TẤM BÁNH ĐỜI THƯỜNG Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt (Nhà xuất bản Tôn giáo 2016) Gồm 327 bài suy niệm Lời Chúa hằng ngày. --------------------------------------
Hai phép lạ đều phát xuất từ việc đụng chạm. Thiên Chúa có sức mạnh thần linh. Ai đụng chạm đến Thiên Chúa sẽ được tiếp xúc với sức mạnh vô địch này. Tuy nhiên để tiếp xúc được sức mạnh thần linh không thể dùng phương tiện nhân loại mà phải dùng phương tiện thần linh, đó là đức tin. Biết bao người chen lấn đụng chạm vào Chúa. Nhưng chỉ người phụ nữ này chạm đến mầu nhiệm vì bà có đức tin mạnh mẽ. Đức tin hiệu nghiệm lạ lùng. Chính đức tin của người cha ngoại đạo cũng làm cho cô gái bé nhỏ múc được ân sủng thần linh của Thiên Chúa.
Thực ra Thiên Chúa luôn yêu thương, muốn gặp gỡ con người. Hô-sê cảm nhận được tình yêu đến say mê của Thiên Chúa, Đấng muốn gặp gỡ con người. Muốn tình yêu của Người đụng chạm đến con người “Này Ta sẽ quyến rũ dân Ta, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình”(năm chẵn).
Trong thanh vắng giữa thiên nhiên, sẽ thuận lợi để gặp Thiên Chúa. Như Gia-cóp ngủ giữa trời sao và thấy được cửa trời. Chính Thiên Chúa yêu thương tỏ mình cho ông. Tiếp nối tình thương dành cho Áp-ra-ham và I-xa-ác (năm lẻ).
Việc gặp gỡ Thiên Chúa đem lại cho ta sự sống. Như người phụ nữ bị cái chết rình rập được Chúa cho hoàn toàn bình phục. Như cô gái đã bị tử thần cướp đi và Chúa trả lại sự sống.
Việc gặp gỡ Thiên Chúa nâng cao phẩm giá con người. Ta không còn phải là tôi tớ nhưng trở nên bạn hữu, được Thiên Chúa yêu thương nâng lên ngang hàng, ký kết hôn ước. “Người sẽ gọi Ta: “Mình ơi” chứ không còn gọi ‘Ông Chủ ơi’ nữa”.
Việc gặp gỡ Thiên Chúa cho ta được một cuộc sống sung mãn. Gia-cóp được hưởng ân phúc dư tràn cho đến suốt đời. Ông trở thành phúc lành cho mọi người. “Dòng dõi ngươi sẽ nhiều như bụi trên đất…Nhờ ngươi và dòng dõi ngươi, mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (năm lẻ)
Việc gặp gỡ Thiên Chúa đem đến cho ta hạnh phúc vô biên trong tình yêu thương thắm thiết của Chúa, trong mối tình bằng hữu thâm sâu và nhất là trong Chúa ta đạt được tất cả mọi ước mơ, đạt đến cứu cánh và ý nghĩa cuộc đời.
Lạy Chúa xin ban thêm đức tin để con có thể đụng chạm được đến Chúa và đáp lại lòng Chúa mong chờ con.
Thế gian đau khổ vì chống lại Thiên Chúa. Dân Ít-ra-en có nhiều kinh nghiệm về điều này. Khi vâng nghe Lời Chúa, họ được hạnh phúc. Khi phản bội Chúa, họ lâm vào cảnh nô lệ lầm than khốn khổ. “Con cái Ít-ra-en phong vương người mà Ta không chọn, tôn làm lãnh tụ kẻ Ta không biết, dùng bạc vàng làm ra ngẫu tượng, để rồi bị đập tan”. Từ bỏ Chúa thì họ sẽ phải chịu nô lệ các thế lực ma quỉ, xác thịt, thế gian: “Giờ đây, Người sẽ nhớ lại sự gian ác của chúng, chúng đã phạm tội, thì chúng sẽ phải đền: chúng sẽ phải trở về Ai-cập” (năm chẵn).
Chúa Giê-su xuống trần để giải thoát con người khỏi ách nô lệ. Chúa xua trừ ma quỷ để con người được sống tự do: “Khi ấy, người ta đem đến cho Đức Giê-su một người câm bị quỷ ám. Khi quỷ bị trục xuất rồi, thì người câm nói được”. Chúa rao giảng cho mọi người biết Nước Trời. Chúa cứu họ khỏi mọi bệnh hoạn tật nguyền: “Đức Giê-su…rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền”. Chúa đến để đưa mọi người vào Nước Trời. Toàn dân là những bông lúa chín cần được đưa vào kho Nước Trời: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gựt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”.
Chúa muốn có người cộng tác vào việc xây dựng Nước Trời. Nhưng việc xây dựng Nước Trời là của Chúa. Vì thế người cộng tác phải có lòng khiêm tốn. Phải cầu nguyện và được sai đi. Đó chính là thái độ của tổ phụ Gia-cóp. Khi từ nơi lưu lạc trở về, ông đắc thắng như một người thành công nhờ sức mình. Có hai bà vợ. Mười một đứa con trai. Còn gia súc thì hàng ngàn hàng vạn. Nhưng đêm trước khi bước vào Đất Hứa, ông phải trải qua một cuộc chiến đấu với Thiên Chúa. Ông phải cầu nguyện xin Chúa chúc phúc: “Tôi sẽ không buông ngài ra, nếu ngài không chúc phúc cho tôi…Và người đó chúc phúc cho ông tại đấy”. Để tổ phụ Gia-cóp khiêm tốn, Chúa đã cho ngài bị thọt chân: “người đó bèn đánh vào khớp xương hông của ông, và khớp xương hông của ông Gia-cóp bị trật”. Nhờ đó ông được đổi tên và trở tổ phụ dân riêng được Chúa chọn: “Người ta sẽ không gọi tên ngươi là Gia-cóp nữa, nhưng là Ít-ra-en”. Đó chính là tên của dân tộc mới được Chúa thành lập (năm lẻ).
Xin cho con biết khiêm tốn cầu nguyện để được Chúa sai đến nơi Chúa muốn và làm việc Chúa cần.
St 41,55-57; 42,5-7.17-24a; Hs 10,1-3.7-8.12; Mt 10,1-7
Thật diệu kỳ tình thương của Thiên Chúa. Chúa đã chúc phúc cho nhà Gia-cóp. Nhưng các con ông bất hoà vì ghen ghét đã bán Giu-se sang Ai-cập. Ý Chúa nhiệm mầu đã khiến Giu-se trở thành tể tướng nước Ai-cập, chuyên lo cấp phát lúa gạo cho dân trong thời đói kém. “Cứ đến với Giu-se”. Đó là chính là Chúa chăm lo cho dân. Con cái ông Gia-cóp cũng phải sang Ai-cập mua thóc lúa. Giu-se thử lòng và thấy họ đã biết sám hối tội lỗi. “Họ bảo nhau: “Than ôi! Chúng ta có lỗi với em chúng ta: chúng ta đã thấy nó phải ngặt nghèo. Nó đã năn nỉ chúng ta, nhưng chúng ta chẳng nghe. Chính vì thế mà chúng ta gặp cảnh ngặt nghèo này”. Vì thế, Chúa tha tội, và ông Giu-se đã cấp phát lúa gạo cho họ (năm lẻ).
Hô-sê vừa trách móc dân bội bạc vừa hiểu biết tình thương vô bờ của Thiên Chúa và thấy trước Thiên Chúa sẽ cứu độ dân Người. Tình thương Thiên Chúa thật lớn lao. Đã vun trồng Ít-ra-en thành cây nho “sum suê, trái trăng thật dồi dào phong phú. Nhưng trái trăng càng nhiều, chúng càng dựng thêm các bàn thờ ngẫu tượng…” Chúa trừng phạt họ: “Thế là Sa-ma-ri tiêu tùng”. Ông khuyên nhủ dân chúng hãy ăn năn sám hối. “Hãy gieo công chính, rồi sẽ gặt được tình thương. Hãy khai khẩn đất hoang; đây là thời kiếm tìm Đức Chúa”. Và ông tiên báo Thiên Chúa sẽ ban ơn cứu độ: “Cho đến khi Người đến làm mưa công chính trên các ngươi” (năm chẵn).
Đến thời đến buổi Thiên Chúa sai chính Con Một xuống trần cứu độ trần gian. Thật là một tình yêu lớn lao. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một Người”. Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Thật là một sáng kiến vượt trí tưởng tượng của loài người. Dân cũ đã hư hỏng. Nên Chúa Giê-su lập ra một dân mới. Dân cũ phát sinh từ 12 chi tộc dòng dõi Gia-cóp. Dân mới cũng có 12 cột trụ là 12 tông đồ được Chúa tuyển chọn. Dân cũ bị những thần tượng ngoại lai cám dỗ. Bị ma quỉ khống chế. Dân mới được Chúa cứu khỏi ách nô lệ ma quỉ, xác thịt, thế gian. Đi đến đâu Người xua trừ ma quỉ đến đó. Các tông đồ tiếp tục công việc của Chúa. Vì Chúa “ban cho các ông quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền”. Đi khắp nơi các ông rao giảng: “Nước Trời đã đến gần”.
Thật cao cả tình thương của Thiên Chúa. Thật lạ lùng sáng kiến của Thiên Chúa. Hôm nay Chúa cũng mời gọi tôi hãy giúp Chúa mở rộng Nước Thiên Chúa. Hãy xua trừ thần ô uế. Và chữa lành mọi bệnh tật. Vì thế giới hôm nay còn nhiều thần dữ thống trị. Và có rất nhiều chứng bệnh đo thần dữ và thế gian gây ra.
St 44,18-21.23b-29; 45,1-5; Hs 11,1.3-4.5c.8c-9; Mt 10,6-15
Thiên Chúa có trái tim dễ rung động. Đó là điều Hô-sê khám phá. Người yêu Ít-ra-en bằng tình yêu dịu dàng, tha thiết và trìu mến. “Khi Ít-ra-en còn non trẻ, Ta đã yêu nó…Ta đã tập đi cho Ép-ra-im, đã đỡ cánh tay nó…Ta xử với chúng như người nựng trẻ thơ, nâng lên áp vào má”. Tuy Ép-ra-im từ chối, nhưng Chúa không thể không yêu: “Hỡi Ép-ra-im, Ta từ chối ngươi sao nổi! Hỡi Ít-ra-en, Ta trao nộp ngươi sao đành! Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi”. Thật là một trái tim yêu thương tha thiết. Không thể từ bỏ dù bị phản bội (năm chẵn).
Giu-se là người của Chúa. Ông hiểu chương trình của Chúa. Nên ông cũng mang trái tim của Chúa. Vì thế, tuy bị anh em ghen ghét bán sang Ai-cập nhưng ông không hề oán hận. Trái lại khi gặp anh em, ông xúc động không cầm được nước mắt. Tha thứ hết mọi tội lỗi của anh em. An ủi anh em vì đây là kế hoạch của Chúa. Và chủ động làm hoà, để anh em sống trong tình huynh đệ chan hoà: “Ông Giu-se không thể cầm lòng trước mặt tất cả những người đứng bên ông…Ông oà lên khóc…nói với anh em: ‘Tôi là Giu-se, đứa em mà các anh đã bán sang Ai-cập. Nhưng bây giờ, các anh đừng buồn phiền, đừng hối hận vì đã bán tôi sang đây: chính là để duy trì sự sống mà Theien Chúa đã gửi tôi đi trước anh em”. Thật là một trái tim quảng đại, yêu thương, tha thứ (năm lẻ).
Chúa Giê-su mong ước người môn đệ của Chúa cũng có trái tim của Chúa. Một trái tim tràn đầy yêu thương. Đi cứu vớt những con chiên lạc: “Anh em hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en”. Một trái tim nhân hậu thương xót. Cúi xuống những lầm than khốn khổ của con người. Để chữa lành. Để giải phóng. Để vỗ về: “Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết trỗi dậy, cho người mắc bệnh phong được sạch, và khử trừ ma quỷ”. Một trái tim yêu thương vô vị lợi không đòi đền đáp: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy”. Một trái tim trong sạch, không vướng mùi tiền bạc vật chất: “Đừng kiếm vàng bạc hay tiền đồng để giắt lưng. Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi giày dép hay cầm gậy”. Người môn đệ đi rao giảng Nước Trời. Không cậy dựa và càng không tìm kiếm hay bám víu vào những giá trị trần gian. Hành trang duy nhất chỉ mang theo trái tim của Chúa. Đi đến đâu đem bình an đến đấy: “Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy”.
Chỉ cần có trái tim của Chúa người môn đệ giới thiệu Nước Thiên Chúa đã đến. Vì khi mang trái tim của Chúa các ngài đã ở thiên đàng rồi.
Con cái Thiên Chúa phải làm chứng cho Người nơi trần gian. Đó là một nhiệm vụ khó khăn. Vì con cái Thiên Chúa hiền lành và yếu ớt như chiên con. Và thế gian hung dữ và mạnh mẽ như sói rừng. Sói sẽ tấn công. Thế gian sẽ bắt bớ. Nhưng Chúa Giê-su dạy ta đừng sợ. Cứ trông cậy nơi Chúa. Rồi Chúa sẽ làm việc. Khi bị nộp ra trước toà, bị hạch hỏi cũng đừng sợ. “Vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì: “thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em”. Hãy luôn trung tín với Chúa. Dù có bị chính những người thân ghét bỏ, hành hạ, Chúa vẫn luôn bên ta. “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát”.
Lời Chúa hôm nay hoàn toàn ứng nghiệm vào cuộc đời tổ phụ Giu-se. Ông là chiên con sống giữa sói rừng. Ông đã bị anh em thù ghét, bán cho người Ai-cập. Người Ai-cập đã hành hạ ông. Giam tù ông. Nhưng Thánh Thần soi sáng cho ông nói lời chân lý. Nên cuối cùng ông được giải oan. Trở thành tể tướng lẫy lừng. Ông đã bền chí đến cùng. Luôn trung thành với Chúa. Trông cậy vào Chúa cả trong những phút đen tối ngặt nghèo nhất. Nên ông đã thành đạt. Không những cứu được bản thân ông còn cứu được cả gia đình. Và cứu được cả dân nước Ai-cập khỏi nạn đói. Khi gặp ông, Gia-cóp vui mừng nói: “Phen này, cha chết cũng được, sau khi đã thấy mặt con, và thấy con còn sống” (năm lẻ).
Hô-sê khuyên nhủ dân Chúa, dù hiểm nguy cũng cứ tin cậy Chúa. Đừng cậy dựa vào những thế lực phàm trần, hay những tượng gỗ vô tri. Đừng “cầu cứu với Át-sua, sẽ không cậy nhờ vào chiến mã, cũng chẳng gọi là thần những sản phẩm tay chúng con làm ra”. Hãy cậy trông vào Chúa. Vì Chúa là là tình thương yêu. “Vì chỉ ở nơi Ngài kẻ mồ côi mới tìm được lòng thương cảm. Ta sẽ chữa chúng khỏi tội bất trung, sẽ yêu thương chúng hết tình”. Vì Chúa sẽ cho dân Chúa được phục hồi và phát triển. “Họ sẽ đầm chồi nẩy lộc, sum suê tựa ô-liu tươi tốt, toả hương thơm ngát như rừng Li-băng. Chúng sẽ trở về cư ngụ dưới bóng Ta, sẽ làm cho lúa miến hồi sinh nơi đồng ruộng, tựa vườn nho, chúng sẽ sinh sôi nẩy nở, danh tiếng lẫy lừng như rượ Li-băng”. Và nhất là cuối cùng Chúa sẽ thực thi công lý: “người công chính sẽ hiên ngang tiế bước, còn kẻ gian ác sẽ phải té nhào” (năm chẵn).
Dù yếu ớt, dù hiền lành, ta hãy mạnh dạn làm chứng cho Chúa. Rồi Chúa sẽ can thiệp. Và công lý được tỏ hiện. Đó chính là niềm hi vọng của ta.
Trong vũ trụ con người rất bé nhỏ. Chỉ như một hạt bụi. Và luôn có những thế lực khiến con người sợ hãi.Vì có thể nghiền nát con người. Nhưng Chúa Giê-su dạy ta khôn ngoan phân định. Nên biết sợ và không biết sợ.
Đừng sợ những thế lực đời này. Vì họ chỉ có thể huỷ hoại được thân xác. Nhưng không huỷ hoại được linh hồn. Họ chỉ chiếm đoạt đời này của ta. Nhưng không thể chiếm đoạt đời sau. Quyền lực của họ mau qua. Chính họ cũng tàn lụi theo quy luật tự nhiên. Thế lực trần gian chính là một phép thử con người. Thử óc phân định. Thử thái độ chọn lựa. Thử sự trung tín. Thử mức độ siêu thoát. Để xem ta chọn lựa trần gian hay Thiên Chúa.
Chúa dạy ta hãy biết sợ Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa làm chủ cả đời này lẫn đời sau. Vì Thiên Chúa có thể huỷ hoại cả thân xác lẫn linh hồn. Vì Thiên Chúa là vị thẩm phán tối cao. Sẽ xét xử cả vũ trụ lẫn con người.
I-sa-i-a đã được chứng kiến vinh quang Thiên Chúa. Vinh quang bao trùm cả vũ trụ. Cả trời đất tràn ngập vinh quang Thiên Chúa. Thiên Chúa thống trị cả trời đất muôn loài. Nếu có phải sợ ta phải sợ Thiên Chúa (năm chẵn).
Tổ phụ Giu-se đã hiểu được điều đó. Trong khi anh em ngài chưa hiểu. Nên cư xử theo thói đời. Khi có quyền thế thì ức hiếp người khác. Khi đối diện với quyền lực thì sợ hãi khiếp nhược. Nhưng tổ phụ Giu-se đã cư xử khác hẳn. Có lẽ trước kia ngài cũng từng sợ người đời. Nhưng từ khi cảm nghiệm được quyền năng Thiên Chúa trong đời mình ngài thay đổi thái độ. Ngài kính sợ Thiên Chúa. Vì biết Thiên Chúa làm chủ vận mệnh. Ngài cảm nghiệm được quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Không những cứu ngài khỏi bàn tay người phàm. Mà còn hạ nhục những kẻ có sức mạnh. Nâng cao ngài là một người yếu ớt bé nhỏ. Chính vì thế mà ngài khoan dung với anh em. Không xét xử anh em. Để Thiên Chúa xét xử. Không dám dùng quyền của mình trên anh em. Vì biết trên mình còn có quyền năng tuyệt đối là Thiên Chúa. Và chính quyền năng của mình cũng là do Thiên Chúa ban tặng (năm lẻ).
Xin cho con hiểu được chân lý này như I-sa-i-a. Như tổ phụ Giu-se. Để con không sợ những thế lực đời này. Không sợ mất mát đời này. Nhưng luôn kính sợ Thiên Chúa. Và biết kính trọng anh em.
Chúa Giêsu đến khiến người ta phải dứt khoát chọn lựa. Hoặc Chúa hoặc ma quỉ. Hoặc trần gian hoặc Nước Trời. Chọn lựa đó dẫn đến hai con đường khác nhau.
Trần gian tìm thu tích vun quén cho mình. Vì thế nên áp bức bóc lột người khác. Mạnh được yếu thua. Trần gian được thể hiện rõ nét trong toan tính của Pha-ra-ô. Để bảo vệ quyền lực và để làm giầu cho mình, Pha-ra-ô ra lệnh giết con trai của người Do thái. Và bắt người Do thái làm nô lệ (năm lẻ).
Trần gian trở thành tinh vi hơn khi ngụy trang dưới lớp vỏ đạo đức. Người Do thái một mặt thờ kính Chúa rất sốt sắng. Dâng rất nhiều lễ vật. Nhưng mặt khác lại không ngừng phạm tội ác, áp bức bóc lột đồng loại. Chúa dùng I-sa-i-a cảnh báo họ đó là lối sống đạo không đẹp lòng Chúa (năm chẵn).
Trái lại người đi theo Chúa phải luôn từ bỏ tất cả những gì ngăn cản ta đến với Chúa. Dù đó là cha mẹ, anh em, con cái. Thậm chí phải bỏ chính mình, bỏ cả mạng sống mình nữa.
Nhưng kết quả thật khác xa. Kết quả trước mắt là bình an. Người chỉ lo chiếm đoạt và ức hiếp bóc lột sẽ tạo ra chiến tranh, bất bình. Bản thân người chỉ lo tính toán để hại người cũng không được bình an. Những nhà độc tài luôn lo sợ và nghi ngờ. Dục vọng làm cho tâm hồn con người không bao giờ an nghỉ.
Trái lại những người theo Chúa, từ bỏ mình lại luôn được bình an. Một niềm bình an sâu thảm vì đã thoát được tất cả những dục vọng, thèm muốn, chiếm đoạt. Và nhất là vì đã được chính Chúa làm phần thưởng.
Trong tầm nhìn cánh chung, những người chỉ lo thu tích, chiếm đoạt bằng áp bức bóc lột người khác sẽ mất tất cả khi bước vào đời sau. Tệ hơn thế, họ còn bị xét xử, kết án và bị trừng phạt.
Trái lại những người đã biết cho đi, quên mình sẽ được phần thưởng trọng hậu. Ngay cả những cử chỉ bác ái quên mình bé nhỏ như cho một ly nước lã thôi, Chúa cũng ghi nhớ và thưởng công xứng đáng. Khi sống quên mình và biết nghĩ đến người khác, người môn đệ kiến tạo hòa bình trên thế giới. Đó là nền hòa bình chân thực phát xuất từ tâm hồn. Đó là bình an của Chúa.
Xh 2, 1-15a; Is 7, 1-9; Mt 11, 20-24 Tấm lòng chai đá vô tâm trước tiếng gọi thiêng liêng. Nghe mà không thấy vì ham mê trần thế, chỉ nghe được tiếng gọi trần tục. Tấm lòng chai đá vô ơn trước những ân huệ thiêng liêng vì mải mê tìm lợi lộc vật chất. Tấm lòng chai đá vô cảm trước sứ điệp sám hối vì không bao giờ chìm vào đáy sâu tâm hồn để biết vũng lầy tội lỗi xấu xa của mình, nên không ghê tởm mà tìm đường ăn năn trở về.
Ca-phác-na-um và Cô-rô-za-in là những thị trấn lớn, trung tâm thương mại sầm uất. Những tàn tích của hội đường còn lại cho thấy hai thị trấn này thật giầu có, vào thế kỷ thứ 1 mà đã có những công trình kiến trúc sang trọng và tinh xảo. Có lẽ vì giầu có nên họ mải mê với tiền bạc. Tâm hồn họ không tìm thấy lối thoát trong vòng xoay vừa khắc nghiệt, vừa mê đắm của tiền bạc. Chúa Giê-su đã lấy đó làm trung tâm rao giảng Tin mừng. Chúa đã làm ở đó biết bao phép lạ. Nhưng cư dân ở đó vẫn dửng dưng. Nên Chúa đã phải lên tiếng cảnh báo họ sẽ phải chịu cuộc xét xử nghiêm khắc hơn những nơi khác.
Cuộc đời Mô-sê là dấu chỉ. Công chúa Pha-ra-ô có tấm lòng mở rộng, nhậy cảm và quảng đại, nên đã đón nhận Mô-sê dù ông chỉ là một đứa trẻ của dân tộc nô lệ. Không những đón nhận, công chúa còn đưa ông vào cung điện để nuôi nấng dậy dỗ như một hoàng tử. Trong khi đó hai người đồng hương chỉ vì tự ái cá nhân đã chối từ ông. Có lẽ câu chuyện lạ lùng của Mô-sê đã được dân Do thái truyền tụng. Thế mà họ chẳng quan tâm đến ông, không chấp nhận lời khuyên giải có tình có lý của ông. Mà lại còn sinh lòng thù hận muốn làm hại ông. Thói tự ái kiêu căng cũng khiến tâm hồn họ ra vô cảm trước các giá trị thiêng liêng và cả trước vận mệnh dân tộc đang bị nô lệ nữa. Họ xứng đáng bị xét xử nghiêm ngặt hơn công chúa Pha-ra-ô (năm lẻ).
A-khat nhờ biết lắng nghe tiếng Chúa, trông cậy vào Chúa nên dù yếu kém, chẳng sợ gì liên quân Ít-ra-en và A-ram. Hai vua cậy vào sức mình sẽ bị Chúa trừng phạt. A-khat biết cậy trông vào Chúa sẽ được Chúa cứu (năm chẵn).
Xin cất khỏi mình con quả tim chai đá, ban cho con quả tim bằng thịt để con nhậy cảm trước Lời Chúa, trước các giá trị Tin Mừng và để con quảng đại thực hành Lời Chúa.
Xh 3,1-6.9-12; Is 10,5-7.13-16; Mt 11,25-27 “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất”. Chúa Giê-su dùng lời kinh long trọng này để cho ta hiểu biết một chân lý: Thiên Chúa là chủ tất cả. Mọi sự ta có đều là của Người ban cho. Chính vì thế tâm tình ta phải có là tâm tình khiêm nhường bé nhỏ. Đó chính là tâm tình của công dân Nước Trời. Những thái độ tự cao tự đại hoàn toàn trái ngược, không thích hợp, và sẽ không được đón nhận vào Nước Trời.
Những ai tự hào mình khôn ngoan thông thái hãy cẩn thận. Ngay trí khôn họ không thể tự mình có được. Trí khôn là do Thiên Chúa ban cho. Vì thế có gì mà đáng tự hào. Và nếu trí khôn không đưa đến Nước Trời thì cũng vô ích. Hiểu biết về Nước Trời là sự khôn ngoan vượt trên mọi sự khôn ngoan. Nhưng mầu nhiệm Nước Trời chỉ có Thiên Chúa nắm giữ. Và Người muốn mặc khải cho ai tùy ý. Và Người lại mặc khải cho những kẻ bé mọn. Vì thế bé mọn chính là thái độ khôn ngoan thông thái nhất.
Hai bài đọc Cựu Ước minh họa chân lý này. Át-sua hùng mạnh chính là do Thiên Chúa ban. Để làm cây roi của Chúa mà trừng phạt những sai lỗi của các nước nhỏ. Nhưng Át-sua không ý thức điều đó. Tưởng là cường thịnh do sức riêng. Nên Thiên Chúa sẽ hạ bệ nó xuống, tước bỏ hết sức mạnh mà nó tự hào. Chúa sẽ hạch tội nó: “Cái rìu lại tự cao với kẻ cầm rìu mà chặt hay cái cưa tự đại với người kéo cưa sao? Như thể ngọn roi kéo được kẻ giơ nó lên, cây gậy nhấc được kẻ không phải là gỗ vậy” (năm chẵn).
Mô-sê dù đã được học hết mọi sự khôn ngoan trong cung điện vua Ai cập. Dù đã kiên trì thanh luyện 40 năm trong sa mạc. Vẫn phải có thái độ khiêm nhường. Cởi bỏ dép. Khiêm tốn trước mặt Thiên Chúa trong bụi gai cháy đỏ. Chính với thái độ khiêm nhường, dễ dậy đó nói lên tâm tình khiêm nhường của Mô-sê. Tâm tình khiêm nhường nói lên lòng khao khát đón nhận mầu nhiệm. Nhờ đó Mô-sê đã được Thiên Chúa bày tỏ mầu nhiệm. Cho ông biết tên Thiên Chúa. Cho ông biết chương trình của Người. Và cho ông được tham dự vào chương trình đó. Và vì ông khiêm nhường đón nhận, ông trở thành người lãnh đạo thiết lập Dân Thiên Chúa, ban lề luật cho Dân Thiên Chúa (năm lẻ).
Lạy Chúa con chỉ là hư vô. Mọi sự con có đều là của Chúa. Mọi sự con là cũng là bởi Chúa. Xin dạy con biết khiêm nhường để xứng đáng được Chúa dậy bảo.
Đời sống con người thật vất vả vì phải mang nhiều gánh nặng. Có thể là gánh nặng bản thân. Gánh nặng trách nhiệm. Và nhất là gánh nặng nô lệ.
Gánh thì nặng. Một cổ hai ba ách tròng vào. Người dân chỉ mong được hạnh phúc. Nhưng I-sa-i-a cho biết họ chỉ gặp đau khổ. Mà những đau khổ dường như vô nghĩa: “Như người đàn bà mang thai, lúc gần sinh nở, phải quằn quại, kêu la vì đau đớn, … Chúng con đã mang thai, đã quằn quại, nhưng chỉ sinh ra gió”. Thật là vô vọng (năm chẵn).
Gánh nặng trở nên tủi nhục đau thương khi phải sống dưới ách nô lệ. Như dân Do thái bên Ai cập. Tuy nhiên Thiên Chúa là tình yêu thương. Quan tâm đến thân phận con người. Hiểu thấu gánh nặng của con người. “Ta thật sự quan tâm đến các ngươi và cách người ta đối xử với các ngươi bên Ai cập”. Nên Chúa quyết định sai Mô-sê đến gặp Pha-ra-ô để giải phóng dân Chúa. Để đưa “lên miền đất tràn trề sữa và mật” (năm lẻ).
Miền đất chảy sữa và mật thực ra là chính Chúa. Vì chỉ nơi Chúa ta được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Bao lâu chưa đến với Chúa ta còn đuổi theo thế gian. Đuổi theo thế gian thì còn vất vả long đong. Ham mê quyến rũ. Nhưng tất cả chỉ là gánh nặng. Càng đuổi theo dục vọng càng thấy mệt mỏi chán chường. Như thánh Âu-tinh từng trải nghiệm. Chúa mời gọi mọi người đến với Chúa. “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”. Đến với Chúa ta được bình an, thư thái, hạnh phúc. “Hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng”. Chỉ Thiên Chúa mới thoả mãn mọi khao khát sâu xa của con người. Vì Chúa là nguồn sự sống. Nguồn hạnh phúc. Nguồn bình an. Nơi Người ta nếm cảm được hương vị dịu ngọt không bút nào tả xiết.
Hãy mau đến theo lời mời của Chúa. Chỉ nơi Chúa ta mới được giải thoát khỏi ách nô lệ. Chỉ nơi Chúa ta được gánh yêu thương nhẹ nhàng, êm ái và tràn đầy an ủi.
Cuộc sống thế giới hôm nay đảo điên. Bậc thang giá trị đảo lộn. Con người u u mê mê chẳng còn phân biệt được thật giả, đúng sai, ác thiện. Người ta không còn phân định được đâu là giá trị tối thượng. Chúa Giê-su phân định rạch ròi.. Theo Chúa Giê-su Thiên Chúa yêu thương con người. Và vì thế con người cần phải xác đinh 3 chân lý.
Giá trị tối thượng là sự sống. Sự sống là món quà quí giá nhất Chúa ban cho con người. Có sự sống là có tất cả. Mất sự sống là mất tất cả. Vì thế những gì vi phạm sự sống cần được tháo bỏ. Những người hủy diệt sự sống phải bị trừng phạt. Vì thế Chúa đề cao việc cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống. Vì thế Chúa trừng phạt người Ai cập vì hủy hoại sự sống của người Ít-ra-en (năm lẻ). Vì thế Chúa bênh vực các tông đồ tuốt lúa ngày sa-bát. Sự sống là giá trị tối thượng.
Lề luật tối thượng là lòng nhân hậu. Để bảo vệ con người cần phải có luật lệ. Để xã hội tiến triển trật tự cần phải có luật lệ. Nhưng nếu những luật lệ đó trở thành bất nhân, không bảo vệ con người, không đem lại hạnh phúc cho con người, cần phải phá bỏ. Thờ phượng Chúa là điều phải làm. Nhưng nếu vì lề luật mà bất nhân thì Chúa không ưng nhận. Chúa khẳng định: “Ta muốn lòng nhân chứ không cần hi lễ”. Lòng nhân hậu là lề luật tối thượng.
Quyền tối thượng là ở nơi Thiên Chúa. Có sự sống. Có luật lệ để bảo vệ sự sống. Nhưng Thiên Chúa mới là chủ của cả sự sống lẫn luật lệ. Vì thế Thiên Chúa có quyền trên sự sống và luật lệ. Mà Thiên Chúa lại là Đấng Giầu Lòng Thương Xót. Vì lòng nhân hậu Người sẵn sàng phá vỡ luật lệ cho vua Khít-ki-gia được sống thêm 15 năm khi thấy những giọt nước mắt và nghe tiếng khóc của vua (năm chẵn). Người ra tay trừng phạt Pha-ra-ô và người Ai cập vì đã thấy Ít-ra-en bị bóc lột và nghe thấy tiếng họ rên siết than van. Người bênh vực các tông đồ tuốt lúa ăn vì Người thương các ông đói bụng. Và Người làm chủ ngày sa-bát.
Xin cho con nhận biết quyền tối thượng của Thiên Chúa trong lịch sử, trong thế giới và trong đời con. Để con giữ luật tối thượng theo lòng nhân hậu của Người. Biết kính trọng giá trị tối thượng là sự sống Chúa ban tặng.
Từ khi có xã hội loài người chưa có ngày nào không có chiến tranh. Hòa bình luôn là một khao khát không bao giờ đạt tới. Xây dựng hòa bình đường như là một công việc vô ích làm nản lòng những tâm hồn thiện chí nhất. Tại sao con người mơ ước hòa bình nhưng không bao giờ đạt tới hòa bình? Thưa vì con người chưa đạt tới công lý. Con người cư xử với nhau theo thú tính. Kẻ mạnh hiếp kẻ yếu. Cá lớn nuốt cá bé. Ai cũng muốn chiếm đoạt của cải thật nhiều. Ai cũng muốn thống trị người khác. Thú tính được tự tung tự tác khi ta có sức mạnh.
Người Ai cập có sức mạnh liền bắt người Do thái làm nô lệ cho mình. Hơn nửa triệu người Do thái làm nô lệ đã đem lại biết bao lợi ích kinh tế cho người Ai cập. Nghe thấy tiếng rên siết của người Do thái bị áp bức bóc lột, Chúa đã ra tay giải thoát họ. Phải có sức mạnh vô biên của Chúa, người Ai cập mới chịu để người Do thái ra đi (năm lẻ).
Thời Mi-ka cũng xảy ra như vậy. Những người có quyền bính trong tay “muốn cánh đồng nào là chúng cướp lấy, muốn ngôi nhà nào là chúng chiếm đoạt. chúng bắt giữ cả chủ lẫn nhà, cả người lẫn gia nghiệp”. Và tiên tri cho biết Chúa sẽ ra tay để đem lại công lý (năm chẵn).
Thời Chúa Giê-su xuất hiện là thời Chúa thực hiện lời hứa. Là Thiên Chúa quyền năng vô biên làm nên những phép lạ cả thể. Nhưng Chúa không dùng quyền năng để phục vụ quyền lợi cá nhân. Trái lại Người dùng quyền năng để phục vụ con người. Tất cả những ai đau yếu bệnh tật đều được Người chữa lành. Tất cả những người tội lỗi đều được tha thứ. Tất cả những người bị hất hủi đều được yêu thương.
Chúa không dùng quyền năng để áp bức bóc lột. Chúa không giết chết, nhưng cứu sống. Chúa không đè bẹp, nhưng nâng dậy con người. Chúa không dìm xuống, nhưng nâng những người bé nhỏ lên. Như Isaia đã tiên báo: “Cây lau bị giập, Ngươi không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi”.
Như thế Người đưa công lý đến toàn thắng không bằng quyền uy thống trị, sức mạnh đàn áp. Nhưng bằng cúi xuống yêu thương phục vụ. Phục hồi những gì tàn tạ. Chữa lành những ai đau yếu. Và hồi sinh những người thoi thóp. Đó chính là niềm hi vọng lớn lao cho muôn dân. Vì công lý sẽ tràn lan khắp địa cầu.
Người Do thái đòi xem dấu lạ. Óc hiếu kỳ thích những điều mới lạ thì ai cũng có. Nhưng trong vận mệnh thiêng liêng những dấu lạ có ích gì nếu chỉ để xem cho vui. Thiên Chúa đã làm biết bao kỳ công. Nhưng không phải để biểu diễn cho người ta vui mắt. Những điềm kỳ dấu lạ Chúa thực hiện chỉ vì đời sống, đặc biệt đời sống thiêng liêng của con người mà thôi. Vì thế dấu lạ lớn lao quan trọng nhất phải là dấu lạ đức tin.
Chúa chỉ làm dấu lạ khi ta có đức tin. Dân Do thái ở trong một hoàn cảnh nguy nan như mành chỉ treo chuông. Họ lấy gì đối địch với quân binh Ai cập hùng mạnh. Nhưng vì tin vào Chúa họ chỉ ngồi im. Và Chúa đã làm điều kỳ diệu nhất. Cho người Do thái vượt qua Biển đỏ khô chân (năm lẻ).
Gio-na trở thành dấu lạ vì dân Ni-ni-vê có đức tin. Nếu Ni-ni-vê không có đức tin, Gio-na không thể trở thành dấu lạ. Nói cách khác việc Gio-na nằm trong bụng cá cũng trở thành vô ích vì chẳng đem đến ơn cứu độ.
Đức tin phải dẫn đến việc làm. Tin không phải ngồi chờ sung rụng. Nhưng dấn thân vào việc làm. Mô-sê phải giơ gậy trên biển. Con cái Ít-ra-en phải bước xuống lòng biển. Ni-ni-vê phải từ bỏ nếp sống tội lỗi. Ăn chay đền tội. Nữ hoàng Se-ba phải từ bỏ quê hương. Giong buồm vượt biển xa xôi. Chấp nhận sóng gió.
Và sau cùng đức tin phải dẫn đến thay đổi đời sống. Ít-ra-en vượt qua Biển Đỏ rồi ký kết giao ước tuân giữ Lời Chúa. Mi-kha nói với dân nếu tin Chúa phải thay đổi đời sống. Dâng tiến bò bê không đủ nữa. Phải thực thi công bằng. Quý yêu nhân nghĩa. Và khiêm nhường bước đi với Thiên Chúa (năm chẵn). Ni-ni-vê thay đổi nếp sống. Tiết độ đức hạnh. Công bình bác ái. Nữ hoàng Sê-ba thay đổi nếp sống. Áp dụng những gì mắt thấy tai nghe tại Giu-đa trong xứ sở mình.
Chúa Giêsu là dấu lạ lớn lao nhất khi nằm trong mồ ba ngày. Dấu lạ đó thay đổi vận mệnh đời tôi. Đem ơn cứu độ cho tôi. Đem đến cho tôi tình yêu và hi vọng. Nhưng Chúa tử nạn và phục sinh chỉ thực sự trở thành dấu lạ khi tôi tin tưởng. Niềm tin phải có hành động. Hành động đầu tiên là hoán cải. Chừa bỏ tội lỗi xưa cũ. Và hành động phải dẫn đến việc cùng chết với Chúa để được cùng sống với Chúa. Chết cho tội lỗi. Sống cho Thiên Chúa. Chết cho xác thịt. Sống theo Thân Khí.
Tình yêu thương của Chúa thật lạ lùng cao sâu khôn lường. Vì yêu thương Chúa tuyển chọn dân Israel. Một nhóm người bé nhỏ, một đoàn người nô lệ, một đám đông ô hợp, nhưng dưới sự dẫn đưa của Chúa, đã trở thành một dân tộc hùng mạnh chiến thắng Pha-ra-ô.
Tình yêu thương dịu dàng qua việc chăm sóc họ. Ít-ra-en là dân riêng, là đoàn chiên được Chúa dẫn đưa. Tình yêu thương mãnh liệt qua việc tha thứ những phản bội bất trung . Mỗi khi gặp khốn khổ, họ ăn năn sám hối kêu cầu: “ Lạy Chúa, ... Xin đừng giữ mãi cơn giận. Xin lại thương xót chúng con”, thì Chúa lại tha thứ và ban ơn nâng đỡ.
Hôm nay, với lời: “Phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh em, chị em tôi, là mẹ tôi”, Chúa muốn nối lại tình yêu thương với một Dân Mới trong một liên hệ mới.
Đó là mối liên hệ cao hơn và sâu hơn. Không còn là tuyển chọn một dân, hôm nay Chúa nâng liên hệ lên một tầm cao mới: Cho ta được trở thành gia đình của Chúa, trở thành mẹ và anh em của Chúa. Như Đức Mẹ đã lắng nghe Lời Chúa, đã cưu mang Lời Chúa trước khi cưu mang Ngôi Lời, nhờ vâng lời Chúa mà trở thành Mẹ Thiên Chúa, thì tất cả chúng ta, nếu biết lắng nghe và thực hành thánh ý Chúa, cũng sẽ trở thành Mẹ Thiên Chúa. Như Chúa Giêsu đã vâng lời Đức Chúa Cha nên được Đức Chúa Cha khen tặng là Con Yêu Dấu, bất cứ ai vâng lời Đức Chúa Cha cũng được trở nên Con Yêu Dấu của Đức Chúa Cha, trở thành anh em chị em của Chúa Giêsu.
Đó là mối liên hệ rộng lớn hơn. Cuộc tuyển chọn không còn giới hạn vào dân Israel nữa, nhưng mở rộng trên khắp toàn cầu. Không còn là một dòng dõi theo chủng tộc, huyết thống, nhưng là một dòng dõi thiêng liêng. Bất cứ ai trên thế giới này thi hành thánh ý Thiên Chúa đều thuộc về gia đình Thiên Chúa. Vì thế Dân Mới, gia đình Thiên Chúa sẽ mở rộng trên toàn thế giới, qui tụ đủ mọi người thuộc mọi chủng tộc, ngôn ngữ khác nhau.
Thật lạ lùng tình thương của Thiên Chúa. Thật cao sâu ý định cứu độ của Thiên Chúa. Xin cho con biết thi hành thánh ý Chúa để được trở thành gia đình của Chúa và được góp phần vào công cuộc cứu độ tốt đẹp này.
Thiên Chúa yêu thương. Yêu thương nên phải ngỏ lời. Từ tạo thiên lập địa đến tận thế Thiên Chúa không ngừng nói với nhân loại. Bằng những hình thức khác nhau.
Lời quyền năng. Tạo dựng vũ trụ vì yêu thương. Đưa con người từ hư vô trở thành hiện hữu. Ngoài Thiên Chúa không ai làm được. Đó là yêu thương sáng tạo.
Lời giải thoát. Lời Chúa hướng dẫn Mô-sê lập nên kỳ tích chiến thắng quân binh Ai cập, lập nên Dân Chúa. Đó là yêu thương che chở.
Lời chăm sóc. Chúa chăm sóc Dân Chúa từng miếng ăn ngụm uống. Hướng dẫn lấy nước từ tảng đá, thu lượm man-na bởi trời. Đó là yêu thương nuôi dưỡng (năm lẻ).
Lời kết hợp. Yêu thương ngày càng mãnh liệt. Thiên Chúa đặt lời vào miệng Giê-rê-mi-a để cùng vị tiên tri rao giảng. Đó là yêu thương trao ban (năm chẵn).
Lời ân sủng. Đến thời sau hết, Thiên Chúa ban chính Con Một. Là Ngôi Lời nhập thể. Trở nên một với loài người. Chúa Giê-su chính là người đi gieo hạt giống Lời Chúa. Suốt đời lặn lội gieo vãi. Yêu thương của Chúa chờ đợi con người đáp trả.
Tự do của con người thật khủng khiếp. Vì thế Lời Chúa gặp nhiều thất bại. Có những tâm hồn thờ ơ chai lì như con đường bị người ta dẫm đạp lên. Lời ân sủng như nước đổ lá khoai không thấm xuống được. Có những tâm hồn cứng cỏi lạnh lùng như sỏi đá. Lời ân sủng đành héo khô. Có những tâm hồn tràn đầy ham hố dục vọng như những bụi gai xù xì. Ân sủng đành bị bóp nghẹt không trổ sinh hoa trái. Nhưng Thiên Chúa kiên trì quyết đi đến thành công.
Lời yêu thương là lời tự hiến. Chính Chúa Giê-su, người đi gieo Lời Chúa giờ đây trở thành hạt lúa chịu mục nát đi. Mục nát đi để chìm xuống con đường. Mục nát đi để làm mềm đá sỏi. Mục nát đi để tiêu diệt gai góc. Người trở thành hạt giống mục nát đi cho cây đời chúng ta mọc lên lớn mạnh. Người chịu tàn lụi đi để ta trổ sinh hoa trái trăm ngàn. Đó là tình yêu tuyệt đối.
Lời Chúa yêu thương tha thiết muốn ngỏ với ta. Xin cho ta trở thành thửa đất tốt đón nhận. Xin cho ta sẵn sàng đem Lời Chúa đi gieo khắp nơi.
Xh 19, 1-2.9-11.16-20b; Gr 2, 1-3.7-8.12-13; Mt 13, 10-17
Nước Trời thật lạ lùng. Rất gần mà cũng rất xa. Cũng như dụ ngôn. Rất dễ hiểu và cũng rất khó hiểu. Đó không phải là vấn đề của trí khôn nhưng là vấn đề của trái tim. Trái tim nhậy bén sẽ có ánh mắt nhậy bén và đôi tai nhậy bén để nhìn và thấy, nghe và hiểu. Nhìn bên ngoài thấy cả bên trong. Nghe âm thanh hiểu cả ý nghĩa. Trái tim chai đá không có mắt và không có tai. Nên không thấy và không nghe. Có thấy có nghe cũng không hiểu.
Ai được thấy và được nghe nhiều như dân Do Thái. Khi đoàn dân đến núi Si-nai, Chúa đã ban phép cho họ được thấy Chúa hiển hiện trong khung cảnh linh thiêng và uy nghiêm: “Cả núi Si-nai nghi ngút khói, vì Đức Chúa ngự trong đám lửa mà xuống” (năm lẻ). Thế nhưng lòng họ chai đá nên đã mau chóng phản bội, và Chúa đã phải lên án họ: “Ta đã đưa các ngươi vào miền đất xanh tươi ... Nhưng khi vào rồi, các ngươi đã làm nhơ nhớp đất của Ta”. Họ đã nhậy bén với của cải dục vọng, nên đã chai đá với Lời Chúa và đời sống tâm linh. Họ đã “bỏ Chúa là mạch nước trường sinh để làm những hồ nứt rạn, không giữ được nước”. Đuổi hình bắt bóng nên họ mất tất cả (năm chẵn).
Đúng như lời Chúa dạy: “Ai có sẽ cho thêm. Ai không có ngay cái họ có cũng sẽ bị lấy đi”. Những ai có trái tim nhậy bén càng nghe càng hiểu, càng thấy càng tin. Và càng say mê đi tìm Chúa. Lại càng được Chúa cho thấy nhiều hơn, phán dậy nhiều hơn. Vì thế họ càng thêm phong phú. Những ai chạy theo của cải danh vọng chức quyền thế gian sẽ có trái tim chai đá. Uể oải với đời sống tâm linh. Ngại ngùng đối diện với Chúa. Càng lười càng chán. Càng ngại càng xa. Và ma quỉ không dại gì mà không lấy hết những gì họ đang có. Như chim chóc tha hạt giống rơi bên vệ đường.
Lời Chúa là vô cùng quí giá. Từ ngàn xưa biết bao tổ phụ và tiên tri đã ao ước mà không được nghe. Giờ đây ta thật hạnh phúc vì được tiếp xúc với Lời Chúa. Tuy nhiên rất gần mà cũng rất xa. Rất dễ mà cũng rất khó. Đó là tùy trái tim ta hướng về đâu. Nếu ta hướng về thế gian trái tim sẽ chai đá. Ta sẽ chẳng thể nghe và hiểu Lời Chúa. Xin cho con một trái tim nhậy bén luôn khao khát Lời Chúa. Để Lời Chúa ở trong lòng, trong tim, trong cuộc đời con. Để con càng nghe càng hiểu. Càng nhìn càng thấy. Và càng tha thiết khao khát Chúa.
