Suy Niệm Tin Mừng Lễ các thánh nam nữ 1-11 Bài 1-50 Ơn Gọi Nên Thánh Của Mọi Kitô Hữu
---------------------------------------
Phúc Âm: Mt 5,1-12a
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. - Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp. - Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. - Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. - Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. - Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. - Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. - Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ.
"Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời". - Ðó là Lời Chúa.
-------------------------------------------
1/11-1: CÁC THÁNH VÀ BỔN PHẬN NÊN THÁNH.. 2
1/11-2: Đây đúng là một vị Thánh NMS/234. 5
1/11-3: Lễ các Thánh Nam Nữ: LSII/501. 7
1/11-4: Lễ Các Thánh Nam Nữ - ASTY/223. 8
1/11-5: PHÚC THẬT TÁM MỐI - Sr Thanh Nga, LHC.. 10
1/11-6: Hiệp sĩ bị kẻ thù hạ nhục. 12
1/11-7: TÀI LIỆU VỀ CÁC NGÀY LỄ 1/11 VÀ 2/11: CÁC.. 13
1/11-8: Tám Mối Phúc – JKN.. 14
1/11-9: ĐTC Gioan Phaolô. 18
1/11-10: Một vị thánh nào đó đã làm thay đổi số mệnh. 19
1/11-11: Một tu sĩ được gọi là đạo đức. 20
1/11-12: Thánh Antôn tu rừng. 21
1/11-13: QUÊ HƯƠNG THẬT.. 22
1/11-14: BÉ MỌN.. 23
1/11-15: THÁNH THIỆN.. 24
1/11-16: Các mối phúc…và sự thánh thiện. 25
1/11-17: CÁC THÁNH CỦA NGÀN NĂM MỚI - ĐHY ETCHEGARY.. 28
1/11-18: TINH THẦN LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ.. 35
1/11-19: LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ.. 36
1/11-20: CÁC NGÀI LÀ AI VÀ TỪ ĐÂU TỚI 37
1/11-21: HẠNH PHÚC NƯỚC TRỜI 39
1/11-22: PV/680- TIÊN PHONG.. 41
1/11-23: Pv/683- RẬP KHUÔN.. 42
1/11-24: PV/686- ĐÍCH THỰC.. 43
1/11-25: CÁC THÁNH.. 44
1/11-26: Suy Niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi 47
1/11-27: ƠN GỌI KITÔ HỮU.. 48
1/11-28: THEO BƯỚC CHÂN CÁC NGÀI - Mark Link S.J. 50
1/11-29: HẠNH PHÚC THAY - N. Quesson. 53
1/11-30: NGƯỜI KHỔNG LỒ THIÊNG LIÊNG - Gm. Arthur Tonne. 54
1/11-31: LỊCH SỬ / Các thánh nam nữ : 56
1/11-32: GƯƠNG SỐNG.. 60
1/11-33: TÁM MỐI PHÚC THẬT, TIN MỪNG CHO HIỆN TẠI 62
1/11-34. Đời sau: 65
1/11-35: HỮU DANH VÀ VÔ DANH.. 67
1/11-36: BỊ ĐÈ BẸP NHƯNG ĐƯỢC HẠNH PHÚC.. 69
1/11-37: BẮT CHƯỚC SỐNG NHƯ CHÚA GIÊSU ĐÃ SỐNG.. 70
1/11-38: Các Thánh Nam Nữ. 72
1/11-39: LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ.. 75
1/11-40: Nước Trời là của họ. 77
1/11-41: LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ.. 79
1/11-42: QUAN NIỆM VỀ SỰ THÁNH THIỆN KỂ TỪ VATICAN II 81
1/11-43: CÓ BAO NHIÊU VỊ THÁNH TRONG GIÁO HỘI? – Maranatha. 83
1/11-44: DANH NGÔN VỀ THÁNH.. 85
1/11-45: LÀM THÁNH TRONG BẬC SỐNG CỦA MÌNH.. 85
1/11-46: QUAN NIỆM CỦA ĐỨC GIÊSU VỀ HẠNH PHÚC.. 88
1/11-47: Lễ kính các Thánh. 91
1/11-48: Chiều Rộng Của Ơn Cứu Độ. 92
1/11-49: Mùa Xuân Vĩnh Cữu. 94
1/11-50: Ơn Gọi Nên Thánh Của Mỗi Kitô Hữu. 96
-------------------------------
Hôm nay chúng ta mừng kính các thánh trên trời, là những bạn hữu nghĩa thiết của Chúa, là những người được Chúa tuyển chọn và tạo thành một đám đông vô kể bước vào vinh quang Nước trời, như thánh Gioan đã diễn tả :
- Các ngài thuộc những dòng họ đã được đóng ấn, mặc áo trắng và cầm cành lá thắng trận.
Chúng ta cũng có thể nói được rằng : các thánh là những bậc đàn anh đã đi trước chúng ta.
Nhìn vào đời sống của các ngài, chúng ta cảm thấy được an ủi và khích lệ, bởi vì các ngài cũng đã phải chiến đấu trong cuộc chiến trần gian, các ngài cũng đã phải mang trên đôi vai thân phận yếu của kiếp người và cũng đã vấp phạm, có vị còn ngập chìm trong tội lỗi hơn cả chúng ta nữa.
Nhưng với ơn Chúa trợ giúp và cùng với những cố gắng cá nhân, các ngài đã chiến đấu, đã đi đến cùng mà vẫn giữ được đức tin. Các ngài đã kết thành một hàng rào danh dự chung quanh Con Chiên là chính Chúa.
Chắc hẳn bây giờ từ trời cao, các ngài đưa mắt nhìn chúng ta bằng cái nhìn trìu mến và thầm mong một ngày kia chúng ta cũng sẽ được bước vào cõi phúc trường sinh. Các ngài đã chỉ cho chúng ta con đường nên thánh mà các ngài đã đi qua. Các ngài sẽ nâng đỡ và nói với chúng ta rằng :
- Hãy tìm kiếm Chúa và đừng sợ hãi. Tất cả chúng ta đều được mời gọi nên thánh. Hãy bắt chước chúng tôi vì chúng ta cũng chỉ là những kẻ tầm thường và đáng thương. Hãy uốn nắn những sai lỗi. Hãy cố gắng trở nên trọn lành như lời Chúa đã truyền dạy.
Vào một buổi tối người mẹ đã nói với những đứa con của mình như sau :
- Mẹ sẽ rất vui mừng nếu như một trong các con trở nên một vị thánh.
Lập tức đứa bé nhất đã giơ tay lên và nói :
- Con sẽ là một vị thánh.
Đứa bé giữ lời hứa, lớn lên làm tới chức Giáo hoàng với danh hiệu Celestinô V, và đã trở nên một vị thánh.
Trở nên một vị thánh không phải là một việc có thể được thực hiện trong một sớm một chiều, nhưng là kết quả của những cố gắng không ngừng, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, trong suốt cả cuộc đời, để được luôn trung thành cùng Chúa.
Quan sát một người tập đi xe đạp, chúng ta thấy không phải cứ ngồi lên xe là đã chạy được ngay. Lúc đầu thế nào cũng xiêu bên nọ, xọ bên kia, ngã lên ngã xuống, rách cả quần, toạc cả đầu gối…Nhưng nếu cố gắng mãi, sẽ có lúc người ấy biết đi và biết đi một cách anh dũng, bỏ cả hai tay m xe vẫn không đổ.
Hay như chú bé kia nuôi một con sáo, để tập cho con sáo biết nói, chú bé phải cho nó ăn ớt, rồi lặp đi lặp lại ngày này qua ngày khác lời mình định dạy cho nó, đến một ngày nó sẽ nói được.
Cũng vậy trên con đường trọn lành, chúng ta sẽ tiến lên từ từ, từng bước một, trong khi nhìn ngắm mẫu gương của các thánh. Cùng với sự trợ giúp của ơn Chúa và những cố gắng của bản thân, chúng ta sẽ học biết phải yêu mến Chúa như thế nào. Mỗi ngày sẽ là một bước tiến lại gần Chúa hơn. Chúng ta không phải chỉ trở nên thánh một lần thay cho tất cả, mà phải liên tục trở nên thánh. Chúng ta giống như người bơi ngược dòng nước, không tiến tức là lùi. Không cố gắng bơi sẽ bị dòng nước là những đam mê tội lỗi cuốn trôi.
Ơn gọi nên thánh không phải là một ơn gọi được dành riêng cho các linh mục và tu sĩ, nhưng là một ơn gọi của mọi người con Chúa, bởi vì con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Chắc hẳn Chúa sẽ vui mừng khi nhìn thấy những đường nét của Ngài trong tâm hồn chúng ta.
Hãy suy gẫm lời thánh Augustinô :
- Cậu nọ cô kia nên thánh được, còn tôi tại sao lại không ?
Dù trẻ hay già, dù đàn ông hay đàn bà,tất cả chúng ta đều có thể và phải trở nên thánh.
Thánh Đamascênô kể lại một mẩu chuyện như sau : ngày xưa ở một vùng kia, người ta có một tập tục kỳ lạ, đó là mỗi vị vua chỉ được trị vì mười năm. Trong thời gian đó, ông ta nắm giữ mọi quyền lực, đều hành mọi công việc, mặc sức sử dụng tiền bạc…Nhưng sau thời gian ấy, người ta sẽ tước đoạt phủ việt cũng như triều thiên và đày ải ông ta tới một hoang đảo xa xôi, để ông phải chết dần chết mòn trong cô đơn và tuyệt vọng.
