Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Hiện Xuống ABC Bài 401-450 Chúa Thánh Thần là Đấng Phù Trợ
------------------------------------------- Lễ Vọng: Phúc Âm: Ga 7,37-39; "Phát sinh nước hằng sống"
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Gioan. Vào ngày cuối cùng và trọng đại của dịp lễ, Chúa Giêsu đứng lên giảng lớn tiếng rằng: "Ai khát nước hãy đến cùng Ta và uống; ai tin nơi Ta, thì như lời Thánh Kinh dạy: từ lòng họ nước hằng sống sẽ chảy ra như giòng sông". Người nói điều ấy về Chúa Thánh Thần mà các kẻ tin nơi Người sẽ lãnh lấy, vì bởi Chúa Giêsu chưa được tôn vinh. - Ðó là Lời Chúa.
***** Chính ngày: Phúc Âm: Ga 20,19-23: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con: Các con hãy nhận lấy Thánh Thần".
Chúa Ki-tô Phục Sinh đã hiện đến mang lại cho các môn đệ sự bình an (c.19) và niềm vui (c.20). Sau đó Người sai các ông đi (c.21a), cũng như chính Người đã được Chúa Cha sai (c.21b). Cuối cùng, để giúp các ông chu toàn sứ vụ, Người đã thổi hơi ban Thánh Thần cho các ông (c.22). Từ đây các ông được hiệp thông quyền năng gây sự sống của Thánh Thần để tha tội hay cầm giữ tội của người ta tùy theo họ tin hay không tin vào lời rao giảng của các ông (c.23).
+Nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái: Lý do nhà các môn đệ phải cửa đóng then cài, là vì tinh thần các ông đang hoang mang giao động. Các ông sợ người Do thái sẽ đến bắt các ông như họ đã làm đối với Thầy Giê-su.
+ Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông: Điều này cho thấy thân xác Chúa Phục Sinh không còn bị không gian và thời gian giới hạn như khi Người còn sống.
+“Bình an cho anh em!”: Trong bữa Tiệc ly trước khi nộp mình chịu chết, Đức Giê-su đã hứa ban bình an cho môn đệ (x. Ga 14,27), và động viên các ông can đảm đương đầu với những thử thách sắp đến (x. Ga 16,33). Giờ đây sau khi sống lại, Người đã thực hiện lời hứa ấy bằng việc hai lần chúc ban bình an cho các ông (x. Ga 20,19.21).
+Người cho các ông xem tay và cạnh sườn: Chúa Giê-su cho môn đệ xem các dấu đinh bị đóng nơi hai bàn tay (x. Ga 19,23) và vết thương bị lưỡi đòng đâm thâu nơi cạnh sườn (x. Ga 19,34). Điều này chứng tỏ thân xác Chúa Phục Sinh cũng chính là thân xác đã từng trải qua cuộc khổ nạn trước đó.
– C 21-23:
+Như Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em: Việc hiện ra và sai các môn đệ đi sau khi sống lại, cho thấy mầu nhiệm Phục Sinh là nền tảng của ơn gọi và sứ vụ loan Tin mừng của Hội thánh. Như Chúa Giê-su đã được Chúa Cha sai xuống trần gian, thì giờ đây, sau khi phục sinh được siêu tôn làm “Chúa” (x. Pl 2,11) và được trao toàn quyền trên trời dưới đất (x. Mt 28,18), Người lại sai các môn đệ ra đi để làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Người (x. Mt 28,19), và trở thành chứng nhân của Người (x. Cv 1,8).
+Người thở hơi vào các ông +và nói: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần: Xưa khi sáng tạo lòai người, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào hình nhân bằng đất sét, để trở thành một người sống động là ông A-dam (x. St 2,7). Thì nay, Chúa Phục Sinh cũng thổi Thần Khí để biến đổi các môn đệ nên con người mới, đầy ân sủng sự sống của Thánh Thần. Tuy nhiên ngay lúc này các ông chưa đón nhận được ơn Thánh Thần ban, vì còn thiếu đức tin. Vì thế Chúa Phục Sinh đã hiện ra nhiều lần và dùng nhiều cách để tăng cường đức tin cho các ông. Đến ngày lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần được Chúa Phục Sinh ban đã phát huy tác động trên các ông (x. Cv 2,1-4).
+Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ: Đức Giê-su đã được Gio-an Tẩy giả giới thiệu là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,29). Sứ vụ của Người là tẩy xóa tội lỗi loài người bằng việc tha thứ cho những tội nhân thực lòng sám hối và đã đặt trọn niềm tin nơi Người (x. Lc 23,40-43). Giờ đây các môn đệ cũng được Người trao quyền tha tội nhờ Thánh Thần.
CÂU HỎI:
1) Sau khi sống lại, tại sao Chúa Giê-su lại cho môn đệ xem tay và cạnh sườn ? 2) Người đã sai các ông đi rao giảng Tin mừng khi nào ? 3) Đức Giê-su đã làm gì để ban Thánh Thần cho các ông ? 4) Các ông chỉ thực sự được ơn Thánh Thần tác động khi nào ? Tại sao ? 5) Chúa Phục Sinh đã ban quyền tha tội cầm buộc cho các ông qua câu nói nào?
II. SỐNG LỜI CHÚA
LỜI CHÚA: “Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ tội ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,22-23).
CÂU CHUYỆN:
1) VAI TRÒ CỦA CHÚA THÁNH THẦN TRONG CHƯƠNG TRÌNH CỨU ĐỘ:
Một phóng viên đã đặt câu hỏi với một chuyên viên Kinh Thánh như sau: Nếu nhờ khoa học tiến bộ, người ta sáng chế ra được một máy quay phim ngược thời gian. Máy này có thể thu lại tất cả hình ảnh và lời giảng dạy của Chúa Giêsu cách đây hơn 2000 năm. Vậy bộ phim ấy có thể thay thế được bốn sách Tin Mừng không? Nhà chuyên viên trả lời: Không thể được, bởi vì đức tin không do mắt thấy tai nghe, nhưng là do Thánh Thần tác động qua lời rao giảng của Hội Thánh.
Thực vậy bọn biệt phái ngày xưa đã từng nhìn thấy Chúa, nghe lời Chúa giảng, chứng kiến những việc Chúa làm thế mà họ không những không tin mà còn thù ghét và cuối cùng đã đóng đinh Người vào thập giá. Còn các tông đồ mặc dù đã theo Chúa, nhưng cũng chỉ thực sự có đức tin và dám sống chết cho Ngài sau biến cố tử nạn và phục sinh nhờ ơn Thánh Thần tác động vào lễ Ngũ Tuần.
2) THÁNH THẦN GIÚP CÁC TÍN HỮU HIỂU RÕ Ý NGHĨA CỦA CUỘC SỐNG:
Một nhà văn Thụy Điển đã thuật lại một câu chuyện ngụ ngôn như sau:
Một hôm một nhà hiền triết kia đi lang thang trong rừng, miệng không ngừng lặp lại câu hỏi: Đâu là ý nghĩa của cuộc sống? Bỗng một con họa mi bay đến và nói: Ý nghĩa cuộc sống ư? Chỉ là tiếng hót véo von. Rồi nó bay đi nhưng vẫn còn vương lại những âm thanh dễ mến. Nghe vậy, chú chuột chù phản đối: Đời là một cuộc chiến đấu không ngừng với bóng tối. Thế nhưng chị bướm lại lắc đầu không chịu: Cuộc sống chỉ là hưởng thụ và vui thú. Bấy giờ bác ong mật phát biểu: Cuộc sống không chỉ là vui thú, mà còn là lao động, lao động nhiều hơn vui chơi. Cô phượng hoàng thì vỗ cánh và nói: Chẳng ai có lý hết, đời sống chính là tự do, được tung bay trên khắp khoảng trời xanh. Cụ tùng bách thì lắc đầu và bảo: Đời sống là một cố gắng để vươn cao. Nhưng cô hồng nhung lại quả quyết: Cuộc đời chỉ là những tháng ngày trau chuốt cho vẻ đẹp được thêm duyên dáng. Còn chàng mây lang thang lại thở dài: Đời sống chỉ là những lần chia ly, khổ đau, cay đắng và nước mắt. Còn bà sóng thần thì bảo: Đời là một sự đổi thay không ngừng.
Nhà hiền triết hốt hoảng và chạy trốn khỏi khu rừng để không còn nghe tiếng nói của muôn loài trước một vấn nạn chưa được giải quyết.
Thế nhưng với biến cố Hiện xuống, các môn đệ đã nhìn rõ vấn đề, đã thấu suốt được những chân lý mà Chúa Giêsu đã truyền dạy. Cũng vậy, Chính Chúa Thánh Thần luôn điều hành vũ trụ vạn vật nói chung và loài người nói riêng. Không có Chúa Thánh Thần thì mọi sự sẽ trở nên hỗn độn, mọi loài sẽ thành bất đồng, loài người sẽ chia rẽ nhau.
3) THÁNH THẦN TÁC ĐỘNG TRONG CUỘC ĐỜI MẸ TÊ-RÊ-SA CAN-QUÝT-TA.
Trên một toa tàu chợ phát xuất từ thành phố Can-quýt-ta Ấn Độ, giữa đám hành khách nghèo khổ đang ngồi la liệt trên sàn tàu, có một phụ nữ tay cầm tràng hạt, mắt nhắm lại và miệng đang lẩm bẩm đọc kinh. Người phụ nữ đó không ai khác hơn là bà Tê-rê-sa. Về sau người đời đã gọi bà bằng một cái tên thân thương: “Mẹ Tê-rê-sa thành Can-quýt-ta”. Bà là người đã sáng lập dòng Thừa sai Bác ái, với sứ mệnh chuyên lo tìm kiếm những bệnh nhân nghèo khổ đang bị bỏ rơi và hấp hối sắp chết trên các hè phố tại thành phố Can-quýt-ta. Họ thuộc giai cấp cùng đinh trong xã hội nước Ấn. Sứ vụ của chị em nữ tu này là mang những người đó về tu viện chăm sóc và giúp họ chết trong bình an. Về sau mẹ Tê-rê-sa đã kể lại ơn gọi ấy như sau: “Khi nhìn thấy đám người nghèo khổ kia đang nằm ngồi ngổn ngang trên sàn tàu, đột nhiên có một sức mạnh đã đổ ập xuống trên tôi, làm cho tôi tự nhiên cảm thấy họ chính là những Chúa Giê-su đang bị bỏ rơi. Tôi sẽ phải làm gì để giúp đỡ họ đây?”. Sau đó bà đã quyết định lập một dòng nữ với sứ vụ chuyên lo phục vụ những người nghèo khổ này. Rồi bà bắt tay vào công việc đầu tiên là đi tìm mướn nhà để có nơi phục vụ họ, đang khi trong túi chỉ còn đúng ba đồng bạc Ấn!
Nhờ ơn Chúa giúp mà ngày nay dòng Thừa sai Bác ái của Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta đã hiện diện trên khắp thế giới. Qua đó cho thấy Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và họat động nơi mọi thành phần dân Chúa trong Hội thánh.
4) THÁNH THẦN TÁC ĐỘNG TRONG MỘT CỘNG ĐOÀN GIÁO XỨ:
Tại một giáo xứ ở miền Si-ci-li-a, thuộc miền Nam nước Ý, có một tập tục khá ngộ nghĩnh và lý thú. Mỗi năm vào dịp lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, sau bài Tin Mừng, cha xứ ra lệnh thả ra trong nhà thờ một con chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần. Khi con chim câu nầy đậu xuống trên vai hay đầu ai thì người ấy không được tránh né hoặc đuổi đi, vì đó là dấu chỉ được Chúa Thánh Thần tác động và phải quyết tâm thực hiện một công tác cụ thể, to hoặc nhỏ tùy theo khả năng, để chứng tỏ đã làm theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.
Lịch sử giáo xứ ấy có ghi lại một giai thoại như sau:
Một lần chim câu đã đậu xuống trên vai ông hiệu trưởng. Kết quả là ông đã quyết tâm thực hiện được một cuốn sách giáo khoa rất có giá trị dành cho học sinh.
Lần khác, chim câu đáp xuống trên đầu một vị công tước trong vùng, khiến ông mở lòng xây dựng một hệ thống dẫn nước phục vụ công cộng gọi là “hệ thống dẫn nước Chúa Thánh Thần”.
Có một linh mục trẻ được sai đến làm chính xứ thay thế cha xứ già về hưu. Dù không tán thành nhưng cũng chưa dứt khoát bỏ đi tập tục đã thành truyền thống kia. Vào dịp lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống đầu tiên ở xứ mới, vị linh mục trẻ vẫn cho giữ thông lệ thả chim câu, nhưng ra lệnh mở hết tất cả các cửa chính và cửa sổ với hy vọng là chú chim câu sẽ bay ra ngoài để tung cánh vào bầu trời cao rộng. Trớ trêu thay, sau khi bay lượn vài vòng từ đầu này đến đầu kia của nhà thờ, chim câu đã đáp xuống vai phải của cha xứ mới trong tiếng vỗ tay vang dội của giáo dân. Phải hứa làm gì cụ thể bây giờ đây? Sau khi suy nghĩ, cha xứ mới đã tuyên bố sẽ đầu tư mọi khả năng và thời giờ của mình để phục vụ giáo xứ. Và sau đó ngài đã giữ đúng lời đã hứa.
5) THÁNH THẦN LÀM CHÚNG TA NÊN MỘT VỚI THIÊN CHÚA:
Thánh Gioan Thánh Giá dùng một hình ảnh tuyệt vời để diễn tả về tác động của Chúa Thánh Thần trong đời sống các tín hữu chúng ta là cho chúng ta được nên một với Thiên Chúa.
Chúng ta thử tưởng tượng cảnh mùa đông băng giá ở Châu Âu, ngoài vườn có một khúc củi nằm cô đơn giữa tiết trời băng giá. Cái lạnh làm cho làn da của nó xần xùi, xấu xí. Thế rồi nó được ông chủ nhà đem vào quăng vào lò sưởi. Hơi nóng làm khúc củi cảm thấy ấm áp, hạnh phúc. Nó cảm nhận được đầy sự an ủi không tả được. Nhưng tiếc rằng sự sung sướng kéo dài chẳng được bao lâu. Trong khỏanh khắc ngọn lửa ôm chặt lấy nó. Sức nóng của lửa nung nấu khiến cho nhựa cây rỉ ra bên ngoài làm thành một lớp da sần sùi như da cóc. Nó tỏa ra một mùi thật khó chịu. Khúc củi quằn quại trong than hồng một thời gian. Cuối cùng nó trở nên một với lửa. Nó không còn là củi mà chỉ là lửa. Lửa đem ánh sáng, lửa đem hơi ấm cho những người trong phòng.
THẢO LUẬN:
1) Phân biệt Thánh Thần và thiên thần giống và khác nhau thế nào ? 2) Ngày nay các tín hữu nhận được ơn Thánh Thần khi nào ? 3) Mỗi tín hữu chúng ta phải làm gì để được Thánh Thần tác động noi gương các Tông đồ trong lễ Ngũ Tuần ?
SUY NIỆM:
1) THÁNH THẦN TÁC ĐỘNG THẾ NÀO TRONG CUỘC ĐỜI ĐỨC GIÊ-SU ?:
Về việc đầu thai của Đức Giê-su, Hội thánh đã tuyên xưng đức tin như sau: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (x. Lc 1,35). Nghĩa là chính nhờ quyền năng Thánh Thần, Đức Ma-ri-a đã thụ thai Hài Nhi Giê-su mà vẫn còn trinh khiết vẹn toàn. Rồi khi Đức Giê-su bắt đầu sứ vụ rao giảng Tin mừng, Người đã đến xin Gio-an làm phép rửa bằng nước tại sông Giođan. Vừa chịu phép Rửa xong, Thánh Thần như chim bồ câu từ trời ngự xuống và lưu lại trên Người (x. Mt 3,16b). Sau đó, Thánh Thần đã hướng dẫn Người vào sa mạc ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày và chịu ma quỉ thử thách cám dỗ. Chính nhờ sức mạnh của Thánh Thần mà Đức Giê-su đã chiến thắng ba cơn cám dỗ của ma quỷ (x. Mt 4,1-10). Rồi trong quyền năng của Thánh Thần, Người đi rao giảng Tin mừng Nước Trời bắt đầu từ Ga-li-lê (x. Lc 4,14-15). Cũng nhờ Thánh Thần mà Người đã xua trừ ma quỷ (x. Mt 12,28) và chữa lành các bệnh họan tật nguyền trong dân (x. Mt 4,23). Khi được Thánh Thần tác động, Ngừơi đã hớn hở vui mừng thốt lên lời ngợi khen Chúa Cha (x. Lc 10,21). Rồi sau khi phục sinh và được đầy Thánh Thần, Người đã hiện ra chúc bình an (x. Ga 20,19), rồi sai các ông đi rao giảng Tin mừng (x. Ga 20,21), tiếp tục sứ vụ của Ngừơi (x. Mt 28,19-20). Người thổi hơi ban Thánh Thần để giúp các ông chu toàn sứ vụ ấy (x. Ga 20,22). Cuối cùng, Người còn ban cho các ông quyền tha tội hay cầm buộc tội người ta nữa (x. Ga 20,23).
2) THÁNH THẦN TÁC ĐỘNG THẾ NÀO TRONG HỘI THÁNH ? :
Thời Hội thánh sơ khai, Thánh Thần đã tác động biến đổi các Tông đồ (x. 1 Cr 12,4-11): Từ tình trạng nhút nhát sợ hãi trở nên can đảm công khai làm chứng cho Chúa Giê-su trước mặt đám đông (x. Cv 2,14-36); Từ tình trạng kém hiểu biết Lời Chúa, trở nên khôn ngoan, hiểu thấu mọi điều Chúa đã dạy trước đó (x. Ga 16,12-13); Từ tình trạng buồn chán thất vọng muốn thối lui, trở nên nhiệt thành yêu mến Chúa, tràn đầy niềm vui và hy vọng (x. Lc 24,32-35). Nhờ Thánh Thần mà các Tông đồ đã thâu nạp được nhiều người có lòng sám hối đến xin chịu phép Rửa nhân danh Đức Giê-su (x. Cv 2,41). Cũng nhờ ơn Thánh Thần mà cộng đoàn tín hữu đầu tiên luôn sống hiệp thông, siêng năng tham dự lễ Bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng. Nhờ đó số tín hữu gia nhập Hội thánh ngày một gia tăng (x. Cv 2,42-47).
Ngày nay Chúa Thánh Thần tiếp tục giúp Hội thánh chu toàn sứ vụ cứu độ của Chúa Giê-su. Đặc biệt Thánh thần soi sáng cho các vị chủ chăn để có khả năng chu toàn ba sứ vụ do Đức Giê-su trao: Một là sứ vụ Ngôn sứ để công bố Tin mừng Nước Trời. Hai là sứ vụ Tư tế để thánh hóa các tín hữu bằng các phép bí tích do Chúa Giê-su thiết lập. Ba là sứ vụ Vương đế để chăn dắt và phục vụ đòan chiên Hội thánh. Do đó, khi Đức Giáo hòang triệu tập Công Đồng mà công bố điều gì về đức tin và luân lý thì sẽ được ơn bất khả ngộ không thể sai lầm, vì ngài luôn được Thánh Thần soi sáng, như Công đồng Giê-ru-sa-lem vào năm 49 đã ra quyết nghị với câu mở đầu khẳng định như sau: “Thánh Thần và chúng tôi quyết định” (Cv 15,28).
Ngày 28 tháng 10 năm 1958, Đức hồng y Angelo Giuseppe Rollcali lên ngôi giáo hoàng lấy tước hiệu Gioan 23. Một ông lão không tiếng tăm lên lãnh đạo Giáo hội, nhiều người nghĩ rằng sẽ chẳng có gì mới với một ông lão gần đất xa trời. Thế nhưng, ông lão này đã làm nên một kỳ diệu được coi là lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống lần thứ hai khi Ngài triệu tập công đồng Vaticano II để canh tân Giáo Hội. Thiên Chúa vẫn tiếp tục làm những việc kỳ diệu cho dân Người. Chúng ta hãy hân hoan bước đi trong niềm tín thác vào Chúa. Và với lòng cậy trông chúng ta cùng thưa lên cùng Chúa Thánh Thần: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến thánh hoá chúng con trong chân lý và tình thương”. Amen
3) THÁNH THẦN TÁC ĐỘNG THẾ NÀO NƠI CÁC TÍN HỮU HÔM NAY ? :
Khi lãnh nhận phép Rửa Tội, và nhất là khi chịu phép Thêm Sức, Chúa Thánh Thần sẽ tác động nơi các tín hữu như sau.
+ Thánh Thần ban 7 ơn để soi sáng, hướng dẫn và giúp các tín hữu nên tốt lành thánh thiện giống như Chúa Giê-su. Thánh Phao-lô đã kể ra bảy ơn Thánh Thần ban như sau : khôn ngoan, hiểu biết, thông minh, biết lo liệu, sức mạnh, đạo đức và kính sợ Thiên Chúa (x. 1 Cr 12,8-11).
+ Thánh Thần sẽ ban sự sống của Thiên Chúa, biến các tín hữu nên trưởng thành về đức tin, thể hiện qua việc kết hiệp mật thiết với Chúa Giê-su và can đảm làm chứng cho Người (x Ga 6,63). Thực vậy, nhờ ơn Thánh Thần, các tín hữu chúng ta sẽ có thể hiểu biết đầy đủ về đức tin và thực hành theo lời Chúa Giê-su day, như Người đã hứa với các môn đệ: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,25).
+ Thánh Thần sẽ cho các tín hữu chúng ta tham phần vào ba sứ vụ cứu độ của Chúa Giê-su là ngôn sứ, tư tế và vương đế để rao giảng Tin Mừng, thánh hóa và phục vụ dân Chúa. Chúng ta sẽ được tham phần vào sứ vụ làm chứng cho Chúa Ki-tô bằng lời nói việc làm và bằng lối sống bác ái quên mình, quảng đại chia sẻ cụ thể và khiêm nhường phục vụ tha nhân vô vụ lợi… nhờ những việc lành đó, anh em lương dân sẽ dễ dàng nhận biết, tin thờ Thiên Chúa như lời Đức Giê-su đã dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
4) CẦN CỘNG TÁC VỚI ƠN THÁNH THẦN:
Sở dĩ nhiều tín hữu tuy đã chịu phép rửa tội và thêm sức, nhưng vẫn sống theo tính xác thịt là do họ mới chỉ chịu phép rửa bằng nước mà chưa được ơn tái sinh bời Thánh Thần. Điều chúng ta cần phải làm là tránh xúc phạn đến Thánh Thần và biết mở lòng để Ngài tác động thánh hóa:
+ Tránh tội xúc phạm đến Thánh Thần: Cần tránh thói kiêu ngạo cứng lòng tin như các kinh sư Do thái xưa (x Mc 3,30). Đó cũng là tội của ma quỷ muốn chống lại ơn cứu độ của Thiên Chúa như lời Đức Giê-su đã quở trách dân Do thái như sau: “Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì. Vì lòng dân này đã ra chai đá, họ đã bịt tai nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, và lòng chúng hiểu được mà hối cải, và Ta lại chữa chúng cho lành” (Mt 13,14-15; Is 6,9-10). Do cố tình từ chối ơn cứu độ của Thiên Chúa ban qua Chúa Giê-su, nên họ đã xúc phạm đến Thánh Thần và sẽ không bao giờ được tha (x Mc 3,29).
+ Các hành động thuộc về xác thịt đối nghịch Thánh Thần và hoa trái của Thần Khí: Ngày nay khi chịu phép rửa tội, các tín hữu đã nhận được sự sống của Chúa Giê-su. Tuy nhiên chúng ta vẫn còn bị tội lỗi ngăn cản chúng ta đón nhận ơn Thánh Thần do các dục vọng, đam mê xác thịt, tham vọng cá nhân, tinh thần thế tục… Chúng giống như những con vi trùng len lỏi vào linh hồn làm mất dần sự sống thần linh trong chúng ta. Khi ấy, linh hồn chúng ta trở nên suy nhược, không còn sức chống trả các cơn cám dỗ của ma quỷ, không còn tha thiết làm các việc tốt lành. Thánh Phao-lô đã liệt kê 14 hành động xấu làm băng hoại con người chúng ta như sau: “Dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa” (Gl 5,19-21). Mỗi người chúng ta cần phải xin ơn Thánh Thần, giúp chúng ta loại bỏ lối sống tội lỗi theo xác thịt, lối suy nghĩ ích kỷ tự mãn thuộc về thế gian, để có thể sống hy sinh quên mình, nhiệt thành dấn thân phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. Thánh Phao-lô đã gọi những điều này là “hoa trái của Thần Khí” và được liệt kê như sau: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5,22-23).
+ Mở lòng đón nhận ơn Thánh Thần: không ai có thể nắm bắt được Thần Khí, cũng không ai có thể mua chuộc được Thánh Thần. Tin Mừng Gio-an viết “Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu tới và thổi đi đâu” (Ga 3,8). Muốn nhận được ơn Thánh Thần, mỗi tín hữu chúng ta cần noi gương các Tông đồ khi xưa: tĩnh tâm cầu nguyện kết hiệp với Đức Ma-ri-a như sách Công Vụ ghi nhận: “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su” (Cv 1,14). Mỗi ngày hãy năng cầu xin Thánh Thần mau ngự đến thánh hóa chúng ta bằng lời cầu như sau: “Lạy Chúa Thánh Thần. Xin hãy ngự đến canh tân lòng trí chúng con”.
+ Xin được ơn đổi mới trong Chúa Thánh Thần: Từ khi đón nhận ơn Chúa Thánh Thần trong lễ Ngũ Tuần, các tông đồ đã được đổi mới: Trước đó các ông còn nhút nhát sợ hãi, thì nay đã nên mạnh dạn hăng hái. Trước kia các ông ít học, u mê vì không hiểu rõ Lời Chúa dạy, thì nay các ông đã được hiểu rõ ý nghĩa của Lời Chúa và nhiệt tình loan báo Tin Mừng cho tha nhân thuộc mọi thành phần, dân tộc với nhiều ngôn ngữ khác biệt… đang tề tựu tại Thủ đô Giê-ru-sa-lem. Trước kia lòng các ông còn chứa đầy thói ích kỷ tự ái cao, “tham lam, sân giận, mê si”, hay tranh giành địa vị cao thấp… thì nay các ông chỉ nghĩ đến việc rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, sẵn sàng hy sinh cả mạng sống để làm chứng cho Chúa “tại Giê-ru-sa-lem, trong toàn cõi Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất”. Chính nhờ ơn Thánh Thần mà các ông đã được đổi mới để chỉ sống vì Chúa và cho Chúa mà thôi. Mỗi người chúng ta cũng hãy xin Chúa Thánh Thần canh tân lòng trí, để giúp chúng ta nên chứng nhân của Người, chu toàn sứ vụ mà Người đã trao cho Hội thánh trước khi lên trời: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20).
NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH. Xin ban Thánh Thần như cơn gió mạnh, thổi đi mọi nỗi lo âu sợ hãi cùng những rụt rè khép kín trong tâm hồn chúng con. Xin thắp sáng ngọn lửa tin yêu của Thánh Thần trong lòng chúng con, để chúng con có thể chu toàn sứ vụ được sai đi, với một trái tim bừng cháy lửa mến yêu. Xin ban cho chúng con sự sống của Thánh Thần để chúng con luôn mến Chúa và yêu tha nhân. Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ trở thành khí cụ bình an của Chúa và tích cực góp phần vào sứ vụ loan báo Tin mừng cứu độ của Hội Thánh.
Với Thần Khí tác động đã làm nên cuộc thay đổi tốc độ, các tông đồ vượt thắng chính mình, để làm chứng cho Chúa. Tin mừng Chúa Nhật ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống hôm nay, cho chúng ta thấy sức mạnh của Thần Khí đánh tan nỗi sợ của các tông đồ để các ông biết cách đánh động con người trong đời sống của họ.
Sức mạnh đánh tan nỗi sợ
Sức mạnh Thần Khí làm thay đổi tất cả. Bài đọc thứ nhất sách Tông đồ Công Vụ kể lại: đang lúc các tông đồ cầu nguyện, một luồng gió mạnh lùa vào đầy nhà. Chúa Thánh Thần đến ban cho các môn đệ ơn thông ngôn, để thông truyền tiếng nói Thần Khí cho muôn dân. Chúa Giêsu sống lại trao ban ơn bình an, để đánh tan nỗi sợ các tông đồ. Sự hiện diện của Chúa Giêsu Phục Sinh, gia tăng sức mạnh lòng tin để các ông làm chứng. Sức mạnh của Thần Khí luôn đi kèm với những gì là đổi mới, là tái sinh và cứu thoát, là thánh hóa và trợ giúp. Chúa Thánh Thần còn là tác nhân chính trong việc canh tân kiến tạo sự bình an, hiệp nhất, yêu thương. Bên cạnh đó nỗi sợ bất an của các môn đệ năm xưa đến hôm nay vẫn còn vây quanh người kitô hữu với bao gương xấu trong đời sống đạo như: bỏ lễ Chúa Nhật… Chúa Thánh Thần đến đánh tan nỗi sợ yếu tin của chúng ta và ban ơn biến đổi nội tâm để đánh động con người.
Sức mạnh đánh động con người
Sau khi sống lại Chúa Giêsu thường trao ban bình an cho các tông đồ, để các ông trở nên chứng nhân canh tân đánh động lòng người. Có một người Idaho mới trở lại đạo kitô giáo. Ngày kia có người láng giềng hỏi ông: “anh biết gì về Chúa Thánh Thần? Có tôi biết. Người làng giềng hỏi tiếp:“Chúa Thánh Thần đến tự bao giờ?”. Người bổn đạo mới thưa: “Tôi không biết chắc”. Người láng giềng hỏi thêm một câu nữa: “Vậy Chúa Thánh Thần hiện tại đang ở đâu? Người kia suy nghĩ rồi nói: “Tôi biết ít lắm” nhưng “Tôi biết chắc là hai năm trước đây tôi nằm đường nằm chợ, tôi nợ nần ngập đầu. Ngày nay tôi là người đàn ông sống chừng mực tiết độ, tôi dành dụm trà hết nợ còn dư tiền mua nhà mới. Chính Chúa Thánh Thần đã làm cho tôi tất cả những điều ấy. Và tôi tin chắc một điều là Ngài đang sống trong tôi. Trong mọi biến cố của đời sống người kitô hữu. Người kitô hữu chúng ta có tin Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động trong Giáo Hội và cuộc đời mỗi người không? Amen.
Như chúng ta biết sau khi Chúa Giêsu về Trời, thì Chúa Thánh Thần hiện xuống theo Lời Hứa ban Thánh Thần của Chúa Giêsu. Như vậy, Chúa Thánh Thần là ai?
Vâng, theo sách Tông Đồ Công Vụ (Cv 2, 1- 11) thì Chúa Thánh Thần chính là sự tác động siêu nhiên bởi Thiên Chúa, hiện tượng hữu hình là “Lưỡi Lửa” và “nói tiếng lạ”. Nhưng, tuy là hiện tượng hữu hình, nhưng, chúng ta thấy sự siêu nhiên xuất hiện trên đó, “Lưỡi Lửa” xuất hiện trên đầu các Tông Đồ, nhưng không bị cháy, đó là một hiện tượng siêu nhiên. Còn tiếng nói bình thường của mỗi người lại được những người nghe dù là các quốc tịch khác nhau vẫn nghe được thổ âm của mình.
Sau đó, các tông đồ ra đi làm chứng cho Tin Mừng Phục Sinh, thì chính là mở ra một “Kỷ Nguyên Thánh Thần”. Bởi vì, chúng ta nhớ lại Lời Chúa Giêsu truyền lại cho các Tông Đồ là: “Hãy đi giảng dạy muôn dân“, nhưng, các Tông Đồ chưa có “dũng khí” để thi hành. Thì đây, “Ngày Lễ Ngũ Tuần”, các ông được đầy tràn Thánh Thần và bắt đầu sứ vụ công khai. Như vậy, sách Tông Đồ Công Vụ là sách “khai nguyên giáo hội công giáo”, trang sử đầu tiên của sứ mạng Kitô giáo dưới sự điều khiển của Chúa Thánh Thần. Như vậy, rõ ràng người ta nói thời kỳ bắt đầu khai nguyên Kitô giáo cho đến tận thế là “Thời đại của Chúa Thánh Thần”.
Như vậy, Ngôi Hai Nhập Thể và cứu chuộc nhân loại, thiết lập nền tảng Kitô giáo, hành trình Nhập Thể và Nhập Thế, Tử Nạn và Phục sinh, lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, thời gian chỉ có 33 năm, một thời gian hữu hình. Vì vậy, thời đại hiện hữu của Chúa Thánh Thần là vô cùng, vô hạn.
Qua trang Tin Mừng ( Ga 20, 19 -23) hôm nay, chúng ta thấy, Chúa Giêsu ban “Bình an“ và ơn “tha tội”, chính là ban “Thánh Thần” (c 22). Có thể hiểu, ơn “Bình An “là ơn “Thiên Sai”, còn ơn “Thánh Thần” là ơn “tha tội”.
Vậy, Thánh Thần là Thần Lực siêu nhiên, là ơn “Bình An và Tha Tội”, theo đó, ơn “tha tội” thật quan trọng biết bao, ơn “tha tội” là ơn Thánh Thần. Ngày nay, được trao cho tất cả mọi linh mục, còn ơn “Bình An” là ơn “sai đi”, được trao cho các Giám mục là những người kế vị các Tông Đồ. Như vậy, theo đó, các Giám mục, hoặc bề trên đại diện giám mục, mới được quyền “sai đi”, vì giám mục là “nhất phẩm”, còn linh mục là “nhị phẩm”. Như vậy, ơn “Thánh Thần“ phổ cập hơn, vì là ơn “tha tội”, nhưng, để ban “Thánh Thần”, tức ơn “Bình An” thì phải dành cho chức “nhất phẩm”, tức giám mục.
Theo đó, chúng ta hiểu rõ được Chúa Thánh Thần là ai. Vậy, Chúa Thánh Thần chính là: “Lời Hằng sống trong Tân Ứơc”, Đấng hiện diện siêu nhiên trong chân lý và bình an của Đức Giêsu- Kitô. Vì vậy, có thể nói: “Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội”. Bởi vì, bình an và Thánh Thần là nguồn mạch chân lý, sức mạnh và tình yêu duy nhất nơi Thiên Chúa là Cha, được ban qua giáo hội của Đức Giêsu- Kitô.
Bài đọc II, theo thánh Phaolo (1Cr 12, 3b -7; 12 -13), như vậy, Trong cùng một thân thể, nhưng có nhiều bộ phận khác nhau, nhiều đặc sủng nhưng chỉ có một Thần Khí. Và không ai tuyên xưng Đức Giêsu-Kitô là Chúa mà không do bởi Thánh Thần.
Vâng , thật vậy, Chúa Thánh Thần là “Nguồn mạch dồi dào ơn cứu độ”, bởi vì, Chúa Thánh Thần không đến, ơn cứu độ nơi Đức Kitô không thể phát sinh hoa trái, bởi vì như Chúa Giêsu nói: “Thầy sẽ xin Chúa Cha, và Người sẽ ban cho anh em Đấng Phù Trợ khác, để ở cùng anh em luôn mãi” (Ga 14, 16).
Căn cứ vào Lời “hứa” ban Thánh Thần của Chúa Giêsu-Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất, chúng ta biết được ơn Thần Khí của Thiên Chúa quan trọng biết bao! Vì chính Chúa Giêsu nói: “Thầy không để anh em mồ côi…”. Vâng, mồ côi là một sự đơn độc, lẻ loi, không nơi nương tựa, nói chung không có điểm dừng, điểm đến, điểm tựa nương. Mồ côi là một trạng thái đơn độc, một đặc tính cô đơn, nhưng, thấu hiểu nỗi khổ ấy, chính Đức Kitô, một Vị Thiên Chúa Nhập Thể và Nhập Thế “lo lắng” cho các tông đồ và cho chúng ta. Vì thế, Người đã xin với Chúa Cha ban Thánh Thần cho chúng ta với những ý nghĩa trên, và vì vậy bắt nguồn từ nguyên lý ân sủng vì tình yêu, Chúa Thánh Thần đã đến thế gian, Ngài là nguồn cội mọi ân sủng.
Chúa Thánh Thần là nguồn cội Đức Tin.
Vâng, mọi ân sủng nơi Thiên Chúa ban qua Đức Kitô-Giêsu, nhưng , nếu không có ơn Thánh Thần, thì ánh sáng đức tin không được lan tỏa, không chiếu sáng, vì đức tin là ánh sáng thật. Nhờ đức tin , phàm nhân có thể làm được nhiều điều phi thường. Hệ quả đức tín được đáp trả từ con người nhân loại, phát ra đức tin là Chúa thánh Thần. Đức tin được phát ra và nhận được từ phía người tin và chiếu tỏa muôn phương là các thánh. Vậy, thánh là sự lan tỏa đức tin từ Thánh Thần, vì các thánh là phàm nhân thì không thể tự mình thánh hóa được, nhờ sức mạnh đức tin, các thánh phản chiếu sự lung linh huyền nhiệm từ Thần Khí Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần là nguồn mạch tình yêu.
Vâng, tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa, vì tình yêu đi đôi với sự sống, không ai sống với thù hận và sinh ra từ thù hận. Tình yêu là nguồn mạch sự thánh thiện, tình yêu không bao giờ nằm trong tội. Lạm dụng tình yêu, làm hư hoại tình yêu vì thỏa mãn tình dục mới là tội, còn tình yêu chân thật luôn trong sáng và tạo nên sự sống. Chúa Thánh Thần, Đấng phát sinh và kiện toàn tình yêu, nếu không có Ngài, con người nhân loại không thể nhận biết và yêu mến Đức Kitô- Giêsu được. Bởi vì, sau các tông đồ, chúng ta không thể diện kiến Chúa Giêsu được. Như vậy, nhờ qua tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta có đức tin, từ đó, chúng ta nhận ra Thiên Chúa, Đấng tạo thành và cứu chuộc chúng ta . Như vậy, Chúa Thánh Thần là nhạc Trưởng và là “Đại ân nhân” của nhân loại trong ơn cứu độ.
Chúa Thánh Thần là “Đại ân nhân“.
Như được chia sẻ, Chúa Thánh Thần là Đấng làm cho chúng ta nhận biết, yêu mến, tôn thờ và trung tín với Thiên Chúa, Đấng là nguồn cội mọi ân sủng, vì vậy, Ngài là Vị ”Đại ân nhân” của nhân loại. Dù đảm nhận vai trò “thầm lặng”, nhưng vô cùng quan trọng, vì hằng ngày , hằng giờ, nhân loại nhận biết yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa là nhờ Chúa Thánh Thần tác động. Mọi ơn hoán cải, mọi năng lực siêu nhiên, mọi biến cố lạ thường trong cuộc đời từng người bước theo Đức Kitô- Giêsu là nhờ bởi Chúa Thần. Vì thế, chúng ta phải mến yêu và năng suy đến Chúa Thánh Thần trong việc phụng thờ Thiên Chúa. Theo đó, căn cứ vào lời Chúa Giêsu trong trang Tin Mừng hôm nay (Ga 20, 19 -23) thì, Chúa Thánh Thần như một “Qủa Kinh Khí Cầu” có Thần Khí của Thiên Chúa, vì chính Chúa Giêsu “thổi hơi” trên các Tông Đồ có nghĩa là ban “Thánh Thần” vào giáo hội của Người. Như vậy, thánh là những người làm theo Thần Khí hướng dẫn.
Lạy Chúa Thánh Thần xin Ngài ngự đến và xin canh tân bộ mặt trái đất, và xin thắp lên ngọn lửa Tình yêu của Chúa trong lòng chúng con hôm nay./. Amen
Bài Tin mừng hôm nay tường thuật lại việc Chúa gặp gỡ các tông đồ ngay sau khi Người đã sống lại. Và cũng là lúc Chúa trao ban Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa ngự đến trên các ông và mọi người.
Chúa thấu suốt lòng các đồ đệ của mình, trong lúc các môn đệ lo sợ, đóng kín cửa nhà, Người đã đến giữa các ông, lên tiếng trấn an để các ông khỏi xao xuyến khi Người không còn hiện diện bên cạnh để dạy dỗ, chỉ bảo các ông: “Bình an cho anh em”, một lời cầu chúc khiến các ông thật an lòng. Không những thế Người còn cho các ông xem tay và cạnh sườn Người, khiến các ông vui mừng vì thực sự Thấy Chúa sống lại thật. Và còn phấn khởi hơn nữa khi Ngài lặp lại lần thứ hai: “Bình an cho anh em” cùng với việc tin tưởng giao nhiệm vụ mới: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”.
Còn gì sung sướng cho bằng những học trò được Thầy mình tín nhiệm, ủy thác. Mà đâu chỉ là những lời dặn dò, ủy thác, Chúa còn trao ban Thần khí của Ngài: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha,; anh em cầm giữ ai , thì người ấy bị cầm giữ “. Chính từ sức mạnh của Ngôi Ba Thiên Chúa đã đổi mới con người các ông, mà còn đổi mới mặt địa cầu.
Ngày hôm nay, Chúa không hiện diện hữu hình nơi trần gian nữa, nhưng trong lòng tin, dưới tác động của Thánh Thần mà biết bao người đã tin theo Chúa. Biết bao các đấng Thánh, khởi đi từ các Tông đồ ngày ấy, cho đến các Giám Mục, Linh mục, tu sĩ hay giáo dân, vì đã tin vào Chúa nên đã thực hiện được những điều Chúa đã từng làm khi còn tại thế: Cứu chữa những người tật bệnh, đói nghèo… Đem lại niềm vui cho bao người khốn khổ, thất vọng, ngã lòng.. Sẵn sàng đổ máu mình để làm chứng cho tình yêu thập giá.
Một người trẻ, Thánh nữ Têrêxa hài đồng Giêsu, một vị Linh mục: Thánh Phanxicô Xaviê, một giáo dân Việt Nam: Thánh tử đạo, ông Trùm Giuse Lựu, một Tổng Giám Mục Osca Rô-Mê-Rô người Braxin, hay trong thời đại hôm nay, Đức Hồng Y Phan-Xi-Cô Xa-vi-ê Nguyễn văn Thuận, Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp và mới đây nhất hai Đấng Thánh Giáo hòang Gioan XXIII, Gioan –Phao-Lô II, cùng biết bao vị khác đủ mọi thành phần trong Hội Thánh đã đón nhận ấn tín ơn Chúa Thánh Thần, nhận bài sai từ Chúa Giêsu, đã và đang làm chứng cho Chúa, đã đưa biết bao người tin nhận Chúa. Giúp xua đi bao khổ đau cho muôn người và đem Tin Mừng cứu độ đến cho họ. Xin Chúa Thánh Thần luôn củng cố niềm tin cho chúng con, xin Ngài đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con, để mỗi người, từng người chúng con hiệp nhất với nhau, trở nên khí cụ bình an của Chúa trong thế giới này. Góp phần tạo dựng trời mới đất mới ngay từ cuộc sống trần gian và mai ngày sẽ được hưởng hạnh phúc với Chúa trong nước trời .
Lạy Ngài xin đến dẫn dắt chúng con trên đời, Cầu Ngài liên kết chúng con nhất tâm trong Ngài.
Cầu Ngài ban ơn thêm sức kiên vững không lay. Sống sao nên người con Chúa chứng nhân tình yêu .AMEN (Thánh Thần hãy đến – Thành Tâm).
ThieuThiên Chúa là Ánh Sáng, nơi Người không có một chút bóng tối nào (1 Ga 1:5), Thiên Chúa là Ngọn Lửa Thiêu (Dt 12:29), là Nguồn Gốc mọi gia tộc trên trời, dưới đất (Ep 3:15).
Lửa rất kỳ lạ. Lửa càng chia sẻ càng thêm nhiều, không hề giảm mất chút nào. Lửa rất mềm, nhưng không ai có thể cắt đứt. Ngọn lửa nhỏ có thể dễ thổi tắt, nhưng ngọn lửa lớn khó dập tắt.
Nói tới Lửa, chúng ta nhớ ngay tới Chúa Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa, Ngọn Lửa Thiêng của Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần được mệnh danh bằng nhiều thánh hiệu: Thánh Linh, Đấng Sáng Tạo, Đấng Canh Tân, Đấng Bảo Trợ, Đấng An Ủi, Thần Khí, Thần Chân Lý, Thần Hòa Bình, Thần Công Lý, là Đấng tác động những điều được đề cập trong Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo. Chính Ngài là “Thần Khí dẫn tới Sự Thật toàn vẹn” (Ga 16:13), và chỉ có Sự Thật mới thực sự giải thoát chúng ta (Ga 8:32).
Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ và An Ủi, chúng ta luôn cần đến Ngài. Trong cuộc sống đời thường, ai cũng cần có người bảo bọc, che chở, nâng đỡ, hướng dẫn,… Ngày nay, muốn bảo đảm phần nào cho cuộc sống, người ta mua nhiều loại bảo hiểm: Bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sinh mạng, bảo hiểm xe cộ, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tài chính,… Thể lý cần bảo hiểm thì tinh thần cũng vậy. Cuộc sống tâm linh của các Kitô hữu cần có một loại bảo hiểm đặc biệt: Bảo hiểm linh hồn qua Đấng Bảo Trợ. Đó là cách chúng ta cậy nhờ Thần Khí của Thiên Chúa.
Nên cảnh giác với các loại thần khí không bởi Thiên Chúa, gây lệch lạc, cuồng tín, nguy hại. Vấn đề này được Thánh Phaolô đề cập trong Gl 5:16-26. Cũng nên phân biệt điều này: Bảo hiểm thế gian là dạng “khoán”, người ta gọi là “khoán trắng”, còn bảo hiểm tâm linh không thể “khoán” theo kiểu của thế gian!
Như vậy, Thần Khí Thiên Chúa là ai? Đó là “Thần Khí Khôn Ngoan và Minh Mẫn (thông minh), Thần Khí Mưu Lược (lo liệu) và Dũng Mãnh (sức mạnh), Thần Khí Hiểu Biết và Kính Sợ Đức Chúa” (Is 11:2-3).
Theo đó, ngôn sứ Isaia chỉ liệt kê 6 ơn Chúa Thánh Thần. Nhưng người Công giáo vẫn thường nghe nói có 7 ơn Chúa Thánh Thần. Vậy là sao? Chúng ta biết rằng số 7 là con số hoàn hảo theo Kinh Thánh, Giáo hội thêm một ơn nữa để cho đủ con số 7, bản dịch Hy Lạp cũng như bản dịch Latin đều thêm một Thần Khí nữa là Thần Khí Hiếu Nghĩa (đạo đức). Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần không chỉ tác động theo “khuôn khổ” của 7 ơn đó mà thôi (*). Ngài là Thiên Chúa, mà Thiên Chúa chỉ có điều thiện, thế nên Ngài tác động và hiện thân trong mọi điều tốt lành.
Kinh Thánh cho biết rõ: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng GIÓ MẠNH ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như LƯỠI LỬA tản ra đậu xuống từng người một” (Cv 2:1-3). Gió và Lửa chính là Chúa Thánh Thần – Ngôi Ba Thiên Chúa. Sau khi được tràn đầy ơn Thánh Thần, mọi người bắt đầu nói các thứ tiếng lạ, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho. Hoạt động của Chúa Thánh Thần thật kỳ diệu!
Trong đời sống hàng ngày, chắc chắn cũng cần Ơn Thông Minh để có thể xoay xở những lúc gặp khó khăn trong, đặc biệt là những người sáng tác văn, thơ, nhạc, họa,… Ai trong chúng ta cũng rất cần được Đấng Sáng Tạo soi sáng và hướng dẫn chi tiết để có những ý tưởng mới lạ và độc đáo. Thật vậy, không có Thiên Chúa thì chúng ta chẳng làm được trò trống gì cả (Ga 15:5).
Vì thế, đừng tưởng làm được vài bài thơ thì vỗ ngực mình là thi sĩ, viết được vài bài nhạc thì vênh váo ta đây là nhạc sĩ, viết được vài đoạn văn thì tự nhận là văn sĩ, dịch được vài bài ngắn thì “chảnh” tự nhận là dịch giả. Trong các lĩnh vực khác cũng tương tự. Thời gian sẽ cho biết đồng hay thau! Chớ ngu xuẩn mà ảo tưởng, nhưng hãy nghe Thánh Phaolô cảnh báo: “Đừng có lên mặt khinh dể các cành khác” (Rm 11:18).
Sau khi Chúa Thánh Thần “nhập” vào các Tông Đồ, tại Giêrusalem có những người Do-thái sùng đạo kéo đến vì thấy “sự lạ”. Họ kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình. Họ sửng sốt và thán phục. Mỗi người nói tiếng bản xứ của mình, nhưng mọi người nghe đều hiểu. Mọi người bảo nhau: “Vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!” (Cv 2:11). Nhưng cũng có những người không hiểu ất giáp gì thì lại chế nhạo: “Mấy ông này xỉn quá rồi!” (Cv 2:13).
Chúa Giêsu về trời nhưng chúng ta không mồ côi, vì Ngài lại ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta. Từ đó cũng là thời đại của Chúa Thánh Thần. Và điều đó đã hiện thực. Nỗi buồn chợt hóa niềm vui. Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần không ngừng hoạt động trong mọi người từ ngày được lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy và bảo trợ chúng ta suốt đời này. Chúng ta thường quên Ngài, nhưng Ngài không hề quên chúng ta và vẫn tác động trong chúng ta suốt đêm ngày, qua từng nhịp thở. Vì thế, chúng ta hãy tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi!” (Tv 104:1a). Và hãy thân thưa: “Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!” (Tv 104:1).
Không có Thiên Chúa, phàm nhân chắc chắn đành phải “bó tay”, và cuộc sống bị “trục trặc” ngay, loại đơn giản nhất nhưng lại quan trọng nhất đó là KHÔNG KHÍ. Một ơn tuyệt vời như vậy mà hầu như chúng ta không hề biết tạ ơn Chúa về không khí. Thật vậy: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi. Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này” (Tv 104:29-30). Sinh khí là sinh lực, là sự sống, tức là Chúa Thánh Thần đang hoạt động trong chúng ta.
Được sống như thế, chúng ta có bổn phận phải biết ơn và có trách nhiệm phải xưng tụng Thiên Chúa: “Vinh hiển Chúa, nguyện muôn năm tồn tại, công trình Chúa làm Chúa được hân hoan” (Tv 104:31). Đó là điều minh nhiên, đồng thời chúng ta còn phải tự đoan hứa: “Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Người vui thoả, đối với tôi, niềm vui là chính Chúa” (Tv 104:34).
Không ai lại không được ơn này, ơn nọ. Đặc sủng tuy nhiều nhưng vẫn chung một nguồn gốc: Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói: “Không ai có thể nói ‘Đức Giêsu là Chúa’, nếu người ấy không ở trong Thần Khí” (1 Cr 12:3b). Rất rõ ràng, không thể giả hình, và cũng không thể biện minh vì bất cứ lý do gì.
Thánh Phaolô xác định: “Có NHIỀU đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có MỘT Thần Khí. Có NHIỀU việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có MỘT Thiên Chúa. Có NHIỀU hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có MỘT Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là VÌ ÍCH CHUNG” (1 Cr 12:4-7). Vì thế, đừng tự nhận mình thế này thì hơn người khác. Lối suy luận như vậy thật là nguy hiểm, vì trái ngược với ý Chúa!
Thánh Phaolô nhấn mạnh: “Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là MỘT, nhưng lại có NHIỀU bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy NHIỀU nhưng vẫn là MỘT thân thể, Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng MỘT Thần Khí để trở nên MỘT thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất” (1 Cr 12:12-13). Chữ MỘT và chữ NHIỀU xem chừng đơn giản, nhưng lại khiến chúng ta phải xét mình thật nhiều.
Tại sao vậy? Bởi vì “có lẽ” chúng ta vẫn phân biệt giai cấp và kỳ thị nhau bằng nhiều cách tinh vi lắm. Ngay trong những người Công giáo với nhau, thậm chí cùng đoàn này hoặc hội kia với nhau mà vẫn có đầu óc kỳ thị, cậy quyền và ỷ thế để “chà đạp” người khác. Chúa Thánh Thần đâu có tác động như vậy? Nếu chúng ta “nhiễm” loại thần khí đó, chắc chắn chúng ta đang có nguy cơ, vì đó là loại thần khí thế tục!
Phải luôn cẩn trọng, vì đồ giả và người giả xuất hiện ở mọi thời và mọi nơi – ngày nay càng phải cẩn trọng hơn. Ngày xưa, ngôn sứ Êlia đã chống lại 450 ngôn sứ giả của thần Baan; ngôn sứ Micha Ben Jimla đã đối mặt với 400 ngôn sứ giả khác (1 V 22), còn ngôn sứ Giêrêmia đã đương đầu với Khanangia – một người mạo nhận là ngôn sứ và dùng những lời ngon ngọt để mị dân và lừa bịp dân Ítraen (Gr 28).
Trình thuật Ga 20:19-23 cho biết rằng Chúa Giêsu đã trao bình an và ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ trước khi Ngài về trời, đồng thời Ngài còn trao cho họ quyền được tha tội.
Thánh Gioan cho biết: Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!”. Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”.
Chỉ có bốn câu ngắn gọn mà có tới hai chữ “bình an”. Điều đó cho thấy rằng sự bình an rất cần thiết. Thể lý và xã hội cần bình an, tâm linh càng cần sự bình an hơn nữa. Chúa Giêsu biết cuộc sống gian trần rất nhiêu khê và bất an đủ kiểu, thế nên Ngài muốn ban sự bình an cho chúng ta.
Trước khi Chúa Giêsu về trời, nơi Ngài đã xuất phát, có lần Ngài đã xác định: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” (Ga 14:23-24). Ngài đưa ra một hệ lụy với mức liên kết rất chặt chẽ.
Tuy nhiên, chúng ta đã và đang nghe nhiều, biết nhiều, và kinh nghiệm cũng nhiều về “chữ” YÊU, điều mà Chúa Giêsu nhắc nhở quá nhiều lần, có lẽ chúng ta nghe và biết đến nỗi hóa NHÀM. Thế nhưng mấy ai sống đúng nghĩa chữ YÊU của Chúa Giêsu? Liệu có phải chúng ta đang KHÔNG CẦN Chúa Thánh Thần tác động? Hay là Chúa Thánh Thần ĐÃ tác động mà chúng ta KHÔNG MUỐN “xin vâng”? Chắc hẳn không oan đâu – dù bạn là ai và ở cương vị nào!