Lời Thiên Chúa là lời quyền năng. Nhưng là lời yêu thương. Yêu thương nên Lời Thiên Chúa luôn ban sự sống cho nhân loại. Từ tạo thiên lập địa, Lời Thiên Chúa sáng tạo nên muôn loài. Cho muôn loài từ hư vô sang hiện hữu. Đặc biệt là sự sống. “Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời. Một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú” (Tv 33,6). Thời Mô-sê vì sự sống của dân Chúa bị đe doạ, bị áp bức, bị tổn thương. Nên Chúa dùng lời Chúa mà giải phóng dân Người. Và trong sa mạc, tại núi Xi-nai Chúa ban Mười Lời, cũng gọi là Mười Điều Răn, để dân Chúa thực hành. Bao lâu dân Chúa thực hành lời Chúa dạy, họ được sống và bình an: “Những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời”. (năm lẻ).
Suốt dọc dài lịch sử, Chúa luôn gửi đến các tiên tri, để thúc giục dân tuân giữ Lời Chúa. Thoạt tiên Lời Chúa được ghi khắc trên hai bia đá, chứa đựng trong Hòm Bia. Nhưng điều Chúa mong muốn là Lời Chúa không chỉ được khắc trên bia đá, nhưng được ghi khắc trong thâm tâm mỗi người. “Người ta sẽ không còn nói đến Hòm Bia của Đức Chúa nữa, không còn lưu tâm, không nhớ tới, chẳng nuối tiếc, cũng chẳng làm lại nữa”. Bấy giờ Lề Luật được ghi khắc trong lòng. “Mọi dân tộc sẽ nhân danh Đức Chúa quy tụ tại Giê-ru-sa-lem; chúng sẽ không còn sống buông thả theo lòng dạ xấu xa ngoan cố của mình nữa”. Khi họ nhập tâm Lời Chúa và hết lòng tuân giữ thì đất nước sẽ phát triển: “Khi các ngươi tăng số và phát triển trong xứ” (năm chẵn).
Chúa liên tục gieo vãi Lời Chúa. Thời cuối cùng Chúa gieo chính Lời Chúa bằng xương bằng thịt. Là Ngôi Lời Thiên Chúa. Là Chúa Giê-su Ki-tô. Người là hạt giống gieo vào lòng đất. Chịu mục nát đi để sinh hoa quả dồi dào. Nhưng loài người thờ ơ với Lời Chúa. Nên Lời Chúa gặp phải đường đi, không bén rễm mọc lên được. Lời Chúa gặp phải đá sỏi cứng lòng cũng không phát triển được. Lời Chúa gặp phải bụi gai dục vọng ham mê đời này nên bị bóp nghẹt. Chỉ một số ít tâm hồn mở lòng đón nhận, lập tức Lời Chúa sinh hoa kết quả. Kết quả lớn nhất là đem lại cho ta sự sống đời đời.
Lời Chúa là yêu thương. Yêu thương nên ban cả Con Một. Để ta được sống. Nhưng ta phải thiết tha sống. Phải mở lòng đón nhận. Phải cày xới tâm hồn. Phải có trái tim mềm mại ngoan ngoãn. Phải diệt trừ ham hố dục vọng trần gian. Lời Chúa mới phát triển. Đem lại cho ta sự sống đời đời.
Tình yêu thương của Thiên Chúa thật lớn lao. Luôn có sáng kiến. Luôn đi bước trước. Và luôn trung tín. Chúa đã có sáng kiến và đi bước trước khi tuyển chọn Áp-ra-ham. Chúa vẫn trung tín khi giải thoát dân Ít-ra-en khỏi ách nô lệ Ai-cập. Chúa có sáng kiến đi bước trước khi ban Lề Luật cho dân. Giao ước ký kết trên núi Xi-nai là bằng chứng tình yêu. Cũng là để chính thức xác nhận Ít-ra-en là dân riêng của Chúa. Đó là một giao ước một chiều. Hoàn toàn có lợi cho dân Ít-ra-en. Thấy tất cả những việc Chúa làm, dân Ít-ra-en không ngần ngại ký kết và đoan hứa: “Tất cả những gì Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo” (năm lẻ).
Tuy nhiên dân Chúa luôn phản bội. Chúa vẫn trung tín. Lòng trung tín của Chúa đã biến thành lòng khoan dung. Luôn tha thứ. Luôn kiên nhẫn đợi chờ người dân hoán cải. Đó chính là ý nghĩa dụ ngôn “Lúa đồng và cỏ dại”. Lịch sử dân Do thái cũng là lịch sử mỗi người chúng ta. Chúng ta ký kết giao ước với Chúa. Nhưng Chúa luôn trung tín. Còn chúng ta luôn phản bội. Nhưng Chúa vẫn khoan dung, kiên nhẫn đợi chờ. Như ông chủ không nhổ ngay cỏ lùng. Sợ làm hư lúa: “Đừng, sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa”. Người khắc nghiệt thì bắt lầm hơn bỏ sót. Còn Chúa khoan dung thì bỏ sót hơn bắt lầm. Kiên nhẫn chờ đến mùa gặt. Bấy giờ mới phân biệt rạch ròi giữa cỏ và lúa. Chưa đến mùa thì còn hi vọng con người sẽ hoán cải. Chúa sẽ chờ cho đến ngày cùng tháng tận. Khi không còn có thời gian nữa mới thôi. Lòng Chúa khoan dung biết bao.
Vì thế Chúa luôn mời gọi ta sám hối ăn năn. Ăn ăn sám hối để sống với Chúa bằng tình yêu chân thật. Không phải chỉ giữ đạo bằng hình thức bề ngoài. Coi giao ước như một bùa hộ mệnh. Nhưng tâm hồn xa cách Chúa. Đừng tưởng ở trong Giáo hội cho có danh hiệu là đủ. Nhưng cần phải có đời sống thực sự tốt đẹp. Mới xứng đáng ở trong Nhà Chúa. “Nếu các ngươi thật sự cải thiện lối sống và hành động của các ngươi, nếu các ngươi thật sự đối xử công bằng với nhau, không ức hiếp ngoại kiều hay cô nhi quả phụ, nếu các ngươi không đổ máu người vô tội nơi đây, không đi theo các thần ngoại mà chuốc hoạ vào thân, thì Ta sẽ cho các ngươi lưu lại nơi này, trong phần đất Ta đã ban cho cha ông các ngươi đến muôn đời” (năm chẵn).
Lạy Chúa, nếu Chúa chấp tội, nào ai được cứu thoát. Xin ban ơn cho con biết ăn năn sám hối. Và xin thương thân phận yếu hèn của chúng con.
Thời xa xưa Chúa đã làm biết bao việc kỳ diệu. Đó là những việc lớn lao không gì so sánh nổi. Chúa đã giải phóng dân Ít-ra-en khỏi ách nô lệ người Ai-cập. Những điềm thiêng dấu lạ, đặc biệt việc dân Ít-ra-en vượt qua Biển Đỏ, đã trở thành những kỳ tích lẫy lừng, khiến người Ai-cập run sợ, và các dân chung quanh kinh hoàng. Trên ngọn Xi-nai, Chúa bày tỏ uy phong trong khói lửa mịt mù, sấm chớp kinh hoàng. Mô-sê, tôi tớ Chúa, mặt sáng như mặt trời, nhờ tiếp xúc với Chúa. Và thật yêu thương, Chúa ban Lề Luật cho dân Chúa. Đó chính là Mười Điều Răn còn tồn tại đến ngày nay (năm lẻ).
Chúa yêu thương dân Chúa như thế. Nhưng dân Chúa lại luôn phản bội. Tương tự như chuyện chiếc đai lưng. Chúa yêu thương dân, muốn dân ở với Chúa. Như chiếc đai lưng thắt chặt mình, Chúa mang dân trên vai như trên cánh phượng hoàng. Lìa xa Chúa, người dân giống như chiếc đai lưng mục nát. Không dùng được nữa (năm chẵn).
Đến thời sau hết Chúa đã cho Con Một Chúa giáng trần. Khai mạc Nước Trời. Không còn những việc lớn lao. Nhưng là những việc bé nhỏ. Thiên Chúa trở nên bé nhỏ. Nước Trời ẩn vào đời thường. Như hạt cải. Như nắm men. Nhưng hạt cải trở thành cây cao bóng cả cho muôn loài trú ngụ. Nắm men làm dậy cả thúng bột thế giới. Biến thế giới thành bánh thơm ngon. Thành rượu mới tràn trề sự sống và hạnh phúc. Là hạt lúa mục nát để sinh muôn ngàn bông hạt. Người môn đệ của Chúa hãy tiếp tục đi vào con đường Chúa đã mở. Trong thế giới kiêu ngạo luôn đề cao hiệu quả và thành công, người môn đệ hãy noi gương Chúa, làm chứng về sự bé nhỏ khiêm nhường. Tự do. Công bình. Bác ái. Thế giới ích kỷ cần sự quảng đại quên mình. Thế giới lạnh lùng vô cảm cần tình yêu quan tâm chăm sóc. Thế giới ưa thành tích kỳ vĩ cần những con người bé nhỏ làm việc âm thầm. Thế giới yêu chuộng vàng bạc đến thờ lạy nó đang cần những con người biết vượt trên vật chất, nâng cao những giá trị thiêng liêng của Nước Trời. Thế giới lìa xa Chúa như những chiếc đai lưng mục nát cần được phục hồi bằng những con người gắn bó với Chúa, như những chiếc đai lưng thắt chặt vào Chúa. Đó chính là những giá trị giúp phục hồi thế giới. Đó chính là cây cao bóng cả che chở thế giới. Đó chính là chất men làm sống lại thế giới.
Nhân hậu và từ bi là tên của Thiên Chúa. Chính Người đã mặc khải cho Mô-sê. Biết bao lần dân Ít-ra-en phản bội. Mỗi khi bỏ Thiên Chúa,họ liền gặp tai ương hoạn nạn: “Tôi bước ra đồng nội: này kẻ chết vì gươm, quay trở lại đô thành: nọ bao người đói lả”. Họ tỉnh ngộ và trở về xin Chúa tha thứ: “Lạy Chúa, chúng con nhận rằng mình gian ác và cha ông sai lỗi đã nhiều. Quả chúng con đều đắc tội với Chúa! Vì Danh Thánh, xin Chúa đừng chê bỏ chúng con”. Họ kêu cầu Danh Thánh Chúa vì biết Danh Thánh Chúa là nhân hậu và từ bi. Và Chúa luôn rộng lượng tha thứ (năm chẵn).
Danh Thánh nhân hậu và từ bi được chính Thiên Chúa ngỏ với Mô-sê. Khi dân phản loạn đúc tượng bò vàng, Mô-sê nổi giận đập vỡ bia đá giao ước. Và ông tha thiết xin Thiên Chúa tha tội cho dân: “Lạy Chúa…Dân này là một dân cứng đầu cứng cổ, nhưng xin Ngài tha thứ những lỗi lầm và tội lỗi của chúng con và nhận chúng con làm cơ nghiệp của Ngài”. Quả thật Thiên Chúa đầy nhân hậu và từ bi. Trước một tội lỗi tầy đình như thế, Thiên Chúa vẫn sẵn sàng tha thứ. Vì Người là Thiên Chúa nhân hậu từ bi: “Đức Chúa! Đức Chúa! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín, giữ lòng nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ, chịu đựng lỗi lầm, tội ác và tội lỗi” (năm lẻ).
Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, chịu đựng lỗi lầm, tội ác và tội lỗi. Người đã thực hiện điều đó trong dụ ngôn lúa đồng và cỏ lùng. Nhân hậu và từ bi nên không cho nhổ ngay cỏ lùng. Chịu đựng lỗi lầm nên kiên nhẫn chờ đợi cho đến cùng. Nhân hậu và từ bi nên sợ phải trừng phạt oan uổng: “Sợ khi nhổ cỏ sẽ làm tổn thương lúa”. Nhân hậu và từ bi vì tin tưởng kẻ xấu sẽ nên tốt. Chờ đợi kẻ xấu ăn năn hối cải. Cho họ thời giờ, cơ hội. Chờ đợi cho đến khi hết thời gian. Thật lạ lùng lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Chỉ tìm tha thứ. Tìm thông cảm. Tìm điều tốt đẹp cho con người. Dù con người luôn phản bội. Có thể nói con người hư đi là do tội lỗi của chính mình. Chúa cho ta đủ cơ hội, đủ thời giờ. Cho đến khi hết thời gian, Chúa mới chịu xét xử.
Hãy tin tưởng nơi Chúa. Hãy mau ăn năn hối cải. Tội nào Chúa cũng có thể tha thứ. Và hãy ăn năn sám hối. Vì thời giờ có hạn. Ta không biết giờ nào kẻ trộm đến.
Có thể ngồi yên không khi biết trong vườn ruộng nhà có một kho tàng chôn giấu. Chắc chắn ai cũng phải tức khắc đào xới tìm cho bằng được. Nước Trời là kho tàng, là ngọc đẹp quí giá không gì so sánh được. Ai biết được giá trị thì sẽ dành hết thời giờ để đi tìm cho đến khi gặp được. Tìm được rồi sẽ bán tất cả những gì mình có để mua cho bằng được kho tàng đó.
Nước Trời quí giá như thế nhưng lại không ở xa, ở rất gần ta, ngay trong vườn trong ruộng nhà ta. Có lần Chúa đã nói: “Nước Trời đang ở giữa anh em”. Nước Trời ở gần để ai muốn tìm có thể thấy. Nước Trời ở gần vì vừa tầm tay mọi người. Trẻ, già, lớn, bé, giầu, nghèo, sang, hèn, quan quyền, thứ dân, thông thái, dốt nát đều có thể tìm thấy.
Nước Trời quí giá không phải vì đem đến cho ta mối lợi vật chất. Ta không chiếm được của cải nhưng được chính Chúa là nguồn hạnh phúc, là kho tàng quí giá không gì so sánh được. Chiếm được Chúa, ta trở nên một người khác, đầy tràn hạnh phúc cao quí như khuôn mặt sáng láng của Mô-sê. Chả trách Mô-sê đã từ bỏ tất cả để chỉ tìm Chúa và thánh ý Chúa thôi. Ông đàm đạo với Chúa không bao giờ chán. Đến 40 đêm ngày tức là không còn thời gian.
Nước Trời ở thật gần. Mô-sê chỉ cần đến lều Hội Ngộ là có Chúa ở đó rồi. Chúa ở đâu thì nơi ấy thành thiên đàng, thành Nước Trời. Như Phê-rô say sưa xin Chúa cho dựng 3 lều trên núi Tabor vì muốn ở lại đó vĩnh viễn sau khi được chiêm ngắm thiên đàng hạnh phúc qua cuộc Chúa hiển dung. Khi tâm hồn ta có Chúa thì thiên đàng ở trong ta. Khi trong cộng đoàn có tình yêu thương thì Thiên Chúa ở trong anh em.
Có lẽ ta giống như Giê-rê-mi-a lang thang đau khổ vì chưa gặp được Chúa. Sống lạc lõng giữa thù địch Giê-rê-mi-a nghĩ rằng hạnh phúc Chúa hứa chỉ là ảo mộng. Nhưng Chúa đã thương dẫn đường chỉ lối cho ông đến hạnh phúc là được ở trước tôn nhan Chúa: “Nếu ngươi trở về, ngươi sẽ được ở trước nhan Ta”. Hạnh phúc đó là Chúa “sẽ giải thoát ta khỏi tay kẻ dữ” và mọi người “sẽ trở lại với ngươi chứ không phải ngươi trở lại với chúng”. Và hạnh phúc tột đỉnh là khi nghe Lời Chúa, cuộc đời ta sẽ hân hoan vì được nên giống Chúa: “gặp được Lời Chúa con đã nuốt vào, lời Ngài làm cho con hoan hỷ, làm vui thỏa lòng con, vì con được mang danh Ngài”.
Còn chần chờ gì nữa. Hãy đi tìm kho tàng Nước Trời. Đừng tìm đâu xa, Nước Trời ở gần ngay bên.
Lưới trời lồng lộng. Thưa mà không lọt. Ngày tận thế, các thiên thần sẽ kéo một mẻ lưới cuối cùng trên biển trần gian. Rồi sẽ chọn cá tốt tức là người lành để được cho vào Nước Trời hưởng hạnh phúc, chọn cá xấu tức người dữ để ném vào Hỏa ngục chịu hình phạt muôn đời.
Muốn chắc chắn được tuyển chọn, ta phải kéo lưới hằng ngày trong mảnh ao tâm hồn ta. Vì trong mảnh ao tâm hồn bé nhỏ cũng có cá tốt lẫn cá xấu và cả rác rưởi nữa. Lưới của ta là Lời Chúa soi dẫn cho ta biết đường ngay nẻo chính. Là tiếng lương tâm giúp ta phân biệt phải trái, đúng sai trong những việc ta làm hằng ngày. Là lời giáo huấn của Bề trên hướng dẫn ta cách cụ thể trong môi trường ta sống. Là quyết tâm chọn Chúa, chọn lề luật Chúa, chọn đường nên thánh. Là ý chí diệt trừ điều xấu ngay khi phát hiện. Là ước muốn nên thánh, nên trọn lành, nên người con hiếu thảo của Cha trên trời. Nếu ta kéo lưới tâm hồn hằng ngày, dứt khoát loại bỏ những con cá xấu, những rác rưởi khỏi tâm hồn, thì đến ngày tận thế, khi các thiên thần kéo mẻ lưới cuối cùng, ta đã được thanh luyện trở nên cá tốt rồi.
Để trở nên cá tốt, ta phải noi gương Mô-sê. Mô-sê không làm gì theo ý riêng. Nhất nhất đều theo ý Chúa, từng chi tiết trong việc xây dựng lều Hội Ngộ. Từng chi tiết trong việc trang hoàng Hòm Bia. Từng chi tiết trong các nghi lễ tế tự dành cho Chúa. Càng nghe lời Chúa, ông càng đi trên đường trọn lành và lại càng được Chúa tiếp tục hướng dẫn. Không những hướng dẫn cho cá nhân ông, Chúa còn hướng dẫn cho cả dân Israel, dẫn đường chỉ lối cho họ đi vào Đất Hứa, tránh xa mọi nơi nguy hiểm, thù nghịch (năm lẻ).
Để trở nên cá tốt ta phải noi gương Giê-rê-mi-a, để Chúa nhào nặn đời mình như người thợ gốm nhào nặn đất sét thành chiếc bình quí giá. Hoàn toàn vâng phục. Hoàn toàn để Chúa thực hiện chương trình của Chúa trong đời ta. Mọi sự sẽ tốt đẹp. Và khi ta lầm lỗi, Chúa có thể đập nát chiếc bình dang dở, để làm lại từ đầu. Đó là việc sửa phạt sẽ khiến ta đau đớn. Nhưng chính nhờ thế, Chúa vứt bỏ cá xấu, gạt bỏ rác rưởi khỏi tâm hồn ta, biến ta thành loài cá tốt, thành chiếc bình hoàn hảo không còn tì vết.
Lv 23,1.4-11.15-16.27.34b-37; Gr 26,1-9; Mt 13,54-58
Chúa quá yêu thương con người. Tình yêu biểu lộ qua dân Ít-ra-en. Yêu thương nên đến giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai-cập. Để giải thoát họ Chúa phải trừng phạt người Ai-cập. Yêu thương nên ban cho họ miền Đất Hứa. Xua đuổi các dân khác để họ có nơi cư ngụ. Yêu thương nên thiết lập họ thành dân riêng của Chúa. Yêu thương nên ban lề luật. Dạy họ từng li từng tí trong tổ chức đời sống, trong cử hành phụng vụ. Từ lễ Vượt Qua đến lễ Bánh Không Men. Từ lễ Xá Tội đến Lễ Lều. “Đó là các đại lễ của Đức Chúa, là những ngày mà các ngươi phải triệu tập những cuộc họp để thờ phượng Ta”. Quả thật, chẳng có dân tộc nào được Chúa yêu thương như vậy (năm lẻ).
Nhưng dân vốn hay quên. Nên hay phản bội. Quen quá hóa nhàm. Gần chùa gọi bụt bằng anh. Đứng núi này trông núi nọ. Chúa yêu thương gần gũi nên họ coi thường. Họ chạy theo thần tượng của chư dân. Họ phản bội Chúa. Nhưng Chúa vẫn yêu thương, cử tiên tri Giê-rê-mi-a đến cảnh tỉnh họ. Mong họ hối lỗi để được tha thứ. Tránh được tai họa: “Ngươi hãy công bố mọi lời của Ta đừng bớt lời nào. May ra chúng sẽ nghe và mỗi người sẽ bỏ con đường xấu xa của mình mà trở lại, bấy giờ Ta sẽ hối tiếc về tai họa chính ta đang định giáng trên chúng”. Không những họ không nghe mà còn muốn bắt Giê-rê-mi-a giết đi (năm chẵn).
Chúa vẫn tiếp tục yêu thương. Đến thời sau hết, sai Con Một đến để trực tiếp ngỏ lời với dân Chúa.Con Chúa sinh xuống làm người. Sống giữa dân Chúa. Để yêu thương. Để dạy dỗ. Để hoán cải. Mong họ nên tốt hơn. Nhưng càng gần gũi họ càng coi thường. Hôm nay Chúa về làng quê thăm viếng và mặc khải cho họ biết tình yêu thương và ơn cứu độ của Chúa. Họ rất thán phục lời lẽ khôn ngoan. Nhưng lại không tin. Vì họ cho rằng họ biết rõ gốc gác nghèo hèn của Chúa: “Ông không phải là con bác thợ sao?...Và họ vấp ngã vì Người”. Họ còn muốn giết Người nữa.
Ai có thể đáp lại tình yêu thương của Chúa. Lắng nghe và thực hành Lời Chúa trong thời đại ngày càng lìa xa Chúa này?
Thiên Chúa vô cùng nhân từ. Thiên Chúa nhân từ với ta. Người mong muốn ta cũng nhân từ với đồng loại. Vì thế Người ra luật cử hành Năm Toàn Xá. Năm Toàn Xá là năm thể hiện lòng nhân từ. Chúa truyền cho dân phải nhân từ với người nghèo khổ. Không được ỷ mạnh hiếp yếu. Nhưng phải tôn trọng những người bé nhỏ nghèo hèn. Vì thế trong Năm Toàn Xá phải trả người nô lệ về tự do. Phải trả ruộng đất cho người vì túng thiếu đã phải bán. Phải giữ luật Chúa chứ không theo luật rừng. PHải sống theo ý Chúa chứ không theo dục vọng: “Không ai trong các ngươi được làm thiệt hại người đồng bào, nhưng các ngươi phải kính sợ Thiên Chúa” (năm lẻ).
Con người ta thường theo thú tính. Ở đời mạnh được yếu thua. Vì thế Giê-rê-mi-a gặp nạn. Ông yếu thế hơn tư tế và các thủ lãnh. Nên họ muốn giết ông. “Bấy giờ, các tư tế và ngôn sứ nói với các thủ lãnh và toàn dân rằng: “Con người này đáng lãnh án tử, vì ông ta đã tuyên sấm chống lại thành này, như chính tai các ông đã nghe”. Họ tức giận vì Giê-rê-mi-a lên án lối sống sa đoạ của họ. Nếu họ chưa giết ông chỉ vì họ sợ Chúa phạt như lời Giê-rê-mi-a ngăm đe: “Nếu các người giết tôi, thì chính các người sẽ phải chuốc lấy máu vô tội cho mình, cho thành này và dân cư trong thành” (năm chẵn).
Hê-rô-đê hoàn toàn cư xử theo thú tính. Ông ỷ quyền thế cướp vợ của anh mình. Ông cậy mạnh nên bắt giam Gio-an Tẩy giả. Vì Gio-an dám lên án tội lỗi của vua. Ông nhẹ dạ vì điệu múa của cô gái nên hứa liều. Vì sĩ diện nên ông không dám rút lại lời hứa liều, dù ông biết làm thế là sai. Vì dục vọng ông phải giết thánh Gio-an Tẩy giả, dù biết ngài vô tội: “Nhà vua lấy làm buồn, nhưng vì đã tró ththeef, lại thề trước khách dự tiệc, nên truyền lệnh ban cho cô. Vua sai người vào ngục chặt đầu ông Gio-an”.
Các môn đệ của Chúa như Gio-an được sai đến để xây dựng xã hội công bằng. Không còn mạnh hiếp yếu. Và xã hội bác ái. Phải nghĩ đến người bé nhỏ nghèo hèn. Mua bán gì đến Năm Toàn Xá phải trả lại chủ cũ. Xã hội sống theo Lời Chúa sẽ tạo hạnh phúc. Con người kính sợ Thiên Chúa sẽ biết kính trọng và yêu thương đồng loại. Xã hội chống lại Thiên Chúa sẽ sống theo dục vọng và thú tính. Xã hội ấy sẽ tràn đầy bất công và bất hạnh.
Thiên Chúa yêu thương săn sóc như người mẹ hiền. Không chịu nổi khi thấy con cái đau khổ thiếu thốn. Đã nghe thấy tiếng than thở của Ít-ra-en sống kiếp nô lệ lầm than. Đã ra tay giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai-cập. Khi vào sa mạc không có bánh ăn, họ kêu than trách móc. Chúa đã ban man-na nuôi họ. Ăn man-na mãi cũng chán, thiếu thịt, họ lại kêu than oán trách. Mô-sê vừa thương vừa sợ. Chạy đến kêu cầu Chúa. “Sao Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên con? …Có phải con đã sinh ra nó không mà Ngài lại bảo con: ‘Hãy bồng nó vào lòng, nhu vú nuôi bồng trẻ thơ, mà đem vào miền đất Ta đã thề hữa với cha ông chúng? Con lấy đâu ra thịt cho cả dân này ăn”. Mô-sê, tôi tớ của Chúa cũng có tấm lòng của Chúa. Yêu thương dân. Nên không chịu nổi tiếng kêu than của dân. Và Chúa chạnh lòng thương ban chim cút cho họ ăn dư thừa (năm lẻ).
Đến thời sau hết, chính Thiên Chúa đích thân đến chăm sóc dân Người. Hôm nay Chúa Giê-su bày tỏ tấm lòng yêu thương chăm sóc cho dân như người mẹ hiền. Chúa chạnh lòng thương vì thấy họ lầm than khốn khổ. Chúa dạy các tông đồ phải lo cho họ ăn. Đừng để họ đói khát đi về đường xa trời tối. Bánh của Chúa ban khiến họ không những ăn no nê. Mà còn hạnh phúc. Vì cảm nhận được tình yêu thương của Chúa. Và hơn nữa Chúa còn chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Giải thoát họ khỏi nô lệ trong cõi u mê không lối thoát. Chúa chính là tấm bánh làm no thoả mọi cơn đói khát của con người. Với quyền năng và tình thương Chúa biến những tấm bánh bé nhỏ thành lớn lao nuôi cả vạn người. Chúa biến nỗi khổ thành niềm vui. Chúa biến thất vọng thành hi vọng. Chúa biến nô lệ thành tự do. Chúa biến lầm than thành hạnh phúc.
Có những tiên tri giả đem tấm bánh giả dối đến cho dân. Tấm bánh vẽ với những lời hứa hão huyền, dễ dãi. Như Kha-nan-gia. Ông không làm theo lời Chúa. Ông đưa dân vào con đường lầm lạc. Nên chính ông phải chết trước (năm chẵn). Tấm bánh của Chúa là tấm bánh thật. Tấm bánh ban không dễ dàng. Vì chính Chúa phải từ trời xuống. Phải chịu biết bao vất vả. Phải chịu cả khổ hình và cái chết. Mới có thể ban tấm bánh hạnh phúc đích thực thoả mãn mọi cơn đói khát của ta. Mô-sê và Giê-rê-mi-a cũng là những môn đệ đích thực. Nên phải đau khổ, vất vả, yêu thương phục vụ dân Chúa.
Xin cho con biết phân biệt bánh thật và bánh vẽ. Xin cho con trở thành môn đệ đích thực của Chúa. Phục vụ bằng tình yêu và hi sinh. Để đem tấm bánh của Chúa cho nhân loại.
Xh 12, 1-13; Gr 30, 1-2.12.15.18-22; Mt15, 1-2.10-14
My-ri-am đối đầu với Mô-sê. Về phương diện con người thì My-ri-am chiếm ưu thế ở 3 điểm. Về xã hội: Tập tục không cho phép người Do thái kết hôn với ngoại kiều, thế mà Mô-sê đã cưới một người xứ Cút. Về gia đình: My-ri-am là chị cả trong gia đình và Mô-sê phải vâng lời bà. Về cá nhân: My-ri-am là ân nhân cứu mạng Mô-sê và chăm sóc ông từ bé. Thế nhưng Chúa lại cho rằng My-ri-am đã đối đầu với Chúa vì dám xúc phạm đến Mô-sê là tôi tớ của Chúa. Hơn nữa, bà ghen tị vì Mô-sê được Chúa gặp trực tiếp. Đó chính là cuộc đối đầu giữa xác thịt và Thần Khí. My-ri-am đã để cho tính ghen tức xác thịt bùng nổ nên nói xấu Mô-sê. Mô-sê là người của Thần Khí vì ông tràn đầy ơn Chúa và ông cư xử theo Thần Khí, hiền lành khiêm nhường không đối đáp lại My-ri-am (năm lẻ).
Tin Mừng cũng tường thuật lại cuộc đối đầu giữa nhóm Pha-ri-sêu và Chúa Giê-su. Pha-ri-sêu cũng vận dụng tập tục tiền nhân để chống lại Chúa Giê-su. Họ cũng tự cho mình có quyền giảng dậy và cắt nghĩa lề luật để dậy dỗ Chúa và các môn đệ. Cuối cùng họ cũng bộc lộ tính xác thịt, chống lại Chúa vì ghen tức với Chúa. Chúa Giê-su cho biết ai sống theo xác thịt sẽ đi vào chỗ chết: “Cây nào mà Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời không trồng, thì sẽ bị nhổ đi. Cứ để mặc họ. Họ là những người mù dắt người mù. Mù mà lại dắt mù, cả hai sẽ lăn cù xuống hố”. Bà My-ri-am lập tức bị phong cùi, tức là đi vào đất kẻ chết.
Sống theo xác thịt sẽ chết theo xác thịt. Như Chúa nói với Giê-rê-mi-a: “Không ai biện hộ cho vụ kiện của ngươi…Mọi nhân tình của ngươi đều quên ngươi hết, chúng không kiếm tìm ngươi nữa…Ngươi kêu la vì thương tích của ngươi làm gì? Nỗi thống khổ của ngươi thật hết đường cứu chữa. Ấy chỉ vì sự gian ác của ngươi quá nhiều, và tội lỗi của ngươi quá nặng”. Nhưng khi dân ăn năn sám hối, từ bỏ con đường xác thịt để sống theo Thần Khí, Chúa lại cho phục hồi. Sống theo Thần Khí họ được tự do vì làm chủ lấy mình: “Thủ lãnh của nó sẽ từ nó xuất thân, và người thống trị nó sẽ từ giữa nó mà ra”. Họ thuộc về Chúa: “Các ngươi sẽ là dân Ta chọn, và Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi”. Biết thờ phượng, ngợi khen Chúa: “Từ các nơi ấy, sẽ vọng ra lời cảm tạ và tiếng reo mừng” (năm chẵn).
Sống theo xác thịt thì mù quáng. Sống theo Thần Khí thì sáng suốt. Sống theo xác thịt thì lăn xuống hố. Sống theo Thần khí thì thanh thoát vươn lên. Sống theo xác thịt là đi vào cõi chết. Sống theo Thần Khí đi vào đời sống. Sống theo xác thịt bị nô lệ. Sống theo Thần Khí tự do vì tự mình làm chủ lấy mình.
Các bài Sách Thánh hôm nay tương phản nhau mãnh liệt: niềm tin của dân ngoại và sự bất tín của Ít-ra-en. Ít-ra-en đã chứng kiến biết bao việc kỳ diệu Chúa làm nhưng vẫn thiếu niềm tin. Hôm nay họ sợ người khổng lồ nên chống đối Mô-sê, chống lại ý Chúa. Không chịu vào Đất Hứa theo hướng nam qua vùng Ca-đê mà chọn đi vòng qua phía đông theo sông Gióc-đan. Họ thiếu niềm tin vào Chúa. Xét về quân đội thời ấy, còn ai mạnh hơn Ai cập. Thế mà Chúa đã tiêu diệt tất cả trong nháy mắt. So với quân đội Pha-ra-ô thì những người khổng lồ này có là gì. Nếu tin Chúa họ đâu phải sợ hãi đến hoảng loạn và chống lại ý Chúa như vậy (năm lẻ).
Tuy Ít-ra-en bất tín. Nhưng Chúa vẫn trung tín. Sau khi trừng phạt rồi lại xót thương. Tiếp tục yêu thương và cứu chữa họ: “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương. Ta sẽ lại xây ngươi lên, và ngươi sẽ được xây lại” (năm chẵn).
Lòng thương xót của Chúa bao la. Nên sau cùng đã trải rộng ra khỏi Ít-ra-en, đến với mọi dân mọi nước. Hôm nay người phụ nữ Ca-na-an đã được hưởng lòng thương xót của Chúa. Đó là dấu hiệu Chúa lập ra một dân mới. Bà chưa hề biết Chúa, mới chỉ nghe nói, thế mà đã tin tưởng hết sức vào Chúa. Chúa đặt ra trước mặt bà 3 chướng ngại lớn và bà đã vượt qua. Một sự im lặng. Chúa không đáp lại lời bà xin. Nhưng bà vẫn tha thiết, kiên trì và dai dẳng cầu xin. Một lời từ chối: “Thầy chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Ít-ra-en thôi”. Ranh giới đã được phân định. Thế mà bà vẫn nhất quyết nài xin. Một lời nhục mạ: “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó”. Thật là tàn nhẫn. Nhưng bà này đã chấp nhận: “Nhưng chó cũng có thể được những mảnh vụn bánh từ bàn chủ rơi xuống”. Và Chúa phải khen ngợi lòng tin của bà. Bà không còn phải là chó con nữa. Bà trở nên con cái Chúa. Được đồng bàn với Chúa. Không còn phải chờ bánh vụn. Nhưng được hưởng bánh tự do trên bàn của Chúa.
Tạ ơn Chúa vì Lòng Thương Xót của Chúa bao la trải rộng khắp mười phương. Xin cho con được vững tin vào Lòng Thương Xót của Chúa.
Dân Do thái là dân cứng đầu cứng cổ. Dù đã chứng kiến biết bao việc lạ Chúa làm và thấy Mô-sê thực hiện biết bao điềm thiêng dấu lạ, nhưng cứ mỗi lần gặp thửu thách họ lại bộc lộ niềm tin yếu kém. Họ than van kêu trách. Họ đòi hỏi thoả mãn nhu cầu tức khắc. Họ sống theo xác thịt. Họ chưa có Thần Khí. Họ gây áp lực khiến Mô-sê cũng mất tinh thần mà chao đảo niềm tin. Lề Luật mới được ghi khắc vào bia đá. Chưa ghi trong tâm hồn. Nên lòng họ còn chai đá (năm lẻ).
Chúa mong muốn con người tiến sâu và xa hơn trong tình yêu Chúa. Chúa mong muốn họ sống theo Thần Khí chứ không theo xác thịt. Chúa muốn ghi khắc Lề luật vào trái tim chứ khôgn vào bia đá. Để họ tự mình nhận biết Chúa không cần phải có ai dạy dỗ. Chúa quyết định khơi lên trong trái tim họ lòng tin yêu đích thực. Đó là giao ước mới: “Đây là giao ước mới ta sẽ ký với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó. Ta sẽ đặt Lề Luật của Ta trong đáy lòng chúng, và sẽ ghi trong tâm hồn chúng. Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta” (năm chẵn).
Khi Chúa Giê-su đến đã hứa ban Thần Khí. Để con người được Thiên Chúa hướng dẫn. Để con người sống trong thân tình với Thiên Chúa. Có xác tín riêng. Không phải sống hời hợt bên ngoài, dựa dẫm theo đám đông. Chính vì thế Chúa hỏi từng môn đệ: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai”. Không thể chạy theo dư luận. Phải có xác tín riêng. Và chính Chúa Cha đã soi sáng cho thánh Phê-rô để ông đại diện các tông đồ tuyên xưng: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Tuy nhiên để được Thần KHí soi sáng hướng dẫn, con người cần từ bỏ mọi suy nghĩ và hành xử theo xác thịt. Phê-rô chưa thoát khỏi xác thịt. Trong một phút để xác thịt chi phối ông đã sai lầm. Cũng như Mô-sê, Phê-rô còn một chút yếu đuối. Mô-sê cũng suốt đời kiên vững, nhưng vẫn còn một phút giây chao đảo. Chỉ có Chúa Giê-su tràn đầy Thần KHí. Tình yêu mến Chúa Cha tràn ngập trong tâm hồn. Nên Chúa Giê-su không phút giây nào không tuân hành thánh ý Chúa Chá. Vì thế Chúa trở nên người Con Yêu Dấu hằng đẹp lòng Chúa Cha. Đó là khuôn mẫu của chúng ta.
Hãy noi gương Chúa Giê-su luôn để Thần Khí hướng dẫn mọi suy nghĩ, lời nói, việc làm. Ta sẽ biết chu toàn thánh ý Theien Chúa. Sẽ trở nên con người mới. Của giao ước mới. Hoàn toàn thuộc về Chúa. Là dân của Chúa. Là con của Chúa.
Ai cũng muốn được. Không ai chịu mất. Nhưng thế nào là được và thế nào là mất thì không phải ai cũng hiểu. Nhất là vì con người có hai đời sống. Đời này và đời sau. Trong hai đời sống hai cách được và mất khác nhau. Được ở trần gian là thực tế trước mắt nên nhiều người tìm kiếm. Được ở Nước Trời xa vời nên nhiều người không thấy. Tuy nhiên được ở trần gian mau qua như trần gian. Được trên Nước Trời là vĩnh viễn. Được ở trần gian không bao giờ thoả mãn. Được trên Nước Trời là hạnh phúc trọn vẹn. Khác biệt lớn lao và khó khăn nhất là cách chiếm đoạt rất khác nhau. Được ở trần gian do vun quén cho bản thân. Được trên Nước Trời lại thủ đắc bằng từ bỏ hết những gì ở trần gian, kể cả bản thân và mạng sống mình. Như lời Chúa phán: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Cái được ở trên Nước Trời là sự sống vĩnh cửu, dù cả trần gian cũng không so sánh được. “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình”? chính Chúa mới là Chúa Tể trời đất, có quyền xét xử định đoạt số phận chúng ta. Trần gian chỉ chiếm được đời này. Phải bó tay trước đời sau. Thiên Chúa làm chủ cả đời này lẫn đời sau. Ai bỏ Chúa theo trần gian chỉ được một chút đời này. Ai bỏ trần gian mà theo Chúa chỉ bị thiệt thòi một chút đời này. Nhưng sẽ được đời sau vô cùng phong phú sung mãn không gì sánh được. Thiên Chúa làm chủ. Điều đó được chứng tỏ qua dòng lịch sử.
Thời Mô-sê Thiên Chúa đã cứu người Ít-ra-en khỏi ách nô lệ Ai cập. Ít-ra-en đang nô lệ bỗng thành tự do. Đang tản mát bỗng thành một dân tộc. Đang bơ vơ bỗng được đất chảy sữa và mật. Đang yếu ớt bỗng chiến thắng quân đội Ai cập hùng mạnh nhất thế giới thời ấy. Đó chính là vì Chúa là Thiên Chúa của họ (năm lẻ).
Ít-ra-en phản bội nên bị Chúa phạt. Phải làm nô lệ cho Ni-ni-vê. Nhưng rồi đến ngày Chúa phục hồi dân Chúa. “Phải, đức Chúa khiến cho Gia-cóp và Ít-ra-en lấy lại sức kiêu hùng”. Ngài cho Ni-ni-vê hùng mạnh một thời gian. Rồi trừng phạt vì họ không tuân hành thánh ý. “Bấy giờ, hễ ai nhìn thấy ngươi cũng đều phải tránh xa và nói: “Ni-ni-vê đã bị phá tan hoang!” Ai còn cảm thương nó? Ta tìm đâu cho ngươi những người an ủi”? (năm chẵn).
Hôm nay Chúa mời gọi tôi. Hãy khôn ngoan đừng khờ dại. Hãy biết chọn Thiên Chúa chứ đừng chọn thế gian. Hãy biết bỏ đời này để được đời sau. Được chính Chúa. Là hạnh phúc muôn đời.
Thế giới nhiễu nhương. Ma quỉ và bạo chúa thống trị thế giới. Sự ác và sự dữ đè bẹp con người. Nếu không có đức tin con người không thể sống nổi.
Thời Mô-sê dân Ít-ra-en chỉ là một nhóm người nô lệ. Không tổ chức. Không lực lượng. Nhưng họ có đức tin. Họ tin vào Chúa. Họ đi theo Mô-sê. Và Chúa đã làm những việc vượt quá sức tưởng tượng của họ. “Anh em được những thành lớn và đẹp mà anh em đã không xây, những nhà đầy mọi thứ của cải mà anh em đã không tích trữ, những bể nước có sẵn mà anh em đã không đào, những vườn nho và vườn ô-liu mà anh em đã không trồng”. Vì thế Mô-sê khuyên nhủ họ “đừng quên Đức Chúa, Đấng đã đưa anh em ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ…anh em phải kính sợ…phải phụng thờ…và nhân danh Người mà thề” (năm lẻ).
Thời Kha-ba-cúc, mặc dù Ít-ra-en bị Can-đê đặt ách thống trị tàn ác, chỉ vì Ít-ra-en tội lỗi phản bội Chúa. Nhưng Chúa khuyên nhủ dân hãy cứ tin tưởng và chờ đợi. Vì ngày Chúa giải thoát dân rồi sẽ đến: “Nó đang tiến nhanh tới chỗ hoàn thành, chứ không làm cho ai thất vọng. Nếu nó chậm tới, thì cứ đợi chờ, vì thế nào nó cũng đến, chứ không trì hoãn đâu”. Trong khi chờ đợi phải giữ vững đức tin. Vì “ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính thì sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình” (năm chẵn).
Thời Chúa Giê-su ma quỉ hoành hành ác liệt. Khống chế con người. Các tông đồ cũng đành chịu thua. Nhưng khi Chúa đến, Chúa dùng quyền năng chế ngự và bắt ma quỉ phải vâng phục. Giải phóng con người khỏi ách nô lệ ma quỉ. “Đức Giê-su quát mắng tên quỷ, quỷ liền xuất, và đứa bé được khỏi ngay từ giờ đó”. Chúa cho biết ma quỷ hoành hành vì con người thiếu niềm tin. Chúa than phiền vì thế hệ thiếu niềm tin: “Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin và gian tà! Tôi còn phải ở với các người cho đến bao giờ, còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa”? Ngài cho các tông đồ biết mọi việc trên thế giới có thể giải quyết dễ dàng với người có lòng tin: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: ‘Rời khỏi đây, qua bên kia! Nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được”.
Thời đại chúng ta bị biết bao ngọn núi ngăn trở khiến ta nản lòng . Tưởng không có gì có thể xê dịch được những ngọn núi ngăn chặn đời sống. Nhưng ta hãy an tâm. Nếu có đức tin một chút thôi, ta có thể giải quyết vấn đề cộng đoàn thật dễ dàng. Và thế giới ổn định. Vì khi có đức tin ta sống nhờ Chúa. Ta làm việc bằng sức mạnh của Chúa. Và mọi việc sẽ tốt đẹp.
Đức tin vững mạnh nhờ qui chiếu quá khứ. Mô-sê nhắc nhở cho dân Do thái điều đó. Khi vào Ai cập họ chỉ có 70 người. Ai cập là đế quốc hùng mạnh nhất thời đó. Vậy mà Chúa đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai cập bằng những chiến thắng lẫy lừng, những điềm kỳ phép lạ. Rõ ràng Chúa là “Thần của các thần, là Chúa của các chúa, là Thiên Chúa vĩ đại, dũng mãnh, khả úy”. Và hiện nay họ đã là một dân đông đúc, hùng mạnh. Vì thế hãy vững tin nơi Chúa (năm lẻ).
Đức tin vững mạnh nhờ hướng tới tương lai. Ê-dê-kiên trong thời lưu đầy khổ nhục. Nhưng bên bờ sông Kê-ba, ông đã nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa. Thiên Chúa hiện đến oai hùng như một đạo quân với “tiếng ồn ào trong doanh trại”. Dũng mãnh như “một cơn gió bão từ phương Bắc thổi đến”. Linh thiêng ngự giữa đám mây, “có lửa lóe ra và ánh sáng chiếu tỏa chung quanh”. Quyền uy ngự trên ngai cao. “Và trên ngai có kim loại lấp lánh, có đám lửa bao quanh…Có cầu vồng xuất hiện trên mây..” Nhưng Thiên Chúa lại rất gần gũi vì “tay Đức Chúa đặt trên ông” Ê-dê-kiên. Ê-dê-kiên được tràn đầy niềm an ủi, tràn đầy niềm tin, tràn đầy hi vọng sẽ đến ngày Dân Chúa được phục hồi. Và trong niềm tin tưởng hi vọng vào một tương lai huy hoàng, Ê-dê-kiên sẽ an ủi khích lệ dân chúng hãy vững tin (năm chẵn).
Đức tin biểu lộ cụ thể trong đời sống hiện tại. Vì thế Mô-sê khuyên nhủ dân chúng hãy sống tốt trong hiện tại. Vững vàng tin tưởng, thờ phượng Chúa, “yêu mến phung thờ Người hết lòng hết dạ, giữ các mệnh lệnh của Đức Chúa và các thánh chỉ của Người” (năm lẻ).
Chúa Giê-su chính là gương mẫu cho ta trong đời sống đức tin. Người tin tưởng vào tình thương và quyền năng của Chúa Cha. Người biết Chúa Cha sẽ giải thoát Người khỏi cái chết, cho Người được phục sinh, trả lại cho Người vinh quang Người đã có trước kia bên Chúa Cha. Nên trong phút giây hiện tại Người lo chu toàn thánh ý Chúa Cha, sống như một người thường, chu toàn những bổn phận của người dân thường như đóng thuế, đọc kinh, đi lễ Đền Thờ. Còn hơn nữa, Người sẵn sàng chịu mọi đau đớn khổ nhục “bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người”.
Xin cho chúng ta được noi gương Chúa Giê-su luôn sống tâm tình người con hiếu thảo. Chiếu lên ánh sáng rực rỡ của đức tin trong cuộc đời hiện tại bằng cặn kẽ tuân hành thánh ý Thiên Chúa, yêu thương anh em đồng loại, chu toàn mọi bổn phận nơi trần thế. Chắc chắn chúng ta sẽ cùng Chúa Giê-su hưởng vinh quang bên Chúa Cha.
Đnl 31, 1-8; Ed 2,8 – 3,4; Mt 18, 1-5.10.12-14 “Nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời”. Phải trở lại. Không phải sinh lại như Ni-cô-đê-mô tưởng lầm. Nhưng là có tinh thần trẻ thơ. Tinh thần trẻ thơ là gì? Khiêm nhường? Vâng lời? Ứng trực? Đều đúng cả. Khái quát trong thái độ của đứa con nhỏ đối với cha mẹ. Khi còn nhỏ, cha mẹ là tất cả. Con không là gì. Nên mọi sự đều trông mong vào cha mẹ. Nên một với cha mẹ. Phó thác. Tin cậy. Kết hợp. Yêu mến. Đó là thái độ Chúa Giê-su sống với Chúa Cha. Đó là thái độ Chúa muốn ta có với Thiên Chúa. Chúa là tất cả. Ta là hư vô. Chúa có tất cả. Ta hai bàn tay trắng. Chúa trao ban tất cả. Ta nhận lãnh tất cả. Càng bé nhỏ ở trần gian càng cao trọng trên trời. Càng bé nhỏ càng được Chúa yêu thương.
Nhân loại gặp vấn đề khi muốn chứng tỏ mình là người lớn, trưởng thành trước mặt Chúa. Tự mãn với những thành công, con người tưởng mình ngang hàng với Chúa. Tự do cá nhân quá mức, con người không còn muốn lệ thuộc vào Thiên Chúa. Tự phụ giải quyết được mọi vấn đề, con người nghĩ rằng thế giới này không còn cần Thiên Chúa. Đó là những thái độ tàn phá con người và thế giới. Cần trở nên như trẻ nhỏ.