Năm ấy có một vị vua lên ngôi, nhưng ông ta khôn ngaon hơn những người đi trước. Trong thời gian trị vì, ông ta chỉ có một ý nghĩ : phải chuẩn bị cho tương lai, kiến thiết hòn đảo xa xôi nơi ông ta sẽ bị lưu đày. Ông truyền cho người ta xây cất cung điện, biến rừng hoang thành những vườn cây ăn trái và những cánh đồng lúa xanh tươi. Rồi ông cho chở tất cả vàng bạc châu báu của vương quốc tới hòn đảo ấy.
Chúng ta thầm khen :
- Ông vua này quả là thận trọng và khôn ngoan.
Hãy bắt chước ông vua ấy, dùng cuộc sống ngắn ngủi hiện tại mà đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Hãy gửi trước về trời những kho tàng, là những hành động bác ái yêu thương của chúng ta.
Đừng lần lữa, nhưng hãy bắt tay vào việc nên thánh ngay từ hôm nay, bởi vì như một câu danh ngôn đã bảo :
- Việc hôm nay chớ để tới ngày mai, bởi vì ngày mai biết đâu đã quá muộn, liệu còn có hay không ?
-------------------------------
Một viên tướng nọ rất ghét một vị ẩn sĩ trong vùng ông ta cai quản. Do đó, ông ta thường sai một nhóm gái làng chơi đến quấy rầy, quyến rũ, phá phách nhà tu hành đủ kiểu, nhưng không lần nào có hiệu quả cả. Một bữa đang khi vị ẩn sĩ tắm dưới suối thì đám con gái mất nết cũng ào xuống tắm và ra sức chọc ghẹo. Thấy thế, vị ẩn sĩ vội bước lên bờ thì đám con gái ăn mặc hở hang đó không chịu tha, liền vây tròn xung quanh vừa nhảy múa ca hát vừa ăn nói tục tĩu. Chẳng chút động lòng hay tức giận, vị ẩn sĩ ngước mắt lên trời, hai tay dang rộng với dáng điệu vui mừng hớn hở và cầu nguyện rằng : “Lạy Thượng Đế, con cảm tạ Ngài đã ban cho nhân loại những con người rất đẹp đang nhảy múa đây. Phải chăng chính hiện thân Chân Thiện Mỹ của Ngài đang ở đây. Con xin thành tâm cảm tạ Ngài”. Cứ thế, vị ẩn sĩ trong tư thế và tâm tình đó vẫn vui vẻ cầu nguyện. Càng lâu nét mặt ông càng rạng rỡ, thanh thoát hơn bao giờ hết. Bỗng một cô gái trong đám bỏ hàng chạy đến quì sấp dưới chân vị ẩn sĩ và thốt lên : “Đây đúng là một vị Thánh, một vị Thánh ở giữa loài ngoài”.
Có lẽ, cái cảm tưởng chung nhất khi nghe nói đến một vị thánh là một người đều cho rằng đó là một loại người siêu phàm, họa hiếm, trăm năm mới có một người. thật ra, về một phương diện nào đó các Ngài đúng là hạng người như thế, nhưng nếu chúng ta ngây thơ đến độ quá thần thánh hóa các Ngài là chúng ta sẽ mắc phải một thứ mặc cảm bệnh hoạn : nghĩa là có lúc nào đó dám ước mơ làm thánh thì cho việc ấy là một chuyện phạm thượng, bất kính, rồi dần dần coi việc nên thánh là chuyện viễn vọng, quá xa tầm tay của mình.
Vậy chúng ta tự hỏi mang mặc cảm tự ti bệnh hoạn như thế có đúng không ? Và phải quan niệm Các Thánh là những người như thế nào mới hợp lý ? Các Ngài có cái gì giống và cái gì khác mọi người chúng ta ?
Trước hết Các Thánh là những người giống chúng ta : cũng được sinh ra, lớn lên bình thường, đôi khi còn rơi vào những hoàn cảnh khắc nghiệt hơn như nghèo khổ có, bệnh hoạn có, tang tóc tai họa có, chán nản thất vọng có, vui buồn có… Và cũng mang trong mình mọi yếu đuối hư hèn, mọi tính hư nết xấu, cũng tham sân si, cũng hỉ ai ái nộ, cũng lầm lỡ mang tiếng xấu. Thuộc đủ mọi thành phần giai cấp trong xã hội : giàu sang quyền thế có, bần cùng dân đen có, trí thức bác học có, dốt nát quê mùa có. Nói tắt các Ngài không khác chúng ta bao nhiêu, trái lại nhiều Vị còn mang nơi mình một quá khứ đầy tội lỗi, xấu xa hơn chúng ta nữa.
Tuy nhiên Các Ngài là những người khác chúng ta. Chính cái khác này đã nâng Các Ngài lên bậc thần thánh và làm cho chúng ta trở thành con người tầm thường. Nói rõ hơn, cái khác ở đây không phải là một sự kiện lạ lùng, một bí quyết gia truyền, cũng không phải một đặc ân dành riêng cho một số người, cũng không phải do dòng máu di truyền, mà là có quyết tâm cao, cố gắng phi thường, dốc quyết sắt đá, cải thiện không ngừng, hợp tác với ơn Chúa cách hiệu quả.
Nói cụthể hơn là khi đứng trước mãnh lực của tiền tài danh vọng, Các Ngài thấy lợi ít hại nhiều nên đã cương quyết từ bỏ, còn chúng ta viện đủ lý do để bám theo, trước những quyến rũ của thế gian xác thịt, Các Ngài dốc lòng xa tránh để sống thanh cao trong sạch hơn là nô lệ cho đam mê nhục dục, trước anh em đồng loại, thay vì xa tránh, tranh chấp, giận ghét, oán thù Các Ngài còn luyện tập từ bỏ cả những quyền lợi riêng tư, hưởng thụ chính đáng nữa. Dĩ nhiên, tất cả những việc làm đó mà Các Ngài quyết tâm thực hiện chỉ vì vâng lời Chúa dạy để yêu mến Người và phục vụ anh em nên Các Ngài đã thành công trên con đường cứu rỗi.
Như thế, cái khác giữa Các Thánh và chúng ta xem ra không có gì quá khác xa nhau. Chẳng qua Các Ngài vâng theo ý Chúa hơn, chọn điều thiện điều tốt hơn, cố gắng luyện tập các nhân đức hơn. Còn chúng ta nại đủ lý do này khác để từ chối ơn Chúa soi sáng hước dẫn, không cố gắng quyết tâm đủ để tuân thủ lời Chúa dạy, mà chỉ biết lo dung dưỡng bản thân, tham quyền cố vị nên mãi mãi không bước đến cùng đời sống trọn lành được.
có hay không ?
------------------------------
Hôm nay Giáo Hội dành cho chúng ta một ngày mừng lễ các Thánh Nam Nữ và trọn một tháng để cầu cho các linh hồn đã qua đời nhưng còn đang thanh luyện để đi vào trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Lời Chúa trong Tin mừng được thánh sử Matthêu ghi lại “Tám Mối Phúc Thật” làm nên những con người thánh mà Giáo Hội mừng kính hôm nay như một chia sẻ với Giáo Hội, Mẹ hữu hình trong niềm vui ngưỡng mộ Mẹ khải hoàn. Chúng ta cùng nhau nhắc lại những mối phúc Chúa Giêsu dạy để quyết tâm sống, nhất là với thời gian rất cận kề của Năm Thánh 2000 sắp đến.
Trong năm chúng ta mừng nhiều lễ các vị hiển thánh, những con người có tên có tuổi trong niên lịch Phụng vụ. Thế nhưng, con số đông ấy quả thật cũng chẳng là bao so với những con người rất thánh thiện nhưng mai danh ẩn tích mà Giáo Hội Mẹ chúng ta mừng kính và chiêm ngưỡng hôm nay. Họ là ai ? Thưa là những người sống “Tám Mối Phúc Thật” của Chúa Giêsu dạy mà chúng ta vừa cùng nhau nhắc lại ở trên. Thực sự không có gì khó hiểu trong những mối phúc đó làm niềm vui cho cuộc sống của chúng ta mà thôi.
Một bà cụ già Việt Nam sống với gia đình của một người con trên đất Mỹ, thay vì ngày ngày cụ đến hội với những già để chơi cờ, để truyện trò thì bà cụ lại lang thang đến các công sở gom góp những bao ny lông đặt sẵn để người ta quăng lon vào đó. Bà cụ không thích những trò giải trí, những câu chuyện trao đổi, những gì trở thành những điều không hay, không tốt mà đi tìm cho mình một niềm vui khác như lượm lon, đếm lại bỏ vào máy để mỗi tháng kiếm một ít tiền giúp đỡ cho một anh sinh viên người Việt Nam có thể có điều kiện ăn học.
Đâu có phải chỉ có một bà cụ như thế trong cuộc đời này, bên cạnh chúng ta không thiếu những người thánh thiện và giản đơn như vậy. Tuy vậy, có cả những con người chịu nhiều đau khổ, nhiều thử thách về mọi mặt nhưng lúc nào cũng tin ở tình yêu Thiên Chúa, sống vui vẻ với những người mình gặp, quan tâm với những người thân thương, lấy những mối phúc Chúa dạy làm kim chỉ nam cho từng ngày sống, họ là những con người thánh mà ta tuyên xưng hôm nay.
