“Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy”.
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu đã chỉ trước. Khi thấy Người, các ông thờ lạy Người, nhưng có ít kẻ còn hoài nghi. Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông rằng: “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. - Ðó là lời Chúa.
“Ðang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời”.
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh”.
Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa.
Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.
“Ðang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời”.
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Như đã ghi chép là Ðức Kitô phải chịu khổ hình và ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; và nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân, bắt đầu từ Giêrusalem. Các con là nhân chứng những sự việc ấy. Thầy sẽ sai đến với các con Ðấng Cha Thầy đã hứa; vậy các con hãy ở lại trong thành cho đến khi mặc lấy quyền lực từ trên cao ban xuống”. Rồi Người dẫn các ông ra ngoài, đến làng Bêtania, và giơ tay chúc phúc cho các ông. Sự việc xảy ra là đang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời. Các ông thờ lạy Người, và trở về Giêrusalem lòng đầy vui mừng. Các ông luôn luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. - Ðó là lời Chúa.
-------------------------------
--------------------------------
LênTrời ABC-401: CHỨNG NHÂN CỦA NIỀM VUI
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Trong Mùa Phục sinh, lời cầu nguyện của Giáo Hội trong Phụng vụ luôn diễn tả niềm vui. Đó là niềm LênTrời ABC-401
Trong Mùa Phục sinh, lời cầu nguyện của Giáo Hội trong Phụng vụ luôn diễn tả niềm vui. Đó là niềm vui tái sinh, làm cho người tín hữu trở nên con người mới trong Chúa Giêsu Phục sinh. Đó cũng là niềm vui vì có Chúa Phục sinh đang hiện diện, là nguồn mạch sức sống, ân sủng và bình an. Niềm vui của cộng đoàn Giáo Hội và của mỗi người tín hữu không dừng lại khi Mùa Phục sinh kết thúc, nhưng còn được tiếp tục và dàn trải trong suốt cuộc đời. Trước khi về trời, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ hãy trở nên những nhân chứng của niềm vui thiêng liêng thánh thiện ấy. Trình thuật về việc Chúa Giêsu lên trời trong sách Công vụ Tông đồ được đề nghị cho cả ba năm A,B,C. Bởi lẽ đây là biến cố để lại nơi các môn đệ dấu ấn quan trọng. Đó là lần cuối cùng các ông được gặp gỡ Chúa ở trần gian. Cuộc tiễn đưa này, vừa lưu luyến bịn rịn, vừa vui mừng và hy vọng. Các ông đã được chuẩn bị trước cho cuộc chia tay này bằng các lời giáo huấn của Chúa. Các ông cũng được Chúa hứa sẽ ban Thần Chân lý, Đấng bảo trợ để soi sáng và hướng dẫn các ông. Về phần các ông, Chúa trao phó sứ mạng quan trọng và rõ ràng: “Anh em hãy là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, Samari và cho đến tận cùng trái đất”. Khởi đi từ Giêrusalem, là thành thánh và là thủ đô của Do Thái giáo, lời chứng về Đấng Phục sinh đi đến với Samari là một dân tộc có nhiều thù nghịch với người Do Thái, rồi từ đó đến với mọi mọi nơi trên thế giới. Hai mươi thế kỷ đã qua, khởi đi từ nhóm mười một người dân chài người Galilêa, ánh sáng Tin Mừng đã được tỏa lan đến mọi nền văn hóa trên khắp địa cầu, đến với mọi quốc gia, mặc dù còn những thù nghịch, nghi kỵ hay mặc cảm thành kiến. Tác giả sách Công vụ Tông đồ còn kể lại, sau khi dặn dò các môn đệ, Chúa Giêsu “được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người”. “Đám mây” mà tác giả nói tới ở đây là biểu tượng vinh quang của Thiên Chúa. Đây cũng là hình ảnh nói lên sức mạnh và quyền năng của Đấng Tối cao. Đức Giêsu lên trời là tiến vào vinh quang vĩnh cửu của Chúa Cha. Người kết thúc cuộc đời trần thế khi hoàn thành sứ mạng cứu thế. Chúa Giêsu về trời mang theo nhân tính của Người, và cùng với nhân tính ấy, cả nhân loại hy vọng cũng sẽ được về trời với Người. Nói cách khác, qua biến cố Đức Giêsu về trời, chúng ta là những con người cũng hy vọng sẽ được về trời vinh quang với Chúa, vì Chúa mang trong mình bản tính nhân loại giống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Bài Tin Mừng Thánh Mátthêu tiếp tục diễn tả lệnh truyền của Chúa cho các môn đệ: “Anh Em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Đây cũng là một cách diễn tả khác của lệnh truyền hãy trở nên chứng nhân của Chúa giữa trần gian. Việc phát triển cộng đoàn tín hữu khởi đi từ những chứng nhân khả tín của mỗi cá nhân, nhờ đó nhiều người nhận ra giáo huấn của Chúa và gia nhập Giáo Hội của Người. “Hỡi các người Galilê, sao còn đứng đó nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời”. Chúng ta không cử hành lễ Thăng Thiên như sự ly biệt buồn bã u sầu. Trái lại, chúng ta mừng lễ này với niềm vui vì tin rằng Đấng Phục sinh đang tiếp tục hiện diện thiêng liêng và vô hình giữa cuộc sống của chúng ta. Giáo Hội diễn tả niềm vui ấy qua Kinh Tiền tụng lễ Thăng Thiên: “Người lên trời, không phải để lìa xa thân phận yếu hèn của chúng con, nhưng để chúng con là chi thể của Người, tin tưởng được theo Người đến nơi mà chính Người là Ðầu và là Thủ Lãnh của chúng con đã đến trước”. Như các tông đồ đã xuống núi sau khi chứng kiến Chúa Giêsu lên trời, mỗi tín hữu chúng ta cũng đi vào lòng cuộc đời để làm chứng cho Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu không còn hiện diện thể lý như trước đây, thì nay Người hiện diện nơi cuộc sống thấm đượm niềm vui của người tín hữu. Vì thế, họ được mang danh Kitô hữu. Nhờ được trang bị bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, người Kitô hữu có can đảm và nghị lực để trở thành những chứng nhân cho Đấng đã chết và sống lại vì yêu thương con người và để cứu chuộc trần gian. Thánh Phaolô mời gọi chúng ta hãy xác tín điều đó. Vị Tông đồ dân ngoại đã cầu xin cho chúng ta thấy rõ đâu là niềm hy vọng chúng ta đã nhận được, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú chúng ta được chia sẻ và đâu là quyền lực vô biên Chúa đã tỏ cho chúng ta thấy (Bài đọc II). Khi xác tín những điều trên, cuộc sống của chúng ta sẽ tràn đầy niềm vui mừng hân hoan. Lễ Chúa Giêsu lên trời không phải là kết thúc, nhưng là khởi đầu một chặng đường mới, chặng đường của chứng nhân. Mỗi chúng ta hãy lên đường, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, mạnh mẽ can đảm làm chứng cho Chúa, như Người đang mời gọi chúng ta.
Sao lại hạnh phúc khi chia ly? Lẽ thường thì không, nhưng với sự kiện Chúa Giêsu về trời thì đúng LênTrời ABC-402
Sao lại hạnh phúc khi chia ly? Lẽ thường thì không, nhưng với sự kiện Chúa Giêsu về trời thì đúng là như vậy!
Chúa Giêsu là Vua các vua, Chúa các chúa, được Chúa Cha trao toàn quyền trên trời và dưới đất (Mt 28:18), nhưng Ngài lại tự hạ đến tột cùng, bị sỉ nhục, bị khinh miệt, và bị coi không bằng tên gian ác khét tiếng Baraba. Thế nhưng Ngài vẫn có bản lĩnh của một người công chính. Không phải cứ đa số là đúng. Tìm cách hạ bệ người khác là chứng tỏ mình yếu kém!
Thế nào là quyền lực và bản lĩnh? Chúng ta hãy suy tư hai ý tưởng này:
Người có quyền lực nhất là người có thể kiềm chế các thói hư tật xấu của mình, chứ KHÔNG phải là người độc đoán và áp chế người khác.
Người có bản lĩnh nhất là người dám chê trách chính mình chứ KHÔNG phải là người chê cười và chỉ trích người khác.
Chúa Giêsu bị giết chết, người đời coi đó là thất bại, là “chấm hết”, thế nhưng Ngài đã sống lại hiển vinh, và rồi trở về trời với Chúa Cha – nơi Ngài đã xuất phát: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3:13).
Mừng lễ Chúa Thăng Thiên không chỉ là kính mừng Chúa Giêsu lên trời mà còn là dịp tái khẳng định tín điều mà chúng ta vẫn tuyên xưng: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại, LÊN TRỜI ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng”. Thánh Phaolô cho chúng ta biết rằng nếu Đức Kitô không sống lại, niềm tin của chúng ta chì là trống rỗng và vô ích, và như vậy chúng ta chỉ là những người hoang tưởng, thế nhưng Ngài đã thực sự sống lại và lên trời.
Lễ Thăng Thiên là một “cuộc chia tay” – Thầy trò đôi ngả, nhưng cuộc chia ly này không buồn thảm hoặc tuyệt vọng, mà tràn trề hy vọng và hạnh phúc. Tại sao Ngài về trời, và Ngài về trời làm gì? Để minh chứng và xác định lời hứa mà chính Ngài đã nói: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:3). Đối với phàm nhân chúng ta, chắc chắn không còn niềm hạnh phúc nào lớn lao hơn nữa!
Quả thật là kỳ diệu, Thiên Chúa mà hóa thành Con Người, Con Người mà là Thiên Chúa, vừa hữu hình vừa vô hình. Chắc chắn chẳng một thần linh nào như vậy. Chỉ có Thiên Chúa của chúng ta như vậy mà thôi, độc nhất vô nhị, duy nhất và tuyệt đối. Thánh Phaolô đã nói: “Phải công nhận rằng: mầu nhiệm của đạo thánh thật là cao cả, đó là: Đức Kitô xuất hiện trong thân phận người phàm, được Chúa Thánh Thần chứng thực là công chính; Người được các thiên thần chiêm ngưỡng, và được loan truyền giữa muôn dân; Người được cả hoàn cầu tin kính, được siêu thăng cõi trời vinh hiển” (1 Tm 3:16).
Chữ phải có ý nghĩa. Chữ nghĩa thật kỳ diệu. Người ta chỉ nói LÊN trời, TỚI trời, hoặc VÀO trời, vì người ta không xuất phát từ trời. Nhưng Chúa Giêsu nói VỀ trời, vì Ngài xuất phát từ Trời và từ Chúa Cha, Đấng ngự trên trời: “Nếu anh em yêu mến Thầy thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga 14:28). Người ta chỉ có thể VỀ nơi mà mình đã từng ở, còn nơi mình chưa ở thì không thể dùng động từ VỀ. Thế mà chúng ta cũng được Ngài cho phép VỀ trời với Ngài, dù chúng ta không xuất phát từ trời, dù chỉ là bụi tro xuất phát từ đất. Ôi, thật là vô cùng kỳ diệu!
Trong sách Công Vụ, Thầy thuốc Sử gia Luca đã viết: “Thưa ngài Thê-ô-phi-lô, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những việc Đức Giêsu làm và những điều Người dạy, kể từ đầu cho tới ngày Người được rước lên trời. Trước ngày ấy, Người đã dạy bảo các Tông Đồ mà Người đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần. Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa. Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần” (Cv 1:1-5). Chúa Giêsu về trời, nhưng rồi Ngài lại gởi Chúa Thánh Thần đến với chúng ta, đồng hành và hoạt động với chúng ta mọi nơi, mọi lúc, bởi vì Ngài “không để chúng ta mồ côi” (Ga 14:18).
Quả thật, tư tưởng loài người không cao hơn ngọn cỏ dại, tầm nhìn không vượt qua cái bóng của mình, thế nên khi nghe Đức Giêsu nói vậy, những người đang tụ họp ở đó tưởng rằng Ngài sắp sửa khôi phục vương quốc Ít-ra-en. Nhưng Ngài đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:7-8). Vừa dứt lời, Ngài được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Ngài, khiến các ông không còn thấy Ngài nữa. Họ ngơ ngẩn nhìn nhau rồi nhìn theo hút Ngài, chẳng hiểu ất giáp chi cả!
Ngay khi các ông còn đăm đăm tròn mắt nhìn lên trời phía Ngài đi, bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1:11). Lời giải thích này cho chúng ta biết chắc rằng Chúa Giêsu sẽ đến thế gian lần thứ hai vào một lúc nào đó, bất kỳ thời điểm nào mà chúng ta không thể biết được, thậm chí có thể là ngày mai hoặc hôm nay. Vì thế mà ai cũng phải sẵn sàng và tỉnh thức. Không chỉ vậy, với mỗi người còn là cái chết, vì tử thần có thể đến bất cứ lúc nào, không ai có thể ngờ được!
Kiếp phàm nhân là một chuyến đi, mỗi ngày tiến gần hơn một chút tới “miền cát bụi”. Cuộc đời Kitô hữu là cuộc lữ hành trần gian, là hành trình đức tin, và cũng là hành trình về trời. Đức Kitô đã về trời trước, đó là bảo chứng cho những ai tin nhận Đức Giêsu Kitô là Đấng Thiên Sai. Thánh Vịnh gia mời gọi: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu” (Tv 47:2-3).
Vâng, trên cả tuyệt vời bởi vì niềm vui quá lớn, nỗi mừng khôn tả xiết. Nhưng chúng ta hữu hạn, chỉ biết thể hiện bằng tất cả khả năng phàm nhân mà thôi: “Thiên Chúa ngự lên, rộn rã tiếng hò reo, Chúa ngự lên, vang dội tiếng tù và. Hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa, đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta! Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu, hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ. Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả” (Tv 47:6-9). Thiên Chúa không đòi hỏi quá sức chúng ta, Ngài chỉ muốn chúng ta chân thành với khả năng riêng của mỗi người – nén vuông hay tròn, to hay nhỏ, dài hay ngắn cũng không thành vấn đề, quan trọng là phải sinh lời theo khả năng của chính mình.
“Cái tôi và sự hiểu biết tỷ lệ nghịch với nhau. Hiểu biết càng nhiều, cái tôi càng bé; hiểu biết càng ít, cái tôi càng to” (Albert Einstein, 1879-1955). Dẹp được “cái tôi” là có thể nên thánh, ai khôn ngoan thì làm được, chưa khôn ngoan thì hãy cầu xin. Thánh Phaolô cho biết: “Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người. Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu” (Ep 1:17-19a). Nhận biết Thiên Chúa là niềm hạnh phúc lớn lao, nhận biết Ý Ngài và vui mừng làm theo là niềm hạnh phúc lớn lao hơn. Quả thật, chấp nhận và làm theo Ý Chúa là điều không dễ chút nào, vì chúng ta thường chỉ muốn “được như ý” mà thôi!
Để chúng ta khả dĩ hiểu rõ ràng, Thánh Phaolô giải thích: “Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực, mà Người đã biểu dương nơi Đức Kitô, khi làm cho Đức Kitô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời. Như vậy, Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1:19b-23). Đức Kitô được Chúa Cha trao ban mọi thứ, nhưng Ngài không giữ riêng cho Ngài, mà Ngài lại muốn chia sẻ với chúng ta, muốn làm cho chúng ta cũng được sống viên mãn với Ngài, dù chúng ta không chỉ là phàm nhân mà còn là những tội nhân hoàn toàn bất xứng.
Thật là kỳ diệu, vì niềm hạnh phúc như điệp khúc cứ lặp đi lặp lại trong cuộc đời chúng ta, cả ngày lẫn đêm, trên suốt hành trình về trời. Không hạnh phúc sao được, bởi vì chúng ta được Thiên Chúa ưu đãi quá nhiều, minh nhiên nhất là chúng ta được xóa án tử và được khôi phục cương vị làm con, đặc biệt là cũng sẽ được về trời để tận hưởng cuộc sống trường sinh với Ngài.
Thánh ký Mátthêu cho biết rằng, một hôm có mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Ngài, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Bản tính nhân loại là thế, tận mắt thấy bao phép lạ mà vẫn chưa đủ tin, miêng nói tin nhưng bụng vẫn ngờ vực. Vả lại, họ cứ tưởng Đức Giêsu là chính khách, Ngài sẽ giành quyền độc lập cho Ít-ra-en từ bọn thực dân Rôma. Khi đó, Đức Giêsu đến gần họ và nói: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28:18). Có lẽ nghe Ngài nói vậy thì họ càng cho rằng Chúa Giêsu đang làm chính trị thật, điều họ nghĩ không sai. Thế nhưng lại không phải vậy, Chúa Giêsu không bao giờ làm chính trị, và Phúc Âm cũng không là bản cương lĩnh chính trị.
Tuy nhiên, cuộc sống không ai lại không liên quan chính trị vì sự ác luôn đối đầu với sự lành. Bảo vệ công lý, chân lý và hòa bình là một dạng hoạt động chính trị. Đại đế Napoléon nhận định: “Thế giới phải chìm đắm trong đau khổ không phải vì tội ác của những kẻ xấu, mà là vì sự im lặng của những người tốt”.
Người Công giáo là người mang hai “quốc tịch”, trước tiên là công dân của Nước Trời, và sau đó là công dân của một đất nước tại thế gian này. Trên đường lữ hành trần gian, với tư cách là công dân một đất nước, người Công giáo cũng tuân hành theo luật định của đất nước đó: “Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập. Như vậy, ai chống đối quyền bính là chống lại trật tự Thiên Chúa đặt ra, và kẻ nào chống lại sẽ chuốc lấy án phạt. Thật thế, làm điều thiện thì không phải sợ nhà chức trách, có làm điều ác mới phải sợ” (Rm 13:1-3). Tuy nhiên, có một nguyên tắc mà không một người Công giáo tốt nào dám vi phạm: luật pháp trần gian đi ngược lại với lề luật của Thiên Chúa và Giáo Hội.
Mục đích của Chúa Giêsu hoàn toàn khác, không phải là làm chính trị để tranh giành quyền lức ở thế gian này. Đây là ước muốn của Ngài: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28:19-20a). Tức là Ngài bảo mỗi chúng ta phải vào đời. Chúa Giêsu biết sắp đến giờ phải trở về cùng Chúa Cha, nên Ngài căn dặn kỹ lưỡng. Ngài về trời nên Ngài bảo chúng ta vào đời để làm chứng về Ngài. Đó vừa là một tặng phẩm vừa là một mệnh lệnh, vừa là một đặc ân vừa là một trọng trách.
Trước khi về trời, lời cuối của Chúa Giêsu trên thế gian là một lời hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20b). Lời hứa đó đã được chứng tỏ rõ ràng nhất là Bí tích Thánh Thể, một phép lạ vĩ đại vẫn xảy ra hằng ngày ở khắp nơi trên thế giới. Biết rõ chúng ta yếu đuối nên Chúa Giêsu rất “tội nghiệp” chúng ta, Ngài cũng đã hứa: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi” (Ga 14:8). Và lời hứa đó lại được thực hiện ngay lập tức: Ngài về trời rồi gởi Đấng Bảo Trợ đến ở với chúng ta (Ga 14:16). Thánh Thể và Thánh Thần luôn đồng hành với chúng ta trên suốt Hành Trình Về Trời.
Phàm sự gì cũng có “mở” và “kết”. Tương tự, Hành Trình Về Trời được khởi đầu từ điểm SINH và kết thúc ở điểm TỬ. Hành trình đó có thể là “con đường” dài hoặc ngắn, không ai biết; “con đường” đó cũng có thể rộng hoặc hẹp, nhưng ai chọn đường hẹp thì tốt hơn đường rộng, càng thênh thang càng “dễ chết”, có thể “chết yểu”, “chết” trước kỳ hạn, “chết” ngay khi còn đang sống. Chết như vậy thì thật là nguy hiểm! Vì thế, chính Chúa Giêsu đã khuyên những ai thực sự muốn được trường sinh vĩnh phúc: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7:13-14). Không chỉ đơn giản như vậy, người ta còn phải “chiến đấu để qua được cửa hẹp” (Lc 13:24). Cách nói rất “ngược đời”, nhưng phải dám “ngược” như vậy thì mới mong “xuôi” về vĩnh cửu.
Chúa Giêsu đã nhập thế và đau khổ đến tận cùng bảng số. Những người muốn về trời thì cũng không thể không đau khổ – cách này hay cách khác. Thánh nữ Faustina so sánh: “Như bệnh tật được đo bằng nhiệt kế, sốt cao cho chúng ta biết là bệnh nặng, đời sống tâm linh cũng vậy, đau khổ là nhiệt kế đo tình yêu Chúa trong linh hồn” (Nhật Ký, số 774). Đây là điều rất khó đối với bản chất phàm nhân, nhưng người ta có thể chấp nhận nếu cố gắng hiểu theo cách hiểu của Chúa và với tầm nhìn của Ngài.
Lạy Thánh Phụ, Chúa Giêsu trở về trời là dấu bảo đảm về sự sống vĩnh hằng mà con phải không ngừng cố gắng chiến đấu để khả dĩ đạt được. Xin mau ban Chúa Thánh Thần để đổi mới chúng con, làm cho chúng con can đảm làm chứng về Chúa Ba Ngôi. Xin giúp chúng con đủ sức vượt qua chính mình để xứng đáng lãnh nhận những gì Ngài đã hứa ban. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
Chúa về trời và con vào đời, là một ý tưởng hay, khi con người vẫn còn tại thế, Chúa Giê su luôn LênTrời ABC-403
Chúa về trời và con vào đời, là một ý tưởng hay, khi con người vẫn còn tại thế, Chúa Giê su luôn cầu nguyện cho: “Bây giờ, con đến cùng Cha, và con nói những điều này lúc còn ở thế gian, để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con. Con đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian. Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần.” (Ga 17, 13 – 15)
Nỗi nhớ
Người Kitô hữu sống trong trần gian này là một khởi sự tiến về quê hương đích thật của mình. Đó là quê hương của mình, một quê hương, chính Chúa Giê su đã ban tặng khi Người về trời, ngự bên hữu Chúa Cha.
Niềm tin mộc mạc đó xác tín điều Chúa hứa: “Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14, 3 – 4).
Nỗi nhớ hoài hương luôn thổn thức con tim người lữ hành trần thế. Một nỗi nhớ không nguôi, hằng khao khát Người ơi!
Đường về trời.
Con người vốn sinh ra ở dương thế, được sinh ra và lớn lên, sinh sống và chết đi cũng ở trái đất này, hoặc mai sau có định cư ở một hành tinh nào khác vẫn thuộc về thế giới này, làm sao biết đường về trời?
Câu hỏi cơ bản đó, Thánh Toma cũng hỏi Chúa Giê su: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường? (Ga 14, 5).
Câu hỏi rất lý thú, vì ai chẳng mong về trời, ngay cả những người lương dân, khát mong của họ cũng là ra khỏi kiếp nhân sinh mà đến nơi ở mới, không khổ đau, không còn chết, thoát vòng luân hồi…
Đường nào về trời?
Con người có thể dùng máy bay, bay cao trên trời, nhưng vẫn cần đáp xuống một nơi nào đó họ muốn đến. Con người có thể dùng phi thuyền để lên cao hơn, xa hơn, nhưng vẫn cần trở về trái đất. Câu hỏi vẫn còn đó, trời ở đâu? Con đường nào dẫn đến trời?
Có thể làm dập tắt khát mong về trời được không, khi không biết đường về trời? Chắc chắn là không thể dập tắt, dù muốn dù không, Thiên Chúa cũng đã đặt vào trong con người sự khát mong về vĩnh hằng, bất tử. Thánh Augustine đã nhận ra: “Chính Chúa thúc giục con người tìm sự vui thỏa trong việc ngợi khen Ngài, vì Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa nên lòng chúng con khắc khoải cho đến khi nghỉ yên trong Chúa.”
Về Trời.
Chỉ có người từ trời xuống mới biết đường về trời. Trong câu truyện với Nicôđêmô, Chúa nói với ông: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống.” (Ga 3, 13). Chỉ có một con đường về trời và gười dẫn đường là Chúa Giêsu Kito6.
Nơi bắt đầu con đường về trời.
Khởi đầu hành trình về trời bắt đầu từ ngay nơi trần thế này chứ không phải ở đời sau. Giữa những bộn bề lo âu, những thử thách gian nan, những cám dỗ trần tục, những thú vui chóng qua đời này và cả những ảo tưởng về hạnh phúc, con người vẫn băn khoăn con đường về trời đích thật. Chúa dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.” (Mt 6, 33 – 34)
Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô.
Chúa đã về trời, nơi đó con người đã thấy mình nơi Thiên Chúa trong Chúa Giêsu. Người mang hai bản tính về trời: Thiên Chúa – con người. Bởi vậy, khi con người tự nhiên không thể vươn tới Thiên Chúa thì Thiên Chúa đã mang lấy chính bản tính con người, trở thành con người giữa nhân loại để tỏ bày cho con người và nhìn đến từng người mà thông ban chính mình Thiên Chúa.
Con người chỉ có thể nhận biết mình là ai và đi về đâu khi họ nhận biết về Thiên Chúa, như thánh Augustine cầu nguyện: “Lạy Chúa! Xin cho con biết Chúa, để cho con biết con”.
Thiên Chúa tự thông ban chính mình nên con người mới có thể gặp gỡ và cầu nguyện, rồi nhận ra chính mình. Linh mục Romano Guardini đã cảm nghiệm: “Thiên Chúa nhìn con người có nghĩa là là Ngài ban cho từng người một khuôn mặt độc đáo. Tôi là tôi nhờ Ngài nhìn tôi. Sức sống của linh hồn tôi được cưu mang từ cái nhìn của Thiên Chúa yêu thương. Đây là một điều cao trọng vô cùng, một huyền nhiệm sinh phúc. Thiên Chúa là Đấng âu yếm nhìn chúng ta: nhờ cái nhìn của Ngài, mọi sự hiện hữu, nhờ cái nhìn của Ngài, tôi hiện hữu, tôi trở thành chính mình” (R. Guardini- Thiên Chúa hằng sống, tr. 37-39).
Chúa về trời. Xin cho chúng con nhận ra mối phúc lớn nhất cuộc đời của mỗi chúng con đã được khởi sự ngay ở đời này để được về trời cùng Chúa. Tìm kiếm Nước Chúa và sự công chính làm thỏa cơn khát của chúng con về ở lại trong Chúa.
Có ai đó nói rằng: “Người ta có thể ở trăm nơi nhưng quê thì chỉ một. Người ta có thể đi đến khắp LênTrời ABC-404
Có ai đó nói rằng: “Người ta có thể ở trăm nơi nhưng quê thì chỉ một. Người ta có thể đi đến khắp chốn nhưng ga khởi hành thì chỉ một – chốn quê mình”
Quê hương hai tiếng gọi nồng ấm yêu thương và cũng rất linh thiêng trong lòng mỗi người. Dù quê hương giầu có hay nghèo nàn người ta vẫn yêu quê hương, vẫn tự hào về nơi mình đã sinh ra. Thế nên, trong giao tiếp khi gặp nhau lần đầu, người Việt thường có câu hỏi thăm: “Anh, chị quê ở đâu?”. Câu hỏi cũng là lời chào, chào bằng một câu hỏi, biểu cảm, thân tình. Câu chào để khởi đầu câu chuyện từ quê hương của nhau, của kỷ niệm, của tự hào và hạnh phúc. . .
Vậy quê hương là gì mà trân quý vậy?
Thưa, Quê hương là từ để mỗi khi nhắc tới ta lại được vé trở về tuổi thơ với chân trần đi rong chơi khắp xóm, hay lon ton dép đứt cố đua với anh chị đón mẹ đi chợ về.
Quê hương là cánh đồng lúa xanh thơm mùi cỏ, mùi bùn; là cánh đồng lúa vàng rụm và tiếng ếch kêu đêm đêm. Nơi đó có cánh diều tuổi thơ êm ả thanh bình.
Quê hương cũng gọi là “Quê nhà” là từ gợi cho những ai đi xa nỗi thao thức trở về để xà vào lòng mẹ, để nằm đong đưa chiếc võng tre. Chỉ cần nghe hai tiếng quê hương nơi mỗi người đều xót xa nhớ nhung như câu ca dao xưa: “Chiều chiều ra trước ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”,
Chúa Giê-su cũng có một quê hương. Ngài cũng nhớ da diết quê ấy. Ngài mong từng giờ được về quê ấy sau những ngày tháng tha hương nơi lữ thứ trần gian. Ngài cũng rất tự hào khi nói về chốn ấy. Chốn ấy bình an, hạnh phúc. Chốn ấy không có khổ đau chỉ có niềm vui hạnh phúc của Chúa Cha yêu Chúa Con mãi mãi.
Điều hạnh phúc là chốn ấy cũng là quê hương của mỗi người chúng ta. Vì chúng ta đều là con Chúa nên cũng cùng được thừa tự gia tài trên trời với Chúa Giê-su.
Hôm nay Chúa về Quê Trời đó là niềm vui và là niềm hy vọng cho hành trình cuộc đời chúng ta. Một hành trình không vô định nhưng có điểm tới là quê Cha trên trời. Chính Chúa Ky-tô đã soi lối mở đường cho chúng ta. Chính Ngài đã đi trước để dọn chỗ cho những ai tin theo Người. Từ nay u sầu sẽ gặp niềm vui. Từ nay những đau khổ đời này không làm cho con người thất vọng, nhưng ánh vinh quang Phục Sinh của Chúa sẽ mang lại niềm hy vọng và lạc quan cho kiếp người chúng ta.
Hôm nay chúng ta mừng Chúa về Trời. Mừng cuộc chiến thắng khải hoàn của Chúa. Mừng Chúa đã hoàn tất cuộc đời trần thế của mình trong vâng phục và thi hành thánh ý Chúa Cha một cách trọn vẹn. Sứ vụ của Chúa đến trần gian giúp con người đánh bại tử thần, và mang lại quyền làm con cái Thiên Chúa cho con người. Sự kiện Chúa về Trời cũng mở ra cho chúng ta một niềm hy vọng sau những bể dâu cuộc đời chúng ta cũng có một bến bờ yên bình hạnh phúc là quê Cha trên Trời. Chúa về Trời cho chúng ta quyền hy vọng sẽ được lên trời với Chúa nếu biết đi trên con đường của Chúa. Con đường của hy sinh phục vụ. Con đường dấn thân cứu đời. Con đường sống vì lợi ích của tha nhân.
Cuộc đời của mỗi con người đều gắn với một sứ mạng phải hoàn thành, một công việc để thi hành. Đó chính là bổn phận mà Chúa đã trao cho mỗi người chúng ta khi bước vào trần thế. Xin cho chúng ta luôn biết kiên nhẫn chu toàn bổn phận Chúa trao. Xin cho chúng ta luôn theo gương Chúa Giê-su tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa Cha. Xin đừng vì những đam mê trần thế mà bỏ bê bổn phận của người con với Cha trên trời. Amen
Sau khi hoàn tất mọi sự trên trần thế Đức Kitô về trời, đoàn tụ cùng Chúa Cha. Truớc khi về LênTrời ABC-405
Sau khi hoàn tất mọi sự trên trần thế Đức Kitô về trời, đoàn tụ cùng Chúa Cha. Truớc khi về trời Đức Kitô trao toàn quyền cho các môn đệ, thánh sử Mathew 28,16-20 tóm gọn những lời nhắn nhủ trên trong năm câu cuối cùng trong phúc âm của ngài. Lời nhắn nhủ cuối cùng trở thành nguồn sống cho các tông đồ và những ai đặt niềm tin vào Đức Kitô. Giáo Hội coi lời nhắn nhủ trên là sứ mạng của các Kitô hữu, sống, tin và loan truyền niềm vui Phục Sinh cho toàn thể nhân loại. Kitô hữu được mời gọi trở thành tông đồ hoạt động và hướng dẫn, giúp những người chưa biết Đức Kitô trở thành tông đồ hoạt động để họ tiếp tục công việc loan báo Tin Mừng cho muôn thế hệ. Họ sống niềm vui Phục Sinh và yêu thương nhau để qua đó người ta nhận biết khuôn mặt Đức Kitô trần thế qua các môn đệ Ngài.
Thầy đã được trao toàn quyền trên trời, dưới đất. vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Mt 28,18
Lời nhắn nhủ đầu tiên thật rõ ràng khi Đức Kitô loan báo cho các tông đồ là Ngài có toàn quyền trên trời, dưới đất và sai các tông đồ ra đi huấn luyện những người tin theo thành tông đồ. Sứ mạng này không dành riêng cho một dân tộc nào, và cũng không có giới hạn thời gian. Sứ mạng loan báo cho toàn thể nhân loại và chấm dứt vào ngày tận cùng của vũ trụ. Ngày lễ Đức Kitô về trời được coi như ngày ra trường của các tông đồ. Các ông được chính Đức Kitô giáo huấn, chỉ bảo và nay Ngài về trời các ông chính thức đảm nhiệm công việc loan báo Đức Kitô Phục Sinh. Nguồn vui chung cho cả nhân loại. Đức Kitô về trời nhưng Ngài không để các ông mồ côi, Ngài sai Thánh Thần Chúa xuống hướng dẫn, chỉ bảo thêm cho các ông trong cánh đồng truyền giáo.
Kitô hữu được mời gọi giúp các người có lòng chân thành trở thành tông đồ Chúa. Để làm được công việc đó họ được chia sẻ quyền năng Chúa ban. Khi thực thi quyền năng Chúa ban họ không được tự í muốn làm gì thì làm nhưng phỏng theo cách Đức Kitô thực hiện quyền năng của Ngài. Không còn cách nào tốt hơn để tỏ lòng trung thành, quí mến Đức Kitô bằng cách thực hiện việc xử dụng quyền năng Chúa ban theo cùng cách Đức Kitô thực hiện khi Ngài sống nơi trần thế. Để làm được điều trên Kitô hữu cần liên kết mật thiết với Đức Kitô bởi Ngài là nguồn sống, là sự sống của Kitô hữu. Liên kết với Đức Kitô để sống theo Ngài và giúp người khác nhận biết Ngài. Nguồn sống Đức Kitô trao ban không phải tự mình Ngài mà chính là nguồn sống của Ba Ngôi Thiên Chúa và đây cũng là công thức thanh tẩy của Kitô hữu khi em bé lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy em được thanh tẩy trong một Thiên Chúa Ba Ngôi: Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần. Đây là công thức thanh tầy hoàn vũ của các Kitô hữu. Lãnh nhận bí tích trên chúng ta trở thành con cái trong đại gia đình Chúa, trở thành anh chị em trong Đức Kitô.
Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dậy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em c.19
Mặc dù về cùng Chúa Cha Đức Kitô không để các Kitô hữu mồ côi, Ngài sai Thánh Thần Chúa xuống hướng dẫn, chỉ bảo các Kitô hữu trong cánh đồng truyền giáo và trong cuộc sống hàng ngày của các tín hữu. Lời hứa ở cùng các Kitô hữu được tiên tri Isaiah loan báo hàng ngàn năm trước về việc Đức Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con trai với tên là Emmanuel có nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Đức Kitô nhắc lại lời tiên tri loan báo xưa Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.
Này đây người thiếu nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai và đặt tên là Emmanuel Is 7,14
Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế Mt 28.20
Mừng lễ Đức Kitô về trời là mừng mầu nhiệm Thiên Chúa cùng lúc ngự bên hữu Chúa Cha, đồng thời cũng luôn đồng hành với các Kitô hữu trong cuộc sống của mỗi người.
Tin mừng hôm nay cho biết đang khi Chúa Giê-su từ biệt các môn đệ để lên trời thì Ngài lại hứa LênTrời ABC-406
Tin mừng hôm nay cho biết đang khi Chúa Giê-su từ biệt các môn đệ để lên trời thì Ngài lại hứa ở cùng họ mọi ngày cho đến tận thế. Làm sao vừa lên trời xa cách các môn đệ lại vừa ở lại mãi với các ông được?
Xin mượn một thí dụ để giải thích điều nầy: Nếu tôi chỉ có một quả cam và tôi muốn phát cho một ngàn người hiện diện trong nhà thờ nầy, mỗi người một quả, thì điều đó không thể thực hiện được.
Nhưng nếu tôi có một điều khôn ngoan, chẳng hạn điều tôi học được từ Chúa Giê-su: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn mình thì được ích gì!” rồi tôi đem “phân phát” điều khôn ngoan đó cho cả ngàn người ngồi nơi đây, thì mỗi người đều có thể nhận được nguyên vẹn một điều khôn ngoan y như nhau.
Thế đó, nếu chỉ có một đơn vị vật chất hữu hình (như một quả cam) thì ta không thể đem ban phát cho nhiều người, mỗi người một đơn vị được; nhưng trái lại, điều gì thiêng liêng không lệ thuộc vật chất thì ta có thể đem “phân phát” cho nhiều người và ai cũng được lãnh nhận trọn vẹn món quà đó như nhau.
Tương tự như thế, khi Chúa Giê-su lên trời, chính là lúc Ngài chấm dứt sự hiện diện trong thân xác hữu hình để trở nên Đấng vô hình, thì Ngài không còn bị lệ thuộc vật chất, không bị giới hạn bởi không gian và thời gian, nên Ngài có thể hiện diện trong tâm hồn mọi tín hữu và mỗi người đều có Ngài hiện diện trọn vẹn trong bản thân mình.
Chúa Giê-su ở với chúng ta để làm gì?
Là để đồng hành với chúng ta trên hành trình rao giảng Tin mừng như lời Ngài mời gọi: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ… hãy dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. (Mt 28, 19-20) Như thế, hôm nay Chúa Giê-su vẫn tiếp tục sứ mạng cứu độ của Ngài qua chúng ta.
Nhưng có người tự nghĩ rằng: Bản thân tôi yếu kém mọi bề, làm sao tôi có thể tham gia vào sứ mạng cứu độ của Chúa Giê-su được? Xin hãy tin rằng điều này có thể được nếu chúng ta biết tựa nương vào Chúa.
Lúc mới lên năm, tôi được cắp sách đến trường để học những con chữ đầu tiên. Cô giáo đầu đời của tôi là một nữ tu. Vì tôi không thể tự mình viết được bất cứ chữ gì, nên Dì nắm lấy bàn tay nhỏ bé của tôi, để bàn tay bé xíu của tôi nằm gọn trong bàn tay của Dì và như thế, Dì kèm cho tôi viết nên những con chữ đầu đời.
Hôm nay Chúa Giê-su đang ở trong mỗi người chúng ta như lời Ngài phán: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” Ngài tha thiết kêu mời chúng ta hợp tác với Ngài trong việc loan Tin mừng và cứu độ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những gì Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28, 19-20)
Còn rất nhiều người chưa nhận biết Tin mừng của Chúa Giê-su. Tâm hồn họ là những trang giấy trắng. Chúa Giê-su rất muốn nắm lấy bàn tay nhỏ bé yếu đuối của chúng ta để viết lên trong tâm hồn họ những trang Tin mừng về Thiên Chúa là Cha yêu thương, về mọi người là anh em một nhà, về tình huynh đệ không biên giới… Chúa Giê-su muốn sử dụng chúng ta như khí cụ hữu hiệu mang lại ơn cứu rỗi cho nhiều người. Điều quan trọng là chúng ta có bằng lòng để cho Ngài thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài qua chúng ta hay không.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa khao khát cho nhân loại được cứu độ và Tin mừng được thấm nhập vào tâm hồn mọi người, và Chúa muốn thực hiện khát vọng đó qua những người phàm yếu đuối như chúng con.
Xin giúp chúng con biết hiến dâng đời mình cho Chúa toàn quyền sử dụng, biết đặt bàn tay nhỏ bé của mình nằm gọn trong lòng bàn tay Chúa, để Chúa viết nên những trang Tin mừng trong tâm hồn nhân loại.
Khởi đi từ bài dọc I hôm nay ( Cv 1, 1- 11), chúng ta thấy Thiên Tính của Chúa Giêsu thật rõ ràng LênTrời ABC-407
Khởi đi từ bài dọc I hôm nay ( Cv 1, 1- 11), chúng ta thấy Thiên Tính của Chúa Giêsu thật rõ ràng , minh bạch đến độ không ai có thể so sánh, biện minh, hay chối từ nữa. Một Thiên Tính duy nhất, người được rước lên trời trước mặt các tông đồ. Chúa Giêsu không bày tỏ Thiên Tính khi Người Phục Sinh, nhưng , Người bày tỏ Thiên Tính khi chịu phép Rửa tại Sông Giodan, Biến Hình trên Núi Tabor. Nhưng, Thăng Thiên là mầu nhiệm bày tỏ Thiên Tính rõ nhất, bởi vì, không một phàm nhân nào thể hiện được điều đó. Qua mầu nhiệm Thăng Thiên chúng ta tin vào mầu nhiệm Chúa Giêsu có hai bản tính, một là Nhân Tính, hai là Thiên Tính. Mầu nhiệm Giáng Sinh không ai nhìn thấy, ngoại trừ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Người, thánh Cả Giuse , Dưỡng Phụ của Người, thì không ai nhìn thấy. Mầu Nhiệm Phục Sinh mở ra , không ai nhìn thấy, vì , mầu nhiệm Phục Sinh chưa tiết lộ phần Thiên Tính của Chúa Giêsu, Con Chí của Thiên Chúa.
Theo đó, chúng ta thấy, Mầu nhiệm Phục Sinh là Người bày tỏ hoàn toàn phần hữu hình, Mầu nhiệm Phục Sinh còn liên quan hoàn toàn đến sự hữu hình của Người. Để minh chứng sự hiển nhiên phần Nhân Tính, tức sự hữu hình của Chúa Giêsu. Vì vậy mầu nhiệm Phục Sinh đi liền với mầu nhiệm Nhập Thể của Chúa Giêsu, vì khi sống lại, Người biểu lộ trọn vẹn phần Nhân Tính của Người, dù giây phút Người Phục Sinh không thụ tạo nào được chứng kiến. Điều nầy nói lên , khi Chúa Giêsu Người đã hoàn tất mầu nhiệm” Đau Khổ”, tức cái chết để cứu chuộc nhân loại, thì không còn thế lực nào làm chủ Người được nữa.
Từ giây phút Phục Sinh đến lúc trở về Trời, hôm nay, tức Mầu Nhiệm Thăng Thiên , Chúa Giêsu hoàn toàn làm “chủ” khi xuất hiện nơi nầy, nơi khác, không còn thế lực nào làm chủ Người được. Vì vậy, chúng ta thấy được phần Thiên Tính của Chúa Giêsu ngay khi Người từ cõi chết sống lại, yếu tố nầy thật quan trọng đem lại cho chúng ta một niềm kính tin sùng mộ, bởi vì không một thụ tạo nào làm được như vậy. Có thể nói sau khi Phục Sinh, Người bày tỏ Thiên Tính của Người bởi Thiên Chúa mà ra, nên chi sự xuất hiện của Người trong thời gian nầy là sự sự xuất hiện của một Ngôi Vị Thiên Chúa Nhập Thể làm Người để cứu chuộc loài người trọn vẹn cả Nhân Tính và Thiên Tính.
Tin Mừng (Mt 28 , 16 -20) hôm nay là Tin Mừng Lễ Thăng Thiêng, bậc lễ ngang bằng với Lễ Giáng Sinh và Phục Sinh, bởi vì là Lễ trọng, (Lễ Họ) Lễ cầu cho giáo dân, (chỉ khác là không có tuần bát nhật ). Thánh Matthuê không ghi lại chi tiết Thăng Thiêng của Chúa Giêsu, cũng như bốn thánh sử, không thánh sử nào ghi chi tiết mầu nhiệm Thăng Thiên. Thánh Marco ghi : “ Nói xong, Đức Giêsu được đưa lên Trời và ngự bên hữu Thiên Chúa “. ( Mc 16, 19). Còn thánh Luca ghi : “ Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên Trời.” ( Lc 24, 51).
Như vậy, Thăng Thiên là mầu nhiệm siêu nhiên thuộc về Thiên Tính của Đấng Cứu Thế làm Người Giêsu – Kitô, cũng như mầu nhiệm Phục Sinh thuộc về Thiên Tính hoàn toàn nơi Thiên Chúa. Nhưng , khác với Phục Sinh, sau mầu nhiệm Thăng Thiêng Người không còn hiện diện hữu hình nơi trần thế. Tuy nhiên, Người vẫn hiện diện trong Thiên tính hoàn toàn với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. ( Mt 28, 20b). Có thể nói, Thăng Thiên là mầu nhiệm Phục Sinh hoàn tất, Alleluja !
Như vậy, thư Epheso, thánh Phaolo cho chúng ta biết Đức Giêsu- Kitô được siêu tôn trên tất cả mọi quyền lực, chính là Thiên Tính nơi Người. (Ep, 1, 17 -23)
Theo đó, Thăng Thiên là một mầu nhiệm được các chứng nhân tiên khởi là các môn đệ của Chúa Giêsu. (Cv 1, 1- 11). Vâng, bốn con số một của sách Công Vụ Tông Đồ là đoạn Thánh Kinh ghi lại và làm chứng mầu nhiệm lên Trời ngự bên hữu Thiên Chúa của Ngôi Lời làm Người Giêsu- Kitô. Đồng thời minh chứng Thiên Tính nơi Người trong Nhân Tính của một Đấng Cứu Độ duy nhất./. Amen Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã biểu lộ hoàn hoàn uy quyền Thần Tính của Chúa cho chúng con trong mầu nhiệm Thăng Thiên, là Người biểu lộ sự uy quyền trong Thiên Chúa . Xin cho chúng con biết thần phục suy tôn Người trong mọi biến cố cuộc đời, trong mọi nghịch cảnh, vì Người hằng ở cùng chúng con cho đến tận thế. Amen.
Dù ai nói ngược nói xuôi, lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân. Câu thành ngữ đó có phải chỉ nhằm LênTrời ABC-408
Dù ai nói ngược nói xuôi, lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân. Câu thành ngữ đó có phải chỉ nhằm khích lệ động viên hay còn có ý nhắc nhớ hãy tự tin cho hành trình phía trước ? Đích đến thành công hạnh phúc đúng là mơ ước của con người, lý tưởng đó điểm hẹn đó, đối tượng nào chẳng bị thu hút, vì vậy mà ý chí vững chắc như “kiềng ba chân” không phải là chuyện nhỏ trong đời ta. Chia sẻ cho người thân bạc tiền thì không khó, truyền lại kiến thức và kinh nghiệm cho họ sẽ phức tạp hơn, chỉ giúp anh chị em mình ổn định về đời sống tinh thần thật không hề đơn giản ! Hiểu về niềm vui hạnh phúc ở hiện tại đã là quá khó đối với các tông đồ, hôm nay Thầy Giêsu còn có ý định hướng dẫn các học trò của Ngài hiểu và sống sứ mạng tông đồ ở phía trước.
Hạnh phúc vì được no ấm về đời sống vật chất, đời sống tinh thần, hoặc tin yêu, nhớ tới đấng bậc sinh thành đã an nghỉ, vẫn là điều người ta có thể thấy và cảm nhận được. Xưa các tông đồ và hôm nay chúng ta, để hiểu: “Thầy đã được toàn quyền trên trời dưới đất,….”, tất cả chỉ thấy, cảm nhận được ý nghĩa và lời dạy đó bằng niềm tin yêu. Tiền nhân chúng ta cho rằng: khi một người sống hết mình vì người khác, thì cũng đồng nghĩa với việc người đó đã quên đi chính bản thân mình. Đức Giêsu không đợi đến lúc thầy trò ly biệt mới bày tỏ lời nói việc làm yêu thương, Ngài cũng không chờ đợi tới biến cố “Thăng Thiên”, mới chia sẻ sứ mạng loan báo Tin mừng cho các học trò, hạnh phúc Nước Trời là gì.
Đức Giêsu đã thật sự quên mình để diễn tả niềm vui hạnh phúc đời đời cho các học trò, Đức Giêsu đã tự nguyện chết đi và sống lại để mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại. Hạnh phúc đời đời đã đến với các môn đệ từ khi các ông hiểu biết và sống niềm tin Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần. Ơn cứu độ đã đến với tất cả những ai đang sống đức yêu thương và tuân giữ mọi điều Thầy Giêsu truyền dạy, niềm vui và ơn ban sẽ hiện thực mãi trong Đấng Kitô. Cha ông có để lại kinh nghiệm: nhà nghèo mới biết con thảo, nước loạn mới biết tôi trung. Đức Giêsu không cần ta phải là con nhà nghèo, cũng không đợi chiến tranh loạn lạc mới hé mở thế nào là hạnh phúc thật, Ngài sẽ hiện diện như một phần thưởng cho những ai sống giới luật yêu thương.
Chúa Thăng Thiên hay Chúa về trời là cách diễn tả Đức Giêsu đã hoàn thành sứ mạng Chúa Cha trao phó ; lên thiên đàng hay tận hưởng vinh quang phục sinh cũng là hạnh phúc đời đời dành cho những ai đi con đường của Thầy Giêsu. Nước trời hay thiên đàng, ta không cảm nhận được bằng lý trí, tai mắt tự nhiên, ta không thấy không thể nghe, nhưng bằng yêu thương và lòng mến, ta sẽ tin Nước Trời là nơi có sự hiện diện của Chúa, là cùng đích mà Chúa hứa ban. Khác với ở thế giới hiện tượng, với xã hội trần thế, họ nghĩ phải có ba thứ cơ bản để đạt danh vọng địa vị: thứ nhất hậu duệ, thứ hai tiền tệ, thứ ba quan hệ.
Trong tương quan yêu thương, người ta vẫn gọi đó là những âm giai đầy phức tạp của tình cảm, vì có người chỉ gặp một lần đã bén duyên, và họ mất cả đời người cũng không thể quên ; có những người gặp hoài, gặp mãi, thế nhưng không có gì để nhớ, để yêu… Theo Đức Giêsu, là học trò của Đức Giêsu, không chỉ để nhớ hay để quên, mà là được trở nên sứ giả của tình yêu thương, được tỏa chiếu hồng ân cứu độ Thiên Chúa ban. Các tông đồ không hiểu biến cố Chúa về trời, thì các ông cũng được an ủi với lời hứa: “Thầy sẽ ở cũng các con mọi ngày cho đến tận thế”, nếu các ông tuân giữ lệnh Thầy Giêsu truyền. Người Kitô hữu chúng ta hôm nay chưa hiểu hạnh phúc đời đời là gì, ít nhiều chúng ta cũng được mời gọi tin và sống giáo huấn của Đức Giêsu, trở nên môn đệ của Ngài.
Ca dao có câu: công cha nghĩa mẹ cao vời, nhọc nhằn chẳng quan suốt đời vì ta. Đạo làm con, phải sống hiếu sống thảo với đấng bậc sinh thành, đạo làm người không thể quên nghĩa trước tình sau, đạo làm con Chúa và Hội thánh ta không thể quên nguồn gốc tổ tiên là Nước Trời. Điều hệ trọng trong “đạo” không phải là yêu nhiều hay yêu ít, giữ lề luật từ thuở nào, mà là trong tương quan ta có yêu thương, có sống thuận sống hòa giữa anh chị em mình đến đâu ? Lệnh truyền của Chúa, không hệ tại ơn gọi làm giáo sĩ tu sĩ hay giáo dân, nhưng là do mỗi người đã nhân danh tình yêu Ba Ngôi thế nào, và sống niềm tin sự hiện diện của Thầy Giêsu đang đong đầy ơn ban cho ta là sự thật đến mức nào. Amen.
Ai có dịp đến phi trường có thể dễ dàng chứng kiến những cảnh ngậm ngùi chia tay nhau, kẻ ở người LênTrời ABC-409
Ai có dịp đến phi trường có thể dễ dàng chứng kiến những cảnh ngậm ngùi chia tay nhau, kẻ ở người đi lưu luyến. Dù là chia tay nhau để đi Mỹ, di du học, vẫn không thể che dấu được những giọt nước mắt của những người thân thương dành cho nhau.
Hôm nay, Chúa Giêsu và các tông đồ, sau bao năm gắn bó, đã phải chia tay nhau, cuộc chia tay này dù lưu luyến, nhưng lại tràn đầy niềm vui và hy vọng. Thày trò chia tay nhau không phải là dấu chấm hết, nhưng chỉ là kết thúc một giai đoạn đã qua và mở ra một giai đoạn mới với sứ mạng mới và tinh thần mới.
Chúa về trời sau khi đã hoàn tất sứ mạng Thiên Chúa Cha trao phó. Là một vị Thiên Chúa, Đức Giêsu đã chấp nhận từ bỏ địa vị cao sang của mình để mang thân phận con người và bước vào cuộc sống trần gian. Ngài mang lấy trong mình tất cả những giới hạn, yếu đuối và đau khổ của con người, chấp nhận cái chết đau đớn nhục nhã vì yêu mến Thiên Chúa và để cứu chuộc nhân loại. Thiên Chúa đã dùng quyền năng để làm cho Chúa Giêsu chỗi dậy từ cõi chết, tiêu diệt tử thần và ma quỷ, và nay, Ngài trở về trong vinh quang khải hoàn của một vị Thiên Chúa. Chúa về trời không phải là từ bỏ con người, nhưng để chuẩn bị chỗ cho mỗi chúng ta, Ngài đi trước mở đường để dẫn chúng ta theo sau. Chúa về trời để khẳng định cho chúng ta về niềm hy vọng, về quê hương đích thực của mỗi chúng ta là Nước Trời chứ không phải ở trần gian này.