Nêu gương cho ta, Mô-sê đã sống tinh thần bé nhỏ. Mô-sê từng là một thủ lĩnh lẫy lừng, từng thi hành bao điềm kỳ phép lạ kinh thiên động địa, gieo kinh hoàng cho người Ai cập. Nhưng giờ đây Mô-sê thú nhận mình già yếu. Ông khiêm tốn thanh thản giã từ quyền lực. Còn hơn thế ông bé nhỏ nên lãnh án phạt của Chúa cách khiêm nhường. Và ông trở nên bé nhỏ đến độ vâng phục lời Chúa dậy ra đi lên núi chết một mình. Đúng là một người con hiếu thảo. Và ông có tâm tình bé thơ khi tôn trọng Gio-suê, người đệ tử theo hầu ông từ khi còn nhỏ. Ông tin tưởng và khích lệ Gio-suê. Ông khuyên nhủ dân chúng vâng phục Gio-suê dù anh còn trẻ. Vì ông biết rằng mọi sự đều bởi Chúa. Chúa sẽ dẫn đưa Ít-ra-en. Chúa sẽ ở với Gio-suê (năm lẻ).
Ê-dê-kiên cũng có tính thần trẻ thơ khi vâng lời Thiên Chúa nuốt trọn cuốn sách có đủ mọi điều đắng cay mà chẳng thắc mắc ngại ngùng. Và sau đó vâng lời Chúa truyền rao Lời Chúa cho dân, dù là những lời không mấy dễ nghe. Ê-dê-kiên quả đã sống tinh thần của người con bé nhỏ và hiếu thảo. Đón nhận tất cả từ Thiên Chúa. Làm tất cả mọi sự theo ý Thiên Chúa. Bất chấp sự gì xảy đến cho mình (năm chẵn).
Thiên Chúa thánh thiện không thể chịu được tội lỗi. Tội lỗi phải bị khai trừ. Tuy nhiên cách khai trừ có khác biệt từ Cựu Ước sang Tân Ước. Thời Cựu Ước cách khai trừ tội lỗi khắc nghiệt. Công lý nhiều hơn tình thương.
Ê-dê-kiên cho thấy cuộc thanh tẩy Giê-ru-sa-lem đầy máu. Thiên Chúa tiêu diệt thành phố tội lỗi: “Vinh quang Đức Chúa bay lên khỏi thềm Đền Thờ và dừng lại trên các thần hộ giá. Các thần hộ giá dang cánh và cất mình lên khỏi mặt đất…các bánh xe cũng chuyển theo”. Và một cuộc trừng phạt tàn sát không xót thương diễn ra: “Hãy đi theo người ấy vào thành mà chém giết. Đừng nhìn mà thương hại, đừng xót thương. Người già, thanh niên, thiếu nữ, cũng như đàn bà con trẻ, các ngươi hãy giết cho sạch”. Thật là nghiệt ngã (năm chẵn).
Ngay cả Mô-sê, một người tôi tớ trung tín suốt đời tận tuỵ phục vụ Chúa, người đã làm biết bao điềm kỳ phép lạ, người giải phóng Ít-ra-en khỏi ách nô lệ Ai cập, người thiết lập một dân mới, người ban bố lề luật, thế mà cũng bị phạt khắc nghiệt. Thực ra tội của Mô-sê chính là tội của dân. Vì thương dân và chiều theo dân nên bỏ lời Chúa. Thế mà ông bị trừng phạt nặng nề. Không được vào đất hứa. Chết nơi xứ lạ quê người. Không chôn cất mồ mả. “Ông Mô-sê, tôi trung của Đức Chúa, qua đời tại đó, trong đất Mô-áp, theo lệnh Đức Chúa…Cho đến ngày hôm nay, không ai biết mộ ông ở đâu” (năm lẻ).
Đến thời Tân Ước, tình yêu thương được đề cao hơn công lý. Chúa truyền cho các cộng đoàn phải sửa lỗi anh em trước khi trừng phạt. Khi sửa lỗi cũng phải tế nhị. Trước hết phải kín đáo riêng tư. Khi không thể thuyết phục riêng tư mới dùng đến ảnh hưởng cộng đoàn. Phải cứu sống hơn giết chết. Phải tha thứ hơn kết án. Phải đón nhận hơn loại trừ. Phải sửa chữa hơn vất bỏ. Phải xây dựng hơn phá huỷ. “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em”. Sự hợp nhất phải xây dựng từ những đớn đau của thương tích, của tha thứ, của chữa lành. Bấy giờ tình yêu thương đoàn kết sẽ vô cùng quí giá và sâu xa. Đó chính là nền tảng để dâng lời cầu nguyện và được Chúa nhận lời: “Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ”. Họp lại sau những xung khắc lỗi lầm mới thực sự sâu xa bền chặt.
Tha thứ một điều cần thiết nhưng lại khó khăn biết bao. Cần thiết vì nếu không tha thứ ta không thể sống với ai được. Con người là bất toàn. Luôn sai lỗi. Nếu ta không tha thứ thì cuối cùng chỉ còn mình ta với ta. Và ta cũng bất toàn. Nếu người khác không tha thứ thì ta cũng không sống nổi. Nhưng trên hết ta phải tha thứ để được Chúa thứ tha. Vì Chúa là Đấng hay tha thứ.
Chúa là Đấng từ bì thương xót. Luôn tha thứ lỗi lầm của con người. Lịch sử của con người là lịch sử của tình thương. Thiên Chúa yêu thương con người. Tạo dựng nên con người. Cứu chuộc con người. Sau Mô-sê đến lượt Gio-suê hướng dẫn dân Chúa ra khỏi Ai cập tiến vào Đất Hứa. Ra khỏi nô lệ khổ cực tiến vào tự do yêu thương. Ra khỏi đất ăn nhờ ở tạm vào đất sở hữu vĩnh viễn. Chúa yêu thương cho dân vượt qua Biển Đỏ. Hôm nay lại cho dân vượt qua sông Gio-đan khô chân. Qua sông qua biển. Đó là tình yêu thương của Chúa (năm lẻ).
Biết bao tình yêu thương Chúa bày tỏ với dân Ít-ra-en. Nhưng họ luôn cứng đầu cứng cổ. Phản loạn. Tội lỗi. Chúa phải sai các tiên tri đến cảnh tỉnh họ. Sửa chữa họ. Trừng phạt họ. Để họ tỉnh ngộ. Ê-dê-kiên trở nên dấu chỉ báo trước hình phạt Chúa giáng xuống ông hoàng và dân cư Giê-ru-sa-lem. “Tôi là điềm báo cho các ông. … Họ sẽ phải đi tù, đi đày. Ông hoàng đang ở giữa họ sẽ vác hành lý lên vao lúc trời tối và sẽ ra đi; họ sẽ khoét một lỗ trên tường cho ông chui qua. Ông sẽ che mặt để chính mắt khỏi nhìn thấy xứ sở” (năm chẵn). Chúa cảnh báo để họ sám hổi, để được tha thứ.
Nhưng rồi Chúa lại tha thứ tất cả. Để tha thứ Chúa gửi Con Một xuống trần gian. Chịu mọi đau khổ để đền tội cho con người. Để đưa con người vượt qua biển trần gian. Để con người được vào không phải đất hứa ở trần gian, nhưng vào đất hứa trên thiên đàng. Để tha thứ cho ta Chúa phải chịu khổ nhục thiệt thòi như vậy. Chúa dạy ta phải tha thứ cho anh em. Tha như Chúa. Tha mãi mãi. Tha không giới hạn. Đó là điều kiện để ta được Chúa tha thứ. Đó là cách thế để cứu thế giới. Thế giới tràn đầy tội lỗi. Không thể tồn tại nếu thiếu lòng tha thứ. Hơn nữa ta phải tha thứ để làm chứng cho Chúa. Làm sáng lên lòng nhân từ tha thứ của Chúa. Để nhân loại nhận biết Chúa. Đây là thời đại cuối cùng. Đây là lúc biểu lộ tình thương. Đây là thời kỳ của ân sủng. Ơn tha thứ. Lòng thương xót cho con người. Ta hãy cũng Chúa đem ơn tha thứ cho thế giới bằng chính sự khoan dung tha thứ của ta.
Thiên Chúa muốn dựng nên con người giống hình ảnh Người. Thiên Chúa là tình yêu nên Thiên Chúa dựng nên con người để biểu lộ tình yêu của Người. Để biểu lộ tình yêu con người không phải chỉ là nam hay nữ nhưng là nam và nữ. Vì thế ơn gọi gia đình là cơ bản. Như Ba Ngôi nhưng chỉ một Chúa, gia đình tuy hai nhưng “họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt”. Như Ba Ngôi Thiên Chúa hoàn toàn dâng hiến cho nhau, vợ chồng cũng phải hiệp thông trong hoàn toàn trao ban và nhận lãnh: “Vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình”. Tình yêu Thiên Chúa trên trời còn cao siêu trừu tượng nên Thiên Chúa đã thực hiện cụ thể trong lịch sử đối với dân Ít-ra-en, để con người có thể chiêm ngưỡng và noi theo tình yêu trung tín của Người.
Gio-suê nhắc lại tất cả những việc Thiên Chúa làm để bày tỏ tình yêu với Ít-ra-en: đã tuyển chọn Áp-ra-ham; đã đưa ông vào đất Ca-na-an; đã đưa dân ra khỏi Ai-cập; đã chiến thắng tất cả các dân để thừa hưởng đất Ca-na-an: “Ta đã thả ong bầu bay đi trước các ngươi; chính ong bầu chứ không phải cung kiếm của các ngươi đã đuổi chúng. Ta ban cho các ngươi đất các ngươi đã không vất vả khai phá, những thành các ngươi đã không xây mà được ở, những vườn nho và vườn ô-liu các ngươi đã không trồng mà được ăn” (năm lẻ).
Tình yêu của Thiên Chúa đối với Ít-ra-en được Ê-dê-kiên ví như tình yêu giữa một người con trai và một người con gái. Người con gái xấu xí bị vứt bỏ và chê cười. Chúa đã cứu về, nuôi sống, và làm cho trở nên xinh đẹp. “Giữa muôn dân nước, ngươi được nổi tiếng vì nhan sắc của ngươi; nhan sắc đó tuyệt vời nhờ ánh huy hoàng của Ta chiếu toả trên ngươi”. Nhưng khi được xinh đẹp người con gái liền phản bội. “Thế mà ngươi đã cậy có nhan sắc, ỷ vào danh tiếng của ngươi đề đàng điếm và hoang dâm với mọi người khách qua đường”. Tuy thế Chúa vẫn trung tín và yêu thương. Vì đã giao ước. “Còn Ta, Ta sẽ nhớ lại giao ước đã lập với ngươi thời ngươi còn thanh xuân. Ta sẽ thiết lập với ngươi một giao ước vĩnh cửu” (năm chẵn).
Chúa muốn hôn nhân là hình ảnh của Chúa. Hình ảnh tình yêu. Hình ảnh giao ước. Hình ảnh trung tín. Chỉ có tình yêu thật mới trung tín với giao ước đến muôn đời. Chỉ có tình yêu thật mới tha thứ mãi mãi. Tình yêu thật chỉ có trong Chúa. Và như Chúa. “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em”(Ga 15,12).
Người ta coi thường trẻ em vì trẻ em không biết làm gì. Còn hơn thế nữa trẻ em còn gây phiền hà, cản trở công việc. Đó là nhìn theo quan điểm hiệu quả. Nhưng hiệu quả đời này không phải là tinh thần Nước Trời. Nước Trời không tìm hiệu quả theo kiểu trần gian. Không phải người lớn lao giỏi giang là đáng quí, nhưng là người “giống như trẻ nhỏ”. Tại sao? Vì Thiên Chúa không nhìn ta theo giá trị hiệu quả. Thiên Chúa nhìn ta theo giá trị người con. Dưới mắt cha, chỉ người con là đáng quí nhất. Ai xuất hiện trước mắt Chúa như người con bé nhỏ thảo hiền, người đó được hưởng mọi tình thương của Cha.
Chính Chúa Giê-su đã làm gương cho ta. Chúa Giê-su luôn là người con thảo hiếu bé nhỏ đối với Chúa Cha. Thảo hiếu bé nhỏ vì Chúa Giê-su biết mọi sự Người có đều nhận lãnh từ Cha. Mọi sự Người biết cũng đều nghe từ Cha. Đối với Người Chúa Cha là tất cả. Vì thế Chúa Giê-su suốt đời chỉ tìm thi hành thánh ý Chúa Cha. Người nói: “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng sai Thầy”. Là người con bé nhỏ hiếu thảo, Người được Chúa Cha ưu ái tuyên dương: “Đây là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng”.
Con đường trẻ thơ. Con đường của người con bé nhỏ hiếu thảo. Đó là con đường tuyệt hảo dẫn về Nước Trời. Ta chẳng làm gì nên công trạng. Ta chẳng thể tỏ ra là người lớn, có công, xứng đáng trước mặt Chúa. Ta chỉ có thể đến với Chúa bằng tâm tình người con bé nhỏ hiếu thảo. Ta sẽ được Chúa yêu thương và ban thưởng.
Gio-suê đã dẫn đưa người Do thái theo con đường bé thơ này khi ôn lại lịch sử và bắt họ tuyên xưng lựa chọn Thiên Chúa. Người Do thái đã ý thức Thiên Chúa là nguồn gốc mọi sự. Nhờ Thiên Chúa họ mới có sự sống. Nhờ Thiên Chúa họ mới có đất đai. Nhờ Thiên Chúa con đầu lòng của họ mới được cứu thoát. Nên họ phó thác cuộc đời trong tay Thiên Chúa. Chọn Chúa làm Chúa Tể duy nhất (năm lẻ).
Ê-dê-kiên tha thiết kêu gọi dân trở về con đường của người con hiếu thảo. Đổi mới trái tim. Sinh lại trong thần khí mới. Để trở nên trẻ thơ. Để hoàn toàn phó thác cuộc đời và hoàn toàn vâng theo con đường Chúa chỉ dẫn. Để được sự sống đời đời: “Hãy trở lại, …Hãy quẳng khỏi các ngươi mọi tội phản nghịch các ngươi đã phạm. Hãy tạo cho mình một trái tim mới và một thần khí mới” (năm chẵn).
Trở thành người con bé nhỏ, hiếu thảo. Hoàn toàn vâng theo ý Chúa. Đó là con đường chắc chắn nhất. Vì Chúa sẽ bồng bế ta đến nơi bình an.
Thiên Chúa yêu thương muốn nâng con người lên. Từ bùn đất thành người. Từ con người thành con Chúa. Nhưng ma quỉ xác thịt thế gian cứ kéo ghì con người xuống. Thiên Chúa rất kiên trì thanh luyện con người khỏi những nhơ uế bùn đất xác thịt.
Khi tuyển chọn dân riêng, Thiên Chúa ra công thanh luyện con người khỏi thói dân ngoại, tôn thờ bụt thần ma quỉ. “Họ đã lìa bỏ Đức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên, Đấng đã đưa họ ra khỏi đất Ai-cập,…Họ đã lìa bỏ Đức Chúa để làm tôi thần Ba-an và các nữ thần Át-tô-rét”. Đó là những thần nông nghiệp và trù phú. Vừa theo dân ngoại vừa phù hợp với thú tính. Chúa trừng phạt. Họ kêu xin. Chúa lại gửi các thủ lãnh để giải thoát họ. “Nhưng sau khi vị thủ lãnh qua đời thì họ lại ra hư đốn hơn cả cha ông họ”. Thật đáng buồn (năm lẻ).
Đến thời các tiên tri, họ không thờ ngẫu tượng nữa, nhưng lại chạy theo thói thế gian. Ham mê tìm vui thú xác thịt và của cải vật chất. Chúa lại dùng các tiên tri để thanh tẩy họ. Các tiên tri trở nên những tấm gương vừa cảnh tỉnh họ vừa để họ noi gương bắt chước. Để cảnh tỉnh dân, chính tiên tri được Chúa mời gọi sống trước sứ điệp họ loan truyền. Chúa truyền cho Ê-dê-kiên: “Hỡi con người, này Ta sẽ bất thần cất khỏi ngươi niềm vui của mắt ngươi. Nhưng ngươi không được thương tiếc người chết, không được khóc lóc, không được để nước mắt trào ra. Hãy rên rỉ âm thầm, đừng làm đám tang cho người chết, hãy đội khăn, đi dép, không được che râu ria, không được ăn bánh người ta đưa đến” (năm chẵn).
Đến thời Chúa Giê-su, Chúa muốn thanh luyện trái tim con người để họ hoàn toàn thuộc về Chúa. Chàng thanh niên giầu có đạo đức thật hoàn hảo. Nhưng Chúa nhìn thấu rõ đáy lòng anh. Chúa muốn thanh luyện anh. Đưa anh vào một lựa chọn quyết liệt. Chỉ chọn một mình Chúa mà thôi. Dù anh đã tốt lành. Nhưng vẫn còn gắn bó với tiền bạc hơn Chúa. Chưa đủ yêu Chúa nên không thể theo Chúa mà không được tiền bạc. Chưa đủ tin Chúa nên không thể gắn bó với kho tàng trên trời. Tiền bạc vẫn là một thứ ngẫu tượng. Vẫn là thói đời. Vẫn là cái bẫy ma quỉ xác thịt thế gian giăng ra để nhốt kín con người.
Xin Chúa thanh tẩy con sạch mọi thứ ngẫu tượng. Cho con hoàn toàn từ bỏ mọi dính bén thế gian. Cho linh hồn con hoàn toàn trong sạch. Cho con hoàn toàn chết cho thế gian. Để con chỉ còn một mình Chúa thôi.
Chúa hay làm những chuyện ngược đời: “Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu”. Ghít-ôn là người nhỏ nhất trong một chi tộc nhỏ nhất lại được Chúa chọn làm Thủ lãnh của dân Chúa (năm lẻ). Người thanh niên đạo đức và giầu có, về phương diện xã hội vượt trội hẳn Phê-rô, nhưng chắc chắn sẽ trở thành kẻ đứng chót vì anh ta chối từ lời mời gọi của Chúa. Còn Phê-rô, người ngư phủ nghèo hèn thất học lại trở thành người lãnh đạo Giáo hội. Thành Tia giầu có và kiêu hãnh sẽ bị Chúa cho ngoại bang đến tàn phá, cả đến mạng sống cũng không giữ được (năm chẵn).
Chẳng thể giải thích được nếu không trở lại nguyên lý nền tảng: Chúa là tất cả, con người là hư vô. Có Chúa là có tất cả. Không có Chúa là không có gì hết.
Người giầu sang phú quí dễ gắn bó với tiền bạc hơn với Chúa và dễ cậy dựa vào thế lực đời này hơn là cậy dựa vào Chúa. Và vì thế dễ tin tưởng vào tiền bạc hơn tin Chúa. Đối với họ, tiền bạc có thể giải quyết tất cả. Chả thế mà thành Tia đã tự coi mình như vị thần ngang hàng với Chúa. Chả thế mà người thanh niên giầu có đã quay lưng trước lời mời gọi của Chúa. Còn người nghèo khó thì không có gì để mất nên dễ yêu mến Chúa. Không có thế lực nào để cậy dựa nên dễ cậy dựa vào Chúa. Chẳng thể tin tưởng vào đâu nên chỉ còn biết tin tưởng vào Chúa. Chẳng còn gì nên dễ nhận ra Chúa là tất cả, là gia nghiệp, là kho tàng, là nguồn mạch mọi sự. Và quả thực chỉ có Chúa mới giải quyết được tất cả mọi vấn đề của con người.
Đặc biệt khi người như thánh Phê-rô, tự trở nên nghèo vì Chúa, vì Chúa mà bỏ tất cả mọi sự, dù là những sự chẳng đáng giá gì như manh lưới rách, chiếc thuyền mục, thì Chúa hứa trả lại gấp bội. Nhưng phần thưởng cao quí nhất là chính Chúa. Người nghèo nhất, chẳng còn gì cho mình đã trở nên nhỏ bé để có thể chui qua lỗ kim. Nhưng rồi được Chúa lại có tất cả.
Giá trị của người theo Chúa không tính bằng thời gian, số lượng công việc nhưng tính bằng tình yêu. Người yêu ít thì trở thành đứng chót. Người yêu nhiều sẽ đứng đầu. Kẻ yêu nhiều nhất là dám bỏ tất cả chỉ để được một mình Chúa.
Hãy noi gương thánh Phê-rô, từ bỏ manh lưới rách, chiếc thuyền mục, căn nhà cũ và gia đình nghèo. Vậy mà có khi ta chỉ gắn bó với những cái cũ kỹ, rách nát chẳng có giá trị gì đấy. Hãy sáng suốt nhận định để từ bỏ những thứ vô dụng để được Chúa là tất cả của ta.
Con người thường dùng quyền lực để áp bức. Vì quyền lực A-vi-me-lec không ngần ngại giết 70 người anh em trong gia đình. Vì lợi, người dân Si-khem không ngần ngại chọn A-vi-me-lec chỉ với lý do đây là người thân (năm lẻ). Nhưng rồi quyền lợi sẽ mâu thuẫn nhau. Người ham quyền ham lợi sẽ bóc lột dân như lời E-dê-kien: “Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt các ngươi làm thịt; nhưng các ngươi lại không lo chăn dắt đàn chiên… Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc” (năm chẵn). Giống như Gio-tham mô tả trong ngụ ngôn chống lại A-vi-me-lec: “Bụi gai trả lời cây cối: Nếu quả thật các ngươi xức dầu phong ta làm vua cai trị các ngươi, thì hãy tới nương náu dưới bóng ta; bằng không, lửa sẽ bốc ra từ bụi gai và sẽ thiêu rụi các cây bá hương Li-băng”(năm lẻ).
Chỉ có Chúa là ông chủ tốt bụng, không đến để khai thác sức lao động của công nhân, nhưng chăm lo cho đời sống của từng người.
Thiên Chúa là ông chủ tốt bụng quan tâm tới từng người, đặc biệt là người bị bỏ rơi. Người thợ không có ai thuê là người kém may mắn trong xã hội. Bị xã hội gạt ra ngoài lề. Chỉ có Thiên Chúa mới quan tâm, mời họ vào làm vườn nho cho Chúa.
Thiên Chúa là ông chủ tốt bụng, không chỉ có công bình mà còn có tình thương. Công bình tuyệt đối chỉ có trong hỏa ngục. Xã hội không tình thương không thể sống được. Xã hội là một toàn thể, là một gia đình Thiên Chúa. Trong một toàn thể, cần phải có sự hài hòa trong tổng thể. Ta liên đới với người khác. Ta không thể hạnh phúc một mình. Người đau khổ là lời chất vấn lương tâm trách nhiệm của ta. Thiên Chúa dậy ta hãy quan tâm tới anh em bé nhỏ khi trả cho người thợ chỉ làm 1 giờ số lương đủ sống cho cả gia đình.
Thiên Chúa là ông chủ tốt bụng, không nhìn con người theo hiệu năng công việc nhưng nhìn theo tình người. Xã hội hôm nay nhìn con người theo hiệu năng. Nên những người già cả, ốm yếu bị loại trừ. Trong mắt Thiên Chúa, con người không những là nhân vị đáng kính trọng mà còn là những người con đáng yêu mến. Theo nhãn quan thiêng liêng, những người bất hạnh, đau khổ là nguồn ơn phúc cho chúng ta vì những đau khổ của họ thông phần vào sự đau khổ của Chúa Giêsu .
Xin cho chúng ta biết chọn ông chủ tốt bụng để chúng ta được quan tâm khi đau yếu, tha thứ khi lỗi phạm và luôn được chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa, Đấng yêu thương chúng ta bằng tình yêu thương vượt tất cả mọi tình yêu thương.
Thiên Chúa yêu thương luôn ngỏ lời với con người, kết ước với con người. Con người lại luôn phản bội, làm ngơ trước lời mời gọi yêu thương của Chúa. Nhưng Thiên Chúa không thể ngừng yêu thương, nên cuối cùng đã sai Con Một xuống trần gian để mời con người vào dự tiệc tình yêu hạnh phúc với Chúa.
Bữa tiệc cưới hết sức yêu thương vì Chúa Giêsu, Con Một yêu dấu của Chúa Cha đã xuống trần ở với nhân loại, mặc lấy thân xác nhân loại, kết duyên với nhân loại. Hai bản tính hòa hợp làm một trong Chúa Giêsu. Đó là bữa tiệc cưới hạnh phúc. Thế nhưng dân nhiều người chối từ tình yêu của Thiên Chúa vì say mê trần gian. “Kẻ thì đi thăm nông trại, người thì đi buôn, còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà hành hạ và giết chết”.
Chúa đành phải từ bỏ khách mời cũ để dành chỗ cho những khách mời mới, thuộc đủ mọi chủng tộc, mầu da, ngôn ngữ, giai cấp khác nhau. Chỉ với một điều kiện: Phải mặc áo cưới. Vào dự tiệc cưới thì phải mặc áo cưới. Đó là tự nhiên và hợp lý. Áo cưới là gì? Là con người mới. Là từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa.
Thủ lãnh Ghíp-tắc đã là người mặc áo cưới. Ở nhà thân phụ, ông là con một khách làng chơi. Khi thân phụ qua đời, ông bị các anh em loại trừ. Khi Ít-ra-en bị quân Am-mon đàn áp, Ghíp tắc nhận lời lãnh đạo kháng chiến với điều kiện “Chúa ở với ông”. Chúa đã ở với ông, và ông trở thành một người mới. Ông chiến thắng quân Am-mon. Và hơn thế nữa, ông giữ lời đã thề hứa với Chúa là dâng chính con một của mình cho Chúa. Ông đã trở thành người lãnh đạo nêu gương cho dân vì trung tín giữ lời giao ước. Ghíp-tắc đã bị loại trừ nay lại được mời gọi vào Nước Chúa. Vì ông bỏ ý riêng và trung tín làm theo ý Chúa.
Tiên tri Ê-de-kien cho biết con người mới mặc áo cưới là con người có trái tim mới, một trái tim bằng thịt biết rung động trước tình yêu của Chúa, chứ không còn là trái tim chai đá chỉ biết chạy theo những gian dối của trần gian. Trái tim mới cũng là trái tim trong sạch vì được tẩy rửa trong nước thánh, sạch mọi thần tượng trần gian ô uế và gian tà để xứng đáng đón tiếp tình yêu của Chúa. Trái tim mới là trái tim sống theo Thần Khí, biết đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Chúa và đem ra thực hành. Chứ không còn sống theo xác thịt với những đam mê dục vọng của nó.
Con người mới có trái tim mới đó chính là con người mặc áo cưới mới, xứng đáng với bàn tiệc hạnh phúc Chúa dọn cho nhân loại.
Người Do thái tôn sùng lề luật. Họ say mê lề luật. Họ tuyệt đối tin lề luật. Nên họ câu nệ lề luật. Vì thế họ bị lạc trong rừng lề luật. Không còn biết lối ra. Không biết đâu là luật chính đâu là luật phụ. Họ đi vào ngõ cụt. Đạo Do thái đi vào cái chết. Hôm nay Chúa Giê-su chỉ cho họ điều luật quan trọng nhất. Điều luật chính yếu. Tóm tắt tất cả lề luật. Đó là Mến Chúa Yêu Người. Chúa mở ra một con đường. Con đường tình yêu. Chúa mở ra sự sống. Tình yêu là lẽ sống. Thiên Chúa là tình yêu. Ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa. Thiên Chúa là sự sống. Ai ở trong Thiên Chúa là ở trong sự sống.
Bà Rút tuy là dân ngoại nhưng đã sống trong Chúa. Vì bà sống trong tình yêu. Chồng đã chết bà chẳng còn gì ràng buộc với gia đình nhà chồng. Bà đi theo mẹ chồng chỉ vì tình yêu. Thương bà mẹ già không ai đỡ đần. Nên tình nguyện đi theo mẹ và hợp nhất với mẹ: “Mẹ đi đâu, con đi đó. Mẹ ở đâu, con ở đó. Dân của mẹ là dân của con. Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con”. Đúng là yêu nhau yêu cả đường đi. Vì thế bà xứng đáng được trở thành tổ phụ sinh ra vua Đa-vít. Là dòng dõi sinh ra Chúa Cứu Thế (năm lẻ).
Đó là đời sống theo Thần Khí chứ không theo xác thịt. Thần Khí ban sự sống. Đó là điều Ê-dê-ki-en được thấy trong thị kiến những bộ xương khô. Những người phản bội Thiên Chúa, sống theo xác thịt đã chết thành những bộ xương khô. Nhưng khi có Thần Khí lập tức những bộ xương khô mặc lấy da thịt. Xác chết sống lại. Thiên Chúa yêu thương phục hồi con người. Những ai yêu mến trong Thiên Chúa không còn là xác thịt. Nhưng là Thần Khí. Họ sẽ có sự sống (năm chẵn).
Lời Chúa hôm nay chất vấn chúng ta. Chúng ta giữ quá nhiều lề luật. Nhưng lại quên điều luật quan trọng nhất. Chúng ta sống theo lý trí quá nhiều. Nên quên mất tình yêu. Chúng ta lo làm những việc lớn lao. Nhưng không nhìn đến những người bé nhỏ nhất ngay bên cạnh chúng ta. Bà Rút không làm gì lớn lao. Bà đi mót lúa. Chỉ để nâng đỡ bà mẹ già. Chẳng phải một mệnh phụ phu nhân. Nhưng là một bà goá nghèo hèn. Đó là tình yêu.
Không có tình yêu ta chỉ là những bộ xương khô chết choc. Có tình yêu ta sẽ có da có thịt. Có sự sống. Sống cho bản thân. Sống cho những người chung quanh. Sống cho thế giới.
Rt 2, 1-3.8-11; 4, 13-17; Ed 43, 1-7a; Mt 23, 1-12 Ai cũng muốn được tôn lên. Ai cũng tránh bị hạ xuống. Nhưng vấn đề là ai có thể tôn ta lên hay hạ ta xuống. Sống ở đời ta thường tìm những gì trước mắt, muốn được tôn lên trước mặt người đời và muốn được người đời tôn lên. Nhưng đó lại là những gì phù phiếm mau qua. Chỉ những ai được Thiên Chúa tôn lên mới có giá trị vì đó là danh giá thật và tồn tại vĩnh viễn. Vì Thiên Chúa mới thực là chủ nhân của thế giới, thế giới hiện tại và nhất là thế giới tương lai. Đó chính là nguyên lý nền tảng mà ta phải ghi nhớ. Nhìn nhận Thiên Chúa là chủ, là tất cả, ta sẽ biết khiêm nhường sống trước mặt Chúa. Trước mặt Chúa ta chỉ là hư vô, phàm hèn, bất xứng. Khi biết sống sự thực về mình ta được Thiên Chúa yêu thương và nâng lên. Tất cả là do tình thương của Chúa, ta không có gì xứng đáng.
Bà Rút là người biết thân phận của mình. Bà biết mình là người yếu kém chẳng có giá trị gì. Vì bà là người góa bụa chẳng có ai bênh vực. Hơn nữa bà là ngoại kiều chẳng có quyền lợi gì. Thế nên bà không dám tự tôn mình lên. Càng không dám mong chờ mình được người khác tôn lên. Thế mà bà vẫn không ngần ngại gắn bó với bà mẹ chồng. Bà mẹ chồng Nao-mi vốn là một người nghèo, lại góa bụa nên sẽ chẳng có thể giúp gì cho bà Rút. Nhưng bà Rút chỉ vì yêu thương đã dám chấp nhận mọi liều lĩnh, nguy cơ vì yêu mẹ chồng và vì chọn Chúa. Trước mặt Bo-at bà Rút đã tự hạ mình, phủ phục và tự xưng là ngoại kiều nghèo hèn.
Nhưng Chúa đã nâng bà lên. Nâng lên trong địa vị xã hội khi cho bà kết hôn với Bo-át. Hơn nữa lại cho bà có con trai. Nhưng tuyệt vời trên cả ước mơ, Chúa nâng bà lên trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, cho bà sinh ra ông nội của vua Đa-vít, và nhất là cho bà được tham dự vào mầu nhiệm cứu độ, trở nên tổ phụ của Chúa Giê-su nhập thể. Không còn vinh dự nào hơn. Không còn hạnh phúc nào sánh bằng. Quả thật ai hạ mình xuống sẽ được Thiên Chúa tôn lên. Tôn lên đến một chiều cao bất ngờ. Và nhất là tôn lên trong địa vị vĩnh viễn không bao giờ bị ai lấy mất(năm lẻ).
Ê dê kien đã thấy điều đó trong thị kiến khi tiên báo Ít-ra-en sẽ thoát cảnh lưu đầy. Và khi trở về quê hương sẽ tập trung vào việc thờ phượng Chúa. Mọi sinh hoạt của dân Ít-ra-en mới sẽ tập trung quanh Đền Thờ. Và Thiên Chúa sẽ chúc phúc cho họ. Vinh quang Thiên Chúa tràn ngập Đền Thờ. Đó sẽ là vinh quang của Ít-ra-en. Như thế Ít-ra-en kính sợ Chúa sẽ được Chúa tôn vinh. Ít-ra-en bị hạ nhục làm nô lệ sẽ được Chúa nâng lên địa vị dân ưu tuyển, sẽ chiếu tỏa vinh quang Đức Chúa cho muôn dân.
Vận mệnh một cộng đoàn tùy thuộc rất nhiều vào lãnh đạo. Lãnh đạo sáng suốt sẽ giúp cộng đoàn phát triển. Lãnh đạo sai lầm sẽ tàn phá cộng đoàn nhanh chóng. Chúa Giêsu chê trách người Pha-ri-sêu vì họ đưa dân vào chỗ sai lạc, chết chóc.
Họ sai lạc vì giữ tín đồ lại cho mình, chứ không dẫn đưa kẻ tin đến với Chúa. Tự giam hãm, trói buộc mình trong những mớ luật lệ tỉ mỉ, phức tạp làm thui chột sức sống, họ không chịu vào Nước Trời mà còn ngăn cản không cho người khác vào.
Họ sai lạc vì dẫn đưa người khác đến chỗ chết, xô đẩy họ vào hỏa ngục khi loan truyền một thứ đạo không mến Chúa, cũng chẳng yêu người.
Họ sai lạc quá xa khi đưa ra một thứ đạo dừng lại ở vật chất, hình thức bên ngoài. Thề thốt và tin rằng những vật chất quí giá là vàng bạc và lễ vật có thể chứng giám lời thề. Nhưng không đặt mình trước mặt Chúa, thiếu đức tin vào Chúa. Đạo không có Chúa chỉ là trống rỗng. Thờ phượng chỉ dừng lại ở vật chất và lễ nghi chỉ là lừa bịp. Sống đạo chỉ vụ lề luật là một thứ vong thân, tha hóa khiến ta thành nô lệ.
Thánh Phao-lô tỏ ra là người dẫn đường sáng suốt khi không biến mình thành ngẫu tượng. Tuy được dân đón nhận, tin yêu, thánh nhân không bắt họ dừng lại nơi mình, nhưng đã dẫn họ đến với Chúa. Ngài biết rằng tín hữu có niềm tin không phải nhờ tiếng nói của ngài nhưng “còn có quyền năng của Thánh Thần” (năm lẻ).
Ngài khen ngợi dân thành Thessalonica vì họ đã biết “từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với thiên Chúa để phụng thờ Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa thật”. Hơn nữa họ đã vượt qua những khó khăn thử thách mà vẫn vững tin vào Chúa, vẫn yêu mến Chúa và nhất là vẫn trông cậy, chờ đợi Chúa Giêsu Kito, Đấng Cứu Độ ngự đến.
Ngài mặc khải cho họ biết đạo Chúa là đạo tình yêu. Ngài chúc mừng tín hữu Thessalonica vì họ “là những người được Thiên Chúa thương mến, chúng tôi biết rằng Thiên Chúa đã chọn anh em”. Vì thế đạo không phải là một khái niệm trừu tượng hay một mớ luật lệ vô hồn. Vì trong đạo họ được sống trong tự do, được gặp gỡ Thiên Chúa sống đọng trong một tương quan liên chủ thể.
Với người lãnh đạo sáng suốt, dân Chúa được dẫn đưa trên đường ngay nẻo chính, được gặp Chúa. Và được sống. “Như thế, danh của Chúa chúng ta là Đức Giêsu, sẽ được tôn vinh nơi anh em, và anh em được tôn vinh nơi Người” (năm chẵn).
Trong đời sống phân định là rất quan trọng. Nhất là phân định được điều chính điều phụ. Đối với công việc làm ăn, đánh giá sai chỉ dẫn đến thua lỗ. Nhưng đối với đời sống, đánh giá sai làm hỏng cả cuộc đời.
Chúa Giêsu chê trách người Pha-ri-sêu và kinh sư trong đời sống đạo, họ không phân biệt được điều chính điều phụ. Họ cất công giữ chi li những điều cỏn con, nhưng lại coi thường, bỏ qua những điều quan trọng. “Họ nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín”. Chúa Giêsu chê trách họ “lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà”. Thật là lầm lẫn tai hại. Bỏ những điều nền tảng cốt yếu thì dù giữ những điều nhỏ nhặt nhất cũng trở thành vô ích. Vì không phân định được nên họ thường chú ý tới hình thức bên ngoài mà bỏ quên nội dung bên trong. Rửa chén bát là việc họ rất coi trọng. Nhưng nực cười là đối với họ chỉ cần rửa bên ngoài là đủ. Thật là hình thức. Và Chúa Giêsu gọi họ là giả hình, là đạo đức giả. Vì không những họ không quan tâm rửa bên trong chén bát mà nhất là họ không quan tâm tẩy rửa linh hồn. Đạo không đi vào nội tâm thì chỉ là lừa dối.
Thánh Phao-lô khen ngợi giáo đoàn Tét-xa-lô-ni-ca, vì họ là dân ngoại mới tin Chúa nhưng đã vượt qua người Pha-ri-sêu khi biết giữ những điều chính yếu trong đạo. Khi thánh Phao-lô bị người Phi-lip-phê làm nhục và người Do thái tại Tét-xa-lô-ni-ca từ chối, dân ngoại Tét-xa-lô-ni-ca đã đón tiếp ngài, đón nhận Tin mừng Chúa Ki-tô và yêu thương đùm bọc thánh Phao-lô. Họ cũng biết giữ đạo từ trong nội tâm khi vượt qua tất cả mọi khó khăn thử thách để trung thành với đức tin (năm lẻ).
Ngài khuyên nhủ họ không nên tin vào những điều nhảm nhí, ví dụ như tin đồn về ngày tận thế: “Nếu ai bảo rằng…ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ. Đừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào”. Hãy giữ những điều cốt lõi của đạo: “Hãy đứng vững và nắm giữ các truyền thống chúng tôi đã dạy cho anh em”. Thánh nhân cầu nguyện cho dân thành được Chúa “yêu thương và dùng ân sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất diệt và niềm cây trông tốt đẹp” (năm chẵn).
Đời sống đạo hôm nay của tôi thế nào? Có biết xây dựng điều chính yếu. Hay chỉ chú tâm đến những gì phụ thuộc? Có tập trung vào Chúa Ki-tô? Hay chỉ tin những điều nhảm nhí, mê tín?
Trong ta luôn luôn có những góc tối khuất nẻo, khó có ai nhìn thấy. Nói và làm không đi đôi với nhau. Đó là những yếu đuối của con người muôn thưở. Nhưng nếu thỏa hiệp và tệ hơn nữa chủ trương để những tương phản đó trở thành một thái độ sống thì thật tồi tệ. Người ta trở thành giả hình và lừa dối. Đó là trường hợp những người Pha-ri-sêu. Chúa Giê-su gọi họ là những mồ mả tô vôi.
Là mồ mả tô vôi vì phần bên ngoài quá đẹp đẽ. Người Pha-ri-sêu am hiểu Lề Luật, được tôn làm bậc thầy dậy dỗ Lề Luật cho mọi người. Ngoài ra họ còn nêu gương về đời sống đạo đức, ăn chay và cầu nguyện rất nhiều. Nhưng bên trong tâm hồn lại là một tương phản đáng ghê tởm: đầy sự gian ác và đạo đức giả.
Là mồ mả tô vôi vì họ xây mộ các tiên tri mà cha ông họ đã giết. Một hành vi che đậy tội lỗi dưới lớp vỏ bọc nhân nghĩa. Ác nhân được tiếng là thiện nhân. Tội nhân mặc lấy áo thánh nhân. Vì hôm nay họ vẫn tiếp tục giết Chúa Giê-su, một tiên tri trổi vượt trên mọi tiên tri. Tội ác của họ còn nặng nề hơn tội của cha ông họ gấp bội.
Theo lời dạy của Chúa, thánh Phao-lô không chấp nhận lối sống hai mặt như mồ mả tô vôi. Nên thánh nhân đã phê phán những người mang danh Ki-tô hữu nhưng sống vô kỷ luật, không xứng với danh hiệu. Ngài ra chỉ thị rõ ràng: “Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn”. Chính bản thân ngài luôn sống một cuộc sống chân thực, không giả dối, hình thức bề ngoài. Không ngồi trên tòa, “không ăn bám ai, trái lại đêm ngày làm lụng khó nhọc vất vả, để khỏi nên gánh nặng cho người khác”. Dù ngài “có quyền hưởng sư giúp đỡ” và được trọng vọng (năm chẵn).
Sống chân thực nên ngài sống “thánh thiện, công minh, không chê trách được”. Không xa cách dân chúng nhưng “cư xử với mỗi người trong anh em như cha với con”. Không nói lời của mình mà chỉ “nói cho anh em nghe lời Thiên Chúa”. Không giữ tín hữu lại cho mình, nhưng qui hướng mọi tâm hồn về với Chúa: “chúng tôi đã khuyên nhủ, khích lệ, van nài anh em sống xứng đáng với Thiên Chúa”. Không tìm vinh quang cho mình, nhưng tìm vinh quang cho Chúa và hướng mọi người đáp lại lời của “Đấng kêu gọi anh em vào Nước của Người và chia sẻ vinh quang với Người” (năm lẻ).
Đời sống của tôi hôm nay thế nào? Có trung thực trước mặt Chúa và anh em không? Tôi vẫn còn điều gì phải che giấu? Hãy sống trung thực. Vì ta chẳng thể lừa dối Chúa.
1Th 3, 7-13; 1Cr 1, 1-9; Mt 24, 42-51 Chúa Giê-su cho ta biết mỗi người đều là quản gia của Chúa. Mỗi người được Chúa trao cho một số tài sản và một số nhân sự để ta chăm sóc phục vụ. Theo Chúa, người quản gia tỉnh thức phải là người trung tín và khôn ngoan.
Trung tín là biết rằng mọi sự ta có là của Chúa, nên không được dùng theo ý riêng. Phải dùng mọi của cải Chúa ban để phục vụ Chúa và phục vụ anh em. Người đầy tớ xấu xa lạm dụng quyền thế, thay vì phục vụ thì lại áp bức hành hạ anh em. Người này cũng lạm dụng của cải của chủ, thay vì dùng cho lợi ích chung thì lại vun quén cho bản thân trong việc chè chén say sưa.
Khôn ngoan cho bản thân là biết lo xa, phòng ngừa, không để bị bất ngờ bằng cách tỉnh thức lúc nào cũng sẵn sàng, lúc nào cũng chu toàn nhiệm vụ, dù chủ có về bất ngờ cũng đang nghiêm chỉnh thi hành nhiệm vụ. Khôn ngoan trong nhiệm vụ với anh em là biết đúng giờ đúng lúc phân phát lúa thóc. Phục vụ anh em đúng người, đúng việc, đúng lúc. Đây là điều khó đòi hỏi phải rất tỉnh thức đối với từng người, từng việc và thời cuộc. Người không khôn ngoan tưởng thời giờ còn dài nên sinh ra ăn chơi hưởng thụ và sẽ bất ngờ bị chủ trở về trừng phạt.
Thánh Phao-lô tỏ ra là một người quản gia trung tín và khôn ngoan. Nhận biết mình được tuyển chọn để rao giảng Tin Mừng, ngài đã trung tín với nhiệm vụ cho đến cùng. Được Chúa trao cho các giáo đoàn, ngài trung tín với họ. Khi ở gần, hết lòng rao giảng, dậy dỗ, khuyên bảo, sửa trị. Khi đi xa thì viết thư thăm hỏi và tiếp tục giáo huấn. Và mong ước được gặp gỡ để tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ: “Đêm ngày chúng tôi tha thiết nài xin Chúa cho được thấy mặt anh em, và bổ túc những gì còn thiếu trong đức tin của anh em”. Trung tín nên luôn gắn bó với giáo đoàn đến nỗi giáo đoàn trở thành lẽ sống, thành niềm an ủi của ngài: “vì anh em có lòng tin, nên khi nghĩ đến anh em, chúng tôi được an ủi giữa mọi thống khổ gian truân chúng tôi phải chịu” (năm lẻ).
Khôn ngoan nên ngài hiểu biết rõ mặt mạnh mặt yếu của từng giáo đoàn mà uốn nắn họ. Sửa chữa những lầm lỗi, nhưng khen ngợi và khích lệ những ưu điểm: “Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, vì ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Giêsu Ki-tô”. Khôn ngoan nên ngài luôn hướng lòng các giáo đoàn về ngày cánh chung: “Thiên Chúa sẽ làm cho anh em nên vững chắc đến cùng, nhờ thế không ai có thể trách cứ được anh em trong Ngày của Chúa” (năm chẵn).
Tôi có là người quản gia trung tín và khôn ngoan của Chúa không?
Hạnh phúc Nước Trời được Chúa Giê-su diễn tả bằng một hình ảnh đẹp đẽ và thơ mộng: cầm đèn đón rước chàng rể. Bóng đêm làm cho đám rước tăng thêm vẻ đẹp thơ mộng. Bóng đêm làm cho đèn càng sáng hơn, giá trị hơn. Nhưng bóng đêm tạo nên bất hạnh cho người không có đèn hay có đèn mà đèn không sáng. Hai yếu tố quan trọng trong cuộc đón rước là dầu và cơ hội.
Đám rước ban đêm cần có đèn. Đèn cần có dầu để sáng. Vì đêm quá dài nên phải chuẩn bị dầu cho đủ. Nếu đèn là ánh sáng đức tin thì dầu chính là việc làm biểu lộ đức tin. Thánh Gia-cô-bê nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Nếu đèn là ánh sáng thánh thiện thì dầu là cuộc sống trong sạch, không vương ô uế. Thánh Phaolo trong thư 1 Tét-xa-lô-ni-ca cho rằng đó là sống đẹp lòng Thiên Chúa. Mà “ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh”. Và ngài cắt nghĩa nên thánh là sống trong sạch, “xa lánh gian dâm… không buông theo đam mê dục vọng” (năm lẻ).
Việc sống trong sạch, không chiều theo đam mê dục vọng, có thể bị người đời cho là khờ dại, và người thời nay cho là không chấp nhận được. Đó thật là đóng đinh vào thập giá, là sự điên rồ. Nhưng “cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (năm chẵn).
Cơ hội gặp Chúa chỉ có một lần trong đời. Ngàn năm có một. Cơ hội đã qua không bao giờ trở lại. Đó là lý do khiến ta không bao giờ được lơ là trong việc tỉnh thức chờ đợi và không bao giờ quên sắp sẵn dầu trong bình. Chính vì thế thánh Phao-lô tuy khen ngợi dân Tét-xa-lô-ni-ca sống tốt, nhưng vẫn nhắc nhở họ phải phấn đấu hơn: “Anh em đã được chúng tôi dạy phải sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa, và anh em cũng đang sống như thế; vậy nhân danh Chúa Giêsu, chúng tôi xin, chúng tôi khuyên nhủ anh em hãy tấn tới nhiều hơn nữa”.
Cơ hội chỉ có một lần trong đời vì thế phải hết sức cảnh giác và tăng cường ngày càng tỉnh thức hơn. Cơ hội qua đi không bao giờ trở lại. Trong chớp mắt số phận phân đôi. Kẻ nắm được cơ hội đi vào hạnh phúc. Kẻ lỡ cơ hội suốt đời khóc lóc. Nhưng khi ta biết thì đã quá muộn. Cửa thiên đàng đã đóng lại thì người lỡ cơ hội chỉ còn đi trong bóng đêm.
Tôi có chuẩn bị dầu đầy đủ. Và có quyết tâm không lỡ cơ hội?
