Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Kính Mình Máu Chúa Kitô ABC Bài 251-300 Dấu Chỉ của Tình Yêu
(Thứ 6 sau lễ MMTC) -------------------------------------- Năm A:
Phúc Âm: Ga 6, 51-59: "Thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống". Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?" Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Ðây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời". - Ðó là lời Chúa.
Năm B:
Phúc Âm: Mc 14, 12-16. 22-26 :“Này là Mình Ta. Này là Máu Ta”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh không men là ngày giết chiên mừng lễ Vượt Qua, các môn đệ thưa Chúa Giêsu rằng: “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua tại đâu?” Người liền sai hai môn đệ đi và dặn rằng: “Các con hãy vào thành, và nếu gặp một người mang vò nước thì hãy đi theo người đó. Hễ người ấy vào nhà nào thì các con hãy nói với chủ nhà rằng: Thầy sai chúng tôi hỏi: ‘Căn phòng Ta sẽ ăn Lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu?’ Và chủ nhà sẽ chỉ cho các con một căn phòng rộng rãi dọn sẵn sàng và các con hãy sửa soạn cho chúng ta ở đó”. Hai môn đệ đi vào thành và thấy mọi sự như Người đã bảo và hai ông dọn Lễ Vượt Qua. - Ðang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: “Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta”. Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông: “Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người. Ta bảo thật các con: Ta sẽ chẳng còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày Ta sẽ uống rượu mới trong nước Thiên Chúa”. Sau khi hát Thánh Vịnh, Thầy trò đi lên núi Cây Dầu. - Ðó là lời Chúa.
Thời cách mạng Pháp 1789, đạo Công giáo bị làm khó dễ và bị cấm không được truyền đạo. Một cha xứ nhà quê lén đem Mình Thánh Chúa cho kẻ liệt, theo sau có cậu giúp lễ tên là Benjamin. Bọn lính cách mạng phát hiện đuổi theo rất gấp. Cha xứ dúi vào tay cậu bé cái hộp đựng Mình Thánh Chúa và bỏ chạy. Lính bắt cha lại và giết cha. Cậu bé giúp lễ vừa chạy vừa mở hộp Mình Thánh Chúa ra và bỏ vào miệng nuốt đi. Lính bắt cậu và tra hỏi. Cậu nói: "Mình Thánh Chúa đang ở trong người tôi". Lính tức giận giết luôn cậu bé, rồi chôn xác cha xứ và cậu bé chung nhau dưới gốc cây sồi to...Sau đó cuộc cách mạng thất bại và qua đi. Một hôm một cơn lốc mạnh đã làm trốc gốc cây sồi, để lộ hai xác: cha xứ và cậu bé giúp lễ. Người ta phát hiện Mình Thánh Chúa vẫn còn trong người cậu bé và xác của cậu vẫn còn tươi dù đã nằm dưới đất khá lâu...
a/. Hội thánh Công giáo vẫn tin Đức Kitô hiện diện thật trong Bí tích Thánh Thể: Thánh lễ Misa ban cho chúng ta chính Thịt Máu Chúa, hiện diện cách đầy đủ trong tấm bánh và ly rượu. Đây là tín điều Hội thánh công giáo tuyên xưng từ thời các tông đồ và được xác nhận qua các Công Đồng chung. Ai là người công giáo mà không tin, sẽ bị vạ tuyệt thông. Bao nhiêu câu chuyện về phép lạ Mình Thánh Chúa qua 20 thế kỷ, đủ minh chứng cho chúng ta thấy Chúa Kitô thực sự hiện diện đầy yêu thương trong Bí tích này. Người luôn ở đó trong âm thầm khiêm tốn, chờ đợi con người đến lãnh muôn hồng ân cao cả, đến lãnh nhận chính sức sống của Thiên Chúa.
Tiến sĩ Bob Rice, một mục sư Tin lành đã trở lại đạo công giáo năm 1994, (hiện đang còn sống bên Mỹ) nói: người Tin lành được dạy từ nhỏ rằng bánh và rượu chỉ là biểu tượng cho Mình và Máu Chúa mà thôi. Một hôm, tôi được mời đi dự một buổi chầu Thánh Thể long trọng của người công giáo. Đang khi tôi quì chăm chú nhìn lên Thánh Thể, thình lình gương mặt Chúa xuất hiện giữa Bánh Thánh...Tôi vui sướng không tả được, và... tôi sẵn sàng dành cả đời mình để làm chứng về phép lạ Thánh Thể....
b/. Bí Tích Thánh Thể là mầu nhiệm yêu thương, hiệp thông, chia sẻ và hi sinh: Cha Jean Nowen (trong quyển Đời sống người được yêu) nói: Tấm bánh (là Mình Chúa) là tấm bánh phải được bẻ ra, phân phát cho nhiều người, không phải chỉ một người... Câu nói của Cha J. Nowen rất chí lý: mầu nhiệm Thánh Thể chính là mầu nhiệm Tình yêu, hiệp thông, chia sẻ và hi sinh. Cả cuộc đời của Đức Kitô chính là mầu nhiệm yêu thương và hiệp thông này; vì yêu thương Chúa đành nên tấm bánh bị bẻ nhỏ ra và phân phát cho mọi người. Đây chính là hình ảnh sống động về sự hiệp thông, hi sinh và chia sẻ đó...
Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người, để ai tin vào Người Con ấy, sẽ không phải hư mất, nhưng được sống đời đời... (Gn 3, 16). Chúa Giêsu còn nói cách riêng về Bí Tích Thánh Thể: Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế... (Mt 28, 20).
Một Đức Viện Phụ nọ hỏi một thanh niên xin vào dòng: - Năm nay con bao nhiêu tuổi? - Dạ con 25 tuổi. - Con có quen cô gái nào không? Nghĩ rằng Đức Viện Phụ điều tra lý lịch mình, anh đáp: Dạ không. - Vậy con đã bao giờ yêu ai chưa? - Dạ chưa. Ngài nói: - này con, từ nhỏ đến giờ con có yêu ai không? Anh thanh niên trả lời: Thưa cha không. - Mà con cũng không yêu cô nào nữa sao? - Dạ không. Ngài nói: Con đến đây là để học yêu Chúa, yêu anh em; thế mà chữ yêu con không biết, thì làm sao ở đây được? Con hãy về học yêu đi đã...Đức Viện Phụ muốn nói: ngay cả đi tu cũng là để học yêu thương, học chia sẻ..
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Mình Thánh Chúa chính là mầu nhiệm hiệp thông và chia sẻ; là người Kitô hữu, ta có muốn hiệp thông và chia sẻ với mọi người xung quanh bằng tình yêu như Chúa Kitô không? Là người Kitô hữu, ta có muốn là tấm bánh hữu ích, được bẻ ra và chia cho mọi người không?
Trong tác phẩm Anh phải sống của cố tác giả Khái Hưng có viết một câu chuyện cảm động như sau:
Nơi một làng quê, có một gia đình nghèo, chỉ có một khu vườn nhỏ để trồng tỉa, nên hằng ngày nếu có giờ thì hai vợ chồng cùng lên thuyền để vớt những cành củi đang trôi nổi trên dòng sông, mang về bán kiếm thêm chút thu nhập cho gia đình. Một hôm hai người đang vớt củi như bao nhiêu ngày khác, bỗng bầu trời dường như tối lại, gió mạnh thổi đến, cơn mưa đổ xuống. Chiếc xuồng nhỏ không chịu nổi cơn sóng dữ, nó bị nhận chìm, hai người đang cố sức để bơi vào bờ, nhưng người vợ càng ngày càng kiệt sức, chồng mới cố gắng để cho vợ bám vào, vừa bơi vừa la to "cố lên". Trong lúc nguy hiểm như thế, người vợ bỗng nhớ đến đứa con thơ, cô tự nhủ "nếu cả hai cùng chết thì đứa con thơ của mình sẽ ra sao? Như vậy anh phải sống." Thế rồi cô từ từ rời xa chồng và trôi theo dòng nước đang chảy xiếc cách giận dữ. Người chồng không biết lý do gì mà mình dường như nhẹ hẳn lên, anh bơi nhanh vào bờ để thoát hiểm. Anh chỉ còn biết nghỉ ngơi, nhưng bất chợt anh không còn nhìn thấy vợ mình nữa. Nhìn dòng nước đang hung hãn và được tiếp sức bởi những tiếng thét gào của cơn gió mạnh, anh chỉ còn biết ôm đầu than khóc và quay trở về với đứa con thơ của mình. Đứa con được sống và lớn lên nhờ mạng sống của người mẹ, nhờ tình yêu cao cả, dám chết cho người mình yêu thương, nên đứa con đã được sống.
Sau nầy khi người con biết được sự hy sinh cao cả đó, nó sẽ sống như thế nào cho xứng đáng?
"Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì sẽ được sống đời đời".
Chúa Giêsu không chỉ chịu chết cho con người được sống, nhưng Ngài còn nhìn thấy, con người cần được nuôi dưỡng để kéo dài sự sống. Người đã để lại một phương tiện tuyệt vời cho con người được nuôi sống, đó là chính Thịt và Máu của Người. Ngài không để cho con người phải khổ cực đi tìm của ăn nuôi sống, nhưng Ngài ban cho con người thức ăn để con người được sống mà đến với Ngài trong tình yêu thương bao la tuyệt vời.
Nhưng những người đã được cứu sống và được nuôi dưỡng, có nhận ra được tình yêu bao la nầy chăng? Hay họ không hề hay biết gì về sự sống của mình bởi đâu mà có và tại sao mình được sống đến ngày hôm nay?
Mỗi người trong chúng ta để ra một ít phút suy nghĩ về con người và sự sống của chính mình: Biết bao người đã từ giã cõi đời, người ra đi trong hạnh phúc, người ra đi trong bất hạnh, người ra đi trong vui mừng, người ra đi trong ưu phiền sầu lo. Họ ra đi và đi về đâu? Đi đến sự sống hay đi tìm cái chết. Còn chúng ta vẫn còn hiện diện trên trần gian, chúng ta cũng sẽ ra đi như họ. Vậy chúng ta đi tìm sự sống hay đi tìm cái chết? "Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì sẽ sống đời đời và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết". Lời Chúa Giêsu đã hướng dẫn chúng ta đến con đường sự sống. Biết bao người đã đi trên con đường sự sống vì họ biết dùng của ăn nuôi sống cho mình.
Chúng ta cũng nghe Lời nầy nhiều lần, chúng ta cũng biết đến của ăn nầy rất nhiều vì chúng ta cũng đã ăn rất nhiều, nhưng chúng ta có cảm nhận được sức mạnh từ của ăn mà chúng ta hưởng dùng không? Sức mạnh của Tình Yêu Thương, vì yêu thương mà Thiên Chúa dám chết để cho chúng ta được sống và cũng vì yêu thương mà Ngài đã ban của ăn nuôi sống là Chính Thịt và Máu Mình cho người mình Yêu được sống. Người mẹ đã cho đứa con mạng sống khi bà hy sinh mạng sống của mình, còn người cha thì nuôi dưỡng đứa con. Còn chúng ta, chúng ta được cho mạng sống và được nuôi dưỡng bởi Đấng yêu thương, nhưng chúng ta vẫn không cảm nhhận được để sống cho xứng với tình yêu được sao?
Nếu chúng ta biết yêu thương qua cử chỉ của hành động trong cuộc sống đời thường, nếu tất cả mọi việc làm của chúng ta biết làm vì yêu thương, thì những việc làm của chúng ta đang đưa chúng ta đến con đường sự sống. Nếu chúng ta biết siêng năng đến để ăn của ăn mà Đấng Yêu Thương đã ban thì chúng ta đang sống trong tình yêu, thì chúng ta đang đi trên con đường sự sống. Đó là chúng ta đang đáp lại Tình Yêu.
Xin cho chúng con biết siêng năng đến rước Chúa để chúng con được sống trong tình yêu thương và con đường sự sống.
Nếu chiều thứ năm Tuần Thánh, Giáo Hội cử hành thánh lễ Tiệc Ly, kỷ niệm việc Chúa Giêsu thiết lập Bí Tích Thánh Thể để ở lại với loài người mọi ngày cho đến tận thế, thì hôm nay, Giáo Hội long trọng cử hành thánh lễ kính Mình và Máu Chúa Giêsu nơi Bí Tích Thánh Thể. Khi cử hành như thế, Giáo Hội cảm nghiệm và xác tín rằng: Bí tích Thánh Thể chính là trung tâm trong lịch sử của nhân loại, là "nguồn mạch" và "chóp đỉnh" của mọi sinh hoạt trong phụng vụ của Giáo Hội, bởi vì Thánh Thể là lương thực cần thiết cho sự sống và sứ mạng của Giáo Hội.
Thật là ý nghĩa và tốt đẹp biết bao khi các tín hữu trong ngày Lễ này, quy tụ với nhau chung quanh Thánh Thể, để tôn thờ Người hiện diện trong Bí tích cao trọng qua các hình thức đạo đức như chầu và rước kiệu Thánh Thể để diễn tả lòng đạo đức, sốt sắng tham dự Thánh lễ và rước Mình và Máu Thánh Chúa xách xứng đáng, để thể hiện niềm tin vào Chúa Giêsu hằng sống và nói lên niềm vui vì sự hiện diện của Ngài trong nhân loại và trên cuộc đời.
1. Sự cao trọng của Bí tích Thánh Thể
Trong Giáo Hội có bẩy Bí tích, nơi các Bí tích này đều có sự liên hệ mật thiết với nhau làm nên tính toàn thể trong mầu nhiệm cứu chuộc của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Bí tích cao trọng nhất và vĩ đại nhất vẫn là Bí tích Thánh Thể. Vì thế, Bí tích này được gọi là: "Bí tích của các Bí tích": Thật vậy: "Tất cả các Bí tích khác đều quy hướng về Bí tích Thánh Thể như về cùng đích" (GLHTCG số 1211), và đời sống đức tin của chúng ta nơi Bí tích Thánh Thể như là cứu cánh của mình.
Vì thế, không có kinh nào, nghi thức nào và tổ chức nào cao trọng, quý mến cho bằng Thánh lễ, bởi vì trong Thánh lễ sẽ diễn ra một cuộc trao đổi kỳ diệu dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần, làm cho bánh và rượu trở nên Thịt và Máu Chúa Giêsu qua lời truyền phép của linh mục. Bí tích Thánh Thể nói lên sự hiện diện thực sự và trọn vẹn của Chúa Giêsu. Cũng qua Thánh lễ, cùng với của lễ tuyệt hảo là Chúa Giêsu trên Thánh giá, chúng ta nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài, dâng lên Thiên Chúa Cha lời chúc tụng, tạ ơn và cầu xin.
Nơi Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu diễn tả tình yêu trọn vẹn khi trao hiến Thịt và Máu của mình làm của ăn, của uống cho nhân loại. Qua Bí tích Cực Thánh này, Chúa Giêsu hiện diện dưới hình bánh, hình rượu để trở nên lương thực nuôi dưỡng chúng ta, làm cho đời sống tinh thần của chúng ta được lớn mạnh không ngừng.
Chính vì thế, Bí tích Thánh Thể là "Nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống kitô hữu" (x. LG 11). "Hy lễ Thánh Thể, tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa, tiếp diễn mãi mãi Hy Lễ Thánh Giá, là tuyệt đỉnh và nguồn suối của tất cả phụng tự và đời sống Kitô giáo. Nhờ Hy Lễ Thánh Thể, sự hiệp nhất của dân Chúa được biểu lộ và thể hiện, việc xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô được hoàn tất. Bởi đấy, các Bí Tích khác và mọi hoạt động tông đồ của Giáo Hội đều quy hướng về và liên kết chặt chẽ với Bí Tích Thánh Thể" (Giáo Luật, số 897). Thật vậy, mỗi lần Hy tế Thập giá được cử hành trên bàn thờ, nhờ đó "Chúa Kitô, Chiên vượt qua của chúng ta chịu hiến tế (x. 1 Cr 5,7), thì công cuộc cứu chuộc chúng ta được thực hiện" (x. LG, số 3).
Như thế, tham dự và cử hành Bí tích Thánh Thể trong khuôn khổ Thánh lễ Tạ Ơn là việc vô cùng quan trọng trong đời sống của Giáo Hội và của mọi người tín hữu Chúa Kitô, vì đây chính là "nguồn mạch và chóp đỉnh của tất cả đời sống Kitô giáo" (x. LG, số 11) như Giáo Hội dạy.
Mỗi khi chúng ta cử hành Bí tích Thánh Thể hay tôn sùng Bí tích cao trọng này cách xứng đáng, ấy là lúc chúng ta tin nhận Bí tích Thánh Thể là "nguồn mạch và tột đỉnh" của đời sống kitô hữu. Nói cách khác, toàn thể đời sống tâm linh của kitô hữu cũng như mọi cử hành phụng vụ của Giáo Hội được bắt nguồn từ Bí Tích Thánh Thể.
Khi xác tín như thế, chúng ta cùng nhau hướng mục đích của cuộc đời mình về Chúa Giêsu như một sự quy chiếu đến cùng đích tối hậu của cuộc sống nơi mình. Đồng thời, mỗi khi cử hành và tôn sùng Bí tích Thánh Thể, Giáo Hội mời gọi con cái mình trở nên giống Chúa Giêsu ngày càng mật thiết hơn và sống mầu nhiệm Thánh Thể trong đời sống hằng ngày.
Như thế, đời sống tâm linh của chúng ta phải là con đường hai chiều. Con đường này khởi đi từ Bí tích Thánh Thể, rồi sau đó lại đưa dẫn chúng ta trở về với Thiên Chúa trong Bí tích này. Mối liên hệ trên được diễn ra trong tình yêu. Chính nhờ tình yêu, mà chúng ta cũng kết hợp với toàn thể Giáo Hội, là Nhiệm Thể Đức Kitô. Để rồi nhờ hồng ân Bí tích Thánh Thể, chúng ta thương yêu tha nhân như chính mình vì họ là hình ảnh của Thiên Chúa.
2. Sống mầu nhiệm Thánh Thể trong đời sống người kitô hữu
Đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong Tông thư "Mane Nobiscum Domine - lạy Chúa, xin ở lại với chúng con" đã nhấn mạnh khi viết: "Mỗi lần ta dự phần vào Mình và Máu Người, chúng ta đã thực sự gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta không thể giữ lại cho riêng mình niềm hân hoan mình đã cảm nghiệm. Việc gặp gỡ riêng tư với Chúa Kitô cách thường xuyên được tăng triển và đào sâu trong Bí tích Thánh Thể khơi lên trong Giáo Hội và nơi mỗi tín hữu một lời mời gọi khẩn thiết cho việc làm chứng và rao giảng Tin Mừng" (Gioan Phaolô II, Mane Nobiscum Domine, số 24).
Người kitô hữu chúng ta không thể sống khác đi được. Nếu đi ngược lại, chúng ta đánh mất chính mình vì đã mâu thuẫn nội tại.
Vì thế, mỗi khi tham dự Thánh Lễ, nhất là rước Mình và Máu Chúa vào trong linh hồn chúng ta, hẳn là hơn bao giờ hết, chúng ta được mời gọi để trở nên thánh thiện, trong sạch hầu xứng đáng với Mầu Nhiệm ta đã lãnh nhận.
Thông hiệp vào Mầu Nhiệm Cực Thánh này, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi để đi vào tận sâu thẳm của tình yêu Thiên Chúa để cảm nghiệm được tình yêu tự hiến nơi Chúa Giêsu, Đấng đã "đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ", Ngài đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, để qua đó, mời gọi chúng ta noi gương Ngài, phục vụ anh chị em mình với sự khiêm nhường trong lòng mến.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin Chúa ban cho chúng con thêm lòng yêu mến Chúa và siêng năng tham dự Thánh lễ, rước Mình và Máu Chúa cách xứng đáng; đồng thời luôn xác tín Bí tích Thánh Thể chính là "nguồn mạch và chóp đỉnh" của đời sống Giáo Hội và nơi mỗi người chúng con. Amen.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su tuyên bố: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống". Chúng ta cần phải hiểu câu nói đó theo nghĩa nào? Chắc chắn không thể hiểu theo nghĩa đen, nghĩa là nghĩa vật chất được.
Viết tới đây tôi nghĩ tới Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh trong truyện Tây Du Ký: nhiều yêu tinh quyết bắt ông cho bằng được để ăn thịt, vì tin rằng cứ ăn thịt ông thì sẽ trường sinh hay trường thọ. Chắc hẳn chẳng ai trong chúng ta tin được rằng thịt của Đức Giê-su (hiểu theo nghĩa vật chất) là một thứ thuốc hễ ăn vào thì được sống đời đời theo kiểu các yêu tinh tin vào thịt của Đường Tam Tạng.
Cũng khó mà hiểu được một cách thuần túy rằng Thịt đem lại sự sống đời đời ở đây chỉ là bánh Thánh Thể mà người ta vẫn nhận lãnh khi rước lễ. Vì quả thật không thể tin được là tất cả những ai lên rước lễ dù là hằng ngày thì sẽ được sống đời đời mà không cần một thái độ nội tâm nào (xin nhấn mạnh những chữ viết nghiêng này). Nếu thế thì muốn được sống đời đời quả thật quá dễ dàng! Và nếu thế thì bánh Thánh Thể quả là một thứ phù phép hay bùa chú vượt trên mọi thứ phù phép trong mọi tôn giáo! Những phù phép trong các tôn giáo nhiều lắm thì hứa hẹn một cái gì tạm thời chóng qua, chứ không hứa hạn một quyền lợi vô cùng to lớn mang tính đời đời, mà người thụ hưởng chỉ bị đòi hỏi làm một việc mang tính vật lý quá đơn giản!
Theo tôi nghĩ, chính thái độ nội tâm của ta mới là yếu tố quyết định về phía ta để Thiên Chúa ban sự sống đời đời cho ta hay không. Vì thế, việc ăn thịt và uống máu Đức Giê-su là một thái độ hay hành vi nội tâm hơn là thể lý! Không có thái độ hay hành vi nội tâm ấy, thì có rước lễ hằng ngày suốt đời cũng chẳng thể có sự sống đời đời. Thật vậy, có ai dám bảo đảm rằng những người rước lễ hằng ngày thì chắc chắn có sự sống đời đời chăng? Riêng tôi, tôi tin tưởng chắc chắn 100% rằng những ai có thái độ nội tâm giống như Đức Giê-su thì tất nhiên sẽ được Ngài ban sự sống đời đời.
Thiết tưởng, câu nói của Đức Giê-su đang được bàn tới cần hiểu theo nghĩa tâm linh, huyền nhiệm hơn là nghĩa đen. Vì nói chung, trong bất kỳ tôn giáo nào, những câu Kinh Thánh có ý nghĩa quan trọng thường được hiểu theo nghĩa huyền nhiệm hơn theo nghĩa đen. Vả lại, chính Đức Giê-su đã từng dùng từ "lương thực" hay "thức ăn" theo nghĩa tâm linh: ""Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết". Các môn đệ mới hỏi nhau: "Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?" Đức Giê-su nói với các ông: "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người"" (Ga 32-34). Thiết tưởng chữ "bánh", "của ăn", "của uống" trong bài Tin Mừng hôm nay cũng nên hiểu theo nghĩa ấy.
2. Cuộc đời và bản thân Đức Giê-su là một "chiếc bánh bị ăn"
Một trong những đặc tính căn bản nhất của đồ ăn là nó không hiện hữu vì ích lợi của nó, mà hoàn toàn vì ích lợi của người ăn nó. Nói cách khác, đặc tính căn bản của đồ ăn là hoàn toàn vị tha, không vương một chút vị kỷ nào. Đức Giê-su cũng hiện hữu và sống hoàn toàn vì Chúa Cha và vì loài người, không hề vì bản thân mình chút nào. Ngài từng nói: "Tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi" (Ga 6,38); "Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào" (Ga 10,10).
Cả cuộc đời Đức Giê-su, dù xét một cách toàn thể hay theo từng chi tiết, từng hành động, ta thấy Ngài hoàn toàn vị tha, nghĩa là sống vì Chúa Cha và vì nhân loại. Không một hành vi nào chứng tỏ Ngài vị kỷ cả. Cụ thể và hùng hồn nhất là cuộc tử nạn hết sức thê thảm của Ngài: đau khổ đến tận cùng và chết thê thảm không vì ích lợi gì cho mình, mà hoàn toàn vì yêu thương Chúa Cha và nhân loại.
Hãy nghe Ngài cầu nguyện hai lần với Chúa Cha trước khi chịu tử nạn: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha" (Mt 26,39; x. 26,42). Sự vị tha ấy đã có từ nguyên thủy khi Ngôi Hai xuống thế: "Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự" (Pl 2,6-8).
Như vậy, cả cuộc đời Ngài là một cái "bánh bị ăn", nhờ thế Thiên Chúa được vinh danh. Con người cũng nhờ thế mà "được sống và sống dồi dào" (Ga 10,10), được phục hồi lại sự sống đời đời đã bị mất vì tội nguyên tổ.
3. "Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời"
Đức Giê-su nói: "Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống". Điều ấy chắc chắn là sự that, nhưng phải hiểu theo nghĩa huyền nhiệm hơn là nghĩa đen. Vấn đề còn lại là "ăn thịt và uống máu" Đức Giê-su để "được sống muôn đời" là gì? Muốn "ăn thịt và uống máu" Đức Giê-su thì phải làm gì?
Khi tôi ăn hay uống một thức gì, thì thức ấy được tiêu hóa để trở thành thịt và máu tôi, thành các tế bào của tôi. Thức ấy mà bổ dưỡng hoặc có tính chữa bệnh thì tôi trở nên mạnh khỏe, và bệnh tôi được chữa lành. Nếu tôi ăn hay uống những thức độc hại, thì chất độc ấy cũng trở nên những tế bào độc hại trong thân thể tôi và làm cơ thể tôi suy yếu. Chắc chắn rằng tất cả các tế bào hiện nay của tôi sau mấy chục năm sống ở đời đều hoàn toàn được cấu tạo từ những thức tôi ăn hay uống vào từ bên ngoài. Chính nhờ thức ăn và thức uống mà tôi sống được. Nhưng tôi sống mạnh khỏe hay bệnh tật tùy thuộc vào thức ăn thức uống tôi đưa vào cớ thể, và cũng tùy thuộc cách thức tôi ăn uống nữa. Thức ăn hay thức uống tôi ăn vào từ từ thay thế những tế bào cũ bằng những tế bào mới trong thân thể tôi. Vì thế, nhiều thầy thuốc hay nhà sinh vật học chủ trương người ta có thể cải tạo lại sức khỏe bằng cách thay đổi đồ ăn thức uống và cả cách ăn uống nữa.
Từ thực tế trên, ta có thể hiểu được cách thức "ăn thịt và uống máu" Đức Giê-su. Đức Giê-su là Ngôi Lời, nên bản chất của Ngài là "Lời". Lời của Ngài cũng chính là của ăn thức uống. Đời sống và bản thân của Ngài cũng là của ăn thức uống như đã nói ở phần trên.
Ăn uống Ngài chính là dùng lời của Ngài, dùng gương mẫu đời sống Ngài, để suy niệm, thực hành, bắt chước hầu thay thế dần dần "chất của ta" bằng "chất của Ngài", nghĩa là ta càng ngày càng trở nên "có chất Giê-su" hơn trong quan niệm, tư tưởng, lời nói, và hành động của ta.
Nếu mỗi ngày ta thay thế 1% hay 1‰ "chất tôi" thành "chất Ngài" - ít hay nhiều tùy sự cố gắng hay quyết định của ta - thì chỉ một thời gian sau "chất tôi" đầy ích kỷ, tham lam, ghen ghét sẽ giảm đi, và "chất Ngài" đầy vị tha, đầy tình yêu sẽ tăng lên. Và tới một lúc nào đó, "chất Ngài" ở trong tôi trở thành viên mãn, nghĩa là đạt tới mức 100% (Đương nhiên thực tế không đơn sơ như vậy).
Lúc ấy tôi có thể nói như Phao-lô: "Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi" (Gl 10,20). Lúc ấy, một cách nào đấy, tôi không còn là tôi mà là Đức Ki-tô. Điều đó không có nghĩa là tôi bị vong thân, mà tôi trở nên một cái tôi hoàn hảo nhất, đúng với ước muốn sâu xa nhất của tôi là nên một con người hoàn hảo. Chính lúc ấy tôi mới tìm lại được bản thân tôi một cách trọn vẹn nhất. Đấy là cách "ăn thịt uống máu" Ngài - mà tôi nghĩ theo thiển ý mình - là hợp lý và ý nghĩa nhất. Và đó cũng là cách bảo đảm nhất để có sự sống đời đời.
Vậy thiết tưởng, mỗi khi dâng thánh lễ và lãnh nhận Thánh Thể, tức là "ăn thịt uống máu" Ngài một cách bí tích, ta cần có một thái độ hay hành vi nội tâm tương xứng là "ăn thịt uống máu" Ngài một cách huyền nhiệm hay tâm linh như đã nói trên. Có sự phối hợp bên trong lẫn bên ngoài như thế, việc lãnh nhận Thánh Thể sẽ đem lại cho ta sự sống và sức mạnh tâm linh bội phần.
4. Hãy trở nên "chiếc bánh bị ăn" như Đức Giê-su
Như vậy, "ăn thịt và uống máu" Đức Giê-su chính là suy niệm Lời và đời sống của Ngài để dần dần thay thế "chất tôi" thành "chất Ngài", biến "tôi" thành "Ngài". Nói cách khác, đó là trở nên giống Đức Giê-su hoàn toàn. Giống Đức Giê-su là giống Thiên Chúa, mà "Thiên Chúa là Tình Yêu" (1Ga 4,8.16). Tình yêu ở đây là thứ tình yêu hoàn toàn vị tha, không một chút vị kỷ. Vì thế, giống Đức Giê-su là biết yêu thương mọi người bằng một tình yêu vị tha, nghĩa là sẵn sàng trở nên "chiếc bánh bị ăn" như Đức Giê-su (theo cách nói của cha Antoine Chevrier, tu hội Prado). "Bị ăn" bởi những người chung quanh ta, nhất là những người gần gũi ta nhất (vợ chồng, con cái, cha mẹ, anh chị em, bạn bè ta). Sống như thế, hay ít nhất là cố gắng hết sức để sống như thế, chính là "ăn thịt và uống máu" Đức Giê-su, và như thế thì chắc chắn ta sẽ được sự sống đời đời.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con muốn "ăn thịt và uống máu" Đức Giê-su bằng cách mỗi ngày nhìn vào đời sống của Ngài để biến một phần rất nhỏ "chất tôi" trong con thành "chất Giê-su". Nếu mỗi ngày con chỉ biến 1‰ (một phần ngàn) "chất tôi" thành "chất Giê-su" một cách thật nghiêm túc và thành công, thì trên nguyên tắc chỉ 1.000 ngày sau - tức khoảng 3 năm - con đã được biến đổi hoàn toàn nên giống Đức Giê-su. Đó là tính theo kiểu toán học, thực tế không đơn sơ, dễ dàng và nhanh chóng như vậy. Xin cho con biết "ăn thịt và uống máu" Ngài theo kiểu ấy, để nhờ đó con có sự sống đời đời.
Thánh Công Đồng Vaticanô II gọi "Bí Tích Thánh Thể là nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Kitô hữu" (Lumen Gentium, #11, GLCG #1324), nhưng phải đau lòng mà hỏi có bao nhiêu linh mục và tín hữu thật sự nhận ra vai trò này của Bí Tích Thánh Thể trong khi cử hành Mầu Nhiệm Thánh Thể và sống Bí Tích Thánh Thể mỗi ngày trong đời mình?
Nếu tất cả các linh mục đều xác tín điều này và cử hành Thánh Lễ với một niềm tin vững chắc vào Đức Kitô Phục Sinh ngự thật trong Bí Tích Thánh Thể, cùng sống cuộc đời mình như một Thánh Lễ nối dài thì đã không có những gương mù, gương xấu, đã không có những linh mục coi tiền tài danh vọng, ngay cả xác thịt, cao trọng hơn sứ vụ chính của mình là rao giảng Lời Chúa và ban phát các Bí Tích cùng ân sủng cho giáo dân qua chính đời sống đức tin và kết hợp với Đức Kitô Thánh Thể của mình.
Nếu các tín hữu thật sự hiểu được điều này thì họ đã không đi Lễ trễ và ra về sớm, họ đã không coi việc tham dự Thánh Lễ ngày Chúa Nhật là một nhiệm vụ thay vì là một hồng ân, họ đã không than phiền là Thánh Lễ quá dài..., và nhất là họ đã cố gắng thay đổi để mỗi ngày một nên giống Chúa Giêsu nhiều hơn.
Mục đích của bài này là tóm tắt những giáo huấn của Hội Thánh về tầm mức quan trọng của Bí Tích Thánh Thể trong đời sống Kitô hữu.
Xem Lễ, Dự Lễ hay Dâng Lễ?
Hầu hết người Công Giáo Việt Nam chúng ta "đi Lễ" ngày Chúa Nhật chỉ vì nhiệm vụ bắt buộc hay vì thói quen, hoặc vì sợ phạm tội trọng nếu mất Lễ. Họ đi "xem Lễ" như đi xem "xi-nê", mà chưa chắc đã mê "xem Lễ" bằng xem "phim chưởng." Nhiều lắm là họ đi "dự Lễ" cách thụ động như đi "dự tiệc cưới." Chỉ có một số ít người hiểu rằng mình đi "dâng Lễ" cùng với Đức Kitô. Sở dĩ có tình trạng này vì:
1) Nhiều giáo dân, nhất là người lớn, không được đào luyện kỹ càng về Giáo Lý và sống Đức Tin.
2) Rất ít người hiểu rằng Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích Tình Yêu (ĐTC Bênêđictô XVI, Sacramentum Caritatis, #1), là quà tặng của Đức Chúa Cha (Ga 13:1) và của chính Đức Giêsu Kitô tự hiến chính Mình Người mà dâng lên Đức Chúa Cha để mang ơn cứu độ đến cho chúng ta.
3) Những lạm dụng trong việc cử hành phụng vụ,và thái độ thiếu cung kính của một số Linh Mục khi cử hành Thánh Lễ, làm cho nhiều tín hữu nghi ngờ sự hiện diện thật của Đức Kitô trong Bí Tích Thánh Thể.
Hội Thánh dạy rằng Bí Tích Thánh Thể là trọng tâm và cùng đích của các Bí Tích Khác. Bí Tích Thánh Thể thật sự là nguồn mạch ân sủng cho mọi tín hữu và là tột đỉnh của đời sống Kitô hữu, vì trong Bí Tích Thánh Thể chúng ta gặp chính Đức Kitô, là Thiên Chúa, là Tình Yêu, và là nguồn mạch mọi ân phúc. Bí Tích Thánh Thể ban cho chúng ta ân sủng để sống đời Kitô hữu giữa trăm ngàn khó khăn và cám dỗ.
"Nguồn mạch và tột đỉnh" có nghĩa là gì?
Khi nói rằng Bí Tích Thánh Thể là "nguồn mạch và tột đỉnh" của đời sống Kitô hữu có nghĩa là toàn thể đời sống tâm linh của Kitô hữu được bắt nguồn từ Bí Tích Thánh Thể. Đồng thời đời sống Kitô hữu chỉ đạt được mục đích nơi Bí Tích Thánh Thể, vì mục đích của đời sống Kitô hữu là trở nên giống Đ1ưc Kitô mỗi ngày một hơn. Không có gì quan trọng và cần thiết hơn để giúp người tín hữu đạt được mục đích này là kết hợp mật thiết với Đức Kitô Thánh Thể và sống Thánh Thể trong đời sống hằng ngày. Như thế là Bí Tích Thánh Thể là điểm quy chiếu của tất cả mọi tư tưởng và hành động của người Kitô hữu.
Đời sống tâm linh của chúng ta phải là con đường hai chiều. Con đường này bắt đầu từ Bí Tích Thánh Thể. Nó dẫn đưa chúng ta từ Bí Tích Thánh Thể vào đời sống thường nhật, rồi lại đưa chúng ta trở về với Thiên Chúa trong Bí Tích Thánh Thể sau khi chúng ta đã đi một quãng đường đời.
Bí Tích Thánh Thể vừa là "nguồn mạch" vừa là "tột đỉnh" của đời sống Kitô hữu vì chính Đức Kitô hiện diện thật nơi Bí Tích Thánh Thể để đem Thiên Chúa và con người lại với nhau trong một cuộc trao đổi yêu thương, có giá trí cứu độ, một liên hệ hai chiều, vừa cho đi vừa nhận lại.
Hai diện của Bí Tích Thánh Thể, vừa là "nguồn mạch", vừa là "tột đỉnh" của đời sống Kitô hữu tỏ lộ cho chúng ta thấy rằng Bí Tích Thánh Thể đưa con người lại gần Thiên Chúa như thế nào trong một cuộc đối thoại có giá trị cứu độ. Vỉ Bí Tích Thánh Thể chính là Đức Kitô, Người kết hợp với Thiên Chúa Cha vì Người là Thiên Chúa, đồng thời kết hợp với chúng ta vì Người là người thật, con Đức Mẹ Maria. Đức Kitô trở thành nhịp cầu thông cảm giữa Thiên Chúa và chúng ta. Người là Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người (x. 1 Tim 2:5; GLCG #480, 618). Người hoà giải chúng ta với Chúa Cha, và cho chúng ta được phép thành nghĩa tử của Ngài. Khi tiếp nhận Đức Kitô Thánh Thể cách xứng đáng, chúng ta cũng trở thành một phần của nhịp cầu này, được làm anh em với Đức Kitô, và được gọi Đức Chúa Cha là "Cha ơ!" (Rom 8:15). Chính nhịp cầu thông cảm ấy đã đưa con người lại gần Thiên Chúa Tình Yêu, để rồi hai trái tim cùng chung một nhịp đập. Liên hệ giữa Thiên Chúa và con người trở thành một liên hệ hỗ tương giữa Cha và con, vừa lãnh nhận từ Cha, vừa dâng lại cho Cha. Chúng ta đón nhận Bí Tích Thánh Thể như một hồng ân Chúa Cha ban cho, là Chính Ngài trong Đức Kitô, và kết hợp với Đức Kitô, là Lễ Vật Cực Trọng trong Bí Tích Thánh Thể, chúng ta dâng lại cho Đức Chúa Cha chính mình và tất cả mọi sự của chúng ta, linh hồn, thân xác, tư tưởng, lời nói, việc làm và cả đời sống, như một của lễ sống động, đẹp lòng Ngài. Không những thế, trong Bí Tích Thánh Thể, chúng ta cũng kết hợp với toàn thể Hội Thánh, là Nhiệm Thể Đức Kitô. Để rồi nhờ hồng ân Bí Tích Thánh Thể, chúng ta thương yêu tha nhân như chính mình vì họ là hình ảnh của Thiên Chúa.
Là "nguồn mạch" của đời sống Kitô hữu, Bí Tích Thánh Thể giúp chúng ta nhận ra rằng mình được cứu độ trước hết nhờ hồng ân Thiên Chúa chứ không phải nhờ sức riêng mình. Thiên Chúa đã ban Chính Ngài cho chúng ta trong Đức Kitô trước. Đồng thời vì là "tột đỉnh" của đời sống Kitô hữu, Bí Tích Thánh Thể là Của Lễ Cao Trọng, đầy ân sủng, mà qua đó con người có thể dâng mình lại cho Thiên Chúa qua Đức Kitô, Vị Thượng Tế cao cả, nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Như thế Bí Tích Thánh Thể là sự kết hợp mật thiết nhất giữa Thiên Chúa và chúng ta.
Sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và chúng ta trong Bí Tích Thánh Thể đem lại ân sủng giúp chúng ta sống ba nhân đức đối thần là Tin, Cậy, Mến. Bởi vì các Bí Tích là phương tiện Thiên Chúa dùng để ban ân sủng giúp chúng ta sống các nhân đức này, nhờ đó chúng ta có thể sống "cách sống nhiệm tích" (ĐTC Gioan Phaolô II, Dominicae Cenae, #7). Cách sống nhiệm tích là phát triển đời sống tâm linh nhờ ân sủng nhận được từ các Bí Tích, đồng thời sống Đức Ái trong nhiệm vụ hằng ngày, là trở thành dấu chỉ của Tình Yêu Thiên Chúa giữa thế gian.
Kết Luận
Nhiều người thắc mắc rằng người Công Giáo đi Lễ hằng tuần mà đời sống tâm linh chẳng hơn gì những người không đi Lễ. Chúng ta phải nhận rằng đây là một thảm trạng mà chỉ có Thiên Chúa mới thay đổi được. Chúng ta hãy cầu nguyện nhiều cho những vị có nhiệm vụ giáo dục giáo dân để các ngài chu toàn sứ vụ Ngôn Sứ mà Chúa đã trao phó cho các ngài. Đồng thời chính mỗi người chúng ta cần kết hợp mật thiết với Đức Kitô Thánh Thể mỗi ngày, và cố gắng sống "cách sống nhiệm tích" để mọi người thấy việc chúng ta làm mà ngợi khen Cha Trên Trời (x. Mt 5:16).
Con người sinh ra trên đời luôn cần có lương thực. Thú vật sống trên núi, trên rừng, dưới biển đều phải nhờ lương thực. Mọi sinh vật cũng cần có thức ăn, thức uống mới có thể sinh tồn được. Đối với đời sống tôn giáo cũng vậy, đặc biệt người Kitô hữu được Chúa yêu thương. Chính Ngài đã luôn hiện trong Bí Tích Thánh Thể, để được ở mãi với loài người, với con người, để làm lương thực nuôi dưỡng con người trên đường dương thế trở về quê trời. Chúa Giêsu đã hứa với nhân loại: " Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời " ( Ga 6, 58 ).
Giáo lý dạy chúng ta rằng: Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích Tình Yêu, Bí Tích của sự hiệp nhất. Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Corintô đã viết: " Không phải chúng ta đã bẻ bánh để dự phần vào Thân Mình Chúa Kitô ư ! Bởi vì tấm bánh chỉ là một, nên dù chúng ta có nhiều người, chúng ta cũng là một thân thể, vì tất cả chúng ta cùng chia sẻ một tấm bánh đó sao ? ". Khi Chúa mời gọi: " Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy ", Chúa Giêsu muốn mọi Kitô hữu trên trái đất này hãy lập lại cái chết tự hiến vì yêu thương của Người, bằng cả cuộc sống dấn thân và trao ban. Khi Chúa nói: " Đây là Mình Thầy. Đây là Máu Thầy ". Chúa Giêsu thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Giáo Hội luôn lập lại cử chỉ của Chúa Giêsu khi Ngài lập Bí Tích Thánh Thể trong nhà Tiệc Ly. Đây là Bí Tích cao quí Chúa để lại và trao ban cho nhân loại, tặng ban cho mỗi người chúng ta. Bí Tích Thánh Thể cũng là Bí Tích liên kết mọi người Kitô hữu để đời đời con người cảm tạ tri ân Chúa vì Người đã để lại cho nhân loại Bí Tích đem lại sự sống muôn đời. Chúa Kitô hiện diện trong Thánh Thể bao lâu hình bánh rượu còn tồn tại. Đây là mầu nhiệm của đức tin. Bởi vì khi linh mục đọc lời truyền phép thì bánh rượu không còn là bánh rượu nữa nhưng đã trở thành Thịt Máu Chúa.
Chúa Giêsu đã phán: "...Bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống " ( Ga 6, 48-51 ). Chúa Giêsu đã truyền cho các môn đệ tái diễn lại cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Người trên bàn thờ để đem lại ơn cứu độ cho con người. Do đó, Giáo Hội luôn tung hô Chúa Giêsu sau truyền phép: " Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết, và tuyên xưng Chúa đã sống lại, cho tới khi Chúa lại đến ".
Vâng, Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích ban sự sống do đó khi rước lễ là chúng ta đón nhận sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô và sự hiện diện thiêng liêng của Ngài vẫn kéo dài trong cuộc sống của chúng ta. Nên, chúng ta phải dọn lòng trong sạch để đón nhận Mình Máu của Chúa Kitô bởi vì việc rước Mình, Máu Chúa giúp đời sống thiêng liêng của chúng ta trở nên vững mạnh, giúp vượt thắng và xa lánh tội lỗi. Việc rước Mình Máu Chúa Kitô giúp tăng triển sự hiệp thông với Chúa Kitô. Sự hiệp nhất, gắn bó với Chúa Giêsu trong Thánh Thể giúp mọi người Kitô hữu hiệp nhất với nhau.Đồng thời Bí Tích Thánh Thể là bảo chứng chắc chắn cho người Kitô hữu đạt tới vinh quang Nước Trời.
Giáo Hội luôn bảo quản Mình Máu Chúa Kitô trong Nhà Tạm để có sẵn Thánh Thể cho những người đau yếu, những người vắng mặt, và cũng để cho mọi người tôn thờ cung kính Thánh Thể khi tới nhà thờ, khi không cử hành thánh lễ vv...
Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô làm cho chúng ta càng lúc càng xác tín hơn Chúa luôn hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể. Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận đã luôn yêu mến Thánh Thể và Ngài đã nói: bàn tay của Ngài là bàn thờ, là Nhà Thờ Chính Tòa. Với ba giọt rượu và chút nước. Với miếng bánh miến. Ngài đã làm cho Chúa hiện diện và biến rượu bánh thành Mình Máu Chúa Kitô qua lời truyền phép.
Chúng ta hãy luôn yêu mến Bí Tích Thánh Thể bởi vì Chúa luôn mời gọi chúng ta đón rước Người trong Bí Tích Thánh Thể: " Thật, Tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn Thịt và uống Máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình ".
Theo truyền thống từ thế kỷ XIII, vào ngày thứ Năm sau lễ Chúa Ba Ngôi, tức 60 ngày sau lễ Phục sinh, Giáo hội cử hành lễ kính Mình Máu Thánh Chúa. Lễ này do Đức Ubanô IV thiết lập ngày 11 tháng 8 năm 1264 còn gọi là lễ của Chúa, lễ Mình Máu Thánh Chúa. Vì hôm nay, Giáo hội không chỉ cử hành lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, Festum Corporis Christi, mà còn rước kiệu trọng thể Mình Thánh Chúa ra khỏi nhà thờ, đi trên các nẻo đường, vừa đi vừa hát bài: « Chúa nuôi dân bằng lúa mì tinh hảo, mật ong rừng, Người cho hưởng thỏa thuê » (Ca nhập lễ - lời của thánh Tôma Aquinô). Để loan truyền công khai rằng: Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Bí tích Thánh Thể và Hy tế của Chúa Kitô là ơn cứu độ cho toàn thế giới. Cử hành Thánh Thể
Giáo hội công khai cách long trọng Bí tích Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, mầu nhiệm được thiết lập trong bữa Tiệc Ly và hằng năm được tưởng nhớ vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh, nay được biểu lộ cho hết mọi người, bởi đức tin sốt mến và lòng sùng kính của cộng đoàn Giáo hội.
