Suy Niệm Tin Mừng Lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời 15/8 Bài 51-100: Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại
Kh 11,19a;12,1-6a.10ab; 1Cr 15,20-27; Lc 1,39-56
------------------------------------------
Phúc Âm: Lc 1, 39-56: “Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại: Người nâng cao những người phận nhỏ”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Elisabeth, và khi bà Elisabeth nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Elisabeth được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng:
“Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện”.
Và Maria nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Này từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi có phước, vì Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại, và Danh Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những người kính sợ Chúa. Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai thần trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi người đến muôn đời”.
Maria ở lại với bà Elisabeth độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà mình. - Ðó là lời Chúa.
------------------------------------------
15/8-51: “TỪ NAY, HẾT MỌI ĐỜI SẼ KHEN TÔI DIỄM PHÚC”. 2
15/8-52: MẸ VỀ TRỜI, NỖI VUI MỪNG VÀ NIỀM HY VỌNG.. 5
15/8-53: ĐƯỜNG VỀ.. 12
15/8-54: Lễ Đức Mẹ Lên Trời 15
15/8-55: HY VỌNG VÌ CÓ MẸ ĐƯỢC CHÚA ÂN THƯỞNG VỀ TRỜI 17
15/8-56: Tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời - Ngày 15 tháng 8 Dương Lịch. 19
15/8-57: ĐỊA CHỈ TRÊN CAO.. 28
15/8-58: Muôn đời sẽ khen rằng tôi có phúc. 31
15/8-59: MẸ LÊN TRỜI LÀ NIỀM VINH HẠNH CHO MỌI TÍN HỮU.. 33
15/8-60: Mẹ Về Trời, Hy Vọng Và Hạnh Phúc Của Chúng Ta. 36
15/8-61: THIÊN CHÚA CHIẾN THẮNG CON RỒNG ĐỎ.. 38
15/8-62: THĂM VIẾNG VÀ BÀI CA NGỢI KHEN.. 40
15/8-63: MẸ LÊN TRỜI 42
15/8-64: CHÚ GIẢI CÁC BÀI ĐỌC.. 45
15/8-65: TRẬN CHIẾN CHỐNG LẠI SỰ DỮ.. 47
15/8-66: THÔNG PHẦN VÀO VINH QUANG CỦA CON MẸ.. 48
15/8-67: ĐỨC MARIA ĐỒNG TRINH, HỒN XÁC LÊN TRỜI 50
15/8-68: SUM HỌP TRÊN TRỜI 52
15/8-69: PHẬN HÈN CAO TRỌNG.. 53
15/8-70: VẦNG TRĂNG MẸ.. 56
15/8-71: Vầng Trăng Tuyệt Vời! 61
15/8-72: “Tôi nhập hồn tôi trong khúc hát, “Để nhờ không khí đẩy lên trăng.”. 65
15/8-73: Tình Mẹ còn mãi 68
15/8-74: PHÚC ĐỨC TẠI MẪU.. 70
15/8-75: MARIA, THẦY DẠY ĐỨC TIN.. 72
15/8-76: HƯỚNG LÒNG VỀ TRỜI VỚI MẸ.. 74
15/8-77: THEO GÓT MẸ.. 78
15/8-78: NIỀM VUI PHỤC VỤ.. 82
15/8-79: THIÊN CHỨC CỦA ĐỨC TRINH NỮ MARIA.. 84
15/8-80: Em thật có phúc. 87
15/8-81: Mừng Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời 89
15/8-82: Nữ tỳ hèn mọn. 93
15/8-83: Lễ Đức Maria Hồn Xác Lên Trời 94
15/8-84: Lễ Đức Maria Hồn Xác Lên Trời 98
15/8-85: Ðến gần bên Chúa Yêsu như Ðức Mẹ. 101
15/8-86: Ðể cho được lên cao như Ðức Mẹ. 106
15/8-87: Mẹ Maria, niềm hy vọng của nhân loại 111
15/8-88: Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời 113
15/8-89: Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời 114
15/8-90: Được chúc phúc hơn mọi phụ nữ. 122
15/8-91: Xin vâng với tâm tình phó thác. 124
15/8-92: Mẹ muốn chúng ta đạt tới cõi phúc trên trời 129
15/8-93: Maria Mẹ Đầy Ơn Phúc. 131
15/8-94: Hoa thơm quả ngọt của trái đất được đưa về Trời 133
15/8-95: Maria diễm phúc hơn mọi người nữ. 136
15/8-96: Mẹ là hoa sen giữa đời 144
15/8-97: Chân dung Mẹ Maria. 146
15/8-98: Mẹ Maria là ưu phẩm của Thiên Chúa. 148
15/8-99: Đức Maria hồn xác về trời: niềm hy vọng của người tín hữu. 151
15/8-100: Maria dám tin. 153
------------------------------------------
Trong dịp hành hương Đất Thánh Palestina, chúng tôi có đến Nhà Thờ Thăm Viếng, nơi có tượng: 15/8-51
Trong dịp hành hương Đất Thánh Palestina, chúng tôi có đến Nhà Thờ Thăm Viếng, nơi có tượng Đức Mẹ Ngủ. Từ Nhà Thờ kính Thánh Gioan Tẩy Giả tại En Kerem, đi bộ một đoạn đường khá xa, lên một dốc cao rồi bước thêm đúng 66 bậc thang mới đến Nhà Thờ. Từ trên ngọn đồi nhìn xuống thung lũng xa xa, quê hương Thánh Gioan Tiền Hô đẹp như một bức tranh mờ trong sương sớm.
Nhà Thờ dâng kính cuộc thăm viếng của Mẹ Maria. Khi nghe tin bà Êlisabét mang thai, Mẹ đã vượt đường xa đến thăm và giúp đỡ. Từ Nagiarét về tới En Kerem đường xa lắm, chừng 90 km và rất nhiều trắc trở hiểm nguy. Mẹ đã thể hiện tình yêu thương và sự quan tâm đặc biệt đến người chị họ. Nơi đây bài Magnificat đã được viết trên tường bằng nhiều thứ tiếng, trong đó có cả tiếng Việt Nam.
Sau kinh cầu nguyện trong Nhà Thờ Thăm Viếng, chúng tôi đi xuống tầng hầm, mỗi người thành kính quỳ gối lần hạt trước tượng Đức Mẹ Ngủ. Nhìn Mẹ Maria thánh thiện ngủ giấc bình an, ai cũng cảm động nguyện cầu khấn xin. Nhiều người thổn thức bên Mẹ.
Theo truyền thống xa xưa, Mẹ Maria không chết mà chỉ ngủ một giấc, rồi Chúa đưa Mẹ lên Trời cả hồn lẫn xác. Phụng Vụ đã cử hành ngày qua đời của Mẹ dưới nhiều tên gọi: Dormitio ( an giấc ), Deposotio ( an táng ), Transitus ( qua đời ), Natalis ( ngày sinh vào Nước Chúa ). Tất cả những danh từ đó được dùng để nói tới chuyến đi xa cuối cùng của Mẹ.
Tiếng “Assumptio” ( bởi động từ assumere; sumere, nghĩa là cất lấy, và ad nghĩa là kết hợp, đoàn tụ ), lúc đầu ám chỉ việc linh hồn Mẹ được đưa vào vinh quang của Chúa ( giống như các Thánh ); về sau từ ngữ này được dùng để chỉ việc Mẹ được cất về Trời. Hội Thánh phân biệt hai từ ngữ “ascensio” áp dụng cho Chúa Giêsu vì Ngài lên Trời do quyền năng riêng, còn “assumptio” áp dụng cho Mẹ để nói rằng Mẹ được Chúa đưa về Trời.
Tín điều Đức Maria Hồn Xác Lên Trời được Đức Giáo Hoàng Piô XII công bố vào ngày 1.11.1950: “Sau khi đã mãn cuộc đời dưới đất, Đức Maria được đem về Trời cả xác hồn”. Vào thế kỷ XIX, có một luồng Thần Học chủ trương rằng Mẹ Maria không phải chết và xin Đức Thánh Cha hãy định tín như vậy. Họ cho rằng Mẹ không mắc tội nguyên tổ nên không phải chết, bởi vì sự chết là hình phạt của tội nguyên tổ. Tuy nhiên đa số các nhà Thần Học cho rằng Mẹ đã chết và sau đó được sống lại. Đức Piô XII không bàn tới vấn đề này, không nói rằng Mẹ không phải chết, cũng chẳng nói Mẹ đã chết và đã sống lại; nhưng chỉ nói rằng: sau khi chấm dứt cuộc đời dương thế, Mẹ được cất về Trời cả xác và hồn.
Nhìn Đức Mẹ Ngủ, tôi thấy sáng lên vẻ đẹp thánh thiện cao quý. Mẹ tuyệt đẹp vì Mẹ đầy ơn Chúa. Mẹ đẹp thánh thiện vì ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội. Mẹ đẹp cao quý vì làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Mẹ tuyệt mỹ vì niềm tin đơn sơ và cuộc sống khiêm nhường. Nét đẹp ấy thoang thoảng như như một hương thơm hảo hạng toả ra lôi cuốn. Nét đẹp ấy mặn mà như thứ muối thiêng liêng. Nét đẹp ấy lung linh như ánh sáng dịu mát. Nét đẹp ấy huyền diệu như âm nhạc dịu êm mời gọi con người nâng tâm hồn lên tới Chúa.
Hôm nay, Hội Thánh mừng kính Đức Maria được khải hoàn bước vào quê hương Nước Trời. Bầu khí Phụng Vụ đượm sắc thái vui tươi với những lời ngợi khen và chúc tụng Đức Trinh Nữ lên Trời hiển vinh. Từ đây Mẹ nắm giữ vai trò quan trọng nhất là Nữ Vương trời đất. Từ nay, Mẹ đảm nhận một địa vị cao cả nhất và cũng thật gần bên Thiên Chúa. Kể từ nay, Mẹ trổi vượt trên mọi thọ tạo với địa vị làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của Hội Thánh và Mẹ của nhân loại.
Quyền năng và tình yêu Chúa tràn đầy trên Mẹ làm cho Mẹ được khỏi tội tổ tông và được đầy ân sủng ngay từ trong lòng mẹ. Quyền năng và tình yêu Chúa bao phủ suốt cả đời Mẹ trên từng ý nghĩ, từng tình cảm, trong từng hành động và mỗi bước đi... khiến cho tâm hồn Mẹ luôn hướng về Chúa mà tạ ơn và ngợi khen liên lỉ.
Quyền năng và tình yêu Chúa đong đầy trọn vẹn nhất trong khoảnh khắc lịch sử, Mẹ lên Trời cả hồn cả xác. Đặc ân cao trọng này chính là triều thiên sáng chói bao phủ lên Mẹ, vốn đã được “Thánh Thần ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao rợp bóng trên bà” ( Lc 1, 35 ).
Hội Thánh hiệp ý chung lời với Mẹ ngợi khen tạ ơn Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
Đó là những lời tán tụng ngợi ca Thiên Chúa phát xuất từ sâu thẳm lòng Mẹ trong ngày thăm viếng người chị họ Êlisabét. Magnificat là lời kinh thấm đẫm chất thơ. Thánh Vịnh là thi ca cầu nguyện của dân tộc Do Thái. Hàng ngày Mẹ đã cầu nguyện với Thánh Vịnh.
Những lời ngợi ca Magnificat nói lên tất cả tâm hồn của Mẹ. Đó là trọn vẹn cuộc đời Mẹ, cả chương trình sống của Mẹ, là con đường tu đức Mẹ dõi theo: mãi mãi là người nữ tỳ khiêm tốn, luôn phó thác hoàn toàn trong tay Chúa toàn năng và nhân hậu, hằng dâng lời ngợi khen tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc sống.
Những lời ca ngợi Magnificat nói lên hết diệu cảm và tâm tình của Mẹ đối với Thiên Chúa toàn năng và yêu thương. Mẹ cảm thấy thân phận tôi tớ hèn mọn nầy lại được cất nhắc cao trọng trong giây phút lên Trời: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”. Mẹ cảm nghiệm được quyền năng và tình yêu vô biên của Chúa trong giây phút Chúa hiển dương Mẹ về Trời: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả... Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”.
Đức Maria được lên Trời hồn xác là do đặc ân Chúa ban cho Mẹ và đồng thời cũng là do cuộc sống thánh thiện của Mẹ hằng luôn cộng tác với ơn Chúa. Hồn xác lên Trời là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa ban cho Mẹ. Mẹ là người diễm phúc nhất trong mọi người nữ. Mẹ có tên gọi đẹp nhất là ”Đấng-đầy-ân-phúc” vì “Thiên-Chúa-ở-cùng-bà”. Mẹ được hết mọi đời khen là diễm phúc chính vì “Đấng toàn năng đã làm cho Mẹ biết bao điều cao cả”.
Điều cao cả nhất là được làm Mẹ Chúa Cứu Thế. Mẹ là cây sinh quả phúc và nhờ quả phúc ấy mà Mẹ được biết đến và được ca tụng. Mẹ là cây trường sinh mang quả đầu mùa mà Thiên Chúa đã trồng trong Vườn Địa Đàng mới, hầu đem lại Sự Sống đời đời cho mọi thế hệ loài người. Chính vì thế mà Thiên Chúa muốn cho cây mang quả trường sinh ấy được nhân lên trong Vườn Địa Đàng mà Người muốn mở rộng diện tích tới tận cùng trái đất.
“Đức Mẹ lên Trời sau khi đã đi qua hết mọi nẻo đường đời của một người bình thường nghèo khó: nẻo đường không nơi trú ngụ; phải sinh con trong máng cỏ Bêlem; nẻo đường lánh cư sang Ai Cập đầy tiếng khóc than của các bà mẹ mà những đứa con thơ vô tội bị vua Hêrôđê sát hại; đường vào tiệc cưới Cana có tiếng vui cười của thực khách và đôi tân hôn; đường lên núi Calvariô, có tiếng nguyền rủa, tiếng búa đóng đinh của các lý hình; đường loan Tin Mừng Chúa Phục Sinh và đường thẳng lên Trời hồn xác trong tiếng reo vui của đất trời, của thần thánh, của loài người. Đức Mẹ đã sống thánh giữa đời, đã nên Thánh qua những chặng đường Vui, đường Sáng, đường Thương, đường Mừng” ( x. bài giảng tại Thánh Địa La Vang ngày 15.8.2007, Đức Tổng Giám Mục Stêphanô Nguyễn Như Thể ).
Trong cuộc sống hôm nay, chúng ta cũng đang đi lại những chặng đường của Đức Mẹ: có cả vui, sáng, thương, mừng. Chúng ta lần hạt, tràng chuỗi nơi tay, miệng thầm thĩ, lòng kết hiệp với các mầu nhiệm vui mừng và đau thương của Đức Mẹ. Chúng ta cũng lần hạt một cách thiết thực nữa trong cuộc sống hằng ngày, mà tràng chuỗi và những hạt chuỗi giờ đây chính là những hạt mồ hôi, những giọt nước mắt, những khổ đau, những oan ức..., và cũng chính là những tiếng vui cười, những tia hy vọng, những niềm hân hoan... Đó là tràng chuỗi sống, đi đôi với việc đọc kinh lần hạt suy niệm của chúng ta.
Đức Mẹ được vinh hiển hồn xác trên Trời là hình ảnh và là khởi đầu bảo đảm cho tương lai của chúng ta sau nầy cũng sẽ được như vậy, miễn là bây giờ chúng ta biết noi gương Mẹ mà sống Thánh giữa đời, qua những chặng đường vui, sáng, thương, mừng của cuộc sống ( x. LG 68 ).
Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN, Giáo Phận Phan Thiết
------------------------------------------
Tháng Tám thường trở về cùng với lễ Vu Lan, mùa báo hiếu, mùa dành để cho những người con: 15/8-52
Tháng Tám thường trở về cùng với lễ Vu Lan, mùa báo hiếu, mùa dành để cho những người con nhớ về tình thương cao cả, mênh mông, dạt dào như biển rộng, sông dài, sâu thẳm như núi rừng trùng điệp ngút ngàn của các bậc sinh thành.
Tháng Tám cũng lại là tháng của những cuộc hành hương tràn ngập niềm tưng bừng, rộn rã. Tháng của những người con muốn tỏ bầy lòng thảo hiếu với người Mẹ dịu hiền, nhân hậu. Từng đoàn người cứ lũ lượt lên đường ra đi trong niềm vui phấn chấn đến với những vùng đất linh thiêng, huyền diệu. Ở những nơi ấy có bóng dáng của người Mẹ hiền vẫn ngong ngóng chờ trông đoàn con lữ thứ trở về từ cuộc lữ hành trần gian còn nhiều gập ghềnh, trôi nổi.
Đến với Mẹ Tà Pao thật bình dị mà cũng thật thân tình để rồi bao gánh nặng chất chồng của cuộc sống bỗng nhẹ tênh, thanh thản.
Đến với Mẹ Trà Kiệu để cảm thấy niềm tin tưởng bừng lên mạnh mẽ vì Mẹ vẫn còn đó, dáng oai hùng như đạo binh xông vào chiến trận che chở đoàn con khỏi mọi cơn nguy biến hiểm nghèo giữa cuộc đời hung hãn.
Đến với La Vang, linh địa của tấm lòng từ mẫu, nhân hậu, bao dung. Nơi đó, mẹ đã từng ôm ấp bao nỗi khốn khổ của đoàn con nghèo nàn, thiếu thốn. Mẹ đã lau sạch biết bao nhiêu dòng lệ sầu thương của những cõi lòng héo úa, rã rời. Cũng nơi ấy mẹ đã từng xoa dịu bao nhiêu vết thương đau nhói, xót xa. Mẹ đã chữa lành biết bao thương tích mà không một phương dược trần gian nào còn hiệu nghiệm nữa. Và đoàn lũ những con người nhỏ bé ấy gác lại mọi nỗi lo toan chằng chịt của cuộc sống để tìm về mảnh đất có khi chưa lần nào đặt chân đến bỗng dưng lại trở nên quen thuộc, gần gũi chỉ vì có bóng dáng của người mẹ vô cùng thân ái. Họ đã lên đường với niềm hy vọng tràn trề để rồi trở về với niềm vui chan chứa, tràn đầy niềm hạnh phúc.
Điều kỳ diệu đã trở thành hiện thực vì Đức Trinh Nữ Maria rất Thánh đã lên Trời vinh hiển. Mẹ đã trở nên nguồn cậy trông không bao giờ vơi cạn và niềm hy vọng không bao giờ phai nhạt và những ngày tháng Tám bỗng trở nên rực rỡ lung linh vì có một ngày trọng đại: ngày lễ Mẹ Lên Trời.
MẸ ĐÃ HOÀN TẤT HÀNH TRÌNH TRẦN THẾ CÁCH TRỌN HẢO
Cuộc sống dù tốt đẹp đến đâu cũng có những ngày tháng u buồn hay nặng trĩu. Những nỗi ưu phiền hay buồn chán có thể đến từ bên ngoài hay từ ngay trong tâm hồn. Người ta có thể cảm thấy bất hạnh giữa lúc đang có tất cả mọi thứ có thể làm nên hạnh phúc mà vô số người hằng mơ ước. Vì thế mà nhiều khi người ta phải tìm đến với những thú vui hay những thứ ồn ào mong phủ lấp đi nỗi chán chường hiện tại.
Tuy nhiên, có một lối đi mà nhiều người vẫn có thể thực hiện để vượt ra khỏi những cái tầm thường của cuộc sống đó là thả hồn mình vào những giấc mơ, những giấc mơ khơi lên niềm cảm hứng mênh mang. Những giấc mơ làm vơi đi nỗi thất vọng trước cái phũ phàng của cuộc đời. Người ta mơ được sống trong một cảnh vực thiên thai, một cõi thần tiên nào đó để cho cuộc sống thoát khỏi những gánh nặng đeo bám như một món nợ dai dẳng, triền miên.
Câu chuyện Từ Thức lạc vào cõi tiên như minh hoạ ước vọng rũ bỏ cõi trần để bước vào cõi thiên thai đầy thơ mộng. Chỉ còn những thú chơi tao nhã, thảnh thơi. Không vướng bận cõi hồng trần ô trọc.
Từ Thức, nhân đi chơi hội đã cởi áo gấm giúp một cô gái xinh đẹp gặp tình huống éo le. Thời gian sau chàng từ quan, tìm thú vui nhàn tản. Một lần Từ Thức đi qua núi và thấy một chiếc động, bước vào trong thì được tiếp đón như thượng khách và lấy nàng Giáng Hương, chính là người chàng đã cứu thuở nào. Sống với nhau được một năm, dù thuận hoà, êm ấm, Từ Thức chợt nhớ nhà, xin được về thăm.
Cảm thông nỗi niềm của chồng, Giáng Hương sắm xe và gài sẵn phong thư kín nói lời ly biệt. Khi đến quê, tất cả đều đổi thay, Từ Thức hỏi một cụ già râu tóc bạc phơ thì mới biết đó là cháu nội của mình. Chàng đã đi quá lâu. Từ Thức muốn trở lại cõi tiên với vợ, nhưng chẳng còn dịp may… trước cửa động Từ Thức, dây leo chằng chịt đan kết thành những chiếc võng.
Từ Thức đã vào cõi tiên rồi đấy ! Thế mà có quên được cõi trần gian đâu ! Có tình yêu, có gia đình êm ấm thuận hoà, có vật chất đầy đủ vậy mà vẫn nhớ nhà, nhớ người, nhớ cảnh xưa. Điều sâu kín chưa nói ra được ở đây đó là Từ Thức chưa đi trọn đường trần. Có một cái gì đó còn thiếu nơi thân phận làm người để thấy rằng cõi tiên không phải là cõi thực và chỉ cần một khoảng thời gian ngắn đủ làm cho Từ Thức phải nhớ nhung, phải mong mỏi được trở lại trần gian. Éo le thay, Từ Thức cũng không còn gặp được cảnh cũ người xưa nữa. Mọi sự đã đổi thay và chàng trai họ Từ trở nên hoàn toàn xa lạ, lạc lõng giữa cuộc đời và chàng đã không còn cơ hội trở lại nữa.
Về với thân phận con người, giấc mơ vẫn chỉ là một vẻ đẹp thoáng qua giúp ta giải toả bớt những căng thẳng của cuộc sống quá khắt khe, nghiệt ngã chứ không thể nào là nơi lẩn trốn hay thay thế cho thực tại trần gian hôm nay. Mỗi người đều phải hoàn tất hành trình làm người của mình. Mẹ Maria đã sống kiếp người của mình cách trọn hảo. Cuộc đời mẹ không chỉ được đan dệt bằng những sợi chỉ hồng tươi thắm mà còn có những chặng đường gian nan, cay đắng và có cả những đau đớn xé lòng, tan nát tâm can. Thế nhưng mẹ đã đi trọn con đường trần thế của chính mình và đã hoàn thành cách vô cùng tuyệt diệu.
Có những điều tưởng chừng rất bình thường hay thậm chí tầm thường Mẹ đã làm cho nó thành cao cả, phi thường. Một lời chào có gì là vĩ đại đâu ! Thế mà mẹ đã làm cho lòng người được chan chứa niềm vui, tưng bừng, hân hoan trong ngày thăm viếng. Một lời nói ở tiệc cưới Cana có gì là huyền bí đâu ! Thế mà làm cho sự thiếu rượu giữa tiệc cưới không biến thành nỗi tủi nhục. Những điều bình dị vẫn diễn ra hằng ngày có gì là mới lạ đâu ? Thế mà Mẹ đã sắp xếp, đâu kết lại thành một chuỗi những điều đáng ghi nhớ để suy đi nghĩ lại.
Những giờ phút vinh quang của Con, không thấy Mẹ kề cận và giờ phút nhục nhã ê chề, thất bại thảm thương thì Mẹ lại đứng đó nhẫn nhục, anh hùng. Mẹ đã làm cho cuộc sống hôm nay bừng lên niềm hy vọng rực rỡ. Không có chỗ cho than van, kêu trách. Không có lối đi cho sợ hãi, trốn chạy, không có nơi ẩn nấp của sự hận thù, oán ghét. Mẹ đã đi qua tất cả mọi ngõ ngách quanh co của thế gian điên đảo và mẹ đã làm cho tất cả được đưa ra ánh sáng của ngày mới ló dạng.
Con đường trần đã đi qua không có gì phải nuối tiếc vì Mẹ đã sống trọng vẹn nỗi vui và sống tận cùng với nỗi đau của con người, của chính mình và của mọi người. Mẹ về trời vì con đường trần thế đã xong. Mẹ không chạy trốn trần gian để tìm nương ẩn nơi cõi trời mà mẹ đã hoàn tất sứ mạng của mình là làm cho thực tại trần gian được toả sáng niềm vui ơn cứu độ của Đức Giêsu Con Mẹ.
MẸ LÀ NIỀM HY VỌNG CHO TRẦN THẾ HÔM NAY
Mẹ về Trời rồi nhưng những gì Mẹ đã sống không ngừng được nhìn ngắm, được chiêm ngưỡng, được trân trọng giữ gìn. Âm vang từ cuộc đời của mẹ đã làm rung lên những âm điệu thánh thót của biết bao tâm hồn thánh thiện. Đường Mẹ từng đi qua nay lại có nhiều tâm hồn men theo lối cũ mà bước tới bằng nhịp bước thanh thản, nhẹ nhàng. Lời ca Magnificat của Mẹ gợi hứng cho biết bao nhiêu lời ngợi khen thể hiện nơi những tâm hồn quảng đại hiến dâng.
Nói tóm lại, đời sống cuả Mẹ được tiếp tục nơi những người con không bao giờ ngơi yêu mến và quí trọng Mẹ. Mẹ về Trời mà Mẹ vẫn sống qua muôn thế hệ vì gương sống của Mẹ không nhạt nhoà theo thời gian, không lỗi nhịp với thế hệ đương đại vì một con tim yêu thương có bao giờ lại ở bên ngoài Tình Yêu.
Lòng tin của Mẹ đã làm cho cuộc sống không còn bị thả trôi theo giòng đời vô định. Mẹ đã tin và Mẹ đã neo thuyền đời vào sự trung tín không lay chuyển của Thiên Chúa. Ngài trung tín ngay cả khi con người phản bội và chính mẹ, Mẹ cũng đã trung kiên đến cùng dù mọi người đã chao đảo lung lay. Lòng cậy trông trong những lúc nguy biến, hãi hùng đủ xiết chặt lại đoàn ngũ những người muốn buông xuôi, tuyệt vọng khi hành trình không thuận lợi. Lòng mến của Mẹ thì bao la, hải hà. Một lòng mến đủ để Mẹ sẵn sàng chấp nhận từ bỏ tất cả để yêu mến một mình Thiên Chúa và để lòng mến bao phủ mọi tình huống tồi tệ nhất.
Lời xin vâng của mẹ, lời xin vâng tích cực không chỉ sẵn lòng để Thiên Chúa toàn quyền trên mọi ý định và ước muốn của mình mà còn xin Thiên Chúa thực thi ý Ngài trên đời mình “Xin Chúa cứ làm cho tôi…” Lời xin vâng ấy như vang vọng sự tuân phục của Chúa Giêsu Con Mẹ khi bước vào trần gian: “Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài”. Tất cả những ai noi theo mẫu tuân phục ấy đều khám phá ra rằng gánh nặng của cuộc đời trần thế bỗng trở nên sự êm ái, nhẹ nhàng vì có một nguồn sức mạnh diệu kỳ nâng ta dậy và một bàn tay dịu dàng của người Mẹ dẫn ta bước tới trong an vui và tin tướng.
Sống như một người bé mọn trước Đấng Tối Cao xem ra không phải là điều mới mẻ nhưng nhận ra lòng thương xót Chúa đoái thương thân phận thấp hèn và thấy mình diễm phúc vì được tràn đầy ơn huệ của Đấng Toàn Năng mà ơn huệ ấy cứ trải dài cho đền muôn muôn thế hệ lại là một khám phá mang chiều kích tràn đầy hy vọng. Từ nay, người ta có quyền hy vọng dù thân phận bất toàn, hèn kém, dù nghèo khổ, thua thiệt hay đang bị chèn ép, khinh khi. Lòng kính sợ Thiên Chúa luôn lôi kéo lòng thương xót Chúa xuống trên đời mình. Mẹ đã sống như thế, Mẹ đã ca ngợi một tình thương như thế và Mẹ đã làm chứng hùng hồn cho những điều ấy hôm nay, khi Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác.
Không còn nghi ngờ gì nữa, mẫu gương sống trọn vẹn cuộc sống trần gian của Mẹ là bước chuẩn bị cho một cuộc sống vinh quang và hạnh phúc trời cao. Mẹ đã thành công và là niềm hy vọng cho những ai muốn được như vậy. Con đường Mẹ đã bước đi để tiến đến vinh quang ngày lên trời hồn xác cũng sẽ là con đường cho mỗi người chúng ta theo ơn gọi riêng của mình.
Nhìn vào thực trạng của thế giới hôm nay và của chính đời mình, chúng ta không còn phải trốn chạy vào những giấc mơ huyền hoặc nữa mà cứ sống tận cùng thân phận con người và làm rực lên ánh sáng của niềm hy vọng từ những điều nhỏ bé trong cuộc đời đến những việc trọng đại. Mẹ đã sống và Mẹ đã toả chiếu niềm tin yêu hy vọng chói ngời để hôm nay hướng nhìn lên Mẹ ánh sáng đời Mẹ lại rọi xuống đời ta để ta cứ mạnh dạn tiến tới trong niềm cậy trông.
MẸ LỀN TRỜI MÀ MẸ VẪN ĐANG Ở VỚI TA
Mẹ được lên trời như một đặc ân do lòng quảng đại của Thiên Chúa nhưng về trời không làm cho Mẹ phải từ bỏ cõi trần để thuộc về một thế giới khác, không vướng bận với những điều tầm thường của trần gian. Như là một chi thể của Hội Thánh thì đặc ân Hồn Xác Lên Trời của Mẹ là hồng ân cho toàn thể Hội Thánh. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân ( LG 62 ) còn mạnh mẽ khẳng định: “Sau khi về Trời, vai trò của Mẹ trong công trình cứu độ không chấm dứt… Với tình từ mẫu, Ngài chăm sóc những anh em của Con Ngài đang lữ hành trên dương thế”.
Mẹ tiếp tục làm mẹ cách tuyệt vời hơn nữa. Về Trời nghĩa là không con bị lệ thuộc bởi không gian và thời gian. Mẹ có thể đến với con cái mình bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu. Về Trời nghĩa là tình thương từ mẫu có thể trải rộng đến vô tận trên mọi hạn hẹp của tình cảm, của những mối tương quan thường tình. Mẹ có thể yêu thương hết mọi người bằng mọi cách thế hoàn toàn mới mẻ.
Ta có thể cảm nhận được tình thương ấy mỗi khi đến với Mẹ trong cầu nguyện. Mỗi lời kinh vang lên là ta lại thấy lòng mình lắng xuống những lo âu, bồn chồn, phiền muộn. Mỗi khi ngỏ lời với Mẹ ta lại thấy như được lắng nghe, được an ủi, được nâng đỡ. Mỗi lần tỏ lòng yêu mến Mẹ là mỗi lần ta được Mẹ đáp lại bằng những cử chỉ yêu thương tràn đầy hơn, thấm thía hơn và ngọt ngào hơn.
Mẹ vẫn có đó mỗi khi kêu cầu Mẹ. Gian nan, thử thách, khó khăn, hoạn nạn ư ? Đừng sợ, Mẹ luôn có đó để che chở đoàn con khỏi những hiểm nguy khốc liệt nhất.
Ngay tại Trà Kiệu còn lưu lại chứng từ sự bảo vệ huyền diệu của một Bà đứng trên nóc Nhà Thờ vẫy tay làm lệch hướng của những đường đạn từ các khẩu thần công. Hãy nhớ lại những lần bàn tay mẹ đã từng xua đi bao áng mây u ám trên bầu trời bình an mà thêm niềm tin cậy. Bất cứ nơi nào có ảnh tượng Mẹ, dù cũ kỹ hay hoang tàn đổ nát cũng không làm mờ nhạt đi tấm lòng thương xót hải hà của Mẹ.
Tại Kon Plông, một huyện miền cao cách thị xã Kon Tum 52 km hướng Đông Bắc, có một tượng Đức Mẹ xấu xí với hai bàn tay cụt đã tỏ hiện sự linh thiêng khi số lượng ngày càng tăng của những tấm bia tạ ơn và nhiều đoàn ngừơi từ rất xa tấp nập kéo đến một nơi xa xôi hẻo lánh khiến nơi này đang dần dần trở thành một địa điểm hành hương với cái tên Đức Mẹ Măng Đen. Tại đây, nhiều người đã nhận được những ơn lành từ Mẹ.
Tượng Đức Mẹ tuy không đẹp vì đầu của Đức Mẹ đã bị rơi xuống và được đắp lại bằng xi măng còn đôi bàn tay được ráp thay vào thì không dính được nhưng Đức Mẹ Măng Đen Cụt Tay lại như là biểu tượng của tình mẫu tử vô bờ đối với những người khuỵết tật, những nạn nhân của bạo lực, chiến tranh, của phá thai, của sự độc ác vô nhân… Nơi đây đã từng bị lãng quên nhiều năm tưởng chừng thành hoang phế thì nay Đức Mẹ lại linh hiển ban ơn cho nhiều tầng lớp người cả lưong lẫn giáo, cả kinh lẫn thượng, cả người lành mạnh lẫn yếu đau… Mẹ vẫn đứng đấy để chờ đợi đoàn con từ muôn nẻo đường qui tụ về mà lãnh nhận ơn lành.
Mẹ còn đồng hành với ta trên bước đường theo Chúa Kitô trong sứ mạng loan báo Tin Vui. Những anh chi em nào đã từng làm việc Tông Đồ thì sẽ có được những cảm nghiệm thiết thân về sự trợ giúp đầy quyền năng yêu thương của Đức Mẹ. Mẹ như đi trước chuẩn bị các tâm hồn hay tạo ra những hoàn cảnh thuận lợi để giúp ta hoàn thành sứ mạng. Có những lúc ta tưởng chừng như đành phải bó tay, bất lực thì với sự trợ giúp của Mẹ mọi sự trở nên dễ dàng, đơn giản.
Một lần kia tôi được mời đến xức dầu bệnh nhân cho một người trong bệnh viện. Tôi được biết hoàn cảnh khá tồi tệ của anh vì bị mọi người trong gia đình bỏ rơi chỉ còn một người bạn giúp anh trên giường bệnh. Đến nơi, tôi ngỏ ý muốn gặp người bệnh để ban các Bí Tích thì người bạn của anh quyết liệt từ chối vì hiện anh ta đã đỡ và không muốn anh bị ảnh hưởng tâm lý nếu chịu Bí Tích Xức Dầu. Tôi đề nghị xin cho tôi gặp để giúp anh xưng tội nếu anh muốn. Người bạn vào lại Bệnh Viện…
Trong lúc đó tôi ngồi ngoài chờ đợi và tôi chợt nhớ là khi đi mình chưa cầu nguyện cho bệnh nhân. Tôi lấy xâu chuỗi ra cầu nguyện với Đức Mẹ. Một lúc sau anh bạn trở ra và cho biết người bệnh muốn gặp tôi. Tôi thấy anh tỉnh táo và khá linh hoạt chứ không như được người thân mô tả. Sau một lúc nói chuyện, tôi đề nghị giúp anh xưng tôi vì anh đã bỏ giữ đạo đã lâu. Anh đồng ý và tôi cũng đã ban bí tích Xức Dầu cho anh.
Ngày hôm sau, người nhà báo tin anh đã qua đời hồi đêm trong bệnh viện. Tôi tin rằng chính Đức Mẹ đã cứu anh.
Mẹ đã lên Trời nhưng Mẹ vẫn thật gần và thật thắm thiết tình thương yêu dạt dào. Mẹ sẽ tỏ bầy bằng muôn vàn cách thế diêu kỳ để ta có thể hướng nhìn lên Mẹ mà hy vọng, mà tin tưởng, mà vui mừng vì Mẹ vẫn bên ta trong mọi nỗi gian nan, trong muôn vạn nẻo đường đời xuôi ngược. Mẹ vẫn yêu thương ta dù ta lầm đường, lạc lối. Đối với tấm lòng yêu thương vô bờ thì không bao giờ có gì là quá trễ để trở về.
Cùng với những anh chị em trong những cuộc hành hương về La Vang mừng Đại Lễ Mẹ Lên Trời, chúng ta cũng muốn gửi gắm những tâm tình tạ ơn tha thiết. Mẹ đã tỏ cho ta thấy trái tim vô cùng nhân hậu khi chúng ta nhìn thấy một rừng người canh thức suốt đêm để cầu nguyện với Mẹ trước ngày Đại Lễ. Những lời cầu kinh râm ran như kéo dài đến vô tận vừa cho ta thấy được tình yêu mến của những người con Việt Nam yêu Mẹ cách hồn nhiên, chân thành và cũng vô cùng sâu đậm lại vừa cho ta hiểu được rằng ơn huệ của Mẹ đã trải dài trên quê hương Việt Nam và đã để lại nơi lòng những người con Việt Nam yêu dấu của Mẹ biết bao nhiêu dấu ấn dịu dàng của tình từ mẫu đến nỗi cả dân tộc Việt Nam cứ muốn tỏ bầy lòng mến thương thật sâu đậm dành cho Mẹ.
Cùng hướng về La Vang để hát vang lời chúc tụng Chúa và ca ngợi Mẹ đầy ơn phúc đến vô tận. Cùng cầu nguyện với Đức Mẹ La Vang cho mỗi người chúng ta đi trọn con đường trần thế để khi đến cuối hành trình chính Mẹ đón đưa chúng ta về nhà và để ngay từ hôm nay niềm vui được thắp lên ngay giữa lòng cuộc sống vì Mẹ đã về Trời và vì Mẹ đã làm người cách tuyệt vời.
Lm. Giuse NGUYỄN NGỌC BÍCH, DCCT
------------------------------------------
Mười lăm tháng tám mừng vui. Chúa cho Đức Mẹ về trời vinh quang. Niềm hy vọng thật rõ ràng: 15/8-53
Mười lăm tháng tám mừng vui
Chúa cho Đức Mẹ về trời vinh quang
Niềm hy vọng thật rõ ràng
Chúng nhân sẽ được hưởng chung Nước Trời
Đức Mẹ là một thụ tạo nhưng được Thiên Chúa cho về Trời cả hồn và xác mà không phải đi qua ngưỡng cái chết, gọi là “Mông Triệu” ( * ). Đó là một đặc ân vì Mẹ vô nhiễm nguyên tội, hoàn hảo các nhân đức, và mau mắn xin vâng Thánh ý Chúa Cha. Đức Mẹ về Trời là ấn tín bảo đảm cho những người tin vào Đức Kitô cũng sẽ được sống lại và lên trời sau khi hoàn tất chuyến lữ hành trần gian. Lên trời là về Quê Hương Vĩnh Hằng, mục đích của mỗi Kitô hữu là như vậy.
Thánh Gioan kể lại thị kiến, y như một đoạn phim dài đầy kịch tính và nhiều tình tiết: “Đền thờ Thiên Chúa trên Trời đã mở ra. Rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao. Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con. Lại có điềm khác xuất hiện trên trời: đó là một Con Mãng Xà, đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà. Bà đã sinh được một người con, một người con trai, người con này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân. Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người. Còn người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc; tại đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày” ( Kh 11, 19a, 12, 1 – 6 ).
Thị kiến kỳ lạ ấy ám chỉ Đức Mẹ. Thánh Gioan cho biết thêm: “Tôi nghe có tiếng hô to trên trời: Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài” ( Kh 12, 10 ). Thị kiến này cũng khiến chúng ta phải cẩn trọng hơn về đức ái, nhất là trong cách đối xử với tha nhân hằng ngày.
Ngay cả Hồi Giáo cũng tôn trọng Đức Mẹ, coi Đức Mẹ là phụ nữ cao cả nhất trong Kinh Koran ( Kinh Thánh của Hồi Giáo ). Công giáo có nhiều danh xưng dành cho Đức Mẹ: Nữ Vương Hòa Bình, Đức Maria Trinh Vương, Đức Mẹ Phù Hộ các Giáo Hữu, Đức Mẹ Ban Ơn Lành, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Đức Mẹ Mai Khôi, Đức Mẹ Thương Xót, Đức Mẹ Vô Nhiễm, Đức Mẹ Hoa Hồng,... và Đức Mẹ còn gắn liền với các địa danh trên khắp thế giới, riêng Việt Nam cũng có Đức Mẹ La Vang, Đức Mẹ Giang Sơn, Đức Mẹ Mằng Lăng, Đức Mẹ Sao Biển, Đức Mẹ Trà Kiệu, Đức Mẹ La Mã Bến Tre...
Tác giả Thánh Vịnh đã từng ca tụng: “Hàng cung nữ, có những vì công chúa, bên hữu ngài, hoàng hậu sánh vai, trang điểm vàng Ôphia lộng lẫy. Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy lắng tai, quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ. Sắc nước hương trời, Quân Vương sủng ái, hãy vào phục lạy: Người là Chúa của bà” ( Tv 45, 10 – 12 ). Chắc hẳn phàm ngôn không thể đủ để diễn tả về Đức Mẹ cho xứng đáng, chúng ta chỉ biết dùng những ngôn từ nào cao trọng nhất để tôn xưng Đức Mẹ mà thôi.
Tất cả phàm nhân đều phải bước qua ngưỡng-cửa-sự-chết theo quy luật sinh-tử, vì ai trong chúng ta cũng từng phạm tội nhiều. Nhưng chết không là hết, mà là biến đổi, như Thánh Phanxicô Assisi xác định: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Chết đi để được sống lại. Chính Đức Kitô cũng đã chết và phục sinh để bảo đảm về chuyện đời sau. Chết là trực tiếp gặp Thiên Chúa, gặp Đức Kitô, và cũng gặp Đức Mẹ nữa.
Niềm hy vọng của Kitô hữu thật lớn lao và tuyệt vời, nhưng Thánh Phaolô nói: “Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” ( 1Cr 15, 19 ). Niềm hy vọng của chúng ta không hề như vậy. Thánh Phaolô giải thích: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống” ( 1Cr 15, 20 – 22 ).
Ai cũng lần lượt ra đi, kẻ trước người sau, như lá rụng về cội, dù lá xanh hay lá vàng, như Thánh Phaolô giải thích thêm: “Mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” ( 1Cr 15, 23 – 24 ). Tất cả đều xảy ra đúng theo trật tự Thiên Chúa đã ấn định, như chúng ta thường nói là Thiên Chúa an bài. Chúng ta không thể hiểu thấu, nhưng sự thật là vậy: “Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết” ( 1Cr 15, 25 – 26 ).
Đức Kitô dùng thập giá để chiến thắng tất cả, và cũng chính trên thập giá, Ngài đã tiêu diệt sự thù ghét ( x. Ep 2:16 ) để minh chứng tình yêu vô biên và sâu thẳm của Thiên Chúa, tức là Lòng Chúa Thương Xót, điều mà không ai trong chúng ta khả dĩ hiểu thấu.
Thánh sử Luca kể…
Hồi ấy, cô em Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Cô vào nhà ông anh Dacaria và chào hỏi bà chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng dì Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà chị Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” ( Lc 1, 42 – 45 ).
Đây là cuộc gặp lịch sử. Một người là Mẹ Thiên Chúa, còn một người là Mẹ của vị Tiền Hô Gioan. Thấy cô em họ Maria đến, chị Êlisabét vui mừng thốt lên những lời đầy Thần Khí. Sau đó, cô Maria cũng quá đỗi vui mừng và dâng lời Kinh Ngợi Khen ( Magnificat, Lc 1, 46 – 55 ), y như một bài thơ vậy:
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;
Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả,
Danh Người thật chí thánh chí tôn !
Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
Người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người,
Như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
Vì Người nhớ lại lòng thương xót
Dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.
Kinh Thánh cho biết rằng Đức Maria ở lại với bà chị Êlisabét độ ba tháng, rồi mới trở về nhà. Mẹ đã chứng tỏ lòng yêu thương với tha nhân khi vội vã đi thăm bà chị Êlisabét, đồng thời lại muốn chứng tỏ tình yêu thương đó qua việc ở lại giúp đỡ người chị đang mang thai trong ba tháng đầu của thai kỳ.
Trong Mầu Nhiệm Mai Khôi mùa Mừng, mầu nhiệm thứ tư: Đức Chúa Trời cho Đức Mẹ lên Trời. Xin cho con được chết lành trong tay Đức Mẹ. Mầu nhiệm thứ năm: Đức Chúa Trời thưởng Đức Mẹ trên trời. Xin cho con được thưởng cùng Đức Mẹ trên Nước Thiên Đàng. Hai mầu nhiệm này không chỉ nhắc nhở chúng ta cầu nguyện với Đức Mẹ, mà còn hy vọng được trường sinh để cùng Đức Mẹ mãi mãi chúc tụng Thiên Chúa. Đường về dù xa hay gần, đường đi có thể gập ghềnh nhiều nỗi, nhưng có Đức Mẹ đồng hành thì chúng ta cứ an tâm tiến bước.
Lạy Thiên Chúa, xin cho chúng con biết “ái mộ những sự trên Trời”, quyết tâm hành động vì Nước Trời, dám khước từ trần gian để ưu tiên mọi sự vì Nước Trời, nhờ đó mà chúng con xứng đáng trở thành công dân Nước Trời vĩnh hằng. Lạy Mẹ, xin đồng hành và nâng đỡ chúng con luôn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
( * ) “Mông triệu” có gốc từ chữ Hán, được rút gọn từ 4 chữ “mông chủ ( chúa ) sủng triệu”, những từ ngữ thường được nghe trong các phim lịch sử của Trung Hoa. “Mông” là “chịu” hoặc “được”, “triệu” là “gọi” ( triệu tập, hiệu triệu ). “Mông triệu” có nghĩa là “được sủng ái” ( yêu mến ) nên được Chủ ( Chúa ) gọi ( về trời ), Anh ngữ dùng thuật ngữ “dormition” nghĩa là “ngủ”, tức là “chết mà như ngủ”.
------------------------------------------
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bức tranh "Mông Triệu" của Titian (1516–18).
Lễ Đức Mẹ Lên Trời (hay còn gọi là Lễ Đức Mẹ Mông Triệu) là một ngày lễ quan trọng của: 15/8-54
Lễ Đức Mẹ Lên Trời (hay còn gọi là Lễ Đức Mẹ Mông Triệu) là một ngày lễ quan trọng của các Kitô hữu thuộc Giáo hội Công giáo Rôma, Chính Thống giáo Đông phương, Cộng đồng Anh giáo, vì họ tin rằng khi qua đời thì linh hồn và thể xác của Đức Maria đã được đưa về thiên đàng.
Giáo hội Công giáo Rôma định sự kiện này là một "tín điều" (điều phải tin) do Giáo hoàng Piô XII ban hành vào ngày 1 tháng 11 năm 1950 qua Hiến chế "Munificentissimus Deus" (Thiên Chúa vô cùng vinh hiển). Trong hiến chế này, Giáo hoàng Piô XII tuyên bố[1]: "Sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa vừa vô nhiễm vừa mãi mãi đồng trinh, đã được đưa vào vinh quang thiên quốc cả hồn lẫn xác" bởi những lý do: Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa; thân các Đức Giêsu sinh ra từ thân xác Đức Maria ("caro Jesu est caro Mariae"); thân xác Đức Maria không hề sa sút nhưng vẫn trinh khiết vẹn toàn và bởi đó thật xứng đáng nếu thân xác ấy không bị hư nát sau khi chết; và vì đã liên kết chặt chẽ với Đức Ki-tô trong sứ mạng cứu độ của Người ở trần gian, nên Đức Maria cũng thật xứng đáng được chia sẻ tình trạng vinh quang của thân xác.
Trong thánh kinh không có bằng chứng trực tiếp nào về việc Đức Maria lên trời. Hội thánh Công giáo rút ra kết luận đó từ cách gọi Đức Maria đầy ân sủng được ghi trong Tin mừng Luca (Lc 1,28). Vì đầy ân sủng nên Mẹ được gìn giữ khỏi phải chịu hậu quả của tội lỗi, tức là thân xác không phải hư nát sau khi chết và thân xác được hạnh phúc trên trời ngay cả khi ngày tận thế chưa đến. Khi đặt niềm tin vào việc Đức Maria lên trời, Hội thánh không dựa vào Kinh Thánh mà dựa vào truyền thống được kể lại. Đây chắc chắn là giáo lý đã được mạc khải, bởi vì các giám mục Công giáo trên toàn thế giới đã nhất trí tin rằng đó là một phần trong mạc khải của Thiên Chúa [2].
Ngoài ra, niềm tin về Đức Mẹ Lên Trời cũng được biết đến như là nền Thần học Thánh Mẫu trong Giáo hội Chính Thống Đông phương.
Đức Mẹ Lên Trời là một ngày lễ lớn, thường được tổ chức vào ngày 15 tháng 8. Ở một số quốc gia, bao gồm: Áo, Bỉ, Chile, Ecuador, Pháp, Hy Lạp, Liban, Ý, Malta, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Senegal và Tây Ban Nha[3]. Các giáo hội Chính Thống giáo Đông phương theo lịch Julian nên ngày lễ này vào ngày 28 tháng 8, và là một ngày nghỉ lễ ở Cộng hòa Macedonia. Thành phố thủ đô của Paraguay được đặt tên là Asunción để tôn vinh sự kiện Đức Mẹ Lên Trời.
------------------------------------------
Con rồng trong sách Khải Huyền được mô tả như là mầm mống của sự chết chóc vì nó đứng "rình người: 15/8-55
Con rồng trong sách Khải Huyền được mô tả như là mầm mống của sự chết chóc vì nó đứng "rình người nữ sắp sinh con để nuối lấy đứa trẻ" ( Kh 12, 4 ). Với từ ngữ và hình ảnh tượng trưng, sách Khải Huyền còn gợi lên cuộc chiến lâu dài giữa sự sống và sự chết, giữa Satan với Đức Kitô và Giáo Hội của Người. Người sẽ toàn thắng.
Chúng ta biết, cuộc chiến giữa sự sống và sự chết, giữa sự thiện và sự ác là không cùng. Con người dù tiến bộ đến đâu đi chăng nữa, vẫn luôn mang trong mình sự mỏng giòn.
1. Sự mỏng giòn của con người
Vốn mỏng giòn yếu đuối, cộng thêm lo âu, phiền muộn về sức khỏe, việc làm, về công việc gia đình phải gánh vác, những mập mờ vô định ngày mai của cuộc đời, lo con còn trẻ, cha mẹ khi đã về già, ốm đau bệnh tật, khủng hoảng về luân lý… tất cả đè nằng lên lòng trí con người. Làm sao không khỏi ngạc nhiên khi thấy thời đại chúng ta đang tụt hậu trước những biến cố của cuộc đời ?
Trước những bất hạnh của thế giới, có người buông xuôi không làm gì hết, để mặc cho số phận. Có người cấp tiến hơn, quyết định từ bỏ một phần và tự sát. Có người từ chối truyền lại sự sống mà họ đã lãnh nhận và không chịu nhận cái khả năng có thể cho tương lai của chính họ và xã hội. Dần dần những nhà trẻ sẽ thay thế nhà hưu dưỡng !
Giữa cảnh đời lữ thứ, người Kitô hữu sống ra sao ? Đức Tin của chúng ta thế nào khi đối diện với các thực tại như thế? Lễ Đức Maria hồn xác về Trời mang lại cho họ hy vọng gì trong cuộc sống ?
2. Cuộc chiến thắng !
Chúng ta long trọng cử hành lễ Đức Maria hồn xác về trời với lòng sùng kính, giúp chúng ta trả lời những vấn nạn trên. Trước hết niềm tin của Giáo Hội đối với tín điều Đức Piô XII đã xác quyết năm 1950. Chúng ta tin Đức Maria, đã được đặc ân cả hồn lần xác về Trời. Điều đó muốn nói rằng sự chiến thắng con rồng trong sách Khải Huyền hoàn tất nơi Mẹ, Mẹ về ngự bên hữu Chúa để chuẩn bị chỗ cho chúng ta như Thiên Chúa đã dành cho Mẹ.
Chúng ta tự hỏi, Đức Maria đã được rước lên Trời cả hồn lẫn xác có làm chúng ta thay đổi không ? Thánh Phaolô cho chúng ta câu trả lời: "Đức Kitô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc" ( 1Cr 15, 20 ). Đức Giêsu sống lại, có người tin, người không tin. Nhưng, Đức Kitô, Con Thiên Chúa đã sống lại thật, đó là niềm hy vọng của chúng ta.
Việc Đức Maria hồn xác lên Trời là một thực tại khác: Đức Maria không phải là Thiên Chúa; Mẹ là nữ tử Israel, là một trong những thụ tạo như chúng ta, là người nữ giữa muôn vàn người nữ trên trần gian. Mẹ đã được tôn vinh, vinh quang của Mẹ liên quan đến chúng ta. Những đặc ân của Mẹ là kết quả cụ thể của ơn cứu độ mà Đức Kitô mang đến cho Mẹ và nhân loại ( x. 1Cr 15, 20 – 26 ). Mẹ được vinh hiển là nhờ công nghiệp của Chúa Kitô, Con của Mẹ. Việc Đức trinh Nữ được lên Trời hồn xác là sự thông phần cá biệt vào cuộc phục sinh của Con Mẹ, và tiên báo cuộc phục sinh của các tín hữu ( GLCG số 966 ).
Đức Tin không nói cho chúng ta biết điều gì về cái chết của Đức Maria. Có người cho rằng Đức Maria không chết, nhưng Đức Tin nói với chúng ta rằng sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, Đức Maria được Thiên Chúa tôn vinh.
Nơi Mẹ, cũng như Đức Giêsu Con Mẹ, cái chết không phải là hết, sự chết đã bị đập tan. Trái đất không còn là nơi giam hãm con người trong số phận đau thương, các tầng trời mở ra để loan báo một tương lai sáng ngời cho nhân loại. Sự chết đã bị tiêu diệt bởi sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa. Đó là niềm hy vọng lớn lao cho chúng ta !
3. Sống trong hy vọng
Kinh Tạ Ơn của Đức Maria nêu rõ: "Chúa đã ra oai cánh tay thần lực, dẹp tan những ai lòng trí kiêu căng, Chúa lật đổ những người quyền thế, và nâng dậy những kẻ khiêm nhường. Phận đói nghèo Chúa ban của đầy dư... Vì Người nhớ lại lòng thương xót" ( x. Lc 1, 39 – 56 ). Chắc chắn Thiên Chúa không thể để chúng ta bị nghèo đói đè bẹp, khi chúng ta tin vào lời Chúa hứa.
Mừng kính Đức Trinh Nữ Maria hồn xác về trời, chúng ta không chỉ mừng vì Thiên Chúa đã làm cho Mẹ những điều trọng đại, mà còn mừng vì sự hiện hữu của nhân loại. Thánh Phaolô nói: "Anh em khỏi phải phiền sầu như những người khác, những kẻ không có hy vọng" ( 1Tx 4, 13 ). Chúng ta cố gắng hiểu để sống sao cho xứng danh là người hy vọng.
Người trẻ sống hy vọng, khi họ hướng đến một tương lai khác và muốn sống quảng đại như Chúa muốn. Những người ở bậc gia đình sống niềm hy vọng, bằng cách hiệp nhất cùng nhau, thủy chung trong đời sống vợ chồng để yêu thương, trao ban hạnh phúc và sự sống cho con cái. Những người nam sống niềm hy vọng khi mau mắn đáp lại tiếng gọi Chúa để trở nên những Linh Mục, Phó Tế trong Giáo Hội, và lấy làm hạnh phúc vì được cộng tác vào sứ mạng cao cả của Đức Kitô Mục Tử ! Chúng ta thật bất hạnh nếu chúng ta không có niềm hy vọng !
Người sống hy vọng còn là người dấn thân cải thiện đời sống xã hội và làm việc công ích, lương thiện với mọi người, chăm sóc những người ốm đau, bệnh tật, già nua để trao ban cho họ niềm tin và giá trị về sự hiện hữu của chính mình. Những người sống hy vọng cũng còn là người tránh xa bom đạn, bạo lực chiến tranh, không ham báo thù.
Vậy mỗi người chúng ta hãy sống hy vọng, hãy làm ngày lại ngày, không buông tay, mặc cho những ngang trái của cuộc đời. Phúc cho chúng ta, nếu chúng ta can đảm chiến đấu mỗi sáng khi thức dậy cho cuộc sống đáng sống của mọi người trên trái đất, thì thật phúc cho chúng ta, như Mẹ Maria khiêm nhường phục vụ Chúa: "Này từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi có phước !" ( Lc 1, 48 ).
Nếu như khi xưa Mẹ Thiên Chúa đã đến với bà Êlisabét, thì ngày hôm nay Mẹ vẫn đến với chúng ta. Mẹ mở rộng vòng tay nói với chúng ta rằng: hỡi con, hãy tin tưởng và hy vọng, Chúa đã dọn chỗ cho con. Amen !