Dụ ngôn những nén bạc thật quan trọng. Nói lên nền tảng của đời sống con người. Nền tảng đó là mọi sự ta có đều là của Chúa. Hiện hữu ta là của Chúa. Ta là hư vô. Chúa đã kéo ta từ hư vô vào hiện hữu. Sự sống ta là của Chúa. Chúa ban cho ta tất cả. Có sự sống là có tất cả. Không có sự sống là không có gì hết. Kể cả linh hồn. Kể cả thiên đàng. Sau sự sống là tất cả. Sức khoẻ. Trí tuệ. Tài năng…
Vì tất cả mọi sự là của Chúa nên ta phải làm việc cho Chúa. Nén bạc Chúa trao phải được sinh lợi. Thân xác ngày càng mạnh khoẻ. Trí tuệ ngày càng thông minh. Linh hồn ngày càng thêm đức hạnh. Phải làm việc để thăng tiến bản thân, thăng tiến gia đình, thăng tiến xã hội, phát triển thế giới trong trật tự, hoà bình, thịnh vượng . Đó là điều thánh Phao-lô khuyên nhủ dân thành Thê-xa-lô-ni-ca: “Anh em hãy tiến tới nhiều hơn nữa. Hãy gắng giữ hoà khí, ai lo việc nấy và lao động bằng chính bàn tay của mình, như chính tôi đã truyền cho anh em” (năm lẻ).
Sau khi làm việc cho Chúa ta đặt tất cả thành quả dưới chân Chúa, Chúa lại ban tất cả cho ta. Vì thế Chúa bắt ta làm việc để chính mình được hưởng. Những ai không chịu làm việc. Muốn khẳng định mình không thuộc quyền Thiên Chúa. Muốn chiếm đoạt những gì của Chúa thành của riêng mình. Cho rằng mọi sự là của mình. Mình có quyền tự quyết. Trước mặt người đời họ được xưng tụng là khôn ngoan thông thái. Nhưng trước mặt Chúa họ thật khờ dại. Vì Chúa sẽ lấy lại những gì của Chúa. Họ chỉ còn là hư vô. Là xấu xa. Là nghèo túng.
Những ai khôn ngoan theo kiểu người đời sẽ trở thành khờ dại trước mặt Chúa. Những ai tưởng là khờ dại trước mặt người đời thực ra là khôn ngoan. Vì họ nhận biết nền tảng của mình ở nơi Chúa. Mọi sự là của Chúa. Như lời thánh Phao-lô dạy: “Những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh; những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để huỷ diệt những gì hiện có, hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt người…Ai có tự hào thì hãy tự hào trong Chúa” (năm chẵn).
Người tôi tớ bị phạt vì muốn chối từ quyền làm chủ của Chúa. Muốn tự mình làm chủ đời mình. Nên anh trở về đúng tình trạng của mình là không có gì hết. Vì chính sự sống của anh là của Chúa. Từ chối Chúa là mất tất cả.
1Tx 4, 13-18; 1Cr 2, 1-5; Lc 4, 16-20 Có gì đó cay đắng và đau xót. Bao năm mòn mỏi đợi chờ Đấng Cứu Thế, nhưng khi Chúa Giê-su đến thực hiện lời hứa, ứng nghiệm những tiên báo trong Lề Luật và các Tiên Tri thì người Do thái không những không tin, thậm chí còn chối bỏ và muốn giết Người. Còn gì đau đớn hơn khi: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Chúa Giê-su đã dành hết tâm huyết cho quê hương. Loan báo lời I-sai-a ứng nghiệm. Loan báo chương trình cứu nhân độ thế khởi đầu. Công bố chương trình hành động của việc cứu độ. Nhưng chuyến trở về quê hương thật bẽ bàng. Có lẽ vì họ có thiên kiến Người xuất thân nghèo hèn, trong gia đình bác thợ mộc Giuse. Và họ đã lỡ cơ hội. Đánh mất niềm hi vọng.
Họ có ngờ đâu chính sự nghèo hèn, sự thất bại của Chúa Ki-tô, đặc biệt cái chết nhục nhã trên thánh giá của Người chính là cơ hội cho một đức tin chân thực hoàn toàn khác biệt với niềm tin dựa trên những giá trị trần gian. Chính vì thế, với giáo đoàn Cô-rin-tô, thánh Phao-lô chỉ rao giảng Chúa Ki-tô chịu đóng đinh. Đó là một sứ điệp thô nhám, mộc mạc, không trau chuốt, tô vẽ. Nhưng đó là chân lý, là niềm hi vọng. Để những ai tin Chúa có một đức tin nguyên tuyền không dựa vào sự khôn ngoan của người đời. “Vì hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì hác ngoài Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh vào thập giá…Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa” (năm chẵn).
Chính nhờ Chúa Giê-su Ki-tô chịu chết và sống lại mà ta có niềm hi vọng. Vì ta cũng sẽ được sống lại với Chúa. Và cả những người thân yêu của chúng ta cũng thế. Vì thế thánh Phao-lô an ủi dân Tét-xa-lô-ni-ca: “Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giê-su đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giê-su, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giê-su…. Rồi đến chúng ta là những người đang sống, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây, để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi” (năm lẻ).
Đó chính là niềm hi vọng lớn lao cho chúng ta. Đó chính là niềm an ủi, là động lực giúp ta vượt qua quãng đường trần thế đầy chông gai thử thách. Đó cũng chính là đích tới của chúng ta những người đặt trọn niềm tin nơi Chúa Ki-tô chịu đóng đinh. Quả thật Thiên Chúa đã dùng sự yếu hèn mà thắng vượt những sự hùng mạnh của thế gian. Dùng sự điên rồ của thánh giá mà thắng sự khôn ngoan của con người.
Ô nhiễm đang là một vấn đề lớn và nan giải. Từ ô nhiễm môi trường sống với nước thải, khói xăng, khí độc đến ô nhiễm thực phẩm với chất bảo quản, với phân bón và với cách chế biến thực phẩm. Nhưng tất cả đều bắt nguồn từ sự ô uế nơi tâm hồn con người. Đừng tưởng thần ô uế chỉ có thời Chúa Giêsu. Nó vẫn hiện diện thời chúng ta và đang tác oai tác quái. Con người bị ô uế từ trong tư tưởng với những ý đồ xấu xa trục lợi. Ô uế thấm vào cả trái tim với những ước muốn tội lỗi. Con người đang hít thở bầu khí ô uế, đươc nuôi dưỡng bằng những món ăn ô uế và còn dự tính mở rộng môi trường ô uế. Những nỗ lực ngăn chặn ô uế, thanh tẩy môi trường đạo đức hầu như vô hiệu. Con người bất lực. Chỉ còn trông chờ sức mạnh của Thiên Chúa.
Có hai điều đáng sợ do ma quỉ lừa gạt. Điều thứ nhất ma quỉ trấn an chúng ta: “Không can gì đâu”. Ô uế không sao đâu. Tội lỗi không sao đâu. Điều Thứ 2 nó thấm nhập và trở thành một phần không thể thiếu của đời ta. Khi Chúa trục xuất thần ô uế, người bị quỉ ám ngã vật xuống như chết đi. Có những sự xấu như tiền bạc, danh vọng, chức quyền, lạc thú trở thành nhu cầu. Ta tưởng sẽ chết nếu thiếu chúng.
Vì thế thánh Phao-lô khuyên các tín hữu Tét-xa-lô-ni-ca hãy vào cuộc chiến đấu. Thần ô uế là bóng tối. Con cái Chúa là ánh sáng. Đi theo thần ô uế là ngủ mê. Đi theo ánh sáng của Chúa phải tỉnh thức. Sống theo thần ô uế là chiều theo dục vọng. Sống theo ánh sáng của Chúa là tiết độ: “Thưa anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ” (năm lẻ).
Đó chính là cuộc chiến giữa xác thịt và Thần khí. Ai sống theo xác thịt thì có sự khôn ngoan của trần gian để chiếm đoạt danh, lợi, thú của trần gian. Ai sống theo Thần Khí thì trước mặt thế gian bị coi là điên rồ, nhưng thực ra họ có sự khôn ngoan của Nước Trời: “Con người sống theo tính tự nhiên thì không đón nhận những gì của Thần Khí Thiên Chúa, vì cho đó là sự điên rồ; họ không thể biết được, bởi vì phải nhờ Thần Khí mới có thể xét đoán” (năm chẵn).
Cuộc chiến rất khốc liệt. Để dứt lìa thần ô uế ta phải đau đớn như chết đi, giống như người bị quỉ ám ngã vật xuống. Chúng ta chỉ thắng được nhờ sức mạnh của Chúa Ki-tô. Nhưng chúng ta chỉ có Chúa khi sống trong ánh sáng, khi đi theo sự hướng dẫn của Thần Khí.
Như mặt trời trên bầu trời tỏa sáng trên muôn loài, đem sức sống cho con người và súc vật, cho hoa nở, cho trái chín, cho giòng nước trong xanh. Như mưa từ trời rơi xuống cho khí hậu mát mẻ, cho lúa mọc, cho sa mạc có sức sống. Tình Chúa bao la ấp ủ muôn loài.
Hãy xem một ngày làm việc của Chúa Giêsu. Người làm việc không biết mỏi mệt. Có giảng dậy trong Hội đường. Có chiến đấu với ma quỉ. Có đám đông mênh mông đến với Người. Nhưng cũng có thời giờ gặp gỡ riêng tư với người thân. Và nhất là có thì giờ tâm sự với Chúa Cha ngay từ sáng sớm. Người đi đến đâu là mở rộng Nước Thiên Chúa đến đấy. Phá tan vương quốc sự dữ. Diệt tan đau khổ, bệnh tật, bất hạnh. Đem đến an ủi, niềm hi vọng. Đem đến sự sống và sự sống dồi dào.
Nhiều người nhìn thấy trong đó mối lợi riêng tư, nên muốn giữ chân Người. Nhưng tấm lòng bao la, Người phải lên đường đi đến với hết mọi người ở khắp mọi nơi. Bao lâu còn khổ đau bước chân Người còn dong duổi. Ở đâu còn bất hạnh trái tim Người còn thổn thức. Tin Mừng chưa đến tận cùng trái đất tâm hồn Người chưa biết đến nghỉ ngơi. Người phải đi khắp nơi vì Nước Trời không biên giới. “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa”.
Nhưng có những môn đệ chưa hiểu điều đó, nên vẫn còn cục bộ phân chia. Kẻ theo A-pô-lô. Người theo Phao-lô. Đó là vì họ còn theo tính xác thịt chưa theo Thần Khí. Đó là vì họ còn muốn thiết lập nước trần gian chưa đi vào Nước Trời. Đó là vì họ còn ấu trĩ chưa đủ trưởng thành. “Vì anh em còn là những con người sống theo tính xác thịt. Bao lâu giữa anh em có sự ghen tương và cãi cọ, thì anh em chẳng phải là những con người sống theo tính xác thịt và theo thói người phàm sao? Khi người này nói: “Tôi, tôi thuộc về ông Phao-lô” …thì anh em chẳng là người phàm tục sao” (năm chẵn).
Người môn đệ phải có tấm lòng bao la như Chúa. Bao la để đón tiếp và cộng tác với mọi sứ giả của Chúa, dù đó là Phao-lô, Ti-mô-thê hay Ê-páp-ra. Bao la để không chỉ yêu mến người thân, cộng đoàn mà còn yêu mến cả thế giới. Bao la để cho Tin Mừng lớn lên không chỉ ở một địa phương nhưng là toàn cầu. Bao la để cho niềm tin và niềm trông cậy vươn tới Nước Trời: “Tin Mừng này đang sinh hoa trái và lớn lên trên toàn thế giới như thế nào, thì nơi anh em cũng vậy” (năm lẻ).
“Họ bỏ hết mọi sự mà theo Người”. Trong đời sống ai càng chiếm hữu được nhiều và biết dùng mọi cơ hội để có thêm được coi là khôn ngoan. Thánh Phê-rô và các bạn hôm nay chắc chắn bị nhiều người cho là dại dột. Đang mệt mỏi cần đi nghỉ, nhưng đã sẵn sàng cho Chúa mượn thuyền và còn cất công chèo thuyền cho Chúa rao giảng. Các ngư phủ chuyên nghiệp đánh cá suốt đêm không đuợc gì lại vâng theo lệnh Chúa, một người thợ mộc, tiếp tục ra khơi. Và sau một mẻ lưới phi thường, tưởng có thể là cơ hội phát triển công ăn việc làm, lại bỏ tất cả đi theo Chúa. Các ngài đã từ bỏ nhiều thứ và sau cùng từ bỏ tất cả. Bỏ cả gia đình vợ con. Bỏ cả nếp sống quen thuộc với nghề nghiệp vững vàng. Bước vào hành trình phiêu lưu. Theo đuổi một công việc mới: “thu phục người ta”. Không có gì bảo đảm. Không biết đích điểm. Không thấy tương lai. Có dại dột quá không?
Thánh Phao-lô cho biết đó là những người khôn ngoan nhất. “Vì sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa”. Nên “nếu trong anh em có ai tự cho mình là khôn ngoan theo thói đời, thì hãy trở nên như điên rồ, để được khôn ngoan thật”. Khôn ngoan thật là biết rằng “tất cả thuộc về anh em, mà anh em thuộc về Đức Ki tô, và Đức Ki tô lại thuộc về Thiên Chúa”. Bỏ hết mọi sự, dâng hết mọi sự cho Chúa chính là đi vào nguồn mạch sự phong phú, là kho tàng của mọi kho tàng, là chiếm được tất cả. Vì Chúa là tất cả (năm chẵn).
Tất nhiên để đạt đến sự khôn ngoan trong Thiên Chúa, ta phải trải qua rất nhiều thử thách. Chính vì thế thánh Phao-lô luôn cầu nguyện để chúng ta “được am tường thánh ý Thiên Chúa với tất cả sự khôn ngoan và hiểu biết mà Thần Khi ban cho”. Khi đó ta sẽ biết sống như Chúa đòi hỏi, sinh nhiều hoa trái và ngày càng hiểu biết Chúa hơn. Khi đó Chúa sẽ ban sức mạnh để ta kiên trì vượt qua mọi khó khăn thử thách. Nhờ đó ta sẽ xứng đáng đạt tới vinh quang của Thiên Chúa trong cõi đầy ánh sáng. “Nhờ sức mạnh vạn năng của Thiên Chúa vinh quang, anh em sẽ nên mạnh mẽ để kiên trì chịu đựng tất cả. Anh em hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho anh em trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của dân thánh trong cõi đầy ánh sáng”. Như vậy tuy yếu đuối trước mặt thế gian, ta sẽ trở nên mạnh mẽ. Điên dại trước mặt thế gian ta sẽ nên khôn ngoan. Nghèo khó trước mặt thế gian ta vô cùng giầu có vì được hưởng gia nghiệp của Chúa. Và gia nghiệp ấy bền vững mãi mãi (năm lẻ).
Lạy Chúa, xin cho con biết điên rồ, nghèo hèn và dại dột trước mặt thế gian. Để được sáng suốt, giầu sang và khôn ngoan trong Nước Trời. ---------------------------------
Chúa Giêsu đến mang luồng gió mới cho tương quan Thiên Chúa – con người. Trong đạo cũ, dù biết bao lần Thiên Chúa bày tỏ tình yêu thương, sự gần gũi, nhưng con người vẫn cảm thấy Thiên Chúa không những xa cách mà còn hà khắc và hay trừng phạt. Vì thế đạo cũ mang nặng mầu sắc sợ sệt, buồn bã. Chúa Giêsu giáng trần làm cho con người được gần gũi Thiên Chúa. Hơn nữa Người còn mặc khải cho ta biết đạo mới là đạo tình thương. Thiên Chúa yêu thương gần gũi con người. Thiên Chúa cưới lấy con người. Chúa Giê-su chính là chàng rể đem đến hạnh phúc làm cho đời sống vui tươi. “Chẳng lẽ các ông lại có thể bắt khách dự tiệc cưới ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ”? Thiên Chúa ở với con người. Thiên Chúa nên một với con người. Quả là một hạnh phúc mà con người từng mơ ước từ ngàn đời. Thiên Chúa biến đổi thân phận con người. Đó là một đạo mới. Đó là thứ rượu mới. Rượu đem lại vui tươi phấn khởi cho người mới. Rượu mới phải chứa trong bầu da mới. Đạo mới phải có con người mới. Có cung cách mới.
Nếu đạo cũ cần nhiều luật lệ thì đạo mới chỉ cần Chúa Ki-tô. Chỉ cần ở trong Chúa Ki-tô là đủ. Chúa Ki-tô là tất cả. Người là nguồn mạch mọi hiện hữu, “là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thụ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành”. Người là nguyên lý tồn tại của mọi loài: “Người có trước muôn loài môn vật, tất cả đều tồn tại trong Người”. Và tuyệt vời hơn nữa nay Người qui tụ chúng ta thành một thân thể mà Người là Đầu: “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh”. Là đầu để đưa các chi thể đến vinh quang. Đầu tiến đến đâu thì chi thể cũng tiến đến đấy. Người đã sống lại nên chúng ta cũng sẽ được sống lại: “là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại”. Người đã đạt tới tầm vóc viên mãn để chúng ta cũng được viên mãn với Người: “vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người” (năm lẻ).
Người nên một với ta. Người trở thành vận mệnh của ta. Vận mệnh đó tuỳ thuộc ta có kết hợp chặt chẽ với Người hay không. Có trung thành với Người hay không.. Thánh Phao-lô ao ước được trở nên “người đầy tớ của Đức Ki-tô”. Nghĩa là hoàn toàn tuỳ thuộc vào Chúa. Sống cho Chúa. Chết cho Chúa. Sự trung thành từ đáy thâm tâm sẽ được tỏ lộ vào ngày sau cùng: “chính Người sẽ đưa ra ánh sáng những gì ẩn khuất trong bóng tối, và phơi bày những ý định trong thâm tâm con người. Bấy giờ, mỗi người sẽ được Thiên Chúa khen thưởng đích đáng”. Lúc đó niềm vui của những kẻ trung tín trong một kết hợp trọn vẹn với Chúa Ki-tô sẽ nên hoàn hảo (năm chẵn).
Phục vụ Tin Mừng là nhiệm vụ cao quí. Tin Mừng giúp phát triển bản thân và thế giới. Nhưng việc phục vụ Tin Mừng không phải dễ dàng. Người phục vụ Tin Mừng phải vất vả gieo trồng để có được mùa gặt phong phú.
Thánh Phao-lô cho tín hữu Cô-rin-tô biết những vất vả mà ngài phải chịu vì phục vụ Tin Mừng: “Cho đến giờ này, chúng tôi vẫn chịu đói khát, trần truồng, bị hành hạ và lang thang phiêu bạt; chúng tôi phải vất vả tự tay làm lụng”. Ngoài vất vả về thể xác, còn có những đau đớn trong tâm hồn: bị nguyền rủa, bị bắt bớ, bị vu khống, bị loại trừ: “Cho đến giờ này, chúng tôi đã nên như rác rưởi của thế gian, như phế vật đối với mọi người” (năm chẵn).
Các tông đồ đói đến nỗi phải tuốt lúa xanh ngoài ruộng mà ăn. Thế mà không yên thân. Vẫn còn bị người Pha-ri-sêu hoạnh hoẹ vì lỗi luật ngày sa-bát. Nhưng Chúa đã lên tiếng bênh vực các ngài bằng trích dẫn trường hợp Đa-vít. Đa-vít cho thuộc hạ ăn bánh tiến trong đền thờ mà không phạm tội. Nhưng đây còn hơn Đa-vít. Là Chúa Thượng của Đa-vít. Vì thế có thể cho các môn đệ tuốt lúa ăn trong ngày sa-bát. Tư tế được ăn bánh tiến trong đền thờ mà không phạm tội. Nhưng Chúa Giê-su mới là Thầy Cả Thượng Phẩm. Người cũng là đền thờ mới. Vì thế có thể cho các môn đệ được tuốt lúa ăn trong ngày lễ nghỉ.
Khi trưng dẫn Đa-vít, Chúa có ý cho biết Người chính là Đấng Cứu Thế muôn dân mong đợi. Từ xưa dân Ít-ra-en luôn mong chờ Đấng Cứu Thế thuộc dòng tộc Đa-vít ra đời. Giải phóng dân khỏi nô lệ. Đưa đất nước đến phồn thịnh, vinh quang. Chúa Giê-su thuộc dòng tộc Đa-vít. Nhưng lại là Chúa của Đa-vít. Là niềm hi vọng của Dân Chúa. Các môn đệ đã gặp được niềm hi vọng ngàn đời. Đã được thấy ơn cứu độ. Nên các ngài theo Chúa, phục vụ Chúa, dù gian nan vất vả.
Chính vì thế, thánh Phao-lô khuyên nhủ tín hữu Cô-lô-xê phải kiên trì giữ vững đức tin: “Anh em chỉ cần giữ vững đức tin, cần được xây dựng vững chắc, kiên quyết và đừng vì nao núng mà lìa bỏ niềm hi vọng anh em đã nhận được”. Chúa là Tin Mừng. Là niềm hi vọng. Chính vì thế Phao-lô sẵn sàng chịu đau khổ. Hãnh diện vì được phục vụ Tin Mừng (năm lẻ).
Sự sống là món quà quí nhất Chúa ban cho con người. Từ sự sống tự nhiên được nâng lên đến sự sống siêu nhiên. Từ con loài người được trở nên con Thiên Chúa. Sự sống quí giá đến nỗi khi con người lơ đễnh làm mất mát, hao hụt, Thiên Chúa đã sai chính Con Một giáng trần để phục hồi sự sống, phục hồi phẩm giá con người. Bệnh tật là hình ảnh của tội lỗi. Nó làm con người bị giảm thiểu. Không thể sống như một con người. Trong xã hội còn bị khinh miệt. Không thể tự nuôi sống bản thân. Không thể chu cấp cho những người thân. Con người mất phẩm giá. Con người bị cái chết thống trị.
Chúa Giê-su đến cứu sống con người. Phục hồi sự sống. Phục hồi phẩm giá. Cho con người sống xứng đáng địa vị con người. Còn hơn nữa, sống xứng đáng địa vị con Chúa. Nhưng thế lực sự dữ vẫn còn đó. Họ chống đối. Họ muốn sự chết thống trị. Chúa Giê-su công khai hỏi họ: “Ngày sa-bát được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay huỷ diệt”. Họ không muốn làm điều tốt. Không muốn cứu sống. Mà còn âm mưu hại Chúa. Vì thế Chúa gặp nhiều khốn khó. Nhưng Chúa sẵn sang chịu chết để con người được phục hồi.
Noi gương Chúa, Thánh Phao-lô, vì niềm hi vọng sự sống của anh em, sẵn sàng chịu đựng mọi gian lao vất vả, để anh em được đạt tới niềm hi vọng vinh quang là Chúa Giê-su Ki-tô: “Để giúp mỗi người nên hoàn thiện trong Đức Ki-tô. Chính vì mục đích ấy mà tôi phải vất vả chiến đấu, nhờ sức lực của Người hoạt động mạnh mẽ trong tôi”. Vì sự sống, người tông đồ sẵn sàng xông vào cuộc chiến. Cùng chịu đau khổ với Chúa để anh em được sống: “Tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào than cho đủ mứ, vì lợi ích cho than thể Người là Hội Thánh” (năm lẻ).
Ma quỉ và thế lực sự chết rất thâm độc. Nó thấm nhập vào bản thân ta. Nó như chất men độc hại vẫn đang còn tồn tại, phá hoại sự sống và phẩm giá con người. Vì thế thánh Phao-lô thúc giục ta: “Anh em không biết rằng chỉ một chút men cũng đủ làm cho cả khối bột dậy lên sao? Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men. Quả vậy, Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ” (năm chẵn).
Chúa Giê-su từ trời xuống. Mang theo năng lực thần thiêng. Chữa lành hết mọi bệnh tật. Xua trừ hết mọi ma quỉ. Nhưng Người chỉ ở trần gian một thời gian. Cần phải có người kế tục sự nghiệp. Người chỉ khai mào trận chiến với ma quỉ và thế lực sự dữ. Cần phải có một đạo quân tiếp tục trận chiến cho đến thành công. Vì thế Người đã tuyển chọn các tông đồ. Đây là một việc hết sức quan trọng. Vì dùng người phàm để tiến hành cuộc chiến thiêng liêng. Người phàm nhưng phải có tinh thần Nước Trời. Cần phải kết hợp với Giê-su. Cần phải mang tinh thần Giê-su. Nên Người thao thức suốt đêm. Cầu nguyện để tìm được những con người xứng đáng. Cân nhắc để xem ai có thể đem tinh thần của Người thấm nhập trần gian.
Tình thần Giê-su là phải kết hợp chặt chẽ với Chúa. Xây dựng đời mình trên nền tảng Giê-su. Trước hết phải tách lìa thế gian. Không mê theo những hứa hẹn giả dối của thế gian ẩn trong “mồi triết lý và những tư tưởng giả dối rỗng tuếch theo truyền thống người phàm và theo những yếu tố của vũ trụ”. Sâu xa hơn nữa, phải phá tung xiềng xích trói buộc của tà thần. Bằng cách chết cho con người cũ. Khi đó ta được “cùng mai táng với Đức Ki-tô khi chịu phép rửa, lại cùng được trỗi dậy với Người”. Khi đó “Người truất phế các quyền lực thần thiêng” Và cho ta được “tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể” nơi Người. Ta được sung mãn vì trở nên chi thể kết hợp với “Người là đầu mọi quyền lực thần thiêng” (năm lẻ).
Tinh thần Giê-su khiến ta chiến thắng ma quỉ và thế lực sự dữ của nước thế gian. Ta sẽ làm chủ bản thân. Không còn tranh giành kiện cáo. Vì không màng những lợi lộc của thế gian. Sẵn sàng chịu mọi bất công thiệt thòi ở đời này. “Dù sao, nguyên việc anh em kiện cáo nhau đã là một thất bại cho anh em rồi. Tại sao anh em chẳng thà chịu bất công? Tại sao anh em chẳng thà chịu thiệt thòi?”. Khi chiến thắng thế gian. Ta trở thành người xét xử thế gian. “Nào anh em chẳng biết rằng dân thánh sẽ sét xử thế gian sao? Mà nếu được quyền xét xử thế gian, anh em lại không xứng đáng xử những việc nhỏ mọn ư? Nào anh em chẳng biết rằng chúng ta sẽ xét xử các thiên thần sao? Phương chi là những việc đời này” (năm chẵn).
Khi mọi người theo Chúa sống theo tinh thần Giê-su. Kết hợp với Chúa. Chết cho thế gian. Ta sẽ được Nước Trời. Có một đạo quân Nước Trời. Sẽ chiến thắng ma quỉ và thế lực sự dữ. Xin cho tinh thần Giê-su ngự trị trong ta. Lan toả đến mọi người. Đem lại chiến thắng cho Nước Trời.
Cl 3,1-11; 1Cr 7,25-31; Lc 6,20-26 Con người luôn khao khát hạnh phúc. Vì Thiên Chúa tạo dựng để con người được hạnh phúc. Con người luôn khao khát. Vì hạnh phúc là có thật. Nhưng con người lại chưa từng gặp được. Cứ mòn mỏi chờ mong. Cứ miệt mài tìm kiếm. Hôm nay Con Chúa xuống thế làm người chỉ cho con người đường đến hạnh phúc. Và vạch rõ những nẻo đường dẫn đến bất hạnh.
Đường đến hạnh phúc ngược với suy nghĩ của phàm nhân. Vì hạnh phúc thật không có ở trần gian. Chỉ có trong Nước Chúa. Ai càng gắn bó với đời này càng thất vọng. Ai càng bám víu vào những giá trị đời này càng bất hạnh. “Khốn cho các người , hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than”. Chỉ có người biết dứt bỏ tham, sân, si mới đạt tới hạnh phúc. Chỉ có người vượt lên trên những ham muốn tầm thường ti tiện của loài người mới đạt tới Nước Trời. “Phúc cho anh em là kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em”. Hạnh phúc thật chỉ có trong Chúa. Là chính Chúa. Ai dứt bỏ mọi cám dỗ vì Chúa sẽ tìm được Chúa. Nhất là ai dám liều mạng sống vì Chúa sẽ được phần thưởng là chính Chúa. Đó là hạnh phúc thật, viên mãn, vĩnh cửu. “Ngày đó anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên tời thật lớn lao”.
Hạnh phúc thật không có ở đời này. Chỉ có ở đời sau. Nên thánh Phao-lô khuyên nhủ ta đừng bám víu vào đời này. Hãy hướng lòng về đời sau. Coi mọi sự đời này như không có. Vì chúng rất mau qua. “Tôi xin nói với anh em điều này: thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như không có; ai khóc lóc, hãy làm như không khóc; ai vui mừng, như chẳng mừng vui; ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả; kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi” (năm chẵn).
Hạnh phúc không thuộc hạ giới. Nên ngài khuyên ta: “Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới”. Và phải dứt khoát: “giết chết những gì thuộc về hạ giới trong con người anh em”. Hạnh phúc không có nơi thủ lãnh thế gian. Nên ta phải sống cho Chúa. Vì“Khi Đức Ki-tô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang” (năm lẻ).
Thật lạ lùng con đường của Chúa. Chịu bất hạnh để được hạnh phúc. Từ bỏ tất cả để được lại tất cả. Chết cho trần gian để sống cho Chúa. Vượt qua hạ giới để vươn lên thượng giới. Chối từ thế gian để đạt tới Nước Trời.
Cl 3,12-17; 1Cr 8,1-7.11-13; Lc 6,27-38 Yêu người thân cận như chính mình đã là khó lắm rồi. Nay Chúa lại đòi hỏi phải yêu cả kẻ thù. Ai có thể làm được? Nhưng Chúa đưa cho ta một phương thế: Hãy nhân từ như Chúa Cha.
Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa luôn yêu thương. Không có mảy may thù ghét nào nơi Người. Người là tình yêu. Chỉ là tình yêu mà thôi. Tình yêu luôn phát ra tình yêu. Bất kể đối tượng thế nào. Có đón nhận hay không. Có yêu thương hay không. Có tốt hay xấu. Người không bị đối tượng qui định. Chính Người qui định đối tượng. Tình yêu Người mạnh hơn tất cả. Người yêu thương tất cả. Tha thứ tất cả. Nhân từ với tất cả.
Tôi thường bị đối tượng qui định. Gặp người tốt thì tôi yêu. Gặp người xấu thì tôi ghét. Tôi làm ơn cho người làm ơn cho tôi. Tôi trả oán cho kẻ làm hại tôi. Tôi yêu vì đối tượng dễ yêu. Hôm nay Chúa muốn tôi phải là tình yêu nguyên tuyền. Không bị đối tượng qui định. Nhưng tình yêu phát xuất từ đáy tâm hồn. Luôn yêu thương tất cả. Kể cả người làm hại, vu cáo, hành hạ mình. Điều này có thể được khi tôi kín múc được nguồn tình yêu nơi Chúa Cha. Để có thể yêu dù đối tượng có thế nào.
Khi qui chiếu về Chúa, ta đạt đến yêu thương như Chúa. Tha thứ như Chúa: “Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau”. Để Chúa điều khiển tâm hồn. Nên nói gì, làm gì cũng theo ý Chúa: “Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giê-su”. (năm lẻ).
Yêu thương khiến ta luôn nghĩ đến người khác. Không làm gì cho tha nhân sai lỗi. Không gây cớ vấp phạm. Kể cả những việc vô tội, được phép làm, nhưng vẫn không làm. Vì yêu thương, sợ người khác sa ngã. Như vấn đề ăn thịt cúng: “Vì thế, nếu của ăn mà làm cớ cho anh em tôi sa ngã, thì tôi sẽ không bao giờ ăn thịt nữa, để khỏi làm cớ cho anh em tôi sa ngã” (năm chẵn).
Nhân từ như Chúa Cha, chúng ta xứng đáng là con của Người. Ta sẽ kiến tạo một thế giới mới. Thế giới của những người con của Cha Nhân Từ. Thế giới của lòng nhân từ. Một thế giới tràn đầy tình yêu thương. Một thế giới đáng sống.
1Tm 1,1-2.12-14; 1Cr 9,16-19.22b-27; Lc 6,39-42 Ở đời ai cũng muốn làm thầy người khác. Vì tự hào mình khôn ngoan giỏi giang. Biết hết mọi sự. Nhưng lại không biết chính mình. Vì thế thường mâu thuẫn. Nói mà không làm. Chúa Giê-su gọi đó là “mù lại dắt mù”.
Chúa dạy ta phải khôn ngoan. Khôn ngoan phải đi trong ánh sáng. Ánh sáng là phải biết mình. Biết lỗi lầm của mình. Biết khuyết điểm của mình. Biết giới hạn của mình. Thấy cái xà trong mắt mình. Phải lấy ra thì mắt mới thấy rõ. Thấy đường rồi mới có thể hướng dẫn người khác. Biết mình rất khó. Nhận mình sai sót lỗi lầm còn khó hơn. Và sửa chữa lỗi lầm lại càng khó lắm.
Chỉ có Chúa là sự khôn ngoan. Là sự sáng. Ở trong Chúa ta sẽ có ánh sáng. Sẽ được khôn ngoan. Soi vào Chúa ta sẽ được biết mình. Nhìn lên Chúa ta sẽ biết đường. Đi theo Chúa ta sẽ đến nơi. Chỉ có Chúa là Thầy. Vì Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.
Thánh Phao-lô là người hiểu rõ điều đó. Nên dù bổn phận phải hướng dẫn người khác, thánh nhân luôn tự biết mình là người tội lỗi, yếu hèn. Phải khuyên dạy Ti-mô-thê-ô là người con tinh thần, nhưng thánh nhân khiêm nhường tự nhận: “Trước kia tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng tôi đã được Người thương xót”. Và thánh nhân biết ngài có làm Tông Đồ chính vì “theo lệnh Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, và theo lệnh Đức Ki-tô Giê-su” (năm lẻ).
Chính vì thế, trong khi rao giảng cho người khác, thánh nhân tỏ ra lòng khiêm nhường sâu xa. Nhận đó là bổn phận: “rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm”. Vì thế ngài hạ mình “trở thành nô lệ của mọi người”, “trở nên tất cả cho mọi người”. Vẫn chưa đủ, ngài không ngừng xét mình, răn mình, sửa mình để có thể giúp đỡ người khác: “Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại” (năm chẵn).
Ngài trở nên người khôn ngoan. Vì ngài sống trong Chúa Giê-su. Ngài trở thành người sáng suốt. Vì đã tự lấy cái xà trong mắt mình trước. Ngài trở thành người hướng dẫn. Vì đã tự biết mình.
Thời gian là lời phán xét chính xác. Thời gian sẽ cho biết cây nào xấu cây nào tốt khi chúng ra quả. Cứ xem quả thì biết cây. Thời gian sẽ cho biết ai thật ai giả.Người thật hay người giả. Đừng tin ngay vào lời nói, cứ chờ xem họ làm thế nào. Thời gian sẽ chứng nghiệm công trình xây dựng. Công trình xây dựng có giá trị hay không, mưa nắng sẽ chứng nghiệm chất lượng. Chúa Giêsu cũng căn cứ vào kết quả để biết rõ ai là môn đệ thật. Người môn đệ thật là cây tốt sinh trái tốt. Người môn đệ tốt là người không chỉ nói ngoài miệng nhưng tin thật trong lòng. Người môn đệ trung tín là người thực hành niềm tin đã lãnh nhận được. Khó khăn thử thách là tự nhiên trong đời sống. Cũng như bão lụt là hiện tượng không thể tránh khỏi. Nhà xây vững chắc sẽ bền vững qua thời gian. Người nghe và thực hành Lời Chúa đứng vững trong mọi gian nan thử thách. Người ấy đã chọn Chúa thì trung tín suốt đời.
Nhưng chọn lựa không chỉ một lần mà trải dài suốt cuộc đời. Có bao nhiêu năm tháng là có bấy nhiêu chọn lựa. Để trung tín với Chúa và với chính mình, với niềm tin, với lời tuyên xưng, người môn đệ phải chiến đấu không ngừng. Chúa mời ta dự tiệc Lời Chúa và Thánh Thể. Nhưng thế gian cũng có những bàn tiệc hấp dẫn. Ma quỉ cũng biết bày ra những bàn tiệc lạc thú thịnh soạn, cũng biết nâng những chén rượu danh vọng hấp dẫn mời mọc. Lại còn thêm thói đời, người đời thân thiết lôi kéo. Nhất là khi chung quanh ta ai cũng làm giống nhau. Ta sống khác được sao? Ta phải cảnh giác để giữ lòng trung tín như thánh Phao-lô khuyên dạy: “Anh em không thể vừa uống chén của Chúa, vừa uống chén của ma quỉ được; anh em không thể vừa ăn ở bàn tiệc của Chúa, vừa ăn ở bàn tiệc của ma quỉ được” (năm chẵn).
Một cách giữ lòng trung tín với Chúa là nhớ lại thuở ban đầu. Thánh Phao-lô luôn nhắc nhở về thời chìm đắm trong tội lỗi để thấy ơn Chúa thương xót hoán cải ngài, tuyển chọn ngài và ban cho ngài được làm môn đệ Chúa. Vì thế ngài luôn nhớ ơn Chúa, luôn tận tâm phục vụ Chúa, sẵn sàng hi sinh tính mạng vì Chúa. Hãy chọn lựa Chúa. Vì chỉ có Người thương yêu ta. Hãy tạ ơn Chúa. Vì chính Người hạ cố đến cứu độ ta. Hãy thờ lạy Chúa. Vì chỉ có Người là vua thật thống trị vũ trụ. Hãy noi gương thánh Phao-lô mà xưng tụng: “Kính dâng Vua muôn thuở là Thiên Chúa bất diệt, vô hình và duy nhất, kính dâng Người danh dự và vinh quang đến muôn thuở muôn đời. Amen” (năm lẻ).
Thật đáng ngưỡng mộ đức tin của viên đại đội trưởng ngoại đạo. Đức tin tinh tuyền và nguyên sơ nhận Chúa là Chúa tể muôn loài. Các vị thần thánh khác chỉ có thể hầu cận phụng lệnh Người. Chúa toàn năng, chỉ cần “phán một lời” mọi thần thánh phải tuân hành và mọi sự đều hoàn thành. Đức tin sống động và cụ thể. Ngoại đạo nhưng ông giúp xây hội đường cho người Do Thái. Đức tin biểu lộ trong đức bác ái hoàn hảo. Ông yêu quí người nô lệ. Thật đặc biệt. Vào thời đó người ta coi nô lệ như súc vật, chỉ có việc phục dịch, như món hàng để mua bán, miễn có tiền là có quyền trên nô lệ, như dụng cụ, hư hỏng là vứt bỏ, thậm chí có quyền hành hạ và giết chết mà không có tội trước pháp luật. Thế mà ông yêu quí người nô lệ. Yêu quí đến nỗi phải đi cầu xin Chúa chữa cho nó. Đức tin cư xử tế nhị. Không phiền Chúa bước vào nhà ông, người ngoại. Vì sẽ bị ô uế. Đức tin của ông quả thật đáng cho ta noi gương bắt chước.
Thánh Phao-lô khuyên nhủ ta hãy noi gương đức tin của ông. Tin Chúa có quyền tuyệt đối trên vua chúa trần gian. Tin Chúa nên hãy cầu nguyện cho mọi người. Và chính Chúa sẽ cho vua chúa trần gian được biết xây dựng hòa bình và người dân được an cư lạc nghiệp. Cầu nguyện cho vua chúa được noi gương viên sĩ quan ngoại đạo. Biết thương dân. Biết lo cho dân. Biết xây dựng đoàn kết. Phần chúng ta, nếu chúng ta có đức tin, siêng năng cầu nguyện thì tâm hồn ta sẽ có đức bác ái “tay giơ lên trời, tâm hồn thánh thiện, không giận hờn, không xung khắc” (năm lẻ).
Ngài than phiền giáo dân Cô-rin-tô vì họ thiếu đức tin. Đến dự tiệc Thánh Thể mà không nhìn thấy Chúa. Đến dự tiệc Thánh Thể mà không cảm nhận mình được hiệp thông với Mình Máu Chúa, chỉ nghĩ rằng đi ăn tiệc vật chất. Vì thiếu đức tin nên họ cũng thiếu đức bác ái. Đi dự tiệc Thánh Thể nhưng chỉ biết phần ai nấy dùng và vì thế nhiều anh em bị đói bụng ra về. Ước gì giáo dân Cô-rin-tô biết noi gương viên sĩ quan ngoại đạo. Biết quan tâm đến người yếu kém. Biết tế nhị đừng sỉ nhục người nghèo. Biết chia sẻ bữa tiệc thánh. Nhất là biết cử hành Thánh Thể với đức tin. Tin Chúa hiện diện trong Thánh Thể thì họ sẽ biết kính trọng người khác. Sống bí tích Thánh Thể thì họ sẽ biết chia sẻ như Chúa. Và sẽ biết yêu thương hợp nhất. Vì Chúa chết để qui tụ muôn người (năm chẵn).
Vậy mỗi khi đọc lời kinh của viên đại đội trưởng ngoại đạo: “Lạy Chúa con chẳng đáng…” ta hãy bắt chước ông có một đức tin sâu xa, tin Chúa trong bí tích Thánh Thể. Chính đức tin chân chính sẽ mở tâm hồn ra trong đức bác ái, để ta biết yêu thương mọi người, từ quan quyền tới người nghèo khổ, và nhất là biết chia sẻ với mọi người.
1Tm 3,1-13; 1Cr 12,12-14.27-31a; Lc 7,11-17 “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người”. Chúa Giê-su là Thiên Chúa. Quyền năng Chúa biểu lộ rõ ràng qua việc làm cho anh thanh niên người Na-in đã chết được sống lại. Thiên Chúa là sự sống. Chẳng ai có thể ban sự sống. Nhưng còn tuyệt vời hơn nữa. Thiên Chúa là sự sống lại. Ban sự sống đã khó. Ban sự sống lại còn khó hơn. Để ban sự sống, Thiên Chúa chỉ cần ngự trên chín tầng trời phán một lời. Liền có sự sống. Nhưng để chuộc lại sự sống đã mất, Thiên Chúa phải sai Con Một xuống trần gian. Đây lại biểu lộ quyền năng vô biên của Thiên Chúa.
Để phục hồi sự sống, Thiên Chúa phải xuống thế làm người. Chúa Giê-su mặc lấy thân xác loài người. Trở nên một với loài người. Tình yêu khiến Chúa kết hợp với loài người. Nên một thân thể. Vì thế Chúa vui với người vui. Chúa khóc với người khóc. Chúa chạnh lòng thương người thanh niên vắn số. Chúa chạnh lòng thương người phụ nữ goá bụa. Nay lại mất đứa con là điểm tựa duy nhất.
Đây chính là nguyên lý xây dựng thế giới. Con người cùng với tha nhân và thiên nhiên làm thành một thân thể. Giết người là giết mình. Huỷ hoại thiên nhiên là huỷ hoại chính mình. Thương người là thương mình. Vun trồng thiên nhiên là vun trồng sự sống của chính mình. Ta là một trong Thiên Chúa và với Thiên Chúa. Thiên Chúa hợp nhất chúng ta. Thiên Chúa điều khiển chúng ta.
Thư Cô-rin-tô dạy: “Ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Ki-tô cũng vậy…Tất cả chúng ta… đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể”. Vì thế mỗi người phải cố gắng tối đa. Đạt đến tầm vóc hoàn hảo. Để phục vụ thân thể. Đó là “trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất” (năm chẵn).
Vì thế, thánh Phao-lô cho biết “ai mong được làm giám quản, người ấy ước muốn một nhiệm vụ cao đẹp”. Vì trong một tổ chức, cần có người lo toan việc chung. Nhưng để lo toan việc chung, người ấy phải lo việc riêng hoàn hảo. Có tu thân được mới có thể tề gia. Có tề gia mới có thể trị quốc. Vậy “giám quản phải là người không ai chê trách được” và “phải được người ngoài chứng nhận là tốt”. Có như thế các chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Chúa Ki-tô mới hài hoà với nhau. Và mới phát triển lớn mạnh được (năm lẻ).
Chúa Giê-su khen ngợi trẻ thơ. Mời gọi ta phải nên như trẻ thơ. Để được vào Nước Trời. Nhưng Chúa dạy ta đừng cư xử như trẻ con. Trẻ con tính khí thất thường. Đòi hỏi theo ý mình. Không vừa ý là phá bĩnh. Không đón nhận người khác. Không cần lý lẽ. Chỉ theo cảm tính. Không hoà hợp với mọi người. Không thích trò chơi đám cưới thì nhất định không nhảy múa, dù bạn bè đã trổi đàn cất hát. Không chịu chơi trò đám ma thì nhất định không than khóc, dù cuộc chơi đã khởi sự tấu bài chia ly buồn thảm.
Người lớn mà cư xử như trẻ con thường hỏng việc. Hỏng cả đời. Nhưng nguy hại nhất là hỏng đời đời. Người Do thái bao năm chờ đợi Đấng Cứu Thế đến. Nhưng Chúa sai Gio-an đến dọn đường họ cũng không chấp nhận. Chính Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa đến họ cũng chối từ. Vì họ không muốn theo ý Chúa. Vì họ theo ý riêng. Không có lý lẽ gì hết. “Thật vậy, ông Gio-an Tẩy giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ông bảo: “Ông ta bị quỷ ám”. Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì các ông lại bảo: “Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi”.
Thư Cô-rin-tô mời gọi ta phải lớn lên. Đặc biệt trong đời sống thiêng liêng. Đừng mãi mãi là trẻ con: “Khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con”. Thành người lớn là biết phân định điều gì là quan trọng, cốt thiết trong đời sống. Như thánh Phao-lô dạy: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến”. Đức mến sẽ giúp ta gặp được Chúa. Và sống hài hoà với anh em. Vì thế phải ưu tiên thực hành đức mến (năm chẵn).
Nhưng điều quan trọng nhất là nhận biết Chúa Giê-su Ki-tô. Đây là “mầu nhiệm cao cả của đạo thánh”. Nhưng việc nhận biết Chúa Giê-su thật khó khăn.Vì “Đức Ki-tô xuất hiện trong thân phận người phàm”. Sinh sống, ăn uống, giao tiếp với mọi người và như mọi người. Vì thế khó được chấp nhận như một Đấng Cứu Thế. “Người được Chúa Thánh Thần chứng thực là công chính; được các thiên thần chiêm ngưỡng”. Vì thế để nhận ra Người cần có ơn Chúa Thánh Thần. Để có ơn Chúa Thánh Thần, cần có tâm hồn trẻ thơ. Tâm hồn trẻ thơ như thiên thần. Sẽ được chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Sẽ nhận ra Đức Ki-tô (năm lẻ).
Cần phải lớn lên. Thoát khỏi thói trẻ con bướng bỉnh. Để có tâm hồn trẻ thơ ngoan ngoãn. Biết mở lòng ra với ơn thánh.
1Tm 4,12-16; 1Cr 15,1-11; Lc 7,36-50 Ông Si-mon, một thủ lãnh Pha-ri-sêu, một trí thức phải tâm phục khẩu phục thái độ và lời giải thích của Chúa Giê-su. Tuy hai hướng nhìn khác nhau. Ông nhìn bề ngoài. Chúa nhìn bề trong. Ông nhìn hình thức. Chúa nhìn nội dung.
Về hình thức xã hội thì ông Si-mon hơn hẳn người phụ nữ. Ông trí thức. Người phụ nữ bình dân. Ông nghiêm chỉnh giữ Lề Luật. Người phụ nữ lỗi lề luật. Ông thuộc tầng lớp lãnh đạo, dạy dỗ người khác. Người phụ nữ thuộc tầng lớp cần được dạy dỗ. Ông được mọi người kính trọng. Còn người phụ nữ bị mọi người khinh miệt.
Nhưng thật bất ngờ khi Chúa Giê-su đánh giá người phụ nữ cao hơn ông Si-mon. Vì “chị yêu mến nhiều”. Đạo không phải là bề ngoài nhưng là bề trong. Đạo không là hình thức nhưng là nội dung. Và thật lạ lùng: đạo không là lề luật nhưng là tình yêu.