Thật may mắn và thật hạnh phúc cho phàm nhân chúng ta, dù chúng ta chỉ là những tội nhân xấu xa. Vấn đề còn lại là chúng ta có CAN ĐẢM vâng lời mà làm theo Ý Ngài hay không, tức là chúng ta có chấp nhận cách tác động của Chúa Thánh Thần hay không. Rất đơn giản nhưng cũng rất phức tạp – thậm chí là nhiêu khê. Đừng theo ý mình hoặc vinh danh mình, mà hãy noi gương Đức Mẹ mau mắn “Xin Vâng” và nhất quyết hành động chỉ vì muốn VINH DANH THIÊN CHÚA mà thôi!
PHỤC VỤ là điều cần thiết, vì Chúa Giêsu đã làm gương và khuyến cáo chúng ta phục vụ. Nghe nói thì dễ nhưng thực hiện thì không dễ, chắc hẳn chúng ta chưa phục vụ đúng mức đâu. Đây là bài “học thuộc lòng” không của riêng ai: Hãy TIN TƯỞNG điều mình biết, hãy TRUYỀN ĐẠT điều mình tin, và hãy THỰC HÀNH điều mình truyền đạt.
Nhận biết Thánh Ý Chúa là điều không dễ, vì đôi khi chúng ta “suy bụng ta ra bụng Chúa” rồi cho đó là Ý Chúa. Do đó, chúng ta phải không ngừng “tìm hiểu đâu là Ý Chúa” (Ep 5:17) và “xin cho Ý Chúa được thể hiện” (Cv 21:14) chứ không phải là “xin như ý mình”, nhưng chúng ta thường có thói quen và ưa thích “xin như ý” – tức là theo ý mình chứ không phải theo Ý Chúa. Hãy chấn chỉnh và noi gương tác giả Thánh Vịnh: “Điều đẹp ý Ngài, xin dạy con thực hiện, bởi Ngài là Thiên Chúa của con. Xin thần khí tốt lành của Chúa dẫn con đi trên miền đất phẳng phiu” (Tv 143:10). Làm việc gì cũng phải theo nguyên tắc này: “Hãy làm mọi sự vì đức ái” (1 Cr 16:14).
Muốn và xin thì sẽ được. Khi được Chúa Thánh Thần tác động, chúng ta sẽ nên mới hoàn toàn, đồng thời sinh hoa thơm và kết trái lành. Đây là Hoa Quả của Thần Khí: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ (Gl 5:22-23).
Hiện nay đang là mùa hè, hơi nóng như lửa thiêu, nắng càng nóng hơn vì tình trạng hạn hán bởi hệ lụy El Niño. Vì vậy, chúng ta càng thấy giá trị của những giọt mưa. Tương tự, linh hồn chúng ta cũng có lúc khô khan, hạn hán hồng ân, chúng ta càng thấm thía nổi khổ của tình trạng thiếu ơn Chúa, thiếu những Cơn Mưa Thánh Linh. Quả thật, không có Chúa thì chúng ta chẳng làm được gì (Ga 15:5). Đừng kiêu ngạo mà nói vắt đất ra nước hoặc thay trời làm mưa!
Hãy thành tâm nghe lời Mẹ Giáo Hội dạy chúng ta cầu xin Thánh Linh: “Accende lumen sensibus, infunde amorem cordibus – Xin hãy thắp sáng các giác quan, xin hãy đổ đầy tình yêu vào trong tâm hồn chúng con” (Thánh ca Veni Creator Spiritus – Lạy Chúa Thánh Thần, Xin Ngự Đến). Có Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ vui sống và sống dồi dào. Ngài là Ngọn Lửa Thiêu và cũng là Nguồn Nước Mát.
Lạy Thiên Chúa Ngôi Ba, chúng con xin lỗi vì đã thường xuyên không nhớ tới Ngài, nhưng Ngài vẫn luôn yêu thương chúng con. Cúi xin Ngài đến canh tân thế gian và biến đổi chúng con trở thành những khí cụ bình an hữu dụng của Thiên Chúa. Xin thiêu đốt chúng con trong Ngọn Lửa Thiêng Thánh Linh. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
1. Ơn Khôn Ngoan giúp phân biệt được phải–trái, thực–hư. 2. Ơn Hiểu biết giúp hiểu rõ các Giới Răn của Chúa và của Giáo Hội. 3. Ơn Lo Liệu giúp biết giải quyết đúng đắn các khó khăn của cuộc sống. 4. Ơn Sức Mạnh giúp vượt qua mọi khó nguy trong cuộc sống và chu toàn các bổn phận. 5. Ơn Thông Minh giúp nhận ra Thánh Ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. 6. Ơn Đạo Đức giúp biết luôn yêu mến và tín thác nơi Chúa, đồng thời biết nâng đỡ tha nhân. 7. Ơn Kính Sợ Chúa giúp tôn thờ Ngài, kính trọng quyền năng của Ngài và xa tránh mọi điều xúc phạm Ngài.
Như vậy, chúng ta đã sẵn sàng để tiến vào cử hành Thánh Lễ Giáng Sinh 2019. Trọng tâm của cử hành phụng vụ hôm nay chính là tái diễn mầu nhiệm Chúa Kitô Nhập Thể để cứu độ chúng ta. Toàn cảnh phụng vụ lễ Vọng Giáng Sinh đều toát lên ý nghĩa trọng đại nầy mà các ca kinh, lời nguyện và các bài đọc Lời Chúa là những phản ảnh rõ nét.
Nói cách khác, sứ điệp phụng vụ trong Thánh lễ chiều nay muốn khơi gợi lên trong tâm hồn chúng ta niềm vui thánh thiện và tâm tình tri ân cảm tạ tình yêu bao la của Thiên Chúa, Đấng đã “ban tặng Người Con Một” giáng sinh cứu độ chúng ta. Lễ Giáng sinh sẽ thật sự là Tin Vui trọng đại, là ngày bừng sáng cho những ai sẵn sàng mở cửa đón nhận Thiên Chúa…
Và Lời Chúa đã nói gì với chúng ta trong thánh lễ Vọng nầy ?
Trong dòng chảy của cuộc sống đời thường vội vã, tất bật trôi theo các mùa Xuân, Hạ, Thu, thì hôm nay Mùa Đông chợt đến, mang theo một chút nhung nhớ, một chút đợi chờ đầy sâu lắng nội tâm, như một bài hát thân quen của cố nhạc sĩ Trần Thiện Thanh: bài Mùa Đông của anh:
Em ơi đông lại về từ trăm năm lạnh giá. Tim em như ngừng thở từ sau ân tình đó Em nghe không mùa đông, mùa đông.
Tuy nhiên, ở giữa cái không gian Mùa Đông lạnh giá ảm đạm và buồn tênh đó, có một sự kiện đã khiến Mùa Đông trở nên ấm áp, thân thương và mang theo một niềm vui rộn rã, một yên bình thánh thiện, không chỉ cho một số người mà hầu như cho toàn thể nhân loại. Đó chính là sự kiện Giáng Sinh, biến cố Giáng Sinh của Chúa Giêsu, Đấng sáng lập Kitô giáo, mà ngày Sinh Nhật của Ngài đã được thế giới chọn làm cột mốc đầu tiên của Công Nguyên lịch.
Thật vậy, biến cố nầy, sự kiện vô tiền khoáng hậu nầy, đã được các tiên tri từng báo trước qua dòng lịch sử của dân tộc Ít-ra-en mà hôm nay chúng ta vừa nghe lại các trích đoạn của ngôn sứ Isaia, một tiên tri đã tiên báo thật nhiều và thật rõ mầu nhiệm Đấng Cứu Thế ra đời.
Vâng, vào khoảng hơn 600 năm trước biến cố Giáng Sinh, dân tộc Ít-ra-en đang sống như một mùa đông ảm đạm, buồn hiu, … trong thân phận tăm tối của những kẻ lưu đầy, tha phương nơi đất khách quê người. Chính trong hoàn cảnh “băng giá tâm hồn” và tối tăm hy vọng đó, lời Chúa qua miệng Isaia đã mang lại hơi ấm và ánh sáng: “Vì Sion, tôi sẽ không im tiếng, và vì Giêrusalem, tôi sẽ không nghỉ ngơi cho đến khi Đấng Công Chính xuất hiện như ánh sáng, Đấng Cứu Độ Sion đến như ngọn đuốc sáng ngời”.
Và một khi Đấng Cứu độ chấp chính đăng quang, thì mọi sự sẽ được đổi thay: “Ngươi sẽ không còn gọi là kẻ bị ruồng bỏ và đất ngươi sẽ không còn gọi là chốn hoang vu. Ngươi sẽ được gọi là “kẻ Ta ưa thích” và đất ngươi sẽ được gọi là đất có dân cư…”.
Riêng Thánh Phaolô trong BĐ 2, đã tóm lượt khái quát lịch sử của dân tộc Ít-ra-en từ thời các tổ phụ, đặc biệt từ biến cố “xuất Ai Cập”, xuyên qua việc tuyển lựa Vua Đa-vít để dẫn tới việc giáng sinh của Đấng Cứu Thế, cũng là một thuyết minh rõ ràng về tầm quan trọng của biến cố lịch sử nầy.
Từ câu chuyện mang dáng đứng của lịch sử cứu độ, Lời Chúa muốn nói với chúng ta rằng: mỗi một cuộc đời, mỗi một thân phận, nhất là những cuộc đời đang bước đi trong bóng tối, đang lầm lũi trong đau thương, thất vọng… đều cần cuộc viếng thăm của Chúa, sự giáng sinh của Chúa và ơn cứu độ của Ngài, để như cách cảm nhận của bài thơ “Chúa Về”:
Chúa về !
như cơn mưa chợt về trong nắng hạn, Để đất hồn con lên những búp non xanh. Để cây hoang chợt nẩy lộc đâm cành, Để suối khô tràn dòng xanh nước mát.
Chúa về ! Để lòng con qua bao mùa héo hắt, Tìm được niềm vui, hy vọng nở hoa. Mảnh đời con chợt tươi sáng ngọc ngà, Chân mở lối thênh thang đường đi tới.
Chúa về ! Như anh sao đêm chợt về trong đêm tối, Thắp đời con dài những tối mênh mang. Sáng ấm lên ngày xuân mới huy hoàng, Tim reo hát khúc tình ca rộn rã….
Chúa về ! Như ông chủ tìm đến nhà tôi tớ, Như Đức Vua đi tìm gặp thứ dân. Căn nhà hoang thân tội lỗi ngập tràn, Bỗng bừng dậy tin yêu niềm vui mới.
Chúa về ! Cho con thỏa bao năm chờ tháng đợi, Sương hồng ân tuôn đổ tự mây trời. Mắt mỏi mòn thôi giọt đắng tuôn rơi, Lòng ca hát khúc tân ca hớn hở.
Chúa về ! Để nối lại những chuyện tình duyên nợ, Cho đất trời thôi cách biệt từ đây. Để hôm nay và đường tới tương lai, Tình Chúa, tình người thắm nồng mãi mãi !
Và để đón nhận sự viếng thăm và can thiệp của Thiên Chúa vào lịch sử cuộc đời, mỗi người chúng ta lại được Tin Mừng Matthêô đề nghị một thái độ xứng hợp qua hình tượng Giuse.
Thật vậy, nếu Giuse, là vị kế tục cuối cùng trong phả hệ của Đấng Cứu Thế theo Tin mừng Matthêô: “Giacóp sinh Giuse, là bạn của Maria, bởi bà, Đức Giêsu gọi là Kitô đã được sinh ra”, thì không phải ngẫu nhiên mà chàng trai thợ mộc nầy được vinh dự làm “cha nuối Đấng Cứu Thế”, nhưng chắc một điều, về phương diện con người, Giuse là người công chính.
Sự công chính của Giuse được biểu lộ cách rõ nét trong cách ứng xử của ngài xung quanh biến cố Giáng Sinh và đời thơ ấu của Chúa: dẹp qua một bên mọi toan tính, suy nghĩ và dự định của con người để ngoan nguỳ cuối đầu vâng theo thánh ý Chúa và đem hết sức mình để thực thi thánh ý đó trên mọi nẻo đường cuộc sống.
Mỗi năm, qua Phụng vụ được cử hành, Chúa lại một lần Giáng Sinh. Ước mong sao, Chúa đến và Người đang thực sự là Đấng Emmanuel cho mỗi người, mỗi cuộc đời chúng ta hôm nay. Vì, chắc chắn, cũng đã có nhiều mùa Giáng Sinh đã đến, nhưng rồi “bước chân Chúa đã đi qua và không ở lại được” vì sự vô tâm, xem thường, khước từ của chính chúng ta.
Vì thế, mừng Chúa Giáng Sinh cách đúng đắn nhất, đó là chúng ta có trách nhiệm làm cho Mầu Nhiệm Giáng Sinh hiện thực trong cuộc sống nầy, cuộc đời nầy, để Chúa Giêsu một lần nữa đến và ở lại trong cuộc đời mỗi người chúng ta, chứ không phải “Người đã đến và Người phải ra đi” như cách cảm nhận của linh mục Hoàng Đức trong ca khúc “Bước Người đi qua”:
“Thế có lần nào bạn mong nghe bước Người đến, thế có lần nào bạn mong xem bóng dáng Người. Thế có lần nào thế có lần nào, ngàn năm qua, vâng, ngàn năm, Người đã đến nhưng Người phải ra đi, Người đã đến nhưng Người phải ra đi.” (Trích ca khúc “BƯỚC NGƯỜI ĐI QUA” của lm.ns. Hoàng Đức).
Xin Chúa Giáng Sinh, Ngôi Lời nhập thể, đang đến trong Thánh lễ nầy, trong Mình Máu là quà tặng tuyệt vời sâu thẳm, ở lại với chúng ta. Lạy Đấng Emmanuel xin ở lại với chúng con. Amen.
Chúng ta rời khỏi bờ hồ, nơi từng xảy ra một mẻ lưới kỳ diệu và Đức Ki-tô trao cho Tông Đồ Phê-rô sứ mạng chủ chăn. Chúng ta trở về lại Giê-ru-sa-lem. Mặt khác, quả là thú vị nếu ta xem lại các bối cảnh, từ đầu cuốn sách này, được đặt tại Giê-ru-sa-lem. Không chỉ là muốn ‘xem lại’ thôi, nhưng còn để nhận ra tầm quan trọng của Giê-ru-sa-lem trong cuộc sống của Đức Giê-su. Chúng ta luôn luôn hình dung Đức Giê-su như là một người rao giảng rày đây mai đó trên các vùng nông thôn, thế nhưng hình ảnh ấy là sai hoàn toàn .
NĂM MƯƠI NGÀY SAU...
Ngày Lễ Ngũ Tuần hiện nay vẫn còn là một trong những ngày lễ lớn của người Do-thái. Lễ này được cử hành năm mươi ngày ( nghĩa Hy Lạp của chữ Pentecôte ) sau Phục Sinh. Nếu không quá chi li về con số, thì 50 tương ứng với một tuần các tuần ( 7 lần 7 ): một sự viên mãn cộng với số 1.
Như mọi lễ Do-thái khác, lễ Ngũ Tuần bắt nguồn từ những lễ hội nông thôn ngoại giáo. Trong vòng luân chuyển các mùa ở Cận Đông, lễ Vượt Qua rơi vào thời kỳ cừu đẻ và thu hoạch đầu mùa: do đó có lễ hiến tế chiên con và dâng bánh không men. Lễ Ngũ Tuần tương ứng với mùa gặt. Nhưng vào thời Chúa Giê-su, thì lễ Ngũ Tuần đã mang một ý nghĩa hoàn toàn tôn giáo từ nhiều thế kỷ rồi, và ý nghĩa đó được gắn liền với lịch sử dân Giao Ước. Lễ Ngũ Tuần được cử hành để mừng việc Chúa ban Lề Luật tại núi Xi-nai, một thời gian ngắn sau khi rời khỏi Ai-cập, một biến cố được tưởng niệm bằng Đại Lễ Vượt Qua.
LỄ VƯỢT QUA VÀ LỄ NGŨ TUẦN
Tương quan giữa lễ Vượt Qua và lễ Ngũ Tuần Do-thái giúp ta hiểu rõ lễ Vượt Qua và Lễ Ngũ Tuần Ki-tô giáo. Trong đêm Vượt Qua, dân Do-thái ra khỏi Ai-cập, nhưng giả như họ không nhận được Lề Luật, thì họ hẳn chỉ là một đám người lang thang trên sa mạc: họ đã thoát khỏi cảnh nô lệ, nhưng lại đi vào trong một nơi bấp bênh và không phương hướng.
Cũng vậy, với cuộc Vượt Qua của mình, Đức Giê-su đã chiến thắng cái chết và tội lỗi. Các Tông Đồ cảm nhận niềm vui, nhưng sẽ còn lại gì nếu biến cố Phục Sinh không được nối dài trong hình hài của các Môn Đệ ? Sự nối dài này được ban cho qua việc phái Thánh Thần đến, như Chúa Giê-su đã hứa.
TỪ LỄ NGŨ TUẦN NÀY ĐẾN LỄ NGŨ TUẦN KIA
Chúng ta hẳn sẽ bị cám dỗ xem mặc khải qua Lề Luật ở Xi-nai là đối lập với việc sai phái Thánh Thần xuống trên các Tông Đồ và Môn Đệ. Một mặt là Lề Luật, hoàn toàn ở bên ngoài, chỉ trao cho dân Ít-ra-en; mặt kia, Thánh Thần mang chiều kích hoàn vũ.
Không nên xem thường Lề Luật: Thánh Phao-lô bảo rằng lề luật là tốt lành và thánh thiện ( Rm 7, 12 – 16 ). Ít-ra-en không lãnh nhận Lề Luật cho riêng mình. Thiên Chúa đã mặc khải cho họ con đường sự sống để rồi họ làm chứng về con đường ấy cho mọi dân tộc. Vào thời Chúa Giê-su, các truyền thống Do-thái nói rằng mọi dân tộc đều có mặt tại Xi-nai: Mọi dân đã được nghe Lề Luật; nhưng mọi dân tộc đều từ chối, chỉ trừ có một dân duy nhất: Ít-ra-en đã nhận lãnh và Lề Luật được trao ban cho họ.
Trái lại, cần phải lưu ý rằng lễ Ngũ Tuần Ki-tô giáo xảy ra tại Giê-ru-sa-lem, dù cho lệnh sai đi rao giảng khắp hoàn vũ đã được Chúa Giê-su truyền ở Ga-li-lê-a, nơi gặp gỡ giữa dân Ít-ra-en truyền thống với lương dân, nơi mà Chúa đã thực thi một phần khá lớn sứ vụ của mình.
Những người thừa hưởng biến cố này là người Do-thái, các Tông Đồ và Môn Đệ. Người Do-thái thoạt đầu là những khán giả rất ngạc nhiên, rồi trở thành những thính giả đầu tiên khi Phê-rô rao giảng, và cùng ngày hôm đó, họ đón nhận Phép Rửa. Sở dĩ họ nói nhiều ngôn ngữ khác nhau, ấy là vì họ lên Giê-ru-sa-lem để hành hương trong ngày lễ, và vì trong các xứ sở của họ, tiếng Híp-ri không phải là ngôn ngữ hằng ngày. Tính chất hoàn vũ của việc rao giảng Tin Mừng phát triển từng bước một.
Bây giờ chúng ta đã biết được những người lãnh nhận: một hạt nhân gồm các Môn Đệ Đức Giê-su, trong số đó có các Tông Đồ, tất cả đều là người Do-thái, qui tụ tại Giê-ru-sa-lem như những người đồng đạo với mình, để mừng lễ. Nhưng họ lãnh nhận ơn gì ? Phải chăng chỉ là một sức mạnh, một ánh sáng, hay hơn thế nữa: sự hiện diện của một ngôi vị ? Chúa Thánh Thần là Đấng xây dựng Giáo Hội, là Thần Khí mà ta nhận lãnh tràn đầy qua Bí Tích Thêm Sức. Tuy nhiên ta cần phải có một tư tưởng chính xác hơn về ngôi vị của Thánh Thần.
CHÚA THÁNH THẦN LÀ AI ?
Chúa Thánh Thần là một Đấng. Để đi xa hơn, ta sẽ dựa trên tín điều. Bản tuyên tín của các Tông Đồ thật ngắn gọn ở điểm này, chỉ vẻn vẹn: “Tôi tin Chúa Thánh Thần.” Nhưng tiếp đó kể ra 5 tín điều mà ta xem là thiện ích mà Chúa Thánh Thần đem đến cho nhân loại:
Giáo Hội Công Giáo Các Thánh thông công Phép Tha Tội Xác loài người sống lại Sự Sống đời đời
Qua danh sách này, bản tuyên tín cho thấy một vài điểm nổi bật trong hành động của Chúa Thánh Thần: Người hiệp nhất, thánh hóa, ban sự sống viên mãn. Riêng về Thần Khí, thì bản Tuyên Tín của các Tông Đồ chỉ nêu đúng danh của Người: Người là “Chúa Thánh Thần”. Thật vậy, nói đến Chúa Thánh Thần là nói đến một Đấng chứ không phải xác định rằng Thiên Chúa la Khí, nghĩa là thiêng liêng, như câu trả lời mà ai cũng biết trong sách Giáo Lý: “Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng”
Câu nói ấy rất nguy hiểm, vì các thiên thần cũng thiêng liêng.
Tin Mừng và Thánh Phao-lô nói hơi khác:
Thiên Chúa là Thần Khí ( Ga 4, 24 )
Chúa là Thần Khí, và nơi nào Thần Khí Chúa hiện diện thì nơi đó có tự do ( 2 Cr 3, 17 )
Thần Khí, không pha tạp với bất cứ gì khác, chính là đặc trưng của Thiên Chúa. Nhưng như thế chưa đủ để nói về Chúa Thánh Thần như là một ngôi vị. Chúa Giê-su nói rộng hơn khi Người yêu cầu các tông đồ rửa tội “nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần” hay khi Chúa Thánh Thần tỏ mình qua chim bồ câu lúc Chúa Giê-su chịu phép rửa. Chúa Thánh Thần là một Đấng, bởi vì Người có một điều rất cá biệt của một ngôi vị ấy là cái Tên. Chúng ta nhớ lại là việc mặc khải Tên của Chúa quan trọng đến thế nào đối với Mô-sê. Lề luật dạy phải tôn, phải tôn kính Danh Thiên Chúa và Kinh Lạy Cha xin cho Danh Cha cả sáng.
Ngôi vị của Chúa Thánh Thần cũng được khẳng định qua lời Kinh Tin Kính: Tôi tin Chúa Thánh Thần. Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, loài người được mời gọi chỉ tin vào Thiên Chúa mà thôi. Mặt khác, mỗi người có thể có những niềm xác tín và nguyên tắc của mình. Nhưng tôi không đặt niềm tin vào sự Tự Do hay Lý Trí: đấy là tôn thờ ngẫu tượng, điều mà Lề Luật lên án.
Những thế kỷ vừa qua cho thấy rằng việc tôn thờ những giá trị tốt đẹp như phi ngôi vị, đã có thể trở nên đau đớn như thế nào đối với con người, nếu những giá trị ấy được đem thay cho Đấng Tuyệt Đối. Con người trong Kinh Thánh chỉ tin Thiên Chúa mà thôi.
Sở dĩ Chúa Ki-tô đề nghị ta tin Chúa Thánh Thần, ấy là vì Chúa Thánh Thần đúng là một Đấng, dù cho tên của Người – Thánh Thần – ít nói rõ ngôi vị cho bằng tên của Chúa Cha hay Chúa Con.
Một dấu chỉ khác của tính chất ngôi vị của Thánh Thần, ấy là chúng ta được kêu gọi cầu nguyện với Người. Lời cầu nguyện chỉ có thể dâng lên một Đấng. Chính vì thế mà cầu nguyện là một hành vi đặc thù của Đức Tin: việc cầu nguyện đặt tôi đối diện với Thiên Chúa, trong một cuộc đối thoại không buộc phải thể hiện bằng lời nói hay cảm xúc thì mới trở thành một trao đổi thật sự.
Trong tôn giáo, không phải tôn giáo nào cũng nhấn mạnh như đạo mặc khải qua Kinh Thánh về sự hiện hữu của một Thiên Chúa có ngôi vị. Tại Hy-lạp và Ba-bi-lon, các thần linh rất ra vẻ người ta. Họ thực sự giống chúng ta như những anh chị em. Họ có những tật xấu như chúng ta, nhưng ở mức độ lớn hơn cho vừa tầm với các thần linh. Nhưng các thần linh mang hình dạng con người, quá phàm phu, không làm mãn nguyện những kẻ mong tìm kiếm Chúa với một yêu cầu cao: đó là phải vượt lên trên hàng loạt các nhân vật hạng hai ấy. Có tồn tại chăng một nguyên lý tiên quyết, vô biên, thường hằng, phi ngôi vị ? Đấy là khuynh hướng của các tôn giáo Đông Phương hay của nền triết học Hy-lạp trong cái cốt lõi nhất.
Chúng ta hãy nói về thần linh, hơn là nói về Thiên Chúa. Nói về các ‘ý niệm’ ấy một cách trung tính, hơn là có phái tính, vì phái tính có vẻ con người quá. Ngay cả trong các đất nước Ki-tô giáo lâu đời, cái não trạng này cũng khá phổ biến. Người ta dễ dàng nói: “Hẳn phải có một cái gì đó ở bên trên chúng ta”. Một cái gì đó: một sức mạnh mù quáng, có thể là nguy hiểm, nhưng chắc chắn là vô cảm vô tình.
Trái lại, đối với đạo mặc khải qua Kinh Thánh, con người giống Thiên Chúa ở điểm họ là một ‘vị’. Nhân vị không phải là một giới hạn hay một bất toàn. Đối với con người, làm một nhân vị, có nghĩa là có khả năng mở lòng ra đối với người khác mà không biến mất, hiệp làm một với người khác và như thế mình lại càng là mình hơn. Trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa, điển hình hoàn hảo nhất là hôn nhân: không còn là hai, mà chỉ là một thân xác, và đồng thời mỗi người lại thực sự là chính mình hơn khi họ ở một mình. Chính nhờ cái nhìn và tình yêu của người kia mà mỗi người biết rõ mình hơn.
Cần phải thận trọng khi từ bình diện con người nâng lên bình diện Thiên Chúa. Tuy nhiên, chân tính của chúng ta có thể giúp mình khám phá ra chân tính của Thiên Chúa. Trong Thiên Chúa, sự hiệp nhất là tuyệt đối. Chúng ta không nói gì sai lệch so với Cựu Ước. vì: “Này Ít-ra-en, hãy nghe đây, Đức Chúa, Thiên Chúa các ngươi là một Đức Chúa Duy Nhất.” ( Đnl 6, 4 ); cũng như khi ta tuyên xưng qua Kinh Tin Kính: “Tôi tin một Thiên Chúa.”
Trong sự hiệp nhất tuyệt đối, tương quan giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần thật hoàn hảo. Không thể có ngôi vị này mà không có ngôi vị kia: Không thể nào nghĩ đến Cha mà không có Con, hay nghĩ đến Con mà không có Cha. Không thể nào nghĩ đến Thần Khí tách biệt Cha và Con. Chúa Giê-su là Lời của Thiên Chúa: Người không thể tách rời khỏi Thiên Chúa, Đấng phán dạy trong Người. Đấng tiếp tục công trình của Chúa Ki-tô, là Chúa Thánh Thần, không thể nào tách rời khỏi Thiên Chúa, Đấng thực hiện mọi công cuộc thánh hóa, qua Người ( Lời Nguyện Thánh Thể số 4, Sách Lễ Rô-ma ). Tiếp tục không có nghĩa là thay thế; qua Chúa Thánh Thần, Chúa Ki-tô đang hoạt động ngày hôm nay, vì Người đang sống.
Mầu nhiệm Ba Ngôi không phải là một bài toán đố hay một thách thức đối với lương tri. Đấy là nguồn chân lý cho cuộc đời của mỗi chúng ta: trở nên chính mình nhờ tình yêu của người kia.
Bản Tuyên Tín của các Tông Đồ nêu rất vắn tắt về Chúa Thánh Thần và tiếp theo là những hoạt động của Người. Trong bản Tuyên Tín Công Đồng Nicée-Constantinople, chúng ta tuyên xưng:
“Tôi tin Đức Chúa Thánh Thần, là Chúa ban sự sống. Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra. Người cùng được phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy.”
Tại Công Đồng Nicée năm 325, Giáo Hội khẳng định Đức Tin vào Chúa Ki-tô là Con Duy Nhất, hiệp làm một cùng Đức Chúa Cha, để đối lại với những người chỉ muốn xem Đức Ki-tô là một bán thần ( nửa thần nửa người ) hay chỉ là một siêu nhân. Và lúc nào cũng vậy, vấn đề Chúa Thánh Thần luôn được nêu lên. Người có đáng được tuyên xưng là Thiên Chúa, đồng hàng với Chúa Cha và Chúa Con không ? Sau đây là luận cứ của các nghị phụ ( giám mục ) tại Công Đồng Constantinople năm 381:
Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta Sự Sống.
Sự Sống mà Người ban cho chúng ta không chỉ là ở trần gian. Người biến chúng ta thành con cái Thiên Chúa, qua phép rửa bằng “nước và Thần Khí” ( Ga 3, 5 );
Người không thể nào làm được như thế, giả như Người không phải chính là Thiên Chúa.
Bởi vì Người là Thiên Chúa thật, nên Thánh Thần xứng đáng được tuyên xưng là “Chúa” như Đức Ki-tô. Người ‘cùng được phụng thờ và tôn vinh’ như Chúa Cha và Chúa Con. ( Xin lưu ý là “cùng” chứ không phải là “cũng” như người Việt Nam chúng ta quen miệng đọc bấy lâu nay ).
Trong tương quan với Chúa Cha và Chúa Con, làm sao định vị Chúa Thánh Thần ? Văn bản tiên khởi chỉ nói rằng Người xuất phát từ Chúa Cha: vì ngay tiếng “Cha” đã có nghĩa là nguồn xuất phát. Ki-tô giáo Phương Đông chọn cách nói rằng Chúa Thánh Thần xuất phát từ Chúa Cha, qua Chúa Con. Ki-tô giáo Phương Tây chọn cách nói rằng Chúa Thánh Thần xuất phát từ Chúa Cha và Chúa Con ( filioque ). Cả hai cách nói đều chính đáng. Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II đã công bố như thế.
Việc tranh luận về “Filioque” đã trở thành nguồn gốc chính của sự bất hòa giữa Ki-tô giáo Phương Đông và Phương Tây. Đây không phải là điều không đáng kể, vì hai cách nói ấy phản ánh hai cách tiếp cận khác nhau về mầu nhiệm Thiên Chúa. Nhưng điều quan trọng đối với Niềm Tin Công Giáo, ấy là Chúa Cha và Chúa Con không thể tách biệt nhau. Hai Đấng không tách rời nhau trong Công Trình Cứu Độ. Hai Đấng không bao giờ tách rời nau trong chân tính vĩnh cửu của mình. Trong Thiên Chúa, không Đấng nào hành động một mình.
Hoạt động của Thần Khí là chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến: chính Người đã từng lên tiếng qua các Ngôn Sứ và, cuối cùng, toàn bộ Cựu Ước là Ngôn Sứ cho Đức Ki-tô. Ta nên xác định lại chân lý này của Đức Tin mình: Cựu Ước được Thiên Chúa linh hứng, cũng như Tân Ước. Chúng ta dễ có khuynh hướng xem Cựu Ước chỉ là những tiền đề xa xôi.
Khi thời gian đã mãn, chính “bởi Chúa Thánh Thần” mà Ngôi Lời trở thành xác thịt trong lòng Đức Ma-ri-a: điểm này được ghi cả trong bản Tuyên Tín các Tông Đồ lẫn trong bản Tuyên Tín Nicée-Constantinople.
Các Bí Tích là một trong các cách thức mà mầu nhiệm Nhập Thể tiếp tục diễn ra ngày hôm nay: như vậy, Chúa Thánh Thần chắc chắn không vắng mặt trong các phép Bí Tích.
Chúa Thánh Thần không chỉ là một phẩm chất của Thiên Chúa. Khi Đức Giê-su nói với người phụ nữ Sa-ma-ri-a: Thiên Chúa là Thần Khí, Người nói lên sự khác biệt triệt để giữa Thiên Chúa và trần gian thọ tạo. Nhưng khi Người loan báo Chúa Thánh Thần đến, thì Người nói về một ngôi vị Thiên Chúa. Chính vì thế mà Người gọi là “Đấng Bàu Chữa”. Đối với một người bình dân, thuật ngữ này không rõ ràng lắm: Đấy là chữ dùng để dịch chữ Hy-lạp “Paracletos”, có nghĩa là Đấng giúp đỡ, bảo trợ, trợ giúp. Người là Đấng biện hộ, luật sư, Đấng yên ủi, bào chữa, hoặc bàu chữa...: tất cả những vai trò đó là vai trò của một ngôi vị.
Trong Phúc Âm Thánh Gio-an, Chúa Giê-su nói về Thánh Thần được Chúa Cha và Chúa Con phái đến với tên gọi là một Đấng Bàu Chữa khác ( Ga 14, 16 ). Người đặt Thánh Thần ngang hàng với Người. Chúa Giê-su là một Đấng, bạn không hề nghi ngờ điều này. Thánh Thần tiếp tục công việc của Người cũng là một Đấng: bạn cũng đừng nghi ngờ điều ấy.
Bạn có thể kêu cầu Người đến giúp đỡ bạn mà không cần phải thêm thắt một tính chất thần kỳ nào vào ‘tác động của Chúa Thánh Thần’. Đặc biệt, bạn có thể cầu nguyện với Người.
Je sais en qui je crois, ĐHY Jacques Perrier – Gs. TRẦN DUY NHIÊN dịch 5.2002
1) Lễ Chúa Thánh Thần chính là lễ hiệp nhất muôn dân. “Ngài hiện xuống nơi họ tụ họp... Chúng ta từ các dân thiên hạ trở về Giêrusalem, đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan truyền những kỳ công của Thiên Chúa” (Bài đọc I - Cv. 2, 1-11).
a) Chính sức mạnh của Thánh thần đã hiệp nhất các môn đệ lại nhà Tiệc ly, đã hiệp nhất các dân thiên hạ lại Giêrusalem, chính Thánh thần đã cho họ nghe tiếng nói của mình về những kỳ công của Thiên Chúa. Tiếng nói đó chính là tiếng nói của Thánh thần.
Tại sao muôn dân nghe được tiếng nói của Thánh Thần? Thưa Thánh Thần đã hiệp nhất họ nên một thân thể của Đức Kitô. Trong Bài đọc II Thánh Phaolô đã giải thích: “Tất cả chúng ta là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đều đã chịu phép rửa nhờ một Thánh Thần để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thánh Thần duy nhất” (1Cr. 12, 13). Đức Kitô và Thánh thần hiệp nhất nên một, thì tất cả các bộ phận trong Đức Kitô cũng tràn đầy Thánh thần nên họ đều nghe, đều hiểu, đều lãnh nhận được tiếng của Thánh thần.
b) Thánh Phaolô còn cho thấy rõ: Đây là sự hiệp nhất trong đa dạng, không phải thứ hiệp nhất trong đơn điệu, gò ép, buồn tẻ: Có nhiều đặc trưng khác nhau, nhưng chỉ có một Thánh Thần, có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Đức Chúa, có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng chỉ có một Thiên Chúa hoạt động trong mọi người. Thánh Thần tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung.
Người thì được ơn khôn ngoan để giảng dạy Người thì được ơn hiểu biết để trình bày Người thì được ơn Đức tin để hoạt động mạnh mẽ Người thì được ơn chữa bệnh Người thì được ơn làm phép lạ Người thì được ơn nói tiên tri Người thì được ơn nói tiếng lạ Người thì được ơn giải thích tiếng lạ
Nhưng chính Thánh Thần duy nhất làm tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách theo ý Ngài (1Cr. 12, 4-11)
Chỉ có Thánh thần mới đầy sức mạnh quy tụ được muôn dân thiên hạ, làm cho muôn bản chất, sắc thái văn hóa của muôn người khác nhau nên một trong Đức Kitô.
Thiên Chúa đã sáng tạo vũ trụ vạn vật với muôn hình vạn trạng tinh vi kỳ diệu khác nhau, nhưng hòa điệu duy nhất với nhau để hòa tấu nên một bài ca chúc tụng quyền năng lạ lùng của Thiên Chúa.
Trong công trình cứu độ, còn hơn nữa, Chúa Thánh thần tuôn tràn sức sống mãnh liệt của Thiên Chúa, như tiếng gió ào ào vang dội khắp muôn phương để thánh hóa muôn dân sống thể hiện bản chất văn hóa thiêng liêng cao quý của mình, của dân tộc mình, làm rạng rỡ vinh quang Thiên Chúa như muôn loài hoa phô bày hương sắc riêng của chúng làm đẹp thiên nhiên, làm thơm môi trường.
2) Trước những chuyển biến của thời đại ngày nay, Đức Giáo Hoàng Gioan 23 cùng với Công đồng Vatican II đã cầu xin cho Giáo hội, cho thế giới “một lễ Hiện xuống mới”. Công đồng Vatican II, một Công đồng vĩ đại nhất trong lịch sử Giáo hội, cũng là một hội nghị hiệp nhất vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới, vì trong hội nghị của Công đồng, ngay kỳ họp I năm 1962 đã có 2.152 nghị phụ, cho đến kỳ họp IV năm 1965 đã có 2.391 nghị phụ gồm Hồng Y, Giám mục từ khắp nơi trên thế giới về Rôma để họp, chưa kể hàng ngàn chuyên gia lỗi lạc khác.
Công đồng đã chứng tỏ cho thế giới thấy tầm quan trọng và khẩn thiết của sự hiệp nhất, đề cao sự hiệp nhất lên hàng đầu, cho nên có 4 kỳ họp thì 3 kỳ của 3 năm đầu đều nói đến hiệp nhất.
Kỳ họp I từ 11 tháng 10, đến 8 tháng12 năm 1962 đã thảo luận đến sự hiệp nhất Kitô hữu và Giáo hội.
Kỳ họp II từ 29 tháng 9 đến 4 tháng 12 năm 1963 bàn về lược đồ hiệp nhất.
Kỳ họp III từ 14 tháng 9 đến 21 tháng 11 năm 1964 chung quyết và công bố các sắc lệnh hiệp nhất với 2137 phiếu thuận, 11 phiếu không đồng ý và không có phiếu nào chống đối.
Chính Đức Giáo Hoàng Gioan 23 lúc hấp hối, miệng Ngài đã liên lỉ lập lại câu này: “Làm sao để trở nên một” (Lữ Hành Hy Vọng 556).
3) Tại sao phải trở nên một?
Bởi vì chính Thiên Chúa là Đấng duy nhất đã sai “Con Một mình đến thế gian để cứu chuộc nhân loại, đoàn tụ họ nên một. Trước khi tự hiến làm lễ vật tinh tuyền trên Thánh giá, Người đã cầu cùng Chúa Cha cho các tín hữu rằng: “Xin cho hết thảy được hiệp nhất như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để chính họ cũng được nên một trong Ta, cho thế gian tin rằng Cha đã sai Con” (Ga. 17, 21). Người đã thiết lập trong Giáo hội của Người nhiệm tích Thánh Thể kỳ lạ vừa là dấu chỉ, vừa thể hiện sự hiệp nhất của Giáo hội. Người ban cho các môn đệ một giới răn mới là tình thương yêu nhau và ban Thánh thần an ủi, bảo trợ và sự sống để ở với họ mãi mãi (Sắc Lệnh Hiệp Nhất - số 2).
Thế giới cũng đang đi về hướng hiệp nhất: Hiệp nhất Châu Âu, hiệp nhất Đông Nam Á, Thái Bình Dương, Trung Đông... để sống hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển, đúng câu “đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”.
Chúa Thánh thần hiện xuống đã thúc đẩy các môn đệ mở tung căn phòng đóng kín, ra đi thực hiện nhiệm vụ hiệp nhất muôn dân như Chúa Giêsu đã trao phó cho các ông trước lúc Người lên trời “Hãy nhận lấy Thánh thần để đến với muôn dân, rửa tội cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần để muôn dân trở nên môn đệ Thầy” (Mt. 28, 29).
Không còn thứ hiệp nhất nào hơn nữa: Một sự hiệp nhất Thiên Chúa với loài người, một sự hiệp nhất nên một gia đình Thiên Chúa, một sự hiệp nhất trời và đất. Không có gì phá vỡ sự hiệp nhất đó, trừ có tội lỗi. Chính tội lỗi đã cắt đứt dây tình yêu hiệp nhất giữa Thiên Chúa và loài người.
Nay Con Thiên Chúa đã chiến thắng tội lỗi, rửa sạch tội lỗi trong Thánh thần, cho nên bài Tin mừng hôm nay nói: “Hãy nhận lấy Thánh thần, hãy tha tội cho họ”, để thực hiện một kỳ công hiệp nhất, “cho họ nên một trong Chúng Ta” (Ga. 17, 21).
Lạy Cha, xin ban cho Giáo hội “một lễ Hiện xuống mới” để canh tân bộ mặt trái đất, xin Thánh thần Tình yêu xuống đốt lửa kính mến trong lòng chúng con và mọi người để thực hiện sự hiệp nhất, một đức tin, một phép rửa, một Thiên Chúa là Cha muôn dân.
Có thể nói, đa số các Tông đồ bắt đầu đi theo Đức Giêsu đều nhằm mục đích trần thế: Mong muốn Đức Giêsu làm vua thế gian để được làm ông nọ bà kia trong nước của Ngài. Bằng chứng là việc bà mẹ của Gioan và Giacôbê đã có lần xin cho hai con được ngồi một đứa bên hữu một đứa bên tả trong nước của Ngài (x. Mt 20, 20-21). Còn các Tông đồ khác thì lại tranh dành xem ai lớn ai bé? (x. Mc 9,34).
Trong suốt ba năm theo Đức Giêsu, các Tông đồ chưa hiểu thấu những giáo huấn và những phép lạ Ngài làm. Chẳng hạn, khi Đức Giêsu nói với những người Do thái hãy phá hủy đền thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xâu dựng lại (x. Ga 2,19). Những người Do thái và chính các Tông đồ không hiểu điều Đức Giêsu nói. Thánh Gioan cho biết: “Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người. Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói”(Ga 2,21-22). Khi Đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của mình, các môn đệ chẳng hiểu điều Ngài muốn nói và họ sợ hãi không dám hỏi Ngài (x. Mc 9,31-32).
Chính vì không hiểu hết về giáo huấn của Đức Giêsu nên các môn đệ khó chấp nhận, đặc biệt là những giáo huấn đó đòi hỏi sự hy sinh, từ bỏ. Cụ thể, Thánh Phêrô đã bị Đức Giêsu mắng cho một trận “đồ Sa-tan,” vì ông dám ngăn cản Ngài bước vào cuộc khổ nạn (x. Mc 8,32-33). Cũng vì không hiểu được ý nghĩa của cuộc khổ nạn Thầy mình phải chịu nên Phê-rô đã chối Thầy ba lần trước một tớ gái (x. Mt 26,69-75). Các Tông đồ còn lại thì bỏ trốn hết. Vì chưa hiểu hết giáo huấn của Đức Giêsu nên khi Đức Giêsu chịu chết, các ông đã vào phòng đóng kín cửa lại vì sợ người Do Thái, sợ mình cũng chung với số phận của Thầy.
Tại sao các Tông đồ lại mê muội, không thấu hiểu hết giáo huấn và phép lạ Đức Giêsu? Vì các ông chưa được ban Chúa Thánh Thần. Chính Đức Giêsu đã nói: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi. Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến” (Ga 16, 12-14). Ngài còn cho biết thêm: “Chúa Thánh Thần mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, sẽ dạy cho các con mọi sự và sẽ nhắc nhở cho các con mọi điều Thầy đã nói với các con”(Ga 14,26).
Nhưng khi được ban Chúa Thánh Thần, các Tông đồ được biến đổi, trở thành những con người mới, những con người của Tin mừng. Thật vậy, sau khi sống lại, Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ và ban Thánh Thần cho các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai, thì người ấy được tha, các con cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,23). Đặc biệt, hôm nay trong ngày lễ Ngũ Tuần, khi mà các môn đệ đang tề tựu một nơi, có cả những người Do thái từ khắp nơi tụ về, một hiện tượng kỳ lạ đã xảy đến như chúng ta vừa nghe sách Công Vụ Tông đồ kể lại: “Bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp. Lại có những lưỡi như thể bằng lửa xuất hiện và rải rác đậu trên từng người. Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tuỳ theo Thánh Thần ban cho họ nói” (Cv 2,2-4). Đây là một đặc sủng ngôn ngữ: Chúa Thánh Thần tác động trực tiếp trên các Tông đồ để các ông nói được các ngôn ngữ. Bởi vì, chính các thính giả hôm đó làm chứng rằng họ hiểu những gì các Tông đồ nói: “Chúng tôi đều nghe họ nói tiếng của chúng tôi mà ca tụng những kỳ công của Chúa” (Cv 2,11).
Từ khi được ban Chúa Thánh Thần, các Tông đồ hiểu thấu đáo về giáo huấn và phép lạ của Đức Giêsu, nên họ có một cái nhìn khác về Đức Giêsu và về sứ mạng của Ngài. Vì thế, các Tông đồ can đảm thực hành những gì mà Đức Giêsu đã trao phó. Thánh Phê-rô công khai rao giảng Tin mừng Đức Giêsu đã chết và phục sinh. Bài giảng đầu tiên của Ngài đã có khoảng 3000 người xin lãnh nhận Bí tích Rửa Tội (Cv 2,41). Sau đó, các ngài phân chia nhau đi khắp mọi nơi rao giảng Tin mừng và làm chứng về Đức Giêsu. Đi liền với lời rao giảng và làm chứng đó là sự bắt bớ, tù đày. Dẫu bị cấm cách, bắt bớ, tù đày, nhưng các Ngài không sợ hãi. Trái lại, lòng họ còn cảm thấy hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su (x. Cv 5, 41). Cuối cùng, các Tông đồ đã can đảm chấp nhận cái chết để làm chứng cho lời mình rao giảng.
Nhờ đâu, các Tông đồ làm được như vậy? Đó là nhờ sự tác động của Chúa Thánh Thần. Đúng như lời Đức Giêsu đã nói: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn”(Ga 16,13). Chúa Thánh Thần “sẽ tố cáo thế gian về tội lỗi, về sự công chính và về án phạt. Về tội lỗi vì họ đã không tin vào Thầy. Về sự công chính, vì Thầy về cùng Cha, và các con sẽ không còn thấy Thầy. Về án phạt, vì thủ lãnh thế gian này đã bị xét xử”(Ga 16,8-11). Chúa Thánh Thần còn nói thay cho các Tông đồ, nhất là những khi bị bắt bớ tù đày: “Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em” (Mt 10,19-20).
Tóm lại, Chúa Thánh Thần đã làm thay đổi đời sống nơi các Tông đồ. Chúa Thánh Thần giúp các Tông đồ hiểu thấu những giáo huấn và phép lạ của Đức Giêsu đã làm. Chúa Thánh Thần tiếp tục thực hiện vai trò đó nơi Giáo hội cho đến tận thế.
Mỗi người chúng ta được lãnh nhận Chúa Thánh Thần khi chịu Phép rửa tội. Đặc biệt, chúng ta được lãnh nhận một cách sung mãn với bảy ơn cả Chúa Thánh Thần trong ngày chịu Phép Thêm Sức. Chắc chắn Chúa Thánh Thần đã, đang và sẽ giúp chúng ta như xưa Ngài đã giúp các Tông đồ. Vì vậy, chúng ta hãy luôn cầu xin Chúa Thánh Thần, nghe theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong mọi suy nghĩ, lời nói và việc làm để Ngài cũng biến đổi chúng ta trở thành những người của Tin mừng giống như khi xưa Ngài đã biến đổi các Tông đồ.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến và canh tân đời sống chúng con. Amen.
Hôm nay chính là ngày khai sinh của Giáo Hội. Giáo Hội được sinh ra trong lời cầu nguyện và trong Chúa Thánh Thần, trong ngọn gió và trong ngọn lửa thần linh. Thánh Luca, trong sách Tông đồ công vụ đã tường thuật lại một cách khá tỉ mỉ, biến cố trọng đại nầy. Trong suốt mười ngày, các tông đồ đã cùng với Mẹ Maria cầu nguyện trong nhà tiệc ly, và đến ngày lễ Ngũ Tuần, khi mọi người hăm hở đua nhau đi dự lễ ở Đền thờ, thì Chúa Thánh Thần ngự xuống. Ngài đến như một cơn gió mạnh. Chúa Giêsu đã nói gió muốn thổi đi đâu thì thổi. Khoa học hôm nay có thể đo sức mạnh của gió, nhưng gió Thánh Thần thì không có khoa học nào đo lường được. Ngọn gió thần linh đó đã thổi vào tâm hồn các tông đồ và trong cánh buồm của Giáo hội sơ khai và con thuyền của Giáo Hội bắt đầu ra khơi. Đọc sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta thấy rằng chính Chúa Thánh Thần hoạt động nơi các tông đồ, điều khiển mọi hoạt động của các ngài, chỉ dẫn các ngài phải làm gì. Hơn hai mươi thế kỷ, qua bao nhiêu cơn sóng gió, giông bão, con thuyền Giáo Hội vẫn tiếp tục đi tới, mang theo trong mình ơn cứu rỗi. Thánh Thần vẫn tiếp tục hoạt động.
Ngọn gió đó hôm nay vẫn thổi ào ạt vào trong tâm hồn các kitô hữu và trong thế giới. Không một cái gì tốt đẹp xảy ra trong cuộc sống chúng ta mà không do Thánh Thần.
Thánh Thần đến với chúng ta dưới hình thức ngọn lửa. Ngài là ngọn lửa thiêng đốt nóng tâm hồn những kẻ tin, giúp họ thắng vượt mọi khó khăn để trung thành với tình yêu Chúa, giúp họ hăng say bước theo Chúa Giêsu. Ngọn lửa tình yêu đó đã nung đốt tâm hồn các kitô hữu trong những cơn bách hại. Nhờ đó họ vui mừng liều mạng cho Chúa mà không sợ sệt, chân thành phục vụ mọi người. Ngọn lửa của Ngài mang lại ánh sáng cho mọi tâm hồn thiện chí, giúp chúng ta nhìn thấy được những thực tại vô hình, nhìn thấy Chúa trong cuộc sống, và trên hết, giúp chúng ta yêu mến Chúa sâu đậm hơn.
Thánh Thần Chúa, theo thánh Phaolô, dạy cho chúng ta biết Chúa Cha, dạy chúng ta gọi Chúa Cha như Chúa Giêsu đã gọi, với tất cả tỉnh yêu con thảo: Abba, lạy Cha. Ngài cầu nguyện trong chúng ta, cầu cho chúng ta. Chúng ta là đền thờ của Ngài. Ngài ngự trong chúng ta và ban cho chúng ta sự sống mới, sự bình an của Ngài. Chúa Giêsu, sau khi sống lại, đã hiện ra cho các tông đồ và ban bình an cho các ngài và thổi hơi Thánh Thần vào họ, sai họ đi rao giảng Tin Mừng, mang ơn tha thứ cho mọi người: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha…”
Thánh Thần Chúa cũng là Thánh Thần của sự hiệp nhất. Ngài quy tụ mọi người trong một Giáo Hội duy nhất, không phân biệt chủng tộc màu da, tất cả đều là một trong Ngài. Ngài biến Giáo Hội thành một thân thể duy nhất, tuy có rất nhiều chi thể khác nhau, nhưng tất cả chỉ là một. Ngài là Thánh Thần Tình Yêu, Ngài giúp mọi người hiệp nhất: “ Chỉ có một Thân Thể và một Thánh Thần…một Thiên Chúa”.
Chúng ta biết Chúa Thánh Thần, hằng ngày chúng ta luôn cầu nguyện với Ngài, nhưng ít người để ý đến Ngài, vì chúng ta không thấy Ngài. Chúng ta là những con người vật chất, những gì chúng ta không thấy, chúng ta dễ lãng quên. Vì thế nhiều người không chú ý đến Chúa Thánh Thần, đang lúc Ngài chính là Đấng Bảo Trợ luôn kề cận chúng ta trong mọi hoàn cảnh. Thánh Phalô khuyên chúng ta đừng giập tắt Chúa Thánh Thần bằng những hành động tội lỗi… Đừng làm phiền lòng Thánh Thần”bằng sự thờ ơ lãnh đạm, bằng sự ươn lười làm việc lành, nhất là bằng những hành động thiếu bác ái. Thánh Thần Tình Yêu không thể chấp nhận những ganh tị, giận hờn, loại trừ anh em.
Chúng ta không thể lãng quên Thánh Thần, vì Ngài giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta bằng những tiếng rên siết khôn tả”.
Nơi bàn thờ nầy, chính Thánh Thần Chúa làm cho bánh rượu trở nên Mình và Máu Chúa Giêsu, để chúng ta luôn có lương thực cần thiết để tình yêu Chúa trong chúng ta không suy giảm, nhưng càng ngày càng thấm thiết hơn, mãnh liệt hơn. Thánh Thần Chúa sẽ làm cho chúng ta gắn bó hơn với Đấng đã liều mạng cho chúng ta, sống lại cho chúng ta để chúng ta không còn sống cho chính mình nữa mà sống cho Đấng đã chết và sống lại cho chúng ta.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; lạy Đấng an ủi tuyệt vời, xin ngự đến. (Ca tiếp liên)
Lời cầu nguyện trên đây được Giáo hội tha thiết dâng lên Thiên Chúa Cha cùng với Chúa Giêsu để Người đoái thương đổ tràn Thánh Thần xuống trên Giáo hội và trên mỗi người chúng ta.