Lm. Antôn NGUYỄN VĂN ĐỘ
------------------------------------------
I. TIẾN TRÌNH TÍN ĐIỀU MẸ LÊN TRỜI
Theo hai cha Pohle và Scheeben, mấy thế kỷ đầu không có dấu tích gì về lòng tin Đức Mẹ Maria: 15/8-56
Theo hai cha Pohle và Scheeben, mấy thế kỷ đầu không có dấu tích gì về lòng tin Đức Mẹ Maria lên trời. Nhưng một cái quách (sarcophagus) đầu thế kỷ IV, hiện ở nền nhà thờ Santa Engracia thành Saragossa (Tây Ban Nha), có bức chạm trổ hình Đức Mẹ lên trời. Và chứng tích của Thánh Epiphanô cho biết niềm tin Mẹ Maria bất tử và thân xác Mẹ vinh quang đã được truyền bá sâu rộng trong một ít giáo đoàn như Antiokia.
Do xác tín và ngợi khen "Chức phẩm Thiên Mẫu" và "Đức Đồng Ttrinh" của Mẹ là hai căn nguyên bước vinh quang của Người, Thánh Epiphanô mở đường cho lòng tin và sự xác quyết của các Thánh Giáo phụ, các Đức Giáo hoàng, các Giám mục, các nhà thần học và toàn thể Giáo hội.
A. Các Thánh Giáo phụ
Các Thánh Giáo phụ trong những thế kỷ đầu, như các Thánh Môđestô, Basiliô, Giêrônimô, Augustinô, Germanô, Đamascenô, và Thêôđôrê Studium, đồng thanh tung hô bước vinh quang của Mẹ Maria do chức phẩm Thiên Mẫu và đức Đồng Trinh của Mẹ .
Riêng Thánh Đamascênô nói: "Cần thiết rằng Con Thiên Chúa, khi sinh ra, đã gìn giữ vẹn tuyền đức Trinh của Mẹ, thì phải gìn giữ Mẹ khi chết, khỏi hư hoại. Đấng đã cưu mang Đấng Tạo Hoá cần được ở trong cung điện của Thiên Chúa. Mẹ Thiên Chúa cần phải có tất cả mọi điều thuộc về Con của Mẹ và cần được mọi thụ tạo tôn vinh".
B. Các Đức Giáo hoàng
- Đức Adrianô I và Đức Pascalê I có những đồ thờ trang trí bằng hình ảnh Mẹ lên trời.
- Đức Alexanđrô III nói: "Mẹ Maria thụ thai không bị xấu hổ, sinh con không bị đau đớn, từ trần không bị hư hoại trong mồ, vì theo lời Thiên thần, Mẹ đã được đầy ơn".
- Đức Thánh Giáo Hoàng Piô V sửa đổi lại kinh Phụng vụ với bài đọc lễ Mẹ Lên Trời.
- Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XIV: Về ngày lễ Đức Mẹ Lên Trời, Giáo hội đọc các bài giảng của thánh Đamascenô và thánh Bênađô, thấy rõ ràng Rất Thánh Trinh Nữ lên trời cả hồn và xác. Đó là một dấu chỉ và một bằng chứng niềm tin của Giáo hội.
- Đức Giáo Hoàng Piô XII nối tiếp các Đức Giáo Hoàng tiền nhiệm về niềm tin đó. Trong Thông điệp "Corporis Mystici" ngày 29-6-1943, Ngài viết: "Chúng ta hãy nài xin Mẹ rất thánh của mọi phần tử của Chúa Kitô mà Ta đã tín thác hiến dâng loài người cho Trái Tim Mẹ. Ngày nay ở trên trời, thân xác và linh hồn Mẹ toả sáng trong vinh quang, hiển trị cùng với Con của Mẹ".
C. Các Đức Giám mục và toàn thể Giáo Hội
Ngày 23-2-1870, 200 Giám mục của Công đồng Vatican I làm đơn thỉnh nguyện Đức Thánh Cha định tín Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời.
Năm 1920, 260 Giám mục từ nhiều nước, cũng hợp ý tâu xin, đầu tiên là các Giám mục nước Ý, nước Pháp, trong khi các Hội Đồng Giám Mục nước Đức, Áo, Anh, và Thụy Sĩ còn im lặng.
Năm 1934, sau năm năm chiến dịch "Forge Italiane" ráo riết vận động, 600 Tổng Giám mục và Giám mục đã chấp thuận cuộc trưng cầu dân ý khắp thế giới, tâu xin Toà thánh định tín.
Tại Pháp và Ý năm 1929, một hội cầu nguyện được thành lập để xin Chúa cho việc định tín được thành tựu.
Đại Hội Thánh Mẫu tại Nantes năm 1924 cũng bày tỏ nguyện vọng đó.
D. Các nhà thần học
Nối tiếp các Thánh Giáo phụ và Thẩm quyền của Giáo hội, các nhà thần học qua các thế kỷ, cũng tích cực đồng tâm nhất trí về tín lý Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời:
Thế kỷ XII và XIII có các Thánh Albertô, Bônaventura, Tôma, Fullertô và các nhà thần học Hugh St. Victor, Sicard Cremona, Durand Mende.
Thế kỷ XV có Thánh Antôniô và nhà thần học Gabriel Biel. Thế kỷ XVI có các Thánh Canisiô, Bellarminô, các nhà thần học Suarez, Soto, Đức Hồng y De Berulle và cả trường phái Pháp.
Thế kỷ XVII có các nhà thần học Billuart, Theophile Raynaud.
Thế kỷ XVIII có Thánh Anphong, Đức Hồng y Lambertini (sau này là Đức Giáo hoàng Beneđictô XIV), các nhà thần học Sedlmayr, Trombelli.
Thế kỷ XIX và XX có các nhà thần học Scheeben, Lannerz, Janssens, Lagrange, Jugie, Roschini, Balic, Bittremieux và Đức Hồng y Lépicier.
Theo cha Deneffe, từ cha Scheeben, có ít là 18 nhà thần học xác quyết rằng tín lý Mẹ hồn xác lên trời có thể định tín.
Nhà thần học Sertillanges viết một câu rất dí dỏm về sự phục sinh của Mẹ: "Chúng tôi tin rằng đường lối mọi xác phàm phải ngoắt quay đi khi nói về Đức Trinh Nữ. Anh hùng ca của sâu bọ phải im bặt để chúng ta ca lên trên ngôi mộ này Hoan khúc Magnificat thay vì Ai khúc De profundis".
Như vậy, toàn thể Giáo Hội, cùng với các Thánh Giáo phụ, các Đức Giáo Hoàng và các nhà thần học, đều cùng một niềm tin Mẹ Maria lên trời cả hồn và xác. Do đó, cùng với nhà thần học Bainvel, Dân Chúa tin tưởng tín lý Mẹ Hồn Xác Lên Trời mau chóng được định tín.
E. Chuẩn bị định tín
Ngày 1-5-1946, với Thông điệp "Deiparae Virginis" gửi các Giám mục khắp Giáo Hội, Đức Giáo Hoàng Piô XII cho biết từ năm 1840 đến năm 1940, những đơn thỉnh nguyện tâu xin Toà Thánh định tín Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời, đã đóng thành hai cuốn sách. Những đơn thỉnh nguyện này do các Đức Hồng Y, các Thượng Phụ Giáo Chủ, các Giám Mục, đặc biệt 200 Nghị Phụ Công đồng Vatican I, các linh mục, tu sĩ nam nữ, các trường Đại học, các đoàn thể và đông đảo giáo dân.
Đức Thánh Cha xin các Đức Giám Mục cho ngài biết lòng sùng kính Đức Mẹ lên trời của hàng giáo sĩ, giáo dân của giáo phận các ngài và xin các ngài theo sự khôn ngoan, xét đoán thế nào về việc tuyên tín.
Ngày 30-10-1950, Đức Thánh Cha gửi tông thư cho Cơ Mật Viện, loan báo vào ngày mồng 1 tháng 11 năm 1950, một biến cố sẽ là niềm vui lớn lao cho toàn thế giới Công giáo. Đó là nhờ ơn soi động và sự trợ lực của Thiên Chúa, ngài sẽ tuyên tín Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời.
Một tia sáng mới sẽ bừng sáng trên vầng trán của Mẹ mà từ xa xưa, qua các thời đại, Giáo Hội cùng với các Giáo phụ, tiến sĩ và các nhà thần học vẫn tin tưởng mộ mến và sùng kính Mẹ lên trời cả hồn xác.
Đức Thánh Cha cũng hỏi ý kiến Cơ Mật Viện về việc ngài sẽ long trọng tuyên tín Mẹ Hồn Xác Lên Trời như một chân lý đã được Thiên Chúa mặc khải.
Sau khi đã biết ý kiến tích cực đồng thuận, Đức Thánh Cha tỏ lòng hoan hỉ được các Hồng Y, Giám Mục đồng tâm nhất trí với ngài để chứng minh điều Giáo Hội vẫn tin tưởng, mộ mến và giảng dạy.
G. Ban hành Thông điệp “Munificentissimus Deus”
Ngày mồng 1 tháng 11 năm 1950, Đức Giáo Hoàng Piô XII ban hành Thông điệp "Munificentissimus Deus", long trọng định tín Mẹ Maria linh hồn và xác lên trời là một tín điều buộc mọi người phải tin.
Đại lược thông điệp bất hủ này là:
Sau khi chúc tụng lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa đã yêu thương quan phòng làm êm dịu những khổ đau, đem lại niềm an vui cho các dân tộc, Đức Thánh Cha nêu cao sự kiện ơn Chúa thương, dù giữa thời buổi nhiều người sai lạc chân lý và nhân đức, vẫn có nhiều cách biểu lộ đức tin, lòng sùng mến Mẹ Maria và những con cái Mẹ vẫn được khuyến khích chiêm niệm những đặc ân của Mẹ. Thật vậy, từ muôn đời, Thiên Chúa đã đặc biệt yêu thương Mẹ và rồi ban cho Mẹ dạt dào những đặc ân mà Giáo hội nhận biết và khám phá ra. Nhưng thời đại của chúng ta đã được dành riêng để chiêm ngưỡng đặc ân Mẹ hồn xác lên trời.
Sau đó, Đức Thánh Cha lược qua tiến trình tín lý này qua đức tin của Giáo Hội, qua Phụng vụ, các Giáo phụ, các nhà thần học hằng tin tưởng Mẹ thụ thai, hạ sinh và nuôi dưỡng Chúa Kitô, thì sau cuộc đời này, Mẹ cũng được kết hợp với Chúa cả hồn và xác. Và Mẹ đã cùng với Chúa Kitô chiến thắng địch thù hoả ngục, thì Mẹ cũng được cùng với Chúa, khải hoàn vinh quang.
Đức Thánh Cha cũng kể qua cuộc chuẩn bị của ngài. Và ngài hy vọng rằng việc ngài định tín sẽ đem lại lợi ích lớn lao cho thế giới quay về với Thiên Chúa Ba Ngôi, cho giáo dân thêm lòng sùng mến Mẹ hơn, hiểu biết giá trị đời sống con người và mục đích cao siêu của linh hồn và xác. Sau hết, đức tin vào Mẹ hồn xác lên trời sẽ làm thêm vững mạnh đức tin của chúng ta vào vinh phúc mai sau.
H. Định Tín
Tín điều Mẹ Maria đầu thai vô nhiễm do Đức Piô IX tuyên tín năm 1854, đã là một viên bích ngọc rực sáng trên triều thiên của Mẹ, và là một luồng sáng rọi chiếu vào tín lý Mẹ lên trời cả hồn xác đã loé sáng lên qua bao thế kỷ, để ngày nay, bừng sáng lên thành tín điều, thêm một viên hoàng ngọc trên triều thiên vinh quang của Mẹ.
Do đó, Lễ Các Thánh ngày mồng 1 tháng 11 năm 1950, tại Quảng Trường Thánh Phêrô, Rôma, trước 40 Hồng y, 500 Tổng Giám mục và Giám mục, hàng trăm đại diện chính quyền các quốc gia, hàng ngàn linh mục tu sĩ nam nữ và hơn 700,000 dân chúng, dưới bầu trời tươi sáng, Đức Thánh Cha Piô XII sốt sắng cất tiếng trong máy vi âm, ngân vang khắp Quảng Trường Thánh Phêrô, vọng vang vào Đền Thờ chật ních hơn 80,000 dân chúng, vang xa khắp hoàn cầu, vang lên tới cung trời cao thẳm, những lời trịnh trọng tuyên tín:
"Do uy quyền của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, của hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, và với thẩm quyền của Ta, Ta phán quyết, tuyên ngôn, và định tín là tín điều đã được mạc khải rằng: Đức Maria, Mẹ Vô Nhiễm của Thiên Chúa trọn đời đồng trinh, sau cuộc sống trần gian này, đã được phúc vinh quang Thiên đàng cả hồn và xác. Nếu ai cả dám tự tình chối bỏ hay nghi ngờ điều Ta đã định tín, thì họ phải biết rằng họ hoàn toàn phản bội đức tin Công giáo của Thiên Chúa".
Đức Thánh Cha vừa dứt lời, thánh ca Te Deum do tất cả mọi người trong Quảng Trường Thánh Phêrô ca lên hùng tráng hoà nhịp với những tiếng chuông trầm hùng của Đền Thánh Phêrô và của 400 đền thờ khắp thành Rôma, như cùng với toàn thể thần thánh trên trời, hân hoan reo mừng chúc tụng ngợi khen Mẹ vinh quang của Thiên Chúa, của Giáo Hội và của toàn thể loài người.
II. LỊCH SỬ PHỤNG VỤ
Đầu tiên, Giáo Hhội Đông Phương thành lập lễ tôn vinh Mẹ Thiên Chúa tại Giêrusalem sau Công đồng Êphêsô năm 431, và gọi là "Ngày của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa".
Năm 380, giáo đoàn Antiôkia, và đầu thế kỷ VI, Giáo hội Đông Phương gọi là "Lễ Mẹ ly trần".
Năm 600, hoàng đế Maurice ra sắc lệnh mừng lễ này khắp nước Byzantine.
Khi quân Ba tư xâm chiếm Trung đông, các đan sĩ chạy sang Rôma năm 650, đem theo lễ này sang và đổi là "Lễ Mẹ Lên Trời" và mừng vào ngày 15 tháng 8.
Rồi từ Rôma, lễ này được lan đến Milan và Tây Ban Nha.
Đức Thánh Cha Sergiô I tổ chức một cuộc rước long trọng sùng kính Mẹ lên trời.
Thế kỷ VIII, lễ này lan sang Anh và Đức như Hội Đồng Giám Mục Áo tại Salzburg xác nhận, và sang Pháp do Hội Đồng Giám Mục Pháp tại Mayenne.
Dần dần, lễ này được lan tới tất cả các nước khắp thế giới.
Đức Giáo Hoàng Lêô IV qui định lễ Mẹ Lên Trời có tuần tám ngày, và Đức Giáo Hoàng Nicolas I cho biết từ lâu, lễ Mẹ Lên Trời có lễ Vọng ngày áp.
Thế kỷ thứ XIII, lễ Mẹ Lên Trời còn có ngày chay trước lễ và là lễ long trọng nhất các lễ Đức Mẹ.
Thế kỷ XVI, theo nhà thần học Suarez, lễ này đặc biệt hơn mọi lễ Đức Mẹ, vì bày tỏ cho chúng ta thấy vinh quang, phần thưởng và sự khải hoàn của Rất Thánh Trinh Nữ.
Thời Trung Ccổ, lễ Mẹ Lên Trời là ngày làm phép mùa màng và các hoa trái đầu mùa.
Năm 1950, lễ Mẹ Lên Trời có tầm quan trọng trong khắp Giáo hội do Đức Giáo Hoàng Piô XII định tín "Mẹ Maria lên trời cả hồn và xác" và qui định thành Lễ Trọng đặc biệt trong khắp Giáo hội với luật buộc mọi người tham dự Thánh lễ.
Năm 1970, Phụng vụ qui định lễ Mẹ lên trời là một lễ Đức Mẹ duy nhất có lễ Vọng vào chiều ngày 14, trước chính ngày lễ 15 tháng 8.
III. Ý NGHĨA PHỤNG VỤ
1. Mẹ Maria hồn xác lên trời là biến cố sau cùng trong mầu nhiệm đời sống Đồng công Cứu chuộc của Mẹ đặc biệt liên đới với mầu nhiệm Nhập Thể Cứu thế của Chúa Giêsu, Con Mẹ.
2. Vì Mẹ đã chịu thai và hạ sinh Chúa Giêsu, thì sau khi về trời vinh quang, Chúa Giêsu cũng đưa Mẹ vào phúc vinh quang cùng với Người.
3. Mẹ đã cho thân xác Chúa sự sống nhân loại, thì đáp lại, Chúa cũng cho thân xác Mẹ sự sống trường sinh vinh quang.
4. Do đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, thân xác trinh trong của Mẹ được thoát án lệ của tội Nguyên Tổ, mà được sống lại và lên trời cùng với linh hồn trong sáng của Mẹ.
5. Biến cố Mẹ lên trời hồn xác hoàn thành sự thánh thiện và huân nghiệp của Mẹ, là niềm ủi an và hy vọng tràn trề của chúng ta, là khởi đầu và là hình ảnh Hội Thánh sẽ được thành toàn trên Nước Trời.
6. Hồn Xác Mẹ lên trời vinh quang, được Chúa Ba Ngôi tôn phong làm Nữ Vương trời đất và làm Đấng Trung Gian ban phát mọi ơn lành cho chúng ta.
7. Đặc ân Mẹ Lên Trời vinh quang chung qui mọi đặc ân của Mẹ và là cùng đích trót cuộc sống, sứ mạng và huân công của Mẹ. Lễ Mẹ Lên Trời vinh quang chung kết mọi lễ tôn vinh Mẹ, nên là một lễ trọng thể và là lễ luật buộc.
Đặc ân Mẹ lên trời gồm nhiều điều kỳ diệu:
- Mẹ chết êm ái, không chút đớn đau,
- Mẹ phục sinh, không bị hư thối,
- Mẹ lên trời hiển vinh.
IV. Ý NGHĨA LỜI CHÚA TRONG THÁNH LỄ
Bài đọc I: Khải huyền 11:19; 12:1-6, 10
Tác giả sách Khải huyền mô tả cuộc tranh hùng giữa thiện và ác, giữa dòng dõi con Rồng hoả ngục và dòng dõi người nữ là Mẹ Maria.
Mẹ được hình dung là một mỹ nữ mặc áo mặt trời như kiểu Thiên Chúa thường cho người phụ nữ ăn mặc (xem Kn 3:21; Mt 6:30) nghĩa là Thiên Chúa cho Mẹ mặc áo vinh quang tức là ánh sáng rực rỡ nhất là mặt trời.
Mẹ chân đạp mặt trăng. Mặt trăng khi tròn khi khuyết, tượng trưng sự đổi thay mà Mẹ không bị biến đổi theo thời gian, theo tứ thời bát tiết vì Mẹ làm chủ như đạp trên tất cả.
Đầu Mẹ đội một triều thiên mười hai ngôi sao. Các ngôi sao ở trên trời cao (xem G 22:12) tức là Mẹ làm Nữ Vương số đông dân chúng đầy đủ như mười hai chi tộc Israel. Triều thiên tượng trưng sự vinh thắng của Mẹ.
Tất cả điều lạ, là hình ảnh Khám giao ước mà Thiên Chúa dùng để ở cùng dân Người, và Người ở trong đó như ở trong Đức Trinh Nữ Maria.
Mỹ nữ đang mang thai và đã sinh một con trai. Con trai đây là Đức Kitô, là Đấng Thiên Sai mà Thánh vương Đavid đã tiên báo trong Thánh vịnh 2 và 110.
Con Rồng lớn màu đỏ là sức mạnh của thần dữ, không thể tiêu diệt Con Trai đó. Giáo Hội đã trải qua biết bao thời kỳ đẫm máu, nhưng quỉ hỏa ngục cũng không phá nổi (x. Mt 16:18).
Thiên Chúa sắp sẵn cho mỹ nữ một nơi trong sa mạc, nghĩa là Chúa đưa Giáo Hội vào nơi gian nan thử thách (x. Đnl 8:2). Giáo Hội gặp nhiều thử thách, nhưng Giáo Hội vẫn đứng vững.
Con trẻ được cất bổng lên ngai Thiên Chúa, nghĩa là Chúa Kitô sẽ được phục sinh.
Sau hết, là bài ca chiến thắng: ơn Cứu độ, quyền năng và vương tước của Thiên Chúa đã toàn thắng và mọi uy quyền đều thuộc về Chúa Kitô.
Bài đọc II: 1 Côrintô 15:20-26
Cuộc chiến thắng thần dữ trong bài đọc này, trở thành một chiến thắng thần chết.
Sự sống lại của Chúa Kitô là mầm mống sự sống lại của chúng ta và là chân lý căn bản. Thiếu chân lý này, đức tin của chúng ta sẽ trở nên hão huyền (16-19).
Chúa Kitô là hoa quả đầu mùa của mọi người đều phải chết. Hoa trái đầu mùa hiến dâng Thiên Chúa tượng trưng sự hiến thánh mùa màng cho Người (x. Đnl 26:1-11). Hoa trái đầu mùa còn là dấu hiệu bảo đảm mùa màng đầy đủ, tức là sự phục sinh của chúng ta trong vinh quang.
Sức mạnh thần dữ trong thế giới sẽ bị bại hoại và địch thù cuối cùng bị hủy diệt là thần chết.
Cuộc chiến thắng thần chết, chính là sự chiến thắng của Chúa Kitô phục sinh mà chúng ta sẽ được sống lại để cùng với Mẹ chia sẻ sự phục sinh của Người.
Phúc âm: Luca 1:39-56
Thánh truyện Mẹ Maria thăm viếng bà Elizabeth có nhiều điểm rất ý nghĩa cho lễ Đức Mẹ Lên Trời.
Bà Elizabeth ca ngợi Mẹ Maria là diễm phúc hơn hết mọi phụ nữ, là vì bà nhận biết Mẹ là kẻ đã tin mọi điều Chúa truyền phán cho Mẹ sẽ thành hiện.
Lời ca ngợi của bà Elizabeth cũng giống như lời ca khen của một phụ nữ: "Phúc cho lòng dạ cưu mang Ngài và vú Ngài đã bú" (Lc 11:27-28) mà Giáo Hội trích đọc trong Lễ Vọng Mẹ Lên Trời.
Đáp lại lời ngợi khen, chúc phúc của bà Elizabeth, Mẹ Maria tuyên tụng Chúa Toàn Năng đã làm cho Mẹ những điều cao cả, là vì Chúa đoái nhìn đến phận hèn của nữ tỳ của Người. Do đó, Mẹ nhận biết từ đây mọi thế hệ sẽ khen Mẹ có phúc.
Những điều cao cả nhất Chúa đã làm cho Mẹ, là một điều chứng tỏ sự quan phòng của Người:
- Hiền ái đối với những kẻ kính sợ Người,
- Cho no phỉ những người nghèo đói,
- Làm tang tóc bè lũ trí lòng kiêu căng,
- Trung thành lời hứa với các tổ phụ.
Trong dịp thăm viếng bà Elizabeth, Đấng toàn năng đã làm nhiều điều trọng đại cho Mẹ.
LM. Phêrô, CMC
( http://dongcong.net )
Bước vào tháng tám, Hội Thánh hướng về Đức Maria – Mẹ diễm phúc được đặc ân Hồn Xác Lên Trời. Mẹ: 15/8-57
Bước vào tháng tám, Hội Thánh hướng về Đức Maria – Mẹ diễm phúc được đặc ân Hồn Xác Lên Trời. Mẹ Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn và trang điểm cho muôn vẻ đẹp và ơn phước.
Mẹ là “Ðấng đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Mẹ !" ( Lc 1, 28 ). "Ðấng đầy ơn phước" là tên gọi đẹp nhất của Mẹ Maria. Tên gọi tuyệt đẹp Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ, để chỉ cho biết rằng từ muôn thuở và cho đến muôn đời, Đức Mẹ luôn được yêu thương.Thiên Chúa còn ban tặng hồng ân cao cả. Mẹ về Trời, sống trong hạnh phúc vĩnh cửu mà Thiên Chúa dành để tặng ban cho tất cả những ai thuộc về Chúa nhờ cả một đời sống thánh thiện nơi gian trần.
Trong cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, người tín hữu tin rằng, có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở.
Thánh Kinh ca tụng Mẹ: “Kìa bà nào xuất hiện như rạng đông, diễm kiều như vầng nguyệt, lộng lẫy tựa thái dương, oai hùng như đạo binh chỉnh tề hàng ngũ” ( Dc 6, 10 ); “Có một điềm lớn xuất hiện trên trời: một Phụ nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp vầng trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” ( Kh 12, 1 )… Trong niềm hy vọng sẽ được về Trời với Mẹ, người tín hữu nhìn lên Mẹ “Như một vầng trăng tuyệt vời, muôn ngàn tia sáng lung linh chốn thiên cung”.
Mẹ Maria đã được khải hoàn và bước vào quê hương Thiên Quốc. Mỗi tín hữu hướng về Đức Maria là địa chỉ trên cao.
1. Địa chỉ thiết định cho lòng tin
Ngày 1.11.1950, đúng vào dịp lễ Các Thánh Nam Nữ, Đức Thánh Cha Piô XII long trọng tuyên bố tín điều Đức Maria Hồn Xác Lên Trời: “Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh, sau khi sống trọn cuộc đời trần thế, đã được triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc”. Kể từ lời tuyên bố trong thánh lễ tuyên tín long trọng hôm ấy, mầu nhiệm Đức Maria được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn và xác, trở thành chân lý đức tin cho toàn thể Giáo Hội.
Chỉ trong một lời tuyên tín ngắn gọn và quan trọng để tuyên bố một tín điều, Đức Thánh Cha Piô XII đã liệt kê cùng lúc đầy đủ bốn đặc ân vô cùng cao cả, ngoài Đức Maria không ai có được. Đó cũng là bốn chân lý tuyệt đối của lòng tin thuộc về đời sống và nhân đức của Đức Maria mà mỗi người Kitô hữu phải tin:
- Đức Maria làm Mẹ Thiên Chúa.
- Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ không hề mắc tội tổ tông truyền từ ngay khi thành thai trong lòng mẹ.
- Đức Maria Đồng Trinh Trọn Đời, dù mang thai và sinh con, Mẹ vẫn trinh khiết vẹn toàn.
- Đức Maria Hồn Xác Lên Trời, Mẹ được Chúa triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc, sống trong hạnh phúc vĩnh cửu.
Toàn thể Dân Chúa reo lên vui mừng: trên cao, Đức Maria chính là địa chỉ của lòng tin Công Giáo.
Thật vậy, Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, nên không thể chịu hậu quả của tội nguyên tổ là phải chết. Mẹ trọn đời Đồng Trinh nên cứ lý cũng trọn đời trinh nguyên tồn tại. Mẹ cung cấp chất liệu xác thân cho Ngôi Hai Thiên Chúa bước xuống đồng hành với con người trong kiếp phận loài người, thì khi Phục Sinh về trời vinh quang, Thiên Chúa cũng giữ gìn cho Mẹ mình thoát khỏi cảnh hư nát thân xác. Mẹ là Đấng Đầy Ơn Phúc, nếu đã được Thiên Chúa yêu thương gìn giữ từ thuở đời đời bằng đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, thì cũng được Thiên Chúa giữ gìn cho đến muôn đời bằng đặc ân Mông Triệu tuyệt diệu hơn mọi người trần.
Mẹ Hồn Xác Lên Trời là một ngôn ngữ mang tính dấu chỉ dễ đọc của một địa chỉ trên cao, vốn đã có sẵn trong mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô.
2. Địa chỉ thiết thân của đời tín hữu
Đức Maria về trời, nhưng Mẹ không về với đôi tay trắng, mà là nặng trĩu vận mệnh của cả Giáo Hội. Đức Kitô là Đầu, mà vinh quang của Đầu tiến đến đâu thì vinh quang của Thân Mình cũng tỏ hiện đến đó, nhưng qua việc Đức Maria về trời, tín hữu nhận thấy rõ hơn vận mệnh đời mình.
Mẹ là người đi đầu cho ta được tiếp bước. Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ được đưa về trời là khuôn mẫu cho niềm hy vọng: bên kia địa chỉ trần thế này là một địa chỉ trên cao của cuộc sống phong phú đời đời. Mẹ là người đi mau cho ta được níu kéo dắt dìu. Mẹ về trời xác lập một hướng đi cho lòng yêu mến: yêu trung thành hôm nay sẽ được dẫn tới bến bờ yêu thương tinh ròng vĩnh phúc. Thế đó, Đức Maria địa chỉ trên cao thiết thân cho mệnh đời tín hữu.
3. Địa chỉ thiết thực cho mỗi cảnh đời
Mẹ được Lên Trời Hồn Xác là do đặc ân Chúa ban cho Mẹ và đồng thời cũng là do cuộc sống thánh thiện của Mẹ hằng luôn hợp tác với ơn Chúa. Mẹ là người diễm phúc nhất trong mọi người nữ. Mẹ có tên gọi đẹp nhất là ”Đấng đầy ơn phúc” vì “Thiên Chúa ở cùng bà”. Mẹ được hết mọi đời khen là diễm phúc chính vì “Đấng toàn năng đã làm cho Mẹ biết bao điều cao cả”. Điều cao cả nhất là làm Mẹ Chúa Cứu Thế. Mẹ là cây sinh quả phúc và nhờ quả phúc ấy mà Mẹ được biết đến và được ca tụng. Mẹ là cây trường sinh mang quả đầu mùa mà Thiên Chúa đã trồng trong vườn địa đàng mới hầu đem lại sự sống đời đời cho mọi thế hệ loài người. Chính vì thế mà Thiên Chúa muốn cho cây mang quả trường sinh ấy được nhân lên trong vườn địa đàng mà Người muốn mở rộng diện tích tới tận cùng trái đất.
Khi tuyên xưng Đức Maria hồn xác về Trời chính là lúc chúng ta phải nỗ lực tổ chức xây dựng đời sống nơi địa chỉ trần thế sao cho phù hợp tương thích với địa chỉ trên cao mà ta tin yêu hy vọng.
“Làm sao có thể về trời thanh nhàn khi cuộc đời này chưa thanh sạch tâm hồn, chưa thanh bạch nếp sống, chưa thanh luyện ý chí, chưa thanh thoát tư duy, chưa thanh cao tình cảm, chưa thanh thản nỗi đau đời và chưa thanh thoả nhiệm vụ người người với nhau ? Làm sao có thể về trời thênh thang khi cuộc sống hôm nay vẫn còn bận bịu bỏ neo nơi những khuynh hướng đam mê sùng bái, như là dục vọng buông lơi, lòng tham không đáy hay quyền bính vô độ ? Và làm sao có thể về trời với Mẹ khi ta hằng ngày vẫn còn gặp mình trên những lo toan tính toán làm ăn không chỉ dừng lại ở mức “lương thực hằng ngày”, “cầu vừa đủ xài” của Kinh Lạy Cha, mà còn mong có mọi sự nhiều thêm nữa, trừ một sự là có điểm dừng ? Muốn có địa chỉ trên cao, hãy tích cực đăng ký xây dựng ngay từ địa chỉ trần thế này” ( Gm. Giuse Vũ Duy Thống ).
Đức Trinh Nữ lên Trời hiển vinh. Từ đây Đức Mẹ nắm giữ vai trò quan trọng nhất là Nữ Vương trời đất. Từ nay, Đức Mẹ đảm nhận một địa vị cao cả nhất và cũng thật gần bên Thiên Chúa. Kể từ nay, Đức Mẹ trổi vượt trên mọi tạo vật với địa vị làm Mẹ Thiên Chúa và làm Mẹ nhân loại. Đức Maria trở thành địa chỉ trên cao, chúng ta hãy nhìn lên Mẹ. Mẹ dẫn chúng ta tới niềm hy vọng, dẫn tới tương lai tràn ngập niềm vui; Mẹ dạy chúng ta cách thế để thực hiện điều ấy bằng cách đón nhận Con của Ngài là Chúa Giêsu vào trong cuộc sống của chúng ta với lòng tin, bằng cách để lời của Ngài hướng dẫn chúng ta và bằng cách bước theo Ngài mỗi ngày.
Mẹ Lên Trời trong hạnh phúc tuyệt vời, Mẹ trở nên gần gũi với mọi thành viên trong gia đình nhân loại. “Trong Hội Thánh, Đức Trinh Nữ diễm phúc được kêu cầu bằng các tước hiệu là Trạng Sư, Đấng Cứu Giúp, Đấng Phù Hộ, Đấng Trung Gian” ( GLCG số 969 ). Trong cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, chúng ta tin rằng, có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở; với niềm hy vọng sẽ được về trời với Mẹ, chúng ta nhìn lên Mẹ như địa chỉ của lòng cậy trông, tin yêu phó thác vào tình thương Thiên Chúa.
Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN
--------------------------------
Vào dịp lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời, nhiều kitô hữu và khách hành hương đến các nhà thờ hoặc 15/8-58
Vào dịp lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời, nhiều kitô hữu và khách hành hương đến các nhà thờ hoặc những nơi thánh cung hiến cho Đức Mẹ, ví dụ:
- Ở Pháp, người ta đến Lộ Đức.
- Tại Bồ Đào Nha, người ta đến Fatima.
- Và tại Việt Nam chúng ta, người ta đến trung tâm Thánh Mẫu, Đức Mẹ La Vang.
Người ta đến đây để làm gì? Họ đến đây với mục đích chính là để ngợi khen và tung hô Mẹ Maria của chúng ta. Mẹ Maria của chúng ta là người mẹ mà Sách Khải Huyền mô tả là: “Người phụ nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên 12 ngôi sao”.
Tuy nhiên, “người mẹ này cũng đang mang thai, kêu la chuyển bụng và đau đớn sinh con” và đang phải đương đầu với một con rồng khổng lồ, có bảy đầu, mười sừng, chờ đợi “nuốt lấy đứa trẻ” khi người mẹ này sinh con. Người mẹ và con rồng có một ý nghĩa: Người mẹ ám chỉ Giáo Hội. Con rồng ám chỉ quyền lực đàn áp và bách hại.
Thực vậy, khi Thánh Gioan Tông đồ viết đoạn sách Khải Huyền này, chính là lúc nhiều tín hữu phải chết vì dám tuyên xưng công khai đức tin của mình và kết hợp mật thiết với Chúa Kitô. Tác giả Khải Huyền còn khẳng định rằng chiến thắng chung cuộc là chiến thắng của CON CHIÊN. Cái nhìn này của sách Khải Huyền thâu tóm toàn bộ lịch sử nhân loại và người con gái khiêm nhường Nagiaret được đặt vào trung tâm điểm của lịch sử.
Còn đối với Thánh Phaolô trong bài đọc II, không nói trực tiếp về Đức Maria. Ngài chúc tụng sự sống lại của Chúa Kitô: “Đức Kitô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc… Cũng như mọi người đều phải chết nơi Adam thế nào, thì mọi người cũng sẽ được tác sinh như vậy”. Tất cả mọi quyền lực của sự dữ đều bị tiêu diệt. Tất nhiên, Đức Maria là người đầu tiên được hưởng lợi hoa quả đầu mùa sự sống lại của Chúa Kitô. Có nghĩa là Đức Maria là người đầu tiên của nhân loại được cùng Chúa Kitô sống lại và lên trời cả hồn lẫn xác.
Bài Tin mừng hôm nay để lại cho chúng ta câu chuyện Đức Mẹ thăm viếng và lời ngợi khen Magnificat của ngài. Đức Mẹ đến nhà chị họ ngài là Elisabeth đang mang thai Gioan Tẩy Giả. Tất nhiên là Đức Mẹ đến để giúp đỡ chị nhưng cũng là để chia sẻ niềm hồng phúc của Mẹ là mang thai Chúa Giêsu. Và Mẹ đã hát lên tâm tình ngợi khen:
Linh hồn tôi ngợi khên Đức Chúa,
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi
Phận nữ tỳ hèn mọn
Ngài đoái thương nhìn tới
Từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc
Đấng toàn năng đã làm cho tôi
Biết bao điều cao cả
Danh người thật chí thánh chí tôn
Đời nọ tới đời kia
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người…
Mẹ Maria thật diễm phúc. Nếu chúng ta kêu cầu Mẹ, Mẹ sẽ đến giúp chúng ta. Chúa Giêsu luôn luôn ở trong Mẹ và bên cạnh chúng ta.
Tất nhiên, chúng ta không phải là Elisabeth, và Đức Maria không phải là người họ hàng của chúng ta theo kiểu dòng tộc nhân loại. Nhưng Đức Mẹ còn hơn thế, vì Ngài là Mẹ của chúng ta. Chúa Giêsu muốn mẹ như vậy khi mẹ đứng dưới chân thập giá. Chúa đã nói với Gioan: “Này là Mẹ con”. Và Chúa cũng nói với Đức Mẹ: “Này là con Mẹ”. Từ giờ phút đó, tông đồ Gioan đã đón nhận Mẹ Maria về nhà mình. Thánh Gioan đại diện cho toàn thể nhân loại chúng ta đón nhận Đức Maria làm mẹ. Chúng ta có thể luôn luôn cậy dựa vào Đức Mẹ.
- Hôm nay chúng ta tạ ơn Thiên Chúa vì món quà vô giá mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta đó là Đức Maria làm mẹ chúng ta.
- Hôm nay chúng ta biểu dương Đức Maria là người đầu tiên của những người tin đón nhận LỜI CHÚA. Mẹ mở ra cho chúng ta con đường nối kết cuộc sống của chúng ta với cuộc sống của Chúa Giêsu.
- Ngày lễ hôm nay mời gọi chúng ta cũng trở nên thánh. Nếu chúng ta muốn lên trời chúng ta cũng phải trở nên thánh, vì ở trên trời chỉ có những người thánh.
Vì Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở nên thánh thiện như Ngài: “Anh em hãy thánh thiện như Cha anh em ở trên trời là Đấng trọn lành”. Nên thánh chẳng có gì là quá cao vời và không thể. Nên nhớ rằng nên thánh không phải là do sức mạnh cá nhân và nhân đức của chúng ta. Nên thánh trước hết phải cậy dựa vào lòng từ bi nhân hậu và sự tha thứ của Thiên Chúa. Muốn trở nên thánh thiện, không có con đường nào khác hơn là đón nhận tình yêu của Thiên Chúa và để cho Ngài biến đổi.
Lm. Gioan Đặng Văn Nghĩa
--------------------------------
(Kh 11, 19; 12, 1-6.10; 1Cr 15, 20-27; Lc 1, 39 - 56)
Hôm nay toàn thể Giáo Hội hân hoan, long trọng mừng lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Đây là một 15/8-59
Hôm nay toàn thể Giáo Hội hân hoan, long trọng mừng lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Đây là một trong những lễ quan trọng về Mẹ Maria.
Lễ này được chính thức bắt đầu mừng kính cách công khai rộng rãi trên toàn thể Giáo Hội qua tín điều Đức Maria hồn xác lên trời vào ngày 1-11-1950 của Đức Thánh Cha Piô XII. Điểm chính yếu trong Tín điều nêu rõ: "Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đức Maria Vô nhiễm trọn đời đồng trinh, sau khi đã đi trọn cuộc đời trần thế, được triệu vời cả hồn lẫn xác trong vinh quang thiên quốc”.
Giờ đây, một lần nữa, chúng ta cùng nhau đào sâu về ý nghĩa này cách đặc biệt, để thêm niềm xác tín, yêu mến và nhất là qua thánh lễ này, mỗi người hãy ái mộ những sự trên trời.
1. Kinh Thánh tiên trưng về biến cố đặc biệt này
Sự kiện Đức Maria về trời là một điều vĩ đại. Biến cố này cho thấy Thiên Chúa đã ân thưởng Mẹ cách trọn vẹn trong vinh quang Thiên Quốc. Nó đánh dấu một bước ngoặt mới trong công trình cứu chuộc của Thiên Chúa.
Khi cất nhắc cả hồn xác Mẹ về trời trong vinh quang, Thiên Chúa muốn đề cao vai trò của Mẹ như là ưu phẩm có một không hai trong thế giới loài người. Cũng từ đó, khơi gợi lên lòng kính yêu của con cái trần gian về Mẹ mình như một kiệt tác tuyệt vời trong chương trình và kế hoạch của Thiên Chúa.
Chính vì lẽ đó, Kinh Thánh đã nhiều lần tiên trưng về biến cố vĩ đại này:
Trong sách Sáng Thế, ngay sau khi Evà phạm tội bất tuân Thiên Chúa, Thiên Chúa đã hứa ban Đấng Cứu Thế được sinh ra bởi Người Nữ Đầy Ơn Phúc (x. St 3, 15). Lời xác tín này được lập lại khi sứ thần Gabriel đến truyền tin và kính chào Mẹ bằng ngôn từ hết sức kính trọng và suy tôn: kính chào Bà đầy ơn phúc (x. Lc 1, 28).
Rõ nét hơn cả, đó là sách Khải Huyền, thánh Gioan viết: “Còn Người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc, tại đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho Bà một chỗ... Bà được ban cho đôi cánh Đại Bàng, để bay vào sa mạc, lên Ngai của Ngài... Bà đã tiến vào sa mạc, ở đó đã sẵn một chỗ Thiên Chúa dọn sẵn cho bà” (x. Kh 12, 5-14).
Trên đây là một số hình ảnh minh họa về Mẹ Maria như là một Đấng Đầy Ơn Phúc đã được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt.
Còn trong truyền thống Giáo Hội, các thánh đã ca ngợi Mẹ và rất vui mừng, hãnh diện khi Thiên Chúa trọng thưởng Mẹ một cách đặc biệt.
2. Các Giáo Phụ nói về biến cố trọng đại này
Nơi các thánh Giáo Phụ, việc tin nhận Mẹ Maria vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác được các ngài tuyên tín như là một điều đương nhiên, bởi vì: “Mẹ đồng trinh vẹn tuyền. Mẹ đã cưu mang Con Thiên Chúa chí thánh bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, nên thân xác Mẹ không thể bị hư nát như hậu quả của cái chết thân xác mang tội Tổ Tông và tội riêng”.
Thánh Gioan Đamscênô thì quả quyết: “Người đã gìn giữ nguyên vẹn được sự Đồng Trinh sau khi sinh thì nhất định giữ được sự nguyên vẹn Thân Xác sau khi chết. Người đã cưu mang trong lòng Đấng Tạo Hóa, Con mình, thì cũng phải ở bên tòa Con Mẹ. Thiên Chúa Cha đã đính hôn Mẹ là Hiền Thê thì nhất định phải được ở phòng loan trên Trời. Mẹ ngắm nhìn Con Mẹ sinh ra và trên Thánh Giá, thì phải được chiêm ngắm Con Mẹ trên Trời”.
Còn thánh Giêmanô Constantinô thì nói: “Nếu thân xác Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, không bị hư hoại và được đưa về Trời, thì điều đó không những xứng hợp với thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa, mà còn xứng hợp với thân xác đồng trinh rất thánh của Mẹ nữa... Theo Kinh Thánh, Mẹ kiều diễm; thân xác đồng trinh của Mẹ hoàn toàn thánh thiện, hoàn toàn thanh khiết và đích thật là nơi Thiên Chúa ngự trị. Cũng vì thế, thân xác ấy không thể tan thành bụi đất”.
Với thánh Germanô thì cảm nghiệm sâu xa khi tuyên tín: “Thân xác Mẹ diễm phúc chí thánh trong trắng đến nỗi không thể trở về bụi đất được nữa”.
Ngoài ra, việc Mẹ Maria được rước lên trời cả hồn lẫn xác, chúng ta cũng nhận thấy đây là điều hiển nhiên, vì Mẹ đã cùng chịu đau khổ với Đức Giêsu con của Mẹ, thì không có lý do gì Mẹ lại không được vinh quang với con của Mẹ trên Thiên Quốc, và thân xác của Mẹ không thể bị hủy hoại khi chính thân xác này đã cưu mang và sinh hạ cũng như nuôi dưỡng Đấng Hằng Sống.
Vì thế, chúng ta không lạ gì khi thánh Tôma Aquinô lý luận rằng: “Yêu ai là muốn sự lành cho kẻ ấy”. Thiên Chúa yêu thương Đức Mẹ hơn mọi tạo vật, không lẽ Ngài từ chối việc Mông Triệu đáng công thưởng cho kẻ Ngài yêu sao?” (Thomas III, 17, 2).
Với tất cả những lý chứng trên, chúng ta có thể quả quyết rằng: “Với tư cách là Mẹ Thiên Chúa, là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, là hoa quả tốt nhất của Ơn Cứu Độ, là thành quả vĩ đại nhất của Ơn Thánh, là kì công tuyệt vời của Thiên Chúa, hẳn Mẹ phải xứng đáng được hưởng ơn hồn xác lên trời.
3. Mẹ lên trời, niềm hy vọng của chúng ta
Mỗi khi mừng lễ Mẹ Maria hồn xác lên trời, Giáo Hội tuyên xưng tình thương của Thiên Chúa trên cuộc đời của Đức Mẹ và giúp cho người tín hữu thêm xác tín vào niềm hy vọng phục sinh của mỗi người. Đồng thời, mời gọi con cái của mình hãy hướng về Mẹ Maria như là mẫu gương sáng ngời, ngõ hầu noi gương các nhân đức của Mẹ, để sau cuộc đời này cũng được phục sinh vinh hiển.
Sứ điệp của ngày lễ Đức Mẹ Lên Trời hôm nay mời gọi chúng ta hãy yêu mến Thiên Chúa tha thiết, trung thành tuân giữ những điều Chúa truyền dạy trong việc suy niệm, yêu mến và thực hành như Mẹ để đáng được trở thành người có phúc.
Bên cạnh đó, Lời Chúa hôm nay gợi lại cho chúng ta tâm tình cần phải có, đó là lời tạ ơn. Tạ ơn Thiên Chúa như Mẹ Maria. Mẹ đã coi mình là người không xứng đáng. Nhưng được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt, nên Mẹ đã cất cao lời tạ ơn Chúa vì người đã đoái thương đến phận hèn mọn. Đến lượt chúng ta, mỗi người cũng hãy tạ ơn Chúa như Mẹ khi xưa, vì biết bao ơn lành Người đã ban xuống trên cuộc đời chúng ta, mặc dù không xứng đáng.
Bên cạnh đó, chúng ta hãy biết chạy đến với Mẹ Maria với niềm tin tưởng sẽ được Mẹ ra sức phù trì bênh đỡ và chuyển cầu cho chúng ta như xưa Mẹ đã cứu giúp gia chủ trong tiệc cưới tại Canan.
Thiết nghĩ, nhờ gương sáng của Mẹ Maria trong việc sống đức tin, cậy, mến... sẽ là điểm cuốn hút đời sống nội tâm mỗi người, để mai ngày, chúng ta cũng được chung hưởng phúc vinh quang trên Nước Trời.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con người Mẹ tuyệt vời là Đức Maria. Xin cho chúng con biết noi gương Mẹ, sống trung thành với Lời Chúa dạy, để sau cuộc đời tại thế này, chúng con được về vui sống bên Mẹ trong vinh quang của Thiên Chúa. Amen.
Jos. Vinc. Ngọc Biển
--------------------------------
(Lc 1, 39 - 56)
Kính chào trinh nữ đầy ơn phúc, ..... Lời chào trên đây của Sứ Thần Gabriel được chúng ta 15/8-60
“Kính chào trinh nữ đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ! ” (Lc 1, 28). Lời chào trên đây của Sứ Thần Gabriel được chúng ta không ngớt dâng lên Đức Mẹ nhiều lần trong ngày. Hôm nay, chúng ta lặp lại với niềm vui khôn tả và chứa chan niềm hy vọng trong ngày lễ Đức Maria hồn xác về Trời, một tương lai tuyệt vời không ngừng thu hút người tín hữu nói riêng và nhân loại nói chung. “Ðấng đầy ơn phúc” là tên mà Thiên Chúa qua miệng Sứ Thần muốn gọi Đức Trinh Nữ Maria.
“Ðầy ơn phúc” là phúc lành thiêng liêng Thiên Chúa gửi cho Mẹ ! Mẹ được chúc phúc hơn các người phụ nữ (x. Lc 1: 42) ! Chúa Cha đã chọn Mẹ trong Đức Giêsu Kitô từ trước khi tạo thành vũ trụ, ngõ hầu Mẹ trở nên thánh thiện và tinh tuyền trước nhan thánh Chúa.
Chúa Giêsu Kitô là chồi non mọc lên để đạp dập đầu con rắn xưa, theo sách Sáng Thế (x. St 3 , 15); là Con Chiên không tì vết (x. Xh 12, 5 , 1P 1, 19) tự hiến tế để cứu chuộc con người. Sau khi hạ mình xuống trong cuộc thương khó, Người đã sống lại vinh quang lên Trời ngự bên hữu Thiên Chúa đến muốn đời.
Theo lời thánh Lêo Cả, khi Vị Thủ Lãnh của chúng ta bước vào thiên đàng và ở trên đó, “vinh quang của Đầu” đã trở thành “niềm hy vọng cho thân xác” (x. Sermo Ascensione Domini). Chúa Giêsu đã vĩnh viễn bước vào thiên đàng, “Người là Đầu và là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc” (Rm 8, 29). Vì bản tính của chúng ta là ở trong Thiên Chúa và ở trong Đức Giêsu Kitô, nên vì loài người chúng ta (thân xác), Chúa Giêsu là (Đầu) hằng sống đến muôn thủa muôn đời hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta trước mặt Chúa Cha ( x. Dt 7 , 25).
Đức Giêsu, Vị Thủ Lãnh của chúng ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, hiển vinh về Trời, Người cũng rước Đức Maria Mẹ yêu dấu của Người về Trời cả hồn lẫn xác. Từ trên cao vinh hiển, Người gửi cho Giáo hội một sứ điệp hy vọng và mời gọi hướng đến sự thánh thiện trên Trời nơi Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa cùng với Mẹ Người được ân thưởng. Trong chiến thắng của Adam mới, đó cũng là của Evà mới, mẹ của những người đã được cứu chuộc. Do đó Đức Maria được ân thưởng về Trời là một dấu chỉ niềm hy vọng cho tất cả chúng sinh, những người đã chiến thắng Sa-tan nhờ máu của Con Chiên (x. Kh 12 , 11).
Hôm nay cùng với toàn thể Giáo hội, chúng ta long trọng mừng Lễ Đức Maria về Trời trong niềm tin và hy vọng chứa chan như thánh Bernarđô nói: “Đức Maria Nữ Trinh vinh hiển về Trời đã gia tăng hạnh phúc và niềm hy vọng nơi chúng ta”. Ngài thêm: “Đức Maria, Phần Tử ưu tú trên địa cầu chúng ta đang sống được đưa từ đất về trời, là một món quà vô cùng cao quí, sự vinh thăng ấy là cuộc trao đổi kỳ diệu giữa đất với trời, giữa con người trần thế với thế giới thần linh. Mẹ là hoa quả tuyệt vời của trái đất đã được đưa lên cao, để từ trên nơi cao xanh ấy ơn sủng lại tuôn đổ chan hòa xuống trên mặt đất, nghĩa là chính từ nơi Đức Maria diễm phúc được rước lên đó, đến lượt mình, Mẹ lôi kéo muôn vàn ân sủng xuống cho nhân loại”.
Ân sủng Mẹ chuyển xuống chính là Lời, Lời mà Mẹ đã đón nhận và cẩn thận ghi nhớ cũng như cưu mang trong lòng. Khi cưu mang Lời trong lòng, Mẹ cũng cưu mang Sự Sống của chúng ta: “Đức Maria vội vã lên đường, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Êlisabét” (Lc 1, 39-40). Sự hiện diện của Mẹ Maria làm cho thế giới vui mừng như bà Êlisabét nói: “Vì khi vừa nghe tiếng em chào, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng tôi” (Lc 1, 44).
Mẹ vui mừng, Mẹ cũng làm cho thế giới mừng vui, niềm vui của Mẹ trở thành bài thánh ca muôn thủa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi!” (Lc 1, 46-47). Thật là một quả phúc tuyệt vời trên cõi trời cao ban xuống cho nhân loại. Bài Ca Tạ Ơn của Đức Maria đã trở thành Lời Thiên Chúa. Trong bài ca ấy, chúng ta tìm ra con đường để hiểu biết con người và Thiên Chúa như thế nào, và trần thế cũng như thiên đàng ra làm sao. Tất cả hợp nhất cùng nhau để có thể hành động như Mẹ, trở nên món quà Thiên Chúa tặng ban cho người khác.
Mừng kính Đức Trinh Nữ Maria hồn xác về trời, chúng ta không chỉ mừng vì Thiên Chúa đã làm cho Mẹ những điều trọng đại, mà còn mừng vì tương lai của mỗi chúng ta. Thánh Phaolô nói: “Anh em khỏi phải phiền sầu như những người khác, những kẻ không có hy vọng” (1 Tx 4, 13). Chúng ta cố gắng hiểu để sống sao cho xứng danh là người hy vọng.
Vậy mỗi người chúng ta hãy sống hy vọng, hãy làm ngày lại ngày, không buông tay, mặc cho những ngang trái của cuộc đời. Phúc cho chúng ta, nếu chúng ta can đảm chiến đấu mỗi sáng khi thức dậy cho cuộc sống đáng sống của mọi người trên trái đất. Nếu như khi xưa Mẹ đã đến với bà Êlisabet, làm cho cả gia đình bà vui mừng, thì ngày hôm nay Mẹ vẫn đến với chúng ta. Mẹ mở rộng vòng tay nói với chúng ta rằng: hỡi con, hãy tin tưởng và hy vọng, Chúa đã dọn chỗ cho con.
Nữ Vương linh hồn và xác lên Trời, cầu cho chúng con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
--------------------------------
(Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
Phụng vụ của ngày đại lễ Mẹ Lên Trời giới thiệu với chúng ta hai hình ảnh nổi bật và đối lập nhau, 15/8-61
Phụng vụ của ngày đại lễ Mẹ Lên Trời giới thiệu với chúng ta hai hình ảnh nổi bật và đối lập nhau, được Sách Khải Huyền mô tả, đó là hình ảnh “con rồng đỏ” và “người phụ nữ”. Hai hình ảnh này nói với chúng ta điều gì? Chúng ta cần khám phá ý nghĩa của chúng trong thánh lễ này.
1. Hình ảnh con rồng đỏ
Trước hết là hình ảnh con rồng đỏ. Đối với văn hóa Việt Nam, con rồng là một linh vật bậc nhất trong bốn con vật quan trọng: long, ly, quy, phượng. Rồng là biểu tượng của sức mạnh, của sự cao trọng và phú quý, đến từ thần linh. Người Việt tự coi mình là “con rồng, cháu tiên”.
Nhưng đối với Kinh Thánh, rồng là một quái vật, là sức mạnh của Ma quỷ. Sách Khải Huyền mô tả sự xuất hiện của nó như một sức mạnh khủng khiếp, ích kỷ vô cùng và bạo lực man rợ (cf. Kh 11,12.1-6a). Ở đây, thánh Gioan muốn ám chỉ tới những quyền lực thuộc hoàng đế La mã, từ Nêron (37-68) đến Đômitianô (81-96) trong những thế kỷ đầu. Đó là những thế lực chống Kitô giáo và bách hại Giáo Hội với một sức mạnh vô tận. Đối diện với thế lực đó, Đức Tin và Giáo Hội được ví như một người phụ nữ “chân yếu tay mền”, không vũ khí, và xem ra không có khả năng để sống sót, lại càng không có khả năng để chiến thắng.
Thế nhưng, tác giả sách Khải Huyền cho biết số phận cuối cùng của con rồng đỏ là thất bại và bị tiêu vong. “Người phụ nữ yếu ớt” đó đã chiến thắng, không bằng sức mạnh của quyền lực, của quân sự, của súng đạn, của ích kỷ và thù hận, nhưng bằng tình yêu, sức mạnh và quyền năng Thiên Chúa. Quả thế, đế quốc La Mã “trở lại” và đón nhận Đức Tin Kitô giáo. Nói như nhà văn Henryk Sienkiewicz trong cuốn tiểu thuyết lừng danh Quo vadis: Các hoàng đế Rôma lần lượt ngã xuống và bị quên lãng, còn Phêrô và Giáo hội đứng lên và tồn tại mãi với thế giới.
Theo một giải thích khác, “con rồng đỏ” cũng là hình ảnh của các thể chế độc độc tài duy vật chất, phi nhân bản và duy quyền lực trong các thế hệ loài người. Chẳng hạn như chế độc tài Đức quốc xã và chế độ độc tài cộng sản Stalin ở Nga, Trung Quốc và Việt nam. Một thời, các thể chế này có trong tay tất cả mọi quyền lực, khí giới và sức mạnh. Chúng xâm nhập khắp mọi nơi, đến tận hang cùng ngõ hẻm. Sống dưới sự thống trị của các thể chế đó, thật là khó khăn để nghĩ tới Thiên Chúa và giữ các giới răn của Người. Nhưng lịch sử Châu Âu chứng kiến chủ nghĩa cộng sản tan rã, bức tường Bá linh sụp đổ, “nước Nga trở lại và Trái Tim Mẹ toàn thắng”. Thiên Chúa chiến thắng sự ác. Tình yêu và sự thật mạnh hơn hận thù, bạo lực và ích kỷ của con người!
