Khi đến Ars, thánh Gioan Maria Vianê quỳ xuống hôn đất và cầu nguyện:
"Lạy Chúa tốt lành, con là một linh mục dốt nát đáng thương, Chúa biết điều này. Ở đây dân chúng không mong chờ con Họ mong chờ Chúa Họ cần Chúa Xin hướng dẫn lời con nói, việc con làm, để các linh hồn này được cứu độ"
*****
LỜI NGỎ
Tấm Bánh Đời Thường là một thách đố lớn.
Thách đố của nhịp điệu đều đặn nhàm chán. Suy niệm một vài dịp trong một vài ngày thì dễ. Suy niệm đều đặn suốt năm quả là một thách đố. Nhiều khi ta thấy mệt mỏi, khô khan nguội lạnh như bị Chúa bỏ rơi.
Thách đố của chính Lời Chúa. Chúa Giê-su không ít lần đã khiển trách các môn đệ: “Các anh chẳng hiểu (Thánh Kinh) gì cả”. Rồi dùng Thánh Kinh, “Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh”(Lc 24,27). Chúa dậy ta dùng Thánh Kinh để giải thích Thánh Kinh. Tìm cho ra sợi chỉ đỏ xuyên suốt những bài đọc của năm chẵn, năm lẻ với bài Tin mừng. Đây là một hành trình đi tìm kho báu rất gian nan.
Thách đố hạn chế số trang để quyển sách khỏi quá nặng. Ba trăm bài trong ba trăm trang. Ba bài đọc liên kết trong một trang giấy nhỏ. Phải vắn tắt nhưng lại phải đầy đủ. Thách đố cho cả người soạn lẫn người đọc.
Chính vì thế mà quyển sách bị hạn chế. Không thể đưa phần Lời Chúa vào để tiện sử dụng. Không thể quảng diễn cặn kẽ mọi điều.
Quả thật quyển sách nói lên sự nghèo khó của con người trước kho tàng bao la của Lời Chúa. Xin Chúa thương sự nghèo nàn của chúng ta. Xin Chúa thương dùng năm chiếc bánh và hai con cá nhỏ bé của em bé này mà dọn cho chúng ta bữa tiệc thịnh soạn phong phú của Chúa.
Mùa Vọng mở ra một viễn tượng hùng tráng và tươi đẹp. Đấng Cứu Thế sẽ hiển minh. Mọi dân mọi nước sẽ tuôn đến với Người để được Người hướng dẫn. Người sẽ cầm cân nảy mực trần gian để thực thi công lý. Dưới sự lãnh đạo của Người, các dân tộc thôi chiến tranh. Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cầy. Rèn giáo mác nên liềm nên hái. Đó chính là niềm mơ ước của con người từ bao thế hệ.
Giấc mơ đó được thực hiện nơi Chúa Giê-su Ki-tô. Hôm nay, viên đại đội trưởng ngoại đạo, đại diện cho các dân các nước bày tỏ niềm tin vững chắc vào Đấng Cứu Thế. Những lời tiên báo của I-sa-i-a đang trở thành hiện thực nhưng với những chiều kích tình thương trổi vượt.
Chúa Giêsu trở nên giải pháp duy nhất cho mọi vấn đề của con người. Con người như con bệnh trầm trọng vô phương cứu chữa. Chỉ mình Chúa Giêsu mới chữa lành được căn bệnh của nhân loại. Viên sĩ quan, đại diện cho đế quốc Rôma hùng mạnh, hẳn không thiếu gì phương tiện, tiền bạc, thế lực. Nhưng tất cả mọi phương tiện trần gian đành bó tay. Quyền lực của loài người đành bế tắc. Chỉ có một giải pháp duy nhất cho thế giới: Chúa Giê-su Ki-tô.
Nhưng Chúa Giêsu không xuống trần uy nghi như người ta tưởng. Viên sĩ quan xác định: Người toàn năng. Người chỉ cần phán một lời, mọi sự đều phải tuân phục Người. Nhưng Người muốn biểu lộ tình thương. Người muốn trực tiếp hành động. Người muốn gặp gỡ nhân loại. Tận mắt chứng kiến nỗi đau khổ của nhân loại. Tận tay săn sóc vỗ về.
Như thế Người không chỉ chữa lành bệnh tật thân xác nhưng còn chữa lành bệnh tật tâm hồn. Phẩm giá con người được nâng cao. Địa vị con người được trân trọng khi Đấng Cứu Thế trực tiếp đến với con người, yêu thương con người, chăm sóc con người.
Lạy Chúa, con là con bệnh trầm kha. Xin hãy đến cứu con. Con biết Chúa yêu thương con và muốn gặp gỡ riêng với con. Xin cho lòng con tỉnh thức để nghe được tiếng Chúa gõ cửa, mở cửa cho Chúa, để Chúa vào tâm hồn con, chữa lành vết thương trong tâm hồn con.
Thế giới không ngừng bị xâu xé vì thảm cảnh chiến tranh, vì xung đột quyền lợi. Ai cũng mơ ước một thế giới hòa bình nơi mọi người, mọi quốc gia dân tộc, mọi chủng tộc, mọi ngôn ngữ có thể sống chung hài hòa bên nhau. Nhưng mơ ước đó lúc nào cũng xa vời vì trên thế giới chưa bao giờ kẻ ác thôi hoành hành làm hại người lành, chưa bao giờ người giầu thôi bóc lột người nghèo, chưa bao giờ kẻ mạnh hết ức hiếp người yếu.
Isaia tiên báo Đấng Cứu Thế đến sẽ hoàn thành mơ ước. Người đầy Thánh Thần sẽ thiết lập vương quốc bình an. Thánh Thần tràn ngập sẽ làm cho mọi người hiểu biết Thiên Chúa: “Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này”.
Tiên báo đó ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Người tràn đầy Thánh Thần đã khai mạc Vương Quốc bình an. Vương quốc đó được mặc khải cho những người bé nhỏ, khiêm tốn, nghèo hèn. Những người giầu sang, kiêu căng, hung ác bị gạt ra, không được hiểu biết Nước Thiên Chúa cho đến khi họ ăn năn sám hối. Những người này sám hối khi họ hiểu biết Thiên Chúa và hiểu ra rằng giết đồng loại là tự hủy diệt, bóc lột người nghèo là ăn cướp chính mình, áp bức người bé nhỏ là tự lên án chính mình.
Khi hiểu biết Thiên Chúa, họ sẽ tỉnh ngộ và sẽ tự biến đổi. Như con sói hết nhe nanh đe dọa để có thể ở với chiên con. Như con beo cụp hết móng vuốt để có thể nằm bên dê nhỏ. Như sư tử thôi ăn thịt, bắt đầu ăn rơm để có thể sống chung với bò tơ. Như con rắn hết thâm trầm hiểm độc để được ở với em bé. Người ta sẽ không còn sống theo xác thịt với những toan tính thấp hèn, theo thói thế gian. Nhưng sẽ sống theo Thần Khí. Siêu thoát trần tục. Trở nên như trẻ thơ. Hiền hoà. Trong trắng.
Vì thế sống tâm tình Mùa Vong ta phải trở nên bé nhỏ, khiêm nhường để được Chúa cho biết mầu nhiệm Nước Trời. Muốn thế ta phải sửa mình khỏi những gian tham, độc ác, bóc lột áp bức để trở nên hiền lành khiêm nhường, bé nhỏ đơn sơ, như thế mới có thể hiểu biết Thiên Chúa. Như thế Vương quốc Bình an mới thành hình và ta mới hi vọng được chia sẻ hạnh phúc sống trong Vương quốc của Chúa. Và “triều đại Người đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị đến muôn đời”. ----------------------------
Thời Isaia dân Israel sống trong cảnh lưu đầy. Người lưu đầy phải chịu đói khát. Một tấm màn phủ kín khiến họ như bị giam kín trong tù ngục, chẳng còn thấy bầu trời tự do. Tương lai không lối thoát. Cơm bánh hằng ngày là châu lệ khi nhục nhã vì phẩm giá bị chà đạp. Cuộc đời họ còn sống nhưng như đã chết.
Được mặc khải, Isaia tuyên sấm về chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ đưa dân lên ngọn núi cao. Ở đó không còn đói khát vì Thiên Chúa thiết đãi một bữa tiệc thịnh soạn. Không còn từ ngục vì tấm màn bao phủ bị xé toang. Thoát cảnh buồn thương vì Thiên Chúa sẽ lau khô mọi giọt lệ. Thoát cảnh chết chóc vì họ được vui sống với Thiên Chúa.
Lời sấm hoàn toàn ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Hôm nay Người đưa dân lên ngọn núi. Ở đó Chúa thiết đãi một bữa tiệc. Người chữa mọi người khỏi bệnh hoạn tật nguyền. Dân không muốn về vì ở trên núi này họ được hạnh phúc. Không chỉ được no đủ, được chữa lành mọi bệnh tật, nhưng nhất là vì được sống với Chúa, được đồng bàn với Chúa. Hình ảnh người mục tử nhân lành trong Thánh vịnh 22 được thể hiện.
Thế giới hôm nay cũng tràn đầy vấn đề như thời Isaia. Người ta không vươn lên núi cao vì đuổi theo những tầm thường dưới mặt đất. Thế giới đói nghèo vì còn lắm bất công. Què quặt vì đưa ra những giải pháp nửa vời. Mù lòa vì không nhận biết chân lý. Câm điếc vì đóng kín trong ích kỷ. Đó là một thế giới thiếu Chúa.
Chúa chính là giải pháp duy nhất cho thế giới. Có Chúa người ta sẽ vươn lên những ngọn núi của lý tưởng cao thượng. Có Chúa người ta sẽ sống công bình. Có Chúa người ta mới biết đường phải đi. Có Chúa người ta mới nói được với nhau, lắng nghe và hiểu nhau. Và nhất là có Chúa, khối lương thực tưởng chừng ít ỏi lại đủ nuôi số đông người vì người ta biết mở lòng chia sẻ. Hãy nhìn tấm gương của Chân phước Mẹ Têrêxa. Bà không có nhiều của cải. Nhưng bà có thể nuôi hàng ngàn cô nhi, chữa lành hàng vạn bệnh nhân, đem niềm vui tươi hi vọng đến cho hàng triệu người. Vì bà có Chúa.
Chúa sẽ đến thiết lập vương quốc của Người. Chúa sẽ mở cửa đón nhận thần dân vào trong nước của Người. Nhưng để được tuyển chọn phải trải qua thử thách. Thử thách khốc liệt giống như những trận mưa sa bão táp, cuốn đi hết những gì giả trá, phù phiếm, hời hợt bên ngoài. Chỉ những gì có nền tảng vững chắc mới tồn tại.
Hôm nay Chúa cho biết nền tảng vững chắc chính là thực hành Lời Chúa. Bình thường mọi người đều kính mến Chúa như nhau. Ai cũng thưa với Chúa: Lạy Chúa, lạy Chúa, con yêu mến Chúa. Nhưng trải qua khó khăn thử thách, qua bão táp mưa sa, mọi sự mới phân rõ trắng đen, mới tách bạch thực hư, mới hiện rõ đá vàng. Người nghe Lời Chúa mà không thực hành giống như người xây nhà trên cát. Chỉ có bề mặt mà không có bề sâu. Chỉ có vẻ đẹp bên ngoài mà không có vẻ đẹp bên trong. Chỉ có phần trên mà không có nền tảng. Khi gặp mưa sa bão táp, sẽ đổ nát tan tành và sóng nước cuốn đi mất tăm mất tích.
Người nghe Lời Chúa và đem ra thực hành giống như người xây nhà trên đá, có nền móng vững chắc, như cây cổ thụ đâm rễ sâu trong lòng đất, dù mưa sa bão tố đến, dù những khó khăn thử thách dập vùi, vẫn đứng vững kiên cường.
Tiên tri Isaia cho biết những người xây nhà trên đá là những người đặt niềm tin tưởng nơi Chúa. Còn những người xây nhà trên cát là những người tin vào thế lực phàm trần. Thế lực trần gian tưởng vững chắc nhưng sẽ bị Thiên Chúa lật nhào, thành trì trần gian tưởng kiên cố nhưng sẽ bị Thiên Chúa triệt hạ. Còn những ai tin vào Thiên Chúa, sống “công chính và trọn niềm trung nghĩa” với Chúa, sẽ được Chúa xây dựng cho “thành trong lũy ngoài che chở” cho họ. Họ sẽ kiên vững vì “Đức Chúa là Núi Đá bền vững” che chở họ đến muốn đời. Đó cũng là giáo huấn của Thánh vịnh đáp ca: “Ẩn thân bên cạnh Chúa Trời, thì hơn tin cậy ở người trần gian”.
Mùa Vọng chính là mùa cho tôi thực hành Lời Chúa dậy. Âm thầm nhưng kiên cường. Như người thợ xây hì hục đào móng, âm thầm xây gạch. Như người nông phu thức khuya dậy sớm, âm thầm gieo hạt, âm thầm cày xới. Để tôi thực sự được gặp Chúa. Được biết đến niềm vui hoàn thành ngôi nhà đẹp đẽ vững chắc. Được như người nông phu tưng bừng rộn rã trong mùa gặt trĩu nặng kết quả.
Từ hàng ngàn năm trước, Isaia đã loan báo về Đấng Cứu Thế sẽ mở mắt người mù, mở tai người điếc, mở miệng người câm, đem niềm vui cho người nghèo khổ, nâng cao những người hèn mọn trong xã hội. Người tháo cởi mọi thứ xiềng xích trói buộc con người, ràng buộc miệng lưỡi, chèn ép tâm hồn, bưng bít đôi mắt, che kín đôi tai.
Lời tiên báo ấy ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Hôm nay Người chữa lành một lượt hai người mù. Hai người là rất nhiều người, là tất cả những người mù. Chúa Giêsu đang đi trên đường. Chúa Giêsu là con đường, là ánh sáng soi đường. Hai người mù không biết đường, không thấy đường cuống cuồng chạy theo để xin Chúa Giêsu cho thấy đường. Chúa Giêsu hỏi họ: “Các anh có tin không”. Tin là điều kiện. Tin cũng là thắp lên ánh sáng. Đức tin chính là ánh sáng soi đường. Có đức tin sẽ nhìn thấy đường đi. Vì đường đi có nhiều bóng tối thử thách, có nhiều cạm bẫy nguy hiểm, phải có ánh sáng đức tin mới nhìn thấy đường đi. Phải có ánh sáng đức tin mới nhìn thấy cạm bẫy và vượt qua được nguy hiểm. Đường đi về Thiên đàng, đến gặp gỡ Thiên Chúa là con đường dài, cần có sự kiên trì trung tín của niềm tin vững mạnh mới có thể đi đến nơi.
Khi mở mắt hai người mù, Chúa Giêsu cho họ nhìn thấy quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Mở cho họ con đường mới tràn đầy tin yêu và hi vọng. Con đường thoát khỏi bóng tối. Con đường đi tới Thiên Chúa. Con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực. Nhìn thấy công trình của Chúa, ta sẽ không còn xấu hổ thẹn thùng nhưng sẽ vui mừng phấn khởi tôn vinh danh Chúa như lời Isaia tiên báo: “ Từ nay Giacop sẽ không còn phải xấu hổ, từ nay nó sẽ không còn bẽ mặt thẹn thùng, vì khi Giacop nhìn thấy nơi nó những công trình tay Ta đã làm nó sẽ tuyên xưng danh Ta là thánh, sẽ tuyên xưng Đấng Thánh của Giacop là thánh và sẽ kính úy Thiên Chúa của Itraen”.
Lạy Chúa, mắt con mù tối và tâm hồn con bị trói buộc trong nỗi nghi nan, trong sự lầm lạc. Con không biết đường biết lối. Xin Chúa hãy đến mở mắt tâm hồn con. Cho con nhìn thấy quyền năng Chúa. Cho con nhìn thấy ánh sáng sự thật. Cho con thoát cảnh lầm lạc. Để con sẽ vững tin. Để con ca tụng quyền năng Chúa. Và để con tiến bước trên con đường ánh sáng.
Thời lưu đày dân chúng sống trong đau khổ: đói khát, nhục nhã. Chân lý thuộc về kẻ mạnh. Thấp cổ bé miệng chẳng ai lắng nghe. Nhưng Isaia loan báo Đấng Cứu Thế sẽ đến giải phóng dân Người. Sẽ lắng nghe tiếng kêu than. Sẽ ban đủ cơm bánh. Sẽ hướng dẫn sự thật. Thiên Chúa yêu thương đầy tế nhị. Người còn cho mưa để hạt giống mọc lên. Cho súc vật béo tốt. Băng bó vết thương. Chữa lành bệnh tật. Cho cả mặt trời mặt trăng sáng hơn gấp bảy lần. Đúng là yêu nhau yêu cả đường đi.
Tình yêu tế nhị đó được Matthêu gọi đúng tên là Chạnh Lòng Thương. Vâng đến thời Chúa Giêsu thì ta được thấy rõ Thiên Chúa có trái tim nhân loại. Trái tim đó biết thổn thức bồi hồi xúc động. Trái tim đó biết quặn lên đau đớn. Vì trái tim đó đặt mình vào hoàn cảnh của tha nhân. Đau nỗi đau của họ. Buồn nỗi buồn của họ. Khổ nỗi khổ của họ.
Vì để lòng mình gần với lòng mọi người. Nên Chúa đã ra tay cứu giúp. Một cứu giúp có kế hoạch lâu dài. Chúa tuyển chọn và sai các tông đồ ra đi tiếp tục công việc Chạnh Lòng Thương của Chúa.
Nhân loại ngày nay không khác gì thời Isaia. Con người bị lưu đầy, xa cách Thiên Chúa bởi biết bao lý thuyết độc hại. Con người bị áp bức rên xiết chẳng ai nghe. Con người bị nô lệ cho thú tính. Bị giam cầm trong nhu cầu, trong dục vọng, trong hưởng thụ. Con người đang bị thương tích. Xã hội bị thương tích vì những ngăn cách giầu nghèo. Gia đình bị thương tích vì biết bao đổ vỡ. Con người bị thương tích vì những lỗi lầm tự gây ra cho mình. Con người rất cần Lòng Thương Xót của Chúa.
Chúa sai chúng ta vào trong thế giới hôm nay để rao truyền Lòng Thương Xót của Chúa. Lòng Thương Xót sẽ đưa con người trở lại với Thiên Chúa. Lòng Thương Xót sẽ giải phóng con người. Lòng Thương Xót sẽ chữa lành những vết thương. Lòng Thương Xót sẽ phục hồi nhân phẩm. Lòng Thương Xót sẽ đem đến cho các vấn để của thế giới này một giải pháp tối ưu và rốt ráo.
Sống mùa Vọng chính là rèn luyện một trái tim biết thương xót. Lạy Chúa, xin tạo cho con một trái tim biết Thương Xót.
Chúng ta đang mong chờ Chúa đến. Chúa đến mang theo ơn cứu độ. Tội lỗi giam hãm, trói buộc, khiến ta trở thành bại liệt không thể làm được điều mình muốn, què quặt không thể đi đàng lành, đui mù không nhìn thấy chân lý, điếc lác không nghe được Lời Chúa. Tội lỗi tàn phá khiến thiên nhiên thành sa mạc chẳng còn cây cỏ xanh tươi, đất đai trở thành khô cằn không còn trổ sinh hoa trái, ruộng vườn trở thành sỏi đá chẳng còn hoa mầu tươi tốt. Tội lỗi làm cho thế giới nhiễu nhương, khiến cho kẻ ác ức hiếp người lành, kẻ giầu bóc lột người nghèo, kẻ mạnh đàn áp kẻ yếu. Thế giới tội lỗi là thế giới què quặt, tàn lụi, tự hủy diệt. Chỉ có Chúa mới có thể đem ơn cứu độ. Vì chỉ có Chúa mới có ơn tha tội.
Bài Tin mừng và bài Sách Thánh cho ta thấy, Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ đến giải thoát ta khỏi tội lỗi khi tha tội cho ta, giải thoát ta khỏi tội lỗi trói buộc, cho ta khỏi bị tê liệt, có thể đứng thẳng lên, sống tự do, khỏe mạnh để có thể làm việc lành. Được Chúa hướng dẫn, mắt ta mở ra nhìn thấy chân lý, tai ta nghe được những tiếng gọi thanh cao, chân ta thẳng đường đi trên đường ngay nẻo chính, miệng ta vang lời ca tụng Thiên Chúa.
Được ơn cứu độ không chỉ con người phấn khởi mà cả thiên nhiên cũng reo mừng. Sa mạc khô cằn trở thành phì nhiêu mầu mỡ cho cỏ cây xanh tốt, hoa lá xinh tươi. “Và đất chúng ta trổ sinh hoa trái”.
Được ơn hoán cải, thú dữ sẽ trở nên hiền lành, người ác sẽ hoàn lương, mọi người đi trên đường hạnh phúc tiến về Nhà Chúa vì Chúa đã mở ra thánh lộ.
Được ơn cứu độ, ta sẽ không còn phải khóc lóc than van, nhưng sẽ reo vui hớn hở vì những ngày đau khổ đã qua.
Lạy Chúa, thế giới còn chìm trong đau khổ vì cái ác vẫn hoành hành. Bản thân con muốn làm điều lành nhưng con như bị tê liệt chỉ biết làm điều ác. Cuộc sống con thật khô tàn héo úa. Tâm hồn con là một sa mạc thiếu vắng sự sống. Xin Chúa mau đến giải thoát con khỏi tội lỗi, đem đến giòng nước trong lành tưới cho linh hồn con để linh hồn con trổ sinh hoa trái. Xin mau đến hoán cải để thế giới không còn cái ác, để mọi người sống với nhau trong tình huynh đệ chân thành.
Con chiên lạc. Lạc lõng. Lạc loài. Lạc lối. Hay lầm lạc? Ta cảm thấy lạc lõng khi phải sống nơi xứ lạ quê người, không người thân thiết. Ta như lạc loài không ở đúng nơi, đúng thời, đúng người ta phải ở với. Ta lạc lối vì không biết đường. Vì bị mê hoặc khiến quên lối về. Vì bị sa vào cạm bẫy không thể thoát ra. Ta lầm lạc khi tâm hồn mê muội không có ánh sáng chân lý.
Con chiên lạc ở trạng thái nào cũng cần được tìm về. Về đúng mái nhà của mình. Về đúng con đường của mình. Được ấp ủ chăm sóc trong vòng tay của người cha người mẹ thân thương. Nhưng con chiên không biết đường về, không đủ sức đứng dậy đi về. Nó yếu mệt. Chung quanh chỉ là bóng tối. Tuyệt vọng chờ chết.
Chúa Giêsu là người chăn chiên tốt lành đi tìm con chiên. Người là Thiên Chúa hùng dũng quang lâm. Người thắng vượt mọi gian nan khốn khó. San phẳng đồi cao. Lấp đầy thung lũng. Phá tan bóng tối. Chiến thắng lớn nhất là chiến thắng cơn thịnh nộ. Sức mạnh lớn nhất là lòng thương xót, tha thứ.
Lòng thương xót biểu lộ trong sự ngọt ngào, niềm an ủi. Hãy chiêm ngắm Người tha thiết đi tìm con chiên bé bỏng. Tìm được rồi Người bồng bế trên tay. Xem xét vết thương. Vỗ về an ủi. Và cảm động xiết bao Người vác con chiên gầy gò bé nhỏ đói khát và bẩn thỉu trên vai. Con chiên đang lạnh lẽo được hơi ấm của Người ấp ủ. Con chiên đang run sợ được sức mạnh của Người đỡ nâng. Con chiên đang yếu mệt được bờ vai của Người làm nơi nương tựa.
Tin mừng lớn lao của thời đại hôm nay là Tin mừng về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Nhân loại hôm nay buồn phiền cần được an ủi. Lầm lạc cần được đưa về. Thương tích cần được băng bó. Yếu đuối cần được nâng đỡ. Tội lỗi cần được tha thứ. Tất cả tìm thấy giải đáp nơi Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Lạy Chúa chúng con bất lực không thể đứng lên để trở về với Chúa. Xin Chúa hãy đến tìm chúng con. Băng bó vết thương. An ủi buồn phiền. Và đưa chúng con về. Chúng con trông đợi Chúa. Lạy Chúa, xin hãy đến cứu chúng con.
Kiếp sống con người thật vất vả. Tác giả Thánh vịnh nói cuộc đời con người “phần lớn là gian lao khốn khổ” khi sống trong “thung lũng nước mắt”. Không phải chỉ có đau khổ, nhưng còn những gánh nặng: gánh nặng sự sống, gánh nặng bổn phận, nhất là gánh nặng tội lỗi. Isaia cho biết tự sức con người không gánh nổi đời mình. Vì kiếp người quá vất vả gian lao. Đến nỗi “thanh niên thì mệt mỏi, nhọc nhằn, trai tráng cũng ngả nghiêng, lảo đảo”.
Phải đến với Chúa vì “những người cậy trông Đức Chúa thì được thêm sức mạnh. Như thể chim bằng, họ tung cánh. Họ chạy hoài mà không mỏi mệt”.
Hôm nay Chúa Giêsu khẳng định: “Hãy đến với Ta, hỡi tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho”.
Chúa Giêsu mời gọi ta đến với Chúa vì chính Chúa đã đến với ta. Như Chúa đã chấp nhận gánh nặng nhân loại, Chúa mời gọi ta hãy chấp nhận gánh nặng của bản thân, của tội lỗi, của trách nhiệm của ta.
Chúa Giêsu mời gọi ta đến với Chúa để Chúa bổ sức cho ta. Sức riêng ta không vác nổi gánh nặng. Nhưng có sức của Chúa ta sẽ mạnh mẽ như Isaia đã loan báo: “Những người cậy trông Đức Chúa thì được thêm sức mạnh”.
Chúa Giêsu mời gọi ta đến với Chúa để thăng hoa thánh giá đời ta khi không coi đó là ách giữa đàng, nhưng coi đó là ách của Chúa. Ách của Chúa là tình yêu. Tình yêu có sức biến đổi lạ lùng. Ách nặng nề sẽ trở nên ngọt ngào nhẹ nhàng khi ta gánh vác với tình yêu mến.
Mùa Vọng đã qua đi được một nửa, cuộc chờ đợi còn kéo dài, cuộc thanh luyện càng quyết liệt, nhưng ta hãy an tâm tiếp tục lên đường, vì Chúa hằng theo dõi bước đường của ta, Chúa hằng ban ơn trợ giúp ta, và nhất là Chúa Giêsu cùng đi với ta, cùng chia sẻ gánh nặng với ta. Thật là một chặng đường gian khổ nhưng đầy ngọt ngào vì có Chúa và được cùng Chúa chia sẻ.
Gioan Tẩy giả là mẫu gương đáng mơ ước của Mùa Vọng.
Ông là tiên tri cao cả nhất vì các vị tiên tri khác chỉ loan báo theo linh hứng của Chúa. Trong khi Gioan là tiên tri duy nhất được thấy Đấng Cứu Thế xuất hiện. Ông cao cả nhất trong số nam nhân vì được Chúa tha tội nguyên tổ ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Ông cao cả nhất vì được chính Đấng Cứu Thế đến tận nhà viếng thăm.
Ông là người phấn đấu vào Nước Trời là nước phải chiếm đoạt bằng sức mạnh. Gioan tràn đầy sức mạnh không chỉ vì lời rao giảng của ngài mạnh mẽ, cương trực, nhưng còn vì đời sống của ngài thật mạnh mẽ. Mạnh mẽ khi đối đầu với cái ác. Dám gọi những bậc vị vọng trong dân như phái Phariseu là “nòi rắn độc”. Dám lên án đời sống vô luân của vua Hêrôđê. Mạnh mẽ đáng khâm phục trong đời sống từ bỏ. Từ bỏ nơi phồn hoa đô hội để sống trong sa mạc. Từ bỏ những hoạt động bên ngoài để chìm sâu trong cầu nguyện. Từ bỏ tìm ý riêng để tìm thánh ý Chúa. Từ bỏ những gì phụ thuộc để tìm điều cốt yếu. Biết rằng sự sống quí hơn của ăn nên ngài chỉ ăn uống đơn sơ cho đủ sống trong sa mạc. Biết rằng thân thể quí hơn áo mặc nên ngài chỉ cần tấm da thú che thân. Nhất là dám từ bỏ mạng sống vì làm chứng cho chân lý. Biết quên mình vì Chúa. Biết bảo vệ giáo lý chân chính của Chúa. Phục vụ Chúa đến quên thân mình, đến máu chảy đầu rơi vì Chúa.
Gioan Tẩy giả là chiếc bừa mà Isaia loan báo. Được Chúa ban sức mạnh lưỡi bừa đã bừa nát những giả trá, hư ảo của trần gian, đã làm cho những giá trị phù phiếm tan tành bay tơi tả như trấu trong cơn gió, để xuất hiện những giá trị chân thực vĩnh cửu.
Chúng ta chỉ là loài sâu bọ hèn kém, là người dân bé nhỏ tầm thường, cần được ơn Chúa ban để trở nên mạnh mẽ, để nên như chiếc bừa của Chúa, mới mẻ, sắc nhọn và mạnh mẽ. Và chỗ cần cầy bừa nhất là chính linh hồn ta. Cần có chiếc bừa nhọn sắc của Chúa. Cần có sức mạnh của Chúa. Để ta cầy xới linh hồn. Phá bỏ những giả trá, phù vân trong tâm hồn. Như thế ta mới mong gặp được Chúa và chiếm đoạt được Nước Trời trong mùa Vọng này.
Để đón nhận Đấng Cứu Thế, phải sống hài hòa. Hài hòa với mọi người. Và quan trọng nhất là hài hòa với Thiên Chúa. Nói về hài hòa, chẳng cảnh tượng nào đáng mơ ước hơn cảnh Ađam và Eva sống trong vườn Địa Đàng. Hai ông bà sống chan hòa với trời đất, cỏ cây và súc vật. Ngày ngày Thiên Chúa xuống đi dạo trong vườn đàm đạo với hai ông bà. Nhưng đáng tiếc hai ông bà đã phá vỡ sự hài hòa đó khi trái lệnh Thiên Chúa.
Chương trình của Thiên Chúa luôn là hạnh phúc cho con người. Nhưng con người chỉ muốn làm theo ý riêng. Phá vỡ kế hoạch của Chúa. “Con người giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi lũ trẻ khác và nói: “Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không đấm ngực khóc than”. Mang tâm thức trẻ con. Không trưởng thành. Thiếu chín chắn. Chỉ biết làm theo những ý muốn ngây ngô khờ dại của mình. Không biết gì đến tình yêu thương của cha mẹ, những chương trình đem đến cho chúng tương lai và hạnh phúc. Cư xử con người giống thái độ chợ búa. Chỉ hời hợt nhất thời. Những lý luận thực dụng không có nền tảng sâu xa. Tìm đạt đến ý riêng. Nên thế giới luôn mâu thuẫn bất hòa. Nguy hiểm nhất là phá vỡ sự hài hòa với kế hoạch của Thiên Chúa. Phê phán những kế hoạch của Thiên Chúa khi con người tự cho mình là khôn ngoan. Nhưng khôn ngoan chỉ có trong Thiên Chúa mà thôi.
Đó chính là điều Isaia khuyên nhủ ta. Con người muốn hạnh phúc, muốn phát triển, chẳng có đường nào khác hơn là sống hài hòa với chương trình của Thiên Chúa, lắng nghe và thực hành Lời Chúa: “Giả như ngươi lưu ý đến mệnh lệnh của Ta, thì sự bình an của ngươi sẽ chan chứa như dòng sông, sự công chính của ngươi sẽ dạt dào như sóng biển. Dòng dõi ngươi sẽ đông như cát, con cái ngươi sinh ra sẽ hằng hà sa số; tên tuổi ngươi sẽ chẳng bao giờ bị hủy diệt, chẳng bao giờ bị xóa bỏ khỏi mắt Ta”.
Mùa Vọng ta mong chờ Thiên Chúa. Chúa đến để cứu độ ta. Thiên Chúa có chương trình hạnh phúc cho ta. Hãy đi vào chương trình của Thiên Chúa. Hãy để cho chương trình của Thiên Chúa được thực hiện nơi ta. Đó chính là thái độ khôn ngoan nhất. Đó chính là sống mùa Vọng ý nghĩa nhất.
Mỗi khi muốn làm đường, người ta cho xe ủi đi trước để san lấp, tạo mặt bằng tốt. Xe ủi thật mạnh mẽ. Nó càn lướt qua các chướng ngại. Nó bạt núi san đồi. Đi đến đâu xe ủi làm cho mặt đất bằng phẳng đến đấy. Không một chướng ngại nào có thể ngăn chặn xe ủi. Ê-li-a và Gio-an Tẩy giả là những chiếc xe ủi mở đường cho Chúa Cứu Thế đến.
Như chiếc xe ủi các ngài có một đời sống mãnh liệt. Đó là những cuộc đời rực lửa. Sách Huấn ca miêu tả Ê-li-a là ngọn lửa bừng bừng nên đã đem lửa thiêu đốt mặt đất. Gio-an Tẩy giả được Chúa khen là ngọn đèn rực nóng. Ê-li-a có thể đi một mạch 40 đêm ngày đến núi của Thiên Chúa. Gio-an Tẩy giả từ bỏ thị thành sống trong hoang địa, ăn châu chấu và mật ong rừng, y phục chỉ là tấm da thú khoác trên mình. Thật là những cuộc đời rực lửa lý tưởng.
Như chiếc xe ủi, các ngài đưa ra những sứ điệp mãnh liệt. Trên núi Các-men, Ê-li-a bắt họ phải lựa chọn dứt khoát hoặc chọn Chúa hoặc Ba-an. Ngài thách thức 500 sãi của thần Ba-an đem lửa bởi trời xuống thiêu đốt lễ vật. Ngài đã thắng và bắt dân chúng phải trở về với Chúa. Gio-an Tẩy giả cũng đưa ra những sứ điệp đanh thép: Cái rìu đã đặt sẵn dưới gốc cây. Cây nào không sinh hoa trái sẽ bị chặt bỏ ngay. Chúa dùng nia mà sàng xảy sân lúa. Trấu sẽ bị thiêu đốt trong lò lửa.