Chúa về trời không có nghĩa là Ngài không còn hiện diện trên trần gian này nữa, nhưng chỉ là thay đổi cách thức hiện diện mà thôi. Ngài thay đổi từ việc hiện diện hữu hình bằng xương bằng thịt đến hiện diện thiêng liêng bằng tình yêu và quyền năng. Sách Công Vụ đã diễn tả khẳng định này khi nói: Người được cất lên ngay trước mặt các ông và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Thánh Kinh vẫn dùng hình ảnh mây bao phủ để diễn tả sự hiện diện của Thiên Chúa, nay sách Công Vụ cũng dùng hình ảnh đám mây quyện lấy Ngài để diễn tả Chúa Giêsu trở về với thế giới thần linh của Ngài. Chúa Giêsu vẫn hiện diện trước mắt chúng ta, chúng ta không nhìn thấy Ngài bằng mắt thịt, nhưng vẫn có thể thấy Ngài bằng con mắt đức tin.
Chúa về trời để mở ra một giai đoạn mới, một sứ mạng mới cho Giáo Hội. Tin Mừng Matthew kể lại: Chúa Giêsu hẹn gặp các tông đồ trên một ngọn núi, khi đến nơi, thấy Ngài, các ông đã bái lậy Ngài. Điều đó chứng tỏ các tông đồ đã hoàn toàn thay đổi cái nhìn về Thầy Giêsu. Ngài không chỉ là vị Thầy trước đây, mà còn là Thiên Chúa, Đấng ngự nơi cao. Vì thế, thái độ của các tông đồ là quỳ xuống bái lậy Ngài, nhìn nhận Ngài là chính Thiên Chúa.
Trong giây phút long trọng này, Chúa Giêsu đã trao cho các tông đồ cũng là Giáo Hội, một sứ mạng hết sức quan trọng và cấp bách: Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Mệnh lệnh này, Giáo Hội đón nhận trực tiếp từ Chúa Giêsu, để bắt đầu ra đi đến với muôn dân. Giáo Hội có trách nhiệm phải nói cho muôn dân về Chúa Giêsu để họ cũng tin nhận Người là Thiên Chúa, Đấng nắm giữ toàn quyền trên trời dưới đất. Giáo Hội cũng có trách nhiệm làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Chúa qua việc lãnh nhận phép rửa nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi, sống theo đường lối và giáo huấn của Người.
Giáo Hội luôn tin tưởng, thi hành sứ mạng cao cả mà Chúa Giêsu trao phó, trong niềm xác tín rằng, Giáo Hội không làm việc một mình, nhưng trong sự hiện diện và trợ giúp của Chúa Giêsu như lời Ngài hứa: Thầy sẽ ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế. Quả thật, Chúa Giêsu vẫn ở với Giáo Hội qua Lời của Ngài, qua Bí tích Thánh Thể. Nơi Bí tích này, Chúa Giêsu ở lại một cách sống động và cụ thể để nâng đỡ, thông ban sức sống và tăng cường sức mạnh cho Giáo Hội trên hành trình loan báo Tin Mừng. Chúa Giêsu còn hiện diện trong và qua chính con người của các tông đồ và các thừa tác viên của Giáo Hội, đồng thời trợ giúp các ngài chu toàn sứ mạng Chúa trao phó. Đặc biệt hơn nữa, Chúa Giêsu còn liên tục ở lại với Giáo Hội qua Thánh Thần được ban tặng cho các tông đồ và cho toàn Giáo Hội để soi sáng và hướng dẫn mọi hoạt động của Giáo Hội.
Sống và làm việc vì Nước Trời và hướng về quê hương đích thực là Nước Trời, đó là điều mỗi người phải luôn ghi nhớ. Tuy nhiên, Thiên Chúa không muốn chúng ta sao lãng bổn phận trần thế nhưng muốn ta trước hết phải chu toàn bổn phận và sứ mạng tại trần gian. Sách Công Vụ kể lại: Đang lúc các ông còn nhìn lên trời theo phía Ngài đi, bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời cũng sẽ ngự đến y như các ông thấy Ngài lên trời. Thiên Chúa không muốn các môn đệ của Chúa sống lơ lửng trong ngây ngất, cũng không mơ mộng, nhưng phải trở về Giêrusalem, tức là trở về với cuộc sống hiện tại, thực tế, thường ngày để đương đầu và giải quyết nhưng vấn đề của cuộc sống.
Lời sứ thần cũng căn dặn các môn đệ trở về cuộc sống nhưng đừng bao giờ quên Chúa Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang. Vì thực tế đã có nhiều người sống và lao đầu vào công việc như thể không có Chúa hiện diện trong cuộc đời, trong công việc của mình. Có nhiều người sống như thể không có ngày mai, vì thế, họ rơi vào tình trạng sống vội, sống cuồng, sống ảo và sống buông thả. Có người khác không nghĩ đến ngày cuộc sống của mình sẽ phải chấm dứt, ngày Chúa trở lại để đòi lại sự sống và cuộc đời mà Ngài đã trao gửi nơi mỗi người. Quan trọng hơn nữa, nhiều người quên rằng: Chúa sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, thưởng công cho người lành, người tốt và loại trừ kẻ dữ kẻ xấu, vì thế, họ không biết chuẩn bị cho tương lai chung cuộc của đời mình, không tích góp cho mình công phúc trước mặt Chúa và anh em.
Lễ Chúa Giêsu lên trời còn được chọn làm ngày Quốc tế Truyền thông. Ngày nay, các phương tiện truyền thông, các trang mạng xã hội phát triển mạnh nhờ mạng lưới Intrenet. Chúng ta được mời gọi sử dụng các phương tiện truyền thông hiện đại để phục vụ cho Tin Mừng, loan báo về Chúa Giêsu cho mọi người. Vì thế, dù làm chủ một địa chỉ facebook hay một trang báo, trang mạng, chúng ta cũng phải sử dụng với một lương tâm ngay thẳng, trong sáng, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và nhu cầu thông tin chính đáng của con người, qua đó giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người.
Chúng ta cũng phải mạnh mẽ lên án và tẩy chay những trang mạng bẩn, những báo đài nói dối, nói láo, xuyên tạc, vu khống người khác. Nhiều người dễ dàng tin vào các đài, các trang mạng này hơn là tin vào sự giải thích trình bày của Giáo Hội. Giữa một rừng thông tin ngược xuôi, tốt xấu, mỗi người cũng cần biết gạn lọc và phân định, tìm hiểu thông tin mặt phải, mặt trái, nhiều chiều để rút ra sự thật. Nhiều trang báo đài ngày nay phục cho mục tiêu chính trị, đảng phái, chứ không nhằm cung cấp thông tin khách quan. Có những kênh truyền hình nhắm điều khiển dư luận, lái sự quan tâm của dư luận, khiến cho nhiều người hiểu sai lệch vấn đề, vì thế, hãy hết sức cẩn thận cân nhắc trước các thông tin của các kênh, các trang mạng báo đài này.
Mỗi người chúng ta mang trên mình sứ mạng loan báo Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài. Xin cho chúng ta nhiệt thành và trung thành với sứ mạng Chúa trao dù lúc thuận hay lúc nghịch, dù người ta có muốn nghe hay không muốn, chúng ta vẫn trung thành nói về Chúa Kitô cho thế giới. Amen.
Diễn đàn Suy Nghiệm với mục đích quan sát- lắng nghe- suy ngẫm- trải nghiệm- sáng tạo về cuộc sống có một bài viết mang tên: “Kết thúc là khởi đầu”. Trong bài viết có đoạn: “Hãy đặt niềm tin vào vào sự kết thúc bởi đơn giản một điều, sự kết thúc là một bước khởi đầu mới mẻ. Hãy lao mình vào dòng chảy của thời gian, trong đó có sự kết thúc lẫn khởi đầu, đó chính là sự khám phá thế giới và khám phá chính mình một cách đích thực”.
Khi nghe lại đoạn kết thúc Tin mừng hôm nay, chúng ta bắt gặp hình ảnh của những chương mở đầu trong “Tin Mừng về thời niên thiếu” do Matthêu viết. Khi các nhà Đạo sĩ đến từ phương Đông, đại diện cho những người đầu tiên của dân ngoại đón nhận ơn cứu độ đến Belem, “Họ vào nhà, thấy hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người” (Mt 2, 11a). Cũng với thái độ đó, “mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Người, các ông bái lạy” (Mt 28, 16-17).
Qua hình ảnh “Kết thúc là khởi đầu” trong Tin Mừng Matthêu, tôi nhận ra được 2 sứ điệp:
Muôn dân thờ lạy Chúa
Sứ điệp đầu tiên là hình ảnh “muôn dân thờ lạy Chúa”. Không phải Thiên Chúa muốn biểu dương quyền lực của Ngài, nhưng là thái độ của con người nhận ra đâu là Đấng đem lại hạnh phúc đích thực cho họ; hay nói cách khác họ “ngộ” ra được, họ nhận biết được cùng đích của cuộc đời mình.
Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ
Sứ điệp thứ hai xuất phát từ sứ điệp đầu tiên. Để muôn dân đến thờ lạy Chúa, các môn đệ phải “đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”.
Qua hai sứ điệp này cho tôi 2 thái độ sống: Tin và loan báo niềm tin. Tin vào Đức Giêsu Kitô là Đấng chẳng những dạy cho tôi sống tốt, mà còn cho tôi được hạnh phúc đời đời, dẫn tôi đến nguồn ơn cứu độ vì Ngài là “đường, là sự thật và là sự sống”. Loan báo niềm vui, hạnh phúc mà tôi đang có cho mọi người, chỉ cho anh chị em tôi thấy con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực, nhất là anh chị em lương dân.
Tin vào Đấng được sai đến
Mừng lễ Chúa Giêsu về trời hôm nay là dịp để tôi suy niệm kỹ lưỡng hơn về thái độ sống đức tin của tôi. Hình ảnh Ba Vua trong những chương khởi đầu, cũng như hình ảnh các môn đệ trong chương kết thúc Tin Mừng Matthêu khiến tôi suy nghĩ mình đang “bái lạy” điều gì trong cuộc sống hôm nay?
Sách Các Vua quyển thứ hai (5, 15-19) kể về việc Ông Naaman là một viên tướng chỉ huy của quân đội Aram (một quốc gia ngoại giáo) sau khi được Êlisa chữa lành bệnh phong, ông đã quay trở lại để tuyên xưng niềm tin của mình: “Nay, tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Israel” (2V 5, 15b). Hơn thế nữa, ông làm một việc mà nhiều người thắc mắc. Ông đã xin với Êlisa “Xin cho phép tôi tớ ngài đây mang về một số đất vừa sức hai con lừa chở được, vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa” (2V 5, 17). Ông đã giải thích lý do tại sao xin đất của Israel: “Khi ông chủ tôi vào điện của thần Rimmôn để sụp xuống lạy, và khi ông ấy vịn vào cánh tay tôi, thì tôi cũng phải sụp xuống lạy trong điện của thần Rimman cùng lúc với ông. Xin Đức Chúa tha thứ điều ấy cho tôi tớ Ngài” (2V 5, 18). Nhưng trong thâm tâm của ông, vẫn chỉ thờ phượng một mình Đức Chúa đang hiện diện trượng trưng nơi phần đất mà ông mang về trừ Israel và đang đặt một cách trang trọng trong nhà ông.
Hình ảnh của ông Naaman rất thực tế trong hoàn cảnh sống đạo của chúng ta ngày hôm nay, có thể gọi là đầy dẫy những khó khăn thử thách. Như ông Naaman vì hoàn cảnh mà ông vẫn phải cử hành những nghi lễ tôn kính tà thần, nhưng thực sự con người của ông đã suy phục một mình Đức Chúa. Ngày hôm nay vẫn còn rất nhiều người mặc dù tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa, vẫn muốn suy phục quyền lực của Ngài, nhưng vì “hoàn cảnh” mà họ vẫn chưa thể công khai niềm tin của mình, vì bắt buộc mà họ có những hành động đàn áp, bắt bớ những người tin… Đó là một trong những lý do giải thích cho việc tại sao những người chống đối Thiên Chúa, những người xúc phạm đến những giá trị linh thánh vẫn bình an, mạnh khỏe. Vì tận thâm tâm của họ đã tin kính Ngài, vẫn sợ bị Ngài trừng phạt… nhưng vì nhiều lý do mà họ phải hành động như vậy. Chúng ta tin chắc một điều đến một ngày nào đó, những con người có niềm tin âm thầm cũng sẽ được giải phóng.
Từ đó chúng ta suy nghĩ đến hoàn cảnh của chúng ta, những con người được tự do thờ phượng Chúa, được công khai niềm tin của mình… thì chúng ta phải biết trân quý và làm cho nó được hoàn hảo trong từng thái độ sống của chúng ta, vì chúng ta còn có bổn phận sống đức tin thay cho những con người không được thờ phượng Chúa cách công khai.
Ra khỏi chính mình để loan báo Tin Mừng
Từ việc tin vào Đấng Phục Sinh, người môn đệ còn có sứ mạng: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trờ thành môn đệ” (Mt 28, 19). Như vậy để “làm cho muôn dân trở thành môn đệ”, thì người môn đệ của Đức Giêsu phải cất bước ra khỏi chính mình.
Trong dịp hội ngộ mừng 20 năm tái lập 2 Giáo hạt Bạc Liêu – Cà Mau, một linh mục đã sống tại vùng Minh Hải từ những thập niên 80 đã chia sẻ: “Trong những lúc khó khăn về mọi mặt nhưng những cán bộ Truyền giáo vẫn hăng say loan báo Tin mưng và sống gần gũi, yêu thương nhau… Trong thời buổi xem ra thuận lợi về mọi mặt, thì những cán bộ Truyền giáo “xem ra” không còn nhiệt huyết như ngày xưa”. Cha giải thích theo tư tưởng của Đức Thánh Cha Phanxicô là vì “người ta có quá nhiều pháo đài”.
Quả thật chính những pháo đài đó đã cản trở việc loan báo Tin Mừng, để người ta chỉ lo “giữ đạo” cho riêng mình.
Những “pháo đài” này trước nhất là chính tội lỗi của con người. Đành rằng thời nào cũng có ma quỷ và vì vậy không phải bây giờ mới có tội, mà tội đã có từ thời ông bà nguyên tổ. Nhưng ma quỷ ngày hôm nay “tiến bộ” hơn nhiều, nó làm cho con người không còn ý thức về tội nữa, và đó là tội đáng sợ nhất của con người. Nó làm cho con người thường xuyên tiếp cận với dịp tội, và vì vậy họ sẽ mất ý thức.
Hôm nay là ngày quốc tế truyền thông. Nó là dịp để chúng ta suy nghĩ về những phương tiện truyền thông. Tất cả những tiến bộ khoa học kỹ thuật đều do Chúa ban như dụng cụ để loan báo Tin Mừng, nhưng người ta đã sử dụng sai mục đích để nó trở thành khí cụ của ma quỷ. Có người đã chia sẻ với tôi: “Trục trặc trong đời sống gia đình hôm nay phần lớn là do những chiếc điện thoại thông minh”. Vì nó quá thông minh theo kiểu thế gian nên nó đã đưa con người đến chỗ mất đi hạnh phúc.
Pháo đài thứ hai mà con người đang bị ràng buộc chính là sự an toàn cho bản thân mình. Để mình được an toàn trong công việc, trong chức vụ, trong tiền bạc, trong tình cảm…, con người đã làm mọi cách để che chắn, bảo vệ cho mình bằng những nhóm người, những thế lực theo kiểu thế gian, trong đó có quyền lực và tiền bạc. Chính vì vậy mà con người bị bao phủ bởi những toan tính riêng tư, không thoát ra được để đem niềm vui đến cho người khác mà chỉ tìm mọi cách để người khác đem niềm vui cho mình.
Để thoát khỏi những “pháo đài” này, trước hết con người phải chấp nhận sự thật, để “sự thật sẽ giải phóng anh em”. Sự thật đó là mình yếu đuối để phải biết khôn ngoan, thận trọng trong tất cả mọi sự, đừng để ma quỷ thừa cơ lợi dụng. Ngày hôm nay phải đề phòng với những phương tiện truyền thông, đừng để nó trở thành khí giới của ma quỷ; đừng để những điều kiện thuận lợi Chúa ban như khả năng, công việc, tiền bạc, bạn bè… trở thành chiếc thòng lọng để xiết chúng ta đến ngạt thở.
Kế đến phải biết ra khỏi chính mình để đến với người khác vì niềm vui thực sự của Tin Mừng phải được chia sẻ. Thể hiện của việc ra khỏi chính mình là biết hy sinh thời giờ, sức lực, khả năng và mọi sự cho những người mình có trách nhiệm, cho những ai tìm đến với mình, và hơn thế nữa là phải chủ động để thực hiện việc đến với người khác.
Biến cố về trời là kết thúc giai đoạn ở trần gian của Đức Giêsu, nhưng nó lại mở ra một trang Tin Mừng mới cho những môn đệ của Ngài, để họ biết tin tưởng vào ơn cứu độ mà Đức Giêsu đã từ trời xuống loan báo; đồng thời mời gọi họ hãy bắt đầu thực hiện sứ điệp của Đức Giêsu để cũng biết đem Tin mừng đó cho muôn dân. Để có thể đem Tin mừng cho muôn dân, đòi hỏi người môn đệ phải biết ra khỏi “pháo đài” của tội lỗi, của sự an toàn cho chính mình để dám dấn thân trong cuộc sống hôm nay.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ban sức mạnh để con tin tưởng và bước theo Đức Giêsu trong mọi hoàn cảnh; xin ban ơn can đảm để con dám ra khỏi chính mình để làm cho muôn dân trở thành môn đệ. Amen.
Những lời cuối cùng của Đức Giêsu trước khi Người lên trời Câu hỏi gợi ý: 1. Trước khi về trời LênTrời ABC-411
Những lời cuối cùng của Đức Giêsu trước khi Người lên trời
Câu hỏi gợi ý:
1. Trước khi về trời, Đức Giêsu đã trăn trối lại những gì cho chúng ta, là những môn đệ của Ngài? Chúng ta có quan tâm thực hiện những điều ấy không? thực hiện thế nào?
2. Những dấu lạ - mà Đức Giêsu hứa sẽ đi theo những kẻ có lòng tin - có ứng nghiệm với chúng ta không? Nếu không thì tại vì Ngài hứa «cuội» hay vì chúng ta chưa có đức tin đích thực? Đức tin đích thực là gì? Ta đã có chưa?
3. Là người đang rao giảng Tin Mừng, ta đã có đức tin thật sự chưa, hay mới chỉ là thứ đức tin được tuyên xưng chứ chưa được sống? Có những «dấu lạ» đi kèm theo lời ta rao giảng để những ai nghe ta dễ tin tưởng không?
Suy tư gợi ý:
1. Lời trăn trối cuối cùng
Trước khi từ giã các môn đệ để về trời và để hiện hữu một cách khác bên cạnh các ông, Đức Giêsu đã trăn trối nhiều điều. Những lời trăn trối quan trọng nhất là những lời Ngài nói ra trong bữa tiệc ly trước khi ra đi chịu tử nạn và ngay trước khi về trời. - Những trăn trối trong bữa tiệc ly nói lên tinh thần mà môn đệ của Ngài phải có: chủ yếu là yêu thương nhau (Ga 13), tin và hợp tác với Thánh Thần (Ga 14; 16), liên kết chặt chẽ với Ngài (Ga 15), hiệp nhất với nhau (Ga 17), mong đợi Ngài trở lại (Ga 16).
- Còn lời trăn trối ngay trước khi Ngài về trời nói lên việc mà các môn đệ Ngài phải làm là «đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo» để tiếp tục sự nghiệp mà Ngài đã khởi sự. Đó cũng chính là công việc phúc âm hóa và tái phúc âm hóa, để mọi người không chỉ biết Tin Mừng mà còn thật sự sống tinh thần Tin Mừng nữa.
Về lời trăn trối sau, rất nhiều Kitô hữu chỉ hiểu một cách nông cạn, là chỉ nghĩ tới việc rao giảng cho người ta biết Thiên Chúa, biết Tin Mừng cứu độ của Đức Giêsu, và dừng lại tại đấy! Nhưng thử hỏi nếu chỉ biết thôi thì ích lợi gì? Chẳng hạn biết rõ sự cần thiết và ích lợi của thức ăn, hay biết rõ mình cần phải ăn gì để mạnh khỏe mà lại không chịu ăn, thì sự biết rõ ấy có ích lợi gì? Nếu biết mà không sống điều mình biết, không đem nó ra áp dụng thì chẳng những vô ích mà còn phải chịu trách nhiệm về cái biết ấy nữa. Vì kẻ nhận 1 nén bạc thì chỉ phải làm lợi thành 1 nén khác thôi, nhưng kẻ nhận 5 nén thì có trách nhiệm làm lợi thành những 5 nén khác kia! (x. Mt 25,14-30; Lc 19,12-27).
Vì vậy, biết Tin Mừng mà không chịu sống Tin Mừng là tự làm cho mình bị kết án nặng hơn. Cũng vậy, rao giảng cho người ta biết Tin Mừng mà không giúp người ta sống Tin Mừng thì chỉ làm cho người ta bị kết án nặng hơn chứ chẳng đem lại lợi ích gì cho họ. «Đức tin chết» hay «đức tin không có việc làm» (Gc 2,17.26) đâu thể đem lại ơn cứu độ? Cũng như có đồ mà không đem ra dùng thì đồ ấy có ích lợi gì? hoặc cho người ta đồ mà không chỉ cho người ta cách sử dụng thì coi chừng kẻo làm hại người ta? Việc rao giảng Tin Mừng cần phải đi xa hơn một chút là giúp người ta sống Tin Mừng, như thế sẽ làm lợi cho họ vô cùng. Như vậy, điều quan trọng là chính chúng ta phải sống tinh thần Tin Mừng và làm cho mọi người cũng sống tinh thần Tin Mừng. Biết và sống Tin Mừng, hoặc làm cho người ta biết và sống Tin Mừng, hai thứ ấy phải đi đôi với nhau mới không có hại mà sinh ích lợi vô cùng cho mình và cho người. Nên đã biết Tin Mừng hoặc giúp ai về mặt Tin Mừng thì hãy biết hoặc giúp «tới nơi tới chốn», với tinh thần trách nhiệm. Đừng «đánh trống bỏ dùi», «đem con bỏ chợ», tức giúp nửa vời, rất tai hại!
2. Những dấu lạ đi theo những ai có lòng tin
Theo lời của Đức Giêsu thì những kẻ có lòng tin đích thực - tức tin và sống điều mình tin - sẽ có được những dấu lạ theo mình: «Họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ». Đó là những điều mà tôi nghĩ rằng thời nào cũng đều ứng nghiệm, không chỉ là thời các tông đồ. Và những điều này trước tiên được ứng nghiệm ngay nơi bản thân những người tin rồi sau đó mới ứng nghiệm ra bên ngoài, tức với người khác hay với ngoại cảnh. Tuy nhiên, lời Ngài nói cần phải hiểu theo nghĩa tâm linh, chứ không nên hiểu theo nghĩa đen: tôi không tin rằng bất kỳ người mạnh tin nào cũng đều có thể uống thuốc độc mà không chết, hay bị rắn cắn mà không sao! Vì thế, những dấu lạ nói trên cần được hiểu như sau:
- "trừ được quỉ": quỉ tượng trưng cho thế lực của sự ác. Người thật sự tin vào Thiên Chúa - là nguồn sức mạnh của mình - có thể thắng được những thế lực của sự ác hay của tội lỗi ngay trong bản thân mình. Cụ thể là thắng được những cám dỗ, những tư tưởng xấu, những khuynh hướng xấu, v.v… Nếu đức tin của họ mạnh hơn nữa, họ có thể giúp những người yếu tin cũng thắng được thế lực ác giống như họ.
- "nói được những tiếng mới lạ": người có đức tin đích thực và sống nhuần nhuyễn đức tin ấy sẽ cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa và Đức Giêsu, tức chứng ngộ được chân lý nơi bản thân mình. Nhờ đó họ có thể tự diễn đạt đức tin của mình theo đủ mọi phương thức khác nhau, chứ không dùng những kiểu nói sáo mòn, trống rỗng, thiếu chất sống. Họ luôn luôn dùng những cách diễn tả mới lạ, phù hợp với thời đại, với trình độ của người nghe, giúp người nghe cũng cảm nghiệm được thực tế đức tin như họ. Họ như một y sĩ đã nắm thật vững cốt yếu của y lý nên biết tùy bệnh mà tự mình cho thuốc thật hữu hiệu, phù hợp với từng căn bệnh. Họ không sao y những bài thuốc có sẵn của người khác để áp dụng chữa bệnh một cách máy móc giống như những y sĩ chưa nắm vững y lý. Hay như một thầy giáo đã tiêu hóa thật kỹ môn mình dạy nên chỉ cần nói tất cả những gì đang có sẵn trong bụng không phải lệ thuộc một bài bản nào cả. Họ có thể nói một cách sáng tạo theo đủ kiểu đủ cách mới lạ để học sinh dễ hiểu mà vẫn luôn luôn chính xác, chứ không nô lệ vào những giáo trình mẫu do người khác soạn sẵn.
- «cầm được rắn trong tay»: người có đức tin đích thực ắt nhiên có tâm hồn an bình và đầy tràn tình yêu. Họ coi mọi người - dù xấu ác hay ghét họ, muốn làm hại họ - như anh em ruột thịt và sẵn sàng hy sinh cho những người ấy. Vì thế, họ có thể tiếp cận và sống chung cả với những người xấu ác mà không hề bị hại, vì những người nguy hiểm này vẫn luôn cảm nghiệm được tình thương của họ dành cho mình: không ai lại muốn hại người đang yêu thương mình.
- «dù có uống nhằm thuốc độc cũng chẳng sao»: tất cả những nghịch cảnh, những đau khổ trong cuộc đời không thể làm mất được sự bình an và hạnh phúc của những người có đức tin thật sự. Với đức tin, họ biết rằng tất cả những đau khổ hay nghịch cảnh Chúa gửi tới đều là những hồng ân do tình thương của Ngài. Họ tin rằng: "Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người" (Rm 8,28) và "những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta» (8,18). Vì thế, họ rất vui khi đau khổ hay nghịch cảnh xảy tới, nên đau khổ hay nghịch cảnh cỡ nào cũng không hề làm hại được họ.
- "nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ": Ngoài ra người có đức tin đích thực còn có sức cảm hóa và giúp những người xấu ác - là người bị bệnh về tâm linh - trở về đường ngay nẻo chính. Họ có khả năng nâng đỡ và thêm sức mạnh cho những người yếu đuối tinh thần. Ai gần họ cũng cảm thấy mình bình an hạnh phúc hơn, tin vững mạnh vào Thiên Chúa, vào chính bản thân và tương lai mình hơn.
3. Có Chúa cùng hoạt động với người rao giảng Tin Mừng
Bài Tin Mừng kết thúc bằng một câu thật tuyệt vời, làm an lòng tất cả những ai đang rao truyền Tin Mừng: "Các Tông Đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng». Điều quan trọng nhất để việc loan báo Tin Mừng trở nên hữu hiệu - nghĩa là không chỉ giúp người ta biết Tin Mừng, mà còn làm cho họ sống Tin Mừng nữa - đó là "có Chúa cùng hoạt động với họ". Nhưng làm sao để có Chúa ở cùng? - Họ chỉ có Chúa ở cùng khi họ thường xuyên ý thức sự hiện diện của Ngài, và luôn gắn bó với Ngài bằng tình yêu chân thành có khả năng thúc đẩy họ hy sinh, dấn thân thật sự. Nhờ đó, họ có "những dấu lạ kèm theo" xác nhận những gì họ rao giảng là chân lý. Dấu lạ quan trọng và căn bản nhất - có khả năng thuyết phục những người nghe họ - chính là họ đã thật sự sống được những điều họ rao giảng. Nhờ sống điều mình nói mà lời họ nói trở nên sống động, mạnh mẽ, đầy sức hấp dẫn, khiến người nghe luôn «tâm phục khẩu phục", đồng thời cảm nghiệm được sự hiện diện cụ thể của Thiên Chúa ở nơi họ. Ước gì mọi người loan báo Tin Mừng đều luôn "có Chúa cùng hoạt động" như vậy!
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con biết sống đức tin của mình một cách thực tế và sống động. Vì quả thật rất nhiều khi con tuyên xưng đức tin của mình hết sức mạnh mẽ trước mặt mọi người, nhưng đời sống con lại chứng tỏ con chẳng tin bao nhiêu! Thế mà con lại rao giảng thật hùng hồn về đức tin ấy khiến người nghe con cảm thấy những lời con nói chỉ là những sáo ngữ, những lời giả dối, không thể tin nổi. Xin Cha giúp con thật sự sống những điều con tin, và rao giảng những điều con sống.
Hãy đi khắp thế giới, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật" (G. Bessière, trong "Thiên Chúa rất gần LênTrời ABC-412
1) "Hãy đi khắp thế giới, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật" (G. Bessière, trong "Thiên Chúa rất gần, năm B", DDB, tr. 68-69).
Bản văn không đề cao hiện tượng kỳ diệu của việc lên trời, nhưng nhấn mạnh sứ mệnh của các tông đồ. Các ngài mang đi một tin bất ngờ, một tin mừng cho "mọi tạo vật'? Đó là ơn cứu độ, ơn giải phóng, ơn chữa lành, đương đầu với mọi nguy cơ để đổi thay thế giới, cho nhân loại mới ấy, nhân loại ngồi bên hữu Thiên Chúa ấy được hiện hữu và lớn mạnh. Lịch sử đâu có thể nhờ một chiếc đũa thần mà biến đổi trong tích tắc mà phải qua hằng bao thế kỷ, hằng bao thiên niên kỷ, như một nắm men âm thầm nhưng phải luôn luôn khơi dậy Tin Mừng này, để Thánh Linh Thiên Chúa tái tạo bộ mặt địa cầu.
Suốt dòng thời gian, các môn đệ sẽ là những "chứng nhân hăng say": “cho đến tận cùng trái đất", nhờ sức mạnh Chúa Thánh Thần. Đức Giêsu ra đi, nhưng Người không vắng mặt, trái lại dường như cuộc ra đi này còn làm cho Người hiện diện nhiều hơn qua tất cả những người tiếp tục đón tiếp, sáng tạo và mưu tìm một thế giới mới. Họ cũng sẽ là những kẻ làm phiền vì tin rằng nhân loại có thể tiến xa hơn trên con đường công bình, tha thứ và yêu thương. Những con người mơ về một nhân loại thần linh này (humanité divine) sẽ luôn luôn phản kháng những gì là hỗn loạn, tồi tệ và chai lì trong đời sống cá nhân cũng như tập thể. Họ cũng sẽ trở thành mục tiêu tấn công của những chủ nhân sống một đời sống trì trệ, những tay quản lý ù lỳ và phó mặc cho số phận, những kẻ tôn thờ tiền bạc. Nhưng ngay cả trong cơn bắt bớ, những con người thân cận với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần ấy, những người đã được rửa tội trong trong tai ấy, sẽ nghe thấy trong bản thân một tiếng nói bí ẩn thầm thì: “Thầy ở với các con cho đến ngày tận thế".
2) "Sự hiện diện của Đấng Phục Sinh" (Đức Cha L. Daloz, trong "Vậy người là ai?", DDB. tr. 109-1 10).
Đức Giêsu chứng minh sự hiện diện phục sinh của Người. Đoạn kết của Tin Mừng Maccô kể lại tóm tắt một vài tình huống chứng minh cho việc này. Đó là 3 tình huống khác nhau: Đức Giêsu ‘xuất hiện', "tỏ mình ra" cho Maria Madalena, cho hai môn đệ, cho mười một Tông đồ. Những chứng nhân ấy sẽ đi loan truyền điều họ đã thấy. Người ta không tin các ngài; trong lần sai đi cuối cùng này cũng thấy nói đến "ai tin" và "ai không tin”. Đức Giêsu phải "áp đặt" sự hiện diện của Người vì biến cố phục sinh quả thực là bất ngờ. Người khiển trách sự chậm tin và sự cứng lòng của họ, không tin lời những người đã thấy người sống lại”. Đoạn kết Tin Mừng này thật ngắn ngủi, vắn tắt như một bài điểm sách. Biến cố Phục sinh đâu cần chi đến những lời lẽ dao to búa lớn, những bài diễn văn dài dòng. Biến cố có đó để mời gọi đức tin.
Biến cố tự nó đã có sức thuyết phục, có tính cách quyết định và đòi hỏi một quyết tâm. Biến cố quá mãnh liệt đã mở ra một tương lai và một chân trời bao la cho: "Toàn thế giới" và mọi tạo vật? Tin Mừng đầy ắp một sức mạnh phục sinh, có khả năng xuyên thấu bề dày tăm tối của thế giới, đem đến cho nó một chất men mới. Đó là ý nghĩa của những dấu chỉ này. Sức mạnh của Tin Mừng được biểu lộ qua con số không nhỏ những dấu chỉ này và tính cách phi thường của chúng, sức mạnh đó không chỉ là những lời nói suông, nhưng còn là chất men biến đổi cuộc sống. Các môn đệ có thể lên đường rao giảng. Đối với các ông, dù đã được cất lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, Chúa vẫn tiếp tục hoạt động và xác nhận Lời. Ngày nay, đến lượt chúng ta, chúng ta cũng được sai đến tận cùng thế giới để làm chứng nhân cho Tin Mừng, nhờ sức mạnh của mầu nhiệm Phục Sinh".
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mác-cô 16:15-20)
Trong bốn mươi ngày sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa Giê-su thường xuyên hiện ra với các môn LênTrời ABC-413
Trong bốn mươi ngày sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa Giê-su thường xuyên hiện ra với các môn đệ để nói với họ những gì Người chưa thể nói hết và củng cố lòng tin của họ. Giờ đây đã đến lúc Người trở về với Chúa Cha và nhường chỗ cho Chúa Thánh Thần tiếp tục những gì Người để lại. Tuy nhiên Người mở ra một chân trời mới, để dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, các môn đệ tiếp tục sứ mệnh Người đã hoàn tất những khởi đầu cần thiết. Chân trời mới ấy được biểu lộ trong mệnh lệnh Người ban cho họ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”. Vậy nội dung của mệnh lệnh này là gì?
Chúa Giê-su đã ban truyền mệnh lệnh này hai ngàn năm trước, nhưng qua bao nhiêu thế kỷ, Giáo Hội vẫn liên tục nhắc nhở các Ki-tô hữu về bổn phận truyền giáo, hoặc loan báo Tin Mừng. Có lẽ chúng ta mắc bệnh quên, hoặc nghĩ rằng đó là bổn phận của một nhóm người đặc biệt, như các linh mục và tu sĩ, chứ không phải của giáo dân! Thánh Phao-lô đã cho chúng ta tư tưởng căn bản sau đây, để giúp chúng ta ý thức việc truyền giáo là trách nhiệm của mọi người. Ngài dạy: “Mỗi người chúng ta đã nhận được ân sủng tùy theo mức độ Đức Ki-tô ban cho. Chính Người đã ban ơn cho kẻ này làm Tông đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng” (bài đọc 2). Rồi ngài kết luận: Chúa chuẩn bị chúng ta như vậy là để chúng ta “làm công việc phục vụ mà xây dựng thân thể Đức Ki-tô”. Với xác tín này, chúng ta hiểu được mệnh lệnh truyền giáo Chúa gửi đến mỗi người chúng ta, không phân biệt địa vị trong Giáo Hội.
Vậy trước khi sai chúng ta đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giê-su đã ban cho mỗi người chúng ta đầy đủ ân sủng cần thiết tùy theo hoàn cảnh của từng người. Dù là linh mục, tu sĩ hay giáo dân, mỗi người đều có những “khả năng” để thi hành sứ mệnh. Một linh mục thừa sai như Phanxicô Xaviê đi phương xa giảng đạo Chúa cũng không làm hơn nữ tu Têrêsa khiêm nhường sống trong dòng kín Các-men cầu nguyện cho việc truyền giáo! Chẳng vậy mà cả hai vị đều được Giáo Hội tuyên phong làm Quan Thầy các xứ truyền giáo!
Trang bị cho tất cả chúng ta những gì cần thiết rồi, vị chỉ huy Giê-su dạy chúng ta làm hai điều thôi: đi khắp tứ phương thiên hạ, và loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Trước hết chúng ta cần phải ra khỏi ốc đảo cô độc của mình để đi tới bất cứ nơi nào Chúa muốn. Dĩ nhiên Chúa không đòi chúng ta phải đi xa như thánh Phao-lô hoặc những vị thừa sai rời bỏ quê hương mình. Nhưng thế giới truyền giáo của ta, hoặc “tứ phương thiên hạ” của ta có khi lại là gia đình mình, nơi sở làm hay làng xóm mình. Ra khỏi con người khép kín và ích kỷ của ta tức là đi khắp tứ phương thiên hạ rồi. Có nhiều trở ngại, nhưng “nhiệt tâm vì lo việc nhà Chúa thiêu đốt ta, hoặc tình yêu Chúa Ki-tô thúc bách ta”, giúp ta thắng vượt mọi trở ngại.
Điều thứ hai phải làm trong sứ mệnh truyền giáo là loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Tin Mừng gì? Đó là Tin Mừng chính Chúa Giê-su đã loan báo: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi trao ban Con Một, để hễ ai tin vào người Con ấy thì sẽ được cứu độ. Đó là rao giảng một Đức Ki-tô vì yêu thương đã chịu đóng đinh thập giá để cứu độ chúng ta. Rồi phải loan báo cho mọi loài thọ tạo, tức là cho mọi người không trừ ai. Trong truyền giáo, không có việc loại bỏ hay chọn lựa. Mọi người ai ai cũng đều có quyền đón nhận Tin Mừng và trở nên con Chúa. Chúa chỉ đòi chúng ta hãy dùng khả năng mình có để làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa thôi.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Năm nay cũng là năm Giáo Hội nhấn mạnh đến việc Tân Truyền giáo. Cùng một Tin Mừng phải loan báo, nhưng phương thức loan báo của chúng ta cần phải mới mẻ và thích hợp với cách tiếp nhận của con người hôm nay. Chúng ta được nhắc nhở hãy đến với những người đã theo Chúa, nhưng hiện lơ là không sống đức tin Công giáo. Chúng ta không thi hành công việc khó khăn ấy một mình, nhưng “có Chúa cùng hoạt động” với chúng ta, như Người đã sát cánh với các tông đồ. Điều Chúa mong đợi nơi chúng ta là liệu chúng ta có thực sự dấn thân truyền giáo không, còn mọi sự khác Chúa sẽ hoàn tất!
Về trời vẫn là đích nhắm của mỗi Kitô hữu. Trời là chốn hầu như chỉ có trong trí óc của mỗi người. LênTrời ABC-414
Về trời vẫn là đích nhắm của mỗi Kitô hữu. Trời là chốn hầu như chỉ có trong trí óc của mỗi người. Khung hướng của con người là nhìn lên cao và định vị trời là nơi cao thẳm, xa vời vợi, mắt thường không thể nào nhìn thấy trời.Tuy nhiên, với đức tin, Trời là Thiên Đàng nơi người tín hữu mong và ước mong đạt tới. Trời là nơi Thiên Chúa ngự. Hôm nay, Chúa về trời là về với Thiên Chúa Cha đúng như lời Ngài căn dặn, ra lệnh cho các tông đồ :” Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho tất cả loài người…”. “ Nói xong, Chúa Giêsu được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa “.
Vâng, Chúa về trời là một mầu nhiệm.Bởi vì, Ngôi Lời nhập thể là Chúa Giêsu Nagiarét giờ đây được Thiên Chúa tôn vinh, được chia sẻ quyền thống trị của Thiên Chúa, được tôn lên làm Đức Chúa. Đó chính là sự kỳ diệu, là sự mới lạ, là mầu nhiệm. Cụm từ “ về trời “ vẫn là điều người tín hữu chúng ta hằng mong đợi, chờ mong sau khi đã chiến đấu anh dũng trong cuộc hành trình đức tin đầy khó khăn ở trần thế. Tuy nhiên, cụm từ “ lên trời “ không được hiểu theo nghĩa vật chất nghĩa là được bốc đi, đưa đi đến một nơi chốn mà phải hiểu theo nghĩa :” Này các bạn Galilê, sao còn đứng nhìn trời ? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các bạn và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các bạn đã thấy người lên trời “ ( Cv 1, 11 ). Như người Galilê xưa, chúng ta đừng cứ đứng bỡ ngỡ nhìn trời, nhưng phải trở về với thực tế đời thường. Đừng mải nhìn trời rồi ước vọng cao xa. Chúa muốn con người phải sống với thực tế của con người. Bổn phận và nghĩa vụ của con người vẫn còn đó. Chúa muốn con người chúng ta phải làm chứng cho Chúa như các môn đệ, các tông đồ đã làm chứng cho Chúa Phục Sinh :” Anh em sẽ làm chứng cho Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất “ ( Cv 1, 8 ).
Chúa về trời là để được tôn vinh là Đức Chúa, làm chủ thế giới, làm chủ vũ trụ. Chúa về trời là lúc sứ vụ rao giảng, sứ mạng làm chứng cho Chúa. Lúc Chúa ra đi, về trời không phải là lúc các môn đệ mơ tưởng đến một cõi trời xa xăm, mơ mộng, hão huyền. Chúa vể trời là lúc các môn đệ bắt đầu một sứ mạng mới, một cuộc sống mới. Các môn phải bắt đầu xuống núi để đi vào một cuộc sống thực tế, một cuộc sống gần gũi với anh em: đến với những người nghèo, những người bơ vơ vất vưởng, những người không nhà không cửa.Đến với những người bệnh hoạn tật nguyền, những người tội lỗi. Đó là những thực tế ờ trần gian. Các môn đệ và chúng ta phải lê những bước chân đi vào thế giới để đến với mọi lớp người như Chúa Giêsu khi Người đi rao giảng. Những bước chân của Chúa quả không bao giờ mệt mỏi để loan báo Tin Mừng. Bởi vì rao giảng Tin mừng, chính là loan báo Chúa yêu thương con người, yêu thương loài người. Tin Mừng cứu độ, chính là ai tin thì sẽ được lãnh nhận phép rửa. Tin Mừng chính là có Chúa cùng hoạt động với chúng ta, với con người với những dấu lạ kèm theo.
Đã đến lúc, chúng ta phải vứt bỏ quan niệm nhìn về trời như tìm một nơi chốn, Trời hay Thiên Đàng không phải là một nơi chốn treo lơ lửng ở trên không và cứ ráng nhìn là thấy được. Người Kitô hữu chúng ta nhìn về trời nhưng không quên nghĩa vụ, bổn phận trần thế: đó là ra đi loan báo Tin Mừng vì lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Chúa về trời nhưng Ngài nhờ miệng lưỡi chúng ta, nhờ đôi chân, đôi tay của chúng ta để giúp đỡ nhiều người. Chúa về trời nhưng ngài vẫn hiện diện với chúng ta trong cuộc sống hằng ngày để giúp chúng ta làm chứng cho Ngài. Chúa về trời những Ngài vẫn tiếp tục làm nhiều dấu lạ, điềm thiêng cho con người tin vào Ngài. Chúa về trời nhưng Ngài luôn muốn mọi người tin vào Ngài sẽ cùng về bên Ngài khi Thiên Chúa gọi họ ra khỏi cõi đời này. Đây không chỉ là ước mơ nhưng là có thể nói được là niềm tin cho tất cả những môn đệ của Chúa.
Vâng “ Quê Hương “ của chúng ta là trời mới đất mới, là quê hương trần gian được biến đổi nhờ Thần Khí của Chúa Giêsu Phục Sinh. Do đó, chúng ta những môn đệ của Chúa phải làm tốt công việc của chúng ta là xây dựng trời mới đất mới ngay trần thế này bằng chính những hy sinh, bác ái và bằng chính thân xác của Chúa Giêsu Phục Sinh.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa về trời để được Chúa Cha tôn vinh làm Đức Chúa, làm chủ thế giới, làm chủ vũ trụ, đồng chia sẻ với quyền thống trị của Thiên Chúa Cha.Xin cho chúng con đừng mải mê nhin trời mà quên đi sứ mạng Chúa trao phó là rao giảng Nước Thiên Chúa và làm chứng cho Chúa Phục Sinh. Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ : 1.Chúa về trời lúc nào ? 2.Chúa về trời để làm gì ? 3.Chúa về trời, Ngài còn hiện hiện với chúng ta không ? 4.Chúng ta có nên bắt chước người Galilê cứ nhìn lên trời không? --------------------------------
“Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời?” (Cv 1,9-11).
Sao còn đứng nhìn trời?” Câu hỏi không chỉ mang ý nghĩa tâm linh mà còn bao gồm cả tính LênTrời ABC-415
“Sao còn đứng nhìn trời?” Câu hỏi không chỉ mang ý nghĩa tâm linh mà còn bao gồm cả tính nhân văn, và phản ảnh tâm lý sống nữa.
Nhìn trời. Trong ngắm thứ Hai mùa Mừng chúng ta suy niệm: “Thứ Hai Chúa Giêsu lên trời. Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên Trời”. Đó là điều mà các Tông Đồ được nghe từ hai người mặc áo trắng: “Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên Trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên Trời.” (Cv 1,11). Ao ước được về Trời với Chúa cũng là niềm vui mừng và hy vọng của tất cả những ai đang trông cậy nơi Ngài. Đây mới chính là lý tưởng sống và là động lực giúp con người chấp nhận hy sinh, thắng vượt thử thách, cũng như vất vả trên cuộc đời dương thế: “Vì chúng ta đã được phục sinh với Chúa Kitô, hãy tìm kiếm những sự trên Trời, nơi Chúa Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa” (Cl 3,1).
Nhìn trời. Sao lại không nhìn? Vì người mà đang được cất lên cao kia chính là Thầy mình. Biết đến bao giờ Thầy trò mới gặp lại nhau? Có cuộc chia ly nào mà không để lại những luyến lưu và nhớ nhung. Biết đâu trong những khóe mắt kia đã có những giọt lệ! Vì không như cảnh sau khi biến hình sáng láng trên núi Taborê, Chúa đã cùng xuống núi và đồng hành với các môn đệ, nhưng lần gặp gỡ này lại là lần mà Thầy trò chia tay, ly biệt.
Nhìn trời. Cũng có thể là một lối diễn tả những luyến lưu với quá khứ, hoặc một cảm tình mơ mộng về một tương lai. Cách nhìn này thường đem lại tâm lý trốn tránh thực tế, ngại đối đầu với những hy sinh và thử thách.
“Sao còn đứng nhìn trời?” Câu hỏi mà “hai người mặc áo trắng” nêu lên phải chăng là muốn nhắc nhở các Tông Đồ, cũng như cho tất cả những ai yêu mến Chúa, đang thao thức hướng tầm nhìn lên Ngài về một sứ mệnh mới, sứ vụ làm chứng nhân cho Ngài. Thánh Luca đã ghi lại lệnh truyền đó một cách rõ ràng: “Ðã viết như thế: Ðức Kitô phải chịu khổ nạn và ngày thứ ba thì sống lại từ cõi chết; và nhân danh Ngài, phải được rao giảng cho mọi dân tộc việc hối cải để được tha thứ tội lỗi – khởi từ Giêrusalem” (Lc 24, 45-47).
Như vậy, nhìn trời trong trường hợp này không chỉ là một cử chỉ tạm biệt, một cái nhìn quyến luyến, một hoài niệm của quá khứ, hoặc một thao thức cho tương lai. Nhưng nó còn là thái độ nhắc nhở về sứ vụ chứng nhân cho tất cả những ai sau khi đã được biết Chúa, cho những ai muốn chứng tỏ mình yêu mến Chúa. Tình yêu là một sự chia sẻ. Tình yêu, nhất là tình yêu Thiên Chúa không được chỉ giữ riêng cho mình.
Cuộc đời người chứng nhân Tin Mừng luôn luôn mang hai đặc tính: Vui và buồn, hạnh phúc và hy sinh. Vui vì tình yêu của Thầy dành cho mình, vui vì được ơn đón nhận tình yêu ấy. Đau khổ, thử thách vì khi trở thành chứng nhân cho Thầy, thì cũng như Thầy, sẽ phải chấp nhận điều mà Thầy đã trải qua, những điều các ngôn sứ đã nói và sách Thánh đã ghi chép về Thầy của mình, đó là: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại”, và được cất lên trời. (x. Lc 24,44-51).
Nhìn Thầy được đưa về Trời trong vinh quang sẽ là niềm vui mừng, hãnh diện của các Tông Đồ. Rao giảng và làm chứng nhân cho Thầy cũng là một ân huệ, một hồng ân. Nhìn Thầy để hoài vọng về tương lai không xa sẽ được cùng Thầy đoàn tụ. Và nhìn Thầy để được thêm ý chí, nghị lực để bước tiếp cuộc hành trình trước mặt.
Người tông đồ, người của chứng nhân, do đó, không chỉ giữ và hạnh phúc với những gì mình đã có và đang có, dù đó là hạnh phúc với Chúa và trong Chúa rồi chỉ “ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 24, 53). Nhưng phải ra đi chia sẻ niềm vui, làm chứng về Thầy. Đó là trách nhiệm do chính Thầy truyền dậy. Và đó cũng chính là một thử thách đang chờ đón trước mặt. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị trong tông huấn Người Tín Hữu Giáo Dân đã nói về sứ mạng chứng nhân này: “Trong khi vườn nho của Chúa có nhiều việc, thì không ai được nhàn rỗi”. Không ai được thờ ơ và vô cảm trước những thách đố của thời đại, trước sự lan tràn của tội lỗi, của sự dữ để chỉ lo lấy hạnh phúc cho mình, để chỉ đứng nhìn trời, đứng nhìn Thầy mình được đưa lên trong vinh quang.
“Sao còn đứng nhìn trời?” Điệp khúc vang vọng lệnh truyền của Thầy. Lời mời gọi xuống núi. Phải quên đi những giây phút giã từ, những hình ảnh đẹp trên núi, mà phải xuống núi, ra đi vào đời và làm chứng nhân.
Chúa về Thiên Quốc sáng ngời vinh hiển Con ở thế trần kiên vững chứng nhân
Thật kỳ diệu, như được Thiên Chúa đã “mặc định”, có nhiều thứ trái ngược mà không đối lập LênTrời ABC-416
Thật kỳ diệu, như được Thiên Chúa đã “mặc định”, có nhiều thứ trái ngược mà không đối lập, giống như dạng bổ túc lẫn nhau vậy: Xuôi – Ngược, Phải – Trái, Trên – Dưới, Dọc – Ngang, Nam – Nữ, Trẻ – Già, Cao – Thấp, Nắng – Mưa, Trời – Đất...
Đất trời có tám hướng, mười phương. Cuộc đời có nhiều hướng, như cây có nhiều nhánh, chủ yếu là hai nhánh chính – như hình Thập Giá: hướng lên với Thiên Chúa (nhánh dọc) và hướng đến với tha nhân (nhánh ngang). Sống theo “chiều ngang” để xoay theo “chiều dọc” – mục đích cuối cùng: VỀ TRỜI.
Sau khi hoàn tất công cuộc cứu độ nhân loại, Chúa Giêsu vinh hiển về trời, còn chúng ta phải hiên ngang vào đời để loan báo Tin Mừng về Đức-Kitô-chịu-chết-và-phục-sinh, làm chứng về Tình Yêu Vô Biên của Thiên Chúa, về Lòng Thương Xót bao la của Ngài. Chúa Giêsu về Trời là bảo chứng chắc chắn chúng ta cũng sẽ được về Trời. Với niềm hy vọng dạt dào đó, chúng ta có thể can đảm và kiên trì vượt biển-đau-khổ-trần-gian để cặp Bến Bình An Thiên Quốc.
Sách Công Vụ Tông Đồ (trình thuật Cv 1,1-11), Chúa Giêsu đã dạy bảo các Tông Đồ mà Ngài đã tuyển chọn qua tác động của Thánh Thần. Ngài còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy NGÀI VẪN SỐNG SAU KHI ĐÃ CHỊU KHỔ HÌNH: Trong 40 ngày, Ngài đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Trời. Đó là Ngài củng cố niềm tin cho những người còn tại thế. Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã hứa: “Trong Nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,2-3). Để chúng ta an tâm, Ngài còn xác định: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
NHÁNH DỌC – HƯỚNG THƯỢNG
Phụng Vụ Mùa Phục Sinh sử dụng sách Công Vụ rất nhiều, Giáo Hội muốn chúng ta biết công việc của các Tông Đồ làm sau khi đã đủ tin vào Thầy Giêsu. Kinh Thánh cho biết:
Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là “ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần”. Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó tò mò hỏi: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ítraen không?” Chắc là các ông cũng muốn “thơm lây” gì đó, vì con người vẫn nuôi hy vọng “một người làm quan, cả họ được nhờ”. Nhưng Chúa Giêsu thản nhiên: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Ngài ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,7-8).