Người ta đang xôn xao nhiều về mốc thời gian Năm Thánh 2000 sắp tới, đó là những xôn xao tiêu cực và bi quan, nhưng là Kitô hữu ta phải sống niềm tin vào Lời Chúa. Dĩ nhiên, có thể có những giao động trong tâm tư nhiều hoặc ít, nhưng chúng ta biết Thiên Chúa là Cha, Ngài có những chương trình của Ngài và những chương trình đó luôn được đặt để trên nền tảng tình yêu dành cho chúng ta.
Thời gian vừa qua, báo chí truyền thanh truyền hình đã cho chúng ta thấy những hậu quả thảm khốc của nhiều trận động đất xảy ra đó đây, những con người bị dập vùi, thế mà trong số họ có biết bao con người thánh, họ cũng lo sợ, cũng hoang mang,cũng giao động nhưng chắc chắn họ không mất niềm tin yêu nơi Thiên Chúa, ngay lúc này đây họ đã biết thế nào là sự gắn bó với Chúa. Lo lắng cất dấu nến đèn ở hầm, két này nọ là dấu chỉ một thái độ sống thiếu Đức tin, thiếu tình yêu đối với Chúa và ích kỷ đối với anh em mình, vì chỉ muốn cho mình được sống.
Một trăm mười bảy vị thánh Tử đạo Việt Nam phải chăng không là gương sống cho chúng ta hay sao ? Các Ngài đã sống trọn vẹn trong tình yêu của Thiên Chúa, những chịu đựng của các ngài thật là vô cùng quí giá, nhưng vô cùng quí giá ấy có thế nào đi chăng nữa thì “Tám Mối Phúc Thật” vốn là kim chỉ nam của các ngài.
Lạy Cha là Thiên Chúa của chúng con, chúng con cảm tạ Cha đã cho chúng con ngày hôm nay để tôn vinh các thánh, ca ngợi tình yêu của Cha trên những phận đời mỏng dòn ấy. Xin cho chúng con bước vào Năm Thánh 2000 với “Tám Mối Phúc Thật” vốn là nền tảng cuộc sống với tất cả những ai khao khát quê hương trên trời. Amen.
------------------------------
Hôm nay toàn thể Giáo hội long trọng mừng lễ Các Thánh Nam Nữ, vì thế chúng ta hiệp nhau nơi đây để ca tụng những kỳ công mà Thiên Chúa đã thực hiện trong những đi trước chúng ta, những người đã đi theo Đức Kitô, chính Ngài đã mở ra cho họ một con đường : “Con đường của sự sống, con đường của hạnh phúc”, và hôm nay các ngài đang chia sẻ vinh quang đó với chính Đức Giêsu trên Nước Trời. Cùng với các ngài, chúng ta hãy hân hoan vui mừng, bởi vì hôm nay là lễ của tất cả những người đang sống cũng như của tất cả các thánh đang hưởng mặt Chúa trên Nước Trời, Cùng với tất cả chúng ta đang đi trên con đường xây dựng tình yêu, xây dựng hạnh phúc cho tất cả mọi người.
Cũng như mọi người, các thánh cũng là những con người yếu đuối, nhưng các ngài đã thắng vượt được khó khăn và thử thách trong cuộc sống, cho nên chúng ta cũng xin các ngài bầu cử cho chúng ta để chúng ta tiếp tục cuộc lữ hành tiến về thiên quốc và cũng như các ngài, chúng ta bắt đầu cuộc sống bằng tâm tình sám hối, xin Chúa thứ tha cho những lần chúng ta đã chối từ không muốn làm chứng nhân tình yêu của ngài trước mặt mọi người.
Trong đa số các nhà thờ bên Tây Phương, nhìn lên bốn bức tường và các cửa sổ bằng kính, người ta thường thấy hình của các vị thánh được chạm trổ đủ mọi màu sắc. Có một em bé gái nọ, lần đầu tiên được mẹ đưa đi viếng thăm một nhà thờ cổ kính. Trong khi các du khách bị thu hút bởi những công trình nghệ thuật trong nhà thờ thì em bé lại dán chặt đôi mắt vào chân dung của các vị thánh được vẽ trên các kính màu. Em ngây ngất trước vẻ đẹp của những chân dung ấy mà không biết họ là ai. Và một du khách nào đó đã giải thích cho em biết : đó là các vị thánh.
Tối hôm đó, trước khi lên giường ngủ, em bé đã khoe với mẹ rằng : em đã biết ai là một vị thánh và em nói với mẹ như sau : “vị thánh là một người mà ánh sáng chiếu xuyên qua”.
Có lẽ không có một định nghĩa nào xác đáng hơn về các vị thánh. Các vị thánh là con người mà ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa đã chiếu xuyên qua các ngài. Chính định nghĩa ấy mà hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta ngước mắt nhìn lên trời cao để chiêm ngắm các vị thánh được Giáo hội tôn phong hay không được ai biết đến, tất cả các vị thánh đều là những con người đã luôn luôn để cho ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa chiếu xuyên qua mình để soi sáng mọi người xung quanh.
Năm 1986, trong chuyến viếng thăm lần thứ ba tại Pháp, Đức Thánh Cha Gioan Phalô II đã nhắc đến những hồng ân cao cả mà Thiên Chúa đã ban cho nước này. Đó là sự hiện diện của rất nhiều vị thánh. Đức Thánh Cha nói như sau : “Khi các vị thánh đi qua thì Thiên Chúa cùng đi qua với các ngài”.
Cũng trong chuyến viếng thăm lần thứ ba tại Pháp của Đức Thánh Cha, Ngài có nói như sau : “Các thánh cũng là những con người yếu hèn như chúng ta, nhưng ánh sáng của Đức Kitô đã chiếu xuyên qua tất cả con người của các vị ấy”. Các Ngài đã cứu Giáo hội bằng chính sự yếu hèn của mình. Qua cuộc sống của các thánh, Thiên Chúa gởi đến cho chúng ta một tín hiệu : “Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa mời gọi để nên thánh”. Các thánh là những ngọn hải đăng, các ngài chỉ cho chúng ta một một con người đường để chúng ta đi về với Chúa. Con đường ấy chính là con đường hạnh phúc, một nguồn hạnh phúc thâm sâu phù hợp với khát vọng cơ bản nhất của lòng người.
Trong Tin Mừng mà Giáo hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, hai chữ “Có Phúc Hạnh Phúc” đã được Chúa Giêsu lập lại đến chín lần. Có lẽ Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ với chúng ta rằng : “Nếu các ngươi nghe lời Ta nếu các ngươi sống như Ta thì các ngươi sẽ được hạnh phúc thực sự”. Và có lẽ các vị thánh cũng sẽ mời gọi chúng ta như sau : “Nếu anh chị em sống như chúng tôi thì anh chị em cũng sẽ được hạnh phúc”.
Trên thế giới này có bao nhiêu lời hứa hẹn về hạnh phúc. Trên khắp cả nẻo đường mà chúng ta đi qua, các phương tiện truyền thông xã hội mà chúng ta nghe và mỗi ngày sống đâu đâu cũng nghe thấy những lời kêu gọi tìm hạnh phúc. Người ta mời gọi : hãy tiêu dùng sản phẩm của chúng tôi thì quí vị sẽ được hạnh phúc.
Quả thật, trái đất mà chúng ta đang sống đầy dẫy những lời quảng cáo cho hạnh phúc. Thế nhưng, chỉ có một mình Chúa Giêsu mới có thể đề ra cho chúng ta hạnh phúc thực sự và con đường dẫn đến hạnh phúc ấy là con đường của tình yêu mà chính Ngài đã đi qua. Ngài nói với chúng ta rằng : “ Không thể có hạnh phúc đích thực nếu không có tình yêu”, một tình yêu quên mình, chia sẻ và tha thứ cho đến cùng.
Con đường hạnh phúc mà Chúa Giêsu đề ra cho chúng ta là con đường của những tâm hồn trong sạch, cởi mở với tha nhân đến độ quên chính bản thân mình. Đó là con đường của những con người khi bị loại trừ và bách hại vẫn tiếp tục chúc tụng và yêu thương. Đó là con đường của những con người không ngừng hoạt động để mang lại hòa bình cho người khác, để mọi người biết nhìn nhận tình yêu thương nhau như anh em con Cha trên trời. Chính Chúa Giêsu đã qua con đường ấy, Ngài qua thực là mẫu người của hạnh phúc. Từ 2000 năm qua, đã có biết bao nhiêu người đi theo con đường ấy và ngày nay con đường ấy được tiếp tục mở ra cho mỗi người chúng ta.
------------------------------
Là người Kitô hữu, chắc hẳn chúng ta đã được nghe qua đoạn Phúc âm này nhiều lần hoặc đã thuộc lòng kinh này. Tám mối Phúc thật là những điều được Thiên Chúa chúc phúc, là thái độ sống mang lại hạnh phúc cho con người và là điều đáng mơ ước của mỗi Kitô hữu. Thế nhưng trong tám mối Phúc thật, chúng ta lại chỉ thấy đa số toàn là những điều xem ra đau khổ và bất hạnh cho kẻ nghèo khó, kẻ than khóc, kẻ đói khát, kẻ chịu bắt bớ, chịu sỉ nhục!... Tại sao thế? Có phải làm người Kitô hữu thì thiệt thòi quá chăng? Hạnh phúc lại không thể tìm gặp ở những nơi giàu sang phú quý, vui vẻ, may lành, được chức quyền và ca tụng sao? Thế nào là hạnh phúc thực sự của con người?