Như chiếc xe ủi, các ngài chiến đấu mãnh liệt. Lên án những bất công, dối trá. Lên án cả giới thượng lưu, quan quyền. Lên án cả nhà vua và hoàng hậu. Ê-li-a chống lại vua A-kháp và hoàng hậu Giê-sa-ben. Gio-an Tẩy giả lên án Hê-rô-đê và cuộc loạn luân với Hê-rô-đi-a-đê.
Như chiếc xe ủi, các ngài có cái chết mãnh liệt. Ê-li-a chết một cái chết hùng tráng khi được đưa về trời bằng chiếc xe lửa do ngựa lửa kéo đi trong cơn gió lốc. Gio-an Tẩy giả chết trong một cái chết bạo liệt khi bị Hê-rô-đê chém đầu trong ngục.
Nếu tôi muốn dọn đường đón Chúa đến, tôi cũng phải sống cuộc sống mãnh liệt trong các chọn lựa tốt. Phải mãnh liệt trong dứt khoát với cái xấu. Phải chiến đấu mãnh liệt với cái xấu. Phải quyết liệt đi theo đường tốt. Có thế tôi mới có hi vọng gặp được Chúa.
Rời khỏi Ai cập, dân Do thái dưới sự lãnh đạo của Mô sê đã tiêu diệt Ba-san, Ốc, A-mo-ri. Thấy vậy dân Mô-áp và Ma-đi-an sợ hãi, thuê thầy pháp Bi-lơ-am đến nguyền rủa Ít-ra-en. Nhưng được Chúa mặc khải, Bi-lơ-am, thay vì nguyền rủa, lại chúc phúc cho Ít-ra-en. Thay vì hạ nhục lại tôn vinh Ít-ra-en và loan báo sẽ có ngôi sao từ nhà Gia cóp xuất hiện khiến Ít-ra-en trổi vượt các dân khác: “Vua của nó cao cả hơn A-gác, và vương quốc nó được tôn vinh”. Vua Mô-áp tức giận, nhưng vẫn không tin Lời Chúa. Vì Lời Chúa đi ngược với quyền lợi của ông.
Thời Chúa Giêsu cũng vậy. Dân chúng tin tưởng lời rao giảng của Gio-an Tẩy giả. Nhưng cấp lãnh đạo không chấp nhận. Biết rõ sứ mạng Gio-an là từ trời, họ vẫn không muốn công nhận. Nhưng họ cũng không dám chống đối công khai. Vì họ sợ dân chúng là những người tin tưởng Gio-an. Hơn nữa Gio-an làm chứng về Chúa Giê-su. Nhận Gio-an tức là nhận Chúa Giê-su. Nên giai cấp Biệt phái càng không dám công khai chấp nhận.
So sánh Bi-lơ-am với các Biệt phái ta thấy: Bi-lơ-am có thiện chí còn Biệt phái thì không. Bi-lơ-am nói theo sự thật. Biệt phái trốn tránh sự thật. Bi-lơ-am phục thiện. Biệt phái cố chấp trong sai lầm. Bi-lơ-am tôn trọng sự thật dám bỏ quyền lợi. Biệt phái bảo vệ quyền lợi nên bỏ sự thật. Bi-lơ-am để cho Thần Khí hướng dẫn. Biệt phái theo xác thịt nên chống lại Thần Khí.
Chúa đang đến với ta. Nhưng ta có nhận ra và đón tiếp được Người hay không là tùy thái độ của ta. Nếu ta theo xác thịt, không dám từ bỏ cuộc sống theo dục vọng, xác thịt, ta sẽ không gặp được Chúa. Để có tâm hồn sẵn sàng, ta phải từ bỏ lối sống theo xác thịt, hoàn toàn theo sự hướng dẫn của Thần Khí.
Lạy Chúa, Ngôi Sao Từ Trời, xin đến cứu con, cho con được sức mạnh dứt lìa thói ươn lười, ủy mị, cắt đứt những hưởng thụ, những ham mê, để mạnh mẽ sống một cuộc sống mới trong Chúa và với Chúa. Lạy Ngôi Sao Từ Trời, xin hãy đến soi sáng tâm trí để con nhận biết sự thật, soi sáng đường con đi để con không vấp ngã trên đường đến với Chúa.
Con người có khả năng thay đổi. Đó vừa là lợi điểm vừa là nhược điểm. Đọc bài Tin mừng hôm nay ta thoáng chút bùi ngùi tiếc thương cho người con vốn được tiếng là ngoan ngoãn và đã trả lời rất mực hiếu thuận với cha. Ngờ đâu lòng dạ thay đổi quá mau chóng và bất ngờ. Từ “có” sang “không”, từ ngoan ngoãn đến hư hỏng, từ hiếu thuận đến bất hiếu.
Nhưng an ủi biết bao và cũng bất ngờ biết bao, người con bị tiếng là hư hỏng, bất hiếu đã nói không với cha, nhưng rồi hối hận lại ra đi làm vườn nho cho cha. Thật kỳ diệu khả năng có thể thay đổi của con người. Thật ngỡ ngàng khi Chúa cho biết đó chính là những người bị coi là tội lỗi tầy đình, những người thu thuế và gái điếm. Còn đứa con được tiếng ngoan ngoãn, những người tự xưng mình là đạo đức gương mẫu, bất ngờ trở thành bị kết án, đó chính là những nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó.
Theo vị tiên tri, sở dĩ những người nhỏ bé nghèo hèn mau chóng hoán cải vì họ tự biết mình tội lỗi, không có gì để tự hào, để cậy dựa, nên dễ dàng lắng nghe Lời Chúa. Còn những người tự hào mình đạo đức lại bị loại trừ vì họ không sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa, bị Chúa chúc dữ: “Khốn cho thành phản loạn và ô uế, khốn cho thành tàn bạo, không nghe tiếng kêu mời, chẳng tiếp thu lời sửa dạy”. Họ kiêu căng tự mãn vì những thành công của mình. Tự tin vào mình, đến nỗi “không cậy trông vào Đức Chúa, chẳng đến gần Thiên Chúa của mình”. Vì thế họ “nghênh ngang trên núi thánh”của Chúa, cứng cỏi không hoán cải, đánh mất cơ hội lãnh nhận ơn cứu độ. Trái lại những người tội lỗi khiêm nhường sẽ được ơn cứu độ: “Ta sẽ đuổi cho khuất mắt ngươi những kẻ kiêu căng đắc thắng… Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ…; chúng sẽ tìm nương ẩn nơi danh Đức Chúa… Chúng sẽ được chăn dắt và nghỉ ngơi”.
Lạy Chúa, xin đừng để con kiêu căng tự mãn đứng lì trong tội lỗi, nhưng xin cho con nhận biết mình tội lỗi yếu hèn, cần ăn năn sám hối, như thế con sẽ nhận được ơn Chúa thứ tha.
Gio-an đưa ra một câu hỏi nguyên tắc. Chúa Giê-su đưa ra một câu trả lời thực hành. Gio-an đưa ra một câu hỏi trực tiếp. Chúa Giê-su đưa ra một câu trả lời gián tiếp. Gio-an đưa ra một câu hỏi bắt buộc. Chúa Giêsu đưa ra một câu trả lời tự do.
“Thầy có phải là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác? Chính giờ ấy Chúa Giêsu chữa nhiều người khỏi bệnh hoạn tật nguyền, khỏi quỷ ám, và ban ơn cho nhiều người mù được thấy”. Đừng lý thuyết hãy thực hành. Đừng vội phán xét lý sự, hãy bình tĩnh nhìn xem rồi sẽ biết phán đoán. Đừng nói nhiều, hãy hành động. Đừng nghe qua trung gian, hãy tiếp xúc trực tiếp, tận mắt kiểm chứng.
“Hãy về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe tin mừng”. Cứ xem quả thì biết cây. Xem công việc thì biết người làm. Xem dấu chỉ thì có thể nhận biết thực tại. Ai có thể cho người mù được thấy nếu không phải là Đấng dựng nên ánh sáng. Ai có thể cho người chết sống lại nếu không phải là Đấng làm chủ sự sống. Ai có thể thứ tha tội lỗi nếu không phải là Thiên Chúa?
Dấu chỉ hiển nhiên nhưng lại tự do. Hiển nhiên vì ai cũng có thể thấy. Tự do vì không ép buộc. Thấy rồi có thể tin hay không. Tùy tấm lòng. Tự do nhưng lại đầy tính thuyết phục. Và phải tâm phục khẩu phục để cho niềm tin phát xuất tự đáy lòng.
I-sa-i-a cho biết sở dĩ Chúa có thể cho “người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy” vì Chúa là chủ vũ trụ, Người ban sự sống, điều khiển muôn loài và là Chúa duy nhất có thể cứu độ: “Ngoài Ta ra không không có thần nào nữa, chẳng có thần công minh cứu độ ngoại trừ Ta. Nào muôn dân khắp cõi địa cầu, hãy hướng về Ta, thì các ngươi sẽ được cứu độ”.
Lạy Chúa, Chúa là chủ vũ trụ và là chủ đời con. Đời con sẽ không có lối thoát nếu không đi về với Chúa. Con mù tối, què quặt, bất toại, xin Chúa hãy khai sáng để con nhìn ra sự thật, hãy phục hồi để con trở lại đường ngay, hãy ban sức mạnh để con hăng hái tiến bước. Xin cho con noi gương Chúa, làm chứng cho Chúa bằng những việc làm cụ thể. Lạy Chúa, xin mau đến cứu độ con.
Gio-an loan truyền ý định của Thiên Chúa. Gio-an là tiên tri trung thành. Ông kiên trung loan báo ý định của Thiên Chúa. Dù gặp biết bao khó khăn thử thách, ông không như loài lau sậy vật vờ ngả nghiêng trước gió, nhưng luôn vươn lên thẳng tắp như đại thụ giữa phong ba. Ông trung thực loan báo ý định của Thiên Chúa cách nguyên tuyền, không tô son trát phấn, chẳng gấm vóc lụa là. Ý định của Thiên Chúa vì thế sáng tỏ như ban ngày. Ông cao trọng nhất vì được vinh dự đi sát cạnh Chúa Cứu Thế. Cả một đám rước dâu Cựu Ước dài dằng dặc trong mấy nghìn năm với biết bao thế hệ, Gio-an được vinh dự là phù rể đi ngay bên cạnh Tân Lang. Nhưng trước sau ông vẫn thuộc về Cựu Ước, chỉ loan báo ý định của Thiên Chúa.
Chúa Giê-su thực hiện ý định của Thiên Chúa. Đó chính là ý định yêu thương. Yêu thương bằng xương bằng thịt là chính Ngôi Hai Thiên Chúa, Con Một yêu dấu của Thiên Chúa, chính Thiên Chúa nhập thể làm người để ở với ta, để chia sẻ thân phận của ta và nhất là để cứu độ ta.
Thiên Chúa kiên trì trong ý định yêu thương của Người. Dù con người phản bội. Dù đã có lúc Thiên Chúa nổi giận. Nhưng rồi tình yêu thương lướt thắng. Thiên Chúa không thể mâu thuẫn với chính mình nên lại tiếp tục ý định yêu thương: “Trong một thời gian ngắn Ta đã ruồng bỏ ngươi, nhưng vì lòng thương xót vô bờ, Ta sẽ đón ngươi về tái hợp. Lúc lửa giận bừng bừng, Ta đã một thời ngoảnh mặt chẳng nhìn người, nhưng vì tình nghiã ngàn đời, Ta lại chạnh lòng thương xót. .. Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có lay, tình nghĩa của Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi”. Thật cảm động biết bao.
Chúa Giê-su, để thực hiện ý định yêu thương của Thiên Chúa, đã hi sinh thân mình, không chỉ xuống thế làm người mà còn sẵn sàng chịu chết để ý định yêu thương của Thiên Chúa được thực hiện.
Phần tôi, tôi có hiểu được ý định yêu thương của Thiên Chúa không? Nếu hiểu được tôi sẽ phải dọn đường đón nhận. Nếu hiểu được tôi phải kiên trì loan báo như Gio-an, dù gặp thời thuận tiện hay không. Nếu hiểu được ý định cao quí và hệ trọng này, tôi phải noi gương Chúa Giê-su, hiến mình để ý định cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện.
Lạy Chúa Giêsu xin mở lòng con, để con sẵn sàng đón nhận Chúa là ý định yêu thương cứu độ của Đức Chúa Cha.
Gio-an dù là một chứng nhân trổi vượt. Một người cao cả hơn mọi người do phụ nữ sinh ra. Một ngọn đèn chiếu sáng cõi đời . “Và các ông đã muốn vui hưởng ánh sáng của ông”. Và Gio-an đến để làm chứng cho Chúa. “Ông không phải ánh sáng. Nhưng ông đến để làm chứng cho ánh sáng”. Nhưng Chúa vẫn không cần đến lời chứng của ông. Chúa có lời chứng của Thiên Chúa cao siêu tuyệt đối. Là Thiên Chúa Cha. Cha của muôn loài. Và Chúa Giê-su là Con. Vì đã làm những việc Chúa Cha giao phó: “Tôi có một lời chứng lớn hơn lời chứng của ông Gio-an: đó là những việc Chúa Cha đã giao cho tôi để tôi hoàn thành; chính những việc tôi làm đó làm chứng cho tôi rằng Chúa Cha đã sai tôi”.
Những việc Chúa đã làm thật kỳ diệu. Kẻ mù được thấy. Kẻ què được đi. Người câm nói được. Người chết sống lại. Chỉ Thiên Chúa mới có thể làm được như thế.
Những việc Chúa làm minh chứng Chúa là người Con chí hiếu. Không nói gì mà đã không nghe từ Cha. Không làm gì ngoài thi hành thánh ý Chúa Cha. “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy”(Ga 4,34). “Vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết”(Pl 2, 8). Cuộc chiến đấu trong vườn Cây Dầu là cuộc chiến thắng của người Con hiếu thảo: “Lạy Cha nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý Con. Xin vâng ý Cha mà thôi”(Lc 22,42). Chỉ người Con đích thực mới có thể tuyệt đối vâng theo thánh ý như thế.
Từ đó tất cả những ai vâng theo thánh ý, không phân biệt dân ngoại hay có đạo, đều trở thành con cái Chúa. Được Chúa cho vào nhà Chúa dâng lễ vật. Được Chúa yêu thương nhận lời cầu khẩn. “Người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, cùng trở nên tôi tớ của Người, hết những ai giữ ngày sa-bát mà không vi phạm, cùng những ai tuân thủ giao ước của Ta, đều được Ta dẫn lên núi thánh và cho hoan hỷ nơi nhà cầu ngueyejn của Ta. Trên bàn thờ của Ta, Ta sẽ ưng nhận những lễ toàn thiêu và hy lễ chúng dâng, vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân”.
Để sống Mùa Vọng, không gì bằng ta tuân theo ý Chúa. Làm những công việc của Chúa. Tuân theo thánh ý Chúa. Đó là cách giới thiệu Chúa cho thế giới hôm nay. Đó là làm cho Chúa hiện diện trong thế giới. Và ta trở thành người con chí ái của Chúa.
Bản gia phả dài dằng dặc khô khan. Nhưng lại mặc khải những điều trọng đại.
Thiên Chúa làm chủ lịch sử. Gia-cóp chúc phúc cho Giu-đa. Tiên báo Chúa Cứu Thế sẽ sinh bởi dòng tộc Giu-đa (Bài đọc 1). Lời tiên báo đó được ứng nghiệm nơi Chúa Giê-su. Nhưng để ứng nghiệm, lời tiên báo đó vượt qua biết bao thăng trầm. Tội lỗi của Rưu-ven, Si-mê-on và Lê-vi khiến phúc lành rơi xuống Giu-đa. Giu-đa nhờ toan tính loạn luân của Ta-ma mà có con cháu nối dõi. Đa-vít chiếm vợ của U-ri-gia nhưng lại có Sa-lô-mon kế nghiệp. Tội lỗi không thắng được thánh thiện. Phản bội không thắng được trung tín. Hận thù không thắng được tình yêu. Thiên Chúa thanh tẩy lịch sử tội lỗi. Con Chúa sinh ra đời làm nên một lịch sử mới. Một nhân loại mới.
Thiên Chúa là Lòng Thương Xót. Bản gia phả dài kéo dài lâu đời cho thấy tình yêu của Chúa. Tình yêu lớn lao trong một chương trình hoàn hảo. Ba lần 14 đời. Mỗi lần là 2 lần 7 triều đại. Số ba và số bảy cho thấy sự hoàn hảo của kế hoạch. Chương trình càng dài càng tiêu tốn tâm cơ trí lực. Càng chứng minh tình yêu lớn lao. Thiên Chúa yêu thương nên cho con người giống hình ảnh Người. Nhưng con người không giữ nổi hình ảnh Thiên Chúa. Thì Thiên Chúa quá yêu nên đành mặc lấy hình ảnh con người. Mặc lấy thân phận con người yếu đuối mỏng dòn. Gánh lấy tội lỗi con người. Tình yêu lớn lao biến thành Lòng Thương Xót. Biết bao lần con người tội lỗi muốn làm hỏng kế hoạch. Chúa lại kiên tâm sửa chữa. Khoan dung độ lượng biết bao. Chúa Giê-su là điểm đến của một quá trình. Một tình yêu kiên vững lâu dài của Thiên Chúa. Một lịch sử tràn đầy tội lỗi phản bội của con người. Chúa Giê-su gánh trên vai gánh nặng của cả nhân loại. Khiêm nhường biết bao. Yêu thương biết bao.
Tôi hãy tin tưởng. Dù tôi yếu đuối tội lỗi Chúa vẫn yêu thương. Dù tôi làm sai Chúa sẽ sửa chữa. Tôi có vấp ngã Chúa sẽ nâng dậy. Và để đền đáp tôi cũng phải đối xử với anh em như Chúa đối xử với tôi. Hãy bao dung độ lượng trước những yếu đuối. Hãy gánh lấy gánh nặng của anh em. Hãy uốn nắn dòng lịch sử bằng tình yêu, lòng trung tín và lòng thương xót.
Từ xưa người nghèo luôn bị bóc lột. Dân nghèo luôn bị nô lệ. Vì thế luôn mong chờ một triều đại công chính. Giê-rê-mi-a loan báo sẽ có vua công chính từ dòng dõi Đa-vit. Sẽ thi hành điều chính trực công minh. Sẽ là “sự công chính của chúng ta”.
Công bình chính trực. Công bình là của ai phải trả lại cho người ấy. Người ta bất công vì muốn chiếm đoạt của người khác. Vì thế sinh ra chiến tranh, oán hờn, bất ổn. Đặc biệt người ta chiếm đoạt quyền của Thiên Chúa. Cần phải “của Xê-da trả cho Xê-da; của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”(Mc 12,17). Chỉ khi Vua Công Chính đến ta mới được hưởng nền “thái bình thịnh trị”.
Thánh Giu-se thuộc về triều đại công chính. Nên Người sống công chính. Chỉ dám nhận những gì thuộc về mình. Không dám nhận Ma-ri-a vì Mẹ thuộc về Thiên Chúa. Không dám nhận Chúa Giê-su vì Chúa là Con Thiên Chúa. Không dám tố cáo Ma-ri-a vì quyền xét đoán thuộc về Thiên Chúa. Thánh nhân chỉ biết lặng lẽ rút lui. Để Thiên Chúa ra tay. Vì quyền thuộc về Thiên Chúa. Quả nhiên Thiên Chúa đã nói với thánh Cả: “Đừng sợ nhận Ma-ri-a”. Lại còn truyền cho ngài đặt tên cho con trẻ. Đặt tên là có quyền trên con trẻ. Con trẻ được trinh nữ sinh ra. Trinh nữ làm sao sinh con. Đó chỉ có thể là quyền năng của Thiên Chúa. Nhưng Giu-se được quyền. Vì Chúa là Em-ma-nu-en. Là Thiên Chúa ở với loài người. Chỉ khi được Thiên Chúa trao quyền, Giu-se mới dám trở về lãnh nhận. Đó là người công chính.
Người công chính. Thuộc về triều đại công chính. Xứng đáng đón nhận Vua Công Chính. Đó là tấm gương cho ta. Ta cũng phải sống công chính. Để được là thần dân của Vua Công Chính. Ta phải làm chứng cho Vua Công Chính. Nên phải sống công chính. Ta phải cùng người xây dựng triều đại công chính. Nên phải sống công chính.
Lạy Vua Công Chính, xin hãy đến. Xin hãy giúp con sống công chính. Để góp phần thay đổi thế giới này. Một thế giới còn quá nhiều bất công. Nơi người mạnh ức hiếp người yếu. Người giầu chèn ép người nghèo. Người có quyền chà đạp người dân lành. Xin cho con biết xây dựng triều đại công chính. Để Chúa ngự trị trên thế giới. Để muôn dân được hưởng nền thái bình thịnh trị.
Sam-son và Gio-an có nhiều điểm giống nhau. Trước hết các ngài đều là người của Thiên Chúa. Cha mẹ các ngài đều cao niên và hiếm hoi. Trước mặt người đời thì các ngài không còn khả năng sinh con. Nhưng Thiên Chúa đã ra tay. Quyền năng Thiên Chúa thật lớn lao. Có thể làm từ không ra có. Từ chết thành sống. Các ngài là ân huệ của Thiên Chúa. Tuy nhiên các ngài phải tuân thủ một số qui luật của Thiên Chúa. Đây chính là điều làm nên khác biệt giữa các ngài.
Sam-son và Gio-an có những khác biệt. Khi được thiên sứ báo tin thì bà Ma-nô-ác tin ngay. Còn ông Gia-ca-ri-a không tin. Nên bị câm cho đến ngày Gio-an chào đời. Nhưng khi lớn lên thì xảy ra điều ngược lại.
Sam-son thất bại. Vì không thực hành Lời Chúa. Sam-son được lệnh không được cạo đầu: “Dao cạo sẽ không được lướt trên đầu nó, vì con trẻ sẽ là một na-dia của Thiên Chúa. Chính nó sẽ bắt đầu cứu Ít-ra-en khỏi tay người Phi-li-tinh”. Sam-son yếu đuối rơi vào chước cám dỗ của Đa-li-la, để bị cạo đầu. Ông không giữ được lệnh Chúa truyền. Nên không cứu được Ít-ra-en. Chính ông bị rơi vào tay người Phi-li-tinh. Ông trở nên mù tối. Và làm tôi mọi cho họ.
Gio-an thành công. Vì hoàn toàn tuân giữ Lời Chúa. Ông vào sa mạc. Chuyên tâm cầu nguyện. Ăn châu chấu và mật ong. Mặc áo da thú. Đã thành công trong việc dọn đường cho Chúa. Giới thiệu Chúa cho mọi người. Ông hoàn thành nhiệm vụ “đi trước mặt Chúa, để đưa tâm hồn cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa”. Được Chúa khen ngợi là người cao cả nhất. Là ngọn đèn chiếu sáng.
Chúng ta sinh ra không phải do quyền năng người phàm. Nhưng do quyền năng Thiên Chúa. Khi sinh ra ta, Chúa trao cho ta một nhiệm vụ phải hoàn thành. Ta sẽ thất bại nếu không tuân giữ Lời Chúa. Ta sẽ thành đạt nếu tuân theo chỉ thị của Chúa.
Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng nên con. Sự sống là một hồng ân cao cả. Chỉ có Chúa mới ban tặng được. Và khi cho con có mặt ở đời, Chúa đã dành sẵn cho con một định mệnh cao quí. Xin cho con biết chu toàn mệnh lệnh của Chúa. Để con thành đạt trong Chúa.
Trong các ơn không ơn nào trọng bằng ơn cứu độ. Trong các lời hứa không lời nào trọng bằng lời hứa ban Đấng Cứu Độ. Trong các dấu lạ không có dấu lạ nào bằng lớn lao bằng Thiên Chúa sinh xuống làm người để cứu độ nhân loại. Vì thế Chúa không hứa cho A-khát điều gì khác ngoài lời hứa ban Đấng Cứu Độ sinh ra bởi người trinh nữ. Nghĩa là do quyền năng của Thiên Chúa. Để trở thành Em-ma-nu-en: Thiên Chúa ở giữa loài người. Thế giới nhân loại có quá nhiều đau khổ. Quá nhiều lo âu. Quá nhiều đổ vỡ. Quá nhiều vấn đề. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể giải quyết được hết các vấn đề của con người. Mới có thể tạo nên con người mới. Khởi đầu một lịch sử mới. Xây dựng một thế giới mới. Một thế giới tràn đầy ân sủng.
Lời hứa từ ngàn xưa được ứng nghiệm nơi Đức Mẹ và Chúa Giê-su. Chúa Giê-su chính là Đấng muôn dân trông đợi. Giê-su nghĩa là Thiên Chúa cứu. Người đến cứu thế giới khỏi bế tắc. Cứu nhân loại khỏi diệt vong. Giải thoát con người khỏi ách thống trị của ma quỉ. Vì Người là Thiên Chúa. Tuy sinh ra trong trần gian nhưng “Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”. “Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người”. Đó là vị vua muôn dân trông đợi. Để tái lập thời huy hoàng của Đa-vít. Thời đất nước hùng mạnh. Dân được hưởng an lạc thái hoà.
Đức Mẹ chính là người trinh nữ sinh con mà tiên tri đã loan báo từ ngàn xưa. Đức Mẹ chính là người đầu tiên được hưởng ơn cứu độ. Nhờ Chúa Giê-su mà Đức Mẹ được ơn vô nhiễm nguyên tội. Và được đồng trinh trọn đời. Đức Mẹ là “Đấng đầy ân sủng”. Vì Đức Mẹ cưu mang Chúa Giê-su là nguồn mạch ân sủng. Thiên sứ cho biết con trẻ sẽ được “đặt tên là Giê-su”. Nghĩa là Thiên Chúa cứu độ nhân loại. Đức Mẹ là người đầu tiên được cứu khỏi tội lỗi. Đức Mẹ là công dân đầu tiên của vương quốc Nước Trời, của triều đại Thiên Chúa. Nên Đức Mẹ được “đầy ân sủng”. Và từ lòng Mẹ, ân sủng tràn lan khắp thế giới.
Kế hoạch của Thiên Chúa thành công. Vì Chúa Giê-su hoàn toàn vâng phục ý Chúa Cha. Và vì Đức Mẹ dâng mình làm “nữ tỳ” ngoan ngoãn để Thiên Chúa sử dụng. Xin cho con biết noi gương Đức Mẹ. Hoàn toàn ngoan ngoãn để thực hiện chương trình của Thiên Chúa. Con sẽ được giải thoát khỏi tội lỗi. Con sẽ được Thiên Chúa ở cùng. Con sẽ được đầy tràn ân sủng. Con sẽ được ơn cứu độ.
Tình yêu làm nên niềm vui. Tội lỗi gây nên nỗi buồn. Vì ngăn cách con người với Thiên Chúa. Biết bao đau thương, buồn tủi, xót xa. Nhưng rồi đến thời của ơn cứu độ. Chúa xuống cứu loài người. Đó là thời điểm của tình yêu.
Sách Diễm ca diễn tả sự náo nức của Thiên Chúa trên đường đến gặp con người. “Tiếng người tôi yêu văng vẳng đâu đây, kìa chàng đang tới, nhảy nhót trên đồi, tung tăng trên núi”. Tình yêu bừng cháy trong lòng khiến cả vũ trụ thay đổi. Chim chóc ca hát. Hoa lá nở tưng bừng. Hương thơm ngào ngạt: “Sơn hà nở rộ hoa tươi và mùa ca hát vang trời về đây. Tiếng chim gáy văng vẳng trên khắp đồng quê ta. Vả kia đã kết trái non, vườn nho hoa nở hương thơm ngạt ngào”.
Sách Xô-phô-ni-a diễn tả niềm vui của con người được gặp Chúa: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on, hò vang dậy đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi! …Đức Vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa”. Nhưng lạ lùng thay niềm vui của Chúa thật lớn lao khi được gặp con người. Đến nỗi Chúa nhảy lên vui sướng: “Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng”.
Tất cả những tiên báo đã ứng nghiệm khi Đức Mẹ đến viếng bà Ê-li-sa-bét. Chúa còn trong bào thai đã đem niềm vui đến cho Gio-an. Đến nỗi ông nhảy mừng trong lòng mẹ. Đó là niềm vui ơn cứu độ. Được tha hết tội khiên, Gio-an vui sướng nhảy mừng. Đó là niềm vui của cả nhân loại. Thời tình yêu đã đến. Thời ân phúc khởi đầu. Sẽ tràn lan cả địa cầu. Niềm vui của Gio-an tràn sang bà mẹ. Khiến bà cất tiếng ca ngợi Thiên Chúa và ca ngợi Đức Mẹ. Đức Mẹ cùng hợp tiếng ca tụng Chúa trong bài Magnificat tuyệt diệu. Đức Mẹ cảm nghiệm được tình yêu thương của Chúa từ ngàn xưa. Và còn mãi đến ngàn sau. “Dành cho tổ phụ Áp-ra-ham. Và cho con cháu đến muôn đời”.
Chúa là niềm vui. Vì Chúa là tình yêu. Tình yêu khiến Chúa nao nức đi gặp con người. Và vui sướng khi được ở với con người. Tình yêu của Chúa sẽ biến đổi ta. Ban cho ta ơn tha thứ. Rửa ta sạch tội lỗi. Làm biến đổi vũ trụ và con người. Khi ta được trong sạch. Ta sẽ được hưởng tình yêu của Chúa. Một mùa xuân mới sẽ bừng lên. Một thế giới mới sẽ thành hình. Ta sẽ được hạnh phúc. Vì được sống trong tình yêu.
Từ khi con người tách lìa Thiên Chúa, thế giới đi vào bế tắc. Thế giới đổ vỡ. Trật tự đảo lộn. Mọi thứ đều như chống lại con người. Con người chống lại nhau và chống lại chính mình. Mạnh hiếp yếu. Giầu áp bức nghèo. Lớn chèn ép nhỏ. Nhưng chính những người làm khổ người khác cũng chẳng thấy vui. Con người đi trong đêm tối. Không thấy tia hi vọng nào.
Nhưng khi có bàn tay Chúa can thiệp mọi sự đổi khác. Bà An-na được Chúa ban cho người con trai. Bà thoát khỏi nỗi ô nhục bị người đời cười chê. Bà được đổi đời. Bà được hãnh diện. Biết rằng mình được như vậy là nhờ ơn Chúa. Bà nhận ra tất cả là của Chúa. Chính vì thế bà tạ ơn Chúa muôn ngàn lần. Không những dâng lễ vật trọng hậu mà còn dâng chính người con vào đền thờ để phục vụ Chúa. Của Chúa phải dành cho Chúa. Bà đã cảm nhận được tình thương của Chúa. Tình thương Chúa giải thoát bà, đổi đời bà.
Đức Mẹ còn cảm nhận được ơn Chúa cách thâm sâu và cao xa hơn nữa. Đức Mẹ và bà Ê-li-sa-bét được chứng kiến một sự lạ lớn lao. Thánh Gio-an được tha tội đã nhảy mừng trong lòng mẹ. Cả hai nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa. Bà Ê-li-sa-bét lớn tiếng ca tụng Đức Mẹ. Lập tức Đức Mẹ cất tiếng ca tụng Chúa. Tất cả là tình thương của Chúa: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới”. Tình thương đó thay đổi cuộc đời Đức Mẹ: “Từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”. Còn hơn thế, tình thương Chúa sẽ thay đổi thế giới. Một cuộc cách mạng thay bậc đổi ngôi sẽ xảy ra. Để thế giới được sống trong công lý và hoà bình: “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giầu có, lại đuổi về tay trắng”. Tất cả là do tình thương của Chúa. “Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời”.
Thế giới chúng ta đang sống đầy vấn đề. Cuộc đời ta đầy bế tắc. Nhất là tội lỗi không buông tha. Luôn trói buộc ta. Gần đến ngày Chúa ngự viếng thăm. Ta tràn trề hi vọng. Tình thương Chúa sẽ đổi mới bản thân ta. Chúa sẽ làm một cuộc cách mạng thay đổi thế giới. Muôn dân sẽ sống trong an lạc thái hoà. Nhưng điều cần là tôi phải noi gương bà An-na và Đức Mẹ, luôn chuẩn bị sẵn sàng đón Chúa đến. Với niềm tin tưởng. Với đời sống ngay thẳng trong sạch. Và với tâm tình biết ơn tình thương bao la của Chúa.
Con dân tội lỗi. Phản bội Thiên Chúa. Lìa xa đường lối của cha ông. Chúa đã sai Ê-li-a đến chấn chỉnh “đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu và đưa tâm hồn con cháu trở lại với cha ông”. Ê-li-a đã đến như lửa. Cuộc đời ngài bừng bừng lửa sốt mến. Lời ngài như lửa. Làm cho xứ sở bị hạn hán. Ngài dùng lửa thanh luyện tâm hồn Ít-ra-en. Chống lại vua A-kháp và hoàng hậu Giê-sa-ben. Giết chết hơn 400 sư sãi của Ba-an. Làm cho dân trở về với Chúa. Theo đường lối của cha ông. Tiên tri Ma-la-khi tiên báo sau cùng Chúa sẽ đến. Nhưng trước đó, Ê-li-a sẽ trở lại để dọn đường cho Chúa. Lời tiên báo ứng nghiệm vào Gio-an Tẩy giả. Chính Chúa Giê-su xác nhận Gio-an là Ê-li-a mới. Đến để mở đường cho Đấng Cứu Thế.
Ông mở đường bằng nghiêm chỉnh thực thi Lời Chúa. Cha mẹ ông đã làm gương về điều đó. Chúa truyền đặt tên ông là Gio-an. Nghĩa là Thiên Chúa thi ân. Bà Ê-li-sa-bét và ông Gia-ca-ri-a tuyệt đối vâng theo lệnh truyền. Đặt tên là xác nhận quyền làm cha mẹ. Khi đặt tên theo lệnh Thiên Chúa, ông bà xác nhận Gio-an là do Thiên Chúa ban tặng. Ngay khi đó Gia-ca-ri-a, trước đó bị câm, mở miệng nói được. Chỉ khi nói theo ý Chúa lời mới có ý nghĩa.