Vừa nói xong, Ngài được cất lên ngay trước mắt các ông, khiến các ông chưng hửng và ngơ ngẩn. Lúc đó có đám mây quyện lấy Ngài, khiến các ông không còn thấy Ngài nữa. Ui da, sao thế nhỉ? Đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời, ngơ ngác hướng về phía Ngài vừa bay đi, bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Ngài lên trời” (Cv 1,11). Chúa Giêsu đã đến thế gian và đã về trời thật, rồi Ngài chắc chắn sẽ lại đến – tái lâm trong Ngày Tận Thế.
Chắc hẳn các môn đệ buồn lắm vì Sư Phụ đi xa rồi, và cũng có thể “trách yêu” là sao Thầy đi mà không nói trước. Quá đỗi bất ngờ! Các ông cũng có thể buồn vì từ nay không còn Sư Phụ thì không biết xoay xở thế nào. Con người là thế! Đại Sư Giêsu biết lắm, thế nên Ngài đã hứa ban Chúa Thánh Thần để đủ tự tin mà hành động vì Chúa: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Ngài ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Tất nhiên, Ngài hứa gì thì luôn thực hiện đúng – đúng chi tiết từng phẩy, từng chấm.
Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, Ngài không còn nhân tính mà chỉ còn thiên tính. Ngài ẩn hiện thoăn thoắt, vì không còn lệ thuộc thân xác. Nay Ngài lại về trời, nghĩa là chúng ta cũng chắc chắn sẽ được sống lại và về Trời với Ngài – mục đích cuối cùng của kiếp người. Vì thế, tác giả Thánh Vịnh mời gọi chúng ta cùng hợp xướng: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu” (Tv 47,2-3). Đồng thời, chúng ta “hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa, đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta!” (Tv 47,7).
Thật vậy, “Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu”, nên chúng ta phải “dâng Ngài khúc đàn ca tuyệt mỹ”. Tất nhiên những gì là tuyệt vời nhất thì phải được dành cho Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả” (Tv 47,9), toàn năng và toàn trí.
Sự vui mừng là biểu hiện có Chúa trong tâm hồn, nghĩa là chúng ta đang được Chúa Thánh Thần không ngừng tác động, được tràn đầy ơn Thánh Linh, đủ can đảm đi giữa bầy sói mà không hề run sợ… Thật tuyệt vời!
NHÁNH NGANG – DẤN THÂN
Lời nói phải được chứng mình bằng việc làm, không thể khác hơn. Mến Chúa thì phải yêu người, không thể nói suông, nếu không chỉ là “bà con ruột” với nhóm Pharisêu. Đức Ái là nhánh ngang của Thập Giá, như đôi tay dang rộng choàng lấy mọi người, bất kể đó là ai – quen hay lạ, bạn hay thù.
Rất chân thành, Thánh Phaolô xác định: “Tôi là người đang bị tù vì Chúa” (Ep 4,1a). Tự nhận là “tù nhân của Chúa” nên Thánh Phaolô không ngại nói: “Tôi khuyên nhủ anh chị em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh chị em. Anh chị em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh chị em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau” (Ep 4,1b-3). Ai cũng được Thiên Chúa kêu gọi, mỗi người mỗi trách nhiệm, mỗi người một loại “nén”, vấn đề là dùng những “nén” đó bằng cách nào và với mục đích gì. Không ai có quyền tự mạo nhận rằng “nén” của mình “có giá” hơn “nén” của người khác. Trước mặt Thiên Chúa, mọi người đều bình đẳng, chẳng ai hơn ai. Tại sao? Bởi vì ai cũng là tội nhân mà thôi!
Bình đẳng ư, bằng nhau ư? Đúng vậy! Lý do minh nhiên: “Thiên Chúa không thiên vị người nào. Hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Ngài tiếp nhận” (Cv 10,34). Vả lại, như Thánh Phaolô nói: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh chị em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng” (Ep 4,4). Đặc biệt là “chỉ có MỘT Chúa, MỘT niềm tin, MỘT phép rửa” (Ep 4, 5). Thế thì sao không bình đẳng? Đúng là “chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người”, nhưng “mỗi người chúng ta đã nhận được ân sủng tuỳ theo mức độ Đức Kitô ban cho” (Ep 4,7). Đó là điều mầu nhiệm, trí tuệ loài người không thể phân tích hoặc giải nghĩa thấu tình đạt lý đúng mức, chỉ tương đối mà thôi.
Rất lạ với cách dẫn chứng của Thánh Phaolô: “Có lời Kinh Thánh nói: Ngài đã lên cao, dẫn theo một đám tù; Ngài đã ban ân huệ cho loài người” (Ep 4,8). “Đám tù” đó là chúng ta chứ còn ai trồng khoai đất này nữa, vì chúng ta đều là những tử tù được Đức Kitô chịu chết để giải thoát chúng ta khỏi chốn-lao-tù-tội-lỗi-trầm-luân. Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Ngài đã lên nghĩa là gì, nếu không phải là Ngài đã xuống tận các vùng sâu thẳm dưới mặt đất? Đấng đã xuống cũng chính là Đấng đã lên cao hơn mọi tầng trời để làm cho vũ trụ được viên mãn” (Ep 4,9-10). Hai động thái trái ngược là “lên” và “xuống”, nhưng hai động thái đó đều do chính Đấng-đã-chết-và-sống-lại thực hiện.
Ôi, Thánh Ý Thiên Chúa quá đỗi mầu nhiệm: “Chính Ngài đã ban ơn cho kẻ này làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ” (Ep 4, 11). Vì thế mà tạo nên xã hội, cộng đoàn, nhóm, ... Ai cũng làm giám đốc thì lấy ai là công nhân? Ai cũng làm tổng thống thì lấy ai là nhân dân? Nếu vậy, ơn gọi “làm nhỏ” có khi còn quan trọng hơn ơn gọi “làm lớn” đấy. Chính Chúa Giêsu đã xác định: “Ai MUỐN làm người đứng đầu thì PHẢI làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9, 35). Ngài luôn bảo người ta “làm nhỏ” chứ không khuyên ai “làm lớn”, nhưng người ta lại luôn thích làm ngược lại. Con người bướng bỉnh và ngang tàng, khoái “đi ngược chiều” lắm. Thế nên cần cảnh giác cao độ và cố gắng chấn chỉnh. Chớ có khinh suất hoặc ảo tưởng!
Thánh Phaolô giải thích: “Nhờ đó, dân thánh được chuẩn bị để làm công việc phục vụ, là xây dựng thân thể Đức Kitô, cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới SỰ HIỆP NHẤT TRONG ĐỨC TIN và trong SỰ NHẬN BIẾT CON THIÊN CHÚA, tới TÌNH TRẠNG CON NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH, tới TẦM VÓC VIÊN MÃN CỦA ĐỨC KITÔ” (Ep 4, 12-13). Đó là cả một chu-trình-vào-đời của bất kỳ ai. Nói dễ, làm khó. Luôn phải tự thúc giục cả ngày cả đêm!
Chính Chúa Giêsu trao “bài sai vào đời” cho mọi người khi Ngài nói: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa thì sẽ được cứu độ; còn ai không tin thì sẽ bị kết án” (Mc 16,15-16). Rất rõ ràng, rất rạch ròi! Ai thật và ai giả cũng được Ngài nói trước: “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh thì những người này sẽ được mạnh khoẻ” (Mc 16,17-18). Có Chúa và nhân danh Chúa thì có thể làm được những việc “khác thường”, và đó là “phép lạ” Chúa làm qua những người thành tín.
Trình thuật Tin Mừng của Thánh Máccô cho biết: “Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên Trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng” (Mc 16,19-20). Và cho đến ngày nay, nhiều người cũng đã và đang “vào đời” như thế: Nói về Chúa, sống chứng nhân, sống gương mẫu, làm việc tốt, tha thứ cho người ghét mình, nghĩ tốt về người khác, rao truyền Tình Yêu Chúa, thực thi Lòng Chúa Thương Xót…
Chúa Giêsu về Trời, chúng ta muốn về Trời thì phải vào đời. Hai nhánh cuộc đời phải luôn gắn kết với nhau. Chắc chắn như vậy. Một trong những “nhánh nhỏ ra khơi” là sống theo lời khuyên thấu tình đạt lý của Thánh Mark khổ tu:
“Anh em HÃY đọc hiểu những lời Thánh Kinh bằng hành động; ĐỪNG ham hố ngôn từ rồi hợm mình vì những ý tưởng lý thuyết suông. Các công việc là điều cần thiết và được Thiên Chúa minh nhiên an định, nhưng chúng ta NÊN dứt bỏ các công việc không hợp giờ giấc và dành ƯU TIÊN cho việc cầu nguyện, nhất là NÊN dứt bỏ những công việc đòi hỏi chi tiêu quá đáng hoặc sinh được quá nhiều của cải dư thừa.
Ai biết vì Chúa mà tự hạn chế và loại bỏ những của cải dư thừa của họ bao nhiêu, người ấy càng giữ tâm trí khỏi bị xao lãng bấy nhiêu… để dành chỗ cho việc cầu nguyện tinh tuyền và chứng tỏ một niềm tin chân thành nơi Chúa Kitô. Còn ai vì kém đức tin hoặc vì một yếu đuối nào khác mà không làm được điều ấy thì ít nhất cũng hãy THỪA NHẬN thực trạng, TỐ CÁO sự ấu trĩ của mình, và HÃY hết sức vươn lên”.
Hôm nay cũng là Ngày Hiền Mẫu hoặc Ngày Thân Mẫu (Mother’s Day, Chúa Nhật thứ hai trong Tháng Năm), không chỉ chúc mừng những người mẹ mà quan trọng là cầu nguyện cho họ, nhưng người đã hy sinh cả đời vì con cái.
Lạy Thiên Chúa là Cha nhân lành, xin ban thêm cho chúng con ba đức đối thần (tin, cậy, mến) và các đức đối nhân để chúng con làm hành trang vào đời theo lệnh truyền của Đức Giêsu Kitô, Con Một Yêu Dấu của Ngài. Xin giúp chúng con kiên trì sống theo mệnh lệnh của Đức Kitô để có thể hân hoan về Trời mai sau. Chúng con cầu xin nhân danh Đại Sư Phụ Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Sau khi thi hành trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa Cha nơi trần gian này, Chúa Giêsu về Trời LênTrời ABC-417
Sau khi thi hành trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa Cha nơi trần gian này, Chúa Giêsu về Trời, về với Cha. Người về “dọn chỗ cho chúng ta”. Chúa muốn nói cho chúng ta biết rằng, những ai thuộc về Người, thì quê hương của họ cũng ở trên Trời, họ cũng sẽ có một chuyến về trời trong Nước của Thiên Chúa. Chúa muốn chúng ta nghe Lời của Chúa mà thực hiện trọn vẹn Ý của Thiên Chúa: hãy sống công chính và làm chứng cho tình thương của Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô.
Nhưng không dễ sống công chính giữa cuộc trần gian đầy bất chính, và càng không dễ khi chính lòng chúng ta vẫn nghiêng về phía bất chính. Bởi vậy, Người ban “Đấng Phù Trợ đến” để chúng ta kết hiệp liên lỉ với Lời Đức Kitô, và có đủ sức mà vượt qua những bất chính ngọt ngào. Chính khi sống kết hiệp với Đức Kitô, nghe và thực hiện Lời Người trong cuộc sống trần gian, ấy là lúc chúng ta chuẩn bị chu đáo cho chuyến “về cùng Cha” của mình. Và khi giờ của mỗi người đã đến theo ý Cha, thì không ai có thể chần chừ, do dự, hay vì những luyến lưu trần gian này mà trì hoãn thi hành.
Sống ở trần gian, là chuẩn bị cho cuộc sống vĩnh cửu trong Nước của Thiên Chúa. Quê hương thật và vĩnh cửu của chúng ta ở trên trời. Sự sống vĩnh cửu ấy là Hồng Ân Thăng Thiên cho mỗi tín hữu Chúa.
Sứ vụ Chúa trao cho các Tông Đồ trước khi về Trời với Chúa Cha, cũng là sứ vụ Chúa trao cho mỗi chúng ta, những tín hữu của Chúa: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”.
Lệnh truyền được ban ra cùng với ân sủng kèm theo, gồm có “trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, họ đặt tay chữa lành bệnh nhân” để người nhận lãnh lệnh truyền có thể chu toàn sứ vụ.
Vâng, thánh ý Chúa là chúng ta hãy Loan Báo Tin Mừng, loan báo hồng ân thăng thiên cho mọi người. Thiết tưởng, để chu toàn thánh ý ấy, hoàn tất sứ vụ ấy, hẳn là, chúng ta cần phải có một tâm hồn thăng thiên, một ngôn ngữ thăng thiên và một đời sống thăng thiên như ý Chúa muốn.
1. Tâm hồn thăng thiên
Tâm hồn thăng thiên là tâm hồn luôn hướng về sự chân thật, điều tốt lành thiện hảo, vẻ tuyệt mỹ của Thiên Chúa trên Trời.
- Tâm hồn thăng thiên không chấp nhận làm tôi mọi cho những đam mê đánh bóng tên tuổi, tìm kiếm hư danh, khát khao trọng vọng ở trần đời này.
Nhưng tâm hồn thăng thiên phải là tâm hồn chấp nhận mất mình đi, chấp nhận buông bỏ cái tôi ảo tưởng cho mình là to lớn, là tài năng, là siêu sao, là trình độ, là nhan sắc là tuyệt vời… tâm hồn thăng thiên phải là tâm hồn biết đi xuống, biết cúi xuống, biết xuống tay xuống chân xuống cả cõi lòng, và chạm xuống nỗi đau cuộc đời này, đang còn lổn ngổn lang ngang bao là bất hạnh.
Tâm hồn thăng thiên phải là tâm hồn giống như Chúa Giê-su từ bỏ, khiêm nhường, tự hạ, hy sinh phục vụ; đành nhục nhã cho ai kia vinh dự; đành trắng tay cho kẻ khác đầy dư; đành vô danh tiểu tốt, thấp bé, nhỏ hèn để anh em mình được lớn lên được phát triển; và cuối cùng là đành mất mạng sống mình đi để người khác được sống, được còn, và được còn mãi mãi.
- Tâm hồn thăng thiên không chấp nhận làm môn đệ cho những tham lam nặng nề các thứ vật chất phù phàm chóng vánh, tham lam tiền vàng óng ánh, tham lam cơ ngơi sự nghiệp của mình của người, tham lam của thiên hạ lẫy lừng lóng lánh. Tâm hồn thăng thiên cũng không chấp nhận sự ganh tỵ, hơn thua, khi mình chưa có chưa đạt điều mình muốn có, muôn đạt tới cho thỏa cái khát phàm trần.
Nhưng tâm hồn thăng thiên phải là tâm hồn yêu chuộng sự khó nghèo thanh tịnh, tâm hồn ái mộ chuyện trên trời, tâm hồn khát khao chuyện dài lâu vĩnh cửu, tâm hồn đành mất chuyện dưới đất để được chuyện trên trời, tâm hồn để ở trên trời đang khi còn rong chơi ở nơi này “cùng trời cuối đất”. Tâm hồn thăng thiên phải là tâm hồn một nghệ sĩ chân chính, một nghệ sĩ đích danh, một nghệ sĩ thanh thoát vượt lên trên cái xoàng thường xạo sự, ảo tưởng của trần gian này. Tâm hồn thăng thiên của người nghệ sĩ mang tên Giêsu Kitô, ở giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian này.
- Tâm hồn thăng thiên không chấp nhận bị nhốt trong cái cũi dục vọng dối lừa hạnh phúc, không chấp nhận bị kìm kẹp trong cái ngục tù thân xác nay còn đó mai mất đi, không chấp nhận bị giam hãm trong cái mả tô trét phấn son của nhan sắc giả tạo sớm nở tối tàn, không chấp nhận bị trị bởi cái tài năng bằng móng tay mà tưởng là vĩ đại.
Tâm hồn thăng thiên phải là tâm hồn siêu thoát khỏi những dính bén của thú vui phàm trần vô nghĩa này, thoát khỏi những thứ khoái lạc mà người phàm cho là thiên đàng hạnh phúc. Tâm hồn thăng thiên phải là khao khát những gì bình an, tinh tuyền, thanh khiết, công chính, thánh thiện, theo ý định ngàn đời của Thiên Chúa, được Thiên Chúa chúc phúc lành và bồi dưỡng bằng ân sủng. Tâm hồn thăng thiên phải là tâm hồn tìm được bình an và niềm vui nơi chính Chúa, nơi lề luật Chúa, nơi Lời Chúa và Thánh Thể Người, nơi Đức Tin và lòng tín thác vào tình yêu bao la vô biên của Thiên Chúa.
- Tâm hồn thăng thiêng không chấp nhận làm tay sai cho sự gian dối, lọc lừa, ma mãnh, xảo trá. Tâm hồn thăng thiêng không chấp nhận chuyện thề gian, nói dối, chuyện quanh co, lừa đảo, chuyện đòn xóc hai đầu, vừa đâm bị thóc lại vừa chọc bị gạo, càng không chấp nhận được chuyện có nói không, không nói có, thêm điều đặt chuyện vu vạ.
Tâm hồn thăng thiêng phải là tâm hồn của người công chính, tươi tốt như cây trồng bên bờ suối, tâm hồn yêu chuộng sự thật, sống trong sự thật, và can đảm làm chứng cho sự thật: Sự thật về Thiên Chúa là có thật. Sự thật về Tình Yêu Thiên Chúa là có thật. Sự thật về sự Phục Sinh của Đức Giêsu và ơn cứu độ là có thật. Sự thật về Sự Sống đời sau là có thật. Sự thật về Nước Thiên Chúa là có thật, ngay hôm nay và đời sau cho những ai tin tưởng yêu mến Người.
Như thế đó, tâm hồn thăng thiên là tâm hồn luôn hướng về sự chân thật, điều tốt lành thiện hảo, vẻ tuyệt mỹ của Thiên Chúa trên trời; tâm hồn thăng thiên phải là tâm hồn thuộc trọn về Thiên Chúa, trong Đức Giêsu, dưới tác động của Chúa Thánh Thần; Tâm hồn thăng thiên là địa chỉ của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị.
2. Lời nói thăng thiên, lời ca thăng thiêng
Khi tâm hồn đã thuộc trọn về Chúa, hãy để cho suy nghĩ của Chúa tràn ngập trong suy nghĩ của chúng ta, và cả lời ăn tiếng nói của Chúa, cũng tràn ngập trên môi miệng của chúng ta.
Bởi vì, ngôn ngữ của loài người tự nguyên sơ khởi thủy là ngôn ngữ của Thiên Chúa ban cho để chuyện trò với Thiên Chúa, mỗi khi Thiên Chúa xuống dạo chơi nơi vườn Địa Đàng xinh đẹp. Loại ngôn ngữ làm cho Thiên Chúa thấu hiểu con người và con người thấu hiểu Thiên Chúa. Loại ngôn ngữ làm Thiên Chúa vui thích và con người hân hoan.
Thế nhưng, chỉ trong một thoáng mê muội, khi nguyên tổ nghe theo ngôn ngữ của Xatan, chiều theo lời đường mật dỗ dành của quỷ dữ, thì ngôn ngữ loài người nhiễm phải độc dược của Xatan, để rồi khi Thiên Chúa gọi Ađam ơi, Ađam hỡi, mà chẳng nghe thấy tiếng đáp nào. Mãi sau, mới có lời đáp. Lời đáp ấy lại là lời đáp dùng loại ngôn ngữ chạy tội, ngôn ngữ đổ thừa, ngôn ngữ bất tuân, ngôn ngữ phụ tình Thiên Chúa.
Chúng ta vẫn đang nói cho nhau nghe, và nghe nhau nói bằng loại ngôn ngữ của loài người, ngôn ngữ đã từng bị nhiễm độc kiêu căng, hơn thua, thù oán, nhưng cũng là loại ngôn ngữ đã được cứu rồi bằng chính Ngôn Ngữ của Thiên Chúa, chính là Lời Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Lời của Chân Thiên Mỹ, Lời của sự bình an, Lời của hạnh phúc Nước Trời.
Lời đã từ trời xuống. Và Lời đã dùng chính ngôn ngữ của Thiên Chúa mà cứu rỗi ngôn ngữ loài người. Lời đã dùng chính Ngôn Ngữ của Thiên Chúa mà dẫn lối con người thăng thiên.
Thế thì, lời nói thăng thiêng, lời ca thăng thiêng, phải là lời nói lời ca xuất phát từ ngôn ngữ của Thiên Chúa, và không phải là lời nói lời ca xuất phát tự loại ngôn ngữ đã từng bị nhiễm độc chất độc của Xatan.
- Lời nói thăng thiêng, lời ca thăng thiêng phải là Lời Sự Thật, Lời Sự Sống của Thiên Chúa Trong Đức Giê-su.
- Lời nói thăng thiêng, lời ca thăng thiêng phải là lời tỏ tình chí thiết, lời yêu thương chân thành, lời mang lại bình an, hân hoan vui mừng, lời mang lại niềm tin yêu hy vọng cho mọi người, từ trong gia đình ra đến ngoài xã hội. Lời nói thăng thiên, lời ca thăng thiên dứt khoát không phải là loại lời mang lại buồn đau ghét ghen thù oán, không phải mang lại nghi ngờ, đố kỵ, chán nản, tuyệt vọng.
- Lời nói thăng thiêng, lời ca thăng thiêng phải là lời mời gọi mọi người tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa và hướng lòng lên những thực tại siêu nhiên bền vững, hướng lòng thoát khỏi những thực tại hư hèn.
- Lời nói thăng thiêng, lời ca thăng thiêng phải là lời xây dựng một gia đình bình an, một Giáo Xứ hiệp nhất, một làng xóm, một cộng đoàn an hòa, một thế giới chứa chan tình người, tình Thiên Chúa.
Như vậy, lời nói thăng thiêng, lời ca thăng thiêng phải là lời thấm nhuần tinh thần của Lời Tin Mừng, chính Lời Tin Mừng, chính Lời của Đức Giêsu Kitô trong mỗi người chúng con.
Ước gì, chúng ta dứt khoát bỏ đi những lời ăn tiếng nói không phù hợp với Tin Mừng. Ước gì, chúng ta chấm dứt những lời ca không hướng chúng ta về với Thiên Chúa, lại dẫn vào ngõ cụt của những mê muội trần gian, ngõ cụt của tuyệt vọng. Ước gì, chúng ta dừng ngay những cách nói, cách hát, cách phô diễn chỉ cốt sao cho nổi danh mình, mà không làm vinh danh cho Thiên Chúa.
Ước gì, chúng ta dùng ngôn ngữ của Thiên Chúa, mà ca tụng Chúa, và làm cho danh Chúa cả sáng, Nước Chúa trị đến, và thánh ý Chúa được thể hiện ngay trong đời sống của chúng ta. Ước gì, chúng ta dùng ngôn ngữ của Thiên Chúa mà nói cho nhau nghe nỗi lòng yêu của Thiên Chúa muốn tỏ bày
“Lạy Chúa xin giữ miệng con đây, nguyện xin canh phòng lưỡi con đây, xin Chúa đừng để lòng trí con vấn vương mùi đời”.
3. Cuộc sống thăng thiên
Một tâm hồn thăng thiên, một tiếng nói, lời ca thăng thiên, thì hẳn phải được thể hiện bằng chính một cuộc sống thăng thiên trước mắt mọi người.
“Chúa Giêsu lên Trời, ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời”.
Cuộc sống thăng thiên phải là cuộc sống thuộc trọn về Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Thuộc trọn về Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô thì nên giống Chúa Giêsu Kitô trong mọi sự: Một Đức Kitô hiền lành khiêm nhượng, một Đức Kitô mau chạnh lòng xót thương, mau mở lượng khoan hồng, mau xuống tay cứu khổ cứu nạn, mau sẻ chia mọi sự cho mọi người, kể cả thí mạng sống mình vì người mình yêu.
Như vậy,
- Cuộc sống thăng thiên không chấp nhận kiêu căng, hung dữ, độc ác, dối gian lọc lừa tính toán thiệt cho người hơn cho mình, nhưng, phải là cuộc sống hiền lành khiêm nhượng thật thà dễ thương, chịu thiệt thòi, hy sinh phục vụ…
- Cuộc sống thăng thiên không chấp nhận vô tình, vô cảm, vô tâm, trước bao cảnh sống của tha nhân, trước những bất hạnh, bất công, bất an, bất nhất của con người, nhưng, phải là cuộc sống biết chạnh lòng thương xót, biết giúp đỡ, biết sẻ chia, biết mất một phần đời mình đi cho người được vơi bao nỗi khốn khó. - Cuộc sống thăng thiên không chấp nhận để bụng để lòng những thành kiến, những phân biệt, những miệt thị, khinh khi, những phê phán, kết án, những chấp nhất, nhưng phải là, cuộc sống cảm thông, tha thứ, nghĩ nói và thực hiện điều tốt cho nhau nên tốt, chân thành giúp nhau sống thánh và sống hạnh phúc giữa đời.
- Cuộc sống thăng thiên không chấp nhận cách sống đóng cửa nhà mình lại, ích kỷ vun vén, vơ vét, ky cóp cho mình, cho phần lợi của mình, cho danh dự của mình, cho sự nghiệp của mình, nhưng ngược lại, phải là cuộc sống biết mở cửa nhà mình ra, đi ra với tha nhân với mọi người, để đón nhận mọi ngườ vào trong cuộc sống của mình, như Chúa Giêsu đã mở trái tim của mình mà đón hết thảy mọi người vào trong trái tim yêu thương của Chúa.
Cuộc sống thăng thiên ấy, sẽ là môt đời chứng hùng hồn rằng: chúng ta đã tiếp nhận và thực hành lời Chúa sai chúng ta đi Loan Báo Tin Mừng trước khi Người về ngự bên hữu Thiên Chúa.
“Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.
Lạy Chúa Giêsu Lên Trời, xin cho chúng con “đi giảng dạy muôn dân” bằng chính cuộc sống thăng thiên của chúng con. Xin cho cuộc sống thăng thiên của chúng con, sẽ là lời mời gọi mọi người đến với Đức Tin và Tình Yêu Thiên Chúa qua Bí Tích Rửa Tội. Và lời mời gọi mọi người đến với Chúa bằng chính cuộc sống thăng thiên của chúng con, ước gì, là lời mời gọi đẹp lòng Chúa, đúng thánh ý Chúa Thăng Thiên mong chờ. Amen.
Con người ngày nay dù đã có thể dùng phi thuyền để bay vào không gian, có thể đi bộ ra ngoài: LênTrời ABC-418
Con người ngày nay dù đã có thể dùng phi thuyền để bay vào không gian, có thể đi bộ ra ngoài vũ trụ bằng những trang thiết bị cao, nhưng bầu trời vẫn là huyền bí, giới hạn vẫn còn đó cho nên đã biết bao lần bay lên rồi lại phải vội vàng bay về, trời cao vẫn là sự xa xôi, khó hiểu, không như ở dưới đất.
Trong cuộc sống của quảng đại quần chúng, thì khái niệm về trời đất khá thân thiện, gần gũi và dễ thương, vưa coi Ông như người nhà vừa là Đấng phải tôn thờ, thể hiện qua các sinh hoạt. Ở các vùng quê nhà nào mà chẳng có bàn Thiên để cúng với Trời đất; đi xa đi gần, làm ăn ruộng rẫy ai mà chả cầu Trời; Trời rất gần vì Ông Trời biết đến con người và vạn vật: "Trời cao có mắt” “Lạy trời mưa xuống”. Bình thường con người cảm thấy Ông trời rất là dễ thương, chẳng hạn như trai gái yêu nhau họ nói duyên trời se định, may mắn điều gì đó thì nói trời cho, ý trời, và khi hoạn nạn gian truân thì chẳng biết đổ đâu thôi đổ vạ cho trời, khi mưa gió lụt lội gọi là thiên tai, lâu lâu buồn thì cũng trách trời chút ít. Nói chung khái niệm về ông trời nơi chúng ta rất bộc bạch, chân chất, mang tính yên ủi và pha lẫn sự sợ sệt. Chúa Giêsu khi đến trong thế gian, luôn luôn chỉ vẽ cho con người con đường về Trời, đó là con đường nhận ra Thiên Chúa là Cha, và mọi người là anh em. Hôm nay khi hoàn tất sứ vụ ở trần gian Ngài giã biệt mọi người để về Trời là nơi Ngài đã từ đó mà đến với chúng ta. Giáo lý mà Dức Giêsu dạy dỗ không mông lung khó hiểu, cõi trời không xa xăm, nước Trời ở trong lòng các ngươi. Chúa cũng chả dạy chúng ta phải đi bằng phương tiện khoa học như:
Phi thuyền, hay một lực đẩy mạnh nào đó để đưa chúng ta ra khỏi trái đất này, cũng không cỡi cá chép như ông táo để về trời, mà bằng sự nhận ra Chúa và thi hành mệnh lệnh Chúa. Hôm nay trước lúc chia tay Chúa lại xác định thêm một lần nữa với nhóm tông đồ : “Hãy nhân danh Thầy mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân…” Thì ra Đấng từ trời cao đến không muốn gì khác hơn là làm cho mọi người dưới thế này có cơ hội để về nơi mà chính họ đã được hứa ban, Ngài chết cho họ là nhằm xoá bỏ những trắc trở trên đường đi. Ngài đã đổ máu cứu chuộc duy nhất một lần và có giá trị vĩnh hằng. Tuy nhiên bước đường này sẽ được các tông đồ và chúng ta tiếp nối, kéo dài cho đến khi Ngài quang lâm, cho nên Chúa đi nơi xa xét theo phương diện con người cảm thấy nhưng Chúa luôn mãi ở gần “Này Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Cái quan trọng của chúng ta hôm nay là đừng sao nhãng lời nhắn nhủ của Chúa, bởi vì con đường đi lên trời của Chúa vẽ cho chúng ta không phải là một đường thẳng băng, chính Chúa Giêsu là Thiên Chúa cũng đã phải cố gắng mới hoàn tất, huống chi chúng ta là con người đầy trì trệ, nhiều khi chúng ta cũng cố gắng chấp cánh bay nhưng tội lỗi lại lôi chúng ta xuống, có khi đã chạm đến trời cao nhưng vì kiêu căng lại té xuống.
Cuộc chia tay Thầy trò không phải đã chấm dứt bằng sự kiện người về trời cao, người ở lại dưới thế, mà này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Rõ ràng cõi trời mà Chúa trình bày chẳng xa xôi mà rất gần gũi, gần gũi đến độ thân tình tin tưởng nên Chúa mời gọi cộng tác qua việc làm cho nhiều người biết Chúa, hãy đi rao giảng cho muôn dân luôn là mệnh lệnh lên đường cho các môn đệ và cũng là mệnh lệnh cho chúng ta hôm nay. Và hơn thế nữa trong một xã hội tục hoá và kém tin, mệnh lệnh này vẫn mang tính thời sự. Ngày nay người ta ngại lên đường khi mà các phương tiện, tiện ích không đáp ứng nhu cầu, và người ta cũng ngại đối diện với sự thực, đó chẳng qua là sự ru ngủ và yên nghỉ với những cái đã đạt được và cũng là sự ươn lười, cái sức ỳ đó sẽ không là lực đẩy để chúng ta vươn lên cõi trời cao đâu.
Lúc còn nhỏ khi nhìn lên bầu trời quả là một cõi xa vời và thi vị và ước vọng đi lên cõi trời luôn là những khát khao rất trẻ con là để được thấy tất cả mọi người phía dưới. Ước vọng vươn đến trời cao cũng là ước mơ của nhân loại vì cõi trần quá phức tạp và đã bị xấu đi, người ta mơ tưởng đến một cõi khác có sự công bằng hơn. Nhưng cõi trời vẫn là cái gì đó xa xôi huyền bí, nhân loại chưa thể khám phá và chẳng biết gì hơn. Sự kiện Thăng Thiên của Chúa không phải là cú ngoạn mục để lòe các môn đệ, mà là chân lý của tình yêu: Thầy đi có lợi cho anh em. Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Thầy đi để Đấng an ủi sẽ đến. Chúa về trời là nhằm thiết lập vĩnh viễn cho chúng ta một đường đi lên.
Toàn Giáo Hội hân hoan mừng lễ Chúa Thăng Thiên, tức là lên trời. Việc Chúa lên trời, Ngài đã LênTrời ABC-419
Toàn Giáo Hội hân hoan mừng lễ Chúa Thăng Thiên, tức là lên trời. Việc Chúa lên trời, Ngài đã chấm dứt cuộc đời trần thế theo ý muốn của Chúa Cha.
Vậy, đâu là ý nghĩa của việc Chúa lên trời? Ngài lên trời có chấm dứt sự hiện diện trong Giáo Hội hay không? Trước khi lên trời, Chúa đã để lại cho Giáo Hội sứ mạng gì? Và, mỗi người Kitô hữu chúng ta sống niềm hy vọng Thiên Quốc ra sao?
1. Ý nghĩa của việc Chúa lên trời
Sự kiện Chúa Giêsu về trời cho chúng ta thấy: Ngài đã hoàn toàn vâng phục Chúa Cha. Đã chu toàn sứ mạng cứu độ con người qua cái chết trên thập giá. Ngài đã sống lại để làm chứng những lời Ngài đã loan báo. Và, hôm nay, Ngài lên trời để đem lại cho chúng ta niềm hy vọng mai ngày cũng được về trời với Ngài như lời Ngài đã nói: "Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó" (Ga 12,26).
Việc Chúa Giêsu lên trời cũng là lúc kết thúc những cuộc gặp gỡ bằng xương bằng thịt và mở ra một cuộc gặp gỡ thiêng liêng, vượt lên trên không gian và thời gian. Sự kiện này không chấm dứt mọi hoạt động của Ngài trên trần gian. Nhưng qua đó, Chúa Giêsu hiện diện cách phổ quát: "Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20). Ngài hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, qua Giáo Hội, trong con người của các chứng nhân. Vì thế, Chúa Giêsu trở về với Chúa Cha, nhưng Ngài lại khai mở ra cho các Tông đồ và Giáo hội một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của việc loan báo và làm chứng về Đấng Phục Sinh.
2. Sứ mạng của các Tông đồ sau khi Chúa Giêsu lên trời
Chúa Giêsu về trời, Ngài trao ban sứ mạng truyền giáo cho Giáo hội, khởi đi từ các Tông đồ. Lệnh truyền của Chúa Giêsu:"Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo" (Mc 16,15), để "muôn dân trở thành môn đệ"(Mt 28,19) phải là lời mời gọi, một lệnh truyền cấp thiết hơn bao giờ hết.
Trước khi Chúa Giêsu về trời, về với Đấng là Cha đã sai mình đến trần gian, Ngài đã truyền lệnh cho các tông đồ: "Như Cha đã sai Thầy vào thế gian, Thầy cũng sai anh em vào thế gian" (Ga 17,18; x. 20,21). Anh em hãy ra đi và loan báo về: "Đức Mêsia phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba sẽ từ cõi chết chỗi dậy. Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân bắt đầu từ Giêrusalem" (Lc 24,46-47).
Khi Chúa đã lên trời, thì cũng là lúc các Tông đồ phải xuống núi, phải ra đi để đến với muôn dân như lời Ngài đã truyền. Các ông ra đi để tuyên xưng niềm tin của mình vào Đấng đã chết và đã phục sinh. Vào Đấng là đường, là sự thật và là sự sống. Vào Đấng đã yêu thương con người, đã chết và đã sống lại vì hạnh phúc và phần rỗi của con người. Đấng ấy đã lên trời để đem lại niềm hy vọng cho những ai tin vào Ngài cũng được lên trời như các ông đã thấy Ngài lên trời.
Chính trong giây phút này, các ông nhận lãnh sứ mạng xây dựng Giáo Hội, một Giáo Hội có Thiên Chúa là Chủ và có nhau là anh em. Một Giáo Hội yêu thương, hiệp nhất. Một Giáo Hội công bằng văn minh.
Khi Ngài lên trời, Ngài đã giơ tay chúc lành cho các Tông đồ. Hành vi giơ tay được hiểu như là cử chỉ của sự trao ban bình an và đồng thời cũng là biểu hiện sự tin tưởng và trao phó sứ mạng loan báo Tin Mừng cho các Tông đồ.
Sứ mạng mà các ông lãnh nhận và tiếp nối nơi Thầy của mình không phải là một công việc dễ dàng. Chính Chúa Giêsu đã cảnh báo: "Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói" (Lc 10,3). Vì thế, "anh em hãy ở khôn như rắn và đơn sơ như chim bồ câu" (Mc 10,16b).
Khó khăn! Đúng vậy. Chẳng bao lâu, các ông đã bị vua Chúa, quan quyền truy nã vì loan báo về danh Chúa Giêsu... Vì thế, các Tông đồ phải chạy trốn hết thành này sang thành nọ. Hơn bao giờ hết, các ông thấm thía chân lý của hạt lúa gieo vào lòng đất. Chân lý ấy đã được Thầy của mình sống cách triệt để và mời gọi mình bước theo: "Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất không chết đi thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, thì nó sinh nhiều bông hạt" (Ga 12,24). Hiểu được điều đó, các ông đã không sợ bất cứ ai hay một thế lực nào làm cản trở công cuộc loan báo Tin Mừng. Quả thế, Thánh Phaolô đã nói: "Về bất cứ điều gì, đừng sợ những kẻ chống đối anh em: đó là dấu chỉ cho thấy họ sẽ bị hư vong, còn đối với anh em, thì lại là dấu chỉ ơn cứu độ. Điều ấy là ân huệ Thiên Chúa ban. Quả thế, nhờ Đức Kitô, anh em đã được phúc chẳng những là tin vào Người, mà còn được chịu đau khổ vì Người. Nhờ vậy, anh em được tham dự cùng một cuộc chiến mà anh em đã thấy tôi phải đương đầu trước kia, và nay anh em nghe biết là tôi vẫn còn tiếp tục" (Pl 1,28-30). Cuối cùng, các ông đã không thể ngồi yên khi biết bao con người chưa nhận biết Chúa, nên lại một lần nữa, Phaolô diễn tả tâm trạng đó như sau: "Khốn thân tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng" (1 Cr 9,16).
3. Sứ mạng loan báo Tin Mừng của mỗi chúng ta
Tiếp nối các Tông đồ, có biết bao nhiêu người đã lên đường, đến những nơi heo hút treo leo. Đã biết bao vị thừa sai bỏ lại mạng sống nơi rừng thiêng nước độc. Miễn sao Tin mừng được loan báo. Quả thật: việc truyền giáo hay loan báo Tin mừng là bản chất của Giáo hội Chúa Kitô (x. Công đồng Vatican II, Sắc lệnh Ad Gentes, số 4;16). Sứ mạng ấy bắt nguồn từ việc Chúa Cha đã trao cho Con của Ngài là Chúa Giêsu, và chính Ngài cũng trao phó cho các Tông đồ và cho mỗi chúng ta: "Như Cha đã sai Thầy vào thế gian, Thầy cũng sai anh em vào thế gian" (Ga 17,18; x. 20,21).
Ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta thuộc về Chúa Kitô và nhận lãnh sứ mạng ngôn sứ từ nơi Ngài. Vì thế, mỗi người chúng ta hãy ra khỏi sự ổn định, an toàn của bản thân và hãy lên đường loan báo Tin Mừng, dẫu biết rằng, công cuộc ấy chẳng mấy tốt đẹp theo kiểu con người suy nghĩ. Vì thế, Chúa Giêsu đã tiên báo: "Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét" (Lc 21,17). Và "hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em: tôi tớ không hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em" (Ga 15,29). Nhưng hãy học nơi các Tông đồ: càng bị sỉ nhục, bắt bớ và tù đày, các ông lại càng "hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu" (Cv 5,41). Bởi xác tín rằng "... trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian" (Ga 16, 33; x. Rm 8,35-37).
Lời loan báo của chúng ta vào Đức Giêsu phục sinh quả là một hành trình, đòi hỏi chúng ta phải là những người đã cảm nghiệm được về Đấng mà chúng ta loan báo: "Chính anh em là chứng nhân về những điều này" (Lc 24,48). Không ai lại đi loan báo về một người mà chúng ta không biết và không tin; hay loan báo vào những thời điểm hay một nhóm người nhất định trong một không gian cụ thể, mà là: "Anh em hãy là nhân chứng cho Thầy đến tận cùng trái đất" (x. Cv 1,8). Trong hành trình loan báo đó, dù gặp phải muôn vàn khó khăn, nhưng chúng ta tin tưởng vào sự bảo trở của Đấng mà Chúa Giêsu đã ban xuống trên các Tông đồ khi xưa: "Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem và khắp cùng thế giới" (x. Cv 1,8).
Chúng ta mừng lễ Chúa lên trời, cũng là lúc một lần nữa chúng ta xác định về vai trò ngôn sứ và chứng nhân của mỗi chúng ta. Mong thay lời bài hát "Đẹp Thay" của Linh mục Nhạc sĩ Mi Trầm lại một lần nữa được vang lên trên môi miệng những ngôn sứ của Lời trong xã hội hôm nay: Đẹp thay những bước chân gieo mầm cứu rỗi. Đẹp thay những bước chân rảo khắp nẻo đường. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong vui sướng. Ai gieo trong nước mắt, sẽ về trong tiếng cười. Ôi đẹp thay những bước chân tiến vào giữa lòng thế giới, loan tình thương Chúa Trời, loan niềm vuii cứu đời, cho mọi người và mọi nơi.
Để kết thúc, xin cũng mượn lời của Đức cố Hồng y Phanxicô X. Nguyễn Văn Thuận trong tác phẩm Đường Hy Vọng của ngài, khi nói về những khó khăn mà người môn đệ của Chúa Giêsu sẽ phải chịu trên con đường loan báo Tin Mừng; đồng thời cũng xác tín mạnh mẽ những ân ban cho những ai trung thành đến cùng trong sứ mạng loan báo Tin Mừng. Ngài nói: "Con run sợ: vấp ngã, khó khăn, hiểu lầm, công kích, sỉ nhục, tử hình... Con quên Phúc Âm sao? Chúa Giêsu đã chịu tất cả. Cứ theo Ngài con sẽ Phục Sinh" (ĐHV số 44).
Lạy Chúa, hôm nay Chúa về trời, Chúa đã chúc lành cho các Tông đồ và cũng cho tất cả mỗi người chúng con là những người tin Chúa; đồng thời Chúa cũng trao phó cho các ngài và Giáo Hội phải loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất. Xin Chúa cho mỗi chúng con ý thức được điều đó và sẵn sàng ra đi làm chứng cho Chúa trong lòng xã hội hôm nay dầu có phải chịu đau khổ, thử thách. Amen.
Ngày xưa, có một người cha có mười hai người con. Dù ông đều yêu thương các con, ông vẫn LênTrời ABC-420
Ngày xưa, có một người cha có mười hai người con. Dù ông đều yêu thương các con, ông vẫn có một tình thương dịu dàng với đứa con áp út tên Giuse. Những người con khác ganh tỵ với Giuse và quyết định giết anh. Tuy nhiên, vào giây phút cuối cùng, họ đổi ý. Thay vì giết em, họ bán em cho những thương gia đi ngang qua đó, họ nói với cha họ rằng người em đã bị thú giết chết.
Giuse bị xích lại và đưa sang Ai Cập, ở đó ông được bán như một người nô lệ. Ông có một đời sống cùng cực, hèn kém. Dsư5 việc còn tệ hơn, khi ông bị vu khống và bị giam vào ngục tối. Dù xung quanh là những tội phạm cứng lòng, ông vẫn tiếp tục tín nhiệm vào Thiên Chúa và sống một đời sống tốt. Ông cũng làm bạn với các tội phạm. Cuối cùng ông làm rạng danh ông và được tha.
Lúc đó, như thấy trước nạn đói khủng khiếp sẽ đến, ông đã cảnh báo nhà vua phải truyền lệnh cho dân tiết kiệm ngũ cốc. Nhà vua không chỉ theo lời khuyên của ông mà còn đặt ông làm quản lý công việc. Giuse đã hoàn thành công việc một cách xuất sắc.
Nạn đói đã xảy ra như dự kiến và dân chúng có thể lấy lúa gạo tích trữ ra dùng. Nhưng trong các nước láng giềng, tình trạng trở nên tồi tệ. Dân chúng các nước kéo nhau về Ai Cập để tìm mua ngũ cốc. Và nhà vua nói với họ: “Hãy đến gặp Giuse”.
Một ngày kia, anh em của Giuse đã đến Ai Cập để mua ngũ cốc. Khi họ nhận ra ông họ run sợ. Nhưng thay vì trả thù, Giuse đã tiếp đãi tử tế, và cho họ đầy đủ ngũ cốc mà họ cần. Ông nói với họ hãy trở về nhà và đưa cha họ đi theo họ trở lại Ai Cập cho ông gặp.
Người cha già rất đỗi vui mừng khi nghe nói rằng đứa con trai thân yêu của ông vẫn còn sống. Các anh của Giuse đã phạm phải một hành động ác độc chống lại ông. Nhưng qua đó, điều tốt lành đã đến với ông. Ông có thể cứu các anh mình khỏi nạn đói và làm cho cho cả nhà được đoàn tụ.
Câu chuyện của Giuse là một trong những câu chuyện cao cả nhất của Kinh Thánh. Ông Giuse là hình ảnh của Đức Giêsu, Chúa Con yêu dấu của Chúa Cha, đã bị anh em Người bán đi, bị giết chết, nhưng giờ đây đã được Chúa Cha cho sống lại và đặt Người ở bên hữu Chúa Cha trong vinh quang. Từ vị trí cao trọng ấy, Người cứu chuộc chúng ta, anh chị em của Người khỏi tội lỗi và cái chết đời đời. Và Người tìm kiếm để quy tụ mọi thành phần còn tản lạc của gia đình Thiên Chúa.
Ngày hôm nay chúng ta cử hành sự thăng thiên của Đức Giêsu. Người lên trờ ngự bên hữu Chúa Cha. Đây là một ngày vui vẻ. Nhưng Người đã cho chúng ta một nhiệm vụ phải hoàn thành. Không phải là phân phát ngũ cốc, nhưng là rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới.
Bốn mươi ngày sau khi Đức Giêsu sống lại, Giáo Hội mừng lễ Đức Giêsu lên trời. Sách công vụ LênTrời ABC-421
Bốn mươi ngày sau khi Đức Giêsu sống lại, Giáo Hội mừng lễ Đức Giêsu lên trời. Sách công vụ tông đồ (Cv.1, 9), tin mừng theo thánh Luca (Lc.24, 51), tin mừng theo thánh Máccô (Mc.16, 19) nói đức Giêsu lên trời. Sách công vụ tông đồ cho thấy Đức Giêsu dẫn các môn đệ ra núi cây dầu, rồi Ngài lên trời trước mắt các ông, và có đám mây che Ngài khiến các ông không còn thấy được Ngài nữa.
Tin mừng theo thánh Matthêu (Mt.28, 20) không nói Đức Giêsu lên trời, nhưng nói Ngài ở cùng con người cho đến tận thế. Liệu có mâu thuẫn không, khi một tin mừng nói Ngài lên trời, còn tin mừng khác nói Ngài ở lại? Lên trời, là một từ ngữ khá hàm hồ và rất là chủ quan. Trời chỉ khoảng không phía trên đầu tôi, nhưng nếu một người ở bên kia trái cầu, nghĩa là người đó ở cách tôi 12 tiếng đồng hồ, thì trời của họ lại là phía dưới chân tôi. Như vậy, lên trời là lên phía trên đầu một người hay xuống phía chân của người đó? Khi nhìn vấn đề như vậy, dường như người ta thấy không được hiểu “lên trời” theo nghĩa đen của từ ngữ.
Lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, là một cụm từ dùng để chỉ việc Đức Giêsu được siêu tôn ngang bằng Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng, đâu có tay phải tay trái như con người. Lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, là cách diễn tả nhân hình về thực tại siêu hình. Đức Giêsu là Thiên Chúa. Ngài và Cha là một. Chỉ khi người ta nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa, người ta mới thấy tình yêu của Thiên Chúa đối với con người như thế nào! Khi nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, các Kitô hữu mới kinh ngạc và thán phục trước tình yêu vô cùng của Thiên Chúa đối với con người khi biết Đức Giêsu đã được sinh hạ trong chuồng chiên cừu ở Bêlem và đã phải chết ô nhục trên thập giá.
Giữa hai cụm từ “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” và “Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa,” người ta thấy cụm từ “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” được hiểu theo nghĩa thông thường hơn. Nếu Đức Giêsu Phục Sinh luôn ở với con người, vậy trong khoảng thời gian ông Thomas không tin Ngài phục sinh, thì Đức Giêsu Phục Sinh ở đâu? Đức Giêsu Phục Sinh vẫn ở đó với các tông đồ, vẫn ở đó với ông Thomas nhưng Ngài không cho ông Thomas thấy Ngài thôi. Cũng tương tự vậy, Đức Giêsu Phục Sinh vẫn đang ở với chúng ta dù chúng ta không thấy Ngài.
Khi chúng ta mừng lễ Chúa Phục Sinh lên trời, thì đúng ra chúng ta phải ý thức và mừng Đức Giêsu Phục Sinh đang hiện diện với chúng ta. “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời thầy, Cha thầy sẽ yêu thương người ấy, Cha thầy và Thầy sẽ đến và ở với người ấy” (Ga.14, 23). Thiên Chúa ở với con người, đây là tin vui tin mừng, vì đó cũng là dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương con người. Vì những người yêu thương nhau thì muốn ở gần nhau, Thiên Chúa muốn ở với con người, nghĩa là, Ngài yêu thương con người. Thiên Chúa hạnh phúc khi ở với con người.
“Thầy đi thì ích lợi hơn cho anh em, vì nếu Thầy không đi, thì Đấng an ủi sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Ngài đến với anh em” (Ga.16, 7). Thánh Thần sẽ được Thiên Chúa Cha sai đến (Ga.14, 16) và cũng được Đức Giêsu sai đến (Ga.15, 26; 16, 7) với con người. Thánh Thần sẽ trợ giúp con người trong mọi chuyện, mọi nơi và mọi lúc. Thánh Thần sẽ dạy chúng ta biết sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa. Cũng chính Thánh Thần sẽ ban ơn trợ sức cho con người, để họ vượt thắng được ma quỷ, thế gian và xác thịt. Thánh Thần là lửa mến thiêu đốt mọi dơ bẩn, đốt nóng tâm hồn nguội lạnh; Thánh Thần là nước mát làm dịu các đam mê, tẩy sạch tâm hồn dơ bẩn. Thánh Thần đưa dẫn người ta tới gặp gỡ Thiên Chúa, làm người ta cảm nghiệm hạnh phúc khi sống với Ngài.
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa. Đức Giêsu luôn hướng về Cha cho dù Ngài sống giữa trần gian. Đức Giêsu luôn tùy thuộc Thiên Chúa, đến độ “của ăn của Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy” (Ga.4, 34). Đức Giêsu và Thiên Chúa Cha luôn là một với nhau trong mọi sự (Ga.10, 30; 16, 15; 17, 10.22). Con người là một trong Thiên Chúa, nhưng khác với Đức Giêsu và Cha là một; cũng tương tự mỗi người chúng ta là con Thiên Chúa, nhưng khác với Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đến cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga.14, 28).
Chúa Cha cao trọng hơn Đức Giêsu, vì Thiên Chúa đã nhập thể, Ngài đang trong tình trạng tự hủy, Ngài nên giống con người mọi đàng trừ tội, chính vì vậy “Cha cao trọng hơn Thầy.” Còn tự nguyên thủy, Cha và Con đều là một. Cha chỉ là Cha nếu có Con, và không có Con thì cũng chẳng có Cha. Có Cha có Con thì có Thánh Thần. Cả ba đều là một trong Thiên Chúa, cả ba đều là một Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng duy nhất từ ngàn xưa cho đến bây giờ.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Lên trời, nghĩa là sao?
2. Theo bạn, có gì mâu thuẫn không khi trong sách Công Vụ Tông Đồ (Cv.1, 9), tin mừng theo thánh Luca (Lc.24, 51), và Maccô (Mc.16, 19) nói Chúa lên trời, còn tin mừng theo thánh Matthêu (Mt.28, 20) nói Đức Giêsu ở lại với con người cho đến tận thế?
3. Bạn hiểu “Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc.16, 19) như thế nào?
Hôm nay, toàn thể Giáo hội long trọng mừng lễ Chúa Kytô vinh hiển về trời. Có thể nói biến cố LênTrời ABC-422
Hôm nay, toàn thể Giáo hội long trọng mừng lễ Chúa Kytô vinh hiển về trời. Có thể nói biến cố Thăng Thiên là một biến cố đặc biệt, vì đó không chỉ là một mạc khải biểu lộ vinh quang khải hoàn của Chúa Kytô nhằm đóng dấu ấn kết thúc cuộc đời cũng như sự kiện Phục sinh của Người; Đó cũng không chỉ là biến cố cuối cùng của lịch sử cứu độ mà đây chính là thời kỳ khai mở cho một biến cố mới: Chúa Thánh Thần sẽ đến hướng dẫn và dạy dỗ các môn đệ như Chúa Giêsu đã hứa.