Trên bàn thờ Chúa, chúng ta đã thấy tận mắt Bánh và Rượu được truyền phép. Nhưng cần phải được soi sáng, chúng ta mới nhận biết và tin rằng Bánh chính là Mình Chúa Kitô và Rượu là Máu Chúa Kitô. Thật không có ngôn ngữ nào có thể diễn tả hết niềm tin của chúng ta: Làm sao Bánh lại có thể là Mình Chúa Kitô và Rượu lại là Máu Chúa Kitô được?
Chúng ta tin Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Bí Tích Mình Thánh. Bánh thánh trở thành Bí tích cần thiết để nuôi dưỡng linh hồn chúng ta, và dẫn dắt chúng ta trên đường về tới thiên đàng! Trước khi về Trời, Chúa Giêsu đã hứa: « Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế » (Mt 28, 20). Người ở lại với chúng ta thế nào? Bí tích Thánh Thể là kho tàng cao quí thực hiện lời hứa trên.
Chúa Giêsu hiện diện thật sự giữa chúng ta. Giáo hội quả quyết rằng: Sự hiện diện thật của Người trong Bí tích Thánh Thể là chân lý cơ bản của Đức tin Công giáo. Chúng ta phải tôn thờ, Tấm Bánh truyền phép được đặt trước mặt chúng ta nói về quyền năng vô cùng của tình yêu được bộc lộ trên Thánh Giá vinh hiển. Bánh Thánh nói cho chúng ta về sự hạ mình khó tin của Đấng đã biến mình, hiện diện khiêm tốn dưới hình bánh và hình rượu.
Thánh Tôma Aquinô cho chúng ta biết: Con độc nhất của Thiên Chúa, muốn cho chúng ta thông phần vào thiên tính của Chúa, đã làm người. Để cứu chuộc con người, Người đã đổ máu mình ra rửa chúng ta sạch muôn vàn tội lỗi, giao hòa chúng ta với Chúa Cha trên bàn thờ Thập Giá.
Đây không phải là máu chiên, bò, nhưng là Máu Châu Báu của Chúa Kitô, Thiên Chúa thật. Bánh và rượu trở nên Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Vì thế, Người được các tín hữu ăn: « Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống » (Ga 6,55-56). Từ phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi đám đông trong hoang địa. Chúa Giêsu đã chính thức hứa ban cho chúng ta của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn chúng ta (Lc 9, 11b-17).
Bí tích Thánh Thể là Tình Yêu tột đỉnh của Người đối với chúng ta: « Trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán: « Các con hãy lãnh nhận mà ăn...». Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén và phán: « Các con hãy cầm lấy mà uống. Chén này là Tân Ước trong Máu Ta; mỗi khi các con uống, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta » (1 Cr 11, 23-26). Thật là niềm an ủi cho những người đã buồn vì sự vắng mặt của Chúa » (Bài giảng của Thánh Thomas Aquinas, Booklet 57).
Thánh Gioan Kim Khẩu nói: « Anh em hãy để tâm suy nghĩ về vinh dự khi anh em được cất nhắc lên đồng bàn tham dự tiệc thánh. Điều mà các thiên thần run sợ khi chiêm ngắm Ánh Huy Hoàng chói lọi, Đức Kitô lại ban cho chúng ta làm của ăn, bằng mọi cách, Người lấy chính máu mình nuôi dưỡng chúng ta, Người kết hợp chúng ta với Người, để chúng ta được hợp cùng Đức Kitô và hiệp nhất cùng nhau như một thân mình và một xác vậy ». (Thánh Gioan Kim Khẩu)
Bí tích Thánh Thể là chóp đỉnh về lòng nhân ái của Thiên Chúa đối với chúng ta: «Chúa Kitô tháp nhập vào mỗi tín hữu nhờ Bí tích này. Những kẻ Người đã sinh ra thì Người nuôi dưỡng bằng chính bản thân Ngài, qua Bí tích Thánh Thể, Người làm cho ta vững tin rằng Người đã mang lấy chính xác thân của ta ». Người tan biến trong chúng ta, « làm một với chúng ta, làm cho chúng ta trở nên thân mình của Ngài » (Thánh Gioan Kim Khẩu).
Việc biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, là nguyên tắc cho việc thần thiêng hoá tạo vật. Vì thế, lễ kính Mình và Máu Thánh Chúa Kitô có đặc điểm hết sức riêng biệt là rước kiệu Mình Thánh Chúa.
Rước kiệu Mình Thánh Chúa
Khi kiệu Mình Thánh Chúa và đưa Chúa ra khỏi nhà thờ. Giáo Hội tuyên xưng Chúa Giêsu ngự thật trong phép Mình Thánh, mang Chúa vào trong đời ta, với mong ước nhà ta là nhà dành cho Chúa, đường đời ta là đường của Chúa Giêsu. Xin Chúa Giêsu luôn hiện diện trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta!
Khi đặt Mình Thánh vào Mặt nhật, dưới dạng mặt trời, ngụ ý rằng Chúa Giêsu là « Mặt Trời »: Ngài là ánh sáng của lòng ta (đó là ý nghĩa của từ « mặt nhật »)
Bình khói hương thơm nghi ngút vừa đi vừa xông, tượng trưng cho lời nguyện cầu của chúng ta tỏa bay lên trước tòa Chúa.
Các em bé rắc trên đường nhắc lại cuộc Rước Chúa Giêsu vào Thành Thánh, và những lời tụng ca của các em rất làm Chúa hài lòng.
Qua cuộc rước kiệu, chúng ta thấy Chúa và chắc chắn Chúa thấy tất cả những khổ đau của những bệnh nhân; những nỗi cô đơn của những người trẻ và của những người già; những cám dỗ, những nỗi lo lắng trong cuộc sống của chúng ta. Cuộc rước kiệu này còn có ý nghĩa là xin Chúa chúc lành cho chúng ta và cho toàn thế giới.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự trong phép Mình Thánh, là Bánh đích thực nuôi dưỡng chúng con trên mặt đất này, xin hướng dẫn chúng con đến bàn tiệc trên Trời, trong vinh quang các thánh của Chúa, có Mẹ Maria là Mẹ chúng con.
Lạy Mẹ Maria, Trinh Nữ Chí Thánh, Mẹ của Chúa Giêsu, Đấng đầu thai Vô Nhiễm, từ hai ngàn năm nay, đã chấp nhận, hiến dâng mọi sự, hiến dâng thân xác Mẹ hầu rước lấy thân xác Đấng Sáng Tạo, xin giúp chúng con chiêm ngưỡng, xin giúp chúng con thờ lạy và yêu mến, Đấng đã yêu thương chúng con dường ấy, hầu chúng con được sống đời đời với Người. Amen.
Hôm nay Giáo Hội mừng Lễ Mình Máu Thánh Chúa để mọi Kitô hữu càng ngày càng yêu mến Chúa bởi vì Chúa đã để lại cho nhân loại chính Thân Mình để nuôi nhân loại, nuôi dưỡng mọi người.Bí tích Thánh Thể là Bí tích Tình yêu, Bí tích nuôi sống như lời quả quyết của Chúa Giêsu:" Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết " ( Ga 6, 54 ).
Thực tế, lễ Mình Máu Thánh Chúa đã có từ xa xưa thời Trung Cổ bên Âu Châu với gợi ý của thánh Tôma Aquinô rằng:" Chúa về trời nhưng vẫn còn hiện diện bên chúng ta, đặc biệt là trong Bí tích Thánh thể; và với thời gian lòng sùng kính đó mỗi ngày mỗi sâu xa, đậm đà.Ngày lễ này được coi là lễ rất trọng. Lễ Thánh Tâm Chúa đã được Đức Giáo Hoàng Urbanô II lập ra, xác nhận, bảo đảm và khuyến khích lòng sùng kính sẵn có của giáo dân về Bí tích Thánh Thể. Thánh lễ Mình Máu Thánh Chúa còn nói lên ý nghĩa cao vời là Chúa đã trở nên lương sống con người, chúng ta được Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta cũng phải trở nên lương thực cho nhau. Bài Tin Mừng này là khúc kết thức về bài giảng của Chúa Giêsu về bánh ban sự sống. Tin Mừng thánh Gioan cho hay là sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh hóa ra nhiều ( Ga 6, 1-13 ), Ngài sợ bị dân chúng tôn Ngài lên làm vua ( Ga 6, 15). Chúa Giêsu trốn họ, ra đi và đi trên biển tới với các tông đồ ( Ga 6, 16-21 ). Dân chúng vẫn đi tìm Ngài và rồi Chúa Giêsu giảng cho họ nghe về bánh thiêng liêng. Chúa kết thúc bằng việc loan báo sẽ lập Bí tích Thánh thể.
Chúa Giêsu yêu thương nhân loại, yêu thương mọi người, yêu thương từng người đến nỗi đem chính Thân Mình làm của lễ toàn thiêu dâng hiến Chúa Cha, đồng thời trở nên lương thực nuôi dưỡng con người ở đời này để họ được sống đời sau.
Lương thực nuôi dưỡng con người, lương thực nuôi dưỡng nhân loại như Chúa nói:" Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống.Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời, và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống " ( Ga 6, 51 ). Ngôn từ " thịt " chỉ toàn bộ con người với khả năng và yếu đuối. Do đó, dân Do Thái đã hiểu theo nghĩa đen và đã bỏ đi
( Ga 6, 60 ). Bởi vì họ thiếu lòng tin, không tin nơi Chúa Giêsu có cả bản tính Thiên Chúa nữa. Chúa Giêsu cho thấy " Ai ăn thịt của Ngài thì luôn kết hợp với Ngài...". Của ăn vật chất ở trần gian nuôi sống con người, thể xác con người thì Chúa Giêsu cũng nên lương thực nuôi sống những ai tin vào Ngài. Và như thế, khi lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa thì con người được hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa.Như Ba Ngôi Thiên Chúa: Cha, Con và Thánh Thần hiệp thông với nhau. Khi xưa tổ tiên của người Do Thái khi được Chúa cứu khỏi bàn tay của Pharaon bên Ai Cập.Môsê và Aaron đã theo lệnh Chúa dẫn dân Do Thái đi qua sa mạc tiến vào Đất Hứa. Chúa đã cho Môsê dùng gậy đập vào đá, nước vọt ra làm cho người Do Thái và súc vật uống nước thỏa thuê, dư tràn. Khi họ đói kêu trách Chúa, Ngài đã cho Manna từ trời rơi xuống để nuôi sống dân Do Thái. Họ lấy làm lạ nên hỏi Manhu là cái gì vậy ?
Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Thánh Thể để lấy chính Ngài làm của lễ hiến tế đẹp tuyệt vời dâng lên Thiên Chúa Cha và để lại cho nhân loại Mình Máu của Ngài làm lương thực nuôi sống loài người.Thánh lễ mỗi ngày trên bàn thờ là hiến lễ giao hòa đẹp lòng Thiên Chúa. Nhân loại sẽ được hưởng nhờ và được nuôi sống nhờ Mình Máu Thánh Chúa. Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể sẽ hiện diện với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Đó là bảo chứng sâu xa cho lòng tin của chúng ta. Chúa nuôi sống mọi người cho tới khi chúng ta được trở về kết hợp với Ngài trong Nước Thiên Chúa.
Claude Ducarroz đã viết một đoạn rất ý nghĩa như sau:" Bấy giờ, trí nhớ của chúng ta trở thành lòng tri ân chan chứa, và lễ tưởng niệm mở rộng đến tất cả các nữ tôi tớ bé nhỏ-như Đức Maria-và tất cả các tôi tớ-như thánh Giuse-là những thành viên của gia đình rộng lớn của Đức Giêsu, những người có phước được rửa chân dưới mọi hình thức, những người có phước được mời đến dự tiệc Thánh thể ở mọi nơi mọi thời ".
Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta cảm nghiệm sâu xa tình thương sâu xa, vô bờ của Chúa. Chúa quan phòng lo liệu cho nhân loại, cho mỗi người. Chúa muốn chúng ta cũng biết chia sẻ với tha nhân, với anh em bằng chính tình thương tha thứ của mỗi người chúng ta. Mình Máu Thánh Chúa là lương thực nuôi sống Giáo Hội, nuôi sống Gia đình, nuôi sống mỗi người...
" Lạy Chúa, Chúa đã để lại cho chúng con Bí tích Mình Máu Thánh Chúa, để chúng con đời đời tưởng nhớ Chúa đã chịu khổ giá và sống lại hiển vinh".
Vào năm 1263, tại nhà thờ thánh Catherine, thành Bolsène nước Ý, có một linh mục trong khi dâng lễ, sau khi đọc lời truyền phép đã nghi ngờ về bánh và rượu trở thành Mình và Máu Chúa. Xảy ra là Máu Thánh chảy ướt khăn thánh và khăn bàn thờ. Đức Giáo Hoàng nghe tin và đã rước khăn thánh về để tạm tại nhà thờ Orviette. Sau đó, xây nhà thờ để thờ kính Máu Chúa nơi Khăn Thánh này. Ngày 8 tháng 9, 1264, Đức Giáo Hoàng Urbanô IV (1262-1268) đã ban hành tự sắc Transiturus, lập lễ kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô và cử hành sau tuần 8 ngày của lễ Chúa Thánh Thần. Thánh Tôma Aquinô đã sáng tác bài Pange Lingua và Adoro Te để tôn kính Mình Máu Thánh Chúa.
Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ muôn loài và quan phòng mọi sự một cách lạ lùng. Mọi thụ tạo trong hoàn vũ đều thay đổi mỗi giây phút. Các loài có sự sống từ thực vật, động vật đến sinh vật đều theo một tiến trình phát triển, có sinh và có tử. Trong mọi loài Chúa đã dựng nên, được phát triển và nẩy nở theo thời gian năm tháng tùy theo mỗi loại. Nơi mọi loài có sự sống, đều phải hấp thụ dưỡng chất qua môi trường chung quanh để sinh tồn. Có nghĩa mọi loài hiện hữu cần có ăn uống, hấp thụ, tiêu hóa, đào thải, phát triển, già nua và tiêu diệt. Ăn uống là nhu cầu cần thiết để sống và sinh tồn. Ngày xưa dân Do-thái lữ hành trong sa mạc trên đường về miền Đất Hứa, Thiên Chúa đã nuôi dân bằng Manna, thịt chim cút và nước nguồn. Chúa đã nuôi dân suốt thời gian: Trong hoang địa, Người đã nuôi các ngươi bằng Manna mà cha ông các ngươi chưa từng biết tới (Đnl 8, 16a). Manna lương thực nuôi dưỡng hằng ngày là hình ảnh của bánh trường sinh.
Khi ra rao giảng tin mừng, Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân. Cả bốn phúc âm đều kể lại sự kiện biến hóa 5 chiếc bánh và 2 con cá nhỏ. Chúa Giêsu đã cầm bánh và cá, ngước mắt lên trời, tạ ơn và bẻ ra trao cho các tông đồ và các tông đồ trao cho hơn năm ngàn người ăn no nê và còn dư thừa. Chúa rộng ban một cách dồi dào dư giả. Chúa Giêsu nhận biết các nhu cầu cả tâm linh lẫn thể xác của những người đang đi theo Chúa. Chúa Giêsu đã dậy dỗ họ và đã nuôi dưỡng họ. Nhưng chúng ta biết Chúa đến trần gian không nhằm đáp ứng mọi nhu cầu đòi hỏi về thân xác của con người. Chúa làm phép lạ để minh chứng về sứ mệnh cứu độ của Chúa và để chuẩn bị tinh thần họ đón nhận của ăn cao quí hơn. Đó chính là của ăn nuôi hồn và là thần lương tinh tuyền. Chúa muốn dùng chính thân mình Ngài làm của ăn ban sự sống đời đời.
Chúa Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể trong bữa tiệc ly, trước khi Ngài chịu chết. Như đã hứa, Chúa Giêsu đã chọn bánh miến và rượu nho làm của ăn nuôi hồn. Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể: Ngài cầm lấy bánh, tạ ơn, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ và nói: Tất cả các con hãy nhận lấy mà ăn vì này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con. Rồi Ngài cầm lấy chén rượu, tạ ơn, dâng lời chúc tụng, trao cho các môn đệ và nói: Tất cả các con hãy nhận lấy mà uống, vì này là chén máu Thầy, máu giao ước mới và vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được ơn tha tội. Và truyền: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Khi Chúa nói: Đây là Mình Thầy và đây là Máu Thầy, thì bản thể của bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa. Chúng ta hiểu Chúa Giêsu nói: Đây là Mình Thầy, chứ không phải là dấu chỉ của Mình Thầy.
Chúng ta có thể nhận biết hình dáng bên ngoài của bánh và rượu như mầu sắc, mùi vị, hình thù và kích cỡ. Trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta không thể nhìn thấy Chúa Kitô với con mắt trần. Chúng ta chỉ có thể nhìn với con mắt đức tin. Chúng ta tin rằng Chúa Kitô hiện diện trọn vẹn trong hình bánh rượu, bởi vì Chúa đã sống lại và không còn chết nữa (Rm 6, 9). Với quyền năng vô biên, Chúa đã biến đổi bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa. Chúng ta học biết chính Chúa đã tạo dựng vũ trụ muôn loài từ hư vô. Chúa hóa bánh nuôi năm ngàn người. Chúa biến nước thành rượu tại tiệc cưới Cana. Chúa cho kẻ chết sống lại. Chúa đã làm rất nhiều phép lạ để chứng minh quyền năng vô biên. Bí tích Thánh Thể là sự lạ vượt trên tầm trí hiểu của con người. Đây là mầu nhiệm của đức tin.
Chúng ta có thực sự tin Chúa Giêsu ngự thật trong Bí tích Thánh Thể không? Chúng ta có tin bánh và rượu thực sự trở nên Mình và Máu Thánh Chúa Kitô sau khi linh mục đọc công thức truyền phép trong thánh lễ không? Trong cuộc thăm dò ý kiến (Gallup poll) mới đây về thái độ của một số người Công giáo về Bí tích Thánh Thể. Kết qủa làm cho nhiều người Công giáo bị lo lắng xôn sao về một trong những niềm tin căn bản nhất của Giáo Hội. Nói rằng chỉ có 30 phần trăm những người được hỏi ý kiến, tin là họ đã lãnh nhận Mình và Máu Thánh, linh hồn và thần tính của Chúa Giêsu Kitô dưới hình bánh và rượu trong khi rước lễ.
Trải qua truyền thống của hai ngàn năm, lời Kinh Thánh và giáo huấn của Giáo Hội luôn dậy rằng Bí tích Thánh Thể chính là Mình và Máu của Giêsu Kitô, không còn là bánh và rượu bình thường. Phúc âm thánh Gioan chương 6 đã nêu rõ: Bấy giờ, Chúa Giêsu nói với họ: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Người, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi (Ga 6, 53). Chúa Giêsu nhấn mạnh về Thịt và Máu, chứ không phải chỉ là biểu tượng. Vì có một số môn đệ nghe lời Chúa nói về ăn thịt và uống máu Ngài, họ đã không thể chấp nhận và đã bỏ đi. Chúa Giêsu không kêu gọi các ông trở lại để giải thích rằng Ngài chỉ có ý nói một cách biểu trưng. Chúa Giêsu xác tín lời thật: Ai ăn thịt và uống Máu Ta, thì có sự sống đời đời và Ta, ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết (Ga 6, 54).
Thời kỳ Giáo Hội sơ khai đã khắc cốt ghi tâm những lời truyền này một cách rất cẩn thận. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu thành Corintô đã làm rất sáng tỏ: Bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa (1Cor 11, 27). Phaolô đã tin nhận bánh và rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô thực sự. Giáo Hội luôn luôn dạy rằng qua lời truyền phép của linh mục trong Kinh Nguyện Thánh Thể, bánh và rượu đã được biến đổi bản thể. Mặc dầu hình dạng bề ngoài vẫn là bánh và rượu, nhưng bởi quyền năng của Chúa, bánh rượu đã trở nên Mình và Máu Thánh Chúa. Làm sao chúng ta có thể hiểu biết điều này? Đòi hỏi niềm tin. Sau khi truyền phép, linh mục nâng Mình Máu Chúa và tuyên xưng: Đây là mầu nhiệm đức tin. Là mầu nhiệm, giống như tình yêu, chúng ta không bao giờ hiểu thấu hoàn toàn. Tất cả mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, thần tính của Chúa Giêsu, sự Chết và Sống lại của Chúa Kitô đều là những mầu nhiệm.
Nhận lãnh Bí tích Thánh Thể, chúng được thông hiệp với Chúa và với nhau: Tấm bánh mà chúng ta bẻ ra chẳng phải là thông hiệp vào Mình Chúa đó sao?(1Cor 10, 16b). Thánh Thể liên kết chúng ta nên một. Thánh Phaolô diễn tả rất rõ: Vì có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể, vì hết thảy chúng ta thông phần cùng một tấm bánh (1Cor 10, 17). Chúa Giêsu đã dùng của ăn cụ thể nuôi thân xác để biến đổi trở thành của ăn nuôi hồn. Chúa hiện diện với đoàn con cái mọi nơi và mọi lúc qua Bí tích Thánh Thể trong Nhà Tạm.
Lạy Chúa, với quyền năng vô biên, Chúa đã nuôi dưỡng chúng con bằng bánh hằng sống. Xin cho chúng con biết chuẩn bị tâm hồn xứng đáng để lãnh nhận của ăn thiêng liêng và hồng phúc này. Xin cho chúng con đáng hưởng phần gia nghiệp Chúa hứa ban: Ai ăn thịt và uống Máu Ta, thì có sự sống đời đời.
Bảy giờ chiều ngày 18.8.1996, Lm. Alejandro Pezet cử hành Thánh Lễ tại một Nhà Thờ Công Giáo ở Trung Tâm Thương Mại Buenos Aires. Khi cha vừa mới cho rước lễ xong thì một người phụ nữ chạy đến thưa với ngài rằng: bà thấy một Mình Thánh bỏ rơi trong dĩa đốt đèn cầy ở cuối Nhà Thờ. Vì cha không thể bỏ vào miệng được, nên cha để vào một ly nước lạnh và đặt vào trong Nhà Tạm nơi đặt Mình Thánh.
Ngày thứ hai, 26.8.1996, khi mở cửa Nhà Tạm, cha kinh ngạc vì thấy Mình Thánh đã trở thành một vật có máu. Cha thông báo sự việc cho Đức Hồng Y Jorge Bergoglio ( nay là Đức đương kim Giáo Tông Phanxicô ). Ngài nói cha Pezet nhờ một người thợ chuyên nghiệp chụp hình Mình Thánh. Bức hình được chụp vào ngày 6.9.1996, cho thấy rất rõ là Mình Thánh đã trở thành một miếng thịt tươi có máu, và đã to hơn lên một cách rõ ràng. Suốt trong mấy năm sau đó, Mình Thánh vẫn được giữ nguyên trong chỗ để an toàn nơi Nhà Tạm.
Ngày 5.10.1999, trước sự chứng kiến của những vị đại diện của Đức Hồng Y Bergoglio, bác sĩ Castanon đã cắt một mẩu của Mình Thánh Chúa đầy máu đó và gửi sang New York để nhờ phân tích. Bác sĩ không thông báo một chút gì cho nhóm những nhà khoa học về nguồn gốc, lai lịch cũng như nơi phát sinh vật thí nghiệm. Một trong những nhà khoa học là bác sĩ Frederic Zugiba, một chuyên gia về tim ( cardiologist ) và là một chuyên viên pháp y bệnh lý học, ông xác nhận rằng: “vật thí nghiệm” là thịt tươi thật và máu là máu người thật, có chứa mẫu di truyền DNA.
Bác sĩ Zugiba ghi trong tờ chứng nhận rằng: “Vật được xét nghiệm là một miếng thịt cơ tim nằm về phía tâm thất trái gần với những van tim. Đây là phần cơ tim có nhiệm vụ làm tim co thắt, có nhiệm vụ bơm máu vào các phần khác của cơ thể. Cơ tim là một cấu tạo rất tinh nhạy và chứa rất nhiều tế bào bạch huyết. Tôi cả quyết rằng trái tim vẫn còn sống lúc đó vì tế bào bạch huyết không tồn tại nếu cơ quan không còn sống. Thêm nữa, những tế bào bạch huyết này nằm sâu trong mô cơ tim. Điều đó cho thấy rằng trái tim lúc đó đang bị một sức ép kinh khủng, có lẽ người mang trái tim ấy đã bị đánh đập với những thương tích rất nặng ngay chỗ trái tim.” ( PX. Trần Bá Nguyệt, Lm. M. Piotrowski Schr, Love One Another, Catholic Magazine ).
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu mặc khải Bí Tích Thánh Thể, như một trái tim sống động thật sự, đang tiếp tục bơm máu, dưỡng nuôi cuộc sống vĩnh cửu, tràn đầy tình yêu, hiệp nhất và bình an.
Sống yêu thương
Sống yêu thương thực sự quan trọng và cao quý nhất. Thánh Gioan đã khẳng định: “Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” ( 1Ga 4, 8 ). Và tình yêu được Ngài biểu lộ cụ thể nhất: “Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm lễ đền tội cho chúng ta” ( 1Ga 4, 10 ).
Đức Giêsu nhập thể để thực hiện Thánh Ý Đức Chúa Cha. "Tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi" ( Ga 6, 38 ). Qua nhiệm tích Thánh Thể, Người tự hiến mình thành lương thực trường sinh. "Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời" ( Ga 6, 54 ).
“Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu anh em” ( Ga 15, 12 ). Người truyền cho các môn đệ hãy bắt chước Người yêu thương hoàn toàn xả kỷ vị tha, sống cho, sống vì tha nhân, một cấp độ yêu thương trổi vượt hơn so với cấp độ: “Yêu người như thể yêu mình” theo như Cựu Ước đã dạy. Như thế sống là yêu thương với tâm tình khiêm tốn, hy sinh bản thân, phục vụ mọi người, không phân biệt thân sơ hay thù địch. “Các con hãy yêu thương thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con” ( Mt 5, 43 – 44 ).
Thánh Phaolô diễn giải thêm:“Hãy chúc lành cho kẻ bắt bớ, chúc lành chứ đừng chúc dữ… Nếu kẻ thù ngươi đói hãy cho nó ăn; nó khát hãy cho nó uống… Chớ để sự dữ thắng được ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ” ( Rm 12, 14, 20 – 21 ).
Sống hiệp nhất
Với Mình và Máu Thánh, Chúa quy tụ mọi người hiệp nhất với Người, trở nên chi thể của Người. "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy" ( Ga 6, 56 ). Sống hiệp nhất chặt chẽ với Đức Giêsu thì tín hữu Kitô mới có thể nhờ Người mà trở nên công chính và thánh hóa. “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm được gì” ( Ga 15, 5 ).
Thánh Phaolô giải thích Bí Tích Thánh Thể là biểu tượng của tình yêu, cảm thông và hợp nhất: “Chúng ta tuy nhiều, nhưng cùng chia sẻ một tấm bánh và làm nên một thân thể Đức Kitô” ( 1 Cr 10, 17 ).
Hiệp nhất trong tình yêu với Ba Ngôi Thiên Chúa, đồng thời hiệp nhất với tha nhân, có nghĩa mỗi người thoát ra khỏi vỏ ốc vị kỷ, ích kỷ, để hy sinh và dấn thân, hòa nhịp vào cuộc sống chung hòa bình, hạnh phúc.
Sống bình an
Một khi sống kết hợp chặt chẽ với Chúa Giêsu, thì chẳng còn thế lực hắc ám, quyền lực sự dữ nào có thể chia rẽ, phân ly khỏi quyền năng Người. Dù bị đe dọa bằng bạo lực, tù tội, áp bức và bách hại, thì Kitô hữu vẫn cảm thấy bình an, sẵn sàng đón nhận mọi cực hình, kể cả án tử hình, như chứng nhân JB Nguyễn Hữu Cầu, người tù thế kỷ, đã từng trải nghiệm. “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” ( Ga 14, 27 ).
Bình an viên mãn của Chúa không phải tạm bợ và phù du như của thế gian. Đức Chúa Thánh Thần luôn ban bình an kịp thời cho những ai sống trong hồng ân với Lời Chúa và Thánh Thể.
Bình an là tặng phẩm vô giá trước khi Đức Giêsu dấn thân vào cuộc tử nạn, để trở về với Chúa Cha. Bình an còn là quà biếu hạnh ngộ sau khi Đức Giêsu phục sinh khải hoàn, vào thời điểm các Tông Đồ còn đang run rẩy, sợ hãi, cửa đóng then gài, “Bình an cho anh em” ( Ga 20, 19.21.26 ).
Trong lời giã từ trước khi hiến thân chịu nạn, Đức Giêsu không quên an ủi, vỗ về các môn đệ và tín hữu Kitô trước viễn tượng khá đen tối, khi dám can đảm “bỏ mình, vác thập giá” dấn bước theo chân Người: “Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên ! Thầy đã thắng thế gian” ( Ga 16, 33 ).
“Thánh Thể làm cho ta hiệp nhất trong Nhiệm Thể. Dâng lễ, dự lễ mà không yêu thương là mâu thuẫn, quái gở” ( Đường Hy Vọng, số 362 ).
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, đã biết bao lần chúng con đón rước Ngài, nhưng lòng chúng con nguội lạnh, dửng dưng, tệ bạc, bất xứng, vì còn ngổn ngang tham sân si thế gian, nên lòng chúng con cứ mãi bất an, bấn loạn. Xin Chúa Giêsu Thánh Thể ban Đức Chúa Thánh Thần đến sưởi ấm, đốt bừng cháy lên niềm tin cậy mến, đổi mới, hiệp nhất, thánh hóa và ban bình an cho chúng con.
Lạy Mẹ Maria, ngày xưa Mẹ cưu mang Đức Giêsu trong cung lòng với bao hồng ân Chúa Thánh Thần. Xin Mẹ dạy chúng con biết kính cẩn đón rước Thánh Thể Chúa cách xứng đáng và cũng được nhận lãnh các hoa trái của Thần Khí. Amen.
Lương thực là một phần thiết yếu để duy trì sự sống. Tuy nhiên, ngày nay người ta phải cảnh giác cao độ vì các loại thực phẩm nhiễm độc vì các hóa chất, đặc biệt là thực phẩm của Trung cộng. Do đó, người ta càng văn minh càng quan ngại về thực phẩm, nghĩa là càng cần sự an toàn về thực phẩm.
Lương thực và thực phẩm rất cần, người ta cũng chỉ vì “miếng ăn” mà không ngừng gây chiến tranh. Để hỗ trợ dân nghèo vì nhân đạo, Liên Hiệp Quốc đã thành lập FAO ( Food and Agriculture Organization – Tổ chức Lương Nông ) vào ngày 16.10.1945 tại Canada. Tổ chức này nhằm mục đích chính: ( 1 ) Nâng cao mức sống và mức dinh dưỡng của nhân dân các nước thành viên; ( 2 ) Nâng cao hiệu quả sản xuất lương thực và nông sản; ( 3 ) Góp phần vào việc phát triển kinh tế thế giới và giải phóng nhân dân khỏi nạn đói. Trên logo của FAO có chữ La ngữ “Fiat Panis” – “Để Có Lương Thực” ( Let there be bread ).
Chính Chúa Giêsu đã vì chạnh lòng thương, sợ người ta đói nên Ngài đã hai lần làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho đám người mê Ngài nói mà quên cả bụng đói. Các tác giả các sách Tin Mừng đã ghi lại phép lạ lần một ( Mt 14, 13 – 21; Mc 6, 30 – 44; Lc 9, 10 – 17; Ga 6, 1 – 14 ), với 5 cái bánh và 2 con cá, Ngài đã cho mọi người no nê, số thực khách lên tới 5.000 người, chưa kể phụ nữ và trẻ em, phần dư còn thu được 12 thúng đầy; và lần hai ( Mt 15, 32 – 39; Mc 8, 1 – 10 ), chỉ với 7 cái bánh và vài con cá, Ngài cũng đã cho mọi người no nê, phần dư còn thu được 7 thúng đầy. Đó là ngụ ý đề cập Bí Tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu đã thiết lập trong buổi Dạ Tiệc Vượt Qua, trước khi Ngài chịu tử hình vì tội lỗi của chúng ta. Máu và Thịt không thể tách rời. Chính Máu và Thịt là dấu chứng tỏ của Sự Sống.
Ăn uống là một trong những niềm vui thích thú của con người. Miếng ăn cũng có thể làm cho người ta vinh hoặc nhục. Có lẽ vì vậy, nhất là với người có lòng tự trọng, tục ngữ Việt Nam so sánh: “Tiếng chào cao hơn mâm cỗ”. Ăn cũng có nghệ thuật ăn, không phải cứ cho vô miệng là xong. Không chỉ vậy, ăn không chỉ để no bụng mà còn cần ngon miệng: Đồ ăn ngon, chỗ ăn ngon, và người ăn ( với mình ) cũng ngon. Thế mới đủ “độ” ngon !
Chuyện ăn uống phức tạp ! Ngày xưa, khi dân đi qua sa mạc ròng rã 40 năm để tới Miền Đất Hứa, lương thực duy nhất là manna, một món cứ ăn mãi rồi ai cũng ngán. Chán lắm ! Vì nhớ lại đồ ăn ngon ngày xưa thường ăn, đám dân ô hợp sống giữa dân Ítraen bắt đầu thèm ăn, và cả con cái Ítraen cũng khóc lóc mà nói: “Ai sẽ cho chúng ta có thịt ăn đây ? Nhớ thuở nào ta ăn cá bên Ai Cập mà không phải trả tiền, rồi nào dưa gang, dưa bở, nào hẹ, nào hành, nào tỏi. Còn bây giờ đời ta tàn rồi; mọi thứ đó hết sạch, chỉ còn thấy manna thôi” ( Ds 11, 4 – 6 ). Môsê cũng “nhức đầu” lắm, vì họ đòi thịt thì lấy đâu giữa sa mạc khô cằn và hoang vu như vậy chứ ?
Kinh Thánh cho biết rằng manna là loại “bánh từ trời”, nhìn như hạt ngò và trông như nhựa hương. Lạ lắm. Dân cứ việc chia nhau đi lượm, cho vào cối xay hoặc cối giã mà nghiền tán ra, rồi bỏ vào nồi nấu bánh, và mùi vị của nó như mùi vị bánh chiên dầu. Đêm về, sương rơi trên doanh trại, và manna cũng rơi xuống ( Ds 11, 7 – 9 ). Cái món manna lạ nhưng ăn hết ngày này sang tháng nọ thì chịu hết nổi rồi ! Môsê “cầu cứu” Chúa. Và rồi Ngài cho gió lùa chim cút tới, lớp chim cút dày tới cả mét, dân cứ việc lượm mà ăn cho đã cơn thèm. Nhưng ai cũng tham nên lượm nhiều để dành, thế nên Chúa nổi trận lôi đình ( Ds 11, 31 – 33 ). Đúng là “tham thì thâm”. Đúng là “thần khẩu hại xác phàm”, cái miệng hại cái thân rõ ràng. Có ăn mà không khéo cũng khổ !
Thiên Chúa thịnh nộ vì chúng ta sai trái, cứng đầu cứng cổ, ngang bướng. Được ăn chưa biết cảm ơn lại dám nổi loạn. Loài người vô ơn bạc nghĩa hết sức ! Thế nhưng Ngài vẫn luôn nhân từ, vẫn tha thiết mời gọi tất cả chúng ta: “Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây ! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào” ( Is 55, 1 ). Và đó là “lời mời gọi cuối cùng”.
Kinh Thánh nhắc nhở: “Anh ( em ) phải nhớ lại tất cả con đường mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh ( em ), đã dẫn anh ( em ) đi suốt bốn mươi năm nay trong sa mạc, để bắt anh ( em ) phải cùng cực; như vậy Người thử thách anh ( em ) cho biết lòng dạ anh ( em ), xem anh ( em ) có giữ các mệnh lệnh của Người hay không. Người đã bắt anh ( em ) phải cùng cực, phải đói, rồi đã cho anh ( em ) ăn manna là của ăn anh ( em ) chưa từng biết và cha ông anh ( em ) cũng chưa từng biết, ngõ hầu làm cho anh ( em ) nhận biết rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra” ( Ðnl 8, 2 – 3 ). Chính Đức Kitô cũng đã nhắc nhở y như vậy ( Mt 4, 4; Lc 4, 4 ). Xác cần ăn thì hồn cũng cần ăn, có vậy mới sống và phát triển được.
Kinh Thánh tiếp tục giải thích và động viên: “Thiên Chúa của anh ( em ), Đấng đã đưa anh ( em ) ra khỏi đất Ai Cập, khỏi cảnh nô lệ. Người đã dẫn anh ( em ) đi trong sa mạc mênh mông khủng khiếp, đầy rắn lửa và bọ cạp, trong miền đất khô cằn không giọt nước. Người đã khiến nước từ tảng đá hoa cương chảy ra cho anh ( em ) uống. Trong sa mạc, Người đã cho anh ( em ) ăn manna, thức ăn mà cha ông anh ( em ) chưa từng biết, để bắt anh ( em ) phải cùng cực và thử thách anh ( em ), hầu làm cho anh ( em ) được hạnh phúc trong tương lai” ( Ðnl 8, 14 – 16 ).
Thế nhưng trái tim phàm nhân bằng đá hoặc đã xơ cứng, nghe xong rồi quên, hứa xong rồi thôi, cứ tưởng mình là “cái rốn của vũ trụ”, tự nhận mình là “số một", cho nên lúc nào cũng chỉ chực nổi loạn. Logic thôi. Đó là chúng ta có “gen kiêu ngạo” của Ông Bà Nguyên Tổ !
Chúng ta dễ quên ơn lắm, dù là đại ân. Ngược lại, chúng ta lại luôn nghĩ mình “ngon”, là ân nhân, dù chúng ta chỉ cho người khác những thứ thừa thãi – còn tệ hơn bố thí ( thay vì vứt bỏ ) ! Do đó, tác giả Thánh Vịnh nhắc khéo chúng ta bằng cách mời gọi:
“Giêrusalem hỡi, nào tôn vinh Chúa ! Này Sion, hãy ca ngợi Thiên Chúa của ngươi ! Then cửa nhà ngươi, Chúa làm cho thêm chắc, con cái trong thành, Người giáng phúc thi ân. Cõi biên cương, Người thiết lập hoà bình, và cho ngươi no đầy lúa mì tinh hảo” ( Tv 147, 12 – 14 ).
Ítraen là Dân Riêng của Chúa. Ítraen là hiện thân của chúng ta, vì chúng ta cũng là Dân Thánh của Ngài. Chúng ta cũng được “đặc cách” mà vẫn vô ơn. Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh cho biết: “Chúa bày tỏ lời Người cho nhà Giacóp, chiếu chỉ luật điều cho Ítraen. Chúa không đối xử với dân nào như vậy, không cho họ biết những điều luật của Người” ( Tv 147, 19 – 20 ).
Thiên Chúa ban tặng chúng ta mọi thứ, đặc biệt là Con Một Ngài. Đó là hệ quả của “khối tình si” của Thiên Chúa: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” ( Ga 3, 16 ). Vâng, Ngài yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân ( Rm 5, 8 ).
Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư ? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao ? Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” ( 1 Cr 10, 16 – 17 ). Và đó cũng là lời nhắc nhở chúng ta yêu thương nhau, bằng mọi động thái, bằng cả con người của chúng ta. Chữ MỘT rất quan trọng !
Trong thời gian Chúa Giêsu đi rao giảng, có lần Ngài nói với người Do Thái: “Tôi là bánh hằng sống từ Trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” ( Ga 6, 51 ). Có vẻ họ “chói tai” nên họ liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ đặt vấn đề: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được ?” ( Ga 6, 52 ).
Tất nhiên làm sao họ hiểu được. Nếu có chúng ta trực tiếp nghe Chúa Giêsu nói lúc đó, chắc chắn chúng ta cũng phản đối tới cùng chứ chẳng vừa đâu. Tất nhiên Chúa Giêsu biết quá rõ, và Ngài nghiêm túc nói với họ, có vẻ “dài dòng” nhưng cần thiết, đồng thời vừa xác định vừa giải thích: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào thì kẻ ăn tôi cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” ( Ga 6, 53 – 58 ). Quả thật, Chúa Giêsu không chỉ làm cho chúng ta sống, vì chính Ngài là Sự Sống ( Ga 14, 6 ), mà Ngài còn cho chúng ta được sống dồi dào ( Ga 10, 10 ).
Và rồi điều đó đã được Đức Giêsu thực hiện ngay trong Bữa Tiệc Ly, và đó cũng là cách Ngài thực hiện lời hứa trước đó: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” ( Mt 28, 20 ). Một cách tương tự là Ngài cũng đã hứa: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” ( Ga 14, 16 ). Và Chúa Thánh Thần đang ở với chúng ta hằng ngày cùng với Thánh Thể.
Cũng là “bánh từ trời”, nhưng manna chỉ là lương thực bình thường, ăn để sống phần xác rồi... chết, còn Mình Máu Đức Kitô là lương thực thiêng liêng, vừa là Thần Lương vừa là Thần Dược, ăn để sống và điều trị phần hồn ( kể cả phần xác ), đặc biệt là Thánh Thể làm cho chúng ta bất tử và được hưởng vĩnh phúc. Thánh Thể chính là Thần Lương cho chúng ta đủ sức kiên nhẫn đi hết chặng đường lữ hành trần gian, là Của Ăn Đàng, là Nguồn Trường Sinh của chúng ta.
Đối với Bí Tích Thánh Thể, chúng ta phải có Đức Tin trưởng thành, không thể dựa trên thính thị hoặc cảm giác. Chỉ có Đức Tin mới thực sự cảm nghiệm được Mình Máu Thánh Đức Giêsu Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa.
Hằng ngày, mỗi khi rước lễ là chúng ta đón rước Thiên Vương Giêsu vào lòng, lúc đó Vua Trời Đất đang hòa tan vào chúng ta, nên một với chúng ta, đại phúc đối với phàm nhân chúng ta. Ước gì sau khi rước lễ, chúng ta có được vài phút để cùng nhau cảm nghiệm Chúa Giêsu Thánh Thể, Vua Thương Xót. Ngài muốn lắng ngeh chúng ta về mọi điều buồn vui, đặc biệt là Ngài muốn chúng ta tôn thờ và cảm tạ Ngài. Vài phút ngắn ngủi đó rất cần thiết cho đời sống của mỗi chúng ta.
Bí Tích Thánh Thể “gắn liền” với Đức Tin. Mà Đức Tin ( nói chung ) là điều rất quan trọng trong đời sống Kitô hữu, nhưng cũng phải thận trọng lắm, vì có thể dễ trở thành cuồng tín hoặc tin lệch lạc. Vấn đề tín lý quan trọng lắm. Tương tự, khi nói về Kinh Thánh cũng phải thận trọng, nếu không rất nguy hiểm. Chẳng hạn, mới đây có người nói trong một bài viết nói về “con tim” mà sai tín lý.
Xin trích nguyên văn: “Lạy Chúa Giêsu mến yêu, như trái tim của Ápraham đau khổ khi vâng lời Chúa, sát tế con mình, như trái tim Môsê vâng lệnh Chúa đưa dân Israel vào sa mạc suốt 40 năm mà vẫn không vào được Đất Hứa, hoặc như trái tim vua Đavit đã hối hận ăn năn vì biết bao tội lỗi mình đã phạm, và trái tim đau khổ vô ngần khi Mẹ Maria vâng theo Thánh ý Chúa Cha để công cuộc cứu độ loài người được hoàn tất”. Nguy hiểm hết sức nếu tác giả “trực tiếp chia sẻ” với người khác như vậy, nếu người nghe là tân tòng thì càng nguy hiểm hơn ! May thay bài viết này đã kịp được sửa lại.
Ngày xưa, các tà thuyết hoặc dị giáo ( * ) cũng chỉ vì có niềm tin lệch lạc và suy diễn lệch lạc, đối nghịch với Đức Tin Công Giáo. Có lẽ họ muốn lập một đạo mới chăng ?
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin thêm Đức Tin cho chúng con, xin đốt Lửa Yêu Mến trong lòng chúng con và biến trái tim chúng con thành trái tim si tình để chúng con chỉ yêu Ngài mà thôi, yêu bằng cả con người của chúng con, yêu qua từng động thái, và xin luôn canh giữ chúng con như con ngơi mắt Ngài để chúng con xứng đáng đón rước Ngài vào lòng hằng ngày. Ngài là Đấng hằng sinh và hiển trị cùng với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
TRẦM THIÊN THU
( * ) Ví dụ các tà thuyết: Albigensianism ( thế kỷ 12 – 13 ), Arianism ( thế kỷ 4 ), Donatism ( năm 311 ), Jansenism ( thế kỷ 17 ), Macedonianism ( khoảng năm 362 ), Manichaeism ( khoảng 216 – 276 ), Nestorianism ( giữa thế kỷ 4 và 5 ), Pelagianism ( thế kỷ 5 ), Priscillianism ( thế kỷ 4 – 5 ), Calvinism ( 1570 ), ...
Dân Do Thái được giải thoát khỏi ách nô lệ của người Ai Cập và được đào luyện để trở thành dân riêng của Chúa. Một thứ giao kèo đã được thực hiện giữa Thiên Chúa và dân của Ngài. Thiên Chúa ban cho họ một lề luật quy định thái độ và cách sống của họ đối với Chúa, và của mọi người đối với nhau. Người Do Thái đã đồng thanh thề hứa xin thi hành mọi lời Chúa đã phán. Maisen lập bàn thờ và toàn dân cử hành nghi lễ ký kết giao ước với Thiên Chúa. Người ta giết bê để làm lễ tế. Máu bê một nửa được rưới trên bàn thờ, một nửa được rảy trên dân.
Ở đây lễ ký kết giao ước đã được thực hiện bằng máu bê. Và trong lịch sử của dân Chúa, giao ước này đã không được tuân giữ từ phía dân Ngài. Nhưng Thiên Chúa là Đấng luôn trung tín trong lòng yêu thương của Ngài. Và Ngài đã thực hiện một giao ước mới.
Nhưng lần này, giao ước được thiết lập không phải trong một nghi lễ, mà là bằng một cuộc sống. Lễ vật giao hoà không phải là chiên bò hay máu của chúng, mà là chính Con Thiên Chúa làm người, đã sống giữa con người, để mạc khải tình thương của Chúa đối với con người và cuối cùng đã đổ đến giọt máu cuối cùng không phải trên bàn thờ mà trên thập giá.
Tin Mừng của thánh lễ hôm nay cho chúng ta thấy: Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài đang chuẩn bị mừng lễ Vượt Qua, lễ kỷ niệm dân Chúa được giải thoát khỏi ách nô lệ người Ai Cập. Nhưng chúng ta lại cũng có thể thấy được rằng cảnh tượng diễn ra không còn ở trong một nghi lễ mà là ở trong chính cuộc sống. Hay nói cách khác trong chính việc cử hành lễ Vượt Qua này, cái ý nghĩa thâm sâu nhất, cái nội dung đích thực của mọi nghi lễ được cử hành đang trở thành hiện thực.