Chính Gio-an cũng nghiêm túc tuân thủ lời Chúa dạy. Nên ông xa lánh phồn hoa. Vào ở trong sa mạc. Ăn uống đạm bạc. Chỉ có châu chấu và mật ong rừng. Y phục đơn sơ. Một mảnh da thú đủ để che thân.
Ông chỉ nói lời của Chúa. Nên mạnh mẽ đe phạt những người đi vào đường tội lỗi. Kết án cả vua Hê-rô-đê. Vì đã chiếm vợ của anh vua. Ông đúng là Ê-li-a mới. Chấn chỉnh mọi sự. Dọn đường cho Chúa Cứu Thế ngự đến.
“Bàn tay Chúa phù hộ em”. Nhận biết điều đó nên dân chúng tự hỏi: “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?” Không ai biết được đường đi của Chúa. Không ai biết gió từ đâu tới và sẽ đi đâu. Gio-an luôn ở trong bàn tay Chúa. Luôn luôn nói Lời Chúa. Ông trở thành loa phát thanh Lời Chúa. Ông là “tiếng kêu trong hoang địa”. Ông là người chấn chỉnh mọi sự. Sửa đường cho ngay để đón Chúa Cứu Thế ngự đến.
Xin cho con noi gương thánh Gio-an. Chấn chỉnh chính mình. Rồi thế giới sẽ trật tự đón Chúa đến.
Đa-vít, thánh vương, được Chúa sủng ái, được dân yêu mến, muốn xây cho Chúa ngôi nhà xứng đáng. Nhưng Chúa đã cho ông biết không phải ông xây nhà cho Chúa. Chính Chúa xây nhà cho ông. Không phải ngôi nhà vật chất. Nhưng là một dòng tộc. Không phải chỉ cho một đời. Nhưng cho muôn thế hệ. Chúa sẽ cho ông có người con kế vị. Nhờ vị đó triều đại nhà ông sẽ tồn tại muôn đời. Từ một cậu bé chăn chiên tầm thường, Chúa đã nâng Đa-vít lên hàng quân vương. Còn hơn nữa, Chúa có kế hoạch làm cho vương quyền không bao giờ rời khỏi nhà Đa-vít.
Khi truyền tin cho Đức Mẹ, thiên sứ nhắc lại lời hứa của Chúa: “Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1,31-33). Đây chính là thời điểm lời Chúa hứa được thực hiện. Chúa Giê-su vừa thuộc dòng tộc Đa-vít, vừa là Chúa Thượng của Đa-vít. Và một triều đại mới khởi đầu.
Gia-ca-ri-a là người đã sờ thấy triều đại mới với việc hạ sinh kỳ diệu của Gio-an Tẩy giả. Là nhân chứng. Là tội nhân. Là người cha hạnh phúc. Ông cảm nhận được kế hoạch đã đến hồi thực hiện của Thiên Chúa: “Từ dòng dõi trung thần Đa-vít, người đã cho xuất hiện Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta, như Người đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ mà phán hứa tự ngàn xưa”.
Trong kế hoạch đó người con của ông được diễm phúc đi mở đường cho Chúa: “Hài Nhi hỡi con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người”.
Vầng Đông xuất hiện. Đêm đen lui bước. Cả một bình minh rạng rỡ cho nhân loại. Bóng tối tử thần bị phá tan. Nhân loại được vị vua mới đón vào sự sống vĩnh cửu. “Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an”.
Ta hãy vui mừng mạnh dạn bước ra khỏi bóng tối tội lỗi. Ngước mắt đón chào Vầng Đông đến chiếu soi cuộc đời mới của ta. Cuộc đời sống trong ánh sáng, ngay thẳng, minh chính, giữa ban ngày.
Tê-pha-nô là triều thiên. Ngài là triều thiên của người môn đệ. Được vinh dự tôn kính ngay sau ngày lễ Chúa Giáng Sinh. Không chỉ vì là vị tử đạo đầu tiên trong Hội Thánh. Nhưng còn vì ngài nên giống Chúa Giê-su. Nên một với Chúa Giê-su. Và vì thế trở thành vị chứng nhân cho Nước Trời.
Tê-pha-nô là triều thiên của người môn đệ. Vì ngài theo sát Chúa Giê-su. Hoàn toàn từ bỏ mình. Vác thánh giá mình mà theo Chúa. Như Chúa truyền dạy. Ngài kết hợp mật thiết với Chúa. Và nhất là đã đồng hoá với Chúa. Chịu chết như Chúa. Và trong giờ chết ngài ăn nói cư xử y hệt Chúa. Như Chúa ngài phó thác linh hồn khi kêu lên: “Lạy Chúa Giê-su, xin nhận lấy hồn con”. Như Chúa ngài xin tha thứ cho kẻ giết mình: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này”. Phải kết hợp chặt chẽ với Chúa Giê-su nên trong giờ phút nguy nan nhất lời nói và hành động bộc phát ra như trong lòng đã ấp ủ sâu xa.
Tê-pha-nô là triều thiên của các chứng nhân. Vì ngài không chỉ làm chứng bằng lời nói. Nhưng còn bằng chính đời sống. Ngay lúc bị xử tử ngài làm chứng rằng: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và con Người đứng bên hữu Thiên Chúa”. Thật là một bằng chứng hùng hồn. Chân thực và sống động. Ngài chẳng màng gì đến thân xác trần gian đang bị hành hạ đau đớn. Ngài chỉ hướng về trời. “Ông đăm đăm nhìn trời”. Và thấy vinh quang Thiên Chúa đã làm quên đi những đau khổ đang hành hạ. Đó là bằng chứng trung thực nhất.
Ngài đã thực hiện đúng lời Chúa: “Anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho các dân ngoại”. Và còn hơn nữa: “Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em”. Quả thật, Tê-pha-nô đầy tràn Thánh Thần nên “họ không địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Thần Khí đã ban cho ông”.
Ngài quả thật là triều thiên của Chúa ban cho nhân loại. Xin triều thiên ngài chiếu sáng tâm hồn con. Để con được trở nên môn đệ đích thực. Và làm chứng cho Nước Trời trong thế giới tục hoá ngày càng mạnh này.
Ta đoán “người môn đệ Chúa yêu” là thánh Gio-an. Vì chỉ thấy danh xưng này trong Tin mừng Gio-an.
Chắc chắn ai cũng được Chúa yêu. Có điều không cảm nhận được. Hoặc không nói ra. Đáng lẽ Phê-rô phải xưng mình là người được Chúa yêu hơn cả. Vì ông đã lỗi lầm và được tha thứ. Như lời Chúa dạy: “Ai được tha nhiều thì yêu mến nhiều”. Cả Giu-đa, nếu ăn năn trở lại, cũng có thể xưng mình là người môn đệ được Chúa yêu. Nhưng chỉ có Gio-an xưng mình là “người môn đệ được Chúa yêu”. Vì ông là người có nhiều tình cảm nên cảm nhận được một cách rõ ràng và sâu xa. Và ông có tài diễn tả. Và ông muốn cho mọi người biết rằng ai cũng được Chúa yêu. Ai cũng có thể xưng mình là “người môn đệ được Chúa yêu”.
Tình yêu có trí nhớ rất sắc bén. Yêu ai ta nhớ từng lời nói, thái độ, cử chỉ. Thánh Gio-an nhớ rất kỹ những lời nói việc làm của Chúa Giê-su. Chẳng hạn về ngày đầu tiên gặp gỡ. Thánh nhân ghi nhớ từng chi tiết. Cả thời giờ: “Lúc đó khoảng giờ thứ mười” (Ga 1,35-39).Nên nhớ, hơn nửa thế kỷ sau, thánh Gio-an mới viết Tin mừng . thế mà vẫn ghi nhớ từng chi tiết. Chắc chắn đó là một kỷ niệm khắc sâu trong tâm hồn.
Tình yêu có trực giác rất mạnh. Dễ nhận ra những dấu vết của người yêu. Việc thánh Gio-an bén nhậy tin Chúa phục sinh sau khi nhìn ngôi mộ trống là một trực giác của tình yêu. Nhìn khăn liệm và khăn che mặt xếp đặt gọn gàng Ngài nhận ra ngay dấu vết của Chúa. Cũng như ngài là người đầu tiên nhận ra Chúa Giê-su phục sinh bên bờ hồ sau mẻ cá lạ. Mẻ cá lạ chỉ có thể do Chúa. Và gợi lại những mẻ cá khi Người chưa chịu khổ nạn.
Tình yêu đi vào hiệp thông sâu xa. Hiệp thông khiến tình yêu thành cụ thể và sống động. Thánh Gio-an thấy tận mắt, sờ tận tay Lời Thiên Chúa. “Điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống”. Chạm được vào Lời là có mối thân tình rất sâu xa. Nên được “hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người”.
Nếu tôi ghi nhớ tất cả những gì Chúa làm cho tôi. Nếu tôi đủ nhậy bén. Tôi sẽ đi vào hiệp thông với Chúa. Và sẽ nhận biết tôi là “người môn đệ Chúa yêu”. Khi đó tôi sẽ vô cùng hạnh phúc.
Thánh Gio-an đưa ra một cách nói khác của Thiên Chúa là tình yêu. Đó là định nghĩa: “Thiên Chúa là ánh sáng”. Con Chúa giáng trần chiếu ánh sáng vào trần gian. Từ đó có cuộc chiến khốc liệt giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng yêu thương rực rỡ đem lại an bình. Đem lại hiệp thông. Nhưng bóng tối là thù hận ghen ghét. Là chia rẽ bất hoà. Là gian tham độc ác. Là đàn áp bất công. Khi ánh sáng đến bóng tối run sợ. Sợ vì bóng tối bị phá tan. Sợ vì những ám muội bị phơi trần.
Hê-rô-đê tượng trưng cho bóng tối. Ham hố quyền lực. Tìm đủ cách để có quyền lực. Có quyền lực rồi tìm mọi cách để bảo vệ ngai vàng. Ông hoàn toàn thuộc về bóng tối. Bóng tối thống trị ông. Đời ông chìm ngập trong bóng tối. Không còn lương tri. Không có trái tim. Nói dối để gài bẫy ba nhà đạo sĩ. Giết hàng loạt trẻ em vô tội. Bóng tối tàn ác hiểm độc. Và nhất thời ta tưởng như bóng tối đã che lấp được ánh sáng. Hận thù tràn ngập thế giới.
Ánh sáng ban đầu quá yếu ớt. Như Chúa Giê-su “sơ sinh bọc tã, nằm trên máng cỏ”. Như các trẻ em bị giết chết oan ức. Như các bà mẹ chỉ biết khóc tức tưởi. Như dân làng chỉ biết nhẫn nhục chịu đựng. Nhưng ánh sáng càng lúc càng sáng lên mạnh mẽ. Sáng lên trong lương tri để nhận biết đâu là lẽ phải. Sáng lên trong trái tim để biết tình yêu là lẽ sống. Với thời gian những cái chết vô tội trở thành lời buộc tội cường quyền. Những tiếng khóc tức tưởi trở thành bản án cho lương tâm. Những nhẫn nhục âm thầm trở thành lực lượng tái thiết thế giới.
Các thánh Anh Hài không hiểu vì sao mình bị giết. Nhưng giờ đây chúng ta hiểu. Các ngài bị giết vì liên hệ với Chúa Giê-su. Bị giết vì Chúa. Các ngài được hiệp thông với Chúa. Các ngài đi trong ánh sáng. Trở thành lực lượng xây dựng thế giới. Thức tỉnh lương tri. Rung động trái tim. Khơi nguồn hiệp thông.
Ba Vua đã theo đường khác mà về. Không đi về đường của Hê-rô-đê. Gặp Chúa rồi các ngài giã từ con đường đi vào bóng tối. Để đi vào con đường ánh sáng.
Cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối còn kéo dài và khốc liệt. Chúng ta cần sức mạnh của Chúa để có thể đi vào con đường ánh sáng. Để chiếu lên ánh sáng. Để yêu thương và sự sống tràn ngập địa cầu.
Cụ già Simeon nhìn thấy Chúa Giêsu xuất hiện như ánh sáng soi đường. Đó chính là ánh sáng tình yêu và sự sống soi vào đêm tối bất hòa chết chóc của nhân loại. Không phải tình yêu nói suông nhưng tình yêu cụ thể bày tỏ bằng việc làm.
Tình yêu đối với Thiên Chúa được bày tỏ qua việc tuân giữ điều răn của Người. Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse không buộc phải giữ luật Môse dâng con đầu lòng cho Thiên Chúa. Nhưng các ngài đã khiêm nhường và vâng lời tuân giữ để tỏ lòng hiếu thảo với Đức Chúa Cha. Chúa Giêsu đến không phải để bãi bỏ lề luật nhưng để kiện toàn. Người Do thái tuân thủ lề luật vì sợ hãi, nên giữ luật cặn kẽ với tinh thần nô lệ. Chúa Giêsu đã kiện toàn lề luật bằng cách tuân giữ lề luật vì lòng yêu mến đối với Đức Chúa Cha, giữ trọn vẹn trong tinh thần tự do của người con hiếu thảo. Đó là tình yêu tuyệt hảo vì được minh chứng bằng hành động. Đó là cách giữ luật tuyệt hảo vì được thực thi với tình yêu.
Tình yêu đối với tha nhân được bày tỏ qua việc tuân giữ điều răn mới của: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Chúa Giêsu đến chiếu lên làn ánh sáng mới chan hòa yêu thương soi đường cho nhân loại. Từ nay sáng tối phân minh, thiện ác tách bạch. Ai ghen ghét vẫn còn bị giam cầm trong bóng tối sự chết. Ai yêu thương sẽ được hưởng ánh sáng ban sự sống. Ai ghen ghét sẽ bị bóng tối phủ lấp, không thấy đường đi và vĩnh viễn bị lầm lạc. Ai yêu thương sẽ được ánh sáng soi dẫn, sẽ “ở lại trong Chúa Giêsu, đi trên con đường của Chúa Giêsu”, “là con đường dẫn đến Sự Thật và Sự Sống”.
Tình yêu chính là con đường sáng. Con đường dẫn đến sự thật và sự sống. Chúa Giê-su chính là đường đi. Ta hãy đi theo Người. Đi trong tình yêu. Ta sẽ góp phần chiếu ánh sáng vào thế giới. Ánh sáng ban sự sống. Ánh sáng ban hoà bình.
Lạy Chúa Giêsu Bé Thơ, con chiêm ngưỡng hình ảnh đẹp đẽ của Chúa được dâng trong Đền Thờ. Xin cho con được noi gương Chúa có lòng hiếu thảo yêu mến Đức Chúa Cha, vui vẻ tự nguyện giữ trọn vẹn luật Chúa. Xin cho con biết yêu mến anh em thật lòng, để không còn một bóng tối nào che phủ tâm hồn con, để con hoàn toàn sống trong ánh sáng tình yêu của Chúa.
Sức mạnh của thế gian thật khủng khiếp. Nó hấp dẫn. Nó thúc đẩy. Nó chiếm đoạt. Nó thống trị. Nó giống như con thú dữ vồ lấy, cắn xé, ngấu nghiến và tàn phá con người. Nó là sức mạnh tàn phá. Nhưng ai chạy đuổi theo nó cuối cùng chỉ thấy hư vô. Như thánh Gio-an dậy: “Mọi sự trong thế gian như dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của, tất cả những cái đó không phát xuất từ Chúa Cha, nhưng phát xuất từ thế gian; mà thế gian đang qua đi, cùng với dục vọng của nó”.
Trái lại sức mạnh của Thiên Chúa thật nhẹ nhàng. Khởi đầu rất mong manh. Như trẻ thơ sơ sinh. Rất yếu ớt. Rất bé nhỏ. Nhưng cứ lớn mãi. Như Chúa Giê-su “ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa”.
Tiên tri An-na làm chứng về điều đó. Sau 7 năm sống đời hôn nhân ngoài đời, bà càng nhận rõ sự phù du của thế gian. Bà gắn bó với Chúa và với đền thờ suốt cuộc đời. Chuyên chăm hãm mình, ăn chay, cầu nguyện. Từ bỏ cả những gì cần thiết ở đời như việc ăn uống, vui chơi, giải trí. Bà siêu thoát trần gian. Vì bà tìm được niềm vui trong Chúa. Thân xác bà nhỏ bé đi. Nhưng tâm hồn bà lớn mạnh. Bà được mặc khải cho biết khi Chúa Cứu Thế xuất hiện. Vì thế khi Chúa Giê-su được dâng vào đển thờ, lập tức bà nhận ra. “Bà tiến lại gần, cảm tạ Thiên Chúa”. Cảm nghiệm về Chúa quá rõ ràng và phong phú, nên bà, một phụ nữ nghèo nàn tầm thường, có thể “nói về Hài Nhi cho hết thảy những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc giê-ru-sa-lem”.
Chúa Giê-su chính là mẫu hình lý tưởng của con người. Chúa phát triển mọi mặt. Về thân xác khoẻ mạnh. Để có thể làm việc đêm ngày không ngừng nghỉ. Để có thể chịu cực hình thâu đêm. Sáng vẫn còn vác thánh giá đi lên Núi Sọ. Về trí tuệ thông minh. Kẻ thù nhiều lần gài bẫy. Nhưng không bắt bẻ được điều gì. Trái lại mọi người say mê lời giảng dạy của Chúa. Và Chúa hỏi những câu không ai trả lời được. Đặc biệt về đức hạnh. Không ai chê trách được điều gì. Kẻ thù rình rập đêm ngày. Đến nỗi tuốt một bông lúa họ cũng biết. Vậy mà không tìm được tội nào để kết án Chúa. Chỉ trong Thiên Chúa con người mới có thể phát triển quân bình mọi mặt đến mức thập toàn như thế.
Xin cho con siêu thoát thế gian. Tìm về bên Chúa. Để con được lớn lên trong Chúa. ----------------------------------
Ngày cuối cùng của năm cũ, thánh Gioan mời ta ngược về khởi thủy. Đến ngọn nguồn của lịch sử. Đến lịch sử của Thiên Chúa. Đó là lịch sử tình yêu.
Lịch sử khởi nguồn từ tình yêu Thiên Chúa. Ba Ngôi Thiên Chúa hiệp thông trong tình yêu. Ba Ngôi không ngừng hướng về nhau trong một chuyển động tình yêu liên lỉ và phong phú từ đời đời: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa”.
Từ đó phát sinh lịch sử tình yêu sáng tạo. Tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi tràn trào ra trong sáng tạo muôn loài. Sự sống chính là ánh sáng chói lọi đẹp đẽ nhất phát xuất từ Thiên Chúa: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành…Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại”.
Nhưng buồn thay lịch sử bị hoen ố vì tình yêu bị phản bội: “thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người”. Thật đáng buồn. Thánh Gioan cho biết đó là những Phản-Kitô, chẳng phải ai xa lạ, chính là người trong nhà, cùng một nguồn cội yêu thương: “Chúng xuất thân từ hàng ngũ chúng ta, nhưng không phải là người của chúng ta”. Vì chúng đã thay lòng đổi dạ. Đó là tình yêu giả dối, phản bội.
Tuy nhiên Thiên Chúa vẫn tiếp tục với lịch sử cứu chuộc bằng cách gửi Con Một yêu dấu đến ở với loài người. “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Lời tức là những tinh túy nhất của một con người. Lời chính là người. Vì thế Ngôi Lời chính là Thiên Chúa yêu thương đến giữa loài người.
Và Thiên Chúa lại tiếp tục yêu thương bằng lịch sử ân sủng tuôn đổ dư tràn trên nhân loại qua Con Một yêu dấu: “ Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác”.
Thật lạ lùng tình yêu của Thiên Chúa. Với Con Chúa giáng trần, Chúa muốn sinh ra một nhân loại mới, “được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, nhưng do bởi Thiên Chúa”.
Với con người mới sống theo ơn Chúa Thánh Thần, ta sẽ mở lòng đón nhận Thiên Chúa. Ta sẽ hoàn toàn sống cho tình yêu. Và năm mới sẽ lại tiếp tục với lịch sử tình yêu của Thiên Chúa trong đời ta. ---------------------------------
Con người luôn đi tìm sự sống. Nhưng không phải ai cũng biết đường. Sự sống chỉ có trong Thiên Chúa. Nên thánh Gio-an dạy ta hãy ở lại trong Chúa.: “Chính anh em sẽ ở lại trong Chúa Con và Chúa Cha. Và đây là điều mà chính đức Ki-tô đã hứa ban cho chúng ta: sự sống đời đời”. Ma quỉ là cha sự dối trá luôn cám dỗ con người rời xa Chúa. Như E-và. Thánh Gio-an nhấn mạnh điều này để tín hữu khỏi lầm lạc: “Tôi viết cho anh em những điều ấy để nói về những kẻ tìm cách làm cho anh em đi lạc đường”. Vì thế phải chết. Ta cần biết phân biệt. Chúa đã ban cho ta Thần Khí. Để ta nhận biết sự thật: “Nhưng vì dầu của Người dạy dỗ anh em mọi sự- mà dầu ấy dạy sự thật chứ không phải sự dối trá- thì theo như dầu ấy đã dạy anh em, anh em hãy ở lại trong Người”.
Thánh Gio-an Tẩy giả là người tràn đầy Thần Khí. Nên ngài có phân định rõ ràng. Ngài biết mình không là gì. Dù bấy giờ ngài đã nổi danh, được nhiều người mến mộ. Thậm chí người ta còn coi ngài là Đấng Cứu Thế. Nhưng thánh nhân kiên quyết phủ nhận. Ba lần nói “không” để phủ nhận mọi phù hoa ảo ảnh. Ngài nhận tự bản thân mình chẳng là gì. Có là gì là ở trong Thiên Chúa. Phủ nhận mình là khẳng định Thiên Chúa. Ra khỏi bản thân để ở trong Thiên Chúa. Nhờ ở trong Thiên Chúa mà có tất cả.
Vì ở trong Thiên Chúa nên thánh Gio-an luôn ở trong chương trình của Thiên Chúa. Ở trong chương trình của Thiên Chúa nên thánh Gio-an luôn giữ đúng vai trò của mình. Là tiếng cho Ngôi Lời: “Tôi chỉ là tiếng người hô trong hoang địa”. Là người đi mở đường cho Đấng Cứu Thế: “Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi”. Là phù rể cho chàng rể. Là hình bóng báo trước Thiên Chúa: “Tôi đây làm phép rửa trong nước”. Nhưng Người sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa. Là tiền hô đi trước đại vương: “Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”.
Nhờ ở lại trong Thiên Chúa, Gio-an đã làm tròn nhiệm vụ. Nên ngài trở nên cao trọng nhất trong số nam nhân. Và đóng góp phần quan trọng cho công cuộc Cứu Thế thành công. Đem lại ân phúc lớn lao cho mọi người.
“Phúc cho ai có lòng trong sạch vì họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa”. Thánh Gioan Tẩy giả có tâm hồn trong sạch nên Ngài đã nhìn thấy Thiên Chúa. Ngài trong sạch vì không vướng mắc tội lỗi. Được khỏi tội từ khi còn trong lòng mẹ. Và từ khi sinh ra cho tới khi qua đời, Ngài luôn giữ tâm hồn trong sạch. Trong sạch trong đời sống khổ hạnh. Sống trong sa mạc, ăn châu chấu và mật ong, mặc áo da thú. Sự phấn đấu trong đời sống khổ hạnh làm chứng một tâm hồn mạnh mẽ. Một tâm hồn mạnh mẽ như thế không để tội lỗi len lỏi vào được. Trong sạch không để tâm hồn ô nhiễm thói đời. Khiêm nhường dù lúc đã nổi danh và được nhiều người mến mộ. Không nhận những gì không phải của mình. Nói sự thật để người khác đừng gán cho mình những danh hiệu và những vinh dự không phải thuộc về mình.
Vì thế nên Ngài đã nhìn thấy Thiên Chúa. Nhìn Thấy Thiên Chúa kể cả khi Thiên Chúa ẩn thân trong xác phàm, ẩn mình trong đám đông, ẩn mình xếp hàng giữa những người tội lỗi đến xin chịu phép rửa. Ngài nhìn thấy Thiên Chúa theo lời Chúa Cha đã hứa: “Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: ‘Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần’. Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”. Vì thế khi Đức Ki-tô đến, ngài có thể giới thiệu một cách chính xác: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian”.
Thánh Gio-an Tẩy giả sống công chính vì được Thiên Chúa sinh ra. Như thư Gio-an dạy: “Phàm ai sống công chính thì đã được Thiên Chúa sinh ra”. Đức Ki-tô xuất hiện và ngài nhận biết. Vì ngài thanh sạch. Như thư Gio-an dạy: “Phàm ai đặt hi vọng như thế vào Đức Ki-tô thì làm cho mình nên thanh sạch như Người là Đấng thanh sạch”. Thánh Gio-an nhận biết Chúa vì luôn ở trong Chúa và thanh sạch. “Phàm ai ở lại trong Người thì không phạm tội. Còn ai phạm tội thì đã không thấy Người, và cũng chẳng biết Người”.
Hãy sống trong sạch, ta sẽ được nhìn thấy Chúa. Sẽ được biết Chúa. Sẽ được ở trong Chúa. Đó là điều quan trọng nhất đời ta.
Công chính là trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Ma quỉ muốn chiếm đoạt quyền Thiên Chúa. Luôn cám dỗ loài người đi theo chúng. Bà E-và là điển hình. Đó là tội lỗi. Chúa Giê-su là Đấng Công Chính. Đến để tái lập sự công chính. Để “phá huỷ công việc của ma quỉ”. Chúa Giê-su công chính vì được Thiên Chúa sinh ra. “Mầm sống của Thiên Chúa ở lại trong người ấy, và người ấy không thể phạm tội, vì đã được Thiên Chúa sinh ra”. Từ đây thế giới phân định rạch ròi. Ai theo Chúa Giê-su thì sống công chính và trở thành con Thiên Chúa. “Căn cứ vào điều này mà người ta phân biệt con cái Thiên Chúa với con cái ma quỷ: phàm ai không sống công chính thì không thuộc về Thiên Chúa”.
Không chỉ sinh ra bởi Thiên Chúa, Chúa Giê-su còn sống công chính trọn đời. Vì luôn làm theo ý Chúa Cha. Vâng phục Chúa Cha trong mọi sự. Cho đến nỗi chết trên thánh giá. Nhận tất cả từ Chúa Cha. Dâng hiến tất cả cho Chúa Cha. Chúa Giê-su thật là Đấng Công Chính.
Vì vâng phục Chúa Cha mà Chúa Giê-su trở thành “Chiên Thiên Chúa” như lời thánh Gio-an Tẩy giả giới thiệu. Là Chiên Thiên Chúa để tự hiến thân mình làm của lễ dâng lên Chúa Cha. Là Chiên Thiên Chúa để gánh lấy tội nhân loại. Làm cho nhân loại nên công chính. Làm cho nhân loại trở nên con Thiên Chúa. Sinh lại nhân loại trong đức công chính.
Thánh Gio-an Tẩy giả sống công chính. Vì giới thiệu Chúa Giê-su cho các môn đệ của mình. Trả các môn đệ mình cho Chúa. Vì tất cả là của Chúa.
An-rê và Gio-an sống công chính. Vì bỏ tất cả mà theo Chúa. Bỏ cả người thầy yêu quí. Vì Chúa Giê-su mới là đường thật. Mới thật là Thầy. Dạy chân lý. Dẫn đến sự công chính đích thực. Đến sự sống đời đời. An-rê sống công chính nên đã dâng cho Chúa cả người em của mình. Vì Si-mon cũng thuộc về Thiên Chúa. Si-mon sống công chính. Vì từ bỏ tất cả. Từ bỏ cả con người cũ. Cả tên họ. Tên là người. Chúa đặt tên mới. Vì ông là con người mới. Thuộc về Chúa. Tên mới của Si-mon là Phê-rô. Là đá tảng xây toà nhà mới. Là đầu trong dân mới. Dân được Chúa sinh ra để sống công chính. Để dâng hiến cho Chúa tất cả cuộc đời.
Xin cho con được sinh lại. Được đặt tên mới. Được trở thành con Chúa. Được dâng hiến mọi sự cho Chúa. Để thuộc về dân mới. Sống công chính thánh thiện.
Nhân loại chìm trong bóng tối. Chúa Giê-su đến chiếu lên ánh sáng. Ánh sáng bừng lên làm những thôn xóm nghèo hèn tăm tối sáng lên rạng rỡ. Ai có ngờ ngôi sao lạ tắt đi ở Giê-ru-sa-lem. Để sáng lên ở Bê-lem. Thiên thần không ca hát trên những cung điện xa hoa ở thủ đô. Nhưng ca hát bên mái tranh nghèo Bê-lem. Làng quê Na-da-rét bé nhỏ nghèo hèn: “Từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được”. Nay sáng lên rực rỡ.
Ánh sáng bừng lên trong tâm hồn u mê tăm tối. Một câu nói thôi. Đã xuyên thấu tâm can Na-tha-na-en. Bừng sáng tâm trí. Để ông thốt lên lời tuyên xưng sớm nhất trong Tân Ước: “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Ít-ra-en”.
Ánh sáng bừng lên báo hiệu thiên đàng hạnh phúc: “Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người”.Đó chính là ánh sáng ban sự sống. Sự sống đời đời.
Thánh Gio-an nhận biết đó là ánh sáng tình yêu. Ma quỉ phủ lên thế giới màn tối hận thù chết chóc. Ngay từ đầu Ca-in đã giết A-ben. “Chúng ta đừng bắt chước Ca-in: nó là người của ác thần, nên đã giết em mình…Kẻ không yêu thương, thì ở lại trong sự chết”.
Chúa Giê-su đến chiếu lên ánh sáng tình yêu ban sự sống đời đời. Tình yêu hệ tại sự quên mình. “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta”. Chúa xuống trần chịu chết vì yêu thương ta. Để ta được sống.
Để sống trong ánh sáng và có sự sống, ta cũng phải đi vào ánh sáng tình yêu của Chúa. Chính vì thế thư Gio-an dạy ta: “Chúng ta hãy yêu thương nhau…Chúng ta từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương anh em”. Yêu thương là phải cho đi. Là phải hi sinh quên mình như Chúa Giê-su: “Như vậy , cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em. Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lầm cảnh túng thiếu mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu thiên Chúa ở lại trong người ấy được”?
Xin Chúa chiếu ánh sáng tình yêu vào tâm hồn con. Để bước đi trong tình yêu. Và đạt đến sự sống đời đời.
Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một cho ta. Đó là Chúa Giê-su Ki-tô. Đó là sự sống cho nhân loại. Có ba nhân chứng: Thánh Thần, Nước và Máu. Chứng từ được công bố trong ngày Chúa Giê-su chịu phép rửa tại sông Gio-đan.
Thánh Thần ngự xuống dưới hình chim bồ câu. Đó là dấu hiệu Chúa Giê-su được Chúa Cha sai đến trần gian cứu độ nhân loại. Được xức dầu Thánh Thần. Được sai đi loan báo Tin mừng cho người nghèo. Tin mừng sự sống. Tin mừng giải thoát. Tin mừng ân sủng. Như xưa Thánh Thần bay là là trên mặt nước ban sự sống cho vũ trụ hỗn mang.
“Nước đã thấy Ngài, ôi lạy Chúa. Thấy Ngài nước rùng mình khiếp sợ”. Nước sông Gio-đan nhờ tiếp xúc với Đấng Chí Thánh, đã trở thành nước ban sự sống. Rửa sạch tội lỗi. Ban nguồn sự sống. Nhưng nước có thể phục sinh kẻ chết là nhờ Chúa Giê-su đã tự nguyện chịu chết cho nhân loại.
Đó chính là lời chứng của Máu. Việc gìm mình xuống dòng nước báo trước cái chết. Người sẽ chịu đổ máu. Sẽ bị mai táng trong mồ. Xuống âm phủ để phá tan sào huyệt thần chết. Chịu chết để tiêu diệt nọc độc của thần chết. Đem nhân loại vào sự sống.
Tất cả đều nói lên lòng vâng phục hiếu thảo của Chúa Giê-su. Hoàn toàn vâng lời Chúa Cha trong mọi sự. Cho đến nỗi bằng lòng chịu chết. Nhờ đó phục hồi được nhân loại. Nối lại mối thân tình cha – con giữa nhân loại với Thiên Chúa. Người đã trở thành Trưởng Tử hiếu thảo. Khai sinh một thế hệ hiếu thảo. Dẫn đầu một đàn em đông đúc. Được Chúa Cha chấp nhận. Vì thế Chúa Cha công khai tuyên dương Người: “Con là Con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về Con”.
Có Thánh Thần, Nước và Máu làm chứng. Đó là chứng chắc chắn. Vì được chính Chúa Cha công nhận.
Xin cho chúng con, những người đã chịu phép rửa tội, được noi gương Người. Đi vào con đường Người đã đi. Sống theo ơn Thánh Thần hướng dẫn. Chết cho con người tội lỗi. Sống hiếu thảo. Vâng phục Chúa Cha trong mọi sự. Để xứng đáng là những người em của Chúa. Là con yêu dấu của Chúa Cha. --------------------------------
Chiêm ngắm Chúa Giê-su đến dự tiệc cưới ta không khỏi cảm kích mừng vui. Chúa đã đến trần gian ở với con người. Chúa còn đi vào cuộc sống dân dã. Chia vui sẻ buồn với con người. Đi đám tang. Khóc trước mộ. Đi đám cưới. Chúc mừng đôi tân hôn. Lời chúc phúc của Chúa là một phép lạ cả thể. Sáu chum nước lã biến thành rượu ngon.
Lạy Chúa Chúa đến với chúng con làm biến đổi cuộc đời chúng con. Khai thông cuộc đời bế tắc của chúng con. Chúng con hết rượu rồi.