Khi đối chiếu hai bản văn Tin mừng thứ ba và sách Công vụ Tông đồ của cùng một tác giả là thánh sử Luca, chúng ta không khỏi ngạc nhiên vì cùng một biến cố Thăng Thiên nhưng lại có sự mâu thuẫn rõ ràng về mặt thời gian: một đàng là biến cố Thăng Thiên xảy ra ngay sau khi Chúa Phục sinh, chỉ trong một ngày và một đàng là 40 ngày sau (x. Lc 24; Cv 1, 3). Lý giải sao về điều này?
Chúng ta có thể thấy dụng ý thần học của Luca trong đoạn Tin mừng trên, vì sự thực thì Phục sinh và Thăng Thiên là một thực thể thống nhất không thể tách rời nhằm biểu lộ vinh quang của Đấng Phục sinh và quyền thống trị của Người. Như thế, ngay sau khi Phục sinh, Chúa Kytô đã đi vào vinh quang thiên quốc chứ không phải chờ đợi gì nữa. Tuy thế, thỉnh thoảng Chúa Kytô xuất hiện cách hữu hình với các môn đệ nhằm củng cố đức tin và dạy dỗ các ông. Có thể thấy 40 ngày là quãng thời gian tượng trưng đầy đủ và sung mãn để các ông tiếp nhận những giáo huấn và hiểu rõ hơn sứ mệnh của Người. Thật vậy, đây chính là quãng thời gian mà Chúa Kytô tỏ mình cho các môn đệ nhận biết Người (Lc 24, 39). Người mở tâm hồn cho các ông hiểu rõ ý nghĩa của biến cố Phục sinh (24, 44). Để rồi những gì các ông vừa trải nghiệm với Người, tất cả sẽ trở thành những chủ đề cho lời rao giảng cốt yếu sau này- những gì đã được Kinh thánh loan báo đều được thực hiện trọn vẹn trong mầu nhiệm Vượt qua. Chính các ông sẽ là những chứng nhân cho những gì các ông từng trải nghiệm mà Công vụ Tông đồ đã ghi. Sau quãng thời gian này, Chúa Kytô không còn hiện diện cách hữu hình, cách thể lý bằng xương bằng thịt nữa và tác giả Công vụ Tông đồ nói rằng Chúa Kytô lên trời.
Thánh sử Luca ghi lại sự kiện Chúa lên trời thật giản dị: “Người dẫn các ông tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời” (24, 50). Hình ảnh cuối cùng của Chúa Kytô ở trần gian chính là bàn tay giơ ra để chúc lành. Đây chính là hình ảnh tuyệt vời bởi nó không chỉ là dấu chỉ từ biệt và chúc lành mà chúng ta thường thấy nơi các thánh tổ phụ chúc lành cho các con, cho những người thừa kế vào lúc lìa cõi thế, mà còn là dấu chỉ nhằm cho thấy Chúa Giêsu mãi mãi sẽ ở cùng và ban ơn cho các môn đệ của Người ở trần gian này. Cuộc chia ly này không giống cuộc chia ly trong vườn Ôliu, các môn đệ lòng đây hoan hỷ và không ngớt tụng ca Thiên Chúa: cuộc chia ly trở nên dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa Kytô bên cạnh các môn đệ.
Biến cố Thăng Thiên không chỉ cho thấy công trình cứu chuộc như lời Kinh thánh loan báo đã hoàn thành mà còn là thời điểm làm cho tất cả mọi người nhận ra những lầm lỗi của mình, ăn năn sám hối để hưởng nhờ ơn tha thứ của Thiên Chúa; biến cố Thăng Thiên không chỉ là lúc Chúa Kytô Phục sinh trao trách nhiệm rao giảng cho các môn đệ mà còn là thời điểm đ¨¢nh dấu những hoạt động truyền giáo cho muôn dân của các ông sau này; biến cố Thăng Thiên không chỉ là một lời hứa, một lời chúc phúc nhưng còn là một sự hiện diện, một sức mạnh của Chúa Kytô làm cho các môn đệ hoan hỷ, không ngớt lời tụng ca Thiên Chúa và giúp các ông trở nên can đảm và nhiệt huyết hơn trong sứ vụ chứng nhân Tin mừng.
Ước gì tâm tình của ngày lễ Thăng Thiên giúp mỗi người chúng ta thêm lòng tin tưởng vào sự hiện diện cách vô hình của Đấng Phục sinh để rồi như các môn đệ xưa, cuộc sống của chúng ta là những chuỗi ngày đầy ắp niềm vui trong Chúa, lời cầu nguyện và tạ ơn của chúng ta sẽ hoà nhập với lời cầu nguyện và tạ ơn của các môn đệ để rồi theo chân các ngài, chúng ta ra đi dấn thân cho công cuộc truyền giáo như lòng Chúa hằng ước mong.
Một tín hữu đi ngang qua một quán rượu, anh nghe trong quán có tiếng cười nói ầm ĩ. Anh dừng lại LênTrời ABC-423
Một tín hữu đi ngang qua một quán rượu, anh nghe trong quán có tiếng cười nói ầm ĩ. Anh dừng lại lắng nghe, thì ra nhóm đàn ông vừa uống rượu vừa chế giễu tôn giáo và những kẻ có đạo. Anh nói với họ rằng: “Đúng đó, tôi chẳng hiểu các màu nhiệm trong đạo, nhất là kẻ chết có thể sống lại. Nhưng tôi biết rõ một điều ở trong thành phố này, Thiên Chúa đã cúi xuống một nắm đất sét hôi hám, bẩn thỉu vô cùng, Ngài thổi hơi vào nó. Nó liền biến đổi từ gã đâm thuê, chém mướn, sike, trộm cướp, cờ bạc, rượu chè, thành một thanh niên kiến tạo hòa bình, thương yêu giúp đỡ láng giềng. Người đó chính là tôi, đang đứng trước qúi vị đây”. Cả đám đông ồ lên một tiếng. Thì ra họ đã nghe đồn về “anh trưởng” của một mái ấm thành phố mà báo chí thường nhắc đến.
Nếu suy nghĩ một chút, quí vị ngộ ra lời người thanh niên còn đi xa hơn sự thật về anh rất nhiều. Thiên Chúa đã thổi Thần Khí vào nắm đất trong vườn Eđen và nhân lọai thành hình. Ngài lại rợp bóng trên nhân lọai và nhân lọai ấy trở thành Con của Ngài trong lòng trinh nữ Maria. Nhân lọai mới này chịu khổ nạn trên thập giá để đền bù tội lỗi, nhưng ngày thứ ba sống lại. Hôm nay được đón về trời ngồi tòa vinh hiển, có các thiên thần hầu cận.
Lên trời có ý nghĩa thế nào đối với đức Kitô, thì cũng vậy đối với mỗi tín hữu, thí dụ người thanh niên hư hỏng vừa nói ở trên. Vậy lên trời đối với Chúa Giêsu ra sao? Và chúng ta thế nào? Có được quyền lên trời không? Phải sống ra sao để theo Chúa? Trước hết, lên trời đối với Chúa Giêsu là sự nghiệp và đau khổ của một con người đã chấm dứt. Ngài lên cùng Thiên Chúa Cha với thân xác và linh hồn mà Ngài đảm nhận ở dương gian. Ngài và Thiên Chúa Cha kết hợp mật thiết trong tình yêu chân thật là Chúa Thánh Thần. Đấng sẽ đổ ơn lành xuống cho nhân lọai, khởi sự từ biến cố lễ 50. như vậy sự hiện diện của Thiên Chúa trên Giáo Hội không khi nào chấm dứt, đúng như lời Chúa Giêsu tuyên bố: “Thày sẽ ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28,20). Điều Thiên Chúa bắt đầu ở vườn Eden, nay hòan tất nơi đức Kitô, bất chấp tội lỗi.
Chương trình của Thiên Chúa không bao giờ thất bại. Chúa Giêsu là con của lòai người, nay là con của Thiên Chúa xét theo nhân tính. Ngài là tạo vật mới vượt qua không gian, thời gian, đau khổ và cái chết. Như vậy nhân tính đã được dự phần vào thiên tính thực thụ và có chứng cớ rõ ràng. Đúng là hy vọng lớn lao cho lòai người? Chúng ta không được phép thất vọng vì bất cứ lý do nào. Đức Giêsu đã tòan thắng sự dữ và tội lỗi, chúng ta cũng có hy vọng tương tự.
Con đường lên thiên đàng đã được họach định cho nhân lọai. Nhân tính Đức Giêsu vui hưởng hạnh phúc, mà tai chưa hề được nghe, mắt chưa hề được xem, trí tuệ chưa hề tưởng tượng. Ngài uống tận nguồn nước vĩnh cửu của đời sống Ba Ngôi Ngài cử hành muôn thuở chiến thắng thế gian, satan, xác thịt cùng với Đức Mẹ, các thánh và các thiên thần trong vinh quanh. Nhưng xin nhớ trên dương gian Ngài không hề ích kỷ, trên thiên đàng càng xả kỷ hơn nữa. Trên dương gian Ngài chữa lành bệnh tật, cho kẻ què đi được, kẻ điếc được nghe, câm nói được, chết sống lại thì bây giờ chẳng lẽ Ngài không làm được nữa sao? Ngài đã thí mạng sống vì chúng ta, chẳng lẽ Ngài thôi thực hiện? Vì thế thơ Do Thái viết: “Ngài hằng đứng trước tòa Thiên Chúa để cầu bầu cho nhân lọai”. Nếu bà thánh Thérésa Hài Đồng Giêsu trước khi qua đời hứa mưa hoa hồng ân phúc xuống chị em trong dòng, chẳng lẽ Đức Giêsu không làm được cho chúng ta?
Cho nên chúng ta phải tin rằng Ngài đang hiện diện trong Hội thánh, tưới gội ơn cứu rỗi cho nhân lọai. Các bí tích là một bảo đảm. Ngài ở với lòai người trong bí tích Thánh Thể y như ở trên trời vinh hiển, yêu thương, quyền năng. Xin đừng đùa cợt với các bí tích đó là công việc Thiên Chúa tiếp tục nơi dương gian. Ngài hòan tòan là con người mới với thân thể thiêng liêng, không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Ngài hiện diện cho những ai có đôi mắt đức tin, như các tông đồ xưa, nhất là nơi nhà tạm với ngọn đèn leo lét.
Chúng ta phải làm chi lúc này? Đừng đứng đó mà ngó lên trời, như hai thiên thần cảnh cáo các môn đệ? Sự thật một số tín hữu tiên khởi đã lầm tưởng Chúa sắp xuất hiện, nên cứ ngồi đó mà chờ đợi, đến nỗi Thánh Phaolô phải nói thẳng thừng: “Ai không chịu làm thì đừng ăn.” Tín hữu không phải là kẻ mộng du, nhưng là người thức tỉnh, chia sẻ cuộc sống của Ngài, chúng ta phải lao động và làm việc như Chúa. Các người làng Nazareth ngày xưa đã ngạc nhiên: “Anh ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria sao?” Câu nói này chẳng là trò đùa, mà là sự thật. Suy ra, Chúa lao động với đôi tay và khối óc suốt 30 năm. Còn ngài đi đây đó rao giảng sứ mệnh thì quá hiển nhiên. Bốn phúc âm đều thuật lại, không cần biện minh. Vậy mà, hỡi ôi, các tu sĩ linh mục ngày nay cư sử ra sao trong cuộc sống? Họ dùng thời gian, tài sức ra sao cũng hiển nhiên không kém! Chia sẻ cuộc sống với Chúa là điều kiện cần thiết để nên giống Ngài và đọat giải cứu rỗi. Các môn đệ tiên khởi đã nêu gương cho chúng ta hôm nay! Bao lâu nữa Ngài sẽ trở lại? Chẳng ai được biết. Nhưng mọi người đều biết rằng, trừ thân xác, còn linh hồn mỗi người trở về cùng Thiên Chúa thì không phải đợi. Cho nên lao động để nâng đỡ gia đình, con cái, xã hội là cần thiết và như vậy chúng ta tích cực chuẩn bị cho ngày Ngài trở lại.
Hiện thời trên dương gian Tin mừng của Chúa Kitô là Tin mừng thánh giá. Qua tin mừng ấy, nhất là qua những thương tích, Ngài tưới gội sức sống và ơn thánh xuống cho thế giới. Màu nhiệm cứu độ của Ngài còn tiếp tục qua con đường đó, chứ không phải an nhàn, thư thái. Ngài mời gọi chúng ta cộng tác: “Ai muốn theo Tôi, hãy để kẻ ấy vác thập giá mình hằng ngày mà theo.” Vậy mà một tu sĩ trẻ vừa nói với tôi: “Đi tu chỉ mong được có thế!” Ý ông là được ăn sung, mặc sướng, tận hưởng các tiện nghi thế gian. Chẳng hiểu thần khí nào thúc đẩy ông như vậy. Chắc chắn không phải Thần Khí Đức Kitô. Vì hôm nay Ngài về trời để lại cho chúng ta con đường thập giá để noi theo mà tiến bước về trời. Chẳng còn con đường nào khác. Amen. Alleluia.
(G. Bessiere: ‘Dieu si proche’ Năm C, DDB, trg 68-69).
Tận cùng lại là một khởi đầu. Mọi sự đều xảy ra tại Giêrusalem. Các môn đệ đã cảm nghiệm được LênTrời ABC-424
Tận cùng lại là một khởi đầu.
Mọi sự đều xảy ra tại Giêrusalem.
Các môn đệ đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Đức Giêsu, Người đã phục sinh. Các ông đã bắt đầu hiểu rằng sự việc phải đi tới đích điểm đó và phải được hoàn thành cách vinh quang. “Cần phải…”. Đây không phải là do định mệnh an bài. Cụm từ đó chỉ có ý nói rằng mọi biến cố tìm được ý nghĩa trong Thiên Chúa và chúng là tiếp nối của một quá khứ cao quý nhất. Một nụ hoa hé nở, một việc kỳ diệu Thiên Chúa làm ở giữa dân Người.
Đức Giêsu được “đưa lên trời”. Những lời trăn trối cuối cùng của Người là lệnh “sai đi”, và là lời loan báo cho họ một sức mạnh từ trời cao, đó là Thần Khí được ban xuống, Thần Khí mà các Ngôn sứ đã loan báo. Từ nay, những con người ấy sẽ mang trên tay và trong trái tim ơn tái sinh. Các ông sẽ làm lây lan ơn Thiên Chúa, biến đổi cả nhân loại. Đức Giêsu đi về cùng Cha Người, cốt để các ông ra đi đến tận cùng trái đất.
Cử chỉ cuối cùng của Đức Giêsu thâu tóm cả cuộc đời của Đức Giêsu trên trần gian: “Đang khi giơ tay chúc lành cho các ông, thì Người lìa các ông…”. Đức Giêsu lên trời đang khi chúc lành, hình ảnh cuối cùng đó sẽ còn mãi: bàn tay đang chúc phúc.
Còn các ông “lòng đầy hoan hỉ” và “các ông không ngớt chúc tụng Thiên Chúa trong đền thờ”. Giữa trời và đất, giữa đất với trời, lời chúc phúc được giao lưu. Giờ đây các môn đệ Đức Giêsu – những môn đệ thời xưa và những môn đệ thời nay – cần phải loan báo Tin Mừng cho đến tận cùng thế giới và tận cùng lịch sử, bằng lời nói và bằng hành động. Phải không ngớt chúc tụng.
Đức Giêsu đã lên trời thế nào? Ta hãy nghe thánh Luca tường thuật thật giản dị: “Đức Giêsu lìa LênTrời ABC-425
Đức Giêsu đã lên trời thế nào? Ta hãy nghe thánh Luca tường thuật thật giản dị: “Đức Giêsu lìa khỏi các môn đệ và được đưa lên trời”.
Có điều lạ là các môn đệ không biến cuộc chia ly thành một tấn bi kịch. Tác giả thuật lại rằng các ông trở lại Giêrusalem lòng đầy hoan hỉ. Dường như các ông đã được soi sáng cho hiểu rằng: Đức Giêsu đã hoàn thành trọn vẹn sứ mạng cứu thế của Người. Từ nay đến lượt các ông có nhiệm vụ làm chứng.
Biến cố Lên Trời cho thấy công trình cứu độ này đã hoàn thành; mọi điều Thánh Kinh loan báo đều là lời của Thiên Chúa. Tất cả đều đã được thực hiện, cả đến việc phục sinh. Từ nay, làm cho thế giới sám hối trở lại.
Biến cố Lên Trời chứng tỏ rằng Đức Giêsu chuyển giao nhiệm vụ cho các chứng nhân. Giờ đây đến lượt các môn các đệ hoạt động. Họ có nhiệm vụ làm cho kế hoạch đã được hoàn thành nơi Đức Giêsu được tỏ hiện cho mọi dân mọi nước.
Đồng thời biến cố lên Trời cũng còn la một lời hứa. Một sức mạnh nội tâm sẽ được ban xuống cho các chứng nhân của Đức Giêsu. Một sức mạnh nội tâm sẽ được ban xuống cho họ từ trời cao. Sức mạnh ấy củng cố trí tuệ và tâm hồn các ông, sẽ biến các ông nên can đảm.
Biến cố Lên trời là lơi chúc phúc từ trời. Một phúc lành làm cho con người cảm nghiệm năng lực của Thiên Chúa thấm nhập vào mình, cảm thấy mình được tôn trọng trong tự do và có khả năng sáng tạo để đạt kết quả.
Biến cố Lên Trời còn được tiếp nối bằng lời cầu nguyện vui tươi và tinh thần hoan hỉ. Các môn đệ không bị mồ côi chút nào. Các ông có Chúa Thánh Thần ở cùng. Các ông ở nhà của Người là Đền thờ. Các ông ca tụng những thiện hảo của Thiên Chúa. Các ông chúc tụng Người.
***
Niềm vui của ta, hỏi rằng có ngang tầm với niềm vui của các môn đệ đầu tiên không? Lời cầu nguyện của ta, có hòa nhập với lời tạ ơn của các ông không? Cuộc sống thường ngày của ta có phải là cuộc dấn thân truyền giáo theo chân các tông đồ không?
Bởi vì biến cố Lên Trời của Chúa phải được sống và được cử hành như thế đó.
Trời, thiên đàng, chính là quê hương thật của chúng ta. / Chúa Cha rất yêu thương chúng ta. Ngài LênTrời ABC-426
Trời, thiên đàng, chính là quê hương thật của chúng ta. / Chúa Cha rất yêu thương chúng ta. Ngài lo lắng đủ cách để cho mỗi người chúng ta được phước thiên đàng. Ngài cho Con Một Ngài xuống thế để cứu chuộc chúng ta, để đưa chúng ta về thiên đàng với Ngài.
2. Chúa Giêsu nói rất rõ về thiên đàng.
Ngài nói Ngài bởi trời, bởi thiên đàng mà đến: “Tôi là bánh từ trời xuống.” (Ga 6,41), “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13). / Ngài nói Ngài là Con của Cha ở trên trời: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). / Ngài nói rõ chuyện Ngài về trời, về thiên đàng, để dọn chỗ cho chúng ta. Thật là sung sướng khi mỗi người chúng ta được Chúa Giêsu giữ sẵn chỗ trên thiên đàng: “Các con đừng lo, hãy tin vào Thầy. Có nhiều chỗ ở trong nhà Cha Thầy…Thầy đi về trời để dọn chỗ cho các con, rồi Thầy lại đến đón các con về cùng Thầy để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó với Thầy.” (Ga 14,1-3) / Ngài khuyến khích chúng ta hãy tìm cho được của cải trên trời, trên thiên đàng: “Các con đừng tích trữ của cải ở dưới đất, nơi bị mối mọt đục khoét và kẻ trộm đục vách lấy mất. Các con hãy tích trữ của cải ở trên trời, nơi mối mọt không đục khoét được, nơi kẻ trộm không đào vách lấy được.” (Mt 6,19-20) / Ngài lại còn khuyến khích chúng ta vui mừng vì được phần thưởng trên nước thiên đàng: “Các con đừng vui mừng vì trừ được ma quỷ, các con chỉ nên vui mừng vì tên các con được ghi khắc trên nước thiên đàng” (Lc 10,20). / Ngài dạy chúng ta hằng ngày phải cầu nguyện với Chúa Cha của chúng ta ở trên trời: “Lạy Cha chúng con ở trên trời.” (Mt 6,9) / Ngài dùng nhiều hình ảnh tốt đẹp để nói về thiên đàng: thiên đàng là một tiệc cưới rất vui vẻ (Mt 22, 1-2), một kho vàng đầy giá trị (Mt 13,44), một viên ngọc vô cùng quý báu (Mt 13,45).
3. So sánh đời sống trên thiên đàng và đời sống dưới trần gian này.
Khi biết về thiên đàng như lời Chúa Giêsu dạy, người Công Giáo chúng ta thấy trần gian này không có được hạnh phúc nếu Con Thiên Chúa không xuống thế cứu chuộc loài người. / Trần gian này là nơi đầy đau khổ: sinh ra đã khóc, lớn lên phải cực, lại thêm bệnh tật, rồi phải già yếu, phải hấp hối và phải chết! / Trần gian này là nơi đầy phỉnh gạt: tiền bạc, danh vọng, sung sướng mà thế gian ban tặng cho những ai theo nó, nói là rất hạnh phúc, rất tuyệt vời, nhưng trong thực tế, chúng là những điều rất chóng tàn phai. / Nếu chúng ta không tin có thiên đàng ở đời sau, nếu chúng ta chỉ biết có thiên đàng trên mặt đất này, thế nào chúng ta cũng gặt hái buồn phiền, thất vọng và chán nản. / Cuộc sống của chúng ta trên trần gian này chỉ là tạm thời và thật là vắn vỏi. Đời sống mai sau, hoặc là sống bên Chúa, hoặc là ở với ma quỷ, mới thật là đời đời, vĩnh viễn. Ai sống như ý Chúa muốn và tuân giữ các luật Chúa truyền, mới được phần thưởng sống hạnh phúc đời đời sau này với Chúa trên thiên đàng.
4. Thiên đàng là nơi đầy hạnh phúc thật.
Trên thiên đàng, hạnh phúc không bao giờ hết, không bao giờ cùng tận! / Thiên đàng là nơi ta có một cuộc sống đời đời hạnh phúc mà Chúa dọn sẵn cho những ai yêu mến Ngài. / Trên thiên đàng, không còn tội lỗi, không còn sự chết, không phải buồn sầu, đau đớn và bệnh tật. / Trên thiên đàng, ta sẽ sống hạnh phúc đời đời bên cạnh Chúa Ba Ngôi và Đức Mẹ. Trên thiên đàng, chúng ta sẽ được hân hạnh làm bạn với các thánh thiên thần và tất cả các thánh nam nữ. / Trên thiên đàng, chúng ta sẽ gặp lại mọi người thân yêu: cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị em, bạn hữu, thân nhân, ân nhân. / Trên thiên đàng, những sự ngày nay chúng ta không biết, lúc đó, chúng ta sẽ biết được hết. / Trên thiên đàng, thân xác chúng ta được biến hoá một cách tuyệt diệu để thưởng thức mọi vẻ đẹp thiên nhiên trong vũ trụ này. / Thiên đàng cũng là nơi đầy bất ngờ cho chúng ta. Bất ngờ về những người được lên thiên đàng: những người khiêm nhượng, không ai biết, như những người thu thuế trong Phúc Âm; những người bị xã hội khinh chê, ruồng bỏ, như người ăn mày Ladarô trong Phúc Âm; những người tội lỗi nặng nề nhưng biết ăn năn chừa cải, như người trộm lành trong Phúc Âm; những người hèn mọn bé nhỏ và những người có tinh thần trẻ nhỏ như lời Chúa đã phán rõ trong Phúc Âm. Bất ngờ về những việc được thưởng trên thiên đàng: những việc nhỏ hèn, những việc không ai thấy, những việc không ai biết.
5. Để được lên thiên đàng, chúng ta phải muốn thật trong khi cầu nguyện.
Thánh Tôma tiến sĩ đã trả lời câu này cho ta: “Phải thật lòng muốn lên thiên đàng”. / Có nhiều loại muốn: có loại muốn hời hợt, muốn qua loa, muốn rồi bỏ; có loại muốn tích cực, muốn triệt để, muốn thật. / Thứ nhất, phải muốn thật trong khi cầu nguyện. / Được lên thiên đàng là một ơn vô cùng cao quý, vô cùng trọng đại. Chúng ta phải luôn luôn cầu xin cho được ơn ấy. Thánh Phaolô dạy: “Anh em hãy biết run sợ mà gắng sức lo sao cho mình được cứu độ” (Ph 212) / Bền đổ cầu xin, chúng ta sẽ được ơn tuyệt vời này. Chúa Giêsu đã từng phán: “Ai xin thì sẽ được,…”
Để được lên thiên đàng, chúng ta phải muốn thật trong khi khinh chê những sự thế gian chóng qua này.
Có kẻ sống duy vật, duy lạc. Họ xem trái đất này là thiên đàng vật chất. / Đối với họ, tiền bạc, danh vọng, khoái lạc vật chất là trên hết. / Họ là đồ đệ của vua Sardanapalô, hoàng đế xứ Assyria ngày xưa. Vua này chỉ biết ăn chơi sung sướng, phạm đủ mọi tội lỗi trên đời. Vua bắt đúc tượng mình bằng đồng, và truyền khi chết, dựng tượng đó nơi công trường. Dưới bức tượng, vua cho khắc câu để truyền lại cho hậu thế: “Ớ khách qua đường, hãy ăn, hãy uống, hãy vui chơi, ngoài ra, mọi sự khác đều vô ích.”/ Ai muốn lên thiên đàng, không được sống như ông vua này, nhưng phải biết khinh chê những sự giả dối chóng qua của thế gian. Họ than lên như thánh Inhaxiô: “Ôi, trái đất xem ra thật không đáng gì khi tôi nghĩ đến thiên đàng.” / Khi điệu thánh Cêcilia đi xử tử, quan và đao phủ khuyên cô rằng: “Hỡi cô, cô hãy nhìn tuổi thanh xuân của cô. Tuổi cô tươi xinh như mộng. Cô hãy biết rằng cô là người vợ của một bậc sang trọng giàu có. Cô hãy nghĩ lại đi.” / Thánh nữ liền trả lời: “Tôi không nghĩ lại gì hết. Tôi mất bùn đất nhưng được lại vàng bạc châu báu. Tôi mất đời sống khốn khổ trên mặt đất, nhưng được đời sống sung sướng muôn đời trên thiên đàng. Thân xác này héo khô tan nát trên mặt đất, nhưng tôi lại được một thân xác đầy đẹp đẽ và đầy ánh sáng trên thiên đàng.”
Để được lên thiên đàng, chúng ta phải muốn thật trong khi chống lại những nguy hiểm trên đời này.
Con đường đưa chúng ta về trời là con đường hẹp, đầy chông gai, đau khổ, thánh giá. Chính Chúa Giêsu đã dẫn Đức Mẹ đi trên con đường này, và giờ đây, Ngài cũng dẫn chúng ta đi như vậy. Chúng ta phải mạnh mẽ tiến lên trên con đường đầy khó khăn này để về cho được nước thiên đàng. / Ngày xưa, vua Alaric dẫn đạo binh đi chiếm nước Ý. Khi gặp một ngọn núi cao, binh sĩ uể oải nhụt chí, vua liền hét to: “Tiến lên, chúng ta sẽ chiếm được thành Rôma.” Khi gặp một con sông dài chắn ngang, binh sĩ chán nản, vua Alaric hét to: “Tiến lên, chúng ta sẽ chiếm được thành Rôma.” Khi gặp sức chống cự của binh lính Ý, binh sĩ vua Alaric sắp ngã lòng, vua liền hét to: “Tiến lên, chúng ta sẽ chiếm được thành Rôma.” Và nhờ thế, vua Alaric và binh sĩ của vua đã chiếm được thành Rôma và nước Ý. / Phần chúng ta, không phải chiến đấu để chiếm một nước chóng qua, hư nát, nhưng là một nước vĩnh viễn, đầy tràn hạnh phúc, đó là nước thiên đàng. / Mỗi lần tội lỗi, ma quỷ, xác thịt, thế gian, khó khăn, đau khổ hồn xác chặn đứng con đường về thiên đàng của chúng ta, chúng ta hãy mạnh mẽ hô to: “Tiến lên, ta sẽ chiếm được nước thiên đàng.”
“Con chỉ mong được lên thiên đàng mà thôi!”
Nhà bác học Le Verrier có nhiều phát minh lớn lao về thiên văn. Đức Cha địa phận khen ông: “Danh tiếng ông lên tận các ngôi sa ”. Ông khiêm nhượng trả lời: “Xin Đức Cha cầu nguyện cho con, con chỉ mong được lên thiên đàng mà thôi. ”
Hãy lo cho đời sống vĩnh cửu ngay bây giờ!
Thánh Caminlê đệ Lenly, khi thấy mồ mả, thường suy nghĩ: “Nếu những người chết đang nằm đây, được trở lại cõi thế, thì có sự khó nhọc nào mà họ tránh né chẳng nhận để được sống đời đời? Còn tôi, tôi còn đang có thời giờ, mà tôi có làm gì để lo cho đời sống đời đời không?”
“Vua là kẻ ngu dại nhất trên đời!”
Ông vua kia nói với tên hề trong cung điện: “Ngươi là kẻ ngu dại nhất trên đời. Ngươi hãy cầm chiếc gậy này. Khi thấy ai ngu dại hơn ngươi, ngươi hãy trao chiếc gậy này cho người đó.” / Khi vua sắp chết, tên hề hỏi vua: “Vua sắp đi đâu?” / “Sắp đi qua thế giới khác.” / “Khi nào về? Một tháng sao?” / “Không.” / “Một năm sao?” / “Không! Không bao giờ trở về!” / “Thế vua có chuẩn bị hành lý gì không?” / “Không!” / “Thế thì vua hãy cầm lấy chiếc gậy này. Vua là kẻ ngu dại nhất trên đời!”
Tả cảnh thiên đàng không nổi.
Một người bạn thân yêu của thánh Augustinô yêu cầu ngài viết một cuốn sách về thiên đàng. / Thánh Augustinô vào phòng, đóng cửa lại, cố suy nghĩ để viết. Ngài viết thư xin thánh Hiêrônimô giải đáp một vài thắc mắc. Bỗng Thánh Augustinô nghe một giọng nói vang lên: “Hỡi Augustinô, anh muốn gì đó? Anh muốn dùng ngòi bút để hiểu sự bao la của trời đất sao? Anh tự hào muốn thấy điều con mắt phàm trần không bao giờ thấy được sao? Anh muốn hiểu điều anh không thể hiểu được sao?” / Đó là giọng của Hiêrônimô. Hôm đó chính là ngày Thánh Hiêrônimô qua đời. / Từ đó, Thánh Augustinô bỏ ý định viết cuốn sách về Thiên Đàng.
“Ôi Thiên Đàng! Ôi Thiên Đàng!” Hai tiếng này làm cho linh hồn tôi được bằng an vui vẻ.”
Một vị tu rừng tìm cách sống trong một cái hang nhỏ và tối tăm, đêm ngày ăn chay, đánh tội, hãm mình. / Ngày kia, một đoàn người, gồm những kẻ mộ mến tài đức của ngài, lên rừng đến thăm. / Thấy cách sống của vị tu rừng này, họ bỡ ngỡ hỏi: “Làm sao ngài có thể ở trong này một ngày mà thôi?” / “Quý vị hãy vào, nhìn qua cái lỗ này, quý vị sẽ rõ.” / Họ vào và thấy: nơi tường hang rêu phủ, có một lỗ hổng, để lộ ra một góc trời. / Họ không hiểu. Vị tu rừng liền cắt nghĩa: “Góc trời đó là nguồn an ủi của tôi. Những khi tôi buồn chán, tôi nhìn ra góc trời đó và kêu lên: “Ôi Thiên Đàng! Ôi Thiên Đàng!” Hai tiếng này làm cho linh hồn tôi được bằng an vui vẻ.”
Lễ Thăng Thiên tưởng niệm hai biến cố đồng một lúc: cuộc Thăng Thiên hữu hình của Chúa Ki-tô LênTrời ABC-427
Lễ Thăng Thiên tưởng niệm hai biến cố đồng một lúc: cuộc Thăng Thiên hữu hình của Chúa Ki-tô có các Tông Đồ là những chứng nhân và cuộc Thăng Thiên vô hình của Chúa Giê-su không có bất kỳ một nhân chứng nào.
Cv 1: 1-11
Sách Công Vụ tường thuật biến cố Thăng Thiên hữu hình, sau khi nhắc lại cuộc gặp gỡ sau cùng của Đấng Phục Sinh với các môn đệ Ngài.
Dt 9: 24-28; 10: 19-23
Đoạn trích thư gởi tín hữu Do thái gợi ra biến cố Thăng Thiên vô hình: cuộc trở về mầu nhiệm của Chúa Giê-su bên cạnh Chúa Cha, từ đó xuất phát những thành quả thiêng liêng: Chúa Giê-su khai đường mở lối vào cung thánh trên trời cho tất cả mọi người, nhờ hy tế thập toàn của Ngài, trổi vượt vô cùng tận so với hiệu quả tạm thời của hy tế mà vị thượng tế Cựu Ước dâng tiến trong đền thờ Giê-ru-sa-lem tại thế.
Lc 24: 46-53 Phần cuối Tin Mừng Lu-ca tường thuật việc Chúa Phục Sinh từ biệt các môn đệ và được rước lên trời.
BÀI ĐỌC I (Cv 1: 1-11)
Bài Đọc I trích phần đầu sách Công Vụ Tông Đồ, được trình bày như phần tiếp theo của sách Tin Mừng Lu-ca: cùng một tác giả: thánh Lu-ca, cùng một người nhận: ông Thê-ô-phi-lô, nhất là nhắc lại “quyển thứ nhất”, tức là sách Tin Mừng Thứ Ba.
Quả thật, sách Tin Mừng Lu-ca hoàn tất với biến cố Thăng Thiên: “Người rời bỏ các ông và được rước lên trời…” (Lc 24: 52) trong khi sách Công Vụ Tông Đồ bắt đầu với việc nêu lên hai lần cùng một biến cố: “Cho đến ngày Ngài được rước lên trời” (Cv 1: 2) và “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn trông thấy Người nữa” (Cv 1: 9). Như vậy, bằng kỷ thuật văn chương, thánh Lu-ca trình bày biến cố Thăng Thiên vừa hoàn tất sách Tin Mừng Thứ Ba và vừa khởi đầu sách Công Vụ Tông Đồ: hoàn tất sự hiện diện hữu hình của Đức Ki-tô và khởi đầu sự hiện diện vô hình của Ngài ở giữa loài người; hoàn tất sứ mạng tại thế của Đức Giê-su và khởi đầu sứ mạng của các Tông Đồ.
*1.Hai biến cố Thăng Thiên:
Chúng ta có thể phân biệt một cách nào đó hai biến cố Thăng Thiên:
-Biến cố Thăng Thiên hữu hình là cuộc lên trời của Đức Giê-su trước mắt các Tông Đồ. Biến cố này chủ yếu liên quan đến chúng ta: bản tính nhân loại, cùng với Đức Kitô, sẽ được dự phần vào vinh quang Thiên Chúa. Vì thế, cuộc Thăng Thiên hữu hình nầy loan báo cuộc Thăng Thiên của chúng ta.
-Biến cố Thăng Thiên vô hình và mầu nhiệm không có nhân chứng là cuộc trở về cùng Cha Ngài ngay khi Ngài sống lại; đó là cuộc hội ngộ Ba Ngôi, biến cố thần linh tuyệt mức. Đó là cuộc tôn vinh của Chúa Con, cuộc tôn vinh mà Đức Giê-su xin trong lời nguyện hiến tế của Ngài trước giờ tử nạn: “Vậy, lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh con bên Cha: xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian.” (Ga 17: 5).
*2.Ý nghĩa của biến cố Thăng Thiên hữu hình:
Tại sao Đức Giê-su từ biệt các môn đệ mà lên trời cách ngoạn mục như thế, dù nhanh và kín đáo? Trong cuộc gặp gỡ sau cùng của Ngài với các môn đệ, đáng ra Đức Giê-su chỉ cần loan báo cho họ biết rằng Ngài sẽ không hiện ra với họ theo cách thế này nữa, rồi biến mất như Ngài đã làm trong suốt bốn mươi ngày từ khi Ngài sống lại?
Chúng ta có thể gặp thấy câu trả lời: biến cố Thăng Thiên hữu hình là cách thức Đức Giê-su giới thiệu cuộc sống tiền hữu và nhập thể của Ngài khi thi hành sứ mạng công khai của Ngài. Ngài đã tự nhận mình dưới danh hiệu “Con Người”, nhân vật huyền nhiệm mà ngôn sứ Đa-ni-en thấy trong một thị kiến “đến trên mây trời” (Đn 7: 13). Đức Giê-su đã quả quyết với ông Ni-cô-đê-mô: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3: 13). Trong bài diễn từ về bánh hằng sống, Đức Giê-su đã nêu lên sáu lần Ngài là “bánh từ trời xuống” và cuối cùng Ngài chấm dứt bằng những lời như sau: “Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?” (Ga 6: 62). Qua những lời trên, Đức Giê-su không thể nào loan báo rõ ràng hơn biến cố lên trời trong tương lai của Ngài.
*3.Những lần hiện ra hữu hình của Đấng Phục Sinh:
“Trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa”: Nếu con số bốn mươi ngày không chính xác thì cũng chẳng quan trọng gì, biết bao ý nghĩa được chất chứa ở nơi con số này: nó hình thành nên một đối chiếu với bốn mươi ngày Đức Giê-su đã trải qua trong hoang địa giữa phép rửa của Gioan Tẩy Giả và khởi đầu cuộc sống công khai của Ngài để chuẩn bị cho sứ mạng cứu độ của Ngài. Bốn mươi ngày là khoảng thời gian giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Thăng Thiên, Đấng Phục Sinh chuẩn bị cho sứ mạng của các môn đệ Ngài.
Chúng ta có thể thắc mắc Đấng Phục Sinh đã sống như thế nào trong suốt bốn mươi ngày. Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta một cách nào đó cách sống nầy. Quả thật, khi đọc đoạn văn Công Vụ nầy làm thế nào không nghĩ đến sách Tô-bi-a (12: 15-21). Sau khi đã hoàn thành sứ mạng trần thế của mình, thiên sứ Ra-pha-en bày tỏ cho hai cha con ông Tô-bi-a căn tính đích thật của mình: “Tôi đây là Ra-pha-en, một trong bảy thiên sứ luôn luôn hầu cận và vào chầu trước nhan vinh hiển của Thiên Chúa…Bình an cho các ngươi! …Phần tôi, tôi đã ở với các ngươi … do ý muốn của Thiên Chúa… Các ngươi đã thấy tôi ăn, nhưng thật ra tôi không ăn gì cả, đó chỉ là một thị kiến mà các ngươi thấy. .. Nầy tôi lên cùng Đấng đã sai tôi” Và thiên sứ lên trời. Hai cha con đứng dậy, nhưng không thể thấy thiên sứ nữa… (Tb 12: 16-22).
*4.Phép rửa trong Thánh Thần:
Trước khi từ biệt các Tông Đồ, Đức Giê-su dặn dò những lời sau hết và loan báo cho họ biết trong ít ngày nữa họ sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần: “Ông Gioan đã làm phép rửa bằng nước còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần” (1: 5)
Vào lúc đó, các ông hỏi Ngài một câu hỏi không thể nào tin được: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”. Câu hỏi này cho thấy giấc mộng chính trị xưa kia của họ: khôi phục nền độc lập Ít-ra-en, vẫn còn nung nấu trong lòng của các ông. Đức Giê-su không quở trách họ. Ngài mượn một hình ảnh khác: vương quốc mà Ngài sắp giao phó cho họ sẽ vượt quá không gian Giu-đê nhỏ bé, nó sẽ mang tầm mức thế giới (1: 7-8). Nhưng vào lúc nầy, vì chưa nhận được ân ban Thánh Thần, họ chưa thể nào hiểu được.
*5.Một đám mây quyện lấy Chúa Giê-su:
Không cốt là một đám mây nào đó, nhưng là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa như thường xảy ra trong Cựu Ước. Hơn nữa, thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng về biến cố Truyền Tin: đám mây, dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, Đấng đã phủ bóng trên Đức Ma-ri-a vào lúc Mẹ thụ thai đồng trinh; ở đây cũng đám mây quyện lấy Đức Giê-su vào lúc Ngài từ giả cõi thế. Một thiên sứ hiện diện khi Đức Trinh Nữ nói tiếng “Xin Vâng”, ở đây cũng có các thiên sứ hiện diện vào lúc Đức Giê-su trở về với Cha Ngài.
*6.Thời gian thi hành sứ vụ:
Sức mạnh từ trên cao sẽ thúc đẩy các môn đệ dấn thân vào một cuộc mạo hiểm truyền giáo lớn lao: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (1: 8). Chúng ta đừng ngạc nhiên khi Lu-ca trích dẫn Giê-ru-sa-lem trước tiên vì sách Tin Mừng Lu-ca đặt Giê-ru-sa-lem làm trung tâm điểm của ơn Cứu độ.
Đây là lúc phải hành động chứ không là lưu luyến cách vô bổ như thiên sứ nhắc nhở các ông: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn trời?… Đức Giê-su cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời”. Họ phải bắt tay vào công việc lớn lao và Giáo Hội không ngừng theo đuổi. Thật lý tưởng khi vừa nuôi dưỡng tấm lòng của mình luôn luôn hướng về quê trời vừa biết liên kết giữa hành động và chiêm niệm.
BÀI ĐỌC II (Dt 9: 24-28; 10: 19-23)
Đoạn trích thư gởi tín hữu Do thái này bàn đến cuộc Thăng Thiên của Chúa Giê-su theo quan điểm đặc thù. Tác giả đề xuất chiều kích thần học và tính hiệu quả thần thiêng của cuộc Thăng Thiên bằng cách so sánh với sự kiện vị thượng tế Cựu Ước tiến vào nơi cực thánh của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem một năm một lần. Chúng ta biết rằng tác giả Thư gởi tín hữu Do thái coi sứ vụ của Chúa Giê-su là chức vụ tư tế và trình bày Chúa Giê-su là vị thượng tế thập toàn.
Chúng ta không biết rõ tác giả Thư gởi tín hữu Do thái là ai; nhưng chúng ta dễ dàng nhận ra ông ngỏ lời với người Ki-tô hữu gốc Do thái qua những ám chỉ trong Thư này, ví dụ như phụng vụ Đền Thờ được gợi ra. Thư gởi tín hữu Do thái chắc chắn được viết trước năm 70, vì vào năm này Đền Thờ bị thiêu hủy, hàng tư tế phục vụ Đền Thờ và các hy tế tiến dâng trong Đền Thờ không còn nữa. Vì thế, những lời tác giả khuyên bao gồm những điểm nhấn mang tính thời sự vượt quá sự hiểu biết của chúng ta.
*1.Chức tư tế cao trọng của Chúa Ki-tô:
“Quả thế, Đức Ki-tô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật” (Dt 9: 24). Sự so sánh này được khai triển sâu xa suốt bức thư này dựa trên nghi thức lễ Xá Tội một năm một lần, vào ngày đại lễ đó vị thượng tế tiến vào nơi cực thánh, biểu tượng nơi Thiên Chúa ngự trị giữa dân Ngài trên cõi thế. Với cử chỉ này, vị thượng tế toan tính tiến gần Thiên Chúa chừng nào có thể để cầu xin Ngài tha thứ tội lỗi cho chính mình và cho dân của mình qua việc dâng tiến máu tế vật. Còn Chúa Ki-tô đã tiến vào cung thánh trên trời để “giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta”.
*2.Hy tế cao trọng của Chúa Ki-tô:
Máu mà vị thượng tế dâng tiến là máu súc vật, tế vật thụ động và vô ý thức. Chúa Ki-tô dâng tiến chính máu mình, trong một hiến lễ tự nguyện; vì thế Ngài chỉ dâng hiến mạng sống mình chỉ một lần: hy tế của Ngài có một giá trị vĩnh viễn. Những hy tế được vị thượng tế tiến dâng nhằm xóa những tội lỗi trong năm qua. Còn Chúa Ki-tô, Ngài “đã tự hiến một lần, để xóa bỏ tội lỗi muôn người” (9: 28).
*3.Chúa Ki-tô khai lối mở đường cho mọi người tiến gần Thiên Chúa:
Chắc chắn những Ki-tô hữu gốc Do thái đã luyến nhớ nhiều nỗi hoài niệm về những giây phút long trọng vào lúc mọi người chờ đợi trước tiền sảnh, lối ra của vị thượng tế với ơn tha thứ tội lỗi. Làm thế nào họ không thể không so sánh được chứ! Trong phụng vụ Mô-sê, một nhân vật duy nhất là vị thượng tế mới có đủ tư cách tiến gần Thiên Chúa. Trái lại, trong phụng vụ Ki-tô giáo, nhờ Chúa Ki-tô, Đấng Trung Gian tối cao và thập toàn, mọi người mạnh dạn tiến gần Thiên Chúa qua cuộc sống bí tích. Mỗi người tín hữu “hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì trong lòng thì đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm, còn ngoài xác thì đã được tắm rửa bằng nước tinh tuyền”, nghĩa là nhờ bí tích Thánh Tẩy, bí tích Hòa Giải và bí tích Thánh Thể… Chúa Ki-tô đã khai lối mở đường cho chúng ta tiến bước vào cung thánh trên trời.
Tác giả thư gởi tín hữu Do thái đã hiểu rất rõ ý nghĩa thần học của biến cố Thăng Thiên, nhưng ông diễn tả biến cố này bằng những ngôn từ cổ kính. Những lời khuyên sau cùng trở nên khẩn thiết; nhiều đoạn văn của thư này hé lộ những người nhận thư bị những mối nghi nan ngờ vực xâu xé. Họ phải kiên vững trong niềm xác tín và nhất là trong niềm hy vọng bất khả chuyển lay.
TIN MỪNG (Lc 24: 46-53)
Thánh Lu-ca đã để lại cho chúng ta hai bài trình thuật về cuộc Thăng Thiên: một trong sách Tin Mừng Lu-ca và một khác trong sách Công Vụ. Trong chu trình Phụng Vụ năm C này, chúng ta gặp hai bài trình thuật: bài trình thuật của sách Công Vụ (Bài Đọc I) có nhiều tình tiết hơn; còn bài trình thuật của Tin Mừng thì đạm bạc hơn. Tuy nhiên, sự dị biệt đáng chú ý nhất liên quan đến giây phút biến cố xảy ra. Trong sách Tin Mừng, thánh Lu-ca định vị biến cố vào chính buổi chiều Phục Sinh; trong sách Công Vụ, bốn mươi ngày sau đó. Đây là cách thức mà thánh Lu-ca đã nỗ lực thuật lại hai cuộc Thăng Thiên: biến cố Chúa Giê-su trở về bên cạnh Cha Ngài ngay liền sau khi Ngài sống lại và biến cố Chúa Giê-su từ biệt các môn đệ sau khi Ngài đã liên tục hiện ra cho các ông.
*1.Ôn cố tri tân:
Chúa Giê-su nhắc cho họ nhớ lại rằng Đức Ki-tô phải chịu đau khổ và sống lại từ cõi chết (x. Cv 2: 1-4). Bài học “ôn cố tri tân” (nhắc lại Cựu Ước để hiểu Tân Ước) được Đấng Phục Sinh ban cho các môn đệ hai lần trong cùng một ngày (trước hết, hai môn đệ trên đường Em-mau; sau đó, các môn đệ quy tụ ở Giê-ru-sa-lem) chắc chắn không thể thiếu được. Dường như thánh Lu-ca đã muốn cô động giáo huấn mà Chúa Giê-su ban trong suốt bốn mươi ngày được sách Công Vụ thuật lại. Đây là bản tóm lược bài giáo lý tiên khởi, giải thích sứ vụ của Đức Giê-su Ki-tô và chiều kích hoàn vũ của ơn cứu độ.
*2.Lời hứa ban Thánh Thần:
Biến cố Thăng Thiên là điều kiện tất yếu của biến cố Ngũ Tuần, vì Thăng Thiên đồng nghĩa với việc Chúa Giê-su được tôn vinh. Chính khi Đức Ki-tô “được tôn vinh”, Người sẽ sai phái Thánh Thần hay Chúa Cha sai phái Thánh Thần nhân danh Người (Ga 14: 26). Tin Mừng Gioan nhấn mạnh nhiều lần: “Bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh” (Ga 7: 39) hay “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vây, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em” (Ga 16: 7). Mặt khác, việc Đức Giê-su không còn hiện diện hữu hình nữa là một giai đoạn cần thiết để chuẩn bị cho các môn đệ một cách thế hiện diện khác của Người, sự hiện diện vô hình và nội tại trong Thánh Thần.
*3.Cuộc Thăng Thiên khai mở thời kỳ thi hành sứ vụ:
Trong cuộc gặp gỡ sau cùng, Chúa Giê-su mời gọi các môn đệ là chứng nhân của Ngài. Biến cố Thăng Thiên không là điểm kết thúc của một cuộc mạo hiểm thần linh, nhưng là điểm bắt đầu của một công trình bao la mà giờ đây được trao gởi cho các môn đệ thực hiện bằng cách công bố cho muôn dân nước lòng sám hối và ơn tha thứ tội lỗi. Như trong sách Công Vụ (1: 8), sứ vụ này phải được thực hiện “Bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem” (24: 47). Chính từ Giê-ru-sa-lem mà ánh sáng Phục Sinh bừng lên; chính tại Giê-ru-sa-lem mà các môn đệ chờ đợi Chúa Thánh Thần; chính tại Giê-ru-sa-lem mà các môn đệ ở lại, “lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 24: 52-53).
*4.Cuộc từ biệt mang chiều kích phụng vụ:
“Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông”: Thánh Lu-ca đề cập đến chính biến cố Thăng Thiên; thánh ký ban cho biến cố này một cung điệu phụng vụ: Đức Giê-su dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, nơi đối diện với Thành Thánh và Đền Thờ, Người giơ tay chúc lành cho các ông, rồi Người từ biệt các ông và được rước lên trời, trong khi các ông sụp lạy Người. Sách Công Vụ thuật lại một phụng vụ từ biệt tương tự khác. Khi thánh Phao-lô từ giã các kỳ mục Hội Thánh Ê-phê-xô với niềm xác tín rằng thánh nhân sẽ không còn gặp lại các ông nữa, thánh nhân quy tụ họ trên bờ biển, căn dặn họ những lời sau cùng, phó thác họ cho Thiên Chúa, rồi thánh Phao-lô cùng tất cả anh em quỳ gối xuống cầu nguyện (Cv 20: 17-36).
*5.Cuộc Thăng Thiên khai mở thời kỳ chan chứa hy vọng:
Thánh Lu-ca tường thuật cuộc Thăng Thiên của Chúa Giê-su với nhiều tình tiết sống động trong sách Công Vụ Tông Đồ; vì thế, trong sách Tin Mừng của mình, thánh ký đưa ra một bài trình thuật tóm lược về mầu nhiệm này, mầu nhiệm đánh dấu việc kết thúc sự hiện diện hữu hình của Chúa Giê-su trên trần thế. Biến cố Thăng Thiên mở ra một niềm hy vọng mới: Đức Giê-su được rước lên trời cùng với thân thể của Người. Người không rũ bỏ nhân tính để trở về bên cạnh Chúa Cha. Nhân tính, cùng với Đức Giê-su, được dự phần vào vinh quang Thiên Chúa. Thánh Phao-lô nói: “Đầu ở đâu, thì các chi thể cũng sẽ ở đó”. Việc Chúa Giê-su lên trời cùng với thân thể của Người loan báo cuộc lên trời của chúng ta; và vinh quang của Người loan báo cuộc tôn vinh thân thể của chính chúng ta. Thăng Thiên và Phục Sinh là hai khía cạnh của cùng một mầu nhiệm; phụng vụ Giáo Hội tiên khởi cử hành hai biến cố này cùng nhau.
*6.Cuộc Thăng Thiên khai mở thời kỳ đầy tràn niềm tin:
“Họ trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ”. Thật mâu thuẫn biết bao, thay vì đắm mình trong nỗi phiền muộn, các Tông Đồ tràn đầy niềm vui sau khi đã chứng kiến cuộc biến mất của Chúa Giê-su. Đây là niềm vui thời thiên sai, niềm vui cứu độ mà thánh Lu-ca đã thắp sáng hơn các thánh ký khác; niềm vui về lời hứa ban Thánh Thần, nhưng nhất là niềm vui sâu xa của một niềm tin có nền tảng chắc chắn.
*7.Trong Đền Thờ:
“Họ hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa”. Sách Tin Mừng Lu-ca bắt đầu với việc tư tế Da-ca-ri-a thi hành sứ vụ trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và hoàn tất với việc các Tông Đồ chúc tụng Thiên Chúa cũng ở trong Đền Thờ này. Đối với tư tế Da-ca-ri-a, sứ thần loan báo cho ông cuộc sinh hạ con trai của ông, đó sẽ là Gioan Tẩy Giả trong tương lai; còn đối với các môn đệ Ngài, Chúa Giê-su hứa với các ông Chúa Thánh Thần hiện xuống. Sách Tin Mừng Lu-ca mở ra và đóng lại với dưới dấu chỉ của lời hứa và dấu chỉ của lời cầu nguyện.