Thánh Phao-lô là người cảm nghiệm được điều đó. Ông được tha nhiều. Nên ông yêu mến nhiều: “Thật vậy, tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa. Nhưng tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu; trái lại, tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không phải tôi, mà là ơn Thiên Chúa cùng với tôi” (năm chẵn).
Vì thế thánh Phao-lô khuyên người môn đệ Ti-mô-thê-ô đừng chú ý đến hình thức. Hãy chú ý đến nội dung. Đừng chú ý đến bề ngoài. Hãy chú ý đến bề trong. Về hình thức bề ngoài thì Ti-mô-thê-ô kém cạnh. Vì ông còn quá trẻ so với chức vị giám mục. Thánh Phao-lô khuyên nhủ người con thiêng liêng hãy vượt qua bằng trau dồi nội dung bên trong. “Hãy chuyên cần đọc Sách Thánh trong các buổi họp. Đừng thờ ơ với đặc sủng đang có nơi anh, đặc sủng Thiên Chúa đã ban cho anh nhờ lời ngôn sứ, khi hàng kỳ mục đặt tay trên anh. Anh hãy tha thiết với những điều đó, chuyên chú vào đó, để mọi người nhận thấy những tiến bộ của anh” (năm lẻ).
Đó cũng là lời khuyên dành cho tôi. Để tôi chăm lo trau dồi nội dung tình yêu bên trong hơn là chú ý đến hình thức chức vị bên ngoài. Để tôi yêu thật nhiều. Và làm tất cả vì tình yêu. Đó là cốt lõi của đạo. Đó cũng là bí quyết giúp tôi thăng tiến về Chúa Ki-tô. Và được hạnh phúc nơi Người.
Của cải trần gian chẳng có giá trị gì trong Nước Trời. Nhưng của cải lại là phương tiện minh chứng, xây dựng và đạt tới Nước Trời. Các phụ nữ theo Chúa Giê-su đã cảm nghiệm được điều đó. Các bà đã trải qua quá khứ bị ma quỉ và bệnh tật trói buộc. Đã cảm nghiệm được sự mong manh của kiếp người. Nhất là đã cảm nghiệm được Nước Trời. Đã nhận được ơn cứu độ của Chúa. Nên các bà coi thường của cải trần gian. Quảng đại góp phần vào việc loan báo Tin Mừng Nước Trời. Để Chúa Giê-su và các môn đệ có phương tiện đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Các bà đã được hạnh phúc. Và muốn chia sẻ hạnh phúc cho mọi người.
Từ bỏ tiền của. Điều này không dễ dàng. Đó là thế lực trần gian mạnh nhất. Đó là cơn cám dỗ ngọt ngào nhất. Đó là sợi giây trói buộc chặt chẽ nhất. Đó là kẻ thù sau cùng đối địch với Chúa. Thánh Phao-lô ý thức được điều đó. Nên hết sức khuyên nhủ người môn đệ Ti-mô-thê phải tránh xa tiền bạc. vì “cội rễ sinh ra mọi điều ác là long ham muốn tiền bạc”. Hãy chống lại tiền bạc bằng một đời sống công chính. Công chính là hoàn toàn tin tưởng vào Chúa chứ không cậy dựa vào tiền bạc. Đó là một trận chiến. Cần phải thi đấu hết mình mới mong thắng được. Vì ta sinh ra trần truồng. Ta chết cũng trần truồng. “Chúng ta đã không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra được”. Thế nhưng tiền bạc cứ bám lấy ta. Ám ảnh ta. Trói buộc ta. Phải dứt nó ra. Nếu ta thua, tiền bạc sẽ trở thành ông chủ. Ta trở thành nô lệ. Nó sẽ ném ta vào lửa hoả ngục. Nếu ta thắng. Nó sẽ trở thành nô lệ. Sẽ giúp ta đạt tới Nước Trời (năm lẻ).
Ta thắng được tiền bạc và những cám dỗ đời này nhờ niềm tin vào Chúa Ki-tô phục sinh. Ta sẽ sống lại với Người trong Nước Trời. Trong đời sống mới. Đời sống ấy không có tiền bạc. Không cần tiền bạc. Nếu ta thực sự có đức tin. Ta sẽ không gắn bó với tiền bạc. Với đời này. Tiền bạc là một con dao hai lưỡi. Nếu ta luỵ phục nó. Nó sẽ tiêu diệt ta. “Nếu ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người”. Nếu ta sử dụng nó. Nó sẽ là một phương tiện tốt. Là ông chủ, nó ngăn cản ta đến Nước Trời. Là đầy tớ, nó giúp ta mua được Nước Trời (năm chẵn).
Vậy ta hãy noi gương các phụ nữ, quảng đại dâng hiến tiền bạc để làm việc truyền giáo. Siêu thoát của cải. Ta làm chứng cho Nước Trời. Dứt lìa khỏi những của cải đời này. Ta không còn thuộc trần gian. Nhưng thuộc về Nước Trời.
Thật lạ lùng quá trình gieo và gặt. Quá trình mất và được. Từ bỏ và lấy lại. Chết và sống. Quá trình nảy sinh sự sống. Sự sống mới. Phong phú dồi dào. Và cao vượt. Mầu nhiệm sự sống tự nhiên đã kỳ diệu. Mầu nhiệm sự sống siêu nhiên còn kỳ diệu gấp bội.
Chúa Giê-su là người đi gieo Tin mừng. Thiên Chúa kiên trì gieo Lời Người xuống trần gian. Trải qua bao đời. Qua bao thất bại. Đến lúc phải gieo chính Ngôi Lời. Chúa Giê-su gieo chính mình. Người trở thành hạt giống. Mục nát đi để trổ sinh một mùa gặt mênh mông. Một nhân loại mới mọc lên từ Người. Giống như Người.
Nhưng để trở thành mùa gặt con người phải trở thành đất tốt. Phải cầy bừa con đường đi đã chai cứng. Phải nhặt đá sỏi. Phải nhổ bụi gai. Phải từ bỏ con người cũ. Con người của xác thịt. Con người của hời hợt nông cạn. Con người của dục vọng đam mê. Để sống theo Thần Khí. Phải gieo chính mình như Chúa Giê-su.
Đó là điều thánh Phao-lô mời gọi ta trong thư Cô-rin-tô. Ta cũng phải gieo chính mình. Phải trở thành hạt giống mục nát như Chúa. Phải từ bỏ con người cũ. Ta sẽ sống lại thành con người mới. Ta sẽ có mùa gặt mới: “Gieo xuống thì hư nát, mà trỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ, mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà trỗi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí”. Và thánh nhân giải nghĩa con người có sinh khí là con người của A-đam, con người theo xác thịt. Con người có thần khí là con người giống A-đam mới, là Chúa Ki-tô: “Những kẻ thuộc về đất thì giống như kẻ bởi đất mà ra; còn những kẻ thuộc về trời thì giống như Đấng từ trời mà đến” (năm chẵn).
Đây là một quá trình khó khăn. Phải mục nát đi. Phải từ bỏ chính mình. Vì thế phải quảng đại và kiên trì như lời Chúa giải thích: “Hạt rơi vào đất tốt: đó là những kẻ nghe Lời với tấm lòng cao thượng và quảng đại, rồi nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả”. Theo thánh Phao-lô từ bỏ và kiên trì đó là: “hãy tuân giữ điều răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách, cho đến ngày đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, xuất hiện” (năm lẻ).
Mùa gieo hạt như thế sẽ kéo dài suốt cả cuộc đời. Ta còn phải cầy bừa những con đường. Nhặt đá sỏi nông nổi hời hợt. Nhổ bụi gai đam mê xác thịt. Để hoàn toàn chết đi cho con người mới. Rồi mới có mùa gặt trong Chúa Ki-tô.
Er 1,1-6; Cn 3, 27-34; Lc 8, 16-18 Lời Chúa là ngọn đèn. Đèn phải đặt trên cao để soi tỏ bước đi. Giống như ngọn hải đăng soi đường cho tầu bè đi trong đêm tối. Cũng vậy Lời Chúa phải hướng dẫn đời sống ta từ suy tưởng đến lời nói và đặc biệt trong việc làm. Lời Chúa phải trở thành châm ngôn, thành nguyên tắc, thành chỉ nam cho đời sống. Đời sống vốn tràn đầy bóng tối của ma quỉ, xác thịt, thế gian. Chỉ có Lời Chúa mới phá tan bóng tối, chỉ cho ta biết đi trên đường ngay thẳng.
Người sống và làm theo Lời Chúa dạy, dù có âm thầm thì rồi cũng sáng tỏ. Hữu xạ tự nhiên hương. Hương thơm nhân đức sẽ lan tỏa tới mọi người, sẽ ướp thơm xã hội, sẽ biến đổi môi trường sống. Và Lời Chúa sẽ được tôn vinh.
Người nghe và thực hành Lời Chúa giống như hạt giống gieo vào đất tốt. Sẽ sinh bông hạt trăm nghìn. Càng thực hành Lời Chúa cuộc sống càng phong phú. Càng lắng nghe Lời Chúa tâm hồn càng bén nhậy và càng được Chúa mặc khải những chân lý cao sâu. Càng đi vào mầu nhiệm Nước Trời, tâm hồn càng nếm cảm sự ngọt ngào của tình yêu Thiên Chúa. Cứ thế mùa gặt càng thêm phong phú.
Vua Ky-rô là mẫu gương của người nghe và thực hành Lời Chúa. Được Lời Chúa phán bảo, nhà vua tức khắc ra chỉ thị tái thiết Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Kêu gọi người Ít-ra-en trở về xây dựng đền thờ. Chỉ thị cho mọi người trong đế quốc rộng rãi đóng góp vàng bạc, đồ vật quí giá và cả thực phẩm. Chỉ thị đó đem lại ánh sáng cho bao tâm hồn, từ người Do thái đến người dân ngoại, từ người ở Pa-lét-tin đến người đang lưu đầy xa xứ, từ bậc trưởng thượng đến hàng lê thứ. “Những người đứng đầu các gia tộc của Giu-đa và Ben-gia-min, các tư tế và các thầy Lê-vi, tất cả những người được Thiên Chúa tác động trên tâm trí, trỗi dậy để đi lên xây Nhà Đức Chúa ở Giê-ru-sa-lem. Mọi người hàng xóm láng giềng đều mạnh tay giúp họ: bạc, vàng, của cải, thú vật, những đồ vật có giá, không kể mọi lễ vật tự nguyện” (năm lẻ).
Trong đường hướng đó, sách Châm ngôn khuyên dậy ta hãy thực hành Lời Chúa, đặc biệt hãy làm điều lành cho tha nhân. Người thực hành Lời Chúa sẽ đi trên đường ngay thẳng, hành động chính trực công minh và được Chúa ban ngàn muôn phúc lành. Đặc biệt “những ai chính trực Người nhận làm bạn tâm giao…Đức Chúa tuổn đổ phúc lành trên nơi ở của những người chính trực công minh”. Được Chúa là được tất cả. Người được Chúa sẽ được hạnh phúc. Càng yêu mến và càng muốn nghe và thực hành Lời Chúa hơn. Đó là có lại cho thêm (năm chẵn).
Khi trả lời “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành”, Chúa Giê-su không có ý chối từ Đức Mẹ. Trái lại còn ngợi khen Đức Mẹ. Và nhân đó nói lên mối liên hệ gia đình cần phải sâu hơn, cao hơn và rộng hơn mối liên hệ huyết thống.
Liên hệ huyết thống tuy sâu xa. Những ai nghe và giữ Lời Chúa thì kết hợp sâu xa hơn nhiều. Liên hệ gia đình bền vững mãi mãi. Vì có Lời Chúa làm nền tảng.
Liên hệ huyết thống tuy cao quí. Nhưng dừng lại ở giới hạn phàm trần. Những ai nghe và giữ Lời Chúa tạo thành một gia đình cao hơn. Vươn lên tới Thiên Chúa. Thành gia đình của Thiên Chúa.
Liên hệ huyết thống có giới hạn. Gia đình Thiên Chúa rộng lớn vượt không gian, thời gian. Bất cứ nơi đâu có người nghe và giữ Lời Chúa.
Đức Mẹ đã nghe và giữ Lời Chúa. Suốt đời kết hợp với Chúa Giê-su. Luôn thực hành thánh ý Chúa Cha. Nên mối liên hệ huyết thống với Chúa Giê-su đã vượt lên. Trở thành cao hơn, sâu hơn và rộng hơn.
Vua Đa-ri-ô khi nghe và thực hành Lời Chúa, đã biến cả vương quốc của vua thành một gia đình. Mọi người không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, đều góp phần vào việc tái thiết đền thờ Giê-ru-sa-lem. “Đây là lệnh ta ban cho các ngươi về cách đối xử với hàng kỳ mục Do-thái trong việc tái thiết Nhà Thiên Chúa: phải lấy tiền bạc của nhà vua trích từ thuế thu được ở Vùng bên kia sông Êu-phơ-rát, mà cung cấp đầy đủ các chi phí cho những người đó”. Đó là một gia đình rộng lớn khắp đế quốc Ba-Tư. Một gia đình nghe và thực hành Lời Chúa. Một gia đình của Thiên Chúa (năm lẻ).
Đó chính là thực hành lời sách Châm ngôn: “Trong tay Đức Chúa, lòng vua tựa dòng nước chảy, Người lèo lái đi đâu tuỳ ý Người”. Không theo ý Chúa thì mọi việc rơi vào thất bại tàn lụi. Làm theo ý Chúa thì kết quả bền vững tốt đẹp: “Các người cho lối sống của mình là ngay thẳng, nhưng Đức Chúa thấu suốt mọi tâm can. Thực thi điều công minh chính trực thì đẹp lòng Đức Chúa hơn là dâng hy lễ” (năm chẵn).
Nghe và thực hành Lời Chúa. Ta trở thành gia đình của Chúa. Thật vinh dự cao quí biết bao!
Er 9, 5-9; Cn 30, 5-9;Lc 9, 1-6 “Anh em đừng mang gì đi đường”. Nước Thiên Chúa không phải là nước trần gian. Nước trần gian cần nhiều phương tiện như lãnh thổ, tài nguyên, quân đội. Nước Thiên Chúa chỉ cần có Thiên Chúa. Thiên Chúa là tất cả.
Sống đơn sơ khó nghèo, người môn đệ làm sáng lên sự hiện diện của Thiên Chúa cao cả. Không bám víu vào phương tiện trần gian, người môn đệ làm sáng lên sức mạnh của Thiên Chúa toàn năng. Hai bàn tay trắng người môn đệ làm chứng về niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa và phó thác vận mệnh trong tay Người. Hành trang người môn đệ đơn sơ chỉ cần mang Thiên Chúa trong mình, đó là có tất cả.
Người môn đệ cậy dựa vào các phương tiện trần gian sẽ thất bại. Chỉ khi có Chúa việc tông đồ mới thành công. Ta hãy so sánh thời đại chúng ta với thời các tông đồ. Thời đó các ngài không có gì hết. Không cơ sở. Không nhân sự. Không tiền của. Bị bắt bớ. Thế mà việc truyền giáo phát triển với tốc độ vũ bão. Còn ngày nay ta có nhiều cơ sở hơn. Nhiều nhân sự hơn. Nhiều tiền của hơn. Ít bị bắt bớ hơn. Nhưng việc truyền giáo ì ạch. Lại còn có nhiều người bỏ đạo nữa.
Ta thất bại vì không có Chúa. Không có Chúa vì ta phạm tội. Ét-ra đau đớn nhận biết tội lỗi của cha ông đã quên Thiên Chúa, chỉ trông cậy vào thế lực trần gian nên đã bị trừng phạt nặng nề, bị lưu đày, bị làm nô lệ, bị tan nát, xấu hổ. “Từ thời tổ tiên chúng con cho đến ngày nay, vì chúng con đã mắc lỗi nặng và phạm tội, nên các vua và các tư tế của chúng con đã bị nộp vào tay vua chúa các nước ngoại bang”. Nay được Thiên Chúa thương đưa về quê nhà, ông xin nhất tâm xây dựng Đền Thờ để khuyến khích toàn dân thờ phượng Thiên Chúa là nguồn mạch sức mạnh, bình an và thịnh vượng. Tái thiết đền thờ chính là tái thiết con người. Ăn năn sám hối. Sống thánh thiện. Có Chúa ở cùng, sẽ có tất cả (năm lẻ).
Tác giả sách Châm ngôn cũng giúp ta ý thức điều này. Ông chỉ tha thiết được có Chúa. Vì Chúa là tất cả: “Mọi lời Thiên Chúa phán đều được chứng nghiệm, Người là khiên thuẫn cho ai tìm ẩn náu nơi Người”. Vì thế ông không dám xin Chúa sự gì nơi trần gian. Chỉ xin Chúa ban cho sống một đời sống đừng xa lìa Chúa, đừng lỗi phạm đến Chúa. Vì thế ông không xin sang giầu vì sợ sang giầu làm cho tâm hồn xa Chúa. Ông cũng xin Chúa đừng để ông nghèo đói vì sợ đói ăn vụng túng làm liều sẽ làm ô danh Chúa. Đây là một thái độ khôn ngoan chúng ta phải học hỏi và thực hành trong đời sống. Chỉ cần có Chúa. Lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Tránh xa những gì ngăn cách ta với Chúa. Có Chúa ở cùng ta sẽ có tất cả (năm chẵn).
Nghe những lời đồn thổi về Chúa Giê-su, Hê-rô-đê lo sợ. Vì người ta cho rằng Gio-an Tẩy giả sống lại. Mà ông đã giết chết thánh Gio-an. Có quyền sinh sát. Nhưng ông không có quyền trên lương tâm. Tuy chẳng ai dám phản đối, nhưng lương tâm kêu trách ông. Ông là vua. Nhưng có Đấng cao cả hơn ông. Có quyền phán xét ông. Thưởng phạt ông. Nên ông phải phân vân về việc làm của mình. Ông giết thánh Gio-an Tẩy giả. Giờ đây tiếng máu vô tội giầy vò ông, chất vấn ông. Mọi biến cố đều qua đi. Nhưng cách ta ứng xử với mỗi biến cố lại tồn tại. Và trở thành lời phán xét ta. Vì trên quyền thế trần gian, vẫn còn có Chúa Tể Càn Khôn cầm cân nảy mực. “Ông Gio-an, chính ta đã chém đầu rồi! Vậy thì ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế?” Đầu chém rồi nhưng trách nhiệm chưa hết đâu!
Có những điều mau qua. Nhưng vẫn còn đó những giá trị vĩnh cửu. Ông Cô-he-lét nói: “Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân. Lợi lộc gì đâu khi con người phải chịu đựng bao gian lao vất vả dưới ánh nắng mặt trời? Thế hệ này đi, thế hệ kia đến, nhưng trái đất mãi mãi trường tồn”. Ông khám phá ra chân lý. Mọi sự đều hư ảo. Nhưng vẫn có thứ trường tồn. Đừng dại dột vất vả thu tích những gì hư ảo chóng qua như phù vân. Hẫy làm việc mà tìm kiếm điều vĩnh cửu (năm chẵn).
Ét-ra cho biết những gì ngoài Thiên Chúa đều vô ích vì mau qua và không kết quả. Chỉ khi nào ta tôn thờ Thiên Chúa làm mọi việc trong Thiên Chúa bấy giờ mọi thứ mới vững bền. Vì thế phải làm việc cho Thiên Chúa và trong Thiên Chúa. Nếu chỉ làm cho bản thân mọi sự sẽ suy tàn: “Các ngươi hãy để tâm suy cho kỹ về lối sống của các ngươi. Các ngươi gieo vãi nhiều, nhưng thu hoạch chẳng bao nhiêu. Các ngươi ăn mà không đủ no, uống không đủ say, mặc không đủ ấm. Đồng lương của người làm thuê lọt qua túi thủng. Đức Chúa các đạo binh phán thế này: Các ngươi hãy để tâm suy cho kỹ về lối sống của các ngươi. Hãy lên núi, đưa gỗ về tái thiết Đền Thờ cho Ta. Ta sẽ lấy làm vui và tỏ vinh quang Ta ở đó” (năm lẻ).
Khi có Chúa ở cùng mọi việc sẽ tốt đẹp. Đất sẽ trổ sinh hoa trái. Hãy ở trong Chúa. Hãy làm việc trong Chúa. Kết quả sẽ vững bền. Ngoài Chúa tất cả là hư vô. Là phù vân trên mọi phù vân.
Sau thời gian lưu đầy, dân Ít-ra-en chán nản. Vì Đền Thờ xưa kia lộng lẫy nguy nga. Nhưng nay đã điêu tàn xiêu vẹo. Chúa khích lệ họ: “Hỡi Dơ-rúp-ba-ven, hãy mạnh bạo lên! Này thượng tế Giê-su-a, con ông Gio-hô-xa-đắc, mạnh bạo lên nào! Toàn dân trong xứ hãy mạnh bạo lên!...Chỉ còn một thời gian ngắn nữa thôi…Ta sẽ làm cho Đền Thờ này rực rỡ vinh quang”. Quả thực Đền Thờ phải trải qua những thăng trầm. Lộng lẫy nguy nga. Điêu tàn xiêu vẹo. Rồi Chúa sẽ tái thiết cho Đền Thờ rực rỡ vinh quang hơn trước (năm lẻ).
Chúa hứa tái thiết Đền Thờ. Nhưng thực ra sau này Chúa Giê-su cho biết, chính Người là Đền Thờ. Đền thờ Chúa Giê-su cũng đã có thời nguy nga lộng lẫy. Đó là khi danh tiếng Người vang dội. Toàn dân ngưỡng mộ. Tuy nhiên đó là những cảm tính chưa đúng thực và chưa sâu xa. Họ cho rằng Chúa là một người nào khác: “Họ bảo Thầy là Gio-an Tẩy giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại”. Chỉ có Phê-rô có nhận thức đúng: “Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa”. Tuy nhiên vẫn chưa đến thời đến buổi để tiết lộ. Vì dân còn mang nặng não trạng trần tục về một Đấng Cứu Thế oai phong lẫm liệt. Nếu sớm biết Chúa là Đấng Ki-tô, họ sẽ tôn Chúa lên làm vua. Sẽ chính trị hoá tôn giáo. Và cuộc chạm trán với người Rô-ma là không tránh khỏi. Chúa muốn họ hiểu cho đúng về Đấng Cứu Thế. Muốn họ đi vào tâm tình tôn giáo. Chính Người cần phải trải qua đau khổ, và cả chịu chết. Để mọi người không còn ảo tưởng về Đấng Cứu Thế chính trị. Chính vì thế trước toà Phi-la-tô, khi đã thân tàn ma dại, Người mới xưng mình là vua. Người phải nhụ nhã. Rồi sau đó mới được vinh quang. Đền Thờ phải phá đi rồi mới xây lại (Tin mừng).
Sách Giảng viên dạy ta biết “Thiên Chúa làm mọi sự hợp thời đúng lúc”. Đó là qui luật ở đời này: “Ở dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời: một thời để chào đời, một thời để lìa thế;…một thời để giết chết, một thời để chữa lành…”(năm chẵn).
Ta hãy noi theo gương Chúa Giê-su. Sống ở trần gian phải chấp nhận đau khổ thử thách. Nhưng đừng thất vọng. Vì rồi đến thời đến buổi Chúa sẽ ban ơn giải thoát ta. Phải trải qua thời sám hối ăn năn mới đến thời trong trắng an bình. Phải chịu phá đổ. Rồi mới xây dựng lại. Chấp nhận quên mình đi. Từ bỏ mình. Chết cho bản thân. Đến thời đến buổi ta sẽ tìm lại được chính mình. Sẽ được Chúa làm phần thưởng. Và sẽ được sống muôn đời.
Chúa Giê-su đang làm những phép lạ lẫy lừng khiến mọi người thán phục. Đột nhiên Người nói dõng dạc với các môn đệ: “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời” khiến các môn đệ sợ hãi. Thủ lãnh thế gian được quyền hoành hành ở thế gian trong một thời gian. Đó là thời kỳ thanh luyện. Chính Chúa, trong thân phận con người, cũng phải chịu một phép rửa thanh luyện. Đó là chịu đau khổ, chịu nhục nhã, chịu chết. Để thắng vượt mọi cám dỗ trần gian. Để siêu thoát mọi ràng buộc của xác thịt và thế gian. Để tự do đi vào Nước Trời. Để giải phóng con người khỏi ách nô lệ của ma quỉ, xác thịt, thế gian. Để mở con đường thăng tiến cho nhân loại. Đó là con đường khó khăn và đau khổ. Đến nỗi các môn đệ sợ hãi không dám hỏi lại.
Nhưng đó là con đường đúng đắn và cần thiết. Vì những giá trị trần gian chỉ là phù vân. Như sách Giảng viên khuyên nhủ thanh niên. Ngay lúc tuổi thanh xuân tươi đẹp hãy biết chuẩn bị cho đời sau. Vì đời này là chóng qua. “Giữa tuổi thanh xuân, bạn hãy tưởng nhớ Đấng đã dựng nên mình. Đừng chờ đến ngày tai ương ập tới, đừng chờ cho năm tháng qua đi, …Đừng chờ đến khi bụi đất lại trở về với đất, khi phàm nhân trả lại cho Thiên Chúa hơi thở Người đã ban cho mình…Phù vân chỉ là phù vân”. Hãy biết tích trữ kho tàng vĩnh cửu. Hãy biết sẽ bị Thiên Chúa xét xử để biết từ bỏ những cám dỗ vật chất trần gian. Mà chuẩn bị cho Nước Trời (năm chẵn).
Khi thế giới phù vân qua đi, một thế giới mới xuất hiện. Chúa lập nên thành Giê-ru-sa-lem mới. Vô cùng rộng lớn vì không còn biên giới. Vô cùng hạnh phúc vì được Chúa bảo vệ. Vô cùng lộng lẫy vì Chúa là vinh quang của thành. Đó là trời mới đất mới. Nơi chan hoà tiếng đàn ca. Nơi chan chứa tiếng vui cười. Nơi hạnh phúc vĩnh viễn. “Giê-ru-sa-lem phải là một thành rộng mở, sẽ có vô số người và súc vật đên cư ngụ ở đó. Phần Ta, sấm ngôn của Đức Chúa, Ta sẽ là tường luỹ bằng lửa bao quanh nó, và Ta sẽ là vinh quang ở giữa nó. Hỡi con gái Xi-on, hãy vui sướng reo hò, vì này Ta đang đến để ở lại giữa ngươi” (năm lẻ).
Chúa bị nộp vào tay người đời. Đó là tấm gương cho tôi biết sẵn sàng chịu thiệt thòi ở đời này. Từ bỏ những ràng buộc của danh vọng chức quyền đời này. Chắc chắn đó là một cuộc thanh luyện đớn đau. Nhưng khi sạch mọi vương vấn trần tục tôi mới có thể bước vào thành Giê-ru-sa-lem mới rạng ngời vinh quang, hạnh phúc vĩnh cửu.
Lạy Chúa xin cho con biết trao nộp vào tay người đời tất cả những gì của họ. Để con thuộc về Chúa. Thuộc về Nước Chúa.
Dc 8,1-8; G 1,6-22; Lc 9,46-50 Thế giới đảo điên vì tranh chấp hơn thua. Con người khổ đau vì cái được cái mất. Vì thế châm ngôn Pháp nói: sống là đấu tranh. Đấu tranh để có địa vị hơn, giầu có hơn người. Não trạng thế tục len lỏi vào cả các môn đệ của Chúa. Nên các ông tranh giành địa vị cao thấp.
Chúa nhân cơ hội dạy dỗ các ông. Tinh thần trong Nước Chúa phải ngược với tinh thần thế tục. Ai muốn làm lớn phải trở nên bé nhỏ. Ai muốn chỉ huy phải phục vụ. Chúa chẳng nói suông. Chính Chúa đã làm trước. Chính Chúa rất giầu sang đã trở nên khó nghèo. Rất cao sang đã trở nên thấp hèn. Chúa là Thầy là Chúa nhưng đã quì xuống rửa chân cho các tông đồ. Ai trở nên bé nhỏ là trở nên chính Chúa. Chúa đi ngược với trần gian. Ai theo đuổi trần gian sẽ mất Chúa. Ai từ bỏ trần gian sẽ được chính Chúa. Được Chúa là được tất cả: “Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Đấng đã sai Thầy. Thật vậy, ail à người nhỏ nhất trong tất cả an hem, thì kẻ ấy là người lớn nhất”.
Đó là điều thánh Gióp đã cảm nghiệm. Ma quỉ theo thói thế gian tưởng của cải, danh vọng, chức quyền là tất cả. Nên chiếm hết của thánh Gióp để lung lạc ông. Để ông bỏ Chúa mà đi theo ma quỉ. Không ngờ thánh Gióp có đức tin kiên vững. Là tôi tớ trung tín của Chúa. Càng đau khổ càng gắn bó với Chúa. Ông tuyên xưng đức tin: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa”. Ma quỉ chịu thua. Chúa trả lại cho ông tất cả. Con cái. Của cải. Danh vọng. Hạnh phúc. Còn hơn gấp bội những gì ngài có trước kia. Ngài càng xác tín: Chúa là tất cả. Có Chúa là có tất cả (năm chẵn).
Đó cũng chính là điều Da-ca-ri-a thay mặt Chúa khẳng định. Khi dân phản bội Chúa thì họ mất tất cả. Nhà tan cửa nát. Thân phận lưu đày nô lệ. Họ mơ một cuộc sống an bình nơi quê nhà. Họ mơ chiều chiều được ngồi trong quảng trường đền thánh. Ông già bà cả được thảnh thơi nghỉ ngơi. Lên đền thờ cầu nguyện. Sống lâu trăm tuổi. Đó là điều không thể được với tình hình lực lượng thua kém của họ. Nhưng Chúa quả quyết đó là điều có thể được đối với quyền năng của Chúa. Vì Chúa là tất cả. “Ta sẽ dẫn chúng về…Chúng sẽ là dân của Ta; Ta sẽ là Chúa của chúng” (năm lẻ).
Xin cho con biết từ bỏ thế gian. Chỉ chọn một mình Chúa thôi.
Chúa Giê-su rao giảng tại Ga-li-lê. Người lên Giê-ru-sa-lem để hoàn tất quãng đời dương thế. Đó là cao điểm. Lu-ca nói Người đi về trời để được vinh quang. Da-ca-ri-a đã loan báo trước vinh quang của Chúa. Mọi dân tộc sẽ nhận biết Chúa. Sẽ trở về với Chúa. Sẽ đi theo con đường của Chúa: “Các nước và dân cư trong các thành phố lớn vẫn còn tuôn đến. Dân thành này sẽ đến thành khác mà nói rằng: “Nào ta cùng đi làm cho nét mặt Đức Chúa dịu lại và tìm kiếm Đức Chúa các đạo binh; cả tôi nữa, tôi cũng đi!...Trong những ngày ấy, mười người đàn ông thuộc mọi ngôn ngữ trong các dân tộc sẽ níu lấy áo của một người Giu-đa mà nói: “Chúng tôi muốn đi với anh em, vì chúng tôi đã nghe biết rằng Thiên Chúa ở với anh em”(năm lẻ).
Nhưng con đường vinh quang phải trải qua đau khổ. Đau khổ lớn lao chưa từng có ai chịu nổi. Đau khổ không ai có thể chịu đựng được. Chúa bị phản bội, bị bỏ rơi bởi các môn đệ. Bị xét xử nhiều lần. Bị kết án. Bị nhục mạ. Bị đánh đòn. Bị vác thánh giá. Bị đóng đinh. Chết giữa những tên trộm cướp. Đau đớn nhất là Người cảm thấy như bị Chúa Cha ruồng bỏ. Thánh Gióp là người chịu đau khổ phần nào giống Chúa. Ông trong sạch. Ông trung thành thờ phượng Chúa. Nhưng ông bị thử thách. Mất hết của cải, con cái. Bản than bị lở loét, sâu bọ đục khoét. Vừa đau đớn vừa hôi thối. Nhưng đau đớn hơn nữa ông bị bạn bè kết án. Và nhất là người vợ thân thương cũng khinh khi miệt thị. Và nhất là ông cảm thấy như bị Chúa ruồng bỏ. Nên ông đau buồn than khóc. “Bấy giờ, ông Gióp mở miệng nguyền rủa ngày ông chào đời. Ông Gióp lên tiếng nói: “Phải chi đừng xuất hiện ngày tôi đã chào đời…Sao lại ban ánh sang và sự sống cho kẻ chẳng biết mình đi đâu, cho kẻ bị Thiên Chúa giam hãm tư bề?”(năm chẵn).
Việc người Sa-ma-ri không đón tiếp Chúa chỉ là bắt đầu. Rồi Chúa sẽ chịu nhiều đau khổ nhục nhã lớn lao hơn nữa. Cho đến chết. Các tông đồ muốn trừng phạt họ. Nhưng Chúa mắng các ông. Vì các ông không hiểu. Chính Chúa tự nguyện đi vào con đường đau khổ để được vinh quang. Chấp nhận chịu bạc đãi để đem lại yêu thương. Chấp nhận thân phận tội lỗi để qui tụ muôn người về với Chúa Cha. Chấp nhận chết đi để được sống lại.
Các môn đệ tuy chưa hiểu. Nhưng vì yêu mến Chúa, các ngài sẵn sang đi vào con đường của Chúa. Xin cho chúng ta cũng biết noi gương các ngài. Gắn bó với Chúa. Đi theo Chúa. Cùng chịu đau khổ để cùng vinh quang với Chúa. Cùng chịu chết để được sống lại với Chúa.
Trong đời thường có những giá trị cao quí. Như lòng yêu mến tôn kính ông bà tổ tiên. Lòng gắn bó với quê cha đất tổ. Đó là những giá trị văn hoá dân tộc rất đáng khích lệ. Những người có lý trí đều trân trọng những giá trị này. Chính vì thế, khi thấy Nơ-khê-mi-a buồn phiền vì phần mộ tổ tiên bị hoang phế. Quê hương bị điêu tàn. Vua Ác-tắc-sát-ta, một vị minh quân, đã cho phép ông trở về tái thiết quê hương và phần mộ tổ tiên. Thực ra Nơ-khê-mi-a mượn cớ xây mộ tổ tiên để tái thiết Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Và ông thờ kính Thiên Chúa hơn cả ông bà tổ tiên. Nên trước khi cầu xin vua trần gian, ông đã “cầu xin Thiên Chúa các tầng trời”. Và ông biết “Vua ban cho tôi như thế, vì bàn tay nhân lành của Thiên Chúa tôi che chở tôi” (năm lẻ).
Mọi quyền năng trên đời thuộc về Chúa. Đó là điều các thánh tổ phụ hằng tin tưởng. Đặc biệt thánh Gióp, bị thử thách, vẫn tin tưởng vào Thiên Chúa. Vì Người nắm giữ vận mạng phàm nhân và vũ trụ: “Người chuyển núi dời non mà chúng không hay… Người ra lệnh là mặt trời không mọc…Duy mình Người trải rộng các tầng trời, đạp lên trên ba đào biển cả”. Chính vì thế thái độ duy nhất đúng là vâng phục và xin Chúa xót thương: “Chẳng lẽ tôi lại tranh cãi, hay tìm lý để chống đối Người sao? Cho dù tôi có lý, tôi cũng không tranh cãi, nhưng sẽ xin Đấng xét xử tôi thương xót” (năm chẵn).
Đến thời Chúa Giê-su, chân lý này được minh nhiên công bố. Chúa Ki-tô là tất cả. Nhưng để đạt tới Người ta phải siêu thoát khỏi những dính bén trần tục. Người là quê hương. Đi theo Người là đi về quê hương đích thực. Người là gia đình đích thực. Vì nơi Người có Thiên Chúa là Cha của mọi người cha. Và là gia đình rộng lớn. Vì bất cứ ai nghe và giữ Lời Chúa đều là anh em với nhau. Người là tình yêu. Mọi tình cảm trên đời đều phát nguồn từ nơi Người.
Người là tất cả. Nên khi ta từ bỏ tất cả trần gian vì Người, ta lại được lại tất cả. Ở trần gian Người không có chỗ tựa đầu. Nhưng khi trần gian tan biến hết thì Người vẫn tồn tại và Người có cả vũ trụ là nhà. Ta bỏ tình cảm gia đình vì Chúa. Nhưng trong Chúa tình gia đình lại càng sâu xa bền chặt hơn. Vì chính Chúa là tình yêu sẽ làm cho tình yêu tầm thường của ta thành vĩnh cửu.
Triều đại Thiên Chúa. Đó là điều muôn đời ngàn dân trông đợi. Vì đời sống trần gian khổ cực đau thương. Chưa hề có triều đại nào đem lại hạnh phúc cho người dân. Chưa có chế độ nào hoàn toàn được tín nhiệm. Chưa có hệ thống ý thức hệ nào thực sự tạo nên thiên đường.
Dân Ít-ra-en cảm nhận được tất cả những nỗi khổ đau, nhục nhã khi bị lưu đầy. Nên khi được trở về. Được thờ phượng Chúa. Được nghe Lời Chúa. Lòng họ tràn đầy niềm vui. “Ông Ét-ra mở sách ... Bấy giờ ông Ét-ra chúc tụng đức Chúa là Thiên Chúa vĩ đại, và toàn dân giơ tay lên đáp rằng: “Amen! Amen!” Rồi họ sấp mặt sát đất mà thờ lạy Đức Chúa….Các thầy Lê-vi thì trấn an mọi người như sau: “Anh em đừng khóc nữa, vì hôm nay là ngày thánh!...” Bấy giờ toàn dân đi ăn uống, rồi gửi các phần ăn, và liên hoan tưng bừng”. Họ sống một cuộc sống hạnh phúc vì tuân theo Lề Luật. Vì Thiên Chúa hướng dẫn họ.
Chúa Giê-su là Đấng phải đến. Quả thực Triều đại Thiên Chúa đã đến. Đó là tin vui lớn lao. Cần loan báo cho cả địa cầu. Vì thế Chúa không chỉ sai 12 tông đồ. Mà còn sai 72 môn đệ đi loan báo. Triều đại được chứng nghiệm bằng việc xua trừ ma quỉ. Chữa lành bệnh tật. Giải phóng con người khỏi mọi ách nô lệ ràng buộc của ma quỉ và sự dữ. Và đem bình an cho mọi người. Tuy nhiên chính người loan báo phải chứng tỏ Triều đại Thiên Chúa bằng một thái độ siêu thoát: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép”. Sứ điệp quan trọng. Thời giờ cấp bách. Nên “đừng chào hỏi ai dọc đường”. Tập trung vào sứ mạng. Không chú ý đến những gì phụ thuộc ở đời này như ăn uống, ngủ nghỉ: “người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó”. Khi người môn đệ siêu thoát, nghèo khó, chính Thiên Chúa ngự trong họ sẽ làm việc. Họ sẽ có sức mạnh của Thiên Chúa.
Chính vì hi vọng Triều Đại Thiên Chúa đến mà thánh Gióp, trong cơn đau khổ cùng cực, vẫn hi vọng tin tưởng đợi chờ. Luôn gắn bó với Chúa: “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu huỷ, thì với tấm thân này, tôi sẽ được ngắm nhìn Thiên Chúa… Lòng tôi những tha thiết mong chờ” (năm chẵn).
Phần chúng ta hãy làm cho Triều Đại Thiên Chúa mau đến ngay trong bản thân mình. Bằng đời sống siêu thoát. Bằng tin tưởng vượt qua mọi gian khổ như thánh Gióp. Và bằng lời loan báo tin vui cho mọi người.
Chúa Giê-su buồn phiền. Vì chính những nơi được nghe rao giảng Tin mừng, được chứng kiến nhiều phép lạ, lại không ăn năn sám hối. Chúa đặt Ca-phác-na-um làm trung tâm rao giảng Tin mừng. Chúa thường xuyên đi lại Kho-ra-din và Bết-xai-đa. Tại Bết-xai-đa có vài môn đệ theo Chúa. Nhưng đa số dân chúng cứng lòng không tin. Trong khi đó tại vùng dân ngoại Tia và Xi-đôn có người phụ nữ, dù bị Chúa xua đuổi, vẫn kiên trì tin tưởng. Chúa buồn không phải vì người ta chối từ Chúa. Nhưng vì người ta chối từ Chúa Cha. Chối từ tình yêu thương vô cùng sâu thẳm và bao la của Chúa Cha. “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một Người”. Còn tình yêu nào lớn lao hơn thế. Còn tấm lòng nào quan tâm hơn thế. Nhưng buồn là buồn cho chính họ. Chúa Cha là nguồn mạch sự sống. Khi chối từ nguồn mạch sự sống, họ đánh mất sự sống. Họ đi vào chỗ chết.
Đó chính là điều tiên tri Ba-rúc thú nhận. Trong thời kỳ lưu đầy, Ít-ra-en nhà tan cửa nát. Phải lưu đầy biệt xứ. Phải làm nô lệ. Vừa khổ cực vừa nhục nhã. Nhưng vị tiên tri phải thú nhận dân Ít-ra-en bị như thế là xứng đáng. Vì họ đã chối từ Thiên Chúa yêu thương. Thiên Chúa sức mạnh. Thiên Chúa ban sự sống. “Chúng tôi, những người Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem, các vua và thủ lãnh, tư tế và ngôn sứ cũng như các bậc cha ông, chúng tôi phải hổ ngươi bẽ mặt như ngày hôm nay thì cũng đáng, vì tất cả chúng tôi đã phạm tội trước nhan Đức Chúa, đã bất tuân , không nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, không vâng theo các mệnh lệnh Đức Chúa đã đề ra trước mắt chúng tôi” (năm lẻ).
Chúa là nguồn mạch sự sống của toàn thể vũ trụ cũng như con người. Chúa đã chất vấn thánh Gióp. Và thánh Gióp không thể trả lời: “Có bao giờ ngươi đã đến tận nguồn biển cả và lang thang ở đáy vực sâu? Có ai từng mở cho ngươi lối vào âm phủ và ngươi thấy được cửa dấn tới âm ty? Có khi nào ngươi hiểu mặt đất rộng chừng nào? Nếu ngươi biết hết mọi điều đó thì cứ nói đi”. Và thánh Gióp chỉ biết thưa lại: “Vâng, con đây tầm thường bé nhỏ, biết nói chi để trả lời Ngài?” Thánh Gióp chỉ biết vâng theo ý Chúa. Chính vì thế ngài được Chúa yêu thương ban muôn hồng phúc (năm chẵn).
Chúng ta hãy noi gương thánh Gióp nhận biết Thiên Chúa là sự sống và là tất cả của chúng ta. Để luôn biết đón nhận Người. Đón nhận mệnh lệnh Người. Để chúng ta được sống.
Niềm vui chỉ có trong Chúa. Đó là sứ điệp Lời Chúa hôm nay.
Ba-rúc tràn đầy nỗi buồn. Vì con cái Ít-ra-en thờ lạy ma quỉ. Ma quỉ thiêu đốt dục vọng. Khiến người ta mê mải đuổi bắt hạnh phúc. Càng đuổi càng xa. Càng chiếm đoạt càng buồn bã. Buồn cho bản thân. Buồn cho những người thân. Buồn cho cả Thiên Chúa. Buồn cho cả thiên đàng. “Xưa tôi vui mừng nuôi dưỡng chúng, nay đành phải buồn sầu ứa lệ để cho chúng ra đi. Chớ ai vui mừng vì thấy tôi goá bụa, bị mọi người bỏ rơi; tôi phải sốn đơn đôc như thế này chỉ vì con cái tôi phạm tội, lìa bỏ Lề Luật của Thiên Chúa”. Vì thế tiên tri không ngừng kêu gọi con cái trở về để được Chúa xót thương. Để được hưởng niềm vui. Niềm vui vĩnh cửu (năm lẻ).
Bài Tin Mừng hôm nay chứa chan niềm vui. Các môn đệ hớn hở sau một đợt sứ vụ. Về tường trình với Chúa những chiến thắng lẫy lừng. Ma quỉ phải chịu khuất phục vì các ngài kêu Danh Cực Thánh Giê-su. Chúa Giê-su tràn đầy niềm vui. Vì Chúa Cha đã ban cho các môn đệ được biết mầu nhiệm Nước Trời. Các ngài vốn là những người bé nhỏ nghèo hèn. Thất học. Chính vì không có gì. Không ham hố gì. Không hi vọng gì nơi trần gian. Tâm hồn các ngài hoàn toàn trong trắng. Thuộc trọn về Chúa. Nên Chúa ngự trong các ngài. Có Chúa các ngài khuất phục được ma quỉ. Có Chúa các ngài có tất cả. Đó là thiên đàng. Là thuộc trọn về Chúa. Chúa là niềm vui. Nên khi không có gì. Chỉ có Chúa. Các ngài tràn đầy niềm vui. Các ngài đã tới cõi phúc. Được gặp chính Chúa. Đó là điều mọi người mơ ước mà không được. Đó chính là niềm vui đích thực, Chúa Giê-su mặc khải cho các ngài: “Anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời”.
Thánh Gióp nêu gương cho ta. Dù trong thịnh vượng. Dù trong thử thách. Lúc nào cũng gắn bó với Chúa. Rồi Chúa lại ban thưởng niềm vui. Niềm vui trong đời sống sung túc. Niềm vui trong con cái đông đúc. Niềm vui được sống tới tuổi thọ hiếm có. Tất cả những niềm vui đó chỉ là hình ảnh diễn tả niềm vui có Chúa. Có Chúa là có tất cả. Khi thánh Gióp hoàn toàn từ bỏ mình. Trở nên người nghèo khổ nhất. Không có gì. Kể cả danh dự. Kể cả niềm an ủi. Nhưng ngài có Chúa. Nên ngài có tất cả. Ngài có niềm vui. Làm cho những người chung quanh được vui. Và nhất là Thiên Chúa vui tươi. Thiên đàng cũng mừng vui (năm chẵn).
Tiên tri Gio-na và người Sa-ma-ri-ta-no nhân hậu là hai hình ảnh trái ngược. Gio-na là người Do thái, người có đạo, nhưng tâm địa hẹp hòi không muốn cứu dân thành Ni-ni-ve. Người Sa-ma-ri-ta-no nhân hậu là người ngoại đạo, nhưng tấm lòng bác ái bao la, quan tâm chăm sóc cho tha nhân. Gio-na là tiên tri, là người tin có linh hồn nhưng lại chẳng quan tâm cứu linh hồn dân thành Ni-ni-ve. Còn người Sa-ma-ri-ta-no nhân hậu tuy không có đức tin nhưng đã sẵn sàng cứu giúp dù chỉ là thân xác người lâm nạn. Gio-na là tiên tri của Chúa nhưng lại không vâng lệnh Chúa truyền. Người Sa-ma-ri-ta-nô nhân hậu không có đạo nhưng lại thực hành Lời Chúa. Và được Chúa đem làm gương mẫu cho những nhà lãnh đạo: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”. Bên trong hai bài Sách Thánh còn những trái ngược lớn lao gây suy nghĩ. Gio-na là tiên tri thì trốn Chúa. Những người đi thuyền ngoại đạo lại muốn tìm thánh ý Chúa, muốn cầu nguyện cùng Chúa. Cũng vậy thầy tư tế và thầy Lê-vi trong đạo tránh qua một bên để khỏi giúp người bị nạn. Trong khi người ngoại đạo xứ Sa-ma-ri lại tỏ lòng nhân hậu cứu giúp nạn nhân (năm lẻ).
Và để trả lời cho câu hỏi: “Ai là người thân cận của tôi?”, Chúa Giêsu đã hỏi ngược lại: “Theo ông, ai là người thân cận của người bị nạn?”. Chúa Giêsu trả lời bằng một mệnh đề kép. Muốn có người thân cận, chính tôi phải thân cận với mọi người. Nói khác đi người thân cận không tự nhiên có nhưng tôi phải tạo ra. Tôi tạo ra người thân cận bằng tấm lòng nhân hậu, bằng thái độ quảng đại, bằng cử chỉ phục vụ. Như thế người thân cận là tất cả những ai cần sự giúp đỡ, cần sự quan tâm, là những ai đang lâm nạn, đang không thể tự lo cho mình, cả phần hồn lẫn phần xác.