Chúng con hết rượu sự sống. Vì đã thoả hiệp với ác thần gieo mầm chết chóc. Chúng con hết rượu niềm vui. Vì tội lỗi phủ lên chúng con tấm màn u buồn. Chúng con hết rượu bình an. Vì những băn khoăn toan tính việc đời. Chúng con hết rượu hi vọng. Vì ma quỉ xác thịt thế gian đẩy chúng con vào đường cùng không lối thoát.
Hôm nay Chúa đến khai thông hết những bế tắc trong cuộc đời. Chúa đến kết hôn với bản tính loài người yếu hèn của chúng con. Chúa là chàng rể đích thực đưa chúng con vào tiệc cưới Nước Trời. Cho chúng con thưởng thức thứ rượu làm say ngất tâm hồn. Rượu Chúa ban cho chúng con sự sống mới. Cho chúng con hưởng trọn vẹn niềm vui không bao giờ vơi cạn. Cho chúng con niềm bình an thế gian không ban được. Cho chúng con niềm hi vọng vào một tương lai tươi sáng.
Tạ ơn Mẹ. Mẹ đã đón nhận Chúa vào trần gian. Mẹ còn đưa Chúa đến với cảnh sống thực tế. Mẹ còn trình lên Chúa sự đói khát thiếu thốn của chúng con. Thấu hiểu thân phận chúng con. Cầu bầu cho chúng con. Để Chúa ban rượu dư tràn.
Xin cho chúng con thêm niềm tin tưởng. Biết noi gương Mẹ tin tưởng cầu nguyện. Vì “Người nhậm lời chúng ta, khi chúng ta xin điều gì hợp ý Người”. Và thêm niềm hi vọng. Vì “Con Thiên Chúa đã đến và… chúng ta ở trong Thiên Chúa thật, ở trong Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô. Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa thật và là sự sống đời đời”. Xin cho chúng con từ nay tránh xa ác thần. Từ bỏ thói thế gian chiều theo xác thịt. Thực sự kết hợp với Chúa Giê-su. Chàng rể đích thực. Sẽ đưa chúng con vào tiệc cưới Nước Trời. Ở đó rượu ngon sự sống, bình an và niềm vui sẽ tràn trề.
Chúa Giêsu đến chiếu soi luồng ánh sáng mới vào nơi tối tăm. Nơi tối tăm nhất là miền Galilea vì đó là miền dân ngoại, là dân còn ngồi trong bóng tối sự chết.
Ánh sáng mới của Chúa Giêsu là ánh sáng đổi mới cuộc đời. Lời kêu gọi “Anh em hãy sám hối” chiếu một làn ánh sáng mới vào đời sống chúng ta. Dưới làn ánh sáng này, ta không còn có thể ngồi yên trong bóng tối sự chết, nhưng phải đứng lên mà bước đi. Dưới làn ánh sáng này, ta không thể ngủ yên trong cuộc đời xưa cũ, nhưng phải sám hối, phải dứt lìa tình trạng tội lỗi xưa, phải giã từ con người cũ kỹ ươn lười tội lỗi, phải tỉnh thức trong một cuộc đời tươi mới, thánh thiện, hăng say nhiệt thành.
Ánh sáng mới của Chúa Giêsu là ánh sáng ban sự sống. Sự sống con người bị tổn thương, bị hao mòn vì bệnh tật, bị kìm kẹp trong vòng vây của ma quỉ. Con người bị bệnh hoạn tật nguyền không thể sống trọn vẹn cuộc sống tự do, không thể phát huy đến mức tối đa năng lực Chúa ban. Chúa Giêsu đến chưa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Nhưng sâu xa bên trong, Chúa giải thoát con người khỏi trói buộc của ma quỉ, đem lại cho con người sự tự do của con cái Chúa, giúp họ sống trọn vẹn cuộc sống, giải phóng năng lực tiềm ẩn để con người có thể phát triển đến mức thập toàn.
Ánh sáng mới của Chúa Giêsu là ánh sáng soi thấu lương tâm giúp ta phân định trong cuộc sống. Cuộc sống có nhiều giả trá. Những giả len lỏi vào tận thâm tâm khiến con người bị lầm lẫn ngay trong lượng giá, chọn lựa nền tảng. Thánh Gioan cho biết không chỉ có thần lành mà còn có thần dữ chi phối chọn lựa của ta. Ánh sáng của Chúa soi chiếu tâm hồn, giúp ta phân định, giúp ta lựa chọn và giúp ta đi trên con đường ánh sáng, con đường của Chúa, con đường dẫn đến Sự Thật và Sự Sống.
Ánh sáng mới của Chúa Giêsu là ánh sáng thực hành. Không lý luận phức tạp, không vòng vèo quanh co, ánh sáng của Chúa chiếu lên ánh sáng đơn sơ và thực tế để ai đi trong ánh sáng sẽ có chọn lựa và sống đời sống đơn sơ thực tế, đó là tuân giữ điều răn của Chúa. Và “ai tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy”. Người ấy ở trong ánh sáng. Người ấy chan hòa ánh sáng.
Thiên Chúa là Tình Yêu hi vọng. Ta còn gì hi vọng ở những công thức, tính toán, những phán xét khô khan, khắc nghiệt, những tổ chức quá hợp lý đến lạnh lùng? Thiên Chúa là ơn cứu độ đem lại cho thế giới niềm hi vọng được sống vui tươi, bình an và hạnh phúc.
Thiên Chúa là Tình Yêu chứng nghiệm. Chẳng phải là định nghĩa lý thuyết nhưng đã được chứng nghiệm. Vì yêu nên đã đi bước trước. Tạo dựng nên con người. Và còn yêu thương hơn nữa, cứu chuộc con người hư hỏng, phản bội.
Thiên Chúa là Tình Yêu trao ban. Ban chính Con Một của Ngài. Ban cho ta chính bản thân Ngài. Chẳng còn tình yêu nào lớn lao cao quí hơn nữa. Đó là ban hết những gì có thể, chẳng còn có thể ban cho ta gì khác nữa.
Thiên Chúa là Tình Yêu cảm thương. Chẳng phải một trái tim sắt đá vô cảm, nhưng một trái tim biết cảm thương. Chúa Giêsu đã ‘chạnh lòng thương” khi nhìn thấy đoàn lũ dân chúng tất tưởi bơ vơ.
Thiên Chúa là Tình Yêu cụ thể. Bằng những thể hiện. Trước hết là dậy dỗ. Yêu thương nên quan tâm nói những lời an ủi, khai sáng tâm trí, mặc khải chân lý. Chỉ có trái tim yêu thương mới dành thời giờ trò chuyện, quan tâm dậy dỗ như thế.
Thiên Chúa là Tình Yêu hành động. Chẳng phải chỉ nói suông mà còn hành động. Lo cho người đói ăn, dù số lượng vượt sức khả năng hạn hẹp của các tông đồ và hoàn cảnh giữa nơi hoang địa. Lập tức đi tìm. Không chỉ sai bảo, chính Chúa Giêsu trực tiếp vào cuộc, cầm lấy bánh và cá, làm phép, bẻ ra, trao cho môn đệ.
Thiên Chúa là Tình Yêu. Chỉ những ai yêu thương mới hiểu được Thiên Chúa. Không phải yêu bằng bất cứ cách nào, nhưng phải yêu như Chúa yêu. Thiên Chúa là Tình Yêu. Chỉ có ai yêu thương mới ở trong Thiên Chúa, mới sống trong Thiên Chúa và mới làm cho Thiên Chúa sống trong thế giới, trong anh em.
Thiên Chúa là Tình Yêu. Người xuống trần mở ra một thời kỳ mới. Thời kỷ yêu thương và tha thứ. Ta hãy cùng Người tiến hành thời kỳ Tân Phúc-âm-hóa trong yêu thương, tha thứ, quan tâm, sửa chữa, nâng đỡ lẫn nhau. Đó là xây dựng một thế giới mới
Chúa Giêsu làm liền một mạch 3 phép lạ: hóa bánh ra nhiều, đi trên mặt biển và truyền cho biển yên sóng lặng. Như thuở ban sơ, Lời Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ. Hôm nay Lời Chúa biến đổi vật chất. Cho thấy Chúa hoàn toàn làm chủ vũ trụ. Và đặc biệt chế ngự được biển khơi vốn bị coi là một lực lượng sự dữ hung hãn sẵn sàng nuốt chửng con người.
Thế nhưng các tông đồ sợ hãi, bàng hoàng sửng sốt vì tâm hồn các ông còn chai đá. Tại sao? Vì các ông không hiểu. Thực sự ai đối diện với quyền năng mà không sợ hãi. Vì mọi quyền năng thường đè bẹp, nghiền nát chúng ta. Nhưng Thiên Chúa thì khác. Chúa dùng quyền năng để quan tâm, yêu thương và chăm sóc. Chúa hóa bánh ra nhiều vì cảm thương dân chúng đói khát. Chúa dẹp yên sóng gió vì lo cho các tông đồ vất vả. Thánh Marcô thuật lại: “Người thấy các ông vất vả chèo chống, nên Người đi trên mặt biển mà đến với các ông”. Tất cả chỉ vì yêu thương. Nhưng lòng các tông đồ chai đá chưa hiểu và đón nhận yêu thương. Nên các ông sợ hãi.
Thánh Gioan trong thư thứ nhất cho biết Thiên Chúa là Tình Yêu. Nhưng tình yêu phải có hai chiều: cho đi và nhận lãnh. Vì thế tình yêu chỉ hoàn hảo ở hai dấu chỉ. Ta yêu thương nhau và không còn sợ hãi. Ta yêu thương nhau đó là dấu chỉ ta đón nhận tình yêu và phát triển tình yêu. Đón nhận từ Chúa và cho đi sang anh em. Ta không còn sợ hãi đó là dấu chỉ ta ở trong tình yêu của Chúa. Giống như đứa trẻ nằm trong tay mẹ hiền. Chẳng còn sợ hãi gì. Dù giông tố bão táp. Dù phán xét.
Thế giới hôm nay tràn đầy sợ hãi vì thừa quyền lực mà thiếu tình yêu. Quyền lực chính trị để trấn áp. Quyền lực kinh tế để bóc lột. Quyền lực khoa học để khai thác. Vì thế người nghèo nơm nớp lo sợ. Đặc biệt trong những chế độ độc tài toàn trị, nỗi sợ hãi tràn lan và kéo dài. Không chỉ người nghèo mà ngay cả người giầu cũng lo sợ. Người có quyền lực càng lo sợ hơn. Vì thế giới cạnh tranh.
Thiên Chúa tỏ mình ra là quyền năng yêu thương. Đó là niềm hi vọng cho một thế giới mới. Đó chính là ánh sáng Hiển Linh. Chúng ta hãy cộng tác với Chúa xây dựng thế giới mới. Chiếu ánh sáng Hiển Linh khắp chân trời góc biển. Bằng dùng quyền lực để phục vụ. Dùng quyền năng để quan tâm. Dùng quyền thế để yêu thương. Dùng quyền lợi để chia sẻ.
Khi ta thực hành yêu thương, Thiên Chúa ở với chúng ta. Chúng ta không còn sợ hãi. Thế giới trở nên vui tươi, hạnh phúc.
Trong tuần lễ Hiển linh, Chúa đã tỏ mình ra bằng nhiều cách khác nhau. Hôm nay không còn úp mở, Chúa nói chính thức và công khai: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai quý vị vừa nghe”.
Lời công bố minh nhiên này diễn ra trong làng quê bình lặng, giữa những người dân quê bình thường, trong khung cảnh một ngày Thứ 7 bình thường và trong buổi đọc Sách Thánh, cầu nguyện thường lệ. Thông điệp chỉ đi vào đời thường với những con người tầm thường, thậm chí còn bất hạnh, bị bỏ quên trong xã hội: “Thần Khí Đức chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn”. Quả thật suốt cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu đã sống phần lớn thời gian rất bình thường, làm thợ mộc giữa những người nghèo hèn. Nhưng Chúa đã yêu thương những con người bình thường. Chính vì thế Chúa đem hi vọng đến cho đời thường. Người mù hi vọng được nhìn thấy những điều mơ ước. Người câm nói được nỗi lòng mình. Người què đi được đến nơi muốn đến. Người điếc nghe được tiếng gọi muốn nghe. Người nghèo tìm được hạnh phúc.
Đời thường chiếm phần lớn thời gian ta sống ở đời. Chắc chắn đời thường có tầm quan trọng trong cuộc đời chúng ta. Ta phải trân trọng đời thường bằng cách yêu mến công việc hằng ngày và đặc biệt yêu mến những người anh em sống quanh ta và với ta.
Tại sao ta phải yêu thương anh em sống quanh ta và với ta? Thánh Gioan đưa ra 3 giải nghĩa.
Yêu Chúa phải yêu anh em. Vì Chúa vô hình còn anh em ta nhìn thấy hằng ngày. Nếu không yêu người hữu hình thì nói yêu Đấng Vô Hình là nói dối.
Yêu Chúa phải yêu anh em. Yêu nhau yêu cả đường đi. Yêu Chúa phải yêu người Chúa yêu. Anh em được Chúa yêu. Nên ta phải yêu anh em. Chúa sinh ra anh em. Yêu Đấng sinh thành thì phải yêu cả người được sinh thành.
Yêu Chúa phải yêu anh em. Đây không phải công việc của xác thịt thế gian, nhưng là công việc của Thần Khí. Yêu thương những người tầm thường, nghèo nàn. Yêu anh em nghèo hèn là sống theo Thần Khí. Đây là điều khó. Nhưng những ai do Thiên Chúa sinh ra đều có thể chiến thắng xác thịt thế gian.
Chúa Giêsu tiếp tục hiển linh với quyền năng tuyệt đối khi chữa lành người bệnh phong. Ngôi vị Thiên Chúa của Người được chứng thực bằng chính lời chứng của Thiên Chúa với ba chứng nhân: Thánh Thần, Nước và Máu. Thánh Thần là lời chứng đến từ Đức Chúa Cha. Nước và Máu là lời chứng của chính Chúa Giêsu. Tất cả làm thành lời chứng của Ba Ngôi Thiên Chúa. Tất cả là lời chứng về quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa.
Thánh Thần là tình yêu kết hiệp Ba Ngôi Thiên Chúa, là sự sống, là sức mạnh, là lò lửa, là nguồn sinh lực vô biên, không bao giờ vơi cạn, nhưng ngày càng sung mãn. Là sự thật, là nguồn mạch sự thật, nên là lời chứng không thể phủ nhận được.
Nước và Máu là tình yêu cụ thể, thể hiện trong xác thịt Con Người, trước mắt mọi người. Là tình yêu bao dung, tẩy sạch mọi tội lỗi vô vàn vô số của nhân loại. Nhưng trên hết là tình yêu cứu độ đưa loài người từ tình trạng bị trừng phạt đến được thứ tha, từ thân phận nô lệ khốn khổ về làm con Thiên Chúa trong tự do, từ vực sâu sự chết đớn đau về vinh quang khôn sánh của con Thiên Chúa. Đó là tình yêu lớn lao cao cả nhất dám hi sinh tính mạng vì bạn hữu. Vì thế cũng là lời chứng chân thực nhất và có sức thuyết phục nhất.
Lời chứng tuyệt đối quan trọng không chỉ vì thế giá của Thiên Chúa, nhưng quan trọng vì quyết định vận mệnh của ta. Bằng chứng ấy chỉ nói lên một điều quan trọng: Thiên Chúa yêu thương ta vô vàn và Thiên Chúa đã làm tất cả chỉ vì muốn ta được sống và được hạnh phúc. Chính vì thế lời chứng ấy đặt ta trước một chọn lựa sinh tử: Tin hay không. Từ đó là quyết định sống hay chết.
Người bệnh phong là người coi như đã chết vì bị loại trừ khỏi cộng đoàn và không có hi vọng được chữa lành. Người bệnh phong là người đã ở bên bờ vực sinh tử, ở lằn ranh giữa cái chết và cái sống. Anh đã tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Giêsu. Anh đã lựa chọn đúng nên đã từ cõi chết trở về cõi sống. Anh đã lựa chọn niềm tin vào con Thiên Chúa nên anh có sự sống, không chỉ là sự sống với đầy đủ ý nghĩa nhất của thân xác, nhưng còn là sự sống đời đời của linh hồn bất diệt.
Lạy Thiên Chúa là Tình Yêu. Bằng chứng của Chúa chính là bằng chứng của tình yêu. Động lực của bằng chứng cũng là tình yêu: mong muốn đem đến cho con sự sống đời đời. Xin cho con biết tin nhận và tuyên xưng Thiên Chúa Tình Yêu trong suốt cuộc đời con.
Đã có tranh luận và tranh chấp. Vì đòi quyền lợi, đòi uy tín. Các môn đệ Gioan muốn kéo Gio-an vào cuộc. Thánh Gioan Tẩy giả đã vượt qua cuộc tranh chấp bằng một chiến thắng bản thân.
Ngài đã chiến thắng vì Ngài đã biết phân định. Đúng như lời thánh Gioan Tông đồ: “Thiên Chúa ban cho chúng ta trí khôn để biết Thiên Chúa thật”. Cuộc phân định của Thánh Gioan Tẩy giả thật minh bạch khi Ngài xác định: “Tôi đây không phải là Đấng Kitô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người. … Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn”.
Ngài đã chiến thắng vì Ngài luôn ở trong Thiên Chúa. Nhận biết mọi việc của mình đều bởi Thiên Chúa ban cho, nên Ngài đã khuyến cáo môn đệ: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban”. Biết mọi sự mình có đều là của Chúa. Xác tín mình thuộc về Thiên Chúa chứ không thuộc về trần gian, Ngài đã thoát được thói tranh đua của trần gian. Luôn qui phục Thiên Chúa.
Ngài đã chiến thắng vì Ngài luôn thực hiện chương trình của Thiên Chúa. Ngài có bổn phận làm chứng cho Chúa Giêsu. Ngài tự nguyện chìm vào bóng tối để Chúa Giêsu càng được nhận biết: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi”. Chấp nhận lu mờ đến tự hủy mình chịu chết trong cung điện vua Hê-rô-đê .
Chúa Giêsu đến tiến hành cuộc chiến giữa Nước Trời và thế gian. Thánh Gio-an Tẩy giả xứng đáng là người mở đường khi can đảm tự nguyện hi sinh để Nước Trời có cuộc chiến thắng thế gian ngay trong chính bản thân Ngài. Xin cho con biết noi gương thánh Gioan Tẩy giả luôn biết quên mình để chương trình của Chúa được thực hiện.
Sau khi vượt qua Biển Đỏ, trước khi ký kết giao ước với Thiên Chúa, Mô-sê trình bày rõ ràng tình hình. Để dân chúng tự do chọn lựa. Hoặc ký giao ước với Thiên Chúa để được sống. Hoặc đi theo các bụt thần dân ngoại sẽ bị chết. “Coi đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là phải chết, bị tai hoạ…Nếu anh em trở lòng và không vâng nghe, lại bị lôi cuốn và sụp xuống lạy các thần khác và phụng thờ chúng, thì hôm nay tôi báo cho anh em biết: chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong, sẽ không được sống lâu trên đất… Anh em hãy chọn sống để anh em và dòng dõi anh em được sống, nghĩa là hãy yêu mến đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, nghe tiếng Người và gắn bó với Người, vì như thế anh em sẽ được sống, sống lâu mà ở lại trên đất Đức Chúa đã thề với cha ông anh em”.
Chúa Giê-su đi vào sâu xa hơn. Đó là chọn lựa giữa Thiên Chúa và bản thân. “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì”?
Bản thân đang trở thành ngẫu tượng. Với trào lưu tìm hưởng thụ. Cá nhân. Tự do. Con người vừa thờ phượng thân xác. Vừa phóng túng sử dụng nó vào hưởng thụ khoái lạc. Nhưng lại sẵn sàng hi sinh thân thể của tha nhân. Coi như một món hàng. Để trục lợi. Nhưng chọn lựa bản thân sẽ diệt vong. Đó chính là nền văn hoá sự chết. Huỷ hoại chính mình. Huỷ hoại tha nhân. Vì khinh thường sự sống. Thật hiển nhiên: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất”.
Đi theo Chúa là từ bỏ bản thân. Chế ngự xác thịt. Vượt trên thú tính. Đạt đến phẩm giá con Thiên Chúa. Sẽ được chính Thiên Chúa. Là sự sống. Sự sống viên mãn. Là hạnh phúc. Là niềm vui đích thực. Từ bỏ hết. Để được lại tất cả.
Mùa Chay là mùa ta phải ngồi suy xét lại. Kiểm điểm lại. Chỉnh đốn lại. Chọn lựa lại. Chọn lựa đúng đã là khó. Kiên quyết theo chọn lựa đúng còn khó hơn. Biết dễ làm khó. Xin Lời Chúa soi sáng để ta có lựa chọn sáng suốt. Xin sức mạnh của Chúa giúp ta đủ sức thi hành điều đã chọn lựa.
Chay tịnh là một thực hành tôn giáo có từ lâu đời. Nhưng nhiều khi biến thành hình thức. Đánh mất ý nghĩa thực sự. Thực ra chay tịnh là để hãm dẹp xác thịt. Kềm chế dục vọng. Loại trừ tính hư tật xấu. Từ bỏ cái tôi. Để Thiên Chúa ngự trị. Khi có Thiên Chúa ngự trị ta đạt đến đích điểm của đạo rồi. Khi đó đạo trở thành niềm vui. Chỉ khi ta phạm tội, lạc mất Thiên Chúa, ta mới phải ăn chay. Như Chúa Giê-su dạy: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc, khi chàng rể còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay”.
Vì thế từ xa xưa các tiên tri đã quyết liệt đả phá thói ăn chay hình thức. “Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vài thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa?”
Tệ hơn nữa ăn chay trở thành giả hình. Và nhất là trở thành phản chứng. Vì khi ăn chay vẫn còn lo kiếm lợi nhuận bằng áp bức tha nhân. Vẫn còn chia rẽ bất hoà, thậm chí hành hung người khác: “Này ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn”.
Chúa cho biết cách ăn chay đẹp lòng Chúa là quan tâm đến người nghèo khổ. Chia sẻ vật chất với người túng nghèo. Giải phóng kẻ bị tù tội. “Cách ăn chay mà ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?”
Ăn chay là để kết hợp với Chúa. Vì thế ăn chay phải quan tâm phục vụ tha nhân. Vì Chúa ở trong tha nhân. Đặc biệt những người anh em nghèo khổ bất hạnh. Vì thế ăn chay là phải hãm dẹp bản thân. Bớt chi tiêu. Để giúp người nghèo. Khi đó ta gặp được Chúa. Khi đó ăn chay đạt tới ý nghĩa đích thực.
Hôm qua, I-sai-a đã chỉ cho ta cách ăn chay đẹp lòng Chúa là sống tình bác ái với tha nhân. Hôm nay I-sai-a còn đi xa hơn khi cho thấy tình yêu thương có sức biến đổi thế giới, sửa chữa và tái thiết thế giới bị hủy hoại, đem lại sự sống đã suy tàn. Ngài nói: “Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở gông cùm, cử chỉ đe dọa và lời nói hại người, nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói, làm thỏa lòng người bị hạ nhục, thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu tỏa trong bóng tối.. Nhờ ngươi người ta sẽ tái thiết những tàn tích cổ xưa, ngươi sẽ dựng lại những nền móng của các thế hệ trước, người ta sẽ gọi ngươi là người sửa lại những lỗ hổng, là kẻ tu bổ phố phường cho người ta cư ngụ”.
Điều đó hoàn toàn ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Đặc biệt với việc Chúa đến bàn thu thuế và kêu gọi Matthêu. Việc kêu gọi Mat-thêu nói lên tình yêu thương của Chúa. Vì lòng thương xót nên Chúa hạ mình xuống nơi nhơ uế này. Vì lòng thương xót nên Người đưa mắt nhìn Mat-thêu. Không nhìn với ánh mắt khinh miệt. Nhưng nhìn với tình yêu thương tin tưởng. Và thật lạ lùng với lòng thương xót, Chúa kêu gọi Mat-thêu, một người tội lỗi, làm tông đồ của Chúa.
Lòng thương xót đã biến đổi Matthêu. Từ một người tội lỗi thành một người thánh thiện. Từ một người phản đạo thành một tông đồ nhiệt thành. Từ một người theo đuổi tiền bạc thành một người tha thiết với các linh hồn. Từ một người ham mê tiền bạc thành một người siêu thoát dứt bỏ. Việc đổi đời, dứt bỏ được tiền bạc khiến ông vui mừng đến nỗi mở tiệc ăn mừng. Quả thật tình yêu có sức biến đổi con người.
Thế giới hôm nay như sau một trận chiến để lại biết bao người mang thương tích, biết bao hoang tàn đổ vỡ. Cần có lòng thương xót để chữa lành vết thương, tái thiết thế giới. Chính trong bản thân ta đang có đổ vỡ, có nhiều vết thương. Xin lòng thương xót của Chúa đến băng bó và chữa lành ta.
Về bổn phận đối với tha nhân, Cựu Ước chỉ đòi hỏi tránh làm điều xấu cho tha nhân. Phải sống công bằng: “Không được trộm cắp, không được nói dối, không được lừa gạt đồng bào mình”. “Hãy xét xử công minh cho người đồng bào”. Công bằng là lý tưởng mà mọi xã hội ước mơ. Nhưng cho đến thiên niên kỷ thứ 3 vẫn chỉ là mơ ước. Thực sự những bất công còn quá nhiều và trầm trọng. Nhưng Tân Ước đi đến tích cực hơn. Phải sống bác ái. Phải làm điều tốt. Phải chia sẻ. Chia sẻ đặc biệt quan trọng.
Chia sẻ là một công bằng ở tầm mức cao hơn. Thực vậy, Chúa ban của cải cho mọi người hưởng dùng. Ta không có quyền chiếm hữu quá nhiều trong khi người khác thiếu thốn. Dư thừa là một tội bất công. Chênh lệch trong xã hội là mầm mống bất ổn. Nếu người có quyền không giải quyết nghèo đói, nghèo đói sẽ giải quyết người có quyền.
Hơn thế nữa, chia sẻ là một bổn phận, vì mọi người là anh em của ta. Mỗi người đều có phẩm giá và phải được quyền sống xứng đáng với phẩm giá của mình. Để một người sống không xứng đáng là hạ nhục chính mình. Hơn nữa mọi người là anh em, nên ta có bổn phận giúp đỡ, chia sẻ. Để một người anh em túng thiếu trong khi mình dư dật là một tội lỗi xấu xa. Còn hơn thế nữa, mọi người đều là chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Chúa. Để một chi thể đau yếu, chết yểu là giết chết chính thân mình.
Nhưng trên hết, chính Chúa đồng hóa với người nghèo. Ai giúp người nghèo là giúp chính Chúa. Với sự thật này, Chúa nâng cao giá trị việc chia sẻ lên tầm mức đạo đức chính yếu của đạo. Đây là việc quan trọng, không làm sẽ bị tội. Và nâng cao giá trị người chia sẻ, vì khi chia sẻ ta chia sẻ với chính Chúa. Chính Chúa ban cho ta mọi của cải trần gian, thế mà Chúa lại cho ta được vinh dự chia sẻ với Chúa khi Chúa tự nguyện hóa thân trong người nghèo để cần sự trợ giúp của ta. Bổn phận này nâng cao tầm bác ái Kitô giáo. Yêu người không còn phải như yêu chính mình nữa. Mà yêu người phải như yêu Chúa.
Hiểu biết giá trị của chia sẻ như thế ta sẽ mau mắn và rộng rãi chia sẻ với anh em. Yêu mến Chúa thúc đẩy ta chia sẻ với Chúa. Biết chia sẻ là nguồn mạch ơn lành, tại sao ta không có nhiều sáng kiến, tìm ra nhiều dịp và nhiều người để thực hành chia sẻ trong mùa Chay này?
Lời Chúa như mưa với tuyết từ trời sa xuống làm đất đai phì nhiêu, đem no ấm cho mọi người. Chúa Giêsu là Ngôi Lời xuống trần gian dậy cho con người biết thánh ý Thiên Chúa để được hạnh phúc. Nên đã dậy ta cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha.
Với kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy ta biết cầu nguyện là đến với Thiên Chúa là Cha chúng ta. Cầu nguyện không phải là ăn xin nhưng là tình thân. Không phải đến cửa quan nhưng là về nhà mình. Là chìm vào đáy lòng, trong thân tình để gặp được Chúa là người Cha vô cùng quyền năng nhưng cũng vô cùng yêu thương nhân hậu.
Với kinh Lạy Cha Chúa Giêsu dạy ta biết sống tâm tình hiếu thảo. Người con hiếu thảo lo việc chung của gia đình của cha mẹ. Trong việc chung của cha mẹ, có phần hạnh phúc của con cái. Chương trình của Chúa dành cho ta là tối ưu. Vì thế tiên vàn phải cầu nguyện cho chương trình của Chúa được thực hiện. Khi Nước Chúa ngự đến ta sẽ được thỏa mãn mọi khát vọng.
Với kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy ta biết sống tình bác ái huynh đệ. Chúa là Cha nên mọi người là anh em. Con người là bất toàn, là sai lỗi. Ta cần Chúa tha lỗi cho ta thì ta cũng phải sẵn sàng tha lỗi cho anh em. Điều này quan trọng để chứng tỏ đức tin. Vì Chúa vô hình ta không thấy được. Nhưng anh em thì ta phải gặp gỡ sống chung hằng ngày. Chính thái độ của ta đối với anh em nói lên đức tin vào Thiên Chúa là Cha.
Với kinh Lạy Cha Chúa Giêsu dạy ta cầu nguyện không phải là lời đầu môi chót lưỡi nhưng phải thực hành. Tâm tình con thảo phải được thể hiện trong việc chăm lo mở rộng Nước Chúa, Tâm tình huynh đệ phải được thể hiện trong đời sống chan hòa yêu thương. Và nhất là trong sự cảm thông tha thứ. Lời cầu nguyện chỉ chân thực khi có thực hành. Lời cầu nguyện chỉ tha thiết khi ta cố gắng hết sức để thực hiện những ước mơ đó trong hành động.
Chúa Giêsu khen nữ hoàng Saba và dân thành Ni-ni-vê. Họ có những phẩm chất của Tin Mừng.
Nhạy bén. Họ nhạy bén lắng nghe. Từ Sa-ba xa xôi mà nữ hoàng cũng nghe được tiếng tăm Sa-lo-mon. Dù đang phạm tội, dân thành Ni-ni-vê cũng nghe được tiếng Gio-na. Họ nhạy bén đón nhận. Họ lắng nghe chăm chú. Họ đón nhận, Họ để sứ điệp đụng chạm bản thân, thấm nhập tâm hồn. Họ nhạy bén hành động: đón nhận rồi họ hành động tức khắc. Nữ hoàng rong buồm ra đi, dân Ni-ni-vê cải đổi đời sống.
Khiêm nhường. Họ nhạy bén vì họ rất khiêm nhường. Nữ hoàng biết mình kém hiểu biết nên khao khát nghe sự khôn ngoan của Sa-lo-mon; dân Ni-ni-vê biết mình tội lỗi nên đã hối cải theo lời khuyên của Gio-na.
Thành tâm. Khiêm nhường vì thành tâm, khao khát điều tốt. Khi biết điều hay lẽ phải lập tức tuân hành. Những người thời Chúa Giê-su không được như thế.
Người thời Gio-na đã nghe lời ông. Người thời Chúa Giê-su không nghe lời Chúa. Dù Chúa trổi vượt hơn Gio-na về tất cả. Gio-na được Thiên Chúa sai đến. Chúa Giê-su chính là Thiên Chúa đích thân đến. Gio-na miễn cưỡng đến Ni-ni-vê. Chúa Giê-su tự nguyện xuống trần. Gio-na ở trong bụng cá ba ngày nhưng không chết. Chúa Giê-su chịu vùi chôn trong lòng đất vì đã chết thật. Gio-na không tự mình sống lại. Chúa chiến thắng thần chết và sống lại hiển vinh.
Nữ hoàng Sa-ba ngưỡng mộ sự khôn ngoan của Sa-lo-mon. Người thời Chúa Giê-su không hiểu sự khôn ngoan của Chúa Giê-su. Dù Chúa Giê-su trổi vượt Sa-lo-mon muôn ngàn lần. Sa-lo-mon được Thiên Chúa ban sự khôn ngoan. Chúa Giê-su là Ngôi Lời, là chính sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Sa-lo-mon chỉ là sự khôn ngoan của trần gian. Chúa Giê-su là sự khôn ngoan của Nước Trời. Sự khôn ngoan của thập giá. Sự khôn ngoan của tình yêu. Sự khôn ngoan dẫn ta đến sự sống đời đời.
Mùa Chay là mùa rèn luyện tâm hồn nhạy bén. Để nhận được những tín hiệu Chúa gửi. Để sứ điệp của Chúa thấm sâu vào tâm hồn. Biến thành hành động tức khắc và cụ thể.
Chúa Giêsu nói những lời đầy hi vọng. “Cứ xin thì sẽ được. Cứ tìm thì sẽ thấy. Cứ gõ cửa sẽ mở cho”. Câu chuyện về Hoàng hậu Ét-te là một minh họa sống động. Ta phải học hỏi tấm gương cầu nguyện của bà.
Bà được nhận lời vì chỉ trông cậy một mình Chúa. Ở trong lúc bơ vơ khốn khổ chỉ có Chúa là nơi nương tựa duy nhất. Trong thân phận cô đơn yếu thế chỉ có Chúa là điểm tựa duy nhất. Trong cơn hiểm nguy cùng cực chỉ có Chúa là vị cứu tinh duy nhất. Vì chỉ trông cậy một mình Chúa nên bà chọn cầu nguyện là giải pháp duy nhất. Là giải pháp đầu tiên. Là giải pháp cuối cùng.
Bà được nhận lời vì đi vào chương trình của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tuyển chọn Ít-ra-en làm dân riêng để từ đó phát xuất ra Đấng Cứu Thế. Để chương trình cứu độ được thực hiện Chúa ra tay bảo vệ dân riêng Chúa đã chọn. Để trung tín với lời hứa, Chúa giải cứu Ít-ra-en trong lúc gian nguy.