2. Hình ảnh người phụ nữ
Hình ảnh thứ hai lôi kéo sự chú ý của chúng ta đó là hình ảnh của “người phụ nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 11,19a). Hình ảnh này có nhiều ý nghĩa khác nhau.
Theo các nhà chú giải kinh thánh, trước hết đó là hình ảnh về Đức Maria, Mẹ mặc áo mặt trời, có nghĩa là Mẹ mặc áo của Thiên Chúa, hoàn toàn của Thiên Chúa. Mẹ sống trong Thiên Chúa, hoàn toàn được bao phủ và thấm nhuần bởi ánh sáng Thiên Chúa. “Đầu đội triều thiên 12 ngôi sao” có nghĩa là Mẹ được bao quanh bởi mười hai chi tộc Israel, bởi tất cả Dân Thiên Chúa, bởi tất cả sự hiệp thông của các thánh. Và “chân đạp mặt trăng”, “trăng” thuộc về đêm tối, hình ảnh của sự chết và sự diệt vong, diễn tả Mẹ đã chiến thắng sự chết và sự diệt vong. Như thế, Mẹ hoàn toàn được mặc áo sự sống, được lên trời cả hồn cả xác trong vinh quang của Thiên Chúa. Đây là một tín điều được định tín bởi Đức Giáo Hoàng Piô XII năm 1950.
Ý nghĩa thứ hai của hình ảnh “người phụ nữ” đó là biểu tượng Giáo Hội, một Giáo Hội đang lữ hành trên trần thế, một Giáo Hội có sứ mạng như người phụ nữ, một lần nữa, cưu mang và sinh hạ Chúa Kitô cho thế giới trong sự chuyển dạ và đau đớn, một Giáo Hội đau khổ và luôn luôn bị bách hại bởi con rồng đỏ. Nhưng Giáo Hội đó được nuôi dưỡng và sống nhờ Thiên Chúa qua Bí Tích Thánh Thể, nhờ sức mạnh của lời cầu nguyện và hiệp thông với nhau. Sự hiện diện của Thiên Chúa và lời cầu bầu của Đức Maria là bảo chứng để chống lại mọi thứ độc tài, hận thù và ích kỷ của con người.
Như thế, lễ Mẹ Lên Trời đưa chúng ta tới chân trời hy vọng và mời gọi chúng ta can đảm, đừng sợ và tin tưởng vào tương lai vì cuối cùng Thiên Chúa sẽ chiến thắng con rồng đỏ. Ơn cứu độ sẽ được thực hiện. Đức tin là sức mạnh của thế giới! Chúng ta hãy xác tín như Mẹ: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả. Danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ, sống hoàn toàn cho Thiên Chúa và cho tha nhân, bằng sự từ bỏ và quyên mình phục vụ anh em. Đó là con đường đưa chúng ta tới hưởng hạnh phúc đích thực với Mẹ trên trời. Và cùng với Bà Êlisabet, chúng ta hãy dâng lời tung hô: Mẹ được chúc phúc giữa những người phụ nữ. Lạy Mẹ Maria, xin cầu cho chúng con là kẻ có tội khi này và trong giờ lâm tử, Amen!
--------------------------------
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Cuộc gặp gỡ giữa hai phụ nữ
Trong câu chuyện Truyền tin, Thánh Luca vừa trình bày Đức Maria như một Kitô hữu tiên khởi 15/8-62
Trong câu chuyện Truyền tin, Thánh Luca vừa trình bày Đức Maria như một Kitô hữu tiên khởi khi nhiệt thành đáp trả lời Thiên Chúa, giờ đây, ông lại cho chúng ta thấy Maria chỗi dậy lên đường, hình ảnh của Giáo Hội ra đi đem Tin Mừng Đức Giêsu Kitô cho mọi người.
Sứ thần Chúa kết luận: "Kìa Êlisabét, chị họ của bà, tuy già rồi mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm muộn...". Biết được tin này, Maria "vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa", cũng như chẳng bao lâu sau, các mục đồng vội vã đi xem chuyện gì đã xảy ra theo như lời sứ thần đã báo. Theo cách diễn tả rất gợi hình của L.Legrand, chúng ta đi từ "người tín hữu nhận lãnh Lời (TC) đến người "nữ tỳ" hành động hay đúng hơn qua người nữ tỳ đó, Lời (TC) hành động" ("Truyền tin cho Maria", Cerf, 1981, Lectio divina số 106, tr-222). Trong Maria Lời (TC) đã bắt đầu lên đường, và cuộc hành trình này sẽ dẫn Ngài tới mọi bờ cõi trái đất.
Tại sao Maria đến nhà chị họ của mình? có lẽ là vì bác ái: để giúp Êlisabét? Thánh Luca không thoả mãn tính tò mò của chúng ta vì khi kể chuyện này, điều ngài quan tâm không phải là một giai thoại, nhưng là sự mặc khải nhân dịp hai người mẹ tương lai gặp nhau. Về điều này L.Legrand đã nhận xét rất đúng: "Khi đọc chính bản văn hình như chúng ta có thể tin rằng Maria chỉ đến đó để nhận lời chào của Êlisabét và hát bài ca ngợi khen" (Sđd, tr.219).
2. Và cuộc gặp gỡ giữa hai đứa con họ đang cưu mang
Khi vào nhà Giacaria, Maria truyền đến cho chị họ mình lời chào bà đã nhận từ sứ thần. Lời chào của maria là dấu nối cho tiến trình. Khi lời chào này vang lên bên tai Êlisabét, con trẻ trong lòng bà nhảy mừng ngay trước khi bà mở miệng; theo tiếng Hylạp, từ "nhảy mừng" có nghĩa là: "Nhảy bật lên", "nhảy lên", "nhảy múa".
Như thiên thần đã báo tin cho Giacaria, Gioan được "đầy Thánh thần ngay trước khi sinh" (1,15) nên Gioan nhận ra thời buổi mới đã ló dạng và thấy trước sứ mạng của mình. Bởi đó, ông đã nói tiên tri về sự xuất hiện của Đấng muôn người trông đợi, không phải bằng lời nói mà bằng cách nhảy mừng.
Được "đầy Thánh Thần" nên Êlisabét hiểu ý nghĩa của việc con bà nhảy mừng trong lòng và cả ý nghĩa của cuộc gặp gỡ mà bà đang trải qua.
Khi cất tiếng thán phục, Êlisabét nhìn nhận Maria và "đứa con trong lòng" được Thiên Chúa chúc phúc.
Rồi, Êlisabét tuyên xưng đức tin khi công bố đứa con của cô em họ chính là Đấng Thánh Tv109,1 đã loan báo: là Đức Kitô, và bà chào Maria tước hiệu "Mẹ Chúa tôi".
Cuối cùng sau khi đã biểu dương chức vị là Mẹ, bà ca tụng lòng tin của Maria bằng công thức chúc phúc: "Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em"; "đây là mối phúc đầu tiên của Tin Mừng, mối phúc Thanh Luca dành cho một tên khác của Maria: "Người đã tin" (Cahiers- Evangile, số 77, tr.45).
3. Cuộc gặp gỡ để Maria ca tụng Thiên Chúa thực hiện những lời đã hứa
Bài ca "Ngợi khen" là một suy niệm chứa chan tình cảm của Maria về tất cả những gì Thiên Chúa vừa thực hiện nơi Mẹ. Nó thực sự đánh dấu: "theo lối văn kể chuyện... một câu hỏi khiến ai đang hành động cũng dừng lại trong giây lát, nó giống như đoạn hát sôlô trong một vở nhạc kịch opéra, hoặc đoạn ca đoàn hát xen vào trong một vở bi kịch cổ điển. Từ thời xưa, người ta đã lưu ý rằng câu chuyện sẽ gắn bó hợp lý hơn nếu đọc thẳng từ câu 45 qua câu 56. Rất có thể bài ca này có nguồn gốc riêng không có trong câu chuyện nguyên thuỷ, nhưng đã được thêm vào sau này. Khi đặt bài ca trên miệng của Maria, Lu ca cho chúng ta thấy rằng hình ảnh đẹp về Mẹ". ("Cahiers- Evangile", số 77, tr.45).
Các câu 45 và 47 chi phối tất cả phầ còn lại của bài ca: đó là một bài ca tạ ơn.
Liền sau đó là lý do tạ ơn:
a/ Trước hết, vì những ký công Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ: Thiên Chúa đã can thiệp làm cho Mẹ trở nên "Mẹ Chúa". Ở đây Luca diễn tả văn bản đầy cảm hứng này qua sự đối lập đầy lòng khiêm tốn của người "nữ tỳ" và sự cao cả của Đấng "quyền uy" đã thực hiện những điều kỳ diệu.
b/ Nhưng cũng vì những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện nơi dân nghèo. Và ở đây, bài ca "nhẹ nhàng tự nhiên chuyển từ cá nhân (Maria) tới tập thể (Israel); từ sự nghèo khó của Maria (1,48) tới dân nghèo (1,52); từ người nữ tỳ (1,48) tới Israel tôi tớ (1,54) ("Cahiers- Evangile", số 77, tr.47).
Những kì công này là gì? Đó là sự sáng tạo, là phép lạ của cuộc xuất hành, là Lề luật, nhưng trên hết đó là kỳ công của đã hoàn tất nơi Maria: sự Giáng Sinh của Con Thiên Chúa, nơi Người Con này Thiên Chúa hoàn tất mọi lời đã hứa.
Đón nhận Chúa Cứư Thế đến với lòng tin tưởng không phải là một giáo thuyết, nhưng là một sức mạch chuyển lay nhằm thay đổi và cứu độ thế giới. Ở đây, Maria xuất hiện như: "người phát ngôn về sự đảo ngược tình thế. Sự đảo ngược này là một phần trọng yếu của Tin Mừng". (Cahiers- Evangile, số 77, tr.48).
--------------------------------
Ngày 1.11.1950 Đức Thánh cha Piô XII đã long trọng công bố tín điều Đức Mẹ hồn xác lên trời 15/8-63
Ngày 1.11.1950 Đức Thánh cha Piô XII đã long trọng công bố tín điều Đức Mẹ hồn xác lên trời như sau:"Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đức Maria Vô nhiêm trọn đời đồng trinh, sau khi đã đi trọn cuộc đời trần thế, được triệu vời cả hồn lẫn xác trong vinh quang thiên quốc”. Đặc ân hồn xác lên trời vừa như hoa trái vinh quang của trọn vẹn cuộc đời hoàn toàn thuộc về Chúa, vừa là kết thúc và bao gồm mọi đặc ân Thiên Chúa đã ban cho Mẹ Maria. Khi tuyên dương công trạng đầy tràn của Mẹ Maria bầng việc triệu vời Mẹ về trời, Thiên Chúa đã biểu dương chính hồng ân Chúa ban cho Mẹ. Và như vậy Thiên Chúa muốn đề cao Mẹ Maria như thành quả tuyệt vời có một không hai của ân sung, dể mọi người ở mọi thời ngợi khen Mẹ diễm phúc, và nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng chí thánh chí tôn đã làm cho Mẹ biết bao điều cao cả.
1. “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?"
Bà Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần đã lớn tiếng tuyên xưng thiên chức Thánh Mẫu của Mẹ Maria. Thiên chức Thánh Mẫu cao cả giờ đây đang bày tỏ ra nơi chính con người thiếu nữ Maria bằng xương bằng thịt, bình thường, giản dị và khiêm nhường thẳm sâu. Chỉ bằng việc có mặt khi đến thăm và chỉ bằng một lời chào đơn sơ của Đức Maria, bà Êlisabét lại nhận ra thiên chức Thánh Mẫu của Mẹ. Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa bằng cả hồn cả xác của mình.
1.1 Mẹ Thiên Chúa bằng tâm hồn
Trong khi Chúa Giêsu đang giảng thì có một người phụ nữ đã lên tiếng nói với Chúa: "Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm (Lc 11,27). Thuộc giới phụ nữ và trong tư cách làm mẹ. người phụ nữ ở đây cảm phục và yêu mến Chúa Giêsu bao nhiêu, thì lại muốn đề cao và hết lòng ca ngợi hồng phúc của người mẹ đã sinh ra Chúa bấy nhiêu. Đó là cái nhìn thường tình. Nhưng Chúa Giêsu cho thấy cần phải vượt lên trên quan niệm tự nhiên mới có thể đánh giá được hồng phúc làm Mẹ của Đức Maria, và hồng phúc đó trước hết và cốt yếu là ở trong tâm hồn: "Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa".
Một lần kia Mẹ Maria và anh em họ hàng đến thăm Chúa Giêsu và khi nghe biết thế, Chúa Giêsu đã đề cao Mẹ Maria trong chiều sâu thẳm của thiên chức Thánh Mẫu: "Mẹ tôi và anh em tôi, chinh là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,2) Như vậy căn bản thiên chức Thánh Mẫu của Đức Maria, không chỉ do ngài được làm Mẹ Đức Giêsu - Thiên Chúa làm người - tại tâm hồn của Mẹ đã hoàn toàn mở ra cho lời Chúa, và lời Chúa thành sự sống và lẽ sống của Mẹ. Mẹ Maria đã cưu mang lời Chúa trong tâm hồn trước khi cưu mang Lời trong thân xác. Thán Augustinô còn nhận định tư cách môn đệ nơi Đức Maria (Mẹ trong tâm hồn) trổi vượt hơn tư cách làm mẹ nơi Đức Maria (Mẹ trong thân xác).
1.2. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa
Khi Lời Thiên Chúa đã đi vào và thấm nhuần trọn vẹn tâm hồn Đức Maria tới mức sung mãn, thì Lời Thiên Chúa đi vào trong thân xác vô nhiễm của Đức Maria. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa theo một nghĩa trọn vẹn (cả hồn xác.). “Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm người” Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa bằng con người toàn diện, cả hồn lẫn xác. Có nghĩa là hồn xác Mẹ vốn đã thuộc về Chúa, dành riêng cho một mình Chúa. Và như vậy thân xác Mẹ không phải hư nát là dấu thuộc về trần gian cát bụi. Mẹ xứng đáng lên trời cả hồn xác. Đó là điều đã được tiền định do ý định khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa khi tuyển chọn Mẹ làm Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể.
2. "Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới"
Trong ngày Truyền tin, Đức Maria đã thưa lời xin vâng với Thiên Chúa, một lời xin vâng toàn vẹn và tuyệt hảo, bao gồm cả quả khứ hiện tại và tương lai. Mẹ đã không ngừng “xin vâng” với mọi lời Thiên Chúa đến với Mẹ từ trước đến nay. Và giờ đây tiếng xin vâng thết ra ngoài miệng là âm vang và kết quả của tâm hồn Mẹ đã hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa. "Tôi đây là nữ tỳ của Chúa" là một lời xác định rằng: từ trước đến nay và mãi mãi sau này, tôi là nữ tỳ của Chúa, hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa. Hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa cả hồn xác trong mọi lúc, là một cách giải thích đặc ân Vô nhiễm nguyên tội và trọn đời đồng trinh của Mẹ Maria.
2.1 Mẹ Maria Vô Nhiễm nguyên tội
Vô nhiễm nguyên tội là không mắc tội nguyên tổ. Có nghĩa là ngay từ giây phút đầu tiên thụ thai trong lòng thân mẫu, con người (hồn xác) của Mẹ hoàn toàn đóng kín, không một kẻ hở nào cho tội lỗi và cho tất cả những gì thuộc trần gian đã bị tội lỗi làm hư thối. Mẹ cũng hoàn toàn đóng kín với chính bản thân của mình, cái "tôi" của mình. Đóng kín với tất cả, để Mẹ có thể trọn vẹn mở ra cho Thiên Chúa và chỉ một mình Thiên Chúa mà thôi. Đó là đặc ân Vô Nhiễm của Mẹ Maria. Với đặc ân này, Mẹ Maria dù vẫn sống cuộc đời trần thế của một con người, Mẹ có thể qui hướng tất cả và trọn vẹn từng chi tiết của bản thân và từng giây phút của đời sống về cho Chúa. Nói cách khác, đặc ân Vô Nhiễm ban cho Mẹ Maria có khả năng không ngừng thuộc về Chúa cả hồn lẫn xác. Mẹ xứng đáng lên trời cả hồn xác để mãi mãi thuộc về Chúa.
2.2 Mẹ Maria trọn đời đồng trinh
Hội Thánh tuyên xưng Mẹ Maria trọn đời đồng trinh trước khi, đang khi và sau khi sinh Chúa Giêsu. Và Phụng Vụ đã giải thích như sau: "Khi Người giáng sinh, đức đồng trinh của Thánh Mẫu đã không vì thế mà bị tổn thương, nhưng đã được thánh hiến" (Lời nguyện tiến lễ, lễ chung Đức Mẹ). Đức đồng trinh của Mẹ rất thánh không thể được nhìn theo thường tình mà phải được nhìn theo đức tin, nghĩa là như ý định nhiệm mầu và khôn ngoan của Thiên Chúa. Thiên Chúa ban cho Mẹ ơn đồng trinh trọn đời có mục đích là để con người toàn vẹn của Mẹ, cả hồn cả xác, hoàn toàn thuộc về Chúa, không sứt mẻ, không biến chất, trái tại luôn luôn nguyên tuyền và mãi mãi toàn vẹn. Do đó khi Con Một Thiên Chúa được thụ thai và được sinh ra bởi Mẹ, thì không những không làm tổn thương hồn xác nguyên tuyền cua Mẹ, mà trái tại còn làm cho hồn xác thuộc về Chúa hơn nữa. Thuộc về Chúa trọn vẹn hồn xác nguyên tuyền và suốt cả cuộc đời từng giây từng phút như vậy, nên việc Mẹ được Chúa đưa lên trời cả hồn cả xác là kết quả đương nhiên và hợp tình hợp lý.
Kết luận
Con đường Thánh Mẫu Maria Vô Nhiễm trọn đời đồng trinh đã đi để được lên trời cả hồn cả xác, là con đường Tin Mừng đã ghi tại: “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” và "Riêng Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng (Lc 2,9-5). Mẹ hằng đón nhận Lời Chúa, ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng, cho tới khi Lời Chúa thành máu thịt, thành hơi thở, thành sự sống cho mình. Và lúc đó hồn xác Mẹ được thánh hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa, thuộc về Chúa từ trong ra ngoài, từ đầu đến chân.
Con đường đưa lên trời cả hồn cả xác của Mẹ Maria được mở ra cho mọi người như Tin Mừng đã ghi tại. Tất cả mọi tín hữu đều được mời gọi đi con đường Mẹ Maria đã đi, để đến nơi Mẹ đã đến.
--------------------------------
Bài đọc 1:
Sách Khải Huyền mô tả trận chiến cuối cùng giữa Thiên Chúa và sự dữ, hình ảnh tượng trưng là 15/8-64
Bài đọc 1: Sách Khải Huyền mô tả trận chiến cuối cùng giữa Thiên Chúa và sự dữ, hình ảnh tượng trưng là con mãng xà (con rắn của sách Sáng Thế). Người nữ tượng trưng cho Giáo Hội, và con trẻ tượng trưng cho Đức Kitô (Đấng Mêsia). Như người nữ trong thị kiến, Giáo Hội phải trải qua đau khổ và bách hại. Những vần thơ cuối trong bài đọc một, ca ngợi chiến thắng của Thiên Chúa và Đức Kitô.
Là Mẹ của Đấng Cứu Thế, Đức Maria là trung tâm của trận chiến giữa Thiên Chúa và những quyền lực sự dữ, mà bài đọc trích sách Khải Huyền nói đến. Cho nên, thật hoàn toàn phù hợp khi Mẹ cùng được thông phần vinh quang chiến thắng (qua biến cố Mẹ lên trời).
Bài đọc trích sách Khải Huyền rất có ý nghĩa trong việc khích lệ các Kitô hữu tiên khởi, những người đang trải qua đau khổ và bị bách hại lúc bấy giờ. Bài đọc cũng khẳng định chắc chắn rằng cuối cùng Thiên Chúa sẽ chiến thắng. Điều này cũng sẽ khích lệ chúng ta. Thiên Chúa dành cho Mẹ Maria một sự quan tâm đặc biệt. Người cũng sẽ quan tâm, chăm sóc chúng ta. Người không tránh cho ta khỏi phải chạm trán với sự dữ, nhưng Người sẽ giúp chúng ta vượt thắng được chúng.
Bài đọc 2: Chúa Giêsu là Adam mới, Đấng mà qua sự vâng phục của Người, đã phục hồi cho chúng ta những ân sủng đã bị lấy đi bởi sự bất tuân phục của Adam thứ nhất. Giáo Hội nhìn thấy nơi Đức Maria như Evà mới, Đấng mà qua sự vâng phục của Mẹ trước Thiên Chúa, đã xóa bỏ những thiệt hại đã gây nên bởi sự bất tuân phục của Eva thứ nhất.
Trong ngày Truyền tin, Mẹ đã nói: "Việc ấy xảy ra cách nào (…). Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,34a.38). Mẹ đã đón nhận công việc mà Chúa giao phó cho Mẹ. Ngay cả khi Mẹ không thể nào thấu hiểu hết những ẩn ý trong đó, Mẹ vẫn cứ tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho những sự trợ giúp cần thiết.
Ngày hôm nay, biết bao người đang tìm kiếm sự thành toàn và hạnh phúc qua việc "thực hiện chính mình". Họ tin rằng hạnh phúc hệ tại ở chỗ không bị ràng buộc, cam kết, không phải chịu trách nhiệm về điều gì cả. Đức Maria là một mẫu gương tuyệt hảo cho chúng ta, bởi vì cuộc sống áp đặt trên ta hàng loạt những bổn phận, bổn phận với chính mình, với người khác và với Thiên Chúa. Những ai biết đón nhận bổn phận như Đức Maria đã làm, có thể sẽ không tìm thấy hạnh phúc và sự thành toàn trong cái nhìn trần thế, nhưng trong cái nhìn của Thiên Chúa thì họ thực sự đã đạt được.
Bài Tin Mừng: Sau biến cố Truyền Tin, Mẹ có quyền nghỉ ngơi và tập trung lo cho chính mình. Thế mà thay vào đó, Mẹ đã vội vã lên đường thăm bà chị họ mình là Elizabeth, người cũng đang chờ đợi sự chào đời của đứa con. Cuộc viếng thăm của Mẹ là một nghĩa cử quý báu đối với Elizabeth. Nhưng Mẹ cũng nhận lại được lợi ích từ cuộc viếng thăm này. Đây cũng là điều thường tình trong mọi cuộc viếng thăm. Khi chúng ta đến thăm ai, chúng ta cho rằng bản thân mình đã làm một việc tốt cho người đó. Điều đó đúng. Nhưng chính chúng ta cũng được lợi, ít là chúng ta học được nơi người khác cách thức đối phó với những tình huống khó khăn như thế nào.
Elizabeth dùng những từ ngữ tốt đẹp để khẳng định với Maria: "Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em" (Lc 1,45). Đề tài những ai tin được chúc lành là đề tài trung tâm của Tin Mừng.
Tuy nhiên, vấn đề không đơn giản chỉ là tin mà thôi, nhưng là phải tin và sống theo niềm tin ấy. Đức Maria được chúc phúc, không đơn giản vì Mẹ đã tin, nhưng vì Mẹ đã hành động theo đức tin. Niềm tin tôn giáo nơi Mẹ không phải chỉ là vấn đề tình cảm. Đó là điều đã được biến đổi để trở thành hành động.
Đức tin không luôn luôn đưa đến những sự dễ dãi. Thường thì ngược lại. Đức tin buộc chúng ta phải chiến đấu, mà không bảo đảm rằng có kết quả hạnh phúc. Một người sống đức tin sẽ không bao giờ thoái lui.
Đức Maria là môn đệ đầu tiên và hoàn hảo nhất của Chúa Giêsu. Điều này giải thích tại sao Giáo Hội đề cử Mẹ như mẫu gương cho mọi người chúng ta và tại sao chúng ta lại tôn vinh Mẹ trong thánh lễ hôm nay. Chúng ta cũng sẽ được chúc phúc như Đức Maria, nếu chúng ta lắng nghe Lời Chúa và thực hành lời Người.
--------------------------------
Ngày Sách Khải Huyền mô tả trận chiến cuối cùng giữa Thiên Chúa và sự dữ. Hình ảnh con mãng 15/8-65
Ngày Sách Khải Huyền mô tả trận chiến cuối cùng giữa Thiên Chúa và sự dữ. Hình ảnh con mãng xà tượng trưng cho quyền lực của sự dữ (con rắn trong sách Sáng Thế). Người nữ tượng trưng cho Giáo Hội, và con trẻ tượng trưng cho Đức Kitô (Đấng Mêsia).
Người phụ nữ đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con, hình ảnh thông thường của quá trình hình thành một thế hệ mới. Con mãng xà tiến đến người phụ nữ với ý định nuốt ngay con của bà. Nhưng con bà được đưa ngay lên cho Thiên Chúa, ám chỉ sự lên trời của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đánh bại con mãng xà và đã ngự trị bên hữu Thiên Chúa. Trong khi đó, người phụ nữ (Giáo Hội) trốn vào trong sa mạc, nơi đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, giống như dân Israel thuở xưa. Những vần thơ cuối là lời ca ngợi chiến thắng của Thiên Chúa và của Đức Kitô.
Khi thị kiến này được viết ra, như người phụ nữ trong thị kiến, Giáo Hội đang trải qua đau khổ và bị bách hại, và phải đi vào trong hoang mạc để trốn thoát. Bài đọc có ý nghĩa khích lệ các Kitô hữu tiên khởi bằng lời xác quyết rằng Thiên Chúa cuối cùng sẽ chiến thắng. Điều đó cũng khích lệ chúng ta ngày hôm nay.
Mặc dù "người phụ nữ" chủ yếu tượng trưng cho Giáo Hội, nhưng luôn được liên kết với Đức Maria. Là Mẹ của Đấng Mêsia, Mẹ là trung tâm của cuộc chiến giữa Thiên Chúa và quyền lực của sự dữ. Bởi thế, thật hoàn toàn thích hợp khi Mẹ thông phần trong chiến thắng của Con Mẹ (qua biến cố Mẹ lên trời).
Hình ảnh chứa đựng trong sách Khải Huyền không phải là một hình ảnh xinh đẹp. Thật sự, ý tưởng con mãng xà mười sừng bảy đầu đang chực sẵn trước người phụ nữ, để khi bà sinh con xong, nó sẽ nuốt lấy đứa trẻ, cũng thật khủng khiếp. Chúng ta phải nhớ rằng cảnh tượng mô tả ở đây mang tính biểu tượng cao. Nó diễn tả điềm báo trước đầy kịch tính trong sách Sáng Thế, mối thù được đặt giữa con rắn và người phụ nữ. Người phụ nữ đã bị lôi cuốn vào cuộc chiến với những quyền lực sự dữ, biểu tượng là con mãng xà. Nhưng với sức mạnh của Thiên Chúa, người phụ nữ đã chiến thắng.
Hầu hết các bức tượng chân dung về Đức Maria đều diễn tả hình ảnh Mẹ Maria như một nữ sinh xinh xắn dịu dàng, Đấng dường như không hề động đến thế lực của sự dữ trần gian ; tiếng kêu la từ xa thẳm phát ra nơi người phụ nữ đang đối đầu với con mãng xà và đã chiến thắng. Dù sao hình ảnh thứ hai mới miêu tả được sự thật quan trọng nơi Đức Maria. Đức Maria phải đối đầu với con mãng xà. Mẹ đã phải trải qua cơn đau đớn của người phụ nữ sinh con. Chẳng bao lâu sau khi sinh con, Mẹ phải lẩn trốn sang Ai cập bởi vì bạo chúa Hêrôđê muốn tìm giết Con Mẹ. Tâm hồn Mẹ như bị lưỡi đòng đâm thâu với những đau khổ trên đồi Canvê khi chứng kiến sự sống Con Mẹ đang bị lấy đi. Đây là câu chuyện về Đức Maria được thuật lại trong Tin Mừng.
Như Đức Kitô là Adam thứ hai, thì Đức Mẹ cũng được xem là Eva thứ hai. Nhưng không như Eva thứ nhất, Mẹ đã hằng vâng phục Thiên Chúa. Bởi thế, Mẹ là ngọn hải đăng hy vọng cho chúng ta, bởi vì Mẹ thoát khỏi nanh vuốt của mãng xà và đã được đưa về trời. Vai trò trung gian của Mẹ cho chúng ta niềm tin tưởng. Gương mẫu của Mẹ mang đến cho chúng ta can đảm và sức mạnh để tiếp tục chiến đấu.
Có rất nhiều nỗi đau, thống khổ và bạo lực trên thế giới. Tất cả chúng ta đều bị tổn thương bởi chúng. Và chúng ta cũng phải chiến đấu chống lại tội lỗi. Và rồi sự dữ lớn nhất cuối cùng mà chúng ta phải đánh bại đó là sự chết.
Như Chúa Giêsu, Đức Maria thu phục những bạo lực, biến đổi nó, để chuyển đổi thành tình yêu và tha thứ. Đây là chiến thắng của tình yêu vượt trên mọi quyền lực huỷ diệt. Không có gì ngoài tình yêu nơi Mẹ Maria. Hãy sống tràn đầy tình yêu khi chúng ta đang trải qua những giai đoạn khó khăn.
--------------------------------
Trong ngày lễ hôm nay, chúng ta kính nhớ việc Đức Maria hồn xác lên trời, nơi đó, Mẹ được 15/8-66
Trong ngày lễ hôm nay, chúng ta kính nhớ việc Đức Maria hồn xác lên trời, nơi đó, Mẹ được thông phần trọn vẹn vào vinh quang của Chúa Giêsu Con Mẹ, Đấng đang ngự bên hữu Chúa Cha. Tất cả hồng ân nơi Mẹ đều đến từ mối tương quan của Mẹ với Chúa Giêsu. Chúng ta không thể hiểu được về Mẹ hoặc nhận định đúng về vai trò của Mẹ trong Giáo Hội, nếu không đặt nền tảng này trong tâm trí ta.
Có một câu chuyện kể về một người phụ nữ rất thích tranh vẽ, tên bà là Adrienne. Ngày nọ, trong một cửa hàng đồ cổ nhỏ bé nơi thôn dã, bà tiến đến một bức tranh nhỏ mà bà tin rằng đó là bức chân dung tự hoạ của một bậc thầy hoạ sĩ vĩ đại. Tự nhiên, bà cảm thấy vui sướng vì phát hiện này của mình. Ngay tức khắc, bà biết rằng rồi sẽ có nhiều rắc rối đến với bà.
Mang bức tranh về đến nhà, bà quét sạch những lớp bụi bám vào. Trong khi làm việc này, bà càng tin chắc rằng đó đích thật là bức tranh nguyên bản, mặc dù tự nhiên bà cũng có thoáng chút hoài nghi.
Nghĩ rằng bảo tàng viện quốc gia sẽ rất chú ý đến phát hiện này của bà, bà gửi những tấm ảnh chụp bức tranh đến các tác giả kiệt xuất về nghệ thuật trong nước. Thật quá đỗi ngạc nhiên đối với bà vì họ chẳng hề quan tâm, hầu hết các nhà chuyên môn chẳng chút bận tâm để đến xem bức tranh khi nó được triển lãm tại một phòng trưng bày công cộng. Giám đốc phòng triển lãm quốc gia tuyên bố chắc nịch rằng bức tranh đó không phải là nguyên bản.
Nhưng Adrienne không đầu hàng. Bà hết sức cố gắng có thể. Bà đem bức tranh đi kiểm chứng bằng tia X quang tại phòng thí nghiệm của cảnh sát, và dưới sự phân tích của tia X quang, tên viết tắt của bậc thầy hội hoạ hiện dần lên trên những lớp màu. Bà lập tức gửi ngay kết quả kiểm định cho một trong những nhà chuyên môn. Ông lịch sự bày tỏ sự quan tâm nhưng vẫn trung thành với nhận định trước đây : bức tranh này không phải là nguyên bản.
Bà tiếp tục nghiên cứu và đào sâu lịch sử, và đã phát hiện được những chứng cớ giúp xoá đi tất cả những nghi ngờ để khẳng định được là bà đúng. Cuối cùng, một buổi lễ long trọng đã diễn ra tại Viện hàn lâm nghệ thuật để ca ngợi bà. Nếu không có những nỗ lực, bền chí và lòng kiên định của bà, bức tranh sẽ không bao giờ được đưa ra ánh sáng.
Chúa Giêsu là chân dung tự hoạ của Thiên Chúa. Nhưng nhờ Đức Maria mà Người đã được hạ sinh giữa loài người chúng ta. Đức Maria đã chăm sóc nuôi nấng Người trong suốt những năm Người sống ẩn dật, không ai biết đến, và chẳng ai nhận ra được Người. Và cuối cùng, khi Người bước ra từ trong bóng mờ, để bắt đầu cuộc sống hoạt động công khai, Người cũng chẳng được toàn thể mọi người hoan hô đón nhận. Thực vậy, giới lãnh đạo tôn giáo từ chối tin vào Người. Nhưng Mẹ Maria vẫn hằng tin tưởng vào Người, giữ vững quan điểm về Người cho đến cùng.
Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu chỗi dậy từ cõi chết, phục hồi vinh quang cho Người, "Thiên Chúa siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu" (Pl 2,9). Chúa Giêsu ngự bên hữu Thiên Chúa Cha. Thế nên, Đức Maria chẳng lẽ lại không thông phần với chiến thắng vinh quang của Con Mẹ sao. Thật chính đáng, điều mà chúng ta cử hành hôm nay, tán dương Mẹ Maria, cô thôn nữ khiêm nhường làng Nazareth.
Mỗi người chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Như trong tiệc cưới Cana, Đức Maria vẫn tiếp tục cầu thay nguyện giúp cho chúng ta. Mẹ vẫn giúp chúng ta trong cuộc chiến đấu giữa bản năng con người với phẩm giá thần linh, và để sống một cuộc đời phù hợp với phẩm giá cao cả ấy. Với sự trợ giúp của Mẹ, và với ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta hy vọng được cùng thông phần vinh quang với Mẹ và với Con Mẹ trên Nước Trời.
--------------------------------
Kinh Thánh im lặng về những ngày sau hết của cuộc đời Mẹ Chúa. Sau lời trối Chúa Giêsu trao Mẹ 15/8-67
Kinh Thánh im lặng về những ngày sau hết của cuộc đời Mẹ Chúa. Sau lời trối Chúa Giêsu trao Mẹ cho Gioan thì “từ giờ đó, môn đệ này đã lãnh nhận Mẹ Chúa về nhà mình (Ga 19,27). Sách Công vụ nói đến việc “Maria, Mẹ Chúa Giêsu cùng với các môn đệ đồng tâm nhất trí cầu nguyện” (Cv 1,11) để nhận lãnh Chúa Thánh Thần.
Chúa Giêsu về trời, Mẹ cũng rút vào âm thầm cầu nguyện và suy niệm những kỷ niệm đã ghi trong lòng” (Lc 2,51). Mẹ không còn xuất hiện, để các tông đồ lãnh nhận sứ mệnh của mình trước mặt thế gian như Chúa đã truyền: “Các con sẽ chịu lấy quyền năng của Chúa Thánh Thần rồi sẽ đi làm chứng cho Thầy” (Cv 1,8). Nhưng Mẹ vẫn hiện diện giữa cộng đoàn tông đồ để khích lệ tinh thần và đồng thời cũng giúp lời cầu nguyện cho các Ngài, vì Mẹ bao giờ cũng coi mình như là “nữ tỳ Thiên Chúa”.
Mẹ về sống ở Ephesô với thánh Gioan, sau khi thánh Giacôbê bị vua Hêrôdê giết vào năm 42 vì Giêrusalem không còn là nơi an toàn nữa. Theo lời truyền khẩu, Ngài đã qua đời vào khoảng năm 54, hưởng thọ 72 tuổi. Cái chết của Mẹ Chúa là cuộc vuợt qua để về với Chúa. “Đức Trinh Nữ Maria được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác và được Thiên Chúa tôn làm nữ vương vũ trụ để nên giống Con Ngài trọn vẹn hơn” (GH 59).
Niềm tin Đức Trinh Nữ Maria hồn xác lên trời đã có từ lâu đời. Từ thế kỷ VI, người ta đã mừng lễ này với danh hiệu lễ Đức Mẹ ngủ. Đến ngày 1 tháng 11 năm 1950, Đức Piô XII đã long trọng tuyên bố tín điều Đức Maria Đồng Trinh hồn xác về trời. Diễn biến sự kiện này như sau:
Khoảng từ năm 1849 đến năm 1940, Tòa Thánh đã nhận được 1505 thỉnh nguyện tự phát xin định tín việc Mẹ hồn xác lên trời. Ngay trong Công đồng Vaticanô I, gần 200 nghị phụ cũng xin định tín. Sau thế chiến thứ II, từ năm 1945 đến năm 1950, do lần nữa 852 thỉnh nguyện được gửi tới Đức Thánh Cha do các giám mục, các bề trên dòng, các đại học Công giáo. Các nhà thần học của 30 quốc gia cũng đã gửi các thỉnh nguyện tập thể. Ngày 1 tháng 5 năm 1946, Đức Piô XV đã gửi cho mọi giám mục một lá thư, xin các ngài trả lời cho câu hỏi sau đây:
“Theo sự khôn ngoan chín chắn của Đức Cha, Đức Cha có ý kiến gì cho việc Đức Maria hồn xác lên trời được đề ra và xác quyết như một tín điều hay không? Đức Cha với hàng giáo sĩ và dân chúng có muốn điều đó hay không ?”
Đã có 1191 thư trả lời, trong đó 1169 thư ưng thuận, 16 thư nghi ngại về tính cách hợp thời của việc tuyên bố tín điều, 6 thư đưa những vấn nạn ngược lại. Tất cả giám mục của 17 Giáo Hội Đông phương hợp nhất với Tòa Thánh Roma trả lời ưng thuận. Ngày 30 tháng 10 năm 1950, đã có một hội nghị công khai với 700 vị trong hàng giáo phẩm tham dự. Đức Thánh Cha Piô XII lại hỏi ý kiến. Tất cả mọi vị đều trả lời ưng thuận. Như thế là đã có một sư đồng ý theo luận lý của mọi giám mục. Sự đồng ý này là một bày tỏ rõ ràng của giáo huấn thông thường. Do sự đồng ý này của quyền giáo huấn hợp với tín điều Công giáo.
Ngày 1 tháng 11 năm 1950, Đức Piô XII trong sắc lệnh công bố tín điều, đã nhắc lại những sự kiện trên. Chúng ta chung một niềm tin với Giáo Hội vì:
- Đã có một liên hệ mật thiết giữa hồn xác lên trời với sự thụ thai vô nhiễm và muôn đời đồng trinh của Đức Maria. Vậy Mẹ đã toàn thắng tội lỗi và đáng được lên trời hồn xác.
- Việc lên trời hồn xác của Mẹ cũng liên hệ với chức vụ làm Mẹ Thiên Chúa. Mẹ đã không bao giờ làm hư hại sự toàn vẹn xác thể nên xác thân mẹ không thề hư hoại.
- Sau nữa, Mẹ đã được cứu chuộc hoàn toàn, nên hiệu qủa của ơn cứu rỗi là sự tôn vinh của con Mẹ cũng được hưởng (Rm 8,29-30; 2Cr 5,2-5) .
“Lễ Mông Triệu, ngày 15 tháng, ngày Maria đầy ơn Chúa, đầy hạnh phúc, hồn vô nhiễm và xác trinh trong của Mẹ được vinh hiển, ngày Mẹ được giống Chúa phục sinh cách hoàn toàn nhất. Lễ này làm cho Giáo Hội và nhân loại thấy được hình ảnh của hy vọng cuối cùng của chúng ta, là tất cả những ai được Chúa Kitô, một anh em Người thông phần máu thịt với Người sẽ được hoàn toàn vinh quang” (Dt 2,14) (Marialis Cultus).
--------------------------------
Trong một vài thành phố nhỏ quanh thủ đô Roma, nước Ý, vào ngày lễ Đức Mẹ Hồn xác lên trời, 15/8-68
Trong một vài thành phố nhỏ quanh thủ đô Roma, nước Ý, vào ngày lễ Đức Mẹ Hồn xác lên trời, người ta có một tục lệ rất quyến rũ. Tục lệ đó được gọi là Incinata, nghĩa là cuộc rước đón chào. Dân làng kiệu tượng Đức Mẹ theo đường phố chính - Đức Mẹ đang trên đường về trời. Từ hướng đối diện, đoàn rước khác kiệu tượng Chúa Giêsu - Ngài đang tiến gần đến tượng Đức Mẹ. Hai đoàn rước gặp nhau dưới một khung vòm đầy cành lá và hoa rực rỡ. Hai tượng sắp đặt để cúi chào nhau ba lần. Rồi người ta kiệu hai tượng đi song song vào nhà thờ giáo xứ - Chúa chúng ta dẫn mẹ Ngài lên ngai trên trời.
Nghi thức đơn giản, ngây thơ này là một phương cách gây ấn tượng sâu sắc để diễn tả chân lý cao cả và vinh quang mà chúng ta cử hành hôm nay, tức là sự kiện Đức Maria, sau khi qua đời được đưa lên trời cả hồn lẫn xác.
Trở lại năm 457, Đức Giám mục của Giêrusalem đã bày tỏ niềm tin được truyền tụng từ các tông đồ: “Đức Maria qua đời có các tông đồ vây quanh, nhưng về sau khi mộ Ngài được mở ra thì hoàn tòan trống rỗng, và các tông đồ kết luận rằng xác Ngài đã được đưa lên trời”.
Chúa Giêsu không muốn Mẹ Ngài chịu một giây phút nào dưới quyền lực satan, nên Ngài đã ban cho Mẹ đặc ân vô nhiễm nguyên tội. Ngài đã không muốn thân xác tinh tuyền của Mẹ phải chịu mục nát, nên Ngài ban cho Mẹ đặc ân lên trời cả hồn và xác.
Chúa Giêsu vui mừng biết bao khi đón Mẹ Ngài vào nhà Ngài trên trời. Còn Đức Mẹ vui mừng biết bao, khi gặp lại Con trong thể xác; các thiên thần và các thánh trên trời vui mừng biết bao khi đón chào Nữ Vương, Mẹ mình. Chúa Cha trên trời vui mừng biết bao khi đón nhận người con sủng ái. Chúa Thánh Thần vui mừng biết bao khi gặp lại người Phụ nữ được tuyển chọn cộng tác vào việc đem con Thiên Chúa xuống trần gian. Thánh Giuse vui mừng biế bao khi có người bạn đời ở trần gian cùng ở trên trời.
Niềm hạnh phúc này của những người thân yêu gặp lại nhau là điều tất cả chúng ta có thể trông đợi. Trong ngày lễ Mông Triệu này, chúng ta có thể nhìn vào ngày chúng ta sẽ được lên trời, nơi chúng ta sẽ gặp những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta. Chúng ta không thể suy tư về điều này cho đủ được.
Chúng ta có nhiều điều để suy nghĩ về sự chết. Vậy hãy suy nghĩ về chân lý vui mừng và hy vọng là một ngày kia chúng ta sẽ gặp lại. Chúng ta cần nắm giữ tư tưởng này trong ngày lễ vui mừng hôm nay.
Bạn hãy cầu nguyện hôm nay với nghĩa đặc biệt theo những lời của Kinh nguyện Thánh Thể II, “Xin cho chúng con được đồng hưởng sự sống đời đời cùng với Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa... và toàn thể các Thánh”. Bạn hãy đọc kinh Kính Mừng và chú ý đặc biệt lời: “Cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử”.
Tất cả chúng ta hãy chia sẻ niềm vui của Đức Mẹ được đón nhận vào Nhà Thiên Chúa với các bạn hữu của Thiên Chúa.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
--------------------------------
(Trầm Thiên Thu)
Lên trời là niềm hy vọng lớn nhất và là hoài bão cuối cùng của những người tin vào Đức Giêsu Kitô. 15/8-69
Lên trời là niềm hy vọng lớn nhất và là hoài bão cuối cùng của những người tin vào Đức Giêsu Kitô. Lên trời không là chuyện viễn vông như chú Cuội lên cung trăng, cũng không chỉ là “tham quan” mặt trăng, là “khám phá” sao Hỏa, một hành tinh nào đó, hoặc khám phá “lỗ đen” trong vũ trụ. Lên trời là để sống đời trường sinh và đồng hưởng thiên phúc với Thiên Chúa, sau khi thân xác chúng ta được sống lại.
Mừng lễ Đức Mẹ lên trời cả hồn và xác là nhắc nhớ chúng ta về niềm xác tín: “Tôi tin xác loài người ta sẽ sống lại” (Kinh Tin Kính). Niềm tin này được củng cố bằng tín điều Đức Mẹ mông triệu. Ngày 1-11-1950, ĐGH Piô XII ban hành Thông điệp “Munificentissimus Deus” (Thiên Chúa Quảng Đại), long trọng định tín Mẹ Maria linh hồn và xác lên trời là một tín điều buộc mọi người phải tin.
Đại lược thông điệp bất hủ này là: “Sau khi chúc tụng lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa đã yêu thương quan phòng làm êm dịu những khổ đau, đem lại niềm an vui cho các dân tộc, Đức Thánh Cha nêu cao sự kiện ơn Chúa thương, dù giữa thời buổi nhiều người sai lạc chân lý và nhân đức, vẫn có nhiều cách biểu lộ đức tin, lòng sùng mến Mẹ Maria và những con cái Mẹ vẫn được khuyến khích chiêm niệm những đặc ân của Mẹ. Thật vậy, từ muôn đời, Thiên Chúa đã đặc biệt yêu thương Mẹ và rồi ban cho Mẹ dạt dào những đặc ân mà Giáo hội nhận biết và khám phá ra. Nhưng thời đại của chúng ta đã được dành riêng để chiêm ngưỡng đặc ân Đức Mẹ hồn xác lên trời”.
Nói đến việc “lên trời” là ngụ ý sự chết, liên quan Ngày Cánh Chung. Có chết rồi mới sống lại và lên trời. Mà muốn làm công dân Nước Trời thì phải sống trọn vẹn các Giới Răn của Thiên Chúa một cách ngoan cường và anh dũng. Đó là điều chắc chắn!
MẶC KHẢI
Đền Thờ Thiên Chúa ở trên trời mở ra, và rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: “Một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1). Thật uy nghi và vinh hiển, nhưng cũng đầy gian khổ: “Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con” (Kh 12,2). Đó là điều chắc chắn, vì không có vinh quang nào lại không có đau khổ. Chính Đức Kitô cũng đã chịu đau khổ tột cùng rồi mới phục sinh vinh thắng.
Lại có điềm khác xuất hiện trên trời: “Một Con Mãng Xà đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà” (Kh 12,3-4). Nhưng “người con trai này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân” (Kh 12,5a). Sau đó, “Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người”(Kh 12,5b), còn “người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc”, nơi mà “Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày” (Kh 12,6). Khi đó, Thánh Gioan nghe có tiếng hô to trên trời: “Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài”(Kh 12,10). Đó chính là Giờ Cứu Độ, là khoảnh khắc cuối cùng, là buổi cánh chung, là ngày tận thế, là lúc Chúa Giêsu giáng lâm.
Cựu ước cũng đã tiên tri về Đức Mẹ: “Hoàng hậu đứng bên hữu Đức Vua, mặc đồ trang điểm vàng ròng lộng lẫy” [Tv 44 (45),10]. Có lời ca vang: “Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy lắng tai, quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ” [Tv 44 (45),11]. Một khi đã có Thiên Chúa rồi, được diện kiến Thánh Nhan, thì người ta vô cùng hạnh phúc, thế nên không còn cần gì khác nữa: “Người là Chúa của bà” [Tv 44 (45),12]. Và người đó thể hiện niềm hạnh phúc tuyệt vời cùng những người khác:“Lòng hoan hỷ, đoàn người tiến bước, vẻ tưng bừng, vào tận hoàng cung” [Tv 44 (45),16].
ỨNG NGHIỆM
Thiên Chúa của người sống chứ không phải của người chết. Thánh Phaolô xác định: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1 Cr 15,20). Tại sao? Vì “nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại” (1 Cr 15,21). Thánh Phaolô giải thích: “Như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” (1 Cr 15,22-24). Thật vậy, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người: Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết (1 Cr 15,25), nghĩa là Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Theo Thánh Phaolô, khi nói muôn loài thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Vì “lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô, thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15,28). Lý luận của Hiền triết Phaolô thật là mạch lạc và tuyệt vời!
Thánh sử Luca kể: Hồi ấy, cô Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa, vào nhà ông Dacaria và chào hỏi chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng cô em Maria chào thì đứa con trong bụng nhảy lên, và chị Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần, liền nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1,42). Rồi chị Êlisabét nói tiếp: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,43-45).
Vấn đề là đức tin, mà phải tin vững vàng chứ không thể mơ hồ. Đức Mẹ diễm phúc nhờ đức tin kiên vững. Điều này nhắc chúng ta phải xem lại đức tin của chính mình!
Nghe chị Êlisabét “khen” vậy, Đức Maria hân hoan dâng lời ca ngợi Chúa mà y như thơ vậy (Lc 1,46-55):
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;
Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.
Những lời Đức Mẹ nói chứa đầy sự khiêm nhường, lòng tín thác và lòng yêu thương. Đó cũng là lời kinh Magnificat mà Giáo hội vẫn dùng để cầu nguyện hằng ngày, đặc biệt trong giờ kinh Thần vụ (kinh Nhật tụng).
Thánh sử Luca kể: “Đức Maria ở lại với bà Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà” (Lc 1,56). Đức Mẹ không chỉ đi thăm chị họ theo phép xã giao mà còn là để “báo tin mừng”, nhất là để phục vụ bà chị đang mang thai bé Gioan Tẩy giả. Đức Mẹ là một nữ-tu-không-áo-dòng, không đi tu ngày nào, cũng chưa một lần tiên khấn, đơn khấn hoặc vĩnh khấn, nhưng Đức Mẹ đã anh dũng và kiên cường sống trọn vẹn ba lời khấn: Thanh tuân, thanh bần, và thanh khiết. Trên cả tuyệt vời. Một tấm gương chói ngời mà mọi người đều phải “soi” vào.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Ngài đã ban cho chúng con một người Mẹ Thánh tuyệt vời. Xin thương giúp chúng con biết khiêm nhường phục vụ và “xin vâng” như Mẹ trong mọi hoàn cảnh, để chúng con chắc chắn được cùng Mẹ vui hưởng phúc trường sinh. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Con Yêu Dấu của Mẹ, Sư Phụ và Đại Huynh Trưởng của chúng con. Amen.
--------------------------------
Trầm Thiên Thu
THÁNH MẪU VINH QUANG LÊN CAO ĐỈNH PHÚC
PHÀM NHÂN ƯỚC VỌNG ĐƯỢC ĐẾN MIỀN SINH
Vầng trăng rằm tháng Tám là trăng tròn nhất và sáng nhất trong năm, thời gian đã vào giữa mùa Thu, 15/8-70
Vầng trăng rằm tháng Tám là trăng tròn nhất và sáng nhất trong năm, thời gian đã vào giữa mùa Thu, cũng đồng nghĩa là giữa năm – âm lịch gọi là Rằm Trung Thu. Vầng trăng rằm thiên nhiên gợi nhớ Đức Maria, Vầng Trăng Thánh của Thiên Chúa, và có điều thật thú vị là lễ Đức Mẹ Lên Trời cũng vào ngày rằm – rằm tháng Tám dương lịch. Trăng luôn có gì đó kỳ lạ, và Mẹ luôn có điều kỳ diệu – dù chỉ là người mẹ trần gian cũng vậy.
Có điều khác lạ nữa là Giáo Hội dành Tháng Tám để biệt kính Mẫu Tâm Đức Maria. Tôn sùng Mẫu Tâm cũng là một trong ba mệnh lệnh Đức Mẹ đã ban truyền khi hiện ra với ba em nhỏ tại làng Fátima tại Bồ Đào Nha năm 1917.
Là một thụ tạo nhưng Đức Mẹ vô nhiễm Nguyên Tội và không chịu hệ lụy của tội, đã được Thiên Chúa cho về trời cả hồn và xác mà không phải đi qua ngưỡng cái chết – gọi là “mông triệu”. Theo Hán ngữ, “mông triệu” được rút gọn từ câu “mông chủ sủng triệu” (mông chủ nghĩa là “chúa”), những từ ngữ thường được nghe trong các phim lịch sử của Trung Hoa. “Mông” là “chịu” hoặc “được”, “triệu” là “gọi” (triệu tập, hiệu triệu). “Mông triệu” có nghĩa là “được sủng ái” (yêu mến) nên được Chủ (Chúa) gọi về trời, Anh ngữ dùng thuật ngữ “dormition” nghĩa là “ngủ” – tức là “chết mà như ngủ”.
Lên trời là niềm hy vọng lớn nhất và là hoài bão cuối cùng của những người tin vào Đức Giêsu Kitô, nói cho sát nghĩa phải nói là “về trời”. Thế gian chỉ là nơi tạm trú, Trời (Thiên Đàng) mới là nơi vĩnh cư. Động từ “về” chỉ hành động “tới nơi mình ở”, người ta nói “về nhà” chứ không nói về nơi không là chỗ của mình. “Lên trời” ở đây mang nghĩa “về trời” chứ không là chuyện viễn vông như chú Cuội lên cung trăng, cũng không chỉ là “tham quan” mặt trăng, là “khám phá” sao Hỏa, một hành tinh nào đó, hoặc “lỗ đen” trong vũ trụ. Về trời là để sống đời trường sinh và đồng hưởng thiên phúc với Thiên Chúa, sau khi chúng ta chết trong ơn nghĩa của Chúa và được Ngài cho sống lại.
Việc kính mừng đại lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời là lời nhắc nhớ chúng ta về niềm xác tín được đề cập trong Kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ta sẽ sống lại”. Niềm tin này được củng cố bằng tín điều Đức Mẹ mông triệu, được ĐGH Piô XII ban hành Tông hiến “Munificentissimus Deus” (Thiên Chúa Quảng Đại) ngày 1-11-1950. Với Quyền Tông Tòa, ngài đã long trọng công bố tín điều Đức Maria lên trời cả hồn và xác. Tín điều nghĩa là điều buộc mọi Kitô hữu phải tin.
Đại lược Tông hiến quan trọng này: “Sau khi chúc tụng lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa đã yêu thương quan phòng làm êm dịu những khổ đau, đem lại niềm an vui cho các dân tộc, Đức Thánh Cha nêu cao sự kiện ơn Chúa thương, dù giữa thời buổi nhiều người sai lạc chân lý và nhân đức, vẫn có nhiều cách biểu lộ đức tin, lòng sùng mến Mẹ Maria và những con cái Mẹ vẫn được khuyến khích chiêm niệm những đặc ân của Mẹ. Thật vậy, từ muôn đời, Thiên Chúa đã đặc biệt yêu thương Mẹ và rồi ban cho Mẹ dạt dào những đặc ân mà Giáo hội nhận biết và khám phá ra. Nhưng thời đại của chúng ta đã được dành riêng để chiêm ngưỡng đặc ân Đức Mẹ hồn xác lên trời”.
Khi đề cập tình trạng “lên trời” cũng ngụ ý sự chết, liên quan Ngày Cánh Chung. Bởi vì có chết rồi mới sống lại và lên trời, chứ phàm hèn chúng ta không thể “lên trời” như ngôn sứ Êlia (2 V 2:11). Tuy nhiên, muốn trở thành công dân Nước Trời thì phải sống trọn vẹn các Giới Răn của Thiên Chúa một cách ngoan cường và anh dũng. Như vậy mới khả dĩ cầm được “tấm visa” chắc chắn trong tay!
ĐƯỢC MẶC KHẢI
Thánh Gioan cho biết rằng Đền Thờ Thiên Chúa ở trên trời mở ra, và rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: “Một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12:1). Thật là uy nghi và vinh hiển, nhưng cũng đầy gian nan khổ cực: “Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con” (Kh 12:2). Đó là điều chắc chắn, bởi vì không có vinh quang nào lại vắng bóng đau khổ – dù nhiều hay ít. Thật vậy, chính Đức Kitô cũng đã chịu đau khổ tột cùng rồi mới phục sinh vinh thắng.
Theo sách Khải Huyền, lại có thêm một điềm khác xuất hiện trên bầu trời: “Một Con Mãng Xà đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà” (Kh 12:3-4). Nhưng “người con trai này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân” (Kh 12:5a). Sau đó, “Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người” (Kh 12:5b), còn “người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc”, nơi mà “Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày” (Kh 12:6).
Và ngay lúc đó, Thánh Gioan nghe có tiếng hô to trên trời: “Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài” (Kh 12:10). Đó chính là Giờ Cứu Độ, là khoảnh khắc cuối cùng, là buổi cánh chung, là ngày tận thế, là lúc Chúa Giêsu giáng lâm.