Trước hết chúng ta phải hiểu Tám mối Phúc thật không phải dành cho một số loại người trong xã hội, chẳng hạn người nghèo đói, bệnh tật, bất hạnh... nhưng Tám mối Phúc thật có ý nói đến tinh thần và thái độ sống của mỗi người trong hoàn cảnh sống hiện tại của mình. Thiên Chúa không muốn cho con người phải sống trong đau khổ, nghèo túng và bất hạnh, nhưng Ngài muốn con người tìm thấy ý nghĩa và sự bình an giữa những thiếu sót, yếu đuối và bất toàn của cuộc đời. Đó là Tin mừng giải thoát của người Kitô hữu, bởi vì là con người, ai lại không hơn một lần sa ngã yếu đuối hoặc gặp rủi ro bất hạnh cách này cách khác. Do đó, tinh thần của Tám mối Phúc thật là một tinh thần khiêm nhượng hiền hòa, biết sống vị tha, nhân ái, kiến tạo hòa bình và đặt niềm hy vọng cậy trông vào sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa.
Bạn thân mến, conngười trải qua mọi thời đại, ai ai cũng khắc khoải đi tìm một nguồn hạnh phúc chân thật, trường cửu, một nguồn hạnh phúc thẳm sâu tận đáy lòng và sẽ không nhạt nhòa theo thời gian và những biến đổi của đời sống. Thế nhưng đồng thời cũng thấy trong dòng đời không thiếu những nhà triệu phú, tỉ phú mà đời sống thật tẻ nhạt, quạnh hiu. Lại cũng không thiếu những minh tinh tài tử sắc đẹp lộng lẫy, tài năng lỗi lạc, danh vọng cao ngất, thế mà đã tự kết liễu đời mình vì đau khổ, thất vọng ! Mời bạn hãy đọc những dòng chữ nói về tiền bạc như sau:
“Tiền bạc có thể mua được chiếc giường, nhưng không mua được giấc ngủ; có thể mua sách vở nhưng không mua được trí tuệ; có thế mua thức ăn nhưng không mua được sự ngon miệng; có thể mua được nữ trang nhưng không mua được sắc đẹp; có thể mua căn nhà nhưng không mua được mái ấm gia đình; có thể mua được thuốc men nhưng không mua được sức khỏe; có thể mua sự lộng lẫy sang trọng nhưng không mua được hạnh phúc và bình an; có thể mua cây thập giá nhưng không mua được Đấng Cứu Chuộc; có thể mua của lễ nhưng không mua được thiên đàng.”
Những điều mà tiền bạc không thể mua được thì chính Thiên Chúa có thễ ban tặng cách nhưng không. Chính Ngài là Thiên Chúa và Đấng Cứu Độ của con người. Hãy thú nhận lội lỗi cũng như yếu đuối, nghèo nàn của bạn và thưa với Ngài rằng bạn muốn trở về để đón nhận Thiên Chúa là Chúa của đời bạn, và bạn hoàn toàn lệ thuộc vào Ngài. “Chính nhờ bước chân tin yêu ấy mà bạn có thể khởi sự một cuộc sống mới trong Chúa Giêsu Kitô.”
Bạn thấy không, tiền bạc, của cải, danh vọng, chức quyền và mọi may mắn trên đời này có đem lại chút ít hạnh phúc, nhưng đó chỉ là những bóng dáng hạnh phúc tạm thời, qua mau và không thật. Người mang tinh thần của Tám mối Phúc Thật là người có tâm hồn thanh thoát và tìm thấy hạnh phúc chân thật không phải ở những của cải vật chất nhưng ở những grá trị tâm linh, không phải ở trần gian này mà ở đời sống vỉnh cữu mai hậu. Các thánh là những người đã biết sống tinh thần của Tám Mối Phúc thật này khi còn sống ở này và giờ đây các ngài đang tận hưởng nguồn hạnh phúc bất diệt trong cõi sống trường sinh trên thiên quốc.
------------------------------
Có một hiệp sĩ nọ bị kẻ thù hạ nhục nên nhất quyết truy lùng để báo oán. Anh đem theo mười người bạn với mũ giáp lên đường. Thấy mình không thể chống cự nổi, kẻ thù bèn xuống ngựa, nằm giang tay ra theo hình thập giá và nhắm mắt chờ đợi nhát gươm định mệnh. Trông thấy hình thập giá và kẻ thù của mình đang thở dốc như người hấp hối, người hiệp sĩ động lòng thương nên đã chặn các bạn lại, không cho họ tấn công. Anh nhẹ nhàng đến gần,mời hắn ta đứng dậy và tha thứ cho hắn. Sau Cử chỉ anh hùng ấy, người hiệp sĩ cảm thấy tâm hồn mình tràn đầu sự bình an và tươi vui, mà anh chưa từng được nếm thử trong đời. Anh ghé vào một ngôi nhà thờ, quì dưới chân thánh giá cầu nguyện. Lúc sau, anh như thấy Chúa Giêsu nhấc đầu khỏi thập giá cúi xuống chào mình, như vẻ tàn đồng cử chỉ tha thứ cùa anh. Anh thấy rằng mình giống Ngài được một chút bởi vì khi hấp hối trên thập giá, Ngài cũng đã cầu xin Thiên Chúa tha cho những kẻ giết mình.
Trở nên giống Chúa Giêsu, trở nên trọng lành như Chúa Cha ở trên trời, hay nói một cách khác, trở nên thánh đó phải là ơn gọi của mọi người kitô hữu chúng ta và đó cũng là sứ điệp Chúa Giêsu và Giáo Hội muốn nhắn gửi cho chúng ta trong ngày lễ hôm nay.
Thực vậy sự thánh thiện chính là nền tảng làm thành thân mình mầu nhiệm của Đức Kitô là Giáo Hội, cộng đoàn các thánh. Sự thánh thiện như thế không phải là ơn gọi dành riêng cho một lớp người đặc biệt được các ơn thần bí này nọm mà là ơn gọi bình thường của tất cả mọi người tin vào Chúa. Nó là điểm tới tự nhiên của cuộc sống đức tin và tình mến nơi mỗi người chúng ta, nó là bổn phận của mọi người tin Chúa bởi vì tin có nghĩa là mở rộng tâm hồn đón nhận Thiên Chúa và tin mừng yêu thương của Ngài, đồng thời dấn thân sống những đòi buộc của tin mừng ấy, để ngày càng trở nên giống Chúa hơn, là đấng thánh thiện trọn lành.
Bí quyết nên thánh đã được Chúa Giêsu cống hiên cho tất cả chúng ta qua các mối phúc thật mà Ngài đã rao giảng, đã sống và làm gương cho chúng ta. Ngài đã chỉ cho chúng ta tám ngả đường giúp chúng ta nên thánh, nghĩa là trở nên giống Chúa.
Điều quan trọng đó là chúng ta có can đảm thực thi tinh thần tám mối phúc thật, có dám bước đi trên những ngà đường Ngài đã chỉ vẽ hay không ?
------------------------------
THÁNH THÔNG CÔNG:
Để góp phần tìm hiểu ý nghĩa Phụng Vụ trong tháng 11, người viết dựa vào tài liệu giáo huấn của Giáo Hội Công giáo, xin nói qua về Lễ Các Thánh Nam Nữ và Lễ Các Đẳng Linh Hồn, dẫn đến một vài suy nghĩ về hiệp thông với các Thánh và các kẻ đã qua đời.
Lễ Các Thánh Nam Nữ ( 1.11 )
Ở Hoa Kỳ, ngày 31.10 là Halloween, ngày lễ đã bị tục hóa thành ngày có tính cách “ma quái bí ẩn”, mà thật ra tên gọi đúng là Hallowe’en, cách gọi tắt gồm nhóm từ All Hallow Even, ( All Hallow là Các Thánh; Even, Lễ Vọng ), có nghĩa “Lễ Vọng Các Thánh”.
Theo Francis Mershman, qua Thánh Truyền, Lễ Các Thánh Nam Nữ đã có từ lâu đời trong Giáo Hội do lòng mến mộ của giáo hữu đối với các Thánh. Trong hai ba thế kỷ đầu, người Ki-tô hữu có thói quen mừng lễ kính nhớ một vị tử đạo vào chính ngày vị thánh ấy hy sinh mạng sống vì Chúa, tại nơi chịu chết vì đạo. Từ thế kỷ thứ 4, khởi đầu có thể thức các giáo phận lân cận hiệp thông với nhau về ngày lễ, rước hài cốt các thánh và mừng lễ các nhóm tử đạo chung cùng một ngày với nhau.
Tuy vậy, Giáo Hội muốn vị thánh nào biết rõ ngày tử đạo thì có lễ riêng, còn các vị không rõ ngày thì lễ chung vào một ngày. Ví dụ: Có ngày lễ riêng kính Thánh Gio-an Tẩy Giả bị xử trảm, và lễ chung kính các thánh tử đạo vào Chúa Nhật sau Lễ Hiện Xuống. Đến khi thể thức phong thánh được thiết lập, số các thánh tăng thêm, và trong lịch Phụng Vụ có lễ Các Thánh Hiển Tu, các Thánh Ẩn Tu, v.v..
Chính Đức Gíao Hoàng Gregorio III ( 731 – 41 ) đã dành một nhà nguyện tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phê-rô, ở Rô-ma, để cung hiến kính Các Thánh Nam Nữ và đặt ngày 1.11 cố định là Lễ Các Thánh Nam Nữ. Về sau, Đức Gregorio IV ( 827 – 44 ) mở rộng Lễ 1.11 cho cả Giáo Hội hoàn vũ, và Đức Urbano IV ( 1261 – 64 ) minh định: “Ngày Lễ Các Thánh Nam Nữ 1.11 được Giáo Hội lập ra để kính nhớ tất cả các thánh, dù biết rõ hay không biết rõ, hầu bổ túc các thiếu sót trong việc giáo hữu mừng kính các thánh vào các ngày lễ trong năm phụng vụ” ( Cat. Enc., Volume I, by Kevin Knight 1999 ).