Chúa Giê-su dạy ta cầu nguyện là đi vào mối tương giao thân tình với Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha của ta. Còn nơi nương tựa nào vững chắc hơn là người Cha. Còn vị cứu tinh nào thần thế hơn người Cha. Cha là tất cả. Cha sẽ lo cho con tất cả.
Chúa Giê-su cũng dậy ta cầu nguyện phải đi vào chương trình của Thiên Chúa. Chúa có chương trình cho mỗi người. Chương trình đó là tuyệt hảo, tối ưu. Nếu ta cầu nguyện theo ý riêng, những điều đó chưa chắc đã ích lợi cho ta. Nhưng nếu ta cầu nguyện theo ý Chúa, điều đó chắc chắn ích lợi cho ta.
Chúa Cha là người Cha nhân lành và quan phòng, không bao giờ ban cho ta những điều có hại cho ta. Nhưng Chúa sẽ ban những gì tốt đẹp nhất cho ta không chỉ bây giờ mà còn sau này và mãi mãi.
Vì thế cầu nguyện phải đi đến chỗ hòa hợp ý ta với ý Thiên Chúa. Để ta hoàn toàn kết hợp với Thiên Chúa. Để ý ta hoàn toàn phù hợp với ý Thiên Chúa. Để ý Chúa trở thành ý ta. Khi đó ta sẽ đạt được mọi điều mong muốn và còn hơn thế nữa. Khi nào thánh ý Chúa được thể hiện, con người sẽ được hạnh phúc.
Cứ đến với Cha như người con bé nhỏ yếu đuối, chắc chắn Cha sẽ thương ban ơn che chở. Cứ gõ vào cánh cửa tình thương của Cha chắc chắn Cha sẽ mở cho con. Cứ tìm thánh ý Cha chắc chắn sẽ thấy chương trình Cha dành cho con vô cùng tốt đẹp.
Thiên Chúa là tình yêu. Tội lỗi đem đến chết chóc. Thiên Chúa không ngừng mong chờ, thúc giục con người từ bỏ tội lỗi, sống công chính để được sự sống.
Thiên Chúa mong muốn con cái Người công chính hơn người Biệt phái. Nếu người Biệt phái chỉ giữ lề luật theo hình thức, Thiên Chúa mong muốn con cái của Người giữ lề luật bằng tình yêu.
Theo luật thường, ai xúc phạm đến thân xác đồng loại mới bị trừng phạt. Nhưng Chúa dậy ta ai xúc phạm đồng loại chỉ bằng lời nói, thậm chí chỉ trong tư tưởng thôi cũng đã bị trừng phạt rồi.
Như thế Chúa không hài lòng với vẻ hài hòa bên ngoài. Chúa nhìn tận đáy sâu tâm hồn. Chúa đòi hỏi tình yêu thực sự phát xuất từ đáy lòng. Vì thế, không làm ác là chưa đủ. Vì nếu ta chất chứa lòng ghen ghét trong tâm hồn thì mầm mống chiến tranh hận thù vẫn còn đó. Sẽ có lúc bùng nổ. Không làm ác mới chỉ bằng người Biệt phái mà thôi. Chúa muốn con cái Chúa phải công chính hơn người Biệt phái. Phải có tình yêu từ đáy tâm hồn. Phải nghĩ tốt và nói tốt cho người khác.
Và ngạc nhiên chưa, Chúa còn đi một bước nhảy vọt. Buộc ta phải làm hòa với người bất bình với ta. Tại sao thế? Vì Chúa muốn thế giới sạch bóng thù hận ghen ghét để tình yêu thống trị. Dù ta không gây ra chia rẽ bất hòa, ta vẫn có nhiệm vụ hàn gắn chia rẽ bất hòa. Vì ta đã là duyên cớ dù vô tình cho người oán ghét. Vì ta có nhiệm vụ tiếp tay với Chúa làm cho thế giới sống hài hòa.
Chỉ sau khi làm hòa ta mới có thể dâng của lễ. Vì Chúa là tình yêu không thể nhận của lễ khi thế giới còn chia rẽ bất hòa. Vì của lễ ta dâng đẹp lòng Chúa không phải là lễ vật đắt tiền quí giá, nhưng là sự hi sinh kiến tạo hòa bình, xây dựng tình yêu. Điều đó buộc ta không chỉ thanh tẩy mình mà còn phải thanh tẩy cả thế giới. Không chỉ tắm rửa cho bản thân, nhưng con phải lau sạch cả căn nhà. Không chỉ không giận ai mà còn phải làm cho không ai giận mình. Lúc ấy thế giới mới thật sự tươi đẹp.
Nếu thế mùa chay này tôi còn rất nhiều việc phải làm để xứng đáng dâng lễ Chúa Phục Sinh.
Chúa yêu thương ta biết bao. Vì yêu thương nên Chúa muốn ta là của riêng Chúa. Là dân riêng của Chúa. Là con riêng của Chúa. Cũng vì yêu thương mà Chúa đòi hỏi ta hơn người khác. Ta phải “trổi vượt mọi dân tộc, xẻt về vinh dự, danh tiếng và vinh quang…” Và vì thế ta phải trổi vượt cả về đức độ. Vì ta phải hoàn thiện như Chúa là Cha chúng ta ở trên trời là đấng hoàn thiện. Đó là phải yêu như Chúa.
Ai cũng cảm thấy hạnh phúc khi được yêu thương. Ai cũng cảm thấy đau buồn khi bị ghét bỏ. Nhưng lòng ghen ghét vẫn tồn tại. Và tình yêu vẫn thiếu thốn. Đó là vì chúng ta yêu thương theo cảm tính, theo liên hệ bình thường. Yêu những người dễ yêu. Yêu những ai yêu mình. Đó là cảm tính. Đó là vụ lợi. Đó chưa phải là tình yêu. Vì tình yêu như thế không tùy thuộc vào ta nhưng tùy thuộc vào đối tượng. Đối tượng đó quyết định tình yêu của ta. Như thế chưa phải là tình yêu. Như thế là tình yêu có điều kiện.
Chúa Giêsu dạy ta biết thế nào là tình yêu thực sự. Tình yêu thực sự không phải là cảm tính nhưng là lý trí. Tình yêu thực sự phát xuất từ trái tim mình chứ không bị điều kiện hóa bởi đối tượng. Tôi yêu vì tôi yêu chứ không phải vì đối tượng dễ yêu hay vì đáp lại tình yêu của người khác. Tình yêu như thế cứ bừng nở, dàn trải, tỏa lan, bất chấp đối tượng có đón nhận hay không, có dễ thương hay không, có đáp lại hay không.
Yêu thương đến bao phủ mọi người trong tình yêu. Yêu thương đến hoán cải mọi người nên tình yêu. Vì thế không phân biệt kẻ thân người sơ. Vì thế cầu nguyện cho những ai chưa yêu để họ được biết yêu.
Yêu thương như thế là nên giống Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu cho mặt trời mọc lên soi sáng tất cả mọi người, cho mưa xuống trên tất cả mọi người. Tình yêu như thế sẽ lan tỏa khắp nơi. Ai lấy tay che được mặt trời. Ai có thể ngăn chặn không cho mưa rơi. Hãy là mặt trời bừng sáng bất chấp quanh ta có bóng tối hận thù. Hãy là cơn mưa tràn trề để không một loài cỏ cây hoa lá nào, không một miền nào dù đất thịt hay cát sỏi, cũng đều được mưa nhuần thấm đượm.
Yêu thương như thế là tiến đến con đường hoàn thiện. Là mang trái tim Thiên Chúa bao phủ ấp ủ cả thế giới. Yêu thương như thế là biến đổi thế giới. Vì chẳng có cái ác nào có thể ngăn chặn được tình yêu ấy. Chẳng có chia rẽ hận thù nào có thể cản trở trái tim ấy mở ra.
Mùa chay là mùa trở về với Chúa. Đa-ni-ên cho thấy con người thật xấu xa tội lỗi. Cần trở về với Chúa. Cần được Chúa xót thương tha thứ.
Nhưng muốn về với Chúa phải đi qua con đường. Hôm nay Chúa Giê-su cho biết con đường đó chính là con người. Thái độ của ta đối với đồng loại sẽ quyết định tương lai của ta. Con đường về với Chúa có bằng phẳng hay không là tùy mối quan hệ của ta với đồng loại có êm xuôi hay không.
Thiên Chúa là Cha nhân từ. Được đến với Chúa ta sẽ được hưởng lòng nhân từ của Chúa. Nhưng để đến được với Chúa ta cũng phải nhân từ như Chúa. Nhân từ vừa là kết quả của việc gặp gỡ kết hiệp với Chúa nhưng đồng thời cũng là điều kiện để được đến gặp gỡ Chúa.
Là kết quả. Ai đã gặp gỡ kết hiệp với Chúa sẽ trở nên giống Chúa, sẽ biết yêu thương đồng loại. Sẽ biết khoan dung, tha thứ, đối xử nhân từ độ lượng với đồng loại.
Là điều kiện. Ai muốn được Chúa nhân từ cũng phải nhân từ với anh em. Chúa cho ta tự do được lựa chọn quy luật xét xử. Nếu ta khắc nghiệt với anh em, Chúa cũng dùng sự khắc nghiệt đó để xét xử ta. Nếu ta khoan dung tha thứ đối xử rộng lượng với anh em, Chúa cũng khoan dung tha thứ, đối xử rộng lượng với ta.
Còn hơn thế nữa. Chúa không chịu thua lòng quảng đại của ta. Ta cho đi một thì Chúa trả lại gấp trăm ngàn lần.
Mùa Chay, phải tìm đường về với Chúa, chính vì thế phải tìm đường về với anh em. Vì con người chính là con đường Chúa muốn ta đi qua để đến với Chúa. Đường rộng hay hẹp, quanh co hay ngay thẳng, gồ ghề hay phẳng phiu là tùy ta quyết định. Ta tội lỗi xấu xa cần đến lòng thương xót của Chúa. Nhưng lòng thương xót ấy ta phải tự tạo khi ta tỏ lòng thương xót tha thứ cho anh em. Điều ta tìm kiếm ta sẽ gặp được. Ta được tha thứ khi chính trong ta có lòng tha thứ. Ta được thương xót khi lòng ta dâng lên mối cảm thương. Chính khi thương xót tha thứ cho anh em, ta được Chúa ở cùng ta. Ta mang tấm lòng Thiên Chúa. Đó chính là khởi điểm và cũng là đích điểm của mùa Chay. Tìm về với Chúa và đạt được chính Chúa. Xa mà gần biết bao.
Mùa Chay không phải là lý thuyết. Sống mùa Chay phải thực hành. Như dân thành Sô-đô-ma và Gô-mô-ra. Nếu thực hành Lời Chúa dạy thì tội “dù có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hóa trắng như bông”.
Nhưng ta thường nói mà không làm. Hoặc chỉ dạy người khác mà bản thân không thực hành. Trước hết vì nói dễ làm khó. Đặc biệt những người có trách nhiệm đứng đầu, có bổn phận dạy dỗ. Ta dễ méo mó công việc khi dạy lý thuyết cho người khác còn chính bản thân không thực hành. Và tệ hơn nữa khi ta tự coi mình là cha, là thầy, là người lãnh đạo. Hôm nay Chúa Giê-su dạy ta biết chỉ có Chúa mới là cha, là thầy, và là người lãnh đạo.
Cha là người ban sự sống. Ta chẳng thể ban sự sống. Chỉ Thiên Chúa mới ban sự sống. Chỉ Thiên Chúa là Cha của chúng ta. Khôn ngoan là phải biết khiêm nhường tìm đến Thiên Chúa là đấng ban sự sống.
Thầy là người nắm giữ chân lý. Ta chẳng có chân lý. Chỉ Thiên Chúa mới có sự thật. Chúa Giê-su mới là Thầy duy nhất. Vì thế khôn ngoan là khiêm tốn lắng nghe Lời Chúa.
Lãnh đạo là người dẫn đường. Ta không biết đường. Hằng ngày phải dọ dẫm tìm đường đi. Chỉ Thiên Chúa biết đường dẫn đến Người. Chúa Giê-su là người lãnh đạo duy nhất. Ta phải ngoan ngoãn tuân theo hướng dẫn của Người.
Mùa Chay ta hãy đi theo Chúa Giêsu. Người chính là “Con Đường, Sự Thật và Sự Sống”. Đi theo Người là đi trên đường khổ nạn. Nhưng đi theo Người ta chắc chắn đi trên Con Đường thẳng tắp dẫn đến Sự Thật, đạt đến Sự Sống muôn đời. Đi theo Người trên con đường hiếu thảo. Luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha. Luôn tìm thi hành thánh ý Chúa Cha. Đó chính là tin nhận Thiên Chúa là Cha, là Thầy, là Người Hướng Đạo.
Lạy Cha, xin cho con sống hiếu thảo với Cha, để được là người con, nhận được Sự Sống từ Cha. Xin cho con biết lắng nghe Lời Cha, để được biết Sự Thật. Xin cho con hằng chăm chú học hỏi với Lời Chúa để con đạt tới Sự Thật. Xin cho con biết luôn đi theo con đường của Con Cha, để con đạt tới chính Cha là hạnh phúc muôn đời cho con.
Thế gian chạy theo thế gian. Giá trị Nước Trời trở thành cản đường. Vì thế họ muốn tiêu diệt các tiên tri. Giê-rê-mi-a làm điều tốt lành cho họ. Nhưng họ vẫn muốn giết chết ngài. Họ muốn tẩy trừ tư tế, hiền nhân và tiên tri ra khỏi đời sống để hoàn toàn có thể theo đuổi trần gian.
Thói thế gian len lỏi cả vào hàng ngũ môn đệ thân tín của Chúa. Thật đáng buồn khi Thầy trò đồng sàng dị mộng. Chúa dậy các ông con đường Nước Trời là tự hạ để được nâng lên, quên mình để được tôn vinh, phục vụ để được lãnh đạo, chịu chết để được sống. Nhưng họ vẫn theo con đường trần gian.
Hai người đã cậy thế cậy thân vận động để được chức quyền. Thật là đem cả thói thế gian vào chính trung tâm của sự thánh thiện. Dám đem những lời nhơ uế làm bẩn lỗ tai thánh thiện. Buồn hơn nữa là các tông đồ tỏ ra bất bình. Tại sao? Vì cũng nặng lòng với thế gian. Cũng đang ngắm nghé chỗ cao chỗ thấp. Có cạnh tranh nên có bất bình. Nói ra hay không cũng đều giống nhau cả.
Một lần nữa Chúa phải nói rõ ràng về những khác biệt giữa thói thế gian và thái độ của Nước Trời. Đó là hai con đường ngược chiều. Thói thế gian muốn danh, lợi, thú. Muốn thống trị, ăn trên ngồi trước. Nhưng trong Nước Trời thì phải ngược lại. “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em”.
Chính Chúa đã mở ra con đường khiêm nhường phục vụ vì “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dân mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Phục vụ là quên mình. Quên mình đến hiến dâng mạng sống là phục vụ ở mức cao nhất. Là hoàn toàn coi mình là tầm thường, là tôi tớ, là không có giá trị gì. Coi anh em là tuyệt đối, là đáng quí, đáng trọng.
Tôi đang thao thức điều gì? Theo thói thế gian hay theo phong cách Nước Trời? Tôi đi vào con đường của Chúa hay của trần gian?
Ai giầu ai nghèo? Tùy cách nhìn và tầm nhìn. Giê-rê-mi-a có một cách nhìn và một tầm nhìn xa rộng khi cho biết ai tin ở người đời sẽ nghèo nàn và mau tàn lụi. Như bụi cây trong hoang địa khô cằn tàn tạ. Chỉ người tin tưởng ở Thiên Chúa mới trường tồn và phong phú. Như cây trồng bên dòng nước xanh tươi không ngừng trổ sinh hoa trái. Giầu nghèo đời này và đời sau thật khác biệt.
Chỉ say mê của cải đời này thì thật nghèo nàn. Vì cơm áo gạo tiền không phải là tất cả. Tài nguyên của vũ trụ còn mênh mông không thể đo lường. Ông phú hộ khi bước vào đời sau mới thấy mình trắng tay. La-za-rô nghèo ở đời này nên chỉ trông cậy kho tàng thiêng liêng. Nhưng khi bước vào đời sau ông thật giầu có. Kho tàng thiêng liêng vô tận. Quí giá nhất là được hạnh phúc với Chúa.
Chỉ đóng kín vào bản thân thì thật chật hẹp. Con người là tương giao. Càng mở rộng càng phong phú. Ông phú hộ chỉ nhìn vào bản thân, chỉ nghĩ đến bản thân, chỉ chăm chút cho bản thân. Khi chết mới thấy mình cô đơn. La-za-rô không có gì nên biết mở lòng ra. Nên khi chết ông được nằm trong lòng thương mến của mọi người, của Chúa và các thánh. Ông phong phú biết bao.
Chỉ tin vào người đời thì thật dại dột. Vì người đời giới hạn. Dù thành tâm nhưng cũng chẳng hiểu biết mọi lẽ của vũ trụ. Người đời cũng yếu ớt mong manh, mau tàn. Cậy dựa vào người đời khác nào tựa vào thân cây mục nát. Gẫy đổ sẽ kéo theo con người rơi xuống vực thẳm. Ông phú hộ rơi xuống vực sâu vô tận không có thể thoát ra. La-za-rô không tìm gì được ở nơi người đời. Ông chỉ tin vào Thiên Chúa. Nên ông có chỗ dựa vững chắc. Đời đời.
Chỉ nhìn vào mặt đất thì thật thiển cận. Còn trời cao. Còn Thiên Chúa. Còn đời sau. Ông phú hộ khi chết rồi mới biết ngước nhìn lên. Nhưng đã muộn. Chỉ còn hối tiếc. La-za-rô không mong gì dưới đất. Lòng trí ông hướng lên trời. Tầm nhìn ông mở rộng. Vì thế khi chết ông vươn cao bay xa. Ông đạt đến viên mãn.
Mùa Chay hãy biết xác định lại các bậc thang giá trị để chọn lựa đúng đắn. Chọn lựa đúng đắn theo Chúa giúp ta được phong phú, được giầu sang, được vững chắc và viên mãn trong hạnh phúc.
Đất sét chẳng thể chống lại thợ gốm. Đất tốt là ngoan ngoãn để thợ gốm đúc nặn nên hình tượng. Những người thợ làm vườn nho bất nhân và anh em tổ phụ Giu-se là những viên đá muốn tự đặt mình lên cao. Thoát khỏi tay thợ xây. Chiếm đoạt quyền Thiên Chúa. Anh em nhà Gia-cob bán Giu-se sang Ai cập. Thợ làm vườn bất nhân giết chết người con thừa tự. Họ muốn có quyền thế. Có danh vọng. Có tiền tài. Nhưng họ trở thành xấu xa đáng ghê tởm trước mặt Thiên Chúa.
Tổ phụ Giu-se và Chúa Giê-su là những viên đá bị người đời chê bỏ, giết chết. Nhưng các ngài luôn sống theo thánh ý Thiên Chúa. Tuân phục Thiên Chúa. Không oán hận những kẻ làm hại mình. Vì biết mình thuộc về Thiên Chúa. Nên các ngài đã trở thành đá góc tường.
Chúa Giê-su chịu chết để đem lại sự sống cho nhân loại. Trở thành ơn cứu độ cho nhân loại. Ban sự sống cho nhân loại. Cho nhân loại được trở lại hạnh phúc làm con Thiên Chúa. Người làm cho thế giới được cứu rỗi, được hạnh phúc, được sống. Tổ phụ Giu-se bị bán làm nô lệ, bị giam cầm bất công. Nhưng ở đâu ngài cũng vui vẻ chấp nhận số phận. Nên Thiên Chúa đặt ngài lên địa vị cao trọng. Cứu sống mọi người.
Chúng ta là ai? Có lẽ chúng ta giống anh em tổ phụ Giu-se và giống đám thợ làm vườn nho bất nhân. Thiên Chúa ban cho ta sự sống, thời giờ, trí tuệ, sức khỏe và linh hồn. Để ta sinh lợi cho Thiên Chúa. Nhưng ta chiếm đoạt tất cả để sử dụng theo ý riêng. Có khi còn dùng ơn Chúa ban để phạm tội chống lại Chúa.
Mùa Chay ta hãy biết ăn năn sám hối. Dành hết cuộc đời sống theo ý Chúa. Dành hết khả năng phục vụ Chúa và tha nhân. Ta sẽ bị cười chê trước mặt người đời. Nhưng ta sẽ được Thiên Chúa yêu thương. Chính những con người biết từ bỏ ý riêng làm theo ý Chúa mới trở thành những người xây dựng sự sống. Sự sống sung mãn vĩnh cửu.
Trung tâm điểm của mùa chay, đó là trở về với Chúa là Cha chúng ta. Thiên Chúa là người Cha rất yêu thương có tấm lòng nhân hậu vô biên. Cha là người ban sự sống. Không có cha thì không có sự sống. Có sự sống là có tất cả. Không có sự sống là không có gì hết. Vì thế cha không những là nguồn cội phát sinh mà còn là nguồn mạch hạnh phúc.
Nhưng ma quỉ đưa ra một cơn cám dỗ tinh vi. Làm cho người ta nghĩ rằng lệ thuộc vào Thiên Chúa là mất tự do. Xui khiến người ta tìm cách làm chủ đời mình, bằng cách tách lìa khỏi Thiên Chúa. Nhưng họ đã phải đón nhận hậu quả phũ phàng.
Khi chiếm đoạt của cải của Thiên Chúa, con người nghĩ rằng mình giầu có. Nhưng không ngờ con người trở nên nghèo túng nhất.
Khi ra khỏi ảnh hưởng của Thiên Chúa, con người tưởng mình tự do. Nhưng không ngờ lại trở nên nô lệ nhất.
Khi con người chống lại Thiên Chúa, mọi thứ chống lại con người. Cả thiên nhiên, cả súc vật. Và con người chống lại nhau.
Khi không còn lệ thuộc Thiên Chúa, con người tưởng phẩm giá mình được nâng cao. Không ngờ con người trở nên tồi tệ, mất nhân phẩm.
Nhưng khi trở về nhà Cha, mọi sự lập tức thay đổi. Người con tưởng như không có gì mà giờ đây có tất cả. Có áo đẹp, giầy mới, nhẫn quí và bữa tiệc thịt béo rượu ngon. Hơn nữa nó có phẩm giá cao quí, được mọi người kính trọng. Trên hết nó được đón nhận và được yêu thương. Về nhà người con hoang đàng thấy rõ. Lìa bỏ cha là mất tất cả. Ở trong cha là có tất cả. Vì mọi sự của cha là của con. Và đặc biệt tấm lòng cha bao dung tha thứ như tiên tri Mika nói: “Người không giữ mãi cơn giận, nhưng chuộng lòng nhân nghĩa. Người sẽ lại thương xót chúng ta. Tội lỗi chúng ta, Người chà đạp dưới chân. Mọi lỗi lầm chúng ta, Người ném xuống đáy biển”.
Tôi đang theo mốt thời đại, muốn thể hiện sĩ diện khi muốn tự do, tách lìa quyền năng của Thiên Chúa. Tôi đang bị cám dỗ muốn toàn quyền sử dụng tiền của, kể cả sức khỏe, thân xác của mình và của người khác. Tôi đang phạm tội. Nhưng cha đang chờ tôi. Hãy mau mắn như người con hoang đàng quyết định: “Vâng, tôi quyết chỗi dậy và đi về nhà Cha”.
Đức tin là ánh sáng giúp ta nhìn thấy những gì mắt thường không thấy hay khó thấy.
Mắt thường chỉ nhìn những gì lớn lao. Mắt đức tin nhìn những gì bé nhỏ. Chúa Giêsu dạy ta hãy biết nhìn những gì bé nhỏ. Như cánh chim sẻ trên bầu trời. Như bông hoa huệ ngoài đồng. Bé nhỏ nhưng lại tuyệt vời nói lên sự quan phong của Chúa Cha.
Mắt thường chỉ nhìn những gì may mắn. Mắt đức tin mới biết nhìn những gì thiệt thòi. Bá góa Sa-rép-ta đã tin nên dám chấp nhận thiệt thòi. Vì tin tiên tri Ê-li-a nên bà đã dám làm bánh cho vị tiên tri ăn trước. Đây là việc làm nhỏ nhoi nhưng đức tin thật lớn. Dám đánh cuộc cả mạng sống mình.
Mắt thường chỉ nhìn những gì lạ lùng. Mắt đức tin biết nhìn những gì quen thuộc bình thường trong đời sống. Người ta dễ thần tượng những người xa lạ. Người có đức tin thật sẽ biết thấy Chúa trong những gì quen thuộc bình thường trong đời sống hằng ngày. Dân làng Na-za-reth không tin Chúa Giê-su vì biết rõ gốc gác tầm thường của Người.
Tướng Na-a-man đã có đức tin. Dám tin người giúp việc cho mình. Đức tin hành động cụ thể. Nên ông không ngại đường xa, mang theo cả lễ vật lớn lao để ra mắt vị tiên tri. Và nhất là ông đã chấp nhận những việc tầm thường. Đó là tắm dưới sông 7 lần.
Mắt thường không thấy Chúa đâu. Mắt đức tin thấy Chúa trong mọi sự. Ga-ga-rin, khi lên mặt trăng, đã tuyên bố: “Tôi không thấy Thiên Chúa đâu cả”. Trái lại Amstrong, người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng, đã đọc kinh Lạy Cha để cảm tạ Chúa. Newton, nhà thiên văn học lừng lẫy, khi quan sát bầu trời đầy sao đã thốt lên: Tôi thấy Chúa đi qua viễn vọng kính của tôi.
Có lẽ chúng ta từng kỳ vọng được có đức tin lớn lao như dám chịu tử đạo, đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi… Nhưng hôm nay Lời Chúa mời gọi tôi hãy có đức tin trong đời thường để nhìn thấy Chúa trong mọi sự và trong mọi người, trong những sự bé nhỏ, những con người tầm thường, trong những khó khăn thử thách ta gặp phải, những thất bại cay chua, những thiệt thòi đau xót. Đó mới là đức tin thật.
Con người vốn yếu hèn. Lầm lỗi là con người. Biết sống là biết tha thứ.
Tha thứ là biết Chúa. Thiên Chúa nhân hậu, nhẫn nại, giầu lòng xót thương và luôn tha thứ. Ta tội lỗi ngập tràn. Nhưng Chúa luôn tha thứ. Dụ ngôn hôm nay cho thấy sự tha thứ của Chúa là không giới hạn. Nợ 10 ngàn yến vàng là nợ quá lớn không ai có thể trả nổi. Vậy mà chỉ cần một lời van xin, Thiên Chúa tha ngay. Người tha thứ dễ dàng, tức khắc, không điều kiện, và vĩnh viễn. Nhận biết Thiên Chúa rộng lượng, giầu lòng thương xót, luôn luôn tha thứ sẽ dẫn ta đến biết mình.
Tha thứ là biết mình. Khi biết mình yếu đuối, ta dễ thông cảm với người khác. Nếu người khác chấp nhất tội lỗi của ta, ta sẽ không sống nổi. Vì ta cũng đã lỗi phạm đến người khác nhiều lần. Biết mình cần được tha thứ, ta sẽ dễ tha thứ cho người khác. Nhưng trên hết khi tha thứ ta nhận được ơn tha thứ của Chúa. Chúa tha thứ cho ta nhưng với điều kiện ta cũng phải tha thứ cho anh em. Cho người khác 100 quan tiền để nhận được 10 ngàn yến vàng. Ta được lợi lớn.
Tha thứ như thế là biết sống. Đời sống thành công là đời sống an vui hạnh phúc. Ta an vui khi mọi người chung quanh cùng an vui. An vui chỉ có được với những tâm hồn quảng đại, tha thứ. Chúa là yêu thương, là tha thứ. Không yêu thương tha thứ, ta không thể phù hợp với Thiên Chúa, không thể lãnh nhận được hạnh phúc. Con người là bất toàn. Muốn sống chung cần tha thứ và được tha thứ. Đó là biết sống, tạo hạnh phúc cho chính mình.
Tóm lại, tha thứ là biết yêu. Xét cho cùng tha thứ chính là tình yêu. Đây là cốt lõi của vấn đề. Tha thứ chỉ có được khi có tình yêu. Chúa tha thứ cho ta vì yêu thương ta. Và Chúa dạy ta phải tha thứ cho tha nhân. Vì tha nhân không phải người xa lạ, mà là anh em ta. Phê-rô nhận điều này khi hỏi: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần?” Người khác là anh em ta trong gia đình Thiên Chúa. Anh em phải có tình yêu thương. Đó chính là giới răn của Chúa. Tình yêu là không giới hạn nên phải tha thứ mãi mãi. Còn tha thứ là còn yêu thương. Còn yêu thương là còn thuộc về Chúa, còn là con cái trong nhà Cha, còn là công dân Nước Trời. Hết tha thứ là hết yêu thương, không còn là con Cha yêu thương, không còn là công dân trong Vương quốc tình yêu.
Chúa Giêsu cư xử như một người tự do, phóng khoáng với lề luật. Người ta nghĩ rằng Chúa Giêsu đến phá hủy lề luật. Nhưng Người tuyên bố rõ ràng: “Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” lề luật.
Người kiện toàn bằng xác định thứ tự cho lề luật. Luật Do thái nhiều vô kể. Nhưng điều răn lớn nhất là mến Chúa và yêu người. . “Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó." (Mc 12, 28-31)
Một trật tự khác: Luật Thiên Chúa phải trọng hơn luật của loài người. (x. Matthêu 15, 1-9). Không được “ dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa ”.
Người kiện toàn bằng đưa lề luật vào nội tâm. Phải rửa bên trong để bên ngoài cũng được sạch (Mt 23, 25-26). Ăn chay cầu nguyện và bố thí phải làm cách kín đáo (x. Mt 6, 1-6.16-18). Ý hướng là quan trọng. Vì thế, chưa giết người, nhưng giận ghét đã là có tội; chưa ngoại tình, nhưng trong lòng ham muốn thì đã là phạm tội (x.Mt 5, 21-30).
Người kiện toàn lề luật bằng đề cao con người. Điển hình là luật nghỉ ngày Sabat. Chúa đã đưa ra định hướng cho luật này: “Ngày Sabat vì con người chứ không phải con người vì ngày sabat” (Mc 2, 27). Vì thế, ngày sabat để cứu sống con người, để giải thoát con người, để làm điều tốt cho con người. (Mc 3, 1-6)
Người kiện toàn bằng hướng lề luật đến tình yêu. Người Do thái giữ luật vì sợ bị phạt. Chúa Giêsu dạy ta hãy giữ luật vì tình yêu mến. Và tóm tắt mọi luật lệ vào luật mới là yêu thương: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34). Tình bác ái quan trọng vì Chúa hóa thân làm người nghèo. Và trong ngày tận thế chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu.
Kiện toàn lề luật, Chúa Giêsu đổi mới cách sống đạo. Sống đạo không còn là hình thức, nhưng là tâm tình bên trong. Tâm tình đó hướng về Thiên Chúa trong tình yêu mến. Vì yêu mến nên giữ lề luật. Và cũng vì yêu mến Thiên Chúa, nên yêu mến con người. Việc giữ đạo như thế trở nên nhẹ nhàng, tự do, tự nguyện, nhưng lại đưa việc giữ lề luật đến mức hoàn hảo.
Con người là một sinh vật xã hội. Không thể sống một mình. Xã hội tính phát triển nhờ thông giao. Thông giao biểu hiện bằng nghe và nói. Nghe để tiếp nhận. Nói để thông tri. Nghe để hiều về người khác. Nói để người khác hiểu về mình. Nghe để cảm thông chia sẻ. Nói cũng để cảm thông chia sẻ. Như thế thông giao làm phong phú con người. Vì thế câm điếc là khuyết tật. Mất khả năng thông giao khiến con người không phát triển. Thông thường câm là do điếc. Vì không nghe nên không nói được.
Người Do thái cho khuyết tật đó là do ma quỉ. Ma quỉ trói buộc con người trong ích kỷ cá nhân. Để tàn lụi. Chúa Giêsu chữa lành người câm điếc khi trục xuất quỉ câm. Nhưng Chúa lại không thể chữa người mắc bệnh câm điếc thiêng liêng. Người câm điếc thiêng liêng là người tự ý không nghe không nói.
Giê-rê-mi-a cho biết những người Do thái thời ông là những người câm điếc. Vì họ không chịu nghe lời Thiên Chúa. Chỉ cần mở lòng ra nghe lời Thiên Chúa họ sẽ trở thành Dân Thiên Chúa, sẽ được hạnh phúc. Nhưng gọi không trả lời. Nói không nghe. Vì thế họ không phát triển. Chúa nói họ đi thụt lùi. Và còn tệ hơn nữa khi cố tình giả điếc thì họ không có sự thật: “sự chân thật đã tiêu tan và biến khỏi miệng nó”.
Đó chính là tình trạng của những người chống đối Chúa hôm nay. Khép kín tâm hồn nên không nghe được Thiên Chúa. Dù phép lạ rành rành không thể chối cãi. Vì không nghe nên miệng họ nói lời gian dối. Bóp méo sự thật. Xuyên tạc cho rằng Chúa dùng quyền tướng quỷ mà trừ quỷ. Đó chính là tác động của ma quỉ. Thứ quỉ ám này còn nặng hơn quỉ gây nên câm điếc thể lý.
Thế giới đang hỗn loạn vì người ta không lắng nghe. Không nghe Chúa. Không nghe nhau. Không nghe lịch sử. Không nghe vũ trụ. Không nghe thiên nhiên. Và vì thế người ta nói theo ý riêng. Nói sai sự thật.
Mùa Chay Chúa mời gọi ta trở về sự thánh thiện nguyên thủy. Biết mở lòng, mở tai lòng lắng nghe. Biết mở miệng nói lời chân lý, lời xây dựng, lời yêu thương. Biết tái lập khả năng thông giao. Ta sẽ trở nên phong phú. Thế giới sẽ sống trong hòa bình.