Trong Cựu Ước cũng đã có lời tiên tri về Đức Mẹ: “Hoàng hậu đứng bên hữu Đức Vua, mặc đồ trang điểm vàng ròng lộng lẫy” [Tv 44 (45):10]. Và có lời hiệu triệu: “Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy lắng tai, quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ” [Tv 44 (45):11]. Một khi đã có Thiên Chúa rồi, được diện kiến Thánh Nhan rồi, chắc chắn người ta vô cùng hạnh phúc, vì thế mà người ta chẳng còn cần gì nữa và xác định: “Người là Chúa của bà” [Tv 44 (45):12]. Và người đó thể hiện niềm hạnh phúc tuyệt vời cùng những người khác: “Lòng hoan hỷ, đoàn người tiến bước, vẻ tưng bừng, vào tận hoàng cung” [Tv 44 (45):16]. Ôi, hạnh phúc biết bao!
ĐƯỢC ỨNG NGHIỆM
Ứng nghiệm là trở nên hiện thực một cách kỳ lạ. Chúng ta khả dĩ biết rằng Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ là Thiên Chúa của người sống chứ không phải của người chết. Thánh Phaolô xác định: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1 Cr 15:20). Tại sao? Vì “nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại” (1 Cr 15:21). Thánh Phaolô giải thích: “Như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” (1 Cr 15:22-24).
Đúng như vậy, chính Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người: Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết (1 Cr 15:25), nghĩa là Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô – Vua của muôn vua và Chúa của các chúa. Theo Thánh Phaolô, khi nói muôn loài thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Vì “lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô, thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15:28). Lý luận của Hiền triết Phaolô thật là mạch lạc, thú vị và tuyệt vời!
Thánh sử Luca tường thuật rạch ròi và chi tiết: Hồi ấy, cô Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa, vào nhà Anh Dacaria và chào hỏi Chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng Em Maria chào thì đứa con trong bụng nhảy lên, và Chị Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần, liền nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1:42). Rồi Chị Êlisabét thể hiện niềm vui sướng của mình: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1:43-45).
Vấn đề quan trọng là tin hay không tin, mà tin rồi thì phải tin vững vàng chứ không thể mơ hồ, “chắc chắn” chứ không “có lẽ” – gọi là xác tín và thâm tín. Đức Mẹ là người diễm phúc vì Đức Mẹ có đức tin kiên vững. Điều này “nhắc khéo” chúng ta rằng mỗi tín nhân phải tự xem lại đức tin của chính mình. Thật vậy, đôi khi chúng ta tưởng mình có niềm tin kiên vững, nhưng rồi chúng ta lại chao đảo khi “không như ý”. Thật tồi tệ!
Khi Chị Em hàn huyên tâm sự, và rồi nghe Chị Êlidabét lên tiếng “khen” như vậy, Cô Em Maria liền hân hoan dâng lời chúc tụng Thiên Chúa qua bài MAGNIFICAT – Bài Ca Ngợi Khen (Lc 1:46-55):
Hồn tôi ca ngợi Chúa Trời
Trí tôi hớn hở mừng vui vô cùng
Vì Thiên Chúa, Đấng muôn trùng
Đã thương nhìn tới phận thường nữ nhi
Mọi đời mãi mãi ngợi ca
Rằng tôi diễm phúc, người ta chẳng bằng
Bao điều cao cả vô song
Đều do chính Đấng Toàn Năng đã làm
Danh Người chí thánh chí tôn
Lòng thương xót Chúa trải muôn muôn đời
Tay Người sức mạnh tuyệt vời
Dẹp hết những người lòng trí kiêu căng
Người quyền thế hết đường ngông
Còn kẻ khiêm nhường được Chúa nâng cao
Những người nghèo Chúa thưởng nhiều
Còn những người giàu chịu trắng tay luôn
Chúa phù hộ Ít-ra-en
Những người tôi tớ vẫn luôn tín thành
Như lời Chúa hứa rành rành
Lòng thương xót Chúa vẫn dành tôi trung
Áp-ra-ham Tổ phụ chung
Muôn đời con cháu được đồng hưởng ơn
Ngôn từ của Đức Mẹ chất chứa đầy sự khiêm nhường, lòng tín thác và tình yêu thương. Đó cũng là lời kinh mà Giáo Hội sử dụng hằng ngày khi cầu nguyện, đặc biệt trong giờ kinh Nhật tụng (Thần vụ).
Thánh sử Luca cho biết: “Đức Maria ở lại với bà Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà” (Lc 1:56). Đức Mẹ không chỉ đi thăm chị họ theo phép xã giao mà còn là để “báo tin mừng”, đặc biệt là để phục vụ Bà Chị đang mang thai bé Gioan Tẩy giả.
Thật lạ lùng, Đức Mẹ không đi tu ngày nào, cũng chưa một lần tiên khấn, đơn khấn hoặc vĩnh khấn, nhưng Đức Mẹ đã anh dũng và kiên cường sống trọn vẹn ba lời khấn: Thanh tuân, thanh bần, và thanh khiết. Đúng là trên cả tuyệt vời. Đức Mẹ là một tu sĩ đặc biệt: Nữ-Tu-Không-Tu-Phục. Một tấm gương chói ngời mà mọi người đều phải “soi” vào, không riêng gì giáo sĩ và tu sĩ.
Kính mừng Thánh Mẫu mông triệu là dịp tốt để mỗi chúng ta tái xác nhận điều chúng ta vẫn cầu nguyện: Xin được ơn chết lành trong vòng tay của Đức Mẹ, và xin được thưởng cùng Đức Mẹ trên Thiên Đàng. Thánh GM Fulgentius (462-527) nói: “Mẹ là chiếc thang bắc lên Trời. Nhờ Mẹ mà Thiên Chúa đã từ Trời xuống thế gian, và cũng nhờ Mẹ mà loài người từ đất lên tới Trời”. Còn Thánh TS Bonaventura (1221-1274) xác định: “Đức Mẹ là phần rỗi của mọi người kêu cầu Người. Ai bền lòng phụng sự Mẹ thì không thể hư mất. Những ai tin tưởng xin Mẹ cầu bầu đều được cứu rỗi”. Được cứu rỗi nghĩa là được về trời. Ôi, Mẹ thật kỳ diệu, và cũng rất hạnh phúc cho phàm nhân chúng ta!
Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Ngài đã thương ban một Người Mẹ Thánh tuyệt vời cho Giáo Hội. Xin thương giúp con biết khiêm nhường phục vụ, luôn biết “xin vâng” trong mọi hoàn cảnh – dù vui hay buồn, để con chắc chắn sẽ được cùng Thánh Mẫu vui hưởng phúc trường sinh. Xin Vầng Trăng Mẹ luôn chiếu sáng trong “đêm đời” của mọi người. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Con Yêu Dấu của Mẹ, Sư Phụ và Đại Huynh Trưởng của mọi người, và là Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
--------------------------------
Ngày 1-11-1950, đúng vào dịp lễ Các Thánh Nam Nữ, Đức Thánh Cha Piô XII long trọng tuyên 15/8-71
Ngày 1-11-1950, đúng vào dịp lễ Các Thánh Nam Nữ, Đức Thánh Cha Piô XII long trọng tuyên bố tín điều Đức Maria Hồn Xác Lên Trời: “Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh, sau khi sống trọn cuộc đời trần thế, đã được triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc”. Kể từ lời tuyên bố trong thánh lễ tuyên tín long trọng hôm ấy, mầu nhiệm Đức Maria được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn và xác, trở thành chân lý đức tin cho toàn thể Giáo hội.
Chỉ trong một lời tuyên tín ngắn gọn và quan trọng để tuyên bố một tín điều, Đức Thánh Cha Piô XII đã liệt kê cùng lúc đầy đủ bốn đặc ân vô cùng cao cả, ngoài Đức Maria không ai có được. Đó cũng là bốn chân lý tuyệt đối của lòng tin thuộc về đời sống và nhân đức của Đức Maria mà mỗi người Kitô hữu phải tin:
1. Đức Maria làm Mẹ Thiên Chúa.
2. Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ không hề mắc tội tổ tông truyền từ ngay khi thành thai trong lòng mẹ.
3. Đức Maria Đồng Trinh Trọn Đời, dù mang thai và sinh con, Mẹ vẫn trinh khiết vẹn toàn.
4. Đức Maria Hồn Xác Lên Trời, Mẹ được Chúa triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc, sống trong hạnh phúc vĩnh cửu.
Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo từ số 963- 975, kể ra 5 lý chứng rất mạnh mẽ và xác thực minh chứng việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời:
1. Vì Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô: Thánh Kinh diễn tả rõ ràng Đức Maria hiệp thông chặt chẽ với Chúa Giêsu trong nhiệm cuộc cứu chuộc, và luôn chia sẻ số phận với Con. Vậy xét theo thiên chức làm Mẹ, đương nhiên đòi hỏi phải có việc Mẹ và Con hòa hợp sum vầy với nhau, vì cả hai đã yêu mến nhau tha thiết, cho nên chắc chắn Chúa Kitô vì lòng hiếu thảo, đã ban cho Mẹ mình được hồn xác về Trời sau khi ly trần, là điều hợp tình hợp lý.
2. Vì Đức Maria Trọn Đời Trinh Khiết: Thiên Chúa đã làm cho Đức Maria chịu thai, sinh con mà vẫn trinh nguyên, thì sau khi Mẹ qua đời, Ngài đã gìn giữ thân xác Đức Mẹ khỏi hư nát, và sau khi đem Mẹ về Trời, Ngài đã làm cho xác Mẹ nên vinh hiển. Nên thánh Đamascênô tiến sĩ quả quyết: Vì Đức Mẹ đã được sinh con mà vẫn trinh nguyên, thì cần thiết là sau khi qua đời, xác Đức Mẹ cũng phải được bảo tồn nguyên vẹn.
3. Vì Đức Mẹ luôn hợp tác với Chúa Kitô: ngay từ thế kỷ II, các Giáo Phụ đã trình bày Đức Mẹ như là một Evà Mới hợp tác chặt chẽ với Adam Mới là Chúa Kitô để chiến thắng satan. Vì thế, cũng như Chúa Kitô sống lại vinh hiển là việc thiết yếu và là dấu chiến thắng cuối cùng, thì Đức Mẹ đã cùng Con chiến đấu cũng phải được cùng Con chiến thắng, nghĩa là Thân Xác Đồng Trinh của Đức Mẹ cũng phải được Lên Trời Vinh Hiển.
4. Vì Đức Mẹ Đầy Ơn Phúc: các thánh tiến sĩ đã coi việc Đức Mẹ Hồn Xác về Trời như là bổ túc cho việc Đức Mẹ được Đầy Ơn Phúc. Như lời cha Ađômêô quả quyết: Thân xác Đức Mẹ không hề bị hư nát vì đã kết hợp với linh hồn và đã được đầy ơn.
5. Vì Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội: theo lời xác quyết của Đức Thánh Cha Piô XII: Thân xác con người bị chết và bị tan rã ra tro đất là do hậu quả tội Nguyên Tổ. Đức Maria không hề mắc tội Nguyên Tổ, cũng không hề có tội riêng, cho nên đương nhiên và rất hợp lý là Đức Maria được Hồn Xác Về Trời”.
Mẹ đầy ơn phúc, được Thiên Chúa yêu thương gìn giữ từ thuở đời đời bằng đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội. Mẹ được Thiên Chúa giữ gìn cho đến muôn đời bằng đặc ân Mông Triệu tuyệt diệu hơn mọi người trần.
Quyền năng và tình yêu Chúa tràn đầy trên Mẹ làm cho Mẹ được khỏi tội tổ tông và được đầy ơn ơn sủng ngay từ trong lòng mẹ. Quyền năng và tình yêu Chúa bao phủ suốt cả đời Mẹ trên từng ý nghĩ, từng tình cảm, từng mỗi hành động, từng mỗi bước đi... khiến cho tâm hồn Mẹ luôn hướng về Chúa mà tạ ơn và ngợi khen liên lỉ. Quyền năng và tình yêu Chúa đong đầy trọn vẹn nhất trong khoảnh khắc lịch sử, Mẹ lên trời cả hồn cả xác. Đặc ân cao trọng này chính là triều thiên sáng chói bao phủ lên Mẹ, vốn đã được “Thánh Thần ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao rợp bóng trên bà” (Lc 1,35).
Ngày lễ hôm nay với sắc thái vui tươi với những lời ngợi khen và chúc tụng Đức Trinh Nữ lên trời hiển vinh. Từ đây Đức Mẹ nắm giữ vai trò quan trọng nhất là Nữ Vương trời đất. Từ nay, Đức Mẹ đảm nhận một địa vị cao cả nhất và cũng thật gần bên Thiên Chúa. Kể từ nay, Đức Mẹ trổi vượt trên mọi tạo vật với địa vị làm Mẹ Thiên Chúa và làm Mẹ nhân loại.
Mẹ được Lên Trời Hồn Xác là do đặc ân Chúa ban cho Mẹ và đồng thời cũng là do cuộc sống thánh thiện của Mẹ hằng luôn hợp tác với ơn Chúa. Mẹ là người diễm phúc nhất trong mọi người nữ. Mẹ có tên gọi đẹp nhất là ”Đấng đầy ơn phúc” vì “Thiên Chúa ở cùng bà”. Mẹ được hết mọi đời khen là diễm phúc chính vì “Đấng toàn năng đã làm cho Mẹ biết bao điều cao cả”. Điều cao cả nhất là làm Mẹ Chúa Cứu Thế. Mẹ là cây sinh quả phúc và nhờ quả phúc ấy mà Mẹ được biết đến và được ca tụng. Mẹ là cây trường sinh mang quả đầu mùa mà Thiên Chúa đã trồng trong vườn địa đàng mới hầu đem lại sự sống đời đời cho mọi thế hệ loài người. Chính vì thế mà Thiên Chúa muốn cho cây mang quả trường sinh ấy được nhân lên trong vườn địa đàng mà Người muốn mở rộng diện tích tới tận cùng trái đất.
Giáo hội cùng hiệp ý chung lời với Mẹ ngợi khen tạ ơn Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
Đó là những lời tán tụng ngợi ca Thiên Chúa phát xuất từ sâu thẳm lòng Mẹ trong ngày thăm viếng người chị họ Isave.
Những lời ngợi ca đó nói lên tất cả tâm hồn của Mẹ. Đó là toát lược cả cuộc đời Mẹ, cả chương trình sống của Mẹ, là con đường tu đức của Mẹ: mãi mãi là người nữ tỳ khiêm tốn, luôn phó thác hoàn toàn trong tay Chúa toàn năng và nhân hậu, hằng dâng lời ngợi khen tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc sống.
Những lời ca ngợi Magnificat nói lên hết ý nghĩa và tâm tình của Mẹ đối với Thiên Chúa toàn năng và yêu thương.
Mẹ cảm thấy thân phận tôi tớ hèn mọn nầy lại được cất nhắc cao trọng trong giây phút lên trời: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
Mẹ cảm nghiệm được quyền năng và tình yêu vô biên của Chúa trong giây phút Chúa hiển dương Mẹ về trời: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả...Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”.
Ngày lễ hôm nay, Giáo hội mừng kính một tạo vật đầu tiên, Mẹ Maria đã được khải hoàn và bước vào quê hương thiên quốc. Thánh Kinh ca tụng Mẹ: “Kìa bà nào xuất hiện như rạng đông, diễm kiều như vầng nguyệt, lộng lẫy tựa thái dương, oai hùng như đạo binh chỉnh tề hàng ngũ” (Dc 6,10); “Có một điềm lớn xuất hiện trên trời : một Phụ nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp vầng trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1)…
Mẹ “Như một vầng trăng tuyệt vời, muôn ngàn tia sáng lung linh chốn thiên cung”. Mẹ là người đi đầu cho ta được tiếp bước. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ là người đi mau cho ta được níu kéo dắt dìu.Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ được đưa về trời là khuôn mẫu cho niềm hy vọng: yêu trung thành hôm nay sẽ được dẫn tới bến bờ yêu thương tinh ròng vĩnh phúc. “Mẹ Lên Trời là hình ảnh và khởi thủy của Giáo hội về ơn cứu chuộc của Thiên Chúa cho mọi người chúng ta. Mẹ chiếu sáng như dấu chỉ lòng trông cậy vững vàng và niềm an ủi cho dân Chúa đang lữ hành” (LG số 69).
“Cuộc Lên Trời của Đức Trinh Nữ rất thánh là sự tham dự độc nhất vô nhị vào sự Phục sinh của Con mình và là việc thể hiện trước sự phục sinh của các Kitô hữu khác” (GLCG, số 966). Mẹ Lên Trời, trong hạnh phúc tuyệt vời, Mẹ trở nên gần gũi với mọi thành viên trong gia đình nhân loại. “Trong Hội Thánh, Đức Trinh Nữ diễm phúc được kêu cầu bằng các tước hiệu là Trạng Sư, Đấng Cứu Giúp, Đấng Phù Hộ, Đấng Trung Gian” (GLCG số 969).Trong cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, chúng ta tin rằng, có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở; với niềm hy vọng sẽ được về trời với Mẹ, chúng ta nhìn lên Mẹ như mẫu gương của lòng cậy trông, tin yêu phó thác nơi lòng thương xót Chúa.
Hôm nay mừng Mẹ Lên Trời.
Ngày mai đến lượt mỗi người chúng ta.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
--------------------------------
(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)
Lc 1: 39-56
Nhập hồn trong khúc hát, để nhờ không khí cố đẩy lên. Đó, là tâm trạng của nhà thơ nay ngẫu hứng. 15/8-72
Nhập hồn trong khúc hát, để nhờ không khí cố đẩy lên. Đó, là tâm trạng của nhà thơ nay ngẫu hứng. Nhập hồn với lời ca, để có tình tự Mẹ diễn tả lúc về Trời.
Trình thuật, nay thánh Luca cũng diễn tả tâm tình ngày Mẹ về Trời với Chúa, hầu chỉ dẫn dân con mọi người theo về chốn phúc hạnh, mà thăng tiến. Tâm tình này, đặc biệt hơn khi người chỉ dẫn lại là “Nữ phụ” đặc biệt, Mẹ Hiền của Chúa. Sống với thế giới và Giáo hội trong đó nam-nhân bao giờ cũng lấn lướt/vượt trội mọi nữ lưu, để bảo vệ/chăm sóc phụ nữ hơn chính mình. Nhưng ngược lại, mới đúng.
Thật ra thì, ở nam-nhân lẫn nữ-phụ, phẩm chất nam/nữ mỗi người một cách, rất khác biệt. Phẩm chất là chất-phẩm, gồm: sự tử tế, tính dịu dàng, độ-lượng, lòng xót thương, cả trực-giác, lẫn nét hiền lành toả sáng nhiều lúc cũng kín đáo, thâm trầm. Nhất nhất, là đặc trưng về “nhân” phẩm Chúa tặng mọi người, nam lẫn nữ.
Nhưng, quà tặng thiết thực ở hai phái tính, là quà Chúa tặng ban làm cơ sở cho thực chất cao cả hơn, tức: mở lòng ra với Chúa để vinh thăng tính siêu-việt; nếu không có tính này, chẳng ai đích thực là bản vị hết. Bởi, ta được tạo dựng là được Chúa mời gọi đi vào hiện hữu trong phần sâu thẳm của chính mình, với Chúa và cho Chúa, để rồi cứ thế cảm tạ Ngài. Quả thật, ta được gọi mời là để khám phá ra mà vui huởng ý nghĩa trọn vẹn của nhân vị quyết mở lòng ra với Chúa. Ta được gọi làm tạo vật hoàn-thành ý nghĩa xuất tự Chúa trong luồng ánh sáng rất tráng lệ.
Nhưng lịch sử đã làm suy giảm ánh chói loà của quà tặng nơi ta. Ngày nay, con người cũng được gọi mời theo cung cách tương tự, nhưng đa phần đều ra như không biết. Đa phần chất giọng thời hiện đại, đều hợp lòng bảo ta đừng lắng nghe tiếng gọi này để ta có yêu cầu độc-lập, tách rời Chúa và mọi người.
Phải công nhận, ánh sáng tắt lịm theo cung cách đặc biệt, nay xảy đến với nam nhân, khác hẳn nữ giới. Điều này, là do lịch sử lâu nay phát triển theo kiểu đó. Nam nhân vẫn thấy khó mà khám phá ra Thiên Chúa đích thực. Lịch sử và hoàn cảnh diễn tiến trong đó vẫn làm cho họ ra như thế. Điều này, từng được thánh Phaolô tỏ bày với dân thành Rôma, rất cứng lòng. Theo thánh-nhân, thì nam nhân, nếu không được trợ giúp, hầu như không có khả năng mở rộng lòng mình cách tích cực và vui vẻ với Chúa. Xem ra, Chúa được nam-nhân quan niệm như kình-địch chứ không như Đấng Cứu độ, khiến cần có sự trợ-giúp của nữ phụ, nam-nhân mới hiểu thế nào là ân-huệ.
Nữ-giới ngày nay thường muốn tham gia thế giới của nam-nhân, hầu có được vài đặc tính/đặc điểm của nam nhân, và có thể làm được những việc mà nam-nhân từng làm, cũng như có được tự do và toàn quyền chọn nghề nghiệp như nam nhân. Gần cận Chúa, nam nhân cũng cần sự trợ giúp của nữ-giới. Tuy thế, nữ-giới vẫn bị hạn chế trong nhiều sự việc; vẫn bị khai thác, bóc lột rồi còn bị nam-nhân vùi dập, nhận chìm trong tối tăm. Đặc biệt hơn, nữ-giới vẫn bị trở ngại vì chính mình, cách thực thụ.
Nơi nữ giới, chứ không phải nam-nhân, vẫn có thói quen giữ vững các giá-trị căn-bản của con người trong hiểu biết Chúa. Chính vì thế, Chúa đã phó thác nam-nhân cho nữ giới và yêu cầu nữ giới chỉ cho nam-nhân cách thức gần-cận Chúa. Nữ-giới trổi vượt hơn nam-nhân về chuyện này là nhờ lòng đạo đức cùng sức mạnh thiêng liêng khiến nữ giới biết rõ sự thể Chúa là trọng-tâm của cuộc sống. Tự bản chất, đích thực Chúa ủy-thác mọi sự về con người cho mỗi người và mọi người. Nhưng nữ-giới lại quan tâm nhiều hơn nam-nhân về chuyện ấy. Chuyện ấy, là do bản-chất của nữ-giới, vẫn như thế.
Thật ra thì, Chúa nhận ra là nữ-giới mạnh-mẽ hơn nam-nhân về đạo đức và về nguồn mạch linh-đạo. Chúa giao cho nữ-giới trọng-trách chăm lo cho nam-nhân. Chính vì thế, nữ giới có ơn gọi bảo-vệ sự sống con người, bảo vệ sự sang-tạo, chăm nom mọi sự về con người, và nữ-giới làm thế rất đắc lực do nữ-tính của mình.
Về với Đức Nữ-Trinh Maria. Mẹ là đấng được chúc phúc hơn mọi người nữ. Sứ-vụ của Mẹ được các nữ phụ chuẩn-bị và vẫn được nhiều nữ-phụ thực--thi; nhưng theo truyền thống Kitô-giáo, Mẹ là ví-dụ điển hình của sự hiền dịu, thương yêu hơn tất cả. Đặc-ân của Mẹ là đưa Chúa đi vào với thế giới của con người; và từ đó, đưa con người vào với thế-giới của Thiên Chúa. Con người được cưu-mang đến với Chúa là nhờ nữ-tính của Đức Trinh Nữ Maria. Ngang qua Mẹ, mọi nam-nhân được Đức Chúa, Con của Mẹ vui vẻ đón nhận.
Chỉ mình Mẹ, chứ không phải mọi người nữ nói chung, được chúc-phúc do bởi nơi Mẹ, là biến cố độc-nhất trong đời con người xảy đến, mới diễn tả sự đầy-tràn của thời gian, diễn tả cả tính chất nhân-bản và ơn cứu-độ. Nhập-thể diễn ra nơi Mẹ và do Mẹ. Nơi Mẹ, toàn thể “nhân loại” nơi phụ nữ đã đổi thay. Mẹ là Người-Nữ-của-Ơn-huệ-cứu-độ Chúa ban cho con người và cuối cùng đã hoàn-tất. Một lần nữa, Mẹ đã biến thành hiện-thực tính hiền-dịu xưa/cũ bị quên lãng của người nữ và của Chúa. Nữ-tính nơi Mẹ không chỉ là trường hợp “có them” về nữ-tính hiền-dịu rất vĩnh cửu, hoặc bản-năng làm Mẹ Hiền của nhân loại. Nơi Mẹ, bản năng và đức tính ấy đã trở thành của Đức Maria, về Maria, cho ta.
Đó là lý do tại sao ta muốn nhận biết Mẹ, không chỉ là Me của ta và của Chúa, hoặc là môn đệ Đức Giêsu hoặc “Nữ vương” thiên đáng mà thôi, nhưng trong mẹ và cho chính Mẹ, là nữ phụ nữa. Thật ra, Chúa làm nhiều điều kỳ-diệu cho Mẹ và Mẹ cũng đáp-ứng bằng cách chạm-khắc chúng vào nữ-tính thẳm sâu nơi Mẹ, để cứu rỗi mọi người. Người nữ khác, ắt sẽ phải ghen tị về Mẹ, nhưng họ cũng sẽ thấy nơi Mẹ những điều tốt đẹp nhờ Mẹ và do Mẹ mà có.
Giả như tất cả các đặc tính vượt trội ấy, là chính Mẹ và Mẹ hiện hữu là vì ta, để cho ta, thì ta có thể bắt đầu cảm kích biết rằng: sự chết không thể bắt chụp được Mẹ. Mẹ sống không có nghĩa là “chết cho chủ nhân” là nam nhân của Mẹ. Mẹ sống là cho sự sống. Mẹ có đó, khi nam-nhân lẫn nữ-giới đi vào cõi chết, nhưng Mẹ không sống để rồi sẽ phải chết, và Mẹ sẽ chứng-tỏ cho mọi người thấy: chỉ mình Mẹ mới được thế. Ta cũng có thể nói thế, với mọi nữ-phụ; nhưng ta sẽ thấy rõ điều đó khi nhìn mọi phụ-nữ qua tầm-nhìn của Đức Mẹ. Mẹ là Trăng Tròn giữa tinh tú.
Theo cách nào đó, ta có thể nói một cách đầy tin-tưởng rằng: Mẹ Về Trời cả hồn lẫn xác, theo nghĩa: toàn bộ căn-tính con người của Mẹ, đã đi vào vũ-trụ thiên-đường của Chúa, có Chúa. Chính nữ-tính của Mẹ và lòng muốn yêu thương mọi người chúng ta, được Mẹ mang theo “về trời” với Chúa. Và, lòng muốn ấy, được Mẹ dùng để tỏ cho ta biết, nhưng không phải để biết thế nào là thiên đường, mà là đưa ta vào cõi thiên đường, có Chúa. Quả thật, Mẹ đã mang toàn thể nhân loại cùng với Mẹ, qua động thái về “trời của Chúa”, có Chúa.
Thành ra, tất cả chúng ta –nam-nhân hay nữ-giới- đều được Mẹ “đem về trời” cùng với Mẹ và do bởi Mẹ. Chính đó, là ý nghĩa của lễ hội “Mẹ Về Trời”, và cũng là hội lễ của chúng ta nữa. Không có Mẹ, chắc chắn không ai được như thế. Như thế, là như thể: đã có Chúa, ở Nước Trời, về trời.
Trong tâm tình cảm nghiệm, hãy cùng Mẹ và cùng nhau hát lên câu thơ đời đầy ý nghĩa, rằng:
“Tôi nhập hồn tôi trong khúc hát,
Để nhờ không khí đẩy lên trăng.
Để nghe tiếng nhạc Nghê Thường trổi.
Để hớp tinh-anh của nguyệt cầu.
Và để thoát lý ngoài thế giới,
Để cười, để trững, để yêu nhau.”
(Hàn Mặc Tử - Chơi Lên Trăng)
Hớp “tinh-anh nguyệt-cầu”, là hớp “hồn” người có Mẹ cùng hớp, để người người yêu nhau, thoát ly ngoài thế giới mà về với Chúa, với Mẹ rất “Về Trời” cả xác lẫn hồn, rất Nghê thường.
Lm Kevin O’Shea CSsR
Mai Tá lược dịch
--------------------------------
Có một bài hát dân ca về mẹ mà có lẽ trong chúng ta chẳng mấy ai không biết đến: “Vườn rau, 15/8-73
Có một bài hát dân ca về mẹ mà có lẽ trong chúng ta chẳng mấy ai không biết đến:
“Vườn rau, vườn rau xanh ngắt một màu,
“Có đàn, có đàn gà con nương náu,
“Mẹ quê, mẹ quê vất vả sớm chiều,
“Nuôi đàn, nuôi một đàn con chắt chiu…” (nhạc Phạm Duy)
Bài hát diễn tả hình ảnh người Mẹ nơi những vùng thôn quê trên khắp mọi miền đất nước. Nơi thôn quê, bà mẹ ngoài công việc đồng ruộng, có khi còn chịu khó kiếm thêm thu nhập bằng buôn gánh bán bưng. Có bà chiều chiều gióng gánh trên vai đi dạo từ đầu làng đến cuối xóm, để mua lại buồng chuối, dăm trái mãng cầu, vài trái mít… sáng mai ra chợ bán kiếm ít đồng lời. Có bà cũng gióng gánh đi mua lúa, mua gạo để bán lại làm “hàng xáo”!
Trên ruộng đồng, có lúc rau trái dư thừa như ngọn bầu, rau lang, cà pháo, cà dừa, ớt cay…bà Mẹ cũng chịu khó thu gom đem ra chợ bán, mặc dù biết chẳng được bao nhiêu.
Tất cả những điều đó như thể hiện tấm lòng người mẹ. Một người mẹ luôn hy sinh cho con, luôn lo cho con, ngay cả khi con cái đã lớn khôn tung cánh vào đời, mẹ vẫn mong được chăm sóc cho con:
Biết chiều nay con về thứ bảy
Gánh rau xanh mẹ hái nhiều hơn
Chợ huyện cách xa, ngày đông tê tái
Bước chân gầy vẫn bám chặt đường hơn.
Với mẹ, không đứa con nào là lớn cả, dù có làm đến ông nầy bà nọ, vẫn luôn cần đến những lời an ủi chia sẻ hay đơn thuần chỉ là bóng dáng còm cõi theo năm tháng của mẹ hiền. Mẹ luôn bênh vực che chở cho con. Tình thương của mẹ dành cho con luôn bất tử, mãi mãi theo con, cho dù:
“Nếu ngày mai trên đường đời vấp ngã
Con hãy gọi 2 tiếng MẸ YÊU!
Mẹ đi xa, nhưng mẹ vẫn bên cạnh.
Linh hồn này, mẹ vẫn mãi theo con”.
Cuộc đời người tín hữu chúng ta cũng có một người mẹ yêu thương, chăm sóc chúng ta. Một người mẹ luôn theo chúng ta suốt đời. Mẹ đi bên cạnh cuộc đời chúng ta không chỉ là linh hồn mà còn cả thân xác Mẹ, đó chính là Đức Trinh Nữ Maria.
Mẹ Maria đã được Chúa đưa cả hồn và xác về trời. Mẹ Maria không chết. Tình Mẹ vẫn mãi mãi thiên thu ở bên đoàn con suốt cuộc đời. Thế nhưng, niềm vui và hạnh phúc chỉ ngập tràn trong cuộc đời chúng ta nếu chúng ta ý thức Mẹ vẫn đang sống bên cạnh chúng ta. Chúng ta đang từng phút giây tận hưởng tình thương và sự chăm sóc vỗ về của Mẹ, nhưng thật bất hạnh nếu chúng ta chỉ sống như người mồ côi, thì có lẽ chúng ta cũng chỉ ngậm ngùi như người Phật Tử nhận lấy bông hồng trắng trong ngày của mẹ với lời ai oán: “Mất mẹ là mất cả bầu trời” thương yêu.
Thế nhưng, biết bao người Công giáo đã sống như những người mồ côi Mẹ. Vì rất nhiều người đã không cầu nguyện cùng Mẹ. Rất nhiều người đã đẩy mẹ ra khỏi cuộc đời mình. Chỉ cần một câu kính mừng, chúng ta ca tụng mẹ là Đấng đầy ân phước để rồi từ đó chúng ta xin Mẹ gìn giữ chúng ta khỏi mọi hiểm nguy trong cuộc đời. Nhiều người cho rằng không có giờ cầu nguyện, nhưng họ quên rằng, tâm lý của các bà mẹ chỉ cần con còn cần đến mẹ thì bà sẵn sàng làm tất cả cho con.
Hôm nay lễ mẹ hồn xác lên trời, thiết tưởng đây là niềm vui cho cuộc đời chúng ta, vì chúng ta có một người Mẹ bất tử, một người Mẹ ở trên thiên quốc luôn sẵn lòng ban ơn cho con cái khi chúng kêu xin. Một người Mẹ đã đi qua biết bao thăng trầm của dòng đời để có thể hiểu hết những khó khăn của con người. Mẹ đã hiểu và chắc chắn Mẹ sẽ chia sẻ với những khó khăn trong cuộc đời chúng ta. Vì thế, với lòng hân hoan chúng ta cùng mượn tâm tình của bài hát “Bông Hồng Cài Áo” của Phạm Thế Mỹ để thưa với Mẹ:
Rồi một chiều nào đó con về nhìn Mẹ yêu, nhìn thật lâu
Rồi nói, nói với Mẹ rằng "Mẹ ơi, Mẹ ơi, Mẹ có biết hay không ?"
- Biết gì ? "Biết là, biết là con thương Mẹ không ?"
Nguyện xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho mỗi người chúng ta luôn được hồn an xác mạnh, ơn thánh dư đầy để phụng sự Chúa trong mọi người như Mẹ. Amen
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
--------------------------------
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Văn hóa Việt Nam rất coi trọng tình mẹ. Tình mẹ luôn cao quý. Tình mẹ luôn là động lực cho con 15/8-74
Văn hóa Việt Nam rất coi trọng tình mẹ. Tình mẹ luôn cao quý. Tình mẹ luôn là động lực cho con cái lớn khôn làm người. Thế nên, người mẹ luôn được tôn vinh ở mọi nơi mọi chốn. Người ta thường dùng chữ mẹ để tôn vinh những nơi chốn, những gì là thiêng liêng cao cả. Thí dụ : đất mẹ, quê mẹ hay tiếng nói mẹ đẻ . .
Người mẹ còn là một gia sản quý báu cho con cái. Gia sản ấy không phải là tiền bạc, tài sản mà là phúc đức cho con. Đó là lý do người ta nói: “Phúc đức tại mẫu”. Vì người xưa cho rằng người mẹ nếu ăn ở tốt sẽ để lại những điều tốt lành cho con. Suy rộng ra là việc một người mẹ, người bà có thể để lại phúc đức cho con cháu hay không đều phụ thuộc vào cách sống, cách đối nhân xử thế của người đó.
Có một người mẹ tuy không được học chữ, vậy mà khi con học xa nhà, bà đã cố gắng viết cho con mấy dòng ngắn ngủi, nét chữ run rẩy và to như trẻ con học mẫu giáo tập viết. Bà viết: “Mẹ ít học hơn con nên mẹ tin con hiểu đời nhiều hơn mẹ. Mẹ chỉ muốn dặn con một điều rằng con đi xa hãy nhớ: Ăn một miếng của người con tạc ân vào dạ; Học một chữ ở đời con xem nặng nhẹ bao nhiêu”. Lời dặn thật mộc mạc nhưng ẩn chứa biết bao triết lý cho cuộc sống. Chính những lời dạy đơn sơ ấy đã uốn nắn con thành người. Thật phúc đức cho những ai có người mẹ thấu tình đạt lý như thế!
“Phúc Đức tại mẫu”, như còn muốn nói người mẹ, người vợ không chỉ mang phúc đức cho con, mà còn là mối giây liên kết cho nhiều thành viên trong một đại gia đình. Trong gia đình họ tộc có những mối quan hệ không trói buộc bằng tiền bạc. Con ghi ơn cha mẹ. Anh chị em gắn bó với nhau. Họ hàng qua lại với nhau đều không phải vì tiền bạc mà tất cả các mối quan hệ ấy chỉ có thể tồn tại được nếu có tình cảm với nhau. Và trên hết, người phụ nữ chính là sợi dây tình cảm nối liền cha với con, nối anh chị em lại với nhau, nối các bậc thông gia cho gần gũi. Người mẹ, người vợ được xem là người có khả năng và thiên chức điều hòa mọi thành viên một cách hữu hiệu nhất. Câu “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm” không chỉ đúng cho thời xưa mà cả mọi thời đại.
Đó là lý do Con Một Thiên Chúa Nhập Thể Làm Người cũng đã nhận lấy con đường bình thường mà trân quý ấy. Maria, người nữ Sion đã vâng phục ngay từ ngày đầu khi thiên sứ truyền tin, nhận lấy những nhọc nhằn vất vả của vai trò làm Mẹ. Mẹ đã đảm nhận trọn vẹn thiên chức cao quý nhưng không thiếu khổ đau như bất cứ người mẹ nào trong nhân loại. Trong lòng tin, người mẹ ấy đã âm thầm vâng phục, đón nhận, lắng nghe và bước theo Con của mình trong hành trình cứu độ. Mẹ đã xin vâng không chỉ một lần trong ngày sứ thần truyền tin, mà Mẹ đã xin vâng trong suốt dọc dài cuộc sống khi để cho thánh ý Chúa thực thi nơi Mẹ. Lời xin vâng của mẹ đạt tới đỉnh cao trong hành trình thương khó mà Mẹ đã cất bước cùng con của Mẹ lên đồi Calve. Cuối cùng, Mẹ đã được Thiên Chúa đoái thương cất nhắc về Trời cả hồn lẫn xác, một trong bốn đặc ân cao cả Thiên Chúa đã ban cho Mẹ. Đây là một phần thưởng mà Thiên Chúa đã dành cho một người mẹ vĩ đại của Con Thiên Chúa.
Ngày hôm nay, Mẹ Maria vẫn tiếp tục lãnh lấy vai trò làm mẹ chúng sinh. Mẹ vẫn ân cần chăm sóc nhân loại. Có lẽ chúng ta cũng sống nhờ “phúc đức tại mẫu” nơi Mẹ Maria. Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta. Thiên Chúa vẫn tha thứ và bao dung với chúng ta nhờ lời cầu khẩn rất đẹp lòng Thiên Chúa của Mẹ Maria. Và chắc chắn, Mẹ Maria cũng là mối dây liên kết chúng ta trong một đại gia đình của Mẹ. Nơi Mẹ Maria còn là máng thông ơn Chúa đến cho con cái của Mẹ. Biết bao nhiêu người con đã chạy đến kêu cầu Mẹ để nhờ Mẹ và qua Mẹ ơn Chúa đến với họ. Biết bao người đã tìm được bình yên khi nép mình bên tà áo từ bi của Mẹ.
Quả là rất đúng khi người xưa nói rằng”:
Lạ gì con có giống ai,
Phúc đức tại mẫu là lời thế gian.
Xin cho chúng ta luôn biết trân quý mối dây thân tình với Mẹ. Xin cho chúng ta cũng biết học đòi noi gương bắt chước Mẹ khi biết sống xin vâng theo thánh ý Chúa. Xin đừng để những đam mê dục vọng, những thói đời lôi cuốn vào đường xấu mà biết bám vào tà áo Mẹ để Mẹ chở che chúng ta trước những dòng chảy đầy tội lỗi lôi cuốn. Ước gì chúng ta luôn biết sống nhờ phúc đức của Mẹ mà tiến bước trên con đường nhân đức, con đường về trời trong ân phúc của Chúa. Amen.
------------------------------
Lm. G.B. Trần Văn Hào
Trong một đan viện nọ, có hai tu sỹ ngồi đàm đạo để cùng giúp nhau thăng tiến về đời sống thiêng 15/8-75
Trong một đan viện nọ, có hai tu sỹ ngồi đàm đạo để cùng giúp nhau thăng tiến về đời sống thiêng liêng. Họ mở Kinh Thánh ra và cùng nhau chia sẻ. Đoạn Kinh Thánh được đọc lên, trích trong Tin mừng Luca chương 15, nói về dụ ngôn đứa con hoang đàng. Câu chuyên khá dài với nhiều tình tiết. Gấp sách lại, cả hai thinh lặng cầu nguyện và trao đổi. Một đan sĩ lên tiếng “Tôi không hiểu tại sao thằng bé này lại bỏ nhà đi hoang. Nó có một gia đình khá đầy đủ về vật chất. Hơn nữa, nó còn có một ông bố yêu thương nó hết lòng. Vậy tại sao nó lại thoát ly gia đình ?”. Suy nghĩ một lát, vị đan sĩ kia lên tiếng “Đứa bé này bỏ nhà đi bụi, vì trong ngôi nhà ấy vẫn vắng bóng một người mẹ”.
May mắn, chúng ta có một người Mẹ tuyệt vời là chính Đức Maria. Người vừa là hiền mẫu, vửa là Thầy dạy đức tin và cũng là đấng phù trợ chúng ta trong cuộc lữ hành đức tin trần thế. Mừng lễ Mẹ lên trời hôm nay, Giáo hội cũng nhắc nhớ chúng ta hướng về người mẹ thiêng liêng và tuyệt diệu này. Đồng thời, chúng ta cũng nhìn về Đức Maria như là khuôn mẫu đức tin để noi theo.
Ý nghĩa mầu nhiệm Mẹ lên trời hồn xác.
Năm 1950, Đức Thánh Cha Piô XII đã công bố tín điều này. Đây là tín lý thuộc đức tin mang tính thần khải và Công giáo. Giáo hội xác tín chân lý ấy dựa vào nhiều lý chứng.
Trước hết, bởi vì Mẹ là thụ tạo vượt trổi, đã được Chúa giữ gìn khỏi lây nhiễm tội lỗi. Tội tổ tông không để lại âm hưởng gì nơi Mẹ, đồng thời Thiên Chúa cũng gìn giữ mẹ luôn mãi vẹn tuyền. Ngay từ ban đầu, Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên Ngài phó trao cho Mẹ những đặc sủng tương thích với sứ vụ cao cả này. Thân xác Mẹ cho dù có phải nếm trải sự chết giống như Đức Giêsu, nhưng thân xác vẹn tuyền đó không thể bị hủy hoại. Vì vậy Giáo hội xác tín rằng sau khi chết, Mẹ đã được đưa về trời cả hồn lẫn xác.
Thứ đến, cuộc đời của Mẹ đã gắn kết chặt chẽ với Đức Giêsu. Đức Giêsu đã phục sinh và lên trời. Mẹ cũng vậy. Phần thưởng nước trời dành cho Mẹ như một hệ quả tất yếu của sự hiệp thông vẹn tròn với Đức Giêsu.
Đọc lại Kinh Thánh, chúng ta sẽ thấy ngay từ những trang đầu tiên, Kinh Thánh đã nói đến sự chiến thắng của người nữ trên con rắn. Người nữ đạp dập đầu con rắn và con rắn rình cắn gót chân bà. Người phụ nữ này là hình tượng chỉ về Hội thánh, về Đức Maria, về những con người sống hiệp thông chặt chẽ với Đức Giêsu trong nhiệm cục cứu độ. Cũng tương tự, người nữ trong sách Khải Huyền đã chiến thắng con rồng đỏ, cũng ám thị về Đức Maria và về toàn thể Giáo hội.
Giáo hội công bố tín điều này để mời gọi chúng ta hướng về Mẹ như khuôn mẫu đức tin. Mẹ chính là Thầy dạy Đức tin cho chúng ta.
Thầy dạy đức tin.
Sau khi Chúa về trời, Kinh Thánh nói rất ít về Mẹ. Tin mừng Gioan chỉ tóm gọn trong một câu ngắn: “Từ lúc ấy, môn đệ đem Mẹ về nhà mình (Ga 19,27). Sách Tông đồ Công vụ chỉ duy nhất một lần nói về sự hiện diện của Đức Maria giữa các tông đồ khi cầu nguyện tại Giêrusalem trong dịp lễ Ngũ Tuần. Sau đó, Chúa Thánh Thần đậu xuống trên các tông đồ và trên Đức Mẹ. (Cv. 1,12). Như vậy, sau biến cố Phục sinh, Mẹ đã hoàn toàn rút vào trong thinh lặng để suy niệm và cầu nguyện. Thái độ đức tin này cũng được Thánh Luca tóm kết bằng một câu đơn giản : “ Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng (Lc. 2,19). Vì vậy, qua phụng vụ hôm nay, Giáo hội cũng mời gọi chúng ta hướng về Mẹ như là Thầy dạy đức tin của mọi tín hữu.
“Phúc cho bà là kẻ đã tin” (Lc. 1,45). Đây là lời được mặc khải qua miệng bà Elizabeth. Trước khi chúng ta chiêm ngắm các nhân đức và những đặc phúc nơi Mẹ, chúng ta hãy nhìn về Mẹ như là Thầy dạy đức tin của chúng ta.
Cuộc hành trình đức tin của Mẹ được dàn trải trong suốt cả cuộc sống, từ biến cố truyền tin đến cao điểm là phút giây hiệp thông trọn vẹn với Đức Giêsu dưới chân Thập giá. Thái độ đức tin đó được thể hiện bằng cách Mẹ luôn tìm kiếm và quy thuận thánh ý Thiên Chúa. Có lần, khi Chúa Giêsu đang giảng giữa đám đông, Đức Maria chợt đến. Người ta báo cho Chúa biết là ‘bà cố’ đang đến. Người trả lời :“Ai là mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành (Mc. 3,31-35). Đức Giêsu gián tiếp đề cao thái độ đức tin nơi Mẹ. Tính cách làm Mẹ của Ngài hệ tại ở việc biết nghe lời Thiên Chúa và đem ra thi hành.
Mẹ được đem về trời cả hồn lẫn xác là dấu chứng của một cuộc vinh thắng, và đó chính là cuộc chiến thắng trong đức tin. Trong thư Rôma, thánh Phaolô so sánh Ađam với Đức Kitô (xem chương 5). Ađam gieo sự tội vào trần gian vì bất tuân, còn Đức Kitô đưa sự giải án tuyên công đến cho con người qua vâng phục. Cũng như Evà đã liên đới với Ađam trong tội nguyên tổ, thì Đức Maria được sánh ví như Evà mới, đã hiệp thông trọn vẹn với Đức Giêsu để đem ơn cứu độ đến cho con người. Nhiều thần học gia còn gọi Mẹ là Đấng ‘Đồng công Cứu chuộc’ (Corredemptorist). Sách Giáo lý Công giáo cũng mời gọi chúng ta hướng nhìn về Mẹ như là Biểu tượng Cánh chung (Eschatological Icon) cho toàn Giáo hội trong cuộc lữ hành trần thế ( Giáo lý Công giáo số 972). Những điều này nói về Mẹ như là khuôn mẫu và Thầy dạy đức tin cho chúng ta.
Kết luận
Ở Đức, trong một vở kịch diễn lại Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, diễn viên trình diễn cảnh Giuđa sau khi phản bội đã ra đi tự vẫn. Trước khi chết, anh ta thét lên: “Khốn thân tôi, tôi biết chạy đến với ai bây giờ?”. Nghe như vậy, một đứa trẻ ở gần đó nói với mẹ: “Mẹ ơi, sao anh ta không chạy đến với Mẹ Maria”.
“Trên đời này, không có một kỳ quan nào cao cả và vĩ đại cho bằng trái tim của người mẹ”. Cũng vậy, chúng ta có Đức Maria là Hiền Mẫu, là Thầy dạy đức tin và cũng là nơi nương náu an toàn nhất trong cuộc lữ hành trần thế hôm nay.
------------------------------
Huệ Minh
Vào thế kỷ 19, có một luồng thần học chủ trương rằng Đức Maria không phải chết và luồng thần học 15/8-76
Vào thế kỷ 19, có một luồng thần học chủ trương rằng Đức Maria không phải chết và luồng thần học đó xin Đức Thánh Cha hãy định tín như vậy. Với lý luận cũng như lập trường của họ, họ cho rằng Đức Maria không mắc tội nguyên tổ, nên không phải chết bởi vì sự chết là hình phạt của tội nguyên tổ.
Tuy nhiên đa số các nhà thần học cho rằng Đức Maria đã chết và sau đó được sống lại. Đức Piô XII không bàn tới vấn đề này, không nói rằng Mẹ không phải chết, cũng chẳng nói Mẹ đã chết và đã sống lại; nhưng chỉ nói rằng: sau khi chấm dứt cuộc đời dương thế, Mẹ được cất về trời cả xác và hồn. Nhìn Đức Mẹ ngủ, tôi thấy sáng lên vẻ đẹp thánh thiện cao quý. Mẹ tuyệt đẹp vì Mẹ đầy ơn Chúa. Mẹ đẹp thánh thiện vì ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội. Mẹ đẹp cao quý vì làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Mẹ tuyệt mỹ vì niềm tin đơn sơ và cuộc sống khiêm nhường. Nét đẹp ấy thoang thoảng như như một hương thơm hảo hạng toả ra lôi cuốn. Nét đẹp ấy mặn mà như thứ muối thiêng liêng. Nét đẹp ấy lung linh như ánh sáng dịu mát. Nét đẹp ấy huyền diệu như âm nhạc dịu êm mời gọi con người nâng tâm hồn lên tới Chúa.
Ngày 1-11-1950, đúng vào dịp lễ Các Thánh Nam Nữ, Đức Thánh Cha Piô XII long trọng tuyên bố tín điều Đức Maria Hồn Xác Lên Trời : “Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh, sau khi sống trọn cuộc đời trần thế, đã được triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc”.
Và khởi đi từ lời tuyên bố trong Thánh Lễ tuyên tín long trọng hôm ấy, mầu nhiệm Đức Maria được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn và xác, trở thành chân lý đức tin cho toàn thể Giáo hội.
Mở ra những trang Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo từ số 963- 975, ta thấy 5 lý chứng rất mạnh mẽ và xác thực minh chứng việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời:
Vì Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô: Thánh Kinh diễn tả rõ ràng Đức Maria hiệp thông chặt chẽ với Chúa Giêsu trong nhiệm cuộc cứu chuộc, và luôn chia sẻ số phận với Con. Vậy xét theo thiên chức làm Mẹ, đương nhiên đòi hỏi phải có việc Mẹ và Con hòa hợp sum vầy với nhau, vì cả hai đã yêu mến nhau tha thiết, cho nên chắc chắn Chúa Kitô vì lòng hiếu thảo, đã ban cho Mẹ mình được hồn xác về Trời sau khi ly trần, là điều hợp tình hợp lý.
Vì Đức Maria Trọn Đời Trinh Khiết: Thiên Chúa đã làm cho Đức Maria chịu thai, sinh con mà vẫn trinh nguyên, thì sau khi Mẹ qua đời, Ngài đã gìn giữ thân xác Đức Mẹ khỏi hư nát, và sau khi đem Mẹ về Trời, Ngài đã làm cho xác Mẹ nên vinh hiển. Nên thánh Đamascênô tiến sĩ quả quyết: Vì Đức Mẹ đã được sinh con mà vẫn trinh nguyên, thì cần thiết là sau khi qua đời, xác Đức Mẹ cũng phải được bảo tồn nguyên vẹn.
Vì Đức Mẹ luôn hợp tác với Chúa Kitô: ngay từ thế kỷ II, các Giáo Phụ đã trình bày Đức Mẹ như là một Evà Mới hợp tác chặt chẽ với Adam Mới là Chúa Kitô để chiến thắng satan. Vì thế, cũng như Chúa Kitô sống lại vinh hiển là việc thiết yếu và là dấu chiến thắng cuối cùng, thì Đức Mẹ đã cùng Con chiến đấu cũng phải được cùng Con chiến thắng, nghĩa là Thân Xác Đồng Trinh của Đức Mẹ cũng phải được Lên Trời Vinh Hiển.
Vì Đức Mẹ Đầy Ơn Phúc: các thánh tiến sĩ đã coi việc Đức Mẹ Hồn Xác về Trời như là bổ túc cho việc Đức Mẹ được Đầy Ơn Phúc. Như lời cha Ađômêô quả quyết: Thân xác Đức Mẹ không hề bị hư nát vì đã kết hợp với linh hồn và đã được đầy ơn.
Vì Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội: theo lời xác quyết của Đức Thánh Cha Piô XII: Thân xác con người bị chết và bị tan rã ra tro đất là do hậu quả tội Nguyên Tổ. Đức Maria không hề mắc tội Nguyên Tổ, cũng không hề có tội riêng, cho nên đương nhiên và rất hợp lý là Đức Maria được Hồn Xác Về Trời”.
Mẹ về trời có nghĩa là mẹ đang sống. Sự sống của Mẹ không phải chỉ giới hạn trong cuộc đời, nhưng bao trùm cả lịch sử: Lịch sử của cả loài người lẫn lịch sử của mỗi người chúng ta.
Đức Mẹ là một thụ tạo nhưng được Thiên Chúa cho về trời cả hồn và xác mà không phải đi qua ngưỡng cái chết, gọi là “mông triệu”. Đó là một đặc ân vì Mẹ vô nhiễm nguyên tội, hoàn hảo các nhân đức, và mau mắn xin vâng Thánh ý Chúa Cha. Đức Mẹ về trời là ấn tín bảo đảm cho những người tin vào Đức Kitô cũng sẽ được sống lại và lên trời sau khi hoàn tất chuyến lữ hành trần gian. Lên trời là về Quê Hương Vĩnh Hằng, mục đích của mỗi Kitô hữu là như vậy.
Thị kiến kỳ lạ mà Gioan đã thấy và đã ám chỉ Đức Mẹ. Thánh Gioan cho biết thêm: “Tôi nghe có tiếng hô to trên trời: Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài” (Kh 12, 10). Thị kiến này cũng khiến chúng ta phải cẩn trọng hơn về đức ái, nhất là trong cách đối xử với tha nhân hằng ngày.
Ngay cả Hồi giáo cũng tôn trọng Đức Mẹ, coi Đức Mẹ là phụ nữ cao cả nhất trong Kinh Koran (Kinh thánh của Hồi giáo). Công giáo có nhiều danh xưng dành cho Đức Mẹ: Nữ vương Hòa bình, Đức Maria Trinh Vương, Đức Mẹ Phù hộ các Giáo hữu, Đức Mẹ Ban Ơn Lành, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Đức Mẹ Mân Côi, Đức Mẹ Thương Xót, Đức Mẹ Vô Nhiễm, Đức Mẹ Hoa Hồng,… và Đức Mẹ còn gắn liền với các địa danh trên khắp thế giới, riêng Việt nam cũng có Đức Mẹ La Vang, Đức Mẹ Giang Sơn, Đức Mẹ Mằng Lăng, Đức Mẹ Sao Biển, Đức Mẹ Trà Kiệu,…
Tác giả Thánh vịnh đã từng ca tụng: “Hàng cung nữ, có những vì công chúa, bên hữu ngài, hoàng hậu sánh vai, trang điểm vàng Ô-phia lộng lẫy. Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy lắng tai, quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ. Sắc nước hương trời, Quân Vương sủng ái, hãy vào phục lạy: Người là Chúa của bà” (Tv 45, 10-12)
Quyền năng và tình yêu Chúa tràn đầy trên Mẹ làm cho Mẹ được khỏi tội tổ tông và được đầy ơn ơn sủng ngay từ trong lòng mẹ. Quyền năng và tình yêu Chúa bao phủ suốt cả đời Mẹ trên từng ý nghĩ, từng tình cảm, từng mỗi hành động, từng mỗi bước đi… khiến cho tâm hồn Mẹ luôn hướng về Chúa mà tạ ơn và ngợi khen liên lỉ. Quyền năng và tình yêu Chúa đong đầy trọn vẹn nhất trong khoảnh khắc lịch sử, Mẹ lên trời cả hồn cả xác. Đặc ân cao trọng này, chính là triều thiên sáng chói bao phủ lên Mẹ, vốn đã được “Thánh Thần ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao rợp bóng trên bà” (Lc 1,35).
Với lời Xin Vâng và bằng lời Xin Vâng trót cả tâm tình phó thác, Mẹ để cho Thiên Chúa hoàn toàn làm chủ cuộc đời của mình để làm những việc Thiên Chúa muốn làm trong chương trình cứu rỗi loài người chúng ta.
Ngày Chúa Giêsu Đấng Cứu thế ra đời, khởi đầu công việc cứu thế, Mẹ có mặt ở đó để chứng kiến giây phút trọng đại này.
Lúc Chúa khởi sự cuộc đời công khai, tại tiệc cưới Cana, Mẹ có mặt ở đó như một người mẹ luôn lo lắng cho con cái của mình.
Lúc Chúa rao giảng: Mẹ có mặt xa xa; nhưng khi Chúa bị treo trên Thánh Giá: Mẹ đứng thật gần. “Mẹ đứng sát cạnh Chúa Giêsu… như một trợ lực cho người con để Ngài làm xong những công việc cần phải làm cho mọi sự được hoàn tất.”
Và vào ngày đầu tiên đánh dấu sự ra đời của Giáo hội, Mẹ có mặt ở đó với tất cả lòng yêu thương để khích lệ các tông đồ can đảm dấn thân vào cuộc sống mới: Cuộc sống làm chứng cho Chúa Giêsu Phục sinh.