Trong thư Ga-lát, thánh Phao-lô chê trách giáo dân Ga-lát đã mau chóng trở mặt lại giáo lý của Chúa. Lời chê trách đó có thể áp dụng cho Gio-na. Dù là tiên tri nhưng lại không tuân lời Chúa dạy. Lời đó cũng nhắm đến thầy tư tế và thầy Lê-vi vì đã không thực hành Lời Chúa. Lời thánh nhân chê trách cũng nói với chúng ta hôm nay, có đạo nhưng lại không tuân giữ Lời Chúa (năm chẵn).
Chúng ta có thể hỏi một câu hỏi khác. Ai là người thân cận của Chúa. Câu trả lời thật hiển nhiên. Nhưng khá cay đắng. Không phải vị tiên tri người đem Lời Chúa cho mọi người. Không phải thày tư tế và thày Lê-vi những người dâng của lễ trên bàn thờ, trước tôn nhan Chúa. Nhưng lại là người Sa-ma-ri-ta-nô, kẻ ngoại đạo. Hôm nay, chúng ta hãy tỉnh ngộ trở nên người thân cận của mọi người. Và người thân cận của Chúa. Như thế tôi mới “được sự sống đời đời làm gia nghiệp”.
Mục đích sau cùng của đời sống Ki-tô hữu là kết hợp với Thiên Chúa. Mọi công việc và đời sống ta đều nhằm đạt tới mục đích sau cùng này. Chỉ khi kết hợp với Thiên Chúa ta mới no thỏa hạnh phúc. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất vì đã đi đến kết hợp với Chúa. Mác-ta tốt nhưng chưa nhất vì việc phục vụ Chúa chỉ là con đường dẫn đến kết hợp với Chúa. Khi lên trời sẽ không còn phục vụ nữa. Chỉ còn kết hợp thôi. Vì thế phần của Ma-ri-a không bao giờ mất.
Kết hợp hệ tại mở lòng ta ra lắng nghe tiếng Chúa. Và để trọn vẹn tâm hồn cho Chúa chiếm ngụ. Lời Chúa tràn đầy tâm hồn lắng nghe như nước mưa thấm đẫm thửa đất khô cằn. Khi đã từ bỏ mình để lòng ra rỗng không, ta sẽ có đầy Thiên Chúa. Đó là hạnh phúc không gì so sánh được.
Chúa mong ước cho mọi người đạt tới hạnh phúc này nên không ngừng uốn nắn để ta biết lắng nghe tiếng Chúa. Hôm nay Chúa đã uốn nắn Mác-ta. Xưa kia Chúa đã uốn nắn Gio-na để không những ông nghe tiếng Chúa mà còn làm cho dân thành Ni-ni-vê được nghe tiếng Chúa qua lời rao giảng của ông (năm lẻ). Chúa cũng tuyển chọn Phao-lô để ngài đem Tin mừng cho dân ngoại (năm chẵn).
Để con người biết lắng nghe, nhiều khi Chúa phải sử dụng những biện pháp mạnh mẽ. Để Mác-ta tỉnh ngộ Chúa phải nói mạnh. Để Gio-na biết nghe và thực hành Lời Chúa, Chúa đã cho ông gặp tai nạn trên biển, bị quẳng xuống biển, bị cá nuốt 3 ngày. Để Phao-lô trở nên tông đồ dân ngoại, Chúa đã phải chiếu làn ánh sáng chói lòa làm cho ngài ngã ngựa, đui mù. Để dân thành Ni-ni-ve sám hối, Chúa đã phải cảnh báo, đe dọa.
Nhờ được nghe Lời Chúa qua tiên tri Gio-na, dân thành Ni-ni-vê đã biết chọn phần tốt nhất là trở về bên Chúa. Thực hành Lời Chúa. Nhờ được nghe Lời Chúa mà Phao-lô biết chọn phần tốt nhất. Ngài hoàn toàn kết hợp với Chúa đến nỗi có thể nói: “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống. Nhưng là Chúa Ki-tô sống trong tôi”(Gl 2,19-20). Ngài đã chọn phần tốt nhất. Và không bao giờ chịu bỏ mất. “Những gì xưa kia tôi coi là mối lợi, thì nay vì Đức Ki-tô tôi coi là thiệt thòi. So với mối lợi tuyệt vời là được biết Chúa Ki-tô”(Pl 3,8).
Tôi đang chọn lựa gì cho đời sống. Tôi có chọn phần tốt nhất là ở bên Chúa và lắng nghe Lời Chúa không?
Chúa Giê-su dạy ta một lời kinh không những đẹp đẽ mà còn làm chỉ nam hướng dẫn đời sống ta. Đẹp đẽ biết bao ta được gọi Chúa là Cha. Lời cầu nguyện của ta là lời của đứa con nhỏ bé nói với Cha, người Cha vừa quyền năng rất mực vừa thương yêu vô cùng. Mối tương giao bất ngờ ngoài trí tưởng không khiến ta xúc động đến rơi lệ sao. Và còn nữa, vì Chúa là Cha nên mọi người đều là anh em với nhau.
Mối tương giao này phải chi phối toàn bộ cuộc đời ta, làm chỉ nam hướng dẫn đời sống ta. Vì yêu mến Cha mà phải thương yêu anh em. Một điều không thể thiếu trong tình yêu thương là sự tha thứ: “Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con”.
Đọc sách Gio-na để thấy Thiên Chúa dịu dàng quá đỗi. Tức giận vì Ni-ni-vê phạm tội, nhưng rồi lại hối tiếc khi họ ăn năn. Tha thứ cho Ni-ni-vê rồi, Chúa vẫn còn kiên nhẫn thuyết phục Gio-na. Chúa quá kiên nhẫn. Khi Gio-na không nghe Lời Chúa, tìm cách uốn nắn bằng cho ông bị cá nuốt ba ngày. Khi Gio-na buồn phiền vì Chúa không phạt Ni-ni-vê, Chúa dạy ông lòng nhân từ bằng chuyện cây thầu dầu. “Còn Ta, chẳng lẽ Ta lại không thương hại Ni-ni-vê, thành phố lớn, trong đó có rất nhiều thú vật, và nhất là có hơn một trăm hai mươi ngàn người không phân biệt được bên phải với bên trái”. Thật là những lời ân cần của người Cha nhân hậu (năm lẻ).
Đọc thư Ga-lát để thấy Phao-lô cũng phải kiên trì đấu tranh với Phê-rô và các tông đồ để tình yêu thương của Chúa được biểu lộ nơi dân ngoại và nơi những anh em túng thiếu. Dân ngoại cũng được Chúa yêu thương cho đón nhận Tin mừng. Phao-lô và Bác-na-ba được uỷ thác làm việc đó. “Vậy, khi nhận ra ân huệ Thiên Chúa đã ban cho tôi, các ông Gia-cô-bê, Kê-pha và Gio-an, những người được coi là cột trụ, đã bắt tay tôi và ông Bá-na-ba để tỏ dấu hiệp thông; chúng tôi thì lo cho các dân ngoại, còn các vị ấy thì lo cho những người được cắt bì”. Dân ngoại cũng được đón nhận Thánh Thần mà không cần chịu phép cắt bì. Vì thế cần phải kính trọng dân ngoại trở lại. Đối xử với người không chịu phép cắt bì cũng giống như người chịu phép cắt bì (năm chẵn).
Lạy Cha, con tạ ơn Cha đã cho con được diễm phúc làm con Cha. Xin cho con cũng biết mở lòng đón nhận và yêu thương mọi người. Vì họ cũng là con Cha. Là anh em của con.
Lời Chúa Giêsu khiến ta an tâm tin tưởng biết bao. Lời đó nhắc nhở ta phải cầu nguyện. Lời đó trấn an ta vì cứ cầu nguyện sẽ được nhận lời. Vì Thiên Chúa không phải là ông vua hà khắc, cũng không chỉ là một người bạn thân, nhưng còn hơn thế nữa, là Cha của ta. Cha nào có thể từ chối con cái.
Tuy nhiên cũng như cha mẹ không bao giờ cho trẻ nhỏ chơi với lửa, với dao là những thứ nguy hiểm, Thiên Chúa cũng không ban cho ta những gì có hại cho ta. Người chỉ ban cho ta những gì sinh ích lợi cho ta, đem đến cho ta hạnh phúc đích thật, vĩnh cửu. Và Chúa Giê-su hé lộ cho ta biết điều cần thiết nhất cho ta đó là Thần Khí. Xin Thần Khí chắc chắn Cha sẽ không thể chối từ. Điều này nhắc ta nhớ đến vua Sa-lo-mon. Sa-lo-mon chỉ xin ơn khôn ngoan và điều đó đẹp lòng Thiên Chúa (x. 1V 3, 10-13).
Ma-la-khi cho biết người không có Thần Khí chống lại Chúa có vẻ như được may mắn hạnh phúc. Nhưng đó chỉ là may mắn bề mặt và hạnh phúc thoáng qua. Rồi đến ngày mọi may mắn đó sẽ qua, bản thân người ác cũng bị thiêu đốt. “Vì này, ngày ấy đến, đốt cháy như hoả lò. Mọi kẻ kiêu ngạo và mọi kẻ làm điều gian ác sẽ như rơm rạ. Ngày ấy đến sẽ thiêu rụi chúng”. Chỉ người có Thần Khí mới thuộc sở hữu của Chúa, trở thành con yêu của Chúa và sau cùng mới được hạnh phúc đích thực, vĩnh cửu. “Ta sẽ xót thương chúng như người cha xót thương đứa con phụng dưỡng mình…mặt trời công chính sẽ mọc lên, mang theo các tia sang chữa lành bệnh” (năm lẻ).
Thư Ga-lát khuyên ta đã nhận được Thần Khí thì phải kiên trì gìn giữ trân trọng. Vì xác thịt yếu đuối dễ bị cám dỗ bởi những ảo ảnh phù vân đưa đến sự chết. Thần Khí giúp ta từ bỏ xác thịt, sống theo Chúa Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh để được tới hạnh phúc đích thực. Thần Khí được ban cho nhờ đức tin chứ không do Lề Luật. Vì thế ta phải giữ vững đức tin vào Chúa Ki-tô “đã chịu đóng đinh vào thập giá”. Đừng chao đảo nghe theo những kẻ mê hoặc (năm chẵn).
Nhận biết Thần Khí là cốt lõi của đời sống. Kiên trì tha thiết van xin. Chắc chắn Chúa sẽ ban Thần Khí cho ta. Để ta sống xứng đáng là con của Chúa. Và được hưởng muôn vàn ơn phúc Chúa muốn ban cho ta.
Đổi đời là ước vọng ngàn đời của con người. Ai cũng mong ước được đổi mới cuộc đời. Gio-en tiên báo sẽ có cuộc đổi đời quyết liệt, triệt để, toàn diện. Đó là ngày thế giới cũ, con người cũ bị tận diệt. “Ôi ngày đáng sợ thay! Ngày của Đức Chúa quả đã gần kề! Ngày sẽ đến tựa cơn tàn phá do lệnh Đấng Toàn Năng”. Đó là ngày tận số cho những kẻ làm điều ác. “Run lên đi, mọi cư dân trong xứ, vì Ngày của Đức Chúa đến rồi, Ngày ấy đã kề bên. Ngày tối tăm u ám, Ngày mây mù tối đen”. Nhưng thế hệ xấu qua đi để có một thế hệ tốt mới xuất hiện. Thần dân của bóng tối qua đi, để Dân Thiên Chúa, dân của ánh sáng xuất hiện: “Một dân đông đúc và hùng mạnh đang tràn ngập núi đồi như thể ánh bình minh. Một dân như vậy xưa nay chưa hề có và muôn năm muôn đời cũng sẽ chẳng bao giờ có nữa” (năm lẻ).
Lời tiên báo đó ứng nghiệm nơi Chúa Giê-su. Chúa đến tiêu diệt vương quốc bóng tối của ma quỉ. Giải phóng con người khỏi ách nô lệ ma quỉ. Xua đuổi chúng về miền tăm tối. Ma quỉ không còn phải là kẻ mạnh nhất nữa. Chính Chúa Giê-su, Đấng Cứu Thế mới là Đấng Toàn Năng, mạnh mẽ: “Khi một người mạnh được vũ trang đầy đủ canh giữ lâu đài của mình, thì của cải người ấy được an toàn. Nhưng nếu co người mạnh thế hơn đột nhập và thắng được người ấy thì sẽ tước lấy vũ khí mà người ấy vẫn tin tưởng và sẽ đem phân phát những gì đã lấy được”. Chúa đã chiếm lại được sự sống và tự do từ tay ma quỉ. Chúa đem sự sống và tự do trả lại cho con người.
Tuy nhiên lại có một vấn đề. Con người có tự do, có đón nhận Chúa không? Những người không tin Chúa cho rằng Chúa là tướng quỉ đến trừ quỉ. Họ dọn cỗ cho ma. Vì không chấp nhận Chúa thì họ sẽ như căn nhà bỏ hoang sau khi được Chúa quét dọn sạch sẽ. Ma quỉ sẽ quay trở lại. Không có Chúa, số phận họ sẽ khốn khổ hơn trước.
Muốn đón nhận Chúa phải có đức tin. Chính đức tin làm cho con người nên công chính. Chính đức tin làm nên sức mạnh. Vì sống bằng sức sống và sức mạnh của Chúa. Chính đức tin vào Chúa Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh giải phóng ta khỏi bị nguyền rủa. “Khi vì chúng ta chính Người trở nên đồ bị nguyền rủa”. Chịu chết Chúa qui tụ một dân đông đúc và hùng mạnh. “Các dân ngoại cũng được hưởng phúc lành dành cho ông Áp-ra-ham”. Đó là dân hùng mạnh vì thoát khỏi ách quỉ thần. Và sống bằng Thần Khí nhờ đức tin như thánh Phao-lô dạy: “ nhờ đức tin, chúng ta nhận được ơn Thiên Chúa đã hứa tức là Thần Khí” (năm chẵn).
Người phụ nữ ngợi khen Đức Mẹ cũng nói “Phúc thay”. Chúa Giê-su cũng nói “Phúc thay”. Nhưng ở chiều kích và mức độ khác nhau. Người phụ nữ nói về hạnh phúc được làm mẹ. Chúa Giê-su nói về hạnh phúc được làm con. Ai sinh ra thì làm mẹ. Ai tuân giữ thì làm con. Người phụ nữ nói về người mẹ dưới thế. Chúa Giê-su nói về người con của Cha trên trời. Sinh ra theo xác thịt sẽ trở thành mẹ theo cách nhìn trần gian. Tuân giữ lời Cha trên trời sẽ trở thành con của Cha trên trời. Người phụ nữ nói về hữu hạn. Chúa Giê-su nói về vô hạn. Con chỉ có một mẹ. Nhưng Cha thì có vô số con cái. Người phụ nữ nói về liên hệ huyết thống. Chúa Giê-su nói về liên hệ thiêng liêng. Liên hệ huyết thống xác thịt thì chật hẹp, giới hạn. Liên hệ thiêng liêng thì bao la mênh mông vô hạn. Người phụ nữ nói về liên hệ bề mặt. Chúa Giê-su nói về liên hệ chiều sâu. Sinh ra là liên hệ bề mặt. Nhưng nghe và tuân giữ tạo nên một liên hệ gắn bó sâu xa hơn nhiều. Thành ra lời “Phúc thay” của người phụ nữ chỉ ở phương diện trần gian chóng qua. Lời “Phúc thay” của Chúa Giê-su mới thật cao cả, sâu xa và vĩnh cửu. Đó là “Phúc Thật”. Đức Mẹ ứng nghiệm cả ở hai chiều kích. Người phụ nữ thực sự muốn ca ngợi Đức Mẹ. Nhưng chưa xứng tầm. Chúa Giê-su phải sửa chữa lại. Vừa nâng Đức Mẹ lên xứng tầm. Vừa mở rộng tới muôn người. Để ai nghe và tuân giữ Lời Chúa cũng sẽ được hạnh phúc như Đức Mẹ.
Đó chính là điều thư Ga-lát khẳng định. Khi lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa ta có đức tin. “Nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô”. Chúng ta trở thành con vì ”bất cứ ai trong anh em được thành tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô”. Là con chúng ta sẽ đồng thừa tự với Chúa Giê-su. Được hưởng gia tài vinh quang thiên quốc. Đó là phúc thật của chúng ta. (năm chẵn).
Điều đó không những ứng nghiệm cho mọi cá nhân. Mà còn cho mọi đất nước, mọi dân tộc. Rồi sẽ đến những ngày của Chúa. Ngày ấy trở nên cuộc phán xét khủng khiếp cho những dân tộc không nghe và không tuân giữ Lời Chúa. Họ sẽ bị kết án. Bị tàn lụi; “Ai cập sẽ nên chốn hoang tàn. Ê-đôm sẽ trở thành sa mạc hoang vu, vì chúng đã dung bạo lực sát hại con cái Giu-đa; chúng đã đổ máu người vô tội trên đất của họ”. Còn những ai nghe và tuân giữ Lời Chúa sẽ trở thành Dân của Chúa. Sẽ được hưởng hạnh phúc. “Giê-ru-sa-lem sẽ là nơi thánh, người ngoại quốc sẽ chẳng còn qua đó nữa. Ngày ấy, núi non sẽ tiết ra nước nho, đồi nương sẽ chảy sữa tràn trề, từ mọi khe suối Giu-đa, nước sẽ tuôn trào cuồn cuộn”. Họ trở thành con cái Chúa. Trở thành một dân tộc. Đó là phúc thật (năm lẻ).
Thiên Chúa đã làm muôn vàn điềm kỳ dấu lạ. Tuy nhiên dấu lạ quan trọng nhất là dấu chỉ ơn cứu độ. Chính vì thế Chúa Giê-su cho biết sẽ tái diễn dấu lạ Gio-na.
Dấu lạ Gio-na là tình thương của Chúa. Muốn cứu độ dân Ni-ni-vê. Nên sai Gio-na đến. Đó là dấu lạ của quyền năng. Cho Gio-na vào bụng cá ba ngày vẫn còn sống. Trên hết đó là dấu lạ của ơn cứu độ. Nhưng ơn cứu độ chỉ đến được với người có niềm tin. Dân Ni-ni-vê ngoại đạo nhưng lại tin vào Chúa và tin lời Gio-na. Ăn năn sám hối nên được ơn cứu độ.
Chúa Giê-su còn hơn Gio-na. Nếu Gio-na là người được Chúa sai đến. Thì Chúa Giê-su là Thiên Chúa đích thân đến. Nếu Gio-na miễn cưỡng đến rao giảng. Thì Chúa Giê-su yêu thương con người, tự nguyện đến tìm con người. Nếu Gio-na được Chúa cho vào bụng cá ba ngày không chết. Thì Chúa Giê-su tự mình sống lại sau khi chết thật. Đó là dấu lạ lớn lao của ơn cứu độ. Tiếc rằng người Do thái không tin. Vì thế họ sẽ bị phán xét nặng nề. “Trong cuộc Phán Xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ trỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Gio-na rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Giô-na nữa”.
Thư Rô-ma cho thấy tình yêu thương của Thiên Chúa có từ muôn ngàn đời. Muốn cứu độ con người qua các sứ giả. Nhưng đến thời sau cùng Thiên Chúa ban chính Con Một. Cái chết và sự sống lại của Chúa Giê-su cho thấy quyền năng và tình yêu cứu độ của Chúa. Vì thế thánh Phao-lô nguyện suốt đời đem Tin Mừng cứu độ đến cho mọi người. Để tình yêu và quyền năng Thiên Chúa được rạng rỡ: “Nhờ Người chúng tôi nhận được đặc ân và chức vụ Tông Đồ, làm cho hết thảy các dân ngoại vâng phục Tin Mừng hầu danh Người được rạng rỡ”(năm lẻ).
Chúa Giê-su ban ơn cứu độ. Để ta được giải thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi. Để ta được tự do. Chúa mặc lấy thân nô lệ để ta được tự do. Chúa chịu chết cho ta được sống. Ta hãy biết trân trọng tự do. Vì nó được chuộc lại bằng giá rất đắt. Ta hãy biết trân trọng sự sống. Vì nó được chuộc lại bằng giá Máu Chúa. Đó là dấu lạ lớn lao. Đó là dấu chỉ vĩ đại. Dấu chỉ tình yêu. Dấu chỉ ơn cứu độ. “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Ki-tô đã giải thoát chúng ta. Vậy, anh em hãy đứng vững, đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa” (năm chẵn).
Người Biệt phái tuyệt đối tin vào Lề Luật. Lề Luật làm cho họ nên công chính. Đến nỗi Thiên Chúa chỉ có việc thưởng công khi họ chu toàn Lề Luật. Và họ chẳng cần nhờ gì đến Chúa. Đó là một sai lầm lớn lao. Sai lầm nối tiếp sai lầm. Giữ Lề Luật chỉ cần hình thức bề ngoài là đủ. Làm như Lề Luật là bùa chú. Cứ theo công thức là thành. Vì thế đạo của họ không có nội tâm. Bên trong của họ tội lỗi xấu xa. Lại còn tự kiêu tự mãn.
Chúa Giê-su vạch rõ sai lầm của họ. Thiên Chúa là chủ cuộc đời. Không có Chúa con người chẳng làm gì nên công trạng. Người ta chẳng thể tự mình nên công chính. Vì thế phải sống trong đức tin. Đức tin cho thấy ta chẳng là gì. Chúa là tất cả. Ta chẳng có gì. Chúa có tất cả. Nhưng Chúa vô hình. Nên ta phải tin tưởng. Chúa không nhìn bề ngoài nhưng chỉ xét thâm tâm. Vì thế phải thanh tẩy bên trong tâm hồn. Khỏi mọi gian ác. Khỏi mọi tự kiêu tự mãn. Để Chúa hoàn toàn làm chủ cuộc đời. Để ta sống hoàn toàn nhờ Chúa. Chính Chúa làm ta nên công chính.
Nhận thức đúng đắn sẽ đưa ta đến đời sống đạo đúng đắn. Không còn dừng lại bên ngoài. Không thờ những thần tượng khả giác của người phàm. Thậm chí cả dưới hình dạng súc vật. “Thay vì Thiên Chúa vinh quang bất tử, họ đã thờ hình tượng người phàm là loài phải chết, hay hình tượng các loài chim chóc, thú vật, rắn rết”. Tin vào Tin Mừng vì “Tin Mừng là sức mạnh Thiên Chúa dùng để cứu độ bất cứ ai có lòng tin…Vì trong Tin Mừng, sự công chính của Thiên Chúa được mặc khải”. Chỉ sống trong đức tin vào Thiên Chúa: “Vì người công chính nhờ đức tin sẽ được sống”(năm lẻ).
Sống trong đức tin, con người được giải thoát, được tự do. Không còn lệ thuộc vào những gì bên ngoài. Lề Luật. Dư luận. Chỉ sống cho Chúa. Sống trong đức tin vào Thiên Chúa. “Anh em mà tìm sự công chính trong Lề Luật, là anh em đoạn tuyệt với Đức Ki-tô và mất hết ân sủng. Còn chúng tôi thì nhờ Thần Khí và dựa vào đức tin mà vững lòng chờ đợi được nên công chính như chúng tôi hy vọng. Quả thật, trong đức Ki-tô Giê-su, cắt bì hay không cắt bì đều không có giá trị, chỉ có đức tin hành động nhờ đức ái” (năm chẵn).
Sống đức tin thực sự. Sống nội tâm thực sự. Tôi chẳng còn bận tâm đến bên ngoài. Đến người ngoài. Chỉ thanh tẩy nội tâm. Để một mình Thiên Chúa chiếm ngự tâm hồn. Thế là đủ. ------------------------------------
Đạo Do thái rất chặt chẽ. Tầng lớp lãnh đạo gồm các thượng tế, các thày Lê-vi, các kinh sư, luật sĩ. Lại thêm nhóm Pha-ri-sêu rất nghiêm ngặt. Tất cả luôn bảo vệ Lề Luật. Học hỏi Lề Luật. Cắt nghĩa Lề Luật. Làm cho đạo trở thành một hệ thống Lề Luật vững vàng. Nhưng hôm nay Chúa Giê-su cho thấy đó không phải là đạo của Chúa. Nhưng là đạo của con người. Không phải đạo vì con người. Nhưng là đạo vì bản thân. Thật đáng sợ khi chỉ lo giữ bề ngoài mà không giữ bề trong. Chỉ giữ những điều phụ mà lại quên điều chính. Chỉ giữ những điều nhỏ mà lại quên điều lớn. Chỉ buộc người khác tuân giữ còn mình thì không. Nó biến đạo thành giả dối, lừa đảo và biến chất.
Đạo thật phải là đạo của Chúa. Đạo của Chúa thì phải giữ “lẽ công bằng và lòng yêu mến Thiên Chúa”. Và nhất là phải có lòng thương xót. Đừng “chất lên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi, còn chính các người, thì dù một ngón tay cũng không động vào”.
Tầng lớp lãnh đạo Do thái sai lầm vì họ tự cho mình thay Chúa. Ở trên Lề Luật. Có quyền phán đoán xét xử người khác. Thư Rô-ma dạy ta biết ta không có quyền xét đoán tha nhân. Chính ta bị Thiên Chúa xét xử. “Dù bạn là ai đi nữa mà bạn xét đoán thì bạn cũng không thể tự bào chữa được”. Đạo vì Chúa và vì tha nhân chứ không phải vì bản thân sẽ nhắc ta biết mình tội lỗi bất toàn. Đừng xét đoán người. Hãy biết xét mình. “Vì khi bạn xét đoán người khác, mà bạn cũng làm như họ, thì bạn tự kết án chính mình”. Bản thân ta cũng tội lỗi bất toàn. Vì thế hãy biết “Thiên Chúa nhân hậu như thế là để thúc giục bạn hối cải” (năm lẻ).
Kẻ tự cho mình thay quyền Chúa để tìm quyền lợi cho bản thân, chèn ép anh em, là kẻ sống theo xác thịt. Thư Ga-lát dạy ta đừng sống theo xác thịt. Vì “những kẻ làm điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa”. Vì đó là đạo giả. Đạo thật phải sống theo Thần Khí. Sống theo Thần Khí là quên mình. Mến Chúa. Yêu người. Sống như thế là “thuộc về Đức Ki-tô Giê-su, đóng đinh tính xác thịt vào thâp giá cùng với các dục vọng đam mê”. Sẽ gặt hái được “hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (năm chẵn). Đó mới là đạo thật.
Tiên tri, một nhiệm vụ không dễ. Vì người ta không muốn nghe sự thật. Nhất là khi sự thật đó làm tổn hại đến quyền lợi, danh vọng. Và để chứng tỏ mình có lý, người ta giết các tiên tri. Hê-rô-đê giết Gio-an Tẩy giả là một bằng chứng. A-ben bị giết ám muội giữa đồng đã đành. Nhưng Da-ca-ri-a bị giết giữa thanh thiên bạch nhật. Giữa đền thờ. Tại bàn thờ. Người ta đã giết vị triên tri để chiếm đoạt sự thật. Thậm chí còn nhân danh Thiên Chúa và đạo giáo.
Sự kiên nhẫn của Thiên Chúa thật vô biên. Người nhịn nhục tất cả. Tha thứ tất cả. Đến nỗi sai Con Một xuống trần. Đó là thời điểm quyết định. Đã đến thời cuối cùng. Vị tiên tri cuối cùng xuất hiện. Đó là cơ hội cuối cùng cho con người. Hoặc chọn sự sống. Hoặc chọn sự chết. Ván bài cuối cùng. Được ăn cả. Ngã về không. Chốt lại một vấn đề: tin hay không tin Chúa Giê-su Ki-tô.
Khi gửi Con Một xuống trần, Thiên Chúa làm mới lại tất cả. Thư Rô-ma cho biết: Vì Chúa Giê-su Ki-tô, Thiên Chúa tha thứ tất cả tội lỗi xưa kia con người đã phạm. Vì Chúa Giê-su Ki-tô, Thiên Chúa bãi bỏ tất cả Lề Luật. Chỉ cần một điều: Tin vào Chúa Giê-su Ki-tô: “Thưa anh em, ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật Mô-sê. Điều này, sách Luật và các Ngôn Sứ làm chứng. Quả thế, người ta được Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Đức Giê-su Ki-tô” (năm lẻ).
Thư Ê-phê-sô còn đi sâu xa hơn nữa. Cho biết Chúa Giê-su chính là trung gian duy nhất. Nhờ Người mà muôn vật được tạo thành. Nhờ Người mà muôn vàn ơn phúc được ban cho ta. Nhờ Người ta được trở nên nghĩa tử. Nhờ Người ta được thứ tha tội lỗi. Đó chính là bí mật của kế hoạch Thiên Chúa. Là kế hoạch yêu thương. Sẽ đến thời cuối cùng. Thời viên mãn. Mọi sự được quy tụ trong Chúa Ki-tô: “Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu; thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô”(năm chẵn).
Đây là thời điểm cuối cùng. Đây là cơ hội cuối cùng. Nhưng cũng là cơ may cuối cùng. Ta sẽ được tất cả. Được tha thứ tất cả. Được ơn lành tất cả. Chỉ cần tin vào Chúa Giê-su Ki-tô. Vị tiên tri cuối cùng. Nhưng hãy cẩn thận. Mất lần này là mất tất cả. Không còn cơ hội nào nữa.
Sống đạo là sống mối tương quan với Thiên Chúa. Mối tương quan này được người đời kính trọng. Vì thế sống đạo dễ biến chất. Trở thành phương tiện gây uy tín. Trục lợi. Thành giả hình. Sống hình thức trước mặt người đời. Quên mất điều cốt lõi là sống trước mặt Thiên Chúa.
Người Pha-ri-sêu sống kiểu này. Chính vì thế Chúa Giê-su khuyên dạy các tông đồ: “Anh em phải coi chừng men Pha-ri-sêu, tức là thói đạo đức giả”. Phải tránh xa. Vì giả dối trước sau gì cũng bại lộ trước mặt người đời. Nhưng còn hơn thế nữa. Giả dối không che được mắt Chúa. Chúa thấu biết mọi sự. Vì thế phải luôn sống ngay thẳng. Sống công chính.
Sống công chính có thể bị thiệt thòi trước mặt người đời. Không được lợi lộc gì. Có khi còn bị bắt bớ, hành hạ, và bị giết chết nữa. Giả hình là hèn nhát. Sợ người đời. Công chính là không sợ người đời. Chỉ sợ Thiên Chúa. Sống đúng mối tương quan với Thiên Chúa. Người giả hình chỉ được đời này mà mất đời sau. Người công chính có thể mất đời này. Nhưng được đời sau. Nhưng trên hết người công chính được Thiên Chúa yêu thương. Luôn quan phòng chăm sóc. Được tình yêu của Thiên Chúa. Được chính Thiên Chúa. Đó là hạnh phúc. “Năm con chim sẻ chỉ bán được hai hào, phải không? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa…Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ”.
Tổ phụ Áp-ra-ham được kể là công chính. Vì ngài từ bỏ hết những lợi lộc đời này. Chỉ tin vào lời hứa. Nên đi theo Chúa. Làm theo những gì Chúa chỉ dạy. Kể cả từ bỏ đứa con một yêu quí. Thực ra chẳng ai tự mình nên công chính. Chỉ Thiên Chúa mới làm cho ta nên công chính. Nên “lòng tin làm cho người ấy được Thiên Chúa kể là công chính”. Và người công chính sống bằng đức tin(năm lẻ).
Để giúp ta dễ dàng sống công chính, Thiên Chúa đã gửi Chúa Giê-su Ki-tô, Con Một Người xuống thế. Ai tin vào Chúa Giê-su sẽ nên công chính. Vì “trong Chúa Ki-tô, Thiên Chúa đã chọn chúng ta… Trong Chúa Ki-tô, cả anh em nữa, anh em đã được nghe lời chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em; vẫn trong Chúa Ki-tô một khi đã tin, anh em được đóng ấn Thánh Thần…là bảo chững phần gia nghiệp của chúng ta” (năm chẵn).
Tạ ơn Chúa. Chúng ta vốn tội lỗi. Nhưng Chúa làm cho ta nên công chính. Tha tội lỗi chúng ta. Hãy vững tin vào Chúa. Ta sẽ được cứu chuộc.
Chúa Giê-su đặt Thiên Chúa đối diện với thiên hạ để cho ta phải dứt khoát chọn lựa. Thiên Chúa là chủ cả trời đất. Thiên hạ chỉ là người dưới gầm trời. Thế mà chọn lựa này vẫn khiến ta sợ hãi. Sợ hãi vì tuyên xưng Chúa trước mặt thiên hạ sẽ bị thiệt thòi. Thiệt thòi lớn nhất là mất mạng như các thánh tử đạo đã chịu. Thiệt thòi nhỏ hơn là bị mất chức quyền. Thiệt thòi tối thiểu là bị mất mối lợi trước mắt, mất ưu thế với người đời, mất tiền của… Thì ra khi gắn bó với trần gian ta đâm sợ thiên hạ. Ta sợ vì có gì để mất. Khi không có gì để mất ở trần gian, ta không còn gì phải sợ. Đó chính là thái độ của Áp-ra-ham. Đó chính là thái độ của người sống theo Chúa Thánh Thần.
Áp-ra-ham đã từ bỏ tất cả. Từ bỏ quê hương, gia tộc. Từ bỏ của cải đất đai. Thậm chí từ bỏ cả đứa con trai duy nhất, niềm hi vọng cuối cùng của tuổi già. Ông chỉ chọn Chúa. Ông chỉ đi theo ơn Chúa Thánh Thần. Ông chỉ sống, suy nghĩ, nói năng và hành động theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng. “Không phải chiếu theo Lề Luật, mà Thiên Chúa đã hứa cho ông Áp-ra-ham và dòng dõi ông được thế gian làm gia nghiệp; nhưng ông được lời hứa đó, vì đã trở nên công chính nhờ lòng tin” (năm lẻ).
Khi chọn Chúa chứ không chọn trần gian, ta hiên ngang ra trước cường quyền tuyên xưng Danh Chúa. Vì khi không còn bám víu gì vào trần gian, Chúa Thánh Thần sẽ làm việc. Tâm hồn con người giống như chiếc thuyền buồm. Khi trút bỏ mọi đam mê dục vọng, mọi ràng buộc gắn bó, thuyền sẽ nhẹ tênh. Khi không nhìn về trần gian, buồm sẽ căng gió Thánh Thần để đi đúng hướng Thiên Chúa. Và hoa trái của Thánh Thần thật lớn lao. Lớn lao nhất là được chính Chúa Giê-su tuyên dương trước mặt Chúa Cha và các thần thánh trên trời.
Vì thế thánh Phao-lô hằng cầu nguyện cho tín hữu Ê-phê-sô được “thần khí khôn ngoan” soi lòng mở trí, để nhận định rõ “đâu là niềm hi vọng, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao” để biết luôn chọn Chúa Ki-tô. Từ bỏ trần gian để chọn Chúa Ki-tô ta sẽ được tất cả. Vì “Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Ki-tô” (năm chẵn).
Lạy Chúa, xin cho con đừng bao giờ chọn trần gian chóng qua, đừng bị những khuynh hướng thế tục chi phối, để tâm hồn con tự do theo ơn Chúa Thánh Thần. Như thế con sẽ hiên ngang trước mặt người đời để tuyên xưng Chúa bằng đời sống từ bỏ của con.
Tiền bạc của cải là mối bận tâm lớn của con người. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường. HIện nay hệ thống tài chính nắm quyền sinh sát thế giới. Trong nền sản xuất công nghiệp phát triển, cần rất nhiều nguyên liệu và nhiên liệu. Ai có nhiều tài nguyên này sẽ giầu có. Sẽ có thế lực. Sẽ điều khiển thế giới. Vì thế ai cũng lo chiếm hữu nhiều tài nguyên. Để có nhiều tiền bạc của cải.
Nhưng nếu chỉ bận tâm về tiền bạc của cải sẽ rất nguy hiểm. Cần có ý thức về những giá trị lớn hơn, cao hơn, bền vững. Nên Chúa Giê-su cảnh báo: “Không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu”. Kể dụ ngôn ông nhà giầu xây kho. Toan tính rất hợp lý, có vẻ chắc chắn và lâu dài. Nhưng biết một mà không biết mười. Chúa chỉ cần đưa ra một câu hỏi: “Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì người sắm sẵn đó sẽ về tay ai”? Tất cả sụp đổ tan tành. Điều quan trọng là bảo đảm được mạng sống. Mạng sống đời này. Nhưng nhất là mạng sống đời đời. Điều đó không nằm trong tầm tay con người. Cần có kho khác và của cải khác bền vững hơn.
Thư Rô-ma cho biết ta tìm thấy điều đó trong Chúa Giê-su Ki-tô. Như tổ phụ Áp-ra-ham đã tin tưởng vào lời hứa của Thiên Chúa. Dám bỏ quê hương tài sản ra đi khi tuổi đã cao. Dám hiến tế cả đứa con trai duy nhất dù chẳng hi vọng sinh con được nữa. Chỉ giữ đức tin vào lời hứa. Tin vào một Thiên Chúa. Chỉ có một đức tin. Tin cả khi không còn gì để tin. Nên tổ phụ đã được tất cả mọi ân sủng do lời hứa của Thiên Chúa đem lại. Cũng thế, khi ta tin vào Chúa Giê-su Ki-tô ta cũng được tất cả. Vì Chúa Giê-su Ki-tô đã từ cõi chết sống lại. Đã từ bỏ tất cả. Để rồi được lại tất cả. Chúa trở nên kho tàng của ta. Tin vào Chúa ta sẽ nên công chính như tổ phụ Áp-ra-ham. Sẽ được lại tất cả (năm lẻ).
Thư Ê-phê-sô giải nghĩa sâu xa hơn. Kho tàng chúng ta có không do công sức của ta. Nhưng do lòng nhân hậu của Chúa. Chúng ta đã sống theo xác thịt. Theo thế gian. Đáng phải chết. “Nhưng Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi trời”. Đó là kho tàng không bao giờ hư nát. Vì đó là kho tàng không phải do ta làm ra. Nhưng nhờ tin vào Chúa Ki-tô, ta được thụ hưởng: “Ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Ki-tô Giê-su, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (năm chẵn).
Dụ ngôn người đầy tớ tỉnh thức nói về Nước Trời. Ta sống ở trần gian trong thao thức chờ đợi đến ngày được vào Nước Trời. Thao thức được diễn tả bằng việc chờ đợi trong đêm. Chủ về muộn nên đầy tớ phải chờ đợi. Thái độ chờ đợi được Chúa diễn tả bằng 3 hoạt động. Thao thức. Thắt lưng. Cầm đèn. Tất cả không chỉ nói lên sự tận tâm. Mà còn cả tình yêu mến. Yêu mến nên khao khát mong chờ. Yêu mến nên không thể ngủ được khi chưa gặp được ông chủ. Yêu mến nên có thể thức cho đến sáng. Chỉ khi gặp ông chủ mới thôi thao thức. Nhưng yêu mến được bày tỏ trong thái độ phục vụ. Thắt lưng gọn gàng, Sẵn sàng làm việc. Bất cứ việc gì. Lúc nào cũng trong tư thế phục vụ. Để làm đúng nhiệm vụ được trao. Yêu mến nên lo xa. Lúc nào cũng cầm đèn. Lúc nào đèn cũng sáng. Để đèn sáng đương nhiên phải chuẩn bị dầu sẵn sàng. Để chủ về thì không phải chờ một phút nào. Để soi đường đón chủ ngay. Không phải mất giờ đốt đèn. Không sợ lật đật vấp ngã. Lòng yêu mến. Sự phục vụ. Tầm nhìn xa. Không uổng công. Sẽ được đền đáp. Một đền đáp quá lớn lao. Một cuộc đổi đời. Không còn là đầy tớ nữa. Được làm chủ. Được ngồi vào bàn ăn. Lại được chính ông chủ phục vụ.
Thư Rô-ma cho biết ta được như vậy là nhờ Chúa Giê-su Ki-tô. Vì tội A-đam mọi người chịu thân phận nô lệ. Nhưng nhờ Chúa Ki-tô mọi người được tự do. Vì tội A-đam mọi người phải chết. Nhờ Chúa Ki-tô mọi người được sống. Vì tội A-đam mọi người chịu luỵ phục. Nhờ Chúa Ki-tô mọi người được thống trị. “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội. Như vậy, nếu tội lỗi đã thống trị bằng cách làm cho người ta phải chết, thì ân sủng cũng thống trị bằng cách làm cho người ta nên công chính để được sống đời đời, nhờ Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta” (năm lẻ).
Thư Ê-phê-sô cho biết ta được thừa hưởng ân sủng do công cuộc cứu độ đem lại, nhờ Chúa Giê-su Ki-tô đã phá bức tường ngăn cách người Do thái với dân ngoại. Cho ta được từ xa lạ nên gần gũi. Từ người dưng nên họ hàng vì thuộc gia tộc Thiên Chúa. “Vậy anh em không còn phải là người xa lạ hay tạm trú, nhưng là người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa, bởi đã được xây dựng trên nền móng là các Tông Đồ và ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Đức Ki-tô Giê-su”. Chính đá góc tường liên kết tất cả (năm chẵn).
Đó là niềm hi vọng lớn lao. Thay đổi cả cuộc đời. Thay đổi cả số phận. Đáng cho ta thao thức. Phục vụ. Và nhìn xa. Để mong chờ không ngơi trong suốt cả đời.
Việc chờ đợi của chúng ta không giản đơn là tỉnh thức. Nhưng còn là có trách nhiệm. Vì trong khi Chúa vắng nhà Chúa trao cho ta quyền quản gia. Nhiệm vụ của quản gia được Chúa định nghĩa là trung tín và khôn ngoan. Khôn ngoan là “cấp phát lúa gạo đúng giờ đúng lúc”. Có của cải nhưng phải biết dùng đúng nơi, đúng lúc, đúng cách, mới sinh hiệu quả tối đa. Làm lợi cho kho tàng của chủ. Đó là người quản gia khôn ngoan. Ta quản chính con người mình với những tài năng của thân xác, trí tuệ và linh hồn. Làm sao phân phát lương thực đúng thời đúng lúc cho chúng phát triển? Trung tín là ta không được gian tham chiếm đoạt của chủ. Trong Tin Mừng Chúa cho biết sự bất trung đó là: “Người đầy tớ ấy nghĩ bụng: “Còn lâu chủ ta mới về”, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gài và chè chén say sưa”. Dùng những gì Chúa ban để thoả mãn dục vọng. Và tệ hơn, không làm phát triển anh em. Nhưng bóc lột anh em. Đó là bất trung, gian tham.
Thư Rô-ma cho biết bất trung xảy ra vì ta làm nô lệ cho thân xác. Nô lệ cho thân xác tội lỗi sẽ phải chết. Hãy làm nô lệ cho Thiên Chúa ta sẽ nên công chính và được sống. “Anh em không biết sao? Khi đem thân làm nô lệ để vâng phục ai, thì anh em là nô lệ của người mà anh em vâng phục: hoặc làm nô lệ tội lỗi, thì sẽ phải chết; hoặc làm nô lệ phục vụ Thiên Chúa, thì sẽ được nên công chính”. Thánh nhân khuyên nhủ ta: “Anh em đừng dùng chi thể của anh em như khí cụ để làm điều bất chính, phục vụ cho tội lỗi nữa. Trái lại, anh em là những người sống đã từ cõi chết trở về, anh em hãy hiến toàn thân cho Thiên Chúa, và dùng chi thể của anh em như khí cụ để làm điều công chính, phục vụ Thiên Chúa” (năm lẻ).
Thư Ê-phê-sô cho thấy việc quản lý cao quí nhất chính là quản lý Tin Mừng. Vì thế việc phục vụ cao quí nhất cũng là phục vụ Tin Mừng. Và phải phân phát lương thực Tin Mừng cho mọi người đúng nơi đúng lúc. Thánh Phao-lô hãnh diện vì nhiệm vụ đó: “Thưa anh em, hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Ki-tô….Tôi đã trở nên người phục vụ Tin Mừng đó, nhờ ân sủng đặc biệt Thiên Chúa ban cho tôi” (năm chẵn).
Tạ ơn Chúa cho ta được làm quản gia của Chúa. Và đã trao cho ta kho tàng quí giá nhất là Tin Mừng cứu độ. Nhưng bổn phận phân phát Tin Mừng đúng nơi đúng lúc là nhiệm vụ vô cùng cấp bách và khó khăn. Biết bao linh hồn đang khao khát Tin Mừng cứu độ. Tôi làm nhiệm vụ phân phát thế nào? Có xứng đáng là quản gia trung tín và khôn ngoan không?
Lời của Chúa hôm nay là lời của lửa. Hành động của Chúa là hành động của lửa: ném lửa xuống mặt đất. Cuộc đời của Chúa là cuộc đời lửa cháy. Cháy lên tình yêu mãnh liệt. Lửa tình yêu bừng cháy thanh luyện. Đó là phép rửa cuối cùng của Chúa. Đó là tình yêu lớn lao hơn mọi tình yêu. Đã biến cuộc đời Chúa thành một thứ vàng ròng tinh khôi.
Chúa ước mong lửa đó cháy lên. Cháy lên trong mỗi người chúng ta. Để ngọn lửa đó thanh luyện trái tim ta. Để chỉ yêu mến một mình Thiên Chúa. Để thanh luyện khỏi những gì thuộc trần gian. Gây nên mối chia rẽ lớn lao. Như lửa tách tạp chất ra khỏi vàng. Tình yêu mến Chúa tách ta khỏi những gì thuộc trần gian. Dù đó là những gì thân thiết nhất. Như ước vọng, đam mê. Những người thân thiết nhất. Như cha mẹ, anh em, vợ chồng. Những gì thâm sâu nhất. Như chính bản thân mình. Tất cả phải được tách lìa. Phải được thanh luyện. Thành vàng ròng tình yêu dành cho Thiên Chúa.
Hãy chiêm ngắm Chúa Giê-su trong vườn Giệt-si-ma-ni. Đó là phép rửa cuối cùng. Ngọn lửa tách biệt cái tôi khỏi thánh ý Chúa Cha. Khiến Chúa đau đớn toát mồ hôi pha máu. Chúa đã trở thành vàng ròng. Để trên thánh giá chỉ còn “phó linh hồn trong tay Chúa Cha”.
Thư Rô-ma cho biết lửa thanh luyện ta khỏi tội lỗi của con người xưa cũ. Để sống cho con người mới trong ân sủng. Cùng là chi thể nhưng cách sử dụng khác nhau: “Trước đây anh em đã dùng chi thể của mình mà làm những điều ô uế và sự vô luân, để trở thành vô luân, thì nay anh em cũng hãy dùng chi thể làm nô lệ sự công chính để trở nên thánh thiện” (năm lẻ).
Thư Ê-phê-sô diễn tả cuộc thanh luyện cuối cùng sẽ giúp ta nên vàng ròng tinh tuyền. Để kết hợp mật thiết với Chúa Ba Ngôi. Được tham dự vào cuộc sống của Thiên Chúa Ba Ngôi: “Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Ki-tô ngự trong tâm hồn; xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, để cùng toàn thể dân thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức Ki-tô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa” (năm chẵn).
Xin cho đời ta cháy bừng ngọn lửa yêu thương. Để ta cũng ném lửa. Gây nên đám cháy tình thương trên khắp mặt đất này.
Biết nhìn ra dấu chỉ thật quan trọng. Biết nhìn thời tiết sẽ sắp xếp công việc hợp lý. Đặc biệt là công việc đồng áng. Để cầy cấy cho đúng thời vụ. Đem lại lương thực cho đời sống thân xác. Nhưng biết nhìn dấu chỉ thiêng liêng còn quan trọng hơn. Vì giúp lo liệu công việc cung cấp lương thực thiêng liêng. Cho sự sống đời đời.
Chúa mắng những người Do thái là giả hình. Vì họ không thể không biết những dấu chỉ về Đấng Cứu Thế: kẻ mù được thấy, kẻ què được đi, người nghèo được nghe Tin Mừng. Chính Chúa đã thực hiện những điều các tiên tri loan báo từ ngàn xưa. Họ giả hình. Vì biết mà không tin. Có lẽ họ sợ phải thay đổi đời sống. Hay là sợ mất quyền lợi khi phải tin theo Chúa. Giả dối. Tâm thần phân liệt.