Người Do thái có một rừng luật. Và họ bị lạc lối trong rừng. Không biết điều luật nào là chính. Hôm nay Chúa cho họ biết những điều cơ bản nhất trong luật. Biết nguyên tắc cơ bản, nội dung thiết yếu và cách thế để tuân giữ lề luật.
Nguyên tắc cơ bản là luật để sống chứ không phải để giữ. Khi sống người ta làm chủ lể luật. Khi giữ người ta làm nô lệ cho lề luật. Biết luật để sống ta sẽ đi tìm luật như đi tìm không khí để thở, nước để uống.
Vì luật để sống, nên yêu mến Chúa hết lòng hết sức lực hết trí khôn là điều tự nhiên và cần thiết. Vì Thiên Chúa sinh thành ra ta. Người ban sự sống cho ta. Tất cả những gì ta có, ta là, đều bởi Chúa. Vì thế mến Chúa là điều luật quan trọng nhất. Ta giữ điều đó là vì chính ta chứ không phải vì Chúa.
Nhưng yêu mến Chúa chỉ được chứng tỏ bằng yêu mến tha nhân. Khi hiểu rằng Thiên Chúa và tha nhân thực sự cần thiết cho đời sống, cho hạnh phúc của ta, ta sẽ giữ hai điều răn này một cách dễ dàng. Cũng như ta tự nhiên tha thiết giữ gìn sức khỏe, giữ gìn tính mạng của mình vậy.
Nếu hiểu luật chính là để sống ta sẽ càng yêu mến Thiên Chúa. Càng yêu mến Thiên Chúa sự sống càng tràn đầy sung mãn nơi ta. Chính vì muốn ta đạt đến sự sống sung mãn nên Chúa Giêsu mời gọi ta yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức hết tâm hồn và hết trí khôn.
Hiểu biết Thiên Chúa là lẽ sống, là nguồn mạch hạnh phúc, ta sẽ chẳng còn vương vấn thế gian. Biết Thiên Chúa là nguồn sức mạnh, ta sẽ chẳng còn cậy dựa vo thế lực trần gian, như Ít-ra-en đã từng cậy dựa vào thế lực của Át-sua
Không vương vấn thế gian, nhưng ta sẽ yêu mến thế gian, yêu mến tha nhân vì Chúa. Đó không còn là tình yêu thế gian, nhưng ta yêu thế gian, yêu tha nhân bằng tình yêu của Chúa. Như thánh Phao-lô nói: Từ nay tôi không còn biết người nào, điều gì theo xác thịt, nhưng là trong Đức Giê-su Ki-tô Phục sinh.
Nhìn bề ngồi thì ai cũng thấy người Pha-ri-sêu được đánh giá cao hơn. Ông thuộc tầng lớp đạo đức, được mọi người kính trọng. Làm nhiều việc lành hơn cả luật đòi hỏi.
Người thu thuế bị mọi người khinh miệt. Bị coi là người tội lỗi công khai. Bị coi là người phản quốc, vì tiếp tay với ngoại bang để hà hiếp dân chúng. Bị coi là gian dối, vì thu thuế đồng nghĩa với tham nhũng hối lộ.
Thái độ trong nhà thờ khi cầu nguyện tiếp nối cách sống ở ngoài đời. Người Pha-ri-sêu đứng thẳng người trên cung thánh và lớn tiếng cầu nguyện. Còn người thu thuế quì sụp xuống đất ở cuối nhà thờ, chỉ nài xin Chúa tha tội. Nhưng kết quả trái ngược hẳn với những gì ta thấy bên ngồi. Tại sao?
Người Pha-ri-sêu kiêu ngạo. Thực ra ông không cầu nguyện, ông chỉ khoe khoang và tự đánh giá mình cao hơn người thu thuế. Còn người thu thuế khiêm nhường. Ông cầu nguyện thầm thĩ, đấm ngực ăn năn, và xin tha thứ.
Người thu thuế được nên công chính, người Pha-ri-sêu thì không. Có 3 lý do.
Chúa kết luận: “ Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. Chẳng ai có quyền tự hào. Tất cả là của Chúa. Tất cả phải trả về cho Chúa. Đó là điều phải làm. Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng mà thôi.
“Ta muốn tình yêu chứ không cần hi lễ, thích được các ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu”. Thiên Chúa là tình yêu và giầu có vô cùng. Người chỉ cần tình yêu chứ không muốn gì khác. Người thu thuế đến với Chúa bằng tấm lòng yêu mến và nghèo công phúc. Nên được công chính.
Thư Rôma 3, 27: “Người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì Luật dạy”. Người Biệt phái làm điều luật dạy nên tự hào. Người thu thuế chẳng dám tự hào, chỉ tin vào lòng thương xót của Chúa. Nên ông được công chính.
Ma Chay là lúc ta nhận biết mình tội lỗi, yếu hèn và không thể tự mình đạt được ơn cứu độ. Ta hãy noi gương người thu thuế nhận thức tội lỗi của mình. Nài xin ơn tha thứ. Cậy trông vào lòng thương xót của Chúa, để ta được công chính, được ơn cứu độ.
Con người ta thật mâu thuẫn. Cứ bám víu vào những gì không vững chắc để rồi lo âu buồn phiền. Thân phận con người vốn mong manh. Sinh, lão, bệnh, tử là số phận. Cứ bám víu vào nó chỉ gây phiền não. Năng lực của loài người là giới hạn. Cậy trông vào những năng lực đó sẽ đi đến thất vọng chán chường. Đó chính là sự yếu đuối của con người. Tin tưởng vào những gì thấy được. Cậy trông vào người đời. Tìm giải pháp bằng những phương tiện của con người.
Lời Chúa hôm nay cho ta thấy, chỉ Thiên Chúa mới giải quyết được những vấn đề của ta. I-sai-a cho biết chính Thiên Chúa mới đem lại niềm vui tươi phấn khởi cho cuộc sống. Có Chúa ta sẽ không còn khóc lóc u sầu. Có Chúa ta sẽ không còn cảnh chết chóc tang tóc. Có Chúa những việc ta làm mới có kết quả và không mai một với thời gian. “Người ta sẽ xây nhà và được ở, sẽ trồng nho và được ăn trái”.
Thánh Gio-an cho biết để được như vậy, ta cần có một đức tin vững vàng. Chúa Giêsu sẵn sàng chữa bệnh cho đứa con viên sĩ quan, miễn là ông tin. Chúa đòi hỏi một đức tin tuyệt đối. Tin chỉ vì tin chứ không phải vì thấy những dấu lạ điềm thiêng. Viên sĩ quan này có đức tin. Nên ông tin ngay lời Chúa. Khi Chúa nói: “Ông cứ về đi, con ông sống. Ông tin vào lời Chúa nói với mình và ra về”. Chưa nhìn thấy, chưa kiểm chứng, ông tin tưởng và ra về. Vì thế ông đã nhận được điều ông xin.
Đức tin đó là điều Chúa mong đợi. Đức tin làm nên vương quốc mới Chúa thiết lập. Tin vào Chúa. Vượt qua khỏi gắn bó và tin tưởng vào thế lực thế gian, vào những giá trị đời này. Để chỉ tin tưởng phó thác cho Chúa tất cả. Tin tuyệt đối. Tin không điều kiện, không kiểm chứng, không đòi bảo đảm nào.
Tin như thế là một cuộc vượt qua. Vượt qua những bám víu vào vật chất, thế lực đời này, để chỉ tin tưởng vào một mình Thiên Chúa. Đó là điều không dễ. Khi sống đức tin như thế, ta chiếu sáng đức tin giữa đời. Ta làm chứng về Chúa. Làm chứng về vương quốc Nước Trời. Nơi không còn khổ đau khóc lóc, không còn chết chóc, tang tóc. Chỉ có niềm hoan hỉ phấn khởi. Nơi mọi việc ta làm đều tồn tại và ta được hưởng thành quả do sức lao động làm ra.
Khi sông đức tin như thế, ta làm cho vương quốc Nước Trời lớn mạnh. Và kế hoạch của Chúa mau hoàn thành.
Dòng nước Ê-dê-ki-en thấy chảy ra từ bên phải đền thờ chính là dòng nước chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu của Chúa Giê-su. Đó là nước ơn thánh, nước rửa tội, tha thứ tội khiên và chữa lành tật nguyền. Tuy nhiên để lãnh nhận ơn tha tội và chữa lành, tự sức con người không thể được. Phải có ơn Chúa trợ giúp.
Anh bệnh nhân đã nằm bên bờ hồ Beth-da-tha 38 năm, muốn xuống nước để được chữa lành, nhưng tự sức anh không đến được. Anh không vượt qua được giới hạn của mình. Anh không vượt qua được chính mình. Nhưng anh thật may mắn, vì hôm nay Chúa đến cứu giúp anh. Chúa uy quyền toàn năng có thể tháo gỡ hết những khó khăn, trắc trở của con người. Cho con người đứng thẳng hiên ngang, có thể chu toàn được hết những nhiệm vụ của mình. Chúa truyền 4 mệnh lệnh.
Mệnh lệnh thứ nhất: “Hãy chỗi dậy”. Chỗi dậy là ý chí muốn thoát khỏi vũng lầy tội lỗi. Chỗi dậy là ý chí muốn vươn lên, vượt thoát, tự do, không còn bị trói buộc, đè nén nữa. Như đứa con hoang đàng, thấy mình bị hạ xuống ngang hàng súc vật, muốn trở lại làm người, nên đã tự nhủ: “Vâng, tôi quyết chỗi dậy”.
Mệnh lệnh Thứ 2: “Hãy vác chõng”. Vác lấy những mệt mỏi, những yếu đuối. Hãy vác thánh giá Chúa gửi đến. Thánh giá bản thân yếu hèn. Thánh giá trách nhiệm nặng nề. Thánh giá số phận trớ trêu. Thánh giá cám dỗ thử thách.
Mệnh lệnh Thứ 3: “Hãy bước đi”. Hãy tiến tới. Hãy dứt lìa quá khứ. Hãy lên đường. Đừng ngủ mê. Đừng tê liệt nữa. Đừng ngần ngại. Thiên Chúa luôn chờ ta ở phía trước. Hãy đi theo ơn của Thánh Thần thúc đẩy.
Mệnh lệnh Thứ 4: “Đừng phạm tội nữa”. Đừng quay lại sau lưng. Đừng trở lại con đường xưa cũ. Hãy sống thành con người mới. Hãy vượt qua.
Đó chính là một cuộc vượt qua. Vượt qua của người được rửa tội. Người từ bỏ cuộc sống an nhàn hưởng thụ theo thói thế gian. Để đi theo tiếng gọi và ơn thúc đẩy của Chúa Thánh Linh. Đi về phía trước. Chấp nhận những khó khăn thử thách. Không quay về chiếc chõng hưởng thụ an nghỉ. Nhưng đứng thẳng người lên. Gánh vác lấy trách nhiệm phục vụ. Tiến tới dù phía trước đầy gian nan thử thách.
Từ thời lưu đầy, I-sai-a đã loan báo ngày Thiên Chúa phục hồi dân Người. Giải thoát khỏi ách nô lệ. Con người được chăm sóc bồi bổ. “Như bầy chiên, chúng sẽ được nuôi ăn trên các nẻo đường, sẽ gặp được đồng cỏ trên mọi đồi hoang”. Đất nước được tái thiết. Đến sa mạc cũng trở nên thành thị. “Mọi núi non của Ta, Ta sẽ biến thành đường sá, những con lộ của Ta, Ta sẽ đắp cao”. Vì Thiên Chúa cũng có một trái tim để cảm thương dân Người. Sẽ đến phục hồi dân. “Vì Đức Chúa ủi an dân Người đã chọn và chạnh lòng thương những kẻ nghèo khổ của Người”. Và còn hơn nữa, đó là trái tim của người mẹ. Hiền dịu bao dung. “Xi-on từng nói: ‘Đức Chúa đã bỏ tôi, Chúa Thượng tôi đã quên tôi rồi!’ Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ”.
Tất cả đã ứng nghiệm nơi Chúa Giê-su. Chúa Giê-su làm người. Đầy quyền năng. Nhưng lại mang trái tim nhân loại. Trái tim người mẹ.
Trong Chúa Giê-su Thiên Chúa yêu thương. Yêu thương trước hết bằng hành động. Làm việc không ngừng. “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc”. Làm những việc tốt lành. Chữa lành bệnh tật. An ủi con người. Xua trừ ma quỉ. Chính vì chữa bệnh trong ngày sa-bát mà Chúa bị chống đối.
Trong Chúa Giê-su Thiên Chúa phục hồi con người. Đặc biệt là ban sự sống. “Chúa Cha làm cho kẻ chết trỗi dậy và ban sự sống cho họ thế nào, thì người Con cũng ban sự sống cho ai tuỳ ý”. Sự sống phần xác chỉ là hình bóng của sự sống linh hồn. sự sống linh hồn bị tổn thương vì tội lỗi. Chúa đến xét xử tội lỗi. Nhưng không lên án. Mà để phục hồi.
Điều kiện để có sự sống là phải tin vào Chúa Giê-su: “Thật, tôi bảo thật các ông: ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống”. Tin là sống như Chúa. Không làm theo ý riêng. Nhưng luôn theo ý Chúa: “Tôi không làm theo ý riêng tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi”.
Mùa Chay là mùa thanh luyện đức tin. Ăn chay là làm theo ý Chúa. Chúa sẽ phục hồi chúng ta.
Dân Do Thái thời Mô-sê bị Chúa trách mắng vì cứng đầu, cứng cổ. Người thời Chúa Giê-su thì cứng lòng. Họ đã thấy những dấu lạ lẫy lừng. Mười tai ương cho người Ai-cập. Vượt qua Biển Đỏ khô chân. Thấy vinh quang Thiên Chúa hiển hiện trên đỉnh núi. Sấm chớp ầm ầm. Khói lửa nghi ngút. Tiếng Chúa phán ầm ầm như tiếng sấm động. Chúa Giê-su cũng làm biết bao phép lạ. Nói những lời khôn ngoan. Nhưng họ vẫn không tin.
Ngoài ra Chúa Giê-su có biết bao chứng nhân. Khi gần qua đời, Mô-sê đã tiên báo: “Từ giữa anh (em), trong số các anh em của anh (em), ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh (em) ; anh (em) hãy nghe vị ấy…Kẻ nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta, thì chính ta sẽ hạch tội nó”( Đnl 18,15.19). Thánh Gio-an là chứng nhân trổi vượt. Đã công khai giới thiệu Chúa Giê-su: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Chúa Giê-su cho biết chính Thánh Kinh làm chứng về Người: “Hôm nay lời các ngươi vừa nghe đã ứng nghiệm”. Vậy tại sao người Do Thái từ xưa đến nay vẫn không tin?
Vì tuy họ thấy những điềm thiêng dấu lạ. Nghe những lời khôn ngoan. Nhưng họ chưa tiến vào mối tương giao thân tình với Thiên Chúa. Chưa có đời sống tôn giáo đích thực. Họ còn bề ngoài. Cư xử theo thói đời. Dừng lại ở ngưỡng cửa phàm tục. Chưa tiến vào thâm cung nhiệm mầu của tôn giáo thực sự để gặp gỡ và sống với Thiên Chúa.
Chúa Giê-su xuống thế làm người để dậy cho ta biết sống đạo đích thực. Là đi vào mối tương giao thân tình với Thiên Chúa. Là tin và yêu. Tin là phó thác trọn cuộc đời cho Thiên Chúa. Mô-sê đã nêu gương. Suốt đời chỉ sống cho Thiên Chúa. Yêu thương dân chúng đến dám chết vì dân. Chúa Giê-su là Mô-sê mới. Trổi vượt hơn. HIến toàn thân cho Chúa Cha. Chỉ làm công việc của Chúa Cha. Không màng đến vinh danh và sự chấp nhận của người đời. Chỉ cần làm đẹp lòng Thiên Chúa. Người đã tiến đến mối tương giao thật thân thiết với Chúa Cha. Nên một với Chúa Cha. Sẵn sàng chết vì vâng phục thánh ý Chúa Cha. Đó là sống đạo đích thực.
Mùa Chay là mùa cao điểm để ta noi gương Chúa Giê-su. Sống đức tin và tình yêu với Thiên Chúa. Không tìm thành công nơi trần gian. Không trông cậy vào những thế lực trần gian. Hoàn toàn hiến mình cho Chúa. Hoàn toàn quên mình. Chỉ tìm thi hành thánh ý Thiên Chúa. Chỉ tìm vinh danh nơi Thiên Chúa. Đó là ăn chay đích thực.
Ma quỉ luôn muốn thống trị thế giới. Nó khuất phục kẻ ác để tăng thêm quân số. Và tiêu diệt người lành để giảm bớt chướng ngại.
Thiên Chúa là nguồn mạch sự lành. Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế được Chúa Cha sai đến để giải thoát nhân loại khỏi ách thống trị của thần dữ. Nên một cuộc đối đầu là không thể tránh khỏi. Cuộc chiến càng quyết liệt. Vì thần dữ cảm thấy bị lâm nguy nên càng gia tăng sự độc ác. Âm mưu giết Chúa. Sách Khôn ngoan cho thấy những lý do khiến kẻ ác muốn giết kẻ lành.
Lý do đầu tiên là kẻ lành cản trở kẻ dữ làm điều ác: “Ta hãy gài bẫy hại tên công chính, vì nó chỉ làm vướng chân ta, nó chống lại các việc ta làm, trách ta vi phạm lề luật, và tố cáo ta không tuân hành lễ giáo”.
Lý do Thứ 2 là vì đời sống của kẻ lành phê phán lối sống của kẻ dữ: “Nó như kẻ luôn chê trách tâm tưởng của ta,…lối cư xử của nó hoàn toàn lập dị. Nó coi ta như bọn lọc lừa, tránh đường ta đi như tránh đồ dơ bẩn”.
Lý do Thứ 3 là vì người lành thuộc về Thiên Chúa. Còn kẻ ác thuộc về ma quỉ. “Nó huênh hoang vì có Thiên Chúa là Cha. Ta hãy coi những lời nó nói có thật không, và nghiệm xem kết cục đời nó sẽ thế nào”.
Lý do Thứ 4 là vì muốn thử thách xem người lành có thật hiền lành không. “Ta hãy hạ nhục và tra tấn no, để biết nó hiền hoà làm sao, và thử xem nó nhẫn nhục đến mức nào”.
Nhiều phe nhóm toa rập với nhau để giết chết Chúa Giê-su. Tuy nhiên đó lại là ý định của Thiên Chúa. Chúa Giê-su tự nộp mình chịu chết để chuộc tội nhân loại. Vào âm phủ để chiến thắng tử thần. Chết đi để tiêu diệt cái chết. Vì là do ý định của Thiên Chúa. Nên dù kẻ ác mạnh thế. Và muốn giết Chúa. Nhưng bao lâu Chúa chưa cho phép. Chưa đến giờ thì họ chưa làm gì được. “Bấy giờ, họ tìm cách bắt Người; nhưng chẳng có ai tra tay bắt, vì giờ của Người chưa đến”.
Màu Chay là mùa chiến đấu chống lại cái ác. Tôi phải chống lại thế lực sự dữ ngay trong lòng tôi. Không có phương thế nào hiệu nghiệm hơn đi vào con đường của Chúa Giê-su. Chịu khổ để làm theo ý Chúa. Từ bỏ chính mình để thoát ảnh hưởng của thần dữ. Chịu chết cho bản thân. Để tiêu diệt sự chết. ---------------------------------
Lời Chúa hôm nay trình bày một thế giới chia rẽ vì Chúa Giê-su. Kẻ tin người không. Kẻ theo người chống. Với những đặc tính sau.
Những kẻ chống Chúa có nhiều quyền lợi trên trần gian. Đó là những nhà lãnh đạo xã hội và tôn giáo. Họ điều khiển người khác. Sai vệ binh đi bắt Chúa. Còn những kẻ tin Chúa lại là những người dân nghèo. Bị lớp người trên nguyền rủa là “dân đen”, là “đáng nguyền rủa”.
Những kẻ chống Chúa có nhiều kiến thức. Họ thông hiểu Lề Luật và Thánh Kinh. Họ tự bảo: “Nào Kinh Thánh đã chẳng nói: Đấng Ki-tô xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít và từ Bê-lem, làng của vua Đa-vít sao”? Trái lại những người tin Chúa lại là những người bình dân ít học. Những người bị khinh miệt là “thứ người không biết Lề Luật”.
Những kẻ chống Chúa dựa trên lý thuyết. Căn cứ vào sách vở. Còn những người tin Chúa là do trực tiếp tiếp xúc với Chúa. Xem Chúa làm. Nghe Chúa nói. “Trong dân chúng, có những người nghe các lời của Đức Giê-su thì nói: “Ông này thật là vị ngôn sứ”. Kẻ khác rằng: “Ông này là Đấng Ki-tô”... “Các vệ binh trả lời: “Xưa nay chưa hề đã có ai nói năng như người ấy”.
Những kẻ chống Chúa thì dữ tợn. Đòi bắt và giết Chúa. Như Giê-rê-mi-a đã loan báo từ xưa: “Chúng bảo nhau: “Cây đương sức, nào ta chặt nó đi, loại nó ra khỏi đất dành cho kẻ sống”. Còn những người tin Chúa thì hiền lành. “Phần con, con khác nào con chiên hiền lành bị đem đi làm thịt”.
Mùa Chay đòi tôi phải tiến đến một chọn lựa quyết liệt. Chọn Chúa hay trần gian. Chắc chắn tôi muốn chọn Chúa. Chọn Chúa tôi chấp nhận bị thế gian khinh miệt. Bị coi thường. Bị coi là thiếu hiểu biết. Chọn Chúa tôi phải tránh xa quyền lực. Và đừng quá lý thuyết. Chúa Giê-su không phải là một lý thuyết. Chúa Giê-su là một ngôi vị sống động. Phải đến trực tiếp gặp Người. Như Ni-cô-đê-mô. Như lính vệ binh. Như dân nghèo. Phải xem việc Người làm. Phải nghe lời Người nói. Đừng lý sự. Hãy quỳ xuống cầu nguyện. Rồi đức tin sẽ đến. Rồi tình yêu sẽ bừng lên. Và tôi sẽ được sức sống mới.
Sự chết rình rập tiêu diệt con người. Con người tự nộp mình vào chỗ chết khi phạm tội. Con người tiêu diệt lẫn nhau bằng những âm mưu hiểm độc gian dối. Nếu không có Chúa ta không có hi vọng được cứu sống.
Chúa cứu sống bà Su-za-na bằng cuộc phân xử công minh. Phơi bầy sự thật. Vạch trần gian dối. Người công chính được minh oan. Kẻ gian ác bị trừng phạt. Chúa đảo ngược thế cờ. Không để cho sự dữ hoành hành. Không để cho kẻ ác thống trị. Người lành được bình an. Thế giới được hạnh phúc. Công minh tuyệt đối. Đó là Cựu ước. Nhưng đến thời Tân ước có những bước tiến mới hơn công minh.
Chúa cứu người phụ nữ ngoại tình bằng một cuộc phân xử khác. Công minh và nhân hậu.
Công minh khi Chúa hỏi những người tố cáo: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Thực vậy nếu phải ném đá có lẽ phải ném chính bản thân. Vì trước mặt Chúa nào có ai vô tội? Đã không kết án mình đâu còn dám kết án người khác.
Nhân hậu khi Chúa nói với người phụ nữ: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu!”. Và lòng nhân hậu lên đến tuyệt đỉnh khi Chúa nói: “Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Không kết án. Không giết chết. Nhưng còn hơn thế nữa, mở cho ta con đường sự sống. Không đóng đinh con người vào quá khứ. Nhưng mở cho con người một tương lai. Không nghi ngờ con người yếu đuối. Nhưng tin tưởng thiện chí và khả năng đổi mới.
Không chỉ cứu mạng sống thân xác chóng qua. Nhưng cứu sự sống của linh hồn bất tử. Không chỉ cứu một người phụ nữ. Nhưng cứu tất cả mọi người. Những người có mặt hôm ấy khi về nhà phải duyệt xét lương tâm. Biết mình có tội. Biết sám hối. Mọi người sẽ được sự sống.
Quả thực Chúa là vị thẩm phán công minh và nhân hậu. Xử án không phải để kết án nhưng để tha thứ. Không phải để giết chết nhưng để cứu sống. Vì Chúa là Thiên Chúa sự sống.
Chúa Giêsu nói mà người Do thái không hiểu. Hôm nay Chúa cho biết lý do: Vì Chúa thuộc thượng giới còn người Do thái thuộc hạ giới.
Hạ giới thuộc về đất thấp. Thượng giới thuộc về trời cao. Hạ giới tầm nhìn hạn hẹp. Thượng giới tầm nhìn vô biên. Hạn giới kiến thức nông cạn. Thượng giới hiểu biết khôn lường. Nhất là Chúa Giêsu đã nghe Chúa Cha nói và chiêm ngưỡng những việc Chúa Cha làm. Người chỉ nói những gì nghe thấy nơi Chúa Cha.
Hạ giới sống theo xác thịt. Thượng giới sống the Thần khí. Người Do thaisống theo xác thịt. Dù được Thiên Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ, trở thành con người tự do. Nhưng trong sa mạc họ vẫn nhớ củ hành củ tỏi bên Ai cập. Họ mơ ước được miếng ăn ngon dù phải chịu nô lệ.
Họ giống như loài rắn lúc nào cũng bò sát mặt đất tầm thường. Để cảnh báo họ Chúa cho rắn lửa bò ra cắn chết họ. Ai sống theo xác thịt sẽ phải chết. Họ khóc lóc kêu xin. Chúa truyền Mô-sê làm con rắn bằng đồng treo lên. Ai nhìn lên con rắn treo trên ngọn cây sẽ được sống.
Treo con rắn lên là treo thói hư tật xấu. Treo dục vọng xác thịt lên. Để không còn sống theo dục vọng xác thịt nữa. Như thánh Phao lô nói: “Tôi cùng chịu đóng đinh vào thập giá làm một với Đức Kitô”. Đóng đinh xác thịt là không còn sống cho mình nữa. Nhưng chỉ sống cho Thiên Chúa.
Chính Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá. Trần trụi chịu treo lên, Chúa Giêsu là gương mẫu dứt bỏ mọi ràng buộc của xác thịt trần gian. Người chiến thắng mọi cám dỗ về danh, lợi, thú. Người hoàn toàn tự do. Vì thế khi bị treo lên là Người chiến thắng và được tôn vinh.
Chúa mời gọi ta hãy treo mình cùng với con rắn đồng. Treo dục vọng xác thịt ta lên. Để ta không còn sống cho bản thân. Chỉ sống cho Chúa.
Khi được giương lên, Chúa muốn kéo ta lên với Chúa. Xin cho tôi biết thắng mọi cám dỗ của dục vọng xác thịt trần gian. Để tôi được kéo lên cùng Chúa. Lên trong Thần Khí. Lên thượng giới. Thuộc về Nước Trời.
Người Do thái cho rằng mình tự do. Thực sự họ sống trong nô lệ. Vì họ không sống trong sự thật. Họ bị lầm lạc.
Họ lầm tưởng mình tự do. Nhưng họ đã phạm tội. Phạm tội là nô lệ cho tội lỗi. Sống dưới ách ma quỉ. Bị dục vọng trói buộc. Chỉ có Chúa Giê-su tự do. Vì Chúa là Đấng Thánh. Chỉ khi nào người Do thái được Chúa giải phóng khỏi tội lỗi họ mới có tự do. “Thật, tôi bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội…Vậy nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thật sự là những người tự do”.
Họ lầm tưởng mình là con cháu Áp-ra-ham. Nhưng thực sự không phải. vì Áp-ra-ham luôn lắng nghe và tuân hành ý Chúa. Còn họ thì không: “Giả như các ông là con cái ông Áp-ra-ham, hẳn các ông phải làm những việc ông Áp-ra-ham đã làm. Thế mà bây giờ các ông lại tìm giết tôi, là người đã nói cho các ông sự thật mà tôi đã nghe biết từ Thiên Chúa. Điều đó, ông Áp-ra-ham đã không làm”.
Họ lầm tưởng họ là con Thiên Chúa. Nhưng không phải. Vì họ không yêu mến Chúa Giê-su là Đấng Cha sai đến: “Giả như Thiên Chúa là Cha các ông, hẳn các ông phải yêu mến tôi, vì tôi phát xuất từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa mà đến”.
Sống trong lầm lạc. Họ nô lệ cho sự lầm lạc. Họ ở ngoài Thiên Chúa. Cần phải có sự thật giải phóng họ mới được tự do. Chúa Giê-su chính là sự thật. Vì Người luôn ở trong Thiên Chúa.
Giống như Đa-ni-en và các bạn. Họ tự do. Vì họ luôn ở trong Thiên Chúa. Nên dù bị trói họ vẫn thảnh thơi. Có bị ném vào lò lửa, họ vẫn tự do. Đi lại ca hát chúc tụng Thiên Chúa. “Nhưng ta thấy có bốn người đang tự do đi lại trong lò lửa mà không hề hấn gì”. Họ tự do vì không chịu sống trong lầm lạc. Không chịu khuất phục trước cường quyền, Không sợ cả cái chết. Chính Na-bu-cô-đô-no-so là người bị nô lệ cho dục vọng và sự lầm lạc của mình.
Mùa Chay là mùa giải thoát. Ăn chay là để vượt thoát khỏi sự lầm lạc. Khỏi dục vọng. Khỏi ý riêng. Để ta được ở trong Thiên Chúa. Ở trong sự thật. Ta được tự do. Tâm hồn tự do khi ta trói buộc được xác thịt. Khi thả lỏng dục vọng ta sẽ bị mất tự do.
Người Do thái nhặt đá ném Chúa Giê-su. Vi Người nói: “Ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết”. Khi ném đá Người họ phủ nhận Người là Con Thiên Chúa. Phủ nhận sự ứng nghiệm của Lời Chúa. Và phủ nhận Áp-ra-ham đang sống. Đồng thời cũng phủ nhận đức tin của Áp-ra-ham.
Áp-ra-ham đã tin vào Lời Chúa. Vì tin nên ngài bỏ quê hương xứ sở lên đường đi đến miền Đất Hứa. Vì tin nên ngài sẵn sàng sát tế I-sa-ác, người con duy nhất nối dõi. Đức tin mạnh mẽ của ngài đã khiến ngài trở thành cha của những kẻ tin.
Nhờ đức tin, tổ phụ Áp-ra-ham đã nhận được lời Chúa hứa. Dòng dõi Áp-ra-ham lớn mạnh về chiều rộng. Vì Áp-ra-ham trở thành “cha của vô số dân tộc”. Dòng dõi ngài sẽ tồn tại suốt chiều dài thời gian. Vì Chúa sẽ lập giao ước với dòng dõi của ngài “từ thế hệ này qua thế hệ khác”. Dòng dõi ngài sẽ trổi vượt về chiều cao. Vì “các vua chúa sẽ phát xuất từ Áp-ra-ham”.
Tất cả lời hứa ứng nghiệm vào Chúa Giêsu. Vì Người thuộc dòng dõi Áp-ra-ham. Nước Thiên Chúa do Người thiết lập sẽ trải rộng vô biên. Không còn giới hạn vào một miền đất, một dân tộc hay một ngôn ngữ. Trái lại “Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Chúa”(Lc 13, 29). Nước Thiên Chúa sẽ trường tồn vĩnh cửu. Như lời thiên sứ Ga-bri-en đã loan báo: “Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1, 33). Dòng dõi người là vua chúa vì “Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít tổ tiên Người”(Lc 1, 32).
Qua câu trả lời của Chúa Giêsu ta biết Áp-ra-ham đang sống vì tổ phụ đã tuân giữ lời Chúa không sai mảy may. Vì thế ngài được sống. Không chỉ sống ngài còn vui mừng vì thấy Chúa Giê-su thuộc dòng dõi của ngài đang được vinh hiển. Ngài vui mừng vì thấy lời hứa của Thiên Chúa được hoàn thành hoàn hảo nơi Chúa Giê-su.
Mọi lời hứa đã bắt đầu với đức tin của Áp-ra-ham và hoàn thành viên mãn nơi Chúa Giê-su. Đức tin làm phát sinh sự sống. Nếu tổ phụ Áp-ra-ham hoàn toàn tin tưởng cả trong những việc khó khăn nhất là hiến tế I-sa-ác, thì Chúa Giê-su hoàn toàn tin tưởng vào Chúa Cha trong thời điểm khắc nghiệt nhất là cái chết. Còn hơn thế nữa, Chúa Giê-su tự hiến tế thân mình với một đức tin trổi vượt. Đem lại sự sống muôn đời cho nhân loại.
Ma quỉ chống lại Thiên Chúa. Đó chính là nguồn gốc sự dữ. Những kẻ ác tiếp tục công việc của ma quỉ chống lại các sứ giả của Thiên Chúa. Vì Lời Chúa kết án lối sống vô đạo của họ. Vì đời sống công chính của các ngài vạch trần lối sống xấu xa của họ. Vì thế kẻ ác luôn tìm giết kẻ lành. Thế lực kẻ ác rất mạnh. Vì chúng có quyền trên trần gian. Nhưng người công chính vẫn luôn can đảm làm chứng cho Chúa. Và sẵn sàng chịu mọi đau khổ vất vả. Vì các ngài tin tưởng Thiên Chúa sẽ đến giúp đỡ và giải thoát các ngài. Giê-rê-mi-a, giữa cơn khốn cùng vẫn luôn tin tưởng: “Nhưng Đức Chúa hằng ở bên con như một trang chiến sĩ oai hùng. Vì thế những kẻ từng hại con sẽ thất điên bát đảo, sẽ không thắng nổi con”. Hơn nữa Thiên Chúa sẽ giải cứu các ngài: “Hãy ngợi khen Đức Chúa, vì Người đã giải thoát kẻ cơ bần khỏi tay phường hung bạo”.
Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa. Nhưng kẻ ác vẫn không buông tha Người. Dù họ chẳng có lý lẽ nào bào chữa. Họ nại đến Lề Luật. Nhưng Lề Luật làm chứng về Người. “Nếu Lề Luật gọi những kẻ được Thiên Chúa ngỏ lời là những bậc thần thánh, mà lời Kinh Thánh không thể bị huỷ bỏ, thì tôi là người Chúa Cha đã thánh hiến và sai đến thế gian, làm sao các ông lại bảo tôi: ‘Ông nói phạm thượng’ vì tôi đã nói: ‘Tôi là Con Thiên Chúa’”.Họ ném đá Chúa vì cho rằng Người phạm thượng. Nhưng Chúa đã làm những công việc của Chúa Cha. Những điềm kỳ dấu lạ. Xua trừ ma quỉ. Phục sinh kẻ chết. Rõ ràng nếu không phải là Thiên Chúa thì không thể làm được những điều kỳ diệu vượt sức loài người như thế. Tuy nhiên dù có ghen ghét họ chẳng làm gì được Chúa. “Bấy giờ họ tìm cách bắt Người, nhưng Người đã thoát khỏi tay họ”. Và dù họ có giết chết, Người đã phục sinh và hằng sống.
Thế gian thật dữ dội. Nhưng Thiên Chúa là sức mạnh. Tôi hãy đi vào con đường của Chúa Ki-tô. Không chạy theo thế lực trần gian. Chỉ tin tưởng và trung tín với Thiên Chúa. Tôi sẽ chịu thiệt thòi. Nhưng Thiên Chúa ở với tôi. Người giải thoát tôi khỏi mọi ràng buộc của thế lực sự dữ. Người giải thoát tôi khỏi dính bén với những cám dỗ trần gian. Thoát mọi mưu mô cạm bẫy trần gian. Cho tôi đạt tới Người. Kết hợp với Người.
Ngày cuối cùng của mùa Chay, Cai-pha đã tuyên án: Chúa Giê-su phải chết thay cho toàn dân. Nhưng đó là: Để qui tụ con cái Thiên Chúa tản mác khắp nơi về một mối. Như Ê-dê-ki-en tiên báo từ thời xa xưa: “Ta sẽ qui tụ chúng lại từ bốn phương và đưa chúng về đất của chúng. Ta sẽ làm cho chúng thành một dân tộc duy nhất trong xứ..; tất cả chúng chỉ có một vua duy nhất”.
Lịch sử con người là lịch sử chia rẽ. Chia rẽ với Thiên Chúa. Nghe lời ma quỉ chống lại lệnh Chúa truyền. Chia rẽ với nhau. Ca-in đã giết A-ben. Và câu chuyện tháp Ba-ben còn đó. Bất hòa cả với thiên nhiên, cỏ cây, súc vật. Nên phải lao động vất vả đổ mồ hôi mới có thể đủ ăn. Chia rẽ với chính mình. Như thánh Phao-lô nói: Điều tốt tôi muốn tôi lại không làm. Điều xấu tôi không muốn thì tôi lại làm.
Chúa Giê-su chết để hòa giải con người với Thiên Chúa. Thánh giá là chiếc cầu nối. Chúa Giê-su là trưởng tử chí hiếu dắt đoàn em bất hiếu đông đảo trở về nhà Cha. Thánh giá là bàn hội nghị cho con người có thể gặp gỡ Thiên Chúa. Thánh giá là giao ước mới, nơi Thiên Chúa một lần nữa ký kết yêu thương con người.
Chúa Giê-su chết để hòa giải con người với nhau. Con người muốn áp bức người khác, giết chết người khác để độc chiếm, bá chủ. Chúa Giê-su tự nguyện chịu chết trong tay loài người. Tự nguyện hạ mình phục vụ loài người. Tự nhận là tôi tớ rửa chân cho loài người. Để chuộc lại tội lỗi loài người. Để hòa giải con người với nhau.
Chúa Giê-su chết để hòa giải nội tâm con người. Để thống nhất con người. Chúa chiến thắng tính xác thịt, thế gian. Để trong con người từ nay được thống nhất. Không còn phân tán hai lòng hai ý. Nhưng chỉ có một con người vâng phục linh hồn. Và linh hồn vâng phục Thiên Chúa.
Thế giới hôm nay là một thế giới phân rẽ đầy mâu thuẫn. Con người muốn gạt bỏ Thiên Chúa nhưng lại qui phục những mê tín dị đoan. Con người cần lẫn nhau nhưng lại khai thác bóc lột nhau. Con người mơ ước gia đình hạnh phúc, nhưng lại cổ võ li dị. Thế giới e ngại tương lai chỉ toàn người già, nhưng không ai chịu sinh con. Con người muốn hưởng thụ khí lành, cây xanh, nhưng không ngừng tàn phá thiên nhiên và khí quyển. Ai cũng muốn được xưng tụng là người tốt, là ân nhân của nhân loại, nhưng lại làm những việc xấu xa, tàn phá con người. Trong tình hình đó, cần có những con người noi gương Chúa Giê-su để hàn gắn lại những chia rẽ, phân tán trong thế giới.
Ngưởi Tôi Trung của Chúa là người tràn đầy Thần Khí. Với các hiệu quả là không phô trương “không kêu to, không nói lớn”. Nhân từ “ Không bẻ gẫy cây lau bị giập, không dập tắt tim đèn leo lét”. Nhưng “không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu”. Nhờ đó Người “ban sinh khí cho toàn thể cư dân”, cho thế giới được phục hồi và được sống. Sống trong ánh sáng và tự do. Vì Người “mở mắt cho những ai mù lòa, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ”.
Chúa Giêsu chính là Người Tôi Trung tràn đầy Thần Khí. Tất cả được tỏ hiện tại ngôi nhà Bê-tha-ni-a. Sự sống được thực hiện trong La-za-rô, người đã chết 4 ngày được Chúa cho sống lại. Chết quá 3 ngày là chết thật rồi. Vì thế sống lại là một việc lạ lùng ngoài luật tự nhiên. Là kết quả của Thần Khí.
Ánh sáng và tự do được thể hiện trong Ma-ri-a. Cô được tràn đầy Thần Khí nên biết phải làm gì. Việc xức dầu vừa loan báo Chúa chịu chết vừa loan báo Chúa Phục Sinh. Ngày Chúa chịu chết được an táng vội vàng nên không kịp xức dầu thơm. Ngày Chúa nhật các phụ nữ mang dầu thơm đến xức thì Chúa đã sống lại rồi. Vì thế Maria làm việc này theo ánh sáng Thần Khí. Và Chúa đã xác nhận.
Ma-ri-a làm trong tự do của lòng yêu mến. Cô tự do nên không bị ý kiến nào chi phối. Dù việc làm của cô có bị phản đối. Đặc biệt cô tự do với lòng quảng đại. Bình dầu thơm có giá trị lớn bằng cả một năm làm việc. Đó là tất cả sự sống của cô. Nhưng sự sống của cô là bởi Chúa. Nhất là Chúa mới trả lại sự sống cho La-za-rô. Đó là món quà quí nhất. Dù có dâng lại tất cả cũng chưa xứng đáng. Huống hồ một bình dầu thơm.
Giu-đa không có Thần Khí nên không có ánh sáng và tự do. Ông không biết làm đúng việc ở đúng nơi vào đúng lúc. Hơn nữa ông bị tiền bạc trói buộc nên mọi tư tưởng lời nói việc làm của ông đều mất tự do. Và vì thế không có sự sống. Dẫn đến cái chết thảm khốc.
Mùi dầu thơm lan tỏa khắp nhà. Hương thơm của sự sống. Của Thần Khí. Xin cho con được tràn đầy Thần Khí Chúa. Xin cho đời sống con tỏa hương thơm ca tụng Chúa. Bằng ánh sáng và tự do.
Người tôi trung được Thiên Chúa tuyển chọn. Để chu toàn công việc của Thiên Chúa, không những người tôi trung phải trở thành khí cụ sắc bén: “Người đã làm cho miệng lưỡi tôi nên như gươm sắc bén, giấu tôi dưới bàn tay của Người. Người đã biến tôi thành mũi tên nhọn, cất tôi trong ống tên của Người”. Còn hơn thế nữa, người tôi trung phải chịu vất vả, đau khổ: “Tôi vất vả luống công, phí sức mà chẳng được gì”. Nhưng có Thiên Chúa trợ giúp. Người tôi trung sẽ đem mọi người về với Thiên Chúa: “Để tôi trở thành người tôi trung, đem nhà Gia-cóp về cho Người và quy tụ dân Ít-ra-en chung quanh Người”.
Nhờ trung tín vượt qua mọi gian lao thử thách để chu toàn nhiệm vụ, người tôi trung được Thiên Chúa tôn vinh: “Người phán: ‘Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta, để tái lập các chi tộc Gia-cóp, để dẫn đưa các người Ít-ra-en sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít. Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng trái đất’”.
Chúa Giê-su chính là người tôi trung của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã ban quyền năng để Chúa trở nên dụng cụ sắc bén. Rao giảng như kẻ có quyền. Làm những điều kỳ diệu trong toàn thể đất nước. Đặc biệt là trừ quỉ và cho kẻ chết sống lại.
Nhưng Thiên Chúa cũng để cho Người trải qua những thử thách nặng nề. Để chứng tỏ tình hiếu thảo của người con. Và sự hi sinh vất vả của người tôi trung. Người bị chống đối. Bị mưu hại. Bị chính môn đệ thân tín chối bỏ. Và bị bán rẻ một cách đau đớn. “Thật, Thầy bảo thậ anh em: có một người trong anh em sẽ nộp Thầy”. Và nói với Phê-rô: “Anh sẽ thí mạng vì Thầy ư? Thật Thầy bảo thật cho anh biết: gà chưa gáy, anh đã chối Thầy ba lần”.
Nhưng chính trong đau khổ và qua cái chết, Người minh chứng một trung tín sâu xa. Và lòng hiếu thảo tuyệt đối vâng phục. Vì thế giờ chết là giờ cao điểm. Giờ Người được Thiên Chúa tôn vinh: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người”.
Xin cho chúng ta trở nên người tôi trung của Chúa. Không phản bội Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào. Cùng chịu đau khổ với Chúa. Cùng chịu chết với Chúa. Để cùng được tôn vinh với Chúa.
Người tôi trung được Thiên Chúa tuyển chọn để lắng nghe thánh ý. Để nói lời Thiên Chúa. Để “lựa lời nâng đỡ những ai rã rời kiệt sức”. Nhưng để thi hành ý Chúa, người tôi trung phải chấp nhận đau khổ: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ”. Trong đau khổ người tôi trung hoàn toàn phó thác tin tưởng. Vì “có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn…Này, có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, ai còn dám kết tội”?
Hình tượng người tôi trung hoàn thành nơi Chúa Giê-su.
Chúa Giê-su là Ngôi Lời. Được Chúa Cha sai xuống trần để nói lời Thiên Chúa với nhân loại. Người không nói lời gì ngoài những gì đã nghe nơi Chúa Cha. Để nhân loại biết thánh ý Chúa Cha. Để nhân loại được ơn cứu độ.
Người đến “nâng đỡ những ai rã rời kiệt sức”. Nên đi tìm con chiên lạc. An ủi những ai sầu khổ. “Bổ sức cho những ai vất vả gồng gánh nặng nề”. Chữa lành bệnh tật. Xua trừ ma quỉ.
“Vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết”. Biết rằng “thời đã đến”. Nên Người chủ động đi vào cuộc khổ nạn. Bằng chủ động chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua. Người trở thành con chiên vượt qua mới. Chịu sát tế để cứu chuộc nhân loại.
Ngài chịu sát tế bằng những phản bội của môn đệ. Giu-đa vẫn đang “tìm dịp thuận tiện để nộp Đức Giê-su”. Ngài không né tránh. Nhưng trực diện: “Thầy bảo thật anh em, một người trong anh em sẽ nộp Thầy”. Thật đau đớn vì đó chính là kẻ thân tín, cùng ăn, cùng ở với Thầy: “Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy”. Và nói thẳng với Giu-đa: “Chính anh nói đó”. Trong cuộc hành hình, Người cũng như người tôi trung của I-sai-a, “đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu”. Và còn hơn thế, Người chịu vác thánh giá. Chịu đóng đinh giữa hai tên trộm cướp. Chịu chết tức tưởi. Người trung tín đến cùng. Người yêu thương đến cùng. Người vâng phục đến cùng.
Tiến sâu vào cuộc khổ nạn, ta hãy xin Chúa giúp sức. Để ta không phản bội như các môn đệ. Không thay lòng đổi dạ như đám đông. Để ta trung tín với Chúa. Cả trong những khổ sở đau đớn. Để ta cũng trở thành tôi trung của Chúa. Trong xã hội đầy gian dối, lừa lọc hôm nay.
Chúa phục sinh. Điều kỳ diệu chưa từng có. Chưa trí khôn nào nghĩ tới. Như một mặt trời mọc lên chiếu soi khắp cùng thế giới. Làm bừng lên chân lý trong tâm hồn các môn đệ. Một niềm vui vô bờ bến. Vì Chúa đã chiến thắng. Con người được cứu chuộc. Lịch sử sang một trang mới hào hùng. Trí khôn mở ra. Các môn đệ chợt hiểu thấu tất cả.
Thì ra đó là kế hoạch của Thiên Chúa. Đã được báo trước từ ngàn đời. Thiên Chúa đã hứa cho một người thuộc dòng dõi Đa-vít sẽ lên kế vị. Và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận. Còn hơn thế nữa Đấng ấy sẽ từ cõi chết sống lại. Thánh Phê-rô, trong niềm xác tín mãnh liệt, đã nhắc lại cho dân Do thái: “Thưa anh em, …Thiên Chúa đã thề với người (vua Đa-vít) là sẽ đặt một người trong dòng dõi trên ngai vàng của người, nên người đã thấy trước và loan báo sự phục sinh của Đức Ki-tô khi nói: Người đã không bị bỏ mặc trong cói âm ty và thân xác Người không phải hư nát”. Quả thật, “theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giê-su ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết”.
Kế hoạch cho thấy quyền năng của Thiên Chúa vô cùng cao siêu. Không trí khôn nào hiểu thấu. Không sức mạnh nào ngăn cản được. Kế hoạch cũng cho thấy tình yêu thương của Thiên Chúa là vô bờ bến. Vượt qua mọi yếu đuối tội lỗi. Vượt qua cả cái chết. Để đưa con người đến sự sống. Mà Chúa Ki-tô, Con yêu dấu của Người là Trưởng Tử đi đầu. Cho chúng ta được đi theo: “Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống, và cho con được vui sướng tràn trề khi ở trước Thánh Nhan”.
Một cuộc đời mới khởi đầu. Không còn sợ hãi nữa. Nhưng bắt đầu lại từ đầu. Để làm chứng cho Chúa: “Chị em đừng sợ! Hãy về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê, Họ sẽ được thấy thầy ở đó”. Ga-li-lê là khởi đầu. Ga-li-lê sẽ bắt đầu lại. Tươi mới. Phấn khởi. Tràn đầy niềm vui và hi vọng.
Nhưng thế lực sự chết vẫn còn cố gắng chống lại Chúa. Vẫn còn mưu toan lừa dối: “Các anh hãy nói như thế này: Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác”. Thánh Âu-tinh đã vạch rõ thủ đoạn gian dối: Các anh là lính canh. Tại sao ngủ. Nếu ngủ làm sao biết là họ đến lấy xác. Nếu thức làm sao để họ lấy. Đúng là vải thưa không che được mắt thánh. Bàn tay không che nổi ánh mặt trời. Chỉ tối mắt mình. Mặt trời vẫn chiếu soi rạng rỡ.
Chúa Giê-su hỏi Ma-đa-lê-na: “Chị tìm gì”? Xác định mục đích cuộc đời là rất quan trọng. Nếu không có mục đích, ta không biết mình đi đâu, làm gì. Thánh Bê-na-đô ngày nào cũng tự hỏi mình: “Bê-na-đô, ngươi là ai? Ngươi đến đây làm gì”?
Chúa Giê-su luôn hỏi ta câu đó. Người đã hỏi hai môn đệ đầu tiên: “Các anh tìm gì”?(x. Ga 1, 35-39) Hôm nay Người lại hỏi Mađalêna: “Chị tìm gì”? Người hỏi ta hằng ngày: “Con tìm gì”? Ta có trả lời được không?
Xác định được mục đích ta sẽ không lẫn lộn, dừng lại ở những gì không phải mục đích. Ma-đa-lê-na chỉ đi tìm Chúa. Bà nhất quyết phải gặp được Chúa. Dù gặp thiên thần sáng láng tốt lành bà cũng không vui nên vẫn khóc và đi tìm. Vì Chúa mới là mục đích duy nhất. Vì Chúa mới là sự thiện tuyệt hảo. Vì Chúa mới là sự mỹ tuyệt đối. Chỉ có Chúa mới thỏa mãn mọi khát khao sâu thẳm trong tâm hồn.
Xác định được mục đích ta sẽ phải chọn lựa. Giữa Chúa và những gì không phải Chúa. Giữa Chúa và trần gian. Giữa sống theo Thần Khí và theo thói thế gian. Nên thánh Phê-rô khuyên nhủ các tín hữu đầu tiên: “Anh em hãy tránh xa thế hệ gian tà này”. Rất nhiều người muốn theo Chúa, nhưng không thể bỏ trần gian. Như chàng trẻ tuổi giầu có muốn được sự sống đời đời. Nhưng khi Chúa bảo phải về bán hết của cải thì buồn rầu. Chàng quay lưng lại với Chúa ngay. Vì chàng luyến tiếc trần gian(x. Mc 10, 17-22).
Chọn lựa phải có từ bỏ. Từ bỏ sẽ có đớn đau. Ma-đa-lê-na vì tìm Chúa mà phải khóc lóc. Những người tín hữu đầu tiên cũng đau đớn trong lòng. Như Chúa đã nói với các môn đệ: “Các con sẽ khóc lóc. Còn thế gian sẽ vui mừng”(Ga 16, 20).
Nhưng đúng như lời Chúa nói: “Ai tìm sẽ thấy”(Mt 7, 7) và “Phúc cho ai khóc lóc vì họ sẽ được an ủi”(Mt 5, 5). Ma-đa-lê-na đã được gặp Chúa. Nói sao cho vừa niềm vui của bà. Và lời chứng của bà giá trị biết bao. Dù chỉ đơn sơ: “Tôi đã thấy Chúa”.
Tôi có thấy Chúa không? Nói khác đi người khác nhìn vào đời sống tôi có thấy Chúa không. Nếu tôi sống đơn sơ khó nghèo không coi trọng những gì của trần gian, người khác sẽ nhìn thấy Chúa. Nếu tôi yêu thương phục vụ vô vị lợi những người nghèo khổ, tôi chiếu tỏa ánh sáng của Chúa là tình yêu. Người khác sẽ nhận ra.
Lạy Chúa xin cho con thực sự đi tìm Chúa và chỉ tìm một mình Chúa mà thôi. Và con chắc chắn sẽ gặp Chúa. Để con có thể nói với mọi người: “Tôi đã thấy Chúa”.
Thiên Chúa là Đấng Khác, Hoàn Toàn Khác. Vượt mọi tầm hiểu biết của con người. Vượt mọi định nghĩa, công thức của con người. Vượt mọi ý định thâu tóm của con người. Đó là kinh nghiệm của các môn đệ sau ngày Chúa Phục Sinh. Đặc biệt với các môn đệ đi đường Em-maus hôm nay. Quả thật Thiên Chúa Khác Biệt làm nên những khác biệt. Ai được gặp gỡ với Chúa cũng đều trở nên khác biệt. Hai môn đệ Em-maus gặp được Chúa đã trở nên khác. Bản thân đổi khác. Buồn bã bỗng biến thành mừng vui. Ê chề thất vọng bỗng trở thành tràn trề hi vọng. Âm thầm trốn chạy bỗng công khai quay về.
Bài sách Công vụ Tông đồ trình bày một Phê-rô hoàn toàn đổi khác. Một người nhút nhát chối Thầy, nay bỗng công khai rao giảng trong hội đường. Một người trốn tránh nay thành một chứng nhân kiên cường. Một bác thuyền chài dốt nát nay thành một nhà giảng thuyết hùng hồn. Nghe ngài nói xong hàng ngàn người xin rửa tội.
Thực ra Chúa Phục Sinh vẫn hiện diện bên ta. Nhưng làm sao cho sự hiện diện của Chúa trở nên sống động và cụ thể? Lời Chúa hôm nay hướng dẫn cho ta 3 cách.
Thứ nhất: Biến hiện diện của Chúa thành sống động và cụ thể bằng cách sốt sắng dâng thánh lễ. Trình thuật Em-maus chính là một cử hành Thánh Thể. Chúa giải nghĩa Thánh Kinh. Chúa làm phép và bẻ bánh.
Thứ 2: Làm cho Chúa hiện diện bằng thực hành bác ái. Chính lòng hiếu khách, sự chia sẻ huynh đệ, đã giữ chân Chúa ở lại. Nhờ đó các ngài đã thấy Chúa hiển hiện cụ thể sống động trước mặt các ngài.
Thứ 3: Thánh Phê-rô, siêu thoát tất cả những giá trị trần gian, để chỉ có Chúa Phục Sinh ngự trong ta như thánh nhân nói: Tình, tiền, tài thì tôi không có. Nhưng tôi chỉ có Chúa Giê-su trong tôi. Khi ngài không có gì hết, sức mạnh của Chúa hoạt đông, chữa lành người què bẩm sinh.
Xin cho tất cả chúng ta được Chúa Phục Sinh làm cho nên khác biệt. Cho chúng ta biết dâng thánh lễ sốt sắng như chính Chúa Giê-su dâng lễ. Biết có lòng hiếu khách, bác ái chia sẻ như hai môn đệ Em-maus. Biết siêu thoát của cải danh vọng chức quyền như thánh Phê-rô. Để biến sự hiện diện của Chúa Phục Sinh thành cụ thể và sống động. Thế giới hôm nay như người què đang cần Chúa Phục Sinh đến chữa lành để có thể bước đi trên con đường ngay chính và hạnh phúc.
------------------------------------
083 - Thứ 5 Phục Sinh: GIÊSU, ĐIỂM TỚI CỦA THÁNH KINH
Cv 3, 11-26; Lc 24, 35-48
Nếu có ai đưa cho ta một bản đồ bí mật chỉ chỗ cất giấu kho tàng, chắc chắn ta không ngần ngại bỏ công sức nghiên cứu tìm tòi cho ra con đường dẫn đến kho tàng đó. Thánh Kinh chính là tấm bản đồ chỉ cho ta chỗ kho tàng chôn giấu trong ruộng. Thánh Kinh cho ta biết kho tàng cao quí nhất là Chúa Giê-su. Sao ta không cất công nghiên cứu kỹ lưỡng tấm bản đồ quí giá này để tìm cho ra kho tàng Giê-su?
Nếu có ai bảo ta Chúa hiện ra ở chỗ này, Mẹ hiện ra ở chỗ nọ, chắc chắn ta không ngại bỏ công sức, thời giờ và tiền bạc để đến kính viếng nơi linh thiêng in dấu chân Chúa, thấp thoáng tà áo Mẹ. Thánh Kinh là nơi Chúa tỏ mình, sao ta không chịu đến chiêm ngưỡng dung nhan thực sự của Chúa?
Thánh Giê-rô-ni-mô quả quyết: Ai không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Giê-su. Không biết ở đây không chỉ là không biết đến. Nhưng còn là không biết cặn kẽ. Người Do Thái rất thông thuộc Thánh Kinh. Thế mà không biết Chúa Giê-su.
Hôm nay Chúa Giê-su đã mở lòng trí cho các Tông đồ hiểu Thánh Kinh. Và dẫn chứng Mô-sê, các tiên tri và các Thánh Vịnh đều chép về Người. Và những điều ấy đã được ứng nghiệm.
Trong bài giảng đầu tiên, thánh Phê-rô cũng nhắc lại cho người Do thái thấy mọi điều trong Thánh Kinh, từ Mô-sê cho đến các tiên tri đều ứng nghiệm nơi Chúa Giê-su.
Chúa Giê-su là điều Thánh Kinh hướng đến. Người là Đấng hoàn thành lời hứa. Người là Đấng thực hiện những lời tiên báo về Đấng Cứu Thế. Người chính là điểm đến của Thánh Kinh.
Xin cho chúng con biết yêu mến Thánh Kinh. Vì Chúa ẩn mình trong đó. Xin cho con đọc Thánh Kinh với lòng yêu mến. Chỉ có ánh sáng của trái tim mới thấu hiểu được sứ điệp tình thương trong Thánh Kinh. Xin cho con đọc Thánh Kinh với lòng khao khát Chúa. Chỉ có người khát nước mới tìm được nguồn nước hằng sống. Xin cho con biết kiên tâm tìm kiếm Chúa là kho tàng chôn giấu trong thửa ruộng Thánh Kinh. Xin cho con biết mài dũa Thánh Kinh để lộ ra viên ngọc Giê-su cao đẹp.
Rất gần mà rất xa. Bình thường nhưng lại rất khác thường. Thân tình nhưng lại rất cao cả. Đơn sơ nhưng đầy quyền năng. Đó là những gì các môn đệ cảm nghiệm được về Chúa Ki-tô phục sinh. Người đi trên bờ hồ như một bạn chài. Nhưng lại chỉ dẫn cho các ngư phủ bắt được một mẻ cá đầy lưới đến hai thuyền chở mới hết. Người đốt lửa, nướng cá và bánh như một người bạn thân tình. Nhưng lại quyền năng uy nghi như vị Chúa Tể. Vì Chúa đã phục sinh.
Chúa phục sinh khiến mọi sự thay đổi. Chúa giờ đây vẫn còn giữ những vết thương. Nhưng đã mặc lấy vinh quang Người đã có bên Chúa Cha.
Cuộc phục sinh của Chúa làm thay đổi vận mệnh con người. Danh Người oai phong vượt đất trời. Quyền Người dũng mãnh bao trùm vũ trụ. Có thể cứu giúp con người. Giải thoát họ khỏi bệnh tật. Và giải phóng được linh hồn khỏi ách ma quỉ thế gian.
Phép lạ chữa người què từ thuở mới sinh làm chấn động Giê-ru-sa-lem. Các thượng tế phải hội họp. Và chất vấn Phê-rô: “Nhờ quyền năng nào hay nhân danh ai mà các ông làm điều ấy?” Phê-rô nhân cơ hội giảng giải cho họ: “Nhân danh chính Đức Giê-su Ki-tô, người Na-da-rét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh”.
Không chỉ chữa khỏi bệnh tật, Danh Chúa còn đem lại ơn cứu độ. Biến đổi số phận con người. Cho họ được trở thành bất tử. Sống lại với Người. Để được sự sống đời đời. Như Phê-rô minh chứng: “Người Người ra,không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ”.
Phục sinh là một biến cố lớn lao. Biến đổi vận mệnh con người. Biến đổi cả vũ trụ thế giới. Làm cho tất cả được phục sinh. Được tham dự vào sự sống vĩnh cửu của Chúa. Được mắt thấy tai nghe. Được cảm nghiệm ơn phục sinh. Phê-rô và các môn đệ đem cả sinh mạng làm chứng cho Chúa.
Lạy Chúa xin cho con được sống lại thật về phần linh hồn.
Cv 4, 13-21; Mc 16, 9-15 Tin không dễ. Các môn đệ không tin dù những người mắt thấy tai nghe kể lại. Các thượng tế thấy người què được chữa lành, vẫn không tin. Tại sao? Vì 4 lý do:
Trước hết, tin song hành với yêu. Ta tin người mình yêu. Và ta yêu người mình tin. Ma-đa-lê-na đứng đầu những người tin Chúa Phục Sinh. Vì bà đã yêu nhiều. Vì bà được tha nhiều. Thánh Phê-rô cũng đứng đầu danh sách các môn đệ đã tin. Ngài cũng được tha nhiều. Nên ngài đã yêu nhiều.
Vì thế, tin không đi với trí tuệ. Các thầy tư tế và các nhà thông luật, dù thông thạo Kinh Thánh, nhưng vẫn không tin. Dù người què bẩm sinh được khỏi đang đứng sờ sờ trước mắt các ông. Cho thấy tin không phải là thái độ của trí tuệ, nhưng là thái độ của trái tim. Phê-rô và Gio-an bị coi là những người thất học. Nhưng có đức tin lớn lao. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô có lý khi quả quyết: Đức tin không đi vào tâm hồn qua trí tuệ của những nhà thông thái, nhưng qua trái tim của những người bình dân.
Nhưng còn một lý do nữa khó khăn hơn: tin là một hành vi dấn thân. Tin Chúa phải từ bỏ tất cả. Có lẽ vì thế mà giới tư tế ngần ngại. Nếu tin theo Chúa họ sẽ mất tất cả. Sẽ phải từ bỏ quan điểm. Sẽ mất quyền lực. Mất địa vị.
Mấy ai được như thánh Phao-lô dám từ bỏ tất cả để được Chúa Ki-tô. Từ bỏ tất cả mớ kiến thức thông kim bác cổ, để chỉ biết Chúa Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh. Từ bỏ hết đặc quyền đặc lợi của một người thuộc tầng lớp Biệt phái, thuộc công dân La mã, để trở thành một Ki-tô hữu nghèo khổ, bị khinh miệt, bị săn đuổi, bị bắt bớ, bị giam cầm và sau cùng bị xử tử.
Thánh Phê-rô vì tin mà chấp nhận tất cả. Chịu hạch hỏi. Chịu giam cầm. Chịu đánh đòn. Chịu chết khổ hình. Chỉ giữ niềm tin vào Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh. Và ngài vui mừng vì được chịu khổ vì Chúa.
Như thế, tin là một lựa chọn quyết liệt: Hoặc Thiên Chúa hoặc loài người. Hôm nay trước mặt Thượng hội đồng, thánh Phê-rô đã không ngần ngại tuyên bố: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người”.
Như thế tin là một cuộc phiêu lưu. Thoát khỏi thế giới hữu hình đi vào thế giới vô hình. Vượt qua danh lợi trước mắt của trần gian để đạt tới vinh quang Nước Trời. Siêu thoát quyền lực trần gian để vâng phục Chúa Phục Sinh. Liều mất tất cả ở đời ------------------------------
Chịu phép rửa tội là cùng chết với Chúa Giêsu cho tội lỗi và con người cũ. Để được cùng sống lại với Người trong con người mới. Con người mới không còn sống theo xác thịt. Nhưng theo Thần Khí. Điều đó Chúa đã nói với Ni-cô-đê-mô nhưng ông không hiểu. Dù thông thái, nhưng chỉ là người hạ giới. Nên ông nghĩ sinh lại là phải trở vào lòng mẹ. Nhưng Chúa Giê-su nói về thượng giới. Sinh lại bởi ơn trên. Bởi nước và Thần Khí. Trước khi Chúa phục sinh, các Tông đồ cũng không hiểu. Nhưng sau ngày Chúa Phục Sinh, các ngài đã hiểu.
Các ngài đã sinh lại trong nước và Thần Khí. Đã được cưu mang qua những đau khổ. Từ những đau khổ do cuộc khổ nạn của Thầy Chí Thánh cho đến những đau khổ vì Thầy Chí Thánh. Từ những đau khổ do tính xác thịt yếu đuối cho đến những đau khổ sẵn sàng đón nhận vì tình yêu. Đó là một cuộc mang nặng đẻ đau.
Các ngài đã trở nên con người mới. Chúa Thánh Thần đến làm chấn động trái đất. Chuyển động lớn lao vì các Tông đồ chết đi cho con người cũ để sống cho con người mới. Từ bỏ con người xác thịt trần gian để sống theo Thần Khí với con người của thượng giới.
Trí óc mở ra nên các ngài am hiểu lời Kinh Thánh. Thấy tất cả Kinh Thánh đều ứng nghiệm vào Chúa Giê-su. Lời Thánh vịnh đã ứng nghiệm khi Phi-la-tô, Hê-rô-đê và các Thượng tế toa rập nhau kết án Chúa Giêsu. Họ tưởng họ đắc thắng. Không ngờ họ chỉ thi hành chương trình Thiên Chúa đã hoạch định từ trước.
Con người đổi mới nên các ngài chẳng còn sống cho xác thịt, cho chính mình. Chỉ sống cho Chúa Giê-su Ki-tô và vì Người mà thôi. Vì thế sẵn sàng và vui mừng chịu đau khổ vì Chúa.
Theo tác động của Thần Khí, các ngài mạnh dạn ra đi rao giảng Lời Chúa. Dù gặp biết bao gian nan khốn khó. Nhưng các ngài sẵn sàng chịu những thiệt thòi ở hạ giới. Vì các ngài đã thuộc thượng giới. Chỉ tìm vinh quang và hạnh phúc nơi thượng giới mà thôi.
Phần tôi, đã được chịu phép rửa, sinh lại bởi nước và Thần Khí. Tôi cũng phải noi gương các ngài. Không còn sống theo xác thịt với những toan tính trần tục. Hãy sống theo Thần Khí với nhãn quan thượng giới. này để được lại tất cả ở đời sau.
Chúa Ki-tô Phục sinh không còn thuộc thế giới phàm trần. Không có gì ngăn chặn được Người. Ngôi mộ có phiến đá to không thể nhốt kín Người. Cửa nhà đóng chặt không ngăn chặn được Người. Vì Người đã trở về thượng giới.
Người ra đi mở đường cho ta. Người được treo lên cũng kéo ta lên với Người. Những ai tin vào Người sẽ được sinh lại trong Thần Khí vào một đời sống mới. Đời sống thượng giới. Đời sống tự do.
Ta có thể đoán trước đường đi nước bước của người phàm. Nhưng ta không biết được đường đi của Thần Khí. Đó là đường đi của gió. Không ai biết gió từ đâu, đi đâu. Cũng thế ta không đoán được đường đi của những người sống theo Thần Khí tự do.