Hôm nay lễ Chúa Giêsu lên trời kết thúc cuộc đời ở trần gian theo như những gì Kinh Thánh đã LênTrời ABC-428
Hôm nay lễ Chúa Giêsu lên trời kết thúc cuộc đời ở trần gian theo như những gì Kinh Thánh đã tiên báo. Theo cái nhìn của Luca, thì “Thời kỳ Israel” đã nhường chỗ cho “Thời kỳ Đức Kitô”. Giờ đây, “Thời kỳ của Đức Kitô” đã lại nhường chỗ cho “Thời kỳ của Giáo hội”.
Bài đọc Tin mừng trích trong tác phẩm cuối của Tin mừng Luca, chứa đựng trình thuật đầu tiên của Luca về biến cố lên trời. Ở đây Thăng thiên được trình bầy như được xẩy ra vào Chúa nhật Phục sinh. Đức Chúa Phục sinh cho các Tông đồ thấy Kinh thánh đã tiên báo về Đức Kitô phải chịu đau khổ và sống lại như thế nào (Lc 24,48).
Khi hiện ra với các Tông đồ, Đức Giêsu đã trao cho các ông sứ vụ rao giảng Tin mừng bắt đầu từ Giêrusalem cho đến tận cùng trái đất (Lc 24,47) và phải làm chứng cho Ngài nơi muôn dân nước (Lc 24,48). Đồng thời Ngài cũng hứa sẽ ban Chúa Thánh Thần đến cùng họ (Lc 24,49). Sau khi đã căn dặn các môn đệ nhiều điều, Đức Giêsu lên trời trước mặt các ông. Họ vui mừng trở về Giêrusalem để chờ đợi Chúa Thánh Thần.
Lễ Thăng thiên được xem như đỉnh điểm của đời sống Đức Giêsu và là khởi điểm sứ vụ của Giáo hội. Do đó, mọi thành viên trong Giáo hội phải tích cực thi hành sứ vụ này bằng đời sống chứng nhân trước mặt mọi người.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1 : Cv 1,1-11
Khởi đầu sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta biết : sau khi sống lại Đức Giêsu tiếp tục hiện ra với các môn đệ trong 40 ngày và trước khi về trời, Ngài còn ban các ông những lời dạy cuối cùng
– Đức Giêsu dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các môn đệ biết rằng sau khi đã chịu nạn chịu chết, Ngài vẫn còn sống.
– Ngài khuyên các ông hãy chờ đợi Chúa Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã hứa ban.
– Ngài còn trao cho các ông sứ mạng rao giảng Tin mừng để làm chứng cho Ngài trên khắp cùng thế giới.
+ Bài đọc 2 : Ep 1,17-23
Trong thư gửi cho tín hữu Êphêsô, thánh Phaolô chúc cho các tín hữu được ơn khôn ngoan để lòng trí mở ra mà hiểu rõ đâu là niềm hy vọng mà họ đã nhận được.
Ngài còn cho biết : Chính Chúa Cha đã cho Đức Giêsu sống lại; chính Chúa Cha đã tôn vinh Đức Giêsu; cũng vẫn Chúa Cha đã đặt Đức Giêsu làm Chúa tể muôn loài, làm đầu Hội thánh. Chúng ta có thể đặt trọn niềm tin cậy ở Ngài.
+ Bài Tin mừng : Lc 24,46-53
Trong sách Công vụ Tông đồ, thánh Phaolô đã nói và trong Tin mừng hôm nay còn nói lại :
– Những lời căn dặn cuối cùng : theo Sách Thánh, Đức Kitô phải qua chịu nạn rồi mới tới Phục sinh. Các môn đệ phải rao giảng và làm chứng cho Đức Giêsu dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần mà Ngài sẽ ban cho.
– Đức Giêsu về trời : Luca đã dùng cách viết của loài người để tạm diễn tả việc Đức Giêsu thăng thiên. Ngài về trời có nghĩa là Ngài rời bỏ tình trạng hèn hạ của loài người mà trở về tình trạng vinh quang của một vị Thiên Chúa, nghĩa là Ngài chỉ thay đổi cách hiện diện.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Chứng nhân của Đức Kitô
*I. ĐỨC GIÊSU VỀ CÕI TRỜI.
*1.Theo sách Tin mừng và Công vụ Tông đồ.
Thánh Luca là tác giả sách Tin mừng và Công vụ Tông đồ. Theo sách Công vụ Tông đồ, chúng ta đọc thấy biến cố lên trời xẩy ra vào ngày thứ 40 sau Phục sinh. Trái lại, trong sách Tin mừng, Luca lại đặt biến cố này vào ngay chiều ngày Phục sinh. Thực ra, sách Tin mừng có ý viết về sứ mạng của Đức Giêsu bắt đầu từ Galilê đến Giêrusalem, và sách Công vụ Tông đồ viết về sứ mạng của Giáo hội bắt đầu từ Giêrusalem đến toàn thế giới. Việc Đức Giêsu lên trời là cái bản lề giữa hai sứ mạng đó; hay nói cách khác, lúc Đức Giêsu lên trời là lúc Đức Giêsu bàn giao sứ mạng lại cho Giáo hội để tiếp tục công trình của Ngài.
*2.Ý nghĩa việc lên trời. Việc lên trời của Đức Giêsu có hai ý nghĩa, đó là giai đoạn rao giảng của Đức Giêsu đã qua, đã chấm dứt và mở ra một kỷ nguyên mới cho Giáo hội. *a) Một giai đoạn đã qua. Ý nghĩa trọng đại của việc Đức Giêsu lên trời là sự cứu chuộc mà Ngài đã thực hiện cho loài người qua cái chết đền tội và sống lại của Ngài đã hoàn thành và viên mãn cho đến đời đời.
Đức Giêsu đã làm xong công việc cứu chuộc, đã hoàn thành sứ mạng Cha Ngài đã trao phó là cứu chuộc nhân loại tội lỗi, bằng chính cái chết đền tội trên thập giá và đã sống lại để cho những ai đặt niềm tin nơi Ngài được sự sống đời đời. Sự cứu chuộc ấy đã hoàn toàn đầy đủ cho đến muôn đời. Và như vậy, đã chấm dứt thời kỳ mà niềm tin của các môn đệ đặt vào một Thầy bằng xương bằng thịt, vào sự hiện diện của thân thể Thầy. Từ nay, các môn đệ sẽ liên kết với một Đấng Thầy đời đời vượt thời gian và không gian.
*b) Khởi đầu một kỷ nguyên mới.
Kế hoạch của Thiên Chúa được ghi trong Sách Thánh không chấm hết cùng với cái chết, phục sinh và lên trời vinh hiển của Đức Giêsu, mà còn tiếp tục trong Hội thánh. Sứ điệp Tin mừng được hoạch định”cho muôn dân”, được rao giảng bắt đầu từ Giêrusalem.
Một giai đoạn lịch sử cứu độ được hoàn tất. Mới kỷ nguyên mới được chuẩn bị, kỷ nguyên đi gieo rắc Tin mừng bắt đầu từ Giêrusalem cho đến tận cùng trái đất.
Thật là nghịch lý ! Đức Giêsu rời khỏi họ, thế mà họ không buồn phiền. Các môn đệ ra về trong sự vui mừng chứ không phải tấm lòng sầu muộn vì họ biết rằng từ nay không có gì có thể ngăn cách mình với người Thầy của mình. Thánh Phaolô đã phát biểu :”Ai có thể phân cách chúng ta với tình yêu thương của Chúa Cứu thế” ? Và Ngài khẳng định :”Tôi biết chắc chắn rằng bất kỳ sự sống, sự chết… chẳng có thể phân rẽ chúng ta ra khỏi sự yêu thương mà Thiên Chúa đã thể hiện nơi Đức Giêsu, Chúa chúng ta”(Rm 8,35-38).
TRAO SỨ MẠNG RAO GIẢNG TIN MỪNG.
*1.Sứ vụ rao giảng Tin mừng.
Đức Giêsu về trời vẫn giao sứ mạng cho các môn đệ và Giáo hội phải rao giang Tin mừng :”Có lời Kinh Thánh chép rằng : Đức Messia phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba sẽ từ cõi chết chỗi dậy. Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân bắt đầu từ Giêrusalem”(Lc 24,46-47).
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải ra đi. Các ngài đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đã chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải xuống núi. Đi xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh; xứng với trời mới dất mới mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.
Thật là vinh dự cho chúng ta được tiếp nối các Tông đồ đi rao giảng Lời Chúa, và làm chứng nhân cho Ngài. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân trên hành tinh này chưa đón nhận Tin mừng.
Truyện : Hoàn thành tác phẩm
Nhạc sư sáng tác người Ý, Giacomo Puccini, để lại cho đời một số những tác phẩm ca nhạc kịch – opera – rất nổi tiếng, chẳng hạn như La Bohême và Madame Butterly. Năm 1922, lúc 64 tuổi, ông bị ung thư ác tính. Mặc dù cơn bệnh hành hạ thân thể, Puccini vẫn nhất định phải hoàn tất vở ca kịch Turandot mà bây giờ nhiều người đánh giá là vở ca kịch hay nhất của ông.
Ông làm việc ngày đêm. Nhiều người khuyên can ông phải nghỉ ngơi vì nghĩ rằng ông không thể nào hoàn tất vở ca kịch này được. Khi con bệnh trở nên trầm trọng, Puccini đã viết cho học trò của mình :”Nếu thầy không hoàn tất vở ca kịch Turandot được, thầy muốn các con tiếp tục công việc ấy cho thầy”.
Năm 1924, ngày số phận đã tới, khi Puccini sang Bỉ giải phẫu, ông qua đời hai ngày sau đó. Trở về Ý, các học trò của ông qui tụ nhau lại, mỗi người một tài năng khác nhau tiếp tục sáng tác vở ca kịch Turandot của thầy để lại. Sau khi nghiên cứu và làm việc với tất cả tâm hồn, họ đã hoàn tất vở ca kịch này.
Năm 1926, lần đầu tiên trên thế giới, vở ca kịch đã được trình diễn tại nhà hát ca kịch La Scala ở Milan. Vở này đã được điều khiển bởi người nhạc trưởng môn sinh rất được Puccini ưa thích, Arturo Toscanini. Tất cả mọi sự diễn tiến tốt đẹp cho đến khi dàn hòa tấu trình diễn tới khúc nhạc mà Puccini đã sáng tác dang dở. Những giọt nước mắt đã rơi xuống trên khuôn mặt của người điều khiển. Ôâng ngưng dàn nhạc lại, buông cây đũa điều khiển xuốâng, quay ra khán giả và nói lớn :”Nhạc sư đã viết đến đây, rồi ông qua đời”. Cả nhà hát im lặng một hồi lâu. Không ai nhúc nhích ! Không một tiếng động ! Hoàn toàn thinh lặng !
Sau vài phút, người nhạc trưởng cầm cây đũa điều khiển lên, quay ra khán giả, mỉm cười qua những giọt lệ rơi và nói lớn :”Nhưng các môn sinh của ông đã hoàn tất tác phẩm này”. Khi vở ca kịch Turandot kết thúc, cả nhà hát bùng lên tràng pháo tay như sấm nổ vang trời. Trong rạp hát không còn một con mắt nào khô ráo. Ai cũng rơi lệ và không ai có thể quên được giây phút ấy (Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, tr 190).
Rao giảng Tin mừng là sứ vụ Đức Giêsu đã trăn trối lại cho các môn đệ Ngài, cho Giáo hội nói chung và cho mỗi người chúng ta nói riêng. Trước khi xa cách con cái, Ngài đã để lại cho mỗi người chúng ta lời di chúc qua các Tông đồ :”Vậy các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con”.
Qua các thời đại, Giáo hội đã, đang và luôn mãi hăng hái, trung kiên thi hành sứ mạng đó. Mặc dầu Giáo hội luôn phải trải qua những giai đoạn khó khăn, bách hại, cấm cách, nhưng dân Chúa vẫn hiên ngang rao giảng và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Tin mừng. Lòng can đảm, chí trung kiên đó đã cho chúng ta nhận ra rằng chúng ta không phải đơn phương chiến đấu, nhưng Chúa luôn đồng hành với mọi người như lời Ngài đã phán :”Thầy ở cùng các con mọi ngày đến tận thế”.
*2. Rao giảng bằng cuộc sống. Có nhiều cách rao giảng Tin mừng, có người phải từ bỏ gia đình đi đến những miền xa, phải trèo non lặn suối, có khi phải liều mạng để rao giảng Tin mừng. Đây là những người có ơn kêu gọi đặc biệt, còn phần đông chúng ta chỉ có thể rao giảng trong môi trường cụ thể của mình, đó là rao giảng bằng đời sống. Đó chính là sống Lời Chúa Giêsu truyền dạy trong chính cuộc sống riêng của mỗi ngưởi, Để rao giảng Đức Giêsu cho thế gian, chúng ta phải bắt đầu bằng cách tự rao giảng Ngài cho chính chúng ta trước. Có câu ngạn ngữ Trung hoa như sau :
“Tiên chánh kỳ tâm hậu tu kỳ thân, Tiên tu kỳ thân hậu tề kỳ gia, Tiên tề kỳ gia hậu trị kỳ quốc Tiên trị kỳ quốc hậu bình thiên hạ”. Tâm hồn có chân chính thì bản thân mới tốt đẹp, Bản thân có tốt đẹp thì gia đình mới thuận hòa, Gia đình có thuận hòa thì quốc gia mới thịnh trị, Quốc gia có thịnh trị thì thế giới mới hòa bình.
Cũng thế, muốn rao giảng Đức Giêsu cho thế gian, chúng ta phải đưa Ngài vào chính cuộc sống chúng ta trước, sau đó lời rao giảng về Ngài mới tỏa lan khắp cùng thế giới. Nếu có đủ số người Kitô hữu biết đưa Đức Giêsu vào cuộc đời mình thì gợn sóng ấy sẽ biến thành cơn sóng thủy triều, rồi cơn thủy triều sẽ thay đổi bộ mặt trái đất thành tuyệt vời đến mức chúng ta chưa bao giờ dám mơ ước.
III. SỨ MẠNG LÀM CHỨNG CHO CHÚA.
Đức Giêsu nói với các môn đệ :”Các con làm chứng về những điều ấy”(Lc 24,48) tức là làm chứng cho chính Thầy.
Vậy làm chứng là gì ? Làm chứng là nhận thức một sự kiện mà chính mình đã kinh nghiệm. Nói rõ hơn, làm chứng là chứng nhận bằng lời nói hay bằng hành động một sự việc đã xẩy ra, một sự kiện có thật mà mình đã thấy, đã trải qua.
Còn chứng nhân hay người làm chứng, là kẻ nghe gì thì nói lại y như vậy, thấy sao thì thuật lại như vậy, rất đúng, rất trung thực. Ngược lại thì người ta gọi là phản chứng. Ở tòa án, chứng nhân hay nhân chứng là người nói sự thật những điều tai nghe mắt thấy. Trong đời sống hằng ngày, chứng nhân là người sinh sống và hành động như mình biết, tin tưởng và xác tín.
Triết học dạy rằng : “Nhất chứng phi chứng, nhị chứng chứng quả”.
Tất cả những điều kể trên đã có quá hai người làm chứng, cách riêng là mười một môn đệ, cách chung là toàn dân đồng thời với Chúa, sau đó là chúng ta qua các môn đệ Ngài.
Hiểu như vậy, các Tông đồ là những chứng nhân đầu tiên về cuộc đời của Đức Giêsu, bởi vì các ngài đã đi theo Chúa, sống với Chúa gần ba năm trời, nhất là các ngài là những nhân chứng thấy tận mắt và sờ tận tay cái chết đau thương và sự phục sinh tỏ tường của Chúa.
Vì thế, Chúa muốn các ngài làm chứng cho Chúa. Bởi vì tất cả mọi mầu nhiệm, mọi tín lý, mọi chứng cớ về Đức Giêsu đếu bắt đầu và kết thúc ở mầu nhiệm Phục sinh: phục sinh của Chúa Kitô và phục sinh của nhân loại. Hai việc phục sinh ấy liên kết chặt chẽ với nhau. Bởi vì có Phục sinh tức là có sự tồn tại của con người và sự sống vĩnh cửu. Tất cả những điều đó chỉ có thực khi việc phục sinh của Chúa có thực. Do đó, làm chứng về sự sống lại của Chúa có nghĩa là làm chứng cho sự chiến thắng và vinh quang của Chúa. Cũng thế, làm chứng về sự sống lại của loài người có nghĩa là làm chứng về ơn cứu độ, sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc trường sinh của loài người. Đến lượt chúng ta hôm nay, mỗi người chúng ta cũng phải là một chứng nhân. Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã nói :”Mỗi ngưởi giáo dân, trong bản chất, là một chứng nhân”. Bởi vì khi chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội, nhất là phép Thêm sức, là chúng ta đã được Chúa Kitô trao sứ mệnh làm chứng cho Ngài. Và tất cả chúng ta đã biết : cách thức làm chứng tốt nhất là đời sống tốt đẹp của chúng ta.
Truyện : Những gì tôi biết về Chúa Kitô.
Sau đây là một cuộc đối thoại độc đáo giữa một người tân tòng Công giáo và một người vô thần :
– Anh đã theo đạo Công giáo rồi sao ?
– Vâng, nói đúng và rõ hơn, tôi đã xin theo Đức Kitô.
– Thế thì chắc anh biết rất nhiều về ông ta, vậy anh hãy nói cho tôi biết ông ta sinh ra trong quốc gia nào ?
– Rất tiếc là tôi đã có học những chi tiết này trong một khóa giáo lý, nhưng tôi lại quên mất.
– Thế khi chết, ông ta được bao nhiêu tuổi ?
– Tôi không nhớ rõ lắm nên cũng không dám nói.
– Vậy anh có biết ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài, có bao nhiêu tác phẩm ông ta để lại, nói chung, về cuộc đời sự nghiệp của ông ta ?
– Như vậy, anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã thực sự đi theo ông Kitô.
– Anh nói đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết qúa ít về Đức Kitô. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này : ba năm trước, tôi là một tên nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ. Gia đình tôi xuống dốc một cách kinh khủng. Mỗi tối khi trở về nhà, vợ và các con tôi đều tức giận và buồn tủi. Thế mà, bây giờ thì tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ nần, gia đình tôi đã tìm lại được hạnh phúc, các con tôi ngong ngóng chờ đợi tôi về nhà mỗi tối sau giờ làm ca. Tất cả những điều này, không ai khác hơn, chính Đức Kitô đã làm cho tôi. Và đó là tất cả những gì tôi biết về Ngài… (Theo Parole de vie).
Trong tông huấn Evangelii nuntiandi, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã nói lên vai trò của chứng nhân trong cuộc sống như sau :”Do đó, chính với phẩm cách và đời sống mình, mà Giáo hội sẽ phúc âm hóa thế giới; nói cách khác, bằng sự “chứng tá” sống động về lòng trung thành của mình với Chúa Giêsu – chứng tá về sự khó nghèo và siêu thoát, về sự tự do khi đối đầu với các quyền lực trần gian – nói tóm lại, là chứng tá của sự thánh thiện” (Evangelii nuntiandi, đoạn 41),
HÃY THEO CHÚA VỀ TRỜI.
Quê hương chúng ta ở trên trời.
Trước khi ra đi vào cuộc khổ nạn, Đức Giêsu dã khích le äcác Tông đồ :”Lòng các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với các con rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho các con. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho các con, thì Thầy lại đến, và đem các con về với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng ở đó”(Ga 14, 1-3).
Tin tưởng như thế, thánh Phaolô cũng nói rằng :”Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trờ đến cứu chúng ta”(Pl 320).
Nếu chúng ta biết Đức Giêsu của chúng ta đang ở trên trời thì lòng chúng ta phải hướng về đó. Không có nơi nào đáng yêu bằng nơi đó. Đó là nơi mà các bậc thánh đã yêu mến một quê hương tốt hơn – quê hương ở trần gian – mà các ngài gọi là quê hương trên trời.
Nhưng nhìn vào thực tế, chúng ta phải nhìn nhận rằng : chúng ta đã quá bén rễ sâu vào cuộc sống trần gian, đã quá quyến luyến những thực tại chóng qua. Chúng ta đã chọn trái đất này làm quê hương vĩnh cửu và sẵn sàng bán rẻ linh hồn mình lấy một nắm tro bụi. Dân Do thái ngày xưa đã thờ lạy con bò vang thế nào thì hôm nay con người cũng đang đi vào con đường ấy.
Điều kiện để về trời.
Đức Giêsu phán :”Không phải những ai cứ kêu Lạy Chúa ! Lạy Chúa ! mà được vào Nước Trời, mà chỉ những ai làm theo thánh ý của Cha Ta”(Mt 7,21-23; Lc 6,46; 13,26-27).
Nước Trời hay thiên đàng là phần thưởng cho những ai đã cố gắng thi hành theo thánh ý Chúa. Như thế, Chúa không cho phép chúng ta tự rút mình ra khỏi các công tác, các hoạt động thuộc về đời này, chẳng làm gì ngoài việc chiêm ngắm cõi đời mà thôi !
Thánh Phaolô đã vạch ra một loạt các nguyên tắc để giúp người Kitô hữu tiếp tục công việc ở đời này và duy trì một mối liên hệ bình thường với thế gian này. Nhưng phải có chỗ khác biệt là từ nay trở đi, Kitô hữu phải nhìn nhận mọi sự trong ánh sáng, trong bối cảnh là cõi đời đời. Nghĩa là người ấy sẽ không sống dường như đời này là tất cả những gì mình quan tâm, nhưng phải đặt thế gian này trong bối cảnh của cõi sống đời đời.
Vậy những ai xác tín rằng quê hương đích thực của đời mình là ở trên trời cao thì trước hết và trên hết hãy qui hướng tất cả mọi sự trong cuộc sống, vận dụng mọi hoàn cảnh về nơi đó để cố gắng chiếm đoạt cho bằng được dù phải trả bất cứ giá nào. Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là phải chạy trốn khỏi cuộc sống khốn khổ này, trái lại phải vui tươi, can đảm chu toàn mọi trách nhiệm, bổn phận mà Chúa đã giao phó cho mỗi ngưởi với điều kiện đừng để cho bản thân, gia đình, của cải, danh lợi làm chủ, điều khiển đến độ quên hết đời sau.
Chúng ta hãy bắt chước các Tông đồ khi chia ly với Thầy mình thay vì buồn sầu, chán nản, các ngài hớn hở vào đời làm nhiệm vụ được giao phó vì các ngài thâm tín rằng phải sống ở trần gian một ít lâu, nhưng hy vọng chắc chắn đợi ngày tái ngộ với Thầy mình trên quê trời.
Mỗi người chúng ta đềucó những kỷ niệm vềsự bình yên của riêng mình. Với tôi, đó là một LênTrời ABC-429
Mỗi người chúng ta đềucó những kỷ niệm vềsự bình yên của riêng mình. Với tôi, đó là một góc quán nhỏ thân quen vớinhómbạn, có thể là mộtbữa cơm thanh đạm trongmái nhà cùng những người thân thương, hoặc có khi, chỉ cần nhớvề những kỷ niệm đầy yêu thương với cha me, người thâncũng đủ khiến lòng ta bình yên rồi.
Đó là lý do mà ai trong đời cũng cần một chốn bình yên như thế để trở về sau những vất vả truân chuyên, hay sau những mất mát ê chê. Có đôi lúc chúng ta chỉ muốn buông bỏ mọi sự để mong sớm được về nơi chốn bình yên của lòng ta.
“Ai rồi cũng cần một nơi chốn bình yên Để trút bỏ những muộn phiền lo lắng Ngôi nhà nhỏ – nơi yêu thương đầy ắp Chẳng lợi danh, được mất, hơn thua”
Nơi bình yên ấy chính là mái nhà đầy ắp yêu thương. Nơi ấy không chỉ cho ta tình yêu mà quan yếu là cho ta cảm giác bình yên lạ thường!
“Chỉ là đôi lúc ta chỉ muốn về nhà Cuộc sống bon chen ta thấy mình mỏi mệt Một giấc ngủ thôi mọi muộn phiền sẽ hết Hai chữ bình yên mang tên gọi là nhà”
Bản thân tôi khi mới xa nhà cũng hay tìm cách về quê, chỉ để cùng bạn bè nhâm nhi ly càfe hay ngồi ở một góc khuất nào đó hàn huyên tâm sự cũng đủ thấy bình an.
“Chỉ là đôi lúc muốn một mình lê la Nơi quán cũ nghe bản nhạc xưa đã cũ Phố phường đông cho đôi chân lưỡng lự Dòng đời xô bồ đến rồi kéo ta đi”
Chúa Giê-su sau hành trình 33 năm chốn dương gian đầy truân chuyên, khắc nghiệt, Ngài đã về Quê Trời. Nơi đó có Chúa Cha hằng yêu thương Ngài. Nơi đó không có tham sân si. Nơi đó không có những ganh ghét lọc lừa mưu mô. Nơi đó là chốn bình yên , hạnh phúc trọn vẹn. Nơi đó cũng là nơi mà Chúa Giê-su bảo rằng: Ngài đi để dọn chỗ cho chúng ta, để Ngài ở đâu thì những kẻ tin vào Ngài cũng ở đó.
Hôm nay, lễ Chúa Giê-su về Trời là dịp để chúng ta nhìn lại chuyến đi cuộc đời của Ngài. Ngài đã đi qua kiếp ngườ iđầy thăng trầm hạnh phúc và khổ đau.Ngài đã đi qua những bể dâu của cuộc đời để tiến vào quê trời, là nơi không còn khóc lóc, than van và đau khổ. Cuộc đời của Ngài là một cuộc đời không ngừng chọn theo thánh ý Chúa Chađể từ khước những lời mời mọc của ma quỷ thật ngọt ngào, thật quyến rũ về danh lợi thú trần gian. Cuộc đời của Ngài là một cuộc đời dâng hiến để phục vụ tha nhân và phục vụ tin mừng Nước Trời. Ngài đã sống một cuộc đời như hạt lúa gieo vào lòng đất, chịu mục nát để trổ sinh bông lúa vàng. Ngài đã đi đến cùng của việc xin vâng theo thánh ý Chúa, cho dẫu lời xin vâng cần phải thể hiện bằng chén đắng cuộc đời. Thế nên, Ngài đã được Chúa Cha ân thưởng và siêu thăng lên cõi trời. Ngài đã hoàn thành sứ mạng của mình tốt đẹp và nay về trời chung hưởng vinh quang với Thiên Chúa Cha.
Đó cũng là con đường mà Chúa luôn mời gọi chúng ta bước theo. Đường thập giá tới vinh quang. Đường hẹp đưa ta vào cõi sống trường sinh. Đường từ bỏ danh lợi thú để sống cao thượng và thanh thoát hơn. Đừng đam mê tật xấu. Đừng nuông chiều xác thịt. Hãy sống tiết độ. Hãy vác thập giá của bổn phận, của hy sinh phục vụ anh em để nhờ đó mà ta được đổi mới nên tốt hơn, nhất là được lột bỏ con người cũ để sống sự sống con người mới, con người của con cái sự sáng, ngõ hầu mai sau cũng được phục sinh với Chúa. Cuộc đời là một hành trình. Hành trình tiến về thiên quốc. Hành trình này không thể đạt được bằng sự dễ dãi, nuông chiều xác thịt. Hành trình này đòi phải hy sinh, phải phấn đấu mới mong đạt được. Xin Chúa giúp chúng ta luôn nhìn lên trời cao là đích điểm của mình để can đảm từ bỏ những đam mê tội lỗi trần gian. Xin Chúa giúp chúng ta biết lột bỏ con người cũ cùng những tính hư nết xấu của mình để hoàn thiện mình mỗi ngày nên giống Chúa hơn, ngõ hầu mai sau cũng được về quê trời hưởng phúc vinh quang với Chúa. Amen
Chúng ta đã trải qua 40 ngày mừng Chúa Phục Sinh, hôm nay cùng với Giáo Hội chúng ta hân LênTrời ABC-430
Chúng ta đã trải qua 40 ngày mừng Chúa Phục Sinh, hôm nay cùng với Giáo Hội chúng ta hân hoan mừng kỷ niệm Chúa về trời. Mừng Chúa lên trời, là chúng ta tuyên xưng một tín điều trong Kinh Tin Kính đó là: “Người sống lại và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha”. Chúa lên trời dạy chúng ta điều gì?
-Ngài dạy chúng ta một chân lý: “Sự sống này thay đổi chứ không mất đi, chết không phải là hết, không phải là tận cùng, nhưng là bước vào một cuộc sống mới “. Như vậy chúng ta xác tín rằng: đây là cuộc sống lữ hành “Sống gửi thác về”. Bởi thế gian không phải là nhà, Thiên đàng hoan lạc mới là quê hương. Chúa đi trước dọn chỗ cho chúng ta, nơi đó là cõi nguồn hạnh phúc, là phần thưởng dành cho những ai suốt đời khao khát tìm kiếm những sự trên trời.
Chúng ta hy vọng ngày mai đây sau khi nhắm mắt lìa đời, sẽ được Chúa cho sống lại với Chúa trên Nước trời, nếu ở đời này chúng ta ăn ngay ở lành và gắng bước theo Chúa. Chúng ta tin rằng mọi việc lành đều sinh công phúc; mọi đau khổ nếu vui lòng chịu vì lòng yêu mến, Chúa sẽ thưởng công cho chúng ta ở đời sau. Vì Chúa trải một kiếp người đầy đau khổ mới bước vào vinh quang ngàn đời.
– …. Ngài dạy chúng ta đi rao truyền chân lý
Chúa về trời, là Ngài hoàn tất sứ mạng rao giảng Tin mừng, Ngài trối sứ vụ đó cho các môn đệ cũng như cho chúng ta như một bài sai: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân tất cả những điều Thầy đã truyền cho các con…” (Mt. 28,19).
Chúa muốn chúng ta tiếp tục sứ mạng rao giảng Tin mừng cứu độ. Bởi vì trong ba năm đi rao giảng, bước chân của Ngài chỉ đi trong nước Palestine nhỏ bé, còn lại cả một thế giới mênh mông ngút ngàn Ngài chưa đi tới. Còn biết bao dân tộc xa xăm chưa biết Chúa là ai, chưa một lần nghe nói về danh thánh Ngài; chưa biết được hạnh phúc Nước trời là gì. Chính vì lẽ ấy Chúa mời gọi: “Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng…” (Mc. 16,15).
Nhưng trước khi sai các tông đồ ra đi rao giảng Tin mừng, thì Chúa Giêsu đã ra đi trước rồi. Ngài vâng lệnh Chúa Cha ra đi từ trời cao xuống đất thấp. Ngài ra đi từ địa vị Thiên Chúa xuống làm con người, để ở cùng ở với chúng ta.
Ngài ra đi khỏi gia đình êm ấm lang thang trên khắp nẻo đường. “Con chim có tổ, con chồn có hang, Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8, 20).
Chúa không ngừng ra đi đến với mọi miền đất nước. Chẳng hạn như: Chúa đến miền Thập Tỉnh phần đông là người ngoại đạo. Miền bị ma quỉ thống trị. Miền mồ mả chìm trong bóng tối sự chết. Chúa đến và gặp người khổ cực nhất. Chúa đã giải thoát họ khỏi thần chết, đem lại ơn sức sống cho họ.
Noi gương Chúa, chúng ta không những ra đi khỏi ngôi nhà êm ấm, nhưng còn là ra đi khỏi con người sống chủ nghĩa cá nhân, an phận, lo vun đắp cho mình, mà không hề biết dấn thân, quảng đại chia sẻ với những người kém may mắn.
Qua mọi thời đại, Chúa vẫn tiếp tục sai chúng ta ra đi gieo rắc tình thương, loan tin bình an, cùng nhau xây dựng một nền văn minh tình thương, để con người xích lại gần nhau hơn, sống công bình bác ái, như lòng Chúa mong muốn.
-. … Ngài dạy chúng ta lo tìm kiếm nước Chúa
Tìm kiếm Nước Chúa là mỗi sáng khi thức dậy, người đầu tiên chúng ta phải nhớ là Chúa. Việc suy nghĩ tìm kiếm đầu tiên phải là Nước trời, bởi vì Chúa nói “Tiên vàn, các con hãy tìm kiếm Nước Trời trước, còn mọi sự khác Ngài sẽ ban cho sau ” (Mt 6,33).
Anh chị em thân mến,
Mừng kỷ niệm Chúa Giêsu lên trời và lời Ngài hứa “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế “(Mt. 28,20). Chúng ta hiểu rằng: Chúa lên trời không theo nghĩa thể lý hay không gian. Mặc dù Chúa không hiện diện cách hữu hình nữa, nhưng Ngài vẫn hiện diện cách thiêng liêng và đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường dương thế.
Mừng lễ Chúa lên trời, xin Chúa giúp chúng ta đừng tìm kiếm những sự mau qua ở đời này, nhưng hãy lo tìm kiếm những sự trên trời, bằng cách sống chân lý Chúa dạy; biết thi hành mệnh lệnh Chúa trao, và lo tìm kiếm Nước Chúa. Có như thế, chúng ta mới hy vọng sau khi nhắm lìa đời, chúng ta được Chúa cho sống lại với Chúa trên Nước Trời. Amen.
Sự sống, hạnh phúc bất tận, tình huynh đệ phổ quát và niềm vui sẽ không qua đi. Đó là tất LênTrời ABC-431
Sự sống, hạnh phúc bất tận, tình huynh đệ phổ quát và niềm vui sẽ không qua đi. Đó là tất cả những gì mà Tin Mừng hứa hẹn. Đó là tất cả những gì dường như không thể đối với chúng ta ở thế giới này, nhưng sẽ có thể ở thế giới bên kia. Thế giới khác: chỉ có điều đó, là thực sự quan trọng.
Hãy chấp nhận làm việc trên trái đất này, hãy chịu đựng ngay bây giờ, sau này mọi thứ sẽ tốt hơn. Bây giờ chúng ta hãy chịu đựng nỗi đau, sự đau khổ và cái chết, chúng ta sẽ có phần thưởng trên thiên đàng. Những gì là không thể trong thế giới này sẽ được ban cho cho chúng ta dư dật ở trên cao. Hãy kiên nhẫn: những gì quan trọng là thế giới khác, những gì quan trọng là trên trời.
Đó lầ lối suy nghĩ cổ xưa: Vừa đúng lại vừa sai. Tốt hơn hết là chúng ta không suy nghĩ như thế nữa. Thời đại hôm nay người ta chỉ trích rất nhiều lối suy nghĩ như vậy. Thế giới hưởng thụ hôm nay coi các Kitô hữu là những người bạn đồng hành xấu, những kẻ đào ngũ và hèn nhát. Ngày nay chúng ta đã mất ngôn ngữ của trời. Vì thế, chúng ta đã học lại để yêu trái đất và làm việc trên trái đất này.
Trời và đất
Tất nhiên, sống trên trái đất này, ham muốn của chúng ta vẫn bị hạn chế. Chúng ta sẽ không bao giờ nhận ra hạnh phúc hoàn hảo trên thế giới này. Tốt hơn hết! Hãy giới hạn mình vào những gì chúng ta có thể bây giờ thay vì chạy trốn cuộc sống này để mơ về một hạnh phúc vô hạn chỉ có thể ở đời sau:
- Ngày xưa, người ta đã nói với chúng ta: "Điều quan trọng là trên trời". - Ngày nay, chúng ta tuyên bố: "Điều quan trọng là trái đất! " - Ngày xưa, chúng ta mơ ước một hạnh phúc hoàn hảo trong thế giới bên kia. - Ngày nay chúng ta muốn đạt được một hạnh phúc khập khiễng trong thế giới này.
Dù sao, giữa trời và đất, bằng mọi cách, chúng ta phải lựa chọn:
- Chúng ta sẽ bỏ qua đời sống chúng ta để khao khát những điều không thể, hay là làm điều nhỏ bé có thể trên trái đất này?
- Giữa trời và đất, hôm qua chúng ta chọn bầu trời, hôm nay nhiều người thích đất.
- Giữa trời và đất, Chúa Giêsu không chọn. Ngài đề xuất cả hai cùng một lúc đối với các môn đệ của Ngài. Ngài nói: “Hỡi người Galile, sao anh em còn đứng nhìn lên trời? Anh em hãy đi tới muôn dân...Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày”. Sau khi lên trời, Chúa Giêsu đã nói với môn đệ rằng: Ngài càng không bỏ trái đất này, Ngài càng hiện diện trên trái đất này khi Ngài lên trời cao nhất.
Sự nối kết không thể?
Chúa Giêsu đã thiết lập giao ước trời và đất, giữa thực tại hữu hình và vô hình. Nhờ Ngài, điều không thể trở thành có thể: trời đã có thể truy cập được trên trái đất này và trái đất được gieo trồng ở trên trời. Chúa Giêsu mời các tông đồ theo Ngài làm điều đó: “Hỡi người Galile, sao anh em còn đứng nhìn lên trời? Chính trong thế giới này mà họ thuộc về, họ tuân giữ các điều răn của Chúa và loan truyền điều răn đó cho thế giới. Chúa Giêsu đề nghị các tông đồ: một mặt, họ phải sống cụ thể và phải hoạt động động cụ thể như chúng ta đã thấy trong sách “Công vụ tông đồ”; mặt khác, họ còn phải: “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Hãy dạy họ tuân giữ các điều răn của Thầy”.
Chúa Giêsu mở rộng ước muốn của bạn bè Ngài về chiều kích Nước Trời. Ngài mời họ khao khát những điều không thể, nếm thử những điều không thể. Chúa Giêsu gắn cho họ một nhiệm vụ không thể theo cái nhìn của con người, đó là yêu cầu các tông đồ biến đổi tất cả các dân nước. Ngài mời gọi họ sống trên trái đất này như là trời hoặc như là chính là Thiên Chúa với trái tim rộng mở. Ngài mời gọi họ sống nối kết trời và đất.
Hãy nếm những điều không thể!
Noi gương các tông đồ, chúng ta không lựa chọn giữa trời và đất. Chúng ta không có lựa chọn nào giữa việc chờ đợi rằng điều không thể sẽ hiện thực ở thế giới khác, hoặc chỉ làm những điều nhỏ bé có thể trong thế giới này. Ước muốn trời không phải chỉ cam chịu nhiều bất công trên trái đất, mà còn phải khao khát trái đất này không còn những bất công tồi tệ nữa. Chúng ta đừng cam chịu chờ đợi trời, và cũng đừng cam chịu không thể làm được gì trên trái đất này với khả năng của chúng ta đứng trước những bất công..
Sứ mệnh môn đệ Chúa Giêsu Kitô Sứ mệnh của người muốn sống sự sống của Thiên Chúa:
- Không phải chỉ cố gắng xây dựng Vương quốc công lý và hòa bình mà Chúa Giêsu nói.
- Mà còn phải nếm thử điều không thể để xây dựng vương quốc ngay từ trái đất này.
Người môn đệ của Chúa Kitô được mời gọi sống nối kết giữa trời và đất.
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh". Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.
Suy niệm
Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến trần gian để loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa. Lời rao LênTrời ABC-432
Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến trần gian để loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa. Lời rao giảng của Ngài không phải như lời người phàm nhưng là Lời ban sự sống và mang lại ơn giải thoát. Ai tin vào Lời của Ngài và lãnh nhận Phép Rửa thì sẽ được ơn cứu độ.
Chúa Giêsu về trời, Ngài không còn hiện diện cách hữu hình với con người nữa, nhưng hiện diện cách phong phú và sống động khi cộng đoàn được qui tụ nhân danh Ngài, khi Lời Ngài được công bố, và khi Hội Thánh cử hành các bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể. Chúa Giêsu tiếp tục hoạt động trong Giáo hội để Tin Mừng của Ngài được loan báo cho mọi loài thụ tạo. Lời Ngài còn được vang vọng trong thế giới qua đời sống chứng tá hàng ngày của các Kitô hữu.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu, trước khi về trời, Chúa trao cho Giáo Hội sứ vụ tiếp nối công cuộc loan báo Tin mừng của Chúa đến tận cùng trái đất. Lời Chúa hôm nay giúp chúng con khám phá ra rằng, dù còn giới hạn và bất toàn, nhưng chúng con không đơn độc, vì Chúa luôn ở cùng để biến đổi chúng con và biến đổi thế giới này. Ý thức có Chúa cùng đồng hành, xin cho chúng con luôn biết nhiệt thành cộng tác và can đảm làm chứng cho Tin mừng nước Chúa. Amen.
“Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa” (Lc 24,49).
Đức Giêsu làm nhiều cách để minh chứng về sự Phục Sinh của mình cho những người được gọi LênTrời ABC-433
Đức Giêsu làm nhiều cách để minh chứng về sự Phục Sinh của mình cho những người được gọi để làm chứng nhân. Nhưng giờ đây, Ngài phải tỏ ra cho các môn đệ biết mục tiêu cuối cùng của việc sống lại. Bằng cách lên trời trong lần xuất hiện cuối cùng này, Đức Giêsu mặc khải ý nghĩa cuộc đời Ngài. Ngài xuất phát từ Chúa Cha. Giờ đây, Ngài trở về cùng Chúa Cha, nhưng Ngài không trở về một mình. Ngài mang theo những ai đã tin tưởng gắn bó (Ep 4,8), mà Ngài đã kéo ra khỏi quyền lực của bóng tối để đưa vào vương quốc của ánh sáng (Cl 1,13). Từ đó mở ra cho chúng ta niềm hi vọng con đường về trời.
Niềm hi vọng được lên trời cùng Chúa giúp chúng ta xây dựng đời mình qua hành trình cuộc Tử nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu. Niềm hi vọng này không có gì có thể cướp mất được cho dù là gian truân, sầu khổ, bách hại hay gươm giáo, bởi chúng ta biết chúng ta đặt niềm hi vọng vào ai (x. Rm 8,35).
Vinh quang của Đấng Về Trời còn giúp chúng ta hướng vọng về những thực tại trời cao vượt xa những đòi hỏi trần thế. Những thực tại trời cao không phải là những gì chúng ta không nắm bắt được hay những điều viễn vông mà là những gì chân thực, thánh thiện. Đó là một sự khao khát nên hoàn thiện, một tâm hồn đơn sơ, và một cuộc đời khó nghèo. Đó là giọt mồ hôi, nụ cười và nước mắt của người cha, người mẹ dành cho con cái. Đó là sự phục vụ âm thầm của biết bao con người đang hi sinh vì Giáo hội và cho phần rỗi các linh hồn.
Niềm hi vọng vào Chúa Giêsu lên trời còn giúp chúng ta kí thác vào Ngài những lời cầu xin, những đau khổ, bệnh tật và những ước vọng sâu kín nhất trong tâm hồn như một lễ phẩm dâng lên Chúa Cha. Uớc mong nhân loại cùng tuyên xưng Thiên Chúa là Cha và nhận biết Chúa Giêsu là Đấng cứu độ. Ước mong một thế giới không còn hận thù, hòa bình sẽ triển nở trên mặt đất. Uớc mong cho mọi tâm hồn được lấp đầy tình yêu và bình an.
Lạy Chúa, là Đấng lên trời vinh hiển, xin gieo niềm hi vọng và biến đổi bộ mặt trái đất, để dù đang sống giữa những thử thách và hiểm nguy, chúng con cũng luôn biết hướng vọng về quê trời và vững tin một ngày nào đó cũng sẽ được lên trời cùng Chúa. Amen.
Sau một lần thất vọng về cái chết của Thầy, nay được nhìn thấy Thầy đã sống lại, các môn đệ LênTrời ABC-434
Sau một lần thất vọng về cái chết của Thầy, nay được nhìn thấy Thầy đã sống lại, các môn đệ vui mừng và hy vọng Thầy sẽ tiếp tục công việc khôi phục vương quốc Israen: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israen không?” Không trả lời cho họ là phải hay không phải, Chúa Giêsu lại nói: “Anh em không cần biết thời giờ hay kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1 : 6-8). Niềm vui và hy vọng vừa được phục hồi thì đột ngột Thầy lại bỏ các ông mà lên trời, làm các ông ngơ ngác bàng hoàng cứ đứng đó nhìn Thầy khuất dạng trong đám mây: “ Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” (Cv 1: 9-11) Và nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các môn đệ đã “ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.” (Mc 16: 20)
Chúa Giêsu từ trời xuống thế làm người. Sau ba năm công khai rao giảng Tin Mừng cứu độ, Ngài đã bị người ta giết chết trên cây thập giá. Ba ngày sau, Ngài đã phục sinh, rồi Ngài lại trở về trời để được tôn vinh và ngồi bên hữu Chúa Cha. Đó là chuyện tất yếu. Nếu Chúa Giêsu không về trời thì chương trình cứu chuộc con người rồi sẽ đi về dâu?
Chúa Giêsu về trời không phải để phủi tay hết trách nhiệm, nhưng việc Ngài trở về trời lại hé mở cho nhân loại một niềm hy vọng lớn lao cho cuộc sống mai sau: Thầy đi là để dọn chỗ cho anh em, và Thầy sẽ trở lại để đón anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy. Việc Chúa Giêsu về trời cho chúng ta thấy cứu cánh của cuộc hành trình nơi trần gian rồi sẽ đi về đâu. Điều này cho chúng ta có một tầm nhìn mới về giới hạn của thế giới này và chiều kích vĩnh của cho cuộc sống mai sau.
Chúa Giêsu về trời để hoạt động ở một phạm vi rộng lớn không còn bị hạn chế về không gian và thời gian. Sự lên trời, trở về nhà Cha không có nghĩa là không có mặt hay không còn hoạt động trên mặt đất, nhưng lại là dấu hiệu chứng tỏ Ngài hiện diện liên lỉ ở bất cứ nơi đâu trên trái đất.
Lời huấn dụ cuối cùng trước khi về trời không phải là một lời kết thúc công việc rao giảng Tin Mừng của Ngài hay là một lời phó thác trách nhiệm cho các môn đệ, nhưng là một huấn thị cho một chương trình hành động mới được phát động rộng rãi để phối hợp hành động ở trên trời và đưới đất: các tông đồ “ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.” Chúa Giêsu đang điều hành công việc trên trời. Chúa Thánh Thần, Đấng hỗ trợ con người hành động. Con người là cánh tay hành động của Thiên Chúa ở trần gian và Chúa Giêsu cùng hành động với con người qua trung gian của Chúa Thánh Thần.
Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế. Như thế việc Chúa về trời không phải là chấm dứt việc Ngài hiện diện với chúng ta; ngược lại, Ngài vẫn luôn đồng hành với chúng ta qua mọi thời đại.
Sống ở trần gian để hướng về nước trời là nhiệm vụ phải chu toàn. Hoàn tất nhiệm vụ ở trần gian theo tinh thần của Tin Mừng là điều kiện để đạt tới hạnh phúc nước Trời. Chu toàn cuộc sống ở trần gian theo tinh thần Tin Mừng là kết qủa của cuộc sống mai sau trên trời. Thực hành tốt đẹp cuộc sống ở đời này theo Tin Mừng là chúng ta góp phần xây dựng nước trời. Góp phần xây dựng trần gian theo chương trình của Thiên Chúa là chúng ta dọn chỗ ở trên trời. Trần gian không phải là nơi để chúng ta gắn bó, nhưng là cơ hội để chúng ta chuẩn bị cho nước trời.
Việc Chúa về trời còn cho chúng ta thấy ngoài cõi sống tạm bợ ở đời này, chúng ta còn có một quê thật cần hướng tới. Cuộc sống ở đời này sẽ là kết quả của cuộc sống ngày mai nếu chúng ta để tâm lực cho cuộc sống ấy.
Ngoài nhiệm vụ sống tốt đẹp cuộc sống ở đời này cho mình, chúng ta còn có nhiệm vụ cùng cộng tác với Thiên Chúa để cùng đem ơn cứu rỗi đến cho hết mọi người ở khắp mọi nơi như lời Chúa đã truyền cho các môn đệ ngày xưa và cho chúng ta hôm nay: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án” ( Mc 16:15-16)
Chúa Giêsu xuống trần gian không phải chỉ để rao giảng Tin Mừng cứu độ một lần là xong, nhưng công việc ấy còn kéo dài bao lâu nhân loại chưa quy về một mối như mong ước của Thiên Chúa; bao lâu con người còn vì tự do của mình mà tách rời khỏi Thiên Chúa thì công việc rao giảng Tin Mừng cứu độ vẫn còn tiếp tục cho đến khi cả nhân loại quy về một mối là Cha trên trời. Nhiệm vụ của Chúa xuống thế làm người không phải để vinh danh Ngài, nhưng là để cứu chuộc nhân loại. Tình thương của Thiên Chúa không để mất một ai như chủ chiên để 99 con chiên trong đàn để đi tìm con chiên lạc.
Lời Chúa nói với các môn đệ ngày xưa cũng là lời truyền dạy chúng ta hôm nay. Với phương tiện và sinh hoạt của các môn đệ ngày xưa, cùng lắm cũng chỉ có thể thực hiện được ở Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê hay Samari, nhưng cho đến tận cùng trái đất thì đó lại là trách nhiệm của chúng ta hôm nay.
Một số thanh niên Kitô Giáo đang tham dự một trại hè quốc tế. Một trong những đề tài được đưa ra cho các trại sinh thảo luận và đào sâu là những ý tưởng về công tác truyền bá Phúc Âm giữa lòng thế giới.
Cuộc thảo luận rất bao quát và phong phú: nào là việc sử dụng các phương tiện truyền thông như truyền thanh, truyền hình, nào là quảng bá những bài viết trên báo chí... Sau cùng, khi không còn ý kiến nào phát biểu nữa, một thiếu nữ Phi Châu đã đứng lên và phát biểu ý kiến: “Ở đất nước chúng tôi, khi chúng tôi nhận ra một làng ngoại giáo nào đó đã sẵn sàng tiếp nhận Kitô Giáo, chúng tôi không gửi đến họ những quyển sách hay những vị thừa sai; nhưng chúng tôi gửi đến họ một gia đình Công Giáo tốt lành. Gương sáng của gia đình ấy là một lời tuyên xưng Phúc Âm mạnh mẽ hơn tất cả những sách vở trên thế giới này.”
Đây cũng là một trong những cách rao giảng Tin Mừng cứu độ của ngày hôm nay. Bao lâu còn có ai, còn có nơi nào chưa đón nhận được Tin Mừng cứu độ thì Chúa vẫn cần chúng ta làm công việc ấy. Chúng ta loan truyền, rao giảng không phải chỉ bằng những lời nói suông mà phải bằng chính cuộc sống của mình.
Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofm:
Các môn đệ của Đức Giêsu phải ra đi để làm cho muôn dân “trở thành môn đệ” Người, chứ không LênTrời ABC-435
Các môn đệ của Đức Giêsu phải ra đi để làm cho muôn dân “trở thành môn đệ” Người, chứ không phải trở thành môn đệ của chính mình.
1- Ngữ cảnh
Ở đây, chúng ta chỉ đề cập đến ngữ cảnh trực tiếp, đó là mộ trống với hai sứ điệp, một tích cực, một tiêu cực:
a) Sứ điệp tích cực
Sứ điệp tích cực được gửi đến trong hai thì:
- bởi sứ thần khi ngài giao phó cho các phụ nữ hai sứ mạng là làm chứng về sự Phục Sinh của Đức Giêsu và loan báo cho các môn đệ lệnh triệu tập của Đức Giêsu (28,1-8). Đây là kinh nghiệm tiêu cực về sự Phục Sinh.
- bởi chính Đức Giêsu Phục Sinh (28,9-10): Người cho các phụ nữ sống một kinh nghiệm thực hữu về sự Phục Sinh của Người và giao cho họ cùng một sứ mạng, là triệu tập các môn đệ về Galilê.
Đoạn văn Mt 28,16-20 cho hiểu rằng các phụ nữ đã chu toàn hai sứ mạng được giao: khi quy tụ về quả núi đã được chỉ định tại Galilê, các môn đệ chứng tỏ các ông đã tin vào chứng tá của các phụ nữ liên hệ đến cuộc Phục Sinh để cũng có thể tin vào lệnh triệu tập được các bà chuyển cho.
b) Sứ điệp tiêu cực Sứ điệp tiêu cực là truyện sai lạc về Đức Giêsu, được toán lính tung ra theo trò bịp bợm của các thủ lãnh Do Thái.