Chúa Giêsu và các môn đệ đang sống biến cố Vượt Qua, đang sống cuộc giao ước giữa Thiên Chúa và con người. Cử chỉ của Chúa Giêsu, hãy cầm lấy bánh, hãy cầm lấy rượu, mang ý nghĩa là Mình Máu Ngài, nói lên cái chết của Ngài, một cái chết cho nhiều người mà đại diện là 12 môn đệ, đồng bàn với Ngài, nhưng cũng là những người sẽ chối Chúa, sẽ bỏ Chúa để thoát thân, những con người tội lỗi, yếu đuối như bao con người tội lỗi và yếu đuối khác. Nhưng với bữa tiệc ly trở thành tiệc Thánh Thể này, khi trao cho các môn đệ Mình Máu Ngài, Chúa Giêsu tự báo cho các môn đệ ơn tha thứ, ơn cứu thoát. Khi lãnh nhận Mình Máu Chúa, các môn đệ lãnh nhận cho mình cuộc hy sinh của Chúa Giêsu và ơn cứu rỗi được dành cho con người.
Chính vì vậy mà sau khi Chúa Giêsu phục sinh, nghĩa là sau khi các môn đệ đã có những cử chỉ bất trung, các ông vẫn có thể đồng bàn với Người. Sự đồng bàn ở đây có ý nghĩa của một sự giao hoà. Giáo Hội trong suốt dòng lịch sử, đã không ngừng lặp lại cử chỉ này như Chúa Giêsu đã truyền dạy để tưởng nhớ đến Ngài. Nhưng không phải chỉ là một sự tưởng nhớ trong tưởng tượng, trong tình cảm, mà là trong chính cuộc sống bằng cách sống trọn vẹn ý nghĩa, nội dụng của nghi lễ mình làm.
Việc cộng đoàn Kitô hữu họp lại với nhau trong nhà thờ để cử hành thánh lễ phải là điểm khởi đầu và kết thúc của một giai đoạn dấn thân. Nghĩa là thánh lễ được cử hành trong nhà thờ cần phải được nối tiếp trong cuộc sống và cuộc sống cũng cần phải được cử hành trong thánh lễ tại nhà thờ chứ không được tách thánh lễ ra khỏi cuộc sống. Bởi đó chúng ta thực sự kéo dài thánh lễ trong cuộc sống bằng cách thực thi bái ái yêu thương hay chưa. Đồng thời chúng ta có biết gom góp những hy sinh của cuộc sống để dâng tiến trong thánh lễ hay chưa.
Năm 700, tại làng Lanciano, nước Ý, một Linh Mục hồ nghi khi dâng lễ. Khi ngài nhìn xuống bàn THÁNHTHỂ-263
Năm 700, tại làng Lanciano, nước Ý, một Linh Mục hồ nghi khi dâng lễ. Khi ngài nhìn xuống bàn thờ thì bánh đã trở thành Thịt, rượu đã trở thành Máu thật.
Ðây là phép lạ cổ kính nhất, đã được Tòa Thánh cho xét nghiệm 5 lần, và ngày nay, Thánh Tích vẫn còn trưng bày, rất đông khách hành hương khắp nơi kính viếng.
Khoa học đã xác nhận đây chính là thịt máu thật của người. Có nhóm máu AB, trong máu có protein là chất thường có để giữ máu tươi. Có đủ các chất như thịt máu chúng ta và các chất khoáng như chlorides, phosphorus, magnesium, potassium, sodium và calcium. Trọng lượng của máu là 16,505 gram.
Suốt 5 thế kỷ sau, các cha Dòng Thánh Basiliô trông coi gìn giữ Mình Máu Chúa nầy cẩn thận.
Năm 1176, Đức Thánh Cha Alexandriô trao cho các Linh Mục Dòng Bênnêđitô. Từ năm 1252, Đức Thánh Cha Innocentê lại trao cho các cha Dòng Thánh Phanxicô.
Năm 1258, một đền thờ rộng lớn xây bao trùm Nhà Thờ nhỏ thánh Legonziano. Thánh tích được đặt ở đây.
Từ năm 1566, đã qua nhiều lần phải cất giấu quân giặc Thổ, xây nhà nguyện, lập bàn thờ… sau 150 năm.
Năm 1809, theo lệnh vua Napoléon I, bãi bỏ các Dòng Tu, Dòng Phanxicô phải rời đi và mãi tới năm 1953, mới trở lại sinh hoạt bình thường và tiếp tục trông coi Nhà Thờ như trước.
Phép lạ này được ghi chép trên tài liệu viết trên giấy da rất cổ. Nhưng vào đầu thế kỷ 15, đã bị lấy cắp. Hiện nay chỉ còn tài liệu năm 1631, ghi trên giấy da bằng tiếng Hy Lạp và Latinh về tất cả chi tiết phép lạ ở Lanciano.
Trước hết, Thánh tích được đặt trong một hòm bằng ngà voi và được đặt tại nguyện đường cạnh Nhà Thờ chính. Năm 1902, được lưu giữ đàng sau bàn thờ ở giữa cung nguyện. Bánh Thánh trở thành Thịt, như ngày nay người ta quan sát, được kính giữ trong hào quang bằng bạc, có kích thước như Mình Thánh lớn vẫn được các Linh Mục dùng trong Thánh Lễ. ( Ảnh do Jos. NHC chụp ngày 4.6.2012 ).
Thịt có màu hơi nâu và trở thành hồng nếu quan sát dưới ánh sáng trong. Rượu hóa thành Máu được kính giữ trong chén thánh bằng thủy tinh, họp thành 5 giọt to nhỏ khác nhau.
Từ năm 1923, Thịt Thánh được trưng bày trong một hào quang, và những hột máu khô được đựng trong một chén lễ thủy tinh ở dưới chân hào quang. Trước nay, qua thời gian, các Thánh Tích được các tín hữu và khách hành hương rất mực tôn kính. Vào những dịp đặc biệt, Thánh Tích được rước qua các đường phố trong thị trấn. Phép lạ Mình Máu Chúa ở Lanciano là một phép lạ lâu dài, liên tiếp.
Ðể đánh tan dư luận và hồ nghi lâu đời trong dân chúng, sau Công Đồng Trente ( 1545-1563 ), Tòa Thánh đã 5 lần cho khảo nghiệm Thánh Tích ở Lanciano, và kết quả như sau:
- Năm 1574, chứng từ còn ghi lại để trong nhà nguyện bên tay phải gian chính Nhà Thờ. Sau mấy trăm năm, Thánh Tích được đựng trong hòm sắt: Thịt vẫn còn nguyên vẹn. Máu phân thành 5 phần không đều nhau. Khi thì 5 phần hiệp thành một cục, khi thì tách rời ra.
- Năm 1637, Ðức Tổng Giám Mục Rodriguez cho cân lại máu đã đông từ lâu, trước mặt giới hữu trách và đông người và thấy trọng lượng 5 cục máu cộng lại cũng bằng trọng lượng của từng cục. Trọng lượng cả 5 cục là 16,505 grammes.
- Năm 1770 và năm 1886, có các cuộc tranh luận về sự biến thể từ bánh ruợu hóa ra Thánh Thể chất ( Transsubstantiation ) qua trọng lượng như cân đo ở trên. Chúa muốn chứng tỏ dấu hiệu mới sự hiện diện của Ngài trong Mầu Nhiệm Thánh Thể. Tức là trong mỗi giọt rượu và mẩu bánh được thánh hiến có sự hiện diện thực sự của toàn thể Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu.
- Từ năm 1713, Thịt được lưu giữ trong một Mặt Nhật bằng bạc chạm trổ nghệ thuật, do một nhà nghệ thuật thành Napoli chạm trổ. Máu được đựng trong chén kiểu nghệ thuật xưa bằng đá phalê trong suốt.
Bánh Thánh Thịt ấy đã được giữ rất cẩn thận tới ngày nay, cũng có kích thước lớn như bánh được Hội Thánh quen dùng. Bánh có mầu nâu nhạt, và trở thành mầu hồng khi chiếu ánh sáng từ phía sau dọi lại. Máu thì đông lại và ngả mầu đất, vàng vàng như mầu đất thó.
- Năm 1971, sau Công Đồng Vatican 2, các Tu Sĩ Dòng Phanxicô quyết định trao cho một nhóm bác học danh tiếng Viện Đại Học Siena khảo sát lại theo khoa học.
Cuộc khảo sát đã đưa đến những quả quyết khoa học tuyệt đối không thể chối cãi và trở thành tài liệu với những bức hình chụp bằng ống kính hiển vi tinh xảo, có thể giúp ích cho việc tôn thờ công cộng. Giáo sư Odoardo Lioni, trong một cuộc họp vào ngày 4.3.1971 tại Nhà Thờ có phép lạ, đã đưa ra những kết luận sau. Công trình nghiên cứu này, được nhiều tạp chí khoa học trên thế giới đăng tải:
1. Thịt và Máu là thịt máu thật.
2. Thịt và Máu của cùng một người, đang sống, cùng một loại AB. Trong máu có protein là chất thường có để giữ máu tươi.
3. Thịt máu có đủ các thành phần như thịt máu chúng ta: cũng có những khoáng chất: chlorides, phosphorus, magnesium, potassium, sodium và calcium.
Sau khi nghiên cứu, giáo sư Linoli tuyên bố: Tôi không thể ngờ được trong những điều tôi phân tích đó có những chất hữu cơ cách đây 12 thế kỷ. Khoa học phải đầu hàng đứng trước sự kiện lạ lùng không thể giải thích nổi. Ông đã viết kèm theo hồ sơ phân tích, cho Dòng Phanxicô một câu ngắn: "In principio erat Verbum et Verbum Caro factum est". ( Từ đầu đã có Ngôi Lời và Ngôi Lời đã trở nên Thịt ) ( LC. Số 214, 7-2000, tr. 8-11 ).
Những lời quả quyết trên đây được Giáo Quyền xác nhận trong một cuốn sách nhỏ có chuẩn ấn của Đức Cha Leopoldo Teofili, Tổng Giám Mục Lanciano.
Việc các di tích thánh này được lưu trữ một cách tự nhiên trong 12 thế kỷ qua, không bằng chất hóa học, giữ trong không khí thường, mà Thịt Máu vẫn tồn tại cách khác thường, là một hiện tượng không sao giải thích theo khoa học được.
Chúa Giêsu dùng một ngôn ngữ vừa hình tượng vừa thân quen để diễn tả vai trò hết sức quan trọng của Ngài đối với sự sống của chúng ta, đó là bánh. "Ta là Bánh".
Nếu Chúa Giêsu ở Việt Nam, thì Ngài sẽ nói: "Ta là cơm", vì ở đất nước chúng ta cơm là thực phẩm hàng ngày của mọi người.
Thân phận của bánh, của cơm là phải chịu nghiền, chịu nhai, chịu tiêu tan và phân hủy đi để đem lại sự sống cho người khác.
Để trở thành cơm thành bánh nuôi sống con người, thóc lúa bị phơi ra nắng, kế đó phải bị xay, bị nghiền, bị sàng sảy, chịu trầy vi tróc vảy, rồi mới thành hạt gạo trong ngần. Hạt gạo nầy lại phải chịu ngâm, chịu vò trong nước, chịu bỏ vào nồi nấu sôi rồi mới thành cơm. Khi đã thành cơm lại còn bị hàm răng của con người nhai nghiến, chịu co bóp và phân huỷ trong hệ tiêu hoá rồi mới thành chất dinh dưỡng đem lại sức sống cho con người.
Nhưng để được lớn lên thành người, ngoài các loại cơm bánh thông thường, chúng ta còn cần những tấm bánh khác. Xét theo nghĩa rộng, cha mẹ cũng là cơm bánh cho con, vì nhờ cha mẹ chịu nghiền tán, chịu tiêu hao đi, con cái mới có thể lớn lên thành người.
Cha mẹ cũng là cơm bánh
Nhà thơ Kiên Giang có những diễn tả rất thiết tha về tình thương dạt dào của người mẹ, người mẹ hiến mình làm cơm, làm bánh cho con lớn lên:
"Ngày xửa ngày xưa thời trẻ dại Con đau rên siết mẹ sầu lo Bán đôi bông cưới mua thang thuốc Mua bánh tai heo giấy học trò. Đêm nao con khóc đòi ru ngủ Mẹ thức mỏi mòn: nhịp võng đưa Thân lạnh nằm khoanh lòng mẹ ấm Mẹ ơi! con lớn giữa niềm ru. Nhớ ngày mẹ ốm nằm trong xó Chiếu lạnh ủ không ấm vóc gầy Đau đớn không hề rên siết khẽ Sợ con nghe tiếng mà buồn lây"...
Mẹ là cơm bánh cho con khi mẹ thức thâu đêm để cho con say nồng giấc ngủ. Mẹ là cơm bánh cho con khi mẹ đem bao nhiêu dinh dưỡng trong châu thân hoá thành dòng sữa nuôi con.
Mẹ là cơm bánh cho con khi mẹ phải hao mòn đi cho con được lớn lên từng ngày; mẹ phải gầy guộc đi để cho con lớn mạnh; lưng mẹ ngày càng còng xuống cho con được đứng thẳng hiên ngang.
Mẹ đúng là tấm bánh rất cần thiết cho con. Mẹ chịu nghiền tán, chịu tiêu hao đi để con thành người khôn lớn.
Chúa là Tấm Bánh cho loài người
Chúa Giêsu phán: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh nầy sẽ được sống đời đời". Suốt cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu hoá mình nên như cơm bánh, chịu nghiền tán, chịu tiêu hao đi cho nhân loại được sống còn.
Chúa Giêsu hoá mình nên cơm bánh cho nhân loại khi Ngài gieo mình xuống thế, sống kiếp người lam lũ thấp hèn để đồng hành và khai hoá chúng ta.
Chúa Giêsu là tấm bánh bẻ ra cho nhân loại khi Ngài chịu đau thương mất mát, chịu tiêu hao, chịu nghiền tán... cho chúng ta được hạnh phúc và vinh quang:
Ngài hạ mình xuống làm người phàm để cho chúng ta được tôn lên làm con Thiên Chúa;
Ngài cam chịu vô vàn sỉ nhục cho chúng ta được vinh quang; Ngài phải mang đầy thương tích cho chúng ta được chữa lành; Ngài phải chết đi trong đau thương cho chúng ta được sống lại trong vinh hiển; Ngài xuống tận âm phủ cho chúng ta được lên cõi trời cao;
Và nhất là qua bí tích Thánh Thể, Ngài hiến ban thân mình như tấm bánh cho mỗi người chúng ta được ăn Ngài thực sự, để cho chúng ta được trở nên đồng huyết nhục với Ngài, để Ngài ở trong chúng ta và chúng ta ở trong Ngài, để Thiên Chúa và con người không còn là hai mà chỉ là một xương một thịt: Một sự kết hợp nhiềm mầu và đầy yêu thương...
Hôm nay, Chúa Giêsu tha thiết mời gọi chúng ta hãy ăn Ngài.
Ăn Chúa Giêsu là vâng nghe lời Ngài phán dạy, là học với Ngài, noi gương bắt chước Ngài, là uốn nắn đời sống chúng ta nên giống Ngài... để lớn lên thành người có phẩm chất cao đẹp, có đạo đức, có văn hoá.
Và một khi đã được nuôi dưỡng hằng ngày bằng bánh Giêsu -"các con hãy nhận lấy mà ăn"- thì chúng ta cũng được mời gọi trở thành bánh cho người thân trong gia đình cũng như cho các anh chị em đang sống quanh ta - "các con hãy làm việc nầy (việc Thầy đang làm) để tưởng nhớ đến Thầy".
Hôm nay lễ suy tôn Thánh Thể. Nói đến Thánh thể người ta thường hay nói đến một bữa ăn, một bữa ăn Agape, bữa ăn huynh đệ. Nhưng thực ra, "Bản chất của Bí tích Thánh Thể không chỉ là bữa ăn chung, mà còn và trước tiên là hiện tại hóa hy lễ thập giá. Thiếu giá trị hy tế, Mầu Nhiệm Thánh Thể không có ý nghĩa và chỉ có giá trị như là một buổi gặp gỡ giao hảo và huynh đệ" (Bí tích cứu độ).
Vì thế hôm nay, chúng ta cùng nhau khơi gợi lại ý nghĩa và những giá trị thiêng liêng của thánh lễ.
Một họa sĩ người Ý, đã diễn tả giá trị thánh lễ qua bức tranh như sau: Khi linh mục dâng lễ, trên đầu ngài có 4 thiên thần bay lượn, miệng ngậm loa, sẵn sàng báo tin ngày chung thẩm của thế giới. Nhưng xem ra các Ngài còn chờ đợi cho tới khi linh mục cuối cùng này cử hành xong thánh lễ giao hòa dâng lên Thiên Chúa, mới gióng lên tiếng loa định mệnh này.
Thực vậy, Mẹ Têrêsa thành Calcutta thường hay nói với các chị em trong dòng rằng: "Không có thánh lễ Misa, chúng ta sẽ ra sao, mọi sự dưới gầm trời này hẳn sẽ bị tiêu hủy, chỉ có thánh lễ mới ngăn được tay Thiên Chúa. Không có thánh lễ, chắc chắn giáo hội sẽ không còn tồn tại và thế giới ắt sẽ bị diệt vong".
Vì cử hành thánh lễ là hiện tái hóa hy tế thập giá năm xưa của Chúa Kytô trên thập giá. Máu Thánh Chúa được tiếp tục đổ ra cho nhiều người được tha tội, được ơn cứư độ. Hy tế thập giá của Chúa Kytô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn tiếp tục tái diễn để giao hòa thế gian với Thiên Chúa.
Nhìn vào thế giới hôm nay, người ta thấy tội lỗi mỗi ngày một gia tăng, sự dữ ngày càng ngập tràn. Tại sao Thiên Chúa không trút cơn thịnh nộ xuống trên địa cầu? Thưa, bởi vì hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, Con Chiên Thiên Chúa tế lễ trên bàn thờ, xoa dịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa Cha, "và tước khí giới nơi bàn tay sẵn sàng sửa phạt của Ngài". Chúng ta không thể đếm được các tia lửa từ các ông khói tàu thủy tung tóe ra. Thế mà, các tia lửa đó không gây hỏa hoạn. Vì chúng rơi xuống biển và dập tắt ngay. Cũng không thể đếm được các tội ác hằng ngày từ trái đất xông lên và đòi sự công thẳng của Thiên Chúa. Nhưng nhờ sự giải hòa của Thánh lễ, chúng ta được đẩy vào đại dương của lòng từ bi Thiên Chúa và hình phạt đã không trút xuống địa cầu.
Thánh Laurensô Giustinianô nói: "lưỡi loài người không thể kể hết những ơn phúc từ thánh lễ: nào là tội nhân được giao hòa với Thiên Chúa, người công chính nên công chính hơn, tội lỗi được xóa sạch, nết xấu được giảm thiểu, nhân đức và công nghiệp gia tăng, kế hoạch của ma quỷ bị bẻ gãy".
Cha sở họ Ars: "Mọi việc lành họp lại cũng không thể so sánh với thánh lễ Misa, vì mọi việc lành là của loài người, còn thánh lễ là của Thiên Chúa".
Thế nhưng, hôm nay nhiều người vẫn xem nhẹ thánh lễ. Họ đi lễ nhưng thiếu tấm lòng đón nhận ơn cứu độ, ơn tha thứ của Chúa. Đi lễ cho qua lần chiếu lượt. Đi lễ vì luật buộc. Vì người khác đi mình cũng được. Có mấy ai ý thức giá trị của hiến tế thập giá. Có mấy ai hiểu được hy tế thập giá cần phải được cử hành mỗi ngày để xin ơn tha tội và để Con Thiên Chúa lại tiếp tục đổ máu mình ra để giao hòa với Chúa Cha.
Bên cạnh đó, khi tham dự thánh lễ là chúng ta thông hiệp vào Mình và Máu Thánh Chúa Kytô. Chúng ta được kết hợp nên một trong Chúa Kytô. Chúa Kytô là Đầu Hội Thánh đã dâng chính mình làm tế lễ, còn chúng ta là những chi thể trong nhiệm thể của Người, chúng ta cùng ăn một bánh, cùng uống một chén thánh là chính Mình Máu Thánh Chúa Kytô, chúng ta có cùng chịu hiến tế chính mình như Đức Kytô là Đầu của Hội thánh hay không? Liệu rằng, chúng ta có thể đứng nhìn Chúa chịu sát tế, còn mình không chịu làm gì cả, hay chỉ đứng đó như những khách bàng quang, đứng bên vệ đường nhìn xem máu Chiên Con vô tội đang đổ ra vì loài người, mà lòng mình không cảm thấy một chút hổ thẹn hay ái ngại lương tâm? Chúa Kytô vẫn đang đổ máu vì tội lỗi loài người. Giáo hội vẫn đang hiệp thông với đau khổ của Con Chiên Thiên Chúa, còn chúng ta sẽ đóng góp phần vụ gì trong việc đền tội cho thế giới và cứu độ trần gian?
Chúng ta biết rằng, trên bàn thờ tế lễ Giáo hội buộc phải có tượng Chúa chịu nạn, chính là để nhắc nhở chúng ta phải hy sinh, phải dâng hiến mình như Chúa Giêsu đã hiến dâng. Phải đóng góp phần chúng ta như Mẹ Maria đã đóng góp chính nỗi đau khổ xé nát lòng mình, hiệp thông với đau khổ của Chúa Giêsu để dâng lên Chúa Cha.
Thiết tưởng để thánh lễ thực sự mưu ích cho phần rỗi chúng ta và cho toàn thể nhân loại. Mỗi người chúng ta cũng phải biết gom góp hy sinh mỗi ngày như những hạt lúa bị nghiền nát, như trái nho ép thành chén rượu mới có của lễ để dâng trên bàn thờ. Đó chẳng phải là mồ hôi nước mắt trong lao công con người làm nên hay sao? Đó chẳng phải là những hy sinh, những chén đắng trong cuộc đời mà mỗi người chúng ta đang chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa hay sao?
Lạy Chúa, xin nhận lấy hạt lúa nghèo nàn này, nó thuộc về Chúa. Dưới cối xay của bổn phận trong bậc sống của mình, của những thập giá Chúa gởi tới. Xin cho con được nghiền nát cho Chúa, và xin cho ngọn lửa tình yêu mến làm con trở nên một tấm bánh tinh tuyền dâng lên trước tôn nhan Chúa. Amen.
Đối với tất cả những người Công giáo chúng ta thì Hiến tế trên Thập Giá là nơi Chúa Giê su đã đổ máu ra để ban ơn cứu độ, là nơi Chúa tuyên bố: “Mọi sự đã hoàn tất”(Ga 19,30), vì hiến lễ Misa chính là Hiến lễ Thập Giá kéo dài. Thế nhưng, khi chúng ta cùng các tông đồ đi vào bàn tiệc dự bữa Tiệc Ly với Chúa, chúng ta đã thấy Máu Chúa đổ ra ngay từ trong bữa Tiệc ly, vào lúc Chúa Giêsu cầm lấy chén và trao cho các tông đồ: “Này là Máu Thầy, Máu giao ước mới sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội”(Mc 14,24). Không phải ở trên cây Thánh Giá, Máu Chúa mới đổ ra, mà ngay giờ phút này, Máu Chúa đã đổ ra cho nhiều người được tha tội, và các tông đồ là những người đầu tiên được ăn Thịt Chúa và uống Máu Chúa từ Nhà Tiệc Ly.
Hiến lễ Misa là hiến lễ được kéo dài từ Hy tế Thập Giá nhưng cũng bao hàm cả giờ phút xúc động Chúa lập phép Mình Thánh, Máu Thánh trong bữa Tiệc Ly. Có thể thấy, Chúa Giêsu đã trao ban cho chúng ta chương trình cứu độ, không phải bằng mồ hôi – là những biểu hiện vất vả đời trần thế – hay bằng những con đường chông gai vác Thập Giá, mà ở đỉnh cao nhất, đó là Hiến Tế Cuộc Đời, trao ban Mình và Máu Ngài cho toàn dân.
Máu là biểu hiện của sự sống. Vì thế, khi người ta thề hứa với nhau một điều gì trọng đại thì người ta thường gọi là “Uống máu ăn thề” (Thành ngữ). Người Do Thái ngày xưa, khi muốn hiến dâng cho Thiên Chúa một lễ vật tinh tuyền và đẹp lòng Thiên Chúa thì người ta muốn dâng sự sống của mình, nhưng vì mạng sống của con người cao quý nên được thay thế bằng mạng sống của chiên cừu dâng tế lễ cho Thiên Chúa. Do đó, máu chiên được bôi lên thành cửa (tại đất nước Ai Cập) được biểu hiện là sự sống. Sự sống không chỉ của thể xác, mà sự sống của linh hồn. Sự sống thể xác là lễ Vượt qua của thời Cựu Ước, khi Thiên thần Chúa đi qua, thấy máu chiên bôi trên thành cửa thì để cho nhà đó được bình an, nhưng nhà nào không có máu bôi trên thành cửa thì Thiên thần Chúa lập tức giết chết con đầu lòng của nhà đó (x. Xh 12, 1-14). Năm ấy, cả đất nước Ai Cập đều có đại tang. Còn bên đất nước Israel thì sự sống tràn đầy và bình an đã làm cho toàn dân Do Thái được sống hạnh phúc. Sang thời Tân Ước, Máu của Chiên Thiên Chúa, từ nhà Tiệc Ly cũng như từ trên Thập Giá đổ ra đã trao ban cho tất cả mọi người, cho sự sống linh hồn được bảo đảm. Vì vậy, máu là biểu hiện của tình yêu, của giao ước. Và Chúa Giêsu gọi giao ước này là giao ước mới, mặc dầu xét về bề ngoài, trước sau vẫn là máu, nhưng giao ước mới được đổ ra từ Chiên Thiên Chúa. Giao ước ấy mới hoàn tất được Chương trình Cứu độ và trao ban sự sống đời đời cho những kẻ tin.
Bí tích Thánh Thể mà chúng ta cử hành mỗi ngày là nhắc lại cho chúng ta một hiến tế tình yêu, một hiến tế mà Chiên Thiên Chúa đã bị sát tế và lễ Vượt qua của thời Tân Ước hôm nay không phải chỉ vượt qua Biển Đỏ, mà còn vượt qua cả sự chết để được vào đất hứa là Thiên Đàng. Với một ý nghĩa quan trọng đó, Bí tích Thánh Thể là nơi hội tụ của tình yêu, là nơi kết tinh của trời đất, là trung tâm điểm của ơn cứu độ. Nơi đây, chúng ta đến không phải bằng lòng tin mà cả bằng lòng kính mến, vì tình yêu phải đáp đền bằng tình yêu, mà bí tích Thánh Thể là Bí tích Tình yêu đã được Đức Giê su thiết lập không phải là bằng một lời phán, và cũng không phải chỉ là bằng những biểu tượng bên ngoài nhưng là chính Thịt và Máu Ngài từ tay Ngài trao cho các tông đồ, Ngài nói: “Các con hãy cầm lấy mà ăn, các con hãy cầm lấy mà uống. Này là Mình Ta, này là Máu Ta”. Một giao ước mới được ký kết trong chính Thân Mình và Máu Chúa Giêsu. Giao ước ấy là Giao ước Tình yêu Hiến tế. Vì vậy, đức tin chưa đủ mà cần phải có lòng mến tha thiết để đáp lại tình yêu vô cùng của Chúa đã trao ban cho chúng ta nơi Bí tích Thánh Thể yêu thương.
Điều lạ lùng trong Bí tích Thánh Thể đó là dùng tình yêu để xóa đi hận thù; dùng tình yêu để cảm hóa những oán ghét. Đức Giêsu đã dùng tình yêu của mình trên Thập Giá để xóa tội trần gian, và tình yêu ấy đã làm cho những kẻ thù của Chúa Giêsu phải thốt lên: “Người này đích thực là người công chính”(Lc 23,47). Tình yêu ấy đã làm cho bao nhiêu những người từ trong cõi chết sống lại. Tình yêu đánh thức tất cả nhân loại và đánh thức tất cả những ai đang ở trong cõi chết. Đến với Bí tích Thánh Thể không chỉ bằng lời nói mà bằng cả việc làm, bằng lòng yêu mến, bằng những hy sinh có thể được và bằng sự kết hợp tha thiết với Chúa Giêsu. Lời Chúa Giêsu tha thiết thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, Con muốn rằng con ở đâu thì những kẻ Cha ban cho Con cũng ở đó với Con” (Ga 17,24). Bí tích Thánh Thể đã phát xuất từ lời cầu nguyện Hiến tế của Chúa Giêsu để đưa chúng ta vào sâu trong mầu nhiệm sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, và khởi đi từ Bí tích Thánh Thể với việc chúng ta ăn Thịt và uống Máu Ngài, chúng ta được trở nên sự sống trong Đức Giêsu Kitô – Con Thiên Chúa Hằng Sống.
Chúng ta là người Kitô hữu, chúng ta không chỉ mặc lấy danh hiệu Kitô hữu mà còn được nên đồng hình đồng dạng với Ngài, vì được ăn Thịt và uống Máu Ngài, được ở trong Ngài. Khi chúng ta ý thức như vậy thì Bí tích Thánh Thể làm cho người ta được tẩy sạch tội lỗi. Như trong sách Khải Huyền của thánh Gioan diễn tả: “Tôi thấy một trăm bốn mươi bốn ngàn người thuộc đủ mọi thành phần, giai cấp. Họ mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành thiên tuế”. Và thánh Gioan tả tiếp: “Tôi hỏi những người này từ đâu mà đến thì được trả lời ‘họ từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy áo trong Máu của Con Chiên’”(Kh 7, 9,14). Chính Máu Đức Giêsu Kitô đã tẩy sạch trần gian, đã tha thứ tội lỗi và đã đưa những người yêu Chúa vào sống trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Tất cả được khởi điểm từ Bí tích Thánh Thể. Cho nên, điều mà Chúa Giêsu tiên quyết: “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại vào ngày sau hết”(Ga 6,54). Những lời tiên quyết của Chúa Giê su đã khiến nhiều môn đệ của Người thốt lên: “Lời này chói tai quá, ai mà nghe được. Từ lúc đó nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa”(Ga 6, 60, 66). Chỉ có tông đồ Phê rô đại diện tông đồ đoàn mười hai đã thưa với Chúa Giê su rằng: “Chúng con bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”(Ga 6, 68-69).
Hôm nay, sự sống đời đời nơi Chúa Giêsu đang mời gọi chúng ta: Hãy cầm lấy mà ăn; hãy cầm lấy mà uống. Một lần nữa, mỗi người chúng ta đến với Bí tích Thánh Thể trong tất cả lòng tin yêu của người Kitô hữu.
Lạy Chúa Giêsu Kitô Thánh Thể, Chúa đã cho chúng con được mặc lấy danh hiệu Kitô hữu. Chúa còn cho chúng con ăn Thịt và uống Máu Chúa, để chúng con được đồng hóa trong Chúa và được sống bằng sức sống của Chúa là sự sống của Tình yêu Thiên Chúa Ngôi Hai nhập thể làm người.
Xin cho chúng con thực hiện được lời Chúa đã cầu nguyện, đó là: “Chúa ở đâu, chúng con cũng ở đó với Chúa”, và để chúng con được nên một trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi là Cha và Con, và Thánh Thần. Amen.
Trong một số nhà thờ, nơi gian cung thánh hay trước bàn thờ có chạm trổ hình con chim bồ nông mẹ đang truyền của ăn cho các chim con. Biểu tượng của chim bồ nông mẹ nuôi con có gốc tích trong truyền thuyết cổ xuất hiện trước thời Kitô giáo. Theo truyền thuyết, trong mùa đói khát, chim bồ nông mẹ đã lấy mỏ tự mổ vào ngực để dùng máu mình mà dưỡng nuôi các con. Có một truyền thuyết khác nói rằng chim bồ nông mẹ đã dùng máu mình để tái sinh các con đã chết, nhưng chính mẹ lại bị chết. Chúng ta dễ hiểu tại sao các Kitô hữu thời sơ khai đã dùng hình ảnh này để ám chỉ Chúa Giêsu. Chim bồ nông mẹ là biểu tượng Chúa Giêsu cứu độ đã hy sinh mạng sống để cứu chuộc chúng ta. Con người đã chết trong tội và được vui hưởng sự sống mới qua giá Máu Châu Báu của Chúa Kitô.
Bí tích Thánh Thể còn được gọi là Bí tích Tạ Ơn (Thanksgiving). Chúa Giêsu đã lập Bí tích này trong Bữa Tiệc Ly như là Giao Ước mới. Ngày xưa, ông Môisen đã dâng lễ toàn thiêu và hiến dâng Thiên Chúa của lễ đền tội. Dân Dothái đã giết những con bò tơ làm hy lễ giao hoà. Ông Môisen hướng dẫn Dân theo nghi thức hoà giải. Ông dâng của lễ và mời gọi dân chúng đồng lòng tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa: Ông lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa: “Tất cả những gì Thiên Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo” (Xh 24,7). Ông lấy máu rảy trên dân để ký kết giao ước: “Đây là máu giao ước Thiên Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này” (Xh 24,8).
Tác giả thư gửi tín hữu Do thái diễn tả về Chúa Giêsu: “Người đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta” (Dt 9,12). Ngày xưa người ta dùng máu dê và tro bò rảy trên kẻ ô uế còn thánh hoá được thân xác nên trong sạch, thì nay Chúa Kitô đã hiến tế chính máu mình để tẩy sạch tội lỗi chúng sinh. Trước khi dâng mình hiến tế trên thánh giá, Chúa Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể trong Bữa Tiệc Ly. Thánh Marcô đã ghi lại: Cũng đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy” (Mc 14,22). Bánh và rượu là của ăn, của uống nuôi sống chúng ta hằng ngày. Hình ảnh tấm bánh được kết thành bởi muôn hạt miến và chén rượu được ép bởi muôn ngàn trái nho chín. Chúa dùng cả bánh và rượu để biến đổi nên Mình và Máu Thánh Chúa: Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông: “Đây là Máu Thầy, Máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người” (Mc 14,23-24).
Qua quyền năng của Chúa Thánh Thần và các linh mục lập lại lời truyền phép của Chúa Giêsu Kitô, Linh Mục thượng phẩm, bánh và rượu đã trở nên Mình Máu Chúa. Sau khi đọc lời truyền phép, linh mục chủ tế đã tuyên xưng: Đây là mầu nhiệm đức tin. Chúng ta tin thật Chúa Giêsu ngự trong Bí tích Thánh Thể. Sự biến đổi bản thể của bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Lúc chúng ta lên rước lễ, trước khi trao Mình Thánh, linh mục nói: Mình Thánh Chúa Kitô, chúng ta thưa: Amen. Khi trao Máu Thánh, linh mục hay thừa tác viên nâng cao chén thánh và nói: Máu Thánh Chúa Kitô, chúng ta thưa: Amen. Bí tích Thánh Thể là trung tâm điểm của đời sống người Kitô hữu. Chúa Giêsu hiện diện thật trong Bí tích Thánh Thể. Tín hữu trong Giáo hội Công giáo tin nhận Chúa Giêsu hiện diện thật nơi Nhà Tạm và Mình Thánh là của ăn đàng cho những kẻ đau yếu bệnh hoạn hay trong cơn hấp hối.
Chúa Giêsu đã dưỡng nuôi chúng ta bằng Mình và Máu Thánh. Hình ảnh thứ hai rất thân thương và gần gũi là người mẹ nuôi con cũng bằng chính dòng sữa của mình. Các trẻ thơ đã được bú trực tiếp từ nguồn sống của người mẹ. Ở các nước chậm phát triển, các bà mẹ thường cho con bú từ 6 tháng tuổi cho tới 2 năm. Chúng ta biết nguồn sữa từ vú mẹ là loại sữa tốt nhất trong các loại sữa. Sữa được tiết ra từ dòng máu của mẹ. Sữa mẹ là nguồn sống và là nguồn tình yêu. Sữa có đủ các chất béo, ngọt, nước và chất dinh dưỡng cần thiết cho bé phát triển. Có một điều lợi ích của việc cho con bú là trung bình 500 lượng calo, một ngày sẽ giúp người mẹ giảm cân sau khi sanh.
Chúa Giêsu đã nhiều lần hoá bánh ra nhiều để nuôi dân. Chúa cũng đã làm biến đổi sáu chum nước ra thành rượu tại tiệc cước Cana. Chúa biết những nhu cầu cần yếu của cuộc sống con người. Con người sống thì cần phải ăn phải uống và phải hít phải thở. Ăn uống làm tăng thêm chất bổ dưỡng để nuôi sống. Thật lạ lùng, khi chúng ta ăn bánh, uống rượu và bất cứ loại đồ ăn thức uống nào, khi đã nuốt vào bao tử trong vòng 30 phút, các cơ quan trong thân thể nhanh chóng biến đổi các thức ăn thành chất bổ dưỡng nuôi sống các cơ quan. Thức ăn trở thành máu, thành thịt và giúp làm sống động các cơ năng tuần hoàn trong thân thể. Đây là một chu kỳ nhiệm mầu mà Thượng Đế đã an bài.
Thức ăn bổ dưỡng sẽ giúp cho thân xác khoẻ mạnh và tinh thần minh mẫn. Bí tích Thánh Thể cũng đáp ứng những nhu cầu về linh hồn và thân xác. Chúng ta tin Chúa Giêsu hiện diện trong Bí tích Thánh Thể. Có nhiều nơi, các tín hữu có thói quen thay phiên nhau Chầu Mình Thánh Chúa suốt ngày đêm. Có những người quỳ lặng cầu nguyện trước Nhà Tạm hàng giờ để kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu Thánh Thể là nguồn suối ủi an và nơi nương tựa. Chính Chúa Giêsu đã phán: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28). Kết hợp với Chúa trong Bí tích Thánh Thể sẽ mang lại nguồn tươi mát và dịu êm. Giáo Hội mời gọi chúng ta năng kính viếng và lặng quỳ bên Thánh Thể Chúa. Chúng ta sẽ gặp gỡ một Chúa thật có trái tim biết cảm thông và yêu thương.
Bí tích Thánh Thể là Bí tích Tình Yêu mà Chúa Giêsu đã lập để tiếp tục lễ hy sinh trên Thánh giá và để ban Mình Máu Người hiện diện trong hình bánh rượu, làm của nuôi linh hồn. Bí tích Thánh Thể được cử hành trong thánh lễ. Thánh lễ dâng mỗi ngày cũng là một lễ như xưa trên cây Thánh Giá, vì cũng là một Chúa Kitô làm chủ tế và của lễ nhưng không còn đổ máu như xưa. Thánh lễ quý trọng vô giá. Thánh lễ giao hoà con người với Thiên Chúa. Thánh lễ liên kết mọi người hợp nhất với nhau. Thánh lễ là lời tạ ơn tuyệt vời. Thánh lễ mang lại ơn tha thứ và cứu độ. Mỗi khi cử hành thánh lễ, chúng ta tuyên xưng việc Chúa Giêsu chịu đau khổ, chịu chết và sống lại cùng mong đợi Chúa lại đến trong vinh quang.
Chúng ta hãy năng tham dự thánh lễ. Tham dự một cách sốt sáng và hiệp thông. Chúng ta không đi xem lễ hay dự lễ như khách bàng quan, nhưng hãy tham dự một cách tích cực. Hiệp lễ bằng cách cùng thưa kinh, dâng lời ca tiếng hát, hoà điệu trong mọi nghi thức cử hành và nhất là lắng nghe và áp dụng Lời Chúa trong cuộc sống. Có đôi trường hợp, chúng ta đi tham dự thánh lễ như để chu toàn bổn phận giữ ngày Chúa Nhật. Đi trễ về sớm. Không hiểu ngôn ngữ, nghe tai này ra tai kia. Để nuôi dưỡng đời sống nội tâm, chúng ta cần dành chút thời giờ riêng tâm sự với Chúa và sưởi ấm tâm hồn.
Lạy Chúa, con nhìn thấy Nhà Tạm nơi Chúa ẩn ngự, nhưng con chẳng muốn đến gần. Con tất bật lo lắng công việc và đi qua đi lại lo sửa soạn mọi thứ. Đèn chầu vẫn cháy sáng, nhưng lòng con đã ngụm tắt từ bao giờ. Xin Chúa giúp chúng con khơi lại ngọn lửa mến để sưởi ấm tâm hồn. Xin Chúa tha thứ những lần chúng con thờ ơ lãnh đạm và làm ngơ trước sự hiện diện của Chúa. Xin thương xót chúng con.
Khi tôi đem Mình Thánh Chúa cho các bệnh nhân và những cụ già tại một nhà dưỡng lão, lần đầu tiên tôi gặp ông Smith. Ông ta mắc bệnh rối loạn tâm thần. Khi tôi gõ cửa phòng ông và đang chuẩn bị bước vào, tôi tự giới thiệu và cho ông biết giáo xứ đã cử tôi đến đây. Ông ta tỏ vẻ bực bội và khó chịu nói vọng ra “Xin lỗi, mời ông bước ra”. Khi tôi vừa quay lưng để định thoái lui, ông gọi giật tôi lại và hỏi “Ông đến đây làm gì”? Tôi trả lời: “Tôi đến đem mình Thánh Chúa cho ông”. Bấy giờ ông lên tiếng “Ồ, chuyện đó lại khác, mời ông vào”. Thái độ của ông bỗng chốc trở nên cung kính và sốt sắng cách lạ thường. Chúng tôi cùng cầu nguyện với nhau và đọc kinh Lạy Cha, rồi tôi trao Mình Thánh Chúa cho ông. Ông đón nhận với thái độ rất kính cẩn và chậm rãi cầu nguyện cám ơn Chúa sau khi đã rước lễ. Tôi thấy rất cảm động. Sau đó tôi chào ông và nói “Xin lỗi, chào ông nhé, bây giờ thì tôi bước ra đây”.
Kinh nghiệm ngày hôm đó đã gợi hứng rất nhiều cho tôi để suy gẫm về Bí tích Thánh Thể. Hiển nhiên tôi thấy rất rõ, ông Smith đã đón nhận Thánh Thể một cách thật cung kính, chứ không phải như một thói quen máy móc. Ông đã biểu tỏ lòng tôn kính và sự thánh thiện khi rước lễ một cách thật ý thức. Có thể nói đó là phút giây đẹp nhất trong một ngày sống của ông. Mặc dù ông ta đang mắc bệnh về não, khiến ông khó có thể kiểm soát được đầu óc mình, nhưng việc rước Thánh Thể đã khơi dậy lòng sốt mến trong tâm hồn ông, và ông cảm nhận một cách rõ ràng sự hiện diện của Chúa Giêsu nơi bánh Thánh. Ông đã biểu tỏ rõ nét sự quý trọng thánh thiêng khi đón nhận mình Thánh Chúa Giêsu.
Bài đọc hai trong phụng vụ hôm nay trích từ thư gửi tín hữu Do Thái, trong đó tác giả liệt kê một loạt những biểu tượng khá phức tạp để diễn bày sự thánh thiện của Thiên Chúa. Gợi nhắc lại các nghi thức phụng tự xưa cũ nơi cung thánh của đền thờ, tác giả quy chiếu về Đức Giêsu. Ngài chính là Thượng Tế của giao ước mới, một giao ước đã trở nên trọn hảo. Tác giả đã viết như sau “Đức Kitô đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai. Để vào cung thánh, Người đã đi qua một cái lều lớn hơn và hoàn hảo hơn. Người vào chỉ một lần, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta”. Sau đó tác giả thơ Do Thái dẫn giải tiếp và cho biết cung thánh mới được nói tới chính là quê trời.
Ở đây, chúng ta không cần tưởng tượng ra trời cao hay thiên đàng như một cung thánh thiêng liêng. Nhưng tác giả muốn chúng ta nhìn vào hoàn vũ này như một đền thờ của Thiên Chúa và trời cao nơi Thiên Chúa ngự chính là Cung thánh, nơi cực thánh. Trong đền thờ này có hòm bia giao ước. Cung thánh trong đền thờ năm xưa là nơi đặt hòm bia chứng ước, và cũng là nơi chốn linh thiêng nhất. Vị Thượng Tế phải đi qua một cái lều lớn để tiến đến cái lều nhỏ tận sâu phía trong, là nội cung cực thánh. Ông chỉ vào nơi đây một ngày duy nhất trong năm, đó là ngày lễ xá tội (Yom Kippur). Thượng tế được cột bằng một dải vải dài từ chiếc áo choàng, để khi đi vào cung thánh gặp Thiên Chúa mà lỡ có phải chết, các tư tế khác sẽ dùng miếng vải đó lôi ông ra ngoài vì không ai được vào tận trong cung thánh. Người Do Thái tin rằng đây là nơi cực thánh không ai được vào trừ Thượng tế, và nếu ai liều lĩnh đi vào, người đó sẽ chết. Vị Thượng tế tiến vào cung thánh mỗi năm một lần để gặp Thiên Chúa trực tiếp thay cho dân. Nhưng đây chỉ là hình bóng về một cung thánh khác trên trời cao, nơi chúng ta sẽ được tiếp cận Thiên Chúa một cách trực tiếp. Bằng máu hiến tế đổ ra, Đức Kitô đã đi qua một chiếc lều tạm là chính thân xác Ngài, để tiến về chiếc lều nhỏ, là chính cung thánh trên trời. Vì thế, Ngài trở thành Thượng tế đích thật, là “Trung gian của giao ước mới”.
Theo tôi nghĩ, thế giới tạo thành này hiện hữu với hai cấp độ: cấp độ vật chất hữu hình và cấp độ thiêng liêng vô hình. Cả hai cấp độ này hòa quyện và đan xen với nhau. Cách thái hiện hữu này giúp cắt nghĩa lý do tại sao các phép lạ vẫn xảy ra mà không hủy phá trật tự của tự nhiên, cho dù nó được thực hiện bằng những sức mạnh thần thiêng mà luật tự nhiên không thể cắt nghĩa nổi. Chúng ta hãy tưởng tượng vũ trụ này như một đền thờ, và trời cao như là cánh cửa dẫn vào nội cung cực thánh bên trong đền thờ đó. Ý tưởng này sẽ giúp chúng ta nhìn vào hoàn vũ bao la này và khám phá ra sự linh thánh của nó. Khi tôi thực hiện một quyết định gì về thế giới tạo thành quanh đây, tôi luôn phải ghi nhớ sự linh thánh ẩn chứa bên trong. Nếu chúng ta ý thức rằng tất cả mọi người đang sống trên trái đất đều được phủ che bằng một tấm màn thánh thiêng như thế, chúng ta sẽ đối xử với nhau một cách khác hẳn.