Hồi tưởng lại thời điểm "sau khi Chúa Giêsu lên trời, Các Tông đồ xuống khỏi núi … trở về Giêrusalem… các ông lên lầu gác… Mọi người đều đồng tâm kiên trì cầu nguyện, cùng với mấy người phụ nữ, và Bà Maria mẹ Chúa Giêsu, kiên trì cầu nguyện” (x. Cv 1, 12-14). Chuyện gì đã xảy ra khi họ đang cầu nguyện với nhau vậy? “Chính lúc tất cả các môn đệ đều tề tựu một nơi, bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp. Lại có những lưỡi như thể bằng lửa xuất hiện và rải rác đậu trên tưng người. Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tùy theo Thánh Thần ban cho họ nói" (Cv 2, 4). Ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống cách uy phong trên các Tông đồ; sứ mạng của Giáo Hội trong thế giới đã bắt đầu như thế. Chính Chúa Giêsu đã chuẩn bị cho 11 Tông đồ khi yêu cầu các ngài hãy ở lại chung với nhau để chuẩn bị lãnh nhận hồng ân Chúa Thánh Thần. Và các ngài họp nhau trong kinh nguyện cùng với Mẹ Maria trong Phòng Tiệc Ly, để chờ biến cố Chúa đã hứa (x. CV 1,14). Họ đã làm như Chúa Giêsu truyền, và hết thảy được đầy Chúa Thánh Thần (x. Cv 2, 4).
Thật là một kỷ niệm tuyệt đẹp về ngày Chúa Thánh Thần được sai phái xuống trên các Tông đồ và tất cả những người qui tụ chung quanh họ, ngày mà chúng ta có lại được hồng ân vô giá mà mưu chước Quân Thù và sự yếu đuối của nhân loại đánh mất là phúc Thien Đàng.
Gioan Taulê (1300-1361), tu sĩ dòng Daminh ở Strasbour nói: "Nơi" mà sách Tông đồ Công vụ nói ở đây tượng trưng trước hết cho Hội Thánh, nơi Thiên Chúa ngự, nhưng cũng là biểu tượng của mỗi người chúng ta là đền thơ Chúa Thánh Thần ngự trị. Một ngôi nhà có nhiều tầng, nhiều phòng, nhiều công dụng, cũng như nơi con người có những khả năng, giác quan và nghị lực khác nhau, Chúa Thánh Thần viếng thăm tất cả cách đặc biệt. Khi Chúa Thánh Thần đến, Ngài nhào nặn, cổ vũ và gợi ý nơi con người một số khuynh hướng tốt, Ngài tác động và soi sáng họ. Cuộc viếng thăm và tác động nội tâm này, hết thảy mọi người đều được ơn không ai giống ai. Mặc dù Chua Thánh Thần là Đấng duy nhất hoạt động nơi con người. (Trích bài giảng số 26, 2 ngày lễ Ngũ Tuần)
Những "Hoa quả của Thần khí là: mến yêu, vui mừng, bình an, rộng rãi, tốt lành, lương thiện, tín trực" (Gal 5, 22).
Phải khẳng định rằng "Chúa Thánh Thần đến vì chúng ta. Ngài không chỉ đến "để ở với Giáo hội luôn mãi" (Ga 14, 16). Như lời Chúa Giêsu hứa: "Để Người ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế".
Ngày hiện xuống, Chúa Thánh Thần còn đổ tràn đầy ân sủng và ơn đoàn sủng xuống trên Giáo hội thật phong phú dồi dào! Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nói: Đây là mầu nhiệm của Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống: Chúa Thánh Thần soi sáng tâm trí con người, và qua việc soi sáng cho họ biết về Chúa Kitô chịu đóng đinh, chết và đã sống lại, Chúa Thánh Thần chỉ cho biết con đường để trở nên giống Chúa hơn, nghĩa là trở nên "sự biểu lộ và phương thế" của tình yêu, một tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa (x. Deus Caritas Est, số 33).
Khi nói đến tác động của Chúa Thánh Thần trên người rao giảng Tin Mừng, Đức Phanxicô viết: " Những người rao giảng Tin Mừng đầy Thánh Thần có nghĩa là những nhà truyền giáo mở lòng ra với tác động của Chúa Thánh Thần mà không sợ hãi. Trong Ngày Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã làm cho các Tông Đồ ra khỏi chính mình và biến các ngài thành những người loan báo những việc cao cả của Thiên Chúa, mà mỗi thính giả bắt đầu hiểu theo ngôn ngữ riêng của mình. Chúa Thánh Thần cũng đổ vào chúng ta sức mạnh để loan báo sự mới mẻ của Tin Mừng với sự mạnh bạo lớn tiếng, ở mọi nơi và mọi lúc, ngay cả những lúc phải lội ngược dòng. Chúng ta hãy cầu khẩn Ngài hôm nay, để được thiết lập một cách vững chắc trên cầu nguyện, vì nếu không có cầu nguyện thì mọi hoạt động có nguy cơ trở thành trống rỗng và rốt cuộc lời rao giảng cung trở nên không có hồn. Chúa Giêsu muốn chúng ta trở thành những nhà truyền giáo loan báo Tin Mừng không chỉ bằng lời nói, nhưng trên hết, bằng một cuộc sống được sự hiện diện của Thiên Chúa biến đổi". (Trích Tông Huan Niềm Vui Phúc Âm, số 259)
Đức Phanxicô còn nhấn mạnh: Chúa Thánh Thần là linh hồn của việc truyền giáo "Khi chúng ta nói rằng một điều gì có một "tinh thần", thì thường ám chỉ một số động lực bên trong tạo ra một sự thúc đẩy, động cơ, khích lệ cùng làm cho các hành động cá nhân và cộng đồng có ý nghĩa. Một việc truyền giáo đầy Thánh Thần khác xa với một mớ những công tác bị coi như những nhiệm vụ nặng nề mà chúng ta chỉ đơn thuần phải làm, hoặc việc gì bị coi như mâu thuẫn với những xu hướng và ước muốn của chúng ta. Tôi rất ước ao tìm được những lời để cổ võ một mùa rao giảng Tin Mừng nhiệt thành, vui mừng, quảng đại, táo bạo, tràn đầy tình yêu cho đến cùng và một đời sống truyền cảm! Nhưng tôi biết rằng không có động lực nào có thể đủ nếu không có ngọn lửa của Chúa Thánh Thần đốt cháy trong lòng chúng ta. Cuối cùng, truyền giáo với tinh thần là truyền giao với Chúa Thánh Thần, vì Ngài là linh hồn của việc truyền giáo của Hội Thánh". (Trích Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, số 261) Cùng với Mẹ Maria và toàn thể các thánh trên Trời, chúng ta cùng cầu nguyện như sau: "Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Xin Ngài đến canh tân, lay động và thúc đẩy Hội Thánh mạnh dạn ra khỏi chính mình để rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc. Xin Ngài đến đổ tràn xuống tâm hồn các tín hữu, và đốt lên trong họ ngọn lưa Tình Yêu Chúa trong lòng họ!" Amen.
Chúa Giêsu về trời thực hiện lời Ngài đã hứa ban Chúa Thánh Thần (Ga 14, 16) để củng cố niềm tin của các môn đệ và tăng cường sức mạnh giúp các ông can đảm, mạnh dạn tuyên xưng đức tin và đi ra rao giảng Tin Mừng cho muôn dân.
Chúa Thánh Thần hiện xuống tuôn đổ muôn ơn của Ngài trên các môn đệ. Chúa Thánh Thần nhắc lại và giúp các môn đệ hiểu rõ hơn những điều Chúa Giêsu đã dạy khi còn tại thế, nhất là về thân thế sự nghiệp của Chúa Giêsu, về cái chết ô nhục trên thập giá và sống lại vinh quang của Người: "Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em" (Ga 14, 26).
Ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống là một cuộc biến đổi kỳ diệu: bộ mặt trái đất được canh tân; chỗ trật đường lạc lối được chỉnh đốn lại; điều cứng cỏi được uốn nắn; chỗ lạnh lùng được sưởi ấm; chỗ khô khan được tưới gội; nơi thương tích được chữa cho lành, nơi sầu khổ được ủi an... Chúa Thánh Thần hiện xuống đem lại cho các môn đệ nguồn sống mới, niềm vui mới, biến đổi các ông từ những con người yếu đuối, hèn nhát, không dám công khai đi lại, không dám họp nhau cầu nguyện, trở thành những con người can trường rao giảng sứ điệp của Tin mừng. Khi chưa nhận được Chúa Thánh Thần, các ông ẩn trốn ở trong nhà với cửa đóng then cài, vì sợ người Do-thái: "Nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái" (Ga 20, 19). Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các ông đã trở thành những con người mạnh mẽ trong đức tin, vững vàng trong đức cậy, nồng nàn trong đức mến. Các ông đã cam đảm, mở cửa, công khai đi lại, hăng hái rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh, chịu chết và sống lại hiển vinh, bất chấp mọi cấm cản, mọi cực hình, mọi hiểm nguy đe dọa. Các ông còn dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho Tin Mừng Chúa Kitô.
Chúa Thánh Thần biến đổi các môn đệ từ những con người quê mùa, ít học, trở thành những con người thông thái, nói những điều chưa hề được nghe nói bao giờ: nói được các thứ tiếng mới lạ, nói tiên tri... làm được những việc lạ lùng, mà sức con người không thể làm được: trừ quỷ, chữa bệnh... "Ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho" (Cv 2, 4). Người nghe ai cũng ngạc nhiên "Họ sửng sốt, thán phục và nói: những người đang nói đó không phải là người Ga-li-lê cả ư? Thế sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta?" (Cv 2, 7-8).
Khi thổi hơi để ban Thánh Thần cho các môn đệ, Chúa Giêsu chúc bình an và sai các ông đi rao giảng Tin Mừng, làm chứng nhân cho Chúa: "Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em" (Ga 19, 21). Như vậy, việc lãnh nhận Thánh Thần còn có mục đích quan trọng là để làm công việc của Thiên Chúa. Sách Công Vụ Tông Ðồ kể lại, ngay sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các tông đồ lập tức làm việc cho Thiên Chúa, rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng.
Thánh Thần được ban xuống trên những ai xứng đáng lãnh nhận ơn của Ngài với năng lực kèm theo, không phải để phục vụ cho lợi ích của riêng mình hay phục vụ vì lợi ích của một nhóm người, hoặc một đảng phái nào đó..., mà phục vụ vì lợi ích chung của nhân loại, không phân biệt tôn giáo, không phân biệt giàu nghèo, không phân biệt chủng tộc: "Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung" (1Cr 12, 7). Vì thế, những ai lãnh nhận được ơn của Thánh Thần phải dùng ơn ấy để phục vụ mọi người, nhất là để loan báo Tin Mừng, giúp cho con người được thăng tiến về đời sống vật chất cũng như tinh thần, giúp cho phẩm giá của mọi người được tôn trọng, nhất là thăng tiến về đời sống tâm linh, giúp mọi người nhận biết và yêu mến Thiên Chúa, để canh tân Giáo Hội, xã hội và thế giới ngày càng tốt đẹp hơn.
Chúa Thánh Thần ban ơn để biến đổi và thánh hóa chúng ta từ những con người yếu đuối, hèn kém, trở nên những con người mạnh mẽ, can đảm, để chúng ta làm việc cho Nước Chúa, nói về Chúa cho muôn dân, làm chứng cho Chúa trước mặt người đời. Chúng ta phải trung thành với ơn Chúa, phải dùng khả năng Chúa ban để phục vụ Chúa, và mưu ích cho đồng loại. Như Thánh Phaolô đã nói: "Tôi không làm cho ân huệ của Thiên Chúa ra vô hiệu" (Gl 2, 21). Chúng ta hãy để Chúa Thánh Thần hoạt động trong ta, hãy sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô đã khuyên: "Anh em hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thoả mãn đam mê của tính xác thịt nữa. Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí" (Gl 5, 16-17).
Chúng ta hãy để Chúa Thánh Thần hướng dẫn, đổi mới chúng ta, để ta nhận được hoa trái của Thần Khí là: "Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ" (Gl 5, 22-23). Với những ơn đặc sủng của Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ trở thành những "chiến sĩ Phúc Âm", ra đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho muôn dân nước, can đảm tuyên xưng đức tin trước mặt thiên hạ, thà chết chẳng thà bỏ đạo, bất chấp mọi ngăn cản, mọi cực hình, mọi hiểm nguy đe dọa của ma quỷ; của thế gian; của kẻ vô thần; của tà thần... Chúng ta không chỉ tuyên xưng đức tin trên môi miệng mà còn phải tuyên xưng bằng việc làm cụ thể. Hơn thế nữa, chúng ta còn phải dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho Tin Mừng Chúa Kitô.
Đấng là Thần linh sáng tạo không ngừng biến đổi sự lộn xộn hỗn mang trong vũ trụ trở nên cho có trật tự lớp lang.
Đấng hằng luôn đồng hành thăm viếng tâm hồn con người, và ban ơn đức cho đời sống được vươn lên niềm hy vọng.
Xin tấu lên khúc hát lòng biết ơn Đức Chúa Thánh Thần,
Đấng đã tạo dựng nên sự sống thân xác cùng trí khôn tinh thần con người từ giây phút đầu tiên trong cung lòng mẹ cha và trong suốt dọc đời sống.
Đấng ban niềm an ủi những khi tinh thần chùng xuống gặp thất vọng lo âu.
Xin cùng với ánh nến lòng cám ơn hướng tâm hồn về Đức Chúa Thánh Thần,
Đấng luôn luôn phân phát ân đức khả năng suy nghĩ sáng tạo phù hợp cho đời sống con người vào từng giai đoạn đường đời.
Đấng là hơi thở sự sống của Thiên Chúa cho trần gian được gìn giữ không bị héo tàn.
Xin đốt lên ngọn lửa lòng tri ân Đức Chúa Thánh Thần,
Đấng thúc đẩy tâm trí con người mạnh dạn can đảm dấn thấn sống làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa bằng lời nói, bằng sự hy sinh đời sống cho việc bác ái giữa lòng xã hội.
Đấng khơi lên ngọn lửa lòng yêu mến Giáo Hội, tình tự quê hương đất nước dân tộc giống nòi nơi con người.
Xin dâng tâm tình cảm tạ Đức Chúa Thánh Thần,
Đấng giúp con người biết suy nghĩ lo liệu cho đời sống thoát ra khỏi vòng lung lạc chao đảo, cùng tìm đến con đường ngay chính chân thật có bình an.
Đấng như làn gió vực dậy phấn chấn tinh thần con người, những khi họ bị sống trong thất vọng, bị chà đạp đối xử bất công.
Xin ghép thành dòng chữ ca tụng Đức Chúa Thánh Thần,
Đấng hằng trợ giúp tâm trí con người biết phân biệt thế nào là điều phải và lẽ trái, ánh sáng và bóng tối, tốt và xấu, niềm vui và đau khổ, yêu thương và hận thù, thánh đức và tội lỗi, hòa bình và chiến tranh, công lý và bất công.
Đấng là ngọn lửa chiếu ánh sáng cho lương tâm con người tìm đường đi về bờ bến nơi Thiên Chúa, nguồn sự sống và tình yêu thương tha thứ.
Xin cùng với dòng nước chảy ngoài thiên nhiên âm thầm nói lên tâm tình của người lãnh nhận ân đức từ Đức Chúa Thánh Thần,
Đấng là hình ảnh sự hợp nhất và tình yêu của Ba ngôi Thiên Chúa cho đời sống con người trong Giáo Hội, trong xã hội và trong gia đình.
Đấng như bọt nước sôi khơi gợi lên những ý tưởng cho tâm trí đi tìm tòi ý nghĩa đời sống, và nhận ra Chúa Giêsu là Thiên Chúa mang ơn cứu độ đến cho trần gian.
Hằng năm Giáo hội mừng đại lễ kính Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống kết thúc mùa Phục Sinh.
Đức Chúa Thánh Thần là Ngôi Thứ Ba Thiên Chúa. Nhưng Ngài lại không có một hình tượng cụ thể nhất định nào.
Chim bồ câu là hình tượng chỉ về Chúa Thánh Thần. Hình ảnh này nói lên sứ điệp hòa bình, sự nhẹ nhàng thanh thoát của Đức Chúa Thánh Thần trong không gian.
Làn gió, dòng nước, ngọn lửa cũng là hình ảnh diễn tả về Đức Chúa Thánh Thần. Những hình ảnh này vẽ lên sức sống cùng sự nồng nhiệt vươn lên tràn đầy niềm hy vọng của Đức Chúa Thánh Thần.
Đức Chúa Thánh Thần là một nhân vật, nhưng lại được diễn tả trình bày bằng những hình ảnh biểu tượng, và hơn nữa bằng con số bảy.
1. Đâu là ý nghĩa của con số 7?
Con số 7 là con số toán học diễn tả nhiều biểu tượng về sự hiểu biết cùng khôn ngoan, là con số căn bản về cấu trúc, về sự trọn vẹn tràn đầy.
Số liên kết do hai số 4 và 3 cộng lại với nhau diễn tả sự hòa hợp về trật tự, và có giá trị như một con số "thánh".
Một tuần lễ có 7 ngày. Thành phố thủ đô Rô-ma được xây dựng trên 7 qủa đồi. Thế giới có 7 kỳ quan theo quan niệm thời Thượng cổ.
Trong âm nhạc có bảy nốt cung nhạc: Do, Re, Mi, Fa, Sol, La, Si.
Trong Do-thái giáo cây nến có bảy ngọn tỏa ra như một hình quạt là biểu tượng về ánh sáng thần linh thánh đức. Đây là một biểu tượng nguyên thủy lâu đời trong đạo Do-thái.
Trong Phật Giáo nói đến 7 tầng trời khác nhau. Thời thượng cổ xa xưa người ta biết đến 7 hành tinh trong đó bao gồm cả mặt trời và mặt trăng.
Người Hy-lạp nói dến con số 7 trong những truyện thần thoại: 7 cổng thành của Theben, 7 người con trai của Helios, 7 sự lạ lùng trong thế giới...
Trong Kinh Thánh nơi sách Khải huyền của Thánh Gio-an nói đến 7 Giáo đoàn, 7 dấu ấn, 7 tầng trời nơi có Thiên Thần ngự.
Trong Giáo Hội Công giáo có 7 Bí tích: Rửa tội, Thêm sức, Giải tội, Mình Thánh Chúa, Hôn phối, Truyền chức và Xức dầu.
Ngày trước thời Công đồng Vatican II (1965) các Giáo sỹ trong Giáo Hội được truyền 7 chức thánh. Nhưng từ sau Công đồng chỉ còn: chức Phó tế và chức Linh mục.
Giáo Hội theo truyền thuật lại nơi sách tiên tri Isaia 11, 2 nói về bảy ân đức của Đức Chúa Thánh Thần: " Khôn ngoan, thông minh, lo liệu, sức mạnh, hiểu biết, đạo đức và kính mến Chúa"
2. Đâu là ý nghĩa của 7 ân đức Chúa Thánh Thần cho đời sống đức tin?
2.1. Ngọn lửa ơn khôn ngoan
Khôn ngoan đây không phải là sự biết nhiều, biết giỏi cùng khá hơn người khác, nhưng là cách sống và là một nhân đức của một tâm hồn biết nhìn nhận sự chân thành, biết giới hạn của mình, cùng nhận ra hoàn cảnh đời sống và người khác.
Vì thế, trong những hoàn cảnh khó khăn phức tạp chúng ta cầu xin ngọn lửa Chúa Thánh Thần soi sáng cho tâm trí nhìn rõ việc phải làm phải quyết định cho đúng.
"Qủa vậy, nơi Đức Khôn ngoan có một Thần Khí tinh tường và thánh thiện" (Titô 3,6).
2.2. Ngọn lửa ơn thông minh
Thông minh đây không phải là học qua hay đọc qua là hiểu hết, nhưng là biết suy nghĩ tìm hiểu cho sâu rộng thêm. Nơi nào thiếu điều này, nơi đó thiếu phát triển mở rộng, đổi mới, cùng học hỏi thăng tiến thêm lên.
Chúng ta người tín hữu Chúa Kitô cầu xin ngọn lửa ơn thông minh của Chúa Thánh Thần như ánh sáng thần thánh như sức mạnh cùng sự sâu rộng giúp cho tâm trí mạnh mẽ phấn khởi vươn lên.
"Ta sẽ ban tặng các ngươi một qủa tim mới, sẽ đặt Thần khí mới vào lòng các ngươi" (Edekien 36,26)
2.3. Ngọn lửa ơn biết lo liệu
Xưa nay ai cũng cần lời an ủi trợ giúp trong hoàn cảnh đời sống. Lời trợ giúp không phải là mệnh lệnh truyền, nhưng là lời khuyên nhủ ẩn chứa tôn trọng sự tự do cùng quyết định của người khác.
Vì thế chúng ta cầu xin ngọn lửa ChúaThánh Thần ơn biết lo liệu trong những khi trên đường hoài nghi còn đang đi tìm kiếm cho quyết định trong đời sống.
"Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, dedể tôi loan báo Tin mừng" (Lc 4,18)
2.4. Ngọn lửa ơn sức mạnh
Sức khoẻ, sức mạnh mọi người đều cần có, nhất là sứ mạnh tinh thần. Có sức mạnh tinh thần đời sống mới vươn lên niềm hy vọng, mới có niềm vui phấn khởi xây dựng đời sống đi lên.
Những khi tinh thần uể oải, hoài nghi chùng xuống là những lúc cần thiết phải cầu xin ngọn lửa ơn sức mạnh của Thánh Thần giúp củng cố vực dậy đứng lên tiếp tục con đường sống.
"Anh em sẽ nhận được suúc mạnh của Thánh Thần khi người ngự xuống trên anh em" (Cv 1,8)
2.5. Ngọn lửa ơn hiểu biết
Sự hiểu biết dù chỉ là những sự thông thường nhỏ bé trong đời sống luôn cần thiết trong cuộc sống. Sự đào tạo giáo dục là căn bản cho sự hiểu biết. Trong đời sống đức tin sự hiểu biết không hẳn là biết nhiều, nhưng là hiểu biết nguồn gốc đời sống, nguồn gốc vũ trụ là do Thiên Chúa tạo dựng nên.
Sự hiểu biết sâu rộng giúp đời sống dễ dàng chấp nhận khoan dung với người khác hơn. Xin ngọn lửa ơn hiểu biết của Đức Chúa Thánh Thần giúp ta thaót ra khỏi vùng bóng tối lộn xộn làm tâm trí ta hoang mang chao đảo.
"Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ thần khí mà tiến bước" ( Galata 5,25).
2.6. Ngọn lửa ơn đạo đức
Đạo đức không phải chỉ là giữ những thói quen tốt lành, nhưng là sự ngay thẳng chân thật trong đời sống.
Ngọn lửa ơn đạo đức của Chúa Thánh Thần giúp tâm hồn con người tìm nhận Thiên Chúa chân thật nguồn yêu thương tha thứ.
"Anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em" (1 Cr 3,16).
2.7. Ngọn lửa ơn kính mến Chúa
Kính mến Chúa là lòng kính trọng mầu nhiệm bí ẩn về Thiên Chúa mà tâm trí con người không làm sao cắt nghĩa hiểu được. Đây không phải là sự sợ hãi trước mầu nhiệm thần thánh, nhưng là lòng tôn kính gìn giữ điều không thể cắt nghĩa bằng lời ũng như hiểu thấu bằng suy nghĩ lý luận được. Kính mến Chúa cũng đồng thời giúp tâm trí sống lòng khiêm nhượng trước Đấng Toàn Năng.
Xin ngọn lửa ơn kính mến Chúa của Chúa Thánh Thần giúp tâm trí không chạy theo những thân tượng gỉa tạo. Nhưng tin theo một Thiên Chúa chân thật, Đấng là mầu nhiệm ẩn dấu cho tâm trí con người, cùng gần gũi với con người hơn cả.
"Thánh Thần ngự xuống trên tất cả những người đang nghe lời Thiên Chúa" (Cv 10,44).
Hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu hai tước hiệu Giáo Hội vốn thường dùng để ca tụng Chúa Thánh Thần. Trước hết, Ngài là Đấng an ủi, như trong Ca tiếp liên của thánh lễ hôm nay:
- Lạy Đấng an ủi tuyệt vời, xin hãy đến. Ngài là sự nghỉ ngơi trong cảnh lầm than, là sự nâng đỡ trong những lúc lệ sầu.
Niềm tin tưởng vào Chúa Thánh Thần sẽ khắc ghi trong tâm trí chúng ta và làm cho cõi lòng chúng ta tràn ngập một niềm vui dạt dào. Thực vậy, theo thánh Phaolô thì hậu quả của Chúa Thánh Thần la gì, nếu không phải là yêu thương, vui mừng và bình an. Đó là tất cả những gì chúng ta cần đến trong cuộc sống.
Thực vậy, con người chúng ta luôn khao khát vì tìm kiếm niềm vui. Thế nhưng, những niềm vui mà thế gian đem lại thì chóng qua và giả trá, như chúng ta thường bảo:
- Ngày vui thì qua mau, lễ hội thì chóng tàn và khoái lạc thì chợt tắt trong giây lát, để chỉ còn lại một sự mệt mỏi, chán chường và tuyệt vọng. Khát vọng này nảy sinh ra khát vọng khác và con người chúng ta sẽ chẳng bao giờ được no thỏa.
Chúng ta hãy nghe lời cảnh cáo của thánh Phaolô:
- Nước Trời không phải là chuyện ăn uống, nhưng là công chính, bình an và mừng vui trong Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần là Đấng an ủi tuyệt vời, như lời Chúa Giêsu đã phán hứa:
- Thầy đã cầu xin với Chúa Cha và Ngài sẽ sai đến với chúng con một Đấng an ủi khác. Ngài là Thần Chân Lý và sẽ ở cùng các con luôn mãi.
Sở dĩ Chúa Thánh Thần là Đấng an ủi tuyệt vời vì Ngài biết chúng ta cần phải được nâng đỡ và khích lệ trong cuộc sống trần gian với biết bao nhiêu đau khổ, cay đắng, cô đơn và biệt ly. Trong tất cả những trường hợp ấy, Chua Thánh Thần sẽ ban cho chúng ta một niền an ủi và một nguồn sức mạnh.
Thế nhưng, niềm vui cao cả nhất là gì? Tôi xin thưa đó là niềm vui được làm con cái Thiên Chúa. Thực vậy, Chúa Thánh Thần là sợi dây tình yêu liên ket Chúa Cha với Chúa Con thế nào, thì Ngài cũng sẽ là sợi dây tình yêu liên kết Chúa Cha với chúng ta như vậy. Ngài sẽ thánh hóa để chúng ta xứng đáng được Chúa Cha yêu thương, cũng như để chúng ta xứng đáng được tham dư vào bản tính của Thiên Chúa, như lời thánh Phaolô đã viết:
- Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: "Abba! Cha ơi!"
Chúa Thánh Thần sẽ hoạt động để chúng ta nên giống Thiên Chúa, và được tham dự vào bản tính tuyệt vời của Ngài, như lời tục ngữ Việt Nam cũng đã bảo:
- Cha nào con nấy. Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh.
Chúa Giêsu đã thực hiện chương trình cứu độ và trao ban cho chúng ta quyền làm con Thiên Chúa. Thế nhưng, chúng ta lãnh nhận được địa vị cao cả ấy nhờ Chúa Thánh Thần, như lời thánh Phaolô đã viết:
- Không ai có thể gọi Đức Kitô là Chúa, nếu không phải bởi Chúa Thánh Thần. Tiếp đến, Chúa Thánh Thần là Đấng giáo huấn. Thực vậy, nhìn vào đời sống của cá nhân cũng như của Giáo hội, chúng ta sẽ nhận ra hoạt đong giáo huấn của Chúa Thánh Thần.
Trước hết là nơi nơi tâm hồn mỗi người chúng ta, cho dù chúng ta đã phạm nhiều tội lỗi, thì những nhân đức cũng vẫn còn tồn tại: Nào là tuân giữ những giới răn của Chúa, nào là kìm hãm bản thân, nào là chấp nhận những hy sinh và thử thách … trong tất cả những điều đó chúng ta thực hiện được là do sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần.
Tiếp đến là trong Giáo hội. Trải qua bao cơn sóng gió, Giáo hội vẫn đứng vững, vẫn phát triển truyền thống đức tin, luân lý và phụng vụ. Suốt dọc hai mươi thế kỷ, Giáo hội đã cống hiến cho nhân loại biết bao nhiêu vị thánh, biết bao nhiêu mẫu gương sáng chói. Và ngày hôm nay, Giáo hội vẫn còn là điểm qui tụ của mọi dân nước, của mọi ngôn ngữ, của mọi nền văn hóa. Hình ảnh của ngày lễ Hiện xuống với một đám đông thuộc mọi thành phần, thuộc mọi tiếng nói, nhưng đã đứng chung cùng nhau tại công trương Giêrusalem, để nghe và hiểu những lời các tông đồ truyền dạy. Đây chính là cuộc qui tụ đầu tiên của mọi dân tộc kể từ ngày bị phân tán bởi ngọn tháp Baben còn dang dở.
Và ngày hôm nay, Giáo hội vẫn còn nắm giữ vai trò nối kết, quy tụ muôn tâm hồn rải rắc trên khắp cùng bờ cõi trái đất về với mình, để rồi lấy sợi dây tình yêu của Chúa Thánh Thần mà liên kết nên một. Bất kỳ nơi nào Chúa Thánh Thần ngự trị, sẽ không còn bất hòa, khủng bố và chiến tranh.
Bởi đó, chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần ngự đến để canh tân tâm hồn chúng ta cũng như được đổi mới mặt địa cầu.
Bấy giờ thiên hạ chỉ nói một thứ tiếng, sau khi định cư tại đồng bằng Senna, họ bàn luận với nhau: Ta hãy nung gạch và xây một ngọn tháp chọc trời, trước khi phân tán tới mọi miền trên mặt đất.
Trước ý định đầy kiêu căng và ngông cuồng đó, Thiên Chúa đã khiến tiếng nói của họ trở nên lộn xộn, người này không còn hiểu được người kia. Thế là họ đành phải ngưng việc xây tháp và ra đi mỗi người một ngả.
Hình ảnh tháp Babel mượn từ các tháp Ziggurat miền Lưỡng Hà: tháp vuông, nhiều tầng, càng cao tầng nhỏ lại. Những tháp này xây trong khu vực đền thờ với mục đích tôn giáo là để bắt liên lạc với thần trên cao bằng dâng lễ vật và làm bệ để thần lên xuống với con người. Ngày nay còn có nhiều di tích về các tháp này. Tác giả Thánh kinh mượn hình ảnh các tháp Ziggurat để cắt nghĩa tại sao loài người lại chia rẽ và phân tán, từ đó dạy bài học tôn giáo. Babel bởi động từ balal (làm cho lộn xộn). Tác giả dùng hình ảnh xây tháp Babel để chỉ tội cộng đồng của con người, muốn dựa vào sức lực và tài năng của mình để chống lại Chúa, gạt bỏ Chúa mà tự quyết định cho mình. Trong Cựu ước, Babel là kinh đô của một đế quốc hùng mạnh tượng trưng cho sự kiêu căng.
2. Chúa Thánh Thần là nguyên lý hiệp nhất.
Một khi con người đã loại bỏ Chúa, tự nhiên chia rẽ và phân tán với đồng loại. Kiêu căng gây chia rẽ. Thiên Chúa là duy nhất và là giềng mối hiệp nhất. Sự hiệp nhất chỉ có thể được tái lập bởi và quanh Thiên Chúa. Ngày Hiên Xuống, Thánh Thần sẽ hiệp nhất nhân loại quanh Đức Kitô Phục Sinh (Cv 2,1-11). Thánh Thần làm vết thương của tháp Babel được lành. Thánh Thần là nguyên lý đoàn kết và hiệp nhất. Thánh Thần làm cho con người hiểu nhau, gần nhau, và giúp Giáo Hoi trở thành Giáo Hội của mọi dân tộc.
Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, một tình trạng mới đã được nảy sinh. Bài đọc 1, sách Công vụ kể: Bấy giờ các môn đệ đang tụ họp ở một nơi, bỗng dưng có tiếng từ trời đến, ao ào như gió thổi, ùa vào nhà nơi các ông đang hội họp. Lại thấy có hình lưỡi lửa tản ra và đậu xuống trên từng người. Tất cả đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần và bắt đầu nói được nhiều thứ tiếng khác nhau.
Trong thời gian lễ Ngũ Tuần, có nhiều người Do thái từ khắp các nơi trở về Giêrusalem. Nghe tiếng ồn, họ liền tuốn đến. Và ai nấy đều bỡ ngỡ vì mỗi người đều nghe các Tông đồ nói tiếng của mình. Họ ngạc nhiên, sửng sốt, thán phục và bàn tán cùng nhau: Phải chăng chúng ta đều nghe họ dùng tiếng thổ âm của mình mà nói đến những sự cao trọng của Thiên Chúa?
Đây chính là một cuộc tụ họp đông đảo mà mọi người đều hiểu được nhau và cảm thông với nhau. Có được như vậy là do tác động của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là nguồn sức sống mãnh liệt. Chúa Thánh Thần là sự trẻ trung của Giáo hội. Chúa Thánh Thần là năng lực đổi mới thế giới. Ngài như luồng gió cường tráng. Ngài như ngọn lửa bừng bừng. Luồng gió và ngọn lửa ấy đã khơi dậy nguồn năng lực tiềm ẩn nơi những bác thuyền chài thất học, biến họ thành những con người thay đổi thế giới. Nhận lãnh ơn Chúa Thánh Thần là nhận lãnh sứ mạng hành động.
Qua hình ảnh lưỡi lửa và ơn nói nhiều thứ tiếng nơi các Tông đồ, chúng ta nhận thấy ngôn ngữ Chúa Thánh Thần dùng đã liên kết và tạo nên sự cảm thông. Đó chính là thứ ngôn ngữ của tình yêu. Thiếu vắng Ngài, thiếu vắng tác động của Ngài là thiếu vắng tình yêu, chúng ta không thể hiểu biết nhau, không thể xích lại gần nhau và không thể cảm thông với nhau. Khi đó hận thù sẽ bùng nổ.
Chương 17, Tin mừng Gioan là lời cầu nguyện đẹp nhất trong toàn bộ Kinh thánh mà Phụng vụ Lời Chúa đọc trong tuần lễ này, trong đó Chúa Giêsu với tư cách là Thượng tế, là Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người đã dâng Chúa Cha lời khấn nguyện. Chúa Giêsu cầu xin Chúa Cha tôn vinh Ngài qua cái chết và sự sống lại của Ngài. Chúa Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ và cầu nguyện cho những ai tin vào Ngài được hiệp nhất trong yêu thương. Chúa Giêsu không cầu xin cho họ có sức mạnh, vì sức mạnh thường đưa con người vào nguy cơ ỷ lại chính mình, kiêu căng tự mãn. Chúa Giêsu cũng không cầu xin cho họ có quyền lực vì quyền lực dễ đưa con người vào hố sâu tham vọng, tham vong thống trị, tham vọng giàu sang và nhiều tham vọng khác. Khi cầu nguyện cho Giáo hội, Chúa Giêsu không xin cho Giáo hội được phát triển bằng sức mạnh và quyền lực, nhưng Ngài chỉ xin cho tất cả được hiệp nhất trong Ngài và hiệp nhất với nhau, để Ngài ở đâu thì họ cũng được ở đó và để họ được chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần là thần Chân Lý và Sự Thật, gìn giữ Giáo hội trong tình thương, hiệp nhất Giáo hội trong Chân Lý và thánh hiến Giáo hội trong Sự Thật.
3. Ngôn ngữ tình yêu
Vào năm 1887, một người Ba Lan tên là Zamenhof, đã tạo ra và cổ động cho một thứ ngôn ngữ quốc tế. Ông ước mong mọi người có thể sử dụng ngôn ngữ ấy một cách dễ dàng. Tuy nhiên, thứ ngôn ngữ quốc tế này đến nay vẫn giậm chân tại chỗ. Thế giới vẫn còn tràn ngập những hận thù và chiến tranh. Không đạt kết quả vì người ta không sử dụng thứ ngôn ngữ của tình yêu và khong đặt tình yêu làm nền tảng cho mọi mối liên hệ.
Tình yêu chân chính là hoạt động của Chúa Thánh Thần. Tình yêu là một thứ ngôn ngữ mà ai cũng có thể hiểu được. Tình yêu không chỉ được nói bằng lời, bằng tiếng. Tình yêu còn được nói bằng thái độ, bằng cử chỉ, bằng việc làm và bằng cả cuộc sống đong đầy tình bác ái huynh đệ.
Một ánh mắt thông cảm, một cử chỉ thân thiện, một việc làm giúp đỡ, ngôn ngữ tình yêu dễ hiểu dễ gần nhau. Ngôn ngữ này giúp con người hiểu được nhau và hiểu được chính Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa là tình yêu nên ai yêu thương thì gặp được Thiên Chúa.
Rất nhiều khi nhờ những hành động bác ái yêu thương mà những kẻ tội lỗi biet đường ăn năn trở về cùng Chúa. Người thời nay không còn tin vào những lý thuyết đẹp, những lời nói hay, những hứa hẹn xa vời thực tế. Những lý thuyết đẹp phải được kiểm nghiệm bằng những kết quả đẹp. Những lời noi hay chỉ có giá trị khi đi đôi với những việc làm tốt. Vì thế, muốn làm chứng cho Chúa, người tín hữu phải có một đời sống đạo gương mẫu. Đời sống đạo gương mẫu không phải chỉ là siêng năng đi đọc kinh, đi lễ. Nhưng nhất là phải gương mẫu trong cách ăn nết ở.
Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt chia sẽ câu chuyện thật cảm động: Thỉnh thoảng tôi có dịp gặp một ông trùm xứ Long Châu. Long Châu là một giáo xứ thuộc giáo phận Nam ninh. Trước đây, chỉ có gia đình ông tin Chúa. Gia đình ông tích cực rao giảng Lời Chúa. Kết quả là sau 20 năm hầu như cả làng gần 500 khẩu đã tin theo Chúa. Cứ mỗi dịp lễ Phục Sinh và Giáng Sinh có khoảng 20 người xin rửa tội. Tôi hỏi ông nhờ bí quyết nào mà việc truyền giáo của ông có kết quả tốt đẹp như thế. Ngẫm nghĩ một lát, ông trả lời: “Nhờ đời sống gia đình”. Bên Trung quốc, đời sống gia đình trong thời đại mới đang gặp khủng hoảng. Vợ chồng bất hoa với nhau. Con cái không vâng lời cha mẹ, có khi còn hành hung cả cha mẹ. Số gia đình tan vỡ ngày càng tăng lên. Trong khi đó gia đình ông trùm vẫn trên thuận dưới hoà, vợ chồng thương yêu kính trọng nhau, con cái vâng lời cha mẹ, anh chị em thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Thấy thế, người trong làng bảo nhau: “Đây là đạo tốt vì có thể gìn giữ được hạnh phúc gia đình”. Nhờ tấm gương sống đạo của gia đình ông trùm mà mọi người trong làng tin theo Chúa. Những anh em ngoài Công giáo cũng nhìn vào đời sống của chúng ta. Nếu người Công giáo thật sự sống tốt thì không cần rao giảng mọi người cũng tin. Đời sống công bình bác ái, khiêm nhường nhịn nhục, đoàn kết yêu thương có sức thuyết phục hơn tất cả mọi lời nói hay đẹp.
Trong đời sống gia đình cũng như trong sinh hoạt xã hội, đừng nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ của hận thù, hiềm khích. Đừng nói với nhau bằng ngôn ngữ của chia rẽ, nghi kị. Hãy nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ của tình yêu, ngôn ngữ của Chúa Thánh Thần. Vì ngôn ngữ của tình yêu chính là ngôn ngữ tạo được sự cảm thông và bất cứ ai cũng có thể hiểu được.
Máy vi tính là phát minh hiện đại của con người. Máy cũng có một thứ ngôn ngữ riêng. Ngôn ngữ của máy vi tính xây dựng trên cơ sở lý luận toán học và sự chính xác. Ngôn ngữ máy vi tính giúp con người rất nhiều trong việc thông tin và trao đổi liên lac với nhau nhanh chóng.
Trong đời sống, con người dùng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ như Anh, Pháp, Việt Nam... cho nhu cầu thông tin liên lạc với nhau. Nhưng có một thứ ngôn ngữ ngay từ thuở sơ sinh ai cũng có, ai cũng biết. Đó là ngôn ngữ tình yêu, ngôn ngữ vỗ về âu yếm, ngôn ngữ sưởi ấm tâm hồn. Khi ngôn ngữ này được nói ra bằng âm thanh hay biểu lộ qua nét mặt nụ cười của ông bà cha mẹ, anh chị em, tất cả mọi người đều hiểu được cả.
Ngôn ngư tình yêu phát xuất từ trái tim tâm hồn, nên gọn nhẹ trong sáng và truyền đi tín hiệu nhanh chóng nhạy cảm ngay từ những giây phút đầu tiên của sự sống một con người. Qua ngôn ngữ tình yêu, mối liên lạc tình người được xây dựng từ cha mẹ tới con cái, con người với nhau trong đời sống.
Ngôn ngữ tình yêu không viết bằng mẫu tự A B C hay hình vẽ biểu tượng như chữ Nho, chữ Thái lan, chữ Ả rập... cũng không bằng những dấu hiệu chương trình ly luận toán học như ngôn ngữ của máy vi tính. Ngôn ngữ tình yêu từ bẩm sinh đã nằm ẩn sâu trong trái tim tâm hồn mỗi người. Ai ai cũng có chương trình ngôn ngữ đó và đều có thể sử dụng được chương trình này.
Dù là tiếng mẹ đẻ, ta cũng cần phải học, phải mài giũa, phải sửa đổi mới hoàn chỉnh trong sáng văn phạm cùng câu cú. Dù là ngôn ngữ đã được hệ thống và cài sẵn chương trình chạy trong máy vi tính, người sử dụng máy cũng vẫn phai học cách sử dụng điều khiển sao cho đúng không bị sai lầm.
Những sai lầm trong tiếng mẹ đẻ và trong ngôn ngữ máy vi tính là do con người sử dụng gây ra. Cần phải điều chỉnh lại cách sử dụng sao cho đúng. Trong ngôn ngữ tình yêu cũng thế, khi chương trình ngôn ngữ này sai lỗi là do con người gây ra. Thiên Chúa ghi trong tâm hồn mỗi người chương trình ngôn ngữ tình yêu. Khi sử dụng hoặc là con người không dùng đúng chương trình hoặc là muốn sử dụng sai của riêng mình. Vì thế sinh ra sai lầm và không còn truyền đi tín hiệu thông tin, không hiểu nhau được nữa.
Những sai lầm đó là do thiếu tình liên đới với nhau, do chỉ chú ý tìm quyền lợi riêng tư cho mình. Ngôn ngữ tình yêu kêu gọi sự hiểu biết thông cảm với nhau, niềm vui, niềm hy vọng, sự tha thứ làm hòa và tình liên đới trong cuộc sống.
Ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, các thánh Tông đồ đã tìm ra được ngôn ngữ chung cho cả nhân loại. Ngôn ngữ tình yêu do Chúa Thánh Thần mang đến và ghi khắc trong tâm hồn con người. Qua ngôn ngữ này ai cũng hiểu được Tin mừng ơn cứu độ của Chúa Giêsu và đến với nhau rồi cùng nhau tìm về với Thiên Chúa. Ngôn ngữ Thánh Thần kiến tạo một gia đình, mọi người là anh em con một Cha trên trời.
Chúa Thánh Thần mang từ trời cao đến cho con người ngôn ngữ của Chúa Cha, ngôn ngữ này khác gì là “tiếng mẹ đẻ” của con người: ngôn ngữ tình yêu – ngôn ngữ của toàn cầu.
Kinh Thánh đã được dịch ra hơn hai ngàn ngôn ngữ. Chúng ta còn cần dịch ra một thứ ngôn ngữ ai cũng hiểu, đó là ngôn ngữ của phục vụ và yêu thương.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy thắp lên trong lòng chúng con ngọn lửa tình yêu, để chúng con luôn nói với nhau bằng ngôn ngữ của Ngài, ngôn ngữ yêu thương và hiệp nhất. Amen.
Theo cha Carôlô Hồ Bạc Xái, “Đấng Phù Trợ” là dịch từ chữ hy lạp Parakletos, chỉ một nhân vật thế giá đến đứng bên cạnh người bị các trong một phiên tòa. Khi nhân vật thế giá đến đứng bên cạnh người bị cáo thì tình hình đổi khác rất nhiều: đối với người bị cáo thì người này bớt sợ và an tâm hơn vì đã có người hỗ trợ tinh thần mình, đồng minh với mình, giúp mình biết trả lời sao cho khéo léo, và khi cần thì đích thân lên tiếng bênh vực mình. Đối với quan tòa thì sự hiện diện của Parakletos bên cạnh bị cáo cũng khiến họ phải nể nang hơn, xét xử khoan hồng hơn.
Thánh Kinh cũng dùng chữ này theo nghĩa rộng, vượt qua khỏi khung cảnh toà án, áp dụng cho nhiều hoàn cảnh khác trong cuộc đời. Thí dụ ngôn sứ Đanien là Parakletos bà Susanna khi bà bị hai ông già dê âm mưu kết án oan; Chúa Giêsu là Parakletos của người phụ nữ ngoại tình khi chị bị lôi ra xử án ném đá vì phạm tội ngoại tình. Trong Ga 15,26-27, Chúa Giêsu dùng chữ Parakletos để chỉ Chúa Thánh Thần. Các môn đệ của Ngài sẽ bơ vơ giữa thế gian, như những con chiên giữa bầy sói dữ. Thế gian cũng sẽ thù ghét họ, gài bẫy hại họ, làm khó dễ họ, thậm chí còn bắt bớ họ. Nhưng thực ra các môn đệ không bơ vơ vì đã có Chúa Thánh Thần đứng bên cạnh để:
Hỗ trợ tinh thần khi họ cảm thấy cô đơn. An ủi họ trong những lúc thua buồn. Che chở họ trong những khi nguy hiểm. Vạch cho họ thấy những cạm bẫy xảo quyệt mà thế gian giăng ra hại họ. Dạy họ cách làm cách nói để khỏi bị thế gian bắt bẻ. Đích thân bênh vực họ.
Và chúng ta đã thấy, Chúa Thánh Thần đã đóng vai trò Parakletos một cách hữu hiệu thế nào đối với các tông đồ khi các ngài sống và hoạt động giữa thế gian.(x. suy niệm Tin mừng thứ tư, tuần 6 Phục sinh).
Trong Tin mừng (Ga 14,13-14), Chúa Giêsu bảo các môn đệ lấy danh của Người mà cầu xin và Người sẽ thực hiện cho. Chính Chúa Giêsu có sáng kiến thỉnh cầu với Chúa Cha ban Đấng Phù Trợ cho họ. Đấng Phù Trợ là ân huệ Chúa Cha ban cho và được gởi đến qua lời thỉnh cầu của Chúa Con. Đấng Phù Trợ, chỉ vai trò trợ giúp hơn là biện hộ (Ga 14,16-17.26; 15,26). Trong tên gọi “Đấng Phù Trợ khác”, tính từ “khác” chỉ Đấng không phải là Chúa Giêsu. Đấng Phù Trợ được gọi bằng tên khác là Thần Chân lý (Ga 14,17). Ngoài ra, nhờ Ngài và với Ngài, các môn đệ sẽ làm chứng cho Chúa Giêsu trước mặt thế gian (Ga 15,26-27). Họ sẽ không hổ thẹn hay sợ bắt bớ và khốn khổ vì Người. Vậy việc Đấng Phù Trợ ở giữa các môn đệ là để thay thế sự vắng mặt của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu không để những ai thuộc về Ngài phải mồ côi, nhưng sẽ gửi cho họ “Đấng Phù Trợ”, Thánh Thần an ủi, Đấng sẽ dự phần với họ trong các cuộc bách hại (Ga 14,16.26).Chính Thánh Thần hướng dẫn họ, soi sáng cho họ, củng cố họ, để mỗi người có thể bước đi trong cuộc sống, vượt qua cả những nghịch cảnh khó khăn và bách hại, dù trong vui mừng hay sầu buồn, vẫn đi theo con đường của Chúa Giêsu.
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam; sau sắc dụ cấm đạo của vua Cảnh Thịnh, các cuộc bắt đạo gay gắt khiến cho những người tín hữu ở các vùng Quảng Trị, Cổ Vưu, Thạch Hãn, Hạnh Hoa chạy vào rừng núi La Vang để trốn tránh. Đức Mẹ đã hiện ra an ủi, trợ giúp. La Vang đã trở thành trung tâm hành hương của Giáo Hội Việt Nam. Các chỉ dụ cấm đạo dưới thời vua Minh Mạng, Tự Đức đã phân tán các cộng đoàn Kitô hữu. Họ xuôi vào Nam trốn tránh, đến vùng đất mới, rừng thiêng nước độc. Họ khai khẩn điền địa và lập nên những cộng đoàn mới. Nhờ đó, khi các vị Thừa Sai đến Truyền Giáo, hạt giống Đức Tin được nảy mầm và phát triển nhanh chóng.
Như hạt giống gieo xuống đất và chờ đợi, những cơn mưa đầu mùa tuôn đổ, hạt giống âm thầm đón nhận sức sống, nảy mầm, bén rễ, lớn nhanh. Những cộng đoàn tín hữu đang sống đức tin thầm lặng đã gặp được các chủ chăn nên lớn mạnh và nhiều giáo xứ đã được thành lập. Chỉ trong nhãn giới đức tin, chúng ta mới nhận ra sức tác động mãnh liệt Chúa Thánh Thần. Trong mọi thử thách, Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần phù trợ. Trong mọi biến cố đau thương, Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần an ủi dẫn dắt. Mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời đều là lời mời gọi, lời nhắn nhũ, lời cảnh báo. Đi tìm Thánh Ý Chúa, con người cần biết giải mã các biến cố ấy trong ánh sáng đức tin.
Chúa Giêsu còn căn dặn: "Đấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con" (Ga 14,26). Khi được Chúa Thánh Thần đổ tràn ơn thiêng trong đời, người tín hữu sẽ yêu mến Chúa, được Chúa Cha và Chúa Giêsu ngự đến trong tâm hồn (Ga 14,21), được Chúa ban sự bình an tuyệt vời, bình an không như thế gian ban tặng (Ga 14,27). Chúa Thánh Thần chính là chìa khoá mở ra cuộc sống mới trong Đức Kitô. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, người tín hữu làm được mọi sự trong ân sủng Đức Kitô. Chúa Thánh Thần giúp người tín hữu sống Tin Mừng, vượt qua các thách đố thời đại như cộng đoàn tín hữu sơ khai đã vượt qua mọi trở ngại để loan báo và mở rộng Nước Chúa.
Khởi đi từ Chúa Thánh Thần, Đấng Phù Trợ, cả một sức sống mới được khai mở và bừng lên trong Giáo hội. Trước ngày lễ Hiện Xuống, các môn đệ co cụm lại trong căn phòng then cài khóa ổ, nhưng một khi đã đón nhận Thánh Thần, các ông không thể sống như cũ được nữa: căn phòng được mở toang và môn đệ can đảm bước tới vùng ngoại biên là những vùng địa lý xa xôi, đem Tin Mừng cứu rỗi cho mọi người. Đó chính là mùa Hiện Xuống đầu tiên làm nên sức sống mới lạ trong Giáo hội. Lễ Hiện Xuống thường được gọi là “ngày khai sinh của Giáo hội” tựa như lễ quốc khánh của một quốc gia. Chúa Thánh Thần đã làm cho sứ mệnh của Đức Kitô được hoàn thành và thời kỳ Tân Ước được thực hiện. Chúa Thánh Thần là Tình Yêu, là Đấng ban sự sống, thánh hóa, hướng dẫn, soi sáng, phù trợ, hiệp nhất. Chúa Thánh Thần là ngọn gió thổi các cánh buồm của Giáo hội hướng đến đại dương của “những kênh truyền thông mới” trong thời đại hôm nay.
Chúa Thánh Thần luôn bảo đảm cho sự nguyên vẹn của mạc khải. Ngài dẫn dắt Giáo Hội ngay giữa những kênh truyền thông mới mẻ của thế giới kỹ thuật số hôm nay. Kitô hữu phải là con người biết lắng nghe, lắng nghe Thiên Chúa và lắng nghe con người để qua sự hỗ trợ của các phương tiện truyền thông, sứ điệp Tin mừng được lan xa. Các phương tiện truyền thông xã hội như sách báo, phim ảnh, thi ca, nghệ thuật, sân khấu, tuồng kịch, thánh nhạc, kiến trúc, hội họa, truyền thanh, truyền hình, internet…đều có tầm ảnh hưởng lớn đối với công cuộc truyền thông Tin Mừng trong thời đại hôm nay.
Chúa Nhật Lễ Hiện Xuống, bài đọc 1 kể: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho… mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa” (Cv 2, 1-4).
Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy, tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1, 8).
Với sức mạnh của Thánh Thần, Thánh Phêrô và các Tông Đồ đã ra đi rao giảng Tin Mừng cho đến tận cùng trái đất. Trong mọi thời đại, bằng mọi ngôn ngữ, Giáo Hội khắp thế giới tiếp tục tuyên xưng những kỳ công Thiên Chúa và kêu gọi các dân tộc, các quốc gia tiến đến với đức tin, hy vọng và cuộc sống mới trong Đức Kitô.
Sứ mạng làm chứng của Giáo hội luôn luôn thể hiện cùng với và trong Chúa Thánh Thần.Giáo hội đã được Chúa Phục Sinh thổi hơi vào và trao ban Thánh Thần. Chúa Thánh Thần từ đó luôn ở với Giáo hội và trong Giáo hội. Giáo hội đã luôn nổ lực làm chứng cho Chúa Giêsu, trải dài hơn hai nghìn năm lịch sử, trải qua những thăng trầm những phong ba bão táp của trần thế.
Mỗi người Kitô hữu được sinh ra nhờ phép rửa ở trong lòng Giáo hội và được xức dầu thánh một cách đặc biệt trong Bí tích Thêm sức, được lãnh nhận Chúa Thánh Thần để thông phần sứ mạng làm chứng của Giáo hội.Trong Bí tích Thêm Sức nhận lãnh, không những các ơn Chúa Thánh Thần, mà là chính Chúa Thánh Thần được ban cho chúng ta như một sức mạnh từ trên cao, như là “Thần lực của Thiên Chúa”. Đó là sức mạnh của Tình yêu mạnh hơn sự chết biểu lộ nơi Sự Sống lại của Chúa Giêsu, sức mạnh của Chân Lý và Sự Thật. Đó là sức mạnh cuốn hút của cái Đẹp không phai tàn của Thiên Chúa, của cái Đẹp thần linh tiềm ẩn trong mọi cái đẹp đích thực.