Và rồi Mẹ cũng tiếp tục có mặt, có mặt như một nhắc nhở để những người con của mẹ nơi trần thế chớ có vì cuộc sống tạm bợ mà quên mất trời cao.
Trong Mầu nhiệm Mân Côi mùa Mừng, mầu nhiệm thứ tư: Đức Chúa Trời cho Đức Mẹ lên trời. Xin cho con được chết lành trong tay Đức Mẹ. Mầu nhiệm thứ năm: Đức Chúa Trời thưởng Đức Mẹ trên trời. Xin cho con được thưởng cùng Đức Mẹ trên Nước Thiên Đàng. Hai mầu nhiệm này không chỉ nhắc nhở chúng ta cầu nguyện với Đức Mẹ, mà còn hy vọng được trường sinh để cùng Đức Mẹ mãi mãi chúc tụng Thiên Chúa. Đường về dù xa hay gần, đường đi có thể gập ghềnh nhiều nỗi, nhưng có Đức Mẹ đồng hành thì chúng ta cứ an tâm tiến bước.
Mẹ Maria đã được Chúa đưa cả hồn và xác về trời. Mẹ Maria không chết. Tình Mẹ vẫn mãi mãi thiên thu ở bên đoàn con suốt cuộc đời. Thế nhưng, niềm vui và hạnh phúc chỉ ngập tràn trong cuộc đời chúng ta nếu chúng ta ý thức Mẹ vẫn đang sống bên cạnh chúng ta. Chúng ta đang từng phút giây tận hưởng tình thương và sự chăm sóc vỗ về của Mẹ, nhưng thật bất hạnh nếu chúng ta chỉ sống như người mồ côi, thì có lẽ chúng ta cũng chỉ ngậm ngùi như người Phật Tử nhận lấy bông hồng trắng trong ngày của mẹ với lời ai oán: “Mất mẹ là mất cả bầu trời” thương yêu.
Mừng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời là chúng ta xác tín lại niềm tin của chúng ta vào Chúa Giê-su: Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại.
Xin Đức Mẹ Maria luôn cầu bàu cho mỗi người chúng ta khi còn ở đời này, biết yêu mến những sự trên trời và để sống như đang sống với Mẹ ở trên trời.
------------------------------
Trầm Thiên Thu
Người ta thường nói: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Một cách ví von đơn giản 15/8-77
Người ta thường nói: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Một cách ví von đơn giản mà thâm thúy.
Trong cuộc sống đời thường, người mẹ có mức ảnh hưởng sâu đậm tới con cái – hầu như về mọi lĩnh vực. Mẹ đi đâu, con thường khóc đòi theo. Ở bên mẹ vừa an toàn vừa vui sướng. Đặc biệt hơn, chúng ta có một Người Mẹ của các người mẹ là Đức Maria, Thánh Mẫu Thiên Chúa. Chắc chắn chúng ta không thể không ảnh hưởng – nhất là về tâm linh.
Thật vậy, Thánh Ðamianô xác định: “Ðược sống dưới sự che chở của Đức Mẹ là một hạnh phúc lớn lao”. Còn Thánh François de Sales khuyên: “Hãy chạy đến với Đức Maria, ngã vào vòng tay Mẹ với lòng tin tưởng hoàn toàn”.
Theo nghĩa bình thường, lên trời là niềm mơ ước của nhiều người, nhưng chỉ ít người đạt được, số ít đó là các phi hành gia. Họ đã lên đó và “gặp” Hằng Nga, điều ma xưa kia là điều không tưởng. Theo nghĩa bình thường như vậy, và mang tính khôi hài một chút, phải nói rằng Chú Cuội là người lên Cung Trăng đầu tiên.
Lên trời như vậy chỉ là “tham quan” mặt trăng, hoặc “khám phá” một hành tinh nào đó, hoặc tìm hiểu các “lỗ đen” trong vũ trụ. Với các Kitô hữu, “lên trời” như vậy chỉ là… “chuyện nhỏ”, “về trời” mới đáng nói, vì đó là Quê Hương Đích Thực, về trời để vĩnh cư chứ không ở chơi ít lâu rồi thôi. Đặc biệt là nơi có Đức Kitô và Đức Maria đang chờ chúng ta. Vâng, về trời là niềm hy vọng lớn nhất và là hoài bão cuối cùng của những người tin vào Đức Giêsu Kitô Tử Nạn và Phục Sinh.
Nhưng muốn theo Đức Mẹ về trời thì phải noi gương sống của Đức Mẹ, nghe lời dạy của Đức Mẹ là “tuân phục Ý Chúa” – tức là “xin vâng” (Lc 1:38), và nhiệt thành làm “chứng nhân của Chúa cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:8), và quan trọng là can đảm cùng Đức Mẹ đứng dưới chân Thánh Giá để nhận lời trăn trối của Chúa Giêsu (Ga 19:25-27).
Đức Mẹ đã về trời cả hồn và xác – cũng gọi là Đức Mẹ mông triệu (*). Đó là một minh chứng hùng hồn và cụ thể bảo đảm cho niềm tin của chúng ta. Tín điều này được ĐGH Piô XII công bố ngày 1-11-1950, qua Thông điệp “Munificentissimus Deus” (Thiên Chúa Quảng Đại).
Nói tới chuyện “lên trời” có liên quan chuyện “hồn ra khỏi xác”, tức là chết. Có chết rồi mới sống lại và lên trời. Chết là “cửa ngõ” vào sự sống vĩnh hằng. Ai muốn làm công dân Thiên Quốc, chắc chắn người đó phải sống Luật Chúa một cách ngoan cường và anh dũng.
TỪ THỊ KIẾN…
Thánh Gioan kể lại thị kiến về Đền Thờ Thiên Chúa ở trên trời mở ra, với điềm lớn xuất hiện: “Một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12:1). Thật là vinh quang, nhưng không thiếu gian khó là sự công bằng tất yếu: “Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con” (Kh 12:2). Quả thật, không có vinh quang nào lại không có đau khổ. Chính Đức Kitô đã phải qua “cửa tử” rồi mới tới “cửa sống” và chiến thắng khải hoàn. Đau khổ có giá trị cao lắm!
Thánh Gioan cho biết thêm: “Một Con Mãng Xà đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà” (Kh 12:3-4). Đây là người-con-đặc-biệt, chính “người con trai này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân”, rồi sau đó, “Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người” (Kh 12:5), còn “người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc, nơi Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày” (Kh 12:6).
Khi thấy thị kiến này, Thánh Gioan nghe có tiếng hô vang trên trời cao: “Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài” (Kh 12:10). Lúc đó là thời điểm gì? Đó là Giờ Cứu Độ, là thời điểm cuối cùng, là buổi cánh chung, là ngày tận thế, là lúc Chúa Giêsu giáng lâm để xét xử nhân loại, là Giờ Công Lý, không còn Giờ Thương Xót nữa.
Thánh Vịnh diễn tả về Đức Mẹ là “Hoàng Hậu đứng bên hữu Đức Vua, mặc đồ trang điểm vàng ròng lộng lẫy” [Tv 44 (45):10]. Cả triều thần hát vang lời chúc tụng: “Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy lắng tai, quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ” [Tv 44 (45):11]. Một khi được trực diện Thánh Nhan, gặp chính Thiên Chúa, người ta không còn cần bất kỳ thứ gì khác, vì niềm hạnh phúc quá lớn lao.
Và chính Hoàng Hậu cũng vậy, vì “Người là Chúa của bà” [Tv 44 (45):12]. Người-được-gặp-Chúa không thể trì hoãn bày tỏ niềm hạnh phúc tuyệt vời, dù chỉ trong khoảnh khắc: “Lòng hoan hỷ, đoàn người tiến bước, vẻ tưng bừng, vào tận hoàng cung” [Tv 44 (45):16]. Trên Núi Tabor, ba Tông đồ (Phêrô, Giacôbê và Gioan) cũng đã từng được tận hưởng niềm hạnh phúc lâng lâng khôn tả, và các ông chẳng còn cần gì nữa (Mt 17:1-9; Mc 9:2-8; Lc 9:28-36).
…TỚI HIỆN THỰC
Đức Kitô là Thiên Chúa Ngôi Hai, đã bị giết chết nhưng cũng đã thực sự sống lại. Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của người sống chứ không phải của người chết. Thánh Phaolô xác định: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1 Cr 15:20). Tại sao vậy chứ? Thánh Phaolô giải thích: “Nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” (1 Cr 15:21-24). Rất rạch ròi, rõ ràng!
Quả thật là thế, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người: Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết (1 Cr 15:25), đó là “kẻ độc ác nhất”, và Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Theo Thánh Phaolô, khi nói muôn loài thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Bởi vì, theo Thánh Phaolô, “lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô, thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15:28). Lý luận cao kiến của Nhà Tư Tưởng vĩ đại Phaolô rất mạch lạc, tuyệt vời, và dễ hiểu!
Thánh sử Luca kể ngắn gọn nhưng đầy đủ: Hồi ấy, cô Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa, vào nhà Anh Dacaria và chào hỏi Chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng Em Maria chào, đứa con trong bụng nhảy lên, Chị Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần và nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1:42). Không thể chờ đợi lâu hơn, Chị Êlisabét liền reo vui: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1:43-45).
Đức Mẹ trở thành người diễm phúc nhờ đức tin kiên vững. Vấn đề là chỗ đó, nhưng đức tin phải vững vàng chứ không thể tin cho có, tin cho vui, tin cho… giống người ta, tin để khỏi “lạc bầy”. Điều này nhắc chúng ta phải tự chấn chỉnh và chăm sóc đức tin của chính mình!
Niềm vui có sức lan tỏa, có khả năng nối kết. Vừa nghe Bà Chị Êlisabét “khen nức” như vậy, Đức Maria không thể kiềm chế niềm vui thánh đức, liền cất tiến ca ngợi Thiên Chúa bằng Bài Thánh Ca Magnificat (Lc 1:46-55):
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;
Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả,
Danh Người thật chí thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.
Những lời vàng ngọc của Đức Mẹ chứa đầy sự khiêm nhường, niềm tín thác và lòng yêu thương. Đó cũng là lời kinh mà Giáo hội vẫn dùng để cầu nguyện hằng ngày trong giờ kinh Nhật Tụng.
Sau đó, “Đức Maria ở lại với Chị Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà” (Lc 1:56). Đức Mẹ đi thăm người chị họ theo phép xã giao, thể hiện yêu thương, nhưng vấn đề chính là để “báo tin mừng”, muốn phục vụ bà chị đang thai nghén bé Gioan Tẩy Giả. Đức Mẹ không đi tu ngày nào, chẳng hề tiên khấn, đơn khấn hoặc vĩnh khấn, nhưng Đức Mẹ đã anh dũng và kiên cường sống trọn vẹn ba lời khấn: Thanh tuân, thanh bần, và thanh khiết. Một tấm gương chói ngời mà ai ai cũng phải “soi” vào – nhất là các giáo sĩ và tu sĩ.
Đức Maria tự nhận mình là “phận nữ tỳ hèn mọn”, nhưng Thiên Chúa đã biến Đức Mẹ thành một Phụ nữ cao trọng bậc nhất trong các loài thụ tạo. Khiêm nhường là nền món vững chắc của Tòa Nhà Đức Tin.
Lạy Thiên Chúa, chúng con tạ ơn Ngài đã ban cho chúng con một Thánh Mẫu hơn cả sự tuyệt vời. Xin thương giúp chúng con biết phục vụ trong sự khiêm nhường và tình yêu thương. Lạy Hiền Mẫu của chúng con, xin dẫn chúng con theo Mẹ về trời bằng cách biết “xin vâng” như Mẹ trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Con Yêu Dấu của Mẹ, Sư Phụ và Đại Huynh Trưởng của chúng con. Amen.
——-
(*) “Mông triệu” có gốc từ chữ Hán, được rút gọn từ 4 chữ “mông chủ (chúa) sủng triệu”, những từ ngữ thường được nghe trong các phim lịch sử của Trung Hoa. “Mông” là “chịu” hoặc “được”, “triệu” là “gọi” (triệu tập, hiệu triệu). “Mông triệu” có nghĩa là “được sủng ái” (yêu mến) nên được Chủ (Chúa) gọi (về trời), Anh ngữ dùng thuật ngữ “dormition” nghĩa là “ngủ”, tức là “chết mà như ngủ”.
`
------------------------------
Lm. Jos. DĐH
Khi vui thì cười, lúc buồn lại khóc, gặp đau khổ phải thở than, gặp may mắn thành công, thì hạnh phúc, 15/8-78
Khi vui thì cười, lúc buồn lại khóc, gặp đau khổ phải thở than, gặp may mắn thành công, thì hạnh phúc, hệ quả ấy là điều tự nhiên đối với chúng ta, những con người mang trái tim bằng thịt. Thiên hạ bá nhân bá tính, có người vui vì được ăn ngon mặc đẹp, có người vui vì vừa “trúng mánh” trong làm ăn, có người vui vì được nổi tiếng… Nhiều câu hỏi và thắc mắc rất cần được lý giải, chia sẻ, nhất là những ai đang khao khát hoàn thiện mình, vì ý thức cùng đích hạnh phúc của con người không hoàn toàn ở trần gian này.
Hôm nay mừng Mẹ lên trời, Giáo Hội không diễn tả trên trời thế nào, thay vào những ưu tư đó, chúng ta được dẫn đến “niềm vui phục vụ”, nơi một hiền mẫu mang tên Maria. Đức Maria vui vì có dịp lên đường thăm người chị họ, vui vì được phục vụ trong tình nghĩa chị em. Đức Maria vui vì biết rằng Thiên Chúa đoái thương nhân loại, thực hiện lời hứa cứu độ nơi những tâm hồn bé nhỏ, và tiếp tục làm sống động nơi hai con trẻ Gioan và Giêsu. Niềm vui và hy vọng không dừng lại nơi hai tâm hồn thánh đức, khiêm tốn, nhưng vui vì Thánh Thần tác động làm vang lên lời “kinh Magnificat”.
Tụ ngữ có câu : cha mẹ ngoảnh đi, con dại ; cha mẹ ngoảnh lại, con khôn. Bầu khí thân thương gia đình, không hệ tại cá nhân nào, gia đình hạnh phúc là do các thành viên cùng nỗ lực vun đắp. Kinh nghiệm ở đời cho chúng ta thấy : con cái khôn ngoan, vẻ vang cha mẹ. Đức Maria và người chị họ, hẳn chưa dám nghĩ gì đến chuyện khác ngoài niềm vui vì Thiên Chúa đoái thương tới “phận nữ tỳ hèn mọn”, cần phải chu toàn bổn phận đối với tình Chúa yêu thương. Đức Maria hôm nay ở Thiên quốc, tuy không hiện diện để trực tiếp nói với chúng ta, nhưng Mẹ cũng rất vui vì được phục vụ các linh hồn, được hiệp thông cầu nguyện cho chúng ta là con cái của Mẹ.
Cổ nhân nói rằng : người tình nguyện giúp đỡ người khác, không phải vì nợ người đó cái gì, mà vì người ta xem người đó là bạn. Tinh thần phục vụ của Đức Maria là tự nguyện, là vui mừng nhìn nhận người chị họ, là công khai tự nhận mình trong thân phận mọn hèn được Chúa yêu thương. Vui để làm việc, vui để phục vụ, vui để biết sống yêu thương, đặc biệt vui để biết cảm tạ tri ân, đem tình Chúa vào sâu trong tình người. Thiên Chúa không mắc nợ con người, nhưng Ngài luôn mơ ước ban phát và thông chia hạnh phúc cho từng tâm hồn chúng ta.
Hôm nay đây mừng Mẹ Lên Trời, thánh sử Luca cho thấy nét đẹp của Đức Maria không phải là giàu sang phú quý, không phải vì thông thái hơn người, nhưng chính là nét đẹp của tâm hồn đơn sơ thánh thiện, luôn khiêm tốn để ý Chúa được thực hiện. Hôm nay đây, Chúa đang mỉm cười vì chúng ta bất kể giàu hay nghèo, Chúa vui vì chúng ta biết sống tinh thần khiêm tốn như Mẹ Maria, tinh thần của người môn đệ theo Chúa Kitô. Hôm nay đây, niềm vui phục vụ vẫn được xã hội, được mọi đối tượng kính nể, vì trong phục vụ anh chị em mà thiếu đi niềm vui chỉ là một sự đánh đổi mà thôi.
Trong Thúy Kiều của Nguyễn Du có câu : đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Như lời nhắc nhớ, chỉ những ai đã từng đau khổ, đã từng sống trong vui buồn sướng khổ, họ sẽ đủ kinh nghiệm để chia sẻ, để trợ giúp chúng ta đến thành công. Đức Maria đã sống ơn gọi làm con Thiên Chúa, đã sống niềm vui phục vụ trong ba tháng bên người chị họ, đã theo Đức Giêsu 33 năm tại trần thế…. Hôm nay đây, chính niềm tin đã cho chúng ta biết Đức Maria vẫn đang vui vì được phục vụ Giáo Hội, vui vì được hiệp thông trọn vẹn với Chúa Giêsu nơi tâm hồn thế nhân. Vui vì sẽ có chúng ta đạt được hạnh phúc Nước Trời. Amen
------------------------------
P.Trần Đình Phan Tiến
Vâng, kính thưa quý vị, thưa các bạn Đoạn Tin Mừng ( Lc 1, 39 -56) hôm nay được Giáo Hội chọn 15/8-79
Vâng, kính thưa quý vị, thưa các bạn Đoạn Tin Mừng ( Lc 1, 39 -56) hôm nay được Giáo Hội chọn đọc trong Lễ trọng thể mừng kính Đức Maria Hồn Xác về Trời, là một Đoạn tin Mừng không xa lạ với người Kitô hữu. Bởi vì, Đọan Tin Mừng hôm nay là Đoạn Tin Mừng gắn liền với sự kiện “Trọng Đại” của Đức Mẹ.
Như chúng ta biết, đây là Đoạn Tin Mừng gắn liền sau biến cố “Truyền Tin “, từ biến cố Truyên Tin, Đức Mẹ đã trở nên “Gương Mẫu” cho mọi dân tộc, đầu tiên là dân tộc Israel của Mẹ, sau đó là toàn thể nhân loại.
Vâng, Đoạn Tin Mừng ( Lc 1, 39 -56) hôm nay sẽ xác quyết điều ấy. Theo đó, Đoạn Tin Mừng hôm nay có hai phần rõ ràng:
Thứ nhất : Đức Maria đi thăm viếng người chị họ Ê-li-sa-bét ( c 39 – 45)
Thứ Hai : Đức Maria ngợi khen chúc tụng Thiên Chúa.
Như chúng ta biết, sau khi sứ thần Truyền Tin, Mẹ “đáp lời” xin vâng, đồng thời, Mẹ nhận được tin “mừng” của người chị họ Ê-li-sa-bét. Thần trí Mẹ vui mừng hoan hỷ, cùng với Thánh Sùng trong cung lòng của Mẹ là Đấng Cứu Thế, Tức ơn Cứu Độ đã tỏ hiện , đã có “hiệu nghiệm’ nơi một Nữ Tỳ hèn mọn của Thiên Chúa. Vâng, sự hèn mọn nơi Mẹ là sự khiêm cung, sự vâng lời Thiên Chúa tuyệt đối nơi Mẹ, sự khiêm nhường thẳm sâu của một thụ tạo trước Đấng Tạo Thành, để cộng tác vào Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa .Hèn mọn của một thụ tạo trước Đấng vô biên, Mẹ luôn xác tín điều ấy.
Một tâm trạng hoan hỷ của một vị vửa được nhận lời “Truyền Tin” , Lời mà sứ thần loan báo, và một sự kiện lạ lùng, mà chính Mẹ cảm thấy “ bối rối” lúng túng “lo âu”. Một đặc ân, mà muôn vật nín thở đợi chờ, đó là “giây phút “ Truyền Tin. Giây phút, mà mọi thụ tạo muôn đời ngóng trông, nhưng , chỉ một “người phụ nữ” diễm phúc “nhận lãnh”. Đó là Đức Trinh Nữ Maria đời đời diễm phúc. Và , quả thật là như vậy.
Từ đó, ân sủng diệu kỳ không dành cho một mình Mẹ, nhưng, từ ân sủng “trọng đại” ấy, Mẹ đã được diễm phúc đứng đầu cả một thế hệ của “lòng tin”, vâng, và như vậy, Mẹ được chúc phúc để đứng đầu nhân loại mới, tức một thế hệ được tái sinh trong mầu nhiệm cứu độ…
Vì vậy, khi Mẹ gặp gỡ người chị họ, sau khi tất tả vượt một đoạn đường dài để đến nơi, sự gặp gỡ chân tình , và lời chào của Mẹ, thì thai nhi trong lòng bà Ê-li-sa-bét cũng nhảy mừng.Một tín hiệu kỳ diệu, mà chính bà Ê-li-sa-bét phải cất lên lời: “Bởi đâu, tôi được Mẹ ( Thân Mẫu ) Chúa tôi, viếng thăm tôi thế nầy, vì tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì hài nhi trong dạ nhảy mừng. Em thật có phúc vì enm đã tìn rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em : ( c 43 – 45) Chúng ta thấy, lời chúc tụng, đồng thới xác tín mầu nhiệm cứu độ mà Mẹ đang mang đến cho gia đình bà Ê-li-sa-bét. Như vậy, ơn Cứu Độ đầu tiên được đến với gia đình bà Ê-li-sa-bét, là thân mẫu thánh Gioan Tiền Hô.
Một sự khen ngợi không phải đầu môi , chót lưỡi, mà là từ trong tâm trí, trong cung lòng của một con người cũng được Thiên Cjhúa đoái thương. Vâng, khi nhận được, hay là được sống trong tâm trạng như thánh Ê-li-sa-bét, chúng ta có cảm nhận và trân quý tình Thiên Chúa như gia đình thánh nữ Ê-li-sa-bét khi được Đức Maria đem đến không ?
Phần thứ hai : Bài ca Magnificat
Qua lời chúc ngợi chân thành, tức nói lên sự thật của bà Ê-li-sa-bét, Đức Maria đã cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa.
Phần ngợi khen của Đức Maria là lời cảm tạ chân thành, tri ân sâu thẳm của một thụ tạo đang đón nhận một công trình Cứu Độ vĩ đại của Thiên Chúa. Vì từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa , Đấng Cứu Độ tôi. (c 47)
Vâng, Mẹ đã xác tín ơn Cứu Độ là do bởi Thiên Chúa, sự xác tín ấy trước tiên là cho chính bản thân Mẹ. Toàn thân cả hồn và xác Mẹ xác quyết điều ấy.
Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới ; tứ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. (c 48)
Mẹ tuyên tín vào tình thương của Thiên Chúa, một người tín hữu trung kiên xác quyết niềm tin tuyệt đối vào Đấng toàn năng. Một đặc ân, mà chính Mẹ cảm nhận được qua ơn cứu độ, mà ơn cứu độ ấy không phải dành cho một ai , mà hết thảy mọi đời sẽ khen Mẹ diễm phúc. Như vậy, điều nầy, và từ đây” Mẹ sẽ là Mẹ của một dân tộc được đón nhận ơn cứu độ”, và dân tộc ấy trường cửu, trường tồn. Như vậy, mẹ được gọi là ”Eva mới”, hay là “Mẹ chúng sinh”, “Mẹ nhân loại mới”.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, Danh Người thật chí thánh, chí tôn ! ( c 49).
Lời chúc tụng chân thành của một thụ tạo trước Đấng Tạo Thành thật là phải lẽ. Song, nơi Mẹ, còn là một sự xác quyết tuyệt đối, không đấu môi, chót lưỡi.
Vì Mẹ xác quyết rằng : Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người ( c 50).
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. ( c 51).
Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.( c 52)
Vâng, chính là Thiên Chúa, và chỉ có Thiên Chúa mới làm được như vậy. lời ca tụng bởi sự xác quyết và lời xác quyết bởi chân lý. Nói lên, đặc tính duy hất nơi Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng. Sự Toàn Năng, tức sự vô biên, đứng trên sự hữu hạn của thụ tạo. Đức Maria đã được soi sáng cảm nhận, xác tín, đặc tính duy nhất tuyệt đối, nhưng do bởi “Lòng Xót Thương” , có nghĩa là vô vị lợi nơi Thiên Chúa dành cho nhân loại và người đứng đầu là Mẹ. Một đặc sủng vô tiền khoáng hậu , mà Thiên Chúa ban cho Mẹ.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng. ( c 53)
Sự công bằng tuyệt đối, sự an ủi cao vời Chúa dành cho người nghèo khó. Nghèo khó ở đây không hẳn nhiên là vật chất, mà là tâm linh, vì người nghèo vật chất, đôi khi chưa hẳn là người tốt, do lười biếng, hay ích kỷ. Nếu do bệnh tật, do thiếu thốn điều kiện, hay do thiếu tài năng. Ý nói ở đây là, giữa những người Israel có học thức, giới kinh sĩ, biệt phái. Sự giàu có theo nghĩa Tin Mừng có nghĩa là chấp nhận đánh đổi cuộc sống vất chất trần thế để đổi lấy Nước Trời.
Nghèo khó của cải vất chất là không gian tham, không mưu mô hãm hại tha nhân để chiếm đoạt bất công, vì mọi thứ đều có sở hữu. Sở hữu chủ của vật chất là công sức tạo ra trong đó có ân ban bởi Thiên Chúa.
Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ap-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời.” ( c 54 -55)
Như vậy, Đức Mẹ thật am tường Thánh Kinh, cuộc đời của Đức Mẹ đến tuổi thiếu nữ nầy, nhưng Mẹ hiểu lịch sử Lời hứa ban ơn Cứu Độ của Thiên chúa, đồng thời, Thánh Thai Chúa Cứu Thế đang ngự trong cung lòng Mẹ, mặc nhiên ân sủng Thần Linh đang tác động đến thần trí Mẹ.
Như vậy, khởi đi từ bài đọc I , sách Khải Huyền (Kh 11, 19a; 12, 1-6a; 10ab) hôm nay mặc khải mầu nhiệm Hồn Xác về Trời của Đức Maria. Một chân lý hiển nhiên, vì nơi Mẹ không vướng tỳ vết nguyên tổ và tội riêng, một đặc ân hữu lý, mà Thiên Chúa dành cho Mẹ.
Cũng như Chúa Giêsu là Đầu Hội Thánh, là Trưởng Tử, thì Đức Maria là Mẹ nhân loại mới, Mẹ cưu mang, sinh hạ một Tân Kỷ Nguyên Cứu Độ, mà Ngôi Lời là Giêsu, mặc nhiên, thân xác hữu hình của Mẹ không vường mắc điều gì, và để minh định tín điều xác loài người sẽ sống lại, mặc nhiên, thân xác hữu hình của Mẹ cũng được sống lại cùng với Linh hồn vẹn sạch của Mẹ. Và , điều nầy đối với Mẹ chỉ là thời gian mà thôi. Sự bắt đầu từ môt thụ tạo tinh tuyền được sống lại cả hồn và xác ở trên thiên đình, chính là đích điểm, đồng thời là dẫn đầu trong mầu nhiệm xác thân của loài người là một niềm tin bất tử, bất diệt như linh hồn. Chỉ chết thật khi ở ngoài Thiên Chúa. Vì vậy, Thiên Chức của Đức Mẹ chính là Mẹ nhân loại.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, Cha đã ban cho loài người một Hiền Mẫu là Đức Trinh Nữ Maria, một thụ tạo kiều diễm trong ân sủng, MỘT NỮ TỲ KHIÊM ÁI, để cộng tác vào ơn Cứu Độ loài người bởi Cha. Người đã sinh hạ Đấng Cứu Thế mà hoàn toàn trinh khiết vẹn tuyền, nhờ quyền năng Thánh Thần, Người đã được diễm phúc làm Mẹ Đấng Cứu Chuộc. Vì vậy, đến hồi viên mãn, Người được Cha ban cho đặc ân về Trời cả hồn và xác., hầu minh định xác loài người cũng bất tử như linh hồn. Vì vậy, Người đã dẫn đầu một đoàn con cái đông số và được gọi là Mẹ Nhân Loại./. Amen
LẠY NỮ VƯƠNG HỒN XÁC VỀ TRỜI , CẦU CHO CHÚNG CON.
------------------------------
--Lm Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Trong ngày mừng lễ Đức Maria được đưa lên trời cả hồn lẫn xác, phụng vụ lại cho chúng ta chiêm 15/8-80
Trong ngày mừng lễ Đức Maria được đưa lên trời cả hồn lẫn xác,
phụng vụ lại cho chúng ta chiêm ngắm một Đức Maria trong đời thường.
Lúc ấy Mẹ là một cô thiếu nữ, vượt đoạn đường dài hơn 100 cây số,
đi từ Galilê lên Giuđê, để thăm bà chị họ cao niên đang mang thai.
Bầu khí gặp gỡ là bầu khí của niềm vui.
Maria là người cất tiếng chào trước.
Tiếng chào ấy đã làm thai nhi Gioan nhảy mừng trong lòng mẹ (c. 44)
và làm bà Êlisabét ngỡ ngàng chúc tụng tán dương (cc. 42-45).
Maria cũng hân hoan cất lời ngợi khen Thiên Chúa (cc. 46-47).
Bầu khí gặp gỡ là bầu khí của Thánh Thần.
Maria đầy Thánh Thần từ khi cưu mang Đức Giêsu (Lc 1, 35).
Êlisabét đầy Thánh Thần từ khi nghe Maria chào (Lc 1, 41).
Nhờ Thánh Thần, bà Êlisabét đã khám phá ra bí mật của cô em.
Cô có phúc hơn mọi phụ nữ, vì cưu mang người Con tuyệt vời (c. 42).
Cô còn có phúc vì dám tin điều Thiên Chúa nói (c. 45).
Chính Mẹ cũng nhận mình là người diễm phúc vì được muôn hồng ân (c. 48).
Đem Đức Giêsu đến nhà, thăm viếng, chào hỏi, ở lại, phục vụ:
đó là những điều Mẹ Maria đã làm cho bà chị họ ngày xưa,
và vẫn còn làm cho chúng ta hôm nay trên trời.
Mẹ được tôn vinh không phải để xa cách, mà để gần gũi với con người.
Đấng tự xưng là nữ tỳ của Chúa thì đã sống như nữ tỳ của nhân loại.
Lễ Đức Mẹ được đưa lên trời cả hồn lẫn xác, nhắc chúng ta nhiều điều.
Lễ này nhắc chúng ta về thế giới của Thiên Chúa, về quê hương vĩnh cửu.
Chúng ta dễ bị hút xuống thế giới này, với vẻ đẹp và nỗi khốn cùng của nó.
Chúng ta loay hoay giải quyết không xong những vấn đề của trái đất,
vì quên nhìn nó từ trên cao và hướng nó về trời cao.
Lễ này cũng nhắc chúng ta về giá trị cao quý của thân xác.
Thân xác đi với ta suốt cả cuộc đời, chịu gian khổ và được tôn vinh với ta.
Chẳng thân xác nào gần Đức Giêsu bằng thân xác của Mẹ.
“Phúc cho người phụ nữ đã cưu mang Thầy và cho Thầy bú mớm.”
Tay Mẹ đã bồng ẵm Con từ Bêlem, qua Ai Cập, lên Đền thờ.
Tay Mẹ cũng đã ôm xác Con mình, được đưa xuống từ thập tự giá.
Mẹ sống bên Giêsu gấp mười lần thời gian các tông đồ sống bên Ngài.
“Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (Ga 12, 26).
Hơn ai hết Mẹ là người đã gắn bó phục vụ Đức Giêsu bằng cả cuộc đời.
Hơn ai hết Mẹ xứng đáng được ở bên Con cả hồn lẫn xác.
Lễ Mẹ Lên Trời là lễ của niềm hy vọng cho cả nhân loại.
Người Kitô hữu thêm xác tín về nơi mình sẽ đến.
Mẹ là người được hưởng trước những gì chúng ta sẽ được hưởng.
Dù cuộc đời người theo Chúa lắm gian truân và hy sinh,
nhưng kết thúc lại rất tươi và có hậu.
Lễ Mẹ Lên Trời, chỉ xin được yêu mến những sự bền vững trên trời,
và bớt bị mê hoặc bởi những điều chóng qua dưới đất.
Cầu nguyện :
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.
Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
------------------------------
--GM. GB. Bùi Tuần
Lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời là một tiếng gọi, Chúa gọi chúng ta, Đức Mẹ gọi chúng ta, những tiếng 15/8-81
Lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời là một tiếng gọi, Chúa gọi chúng ta, Đức Mẹ gọi chúng ta, những tiếng gọi này có thể rất đa dạng như.
Hãy tạ ơn Chúa vì đã ban cho Đức Mẹ ơn được lên trời cả hồn lẫn xác.
Hoặc: hãy xin Đức Mẹ cầu bầu cho ta cũng được theo Mẹ lên trời.
Hoặc: Hãy nhớ lại muôn vàn ơn Đức Mẹ đã ban cho ta, hiện nay và từ trước, để ta biết đi vào đúng đường lên trời.
Trong những tiếng gọi khác nhau, tôi thấy có tiếng gọi tôi cho là khẩn cấp. Tiếng gọi đó được diễn tả trong lời sau đây của thánh Phaolô: “Các con hãy biết run sợ lo sao cho mình được cứu độ” ( Pl 2, 12).
Được cứu độ là việc không dễ dàng. Vì thế, nếu chúng ta “biết run sợ lo cho mình” được cứu độ, thì thái độ của chúng ta là rất đúng. Bởi vì Chúa Giêsu khẳng định: “Được mọi sự thế gian, mà phải mất linh hồn mình, thì nào có lợi gì “ ( Lc 9, 25).
Trong niềm tin đó, và với sự run sợ lo cho phần rỗi của mình, tôi xin chia sẻ mấy thực tế, mà tôi thiết nghĩ là rất cần cho phần rỗi.
Những thực tế mà tôi coi là cần cho phần rỗi, sẽ không phải là tránh tội này tội tọ, nhưng là hãy có những lối sống đạo đức. Chúa Giêsu đã truyền dạy một cách rõ ràng về một số lối sống đạo đức, mà Người cho là cần cho phần rỗi.
1/ Sống tu thân
Chúa Giêsu dạy: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” ( Mt 7, 13- 14)
Với lời cảnh báo trên, Chúa Giêsu đã đề cập đến vấn đề tu thân. Tu thân là sống theo cửa hẹp. Cửa hẹp là những kỷ luật trong thái độ sống, trong cách suy nghĩ, trong cách dùng thời giờ, của cải, sức khỏe và những phương tiện xác hồn, nhất là trong sự vâng lời và trong xét đoán.
Tu thân như thế là một bổn phận đối với mọi người.
Riêng đối với những ai muốn trở thành môn đệ Chúa, thì tu thân phải đi xa, đi sâu hơn nữa. Chúa Giêsu phán: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình theo” ( Mt 16, 24).
Trong một thế giới hưởng thụ, tu thân là một nét đẹp của nền giáo dục.
Đi vào đường hẹp, chính là đi vào đường phát triển con người, vừa theo hướng đi lên với Chúa, vừa theo hướng gặp gỡ con người.
Nó là một nghệ thuật để giới thiệu các giá trị đạo đức.
Nó khẳng định một nền đạo đức sâu sắc đi đôi với việc được sai vào đời, để loan báo Tin Mừng.
Nhất là nó phản ánh phần nào Đức Kitô thành Nadarét. Người đã sống hoàn toàn tự do, nhưng khi lựa chọn đường hẹp tu thân, Người đã cho thấy đường hẹp tu thân là cách mở rộng chân trời cứu độ.
2. Sống thực thi ý Chúa.
Chúa Giêsu phán: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào thôi”
“Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi chẳng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao? Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi. Xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác.
“Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá…Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát” ( Mt 7, 21-26).
Những lời Chúa phán trên đây dạy ta hai điều:
Một là thực hành lời Chúa mới có giá trị, chứ không phải chỉ học hiểu lời Chúa suông đủ.
Hai là khi thực hành lời Chúa, thì phải để ý thi hành đúng ý Chúa. Đúng ý Chúa là làm đúng việc, đúng cách, đúng lúc, đúng tâm tình Chúa muốn có và đúng ý hướng trong sạch trước mặt Chúa.
Đức Kitô diễn tả tình yêu Chúa Cha bằng nhiều cách khác nhau, tuỳ từng giai đoạn. Ba mươi năm ỏ Nadarét thì Người âm thầm. Ba năm đi đây đi đó thì Người công khai làm phép lạ và rao giảng. Tuần lễ cuối đời thì Người tự ý nộp mình chịu mọi đau đớn, nhục nhã.
Đức Mẹ hầu suốt đời nâng đỡ Con mình một cách lặng lẽ.
Như vậy, thực hành đúng ý Chúa đòi phải gắn bó mật thiết với Chúa, để có thể biết được ý Chúa và co sức thực thi ý Chúa.
Thực tế cho chúng ta thấy rằng: Thực hành đúng ý Chúa không phải chỉ do thiện chí của ta, mà ta cũng phải biết rõ việc ta được sai đi. Ai sai ta? Sai đến nơi đâu? Phải đến lúc nào? Nên làm gì ở đó? Chỉ hiểu sơ thế thôi, cũng thấy việc thực thi ý Chúa là việc không dễ dàng. Nhất là thời nay đang xuất hiện nhiều loại thông tin, đúng có sai có; thêm vào đó là nhiều loại ý kiến, tốt có xấu có, nguy hiểm nhất là phát sinh nhiều thứ áp lực, trong ta và ngoài ta. Ai không có bản lãnh và tiêu chuẩn đạo đức vững, sẽ dễ bị choáng váng chao đảo, lạc vào những nẻo đường đưa tới tuyệt vọng.
3/ Sống tin vào Đức Giêsu Kitô.
Cách sống theo Đức Giêsu Kitô trước hết là tin Đức Giêsu là chân lý. Người phán: “Chính Thầy là đường đi, là chân lý và là sự sống” (Ga 14, 6). Tin vào Người như thế là tin Người chính là Ngôi Hai Thiên Chúa, nói tắt là Đức Giêsu Kitô chính là Thiên Chúa.
Vì thế, ta tin mọi điều Người truyền dạy là chân lý cứu độ: “Anh em hãy tin vào Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy… Thật, Thầy bảo thật các anh em ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm” (Ga 14, 11-12)
Từ đó, tin vào Đức Giêsu Kitô là giữ lời Người và yêu mến Người: “Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” ( Ga 14, 21)
Chúa Giêsu còn đưa người đó tới Chúa Cha “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy” (Ga 14, 23).
Khi niềm tin đó đi sâu hơn nữa, người ta được mời gọi gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu như cành với cây. Chúa phán: “Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được” (Ga 15, 5).
Như vậy, tin Chúa Giêsu là giữ lời Người, là yêu mến Người, là gắn bó mật thiết với Người. Niềm tin đó đặt Chúa Giêsu là nền tảng. Ta tin và thực hành điều gì, là vì Chúa Giêsu đã dạy. niềm tin này sẽ cứu ta khỏi những hoang mang thắc mắc, do áp lực dư luận, các nền văn hoá và các phong trào thế tục đặt ra. Nó cũng cứu ta khỏi những hoang tưởng kiêu căng.
Chúng ta vừa điểm qua ba lối sống:
- Sống tu thần
- Sống thực thi ý Chúa.
- Sống tin vào Đức Giêsu Kitô.
Ba lối sống này là những gì Chúa đã nhấn mạnh. Ai giữ ba lối sống đó sẽ cộng tác với ơn Chúa ban cho mình để được cứu rỗi.
Ta có ý thức về ba lối sống đó không? Ta có thường ngày giữ ba lối sống đó một cách nghiêm túc không?
Khi xét minh để trả lời những câu hỏi đó, chúng ta có thể lo sợ. Nhưng chính sự lo sợ ấy sẽ giúp chúng ta khiêm nhường, để sửa mình. Như thế, chúng ta sẽ đáp lại tiếng gọi của Chúa, của Đức Mẹ và của Hội Thánh một cách chân thành. Thiết tưởng đó là một chuẩn bị tốt để mừng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời.
------------------------------
--TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Mẹ Maria ý thức mình chỉ là nữ tỳ hèn mọn của Thiên Chúa, nên hoàn toàn tín thác 15/8-82
Sứ điệp: Mẹ Maria ý thức mình chỉ là nữ tỳ hèn mọn của Thiên Chúa, nên hoàn toàn tín thác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Vì vậy, Mẹ đã trở thành người có phúc và được Thiên Chúa nâng cao: cho lên trời cả hồn lẫn xác.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, hợp tiếng với Đức Mẹ, con dâng lời ngợi khen Chúa. Cuộc đời Mẹ là một chuỗi những hồng ân cao cả và kỳ diệu.
Phần Mẹ, Mẹ luôn nhìn nhận Mẹ chỉ là nữ tỳ hèn mọn. Mẹ không bao giờ để cho lòng ngờ vực cản trở chương trình của Chúa. Trái lại, Mẹ nhận ra thân phận nhỏ bé của mình, nên hoàn toàn tín thác vào chương trình cứu độ của Chúa. Mẹ chỉ biết buông theo ân sủng, sẵn sàng để cho Chúa dẫn đi. Vì thế, Mẹ rất xứng đáng với lời ca ngợi của bà Ê-li-sa-bét: Mẹ là người có phúc vì Mẹ đã tin. Nhờ lòng tin mà Mẹ đã đón nhận bao phúc lành của Chúa. Nhờ lòng tin mà trong cuộc đời Mẹ, hồng ân nối tiếp hồng ân.
Lạy Chúa, nhìn lại cuộc đời con, con cũng nhận ra tất cả đều là hồng ân của Chúa. Tuy nhiên, Chúa không thể dẫn con đi xa hơn và lên cao hơn được vì con chưa vững tin vào chương trình cứu độ của Chúa. Đã nhiều lần con đã để cho cái lợi trước mắt và lòng ngờ vực cản trở công việc Chúa làm nơi con.
Nhờ gương mẫu và lời chuyển cầu của Đức Mẹ, xin Chúa giúp con nhận ra những hồng ân kỳ diệu Chúa thực hiện trong đời con. Xin cho con vững tin vào Chúa, dám chìa tay ra để Chúa nắm lấy và dẫn đi theo con đường Chúa muốn. Amen.
Ghi nhớ: “Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại: Người nâng cao những người phận nhỏ”.
------------------------------
--TGM. Têphanô Nguyễn Như Thể, TGP Huế
1. Kính thưa cộng đoàn hành hương,
Đức Maria đi thăm người chị họ Êlisabet. Chị em gặp nhau, tay bắt mặt mừng. Bỗng chốc, như 15/8-83
Đức Maria đi thăm người chị họ Êlisabet. Chị em gặp nhau, tay bắt mặt mừng.
Bỗng chốc, như trong phút xuất thần, Đức Maria được Chúa Thánh Linh gợi hứng, liền cất tiếng ngợi khen cảm tạ Thiên Chúa:
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;
từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
Đây cũng là tâm tình ngợi khen tạ ơn của toàn thể Giáo Hội và của cộng đoàn hành hương chúng ta hôm nay, khi cùng nhau cử hành phụng vụ Thánh lễ, mừng kính Đức Mẹ được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn cả xác.
a. Những lời cảm tạ ngợi ca đó nói lên tất cả tấm lòng của Đức Mẹ: đó là toát lược cả cuộc đời Mẹ, cả chương trình sống của Mẹ, là con đường tu đức của Mẹ: mãi mãi là người tôi tớ xin vâng, luôn luôn tán tụng tạ ơn Chúa và luôn luôn phó thác trong tay Chúa toàn năng và từ bi.
- Quyền năng và tình yêu Chúa đổ xuống tràn đầy trên Mẹ làm cho Mẹ được khỏi tội tổ tông và được đầy ơn Chúa ngay từ giây phút đầu tiên tượng thai trong lòng bà thánh Anna: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
- Tình yêu và quyền năng Chúa bao phủ suốt cả đời Mẹ trên từng ý nghĩ, từng tình cảm, từng mỗi hành động, từng mỗi bước đi..., khiến cho lòng Mẹ luôn hướng về Chúa mà tạ ơn và ngợi khen: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả... Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”.
- Quyền năng và tình yêu Chúa được thi thố một cách đặc biệt tận mức và toàn vẹn nhất trong giây phút Chúa đưa Mẹ về trời cả hồn cả xác.
b. Giờ đây trong giây phút lên trời, những lời ca ngợi bên thềm nhà bà Êlisabét mới được thực hiện một cách hoàn hảo trọn vẹn sung mãn nơi mình Mẹ, mới nói lên hết ý nghĩa và tâm tình của Mẹ đối với Chúa toàn năng và yêu thương.
- Tưởng không có lúc nào lòng Mẹ ngợi khen Chúa một cách say sưa nồng nàn cho bằng giây phút Chúa đưa Mẹ về trời hồn xác: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi”. Mẹ được cứu chuộc toàn vẹn. Một mình Mẹ trong con cái loài người đã chiến thắng hoàn toàn ma quỷ và tội lỗi.
- Tưởng không có khi nào Mẹ cảm thấy thân phận tôi tớ hèn mọn nầy lại được cất nhắc cao trọng cho bằng giây phút Mẹ lên trời.
- Tưởng không có lúc nào Mẹ cảm nghiệm được quyền năng và tình yêu vô biên của Chúa cho bằng trong giây phút Chúa hiển dương Mẹ về trời.
2. Anh chị em thân mến,
a. Đức Mẹ đã đi trước chúng ta qua hết mọi nẻo đường đời của một người dân bình thường nghèo khó:
- nẻo đường đi về Bê-lem không nơi trú ngụ, và phải sinh con trong hang bò lừa;
- nẻo đường lánh cư sang Ai cập đầy tiếng khóc la của các bà mẹ, bởi hài nhi con mình vô tội bị giết;
- đường vào tiệc cưới Cana có tiếng vui cười của thực khách và đôi tân hôn;
- đường lên núi Calvariô, có tiếng nguyền rủa, tiếng roi xé thịt, tiếng búa đóng đinh của các lý hình;
- đường loan Tin mừng Chúa Phục Sinh và đường thẳng lên trời hồn xác trong tiếng reo vui của trời đất, của thần thánh, của loài người.
Đức Mẹ đã sống thánh giữa đời, đã nên thánh qua những chặng đường vui, sáng, thương, mừng.
b. Trong cuộc sống hôm nay, chúng ta cũng đang đi lại những chặng đường của Đức Mẹ: có cả vui, sáng, thương, mừng. Chúng ta lần hạt, tràng chuỗi nơi tay, miệng thầm thỉ, lòng kết hiệp với các mầu nhiệm vui mừng và đau thương cùng vinh quang của Đức Mẹ. Chúng ta cũng lần hạt một cách thiết thực nữa trong cuộc sống hằng ngày, mà tràng chuỗi và những hạt chuỗi giờ đây chính là những hạt mồ hôi, những giọt nước mắt, những khổ đau, những oan ức... và cũng chính là những tiếng vui cười, những tia hy vọng, những niềm hân hoan... Đó là tràng chuỗi sống, đi đôi với việc đọc kinh lần hạt của chúng ta.
3. Anh chị em thân mến,
a. Ngày lễ Mẹ lên trời hồn xác hôm nay đem lại cho chúng ta một niềm hy vọng lớn lao. Một người trong nhân loại chúng ta đã toàn thắng ma quỷ và tội lỗi: ma quỷ không thể khống chế được Mẹ Maria trong một giây phút nào hết, tội lỗi không thể để lại một dấu vết nào, một hậu quả tác hại nào trên mình Mẹ hết. Lời tiên báo từ ngàn xưa trong vườn địa đàng, khi Chúa tuyên án ma quỷ lấy hình con rắn cám dỗ, thì hôm nay đã được thực hiện một cách viên mãn: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người phụ nữ, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy, dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St. 3,15).
b. Cử hành mầu nhiệm Mẹ lên trời hồn xác là tôn vinh sự thành công mỹ mãn của ơn thánh Chúa nơi Đức Mẹ, là tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho Mẹ ơn cứu độ sung mãn, nhờ được hưởng trước công phúc tử nạn của Chúa Giêsu Kitô.
Hình ảnh Mẹ lên trời hồn xác là một Tin mừng lớn lao, loan báo tương lai chung cục của Giáo Hội và của mỗi người chúng ta rồi cũng sẽ được rực rỡ như vậy:
- nếu chúng ta biết sống như Mẹ,
- nếu chúng ta biết liên kết con đường làm người của chúng ta với những chặng đường mà Mẹ đã đi qua một cách tuyệt vời, trong đức tin, đức cậy và đức mến.
4. Anh chị em thân mến,
a. Một trưa mùa hè oi ả, những hành khách trên chiếc xe đò lặng lẽ nhìn ra con đường đơn điệu. Cái nóng nực và chuyến đi buồn tẻ hầu như giam hãm mọi người trong một thứ thinh lặng nặng nề.
Nhưng ở một trạm dừng kia, mọi người bỗng ra khỏi cái uể oải ngái ngủ, để đưa mắt nhìn về một phụ nữ trẻ bước lên xe. Chiếc xe từ từ lăn bánh. Người phụ nữ bắt đầu nói cười và đùa giỡn với đứa con thơ chị đang bồng trên tay. Khuôn mặt vui tươi của người phụ nữ và tiếng cười hồn nhiên của đứa bé đã thu hút sự chú ý của hành khách trên xe. Trong phút chốc, một ngọn gió mát của hiếu kỳ, của liên đới, của tham dự và của sức sống đã đem lại bầu khí tươi mát cho mọi người. Hành khách như bừng tỉnh ra khỏi cơn gà gật ngái ngủ.
Rồi nơi nầy có người bắt đầu nói chuyện. Nơi kia rộn lên tiếng cười rôm rả. Hành khách chuyện trò cười nói càng lúc càng vui vẻ hơn. Bây giờ thì chuyến đi không còn là một cuộc độc hành lầm lì nữa.
Kính thưa cộng đoàn hành hương,
b. Trên chuyến xe cọc cạch và buồn tẻ của thế giới, một người nữ đã bước lên. Tình yêu và sự sống đã bừng dậy. Người nữ ấy chính là Mẹ Maria. Cùng với Chúa Giêsu, Mẹ đã vội vã lên đường, bước lên chiếc xe ì ạch của một thế giới rã rời, để biến nó thành một cuộc hành trình vui tươi và đầy ý nghĩa. Mẹ mang Chúa Giêsu đến cho trần thế, và với Ngài, Mẹ đã biến đổi cuộc hành trình buồn tẻ của thế giới thành một lễ hội của gặp gỡ, của sẻ chia, của hân hoan và tin tưởng. Từ nay, tuyến đường mà nhân loại đang đi sẽ kết thúc bằng một điểm đến rõ rệt: đó là đến cùng Chúa Giêsu là đường đi, là sự thật, là sự sống.
Nào, tất cả chúng ta hãy cùng Mẹ “vội vã lên đường”:
- con đường Tin, Cậy, Mến,
- con đường yêu thương và phục vụ,
- con đường vui mừng và hy vọng.
c. Bài ca nhập lễ hôm nay mời gọi chúng ta ngước mắt nhìn lên Mẹ. Bài ca trích lại mấy lời trong sách Khải Huyền: “Có điềm lạ xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh. 12,1).
Dấu lạ vĩ đại nầy vẫn luôn chiếu sáng giữa trời đất và càng chiếu sáng hơn nữa trong những giờ phút đen tối đầy sóng gió bão táp của cuộc đời. Toàn thể Giáo Hội không ngừng ngước mắt nhìn lên dấu lạ nầy, vì đó là dấu chỉ lòng cậy trông vững vàng và là niềm an ủi lớn lao cho Dân Chúa đang bước đi trên đường lữ thứ trần gian (x. LG. 68).
Dấu lạ vĩ đại đó là Mẹ Maria khoan nhân dịu dàng, hằng luôn cầu bầu cho chúng ta trước Tòa Chúa, hằng làm cho chúng ta được sống, được vui và được đầy lòng trông cậy. Amen.
------------------------------
--GM Giuse Nguyễn Chí Linh, Gp Thanh Hóa
Trọng kính Đức Khâm sứ Tòa Thánh, Đức Hồng Y, Quý Đức Tổng, quý Đức Cha và toàn thể anh chị em.
Lại một lần nữa chúng ta có dịp mừng lễ Đức Maria Hồn Xác Lên Trời tại linh địa La Vang đầy 15/8-84
Lại một lần nữa chúng ta có dịp mừng lễ Đức Maria Hồn Xác Lên Trời tại linh địa La Vang đầy kỷ niệm êm đềm thánh thiêng này. Tâm hồn mỗi người chúng ta rộn lên niềm vui khi nghĩ rằng chúng ta may mắn được làm con của một người Mẹ vô tiền khoáng hậu, được kính trọng nhất trong lịch sử nhân loại.
Chưa một ai đã được tạc tượng tạo ảnh nhiều như Đức Maria. Ở Âu châu, không một ngôi làng nhỏ bé nào không có hình tượng Mẹ; trên thế giới, không một thành phố nào không có nhà nguyện hay linh đài tôn vinh Mẹ.
Lời kinh được đọc nhiều nhất trên hành tinh, lời kinh chưa bao giờ ngừng nghỉ trong lịch sử Giáo Hội, lời kinh của hàng tỉ người công giáo, chính là lời chào bà Isave dành cho Mẹ: "Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà. Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ".
Bài ca được hát nhiều nhất không phải là một bản tình ca lừng danh thế giới, nhưng đáng ngạc nhiên lại là bài ca Magnificat, "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, Thần trí tôi hớn hở vui mừng" mà tác giả chính là Đức Maria. Mỗi lần một cộng đoàn Giáo Hội cử hành kinh chiều hay dâng lời ơn, bài ca mầu nhiệm ấy lại trổi lên du dương như một kiệt tác bất khả thay thế.
Đối với rất nhiều Kitô hữu Việt Nam, một ngày không có Kinh Kính Mừng không phải là một ngày đúng nghĩa, một ngày không có Kinh Lạy Nữ Vương là một ngày trơ vơ chênh vênh, một ngày không có Kinh Mân Côi là một ngày rời rạc không nhựa sống...Tắt một lời, ngày không có Đức Maria đồng hành không phải là ngày.
Cũng vì những tâm tình thuơng mến đó mà kể từ ngày Mẹ hiện ra an ủi tín hữu lâm nạn vào cuối thế kỷ 18, hàng hàng lớp lớp khách hành hương đã tuôn về đây mỗi lúc một đông. Họ đã kêu cầu Mẹ và Mẹ đã nhận lời. Những tấm bia tạ ơn dày đặc đàng kia phải chăng là bằng chứng tình Mẹ La Vang luôn dạt dào lai láng?
Rõ ràng là theo dòng thời gian, niềm tri ân Đức Mẹ La Vang, tình yêu mến Đức Mẹ La Vang, lòng cậy trông Đức Mẹ La Vang càng ngày càng thiết tha nồng nàn, càng ngày càng tràn trào dâng cao, không gì đủ hùng mạnh để ngăn cản, không gì đủ rộng rãi để chứa đựng.
Thật vậy, thuở ban đầu La Vang chỉ là vùng kỷ niệm của giáo dân trong khu vực giáo xứ Cổ vưu. Nhưng chẳng bao lâu sau, La Vang đã mau chóng trở thành điểm hành hương của Giáo Phận Huế, để rồi năm 1958, đã được chọn làm nơi tổ chức Đại Hội Thánh Mẫu Toàn Quốc, với sự hiện diện của Đức Hồng Y Agagianian, Tổng Trưởng Bộ Truyền Giáo, được Đức Thánh Cha Gioan XXIII chính thức cử làm đặc sứ. Cũng chính vị Cha Chung hoàn vũ này, ngày 22.08.1961, đã nâng nhà thờ La Vang lên bậc "Tiểu Vương Cung Thánh Đường".
Nhiều đoàn hành hương nước ngoài đã đến La Vang, nhất là năm 1998, nhân dịp kỷ niệm 200 Đức Mẹ hiện ra tại đây, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã cử Đức Hồng Y Tổng Giám Mục Hà Nội thay mặt ngài chủ sự thánh lễ.
Gần đây nhất, nhân dịp Năm Thánh 2010-2012 kỷ niệm 350 năm thành lập hai giáo phận Việt Nam đầu tiên, Đức Thánh Cha Beneđitô XVI đã cử Đức Hồng Y Ivan Dias, Tổng trưởng bộ Truyền Giáo làm đặc sứ của ngài để chủ sự lễ bế mạc ngay tại La Vang này.
Đó là bằng chứng cho thấy La Vang không còn là điểm hành hương của riêng Giáo Hội Việt Nam, nhưng đã được Giáo Hội toàn cầu công nhận và thăm viếng.
Vì thế mà trong lòng mỗi người tín hữu dân Việt, trong nước cũng như hải ngoại, lúc nào cũng cháy bỏng ước mơ sẽ có một nơi xứng đáng để tôn kính Mẹ. Giấc mơ lớn dần và đã chính thức trở thành quyết tâm của các đấng Bản quyền: trong cuộc họp thường niên tại Huế ngày 13.4.1961, các Giám Mục miền Nam đã khấn hứa khi hoàn cảnh thuận lợi, sẽ xây cất một Đền Thánh biệt kính Mẹ La Vang, rồi trong thư luân lưu tháng 8 cùng năm, đã long trọng công nhận La Vang là Trung Tâm Thánh Mẫu toàn quốc VN.