Nhưng trên hết, hình ảnh này sẽ giúp chúng ta hiểu được Đức Kitô đã liên kết trời và đất như thế nào. Đương nhiên trời không phải là đất, và trái đất chúng ta đang ở không phải là quê trời. Nhưng trong Đức Kitô, cả hai thực tại đều liên hệ chặt chẽ với nhau. Trời và đất đều là thành phần của cùng một đền thờ. Trong Đức Kitô, không có cái gì chỉ thuần phàm tục, và cũng không có cái gì tuyệt đối hoàn hảo. Không có cái gì chỉ là tạm bợ và cũng không có gì trong vũ trụ này là vĩnh cửu mãi mãi.
Tôi nghĩ rằng ông Smith đã có một trực giác để thấu hiểu điều này. Từ đáy sâu thẳm của cuộc sống làm người với những giới hạn mong manh, ông đã cảm thức về một thế giới vô hạn. Khi đón nhận Thánh Thể, ông đã thực sự tiến vào Cung Thánh, vào nơi cực thánh cùng với Đức Kitô. Ông đã đón nhận của ăn đàng chỉ một ngày trước khi ông chết. Các thiên thần sẽ đưa ông về quê trời. Ông đã về với Chúa cùng với Bánh ban sự sống đem theo, là lương thực độ đường trong cuộc lữ hành tiến về cung thánh thật, và cũng là quê hương thật của ông. Nơi thánh cung này, cùng với Đức Kitô, ông sẽ đạt tới sự vinh quang tròn đầy.
Tại Xứ Bùi Thái, tỉnh Biên Hoà, Giáo Phận Xuân Lộc, Việt Nam, có một gia đình làm nghề mổ thịt chó. Ông chồng làm xong, bà vợ đem ra chợ bán. Vào quãng năm 1984, bà vợ lâm trọng bệnh. Cha chính xứ Bùi Thái, lúc ấy là cha Bách, được mời đến để ban các phép cuối cùng. Cha xứ tới ban phép Giải Tội và Xức Dầu xong, khi trao Mình Thánh Chúa cho kẻ liệt, thì không thấy Mình Thánh trong hộp đựng Mình Thánh đâu ! Ngài tưởng mình quên, nên chỉ khuyên bảo bệnh nhân đôi lời rồi ra về.
Ngày thứ hai, trước khi tới nhà bà ấy, cha Bách đã nhắc mình nhớ lấy Mình Thánh Chúa. Ở tại nhà kẻ liệt, khi ngài làm các lễ nghi xong, tới lúc mở hộp đựng Mình Thánh Chúa ra, ngài cũng chẳng thấy Mình Thánh đâu. Thật lạ lùng, chẳng hiểu tại sao. Sau đó, ngài cũng lại âm thầm trở về.
Tới lần thứ ba, cha Bách mới nói với ông Chủ Tịch Hội Đồng Giáo Xứ biết, hôm trước ngài đem Mình Thánh đến nhà kẻ liệt, mà thấy Mình Thánh Chúa biến mất. Lần này ngài xin ông ấy làm chứng, ngài đã lên Nhà Thờ lấy Mình Thánh Chúa, để đem tới nhà kẻ liệt. Nhưng kết quả lần thứ ba này cũng như hai lần trước: khi mở hộp Mình Thánh Chúa ra, thì cũng chẳng còn Mình Thánh Chúa nữa. Cha Bách và ông Chủ Tịch trở về, lòng đầy kinh ngạc.
Tới lần thứ tư, Cha Bách cùng với ông Chủ Tịch đem Mình Thánh Chúa cho kẻ liệt như ba lần trước. Lần này trước khi mở hộp đựng Mình Thánh Chúa ra, thì Cha Bách hỏi bệnh nhân:
- Đã ba lần tôi đem Mình Thánh cho bà, mà cả ba lần Mình Thánh Chúa đều biến mất. Vậy để lần này Chúa khỏi biến mất đi như trước, thì bà xét mình lại, xem có điều gì ngăn trở cho việc chịu lễ chăng ? Những lần xưng tội vừa qua bà xưng tội có nên không ? Có giấu tội không ?
- Thưa cha con không giấu tội. - Vậy không hiểu tại sao Mình Thánh Chúa lại biến đi ? Bà thử nhớ lại coi, trong gia đình có sự hoà thuận yêu thương nhau không ?
- Thưa cha, không có hoà thuận, vì trước đây có mấy lần con đi bán thịt về, bán không được giá, phải bán rẻ, nhưng nhà con không hiểu, lại hồ nghi cho con giấu tiền, hay làm thế này thế nọ, nên giữa con và chồng con từ đó không tin tưởng và yêu thương nhau nữa !
- Nếu vậy thì bà hãy làm hoà với ông ấy, để xứng đáng Chúa ngự vào lòng bà. Chúa không muốn ngự vào những tâm hồn giận ghét nhau.
Cha xứ cho mời ông chồng đến bên giường. Hai vợ chồng làm hoà cùng nhau. Sau đó ngài mở hộp đựng Mình Thánh Chúa ra, Mình Thánh Chúa vẫn còn. Bệnh nhân đã được Rước Lễ, sau đó mấy ngày thì qua đời. Một người trong cuộc đã thuật lại câu chuyện này trong tuần tĩnh tâm của tổ chức Gia Đình Đồng Công tại Thủ Đức, Việt Nam. ( Tu sĩ Kim Ngân, CMC, Dongcong.net )
Tin Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa hôm nay, Thánh Máccô thuật lại Đức Giêsu thành lập Bí Tích Thánh Thể: “Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: "Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta". Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông: "Này là Máu Ta, Máu Tân Ước sẽ đổ ra cho nhiều người” ( Mc 14, 22-24 ).
Hy tế
Giao Ước Cũ dùng chiên bò làm của lễ hiến dâng lên Thiên Chúa, như Bài Đọc I, trích sách Xuất Hành vào thời ông Môsê. “Sáng sớm, ông trỗi dậy, lập bàn thờ ở chân núi, dựng mười hai cột trụ, chỉ mười hai chi họ Israel, ông sai các thanh niên trong con cái Israel mang của lễ toàn thiêu và hiến dâng lên Chúa những con bò tơ làm hy lễ giao hoà.” Mặc dù Dân Chúa luôn sống bất tín bất trung, nhưng “Thiên Chúa chậm bất bình và rất mực khoan dung” ( Tv 85, 5b ).
Sang đến thời Giao Ước Mới, Chúa Giêsu dùng chính Máu và Thịt của mình làm của lễ hiến tế, gánh hết tội lỗi nhân loại, làm giá cứu chuộc muôn dân, tái lập mối giao hoà giữa Thiên Chúa và con người, cùng như hoà giải con người với nhau. “Đức Kitô Giêsu, Đấng tự hiến làm giá cứu chuộc mọi người” ( 1Tm 2, 6 ).
Phục vụ
Chính Đức Giêsu cũng đã công khai sứ vụ nhập thể là phục vụ và hy tế: “Con người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống mình làm giá cứu chuộc muôn người” ( Mt 20, 28 ). Khiêm hạ, thầm lặng, nhẫn nhục, nhập thể trong nghèo khó, Đức Giêsu hoàn toàn vâng phục Thánh Ý Chúa Cha, rao giảng, chịu lăng mạ, khổ nạn, chịu chết và phục sinh, vì sức sống của Người chính là tuân phục Thánh Ý: “Lương thực của Thầy là làm theo thánh ý Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” ( Ga 4, 34 ). Không những phục vụ Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu còn phục vụ con người, tự biến mình thành lương thực trường sinh, dưỡng nuôi và giải thoát con ngưởi khỏi vũng lầy tội nhơ, khỏi vong thân chịu chết, được sống viên mãn muôn đời. “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống” ( Ga 6, 54-55 ).
Đức Giêsu cũng không chỉ phục vụ bằng việc rao giảng, mặc dù Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi ( Tv 119, 105 ), nhưng còn bằng chính hành động, thái độ phục vụ tha nhân cụ thể, như biến nước thành rượu giúp đôi tân hôn ở Cana, chữa bệnh, trừ quỷ, tha thứ lội lỗi, hoá bánh ra nuôi hàng ngàn dân, cho sống lại. Cao điểm phục vụ nhân loại là Chúa Giêsu hoá thân vào Bánh và Rượu để trở nên lương thực trường sinh. “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em” ( Lc 22, 19 ).
“Mỗi khi trao Chúa Giêsu Thánh Thể cho Giáo Dân, con hãy ý thức trao cả đời con, thời giờ của con, sức khoẻ, tài năng, tiền của, nghĩa là máu thịt con cùng với Mình Máu Thánh Chúa làm của nuôi mọi người và mỗi người, không phân biệt ai” ( Đường Hy Vọng, số 376 ).
Hiệp nhất
“Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì kẻ ấy ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy” ( Ga 6, 56 ). Người Kitô hữu được hiệp nhất và thánh hoá nhờ Chúa Giêsu, mỗi khi tham dự Thánh Lễ, đón rước Thánh Thể. Như cành nho kếp hợp chặt chẽ với cây nho, chung một dòng nhựa dưỡng nuôi toàn thân, toàn thể mọi cành, người tín hữu Kitô cùng chịu khổ nạn với Chúa Giêsu qua những thánh giá bổn phận, trách nhiệm hằng ngày.
Như thế nhờ Người, với Người và trong Người, người Kitô hữu dồi dào ân sủng, thanh khiết, mới có thể xứng đáng trở nên con cái Thiên Chúa, cũng như gắn bó mật thiết với nhau, trở thành anh em với mọi người. “Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau” ( Ep 4, 3 ).
“Giọt nước hoà tan vào rượu thế nào, đời con tan biến trong Chúa Kitô như vậy” ( Đường Hy Vọng, số 368 ).
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Người hằng đêm ngày, thầm lặng chờ đợi chúng con đến với Người, dâng lời cảm tạ và ngợi khen, cùng được đón rước vào lòng. Nhưng chúng con đã nhiều khi hững hờ, thờ ơ, lười biếng, ngại ngùng, quên bẵng, chỉ vì thiếu lòng mến, thiếu tình yêu Chúa. Kính xin Chúa Thánh Thần tái sinh chúng con, ban xuống Tin Cậy Mến dồi dào, cho chúng con biết trở về với Tình Yêu vô biên, với Lòng Thương Xót vô bờ.
Lạy Mẹ Maria, Người Nữ Thánh Thể, như Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao Lô II đã khẳng định, xin cầu bầu, giúp đỡ chúng con luôn hiệp nhất với Mình Máu Chúa Giêsu, để chúng con đầy tràn hồng ân, đem chia sẻ tình yêu Thiên Chúa với mọi người. Amen.
Câu chuyện cảm động của cô bé 11 tuổi người Trung Quốc tử đạo vì Mình Thánh Chúa.
Vài tháng trước khi chết, tổng giám mục Fulton J. Sheen, địa phận Rochester, New York trả lời câu hỏi của đài truyền hình quốc gia: “Kính Tổng giám mục, cha đã cảm hứng được cho hàng triệu tín hữu trên khắp hoàn cầu. Vậy ai là người đã cho cha cảm hứng? Có phải là một Giáo hoàng?”. “Không phải Giáo hoàng, cũng không phải hồng y hay một giám mục nào khác, nhưng người đã cho tôi cảm hứng là một cô bé 11 tuổi người Trung Quốc!”
32 bánh thánh trong chén thánh…
Và lúc đó tổng giám mục Sheen kể câu chuyện cô bé Trung Quốc này. Khi cộng sản nắm chính quyền ở Trung Quốc, họ giam một linh mục trong chính nhà xứ của cha, nhà xứ này ở gần nhà thờ của cha. Từ cửa sổ nhà mình ngó qua nhà thờ, cha kinh hoàng thấy các người cộng sản đến phá nhà thờ, họ xông lên bàn thờ. Lòng đầy hận thù, họ phạm thượng đến Nhà Tạm, vứt Chén thánh xuống đất, các bánh thánh rớt tung tóe dưới đất. Vào thời buổi bị bách hại, linh mục biết chính xác con số bánh thánh của mình trong Chén thánh: 32 bánh thánh. Mỗi ngày, một giờ thánh
Khi các người cộng sản ra đi, có thể họ không thấy hoặc họ không chú ý đến một cô bé đang quỳ cầu nguyện ở dưới nhà thờ, em đã chứng kiến tất cả cảnh này. Buổi tối, em trở lại nhà thờ, thoát được sự canh phòng của người canh gác trước nhà xứ, em vào nhà thờ. Em quỳ chầu một giờ, một hành vi yêu thương để đền bù cho hành động hận thù. Em tiến gần bàn thờ, quỳ xuống và bò bốn chân để nhận Mình Thánh Chúa, vì thời đó giáo dân không dùng tay để nhận Mình Thánh Chúa mà Mình Thánh Chúa được linh mục đưa tận lưỡi.
Mỗi ngày em mỗi đến chầu giờ thánh và rước Chúa Giêsu trong Thánh Thể bằng lưỡi. Một ngày nọ, chỉ còn một bánh thôi và em rước như thường lệ nhưng vô tình em đã gây tiếng động và người canh gác biết được, ông này chạy đến sau lưng em và dùng báng súng đánh em cho đến chết. Từ cửa sổ phòng mình, mà cũng là phòng giam của mình, linh mục bàng hoàng chứng kiến cảnh tử đạo này. Lời hứa của Tổng giám mục Sheen…
Khi tổng giám mục Sheen nghe câu chuyện này, ngài quá xúc động và ngài hứa với Chúa, mỗi ngày cho đến chết, ngài sẽ để ra một giờ để chầu Mình Thánh Chúa: một lời hứa ngài giữ trong vòng 60 năm tu hành. Ngài mất ngày 9 tháng 12 năm 1979, và chính trước Nhà Tạm của nhà nguyện riêng của mình mà người ta tìm thấy thi thể của ngài. Nếu em bé gái tử đạo người Trung Quốc làm chứng bằng chính đời sống của mình cho sự hiện diện đích thực và cao đẹp của Thánh Thể thì một vị giám mục như mình cũng phải làm được như vậy. Từ đó, ước muốn duy nhất của ngài là đưa giáo dân về với Thánh Tâm bừng nóng của Chúa Giêsu trong Thánh Thể.
Em bé này đã nêu gương cho giám mục lòng can đảm và sốt sắng chân thực mà giáo dân phải có đối với Thánh Thể: đức tin đã có thể lấn lướt tất cả mọi nỗi sợ như thế nào và tình yêu chân thật với Chúa Giêsu trong Thánh Thể đã thăng hoa đời sống của mình như thế nào. Câu chuyện này được giáo sư Felipe Aquino kể trên đài truyền hình Cançao Nova vào ngày lễ Lễ Mình Thánh Chúa. (Giuse Nguyễn Tùng Lâm chuyển dịch, phanxico.vn 17.06.2015/ aleteia.org, Giáo sư Felipe Aquino, 2015-06-16)
Chị đã minh chứng rằng người ta có thể sống chỉ nhờ vào Lòng Mến. Marthe Robin chào đời vào THÁNHTHỂ-271
Chị đã minh chứng rằng người ta có thể sống chỉ nhờ vào Lòng Mến. Marthe Robin chào đời vào ngày 13.3.1902 tại Drome, nước Pháp. Chị là người con thứ sáu và là út gái của cặp vợ chồng nông dân là ông Joseph Robin và bà Amelie-Celestine.
Cha mẹ chị làm việc chăm chỉ, và so với hiện nay, có thể được xếp vào tầng lớp trung lưu. Dù cha mẹ chị là người Công Giáo nhưng lại chẳng biết lễ lạy, Nhà Thờ Nhà Thánh là gì. Điều này ảnh hưởng đến đời sống đạo của con cái, nhưng tuyệt nhiên không ảnh hưởng chút nào đến Marthe. Chị đã được Thiên Chúa lôi cuốn và đã có thói quen cầu nguyện từ khi còn rất nhỏ.
Chị Marthe bị bệnh nặng lúc mới hai tuổi. Cả chị và chị gái Clemence đều bị sốt thương hàn. Clemence đã không qua khỏi. Còn chị Marthe sống sót nhưng đau yếu liên miên từ dạo đó. Chị đã phải nghỉ học vào năm 13 tuổi để phụ giúp công việc nông trại của gia đình. Tuy nhiên, chị vẫn tham gia các lớp học Giáo Lý và đã lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức năm 1911, và Rước Lễ Lần Đầu vào ngày 15.8.1912 ( ND: Hồi đó trẻ em thường lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức trước khi Rước Lễ Lần Đầu ).
Đau yếu liên miên từ khi bị sốt thương hàn, dầu vậy có vẻ, trong những năm niên thiếu, chị vẫn sống rất hạnh phúc. Chị vui tươi, thanh thản, ưa múa nhảy ca vũ và khoái chí cười vang khi nghe những mẩu chuyện tiếu lâm bà kể. Nhưng vào năm 1918, chị ngã bệnh lần nữa và phải nằm liệt giường. Các bác sĩ cho rằng có thể chị bị u não hoặc là bị viêm não. Họ không tìm ra chứng bệnh của chị, rồi một vị bác sĩ đã chẩn đoán chị bị mắc chứng Hysteria ( chứng dễ bị kích động, cuồng loạn ). Thế là chị đã bị “dán nhãn” luôn từ đó.
Đến năm 1928, phần thân dưới của chị Marthe bị liệt và vào năm 1929 thì tới hai cánh tay. Đây không phải là di chứng của chứng Hysteria. Rốt cuộc, dù chẳng có bằng chứng nào, chị lại được cho là bị “Viêm não Lethargica”, một dạng viêm não hiếm gặp. Nhưng chẩn đoán này thực ra chưa bao giờ được xác nhận hay chứng minh rõ ràng.
Chị Marthe phải sống trong một phòng ngủ tối tăm vì mẫn cảm với ánh sáng. Năm 28 tuổi, chị bị tê liệt và phải nằm liệt giường. Mới đầu chị vẫn còn có thể dùng ngón tay cái với ngón trỏ và có thể lần hạt. Nhưng sau đó, rốt cuộc, ngay cả điều đó chị cũng không làm được. Tất cả những gì chị có thể làm là lắc lắc đầu. Chị chẳng thể ăn hay thậm chí uống một ngụm nước nào. Các bác sĩ đã cố gắng ép nước xuống cổ họng chị nhưng nước lại trào ra mũi. Tuy nhiên, có một điều mà cơ thể của chị có thể tiếp nhận, hấp thu được. Đó là Thánh Thể.
Hồi mới bị bệnh, chị Marthe đã được Đức Mẹ hiện ra và an ủi chị rất nhiều. Năm 1928, chính Chúa Giêsu đã hiện ra với chị và cuộc hiện ra này đã biến đổi chị mãi mãi. Chính lúc đó, và từ đó trở đi chị quyết định “tận hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho Chúa” và “dâng những đau khổ trong sự kết hiệp mật thiết với Ngài bằng lời cầu nguyện và lòng mến”. Chị đắm chìm trong suy niệm, suy gẫm về cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô, đồng thời liên lỉ thân thưa, gần gũi với Đức Mẹ.
Từ những năm 1930 trở đi, lương thực duy nhất nuôi sống chị chính là Chúa Giêsu Kitô trong Bí Tích Thánh Thể. Chị không thể dùng được bất kỳ loại thức ăn hay nước uống nào khác. Vào các ngày Thứ Sáu, khi chị Rước Lễ, chị sẽ sống lại cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô. Ban đầu điều đó chỉ diễn ra trong bình diện thiêng liêng nhưng sau đó đã diễn ra thật sự nơi thân xác chị. Chị Marthe đã được in Năm Dấu Thánh cách tỏ tường. Thiên Chúa đã đưa chị vào trong số những người được tuyển chọn như Thánh Phanxicô, Thánh nữ Catarina thành Siena và Thánh Padre Piô.
Tam nhật tưởng niệm cuộc Thương Khó, Khổ Nạn và Phục Sinh của Chúa xảy ra nơi chị Marthe, với các thương tích máu tươi đầm đìa ngày Thứ Sáu, khô lại vào Thứ Bảy, và sạch vết vào Chúa Nhật. Thật vậy, chị Marthe Robin đã kinh nghiệm về Bí Tích Thánh Thể trong một cách thức lạ lùng. Thánh Thể chính là của ăn nuôi sống chị, chính là cuộc sống của chị, cho đến khi chị qua đời năm 1981, việc này kéo dài 51 năm.
Dù chưa học xong tiểu học, nhưng chị Marthe có thể giúp cho nhiều người đến thăm chị bằng những lời lẽ đầy khôn ngoan. Chị có tấm lòng trắc ẩn và một trí nhớ đặc biệt. Trong suốt cuộc đời mình, ước tính có hơn 100.000 người đã đến thăm để được chị linh hướng, hướng dẫn. Chị đã nhận cầu nguyện cho hàng ngàn lời xin, hàng ngàn ý chỉ cầu nguyện; tầm ảnh hưởng của chị đã vượt ra khỏi căn phòng nhỏ bé của mình.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nâng chị Marthe Robin lên bậc Đáng Kính vào ngày 7.11.2014. Hiện nay, trung bình hàng năm, có khoảng 40.000 người thăm viếng và cầu nguyện tại căn nhà mà Đấng Đáng Kính Marthe đã sống và qua đời. Người ta thường trích lại câu nói này của chị Marthe: “Tôi muốn hô lên thật lớn tiếng với những ai hỏi: liệu tôi ăn uống được gì không, rằng tôi được ăn uống, được thưởng thức no thỏa hơn họ, vì tôi được dưỡng nuôi bằng Thánh Thể là chính Mình và Máu Thánh của Chúa Giêsu. Tôi muốn nói với họ rằng, chính họ là thủ phạm kềm hãm và cản trở hiệu quả của thần lương này nơi mình.”
LARRY PETERSON
Bản dịch của Nữ Tu Vân Anh ( Nhóm phiên dịch Mai Khôi )
NGÀY 29/05/2016: CHÚA NHẬT IX MÙA THƯỜNG NIÊN "Tất cả đều ăn no nê".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca (Lc 9, 11b-17)
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với dân chúng về nước Thiên Chúa và chữa lành những kẻ cần được cứu chữa. Vậy khi đã xế chiều, nhóm mười hai đến thưa Người rằng: "Xin Thầy giải tán dân chúng, để họ đi vào trong các làng mạc và trại quanh đây mà trú ngụ và kiếm thức ăn, vì chúng ta đang ở nơi hoang địa". Nhưng Người nói với các ông: "Các con hãy cho họ ăn đi". Các ông trả lời: "Chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá, trừ phi chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám đông này". Số đàn ông độ năm ngàn. Người nói với các môn đệ rằng: "Hãy cho họ ngồi xuống từng nhóm độ năm mươi người". Các ông đã làm như thế, và bảo tất cả ngồi xuống. Chúa Giêsu cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, nhìn lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và phân phát cho các môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Tất cả đều ăn no nê, và người ta thu lượm được mười hai thúng miếng vụn còn dư lại. Đó là lời Chúa.
Chúng ta vừa cùng nhau lắng nghe bài Tin Mừng thuật lại việc Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng ăn no nê và còn dư thừa. Phép là này là dấu chỉ của việc trao ban Mình và Máu Thánh của Chúa Giêsu như Bánh Hằng Sống cho chúng ta.
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội mừng kính trọng thể Lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Qua thánh lễ này, Giáo Hội muốn chúng ta ý thức và xác tín vào quyền năng và tình yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa đối với chúng ta qua Bí tích Thánh Thể.
Quả vậy, nơi Bàn Tiệc Thánh chúng ta dễ dàng nhận ra quyền năng Chúa Thánh Thần khi Ngài thánh hóa, biến đổi bánh và rượu rất bình thường trở nên Mình và Máu châu báu thánh thiện của Chúa Giêsu Kitô. Hơn thế nữa, nơi Bí tích huyền diệu, nơi mầu nhiệm đức tin cao cả này, chúng ta cũng cảm nếm được tình yêu thương vô bờ bến của Ngôi Hai Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chỉ vì yêu, chỉ vì muốn ở lại, muốn nên một với những người mình yêu; chỉ vì muốn thánh hóa và nuôi dưỡng phận đời yếu đuối mỏng giòn của loài người chúng ta …Chúa Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể.
Phần chúng ta, hôm nay cũng là dịp thuận tiện để chúng ta xét lại thái độ của mình đối với “phép lạ” vĩ đại mà Chúa thực hiện hàng ngày nơi cộng đoàn giáo xứ, nơi tâm hồn chúng ta. Có lẽ, cũng đã không ít lần chúng ta chưa thật sự biết trân quý Bí tích Tình yêu này; không ít lần vì vô tình chúng ta đã xúc phạm đến quyền năng và tình yêu của Chúa khi chúng ta rước lễ một cách thiếu sốt sắng, rước lễ cách bất xứng …
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và nhân hậu, chúng con cảm tạ Chúa vì đã yêu thương chúng con bằng một tình yêu hiến dâng trọn vẹn nơi Bí tích Thánh Thể. Xin cho chúng con luôn biết nhận ra quyền năng và tình yêu của Chúa qua việc năng rước Mình Máu Thánh Chúa và sống xứng đáng với hồng ân cao cả mà Chúa đã dành cho chúng con. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
Phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay có thể giúp chúng ta khám phá ra một vài khía cạnh chính yếu của bí tích Thánh Thể. Qua bài đọc thứ I chúng ta thấy Melkisêđê là một nhân vật lạ lùng. Ông là vua Salem, đã dùng bánh và rượu để dâng lễ tạ ơn Thiên Chúa trong thời đại mà truyền thống chỉ dùng chiên bò làm lễ vật. Ông vừa là vua lại vừa là thượng tế, và dường như ông đóng vai trò trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Từ đó, truyền thống Thánh Kinh đã coi ông như là kiểu mẫu cho chức tư tế và các cộng đoàn tín hữu, đã noi gương ông, dâng bánh và rượu như lễ vật tạ ơn Thiên Chúa để lãnh nhận những ơn phúc lành Thiên Chúa ban cho.
Tiếp đến qua bài Phúc Âm thánh Luca kể lại phép lạ bánh hoá nhiều. Chúa Giêsu đã nuôi 5000 người bằng 5 chiếc bánh và 2 con cá. Phép lạ này là hình ảnh của bí tích Thánh Thể mà Ngài sẽ lập sau này. Ngài đã dùng chính thịt máu Ngài qua hình bánh rượu để làm lương thực nuôi dưỡng chúng ta.
Sau cùng thánh Phaolô đã kể lại việc Chúa Giêsu lập phép Thánh Thể vào chiều ngày thứ năm tuần thánh trước khi Ngài chịu nạn. Rồi thánh nhân đã kết luận: Mỗi lần anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền việc Chúa chết cho đến khi Ngài lại đến. Vì thế, khi rước lễ thì chính Chúa hiện diện trong chúng ta, kết hiệp chúng ta lại với nhau và cùng nhau kết hiệp với Thiên Chúa, đưa chúng ta từ cõi chết đến nguồn sự sống vĩnh cửu. Chính Ngài đã phá huỷ để tái lập lại chúng ta nên con người mới.
Một sự chết đi và sống lại được thực hiện trong chính tâm hồn chúng ta. Điều đó xem ra có vẻ lạ lùng, nhưng lại là cách thức sinh tồn của vạn vật. Hạt giống không mục nát, không chết đi thì làm sao cây lúa có thể nẩy sinh. Con ngài không tự huỷ thì làm sao nở thành một cánh bướm xinh tươi. Chính nhờ vào sự chết đi mà tạo vật được tiến hoá.
Với chúng ta cũng vậy, khi chúng ta rước lấy Mình Thánh Đức Kitô là chúng ta thực hiện một cuộc tái sinh mới. Chúng ta từ bỏ bản thân để được kết hợp với Đức Kitô. Hơn thế nữa, Thánh Thể còn nuôi dưỡng và thực hiện trong chúng ta một đời sống mới. Người tín hữu phải biết chấp hành những biến đổi do Đức Kitô đem lại, phải từ bỏ mình để làm một cuộc mạo hiểm, vì chúng ta không biết được điều gì Đức Kitô thực hiện trong chúng ta. Đó là một đời sống mới mà chúng ta chưa bao giờ trải qua.
Bởi vậy, với lương thực thần linh bổ dưỡng chúng ta hãy biêt khử trừ những thói hư tật xấu để nhờ đó chúng ta sẽ được mặc lấy con người mới theo hình ảnh của Chúa.
Không gì quý bằng sự sống. Dù bị thiên tai càn quét hết ruộng vườn, tài sản, nhà cửa, tiền bạc, nhưng người nhà chưa phải chết thì vẫn còn may.
Được sống trên cõi đời là một hồng phúc lớn nhất, là một ân huệ vượt trên hết mọi ân huệ. Sách Giảng Viên viết: "Thà làm một con chó sống còn hơn làm một con sư tử chết." (Giảng Viên 9,4). Thà làm một con chuột sống còn hơn một con voi chết! Thế nên người ta thường nói: "Mạng sống quý hơn đống vàng."
Vì yêu thương con người vô hạn nên Thiên Chúa muốn dành cho họ quà tặng cao quý nhất, đó là sự sống; và Thiên Chúa không chỉ ban sự sống sinh vật (sự sống tự nhiên) mà còn thông ban cả Sự Sống thần linh của chính Thiên Chúa cho con người nữa.
Thông ban Sự Sống thần linh
Thiên Chúa Cha là Cội Nguồn của Sự Sống. Sự Sống bắt nguồn từ Chúa Cha, rồi Chúa Cha thông ban Sự Sống của mình cho Chúa Con (Chúa Cha nhiệm sinh Chúa Con) và Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu xác nhận sự sống của mình từ Chúa Cha mà đến: “Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha.” (Ga 6, 57)
Một khi nhận được sự sống từ Chúa Cha, Chúa Giêsu không giữ lại cho riêng mình, nhưng tìm cách thông truyền Sự Sống cao quý ấy cho nhân loại. Bằng cách nào?
Muốn cho cành nho rừng tiếp nhận được sự sống của cây nho vườn, thì nó phải được tháp nối để nên một với cây nho vườn.
Muốn cho một bàn tay bị cắt lìa thân được tiếp nhận sự sống từ thân thể thì bàn tay đó phải được ghép nối vào thân thể, trở nên một với thân thể.
Vậy muốn cho loài người tiếp nhận được Sự Sống của Chúa Giêsu thì phải làm cho họ nên một với Chúa Giêsu.
Thế nên, Chúa Giêsu lập nên bí tích Thánh Thể, hiến ban Thịt và Máu Người, dưới hình bánh rượu, làm của ăn cho nhân loại, để cho những ai lãnh nhận Mình Máu thánh Người thì được nên một với Người, được ở lại trong Người:“Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy.”
Những ai “ở lại trong Chúa Giêsu và có Chúa Giêsu ở lại trong người ấy”, thì kẻ ấy nên một với Chúa Giêsu và tất nhiên Sự Sống của Chúa Giêsu sẽ được thông ban cho người ấy.
Điều tuyệt vời là Sự Sống mà Chúa Giêsu thông ban cho những ai tiếp nhận Mình Máu Người, không phải là sự sống sinh vật có thể bị lụi tàn theo năm tháng mà là Sự Sống vĩnh cửu không bao giờ tàn phai.
“Đức Giêsu nói với người Do-thái rằng: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6, 51)
“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.” (Ga 6, 54)
Thế là thông qua việc tiếp nhận Mình và Máu Chúa Giêsu khi rước lễ, con người được nên “cùng một thân mình, cùng một dòng máu” với Chúa Giêsu và do đó, Sự Sống thần linh của Chúa Giêsu sẽ được thông ban cho họ. Họ sẽ được sống đời đời. Biến đổi con người thành Chúa Giêsu
Ngoài ra, khi tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giêsu trong Bí Tích thánh thể, chúng ta còn được biến đổi để nên một Giêsu khác. Thánh Giáo hoàng Lê-ô Cả khẳng định:
“Thực thế, chúng ta thông phần Mình và Máu Chúa Kitô là để được biến thành Đấng chúng ta rước lấy.” (Trích bài giảng của thánh Lê-ô cả giáo hoàng, trong bài đọc kinh sách ngày thứ tư, tuần 2 phục sinh)
Giáo huấn của Hội Thánh còn dạy cho biết nhờ tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giêsu, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa: “Khi bạn ăn uống Mình và Máu Đức Kitô, bạn nên một với Người, cùng một thân mình, cùng một dòng máu. Như thế, chúng ta trở thành những người mang Đức Kitô, có Mình Máu Người thấm nhập khắp toàn thân. Nhờ vậy, theo lời thánh Phê-rô, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa.” (trích bài giáo huấn cho các tân tòng tại Giê-ru-sa-lem trong bài đọc kinh sách ngày thứ bảy, tuần bát nhật phục sinh)
Lạy Chúa Giêsu, Hồng ân Thánh Thể Chúa ban thật vô cùng lớn lao và quý báu nhưng tiếc thay, nhiều người không nhận biết nên tỏ ra hững hờ.
Xin cho tâm hồn chúng con tràn đầy hoan lạc trước hồng phúc vô giá và khao khát tiếp nhận hồng ân nầy với hết lòng cảm tạ tri ân.
Người Do Thái quý trọng hạt lúa miến như thế nào thì người Việt Nam chúng ta cũng quý trọng hạt gạo biết bao.
Vì hạt gạo tượng trưng cho sự đầy đủ, sung túc và no ấm. Người Việt Nam còn coi hạt gạo, hạt cơm là “hạt ngọc” Trời cho để nuôi sống con người. Tuy nhiên, để có được hạt gạo con người cũng phải bỏ công sức với một nắng hai sương mà có. Trong bài thơ: “Hạt Gạo Làng Ta” của Trần Đăng Khoa viết năm 1968 khi nhà thơ vừa tròn 10 tuổi đã nói lên được một phần ý nghĩa đó:
“Hạt gạo làng ta Có vị phù sa Của sông Kinh Thầy Có hương sen thơm Trong hồ nước đầy Có lời mẹ hát Ngọt bùi hôm nay Hạt gạo làng ta Có bão tháng bảy Có mưa tháng ba Giọt mồ hôi sa Những trưa tháng sáu Nước như ai nấu Chết cả cá cờ Cua ngoi lên bờ Mẹ em xuống cấy.”
Ôi! Thật là một sự hy sinh, cần mẫn vượt lên trên cái nắng đổ lửa, gay gắt đến nỗi “Chết cả cá cờ / Cua ngoi lên bờ”, ấy thế mà: “Mẹ em xuống cấy”... Mẹ đâu quản nắng mưa, đầu tắt, mặt tối để kiếm bát cơm đầy cho con, cho gia đình ấm bụng. Cha đâu quản “một nắng hai sương”,“bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” để vun trồng chờ ngày cho lúa trổ bông.
Vì thế, có ai đó đã nói rằng:
Ôi hạt lúa Ngậm nắng uống sương Hạt hình cong tấm lưng người cày cấy.
Cày cấy với biết bao mồ hôi, tần tảo hy sinh, nhưng để thành hạt gạo, hạt lúa lại còn bị thanh luyện một lần nữa để thành hạt gạo thơm ngon.
Ôi hạt lúa rồi cũng thành hạt gạo Đau đớn qua rồi Gạo trắng tựa bông.
Có lẽ Chúa Giêsu khi chọn tấm bánh làm nên từ hạt lúa miến là biểu tượng cho chính thân thể Ngài, Chúa Giêsu cũng muốn nhắc nhở con người phải trân quý Tấm Bánh Trời Ban, vì đây cũng là dấu chỉ của một tình yêu cao cả không phải của con người làm ra mà là của Thiên Chúa ân ban. Tấm bánh biểu lộ tình yêu tự hiến hy sinh của Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Tấm bánh là thành quả của mồ hôi, của công sức, của hy tế hiến dâng để trở nên của ăn của uống cho nhân trần.
Trong Thánh Kinh ghi lại: “Trong đêm bị trao nộp, Chúa Giêsu cầm bánh bẻ ra và trao cho các môn đệ.” Tại sao không phải là một đêm thanh bình hay một ngày bình an để thiết lập Bí tích Thánh Thể? Tại sao Chúa Giêsu lại chọn giữa lúc nguy nan trăm bề sợ hãi để trao ban Thánh Thể Mình cho các môn sinh? Có lẽ, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh yếu tố hy tế thập giá, là một hy tế tự hiến đầy hy sinh. Thánh Thể được làm nên trong hiến tế thập giá, trong máu và nước mắt của Chúa. Thiên Chúa đã làm tất cả điều đó vì yêu con người. Vì yêu mà Ngài chẳng màng những hy sinh, những đắng cay muôn phần. Cũng như một người mẹ chẳng quản ngại dầm mưa giãi nắng để gieo trồng hạt gạo thì Chúa Giê-su cũng đi vào cuộc thương khó để làm thánh tấm bánh hằng sống cho nhân trần. Nếu như cha ông ta đã từng đồng cảm với bao vất vả cực nhọc thấm đẫm mồ hôi của người nông dân, chân lấm tay bùn và lên tiếng nhắc nhở mọi người: “Ai ơi bưng bát cơm đầy / Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.” Có lẽ Giáo Hội cũng nhắc nhở chúng ta hãy trân trọng món quà Thánh Thể mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta. Một món quà vô giá vì được ban tặng trong hiến tế đẫm máu của Đức Kitô trên Thập giá. Một món quà mà Thiên Chúa đã vun đắp với trọn tình yêu hy sinh chết cho người mình yêu.
Lễ Mình Máu Thánh Chúa là dịp để chúng ta tạ ơn về tình thương mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Tình Ngài vẫn đong đầy cho chúng ta qua Thánh Thể Chúa. Tình Ngài vẫn chịu hiến tế vì chúng ta và qua đó trao ban cho chúng ta tấm bánh sự sống đời đời để: “Ai ăn bánh này sẽ không chết bao giờ”. Xin cho chúng ta luôn biết siêng năng đón nhận Thánh Thể Chúa là lương thực nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Ước gì chúng ta cũng biết hiến tế đời mình kết hợp với hiến tế của Chúa để sinh ơn ích cho mình và cho muôn người.
Xin Mình Máu Thánh Chúa bổ dưỡng và nâng đỡ sự yếu hèn của chúng con. Xin cho chúng con đừng bao giờ xa lánh ơn lành của Chúa. Amen.
Ông tổ Abraham đi cứu người cháu là ông Lot bị bắt giữ, khoảng 1850 năm trước khi Chúa Giêsu giáng trần. Trên đường trở về đi qua Salem, ông Abraham đã gặp ông Melchizedek vừa là vua và là tư tế. Melkizedek đã dâng bánh và rượu cho Abraham. Bánh và rượu là biểu tượng của Bí tích Thánh Thể sau này được hiến dâng bởi tư tế theo dòng Melkizedek: Ông Melkizedek, vua thành Salem, mang bánh và rượu ra; ông là tư tế của Thiên Chúa Tối Cao (Stk 14, 18). Từ thuở xa xưa, con người đã biết biến chế hạt miến, hạt mì thành bánh và ép những trái nho ủ lên men thành rượu. Đây là một tiến trình hòa lẫn biến đổi bánh rượu thật tuyệt vời. Tất cả mọi loài vật khác trên địa cầu đều ăn tươi nuốt sống theo luật tự nhiên. Riêng con người, bánh và rượu là căn cốt thực phẩm được chế biến để đáp ứng nhu cầu ăn uống của con người mọi thời và mọi nơi.
Trong ba năm rao giảng, phúc âm kể lại hai lần Chúa Giêsu đã hóa bánh ra nhiều để nuôi dân. Trước khi Chúa làm phép lạ cho bánh và cá hóa nhiều, Chúa đã dạy dỗ và an ủi chữa lành bệnh tật cả tâm linh lẫn thể xác. Chúa yêu thương đoàn dân như chiên không có người chăn dắt. Người ta mải mê nghe lời Chúa quên cả ngày giờ. Chúa cảm thông mọi nỗi khát khao của họ. Chúa cho họ các món ăn cả tinh thần lẫn thân xác. Hôm nay, Chúa muốn các tông đồ lo liệu thức ăn cho đám đông. Thật là bối rối, của ăn đâu cho đủ để nuôi cả mấy ngàn người: Đức Giê-su bảo: "Chính anh em hãy cho họ ăn." Các ông đáp: "Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá, trừ phi chính chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám dân này." (Lc 9, 13). Chúa muốn thử thách các các tông đồ một chút. Với lòng cảm thương sự đói khát của đoàn dân, Chúa đã sẵn sàng dùng bánh và cá như dấu chỉ của trời cao trao ban: Bấy giờ Đức Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông (Lc 9, 16).
Có thể chúng ta cũng cảm thấy hơi lạ, dân chúng ăn bánh với cá. Bánh là thức ăn chung của nhiều dân tộc nhưng với cá khô nướng hay cá kho. Mỗi dân tộc có những món ăn riêng biệt làm nên căn tính con người. Thức ăn nuôi dưỡng con người cả tinh thần lẫn thể chất. Thức ăn đi đôi với suy tư, quan niệm và triết sống. Đại khái thức ăn biểu trưng của người Việt Nam là cơm gạo, người Căm Bốt có mắm Bồ hóc, người Ấn Độ có món Cari, người Đại Hàn có Kim chi, người Trung Hoa có Mì phở, người Ý có Pizza, người Hoa Kỳ có Hamburger và người Mễ Tây Cơ có Taco, đỗ đậu…Thức ăn làm nên căn tính của mỗi dân tộc. Chúng ta tôn trọng sự khác biệt trong vấn đề văn hóa thực phẩm. Món ăn của các Kitô Hữu trên toàn thế giới, không phân biệt mầu da, chủng tộc, ngôn ngữ, văn hóa, chúng ta cùng ăn chung một thứ bánh và uống chung một chén rượu. Bánh và Rượu của Bí Tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu đã chọn lựa. Khi chúng ta được ăn bánh và uống chén của Chúa, chúng ta trở nên chi thể mầu nhiệm của Chúa Kitô.
Khi hoàn tất việc rao giảng Tin Mừng, trước khi Chúa Giêsu từ giã thế gian, Ngài đã để lại cho Giáo Hội một gia bảo quý giá vô cùng. Cũng bánh đó, rượu đó mà chúng ta được dưỡng nuôi hằng ngày. Chúa Giêsu đã chọn lựa bánh rượu trong muôn ngàn loại thực phẩm để hiến thánh. Trong bữa tiệc Vượt Qua cuối cùng, Chúa Giêsu đã cử hành một nghi thức hết sức nhiệm mầu: Trong đêm bị nộp, Chúa Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: "Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy ( 1Cor 11, 24). Và Chúa đã chọn rượu nho để thánh hiến trở thành Máu Chúa. Chất rượu trong chén thánh là giá máu của giao ước mới. Chúa Giêsu dùng cả bánh và rượu biến đổi thành thịt và máu thánh Chúa: Cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói: "Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy."(1 Cor 11, 25).
Đây là mầu nhiệm đức tin. Các tín hữu tuyên xưng sự hiện diện của Chúa Kitô trong Bí Tích Thánh Thể. Niềm tin vượt trội trên tất cả mọi việc cử hành phụng vụ. Người không thuộc trong đạo Công Giáo, không thể nào hiểu nổi, tại sao người tín hữu lại tin vào tấm bánh bé mọn và chén rượu nho đó là Mình Máu Thánh Chúa. Không có một tôn giáo nào trên thế giới có niềm tin vào sự biến đổi bản thể của một sự vật như thế. Trong cử hành thánh lễ, qua lời truyền phép của linh mục, bánh và rượu trở nên Mình Thánh và Máu Thánh Chúa. Một sự biến đổi lạ lùng qua quyền năng của Chúa Thánh Thần. Mọi người tuyên xưng niềm tin và phủ phục tôn thờ Bí Tích Thánh Thể. Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong hình bánh hình rượu. Và khi trao Mình Máu Thánh, linh mục hay thừa tác viên xác tín: Mình Thánh Chúa Kitô, Máu Thánh Chúa Kitô, chúng ta thưa: Amen. Có nghĩa là chúng ta tin thật Chúa hiện diện đó.
Các linh mục thay mặt Chúa và Giáo Hội dâng thánh lễ mỗi ngày. Giám mục và linh mục đều là con người yếu đuối, tội lỗi và mỏng dòn chứa đầy tham thân si. Qua sứ vụ, Chúa đã chọn gọi những con người tầm thường để thi hành việc thánh. Thật ra, không ai là người xứng đáng đại diện đứng trước bàn thánh để dâng thánh lễ. Trong lễ hiến tế, Chúa Giêsu là Con Chiên Thiên Chúa bị lột trần, bị đòn đánh nát thân, mồ hôi cùng vết thương rướm máu chảy lan, chân tay bị đóng chặt vào thánh giá, chịu đói chịu khát, quằn quại đớn đau và máu cùng nước từ cạnh sườn đã chảy ra tới giọt cuối cùng. Vì đuối sức, Chúa bị nghẹt thở và đã chết trên thánh giá để cứu độ nhân loại. Chén Máu đã đổ ra lập giáo ước mới không chỉ trong bữa tiệc ly mà là chén máu châu báu đang hứng từng giọt từ châu thân của Chúa trên thánh giá. Chén Máu của nhục hình khổ đau và chết.
Trên gian cung thánh, trước bàn thờ dưới chân thánh giá Chúa, các chủ tế mặc áo lễ thiệt đẹp, có khi rước sách linh đình, chén vàng bát kiểu, bàn thờ đá quí và hoa nến trang trọng. Các linh mục cử hành thánh lễ trong không gian rộng rãi, thoáng mát và chẳng phải chịu nắng nôi đớn đau và khổ sở như Chúa Giêsu trên thập giá xưa. Mỗi linh mục cần ý thức vai trò đại diện quan trọng của mình trong khi cử hành thánh lễ. Các linh mục có trọng trách giới thiệu Chúa Kitô cho mọi người. Chúa Giêsu là vai chính. Chúng ta biết rằng thánh lễ hy tế là trung tâm của tất cả niềm tin Kitô Giáo. Cử hành thánh lễ tưởng niệm sự hiện diện của Chúa Kitô chịu chết và sống lại. Thánh lễ là cử hành Bí tích tình yêu dâng hiến. Thánh Phaolô lãnh nhận giáo lý từ chính Chúa Giêsu phục sinh và truyền lại cho các thế hệ, Ngài nhắc nhớ: Cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết (1Cor 11, 26). Chúng ta ăn Bánh và uống Chén hằng tuần, chúng ta tiếp tục loan truyền Chúa chịu chết và sống lại. Mỗi lần lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta được biến đổi nên giống Chúa hơn.
Lạy Chúa, Chúa ban cho chúng con Bí Tích Thánh Thể là nhiệm tích vô cùng cao quí, chúng con cùng phục bái tôn thờ. Chúa hiện diện trong Thánh Thể để an ủi và cảm thông những gánh nặng cuộc đời: Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 28). Hơn nữa, Chúa còn dưỡng nuôi chúng con bằng chính Mình và Máu Thánh Chúa, xin cho chúng con được hưởng nếm tình yêu dịu ngọt trong ân tình Chúa.