Ở đâu có Thần Khí là ở đó bừng lên niềm vui. Mùa xuân làm cho vạn vật bừng dậy màu xanh sự sống, Thần Khí làm cho mọi tâm hồn tràn đầy sức sống mới. Gioan Tẩy Giả "nhảy mừng trong lòng mẹ". Đức Maria hát lên bài ca Magnificat. Các Mục đồng hớn hở đi Bêlem. Các Tông Đồ trở nên những con người mới. Các Thánh Tử Đạo hiên ngang tiến ra pháp trường. Và chúng ta cũng được trở nên con cái Thiên Chúa, sống chứng nhân tình yêu trong nền văn hóa của thời đại kỹ thuật số, can đảm loan báo Tin Mừng Phục Sinh trên mọi nẻo đường phục vụ. Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em! ” Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”
Truyền thống Giáo Hội mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống 50 ngày sau lễ Phục Sinh, điều này trùng hợp với Lễ Ngũ Tuần của người Do-thái 50 ngày sau lễ Vượt Qua. Lễ Ngũ Tuần của người Do-thái là kỷ niệm biến cố 50 ngày sau khi vượt qua Biển Đỏ và đón nhận Thập Điều trên núi Sinai, mở ra một ký kết Thiên Chúa chọn dân Israel làm sản nghiệp của Người, và từ biến cố Thần Hiện trên núi Sinai, dân Israel trở thành một tôn giáo và là một dân riêng của Thiên Chúa.
Hôm nay, ngày Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần cũng hiện xuống, bắt đầu một dân mới của Thiên Chúa là Hội Thánh. Hình ảnh Thiên Chúa “thần hiện” trong núi lửa nghi ngút khói và trong cơn gió mạnh đến với Môi-sê để thiết lập dân riêng Israel tại núi Sinai, được tái hiện khi Chúa Thánh Thần dùng hình lưỡi lửa và tiếng gió thổi xuống trên các Tông Đồ để bắt đầu một dân Israel mới là hết những ai tin vào Chúa Giê-su Ki-tô.
Sau tường thuật chi tiết của thánh Luca về cuộc hiện xuống trong sách Tông Đồ Công Vụ, bài Tin Mừng theo thánh Gioan chúng ta vừa nghe cũng kể về việc Chúa Giê-su hiện đến ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ.
Có nhiều biểu tượng về Chúa Thánh Thần như gió, lửa, khí, hình bồ câu… cùng với những ơn của Chúa Thánh Thần như thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa (Is 11,2) quen gọi là bảy ơn cả của Chúa Thánh Thần; nhưng ở đây, chúng ta chỉ dừng lại suy niệm hai vai trò của Chúa Thánh Thần được nói tới trong Tin Mừng hôm nay là: Thần Khí Bình An và Thần Khí Tha Tội.
1. Thánh Thần bình an
“Chúa Giê-su hiện đến, đứng giữa các môn đệ và nói: “Bình an cho anh em!” (Ga 20,19).
Tương truyền rằng, ngày xưa, họa sĩ Michael Cardo đến dâng tặng vua Napoleon một bức họa Icon vẽ hình con chim bồ câu. Chim bồ câu có mỏ màu cam, cánh màu xanh lam, ngực màu vàng và đuôi màu xám. Nhà vua lấy làm lạ vì chim bồ câu giống chư con đồi mồi. Họa sĩ Michael trả lời rằng: Đó là biểu tượng Chúa Thánh Thần, trong đó màu đỏ cam là lửa thiên đốt, màu xanh lam là hòa bình, màu vàng là ánh sáng và màu xám là màu bông lau làm chổi quét… Ngụ ý là, Chúa Thánh Thần thánh hóa miệng lưỡi tín hữu để nói Lời Thiên Chúa, là ánh sáng xuất phát từ (lồng ngực) trái tim để chiếu tỏa tình yêu Chúa đến với tha nhân, quét sạch mọi hận thù chia rẽ chiến tranh, đặc biệt, là đôi cánh hòa bình đem bình an đến cho thế giới.
Lời chào bình an mà Chúa Giê-su dành cho các môn đệ hôm nay, gợi lại hình ảnh các tổ phụ xưa và phong tục người Do-thái dùng để chào nhau khi gặp gỡ. Bình an cũng là sứ điệp đầu tiên mà Chúa Giê-su đem xuống nhân loại qua lời hát của thiên thần: “…Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14). Và nay, khi trao ban Thánh Thần cho các môn đệ, Chúa Giê-su cũng dùng chính sứ điệp: “Bình an cho anh em” (Ga 20,19.21). Nói cách khác, Chúa Thánh Thần là sứ giả của hòa bình và chính là sự hòa bình đó.
2. Thánh Thần tha tội
“Chúa Giê-su thổi hơi vào các môn đệ và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,22-23).
Công thức xá giải trong bí tích Giao Hòa được vị linh mục đọc như sau: “Thiên Chúa là Cha hay thương xót, đã dùng sự chết và sống lại của Con Chúa mà giao hòa thế gian với Chúa và BAN THÁNH THẦN ĐỂ THA TỘI…” Như thế, một trong những vai trò của Chúa Thánh Thần dành cho nhân loại chính là tha tội. Năng quyền tha tội này Chúa Giê-su đã ban cho các tông đồ – môn đệ và các đấng kế vị các ngài khi Người thổi hơi vào các môn đệ và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,22-23). Điều này cũng như khi Chúa trao quyền cho Phê-rô – tông đồ trưởng: “Thầy sẽ trao cho con chìa khóa nước Trời; sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở” (Mt 16,19…). Đây là một quyền hành thật cả thể. Vì bản chất của quyền hành ở đây theo từ ngữ chuyên biệt trong tiếng Do-thái có thể chỉ đến việc cầm buộc ma quỷ trong khi trừ quỷ, trong việc hành luật liên quan đến vạ tuyệt thông và trong những vấn đề phán quyết đức tin và luân lý.
Quyền này chỉ có nơi Chúa Giêsu, nhờ Thánh Thần, nhưng Người đã ban lại cho Giáo Hội qua quyền bính của các vị đại diện Người. Ơn Cứu Độ từ Đức Kitô qua Giáo Hội của Người, bởi chỉ có Giáo Hội mới được mặc khải tròn đầy của Chúa Cha về Chúa Kitô (x. Mt 16,17).
Theo nghĩa rộng, việc cầm giữ cũng là hạt giống đức tin từ ngày lãnh nhận làn nước Bí Tích Rửa Tội giúp mọi Kitô hữu mở cửa bước vào kho tàng ân sủng của Chúa nơi các bí tích. Sự đóng hay mở phụ thuộc vào việc bác ái hay khép kín của lòng người. Ơn tha tội chỉ thực sự có được khi sự tha thứ luôn ngự trị trên mọi thành phần trong Giáo Hội.
Tóm lại, với bài Tin Mừng Gioan được đọc trong lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống hôm nay, Ki-tô hữu được mời gọi cầu nguyện và xây dựng sự hòa bình cho quê hương đất nước và thế giới. Và để có hòa bình mọi người cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa nhờ Thánh Thần của Người, từ đó mọi người cũng tha thứ cho nhau. Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Amen.
Mọi người chúng ta khi xem hay cổ vũ các môn thể thao, thấy đội chơi tấn công thì chúng ta nói là “đá có lửa”, “đá rất bốc”, “đá rất nhiệt”… Cầu thủ “cháy hết mình” vì huấn luyện viên, vì màu cờ sắc áo, vì người hâm mộ và vì phần thưởng cao quý…; còn nếu đá chậm và nhạt nhòa thì chúng ta cho là “thiếu lửa”, “thiếu nhiệt huyết”…
Một đội thể thao thiếu nhiệt huyết, chơi thiếu lửa là vì trong đó các vận động viên đã không còn đoàn kết và không còn gắn kết với nhau nên phối hợp rời rạc, chơi cá nhân và không hỗ trợ nhau để tấn công (thiếu hiệp nhất). Có thể là do các cầu thủ đã không tin tưởng lẫn nhau cảm thấy không an tâm để sát cánh với nhau (không bình an), hoặc do thiếu đi sự tha thứ và chấp nhận nhau (thiếu tha thứ).
Với một chút ví dụ nho nhỏ về thể thao, xin rút ra hai ý nghĩa của lửa xuất phát từ “ngọn lửa tình mến” là Chúa Thánh Thần, tương ứng với các bài đọc Lời Chúa hôm nay, đó là:
- Nhiệt huyết
- Hiệp nhất
***
1. Lửa nhiệt huyết.
Ý nghĩa đầu tiên của lửa tình mến từ Chúa Thánh Thần phải nói đến đó là nhiệt huyết, là đốt cháy, là sưởi ấm cho nhau. Đây là thứ lửa mà Chúa Giêsu đem xuống trần gian và khát khao cho nó bùng cháy lên (x. Lc 12, 49. 24,32).
Bài Tin Mừng Gioan chúng ta vừa nghe, các môn đệ Chúa Giêsu đã chán nản buông xuôi và thất vọng sau cái chết của thầy, cảm thấy mất định hướng và mờ mịt tương lai, lòng nhiệt huyết hăng say xưa đã nguội. Chính sự xuất hiện của Chúa Kitô phục sinh đã khơi lại cho các ngài lửa mến và bùng cháy lên nhiệt huyết can đảm và một khởi đầu mới mạnh mẽ hơn, không còn lén lút đóng cửa sợ sệt nữa, mà là ra đi loan báo Tin Mừng.
Nhìn lại cuộc đời Kitô hữu, cách riêng là đời sống tu trì, ban đầu ai cũng nhiệt huyết lắm, ai cũng muốn cháy hết mình vì Chúa, VÌ Giáo hội, vì Hội dòng và vì lý tưởng… nhưng rồi bắt đầu nguội dần theo thời gian, thậm chí buông xuôi tà tà sống như không còn gì để phấn đấu và tấn tới.
Tại sao vậy? Lòng nhiệt huyết bị bị phai nhạt bắt nguồn từ đâu? Thiết nghĩ lý do đầu tiên phải kể đến, đó là sự bình an và hiệp nhất đã bị rạn nứt trong tương giao giữa người với người, giữa mỗi thành viên trong cộng đoàn với nhau, trong giáo xứ với nhau…
2. Lửa hiệp nhất.
Giống như trong một đội bóng đá, trận đấu mất lửa, mất chiến thắng là do có cầu thủ đã không còn cháy hết mình, một mắt xích nào đó trong sơ đồ chiến thuật đã bị gãy không kết nối được với các tuyến, không hỗ trợ nhau tấn công tiến về phía trước, có thể do tính cá nhân hoặc do “phe nhóm cừu đen” nào đó không bằng lòng với huấn luyện viên, bỏ vị trí hoặc tìm cách phá đội bóng, cũng có thế là do tác động từ bên ngoài mua chuộc bán độ.
Trong thư thứ hai gửi giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô đem ra một sự sánh ví thật tuyệt vời là: Mỗi một người chúng ta được ví như một bộ phận trong Thân Thể mầu nhiệm Chúa Kitô, trong Hội thánh, và thu nhỏ hơn là trong giáo xứ, trong cộng đoàn chúng ta.
Trong một thân thể, mà một bộ phận bị đau thì cả thân thể đều đau. Các bộ phận không phát triển chung trong sự hài hòa mà chỉ lo cho mình phình to ra hay co rúm lại thì biến thân thể thành quái thai, thành quái vật, thành dị nhân và bệnh tật rồi chết sớm.
Có thể trong các cộng đoàn chúng ta, có những mắt xích bị gãy vì chia rẽ, vì không hài lòng với nhau, nên tìm cách phá hoặc vô can với cộng đoàn, hoặc bị những tác động ngoại cảnh kéo mình bị phân tâm xa dần với Chúa và với nhau. Chính sự chia rẽ, mất đoàn kết và nghi kị lẫn nhau đem đến sự mất bình an và kéo theo cộng đoàn và giáo xứ đi xuống.
Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay đã hiện đến, ban Thánh Thần bình an để nối kết các môn đệ lại với nhau, không còn ai chán nản tìm về với con người cũ nữa, mà cùng chung một niềm tin một lòng mến hăng say đi loan báo Tin Mừng. Lại nữa, liền sau việc ban Thánh Thần bình an, thì Chúa Giêsu ban Thánh Thần tha tội. Theo nghĩa rộng, việc ban Thánh Thần tha tội không chỉ dừng ở “năng quyền tha tội” mà còn là một lời mời gọi và là điều kiện bắt buộc phải có lòng tha thứ.
Bởi khi tha thứ là lúc được thứ tha. Mang trong mình sự hận thù, thì chính ta khổ trước, ăn không ngon ngủ không yên vì tức giận ấm ức, trằn trọc nghĩ kế trả đũa… Nhưng khi ta tha thứ thì không phải lo nghĩ gì và tâm hồn thanh thản, nhất là khi ta tha thứ thì ta không còn kẻ thù mà lại được bạn hữu. Tha thứ lại là một cách trả thù ngọt ngào nhất mà đối phương không ngờ, và làm cho chính đối phương dằn vặt vì nhận ra chính họ sai khi xúc phạm đến một người tốt, cuối cùng làm cho đối phương cảm kích và thay đổi thái độ.
Như thế, để ngọn lửa hiệp nhất được bùng cháy lên, phải có sự bình an và thứ tha.
Kết: Để kết cho bài chia sẻ về Thánh Thần – Ngọn lửa tình mến, xin được kể câu chuyện như sau:
Tương truyền rằng, ngày xưa, họa sĩ Michael Cardo đến dâng tặng vua Napoleon một bức họa Icon vẽ hình con chim bồ câu. Chim bồ câu có mỏ màu cam, cánh màu xanh lam, ngực màu vàng và đuôi màu xám. Nhà vua lấy làm lạ vì chim bồ câu giống chư con đồi mồi. Họa sĩ Michael trả lời rằng: Đó là biểu tượng Chúa Thánh Thần, trong đó màu đỏ cam là lửa thiên đốt, màu xanh lam là hòa bình, màu vàng là ánh sáng và màu xám là màu bông lau làm chổi quét… Ngụ ý là, Chúa Thánh Thần thánh hóa miệng lưỡi tín hữu để nói Lời Thiên Chúa, là ánh sáng xuất phát từ (lồng ngực) trái tim để chiếu tỏa tình yêu Chúa đến với tha nhân, quét sạch mọi hận thù chia rẽ chiến tranh, đặc biệt, là đôi cánh hòa bình đem bình an đến cho thế giới.
Vâng, xin Chúa Thánh Thần ngự đến, để khơi lên trong chúng ta lòng nhiệt huyết, để chúng ta cháy hết mình cho Chúa và cho cộng đoàn, đồng thời nối kết chúng ta nên một trong thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô, cùng một lòng một ý và một chí hướng trong sự đào luyện bản thân và phát triển cộng đoàn.
Lễ Chúa Thánh Thần mời gọi mỗi người tín hữu nêu cao ý thức về sự tinh tuyền, trong trắng của ngày lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, để tâm hồn trở về tình trạng: “Nhân chi sơ, tính bổn thiện” (người mới sinh tính vốn lành), hầu sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần. Hôm nay cũng là dịp để người tín hữu làm mới lại đặc sủng của Chúa Thánh Thần trong ngày lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức, qua đó, chúng ta hiểu được Lời Chúa, yêu mến Lời Chúa và can đảm, sẵn sàng loan báo cũng như làm chứng cho Lời Chúa.
Khi đón nhận và lắng nghe Lời Chúa, chúng ta sẽ loại bỏ được những thứ mà thánh Phao-lô cho là hành động do xác thịt như: "dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy" (Gl 5,19-21). Khi loại trừ được những thứ đó, chúng ta sẽ lãnh nhận được những hoa trái của Chúa Thánh Thần như: "hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ" (Gl 5,22-23).
Trước khi về trời, đã nhiều lần Đức Ki-tô nói là Người sẽ ban Ngôi Ba Thiên Chúa cho các môn đệ. Khi thì Người nói thẳng là Thánh Thần, khi thì Người nói là Đấng Bảo Trợ, là Thần Khí Sự Thật. Bài Tin Mừng hôm nay (Ga 20,19-23) là một minh họa: "Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ." Cũng theo Thánh sử Gio-an trình thuật, có lần Đức Giê-su đã phán: "Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em" (Ga 14,16-17).
Cũng chính vì Thánh Thần là “Đấng mà thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người”, nhưng các Tông đồ thì “biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em”, nên các Tông đồ – cụ thể là Giu-đa (không phải Giu-đa It-ca-ri-ốt) – mới băn khoăn thắc mắc, không hiểu Đấng Bảo Trợ, Thần Chân Lý, Thần Khí Sự Thật là ai. Tuy nhiên, thực tế đã ứng nghiệm: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần” (Cv 2,1-4). Có nhiều, rất nhiều sự kiện minh hoạ cho sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống, nhưng nổi bật nhất, đặc sắc nhất, kỳ diệu nhất là sự hiện diện của Thần Khí trong Giáo hội ở giai đoạn tiên khởi và cho đến hiện nay:
Ở giai đoạn tiên khởi thì Thánh Thần đã ban lòng can đảm, sự khôn ngoan và nhất là khả năng ngôn ngữ có thể nói nhiều thứ tiếng khác ngoài tiếng bản địa của các Tông đồ. Đó là một mầu nhiệm được chính những người nghe làm chứng: "Những người đang nói đó không phải là người Ga-li-lê cả ư? Thế sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta? Chúng ta đây, có người là dân Pác-thi-a, Mê-đi, Ê-lam, Mê-xô-pô-ta-mi-a, Giu-đê, Cáp-pa-đô-ki-a, Pon-tô, và A-xi-a, có người là dân Phy-ghi-a, Pam-phy-li-a, Ai-cập, và những vùng Li-by-a giáp giới Ky-rê-nê; nào là những người từ Rô-ma đến đây; nào là người Do Thái cũng như người đạo theo; nào là người đảo Cơ-rê-ta hay người Ả-rập, vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!" (Cv 2, 7-11). Và cho đến hiện nay thì bất kỳ ai khi nhìn lại lịch sử Giáo hội, cũng phải ngạc nhiên đến sửng sốt trước sự tồn tại bền vững và phát triển vượt bậc. Đó phải chăng là một món quà độc đáo, món quà vô giá mà Đức Giê-su Thiên Chúa đã ban tặng các môn đệ, và nói chung là tất cả mọi tín hữu ("Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ?" – Ga 20,22-23)
Nói về ân huệ của Thần Chân Lý thì vô cùng, ngay từ Cựu Ước cũng đã xác nhận: "Thần khí ĐỨC CHÚA sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ ĐỨC CHÚA. Lòng kính sợ ĐỨC CHÚA làm cho Người hứng thú, Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói" (Is 11,2-3). Sang đến Tân Ước thì nhiều vô kể: Chỉ với Đức Giê-su thì kể từ khi Người hoài thai trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria cho tới suốt hành trinh cứu độ 33 năm trên trần thế, Chúa Thánh Thần luôn kết hợp mật thiết với Người trong mọi hoạt động và Lời giảng dạy. Còn với Hội Thánh thì hầu như bất cứ một công việc gì, một hoạt động nào của Giáo hội tiên khởi cũng đều đươc hồng ân của Thần Khí Chúa bao phủ trọn vẹn. Vì thế Giáo hội đã tóm kết lại thành “7 đặc ân của Chúa Thánh Thần:
1. Ơn Khôn Ngoan - Giúp ta phân biệt điều phải, điều trái. 2. Ơn Hiểu Biết - Giúp ta hiểu biết sâu xa hơn những điều Chúa và Giáo Hội dậy. 3. Ơn Biết Lo Liệu - Giúp ta phải giải quyết mọi khó khăn trong đời sống. 4. Ơn Sức Mạnh - Giúp ta chu toàn việc bổn phận và vượt qua mọi khó khăn. 5. Ơn Thông Minh - Giúp ta nhận ra thánh ý Chúa. 6. Ơn Ðạo Ðức - Giúp ta tin yêu Chúa và giúp đỡ anh em. 7. Ơn Kính Sợ Thiên Chúa - Giúp ta tôn kính sự công bằng và quyền phép Chúa và sợ làm phiền lòng Ngài.
Ngoài ra, hoạt động của Chúa Thánh Thần tuy là vô hình, nhưng cũng đã được Giáo hội định tín trong 8 biểu tượng (Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 694-701):
694; 1218; 2652. Nước: Trong bí tích Thánh Tẩy, nước là một biểu tượng đầy ý nghĩa về tác động của Thánh Thần, vì sau khi kêu cầu Thánh Thần, nước trở thành dấu bí tích hữu hiệu của việc tái sinh: như trong lòng mẹ, chúng ta được cưu mang trong nước; nước rửa tội thực sự nói lên rằng cuộc tái sinh vào đời sống Thiên Chúa được ban trong Thánh Thần. Vì "đã chịu phép rửa trong cùng một Thánh Thần", nên chúng ta "đầy tràn một Thánh Thần duy nhất" (1 Cr 12, 13). Chính Thánh Thần là Nước trường sinh chảy ra từ cạnh sườn Đức Ki-tô chịu đóng đinh thập giá (x. Ga 19,34; 1 Ga.5,8), và chảy thành sự sống đời đời trong lòng chúng ta (Ga 4,10.14; 7, 38; Xh 17,1-6; Is 55,1; Dcr 14,8; 1 Cr 10,4; Kh 21,6; 22,17).
695; 1293; 436; 1504; 794. Xức dầu: Biểu tượng xức dầu cũng chỉ về Thánh Thần, đến nỗi trở thành đồng nghĩa với Thánh Thần (1 Ga 2, 20.27; 2 Cr 1, 21). Trong nghi thức khai tâm Ki-tô giáo, xức dầu là dấu bí tích của phép Thêm Sức; các Giáo Hội Đông Phương gọi là "Xức dầu thánh hiến". Nhưng muốn hiểu rõ, chúng ta phải trở về với việc xức dầu của Đức Giê-su, việc xức dầu đầu tiên do Chúa Thánh Thần thực hiện. "Ki-tô" (tiếng Hip-ri là "Mê-si-a") nghĩa là "được Thánh Thần Thiên Chúa xức dầu". Cựu Ước (Xh 30, 22-32) nói đến những người được Thiên Chúa xức dầu, nổi bật nhất là Vua Đavit (1 Sm 16, 13). Nhưng Đức Giê-su là Đấng được Thiên Chúa xức dầu cách độc nhất vô nhị: nhân tính do Ngôi Con đảm nhận "được Thánh Thần xức dầu" trọn vẹn. Đức Giê-su được Thánh Thần (Lc 4, 18-19; Is 61,1) đặt làm "Ki-tô". Đức Trinh Nữ Ma-ri-a thụ thai Đức Ki-tô nhờ tác động Thánh Thần; khi Ngôi Lời giáng sinh (Lc 2,11), Thánh Thần dùng các thiên thần loan báo Người là Đức Ki-tô và thúc đẩy ông Xi-mê-on đến đền thờ gặp Đấng Ki-tô Thiên Chúa đã hứa (Lc 2, 26-27).
Đức Ki-tô (Lc 4,1) đầy Thánh Thần,và nhờ quyền năng Thánh Thần, Người chữa lành và cứu độ (Lc 6,19; 8,46). Cuối cùng chính Thánh Thần làm cho Đức Giê-su từ cõi chết sống lại (Rm 1,4; 8,11). Khi Đức Giê-su trở thành "Ki-tô" trọn vẹn trong nhân tính đã toàn thắng sự chết (Cv 2,36), Người ban đầy tràn Thánh Thần cho các thánh "để nhờ kết hợp với nhân tính của Người, họ trở thành "Con người hoàn hảo..., đạt tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô" (Ep 4,13), thành "Đức Ki-tô toàn diện" theo cách nói của Thánh Au-gus-ti-nô.
696; 1127; 2586; 718. Lửa: Trong khi nước nói đến việc sinh ra và tính phong phú của Sự Sống được ban trong Thánh Thần, lửa tượng trưng cho năng lực biến đổi do tác động của Thánh Thần. Ngôn sứ Ê-li-a, "xuất hiện như lửa hồng và lời ông như ngọn đuốc" (Hc 48,1); bằng lời cầu nguyện, ông kéo lửa từ trời xuống thiêu cháy hy tế trên núi Cát-minh (1 V 18, 38-39). Đây là hình bóng của lửa Thánh Thần sẽ biến đổi tất cả những gì lửa bén tới. Gio-an Tẩy Giả, "người đi trước dọn đường cho Chúa, đầy Thần khí và quyền lực của Ê-li-a" (Lc 1,17), loan báo Đức Ki-tô là Đấng "sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và trong lửa" (Lc 3,16), Đức Giê-su cũng nói về Thánh Thần: "Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy mong muốn biết bao cho lửa ấy bùng cháy lên"(Lc 12,49). Dưới những hình "giống như lưỡi lửa", Thánh Thần đậu xuống trên các môn đệ sáng ngày lễ Ngũ Tuần và họ được tràn đầy Thánh Thần (Cv 2,3-4). Truyền thống linh đạo giữ lại biểu tượng lửa như một trong những biểu tượng diễn tả đúng nhất về tác động của Thánh Thần (x. T. Gio-an Thánh Giá,): "Anh em đừng dập tắt Thần Khí" (1 Tx 5,19).
697; 484; 554. Áng mây và ánh sáng: Hai biểu tượng này luôn đi đôi với nhau trong các lần Thánh Thần xuất hiện. Trong các cuộc thần hiện thời Cựu Ước, áng mây khi chói sáng, khi mờ tối, vừa mặc khải Thiên Chúa hằng sống và cứu độ, vừa che khuất vinh quang siêu việt của Người - như lúc Mô-sê trên núi Xi-nai (Xh 24, 15-18), trong lều Hội Ngộ (x. Xh 33,9-10) và suốt cuộc hành trình trong hoang địa (Xh 40, 36-38; 1 Cr 10,1-2); với Xa-lô-môn dịp cung hiến Đền Thờ (1 V 8,10.12). Những hình bóng này được Đức Ki-tô thể hiện trong Thánh Thần. Chính Thánh Thần ngự xuống trên Trinh Nữ Ma-ri-a và "rợp bóng" trên Người, để Người thụ thai và hạ sinh Đức Giê-su (Lc 1, 35). Trên núi Hiển Dung, chính Thánh Thần đến trong "đám mây bao phủ" Đức Giê-su, Mô-sê và Ê-li-a, Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an, và "từ đám mây có tiếng phán rằng : "Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người" (Lc 9, 34-35). Cuối cùng, cũng chính đám mây này "che khuất Đức Giê-su" ngày Thăng Thiên (Cv 1, 9) và sẽ mặc khải Người là Con Người trong vinh quang ngày tái lâm (Lc 21, 27).
698; 1295;1296; 1121; Ấn tín: là biểu tượng gắn liền với biểu tượng xức dầu. Thật vậy, chính "Thiên Chúa đã đóng ấn xác nhận" (Ga 6, 27) Đức Ki-tô và cũng đã đóng ấn Thánh Thần trên chúng ta trong Con của Người (2 Cr 1,22; Ep 1,13; 4,30). Hình ảnh "ấn tín" đã được dùng trong một số truyền thống thần học để diễn tả "ấn tích" không thể xoá được mà ba bí tích Thánh Tẩy, Thêm Sức, Truyền Chức Thánh để lại.
699; 292; 1288; 1300;1573; 1668. Bàn tay: Đức Giê-su đặt tay để chữa lành bệnh nhân (Mc 6,5; 8,23) và chúc lành cho trẻ nhỏ (Mc 10,16). Nhân danh Người, các Tông đồ cũng làm như vậy (Mc 16,18; Cv 5,12; 14,5). Hơn nữa Thánh Thần được thông ban (Cv 8,17-19; 13,3; 19,6) nhờ việc đặt tay của các Tông đồ. Thư Do Thái coi nghi thức đặt tay vào số "các điều căn bản" của giáo huấn của mình. Hội Thánh đã giữ lại việc đặt tay khẩn cầu Thánh Thần trong các bí tích.
700; 2056. Ngón tay. Đức Giê-su "nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ" (Lc 11,20). Nếu ngày xưa "Thiên Chúa lấy ngón tay" ghi lề luật trên bia đá (Xh 31,18), thì ngày nay Thiên Chúa hằng sống cũng dùng Thánh Thần, để viết "bức thư của Đức Ki-tô" được giao phó cho các Tông đồ, "không phải ghi trên những tấm bia bằng đá, nhưng trên những tấm bia bằng thịt, tức là lòng người" (2 Cr 3,3). Thánh thi: "Veni Creator Spiritus" khẩn cầu Thánh Thần như là "ngón tay hữu Chúa Cha".
701; 1219; 535. Chim bồ câu: Cuối lụt hồng thủy (là biểu tượng cho bí tích Thánh Tẩy), chim bồ câu được ông Nô-ê thả ra, khi trở về ngậm một nhánh ô-liu xanh tươi, báo cho biết mặt đất lại có thể ở được (St 8, 8-12). Sau khi Đức Ki-tô nhận Phép Rửa của Gio-an và lên khỏi nước. Thánh Thần, dưới hình chim bồ câu, đáp xuống và ngự trên Người (Mt 3, 16 par). Thánh Thần cũng xuống và ngự trong tâm hồn những người lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy. Trong một số nhà thờ, Thánh Thể được giữ trong một bình bằng kim loại hình bồ câu treo bên trên bàn thờ. Trong các ảnh tượng Ki-tô giáo, hình bồ câu là biểu tượng truyền thống để chỉ Thánh Thần.
Quả thật, món quà mà Đức Giê-su Ki-tô ban tặng các môn đệ, rộng ra là toàn Giáo hội, rất độc đáo, một món quà vô giá. Chính vì thế, Công Đồng Va-ti-ca-nô II được coi là một Lễ Hiện Xuống mới, vì Công Đồng đã định hướng việc canh tân Giáo hội, đem tinh thần đối thoại hiệp thông với Thiên Chúa và với hết mọi người, để cùng với Chúa Thánh Thần thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Món quà vô giá của Đức Giê-su Thiên Chúa là Thánh Thần; mà hoa trái của Thánh Thần là yêu thương phục vụ. Do đó những tư tưởng, lời nói và hành động mang tính chia rẽ, ghen tương, đố kỵ, thậm chí dèm pha, hạ bệ lẫn nhau, thù oán, giết hại nhau không bằng gươm giáo… đều là những thể hiện trái ngược với hoạt động của Thánh Thần.
Viết tới đây, kẻ viết bài này chợt giật mình nhớ đến Lời dạy của chính Người đã ban tặng món quà vô giá là Thánh Thần cho Giáo hội: "Ai không đi với tôi, là chống lại tôi; và ai không cùng tôi thu góp, là phân tán. Vì thế, tôi nói cho các ông hay: mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha. Ai nói phạm đến Con Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau." (Mt 12, 30-32). Ôi chao! Nói phạm thượng (tức là phạm đến Thiên Chúa, tiêu biểu là Đức Giê-su) thì được tha, nhưng nói phạm đến Thánh Thần thì không được tha ư? Nhưng như thế nào mới là nói phạm đến Thánh Thần? Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (số 1864) đã giải thích rõ: “Tội nói phạm đến Thánh Thần: Lòng Thiên Chúa thương xót không có giới hạn, những ai cố tình không hối cải và khước từ lòng Thiên Chúa thương xót thì cũng khước từ sự tha tội và ơn cứu độ do Chúa Thánh Thần ban cho. Lòng chai dạ đá như thế có thể đưa tới chỗ không hối cải trong giờ sau hết và phải hư mất đời đời.”
Nhưng bởi đâu mà con người phạm tội và những tội lỗi đó là gì? Thánh Phao-lô đã nói rõ: “Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy. Tôi bảo trước cho mà biết, như tôi đã từng bảo: những kẻ làm các điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa.” (Gl 5,19-21; Rm 1,18-32). Đó là tội xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân, nhưng nếu khi được Thần Khí soi sáng cho biết đó là tội, người phạm tội biết ăn năn hối cải, thì sẽ được tha thứ. Ngược lại, “những ai cố tình không hối cải và khước từ lòng Thiên Chúa thương xót thì cũng chính là khước từ sự tha tội và ơn cứu độ do Chúa Thánh Thần ban cho. Khước từ Chúa Thánh Thần chính là xúc phạm đến Chúa Thánh Thần, như vậy thì không thể tha thứ được.
Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin cho ánh huy hoàng rực rỡ của Chúa là chính Ðức Ki-tô, giãi sáng trên chúng con. Và xin ban sức mạnh của Thánh Thần làm cho tâm hồn con cái Chúa, đã được tái sinh nhờ bí tích thánh tẩy, ngày càng thêm bền vững trung kiên. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống).
Để bắt đầu bài suy niệm hôm nay, xin mời anh chị em cùng cầu nguyện.
Chúng con lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng láng vô cùng, chúng con xin Đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con, là kẻ tin cậy Đức Chúa Trời, và đốt lửa kính mến Đức Chúa Trời trong lòng chúng con, chúng con xin Đức Chúa Trời sai Đức Chúa Thánh Thần xuống. Sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.
Chúng con cầu cùng Đức Chúa Trời, xưa đã cho Đức Chúa Thánh Thần xuống soi lòng dạy dỗ các Thánh Tông Đồ, thì rày chúng con cũng xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần lại xuống an ủi dạy dỗ chúng con làm những việc lành, vì công nghiệp vô cùng Đức Chúa Giêsu Kitô là Chúa chúng con. Amen.
Đó là lời cầu nguyện mà chúng ta thuờng dùng để khai mạc các buổi kinh nguyện tại gia, cầu cho các linh hồn nhân dịp lễ giỗ, các buổi họp và cũng là lời nguyện khai mạc giờ suy niệm hôm nay. Chúng ta đến với Đức Chúa Thánh Thần để dâng mọi sự cho Ngài, cầu xin Ngài soi sáng để mọi việc chúng ta làm đều thể hiện lòng vâng phục của chúng ta thuận theo ý Chúa. Như vậy, câu hỏi mà chúng ta cần suy niệm hôm nay là Đức Chúa Thánh Thần giữ vai trò nào trong cuộc sống của chúng ta?
Thần Khí Thiên Chúa không chỉ là ân huệ của Thiên Chúa ban cho chúng ta một lần trong đời qua bí tích Thêm Sức mà thôi, rồi sau ngày hôm đó chúng ta cất Ngài vào trong tủ kiếng để thờ. Tuy rằng chúng ta quên Ngài, nhưng Ngài không hề quên chúng ta. Ngài không hề vắng mặt. Thật ra Ngài vẫn hiện diện và hoạt động mãnh liệt như đã hiện diện vào ngày khai sinh Hội thánh, “khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần. (Cv 2:2-3) Và kể từ lúc đó, các Tông Đồ mất hẳn sự nhút nhát, không còn sợ ai, ngay cả chính mình. Các Ngài đã lên đường xông pha và vượt qua mọi hiểm nguy để làm chứng về một Đấng đã chết và hiện nay đang sống và sẽ trở lại trong vinh quang như lúc Người được suy tôn.
Như vậy, Đức Chúa Thánh Thần đã khởi động sứ mạng của các Tông Đồ, đã đốt lên ngọn lửa nồng cháy thiêu đốt tâm hồn chai đá và nguội lạnh của các ông, đồng thời là hơi thở thông ban sự sống của Thiên Chúa cho các Tông Đồ, cho Hội Thánh và cho mỗi người chúng ta. Ngài chính là sự sống của Thiên Chúa, Đấng không ngừng hoạt động trong lịch sử nhân loại, trong lòng Hội Thánh và trong cuộc đời của chúng ta.
Thưa anh chị em,
Ngay từ khi vũ trụ này còn trong cảnh hư vô, chưa có trật tự thì Thần Khí Thiên Chúa đã hiện diện. Rồi trong trình thuật tạo dựng của sách Sáng Thế Ký, tác giả đã truyền tải cho chúng ta một kinh nghiệm tôn giáo thật sâu sắc về sự hiện diện của Thần Khí Thiên Chúa. Bằng hình ảnh của ông thợ gốm, tác giả đã mô tả việc Thiên Chúa tạo dựng nên con người qua việc nặn, đắp tượng. Tượng muôn đời vẫn mãi là tượng nếu Thiên Chúa không thổi ‘Thần Khí’ vào lỗ mũi. Như vậy sự sống con người, ngay từ ngày đầu, đã thuộc về Thiên Chúa.
Theo truyền thống của các ngôn sứ, như trường hợp của Giê-rê-mi-a, Ngài đã xác tín là Thần Khí Thiên Chúa làm chủ môi miệng Ngài trong việc rao truyền sứ vụ. Đặc biệt, trong hành trình bốn mươi năm tiến về miền đất mà Chúa đã hứa, ngôn sứ I-sa-ia đã quả quyết rằng chính Thần Khí Đức Chúa đã đưa họ về chốn nghỉ ngơi.
Thần Khí Thiên Chúa hiện diện với Đức Giêsu từ khi Người được thụ thai trong cung lòng của Mẹ Người, Đức Maria. Người lớn lên trong sự bao bọc của Thần Khí. Đến khi thi hành sứ vụ công khai thì cũng chính Thần Khí của Đức Chúa đã dẫn Người vào hoang địa để đối diện và chiến thắng các thử thách. Với Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu đã chọn các Tông Đồ; và với Thần Khí, Người đã hiến mình làm của lễ hy sinh không tì vết mà dâng lên Cha. Nói chung, Người làm mọi việc với Chúa Thánh Thần. Đức Giê-su xác tín rằng sức mạnh của Thần Khí đã hoạt động trong cuộc đời và sứ vụ của Người thế nào thì Thần Khí cũng sẽ tác động một cách thật mạnh mẽ trong cuộc đời của các môn đệ và những ai đi theo Người như thế. Vì thế, Đức Giêsu đã nói về Chúa Thánh Thần bằng những từ rất cụ thể, thực ra, về những gì Chúa Thánh Thần sẽ làm trong cuộc sống của chúng ta.
Ngay trong giây phút từ giã cõi trần, Người gục đầu xuống mà trao ban Thần Khí cho những ai ở dưới chân Thập Giá. Và theo Tin Mừng của Thánh Gio-an thì duới chân Thập Giá lúc đó có Mẹ Người và người môn đệ mà Người yêu mến. Thật ra, ai trong chúng ta không đuợc Chúa yêu thương. Nói khác đi, ngay trong giây phút Đức Giêsu đi về cùng Cha, Người đã trao ban Thần Khí cho Hội Thánh, đó cũng là chủ đích mà Thánh Luca đã ghi lại trong sách Tông đồ công vụ.
Thưa anh chị em.
Trong những tuần vừa qua, nhất là qua biến cố lên trời của Đức Giê-su, chúng ta đã nhận ra một sự hiện diện mới của Chúa Phục Sinh. Người không vắng mặt, nhưng nhờ Thánh Thần của Người mà chúng ta nhận ra cách thức hiện diện vô cùng mới mẻ và sống động của Người. Nhờ Thánh Thần của Người mà chúng ta nhận ra sự thật là Thiên Chúa không chỉ ở cùng mà còn ở trong mỗi người chúng ta, như Lời Đức Giê-su đã nói: “Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em.”
Điều này đã được chứng thật qua sự hình thành và phát triển của Hội Thánh. Thật vậy, khi đọc lại lịch sử của Hội Thánh, không ai trong chúng ta có thể phủ nhận được hoạt đông của Thần Khí Thiên Chúa vẫn hiện diện trong lòng Hội Thánh. Từng câu từng chữ trong sách Công vụ Tông đồ đã nói lên chân lý này. Và Thần Khí của Thiên Chúa vẫn không ngừng hoạt động trong lòng Hội Thánh cho đến mọi thời, như Lời Chúa đã hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”
Có nhiều người đã nghĩ rằng Thần Khí của Thiên Chúa chỉ hoạt động nơi các cộng đoàn đang phát triển, hiện diện qua các sự kiện nhằm phô trương thanh thế và nơi các đấng các bậc có chức quyền. Thật ra, Thần Khí của Thiên Chúa hoạt động hữu hiệu và mãnh liệt nơi những người cùng khốn, nơi các cộng đoàn đang bị chà đạp và bách hại. Còn hơn thế, một khi Hội Thánh đang ở thời điểm đen tối lại là lúc Hội Thánh nhận được sự trợ giúp và soi sáng của Thần Khí tác động một cách hữu hiệu hơn cả.
Cụ thể, trong thời gian gần đây, chúng ta được nghe nhiều về các biến cố đã xẩy ra trong Giáo hội tại các nuớc Tây Phương - Nói như thế, không phải để bào chữa hay phủ nhận rằng các việc này không xẩy ra bên các nuớc Á Châu - Những sự kiện này được gọi là ‘xâm phạm hay lạm dụng tình dục trẻ em’. Cụm từ tuy ngắn gọn, nhưng ảnh hưởng và sự thiệt hại của nó rất lớn. Đó là hành động phản bội về mặt tinh thần, tâm lý và sinh lý của một người có chức quyền đối với người kém thế hơn; đặc biệt là đối với trẻ em. Nó để lại trong tâm hồn và đời sống của các nạn nhân những vết thương và sự thù ghét Giáo hội. Họ mặc cảm bị khước từ. Họ cắn răng chịu đựng trong tủi nhục. Có một số người lâm vào trạng thái ‘trầm cảm’, tự tìm lối giải thoát cho bản thân và để lại niềm thuơng tiếc, nỗi đau khổ cho người thân.
Các sự kiện này đã xẩy ra vào các thời điểm khác nhau. Có những vụ đã xẩy ra khoảng vài chục năm trước đây, trong một môi trường văn hóa hoàn toàn khác biệt với văn hóa ngày nay. Có những nạn nhân vì nhiều nguyên nhân khác nhau đã không dám lên tiếng cho các bậc hữu trách biết tường tận mọi chi tiết của tình huống. Nhưng từ khoảng thập niên 1970 và nhất là việc thiết lập ‘uỷ ban hoàng gia’ để điều tra về các vụ án này, cộng thêm các nguyên nhân khác. Tât cả đã trở thành nguồn động lực giúp cho các nạn nhân mạnh dạn hơn trong việc nói ra những vết thương thầm kín, đã đè nén tâm tư họ bao nhiêu năm trường. Và với phuơng tiện truyền thông hiện đại, mọi sự đều đuợc phơi bầy. Vì thế, nhiều tín hữu mất đi niềm tin và giảm sự kính trọng nơi các vị lãnh đạo trong Hội Thánh.
Tuy nhiên, với những ai lạc quan, họ có thể cho rằng Đức Chúa Thánh Thần không chỉ hoạt động trong Hội Thánh mà thôi, Ngài còn soi sáng cho các vị có trách nhiệm của ‘uỷ ban hoàng gia’, các nạn nhân và các tổ chức liên hệ đứng dậy để giúp cho cơ cấu của Hội Thánh đuợc tinh luyện hơn. Chúng ta tin rằng Thần khí của Thiên Chúa vẫn hoạt động không ngừng để rửa sạch, thánh hóa và làm cho bản chất của Hội Thánh mỗi ngày một Thánh Thiện hơn.
Còn đối với các tín hữu, chúng ta mang trong mình sức mạnh của Thiên Chúa. Chính sức mạnh của Thần Khí giúp chúng ta hy vọng rằng: dù đời sống con người có ra sao; ngay cả lúc yếu đuối, tội lỗi thì Thần Khí của Thiên Chúa sẽ ban sức mạnh cho sự yếu đuối, ban ơn bình an khi tha thứ tội lỗi cho chúng ta.
Sức mạnh của Thần Khí là thế: truyền ban sự sống, tái tạo và hàn gắn đổ vỡ. Ngài đã, đang và mãi họat động. Phần chúng ta hãy cảm nhận bằng lòng tin về sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Qua hoạt động của Ngài, chúng ta đuợc diễm phúc gia nhập vào hàng ngũ của những người đi theo Ðức Giêsu và được chọn để làm chứng cho cuộc đời và sự Phục Sinh của Người. Alleluia!
Lúc ấy, các Tông đồ đang tụ họp cầu nguyện ở lầu trên cùng với Đức Maria Mẹ Thiên Chúa thì bất ngờ như có một luồng gió thổi mạnh vào các ông và hình lưỡi lửa hiện trên đầu mỗi người. Tức thì tâm hồn các ông tràn ngập sức mạnh một cách lạ kỳ.
Chúa Thánh Thần Hiện Xuống xẩy ra sau lễ Phục Sinh năm mươi ngày. Đây là dấu hiệu khởi đầu sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội, một sứ mệnh vượt qua tất cả mọi trở ngại của con người vì có sức mạnh chúa Thánh Thần hướng dẫn.
Câu chuyện chúa Thánh Thần hiện xuống mà Luca kể trong Công vụ Tông đồ (Cv 2:1-13) gồm phần mở đầu là bài giảng của Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu phục sinh cùng ý nghĩa ngôn sứ của Chúa (c.14-36) và sự đáp ứng thuận lợi của khán thính giả (2:37-41). Mười hai Tông đồ, lúc bấy giờ chưa chính thức được gọi là ngôn sứ của Đức Giêsu nên bị giáo quyền địa phương ở Jerusalem khiển trách. Họ là những kẻ đã âm mưu giết Chúa Giêsu, lúc này đang muốn ngăn cản làn sóng uy tín đang lên của Chúa Giêsu. Thánh vịnh 104 cho biết Chúa Thánh Thần là hơi thở của Thiên Chúa mà những Kitô hữu đã nhận được cũng là Thần Khí đã gìn giữ và canh tân tất cả mọi tạo vật.
THÁNH PHAOLÔ NÓI VỀ ƠN ĐẶC SỦNG CHÚA THÁNH THẦN
Thánh Phaolô nhắc nhở tín hữu Côrintô qua bài đọc 1 hôm nay (1 Cr 12:3b-7, 12-13), là Chúa Thánh Thần ban nhiều ơn khác nhau là có ý nghĩa cả. Nó sẽ tồn tại mãi mãi không bao giờ hết hiệu lực. Người Kitô hữu được kêu gọi để đoàn kết thành một đơn vị duy nhất, trong đó cuộc sống của tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc, mọi quốc gia và tôn giáo đoàn tụ lại trong một Đức Giêsu Kitô.
Ân sủng xuất thần hoạt động là một cảm nghiệm chung của người Kitô hữu thời sơ khai khi tin nhận biết Đức Kitô. Nhưng tín hữu Côrintô lại có những nhận định không đồng đều về một số hiện tượng, nhất là về tiếng nói, làm sai lệch luật của phụng vụ. Thánh Phaolô nhắc nhở họ là hiện tượng xuất thần phải được nhận định theo kết quả. Sức mạnh để tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Chúa là do Chúa Thánh Thần ban, vì vậy Chúa Thánh Thần không thể thúc đẩy người ta xúc phạm Thiên Chúa được. Cũng có một số hình thức chung cho các ân sủng, dù rất đa dạng: Tất cả đều là ân sủng (Charismata) từ ngoài đến; nhưng tất cả chỉ là hình thức phục vụ (diakoniai), để diễn tả mục đích và hiệu quả của nó; tất cả chỉ là công việc (energemata) trong đó có Thiên Chúa hành động. Thánh Phaolô kết hợp tất cả những hình thức đó lại thành điều mà khoa thần học sau này gọi là Chúa Thánh Thần, một trong ba ngôi Thiên Chúa.
Hình ảnh một thân xác (c.12-16) cho thấy mối tương quan giữa Đức Kitô và các tín hữu (c.12). Phaolô cũng áp dụng hình thức này vào Giáo Hội. Nhờ bí tích Thanh Tẩy mà tất cả mọi người – dù khác giới tính, màu da, dân tộc hay nguồn gốc xã hội- vẫn liên hợp với nhau thành một tổ chức. Như vậy mỗi chi thể đều có những nhiệm vụ riêng nhưng không làm suy giảm hay đánh mất tính duy nhất của thân thể.
NGƯỜI THỔI HƠI THỜ VÀO CÁC ÔNG
Gioan (Ga 19:20-23) lại diễn tả Chúa Thánh Thần một cách khác. Đức Giêsu phục sinh ‘thổi hơi Chúa Thánh Thần vào các Tông đồ’. Sức mạnh của Chúa Thánh Thần không những chỉ cho phép mà còn ban cho các Tông đồ quyền tha hay kìm buộc tội lỗi. Người chính thức sai các ông đi khắp thế giới như Người được Chúa Cha sai đến thế gian. Hơi thở của Đức Giêsu thổi vào các Tông đồ ở lầu trên gợi nhớ lại sách Khải Huyền (Kh 2:9) Thiên Chúa hà hơi vào “người đầu tiên” và ban cho ông sự sống. Sự sống của ông Adong đến từ Thiên Chúa, bây giờ sự sống thần linh mới của các Tông đồ đến từ Đức Giêsu.
NHỮNG GÓC CẠNH CỦA CHÚA THÁNH THẦN
Nhận biết Chúa Thánh Thần phải nhìn dưới 3 khía cạnh: 1-Tổng quát là mọi người chúng ta thuộc về Giáo Hội. 2- Những quan niệm lý tưởng đang hoạt động trong Giáo Hội ngày nay. 3- Giáo Hôi là Hy Vọng, biểu lộ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội.
HÃY CẢM NGHIỆM CÙNG GIÁO HỘI “SENTIRE CUM ECCLESIA”
Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống được coi là ngày sinh nhật của Giáo hội. Qua phép Thanh Tẩy, chúng ta tự hiến để phục vụ đức Kito thì cũng phải tự hiến để phục vụ Giáo Hội. Thánh Ignatio thành Loyola đã suy niệm rất sâu xa về vấn đề này và khuyến khích chúng ta “Hãy cảm nghiệm cùng Giáo Hội/Sentire cum ecclesia”. Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống một lần nữa mời gọi chúng ta cùng bước đi với Giáo Hội, thở cùng một nhịp với Giáo Hội, hy vọng cùng với Giáo Hội, cảm nghiệm cùng Giáo Hội. Chúng ta nên tự hỏi: Giáo Hội có ý nghĩa gì đối với cá nhân mỗi người chúng ta? Cá nhân tôi có tương quan gì với Giáo Hội không? Tôi có mến yêu Giáo Hội không? Tôi có cảm thấy Giáo Hội yêu thương tôi không?
VƯỢT QUA LÝ TƯỞNG
Sau Công đồng Vatican II, một số trong chúng ta bị kẹt trong những tranh luận lý tưởng. Chúng ta phân vân giữa hai phe tả và hữu, bảo thủ và cấp tiến, nam và nữ, giáo phẩm và giáo dân, tương lai và hiện tại. Tình trạng bảo thủ trong Giáo Hội và cộng đồng cũng như tình trạng phân cực giữa các phe nhóm trong giáo hội có thể làm chúng ta e ngại không dám đề cập một cách sâu xa và rõ ràng những vấn đề chúng ta đang đối diện. Bất cứ vấn đề gì còn lấn cấn và biến đổi nơi chúng ta thì cũng sẽ lây lan đến những người khác và thế hệ kế tiếp. Khi chúng ta thất vọng, vô lý, hẹp hòi, thích chỉ trích, hà khắc với những màu nhiệm của Giáo Hội, là chúng ta đã phản bội chính chúng ta là những kẻ mang niềm vui, hy vọng và sự thật. Niềm vui có hiện diện trong chúng ta như là những chứng nhân Kitô hữu không? Cái gì đã ngăn cản chúng ta và cộng đồng làm chứng nhân niềm vui cho đức Giêsu Kitô, niềm tin Công Giáo và Giáo Hội?
CHÚA THÁNH THẦN LÀ BIỂU HIỆU CỦA HY VỌNG
Hy vọng là một biểu hiệu của Thần Linh Thiên Chúa trong ngày lễ trọng này. Chúng ta ai cũng có lúc cảm thấy như bị hụt hẫng, hoang mang vì con thuyền Giáo Hội. Cơn bão kinh hoàng đã từ từ chụp lên tất cả chúng ta và hiện vẫn còn đè nặng trên Giáo Hội do cả bên ngoài lẫn bên trong. Một số người có thể dễ dàng nhìn thấy tình trạng đó; chúng ta bi quan, thất vọng, chán nản, có khi tỏ vẻ cay đắng. Bình thường thì hy vọng là tin rằng rồi ra mọi sự sẽ đưa đến tốt đẹp. Hy Vọng là một từ mà ta thường dùng hàng ngày, nhưng đó không phải là hy vọng của người Kitô hữu. Người Kitô hữu chúng ta phải là những hình ảnh của hy vọng, của một người có viễn kiến mới, một người nhìn thế giới qua những lăng kính khác nhau của Đức Kitô, của Chúa Thánh Thần và của Giáo Hội. Xin Chúa Thánh Thần là sức mạnh hiện diện và giúp Giáo Hội VN, mổi người chúng ta niềm Hy Vọng cho một ngày mai tươi sáng…
DẤU CHỈ THỜI ĐẠI VÀ DẤU CHỈ HY VỌNG
Công đồng Vatican II khuyến khích người Kitô hữu nên đọc những dấu chỉ của thời đại. Thánh Gioan XXIII, coi đó là những dấu chỉ của hy vọng và cái nhìn về một vương quốc ở giữa chúng ta. Vì nó không phải là một vương quốc trần thế, nên không thể xác định rõ ràng vị trí của nó, nhưng thực sự nó đã hiện diện, được nuôi dưỡng bởi bí tích Thánh Thể, được đúc khuôn sản xuất ở mọi xã hội và sẽ tiếp tục như vậy mãi mãi. Vương quốc này tự nó được biểu hiện qua những ân sủng của chúa Thánh Thần như đức khôn ngoan, ơn hiểu biết, hợp nhất công đồng, cố vấn, lòng can đảm, sự thông minh, bác ái và kính sợ Thiên Chúa. Hoa trái của chúa Thánh Thần biến vương quốc thành cụ thể biểu hiện qua Tình Yêu, Niềm Vui, An Bình, Nhẫn nại, Tử Tế, Tốt Lành, Nhẫn Nhục, Dịu Dàng, Khiêm Tốn, Tiết Dục, đức Trong Sạch. Nó cũng có thể theo thể thức ‘con đường tiêu cực/via negativa’ và nói rằng ở đó không có vương quốc. Nơi nào không có công lý, hòa bình, chia sẻ, tin tưởng, tha thứ thì ở đó không có vương quốc. Nơi nào có oán thù, ghen ghét, ngờ vực, ghét bỏ, vô cảm, vô lề luật, hoan lạc bừa bãi, đa nghi chỉ trích, ở đó không có vương quốc và chắc chắn không có sự sống.