------------------------------
Câu hỏi gợi ý :
1. Bạn có ý thức rằng chính bạn được Thiên Chúa mời gọi nên thánh, nghĩa là sống đúng với phẩm giá của mình là con cái Thiên Chúa, sống trung thực với bản chất của mình là hình ảnh của Thiên Chúa không?
2. So sánh ơn gọi nên thánh của mỗi người Ki-tô hữu với ơn gọi làm linh mục, tu sĩ, ơn gọi nào quan trọng hơn, cao cả hơn, cần thiết hơn? Cái nào là phương tiện để phục vụ cái nào?
3. Có phải muốn nên thánh thì cứ phải giữ cho đúng những tập tục tôn giáo cổ truyền không (đọc kinh sớm tối, ngày Chúa Nhật phải tham dự thánh lễ, v.v…)? Hay điều cốt yếu để nên thánh nằm ở chỗ khác? chỗ khác đó là chỗ nào?
Suy tư gợi ý :
1. Ơn gọi lớn nhất của con người: nên thánh
Thông thường, khi nói về ơn gọi, người ta nghĩ ngay tới ơn gọi làm linh mục, ơn gọi làm tu sĩ. Và tới thế kỷ 20, giáo dân cũng bắt đầu được coi là một ơn gọi: ơn gọi giáo dân. Nhưng cho tới nay, một chủng sinh hay tu sĩ mà bỏ tu ra làm giáo dân, thì nhiều người - kể cả linh mục, giám mục, hay những nhà trí thức trong Giáo Hội - nói rằng người đó «mất ơn gọi». Người ta làm như thể chỉ có linh mục, giám mục, tu sĩ là có ơn gọi, và họ coi ơn gọi của những vị ấy hết sức cao cả. Còn giáo dân thì chẳng sợ bị mất ơn gọi, vì giáo dân có ơn gọi đâu mà mất! Thật ra người ta quên rằng bất cứ Ki-tô hữu nào cũng có một ơn gọi rất cao cả là nên thánh.
Sau Công Đồng Vatican II, quan niệm trên đã trở nên lỗi thời. Hiện nay Giáo Hội quan niệm rằng ơn gọi lớn nhất, cao cả nhất của mọi Ki-tô hữu là nên thánh, như Đức Giê-su từng mời gọi: «Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện» (Mt 5,48). Công Đồng Vatican II cũng lập lại ý tưởng đó: «Mọi Ki-tô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo con đường của mỗi người» (GH 11§3).
2. Không hẳn cứ phải làm linh mục / tu sĩ mới nên thánh được
Nên thánh là ơn gọi chung cho tất cả mọi người, dù là giáo dân, linh mục, giám mục, hay giáo hoàng, và là ơn gọi cao cả nhất. Tất cả mọi người - chứ không phải chỉ các linh mục và tu sĩ - đều được kêu gọi nên thánh. Cũng không phải tất cả mọi người đều được kêu gọi làm tu sĩ, linh mục, giám mục, hồng y hay giáo hoàng. Đó chỉ là những con đường nên thánh cá biệt, chứ không phổ quát. Làm tu sĩ, linh mục, giám mục… thiết tưởng là việc tương đối dễ và không hẳn là cần thiết hay quan trọng lắm, làm thánh mới là khó và cần thiết hay quan trọng hơn rất nhiều.
Đối với mỗi cá nhân Ki-tô hữu, ơn gọi nên thánh quan trọng hơn rất nhiều so với ơn gọi làm các chức vụ trong Giáo Hội, cho dù cao đến đâu! Vì thử hỏi: làm linh mục, giám mục, hồng y hay giáo hoàng, dù có hiển hách lẫy lừng đến đâu, nếu bản thân không nên thánh thì có ích lợi gì? Tương tự như «được cả trần gian mà mất linh hồn thì được ích gì?» (Mt 16,26). Tóm lại, để làm thánh thì không nhất thiết là phải làm linh mục hay tu sĩ; và không phải hễ là linh mục hay tu sĩ thì tất nhiên là thánh.
Trong Giáo Hội hiện nay, vẫn còn có những quan niệm sai lầm, nhưng rất phổ biến, nhất là tại Việt Nam, là làm như ơn gọi làm linh mục, giám mục… thì cao trọng hoặc quí trọng hơn ơn gọi nên thánh phổ quát của mọi Ki-tô hữu! Thiết tưởng, dưới con mắt của Thiên Chúa, một vị thánh - cho dù là giáo dân, dù là một người có địa vị thật thấp kém trong xã hội - vẫn luôn luôn cao cả và giá trị hơn một linh mục, giám mục, hay giáo hoàng mà không thánh, thậm chí giá trị hơn hàng triệu lần! Nhưng người ta vẫn thích nhìn bằng con mắt của người đời hơn bằng con mắt của Thiên Chúa! Sở dĩ có quan niệm này là vì đã một thời Giáo Hội có khuynh hướng thượng tôn các chức thánh, chẳng hạn coi chức linh mục còn cao trọng hơn cả chức vị các thiên thần… (xem cuốn Tôi muốn làm linh mục, xuất bản trước 1975).
Để chỉnh lại quan niệm này, cần tự hỏi và xác định: Thiên Chúa muốn ta nên thánh hay muốn ta làm tu sĩ, linh mục, giám mục…? Nên thánh, và nên linh mục, giám mục… cái nào cần thiết cho chúng ta hơn? Cần phải quan niệm cho đúng: quan niệm có đúng thì hành xử mới đúng được!
3. Làm tông đồ, không nhất thiết cứ phải là linh mục hay tu sĩ
Cũng vậy, qua bí tích Rửa tội và Thêm sức, Thiên Chúa kêu gọi tất cả mọi Ki-tô hữu làm tông đồ, hoạt động cho Nước của Thiên Chúa. Để làm tông đồ, người ta có thể làm giáo dân, hay đặc biệt hơn, làm tu sĩ, linh mục, giám mục hay giáo hoàng, nhưng rõ ràng là không phải cứ làm linh mục, giám mục hay giáo hoàng thì người ta mới trở nên tông đồ đích thực. Nhiều linh mục, giám mục, giáo hoàng không phải là tông đồ đúng với nghĩa của từ ấy. Trái lại, người ta có thể là vừa giáo dân mà cũng vừa là tông đồ đích thực của Chúa! Vấn đề cần phải đặt lại nghiêm chỉnh là: Giáo Hội cần những tông đồ đích thực hơn là cần những linh mục, giám mục hay giáo hoàng mà không phải là tông đồ thật sự! Các chủng viện, tu viện, cần đào tạo nên những tông đồ, những vị thánh, hơn là chỉ bằng lòng với việc tạo nên những linh mục, tu sĩ mà thôi! Linh mục, tu sĩ hay bất kỳ ai mang danh làm tông đồ mà không thánh thiện, thì cũng chỉ như muối mà không mặn, đèn mà không sáng thôi! (x. Mt 5,13-16).
4. «Tám mối phúc»: bí quyết để nên thánh
Hôm nay, khi mừng kính lễ các Thánh, Giáo Hội muốn nhắc lại ý thức căn bản này, là tất cả mọi Ki-tô hữu đều được mời gọi nên thánh, và một khi ý thức được lời mời gọi ấy, thì ai cũng có thể nên thánh được. Bài Tin Mừng hôm nay chỉ cho chúng ta bí quyết để nên thánh. Điều rất đáng tiếc là bí quyết này, nhiều người Ki-tô hữu không thèm biết tới, không thèm quan tâm suy niệm để thực hiện, mà chỉ quan tâm thực hiện những tập tục tôn giáo được truyền từ đời cha ông đến đời con cháu. Những tập tục ấy rất tốt, rất nên bảo tồn, nhưng đó không phải là điều cốt yếu để nên thánh. Giữ những tập tục ấy thật hoàn hảo, tốt đẹp, mà không sống tinh thần «tám mối phúc» của bài Tin Mừng hôm nay thì việc nên thánh sẽ chẳng đi đến đâu! Rốt cuộc cũng chỉ là «công dã tràng»!
Cả 8 mối phúc đều xây dựng trên nền tảng căn bản này: tinh thần tự hủy hay từ bỏ mình của Đức Ki-tô. Tinh thần tự hủy hay từ bỏ mình là tinh thần coi nhẹ «cái tôi» và những «cái của tôi» trước Thiên Chúa và tha nhân: «Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi» hay «Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi» (Ga 3,30). Có coi nhẹ «cái tôi» của mình thì mới có thể yêu thương đích thực và mới dễ dàng thể hiện tình yêu thương ấy ra hành động. Một khi «cái tôi» đã được coi nhẹ, thì «tám mối phúc» cũng như việc bác ái yêu thương trở nên rất dễ thực hiện. Trái lại, còn đặt nặng «cái tôi» thì những việc tốt đẹp ấy trở nên rất khó khăn.
Kinh nghiệm trong đời sống tâm linh của tôi là: mọi thánh giá ta phải vác hằng ngày dù nhẹ đến đâu cũng đều trở nên nặng nề khi «cái tôi» của ta đã bị chính ta coi nặng. Tôi thấy câu «tâm không thông, vác bình không cũng nặng» rất đúng! Mà «tâm không thông» chính là tâm trạng coi «cái tôi» của mình quá nặng. Ngược lại, mọi thánh giá, dù nặng đến đâu, cũng đều trở nên nhẹ nhõm khi «cái tôi» của ta được chính ta coi nhẹ. Coi nhẹ «cái tôi» của mình giúp ta trở nên sáng suốt, thông đạt, lạc quan, khách quan, mạnh mẽ, hạnh phúc, vui tươi, nhẹ nhõm… Còn đặt nặng «cái tôi» của mình khiến ta trở nên u tối, bi quan, chủ quan, yếu đuối, buồn bã, nặng nề hơn.