Theo truyền thống từ thế kỷ XIII, lễ kính Mình Máu Thánh Chúa được Đức Ubanô IV thiết lập ngày 11 tháng 8 năm 1264 và được cử hành vào thứ Năm sau lễ Chúa Ba Ngôi, tức là 60 ngày sau lễ Phục sinh. Lễ này gồm hai phần: Thánh lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, Festum Corporis Christi, và cao điểm Rước Kiệu Mình Thánh Chúa ra khỏi nhà thờ, đi trên các nẻo đường và hát bài của Thánh Tôma Aquinô: Chúa nuôi dân bằng lúa mì tinh hảo, mật ong rừng, Người cho hưởng thỏa thuê. (Ca nhập lễ)
Cử hành Thánh Thể
Giáo hội long trọng công khai Bí tích Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Mầu nhiệm đã được thiết lập trong bữa Tiệc Ly và hằng năm được nhớ đến vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh, nay được biểu lộ cho tất cả, được bao bọc bởi đức tin sốt mến và lòng sùng kính của cộng đoàn Giáo hội.
Trên bàn thờ Chúa, chúng ta đã thấy tận mắt Bánh và Rượu được truyền phép. Nhưng cần phải được soi sáng, đức tin chúng ta mới nhận biết và tin rằng Bánh chính là Mình Chúa Kitô và Rượu là Máu Chúa Kitô. Thật không có ngôn ngữ nào có thể diễn tả hết niềm tin của chúng ta: Làm sao Bánh lại có thể là mình Chúa Kitô và Rượu lại là máu Chúa Kitô được?
Chúng ta tin, Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Bí Tích Mình Thánh. Bánh thánh trở thành Bí tích nuôi dưỡng linh hồn chúng ta, Bí tích cần thiết để dẫn dắt chúng ta trên con đường về tới thiên đàng! Trước khi về Trời, Chúa Giêsu đã hứa không để chúng ta mồ côi: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28, 20). Nhưng Ngài ở lại với chúng ta thế nào khi trở cùng Cha? Bí tích Thánh Thể là kho tàng cao quí thể hiện lời hứa trên.
Chúa Giêsu hiện diện thật sự giữa chúng ta. Giáo Hội quả quyết rằng: Sự hiện diện thật của Ngài trong Bí tích Thánh Thể là chân lý cơ bản của Đức Tin Công Giáo. Chúng ta phải tôn thờ, Tấm Bánh truyền phép được đặt trước mặt chúng ta nói về quyền năng vô cùng của tình yêu được bộc lộ trên Thánh Giá vinh hiển. Bánh Thánh nói cho chúng ta về sự hạ mình khó tin của Đấng đã biến mình, hiện diện khiêm tốn dưới hình bánh và hình rượu.
Thánh Tôma Aquinô cho chúng ta biết: Con độc nhất của Thiên Chúa, muốn cho chúng ta thông phần vào thiên tính của Chúa, Ngài đã làm người thực sự. Để cứu chuộc con người, Ngài đã đổ máu mình ra rửa chúng ta sạch muôn vàn tội lỗi, giao hòa chúng ta với Chúa Cha trên bàn thờ Thập Giá.
Đây không phải là máu chiên, bò, nhưng là máu châu báu của Chúa Kitô, Thiên Chúa thật. Bánh và rượu trở nên Chúa Kitô, Thiên Chúa làm người. Vì thế, Ngài được các tín hữu ăn: “Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống” (Ga 6,55-56). Từ phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi đám đông trong hoang địa. Chúa Giêsu đã chính thức hứa ban cho chúng ta thứ của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn chúng ta (Lc 9, 11b-17).
Bí tích Thánh Thể là Tình Yêu tột đỉnh của Ngài đối với chúng ta: “Trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán: "Các con hãy lãnh nhận mà ăn...". Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén và phán: "Các con hãy cầm lấy mà uống. Chén này là Tân Ước trong Máu Ta; mỗi khi các con uống, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta" (1 Cr 11, 23-26). Thật là niềm an ủi cho những người đã buồn vì sự vắng mặt của Chúa," (Bài giảng của Thánh Thomas Aquinas, Booklet 57).
Thánh Gioan Kim Khẩu nói: "Anh em hãy để tâm suy nghĩ về vinh dự khi anh em được cất nhắc lên đồng bàn tham dự tiệc thánh. Điều mà các thiên thần run sợ khi chiêm ngắm Ánh Huy Hoàng chói lọi, Đức Kitô lại ban cho chúng ta làm của ăn, bằng mọi cách, Ngài lấy chính máu mình nuôi dưỡng chúng ta, Ngài kết hợp chúng ta với Ngài, để chúng ta được hợp cùng Đức Kitô và hiệp nhất cùng nhau như một thân mình và một xác vậy." (Thánh Gioan Kim Khẩu)
Bí tích Thánh Thể là chóp đỉnh về lòng nhân ái của Thiên Chúa đối với chúng ta: “Chúa Kitô tháp nhập vào mỗi tín hữu nhờ Bí tích này. Những kẻ Ngài đã sinh ra thì Ngài nuôi dưỡng bằng chính bản thân Ngài, qua Bí tích Thánh Thể, Ngài làm cho ta vững tin rằng Ngài đã mang lấy chính xác thân của ta”. Ngài tan biến trong chúng ta, “làm một với chúng ta”, “làm cho chúng ta trở nên thân mình của Ngài” (Thánh Gioan Kim Khẩu).
Việc biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, là nguyên tắc cho việc thần thiêng hoá tạo vật. Vì thế, lễ kính Mình và Máu Thánh Chúa Kitô có đặc điểm hết sức riêng biệt là truyền thống rước kiệu Mình Thánh Chúa. Rước kiệu Mình Thánh trên các nẻo đường
Khi kiệu Mình Thánh Chúa và đưa Chúa ra khỏi nhà thờ. Giáo Hội tuyên xưng Chúa Giêsu ngự thật trong phép Mình Thánh, mang Chúa vào trong đời ta, với mong ước nhà ta là nhà dành cho Chúa, đường đời ta là đường của Chúa Giêsu. Xin Chúa Giêsu luôn hiện diện trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta!
Qua cuộc rước kiệu, chúng ta thấy Chúa và chắc chắn Chúa thấy tất cả những khổ đau của những bệnh nhân; những nỗi cô đơn của những người trẻ và của những người già; những cám dỗ, những nỗi lo lắng trong cuộc sống của chúng ta.
Cuộc rước kiệu này còn có ý nghĩa là xin Chúa chúc lành cho chúng ta và cho toàn thế giới.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự trong phép Mình Thánh, là Bánh nuôi sống đích thực nuôi dưỡng chúng con trên mặt đất này, xin hướng dẫn chúng con đến bàn tiệc trên Trời, trong vinh quang các thánh của Chúa, có Mẹ Maria là Mẹ chúng con.
Lạy Mẹ Maria, Trinh Nữ Chí Thánh, Mẹ của Chúa Giêsu, Đấng đầu thai Vô Nhiễm, từ hai ngàn năm nay, đã chấp nhận, hiến dâng mọi sự, hiến dâng thân xác Mẹ hầu rước lấy thân xác Đấng Sáng Tạo, xin giúp chúng con chiêm ngưỡng, xin giúp chúng con thờ lạy và yêu mến, Đấng đã yêu thương chúng con dường ấy, hầu chúng con được sống đời đời với Người. Amen.
Ở trong nhà tiệc ly chiều hôm thứ năm thánh ấy, Chúa Giêsu đã cầm bánh và rượu lập nên phép Thánh Thể. Bánh đã trở nên mình Chúa, rượu đã trở nên máu Chúa. Thì cách đó độ 300 thước, trên sân đền thờ người Do-thái cũng giết con chiên lấy máu rẩy lên bàn thờ, họ dâng bánh thánh theo luật Môisen dạy. Ngài cũng làm một nghi lễ, nhưng mặc cho nghi lễ ấy một ý nghĩa sâu xa: Ngài vừa là Thầy cả vừa là của lễ hiến tế dâng lên Đức Chúa Cha, vừa là của nuôi linh hồn ta.
Trong bài đọc I, Kinh Thánh kể lại việc Môisen làm hy lễ giao hòa bằng cách lấy máu bò tơ tưới lên bàn thờ. Người xưa coi máu là sự sống, cấm đổ máu người ta là cấm hại mạng sống người vì mạng sống thuộc quyền của Chúa; người xưa lấy máu để tỏ tình đoàn kết giao hòa. Hai bộ lạc dễ tỏ tình đoàn kết thì cho hai vị thủ lãnh gặp nhau, lấy dao rạch máu ở tay, và đôi bên uống máu nhau. Bằng nghi thức ấy, họ cho rằng hai bên đã uống nguồn sống của nhau và đã trở nên anh em, đã giao hòa mãi mãi với nhau. Môisen đã làm nghi lễ ấy khi lấy máu bò tơ, đại diện cho toàn dân để tưới lên bàn thờ Thiên Chúa: giữa Thiên Chúa và dân đã có một cuộc giao hòa vĩnh viễn.
Khi lập nên phép Thánh Thể, Chúa Giêsu đã hoàn tất việc giao hòa giữa ta với Thiên Chúa. Máu thánh của Ngài chảy trong huyết quản của ta, làm cho ta giao hòa nơi Thiên Chúa, Ngài ở trong ta như ta ở trong Ngài. “Này là chén máu Ta, máu tân ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được khỏi tội”. “Nếu các con không ăn thịt và uống máu Ta thì các con không có sự sống đời đời”.
Thánh Thể là một cuộc giao hòa – Thánh Thể là một lễ tế.
Chúa Giêsu biết giờ sau hết của Ngài đã gần đến thì Ngài yêu thương ta đến tận cùng. Ngài đã làm gì? Ngài diễn tình yêu ấy ra trước cuộc tử nạn của Ngài sẽ xãy ra ngày mai; Ngài cầm bánh, bẻ ra, trao cho các môn đệ và phán: “NÀY LÀ MÌNH TA”. Bánh ấy đã trở nên mình Ngài, mà ngày mai sẽ bị roi đòn đánh đập, bẻ gẫy như chiếc bánh hôm nay, đã hiến tế dâng lên Đức Chúa Cha và làm của ăn nuôi linh hồn ta. Hai việc ấy là hiến dâng và nuôi sống linh hồn ta, chính là một cuộc lễ hiến tế và Ngài muốn chúng ta phải làm đi làm lại: “Chúng con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”.
Vậy phép Thánh Thể là cuộc giao hòa chúng ta với Chúa, là việc tế lễ ta với Chúa. Hôm nay mừng mầu nhiệm ấy, chúng ta hãy dâng tất cả để tôn vinh và cảm tạ Chúa, vì đã ban cho chúng ta phép Thánh Thể.
Cách đây không bao lâu, một đám thợ lặn đã tìm ra chiếc tàu Tân Ban Nha bị chìm dưới đáy biển ngoài khơi Bắc Ái Nhĩ Lan. Trong số các báu vật tìm được trong tàu, họ thấy một chiếc nhẫn bằng vàng, trên mặt nhẫn có chạm một bàn tay nắm trái tim với dòng chữ:
- Anh không còn gì hơn nữa để cho em!
Hình ảnh về câu nói trên nhắc chúng ta nhớ đến việc Chúa Giêsu đã chịu chết để cứu chuộc chúng ta. Trái tim người đã bị đâm thủng vì chúng ta và Ngài còn tự nguyện trở nên thần lương cho đời sống Kitô hữu của chúng ta trong Bí tích Thánh Thể.
Nhiều nhà thần học gia nói rằng: việc Chúa Giêsu từ bỏ ngai Trời của mình hoá thân làm người cũng đủ cứu chuộc chúng ta rồi. Thế nhưng, với lòng yêu thương chúng ta quá bội, Ngài còn muốn trao ban cho chúng ta tất cả tình yêu, trao ban cả mạng sống của Ngài. Chính sự hy sinh vô cùng này có sức cứu chữa tất cả mọi tâm hồn tội lỗi, tha thứ mọi hình phạt mà con người đáng phải chịu. Ai yêu mến Chúa hết lòng, và ước ao trở nên một với Ngài trong Bí tích Thánh thể, sẽ được nên giống Chúa và chắc chắn sẽ được phần thưởng Nước Trời.
Thời nay, chúng ta không được gặp Chúa Giêsu, không được nghe Người giảng trực tiếp như các Tông đồ ngày xưa, nhưng chúng ta có Bí tích Thánh thể. Chúa Giêsu không muốn chúng ta thiệt thòi hơn dân Do Thái xưa nên Người đã lập Bí Tích Thánh Thể, để tiếp tục ở với chúng ta, đến với từng người chúng ta như xưa Người đã đến trong dân Do Thái. Mỗi lần chúng ta tham dự Thánh lễ là chúng ta được nghe lại lời Chúa và suy niệm theo sự gợi ý của vị linh mục, sau đó được rước chính Chúa vào lòng như xưa kia Giakêu, Phêrô, chị em Lazarô... đã rước Chúa vào nhà mình. Giáo lý Công giáo dạy rằng: mỗi khi chúng ta rước lễ là được kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu và hợp nhất với nhau, được tha thứ các lỗi nhẹ, được Chúa thêm sức giúp chúng ta chống trả các cơn cám dỗ... Vấn đề là chúng ta có cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa trong lòng mình không? Hay chúng ta rước lễ vì thói quen, rước rồi mà không nhớ là Chúa đang ngự trong lòng mình, quên việc tiếp đón và tâm sự với Chúa. Nếu chúng ta rước Chúa cách thờ ơ như vậy thì không chừng đáng bị phạt hơn là được ơn. Vì vậy, phải chuẩn bị tâm hồn kỹ lưỡng trước khi rước Chúa. ước gì mỗi lần rước Chúa, chúng ta đều rước với lòng yêu mến chân thành, cung kính để an ủi trái tim Chúa và nhận được tràn đầy ơn ích thiêng liêng.
Xưa kia, Thiên Chúa ngự xuống núi Sinai và nhắn gởi những lời thương yêu, nhắc bảo, sửa dạy dân chúng mà dân Do Thái cảm thấy rất phấn khởi và đầy lòng kính sợ Chúa. Còn chúng ta rước Chúa thường xuyên với tâm tình nào? Chúng ta có sẵn sàng lắng nghe lời Chúa và vâng theo thánh ý Chúa Cha như Đức Giêsu không? Có lẽ chúng ta chưa được như vậy! Vì vậy, hôm nay chúng ta hãy xin Chúa ngự vào lòng và làm cho long chúng ta bừng cháy lửa yêu mến Chúa, vui long hy sinh phục vụ cho gia đình, và tha nhân, chu toàn các bổn phận mà mình đã lãnh nhận trong chức vị hiện tại của mình đối với Giáo Hội và xã hội.
Xin Mình Máu Thánh Chúa mà chúng con rước lấy hàng ngày thêm sức cho linh hồn con, cho tâm trí con được chan chứa tình thương và lòng vị tha bác ái, để chúng con thật sự là chứng nhân cho Chúa giữa trần gian này.
Vào năm 1246, tại Toà giám mục Liège của Bỉ quốc, người ta thấy có cuộc gặp gỡ bất thường giữa Đức Cha Rôbectô de Thorate và sơ Juliana, một nữ tu khiêm hạ và thánh thiện của Dòng Augustinô. Sơ Juliana đến xin yết kiến vị Giám mục sở tại để dâng lên một lời thỉnh cầu: xin giáo quyền cho thiết lập ngày lễ kính Mình Thánh Chúa Giêsu.
Lẽ đương nhiên, vị Giám mục thánh thiện và khôn ngoan Rôbectô đã hỏi vị nữ tu về nguyên nhân hay động lực thúc đẩy làm nên lời thỉnh cầu. Sơ Juliana thành thật trình bày với Đức Cha rằng hồi nhỏ sơ có thấy hình một vầng trăng rằm với một đốm đen trên đó. Mãi về sau, trong một lần hiện ra, Chúa Giêsu đã giải thích cho Sơ Juliana về ý nghĩa của giấc mơ ngày xưa: vầng trăng rằm tượng trưng cho chu kỳ phụng vụ trong năm; đốm đen là vì trong chu kỳ đó vẫn còn thiếu một ngày lễ để vinh danh Thân Mình Cực Thánh của Chúa Giêsu.
Theo Sơ Juliana, ngoài Thứ Năm Tuần Thánh, ngày tưởng niệm việc thiết lập Bí Tích Thánh Thể, Chúa Giêsu còn muốn Giáo hội có một ngày khác để tôn kính Mình Máu của Ngài. Kèm với lời giải thích và tỏ bày ý muốn, Chúa Giêsu còn nêu lên ba lý do của việc làm này: thứ nhất, Ngài khát khao niềm tin vào Bí tích Thánh Thể được càng ngày càng vững vàng mạnh mẽ nơi mỗi người Kitô hữu; thứ hai, Ngài ao ước mọi tín hữu múc được sức mạnh thiêng liêng nơi Bí tích Thánh Thể để có thể can đảm thực thi các nhân đức; và thứ ba, Ngài mong muốn người tín hữu có cơ hội sửa chữa cho những phạm thánh và bất kính mà loài người đã gây nên.
Dường như được ơn Chúa soi sáng và sắp xếp, nên Đức Cha Rôbectô de Thorate đã lắng nghe và tin tưởng những điều Sơ Juliana nói. Thế rồi, chẳng bao lâu sau, ngài cho thiết lập trong địa phận một ngày lễ kính Mình Thánh Chúa hay còn được gọi là Corpus Christi (tiếng Latinh). Đức Cha cũng đã trình cho Đức Giáo hoàng Ubanô IV về những gì ngài đang thực hiện trong địa phận. Và rồi, đến năm 1264, Đức Ubanô đã cho công bố với Giáo hội hoàn vũ việc chọn ngày thứ Năm sau lễ Chúa Ba Ngôi làm ngày kính Mình Thánh Chúa cách đặc biệt.
Tập quán trên đã được nắm giữ từ thế kỷ 13 cho đến những thập niên gần đây. Sau Công đồng Vaticanô II, một vài sửa đổi đã được thực thi, trong đó lễ Corpus Christi được dời vào ngày Chúa Nhật sau Lễ Chúa Ba Ngôi.
Suốt hơn 8 thế kỷ trôi qua, cứ đến ngày lễ Kính Mình Thánh Chúa, khắp nơi, trong nhiều giáo xứ, người ta tổ chức chầu lượt, lôi cuốn biết bao nhiêu giáo hữu đến kính thờ suy tôn Chúa Giêsu trong Phép Thánh Thể.
Tuy cũng có những người chống đối và tìm cách loại trừ ngày lễ này khỏi lòng tín hữu, nhưng những cố gắng đó cũng chỉ hoài công. Lịch sử có ghi nhận: trong cuộc Chiến tranh Ba Mươi Ngày bên Châu âu, quân đội Thuỵ Điển đã bao vây một làng Wuerzburg tại Bavaria. Vị quan chỉ huy đã đưa ra nhiều nghiêm lệnh nhằm khống chế dân chúng. Trong đó có lệnh cấm tổ chức rước kiệu trong ngày lễ Corpus Christi sắp đến.
Các thầy Dòng Camêlô đang cư ngụ trong làng đã phải đối diện với tình hình tiến thoái lưỡng nan: trong khi Thiên Chúa Cha muốn cử hành ngày lễ tôn kính Con Ngài thì vị chỉ huy quân đội Thuỵ Điển lại ngăn cấm, nếu không muốn bị tử hình. Nhưng cuối cùng các vị tu sĩ đã chọn vâng theo ý Thiên Chúa. Thế là một cuộc rước long trọng với linh mục kiệu Thánh Thể từ nhà thờ qua cổng làng đã diễn ra. Lập tức quân đội được phái đến. Súng ống, gươm giáo dàn ra đe doạ.
Không sợ hãi, thầy Agapytus hiên ngang rẽ đám đông tiến lên. Đứng trước hàng quân đang lăm le vũ khí, thầy bảo họ hãy quỳ gối xuống trước Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá. Lạ lùng thay, cả đoàn binh đã đồng loạt quỳ xuống, không ai dám thi hành lệnh phá hoại cuộc rước của quan chỉ huy! Thế là dân chúng lại tiếp tục hồ hởi cung nghinh Mình Thánh Chúa qua các nẻo đường đã định. (x. Homilies, Thomas L. Kemp)
Ý nghĩa lễ Corpus Christi:
Lễ Corpus Christi được lập ra để nhắc nhở với người giáo hữu về một tình mến bao la vô tận. Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến nỗi đã ban người Con yêu dấu của Ngài, để mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Sự hạ mình từ một Thiên Chúa cao sang xuống mang kiếp người để chia sẻ thân phận khốn cùng và cứu chuộc nhân loại đã là một lối tỏ tình quá sức tưởng tượng. Ấy thế mà, làm như chưa thoả, Thiên Chúa lại còn hạ mình trở thành tấm bánh, vật vô tri vô giác, còn thấp hơn bất cứ một loài thụ sinh nào.
Lắm người cảm nhận mình như là quả banh, cây chổi, viết chì trong tay Chúa. Quả là những tâm tình khiêm hạ đáng quí. Nhưng khi so với sự khiêm hạ của Thiên Chúa khi trở nên tấm bánh nuôi dưỡng tâm hồn người ta thì vẫn là một cách biệt không thể đo lường.
Thánh Bênađô từng nói: “Tình yêu không phân biệt giai cấp.” Còn Thánh Phêrô Kim khẩu thì viết: “Khi yêu, người ta bất luận giàu nghèo, cũng không màng cân xứng, không ngại khó khăn, nhưng miễn sao thoả lòng ao ước là được.” Một linh mục khác cũng nhận xét rằng khi yêu chẳng ai nói với nhau: “Tôi là con nhà giàu, có bằng tiến sĩ vật lý, còn em chỉ là con bé nhà quê ít học, cho nên em phải biết thân biết phận của mình”. Không thế được! “Không thể có thái độ kênh kiệu như thế trong tình yêu chân thật” (Lm. Nguyễn Khảm, Nghe Trong Thinh Lặng). Đúng hơn, người ta sẽ khiêm tốn hạ mình để chỉ thấy người yêu chính là đối tượng duy nhất và tất cả.
Thế ra, vì yêu thương nên Thiên Chúa đã khiêm tốn hạ mình làm người, và hơn thế nữa, Ngài lại còn hạ mình làm thành tấm bánh đơn sơ bé nhỏ cho người ta dễ ăn, hầu được nên một với con người.
Nên một là đặc tính của tình yêu. Có yêu nhau người ta mới muốn nên một và sợ bị chia ly. Thánh Anphong từng suy gẫm rằng: “Vì Chúa khao khát ta rước lấy Ngài trong phép Thánh Thể, nên Ngài mời gọi: ‘Hãy đến ăn bánh Ta ban và uống rượu Ta dọn’ (Cn 9:5). ‘Ăn đi hỡi các bạn. Uống đi! Say đi hỡi các bạn yêu dấu’ (Dc 5:1). Chúa mời gọi ta chưa đủ, Ngài còn ra luật buộc ta nữa: ‘Hãy cầm lấy mà ăn, này là mình Ta’ (Mt 26:26). Và Ngài hứa ban sự sống đời đời cho những ai chịu lấy Ngài: ‘Ai ăn bánh này, thì sẽ được sống đời đời’ (Ga 6:51). Nếu ta không vâng giữ lời Ngài, thì Ngài ngăm đe: ‘Nếu các ngươi không ăn thịt và uống máu Con Người, các ngươi sẽ không có sự sống nơi mình các ngươi’ (Ga 6:53). Tất cả những lời mời gọi, những lời hứa ban, và những lời khuyên răn hiệp cùng ta trong bí tích Thánh Thể, để tình yêu thương được mật thiết hơn”.
Kỳ lạ làm sao tình Chúa yêu nhân thế trong Bí tích Thánh Thể! Nhưng có lẽ cũng kỳ lạ không kém khi con người dửng dưng, lạnh lùng và xem thường việc rước Chúa. Không ít người cảm thấy nguội lạnh, chẳng xứng đáng được Chúa ngự vào. Nhưng những người đó hãy ghi nhớ lời Thánh Catarina Xiêna: “Kẻ nói mình nguội lạnh, không dám rước lễ cũng giống như người biết mình bị cảm lạnh mà không chịu đến lò sưởi ấm, ấy thật là dại dột.” Thế nên, càng biết mình nguội lạnh, khô khan, hay hèn yếu, ta càng phải siêng năng đến gần với lò lửa tình thương đang bừng cháy. Các thánh khuyên ta hãy siêng năng rước lễ vì “một lần rước lễ được nhiều ơn ích hơn một tuần ăn chay” (T. Vincentê Phêriê).
Nếu không thể rước Chúa cách trực tiếp thì cũng hãy rước lễ cách thiêng liêng. Với lòng ước ao rước Chúa cũng đủ để khử trừ mọi tội nhẹ và giữ gìn ta khỏi các tội trọng rồi. Nếu không thể đi dâng Lễ hàng ngày, thì hãy đọc lên lời nguyện “Rước lễ Thiêng liêng” sau đây để lửa mến Chúa được bừng cháy luôn trong tâm hồn: “Lạy rất thánh Trái Tim Đức Chúa Giêsu. Bởi Chúa hằng muốn kết hợp cùng con trong phép Thánh Thể, nên lòng con khát khao rước Chúa ngự vào lòng con lắm. Song bây giờ con chẳng được rước thật Mình Máu Thánh Chúa, thì ít nữa lại xin Chúa hãy ngự vào lòng con cách thiêng liêng. Lạy Chúa xin hãy ngự vào lòng con”.
Xin cho ngày Lễ Corpus Christi đốt lên trong ta ngọn lửa kính mến và lòng khát khao được kết hiệp cùng Chúa Giêsu Thánh Thể, hầu sức sống luôn chứa chan và bình an hằng tuôn tràn trong cuộc đời chúng ta.
ta cũng đều cảm thấy máu của con người có một giá trị thiêng liêng, là phần quan trọng nhất trong cơ thể con người, và nó còn được coi như biểu tựơng của sự sống của con người; những ngày hiến máu nhân đạo được coi như những ngày hội của lòng nhân ái, nhờ những giọt máu của lòng quảng đại ấy mà nhiều người đã được cứu sống. Cũng vậy đối với người Do Thái, máu là thánh thiêng, là biểu tượng của sự sống và thuộc chủ quyền của Thiên Chúa nên không ai được đụng chạm đến máu, vậy mà trong đêm Thứ Năm Tuần Thánh, tại nhà tiệc ly, Chúa Giêsu đã thực hiện một việc lạ lùng, đó là trao ban cho nhân loại Máu và Thịt, và Ngài còn mời gọi: Anh em hãy cầm lấy mà ăn, hãy nhận lậy mà uống, máu ấy vừa có sức tẩy rửa tội lỗi, đem lại sự sống và làm của ăn của uống và là quà tặng muôn đời cho nhân loại.
Chúng ta thường xúc động khi đọc những câu chuyện về những người cha tận tụy hy sinh một đời cho con cái, có những người mẹ đã ở tuổi 70 mà vẫn phải vất vả sớm hôm lo cho những đứa con bệnh tật, có những người cha người mẹ mỗi tháng âm thầm đi bán những giọt máu của mình để có tiền nuôi con, và thuốc men cho con cái. Mừng lễ Mình và Máu Thánh Chúa hôm nay, chúng ta càng xúc động hơn nữa khi chiêm ngăm tình yêu của Thiên Chúa đã hy sinh đổ máu mình ra để cứu chuộc chúng ta và mời gọi chúng ta xác tín vào Bí Tích Diệu Kỳ này, đồng thời mời gọi chúng ta chiêm ngắm, tôn thờ và đón nhận Mình và Máu Chúa làm lương thực và sức sống cho chúng ta.
Những hình ảnh hy sinh tận tụy của những người cha người mẹ giúp chúng ta dẽ dàng hơn khi suy niệm về tình yêu của một Thiên Chúa yêu thương và hy sinh, kể cả mạng sống cho chúng ta là con cái của Ngài. Đức Giêsu Kitô chính là một vị Thiên Chúa, thế nhưng Ngài không ngự ở trên trời để nhìn xem loài người, nhưng Ngài đã chấp nhận mang lấy thân phận của con người để đến ở với con người và nhất là để có thể yêu thương con người bằng trái tim của một con người. Đó là một Thiên Chúa có tấm lòng chạnh thương trước những nhu cầu và sự đói khổ của nhân loại, Ngài nhìn thấy một nhân loại đang lầm lũi bước đi trong bóng tối của sư chết, Ngài đã đem đến cho họ ánh sánhg của hy vọng và niềm vui của nước trời, Ngài đã chỉ cho họ con đường để đạt đến niềm vui và hạnh phúc đích thực, Ngài còn ra tay cứu chữa những đau khổ thể xác và tâm hồn cho con người. Tin Mừng Maccô còn cho thấy, Chúa Giêsu không chỉ lo lắng cho đời sống thiêng liêng của con người mà Ngài còn chạnh thương cho tình trạng đói nghèo thể xác của họ. Khi thấy đám đông dân chúng đã theo Ngài từ sáng sớm, Ngài không nỡ để họ ra về bụng đói, Ngài đã đề nghị các tông đồ tim kiếm lương thực cho họ, và sau đó Ngài đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông hơn năm ngàn người ân no.
Qua phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng ăn no đến dư thừa, Chúa Giêsu còn muốn hướng mọi người đến một thứ lương thực cao quý hơn có thể thỏa mãn tất cả những đói nghèo, đau khổ của con người người, mà Chúa Giêsu sẽ ban tặng sau này, đó là việc Ngài đã không chỉ biến bánh ra nhiều mà còn biến bánh trở nên thịt Ngài và biến rượu trở nên máu Ngài làm của ăn của uống nuôi dưỡng nhân loại chúng ta.
Trong thư Corintô, Thánh Phaolô đã thuật lại biến cố long trọng ấy: Trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà nói: Đây là Mình Thày, hiến dâng vì anh em, anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thày. Ngài cũng cầm lấy chén và nói: Đây là Máu Thày, anh em hãy cầm lấy mà uống, anh em hãy làm việc này mà nhớ đên Thày. Việc làm này là một hành động vượt sức tưởng tượng của con người, giống như người cha người mẹ, không hề tiếc với con điều gì, kể cả mạng sống, thì Đức Giêsu cũng yêu thương con người chúng ta như vậy, Ngài trao ban tất cả cho chúng ta, trao ban đến cả mạng sống, chấp nhận trở nên của ăn của uống để có thể ở lại với con người, đi vào trong tâm hồn và nên một với người mình yêu thương.
Bí tích Mình Máu Thánh Chúa, chính là một sáng kiến tuyệt với của tình yêu của Chúa Giêsu, vì yêu, Chúa không muốn lìa xa con người nhưng muốn ở lại, và ở cùng con người để tiếp tục yêu thương và nuôi dưỡng con người cho đến ngày tân thế, Ngài còn chấp nhận lệ thuộc vào các tông đồ khi trao cho các ông quyền: Hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thày. Với lệnh truyền này, Chúa Giêsu đã cho các tông đồ lặp lại việc biến bánh và rượu là sản phẩm từ lao công của con người trở thành của lễ dâng lên Thiên Chúa Cha và biến nó trở thành chính thân thể, máu thịt của Chúa Giêsu.
Thưa quý OBACE, mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, chúng ta cảm tạ về Hông Ân Mình và Máu Thánh mà chúa Giêsu đề lại và trao ban cho chúng ta, đồng thời Ngài mời gọi chúng ta đừng ngại ngần, mà hãy siêng năng đến cầm lấy mà ăn, cầm lấy mà uống vì đây chính là lương thực nuôi dưỡng đời sống đức tin của chúng ta, và là chính Thiên Chúa Tình Yêu đang ở với chúng ta để nâng đỡ và bổ sức cho chúng ta trên hành trinh theo Chúa.
Thánh lễ mỗi ngày là nơi mà Giáo Hội thi hành lệnh truyền của Chúa: Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thày, và cũng là lúc Giáo Hội nhân danh Chúa Giêsu để dâng lên Thiên Chúa Cha, chính Mình, Máu và cả con người của Chúa Giêsu đã chịu hiến tế, để xin ơn tha thứ và cứu độ cho nhân loại. Vì vây đến tham dư thánh lễ mỗi ngày, là chúng ta bày tỏ lòng yêu mến biết ơn và vâng phục của chúng ta trước tình yêu hy sinh trao hiến của Chúa Giêsu, đồng thời mỗi người đón nhân tình yêu và sư tha thứ từ nới Thiên Chúa Cha. Không những thế, trong thánh lễ, tùy theo phận vụ và ơn gọi của mình mỗi người đến đây sẽ đem theo mồ hôi nước mắt, hy sinh vất vả trong ngày để cùng đặt lên dĩa thánh dâng lên Thiên Chúa xin Chúa chấp nhận biến thành Máu Thịt của Chúa Giêsu và ban làm của ăn cũng như ơn cứu độ cho bản thân và gia đinh.
Vì thế đừng bao giờ chúng ta nại vào sự vất vả hay bận rộn, mà bỏ qua việc đến với Thánh lễ mỗi ngày, vì ở nơi đây chúng ta được gặp gỡ với Đức Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể, được đón nhận sư nâng đỡ và bổ sức của Ngài, được nuôi dưỡng và an ủi, được thứ tha và được yêu thương vỗ về của Thiên Chúa là Cha và của chính Chúa Giêsu Đấng là Chúa và cũng là bạn hữu là người thân của chúng ta.
Đón nhận Mình Máu Chúa, chúng ta được mời gọi để trở thành của ăn trở thanh tấm bánh cho anh em, chấp nhận hy sinh, chia sẻ và trao tặng cả con người và cuộc đời mình cho gia đình và anh em. Chính anh em hãy cho họ ăn. Đó là lời Chúa muốn nói với chúng ta, dù là bậc cha mẹ hay là con cái, dù là trong gia đình hay với bạn bè, chúng ta đều phải thực hiện lời mời gọi này. Hãy noi gương Chúa Giêsu, chúng ta cũng phải trở thành những con người dám phục vụ anh chi em, dám hy sinh thời giờ sức lực trí tuệ để đem đến niềm vui và hạnh phúc cho anh chị em, dám mở rộng đôi tay và trái tim và để cho trái tim mình biết rung nhịp trước những đau khổ của anh em để cảm thông để an ủi nâng đỡ; hãy cho vợ chồng, con cái không chỉ lương thực cơm bánh mà hãy cho họ tình yêu thương và sự phục vụ của mình.
Lời Chúa hôm nay mời gọi các bạn trẻ hãy siêng năng đón nhận Mình Máu Chúa mỗi ngày, Thánh Thể Chúa sẽ dạy các bạn biết thế nào là một tình yêu thương đích thực, Ngài sẽ cho các bạn nghị lực và niêm vui trong cuộc sống, Ngài sẽ giúp các bạn ra khỏi sư ngại ngần để bước đến với người khác bằng một tâm hồn và trái tim nhiệt thành của tuôi trẻ, để phục vụ để yêu thương. Nhất là đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, Ngài sẽ giúp các bạn chiến thắng được con người ù lỳ lười biếng của mình, vượt qua những lôi cuốn của cám dỗ đam mê dục vọng, và sẽ thánh hóa con người và cả cuộc đời các bạn, và đem đên cho các bạn sự sống đời đời. Amen.
Khi thương nhau thì người ta sẽ làm mọi cách để biểu lộ tình thương và sự quan tâm của mình. Những món quà, những cuộc điện thoại hay những tin nhắn qua điện thoại... Cử chỉ trao nhẫn cho nhau trong nghi thức của Bí tích Hôn phối cũng nói lên dấu chỉ tình yêu giữa hai người phối ngẫu. Dấu chỉ ấy nói lên từ giây phút đó họ sẽ thuộc trọn về nhau cả xác lẫn hồn.
Tuần trước cùng với Giáo hội chúng ta mừng lễ Chúa Ba Ngôi - mầu nhiệm trung tâm của niềm tin Kitô giáo. Ba Ngôi cùng một bản thể, cùng một uy quyền và cùng hướng về một mục tiêu chung. Đó là cùng đem tình yêu và hạnh phúc đến cho con người. Có thể nói Thiên Chúa đã tỏ ra hàng trăm ngàn dấu chỉ để biểu lộ tình thương của Người dành cho con người. Một trong những dấu chỉ quý báu ấy chính là Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể chính là Bí tích quan trọng nhất trong 7 Bí tích. Vì qua Bí tích này chúng ta đón nhận được chính Chúa Giêsu là nguồn mọi ơn phúc.
Như chúng ta biết, trước khi chịu khổ hình Chúa Giêsu biết mình sẽ không còn hiện diện hữu hình ở trần gian này nữa nên Người đã lập Bí tích Thánh Thể. Để rồi qua Bí tích này Người sẽ còn tiếp tục hiện diện với con người. Quan trọng hơn là Người ban cho con người chính bản thân mình qua hình Bánh và hình Rượu.
Ngày nay, mỗi khi tham dự Thánh lễ là chúng ta cùng nhau cử hành Bí tích Thánh Thể - Bí tích tình yêu. Và rồi nếu có đầy đủ điều kiện chúng ta sẽ lên rước lấy chính Chúa Giêsu qua hình bánh và hình rượu làm của nuôi cho sự sống đời đời. Thật là cao quý và hạnh phúc cho người tín hữu chúng ta. Mãi mãi chúng ta là những con người được sống trong tình yêu của Thiên Chúa. Hãy tin vào Chúa qua dấu chỉ Bí tích Thánh Thể - Bí tích tình yêu này. Và chúng ta đ ược kêu mời hãy siêng năng rước lễ mỗi khi tham dự Thánh lễ. Bởi lẽ, rước lễ thì được những ơn ích này: một là làm cho ta được kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu và với nhau, hai là xóa bỏ các tội nhẹ và gia tăng ơn thánh hóa, ba là thêm sức cho ta chống trả các chước cám dỗ của ma quỷ và sửa tính mê nết xấu, bốn là bảo đảm cho ta được sống đời đời.
Trong thư thứ nhất gởi cho giáo đoàn Côrintô, Thánh Phaolô đã nói: "Khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó không phải là dự phần vào Thân Thể của Người sao? Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một tấm Bánh ấy, nên chúng ta tuy nhiều người, chúng ta ta chỉ là một thân thể" (1Cr 10, 16b-17). Cho nên, hiệu quả của Bí tích Thánh Thể là sự hiệp thông với nhau.
Ông bà chúng ta có dạy: "Khôn ngoan đá đáp người ngoài. Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau ".
Hay: "Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn". Còn ở đây, khi rước lễ là chúng ta được hiệp nhất cùng nhau trong thân thể Chúa Giêsu. Thân thể này không thể bị chia rẻ nhau từng mảnh mà phải được gắn kết với nhau.
Nguyện xin Chúa Giêsu Thánh Thể ban cho chúng ta tin vào dấu chì tình yêu qua Bí tích Thánh thể Người đã lập nên. Thể hiện niềm tin ấy là việc siêng năng rước Chúa và sống hiệp thông với nhau.
Cử hành Bí tích Thánh Thể để tưởng nhớ Đức Giêsu là chia sẻ không những sứ mạng của Người, mà cũng còn là chia sẻ định mệnh của Người, được tượng trưng bằng thập giá. 1.- Ngữ cảnh Truyện này được đặt vào ngay sau phân đoạn nói về việc Đức Giêsu sai phái Nhóm Mười Hai đi rao giảng (các ông ra đi: 9,1-6; tiểu vương Hêrôđê thắc mắc về Đức Giêsu: 9,7-9; các tông đồ đã đi rao giảng về tường thuật của Đức Giêsu những việc đã làm: 9,10-11) và trước lời tuyên xưng đức tin của Phêrô (9,18-21) cũng như lời tiên báo Thương Khó lần thứ nhất cùng với các điều kiện của đời môn đệ (9,22-16).
Riêng truyện hóa bánh ra nhiều trong TM Lc (9,12-17) thì tương ứng với Mc 6,30-44 và Mt 14,13-21. Tác phẩm Lc không có bản văn tương ứng với truyện hóa bánh ra nhiều lần hai ở Mc 8,1-10 và Mt 15,32-39; do đó, bề ngoài bản văn Lc giống với Ga bởi vì Ga cũng chỉ có một bài tường thuật về nhân bánh và cá (Ga 6,1-15).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần: 1) Sứ vụ của Đức Giêsu (9,11b); 2) Các môn đệ nhận định về vấn đề (9,12); 3) Đức Giêsu đáp trả (9,13-16): a) lệnh thứ nhất cho Nhóm Mười Hai (c. 13), b) lệnh thứ hai cho Nhóm Mười Hai (cc. 14-15), c) một hành động của Người (c. 16); 4) Kết quả (9,17).
3.- Vài điểm chú giải
- nói với họ về Nước Thiên Chúa (11): hoặc “tiếp tục nói với họ”, vì động từ ở thì vị-hoàn (imperfect). Tác giả Lc đã sửa Mc 6,34 (“nhiều điều”) thành “về Nước Thiên Chúa”. Rõ ràng Lc muốn nối phép lạ sắp kể với lời rao giảng của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa.
- Nhóm Mười Hai (12): Trong bản văn song song, Mt 14,15 và Mc 6,35 nói đến “các môn đệ” (hoi mathêtai). Đối với Lc, Nhóm Mười Hai tượng trưng sự nối tiếp với Israel. Trong Cv 1, con số mười hai phải được bổ sung sau khi Giuđa chết, để Nhóm Mười Hai đã được tái lập như thế, có thể đón nhận ân huệ đã được Thiên Chúa hứa ban là Thánh Thần và bắt đầu đi làm chứng. Tác giả Lc là tác giả duy nhất nối kết Nhóm Mười Hai với danh hiệu “tông đồ” ở 6,13 (x. Mt 10,2). Đọc Cv 1,21-22, ta thấy Phêrô xác định rằng người thay thế Giuđa phải đã cùng đi với Đức Giêsu kể từ khi Người được Gioan ban phép rửa đền khi Người lên trời, và như thế, trở thành chứng nhân về cuộc Phục Sinh của Người. Như vậy, đối với Lc, Nhóm Mười Hai trở thành dây liên kết nối tiếp lời loan báo của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa với lời Giáo Hội rao giảng Lời Chúa.
- Chính anh em hãy cho họ ăn (13): Những lời Đức Giêsu nói có thể gợi đến 2 V 4,42-44: ở đây, một người từ Baan Salisa mang đến biếu ngôn sứ Êlisa hai mươi chiếc bánh lúa mạch và cốm. Vị ngôn sứ bảo tiểu đồng: “Phát cho người ta ăn”. Tiểu đồng phản đối: “Có bằng này, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn được?”; vị ngôn sứ đáp bằng cách nhắc lại lời của Đức Chúa (Yhwh): “Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư”. Nếu gợi ý này quả thực có trong các Tin Mừng Nhất Lãm, thì hẳn là nó có hàm ý là Đức Giêsu đóng vai trò ngôn sứ khi hóa bánh ra nhiều.
- Đức Giêsu cầm lấy (16): Năm hành động của Đức Giêsu được diễn tả bằng những động từ lấy nguyên văn từ Mc 6,41 (x. Mt 14,18): cầm lấy (labôn), ngước mắt lên trời (anablepsas eis ton ouranon), dâng lời chúc tụng chúng (eulogêsen autous), bẻ ra (kateklasen), trao cho (edidou).
Mt 14,18 cũng nói đến năm hành động ấy nhưng ở những dạng khác. Trong Bữa tối cuối cùng theo Mc 14,22 (x. Mt 26,26), có bốn hành động được nhắc lại: cầm lấy, chúc tụng, bẻ ra, trao cho. Ở Lc 22,19, cũng xuất hiện bốn động từ, nhưng eulogêsas (chúc tụng) được thay thế bằng eucharistêsas (tạ ơn). Ở Lc 24,30, có ba động từ, nhưng edidou được thay thế bằng epedidou (= ban tự ý; ban làm của hồi môn). Trong bài tường thuật cuộc nhân bánh lần hai (Mc 8,6; Mt 15,36; x. 1 Cr 11,24) cũng có những động từ tương tự. Những bản văn dùng eucharistêsas (tạ ơn) phải được coi như là phản ánh một đợt muộn hơn trong truyền thống về Bí tích Thánh Thể (eucharistia). So với Mc 6,41, động từ này đứng một mình, nên rất có thể có nghĩa là “chúc tụng Thiên Chúa”. Khi gắn đại từ “chúng” (= bánh và cá) vào lời chúc tụng và việc bẻ bánh, tác giả cho hiểu rằng hai hành vi này chính là nguyên nhân đưa tới việc hóa bánh ra nhiều.
- ngước mắt lên trời (16): Đây là một thuật ngữ của Cựu Ước, thường có ở trong Bản LXX (St 15,5; Đnl 4,19; G 22,26; 2 Mcb 7,28).
- bẻ ra (16): Các TMNL không bao giờ nói rằng Đức Giêsu đã “nhân” bánh ra nhiều. Ta suy ra phương diện phép lạ từ con số những người ăn và những gì còn sót lại, từ khối lượng nhỏ bé lúc khởi đầu.
- ai nấy được no nê (17): Lc dùng echortasthêsan là động từ của Mc 6,42. Ngài cũng dùng động từ này trong Mối phúc 6,21 (x. 15,16; 16,21). Trong Bản LXX, động từ này thường được dùng để diễn tả lòng nhân lành Thiên Chúa đã hứa để làm no thỏa dân Ngài (x. Tv 37,19; 81,17; 132,15).
- mười hai thúng (17): Con số “mười hai” rõ ràng có một quy chiếu tượng trưng đến “Nhóm Mười Hai” ở c. 12: mỗi ông mang về một thúng đầy và bây giờ có đủ lương thực để nuôi cả những người khác nữa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Sứ vụ của Đức Giêsu (11)
Sau khi mười hai tông đồ đi giảng về và sau khi các ông đã tường thuật cho Người các công việc đã làm (Lc 9,10), Đức Giêsu lại chìm vào trong công việc phục vụ đám đông (9,11): Giảng về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được chữa. Từ đầu Tin Mừng đến đây, tác giả đã liên tục giới thiệu hai khía cạnh này trong hoạt động của Đức Giêsu:4,31-44; 6,18; 8,1-2.