Đoạn văn này nêu bật sự tương phản (c. 16: de) giữa các thủ lãnh Do Thái và toán lính một bên, và bên kia, là Đức Giêsu và các môn đệ Người, giữa sứ điệp do người Do Thái tung ra và thực tế; vậy đoạn văn này chính là một lời phi bác tin đồn thất thiệt đã được phổ biến. Đối với người Do Thái, Đức Giêsu là một xác chết, còn các môn đệ Người là những tên trộm cắp và dối trá; trong thực tế, Đức Giêsu đã chiến thắng cái chết, đã sống lại, được ban cho toàn quyền của Thiên Chúa và đảm bảo bằng sự hiện diện đầy uy lực của Người; các môn đệ Người không tìm cách đánh cắp thi hài, nhưng đã đi về Galilê, đi xa ngôi mộ, để gặp Đức Giêsu Phục Sinh. Tin Mừng sẽ đi đến với “mọi dân tộc”, chứ không như tin đồn thất thiệt kia, chỉ được loan truyền “giữa người Do Thái” mà thôi. Giáo huấn phổ quát (didaskontes) mà các môn đệ của Đức Giêsu, vị Tôn Sư tuyệt đối (didaskalos, 23,8), sẽ cống hiến cho mọi dân tộc sẽ hoàn toàn vượt xa những gì toán lính phổ biến, vì họ đã làm theo lời “các thượng tế dạy” (edidachthêsan, 28,15). Các môn đệ sẽ được che chở và nâng đỡ “cho đến tận thế”, không phải bởi một quyền bính nhân loại như quyền bính của các thượng tế, nhưng bởi uy quyền của Đấng Phục Sinh, Chúa tể vũ hoàn.
2- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Cuộc diện kiến của Nhóm Mười Một với Đức Giêsu (28,16-17);
2) Các lời nói của Đức Giêsu (28,18-20): a) Mạc khải về quyền năng (18), b) Lệnh truyền giáo (19-20a), c) Hứa hiện diện hỗ trợ (20b).
3- Vài điểm chú giải
- Về phần mười một môn đệ (16): Ở đầu c. 16 này, có tiêu từ de (“và”, “rồi”; “nhưng”; “về phần”) hẳn là để nêu lên sự tương phản giữa báo cáo sai lạc của toán lính với sự thật về cuộc hiện ra của Đức Giêsu với mười một môn đệ.
- Mười một môn đệ (16): Trong Mt, Đức Giêsu có một nhóm các “môn đệ” (mathêtês: từ này được dùng trong Mt 73 lần, Mc 46 lần, Lc 37 lần, Ga 78 lần. Có 65 trong Mt ở số phức) luôn luôn được xác định bằng quán từ (article) hoi (x. 5,1; 8,21; 9,10; 12,1; 13,10; 14,15; 15,2; 16,5; 28,7). Điều này khẳng định rằng họ được biết rõ trong tư cách đó và họ không phải là nhóm “bảy mươi hai” của Lc (vả lại, Lc không gán cho nhóm “bảy mươi hai” cái tên “môn đệ”, mà là “bảy mươi hai người khác”, x. Lc 10,1). Các ông là những người sống hiệp thông với Thầy mình (“einai meta” [“ở với”]), tháp tùng Thầy trong sứ vụ của Người (9,19), cùng làm việc với Người để phục vụ các đám đông (9,36-37), được nêu ra làm gương cho các đám đông và được giới thiệu như là gia đình đích thực của Đức Giêsu (12,46-50). Mt xác định rằng các ông là “mười hai môn đệ” ( 10,1; 11,1; hay là “Nhóm Mười Hai”: 20,17; 26,20; ở c. 10,2, các ông cũng được gọi là “mười hai tông đồ” cùng với tên của các ông).
Con số “mười một” nhắc đến sự vắng mặt thê thảm của Giuđa, “một trong Nhóm Mười Hai” (26,14.47; x. 10,2.4): sự hư hỏng đã xảy ra ngay trong nhóm, tức là đây không phải là một nhóm toàn vẹn; với lại, tất cả các ông khác đều đã té ngã (x. hoi mathêtai: 26,56b; Phêrô: 26,69-75). Nhưng sứ điệp mà Đức Giêsu ban cho các ông nhờ trung gian các phụ nữ đã là một dấu cho thấy Người tha thứ và hòa giải; Người gọi các ông là “anh em của Thầy” (28,10). Bây giờ, cuộc hành trình của các ông tiến về với Đức Giêsu và sự hiện diện của các ông tại nơi Người đã chỉ định là một dấu chứng tỏ các ông đón nhận sự tha thứ và hòa giải.
- ngọn núi (16): To oros (danh từ với quán từ xác định) cho hiểu rằng chính là trên một quả núi mà Đức Giêsu và các môn đệ đã biết, nhưng không cung cấp một xác định nào khác.
- Bái lạy (17): Mt chỉ dùng động từ proskyneô (Mt 13 lần; Mc 2 lần; Lc 2 lần) cho những ai đã nhìn nhận phẩm giá của Đức Giêsu và diễn tả sự nhìn nhận đó ra bằng hành vi này (x. các hiền sĩ: 2,2.8.11; người phong cùi: 8,2; ông trưởng hội đường: 9,18; các môn đệ trên thuyền: 14,33; bà Canaan: 15,25; mẹ các con ông Dêbêđê: 20,20; các phụ nữ tại mồ: 28,9).
- Nhưng có mấy ông lại hoài nghi (17): Trong Tân Ước, động từ distazein chỉ xuất hiện ở 14,31 (Phêrô đi trên mặt nước) và ở đây. Động từ này nhắc đến những gì Tin Mừng đã nói biết bao lần về phẩm chất của đức tin của các môn đệ: ở 6,30; 8,26-27; 14,31; 16,8; 17,20 (x. câu 17). Mt là tác giả duy nhất ghi nhận “đức tin lớn (megalê hê pistis)” của bà Canaan (15,28). Cùng với đề tài đức tin, Mt trình bày đề tài sự hiểu biết (synienai) và không hiểu biết: ở 15,16; x. 16,12; 17,13.
- Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất (18): Động từ edothê ở thì aorist thái bị động trần thuật (passive indicative): Thì aorist nhắm đến một sự kiện đã hoàn tất, chứ không phải là một lời hứa hay một niềm hy vọng; hẳn là ta có thể nghĩ đến một quan hệ mặc nhiên với sự phục sinh. Thái bị động đây là một thái bị động thay tên minh nhiên của Thiên Chúa. Hơn nữa, cách thức khẳng định cách tuyệt đối như thế gợi ý rằng Thiên Chúa là tác giả (so sánh c. 18b với 11,25).
Đề tài exousia cũng là một đề tài quan trọng của Mt (9 lần: 7,29; 8,9; 9,6; 9,8; 10,1; 21,23; 21,24; 21,27; 28,18). Từ ngữ có nghĩa là “quyền hành”, “uy quyền”, “quyền lợi”, “khả năng”, là những đặc tính của giáo huấn và cách hành động của Đức Giêsu: phân đoạn 5,1–7,29 (Bài Giảng trên núi) giới thiệu Đức Giêsu như là “Đấng Mêsia có uy quyền trong lời nói” (x. 7,28), còn phân đoạn 8,1–9,38 giới thiệu Người như là “Đấng Mêsia có uy quyền trong hành động” (x. 11,2) (Đức Giêsu khẳng định rằng Người có exousia này: 9,6; dân chúng: 7,29; viên sĩ quan: 8,9; khi thấy người bại liệt được chữa lành, dân chúng tôn vinh Thiên Chúa: 9,8; Đức Giêsu nói về quyền của Người và từ chối cho biết nguồn gốc của quyền ấy: 21,24.27). Câu 28,18 là như tổng hợp về đề tài này và là một câu trả lời cho nhà chức trách tôn giáo: Đức Giêsu không phải là một người mất trí hay một kẻ tiếm quyền; Người đã nhận được quyền bính này trọn vẹn, trên toàn vũ trụ, từ Thiên Chúa (chứ không phải từ tay ma quỷ, x. 9,34). Ở đây, điều được khẳng định là quyền(exousia) đã được Thiên Chúa ban.
- hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ (19): Trong các Tin Mừng, động từmathêteuein chỉ được sử dụng ở Mt (13,52; 27,57; 28,19) với hai nghĩa: 1) nghĩa nội động (intransitive): trở thành môn đệ (13,52; 27,57); 2) nghĩa ngoại động (transitive): làm thành môn đệ; làm cho ai thành môn đệ (28,19; x. Cv 14,21). Đây không phải là chỉ trình bày, cống hiến sứ điệp, loan báo Tin Mừng, nhưng là kiến tạo một quan hệ chặt chẽ và riêng tư. Kiểu mẫu của quan hệ này chính là quan hệ của Đức Giêsu lịch sử với các môn đệ đã được Người kêu gọi (môn đệ đi theo [akolouthein, x. 4,20.22; 8,23; 19,27.28], Thầy đi trước [proagein, x. 26,32; 28,7]).
- nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần (19): Công thức “nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần” một công thức phép rửa. Qua công thức này, ta găp thực tại chúng ta có trong các Tin Mừng Nhất Lãm: đó là quan hệ chặt chẽ giữa đời sống và công trình của Đức Giêsu với Cha Người trong Chúa Thánh Thần. Cựu Ước biết đến vị Thiên Chúa tạo thành trời đất, đây là vị Thiên Chúa mà họ đến trình diện trong tư cách là các thọ tạo hoàn toàn khác với Ngài và không có quyền đi vào đối thoại với Ngài. Đức Giêsu loan báo vị Thiên Chúa có một người đối thoại trong bình diện thần linh. Chúa Con ở trước mặt Chúa Cha, và hai Đấng được liên kết với nhau, biết nhau, hiểu nhau và yêu thương nhau trọn vẹn và hoàn hảo nhờ Chúa Thánh Thần. Bí tích Rửa tội nhận chìm chúng ta vào trong vùng quyền lực của vị Thiên Chúa này.
- Này đây Thầy (20): Mt chuộng thức mệnh lệnh idou này. Nên ghi nhận là công thức long trọngidou egô luôn luôn có quan hệ với ý tưởng sứ mạng: 10,16; 23,34 et 28,20.
- Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế (20): Khi nói minh nhiên pasas tas hêmeras(tất cả các ngày), Đức Giêsu khẳng định Người sẽ ở thường trực và trọn vẹn với các môn đệ.Heôs tês synteleias tou aiônos (cho đến tận thế) có nghĩa mục tiêu, nơi đến: nhắm đến tận thế. Từ ngữ synteleia (hoàn tất; kết cục) luôn được sử dụng với aiôn có nghĩa là “thời gian hiện tại”, “tình trạng hiện nay của tạo thành” (x. 13,22; 12,31). Synteleia tou aiônos có nghĩa là “khi kết thúc thời gian của thế giới này”. Người ta chờ đợi một kết thúc thời gian này với việc Đức Giêsu ngự đến (x. 24,3).
4- Ý nghĩa của bản văn
* Cuộc diện kiến của Nhóm Mười Một với Đức Giêsu (16-17)
Phần thứ nhất kể lại các hành vi của các môn đệ trong quá khứ (aorist) (đi tới, c. 16; bái lạy, c. 17; hoài nghi, c. 17). Bản văn cũng ghi nhận một hành vi của Đức Giêsu, “đã truyền” (etaxato, c. 16), nhưng chắc chắn đây là một hành vi Đức Giêsu đã làm trước các hoạt động của các môn đệ được kể lại trong đoạn văn này; hành vi này lại chỉ là một mệnh lệnh, một hành vi nói. Ngược lại, trong các bản văn khác về hiện ra, Đức Giêsu hành động cùng nhịp với những người có mặt, chẳng hạn, ở Mt 28,9, Đức Giêsu đến gặp (hypêntêsen) các bà. Phải chờ đến c. 18 để gặp được một hành vi của Đức Giêsu, nhưng cả hành vi này cũng chỉ là một hành vi nói (elalêsen).
Các nhân vật chính của phần thứ nhất là hoi hendêka mathêtai, “mười một môn đệ”. Con số này nhắc đến sự phản bội của cả nhóm. Nhưng sứ điệp mà Đức Giêsu ban cho các ông nhờ trung gian các phụ nữ đã là một dấu cho thấy Người tha thứ và hòa giải; Người gọi các ông là “anh em của Thầy” (28,10). Bây giờ, cuộc hành trình của các ông tiến về với Đức Giêsu và sự hiện diện của các ông tại nơi Người đã chỉ định là một dấu chứng tỏ các ông đón nhận sự tha thứ và hòa giải. Các môn đệ tiến về một nơi đã được Đức Giêsu xác định trước và theo thông tin của các phụ nữ (lệnh của sứ thần (28,7) và lệnh của Đức Giêsu ban cho các phụ nữ).
Trong Mt, ta không thấy có một lệnh minh nhiên của Đức Giêsu là đi đến một ngọn núi được xác định, nhưng có những chi tiết liên hệ đến Galilê. Tất cả các chi tiết này, khi được đặt vào trong bối cảnh là cuộc Thương Khó và Phục Sinh, thì giống như những tia chớp hy vọng được ban cho các môn đệ (tại núi Ô-liu, Đức Giêsu đã nói đến Galilê: 26,32; tại mộ, vị thiên thần đã nhắc đến Galilê: 28,7; Đức Giêsu xác nhận sứ điệp: 28,10). Chuyến đi đưa các ông về nơi Đức Giêsu đã chỉ định cho thấy rằng họ vừa thi hành lệnh Đức Giêsu truyền, họ vừa ý thức rằng họ đang được trở vào trong tình bằng hữu với Người, tình bằng hữu mà Người đã mời họ đến khi gọi họ là “anh em của Thầy” (28,10).
Như thế, câu truyện sẽ kết thúc ngay tại nơi mà sứ vụ của Đức Giêsu đã bắt đầu: tại “Galilê, miền đất của dân ngoại”, đã xuất hiện ánh sáng có sức thắng vượt bóng tối của tử thần (4,15-16) và giúp cho có thể bắt đầu việc rao giảng cho muôn dân (28,19). Ở đây tầm quan trọng của Galilê đặc biệt có tính thần học: Đấng Phục Sinh gặp lại các môn đệ Người tại nơi chính của hoạt động trần thế Người (nhất là theo Mc và Mt); điều này giả thiết có một sự tiếp nối giữa Đức Giêsu trần thế và Đức Kitô Phục Sinh, một sự tiếp nối mà c. 20a sẽ nêu bật minh nhiên (“[bằng cách] dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”). Do chính sự kiện này, Người xác nhận việc loan báo đầu tiên của Người, hoặc đơn giản hơn, xác nhận trọn vẹn sứ mạng của Người và giới thiệu sứ mạng ấy như mẫu mực cho các môn đệ.
Lời Đức Giêsu nói với các phụ nữ (28,10), “họ phải đi đến Galilê”, là một mệnh lệnh, còn “họ sẽ được thấy Thầy ở đó” là một lời hứa. Vậy bản văn của chúng ta là sự hoàn tất mệnh lệnh ấy và sự thực hiện lời hứa ấy.
“Ngọn núi” không phải là một nơi mà người ta hẳn là có thể xác định theo địa lý; đây là nơi tiêu biểu cho mạc khải (5,1: “Bài Giảng trên núi”; 15,29: mạc khải của Đấng cứu thế, Đấng nuôi dưỡng dân Người như Môsê xưa kia trong hoang địa; 28,16: “ngọn núi” xuất hiện lần thứ ba, để cũng nêu bật tầm quan trọng của mạc khải như thế).
Sự kiện các môn đệ “thấy” Đức Giêsu được kín đáo giới thiệu bằng một vị tính từ (participle), lệ thuộc động từ chính: “các ông bái lạy”. Việc “thấy Đức Giêsu” chỉ được nhắc đến ngắn ngủi ở đây, khác với các bài tường thuật khác về hiện ra, nhưng nó chẳng còn giá trị gì khi nói về niềm tin Phục Sinh. Sự kiện quan trọng đối với Mt là “các ông bái lạy” (prosekynêsan), đây là cách tôn kính mang tính tôn giáo và thậm chí phụng vụ. Thái độ này diễn tả trước những gì sẽ được lời tuyên bố ở c. 18b loan báo về quyền của Đức Giêsu. “Nhưng có mấy ông lại hoài nghi” (c. 17). Ở đây, nỗi ngờ vực đã xảy đến idontes, “khi thấy Người” như là Đấng Phục Sinh. Chúng ta phải ngạc nhiên khi thấy phát sinh nỗi ngờ vực, nghĩa là một tình trạng ngần ngại, lưỡng lự, trong bối cảnh lại quá đậm đặc và tiêu biểu này. Phản ứng này xuất hiện nhiều lần trong các bài tường thuật khác về hiện ra. Nỗi hoài nghi được thắng vượt mỗi lần một cách: Đấng Phục Sinh xin các ông cho ăn (Lc24,41tt); Đức Giêsu hiện ra một lần nữa với các môn đệ lúc đầu không tin (Mc 16,14tt); Tôma có thể chạm tới các vết thương của Đức Giêsu (Ga 20,24-29). Ta không thấy có gì tương tự ở đây cả.
Có lẽ sự hoài nghi này liên hệ đến một thời đại muộn màng hơn: cộng đoàn hôm nay không còn thấy Đức Giêsu bằng mắt thịt nữa, họ có thể rơi vào hoài nghi; họ phải thắng vượt khó khăn này nhờ dựa vào lời của Đấng Phục Sinh. Các lời nói của Đức Kitô Phục Sinh và sự vâng phục của các môn đệ với lời Người là cách thế duy nhất giúp vượt qua nỗi hoài nghi.
* Các lời nói của Đức Giêsu (18-20)
Đứng trước đức tin xen lẫn hoài nghi của các môn đệ, lời Đức Giêsu nói cung cấp câu trả lời. Đấng Phục Sinh không trách các ông về sự bất trung hoặc về nỗi hoài nghi; thậm chí Người cũng không xua tan nỗi hoài nghi bằng một cử chỉ hoặc một chứng từ bổ sung. Người đến gần các ông và nói. Người từ xa đến với những người là các môn đệ Người, vâng phục Người và đang cung kính bái lạy Người. Chỉ mình Người có thể vượt qua khoảng cách bằng cách đi đến với các ông. Proserchomai là một động từ được Mt ưa chuộng (Mt 52x; Mc 5x; Lc 10x; Ga 1x), nhưng chỉ có hai lần ông diễn tả một hành vi chủ động của Đức Giêsu (ở đây và ở 17,6-7: hai đoạn riêng của Mt): trong trường hợp này, Đức Giêsu đến gần là để nâng đỡ những người đang hoài nghi hoặc đang sợ.
Vấn đề ở đây là một lời nói, vấn đề ở đây là nghe chứ không phải là thấy. Chính lời nói của Đức Giêsu tạo được sự trấn an diễn tả ra bằng hành vi đến gần: Người tự tỏ mình ra trong lời Người nói như là Đấng được đặt để trong quyền bính và nói với uy quyền. Trong tư cách đó, Người hiện diện trong thời gian của thế giới, trong Giáo Hội cho đến tận thế.
Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất (18b). Được đặt ở đầu bài diễn từ, mạc khải này đỡ nâng các khẳng định tiếp sau: lệnh truyền và lời hứa. Đức Giêsu khẳng định quan hệ của Người với Thiên Chúa và vị trí hiện nay của Người: chính Thiên Chúa, Cha của Đức Giêsu (so sánh với 9,6.8; 11,27 và Đn 7,14), đã ban cho Người tất cả các quyền hành trên trời dưới đất.
Theo lời rao giảng tiên khởi (kêrygma) của các tông đồ, do Phục Sinh, Người đã được đặt làm Đức Chúa (Kyrios) trên vũ trụ và làm Thẩm phán vào lúc tận thế. Trong thực tế, bản văn không nói cho biết là Người đã được Chúa Cha đặt để như thế khi nào, nhưng nhấn mạnh rằng quyền lực tối thượng này của Đấng Phục Sinh là vô biên (pasa) tự nó trong sự viên mãn và trong cường độ của nó: trong không gian, Đấng Phục Sinh hiển trị trên vũ hoàn (trời và đất), như trong Cựu Ước, Thiên Chúa được nhìn nhận là Chúa tể trời đất, nghĩa là Đấng Tạo hóa và Bảo toàn tất cả vũ trụ; và trong thời gian, Người hiển trị bây giờ và cho đến tận thế.
Bây giờ, trong tư cách là Đấng đại diện toàn quyền của Thiên Chúa, Đức Giêsu là Đấng mạc khải cánh chung cho biết ý muốn của Thiên Chúa và là Đấng thực hiện dự phóng cứu độ của Ngài. Các môn đệ có thể hoàn toàn chắc chắn rằng họ được ban cho quyền này.
Từ oun, “vậy”, gợi ý là lệnh truyền này là hậu quả của tuyên bố về quyền vũ hoàn của Đức Giêsu, là sứ mạng của Nhóm Mười Một phát xuất từ quyền bính của Đức Kitô. Tuy nhiên, lệnh truyền được ban cho toàn nhóm, điều này cho thấy rằng bổn phận truyền giáo là một nhiệm vụ của toàn thể cộng đoàn chứ không của một vài cá nhân. Uy quyền (c. 18) và sự hiện diện của Đức Giêsu (c. 20) sẽ cho các ông đủ tư cách và uy tín mà chu toàn bổn phận này.
Khi đi rao giảng, các môn đệ không chỉ trình bày, chỉ cống hiến sứ điệp, loan báo Tin Mừng (keryssein), nhưng là kiến tạo mộtcộng đoàn có quan hệ chặt chẽ và riêng tư. Tương quan của các môn đệ với Đức Giêsu là kiểu mẫu cho sự hiệp thông với Người mà mọi dân tộc đang được đưa dẫn tới. Kể từ nay, kiểu mẫu này là chuẩn mực cho mọi Kitô hữu: “môn đệ” có thể nói là định nghĩa ngắn nhất của Kitô hữu. Được giao sứ mạng “làm ra các môn đệ”, Nhóm Mười Một đang hiện diện ở đây sẽ có thể rút ra từ đó biết bao hệ luận: một đàng, kinh nghiệm sống với Đức Giêsu phải luôn luôn là điểm qui chiếu cho họ trong hoạt động; đàng khác, tư cách môn đệ không phải là của riêng thuộc về những bạn đồng hành lịch sử của Đức Giêsu trần thế, trái lại đây là tư cách mà kể từ nay mỗi người được mời gọi đi vào. Tất cả đều được mời gọi trở thành”môn đệ Đức Giêsu”, vị Thầy duy nhất (x. 23,8.10).
Chiều hướng phổ quát đã được báo trước trong lời nhắc đến Abraham (1,1), trong truyện các đạo sĩ (2,1-12), vị sĩ quan Caphácnaum (8,5-13), bà Canaan (15,21-28), viên sĩ quan canh giữ Đức Giêsu trên đồi Sọ (27,54). Đi đến với các dân tộc đã là chọn lựa của Đức Giêsu, cho dù trong diễn từ truyền giáo (ch. 10), Người đã truyền các môn đệ là chỉ đi đến với các chiên lạc Israel thôi. Tính phổ quát truyền giáo này còn được báo trước ở 24,4 và 26,13, và bây giờ được khẳng định như là ý muốn chính xác của Đức Giêsu. Điều bị cấm trước đây ở 10,5 (anh em đừng đi tới vùng các dân ngoại) bây giờ được khuyến cáo thi hành (hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ): như đại đa số các lần xuất hiện, từ ethnç trong Mt có nghĩa chữ là Dân ngoại, lệnh này chỉ liên hệ đến Dân ngoại. Nhưng nếu Israel không còn là đối tượng của một sứ mạng đặc biệt, điều này không có nghĩa là Israel bị loại ra khỏi chân trời Phục Sinh. Rất có thể vào thời của cộng đoànMt, đã có một sự đoạn tuyệt giữa Giáo Hội và Hội đường; nhưng người Do Thái tiếp tục là một thực tại của cộng đoàn Mt. Nếu Israel bị kết án, mỗi người Do Thái vẫn có thể đến với cộng đoàn các môn đệ. Sẽ xuất hiện mộtcộng đoàn phổ quát trong đó mỗi người có một quan hệ trực tiếp và thân tình vừa với Đức Giêsu vừa với những người khác. Hoạt động của các môn đệ là một sự tiếp nối hoạt động của Đức Giêsu (4,23; 9,35; 11,1).
Để làm cho muôn dân thành môn đệ, hai việc các môn đệ phải làm là “làm phép rửa” nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi và “giảng dạy”. Căn tính mới của Thiên Chúa là căn tính Cha, Con và Thánh Thần, mà người môn đệ bắt đầu quan hệ với qua bí tích thánh tẩy. Lệnh truyền giảng dạy đã được đặt vào cuối Tin Mừng, có thể là vì Mt coi nhiệm vụ giảng dạy như là nhiệm vụ cao nhất trong Hội Thánh. Nhóm Mười Một không được phép mở trường, nhưng tiếp tục học ở “trường” Đức Giêsu: các ông phải giảng dạy, như chính Đức Giêsu đã giảng dạy. Cho dù các ông đã nhận lãnh bổn phận giảng dạy, các ông sẽ phải mãi mãi duy trì chân tính môn đệ, bằng cách nhìn nhận và chấp nhận uy quyền của Đức Giêsu, bằng cách bây giờ tin vào Đức Giêsu như tin vào chính Thiên Chúa.
Đề tài giảng dạy đã có sẵn: các lệnh truyền của Đức Giêsu. TM Mt chứa biết bao lời giảng dạy của Đức Giêsu (trong năm diễn từ), nhưng nhất là giáo huấn của Bài giảng trên núi đáng được xét đến. Trong lệnh truyền giáo, Đấng Phục Sinh đã nói với các môn đệ là “dạy bảo họ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (c. 20). Câu này chắc chắn quy về tất cả mọi lời nhắn nhủ, tất cả giáo huấn của Đức Giêsu trong TM Mt, nhưng đặc biệt qui về các lời nhắn nhủ trong Bài Giảng trên núi bởi vì Bài Giảng này chứa phần lớn những gì Đức Giêsu đã dạy các môn đệ và có một giọng thôi thúc người ta thực hiện các lời nhắn nhủ này (x. 7,13-27).
Tuy nhiên, Đấng nói đây không còn là vị Thầy trần thế nữa, nhưng là Đức Chúa Phục Sinh, “Đấng đã được ban cho toàn quyền trên trời dưới đất”. Bây giờ, với uy quyền của Đấng là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” trong mức viên mãn của sự Phục Sinh, Đức-Giêsu-đang-sống lấy lại giáo huấn của Bài Giảng trên núi và nhắc lại cho các thế hệ tương lai.
Mục tiêu không còn phải là chu toàn Lề Luật hoặc các Ngôn sứ, nhưng tuân giữ “tất cả những gì Thầy đã truyền cho anh em”. Như thế, chính Đức Giêsu đặt mình vào vị trí của “Lề Luật hoặc các Ngôn sứ” (x. ngay ở 5,21-48 với các công thức “Anh em đã nghe [Luật] dạy người xưa / Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết”), Người là Đấng lập pháp tối cao, diễn tả trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa. Thái độ này khi đó và lệnh truyền hiện nay gửi trở lại với các công thức khác nhau của Cựu Ước trong đó chính Đức Chúa (Yhwh) truyền lệnh cho dân Ngài là tuân giữ điều răn của Ngài (x. 2 Sb 33,8; Xh 34,32; Đnl 4,2; 12,14). Bây giờ Đức Giêsu thay thế Yhwh khi khẳng định ý muốn của Người. Và chắc chắn ý muốn thần linh này được tập trung nơi điều răn yêu thương, đỉnh cao và sự hoàn tất của Kinh Thánh (“Lề Luật hoặc các Ngôn sứ”: x. 22,40).
Tuy nhiên, hẳn là ta có thể nới rộng ý nghĩa của “tất cả những gì Thầy đã truyền cho anh em” cho cả bốn bài diễn từ khác, bởi vì tác giả đã xác định rằng chúng cũng là những “chỉ thị/dụ ngôn/những điều” của Đức Giêsu (x. công thức kết luận mỗi bài diễn từ: 11,1; 13,53; 19,1; 26,1; x. 7,28-29). Vấn đề ở đây là các giáo huấn của Thầy về các điều kiện và bản chất của đời sống đích thực của người môn đệ và về nẻo đường thánh ý chân thực của Thiên Chúa, “nẻo đường công chính” (21,32).
Khi nói “tất cả những gì Thầy đã truyền cho anh em”, Đức Giêsu xác định giáo huấn của Người là như một lệnh truyền, như một đòi hỏi cấp bách (trong một ngữ cảnh tương tự, Mc nói đến “tin mừng”: 13,10; 14,9; Lc thì nói đến “hoán cải và tha thứ tội lỗi”: 24,47). Đấng Phục Sinh biến lời của Đức Giêsu trần thế thành chuẩn mực cho Hội Thánh mọi thời và “cho đến tận thế”. Sứ điệp của Đấng Phục Sinh được coi là đồng nhất với sứ điệp của Đức Giêsu trần thế.
Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế (20b). Egô meth’ hymôn eimi. Giới từ meta + thuộc cách có nghĩa là “với” nhằm diễn tả sự hiệp thông, sự hiệp nhất (cơ bản là riêng tư cá nhân), sự cộng tác, khi đó là tương quan của Đức Giêsu với những người khác: Đặc biệt 28,20 đáp lại khởi đầu Tin Mừng, khi mà Đức Giêsu được giới thiệu lúc chào đời như là Đấng mà “người ta sẽ gọi tên là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (1,23). Ở đây chúng ta có một thể đóng khung rất lớn bung mở ra chiều kích vũ hoàn của bản thân Đức Giêsu trên toàn thể lịch sử nhân loại, đồng thời vẫn nêu bật sự bám rễ của Người về phương diện xác thịt trong thời gian và không gian. Thực tại Emmanuel này được diễn tả xuyên qua toàn thể Tin Mừng: Vào lúc chào đời của Đức Giêsu (1,23); trong khi hoạt động, Người hiện diện giữa nhóm môn đệ (9,15; 26,18.20.36.38.40; x. “Đức Giêsu dẹp yên biển động”, 8,23-27; egô eimi, 14,27); những lần Người tiếp xúc với người tội lỗi (9,11) và qua cái chết ban ơn cứu chuộc (26,28; x. 1,21; 17,17 so với Mc 9,19). Mt 28,20 hẳn là câu trả lời chung cuộc cho câu hỏi ấy. Bây giờ Người hứa ở với họ mãi mãi.
Trong Cựu Ước, bằng những thuật ngữ tương tự Ta sẽ ở với các ngươi mãi mãi, Yhwh thường đảm bảo với một tín hữu, một ngôn sứ, một thủ lãnh, toàn dân, nhất là trong bối cảnh một cuộc sai phái, là Người sẽ hiện diện, nghĩa làgiúp đỡ tận tình, với lòng từ bi thương xót, để cứu độ. ĐấngKyrios ban cho các môn đệ cũng một đảm bảo như Yhwh đã ban cho dân Ngài trong Cựu Ước. Người không thế chỗ cho các môn đệ, nhưng sẽ hiện diện với họ để nâng đỡ họ bằng sức mạnh, không do các đức tính hay các thành tích của các môn đệ, nhưng do sự trung tín hữu hiệu của Đấng đã đưa các lời hứa trong Kinh Thánh đến chỗ hoàn tất. Khi nói “tất cả các ngày”, Đức Giêsu khẳng định Người sẽ ở thường trực và trọn vẹn với các môn đệ, và nhắm đến tận thế, “lúc kết thúc thời gian của thế giới này”.
+ Kết luận
Trên núi Galilê (28,16; x. 5,1), Đức Giêsu Phục Sinh, đại diện toàn quyền của Thiên Chúa, tỏ mình ra như là Đấng mạc khải tối hậu của Thiên Chúa và Đấng lập pháp vĩnh viễn, nay cử các môn đệ đi đến với mọi dân tộc. Trong Cựu Ước, núi Sinai xuất hiện ra như là quả núi của mạc khải và của Giao ước, trên đó Thiên Chúa tự tỏ mình ra và thông ban các điều răn của Ngài (Xh19,1–24,11). Từ Sinai, dân Israel bắt đầu cuộc hành trình tiến về Đất hứa; trên núi Galilê, Đức Giêsu đích thân, trong tư cách Đấng Phục Sinh, tức đã đi vào trong đời sống Thiên Chúa, cho thấy đâu là mục tiêu của mỗi người trong “tất cả các dân tộc”.
Các lời kết thúc của Đức Giêsu đã đón nhận lấy các nội dung chính của TM Mt về sứ vụ không biên giới của các môn đệ. Điều này còn cho thấy một lần nữa chiều hướng tổng hợp hướng về sứ vụ phổ quát như là nét tiêu biểu của Tin Mừng này.
5- Gợi ý suy niệm
1. Nhóm môn đệ có mộtvết thương, gây ra do sự phản bội và sự biến mất của Giuđa. Họ không còn là mười hai, là là mười một. Vết thương này nhắc nhớ rằng tất cả đã bất trung với Đức Giêsu. Khi Người bắt đầu chuyến đi vào Thương Khó, các ông đã cắt đứt việc đi theo Người hoặc bằng cách chạy trốn (26,56) hoặc bằng cách giữ khoảng cách trong ba lần chối (26,69-75). Tuy nhiên, Đức Giêsu đã chữa lành vết đứt này. Người không gọi những môn đệ mới, nhưng gọi chính những người đã thất bại trong thử thách Khổ Nạn. Khi các môn đệ đến nơi hẹn, Đức Giêsu không hề thốt ra mộtlời trách móc, mà lại còn giao sứ vụ, là sứ vụ của chính Người.
2. Nhận biết và hoài nghi là hai thái độ có thể đi với nhau, như lời xin của cha đứa bé trong Tin Mừng Máccô: “Tôi tin! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi” (Mc 9,24). Do đó, cần phải nhìn lại tất cả hoạt động công khai của Đức Giêsu dưới ánh sáng của biến cố Phục Sinh. Bây giờ Đức Giêsu mạc khải cho các môn đệ biết Người có toàn quyền, Người là Chúa tể không giới hạn, do quyền Chúa Cha ban cho Người. Người đã gọi các ông, các ông đã đi theo Người, đã nghe lời Người giảng dạy; Người đã chết trên thập giá, nhưng nay Người đang sống trước mắt các ông và là Chúa tể tuyệt đối, các ông hãy tin trọn vẹn vào Người.
3. Các môn đệ của Đức Giêsu phải ra đi để làm cho muôn dân “trở thành môn đệ” Người, chứ không phải trở thành môn đệ của chính mình. Các môn đệ mới sẽ cùng các ông bước theo Đức Giêsu, nghĩa là liên kết với Đức Giêsu, hiệp thông cuộc sống với Người, chấp nhận Người chỉ cho mình lộ trình phải theo, xác định hình thái và chiều hướng sống, ký thác trọn vẹn nơi Người.
4. Những người được nhận lời hứa hiện diện thường trực cho đến tận thế, không chỉ là các môn đệ ở trên núi Galilê ấy mà thôi. Chân trời mở rất rộng: Đấng Kyrios không hiện diện giữa dân Người như trong mầu nhiệm nội tại và trong thực tại thần bí của Người, nhưng đúng ra, tại mọi thời và trong mọi tình huống, Người ở bên cạnh dân để trợ giúp và an ủi họ, để khích lệ và kêu gọi họ, và Người luôn luôn tháp tùng hoạt động của các sứ giả Người. Mt không nhắc đến Thăng thiên để không đưa Đức Giêsu đi xa cộng đoàn của Người: Người tháp tùng họ trong cuộc hành hương trần thế “cho đến tận thế”.
Lễ Thăng Thiên tưởng niệm vừa một biến cố hữu hình, mà các Tông Đồ là những nhân chứng: cuộc LênTrời ABC-436
Lễ Thăng Thiên tưởng niệm vừa một biến cố hữu hình, mà các Tông Đồ là những nhân chứng: cuộc lên trời của Đức Giê-su, và một biến cố vô hình: việc tôn vinh Chúa Con trở về cùng Chúa Cha.
Cv 1: 1-11 Sách Tông Đồ Công Vụ tường thuật biến cố lên trời hữu hình: sau khi đã ban cho các môn đệ của Ngài những huấn lệnh sau cùng, Đức Giê-su biến mất vào trong đám mây trước mắt các ông.
Ep 1: 17-23 Trong thư gởi cho Giáo Đoàn Ê-phê-sô, thánh Phao-lô ca ngợi biến cố lên trời vô hình: việc tôn vinh Chúa Con bởi Chúa Cha, Đấng đặt Ngài trên muôn loài muôn vật và thiết lập Ngài làm đầu Giáo Hội. Biến cố này thiết lập niềm hy vọng lớn lao của Kitô hữu là được dự phần vào vinh quang nầy, bởi vì Giáo Hội là “thân thể” của Đức Kitô.
Mt 28: 16-20
Trong Tin Mừng của mình, thánh Mát-thêu tường thuật một cuộc gặp gỡ duy nhất của Đức Kitô phục sinh với các Tông Đồ của Ngài trên núi Ga-li-lê ở đó Đức Giê-su mặc khải cho họ rằng Ngài đã đón nhận mọi quyền năng và sai họ ra đi loan báo Tin Mừng cho muôn dân.
BÀI ĐỌC I (Cv 1: 1-11)
Sách Tông Đồ Công Vụ mà Chúa Nhật hôm nay trích phần đầu được trình bày như phần tiếp theo của sách Tin Mừng thứ ba, Tin Mừng của thánh Lu-ca: cũng một tác giả và cũng một người nhận: ông Thê-ô-phi-lô nào đó mà chúng ta không biết.
Thánh Lu-ca hoàn tất sách Tin Mừng của mình ở nơi biến cố Thăng Thiên: “Người rời bỏ các ông và được đem lên trời…” Lời tựa ngôn của sách Công Vụ Tông Đồ nêu lên hai lần cùng một sự kiện: “Cho đến ngày Ngài được rước lên trời” (1: 2) và “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn trông thấy Người nữa” (1: 9).
Như vậy, bằng cách trình bày văn chương, ở cuối sách Tin Mừng và đầu sách Công Vụ, biến cố Thăng Thiên xuất hiện chính xác như vừa hoàn tất vừa khởi đầu: hoàn tất sự hiện diện hữu hình của Đức Kitô ở giữa con người, và khởi đầu sự hiện diện vô hình của Ngài; hoàn tất sứ mạng trần thế của Đức Giê-su, và khởi đầu sứ mạng các Tông Đồ.
1. Hai biến cố Thăng Thiên:
Chúng ta có thể phân biệt một cách nào đó hai biến cố Thăng Thiên:
- Biến cố Thăng Thiên thứ nhất không có nhân chứng là cuộc trở về cùng Cha Ngài ngay sau biến cố Phục Sinh; đó là cuộc hội ngộ Ba Ngôi, biến cố thần linh tuyệt mức; và đó là sự tôn vinh của Chúa Con, sự tôn vinh mà Đức Giê-su xin trong lời nguyện của Ngài, trước lúc tử nạn: “Vậy, lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh con bên Cha: xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian.” (Ga 17: 5).
- Biến cố Thăng Thiên thứ hai là cuộc lên trời hữu hình của Đức Giê-su trước mắt các Tông Đồ. Biến cố liên quan chủ yếu đến chúng ta : đó là bản tính nhân loại, cùng với Đức Kitô, sẽ được dự phần vào vinh quang Thiên Chúa. Vì thế, cuộc Thăng Thiên nầy loan báo cuộc Thăng Thiên của chúng ta.
2. Lý do của biến cố Thăng Thiên hữu hình:
Tại sao Đức Giê-su chọn cách thức ra đi xem ra ngoạn mục nầy, dù nhanh và kín đáo? Trong cuộc gặp gỡ sau cùng của Ngài với các môn đệ, phải chăng Đức Giê-su không thể loan báo cho họ rằng Ngài sẽ không tỏ mình ra nữa, từ biệt họ rồi biến mất như Ngài đã làm trong suốt bốn mươi ngày kể từ biến cố Phục Sinh?
Chúng ta có thể gặp thấy câu trả lời: biến cố Thăng Thiên hữu hình là cách thức Đức Giê-su đã giới thiệu cuộc sống tiền hữu và nhập thể của Ngài trong suốt cuộc sống công khai của Ngài.
Ngài đã lên trời một cách hữu hình như vậy khi xưng mình dưới danh hiệu “Con Người”, nhân vật mà ngôn sứ Đa-ni-en thấy trong một thị kiến “đến trên mây trời”. Với ông Ni-cô-đê-mô Đức Giê-su xác định: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3: 13).
Đức Giê-su sử dụng cùng một hình ảnh khi tuyên bố mình là“bánh hằng sống từ trời xuống”. Trong bài diễn từ về bánh hằng sống, Ngài nêu lên sáu lần Ngài là “bánh từ trời xuống”. Cuối cùng Ngài chấm dứt bằng những lời như sau: “Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?” (Ga 6: 62). Qua những lời trên, Đức Giê-su không thể nào loan báo rõ ràng hơn biến cố lên trời tương lai của Ngài.
3. Những lần hiện ra hữu hình của Đấng Phục Sinh:
“Trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa”:
Nếu con số bốn mươi ngày không chính xác thì cũng chẳng quan trọng gì, biết bao ý nghĩa được chất chứa ở đây: nó hình thành nên một sự sóng đôi với bốn mươi ngày Đức Giê-su đã trải qua trong hoang địa, giữa phép rửa của Ngài bởi Gioan và khởi đầu cuộc đời công khai của Ngài, để chuẩn bị thi hành sứ mạng của Ngài. Bốn mươi ngày là khoảng thời gian giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Thăng Thiên, Đấng Phục Sinh chuẩn bị cho các môn đệ Ngài thi hành sứ mạng.
Chúng ta có thể thắc mắc Đấng Phục Sinh đã sống như thế nào trong suốt bốn mươi ngày. Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta một cách nào đó cách sống nầy. Quả thật, khi đọc đoạn văn Công Vụ nầy làm thế nào không nghĩ đến sách Tô-bi-a (12: 15-21). Sau khi đã hoàn thành sứ mạng trần thế của mình, thiên sứ Ra-pha-en bày tỏ cho hai cha con ông Tô-bi-a căn tính đích thật của mình: “Tôi đây là Ra-pha-en, một trong bảy thiên sứ luôn luôn hầu cận và vào chầu trước nhan vinh hiển của Thiên Chúa…Bình an cho các ngươi! …Phần tôi, tôi đã ở với các ngươi … do ý muốn của Thiên Chúa… Các ngươi đã thấy tôi ăn, nhưng thật ra tôi không ăn gì cả, đó chỉ là một thị kiến mà các ngươi thấy… Nầy tôi lên cùng Đấng đã sai tôi.” Và thiên sứ lên trời. Hai cha con đứng dậy, nhưng không thể thấy thiên sứ nữa…
4. Cần thiết phải có Chúa Thánh Thần:
Trước khi từ biệt các Tông Đồ, Đức Giê-su dặn dò những chỉ bảo sau hết cho các ông và loan báo cho họ trong ít ngày nữa họ sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần: “Ông Gioan đã làm phép rửa bằng nước còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần”.
Vào lúc đó một câu hỏi không thể nào tin được:
“Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”. Vì thế, giấc mộng chính trị xưa kia của họ: khôi phục nền độc lập Ít-ra-en, vẫn còn đó. Đức Giê-su không quở trách họ. Ngài mượn một hình ảnh khác: vương quốc mà Ngài sắp giao phó cho họ sẽ vượt quá không gian Giu-đê nhỏ bé, nó sẽ mang tầm mức thế giới…Nhưng vào lúc nầy, vì chưa có sức mạnh của Chúa Thánh Thần, họ chưa thể nào hiểu được.
5. Đức Giê-su biến mất trong mây trời:
Không cốt là một đám mây nào đó, nhưng là dấu chỉ cho thấy sự hiện diện của Thiên Chúa như thường xảy ra trong Cựu Ước. Hơn nữa, thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng về Truyền Tin: đám mây, dấu chỉ của Chúa Thánh Thần, phủ bóng Đức Ma-ri-a vào lúc Mẹ thụ thai đồng trinh; cũng đám mây bao phủ Đức Giê-su vào lúc Ngài từ giả cõi thế. Một thiên sứ hiện diện khi Đức Trinh Nữ nói tiếng “Xin Vâng”. Cũng có các thiên sứ hiện diện vào lúc Đức Giê-su trở về với Cha Ngài.
6. Chiêm niệm và hành động:
Sức mạnh đến từ trên cao sẽ thúc đẩy các môn đệ dấn thân vào một cuộc mạo hiểm truyền giáo lớn lao “tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất”. Chúng ta đừng ngạc nhiên khi Lu-ca trích dẫn Giê-ru-sa-lem trước tiên vì Tin Mừng Lu-ca đặt Giê-ru-sa-lem làm trung tâm điểm của ơn Cứu độ.
Chính là lúc phải hành động chứ không là những lưu luyến vô bổ như lời nhắc nhở của thiên sứ:“Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn trời? …Đức Giê-su cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.”
Họ phải bắt tay vào công việc lớn lao và Giáo Hội không ngừng theo đuổi. Thật lý tưởng, vừa nuôi dưỡng tấm lòng của mình hướng về quê trời vừa biết liên kết giữa hành động và chiêm niệm.
BÀI ĐỌC II (Ep 1: 17-23)
Đoạn thư thánh Phao-lô gởi cho Giáo Đoàn Ê-phê-sô này được chọn là có chủ ý để tưởng niệm biến cố Thăng Thiên của Đức Kitô. Mặc dầu không nêu đích danh biến cố Thăng Thiên, nhưng thánh nhân cho biến cố nầy chiều kích thần học: Đức Giêsu về cùng Cha đón nhận vinh quang và uy quyền, đồng thời kêu mời mọi tín hữu hãy dự phần vào cùng một cuộc sống vinh quang nầy.
Thánh nhân viết từ Rô-ma trong cảnh giam cầm vào những năm 61-63. Trong những thư viết trong tù này, thánh nhân cho chúng ta những suy niệm cao vời của mình về mầu nhiệm cứu độ và mầu nhiệm Giáo Hội, “thân thể của Đức Kitô”.
Trong đoạn trích thư này, chúng ta có thể phân biệt hai phần: phần thứ nhất: lời cầu nguyện, và phần thứ hai: những mối liên hệ giữa Đức Kitô vinh hiển và Giáo Hội.
1. Lời cầu nguyện:
Trong những thư sau cùng của thánh Phao-lô, lời cầu nguyện càng lúc càng trở nên quan trọng. Tất cả những thư mà thánh nhân viết trong cảnh bị giam cầm đều đón nhận thể văn cầu nguyện. Thánh nhân nhắc đi nhắc lại: “Anh em hãy cầu nguyện không ngừng. Anh em hãy cầu nguyện trong mọi lúc”. Chính ngài cũng cho họ mẫu gương. Lời cầu nguyện của ngài luôn luôn ngỏ lời với Chúa Cha. Trong bản văn nầy, Chúa Cha đón nhận tước hiệu “Chúa Cha vinh hiển”. Cách diễn tả nầy có thể là tước hiệu phụng vụ, do từ một viễn cảnh được nêu lên: viễn cảnh vinh quang mà Chúa Cha cho Chúa Con Phục Sinh được dự phần vào và, theo sau Chúa Con, mọi tín hữu.
Thánh Phao-lô cầu xin Chúa Cha ban cho các tín hữu thần khí khôn ngoan để họ càng ngày càng hiểu biết Thiên Chúa. “Hiểu biết Thiên Chúa” được hiểu theo Kinh Thánh là được sống với Ngài trong đức tin và đức mến, chứ không là một sự hiểu biết trừu tượng.
“Xin Ngài soi lòng mở trí cho anh em để anh em thấy rõ đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh”. Hai cách diễn tả: “niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi” và “gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng các thánh”, chỉ cùng một thực tại tinh thần: dự phần vào cuộc sống vinh quang của Chúa Con Phục Sinh. Quả thật, trong Cựu Ước, cách nói: “chia sẻ gia nghiêp” gợi lên một sự kiện lịch sử: chia sẻ Đất Hứa, nghĩa là đất Ca-na-an, giữa mười hai chi tộc Ít-ra-en. Trong Tân Ước: “chia sẻ gia nghiệp” giữa những người được tuyển chọn, nghĩa là “đồng thừa tự” cuộc sống vinh quang với Đức Kitô.
2. Đức Kitô vinh hiển và Giáo Hội:
Lời nguyện xin cho được ơn soi sáng dâng trào thành lời ngợi ca tôn vinh Đức Kitô, Đấng được đặt làm Chủ Tể vũ trụ và Thủ Lãnh Giáo Hội.
“Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng”. Thánh Phao-lô ám chỉ đến những niềm tin rất phổ biến trong thế giới Do thái chịu ảnh hưởng văn hóa Hy lạp, theo đó những sinh linh thiên giới: những quyền lực thần thiêng hay tinh tú, chia sẻ việc điều hành vũ trụ với nhau, cả trong trật tự vật lý lẫn trong trật tự tinh thần.
Ở nơi số lượng đông đảo Quyền Thần nầy, chắc chắn phải kể đến những quyền lực của Ác Thần (Tử Thần là một trong số đó) mà Đức Kitô đã chiến thắng. Thánh nhân không nêu đích danh trong đoạn văn nầy, nhưng ở gần cuối thư: “Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ. Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là những quyền lực thần thiêng, với những bật thống trị tối tăm nầy, với những thần linh quái ác chốn trời cao” (Ep 6: 12).
“Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô”. Đây là câu trích dẫn trực tiếp từ Thánh Vịnh 8, nêu bật lên tư tưởng mà thánh Phao-lô muốn diễn tả. Qua những từ ngữ nầy, thánh vịnh gia gợi lên sự cao cả của con người được Thiên Chúa tạo dựng: “Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân.” (Tv 8: 6-7). Như vậy thánh nhân muốn nói rằng Đức Kitô là “Con Người” tuyệt hảo.
“Thiên Chúa đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô”.Hình ảnh nầy là chủ đề trung tâm của thư gởi cho các tín hữu Ê-phê-sô. Nó là đỉnh cao của việc suy gẫm dài lâu về mầu nhiệm Đức Kitô. Đầu ở đó thì toàn thân ở đó. Và đầu, không chỉ là yếu tố truyền lệnh, điều khiển, nhưng còn là một bộ phận sinh động, hiệp nhất, đảm bảo sự tăng trưởng của toàn thân. Khi nào sứ mạng của mình được hoàn thành, Giáo Hội sẽ hoàn tất ở nơi chính Đức Kitô.
TIN MỪNG (Mt 28: 16-20) Đoạn kết Tin Mừng Mát-thêu này không nêu lên biến cố Thăng Thiên hữu hình, nhưng một hoạt cảnh uy nghi và hùng vĩ: Đức Kitô Phục Sinh hiện ra cho mười một môn đệ, loan báo cho họ quyền tối thượng hoàn vũ của Ngài, ủy thác cho họ sứ mạng loan truyền giáo huấn của Ngài đến muôn dân muôn nước, và đảm bảo với họ Ngài sẽ ở với họ luôn mãi.
Thánh Mát-thêu không tường thuật bất kỳ cuộc xuất hiện nào khác của Đức Giê-su với các môn đệ Ngài sau khi Ngài sống lại, ngoại trừ cuộc hiện ra nầy. Thánh ký tập trung lời chứng về cuộc sống của Đấng Phục Sinh và những dặn dò tối hậu của Ngài vào cuộc hội ngộ duy nhất này. Như vậy biến cố này mặc lấy một chiều kích đặc biệt. Nét tiêu biểu đáng chú ý của đoạn kết này là quy tụ toàn bộ sách Tin Mừng Mát-thêu.
1. Ở Ga-li-lê:
Hoạt cảnh diễn ra ở Ga-li-lê. Đó là nơi Đức Giê-su đã hẹn gặp các môn đệ Ngài. Ba lần Ngài đã yêu cầu họ quy tụ với nhau ở nơi nầy. Lần thứ nhất sau khi Ngài báo trước Phê-rô chối Ngài và tất cả môn đệ sẽ vấp ngã vì Ngài: “Sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em”. (Mt 26: 32). Vào buổi sáng Phục Sinh, thiên sứ đã nói với các người phụ nữ đến viếng mồ: “Hãy mau về nói với các môn đệ Người như thế nầy: Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người” (Mt 28: 7). Đức Giê-su đích thân hiện ra với các người phụ nữ và lập lại sứ điệp nầy: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó” (Mt 28: 10). Mát thêu là thánh ký duy nhất nhắc lại ba lần cuộc hẹn gặp ở Ga-li-lê. Thánh Lu-ca định vị cuộc gặp gỡ sau cùng của Đức Giê-su với các môn đệ ở Giê-ru-sa-lem, trong khi thánh Mát-thêu, vốn không thích thành thánh Giê-ru-sa-lem vì nó đã phản bội sứ mạng của mình, dành riêng sứ điệp tối hậu của Đức Ki-tô cho Ga-li-lê.
Cuộc gặp gỡ được định vị trên một ngọn núi, núi nào chẳng quan trọng, vì núi chỉ là một biểu tượng. Không phải tại Tin Mừng Mát-thêu, trên một ngọn núi vang lên lời dạy các “Mối Phúc”sao?
2. Họ bái lạy Ngài:
“Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi”. Dường như chúng ta có ở đây một hoạt cảnh song song với những hoạt cảnh mà Mác-cô và Lu-ca mô tả, ở đó những nghi ngờ như vậy cũng được gợi lên: “Ngài tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một…khiển trách các ông không tin và cứng lòng…” (Mc 16: 14). Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn tay chân Thầy coi, chính Thầy đây mà!” (Lc 24: 36-38).