Những tín hữu đầu tiên sống theo Thần Khí tự do. Nên có những suy nghĩ và hành động khác thói trần gian. Không bị vật chất ràng buộc nên họ bán hết nhà cửa đem tiền đặt dưới chân các tông đồ. Không bị ý riêng, tự ái cá nhân ràng buộc nên họ sống hài hòa với nhau, một lòng một ý. Không còn bị thói đời trói buộc. Họ đã bay lên thế giới thần linh. Họ đã thuộc về thượng giới. Trái tim họ hoàn toàn trong sạch. Sống theo Thần Khí, họ là những con người hoàn toàn tự do.
Thật nghịch lý. Khi bon chen chỉ biết vun quén cho mình sẽ rơi vào nghèo nàn, tàn lụi. Khi quên mình, quảng đại cho đi, lại trở nên phong phú và làm cho cộng đoàn phát triển. Vì họ không còn sống cho đời tạm chóng qua. Họ sống cho sự sống đời đời.
Chúng ta đang sống trong một thời đại tục hóa. Thói trần gian xâm nhập vào những nơi linh thiêng nhất. Xâm nhập cả vào não trạng, vào những ước muốn thâm sâu trong con người. Vì thế ta bị ràng buộc, mất tự do.
Ta hãy thoát khỏi những ràng buộc của não trạng trần tục. Được sinh lại bởi nước và Thần Khí. Được trở nên như gió. Được Chúa Giê-su trên thánh giá kéo ta lên. Để chúng ta được tự do. Để chúng ta được thuộc về thượng giới. Để chúng ta làm chứng cho Nước Trời.
Sự sống là quí nhất. Có sự sống là có tất cả. Không có sự sống thì không có gì hết. Không có linh hồn. Không có thiên đàng, hay nói đúng hơn ta chẳng thể hưởng hạnh phúc thiên đàng vì ta không có mặt ở đời.
Thiên Chúa yêu thương ta biết bao khi ban cho ta được hiện hữu ở đời này. Yêu thương hơn nữa khi ban cho ta chính Con Một yêu dấu để chuộc lại sự sống đã mất. Vì sự sống của ta nên Con Chúa phải chịu chết. Tình yêu của Thiên Chúa thật khôn lường. Sự sống của ta quả thật quí giá.
Chúa Giêsu chính là ánh sáng. Ánh sáng sự sống cho ta được thấy cõi đời. Ánh sáng hi vọng cho ta được thấy định mệnh cao quí. Ánh sáng hạnh phúc được làm con Chúa.
Ta thường sai lầm khi không biết quí trọng những gì là chính yếu trong đời sống. Bị mê hoặc bởi những gì phụ thuộc, chóng qua. Đó là những giá trị lừa đảo dẫn đến sự chết. Sự sống là quí nhất. Nhưng ta đi tìm những gì phụ thuộc là tiền bạc, danh vọng, chức quyền. Sự sống lại là quí hơn. Nhưng ta lại bám víu vào sự chết đời này.
Chối từ ánh sáng là tự lên án mình. Từ chối sự sống thật ta chìm vào bóng tối chết chóc. Từ chối hi vọng thật, ta lâm vào bóng tối tuyệt vọng. Từ chối hạnh phúc thật, ta rơi vào bóng tối bất hạnh. Tự lên án mình khi ta từ chối vĩnh cửu để gắn bó với phù vân. Khi ta không nhìn lên Nước Trời mà chỉ gắn bó với mặt đất.
Những người phái Xa-đốc không tin có sự sống lại. Vì thế họ tìm ngăn cản sự sống và bịt miệng những người rao giảng sự sống. Nhưng họ luống công vô ích. Cửa sắt kiên cố không giam giữ được sự sống. Lính canh thường trực không cản được đường đi của sự sống. Sự chết không làm cho người rao giảng Lời Ban Sự Sống sợ hãi.
Vì các tông đồ đã được gặp Chúa Ki-tô Phục Sinh, là Sự Sống Lại và là Sự Sống. Nên chẳng còn sợ chết. Đã cảm nhận được sự ngọt ngào của tình yêu Thiên Chúa. Nên vượt qua hận thù ghen ghét. Đã nhìn thấy ánh sáng nên tránh xa bóng tối. Đã nếm cảm hạnh phúc nên chẳng còn bị những ảo ảnh hão huyền mê hoặc.
Chúa Giê-su cho biết Người đến từ trên cao. Nên trổi vượt trên mọi người.
Chúa từ trên cao vì xuất xứ. Chúng ta sinh ra từ bụi đất. Người sinh ra từ trời cao. Chúng ta từ đất mà ra. Người từ Chúa Cha mà đến. Tuy Người tự nguyện sống như loài người. Chẳng ai nhận ra vì Người cũng giống như mọi người. Và còn trở thành bác thợ mộc tầm thường lao động vất vả. Nhưng nguồn gốc Người vẫn vượt trên mọi người.
Chúa từ trên cao vì khôn ngoan. Chúng ta thuộc hạ giới nên kiến thức hạn hẹp. Chỉ biết những gì thuộc về trần gian. Tầm nhìn hạn hẹp không quá chân trời. Còn Chúa là Ngôi Lời toàn năng, toàn tri, toàn thiện. Người nghe và biết mọi sự trên trời từ Chúa Cha. Tầm nhìn của Người trải rộng vô biên. Sự khôn ngoan của Người khôn dò khôn thấu.
Chúa từ trên cao vì quyền lực. Chúa Cha đã “giao mọi sự trong tay Người. Ai tin vào Người thì được sự sống đời đời”. Trọng thưởng hay trừng phạt. Được sống hay phải chết. Tất cả thuộc quyền lực của Người. Vì thế vận mạng của mọi người tùy thuộc nơi Người. Vận mạng không phải nhất thời như loài người tưởng nghĩ. Nhưng số phận đời đời.
Chúa từ trên cao vì tình yêu. Thánh Phê-rô, trước mặt Thượng hội đồng, đã mạnh mẽ rao giảng. Sở dĩ Chúa Giê-su được tôn vinh trổi vượt mọi loài vì Người yêu thương nên sẵn sàng hi sinh chịu chết. Chính vì thế Chúa Cha đã tôn vinh Người. “Thiên Chúa của cho ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Israel ơn sám hối và tha tội”.
Ý thức được điều đó, nên thánh Phê-rô dạy ta “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm”. Thượng hội đồng là người phàm, từ đất thấp, có tầm nhìn hạn hẹp. Nên bắt bớ, cấm đoán các Tông đồ rao giảng chân lý Nước Trời. Nhưng Phê-rô và các tông đồ đã nhận được chân lý Nước Trời. Các ngài đã vượt qua tầm nhìn hạn hẹp của trần gian. Sẵn sàng từ bỏ mọi sự trần gian. Kể cả chấp nhận mất mạng sống. Để đạt tới hạnh phúc Nước Trời.
Ga-ma-li-en thật là người khôn ngoan. Ông chưa tin Chúa. Nhưng ông có phân định sâu sắc. Đừng vội kết luận. Vội vã kết luận có thể sai lầm chống lại Thiên Chúa. Đó là lỗi lầm trầm trọng. “Nếu ý định hay công việc này là do người phàm, tất sẽ bị phá huỷ; còn nếu quả thật là do Thiên Chúa, thì quý vị không thể nào phá huỷ được; không khéo quý vị lại thành những kẻ chống Thiên Chúa”. Qua phép lạ bánh hoá nhiều, ta có thể thấy một vài dấu chỉ của tiên tri thật.
Tiên tri thật quan tâm đến con người, đặc biệt người nghèo. Tiên tri giả chỉ quan tâm đến bản thân. Chúa Giê-su quan tâm đến những người đến với Chúa. Biết họ đói cần được ăn. Không chỉ quan tâm suông. Nhưng cụ thể bằng hành động. Thúc giục các tông đồ lo cho họ ăn. Tìm bánh. Và làm phép lạ.
Tiên tri thật làm việc vì nhu cầu. Tiên tri giả làm để phô trương. Chúa Giê-su chưa bao giờ muốn phô trương. Người hoá bánh ra nhiều vì dân đói đang cần được ăn. Chữa người bệnh vì họ đau khổ cần được cứu chữa.
Tiên tri thật tiết kiệm, trân trọng những gì nhỏ bé. Tiên tri giả hoang phí, chỉ chuộng những gì hoành tráng. Nên Chúa dạy các tông đồ đi thu lượm những mẩu bánh thừa.
Tiên tri thật không tôn vinh bản thân. Cũng không muốn người ta tôn vinh mình. Tiên tri giả luôn tìm nâng mình lên. Muốn được người ta ca tụng. Vì thế Chúa trốn đi khi họ muốn tôn Chúa làm vua.
Chính vì thế người dân tin nhận Chúa: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian”. Chính vì thế các tông đồ xác tín. Sống chết với Chúa. “Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su”.
Xin cho con nhận biết Chúa là Thiên Chúa thật. Và xin cho con trở thành chứng nhân thật sự của Chúa.
Các tông đồ một phen hoảng sợ. “Trời đã tối mà Chúa Giê-su chưa đến với các ông. Biển động, vì gió thổi mạnh”. Không có Chúa đời sống thật dễ sợ. Vượt biển là nguy hiểm. Đi lúc trời tối còn nguy hiểm hơn. Lại còn thêm sóng gió. Thập phần nguy hiểm. Đó là tình hình tâm hồn thiếu vắng Chúa. Vắng Chúa tâm hồn chìm trong bóng đêm. Bóng đêm chỉ nói những lời đe doạ. Khiến tâm hồn lo âu xao xuyến. Vắng Chúa tâm hồn bất an. Biết bao sóng gió nổi lên. Thế lực sự dữ thét gào muốn nhấn chìm và nuốt trửng con người. Con người phải vất vả chèo chống mà không đi đến đâu. Chèo mãi mới đi “được chừng năm hoặc sáu cây số”.
Nhưng khi có Chúa, mọi sự đi vào ổn định.”Các ông muốn rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc đó thuyền đã tới bờ”. Sức con người thật yếu ớt. Chèo mãi mới đi được chừng năm hoặc sáu cây số. Nhưng Chúa vừa xuất hiện thì thuyền đã đến bờ. Có Chúa bóng đêm bị xua tan. Sóng yên biển lặng. Và chẳng cần vất vả chèo chống thuyền đã đến nơi. Đến một cách nhanh chóng. Vượt sức loài người. Vượt trí tưởng tượng của loài người.
Sau khi Chúa phục sinh, sự hiện diện của Chúa càng mãnh liệt hơn. Các tông đồ tràn đầy xác tín. Vì tin Chúa đang ở với các ngài. Các tín hữu cử hành phụng vụ với niềm tin sâu xa. Vì sự hiện diện của Chúa quá mãnh liệt.
Vì thế quyền năng Chúa càng cụ thể hơn. Các tông đồ làm được những điềm thiêng dấu lạ. Thánh Phê-rô đã chữa người què từ thuở mới sinh. Và cho kẻ chết sống lại.
Phép lạ hằng ngày. Đó là chỉ với một nhóm người ít ỏi, bé nhỏ, thất học. Nhưng “Lời Chúa vẫn lan tràn và tại Giê-ru-sa-lem, số các môn đệ tăng thêm rất nhiều, lại cũng có một đám rất đông các tư tế đón nhận đức tin”. Càng với những người yếu đuối, bé nhỏ, thấp hèn, quyền năng Chúa càng hiển hiện.
Xin cho con luôn có Chúa. Để đời sống con được an vui. Xin cho con biết mình bé nhỏ yếu đuối. Để quyền năng Chúa hiển hiện. Đem lại nhiều hoa trái cho Giáo hội
Cơm áo gạo tiền luôn là mối lo hàng đầu của con người. Người ta bỏ phiếu cho những lãnh đạo đem lại cơm no áo ấm. Sau phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều dân chúng nô nức đi tìm để tôn Chúa Giêsu lên làm vua. Hi vọng thời cường thịnh của Ít-ra-en bắt đầu.
Nhưng Chúa hướng tâm trí họ lên cao hơn. Đừng tìm của ăn chóng hư nát và chỉ đem lại đời sống mau tàn. Hãy tìm của ăn vĩnh cửu đem lại sự sống đời đời. Chúa mặc khải cho biết tấm bánh đem lại sự sống đời đời chính là Người, là Giê-su. “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga 6, 51). Và cách làm việc để tìm được tấm bánh ấy là tin vào Người, tin vào Giê-su.
Đức tin nâng ta lên sự sống mới. Ở sự sống mới người ta không còn sống bằng cơm bánh, nhưng bằng Lời Chúa và bằng Thánh Thể: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4, 4).
Đó là sự sống trong Thánh Thần: “Ai tin vào Tôi, hãy đến mà uống! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống”. Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận” (Ga 7, 38-39).
Sống theo Thần Khí không còn sống theo xác thịt. Không còn theo thói đời. Không còn dính bén những giá trị trần gian. Như Stê-pha-nô người tràn đầy Thánh Thần. Nên ông khôn ngoan không ai có thể bài bác được. Nên “mặt ông giống như mặt thiên sứ”. Nên ông sẵn sàng hiến mạng sống cho Chúa. Và khi chết ông còn xin Chúa tha thứ cho những kẻ giết mình.
Chúa đã phục sinh. Tôi cũng phải sống lại với Chúa. Chúa đã lên một cấp độ sự sống mới, tràn đầy vinh hiển. Tôi cũng phải theo Chúa sống một đời sống mới. Tin vào Chúa Giê-su. Nuôi dưỡng mình bằng Lời Chúa và Thánh Thể. Sống theo Thần Khí. Đó là khởi đầu sự sống đời đời.
Giê-su là bánh đích thực. Vì là bánh Cha ban. Món quà Cha ban rất quí giá. Vì đó là Người Con yêu dấu. Là hình ảnh tuyệt hảo của Cha. Là chính Cha. Là chính sự sống. Nhờ Người mà muôn vật có sự sống. Vì nhờ Người “vạn vật được tạo thành” (Ga 1, 3).
Giê-su là bánh đích thực. Vì bánh từ trời xuống. Trời là cung lòng Chúa Cha. Là tình yêu thương của Chúa Cha. Tình yêu thương của Cha quá lớn lao. Nên đã ban cả Con Một của Người. Đó là tất cả những gì có thể ban. Bánh từ trời vì Giê-su chính là thiên đàng. Ở với Chúa Giê-su là ở trên thiên đàng. Như lời Chúa hứa với người trộm lành: “Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23, 43).
Giê-su là bánh đích thực. Vì bánh này không bao giờ hư nát. Ai ăn bánh này sẽ không bao giờ chết. Bánh đem lại sự sống đời đời.
Ăn bánh này thế nào? Người Do thái hỏi và Chúa Giêsu chỉ dẫn cho họ: “Ai đến với Tôi, không hề phải đói; ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ”. Đến với Chúa là sống với Chúa. Sống với Chúa là biến đổi nên giống như Chúa. Là suy nghĩ, ăn nói, cư xử như Chúa. Tin vào Chúa là hiến toàn thân cho Chúa. Là kết hợp nên một với Chúa. Là để Chúa sử dụng đời sống.
Thánh Stê-pha-nô đã đến với Chúa và đã tin vào Chúa. Đến với Chúa và sống với Chúa nên Stê-pha-nô để Chúa biến đổi nên giống Chúa. Hãy chiêm ngắm giờ chết của Stê-pha-nô. Lời nói và hành động của ngài sao y lời nói và hành động của Chúa Giê-su. Cũng xin tha cho kẻ làm hại mình. Cũng phó linh hồn trong tay Chúa. Tin vào Chúa nên Stê-pha-nô hiến toàn thân cho Chúa. Cái chết là thể hiện ước nguyện dâng hiến. Stê-pha-nô hân hoan đón nhận cái chết như cơ hội tuyệt vời hoàn tất hành vi dâng hiến.
Ăn bánh bởi trời rồi, Stê-pha-nô dứt bỏ trần gian. Sống một đời sống khác, tâm hồn Stê-pha-nô hoàn toàn trong sạch. Nên ông đã nhìn thấy trời mở ra. Và nhìn thấy Chúa Giê-su đến đón ông. Để đi vào cuộc kết hợp trọn vẹn. Hoàn toàn nên một với Chúa Giê-su là tấm bánh đích thực. Để từ đây không bao giờ đói khát nữa. Để no thỏa trong hạnh phúc trọn vẹn.
Hôm nay Chúa Giê-su một lần nữa khẳng định Người là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Nhưng Người không mời gọi chúng ta ăn bánh mà lại mời gọi chúng ta hãy đến với Người và tin vào Người để khỏi đói khỏi khát.
Mỗi loại thực phẩm có một cách tiếp thu khác nhau. Một cách “ăn” khác nhau. Hấp thụ khí trời bằng hít thở. Hấp thụ nước bằng uống. Hấp thụ nhiều loại thuốc men bằng xông hơi nước, xông hương. Hấp thụ tư tưởng bằng trí tuệ. Hấp thụ tình yêu bằng tâm hồn. Hôm nay Chúa dạy ta hấp thụ Bánh Hằng Sống bằng đức tin.
Giáo Lý Công Giáo khẳng định: Tin là gắn bó bản thân, phó thác đời mình cho Thiên Chúa (GLCG 150). Như thế tin là nên một với Chúa. Khi ta dùng thực phẩm, thực phẩm trở nên máu thịt ta. Khi ta tin vào Chúa, ta nên một với Chúa.
Nên một với Chúa, ta sẽ suy nghĩ bằng suy nghĩ của Chúa. Nói tiếng nói của Chúa. Cư xử bằng hành động của Chúa. Đi trên những nẻo đường của Chúa. Sống bằng sự sống của Chúa. Đây chính là cao điểm cho ta hoàn toàn kết hợp với Chúa.
Chính Chúa Giê-su làm gương cho ta khi Người hoàn toàn tin tưởng Chúa Cha. Nên Người không sống cho bản thân. Nhưng luôn sống và làm theo thánh ý Chúa Cha.
Các Ki-tô hữu đầu tiên làm gương cho ta khi các ngài hoàn toàn tin tưởng Chúa. Tin tưởng nên từ bỏ của cải trần gian để chia sẻ cho những người túng thiếu. Tin tưởng nên dù bị bắt bớ phải trốn chạy mà vẫn vui tươi. Tin tưởng nên đang khi trốn chạy vẫn hăng say rao giảng Lời Chúa.
Sau khi Phó tế Stê-pha-nô chịu tử đạo, phó tế Phi-lip-phê nổi bật như một người hoàn toàn kết hợp với Chúa Giê-su Phục Sinh. Vì thế ngài xuất hiện ở đâu thì Chúa Giê-su xuất hiện ở đó. Ngài rao giảng đầy thuyết phục. Ngài làm được nhiều điều kỳ diệu. Xua đuổi thần ô uế. Chữa lành nhiều bệnh tật. Và làm cho mọi người được hân hoan.
Hôm nay tôi hiểu rằng Chúa Giê-su là Bánh Hằng Sống. Cách ăn bánh này là phải tin vào Chúa. Tin vào Chúa tôi phải từ bỏ mình để Chúa sống trong tôi. Khi hoàn toàn nên một với Chúa, tôi sẽ đạt đến sự sống đời đời.
Chúa Cha không ngừng lôi kéo con người hướng thiện. Hướng về Chúa Ki-tô là Đấng Chúa Cha sai đến để đưa nhân loại về với Người. Nhưng tại sao con người không đáp lại tiếng Chúa mời gọi? Thưa vì giữa ân sủng và con người Thiên Chúa còn để một khoảng trống: đó là tự do. Để ân sủng Thiên Chúa phát sinh hiệu quả con người phải sử dụng tự do của mình mà “lắng nghe” và “đón nhận”.
Để lắng nghe cần khiêm tốn. Lắng nghe là nhìn nhận mình không biết. Lắng nghe phải dẹp bỏ những ý kiến riêng của mình. Lắng nghe là trân trọng lời người nói. Ông quan lớn trong triều đình của nữ hoàng nước Ê-thi-óp là người có chức quyền cao trọng, có nhiều tiền nhiều của. Nhưng ông đã khiêm tốn lắng nghe. Lắng nghe tiếng Chúa nên chăm chỉ đọc Sách Thánh trên đường đi. Lắng nghe lời dẫn giải của Phi-lip-phê. Nhờ lắng nghe mà ông có đức tin. Và ông đón nhận được ơn cứu độ.
Để đón nhận cần từ bỏ mình. Để đón nhận Chúa cần từ bỏ cái tôi. Để đón nhận ân sủng cần từ bỏ tội lỗi. Để đón nhận Nước Trời cần từ bỏ thế gian. Viên quan lớn tổng quản kho bạc của nữ hoàng Ê-thi-óp đã từ bỏ mình nên chịu gìm mình xuống dòng nước để được rửa tội. Từ bỏ chỗ ngồi trên xe êm ấm. Từ bỏ quần áo khô ráo. Để chịu xuống xe. Để chịu xuống nước.
Thiên Chúa không ngừng lôi kéo con người về Chúa Ki-tô. Và Thiên Chúa không ngừng dạy bảo con người. Nhưng ma quỉ, xác thịt, thế gian cũng không ngừng lên tiếng và lôi kéo con người xa lìa Thiên Chúa.
Thiên Chúa lôi kéo ta về Chúa Giê-su. Ma quỉ xác thịt thế gian lôi kéo ta về vương quốc của nó. Thiên Chúa lôi kéo ta về sự sống đời đời. Ma quỉ xác thịt thế gian lôi kéo ta về sự chết. Thiên Chúa lôi kéo để nâng ta lên. Ma quỉ xác thịt thế gian lôi kéo ta xuống để gìm ta xuống bùn đen. Thiên Chúa không thể ép buộc ta. Người chỉ lôi cuốn. Ta có tự do. Nếu biết dùng tự do để lắng nghe và đón nhận Chúa Giê-su ta sẽ đạt tới sự sống đời đời.
Chúa ban cho ta Thịt và Máu Chúa. Đó là bí tích Thánh Thể. Là Sự Sống Muôn Đời. “Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì được sống muôn đời”. Nhưng sự sống này không phải là bùa chú tự nhiên thành. Cần phải ăn uống theo qui định. Hôm nay Chúa dạy ta qui định đó.
Qui định thứ nhất: “Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy”. Cuộc trao đổi phải có hai chiều. Cho đi và nhận lãnh. Hai động từ “ở lại” thuộc hai chiều trao đổi. Ta ở lại trong Chúa. Chúa ở lại trong ta. Ở lại là biến đổi. Chúa ở lại trong ta nên đã biến đổi nên giống ta. Chúa đã từ trời xuống thế. Thiên Chúa đã trở nên con người. Sống như con người. Đói khát như con người. Đau khổ như con người. Chết như con người. Ta muốn ở lại trong Chúa cũng phải biến đổi nên giống Chúa. Thánh thiện như Chúa. Yêu thương như Chúa. Quảng đại như Chúa. Điều này được khẳng định bằng qui định Thứ 2.
Qui định Thứ 2: “Như Chúa Cha là Đấng Hằng Sống đã sai Tôi và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi, cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy”. Chúa Giê-su sống nhờ Chúa Cha. Từ suy nghĩ, lời nói đến hành động, Chúa Giê-su không nói gì làm gì tự mình, theo ý riêng. Nhưng tất cả đều phát xuất từ Chúa Cha, theo ý Chúa Cha. “Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta”(Ga 4,34). Thậm chí đến cả cái chết. Chúa Giêsu “đã vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thánh giá”(Pl 2,8). Ta cũng phải sống nhờ Chúa Giê-su như vậy. Không nghĩ tưởng, nói năng, hành động gì theo ý riêng. Nhưng lời nói, tư tưởng và hành động của ta phải là của Chúa Giê-su.
Để Chúa Giê-su ở lại trong ta ta phải từ bỏ mình. Ta phải từ bỏ máu thịt hay chết, tội lỗi, trần tục của mình để Máu Thịt hằng sống, thánh thiện, thần linh của Chúa Giê-su Thánh Thể ở lại trong ta.
Thánh Phao-lô được Chúa chuẩn bị cho cuộc kết hợp sâu xa với Chúa. Nên hôm nay Chúa bắt ngài phải từ bỏ con người cũ. Phải ngã xuống con người cao ngạo. Phải đui mù con người tự hào thông minh khôn ngoan. Phải đánh gục con người cứng cỏi. Thánh Phao-lô đã ngoan ngoãn từ bỏ hết. Để Thiên Chúa chiếm đoạt. Để từ nay không còn sống cho mình nữa. Mà sống cho Chúa. Ngài đã thay máu thay thịt mình bằng Máu Thịt Chúa Giêsu. Ngài đã bắt đầu cuộc sống thần linh. Ngài đã bắt đầu cuộc sống vĩnh cửu.
Khi Chúa nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”. Người ta lẩm bẩm kêu trách Chúa. Vì họ hiểu theo xác thịt. Theo xác thịt, làm sao có thể ăn được thịt Chúa. Chúa cho biết: “Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống”. Lời Chúa là thần khí. Nên phải “ăn” bằng tin tưởng. Nhập tâm. Tiêu hoá. Và biến thành sức sống.
Phê-rô được Thần Khí linh hứng nên đã tin và tuyên xưng: “Thầy có những lời đem lại sự sống đời đời”.
Sau ngày Phục sinh, thánh Phê-rô đã hiểu rõ chân lý ấy. Và đã cảm nghiệm sâu xa. Phê-rô để Chúa chiếm đoạt. Ông hoàn toàn tin nhận. Ông hoàn toàn từ bỏ mình. Ông sống nhờ Chúa. Sự sống của Chúa mãnh liệt trong ông. Ông không có gì. Nhưng Chúa có tất cả. Vì thế, khi gặp người què từ thuở mới sinh ông nói: “Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức Giê-su Ki-tô người Na-da-rét, anh đứng dậy mà đi”. Lập tức, “anh đứng phắt dậy, đi lại được” (Cv 3,6.8).
Sự sống của Chúa mãnh liệt trong ông. Nên ông làm cho người khác được sống lại. Đến thăm “Ê-nê liệt giường đã tám năm, vì anh bị tê liệt. Ông Phê-rô nói với anh ta: “Anh Ê-nê, Đức Giê-su Ki-tô chữa anh khỏi. Anh hãy đứng dậy và tự dọn giường lấy”. Lập tức anh đứng dậy”.
Đến thăm bà Ta-li-tha Linh Dương đã chết, Phê-rô “quỳ xuống cầu nguyện.. và ra lệnh: “Bà Ta-li-tha, hãy đứng dậy”. Bà ấy mở mắt ra… và ngồi dậy”.
Thật lạ lùng sức mạnh của Lời Chúa. Quả thật Lời Chúa là thần khí và sự sống. Chúa có lời ban sự sống đời đời. Phê-rô đã tin. Đã lắng nghe. Đã nhập tâm. Đã tiêu hoá. Chúa trở thành sự sống trong ông. Ông lại dùng mà làm cho người khác được sống.
Ta hãy biết noi gương Phê-rô thưa với Chúa: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”.
Ôi con người là chi mà Chúa cần nhớ đến. Chúa yêu thương con người bằng một tình yêu lớn lao. Yêu hết sức có thể.
Chúa Giê-su yêu con người như yêu Đức Chúa Cha. Có thể như thế được sao? Đức Chúa Cha toàn thiện toàn chân toàn mỹ và tràn đầy yêu thương. Chúa Giê-su có yêu mến Đức Chúa Cha cũng là điều hợp lý. Nhưng sao Chúa Giê-su có thể yêu con người như thế được. Vì Chúa quả quyết: “Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha”.
Chúa Giê-su yêu con người hơn chính bản thân. Nên Chúa “hi sinh mạng sống cho đoàn chiên”. Đó là tình yêu lớn lao nhất có thể như Chúa có lần nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người dám hi sinh tính mạng vì bạn hữu”. Chúa coi đó là dấu chỉ của người Mục Tử nhân lành. Vì “Mục Tử nhân lành hi sinh mạng sống mình cho đoàn chiên”.
Tình yêu của Chúa lớn lao bao trùm tất cả. Nên Chúa còn băn khoăn thao thức để đưa tất cả mọi người về dưới mái Nhà Cha. “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử”.
Chính vì thế Chúa truyền cho thánh Phê-rô phải ra đi đến với dân ngoại. Không được khinh thường họ. Không được loại trừ họ. Vì mọi người đều được Chúa ban cho ơn đức tin. Và khi tin Chúa thì được nhận lãnh Thánh Thần, là sự sống viên mãn.
Nếu thế tình yêu Chúa sẽ còn mãi thổn thức băn khoăn. Sẽ còn mãi thấp thỏm đợi chờ cho đến ngày tận thế. Vì luôn luôn vẫn còn “những chiên khác không thuộc đàn này”.
Chúa đang mời gọi tôi hãy cùng băn khoăn thao thức với Chúa. Hãy cùng Phê-rô mạnh dạn ra đi đến với dân ngoại. Hãy kính trọng họ. Vì họ cũng được ơn đức tin và được nhận lãnh Thánh Thần. Hãy yêu thương họ. Vì họ cũng được Chúa yêu thương như ta được Chúa yêu thương. Hãy cùng Chúa Giê-su trở nên người Mục Tử nhân lành đi qui tụ cả những con chiên khác chưa thuộc ràn này. Vâng còn những chiên khác nữa!
Lời Chúa hôm nay chứa đầy tâm tình yêu thương. Chúa Giêsu tự ví mình như cánh cửa. Quả thật cánh cửa của Chúa đã mở ra hết mọi chiều kích phong phú cuả sự sống để ban cho ta muôn vàn ân sủng.
Cánh cửa Giê-su mở ra chiều rộng vô biên của Nước Trời. Cửa mở rộng để đón nhận mọi người. Chúa không ngừng mời gọi mọi người đến với Chúa. Thoạt tiên là người Do Thái: “Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái các ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh”(Mt 23, 37). Rồi đến tất cả mọi dân tộc: “Tôi còn những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về”(Ga 10, 16). Hôm nay, trong một thị kiến lạ lùng, Chúa đã truyền cho thánh Phê-rô phải mạnh dạn đi đến với dân ngoại tại Ma-kê-đô-ni-a. Quả thật cánh cửa là tấm lòng của Chúa rộng mở đến vô biên để đón nhận tất cả mọi người thuộc mọi chủng tộc, mọi mầu da, mọi ngôn ngữ vào Nước Chúa.
Cánh cửa Giêsu mở ra chiều cao vời vợi của ân sủng. Cửa mở ra cho ta đi vào cuộc sống mới trong một chân trời mới cao vượt cõi nhân gian phàm trần. Đó là cuộc sống trong Thánh Thần vượt xa mọi ràng buộc nặng nề của xác thịt. Được sinh trong Thánh Thần, ta tự do như gió, muốn thổi đâu thì thổi. Được nâng lên làm con Thiên Chúa, ta được ngồi ngang hàng với các bậc thần thánh. Chúa nâng cao phẩm giá con người. Con người không còn bị kết án dính chặt vào mặt đất. Con người trở nên Con Chúa và có một định mệnh mới cao quí vô cùng.
Cánh cửa Giê-su mở ra chiều sâu thăm thẳm của tình yêu. Chúa đến với ta trong tình yêu. Chúa yêu thương nên gọi tên từng người. Theo quan niệm của người Do Thái, tên tức là người. Biết tên là biết người. Chúa biết rõ ta từ khi ta chưa có mặt trên đời. Như lời Thánh vịnh 138: “Con mới là bào thai mắt Ngài đã thấy. Mọi ngày đời được dành sẵn cho con. Đều thấy ghi trong sổ sách Ngài ”. Ta đến với Chúa bằng tình yêu vì Chúa cho ta được biết tiếng ngài. Biết tiếng không khỏi gợi nhớ đến nguồn gốc của từ ngữ “tri âm, tri kỷ” tức là một người hiểu biết mình tường tận. Chúa cho ta được nghe tiếng Chúa để trở thành bạn hữu tri âm của Chúa, để hiểu và tham dự vào mọi chương trình của Chúa như lời Chúa nói: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15, 15).
Sự sống của Thiên Chúa thật kỳ diệu. Đó là sự sống hiệp thông. Một sự hiệp thông mầu nhiệm. Nên một. “Tôi và Chúa Cha là một”. Không còn gì xác tín hơn. Không còn gì sâu xa hơn. Chỉ Thiên Chúa mới có sự sống ấy.
Sự sống hiệp thông ấy biểu lộ trong suốt đời dương thế của Chúa Giê-su. Người không nói gì, làm gì mà không bởi Chúa Cha. Đó là dấu chỉ chắc chắn nhất chứng minh Người là Đấng Ki-tô. “Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi”.
Sự sống hiệp thông lan toả đến đoàn chiên của Chúa. “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”. Đó là sự sống phong phú, viên mãn. Không bao giờ mất. Không ai cướp đi được.
Sự sống hiệp thông tràn lan khắp nơi. Càn tản mát lại càng lan toả. “Hồi ấy, những người phải tản mác vì cuộc bách hại xảy ra nhân vụ ông Tê-pha-nô, đi đến tận miền Phê-ni-xi, đảo Sýp và thành An-ti-ô-khi-a”.
Sự sống hiệp thông tràn lan sang cả dân ngoại. Không chỉ trong người Do thái. Nhưng còn lan toả đến mọi dân tộc. “Nhưng trong nhóm, có mấy người gốc Sýp và Ky-rê-nê; những người này, khi đến An-ti-ô-khi-a, đã giảng cho cả người Hy-lạp nữa, loan Tin Mừng Chúa Giê-su cho họ”.
Và thật lạ lùng. Sự sống ấy giữ được nét nguyên tuyền. Như Chúa Cha và Chúa Giê-su là một. Giờ đây đoàn chiên hiệp thông với chủ chiên. Tín hữu hiệp thông với Chúa Ki-tô. Đến nỗi người ta gọi họ là “Ki-tô hữu”. Người mang Chúa Ki-tô. “Chính tại An-ti-ô-khi-a mà lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Ki-tô hữu”.
Xin cho con được kết hiệp trọn vẹn với Chúa. Sống sự sống của Chúa trong mình. Để con xứng đáng mang danh hiệu Ki-tô hữu rất cao quý này.