Chúa cảnh báo họ. Nếu không có phán đoán chính xác. Nếu không thay đổi thái độ để có hành xử đúng đắn. Họ sẽ lãnh lấy hậu quả tai hại. Sẽ bị trừng phạt vì sự thiếu khôn ngoan đó: “Kẻo người ấy lôi anh đến quan toà, quan toà lại nộp anh cho thừa phát lại, và thừa phát lại tống anh vào ngục”.
Chứng tâm thần phân liệt được thánh Phao-lô nhận biết ngay trong bản thân mình. Ngài nhận thấy sự bất lực của mình trong đời sống thiêng liêng: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm”. Và ngài nhận biết mình bị tội lỗi trói buộc. Không sao thoát ra được. Ngài nhận biết chỉ mình Chúa Ki-tô mới có thể cứu ngài thoát sự nô lệ tội lỗi đó: “Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta” (năm lẻ).
Ngài nhận biết thế giới này xung đột chia rẽ. Và sự chia rẽ xuất phát ngay từ nội tâm con người. Đó là do tội lỗi. Cần thống nhất đời sống. Cần thống nhất thế giới. Chỉ có một phương thế: Chịu phép rửa nhân danh Chúa Ki-tô. Như thế “chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hi vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người, và trong mọi người”. Chỉ Thiên Chúa mới có thể giải cứu thế giới. Chỉ Thiên Chúa mới có thể giải thoát con người. Chỉ Thiên Chúa mới có thể duy nhất đời sống. Nhờ Chúa Giê-su Ki-tô (năm chẵn).
Con người thường sống theo xác thịt. Phán đoán theo xác thịt. Gắn bó với xác thịt. Vì thế khi xác thịt phải chết thì lấy làm đau xót. Và cho đó là hình phạt do phạm tội. Nhưng Chúa Giê-su cho biết cái chết thân xác là bình thường. Ai cũng đều phải chết. Có thể do thiên tai. Hoặc do bất cẩn. Nhưng cái chết của linh hồn mới đáng sợ. Đó là cái chết đời đời. Và do tội lỗi. Chính vì thế cái chết thân xác nhắc nhở mọi người đều phải sám hối. Thay đổi đời sống. Đó là điều cấp bách. “Nếu các ông không sám hỗi, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”. Như cây vả phải sinh hoa kết quả. Chúa kiên nhẫn chờ đợi. Và tạo cơ hội cho con người sám hối. Tuy nhiên thời gian cũng có hạn. Nếu không sám hối chắc chắn sẽ phải chết phần linh hồn.
Chúa Giê-su đã chịu chết trong thân xác để ta được sống trong Thần Khí. Sám hối là từ bỏ nếp sống theo xác thịt. Để sống theo Thần Khí. Được Thần Khí hướng dẫn. Sẽ tới sự sống và bình an. Sống trong Chúa Ki-tô sẽ có Thần Khí của Người. Và Thần Khí đã làm cho Người từ cõi chết sống lại cũng sẽ làm cho thân xác của ta có sự sống mới. “Nếu Đức Ki-tô ở trong anh em, thì dẫu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công chính” (năm lẻ).
Cuộc sống mới trong Chúa Ki-tô làm ta nên viên mãn. Chúa đã xuống thẳm sâu để rồi vươn lên đến tuyệt đỉnh. Người mang theo chúng ta là chi thể của Người. Đầu tiến đến đâu chi thể tiến đến đấy. Và chúng ta sẽ “đạt tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô”. Khi đó ta không còn bị xác thịt chi phối. Không còn ngây thơ bị các lý thuyết sai lạc mê hoặc. Ta sẽ “sống theo sự thật và trong tình bác ái, chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Đức Ki-tô vì Người là Đầu” (năm chẵn).
Hãy mau chóng sám hối. Từ bỏ con người xác thịt. Sống trong Chúa Ki-tô. Để ta được Thần Khí của Chúa. Sẽ có sự sống. Sẽ viên mãn.
Đời sống con người bị nhiều thứ trói buộc khiến ta trở thành nô lệ. Trong đó có ma quỉ, xác thịt, thế gian. Ta không thể tự cứu mình. Nhờ Chúa Giê-su ta được giải thoát.
Chúa giải thoát khỏi nô lệ ma quỉ. Xa-tan là một ách nô lệ thống trị. Người phụ nữ này bị trói buộc 18 năm rồi. Nhưng không thể thoát ra. Chúa đến. Chúa là sức mạnh vô biên. Xua đuổi ma quỉ. Giải thoát để người phụ nữ trở thành con Thiên Chúa
Chúa giải thoát khỏi nô lệ xác thịt thế gian. Người phụ nữ bị tật còng lưng. Bị trói buộc khom lưng cúi đầu. Bị ràng buộc vào mặt đất. Không vươn lên trời cao được. Phải cúi đầu trước sự dữ. Chúa giải thoát. Để bà có thể mở rộng tầm mắt nhìn lên trời xanh. Để đứng thẳng hiên ngang tràn đầy phẩm giá.
Chúa giải thoát khỏi nô lệ lề luật. Nô lệ lề luật tạo nên một tôn giáo phi nhân. Có thể cởi dây cho thú vật. Mà không dám cởi trói cho con người. Chúa đem đến một tôn giáo mới. Tự do phóng khoáng. Tràn đầy tình thương. Nâng cao con người.
Trong Người ta trở thành con Thiên Chúa. Không còn là nô lệ. Nhưng được tự do. Được gọi Thiên Chúa là “Abba”. “Anh em không lãnh nhận Thần KHí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử”. Vì thế sống đạo không còn phải là nô lệ lề luật. Nhưng là sống mối tình cha – con với Thiên Chúa. Tự do nhưng yêu thương và hiếu thảo. Như thế ta không còn sống theo xác thịt. Nhưng sống theo Thần Khí. Ta sẽ nên sung mãn. Vì được đồng thừa tự với Chúa Giê-su. Thừa kế di sản vô cùng phong phú, vô cùng quí giá trên thiên đàng (năm lẻ).
Trong Người ta trở thành anh em với nhau. Vì thế phải “ đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau” (năm chẵn).
Hôm nay thế giới còn bị nhiều trói buộc. Xin Chúa giải thoát ta khỏi mọi nô lệ. Nô lệ thần tượng. Dục vọng. Tội lỗi. Ý riêng. Tự ái. Quan niệm. Đó là những gánh nặng kéo ta cúi xuống. Không đứng thẳng lên được.
Xin giải thoát con. Để con đến với Chúa trong tự do. Trong tình con thảo. Và đến với anh em trong tình huynh đệ. Đạo trở thành gia đình yêu thương. Luật trở thành tình yêu tự do. Người trở nên cao cả. Vì phẩm giá lớn lao.
Thật đời thường. Thật kỳ diệu. Nhưng cũng thật thâm sâu. Như hạt cải và nắm men Nước Trời khởi đầu thật bé nhỏ. Hạt cải li ti chẳng ai nhìn thấy. Nắm men nhỏ bé chẳng ai quan tâm. Hạt cải gieo xuống chìm sâu trong đất. Nắm men biến mất trong thúng bột khổng lồ. Tan biến đi. Nhưng không tàn lụi. Mà phát triển mạnh mẽ không ngờ. Cây cải mọc lên cao lớn. Chim chóc tìm đến trú ẩn. Cả thúng bột dậy men. Trở thành bánh thơm ngon cho người đời.
Có một biến đổi sâu xa. Nhỏ bé trở thành lớn lao. Yếu đuối trở thành mạnh mẽ. Có những đau xót âm thầm. Hạt cải vùi chôn và mục nát. Nắm men phân huỷ tan tành. Không còn là mình nữa.. Mất chính thân mình. Mất căn tính mình. Chẳng còn hiện diện. Không còn hạt cải. Không còn nắm men. Đem lại lợi ích lớn lao. Không cho mình nhưng cho tha nhân. Cho chim chóc đến trú ngụ. Cho người đời có bánh ăn.
Thư Rô-ma giải nghĩa hiện tượng chuyển hoá bằng thời kỳ người phụ nữ chuyển dạ. Cả thế giới đang chuyển dạ. Muôn vật đang rên siết đau đớn. Hạt cải và nắm men đang mục nát tan biến. Muôn loài phải trải qua kinh nghiệm hư vô. “Cho đến bây giờ, muôn loài htuj tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở. Không phải muôn loài mà thôi, cả chúng ta cũng rên siết trong lòng”. Hạt cải Thần Khí đã gieo vào lòng ta. Đã gieo vào lòng thế giới. Để con người xác thịt tan biến đi. Để thế giới được Thần Khí hoá. Đau đớn lắm. Nhưng thánh Phao-lô xác quyết “những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (năm lẻ). Qua đau khổ sẽ đến hạnh phúc. Qua tủi nhục sẽ hưởng vinh quang.
Từ bỏ chính mình vì người khác. Hạt cải tan biến để chim chóc có chỗ nương thân. Nắm men tan biến để con người có tấm bánh thơm ngon. Con người cũng phải sống mầu nhiệm Nước Trời. Huỷ mình vì người khác. “Người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt”. Đó là mầu nhiệm tự huỷ mà Chúa Giê-su đã làm gương. Chúa Giê-su đã là hạt cải gieo vào lòng đất. Đã là nắm men vùi vào thúng bột thế giới. Chúa đã trở nên bé nhỏ. Đã tan biến đi. Trở thành cây cao bóng cả cho chúng ta trú ngụ. Trở thành tấm bánh thơm ngon nuôi sống chúng ta (năm chẵn).
Chúng ta hãy đi theo con đường của Chúa. Hãy chịu rên siết đớn đau. Để sinh ra một thế giới mới. Để Nước Trời ngự trị. Đó là vinh quang ta hằng ngong ngóng đợi chờ.
Cửa vào thiên đàng rất hẹp. Có lần Chúa nói nó còn hẹp như lỗ kim. Muốn qua phải trở nên bé nhỏ. Làm thế nào để trở nên bé nhỏ? Có những người đã “từng được ăn uống trước mặt” Chúa, và Chúa “cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của” họ. Nhưng thật lạ lùng khi Chúa nói: “Ta không biết các anh từ đâu tới. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính”. Chúa không biết họ từ đâu tới. Vì họ không xuất phát từ Chúa. Họ làm điều bất chính. Vì họ làm theo ý riêng. Vì thế cần từ bỏ tất cả. Từ bỏ chính mình. Để xuất phát từ Chúa. Làm theo ý Chúa. Sẽ đến với Chúa. Đó là tấm gương của tổ phụ Áp-ra-ham. Hoàn toàn từ bỏ chính mình. Nên ông trở thành gương mẫu của những ai muốn vào qua cửa hẹp. Khi đã từ bỏ chính mình. Cửa lại trở thành rất rộng. Vì bất cứ ai từ đông, tây, nam, bắc, làm theo ý Chúa đều được đón nhận.
Điều này không dễ. Thư Rô-ma dạy ta phải xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Thánh Thần cầu nguyện cho ta. Thánh Thần giúp ta từ bỏ ý riêng để làm đúng ý Chúa. Như Chúa Giê-su. Một đời dương thế sống theo Thánh Thần. Hoàn toàn từ bỏ ý riêng. Luôn vâng phục ý Cha. Nên đã trở thành anh cả của chúng ta. Người đã trở nên bé nhỏ. Đã mở cửa trời. Đi theo Người ta đi trong thánh ý Chúa. Mà “những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (năm lẻ).
Vậy thì không cần phải làm những việc lớn lao. Không cần phải đi xa xôi để tìm cửa thiên đàng. Ở đâu ta từ bỏ ý riêng. Ở đó là cửa thiên đàng. Ở đâu ta làm theo ý Chúa. Ở đó có Nước Trời. Ở bậc nào sống cho tốt ở bậc ấy. “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tình thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo….Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy”…. “Kẻ làm nô lệ, hãy vâng lời những người chủ…Ai làm việc tốt, sẽ được Chúa trả công, bất luận nô lệ hay tự do. Người làm chủ cũng hãy đối xử như thế với nô lệ. Đừng doạ nạt nữa: anh em biết rằng Chúa của họ cũng là Chúa của anh em. Người ngự trên trời và không thiên vị ai” (năm chẵn).
Chỉ khi từ bỏ chính mình. Để Chúa ngự trị. Làm theo ý Chúa. Như Chúa hướng dẫn. Ta mới trở nên bé nhỏ. Mới vào qua cửa hẹp.
Chúa Giê-su tiến hành cuộc chiến chống ma quỉ, xác thịt, thế gian. Ma quỉ, xác thịt, thế gian cũng toa rập nhau chống lại Chúa. Nhưng Chúa không sợ hãi. Vì tình Chúa yêu thương con người quá lớn lao. Chúa muốn giang rộng vòng tay ôm ấp che chở con người: “Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi! Đã bao lần Ta muốn tập họp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu”. Dù bị các thế lực ma quỉ âm mưu giết chết, Chúa vẫn không sợ hãi. Với tình yêu lớn lao, Chúa quan tâm lo lắng cho con người hơn cho sinh mạng của riêng mình: “Hôm nay và ngày mai tôi trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, và ngày Thứ 3 tôi hoàn tất. Tuy nhiê, hôm nay, ngày mai và ngày mốt, tôi phải tiếp tục đi, vì một ngôn sứ mà chết ngoài thành Giê-ru-sa-lem thì không được”.
Hôm nay con cái Chúa vẫn phải tiếp tục tiến hành cuộc chiến. Ma quỉ, xác thịt, thế gian vẫn toa rập nhau đàn áp con cái Chúa. Nhưng thánh Phao-lô khích lệ ta đừng sợ vì chúng ta sẽ thắng nhờ tình yêu Chúa Ki-tô. Tình yêu Chúa sẽ ở với chúng ta, nâng đỡ chúng ta. “Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta” (năm lẻ).
Cuộc chiến rất khốc liệt vì chúng ta phải chiến đấu với loài quỷ dữ. Nhưng thánh nhân khuyên nhủ ta đừng sợ. Hãy mang lấy vũ khí của Thiên Chúa, Ta chắc sẽ thắng. “Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao. Bởi đó, anh em hãy nhận lấy toàn bộ binh giáp vũ khỉ của Thiên Chúa; như thế, anh em có thể vận dụng toàn lực để đối phó và đứng vững trong ngày đen tối”. Vù khí đó là “lưng thắt đai chân lý, mình mặc áo giáp là sự công chính, chân đi gày là lòng hăng say loan báo Tin Mừng bình an; hãy luôn cầm khiên mộc là đức tin, nhờ đó anh em sẽ có thể dập tắt mọi tên lửa của ác thần. Sau cùng, hãy đội mũ chiến là ơn cứu độ và cầm gươm của Thần Khí ban cho, tức là Lời Thiên Chúa” (năm chẵn).
Tạ ơn Chúa vì yêu thương con mà sẵn sàng chịu chết. Xin cho con tin vào tình yêu của Chúa để đứng vững trong cuộc chiến với bóng đêm tội lỗi.
Có những ý thức hệ phi nhân coi con người như dụng cụ. Cũng có những tôn giáo phi nhân chà đạp con người. Hôm nay Chúa Giê-su hỏi một câu mà người Pha-ri-sêu không thể trả lời. Câu hỏi thật nghịch lý nhưng đầy đau xót. Con người hay con bò? “Ai trong các ông có con bò sa xuống giếng, lại không kéo nó lên ngay, dù là ngày sa-bát?’ Và họ không thể đáp lại những lời đó”. Vậy mà con người bị sa xuống hố tử thần lại không được họ cứu trong ngày sa-bát. Trong khi con bò thì họ cứu ngay. Kinh Tin Kính tuyên xưng: Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta Người đã từ trời xuống thế. Chúa coi con người là quan trọng. Đến nỗi ban chính Con Một mình để cứu chúng ta. Vậy mà con người lại coi thường con người. Lãng quên con người. Thậm chí lạnh lùng vô cảm trước đau khổ của đồng loại.
Đạo Chúa phải noi gương Chúa. Quan tâm yêu thương con người. Đó là điều thánh Phao-lô hằng canh cánh bên lòng. Nên một với Chúa Ki-tô, thánh nhân luôn mang nhân loại trong trái tim. Vui mừng khi họ có đức tin và tiến bộ trong lòng mến. Thánh nhân tâm sự về tình yêu thương của mình dành cho giáo dân Phi-líp-phê: “Tôi có những tâm tình như thế đối với tất cả anh em, đó là điều hợp lý, bởi vì tôi mang anh em trong lòng tôi. Khi tôi bị xiềng xích, cũng như lúc tôi bênh vực và củng cố Tin Mừng, anh em đều thông phần vào ân sủng tôi đã nhận được. Có Thiên Chúa làm chứng cho tôi: tôi hết lòng yêu quý anh em tất cả, với tình thương của Đức Ki-tô Giê-su” (năm chẵn).
Cũng với tình thương cứu độ đó, thánh nhân buồn phiền khi nhân loại xa lìa Chúa. Ngài yêu thương đồng loại đến sẵn sàng chịu đau khổ để họ được ơn cứu độ. “Thưa anh em, có Đức Ki-tô chứng giám, tôi xin nói sự thật, tôi không nói dối, và lương tâm tôi, được Thánh Thần hướng dẫn, cũng làm chứng cho tôi rằng: lòng tôi rất đỗi ưu phiền, và đau khổ mãi không ngơi. Quả vậy, giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi có bị nguyền rủa và xa lìa Đức Ki-tô, thì tôi cũng cam lòng”. Ngài đã nên một với Đức Ki-tô. Sẵn lòng chịu đau khổ thiệt thòi cho anh em đồng loại được hạnh phúc. Đó là đạo thật. Đạo vì con người. Không phải vì lợi lộc vật chất. Không phải vì lề luật. Càng không phải vì bản thân (năm lẻ).
Tôi đang sống đạo thế nào? Có noi gương Chúa Giê-su và thánh Phao-lô để sống vì con người, vì hạnh phúc của con người không? Hay tôi đang biến đạo thành cơ chế tàn nhẫn trói buộc con người? Tệ hơn nữa, coi của cải và bản thân hơn ơn cứu độ của anh em?
Bữa tiệc bộc lộ những khuynh hướng của xã hội. Rõ nét là khuynh hướng thể hiện đẳng cấp. Đẳng cấp của chủ tiệc. Đẳng cấp của khách mời. Thế gian kiêu ngạo. Ai cũng muốn thể hiện mình. Nhưng chỗ ngồi có hạn. Quyền định đoạt là do gia chủ.
Chúa dùng hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Trời. Vị thế trong Nước Trời do Chúa quyết định. Theo những tiêu chí ngược hẳn với trần gian. Cũng như bữa tiệc trần gian, bữa tiệc Nước Trời cũng thể hiện cuộc chiến. Trần gian thể hiện mình bằng đấu tranh với người khác. Nước Trời thể hiện bằng đấu tranh với chính mình. Đấu tranh với người khác để chiến thắng. Thắng về tiền tài, danh vọng, chức quyền. Đấu tranh với chính mình để thắng chính mình. Thắng bằng hạ mình, quên mình, huỷ mình. Chủ tiệc trần gian căn cứ vào tiền tài, địa vị, chức quyền mà xếp chỗ. Chúa căn cứ vào việc chiến thắng chính mình. Và theo tiêu chí: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Thư Rô-ma cho biết giáo huấn của Chúa ứng với dân Ít-ra-en. Họ tự tôn vì là dân tộc được Chúa chọn. Nhưng vì tự tôn nên họ không tin Chúa Giê-su. Không ăn năn sám hối. Họ sẽ bị loại trừ. Vì họ bị loại trừ. Nên dân ngoại được Chúa mở rộng cửa đón tiếp. “Thiên hạ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa…con cái bị loại ra”(Lc 13,29). Nhưng thánh Phao-lô tin tưởng rằng sau khi dân ngoại được đón nhận, Chúa lại thương đưa dân được tuyển chọn vào Nước Trời. Đó là lòng thương xót vô biên của Chúa (năm lẻ).
Hiểu được điều đó nên thánh Phao-lô không còn đấu tranh theo ý riêng. Chỉ biết theo ý Chúa. Chỉ gắn bó với Chúa Ki-tô. Quên mình để phục vụ Chúa. Và phục vụ anh em, “Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi. Nếu sống ở đời này mà công việc của tôi được sinh hoa kết quả, thì tôi không biết phải chọn đàng nào. Vì tôi bị giằng co giữa hai đàng: ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Ki-tô, điều này tốt hơn bội phần: nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn, vì anh em. Và tôi biết chắc rằng tôi sẽ ở lại và ở bên cạnh tất cả anh em để giúp anh em tấn tới và được hưởng niềm vui đức tin mang lại cho anh em” (năm chẵn).
Hãy theo gương thánh Phao-lô. Hoàn toàn quên mình. Thuận theo ý Chúa. Phục vụ Chúa. Phục vụ lợi ích linh hồn anh em. Không tính toán gì cho mình. Ta sẽ được Chúa trả lại gấp bội. “Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Bữa tiệc bộc lộ những khuynh hướng của xã hội. Rõ nét là khuynh hướng thể hiện đẳng cấp. Đẳng cấp của chủ tiệc. Đẳng cấp của khách mời. Thế gian kiêu ngạo. Ai cũng muốn thể hiện mình. Nhưng chỗ ngồi có hạn. Quyền định đoạt là do gia chủ.
Chúa dùng hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Trời. Vị thế trong Nước Trời do Chúa quyết định. Theo những tiêu chí ngược hẳn với trần gian. Cũng như bữa tiệc trần gian, bữa tiệc Nước Trời cũng thể hiện cuộc chiến. Trần gian thể hiện mình bằng đấu tranh với người khác. Nước Trời thể hiện bằng đấu tranh với chính mình. Đấu tranh với người khác để chiến thắng. Thắng về tiền tài, danh vọng, chức quyền. Đấu tranh với chính mình để thắng chính mình. Thắng bằng hạ mình, quên mình, huỷ mình. Chủ tiệc trần gian căn cứ vào tiền tài, địa vị, chức quyền mà xếp chỗ. Chúa căn cứ vào việc chiến thắng chính mình. Và theo tiêu chí: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Thư Rô-ma cho biết giáo huấn của Chúa ứng với dân Ít-ra-en. Họ tự tôn vì là dân tộc được Chúa chọn. Nhưng vì tự tôn nên họ không tin Chúa Giê-su. Không ăn năn sám hối. Họ sẽ bị loại trừ. Vì họ bị loại trừ. Nên dân ngoại được Chúa mở rộng cửa đón tiếp. “Thiên hạ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa…con cái bị loại ra”(Lc 13,29). Nhưng thánh Phao-lô tin tưởng rằng sau khi dân ngoại được đón nhận, Chúa lại thương đưa dân được tuyển chọn vào Nước Trời. Đó là lòng thương xót vô biên của Chúa (năm lẻ).
Hiểu được điều đó nên thánh Phao-lô không còn đấu tranh theo ý riêng. Chỉ biết theo ý Chúa. Chỉ gắn bó với Chúa Ki-tô. Quên mình để phục vụ Chúa. Và phục vụ anh em, “Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi. Nếu sống ở đời này mà công việc của tôi được sinh hoa kết quả, thì tôi không biết phải chọn đàng nào. Vì tôi bị giằng co giữa hai đàng: ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Ki-tô, điều này tốt hơn bội phần: nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn, vì anh em. Và tôi biết chắc rằng tôi sẽ ở lại và ở bên cạnh tất cả anh em để giúp anh em tấn tới và được hưởng niềm vui đức tin mang lại cho anh em” (năm chẵn).
Hãy theo gương thánh Phao-lô. Hoàn toàn quên mình. Thuận theo ý Chúa. Phục vụ Chúa. Phục vụ lợi ích linh hồn anh em. Không tính toán gì cho mình. Ta sẽ được Chúa trả lại gấp bội. “Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Thông thường “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”. Yêu những người yêu mình. Làm ơn cho những người làm ơn cho mình. Bữa tiệc là để cám ơn những người đã tốt với mình. Nay tỏ lòng tốt lại. Để mong nhận được lòng tốt hơn nữa. Đó là vòng tròn ơn nghĩa. Là trần gian thường tình. Đó là vụ lợi. Đó là đã hưởng lợi trần gian rồi.
Chúa dậy điều khác hẳn: “Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc”. Tại sao có phúc? Có phúc vì không được lợi về vật chất ở đời này. Cùng lắm chỉ được dân nghèo quí mến. Nhưng sẽ được phúc đời sau. Vì “ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại”. Có phúc vì mặc lấy tâm tình của Chúa. Vì cùng Chúa xây dựng Nước Trời.
Đó là chia sẻ “sự giầu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào”. Tâm tình của Chúa là tình yêu. Luôn đi bước trước. Để “muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người”. Đã thương cứu độ không những Ít-ra-en mà cả mọi dân trên thế giới chỉ vì họ không vâng phục. “Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục, để thương xót mọi người”. Thật lạ lùng tâm tình của Chúa. Thật cao sâu lòng thương xót của Người. Đó là nguồn cội mọi ơn lành cho ta (năm lẻ).
Vì thế, thánh Tông đồ mời gọi chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của Chúa. Đó là hãy “có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác” . Đó chính là mời dự tiệc những người nghèo khổ, tàn tật. Đó chính là cho đi mà không mong được đáp lễ (năm chẵn).
Mặc lấy tâm tình của Chúa. Hành động theo đường lối của Chúa. Đi bước trước. Cho đi không mong đền đáp. Ta cùng Chúa xây dựng Nước Trời ngay trên trần gian. Bắt đầu từ bây giờ.
“Phúc thay ai được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”. Đó là hạnh phúc đích thực. Vì bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa là bữa tiệc hiệp thông. Con người được hiệp thông với Thiên Chúa. Không chỉ là đồng bàn. Nhưng đồng sự sống. Đồng hưởng hạnh phúc vinh quang. Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống, sự thiện hảo, hạnh phúc. Được hiệp thông với Thiên Chúa, con người đạt đến sự viên mãn. Viên mãn trong sự sống. Viên mãn trong hạnh phúc.
Thật đáng tiếc và đáng buồn khi con người chỉ khư khư bám víu lấy những chân trời nhỏ hẹp, những giá trị bọt bèo, những mảnh vụn hạnh phúc chóng qua, những riêng tư nhỏ nhoi cá nhân ích kỷ. Những mảnh ruộng, những cặp bò…Để từ chối bữa tiệc hiệp thông. Từ chối hạnh phúc đích thực, lớn lao, toàn vẹn của Nước Trời. Những người nghèo không có gì để bám víu lại dễ mở lòng hiệp thông. Nên dễ vào Nước Trời theo lời mời của Thiên Chúa.
Thực ra ở trong Thiên Chúa ta không mất gì hết. Chỉ nên phong phú hơn. Thư Rô-ma diễn tả mầu nhiệm hiệp thông trong một thân thể. Các chi thể tham dự vào sự sống toàn thân. Nhưng mỗi chi thể vẫn có đặc sắc và nhiệm vụ riêng. Rất cần thiết cho toàn thể. Cũng vậy trong Nước Chúa có nhiều chức năng. Ai ở đâu hãy làm việc của mình cho tốt là góp phần vào sức sống của toàn thể. Nhưng phải biết trân trọng và kết hợp với người khác. “Chúng ta tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể trong Đức Ki-tô, mỗi người liên đới với những người khác như những bộ phận của một thân thể” (năm lẻ).
Để đi vào mầu nhiệm hiệp thông với Thiên Chúa và với anh em, ta phải mặc lấy tâm tình của Chúa Giê-su Ki-tô. Tự khiêm tự hạ. Hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha. Hoàn toàn hiến mình cho anh em. “Chúa Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người”(năm chẵn).
Từ bỏ bản thân để chu toàn thánh ý Chúa Cha. Ta chu toàn nhiệm vụ của mình. Thiên Chúa được tôn vinh. Và chính bản thân ta cũng được tôn vinh. Và vì sống mầu nhiệm hiệp thông trọn vẹn, ta được hưởng trọn vẹn sức sống của toàn nhiệm thể. Và góp phần vào sức sống của nhiệm thể Chúa Ki-tô.
Là môn đệ không chỉ đơn thuần đi theo. Nhưng phải trở nên giống Thầy. Nên một với Thầy. Muốn thế phải từ bỏ chính mình. Từ bỏ hết những gì ngăn cản mình giống Thầy. Chỉ gắn bó với Thầy. Nên phải từ bỏ tất cả những tình cảm nào ngăn cản việc kết hợp với Thầy. Kể cả cha mẹ, anh chị em, vợ chồng, con cái. Thậm chí cả mạng sống nữa. Có thế mới nên một với Thầy.
Đó là một công cuộc lớn lao. Giống như xây một cây tháp cao tầng. Đây là cây tháp đời mình. Rất tốn kém. Phải đầu tư cả cuộc đời. Cả mạng sống. Cả tài năng sức lực. Phải hi sinh tất cả những gì mình có. Đây là một trận chiến lớn lao. Trận chiến suốt cả đời. Khó hơn cả vì là trận chiến với chính mình. Thắng mình khó hơn thắng vạn quân. Tự đánh mình rất khó. Ai đủ can đảm cơ chứ.
Nhưng tất cả sẽ trở nên có thể. Thậm chí còn dễ dàng và nhẹ nhàng. Nhờ một bí quyết. Đó là kết hợp với Chúa. Mặc lấy Chúa Ki-tô. Tất cả đều trở thành có thể.
Mặc lấy Chúa Ki-tô ta sẽ nên môn đệ thực thụ của Chúa. Và ta sẽ suy nghĩ như Chúa. Ăn nói như Chúa. Cư xử như Chúa. Yêu thương anh em trở thành dễ dàng. Vì tự nhiên. Ai yêu Chúa cũng yêu người. Ta sẽ mắc nợ yêu thương với anh em. Không thương không được. Đặc biệt những người nghèo khổ bất hạnh. Ta sẽ chu toàn mọi lề luật. “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (năm lẻ).
Khi hoàn toàn kết hợp với Chúa Ki-tô ta trở nên trong sạch. Trở nên những người con thực sự của Thiên Chúa: “Anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì, và sẽ trở nên những người con vẹn toàn của Thiên Chúa”. Khi hoàn toàn từ bỏ chính mình để kết hợp với Chúa Ki-tô ta trở nên chứng nhân giữa “thế hệ gian tà, sa đoạ. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời, là làm sáng tỏ Lời ban sự sống” (năm chẵn).
Khi hoàn toàn từ bỏ chính mình ta hoàn thành việc xây cây tháp cao cho đời mình. Ta chiến thắng trong trận chiến với chính mình. Khi mặc lấy Chúa Ki-tô, ta nên môn đệ thực sự của Người. Ta làm chứng cho Người. Ta trở thành viên đá sống động xây dựng Nước Trời.
Đối với người Do thái Lề Luật là tất cả. Là lẽ sống. Là danh dự. Là trật tự. Là ơn cứu độ. Tất cả là Lề Luật. Nên khô cứng. Và không có tình người. Họ không giao du với người thu thuế. Vì người thu thuế không giữ Lề Luật. Giao du với họ là ô uế cũng lỗi Lề Luật. Chúa Giê-su dùng hai dụ ngôn “Con chiên lạc” và “Đồng tiền đánh mất” để cho họ biết rằng nếu Lề Luật là tất cả thì Tình Yêu chính là Lề Luật. Tình Yêu mới là tất cả.
Tình Yêu là Lề Luật vì chỉ có một luật quan trọng nhất là luật yêu thương. “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là hãy yêu thương nhau”.
Tình Yêu thì không tính toán. Một con chiên lạc cũng quan trọng như 99 con không lạc. Nên người chăn chiên thao thức đi tìm cho đến khi tìm thấy. Một đồng bạc cũng quan trọng bằng 9 đồng không mất. Nên người phụ nữ phải quét nhà moi móc tìm cho ra. Cũng thế một người tội lỗi cũng quan trọng như tất cả mọi người. Cần cứu chữa đưa về.
Tình Yêu thì không loại trừ. Trái lại vì yêu thương nên những gì bé nhỏ, yếu ớt, kém cỏi lại càng cần được yêu thương hơn. Những tội nhân, những người xa lạc, giống như những người mang thương tích càng cần được chăm sóc, băng bó, chữa lành hơn. Cũng như trong một thân thể, chi thể nào càng đau yếu càng được nâng niu chăm sóc hơn.
Tình Yêu thì không xét đoán. Nếu có xét đoán cũng là trong tình yêu. Chúng ta sẽ bị xét đoán về tình yêu. Chỉ mình Chúa có quyền xét đoán. Vì thế ta đừng xét đoán anh em. Vì chính ta sẽ bị Chúa xét đoán. “Thế mà bạn, sao bạn lại xét đoán người anh em? Và bạn nữa, sao bạn khinh dể người anh em. Quả thế, tất cả chúng ta sẽ phải ra trước toà Thiên Chúa…mỗi người trong chúng ta sẽ phải trả lời về chính mình trước mặt Thiên Chúa” (năm lẻ).
Tình Yêu là Chúa Ki-tô. Chúa Ki-tô là tất cả. Là Tình Yêu. Là Lề Luật. Còn hơn thế nữa. Là Sự Sống. Là Hạnh Phúc. Là Tất Cả Ý Nghĩa Cuộc Đời. Vì thế thánh Phao-lô xưa kia cũng có địa vị trổi vượt, cũng hay xét đoán và tự cho mình quyền xét xử người khác, có nhiều ưu thế trong xã hội. Nhưng từ khi được biết Chúa Ki-tô ngài từ bỏ tất cả. Vì Chúa Ki-tô là tất cả. “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì đức Ki-tô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đứuc Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi” (năm chẵn).
Người quản gia được ông chủ khen là khôn ngoan. Vì ông không có của cải nhưng đã biết lợi dụng của cải của chủ để làm lợi cho mình. Vì ông biết thời hạn làm quản gia của ông sắp hết nhưng ông biết chuẩn bị cho tương lai lâu dài. Vì ông biết mua chuộc bạn hữu để sau này họ đón tiếp khi ông hết thời. Ông đã làm ơn cho những người mắc nợ chủ. “Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: ‘Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy’? Người ấy đáp: ‘Một trăm thùng dầu ô-liu’. Anh ta bảo: ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi’….Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo”. Và Chúa kết luận: “Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại”.
Chúng ta cũng là quản gia của Chúa. Thời hạn quản gia của chúng ta cũng có hạn. Hãy biết noi gương người quản gia kia. Biết dùng của Chúa mà mua lấy bạn hữu. Biết chuẩn bị để khi hết thời làm quản gia họ sẽ đón tiếp chúng ta.
Thánh Phao-lô là người quản gia khôn ngoan. Vì Thiên Chúa ban cho ngài ân sủng chuyên rao giảng Tin Mừng. Ngài đã sinh lợi là đưa nhiều người về cho Thiên Chúa. “Tôi viết thế là dựa vào ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi làm người phục vụ Đức Giê-su Ki-tô giữa các dân ngoại, lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Theien Chúa, để các dân ngoại được Thánh Thần thánh hoá mà trở nên một lễ phẩm đẹp lòng Thiên Chúa”. Ngài đã biết dùng ân sủng Thiên Chúa ban. Và ngài tự hào về điều đó. Những người nhận biết Thiên Chúa làm lợi cho Nước Chúa. Nhưng cũng là niềm tự hào của ngài. “Thật thế, tôi đâu dám nhắc đến chuyện nào khác, ngoài những gì Đức Ki-tô đã dùng tôi mà thực hiện để đưa các dân ngoại về phục vụ Thiên Chúa, thực hiện bằng lời nói, việc làm, bằng sức mạnh của những dấu lạ điềm thiêng, bằng quyền năng của Thánh Thần…Tôi đã làm tròn sứ mạng loan báo Tin Mừng Đức Ki-tô” (năm lẻ).
Ngài kêu gọi mọi người hãy noi gương bắt chước ngài. Hãy lo làm giàu ở trên trời. Vì cuối cùng Chúa sẽ biến đổi chúng ta. “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em”. Ngài yêu mến họ và mong họ cùng ngài kết hợp với Chúa để cùng được hưởng niềm vui và hạnh phúc: “Hỡi anh em thân mến, lòng tôi hằng tưởng nhớ, anh em là niềm vui, là vinh dự của tôi. Anh em rất thân mến, anh em hãy kết hợp với Chúa mà sống vững vàng như vậy” (năm chẵn).
Sau cùng chỉ còn một cuộc chiến. Chỉ còn một đối thủ. Chỉ còn một lựa chọn. Thiên Chúa hay Tiền Tài. Với khẳng định này Chúa tóm tắt những gì cần phải nói về tiền bạc. Tiền bạc vốn chỉ là một phần trong đời sống. Chỉ là một tôi tớ. Một phương tiện phục vụ con người. Thường hay phản loạn. Cạnh tranh với Chúa. Chiếm vị thế của Chúa. Đó là điều rõ nét trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Tiền bạc chi phối tất cả sinh hoạt của con người. Tiền bạc thống trị thế giới. Tiền bạc lên tiếng mọi tiếng nói khác phải lặng im. Kể cả lương tâm. Kể cả đạo đức. Thật là đáng báo động,
Với khẳng định này Chúa cho biết Chúa là trên hết. Chúa là tất cả. Thực vậy có gì tôi có mà không phải do Chúa ban. Từ sự sống đến linh hồn. Từ thân xác đến trí khôn. Từ thời giờ đến sức khoẻ. Từ gia đình đến bạn hữu. Tất cả phải dâng lại cho Chúa. Tất cả là phương tiện Chúa ban giúp tôi đạt đến sự sống đời đời. Giúp tôi trở về với Chúa. “Hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè. Phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”.
Thánh Phao-lô làm gương cho ta về điều này. Sau khi được biết Chúa, ngài đã dùng tất cả cuộc đời để phục vụ Chúa. Phục vụ Tin Mừng. Kể cả những mối quen biết của ngài. Cuối bức thư Rô-ma ta thấy ngài gửi lời chào thăm rất nhiều người. Nhưng không phải vì cá nhân ngài. Chỉ vì Nước Trời. Chỉ vì lợi ích thiêng liêng. Và cuối cùng qui về Chúa: “Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí. Kính dâng Người mọi vinh quang đến muôn thuở muôn đời, nhờ Đức Giê-su Ki-tô. Amen” (năm lẻ).
Biết dùng mọi phương tiện trần gian. Đặc biệt tiền của. Để tôn vinh Thiên Chúa. Tạo hạnh phúc vĩnh cửu. Ngài còn khích lệ các tín hữu hãy biết dùng tiền của vì Chúa và vì lợi ích thiêng liêng. Khi nhận được trợ giúp của giáo đoàn Phi-líp-phê, ngài cám ơn họ. Không phải vì ngài cần vật chất. Nhưng vì họ đã biết sống đức tin. Và Chúa sẽ trả công bội hậu cho họ. Ngài viết: “Bởi vì ngay khi tôi còn ở Thê-xa-lô-ni-ca, đôi lần anh em đã gửi cho tôi những gì tôi cần dùng. Điều tôi tìm kiếm không phải là quà tặng, mà là những gì sinh hoa kết quả dồi dào cho anh em. ... Quà anh em tặng cho tôi đó, chẳng khác nào hương thơm, lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa và được Người chấp nhận. Thiên Chúa của tôi sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Đức Ki-tô Giê-su” (năm chẵn).
Tôi sử dụng tiền của hay để tiền của thống trị tôi?
Con người thường sống theo xác thịt. Chỉ biết có mình. Dễ với mình. Khó với người. Hôm nay Chúa dậy ta sống theo Thần Khí. Một chân trời mới mở ra. Người ta ngặt nghèo với bản thân. Không dám làm điều gì xấu. Không chỉ là làm điều xấu cho tha nhân. Thậm chí không được làm gương xấu nữa. “Khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã”. Nhưng đối với tha nhân lại phải rất rộng lượng. Phải tha thứ mãi mãi. “Dù nó xúc phạm đến anh một ngày đến bảy lần, rồi bảy lần trở lại nói với anh: ‘Tôi hối hận’ thì anh cũng phải tha cho nó”. Ta chỉ đạt tới cảnh giới đó khi có đức tin vững mạnh. Mọi sự sẽ theo sự điều khiển của ta. Ta có đức tin vững mạnh khi hoàn toàn kết hợp với Thiên Chúa. Khi đó ta có sức mạnh của Thiên Chúa. Nhìn người bằng ánh mắt của Thiên Chúa. Đối xử bằng tấm lòng của Thiên Chúa. Yêu thương bằng trái tim của Thiên Chúa.
Sách Khôn ngoan dạy ta đạt tới cảnh giới đó bằng một tiến trình. Yêu chuộng đức công chính. Thành tâm kiếm tìm Chúa. Khiêm nhường và tuyệt đối tin tưởng. Không lý luận quanh co. Không thử thách Thiên Chúa.Không sống theo xác thịt. Tránh xa thói lọc lừa gian dối. Khi ta thanh tẩy tâm hồn rồi, ta sẽ được Đức Khôn Ngoan. Thần Khí Thiên Chúa sẽ ở trong ta. Thần Khí sẽ ngập tràn cõi đất. Sẽ “bảo toàn mối hợp nhất giữa muôn vật muôn loài. Sẽ thấu hiểu mọi lời mọi tiếng” (năm lẻ).
Khi đạt tới cảnh giới đó Nước Trời hiển trị. Muôn người sẽ sống trong hạnh phúc. Đó chính là trách nhiệm của đạo Chúa. Vì thế những người môn đệ phải rèn luyện bản thân. Sao cho có đức tin vững mạnh. Sao cho hoàn toàn kết hợp với Thiên Chúa. Để có tấm lòng Thiên Chúa. Nghiêm ngặt với bản thân. Rộng lượng với tha nhân. Đó chính là điều thánh Phao-lô khuyên nhủ người môn đệ Ti-tô. Và căn dặn ông phải đào tạo người như thế: “Thật vậy, giám quản với tư cách là quản lý của Thiên Chúa, phải là người không chê trách được, không ngạo mạn, không nóng tính, không nghiện rượu, không hiếu chiến, không tìm kiếm lợi lộc thấp hèn; trái lại, phải hiếu khách, yêu chuộng điều thiện, chừng mực, công chính, thánh thiện, biết tự chủ; người ấy phải gắn bó với lời đáng tin cậy và đúng đạo lý, để vừa có khả năng dùng giáo lý lành mạnh mà khuyên nhủ, vừa có khả năng bẻ lại những kẻ chống đối” (năm chẵn).
Chỉ khi đạt tới Thiên Chúa ta mới hoàn toàn làm chủ bản thân. Mới thấu hiểu và yêu mến anh em thật tình.
Vào thời Chúa Giê-su tồn tại chế độ nô lệ. Nô lệ không có quyền làm người. Không có quyền sống. Nô lệ được sống là nhờ chủ mua về. Vì thế anh thuộc về chủ. Biết ơn chủ ban cho sự sống. Và toàn tâm toàn ý phục vụ chủ. Vui mừng vì được phục vụ. Vì như thế anh được sống. Vì thế khi làm việc rồi anh không có gì tự hào. Đó là nhiệm vụ. Hơn nữa đó là sự sống của anh. Chỉ làm những việc phải làm thôi.
Con người phải tuỳ thuộc Thiên Chúa như thế. Vì chính Chúa ban sự sống cho con người. Và hơn nữa đã chuộc lại sự sống. Khi con người tội lỗi đánh mất sự sống. Mọi sự trong ta là của Chúa. Vì thế phải làm việc phụng sự Chúa là bổn phận của ta. Là vinh dự cho ta. Là sự sống cho ta.
Nhưng trần gian cho như thế là khờ dại. Sự khôn ngoan trần gian muốn tự khẳng định mình. Muốn chối bỏ Thiên Chúa. Muốn thoát khỏi ảnh hưởng của Thiên Chúa. Nên họ coi những kẻ phụng sự Thiên Chúa là khờ dại. Những người hiến dâng mạng sống cho Thiên Chúa là bị trừng phạt. Sách Khôn ngoan khuyên ta hãy kiên trì chịu gian khổ vì Thiên Chúa. Đó là những thử thách mau qua. Như lửa thử vàng. Rồi vàng ròng sẽ xuất hiện. Tôi trung của Thiên Chúa sẽ được vinh quang. “Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy. Họ sẽ xét xử muôn dân, và thống trị muôn nước. Và Đức Chúa sẽ là Vua của họ đến muôn đời” (năm lẻ).
Một trong những thử thách là bổn phận nhàm chán hằng ngày. Người tôi trung của Thiên Chúa phải biết kiên trì và khiêm nhường chu toàn bổn phận. “Các cụ ông phải tiết độ, đàng hoàng, chừng mực, vững mạnh trong đức tin, đức mến và đức nhẫn nại. Các cụ bà cũng vậy, phải ăn ở sao cho xứng là người thánh, không nói xấu, không rượu chè say sưa, nhưng biết dạy bảo điều lành”. “Vợ trẻ biết yêu chồng, thương con…Các thanh niên phải giữ chừng mực trong mọi sự…”. Sống như những người tôi trung. Vì Thiên Chúa sẽ ban ơn cứu độ cho ta. “Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Ki-tô Giê-su là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang” (năm chẵn).
Là tôi tớ. Nhưng chúng ta được yêu mến. Được có một định mệnh cao quí đang chờ đợi. Trong niềm hi vọng đó, hãy trung tín chu toàn bổn phận của ta.
Tạ ơn là một hành vi nhân văn cao đẹp. Phát xuất từ một nhận thức đúng đắn. Nhưng trong đời sống thiêng liêng tạ ơn còn đem đến ơn cứu độ. Nên hành vi tạ ơn còn cao sâu hơn nhiều. Phát xuất từ nhận thức nền tảng. Thiên Chúa là tất cả. Ta không là gì hết. Thiên Chúa có tất cả. Ta không có gì hết. Sự sống là món quà quí nhất Thiên Chúa ban cho con người. Có sự sống là có tất cả. Không có sự sống là không có gì hết. Hành vi tạ ơn vì thế vừa sâu xa vừa hân hoan vô vàn. Người bệnh phong ngoại đạo nhận thức được ân huệ lớn lao đó. Bệnh phong bị lên án tử. Sống cũng như chết. Được khỏi bệnh là được lại sự sống. Hơn nữa anh lại là người ngoại đạo. Nên hồng ân thật không kể xiết. Vì anh không xứng đáng. Nhưng lại được ơn trọng hậu. Một niềm vui khôn tả dâng lên trong tâm hồn. Anh vội vàng chạy lại tạ ơn. Anh phủ phục vì nhận thức Thiên Chúa mới có quyền ban sự sống. Nhận thức đó đưa anh đến một ân huệ lớn lao hơn. Được làm con Chúa. Được ơn cứu độ.
Được ơn Chúa phải biết tạ ơn. Phải biết sử dụng ơn Chúa xứng đáng. Đó là điều những người quyền thế trên trần gian thường quên lãng. Hay cậy quyền cậy thế. Hay tự cao tự đại. Hay áp bức bất công. Đó thực là thiếu khôn ngoan. Sách Khôn ngoan khuyên họ nên ý thức ân huệ Chúa ban. Chính họ phải tuân giữ luật Chúa. Để biết sử dụng quyền thế cho đúng thánh ý Chúa. Để phục vụ nhân loại. Vì cuối cùng họ sẽ bị xét xử nghiêm nhặt hơn thường dân vì quyền hành đã được trao cho họ. “Vậy, hỡi các bậc vua chúa quan quyền, những lời tôi nói đây, xin gửi tới chư vị để chư vị học biết lẽ khôn ngoan, mà khỏi phải sẩy chân trật bước. Ai sống thánh và tuân giữ luật thánh, thì được kể là bậc thánh nhân” (năm lẻ).
Thánh Phao-lô khuyên chúng ta phải tuân phục thế quyền. Vì đó là quyền Chúa ban. Nhưng trên hết phải tuân phục Thiên Chúa. Thánh nhân tạ ơn Chúa vì ân huệ sự sống thiêng liêng nhờ bí tích Rửa tội. Đó là ân huệ nhưng không. Nhưng lại vô cùng cao quí. Vì ban cho ta sự sống đời đời: “Không phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới” (năm chẵn).
