng ta.
Bí tích Mình và Máu Thánh Chúa là một trong những Bí tích cao quí nhất của người Kitô hữu, nhưng cũng là Bí tích gây nhiều thắc mắc nhất cho con người ở mọi thời. Những người ngoài Kitô giáo không thể nào hiểu nổi và chắc cũng không thể nào tin nổi tấm bánh mỏng manh và không mùi vị đó lại là Mình Thánh Chúa Giêsu, và chén rượu ấy là Máu của Chúa. Đây là mầu nhiệm đức tin không dễ gì giải thích cho người ngoài. Còn chúng ta, những người đã tin vào Thiên Chúa là Đấng sáng tạo nên mọi sự, chúng ta hãy vững tin vào Chúa. Bởi lẽ, từ hư không mà Chúa còn làm ra mọi sự, thì huống chi là từ một tấm bánh, Chúa lại không thể dùng nó để hoá nên Thân Thể Ngài cho chúng ta được sao?
Thánh Phaxicô Assisi đã nói rằng: "Khi chúng ta rước lễ, thì không phải chúng ta rước lấy Chúa Giêsu mà chính là Chúa Thánh Thần trong chúng ta rước lấy Người". Xin Chúa Thánh Thần biến đổi lòng trí chúng ta để chúng ta hết lòng tin kính và mến yêu Chúa Giêsu Thánh Thể, để nhờ lòng tin yêu ấy, chúng ta sẽ được sống nhờ Chúa. Amen.
Khi yêu thương ai, ta mong muốn mãi mãi được ở trong trái tim người ấy. Đồng thời, ta sẵn sàng dâng hiến tất cả những gì có thể cho người mình yêu. Để rồi cho dù có phải xa nhau ta vẫn cảm thấy gần nhau. Bởi lẽ, trái tim của ta và người ấy đã được ở lại trong nhau.
"Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy" (Ga 6, 56). Đây là lời Chúa Giêsu nói với từng người chúng ta trong lễ Mình Máu Chúa hôm nay. Thiên Chúa tự bản chất là Tình Yêu. Tình yêu ấy được thể hiện trọn hảo nơi Chúa Giêsu. Người đã lập nên 7 Bí tích để thông ban nguồn ân sủng cho chúng ta. Trong đó, Bí tích Thánh Thể là Bí tích quan trọng nhất. Vì qua Bí tích này chúng ta được đón nhận chính Thịt và Máu của Người. Còn gì cao quý và thiêng liêng hơn nữa.
Trong một gia đình kia, vào mỗi chiều thứ tư sau khi người mẹ đi vắng nhà một chút trở về thì đứa con trai được mẹ đem về cho một cái bánh. Đây là chuyện bình thường đối với em trong vài lần đầu. Nhưng qua nhiều lần như thế em lấy làm lạ. Em quyết định tìm hiểu. Chiều thứ tư nọ sau khi mẹ ra khỏi nhà, em liền lén đi theo sau. Thì ra mẹ đến Nhà thờ để họp mặt các bà mẹ Công giáo trong họ đạo. Quan sát qua khe cửa, em thấy đến giờ giải lao mỗi bà mẹ được phát cho một cái bánh và một chai nước. Các bà mẹ khác thì vô tư thưởng thức phần của mình. Chỉ riêng mẹ của em sau khi nhìn qua nhìn lại bà vội để cái bánh vào giỏ và chỉ ngồi uống nước.
Lúc ấy, em đã hiểu vì sao mình có được cái bánh vào mỗi chiều thứ tư. Em quay về nhà và cũng như bao ngày khác ngồi chờ mẹ về. Tuy nhiên, tâm trạng của em không còn như trước nữa. Càng nghĩ đến hình ảnh đã thấy về mẹ bao nhiêu thì em càng cảm thấy thương mẹ bấy nhiêu.
Và người mẹ cũng đã trở về. Em cũng vui vẻ nhận bánh như bao ngày thứ tư khác. Đưa bánh cho con, người mẹ vào nhà tiếp tục công việc của mình. Bà đâu hay biết chuyện gì đã xảy ra với con mình. Đang khi đó, em cầm cái bánh hết sức nâng niu và ra góc nhà đứng ăn trong nước mắt vì cảm thấy quá hạnh phúc.
Theo quy luật cuộc sống, em đã trở thành người lớn và người mẹ cũng đã đi theo ông bà. Mặc dù mẹ cậu không còn nữa, nhưng tình thương của người mẹ vẫn luôn tồn tại trong trái tim của cậu. Đó cũng là động lực để giúp cậu quyết tâm mỗi ngày sống tốt hơn.
Phải chăng hình ảnh người mẹ này phần nào giúp ta hiểu sâu hơn về tình thương mà Chúa Giêsu muốn dành cho chúng ta nơi Bí tích Thánh Thể. Qua Bí tích cao quý này, Người muốn ở lại với chúng ta một cách trọn vẹn và lâu bền hơn. Xin cho mỗi người chúng ta nhờ lễ Mình Máu hôm nay biết quý trọng Bí tích Thánh Thể nhiều hơn. Quý trọng bằng việc siêng năng đến rước Chúa vào lòng để mãi mãi ta được ở lại trong tình thương của Người. Đây cũng chính là nguồn động lực thiêng liêng cao quý giúp chúng ta sống đạo vững vàng và chắc chắn hơn.