Giấc mơ đó hôm nay đang trở thành hiện thực qua nghi thức đặt viên đá đầu tiên.
Chỉ một viên đá đơn sơ nhưng ý nghĩa thật lớn lao. Lớn lao bởi vì nó kết tụ nguyện vọng của tất cả mọi thế hệ Kitô hữu Việt Nam. Lớn lao bởi vì tuy nhỏ bé, nó là biểu tượng tình hiệp thông rộng lớn của mọi thành phần Dân Chúa. Lớn lao bởi vì trên viên đá này chúng ta sẽ ghi lời khấn nguyện tha thiết nhất của Giáo Hội và dân tộc Việt Nam, của cộng đoàn và của từng tâm hồn chúng ta. Và lớn lao hơn nữa là tại nơi tôn nghiêm này, Mẹ chúng ta sẽ "tiến lên như rạng đông", sẽ "đẹp như mặt trăng", sẽ "rực rỡ như mặt trời", sẽ "oai hùng như đạo binh xếp hàng vào trận".
Có lẽ nhiều người tự hỏi: "Mẹ đã về trời sao còn có thể ở lại đây?"
Thật ra, chúng ta thường tưởng tượng cách sai lầm rằng khi lên trời, Mẹ di chuyển trong không gian từ thấp lên cao. Nhưng theo Thánh Kinh, "được đưa lên trời" chỉ có nghĩa là "được sống trong Chúa sau khi lìa đời". Cũng vì vậy mà khi công bố tín điều Đức Maria mông triệu, Đức Thánh Cha Piô XII đã tránh dùng hai chữ "lên trời". Ngài chỉ diễn tả cách đơn sơ rằng: "sau khi hoàn tất cuộc đời tại thế, Mẹ Thiên Chúa đã được đưa về trời cả hồn lẫn xác, trong vinh quang vĩnh cửu..."
Lúc sinh thời tại thế, muốn thăm viếng ai Mẹ phải dùng đôi chân thể xác đi từ chỗ nọ đến chỗ kia. Nay được "đưa vào vinh quang", Mẹ không cần di chuyển nữa. Cùng một lúc, Mẹ có thể thăm viếng bất kỳ ai trong chúng ta, vì Mẹ cũng ở khắp mọi nơi như Chúa và với Chúa.
Rốt cuộc, đối với Kitô hữu, trời không phải là cõi cao xa vời vợi. Trời chính là sự hiện diện của Chúa và của Mẹ. Đặt viên đá đầu tiên xây dựng thánh đường dâng kính Mẹ, chúng ta cũng "đặt viên đá" cho sự hiện diện linh thiêng bền vững của Mẹ tại linh địa này và nơi thâm sâu cõi lòng chúng ta.
Năm xưa, "trong những ngày ấy, Mẹ đã vội vã lên đường..." Hôm nay, Mẹ cũng đon đả đến La Vang này, nơi con cái Việt Nam đang chờ đón Mẹ. Năm xưa, Mẹ "vào nhà Zacaria và chào bà Isave". Hôm nay, Mẹ cũng đến với từng cuộc đời, ân cần hỏi han hoàn cảnh từng người chúng ta. Năm xưa, khi được Mẹ thăm viếng, "Isave đã được tràn đầy Thánh Thần". Lời chào của Maria đã biến ngôi làng Ain Karem thành Lễ Hiện Xuống đầu tiên. Hôm nay, mỗi lần mở miệng chào "Kính mừng Maria đầy ân phúc", cùng với Mẹ, chúng ta cũng mở đường cho Thần Linh Chúa tiến vào Giáo Hội, tiến vào thế giới và tiến vào cõi lòng chúng ta.
Chính nhờ Mẹ đến thăm, tâm hồn Isave đã tràn ngập niềm vui khiến bà tự hỏi: "Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi."
Dấu chân thăm viếng của Mẹ đã để lại niềm vui dạt dào trong lòng Isave. Khi hiện ra với giáo hữu bị bách hại tại đây, Mẹ cũng tái tạo niềm tin của họ. Nếu cuộc truy lùng của quan quân triều đình đã biến La Vang thành khu rừng sợ hãi, Mẹ đã thăm viếng và đã biến nó thành cõi yên hàn an vui. Mẹ không hề trừng phạt quan quân đã gây khốn khó cho con cái Mẹ. Mẹ đến chỉ để cứu thoát họ khỏi cảnh truy bức hung tàn. Thông điệp phát đi từ La Vang là thông điệp của hòa bình và của trái tim Từ Mẫu.
Lịch sử của La Vang cũng giống như lịch sử của dân tộc VN. Đã bao lần đồng bào đồng hương con Lạc cháu Hồng vì chưa biết yêu thương nhau nên đã gây cảnh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt, biến đất nước thành một khu rừng chém giết sợ hãi.
Lạy Mẹ Maria,
Chúng con xin Mẹ hãy viếng thăm để cứu chúng con khỏi hận thù thương đau. Ước gì hôm nay, tại linh địa này, viên đá đầu tiên chúng con đặt xuống cũng là viên đá yêu thương, khởi đầu một tương lai yên ấm thuận hòa cho quê hương đất nước thân yêu chúng con. Amen.
------------------------------
--GM Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
Suy Niệm:
Nghe qua những bài Kinh Thánh hôm nay, chúng ta thấy phụng vụ dường như muốn hướng tâm 15/8-85
Nghe qua những bài Kinh Thánh hôm nay, chúng ta thấy phụng vụ dường như muốn hướng tâm hồn chúng ta về trời để thấy Ðức Mẹ đang ở trên đó qua bài sách Khải huyền; Người đang hân hoan ngợi khen Chúa qua bài Tin Mừng; và đặc biệt Người đang cảm mến ơn phúc hồn xác được ở trong vinh quang Thiên Chúa qua bài thư Phaolô. Nhưng nếu đọc kỹ lại, chúng ta có thể tự hỏi chưa chắc những bài Kinh Thánh kia đơn giản như vậy. Và biết đâu khi đó chúng ta sẽ thấy rằng Lời Chúa hôm nay nhắm vào chúng ta hơn Ðức Mẹ và dường như Chúa muốn gương sáng của cuộc đời Ðức Mẹ để giáo huấn và bổ dưỡng chúng ta trong cuộc đời dương thế. Chúng ta hãy thử tìm hiểu những bài đọc Kinh Thánh kia.
A. Bài Sách Khải Huyền
Thánh Yoan thấy Ðiện thờ Thiên Chúa ở trên trời mở ra. Và Khám Giao ước hiện ra trong Ðiện thờ của Người. Tức là người nhìn thấy thời đại cánh chung, thời đại Nước Trời, thời đại Thiên Chúa đến ở cùng nhân loại. Bởi vì theo tâm tư của người Do Thái thời bấy giờ, nói đúng hơn theo các sách Khải huyền thời thánh Yoan, người ta quan niệm đến thời gian sung mãn, Khám Giao ước sẽ lại hiện ra và lúc đó người ta có mạc khải toàn diện về giao ước, tức là về kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa.
Thời gian sung mãn dĩ nhiên là thời đại cánh chung, nhưng cũng là thời đại Thiên sai, thời Ðức Kitô xuất hiện mạc khải toàn diện chương trình của Thiên Chúa cho loài người. Chúng ta đang sống trong thời đại đó. Thế nên hiện tượng hay dấu hiệu mà thánh Yoan sắp nhìn thấy hẳn cũng phải đang xảy ra ở trước mắt chúng ta.
Người thấy một dấu lạ vĩ đại hiện ra ở trên trời: một Bà có mặt trời bao quanh, chân trên mặt trăng và đầu có triều thiên 12 ngôi sao. Chúng ta muốn đồng hóa Bà với Ðức Mẹ. Nhưng những điều thấy sau dường như không cho phép làm như thế. Vì "Bà đang thai nghén và kêu la đau đớn, quằn quại sinh con... Có một con rồng đứng chực trước mặt Bà, để Bà vừa sinh là nó nuốt con Bà... Nhưng con Bà đã được cất bổng lên nơi Thiên Chúa và Bà đã trốn vào sa mạc..."
Thú thật, chúng ta đã thấy khó hiểu rồi. Ðành rằng có thể giải thích: ở đây Yoan muốn nói đến việc Ðức Mẹ sinh Chúa Cứu thế. Nhưng lối giải thích này gặp nhiều khó khăn. Có nơi nào trong Kinh Thánh nói đến việc Ðức Mẹ sinh Chúa Yêsu mà phải đau đớn quằn quại đâu? Và cũng chẳng có nơi nào, nói rằng Ðức Yêsu đã tránh Satan như vậy. Ngược lại, Người phải đến để xua đuổi tà thần ra khỏi tâm trí và định mệnh loài người.
Ðàng khác, trong thư Phaolô có chỗ nói: người cưu mang phần rỗi các giáo dân của người và phải vất vả sinh họ ra trong đức tin. Ý tưởng ấy khuyến khích chúng ta thử nhìn người đàn bà trong đoạn Khải Huyền trên như là hình ảnh về Giáo hội. Giáo hội đang được Ơn Chúa bao bọc và có 12 chi họ, 12 Tông đồ tượng trưng bằng 12 ngôi sao. Giáo hội ở thời đại sung mãn này đang thai nghén đau đớn, quằn quại sinh ra các tín hữu... Ðàng trước Giáo hội và chung quanh Giáo hội, Satan luôn luôn quyện quanh để tìm mồi cắn xé. Nó rình nuốt con cái Giáo hội sinh ra. Nhưng chúng là con cái Chúa, là con cái trong Người Con Một của Thiên Chúa. Và Người Con này hiện đã được cất bổng lên nơi Thiên Chúa, lên ngai của Người. Và theo lời Thánh Kinh nói, những người con khác cũng đang được ở gần Thiên Chúa trong Ðức Yêsu Kitô. Còn người đàn bà kia, tức là Giáo hội đã trốn vào sa mạc, ở đó Thiên Chúa cung dưỡng bà 1,260 ngày. Con số này đã được nói tới ở đoạn trên cũng là 42 tháng và là ba năm rưỡi trời. Sách Ðaniel (7,25; 12,7) coi đó là thời gian bắt đạo thời Antiôkhô Epiphanê và vì thế nó trở thành biểu tượng thời kỳ cấm cách. Như vậy trong suốt thời kỳ bị bắt bớ và gặp khó khăn do Satan rảo quanh tìm mồi cắn xé, Giáo hội không lo sợ vì luôn được ơn Chúa phù trợ và dưỡng nuôi, cho đến ngày mọi sự nên trọn và quyền bính hoàn toàn thuộc về Ðức Kitô Chúa chúng ta.
Như thế bài sách Khải Huyền hướng chúng ta nhìn về Giáo hội. Giáo hội là Mẹ hằng sinh ra con cái Chúa trong đau thương vất vả. Giáo hội luôn bị rình chờ bắt bớ, nhưng đồng thời cả con lẫn mẹ luôn luôn được Chúa phù trợ.
Nhưng thường thường những gì nói về Giáo hội cũng có thể hiểu về Ðức Mẹ và về các linh hồn. Vì Ðức Mẹ là hình ảnh, là khuôn mẫu về Giáo hội. Hơn nữa Người cũng là Mẹ các tín hữu. Và rõ ràng Người phải đồng lao cộng tác với Chúa Cứu thế để sinh ra Giáo hội và các linh hồn. Ấy là chưa kể Ðức Mẹ cũng là một tín hữu, một "linh hồn". Và mỗi linh hồn cũng là người đàn bà trong đoạn Khải huyền trên. Linh hồn nào cũng phải cưu mang đức tin và đời sống ân sủng. Làm được một hành vi bác ái siêu nhiên, sinh ra được những hành động đức tin đẹp lòng Chúa, không phải là dễ. Người ta phải phấn đấu, chống lại Satan, thế gian và xác thịt. Người ta phải quằn quại trong cơn đau sinh nở như thánh Phaolô nói chung về thân phận toàn thể tạo vật hiện nay.
Suy nghĩ như vậy, bài sách Khải huyền đưa mắt chúng ta nhìn lên Ðức Mẹ trên trời thì ít, mà bảo chúng ta nhớ lại cuộc đời của Người ở trần gian thì nhiều. Mỗi lần sách Tin Mừng cho chúng ta thấy Người đứng bên Ðức Yêsu, chúng ta lại được chứng kiến Người như phải đau đớn đi vào con đường đức tin mỗi ngày một hoàn toàn hơn. Và nhất là Người đã thật sự quằn quại khi trở thành Mẹ của Yoan ở dưới chân Thánh giá, để có thể nói hằng ngày Người phải đồng lao cộng tác với Ðức Kitô và Giáo hội để sinh ra con cái Chúa ở trần gian này. Chúng ta phải cảm phục Mẹ và biết ơn Mẹ. Hằng ngày chúng ta phải mượn lời bà Elisabet mà chào Mẹ đầy ơn phúc. Và lúc ấy chúng ta sẽ được Mẹ dạy dỗ thêm.
B. Bài Kinh Tôn Dương
Thánh Luca viết: "Và Maria nói: hồn tôi tôn dương Chúa và thần trí tôi nhảy mừng Thiên Chúa". Nhưng thật ra Người có nói như vậy không? Mạch văn và hoàn cảnh khó cho phép chúng ta tin rằng đây thật là những lời đã trào ra từ lòng Ðức Mẹ khi Người đứng trước mặt bà Elisabet. Vị trí bài kinh "Tôn dương" là một vị trí giả dối. Nó cắt đứt câu truyện thăm viếng khá lâu. Nó lại nặng chất Do thái và Cựu Ước, khiến chúng ta nghĩ nó ít hợp với tư tưởng và văn chương Hylạp của thánh Luca. Và hoàn cảnh lúc hai người bà con gặp nhau chưa hẳn đã thuận lợi đến nỗi làm thốt lên được những cảm tình tôn giáo điêu luyện đến như thế.
Và nếu phân tích kỹ, bài Kinh Tôn dương khác nào một tổng hợp các suy tư của bao bài Thánh vịnh và khôn ngoan. Nó là tiếng nói của một cộng đoàn hơn là của một cá nhân. Nó có tính cách khách quan hơn là chủ quan.
Chúng ta có thể thấy ba phần rõ rệt. Thoạt đầu linh hồn tôn dương Chúa vì Người đã đoái thương đến phận hèn, tôi tớ của mình (46-49). Và như vậy cũng là hợp với đường lối của Người xưa nay hằng nhân nghĩa với kẻ khiêm nhu kính sợ và đuổi về tay không những kẻ giàu sang (50-53). Thái độ nhân nghĩa quảng đại của Chúa tỏ ra rõ rệt nhất khi đáp cứu Israel tôi tớ Người, như đã hứa cùng Abraham và dòng dõi ông (54-55).
Chúng ta không thấy ám chỉ gì tới những ơn trọng đại Ðức Mẹ vừa được. Càng không nêu lên việc Chúa vừa viếng thăm lòng bà Elisabét. Tất cả khiến chúng ta phải kết luận: bài ca tôn dương mà chúng ta vẫn gọi là của Ðức Mẹ, thực ra không phải là của riêng Người và do một mình Người sáng tác ra. Nhưng đó là tâm tình của cả Giáo hội, trong đó có Ðức Maria. Ðó là bản kinh phụng vụ của cộng đoàn Do thái - Kitô giáo tiên khởi đã cảm hứng khi suy nghĩ về ơn Chúa cứu độ mình. Ðược hạnh phúc của ngày hôm nay, Giáo hội thấy mình là đối tượng của lòng Chúa thương yêu đã tuyển chọn mình hầu thừa tự mọi Lời Hứa xưa.
Ðức Mẹ ở trong Giáo hội, là biểu tượng của Giáo hội. Người sẽ chẳng trách thánh Luca đã đặt bản kinh Tôn dương trên môi miệng Người. Và chắc chắn Giáo hội phải cám ơn thánh nhân đã làm cho bản kinh của Dân Thiên Chúa được thêm giá trị khi được mô tả như đã từ lòng Ðức Mẹ thốt ra.
Còn chúng ta khi đọc kinh này, không những chúng ta nghĩ đến những tâm tình chân thật của Ðức Mẹ và của Giáo hội, mà chúng ta cũng phải sung sướng nhận lấy làm của mình. Vì thật sự ai có lòng đạo đức mà không thấy mình trong bản kinh ấy? Tất cả đời sống đạo đức của chúng ta không hoàn toàn là tác phẩm của Thiên Chúa hay sao? Sở dĩ chúng ta được như ngày nay là vì Người đã nhìn đến phận hèn tôi tớ, vì lòng nhân nghĩa của Người từ đời nọ đến đời kia, vì Người nhớ lại Lời Hứa cùng tổ phụ Abraham cho đến muôn đời. Và chúng ta sẽ càng đọc kinh này sốt sắng khi chúng ta càng ý thức đang mang trong mình ơn cứu độ cao cả như Ðức Maria xưa, khi Người được bà Elisabét nhắc đến quả có phúc trong lòng Người.
Như vậy, chúng ta càng quý kinh này hơn khi biết nó là tác phẩm của cả Giáo hội và đã được Ðức Mẹ mà cho thêm giá trị. Và cũng như Giáo hội ngày nay chỉ còn muốn diễn tả kinh này qua tâm tình của Ðức Mẹ, thì chúng ta cũng phải kết hợp với Ðức Mẹ mỗi khi đọc kinh này. Ðức Mẹ, Giáo hội và chúng ta gắn bó mật thiết với nhau như vậy, thế mà nhiều khi chúng ta không hay biết! Ðiều ấy đã đúng trong quá khứ và hiện tại thì cũng đúng trong tương lai như lời thư Phaolô hôm nay cho thấy.
C. Bài Thư Phaolô
Thánh Tông đồ không hiểu sao có người lại không tin sự phục sinh, tức là việc kẻ chết sau này sẽ sống lại. Như vậy thì sự chết hay tử thần sẽ không bao giờ bị giết sao? Mà nó là kết quả của tội lỗi, thì như vậy cũng không bị xóa bỏ hoàn toàn ư? Ơn cứu độ của Chúa Kitô mạnh mẽ như thế nào? Chỉ cần suy nghĩ một tý là đã thấy rõ vấn đề. Không, sự chết cũng sẽ bị hủy diệt. Thế nên lời cuối cùng trong thư hôm nay nói rằng: "Ðịch thù sau hết sẽ bị hủy ra không là sự chết".
Nhưng để đi đến chân lý này, thánh Phaolô không lý luận suông. Người căn cứ vào sự kiện trong lịch sử cứu độ. Người nhắc lại việc Ðức Kitô đã sống lại từ cõi chết. Và Người đã không sống lại cho mình, nhưng với tư cách là tiên thường giữa các vong linh, hay như hoa quả đầu mùa của toàn thể nhân loại. Bởi vì chúng ta không bao giờ được quên Ðức Kitô là Ðầu của một thân thể, khác nào như Ađam là đầu của nhân loại. Nếu do tự Ađam sự chết đã lọt vào thế gian thì lẽ nào sự sống lại ở nơi Ðức Kitô lại không tràn đến tất cả nhân loại? Thế nên ai theo thứ tự nấy sẽ sống lại sau Ðức Kitô.
Ðàng khác, Thiên Chúa đã thề hứa đặt mọi thù địch dưới chân Ngài. Mà sự chết là kẻ thù cuối cùng của nhân loại. Sự chết cũng sẽ bị hủy diệt dưới chân Ðức Kitô để sự sống của Thiên Chúa sẽ ở trong tất cả.
Chúng ta không cần dài dòng diễn tả mầu nhiệm xác thịt sống lại. Chúng ta đã tin vững vàng rồi. Ở đây và hôm nay phụng vụ muốn chúng ta để ý đến một câu trong thư này: ai nấy cũng sẽ theo thứ tự của mình mà sống lại sau Ðức Kitô. Nhưng thứ tự nào, nếu không phải là như lời thư Phaolô, thứ tự thuộc gần hơn về Ðức Kitô? Thế mà ai gần Ðức Kitô hơn Ðức Mẹ? Do đó, tin hồn xác Ðức Mẹ ngày nay đang ở trên trời là khẳng định niềm tin xác thịt chúng ta sau này sẽ sống lại. Và thấy ngày nay Người đã được như thế, thì chúng ta phấn khởi chắc chắn sẽ đến lượt mình.
Và cho được như vậy phải đến gần Chúa Yêsu như Ðức Mẹ, phải chấp nhận phấn đấu để cưu mang đức tin và sinh ra hoa quả các việc lành như người đàn bà trong sách Khải huyền; phải bắt chước Giáo hội luôn sống tôn dương Thiên Chúa đã thương đến phận hèn của mình và ban cho mình tràn trề ơn cứu độ. Nói tóm phải bắt chước Ðức Mẹ trong đời sống phấn đấu, cầu nguyện và cậy trông để luôn luôn được gần Chúa Kitô. Giờ đây Người đến gần chúng ta trong Thánh Thể để ở với chúng ta trong đời sống hầu đưa chúng ta sau này sống lại. Chúng ta hãy có tâm tình của Ðức Mẹ để gần Người ở trần gian hầu được gần Người ở trên trời.
------------------------------
--GM Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
Suy Niệm:
Trong ba bài học Kinh Thánh hôm nay, bài sách Khải Huyền và bài Tin Mừng như trực tiếp muốn 15/8-86
Trong ba bài học Kinh Thánh hôm nay, bài sách Khải Huyền và bài Tin Mừng như trực tiếp muốn nói với chúng ta về Ðức Mẹ. Còn bài thư Phaolô gợi lên niềm hy vọng của chúng ta cũng sẽ được sống lại để lên trời cả hồn và xác như Ðức Mẹ. Xét theo thời gian chúng ta hãy đọc bài Tin Mừng trước và bài Khải Huyền sau.
Bài Tin Mừng đưa chúng ta nhìn lại một chuyện đã xảy ra trong cuộc đời của Ðức Mẹ ở trần gian. Còn bài Khải Huyền mở cho chúng ta thấy một quang cảnh ở trên trời với hình một người phụ nữ rất đặc biệt. Chúng ta sẽ phải hỏi người phụ nữ đó là ai? Và áp dụng vào Ðức Mẹ thì hình ảnh ấy nói lên sự kiện nào trong đời sống của Người? Nhưng trước hết chúng ta hãy chiêm ngưỡng Người trong câu chuyện Người đến thăm Elisabeth.
1. Người Diễm Phúc
Ðức Maria vừa được thiên thần truyền tin... Người thật vui như lời thiên thần đã chào Người. Ðó là niềm vui to lớn mà càng suy Người càng thấy không thể tưởng tượng được. Bên tai Người còn văng vẳng lời thiên thần: "Thánh Thần sẽ đến trên Người, và quyền năng Ðấng Tối Cao trên Người rợp bóng; bởi thế mà trẻ sắp sinh được gọi là thánh, là Con Thiên Chúa". Những lời ấy nói lên những việc phi thường và trọng đại... Lòng Người đang cưu mang những điều ấy. Không niềm vui nào to lớn hơn. Ðó là niềm vui dân Chúa đón chờ từ đời các tổ phụ. Ðức Maria càng nghĩ, đôi chân Người càng đon đả đi lên miền sơn cước, hướng về thành của Elisabeth, là một người trong hàng thân thích đã già nua son sẻ mà thiên thần lại bảo là mới thụ thai. Ðây cũng là việc lạ Chúa làm mà Người đã mạc khải cho Maria. Người thấy ngay tiếng gọi phải đi thăm Elisabeth vì sự việc xảy đến cho bà hẳn có liên hệ đến ơn mầu nhiệm chính Người đã mang đầy trong lòng.
Vậy Người đã chỗi dậy lên đường không trì hoãn. Niềm vui to lớn trong lòng làm Người quên mọi nhọc nhằn nguy hiểm của "thân gái dặm trường". Người đã vào nhà Elisabeth và chào người bà con. Lập tức bà này thấy rộn ràng trong lòng và được đầy Thánh Linh... Bà thấy rõ ơn Chúa đến với mình, nói đúng hơn, với hài nhi trong lòng mình. Và ơn Chúa đến từ lòng người trinh nữ trước đây là bà con với mình nhưng bây giờ đã trở thành khí cụ của Thiên Chúa. Elisabeth liền chào lại Maria với những lời mà ngày nay trên khắp thế gian ngày nào con cái Hội Thánh cũng không ngừng dâng lên Ðức Mẹ trên trời: Chào Bà có phúc hơn mọi người nữ. Và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ.
Niềm vui to lớn Maria mang trong mình bây giờ người ta đã biết và trở thành công khai. Người thấy ngay bổn phận phải công khai nói lên lòng biết ơn vô vàn đối với Chúa. Do đó Người đã bắt đầu kinh "tôn dương" Chúa.
Những ai biết Kinh Thánh và hiểu đường lối cứu độ đều thấy ngay những lời Ðức Maria thốt ra đã làm vọng lại cả một bầu trời Cựu Ước. Ðó là tiếng nói của dân trông đợi ơn cứu thế phải phát biểu khi ý thức ơn đó đã đến cho mình. Ðó là tâm tình của hết thảy mọi người khi thấy mình được cứu độ theo như đường lối của Thiên Chúa. Chính vì vậy có thể nói Ðức Maria đã nói thay cho dân cũ; Người đã phát biểu đại diện cho dân mới. Lời kinh của Người là mẫu mực để chúng ta tạ ơn Thiên Chúa vì công trình cứu độ của Người. Do đó, Hội Thánh thật có lý khi hát ca vãn của Ðức Mẹ vào giờ kinh chiều, giờ nhìn lại ơn cứu độ của Thiên Chúa đã diễn ra trong ngày và trong lịch sử.
Như vậy chúng ta có đáng giá quá cao lời kinh "tôn dương" của Ðức Maria không? Thiết tưởng công lao của tác giả Luca thật là nhiều. Người đã có công ghi lại tâm tình của Ðức Mẹ và mặc cho nó hình thức hiện nay. Người cho ta thấy tâm hồn của Ðức Maria trước hết là đang "nhảy mừng" vì ơn Chúa cứu độ. Từ ngữ "nhảy mừng" gợi lên cả một truyền thống Kinh Thánh mỗi khi muốn diễn tả lòng hân hoan cảm mến trước hành động cứu dân kỳ diệu của Thiên Chúa. Ở đây hành động cứu thế oai phong này lại xảy ra nơi thân phận mọn hèn tớ nữ của Người, ám chỉ quả có phúc nơi cung lòng trinh nữ Maria.
Ðúng như lời Elisabeth đã nói: Maria thật diễm phúc; nhưng không phải chỉ hơn hết mọi người nữ, mà hơn tất cả mọi người khiến mọi đời sẽ khen Maria có phúc. Ý thức ấy khiến Người phải ngợi khen Thiên Chúa.
Người biết nói gì, nếu không trở đi trở lại hai đề tài sau đây: một đàng ca tụng Chúa thật thánh thiện, uy quyền, nhân nghĩa; và đàng khác thấy mình thân phận mọn hèn tớ nữ bất xứng với ơn cao cả Chúa ban? Giao đi giao lại hai đề tài ấy, Ðức Maria không ngờ đã viết lại những nét chính yếu của lịch sử ơn Cứu độ. Bài ca của Người đã nói lên phong cách của Chúa trong tất cả lịch sử này. Nó diễn tả đường lối cứu độ, và có thể nói, chính bản chất của ơn này.
Cứu độ, theo kinh tôn dương, là những điều cao cả mà Ðấng quyền năng làm. Ngài làm chỉ vì Danh Ngài là thánh; và vì lòng nhân nghĩa của Người đặc biệt đối với nhà Israel. Cách thức Người thi hành tựu trung là một cuộc phân xử: Một bên hạ kẻ kiêu căng, quyền thế, giàu sang và bên kia nâng cao người kính sợ khiêm nhượng và đói khổ.
Ðức Maria thực ra đã chỉ muốn đi từ kinh nghiệm riêng của mình. Thế mà cụ thể kinh nghiệm ấy bây giờ chính là quả có phúc Người đang mang trong lòng. Thành ra khi mô tả kinh nghiệm riêng Người đã diễn tả ơn cứu độ và ơn này chỉ có Một từ đời nọ đến đời kia; nên bài ca của Ðức Mẹ trở thành lời phát biểu của mọi thế hệ về lòng nhân nghĩa của Thiên Chúa. Người đã nói thay cho cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Người đã nói thay cho chúng ta; tức là chúng ta luôn phải mượn lời ca của Người mà ngợi khen ơn cứu thế.
Tuy nhiên có thể nói đây mới chỉ là tiếng hát đầu tiên của Ðức Mẹ khi cưu mang Người con đầu lòng. Sẽ có một lúc khác, Người được lãnh nhận thêm thiên chức làm mẹ loài người. Lúc ấy tiếng hát của Người có một âm điệu đặc biệt mà dường như bài sách Khải Huyền hôm nay còn làm vọng lại.
2. Người Ðau Ðớn
Như mọi ánh văn chương Khải Huyền, đoạn văn này không dễ hiểu tức khắc. Và nhất là đừng giải thích theo nghĩa đen. Câu đầu tiên nói: Ðiện thờ Thiên Chúa trên trời đã mở ra và khám giao ước hiện ra trong điện ấy. Ðiều này chỉ có nghĩa là tác giả được xem thấy mầu nhiệm trên trời. Và đây không phải chỉ là một mầu nhiệm nhưng là tất cả kế hoạch thâm sâu của Thiên Chúa. Vì chúng ta biết Môsê đã được lệnh xây điện thờ Chúa ở dưới đất theo khuôn mẫu đã được thấy ở trên trời. Và trong đền thờ dưới đất, khám giao ước được đặt trong nơi cực thánh không ai được vào trừ vị Thượng tế mỗi năm một lần. Nay nói rằng điện thờ trên trời đã mở và khám giao ước hiện ra, thì chúng ta phải hiểu Thiên Chúa sắp cho tôi tớ của Người xem thấy tất cả mầu nhiệm về giao ước. Ðó là một mạc khải toàn diện.
Vậy tác giả sách Khải Huyền đã thấy gì? Những câu sau viết về một Bà có mặt trời bao quanh, chân trên mặt trăng, đầu có triều thiên mười hai sao; bà đang thai nghén, kêu la đau đớn, quằn quại sinh con. Chắc chắn những nét tả về mặt trời, mặt trăng và mười hai sao có thể khiến ta nghĩ về Ðức Mẹ trong vinh quang trên trời... Nhưng ý tưởng về sự đau đớn sinh con khó có thể hiểu ngay về Ðức Mẹ. Thật ra, ở đây Gioan trực tiếp muốn nói đến Hội Thánh mang mười hai sao trên đầu tức là có mười hai chi họ dân cũ, hay là có tất cả dân mới thuộc mười hai vị tông đồ. Hội Thánh có sự thánh thiện như được bao bọc trong ánh mặt trời; và Hội Thánh có vinh dự như đứng trên mặt trăng. Bản chất của Hội Thánh như vậy nhưng hiện tượng về Hội Thánh thì khác.
Bề ngoài Hội Thánh đang bị bắt bớ nên khác nào một bà đang thai nghén, kêu la, quằn quại. Hội Thánh được người con nào, Satan cũng rình bắt. Nhưng Chúa luôn gìn giữ cả Mẹ và Con trong thời gian 1,260 ngày, tức là trong thời gian bắt đạo vì người Do Thái coi cơn bắt đạo thời Antiochus Epiphane dài ba năm rưỡi là tiêu biểu cho mọi cơn bắt đạo, nhất là vào thời cánh chung.
Do đó bài sách Khải Huyền hôm nay trực tiếp nói về Hội Thánh để khuyến khích tín hữu trong lúc khó khăn. Nhưng áp dụng cho Ðức Mẹ, bài sách cũng rất thích hợp vì hầu hết những gì nói về Hội Thánh cũng hợp cho Ðức Mẹ; và ngược lại cũng vậy. Xét theo nhiều khía cạnh, Ðức Mẹ là hình ảnh và gương mẫu của Hội Thánh mặc dù xét theo một vài khía cạnh khác, Ðức Mẹ lại là con và là một phần tử của Hội Thánh. Vậy, áp dụng đoạn sách Khải Huyền hôm nay vào Ðức Mẹ, chúng ta thấy hình ảnh về Hội Thánh trong cơn đau sinh con cũng có lần lóe ra trong cuộc đời của Ðức Mẹ. Hôm ấy Người đứng dưới chân thánh giá trái tim như bị đâm thâu. Và đang cơn đau đớn ấy, Người được Chúa Giêsu trao cho trách nhiệm làm mẹ của Gioan, tức là của loài người. Ðức Maria trở thành Mẹ các tín hữu trong cơn đau đớn của mầu nhiệm thánh giá. Cơn đau sinh nở này, Người đã chịu từ ngày mật thiết kết hợp với Ðức Kitô; và khi Ðức Kitô khai sinh Hội Thánh trong mầu nhiệm tử nạn thì Ðức Maria trở thành Mẹ của chúng ta.
Do đó hôm nay phụng vụ đọc cho chúng ta nghe hai bài Kinh Thánh về Ðức Mẹ, nói về hai lần làm mẹ của Người; một lần cưu mang Chúa Giêsu và một lần sinh ra các tín hữu. Cưu mang Chúa thì vui và là năm mầu nhiệm đầu tiên chúng ta khi lần hạt; sinh ra tín hữu thì đau đớn và là năm mầu nhiệm của chuỗi Mân Côi tiếp theo. Chúng ta có thể nghĩ bài đọc thứ ba hẳn sẽ nói về năm sự mừng và đưa chúng ta vào hy vọng sẽ được lên trời với Ðức Mẹ. Chúng ta thử xem có thể cắt nghĩa như vậy không?
3. Người Lên Trời
Quả thật, như năm sự mừng trong chuỗi Mân Côi bắt đầu với Mầu nhiệm Chúa Giêsu sống lại thì bài thánh thư hôm nay cũng khẳng định điều ấy trước hết. Và vì Người là Adong mới trong mầu nhiệm Phục sinh, nên sự sống lại ở nơi Người trở thành mầm mống sự phục sinh sau này của những ai kết hiệp với Người. Ðiều này tuy là mầu nhiệm, nhưng cũng có thể hiểu được. Bởi vì nếu mọi người đã liên đới với Adong, thì hết thảy cũng đồng phận với Adong mới. Adong cũ vì lỗi phạm đã đưa mọi người vào vòng tội và sự chết, thì Adong mới nhờ lễ đền tội, cũng đem hết thảy chúng ta vào sự thánh thiện và sự sống lại. Chỉ có một điều khác, là chúng ta tự nhiên đã liên đới với Adong cũ vì huyết nhục; còn muốn liên đới với Chúa Kitô là Adong mới, người ta phải có tinh thần muốn kết hợp với Chúa Kitô. Nhưng chắc chắn ai đã kết hiệp với Chúa Kitô thì sẽ đồng phận với Người vì Thiên Chúa đã muốn như thế; và ý muốn của Thiên Chúa luôn có hiệu lực. Và riêng trong trường hợp này, nếu không chúng ta sẽ khó hiểu được sự liên đới với Adong cũ. Người ta phải nhìn đích điểm để hiểu khởi nguyên; nhìn vào ơn cứu độ để hiểu mầu nhiệm tội lỗi; nhìn vào Adong mới để hiểu Adong cũ; như khi nhìn vào mặt thật để hiểu mặt trái của sự vật và sự việc.
Vậy Chúa Kitô đã sống lại chỉ là "tiên thường" và là đầu đi trước để cả thân thể đi sau. Tác giả thư Côrintô nói rõ: tiên thường là Ðức Kitô, rồi đến các kẻ thuộc về Người, ai theo thứ tự nấy, sẽ được tái sinh. Và áp dụng lời này, Hội Thánh cho đến nay chỉ công nhận sau Ðức Kitô mới có Ðức Maria được lên trời hồn xác. Không phải chỉ vì Ðức Mẹ hồn xác vẹn tuyền đã mật thiết kết hiệp với Ðức Kitô trong mọi sự, nhưng còn vì Ðức Mẹ là hình ảnh và tiêu biểu cho Hội Thánh. Dù sao xác thánh phục sinh của Chúa Kitô cũng gợi lên hình ảnh thân thể của Người là Hội Thánh gồm tất cả những ai được cứu độ. Thế nên thánh Phaolô ở chỗ khác đã viết: Sự sống của chúng ta hiện nay đã được tiềm ẩn với Ðức Kitô ở trên trời. Mầu nhiệm Ðức Mẹ hồn xác lên trời làm cho những điều trên đây trở nên cụ thể. Và chúng ta được thêm vững vàng trong niềm tin xác thịt chúng ta sẽ sống lại và Hội Thánh của chúng ta sẽ được vinh quang trên trời.
Như vậy ngày lễ hôm nay đem vui mừng phấn khởi đến cho chúng ta. Mọi người thêm tin tưởng. Hình ảnh Ðức Mẹ hồn xác lên trời thu hút chúng ta. Và cho được lên cao như Ðức Mẹ, chúng ta phải đi qua con đường vui buồn Người đã đi.
Người đã vui khi đón nhận ơn cứu độ, nhưng đã đau khi muốn cứu thế với Ðức Kitô Con Người. Chúng ta hãy bắt chước Người tán dương Chúa đã đoái thương số phận hèn chúng ta mà ban cho chúng ta được mang Ðức Giêsu trong mình. Không những chúng ta được mang danh Kitô hữu nhưng nhất là được mang chính sự sống ân sủng của Người. Có kho tàng quí hóa ấy trên đường đời dĩ nhiên đã phải phấn đấu vất vả với Satan muốn cướp giựt, khác nào Ðức Mẹ cũng đã phải đi trên đàng thánh giá. Nhưng lúc đau đớn nhất là khi phải quằn quại sinh Ðức Giêsu nơi người khác, làm ra các Kitô hữu mới, trở thành mẹ thiêng liêng của các linh hồn. Thế mà ơn gọi của hết thảy chúng ta phải như vậy. Chúng ta phải đem ơn cứu độ đến mọi nơi. Những hy sinh khó nhọc của chúng ta trong tương quan với người khác có giá trị cứu thế. Chúng ta phải can đảm, quảng đại, để như Ðức Mẹ làm cho mọi người sau này được phục sinh và lên trời.
Chúng ta hãy có tâm tình như vậy khi tham dự thánh lễ này. Chúng ta có thể hình dung Ðức Mẹ đứng dưới chân thánh giá. Nhưng lập tức hình ảnh ấy có thể biến ngay sang hình ảnh một bà già có mặt trời bao quanh, chân đạp mặt trăng và có triều thiên 12 sao. Ðó là Ðức Mẹ trên trời... Nhưng đó đúng ra là Hội Thánh và chúng ta sau này. Chúng ta hãy cố gắng lên trời như Ðức Mẹ và để ở với Ðức Mẹ.
------------------------------
--GM. Giuse Vũ Văn Thiên
Khi đọc kinh Mân Côi, chúng ta suy ngắm mầu nhiệm thứ bốn của Mùa mừng: “Đức Chúa Trời 15/8-87
Khi đọc kinh Mân Côi, chúng ta suy ngắm mầu nhiệm thứ bốn của Mùa mừng: “Đức Chúa Trời cho Đức Bà lên trời; ta hãy xin ơn chết lành trong tay Đức Mẹ”. Như thế, nhắc đến sự kiện Đức Mẹ được cất về trời là nhắc đến việc Đức Mẹ kết thúc cuộc đời trần thế một cách thánh thiện, trong sự trung tín với Chúa, đồng thời là lời nhắc bảo chúng ta hãy sống tốt lành để chết thánh thiện trong tay Đức Mẹ. Các tín hữu từ thuở Giáo Hội sơ khai vẫn tin rằng thân xác Đức Mẹ không hề hư nát trong huyệt mộ. Bởi lẽ thân xác ấy đã được chọn là ngai tòa cho Đấng Cứu thế. Hơn nữa, Đức Mẹ đã được Chúa yêu thương gìn giữ để khỏi vương tội tổ tông. Nhưng phải đợi 19 thế kỷ sau, điều các tín hữu vẫn tin này mới được chính thức định tín. Ngày 1-11-1950, Đức Giáo Hoàng Piô thứ XII long trọng tuyên bố tại Đền thờ Thánh Phêrô ở Rôma: “Chúng tôi công bố, tuyên xưng và định tín giáo lý đã được Thiên Chúa mạc khải này: Đức Maria trọn đời đồng trinh, Mẹ Vô nhiễm của Thiên Chúa, sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, đã được đưa lên trời hiển vinh cả hồn lẫn xác”.
Trong lời tuyên tín long trọng trên đây, Đức Giáo Hoàng đã nhắc tới cả 4 đặc ân mà Thiên Chúa ban cho Đức Mẹ, tức là ơn vô nhiễm nguyên tội; ơn trọn đời đồng trinh, ơn làm Mẹ Thiên Chúa và ơn được về trời cả hồn và xác. Lời tuyên tín cũng nhấn mạnh đến khái niệm “cả hồn lẫn xác” để cho thấy việc Đức Mẹ được Chúa đưa về trời khác với việc các thánh được hưởng phúc thiên đàng. Bởi lẽ các thánh hay những người công chính, sau khi chấm dứt cuộc đời này thì thân xác bị hư nát trong lòng đất. Thỉnh thoảng ta thấy một số vị thánh sau nhiều chục năm an táng mà thân xác vẫn còn nguyên vẹn, nhưng thân xác ấy vẫn tồn tại trong huyệt mộ mà không được về trời. Việc khẳng định rõ “cả hồn lẫn xác” nhằm diễn tả đó là một ơn ban đặc biệt, vì theo Giáo lý Công giáo, chỉ mình Chúa Giêsu được lên trời kèm theo một thân xác trần thế, vì màu nhiệm nhập thể đã gắn liền thần tính với nhân tính nơi Đức Giêsu. Như thế, sau Chúa Giêsu, chỉ có Đức Mẹ được tiến vào vinh quang trong tình trạng có cả xác và hồn.
Lời Chúa trong ngày lễ Đức Mẹ lên trời diễn tả vai trò của Mẹ trong công cuộc cứu độ và vẻ đẹp mà Thiên Chúa trang điểm cho Mẹ. Phụng vụ thánh lễ Vọng của chiều ngày 14-8, nhắc lại việc di chuyển Hòm Bia Thiên Chúa từ nhà ông Ôvết Êđôm về Giêrusalem (Bài I) và lời khen ngợi của Chúa Giê-su dành cho ai “lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa” (Tin Mừng). Khi đọc đoạn sách trích trong cuốn Sử biên niên, chúng ta liên hệ với lời tuyên xưng trong Kinh Cầu Đức Bà: “Đức Bà là Hòm Bia Thiên Chúa vậy”. Hòm Bia trong Cựu Ước chứa đựng mười Điều Răn của Thiên Chúa, một chút Manna và cây gậy nở hoa của Ông Aaron. Đức Mẹ là Hòm Bia vì đã cưu mang Lời Chúa đã thành xác thịt và thành của ăn nuôi dưỡng muôn người. Vì thế, lời ca tụng của Chúa Giêsu như muốn nhắc những người hiện diện: “Đức Maria – người phụ nữ đã cưu mang và sinh hạ Chúa – rất vinh dự vì cưu mang Đấng Cứu Thế, nhưng còn vinh dự hơn vì Mẹ luôn biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa trong cuộc đời.
Phụng vụ trong thánh lễ chính ngày giới thiệu vẻ đẹp của Đức Mẹ. Người phụ nữ được diễn tả trong sách Khải Huyền là hình ảnh Đức Maria. Mẹ được trang điểm bằng mặt trời, mặt trăng và muôn vì tinh tú. Mẹ được giới thiệu như Nữ Vương trời đất để cùng với Đức Giê-su cai trị vũ trụ. Bài ca tạ ơn mà Đức Mẹ cất lên như một lời tôn vinh quyền năng của Chúa, đồng thời cảm tạ tình thương của Ngài dành cho cả nhân loại. Đức Maria đã đại diện cho cả loài người để tạ ơn Chúa, đồng thời tuyên bố thời đại mới đã đến. Đó là thời của ân sủng và tình yêu thương. Đây cũng là thời mà Chúa thực hiện lời hứa đối với ông Abraham và hậu duệ của ông, tức là những ai tin tưởng và cậy trông nơi lòng từ bi của Chúa.
Đức Mẹ đã sống một cuộc đời thật đẹp. Trước hết, đó là ơn của Chúa, nhưng cũng là sự cộng tác của Mẹ. Trong muôn vàn phụ nữ, Chúa đã tuyển chọn Mẹ, một thiếu nữ đơn sơ và thánh thiện. Chúa đã mời gọi Mẹ cộng tác với Chúa để làm cho chương trình cứu độ được thực hiện. Lễ Đức Mẹ lên trời đem đến cho các tín hữu niềm hy vọng vào hạnh phúc vĩnh cửu. Chúa Giê-su đã lên trời để mở cánh cửa Nước Trời cho chúng ta. Đức Mẹ đã lên trời để khẳng định với chúng ta rằng, con người trần thế cũng có thể bước vào cánh cửa mà Chúa Giê-su đã mở, nếu biết lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa. Việc chiêm ngắm Đức Mẹ lên trời “cả hồn lẫn xác” cũng nhắc nhở chúng ta phẩm giá của thân xác con người. Thiên Chúa cứu chuộc con người trọn vẹn, cả hồn và xác. Sau này, Thánh Phaolô khẳng định, thân xác là đền thờ Chúa Thánh Thần. Vì thế, mọi xúc phạm đến thân xác con người cũng là xúc phạm Đấng Tối cao.
Các nghệ nhân thường trình bày Đức Mẹ lên trời bằng những pho tượng hay hình ảnh Đức Mẹ có đông đảo thiên thần vây xung quanh trong làn mây trắng cuồn cuộn, như một cuộc cung nghinh long trọng từ đất lên trời. Hôm nay mừng lễ Đức Mẹ, mỗi tín hữu chúng ta cũng như đang tham dự vào đoàn rước ấy, và chúng ta thầm cầu mong, xin cho chúng ta khi kết thúc cõi đời, được an bình thanh thản. “Đức Chúa Trời cho Đức Bà lên trời; ta hãy xin ơn chết lành trong tay Đức Mẹ”. “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử”. Ước gì những lời kinh đơn sơ ấy luôn được nhắc lại trong trái tim và môi miệng của mỗi người chúng ta. Amen.
------------------------------
--GM. Giuse Vũ Văn Thiên
Tên gọi của ngày lễ hôm nay nói lên một ân huệ rất đặc biệt mà Thiên Chúa dành cho Đức Maria 15/8-88
Tên gọi của ngày lễ hôm nay nói lên một ân huệ rất đặc biệt mà Thiên Chúa dành cho Đức Maria. Đức Mẹ được về trời, không chỉ có phần linh hồn, nhưng cả thân xác nhân loại của Mẹ cũng được về trời. Điều đó có nghĩa là một con người trọn vẹn được cứu chuộc và tôn vinh. Ơn cứu chuộc nhờ công nghiệp của Đức Giêsu là ơn cứu chuộc dành cho con người toàn diện. Chúng ta hãy đọc lại tín điều được Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII tuyên bố ngày 01-11-1950: “Chúng Tôi công bố, tuyên xưng và định tín giáo lý đã được Thiên Chúa mạc khải này: Đức Maria trọn đời đồng trinh, Mẹ vô nhiễm của Thiên Chúa, sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, đã được đưa lên trời hiển vinh cả hồn lẫn xác”. Thiên Chúa muốn cứu với con người cả hồn và xác. Đạo Chúa không chỉ chú ý tới phần hồn mà quên phần xác; không chỉ chú trọng tới tương lai mà quên hiện tại; không chỉ nhấn mạnh tới sự sống linh thiêng mà quên cuộc sống trần gian.
Ơn cứu độ cũng không chỉ dành riêng cho con người, mà còn dành cho cả vũ tru. Hình ảnh người phụ nữ được diễn tả trong sách Khải Huyền cho thấy Đức Maria là một người phụ nữ vũ trụ. Tác giả say sưa chiêm ngắm một người Phụ nữ kỳ lạ”mình mặc mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao”. Giáo Hội Công giáo đã nhận ra chính là hình ảnh của Đức Maria, người Phụ nữ đã cộng tác với Thiên Chúa để sáng tạo một dân tộc mới trong Đức Giêsu Kitô. 12 ngôi sao tượng trưng cho 12 chi tộc của Israel mới, được tái tạo nhờ sự chết và sự phục sinh của Đức Giêsu. Như thế, cùng với Mẹ, cả một vũ trụ được canh tân tỏa sáng, đem lại niềm hân hoan cho những ai thuộc về Đức Giêsu. Mẹ Maria, một tín hữu suốt đời khiêm cung và tuân phục thánh ý Chúa, thì nay chính Chúa đã dùng cả vũ trụ mà trang điểm cho Mẹ. Mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú… đó là những vị thần linh đối với một số tín ngưỡng bình dân, nhờ sự can thiệp của Thiên Chúa, những gì mà nhiều người coi là thần linh nay chỉ là đồ trang sức của Mẹ.
Đức Mẹ đã làm gì để có thể được tôn vinh như vậy? thưa, Mẹ đã cộng tác với công trình cứu chuộc của Chúa; Mẹ đã miệt mài loan báo tình thương của Ngài. Thánh Luca kể với chúng ta về một cuộc “lên đường” của Mẹ. Mẹ lên đường sau khi nhận lãnh sứ điệp từ trời. Mẹ lên đường cách vội vã để kể lại cho gia đình người chị họ là Bà Isave biết những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ. Có thể nói, suốt cuộc đời của Mẹ là một cuộc “lên đường”, luôn sẵn sàng và chu đáo, không so đo tính toán. Bài ca tôn vinh mà Mẹ cảm hứng cất lên tại nhà Bà Isave chính là điều Mẹ vẫn tâm niệm. Mẹ đã hòa cuộc đời mình vào niềm mong đợi của Israel. Mẹ đã cùng với cả dân tộc vui mừng trước biến cố Ngôi Lời nhập thể. Đây không còn là một biến cố chỉ dành riêng cho Mẹ, nhưng dành cho cả nhân loại, vì ơn cứu độ của Thiên Chúa được gửi đến cho mọi người và mọi tạo vật. Chính từ thái độ sẵn sàng lên đường của Đức Mẹ, mà hôm nay, Thiên Chúa đã dùng quyền năng của Ngài mà mời Mẹ tham dự một cuộc “lên đường” khác: Mẹ tiến vào thiên quốc trong tiếng reo vui của các thiên thần, cùng với cả nhân loại tung hô, với cả vũ trụ làm đồ trang sức.
Tuy vậy, cuộc đời của Mẹ không phải lúc nào cũng được êm ả an bình. Hình ảnh người Phụ nữ trong sách Khải Huyền bị Con Mãng Xà đe dọa và khủng bố cho ta thấy một Đức Maria phải đối diện với những thử thách, nhưng Mẹ luôn kiên vững và phó thác, ngay cả giờ phút thương đau dưới chân thập giá. Vâng, đó cũng là hình ảnh cuộc đời mỗi tín hữu chúng ta, cần phải noi gương Mẹ mà vươn lên mỗi ngày để trung tín với Chúa trong ơn gọi nên thánh.
Lễ Đức Mẹ linh hồn và xác lên trời đem lại cho chúng ta niềm vui và hy vọng. Bởi lẽ Đức Mẹ là thành phần nhân loại. Mẹ là một con người, mang nơi mình một thân xác như chúng ta, sống giữa cuộc đời trần thế như chúng ta, mà Mẹ đã được thưởng công và tôn vinh. Nếu chúng ta cố gắng sống như Mẹ, yêu mến và vâng phục như Mẹ, chúng ta cũng được về trời để cùng với Mẹ, với các thánh và toàn thể tạo vật tôn vinh Thiên Chúa.
Ngày lễ này cũng mời gọi chúng ta hãy yêu mến Giáo Hội vì mỗi chúng ta là thành phần, yêu mến cuộc sống hôm nay cùng với vũ trụ thiên nhiên xinh đẹp, vì muôn tạo vật sẽ được cứu thoát cùng với chúng ta, trong bài ca ngợi bất tận để tôn vinh Thiên Chúa trong hạnh phúc vĩnh cửu.
------------------------------
--Lm Carôlô Hồ Bặc Xái
A. KHÁM PHÁ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA HÔM NAY
Các bài đọc của Lễ hôm nay cho thấy những ơn phúc mà Chúa đã ban cho Đức Mẹ: - Các bài đọc 15/8-89
Các bài đọc của Lễ hôm nay cho thấy những ơn phúc mà Chúa đã ban cho Đức Mẹ:
- Bài đọc I trích sách Khải Huyền mô tả những nét huy hoàng của Đức Mẹ: “Một người Phụ Nữ mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao”.
- Bài đọc II trích thư 1 Côrintô ám chỉ Đức Mẹ là người đầu tiên được hưởng ơn sự sống trường sinh mà Chúa Giêsu phục sinh đã khơi mào: “Cũng như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô cũng được Thiên Chúa cho sống”.
- Bài Tin Mừng cho chúng ta biết lý do tại sao Đức Mẹ được nhiều đặc ân như thế: đó là, như lời Bà Êlisabét, “Em thật có phúc, vì đã tin…”
B. TÌM HIỂU SỨ ĐIỆP
1. Bài đọc I (Kh 11,9a; 12,1-6a.10ab)
Trong một thị kiến, tác giả sách Khải huyền nhìn thấy “Một người Phụ Nữ mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao”.
Ý nghĩa đầu tiên của Người Phụ Nữ này là chính Giáo Hội.
Nhưng theo nghĩa áp dụng, Người Phụ Nữ này cũng là Đức Maria, người được Thiên Chúa yêu thương điểm trang bằng muôn vàn đặc ân cao quý.
2. Bài đọc II (1 Cr 15,20-27)
Thánh Phaolô nói với tín hữu Côrintô về ơn sống lại:
- Ơn sống lại này do Đức Giêsu Kitô khai mạc. Ngài là kẻ đầu tiên sống lại từ cõi chết.
- Tiếp theo, tất cả những ai liên kết với Đức Kitô thì cũng được chia xẻ ơn sống lại ấy.
Đức Maria là người liên kết mật thiết nhất với Đức Giêsu Kitô cho nên Người cũng là người đầu tiên được chia xẻ ơn sống lại.
Vì tin như thế nên Giáo Hội công bố tín điều Đức Mẹ lên trời.
3. Bài Tin Mừng (Lc 1,39-56)
Đoạn Tin Mừng này gồm 2 lời ca tụng: bà Êlisabét ca tụng Đức Maria; và Đức Maria ca tụng Thiên Chúa. Cả hai lời ca tụng đều nói đến những đặc ân mà Đức Maria được hưởng:
a/ Bà Êlisabét ca tụng Đức Maria:
- Maria người được chúc phúc hơn tất cả mọi người nữ
- Maria là Thân Mẫu của Đức Chúa
- Sở dĩ Maria được như thế là vì Maria đã tin vào Lời Chúa.
b/ Đức Maria ca tụng Thiên Chúa:
- Tuy Maria chỉ là một nữ tì hèn mọn nhưng đã được Thiên Chúa đoái thương nhìn tới
- Đó là cách làm thường xuyên từ xưa đến nay của Thiên Chúa: Đời nọ đến đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Ngài; Chúa hạ bệ những kẻ kiêu căng và nâng cao những người khiêm tốn.
C. RAO GIẢNG SỨ ĐIỆP
I. Gợi ý giảng
1. Có phúc vì đã tin
Bà Êlisabét đã công nhận một sự thật: Đức Maria là người có phúc hơn tất cả mọi phụ nữ (câu 42). Thực ra Êlisabét nói chưa đủ, phải nói là Đức Maria có phúc hơn tất cả mọi người.
Được Thánh Thần soi sáng (câu 41), bà Êlisabét còn biết do đâu mà Đức Maria có phúc như thế: “Em thật có phúc vì đã tin” (câu 45a).
Tin là lý do để được Thiên Chúa chúc phúc; tin là nguồn hạnh phúc.
Nhưng thế nào là “Tin”? Câu hỏi này sẽ tìm được câu trả lời nơi cách sống của Đức Mẹ:
- Trước hết là không hồ nghi về những điều Chúa hứa (câu 45b): Qua miệng Thiên sứ, Chúa đã hứa “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà” (Lc 1,35). Những lời hứa này quá cao trọng đến nỗi một thôn nữ tầm thường như Maria khó mà tin được. Dù vậy Maria vẫn tin. Chúa còn hứa rằng “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37). Theo lý thuyết thì đúng là như vậy. Nhưng trên thực tế, ít ai dám tin như Đức Maria, bởi vì có nhiều việc người ta không tin là Thiên Chúa làm được, cho nên người ta tự làm, hay nhờ những kẻ khác làm giúp.