Ý thức hồng ân sự sống. Ý thức sự bất xứng bất toàn. Ý thức tình yêu thương vô cùng và vô vị lợi của Thiên Chúa. Lòng ta sẽ không ngừng dâng lời tạ ơn. Đó là hành vi phải lẽ. Đem lại niềm vui cho cuộc đời. Đem lại ơn cứu độ cho ta.
Từ bao đời người Do thái luôn mong đợi “Bao giờ Triều Đại Thiên Chúa đến”. Họ vẫn tưởng Triều Đại Thiên Chúa đến rất hoành tráng. Một vị hoàng đế tài ba như Đa-vít sẽ xuất hiện. Đưa dân tộc lên đài vinh quang. Thống trị thế giới. Thật bất ngờ Chúa trả lời: “Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông”. Vừa gần gũi. Vừa ẩn giấu. Như kho tàng chôn giấu ngay trong ruộng nhà. Như hạt cải vùi chôn dưới đất. Như nắm men vùi trong thúng bột. Phải tinh tế lắm mới nhận ra. Khi nhận ra thì thật rõ ràng: “Vì như ánh chớp chói loà chiếu sáng từ phương trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ như vậy trong ngày của Người. Nhưng trước đó, Người phải chịu đau khổ nhiều và bị thế hệ này loại bỏ”. Nhưng Triều Đại Thiên Chúa chỉ đến sau những gian nan đau khổ.
Để nhận ra Triều Đại Thiên Chúa đang ẩn giấu trong những gì bình thường của cuộc sống, cần có sự Khôn Ngoan. Nhưng Khôn Ngoan ở đây có ba bước tiến. Bước thứ nhất là nhìn thấu suốt sự vật. Xuyên thấu tâm can. Để khám phá ra những kho tàng chôn giấu. Những viên ngọc trong đá. Rồi đến bước Thứ 2. Người thấm nhập Khôn Ngoan sẽ là hình ảnh Thiên Chúa nhân hậu từ bi. Rồi đến giai đoạn Thứ 3. Người Khôn Ngoan trở thành bạn hữu của Thiên Chúa. Trở thành ngôn sứ của Thiên Chúa. Cộng tác với Thiên Chúa làm cho Triều Đại Thiên Chúa ngự trị. Nhưng như thế có nghĩa là phải cùng Thiên Chúa đi vào cuộc chiến đấu chống lại bóng tối. Người Khôn Ngoan sẽ sáng hơn ánh sáng. Vì ánh sáng phải rút lui khi bóng tối vây phủ. Trái lại Người Khôn Ngoan sẽ không lùi bước trước sự ác. Chính mỗi người phải hoạt động để làm cho Triều Đại Thiên Chúa hiển trị ngay trong đời mình (năm lẻ).
Thánh Phao-lô khuyên môn đệ Phi-lê-môn làm cho Triều Đại Thiên Chúa đến. Khi cho người nô lệ Ô-nê-xi-mô được tự do. Ô-nê-xi-mô là kho tàng giấu trong ruộng. Là viên ngọc nằm trong đá. Là tự do bị vùi chôn trong nô lệ. Anh đang ở giữa Phao-lô và Phi-lê-môn. Khi thánh Phao-lô bị tù. Phi-lê-môn gửi Ô-nê-xi-mô đến phục vụ. Và thánh Phao-lô đã cho anh được tự do. Ngài thuyết phục Phi-lê-môn hãy đồng ý điều này. Như thế là được chứ không mất. “Nó đã xa anh một thời gian, có lẽ chính là để anh được lại nó vĩnh viễn, không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ, thì được một người anh em rất thân mến”(năm chẵn).
Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa tôi. Tôi có đủ Khôn Ngoan để nhận ra. Và nhất là có đủ dũng khí đế thực hiện. Dù điều đó có hại vật chất. Để làm cho Triều Đại Thiên Chúa hiển hiện không?
Cùng thân phận. Cùng điều kiện. Cùng cảnh ngộ. Nhưng kết cục khác nhau. Hai người cùng nằm trên một giường. Hai phụ nữ cùng xay một cối bột. Hai người đàn ông cùng cày cuốc trên ruộng. Nhưng một người được đem đi. Người kia bị bỏ lại. Tại sao? Thưa hơn kém nhau do tầm nhìn cao hơn, xa hơn và do sức lực mạnh hơn.
Bà Lót có tầm nhìn thấp. Nhìn xuống thấp để luyến tiếc của cải đã bị thiêu rụi. Nhìn xuống thấp nên hành động theo xác thịt. Ông No-e có tầm nhìn cao. Nhìn lên Thiên Chúa. Làm theo ý Chúa.
Bà Lót có tầm nhìn gần. Nhìn những gì đã qua. Nhìn những gì trước mắt. Ông No-e, trái lại. Bỏ qua hiện tại để nhắm đến tương lai. Không nhìn bằng đôi mắt phàm trần những gì của trần gian. Nhưng nhìn bằng ánh mắt Thiên Chúa để thấy xa hơn những gì con người phàm tục có thể thấy.
Bà Lót thật yếu đuối. Không thoát khỏi trần gian và dục vọng. Ông No-e thật mạnh mẽ. Nên chiến thắng cả một thế hệ. Để đi vào thánh ý Thiên Chúa. Vì thế bà Lót bị bỏ lại. Ông No-e được đưa đi.
Sách Khôn ngoan gọi những người nhìn thấp và gần là ngu si. Vì họ chỉ dừng lại ở vật chất mà không vươn lên đến Chúa. “Những ai không chịu nhìn nhận Thiên Chúa, tự bản chất là những kẻ ngu si. Từ những vật hữu hình tốt đẹp, chúng không đủ khả năng nhận ra Đấng HIện Hữu, và khi chiêm ngắm bao công trình, chúng cũng không nhận biết Đấng Hoá Công”. Họ yếu đuối. Nhưng không thoát khỏi bị trừng phạt vì sai lầm đó. “Họ đã để cho cái vỏ bề ngoài mê hoặc…Tuy nhiên, không vì thế mà chúng được thứ tha”(năm lẻ).
Thư 2 Gio-an khuyên ta hãy tỉnh thức. Đừng bị thế gian và những lý lẽ của nó mê hoặc. Phải vượt qua thế gian để ở lại trong Chúa Ki-tô. Để được ở lại trong Chúa Cha. Đó là phần thưởng cao quí. “Vì có nhiều người mê hoặc đã lan tràn khắp thế gian…Đó là kẻ mê hoặc và là tên Phản Ki-tô. Anh em phải coi chừng để khỏi đánh mất những gì anh em đã làm được, nhưng để lãnh đầy đủ phần thưởng”(năm chẵn).
Đó thực là một cuộc chiến đấu. Đi ngược dòng đời. Ngược với thế gian. Và khó nhất là ngược với chính những dục vọng thấp hèn trong bản thân mình.
Công lý là của Thiên Chúa. Nhưng công lý cũng phải có góp phần của con người. Con người còn mang nặng thú tính. Nên dù có biết bao lý thuyết hay về phẩm giá con người. Những hứa hẹn tràn đầy ảo tưởng, không tưởng. Nhưng công lý vẫn là chiếc bánh vẽ. Lý thuyết thật hay. Nhưng con người không thể thực hiện. Vì thú tính còn nhiều. Tuy vậy cũng có những tiến bộ khi người dân ý thức và đòi hỏi. Giống như bà goá kia. Cứ kiên trì đấu tranh bằng phương pháp nhẹ nhàng. Rồi cũng có kết quả. Hãy tin tưởng. Thiên Chúa còn công minh hơn ông quan toà bất lương kia. Và Thiên Chúa thực sự yêu thương con người. Vì thế hãy cầu nguyện. Rồi Thiên Chúa sẽ ra tay. Trong thế kỷ hai mươi có hai lý thuyết lớn sụp đổ. Chúa đã ra tay. Vì chẳng ai làm gì được. Nhưng cũng để con người ý thức về sự xấu xa giả dối của chúng. Mà tha thiết muốn thoát khỏi. Chúa cần sự cộng tác của con người. Cầu nguyện phải có hành động.
Dân Do thái đã có kinh nghiệm đó trong quá khứ. Khi bị nô lệ bên Ai-cập họ đã kêu cầu lên Chúa. Chúa đã nghe tiếng dân ai oán kêu lên thấu đến trời. Và đã giải thoát họ. “Người ta thấy mây che phủ doanh trại; nơi trước kia là nước, đất khô ráo nổi lên, một lối đi thênh thang lộ ra từ Biển Đỏ…Có tay Ngài che chở, toàn dân đã đi qua và chứng kiến bao điềm thiêng dấu lạ”. Chúa đã ra tay làm những điềm thiêng dấu lạ. Nhưng dân phải cộng tác. Bằng tha thiết cầu nguyện. Và bằng quyết tâm ra đi (năm lẻ).
Như phép lạ hoá bánh ra nhiều. Chính Chúa hành động. Nhưng con người phải góp phần nhỏ bé của mình. Phải có năm chiếc bánh và hai con cá. Thiên Chúa sẽ ban công lý cho thế giới. Nhưng con người phải góp phần. Đó là điều thư 3 Gio-an khích lệ Gai-ô. Khi ông đón tiếp và giúp đỡ những người đi loan truyền sự thật của Chúa. Chính những người này làm chứng cho sự thật. Khi họ không nhận trợ giúp của những người còn sai lạc chưa biết sự thật. Vì thế cần phải có sự đóng góp của người của Chúa. Để sự thật được loan truyền mau chóng và rộng rãi. (năm chẵn).
Lạy Chúa, xin ngự đến. Và đem lại công lý cho thế giới. Và ban cho con sức mạnh. Để con kiên trì cầu nguyện. Và tích cực hoạt động cho công lý hiển trị.
Ai cũng băn khoăn về tương lai. Ai cũng muốn biết xem định mệnh của mình rồi sẽ ra sao. Nhưng tương lai chưa tới. Định mệnh con người là một bí mật. Ai nhìn biết sẽ trở thành người thông sáng. Vì sẽ có tương lai rạng rỡ. Ai không biết sẽ trở thành người mù tối. Và sẽ làm cho tương lai ngập tràn bóng tối. Người thông sáng hiểu biết phải nắm vững chân lý nền tảng này: Thiên Chúa làm chủ trời đất và vận mệnh con người. Tôn thờ Chúa là nguồn hạnh phúc. Thực hành thánh ý Chúa đem lại thành công cho cuộc đời.
Vua An-ti-ô-khô không hiểu điều đó. Vua thật mù tối, Dám tự xưng mình là Chúa. Bắt thần dân phải thờ lạy mình. Dám chống lại Thiên Chúa. Vì thế hậu vận của vua sẽ vô cùng đen tối. Người Do thái cũng mù tối không kém. Họ đang thờ phượng Chúa lại bỏ theo vua. Tệ hơn nữa họ còn xé bỏ lề luật của Chúa. Họ thật mù tối. Đang ở chỗ sáng lại đi vào bóng tối. Đang thờ phượng Chúa là Chúa Tể lại quay sang thờ vua là loài thụ tạo. Họ đang đi vào hố diệt vong (năm lẻ).
Chẳng ai được như anh mù từ thuở mới sinh. Tuy mù thể xác nhưng đức tin lại sáng ngời. Đức tin sáng suốt nên anh tin nhận Chúa Giê-su là Con Vua Đa-Vít. Là Đấng Cứu Thế. Biết đức tin là cần. Biết chỉ có Chúa Giê-su mới có thể cứu anh. Nên anh lớn tiếng vừa tuyên xưng Chúa là Đấng Cứu Độ, vừa tha thiết cầu xin “Xin cho con được thấy”. Thấy Chúa. Thấy ơn cứu độ. Thấy tương lai tươi sáng. Đức tin đã cứu anh. Chúa chữa anh vì thấy anh đã tin. Và khi được sáng mắt anh bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. Chúa là Ánh Sáng thật. Dẫn đến Sự Sống thật. Hạnh phúc thật.
Có những người đặc biệt như thánh Gio-an. Vì kết hợp mật thiết với Chúa. Nên được ơn thấy trước tương lai qua các thị kiến. Chính lòng yêu mến, kết hợp với Chúa khiến ngài trở nên thông sáng. Biết hết định mệnh con người trong tương lai. Chúng ta hãy rèn luyện cho mình có đức tin vững mạnh như anh mù. Có đức mến nồng nàn như thánh Gio-an. Để chúng ta vững tin vào Chúa. Để chúng ta sáng suốt chọn lựa Chúa. Để chúng ta trung thành đi theo Chúa cho đến cùng. Đừng như người Ê-phê-sô chán nản đánh mất tình yêu thuở ban đầu.
Để được như thế chúng ta phải chiến đấu. Như những người Do thái trung tín với Chúa. Phải chiến đấu với những người phản bội. Phải chiến đấu với vua An-ti-ô-khô. Phải chiến đấu với chính mình để vượt qua đau thương thử thách. Và như anh mù. Chiến đấu mạnh mẽ. Chỉ để chiếm lấy Chúa Ki-tô. Phải luôn cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con được thấy.
Sống là chiến đấu. Với ma quỉ, xác thịt, thế gian. Ngay trong bản thân. Vì thế phải chiến đấu với chính mình. Nước Trời dành cho ai thắng vượt chính mình.
Ông Gia-kêu hôm nay thắng vượt chính mình. Đời ông chìm trong tội lỗi. Tội lỗi công khai. Tội lỗi thầm kín. Tội lỗi khiến ông tuy giầu có nhưng băn khoăn ray rứt. Muốn tìm cách thoát ra. Muốn thoát ra phải vượt qua chính mình. Nên ông trèo lên cây sung. Bất chấp tuổi tác. Bất chấp địa vị. Nhưng lạ chưa. Chúa nhìn thấy ông từ bao giờ. Chúa ngỏ lời với ông khi ông chưa kịp ngỏ lời với Chúa. Chúa xin vào nhà ông trước khi ông dám lên tiếng mời Chúa. Chúa đã đi bước trước. Ông liền cởi mở. Không những mở cửa nhà mà còn mở cả tấm lòng. Đón Chúa vào ông tống khứ hết những gì đối nghịch với Chúa. Tống khứ hết những gì khiến lương tâm ông ray rứt không yên nghỉ. Hoàn toàn dứt bỏ cuộc sống cũ. Hoàn toàn chết cho con người cũ. Để sống cho con người mới. Chúa công khai nhận ông là con cháu Áp-ra-ham. Lớn tiếng chúc phúc cho ông và gia đình.
Ê-la-da cũng đã hoàn toàn chiến thắng. Ông đã suốt đời thờ phượng Chúa. Ông quyết chết cho Chúa. Nên không chịu giả hình. Ông quyết trung thực, ngay thẳng. Hiên ngang làm chứng cho Chúa. Ông đã sống cho Chúa. Ông sẽ chết cho Chúa. Ông đã vượt thắng thế gian. Vượt thắng nỗi ham sống sợ chết. Vì ông tin tưởng. Chúa cao cả hơn trần gian. Đời sau đáng quí hơn đời này. Ông nói: “Đức Chúa là Đấng thông suốt mọi sự, hẳn Người biết là dù có thể thoát chết, nhưng tôi vẫn cam chịu những lằn roi gây đau đớn dữ dằn trong thân xác, còn trong tâm hồn, tôi vui vẻ chịu khổ vì lòng kính sợ Người” (năm lẻ).
Sách Khải huyền khích lệ ta phải chiến đấu để thắng vượt thế gian. “Ai thắng sẽ được mặc áo trắng”. Và thắng vượt chính mình. Đừng sống dật dờ uể oải. Phải tích cực “Vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta”. Phải tích cực tống cổ thói xấu. Phải sẵn sàng mở cửa đón Chúa vào. “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy…Ai thắng, Ta sẽ cho ngự bên Ta, trên ngai của Ta” (năm chẵn).
Thật hạnh phúc. Khi ta thắng vượt chính mình. Ta sẽ được phần thưởng là chính Chúa. Sẽ được ở với Chúa. Dự tiệc với Chúa. Lạy Chúa, xin ban sức mạnh. Để con chiến thắng trong cuộc chiến này. Amen.
Để trả lời cho câu hỏi hiện tại về Nước Thiên Chúa. Trong bối cảnh Người lên Giê-ru-sa-lem. Chúa Giê-su dùng một sự kiện lịch sử. Đó là việc kế vị Hê-rô-đê Cả gây nhiều tranh cãi. Để nói lên nguyên lý nền tảng của con người trong Nước Thiên Chúa. Nguyên lý nền tảng đó là: bản thân con người và mọi sự họ có đều là của Chúa. Vì thế phải làm việc cho Chúa. Chúa sẽ đi xa một thời gian. Đó là thời gian con người sống ở đời. Rồi sau khi được phong vương Chúa sẽ trở lại. Đó là sau khi chết, phục sinh, Chúa được tôn vinh. Ngày Chúa trở lại là ngày con người chấm dứt thời gian ở trần gian. Phải tính sổ với Chúa. Để được thưởng hay bị phạt. Tuy làm việc cho Chúa. Nhưng phần thưởng cho con người rất trọng hậu. Không gì có thể so sánh được. Người bị phạt vì muốn tự do chối từ quyền của Chúa. Tưởng mình có quyền tự do sống cho riêng mình. Nhưng không phải vậy. Tách mình ra khỏi Chúa, con người chỉ chuốc án phạt vào thân.
Bà mẹ trong sách Ma-ca-bê thấu hiểu điều đó. Nên bà khuyên nhủ các con rất chí lý: Mọi sự đều là của Chúa. Ta phải dâng lại cho Chúa tất cả. Rồi Người sẽ thưởng công trọng hậu cho những ai sống vì Người và chết vì Người. “Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con thần khí và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình” (năm lẻ).
Quả thực, đến ngày tận cùng của thế giới này, vương quốc của Thiên Chúa vẫn tồn tại. Trong đó mọi người đều được hưởng phúc lành. Được ca tụng tôn vinh Chúa muôn đời. “”Hai mươi bốn vị kỳ mục phủ phục xuống trước mặt Đấng ngự trên ngài mà thờ lạy Người, Đấng hằng sống đên muôn thuở muôn đời, rồi đặt triều thiên của mình xuống trước ngai mà nói: ‘Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, Ngài xứng đáng lãnh nhận vinh quang, danh dự và uy quyền. Vì Ngài đã dựng nên muôn vật’ ” (năm chẵn).
Mọi sự khởi đầu từ Chúa. Mọi sự phải phụng sự Chúa. Mọi sự phải quy về Chúa. Rồi Chúa sẽ thưởng công bội hậu. Chúa ban thưởng chính hồng ân của Chúa. Đó là nguyên lý nền tảng. Đó là ý nghĩa cuộc đời. Đó là hạnh phúc đời đời của ta.
Giê-ru-sa-lem là thành phố hoà bình. Nhưng không thể tự mình kiến tạo hoà bình. Thiên Chúa mới là người ban hoà bình. Chúa Giê-su là ông Vua Thái Bình. Nhưng đáng tiếc là thành phố hoà bình không biết đón tiếp Vua của mình. Không “nhận ra những gì đem lại bình an”. “Không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm”. Cơ hội chỉ đến một lần. Nên Chúa rơi lệ khóc thương cho số phận của thành. Giê-ru-sa-lem là trái tim của dân tộc Ít-ra-en. Là niềm tự hào dân tộc. Ai cũng hân hoan khi được đến Giê-ru-sa-lem. “Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi. Ta cùng trẩy lên đền thánh Chúa”. Đền thờ là một kỳ công tuyệt tác hoàn mỹ. “Giê-ru-sa-lem được xây cất như một thành trì. Mọi phần ăn khớp với nhau” (Tv 121). Chúa Giê-su đã nhiều lần hớn hở vui mừng vì được lên Giê-ru-sa-lem dự lễ. Như mọi người Do thái, Người cũng tự hào và yêu mến thành đô. Nhưng giờ đây Người phải rơi lệ. Vì thấy số phận tiêu điều của nó: “sẽ không còn hòn đá nào chồng lên hòn đá nào”(Lc 19,44).
Lời tiên báo đó đã ứng nghiệm vào năm 70. Quân binh La mã đến phá huỷ đền thờ tan tành. Đa số người Do thái ngả theo phe đế quốc. Thờ ngẫu tượng. Chỉ một số ít trung thành với luật Chúa. Đó là gia đình Mát-tít-gia. Chiến trận liên miên. Kẻ chết, người bị thương. Và sau cùng, tất cả rơi vào tay đế quốc. Giê-ru-sa-lem đánh mất hoà bình từ hơn 2 ngàn năm nay. Hiện tại đó vẫn là một miền đất có hai dân tộc và ba tôn giáo. Chiến tranh không bao giờ ngưng (năm lẻ).
Đó là tất cả những bí ẩn của Giê-ru-sa-lem và của thế giới. Tất cả đã được ghi vào quyển sách. Nhưng quyển sách lại bị đóng bảy ấn niêm phong. Chẳng ai có thể đọc. Chẳng ai có thể hiểu. Chỉ một người có thể mở ấn niêm phong. Có thể đọc và có thể hiểu. Đó là người giải mã bí mật của thế giới. Là con chiên đã tự nguyện bị giết chết, bị sát tế. Nên đã trở thành con chiên có bảy sừng và bảy mắt. Con Chiên hiển vinh sau khi đã trải qua cái chết. Có thể đem lại hoà bình. Vì Người qui tụ không phải chỉ dân Ít-ra-en, nhưng là tất cả mọi dân trên thế giới. Bấy giờ mọi người sẽ nhận biết Thiên Chúa. Và sống trong cảnh thái bình. “Ngài xứng đáng lãnh nhận cuốn sách và mở ấn niêm phong, vì Ngài đã bị giết và đã lấy máu đào chuộc về cho Thiên Chúa muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ, thuộ mọi nước, mọi dân. Ngài cũng làm cho họ thành một vương quốc, thành những tư tế, để phụng thờ Thiên Chúa chúng ta, và họ sẽ làm chủ mặt đất này” (năm chẵn).
Lạy Chúa Giê-su, xin hãy đến. Xin ban hoà bình cho chúng con.
Đối với dân Do thái đền thờ là trái tim của vương quốc, của đạo giáo và của từng người. Đền thờ đã được xây dựng thật huy hoàng tráng lệ. Xứng đáng với niềm tự hào của đất nước và của tấm lòng con dân. Đền thờ bị xúc phạm khi quân vô đạo vào chà đạp lên nơi thánh. Khi tượng thần chễm chệ trên bàn thờ. Khi các đồ dùng thờ phượng bị đem ra làm trò tiêu khiển. Đau đớn biết bao. Nhục nhã biết bao. Nên khi chiếm lại được đền thờ, Giu-đa Ma-ca-bê đã tổ chức thanh tẩy đến thờ. Và cung hiến thật long trọng để đền bù lại thời gian đau khổ nhục nhã tội lỗi đã qua. Ông trang hoàng đền thờ bằng những gì quý giá nhất. Cử hành những lễ nghi long trọng nhất. Kéo dài thời gian trong tám ngày. Tuy nhiên tất cả vẫn còn là bề ngoài. Bị ô uế từ bên ngoài. Thanh tẩy bên ngoài (năm lẻ).
Chúa Giê-su cũng làm một cuộc thanh tẩy đền thờ. Nhưng với một tâm tình khác. Vì đền thờ không bị ngoại bang làm ô uế. Mà bị chính các tư tế làm ô uế. Sự ô uế này khó thấy. Vì nó xuất phát từ tâm tình bên trong. Thói thực dụng. Và thói ham tiền. Và nhất là thói lợi dụng tôn giáo. Nhân danh Chúa để thủ lợi riêng. Đó là thói tục hoá trầm trọng nhất. Tôn thờ chính mình. Biến Thiên Chúa thành phương tiện. Tôn giáo thành dụng cụ. Nên Chúa Giê-su giận dữ như chưa bao giờ thấy. Và để sửa chữa, Chúa giảng dậy nhiều ngày trong đền thờ. Để ta biết tôn giáo đích thực là hiểu biết thánh ý Chúa. Thực hành Lời Chúa. Là tôn thờ Chúa trong tinh thần và chân lý. Chứ không phải những lễ vật hương khói nghi ngút. Để thi hành thánh ý Thiên Chúa. Người ta phải từ bỏ ý riêng. Từ bỏ thú tính. Đó là điều Tin mừng Gio-an đề cập khi Chúa nói đền thờ là thân thể Người. Và Người trải qua cuộc thanh tẩy bằng cái chết theo ý Chúa Cha.
Cuộc thanh tẩy tiếp diễn trong suốt cuộc đời. Vì con người nhơ nhuốc luôn cần thanh tẩy. Để biết làm theo ý Chúa. Từ bỏ ý riêng. Vì thế Gio-an đã được ban quyển sách Lời Chúa. Ông phải nuốt vào. Phải lắng nghe. Phải nhập tâm. Phải thực hành. Thực hành ý Chúa đòi từ bỏ ý riêng. Vì thế Lời Chúa gây nên cay đắng trong lòng. Từ bỏ ý riêng là một cuộc chiến đấu. Nhưng khi đã hoàn toàn thuận theo ý Chúa. Lời Chúa trở thành ngọt ngào không gì so sánh được. Trở thành niềm vui. Trở thành hi vọng. Trở thành lẽ sống. Đó là điều cần phải loan truyền cho muôn dân được biết (năm chẵn).
Con người thật hạn hẹp. Chỉ biết nơi mình ở. Trong một thời gian và một không gian giới hạn. Ngay điều ta biết cũng không trọn vẹn. Ngay trong bản thân vẫn còn nhiều điều ta chưa hiểu. Ví dụ ruột thừa để làm gì. Vì thế nói về đời sau lại càng nông cạn. Phái Xa-đốc đưa ra vấn nạn tưởng là ghê gớm. Nhưng họ chỉ là những kẻ ếch ngồi đáy giếng. Hôm nay Chúa mở ra cho họ một chân trời mênh mông của đời sau. Của Nước Trời. Đời sau là đời đời. Nước Trời là vĩnh cửu. Thiên Chúa là vô thuỷ vô chung. Và con người có đời sống khác đời sống thân xác chóng qua đời này. “Những người sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại”.
Nếu hiểu được đời sau. Nếu biết giới hạn của đời này. Người ta sẽ sống khác. Như vua An-ti-ô-khô. Một đời tung hoành ngang dọc. Tự tung tự tác. Giết người không gớm tay. Xúc phạm cả Thiên Chúa. Coi mình là Thiên Chúa. Bắt mọi người thờ lạy. Chiếm đoạt đồ thờ phượng để sử dụng riêng tư. Nhưng đến cuối đời. Sức lực tàn tạ. Thất bại ê chề. Vua mới hối hận. Biết đời sống có hạn. Biết thế giới này mau qua. Mơ hồ nhìn thấy một chút phán xét đời sau. Bấy giờ vua mới hoảng sợ. Ân hận thì đã muộn: “Tôi tự nhủ: Tại sao giờ đây tôi phải điêu đứng khổ sở như thế này? Trước kia, khi đang cầm quyền, tôi hạnh phúc và được yêu mến biết bao!...Hồi tưởng lại những hành vi tàn bạo đó, tôi biết chắc rằng chính vì thế mà tôi gặp phải bao nhiêu tai biến, và giờ đây sắp phải chết nơi đất khách quê người vì buồn phiền vô hạn” (năm lẻ).
Hiểu biết chân lý về cuộc đời, những người tôi tớ của Chúa chuyên tâm sống theo luật Chúa. Và mạnh dạn làm chứng cho Chúa. Như Mô-sê và Ê-li-a. Thế lực trần gian có vẻ thắng thế. Các ngài bị tiêu diệt. Chịu nhục nhã. “Thi hài của các ngài sẽ nằm ở quảng trường của thành phố vĩ đại; thành phố ấy mang tên tượng trưng là Xơ-đôm và Ai –cập, ở chính nơi Chúa của các ngài đã chịu đóng đinh vào thập giá”. Nhưng chỉ một thời gian sau. Ngày cùng tận của thế giới này. Sẽ khởi đầu thế giới khác. Các ngài sẽ sống lại. Sẽ được Chúa thưởng công vinh quang trên trời. “Rồi các ngài nghe một tiếng lớn từ trời bảo: ‘Hãy lên đây!’ Và các ngài lên trời trong đám mây, trước mắt thù địch của các ngài”(năm chẵn).
Đời này chóng qua. Rồi sẽ tới đời sau. Ở đời sau phúc hay hoạ sẽ là đời đời. Xin cho con hiểu chân lý này. Để biết chuẩn bị cho đời sau. Để được sống đời đời. Và biết rao truyền chân lý này. Đó chính là góp phần xây dựng thế giới .
Chúa có cách đánh giá kỳ lạ. Khác người. Chúa nhìn bề trong chứ không nhìn bề ngoài. Đối với Chúa tâm hồn quan trọng hơn của cải. Tình yêu quan trọng hơn lễ vật. Trật tự của Chúa khác với trật tự trần gian. Ở trần gian ai cũng chú trọng tới những người quyền cao chức trọng, ăn mặc sang trọng, thân hình phương phi, và nhất là dâng cúng nhiều tiền của. Nhưng Chúa lại chú ý tới những người thấp hèn, ăn mặc nghèo nàn, thân hình bé nhỏ, và dâng cúng ít ỏi. Chúa đánh giá cao bà goá dâng hai đồng kẽm. Vì: “Những người kia đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ, mà bỏ vào dâng cúng; còn bà này, tuy thật túng thiếu, đã bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình”. Như thế tuy bà có ít ỏi. Nhưng tấm lòng của bà thật lớn lao. Bài bị người đời khinh chế. Nhưng bà được đánh giá cao trước mặt Chúa. Bà từ người cuối hết trong trần gian. Trở thành người lớn nhất trong Nước Trời. Chúa không cần của lễ. Chúa cần tấm lòng. Đối với Chúa những tấm lòng quảng đại là cao quí nhất.
Đa-ni-en và ba người bạn có tấm lòng yêu mến Chúa. Các cậu chu toàn lề luật Chúa. Nên chối từ bổng lộc vua ban. Các cậu thà ăn rau cỏ. Không chịu ăn thịt luật đạo cấm. Tâm hồn cao quí đó hiện lên sắc mặt. Nên các cậu khôi ngô tuấn tú hơn những trẻ khác ăn uống theo chế độ vua ban. Còn hơn thế nữa. Chúa thưởng công cho các cậu được trí khôn ngoan, “được hiểu biết mọi thị kiến và điềm báo mộng”. Vua rất yêu thích cho các cậu được ở bên cạnh. “Thế là bốn cậu này được đứng chầu vua, và khi vua hỏi các cậu về bất cứ điều gì cần đến sự khôn ngoan và tài trí, thì đều thấy các cậu trổi vượt gấp mười lần hơn tất cả các thầy phù thuỷ và pháp sư trong toàn vương quốc”. Các cậu đã trở thành những người xuất sắc hàng đầu. Là hoa trái của quyền năng Chúa. Đó là Chúa thưởng công cho tấm lòng quảng đại của các cậu. Vì yêu mến Chúa mà chấp nhận thiệt thòi (năm lẻ).
Đó là những hình ảnh báo trước Nước Trời. Chịu thiệt thòi ở trần gian. Họ trở thành của lễ đầu mùa khiến Chúa hài lòng. Thánh Gio-an đã nhìn thấy những người được Chúa thưởng công, đi theo hầu cận Con Chiên. Và hát những bài ca mới chỉ có thiên thần mới hiểu được. “Không ai có thể học được bài ca này, ngoài một trăm bốn mươi bốn ngàn người đã được chuộc về từ mặt đất. Họ đã được chuộc về từ giữa loài người, làm của đầu mùa dâng lên Thiên Chúa và Con Chiên. Chẳng ai thấy miệng họ nói dối: không ai chê trách họ được” (năm chẵn). Đó là bài ca của tấm lòng. Chỉ có tấm lòng mới học được. Chỉ có tấm lòng mới hiểu được.
Tôi có tấm lòng không khi sống đạo? Có tấm lòng không đối với Chúa? Và đối với anh em?
Người Do thái yêu mến, gắn bó và hãnh diện về đền thờ Giê-ru-sa-lem. Lộng lẫy nguy nga chưa từng thấy. Uy nghi hoành tráng đến hớp hồn. Nhưng Chúa Giê-su cho biết “những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào”. Chẳng có gì vững bền trên đời. Dù những phiến đá lớn lao vững chãi. Cả thế giới còn bị tiêu huỷ ra tro. Huống hồ một công trình bé nhỏ trên trái đất. Thật đáng sợ ngày kinh hoàng ấy. “Sẽ có những trận động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có ôn dịch và đói kém; sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện”. Vì thế phải biết chuẩn bị. Đừng gắn bó với những vẻ đẹp và sức mạnh chóng qua. Càng gắn bó sẽ càng hối tiếc. Hãy chuẩn bị cho ngày kinh hoàng đó.
Sách Khải huyền diễn tả số phận thế giới giống như một vụ mùa. Thời gian Chúa cho phép vũ trụ tồn tại là thời gian gieo hạt, trồng cấy. Cho cây nho, cây lúa mọc lên. Phát triển. Thời gian chấm dứt là thời gian Chúa tiêu huỷ vũ trụ. Lúa và nho đã chín. Cần phải gặt về. Đổ vào bồn ép. Để chịu phán xét. Trong cơn lôi đình khủng khiếp. “Xin tra liềm của Ngài mà gặt, vì đã đến giờ gặt: mùa màng trên đất đã chín rồi”. Trái đất đã chín. Lịch sử đã chín. Con người đã chín. Thời hạn đã chấm dứt. Cẩn thận kẻo bị ép trong bồn ép thịnh nộ (năm chẵn).
Na-bu-cô-đô-nô-sô được ơn thấy thị kiến về vận mệnh của chính mình, của vương quốc và của thế giới. Mọi vương quốc hùng mạnh rồi cũng sẽ tiêu tan. Mọi cố gắng của loài người không vượt qua được số phận. Thời gian nhường chỗ cho đời đời. Hữu hạn nhường bước cho vô hạn. Nhân loại phải tuân phục Thiên Chúa. Sức mạnh của Thiên Chúa không ai có thể chống cưỡng được. Đó là điều Đa-ni-en giải nghĩa giấc mơ cho Vua: “Đức Chúa Trời sẽ lập một vương quốc không bao giờ bị tiêu diệt, vương quốc ấy không bị giao cho một dân khác, nhưng nó sẽ đập tan và tiêu diệt tất cả mọi vương quốc này, đến muôn đời nó sẽ đứng vững; cũng như ngài đã thấy tảng đá bị tách khỏi núi dù không có bàn tay nào đụng tới, tảng đá ấy đập tan của sắt, đồng, đất sét, bạc và vàng” (năm lẻ).
Mọi sự sẽ qua đi. Chỉ Thiên Chúa vĩnh cửu. Thật dại dột khi gắn bó với những gì mau qua. Tôi sẽ mất tất cả. Sẽ buồn phiền. Khôn ngoan là gắn bó với Thiên Chúa. Làm việc cho Nước Trời. Ở trần gian có thể bị thiệt thòi. Nhưng sẽ bền vững trong Chúa, trên trời.
Càng về cuối thời gian người tôi tớ Chúa càng khốn đốn. Vì thế gian càng trở nên điên cuồng. Quyền lực trần gian muốn khẳng định mình. Ra tay bắt bớ hành hạ những người tôi tớ của Thiên Chúa. Quyền lực này thật ghê gớm. Gây nên chia rẽ trong bản thân. Trong người thân. Trong gia đình: “Anh em sẽ bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp. Họ sẽ giết một số người trong anh em”. Người công chính sẽ bị nộp. Bị kết án. Và bị giết chết. Nhưng Chúa căn dặn ta đừng sợ. Đó chính là cơ hội làm chứng cho Chúa. Và Thánh Thần sẽ soi sáng cho ta biết phải nói gì để chống lại thế gian gian ác bất công. “Cứ kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình”.
Điều đó đã được chứng nghiệm thời ông Đa-ni-en. Đế quốc Ba-by-lon vô đạo quá hùng mạnh. Dân Chúa bị bắt làm nô lệ. Những thanh niên ưu tú như Đa-ni-en phải phục vụ nhà vua. Vua Bên-sát-xa càng ngông cuồng hơn vua cha Na-bu-cô-đô-nô-sô. Coi mình hơn Thiên Chúa. Chúa đã ra tay. Bàn tay hiện lên viết những hàng chữ mà nhà vua không hiểu. Bấy giờ phải thỉnh cầu Đa-ni-en. Đa-ni-en cho biết: “Ngài tự cao tự đại, đã chống lại chúa Tể trời cao….Vì thế, Thiên Chúa đã cho phần bàn tay ấy đến viết những hàng chứ kia…vương quốc của ngài đã bị phân chia và trao cho các dân Mê-đi và Ba-tư”. Đa-ni-en, người nô lệ đã trở thành người làm chứng cho Chúa (năm lẻ).
Thế lực trần gian điên cuồng ngạo mạn. Nhưng rồi sẽ tàn lụi. Thiên Chúa sẽ có tiếng nói cuối cùng. Cơn lôi đình của Thiên Chúa sẽ đến chấm dứt thời gian và không gian của thế lực trần gian. Thiết lập vương quốc mới “như biển trong vắt pha ánh lửa, và những người thắng Con Thú, thắng tượng của nó và con số tương đương với tên nó; tôi thấy họ đứng trên biển trong vắt ấy, họ cầm những cây đàn của Thiên Chúa và hát bài ca của ông Mô-sê, tôi tớ Thiên Chúa, và bài ca của Con Chiên; họ hát rằng: ….Chỉ có Ngài chí thánh chí tôn. Người muôn nước sẽ về phủ phục trước Tôn Nhan, vì ai ai cũng đều thấy rõ những phán quyết công minh của Ngài” (năm chẵn).
Trong thời gian cuối cùng này chúng ta sẽ gặp rất nhiều khốn khó. Sự dữ nổi lên tư bề. Ma quỉ muốn một lần cuối cùng vùng vẫy chống lại Thiên Chúa. Bắt bớ những tôi tớ trung tín. Muốn áp đặt sự dữ và vương quốc của nó trên trần gian. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Hãy can đảm làm chứng cho Chúa trước mặt các vua quan thời đại mới. Bằng đời sống siêu thoát. Không theo thói đời. Hãy tin tưởng. Trần gian rồi sẽ qua đi. Tiếng nói cuối cùng thuộc về Chúa. Cứ kiên trì. Ta sẽ được giải thoát.
Chúa cho biết sẽ đến ngày khốc hại. Dân ngoại nắm quyền sinh sát. Tàn phá thành thánh. Chà đạp đền thờ. Giết hại tín hữu. “Sẽ có cơn khốn khổ cùng cực trên đất này, và cơn thịnh nộ sẽ giáng xuống dân này. Họ sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị đày đi khắp các dân các nước, và Giê-ru-sa-lem sẽ bị dân ngoại giày xéo”. Lại còn thêm những điềm lạ trên trời, sóng biển gào thét. Khiến con người hồn xiêu phách lạc. Nhưng trong những tai ương kinh khiếp ấy, người con Chúa “hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc”. Quả thật những ngày cuối cùng của vũ trụ sẽ là nỗi kinh hoàng của dân ngoại. Nhưng đối với con cái Chúa đó lại là niềm hi vọng. Vì đã đến ngày được ơn cứu độ.
Điều đó đã từng xảy ra thời vua Đa-ri-ô. Người Do thái bị bắt làm nô lệ. Bị buộc phải thờ lạy tượng vua. Phải ăn thịt heo. Đa-ni-en, vì trung thành với Chúa. Nên ông bị tố cáo. Và bị ném xuống hầm sư tử. Sư tử là nỗi khốn cùng của dân Ba-by-lon. Nhưng lại là dụng cụ Chúa dùng khiến Đa-ni-en được tôn vinh. Đa-ni-en đã đứng thẳng người hiên ngang ngẩng cao đầu. Vì “Thiên Chúa đã sai thiên sứ đến khoá hàm sư tử khiến chúng không hại được thần”. Trái lại, hang sư tử trở thành nỗi kinh hoàng của những kẻ ác độc, tố cáo gian cho Đa-ni-en. Vì thế xác họ còn chưa đến đáy hang thì sư tử đã chồm lên cắn xé họ. Qua đó Chúa được tôn vinh. Vua Đa-ri-ô viết sắc lệnh đi khắp đế quốc truyền phải kính sợ Thiên Chúa của Đa-ni-en (năm lẻ).
Sách Khải huyền cũng trình bày thời sau hết của thế gian. “Thành Ba-by-lon vĩ đại! Nó đã trở nên sào huyệt của ma quỷ, hang ổ của mọi thứ thần ô uế”. Nhưng rồi đến ngày Chúa ra tay. Ba-by-lon điêu tàn. Mọi người phải chết. “Bởi vì các con buôn của ngươi từng là kẻ quyền thế trên mặt đất, bởi vì ngươi đã dùng phù phép mà làm cho muôn nước mê hoặc”. Còn những người trung tín với Chúa. Đã chịu khổ cực ở trần gian. Đã bị giết chết. Nay được vinh quang. Ca tụng Thiên Cháu: “Thiên Chúa ta thờ là Đấng Cứu Độ, Đấng vinh hiển uy quyền… Vì Người đã xét xử Con Điếm khét tiếng …, và Người đã bắt nó phải đền nợ máu các tôi tớ của Người mà chính tay nó đã giết” (năm chẵn).
Hãy noi gương Đa-ni-en. Không bị Con Điếm cám dỗ. Không khuất phục trước bả vinh hoa của vua chúa trần gian. Chỉ trung tín với Chúa. Dù bị thiệt thòi. Hãy can đảm làm chứng cho Chúa. Rồi đến lúc mọi người chịu khuất phục. Ta sẽ đứng thẳng và ngẩng cao đầu. Vì Thiên Chúa đến cứu ta.
Vũ trụ có một chủ nhân. Và có một lịch sử. Chính Thiên Chúa là chủ nhân của vũ trụ và của lịch sử. Chúa cho phép vũ trụ tồn tại trong một thời gian. Và cho con người tự do sử dụng. Đến thời hạn, vũ trụ chấm dứt. Lịch sử không còn. Nhưng con người sẽ bị xét xử về cách sử dụng vũ trụ. Mọi sự đều sẽ qua đi. Nhưng Lời Chúa luôn tồn tại. Có từ trước muôn đời. Tồn tại đến muôn muôn thuở. Trước khi lịch sử chấm dứt và vũ trụ tiêu tan, sẽ có những biến cố kinh thiên động địa. Dường như thế lực trần gian muốn vùng dậy cố nắm lấy những giây phút cuối cùng.
Từ xa xưa Đa-ni-en đã tiên báo sẽ có những vua chúa trần gian xuất hiện. Ngày càng hung dữ hơn. Bốn con thú lần lượt xuất hiện. Con sau dữ tợn hơn con trước. Con cuối cùng thật là ghê gớm. “Con thú Thứ 4 đáng kinh đáng sợ và mạnh mẽ vô song; răng của nó bừng sắt và rất to. Nó ăn, nó nghiền, rồi lấy chân chà đạp những gì còn sót lại”. Nhưng rồi thời gian của nó chấm dứt. Quyền thống trị thuộc về Con Người: “Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một, vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong” (năm lẻ).
Gio-an cho biết những con thú đó chính là hiện thân của con Mãng Xà xa xưa. Lần này nó bị tiêu diệt vĩnh viễn. Thế lực sự dữ hết thời hạn tồn tại. Tất cả những ai đã chết đều sống lại để chịu xét xử. “Các người chết được xét xử tuỳ theo việc họ đã làm, chiếu theo những gì đã được ghi chép trong sổ sách…Ai không có tên ghi trong Sổ Trường Sinh thì bị quăng vào hồ lửa”. Tuy nhiên trời cũ đất cũ qua đi. Quyền lực trần gian không còn nữa. Nhưng sẽ xuất hiện trời mới đất mới. Xinh đẹp vô cùng. Hạnh phúc vô song. Vững bền thiên thu. Chính Thiên Chúa làm chủ (năm chẵn).
Ai theo con Mãng Xà. Thuộc về thế gian. Sẽ hưởng lợi đời này. Sẽ hối tiếc khi vũ trụ đời này qua đi. Và phải kinh hoàng khi đến trước toà xét xử của Chúa. Ai theo Chúa sẽ chịu thiệt thòi ở đời này. Nhưng đến ngày đời này tiêu tan. Sẽ vô cùng phấn khởi. Vì được giải thoát. Vì được đi vào trời mới đất mới. Được vĩnh viễn hưởng hạnh phúc bên Chúa. Tôi chọn chóng qua hay vĩnh cửu. Đời này hay đời sau. Con Mãng Xà hay Thiên Chúa?
Ma quỉ luôn chống phá chương trình của Thiên Chúa. Gây ra cuộc chiến giữa thiện và ác. Ma quỉ muốn bành trướng vương quốc sự dữ của nó. Cuộc chiến khởi đầu từ tạo thiên lập địa. Và sẽ kéo dài cho đến ngày tận thế.
Càng đến cuối thời gian cuộc chiến càng khốc liệt. Vì ma quỉ phải vận dụng hết năng lực tàn phá để giành lấy con người. Đa-ni-en đã thấy những con thú ngày càng hung dữ hơn. Tức là các vua chúa trần gian ngày càng hùng mạnh hơn. Đến vị vua cuối cùng thì quả thực vô đối. Ông tiêu diệt hết các vua trước. Và còn báng bổ cả Thiên Chúa. Vì ông nghiền nát cả vũ trụ dưới chân. Mọi người phải cúi đầu khuất phục trước thế lực hung hãn này. Nhưng cuối cùng thời hạn của thế gian chấm dứt. Thiên Chúa là chủ của lịch sử và vũ trụ sẽ ngự đến xét xử. Tước lấy quyền uy của vua chúa trần gian. Trao vào tay dân thánh của Chúa. Bấy giờ quyền uy mới là tối thượng. Và sẽ bền vững đến muôn đời (năm lẻ).
Chúa Giê-su diễn tả ngày của Chúa đến như chiếc lưới bất ngờ chụp xuống. Không ai và không gì trong vũ trụ thoát khỏi giờ xét xử kinh hoàng ấy. Chỉ duy những kẻ thuộc về Chúa mới được cứu rỗi. Muốn thuộc về Chúa, ta phải “đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời”. Sự đời ngày càng hấp dẫn. Khiến người ta say mê. Càng say mê lòng trí càng nặng nề. Càng sống theo xác thịt ta càng xa Thần Khí. Càng thuộc về trần gian càng xa Nước Chúa. Vì thế Chúa mời gọi ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Tỉnh thức để phân định tốt – xấu, thiện – ác, Thiên Chúa – trần gian. Có những thứ men tinh vi của ma quỉ, xác thịt, thế gian nhiễm vào tâm hồn. Khiến ta lầm lạc lầm tưởng xấu là tốt. Vì thế phải rất tỉnh thức. Nhưng để dứt khoát chối từ ta cần phải can đảm. Trần gian có những giá trị quyến rũ khiến ta khó dứt lìa. Xác thịt yếu đuối lắm. Vì thế phải cầu nguyện ta mới có thể đứng vững trong ngày của Chúa.
Khi ta đã chiến thắng trong cuộc chiến cuối cùng, ta sẽ được đưa vào Nước Chúa. Ở đấy không còn chết chóc nữa. Chỉ có sự sống. Không còn bệnh tật. Chỉ có sức khoẻ. Không còn bóng tối nữa. Chỉ có ánh sáng. Không còn sự ác nữa. Chỉ còn sự thiện. Không còn chiến đấu nữa. Vì ma quỉ xác thịt thế gian đã hoàn toàn bị tiêu diệt. Ta hoàn toàn thuộc về Chúa. Ta được chiêm ngắm dung nhan Thiên Chúa. Được hiển trị với Chúa. Đến muôn thuở muôn đời (năm chẵn).
Chỉ cần một điều. Trong suốt cuộc chiến trần gian, hãy “tuân giữ các sấm ngôn trong sách này”.
--------------------------------------------
THAM KHẢO
1.André Sève, L’évangile du jour, Bayard/Centurion 1997 2.Noel Quesson, Parole de Dieu pour chaque jour, Droguet et Ardant 1995 3. Internet: levangileauquotidien.org