Tình cờ tiếng Việt trở thành sâu sắc khi gọi ngôi thứ nhất là «tôi», vì «tôi» (không dấu) có nghĩa là tôi tớ, người phục vụ. Khi nào ta đặt nhẹ «cái tôi» để có thể trở nên như tôi tớ, để phục vụ tha nhân, thì ta sống đúng với ý nghĩa của «cái tôi», lúc đó ta trở nên đúng đắn, sáng suốt. Khi ta ý thức quá sâu sắc về «cái tôi» của mình, thì «cái tôi» trở thành «tôi sắc tối» , nghĩa là u mê, tối tăm. Khi để cho «cái tôi» của mình lười biếng, ươn hèn, ủy mị, chiều chuộng (tượng trưng bằng dấu huyền ) «cái tôi» mình quá, «cái tôi» trở thành « tôi huyền tồi », nghĩa là tồi tệ. Và khi đặt nặng «cái tôi» của mình quá, thì «cái tôi» trở thành « tôi nặng tội », nghĩa là tội lỗi, xấu xa.
Có thể nói bí quyết để nên thánh một phần rất lớn nằm ngay trong thái độ coi nhẹ của ta đối với chính «cái tôi» của ta. Thái độ ấy chính là tinh thần tự hủy hay từ bỏ mà Tin Mừng luôn đề cao.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha ban cho con một «cái tôi» thật là kỳ diệu. Con càng coi nó là nhỏ, là nhẹ, thì giá trị của nó trước mặt Cha càng lớn, càng nặng. Trái lại, con càng coi nó là lớn, là nặng, thì giá trị của nó trước mặt Cha càng nhỏ, càng nhẹ. Xin cho con ý thức được rằng ngoài ân sủng của Cha ra, việc nên thánh của con trở nên dễ dàng hay khó khăn tùy thuộc rất những vào thái độ của con đối với chính «cái tôi» của con. Xin cho con biết coi nhẹ «cái tôi» của mình, để trở nên ngày một thánh thiện hơn.
------------------------------
Sau 14 năm làm Giáo hoàng, ĐTC Gioan Phaolô đã tôn phong 553 vị thánh, trong đó có 117 vị thánh tử đạo Việt Nam, 103 vị thánh tử đạo Đại hàn, 25 vị tử đạo người Mehicô. Quả thực cho đến nay trong lịch sử Giáo Hội chưa có vị Giáo hoàng nào phong nhiều thánh như thế. Trước tình trạng này, có những nhà thần học cho rằng việc phong thánh trong Giáo Hội đang bị lạm phát và các người được tôn phong không còn được trọng kính như trước đây. Thế nhưng dưới ánh sáng của đoạn sách Khải huyền trong thánh lễ hôm nay, lập trường của những nhà thần học này xem ra có vẻ hẹp hòi.
Thực vậy, nên thánh phải là một ơn gọi, một bổn phận của tất cả và của từng người kitô hữu như lời Chúa đã nói : Các con hãy trở nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là đấng trọn lành. Mẹ Têrêsa Calcutta đã khai triển tu tưởng trên như sau : Sự thánh thiện không phải là một cái gì xa xỉ dành riêng cho các linh mục hay tu sĩ, nhưng bất kỳ người nào cũng có thể nên thánh bằng cách làm những công việc nhỏ bé và chia sẻ niềm vui yêu thương cho hằng triệu người đang cảm thấy bi bỏ rơi hất hủi và không được ai chăm sóc. Anh chị em có thể thay đổi cuộc đời họ bằng những công việc đơn sơ như trao ban một nụ cười. Vậy các thánh là người như thế nào ?
Trong các nhà thờ cổ, khi nhìn lên bốn bức tường và các cửa sổ bằng kính người ta thường thấy hình cácvị thánh với đủ mọi màu sắc. Một em bé nọ lần đầu tiên được mẹ đưa đi viếng thăm một nhà thờ cổ như thế, trong khi các du khacc bị thu hút bởi những công trình nghệ thuật thì em bé lại dán mắt vào chân dung của các vị thánh được ghep bằng kính màu. Em ngạc nhiên nhưng lại không biết họ là ai? Và một du khách nào đó đã giải thích choem biết đó là các vị thánh. Tối hôm đó em đã nói với mẹ rằng em biết ai là một vị thánh. Và em cho hay vị thánh là một người mà ánh sáng chiếu xuyên qua. Có lẽ không một định nghĩa nào xác đáng hơn về các vị thánh. Phải, các người là những con người mà ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa chiếu xuyên qua. Chính với định nghĩa ấy mà hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta ngước mắt nhìn lên để chiêm ngưỡng các vị thánh được Giáo Hội tôn phong hay không được ai biết đến. Tất cả các vị thánh đều là những con người luôn để cho ánh sáng tình yêu Thiên Chúa chiếu xuyên qua mình, để soi tỏa cho mọi người chung quanh. Cũng trong chiều hướng ấy, DTC Gioan Phaolô đã nói : Các thánh cũng là những con người yếu hèn như chúng ta nhưng ánh sáng Đức Kitô đã chiếu xuyên qua tất cả những yếu hèn ấy của thân phận con người. Qua cuộc sống của các ngài, Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta một tín hiệu, đó là tất cả chúng ta đều được mời gọi nên thánh. Các ngài là nhưng ngọn hải đăng, chỉ cho chúng ta thấy con đường đến với Chúa. Và con đường ấy chính là con đường hann phúc, một hạnh phúc chân thật phù hợp với khát vọng cơ bản nhất của lòng người .
------------------------------
Có hai vợ chồng nhà kia, lấy nhau đã nhiều năm mà vẫn không sinh được một mụn con nào. Năm ấy, có một vị tư tế đến thăm, ông này đã được họ giúp đờ nhiều lần. Sau khi đã cho vị tư tế ăn uống no nê, họ đã xin với ông : khi ngài lên đền thờ, thì làm ơn cầu nguyện với thần minh cho chúng tôi có được một đứa con. Khi vụ tư tế lên đền thớ, ông đã cầu nguyện cho họ như sau : Tâu lạy các thần minh, vợ chồng họ thật tử tế với con, xin các ngài thương xót cho họ có được một mụn con đề vui cửa vui nhà. Một trong số các vị thần đã trả lời cách nghiêm nghị và dứt khoát : Theo như số phận đã ấn định thì họ sẽ không có con.
Năm năm sau, vị tư tế đó lại lên đường hành hương một lần nữa và cũng dừng lại ở gia đình ấy. Thấy có hai đứa bé đang nô đùa trước cổng, ông ngạc nhiên hỏi : Con ai vậy. Người cha đáp : Con chúng tôi đấy. Vị tư tế đang còn bỡ ngỡ thì người đàn ông giải thích : năm năm trước, khi ngài từ biệt chúng tôi thì một vị nổi tiếng thánh thiện đã đến làng này. Chúng tôi đón tiếp ông và hôm sau trước khi từ giã, ông đã chúc lành cho hai vợ chồng chúng tôi và những đứa bé này là kết quả của sự chúc lành đó. Nghe thế vị tư tế hối hả lên đền thờ và trách các thần minh : Tại sao các ngài bảo tôi là số họ không con, thế mà bây giờ họ đã có những hai đứa ? Một vị thần nghe vậy đã mỉm cười và nói : Có lẽ một vị thánh nào đó đã làm thay đổi số mệnh người đời.
Thực vậy, nếp sống gương mẫu và thánh thiện của chúng ta có thể làm thay đổi được cuộc đời của những người chung quanh. Chúa Giêsu đã từng căn dặn những kẻ tin theo Ngài : Chúng con phải sống thế nào để mọi người nhìn vào chúng con mà ngợi khen Cha chúng con ở trên trời. Lời khuyên này hiện nay càng đúng hơn bao giờ hết, vì có một thời người ta hâm mộ những lời giảng thâm thúy hùng hồn của các nhà truyền giáo. Có một thời người ta cải tà qui chánh trước những điều kỳ lạ xảy ra trước mắt. Nhưng ngày nay người ta sẽ tin Chúa nhiều hơn nhờ đời sống thánh thiện của những người tin Chúa. Đời sống gương mẫu và thánh thiện của người kitô hữu có thể thay đổi được vận mệnh của người khác. Từ không biết Chúa đến nhận biết, tôn thờ và yêu mến Chúa để đạt được hạnh phúc vĩnh cửu.
Đời sống đó còn có thể thay đổi được cả vận mệnh của thế giới. Từ lòng tị hiềm ghen ghét, chiến tranh và chém giết lẫn nhau đến yêu thương, xây dựng, đùm bọc và nâng đỡ lẫn nhau. Đời sống gương mẫu và thánh thiện của chúng ta có ảnh hưởng sâu xa tới niềm tin của người khác và làm cho mầu nhiệm cứu chuộc của Đức Kitô được “hiển linh: cho muôn dân trên toàn cõi địa cầu.
------------------------------
Có một tu sĩ mà người ta đồn là đạo đức, được đặc ân xuất thần và nhìn thấy Chúa. Tiếng đồn ngày càng lan rộng khiến Đức giáo hoàng phải lưu ý và sai thánh Philipphê Nêri, lúc đó đang sống trong một tu viện ở ngoại ô thành phố Rôma, đến nơi điều tra.