* Các môn đệ nhận định về vấn đề (12)
Lần đầu tiên trong Tin Mừng Lc, Nhóm Mười Hai lấy sáng kiến và quan tâm đến tương quan của Đức Giêsu với đám đông. Vì trời đã xế chiều, các ông đã nêu những nhận định và đề ra phương án giải quyết rất thực tế: đây là nơi hoang vắng, mà người ta thì đông; do đó, tốt nhất nên giải tán đám đông để họ tự giải quyết vấn đề nơi ăn chốn ở. Tác giả Lc nói ở 9,12 về “Nhóm Mười Hai”, trong khi ở 9,14.16, ngài thay đổi từ vựng: Đức Giêsu ngỏ lời với các “môn đệ”. Từ ngữ “môn đệ” này rất có thể cả ở đây cũng chỉ một nhóm đông hơn trong đó chắc chắn có Nhóm Mười Hai. Dù sao, sáng kiến phát xuất từ Nhóm Mười Hai khi họ vừa đi giảng về và lại tháp tùng Đức Giêsu. Qua sáng kiến này, rất có thể tác giả muốn cho thấy là, do chuyến đi truyền giáo vừa qua, các tông đồ đã nhạy cảm hơn với các nhu cầu của dân chúng.
Ở đây, chúng ta sắp gặp lại đề tài quen thuộc trong TM III, đó là “các bữa ăn Đức Giêsu chia sẻ với người khác” (x. 4,16–9,6). Nay chúng ta sắp sửa chứng kiến một phương diện mới: qua sứ mạng của Đức Giêsu là rao giảng về Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa đang thực hiện các lời Ngài hứa, là nuôi dưỡng tạo thành đói khát (x. Is 25,5-6).
Cụm từ “nơi hoang vắng” (c. 12) khiến chúng ta nhớ đến đoàn dân Israel đang sống kiếp nô lệ, nay bằng qua sa mạc để tiến dần về tự do, về với một cuộc sống mới.
* Đức Giêsu đáp trả (13-16)
Đức Giêsu trả lời bằng hai lệnh truyền (Lc 9,13.14) và một hành động (9,16).
Do Nhóm Mười Hai đã tỏ ra có ý thức trách nhiệm đối với dân chúng, Người trao cho một trách nhiệm quan trọng hơn và xác nhận nhiệm vụ: “Chính anh em hãy cho họ ăn” (9,13); chính anh em hãy nuôi dưỡng đoàn dân Israel vừa mới được tái lập. Với cái nhìn thực tế và với trái tim sẵn sàng, các ông nhận thấy tài nguyên của các ông quá nghèo nàn, các ông tình nguyện đi mua thức ăn cho dân chúng. Nhưng Đức Giêsu phản ứng với một lệnh thứ hai: “Bảo họ ngả mình thành từng nhóm năm mươi” (9,14). Các ông đã thi hành chính xác lệnh truyền (9,15). Đức Giêsu không lập một cơ quan phân phối bánh, để mỗi người có thể đến lấy phần của mình. Các môn đệ phải bố trí họ thành những nhóm trật tự (9,14).
Bây giờ đến hành động quyết liệt của Đức Giêsu. Sau khi đã đọc lời chúc tụng và bẻ bánh và cá ra, Người trao cho các môn đệ để các ông phân phát cho đám đông. Các môn đệ đã vâng theo lệnh thứ hai của Người, nên giờ đây Đức Giêsu làm cho họ cũng có khả năng thực hiện lệnh thứ nhất: cho đám đông ăn (so sánh 9,13 // 9,16). Các từ ngữ được Lc dùng để mô tả hành động Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều (cầm lấy, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho) thuộc về bài tường thuật việc thiết lập Bí tích Thánh Thể (22,19) và truyện hai môn đệ Emmau (24,30, cũng liên hệ với Bí tích Thánh Thể). Các môn đệ của Đức Giêsu sẽ phải tiếp tục nuôi dưỡng đám đông bằng Bí tích Thánh Thể.
* Kết quả (17)
Đám đông đã được no nê mà các mảnh vụn còn thừa đã được người ta thu lại được mười hai thúng (Lc 9,17). Trong biến cố này, Nhóm Mười Hai, là những bạn đồng hành của Đức Giêsu, không chỉ chứng kiến việc Người làm, mà còn được đưa vào cộng tác trực tiếp. Các ông đã nhận lệnh cho đám đông ăn (9,13) và các ông đã được Đức Giêsu làm cho có khả năng thực hiện điều đó (9,16). Điều đánh động chúng ta khi đến cuối truyện này là Lc không ghi lại một phản ứng nào của đám đông trước phép lạ (ngược với Ga 6,14-15). Chính Phêrô sẽ làm phát ngôn nhân cho họ khi tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô của Thiên Chúa” (9,20).
Ta có thể so sánh với 22,19, trong đó cũng Nhóm Mười Hai nhận bánh do Đức Giêsu trao ban, bây giờ với lời giải thích và lệnh truyền: “Đây là Mình Thầy, hiến trao vì anh em; anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy”. Các ông lại nhận và phải cho đi. Về đời sống của cộng đoàn tiên khởi, sách Cv viết: “Các tín hữu chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42). Như Simôn và các môn đệ đầu tiên vào dịp mẻ cá lạ lùng (5,4-11), Nhóm Mười Hai cũng trải nghiệm trực tiếp về quyền lực của Đức Giêsu.
+ Kết luận
Khi tỏ mình ra như là chúa tể ban cơm bánh, Đức Giêsu cũng tỏ mình ra như là chúa tể ban sự sống và khuyến khích Nhóm Mười Hai tin tưởng bẻ ra và phân phát bánh đã nhận trong Bữa Tối cuối cùng. Nhóm Mười Hai đã đề nghị giải tán đám đông và như thế là chấm dứt sự hiện diện và kết hợp của họ với Đức Giêsu. Nhưng dân chúng không bị buộc phải rời bỏ Đức Giêsu mới tìm được các kế sinh nhai. Đức Giêsu có quyền năng duy trì sự hiệp nhất trong tư cách là chúa tể ban cơm bánh và sự sống. Người có thể quy tụ lại và bảo toàn cộng đoàn vĩ đại quanh Người. Cả điều này cũng thuộc về kinh nghiệm mà Nhóm Mười Hai vừa trải nghiệm.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Bữa tiệc Đức Giêsu vừa chiêu đãi thật vĩ đại. Tuy nhiên, nếu đã có kết quả ấy là bởi vì các môn đệ đã góp phần của mình vào (lương thực: năm chiếc bánh và hai con cá; phục vụ: phân phối đám đông thành nhóm trật tự và phát bánh với cá). Bữa tiệc này gợi đến Thánh Lễ chúng ta dâng. Khi đó, chúng ta cũng phải góp phần nhỏ bé của mình vào để cho tất cả được no nê. Bữa tiệc Thánh Thể lại tiên báo Bữa tiệc vĩnh cửu trên thiên quốc, mà mỗi người chúng ta hiện đang góp phần để thực hiện, dù là phần khiêm tốn bé nhỏ.
2. Quả thật, một Thánh Lễ mà không đưa tới hành vi cụ thể giúp đỡ những người túng cực, để ai nấy được no đủ, thì chỉ là một hành vi dối trá. “Những miếng vụn còn thừa thu lại được mười hai thúng” (c. 17): Bánh Thánh Thể không phải là thứ dành riêng cho những người đạo đức; đây là một quà tặng Đức Kitô ban không bao giờ cạn kiệt. Quà tặng này sẽ tiếp tục được phân phát cho tới ngày bắt đầu bữa tiệc vĩnh cửu, và khi đó lễ mừng sẽ không bao giờ chấm dứt.
3. Mối bận tâm đến lương thực hằng ngày là nguyên do khiến con người phân tán, bởi vì mỗi người sẽ phải lo làm công việc của mình, và đôi khi cũng là nguyên nhân đưa đến những mâu thuẫn do đấu tranh để bảo toàn sự sống và cạnh tranh về nghề nghiệp. Đức Giêsu cung cấp một bữa tiệc: Người muốn kiến tạo đời sống cộng đoàn hợp nhất. Các môn đệ hôm nay phải hướng về Đức Giêsu: Người đã chứng tỏ là Người có ý muốn và Người có khả năng làm mục tử chăn dắt đoàn chiên này, quy tụ họ lại trong sự duy nhất và sự hiệp thông, dọn cho họ một bàn tiệc và quy tụ họ lại quanh mình để sống tình hiệp nhất cộng đoàn trong sự bình an và thân tình.
4. Khi đi tham dự Lễ Tế Tạ ơn, chúng ta tham dự vào một cộng đoàn huynh đệ được Đức Giêsu nuôi dưỡng. Khi đó, chúng ta hưởng sự tự do được ở với nhau trong tình thương, trong sự an bình và trong niềm vui. Như ngày xưa với đám đông, hôm nay với các tín hữu đến tham dự thánh lễ, không có việc làm nào cả, không có sự mệt nhọc nào cả, không có sự bân tâm nào cả, không có sự phân biệt nào cả: mọi chuyện ấy không còn nữa, khi Đức Giêsu có mặt.
5. Hôm nay khi đứng trước những vấn đề nan giải, các tín hữu nhớ rằng Đức Giêsu sẽ giúp họ giải quyết, nhưng họ cũng phải góp phần nhỏ bé vào. Khi đã đạt được kết quả, thì đừng quên rằng họ chỉ là tôi tớ, đã biết vâng theo những lệnh truyền của Đức Giêsu và cộng tác với Người. Nhưng con số mười hai thúng đầy gợi ý là, sau khi đã chia sẻ tiệc Thánh Thể với những anh chị em hiện diện, bây giờ chính chúng ta cũng có thể và phải chia sẻ lương thực cho những anh chị em không có mặt, để họ cũng được liên kết với đoàn dân Chúa.
6. Cũng ghi nhận là tác giả Lc nối truyện này trực tiếp vào lời Đức Giêsu tiên báo Thương Khó và với những giáo huấn của Người về việc vác thập giá hằng ngày (9,18-27). Cử hành Bí tích Thánh Thể để tưởng nhớ Đức Giêsu (22,19) là chia sẻ không những sứ mạng của Người (9,1-6), mà cũng còn là chia sẻ định mệnh của Người, được tượng trưng bằng thập giá (9,18-27).
Khởi đầu Thánh Lễ, Linh Mục chủ tế và cộng đoàn làm dấu Thánh Giá nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thánh Lễ khởi nguồn từ Tình Yêu Ba Ngôi được mặc khải nơi Thập giá Chúa Kitô. Cử hành Thánh Thể là cử hành mầu nhiệm hy tế thập giá của Chúa Giêsu, hy lễ tình yêu Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha để cứu chuộc nhân loại. Rước lễ là đón nhận Chúa Giêsu Phục Sinh và trở thành chứng nhân cho Tình Yêu Thiên Chúa.
Hy lễ cứu độ
Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu chính là một hy lễ dâng lên Chúa Cha. Trong hy lễ này, Ngài vừa là tư tế vừa là lễ vật. Trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã đổ máu ra. Bằng cái chết cứu độ, Ngài đã thiết lập giao ước mới. Tự nguyện làm “Con Chiên Vượt Qua” bị sát tế, Chúa Giêsu đã lập Bí Tích Thánh Thể để lễ vật bị sát tế ấy trở nên của ăn tâm linh nuôi dưỡng con người. Chúa Giêsu ở giữa nhân loại trong Bí Tích Thánh Thể. Để trở nên nguồn sống tâm linh trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đi qua Thương Khó và Thập Giá.
Thánh Thể là Mình Chúa hy sinh bị nộp, bị giết vì chúng ta: “Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em”. Chén Máu của Chúa là Máu giao ước, Máu của Đấng Cứu Thế đổ ra trên thập giá. Bởi đó Thánh Thể và Thánh Giá là hai mầu nhiệm của một Tình Yêu tự hiến của Chúa Kitô. Không có Thánh Giá, Thánh Thể không có ý nghĩa. Không có Thánh Thể, Thánh Giá chỉ là thất bại.
Thánh Thể và Thập Giá Chúa Kitô là hai cớ vấp phạm cho trí tuệ con người hơn hai ngàn năm qua. Thập giá Đức Kitô là sự điên rồ đối với người Hy Lạp đi tìm sự khôn ngoan, là dại dột đối với người Do Thái tìm dấu lạ và mãi mãi là mầu nhiệm thẳm sâu với lý trí.
Thánh Thể, bánh rượu nên Mình và Máu Chúa Kitô. Sự hiện đích thực của Con Thiên Chúa, làm lương thực vĩnh cửu là mầu nhiệm khó hiểu đối với đầu óc con người không có niềm tin. Khi nghe lời tuyên bố của Chúa Giêsu: “Thịt Ta là của ăn, Máu Ta là của uống cho sự sống muôn đời”, người Do Thái phản ứng rất mạnh: “Làm sao ông có thể lấy thịt máu của ông cho chúng tôi ăn được ?” ( Ga 6, 52 ); ”Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao ? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ Trời xuống ?” ( Ga 6, 42 ).
Trước phản ứng dữ dội của họ, Chúa Giêsu không rút lời, không cải chính, nhưng còn giải thích và khẳng định thêm “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại ngày sau hết” ( Ga 6, 54 ); sâu xa hơn là con người được đi vào sự kết hiệp mật thiết với Người: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì ở lại trong Tôi và Tôi ở lại trong người ấy” ( Ga 6, 56 ). Trước mạc khải này, nhiều môn đệ liền nói: “Lời này chướng tai qua, ai mà nghe nổi ?” ( Ga 6, 60 ). Từ lúc đó, “Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa” ( Ga 6, 66 ).
Như thế, người ta chỉ nhìn nhận Chúa Giêsu về phương diện con người, phủ nhận bản tính Thiên Chúa của Ngài. Chúa Giêsu cho dân chúng và các môn đệ thấy rõ mầu nhiệm Phục sinh trong Bánh Hằng Sống “Lời Thầy nói với anh em là Thần khí và là sự sống. Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt có ích gì” ( Ga 6, 63 ). Quả thật, chúng ta chỉ có thể hiểu được Bí Tích Thánh Thể qua mầu nhiệm Nhập Thể, Thương Khó, Phục Sinh mà thôi.
Vậy có thể nói, cả mầu nhiệm Đức Kitô đều hội tụ trong Bí Tích Thánh Thể. Từ công cuộc nhập thể làm người, rao giảng tin mừng, đến khổ hình thập giá, sống lại vinh quang; Đức Kitô đang ngự bên hữu Chúa Cha và ban lương thực thần thiêng đều hàm chứa trong Bí Tích Thánh Thể. Bí Tích Thánh Thể gói trọn cuộc đời Chúa Kitô và không có gì thuộc về Ngài mà không hội tụ trong Thánh Thể.
Từ Thánh giá đến Thánh thể là hành trình của con đường tình yêu tự hiến. Thánh Lễ là cử hành hy tế cứu độ của Chúa Giêsu từ mầu nhiệm Thánh Giá đến tình yêu Thánh Thể. Bí Tích Thánh thể là một sáng kiến của tình thương Thiên Chúa.Của ăn vật chất chỉ dừng lại ở việc nuôi dưỡng, bảo tồn sự sống hữu hạn của con người. Để sống đời đời, con người được mời gọi ăn và uống Thịt Máu Chúa, nguồn ơn cứu độ nhân loại.
Phúc cho ai đến dự tiệc
Trước lúc rước lễ và trao Mình Thánh cho các tín hữu, Linh Mục chủ tế nâng cao Mình Thánh và đọc: đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa. Lời này gợi lên cho mọi người tham dự niềm vui, hạnh phúc được Chúa mời đến dự tiệc. Nơi bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta là những khách mời của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Trên đường Emmau, chính Chúa Phục Sinh đã đến đồng hành với hai môn đệ, đã dừng lại bẻ bánh trao cho họ, và bấy giờ họ mới nhận ra Ngài. Bài Tin Mừng kể câu chuyện này đã được Thánh Gioan Phaolô II dùng làm bản văn nền của Tông Huấn “Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con”. Trong năm cuối cùng của sứ vụ Giáo Hoàng, Thánh Gioan Phaolô II đã mở ra Năm Thánh Thể, mời gọi cộng đoàn Dân Chúa quy hướng về Thánh Thể, nơi Chúa Giêsu hiện diện thường trực và sống động.
Trong Thánh Lễ, chính Chúa Giêsu đến hiện diện với chúng ta, gặp gỡ chúng ta, qua Phụng Vụ Lời Chúa và việc Bẻ Bánh.
Không Bí Tích nào giúp chúng ta sống “với Chúa, nhờ Chúa và trong Chúa” bằng Bí Tích Thánh Thể. Rước lễ là gắn bó với một ngôi vị: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy”. Rước lễ là gặp gỡ Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại: “Như tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, kẻ ăn tôi cũng sẽ sống nhờ tôi như vậy”. Rước lễ là đón lấy sự sống từ Đấng đang sống, cũng là sự sống duy nhất bắt nguồn từ Chúa Cha.
Trong Tông Huấn “Bí Tích Tình Yêu” năm 2007, Đức Thánh Cha Bênêđictô 16 đã dùng thành ngữ “con người Thánh Thể” để nói về các tín hữu. Con người Thánh Thể là người năng rước Chúa vào lòng, để Thịt và Máu Chúa thấm nhập vào trọn vẹn cuộc sống của họ, nhờ đó, họ có thể nói như Thánh Phaolô Tông Đồ: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” ( Gl 2, 20 ).
Con người Thánh Thể là người luôn biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa để nhờ đó mà họ trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô. Con người Thánh Thể còn là người ý thức mình là chi thể của Giáo Hội, chuyên tâm sống và nỗ lực kiến tạo tình hiệp thông giữa những người con cái Chúa, xây dựng một xã hội bình an và nhân ái.
Từ mỗi con người Thánh Thể, chúng ta có thể kiến tạo những cộng đoàn Thánh Thể, tức là một cộng đoàn có Thánh Thể là trung tâm, là mối giây liên kết và là ý lực sống cho mọi thành viên của cộng đoàn này. Cộng đoàn Thánh Thể lấy sự hiệp nhất yêu thương làm nền tảng, vì mọi người được nuôi dưỡng bởi cùng một lương thực, như Thánh Phaolô viết: “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta chỉ là một chi thể” ( 1Cr 10, 17).
Sách Tông Đồ Công Vụ thuật lại Thánh Lễ ban đầu của Giáo Hội sơ khai bằng một đoạn văn ngắn: “Các tín hữu hợp nhất với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, ngày ngày chuyên cần đến đền thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ” ( Cv 2, 42 ). Họ được toàn dân thương mến, điều đó có nghĩa là cứ sau những nghi thức bẻ bánh như thế, người chung quanh xóm giềng thương nhóm tín hữu này. Và rồi “Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ”, nghĩa là sau các Thánh Lễ như thế, dân chúng thương nhóm tín hữu này rồi họ xin nhập đạo. Kết quả của Bí Tích Thánh Thể là mức độ tăng trưởng về tình yêu.
Đồng bàn và rửa chân
Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế lần thứ 51 diễn ra tại Cebu, Philippines từ ngày 24 đến 31.1.2016 đã bế mạc với Thánh Lễ trọng thể do Đức Hồng Y Charles Maung Bo, SDB, Tổng Giám Mục Yangoon, Myanmar, Đặc sứ của Đức Thánh Cha, chủ sự. Cuối Thánh Lễ, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi đến mọi người tham dự Đại hội sứ điệp “Mỗi người Kitô hữu phải là một môn đệ truyền giáo đích thực”.
Việc Đại hội này được tổ chức trong Năm Thánh Lòng Thương Xót thật là thích hợp. Trong Năm này toàn thể Giáo hội được mời gọi tập trung vào trung tâm của Tin Mừng là Lòng Thương xót. Chúng ta được kêu gọi để đem dầu tình yêu thương xót của Thiên Chúa cho toàn nhân loại, băng bó các vết thương, đem hy vọng vào nơi dường như thất vọng thường thắng thế.
Trong sứ điệp, Đức Thánh Cha gợi lên hai cử chỉ của Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly và mời gọi suy ngẫm theo chiều kích truyền giáo của Thánh Thể. Đó là việc đồng bàn và rửa chân.
Ngồi vào bàn ăn, Chúa Giêsu có thể lắng nghe người khác, nghe chuyện đời của họ, cảm thông với niềm hy vọng và khao khát của họ, và nói cho họ biết tình yêu của Chúa Cha. Mỗi khi đến với Thánh Thể, bàn Tiệc Ly của Chúa, chúng ta được thúc đẩy noi theo tấm gương của Chúa, bằng cách đến với người khác, trong tinh thần tôn trọng và cởi mở, để chia sẻ với họ ơn huệ chúng ta đã lãnh nhận.
Hình ảnh khác mà Chúa gửi đến chúng ta trong Bữa Tiệc Ly là rửa chân. Hôm trước ngày chịu nạn, Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ của Ngài như là một dấu chỉ của sự phục vụ khiêm hạ, của tình yêu vô điều kiện mà Người đã hiến mạng trên thập giá để cứu rỗi thế giới. Bí Tích Thánh Thể là trường dạy phục vụ khiêm hạ. Bí Tích Thánh Thể dạy chúng ta sẵn sàng hiện diện vì người khác. Cả điều này cũng phải ở nơi con tim của người môn đệ truyền giáo.
Mình và Máu Chúa Kitô là hồng ân vô giá, chúng ta đón nhận để có sự sống thần linh của Chúa.
Thánh Gioan Phaolô II viết: “Mỗi lần ta dự phần vào Mình và Máu Người, chúng ta đã thực sự gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta không thể giữ lại cho riêng mình niềm hân hoan mình đã cảm nghiệm. Việc gặp gỡ riêng tư với Chúa Kitô cách thường xuyên được tăng triển và đào sâu trong Bí Tích Thánh Thể khơi lên trong Giáo Hội và nơi mỗi tín hữu một lời mời gọi khẩn thiết cho việc làm chứng và rao giảng Tin Mừng” ( Tông huấn “Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con”, số 24 ).
Tham dự Thánh Lễ, rước Mình và Máu Chúa, chúng ta được mời gọi sống thánh thiện, trong sạch và thực thi sứ vụ truyền giáo phục vụ tha nhân “đồng hành và rữa chân” theo gương Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin Chúa ban cho chúng con thêm lòng yêu mến Chúa và siêng năng tham dự Thánh Lễ, rước Mình và Máu Chúa cách xứng đáng; đồng thời luôn xác tín Bí Tích Thánh Thể chính là “nguồn mạch và chóp đỉnh” của đời sống Giáo Hội và nơi mỗi người chúng con. Amen.
Tin tức của các đài TV địa phương và từ Giáo Phận Salt Lake City cho biết một ủy ban đã được thành lập, để điều tra sự việc “Mình Thánh đang chảy máu” tại Nhà Thờ Thánh Xavier, ở vùng ngoại ô Kearns của thành phố Salt Lake City, Tiểu Bang Utah, Hoa Kỳ. Giáo Phận đã ra thông cáo như sau:
"Sau những báo cáo gần đây về những loan truyền của việc một “Mình Thánh đang chảy máu” tại Nhà Thờ Thánh Phanxicô Xavier ở Kearns. Đức ông Colin F. Bircumshaw, Giám Quản Giáo Phận, đã bổ nhiệm một ủy ban đặc nhiệm gồm nhiều thành phần chuyên môn khác nhau để điều tra sự việc. Công việc của ủy ban đang tiến hành. Kết quả sẽ được tuyên bố công khai. “Mình Thánh” hiện đang được Giáo Phận canh giữ. Trái ngược với những tin đồn, Giáo Phận không có kế hoạch trưng bày và tổ chức tôn kính “Mình Thánh" ấy. Dù kết quả của cuộc điều tra có là thế nào, chúng ta hãy sử dụng thời gian này để canh tân niềm tin và ý thức rằng, phép lạ vĩ đại là sự hiện diện thật của Chúa Giêsu Kitô, vẫn diễn ra ở mỗi Thánh Lễ. Đức Ông M. Francis Mannion, Chủ tịch Uỷ ban. "
Được biết ủy Ban, ngoài thành phần Giáo Sĩ, còn bao gồm một Giáo Sư Tiến Sĩ dạy môn neurobiology ( sinh học thần kinh ). Những “phép lạ Thánh Thể” đã từng xảy ra nhiều lần trong lịch sử, và thông thường thì các cuộc điều tra của Giáo Hội sẽ kéo dài hằng chục năm trời, trước khi được công nhận là một phép lạ. Người ta chưa biết Toà Thánh Vatican đã được thông báo về sự việc này chưa. Dù thế, đã có đông đảo tín hữu tụ tập hằng ngày tại Nhà Thờ Thánh Phanxicô Xavier để đọc kinh lần chuỗi.
Sự việc xảy ra từ tuần trước, một bé trai đã đi theo đoàn người lên rước lễ và đã được trao cho Mình Thánh. Người nhà của em sau khi nhìn thấy sự việc thì vội báo cho vị Linh Mục là em chưa được xưng tội lần đầu, và do đó vị Linh Mục đã lấy lại “Mình Thánh” và, theo thể lệ áp dụng trong mùa lạnh thường xảy ra những bệnh truyền nhiễm, “Mình Thánh” đó đã được bỏ vào một ly nước. Thông thường thì khi một “chiếc bánh miến” bỏ vào nước thì chỉ trong vài phút là tan rữa ra, nhưng “Mình Thánh” không những đã không rữa mà còn bắt đầu rỉ máu.
Ba ngày sau, người ta vẫn thấy “Mình Thánh” nổi trên nước và máu vẫn còn tươi. Tin đồn lan ra, Nhà Thờ tràn ngập tín hữu cùng người hiếu kỳ. Cha xứ đã có lần đem “Mình Thánh” ra trưng bày cho công chúng, nhưng sau đó đã đem về Giáo Phận để điều tra.
Trong ngày Lễ Tạ Ơn này, người ta vẫn còn kéo nhau tới Nhà Thờ Thánh Phanxicô Xavier, để được tham dự vào một biến cố linh thiêng nhiệm màu. ( Trần Mạnh Trác, Tin phép lạ Thánh Thể đang chảy máu tại Salt Lake City, Hoa Kỳ, Vietcatholic, 26.11.2015 ).
Mầu nhiệm Thánh Thể vừa quan trọng, vừa gần gũi, lại vừa cần thiết nhất trong bảy Bí Tích của Hội Thánh, để nuôi dưỡng tín hữu vững mạnh trên đường về quê Trời. Sự lạ Thánh Thể tại Salt Lake City đánh động thêm những ai còn nghi ngờ sự hiện diện hữu hình của Mình Máu Chúa trong mầu nhiệm Thánh Thể.
Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay, trình bày phép lạ hoá 5 chiếc bánh và hai con cá nuôi dư giả 5.000 đàn ông, không kể đàn bà và trẻ em. Những bữa tiệc trong Tin Mừng theo Thánh Luca đều quy hướng về Bàn Tiệc Thánh Thể, và chung cuộc là Bàn Tiệc Thiên Quốc. Qua cấu trúc ngôn ngữ diễn tả sự lạ cả thể này, Thánh Luca muốn nêu lên những đặc tính căn bản và thiết yếu của môn đệ Đức Giêsu, của tín hữu Kitô. Đó là phục vụ, tận hiến và tín thác.
Phục vụ
Vậy khi đã xế chiều, nhóm mười hai đến thưa Người rằng: "Xin Thầy giải tán dân chúng, để họ đi vào trong các làng mạc và trại quanh đây mà trú ngụ và kiếm thức ăn, vì chúng ta đang ở nơi hoang địa." Quả thực, các môn đệ đã tỏ ra hết sức quan tâm, lo lắng cho dân chúng đang sốt sắng theo Chúa, được ăn uống, nghỉ ngơi. Tuy nhiên, sự quan tâm chỉ dừng lại ở mức nửa vời, lưng chừng, đối phó, để khỏi bị phiền trách, khỏi vướng trách nhiệm nặng nề, khỏi vất vả giúp đỡ. Đây cũng là lối ứng xử thường tình, khôn khéo thế gian, rất lôgích, máy móc nguyên tắc, không thể bắt lỗi.
Nhưng Chúa Giêsu hoàn toàn bác bỏ, lên tiếng phủ nhận lý lẽ người đời. Người kịch liệt chống lại thái độ Mackeno, vô cảm, bất nhân, bất nhẫn, vô tâm, vô trách nhiệm. Người lập tức dõng dạc truyền lệnh, buộc các môn đệ thi hành ngay: "Các con hãy cho họ ăn đi." Đức Giêsu muốn thức tỉnh các môn đệ nhiệm vụ quan trọng của Kitô hữu, hay căn tính của môn đệ Đức Kitô, đồng phục con chiên của Mục Tử Nhân Lành. Đó là xả kỷ vị tha, yêu thương phục vụ. Không được phép yên ổn ẩn náu trong cái tháp ngà hẹp hòi, ích kỷ, sống chết mặc bay ! Không cần biết tha nhân đói khổ, bệnh hoạn, tù đầy, bị bỏ rơi, bị xua đuổi khỏi cộng đồng.
Dĩ nhiên yêu thương phục vụ tha nhân không bao giờ là chuyện đơn giản và dễ dàng. Thiên hạ bá tánh, làm sao có thể làm hài lòng vạn người ? Thay vì được lòng biết ơn đáp lại, thì chỉ phũ phàng nhận lấy oán trả. “Hãy vác thập giá mà theo Ta.” Đức Giêsu từng nhắc nhủ và khích lệ những ai can đảm dấn thân theo Chúa.
Tận hiến
May thay, trong đám đông theo Chúa, có một cậu bé mang theo năm chiếc bánh và hai con cá. Có lẽ cậu được người mẹ chu đáo gói cho chút lương thực độ đường. Khi thấy các môn đệ bối rối, dáo dác, hớt hải, lúng túng xoay sở, sau lệnh truyền bất ngờ của Đức Giêsu, cậu bé liền dâng hiến tất cả lương thực cho các môn đệ, đóng góp hết, chẳng do dự giữ lại chút gì cho mình. Không lệ thuộc thân xác, không chiều theo cám dỗ bản năng, no cơm ấm cật, không hùa theo khôn ngoan thói đời: Dĩ thực vi tiên, có ăn là sướng như tiên rồi. “Bỏ mình", một quyết định quả cảm, dứt khoát và tận hiến dành cho những ai là môn đệ thực sự của Đức Giêsu.
Tuy vui vẻ tiếp nhận lương thực cậu bé ngoan dâng tiến, nhưng các môn đệ chẳng mấy hy vọng, vì bấy nhiêu đó như muối bỏ biển, chẳng thấm tháp gì với đám đông. Nếu sống với tính thực dụng, chi li, bần tiện, tính toán ăn thua, hơn thiệt, lời lãi, nhỏ nhen, thì chẳng ai có thể noi gương cậu bé hào phóng kia, rộng rãi tận tình cho đi, hết lòng trao tặng, rộng tay đóng góp của cải, công sức, tài năng cho Giáo Xứ, Cộng Đoàn, Giáo Hội, Nước Chúa.
Tín thác
"Chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá, trừ phi chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám đông này." Mặc dù đã có ít bánh và cá, nhưng các môn đệ vẫn bó tay, không thể giải quyết việc ẩm thực cho đám đông theo Chúa. Các ông vẫn đơn sơ thấy cần có một khoản tiền đáng kể để có thể mua đủ lương thực. Các ông vẫn chưa hoàn toàn tin cậy vào quyền năng vô biên của Đức Giêsu.
"Hãy cho họ ngồi xuống từng nhóm độ năm mươi người." Đức Giêsu không cần giảng giải dài dòng, chẳng cà kê huấn giáo, cũng chẳng đành lòng trách mắng các môn đệ yếu nhân Đức Tin. Chỉ vắn tắt, gọn ghẽ, chính xác ra lệnh cho các môn đệ thi hành. Các ông liền vâng lịnh, mau mắn ổn định, chia đám đông thành từng nhóm nhỏ, từng cộng đoàn nhỏ bé.“ Các ông đã làm như thế, và bảo tất cả ngồi xuống.”
Vâng theo Thánh Ý Chúa là biểu hiệu lòng tín thác vô điều kiện vào Chúa. Thực sự, các môn đệ cũng chưa thể nào biết Đức Giêsu sắp làm gì ? Các ngài chỉ biết răm rắp thực thi những điều Người ra lệnh. Cứ cặn kẽ tìm hiểu và mau mắn vâng theo Thánh Ý, đừng thắc mắc, cũng đừng tìm cách lý giải, phân tích, bàn luận về ý muốn của Chúa. Vì “tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối của Ta cũng không phải là đường lối của các ngươi. Như trời cao hơn đất thế nào, thì đường lối của Ta cao hơn của các ngươi và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy” ( Is 55, 8-9 ).
Con tin một sức mạnh: Thánh Thể, thịt máu Chúa sẽ làm cho con sống, "cho thế gian sống, và sống phong phú hơn." Manna nuôi dân Do Thái đi đường về Đất Hứa, Thánh Thể sẽ nuôi con đi cùng đường Hy Vọng. ( Đường Hy Vọng, số 983 ).
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, mỗi khi được vinh dự đón tiếp Mình Máu Thánh, xin Chúa thứ tha những lỗi lầm, những vết nhơ tâm hồn, và thương xót xin thánh hoá chúng con, để chúng con can đảm sống Tin Mừng, làm chứng nhân thời đại.
Lạy Mẹ Maria, Người Nữ Thánh Thể như Đức Thánh Cha Gioan PhaoLô II xưng tụng, xin hướng dẫn, chỉ dạy chúng con chiêm ngưỡng, yêu mến và gắn bó mãi với Bí Tích Thánh Thể. Amen.
Truyện này được đặt vào ngay sau phân đoạn nói về việc Đức Giêsu sai phái Nhóm Mười Hai đi rao giảng (các ông ra đi: 9,1-6; tiểu vương Hêrôđê thắc mắc về Đức Giêsu: 9,7-9; các tông đồ đã đi rao giảng về tường thuật của Đức Giêsu những việc đã làm: 9,10-11) và trước lời tuyên xưng đức tin của Phêrô (9,18-21) cũng như lời tiên báo Thương Khó lần thứ nhất cùng với các điều kiện của đời môn đệ (9,22-16).
Riêng truyện hóa bánh ra nhiều trong TM Lc (9,12-17) thì tương ứng với Mc 6,30-44 và Mt 14,13-21. Tác phẩm Lc không có bản văn tương ứng với truyện hóa bánh ra nhiều lần hai ở Mc 8,1-10 và Mt 15,32-39; do đó, bề ngoài bản văn Lc giống với Ga bởi vì Ga cũng chỉ có một bài tường thuật về nhân bánh và cá (Ga 6,1-15). 2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần: 1) Sứ vụ của Đức Giêsu (9,11b); 2) Các môn đệ nhận định về vấn đề (9,12);
3) Đức Giêsu đáp trả (9,13-16):
a) lệnh thứ nhất cho Nhóm Mười Hai (c. 13), b) lệnh thứ hai cho Nhóm Mười Hai (cc. 14-15), c) một hành động của Người (c. 16);
4) Kết quả (9,17). 3.- Vài điểm chú giải
- nói với họ về Nước Thiên Chúa (11): hoặc “tiếp tục nói với họ”, vì động từ ở thì vị-hoàn (imperfect). Tác giả Lc đã sửa Mc 6,34 (“nhiều điều”) thành “về Nước Thiên Chúa”. Rõ ràng Lc muốn nối phép lạ sắp kể với lời rao giảng của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa.
- Nhóm Mười Hai (12): Trong bản văn song song, Mt 14,15 và Mc 6,35 nói đến “các môn đệ” (hoi mathêtai). Đối với Lc, Nhóm Mười Hai tượng trưng sự nối tiếp với Israel. Trong Cv 1, con số mười hai phải được bổ sung sau khi Giuđa chết, để Nhóm Mười Hai đã được tái lập như thế, có thể đón nhận ân huệ đã được Thiên Chúa hứa ban là Thánh Thần và bắt đầu đi làm chứng. Tác giả Lc là tác giả duy nhất nối kết Nhóm Mười Hai với danh hiệu “tông đồ” ở 6,13 (x. Mt 10,2). Đọc Cv 1,21-22, ta thấy Phêrô xác định rằng người thay thế Giuđa phải đã cùng đi với Đức Giêsu kể từ khi Người được Gioan ban phép rửa đền khi Người lên trời, và như thế, trở thành chứng nhân về cuộc Phục Sinh của Người. Như vậy, đối với Lc, Nhóm Mười Hai trở thành dây liên kết nối tiếp lời loan báo của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa với lời Giáo Hội rao giảng Lời Chúa.
- Chính anh em hãy cho họ ăn (13): Những lời Đức Giêsu nói có thể gợi đến 2 V 4,42-44: ở đây, một người từ Baan Salisa mang đến biếu ngôn sứ Êlisa hai mươi chiếc bánh lúa mạch và cốm. Vị ngôn sứ bảo tiểu đồng: “Phát cho người ta ăn”. Tiểu đồng phản đối: “Có bằng này, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn được?”; vị ngôn sứ đáp bằng cách nhắc lại lời của Đức Chúa (Yhwh): “Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư”. Nếu gợi ý này quả thực có trong các TMNL, thì hẳn là nó có hàm ý là Đức Giêsu đóng vai trò ngôn sứ khi hóa bánh ra nhiều.
- Đức Giêsu cầm lấy (16): Năm hành động của Đức Giêsu được diễn tả bằng những động từ lấy nguyên văn từ Mc 6,41 (x. Mt 14,18): cầm lấy (labôn), ngước mắt lên trời (anablepsas eis ton ouranon), dâng lời chúc tụng chúng (eulogêsen autous), bẻ ra (kateklasen), trao cho (edidou).
Mt 14,18 cũng nói đến năm hành động ấy nhưng ở những dạng khác. Trong Bữa tối cuối cùng theo Mc 14,22 (x. Mt 26,26), có bốn hành động được nhắc lại: cầm lấy, chúc tụng, bẻ ra, trao cho. Ở Lc 22,19, cũng xuất hiện bốn động từ, nhưng eulogêsas (chúc tụng) được thay thế bằng eucharistêsas (tạ ơn). Ở Lc 24,30, có ba động từ, nhưng edidou được thay thế bằng epedidou (= ban tự ý; ban làm của hồi môn). Trong bài tường thuật cuộc nhân bánh lần hai (Mc 8,6; Mt 15,36; x. 1 Cr 11,24) cũng có những động từ tương tự. Những bản văn dùng eucharistêsas (tạ ơn) phải được coi như là phản ánh một đợt muộn hơn trong truyền thống về Bí tích Thánh Thể (eucharistia). So với Mc 6,41, động từ này đứng một mình, nên rất có thể có nghĩa là “chúc tụng Thiên Chúa”. Khi gắn đại từ “chúng” (= bánh và cá) vào lời chúc tụng và việc bẻ bánh, tác giả cho hiểu rằng hai hành vi này chính là nguyên nhân đưa tới việc hóa bánh ra nhiều.
- ngước mắt lên trời (16): Đây là một thuật ngữ của Cựu Ước, thường có ở trong Bản LXX (St 15,5; Đnl 4,19; G 22,26; 2 Mcb 7,28).
- bẻ ra (16): Các TMNL không bao giờ nói rằng Đức Giêsu đã “nhân” bánh ra nhiều. Ta suy ra phương diện phép lạ từ con số những người ăn và những gì còn sót lại, từ khối lượng nhỏ bé lúc khởi đầu.
- ai nấy được no nê (17): Lc dùng echortasthêsan là động từ của Mc 6,42. Ngài cũng dùng động từ này trong Mối phúc 6,21 (x. 15,16; 16,21). Trong Bản LXX, động từ này thường được dùng để diễn tả lòng nhân lành Thiên Chúa đã hứa để làm no thỏa dân Ngài (x. Tv 37,19; 81,17; 132,15).
- mười hai thúng (17): Con số “mười hai” rõ ràng có một quy chiếu tượng trưng đến “Nhóm Mười Hai” ở c. 12: mỗi ông mang về một thúng đầy và bây giờ có đủ lương thực để nuôi cả những người khác nữa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Sứ vụ của Đức Giêsu (11)
Sau khi mười hai tông đồ đi giảng về và sau khi các ông đã tường thuật cho Người các công việc đã làm (Lc 9,10), Đức Giêsu lại chìm vào trong công việc phục vụ đám đông (9,11): Giảng về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được chữa. Từ đầu Tin Mừng đến đây, tác giả đã liên tục giới thiệu hai khía cạnh này trong hoạt động của Đức Giêsu: 4,31-44; 6,18; 8,1-2. * Các môn đệ nhận định về vấn đề (12)
Lần đầu tiên trong Tin Mừng Lc, Nhóm Mười Hai lấy sáng kiến và quan tâm đến tương quan của Đức Giêsu với đám đông. Vì trời đã xế chiều, các ông đã nêu những nhận định và đề ra phương án giải quyết rất thực tế: đây là nơi hoang vắng, mà người ta thì đông; do đó, tốt nhất nên giải tán đám đông để họ tự giải quyết vấn đề nơi ăn chốn ở. Tác giả Lc nói ở 9,12 về “Nhóm Mười Hai”, trong khi ở 9,14.16, ngài thay đổi từ vựng: Đức Giêsu ngỏ lời với các “môn đệ”. Từ ngữ “môn đệ” này rất có thể cả ở đây cũng chỉ một nhóm đông hơn trong đó chắc chắn có Nhóm Mười Hai. Dù sao, sáng kiến phát xuất từ Nhóm Mười Hai khi họ vừa đi giảng về và lại tháp tùng Đức Giêsu. Qua sáng kiến này, rất có thể tác giả muốn cho thấy là, do chuyến đi truyền giáo vừa qua, các tông đồ đã nhạy cảm hơn với các nhu cầu của dân chúng.
Ở đây, chúng ta sắp gặp lại đề tài quen thuộc trong TM III, đó là “các bữa ăn Đức Giêsu chia sẻ với người khác” (x. 4,16–9,6). Nay chúng ta sắp sửa chứng kiến một phương diện mới: qua sứ mạng của Đức Giêsu là rao giảng về Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa đang thực hiện các lời Ngài hứa, là nuôi dưỡng tạo thành đói khát (x. Is 25,5-6).
Cụm từ “nơi hoang vắng” (c. 12) khiến chúng ta nhớ đến đoàn dân Israel đang sống kiếp nô lệ, nay băng qua sa mạc để tiến dần về tự do, về với một cuộc sống mới.
* Đức Giêsu đáp trả (13-16)
Đức Giêsu trả lời bằng hai lệnh truyền (Lc 9,13.14) và một hành động (9,16).
Do Nhóm Mười Hai đã tỏ ra có ý thức trách nhiệm đối với dân chúng, Người trao cho một trách nhiệm quan trọng hơn và xác nhận nhiệm vụ: “Chính anh em hãy cho họ ăn” (9,13); chính anh em hãy nuôi dưỡng đoàn dân Israel vừa mới được tái lập. Với cái nhìn thực tế và với trái tim sẵn sàng, các ông nhận thấy tài nguyên của các ông quá nghèo nàn, các ông tình nguyện đi mua thức ăn cho dân chúng. Nhưng Đức Giêsu phản ứng với một lệnh thứ hai: “Bảo họ ngả mình thành từng nhóm năm mươi” (9,14). Các ông đã thi hành chính xác lệnh truyền (9,15). Đức Giêsu không lập một cơ quan phân phối bánh, để mỗi người có thể đến lấy phần của mình. Các môn đệ phải bố trí họ thành những nhóm trật tự (9,14).
Bây giờ đến hành động quyết liệt của Đức Giêsu. Sau khi đã đọc lời chúc tụng và bẻ bánh và cá ra, Người trao cho các môn đệ để các ông phân phát cho đám đông. Các môn đệ đã vâng theo lệnh thứ hai của Người, nên giờ đây Đức Giêsu làm cho họ cũng có khả năng thực hiện lệnh thứ nhất: cho đám đông ăn (so sánh 9,13 // 9,16). Các từ ngữ được Lc dùng để mô tả hành động Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều (cầm lấy, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho) thuộc về bài tường thuật việc thiết lập Bí tích Thánh Thể (22,19) và truyện hai môn đệ Emmau (24,30, cũng liên hệ với Bí tích Thánh Thể). Các môn đệ của Đức Giêsu sẽ phải tiếp tục nuôi dưỡng đám đông bằng Bí tích Thánh Thể. * Kết quả (17)
Đám đông đã được no nê mà các mảnh vụn còn thừa đã được người ta thu lại được mười hai thúng (Lc 9,17). Trong biến cố này, Nhóm Mười Hai, là những bạn đồng hành của Đức Giêsu, không chỉ chứng kiến việc Người làm, mà còn được đưa vào cộng tác trực tiếp. Các ông đã nhận lệnh cho đám đông ăn (9,13) và các ông đã được Đức Giêsu làm cho có khả năng thực hiện điều đó (9,16). Điều đánh động chúng ta khi đến cuối truyện này là Lc không ghi lại một phản ứng nào của đám đông trước phép lạ (ngược với Ga 6,14-15). Chính Phêrô sẽ làm phát ngôn nhân cho họ khi tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô của Thiên Chúa” (9,20).
Ta có thể so sánh với 22,19, trong đó cũng Nhóm Mười Hai nhận bánh do Đức Giêsu trao ban, bây giờ với lời giải thích và lệnh truyền: “Đây là Mình Thầy, hiến trao vì anh em; anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy”. Các ông lại nhận và phải cho đi. Về đời sống của cộng đoàn tiên khởi, sách Cv viết: “Các tín hữu chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42). Như Simôn và các môn đệ đầu tiên vào dịp mẻ cá lạ lùng (5,4-11), Nhóm Mười Hai cũng trải nghiệm trực tiếp về quyền lực của Đức Giêsu. + Kết luận
Khi tỏ mình ra như là chúa tể ban cơm bánh, Đức Giêsu cũng tỏ mình ra như là chúa tể ban sự sống và khuyến khích Nhóm Mười Hai tin tưởng bẻ ra và phân phát bánh đã nhận trong Bữa Tối cuối cùng. Nhóm Mười Hai đã đề nghị giải tán đám đông và như thế là chấm dứt sự hiện diện và kết hợp của họ với Đức Giêsu. Nhưng dân chúng không bị buộc phải rời bỏ Đức Giêsu mới tìm được các kế sinh nhai. Đức Giêsu có quyền năng duy trì sự hiệp nhất trong tư cách là chúa tể ban cơm bánh và sự sống. Người có thể quy tụ lại và bảo toàn cộng đoàn vĩ đại quanh Người. Cả điều này cũng thuộc về kinh nghiệm mà Nhóm Mười Hai vừa trải nghiệm. 5.- Gợi ý suy niệm
1. Bữa tiệc Đức Giêsu vừa chiêu đãi thật vĩ đại. Tuy nhiên, nếu đã có kết quả ấy là bởi vì các môn đệ đã góp phần của mình vào (lương thực: năm chiếc bánh và hai con cá; phục vụ: phân phối đám đông thành nhóm trật tự và phát bánh với cá). Bữa tiệc này gợi đến Thánh Lễ chúng ta dâng. Khi đó, chúng ta cũng phải góp phần nhỏ bé của mình vào để cho tất cả được no nê. Bữa tiệc Thánh Thể lại tiên báo Bữa tiệc vĩnh cửu trên thiên quốc, mà mỗi người chúng ta hiện đang góp phần để thực hiện, dù là phần khiêm tốn bé nhỏ.