- Tiếp đến, vì không hồ nghi về những điều Thiên Chúa hứa nên phó thác đời mình cho Thiên Chúa dẫn dắt. Đức Maria đã để Thiên Chúa dẫn dắt vào đời sống hôn nhân, để Thiên Chúa cho mình mang thai, để Thiên Chúa xử lý tình huống rắc rối của một thiếu nữ chưa về nhà chồng mà có thai… Tóm lại là để cho ý Chúa luôn thành sự nơi cuộc đời mình (Lc 1,38: “Xin hãy thành sự nơi tôi như lời Thiên sứ nói”)
Những điều Thiên Chúa đã hứa với Đức Maria (Thánh Thần ngự xuống; Đấng Tối cao rợp bóng) thì Ngài cũng hứa với chúng ta. Lời Thiên Chúa khẳng định với Đức Maria (“Không có gì mà Thiên Chúa không làm được”) thì Ngài cũng khẳng định với chúng ta. Nếu chúng ta cũng tin như Đức Mẹ và cũng phó thác đời mình cho Thiên Chúa dẫn dắt như Đức Mẹ thì chúng ta cũng sẽ hạnh phúc như Đức Mẹ.
2. Có phúc vì “nghèo”
Trong bài ca Magnificat, Đức Maria nhìn nhận rằng mặc dù thân phận Người chỉ là một “nữ tì hèn mọn” (câu 48a) nhưng sở dĩ Người được “hết mọi đời khen rằng diễm phúc” (câu 48b) chỉ vì Chúa quen ưu ái kẻ nghèo hèn (câu 53).
Thế nào là nghèo?
Trong Thánh Kinh, người nghèo (anaw) là người không tìm chỗ dựa nơi tiền bạc của cải, nơi tài trí bản thân, nơi uy quyền người thế… mà chỉ dựa hoàn toàn vào một mình Thiên Chúa mà thôi. Mà Thiên Chúa rất hào hiệp, ai dựa vào Ngài thì Ngài hết lòng bảo vệ, chở che và ban muôn hồng phúc.
Do đó “nghèo” cũng là lý do để được chúc phúc và cũng là nguồn hạnh phúc.
Bài ca Magnificat nhắc chúng ta xét lại xem chỗ dựa của chúng ta là đâu.
II. Để tham khảo thêm
1. Vinh quang của Đức Mẹ
Đức Maria là người phàm duy nhất được lên trời cả hồn và xác. Chẳng những thế, Người còn được tôn làm Nữ vương trời đất. Bởi đâu mà Đức Mẹ được hưởng vinh quang cao cả như vậy? Câu chuyện sau đây sẽ giúp chúng ta hiểu được lý do.
Ở một vùng đất xa xôi hẻo lánh kia có một bộ lạc sinh sống. Năm đó trời hạn hán không mưa nên mùa màng thất bát, cuộc sống khổ cực. Dân bộ lạc tổ chức một buổi lễ cầu mưa. Họ cầu nguyện rằng: “Lạy thần linh, xin chỉ cho chúng con biết chúng con đã phạm tội gì để đáng bị trừng phạt như vậy. Và xin dạy chúng con biết phải làm gì để có mưa”. Họ cầu nguyện như thế suốt 3 ngày nhưng trời vẫn không mưa xuống.
Khi đó những người lớn tuổi rủ nhau lên đồi, vì họ nghĩ rằng lên đó họ sẽ nghe được tiếng trả lời của thần linh trong các luồng gió thổi tới. Và quả thực họ đã được nghe câu trả lời: Lý do khiến họ bị hạn hán là vì họ quá ích kỷ: bấy lâu nay họ chỉ biết khai thác đất đai mà không ban lại cho đất cái gì để nuôi dưỡng đất gì cả. Vậy, để khỏi bị trừng phạt thì họ phải lấy những thứ quý giá nhất trong nhà đem đốt đi thành tro rồi rải xuống đất. Mọi người cảm tạ thần linh đã chỉ bảo và hứa sẽ làm theo. Nhưng khi trở về nhà, nhìn những đồ vật quý giá thì họ lấy làm tiếc. Vì thế, thay vì những món đồ quý, họ chỉ lấy những thứ xoàng xỉnh mà đốt. Dĩ nhiên trời vẫn không mưa.
Trong bộ lạc có một cô bé tên là Miriam. Cô có một con búp bê xinh xắn mà cô quý nhất trên đời. Cô bé hiểu được lý do khiến trời không mưa là vì người ta đã tiếc không dám dâng hiến cho thần linh những thứ quý giá nhất. Thế là cô mang con búp bê lên đồi, đốt nó đi, vừa đốt vừa khóc. Đốt xong, cô lấy tro rải lên mặt đất, rồi ngủ thiếp đi. Khi cô tỉnh dậy thì cả ngọn đồi đều mọc đầy hoa, những cành hoa mọc lên từ đám tro của con búp bê mà cô bé đã đốt. Việc làm của cô bé đã khiến dân làng hiểu ý thần linh: họ xấu hổ vì đã không dám hy sinh nghe lời thần linh như cô bé Miriam. Thế là ai nấy về nhà lấy tất cả những thứ quý giá nhất đem đốt. Ngay sau đó thì trời đổ mưa. Mọi người tung hô cô bé Miriam như một vị anh hùng đã cứu sống cả bộ lạc.
Câu chuyện trên chỉ là truyền thuyết và có thể là hư cấu. Nhưng nó giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa của ngày lễ hôm nay. Cô bé trong câu chuyện tên là Miriam, cũng giống tên Đức Mẹ Maria; Cô bé Miriam được thần linh tôn vinh bằng cách cho bông hoa trổ đầy trên ngọn đồi nơi cô bé ngủ, cô cũng được dân làng tôn vinh như vị cứu tinh của bộ lạc là vì cô đã dám hy sinh món đồ chơi mà cô quý nhất trên đời. Đức Maria cũng thế, Người được tôn vinh làm Nữ vương trời đất và được lên trời cả hồn và xác là vì Mẹ đã hy sinh tất cả cho Chúa: Chúa muốn gì Mẹ cũng vâng theo: (1) Mẹ muốn sống cuộc đời đồng trinh, nhưng khi Thiên Chúa muốn Mẹ thụ thai sinh hạ Chúa Giêsu, Mẹ đã thưa “Xin Vâng”; (2) Chúa Giêsu là người con duy nhất của Mẹ, là nguồn hạnh phúc của Mẹ trong gia đình và là nơi nương tựa của Mẹ trong tuổi già, nhưng vì Thiên Chúa muốn nên Mẹ cũng sẵn sàng hy sinh để Chúa Giêsu ra đi rao giảng Tin Mừng và chịu nạn chịu chết trên Thánh giá để chuộc tội cho nhân loại. Đúng như lời bà Êlisabét nói trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe hồi nãy, Đức Mẹ có phúc hơn tất cả mọi người là vì Đức Mẹ luôn làm theo ý Chúa, luôn “xin vâng” với Chúa.
Gương Đức mẹ dạy chúng ta 2 điều: (1) Chúng ta thường nghĩ rằng hạnh phúc là do “được”, có được những gì mình mong muốn. Đúng vậy. Nhưng hạnh phúc cũng còn do hy sinh, do dám cho đi, cho đi những gì mình tha thiết nhất. Có khi hạnh phúc bởi cho đi còn sâu đậm và cao cả hơn hạnh phúc do nhận được; (2) Đặc biệt trong tương quan giữa chúng ta với Chúa, chúng ta thường chỉ xin Chúa ban cho chúng ta, khi thì xin điều này khi thì xin điều khác, chỉ xin và xin, chỉ nhận và nhận. Ít khi chúng ta cho Chúa, hy sinh vì Chúa. Thực ra Chúa không cần chúng ta cho Ngài điều gì cả. Những thứ mà chúng ta cho Chúa cũng chẳng đáng gì cả. Nhưng những thứ nhỏ bé mà chúng ta cho Chúa như thế chứng tỏ tấm lòng của chúng ta đối với Chúa. Và để đáp lại, Chúa sẽ ban lại cho ta gấp bội.
Noi gương Đức Mẹ Maria, chúng ta hãy tập lắng nghe tiếng Chúa và tập thường xuyên thưa lại với Chúa 2 tiếng “Xin Vâng” (Viết theo Flor Mc Carthy).
2. Đức Mẹ lên trời và Thánh Truyền
Các sách Tân Ước nói rất ít về Đức Mẹ, lần cuối cùng Người được nói đến là khi Người ở giữa các tông đồ trong nhà Tiệc Ly để đón Chúa Thánh Thần hiện xuống. Sau đó Sách Thánh không nói gì về Người nữa. Nhưng Thánh Truyền thì có nói.
Theo Sách Thánh, trước khi tắt thở, Chúa Giêsu đã trối Đức Mẹ lại cho thánh Gioan chăm sóc. Thánh Truyền cho biết thêm là sau đó thánh Gioan đưa Người về ở chung với mình trong một ngôi nhà ở Êphêxô. Rồi cũng như mọi người khác, Đức Mẹ ngày càng già yếu đi. Nhưng không như mọi người khác, Đức Mẹ được hưởng đặc ân vô nhiễm nguyên tội nên đương nhiên cũng không phải chịu những hậu quả của nguyên tội, tức là không phải bệnh hoạn và không phải chết. Vậy thì Người rời khỏi cuộc sống trần gian này như thế nào? Cũng theo thánh truyền, từ khi Chúa Giêsu lên trời, lòng Đức Mẹ lúc nào cũng thương nhớ con mình và rất ước ao được gặp lại con. Những niềm thương nỗi nhớ đó khiến một ngày kia Người lịm đi. Thánh Gioan tưởng là Người đã chết nên cũng lo an táng như mọi người khác, rồi cho người đi báo tin cho các tông đồ. Khi các tông đồ trở về, họ mở mồ Đức Mẹ ra mong được thấy mặt Người lần chót, nhưng khi mở ra thì ngôi mồ trống không: khi đó các ông tin là Chúa đã rước Người lên trời.
Năm 1950, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã tuyên bố tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời: “Đức Maria, Mẹ vô nhiễm của Thiên Chúa, trọn đời đồng trinh, vào cuối cuốc sống trần gian đã được đưa lên chốn vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác”.
Khi tuyên bố tín điều này, Đức Giáo Hoàng đã chuẩn nhận những dữ kiện Thánh Kinh và Truyền thống sống động của Giáo Hội trải qua nhiều thế kỷ.
Chúng ta nên hiểu cho đúng kiểu nói “được đưa lên chốn vinh quang trên trời”. Đây là kiểu nói của loài người, bị giới hạn trong các phạm trù không gian và thời gian. Khi loài người muốn diễn đạt những điều siêu nhiên (vượt khung không gian và thời gian) thì ngôn ngữ loài người trở thành bất lực. Loài người chỉ biết tạm mượn những cách diễn tả của phạm trù không gian và thời gian ấy, nhưng ta phải hiểu cao hơn và xa hơn. Trong ngôn ngữ loài người chúng ta, “trời” chỉ cái gì tốt đẹp cao cả, còn “đất” chỉ cái gì xấu xa thấp hèn; “lên” chỉ sự tiến tới một tình trạng tốt hơn, còn “xuống” chỉ sự thụt lùi về một tình trạng xấu hơn.
Thành ra nói Đức Mẹ lên trời là nói đến sự thay đổi tình trạng sống của Đức Mẹ, tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn, vinh quang hơn. Cho nên hôm nay Giáo Hội mừng Đức Mẹ lên trời là mừng tất cả những hạnh phúc và vinh dự của Người: Người là Mẹ sinh ra Chúa Cứu Thế, Người được đặc ân vô nhiễm nguyên tội, Người được Thiên Chúa đặt làm Nữ Vương vũ trụ, tắt một lời, Người là Đấng hạnh phúc và vinh quang vô cùng...
Do đâu mà Đức Mẹ được diễm phúc như vậy? Trong bài Tin Mừng hôm nay chính Đức Mẹ cho chúng ta biết được lý do: Bài ca Magnificat của Đức Mẹ được các nhà Thánh Kinh gọi bằng một tên khác nữa là “Bài ca của người nghèo”. Trong Thánh Kinh, anaw Yahweh, người nghèo của Yavê, là người không có tiền bạc cho nên không cậy dựa vào tiền bạc, có người cũng có tiền nhưng không dựa vào tiền mà chỉ dựa vào Chúa; người nghèo của Yavê còn là người không có quyền thế địa vị cho nên không dựa vào quyền thế và địa vị, có người cũng có quyền thế địa vị nhưng họ không dựa vào đó mà chỉ dựa vào Chúa thôi; người nghèo của Yavê còn là người không cậy dựa vào tài năng, học thức, sức mạnh... Tóm lại người nghèo của Thiên Chúa hoàn toàn không cậy dựa vào bất cứ thứ gì khác, chỉ cậy dựa vào một mình Thiên Chúa mà thôi. Và đây là chỗ dựa vững chắc và an toàn nhất, vì thế chính Thiên Chúa nâng họ lên, chính Thiên Chúa ban cho họ muôn của cải đầy dư, Chúa làm cho họ biết bao điều trọng đại... Thực ra Đức Maria đâu có gì hơn chúng ta, thâm chí còn thua kém chúng ta nữa: một thiếu nữ quê mùa, yếu ớt, ít học, nghèo nàn sinh trưởng tại làng Nazarét nhỏ bé vô danh... Chỉ vì Đức Mẹ khiêm tốn, biết chọn đúng Thiên Chúa làm chỗ dựa duy nhất cho đời mình nên Thiên Chúa đã làm tất cả những điều cao cả tốt đẹp cho Người. Như lời Người đã hát: “Đấng toàn năng đã làm cho tôi bao điều cao cả... Chúa hạ bệ những kẻ kiêu căng và nâng cao những người khiêm nhượng... Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư, người giàu có đuổi về bàn tay trắng...”.
3. Cảm nghiệm ơn Chúa
Nếu có ai hỏi: Làm thế nào để tiến bộ trên đ¬ường đạo đức, thay đổi nếp sống cũ, biết dấn thân mến Chúa yêu ngư¬ời hơn? Tôi xin th¬ưa: điều quan trọng nhất khởi đầu cho một nếp sống mới là: cảm nghiệm đ¬ược tình yêu Thiên Chúa trong đời mình. Khi đã nhận biết mình được Thiên Chúa yêu th¬ương, ta sẽ không thể làm điều gì khác hơn là mong muốn đáp lại tình yêu ấy.
Tình yêu kêu gọi tình yêu. Tình yêu đáp trả tình yêu. Chúa Thánh Thần, nguồn tình yêu của Thiên Chúa, sẽ giúp ta nhận biết tình yêu Thiên Chúa và soi sáng thúc giục ta đáp lại tình yêu ấy.
Sau khi Đức Mẹ ngoan ngoãn nói lên lời "xin vâng", Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy tâm hồn Đức Mẹ. Đức Mẹ mở rộng tâm hồn đón nhận và để mặc Ngư¬ời h¬ướng dẫn cuộc đòi mình. Từ đây, cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn biến đổi. Đức Mẹ trở nên một dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Chúa Thánh Thần, hiến dâng trọn vẹn tâm hồn và thân xác để đáp lại tình yêu vô biên của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những tác động của Chúa Thánh Thần trên Đức Mẹ
Tác động thứ nhất: sự vội vã. Vội vã đây không phải là sự vội vàng hấp tấp. Cũng không phải là nôn nóng lo âu. Sự vội vã ở đây có nghĩa là sự nhiệt tình hăng hái. Cảm nghiệm đ-ược tình yêu Thiên Chúa trong tâm hồn, Đức Mẹ mau mắn, tha thiết muốn đáp trả. Nếp sống của cô thôn nữ Maria đã thay đổi. Từ một thôn nữ dịu dàng, sống êm đềm trong cuộc đời bình dị, Đức Mẹ giờ đây trở nên linh hoạt, nhanh nhẹn, hăng hái đền đáp lại Tình Chúa Yêu Th¬ương. Từ một thôn nữ vui với công việc nội trợ, khép mình trong làng xóm, Đức Mẹ đã mở cửa ra đi. Sự mở cửa ra đi làm ta nhớ tới tác động của Chúa Thánh Thần trên các Tông đồ.
Tác động thứ hai: tâm tình tạ ơn. Cảm nghiệm đ¬ược tình Chúa th¬ương yêu, lòng Đức Mẹ tràn đầy niềm cảm mến biết ơn. Niềm tri ân cảm tạ đầy ứ trong lòng chỉ chờ dịp tuôn ra thành lời. Cảm nghiệm về ơn lành vô biên của Thiên Chúa cũng là cảm nghiệm về sự thấp hèn bất xứng của mình. Hai cảm nghiệm song song đó càng nâng cao, càng đào sâu niềm tri ân cảm tạ. Cảm nghiệm ấy đã biến đổi Đức Mẹ, từ một cô gái kín đáo, âm thầm trở nên một thi sĩ, một ca sĩ lớn tiếng ca tụng Tình Yêu Thiên Chúa đối với kẻ nghèo hèn. Chúa Thánh Thần đã biến Đức Mẹ thành ngòi bút thi sĩ như¬ lời Thánh vịnh: Tim tôi dâng ý thơ tuyệt diệu. Dệt bài ca cung tiến Đức Vua. L¬ỡi tôi tựa bút rung vạn điệu. Trong tay những thi nhân anh tài. Khi nghe bà Êlisabét chào, Đức Mẹ đã xuất khẩu tán tụng Chúa bằng bài kinh ca ngợi tuyệt diệu.
Tác động thứ ba: thái độ chia sẻ. Tình yêu Thiên Chúa bao la đã đổ vào tâm hồn Đức Mẹ tràn đầy niềm vui. Niềm vui thánh thiện và lớn lao đã thúc đẩy Đức Mẹ mau mắn lên đường đi thăm bà Êlisabét. Đức Mẹ không đến để khoe khoang, nh¬ưng để chia sẻ. Nhờ Đức Mẹ đến mà bà Êlisabét và thánh Gioan Baotixita đư¬ợc chúc phúc. Đức Mẹ cũng đến để chúc mừng bà chị họ đã đ¬ược Chúa đoái th¬ương. Tâm hồn đ¬ược Chúa chiếm hữu đã khiến Đức Mẹ trở nên quảng đại và hiệp thông, sẵn sàng chia vui sẻ buồn với những ngư¬ời chung quanh.
Tác động thứ bốn: dấn thân phục vụ. Niềm tri ân cảm tạ, niềm vui thánh thiện thực sự sẽ không dừng lại ở những bài ca trên môi miệng. Cảm nghiệm về Tình Yêu Thiên Chúa trong trái tim sẽ mau chóng chuyển sang đôi tay. Niềm tri ân cảm tạ sâu xa sẽ nhanh chóng biến thành hành động. Sự đền đáp tình yêu sẽ thúc đẩy ng¬ời đ¬ược yêu dấn thân phục vụ trong những việc làm cụ thể. Chính vì thế Đức Mẹ đã không ngần ngại ở lại phục vụ bà chị họ trong ba tháng.
Mừng lễ Đức Mẹ lên Trời một cách có ý nghĩa nhất, đó là ta hãy noi g¬ương Đức Mẹ: xin Chúa Thánh Thần đến tràn ngập tâm hồn ta như¬ Ng¬ài đã đến trong lòng Đức Mẹ, giúp ta cảm nghiệm đ¬ược những ơn lành Chúa ban và giúp ta mau mắn đáp lại tình yêu thư¬ơng đó.
Xin Đức Mẹ giúp chúng con biết ngoan ngoãn vâng theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng: để vội vã ra đi, để hân hoan tạ ơn, để quảng đại chia sẻ và để dấn thân phục vụ anh em. Amen.
------------------------------
--Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ
Câu chuyện
Tôi thực sự cảm thấy yêu mẹ mình và đau lòng khi mẹ khóc. Mẹ đã luôn là người phụ nữ mạnh 15/8-90
“… Tôi thực sự cảm thấy yêu mẹ mình và đau lòng khi mẹ khóc. Mẹ đã luôn là người phụ nữ mạnh mẽ, mẹ gánh vác tất cả việc nhà, buôn bán không kể sớm tối để nuôi lớn chị em tôi.”... Đó là tâm sự của Phạm Nga trên một tờ báo Online.
Hình ảnh của người mẹ sinh thành, dưỡng dục cho con vào đời, xa mẹ mới nhớ về mẹ, nhớ về tấm lòng mẹ… Hình ảnh người mẹ hiền với gánh hàng rong bôn ba khắp phố để có tiền nuôi sống gia đình… Hình ảnh đó đã đi vào huyền thoại được các tác giả thể hiện qua những bức tranh sinh động, những bản thơ ca về mẹ…
Suy niệm
Mẹ Maria, Mẹ của chúng ta, Đấng tràn đầy ân sủng như được sứ thần Gabriel chào: “Trinh nữ đầy ân phúc vì Đức Chúa ở cùng trinh nữ” (Lc 1,25), và bà Êlisabéth vang lời ca tụng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1,42).
Hồng ân Mẹ Maria Mông Triệu cả hồn xác được Đức Piô XII tuyên bố bằng tông hiến “Munificentissimus Deus” vào ngày Lễ Kính Các Thánh: 1/11/1950, Đức Giáo hoàng long trọng tuyên tin: “Để tôn vinh Thiên Chúa toàn năng là Đấng đã ban muôn vàn ơn lành đặc biệt của Ngài trên Trinh Nữ Maria, để tôn kính Con Ngài là Vua muôn đời, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, để Người Mẹ cao cả của Người được hiển vinh hơn… Người Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội của Thiên Chúa, Đức Maria Trinh Nguyên sau khi hoàn tất cuộc đời trần thế của mình, đã được mang lên hưởng vinh quang trên trời cả thân xác lẫn linh hồn”. Hồng ân Mẹ về Trời cả xác hồn là hệ quả tất yếu của các hồng ân: Mẹ Thiên Chúa, sinh con mà vẫn Đồng Trinh và Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Kể từ khi Mẹ rời thế gian lên Trời trong vinh quang với hồng phúc: Được hưởng nước Trời cả hồn lẫn xác trước hết mọi người, Mẹ Maria vẫn không hề bỏ quên những người con ở dưới thế, Mẹ luôn hằng theo từng bước đi của các con. Qua mọi thời đại, với tình Mẹ bao la luôn lo lắng cho đoàn con ở thế gian. Tấm lòng của Mẹ luôn trải rộng để đón các con cái mình, dù ở phương trời nào, khắp mọi chủng tộc, Mẹ đều đón nhận đưa về với Chúa. Hãy chạy đến bên Mẹ nhờ Mẹ chỉ cho con đường đến với Con của Mẹ Đấng là đường là sự thật và là sự sống (x. Ga 14,6).
Thật thế, Mẹ chỉ dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa, như những người con được Mẹ hiền chỉ cho đi trên con đường đời để về với quê thật, như lời nhắn nhủ của Công đồng Vaticanô II: “Với tình mẹ hiền, Người chăm sóc những anh em (của) Con của Người đang lữ hành trên dương thế và đang gặp bao nguy hiểm, thử thách, cho đến khi họ đạt tới hạnh phúc quê trời” (Lumen Gentium - Hiến chế tín lý về Giáo hội 8,62).
Lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, chúng ta mang đức tin, tin vào Chúa và như Giáo hội dạy: “Ðức tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta” (LG 8,67). Các nhân đức nổi bật nhất mà chúng ta thấy trong
Tin mừng: Nhân đức tin, nhân đức cậy như Mẹ hoàn toàn phó thác vào thánh ý bằng hai tiếng xin vâng (x. Lc 1,38). Nhân đức mến chia sẻ, viếng thăm với người chị họ Êlisabéth cần sự giúp đỡ (x. Lc 1,39-45). Học với Mẹ nhân đức can đảm, Mẹ đối mặt với bao đau thương cuộc đời: Sinh con trong khó khăn (x. Lc 2,6-7), vượt khó trong sự truy bức của Hêrôđê để bảo vệ con trẻ (x. Mt 2,13-15), lạc con và tìm kiếm trong ba ngày (x. Lc 2,41-50), đặc biệt là đau thương chứng kiến cái chết của Chúa (x. Ga 19), Mẹ vẫn một niềm can đảm đối mặt và tin vào Thiên Chúa như Mẹ đã tuyên tin lúc được truyền tin. Nhân đức biết ơn học nơi Mẹ: Mẹ ca tụng cảm tạ hồng ân Thiên Chúa Đấng làm cho mình việc trọng đại, đời sống của Mẹ là một đời sống tạ ơn (x. Lc 1,46-56)…
Chúng ta hãy luôn tiếp bước theo, noi gương Mẹ theo các nhân đức mà chính Mẹ đã sống và dạy lại cho chúng ta.
Ý lực sống:
“Maria đầy ân phúc, bởi vì Thiên Chúa đã đoái nhìn, và vì cô đã tin: Đức tin của mình là hoa trái cây tươi tốt, xinh đẹp của lòng yêu thương khoan dung Thiên Chúa” (Thánh Bernarđô).
------------------------------
--Lm Giuse Đinh Tất Quý
Hôm nay chúng ta mừng kính một trong bốn hồng ân trọng đại mà Thiên Chúa đã ban cho Đức 15/8-91
Hôm nay chúng ta mừng kính một trong bốn hồng ân trọng đại mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Maria Mẹ của chúng ta.
Mừng lễ hôm nay tự nhiên tôi lại nhớ đến câu chuyện đã xảy ra trong cuộc đời của tôi cách đây hơn gần 20 năm. Cũng vào dịp như thế này vào chiều 15-8-1981. Sau khi tôi vừa dâng lễ xong thì có một người đàn ông trạc độ 50-60 tuổi. Ông tìm đến với tôi và nói với tôi những lời rất chân thành như sau trước mặt mọi người: “Thưa Cha, hôm nay con nghe bài giảng của cha con cảm động quá. Cha còn mặc áo màu vàng...màu vui, màu chiến thắng....Nhưng cha có biết không....hôm nay là ngày giỗ của mẹ con....Mẹ con mất...ở đời con chỉ có mẹ...Con nhớ mẹ con quá....Xin cha cho con địa chỉ của Vatican....Con gửi thư con nói với Chúa....con đòi mẹ con lại. Ở đời con chỉ có mẹ. Đời con chỉ có mẹ. Mẹ là lẽ sống, mẹ là niềm vui của con. Con muốn đòi mẹ con lại.
Vâng kính thưa anh chị em. Mẹ là lẽ sống, là niềm vui. Có Mẹ thật không có gì hạnh phúc hơn.
Không thể có niềm vui nếu không có mẹ. Có lẽ chính vì thế mà Thiên Chúa là Cha đầy lòng thương xót đã ban cho chúng ta một người mẹ tuyệt vời: Mẹ Maria, Mẹ của mỗi người chúng ta.
Hôm nay chúng ta mừng mẹ được về trời. Mẹ về trời có nghĩa là mẹ đang sống. Sự sống của Mẹ không phải chỉ giới hạn trong cuộc đời, nhưng bao trùm cả lịch sử: Lịch sử của cả loài người lẫn lịch sử của mỗi người chúng ta.
Vâng ngay từ thuở đời đời Thiên Chúa đã muốn cho người mẹ đó luôn ở với chúng ta.
1. Ngay từ những ngày tháng đầu tiên khi mới có con người trên trái đất này, Mẹ đã có mặt ở đó:
“Ta sẽ đặt giữa ngươi và người phụ nữ
Giữa dòng dõi ngươi và dòng dõi người nữ một mối cừu địch
Người phụ nữ đó sẽ đạp dập đầu mi”
Vâng ngay từ những ngày đầu tiên của lịch sử loài người Mẹ đã có mặt tại đó như một bảo đảm cho nguồn ơn cứu rỗi, như một lời hứa chắc chắn sẽ được thi hành, như một hy vọng chắc chắn sẽ thành sự thật cho cả loài người mai sau.
2. Rồi khi đến thời đến buổi, lúc Thiên Chúa muốn thực hiện lời hứa của Người. Mẹ Maria đã có mặt ở đó. Bằng Lời Xin vâng với tất cả tâm tình phó thác, Mẹ để cho Thiên Chúa hoàn toàn làm chủ cuộc đời của mình để làm những việc Thiên Chúa muốn trong chương trình cứu rỗi loài người chúng ta.
Sau hai tiếng Xin Vâng cuộc đời của Đức Mẹ không còn gì là của mình nữa. Tất cả đã hoàn toàn thuộc về Chúa.
Ngày Chúa Giêsu Đấng Cứu thế ra đời, khởi đầu công việc cứu thế, Mẹ có mặt ở đó để chứng kiến giây phút trọng đại này.
Mt 2,11: “Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến.”
Lc 2,6: “Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa.”
Lc 2,16: “Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ.”
Lúc Chúa khởi sự cuộc đời công khai, tại tiệc cưới Cana, Mẹ có mặt ở đó như một người mẹ luôn lo lắng cho con cái của mình
Ga 2,1: “ Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giê-su.
Lúc Chúa rao giảng: Mẹ có mặt xa xa nhưng khi Chúa bị treo trên Thánh Giá: Mẹ đứng thật gần. Thánh Gioan “Mẹ đứng sát cạnh Chúa Giêsu...như một trợ lực cho người con để Ngài làm xong những công việc cần phải làm cho mọi sự được hoàn tất.
Ga 19,25: “Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la.”
Rồi ngày đầu tiên đánh dấu sự ra đời của Giáo hội Mẹ có mặt ở đó với tất cả lòng yêu thương để khích lệ các tông đồ can đảm dấn thân vào cuộc sống mới: Cuộc sống làm chứng cho Chúa Giêsu Phục sinh.
Cv 1,14: “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su.”
Chưa hết: Sau khi Chúa về trời, Mẹ tiếp tục có mặt, có mặt như một nhắc nhở để những người con của mẹ nơi trần thế chớ có vì cuộc sống tạm bợ mà quên mất trời cao.
Đọc lại lịch sử Giáo Hội tôi thấy vào những thế kỷ gần đây Mẹ đã hiện ra với con cái của Mẹ rất nhiều lần.
Mẹ đã hiện ra với nữ tu Catharina Labouré tại khu phố Dubac ở Thủ đô nước Pháp năm 1830
Năm 1846 tại La Salette Mẹ hiện ra với hai trẻ mục đồng: Mélaine (10 tuổi) và Maximin (15 tuổi)
Tại Lộ Đức năm 1858 với cô bé chăn cừu Bernadette
Tại Pontmain 1871 với Cha Barbedette và cậu Eugène
Tại Pellevoisin 1876 với Estelle Faguette (12 tuổi)
Tại Fatima 1917 với ba trẻ: Giaxinta (7 tuổi)- Phanxicô (9 tuổi) - Và Lucia 10 tuổi)
Tại Beauring Bỉ với Albert (11 tuổi) - Fernande Versin (15 tuổi) Gilberte Degeimbre (9 tuổi) và André Degeimbre (14 tuổi)
Và sau đó tại Banneux cũng ở tại nước Bỉ với Mariette (12 tuổi)
Tại Hang Ba suối ở Roma với 1 người đàn ông và ba em nhỏ: Ông Bruno Cornachiola và ba em là: Isala (10 tuổi) - Carlô (7 tuổi) và Gioanfraco (4 tuổi)
Và gần đây ngày 24/6/1981 tại Medjugorji thuộc trung tâm nước Nam tư cũ với hai thiếu nữ Mirjana Dragicevic và Ivanda Ivankovic
Tôi chưa được tới Medjugorji nhưng những sự việc ở Medjugorji ngày hôm nay vẫn đang là một hiện tượng mà Khoa học không thể nào cắt nghĩa được. Tại Medjugorji hằng ngày vẫn có hàng ngàn, hàng ngàn người đến đó để lãnh nhận những sứ điệp rất đặc biệt Đức Mẹ ban để cùng với Đức Mẹ gìn giữ Hòa Bình cho thế giới.
Cuối cùng chúng ta cũng không quên Mẹ đã hiện ra nhiều lần cách đây 200 nam tại Lavang.....
Ngày hôm nay tại Lavang, các tín hữu từ khắp nơi, từ khắp mọi miền đất nước đang tề tựu tại đó chung quanh Mẹ để tạ ơn Thiên Chúa, để cầu xin cho Giáo Hội VN của chúng ta. Chúng ta hãy hiệp lòng hiệp ý với hàng Giáo Phẩm VN trong những ngày trọng đại này.
Tất cả những lần hiện ra như thế dường như chỉ để chứng minh có một điều: Mẹ vẫn có mặt, có mặt thường xuyên và gần gũi với con cái loài người chúng ta, giúp cho con cái loài người hãy biết sống để chiếm hữu được trời cao như Mẹ.
Vâng chúng ta hãy biết nghe lời Mẹ và nhất là hãy biết sống như Mẹ đã sống để mai sau khi kết thúc cuộc đời trần thế này, chúng ta được Đức Mẹ dẫn đưa chúng ta về quê trời.
Tuy còn đang sống ở trần gian những lòng chúng ta đừng quên hướng về trời.
Thánh Giáo phụ Basilio bị điệu ra tòa án Roma trước mặt Hoàng đế:
- Người bỏ đạo, ta sẽ ban cho chức cao lộc hậu.
- Lời dạy bảo của bệ hạ dạy dỗ được trẻ con. Kinh Thánh tôi dạy khác hẳn, nên thà chết hơn lìa bỏ đấng Kitô.
- Ngươi không biết Trẫm là ai sao ?
- Tôi không tuân lệnh Bệ hạ đâu.
- Ngươi không biết ta có quyền ban chức tước cho ngươi sao ?
- Chức tước bổng lộc có thể thay đổi như chính bệ hạ.
Thấy không thể lay chuyển lòng Thánh nhân Vua đe tịch thu tài sản, tra tấn tù tội và giết.
- Tâu bệ hạ tôi chẳng có gia tài cho bệ hạ tịch biên. Lưu đày chăng ? Tôi có quê thiên đàng. Tra tấn ư ? Tôi sẵn sàng chịu vì Chúa. Giết tôi ư ? Càng sớm về trời.
- Ngươi thật điên cuồng!
- Tôi mong được điên mãi như thế này.
Trên con đường chúng ta đi chúng ta chẳng có gì phải sợ hãi. Mẹ sẽ luôn đồng hành với chúng ta. Mẹ sẽ có mặt kịp thời để che chở, phù giúp chúng ta miễn là chúng ta biết tin tưởng ở Mẹ.
Một hôm trong đám những người hành hương đến Arc có một người đàn bà mang đại tang. Bà vào giữa nhà thờ đứng như trời trồng ở giữa mọi người. Bà có vẻ rất đau khổ. Lý do là chồng bà, một người đã bỏ đạo từ lâu cách đây mấy bữa đã nhảy xuống sông tự tử…đã chết mà không được lãnh nhận những bí tích cuối cùng. Cha Gioan Maria Vianney đi qua….Bà chưa kịp nói gì thì Cha ghé vào tai bảo bà: - Ông nhà đã được cứu rỗi rồi.
Thấy người đàn bà có vẻ quá ngạc nhiên, cha nói lại một lần nữa:
- Tôi đã bảo ông nhà đã được cứu rỗi rồi mà.
Bà thắc mắc hỏi lại với một giọng đầy hoài nghi, cha nhấn mạnh từng tiếng:
- Tôi bảo bà là ông nhà đã được cứu rỗi rồi. Ông hiện đang ở trong Luyện ngục. Phải cầu nguyện nhiều cho ông ta. Giữa nhịp cầu và dòng nước ông đã có được một thời gian để ăn năn thống hối. Bà còn nhớ là trong tháng Đức Mẹ, bà đã cho làm một bàn thờ trong phòng của bà không ? Thỉnh thoảng, chồng của bà, mặc dầu đã bỏ đạo cũng đến hợp lời cầu nguyện với bà. Thái độ đó đã đem lại cho ông tạ ơn thống hối và tha tội vào phút cuối cùng của cuộc đời.
Lạy Mẹ Maria
Đã một lần Mẹ nhận nhân loại chúng con làm con của mẹ
Và từ dạo ấy
Mẹ đã yêu nhân loại với tất cả tấm lòng từ mẫu
Chúng con là những người trong khối nhân loại ấy
Và như thế chúng con đã đương nhiên là con của Mẹ
Và đương nhiên là Mẹ thương chúng con
Xin dạy chúng con
biết chiêm ngắm Chúa Kitô
và suy đi nghĩ lại những Lời của Người
trong tâm tình yêu mến như Mẹ
Xin dẫn lối cho chúng con
trên bước đường theo Chúa
cũng như đem Chúa đến cho mọi người
Xin dạy chúng con biết luôn bước đi trên con đường tình yêu
Với tâm tình phó thác
Xin dẫn chúng con
đến sự sống muôn đời
bằng cách đặt bàn tay chúng con
vào bàn tay của Chúa Kitô
Đấng đã có lần nói với mọi người
Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Amen.
------------------------------
--Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
Lễ Vọng Đức Maria Hồn Xác về Trời (Lc 11, 27-28)
Với đoạn Tin Mừng ngắn gọn vọng lễ chiều nay dìu chúng ta về với Đức Maria đầy ơn phúc được 15/8-92
Với đoạn Tin Mừng ngắn gọn vọng lễ chiều nay dìu chúng ta về với Đức Maria đầy ơn phúc được ân thưởng hồng phúc hồn xác về trời, đồng thời khuyến khích chúng ta chuyên chăm lắng nghe và thực hành Lời Chúa để cũng Chúa thưởng hồng phúc như Mẹ.
Đức Maria Người Nữ hạnh phúc
Chuyện xảy ra là khi Chúa Giêsu đang giảng dạy dân chúng, thì từ giữa đám dân chúng có một phụ nữ vì thấy quyền năng và sự khôn ngoan thể hiện trong lời nói và việc làm của Chúa Giêsu, bà đã không thể kìm hãm nổi sự ngưỡng mộ của mình liên cất tiếng ngợi khen Chúa Giêsu bằng cách ca tụng người mẹ đã cưu mang Chúa: "Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Thầy, và vú đã cho Thầy bú" (Lc 11, 27).
Đức Maria là người nữ hạnh phúc, lời đầu tiên của Sứ Thần Gabriel chào Đức Trinh Nữ là bằng chứng: "Kính mừng Maria đầy ơn phúc" (Lc 1, 28) là bằng chứng. Quả thật, mọi phúc lành con người có được kể cả Đức Maria hệ tại ở phúc lành Thiên Chúa ban chứ không tùy thuộc các sự thế trần. Đức Maria là người hạnh phúc, trước hết vì đã được Thiên Chúa yêu thương và tuyển chọn. "Phúc thay kẻ được Người chọn lấy và cho lại gần, nơi tiền đình của Người, nó sẽ lưu lại! " (Ps 65,5). Phúc của Mẹ vượt trên mọi người nữ trần gian, lời của bà Êlisabeth xác nhận: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc" (Lc 1, 42). Mẹ là người diễm phúc vì có: "Thiên Chúa ở cùng" (Lc 1, 28). Trong hạnh phúc của Mẹ có hạnh phúc của mỗi người chúng ta.
Nghe và giữ Lời Chúa thì có phúc hơn
Mẹ hạnh phúc, Mẹ cũng muốn con cái mình hạnh phúc, nên Mẹ dạy: "Người bảo gì các con cứ làm theo" (Ga 2, 5). Lời Chúa Giêsu đáp lại người đàn bà đã khen Đức Maria là người diễm phúc: "Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa còn có phúc hơn" (Lc 11, 28) cũng là lời Chúa dạy chúng ta hôm nay. Lời này mạc khải cho chúng ta một mối phúc khác ngoài tám mối phúc đã được Chúa Giêsu công bố trong bài giảng trên núi, chúng ta có thể gọi mối phúc đây là mối phúc "lắng nghe Lời Chúa và sống thực hành Lời Chúa". Chúa Giêsu muốn chúng ta hiểu rằng, mối phúc mà Mẹ Maria đang vui hưởng, là vì Mẹ đã lắng nghe, cẩn thận ghi nhớ và nỗ lực thực hành Lời Chúa từng ngày.
Mẹ trở nên cao trọng không những vì Mẹ đã cưu mang Chúa Giêsu và cho Chúa bú mớm, mà còn vì Mẹ đã lắng nghe và thực thi Lời Chúa hơn ai hết, nhờ vậy Mẹ luôn nhận ra được thánh ý Chúa muốn nơi cuộc đời để rồi cộng tác hết mình với Chúa.
Chúa Giêsu không có ý phủ nhận vai trò của Mẹ Maria trong việc cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Người; nhưng qua những lời trên đây, Chúa mạc khải mối tương quan sâu xa giữa Đức Maria Mẹ Người với Người; tương quan ấy không chỉ dừng lại ở huyết nhục, nhưng hơn ai hết, Mẹ là người đã triệt để lắng nghe và thực hành Lời Thiên Chúa, vì thế Mẹ đã trở nên gương mẫu cho mọi người chúng ta noi theo.
Để được vào số những người diễm phúc
Mừng lễ Đức Maria hồn xác về trời hôm này, chúng ta dễ dàng nhận ra năng động thiêng liêng của Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúng ta có thể trở thành người có phúc do việc thi hành ý muốn của Thiên Chúa: “Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa”.
Ai trong chúng ta cũng có thể có được mối phúc ấy, nếu biết khiêm tốn lắng nghe và thực hành lời Chúa truyền dạy. Mối phúc lời Chúa này không phải là độc quyền dành cho Đức Maria. Mẹ đã đi trước làm gương cho chúng ta và muốn cho chúng ta sống như Mẹ đã sống hầu được Thiên Chúa ân thưởng vinh quang hạnh phúc thiên đàng với Mẹ.
Mẹ Maria ơi, trên thiêng đàng con sướng vui, trên thiên đàng con sướng con cùng vui, xin Mẹ giúp chúng con vâng nghe và giữ lời Thiên Chúa, để có được chỗ đứng trên nước trời. Amen.
------------------------------
--Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
Lễ Vọng Đức Maria Hồn Xác về Trời (Lc 11, 27-28)
Kính mừng Maria đầy ơn... Đó là lời đầu tiên của Sứ Thần Gabriel chào Đức Trinh Nữ. Hôm nay 15/8-93
"Kính mừng Maria đầy ơn phúc" (Lc 1, 28). Đó là lời đầu tiên của Sứ Thần Gabriel chào Đức Trinh Nữ. Hôm nay từ miệng của một người nữ thích giả đang nghe Chúa Giêsu giảng cũng cất cao giọng nói: "Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Thầy, và vú đã cho Thầy bú" (Lc 11, 27)
Vâng Đức Maria là đấng đầy ơn phúc, Mẹ là người diễm phúc. Bài Tin Mừng theo thánh Luca Thánh lễ vọng chiều nay được Giáo hội dùng, dìu chúng ta về với tước hiệu Đức Maria đầy ơn phúc. Người việt ta vẫn thường nói: "Phúc đức tại mẫu", nghĩa là theo quan niêm truyền thống, con cái được thừa hưởng điều tốt lành, may mắn từ người mẹ, do cách ăn ở cư xử, sự gương mẫu, cách giáo dục của người mẹ mà ra. Người mẹ chính là thầy dạy đầu tiên của việc hình thành nhân bản nơi đứa con. Chẳng thế, George Herbert đã viết một câu rằng: "Một bà mẹ tốt thì giá trị hơn cả trăm ông thầy!"
Người Do thái cũng vậy, khi Chúa Giêsu đang giảng cho dân chúng, thì từ giữa đám dân chúng, có một phụ nữ vì ngưỡng mộ con người cũng như cách giảng dạy của Chúa Giêsu, bà cho rằng, Thầy tài giỏi như thế này, hẳn là Mẹ Thầy phải là người có phúc lắm, nên bà đã không ngần ngại vượt qua rào cản của chính mình là phục nữ, bà đã cất tiếng nói với Đức Giêsu về Mẹ của Ngài: "Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Thầy, và vú đã cho Thầy bú" (Lc 11, 27).
"Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Thầy" (Lc 11, 27)
Đức Maria là người diễm phúc, trước hết vì đã được Thiên Chúa yêu thương và tuyển chọn. "Phúc thay kẻ được Người chọn lấy và cho lại gần, nơi tiền đình của Người, nó sẽ lưu lại! " (Ps 65,5). Câu này ám chỉ, dân có phúc là dân được Thiên Chúa trị vì, nhất là được Thiên Chúa thiết lập ngai báu vương quốc của Ngài ngay giữa họ; người có phúc là người được Thiên Chúa đến ở cùng, và dĩ nhiên chúng ta nghĩ ngay đến Đức Maria, người diễm phúc như lời Thiên Thần Grabirel chào và nói: "Thiên Chúa ở cùng bà " (Lc 1, 28), lời bà Êlisabeth xác nhận cái phúc của Mẹ: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc" (Lc 1, 42). Phúc của Mẹ trổi vượt trên mọi thần thánh trên trời, Mẹ có phúc vì Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng là Hồng Phúc đã chọn Mẹ, cư ngụ trong dạ Mẹ chín tháng mười ngày, đến khi chào đời, Mẹ đã ôm ấp bú mớm nâng niu… những điều đó đã làm cho vai trò làm mẹ của Đức Maria trở thành mật thiết, gắn liền với cuộc sống của Chúa Giêsu hơn; không những thế, Chúa Giêsu còn ở với Mẹ trong suốt nhiều năm và đã vâng phục Mẹ. Giờ đây, Mẹ thật diễm phúc và Mẹ luôn hạnh phúc, Chúa Giêsu Con Mẹ đã phủ đầy vinh quang của Ngôi Lời nhập thể trên Mẹ bên trong cũng như bên ngoài, hạnh phúc của Mẹ vượt quá sự hiểu biết của chúng ta.
"Phúc cho vú đã cho Thầy bú" (Lc 11, 27)
Mẹ là người trinh nữ duy nhất đã được vinh dự cưu mang và sinh hạ và dưỡng nuôi Con Một Thiên Chúa Chúa cho trần thế. Người đàn bà khi nghe Chúa Giêsu giảng đã không ngần ngại nói đến những nét đặc trưng và kín đáo của một người mẹ, những gì nơi thân xác mẹ cần cho sự sống của con. Ngoài lòng dạ của thân mẫu Thầy đã cưu mang Thầy, mà còn "vú đã cho Thầy bú mớm" ba năm. Như thế, thân xác và tâm hồn mẹ là cái nôi ru cho con lớn lên. Mẹ vừa cưu mang, vừa lo sinh, lo dưỡng.
Nếu "yêu và được yêu là những điều hạnh phúc nhất trong đời" như kiểu nói của văn hào shakespears, thì Đức Maria là người diễm phúc, vì Mẹ được Chúa yêu thương, chính Mẹ cũng biết dành trọn vẹn tình yêu của mình cho Thiên Chúa. Ngay trong mầu nhiệm lên Trời, Mẹ Maria đã được diễm phúc hưởng nếm ơn phục sinh "hồn xác lên trời" trước bất cứ ai, vì Mẹ chẳng vướng mắc tội truyền. Mẹ hạnh phúc tự nhiên vì cưu mang Con Thiên Chúa trong mầu nhiệm Nhập Thể, nhưng chính Mẹ biết rõ hơn ai: Mẹ hạnh phúc siêu nhiên vì được Tình Yêu Thiên Chúa cưu mang từ thủa đời đời. Mẹ hạnh phúc là như thế đó, và trong hạnh phúc của Mẹ chúng ta tìm thấy hạnh phúc của mỗi người chúng ta.
Mẹ sẵn sàng cưu mang hạnh phúc của mỗi chúng ta
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa mà Mẹ Maria đã cưu mang và cho bú mớm là Đấng Cứu Độ thế gian, mặc lấy xác phàm nhân loại và thánh hiến với tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Trái đất là bệ dưới chân của Đấng là Hồng Phúc. Nên trong hạnh phúc của Mẹ có hạnh phúc của mỗi người chúng ta. Như Mẹ hiền, khi bồng ẵm Chúa Giêsu Con Mẹ, với vòng tay rộng mở của tình mẫu tử, Mẹ ôm cả nhân loại trong tình yêu của Người Con ấy, "vì nhân loại là chi thể của Thân mình Ngài" (Ep 5,30), và Mẹ không xấu hổ vì được gọi là Mẹ của tất cả những ai được sinh ra trong Chúa Kitô nhờ ơn cứu chuộc của Người. Mẹ được gọi là Evà mới "Mẹ của tất cả chúng sinh" (St 3,20), nhưng trong thực thế, Mẹ là Mẹ của những kẻ chết… Vì Evà cũ đã không thực hành ý định của Chúa cách trung thành, Mẹ là người đã hoàn thành mỹ mãn mầu nhiệm ấy. Cũng như Giáo hội là mẹ của tất cả những ai tái sinh trong đời sống Giáo hội. Giáo hội là mẹ của những người sống làm cho mọi người được sống (Ga 11,25; 5,25s). Khi trao ban sự sống cho trần gian dưới nhiều hình thức, Giáo hội đã trao bao sự sống cho tất cả những ai tìm thấy sự sống của mình trong Đấng Hằng Sống.
Chính vì thế, người mẹ diễm phúc của Chúa Kitô là mẹ chúng ta nhờ mầu nhiệm thân thể này, Mẹ cũng tỏ cho chúng ta biết Mẹ rất ân cần và trìu mến… Và giờ đây chúng ta "ở trong sự che chở " của Mẹ "Đấng Tối Cao", chúng ta "ngụ cung cấm của Ðấng Tối Cao, và trọ dưới bóng của Ðấng Toàn năng; Tôi đã đặt Chúa luôn luôn trước mắt, vì có Người bên hữu, tôi sẽ không lay! " (Ps 90,1; 16,8). Hơn nữa, vì Vua vinh quang đã ngự nơi Mẹ, với tình mẫu tử hải hà, Mẹ sẽ chia sẻ vinh quang ấy cho chúng ta.
Mẹ hạnh phúc, Mẹ cũng muốn con cái mình hạnh phúc, nên Mẹ dạy: "Người bảo gì các con cứ làm theo" (Ga 2, 5). Chúa Giêsu bảo: "Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa còn có phúc hơn" (Lc 11, 28). Xin Mẹ giúp chúng con vâng nghe và giữ lời Thiên Chúa, để trở nên những người con diễm phúc của Mẹ. Amen.
------------------------------
--Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
Hôm nay, Giáo hội long trọng cử hành lễ Đức Trinh Nữ Maria hồn xác về Trời. Đức Maria lên 15/8-94
Hôm nay, Giáo hội long trọng cử hành lễ Đức Trinh Nữ Maria hồn xác về Trời. Đức Maria lên Trời cho chúng ta biết chết không phải là hết, nhưng ranh giới giữa cuộc sống trần thế lữ hành trong đức tin với cuộc sống mai hậu ở trên trời.
Cuộc đời của Đức Maria là bằng chứn, Mẹ có hai cuộc lữ hành, một là cuộc lữ hành vật chất, Mẹ đi (từ Nazareth đến Bethlehem, từ Bethlehem sang Ai Cập, từ Ai Cập trở về Nazareth, từ Nazareth đến Giêrusalem, lên tới Êphêsô); hai là cuộc lữ hành về tinh thần (Mẹ bước di trong đức tin, vâng phục và yêu thương khởi đi từ lòng Mẹ đến Thiên Chúa, ban tặng cho Chúa Giêsu một trái tim bằng thịt).
Lấy lại những lời lẽ của sắc chiếu định nghĩa tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời Công Đồng Vaticanô II viết như sau: "Được gìn giữ tinh sạch khỏi mọi vết tội nguyên tổ, và sau khi hoàn tất cuộc đời dưới thế, Ðức Nữ Trinh Vô Nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác, và được Thiên Chúa tôn vinh làm Nữ Vương vũ trụ, để nên giống Con Ngài trọn vẹn hơn, là Chúa các Chúa (x. Kh 19,16), Ðấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết " (Vatican II, LG, số 59).
Bàn về cái chết của Đức Maria, một câu hỏi được đặt ra: Có thể nào Đức Maria Nazareth lại phải trải qua thảm cảnh chết chóc nơi thân xác mình hay không?
Một số nhà thần học đã chủ trương, Đức Maria được miễn khỏi phải chết, Người đã được đưa thẳng từ cuộc sống đời này về vinh quang trên trời. Tuy nhiên, một lưu truyền lâu đời vẫn coi cái chết của Đức Maria như là sự dẫn đưa vào vinh quang trên trời.
Khi suy nghĩ về số phận của Đức Maria và mối tương quan của Người với Chúa Con, một số người khẳng định: chính vì Đức Kitô đã chết, vì thế khó lòng chủ trương một điều trái ngược đối với Thân Mẫu của Chúa.
Theo đường hướng đó Các giáo phụ đã lập luận và không mảy may nghi ngờ gì về điểm này. Thánh Giacôbê Sarug (+ năm 521), viết: “ca đoàn mười hai Tông Đồ, khi Đức Maria đã đến thời đi vào con đường của hết mọi thế hệ, nghĩa là con đường của sự chết, thì đã tụ họp để an táng thân xác trinh khiết của Đấng đáng chúc tụng”. Thánh Modestô Giêrusalem (+ năm 634), sau khi đã dài dòng bàn về “giấc ngủ hạnh phúc của Đức Mẹ Chúa Trời”, đã kết luận: “lời từ giã” qua việc tán dương sự can thiệp diệu kỳ của Chúa Kitô, Đấng đã cho Đức Maria “chỗi dậy từ ngôi mộ” để đưa Người về với mình trong vinh quang. Thánh Gioan Đamascêno (+ năm 704) đã tự hỏi: “Tại làm sao mà Đấng vào lúc sinh hạ đã vượt qua hết mọi giới hạn của thiên nhiên, giờ đây lại phải chịu khuất phục những luật lệ của thiên nhiên, và làm sao thân thể vô nhiễm của Người lại có thể khuất phục cái chết?”. Ngài trả lời: “Chắc hẳn là cái phần hay chết cần phải được chôn táng để có thể mọc lên sự bất tử, xét vì chính Chủ tể thiên nhiên cũng đã không muốn khước từ cảm nghiệm cái chết. Thực vậy, Người đã chết theo xác thể và bằng cái chết Người đã hủy diệt cái chết, Người đã mang lại sự bất diệt cho sự hủy hoại, và Ngài đã biến cái chết thành nguồn của sự sống lại”.
Đành rằng, dựa theo mặc khải, cái chết được trình bày như là án phạt của tội lỗi. Tuy vậy, sự kiện Hội Thánh tuyên bố Đức Maria được giải thoát khỏi tội nguyên tổ do một đặc ân của Chúa, không minh định Đức Maria cũng đã lãnh nhận đặc ân bất tử về thân xác. Bà Mẹ không thể hơn Con mình được, Đấng đã lãnh nhận cái chết, để ban cho nó một ý nghĩa mới và biến đổi nó thành một dụng cụ của sự cứu rỗi.
Cho dù cuộc đời của Đức Maria đã chấm dứt do một sự kiện hữu cơ hay sinh lý nào đi nữa, chúng ta vẫn có thể nói, việc chuyển bước từ cuộc đời này đến cuộc đời bên kia đối với Đức Maria là một sự trưởng thành của ơn thánh tiến tới vinh quang; vì thế cái chết của Người có thể được quan niệm như là một “giấc ngủ”.
Thánh Bernard nói với chúng ta rằng: "“Đức Maria Nữ Trinh vinh hiển về Trời đã gia tăng hạnh phúc và niềm hy vọng nơi chúng ta”. Ngài thêm: “Đức Maria, Phần Tử ưu tú trên địa cầu chúng ta đang sống được đưa từ đất về trời, là một món quà vô cùng cao quí, sự vinh thăng ấy là cuộc trao đổi kỳ diệu giữa đất với trời, giữa con người trần thế với thế giới thần linh. Mẹ là hoa quả tuyệt vời của trái đất đã được đưa lên cao, để từ trên nơi cao xanh ấy ơn sủng lại tuôn đổ chan hòa xuống trên mặt đất, nghĩa là chính từ nơi Đức Maria diễm phúc được rước lên đó, đến lượt mình, Mẹ lôi kéo muôn vàn ân sủng xuống cho nhân loại”.
Ân sủng Mẹ chuyển xuống chính là Lời, Lời mà Mẹ đã đón nhận và cẩn thận ghi nhớ cũng như cưu mang trong lòng. Khi cưu mang Lời trong lòng, Mẹ cũng cưu mang Sự Sống của chúng ta: “Đức Maria vội vã lên đường, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Êlisabét” (Lc 1,39-40). Sự hiện diện của Mẹ Maria làm cho thế giới vui mừng như bà Êlisabét nói: “Vì khi vừa nghư tiếng em chào, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng tôi” (Lc 1,44).
Mẹ vui mừng, Mẹ cũng làm cho thế giới mừng vui, niềm vui của Mẹ trở thành bài thánh ca muôn thủa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi!” (Lc 1,46-47). Thật là một quả phúc tuyệt vời trên cõi trời cao ban xuống cho nhân loại. Bài Ca Tạ Ơn của Đức Maria đã trở thành Lời Thiên Chúa. Trong bài ca ấy, chúng ta tìm ra con đường để hiểu biết con người và Thiên Chúa như thế nào, và trần thế cũng như thiên đàng ra làm sao. Tất cả hợp nhất cùng nhau và có thể làm như Mẹ đã làm, món quà mà Thiên Chúa làm cho chúng ta trong Con yêu dấu của Chúa qua Đức Maria Trinh Nữ Rất Thánh: để trở thành món quà Chúa cho thế gian, và mai ngày, trở thành món quà của nhân loại dâng lên Thiên Chúa, chúng ta phải noi gương của Đức Maria, người đã bước vào vinh quang trước chúng ta và đang đợi chúng ta ở đó.