HÃY RA CHỖ NƯỚC SÂU MÀ THẢ LƯỚI - “DUC IN ALTUM”
Đức tin không thể đo lường được, do đó không thể phán xét sự sinh động của Giáo Hội dựa vào những tiêu chuẩn trần thế và những con số thống kê như người đời thường làm. Lửa Chúa Thánh Thần thúc dục chúng ta khám phá ra chiều sâu, bề rộng và vẻ đẹp huy hoàng của sứ mệnh Giáo Hội. Điều kiện cho những người có lý tưởng xây dựng Giáo Hội là phải có tư tưởng lớn và cật lực làm việc, sẵn sàng rương buồm ra xa chỗ nước cao và xâu để thả lưới, “Duc in altum”. Chúng ta cần có một viễn kiến sắc bén và xác tin vững chắn vào sự toàn thắng tội lỗi và cái chết của Đức Giêsu trên thập giá. Cá nhân hay cộng đồng không có viễn kiến, Giáo Hội không sứ mệnh cũng giống như một người cô độc, không liên đới. Có Chúa Thánh Thần ngự trị trong chúng ta là chúng ta có sức mạnh, dù bề ngoài có vẻ yếu đuối như thánh Phaolô đã nói: “…Khi tôi yếu là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12:10).
SỰ HIỆN DIỆN CỦA CHÚA THÁNH THẦN LÀ MỘT BẢO ĐẢM
Lấy gì làm bảo đảm chắc chắn là có Chúa Thánh Thần hiện diện ở trần thế và trong Giáo Hội? Câu trả lời là NIỀM VUI. Nếu có niềm vui hiện diện thì bạn có thể chắc chắn là Chúa Thánh Thần đã làm cái gì đó qua ân sủng đặc biệt của Ngài. Thánh Augustine, tổ phụ Giáo Hội đã cho thấy những cảm nghiệm của ngài vể niềm vui này như sau:
“Khi người ta phải làm việc cực nhọc thì người ta thường hay hát nghêu ngao tỏ vẻ ta vẫn vui. Nhưng khi niềm vui tràn đầy và những lời ca không còn đủ để diễn tả niềm vui ấy thì người ta chỉ còn ngân âm a giọng điệu của bài hát.. Sự vui mừng hân hoan này là gì? Bài hát ca hoan này là gì? Phải chăng là một bản hòa tấu diễn tả một tâm hồn bừng khởi niềm vui mà tự nó không thể nào diễn tả nổi. Niềm vui hân hoan này thuộc về ai? Thuộc về Thiên Chúa là đấng cũng không thể nào diễn tả ra được. Nếu lời ca không đến và không giữ yên lặng thì bạn có thể làm gì khác ngoài việc để cho nó bay bổng lên không trung? Đây chính là bản nhạc của Chúa Thánh Thần.”
Mừng lễ sinh nhật Giáo Hội hôm nay, chúng ta cùng nhau tung hô lời cảm tạ Chúa Thánh thần đã liên tục kêu gọi chúng ta phải trung thành và hân hoan vui mừng.
Lạy Chúa Thánh Thần,
Xin hãy đến…tràn ngập tâm hồn người tín hữu tôi tớ Chúa.
Xin hãy đốt lửa tình yêu Chúa trong chúng con Xin hãy biến chúng con thành chứng nhân vui mừng Của hy vọng trong Giáo Hội! Xin hãy giúp chúng con vượt qua những ảo tưởng Từng chia rẽ và làm chúng con mù quáng
Lạy Chúa, Xin hãy gửi Thần linh Chúa đến với chúng con Và canh tân bộ mặt trái đất và diện mạo Giáo Hội, diện mạo cộng đồng chúng con Chính bộ mặt chúng con và tâm hồn chúng con. Amen.
Trình thuật Tin Mừng hôm nay tiếp nối tuần trước trong bối cảnh bữa Tiệc Ly và nó nằm trong diễn từ ly biệt giữa Đức Giêsu và các môn đệ.
Trong diễn từ này, Đức Giêsu loan báo cuộc ra đi của Ngài bằng con đường thương xót theo ý Chúa Cha qua cái chết trên thập giá cho các môn đệ. Tuy nhiên, lời loan báo này đã làm cho các ông xao xuyến, hoang mang vì mất đi điểm tựa.
Nhưng, Đức Giêsu, nhân cơ hội này, đã giúp cho các ông hiểu rõ hơn về một cuộc hiện diện khác, cuộc hiện diện thần linh, nhiệm mầu.
Để cho sự hiện diện này được khăng khít, người môn đệ phải đi trên con đường của Thầy đã đi. Phải chung nhịp đập xót thương với Thầy. Chìa khóa để đi vào sự hiệp thông trọn vẹn ấy chính là yêu mến và tuân giữ Lời của Ngài.
Đây là con đường tình yêu của Thầy và trò. Đây cũng là đường thương xót để đến với tha nhân. Chúa Thánh Thần sẽ tiếp nối con đường xót thương ấy qua việc bào chữa, an ủi và trong vai trò khai trí mở lòng, nhằm giúp các ông hiểu tường tận những Lời Đức Giêsu đã dạy, để họ cũng thi hành cùng một hành vi xót thương đến với tha nhân như chính bản thân đã cảm nghiệm.
1. Tuân giữ Lời và thi hành là yêu mến cách trọn vẹn
Tin Mừng hôm nay, thánh sử Gioan đã khéo léo trình bày tâm trạng hỗn độn, hoang mang, sợ hãi của các môn đệ khi nghe tin Thầy của họ sắp sửa ra đi để chịu chết. Họ lo sợ bởi tính háo thắng, ham danh, muốn được ưu đãi, trọng thị, mong được hưởng những đặc quyền, đặc lợi theo kiểu trần gian.... những lý tưởng đó sắp bị tan thành mây khói.
Đến đây, chúng ta hiểu thêm một điều nữa, đó là: vì những lựa chọn rất tầm thường đó chỉ đạo tâm tưởng của các môn đệ, nên những điều Thầy của họ giảng cũng như những việc Ngài làm... đã không ăn nhập gì với mục đích cũng như chẳng giúp các ông nhận ra sứ vụ Thiên Sai, đầy thương xót của Đấng Cứu Thế!
Thấu hiểu tâm trạng và diễn biến tâm lý nơi các học trò, nhất là nỗi hãi vì sự liên lụy đến cái chết của mình, nên Đức Giêsu đã trấn an: “Đừng xao xuyến và buồn sầu” (Ga 14,27). Ngay sau đó, Ngài đưa ra một chỉ dẫn để giữa các ông và Ngài có một mối thông hiệp cách chặt chẽ: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy tuân giữ các giới răn của Thầy” (Ga 14,5). Việc tuân giữ và thi hành Lời của Thầy, ấy là thước đo chính xác và cụ thể nhất lòng yêu mến của các ông đối với Ngài. Đồng thời, khi tuân giữ Lời của Thầy, các ông sẽ hướng đích cuộc đời mình dưới cái nhìn sứ vụ. Như thế, giữa trăm chiều thử thách trông gai, và ngay cả cái chết, các ông vẫn vui mừng và sẵn sàng thốt lên: “Không có gì tách chúng tôi ra khỏi tình yêu của Đức Kitô”; và:“Đối với tôi sống là sống cho Đức Kitô và chết là một mối lợi”. Hơn nữa, khi yêu mến và giữ lời của Thầy, họ sẽ được hưởng trọn vẹn lòng thương xót, đến độ không còn gì có thể so sánh bằng, bởi nơi tình yêu ấy, có sự hiện diện và xót thương của cả Ba Ngôi Thiên Chúa: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, Chúng Ta sẽ đến và ở lại với người ấy”(Ga 14,23).
2. Chúa Thánh Thần tiếp nối con đường thương xót
Để cuộc đời và sứ vụ của các môn đệ sang một trang mới, nên ngoài việc Đức Giêsu chỉ cho các ông tuân giữ Lời của Ngài, thì việc loan báo về Chúa Thánh Thần trong vai trò là Đấng An Ủi, Bào Chữa... là điều hết sức quan trọng.
Vì thế, Đức Giêsu đã nói với các ông: “Thầy ra đi thì có lợi cho các con. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với các con; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với các con” (Ga 16,7).
Khi Chúa Thánh Thần đến, Người sẽ làm cho sự hiện diện của Thầy trò trong trạng thái “cách mặt, nhưng gần lòng”, bởi vì: “Đấng Bào Chữa là Thánh Thần sẽ dạy các con mọi điều và sẽ làm cho các con nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với các con” (Ga 14,26).
Thật vậy, như đã nói: nhiệm vụ của Chúa Thánh Thần là tiếp nối đường thương xót của Đức Giêsu trong vai trò dạy dỗ và nhắc lại những điều Đức Giêsu đã loan báo lúc tại thế. Khi nhắc cho các ông điều Đức Giêsu đã nói không phải chỉ là ôn lại, nhưng theo cách hiểu của Thánh Kinh là: khám phá ra ý nghĩa lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu dưới ánh sáng của biến cố phục sinh. Qua việc tiên báo này, Đức Giêsu sẽ hiện diện trong Lời của Ngài cách cụ thể qua vai trò Trung Gian của Chúa Thánh Thần. Vì thế, mặc dù ra đi, nhưng lòng lại gần lòng hơn bao giờ hết, và các môn đệ không bao giờ bị cảnh mồ côi đơn chiếc, vì: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (x. Ga 14,18).
Để đảm bảo lời hứa, nhất là giúp cho các môn đệ được can đảm, trung thành đi đến cùng con đường thương xót mà Đức Giêsu muốn các ông tiếp bước trong lòng mến, nên Đức Giêsu hứa ban cho các ông sự bình an riêng của Ngài. Đây là sự bình an đặc biệt, bình an nội tâm, một sự bình an tuyệt hảo mà chỉ Thiên Chúa mới có và mới ban tặng cho chúng ta: “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban cho các con bình an của Thầy, Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng” (Ga 14,27).
Lời dạy và những ân ban của Đức Giêsu cho các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay, cũng là lời mời gọi và nhắc nhớ mỗi người chúng ta trong tư cách là người môn đệ của Đức Giêsu trong Giáo Hội của Ngài.
3. Sứ điệp Lời Chúa
Sống trong một xã hội đang bị đe dọa đủ thứ, nhất là sự xáo trộn về giá trị đạo đức trong mọi lãnh vực...! Ơn bình an đích thực dường như vắng bóng trong xã hội. Có lẽ con người không còn đủ niềm tin vào thực tại cuộc sống, bởi lẽ, sự “tử tế” gần như là một cái gì đó xa xỉ nếu không muốn nói là người ta không thích nhắc đến, bởi khi nhắc đến, họ sợ cái “bụng” bị đói!
Trong một môi trường “ô nhiễm” do nạn thượng tôn “ông chủ bụng” mà trà đạp lên sự “tử tế” như vậy, nhiều người muốn sống đàng hoàng cũng khó, bởi vì: “Thật thà, thẳng thắn thì thường thua thiệt”; “Gian tham lọc lừa lại lên lương”. Người ta coi: “Chân Lý và chân giò bằng nhau”; “Lương Tâm, lương thực và lương tháng cùng giá trị”!
Từ thực trạng trên, người nghèo trở thành đối tượng nhắm đến cho những nhu cầu bất chính nơi một số “Chủ nhân ông”. Từ đó gây nên sự bất an trong xã hội.
Nguyên nhân chính yếu đó là: họ đã không có lòng thương xót, đã tách Lời Chúa ra khỏi cuộc sống. Quan điểm: “Kính nhi viễn tri”; hay: “Mũ ni che tai” đối với Lời Chúa là điều mà nhiều người trong chúng ta chọn lựa.
Vì thế, họ sợ phải sống theo Lời Chúa dạy. Không dám đối diện với sự thật và lòng xót thương. Khước từ cũng như trối bỏ chân lý, nên không dám sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy ngoan ngùy dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Luôn trung thành tuân giữ và yêu mến Lời Chúa. Đem Lời Chúa vào cuộc sống. Để Lời Chúa trở thành “khuôn vàng thước ngọc”; là “kim chỉ nam”, đem lại sự hợp nhất, yêu thương, tha thứ, biến đổi, nhất là sự bình an. Đây cũng là dấu chỉ của người đang đi trong đường lối thương xót của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến và làm cho tâm hồn chúng con nóng lên ngọn lửa yêu mến Chúa. Amen.
Chúa Thánh Thần tác động mạnh mẽ nên con người biến đổi hoàn toàn, không chỉ khác thường mà rất lạ lùng, vì họ thông minh đột xuất. Thật vậy, khi thấy một số người “nói tiếng lạ,” người ta bàn tán: “Mấy ông này say bứ rồi!” (Cv 2:13) Có nhiều dạng say, nhưng khi nói say thì người ta thường nghĩ tới dạng say men rượu hoặc bia. Say là trạng thái “không bình thường” ở một con người, khiến người ta suy yếu. Tinh thần và thể lý khác nhau nhưng vẫn liên quan với nhau.
Say là một dạng điên nhẹ, say rượu bia là một dạng điên khùng, say tình là si tình – và chắc chắn không ai si tình bằng Thiên Chúa, vì Chúa Giêsu chết cho những người tội lỗi và ghét Ngài. Văn hào William Shakespeare ví von: “Một chút ái tình cũng như một chút rượu mạnh, cái gì quá cũng làm người ta mắc bệnh.” Si tình thì mới hóa tương tư – loại bệnh không ai trị được, chỉ có “đối tác” mà thôi.
Lợi và hại là hai thứ trái ngược, và thường thì “được nọ, mất kia.” Samuel Johnson xác định: “Một trong những bất lợi của rượu là nó khiến người ta nhầm lẫn ngôn từ với tư duy.” Ngày Lễ Ngũ Tuần, những người “nói tiếng lạ” mà không bất lợi, hoàn toàn hữu ích: Nói về Chúa và nói với Chúa. Họ “say” thật, say tới bến chứ chẳng ngà ngà hoặc là đà, thế nhưng chắc chắn không gì tuyệt vời hơn dạng “say Chúa” như vậy!
Chính Chúa Giêsu đã hứa với các môn đệ trước khi vì “say tình” mà chấp nhận đau khổ và cái chết: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật.” (Ga 14:16-17a) Chúa hứa thì chắc chắn Chúa ban, nhưng bổn phận của chúng ta vẫn phải cầu xin: “Veni Sancte Spiritus! Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến!” Và tín nhân sẽ tràn đầy hạnh phúc khi “say” Thần Khí.
Là tín nhân Kitô giáo – cách riêng là tín nhân Công giáo, ai cũng được biết rằng Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Ba, được tôn xưng với nhiều danh hiệu: Thần Khí Sự Thật, Thánh Linh, Thánh Thần, Linh Khí, Đấng An Ủi, Đấng Bảo Trợ, Đấng Thánh Hóa, Đấng Canh Tân,... Ngài xuất hiện qua hình chim bồ câu, lửa, nước, và gió. Riêng về gió rất kỳ lạ, có mà không ai thấy, chỉ “thấy” gió qua vật khác – cây, mây, vải,… Chúng ta có thể cảm nhận mà không thể đụng chạm.
Chúa Thánh Thần rất quan trọng trong cuộc đời chúng ta, vì Ngài là Thần Khí Sự Sống. Ngài quan trọng đến nỗi mà Chúa Giêsu đã xác định: “Ai nói phạm đến Thánh Thần thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời.” (Mc 3:29; Lc 12:10) Mọi tội đều được tha, nhưng tội phạm tới Chúa Thánh Thần thì mãi mãi không được tha, nghĩa là “tội cố chấp.” Không chịu nhận mình sai mà sám hối thì ai giúp được gì?
Như chúng ta đã biết rõ, khi đề cập Chúa Thánh Thần, chúng ta quen nhắc tới “bảy ơn Chúa Thánh Thần” – ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn thông minh, ơn đạo đức, và ơn kính sợ Chúa. Cách nói quen thuộc đó do quan niệm của Kinh Thánh cho rằng số 7 là con số kỳ diệu. Chúng ta cũng nói Chúa Thánh Thần có sứ vụ thánh hóa, Ngài luôn tác động trong mỗi người, và chúng ta là đền thờ Chúa Thánh Thần. (x. 1 Cr 3:16) Chúa Giêsu đã về trời để Chúa Thánh Thần đến ở với chúng ta cho đến tận thế, và Ngài không ngừng hoạt động.
Mặc dù Chúa Thánh Thần vô cùng quan trọng trong cuộc đời của mỗi chúng ta, thế nhưng chúng ta lại thường xuyên quên lãng Ngài. Như lời nhắc nhở, trong các giờ phụng vụ, Giáo Hội luôn cầu xin Chúa Thánh Thần ngự đến và thánh hóa mọi sự ngay từ đầu để có hiệu quả đúng theo Ý Chúa, bắt đầu các giờ kinh đều cầu xin Thiên Chúa Ngôi Ba.
Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, đúng như lời Đức Kitô đã hứa trước khi về trời, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như LƯỠI LỬA tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho. (Cv 2:1-4) Thật vậy, mỗi người đều có khả năng riêng – người được ơn này, kẻ được ơn khác, không ai giống ai, không ai bất tài vô dụng như người ta quan niệm. Tài năng riêng của mỗi người chính là ơn của Chúa Thánh Thần, nhưng ơn đó không phải để giữ riêng cho mình rồi chảnh, ích kỷ hoặc kiêu căng, mà là để làm vinh danh Thiên Chúa. Của Chúa thì phải trả lại Ngài, đó là công bằng mà thôi.
Hồi đó ở Giêrusalem có những người Do Thái sùng đạo, từ các dân thiên hạ trở về, nhưng ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình. Họ sửng sốt và thán phục lắm. Đó là hiện tượng “nói tiếng lạ,” nhưng ai cũng hiểu. Các tông đồ chỉ là những người ít học, làm đủ các ngành nghề, chẳng học ngoại ngữ bao giờ, thế mà nay thông minh đột xuất, nói ngoại ngữ như gió, họ thấy nhãn tiền chứ chẳng phải chỉ nghe đồn. Mèn ơi, vô cùng lạ lùng, ngoài sức tư tưởng của phàm nhân chúng ta.
Ngay lúc đó của ngày hôm đó, các tông đồ “nói tiếng lạ” không phải để lòe bịp, khoe khoang hoặc ý đồ gì khác, mà chỉ “loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!” (Cv 2:11) Tận mắt chứng kiến và nghe rõ ràng như vậy, ai cũng sửng sốt, có những người phân vân vì không hiểu như vậy nghĩa là gì, nhưng cũng có những người lại chế nhạo rằng các tông đồ “say” thật rồi. (Cv 2:13)
Tương tự, ngày nay khi thấy “sự lạ” hoặc thấy người khác có “cái lạ” (theo nghĩa tích cực về tâm linh), có người khâm phục và tạ ơn Chúa, nhưng cũng có người gièm pha, chê trách, ghét bỏ,... Có thể họ không nói ra bằng lời, nhưng động thái của họ đã “bật mí” tâm địa của họ. Đây là phương diện cần lưu ý và cẩn tắc, vì “cái tôi” của con người vừa to vừa lớn, choán hết chỗ của những thứ khác, cụ thể là nó “che” tầm nhìn của mình nên chỉ thấy chính mình mà thôi. Thật đáng quan ngại!
Với ít nhiều kinh nghiệm để nhận biết rằng Ơn Chúa luôn chan hòa và kỳ diệu, thế nhưng khi cầu nguyện mà không thấy “được như ý” nên chúng ta cứ tưởng Chúa không ban, thật ra Ngài ban cho chúng ta cái khác có lợi cho chúng ta hơn so với điều chúng ta muốn, bởi vì “Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Người biết hết mọi sự.” (1 Ga 3:20) Thật vậy, “sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người.” (1 Cr 1:24 -25) Chắc chắn rằng “tất cả đều là hồng ân,” thế nên chúng ta phải biết tạ ơn, chân thành tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi! Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!” (Tv 104:1) Trí óc phàm nhân chúng ta không thể đủ sức hiểu sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa.
Thật là khôn ngoan nếu biết “Fiat voluntas Dei – Xin vâng Ý Chúa” theo tâm nguyện của Lm Leo Dehon – thời Công Đồng Vatican I, vị sáng lập Dòng Hiến Sĩ Thánh Tâm, tức là Dòng Linh Mục Thánh Tâm (Oblates of Sacred Heart, Priests of Sacred Heart, tức là SCJ – Prêtres du Sacré Cœur de Jésus.) Đặc sủng của dòng này là các linh mục như nạn nhân của Chúa và sống tinh thần đền tạ Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Thánh Vịnh gia minh định: “Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình vạn trạng! Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan, những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất.” (Tv 104:24) Không có Ngài, chúng ta chẳng làm được trò trống gì, dù là việc nhỏ nhoi, mà thậm chí là chết ngay lập tức. Thiên Chúa là sự sống, Thánh Thần là hơi thở, có Thiên Chúa thì chúng ta nên mới hoàn toàn như “sinh vật lạ,” nhưng chắc chắn rằng thiếu Thiên Chúa thì chúng ta không thể nào sống nổi: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi. Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này. Vinh hiển Chúa, nguyện muôn năm tồn tại, công trình Chúa làm Chúa được hân hoan.” (Tv 104:29-31)
Là những người Công giáo, ai trong chúng ta cũng mong được nhận thức sâu sắc và đúng đắn về Thiên Chúa, đồng thời khả dĩ định hướng sống rạch ròi: “Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Người vui thoả, đối với tôi, niềm vui là chính Chúa.” (Tv 104:34) Chỉ có vậy mới an tâm và thẳng tiến về hướng Trời cao – Quê Hương Vĩnh Hằng.
Ngày xưa, các tông đồ là những người nhát đảm, sợ sệt, đã từng bị Thầy Giêsu trách là “kém tin,” (Mt 6:30; Mt 14:31; Mt 16:8; Mt 17:20; Lc 12:28) nhưng sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các ông trở nên can đảm, mạnh dạn, dám ăn dám nói chứ không “bỏ của chạy lấy người” như trước. Đa số các ông đã tử đạo để minh chứng niềm tin vào Đức Kitô – Đấng Cứu Độ duy nhất. Thật vậy, một Saolê hung hăng và tàn bạo bắt đạo Chúa đã trở thành một Phaolô “mềm như bún” và nhiệt thành rao truyền Đức-Kitô-chịu-đóng-đinh-và-phục-sinh sau khi được Chúa Thánh Thần tác động. Rất nhiều vị thánh trong lịch sử Kitô giáo đã cho thấy rõ sức mạnh của Chúa Thánh Thần hoạt động và biến đổi các ngài. Cầu xin Thiên Chúa Ngôi Ba cũng biến đổi mọi người – đặc biệt là biến đổi những người vô thần để họ sớm trở về với một Chúa duy nhất.
Với giáo đoàn Côrintô, Thánh Phaolô chia sẻ: “Khi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy. Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa. Thế mà điều chúng tôi giảng dạy cho các tín hữu trưởng thành cũng là một lẽ khôn ngoan, nhưng không phải là lẽ khôn ngoan của thế gian, cũng không phải của các thủ lãnh thế gian này, là những kẻ sớm muộn gì cũng phải diệt vong. Trái lại, chúng tôi giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn đời, cho chúng ta được vinh hiển.” (1 Cr 12:3-7) Điều đó chứng tỏ sức mạnh của Chúa Thánh Thần đã tác động: Người nhút nhát thành can đảm, người yếu đuối thành mạnh mẽ, người dốt nát thành thông minh, người khờ dại thành khôn ngoan,... Thật tuyệt vời!
Và rồi Thánh Phaolô căn dặn: “Phần chúng ta, chúng ta đã không lãnh nhận thần trí của thế gian, nhưng là Thần Khí phát xuất từ Thiên Chúa, để nhận biết những ân huệ Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Để nói về những điều đó, chúng tôi không dùng những lời lẽ đã học được nơi trí khôn ngoan của loài người, nhưng dùng những lời lẽ học được nơi Thần Khí; chúng tôi dùng những lời lẽ Thần Khí linh hứng để diễn tả thực tại thuộc về Thần Khí.” (1 Cr 12:12-13)
Chắc chắn đúng như vậy và tuyệt đối như thế, bởi vì Chúa Thánh Thần vô cùng quan trọng. Chúng ta cùng nhau hiệp ý cầu xin với cả Giáo Hội qua bài Ca Tiếp Liên: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, và tự trời toả ánh quang minh của Ngài ra! Lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; Ðấng ban ân huệ, Ðấng soi sáng tâm hồn, xin ngự đến!...” Và Ngài đã đến, đang đến và sẽ đến, để không ai phải mồ côi hoặc cô độc.
Quả thật, Ca Tiếp Liên xác định: “Nếu không có Chúa trợ phù, trong con người còn chi thanh khiết, không còn chi vô tội.” Vì thế mà chúng ta phải không ngừng “xin Chúa rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa cho lành nơi thương tích, uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng, chỉnh đốn lại chỗ trật đường, ban cho ơn bảy nguồn, được huân nghiệp nhân đức, được hạnh phúc cứu độ và được hoan hỉ đời đời.”
Thực sự được như thế thì vô cùng diễm phúc, vì chúng ta chỉ là phàm nhân cát bụi, tội lỗi ngập đầu, mà được Thiên Chúa ân cần săn sóc. Thảo nào ma quỷ ghen tức với chúng ta nên chúng dàn quân cám dỗ mọi nơi, mọi lúc. Chúng ta càng diễm phúc hơn vì dù chỉ là những tội nhân khốn kiếp mà được phục hồi cả “bộ ba” là nhân vị, nhân phẩm, và nhân quyền – nhờ Máu và Nước cứu độ tuôn trào từ Nguồn Mạch Thương Xót nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu. Không chỉ vậy, Thiên Chúa còn ban cho chúng ta được Chúa Thánh Thần luôn ở với chúng ta và hứa ban hồng phúc trường sinh với Ngài trên Thiên Quốc, vì chính Chúa Giêsu, Đấng cứu độ chúng ta, muốn rằng Ngài ở đâu thì chúng ta cũng ở đó. (Ga 14:3) Đúng là còn hơn là diễm phúc hoặc đại phúc nữa. Deo gratias!
Chính Chúa Giêsu cho biết rằng Ngài về trời để dọn chỗ cho chúng ta, (Ga 14:2) vì ích lợi của chúng ta, (Ga 16:7) nhưng vì quá đỗi yêu thương chúng ta nên Ngài sợ chúng ta mồ côi, (Ga 14:18) thế nên Ngài hứa ban Chúa Thánh Thần ở hẳn trong mỗi chúng ta, (Ga 14:16) và lời hứa đó được thực hiện vào ngày Lễ Ngũ Tuần, sau khi Chúa Giêsu về trời được 10 ngày. Và lúc nào cũng là Lễ Ngũ Tuần đối với tín nhân chúng ta nếu biết mở rộng tâm hồn đón nhận Chúa Thánh Thần, để cho Ngài biến đổi.
Thánh Gioan cho biết: Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” (Ga 20:19) Một lời chúc tuyệt vời, vì đó là “hơi ấm” mà ai cũng cần, cả trong cuộc sống đời thường và tâm linh. Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Ôi, không vui sao được vì Thầy đã sống lại đúng như Ngài tiên báo. Cứ tưởng Thầy chết là “chấm hết,” nào ngờ Thầy vẫn “nguyên si.” Thật là sung sướng quá chừng luôn!
Chắc hẳn lúc đó các ông sướng rơn nên không biết nói gì. Rồi Ngài lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em.” (Ga 20:21) Một hệ lụy tất yếu. Sướng thì sướng thật, nhưng phải có trách nhiệm, và không được ích kỷ, nghĩa là phải chia sẻ niềm vui đó cho người khác. Đó là công bình và hiệp nhất.
Chúa Giêsu vừa dứt lời thì thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20:22-23) Một lần nữa, Chúa Giêsu lại tiếp tục thể hiện Lòng Thương Xót một cách cụ thể: Bí tích Hòa giải. Đúng như Ngài đã từng bảo ông Phêrô khi ông hỏi Ngài về mức độ tha thứ: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.” (Mt 18:22) Ngài là Đấng giàu lòng thương xót, là Thiên Chúa tình yêu, với Thánh Tâm ngùn ngụt Lửa Yêu nên Ngài dạy phải sống bao dung chứ đừng “bung dao,” phải “yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho người ngược đãi mình.” (Mt 5:44) Như thế mới là thực hành Lòng Thương Xót và “mới được trở nên con cái của Chúa Cha.” (Mt 5:45) Nếu không, chúng ta chẳng đáng công chi, chẳng hơn người thu thuế và người ngoại đạo. (Mt 5:46-48)
Để có thể hành động đúng như Chúa Giêsu mong muốn thì chúng ta phải thực sự can đảm, muốn can đảm thì phải có ơn Chúa Thánh Thần, muốn có ơn Chúa Thánh Thần thì phải cầu xin Ngài ngự đến. Thật vậy, không có Thiên Chúa thì chúng ta chẳng làm gì được. (Ga 15:5) Chúng ta chỉ vô dụng nếu không có Chúa Thánh Thần.
Mọi tín nhân đều là những người được Chúa Giêsu sai đi như chiên vào giữa bầy sói, vì thế phải “khôn ngoan như rắn và đơn sơ như bồ câu” (Mt 10:16), tức là cần ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần. Thật vậy, Thánh Phêrô vừa cảnh báo vừa căn dặn: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé.” (1 Pr 5:8) Nhìn vào mặt trời rất chói mắt, những ai theo Đức Kitô đều bị ma quỷ tìm cách phá – rõ ràng và cụ thể là luôn có bách hại Kitô giáo, càng ngày càng tinh vi hơn.
Thật thú vị với các biểu tượng về Chúa Thánh Thần: Bồ câu hiền lành và thân thiện với mọi người, tượng trưng hòa bình (bình an, an bình); Lửa có tính “nhiệt” (nóng, dương); Nước có tính “hàn” (lạnh, âm), âm dương hòa quyện Đất Trời; Gió làm hạ nhiệt, gió từ quạt máy không thể so với làn gió nhẹ từ thiên nhiên. Lửa, Gió và Nước là những thứ rất mềm, nhưng lại “cứng” hơn mọi thứ khác, và không ai có thể “cắt đứt” chúng. Chúa Thánh Thần cũng vậy, khi Ngài đã hành động thì không một sức mạnh nào có thể cưỡng lại. Ngoài ra, lửa có một đặc điểm khác là càng chia sẻ càng thêm nhiều, chứ không giảm bớt. Quả là kỳ diệu vô cùng!
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin tạ ơn Ngài đã cho chúng con được làm người và làm con cái của Ngài. Xin ban Thần Khí để chúng con được sống dồi dào và đủ sức hoàn thiện theo Thánh Ý Ngài, nhờ đó chúng con có thể can đảm làm nhân chứng nhân sống động và hiệu quả. Xin cho chúng con được say Tình Ngài, trở nên khí cụ bình an của Ngài, xin Lửa Thánh Thần “thiêu đốt” và “uốn nắn” chúng con nên mới mỗi ngày một hơn, đồng thời luôn bảo vệ chân lý của Ngài.
Lạy Thiên Chúa nhất lành, tạ ơn Ngài đã thương Việt Nam cách riêng trong cơn đại dịch Corona, không để chúng con chịu thiệt thòi như những quốc gia khác. Xin Chúa tiêu diệt virus ở những nơi khác, nhất là những nơi tâm dịch. Xin Chúa thêm sức cho mọi người, và xin cho những người thiệt mạng vì đại dịch được về hưởng Thánh Nhan Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Hiện nay trong các hội nghị quốc tế chẳng hạn như hội nghị Minh Ước Bắc Đại Tây Dương ở Paris, hay tại Liên Hiệp Quốc ở New York, các đại biểu trong hội nghị chỉ cần đưa máy nghe lên tai thì tức khắc họ sẽ nghe diễn giả đang nói tiếng Ba Tư nói thành tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Ý… toàn thể bài diễn văn được dịch ra và chuyền lại cho các thính giả nghe.
Nhưng cách đây hơn hai ngàn năm chính Chúa Thánh Thần đã làm công việc này trong ngày lễ Hiện Xuống. Lúc các tông đồ còn đang lo âu sợ sệt vì Đức Giêsu đã chết và lên trời. Họ đóng cửa ở lại trong phòng. Rồi một buổi sáng nọ, bỗng nhiên Chúa Thánh Thần hiện xuống dưới hình lưỡi lửa đậu trên đầu các ngài. Các tông đồ trở nên vững tâm và mạnh dạn. Các ông mở cửa ra ngòai và bắt đầu rao giảng.Trước mặt họ là một đám đông dân chúng hỗn độn, từ 15 quốc gia và nói 15 thứ tiếng khác nhau, thế mà khi tông đồ nói, mỗi người đều nghe như các tông đồ đang nói tiếng bản xứ của mình.
Cha Ronald Rolheiser, OMI kể về cha Lorenzo Rosebaugh như sau: lúc đó cha Lorenzo vừa trở về sau một chuyến đi truyền giáo dài ở châu Mỹ La Tinh, nơi mà trong nhiều năm cha đã sống với người nghèo trên đường phố của Recife. Sau đó cha được gởi qua Pháp nhưng lại không nói được tiếng Pháp. Thế mà chưa đầy một tháng, người ta đã thấy cha ngồi trên bậc tam cấp nhà thờ gần khu dân cư với hơn chục người vô gia cư xúm quanh. Họ đang chia sẻ bữa ăn và đang trò chuyện với nhau, trông giống như một cuộc pícníc trong công viên vậy.
Cha Lorenzo không nói được một từ tiếng Pháp và những người quây quần quanh cha cũng không nói được tiếng Anh, tiếng Bồ Đào Nha hay Tây Ban Nha, nhưng rõ ràng họ đang giao tiếp với nhau, và giao tiếp một cách thân tình và sôi động. Làm thế nào mà họ có thể làm được như thế? Đó chính là Chúa Thánh Thần.
Lần đầu tiên mô tả Lễ Hiện Xuống, thánh Luca kể cho chúng ta rằng sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các môn đồ đầu tiên của Chúa Giêsu đi ra ngoài công chúng và bắt đầu nói, và tất cả mọi người, hết thảy mọi người, dù sắc tộc hay ngôn ngữ của họ thế nào, đều nghe những lời các tông đồ nói như nghe bằng ngôn ngữ của mình. Hàng rào ngôn ngữ ngăn cách cũ không còn cản trở việc nghe thấy hay hiểu được. Ngôn ngữ cất lên từ tâm hồn đã vượt lên trên mọi sắc tộc và tiếng mẹ đẻ.
Như vậy ngôn ngữ có nhiều cấp độ khác nhau
- Ở cấp độ rõ ràng nhất, ngôn ngữ phụ thuộc vào từ ngữ nói ra, mà lời nói thì luôn luôn phải là một ngôn ngữ cụ thể như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, hay tiếng Việt Nam.
Ở cấp độ này, lời nói chỉ có một sức mạnh tương đối, nhưng chúng cũng có thể trở thành lừa dối và gian trá. Lời nói không phải lúc nào cũng chính xác phản chiếu tâm hồn. Và có lúc chúng ta không thể diễn tả bằng lời như trước cảnh đau thương chết chóc hay khi bị phản bội trắng trợn.
- Nhưng chúng ta còn có một thứ ngôn ngữ khác: ngôn ngữ của cơ thể. Cơ thể của chúng ta còn có thể diễn tả được nhiều hơn và trung thực hơn lời nói của chúng ta. Qua cơ thể, qua điệu bộ, qua cử chỉ và từng dáng vẻ của cơ thể, chúng ta nói một cách sâu sắc hơn và chân thực hơn so với khi chúng ta nói bằng lời.
- Và chúng ta còn một thứ ngôn ngữ sâu sắc hơn nữa: đó là ngôn ngữ của tâm hồn, ngôn ngữ của con tim, ngôn ngữ của Chúa Thánh Thần, một thứ ngôn ngữ xuyên qua lời nói và ngôn ngữ của cơ thể chúng ta.
Chúa Thánh Thần không chỉ là một bản vị thiêng liêng trong mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Trái lại Thánh Kinh nói với chúng ta rằng Chúa Thánh Thần lại rất cụ thể như niềm vui, bình an, kiên nhẫn, lòng tốt, đức chịu đựng, trung tín, dịu dàng và trong sạch. Dù có mặt hay vắng mặt, tất cả cất tiếng nói với chúng ta rất to và rõ ràng hơn bất kỳ lời nói hay cử chỉ, điệu bộ nào của chúng ta. Đó chính là ngôn ngữ của Chúa Thánh Thần, ngôn ngữ đó đã được thể hiện trong trường hợp của cha Lorenzo. Khi làm việc ở châu Mỹ La Tinh, cha Lorenzo Rosebaugh chỉ bập bẹ nói thứ tiếng Tây Ban Nha sai bét và thứ tiếng Bồ Đào Nha cũng sai bét. Vậy mà người nghèo ở đó vẫn nghe được và hiểu những gì cha Lorenzo nói. Cha không hề biết tiếng Pháp mà cha vẫn có thể ngồi trên bậc tam cấp nhà thờ ở Pháp và quây tụ quanh mình những người vô gia cư chỉ nói được tiếng Pháp - và họ hiểu cha một cách rõ ràng như thể đang nghe ngôn ngữ mẹ đẻ của mình. Đó là ngôn ngữ của con tim, Ngôn ngữ của Chúa Thánh Thần, Ngôn ngữ của Tình Yêu Thiên Chúa. Đó chính là ngôn ngữ của Lễ Hiện Xuống mà chúng ta mừng kính hôm nay. Amen
Thần thoại Hy Lạp có kể lại câu chuyện thần Prométhée ăn cắp lửa trời để sáng tạo con người như sau :
Theo óc tưởng tượng của người Hy lạp, Thiên Triều do thần Zeus cai trị gồm nhiều vị thần. Trong số các vị thần ấy có thần Prométhée được Ngọc Hoàng Zeus tín nhiệm ban cho quyền tạo dựng con người và súc vật trên mặt đất.
Thần Prométhée dùng mọi yếu tố của trần gian để nhào nặn nên con người. Nhưng con người mà vị thần tạo dựng vẫn chết cứng vì còn thiếu Lửa. Vì thế, thần Prométhée đã lên đến lò rèn của thần Hephetus để ăn cắp lửa thiêng đem xuống trần gian. Lửa đã lan tràn khắp mặt đất, làm cho con người được sưởi ấm và hân hoan.
Vì tội ăn cắp lửa trời, thần Prométhée đã bị Ngọc Hoàng Zeus xiềng xích trên một ngọn núi cao, hằng ngày bị chim ưng rỉa thịt và moi gan.
Huyền thoại về ngọn lửa trong câu chuyện kể trên là một hình ảnh nói lên khát vọng vô biên của con người. Ngọn lửa ấy tạo sức sống cho tạo vật trong bàn tay nhào nặn của một vị thần. Ngọn lửa ấy đem lại ánh sáng, hơi ấm và niềm hân hoan cho trần gian. Ngọn lửa cũng là một hình ảnh rất đẹp và gần gũi với cuộc sống con người. Lửa không phải là vật chất nhưng là một hiện tượng mà con người chỉ có thể cảm nghiệm được mà thôi.
Ngọn lửa Thánh Thần trong ngày Lễ Ngũ Tuần là một huyền nhiệm vừa cao cả vừa gần gũi mà chúng ta có thể cảm nghiệm được bằng đức tin. Ngọn lửa ấy đem lại sức sống cho những tâm hồn “chết cứng” trong cuộc “tạo dựng mới” của Chúa Thánh Thần. Ngọn lửa ấy đem lại ánh sáng và hơi ấm cho những tâm hồn u tối và băng giá. Ngọn lửa ấy vẫn cháy mãi trong lòng Giáo Hội và trong tim mỗi người.
Ngọn lửa nói gì ?
Ngọn lửa luôn vươn lên
Ngọn lửa luôn có khuynh hướng bay lên cao. Vì thế, khi đốt lửa, ngọn lửa luôn bốc lên, tỏa ra ánh sáng và hơi nóng.
Ngọn lửa Thánh Thần trong ngày Lễ Hiện Xuống cũng làm cho tâm hồn các Tông đồ được vươn dậy từ những u buồn và thất vọng sau biến cố tử nạn của Chúa Giêsu.
Ngọn lửa Thánh Thần đã làm bừng lên niềm hy vọng đã lịm tắt trong lòng Giáo Hội, giúp cho Giáo Hội tìm thấy tia sáng và hơi ấm trong đêm dài lạnh lẽo của cuộc hành trình đức tin. Chúa Thánh Thần đã làm cho những đốm than hồng đang âm ỉ cháy trong lòng Giáo Hội bùng lên ngọn lửa nhiệt tâm loan báo Tin Mừng. Qua Giáo Hội, ngọn lửa Thánh Thần vẫn cháy mãi và nâng dậy những tâm hồn đang thất vọng chán chường, đang sống trong bóng tối và nỗi cô đơn.
Ngọn lửa luôn lan tỏa
Ngọn lửa luôn có khuynh hướng lan rộng và không thể cháy trong một môi trường đóng kín.
Trong ngày Lễ Ngũ Tuần, khi Chúa Thánh Thần được ban xuống, những cánh cửa của Nhà Tiệc Ly đã mở tung để các Tông đồ ra đi loan báo Tin Mừng. Ngọn lửa Thánh Thần không thể cháy trong những tâm hồn khép kín vì sợ hãi. Sau khi nhận được Thánh Thần, các Tông đồ đã được “khai lòng mở trí” và các ngài đã mở cửa bước ra khỏi cái vỏ của sự ích kỷ và nhát đảm ra đi cùng với “lửa Thánh Thần” trong tim.
Cũng vậy, khi nhận được Thánh Thần, Giáo Hội cũng mở tung cánh cửa “pháo đài” để đến với con người và để con người đến với mình. Qua Giáo Hội, ngọn lửa Thánh Thần vẫn cháy mãi và làm cho tình yêu lan tỏa khắp nơi. Lửa Thánh Thần đang làm sống lại những “bộ xương khô” của thời đại hôm nay.
Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là “Ngày lễ Lửa”
Vào ngày 28/5/2004 vừa qua, trong bản tin VietCatholic có đăng bài phóng sự của tác giả Quốc Ngọc tựa đề “Đội Hoa Diệu Huyền : Múa Trong Thinh Lặng, Hát Cùng Bóng Đêm” nhân ngày bế mạc tháng hoa Đức Mẹ.
Bài phóng sự này viết về một buổi dâng hoa Đức Mẹ đặc biệt tại giáo xứ Trung Chánh [Hóc Môn, Sài Gòn] do cha sở Antôn Phạm Đức Quang phụ trách. Ngài đã tạo điều kiện để có buổi dâng hoa này ở nhà thờ giáo xứ.
Gọi là buổi dâng hoa Đức Mẹ đặc biệt vì đội dâng hoa gồm những em khiếm thính [điếc] múa với lời ca tiếng hát của các em trong ca đoàn khiếm thị [mù].
Các em trong “Đội Dâng Hoa Điếc” thuộc Trung Tâm Giáo Dục Trẻ Khuyết Tật Thuận An, Bình Dương [Quen gọi là Trường Câm Điếc Lái Thiêu], được các Soeur Saint Paul de Chartres luyện tập, kết hợp với “Ca Đoàn Mù” là các em bị mù thuộc Gia Đình Huynh Đệ Như Nghĩa do các Soeur Dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ phụ trách.
Gọi là buổi dâng hoa đặc biệt vì trong “Đội Dâng Hoa Điếc” và “Ca Đoàn Mù” chỉ có ít em là người Công giáo còn phần lớn là các em ngoại giáo.
Thật là cảm động biết bao khi nhìn thấy các em trong “Ca Đoàn Mù” lần mò từng nốt nhạc trong bản nhạc “chữ nổi” [Braille] để hát những bản Thánh ca cho các em điếc bước đi trong điệu múa nhịp nhàng, trang nghiêm.
Thật là cảm động biết bao khi nhìn thấy các em trong “Đội Dâng Hoa Điếc” trình diễn những vũ điệu dễ thương trong tiếng đàn hát của những ca viên không nhìn thấy gì cả !
Thật là cảm động biết bao khi những vũ điệu và tiếng hát của những em khuyết tật đã vượt lên trên những mảnh đời bất hạnh và khổ đau. Dù các em “múa trong thinh lặng, hát cùng bóng đêm”, nhưng đó là vũ điệu và tiếng hát thiên thần vươn lên từ những khát vọng và ước mơ.
Điều gì đã làm nên những giây phút thật xúc động như vậy ? – Lửa Thánh Thần !
Điều gì đã làm cho ước mơ của những cuộc đời đau thương chắp cánh bay cao ? – Lửa Thánh Thần !
Điều gì đã làm cho hạt giống Tin Mừng nảy mầm và nở hoa hạnh phúc trong những tâm hồn chưa biết Chúa ấy? – Lửa Thánh Thần !
Lửa Thánh Thần cháy trong tim vị linh mục đang khao khát truyền giáo, muốn mở rộng vòng tay đón nhận những cuộc đời đau khổ.
Lửa Thánh Thần cháy trong tim những chị nữ tu, thúc đẩy họ ôm lấy những số phận bi thương vào lòng, xoa dịu những nỗi đau và lau khô những giọt lệ.
Lửa Thánh Thần cháy trong tim những con người tật nguyền và thăng hoa họ trong tình yêu của Thiên Chúa. Ngọn lửa vẫn rực cháy trong thinh lặng của sự câm điếc, vẫn rực sáng trong những đôi mắt mù lòa, để họ vẫn nghe được những tiếng vọng tình thương, vẫn nhìn thấy chung quanh còn có biết bao tấm lòng nhân hậu.
Ngày Lễ Ngũ Tuần cũng như ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống hôm nay chính là “Ngày lễ Lửa”.
Chúa Thánh Thần như ngọn nến được thắp lên trong Lễ Ngũ Tuần năm xưa là ngọn nến thứ nhất đánh dấu ngày sinh nhật của Giáo Hội. Ngọn nến ấy vẫn rực cháy trong lòng Giáo Hội. Ngọn nến ấy vẫn tỏa ánh sáng và hơi ấm cho nhân loại. Ngọn nến ấy vẫn truyền lửa cho ngọn nến thứ 2004 và rất nhiều ngọn nến khác trong Lễ Hiện Xuống hôm nay và vẫn tiếp tục mang lửa đến tận cùng trái đất.
Trong Năm Thánh truyền Giáo, muốn loan báo Tin Mừng, chúng ta phải có “lửa” trong tim. Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần đốt lên trong lòng chúng ta ngọn lửa tình yêu để chúng ta tỏa sáng qua những việc hy sinh, bác ái và phục vụ hàng ngày.
“Niềm vui” là một điểm nhấn nổi bật trong giáo huấn của Đức Thánh Cha Phanxicô. Theo ngài, hiệu quả của sứ mạng truyền giáo bị hạn chế vì đôi khi đức tin được trình bày một cách cứng nhắc, khô khan, thiếu vắng niềm vui. Thiên Chúa hiện diện giữa dân của Ngài. Đó là niềm vui mừng lớn lao và đó cũng là điểm làm nên sự khác biệt giữa Do Thái giáo và các tôn giáo đương thời khác. Đức Giêsu là Tin Mừng của Thiên Chúa. Chính cuộc sống của Người là Tin Mừng. Người đến trần gian làm cho Tin Mừng ấy được lan tỏa mọi nẻo đường của cuộc sống. Niềm vui của Chúa không chỉ là niềm vui trần gian nhất thời và bề ngoài, nhưng đó chính là niềm vui nội tâm, giúp cho con người được hạnh phúc. Niềm vui ấy là ân ban của Chúa Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa, Đấng đang hiện diện trong Giáo Hội và là linh hồn của Giáo Hội. Chúa Thánh Thần chính là Đấng ban phát niềm vui.
Đề tài “niềm vui” được trải dài trong các bài đọc Cựu ước cũng như Tân ước được đề nghị trong thánh lễ Vọng, chiều thứ Bảy, trước lễ Hiện Xuống, và được diễn tả một cách đặc biệt trong bài Tin Mừng lễ chính ngày. Thánh Gioan kể lại, trong lúc các tông đồ đang u sầu đau khổ, Chúa Giêsu phục sinh đã hiện ra với các ông, mặc dù các cửa nhà đều đóng kín. Việc gặp gỡ Chúa Giêsu đem lại cho các ông niềm vui vỡ òa. Bởi lẽ, trước đó, họ đau đớn chứng kiến việc thày mình bị bắt, bị tra tấn và bị giết chết. Tuy vậy, niềm vui không chỉ hệ tại ở cuộc gặp gỡ với Đấng Phục sinh, mà Đấng Phục sinh đã trao ban cho các ông Thánh Thần, Đấng là Tình Yêu muôn thuở và là Niềm Vui bất tận. “Bình an cho anh em! Như Cha đã sai Thày, Thày cũng sai anh em”. Lời cầu chúc này đi đôi với cử chỉ “thổi hơi”. Đây là một cách diễn tả thấm nhuần truyền thống của Cựu ước. Vì Thiên Chúa thổi hơi để ban cho con người có sức sống (x. St 2,7). Ngôi Ba Thiên Chúa hay Chúa Thánh Thần được diễn tả như: Gió, Thần Khí, Hơi Thở, Sự Sống. Vì thế, việc Đức Giêsu “thổi hơi” trên các tông đồ nhắc lại việc Thiên Chúa ban Thần Khí của Ngài cho mọi loài tạo vật và cho con người vừa được nắn từ bùn đất. Chính nhờ Thần Khí mà vũ trụ này được tác tạo và luân chuyển xoay vòng theo một trật tự diệu kỳ. Tiếp nối ý tưởng “Thần Khí” và “Thổi hơi”, bài đáp ca trong thánh lễ hôm nay tuyên xưng: “Ngài rút hơi thở chúng đi, chúng chết ngay, và chúng trở về chỗ tro bụi của mình. Nếu Ngài gửi hơi thở tới, chúng được tạo thành, và Ngài canh tân bộ mặt trái đất” (Tv 103,29). Quả vậy, không có Chúa Thánh Thần (hay Thần Khí Thiên Chúa), sự sống trên trái đất sẽ chấm dứt, thiên nhiên vũ trụ sẽ biến thành hư vô. Chúng ta gọi Chúa Thánh Thần là “Thần Khí tác tạo” là vì thế.
Khi mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Giáo Hội nhìn lại lịch sử mà mình đã được sinh ra. Ngày lễ Ngũ Tuần là một lễ quan trọng của người Do Thái. Vào chính ngày này, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ. Lịch sử đã sang một trang mới. Nỗi buồn bị đẩy lui, nhường chỗ cho niềm vui; sự sợ hãi nơi các tông đồ chấm dứt, nhường chỗ cho lòng can đảm nhiệt thành loan báo Tin Mừng Phục sinh. Tác giả sách Công vụ Tông đồ đã diễn tả sự kiện Chúa Thánh Thần hiện xuống như một lễ khai sinh trọng thể của Giáo Hôi (Bài đọc I).
Đấng đã đến với Giáo Hội trong ngày lễ Ngũ Tuần vẫn hiện diện giữa chúng ta, vẫn tiếp tục ban cho chúng ta niềm vui tràn đầy và nâng đỡ chúng ta trong hành trình cuộc đời, giữa những chông gai thử thách trăm chiều. Nhờ Chúa Thánh Thần mà Giáo Hội được liên kết gắn bó giữa các nền văn hóa khác nhau trên trái đất, làm thành gia đình của Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã dùng hình ảnh một thân thể con người để diễn tả tính đa dạng và hoàn vũ của Giáo Hội: “Cũng như chỉ có một thân thể nhưng có nhiều chi thể, mà các chi thể tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể, cho dù là Do Thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do: tất cả chúng ta đã uống trong một Thánh Thần”.
Trong Tông huấn “Gaudete Exultate” mới công bố ngày 9-4-2018, Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết: “Cuộc đời Kitô hữu là cuộc đời “vui mừng trong Chúa Thánh Thần” (Rom 14,17), vì “kết quả cần thiết của tình yêu bác ái là vui mừng; bởi vì mỗi người yêu đều vui mừng khi được kết hợp với người mình yêu … ảnh hưởng của lòng bác ái là niềm vui.. Khi nhận được hồng ân Lời Chúa tuyệt mỹ, chúng ta ôm chặt lấy Lời ấy “giữa bao gian khổ, với niềm vui của Chúa Thánh Thần” (1 Tx 1,6). Nếu chúng ta để cho Chúa kéo chúng ta ra khỏi cái vỏ của mình và thay đổi cuộc sống của mình, thì chúng ta có thể làm như Thánh Phaolô nói với chúng ta: “Hãy hãy luôn vui mừng trong Chúa. Tôi nhắc lại, hãy vui lên!” (Pl 4, 4) (số 122).
Lễ Hiện Xuống được cử hành trong tháng Năm, là tháng dâng hoa kính Đức Mẹ. Đức Maria đã hiện diện với Giáo Hội trong ngày lễ Ngũ Tuần. Chúa Thánh Thần ngự đến trong khi các tông đồ quây quần xung quanh Đức Mẹ để cầu nguyện. Trong suốt chặng đường dài của lịch sử Giáo Hội, Đức Mẹ vẫn hiện diện để che chở Giáo Hội và nâng đỡ các tín hữu. Mới đây, Đức Thánh Cha Phanxicô đã thiết lập ngày lễ kính Đức Mẹ với tước hiệu “Mẹ Giáo Hội”, và ngài ấn định vào ngày thứ Hai sau lễ Hiện Xuống hằng năm. Điều này giúp chúng ta liên kết với hình ảnh Đức Mẹ cầu nguyện giữa các môn đệ như đã nói trên. Mỗi người hãy dâng lên Đức Mẹ đóa hoa lòng, thể hiện qua tâm tình yêu mến, siêng năng lần hạt Mân Côi và thực thi bác ái đối với tha nhân. Đó là những đóa hoa không tàn úa với thời gian, nhưng luôn tươi đẹp và tỏa ngàn sắc hương trước dung nhan Mẹ. Chắc chắn Mẹ sẽ ban cho chúng ta hạnh phúc và niềm vui trong cuộc sống hôm nay.
Nhìn vào xã hội hôm nay chúng ta thấy có quá nhiều những sai lầm. Những sai lầm được tích lũy từ thế hệ này chuyển qua thế hệ sau trở thành căn bệnh nan y. Hay có thể nói những sai lầm của người trẻ hôm nay là do thế hệ đi trước không cương quyết giáo dục họ và đôi khi còn làm gương mù gương xấu cho họ. Chúng ta thử ôn lại những điều sai lầm của người trẻ hôm nay là do lối sống của thế hệ trước ảnh hưởng trên lối sống của họ như thế nào ?