2. Quả thật, một Thánh Lễ mà không đưa tới hành vi cụ thể giúp đỡ những người túng cực, để ai nấy được no đủ, thì chỉ là một hành vi dối trá. “Những miếng vụn còn thừa thu lại được mười hai thúng” (c. 17): Bánh Thánh Thể không phải là thứ dành riêng cho những người đạo đức; đây là một quà tặng Đức Kitô ban không bao giờ cạn kiệt. Quà tặng này sẽ tiếp tục được phân phát cho tới ngày bắt đầu bữa tiệc vĩnh cửu, và khi đó lễ mừng sẽ không bao giờ chấm dứt.
3. Mối bận tâm đến lương thực hằng ngày là nguyên do khiến con người phân tán, bởi vì mỗi người sẽ phải lo làm công việc của mình, và đôi khi cũng là nguyên nhân đưa đến những mâu thuẫn do đấu tranh để bảo toàn sự sống và cạnh tranh về nghề nghiệp. Đức Giêsu cung cấp một bữa tiệc: Người muốn kiến tạo đời sống cộng đoàn hợp nhất. Các môn đệ hôm nay phải hướng về Đức Giêsu: Người đã chứng tỏ là Người có ý muốn và Người có khả năng làm mục tử chăn dắt đoàn chiên này, quy tụ họ lại trong sự duy nhất và sự hiệp thông, dọn cho họ một bàn tiệc và quy tụ họ lại quanh mình để sống tình hiệp nhất cộng đoàn trong sự bình an và thân tình.
4. Khi đi tham dự Lễ Tế Tạ ơn, chúng ta tham dự vào một cộng đoàn huynh đệ được Đức Giêsu nuôi dưỡng. Khi đó, chúng ta hưởng sự tự do được ở với nhau trong tình thương, trong sự an bình và trong niềm vui. Như ngày xưa với đám đông, hôm nay với các tín hữu đến tham dự thánh lễ, không có việc làm nào cả, không có sự mệt nhọc nào cả, không có sự bân tâm nào cả, không có sự phân biệt nào cả: mọi chuyện ấy không còn nữa, khi Đức Giêsu có mặt.
5. Hôm nay khi đứng trước những vấn đề nan giải, các tín hữu nhớ rằng Đức Giêsu sẽ giúp họ giải quyết, nhưng họ cũng phải góp phần nhỏ bé vào. Khi đã đạt được kết quả, thì đừng quên rằng họ chỉ là tôi tớ, đã biết vâng theo những lệnh truyền của Đức Giêsu và cộng tác với Người. Nhưng con số mười hai thúng đầy gợi ý là, sau khi đã chia sẻ tiệc Thánh Thể với những anh chị em hiện diện, bây giờ chính chúng ta cũng có thể và phải chia sẻ lương thực cho những anh chị em không có mặt, để họ cũng được liên kết với đoàn dân Chúa.
Việc thờ phượng của chúng ta hôm nay nhắm đến Mình và Máu Chúa Kitô và những hàm ý về những ai được gọi là “môn đệ”. Bánh được bẻ ra; Chúa Kitô chia sẻ cuộc sống của Người với chúng ta hầu chúng ta được bẻ ra cho tha nhân nhân danh Người. Chén được đổ ra cho chúng ta, đến lượt mình, chúng ta sẽ đổ chính mình ra khi tha thứ cho những ai xúc phạm đến mình; cho kẻ đói ăn và trở nên sự hướng dẫn cho những ai đang ở “những nơi bị bỏ rơi” (Siciliano).
6. Cũng ghi nhận là tác giả Lc nối truyện này trực tiếp vào lời Đức Giêsu tiên báo Thương Khó và với những giáo huấn của Người về việc vác thập giá hằng ngày (9,18-27). Cử hành Bí tích Thánh Thể để tưởng nhớ Đức Giêsu (22,19) là chia sẻ không những sứ mạng của Người (9,1-6), mà cũng còn là chia sẻ định mệnh của Người, được tượng trưng bằng thập giá (9,18-27).
Lm FX Vũ Phan Long, ofm -------------------------------
Thứ Năm sau lễ Chúa Ba Ngôi, tức 60 ngày sau lễ Phục sinh, Giáo hội cử hành lễ của Chúa, kính Mình Máu Thánh Chúa. Liền sau lễ là kiệu trọng thể Mình Thánh Chúa ra khỏi nhà thờ, đi trên đường trải thảm, có các em rắc hoa, vừa đi vừa hát: « Chúa nuôi dân bằng lúa mì tinh hảo, mật ong rừng, Người cho hưởng thỏa thuê » (Ca nhập lễ - lời của thánh Tôma Aquinô). Để loan truyền cho mọi người biết rằng: Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Bí tích Thánh Thể và Hy tế của Người là ơn cứu độ cho toàn thế giới.
Khởi đi từ một thị kiến, nữ tu Juliena de Mont-Cornillon được Chúa cho biết, hàng năm phải cử hành lễ Mình Máu Thánh Chúa và tôn sùng Mình Máu Thánh Chúa trên bàn thờ. Vì thế, lễ này được cử hành lần đầu tiên tại Liège vào năm 1247. Đến ngày 11 tháng 8 năm năm 1264, Đức Giáo hoàng Urbainô IV thiết lập và truyền phải cử hành trọng thể việc tôn sùng Bí tích Mình Thánh, nhằm nhắc lại việc cử hành đầy ý nghĩa trong Bữa Tiệc Ly của Chúa, giúp các tín hữu sống lại bầu khí trang nghiêm ấy với lòng biết ơn Thiên Chúa Cha cách sâu xa, có lúc dừng lại trong thinh lặng trước mầu nhiệm Ðức Tin để chiêm ngắm sự cao cả của Bí Tích vô cùng cao quí với trọn con người và tình thương của Chúa Giêsu.
Cử hành Thánh Thể
Giáo hội công khai cách long trọng Bí tích Mình và Máu Thánh Chúa, mầu nhiệm được thiết lập trong bữa Tiệc Ly và hằng năm được tưởng nhớ vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh, nay được biểu lộ cho hết mọi người, bởi đức tin sốt mến và lòng sùng kính của cộng đoàn.
Trên Bàn thờ Chúa, chúng ta đã thấy tận mắt Bánh và Rượu được truyền phép. Nhưng cần phải được soi sáng, chúng ta mới nhận biết và tin rằng Bánh chính là Mình Chúa Kitô và Rượu là Máu Chúa Kitô. Thật không có ngôn ngữ nào có thể diễn tả hết niềm tin của chúng ta: Làm sao Bánh và Rượu lại có thể là Mình Máu Chúa Kitô được ?
Chúng ta tin Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Bí Tích Mình Thánh. Bánh thánh trở thành Bí tích cần thiết để nuôi dưỡng linh hồn chúng ta, dẫn chúng ta trên đường về về với Chúa!
Giáo hội quả quyết rằng: Chúa Giêsu hiện diện thật sự giữa chúng ta trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta phải tôn thờ. Tấm Bánh truyền phép được đặt trước mặt chúng ta nói về quyền năng vô cùng của tình yêu được bộc lộ trên Thánh Giá vinh hiển. Bánh Thánh nói cho chúng ta về sự hạ mình khó tin của Đấng đã biến mình, hiện diện khiêm tốn dưới hình bánh và hình rượu.
Theo thánh Tôma Aquinô: Con độc nhất của Thiên Chúa muốn cho chúng ta thông phần vào thiên tính của Chúa, đã làm người. Để cứu chuộc chúng ta, Người đã đổ máu mình ra rửa chúng ta sạch muôn vàn tội lỗi, giao hòa chúng ta với Chúa Cha trên bàn thờ Thập Giá.
Đây không phải là máu chiên, bò, nhưng là Máu Châu Báu của Chúa Kitô, Thiên Chúa thật. Bánh và Rượu trở nên Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Bí tích Thánh Thể là Tình Yêu tột đỉnh của Người đối với chúng ta: « Đang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: « Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta » Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông: "Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người » (Mc 14, 22-24).
Thánh Gioan Kim Khẩu nói: « Anh em hãy để tâm suy nghĩ về vinh dự khi anh em được cất nhắc lên đồng bàn tham dự tiệc thánh. Điều mà các thiên thần run sợ khi chiêm ngắm Ánh Huy Hoàng chói lọi, Đức Kitô lại ban cho chúng ta làm của ăn, bằng mọi cách, Người lấy chính máu mình nuôi dưỡng chúng ta, Người kết hợp chúng ta với Người, để chúng ta được hợp cùng Đức Kitô và hiệp nhất cùng nhau như một thân mình và một xác vậy ». (Thánh Gioan Kim Khẩu)
Bí tích Thánh Thể là chóp đỉnh về lòng nhân ái của Thiên Chúa đối với chúng ta: « Chúa Kitô tháp nhập vào mỗi tín hữu nhờ Bí tích này. Những kẻ Người đã sinh ra thì Người nuôi dưỡng bằng chính bản thân Ngài, qua Bí tích Thánh Thể, Người làm cho ta vững tin rằng Người đã mang lấy chính xác thân của ta ». Người tan biến trong chúng ta, « làm một với chúng ta, làm cho chúng ta trở nên thân mình của Ngài » (Thánh Gioan Kim Khẩu).
Việc biến đổi Bánh và Rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, là nguyên tắc cho việc thần thiêng hoá tạo vật. Vì thế, lễ kính Mình và Máu Thánh Chúa Kitô có đặc điểm hết sức riêng biệt là rước kiệu Mình Thánh Chúa.
Rước kiệu Mình Thánh Chúa
Sau lễ này, Giáo hội kiệu Mình Thánh Chúa và đưa Chúa ra khỏi nhà thờ, tuyên xưng Chúa Giêsu ngự thật trong phép Mình Thánh, mang Chúa vào trong đời ta, với mong ước nhà ta là nhà của Chúa, đường đời ta là đường của Chúa, xin Chúa hiện diện hằng ngày trong đời sống chúng ta! Có Chúa Giêsu là Bánh ban sự sống, Bánh của các thiên thần, Bánh của của kẻ hành hương cùng đi, chúng ta sẽ không cô đơn.
Khi đặt Mình Thánh vào Mặt nhật, dưới dạng mặt trời, ngụ ý rằng Chúa Giêsu là « Mặt Trời »: Ngài là ánh sáng của lòng ta (đó là ý nghĩa của từ « mặt nhật »)
Bình khói hương thơm nghi ngút vừa đi vừa xông, tượng trưng cho lời nguyện cầu của chúng ta tỏa bay lên trước tòa Chúa.
Các em bé rắc hoa trên đường nhắc lại cuộc rước Chúa Giêsu vào Thành Thánh, và những lời tụng ca của các em rất làm Chúa hài lòng.
Qua cuộc rước kiệu, chúng ta thấy Chúa và chắc chắn Chúa thấy tất cả những khổ đau của những bệnh nhân; những nỗi cô đơn của những người già và trẻ; những cám dỗ, những nỗi lo lắng trong cuộc sống của chúng ta. Cuộc rước kiệu này còn có ý nghĩa là xin Chúa chúc lành cho chúng ta và cho toàn thế giới.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự trong phép Mình Thánh, là Bánh đích thực nuôi dưỡng chúng con trên mặt đất này, xin hướng dẫn chúng con đến bàn tiệc trên Trời, trong vinh quang các thánh của Chúa, có Mẹ Maria là Mẹ chúng con. Amen.
Hôm nay, Giáo hội cử hành trọng thể Mầu nhiệm đã được thiết lập trong bữa Tiệc Ly. Nếu hằng năm được nhớ đến vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh, thì hôm nay được biểu lộ cho tất cả, được bao bọc bởi đức tin sốt mến và lòng sùng kính của cộng đoàn Giáo hội bằng việc cử hành lễ của Chúa, lễ kính Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu với cao điểm là Rước Kiệu Mình Thánh.
Bánh rượu Menkixêđê dâng tiến
Nói đến Mình Thánh Chúa Giêsu là nói đến bánh dưới dạng « lương thực ». Từ « bánh thánh » có nghĩa là « hy sinh »: từ này được dùng để chỉ các lễ hy sinh Cựu Ước như: lễ vật của Aben tôi trung của Chúa, hy lễ của Abraham, và lễ vật tinh tuyền của Menkixêđê, thượng tế của Chúa.
Bài đọc I trích sáng Sáng Thế (14,18-20) đề cập đến bánh và rượu của Menkixêđê vua thành Salem mang đến xin Chúa chúc phúc. Menkixêđê là ai vậy ? Ông là một nhân vật hơi huyền bí, không cha, không mẹ; đột nhiên xuất hiện rồi lại biến mất, những người bà con họ hàng cũng không hay biết về nguồn gốc, ông khác biệt bởi nhân đức cao vời nên người ta gọi ông là « Menkixêđê » vua Công Chính.
Một ngày kia ông xuất hiện trên núi sau này là núi Sion (Giêrusalem) và vạch ra những danh giới cho một thành gọi là « Salem », thành hòa bình. Ông sống ở đó trong thinh lặng và an bình, phụng sự Thiên Chúa, Đấng sáng tạo trời đất và dạy người ta ca tụng Danh Thánh Chúa. Ông không chỉ là người tôn thờ vị Thượng Tế Tối Cao, mà còn dâng bánh và rượu, lễ vật hy sinh và những hoa quả đầu mùa lên Chúa.
Thánh lễ này, chúng ta dâng lên Chúa bánh rượu "là hoa màu ruộng đất và lao công vất vả của con người" để trở nên Mình và Máu Chúa Kitô. Và như vậy, Thánh lễ đã bắt nguồn từ xa xưa và kiện toàn mọi lễ dâng từ thời Abel qua Melkisedek cho tới nay. Menkixêđê là hình ảnh báo trước về Chúa Kitô sau này.
Bánh rượu của Chúa Giêsu
Cựu Ước có rất nhiều dấu chỉ và biểu tượng về Bí tích Thánh Thể được hoàn tất trong Tân Ước. Các hình ảnh tiên trưng về Bích tích Thánh Thể như: lễ vật của Abraham, Menkixêđê, Manna trong sa mạc, bánh trưng hiến trong Đền Thờ Giêrusalem, đặc biệt là chiên Vượt Qua.
Chúa Giêsu đã chọn bánh và rượu làm dấu chỉ hữu hình về sự hiện diện của Người nơi trần gian. Bánh và rượu do vị thượng thế Menkixêđê dâng tiến (Ga 14, 18) báo trước về bánh và rượu do Chúa Giêsu, Thượng Tế Tối Cao, Vua muôn thủa dâng tiến ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Vì Chúa Giêsu « đã trở thành Thượng tế cho đến muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê » (Dt 6,20).
Tối hôm trước ngày chịu khổ hình, sau bữa Tiệc Ly Vượt Qua, Chúa Giêsu cầm bánh trong tay thánh thiện khả kính, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho họ và nói: « Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Ta ». Đoạn, cầm lấy chén rượu nho, tạ ơn, trao cho họ và họ uống cạn chén ấy. Và nói: « Chén này là Tân Ước trong Máu Ta » (1 Cr 11, 23-26). Chỉ trong mấy câu vắn tắt, Phaolô đã thuật lại toàn bộ lịch sử tình yêu cứu độ của Thiên Chúa với con người. Không chỉ là quá khứ mà còn được dự đoán trong tương lai.
Dưới hình bánh rượu, Chúa Giêsu đã tự trao ban chính mình cách hoàn toàn, chứ không phải chỉ một phần. Chúa Giêsu hiện diện thực sự ở đó trót Mình và Máu Người, để dâng lên Chúa Cha một hiến lễ không đổ máu và trở nên lương thực cho linh hồn tín hữu. Bánh rượu của Chúa Giêsu mang thêm ý nghĩa lịch sử và giao ước cũ. Ðây không chỉ là hoa màu ruộng đất nhưng còn là công lao của con người. Thiên nhiên và con người đều phải trở nên tạo vật mới nhờ mầu nhiệm Chúa Giêsu nơi Bí Tích Bánh Rượu mà chúng ta tiếp tục dâng trên bàn thờ để cho thế gian được sống (Ga 6,51).
Bước theo Bánh Giêsu
Ở mọi nơi mọi thời, Chúa Giêsu muốn gặp gỡ con người và mang đến cho họ sự sống của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã dùng bánh và rượu, một thứ lương thực đơn giản gồm một ít nước và bột, giống như thức ăn của người nghèo. Việc biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, là nguyên tắc cho việc thần thiêng hoá tạo vật. Vì thế, lễ kính Mình và Máu Thánh Chúa Kitô có đặc điểm hết sức riêng biệt là rước kiệu Mình Thánh Chúa, một cử chỉ đầy ý nghĩa.
Khi đi kiệu và thờ lạy, chúng ta hướng nhìn vào Bánh Thánh đã được truyền phép là chính Chúa Giêsu và bước theo Bánh ấy, đưa Bánh Thiêng từ Trời xuống vào trong đời sống hằng ngày của chúng ta; với ước muốn xin Chúa Giêsu cùng đi với chúng ta bất cứ nơi nào chúng ta đi, và sống bất cứ nơi nào chúng ta sống.
Trong lễ của Chúa, chúng ta tuyên xưng rằng Bí Tích Thánh Thể thuộc trọn về mình, là chính sự sống của mình, là nguồn mạch tình yêu chiến thắng sự chết. Từ sự hiệp thông với Chúa Kitô Thánh Thể, phát sinh tình bác ái có sức biến đổi cuộc đời chúng ta và nâng đỡ cuộc hành trình của tất cả chúng ta đang tiến về quê trời vinh phúc.
Khi rước kiệu, chúng ta bước theo Bánh Giêsu và cầu xin Bánh chỉ cho chúng ta đường phải đi đến với Giáo hội. Nhìn vào nhân loại đau khổ, lang thang bấp bênh giữa ba đào, đang bị cái đói về thể lý và tâm lý hành hạ. Xin Chúa ban cho nhân loại bánh để nuôi dưỡng xác hồn. Xin cho họ có công ăn việc làm. Xin tẩy rửa và thánh hóa chúng ta trong mọi sự, giúp chúng ta hiểu rằng phải qua Khổ Nạn, qua lời "xin vâng" trên cây Thập Giá, với sự từ bỏ mới đạt tới vinh quang. Xin Chúa qui tụ những ai tản mác khắp nơi về một mối. Xin Chúa hiệp nhất chúng ta với Giáo hội, đoàn kết chúng ta với anh em bị chia rẽ. Và nhất là xin Chúa ban cho chúng ta ơn cứa độ đời đời. Amen. Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hôm nay thật là một ngày hồng phúc đối với người Kitô hữu, vì ngày Thứ Năm Tuần Thánh, sau khi Giáo hội đã cử hành kỷ niệm ngày Chúa Giêsu lập phép Thánh Thể vì yêu chúng ta, giờ muốn suy tôn Bí tích cực thánh này mọi nơi mọi lúc để muôn đời tưởng nhớ Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng tạo dựng đất trời đã ẩn mình nơi tấm bánh nhỏ mọn này, một sự hạ mình khó tin, tự ban chính thân mình làm của ăn cho chúng ta. Bánh các thiên thần nay phàm nhân được hưởng, và thưởng thức dồi dào như xưa Chúa đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng: "Tất cả đều ăn no nê, và người ta thu lượm được mười hai thúng miếng vụn còn dư lại" (Lc 9,17).
Sự việc xảy ra: Khi đã xế chiều, nhóm mười hai đến thưa Người rằng: "Xin Thầy giải tán dân chúng, để họ đi vào trong các làng mạc và trại quanh đây mà trú ngụ và kiếm thức ăn" (Lc 9,12).
Đám đông dân chúng đang đói, Chúa Giêsu đứng giữa họ và quan tâm đến từng người, mạc khải cho họ thấy lòng thương xót của Thiên Chúa, loan báo mầu nhiệm Thánh Thể. Nhóm Mười Hai Tông Đồ Chúa chọn, nay được đặt vào trong tình trạng khó xử là cho đám đông ăn, khiến họ thưa: "Xin Thầy giải tán dân chúng", với lý do họ chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá, chẳng thấm vào đâu cho chừng ấy người ?
Đó là tình trạng hằng ngày của chúng ta, chúng ta không thể đáp ứng nhu cầu của một đám đông đã được giao phó bằng các phương tiện nhận loại mà ta đang có. Dù các tông đồ chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá trong túi xách thôi. Từ những chiếc bánh ít ỏi ấy, Chúa sẽ biến đối cái nghèo thực tại của các ông.
Hôm nay Chúa Giêsu muốn biến đổi nhận thức của chúng ta và yêu cầu chúng ta phải hướng về Cha trên trời. Người muốn biến đổi nhân tính của chúng ta để nhân tính ấy không dựa vào chính mình, nhưng tin cậy vào sự quan phòng của Thiên Chúa luôn hành động.
"Các con hãy cho họ ăn đi" (Lc 9,13). Đám đông theo Chúa cả ngày, trời lại gần tối. Lời Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ trong khoảnh khắc ấy làm thỏa mãn đám đông, từ đây họ được nuôi sống bằng bánh sự sống và được no lòng thỏa dạ. Bằng cách lắng nghe Lời Chúa, rước Mình và Máu Người, Chúa Giêsu dẫn chúng ta từ đám đông đến hiệp nhất với cộng đoàn.
Bí tích Thánh Thể là Bí tích của sự hiệp thông, làm chúng ta ra khỏi cái chủ nghĩa cá nhân để sống với nhau theo Chúa Kitô, tin cậy vào Người. Đây đã là tình trạng của Giáo hội đang bất lực trước nhu cầu của các tổ chức trên thế giới. Thiên Chúa mang trên mình tất cả những ưu tư lo lắng của của con người, và muốn chăm sóc Giáo hội với sự cộng tác của con người. Nếu mỗi người chia sẻ những gì mình có, cho dù nhỏ mọn, Thiên Chúa sẽ làm lên những điều không thể cho toàn thế giới.
"Chúa Giêsu cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, nhìn lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và phân phát cho các môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Tất cả đều ăn no nê, và người ta thu lượm được mười hai thúng miếng vụn còn dư lại." (Lc 9,16-17). Trước đám đông dân chúng, các ông thất vọng về sự bần cùng và phương tiện, cũng như thiếu khả năng để nuôi đám đông. Năm chiếc bánh và hai con cá đặt vào tay của Chúa Giêsu, cả đám đông được no nê.
Chúng ta ngày nay cũng thế, nếu biết đặt vào tay Chúa khả năng khiêm tốn, cái mà chúng ta có, thì, trong sự chia sẻ, đời sống chúng ta sẽ phong phú. Thiên Chúa ở gần chúng ta, nhờ lễ hy sinh trên Thánh Giá, Người đã hạ mình xuống cho đến chết để ban sự sống mình cho chúng ta, Người đã chiến thắng sự dữ, ích kỷ, cái chết. Trong Thánh Thể, Chúa Giêsu dẫn chúng ta đi trên con đường phục vụ, sẻ chia, cho đi một chút để chúng ta trở nên giầu có. Quyền năng của Thiên Chúa là tình yêu, đổ xuống và biến đổi cái nghèo của chúng ta.
Hôm nay, chúng ta cử hành lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa Giêsu là Suối Nguồn hằng sống của Giáo hội. Giáo hội sống nhờ và trao ban sự sống thần linh này cho những người đã chịu phép Rửa tội cách dồi dào.
Ðiều này rõ ràng trong bài Tin Mừng hôm nay. Khi các tông đồ muốn giải tán dân vì thấy bất lực trước nhu cầu của đám đông. Nhưng được Chúa gợi ý cho dân ăn, bảo họ ngồi xuống thành từng nhóm. Người trao bánh, cá cho họ... cuối cùng còn thu được mười hai thúng miếng vụn, đúng số Mười Hai Tông Đồ.
Những điều ấy há không đáng suy nghĩ sao? Trong bàn tiệc Thánh Thể, Chúa muốn chúng ta nghĩ đến nhu cầu của anh em. Có thể chúng ta bất lực, nhưng Chúa sẽ giúp. Mình Máu Người còn trao cho chúng ta, huống hồ là của cải vật chất và tài năng tự nhiên mà Chúa đã đặt trong tay mỗi người. Chúng ta không phải chia sẻ những của ấy sao? Chúng ta sợ mất mát thiệt thòi, không thấy cuối cùng còn thu lại được mười hai thúng miếng vụn đó hay sao?
Chắc chắn Hội Thánh ban đầu đã hiểu rằng, bàn ăn của Chúa cũng phải là bàn tiệc huynh đệ, nên khi cử hành mầu nhiệm Thánh Thể, Hội Thánh cũng tổ chức việc chia sẻ nâng đỡ vật chất. Giáo dân Côrintô đã quên phương diện này, nên Phaolô đã phải nhắc lại (x. 1 Cr 11, 23-26). Lời thánh Phaolô hôm nay cũng chất vấn chúng ta, chúng ta sốt sắng tôn thờ Thánh Thể nhưng có biết chia sẻ với nhau một cách thực tế không, để không một ai phải thiếu thốn, đang khi những người khác thì no đầy?
Vì thế, chúng ta phải suy nghĩ về ba bài đọc, để khi long trọng tôn thờ Chúa trong Thánh Thể, chúng ta ý thức về nhiệm vụ bác ái, để mỗi lần cử hành bàn tiệc của Chúa, chúng ta lại nghĩ đến bàn ăn của anh em. Nơi bàn thánh chúng ta nhận được từ nơi Chúa thì cũng phải chia sẻ với anh em, để khi trở lại dâng lễ chúng ta có bánh rượu là hoa màu ruộng đất và lao công của con người dâng lên Chúa để trở thành bánh nuôi sống và của uống thiêng liêng cho tất cả chúng ta. Amen. Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Khi diễn tả hành vi của tình yêu cho người mình thương mến, chúng ta thường trao cho họ những kỷ vật để làm bằng chứng về tình yêu mà mình muốn dâng hiến. Với người đón nhận thì tặng vật đó không chỉ đơn thuần là một kỷ niệm, nhưng nó còn là sự hiện hữu của chính người tặng quà.
Cũng vậy, khi Chúa Giêsu đến trần gian hầu cứu độ con người, và khi biết mình sắp trở về với Đấng đã sai mình, Ngài đã yêu thương họ đến cùng, nên đã để lại cho Giáo Hội một bảo chứng nhằm diễn tả tình yêu tuyệt đối của Ngài cho nhân loại, đó là Bí tích Thánh Thể.
Vì thế, Bí tích ThánhThể là “nguồn mạch và chóp đỉnh của tất cả đời sống Kitô giáo” (x. LG, số 11). Các Bí tích khác đều quy hướng về Bí tích Thánh Thể như điểm quy chiếu, và, trải qua bao thế hệ, Giáo Hội luôn coi Bí tích Thánh Thể là gia tài của mình, nơi đó tuôn chảy và phát xuất ra mọi năng lực cho Giáo Hội (x. Porta Fidei, số 9).
Khi thiết lập Bí tích này, Chúa Giêsu muốn ở với chúng ta luôn mãi (x. Mt 18,20). Ngài yêu chúng ta đến cùng (x. Ga 13,1), đến nỗi hiến mạng sống vì chúng ta (x. Ga 15,13). Không những thế, Ngài muốn chúng ta nên một với Ngài bằng cách ban chính Thịt và Máu Ngài làm của ăn nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Nhờ đó, chúng ta được trở nên một với Chúa và hiệp thông với nhau cách trọn vẹn.
1. Thánh Thể: Bí tích hiệp thông
Khi diễn tả sự hiệp thông Thánh Thể, Giáo Hội khởi đi từ việc nhắc cho con cái của mình ý thức sự liên kết với Chúa Giêsu trong chiều kích quy Kitô. Vì thế, mọi sự đều hướng về Chúa Giêsu như điểm hội tụ. Từ Ngài tỏa ra và chi phối toàn bộ đời sống của con người.
Với suy tư như trên, chúng ta xác tín rằng: khi tham dự Tiệc Thánh Thể, ấy là lúc chúng ta sống trong sự hiệp thông sâu xa với Chúa và với nhau. Khi rước lễ, chúng ta đón nhận chính Chúa Giêsu, mà Chúa Giêsu là Đầu, thì “mỗi người là một bộ phận” (1 Cr 12,27).
Sự hiệp thông này gợi lại cho chúng ta lời cầu nguyện của chính Chúa Giêsu: “Lạy Cha, Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để họ cũng ở trong Chúng Ta, như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17,21).
Trong Kinh Tiền tụng Thánh Thể cũng nhắc lại cho chúng ta ý nghĩa này: “Chúng con nài xin Chúa cho chúng con khi thông phần Mình và Máu Đức Kitô, được quy tụ nên một nhờ Chúa Thánh Thần”. Công thức này cho thấy rõ ràng hiệu quả của Bí tích Thánh Thể, đó là sự hiệp nhất với nhau trong tinh thần hiệp thông với Chúa qua Giáo Hội.
Trong Thông điệp Giáo Hội sống nhờ Thánh Thể, Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã khai triển rõ ràng và sâu xa, giúp toàn thể Giáo Hội sống hiệp thông với Chúa cách trọn vẹn. Ngài viết:
“… Thánh Thể xuất hiện như là đỉnh cao của tất cả các Bí tích, vì nó làm cho nên hoàn thiện mối hiệp thông của chúng ta với Thiên Chúa Cha, bằng cách đồng hoá với Người Con yêu dấu duy nhất của Người nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần”. Nói cách khác, khi ta rước lấy Mình và Máu Chúa Giêsu, thì trong ta có Chúa và trong Chúa có ta. Ta và Thiên Chúa cùng chung nhau một giòng máu. Chúng ta trở nên “những người thông phần bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4). Điều này cũng được diễn tả khi linh mục pha chút nước vào rượu và dâng lời nguyện: “Nhờ dấu chỉ nước hoà rượu này, xin cho chúng con được tham dự vào thần tính của Đấng đã đoái thương thông phần nhân tính của chúng con”.
Như vậy, Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích Tình Yêu (Sacramentum Caritatis). Vì yêu, Chúa Giêsu đã cho chúng ta được liên kết nên một với Ngài. Khi hợp nhất với Ngài, chúng ta được mời gọi hiệp thông với nhau trong mọi chiều kích, nhất là hiệp thông với người nghèo.
Thật mâu thuẫn tận căn khi chúng ta cử hành Thánh Thể và thiếu đi tính hiệp thông sâu xa này. Bởi vì “Thánh Thể tạo nên sự hiệp thông và cổ vũ sự hiệp thông”.
2. Liên đới với người nghèo là sống sự hiệp thông Thánh Thể
Hiện nay, trên thế giới, dân số lên đến gần 7 tỷ người. Nhưng có tới 1/3 người nghèo, tức là hơn 2 tỷ người đang sống dưới mức nghèo khổ. Riêng Việt Nam, trong số gần 90 triệu người, có 15% dân nghèo không kiếm đủ 1 USD/ ngày.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, biết bao nhiêu thứ dư thừa và lãng phí được huỷ bỏ ngay trên xác chết của những người đói khát. Rồi những nguồn lực kinh tế thì tập trung vào một số người và tập đoàn, trong khi đó biết bao nhiêu người phải vĩnh biệt cuộc sống chỉ vì thiếu một gói mì với giá 2.000 VNĐ, hay một ly nước, một viên thuốc. Nạn phá thai và cổ võ phá thai trở nên hiện tượng bình thường.
Lại còn biết bao nhiêu tiền bạc đổ dồn vào những quán nhậu, quán bar mỗi khi thành phố lên đèn, số tiền chi trả lên đến bạc triệu sau mỗi cuộc vui chơi trác táng. Bên cạnh đó là những Lazarô nghèo đói, ghẻ lở đang bị những con chó đến liếm những mụn nhọt đã ung thối.
Hay vì thiếu đi tính liên đới, trách nhiệm của những người có bổn phận bảo vệ sự trong sạch của môi trường, nên thảm họa ô nhiễm môi sinh ngày càng gia tăng lên đến mức báo động đang ngày đêm đe dọa sự sống của con người và loài vật cũng như thực vật... gây nên hậu quả khôn lường cho cuộc sống con người hiện tại và tương lai lâu dài!
Đứng trước thực trạng đó, là người Kitô hữu, chúng ta không được phép dửng dưng, vô cảm, ngược lại, mỗi người đều có trách nhiệm ít nhiều trong việc thăng tiến con người để thể hiện tinh thần hiệp thông, liên đới.
Đây cũng là sứ điệp mà Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta.
Thánh sử Luca đã đã làm toát lên lòng thương xót của Chúa Giêsu khi trình thuật thật ấn tượng hành vi của Đức Giêsu chạnh lòng thương dân chúng và ra tay làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi dân. Mặt khác, ngài cũng làm toát lên sự liên đới, hiệp thông của người có năm chiếc bánh và hai con cá...
Thật vậy, chúng ta thấy, nếu mỗi người chỉ nghĩ đến cái bụng của mình mà không biết nghĩ đến cho người khác, thì làm sao có 5 chiếc bánh và 2 con cá để Chúa làm phép lạ nuôi dân chúng? Nhờ 5 chiếc bánh và 2 con cá qua sự quảng đại của người hiến tặng, Chúa đã làm một việc cả thể là nuôi 5.000 người, không kể đàn bà và trẻ em. Không phải vì Chúa không làm được phép lạ từ không thành có để nuôi dân chúng, nhưng vì Chúa muốn cho con người sống tinh thần liên đới, trách nhiệm, hiệp thông khi biết đóng góp phần mình trong công việc chung vì ích lợi của người khác.
Như vậy, mỗi người chúng ta hãy biết liên đới với người khác, biết đặt sự sống của mình vào trong hoàn cảnh của họ, để thấy được thế nào là đói khát, đau bệnh và cô đơn… hầu đem lại niềm vui và hạnh phúc đại đồng cho tất cả mọi người.
Mừng Lễ Mình và Máu Cực Thánh Chúa Giêsu, xin cho mỗi người biết sống mầu nhiệm tự huỷ của hạt lúa, trái nho để đem lại sự sống cho người khác. Xin cho người Kitô hữu cũng biết liên đới với anh chị em chung quanh mỗi khi họ cần đến chúng ta, để yêu thương, chia sẻ, đồng hành với họ. Được như thế, chúng ta đang làm cho sự hiệp thông nơi Bí tích Thánh Thể sống động nơi con người và hành vi của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con tôn thờ, chúc tụng Chúa. Xin Chúa ban cho mỗi người chúng con khi rước Mình và Máu Thánh Chúa cách xứng đáng, thì cũng được hiệp thông thần tính với Chúa và liên đới với nhau. Amen.
Claude Ducarroz đã viết:” Thầy và Chúa chúng ta đích thân ban mình cho chúng ta toàn là dưới những dấu tích khiêm tốn là một chút bánh, một chút rượu. Thật giống như bầu khí của việc rửa chân, một cách đơn sơ và khiêm tốn. Coi như đáng kể , cảnh chia sẻ thân tình này giữa bạn hữu với nhau quanh một bàn ăn, vậy mà giữa cảnh ấy, phải đón nhận món quà tặng cao quí nhất, là chính Đức Giêsu, Quân Vương kiêm Tôi Tớ. Vậy chúng ta hãy thực hiện điều đó với lòng khiêm tốn, noi gương khiêm tốn của Người, với hai bàn tay trắng – nhưng là bàn tay giơ ra – của chúng ta, như bàn tay kẻ ăn xin tình yêu là chính chúng ta. Và ( thưa các bạn ), những người phục vụ các bạn để tạo điều kiện và khởi động buổi gặp gỡ linh thiêng này – tôi muốn nói tới các thừa tác viên của Giáo Hội, bắt đầu bằng các giám mục, linh mục và phó tế - chỉ là và phải chỉ là những tôi tớ của các bạn vì yêu Đức Giêsu…và yêu các bạn…”. Bí tích Thánh Thể là bí tích tình yêu.
Thật lạ lùng và huyền nhiệm, Chúa Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể để nuôi dưỡng con người, ban sự sống cho con người. Đây là một sáng kiến của Đức Giêsu trong bữa Tiệc Ly vào Chiều Thứ Năm Tuần Thánh. Bánh trở thành Mình của Chúa và Rượu nho trở thành Máu của Chúa. Quả diệu kỳ và linh thánh bởi vì không ai có thể làm được một việc lạ lùng và kỳ diệu như thế. Đức Giêsu Kitô lại mời gọi chúng ta làm những gì Người đã làm: “ Anh em hãy như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy “. Anh em hãy cầm lấy mà ăn và anh em hãy cầm lấy mà uống.Đây là việc cao sâu và thánh thiêng vì chính Chúa Giêsu đã để lại Thịt và Máu của Mình để nuôi dưỡng nhân loại, nuôi sống chúng ta. Sách Dẫn giải Giáo Lý giải thích thế này:” Chúa lập phép Thánh Thể trong lễ chiên Vượt qua cũng có ý cho ta hiểu rằng chính Chúa là Chiên lễ Vượt qua mới mà con chiên trong lễ Vượt qua bị sát tế thế nào, thì Chúa cũng sẽ bị sát tế để cứu rỗi chúng ta như vậy. Vì thế trong phụng vụ mùa Phục Sinh Giáo Hội ca hát rằng: “ Chiên Vượt qua của chúng ta là Đức Kitô đã hiến tế, vì thế chúng ta hãy mừng lễ với bánh không men tinh tuyền và chân chính.Halléluia…”. Giáo Hội hơn hai ngàn năm qua đã không ngừng lập lại điều Chúa đã truyền dạy. Mỗi lần dâng lễ là chúng ta cử hành tái diễn lại cuộc tử nạn của Chúa, như lời thánh Phaolô nói:” Mỗi lần anh em ăn bánh và uống chén này, anh em hãy loan truyền sự chết của Chúa, cho đến khi Chúa lại đến “ ( 1 Co 11, 26).
Một sự lạ lùng và đòi hỏi đức tin bởi vì khi linh mục đọc lời truyền phép Thánh Thể, Ngài không đọc nhân danh cá nhân mình, nhưng là nhân danh Chúa Giêsu. Vì thế, Ngài không nói:” Này là Mình Chúa Kitô, này là Máu Chúa Kitô “, nhưng là nhân danh Chúa Giêsu, Ngài nói:” Này là Mình Ta, này là Máu Ta “. Và chính lúc đó, Chúa Giêsu đã dùng quyền năng của Người mà biến đổi bánh và rượu trở nên Mình Thánh Máu Thánh Người. Đây quả thật là một phép lạ lớn, mà chỉ con mắt đức tin mới nhận ra được. Vì sau khi truyền phép, bề ngoài hình bánh hình rượu vẫn y nguyên như trước, không thay đổi chút nào.Nhưng đức tin dạy cho ta biết đó không còn phải là bánh là rượu nữa, mà đã trở nên Mình Máu Thánh Chúa.Vì nhiệm mầu đức tin. Và khi đó ta phải giục lòng tin có Chúa Giêsu thực sự hiện diện trong hình bánh hình rượu trên bàn thờ ( Dẫn giải Sách Giáo lý ).
Mỗi ngày trên thế giới có biết bao thánh lễ được dâng. Bí tích Thánh Thể là chính Mình Máu Thánh của Chúa tiếp tục nuôi dưỡng con người phần hồn cũng như phần xác. Do đó, chúng ta phải yêu mến năng đi tham dự thánh lễ và rước Mình Máu Thánh Chúa vì chính Chúa nuôi dưỡng và ban sự sống thần linh cho chúng ta. Đồng thời chúng ta cũng siêng năng chầu Thánh Thể và viếng Chúa nơi Nhà Tạm. Chúa phán:” Hỡi những kẻ khó nhọc gồng gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ bổ sức lại cho các ngươi “.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con càng ngày càng yêu mến Chúa vì chính Chúa đã ban Mình Máu Thánh của Người để nuôi dưỡng nhân loại, nuôi dưỡng chúng con. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ ? 1.Chúa đã lập bí tích Thánh Thể lúc nào ? 2.Ai được cử hành bí tích Thánh Thể ? 3.Khi linh mục truyền phép bánh và rượu trở nên thế nào ? 4.Chúng ta phải có thái độ nào đối với bí tích Thánh Thể ?
Lòng Thương Xót của Thiên Chúa là đề tài căn bản của Tin Mừng Lu-ca. Bất cứ hành động nào của Ba Ngôi Thiên Chúa, nhất là những việc làm của Chúa Giê-su, cũng đều được mô tả dựa trên động lực chính là Lòng Thương Xót. Cho nên chúng ta không lấy làm lạ khi thấy ngay trong phép lạ Chúa Giê-su hóa bánh ra nhiều để mọi người đều ăn và được no nê, hành động của Chúa Giê-su hoàn toàn là do lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Hơn thế nữa, phép lạ còn cho thấy lòng Thương Xót ấy là một tình yêu vô bờ và ai ai cũng đều có thể được Chúa sai đi để chia sẻ lòng Thương Xót ấy cho mọi người.
Ngày đã bắt đầu tàn. Lu-ca mở đầu câu chuyện bằng cách ghi lại thời gian xảy ra phép lạ. Cuối ngày là thời gian để người ta nghỉ ngơi và ăn uống. Chúng ta thử tưởng tượng khung cảnh là một nơi hoang dã xa cách làng mạc, nơi Chúa Giê-su “nói với đám đông về Nước Trời”. Đó là nơi thanh tĩnh, thích hợp cho công việc giảng dạy và để dân chúng nghe Chúa giảng không bị chi phối do những nhộn nhịp và bận rộn của cuộc sống thường ngày. Nhưng cũng có một bất tiện, là vì xa làng mạc nên thật khó cho việc mua đồ ăn thức uống. Dân chúng khao khát nghe lời giảng của Chúa, nên họ không mấy chú ý đến nhu cầu phần xác. Tuy nhiên dù có bị lôi cuốn do của ăn thiêng liêng cách mấy, thì họ cũng không tránh khỏi cảm giác cồn cào do cái đói của thể xác hành hạ khi “ngày đã bắt đầu tàn”. Chúa Giê-su rất nhạy cảm trước những nhu cầu của người khác. Người đã biết Người sẽ làm gì trước khi Nhóm Mười Hai đến xin Người giải tán dân chúng để họ tự lo cho cái dạ dầy của họ. Người thấy dân chúng thực sự đói khát lời Chúa và cơn đói này còn quan trọng hơn cả cơn đói thể xác. Do đó Người đã sử dụng lòng Thương Xót của Thiên Chúa để thỏa mãn khao khát quan trọng hơn ấy của dân chúng. Lòng Thương Xót đến trước khi con người mở miệng kêu cầu. Đó cũng là dấu chỉ nói lên tình yêu vô điều kiện và bao la của Thiên Chúa dành cho chúng ta.
Trước khi làm phép lạ, Chúa Giê-su dạy các môn đệ bảo dân chúng ngồi thành từng nhóm khoảng năm mươi người một. Lòng Thương Xót không muốn thấy cảnh chen lấn chụp giựt của cả chục ngàn người, nhưng phải là một bữa ăn chia sẻ lòng thương mến. Vì thế, tổ chức sao cho trật tự, ấm cúng là sáng kiến và óc tổ chức của Chúa. Hơn nữa, những hành vi đầy ý nghĩa tình yêu và lòng thương xót được thể hiện qua những việc như “dâng lời chúc tụng, bẻ bánh và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông” đã nói cho chúng ta biết phép lạ bánh hóa nhiều là phép lạ của Lòng Thương Xót!
Sau phép lạ, “Mọi người đều ăn và ai nấy được no nê. Những miếng vụn còn thừa, người ta thu lại được mười hai thúng”. Quả thực, đặc tính phong phú và đầy tràn của lòng Thương Xót đã được nói lên ở đây. Hơn năm ngàn người “đều ăn” và “được no nê”. Sự phong phú không dựa trên con số, nhưng trên sự kiện được chia sẻ và được no đủ! Hơn nữa, con số “muời hai thúng” cũng biểu tượng cho sự phong phú và đầy đủ của lòng Thương Xót tuôn đổ xuống trên những người đang khao khát được nuôi dưỡng không những bằng lời Chúa, mà con bằng lương thực dành cho thân xác nữa. Như thế, đây là phép lạ của lòng Thương Xót đầy tràn! Sống sứ điệp Tin Mừng
Khi Chúa Giê-su bảo các môn đệ hãy cho dân chúng ăn, các ông trả lời: “Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá”. Vài cái bánh và mấy con cá khô chẳng có gì đáng kể. Nhưng đó cũng là tất cả những gì Chúa muốn chúng ta có để Người sử dụng mà làm phép lạ. Cũng như các môn đệ Chúa, mỗi người chúng ta đều có một cái gì hoặc một điều gì đó để Chúa sử dụng và thực hiện phép lạ của lòng Thương Xót. Chắc chắn Chúa không đòi hỏi nơi chúng ta những gì là số lượng hay phẩm chất. Người chỉ cần chúng ta có một tấm lòng quảng đại và Người sẽ sử dụng chút tấm lòng của chúng ta để hóa nó ra nhiều cho anh chị em chung quanh chúng ta. Vậy mỗi khi đứng trước những nhu cầu của người khác, chúng ta chỉ cần thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá thôi!”
Là người Việt Nam lớn tuổi, ai cũng còn nhớ tai họa chết đói của dân Miền Bắc năm 1945 THÁNHTHỂ-293
Là người Việt Nam lớn tuổi, ai cũng còn nhớ tai họa chết đói của dân Miền Bắc năm 1945 khiến hai triệu đồng bào ta đã chết đói vì hậu quả quân Nhật bắt dân miền bắc phải trông đay thay vì trồng lúa để có gạo ăn.
Đó là cách quân Nhật ngăn chặn sự chống đối ách cai trị của họ bằng cách cắt nguồn lương thực khiến dân đói và không còn sức để kháng chiến nữa. Đọc lại tài liệu cũ ai cũng phải bùi ngùi xúc động khi biết mỗi sáng ở Hanội, chính quyền thành phố đã phải cho xe đi lượm xác người chết đói nằm rải rác ngoài đường phố.
Khi ấy tôi còn nhỏ nên không biết gì về nạn chết đói ghê sợ này. Nhưng trong chuyến vượt biên đi tìm tự do năm 1983, tôi cũng đã phải trải qua ít ngày đói khát trên biển vì hết lương thực và nước uống, trước khi được vớt vào bờ. Tôi không bao giờ có thể quên được Kinh nghiệm đói khát này, dù chỉ có trong vài ngày.
Đó cũng là kinh nghiệm của dân Do Thái xưa khi họ phải sống trong hoang địa suốt 40 năm, sau khi ông Mô Sê dẫn họ vượt qua biển đỏ từ Ai Cập trở về quê hương an toàn. Họ phải sống trong hoang địa để được thử thách về lòng tin yêu Thiên Chúa của họ trước khi họ được vào Đất Hứa tràn đầy sữa và mật ong.