Đức Giê-su tiến gần họ để họ nhận ra Ngài rõ hơn. Sau khi cũng cố niềm tin của họ, Đức Giê-su ủy thác cho họ sứ điệp tối hậu của Ngài: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.”Quyền tối thượng hoàn vũ nầy không phải đã được ngôn sứ Đa-ni-en loan báo trong thị kiến về“Con Người” sao?: “Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cữu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong” (Đn 7: 14).
3. Sai đi thi hành sứ mạng:
Đoạn, Đức Giê-su ủy thác cho các Tông Đồ sứ mạng vĩ đại: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành muôn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Rất nhạy bén trước chiều kích hoàn vũ của ơn Cứu độ, thánh ký hoàn tất tác phẩm của mình trên viễn cảnh bao la: muôn dân muôn nước trở thành muôn đệ của Đức Ki-tô.
Đồng thời “quyền giáo huấn Giáo Hội” được xác định: “Hãy dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Ngỏ hầu Giáo Huấn nầy được trung thành gìn giữ, Đức Giê-su hứa Ngài: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. “Thầy ở cùng anh em…” Đức Giê-su không dùng thì tương lai, vì thế đây không đơn giản là lời hứa nhưng một sự khẳng định. Cuộc ra đi của Ngài có nghĩa một sự hiện diện theo một hình thức mới. “Ta ở với các ngươi” là lời khẳng định của Đức Chúa, lời khẳng định này đã nâng đỡ dân Ít-ra-en suốt dòng lịch sử thăng trầm của mình. Như vậy, thánh Mát-thêu bắt đầu Tin Mừng của mình với nguồn gốc của Đức Giê-su: Em-ma-nu-en: “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” và cũng kết thúc toàn bộ Tin Mừng của mình với việc Đức Giê-su hoàn thành Kinh Thánh: Ngài là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Có ai đó đã nói/viết một câu chí lý rằng thì là: “Đức Giê-su đã không để lại một cuốn sách nào LênTrời ABC-437
Có ai đó đã nói/viết một câu chí lý rằng thì là: “Đức Giê-su đã không để lại một cuốn sách nào cho các môn đệ trước khi về trời; Người chỉ để lại một lời hứa và cũng là lời cam kết: “Thày ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế!” Và đối với các Ki-tô hữu và Hội Thánh Công giáo, chỉ bấy nhiêu là đủ.
Chúng ta hãy dành thời gian để chiêm niệm ý nghĩa của Lễ Chúa Giê-su Ki-tô Thăng Thiên và của lời mà Người đã hứa với các môn đệ ngày xưa và với chúng ta ngày nay.
II. LẰNG NGHE/ĐỌC LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (Cv 1,1-11): Đức Giê-su được cất lên ngay trước mắt các ông 2.2 Trong bài đọc 2 (Ep 1,17-23): Thiên Chúa đã đặt Đức Ki-tô ngự bên hữu Người trên trời. 2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 28,16-20): Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
* Là Thiên Chúa Cha, Đấng “đã biểu dương sức mạnh toàn năng nơi Đức Ki-tô, khi làm cho Đức Ki-tô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời. Như vậy, Người đã tôn Đức Ki-tô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Ki-tô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh.
Hành động trên của Thiên Chúa Cha chính là ý nghĩa của Sự Kiện Thăng Thiên (lên trời) của Chúa Giê-su Na-da-rét.
* Là Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh, Đấng
- “đã dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các môn đệ thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình.”
- đã hứa ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em.”
- đã giao sứ vụ giảng dậy và làm phép rửa cho các Tông đồ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.”
- đã long trọng hứa với các Tông đồ: “Thày ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế!”
- và đã lên trời trước mắt các Tông đồ: “Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa.”
* Là Chúa Thánh Thần, Đấng luôn ở bên cạnh và hành động cùng với Chúa Cha và Chúa Con; Đấng được Chúa Giê-su hứa ban cho các môn đệ để giúp các ngài thực thi sứ vụ mà Chúa Giê-su giao phó trước khi Người về trời.
3.2 Sứ Điệp Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?): Qua ba bài Sách Thánh hôm nay, chúng ta khám phá ra giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa hôm nay gồm ba khía cạnh liên kết chặt chẽ với nhau:
Thứ nhất là tin Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa, Đấng đã chịu khổ hình (chết) và phục sinh, đã thăng thiên về trời.
Thứ hai là tin vào lời hứa của Người: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”
Thứ ba là thực thi lệnh truyền của Người cũng là sứ vụ Người giao cho chúng ta: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.”
Mỗi người được Thiên Chúa và Hội Thánh mời nhìn lại mình xem trong cuộc sống hàng ngày mình đã thể hiện lòng tin và đã chu toàn sứ vụ như thế nào?
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như người bạn sống với bạn mình, như môn đệ sống với Thầy. Sống bằng cả một tấm lòng yêu thương, tôn kính và tuân phục!
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa hay giáo huấn của Lời Chúa qua 2 bước:
* Bước 1: Tăng cường lòng tin đối với Chúa Giê-su Ki-tô và với lời Người hứa, nhờ:
- đọc, suy niệm Lời Chúa và cầu nguyện mỗi ngày; - chia sẻ Lời Chúa trong nhóm nhỏ; - học hỏi và cầu nguyện Thánh Kinh; - đào luyện tâm linh; - các việc bác ái, từ bỏ và dấn thân.
* Bước 2: Hiến dâng tài năng, tâm trí, của cải và thời gian cho công cuộc loan báo Tin Mừng và hướng dẫn đời sống tâm linh cho những người cần được giúp đỡ.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 “Thưa anh em, tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các dân các nước, nhất là cho những người chưa nhận biết Chúa Giê-su Ki-tô và Thiên Chúa là Cha của Người, để họ được Thần Khí khôn ngoan mặc khải về Mầu Nhiệm của Thiên Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho toàn thể Hội Thánh Chúa Ki-tô – nhất là cho Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ -, để mọi Ki-tô hữu trở thành chứng nhân của Tin Mừng Cứu Độ!
5.3 “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho giáo dân của giáo xứ/cộng đoàn/cộng đồng chúng ta, để mọi người vững tin vào lời hứa và sự hiện diện của Chúa Giê-su Ki-tô trong cuộc đời mỗi người!
5.4 “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em” Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người thành tâm thiện chí và cho những ai khao khát chân lý đều nhận được sức mạnh của Thần Khí Thiên Chúa.
Bài đoc 1 hôm nay (Cv 1, 1-11) tường thuật mầu nhiệm thăng thiên: Đức Giê-su Ki-tô dặn bảo các Tông đồ xong, thì Người được cất lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Tâm trạng các môn đệ hẳn nhiên là hoang mang lo sợ, bởi Người Thầy – mà cho đến giờ phút này các ông vẫn còn bán tín bán nghi (“Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi” – Mt 28, 17) – lại một lần nữa nói một cách khó hiểu. Vừa mới nói “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”, thì ngay lập tức “Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa”. Cái mâu thuẫn của hiện tượng này khiến các Tông đồ cứ mải miết “đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi”.
Tâm lý thông thường của con người là vậy, sống bằng và sống với giác quan: phải nhìn thấy tỏ tường (thị giác), nghe thấy rõ ràng (thính giác), sờ mó cầm nắm được (xúc giác), biết được mặn nhạt (vị giác), ngửi được mùi hương (khứu giác). Do đó, Thầy vừa nói Thầy sẽ ở với mình luôn mãi, thì ngay sau đó Thầy lại đi mất hút, bảo sao khỏi ngỡ ngàng, hụt hẫng, nếu không muốn nói là lo sợ, đau đớn, buồn rầu. Chính vì thế nên các Tông đồ chỉ lo nhìn lên theo bóng Thầy, với tâm trạng vừa hoài nghi, vừa chán nản, chẳng còn tin tưởng vào đâu đựoc nữa. Niềm tin lại một lần nữa bị thử thách, khiến các môn đệ quên mất những điều Thầy vừa truyền dạy. Cũng vì biết rõ con người là thế, nên Thiên Chúa đã phải sai thiên sứ đến cảnh tỉnh: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” (Cv 1, 11).
Sự mâu thuẫn giữa Lời dạy của Đức Giê-su và hiện tượng thăng thiên không chỉ làm các môn đệ thêm bán tín bán nghi, mà cho đến ngày nay cũng không ít người hoài nghi. Và nếu có tin vào biến cố thăng thiên, thì cũng chỉ coi Lời dạy “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” là lời an ủi suông. Ấy cũng chỉ vì họ đã quên mất một điều là khi suy niệm Lời Chúa trong Thánh Kinh, cần chú ý đến cả hai phương diện: “nghĩa chiểu tự” (nghĩa đen) và “nghĩa thiêng liêng” (nghĩa bóng). Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đã giải thích rõ : “Nghĩa chiểu tự” còn gọi là “nghĩa văn tự”, đó là nghĩa mà lời Thánh Kinh nêu lên. Tất cả các nghĩa trong Thánh Kinh đều dựa vào nghĩa văn tự (Điều 116); Nhờ sự thống nhất trong ý định của Thiên Chúa, không những bản văn Thánh Kinh, mà cả các thực tại và biến cố được bản văn đề cập đến đều có thể là những tiên trưng, tức “nghĩa thiêng liêng” (Điều 117).
Trong “nghĩa thiêng liêng” lại cần chú ý đến “nghĩa ẩn dụ”, “nghĩa luân lý” và “nghĩa thần bí”: “Cần phải nhớ rằng thời các giáo phụ và thời trung cổ, mọi hình thức chú giải, kể cả hình thức chiểu tự, cũng đều được tiến hành trên căn bản đức tin, mà không nhất thiết phải phân biệt giữa nghĩa chiểu tự và nghĩa thiêng liêng. Về phương diện này, người ta có thể nhắc tới 2 câu thơ trung cổ diễn tả mối tương quan giữa các nghĩa khác nhau của Sách Thánh: “Littera gesta docet, quid credas allegoria,/ Moralis quid agas, quo tendas anagogia.” (Chữ đen tức “nghĩa văn tự” nói tới biến cố; “nghĩa ẩn dụ” nói về điều phải tin; “nghĩa luân lý” dạy điều phải làm; “nghĩa thần bí” hay “nghĩa thiêng liêng” dạy điều phải vươn tới” – T/H Lời Chúa, số 27 ; Giáo lý HTCG, điều 118).
Đừng nhìn lên dõi theo bóng Thầy rồi hoang mang lo sợ, mà hãy nhìn lên và cố gắng hiểu cho được việc làm của Người (nghĩa chiểu tự: biến cố “thăng thiên”), để từ đó tin vào mầu nhiệm cứu chuộc (“nghĩa ẩn dụ”) qua Lời Chúa: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.” (Ga 14, 1-4). Đồng thời, hãy nhìn xuống bản thân mình cùng với anh em mình để mà thực thi sứ vụ do chính Người Thầy Chí Thánh truyền dạy trước khi về trời (“nghĩa luân lý”). Chỉ có như thế mới mong vươn tới cứu cánh Nước Trời (“nghĩa thần bí”) là mục đích cuối cùng của hành trình thực thi sứ vụ một Ki-tô hữu.
Tuy nhiên, cũng rất cần phải ghi nhớ lời dạy “Cần phải vượt quá “chữ viết” của ĐGH Biển Đức XVI trong T/H Lời Chúa (số 28): “Như thế, muốn tái khám phá hành động qua lại giữa các nghĩa khác nhau của Sách Thánh, điều chủ yếu là phải nắm chắc việc bước từ chữ viết qua tinh thần. Đây không phải là một bước tự động, tự phát; đúng hơn, cần phải vượt quá (transcended) chữ viết: “Lời Chúa không bao giờ đơn thuần là một với chữ viết trong bản văn. Muốn nắm được Lời của Người, phải có một sự vượt quá (chữ viết) và một diễn trình tìm hiểu, được hướng dẫn bởi chuyển động bên trong của toàn bộ tác phẩm, và do đó, phải trở thành một diễn trình sống”. Nói cách cụ thể, “được hướng dẫn bởi chuyển động bên trong” thì cũng có nghĩa phải cậy nhờ vào Thần Khí Chúa soi sáng, như Người đã từng linh hứng cho các tác giả Kinh Thánh. Như vậy, có thể nói mầu nhiệm thăng thiên nhắc nhở mọi Ki-tô hữu 2 điều:
1- Chúa Giê-su về trời: Chúa về trời vì Ngườii đã từ trời xuống, đó là một cuộc “trở về”. Hơn thế nữa, Người chính là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật, là Đấng Tạo Dựng, là Chủ Tể mọi loài thụ tạo, nên việc “trở về trời” của Người là trở về với địa vị Thiên Chúa của Người. Việc về trời của Chúa là một mầu nhiệm, nếu không được mạc khải thì khó lòng làm cho con người bất toàn có thể tin. Vì thế mới có hiện tượng thăng thiên để các môn đệ được thực mục sở thi (trông thấy nhãn tiền). Thực chất thì trời không có địa chỉ rõ ràng, nên Chúa về trời mà vẫn “ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Nói cách khác, khi Đức Giê-su Thiên Chúa về trời thì cũng có nghĩa là Người lại trở về với bản tính Thiên Chúa, không còn bị giới hạn bởi thân xác, không gian, thời gian nữa, mà là cùng lúc Người vẫn kết hợp mật thiết với Ngôi Cha và Ngôi Ba, đồng thời Người tiếp tục hiện diện cách thiêng liêng ở khắp mọi nơi, trong mọi thời đại, nhất là ở ngay trong tâm hồn các tín hữu của Hội Thánh Chúa.
2- Phải làm sao để được về trời với Chúa: “Chúa về trời”, đó cũng chính là ước mơ, là hoài bão của con người muốn được tồn tại trên nơi vĩnh hằng, xa khỏi thế giới vật chất đầy cạm bẫy chông gai. Con đường về trời của mỗi người cũng chính là con đường “làm chứng nhân” mà chính Chúa đã thực hiện và mời gọi mỗi người ”Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem cho đến tận cùng trái đất. Và chính anh em là chứng nhân về những điều nầy” (Lc 24, 47-48). Chỉ đến khi người Ki-tô hữu thi hành sứ vụ chứng nhân đến độ thực sự “trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô” (Pl 3, 10), thì “phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5, 12).
Tóm lại, khi nhìn theo bóng Người Thầy được cất lên trời, các môn đệ tiên khởi mang một tâm trạng hoang mang lo lắng, nhưng được thiên sứ nhắc nhở, thì các ngài đã hiểu ra mọi sự. Nhờ thế, các ngài đã mau mắn thực hành Lời Chúa dạy: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28, 18-20). Và kết quả thật mỹ mãn: Giáo Hội với 12 vị Tông Đồ tiên khởi (đã chọn Mat-thi-a thay cho Giu-đa It-ca-ri-ốt) đã thành lập được nhiều Giáo đoàn (với “khoảng ba ngàn người theo đạo” – Cv 2, 41) trong một thời gian ngắn và cho đến ngày nay thì đã hiện diện trên khắp thế giới.
Người Ki-tô hữu hôm nay hãy hân hoan “đứng thẳng và ngẩng đầu lên” (Lc 21, 28) để nhớ lại việc Đức Giê-su Ki-tô thăng thiên và chiêm ngưỡng Người trong vinh quang Thiên Chúa. Đồng thời làm theo lời Thánh Phao-lô Tông đồ trong thư gửi tín hữu Ê-phê-sô: “Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mạc khải cho anh em nhận biết Người. Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu. Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực, mà Người đã biểu dương nơi Đức Ki-tô, khi làm cho Đức Ki-tô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời.” (Ep 1, 17-20).
Vâng, hãy nhìn lên và cầu nguyện để hiểu được mầu nhiệm thăng thiên, và hãy nhìn xuống để sống Lời Chúa cách cụ thể với mục đích tối hậu là chiếm hữu và giúp anh em cùng chiếm hữu Nước Trời. Ôi ! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin cho cộng đoàn chúng con biết hoan hỷ vui mừng mà dâng lời cảm tạ, vì hôm nay, Con Một Chúa đã lên trời vinh hiển. Là Thủ Lãnh, Người đã đi trước mở đường dẫn chúng con vào Nước Chúa khiến chúng con là những chi thể của Người nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Người hưởng phúc vinh quang. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Thăng Thiên).
Chúa Giê-su muốn sử dụng chúng ta như khí cụ hữu hiệu mang lại ơn cứu rỗi cho nhiều người. Tin LênTrời ABC-439
Chúa Giê-su muốn sử dụng chúng ta như khí cụ hữu hiệu mang lại ơn cứu rỗi cho nhiều người.
Tin Mừng hôm nay cho biết đang khi Chúa Giê-su từ biệt các môn đệ để lên trời thì Ngài lại hứa ở cùng họ mọi ngày cho đến tận thế. Làm sao vừa lên trời xa cách các môn đệ lại vừa ở lại mãi với các ông được?
Xin mượn một thí dụ để giải thích điều nầy: Nếu tôi chỉ có một quả cam và tôi muốn phát cho một ngàn người hiện diện trong nhà thờ nầy, mỗi người một quả, thì điều đó không thể thực hiện được.
Nhưng nếu tôi có một điều khôn ngoan, chẳng hạn điều tôi học được từ Chúa Giê-su: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn mình thì được ích gì!” rồi tôi đem “phân phát” điều khôn ngoan đó cho cả ngàn người ngồi nơi đây, thì mỗi người đều có thể nhận được nguyên vẹn một điều khôn ngoan y như nhau.
Thế đó, nếu chỉ có một đơn vị vật chất hữu hình (như một quả cam) thì ta không thể đem ban phát cho nhiều người, mỗi người một đơn vị được; nhưng trái lại, điều gì thiêng liêng không lệ thuộc vật chất thì ta có thể đem “phân phát” cho nhiều người và ai cũng được lãnh nhận trọn vẹn món quà đó như nhau.
Tương tự như thế, khi Chúa Giê-su lên trời, chính là lúc Ngài chấm dứt sự hiện diện trong thân xác hữu hình để trở nên Đấng vô hình, thì Ngài không còn bị lệ thuộc vật chất, không bị giới hạn bởi không gian và thời gian, nên Ngài có thể hiện diện trong tâm hồn mọi tín hữu và mỗi người đều có Ngài hiện diện trọn vẹn trong bản thân mình.
Chúa Giê-su ở với chúng ta để làm gì?
Là để đồng hành với chúng ta trên hành trình rao giảng Tin Mừng như lời Ngài mời gọi: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ… hãy dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. (Mt 28, 19-20) Như thế, hôm nay Chúa Giê-su vẫn tiếp tục sứ mạng cứu độ của Ngài qua chúng ta.
Lúc mới lên năm, tôi được cắp sách đến trường để học những con chữ đầu tiên. Cô giáo đầu đời của tôi là một nữ tu. Vì tôi không thể tự mình viết được bất cứ chữ gì, nên Dì nắm lấy bàn tay nhỏ bé của tôi, để bàn tay bé xíu của tôi nằm gọn trong bàn tay của Dì và như thế, Dì kèm cho tôi viết nên những con chữ đầu đời.
Hôm nay Chúa Giê-su đang ở trong mỗi người chúng ta như lời Ngài phán: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” Ngài tha thiết kêu mời chúng ta hợp tác với Ngài trong việc loan Tin Mừng và cứu độ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những gì Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28, 19-20)
Còn rất nhiều người chưa nhận biết Tin Mừng của Chúa Giê-su. Tâm hồn họ là những trang giấy trắng. Chúa Giê-su rất muốn nắm lấy bàn tay nhỏ bé yếu đuối của chúng ta để viết lên trong tâm hồn họ những trang Tin Mừng về Thiên Chúa là Cha yêu thương, về mọi người là anh em một nhà, về tình huynh đệ không biên giới… Chúa Giê-su muốn sử dụng chúng ta như khí cụ hữu hiệu mang lại ơn cứu rỗi cho nhiều người. Điều quan trọng là chúng ta có bằng lòng để cho Ngài thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài qua chúng ta hay không.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa khao khát cho nhân loại được cứu độ và Tin Mừng được thấm nhập vào tâm hồn mọi người, nhưng Chúa chỉ có thể thực hiện khát vọng đó qua những người phàm yếu đuối như chúng con.
Xin giúp chúng con biết hiến dâng đời mình cho Chúa toàn quyền sử dụng, biết đặt bàn tay nhỏ bé của mình nằm gọn trong lòng bàn tay Chúa, để Chúa viết nên những trang Tin Mừng trong tâm hồn nhân loại.
Hôm nay cả Giáo hội trọng thể mừng Mầu Nhiệm Chúa lên trời. Nói đến Chúa lên trời nhiều người LênTrời ABC-440
Hôm nay cả Giáo hội trọng thể mừng Mầu Nhiệm Chúa lên trời. Nói đến Chúa lên trời nhiều người lầm nghĩ: Chúa chịu chết trên thập giá để cứu rỗi nhân loại. Và giờ chết đến là xong là hết. Họ tin vào Lời Chúa đã phán trước khi tắt thở: “đã đoạn ấy là hết việc chuộc tội cho thiên hạ”.
Xét một mặt thì cũng đúng. Nhưng xét toàn bộ thì không đủ. Bởi việc Chúa cứu chuộc không phải chỉ hết chỉ xong trên thập giá. Chúa Ngôi Hai xuống thế cứu rỗi chúng ta, lập lại nước Thiên Chúa. Ngài đã tính cứu chúng ta bằng đời sống giảng đạo, làm các phép lạ. Nhưng vì có kẻ ác tâm quấy phá, có môn đệ phản bội, cho nên Chúa phải chết. Bằng lời giảng không xong, Chúa đã vâng lời Đức chúa Cha mà cố giảng dạy, chết cũng giảng không lùi. Chúa đã chết và như vậy Chúa đã trọn bổn phận.
Xét về công việc phải làm dưới trần gian thì thật là xong, nhưng xét về mầu nhiệm Chúa Giê su thì chưa xong. Chúng ta biết rằng thập giá không phải là tiếng nói cuối cùng, Chúa còn sống lại.Và sống lại mới là đích cùng. Phải nói thêm nữa, sống lại và lên trời. Chúa từ trời xuống, giảng dạy, chết, sống lại rồi về trời. Bấy giờ mới hết mới tròn cái vòng đời của Ngài. Nên lên trời mới là giai đoạn cuối cùng của mầu nhiệm. Việc cứu rỗi thế giới, với bản thân Chúa GS, đã xong khi tắt thở trên thập giá. Sau đó Ngài không còn phải làm gì thêm nữa. Nhưng vòng đời của Ngài thì chưa xong. Chỉ khi nào Ngài lên trời mới xong, mới trọn. Chính vì cậy, nhất là nơi Thánh Phaolô và trong Giáo hội ta hãy xem kinh tạ ơn bao giờ cũng gom lại một việc : Chúa xuống thế chịu chết, sống lại và lên trời. Đây là 4 giai đoạn của một mầu nhiệm, 4 bước của một đời người. Cả 4 bước mới là tròn một đời người, một Mầu Nhiệm. Dừng lại ở một điểm nào là sai, mà phải xét cả toàn bộ Mầu Nhiệm như quá trình một vòng kín cả 4 bước thành một. Thực sự thì mầu nhiệm bản thân ta cũng vậy. Cũng gồm 4 giai đoạn, cả 4 bước mới thành vòng đời của ta, không được dừng nửa chừng, không tách bước này khỏi bước kia, mà phải đan liền cả 4 bước với nhau thành một mầu nhiệm.
Một điểm thứ 2 nữa: Ta đã nói mầu nhiệm Chúa Giêsu, lên trời là xong. Chúa lên ngự bên hữu Đức Chúa Cha là được vinh quang sau khi làm nhiệm vụ bản thân xong. Tuy nhiên, mầu nhiệm cứu rỗi thì chưa xong. Việc chúng ta phải làm, phần chúng ta phải cộng tác, phải đóng góp thì chưa xong. Việc ấy chỉ khi nào đến ngày sau hết Chúa Giêsu trở lại mới xong. Sau cuộc biến đởi cuối cùng, cuộc phán xét sau cùng, Chúa đưa toàn thể con cái được tuyển dụng về bên Đức Chúa Cha cùng toàn thể tạo vật được giải phóng khỏi tội và sự chết thì lúc ấy mầu nhiệm cứu rồi mới hoàn tất. Việc bản thân Chúa Giêsu thì đã xong, việc của thân mình mầu nhiệm là giáo hội thì chưa xong. Con cái Chúa cần đem nghị lực phát sinh mà áp dụng vào bản thân, vào xã hội, vào tạo vật.
Vì thế, mà lên trời rồi Chúa chưa an tâm hưởng vinh quang. Ngài không thể không nghĩ đến chúng ta mà giúp đỡ. Ngài đã phái Thánh Thần xuống để bảo đảm, để trợ lực chúng ta, sao cho ăn chắc thắng lợi cuối cùng. Đã đành thế, nhưng ngự bên hữu Chúa Cha, Ngài luôn cầu bầu cho chúng ta vì Ngài chưa thể an tâm khi thấy con cái, còn đang phải chiến đấu. Thánh Phaolô đã nói: Chúa Giêsu đã không vào đền thánh do tay người phàm làm nên, song đã vào thiên đàng để ngày nay hiện ra trước mặt Thiên Chúa mà cầu bầu cho chúng ta. Chúa Giêsu là linh mục vĩnh viễn, bởi vậy, Ngài thừa khả năng để cứu những ai nhờ Ngài mà đến cùng Chúa Cha. Như thế, Chúa Giêsu đã lên trời mang Mình và Máu làm của lễ mà tế lễ Chúa Cha trên bàn thờ thiên đàng. Đến đây mới thực sự kết thúc của lễ hy sinh mới. Đến đây mới là nơi Ngài thực hành chức vụ linh mục của Ngài. Linh mục mới này tế lễ trên thiên đàng trước mặt Chúa Cha với chính Máu Mình đã đổ ra, với thân xác mình làm của lễ. Chúa lên trời là có ý như thế với Chúa Cha. Còn với chúng ta thì để cầu bầu cho chúng ta. Và rồi khi mọi sự hoàn tất, chúng ta cùng mọi tạo vật được cứu rỗi sẽ được Ngài dẫn đưa về trời bên cạnh Ngài và bấy giờ Mầu nhiệm cứu rỗi toàn thể đầu và thân mình mới thật sự xong. Mầu nhiệm bản thân ta cũng mới xong.
Đến đây chúng ta thấy mỗi chúng ta đều rất quan trọng trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Dịp cuối năm 1992, đâu đó ai cũng khác lác nhau về bộ phim “người giàu cũng khóc”. Theo đánh giá chung thì đây là một bộ phim rất thành công và sự thành công đây lại là công lao của diễn viên Veronicastro, thủ vai Mariana. Từ khắp nơi trên thế giới, mỗi ngày Veronicastro nhận được biết bao nhiêu là thư khen ngợi. Nhưng một điều đáng suy nghĩ là càng đề cao Veronicaste, người ta càng quên lãng mất những diễn viên đã đóng góp lớn vào sự thành công của chị Mariana như ông bà Andato, chàng Louis vị linh mục nhân hậu và nhất là Esther. Công bằng mà nói, sự thành công của Veronicastro cũng là sự thành công của các vai khác, nghĩa là mỗi vai trong cuốn phim đều góp phần xứng đáng vào sự thành công chung. Vũ trụ cũng là một sân khấu, trong đó, mọi loài mọi vật đều là một diễn viên, nghĩa là đều có một vai diễn. Tất cả đều phải cố gắng làm xuất sắc vai diễn của mình để cuốn phim vĩ đại thiên nhiên được thành công. Nói thế, tức cũng là nói mọi loài mọi vật, nhất là con người phải giữ một vai nhất định. Chúa đã phân công. Ta phải hoàn thành xuất sắc theo ý định của Ngài. Mừng lễ lên trời hôm nay chúng ta không phải chỉ đăm đăm ngước nhìn trời để nuối tiếc, để tìm kiếm, nhưng phải ra đi vào thế giới, vào môi trường mình đang sống để làm chứng cho Chúa, để giới thiệu Chúa cho anh em chung quanh. Chúa Kitô đặt hết tin tưởng vào ta để mỗi khi hoàn thành tốt bổn phận nơi trần gian, chúng ta sẽ được trở về với Chúa mình trên trời. Amen.
Khi đến giờ Ðức Giêsu qua khỏi thế gian này để về cùng Đức Chúa Cha, Người phán cùng các LênTrời ABC-441
Khi đến giờ Ðức Giêsu qua khỏi thế gian này để về cùng Đức Chúa Cha, Người phán cùng các môn đệ nhiều điều. Người nói với họ về niềm tin, tình yên và lòng mến (Ga 12, 44-50; 14, 1-6). Người trấn an các ông bằng cách để lại bình an cho họ, truyền dạy họ mến thương nhau, đồng thời kết hợp với Người như cành nho với thân nho, ở lại trong tình yêu của Chúa Cha (Ga 14; 15). Và nhất là Người hứa xin Chúa Cha ban cho các môn đệ “Đấng Phù Trợ khác“(Ga 14, 16) để ở với các ông luôn mãi.
Chúa Giêsu đã lên Trời, chúng ta vừa cử hành biến cố ấy với niềm vui và hy vọng, nay hướng lòng về Lễ Ngũ Tuần, chờ đợi lời hứa của Chúa Giêsu với các môn đệ là xin Chúa Cha gửi Chúa Thánh Thần xuống được thực hiện. Đặt mình vào vị thế của các Tông đồ “sau khi Chúa Giêsu lên trời, Các Tông đồ xuống khỏi núi gọi là Núi Ôliu mà trở về Giêrusalem… các ông lên lầu gác… Mọi người đều đồng tâm kiên trì cầu nguyện ” (Cv 1, 12-14). Giờ đây chúng ta qui tụ bên nhau, giống như các Tông đồ trong nhà Tiệc Ly để cầu nguyện. Lời Chúa Giêsu phán : “Ta sẽ không bỏ các ngươi mồ côi, Ta sẽ đến với các ngươi” (Ga 14, 18). Chắc chắn “chúng ta sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các chúng ta” (Cv 1, 8).
Trước khi ra đi về Trời, Chúa Giêsu đã tiên báo về cái chết và sống lại của mình, cũng như sự vấp ngã của các môn đệ (x. Ga 16). Sau những di ngôn từ biệt ấy, Người kết thúc bằng kinh nguyện tha thiết và cảm động (x. Ga 17).
Trước hết, Người dâng lên Thiên Chúa Cha lời cầu xin, ca tụng và tôn vinh Cha : “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin hãy tôn vinh Con Cha, ngõ hầu Con Cha tôn vinh Cha!” (Ga 17, 1). Chúa Cha đã tôn vinh Chúa Con trên Thánh Giá và đưa về Trời, nay Chúa Giêsu xin Cha: “Con đã tôn vinh Cha. Và bây giờ xin Cha tôn vinh Con nơi Cha, trong vinh quang Con đã có nơi Cha trước khi có thế gian” (Ga 17, 4-5). Sự tôn vinh đánh dấu giờ của Chúa Giêsu đã đến, giờ đi đến cùng của sứ mạng đã được Cha trao phó là tôn vinh Cha. Sự lên Trời biểu lộ ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu : “Người đã hạ mình thấp hèn, trở thành vâng phục cho đến chết, và là cái chết thập giá! Bởi vậy Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài!” (Phil 2, 8) Qua biến cố này, Cha cũng mạc khải chính mình khi suy tôn Chúa Giêsu, người con hoàn toàn vâng phục.
Nếu Chúa Giêsu xin Chúa Cha tôn vinh mình, thì đến lượt mình lại tôn vinh Chúa Cha. Bản chất sứ mạng của Chúa Con là mạc khải và thánh hóa Danh Chúa Cha nhờ ân ban của Chúa Thánh Thần. Điều cần lưu ý ở đây là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu đã minh nhiên qui hướng về Chúa Thánh Thần khi nói về tương quan giữa Người với Chúa Cha và món quà của Chúa Cha ban cho loài người là Chúa Thánh Thần.
Tiếp theo là những lời nguyện xin của Chúa Giêsu cho những người mà Chúa Cha ban cho, Người phó thác họ cho Chúa Cha, xin Chúa Cha gìn giữ họ luôn mãi, vì họ “còn ở trong thế gian“, nơi có nhiều khó khăn, thử thách và gian truân, họ có thể bị bách hại vì lẽ công chính, chết vì đức tin vào Chúa Giêsu, dễ dàng bị lôi cuốn vào những trào lưu chối bỏ Thiên Chúa, chối bỏ ánh sáng chân lý và sự sống. Chính vì thế, Chúa Giêsu xin Cha gìn giữ họ, để khi gặp bất cứ hoàn cảnh nào, họ vẫn kiên trung, hiệp nhất nên một trong tình yêu như Chúa Giêsu nên một với Cha của Người để làm nhân chứng cho Thiên Chúa ở trần gian này.
Noi gương Chúa Giêsu, Giáo hội mời gọi chúng ta tha thiết cầu xin, để Chúa Con tôn vinh Chúa Cha trong đời sống mỗi người chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần. Sao cho tất cả đều qui hướng về Cha, tôn vinh Chúa Con trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần. Chúa Con đến lượt mình, tôn vinh Giáo hội bằng việc tuôn đổ trên Giáo hội cũng một Thánh Thần của Cha và Con.
Như các Tông đồ đồng tâm nhất trí trong nhà Tiệc Ly, cùng với mấy người phụ nữ, và Bà Maria mẹ Chúa Giêsu, kiên trì cầu nguyện (x. Cv 1, 12-14), chúng ta tha thiết cầu xin Chúa Thánh Thần xuống trên chúng ta. Ước mong sao danh Cha được thánh hóa nơi mỗi người chúng ta, “để ta được nên thánh và vô tì tích trước mặt Người, trong tình yêu” (x. Ep 1, 4). Cầu nguyện là điều cần thiết để đón nhận Chúa Thánh Thần vì khi cầu nguyện, chúng ta chứng tỏ mình sẵn sàng đón nhận ơn của Thiên Chúa.
Chúng ta biết rằng, chính ở trên cây Thánh Giá mà Chúa Cha tôn vinh Chúa Con. Nên khi chúng ta chịu đau khổ và bị ngược đãi vì thuộc về Chúa Kitô mà Chúa Cha suy tôn chúng ta. Chúa Cha tôn vinh chúng ta vì trong lúc bị thử thách chúng ta trở nên trở nên những người con trong Thiên Chúa, đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Ngài sẽ tôn vinh chúng ta vì Ngài đặt trên chúng ta Thần Khí vinh quang, Thần Khí của Ngài, sẽ ngự trên chúng ta, cho chúng ta nếm trước sự sống đời đời mà Ngài muốn ban cho chúng ta cách viên mãn ở đời sau (x. 1 Pr 4, 13-16).
Đổi lại, chúng ta sẽ là những chứng nhân tôn vinh Chúa Cha vì Ngài sẽ thể hiện cho thế giới dung nhan của Đấng mang lại ý nghĩa cho cuộc đời chúng ta. Đấng mà từ Ngài chúng ta phát xuất ra, hướng về Ngài chúng ta sẽ chia sẻ sự sống thần linh. Chúng ta sẽ là chứng nhân cho sự sống đời đời nơi những người sẽ chứng kiến và một lần nữa tôn vinh danh Chúa Cha: «Sự sống đời đời tức là: chúng nhận biết Cha, Thiên Chúa độc nhất và chân thật, và Ðấng Cha đã sai, Giêsu Kitô” (Ga 17, 3).
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tôn vinh Chúa Cha và cầu cùng Chúa Cha cho chúng con. Xin ban ơn can đảm cho chúng con, để chúng con không hổ thẹn vì chỉ vì là Kitô, nhưng luôn ca tụng Chúa. Chúa sẽ không bỏ chúng con mồ côi. Cùng với Mẹ Maria, các thánh nam nữ ở trên Trời xin Chúa Cha ban Thánh Thần cho chúng con. Amen.
Hôm nay là tuần cuối của mùa Phục Sinh, thứ 7 Phục Sinh, Lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên, ai cũng LênTrời ABC-442
Hôm nay là tuần cuối của mùa Phục Sinh, thứ 7 Phục Sinh, Lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên, ai cũng biết “thăng” có nghĩa là “lên”. Nhưng dùng chữ Thăng Thiên, thì hay hơn dùng chữ “ về” Trời. Nói rằng Chúa Giêsu “về Trời”, thì không hay bằng Lễ “Chúa Giêsu Thăng Thiên”. Bởi vì, có “Giáng” thì phải có “Thăng”. Có “Giáng Sinh”, thì phải có “Thăng Thiên”. Một chút giải thích từ ngữ cho thấy sự logic của vấn đề. Đây là từ ngữ duy nhất dành cho ĐẤNG CỨU THẾ, Đức Giêsu-Kitô. “Về Trời” cũng có nghĩa từ Trời mà đến, nay trở về. Vậy, không một ai từ Trời mà đến, ngoài Đức Giêsu-Kitô. Con Một Thiên Chúa. Như vậy Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một sự kiện đặc biệt, nhưng thật nhẹ nhàng, vui mừng tột độ. Vì nếu, Chúa Giêsu không “Thăng Thiên”, thì sự Phục Sinh không hoàn toàn có ý nghĩa. Bởi vì, trần gian không phải là nơi “trường sinh”. Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống, Người không “ở cùng” kẻ chết. Vâng, đó là lý do Chúa Giêsu “về Trời”. Trời là quê hương vĩnh cửu của những ai bước theo Chúa Giêsu-Kitô.
Vâng, kính thưa quý vị, thưa các bạn, chủ đề Lời Chúa hôm nay thật ngắn gọn, thật nhẹ nhàng. Chúng ta thấy, đây là lúc Chúa Giêsu biểu lộ trọn vẹn nhất, đầy đủ nhất Thiên Tính của Người. Có thể nói, lễ Thăng Thiên là một sự kiện biểu lộ Thần Tính của Ngôi Hai Thiên Chúa, một Ngôi Vị Thiên Chúa chịu khổ hình, chịu mai táng, phục sinh để cứu độ con người. Hành trình cứu Chuộc của Chúa Giêsu-Kitô là một hành trình đầy gian khó, nhưng mầu nhiệm Thăng Thiên là một sự kiện đầy trọn vẹn của niềm vui, niềm vui trọn hảo và tuyệt đỉnh, niềm vui nầy nói lên thiên tính rõ ràng của Chúa Giêsu.
Sự kiện Thăng Thiên là một mầu nhiệm kiện toàn ơn cứu độ, cuộc tử nạn và phục sinh của Con Thiên Chúa. Đấng đã đến thế gian để trao ban sự sống cho chúng ta.
Chúng ta nhớ lại sự kiện Biến Hình trên núi Tabor của Chúa Giêsu, và hôm nay, Người cũng hẹn các môn đệ lên núi và Thăng Thiên trước mặt các ông. Nhưng lệnh truyền, cũng là Di Huấn mà Chúa Giêsu đã truyền lại cho các môn đệ là: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Thầy, làm phép rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (c 18 – 19).
Như vậy, sứ mạng truyền giáo là sứ mạng cấp thiết và mãi mãi không ngừng, sứ mạng loan truyền Đức Kitô, không của riêng ai, mà là của mỗi Kitô hữu, được quy tụ bởi Giáo Hội. Đặc tính truyền giáo vừa mang tính sứ vụ, vừa mang tính ân sũng. Nói lên sự lãnh nhận và trao ban , tức đặc tính bác ái, đặc tính tình yêu của Thiên Chúa.
Bài đọc I (Cv 1, 1-11), trích sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại rõ biến cố lên trời của Chúa Giêsu và việc Chúa hứa ban Thánh Thần cho các tông đồ. Sác công vụ tông đồ là sự hoạt động đầu tiên của Giáo hội, là sách đầu tiên của các tông đồ sau khi Chúa Giêsu lên Trời. Như vậy, sơ lược có thể hiểu sách công vụ tông đồ là cuốn sách làm chứng về thời đại của Chúa Thánh Thần. Một cuốn sách Tin Mừng của Chúa Thánh Thần, cũng có thể nói là cuốn Tin Mừng thứ 5. Hôm nay, là trang đầu tiên của sách công vụ tông đồ, minh chứng sự kiện về trời của Chúa Giêsu và ý nghĩa Chúa Thánh Thần đến. Như vậy, Chúa Thánh Thần là Đấng chuyển tiếp và nối kết sứ vụ cứu chuộc của Chúa Giêsu, đồng thời kiện toàn mọi kỳ công cứu chuộc cho đến tận thế. Thời đại kiện toàn của Chúa Thánh Thần không phải là thời gian ẩn nhẫn , mà là thời gian hiển nhiên những uy lực của Thiên Chúa trong những tác nhân được thánh hóa. Sự siêu việt của Thiên Chúa không nhường bước satan. Sự hun đúc Thần Khí là điều mới mẻ và mạnh mẻ trong những tâm hồn bước theo Chúa Kitô. Sự kết nối nầy thật sự là kỳ công hiển hách muốn đời của công trình cứu chuộc, vì nó không còn là thời gian chịu đựng, mà là thời giờ thống trị, đó là đức tin, là ánh sáng chân lý cho chúng ta. Có ánh sáng đó, đức tin mới bền vững, vì mọi sự sẽ bước qua, dù là thế lực của trần gian. Điều nầy, minh chứng trong nhiều gian đoạn lịch sử, và như vậy, suốt hơn hai mươi thế kỷ và hơn nữa, đây là ánh sáng đức tin bề vững nhất. Vì nếu, Thiên Chúa không tỏ lộ uy dũng của Ngài qua Thánh Thần, thì Đạo Công giáo không còn tồn tại đến muôn đời. Vì người đời dù dũng mạnh đến đâu, thế lực đến đâu cũng phải đầu hàng thời gian và tử thần. Sự ác không thể thắng sự thiện, và bản tính lương thiện thần linh Thiên Chúa ban cho con người một cách tự do theo nghĩa tự nhiên, nếu không đón nhận được mặc khải của Thánh Thần, thì họ cũng không nhận ra Thiên Chúa, đó là những ai theo những tôn giáo khác. Vì mọi tôn giáo đều do một thứ ánh sáng từ Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa chỉ mặc khải duy nhất qua Đấng cứu Chuộc Giêsu–Kitô mà thôi.
Như vậy, bài đọc II (Ep 1, 17- 23), thánh Phaolô cho biết rõ ơn mặc khải nhận biết Đức Kitô là một mầu nhiệm diệu kỳ. Đấng đến từ Thiên Chúa, nơi siêu nhiên, nhưng trở nên hữu hình vì con người chúng ta, để Thần Khí nơi Thiên Chúa là nguyên lý của sự sống sẽ hướng dẫn, là làm đầu mọi tạo vật sống, chính là loài người.
Vì vậy, Đức Kitô nói: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” là vậy (c 20). Sự siêu nhiên là Thần Linh nơi Đức Kitô, không phải chỉ sự hữu hình của Người như trước lúc phục sinh, mà là Thánh Thần hiện hữu trong siêu nhiên sẽ tiếp nối công trình Tử Nạn và phục sinh của Đức Kitô. Cụ thể các Bí Tích, Đức Kitô trao cho hội thánh là kỳ công tiếp nối của Chúa Thánh Thần. Như vậy, đức tin là công cụ duy nhất để nhận ra Thánh Thần đồng hành trong Đức Giêsu-Kitô. Amen.
Vinh quang của Đức Ki tô là vinh quang của chúng ta. Mầu nhiệm Thăng thiên cũng liên quan LênTrời ABC-443
Vinh quang của Đức Ki tô là vinh quang của chúng ta. Mầu nhiệm Thăng thiên cũng liên quan đến chúng ta: nó mở ra cho chúng ta một con đường mới và sống động trong Nhân tính vinh hiển của Đức Ki tô. Vì thế, Đức tin của chúng ta vẫn được in đậm nét sự Hiện diện của Chúa Giê su ở gần bên Cha, Chúa Giê su vị Thượng tế và Vua Vũ trụ. Nhờ hướng về Trời nên tâm hồn giúp chúng ta càng hiện diện ở thế gian hơn.
Sách Công vụ 1,1-11
Chúa Giê su vĩnh viễn biến mất trước mặc các Môn đệ của Ngài, khiến các ông bàng hoàng sợ hãi. Ngài ra đi và Nước Thiên Chúa được chờ đợi thiết lập một lần nữa dường như bị dời lại. Thực ra Nước đã hiện diện trong thế gian như một hạt giống chỉ còn chờ cơ hội nẩy mầm. Không bao lâu nữa, sức mạnh của Đức Ki tô tỏ hiện ngang qua các Tông đồ, cho thấy sự Hiện diện hoạt động của Ngài. Rồi sẽ đến một ngày, Nước sẽ hiển trị trong Chúa Giê su vinh thắng cho tất cả mọi người.
Thánh Vịnh 46
Đây là bài ca chúc tụng Thiên Chúa, Vua toàn cõi đất. Trong các dân, Người đã chọn một Dân ưu tuyển để hiện diện nơi họ. Rồi sẽ đến một ngày, tất cả các dân sẽ tập họp lại chung quanh Đền Thánh của Người.
Thư Hr 9,24-28;10,19-33
Đức Ki tô là Vị Thượng Tế duy nhất của Giao Ước mới. Vị Thượng tế Do Thái khi xưa đi vào trong Đền Thánh với máu tế vật dùng để thanh tẩy Dân. Nhưng giờ đây chính Đức Ki tô, vị Thượng tế duy nhất của chúng ta, khi đi vào Đền Thánh trên trời, đã đưa những ai tin vào Ngài đến gần Thiên Chúa Cha.
Tin mừng Lc 24,46-53
NGỮ CẢNH
Chương 24 tin mừng Luca là một tổng hợp các đề tài mà ngài đã đề cập tới trong tác phẩm của mình để diễn tả đức tin của Hội thánh vào sự phục sinh của Chúa Giê su.
Lc đã gom lại đây ba khung cảnh vào trong một ngày duy nhất: lời loan báo cho các phụ nữ ở mồ Chúa Giê su (24,1-12); trên đường Em maus Chúa Giê su hiện ra cho hai môn đệ (24,13-35); và sau cùng, hiện ra cho các môn đệ (24,36-49). Và kết thúc bằng việc rời xa các môn đệ và chuẩn bị cho sách Cv (24,50-53). Có thể đọc đoạn Tin mừng theo bố cục sau đây:
1. Lời trao phó sứ mạng rao giảng tin mừng cứu độ (24,46-48) 2. Lời hứa ban Thánh Thần và quyền năng (49) 3. Chúa Giê su rời xa các môn đệ sau khi chúc lành cho họ (50-51) 4. Các môn đệ trở về Giê ru sa lem, chúc tụng Thiên Chúa (52-53).
TÌM HIỂU
Sám hối - Tha tội: các môn đệ có vị trí của mình trong chương trình của Thiên Chúa được mô tả trong Thánh Kinh, có điểm qui chiếu là chính Chúa Giê su. Các môn đệ kéo dài công trình của Chúa Giê su cho tất cả mọi người. Công trình ấy chủ yếu là loan truyền Tin mừng Phục sinh.
Giê ru sa lem: là điểm đến cũng là điểm khởi hành (x. Cv 1,8), là bản lề của hai thế giới. Đối với Lc, trọn cuộc sống của Chúa Giê su qui về Kinh thành ấy. Rồi cũng chính tại đó, các môn đệ phải chờ đợi Chúa Thánh Thần ngư đến (Cv 2). Và cũng từ nơi đó mà sự bành trướng của Hội Thánh được khởi đầu.
Hứa: Mối liên kết giữa Chúa Giê su và các môn đệ của Ngài sẽ được ơn ban Thánh Thần đóng dấu. Lời hứa của Thiên Chúa Cha (trong Thánh Kinh) sẽ được thực hiện cho họ nhờ Chúa Giê su. Thánh Thần đối với Chúa Giê su như thế nào thì đối với họ cũng như thế: Người là ánh sáng soi Lời Chúa, là sức mạnh thúc đẩy hành động nhằm giải phóng (x. 1,35.41.67; 3,22; 4,1.14.18). Thánh Thần hướng dẫn để hiểu biết Thánh kinh và giúp thực hiện sứ mạng tiên tri (x. Cv 1,8).
Nhận được: “Anh em hãy mặc lấy Đức Ki tô” (Gl 3,27). Bêthania: x. 19,28-38. Đây là chiều ngược lại với hướng vào thành Giê ru sa lem. Khi từ Bê tha nia đi vào đền thờ (19,45), Chúa Giê su đã được các môn đệ tung hô và chúc tụng là vua. Giờ đây, Ngài dẫn họ đến với Ngài và chúc lành cho họ, nhưng Ngài sắp lìa xa họ để về trời, đền thánh vinh quang Thiên Chúa.
Chúc lành: từ trước cho đến giờ, Chúa Giê su chỉ chúc lành trên bánh (9,16; 24,30). Chúc lành là cử chỉ của vị Thượng tế đi ra khỏi đền thánh và truyền lại cho dân lời chúc phúc của Thiên Chúa. Ông Dacaria không thể làm điều đó (1,22). Còn Đức Ki tô thì thực hiện một cách tối thượng và quyết định. Lời chúc lành nầy bảo đảm cho các môn đệ sự phù trợ của Thiên Chúa, cho sứ mạng mà họ phải thi hành. Trong giờ phút lìa xa họ, Chúa Giê su Ki tô khẳng định rằng lời chúc lành của Thiên Chúa sẽ ở lại với họ.
Được đem lên: sự biến mất của Chúa Giê su được đức tin của Hội thánh trình bày như là một cuộc đi vào vinh quang. Đó là mặt thứ hai của sự Phục sinh: đó không chỉ có nghĩa là thoát khỏi sự chết, mà còn là một sự tôn vinh trong Thiên Chúa. Chúng ta đang vượt qua thế giới cảm giác mà đi vào mầu nhiệm (x. Cv 1,9-11). Nên chú ý động từ ở thể bị động: chính Thiên Chúa tôn vinh Chúa Giê su. Cũng động từ nầy được dùng ở 2V2,3 để mô tả sự thăng thiên của Ê lia trên chiếc xe bằng lửa. Chúa Giê su tạm thời biến đi sau dấu chỉ bánh (24,31). Bây giờ Ngài biến đi vĩnh viễn sau dấu chỉ của nhóm được tái lập một lần dứt khoát. Hội Thánh là Thân thể của Ngài cũng như Thánh Thể là Thân Thể của Ngài. Hội Thánh và Thánh Thể là sự hiện diện và mặt hữu hình của Đức Ki tô phục sinh.
Bái lạy Ngài: từ long trọng nầy chỉ dùng ở đây. Nó diễn tả thái độ đức tin cuối cùng của các môn đệ. Người bạn và là Thầy của họ không chỉ là Đấng Messia (9,20), mà còn là Chúa nên họ phải thờ lạy Ngài.
Đền thờ: Lc kết thúc sách Tin mừng của mình ở nơi ngài đã bắt đầu. Ơn cứu độ được loan báo giờ đã thực hiện: Chúa Giê su đi vào đền thờ vinh quang của Thiên Chúa, trong nhà của Cha (2,49). Bức màng ngăn cách đã bị xé ra (23,45). Chúa Giê su đi vào nơi Cực thánh với đầy đủ quyền hành. Ngài đã lắp đầy bằng sự hiện diện của Ngài khung trời Ngài đã đi vào, đền thánh Giê ru sa lem, cả thế giới. Bất cứ nơi nào có người tin vào Đức Ki tô cầu nguyện, thì từ nay, ở đó là Đền thờ đích thực, Thân thể Đức Ki tô, là Hội Thánh, dấu chỉ của Đền thờ thiên quốc.
Chúc tụng: Đức Ki tô đã chúc lành cho các môn đệ của Ngài để cho thấy rằng họ là đối tượng các phúc lành của Thiên Chúa. Khi các môn đệ ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa là để nhìn nhận rằng những lời chúc phúc và phúc lành chỉ đến từ Thiên Chúa mà thôi. Động cơ khiến họ tạ ơn là Đức Ki tô phục sinh. Ngài mở ra cho họ hiểu biết Thánh Kinh và sai họ đi công bố sự sám hối. Ngang qua họ, Hội thánh hiệp nhất với Chúa Giê su để cùng với Ngài ca tụng Thiên Chúa Cha.
SỨ ĐIỆP
Bốn mươi ngày sau lễ Phục sinh, chúng ta mừng lễ Chúa Giê su Thăng thiên. Đó là ngày mà Đức Ki tô phục sinh biến mất trước mắt các tông đồ. Có lẽ hơi khó mà coi sự ra đi nầy là một cuộc lễ.
Thật vậy, khi một người thân yêu rời xa chúng ta, thì đó luôn là một biến cố buồn đau. Những ai thường đến các nhà ga chiều chủ nhật có thể khẳng định rằng không phải cuộc chia li nào cũng mang lại niềm vui.
Thế mà Giáo hội trình bày cho chúng ta biến cố Chúa Giê su Thăng thiên như một ngày lễ. Và thậm chí đó là một trong những lễ lớn trong năm. Thật vậy, Chúa Giê su ra đi đã hứa với chúng ta Ngài sẽ trở lại. Ngày giờ nào, chúng ta không được biết, duy chỉ có một điều là đó sẽ là một ngày trong đại đối với chúng ta. Chúng ta khắc khoải chờ đợi Ngài. Sau một thời gian dài vắng bóng, niềm vui sẽ vỡ lở khi gặp lại. Ngay từ bây giờ, chúng ta chuẩn bị biến cố ấy bằng cách mở rộng tâm hồn và tiếp nhận Lời Ngài trong cuộc sống của chúng ta.