Trước tiên đó là một xã hội vô thần. Không có Thiên Chúa. Không có Trời Phật. Con người chỉ là vật, sinh ra chết là hết. Điều đáng tiếc là nhiều người hưởng ứng. Không ai dám mạnh dạnh phản đối lý thuyết sai lầm ấy. Một thời gian rất dài chúng ta đã bị sự giáo dục vô thần ấy khiến con cái chúng ta đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa để rồi cổ vũ cho lối sống đạo tại tâm là theo ý mình, không theo luật Chúa.
Thứ đến là Cổ súy đạo tại tâm không cần cầu nguyện lễ lạy. Nhiều người cha không đến nhà thờ, coi thường luật lệ dẫn đến giới trẻ cũng không cảm thấy đi lễ, giữ luật Chúa là cần. Có cậu trẻ nói : ba ơi bao giờ con mới bằng ba. Ba hỏi : con hỏi để làm gì ? Con thưa : để bằng ba thì con khỏi đi lễ.
Giáo dục học đường không đưa ra tiêu chuẩn luân lý trong giới tính mà chỉ dạy cho bọn trẻ cách tránh thai đã dẫn đến một số đông giới trẻ tự do luyến ái mà không hề có trách nhiệm về hành vi của mình.
Như vậy, một xã hội không dạy cho trẻ niềm tin, không dạy về luật lệ, và để cho trẻ tự do luyến ái đã dẫn đến một bộ phận giới trẻ sống buông tuồng, vô kỷ luật và phạm pháp.
Hôm nay lễ Chúa Thánh Thần là dịp để chúng ta nói lên vai trò của Chúa Thánh Thần là đến trần gian để an ủi, là dậy dỗ và uốn nắn con người. Thế nên, chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần đến sửa sai cho thế gian. Xin Ngài hãy uốn nắn con người hôm nay cho khỏi những sai lầm. Xin Ngài dậy dỗ con người đi theo chân lý và tình yêu.
Dường như Chúa Giê-su đã nhìn thấy những sai lầm của thế gian do ma quỷ dẫn dắt đã và đang làm cho con người đi trong những sai lầm. Ma quỷ đời nào cũng cổ vũ một xã hội không tôn giáo để rồi sống chiều theo bản năng và coi thường luật lệ. Ma quỷ đời nào cũng tìm mọi cách dẫn dắt con người đi theo những đam mê trần tục để đánh mất chính mình trong thói hư tật xấu hay trong những đam mê tội lỗi.
Chúa Thánh Thần đã đến để canh tân thế giới. Nhờ Ngài mà thế giới đã được nghe tin mừng. Nhờ Ngài tác động mà hàng ngàn, hàng vạn người luôn tiếp nối nhau ra đi xây dựng Nước Chúa. Nhưng cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối dường như chưa kết thúc, lúc nào cũng có những bóng tối làm cho người ta ra mê muội lầm lạc. Lúc nào cũng có những bóng tối của tham vọng cuồng loạn dẫn đến loạn lạc chiến tranh và đau khổ.
Đây là lúc mà Giáo hội cần những chứng tá tin mừng để mang Chúa Thánh Thần đến cho thế giới. Xin hãy để Chúa Thánh Thần sử dụng chúng ta như khí cụ mang bình an cho thế giới, nhất là cùng với Chúa Thánh Thần để sửa những sai lầm của thời đại. Hãy can đảm sửa sai từ chính bản thân mỗi người biết đi theo đường lối Chúa. Hãy can đảm sửa sai cho những người thân trong gia đình để gia đình luôn tràn ngập ánh sáng của tin mừng. Hãy mạnh dạn sống tin mừng trong một thế giới có quá nhiều sai lầm ngõ hầu canh tân thế giới này mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
Xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trên mỗi người chúng ta như xưa đã ngự xuống trên các tông đồ để nhờ đó chúng ta can đảm làm chứng cho tin mừng. Amen
– Anh Thắng chưa chạy xe lên đón anh em mình rồi. – Làm sao đây anh Phúc? – Mình đi bộ về nhà đi. – Xa lắm đó! – Anh em mình mới được chịu phép Thêm Sức mà. – Em được đầy Chúa thánh Thần luôn đó. – Ừ nhỉ! Ừ nhỉ!
Gần mười một giờ trưa, ba anh em cùng nhau đi bộ về nhà. Quãng đường từ nhà xứ về nhà hơn 15 cây số, vậy mà ba anh em vẫn quyết chí lên đường. Trưa mùa hè nắng như đổ lửa, ba mái đầu bé con đi bộ mà mồ hôi nhễ nhại, vừa mệt vừa đói nhưng cả ba vẫn vui vẻ và lòng rất phấn khởi. Sau hơn ba tiếng đi bộ thì ba anh em cũng về đến nhà trong niềm vui.
Đó là câu chuyện hồi học lớp sáu mà như vừa mới xảy ra hôm qua thôi. Nhìn lại cuộc sống của ta, ta nhận ra ơn Chúa Thánh Thần vẫn không ngừng tuôn đổ trên ta, hướng dẫn ta bước đi giữa cuộc đời nhiều cạm bẫy này. Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, là Đấng Bảo Trợ mà Chúa Giêsu đã hứa ban cho các Tông Đồ trước khi về Trời. Trong ngày lễ Ngũ tuần, các Tông Đồ đã được lãnh nhận Chúa Thánh Thần và hăng say ra đi rao giảng khắp nơi. Từ ngày lãnh nhận Chúa Thánh Thần, ta đã sống sứ vụ Chúa ban như thế nào?
Lời Chúa vẫn vang vọng trong tâm hồn ta: “Bình an cho các con! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Ga 20, 20). Sau cái chết của Thầy Giêsu, các Tông Đồ rơi vào nỗi sợ hãi, các ông sợ người Do thái. Chúa Giêsu Phục Sinh đã đến ban bình an cho các ông, chính Chúa là nguồn bình an cho các ông. Ngay lúc đó, các ông được vui mừng và không còn sợ hãi nữa. Còn ta, cuộc sống vẫn mang đến cho ta những khó khăn và những nỗi lo sợ. ta hãy tìm đến Chúa là nguồn bình an đích thực. Chỉ khi nào ta dám ký thác đời mình cho Chúa ta mới có được bình an. Hãy suy gẫm lời này mỗi khi gặp gian nan thử thách: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay” (Mt 6, 25-34). Ta có tin rằng, khi ta phó thác đường đời cho Chúa, chính Chúa sẽ ra tay bênh đỡ chở che cho ta không? Ta phải luôn nhớ rằng, Chúa Thánh Thần mãi luôn hoạt động trong cuộc đời ta. Chúa Giêsu đã ban bình an cho các Tông đồ và kèm theo đó là một lệnh truyền. Chúa cũng sai ta đi vào đời để trở nên muối và ánh sáng cho trần gian. Hãy bước đi với lòng tạ ơn Chúa Cha, bằng tình yêu của Chúa Giêsu và sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
“Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”. (Ga 20, 23).
Có Chúa Thánh Thần trong tâm hồn, ta hãy mạnh dạn tháo cởi những gì mà trước giờ ta đã cầm buộc. Đó có thể là một mối tương quan đang rạn nứt vì những hiểu lầm nho nhỏ, những lỗi lầm mà ta đã gây nên hay những người mà ta chưa có dịp sống liên đới như Chúa muốn. Hã mở rộng cánh cửa tâm hồn để đón Chúa và đón gặp gỡ anh chị em. Có những lúc ta cầm buộc người khác nhưng vô tình ta cũng đã tự trói lòng mình lại, vì khi ấy ta chẳng có bình an. Hãy tập tháo cởi từng ngày bằng sức mạnh của CHúa Thánh Thần.
Lạy Chúa Thánh Thần, Đấng BảẢo Trợ của con! Nguyện xin Chúa luôn ngự xuống trong tâm hồn con, soi sáng và dẫn đưa con trên hành trình về Nhà Cha. Lạy Chúa Thánh Thần! Xin cho con biết dành một vị trí thật xứng đáng để Ngài tự do hoạt động trong tâm hồn con. Con xin trao vào tay Ngài chìa khóa tự do của cuộc đời con để Ngài giúp con tháo cởi những ràng buộc và mở rộng cánh của tâm hồn cho Chúa ngự vào. Xin Chúa tuôn đổ tràn đầy ơn sủng Chúa Thánh Thần xuống trên Giáo Hội và giúp Giáo Hội luôn trở thành ánh sáng cho trần gian. Amen.
Trong những năm sống với các môn đệ, Chúa Giêsu luôn nói đến Chúa Thánh Thần, nhưng các môn để vẫn không hiểu Đấng ấy là thế nào. Dù là vậy, trước khi về trời, Chúa Giêsu đã củng cố niềm tin và trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ.
Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, là Đấng Bảo Trợ, gìn giữ và hướng dẫn các môn đệ. Đấng ấy sẽ giúp các ông hiểu những điều Chúa Giêsu đã giảng dạy về Nước Trời, hiểu những lời Cựu Ước đã tiên báo về Đấng Cứu Thế và biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa làm người. Các môn đệ sẽ được nhận thấy rõ về Chúa Giêsu là con đường, là sự thật và là sự sống cho nhân loại thế nào. Ngoài ra, trong tâm hồn các ông sẽ được Chúa Thánh Thần tăng thêm lòng tin, mỗi ngày cùng đồng hành với các ông trên con đường rao giảng. Vậy, Chúa Giêsu trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ như thế nào? Trong Kinh Thánh, Chúa Thánh Thần xuất hiện dưới hình dạng ngọn lửa. (x. Tv 2, 1-3); như chim bồ câu (x. Mt 3, 13-17) và nhiều hình dạng khác nữa. Lời Chúa hôm nay thuật lại: “Người đã thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”.(Ga 20, 22-23). Chúa Giêsu đã thổi hơi thở sự sống, hơi quyền năng và hơi tình yêu là Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Các ông sẽ là những con người tiếp nối sứ mạng rao giảng, chia sẻ tình yêu Chúa đến cho mọi người trong sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Từ đó, tất cả những ai đón nhận Tin Mừng điều trở nên con Thiên Chúa, được tràn đầy ân sủng của Chúa Thánh Thần.
Hôm nay mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống khơi dậy cho chúng ta nhớ lại những giây phút được lãnh nhận Chúa Thánh Thần trong ngày chịu phép Thêm Sức. Chúng ta đã được đón nhận Chúa Thánh Thần khi lãnh phép Rửa Tội. Tại sông Giođan, Chúa Giêsu cũng hạ mình khiêm nhường chịu phép rửa của ông Gioan, ngay lúc ấy Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên Ngài. Chúa Thánh Thần là quà tặng cao quý, một hồng ân mà Chúa Giêsu thương trao tặng cho con người. Từ đó, cuộc sống của chúng ta luôn được Chúa Thánh Thần đồng hành . Từng ngày sống luôn có những khó khăn, những khó khăn ấy làm cho chúng ta dễ quên Đấng Bảo Trợ. Vậy chúng ta phải làm sao đây? Hằng ngày, chúng ta hãy thử thanh luyện tâm hồn hướng đến những điều thiện, cần mở con tim để lắng nghe những gợi hứng của Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, chúng ta đi vào mối tương quan mật thiết với Chúa hơn. Chúa Thánh Thần là Đấng luôn lắng nghe và sẵn sàng giúp chúng ta vượt qua tất cả mọi khó khăn hằng ngày.
Laỵ Chúa, chúng con cảm tạ và ca ngợi Chúa. Chúa đã ban Thánh Thần cho chúng con. Ngài đã đang hướng dẫn, dìu dắt, bảo vệ và thánh hóa chúng con mỗi ngày. Xin cho mỗi người chúng con ý thức những ân huệ Chúa đã ban và nhớ rằng chúng con luôn có Chúa Thánh Thần bảo vệ. Amen.
Viết về Chúa Thánh Thần là một đề tài lớn trong Giáo Hội. Không đâu là không có hoạt động và tác động của Người. Dù Chúa Thánh Thần chưa ai thấy bao giờ nhưng nói về Người qua hình tượng: Gió, lửa, nước, bồ câu, hơi thở… rất nhiều đa dạng và hoạt động phong nhiêu. Có lẽ chỉ nói một chút ít về Chúa Thánh Thần trong tác động kinh nguyện của Người tín hữu, đủ thấy sự phong phú của Chúa Thánh Thần.
Kinh nguyện hướng về Chúa Cha.
“Mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do từ trên, đều tuôn xuống từ Cha là Đấng dựng nên muôn tinh tú; nơi Người không hề có sự thay đổi, cũng không hề có sự chuyển vần khi tối khi sáng.” Gc 1, 17).
Mọi nguồn mạch ân sủng quy về Chúa Cha, trong Chúa Giêsu và nhờ Chúa Thánh Thần. Phụng vụ kinh nguyện của người tín hữu đều ở trong mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Chúa Cha đã yêu thương bước trước khi tạo dựng nên con người, Chúa phán: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất.”(St 1, 26). Chúa Con xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại và Chúa Thánh Thần làm cho nhân loại mới được tháp nhập vào Chúa Giêsu Kitô.
Chúa Thánh Thần là Đấng chuẩn bị con người để con người gặp gỡ Chúa. Lời kinh nguyện của người Ki tô hữu không ở ngoài Thiên Chúa mà ở trong Thiên Chúa như diễn tả của hồng y Bruno Forte. Nhờ Chúa Thánh Thần đưa con người vào trong Thiên Chúa, như từ lúc Chúa Con xuống thế làm người, được thụ thai trong lòng Đức Maria, bởi phép Chúa Thánh Thần.
Kinh nguyện trong Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa làm người ở giữa thế gian. Người là Đấng mang lấy thân phận con người, thấm hiểu được mọi nỗi đau khổ, tang thương, và sự chết của con người. Là Đấng tiên tri đã giới thiệu: “Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề. Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành.” (Is 53, 4 – 5)
Chinh Chúa Giêsu dạy cầu nguyện bằng lời kinh Lạy Cha. Đó là lời kinh tốt đẹp nhất dâng lên Cha, nguyện Danh Cha cả sáng khi con người đáp lại bằng cả đời sống của minh để nên giống Chúa Giêsu. Kinh nguyện ở trong Chúa, là kinh nguyện được Chúa Thánh Thần thánh hóa người tín hữu, Đấng cắt tỉa những cành sâu, mối mọt, Đấng chữa lành thương tích do tội lỗi gây nên, Đấng sửa lại những lỗi lầm, giúp người tín hữu ngày càng nên hiệp nhất với Chúa hơn.
Kinh nguyện trong sự bền bỉ, đôi khi người tín hữu cũng có cảm nghiệm về sự khô khan hoặc chán ngán cầu nguyện, hoặc nguội lạnh trong khi tham dự Thánh lễ. Thực ra, đây là một thử thách lớn lao trong đời sống kinh nguyện, nhưng lại là một thử thách cần thiết. Tính bền bỉ đòi hỏi sự nỗ lực để vượt qua, kiên trì ngay cả lúc không thấm nhuần gì kinh nguyện. Lúc không còn không thể chịu đựng hơn nữa, vào lúc ấy, Chúa ra tay trợ giúp, như Thánh Phaolô kinh nghiệm về yếu đuối của mình: “”Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.” Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi” (2 Cor 12, 7 )
Kinh nguyện trong Chúa Thánh thần.
Không kinh nguyện nào mà không nhờ Chúa Thánh Thần tháp nhập vào trong Chúa Giêsu Kitô và dâng lên Chúa Cha. Thánh Phaolô viết: “Thánh Thần làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: “Áp-ba! Cha ơi!” (Rm 8, 15).
Chúa Thánh Thần làm cho kinh nguyện của cá nhân hợp cùng Giáo Hội dâng lên. Dầu cầu nguyện một mình nơi hoang vắng, hay những giờ kinh nguyện chung trong gia đình, hay trong những nhóm họp. Chúa Thánh Thần luôn làm cho kinh nguyện ấy được hợp lại trong lời tạ ơn dâng lên Thiên Chúa. Là một chi thể trong một thân thể, mà Chúa Giêsu Kitô là Đầu, người tín hữu đều được liên kết nhờ Chúa Thánh Thần.
Đời sống cầu nguyện là trường dạy về đời sống liên đới. Theo D. Bonhoéffer, ai không có khả năng sống một mình với Chúa, thì không thể hiệp thông với anh chị em mình. Cũng vậy, ai không có khả năng sống liên đới với anh chị em mình thì cũng không thể sống riêng một mình với Chúa. Chúa Thánh Thần nói trong thinh lặng, người tín hữu cần bền bỉ tập thinh lặng để lắng nghe.
Chúa Thánh Thần nói trong lương tâm của mỗi người, nhắc nhở về những sai lỗi, gợi lên con đường hoán cải. Đấng thấu suốt mọi tâm can, cho biết điều thật và giả, Người trợ giúp nếu muốn sống điều ngay thật; nếu cứng lòng sai lỗi Người vẫn kiên trì nhắc bảo, như Lời Chúa dạy: “Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi.” (Ga 6, 45).
Chúa Thánh Thần làm cho người tín hữu được sống trong Chúa Giêsu và sống dồi dào trong đời sống thường ngày của mình. Thánh Phao lô nói về hoa trái Chúa Thánh Thần: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ.” (Gl 5, 22 – 23). Những hoa trái này là kết quả của nhành nho gắn liền với thân nho.
Chúa Thánh Thần làm cho người tín hữu khi đón nhận Thánh Thể Chúa được sống nhờ Chúa và được nuôi dưỡng trong cộng đoàn Thánh Thể. Đó là một cộng đoàn Phục Sinh, làm chứng nhân cho Chúa trong niềm vui Chúa Thánh Thần.
“Lạy Chúa Thánh Thần xin Ngài ngự đến, và tự trời toả ánh quang minh. Lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến. Ðấng ban ân huệ, chiếu soi tâm hồn. Lạy Ðấng an ủi tuyệt vời, là khách trọ hiền lương của tâm hồn, Chúa là sự nghỉ ngơi trong cảnh lầm than, là niềm bình an trong lúc lệ rơi. Ôi sự sáng chứa chan hồng ân, xin chiếu soi ngập tràn tâm hồn tín hữu. Nếu không có Chúa trợ phù, thì còn chi thanh khiết, thì còn chi vô tội. Xin Chúa rửa sạch bợn nhơ, tưới gội chỗ khô khan, chữa cho lành thương tích. Xin uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng, chỉnh đốn sai lầm. Xin Chúa ban cho mọi tín hữu, là những người tin cậy nơi Chúa. Chúa ơi, cho họ được hạnh phúc cứu độ và được hoan hỉ muôn đời.” (Ca tiếp liên lễ Chúa Thánh Thần)
Khi Ðức Giêsu hiện ra với các tông đồ vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, Người phán bảo các ông: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần (Ga 20:22). Giáo lý công giáo dạy thêm thêm: nhận lấy Thánh Thầnlà tiếp nhận bảy ơn Chúa Thánh Thần là: Ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn thông thái, ơn đạo đức, và ơn kính sợ Thiên Chúa. Bảy ơn Chúa Thánh thần là những ơn căn bản, cần thiết cho đời sống người tín hữu.
Ngoài ra còn nhiều ơn khác quen gọi là đặc sủng của Chúa Thánh thần được ban tặng để nhắm lợi ích chung cho Giáo hội như đặc sủng khôn ngoan để giảng dạy, hiểu biết để trình bầy, lòng tin để củng cố; đặc sủng chữa bệnh, làm phép lạ, nói tiên tri, phân biệt thần khí; đặc sủng nói tiếng lạ, giải thích tiếng lạ (1Cr 12:7-11). Khi loài người đang cặm cụi xây thành phố và tháp chọc trời Baben để cho danh tiếng được lừng lẫy, thì họ bị phạt vì tội kiêu ngạo, khiến loài người không còn hiểu được tiếng nói của nhau và còn bị phân tán trên mặt đất (St 11:4-8). Trong ngày lễ Chúa Thánh thần hiện xuống, ơn hiểu biết ngôn ngữ đã được ban tặng để hiệp nhất những người dân Pác-thi-a, Mê-đi, Ê-lam, Mêsôpôtamia, Giu-đê, Ca-pa-đô-mi-a, Pon-tô, A-xi-a; những người Phy-ghi-a, Pam-phy-li-a, Ai Cập; những người vùng Libya, những người Rôma, những người Do Thái và cả người đạo theo; những người Cơ-rê-ta và người Ả Rập (Cv 2:9-11).
Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Côrintô giải thích là ơn Chúa Thánh thần không chỉ giới hạn nơi các tông đồ mà thôi, nhưng còn tác động nơi nhiều người, dưới nhiều cách thức và trong mọi thời đại. Muốn thấy ơn Chúa Thánh thần tác động như thế nào trong đời sống của Giáo hội, có thể đọc thư thánh Phaolô: Có nhiều thứ ân sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa là Ðấng làm mọi sự trong mọi người (1Cr 12:4-6). Như vậy các phần tử trong Giáo hội đều đóng những vai trò khác nhau và thi hành những phận vụ khác nhau.
Ơn Chúa Thánh thần ban cho mỗi phần tử khác nhau, nhưng chung qui lại về một mối như thánh Phaolô viết: Tất cả chúng ta, dầu là Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể (1Cr 12:13). Dấu chỉ của việc Chúa Thánh Thần làm là khi người tín hữu làm việc tông đồ nhằm mục đích tìm kiếm vinh danh Chúa và hiệp nhất với Giáo hội. Còn việc phân tán giữa thế giới Kitô giáo là một cớ vấp phạm cho những người không tin Chúa hoặc chưa tin theo Chúa. Vậy sứ vụ của người Kitô giáo là cầu nguyện cho sự hiệp nhất giữa những người tin theo Chúa.
Khi chịu phép Thêm sức, người tín hữu được học hỏi về Ngôi Ba Thiên Chúa, về các ơn Chúa Thánh thần và các hoạt động của Chúa Thánh thần trong Giáo hội và trong đời sống người tín hữu. Công Ðồng Vaticanô II dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh thần đã làm sáng tỏ trong việc giáo huấn là tất cả mọi phần tử của Giáo hội đều được gọi để sống đời thánh thiện và làm chứng nhân của đức tin. Như vậy thì tất cả mọi người đều được gọi để đóng vai trò khác nhau trong việc hoạt động tông đồ của Giáo hội tuỳ theo khả năng, phương tiện và hoàn cảnh có thể. Cũng như một thân thể gồm nhiều chi thể: tai, mắt, mũi, miệng, lưỡi, chân, tay.. và mỗi chi thể có phận vụ khác nhau. Chi thể nọ cần đến chi thể kia để bổ túc cho nhau và để nhắm lợi ích chung cho toàn thân. Dụng cụ Chúa dùng trong việc mở mang nước Trời không chỉ tuỳ thuộc vào tài khéo, mức độ học vấn, hay địa vị xã hội của mỗi người mà thôi, nhưng còn tuỳ thuộc vào quyền năng của Chúa với sự cộng tác của mỗi người với ơn Chúa và còn nhắm hiệp nhất với nhau.
Khi so sánh những hoạt động của Chúa Thánh thần trong thời Giáo hội sơ khai với thời nay, một số người tự hỏi tại sao Chúa Thánh thần không làm những việc lạ lùng vĩ đại trong thời đại họ đang sống? Ðể trả lời, người ta cần nhận định rằng Thánh thần của Thiên Chúa vẫn làm những công việc lạ lùng vĩ đại trong bất cứ thời đại nào nơi những người biết mở rộng tâm hồn và cộng tác với ơn Chúa và để Chúa làm chủ đời sống. Có những người nghĩ rằng họ không có đủ tài năng và ân huệ để hoạt động tông đồ. Vì thế họ rút lui vào bóng tối, không muốn xuất đầu lộ diện làm việc tông đồ. Những người khác nghĩ rằng họ yếu hèn và tộị lỗi nên không muốn hiến thân trong đời sống thực hành đức tin. Lại có những người cho rằng họ phải được hàng giáo sĩ mời gọi làm việc tông đồ, thì họ mới tham gia.
Khi để Chúa Thánh thần hoạt động trong tâm hồn và đời sống, người ta sẽ không phân chia trí óc, trái tim thành những ngăn ô khác nhau như là một ngăn dành cho công việc làm ăn, một ngăn cho việc giải trí, nghỉ ngơi, ngăn kia cho việc ăn uống. Và những ngăn đó thì người ta không cho Chúa vào. Còn ngăn cuối cùng nhỏ bé nhất thì người ta mới dành cho Chúa, cho việc thờ phượng và cầu nguyện. Ðể cho ơn Chúa Thánh thần có thể tác động trong đời sống, ta phải đem Chúa vào tất cả mọi ngăn ô và lãnh vực của cuộc sống. Ðó chính là điều mà thánh Phaolô nói: Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, nhưng là Chúa Kitô sống trong tôi (Gl 2:20). Lời cầu nguyện: xin ơn hiệp nhất trong Giáo hội: Lậy Chúa Thánh Thần, xin hiệp nhất chúng con. Xin dậy con biết làm việc tông đồ cộng tác với người cùng chia sẻ một đức tin, một phép rửa. Xin ban cho con một tâm hồn khiêm tốn để con biết quên mình, bỏ ý riêng mà tìm kiếm sự hiệp nhất trong Giáo hội hầu cho danh Chúa được cả sáng. Amen.
Chiều ngày thứ nhất trong tuần, Cửa nhà đóng kín, thấm nhuần đau thương. Sợ lo bắt bớ vấn vương, Họp nhau cầu nguyện, tựa nương xum vầy. Giê-su hiện đến nơi đây, Bình an chúc phúc, chính Thầy hiện ra. Xem tay lủng lỗ rách da, Cạnh sườn đâm thấu, thứ tha tội đời. Vui mừng xem thấy Ngôi Lời, Phục sinh cõi chết, rạng ngời thánh nhan. An bình ân sủng trao ban, Sai đi khắp chốn, vạn ngàn khó nguy. Thánh Thần đón nhận phát huy, Các con tha tội, thực thi chữa lành. Thứ tha tẩy sạch lòng thành, Các con cầm tội, nhân danh Chúa Trời. Tội kia cầm lại trong đời, Khấn lòng thương xót, một thời sửa sai. Hạ thân, Chúa chết vì ai? Gọi người tội lỗi, mở khai tâm hồn.
Chúa Giêsu hoàn tất sứ mệnh dưới thế. Ngài hứa ban Thánh Thần như nguồn sinh lực để khai mở một hướng mới trong Giáo hội. Chúa Thánh Thần là nguồn mạch an ủi và khôn ngoan. Ngài đã biến đổi các môn đệ từ những con người nhút nhát và sợ sệt trở nên những nhân chứng can đảm. Các môn đệ không còn sợ hãi, không sợ bắt bớ, tù đầy, không sợ đau khổ và không sợ chết nữa.
Chúa Thánh Thần là Thần Chân lý và nguồn sự sống. Khi tạo dựng muôn loài, Thiên Chúa đã thổi hơi sự sống vào thân xác các loài thụ tạo và các thụ tạo bắt đầu có sự sống. Hơi thở là sự sống. Khi tắt thở là chết. Mọi muông thú và con người đều cần có hơi thở để sống còn. Hơi thở là sự sống mà chúng ta lãnh nhận từ Chúa Thánh Thần.
Truyện kể vui: Có một cha sở bị bệnh nặng phải có bình dưỡng khí để tiếp thở. Bà giúp việc khóc lóc than van và lo lắng cho ngài. Cha xin bà làm cho ngài một việc. Bà nói thưa cha việc gì cũng được, miễn sao cha khoẻ. Cha nói: xin bà bước ra, bà đang đạp lên ống dưỡng khí của tôi, tôi không thể thở được. Khí rất cần cho sự sống. Mỗi giây phút cuộc đời, chúng ta lãnh nhận hồng ân của Chúa, đó chính là ơn sự sống.
Chúa Giêsu hứa với các môn đệ rằng: Thần Chân Lý sẽ đến dạy chúng con tất cả sự thật. Thần Chân lý là nguồn sự khôn ngoan không bao giờ vơi cạn. Như lời Kinh Thánh đã viết, đã trải qua mấy ngàn năm, nhưng lời Chúa vẫn như mới và vẫn còn tác động mạnh mẽ nơi tâm hồn. Với ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần, lời Chúa có thể áp dụng mọi nơi, mọi thời và không bao giờ trở nên cổ hủ. Mỗi lần đọc lời Chúa, chúng ta suy niệm và sẽ có những thúc đẩy và hướng dẫn mới.
Thánh Phaolô viết rằng: Chúng ta không thể nói “Lạy Chúa” nếu không bởi ơn Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần tiếp tục hoạt động trong lòng Giáo Hội, luôn đổi mới và canh tân qua mọi thời đại. Ơn Chúa Thánh Thần giúp Giáo Hội tìm ra con đường thích hợp để thích ứng với cuộc sống mà không bị đi trong lầm lạc.
Chúa Giêsu đã thổi hơi và phán bảo: Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại. Các Tông đồ không làm việc gì mà không do Thánh Thần thúc đẩy họ. Chúng ta hãy mở rộng tâm hồn đón nhận ơn Chúa Thánh Thần như nguồn sinh lực và bình an. Mỗi lần Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ, Chúa đều chúc: Bình an cho các con. Lời chúc đó mang lại sự bình an đích thực trong tâm hồn. Trong thánh lễ linh mục chúc: Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em và anh chị em đi bình an.
Bài Tin Mừng của thánh Gioan thuật lại việc Đức Giêsu gặp gỡ các tông đồ trước khi Ngài trở về với Thiên Chúa Cha. Ngài không có ý định lìa xa các tông đồ mà không nói lời từ biệt nào nhưng Ngài đã “chúc bình an” và để lại bình an của Ngài cho họ. Ngài cũng không để họ ở lại một mình bơ vơ nhưng Ngài đã “trao ban thánh thần” như là Đấng bảo trợ, Đấng che chở, Đấng thần khí và sự thật để hướng dấn họ. Chính nhờ Thánh Thần, các tông đồ hiểu rõ hơn về nhưng lời Đức Giêsu đã dạy cho họ, đặc biệt Đức Giêsu đã trao lại cho các tông đồ “quyền tha tôi và cầm giữ” để thực thi sứ mệnh của Ngài, mang lại sự sống đích thực cho con người. Các yếu tố này đã tạo nên hợp nhất trong công trình xây dựng cộng đoàn và hội thánh của Thiên Chúa ở trần gian, qua các tông đồ, hầu mang lại tình yêu, niềm hạnh phúc và sự sống mới cho nhân loại. Bài suy niệm sẽ gợi lên ba vấn đề: bình an cho anh em, anh em hãy lãnh nhận thánh thần và quyền tha tội và cầm giữ mà Đức Giêsu trao bao cho các tông đồng.
Bình an cho anh em
Đức Giêsu đã hai lần Chúc bình an cho các môn đệ. Lần thứ nhất Ngài ban bình an cho các môn đệ khi Ngài vừa mới phục sinh (Ga 20,19)và lần này trước lúc về với Thiên Chúa, Ngài lại ban bình an cho các tồng đồ. Như thế bình an như là một dấu chỉ rất quan trọng để các tông đồ nhân ra Chúa Phục sinh. Bình an mà Đức Giêsu trao bao cho các tông đồ có khả năng đem lại niềm vui cho các ngài và mọi người. Tuy nhiên khi nhận lãnh bình an này rồi liệu các tông đồ có gặp thử thách nữa hay không hay đây như là một lời chào của Chúa Giêsu để làm cho các tông đồ vui lòng?. Chắc chắn rằng lời bình an của Chúa Giêsu ban cho các tông đồ là sức mạnh nội tại để giúp các tông đồ sẵn sàng đối diện với những khó khăn và giúp các ngài vượt qua thử thách. Khi các ngài gặp gian truân khốn khó, các ngài vẫn giữ được một tâm hồm bình an, đó là bình của Đức Giêsu hiện diện nơi chính họ và bình an sẽ giúp cho các môn xác tín, vững tin và vui sống.
Một khía cạnh nữa, bình an của Chúa Giêsu trao ban cho các tông đồ gắn liền với lời sai đi. Ngài sai các tông đồ ra đi để trao ban bình an của Ngài cho mọi người. Đây không phải là thứ bình an giả tạo để phủ lấp những đau khổ, những khó khăn và thách thức của cuộc đời. Nhưng nhờ bình an này các tông đồ dám bước đi trong bóng tối của cuộc đời, các ngài dám đi ra khỏi con người của mình để cởi bỏ tất cả và dẫn thân mạnh mẻ vào kế hoặc của Thiên Chúa. Như thế cho dấu gặp khó khăn thử thách nào đi nữa, các tông đồ Chúa vẫn bình an, vững tin để vượt qua.
Còn chúng ta, khi tham dự thánh lễ ta chúc bình an cho anh chị em và ta được anh chị em chúc bình an lại. Đây thực là bình an mà Chúa kitô đã trao lại cho ta. Vậy ta phải tự hỏi chính mình tôi đã thực sự trao bình an cho anh chị em bằng bình an của Chúa Giêsu hay chưa? tôi đã vượt qua được những ngăn trở của ích kỷ, của hận thù và ghen ghét để trao ban bình an của Đức Giêsu cho anh em chưa?. Thật vậy ta cần có một niềm xác tín mạnh mẽ vào bình an của Đức Giêsu là bình an mang lại niềm vui thật cho mọi người để khi chúng ta trao ban bình an cho anh chị em chính là lúc chúng ta trao ban niềm vui của Đức Kitô cho họ.
Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần
Trước khi bước vào cuộc thương khó Đức Giêsu đã hứa với các tông đồ là Ngài sẽ ban cho các ông Thánh Thần là Đấng bảo trợ là thần khí sự thật. Thánh Thần sẽ ở lại và ở mãi giữa các tông đồ. Chính Thánh Thần dạy cho các tông đồ và giúp cho các ông nhớ lại những gì Chúa Giêsu đã dạy cho họ, Thánh Thần sẽ cùng với các tông đồ làm chứng về Đức Giêsu và nói lên sự thật cho thế gian biết, đồng thời Thánh Thần sẽ hướng các ngài tới chân lý toàn vẹn. Như thế Thánh Thần luôn hiện diện, soi sáng, hướng dẫn và dạy dỗ các tông đồ như trong bài đọc I đã nói: “hết thảy họ được đầy Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng lạ, tùy theo thần khí ban cho họ phát ngôn”. Nhờ sự trao ban thánh thần, các tông đó có thể ra đi rao giảng Tin Mừng, tiếp nối sứ vụ của Chúa Kitô ở trần gian. Nhờ Thánh Thần, hết thảy ta được thanh tẩy và được hợp nhất trong giáo hội để kết thành một thân Thể là Đức kitô.
Chắc chắn rằng mỗi người chúng ta cũng cảm nhận được phần nào đó về vài trò của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống của mình. Có nhiều lúc ta rơi vào trạng thái thất vọng chán nản cuộc đời, con người của ta lúc này như không còn một chút sức sống hay một chút sinh khí nào nữa. Ta có thể rơi vào tuyệt vọng và những sa ngã của tội lỗi. Nhưng nếu chúng ta biết cầu nguyện, xin Thánh Thần thêm sức và sự trợ lực để vượt qua thì Ngài sẽ trao ban cho chúng ta vì ngài là Đấng Bảo Trợ, là Thần Khí, là nguồn sống. Và nếu ta cầu xin Ngài biến đổi con người ta nên mới chắc chắn rằng Ngài sẽ biến đổi con người và tâm hồn ta để ta xa tránh những sa ngã của tội lỗi. Vì Chúa Thánh Thần luôn hoạt động và biến đổi ta liên lỉ.
Quyền tha tội và cầm giữ của các tông đồ
Chúa Giêsu không còn hiện diện thể lý ở trần gian nữa. Cho nên Ngài ban quyền tha tội và cầm giữ cho các tông đồ. Các tông đồ được trao quyền tha tội và cầm giư, nghĩa là kể từ đây các ngài được tham gia vào quyền xét xứ của Thiên Chúa mà Ngài đã nhận từ Thiên Chúa Cha. Như thế các tông đồ không thể thi hành quyền này theo ý riêng của mình mà phải dưa trên lời dạy của Đức Kitô qua sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Hơn nữa mục đích của quyền tha tội và cầm giữ là để thực thi lòng thương xót của Thiên Chúa, bảo vệ con người và mang lại niềm hạnh phúc cho họ. Quyền tha tội và cầm giữ là mệnh lệnh mà chính Đức Giêsu trao lại con các tông đồ để các ngài tiếp tục thi hành sứ vụ cứu độ mang lại sự sống đích thực cho nhân loại.
Kết luận
Đức Giêsu đã ban bình an cho các tông đồ, sai họ đi thi hành sứ mệnh chính Ngài trao phó, và kêu gọi các ngài đón nhận Chúa Thánh Thần, đặc biệt Ngài còn ban cho các tông đồ quyền tha tội và cầm giữa để các ngài thì hành và đem lại sự sống của Đức Giêsu cho nhân loại hầu đem lại sự hợp nhất trong một Thiên Chúa và trong một thần khí. Với chúng ta, Thiên Chúa cũng đòi hỏi chúng ta xây dựng đời sống mình, đời sống cộng đoàn trên các yêu tố này hầu đem lại niềm vui, bình an và sự sồng đích thực cho mọi người. Nguyện xin Thánh Thần Chúa đến đổi mới tâm hồn mỗi người chúng con, để chúng con biết hướng về nguồn chân thiện mỹ muôn đời là Thiên Chúa, Đấng đã sai Con Một của Ngài là Đức Giêsu đến ban bình an và sự sống muôn đời cho nhân loại. Amen.
Trong Kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng với đức tin: “Tôi tin Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống”. “Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống, là mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời” (x.Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, số 4). Chúa Thánh Thần là mạch nước hằng sống xuất phát từ Chúa Giêsu.
Chúa Thánh Thần là “Nước hằng sống”. Người làm cho tín hữu được chia sẻ chính sự sống của Thiên Chúa Tình Yêu và khiến cho cuộc sống của họ được Thiên Chúa soi sáng, canh tân, biến đổi, hướng dẫn, linh hoạt và dưỡng nuôi (x.Đức Thánh Cha Phanxicô huấn dụ tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ Tư ngày 08.5.2013). Đức Thánh Cha giải thích sự kiện Chúa Thánh Thần là suối nguồn bất tận sự sống của Thiên Chúa nơi chúng ta. Con người thuộc mọi thời đại và mọi nơi đều ước mong có một cuộc sống tràn đầy và xinh đẹp, công bằng và tốt lành, một cuộc sống không bị đe dọa bởi cái chết, nhưng có thể chín mùi và lớn lên cho tới sự tràn đầy của nó. Con người giống như một khách lữ hành đi qua các sa mạc cuộc đời, khát nước mát hằng sống, vọt lên, có khả năng làm cho đã khát trong tận cùng thẳm tâm hồn; nó ước mong sâu đậm có được ánh sáng, tình yêu, vẻ đẹp và hòa bình. Tất cả chúng ta đều cảm nhận được ước mong đó! Và Chúa Giêsu ban cho chúng ta nước hằng sống này: đó là Chúa Thánh Thần, Đấng phát xuất từ Thiên Chúa Cha và là Đấng mà Chúa Giêsu đỗ tràn đầy con tim chúng ta. Người nói: “Ta đến để ban cho chúng sự sống, và sồng dồi dào” (Ga 10,10).
Chúa Giêsu đã đến để ban cho chúng ta “Nước Hằng Sống” là Chúa Thánh Thần, để cuộc sống của chúng ta được Thiên Chúa hướng dẫn, linh hoạt, dưỡng nuôi.
Chúa Giêsu mời gọi: “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống” (Ga 7,37tt). “Đức Giêsu muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận” (Ga 7,39). Dòng nước đó đã tuôn trào từ trái tim của Người, trái tim bị lưỡi đòng đâm thủng trên đồi Canvê (x. Ga 19,34). Đó chính là thứ nước mà Chúa Giêsu đã từng nhắc đến trong cuộc trò chuyện với người phụ nữ Samari bên giếng Giacóp, Ngài tỏ cho bà biết rằng ai uống các nguồn nước tự nhiên sẽ còn khát mãi, còn: “Ai uống nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14). Nguồn nước thiêng liêng mà Chúa Giêsu hứa ban chính là Chúa Thánh Thần, Đấng ban sự sống (x. Thông điệp về Chúa Thánh Thần, tựa đề Dominum et Vivificantem – Chúa và là Đấng Ban Sự Sống, 1986, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II).
Trong Kinh Thánh, nước tượng trưng cho sự sống; do đó, Thánh Thần được biểu tượng hóa thành dòng nước ban sự sống mới.
Nước cần thiết cho sự sống muôn loài. Nước quan trọng cho sự phát triển của cơ thể con người, cho sự tăng trưởng của súc vật và cây cối. Không có nước, không có sự sống. Mọi sinh vật đều gồm phần lớn là nước dù sống ở đâu. Chín phần mười thể tích cơ thể con người là nước.
Khi sử dụng nước trong sinh hoạt hàng ngày, chúng ta cho là điều tự nhiên. Nhưng thật sự, nước là của châu báu Trời ban cho quả địa cầu.
Nước từ trên nguồn cao đổ xuống, nước uốn mình theo ghềnh thác, nước lượn khúc trong những khe suối, nước chảy xuôi dòng sông, nước dồn về biển cả. Không có gì mềm mại hơn nước và cũng không có gì mạnh mẽ bằng sức nước. Nước không có độ cứng dày nên không đo lường được chiều cao, sâu, rộng, dài của nước.
Nước chảy tới đâu đem lại sự sống đến đó. Gặp ghềnh thác hay các tảng đá chắn lối, nước vẫn len lõi chảy, không gây xích mích hay hận thù với ai. Nước có thể bị vẩn đục khi chảy qua rừng rậm, ruộng đồng, nương rẫy nhưng nước có khả năng thanh tẩy trở lại thanh sạch ban đầu.
Nước thấm nhập vào các loài hoa giúp chúng trổ sinh những bông hoa muôn màu muôn sắc; nước thấm nhập vào các loài cây ăn trái giúp chúng cung ứng cho đời muôn vạn thứ trái trăng ngon ngọt với những hương vị khác nhau; nước thấm nhập vào đất đai khiến đất cằn khô trở nên vườn cây tươi tốt…Chúa Thánh Thần thấm nhập đến đâu cũng làm trổ sinh hoa trái thiêng liêng cách diệu kỳ đến đó. Xem quả thì biết cây, Thánh Phaolô nói đến 12 hoa trái của Chúa Thánh Thần là: “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, hiền hoà, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ, thanh khiết”(Gal 5,22-23).
Chúa Thánh Thần ban sự sống mới. Sách Công vụ Tông đồ thuật lại: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,1-4).
Khởi đi từ Chúa Thánh Thần, cả một sức sống mới được khai mở và bừng lên trong Giáo hội. Trước ngày lễ Hiện Xuống, các môn đệ co cụm lại trong căn phòng then cài khóa ổ, nhưng một khi đã đón nhận Thánh Thần, các ông không thể sống như cũ được nữa: căn phòng được mở toang và môn đệ can đảm bước tới vùng ngoại biên là những vùng địa lý xa xôi, đem Tin Mừng cứu rỗi cho mọi người. Đó chính là mùa Hiện Xuống đầu tiên làm nên sức sống mới lạ trong Giáo hội. Lễ Hiện Xuống thường được gọi là “ngày khai sinh của Giáo hội” tựa như lễ quốc khánh của một quốc gia. Chúa Thánh Thần đã làm cho sứ mệnh của Đức Kitô được hoàn thành và thời kỳ Tân Ước được thực hiện. Chúa Thánh Thần là Tình Yêu, là Đấng ban sự sống, thánh hóa, hướng dẫn, soi sáng, phù trợ, hiệp nhất. Chúa Thánh Thần là ngọn gió thổi các cánh buồm của Giáo hội hướng đến đại dương của “những kênh truyền thông mới” trong thời đại kỹ thuật số hôm nay.
Mỗi người Kitô hữu được sinh ra nhờ phép rửa ở trong lòng Giáo hội và được xức dầu thánh một cách đặc biệt trong Bí tích Thêm sức, được lãnh nhận Chúa Thánh Thần để thông phần sứ mạng làm chứng của Giáo hội.Trong Bí tích Thêm Sức nhận lãnh, không những các ơn Chúa Thánh Thần, mà là chính Chúa Thánh Thần được ban cho chúng ta như một sức mạnh từ trên cao, như là “Thần lực của Thiên Chúa”. Đó là sức mạnh của Tình yêu mạnh hơn sự chết biểu lộ nơi Sự Sống lại của Chúa Giêsu, sức mạnh của Chân Lý và Sự Thật. Đó là sức mạnh cuốn hút của cái Đẹp không phai tàn của Thiên Chúa, của cái Đẹp thần linh tiềm ẩn trong mọi cái đẹp đích thực.
Trong những ngày qua, báo chí nói nhiều về hình ảnh tuyệt đẹp cuộc gặp gỡ giữa Tổng Thống Nam Hàn và Chủ Tịch Bắc Hàn. Nói theo Victor Gaetan của tập san Foreign Affairs số gần đây, phương thức hành động của Moon Jae-in mô phỏng theo phương thức của Đức Giáo Hoàng Phanxicô. “Nhà Xanh” là chỗ cư ngụ của tân Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in, đồng thời là địa điểm đặt các văn phòng tổng thống và nơi đón tiếp các quốc trưởng đến thăm Hàn Quốc. Như một tín hữu Công giáo tốt lành, tân tổng thống đã nghĩ đến việc làm phép nơi ở mới. Ngày 13.5.2017, cha Phaolô Ryu Jong-man đang coi sóc giáo xứ Chúa Ba Ngôi ở vùng phụ cận Hongje-dong (Seoul), được mời đến đến làm phép cho ngôi nhà và các đồ vật. Cha Phaolô đã đặt tay trên tổng thống và cầu nguyện cho ông được “khôn ngoan như Vua Salômon”. Cha cũng nói với tổng thống: “Trước khi quyết định về vấn đề của đất nước, hãy cầu nguyện với Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ đến ban ánh sáng và sức mạnh của Người”. Quả thật, ở đâu có Thần Khí là ở đó bừng lên niềm vui bình an và tình yêu. Mùa xuân làm cho vạn vật bừng dậy màu xanh sự sống, Thần Khí làm cho mọi tâm hồn tràn đầy sức sống mới, biết xây dựng hòa bình tình thương và công lý.
Chúa Thánh Thần là Tình Yêu. Đặc tính của tình yêu là dịu dàng như dòng nước, êm mát nhún nhường. Tình yêu có vẻ mềm yếu hơn tất cả nhưng lại mạnh hơn tất cả. Bởi vì không phải đá hay lửa thắng được nước mà là nước chảy đá mòn. Không gì có thể thắng nổi tình yêu vì Thiên Chúa là tình yêu. Vì thế mọi dòng sông vẫn tiếp tục chảy ra biển cả. Tình yêu Thiên Chúa vẫn chan hoà muôn người. Tình yêu dạy cho con người niềm hạnh phúc lớn nhất cao cả nhất và đẹp nhất là biết trao ban, hiến dâng, cho đi, quảng đại, bao dung. Đó là đỉnh cao tình yêu Kitô giáo. Yêu là hy sinh cho người mình yêu. Yêu là tìm hạnh phúc cho người mình yêu. Yêu như Chúa đã yêu và yêu đến cùng.
Qua phép Rửa bằng nước, người Kitô hữu lãnh nhận sự sống của Chúa Thánh Thần. Nước của phép Rửa có sức tẩy sạch tội lỗi gây sự chết và đưa vào đời sống mới. Nước của phép Rửa có sức chữa lành, thánh hóa và đem lại sự tươi mát cho tâm hồn. Từ đó, người Kitô hữu được thông dự vào nguồn ân sủng của Chúa Kitô, như cành nho được tháp nhập vào cây nho. Nước hằng sống, Chúa Thánh Thần là Ơn của Chúa Phục Sinh ở trong chúng ta, thanh tẩy, soi sáng, canh tân, biến đổi chúng ta, “Vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta”(Rm 5,5)
Sau khi hoàn tất chương trình cứu độ, Đức Giêsu về trời, ngự bên hữu Chúa Cha và Ngài sai Chúa Thánh Thần đến với các Tông đồ và giáo hội để Chúa Thánh Thần tiếp tục công trình cứu độ nhân loại cho đến ngày tận thế. Ngày lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần khai sinh giáo hội và Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo hội và là tác nhân chính của việc loan báo Tin mừng. Từ khi Chúa Giêsu về trời, Giáo hội sống trong thời đại của Chúa Thánh Thần.
Đức Giáo hoàng Benêđictô XVI nói rằng Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo hội và nếu không có Chúa Thánh Thần, Giáo hội sẽ chỉ là một tổ chức nhân đạo. Trong thực tế, bản chất đích thực và sự hiện diện lịch sử của Giáo hội không ngừng được Chúa Thánh Thần và Chúa Kitô hướng dẫn và sinh động.
Phụng vụ lời Chúa lễ Hiện Xuống hôm nay quy hướng về Chúa Thánh Thần và những ân ban của Chúa Thánh Thần.
Sách Cv 2, 1-12 ghi lại biến cố Chúa Thánh Thần lấy hình lưỡi lửa đậu trên các tông đồ và ban cho các ngài sức mạnh để đi loan báo Tin mừng: “Ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho”.
Bài đọc 2: Thánh Phaolô trong thư gởi giáo đoàn Côrintô (1Cr 12, 12-13) đã xác nhận chỉ có một thần khí duy nhất: “Chúng ta đã chịu phép rửa trong cùng một Thần khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một thần khí duy nhất”.
Trong bài Tin mừng, Thánh sử Gioan đã thuật lại việc Chúa Giêsu ban Thánh Thần cho các tông đồ: “Người thổi hơi và phán bảo các ông: các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha”.
Việc ban Thánh Thần biểu lộ ý nghĩa là Chúa Thánh Thần là căn nguyên sự sống và linh hồn của hoạt động của các tông đồ, Chúa Thánh Thần đã biến đổi các ông từ những con người nhút nhát sợ chết thành những người can đảm hăng say loan báo Tin mừng không mệt mỏi, sau cùng tất cả đều chết tử đạo để làm chứng cho Đức Kitô.
Hôm nay, lễ Chúa thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta chứng kiến thấy lửavà gió ngự trên các tông đồ trong ngày lễ Ngũ Tuần. Hơn nữa Chúa Giêsu đã thổi hơi trên các ông và ban Thánh Thần cho các ông: lửa, gió, hơi thở là biểu tượng cho sự hoạt động của Chúa Thánh Thần: ban sự sống cho ta, ban tình yêu và sức mạnh, hướng dẫn chúng ta. “Thánh Thẫn sẽ nhắc chúng con mọi điều”. Hơn nữa Chúa Thánh Thần còn là Đấng Bầu Chữa cho ta trước mặt Chúa.
Lửa, gió, khí oxy (hơi thở) là nguồn năng lượng vất chất vô cùng phong phú, vô cùng cần thiết, không bao giờ cạn và luôn mới mẻ.Lửa, gió, khí oxy là nguồn năng lượng làm cho con người và vạn vật sống và tồn tại. Những ơn của Chúa Thánh Thần là nguồn sức mạnh tinh thần giúp ta vượt mọi khó khăn. Vì thế Giáo hội cầu xin Chúa Thánh Thần: “Xin hãy đến và canh tân bộ mặt trái đất”.
Người Kitô hữu đã được lãnh nhận Chúa Thánh Thần qua bí tích Rửa tội để được làm con Thiên Chúa, qua bí tích Thêm sức chúng ta được lãnh nhận Chúa Thánh Thần và 7 ơn của Ngài để trở thành chứng nhân của Chúa Kitô.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là cơ hội thuận tiện để chúng ta xác tín hơn về vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời sống Giáo hội và trong đời sống Kitô hữu, để chúng ta thiết tha hơn trong việc cảm tạ và xin ơn Chúa Thánh Thần giúp đỡ. Nhất là chúng ta luôn sống trong tình trạng ân sủng, xa tránh tội lỗi để tâm hồn trở nên đền thờ Chúa Thánh Thần ngự.
Bài Tin mừng hôm nay rất vắn nhưng qua đó thánh Gioan cũng đã đủ để cho chúng ta thấy được những ơn ban của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội, giúp cho chúng ta nhận ra sự hiện diện của Người trong cuộc sống của chúng ta.
1- Ơn ban đầu tiên và cao trọng nhất của Chúa Thánh Thần là ơn Bình an, đặc trưng của thời Messia. Thế nhưng sự bình an mà Chúa Thánh Thần ban tặng là thứ bình an như thế nào?
Báo Tuổi Trẻ Chúa nhật số ra ngày 2/9/2001 có đăng một bài với tựa đề là “Sự bình an”. Câu chuyện như thế này: Một vị vua kia treo giải thưởng cho nghệ sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp nhất về sự bình an. Nhiều họa sĩ đã cố công. Nhà vua ngắm tất cả các bức tranh nhưng chỉ thích có hai bức và ông phải chọn lấy một.
Một bức tranh thứ nhất vẽ một hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ vì có những ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng mịn màng. Tất cả những ai ngắm bức tranh này đều cho rằng đây là một bức tranh diễn tả về sự bình an thật hoàn hảo.
Bức tranh kia cũng có những ngọn núi nhưng những ngọn núi này trần trụi và lởm chởm đá. Ở bên trên là bầu trời giận dữ đổ mưa như trút, kèm theo những tiếng sấm chớp long trời. Đổ xuống bên vách núi là một dòng thác nổi bọt trắng xóa. Bức tranh này trông thật chẳng bình an chút nào.
Nhưng khi nhà vua ngắm nhìn, ông thấy đàng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe nứt của một tảng đá. Trong bụi cây ấy có một con chim mẹ đang xây tổ. Ở đó giữa dòng thác trút xuống một cách giận dữ, con chim mẹ đang thản nhiên đậu trên tổ của mình… Bình an thật sự.
Nhà vua công bố: “Ta chấm bức tranh này! “
Bình an không có nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào, không khó khăn, không cực nhọc. Bình an ở ngay trong sự yên tĩnh trong trái tim. Đó mới chính là ý nghĩa thật sự của bình an”.