Đang khi thánh nhân đi đường thì trời mưa to, nước ngập cả đoạn đường ngài đi qua và khi đến được nhà dòng, nơi có tu sĩ được đồn thổi là đạo đức, thánh nhân đã bị ướt đến tận đầu gối.
Thánh nhân cho gọi vị tu sĩ đạo đức ấy đến để ngài gặp. Vừa nhìn thấy tu sĩ bước vào, thánh nhân đã ra lệnh : hãy quì xuống và cởi giày cho ta. Vị tu sĩ này đứng im, mặt ngước lên trần nhà, không trả lời mà còn có thái độ như kinh bỉ người vừa ra lệnh cho mình. Thánh nhân không cần hỏi thêm câu nào nữa, ngài lập tức ra về và trình lại cho Đức Giáo hoàng :
- Thưa Đức thánh cha, một kẻ có thái độ tự kiêu như vậy thì không thể nào là một người đạo đức, hay một vị thánh được.
Con người có thể đoán xét nhầm lẫn về nhau, nhưng Thiên Chúa chắc chắn không thể nhầm lẫn được. Chúng ta hãy kiểm điểm lại cuộc sống của mình dựa theo lời khuyên của thánh Phêrô :
Anh em hãy từ bỏ mọi thứ gian ác, mọi điều xảo trá, giả hình và ghen tương cùng mọi lời nói xấu dèm pha. Như trẻ thơ, anh em hãy khao khát sữa tinh tuyền là lời Chúa, nhờ đó anh em sẽ lớn lên để hưởng ơn cứu độ, nếu anh em đã nghiệm thấy Chúa tốt lành.
Thiên Chúa không vội vàng, Ngài rất kiên trì và nhân hậu, chậm nổi giận và không hay kết án, Ngài không muốn kẻ tội lỗi phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống. Phần chúng ta, không phải vì Thiên Chúa im lặng, chờ đợi mà chúng ta lại lạm dụng lòng nhân từ của Ngài và sống giả nhân giả nghĩa.
Sự thánh thiện của chúng ta cần phải thể hiện qua những việc tốt lành như lời Chúa đã phán : Cây tốt phải sinh trái tốt.
------------------------------
Người ta kể lại rằng trong đời thánh Antôn tu rừng có một lần ngài xin tá túc trong ngôi nhà của anh thợ đóng giày theo lệnh Chúa. Hai vợ chồng dọn bữa ăn và chuẩn bị chỗ ngủ cho thánh nhân. Ngài ở đó ba ngày, hỏi thăm về đời sống và công ăn việc làm. Nhờ những câu chuyện trao đổi, họ đã trở thành bạn thân với nhau. Sau đó, thánh nhân từ giã họ mà trở về nhà. Lúc bấy giờ Chúa hỏi : con thấy người thợ giày ấy thế nào ? Thánh nhân thưa lại : Ông ta là một người đơn sơ, vợ ông có thai và sắp sinh con. Họ có vẻ yêu nhau lắm. Ông ta có một cửa tiệm nhỏ để đóng và sửa giày. Ông ta làm việc hăng say, gia đình ông ta sống đạm bạc với số tiền kiếm được nhưng luôn biết chia sẻ giúp đỡ cho những người kém may mắn. Ông ta và vợ luôn tin tưởng mãnh liệt vào Chúa và cầu nguyện ít nhất mỗi ngày một lần. Họ có nhiều bạn thân và người thợ giày thì luôn miệng kể chuyện khôi hài cho mọi người cười. Chúa lắng nghe thánh nhân và cuối cùng Ngài phán : Antôn, con là một vị thánh sống, nhưng người thợ giày và bà vợ cũng là những vị thánh sống.
Cơ hội nên thánh luôn ở trong tầm tay của chúng ta, con đường theo Chúa nằm ngay dưới chân chúng ta. Chu toàn bổn phận của mình trong vui tươi, tin tưởng và phó thác nơi tình yêu thương của Chúa là mình đang bước vào con đường cứu rỗi. Đừng tìm đâu xa. Ơn thánh Chúa đang tràn ngập trong những biến cố lớn nhỏ của đời mình. Thánh nữ Têrêxa hài đồng khuyên : Mỗi khi cúi xuống nhặt một cây kim vì lòng yêu mến Chúa và phục vụ anh em, đó là chúng ta đang xây đắp kho tàng vĩnh cửu của mình trên trời.
Tin tưởng, kính mến Thiên Chúa và yêu thương, phục vụ, tha thứ cho anh em trong những liên hệ hằng ngày, đó là con đường nên thánh.
Nên thánh không phải là cố gắng làm những công việc phi thường, nhưng là khiêm tốn chu toàn bổn phận hằng ngày một cách tốt đẹp. Nên thánh chính là làm những công việc bình thường một cách phi thường. Người Do thái mong đợi một vị cứu tinh cao sang quyền phép, nên họ đã không nhận ra con người ngheo nàn tại Nagiarét là Đấng Cứu thế. Hêrôđê đòi xem những phép lạ, nên đã không nhìn thấy nơi người tử tội là vị Thiên Chúa tối cao.
------------------------------
Đang khi làm tổng thống Hoa kỳ, Roosevelt có lần đi nghỉ hè tận Phi châu để săn những con hươi cao cổ. Trong chuyến tàu từ Phi châu trở về Hoa kỳ, có một nhà truyền giáo đã phục vụ hơn bốn mươi năm tại một nơi xa xôi hẻo lánh. Khi tàu cặp bến, nhà truyền giáo chứng kiến cảnh tượng dân chúng đứng sẵn trên bờ cùng với nhiều nhân vật quan trọng trong chính phủ để chào đón tổng thống đi săn về bình an, nhưng không ai đề ý đến nhà truyền giáo đang lủi thủi lên bờ. Lúc đó, nhà truyền giáo thầm trách Chúa như sau : Đấy Chúa thấy không. Tồng thống đi nghỉ hè về mà nhiều người ra đón rước như vậy. Phần con, con đã hy sinh chịu cực vì Chúa đề phục vụ anh chị em nghèo khổ tại Phi châu suốt bốn mươi năm qua, thế mà bây giờ trở về chẳng một ai thèm nghĩ đến con, thật là bất công và tủi cho thân phận con quá. Nhưng lúc đó, dường như có tiếng Chúa trả lời cho nhà truyền giáo : này con, đừng vội thất vọng, vì con chưa trở về quê hương thật của con kia mà.
Nhà truyền giáo đã thầm trách Chúa vì công nghiệp của mình dường như đi vào quên lãng. Có lẽ đôi khi chúng ta cũng than phiềm với Chúa như nhà truyền giáo và câu trả lời của Chúa cho nhà truyền giáo cũng có thể là câu trả lời cho mỗi người chúng ta hôm nay : Con ơi, con chưa trở về quê hương thật của con kia mà.
Trần gian này chỉ là quê hương tạm, mọi vinh quang trên đời sẽ qua đi. Chúng ta đừng quá bận tâm lo lắng để tích lũy, cũng đừng ganh tị với may mắn của kẻ khác.
Sự sống đời sau mời gọi chúng ta hãy cư xử thế nào đề rồi vào giây phút được Chúa gọi trở về quê hương thật, chúng ta không lo sợ điều chi cả. Sở dĩ có những người sống buông thả vô luân là vì người đó không còn nhớ đến sự sống đời sau của họ nữa. Đó là trường hợp đã xảy ra cho một số tín hữu Philipphê được thánh Phaolô nhắn đến trong thư của ngài như sau :
Hỡi anh em, đã nhiều lần tôi nói với anh em rằng : có biết bao nhiêu kẻ ăn ở như là thù địch của thập giá Đức Kitô. Tôi phải khóc mà nói như vậy. Số phận họ là số phận hư hỏng. Chúa họ thờ là cái bụng, vinh dự của họ là nhục nhã vì họ chỉ lo đến sự đời này, Phần chúng ta, chúng ta có quê hương thật ở trên trời, nơi đó chúng ta sẽ gặp Đấng cứu chuộc là Đức Kitô, Chúa chúng ta.
------------------------------
Một toán lính đang đi truy lùng các tín hữu, thấy một đám các em nhỏ đang chơi đùa, chúng liền vây bắt, bịt mắt và buộc các em phải khai cha mẹ hiện ẩn trốn ở đâu. Thế nhưng các em nhất mực không khai. Bọn lính lên đạn chờ lệnh bắn. Viên chỉ huy nói với các em : Trước khi chết, chúng mày có muốn xin điều gì hay không ? Một bé gái trả lời : Thưa ông, xin cho phép chúng tôi được hát một bài. Viên chỉ huy cho phép và các em đồng thanh ca vang : Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi, Chúa bảo vệ tôi, tôi chẳng sợ hãi gì. Nghe giọng hát du dương và ngây thơ của các em, bọn lính không cầm được nước mắt vì hồi còn nhỏ, mẹ họ cũng đã dạy cho họ hát bài ca đó. Chờ một lúc không thấy động tĩnh, các em mở vải bịt mắt ra thì thấy viên chỉ huy và bọn lính đã bỏ đi xa và các em lại chơi đùa vui vẻ.