Nữ Vương linh hồn và xác lên Trời, cầu cho chúng con. Amen.
------------------------------
--Lm Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng gồm ba phần như sau: Phần I (39-40): Đức Ma-ri-a vội vã lên đường thăm viếng bà 15/8-95
Bài Tin Mừng gồm ba phần như sau: Phần I (39-40): Đức Ma-ri-a vội vã lên đường thăm viếng bà chị họ Ê-li-sa-bét. Hai bà mẹ đều được chúc phúc vì đã quảng đại đáp lời mời cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Phần II (41-46a): Thai nhi Gio-an trong dạ mẹ đã hân hoan nhảy mừng đón Thai Nhi Giê-su đến ban ơn cứu độ. Phần III (46b-56): Đức Ma-ri-a dâng lời kinh Ma-nhi-phi-cát ca ngợi tình thương cứu độ của Đức Chúa.
CHÚ THÍCH:
- C 39: + Lên đường vội vã: Chỉ một thời gian ngắn sau biến cố Truyền tin, Đức Ma-ri-a đã vội vã lên đường đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét (hay cũng gọi là I-sa-ve), mà sứ thần đã cho biết bà mới có thai được 6 tháng. Bà này đã chịu tủi hổ trước mặt người đời, vì bị son sẻ không con. + Đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa: Thành mà Đức Ma-ri-a định tới là một trong mười một địa hạt miền Giu-đê. Nhiếu người nghĩ đó là A-in Ka-rim, cách thủ đô Giê-ru-sa-lem 6 cây số về phía Tây. Con đừong từ Na-da-rét đến A-in Ka-rim dài 150 cây số.
- C 40-41: + bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét: Cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ chính là cơ hội để thai nhi Giê-su gặp gỡ thai nhi Gio-an là tiền hô của Người. + Đứa con trong bụng nhảy lên: Gio-an Tẩy Giả bắt đầu sứ vụ ngôn sứ bằng động tác nhảy mừng trước Đấng Thiên Sai (Mêsia) đang ẩn mình trong dạ mẹ, giống như vua Đa-vít xưa đã nhảy mừng khi ra đón Hòm Bia Giao Ước. Truyền thống coi sự kiện này là dấu hiệu Gio-an Tẩy Giả được khỏi tội tổ tông truyền. + Bà được đầy ơn Chúa Thánh Thần: Thánh Thần đã tác động khiến bà Ê-li-sa-bét nhận biết cô em họ Ma-ria đang mang Đấng Mê-si-a đến viếng thăm nhà mình.
- C 42-44: + Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc: Bà Ê-li-sa-bét ca tụng Ma-ri-a diễm phúc hơn mọi phụ nữ, vì thai nhi trong lòng Ma-ri-a là Đấng được Thiên Chúa chúc phúc. + Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?: “Chúa tôi” ở đây là danh xưng của Đấng Mê-si-a. Nhờ được Thần Khí tác động mà bà Ê-li-sa-bét đã nhận ra Chúa của mình là Thai nhi mà cô em Ma-ri-a đang cưu mang. Danh xưng Đức Giê-su là “Chúa” được Tin Mừng Lu-ca sử dụng đến 40 lần. + Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng: Ê-li-sa-bét chia sẻ cho Ma-ri-a sự lạ mà bà vừa cảm nghiệm. Đó cũng là lý do khiến bà nhận biết Đức Ma-ri-a đang cưu mang Thai Nhi Cứu Thế.
- C 45: + Em thật có phúc, vì đã tin: Ma-ri-a đã tin vào những lời Chúa phán với mình khi sứ thần truyền tin sẽ được thực hiện, và trở thành người tín hữu đầu tiên của thời Tân Ước. Ngược lại với ông Da-ca-ri-a chồng bà vì không tin và đòi thấy dấu lạ, nên đã bị câm cho đến khi các điều sứ thần nói xảy ra (x. Lc 1,20).
- C 46-50: +”Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa: Sau khi nghe bà Ê-li-sa-bét khen là có phúc, Ma-ri-a đã quy hướng lời ca khen đó về cho Thiên Chúa trong bài kinh “Ngợi khen Thiên Chúa” (Magnificat). Bài này mô phỏng theo bài ca mà bà An-na là mẹ của ngôn sứ Sa-mu-en, sau khi được Đức Chúa cho sinh con trai và mang đứa trẻ lên Đền Thờ tại Si-lô thời Tư tế Ê-li, để thánh hiến dâng cho Đức Chúa (x. 1 Sm 2,1-10). Kinh này nhấn mạnh hai đìều: Một là người nghèo hèn bé mọn được Chúa bênh vực (x. Xp 2,3; Mt 5,3); Hai là dân Ít-ra-en được Chúa tuyển chọn và yêu thương (x. Đnl 7,6). Đức Ma-ri-a đã hát lên bài ca này để bày tỏ lòng tri ân của mình (cc 46-49) và của toàn dân It-ra-en (cc 50-55), vì nay đã đến thời điểm lời hứa cứu độ của Đức Chúa được thực hiện.
- C 51-55: + Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh: Chúa dùng quyền năng để can thiệp và bênh vực người hèn yếu (x. Tv 118,15-16). + Vì Người nhớ lại lòng thương xót: Cựu Ước thường ghi là “Thiên Chúa nhớ lại” để diễn tả việc Người luôn trung thành với lời hứa và thi hành những lời Ngừơi đã phán qua các ngôn sứ (x. St 8,1; 9,15; Xh 2,24). Lu-ca cũng không quên ghi lại lời chúc tụng như bài ca của Da-ca-ri-a trước đó: “Người nhớ lại lời xưa giao ước” (Lc 1,72).
- C 56: + Ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng: Ở lại để giúp đỡ bà chị Ê-li-sa-bét, làm các việc nhà thay cho bà trong thời kỳ cuối trước khi bà sinh con. Nhưng Đức Ma-ri-a chỉ phục vụ đúng mức mà thôi. + rồi trở về nhà: Một tuần sau ngày bà Ê-li-sa-bét sinh nở, sau khi con trẻ được đặt tên và chịu phép Cắt Bì để được gia nhập vào dân Ít-ra-en, thì Đức Ma-ri-a đã trở về quê nhà là thành Na-da-rét.
CÂU HỎI: 1) Lý do nào khiến Đức Ma-ri-a vội vã lên đường viếng thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét? 2) Truyền thống Công Giáo khẳng định Gio-an Tẩy Giả được khỏi tội tổ tông truyền từ lúc nào? 3) Bà Ê-li-sa-bét được đầy Thánh Thần đã gọi Đức Ma-ri-a bằng tước hiệu gì? 4) Tại sao bà Ê-li-sa-bét khen Đức Ma-ri-a diễm phúc, khác với ông Gia-ca-ri-a chồng bà? 5) Bài kinh “Ngợi khen Thiên Chúa” (Magnificat) có nguồn gốc thế nào trong Cựu Ước và nội dung gồm những gì? 6) Đức Ma-ri-a ở lại nhà bà Ê-li-sa-bét bao lâu và để làm gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Bà Ê-li-sa-bét được tràn đầy Thánh Thần đã ca tụng Đức Ma-ri-a rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ” (41-42a),… và: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (45). Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (46).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Đức Maria Hòm Bia của Giao Ước Mới:
+ LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA CỦA HÒM BIA GIAO ƯỚC: Hòm bia hay Khám Giao Ước là một chiếc thùng được làm bằng gỗ keo hình chữ nhật, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi và cao bảy tấc rưỡi. Được dát bằng vàng ròng cả trong lẫn ngoài (x. Xh 37, 1-2). Bên trong chứa đựng hai tấm bia ghi Mười điều răn do chính Thiên Chúa viết và ban cho dân It-ra-en qua trung gian của Mô-sê trên núi Khô-rép (x. Xh 20,1-17; Đnl 5,2-21). Về sau Mô-sê còn viết sách Luật và truyền đặt bên cạnh Hòm Bia (x. Đnl 31,24-27). Trên Hòm Bia có một cái nắp đậy được gọi là Nắp Xá Tội. Hai bên đầu nắp có hai bức tượng thần hộ giá (Kê-ru-bim) bằng vàng gò đặt đối diện nhau và cùng cúi mặt xuống nắp. Hai tượng này có cánh giương lên và phủ trên nắp (x. Xh 25,18-20). Chính nơi Hòm Bia này mà Đức Chúa hiện ra nói chuyện với dân Người và đáp lại lời họ kêu xin (x. Xh 25,22; 1 Sm 4,4). Trong cuộc hành trình qua sa mạc, Hòm Bia Giao Ước luôn được khiêng đi trước dẫn đường cho dân Ít-ra-en. Vua Đa-vít đã đem cả Hòm Bia Giao Ước lẫn Lều Thánh về Giê-ru-sa-lem và làm cho thành này trở thành trung tâm của Vương quốc cả về chính trị lẫn tôn giáo. Vua Sa-lô-môn đã đặt Hòm Bia Giao Ước vào nơi Cực Thánh của Đền Thờ sau khi xây dựng xong. Đối với nhà vua cũng như toàn dân, Hòm Bia Giao Ước mang ý nghĩa lãnh đạo và che chở, đồng thời cũng là lời khuyến cáo phải sống theo thánh ý Thiên Chúa đang ngự giữa dân Người. Sau khi đế quốc Ba-by-lon tàn phá Đền thờ Giê-ru-sa-lem vào năm 587 trước Công Nguyên, họ cũng phá hủy cả Hòm Bia Giao Ước. Từ đó tất cả ý nghĩa của Hòm Bia Giao Ước đều chuyển sang Đền Thờ thứ hai và thành thánh Giê-ru-sa-lem, được coi là ngai tòa và là bệ chân của Thiên Chúa.
+ Đức Maria, Hòm Bia của Giao Ước Mới: Trong Tân Ước, Đức Ma-ri-a được công nhận là nơi Thiên Chúa cư ngụ, giống như Hòm Bia của Giao Ươc mới. Nơi Đức Ma-ri-a, quyền năng của Thiên Chúa đã được tỏ hiện, đúng như sứ thần đã nói với Người: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà” (Lc 1,35). Thực vậy, vinh quang Thiên Chúa đã bao phủ trên Ma-ri-a giống như cột mây cột lửa đã rợp bóng trên dân It-ra-en để bang trợ, phù giúp dân vượt qua biển Đỏ về miền Đất Hứa (x. Xh 14,19-20). Trong biến cố Truyền tin, ngay sau lời thưa “Vâng” của Người, Thánh Thần đã tác động làm cho Đức Ma-ri-a thụ thai mà vẫn còn trinh khiết, và Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập vào Thai nhi ấy, trở thành người có xác có hồn giống như chúng ta (x. Lc 1,38), ngoại trừ không có tội. Đó là Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Tóm lại, Đức Ma-ri-a cũng đựơc ví như Hòm Bia của Giao Ước Mới, nơi mà “Lời Thiên Chúa đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (x. Ga 1,14), và Đức Giê-su trở thành Đấng “Em-ma-nu-en” Nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23). Đức Ma-ri-a là Mẹ cưu mang Hài Nhi Giê-su trong lòng, nên Người cũng được ví như Hòm Bia Thiên Chúa.
2) Mẹ luôn cứu giúp những ai tin cậy kêu cầu:
ĐU-LỚT HAI-ĐƠ (Douglas Hyde) vốn là một người vô tín và thù ghét đạo Công giáo. Ông là chủ bút một tờ báo lớn ở nước Anh. Với tư cách là chủ bút, ông nghiên cứu về Giáo hội để viết những bài phê bình chống đối gay gắt. Tuy nhiên một điều lạ lùng đã xảy ra, là ông càng nghiên cứu về giáo lý bao nhiêu, thì tâm trí ông lại càng thêm tin tưởng vào các chân lý ấy bấy nhiêu. Tuy vậy ông vẫn chưa quyết định dứt khóat tin theo đạo ngay.
Một hôm, trên đường từ nhà đến tòa soạn ở trung tâm thủ đô Luân Đôn, lúc xe lửa đến trạm dừng, Đu-Lớt thấy tấm biển ghi “Nhà thờ Công giáo” ở bên đường, ông liền thử vào bên trong nhà thờ xem sao. Ông ngồi vào hàng ghế ở cuối nhà thờ và rồi thắc mắc tại sao mình lại có mặt ở đây? Bấy giờ ông thấy một cô gái bước vào nhà thờ, nét mặt âu lo buồn khổ. Cô ta đi thẳng đến trước tòa Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp bên trái cung thánh nhà thờ và quỳ dưới hình Đức Mẹ một hồi lâu. Sau đó, cô đứng dậy đi xuống cuối và ra khỏi nhà thờ. Khi cô đi ngang, Đu-lớt nhận thấy nét mặt của cô ta đã bình thản trở lại chứ không còn lo âu sầu não như khi mới bước vào nhà thờ.
Ngay lúc đó Đu-lớt quyết định thử làm theo cô gái là cũng đến quỳ trước ảnh Đức Mẹ. Sau này ông đã viết trong cuốn “tôi tin” (I believed) như sau: “Tôi không biết người ta đã cầu nguyện với Đức Mẹ thế nào? Cuối cùng tôi nghe thấy chính mình sắp nói ra một điều gì đó thích hợp. Tuy nhiên khi bắt đầu thốt ra thì tôi lại thấy lời đó có vẻ kỳ cục làm sao! Nhưng điều này không quan trọng gì. Tôi biết rõ là sự tìm kiếm bấy lâu nay của tôi đã đạt tới đích… Lúc ra khỏi nhà thờ, tôi cố gắng hồi tưởng lại những gì tôi nói và hầu như tôi bật cười khi nhớ lại những lời ấy. Chúng giống hệt những lời ngân lên trong một điệu khiêu vũ!” Cuối cùng Đu-lớt đã đạt tới đức tin vào Chúa Giê-su nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.
3) Những bằng chứng về đặc ân Hồn Xác Lên Trời của Đức Maria:
Ngoài truyền thống hay Thánh Truyền là ký ức tông truyền, Giáo Hội còn dựa trên một số đoạn Thánh Kinh cho thấy Mẹ Thiên Chúa liên kết rất mật thiết với Con Mình và luôn chia sẻ tất cả thân phận của con, để xác tín đặc ân Hồn Xác Lên Trời của Mẹ:
+ “Dòng giống người nữ sẽ đánh vào đầu mi” (St 3,14-15): Câu này có ba cách hiểu: Một là “Sự chiến thắng của dòng giống người đàn bà trên dòng giống con rắn” (Bản văn tiếng Do Thái). Hai là “Người đàn bà sẽ đạp lên đầu mi” (Bản văn tiếng La Tinh), khẳng định vai trò của Mẹ Đấng Mê-si-a trên con rắn hỏa ngục là ma quỷ (x. Kh 12,13.17). Ba là “Người đó sẽ đánh vào đầu mi” (Bản văn Bảy mươi tiếng Hy Lạp), được hiểu là Đức Giê-su, Đấng sẽ chiến thắng con rắn ma quỷ.
+ “Đấng đầy ân sủng, luôn được Thiên Chúa ở cùng” (x. Lc 1,28): Đầy ơn phúc và luôn có Chúa tức là hoàn toàn trong sạch thánh thiện, nên Người không phải chết như loài người chúng ta. “Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai và đặt tên là Giê-su” (Lc 1,31): Đức Ma-ri-a được chọn làm Mẹ Đấng Thiên Sai, Đấng sẽ thay vua Đa-vít cai trị Ít-ra-en và triều đại của Người sẽ luôn vững bền.
+ Đức Maria là Evà Mới: Đã cộng tác với Đức Giê-su là A-Đam mới, để vâng phục Chúa Cha (x. Rm 5,12-19; PI 2,6-11). Mẹ đã tích cực cộng tác với Đức Giê-su trong cuộc khổ nạn (x. Ga 19,25), thì cũng được dự phần vào sự phục sinh vinh quang với Người.
4) Từ tín điều Mẹ Thiên Chúa đến Mẹ Hồn Xác Lên Trời:
+ Từ thuở ban đầu, các giáo đoàn tiên khởi đều tôn kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Từ những đoạn Thánh Kinh Tân Ước, đến các giáo phụ, rồi Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431 đã tuyên bố “Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa”. Đã có những lễ nói đến lúc chấm dứt cuộc đời của Đức Ma-ri-a như: Lễ Đức Mẹ An Giấc (dormitio), Lễ Đức Mẹ Chuyển Biến (Transitus), Lễ Đức Mẹ Sinh Ra Trên Trời (Natalis), Lễ Đức Mẹ được Nâng Lên Trời (Assumptio).
+ Riêng Lễ Đức Mẹ An Giấc (Dormitio) đã được long trọng cử hành đó đây trong Giáo Hội Đông Phương. Nhất là từ sau Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431, nhưng mãi đến thế kỷ thứ 7, lễ này mới được du nhập vào Giáo Hội Tây Phương.
Từ đó về sau nhiều thư thỉnh nguyện của các giám mục, các dòng tu, các nhà thần học được gửi đến Đức Giáo Hoàng để xin Ngài định tín về việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Trong Công đồng Va-ti-ca-nô I, nhiều nghị phụ cũng yêu cầu Đức Thánh Cha quyết định điều đó, vì theo các ngài thì việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời có liên quan mật thiết với đức đồng trinh và chức vụ làm mẹ Đấng Cứu Thế của Ngài. Hơn nữa, vì Mẹ đã được cứu chuộc hoàn toàn, nên cũng phải được tôn vinh toàn diện như lời thánh Phao-lô: “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến người, tức là cho những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8,28-29). Dựa theo các thỉnh nguyện thư đó, năm 1946, Đức Pi-ô 12 đã gửi đến mỗi giám mục một lá thư và yêu cầu trả lời như sau: “Đức cha và hàng giáo sĩ, giáo dân trong giáo phận của Đức cha, có xác tín và có muốn công bố việc Đức Ma-ri-a hồn xác lên trời như một tín điều hay không?” Hầu hết các thư trả lời đều đồng ý và thỉnh nguyện như vậy. Thế là vào ngày 1.11.1950, Đức Pi-ô 12 đã long trọng tuyên bố tín điều Đức Ma-ri-a Hồn Xác Lên Trời cho toàn thể Giáo Hội tin kính và mừng chung vào ngày 15 tháng 8 hằng năm.
+ Đức Thánh Cha đã xác quyết: “Thế nên Đức Thánh Mẫu cao cả, ngay từ đời đời và do cùng một quyết định tiền định, đã được kết hợp với Đức Giê-su Ki-tô một cách huyền nhiệm, vô nhiễm khi đầu thai, đồng trinh vẹn sạch khi làm Mẹ, cộng tác quảng đại với Đấng Cứu Thế, Đấng đã chiến thắng hoàn toàn sự tội và các hiệu quả của nó, thì cuối cùng để kết thúc mọi đặc ân ngài đã được, Đức Trinh Nữ cũng đã gìn giữ khỏi bị hư nát ở trong mồ, để nên giống Con Mình. Sau khi chiến thắng sự chết, ngài cũng được tôn vinh trên trời cả hồn lẫn xác, nơi Ngài được sáng láng làm Nữ Vương ngự bên hữu Con mình là Vua bất tử của mọi thời” (trích CGKPV trang 334).
3. SUY NIỆM:
1) Đức Maria là Mẹ Đức Giêsu:
Là Mẹ đã thụ thai và hạ sinh Đức Giê-su: Tin Mừng Lu-ca thuật lại việc Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế nhờ có Chúa ở cùng, và luôn kết hiệp mật thiết với Người. Sau lời thưa “xin vâng”, Ma-ri-a đã đuợc thụ thai mà vẫn bảo toàn đức trinh khiết nhờ ơn Thánh Thần (x. Lc 1,28-38). Sau đó Ma-ri-a theo “Ông Giu-se từ thành Na-da-rét miền Ga-li-lê lên thành Bê-lem, miền Giu-đê là thành vua Đa-vít, vì ông thuộc về nhà và gia tộc vua Đa-vít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã đính hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2,4-7).
2) Đức Maria là Mẹ Hội Thánh:
+ Tin Mừng Gio-an viết: “Đứng gần thập giá Đức Giê-su có Mẹ Người, chị của Mẹ Người là bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la. Khi thấy Mẹ và môn đệ mình thương mến đứng bên, Đức Giê-su nói với Mẹ Người rằng: “Thưa bà, đây là con của Bà”. Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh”. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình (Ga 19,25-27).
+ Thánh Phao-lô cũng dạy: “Thiên Chúa đặt Người làm Đầu toàn thể Hội Thánh. Mà Hội Thánh là thân thể Đức Ki-tô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (x. Ep 1,22b-23); “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh” (Cl 1,18). Như vậy Đức Ma-ri-a là Mẹ của Đức Giê-su là Đầu, thì cũng là Mẹ của thân thể Đức Giê-su là Hội Thánh, trong đó có mỗi tín hữu chúng ta.
+ Người nêu gương khiêm nhường cho các tín hữu qua việc luôn lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và mau mắn xin vâng (x. Lc 1,30-36). Người cũng nêu gương bác ái khi chủ động thăm viếng bà chị họ Ê-li-sa-bét, đem niềm vui ơn cứu độ đến cho gia đình Gia-ca-ri-a, làm cho thai nhi Gio-an “nhảy mừng’ vì được khỏi tội tổ tông truyền. Sau đó Người còn ở lại 3 tháng để phục vụ, giúp đỡ việc nhà cho bà Ê-li-sa-bét trong ba tháng trước ngày bà sinh con, rồi trở về nhà mình (x. Lc 1,39-56). Người cũng quan tâm đến đôi tân hôn trong bữa tiệc cưới bị thiếu rượu tại thành Ca-na khi cầu thay nguyện giúp đội tân hôn với Đức Giê-su, xin Người can thiệp giúp đôi này. Dù Giờ chưa đến, nhưng Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên là biến nước lã trở thành rượu ngon để giúp họ (x. Ga 2,1-11).
3) Đức Maria là Đấng Đầy Ơn Phúc:
Ma-ri-a đầy ơn phúc và được Chúa luôn ở cùng như lời chào của sứ thần truyền tin (x. Lc 1,28).
+ Ma-ri-a có phúc vì tâm hồn Mẹ trong sạch và luôn kết hiệp với Chúa.
+ Ma-ri-a có phúc vì đã tin: Bà Ê-li-sa-bét đã ca tụng Đức Ma-ri-a rằng: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng: Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45).
+ Ma-ri-a có phúc vì được làm Mẹ Đức Giê-su. Là Hòm Bia Giao Ước Mới, Đức Maria chứa đựng chính Ngôi Lời Thiên Chúa làm người, để ở cùng chúng ta (x. Ga 1,14; Mt 1,23).
+ Nhưng nhất là có phúc vì đã trở thành môn đệ Đức Giê-su như Đức Giê-su đã đáp lại lời một phụ nữ khen ngợi người Mẹ đã có công sinh thành nuôi dưỡng Người: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,27-28). Do đó, Đức Giáo Hòang Phao-lô VI đã gọi Đức Ma-ri-a là “môn đệ tiên khởi và tuyệt hảo nhất của Đức Ki-tô”.
4) Đức Maria được rước về trời để chuyển cầu cho chúng ta:
+ Việc Hội Thánh tuyên bố tín điều “Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời” dạy chúng ta phải ý thức về thiên đàng đời sau. Chúng ta chỉ được lên trời nếu ngay từ đời này đã sống theo Lời Chúa Giê-su và đi con đường đau khổ thập giá của Người như Đức Ma-ri-a xưa.
+ Đức Ma-ri-a lên trời, nhưng luôn cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta là con cái Người. Ta hãy xin ơn được chết lành trong tay Đức Mẹ và sau này được hưởng hạnh phúc thiên đàng cùng Mẹ.
+ “Đến với Chúa Giê-su nhờ Mẹ Ma-ri-a” (Ad Jesum per Mariam): Chúng ta cần hiệp cùng Mẹ Ma-ri-a mỗi khi cầu nguyện với Thiên Chúa, noi gương Hội Thánh thời sơ khai (x. Cv 1,14). Ta hãy gắn bó với Mẹ và nhờ Mẹ cầu bầu cùng Chúa ban ơn lành hồn xác cho ta như Mẹ đã làm cho đôi tân hôn tại tiệc cưới thành Ca-na xưa (x. Ga 2,3).
+ Sống đức Tin, Cậy, Mến với Chúa noi gương Đức Mẹ: Tin những Lời Chúa phán, tìm hiểu ý Chúa dạy và xin vâng ý Chúa muốn, chấp nhận mọi may rủi xảy đến cho ta với lòng cậy trông phó thác.
4. THẢO LUẬN: 1) Việc về trời của Đức Mẹ (Lễ Mông Triệu) giống và khác với việc lên trời của Chúa Giê-su (Lễ Thăng Thiên) ra sao? 2) Ngay từ bây giờ chúng ta phải làm gì để sau này cũng được Chúa ban thưởng hạnh phúc lên trời với Mẹ?
5. NGUYỆN CẦU:
1) Lạy Chúa Ba Ngôi Cực Thánh. Hôm nay con cảm tạ Chúa vì Chúa đã thực hiện việc lớn lao nơi Đức trinh Nữ Ma-ri-a, là người con thân yêu và là nữ tỳ hèn mọn của Chúa. Chúa đã thương cho Mẹ trở nên giống Con của mình là Chúa Giê-su: nhờ giữ đức trinh khiết vẹn toàn, tâm hồn không vương chút bùn nhơ tội lỗi; Nhờ biết đặt trọn niềm tin vào lời Chúa phán sẽ được thực hiện; Nhờ luôn xin vâng ý Chúa để trở thành Mẹ Đấng Thiên Sai; Nhờ biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa; Nhờ thông phần với nỗi đau khổ của Chúa Giê-su trên đường thánh giá... mà Mẹ Ma-ri-a đã được Chúa ban thưởng bội hậu lên trời cả hồn lẫn xác.
2) Lạy Đức Maria Là Mẹ Rất Nhân Từ. “Xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời”. Hôm nay cùng với Hội thánh hoàn cầu, chúng con long trọng mừng lễ Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Xin cho chúng con biết chạy đến với Mẹ trong cơn gian nan thử thách: khi bị thất bại trong việc làm ăn, những khi không biết phải làm gì để vượt qua khó khăn… Trong những giờ phút đau thương ấy, xin cho chúng con biết chạy đến nép mình dưới tà áo Mẹ, để được Mẹ che chở ủi an, để được Mẹ cầu bầu cùng Chúa Giê-su, ban cho chúng con ơn lành hồn xác. Nhất là xin Mẹ đừng để khi nào chúng con đi vào con đường lầm lạc. Xin dạy chúng con luôn lắng nghe Lời Chúa Giê-su con yêu của Mẹ, như Mẹ đã dạy các gia nhân tại tiệc cưới Ca-na: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5).
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
------------------------------
--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Có lẽ không có loài hoa nào vừa bình dị, vừa cao sang, vừa gần gũi lại rất thanh khiết cao quý 15/8-96
Có lẽ không có loài hoa nào vừa bình dị, vừa cao sang, vừa gần gũi lại rất thanh khiết cao quý cho bằng hoa sen Việt Nam. Cây sen tươi đẹp, hoa sen xinh tươi, thơm ngát, thanh tao nhưng lại rất gần gũi với đời sống người dân Việt Nam. Gần gũi đến nỗi người Việt Nam nào cũng biết nó, cũng yêu quý nó. Gần gũi đến nỗi người ta thi vị nó, nhân cách hoá nó như là tâm hồn của một con người. Một tâm hồn trong sáng, thanh khiết giữa bùn nhơ tội đời.
"Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chằng hôi tanh mùi bùn".
Lời ca dao thật nhẹ nhàng dẫn dắt người nghe về vẻ thanh tao của một loài hoa dân dã, bình dị để gợi mở về hình ảnh người nông dân lam lũ quanh năm nơi đầm lầy nước đọng nhưng tấm lòng lại thanh cao như loài hoa sen.
Ngay từ hai câu đầu tác giả khẳng định về vẻ đẹp của loài hoa sen: "Trong đầm gì đẹp bằng sen - Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng". Quả thực, ở giữa đầm lầy thì bông sen đẹp nhất. Cây sen được nổi lên với những cánh lá xanh nhô lên mặt nước như những cái dù xinh xắn. Bông sen mở cánh trắng muốt sáng lên dưới nắng mặt trời, toả hương ngào ngạt từ nhị hoa vàng. Tất cả tạo lên một bức tranh thôn quê bình dị, yên hàn. Thế nhưng, tác giả dường như không dừng lại ở việc ngắm đoá hoa sen một cách chung chung hay ở đàng xa, mà dường như tác giả nâng niu từng lá sen xanh, chỉ từng bông sen trắng, đếm từng nhị sen vàng. Có như vậy, tác giả mới có thể nói lên rằng:
"Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".
Lời kết tác giả như muốn lội ngược dòng khi tác giả thi vị hoá cây sen thành nét đẹp của tâm hồn con người. Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Từ đây, cây sen đã trở thành biểu tượng của tâm hồn trong sáng, hiền lành của người nông dân chân lấm tay bùn Việt Nam. "Gần bùn" ở đây chính là môi trường tiếp xúc của sen hay nói đúng hơn chính là xã hội phong kiến bất công bấy giờ có quá nhiều những tham nhũng, dơ bẩn, ô uế. Tuy vậy mà bông sen vẫn rực rỡ, sáng ngời, toả ánh hào quang, không hề dơ bẩn. Mà ngược lại nhờ những môi trường xung quanh ấy mà sen càng thêm đẹp, làm tăng sự thanh cao.
Bài ca dao trên là một bài thơ hay. Chỉ bằng những câu từ mộc mạc, giản dị kèm theo thể thơ lục bát bình dân của truyền thống dân tộc Việt Nam, đã làm nổi bật lên hình ảnh nên thơ của người nông dân Việt Nam chân lấm tay bùn nhưng tâm hồn lại thanh cao trong sáng. Họ sống giữa bùn nhơ nhưng không để lòng mình vướng bận những tham sân si giòng đời. Họ sống giữa đầm lầy tội lội nhưng không để lòng mình ngụp lặn trong đam mê tội đời.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Mẹ Hồn Xác về trời. Mẹ Maria chính là một đoá hoa đẹp nhất trần gian. Nhìn vào cuộc đời Mẹ, chúng ta thấy một Maria trong trắng dịu dàng. Một Maria đoan trang mực thước. Một Maria bác ái bao dung. Một Maria nữ tỳ được Chúa yêu thương và chúc phúc. Mẹ luôn giữ lòng thanh khiết giữa bùn nhơ tội đời. Người ta nói Mẹ được ơn Vô Nhiễm ngay tứ lúc trinh thai, nhưng điều quan yếu là Mẹ đã giữ được vẻ thanh khiết vẹn toàn đó giữa môi trường đầy những cám dỗ tội lỗi, đầy những thói đời xấu xa. Mẹ đã thắng mọi cám dỗ để có thể toả ngát hương thơm giữa trần đời. Mẹ là người phụ nữ đẹp rạng ngời giữa muôn ngàn người phụ nữ, tựa như bông sen đẹp lộng lẫy giữa đầm lầy. Tâm hồn Mẹ lại càng thanh cao, thanh cao đến nỗi hoàn toàn xứng đáng cho Con Chúa Trời ngự trị. Mẹ hoàn toàn xứng đáng với lời giới thiệu: "Trong đầm gì đẹp bằng sen". Mẹ xứng đáng là đoá sen không phải là vì nét đẹp kiêu sa mà là vì nét đẹp tâm hồn "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".
Mẹ đã được Chúa đưa cả hồn và xác về trời như là phần thưởng xứng đáng cho những gì Mẹ đã dâng tặng cho Chúa và cho đời. Cuộc đời Mẹ hoàn toàn thanh sạch dành trọn vẹn cho Chúa. Cuộc đời Mẹ luôn toả hương bác ái yêu thương cho tha nhân. Mẹ đã sống một cuộc đời như đoá sen dâng hiến cho trần gian trong sự khiêm nhu của người Nữ Tỳ xin được làm mọi sự vâng theo thánh ý nhiệm màu.
Nguyện xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho mỗi người chúng ta biết gì giữ nét đẹp cao quý nơi phẩm giá làm người và làm con Chúa của chúng ta. Xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta luôn được hồn an xác mạnh, ơn thánh dư đầy để phụng sự Chúa trong mọi người như Mẹ. Amen.
------------------------------
--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Văn chương Việt Nam thường diễn tả hình ảnh về người mẹ thật mộc mạc chất phác, đơn sơ 15/8-97
Văn chương Việt Nam thường diễn tả hình ảnh về người mẹ thật mộc mạc chất phác, đơn sơ và giản dị. Người mẹ Việt Nam luôn gắn bó với ruộng rẫy nương dâu, nơi đồng chua nước mặn, ăn mặc giản dị nâu sồng, không phấn sáp xa hoa, mà tâm hồn hiền hòa, đôn hậu. Những bà mẹ sống cuộc đời bình lặng như mặt nước hồ thu, nhưng vẫn giữ tiết kiên trung, cao cả. Chính những bà mẹ ấy đã đem những giọt mồ hôi tưới mát ruộng đồng, làm đẹp cuộc đời và đẹp cả quê hương:
"Mẹ Việt Nam không son, không phấn,
Mẹ Việt Nam chân lấm, tay bùn,
Mẹ Việt Nam không mang nhung gấm,
Mẹ Việt Nam mang tấm nâu sồng".
(Phạm Duy, Trường ca Mẹ Việt Nam)
Hình ảnh của người mẹ Việt Nam thật cao đẹp, công ơn của mẹ đối với con thật bao la. Công ơn ấy đã được khắc ghi sâu đậm vào tâm não của con, bộc phát thành những lời ca, tiếng nhạc hết sức dạt dào:
"Rủi mai này mẹ hiền mất đi, thì con côi...
Như đóa hoa không mặt trời
Như tuổi thơ không nụ cười
Như đời mình không lớn khôn thêm
Như bầu trời thiếu ánh sao đêm.
Mẹ là dòng suối dịu hiền.
Mẹ là bài hát thần tiên,
Là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao
Là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối.
Mẹ là lọn mía ngọt ngào,
mẹ là nải chuối, buồng cau,
Là tiếng dế đêm thâu, là nắng ấm nương dâu,
Là vốn liếng yêu thương cho cuộc đời".
Vâng, khi nói về người mẹ trần thế chúng ta thường nói đến công lao trời bể, những hy sinh trải rộng suốt dọc dài cuộc đời của mẹ, thế nhưng, còn người Mẹ thiên quốc thì sao? Xem ra ít ai nhìn thấy những đắng cay mà Mẹ phải chịu trong đời, sau lần thưa xin vâng ấy! Chúng ta quá đề cao ân sủng của Chúa nơi Mẹ mà quên rằng: Mẹ chỉ được ơn phước đó nhờ đời sống luôn nở hoa yêu thương, hoa hy sinh, hoa khiêm nhường, hoa bác ái trong đời sống thường ngày của Mẹ, đến nỗi từ trời cao Thiên Chúa đã nhìn thấy Mẹ "hằng đẹp lòng Thiên Chúa".
Thực vậy, Mẹ hằng đẹp lòng Chúa qua cung lòng thanh khiết không vấn vương tội lỗi, rất xứng đáng nên cung điện cho Con Chúa Trời ngự trị
Mẹ hằng đẹp lòng Thiên Chúa khi Mẹ từ bỏ con đường riêng của mình để thưa xin vâng cho ý Chúa được thực hiện.
Mẹ hằng đẹp lòng Chúa khi Mẹ vội vã băng đồi lội suối, thăm viếng và phục vụ bà chị họ, sinh con trong lúc tuổi già.
Mẹ hằng đẹp lòng Thiên Chúa khi tiếp tục xin vâng trong mọi hoàn cảnh thiếu thốn cùng cực nhất: sinh con trong nghèo khó, chốn chạy qua Ai Cập, trở về Nagiaret với đôi tay tần tảo may vá thêu thùa.
Mẹ hằng đẹp lòng Chúa khi Mẹ đồng công thưa xin vâng với thánh ý Chúa Cha qua cái chết Cứu độ của Chúa Giê-su con Mẹ.
Vâng, Mẹ Maria với tư cách là người mẹ trần thế, mẹ cũng trải qua những gian truân, vất vả để nuôi con khôn lớn như bao bà mẹ khác. Mẹ Maria cũng trải qua những tháng ngày tần tảo một nắng hai sương để gồng gánh gia đình đi qua những thăng trầm của dòng đời. Mẹ Maria còn đau khổ hơn bao bà mẹ khác vì con của Mẹ luôn phải đối đấu với nghi nan và nhất là không ai khổ bằng Mẹ, một người mẹ đau khổ phải ôm thân xác tả tơi, bất động của con yêu quý vào lòng với nỗi niềm xót xa, mà cha ông ta diễn tả rằng: "Lá vàng còn ở trên cây lá xanh rụng xuống trời chăng hỡi trời?".
Hôm nay chúng ta chiêm ngắm Mẹ được Chúa đưa cả hồn và xác về trời. Ðây là phần thưởng mà Thiên Chúa đã tặng ban cho Mẹ sau một đời nỗ lực sống theo thánh ý Chúa. Ðây là vinh quang mà Mẹ nhận lãnh sau hành trình dương thế luôn lắng nghe và thực thi thánh ý Chúa.
Mừng Mẹ về trời cũng là dịp nhắc nhở chúng ta hãy noi gương bắt chước Mẹ trên con đường tìm kiếm và thực thi ý Chúa. Mừng Mẹ về trời để giúp chúng ta hiểu rằng những khốn khó, gian truân đời này chẳng là gì so với hạnh phúc vĩnh cửu trên quê trời.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là người có phúc vì Mẹ luôn tin tưởng vào Thiên Chúa và sống cho thánh ý Chúa. Xin Mẹ giúp chúng con cũng tìm được cõi phúc như Mẹ khi buông mình trong sự tín thác vào Thiên Chúa quan phòng và mau mắn thi hành thánh ý Chúa với trọn niềm mến yêu. Amen.
------------------------------
-- Jos. Vinc. Ngọc Biển SSP
Mỗi lần mừng lễ về Mẹ Maria, chúng ta được mời gọi hướng về Mẹ như là một kiệt tác của Thiên 15/8-98
Mỗi lần mừng lễ về Mẹ Maria, chúng ta được mời gọi hướng về Mẹ như là một kiệt tác của Thiên Chúa, một thụ tạo được ưu tuyển và trổi vượt trên hết mọi loài được dựng nên. Bởi lẽ Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương, tuyển chọn cách đặc biệt. Không những thế, Thiên Chúa còn gìn giữ Mẹ cách nhiệm mầu trong chương trình cứu độ. Những ân huệ đó không thể có nơi bất cứ loài thụ tạo nào ngoài Mẹ.
Vì thế, khi mừng kính trọng thể lễ Đức Maria hồn xác về trời, phụng vụ mời gọi chúng ta cùng nhau khám phá vị thế ưu việt của Mẹ trong chương trình cứu độ nơi tín điều, truyền thống và giáo huấn của Giáo Hội. Mặt khác, Giáo Hội cũng chỉ cho con cái mình thấy và hiểu được việc Đức Maria hồn xác lên trời có tầm ảnh hưởng thế nào đến đời sống đức tin và niềm hy vọng cua chúng ta.
1. Giáo huấn của Giáo Hội
Trước tiên, chúng ta tìm hiểu về Giáo Huấn của Giáo Hội qua biến cố Đức Mẹ được đưa lên trời cả hồn lẫn xác.
Lễ Đức Mẹ lên trời là lễ trọng và cũng là lễ cổ xưa nhất trong các ngày lễ kính Đức Mẹ được cử hành trong Giáo Hội hiện nay.Vào thời điểm đầu, lễ này được gọi là lễ Đức Mẹ an giấc. Nhưng đến năm 1950, Đức Cố Giáo Hoàng Piô XII đã đổi tên thành lễ Đức Mẹ lên trời qua Tông hiến Munificentissimus Deus. Với tín điều này, Giáo Hội tin nhận: “Thân xác của Người Phụ Nữ đã trao ban thể xác cho Con Thiên Chúa đã không phải chịu định luật của sự thối rữa”; “Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh, sau khi sống trọn cuộc đời trần thế, đã được triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc” (Tông hiến Munificentissimus Deus). Từ lời tuyên bố long trọng hôm ấy, đã trở thành chân lý đức tin cho toàn thể Giáo Hội hôm nay.
Với lời tuyên tín trên, Đức Giáo Hoàng đã liệt kê bốn chân lý tuyệt đối thuộc về lòng tin nơi Đức Maria. Bốn chân lý đó là: 1) Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa; 2) Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội; 3) Đức Maria Đồng Trinh Trọn Đời; 4) Đức Maria Hồn Xác Lên Trời.
Khi tuyên bố cùng lúc những đặc ân đó của Đức Mẹ, Giáo Hội muốn cho các tín hữu hiểu được cách tổng quát những ân huệ cao cả của Đức Maria, và đây cũng là dịp để xác tín hơn nữa những nguyên lý liên quan đến việc Mẹ được đưa lên trời cả hồn lẫn xác.
Nguyên lý thứ nhất: Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Vì Mẹ được ưu tuyển để đón nhận việc cưu mang và sinh hạ Ngôi Hai Thiên Chúa, và Đấng Cứu Thế là Thiên Chúa, nên Mẹ cũng là Thân Mẫu Thiên Chúa.
Việc được Thiên Chúa cất nhắc cả hồn xác Mẹ về trời là điều không có gì khó hiểu, bởi lẽ cả cuộc đời của Mẹ đã hiệp thông cách chặt chẽ vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa qua Đức Giêsu. Nên khi Đức Giêsu về trời, Ngài không thể để lại để thân xác của người mẹ yêu dấu phải hư nát trong mồ được.
Nguyên lý thứ hai: vì Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ khỏi mọi vết nhơ tội lỗi cách nhiệm mầu, nên khi mang thai và sinh hạ Đấng Cứu Thế quyền năng, Mẹ vẫn đồng trinh trước, trong và sau khi sinh. Vì thế, việc đưa cả hồn lẫn xác Mẹ về trời là điều cần thiết để bảo tồn vẻ trinh nguyên nơi Mẹ.
Nguyên lý thứ ba: nếu trước kia, Nguyên Tổ loài người đã bất tuân, chống lại Thiên Chúa và đi vào cõi chết, thì khi Đức Maria xuất hiện với lời “Xin vâng” tuyệt đối, Mẹ đã trở thành Evà mới liên kết mật thiết với Đức Giêsu – Ađam mới, Đấng là nguồn cội của sự sống, đã từ cõi chết sống lại và lên trời hiển vinh, thì không có lẽ gì Mẹ lại phải chịu cảnh hư nát, bởi vì hư nát là kết quả của tội lỗi. Như vay, Mẹ đương nhiên và rất hợp lý để được đưa lên trời cả hồn lẫn xác (x. GLHTCG số 963- 975).
Tóm lại, ngay từ khi thân xác Mẹ cưu mang chính xác thân Đấng Cứu Thế, thì Đức Giêsu con của Mẹ, đồng thời là Thiên Chúa đã thánh hóa Mẹ cả xác và hồn ngay từ lúc đầu thai. Vì vậy, sự phục sinh của Đức Giêsu không thể tách rời việc phục sinh Thân Mẫu là người đã cưu mang Cây Sự Sống nơi cung lòng thanh khiết của mình. Mẹ không thể “nhục thân bất hoại” theo lẽ thường được.
2. Cùng với Mẹ ngợi khen Thiên Chúa
Như vậy, mỗi khi mừng lễ Mẹ lên trời, chúng ta hãy cùng với cả triều thần ca mừng Nữ Hoàng Thiên Quốc: “Kìa bà nào xuất hiện như rạng đông, diễm kiều như vầng nguyệt, lộng lẫy tựa thái dương, oai hùng như đạo binh chỉnh tề hàng ngũ?” (Dc 6,10).
Thế nên, phụng vụ hôm nay làm toát lên vẻ huy hoàng và sắc thái hân hoan, vì: kể từ đây, Mẹ nắm giữ vai trò quan trọng nhất là Nữ Vương trời đất; làm Mẹ Thiên Chúa và làm Mẹ nhân loại.
Mẹ đáng được mọi đời khen ngợi vì Mẹ là “Đấng đầy ơn phúc”; “Thiên Chúa ở cùng Mẹ”. Mẹ trở thành Evà mới, thành Cây Quả Phúc mà Thiên Chúa đem trồng vào vươn Địa Đàng mới để được cưu mang và sinh ra quả phúc trường sinh là chính Đấng Cứu Thế.
Sự xuất hiện của Mẹ đã đưa nhân loại sang một trang sử mới. Lịch sử cứu độ được mở ra với biết bao ân huệ.
Đứng trước hồng ân lớn lao mà Thiên Chúa ban cho Mẹ, và đặt mình trong tâm tình của Mẹ, chúng ta hãy cất cao lời ngợi khen Thiên Chúa vì những điều kỳ diệu Ngài đã làm nơi Mẹ: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thien Chúa Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc” (Lc 1, 46-48).
Đây chính là lời kinh tuyệt mỹ mà Mẹ Maria đã cất lên để ca tụng Thiên Chúa, và đây cũng là những cảm nghiệm về tình yêu của Thiên Chúa dành cho Mẹ cách nhiệm mầu.
Biến cố Mẹ được đưa về trời, đã đem lại cho con người niềm hy vọng lớn lao và tuyệt đối.
Bởi vì sự phục sinh của Mẹ gắn liền với sự phục sinh của Đức Kitô: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu [...] cũng được Thiên Chúa cho sống lại” (x. 1Cr 15, 20-22).
Qua biến cố này, mặc khải cho chúng ta rằng: Mẹ Maria đã được đưa lên trời cả hồn lẫn xác, và nếu chúng ta theo chân Mẹ, sống như Mẹ và thực hành Lời Chúa cách yêu mến, trung thành thì mai ngày cũng được lên trời hiển vinh như Mẹ. “Cuộc Lên Trời của Đức Trinh Nữ rất thánh là sự tham dư độc nhất vô nhị vào sự Phục sinh của Con mình và là việc thể hiện trước sự phục sinh của các Kitô hữu khác” (GLCG, số 966). Bởi vì “Mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người” (x. 1Cr 15, 23-24) cũng sẽ được phục sinh như Người.
“Mẹ Lên Trời là hình ảnh và khởi thủy của Giáo Hội về ơn cứu chuộc của Thiên Chúa cho mọi người chúng ta. Mẹ chiếu sáng như dấu chỉ lòng trông cậy vững vàng và niềm an ủi cho dân Chúa đang lữ hành” (LG. số 69). Mẹ Lên Trời, nhận lãnh vai trò Nữ Vương trời đất, nên hơn bao giờ hết, Mẹ trở nên gần gũi với mọi thành viên trong gia đình nhân loại, và như thế: “Trong Hội Thánh, Đức Trinh Nữ diễm phúc được kêu cầu bằng các tước hiệu là Trạng Sư, Đấng Cứu Giúp, Đấng Phù Hộ, Đấng Trung Gian” (GLHTCG. số 969).
Như vậy, việc Mẹ được đưa lên trời cả hồn lẫn xác đem lại niềm hy vọng phục sinh cho tất cả chúng ta.
Mầu nhiệm Mẹ được rước lên trời cả hồn lẫn xác không chỉ nhắc nhở chúng ta cầu nguyện với Mẹ, mà còn hy vọng được trường sinh để cùng Đức Mẹ mãi mãi chúc tụng Thiên Chúa. Amen.
------------------------------
--Lm Giuse Nguyễn Văn Hữu
Mừng lễ Đức Maria hồn xác lên trời, là chúng ta tôn vinh một người nữ, Mẹ của Đức Giêsu và 15/8-99
Mừng lễ Đức Maria hồn xác lên trời, là chúng ta tôn vinh một người nữ, Mẹ của Đức Giêsu và Mẹ của mọi người tín hữu, đồng thời thắp lên cho nhân loại niềm hy vọng cứu độ.
1. Mẹ của Đức Giêsu: Trong Tân ước, người ta thường gọi Đức Maria là "Mẹ Đức Giêsu" (Mc 3,31; Ga 2,1-5; Cv 1,14). Nhưng trang Tin mừng hôm nay ghi lại một cách gọi đặc biệt dành cho Đức Maria, đó là 'Mẹ Thiên Chúa' (Lc 1,43).
Với tước hiệu này Mẹ đã đi vào lịch sử cứu độ, như là một mắt xích không thể thiếu được (Gl 4,4-5). Mẹ đã đồng ý thực hiện trọn vẹn kế hoặch của Thiên Chúa, làm cho Chúa Con sinh hạ trong lòng Mẹ nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Các Giáo phụ đã dạy rằng trước khi cưu mang Đức Giêsu trong thân xác, thì Mẹ đã cưu mang Người trong tâm hồn chan chứa niềm Tin - Cậy - Mến.
Tình mẫu tử này đã dành cho Mẹ một quan hệ rất độc đáo với Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người. Khi nhận ra ân huệ này, Mẹ cất lời ca Magnificat, vừa ca tụng các kỳ công của Thiên Chúa, đồng thời xưng tụng các hành vi quả là cách mạng của Người và sống trước các mối phúc thật mà Đức Giêsu, con Mẹ sẽ loan báo sau này.
Lời fiat - xin vâng - ngày Truyền tin ngân nga xuyên suốt đời Đức Maria. Mẹ luôn xưng mình là nữ tỳ của Thiên Chúa và để cho Thiên Chúa hướng dẫn đời mình, dù phải trải qua những đau thương, từ bỏ dưới chân thập giá, nên Mẹ đã đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, từ khám phá này đến khám phá khác và từ ưng thuận này đên ưng thuận khác.
2. Đức Maria, người phụ nữ mới và cũng là Mẹ của người tín hữu: Trên núi Sọ, dưới chân thập giá, Chúa Giêsu đã trối Đức Mẹ cho thánh Gioan và chối thánh Gioan cho Đức Mẹ. Từ đó Mẹ luôn ở bên cạnh các môn đệ vào mọi thời đại, để nhắc nhở các môn đệ "Thày bảo gì thì anh em cứ việc làm theo" (Ga 2,5) và trợ giúp các môn đệ trong việc dẫn đưa mọi người đến với Đức Kitô.
Chúng ta có thể tìm gặp lại mình nơi Đức Maria vào những ngày u tối cũng như những ngày vinh quang, để học biết khiêm nhu phục tùng lời Chúa, biết vui vẻ đợi chờ hồng ân của Chúa Thánh Thần và biết nhận ra các hành động quen thuộc của Chúa Cha nơi Chúa Con (x.Lc 2,51-52).
3. Niềm hy vọng cứu độ: "Kết thúc cuộc đời trần thế, Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội là Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời đã được đưa lên hưởng vinh quang thiên quốc cả hồn lẫn xác" (PVGK, ngày 15 tháng 8, trang 1360).
Khẳng định như vậy, truyền thống Giáo Hội muốn nhìn nhận Đức Maria được hưởng một cái gì đó của cương vị mà Đức Kitô phục sinh đang sở hữu: Thần Khí đã chiếm hữu trọn vẹn Đức Maria, biến Mẹ trở thành đền thờ của Người và hòm bia của Thiên Chúa trên trần gian, thì sau khi hoàn tất cuộc đời lữ khách, Mẹ đã trở thành chi thể đầu tiên của Hội Thánh, một con người đầu tiên của nhân loại ở bên cạnh Thiên Chúa, một hoàn thành thật diễm phúc cho Thiên Chức làm Mẹ Thiên Chúa và cho ơn gọi làm người môn đệ Đức Kitô của Mẹ Maria. Đó là lý do tín điều Hồn Xác Lên Trời của Đức Maria không được công bố vào ngày 15 tháng 8, nhưng vào ngày lễ Các Thánh Nam Nữ (01/11) năm 1950.
Khi công bố vào dịp lễ Các Thánh, Đức Piô XII đã đặt Đức Maria, một thụ tạo và cũng là vị nữ tỳ hoàn hảo của Thiên Chúa về phía nhân loại được cứu độ, để loan báo cho mọi người biết vận mệnh sáng ngời của mình:
"Chúa Kitô phục sinh vinh quang là hoa quả đầu mùa, rồi mới đến những người thuộc về Chúa Kitô" (1Cr 15,23). Mẹ đã thuộc về Chúa Kitô, và chúng ta cũng thuộc về Chúa Kitô. Nếu biết sống đức tin mạnh mẽ như Mẹ, mến Chúa yêu người như Mẹ, hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô như Mẹ, chúng ta cũng được hồn xác về trời giống như Mẹ. Những gì Chúa đã thực hiện nơi Mẹ, Người cũng sẽ thực hiện nơi mỗi người, từng người và từng người một trong chúng ta. Chúa Kitô đã về trời, Mẹ Maria cũng đã về trời, chắc chắn chúng ta cũng sẽ về trời, chúng ta phải xác tín như vậy.
Lạy Chúa, hôm nay chúng con mừng lễ Đức Maria hồn xác về trời, xin cho mỗi người chúng con mai sau cũng được về trời như Mẹ trong niềm tin yêu và hy vọng vào Đức Kitô tử nạn và phục sinh. Amen.
------------------------------
Một doanh nhân giàu có ở Mỹ có sáng kiến ngộ nghĩnh để thử lòng người: Ông cho in rất nhiều 15/8-100
Một doanh nhân giàu có ở Mỹ có sáng kiến ngộ nghĩnh để thử lòng người: Ông cho in rất nhiều bích chương và dán khắp nơi trong thành phố nơi ông đang ở. Đại khái nội dung của bích chương loan báo: Bất cứ ai mắc nợ, nếu đến văn phòng của ông ngày đó, tháng đó từ 9g đến 12g đều được ông giúp đỡ để trả nợ. Dĩ nhiên, mọi người đều bàn tán về lời mời gọi này, nhưng đa số đã xem đây là một trò đùa.
Đúng ngày hẹn, doanh nhân ngồi trong văn phòng của mình. Hai giời trôi qua mà không thấy người nào đến. Mãi tới 11giờ mới có một người đàn ông rụt rè đến… Doanh nhân ký cho ông một ngân phiếu để trả hết nợ. Gần 12 giờ một vài người nữa cũng đến… Và dĩ nhiên họ cũng được giúp đỡ tận tình. Còn tất cả những người khác khi hiểu được lời mời gọi của doanh nhân thì đã muộn.
***
Lời hứa của doanh nhân trong câu chuyện trên đây quá lớn, nên đa số đã không tin. Chính vì không tin nên họ đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng. Đức Maria, trái lại, Mẹ đã dám tin vào lời Chúa hứa nên Mẹ đã được tràn đầy ân phúc. Bà Êlisabét nói: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.
Tin là để cho Chúa thay đổi hướng đi của cuộc đời mình.
Tin là để cho chương trình cứu độ của Người đảo lộn chương trình sống của chúng ta.
Tin là chấp nhận lên đường, làm một cuộc hành trình mạo hiểm với Chúa.
Trước khi thưa lời “Xin vâng”, Đức Maria đã có chương trình của Mẹ là sẽ sống đời đôi bạn với thánh Giuse. Và qua lời “Xin vâng”, Mẹ đã chấp nhận hoàn toàn để cho Thiên Chúa thay đổi hướng đi cuộc đời mình, để cho Người đảo lộn chương trình sống, và cùng Người bước vào một cuộc mạo hiểm với trọn niềm tin yêu phó thác.
Mẹ ra đi mà không biết mình đi đâu, chỉ biết ra đi theo hướng dẫn của Chúa.
Mẹ đã đi từ bước phiêu lưu này đến cuộc phiêu lưu khác: Từ việc hạ sinh Con Thiên Chúa cách đơn nghèo, cho đến khi lạc mất con trong đền thánh; từ những lời cứng cỏi của con ở Cana và Caphacnaum cho đến khi gặp con dưới chân thập giá.
Mẹ đã “Suy đi nghĩ lại trong lòng” vì những kỷ niệm ấy quả là khó hiểu dưới con mắt loài người.
Mẹ xứng đáng là Mẹ Đấng Cứu Thế vì Mẹ đã dám tin vào lời Chúa và để Chúa thay đổi cuộc đời mình theo chương trình cứu độ của Người.
Mẹ thật diễm phúc vì Mẹ đã chấp nhận lên đường làm một cuộc phiêu lưu với Chúa trong tin yêu và phó thác: “Xin Chúa làm cho tôi như lời Ngài nói”.
Chính vì Mẹ diễm phúc mà lòng Mẹ đã là mái ấm đầu tiên, là Đền Thánh cho Con Thiên Chúa ngự trước khi bước và cuộc đời.
Chính vì cuộc hạnh ngộ đầy linh thánh giữa Mẹ và bà chị họ, mà Thánh Thần đã linh ứng cho bà nhận ra điều mắt thường không thể thấy, đó là chuyện cô em Maria thụ thai Đấng Cứu Thế.
Chính vì niềm hứng khỏi và những lời chúc mừng của Êlisabét đã khiến Mẹ cảm nhận thật sâu sa hồng ân cao cả, và lời ngợi ca Thiên Chúa đã vỡ òa trên bờ môi hạnh phúc trong lời Kinh Manificat.
Vâng, chính cuộc sống tin yêu và phó thác của Mẹ đã tuôn chảy dòng sông của ân phúc, cuộc sống ấy đang tỏa hương thơm của thiên đàng.
------------------------------