Sau khi Đức Giêsu chịu chết, các tông đồ sợ người Do Thái lùng bắt, nên đã trốn vào phòng, cửa đóng then cài.
Giữa cơn bão táp phong ba, Đức Giêsu sống lại, hiện ra với các ông, như chim mẹ an nhiên đậu trên tổ canh giữ bầy con, Người mang lại cho các ông sự bình an đích thực: “Bình an cho anh em!”.
Bình an của Đấng Phục sinh không phải là thứ bình an không có sóng gió. Bình an của Người là bình an trong tâm hồn. Bình an ấy không loại trừ việc phải đối đầu với kẻ thù, đối diện với khổ đau và với cả sự chết. Chính vì thế, mà sau khi trao bình an, Đức Giêsu đã cho các môn đệ “xem tay và cạnh sườn” Người. Đó là bằng chứng của một cuộc chiến đấu đầy gian truân mà các môn đệ sẽ phải đi tới.
2- Ơn ban cao trọng thứ hai của Chúa Thánh Thần là ơn tha tội: chính nhờ được tha tội mà con người được bình an thật.
Linh mục Bernado thuộc hội Giáo Hoàng thừa sai người Ý truyền giáo tại Hong Kong kể lại rằng: Vào một ngày thứ sáu tuần thánh, sau khi nói về cái chết trên thập giá và ơn tha thứ của của Chúa Giêsu, Ngài giải thích về ý nghĩa của Bí Tích Giải tội và kêu gọi mọi người xưng tội để cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa. Sau nghi lễ, có một người Hồi giáo đến gặp ngài và nói như sau:
– Thưa Cha, tôi muốn xưng tội để được ơn tha thứ.
Vị linh mục giải thích rằng: Vì chưa được Rửa Tội, ông không thể lãnh nhận Bí Tích Giải tội, nhưng người tín hữu Hồi giáo nài nỉ:
– Thưa Cha, trong Hồi Giáo của chúng tôi không có sự tha tội, nhưng tôi cảm thấy cần phải được Chúa tha thứ và có được một dấu chỉ về sự tha thứ của Ngài.
Cha liền chúc lành cho người tín hữu Hồi Giáo và sau đó người này trở thành người con của Chúa. Từ ngày đó người ấy nói rằng anh ta luôn được sống trong sự bình an.
+ Tại Đại Hàn, nơi có nhiều tín đồ Phật giáo trở lại Công Giáo, Giáo Hội đã làm một cuộc thăm dò với một câu hỏi rất vắn như sau: “Tại sao bạn trở lại và chọn Giáo Hội Công Giáo ?”
Một bác sĩ nổi tiếng trong nước đã trả lời như sau: “Trở lại là một mầu nhiệm và có nhiều động lực thúc đẩy. Một trong những động lực mãnh liệt nhất đó là sự kiện trong Giáo Hội Công Giáo vị linh mục nhân danh Chúa để tha thứ tội lỗi. Đối với tôi, đây là một khám phá vĩ đại nhất. Trong Phật Giáo không có sự tha thứ, tuy có những nghi thức thanh tẩy, có việc cúng tế và cầu kinh, nhưng không có ai tha tội cả. Người tín đồ Phật Giáo vì có một tâm hồn nhạy cảm và tinh tế cho nên suốt đời bị dằn vặt dưới gánh nặng tội lỗi của mình. Khi tôi biết rằng: Giáo Hội Công giáo nhân danh Chúa tha thứ tội lỗi cho tôi, tôi hiểu được niềm tin này mang lại cho tôi những gì.
3- Ơn ban cuối cùng là ơn được sai đi giúp Giáo Hội có thể ra đi loan Tin Mừng cứu độ cho mọi loài thụ tạo cho tới ngày tận thế. Thánh Phaolô đã quả quyết: “Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi ? (Rm 10,15). “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”(Ga 20,21).
Linh mục Natarinô Rochky, một thừa sai người Italia làm việc truyền giáo lâu năm ở Nhật Bản, đặc biệt là Ngài làm Cha sở họ đạo Elsaye. Cách thủ đô Tôkyô khoảng 100 km. Ngài kể lại câu chuyện sau đây:
“Có một giáo sư đại học trẻ tuổi người Nhật xin gặp tôi mỗi tuần 2 buổi tối để thảo luận về các vấn đề tôn giáo và Phúc Âm, mặc dù ông chưa phải là tín hữu Công giáo. Những cuộc thảo luận như vậy kéo dài hơn một năm trời. Vị giáo sư này trình bày cho tôi những nghi ngờ, thắc mắc về đạo, đồng thời ông cũng xin tôi giải thích thêm về Phúc Âm, về Giáo hội và về luân lý của đạo công giáo.
Sau hơn một năm, tôi cảm thấy vị giáo sư thông minh đó có vẻ đã sẵn sàng đón nhận Bí Tích Thanh Tẩy, nên tôi hỏi ông có muốn được rửa tội và gia nhập vào Hội thánh Công Giáo hay không. Tôi ngạc nhiên khi thấy ông từ chối cách lịch sự. Và từ đó, tôi không thấy không lui tới với tôi nữa… Bẵng đi hơn 10 tháng, khi tôi hầu như đã quên đi vị giáo sư đó, thì một hôm. Ông trở lại gặp tôi và nói:
– Thưa Cha, Cha đã thuyết phục được con. Bây giờ con sẵn sàng đón nhận Bí Tích Rửa tội và con cũng đã chuẩn bị cho vợ con cũng như hai đứa con của con.
Nghe đến đây, tôi rất ngạc nhiên. Tôi hỏi ông điều gì đã khiến ông thay đổi ý kiến như thế. Ông ta đáp:
Trong những tháng qua, con đã âm thầm quan sát xem Cha đã sống như thế nào. Cha đã từng nói với con rằng Cha thường dâng thánh lễ một mình trong nhà thờ mỗi ngày lúc 7 giờ sáng. Đó cũng là giờ con ra ga xe lửa để đến Tôkyô dạy học, vì thế con vẫn có dịp đi qua Nhà thờ của Cha. Con dừng lại một lát nhìn Cha qua cửa sổ, xem Cha làm gì trong đó. Bao giờ con cũng thấy Cha trong Nhà thờ và cầu nguyện thật sốt sắng. Ngoài ra, con cũng dò hỏi nhiều người về cách sống của Cha. Qua các cuộc điều tra đó, con thấy quả thật Cha đã tin và đã sống những điều Cha đã chia sẻ cho con về đạo. Xét về mặt kiến thức thì con đã xác tín về sự thật Phúc Âm, nhưng con muốn xem Cha có sống Phúc Âm thực sự hay không”.
Cha Rochky không những đã truyền giáo bằng lời nói, giảng dạy, nhưng còn bằng cuộc sống thường nhật của mình nữa!
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài hãy đến như ngọn gió mát, thổi vào cuộc đời chúng con luồng sinh khí mới để cả trái đất này được thay da đổi thịt trong cùng một Thánh Thần Tình Yêu. Amen.
“Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em…Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.”
I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (20,19-23):
19 Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em! ” 20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. 21 Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” 22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. 23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”
II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (20,19-23):
2.1 Đức Giê-su Phục Sinh đã hiện ra với các tông đồ để vực dậy lòng tin của các ông và để ban Thánh Thần và sứ mạng ”được sai đi” cho các ông. Đó là ý nghĩa của bài Phúc Âm Lễ Hiện Xuống. Trong bài suy niệm Chúa Nhật Lễ Chúa Thăng Thiên, chúng ta đã suy niệm về lệnh ra đi nên trong bài suy niệm Lễ Hiện Xuống, chúng ta sẽ suy niệm về việc đón nhận Chúa Thánh Thần:“Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”
2.2 Trong Thánh Kinh Ngôi Ba Thiên Chúa có nhiều danh xưng khác nhau như: Chúa Thánh Thần (Cv 2, 4; 9, 17; 10, 45. 47; 19, 6; Ga 1, 33), Chúa Thánh Linh, Thần Khí Thiên Chúa (Ga 1, 5. 8. 32; 3, 5, Gl 3, 14; Rm. 8, 9. 11. 15 ; 2 Cr 3, 17), Đấng Bảo Trợ (Ga 14, 16; 16, 7), Thần Chân lý (Ga 16, 13), Thần Khí Vinh Hiển (1 Pr 4, 14), Thần Khí Sự Thật (Ga 14, 17; 16, 13) và Đấng An Ủi (Ga 15, 26; 16, 7. 13; 1 Ga 2, 1).
Paraklêtos (Ga 14, 16. 26; 16, 26; 16, 7. 13; 1 Ga 2, 1) là từ Hy Lạp, (Paraclitus theo bản Latinh).
Thánh Gioan đã xử dụng cụm từ Thần Khí Sự Thật: Paraklêtos – 5 lần để diễn tả hành động (an ủi, phù trợ, bảo trợ, tôn sư) của Chúa Thánh Thần. Cha Nguyễn Thế Thuấn dịch là “Đấng Bầu Chữa;” Nhóm phiên dịch các giờ kinh phụng vụ dịch là “Đấng Bảo Trợ;” và các bài đọc dịch là “Đấng Phù Trợ.”
Thánh Linh có những tác động đa dạng tùy theo hoàn cảnh, địa vị, giới tính và kiến thức:
+ Với người yếu đuối, thì Ngài là Đấng Bảo Trợ. + Với người thông hiểu, thì Ngài là Tôn Sư. + Với người bối rối, thì Ngài là Đấng bảo vệ. + Với người tội lỗi thì, Ngài là Đấng chữa lành. + Với người do dự khó phân biệt thiện ác và tốt xấu, thì Ngài là Đấng Khôn Ngoan. + Với người thất vọng, thì Ngài là Đấng Toàn Năng. + Với người đi tìm chân ly, thì Ngài là Thần Khí Sự Thật. + Với người sống trong bất công, thì Ngài là Thần Chân Lý. + Với ai đang sầu khổ, thì Ngài là Đấng Ủi An. + Với ai đang sợ hãi, thì Ngài là Ngưồn Sức Mạnh. + Với ai cố chấp, thì Ngài là Đấng uốn nắn (Lm Nguyễn Bình An)
2.3 Trong Bài Phúc Âm Lễ Hiện Xuống thì Thánh Thần gắn liền với sứ mạng được sai đi của Chúa Giê-su Ki-tô và của các tông đồ (tiên khởi và của mọi thời đại). Nói cách cụ thể và dễ hiểu thì với các Ki-tô hữu, Thánh Thần đóng cùng lúc nhiều vai khác nhau: Tôn Sư, Bảo Trợ, Bảo Vệ, Chữa Lành, Khôn Ngoan, Toàn Năng, Chân Lý, Ủi An, Sức Mạnh, Uốn Nắn….
III. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (20,19-23):
3.1 Hội Thánh Công giáo luôn dành cho Chúa Thánh Thần một vị trí, vai trò quan trọng trong mọi sự kiện lớn nhỏ của mính. Các cộng đoàn Hội Thánh luôn bắt đầu mọi sự việc bằng Kinh Chúa Thánh Thần: ”Cầu xin Chúa Thánh Thần – Veni Creator Spiritus!”
3.2 Trong các lớp Thánh Kinh một trăm tuần, tôi thường nói vui với các học viên là giáo dân Việt Nam thường để Chúa Thánh Thần ”thất nghiệp”, do họ không cầu xin sự trợ giúp của Ngài. Theo tôi thì điều mà phần đông giáo dân Việt Nam sợ hãi nhất là học Thánh Kinh, nên rất ít người tham dự các lớp học Thánh Kinh. Học Thánh Kinh thì phải chạy đến với Chúa Thánh Thần để xin ơn soi sáng, ơn sức mạnh và ơn khôn ngoan! Không học Thánh Kinh thì không cần đến Chúa Thánh Thần nên Chúa Thánh Thấn bị ”thất nghiệp”!
IV. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (20,19-23):
Lạy Ngôi Ba Thiên Chúa, chúng con chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa về những công trình vĩ đại mà Chúa đã làm cho loài người, cho Hội Thánh và cho mỗi người chúng con.
Xin Chúa hãy đến với chúng con, thâm nhập vào đời sống và hoạt động của chúng con để chúng con mạnh dạn đến với thế giới, với xã hội, với mọi người mà làm chứng cho Tin Mừng, làm chứng cho Tình Yêu, cho Thiên Chúa.
Chúng con cầu xin Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Chúa Cha và Chúa Con đến muôn thuở muôn đời. Amen.
“Nếu ta sống nhờ Thần Khí thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước”(x.Gl 5,25).
Thần Khí chính là Chúa Thánh Thần. Ngài là Ngôi thứ Ba trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Thánh Thần HiệnXuống-439
Thần Khí chính là Chúa Thánh Thần. Ngài là Ngôi thứ Ba trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Thánh Thần là Thiên Chúa. Chúng ta đang ở trong thời đại của Chúa Thánh Thần. Thời đại của Chúa Cha là thời kỳ đầu, thời của việc tạo dựng vạn vật. Thời đại của Chúa Con là thời Đức Giê-su xuống thế cứu chuộc. Và thời đại của Chúa Thánh Thần là thời để thánh hóa. Thời đại của Thánh Thần từ khi Đức Giê-su lên trời cho tới ngày tận thế.
Trong thời đại này, những hoạt động của Thánh Thần làm là để thánh hóa chúng ta, tức là làm cho chúng nên thánh. Nhờ Thần Khí, mà chúng được gọi Thiên Chúa là Cha (x.Rm 8,15). Nhờ Thần Khí ta biết và tin rằng Đức Giê-su là Chúa (x.1Cor 12,3). Nhờ Thánh Thần, ta được tha tội (x.Ga 20,22). Nhờ Thánh Thần, ta loan báo những kỳ công của Thiên Chúa (x.Cv 2,11). Nhờ Thánh Thần, ta mới biết cầu nguyện thế nào cho phải (x.Rm 8,26).
Chúng ta lãnh nhận Thánh Thần khi chịu phép rửa và nhất là khi lãnh nhận bí tích Thêm Sức. Trong hành trình truyền giáo đến Ê-phê-xô, thánh Phao-lô hỏi: “Anh em tin theo Đức Ki-tô, anh em đã lãnh nhận Thánh Thần chưa? Họ trả lời: Ngay việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa hề nghe nói. Vậy anh em chịu phép rửa nào ? Họ trả lời: của Gio-an Tẩy Giả. Khi họ được rửa tội nhân Danh Đức Ki-tô thì họ mới lãnh nhận Thánh Thần. Khi lãnh nhận Thánh Thần, họ bắt đầu nói tiếng lạ và nói tiên tri” (x.Cv 19,1-8).
Nói “tiếng lạ” không phải là nói được nhiều ngoại ngữ. Nói được ngoại ngữ, chỉ có các Tông Đồ mà thôi, ngoài ra, không có ai được nữa hết. Vì xưa kia các Tông Đồ, không có cơ hội để học ngoại ngữ và cần thiết cho việc loan báo Tin Mừng cho mọi dân tộc. Bây giờ, ta có nhiều cơ hội, cũng như ở mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có các tín hữu ki-tô hay Linh mục rồi, nên không có chuyện lãnh nhận bí tích Thêm Sức là nói được nhiều ngoại ngữ. Nếu mà được vậy, chắc có nhiều người trẻ vào Đạo lắm nhỉ, đỡ phải mất công học ngoại ngữ !!!
Ngày nay việc nói tiếng lạ đó là ta loan báo những kỳ công của Chúa đã làm trong cuộc đời của ta hay trong đời sống đức tin của mình. Như việc cầu nguyện. Nó lạ bởi vì xưa nay ta chưa cầu nguyện cho phải, chưa cầu nguyện cho ai; cũng như chưa bao giờ cầu nguyện cho kẻ ta ghét, ta không ưa. Nay ta cầu nguyện cho tất cả.
Nó lạ khi ta biết tha thứ cho những ai nói xấu ta, làm hại ta, mà xưa nay ta làm không được.
Nó lạ vì xưa kia ta nhút nhát, vụng về; khó một chút là bỏ, cực một chút là chán, nay thì ta can đảm, dám chịu khó, chịu cực và cố gắng cho tới cùng. Ơn can đảm đó là một trong bảy ơn của Thánh Thần.
Nói theo thánh Phao-lô, nói “tiếng lạ”, là sống theo Thần Khí, đó là sống trong “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (x.Gl 5,22-23). Đồng thời, không sống theo kiểu thế gian như: “dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, chia rẽ, bè phái; ganh tỵ, chè chén, say sưa”(x.Gl 5,19-21). Nói tóm lại là, “Nếu ta sống nhờ Thần Khí thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước”.
Nói “tiếng lạ” không phải là nói không ai hiểu, cũng như không hiểu ai nói gì. Chỉ có những người “bệnh tâm thần” hay “đầy rượu rồi”, say xỉn rồi mới nói “tiếng lạ” như vậy; còn người bình thường thì không nói như vậy. Người mà “đầy Thần Khí”, nói là người ta hiểu. Không chỉ hiểu không mà thôi, mà còn vui mừng, còn yêu mến, còn mê tít thò lò nữa. Vì họ nói không cầu kỳ, không rào trước đón sau, cũng không nổ.
Họ nói thật lòng, nói đúng người, đúng việc, trong sự tôn trọng, yêu thương. Có nói có, không nói không; dịu dàng, từ tốn. Có đôi lúc nóng đấy nhưng người nghe hiểu được tâm tư, lòng nhiệt thành, lòng tốt của họ. Cũng chỉ vì muốn cho mình tốt hơn thôi, chứ không có ý mạt sát hay chê bai gì cả. Có bực mình, tủi tủi chút đấy, nhưng ta cảm được tấm lòng yêu thương sâu sắc của người đó. Ta tin tưởng, ta quí mến họ.
Người mà có đời sống “nội tâm” sâu sắc, sẽ không nói lung tung; không bạ đâu nói đó; không ngồi lê đôi mách; không tụm năm túm ba nói hành, nói xấu người khác. Họ chìm sâu trong tĩnh lặng; họ dành giờ để suy tư; họ ở yên để chiêm niệm, suy gẫm. Do đó mà họ nhận được sự khôn ngoan của Chúa; họ tiếp nhận được sự soi sáng của Thánh Thần, giúp họ sống một đời thánh thiện và hăng say giúp đỡ người khác.
Nói “tiên tri” là tiên đoán rằng, như Đức Ki-tô đã chiến thắng thế gian thế nào thì ta cũng sẽ chiến thắng bản thân, thế gian và ma quỉ như vậy. Đó cũng là nhờ ơn can đảm mà có. Nhờ sự can đảm mà ta chiến thắng bản thân, vượt khó, vượt khổ; nhờ việc can đảm kiên trì sống Lời Chúa mà ta chiến thắng thế gian và ma quỉ, không để chúng chi phối hay làm nô lệ cho chúng.
Nói “Tiên tri” là chia sẻ những kinh nghiệm mình có cho người khác. Như mình có được gì bây giờ cũng là do sự kiên trì, nhẫn nại, học hỏi, tập tành mà có, thì sẽ dự đoán chính xác cho người nào đó rằng, nếu cũng biết kiên trì, nhẫn nại học hỏi hay tập tành, chắc chắc sẽ thu được những kết quả bất ngờ, không chóng thì chầy. Điều đó khích lệ người kia tích cực chịu khó và khi gặt được một chút kết quả, người đó sẽ phấn khởi, vui mừng và tiếp tục cố gắng.
Nói “Tiên tri” cũng là nói với những kinh nghiệm và sự hiểu biết của mình về ơn gọi đi tu hay lập gia đình để có một đời tu an bình và hạnh phúc; cũng như có một gia đình hạnh phúc và bình an.
Về đời tu, thì đi tu là để sửa mình, để nên thánh nên thiện chứ không phải để làm việc này việc nọ. Bởi đó mà phải bám vào Chúa, suy gẫm và sống Lời Chúa hằng ngày, luôn khiêm nhường dù mình có giỏi dang hay khôn khéo cách mấy. Phải sống lời khấn trong đời tu, biết sống tinh thần khó nghèo, không bon chen, không theo mốt, theo thời; Biết sống vâng phục, biết bỏ ý riêng; biết có một tình thương bao la đối với Thiên Chúa và con người; đối với mọi vật và mọi loài. Làm như vậy để mình có một đời tu an bình và thư thái; thanh thản và siêu thoát và giúp ta nên thánh. Đó là điều chắc chắn.
Về đời hôn nhân, thì trước khi cưới thì phải có một thời gian cần thiết để biết rõ người kia thế nào, để qua đó, cùng nhau xây dựng mối tương quan tốt. Trong thời gian đó, cũng cần có một công việc ổn định, có thu nhập để lo cho mình và lo cho tương lai. Nếu cả hai cùng làm như thế, chắc chắc sẽ có một tương lai sáng đẹp. Cả hai cùng có công việc ổn định mà, vấn đề kinh tế đỡ phải lo; rồi có tinh thần tương trợ như thế ngay từ lúc quen nhau, thì khi cưới nhau rồi thì hạnh phúc biết bao nhiêu.
Đừng có sợ mất; cũng đừng có ham ngọt, ham cái mã bên ngoài, cao to đẹp trai mà sau này phải khổ. Bây giờ nó đang thích nên nói gì nó cũng chịu; muốn gì nó cũng hứa. Nhưng khi cưới rồi mới“hỡi ôi”. Cưới nhanh cưới gấp quá, hạnh phúc chẳng được bao lâu mà khốn khổ thì mãi mãi.
Giờ “gạo đã nấu thành cơm”, còn nói được gì nữa. Làm gì có lần thứ hai nữa. Mà điều này cũng đã được nói cho biết trước, chứ không phải không. Thế mà cứ lao đầu vô. Lao đầu vô thì “lãnh đạn” thôi.
Vậy ta đừng nói là “việc có Thánh Thần không chúng tôi còn chưa nghe”, vì chúng ta đã nghe và đã biết và chúng ta đã được chịu phép rửa nhân danh Đức Giê-su và cũng đã lãnh nhận bí tích Thêm sức rồi. Ta phải biết nói “tiếng lạ” và nói “tiên tri”; không nói được thì ít ra thì cũng phải nghe “tiếng lạ”, nghe lời người ta nói “tiên tri”cho mình. Đương nhiên không phải người nào ta cũng nói hay người nào ta cũng nghe. Ta chỉ nói với những người ta có trách nhiệm và nghe những người “đầy Thánh Thần” và có đời sống nội tâm sâu sắc, ta sẽ có một đời sống an bình và hạnh phúc. Nếu ta mà nghe những người “đầy rượu rồi” hay những người “bệnh tâm thần”, thì coi chừng ta sẽ lãnh đủ đấy.
Nói cho cùng là ta phải sống nhờ Thần Khí và tiến bước nhờ Chúa Thánh Thần. Ta sẽ nói được “tiếng lạ” và nói “tiên tri” cho mình và cho người khác.
Đấng Bảo Trợ là Chúa Thánh Thần, Đấng mà Chúa Giêsu đề cập trước đó: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em” (Ga 16:7). Chính Đấng ấy dạy chúng ta mọi điều và làm cho chúng ta nhớ lại mọi điều Thầy Giêsu đã truyền (x. Ga 14:26).
Đấng Bảo Trợ là Chúa Thánh Thần – Ngôi Ba Thiên Chúa. Ngài xuất hiện qua các dạng Gió, Lửa và Nước. Đó là “bộ ba độc đáo” gồm những thứ mềm mại nhất và bình thường nhất, nhưng lại cũng chính là những thứ mạnh mẽ nhất và quan yếu nhất trong cuộc sống, ba thứ ấy còn có sức mạnh đến nỗi không gì có thể cưỡng lại. Đặc biệt là chúng ta có thể cắt ba thứ đó nhưng chúng không bao giờ bị đứt lìa.
GIÓ có thể tiếp nhận, thổi bay và chuyển hóa mọi thứ, dù những thứ xấu xa và dơ bẩn nhất. Gió luôn tự hào, không buồn khổ hay tủi nhục. Gió có dung tích rộng lớn, gọi là Đại Phong, có khả năng di động và chuyển hóa phi thường. Con người đành bất lực trước cơn giận của Gió như Cuồng Phong, Giông Tố hoặc Lốc Xoáy.
LỬA có thể tiếp nhận và đốt cháy mọi thứ, dù những cái xấu xa và dơ bẩn nhất. Lửa không vì thế mà cảm thấy buồn tủi, chán chường, hoặc ghen ghét. Lửa có dung tích rộng lớn, gọi là Đại Hỏa, có khả năng thiêu đốt và chuyển hóa tất cả mọi thứ. Một đốm lửa có thể thiêu rụi mọi thứ – dù là loại cứng như sắt, thép. Nhưng lửa có tính chất đặc biệt: Càng chia sẻ càng có nhiều, không hề giảm chút nào.
NƯỚC có thể tiếp nhận và rửa sạch mọi thứ, dù những cái xấu xa và dơ bẩn nhất, người ta có đổ xuống nước mọi thứ nhưng nước vẫn bình thản, không lệ thuộc hoặc cảm thấy oán hờn, tủi nhục. Nước cũng có dung tích rộng lớn, gọi là Đại Thủy, có khả năng di động và chuyển hóa kỳ diệu, có thể luồn lách mọi nơi.
Bài học về Gió, Lửa và Nước luôn dạy chúng ta rất nhiều điều trong cuộc sống: Nếu tâm chúng ta có khả năng chuyển hóa và di động, chúng ta cũng có thể tiếp nhận và chuyển hóa tất cả mọi thứ vui-buồn-sướng-khổ, kể cả mọi thứ mà người khác trút lên chúng ta, và những thứ ấy không thể gây xáo trộn tâm hồn chúng ta, không thể tước mất sự bình an và hạnh phúc trong tâm hồn chúng ta: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu” (Rm 8:39). Đó là mối liên kết vĩnh viễn của các tín nhân đích thực.
H₂O là Nước, chất rất ư bình thường, nhưng lại rất quan trọng trong đời thường, và đặc biệt là chất thần kỳ vì liên quan Phép Rửa – Bí tích Thánh tẩy: “Khi Đức Giêsu chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên thì các tầng trời mở ra. Ngài thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Ngài” (Mt 3:16). Chúa Thánh Thần tác động qua Nước để biến điều bình thường trở thành phi thường mang tính mầu nhiệm linh thiêng.
Trong cuộc sống, những gì đơn giản nhất thường bị coi thường. Chúa Thánh Thần cũng thường không được chúng ta “nhắc tới”, dù Ngài không ngừng hoạt động trong cuộc đời của mỗi chúng ta. Vì thế, không phải chỉ hôm nay mà suốt cả đời này, hãy cố gắng nhớ đến Ngài. Đặc biệt hôm nay, hãy thành tâm thân thưa với Ngài: “Lạy Ngôi Ba Thiên Chúa, chúng con xin lỗi Ngài!”. Ngay cả những lúc chúng ta không nhớ cầu xin Thánh Linh, chúng ta vẫn được Ngài soi sáng và hướng dẫn mọi điều – dù to hay nhỏ. Vâng, lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến! (*)
THÁNH LINH NGỰ ĐẾN
Ngôi Hai đi, Ngôi Ba đến. Thiên Chúa không để chúng ta mồ côi hoặc bơ vơ giữa cõi tục lụy đầy cạm bẫy quỷ ma này. Sách Công vụ cho biết: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng GIÓ MẠNH ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như LƯỠI LỬA tản ra đậu xuống từng người một” (Cv 2:1-3).
Hai hình ảnh xảy ra liên tiếp: Gió và Lửa. Gió là không khí. Không khí là thứ tối cần thiết, vì thiếu không khí trong vài phút thì người ta không thể sống nổi. Làn gió do quạt máy không làm người ta sảng khoái, nhưng chỉ một chút gió hiu hiu cũng đủ làm người ta tỉnh táo và cảm thấy hồi phục ngay. Tuy nhiên, nếu gió mạnh quá thành lốc hay bão thì chẳng gì có thể chống lại, cả tòa nhà cao lớn cũng bị gió thổi sập trong tích tắc. Lửa làm người ta ấm áp trong mùa Đông giá lạnh, một đốm lửa dễ dàng bị thổi tắt, nhưng đốm lửa đó cháy lan như những vụ hỏa hoạn thì con người chỉ biết đứng nhìn mà “cười ra nước mắt”. Nước cũng rất mềm, dễ ngăn cản, ai muốn làm gì thì làm, nhưng một khi Nước “nổi giận” thì con người không thể ngăn cản, chạy cũng không kịp: Triều cường, vỡ đê, lụt lội, sóng thần,…
Sự thật về Gió, Lửa và Nước như thế đấy – vừa yếu vừa mạnh, vừa mềm vừa cứng. Và đó chính là Thần Khí Thiên Chúa, là Đức Chúa Thánh Thần, là Thánh Linh, là Thần Chân Lý, là Ngôi Ba Thiên Chúa, cũng chính là Đấng Bảo Trợ ngự đến hành động ngay giữa thế gian này.
Trong ngày lễ Ngũ Tuần, khi Gió thổi tới và Lửa đậu trên đầu thì mọi người được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho. Hiện tượng “nói tiếng lạ” xảy ra ngay lập tức, nhiều người ngạc nhiên và hỏi nhau: “Thế nghĩa là gì?” (Cv 2:12), nhưng một số khác lại chế nhạo: “Mấy ông này say bứ rồi!” (Cv 2:13). Luôn có hai cách suy nghĩ khác nhau như vậy. Mà không lạ sao được khi họ nói đủ thứ tiếng vậy mà họ vẫn hiểu nhau, đặc biệt là ai nghe cũng thấy họ nói tiếng của mình. Nhưng tất cả chỉ là để “loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!” (Cv 2:11; Tv 86:11), chứ không phải để tự mãn, cao ngạo, cho mình giỏi hơn người.
Khi thực sự có Chúa Thánh Thần thì người yếu đuối cũng thành khỏe mạnh, người nhút nhát cũng trở nên bạo dạn, người run sợ cũng hóa thành can đảm. Chắc hẳn mỗi chúng ta cũng đã từng cảm nghiệm được Chúa Thánh Thần tác động như vậy. Vì thế, chúng ta phải luôn tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi! Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!” (Tv 104:1). Tự động viên mình trước để có thể khuyến khích người khác. Thiên Chúa nắm quyền sinh – tử (Đnl 32:39; 1 Sm 2:6; Kn 16:13), cũng chính Ngài đã tác tạo cả càn khôn và muôn vật, nếu “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi” (Tv 104:29). Thật vậy, “sinh khí của Ngài do Ngài gửi tới, chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này” (Tv 104:30). Chính Chúa Thánh Thần là Đấng canh tân mọi thứ, chúng ta có làm được gì cũng là nhờ Ơn Chúa, do đó chúng ta phải quyết tâm: “Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Ngài vui thoả, đối với tôi, niềm vui là chính Chúa” (Tv 104:34). Đó là ước nguyện chân chính và tuyệt vời, rất đẹp lòng Thiên Chúa.
Ngày lễ Ngũ Tuần là sinh nhật Giáo Hội, chính Chúa Thánh Thần đến để nâng đỡ tín nhân sống theo giáo huấn của Thiên Chúa. Thiên Chúa Ba Ngôi là Thiên Chúa tình yêu, những ai tôn thờ Ngài thì phải sống yêu thương để minh chứng là con cái của Ngài – Đấng giàu lòng thương xót, và đó cũng là cách làm chứng về Đức Kitô – Đấng đã chịu khổ hình và phục sinh.
CHỨNG TÁ TIN MỪNG
Ơn Chúa không bao giờ thiếu, đủ để tội nhân thành thánh nhân. Vấn đề là chúng ta có chịu hứng nước mưa khi trời mưa hay không. Ơn Chúa ban nhưng cần phải có sự cộng tác của chúng ta – vì Thiên Chúa ban quyền tự do, không hề ép buộc ai.
Khi còn tại thế, Chúa Giêsu đã nhiều lần động viên chúng ta: “ĐỪNG SỢ!” (Mt 10:26; Mt 10:28; Mt 10:31; Mt 14:27; Mt 17:7; Mt 28:5 & 10; Mc 5:36; Mc 6:50; Lc 1:13 & 30; Lc 2:10; Lc 5:10; Lc 12:4; Lc 12:7; Lc 12:32; Lc 21:9; Ga 6:20). Sách Khải Huyền cũng lặp lại và giải thích: “ĐỪNG SỢ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ” (Kh 1:17-18). Lúc sinh thời, chính Thánh GH Gioan Phaolô II (1920–2005, triều đại GH từ 1978–2005) cũng rất thích mệnh lệnh đó: “Đừng sợ!”. Không sợ thì mới dám “vào đời”, dám “ra khơi”, dám hành động, dám bảo vệ công lý, và dám sống theo chân lý của Thiên Chúa (Tv 26:3). Động thái “dám” có vẻ đơn giản mà chẳng dễ thể hiện gì đâu!
Không nói rõ là “đừng sợ” hoặc khuyến khích, nhưng tác giả sách Huấn Ca đưa ra ý tưởng độc đáo này: “Mọi chuyện xảy đến cho con, con hãy chấp nhận, và trải qua bao thăng trầm, con hãy cứ kiên nhẫn. Vì vàng phải được tôi luyện trong lửa, còn những người sáng giá thì phải được thử trong lò ô nhục” (Hc 2:4-5). Một cách động viên rất khéo léo và khôn ngoan.
Chúa Thánh Thần đến để canh tân, đổi mới, biến xấu nên tốt. Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Tôi xin nói với anh em là hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thoả mãn đam mê của tính xác thịt nữa” (Gl 5:16), và ngài giải thích: “Tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn” (Gl 5:17). Thánh Phaolô còn nói chi tiết hơn: “Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn, thì anh em không còn lệ thuộc Lề Luật nữa. Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy” (Gl 5:18-21a). Chắc chắn rằng “những kẻ làm các điều đó sẽ KHÔNG được thừa hưởng Nước Thiên Chúa” (Gl 5:21b). Trong đó có những “thói tính” có vẻ “nhẹ nhàng” thế mà không hề giống như chúng ta tưởng. Lầm to! Chết chắc!
Đó là bảng liệt kê của Thánh Phaolô về những điều đối lập với Chúa Thánh Thần, thế còn những điều thuận với Chúa Thánh Thần? Đó là “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5:23). Tất nhiên, chẳng có luật nào chống lại những điều như thế – dù là luật đời. Thánh Phaolô nói: “Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê” (Gl 5:24). Trong Chuỗi Mân Côi, ở mầu nhiệm thứ 5 của Mùa Thương, Giáo Hội dạy: “Ta hãy xin cho được đóng đinh tính xác thịt vào Thánh giá Chúa”. Đó là cách từ bỏ chính mình theo tác động của Chúa Thánh Thần. Và “nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước. Chúng ta đừng có tìm hư danh, đừng khiêu khích nhau, đừng ganh tỵ nhau” (Gl 5:25-26). Thật tỏ tường!
Trước khi về trời, Chúa Giêsu cho biết trước: “Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Ngài là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Ngài sẽ làm chứng về Thầy” (Ga 15:26). Và Ngài cũng đã giữ đúng lời hứa đó. Nhưng Ngài cũng trao trách nhiệm cho mỗi chúng ta: “Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu” (Ga 15:27). Sống chứng nhân là bổn phận chung của mọi thành viên, những người đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy (và bí tích Thêm Sức). Chúa Giêsu nói “anh em” không có nghĩa là chỉ có phái nam, còn phái nữ “khỏe re”, chả “vướng víu” chi. Lúc đó Ngài nói với các Tông đồ nên chỉ nói “anh em”, không có từ “chị em”, nữ giới đừng vì thế mà “tự ái”, rồi “đùn đẩy” hoặc “né tránh” trách nhiệm. Nhưng ngày nay phải được hiểu là “anh chị em” (ngôi thứ hai số nhiều – you, vous, vosotros, voi), cả nam và nữ, bất kể là ai.
Và rồi chính Chúa Giêsu cũng đã nhắn nhủ: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi” (Ga 16:12). Ngài biết chúng ta “không có sức chịu nổi” nghĩa là chưa đủ hiểu, bởi vì chưa được lãnh nhận Thần Chân Lý. Chúa Giêsu xác định: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Ngài sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Ngài sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Ngài nghe, Ngài sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. Ngài sẽ tôn vinh Thầy, vì Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga 16:13-14). Vì Ba Ngôi là Một nên Chúa Giêsu nói: “Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy” (Ga 16:15a). Và một lần nữa, Chúa Giêsu nhắc lại: “Ngài lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga 16:15b). Vậy là đã rõ ràng và chắc chắn, đúng như Đức Kitô đã hứa: “Thầy ở cùng anh chị em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28). Ngài ở với chúng ta trong bí tích Thánh Thể và qua Chúa Thánh Thần, thế thì cứ an tâm mà “vượt qua chính mình” khi đối mặt với thế gian và ma quỷ.
Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ, Chúa Giêsu đã xác định như vậy. Tuy nhiên, chính Chúa Giêsu cũng là Đấng Bảo Trợ, như Thánh Gioan nói: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của tôi, tôi viết cho anh em những điều này, để anh em đừng phạm tội. Nhưng nếu ai phạm tội thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính” (1 Ga 2:1). Đấng Bảo Trợ Giêsu Kitô đã được Chúa Cha trao toàn quyền, như chính Ngài đã xác nhận: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời, dưới đất” (Mt 28:18). Ngài bảo trợ cho tội nhân chúng ta ngay ở đời này, đặc biệt là trong thời khắc quan trọng nhất: Phán Xét Chung.
Chúa Thánh Thần rất quan trọng trong đời sống tâm linh của chúng ta. Một trong các hoạt động giúp con người thư giãn là âm nhạc, thế mà cũng không thể tách khỏi Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô khuyên: “Hãy cùng nhau đối đáp những bài Thánh Vịnh, Thánh Thi và Thánh Ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa” (Ep 5:19). Âm nhạc rất cần thiết trong Phụng Vụ, thế nên Giáo Hội có loại nhạc đặc trưng là Bình Ca.
Lạy Thiên Chúa hằng sinh và hằng hữu, xin soi sáng và dẫn chúng con đi đúng Đường Chân Lý của Ngài (Tv 25:5) để kiến tạo hạnh phúc ngay trên thế gian này. Kiếp người luôn gặp đủ thứ nhiêu khê, trắc trở, cúi xin Ngài đồng hành và nâng đỡ chúng con theo đúng Thánh Ý của Ngài, nhờ đó chúng con có thể can đảm thể hiện tình yêu thương đối với mọi người qua từng nhịp thở. Nguyện xin Thần Khí Thiên Chúa biến đổi chúng con nên khí cụ hữu ích – hôm nay và suốt đời này, xin thánh hóa để mọi người làm chứng nhân theo hoàn cảnh sống hiện tại. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Điều kiện cơ bản nhằm giúp vận động viên đạt thành tích trong thi đấu chính là sức khoẻ, kỹ năng tập luyện, cho dù nơi cuộc sống người ta vẫn nói tới yếu tố may mắn. Tính nghiêm túc và tính kỷ luật giữa tình thầy trò, luôn phản ánh một tương lai tốt đẹp, hoàn toàn hợp lý khi gia đình xã hội thuần tuý là: trò ngoan, thầy giỏi. Nếu chỉ vì xác suất của công việc, người ta đã biết chọn giải pháp: ốm tha già thải, hẳn chẳng ai phải “lăn tăn”, tất cả dễ dàng chấp nhận quy luật đó. Thầy cần thù lao, trò mong được kiến thức, xã hội kỳ vọng thế hệ trẻ phải bén nhạy, phát huy được nét đẹp truyền thống của tiền nhân. Thời đại công nghệ hôm nay, năng lực làm việc, hiệu quả bền vững, đang chi phối đến mọi tầng lớp, đôi khi làm phai nhạt cả nguồn sức mạnh rất thiêng liêng nơi gia đình.
Cuộc chiến thắng thế gian của Thầy Giêsu, hé mở ra nguồn sinh lực mới từ Đấng phục sinh, Đấng có đủ quyền năng để giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết. Sự bình an của Đấng phục sinh đến với các học trò, cụ thể và rõ ràng, mang dấu chứng của tình yêu, một tình yêu không thể cân đo đong đếm, hoặc lý giải, nếu được yêu và biết yêu chỉ dừng lại ở cảm nhận “phàm trần”. Ngỡ ngàng của các môn đệ không phải Vị khách lạ hiện diện giữa lúc cửa đóng then cài, mà vì yêu, tình Thầy trò từ nay không còn cảnh ly biệt, vinh quang phục sinh phủ lấp con người giới hạn nơi các học trò. Ơn ban của Đấng phục sinh chính là Thánh Thần, là sức nóng của tình yêu, là suối nguồn hạnh phúc, trào tràn từ đức tin và lòng mến.
Kinh nghiệm thực tế cho thấy niềm vui sẽ được nhân đôi, nếu ta có bạn hữu chia sẻ, và khi tâm hồn trống vắng cô đơn, lại là nỗi ám ảnh đáng sợ của mọi người không phân biệt giai cấp, lứa tuổi. Các chuyên gia y tế về sức khoẻ cộng đồng cho rằng, chúng ta chỉ thấy được niềm vui rạng rỡ, nơi người thành đạt, nơi người không phải sống trong cảnh lắng lo ưu phiền. Thực ra, đối tượng nào mà chẳng cần có sức khoẻ ; bác sĩ, thầy thuốc, luôn thiết thực cho cuộc sống. Đấng phục sinh hôm nay ban bình an, ban cho các học trò, ban cho chúng ta khái niệm mới về ơn ban Thánh Thần. Ơn ban Thánh Thần là tình yêu, là hồn sống, là quyền năng, Đấng phục sinh ban cho các tông đồ, ban cho mọi thế hệ, những tâm hồn đang hiệp thông trong Đại gia đình Chúa.
Ơn ban Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, là ơn soi sáng, gìn giữ, củng cố đức tin, giúp người theo Đức Kitô, đủ sức mạnh chiến thắng cám dỗ, đủ khôn ngoan hành động theo thánh ý Chúa. Giá trị của tình yêu, tuỳ thuộc đức mến của từng cá nhân với Đấng chúng ta tin thờ, dù ơn ban của Đấng phục sinh là niềm vui Thánh Thần. Thánh Phaolô tông đồ quả quyết: không ai có thể nói Đức Giêsu là Chúa mà không do tác động của Thánh Thần. (bài đọc 2). Sách công vụ thì diễn tả ơn ban Thánh Thần kỳ diệu đến độ, các môn đệ nói được tiếng lạ, tuỳ theo ơn ban cho mỗi vị khác nhau. Khả năng và tình yêu đầy giới hạn của con người, chỉ được ơn Thánh Thần biến đổi khi chúng ta tin Đức Giêsu là Thầy, là Chúa. Chúng ta chỉ yêu Chúa yêu người, khi được ơn Thánh Thần soi sáng giúp cho hiểu Đấng đã chết vì yêu chính là Thiên Chúa cứu độ.
Với người nghèo, cơm bánh là cần thiết hơn cả ; kẻ giầu tiền của, họ cần sức khoẻ và tình yêu ; những học trò Đức Giêsu, Ngài thấu biết là họ cần ơn bình an, cần Thánh Thần tình yêu hơn. Trong tâm tình đó, chúng ta có thể nói: để sống hạnh phúc, người trẻ, người cao niên, linh mục, tu sĩ, ai cũng cần đến “vitamin yêu thương” ; để có thể hành động đúng ý Chúa, người môn đệ theo Đấng phục sinh, nhất định phải có ơn ban Thánh Thần. Chúng ta đang sống giữa thế gian đầy phức tạp, có thể lẫn lộn giữa tình yêu thật và giả, hạnh phúc ảo và niềm vui hời hợt, hẳn Đấng phục sinh thấu biết điều đó, Ngài ban ơn Thánh Thần, cũng là ban sự hiện diện của tình yêu Ba Ngôi cho nhân loại.
Tiền nhân chúng ta có câu: không thể có một mặt tờ tiền rách, còn mặt bên kia là tiền mới. Không ai gọi cây cọc là thập giá, cũng không thể thấy thanh gỗ nào cũng cho đó là thanh ngang của cây thập giá. Không thể có ơn ban Thánh Thần, nếu chúng ta chưa tin Đức Giêsu, Đấng đã chịu chết và sống lại vì tội lỗi nhân loại. Người kitô hữu chúng ta không thể có khuôn mặt xinh đẹp của Chúa, còn trong tâm hồn đầy ác tâm, ác đức. Người môn đệ của Đức Kitô không thể chỉ nói tôi yêu Chúa mà không yêu người anh chị em mình, vì ơn ban của Thánh Thần là dấu chứng tình yêu được ban phát không giới hạn. Thánh Thần khai sinh giáo hội, lấp đầy tâm hồn các tông đồ sức mạnh và tình yêu, hầu giúp các ông chu toàn sứ mạng Đấng phục sinh trao phó. Thánh Thần hôm nay cũng là ơn ban, là tình yêu và là sức sống cho tất cả những ai tin và bước theo Ngài. Amen.
Sau khi đã tưởng niệm triều đại của Chúa Cha trên dân Thiên Chúa trong suốt Mùa Vọng và cuộc giáng trần của Chúa Con từ mầu nhiệm Nhập Thể đến biến cố Thăng Thiên, chúng ta tưởng niệm lễ Ngũ Tuần khai mạc kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần.
Cv 2: 1-11
Trong sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Lu-ca thuật lại biến cố Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông đồ, Đức Trinh Nữ, vài người phụ nữ và vài anh em của Đức Giê-su, khi họ tụ họp trong phòng Tiệc Ly. Biến cố này có nhiều điểm chung với biến cố Xi-nai mà lễ Ngũ Tuần Do thái tưởng niệm vào đúng ngày này.
1Cr 12: 3b-7, 12-13
Trong thư gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng tính đa dạng của những ân sủng làm chứng về sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần. Mỗi tín hữu lãnh nhận những ân sủng của một Chúa Thánh Thần duy nhất để hình thành nên một thân thể duy nhất.
Ga 20: 19-23
Tin Mừng Gioan tường thuật “tiền Ngũ Tuần”, tức là ngay khi sống lại, Đức Giê-su hiện ra ở giữa các môn đệ, thổi hơi vào họ và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Chắc chắn những ân sủng của Chúa Thánh Thần chỉ được bày tỏ sau này; nhưng thánh ký nhấn mạnh rằng biến cố Phục Sinh của Chúa Giê-su là biến cố từ đó Giáo Hội được khai sinh. Ngay từ ngày đầu tiên này, Chúa Thánh Thần ở với Giáo Hội.
BÀI ĐỌC I (Cv 2: 1-11)
Theo thánh Lu-ca, sau khi Chúa Giê-su lên trời trên núi Ô-liu, các Tông Đồ trở về Giê-ru-sa-lem, tuân theo lời căn dặn của Ngài: “Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24: 49).
Nơi các ông tụ họp là “lầu trên” (Cv 1: 13), chắc hẳn đó là căn phòng, ở đó Đức Giê-su đã tham dự Tiệc Ly với các ông và Ngài đã thiết lập bí tích Thánh Thể. Đó cũng chính là căn phòng, ở đó, dù cửa đóng then cài, Đức Giê-su đã hiện ra cho các ông vào buổi chiều Phục Sinh; đó cũng chính là căn phòng, ở đó Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên các ông.
Mọi người đang tề tựu ở một nơi
Không nên hiểu kiểu nói “mọi người đang tề tựu ở một nơi” là cộng đoàn gồm một trăm hai mươi người họp mặt vài ngày trước đó để chọn ông Mát-thi-a thay thế ông Giu-đa (Cv 1: 15). Chắc hẳn đây là một nhóm nhỏ hơn được mô tả ở Cv 1: 13-14: “Các Tông Đồ… cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a, thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su”, họ cùng nhau cầu nguyện trong khi chờ đợi biến cố Đức Giê-su đã hứa: Chúa Thánh Thần ngự xuống.
Ấy vậy, một sự trùng hợp đáng chú ý, Chúa Thánh Thần chọn tỏ mình ra vào ngày đại lễ Do Thái giáo được gọi là lễ Ngũ Tuần, lễ tưởng niệm cuộc ký kết Giao Ước trên núi Xi-nai, giữa Thiên Chúa và dân Ngài, trong trận cuồng phong và lửa.
Lễ Ngũ Tuần
Được gọi là “lễ Ngũ Tuần” vì ngày đại lễ này được cử hành đúng vào ngày thứ năm mươi sau lễ Vượt Qua. Lễ Ngũ Tuần Do Thái giáo tự nguồn gốc là ngày lễ mùa, ngày lễ kết thúc giai đoạn được khai mạc vào ngày lễ Vượt Qua. Tuy nhiên, những ngày đại lễ của dân Do thái đều đã trải qua một tiến trình tâm linh hóa, từ bình diện tự nhiên đến bình diện Lịch Sử thánh. Đối với dân Chúa chọn, lịch sử cốt yếu là hành động của Thiên Chúa. Thế nên, lễ Vượt Qua tưởng niệm cuộc xuất hành ra khỏi đất Ai-cập, lễ Lều tưởng niệm cuộc lưu lại trong Sa-mạc, sau cùng lễ Ngũ Tuần tưởng niệm Giao Ước được ký kết trên núi Xi-nai, năm mươi ngày sau cuộc xuất hành ra khỏi đất Ai-cập. Vào thời kỳ gần với kỷ nguyên Ki-tô giáo, lễ Ngũ Tuần không chỉ tưởng niệm việc ký kết giao ước, nhưng còn là dấu chỉ của việc giao ước được làm mới lại hằng năm. Vào ngày đại lễ này, dân Do thái lập lại lời cam kết trung thành với Đức Chúa.
Núi Xi-nai và phòng Tiệc Ly
Trên núi Xi-nai, lời hứa Giao Ước và ân ban Lề Luật được diễn ra một cách long trọng. Biến cố này được tác giả mô tả theo một văn phong rất gần với phép ngoa dụ. Trong đa số các tôn giáo, những biểu tượng được mượn ở nơi trận cuồng phong theo sau là những cuộc thần hiển. Trong Do thái giáo, chúng ta ghi nhận một nét đặc thù: Đức Chúa, Thiên Chúa duy nhất và siêu việt, từ chối mọi hình ảnh về Ngài nhưng chấp nhận dấu chỉ lửa (hay ánh sáng, đám mây chói sáng) và dấu chỉ gió (cuồng phong hay gió hiu hiu), cũng là hơi thở hay thần khí, bởi vì đó là những hình ảnh phi vật chất nhất.
Việc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ được mô tả theo khung cảnh của những cuộc thần hiển Cựu Ước. Thêm nữa, những hình ảnh truyền thống đã trở nên phong phú nhờ những đóng góp của văn chương khải huyền. Chúng ta đọc thấy ở nơi thể loại văn chương khải huyền này, trận cuồng phong loan báo cuộc quy tụ muôn dân muôn nước vào ngày phán xét; những hình lưỡi lửa thuộc vào cùng một hình tượng của ngày cánh chung. Thánh Lu-ca liên kết trực tiếp những hình ảnh này với ân ban nói các thứ tiếng khác mà các Tông Đồ lãnh nhận. Như thế, kỷ nguyên Ki-tô giáo thật sự được loan báo theo cùng những dấu chỉ của kỷ nguyên cánh chung.
Sau cùng, truyền thống Kinh Sư đã suy gẫm biến cố Xi-nai và đã khai triển những hàm chứa của nó, theo đó, giọng nói của ông Mô-sê đã được phân chia thành bảy mươi ngôn ngữ ngõ hầu mọi dân tộc đều có thể hiểu được. Hơn nữa, làm thế nào không gợi lên lời cầu chúc của ông Mô-sê: “Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ!” (Ds 11: 29)?
Vì thế, có một sự liên tục từ Cựu Ước đến Tân Ước; Tân Ước đáp trả cho sự mong chờ của Cựu Ước. Mười hai chi tộc Ít-ra-en ở chân núi Xi-nai; mười hai Tông Đồ ở phòng Tiệc Ly để tiếp tục sự nghiệp của Chúa Ki-tô. Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận ra những khác biệt thật sâu xa.
Phép rửa trong Thần Khí
Thánh Gioan Tẩy Giả đã báo trước rồi: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước…Còn Đấng đến sau tôi…Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3: 11). Các Tông Đồ đều lãnh nhận phép rửa trong Thánh Thần và lửa. Giáo Hội xuất phát từ ngày lễ Ngũ Tuần Ki-tô giáo này: “Và ai nấy đều được đầy tràn ơn Thánh Thần”.
Những biến cố xảy ra trên núi Xi-nai thiết lập triều đại Lề Luật; những biến cố xảy ra trong phòng Tiệc Ly thiết lập kỷ nguyên Chúa Thánh Thần. Xưa kia, một dân duy nhất trở thành đối tượng của việc Thiên Chúa tuyển chọn. Từ nay, muôn dân đều được mời gọi chung hưởng cùng một ơn cứu độ. Vì thế, ơn huệ đầu tiên của Chúa Thánh Thần là ân ban nói các thứ tiếng khác, nhờ đó các Tông Đồ mới có thể ngỏ lời với đám thính giả “từ các dân thiên hạ trở về”. Một danh sách liệt kê dài các dân tộc nhấn mạnh chiều kích phổ quát của sứ điệp Tin Mừng.
Như vậy, lễ Ngũ Tuần đối lập với chuyện tích Tháp Ba-ben (St 11). Theo chuyện tích này sự xáo trộn của ngôn ngữ và sự phân tán của các dân tộc xuất hiện như một sự trừng phạt. Vì thế, Giáo Hội của Đức Ki-tô dâng hiến cho nhân loại một khả năng phục hồi sự hiệp nhất của các dân tộc.
Chúng ta có thể nhận thấy ngay ân huệ khác của Chúa Thánh Thần, đó là ân ban Sức Mạnh. Ngay khi được đầy tràn Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ ra khỏi căn phòng cửa đóng then cài; họ loan báo cho tất cả mọi người những kỳ công của Thiên Chúa. Với sự dạn dĩ, họ phục hồi quyền của Đấng chịu đóng đinh và làm chứng là Ngài đã sống lại.
Sự hiện diện của Đức Ma-ri-a
Như chúng ta đã ghi nhận trên, kiểu nói: “mọi người đang tề tựu ở một nơi” bao gồm Đức Ma-ri-a cùng với mấy người phụ nữ. Việc Đức Ma-ri-a hiện diện vào ngày khai sinh Giáo Hội trong Chúa Thánh Thần thật là quan trọng. Vào lúc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Mẹ trong bầu khí linh thánh của căn phòng Na-da-rét, Thiên Chúa đã kín đáo đến ở giữa nhân loại với tư cách là con của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Còn bây giờ, Đức Ma-ri-a đảm nhận một tình mẫu tử khác, tình mẫu tử của Nhiệm Thể Đức Giê-su, Con của Mẹ.