Chúng ta vui mừng bởi vì Đức Ki tô phục sinh mở ra cho chúng ta con đường dẫn đến Chúa Cha. Chính Người đã nói với chúng ta: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Cùng với Ngài, nhân tính nghèo hèn của chúng ta được nâng lên địa vị gần với Thiên Chúa. Đó là một vinh dự tuyệt với và là một bằng chứng cao cả của tình yêu Chúa chúng ta. Tất cả những điều đó được ban cho một cách nhưng không, và không do một chút công nghiệp nào của chúng ta. Trước hồng ân đó, chúng ta sẽ chẳng bao giờ ngừng dâng lời cảm tạ Ngài, với lời kinh của Thánh vịnh: “Tất cả muôn dân, hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa với tiếng reo vui!”.
Thăng thiên là một ngày lễ tràn ngập niềm vui bởi vì nó đánh dấu việc Chúa Giê su khải hoàn về trời sau khi chết và phục sinh. Đức Ki tô phục sinh vĩnh viễn đi vào trong vinh quang cúa Cha. Đó là cuộc tái ngộ của Ba ngôi, một biến cố thần linh tuyệt vời. Sau mỗi trận đánh, vị tướng chiến thắng sẽ khải hòan trở về, hãnh diện vì chiến tích của mình. Thăng thiên, một phần giống như thế, Đấng đã chiến thắng sự dữ, tội lỗi và sự chết trở về trời trong vinh quang. Và chúng ta, những nười ki tô hữu, chúng ta hân hoan tung hô chúc tụng Ngài cùng với tất cả các thiên thần và các thánh trên trời.
Thánh lễ hôm nay mời gọi chúng ta hãy vui lên và hi vọng. Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy dẫy khổ đau. Hằng ngày, những hình ảnh bạo lực, bất công và lọai trừ nhau tràn ngập trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Nhưng các bài đọc thánh kinh hôm nay giúp chúng ta xác tín rằng sự dữ không phải là tiếng nói cuối cùng. Đức Ki tô sống lại vẫn đang sống trong vinh quang của Cha và không gì có thể ngăn cản Nước của Ngài hiện đến. Ngài đã đến gieo hạt giống của Nước Trời và không gì có thể cản trở nó nẩy mầm.
Các bài đọc ấy còn loan báo cho chúng ta một tin vui khác: Đức Ki tô sống lại muốn nối kết tất cả chúng ta vào chiến thắng trên sự dữ, sự chết và tội lỗi của Ngài. Chắc hẳn điều đó sẽ không dễ dàng; sẽ có chiến đấu và cả những đau khổ. Thiên Chúa không lọai trừ sự đau khổ cũng như các thử thách ra khỏi cuộc đời nầy. Ngài giúp chúng ta sống một cách khác. Và Ngài sẵn sàng trợ giúp sự yếu hèn của chúng ta.
Với biến cố Thăng thiên nầy, một lịch sử đã chấm dứt và một lịch sử khác đang bắt đầu. Đức Ki tô đã hoàn tất sứ mạng của Ngài. Chúng ta đã dõi theo từng giai đọan, các lời rao giảng, các phép lạ, các cuộc gặp gỡ, cái chết và phục sinh của Ngài. Các tông đồ đã nhìn thấy đấng phục sinh. Các sách tin mừng nói với chúng ta rằng: “trong 40 ngày, Ngài đã hiện ra với họ và nói với họ về Nứơc Thiên Chúa. Điều quan trong không phải là tự hỏi con số 40 có chính xác không, nhưng hiểu được ý nghĩa của nó. Trong thế giới Kinh Thánh, đó là thời gian cần thiết để chuẩn bị cho một đời sống mới. Bắt đầu sứ vụ, Chúa Giê su đã phải trải qua 40 ngày trong sa mạc để chuẩn bị sứ mạng. Cũng thế, khoảng thời gian 40 ngày giữa lễ Phục sinh và lễ Thăng thiên, Chúa Giê su chuẩn bị cho các tông đồ của Ngài tiếp nhận sứ mạng.
Cuộc thăng thiên về trời của Chúa Giê su đánh dấu sự khởi đầu của một lịch sử mới. Đó là thời gian Giáo Hội, thời gian sứ mạng bắt đầu. Các tông đồ được sai đi để làm chứng và mang tin mừng khắp thế gian. Nhiều lần Ngài đã báo trước rằng họ phải chịu bách hại và bạo lực. Nhiều người khác sẽ bị nhạo báng. Điều ấy chúng ta đang thấy diễn ra hằng ngày. Nhưng chúng ta đừng để mình ngã lòng. Thật vậy, chính Đức Ki tô sẽ có tiếng nói cuối cùng. Ngài ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế và không có ai cũng như không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Ngài.
Tuần lễ tới, chúng ta sẽ mừng lễ Hiện Xuống. Đức Maria đã hiện diện giữa các tông đồ đang chuẩn bị tâm hồn. Và giờ đây, Mẹ cũng sẽ vui mừng giúp đỡ chúng ta đón nhận biến cố ấy. Cùng với Mẹ và hiệp thông với nhau, chúng ta cầu nguyện và khẩn xin: “Ôi lạy Chúa, xin sai Thánh Thần của Chúa đến canh tân bộ mặt thế giới”.
ĐÀO SÂU
1. HỎI: Sách Công vụ là sách gì. Bài đọc một nói về điều gì?
THƯA: Sách Công vụ là tác phẩm thứ hai của Thánh Lu ca, tiếp nối quyển tìn mừng thứ nhất kết thúc với biến cố Chúa Giê su lên trời. Sách Công vụ cho thấy sự bành trướng mau lẹ của Hội thánh dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần theo lệnh truyền của Chúa Giê su trước khi về trời: “Anh em sẽ nhận lấy Chúa Thánh Thần ngự xuống trên anh em, anh em sẽ là chứng nhân cho Thầy ở Giê ru sa lem và trên toàn cõi Giu đê và Samaria và cho đến tận cùng trái đất”. Bài đọc một kể lại biến cố Chúa Giê su về cùng với Thiên Chúa Cha sau khi ban những lời cuối cùng cho các môn đệ.
2. HỎI: Tại sao sách Công vụ (bài đọc 1, của Luca) cho biết khoảng 40 ngày sau khi sống lại Chúa Giê su đã lên trời trước mắt các Tông đồ. Nhưng trong tin mừng thứ ba (cũng của Luca) thì lại kể việc Chúa lên trời liền với việc Chúa sống lại.
THƯA: Đó là hai cách nói về một mầu nhiệm duy nhất. Câu truyện được kể trong sách Công vụ là việc Chúa Giê su phục sinh hiện ra lần cuối cùng cho các môn đệ trước khi không còn xuất hiện công khai trên thế gian nầy nữa cho đến khi Ngài trở lại. Còn việc Chúa Giê su lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa nằm trong mầu nhiệm Phục sinh. Chúa Giê su khi sống lại đã ở ngay trong vinh quang Thiên Chúa Cha, nói theo ngôn ngữ Kinh Thánh: “đã ngự bên hữu Thiên Chúa”. Thỉnh thoảng Ngài hiện ra với các môn đệ để củng cố Đức tin của họ.
3. HỎI: “Ngự bên hữu Thiên Chúa” có nghĩa gì?
THƯA: Đó là cách nói Kinh Thánh có nghĩa là “ngang hàng với Thiên Chúa”, chỉ Chúa Giê su đã được trao quyền bá chủ trên trời dưới đất, dẫn dắt toàn thể tạo vất đến chốn vinh quang, và đồng thời trở thành đấng cầu bầu cho loài người.
4. HỎI: Con số 40 có ý nghĩa như thế nào?
THƯA: Trong truyền thống Kinh Thánh con số 40 có ý nghĩa biểu tượng, chỉ một sự chuyển tiếp, một sự thay đổi. Như Đại lụt diễn ra trong 40 ngày và 40 đêm; ông Mô sê ở trên núi 40 ngày; người Do thái lang thang trong sa mạc 40 năm; Chúa Giê su bị cám dỗ trong 40 ngày.
5. HỎI: Hai người mặc áo trắng có ý nghĩa gì?
THƯA: Thánh Lu ca thích số hai. Như trong trình thuật ngôi mộ trống, ông mô tả hai người mặc áo trắng trong ngôi mộ (Lc 24,4), trong biến cố biến hình có hai ông Mô sê và Ê li a từ trời xuống (Lc 9,30).
6. HỎI: Sứ điệp của các thiên sứ gửi cho các môn đệ là gì?
THƯA: Các thiên sứ bảo các môn đệ đừng cứ đứng nhìn trời, nơi Chúa Giê su đã lìa xa các ông (Cv 1,11). Để ở lại trong tình yêu của Ngài thì hãy thi hành lệnh truyền Ngài để lại, là làm chứng nhân cho Ngài trên khắp cùng trái đất cho đến khi Ngài trở lại.
7. HỎI: Với những lời “như đã được viết” Chúa Giêsu muốn trích dẫn đoạn nào trong Cựu Ước?
THƯA: Ở đây, Ngài không ám chỉ đến một trích dẫn cụ thể nào từ Cựu Ước, nhưng có ý qui chiếu đến toàn bộ nhiệm cục cứu độ như báo trước trong Kinh Thánh. Ngoài ra, với những lời ấy, Chúa Giêsu có ý bắt đầu diễn từ của mình bằng một công thức trang trọng.
8. HỎI: Tại sao Chúa Giêsu truyền phải bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem?
THƯA: Bởi vì Giê-ru-sa-lem là trung tâm mà từ đó tỏa ra sứ điệp mới về ơn cứu độ do các tông đồ rao giảng, như đã được báo trước bởi các lời tiên tri xưa.
9. HỎI: Với những lời ấy, tác giả tin mừng muốn kể lại một sự kiện lịch sử?
THƯA: Đúng. Nhưng đồng thời ngài cũng muốn nhấn mạnh đến sự hài hòa với những lời tiên tri của Cựu Ước.
10. HỎI: Trong câu 48, Chúa Giêsu nói rằng các tông đồ là những chứng nhân tất cả những gì Ngài đã nói và làm. Những lời ấy chỉ là một sự gợi nhớ lịch sử của tác giả tin mừng?
THƯA: Chắc chắn là không, câu 48 là một công thức trang trọng, mà lúc đầu đã có cung cách phụng vụ. Các tông đồ đã là và phải là những chứng nhân, không phải của một kinh nghiệm cá nhân, hay kết quả của một sự suy đoán triết học hay thần học, nhưng là các nhân chứng của các sự kiện có liên quan đến công cuộc cứu độ được Chúa Kitô thực hiện.
11. HỎI: Chúa Giêsu dựa sức mạnh nào để sai phái tông đồ?
THƯA: Chúa Giêsu sai Chúa Thánh Thần đến để hỗ trợ cũng như giúp đỡ các tông đồ trong việc tìm hiểu và giải thích thông điệp đích thực của Đấng Mê-si-a.
12. HỎI: Nhưng lời khẳng định của thánh Lu ca: “Anh em hãy ở lại trong Thành Thánh” không trái ngược với những gì các bản văn Tin Mừng khác khẳng định về các lần hiện ra của Chúa Giêsu phục sinh?
THƯA: Các bản văn Tin Mừng khác cho chúng ta biết rằng Đấng Phục Sinh hiện ra ở Ga-li-lê, nhưng ghi nhận của Thánh Lu ca không đi ngược với những gì được nói đến ở các đoạn khác trong Tân Ước bởi vì tác giả tin mừng không quan tâm theo thứ tự chính xác của thời gian và địa lý các sự kiện về sự sống lại, nhưng chủ ý trình bày sứ điệp nền tảng của toàn bộ Tin mừng của ngài: Giê-ru-sa-lem là trung tâm tôn giáo của Do Thái giáo. Chúa Giêsu hướng đến Thành Thánh này từ đầu cho đến khi kết thúc sứ mệnh của mình. Kế đến, chính từ thành Giê-ru-sa-lem mà sứ mạng phải được tiếp tục qua các tông đồ.
13. HỎI: Thánh Luca muốn trình bày cho chúng ta điều gì khi nói rằng Chúa Kitô đã được đưa lên trời?
THƯA: Ngài muốn dạy rằng Chúa trở về với vinh quang mà Ngài đã sở hữu từ thuở đời đời.
14. HỎI: Tại sao các tông đồ sụp lạy trước mặt Chúa Giêsu?
THƯA: Bởi vì, cuối cùng sự nhận biết Chúa Giêsu bắt đầu được rõ ràng trong tâm trí của họ. Chúa Giêsu không còn được xem như là một Thầy dạy tuyệt vời của Israel nữa, mà như một vì Thiên Chúa, Thiên Chúa làm người.
15. HỎI: Tại sao các tông đồ trở lại Giê-ru-sa-lem và bắt đầu ca tụng Thiên Chúa trong đền thờ mặc dù giáo huấn của Chúa Giêsu dạy từ nay phải “thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và trong chân lý “?
THƯA: Với những lời này, Chúa Giêsu đã không có ý định loại bỏ việc cầu nguyện trong đền thờ hoặc trong các nhà hội. Thật vậy, chính Ngài cũng không từ chối đi đến những nơi thờ phượng của người Do Thái để cầu nguyện và rao giảng. Ngài chỉ muốn lưu ý một khía cạnh quan trọng: mỗi Kitô hữu qua phép rửa trở thành đền thờ của Thiên Chúa Ba Ngôi, do đó con người có thể gặp gỡ Thiên Chúa trong sâu thẳm của tâm hồn hoặc lương tâm của mình.
Còn các tông đồ trở lại đền thờ bởi vì ban đầu họ không phân biệt Do Thái giáo từ Kitô giáo, và chỉ sau khi biến cố Hiện Xuống và với suy tư thần học, họ mới hiểu rằng Kitô giáo không phải là một giáo phái từ Do Thái giáo, nhưng là tôn giáo riêng biệt, dù thực sự được hoàn thiện từ Do Thái giáo. Dần dần, các Kitô hữu đầu tiên tụ tập trong những gia đình rộng rãi hơn, và họ đã lui tới đó thay cho các nhà hội và Đền thờ, nơi họ cầu nguyện và cử hành Bí Tích Thánh Thể.
16. HỎI: Mầu nhiệm lên trời có nghĩa gì?
THƯA: Việc Chúa Giê su lên trời và và việc Chúa Thánh Thần Hiện Xuống không thể tách rời khỏi mầu nhiệm Phục sinh, vì cả ba đều nhằm khai triển mầu nhiệm Phục sinh của Đức Ki tô. Lên trời có nghĩa là kết thúc các lần hiện ra của Chúa Giê su Phục sinh với các Tông đồ, kết thúc sự hiện diện của Đấng Phục sinh dưới hình thức thấy được, sờ được, nhưng không có nghĩa là Ngài vắng mặt. Trái lại, mầu nhiệm lên trời mở ra sự hiện diện mới của Đức Ki tô ngang qua hoạt động Chúa Thánh Thần. Từ nay, Chúa Giê su hiện diện trong Giáo Hội cùng với sứ mạng loan báo tin mừng.
Đức Giêsu nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này. Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em những điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống”. Sau đó, Người dẫn các ông tới gần bêtania, đang khi chúc lành, thì Người ròi khỏi các ông và được đem lên trời. Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. (Lc 24,46-53)
Chúa Thăng Thiên (Ảnh Internet)
Trại trẻ mồ côi Maumayazoun của vợ chồng anh Asmar Halabi là nơi cưu mang những đứa trẻ LênTrời ABC-444
Trại trẻ mồ côi Maumayazoun của vợ chồng anh Asmar Halabi là nơi cưu mang những đứa trẻ mất cha mẹ, nhà cử do chiến tranh ở Syria. Nơi đây được gọi “Thiên đường dưới lòng đất” của các em. Những trẻ em tuổi từ 2 đến 14 ăn, ngủ, vui chơi và học tập ở một khu trại dưới lòng đất trong khi những vụ đánh bom vẫn tiếp diễn trên đầu. Ngôi nhà mới của các em đầy màu sắc, có xích đu, khu vực làm đồ thủ công, có máy tính và các trò chơi khác. Ở đây, các nhà tâm lý học và giáo viên không chỉ giúp các em hồi phục chấn thương thể xác, mà còn chuẩn bị cho các em tinh thần để đối mặt với những thử thách trước mắt.
Hôm nay, Đức Giêsu lên trời. Người mở ra viễn cảnh của Thiên Đường chân thật mà con người có thể hướng đến. Chúa về trời để Nước Trời trở thành quê hương của tất cả chúng ta. Tuy nhiên, thực tại thiêng liêng – niềm hy vọng vững chắc ấy – không phủ định hay che mờ cuộc sống trần gian. Người Kitô hữu không được miễn trừ nghĩa vụ xây dựng cuộc sống hiện tại hóa Nước Trời ngay tại trần gian, trong cuộc sống của họ, bằng cách tích cực sống những giá trị Tin Mừng.
Người Kitô hữu xây dựng trần gian trong viễn tượng trời cao. Niềm hy vọng mai sau giải thoát ta khỏi nô lệ những gì chóng qua tạm bợ, đồng thời, cũng xác định những gì ở hiện tại có thể là phương tiện hữu hiệu đưa chúng ta về trời. Niềm hy vọng mai sau không làm suy giảm ý nghĩa hiện hữu của con người, trái lại, trân trọng nâng cao phẩm giá con người ngang hàng với thần linh. Niềm hy vọng vào Thiên Đường làm cho cuộc sống chóng qua tràn đầy ý nghĩa hiện hữu. Sự cố gắng hoàn thiện bản thân, hoàn trọn cuộc sống trong ơn nghĩa Thiên chúa là cơ sở cho hạnh phúc vĩnh hằng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin giúp con trung thành chu toàn nhiệm vụ ở trần gian trong hy vọng được kết hợp với Chúa ở trên Quê Trời. Amen.
Lời Chúa: “Ðang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời”(Lc,24,51).
Nhập lễ:
Kính thưa cộng đòan phụng phụng,
Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật Chúa Thăng Thiên hôm nay cho chúng ta thấy, sau khi hoàn thành LênTrời ABC-445
Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật Chúa Thăng Thiên hôm nay cho chúng ta thấy, sau khi hoàn thành sứ mạng Chúa Cha trao phó, Chúa Giêsu lại trao cho Giáo hội loan báo Tin Mừng cứu độ của Chúa cho hết thảy mọi người, và Người rời khỏi các môn đệ mà lên trời:
Về trời khi đã hoàn thành, Cứu nhân, độ thế hành trang cao vời. Quản cai làm chủ đất trời, Rồi sau xuống thế vào thời cánh chung. Hân hoan hạnh phúc vô cùng, Giảng rao, tin tưởng, đợi trông Thánh Thần.
Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta làm chứng về tình yêu cứu độ của Chúa bằng đời sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu thương, để sau khi hoàn thành sứ mạng ở trần gian, chúng ta cũng được về trời với Chúa. Trong tâm tình đó, chúng ta hãy thành tâm sám hối.
Sám hối:
X. Lạy Chúa, Chúa đã trải qua con đường thập giá để bước vào vinh quang phục sinh. Xin Chúa thương xót chúng con. Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Kitô, Chúa ngự bên hữu Chúa Cha để chuyển cầu cho chúng con. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con. Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa, Chúa trao cho Giáo Hội loan báo Tin Mừng cứu độ của Chúa. Xin Chúa thương xót chúng con. Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời. CĐ: Amen.
Suy niệm:
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Bởi nguyên tổ phạm tội “bất tuân phục Thiên Chúa” làm cho con người phải đau khổ, bệnh tật và phải chết. Nhưng con người sinh ra ở đời này không phải để chết mà để sống cho Thiên Chúa. Cái chết là một cuộc biến đổi từ cỏi hư vô để đi vào chốn vĩnh hằng. Chính vì thế, Con Thiên Chúa đã từ trời xuống thế làm người để cứu độ trần gian. Người làm chủ vũ trụ, làm chủ không gian và thời gian. Người làm chủ sự sống và sự chết. Người nắm trong tay dũng lực quyền năng, sống và chết đều thuộc về Người. Người đem tình yêu, niềm vui, ban bình an và sự sống đến cho nhân loại. Khi đã hoàn thành sứ mạng Chúa Cha trao phó, Người lại trao cho Giáo hội loan báo Tin Mừng cứu độ và Người rời khỏi các môn đệ lên trời mà về cùng Cha.
Thưa anh chị em, Chúa Giêsu phục sinh đã được Chúa Cha trao ban toàn quyền trên trời dưới đất. Thánh Phaolô trong bài đọc 1 hôm nay đã quả quyết rằng, Thiên Chúa đã làm cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại và đặt Người ngự bên hữu mình trên trời, vượt trên mọi phẩm trật. Chúa khiến mọi sự quy phục dưới chân Người, và tôn Người làm đầu toàn thể Hội thánh. Chúa Giêsu lên trời là về cùng Thiên Chúa. Nơi ấy, vượt ra ngoài không gian và thời gian của vũ trụ này. Nơi bình an, hạnh phúc tràn đầy và hoàn hảo trong tình yêu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu lên trời là một cuộc tôn vinh Người sau khi đã hoàn tất chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa, bằng cuộc tử nạn đau khổ và phục sinh vinh hiển. Mầu nhiệm Chúa Giêsu lên trời mở ra một niềm hy vọng lớn lao cho các môn đệ. Từ đây, các ông được thúc đẩy bởi niềm tin và hy vọng. Các ông đã vượt qua nỗi kinh hoàng sợ hãi, chạy trốn và tản mát của những ngày khổ nạn. Nay các ông qui tụ ngợi khen Thiên Chúa, cầu nguyện và đón nhận sức mạnh Chúa Thánh Thần để trở thành những chứng nhân can đảm của Tin mừng phục sinh. Mầu nhiệm Chúa Giêsu lên trời gắn liền với lệnh truyền rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân tộc. Người nói: “Các con là nhân chứng những sự việc ấy”. Như thế, việc rao giảng Tin mừng không còn là một việc mơ hồ viễn vông, nhưng là một việc hết sức cụ thể, dẫn tới thái độ vâng giữ những giới luật của Chúa.
Có một câu chuyện kể rằng, ở một dòng tu, có một chị khó sống được với các chị em khác. Lần kia chị đi xưng tội và cha giải tội bảo, trong dòng con có một người chính là Chúa Giêsu. Chị về dòng tìm hiểu coi ai là Chúa Giêsu. Gặp ai chị cũng vui vẻ và tôn trọng các chị em khác. Dần dần chị đã hòa nhập vào cuộc sống của các chị em. Từ đó, chị làm chứng về Chúa Giêsu trong đời sống thánh hiến hàng ngày của mình.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Hôm nay Chúa về trời đó là niềm vui và là niềm hy vọng cho hành trình cuộc đời chúng ta. Các môn đệ cảm thấy lòng trào dâng niềm vui. Xa xăm nơi cuối chân trời chỉ còn vang vọng lời Thầy chí Thánh Giêsu: “Anh em hãy làm chứng nhân cho Thầy”. Mừng lễ Chúa lên trời, chúng ta không phải chỉ đăm đăm ngước mắt nhìn về trời để nuối tiếc, nhưng được mời gọi đón nhận sứ mệnh rao giảng Tin mừng bằng đời sống chứng tá vào môi trường mình đang sống, để từ nay u sầu sẽ gặp niềm vui, những đau khổ đời này không còn làm cho con người thất vọng, nhưng ánh vinh quang phục sinh của Chúa đã mang lại niềm hy vọng và lạc quan cho cuộc đời chúng ta. Chúa Giêsu đặt hết niềm tin tưởng nơi chúng ta, Chính Người soi lối mở đường cho chúng ta, để rồi sau khi chu toàn bổn phận của mình nơi trần gian này, chúng ta cũng sẽ trở về trời với Chúa của mình. Nơi chính Người đã đi trước để dọn chỗ cho những ai tin theo Người.
Nguyện xin Chúa cho mỗi người chúng ta đang khi hướng lòng về trời cao cũng biết chu toàn sứ mạng nơi trần thế trong niềm hân hoan, để sau khi trải qua cuộc đời chóng qua này chúng ta sẽ được vào chung hưởng hạnh phúc vinh quang với Người trên quê trời. Amen.
Có phải cứ mỗi độ xuân về tết đến, những em bé mới nao nức phấn khởi, vì chúng thường mơ ước LênTrời ABC-446
Có phải cứ mỗi độ xuân về tết đến, những em bé mới nao nức phấn khởi, vì chúng thường mơ ước có áo quần đẹp, giầy dép xinh, cùng với bao lì xì đỏ vui thật vui. Cũng không ai quy định phải có thành công, có đầy đủ vật chất tiện nghi, mới gọi là được hạnh phúc. Đâu phải chỉ những ngày cuối tháng năm đầu tháng sáu, các học sinh, sinh viên, mới sảng khoái, bởi sau tháng ngày miệt mài.., mùa hè đầy hứa hẹn đã tới. Chắc không phải vô tình mà tiền nhân chúng ta nói: trúc xinh trúc mọc đầu đình, em xinh em đứng một mình cũng xinh. Thực ra, tình yêu, bình an, chính là điều làm người ta vui ; “cái tâm” trong sáng, giúp người ta nhìn vạn vật đều dễ thương: ai ai cũng “là tiên, là phật”. Khi gia đình an vui, người ta thường xem nơi họ đang sinh sống: là tổ quốc, là thiên đàng. Khi ý thức mình là dòng dõi được yêu thương, người ta dễ nhận ra những gì họ đang có đều là phần thưởng, là hồng ân được tặng ban.
Khi yêu, ai cũng là thi sĩ, vì ít nhiều tâm hồn họ cũng lâng lâng theo giai điệu dại khờ, nửa mơ nửa thật. Lúc say, liệu ai đủ sáng suốt, và biết tự chủ, dù là say rượu hoặc say tình ; lúc tỉnh, mấy ai đủ mạnh mẽ từ chối công danh sự nghiệp, hoặc liều mình liều mạng bước theo Thầy Giêsu ? Sự kiện Chúa thăng thiên hay Chúa về trời, vẫn được gọi là “mầu nhiệm”, cho dù chúng ta đang đứng ở hàng ngũ môn đệ, linh mục tu sĩ, là người kitô hữu đạo đức: tin Chúa, yêu Chúa. Phúc đức của tuổi thơ, nước mắt kẻ u sầu, niềm an vui của tuổi già, nhưng sẽ thật hạnh phúc khi trái tim đang ân cần trao yêu thương. Để có niềm vui và hy vọng, Đức Giêsu nhắc lại cho các học trò lời kinh thánh: “như đã ghi chép là Đức Kitô phải chịu khổ hình và ngày thứ ba sẽ từ cõi chết sống lại…”. Phải chăng, niềm vui trọn vẹn không thể vắng bóng khổ đau thập giá, nét đẹp kitô giáo là phải sống chứng nhân tin mừng, làm phong phú hoá tâm hồn tràn đầy tình yêu Chúa, tình yêu tha nhân ?
Kinh nghiệm ở đời cho thấy: niềm vui thường ngắn ngủi, khổ đau lại có khuynh hướng dài lê thê, dù người ta luôn ý thức cuộc sống này vẫn có niềm vui giả, niềm vui thật. Bằng tấm lòng tin yêu, cùng với tình mến nơi mỗi người đã và đang được tôi luyện, Đấng phục sinh Ngài sẽ còn giơ tay chúc lành như hôm xưa: “Sự việc xảy ra là đang khi Người chúc phúc cho các học trò, Người rời khỏi các ông mà lên trời”. Chúa thăng thiên, Chúa ở bên Chúa Cha, quả là đã để lại nhiều bỡ ngỡ cho các môn đệ, cho mọi người mọi thời, nếu ơn bình an, nếu phúc lành của Đấng phục sinh chưa đến thật nơi tâm hồn người tin theo Chúa. Khi nhắc đến đau khổ thập giá, chết và sống lại, Đấng phục sinh chắc chắn không có ý tự mãn về con đường Ngài đã đi, nhưng chính khổ đau ở trần gian lại thiết thực cho tình yêu mà người theo tin Chúa sẽ thực thi sứ mạng cách trọn vẹn nhất. Đau khổ và tình yêu luôn có liên hệ với nhau như hình với bóng, cũng như niềm vui và hạnh phúc mãi mãi là câu chuyện nhiều tập, tin yêu và cậy trông vào Đấng phục sinh, luôn luôn là sự tự do chọn lựa của người môn đệ theo Đức Kitô.
Ngày hôm nay, mọi người đều cho rằng niềm vui nơi cuộc sống thì rộng lớn bao la, còn hạnh phúc thì mông lung và đầy mâu thuẫn: có tiền mua tiên cũng được. Tuy nhiên, có tiền, có niềm vui, nhưng tiền nào mua được bình an hạnh phúc ? Bằng nhận thức và kinh nghiệm, người ta cho rằng: hạnh phúc không mua được bằng tiền, không phải vì đó là tiền “âm phủ”, nhưng vì ở trần gian, thật, không có cửa hàng nào rao bán hạnh phúc ! Cũng có thể nói, tiền không mua được hạnh phúc, chẳng phải vì tiền không có sức mạnh, nhưng vì người ta chỉ mua bán trao đổi niềm vui trong chốc lát, bình an tạm thời, hoặc hạnh phúc giả tạo mà thôi. Niềm vui trong Chúa, bình an và hạnh phúc trong Chúa, không phải là một khái niệm mới lạ, nhưng vẫn mãi là “mầu nhiệm”, người ta chỉ thấu hiểu, hoặc cảm nhận được niềm vui, bình an, hạnh phúc thật, khi ở trong Đức Kitô phục sinh. Khi “Đấng Kitô rời khỏi các môn đệ lên trời ; các ông thờ lạy Người, rồi những học trò ấy trở về Giêsusalem, lòng đầy vui mừng”. Vì sao không nhìn thấy Thầy, các môn đệ lại chứng thực là các ông vui mừng ?
Nhận định chung chung của xã hội: người trẻ thời nào cũng bén nhạy mọi mặt, có nhiều sáng kiến hay ; nơi người cao niên, bao giờ cũng nhiều ký ức đẹp, và dồi dào kinh nghiệm quý báu ! Các chuyên gia tư vấn thì cho rằng: người biết đủ, biết sử dụng năng lực đúng chỗ, đúng lúc, kẻ ấy sẽ càng ngày càng thu được nhiều niềm vui hạnh phúc. Niềm vui trong tương quan gia đình xã hội, khác xa với niềm vui trong Chúa, nếu chúng ta thực sự tin lời Chúa Giêsu phán: “Thầy sẽ sai đến với các con Đấng Thầy đã hứa ; vậy các con hãy ở lại trong thành, cho đến khi mặc lấy quyền lực từ trên cao ban xuống”. Niềm vui trong Chúa nhất định phải là niềm vui của bình an thật, niềm vui của tin yêu thật, được thông hiệp với Đức Kitô, Đấng đang hiện diện sống động trong tình yêu Thánh Thần. Amen.
Về trời, người ta thường nghĩ “ra khỏi cõi trần”, thoát vòng tục lụy, chốn khổ đau… Những ý niệm LênTrời ABC-447
Về trời, người ta thường nghĩ “ra khỏi cõi trần”, thoát vòng tục lụy, chốn khổ đau… Những ý niệm đó đánh mất một chiều kích thực tại, “Tôi sẽ tiếc thương trần gian mãi mãi. Vì nơi đây tôi sống đủ vui sầu” (Mưa nguồn, 1962, Bùi Giáng).
Chúa Giê su về trời không phải để xa cõi trần, nhưng để đưa con người về trời gặp gỡ Chúa Cha, và Người vẫn ở lại trần gian này mãi cho đến ngày tận thế, đưa dẫn con người trên con đường về trời.
Con người đã đánh mất.
Con người theo bước chân ngắn ngủi của khoa học tự nhiên, đã không còn nhìn thấy công trình sáng tạo tuyệt diệu của tầng trời nữa. Họ không nhận ra bàn tay tác tạo kỳ công của Thiên Chúa, mà chỉ nhìn thấy những gì cần chinh phục, chiếm lấy không gian và mở kho vũ khí trên tầng trời ấy, sẵn sàng dội bom hạt nhân vào nhau. Một cuộc chiến tranh không gian đã bắt đầu nhen nhúm và khai tử trái đất khi con người bất hoà với nhau.
Nếu nhìn xem trái đất như một nhà tù, ai cũng muốn ra khỏi, con người sẽ tìm mọi con đường để ra khỏi sự tắc nghẽn của trái đất. Người ta tìm thấy những con đường của những lạc lối, đưa nhau vào cõi chết chứ không về trời như mong muốn.
Mất cảm thức về thiên nhiên, về bầu trời Thiên Chúa sáng tạo, con người sẽ quên mất lời tán tụng của thụ tạo: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm. Ngày qua mách bảo cho ngày tới, đêm này kể lại với đêm kia.” (Tv 18, 1- 2). Khi đánh mất lời tụng ca, con người cũng đánh mất niềm vui giữa môi trường thiên nhiên và không dừng lại như thế, con người còn tàn phá thiên nhiên thành nơi thảm hoạ.
Đánh mất thiên nhiên, con người cũng đánh mất tâm hồn khi chỉ quy hướng những gì thực dụng. Bế tắc trong tù giam tâm hồn, con người cũng xung khắc với nhau từ những gì vụn vặt. Tất cả nói lên trần thế không còn là nơi đáng sống, chỉ còn tìm cách hưởng thụ và quên đi cõi đời, cõi trời.
Lời gọi về trời
Lý giải việc “Chúa ở lại mọi ngày cho đến tận thế” trên cõi đời này, vì Chúa chẳng bao giờ mất niềm hy vọng nơi con người. Người vẫn ở đấy, trong hiện tại, mọi nơi mọi lúc, sẵn sàng chỉ lối cho con người về cõi trời từ nơi cõi đời biết sống niềm vui, hạnh phúc: “ Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” (Ga 10,10). “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống (Ga 14,6).
Con đường về trời bắt nguồn từ cõi đời này, đánh mất cõi đời cũng sẽ làm mất cõi trời. Sống ý nghĩa
trên cõi đời này điều cần thiết là đi tìm gặp Chúa, ở lại với Chúa và sống với Chúa. Sở dĩ như vậy, bởi con người dù thế nào vẫn có những ước muốn vô hạn về sự thiện, về niềm vui, hạnh phúc vĩnh cửu. Chính những khát mong vô hạn đó, Chúa chờ đợi con người ở những chặng đường nếu họ biết dừng lại tìm kiếm và sẽ gặp.
Chúa có cách của Người cho từng người để đi vào tâm hồn mỗi người, Chúa không muốn để ai hư mất, như mục tử đi tìm con chiên lạc. Có hai con đường tìm về, Đức hồng y Fulon Sheen đề ra, sự thiện và sự chán chường những đam mê dục vọng. Cuối cùng để lấp đầy sự khát vọng, con người khám phá ra chỉ có ở nơi Thiên Chúa.
Về trời, đối với mỗi người chúng ta đều bắt đầu từ hôm nay, tại nơi đứng trên trái đất này, với những hoàn cảnh cụ thể. Con người được Thiên Chúa khởi xướng đang hướng về trời với những việc làm thiện hảo, thanh luyện lương tâm ngay thẳng, xây dựng công bằng, bác ái, một xã hội yêu thương. Bảo vệ môi sinh, thiên nhiên, thành nơi đáng sống, chờ đợi ngày Chúa Quang Lâm, hoàn tất lịch sử cứu độ.
Lễ Thăng Thiên chúng ta tưởng nhớ những kì công Thiên Chúa thực hiện qua Đức Kitô. Những kì LênTrời ABC-448
Lễ Thăng Thiên chúng ta tưởng nhớ những kì công Thiên Chúa thực hiện qua Đức Kitô. Những kì công này Đức Kitô thực hiện không phải cho Thiên Chúa mà là cho nhân loại. Những ai thành tâm đón nhận Đức Kitô với tâm tình yêu mến nhận được thành quả đó, và còn nhận được niềm vui trong tâm hồn. Khi Đức Trinh Nữ Maria thưa ‘Vâng’ với sứ thần, tâm hồn bà vui mừng ca hát: ‘Linh hồn tôi ngợi ca Chúa và tâm trí tôi vui mừng vì Thiên Chúa đã nhìn đến phận nữ tì Chúa’ Lc 1,46. Sau khi đón nhận tin vui, bà Maria vội vã lên đường viếng thăm người bà con là Elizabeth. Vừa nghe tiếng bà Maria chào, hài nhi trong lòng bà nhảy mừng và bà lớn tiếng ca tụng: ‘Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm’ Lc 1,42. Hai tiên tri Simeon và Anna cũng vui mừng đón nhận Ấu Chúa. Simeon, bồng ẵm hài nhi trong tay vui mừng ca hát. ‘Lậy Chúa, xin cho tôi tớ Chúa ra đi bằng an, vì chính mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ’ Lc 2,29.
Không một ai trên trần thế được đón nhận nhiều hơn Đức Kitô và cũng không ai bị từ chối nhiều như Đức Kitô. Cả đón nhận lẫn từ chối đều bắt đầu ngay từ khi Đức Kitô xuống trần và điều này còn đang tiếp tục xảy ra trong hiện tại và sẽ còn kéo dài trong tương lai. Hàng năm vào dịp Phục Sinh luôn có nhiều người tin theo, nhận lãnh đức tin Kitô; trong khi đó hàng năm cũng có nhiều người âm thầm từ bỏ Giáo Hội Chúa. Người đầu tiên từ chối đón nhận hài nhi Giêsu chính là vua Hêrôđê, khi ông hay tin Đức Kitô sinh ra, ông bối rối, lo lắng, tìm cách giết chết hài nhi Giêsu Mt 2,14. Cuộc đời công khai rao giảng của Ngài gặp biết bao thử thách từ lãnh đạo tôn giáo,trưởng hội đường. Chính những người quyền thế này dùng ảnh hưởng của mình đòi giết chết Đức Kitô. Sức ép của nhóm này khiến Philatô lúc đó đang là toàn quyền khu vực phải tuyên bố ông không tìm thấy chứng cớ nào để kết án Đức Kitô và ông rửa tay tuyên bố là không dính đến máu Đức Kitô. Kết quả Đức Kitô vẫn bị đóng đanh do sức ép của nhóm lãnh đạo tôn giáo Mt 27,24.
Lời rao giảng của Đức Kitô gây kinh ngạc cho dân chúng và họ ca tụng Ngài hết lời. Chính những ca tụng này khiến máu ghen của lãnh đạo tôn giáo sôi lên và họ không thể nhịn được. Dân chúng thì nói Đức Kitô giảng dậy như đấng có uy quyền, lời giảng của Ngài mới mẻ, đi vào lòng người. Trái lại nhóm lãnh đạo tôn giáo bực bội đến hạch sách ai cho quyền ông giảng dậy những điều đó (Mt 7,29). Tranh cãi thua, họ phao tin Đức Kitô là tướng quỉ. Đức Kitô có quyền trên sóng gió. Ngài phán một lời sóng biển yên lặng (Mt 8,23tt.) Ngài có quyền trên thần chết khi cho Lazaro và con gái Jairus sống lại từ cõi chết (Mt 8,19-26). Ngài có quyền tha tội, quyền mà một mình Thiên Chúa có Mk 2,10.
Không như những lãnh tụ trần thế, Đức Kitô chọn người lãnh đạo trong tương lai, không phải những người giầu kinh nghiệm chiến tranh, từng thắng nhiều trận, Ngài cũng không chọn người tài ba lỗi lạc, Đức Kitô chọn họ trong nhóm người chài lưới. Ngài đòi nơi họ một điều kiện duy nhất. Tình yêu. Ba lần Đức Kitô hỏi Phêrô ông có yêu mến Ngài không? Cả ba lần Phêrô đều đáp là ‘Có’. Sau mỗi câu đáp Đức Kitô trao cho ông một trách nhiệm: chăm sóc chiên con của ta, chăm sóc chiên mẹ của ta và lần thứ ba Ngài tiên đoán cách thức Phêrô chịu đóng đanh chết chứng tỏ tình yêu của ông với Đức Kitô (Gn 21).
Lãnh tụ trên hoàn cầu thường để quân đội, công an bảo vệ, canh gác, và có cận thần hy sinh mạng sống cho lãnh tụ. Đức Kitô đối xử hoàn toàn ngược lại. Khi quân dữ đến bắt, lãnh tụ Kitô nói với quân lính. Hãy bắt một mình ta, và phải để cho môn đệ ta ra đi bằng an. Ngay cả trong trường hợp đó đám lĩnh cũng tuân lệnh Ngài. Chỉ trong vòng ba năm vắn vủi. Ba năm rao giảng Đức Kitô để lại cho trần thế một Giáo Hội vững mạnh trước bao sóng gió. Ngày đầu tiên Giáo Hội non trẻ đã bị vùi dập, bị bắt bớ, tra tấn, cấm đoán. Giáo Hội đó vẫn tồn tại và vững mạnh phát triển. Hiện nay với hơn một ngàn triệu thành viên trung thành với giáo huấn của Ngài. Hàng ngàn hội từ thiện lớn nhỏ đều bắt nguồn từ tình yêu Đức Kitô. Hiện nay những ai cấm đoán hay chủ trương bách hại Giáo Hội Kitô đều là những người không thông hiểu lịch sử phát triển Kitô giáo. Chính Đức Kitô đã tuyên bố rõ ràng là Giáo Hội của Ngài sẽ bị bách hại, nhưng không sức mạnh nào có thể phá huỷ được, ngay cả sức mạnh của thần dữ là ma quỉ cũng phải đầu hàng. Con là đá và trên đá này Ta sẽ xây Giáo Hội Ta (Mt 16,18). Đức Kitô nói với Phêrô như thế. Vì lí do đó mọi cố gắng bách hại Giáo Hội chỉ là làm công việc mất công, vô dụng.
Không có cuốn sách nào được in nhiều và in thành nhiều ngôn ngữ khác nhau hơn cuốn giáo lí của Ngài. Ngài là Đấng duy nhất mọi sự xảy ra cho Ngài đều được tiên đoán nhiều ngàn năm truớc và những tiên đoán này đều được thực hiện như những gì đã tiên đoán Lc 24,44.
Đức Giêsu Phục Sinh cách đây hơn 2.000 năm trước khi về Trời đã trao cho các môn đệ và LênTrời ABC-449
Đức Giêsu Phục Sinh cách đây hơn 2.000 năm trước khi về Trời đã trao cho các môn đệ và cả nhân loại sứ mạng làm chứng cho Ngài giữa thế gian và loan báo Tin Mừng cho mọi dân tộc trên khắp cùng trái đất.
Việc rao giảng Tin Mừng không chỉ dành riêng cho các Linh mục, Tu sĩ nam nữ, mà là bổn phận của tất cả mọi người khi lãnh nhận Bí tich rửa tội, Thêm sức. Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Mọi Kitô đều được mời gọi loan báo Chúa Kitô Phục Sinh cho nhiều người bằng chính đời sống đạo của mình. Thực tế, Đức Giêsu đã huấn luyện các môn đệ của Người, để các môn đệ của Người tiếp nối sứ mạng cứu thế của Người. Sứ mạng cứu độ, Đức Giêsu Kitô không làm một mình Người, nhưng Người muốn nhiều người cộng tác với Chúa trong việc cứu độ nhân loại. Khi về Trời mặc dù chỉ còn 11 môn đệ, một số Tông đồ, và một số người nữ đạo đức. Tuy nhiên, Chúa hoàn toàn tin tưởng nơi nhóm môn đệ ít ỏi này. Người hoàn toàn đặt niềm tin và hy vọng vào nhóm Môn đệ của Người đã tuyển chọn, Người không chọn một lớp người nào khác nữa. Các Môn đệ sau khi Thầy Giêsu sống lại lên Trời, họ đã tụ họp lại, cầu nguyện và đã chọn Matthias thay chỗ khuyết của Giuđa…Công việc truyền giáo tiếp tục được các Tông đồ chia nhau đi khắp mọi nơi sau khi họ lãnh nhận Chúa Thánh Thần . Các Tông đồ của Chúa đã nhiệt tình, hăng say, can đảm rao giảng Tin Mừng của Chúa ở khắp nơi, nhất nhất các Tông đồ đã can đảm, đổ cả máu để làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh.Chúa về trời là để mở cửa Thiên Đàng, mở cửa Nước Trời cho nhân loại, cho chúng ta. Người khai mào Trời mới, Đất mới.
Vâng, Đức Giêsu về Trời trước mặt các Môn đệ, trước sự ngỡ ngàng của những người Ga-li-lê, đến nỗi sứ thần của Thiên Chúa phải nhắc nhở họ :” Hỡi các bạn miền Ga-li-lê, sao ngỡ ngàng đứng đó nhìn trời ? Các bạn thấy Đức Giêsu lên trời làm sao, Người cũng sẽ ngự giá quang lâm như vậy “( Cv 1,11) . Chúa Phục Sinh muốn người Ga-li-lê sống thực tế, vì công việc họ và mọi Kitô hữu ở trần gian phải làm là rao giảng Tin Mừng. Đứng đứng nhìn trời xanh, mây, tinh tú, mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, các giải ngân hà mà phải quay lại công việc thường ngày để làm chứng cho Đức Kitô sống lại. Đức Kitô Phục Sinh đã lên trời, nhưng Người ở cùng nhân loại, ở cùng chúng ta cho đến tận thế “ (Mt 28, 20 ). Như ba môn đệ thân tín của Chúa Giêsu : Phêrô, Giacôbê, Gioan xưa trên núi Tabôrê được chứng kiến Thầy Giêsu biến hình trên núi. Chúa đã kéo họ về thực tại và đưa họ xuống núi, nghĩa là trở về với đời sống thường ngày để tiếp tục học hỏi, chứng kiến những việc làm, những phép lạ của Chúa, hầu khi Chúa chịu chết và sống lại theo ý của Chúa Cha, các môn đệ sẽ là chứng nhân cho Chúa Phục Sinh và tiếp tục sứ mạng cứu thế của Người giữa thế giới này…
Lễ Thăng Thiên là một lễ quan trọng, và là một lễ lớn của người Công giáo. Chúa Giêsu Phục Sinh chuyền ngọn lửa cho mỗi người chúng ta như vận động viên chuyển ngọn đuốc cho nhiều vận động viên để đốt vào ngọn đuốc chính thắp sáng trong suốt thời gian các vận động viên tranh tài trong cuộc tranh tài Olympic, hay Sea games vv…Các môn đệ và chúng ta tiếp tục chuyền ngọn lửa đức tin, ngọn lửa truyền giáo cho nhiều người từ thế hệ này đến thế hệ khác vv…Đây là bổn phận, trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của mỗi Kitô hữu là làm cho Danh Chúa được mọi người nhận biết.
Đức Giêsu đã dạy các môn đệ, các Tông đồ và nhân loại qua Tám Mối Phúc, trong bài giảng trên Núi, Người cho chúng ta thấy vai trò và sứ mạng làm muối, làm men cho đời, đồng thời Người nói chúng ta là ánh sáng :” Chính anh em là muối cho đời.Nhưng muối mà nhạt đi,thì lấy gì muối nó cho mặn lại ? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi. Chính anh em là ánh sáng cho trần gian..Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được.Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời “ ( Mt 5,13-16 ).
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, khi Chúa về trời, Chúa luôn tin tưởng trao phó sứ mạng truyền giáo cho Nhóm 12, Chúa không cần chọn thêm ai khác nữa. Các Tông đồ đã can đảm, hiên ngang, lãnh nhận Chúa Thánh Thần và ra đi rao giảng Tin Mừng khắp tận cùng thế giới.Xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con cũng hiên ngang như các Tông đồ làm chứng cho Chúa Phục Sinh bằng chính đời sống đức tin và bác ái của chúng con.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Tại sao các người miền Ga-li-lê lại cứ đứng nhìn trời ? 2.Chúa lên trời để làm gì ? 3.Trước khi Chúa về trời, Người căn dặn các môn đệ điều gì ? 4.Lễ Thăng Thiên có ý nghĩa gì ?
Thông thường, khi có ai ra đi, chúng ta thường cảm thấy buồn và thương nhớ. Bởi vì ra đi LênTrời ABC-450
Thông thường, khi có ai ra đi, chúng ta thường cảm thấy buồn và thương nhớ. Bởi vì ra đi là chết đi trong lòng một ít như người Pháp nói: “Partir c’est mourir un peu.” Tuy nhiên, việc Đức Giêsu chia tay các môn đệ để về cùng Chúa Cha lại là biến cố của niềm vui. Các Tông Đồ trở về cõi thế. Chia tay đôi ngã, tuy ngậm ngùi nhưng lòng vẫn chan chứa niềm vui.
1- Niềm hy vọng lớn lao
Bởi lẽ, Chúa Giêsu lên trời là phần thưởng và là vinh quang mà Thiên Chúa Cha ban cho Người, sau khi Đức Giêsu hoàn tất sứ vụ cứu độ được Chúa Cha giao phó. Người đã nhập thể làm người, chịu đau khổ, chết và phục sinh; hôm nay,
Người lên trời vinh hiển. Nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa Cha đã siêu thăng Người và đặt Người ngự bên hữu Chúa Cha. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh (x. Ep 1,17-23). Khi ở bên hữu Thiên Chúa, Đức Giêsu hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta trước mặt Chúa Cha (x. Dt 7, 25).
Biến cố Chúa lên trời mở ra cho chúng ta niềm hy vọng về phần thưởng Nước Trời mà Người đã hứa. Theo lời thánh Lêô Cả: Vị Thủ Lãnh của chúng ta bước vào thiên đàng và ở trên đó, “vinh quang của Đầu” đã trở thành “niềm hy vọng cho thân xác” (x. Bài giảng lễ Thăng Thiên). Chúa Giêsu đã vĩnh viễn bước vào thiên đàng, “Người là Đầu và là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc” (Rm 8,29).
Nước Trời là quê hương đích thực của mỗi người chúng ta. Đức Giêsu khai mở cho chúng ta về một tương lai mới, đó là hạnh phúc thiên đàng. Sống trên trần gian, chúng ta luôn phải hướng về quê thật, nơi đó có hạnh phúc đích thực.
2- Chúa Giêsu lên trời, Thánh Thần hiện xuống
Nếu Chúa Giêsu không về cùng Chúa Cha, thì Thánh Thần sẽ không được ban. Như Chúa đã nói: “Thầy đi thì ích lợi cho các con, vì nếu Thầy không đi, thì Đấng Phù Trợ sẽ không đến với các con, nhưng nếu Thầy ra đi, Thầy sẽ sai Người đến với các con” (Ga 16,7).
Quả thế, sau khi Chúa Giêsu về trời, Chúa Cha sai Chúa Thánh Thần xuống trên các Tông Đồ trong ngày lễ Ngũ Tuần. Chúa Thánh Thần chính là Đấng Bảo Trợ mới của Giáo Hội. Người hiện diện và hoạt động trong Giáo Hội. Người ban sức mạnh và biến đổi Giáo Hội. Nhờ Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ từ những người thất vọng, nhát đảm, sợ sệt, trở thành những người rất can đảm và hăng say rao giảng Tin Mừng. Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống và là nguồn của mọi ân sủng. Nhờ Thánh Thần, chúng ta mới có thể làm con cái Chúa.
Như thế, Chúa Thánh Thần chính là quà tặng của Đấng Phục Sinh, được ban cho chúng ta khi Người về trời. Đó là niềm vui lớn lao cho chúng ta.
3- Với sứ vụ truyền giáo
Đấng Phục Sinh ủy thác sứ vụ truyền giáo cho Giáo Hội khi nói: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân,” (Lc 13,47) hay “chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24,48).
Vì thế, khi Đức Giêsu lên trời thì cũng là lúc các Tông Đồ phải xuống núi, phải lên đường để thi hành sứ vụ của mình. Các Tông Đồ đã ra đi và hăng say rao giảng Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người, mọi dân tộc. Nhờ đó, Đạo Chúa được lan tỏa khắp thế giới.
Ngày hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục mời gọi mỗi người chúng ta cộng tác vào sứ vụ cao cả này: Chính chúng ta là những chứng nhân của sự thật và giá trị Tin Mừng.
Kitô giáo dạy chúng ta rằng trong khi hướng về thiên quốc, người Kitô hữu có bổn phận phải xây dựng xã hội trần thế này nên nhân bản, đạo đức và đẹp đẽ hơn. Bởi thế, người Công Giáo tốt là người tuân giữ luật lệ giao thông, trật tự công cộng và thiện ích cộng đồng tốt hơn những người khác.
Người Công Giáo tốt phải là người đi đầu trong việc giữ gìn vệ sinh nơi công cộng, làng xóm, xứ đạo và gia đình của mình.
Người Công Giáo tốt phải là người đi đầu trong việc bảo vệ môi trường sạch sẽ, an toàn, và không sản xuất những thực phẩm bẩn và có độc tố để kiếm tiền bằng mọi giá.
Đó là bổn phận của người Kitô hữu khi sống trong xã hội. Bằng những chứng tá về đời sống, chúng ta tham gia để xây dựng xã hội này công bình hơn, an toàn hơn và văn minh hơn. Amen!