Vì sống trong hoang địa, nên họ không có gì để ăn và nước để uống. Trước cơn đói khát của họ, Thiên Chúa đã cảm thông và cho tuôn đổ từ trời xuống một thức ăn đặc biết gọi là bánh manna để nuôi sống họ.(Xh 16: 4-5)
Và để có nước cho họ uống, Thiên Chúa cũng sai ông Mô -sê lấy gậy đập vào đá tảng để có nước chảy ra cho dân và súc vật uống (Ds 20: 7-8)
Như thế, là con người, ai ai cũng phải cần đến lương thực nuôi thân xác bao lâu còn sống trên trần gian và trong thân xác có ngày sẽ phải chết đi này.
Nhưng của ăn của uống phần xác- dù hảo hạng đến đâu- thì cũng chỉ giúp con người khỏi phải chết đói hay chết khát mà thôi, chứ không giúp gì cho sự sống vĩnh cửu với Chúa trên Nước Trời mai sau,
Thật vậy, là người có niềm tin Thiên Chúa và tin có sự sống đời đời, sau khi phải chết trong thân xác này, chúng ta không chỉ lo cho có của ăn phần xác thôi mà quan trọng hơn nữa là phải lo cho sự sống của linh hồn, là thực thể sẽ được sống mãi hay phải hư mất sau khi chết trong thân xác, và linh hồn phải ra trước tòa Chúa để chịu phán xét,
Chính vì tầm quan trọng này về sự sống của linh hồn, nên trước hết, chúng ta cần đọc lại lời Chúa Giê su nói với tên quỉ đến cám dỗ Chúa khi người ăn chay trong rừng vắng. Qủi cám dỗ Chúa biến đá ra bánh mà ăn khi biết Chúa đang đói sau 40 ngày chay tịnh. Chúa đã trả lời tên quỉ như sau:
Người ta sống không phải chỉ nhờ cơm bánh mà còn nhờ mọi lời từ miêng Thiên Chúa phán ra. (Lc 4:4; Đnl 8:3)
Nghĩa là cho sự sống của linh hồn, người có niềm tin Thên Chúa phải cần đến lương thực trường sinh là lời Chúa, tức lời hằng sống mà Phê rô đã tuyên xưng một ngày kia như sau:
“Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai. Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.” (Ga 6:68)
Lời ban sự sống đó là lời Chúa Giêsu đã nói với dân Do Thái xưa như sau:
“Anh em hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa, còn các thứ kia Người sẽ thêm cho.” (Lc12:31) Các thứ kia là những của nuôi thân xác, quần áo, xe cộ,nhà ở và công việc làm để có tiền lo cho bản thân và gia đình.
Hơn thế nữa, Lời ban sự sống cũng là lời Chúa Giêsu đã khuyên dạy các môn đệ và dân chúng đến nghe Người giảng dạy xưa kia về sự cần thiết phải lo cho phần rỗi của mình hơn là chỉ lo làm giầu và được danh vọng ở đời này:
Chúa nói: Nguời nào được cả thế giới mà phải mất linh hồn-(tức là mất sự sống trong linh hồn) - thì được ích lợi gì? (Lc 9:25)
Thử hỏi: có mấy ai được lợi lãi cả thế giới này đâu?. Nhưng cho dù có được hết mọi sự trên trần gian này, mà mất linh hồn thì những lợi lãi kia có bù đắp được không? Đó là câu hỏi mà chúng ta, những người có niềm tin vào sự sống đời đời, phải nghiêm khắc suy nghĩ và tự trả lời.
Vì thế, Cho mục đích tìm của ăn nuôi linh hồn, nuôi sự sống đời đời, Phúc Âm Chúa Nhật lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô hôm nay mời gọi mọi người chúng ta suy niêm sâu xa về lời Chúa Giê su đã nói vơi dân Do Thái xưa như sau:
“Tổ tiên các ông đã ăn man na trong sa mạc, nhưng đã chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời, vì bánh tôi sẽ ban tặng là chính thịt tôi đây để cho thế gian được sống: Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì được sống muôn đời và tôi sẽ cho người ấy sống lại ngày sau hết” (Ga 6: 51-54)
Như thế, đủ cho chúng ta biết rằng Chúa Giêsu đã ban chính thịt máu mình làm của ăn của uống để nuội sống linh hồn chúng ta trong cuộc lữ hành về quê trời với hy vọng được sống lại sau khi phải chết trong thân xác như Chúa đã hứa trên đây.
Đó là lý do vì sao Chúa Kitô đã lập bí tích Thánh Thể trong bữa ăn cuối cùng với 12 Tông Đồ, trước khi Người bị trao nộp cho kẻ dữ bắt bớ, hành hung và bị treo trên thập giá cho đến chết. Trong bữa ăn lịch sử nói trên Chúa đã biến bánh và rượu nho thành Mình, Máu Người và trao cho các tông đồ hiện diện ăn uống lần đầu tiên.
Chúa đã nói với các ông như sau: Đây là Mình Thầy anh em hãy lãnh nhận mà ăn”
Người cũng trao chén rượu cho các ông và nói: anh em hãy lãnh nhận mà uống. Đây là máu Thầy, máu giao ước đổ ra cho anh em và cho nhiều người được tha tội. Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. (Mt 26: 26-28; Lc 22: 19-20; 1 Cor 11: 23- 25)
Tuân lời Chúa dạy, Từ đó đến nay, Giáo Hội tiếp tục cử hành Thánh lễ Tạ ơn để diễn lại bữa tiệc cuối cùng của Chúa và hy tế thập giá sau đó để đền tội thay cho nhân loại ngày nay cùng thể thức và mục đích của Hy Tế thập giá xưa trên Núi Sọ.
Như thế, mỗi lần chúng ta tham dự Thánh Lễ, là tham dự bữa ăn của Chúa.
Và khi rước Minh Máu Chúa cách xứng đáng, thực sự hiện diện dưới hai hình bánh và rượu nho, chúng ta được ăn chính thịt và uống máu Chúa Kitô như các Tông Đồ đã được ăn và uống lần đầu tiên trong bữa ăn sau hết với Chúa trước khi Người thọ nạn thập giá để đền tội thay cho mọi người chúng ta.
Mình Máu Chúa Kitô thực sự là của ăn của uống cho ta được sống đời đời với Chúa, sau khi kết thúc hành trình đức tin trên trần thế này. Thực phẩm quí giá này không thể mua được bằng vàng bạc kim cương hay bất cứ loại tiền tệ nào có trên trần gian này, mà chỉ có Chúa Kitô ban phát miễn phí cho chúng ta hưởng dùng mà thôi.
Vậy, ta phải hoan hỉ mỗi khi tham dự Thánh Lễ để được ăn và uống Mình Máu Chúa Kitô, là bánh hằng sống từ trời xuống để nuôi sống linh hồn chúng ta ngay từ bây giờ trước khi chúng ta được thực sự chiêm ngưỡng Thánh Nhan Chúa trên Thiên Đàng.
Nhưng cho được xứng đáng ăn thịt và uống máu Chúa Kitô, hay nói khác đi, là được rước Chúa vào lòng cách xứng hợp mỗi khi tham dự Thánh Lễ Tạ Ơn, chúng cần nhớ lại giáo lý của Giáo Hội về điều kiện để được rước Chúa cách xứng đáng: Đó là ta phải sạch tội trọng, vì ai đang có tội trọng thì không được làm lễ (đối với linh mục) và rước Lễ (đối với giáo dân) (x. giáo luật số 916, SGLGHCG số 1415)
Phải sạch tội trọng vì tội này cắt đứt tình thân giữa con người và Thiên Chúa. Do đó, ai mắc tội này phải mau kíp đi xưng tội để được giao hòa lại với Thiên Chúa trước khi rước Chúa Kitô vào lòng. Ai rước Chúa đang khi còn tội trọng trong linh hồn là phạm sự thánh.
Chúng ta vô cùng cảm tạ Chúa Kitô vì ơn cứu độ Chúa đã mang lại cho chúng ta qua khổ hình thập giá, chết, sống lại và lên trời. Chúng ta cảm tạ Chúa đặc biệt trong Chúa Nhật kinh Mình Máu Chúa hôm nay, vì Chúa đã ban chính thịt máu Người làm của ăn của uống cho linh hồn ta được sống sau khi phải chết trong thân xác yếu hèn này.
Xin Mẹ Maria, Đấng đã cưu mang Chúa Giêsu-Kitô, tức là người đầu tiên được rước Chúa vào cung lòng vẹn sạch của Mẹ, giúp chúng ta thêm yêu mến phép Thánh Thể, siêng năng rước Mình Máu Chúa Kitô khi tham dự Thánh lễ để được bổ sức thiêng liêng cho hành trình tiến về quê Trời và nhất là có hy vọng được sống lại sau khi phải chết trong thân xác như Chúa đã hứa trên đây.
Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô là lễ rất quan trọng đối với người Công giáo. Bởi vì, qua thánh lễ này, người Kitô hữu càng hiểu rõ hơn Mình Máu của Chúa là lương thực đem lại sự sống đời đời. Thực tế, khi xưa, Chúa dự tiệc cưới Cana, cùng với Đức Mẹ và các Môn đệ, Chúa đã làm phép lạ cho nước lã hóa nên rượu ngon. Đây là phép lạ đầu tiên trong đời sống công khai rao giảng của Chúa.Phép lạ hóa bánh và cá nuôi sống nhiều ngàn người ăn tiên báo bí tích Thánh Thể. Hôm nay, mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô để mọi Kitô hữu càng lúc càng yêu mến Mình Máu Chúa và càng ngày càng siêng năng lãnh nhận Mình Máu Chúa. Đọc lại Cựu Ước, chúng ta nhận ra tình thương bao la, cao vời của Thiên Chúa khi Môsê dẫn Dân Chúa đi trong sa mạc tiến về đất hứa, dân chúng đói khát. Môsê kêu cầu Chúa, Ngài đã ban Manna và chim cút để dân chúng ăn no nê. Tuy nhiên, Manna và chim cút không phải từ trời xuống như chính Thiên Chúa đã nói:” Bánh môsê ban tặng các ngươi, chẳng phải là bánh từ trời xuống…Ta là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ sống đời đời. Bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta “ ( Ga 6, 32, 51). Trình thuật của thánh Máccô diễn tả bữa Tiệc Ly:” Đang khi họ đồng bàn với nhau, Chúa Giêsu cầm một miếng bánh tạ ơn, bẻ ra trao cho các môn đệ và nói:’ Hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Ta “. Đoạn Ngài cầm chén lên, tạ ơn Chúa, rồi trao cho họ “ Tất cả hãy cầm lấy mà uống. Đây là Máu Ta sẽ đổ ra cho nhiều người …”.Thánh Luca viết về sự kiện này:” Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, đoạn bẻ ra và trao cho họ “ ( Lc 24, 30 ). Vâng, Bữa Tiệc tuyệt diệu của Chúa Giêsu được loan báo khi chúng ta tìm hiểu Tin Mừng. Từ bữa tiệc cưới Cana, nơi Chúa Giêsu tiên báo bữa tiệc Nước Trời, đến phép lạ ở Capharnaum, nơi Chúa Giêsu hứa ban cho dân bữa tiệc ấy, rồi chính tại Giêrusalem, Chúa thiết lập bữa tiệc ấy trước giờ đi vào cuộc thương khó, chịu nạn và chịu chết, và cuối cùng tại Emmau, Chúa Phục Sinh cử hành bữa tiệc ấy lần đầu tiên khi Ngài từ trong kẻ chết sống lại.Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích Tình Yêu Chúa trao ban cho nhân loại, trao ban cho con người. Mình Máu Thánh Chúa là quà tặng vô giá Chúa Giêsu tặng ban cho chúng ta, cho mỗi người.Đây là lương thực thiêng liêng Chúa Giêsu nuôi dưỡng chúng ta. Đây là Mầu Nhiệm đức tin, một Mầu nhiệm vượt quá sự suy tưởng, quá sự suy nghĩ của mọi người chúng ta. Chúa Giêsu đã tự hiến một cách tự nguyện, hoàn toàn vô vị lợi, vô điều kiện đối với nhân loại, đối với con người. Tin Mừng của thánh Luca hôm nay diễn tả việc Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh và cá hóa nên nhiều để nuôi sống đoàn lũ dân đông đảo đi theo Chúa để nghe Chúa giảng dạy.Chúa Giêsu không những chỉ rao giảng Nước Trời, nhưng Ngài còn quan tâm cả đến đời sống con người. Ngài mang lại sức khỏe cho con người:” Mọi người đều ăn no nê, và người ta thu lại được mười hai thúng bánh vụn !”, dấu hiệu của cơm bánh là thức ăn quí giá, thức ăn thần diệu nuôi phần xác con người. Chúa Giêsu nói với những người lầm lẫn, không hiểu về dấu chỉ cơm bánh rằng:” Cơm bánh, chính là Ta ! Ai đến với Ta sẽ không bao giờ đói; ai tin Ta sẽ không bao giờ khát “ ( Ga 6, 35 ).
Xin mượn lời Nữ tu Emmanuelle Billoteau để kết thúc bài suy niệm này:Chúng ta hãy cùng lắng nghe Maurice Zundel nhắc nhở chúng ta rằng:” Từ Ba Ngôi Thiên Chúa đến Bí Tích Thánh Thể và từ Bí Tích Thánh Thể đến Ba Ngôi Thiên Chúa có một mối tương quan vô cùng quan trọng, chính bởi vì Ba Ngôi Thiên Chúa là Tình Yêu, nơi chỉ có tình yêu, còn Bí Tích Thánh Thể là sự biểu lộ, và giống như là sự bén rễ của tình yêu này giữa lòng sự sống “. Một tình yêu được mặc khải cách trọn vẹn trong món quà là sự sống của Chúa Giêsu:” Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã để lại cho chúng con bí tích kỳ diệu này để tưởng nhớ cuộc thương khó của Chúa “.
Ân sủng này không chỉ liên quan đến quá khứ như được nhắc đến trong lời nguyện tiến lễ và ca hiệp lễ.Lời nguyện tiến lễ nói với chúng ta rằng việc cử hành phép Thánh Thể đem lại cho Hội Thánh ơn hiệp nhất và bình an; ca hiệp lễ nhắc nhớ chúng ta rằng, việc lãnh nhận của ăn trường sinh là Mình và Máu Chúa Kitô cho chúng ta ở lại trong Người, như Người ở lại trong chúng ta.Chúng ta không thể quên rằng, ân sủng này còn hướng chúng ta về tương lai, bởi vì ở lời nguyện hiệp lễ có khẳng định rằng, Bí Tích Thánh Thể cho chúng ta “ nếm hưởng trước “ “niềm hoan lạc trên trời “, hay nói cách khác, chúng ta được tham dự cách trọn vẹn vào sự sống của Thiên Chúa “.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn biết chạy đến với Chúa trong Bí Tích Thánh Thể vì Chúa đang chờ đợi chúng con để nuôi dưỡng chúng con phần hồn cũng như phần xác. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Chúa thiết lập Bí Tích Thánh Thể ở đâu ? Lúc nào ? 2.Khi Linh mục đọc lời truyền phép bánh và rượu trở nên gì ? 3.Bí Tích Thánh Thể gọi là Bí Tích gì ? 4.Phép lạ Chúa làm cho bánh và cá hóa nhiều tiên báo gì ? 5.Manna khác với Bánh trường sinh ở chỗ nào ?
Sau đây là tâm trạng của hai hoàn cảnh khác nhau, một của vị linh mục THÁNHTHỂ-295
Sau đây là tâm trạng của hai hoàn cảnh khác nhau, một của vị linh mục và một của giáo dân, để giúp chúng ta thấy sự khao khát và sự biến đổi từ Nhiệm tích Thánh Thể:
- Có một thương gia Công giáo người Đức đã đến đảo Green Land, miền Bắc cực vào thời đạo Công giáo còn bị cấm hoạt động ở đây. Vì công việc làm ăn, ông phải ở lại đảo suốt mùa Giáng Sinh. Được biết ông là người Công giáo, một gia đình ở đó, đã mời ông đến nhà để cầu nguyện cùng với họ trong đêm Giáng Sinh. Trong đêm tối lạnh buốt, họ quây quần quanh một chiếc bàn nhỏ và cùng nhau cầu nguyện.
Sau lời chào chúc, họ đọc, nghe Kinh Thánh và một vài lời nguyện, ông lão kéo ngăn bàn và lấy ra một hộp nhỏ. Trong hộp, có một khăn Thánh đã vàng úa theo thời gian. Vừa nâng chiếc khăn Thánh lên, ông lão vừa run run, vừa bày tỏ: “Cách đây 50 năm, Thánh Lễ Giáng Sinh cuối cùng trên mảnh đất này đã được dâng trên chiếc khăn Thánh mà tôi đang cầm. Lúc đó, tôi là một chú giúp lễ và chiếc khăn này là vật duy nhất còn lại khi ngôi Thánh Đường bị thiêu rụi. Mình Máu Thánh Chúa Giêsu đã ngự trên chiếc khăn này”. Sau khi nghe những lời ấy, tất cả mọi người quì gối và cầu nguyện trong tiếng nghẹn ngào: “Lạy Chúa, xin cho chúng con được tự do. Xin gởi các Linh mục đến để chúng con được phúc có lễ Chúa Giáng Sinh, để chúng con được dự phần vào Mình Máu Chúa." Mọi người lúc đó, chẳng một ai cầm được nước mắt. Đôi mắt của người thương gia Đức đã rơi lệ chẳng biết từ lúc nào. Lòng ông cảm động, bùi ngùi với tràn đầy ước muốn, tha thiết được rước Thánh Thể. Một sự khao khát mà trước đây ông chưa hề có, cho dù ông vẫn đến Nhà Thờ dự lễ mỗi ngày.
- Và đây là trang nhật ký của một Linh mục:“… Đức Giêsu và Hội Thánh bấy giờ xuất hiện với tôi như một cái gì thật khô cứng, sự khô cứng của những khái niệm Thần học, những bổn phận “phải” làm hơn là một tình yêu thiết tha tung cánh… Rồi chẳng biết từ đâu, triết đông và Phật giáo len lỏi vào tâm hồn tôi, phất phơ nhẹ nhàng nhưng nó lại có sức giật tung những gì mòn mỏi trong lòng tôi. Tôi nằng nặc đòi nhà dòng cho tôi được ra ở một mình trên núi, sống với nắng, với gió mưa, với đói khát, và với cả sợ hãi nữa. Nhưng mỗi lần tôi để tâm suy, trí niệm thì vấn đề Đức Giêsu lại vang lên, đeo bám mãi. Sau một năm, tôi hết phép. Với thân tàn ma dại, tôi thua cuộc, lại mò về nhà dòng hoàn toàn tay trắng! Nhưng Chúa Giê- su cứ đeo bám tôi mãi. Một năm trời nổi loạn, thất bại đã trôi qua và kể như trắng tay, tôi được bề trên gọi làm… Linh mục. Hoang mang và sợ hãi, tâm hồn rối bời, tan nát, tôi vào ngồi bất động trong Nhà Nguyện trầm lặng nhưng lòng như bị đay nghiến, như một mất mát đòi tôi đền bù.
Trước khi làm Linh mục vài hôm, một đêm tôi thử tiến lên đứng sát Nhà Chầu. Có cái gì đó hơn là một cảm giác, hơn là một sự rung động, phủ chụp lấy toàn bộ cuộc đời và con người tôi. Ngay từ giây phút đó, tôi hiểu rằng, cho dù có là hòn đá, hòn sỏi, dù tôi có là con người bê bết lấm bùn, thân tàn ma dại, dù đã làm hỏng cuộc đời, thì Đức Giêsu vẫn gọi và chọn tôi. Việc đó làm cho tâm hồn tôi bừng sáng lên huy hoàng. Và tôi gọi Ngài là Chúa, Cứu Chúa cuộc đời của tôi…"
Thưa Cộng đoàn.
Có thể phần đông chúng ta hoặc chính mình, có khi nào cảm giác trống vắng phải xa lâu Thánh Thể mà có sự khao khát là lùng như thế? Hơn nữa, vì quá quen thuộc, chúng ta chẳng lưu tâm nhiều, thậm chí, còn cảm thấy nhàm chán hoặc làm cho xong, chiếu lệ.
- Đọc lại trong Kinh Thánh, chúng ta sẽ biết rõ hơn sự sống của Thiên Chúa đã trao cho nhân loại và ngay cả Con Thiên Chúa cũng không chối từ:
Đối với những người đã đi theo Chúa vào sa mạc, và những người đang đói khát, Thiên Chúa đã ban cho họ bánh ăn hằng ngày, nhờ đó, đã làm thỏa mãn được cơn đói thể lý của họ. Còn với người phong cùi, thân thể đang bị héo tàn, Đức Giêsu đã ban tấm bánh có ý nghĩa là chữa lành bệnh tật. Đối với người phụ nữ đang ở tại giếng Gia-cóp, người đã ban cho bà tấm bánh của lòng tử tế, và do đó, đã làm thỏa mãn lòng khao khát được chấp thuận. Đối với những người tội lỗi, Người đã ban cho họ tấm bánh của ơn tha thứ, do đó, đã làm thỏa mãn lòng khao khát được cứu độ. Đối với những người bị khước từ và ruồng bỏ, bằng cách hòa hợp với họ, cùng ăn uống với họ, Người đã ban cho họ tấm bánh của tình thân hữu. Do đó, Người đã làm thỏa mãn lòng khao khát được thấy mình có giá trị. Người góa phụ thành Na-im đã chôn cất đứa con trai duy nhất, kể cả chị em Mát-ta và Maria khóc thương em trai La-da-rô vừa mới chết, Người đã ban cho họ tấm bánh của lòng thương xót và chứng tỏ cho họ biết, ngay cả trong sự chết, con người vẫn có thể được Thiên Chúa cứu giúp. Đối với Gia-kêu, một tên thu thuế giàu có, đã chiếm lấy bánh từ bàn ăn của người nghèo, Người đã đánh thức nơi anh ta một niềm khao khát của một đời sống ý nghĩa hơn, đã hướng dẫn anh biết chia sẻ cho người nghèo, một cách làm giàu của niềm tin. Với kẻ trộm bên cạnh mình, Người đã ban cho anh tấm bánh của yêu thương, tha thứ, giúp anh giải thoát khỏi bối rối và tạo nên sự bình an trong tâm hồn…
Đức Giêsu đã chia sẻ chính sự sống của Người cho con người qua nhiều cách khác nhau và dưới nhiều hình thức phong phú, trước khi ban cho con người bản thân mình như là thức ăn và nước uống trong bữa Tiệc Ly để gọi mời con người đón rước.
Trong Thánh Thể, mỗi người được nuôi dưỡng tư tưởng, tâm hồn và ý chí của mình. Trong đó, mỗi người cảm nhận sự hiện diện kéo dài của Chúa Ki-tô với chính mình. Người không hiện diện với tư cách như một ký ức, mơ hồ của một con người đã sống trong quá khứ, nhưng là một sự hiện diện hiện tại để ban sự sống biến đổi con người của ta.
Chúa Giêsu không chỉ dâng Thánh Lễ trong Nhà Thờ, mà Người còn dâng Thánh Lễ cả cuộc đời. Người không dâng một lễ vật nào, nhưng là dâng chính bản thân mình. Người không chỉ bẻ một tấm bánh mà còn bẻ chính thân mình để ban cho muôn người. Việc Chúa Giêsu làm, khiến chúng ta phải nghĩ suy? Hơn nữa, nếu thiếu việc cử hành ngoài Nhà Thờ, ngoài cuộc đời thì những nghi lễ trong Nhà Thờ sẽ trở thành một mớ công thức và dễ dàng xa rời thực tế.
Xin Chúa Thánh Thể ban cho chúng con thêm niềm tin vững vàng, một niềm yêu mến Thánh Thể để mỗi người chúng con có đủ can đảm chịu được theo gương Chúa, biết khiêm tốn sống yêu thương, hiến mình cho Chúa và phục vụ vui tươi cho anh chị em.
Chúng ta có ngày 14 tháng 2 là lễ tình yêu. Trong ngày ấy, chúng ta bày tỏ tình yêu đối với những người thân yêu. Có lẽ chúng ta có thể gọi lễ kính Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô là Lễ Tình Yêu. Thánh Lu-ca kể lại phép lạ Chúa làm cho năm cái bánh và hai con cá hóa ra nhiều để nuôi đoàn người đã đi theo Chúa, nghe Người giảng dạy, nhưng đang đói lả. Đó chính là cách Chúa biểu lộ tuyệt vời tình yêu của Người, chỉ sau cách biểu lộ cảm động và cao cả nhất bằng cái “chết vì bạn hữu” của Người trên thập giá!
Hoàn cảnh để Chúa biểu lộ tình yêu đối với đám đông là phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều, để đáp ứng nhu cầu khẩn thiết nhất của con người: thức ăn. Tuy các môn đệ Chúa biểu lộ được phần nào quan tâm của họ đối với đám đông đang đói khát, nhưng khả năng giới hạn của con người không cho phép các ông thực hiện điều mình muốn. Vì thế, họ xin Chúa giải tán đám đông để dân chúng tự mình “tìm chỗ trọ và kiếm thức ăn”! Đó là giải pháp tốt nhất của loài người. Nhưng Trái tim Thiên Chúa trong Chúa Giê-su lại có một giải pháp khác: “Chính anh em hãy cho họ ăn”. Tình yêu quả thực đầy sáng kiến. Tình yêu Thiên Chúa có thể sử dụng chính những giới hạn của loài người để thực hiện một công việc vượt ngoài khả năng của loài người. Nói khác đi, Tình Yêu chỉ cần dùng năm cái bánh và hai con cá cũng đủ để nuôi một đám đông cả chục ngàn người. Tình Yêu không đo lường bằng con số, nhưng luôn phong phú khiến cho “ai nấy đều được no nê”. Phép lạ bánh và cá hóa nhiều đích thực là một hình ảnh diễn tả tình yêu đầy tràn của Thiên Chúa dành cho chúng ta, đồng thời cũng là hình ảnh báo trước Bí Tích Thánh Thể sẽ được Chúa Giê-su thiết lập, để Tình Yêu “ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mát-thêu 28:20).
Nếu phép lạ bánh và cá hóa nhiều là cách Chúa Giê-su biểu lộ tình yêu Thiên Chúa cho chúng ta trong hoàn cảnh nhu cầu vật chất và nhất thời, thì phép lạ Mình và Máu Chúa Ki-tô phải là cách biểu lộ tình yêu Thiên Chúa đối với nhu cầu thiêng liêng của chúng ta suốt đời. Sách Tin Mừng chỉ ghi lại một hoặc hai phép lạ bánh hóa nhiều, nhưng phép lạ Mình và Máu Chúa Ki-tô thì xảy ra hằng ngày và tại bất cứ thánh đường nào trên thế giới. Hằng trăm ngàn linh mục và giám mục khắp nơi lập lại phép lạ của Tình Yêu Thiên Chúa từng giây từng phút. Hằng triệu triệu tín hữu đang đói khát đã được “ăn và ai nấy đều được no nê”. Mình Máu Chúa Ki-tô chuyên chở Tình Yêu Thiên Chúa đến từng tâm hồn Ki-tô hữu. Mọi người thực sự cảm nghiệm lời Chúa Giê-su hứa “ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” được thể hiện ngay trong tâm hồn của chính mình. Đối với Ki-tô hữu, không phải mỗi năm chỉ có một ngày “lễ hội tình yêu”, nhưng ngày nào cũng là Lễ Hội Tình Yêu, chỉ cần họ đến tham dự Thánh Lễ và chứng kiến phép lạ Mình Máu Chúa Ki-tô xảy ra trên bàn thờ.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúng ta thường viết trên tấm thiệp Valentine hằng năm những lời yêu thương hoặc để ghi nhận tình yêu người khác dành cho chúng ta. Cũng vậy, mỗi khi bạn tham dự Thánh Lễ là bạn nhìn nhận tình yêu của Chúa Ki-tô dành cho chúng ta. Vì yêu thương, Người đã nảy ra sáng kiến “Bí Tích Thánh Thể” để ở cùng chúng ta mọi ngày và mãi mãi. Khi dâng lễ, có khi nào bạn nhớ lại thật sống động những cử chỉ của Chúa Giê-su khi làm phép lạ không? “Bấy giờ Chúa Giê-su cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông”. Bạn hãy để ý đến từng cử chỉ một. Mỗi cử chỉ của Chúa là một cách Người cử hành tình yêu. Tình yêu phải cụ thể và thực tế, không chỉ là lời hoa mỹ, nhưng phải giống như bánh và cá cầm trong tay. Tình yêu hướng thượng, ngước lên trời chứ không dựa vào vật chất. Tình yêu chúc tụng. Tình yêu được bẻ ra để chia sẻ cho mọi người. Đấy, Chúa Giê-su đã cử hành lễ Tình Yêu như vậy, để chúng ta cùng tham dự, nhất là được no nê tình Chúa và đem chia sẻ với anh chị em!
Mọi Kitô đều hiểu rằng Chúa Giêsu đã để lại cho nhân loại, cho con người một thứ lương thực không bao giờ hư nát, một loại lương thực nuôi sống con người, đem lại cho từng người sự sống đời đời. Lương thực ấy là Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Nếu trở về nguồn, tìm về căn nguyên của việc thiết lập Bí Tích Thánh Thể, chắc chắn chúng ta phải dựa vào bốn trình thuật để hiểu việc làm của Chúa Giêsu: Matthêu, Marcô, Luca và Phaolô ( 1Co 11, 23-25 ). Tất cả bốn trình thuật về bữa tiệc ly đều nói lên những điều thiết yếu giống nhau, tuy nhiên giới thiệu những công thức khác nhau về lời mà ngày nay chúng ta gọi là lời truyền phép.Tất cả bốn trình thuật về bữa tiệc ly đều được các cộng đoàn tiên khởi dùng như những bản văn phụng vụ để cử hành nghi lễ Vượt Qua.Các cộng đoàn đầu tiên đã luôn tôn trọng những cử chỉ, những lời nói và việc làm của Chúa Giêsu. Do đó, cử chỉ Chúa Giêsu cầm lấy bánh. Người lấy bánh đang được dọn để trên bàn và cảm tạ Thiên Chúa Cha. Đây là cử chỉ hết sức tuyệt vời. Bởi vì, bánh được chia ra, mọi người cùng ăn. Hình ảnh những chiếc bánh không men, hơi thô, những chiếc bánh của những người nghèo, thời cha ông của người Do Thái thời cha ông họ ở đất Ai Cập, cha ông họ không có giờ để làm cho phồng to lên. Ở đoạn Tin mừng của thánh Luca, chúng ta thấy cử chỉ của Chúa Giêsu cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá , ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông.Chúng ta nhận ra lời kinh nguyện Thánh Thể. Chúa Giêsu cầu nguyện. Chúa Giêsu trò chuyện thân mật với Đức Chúa Cha. Cử chỉ ngước mắt lên trời, tạ ơn và bẻ ra là cử chỉ đẹp của một người cha luôn lưu tâm tới con cái. Chúng ta nhận ra nét độc đáo của bàn tiệc của người Do Thái. Tất cả đều ăn chung với nhau, như thế nói lên sự hiệp nhất, yêu thương.Đây là bữa ăn Agape, bữa ăn tình thương. Bí Tích Thánh Thể là Bí tích nuôi sống, Bí tích tình thương. Chính vì thế, thánh lể được cử hành: bánh và rượu được truyền phép là bí tích, là chính Mình và Máu của Chúa Giêsu, Đấng đã chết đi và sống lại để cứu độ nhân loại. Bữa ăn Thánh Thể là Bí tích của Mình và Máu Đức Kitô, Bí tích của sự hiện diện của Người. Chính Thánh Thần làm cho Đức Kitô thực sự hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể.
Bí Tích Thánh Thể là Bí tích tình yêu, là tình yêu cứu độ của Thiên Chúa như thánh Phaolô đã viết:” …Đường lối của Người không kế dõi theo “ (Rm 11, 33 ). Chúa Giêsu là tình yêu hiến tế, tình yêu hy sinh, tình yêu xả kỷ:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ).
Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta Bí tích cao cả là chính Máu và Thịt của Người.
Chúa Giêsu đã nói với nhân loại, với mỗi Kitô hữu:” Ta đã trao ban chính mình Ta cho các con trọn vẹn đến mức Ta chẳng thế nào cho các con điều gì hơn thế nữa “.
Khi linh mục cầm Mình Thánh lên và nói:” Mình Máu Chúa Kitô “.Đó chính là thân xác sống động của Chúa Giêsu: Đức Kitô đã sinh ra nơi Bêlem, Đức Kitô đã bị treo trên thập giá và Đức Kitô đã phục sinh. Nhờ đức tin chúng ta nhận ra điều lạ lùng, kỳ diệu này. Ôi mầu nhiệm đức tin !
Lạy Chúa Giêsu xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con càng ngày càng yêu mến Bí tích Thánh Thể. Amen.
Một ngày đi theo Chúa để nghe lời Người giảng, dân chúng làm như cứ muốn tiếp tục nghe nữa. Nhưng chắc chắn cả Chúa lẫn dân chúng đều phải đối diện với nhu cầu sống còn của con người: có thực mới vực được đạo. Cũng như “ngày đã bắt đầu tàn”, con người bắt đầu cạn nguồn năng lực và cần nghỉ ngơi và được nuôi dưỡng. Trước một thực tế như vậy, đặc biệt là việc ăn uống, câu truyện Tin Mừng trình bày hai cách giải quyết, cách của Nhóm Mười Hai Tông Đồ và cách của Chúa Giê-su.
Ngay từ đầu, các Tông Đồ đã đưa ra cách giải quyết rất hợp tình hợp lý, là “cho đám đông về, để họ vào các làng mạc nông trại quanh đây, tìm chỗ trọ và kiếm thức ăn”. Thật là cách dễ dàng và giản tiện. Chúa và các ông chẳng phải lo lắng gì. Chuyện ai người ấy lo. Đó cũng là quan điểm thường tình, nếu chúng ta ở trong hoàn cảnh ấy, chúng ta cũng sẽ giải quyết như vậy.
Nhưng cách của Chúa Giê-su không phải cách của chúng ta. Người giải quyết vấn đề với tư cách là Mục Tử Nhân Lành lo lắng cho sự sống của con chiên. Người muốn các Tông Đồ phải tham gia vào tác vụ mục tử của Người. Do đó, Người truyền lệnh cho các ông: “Chính anh em hãy cho họ ăn”. Dĩ nhiên Người chỉ cần các ông ý thức trách nhiệm mục tử mai sau của các ông. Còn chuyện giải quyết trước mắt vượt quá khả năng con người, như các ông đã thú nhận: “Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá”, thì chính Người sẽ can thiệp. Chúa Giê-su cũng chỉ muốn thấy các ông có cái “hồn tông đồ” là chính yếu, còn lại những gì phải làm là việc của Thiên Chúa. Rồi Người đã sử dụng quyền năng Thiên Chúa để biến năm cái bánh và hai con cá ra nhiều cho hơn năm ngàn người được ăn no nê.
Phần chúng ta, câu truyện Chúa nuôi đám đông dân chúng là cơ hội để chúng ta nhận ra lòng yêu thương và chăm sóc của Thiên Chúa. Chúa ban cho chúng ta thế giới với đầy đủ vật chất và phương tiện để chúng ta duy trì và phát triển đời sống thể xác của chúng ta. Nhưng Người cũng lo lắng dưỡng nuôi sự sống phần linh hồn của chúng ta nữa. Cách sáng tạo nhất và cũng đầy tràn tình yêu nhất của Chúa Giê-su để lo cho linh hồn chúng ta là Người muốn “ở lại” trong chúng ta một cách mầu nhiệm, nhưng vô cùng sống động, đó là Bí Tích Thánh Thể.
Lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta khỏi phải ra về như đề nghị của các Tông Đồ, nhưng được “ở lại với Chúa” như đám dân chúng đã theo và nghe Người giảng. Chúng ta cứ tưởng tượng ra khung cảnh dân chúng vừa ăn uống vừa khâm phục Chúa. Nhưng hơn thế nữa, họ nhận ra Chúa đã yêu thương họ đến mức nào. Họ tự nhủ: Chúng tôi sẽ đi theo Người, không phải để có bánh ăn, nhưng để được chiêm ngưỡng tình yêu thương của Người và đón nhận từ nơi Người những lời ban sự sống đời đời.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Ngày nay không có những phép lạ bánh hóa nhiều như ở bên bờ Biển Hồ Ga-li-lê ngày xưa, nhưng phép lạ ấy vẫn xảy ra hằng ngày và từng giây từng phút tại khắp nơi trên thế giới khi Thánh lễ được cử hành. Phải nói rằng cả thế giới này là nơi phép lạ bánh hóa nhiều, tức Thánh Thể, đang tiếp diễn và là những bữa tiệc miễn phí. Nếu chúng ta biết sống quân bình, vừa lo lắng cho sự sống phần xác, vừa muốn phát huy sự sống linh hồn, chúng ta hãy đáp lại lời mời của Chúa: “Tất cả các con hãy nhận lấy mà ăn: vì này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con. Tất cả các con hãy nhận lấy mà uống: vì này là chén máu Thầy, máu giao uớc mới và vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội”.
Lm. Dominic TTL
-------------------------------
THÁNHTHỂ-299: LỄ KÍNH MÌNH VÀ MÁU THÁNH CHÚA (NĂM C)
Lễ Kính Mình và Máu Thánh Chúa được mừng vào Thứ Năm sau Chúa Nhật Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi; nhưng thường chuyển vào Chúa Nhật tiếp theo. Thánh lễ hôm nay hướng tâm trí chúng ta về Mầu Nhiệm Chúa Giêsu ngự thật trong Bí Tích Mình và Máu Thánh Chúa để làm của nuôi linh hồn chúng ta, để làm của lễ hiến tế trên bàn thờ, và để ở lại với chúng ta “mọi ngày cho đến tận thế” trong phép Thánh Thể. Bài đọc I (Sáng Thế 14:18-20) nhắc đến ông Menkisêđê dâng của lễ tạ ơn và chúc phúc cho ông Abraham. Menkisêđê là hình ảnh Chúa Giêsu Kitô Linh Mục đời đời: “Con là Linh Mục đời đời theo phẩm hàm Menkisêđê.” (Thơ Do Thái 7:17)). Bài đọc II (1Côrintô 11:23-26) nhắc đến việc Chúa Giêsu lập Bí Tích Mình và Máu Thánh Chúa trong Bữa Tiệc Ly và mỗi khi chúng ta rước lấy Mình và Máu Thánh Chúa là chúng ta loan truyền việc Chúa Giêsu đã chịu chết để chuộc tội chúng ta. Bài Phúc Âm (Luca 9:11-17) ghi lại phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi dân chúng. Phép lạ này là hình ảnh về việc Chúa Giêsu lập Phép Thánh Thể để nuôi linh hồn đói khát của ăn thiêng liêng của chúng ta.
Việc Chúa Giêsu lập Bí Tích Mình và Máu Thánh Chúa và Bí Tích Truyền Chức Thánh trong bữa Tiệc Ly đã được ghi lại trong Phúc Âm Mátthêu (26:26-29), Mátcô (14:22-24), Luca (22:19-20) và 1Côrintô (11:23-25). Chúa Giêsu và các Tông Đồ ăn bữa ăn chia tay vào ngày thứ nhất trong tuần lễ mừng Lễ Vượt Qua của người Do Thái, và cũng là Tuần Lễ Ăn Bánh Không Men theo luật Môisê; vì thế Chúa Giêsu và các Tông đồ cũng dùng bánh không men trong bữa ăn ly biệt. Theo thủ tục bữa ăn của người Do Thái, người gia trưởng cầm lấy bánh, tạ ơn Chúa và trao cho người cùng bàn ăn. Chúa Giêsu cũng cầm lấy Bánh, đọc lời tạ ơn và trao cho các môn đệ; nhưng Chúa không nói “nầy là Bánh các con hãy cầm lấy mà ăn; nhưng Chúa nói “Nầy Là MÌNH Thầy…” Khi trao ban chén rượu nho, Chúa Giêsu cũng nói “Nầy Là Chén Máu Thầy…” Chính Chúa Giêsu Vị Thượng Tế đời đời đã dùng quyền năng Thiên Chúa để “biến bánh và rượu” trở nên Mình và Máu Thánh Chúa. Chúa Giêsu đã ban quyền này cho các Tông Đồ và các Linh Mục thừa tác trong Giáo Hội mỗi khi các vị dâng Thánh Lễ . Thánh Lễ trên Bàn Thờ mà các vị có chức Linh Mục dâng là được tham dự vào Lễ Tế đầy đủ trọn vẹn mà Chúa Giêsu đã dâng trên Bàn Thờ Thập Giá (Thơ DoThái 9:11-12), khi Ngài đổ máu ra và chết trên Thập Giá để cứu chuộc nhân loại. Vì thế Thánh Lễ là một Hiến Lễ theo Giao Ước Mới, một Hiến Lễ thật cao quý mà các tín hữu rất sùng kính. Nhiều tín hữu chẳng những đi dâng Thánh Lễ vào cuối tuần, mà còn đi dâng Thánh Lễ hàng ngày khi có thể được.
Chúa Giêsu ngự thật trong Bí Tích Mình và Máu Thánh Chúa cũng để làm của nuôi linh hồn chúng ta. Mỗi khi chúng ta Rước Lễ là chúng ta được kết hiệp mật thiết với Chúa hơn, được thêm lòng yêu mến Chúa và tha nhân, được ơn thanh tẩy thánh hóa linh hồn chúng ta và được tăng thêm sức mạnh thiêng liêng để thắng đọat các cám dỗ. Chúng ta hãy ý thức và cung kính mỗi khi lên Rước Lễ (Côrintô 11:27). Khi đau ốm không thể đi dâng Thánh Lễ , chúng ta có thể xin các thừa tác viên Thánh Thể đem Mình Thánh Chúa đến cho chúng ta; nhất là khi quá yếu liệt sắp sinh thì, gọi là “Rước Lễ Như Của Ăn Đàng” để chuẩn bị tiến về Nhà Cha chúng ta.
Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Bí Tích Thánh Thể cũng để hiện diện giữa chúng ta “mọi ngày cho đến tận thế” để chúng ta có thể đến thờ lạy Chúa Thánh Thể nơi các Thánh Đường khi chúng ta đến “viếng Mình Thánh Chúa” hoặc “Chầu Giờ Thánh.” Tại Hoa Kỳ, có nhiều Nhà Thờ có giờ chầu Thánh Thể suốt đêm ngày để các tín hữu thay đổi nhau đến thờ lạy và cầu nguyện trước Thánh Thể Chúa. Vào ngày Lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa, ở nhiều nơi cũng có thói quen Rước Kiệu trọng thể để tôn vinh Chúa Giêsu Thánh Thể .
Trong Thánh lễ hôm nay chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu nguyện cho chúng ta được đức tin mạnh mẽ nơi Chúa Giêsu ngự thật trong Phép Thánh Thể, được thêm lòng sùng kính và cầu nguyện với Chúa Thánh Thể trong các Nhà Thờ có để Mình Thánh Chúa. Chúng ta cũng cầu xin ơn thánh hóa đặc biệt cho các Linh Mục trong những ngày này là những ngày kết thúc Năm Thánh cầu cho Các Linh Mục. Xin Chúa Giêsu Thánh Thể thánh hóa chúng ta và gìn giữ chúng ta trong ơn nghĩa Chúa luôn.
Thế giới chiến tranh lần thứ hai kết thúc với hai trái bom nguyên tử, gây cảnh đổ vỡ tan thương cho THÁNHTHỂ-300 Luong
Thế giới chiến tranh lần thứ hai kết thúc với hai trái bom nguyên tử, gây cảnh đổ vỡ tan thương cho thiên nhiên và sinh mạng đến độ người ta đã nghĩ rằng: Con người, phải chấm dứt chiến tranh bằng không chiến tranh sẽ chấm dứt con người. Ngày nay ở khắp nơi người ta đều quan tâm đến môi trường với tiếng kêu khẩn cấp: Trái đất đang lâm nguy. Vì vậy con người phải dừng lại để tìm kiếm phương thế cứu nguy địa cầu, bằng không địa cầu sẽ là nấm mồ không những chôn những người đã chết mà còn chôn cả những người đang sống, nước giàu cũng như nước nghèo.
Trong những cuộc hội nghị gần đây, ngoài những vấn đề có liên quan đến môi trường thiên nhiên, còn có vấn đề chênh lệch giữa những nước giàu và những nước nghèo, biến thiểu số những nước giàu tiêu thụ hoang phí những tài nguyên thiên nhiên mà các nước nghèo phải tàn phá để sinh tồn hầu cung phụng cho những nước giàu. Trong bối cảnh địa cầu đang lâm nguy vì bị con người khai thác bừa bãi và làm ô nhiễm trầm trọng để sản xuất, để hưởng thụ, thiết nghĩ lễ Mình và Máu Thánh Đức Kitô có thể gợi lên cho chúng ta một vài suy tư hữu ích.
Thực vậy đoạn Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta tìm hiểu ý nghĩa của bí tích Thánh Thể. Qua những động từ diễn tả các hành vi của Chúa Giêsu thực hiện trong phép lạ hoá bánh ra nhiều, tiên báo những cử chỉ sau này khi Ngài lập bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn bẻ ra, trao cho các môn đệ phân phát, chia sẻ để mọi người cùng ăn no nê. Đó là con đường Chúa Giêsu vạch ra phải được thực hiện từng bước nhưng liên tục để mọi người được thông phần vào việc bánh hoá nhiều. Ngày nay những nước giàu thường không muốn đi trên con đường này. Họ lấy các tài nguyên thiên nhiên và không xem đó là hoa màu ruộng đất và lao công con người, nhưng chỉ là những vật sở hữu họ bỏ tiền ra mua vì thế họ không bao giờ biết cám tạ Chúa và cám ơn thiên nhiên và người khác. Họ giữ lấy tài nguyên cho mình mà không biết bỏ ra, và càng không biết chia sẻ vì bỏ ra đối với họ là hư hao và chia sẻ là mất mát. Trong phạm vi cá nhân cũng vậy. Cử chỉ của Chúa Giêsu là một lời mời gọi. Ngài cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra và chia sẻ cho mọi người cùng ăn no nê.
Chúng ta cũng vậy, hay lấy cơm bánh của hoa màu ruộng đất, lấy các tài nguyên thiên nhiên, lấy khả năng và trọn con người mình để cảm tạ Thiên Chúa, cám ơn ruộng đất thiên nhiên, cám ơn công lao của con người. Rồi bẻ ra để sản xuất, để sinh lợi và sau cùng là chia sẻ. Chia sẻ kiến thức kỹ thuật, máy móc lợi nhuận để mọi người đều có cơ hội đồng đầu mà phát triển, nhờ đó cùng được thịnh vượng và hạnh phúc.
Thế nhưng liệu đây có phải là phương pháp mỗi người chúng ta phải sử dụng để cứu nguy địa cầu và đem lại hạnh phúc cho những người chung quanh hay không?