Vài người phụ nữ cũng đón nhận Thánh Thần. Chúng ta có thể phỏng đoán rằng ở giữa họ có bà Ma-ri-a Mác-đa-la. Những người phụ nữ này không phải dãi dầu sương gió trên những dặm đường xa, chịu tù đày bắt bớ như các Tông Đồ, các bà làm chứng theo một cách khác. Rõ ràng, các bà hoạt động đến mức mà truyền thống gọi bà Ma-ri-a Mác-đa-la “tông đồ của các tông đồ”, nghĩa là “tông đồ tuyệt hảo nhất”.
BÀI ĐỌC II (1Cr 12: 3b-7, 12-13)
Thánh Phao-lô viết từ Ê-phê-sô, có lẽ vào mùa xuân năm 55, gởi cho cộng đoàn Cô-rin-tô mà thánh nhân đã thiết lập vài năm trước đó, vào khoảng những năm 50-52.
Hoàn cảnh của cộng đoàn Cô-rin-tô
Cộng đoàn Cô-rin-tô rất năng động, nhưng cũng gây ra những bất đồng nội bộ khiến thánh Phao-lô phải bận tâm: đây là đối tượng của thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô. Giáo đoàn này sống ở giữa thế giới lương dân và trong một thành phố mở rộng cửa đón nhận những ảnh hưởng bên ngoài, nhất là những đạo thần bí đông phương đang hồi cực thịnh. Những trào lưu này không phải là không tác động đến cách ăn nếp ở của các Ki-tô hữu.
Ngoài ra, đây không là hoàn cảnh đặc thù của cộng đoàn Cô-rin-tô. Trong những năm đầu tiên, các cộng đoàn Ki-tô hữu đã khổ sở vì thiếu cơ cấu: chưa có phẩm trật, tổ chức còn non yếu và chưa chặt chẽ. Ông A-pô-lô và ông Ti-mô-thê đến rồi đi chứ chưa bao giờ cư ngụ lâu dài ở đó. Vào lúc đó, mọi việc đều hoàn toàn tự phát và Chúa Thánh Thần bổ túc những thiếu thốn ban đầu này. Quả thật, những đặc sủng thì nhiều, sau đó sẽ trở nên hiếm hơn. Đó là thực tế.
Xem ra các tín hữu Cô-rin-tô đã được ban cho muôn vàn đặc sủng, đôi khi không phải là không gây ồn ào huyên náo hay phô trương. Vì thế, thánh Phao-lô đòi hỏi họ tiên vàn phải hiểu rõ nguồn mạch của những ân huệ này.
Nguồn mạch duy nhất của muôn vàn ân sủng, chính là Ba Ngôi Thiên Chúa
Thật đáng lưu ý rằng thánh Phao-lô đặt những ân sủng và mọi hoạt động Ki-tô giáo dưới dấu chỉ của Ba Ngôi Thiên Chúa, bắt đầu từ Chúa Thánh Thần: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa (Đức Ki-tô). Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa (Chúa Cha) làm mọi sự trong mọi người”.
Mục đích duy nhất của muôn vàn ân sủng, chính vì lợi ích chung
Thánh Phao-lô đưa ra một luật vàng: tiêu chuẩn của những ân sủng phải là đem lại lợi ích cho cộng đoàn, nghĩa là, nếu không vì lợi ích cho cộng đoàn, ân sủng đó chỉ là ngụy tạo, mạo danh.
Tiếp đó, thánh nhân so sánh thân thể với Đức Ki-tô, hình ảnh này rất nổi tiếng. Một thân thể làm cho mọi chi thể nên một như thế nào, Đức Ki-tô làm cho Giáo Hội nên một như thế ấy, bất chấp vô số thành viên. Nguyên tắc hiệp nhất chính là Chúa Thánh Thần, Đấng duy nhất ban muôn ân sủng cho cho mọi tín hữu trong bí tích Thánh Tẩy. Chúa Thánh Thần tuôn trào sự sống trong chúng ta như mạch nước hằng sống: “Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thánh Thần duy nhất”.
TIN MỪNG (Ga 20: 19-23)
Chúng ta đã đọc đoạn Tin Mừng này rồi vào Chúa Nhật II Phục Sinh, với một đoạn trích dẫn dài hơn và trong ánh sáng của biến cố Phục Sinh. Hôm nay, bản văn này được đề nghị cho chúng ta trong viễn cảnh của biến cố Ngũ Tuần. Quả thật, đoạn Tin Mừng này được gọi “lễ Ngũ Tuần” của Tin Mừng Gioan: “Đức Giê-su thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Biến cố này không mâu thuẫn với biến cố Chúa Thánh Thần ngự xuống mà sách Công Vụ tường thuật, nhưng bổ túc: “Giáo Hội được khai sinh ngay từ biến cố Phục Sinh”, cho dù những ân huệ của Chúa Thánh Thần chỉ được bày tỏ sau này.
Cuộc sáng tạo mới
Đức Giê-su trao gởi sứ vụ cho cộng đoàn nhỏ bé này, họ tiếp tục sứ vụ của Ngài:“Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. “Nhóm còn lại” này hình thành Giáo Hội của Ngài, Giáo Hội được khai sinh dưới dấu chỉ của Thiên Chúa Ba Ngôi: “Nói xong, Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Đây là một trong những giáo huấn cốt yếu của bản văn này.
Đức Giê-su thổi hơi vào họ, tái hiện cử chỉ của Đấng Sáng Tạo: thổi sinh khí vào con người, và con người trở nên một sinh linh (St 2: 7). Đây cũng là động từ mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en dùng để mô tả cuộc hồi sinh những bộ xương khô: “Ngươi hãy nói với Thần Khí: ‘Hỡi Thần Khí hãy thổi hơi vào những người đã chết này cho chúng được hồi sinh” (Ed 37: 9). Vì thế, đây cốt là khởi điểm của một “cuộc sáng tạo mới”, một thế giới mới khởi sự. Đức Giê-su làm cho các môn đệ trở thành hạt nhân của một nhân loại được tái sinh. Chính sự sống của Đấng Phục Sinh mà Ngài chuyển thông cho các ông.
Hiệp nhất giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Ngũ Tuần
Thánh Gioan luôn luôn liên kết biến cố Chúa Thánh Thần ngự xuống với biến cố Phục Sinh, như thánh ký đã giải thích lời công bố của Chúa Giê-su về “những dòng nước hằng sống” vào ngày lễ Lều: “Đức Giê-su nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh” (Ga 7: 39).
Lễ Ngũ Tuần nội tại này, được thánh Gioan ghi lại, chỉ là khúc dạo đầu của ngày lễ Ngũ Tuần ngoạn mục, ở đó tác động của Chúa Thánh Thần sẽ biến đổi ngay lập tức các Tông Đồ. Nhưng khi đặt biến cố Phục Sinh và biến cố Ngũ Tuần bên cạnh nhau, thánh Gioan nhấn mạnh sự hiệp nhất sâu xa của hai biến cố này. Hai ngày lễ này đã được liên kết rồi trong Do thái giáo; đến lượt mình, thánh Gioan khẳng định sự liên đới của hai biến cố này trong một viễn cảnh mới.
Hôm nay lễ Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta nghe nói đến lửa và gió ngự trên các Thánh Tông Đồ trong ngày lễ Ngũ Tuần. Lửa và gió (GLCG #691, 696) là biểu tượng cho sự hoạt động của Chúa Thánh Thần.
Mỏ dầu và than là những nguồn năng lượng đang cạn dần trên thế giới và sẽ biến mất đi. Nhưng lửa và gió là những nguồn năng lượng vật chất vô cùng phong phú, không bao giờ cạn, và luôn mới mẻ. Chúng biểu tượng cho những nguồn sức mạnh tinh thần, những ơn lành của Chúa Thánh Thần. Vì thế Giáo Hội cầu xin với Chúa Thánh Thần: “Xin hãy đến và canh tân bộ mặt trái đất.”
Cũng như lửa và gió là những món quà của Thiên Chúa ban cho nhân loại đã có sẵn trong thiên nhiên trước khi chúng ta được sinh ra, thì ơn của Chúa Thánh Thần cũng đã được ban cho chúng ta khi chúng ta lãnh nhận bí tích Rửa Tội, và các bí tích khác để trở nên con cái của Thiên Chúa (GLCG #1087, 1120). Đồng thời, sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần còn được ghi nhận qua những ơn đoàn sủng khác nhau, trong những vai trò và tác vụ riêng, vì ích lợi của đời sống gia đình, cộng đoàn, và Giáo Hội (Tông Thư Tertio Millennio Adveniente, số 45).
Thứ nhất, Chúa Thánh Thần là Đấng Bình An (Ga 14:27). Hãy nhìn giàn nhạc đại hòa tấu. Sự êm dịu tuyệt vời của bản nhạc hòa tấu đến từ những nhạc cụ khác nhau, trổi lên đúng lúc, do tài năng điều khiển nhịp nhàng của người nhạc trưởng. Nếu ví thế giới này là giàn nhạc cụ, thì Chúa Thánh Thần là người nhạc trưởng đó. Ngài là Đấng hiệp nhất, yêu thương, và hòa giải con người lại với nhau. Chúa Thánh Thần kêu gọi mỗi người chúng ta hãy ca vang lên nốt nhạc của tình yêu thương, hòa bình, và êm ái giữa một thế giới đầy xung khắc, hận thù và đố kỵ đang cần được chữa lành. Như lời kinh Hòa Bình của Thánh Phanxicô Assisi, mỗi người chúng ta phải là “khí cụ bình an của Chúa” (Pl 4:7).
Thứ hai, Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ (Ga 14:26). Khi chúng ta gặp phải tình huống lộn xộn và khó khăn, không biết phải làm gì, làm cách nào, thì ngay bên cạnh chúng ta, như Đức Chúa Giêsu đã hứa, là Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ hướng dẫn và khích lệ chúng ta (Mt 10: 19; GLCG #692).
Thứ ba, Chúa Thánh Thần là Đấng An Ủi (GLCG #692). Người an ủi là người hiện diện, có mặt với chúng ta khi gặp khó khăn, đau khổ (2 Cr 1:3-4). Những người làm việc mục vụ trong nhà thương biết rất rõ vai trò của một người an ủi. Trước khi làm linh mục, chủng sinh phải qua khoá học CPE – clinical and pastoral education, để biết giúp đỡ những người đang gặp khó khăn, khủng hoảng. Sự hiện diện một cách chủ động với người khác có nghĩa là dùng trọn vẹn con người của mình để chia sẻ, tham dự vào đau khổ của người khác, mang cái kinh nghiệm của chính bản thân mình như một con người để thông cảm với sự đau khổ của tha nhân; không nói nhiều, không dạy đời. Đứng trước đau khổ và sự chết, lời nói nhiều khi vô nghĩa và vô duyên. Chỉ có sự hiện diện nối kết con người với con người mới thoa dịu và chữa lành.
Thứ tư, Chúa Thánh Thần là Đấng Phổ Quát. Vào ngày lễ Ngũ Tuần, các tông đồ giảng cho dân chúng từ khắp các nơi tụ về. Họ nói những ngôn ngữ khác nhau, nhưng mỗi người lại nghe các tông đồ giảng bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của mình (Cv 2:6). Điều này nói lên tính chất chung, tính chất phổ quát của ơn Chúa Thánh Thần hoạt động nơi mỗi tâm hồn chúng ta, không phân biệt chúng ta là ai. Nơi mỗi tâm hồn chúng ta đều là đền thờ của Chúa Thánh Thần ngự trị (1 Cr 3:16).
Thứ năm, Chúa Thánh Thần là ân sủng của Ba Ngôi Thiên Chúa. Tất cả ân phúc chúng ta có đều đến qua Chúa Thánh Thần (Jn 4:23-24; 15:5). Không có Ngài chúng ta không thể làm được bất cứ việc gì (Ga 4:26). Ngài giúp chúng ta sống đúng với con người đích thật của mình, không giả dối hay đóng kịch.
John Bradshaw rất nổi tiếng với những cuốn sách và hằng loạt chương trình TV công cộng về gia đình “On the Family”. Ông nói rằng 96% các gia đình ở Mỹ ban phát tình yêu dựa trên cách sống và thái độ bề ngoài của người thân. Con cái, vợ chồng, anh chị em, càng cư xử theo như cách chúng ta muốn về họ, chúng ta càng yêu họ, chấp nhận họ, khẳng định giá trị của họ. Trong những gia đình mà chúng ta đã lớn lên dạy chúng ta phải sống với thái độ bề ngoài như thế nào để được cái mà chúng ta cần.
Nhưng trong bài Phúc Âm hôm nay, Ga 20: 19-23, Chúa Giêsu hứa ban “Bình an cho các con.” ” Bình an của Thầy cho các con… không như thế gian ban tặng” (Ga 14:27). Bình an Chúa Giêsu ban cho chúng ta là bình an đến từ sự chấp nhận của Thiên Chúa về con người của chúng ta. Bình an ban vô điều kiện. Bình an không do thái độ bề ngoài, cái vỏ trình diễn, nhưng do con người đạo đức thật sự của chúng ta tạo nên.
Thứ sáu, Chúa Thánh Thần luôn hoạt động. Thần học gia Karl Rahner, trong cuốn Pfingten entgegengehen, Freiburg, Basel, Wien 1986, tr. 86, đã viết lại những kinh nghiệm cá nhân về sự hoạt động Đức Chúa Thánh Thần tùy theo những hoàn cảnh của mỗi người: “Khi nhận lãnh trách nhiệm và chu toàn tới nơi tới chốn, và cả khi làm việc mà không nhìn thấy kết quả. Khi cảm thấy sự thong dong tự do của mình không bị giới hạn, khi phải chấp nhận trong giờ phút đen tối sợ hãi như bước khởi đầu cho một giai đoạn được chúc phúc, mặc dù không hiểu nổi sự việc đã, đang và sẽ đến. Khi bình thản chấp nhận thất vọng trong đời sống hằng ngày xảy đến, dù phải chịu đựng tới cùng sức. Khi kiên nhẫn cầu nguyện trong thinh lặng, trong u tối, vì tin rằng thế nào cũng được nhận lời, mặc dù không có dấu hiệu thấy hiệu quả của lời cầu xin kêu khấn. Khi chấp nhận từ bỏ không có điều kiện gì, vì tin rằng chính sự từ bỏ mang lại chiến thắng thật sự cho đời sống. Khi trong cuộc sống hằng ngày bình thản và sẵn sàng chấp nhận sự rủi ro bất trắc xảy đến. Và còn rất nhiều cảnh huống trong đời sống mỗi người… Tất cả những điều đó là ân đức của Thiên Chúa. Ân đức này người Kitô hữu chúng ta gọi là ơn của Đức Chúa Thánh Thần” (VietCatholic News 29/5/2004. Lm Nguyễn Ngọc Long dịch).
Mặc dù chúng ta đã đón nhận Ngài trong bí tích Rửa tội và các bí tích khác, chúng ta phải để cho Ngài được tự do hoạt động trong ta (Rm 8:1-16). Có một chàng thanh niên muốn chơi xỏ vị trưởng lão có tiếng là thánh thiện. Hắn nắm một con chim trong lòng bàn tay, rồi hỏi vị trưởng lão: “Nếu ngài là bậc thông minh thánh hiền thì hãy nói cho tôi biết con chim trong lòng bàn tay này còn sống hay đã chết?” Vị trưởng lão suy nghĩ một chút và lập luận rằng, nếu mình nói ‘chết’ thì gã thanh niên sẽ mở bàn tay ra để con chim bay đi; nếu mình nói ‘còn sống’ thì hắn sẽ bóp chặt bàn tay vào và giết chết con chim đi. Gã thanh niên nóng ruột nhạo báng vị trưởng lão: “Xin ngài trả lời mau đi!” Vị trưởng lão chỉ ung dung mỉm cười trả lời: “Con chim ở trong lòng bàn tay là của anh. Anh muốn nó sống thì nó sống; muốn nó chết thì ắt nó sẽ chết.”
Chúa Thánh Thần ở trong tâm hồn chúng ta. Ngài có được tự do hành động hay không là tùy ý muốn của chúng ta. Thánh nữ Têrêsa Avila, tiến sĩ hội thánh, đã nói rằng trên trái đất này, chúng ta là những bàn tay của Thiên Chúa, là mắt, là chân, là những cánh tay của Ngài (Ep 1:22). Nếu chúng ta không xây dựng Vương Quốc Thiên Chúa trên trái đất, thì không ai có thể làm được vì chính chúng ta có Đức Chúa Thánh Thần (Ep 2:22; 4:12).
Hàng năm người Do Thái mừng lễ Vượt Qua Biển Đỏ, do Môisen lãnh đạo, kính nhớ ngày Thiên Chúa cứu họ thoát khỏi ách nô lệ bên Ai Cập. Bảy tuần sau ngày lễ Vượt Qua là ngày lễ hội mùa Xuân. Trong ngày này họ dâng của lễ bao gồm lúa mạch mới và trái cây đầu mùa trong Đền Thánh Jerusalem để nói lên tâm tình tạ ơn Thiên Chúa cho mưa thuận gió hoà đem về mùa thu hoạch, có thực phẩm sống quanh năm. Đức Kitô cùng các môn đệ dự lễ Vượt Qua. Chính tại nơi đây Ngài bị bắt và ngay đêm đó đưa ra bản án tử hình, đóng đinh trên thập tự. Bản án phải thi hành ngay, không cho thời gian kháng án; đến khi dân chúng nghe tin thì mọi sự đã thành hình. Ba ngày sau Đức Kitô sống lại từ cõi chết và hiện ra với các môn đệ và nhiều người khác. Lễ Ngũ Tuần – lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Ngày lễ Ngũ Tuần, thực ra là bảy tuần, nhưng dùng ngũ tuần để nói lên là năm mươi ngày sau, vì thế chữ tuần đây không có nghĩa là 7 ngày trong tuần mà ngụ í nói đến thời gian. Khi người Do Thái di tản vượt qua Biển Đỏ họ đi trong vội vã không đủ thời gian ủ men cho bánh dậy men nên ngày đó còn được biết đến với tên Bánh Không Men.
Kitô hữu mừng lễ Thánh Thần hiện xuống với tâm tình rộn rực niềm vui. Lễ kính xảy ra năm mươi ngày Đức Kitô sống lại từ cõi chết ban sự sống mới cho nhân loại và toàn thể vũ trụ. Đức Kitô chính là hoa quả đầu mùa của lễ hội mùa Xuân Kitô. Mầm non bắt đầu đâm chồi nảy lộc từ sự Phục Sinh của Đức Kitô. Mùa Xuân Kitô có sức sống mãnh liệt nhờ vào sự tác động của món quà Đức Kitô hứa trước đó; Thánh Thần Chúa tiếp tục làm trổ sinh hoa trái rũ cành công việc Đức Kitô khởi đầu. Điểm này nhắc chúng ta nhớ lại dụ ngôn hạt lúa mì rơi xuống đất sinh bông, kết trái gấp trăm lần (Gn 12,24).
Cái chết của Đức Kitô được ví như hạt lúa mì rơi vào lòng đất; sự Phục Sinh của Ngài ví như thành quả hoa trái rũ cành. Dân Do Thái ra đi vội vã đến độ không có thời gian chờ cho bánh dậy men; Bữa Tiệc Li các môn đệ dùng với Đức Kitô được ví như bữa tiệc Bánh Không Men bởi trong bữa tiệc đó Đức Kitô loan báo việc sắp xảy ra cho Ngài và cũng thông báo việc phản bội của con người. Bí tích Thánh Thể là hoa trái của món quà Đức Kitô hứa ban bởi chính Thánh Thần Chúa tác động biến bánh, rượu thường trở thành Mình và Máu Thánh Đức Kitô. Điều này vượt khỏi sự hiểu biết và trí tưởng tượng của con người. Hoa quả Mùa Xuân Kitô có sức mạnh không chỉ hàn gắn vết thương của toàn thể vũ trụ do tội lỗi gây nên mà còn đổi mới toàn thể vũ trụ. Điều này có được bởi do sự liên kết với Đức Kitô Phục Sinh trong lời mời gọi ‘ hãy ở lại trong tình yêu của Thầy’. Chính nhờ liên kết với tình yêu mà mọi sự được đổi mới qua Đức Kitô Phục Sinh. Dụ ngôn cây nho liên kết với cành nho giúp hiểu tầm mức quan trong liên kết giữa thân và cành (Gn 15). Dụ ngôn này nhắc nhở đến sự liên kết vĩnh cửu của một Thiên Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Kitô hữu sinh hoa, kết trái rũ cành khi liên kết mật thiết với Đức Kitô Phục Sinh và mở tấm lòng đón nhận hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Ở lại trong tình yêu của Đức Kitô sẽ thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi bởi chính tình yêu Đức Kitô Phục Sinh giải thoát con người. Khi tâm hồn ta tràn đầy Thánh Thần Chúa, cuộc sống tâm linh được hướng dẫn bởi Thánh Thần và cuộc sống đó được liên kết mật thiết với Ba Ngôi Thiên Chúa.
Khi sai Thánh Thần Chúa xuống Đức Kitô làm trọn điều Ngài hứa là sẽ sai Thánh Thần đến, cùng đồng hành với Kitô hữu, cho đến tận thế (Mat 28,20). Thánh Thần Chúa tác động cuộc sống của Kitô hữu biến hành động tốt lành, bác ái, của ta nên cao trọng đẹp lòng Chúa. Nhờ vào Thánh Thần Chúa trợ lực mà Kitô hữu mỗi ngày đều có khả năng trổ sinh bông trái tốt qua hành động bác ái, đạo đức và hy sinh. Thánh Thần Chúa biến yếu hèn của ta trở nên mạnh mẽ, nhu nhược thành can đảm, biếng nhác thành siêng năng. Điều này có được bởi do sự liên kết trong tình yêu Chúa. Không phải do sức riêng hay khôn ngoan trí tuệ mà chính là do sức mạnh tình yêu Chúa, hướng dẫn, ban sức mạnh mà tha nhân được hưởng hoa trái của tình yêu ngoài sức mơ tưởng của con người.
Qua Kinh Thánh chúng ta được biết sau khi Chúa Giêsu lên trời các môn đệ thường họp nhau cầu HiệnXuống-445
Qua Kinh Thánh chúng ta được biết sau khi Chúa Giêsu lên trời các môn đệ thường họp nhau cầu nguyện. Nơi họp là một nhà tư và khi họp thì cửa đóng kín. Thế nhưng khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, các ông đã ra khỏi nhà và bắt đầu rao giảng cho mọi người về Đức Kitô. Từ đó chúng ta nhận thấy dưới tác động của Chúa Thánh Thần, một sự đổi mới đã xảy ra trong tâm hồn các môn đệ. Sự đổi mới này chính là tinh thần cởi mở với hai đường hướng rõ rệt.
Trước hết, nhờ ơn Chúa Thánh Thần đổi mới, tâm hồn các ông đã mở ra hướng về Đức Kitô như trung tâm điểm của đời sống đức tin. Các ông nhận ra Đức Kitô là nguồn ơn cứu độ, là đường, là sự thật và là sự sống. Các ông xác tín về mọi lời Ngài dạy. Lời Ngài là Tin Mừng. Và loan báo Tin Mừng là bổn phận của người tin theo Đức Kitô. Các ông không rao giảng một giáo lý nào khác, ngoài giáo lý của Đức Kitô. Các ông không đưa ra hình ảnh nào khác về Thiên Chúa ngoài hình ảnh Đức Kitô, là hình ảnh trung thực nhất của Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Cùng với sự đổi mới này, các ông tỏ ra lạc quan và lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa. Thực vậy, trước khi các ông đang lo âu sợ hãi, thì giờ đây các ông sống trong hoan lạc và giờ cầu nguyện chính là giờ các ông ngợi khen Thiên Chúa. Các ông giống như người đã tìm thấy một kho tàng quý giá. Đúng thế, một khi đã thấy được vẻ đẹp tuyệt vời của niềm tin vào Đức Kitô, các ông chỉ còn ca tụng, và cảm tạ Chúa. Niềm tin là một khám phá lạ lùng. Cả những trường hợp các ông bị bắt bớ khổ nhục vì Đức Kitô các ông vẫn có những phản ứng chan chứa bình an. Các ông vui mừng khi bị oan ức vì Đức Kitô. Các ông coi những dịp xảy ra như thế là một hạnh phúc phải han hoan đón nhận với tất cả tâm tình cảm tạ. Nguồn hoan lạc của các ông là Đức Kitô. Chính nhờ Ngài với Ngài và trong Ngài mà các ông dấn thân.
Tiếp đến các môn đệ nhờ ơn Chúa Thánh Thần đổi mới, đã mở ra hướng về tình bác ái yêu thương. Sách Tông đồ Công vụ kể lại: Sau khi Giáo Hội của Đức Kitô được thành lập với nhóm nhỏ các tông đồ. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần, tình thương đã trở thành dấu chỉ thực sự của những người thuộc về Giao Hội. Họ để mọi của cải làm của chung. Họ nâng đỡ nhau một cách chân thành và quảng đại. Đối với họ Giáo Hội là hiệp thông một cách sống động. Họ nhìn những người ngoài Giáo Hội với cái nhìn kính trọng, đầy khiêm tốn. Giáo Hội nói chung và từng tín hữu nói riêng đã tỏ ra mình là khí cụ bình an của Chúa. Họ sống như một dấu chỉ của sự hoà giải. Giáo Hội lúc đó không bao giờ cho mình là một thế lực, và tổ chức của Giáo Hội cũng nhẹ nhàng, đơn giản hơn nhằm mục đích phục vụ với tinh thần bác ái.
Hai định hướng trên đây có thể gợi ý cho chúng ta trong thời điểm hiện nay là thời điểm của cởi mở. Đây là cơ hội có nhiều tiềm năng. Nếu được vận dung hướng về cái tốt thực sự, thì sự cởi mở sẽ giúp cho đạo đức đi lên. Còn nếu để mặc cho tự do trôi dạt, hoặc hướng về những điều xấu, thì cởi mở sẽ là như một cái đà cho phong trào phá hoại đạo đức. Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.
Bài Tin mừng hôm nay Thánh Gioan tường thuật lại sự kiện Đức Giêsu phục sinh hiện ra với HiệnXuống-446
Bài Tin mừng hôm nay Thánh Gioan tường thuật lại sự kiện Đức Giêsu phục sinh hiện ra với các Tông đồ đang khi họ ngồi trong phòng và đóng kín cửa lại. Đức Giêsu lần lượt thực hiện những việc sau đây:
Thứ nhất, Đức Giêsu ban bình an cho các Tông đồ. Đây là một ơn đặc biệt và rất có ích cho các Tông đồ trong lúc này, bởi vì từ khi Đức Giêsu bước vào cuộc khổ nạn, các Tông đồ bắt đầu cảm thấy lo lắng và sợ hãi. Nhất là sau khi Đức Giêsu chết và được mai táng trong mồ thì các Tông đồ lại càng lo lắng và sợ hãi hơn. Bằng chứng: hầu hết các ông bỏ trốn, Phêrô thì chối Thầy ba lần, các ông vào phòng đóng kín cửa lại. Đức Giêsu hiểu thấu điều đó, nên khi hiện ra, hành động đầu tiên của Ngài là ban bình an cho các ông. Ngài nói: “Bình an cho các con”.
Thứ hai, Đức Giêsu cho các ông xem tay và cạnh sườn Ngài. Đây cũng là một sự trấn an cho các Tông đồ. Vì Tin mừng kể lại có lần Đức Giêsu phục sinh hiện ra thì các ông tưởng là ma. Thậm chí, khi nghe các Tông đồ khác kể lại việc Đức Kitô phục sinh hiện ra, thì ông Tôma đã không tin, ông còn đòi xem tay và cạnh sườn Ngài. Vì thế, giờ đây Đức Giêsu cho các ông xem tay và cạnh sườn Ngài. Khi cho các ông xem tay và cạnh sườn của mình, Ngài muốn khẳng định chắc chắn với các ông rằng “chính Thầy đây.” Thầy đã sống lại thật rồi. Các ông hãy tin tưởng để làm chứng cho Thầy.
Thứ ba, Đức Giêsu sai các ông đi: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.” Như vậy, sau khi ban bình an và cho các ông xem tay và cạnh sườn của mình, Đức Giêsu sai các ông đi thi hành nhiệm vụ. Nhiệm vụ mà Đức Giêsu muốn sai các Tông đồ thi hành cũng là nhiệm vụ của chính Ngài. Đó là nhiệm vụ loan báo Tin mừng. Ngài mời gọi các ông ra khỏi căn nhà đóng kín để đến với muôn dân. Các Tông đồ đã vâng lời Đức Giêsu ra đi thi hành nhiệm vụ. Bài giảng đầu tiên của Thánh Phêrô có khoảng 3 ngàn người trở lại. Sau đó, các ông phân chia nhau đi rao giảng Tin mừng khắp mọi nơi. Cuối cùng các ông đã dùng cái chết để làm chứng cho lời mình rao giảng.
Thứ tư, Đức Giêsu thổi hơn và ban Chúa Thánh Thần. Trong ba năm sống với các Tông đồ, Đức Giêsu đã nhiều lần hứa ban Thánh Thần cho các ông. Giờ đây Ngài bắt đầu thực hiện lời hứa đó. Thực ra, Đức Giêsu đã ban Thánh Thần cho các Tông đồ ngay sau khi Ngài sống lại, nhưng ngày lễ Ngũ Tuần hôm nay Ngài ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ một cách sung mãn và đầy đủ hơn. Nhờ được ban Chúa Thánh Thần nên các Tông đồ thêm sức mạnh để can đảm ra đi rao giảng Tin mừng và làm chứng cho Thầy khắp mọi nơi. Sự can đảm đó được thể hiện nơi lời nói cảu Thánh Phêrô và các Tông đồ rằng: “thà vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người đời.” Sự can đảm đó cũng được thể hiện nơi cái chết Tử Đạo của các Ngài.
Thứ năm, Đức Giêsu ban cho các Tông đồ quyền tháo cởi và cầm buộc. Chính Ngài đã nhiều lần gặp gỡ và tha thứ tội lỗi cho nhiều người. Ngài tha thứ tội lỗi cho ông Giakêu. Ngài tha thứ tội lỗi cho ông Mathêu. Ngài tha thứ tội lỗi cho người phụ nữ phạm tội ngoại tình. Ngài tha thứ tội lỗi cho người bất toại. Ngài tha thứ tội lỗi cho bà Maria Mađalêna. Ngài tha thứ tội lỗi cho kẻ trộm lành. Ngài tha thứ tội lỗi cho những kẻ đóng đinh Ngài vào thập giá. Ngài còn dạy Thánh Phêrô phải tha thứ không phải 7 lần mà là 70 lần 7. Sau khi sống lại, Ngài tha thứ tội lỗi cho Phêrô và các Tông đồ. Hôm nay, Ngài còn ban cho các Tông đồ quyền tha thứ tội lỗi. Quyền đó cũng được trao cho Giáo hội mãi cho đến tận thế.
Như vậy, ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm nay là ngày lễ Tình thương. Vì yêu thương nên Đức Giêsu mới ban bình an cho các Tông đồ. Vì yêu thương nên Ngài mới cho các Tông đồ xem tay và cạnh sườn Ngài. Vì yêu thương và tin tưởng nên Ngài mới trao cho các ông tiếp tục sứ mạng của Ngài. Vì yêu thương nên Ngài mới ban Thánh Thần cho các ông. Vì yêu thương nên Ngài mới trao cho các ông quyền tháo cởi và cầm buộc.
Mỗi người chúng ta và các kitô hữu qua mọi thời đại cũng được thông phần vào những ơn mà Đức Kitô phục sinh ban cho các Tông đồ khi xưa. Đặc biệt, chúng ta được lãnh nhận Chúa Thánh Thần khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Chúng ta nhận Chúa Thánh Thần một cách sung mãn và đầy đủ khi lãnh nhận Bí tích Thêm sức. Mỗi lần chúng ta phạm tội nhưng với lòng sám hối ăn năn và đi xưng tội thì chúng ta được Giáo hội tháo cởi. Vì thế, chúng ta hãy cảm tạ Chúa. Đồng thời, chúng ta hãy góp phần mình làm chứng cho Chúa Kitô phục sinh như các Tông đồ đã làm. Để làm được điều đó, chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thấn ban ơn để chúng ta biết sống hiệp thông liên kết với nhau trong Chúa Thánh Thần giống như những người tham dự ngày lễ Ngũ tuần khi xưa. Bài đọc I, cho chúng ta thấy, hôm ngày lễ Ngũ Tuần có rất nhiều người, ở khắp mọi nơi, thuộc các dân tộc khác nhau trở về Giêrusalem vì nhân dịp lễ Vượt Qua của người Do Thái.
Tất cả trong số họ đều nghe rõ và hiểu những lời các Tông đồ rao giảng. Đó là một điều lạ lùng vô tiền khoáng hậu, nên chính những người tham dự hôm đó nêu lên thắc mắc rằng: “Tại sao mỗi người chúng tôi lại nghe họ nói tiếng bản xứ của chúng tôi: Chúng tôi là người Parthi, Mêđi, Êlam, Mésopotamia, Giuđêa, Pontô, Tiểu á, Phrygia, Pamphilia, Ai cập, Lybia, cận Cyrênê, và người Rôma cư ngụ tại đây , là Do thái và tòng giáo, là người Crêta và Ảrập, chúng tôi đều nghe họ nói tiếng của chúng tôi mà ca tụng những kỳ công của Thiên Chúa”(Cv 2, 8-11). Như vậy, chính Chúa Thánh Thần là nguyên lý làm nên sự hiệp nhất giữa các dân tộc và mọi người với nhau. Bởi vì, chính Chúa Thánh Thần là nguyên nhân giúp họ nghe và hiểu những lời các Tông đồ rao giảng.
Sự hiệp nhất đó cũng được Thánh Phaolô mời gọi chúng ta qua nội dung bài đọc II hôm nay, Ngài nói: “Cũng như chỉ có một thân thể, nhưng có nhiều chi thể, mà các chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân thể, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng trong cùng một Thánh Thần, tất cả chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể, cho dù là Do thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do: tất cả chúng ta đã uống trong một Thánh Thần” (1 Cr 12,12-13). Ngài nói tiếp: “Có nhiều thứ ân sủng, nhưng chỉ có một Thánh Thần, có nhiều chức vụ, nhưng chỉ có một Chúa, có nhiều thứ công việc, nhưng chỉ có một Thiên Chúa là Đấng hoàn thành mọi sự trong mọi người”(1Cr 12,3).
Tóm lại, Chúa Giêsu đã ban nhiều ơn cho các Tông đồ, đặc biệt là Ngài ban Chúa Thánh Thần cho họ. Xin Ngài cũng ban Chúa Thánh Thần cho Giáo hội và cho mỗi người chúng ta để mọi thành phần trong Giáo hội sống hiệp thông liên kết với nhau tiếp tục làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh. Amen.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Sách Công vụ Tông đồ mô tả ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống như một biến cố vĩ đại HiệnXuống-447
1. Sách Công vụ Tông đồ mô tả ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống như một biến cố vĩ đại làm rung chuyển từ căn nhà gia đình đến rung chuyển cả thành Giêrusalem, làm chấn động đoàn môn đệ đến vang dội cả thiên hạ. Đó là ngày lễ lớn của gia đình, của dân tộc và cả thiên hạ.
- Trong gia đình: Mọi người đang tụ họp đều nghe thấy tiếng vang dội từ trời xuống, mãnh liệt như gió bão ào ào. Tất cả đều thấy những hào quang xuất hiện tỏa sáng trên đầu mỗi người. Cả gia đình đều được tràn đầy Thánh Thần và nói nhiều thứ tiếng.
- Trong thành thánh: Người ta thấy ồn ào, mọi người tuôn đến. Họ kinh ngạc, sửng sốt và thán phục. Họ sốt sắng lắng nghe những lời chân lý lạ lùng do mot tập đoàn đang rao giảng.
- Từ khắp muôn phương thiên hạ: Người Rôma, người Hy Lạp, người Ai Cập đến những người trung đông đều được nghe loan báo những kỳ công của Thiên Chúa bằng tiếng mẹ đẻ của mình, bằng văn hóa dân tộc địa phương mình.
2. Ai đã làm rung chuyển cả thế giới như thế? Thưa là “Chúa Thánh Thần”. Thánh Phaolô đã trả lời cho giáo đoàn Corintô như thế (1Cr. 12, 3-7): “Nhờ Chúa Thánh Thần, chúng ta đã được tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, biết được chỉ có một Thiên Chúa, nhờ Thánh Thần, chúng ta được thanh tẩy để xứng đáng trở nên chi thể của Đức Kitô.
Thánh Thần đã tạo dựng một cộng đoàn mới, một dân tộc mới, một thế giới mới, một nhân loại mới, sống thành một gia đình tuyên xưng Thiên Chúa là Cha mình. Họ sống thành tông đồ đoàn, thành giáo đoàn, thành Giáo Hội, thành dân tộc của Thiên Chúa, lan rộng muôn phương. Tất cả đều uống một Thánh Thần với nhiều đặc sủng, nhiều việc khác nhau, tất cả đều hợp nhất với nhau nên một thân thể Đức Kitô, tất cả đều hoạt động cho muôn dân thấy những kỳ công của Thiên Chúa đang thương yêu cứu độ họ.
Ngày nay, trước một thế giới đầy biến động và phân hóa khôn lường. Đức Giáo Hoàng Gioan 23 đã kêu gọi họp Công Đồng Vaticano II để cầu nguyện cho Giáo Hội và thế giới “Một lễ Hiện xuống mới”. Tất cả các Hồng Y, Giám Mục và Viện Phụ từ khắp mặt đất đều đồng tâm nhất trí về họp tại Vatican từ năm 1962 đến năm 1965. Có bốn kỳ họp, mỗi kỳ hơn hai tháng gồm từ 2152 đến 2391 nghị phụ với hàng ngàn chuyên gia lỗi lạc: linh mục, tu sĩ và giáo dân, soạn thảo hàng tram văn kiện, được thảo luận đúc kết, và bỏ phiếu tán thành bốn Hiến Chế: Phụng Vụ, Tín Lý Giáo Hội, Tín Lý Mặc Khải và Mục Vụ Giáo Hội trong thế giới ngày nay, với 9 Sắc Lệnh về Truyền thông xã hội, về các Giáo Hội: Công giáo, Đông Phương, về Nhiệm vụ Giám Mục, về đời sống Dòng tu, về đào tạo Linh mục, về Tông đồ giáo dân, về Hoạt động truyền giáo, về Chức vụ Linh mục, về Hiệp nhất, và 2 Tuyên ngôn: về Giáo dục Kitô giáo, ve liên lạc Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo.
Đó là một Lễ Hiện xuống mới để trở về với Đức Kitô, thực hiện tin mừng tình thương cứu độ của Ngài cho muôn dân. Muôn dân đã được nghe lời Chúa bằng tiếng mẹ đẻ của mình trong Thánh lễ, trong các phép Bí tích, không còn cảnh ngơ ngác phải nghe tiếng Latinh xa lạ.
Từng gia đình đã được gần gũi lời Hằng sống bằng những cuốn Kinh thánh quý giá in chữ viết của mình. Từng thánh đường được thấm nhuần lời Thánh ca bằng những âm điệu bản sắc văn hóa của mình.
“Họ đã được nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thánh Thần … Thánh Thần đã tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung … để tất cả đeu được tràn đầy một Thánh Thần duy nhất” (Bài đọc 2). Muôn lạy Chúa Thánh Thần, xin mau mau ngự đến, cho tâm hồn tín hữu cháy lửa yêu mến Ngài, cho Giáo Hội trinh trong hiệp nhất muôn thế hệ, cho trần gian thấm nhuần muôn ơn phúc. Lạy Ngài xin đổi mới lòng trí con. Amen.
Khi nói đến hình ảnh Chúa Thánh Thần, Thánh Kinh thường nói đến: Hơi thở, Gió, Lửa, Nước, chim HiệnXuống-448
Khi nói đến hình ảnh Chúa Thánh Thần, Thánh Kinh thường nói đến: Hơi thở, Gió, Lửa, Nước, chim bồ câu, dầu. Cụ thể, trong các bài đọc hôm nay chúng ta thấy Chúa Thánh Thần hiện xuống với chúng ta bằng hình ảnh: GIÓ – NƯỚC VÀ LỬA. Gió,lửa, nước là những thứ mềm nhất và bình thường nhất, nhưng lại mạnh nhất và quan trọng nhất, và thiết yếu nhất cho cuộc sống chúng ta. Cho nên, Chúa Thánh Thần là vị Chúa không thể thiếu cuả cuộc sống tâm linh chúng ta.
Gió là không khí. Không khí là thứ tối cần thiết, vì thiếu không khí trong vài phút thì người ta không thể sống nổi. Lửa làm người ta ấm áp trong mùa đông giá lạnh, hay có thể làm chín thức ăn cho ta. Nước để ta uống hay tắm rửa… Điều đáng chú ý ở đây: Gió, Lửa và Nước luôn luôn hoạt động để có ích cho con người. Nếu không khí không có khí oxy, thì con người tắt thở. Nếu nước không chảy, đó là nước tù, nước dơ bẩn. Lửa không cháy, thì tối um và vô dụng. Vậy, nước lửa gió là những nguyên tố tự nhiên luôn hoạt động để mưu ích cho cuộc sống từ muôn ngàn đời. Và Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa xuống thế mang những hình ảnh đó để nói rằng Ngài luôn hoạt động để cuộc sống của chúng ta thêm phong phú, tươi sáng và hạnh phúc.
Chúa Thánh Thần như luồng gió cường tráng, ngọn lửa bừng bừng, dòng nước trào tràn. Luồng gió, dòng nước và ngọn lửa ấy đã khơi dậy nguồn năng lực tiềm ẩn nơi các thánh tông đồ đầy sợ sệt, nhút nhát. Chúa Thánh Thần làm cho các ông hoạt động mạnh mẻ thay vì quyền rủa bóng đêm. Ngài khơi thông nước tù của họ là sợ chết, ích kỷ, nay thành dòng nước đem lại sức sống mới cho các tông đồ và bây giờ họ ra đi và loan báo Tin Mừng cứu độ. Ngài thổi luồng gió sức mạnh vào sự kém lòng tin của các ông để các ông sẵn sàng tha thứ. Cuối cùng, Ngài đốt lên ngọn lửa tình yêu, và họ đã ra đi biến đổi chính mình và cả thế giới đang chìm trong bòng đêm tội lỗi và sự chết thành một thế giới đầy tình thương và sự sống. Vì vậy, các tông đồ xưa và chúng ta hôm nay đón nhận Đức Chúa Thánh Thần đồng thời lãnh nhận sứ mạng hoạt động của Chúa Thánh Thần đó là làm chứng, yêu thương và đặc biệt là tha thứ.
“Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha”. Trong cuộc sống gia đình, cộng đoàn, xã hội hay Giáo hội luôn xảy ra những chuyện bất hòa, chúng gây ra những mối hận thù, ghen ghét và đố kỵ nhau. Con người là bất toàn, hơn nữa sống chung đương nhiên là có bất đồng, xung khắc hay đụng nhau. Nhưng, nếu cứ mỗi lần có xung khắc, ta loại trừ đi một người bạn, thì cuối cùng ta sẽ chẳng còn người bạn nào. Không ai là một hòn đảo, mỗi người đều cần đến người khác. Sống chung với nhau là một nhu cầu. Vì thế, việc tha thứ, hoà giải là vô cùng cần thiết. Hoà giải hệ tại ở hai động tác: xin lỗi và tha lỗi. Hai việc đều khó làm. Vì con người đầy tự ái. Dù biết mình lỡ lầm, nhưng ít có ai đủ can đảm nhận lỗi và xin lỗi. Xin lỗi đã khó, tha lỗi còn khó hơn. Chính vì thế, việc hoà giải cần rất nhiều ơn Chúa Thánh Thần. Và một khi đã có ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta làm được hai việc đó một các dễ dàng và bình an. Cụ thể, sau khi bình phục sức khỏe, Thánh giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã vào tận nhà tù để tha thứ cho kẻ ám sát mình. Rồi, để chuẩn bị đón mừng Năm Thánh 2000, Thánh Giaó Hoàng Gioan Phaolô II đã làm một cử chỉ ngoạn mục chưa từng có trong lịch sử Giáo Hội. Đó là Người công khai nhìn nhận những lỗi lầm của Giáo Hội để xin mọi người tha thứ. Đây quả là một hoạt động của Chúa Thánh Thần để thanh tẩy Giáo Hội. Đức Thánh Cha đã được ơn Chúa Thánh Thần nên đã ra đi làm hoà với mọi người. Chính cử chỉ khiêm nhường ấy đã giúp đổi mới Giáo Hội, đem đến cho Giáo Hội một khuôn mặt mới trẻ trung hơn, một sức sống mới dồi dào hơn, một phong cách hiện diện mới dễ thương dễ mến hơn.
Trong Tông Sắc về Năm về Năm Lòng Thương Xót tới đây, Đức Thánh Cha phanxicô nói rằng: “Lòng thương xót không phải chỉ là hành động của Chúa Cha, nhưng còn trở thành tiêu chuẩn để hiểu ai là những người con đích thực của Chúa. Trong thực hành, tất cả chúng ta đều được kêu gọi sống lòng thương xót vì lòng thương xót đã được áp dụng cho chúng ta trước tiên: vì thế, tha thứ những xúc phạm người ta làm cho chúng ta chính là một mệnh lệnh mà các tín hữu Kitô không thể tránh né hoặc bỏ qua. Tha thứ dường như là điều khó khăn, nhưng tha thứ chính là phương tiện đặt trong những bàn tay mong manh của con người để đạt tới sự thanh thản trong tâm hồn, để sống hạnh phúc”.
Ước gì, sức mạnh của Lời Chúa và với ơn Chúa Thánh Thần chúng nhận được mỗi ngày, xin cho mỗi người chúng ta có nhiều lửa tình yêu, nước bình an và gió sức mạnh để chúng ta sẵn sàng xin lỗi nhau, tha thứ cho nhau hầu cộng đoàn chúng ta, gia đình và xã hội chúng ta được hạnh phúc, bình yên và tươi mới. Amen.
Ngày 12 tháng 10 năm 1999, một cậu bé nặng 3,55 kg đã chào đời lúc 00:03 tại Sarajevo, Bosnia. Cậu HiệnXuống-449
Ngày 12 tháng 10 năm 1999, một cậu bé nặng 3,55 kg đã chào đời lúc 00:03 tại Sarajevo, Bosnia. Cậu đã được Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc Kofi Anna chào đón như là biểu tượng của người dân thứ 6 tỷ của Thế giới (C 6 B: Day of 6 billionth person). Sự chọn lựa này chỉ là ngẫu nhiên, do ông Tong Thư ký đang công tác ở Bosnia.
Chỉ trong ngày 12-10, ước tính có khoảng 370.000 trẻ em trên thế giới chào đời, phân nửa trong số đó là trẻ em Châu Á. Các chuyên gia dân số thế giới chào đón ngày này với sự … lo lắng, vì hầu hết số trẻ ấy sẽ sống trong nghèo đói và thất học… Chỉ trong thế kỷ 20, dân số thế giới đã tăng gấp ba và nếu tính trong vòng 12 năm, dân số thế giới tăng độ một tỷ người. LHQ ước đoán dân số thế giới sẽ là 8,9 tỷ vào năm 2050. Nhà sinh thái học David Pimentel của Đại học Cornell cảnh báo: “Đến năm 2100, sẽ có 12 tỷ con người khốn khổ chịu đựng cuộc sống khó khăn trên trái đất”.
Nhưng không phải ai cũng đồng tình với nỗi lo ve “ngày ảm đạm, u tối”, khi dân số thế giới đạt đến con số 6 tỷ. Nhà kinh tế học Stephen Moore lại cho rằng: “Dân số thế giới đạt 6 tỷ là món quà tặng cho sự khéo léo và khả năng sáng tạo của con người”.
***
Mỗi Lễ Hiện Xuống là một ngày khai sinh mới của Giáo Hội. Chúa Thánh Thần chính là linh hồn của Giáo Hội. Người hằng huy động, hướng dẫn, hiệp nhất dể xây dựng Giáo Hội. Giáo hội đã có một lịch sử dài suốt 20 thế kỷ. Cần một luồng gió mạnh thổi đến, lùa vào, đổi mới mọi sự.
Công đồng Vatican II, chính là ngày “Lễ Hiện Xuống mới” của Giáo hội. Nếu ngày xưa thánh Phero đã mở tung cửa đón nhận Thánh Thần Thiên Chúa, thì ngày nay đức Thánh Cha Gioan 23 cũng đã khai mở Công đồng như một ngày “lễ Hiện Xuống mới”, đem lại cho Giáo Hội một luồng sinh khí mới, một bộ mặt mới. Để rồi từ đó, muôn dân nước được nghe Lời chúa bằng tiếng mẹ đẻ trong Thánh lễ và trong các Bí tích, được hát Thánh ca bằng ngôn ngữ dân tộc mình. Với 4 Hiến Chế, 9 Sắc Lệnh và 3 Tuyên Ngôn, giáo hội đã mở rộng ra với thế giới, để bắt kịp đà tiến triển của thời đại văn minh.
Qua làn hơi thở của Chúa, qua sức mạnh của Chúa Thánh Thần, hôm nay chúng ta cũng trở nên chứng nhân của Chúa cho đến tận cùng trái đất: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21). Thế giới hôm nay đã bước sang thế kỷ 21, với 6 tỷ người chen chúc trong đó, nhưng chỉ có trên 1 tỷ người Công giáo. Đó là trách nhiệm của mỗi người chúng ta, là nỗi trăn trở và day dứt khôn nguôi của người tín hữu: những chứng nhân của Nước Trời.
Chúng ta là chứng nhân cho Chúa, khi chúng ta ngồi lại với nhau, giải quyết tranh chấp, xây dựng hòa bình.
Chúng ta là chứng nhân cho Chúa, khi chúng ta chăm lo cho người nghèo, quan tâm đến trẻ thơ và người già yếu.
Chúng ta là chứng nhân cho Chúa, khi chúng ta đem niềm vui đến cho những người bất hạnh, mang lại nụ cười cho những kẻ khổ đau.
Thiên Chúa rất cần những chứng nhân như thế, để đổi mới bộ mặt trái đất, làm tươi mát khuôn mặt địa cầu.
Thiên Chúa rất cần những chứng nhân đi xây dựng một thế giới, nơi đó con người yêu thương nhau hơn.
Thiên Chúa rất cần những chứng nhân đi thánh hóa trần gian bằng đời sống tin tưởng, tràn đầy niềm vui.
***
Lạy Chúa Thánh Thần, xin cho chúng con gặp được Người trong những nụ cười trao cho nhau, trong những hy sinh vô vị lợi, và trong nỗi thao thức xây dựng một thế giới huynh đệ hơn. Amen.
Chúa Giêsu về trời, thiên thần Gabriel đón hỏi Chúa rằng: Vậy mọi người có hiểu biết tình yêu HiệnXuống-450
Chúa Giêsu về trời, thiên thần Gabriel đón hỏi Chúa rằng: Vậy mọi người có hiểu biết tình yêu của Ngài dành cho họ không? Chúa Giêsu trả lời: Không, chỉ có một nhóm nhỏ hiểu biết thôi. Thiên thần Gabriel giật mình lo ngại và hỏi Chúa: Vậy số còn lại làm sao họ có thể biết? Chúa Giêsu đáp rằng: Nhóm người đó sẽ nói với họ. Thiên thần nói nhưng nếu họ làm Ngài thất vọng hay nếu họ chán nản thì sao? Chúa có làm lại một chương trình khác không? Chúa nói: Ta hoàn toàn tin tưởng vào họ sẽ không để Ta thất vọng.
Sau khi Chúa về trời, Ngài đã sai Chúa Thánh Thần xuống trên các Tông đồ để giúp các ngài đủ sức mạnh tiếp tục đi truyền rao chân lý tin mừng. Nhóm nhỏ 12 Tông đồ được Chúa ủy thác, họ như men trong bột. Họ đã tiếp tục đốt lên ngọn lửa mà Chúa trao ban để giúp lửa cháy lên lan tràn. Ngày Lễ Ngũ Tuần, ơn Chúa Thánh Thần như hình lưỡi lửa đáp xuống trên các Tông đồ. Các Ngài lãnh nhận tràn đầy sức mạnh và hăng hái ra đi rao giảng tin mừng Chúa Giêsu chịu đóng đinh, đã chết và đã sống lại. Hãy sám hối và tin vào Tin mừng.
Chúa Thánh Thần là nguồn sinh lực đã khai mở Giáo Hội với một nguồn sức mới. Các Tông đồ được lãnh nhận những ân huệ khác nhau: người được ơn nói tiếng lạ, kẻ được ơn chữa bệnh, người nói tiên tri và người được ơn làm phép lạ. Mỗi người được ban cho tùy theo ơn Chúa Thánh Thần để sinh lợi ích chung cho Giáo Hội.
Chúa Giêsu đặt niềm tin tưởng và vào sự nhiệt thành của các Tông đồ, các môn đệ và những người tin theo Chúa. Biết rằng ngay từ những giây phút đầu tiên, Giáo Hội đã gặp phải biết bao gian khổ, chống đối, bắt bớ, tra tấn, giết chóc… nhưng sức mạnh của Chúa Thánh Thần đã thắng vượt tất cả. Chúa Thánh Thần tiếp tục hoạt động trong Hội Thánh qua các thế hệ. Giáo Hội vẫn nỗ lực không ngừng truyền rao chân lý Phúc âm. Hiện nay có gần hai tỷ người đã được nhận biết Chúa.
Hạt giống đức tin tiếp tục triển nở qua các thời đại. Mỗi người chúng ta hãy góp chút công sức để Giáo Hội được phát triển không ngừng. Chúng ta không thể trốn tránh trách nhiệm và ỷ lại vào người khác. Mỗi người đều lãnh những ơn khác nhau, kẻ nhiều người ít nhưng ai cũng lãnh nhận. Hãy cho nhưng không những gì chúng ta sẽ lãnh nhận nhưng không. Lạy Chúa, xin ban Thánh Thần Chúa xuống tràn ngập tâm hồn chúng con để chúng con ra đi làm nhân chứng cho Chúa.