Trong Phúc âm có lần Đức Kitô đã tâm sự với Chúa Cha : Lạy Cha là Chúa trời đất, con ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không cho những nhà hiền triết và khôn ngoan biết những điều đó, mà lại tỏ ra cho những kẻ bé mọn. Những nhà hiền triết và khôn ngoan mà Chúa ám chỉ đến hẳn phải là bọn biệt phái và luật sĩ, thành phần lãnh đạo trong dân. Họ thông thạo lề luật, am tường Kinh thánh. Họ là những chuyên gia về tôn giáo, nhưng đức tin thì họ lại không hề có, bởi vì họ không sẵn sàng từ bỏ những thành kiến đề đón nhận một sự hiểu biết mới, một cái nhìn mới mà Thiên Chúa ban cho con người qua và trong Đức Kitô như thánh Gioan đã viết : Bởi không tin nhận Đức Kitô, nên họ không có sự sống vĩnh cửu. Đối với thái độ mù quáng và khép kín của họ, Đức Kitô đề cao sự khiêm tốn và tinh thần phó thác của những người mà Ngài gọi là những kẻ bé mọn. Họ là mười hai tông đồ, những người xuất thân từ đám dân chài nghèo nàn, ít học. Họ là những kẻ thu thuế, những cô gái điếm, những người bị xã hội loại bỏ ra bên lề. Họ không có của cải để khoe khoang, không có quyền bính trong tay để áp bức, không có vốn liếng học thức để tự phú. Trắng tay và trắng cả cõi lòng, cho nên họ mới có thể đón nhận được tình yêu mà Thiên Chúa ban cho con người qua Đức Kitô. Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó. Đó là điều khoản đầu tiên và căn bàn nhất trong bàn hiến chương Nươc trời. Muốn thuộc về Nước trời, muốn thuộc về Niềm tin, trước hết con người phải trở nên nghèo nàn trơ trụi. Càng từ bỏ chính mình, càng loại trừ những gì là thừa thãi trong tâm hồn, con người mới có thể đón nhận được sức sống mới, cái nhìn mới từ Thiên Chúa. Đức tin không phải là kết quả của những truy tìm nghiên cứu của con người. Đức tin cũng không tăng theo tỷ lệ thuận đối với kiến thức của con người. Đức tin là một ơn nhưng không của Thiên Chúa và bởi vì là một ơn nhưng không cho nên nói như nhà bác học Pascal : Để có đức tin con người phải quì gối cầu khẩn và van xin. Nghĩa là phải có tinh thần khiêm tốn và phó thác.
------------------------------
Linh mục Anthonyde Melo có kể câu chuyện như sau : Có một linh sư Án giáo nọ nổi tiếng là bậc thánh thiện, ông đã mở được nhiều trung tâm cầu nguyện và qui tụ được nhiều đệ tử.
Ngày kia, có một người tìm thầy học đạo tình cờ đến trước cửa trung tâm. Con người khao khát chân lý từ bao năm nay cảm thấy như được giác ngộ khi gặp gỡ vị linh sư. Vị linh sư nói với anh :
- Trước khi nhận ngươi làm đệ tử, ta thấy cần phải thử thách ngươi về sư vâng lời. Đằng trước trung tâm có một dòng sông dày đặc cá sấu, ta muốn ngươi phải lội qua dòng sông ấy.
Không một chút do dự, người thanh niên để nguyên quần áo quăng mình xuống dòng sông. Vừa lội qua dòng sông anh vừa hô lớn : “Tung hô quyền năng kì diệu của thầy tôi’’.
Nhờ có sự hỗ trợ của nhiều người và của chính vị linh sư, người thanh niên đã bơi qua dòng sông và trở về an toàn. Sự kiện này càng làm cho vị linh sư thấy mình là người thánh thiện.
Lập tức, ông cho tập trung các đệ tử trong nhà lại và trịnh trọng bước xuống dòng sông, vừa công khai bơi lội vừa hô lớn: “Tung hô quyền năng của ta, tung hô quyền năng của ta’’.
Thế nhưng, ông vừa dứt lời thì đàn cá sấu ào tới cắn xé ông ra từng mảnh.
Thánh thiện chính là quên mình, quên mình đến độ không được phép ý thức về sự thánh thiện của mình. Thiên Chúa ban cho ta sự thánh thiện là để cho người khác hưởng dùng. Bao lâu sự thánh thiện đem lại lợi ích cho kẻ khác thì bấy lâu người đó còn thánh thiện. Trái lại, kể từ giây phút một người thánh thiện giữ riêng ân huệ cho mình, thì người đó đánh mất sự thánh thiện, đồng thời đánh mất chính bản thân.
Thật ra, thánh thiện không là một đặc ân cho một số người ngoại hạng. Đó là ơn ngọi của mỗi người kitô. Người kitô không thể không là người thánh thiện, vì chính thánh thiện là tên gọi của Chúa Kitô :’’ Ngài là Đấng thánh’’.
“Ngài là Đấng thánh”, bởi vì hơn ai hết Ngài là Đấng quên mình. Thánh Phaolô đã nói đến sự thánh thiện của Chúa Kitô bằng công thức: “Ngài để tự hạ vâng phục cho đến chết và chết trân thập giá”.
Đó cũng là lý tưởng bắt buộc của mọi người tín hữu kitô. Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ :’’Ai tìm sự sống mình thì sẽ mất, và ai đành mất mạng sống mình vì Ta người đó sẽ tìm lại được’’. Quên mình, sống trọn vẹn cho người khác, đó chính là định nghĩa đích thực của sự thánh thiện.
------------------------------
Các mối phúc…và sự thánh thiện. Tám hạng người được gọi là thánh. Thay vì nói, “phúc cho những ai có tinh thần khó nghèo, hiền lành, phúc cho ai thương xót người, cho những ai than khóc, cho những ai đói khát sự công chính, cho những ai hay thương xót người, cho những ai xây dựng hòa bình, cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính” ta có thể nói cách đầy đủ, “phúc cho những vị thánh”. Mỗi hạng người nêu trên, là một cách diễn tả con đường nên thánh. Người có tinh thần nghèo khó là thánh, vì chính Thiên Chúa là kho tàng đích thực của họ. Người sống hiền lành là thánh vì hiền lành và khiêm nhường là thái độ xứng hợp của con người trước mặt Thiên Chúa Đấng Tạo Hóa. Những ai khóc lóc là thánh, vì đó là tiếng khóc của lòng thống hối cho tội lỗicủa mình và của mọi người anh chị em. Là thánh những ai đói khát sự công chính, vì Thiên Chúa là Đấng ban ơn công chính và cứu độ mọi người. Các thánh là những người nhân từ nhất trên đời, vì họ thương xót những kẻ bất hạnh, những người tội lỗi. Người có lòng thanh sạch là thánh, vì họ đã được máu Con Chiên rửa sạch, để họ được nhìn thấy tỏ tường mọi sự trên trời đưới đất. Các thánh là những người hơn ai hết xây dựng hòa bình, nghĩa là, thiết lập trong xã hội loài người những điều kiện thuận lợi cho việc hòa hợp các dân tộc, nhưng trên hết tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nhân bản và tinh thần của con người. Những ai bị bách hại vì nước trời, họ được nhận danh hiệu là thánh, các vị tử đạo đã thánh hiến cuộc đời mình trong cảnh cô đơn tù ngục hoặc trên những giá treo của phòng hơi độc. Tin Mừng Thiên Chúa mang lại cho ta nhiều con đường dẫn đến Ngài, nhưng đích cuối cùng vẫn là: sự thánh thiện. Through the Gospel God has provided to men many paths from which to reach him, but the final destination is the same: holiness. Sự thánh thiện là duy nhất, hoặc nói đúng hơn, chỉ có Đức Giêsu Kitô là Đấng Thánh, và nhiều con đường ta dõi theo là cách thế ta loan truyền và tuyên xưng danh Ngài bằng chính đời sống của ta. Phúc cho các vị thánh vì Nước Trời là của họ, những lợi ích thiêng liêng ngay ở đời này là của họ”. Ta có thể nói về các thánh rằng họ là người sống ở trần gian mà mắt hướng về trời cao, và khi họ đạt được nước trời, họ sẽ còn tiếp tục hiện diện nơi trần thế này.
2. Tình yêu…và thánh thiện. Thánh thiện là hoa quả cuộc hội ngộ tình yêu giữa Thiên Chúa và tạo vật. Thiên Chúa là Tình Yêu” như ta đọc thấy nơi bài đọc 2. Thiên Chúa là nguồn gốc mọi tạo thành, tình yêu Ngài chỉ có thể sinh ích lợi cho ta, vì đó là tình yêu của Người Cha; và vì Ngài là Cha, nên điều diệu kỳ vĩ đại nhất dành cho con người đó là được làm con cái Thiên Chúa. Sự vĩ đại của con người là sống đúng như thế, đi theo bước chân của Chúa Con nhập thể. Tình yêu Thiên Chúa ban cho con người khả năng và sức mạnh thiêng liêng để nên thánh. Tình yêu của con người đối với Chúa đưa đến việc thực thi khả năng và sức mạnh đã lãnh nhận được để đạt đến sự thánh thiện. Đức Giêsu là trường hợp duy nhất vì duy mình Ngài là Con của Thiên Chúa theo nghĩa hẹp; mọi người khác là con cái qua Con Thiên Chúa, vì Chúa Cha gặp thấy nơi con người phản ánh của Con Ngài. Đức Giêsu là mẫu mực vì mọi người thánh không thể làm gì ngoài việc tin vào Đức Kitô, là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, và theo bước chân Ngài. Khi Đức Giêsu đến trong thế gian, ta dâng cho Ngài đôi mắt của ta để có thể nhìn thấy Cha, dù vẫn còn chưa được trong sáng và hoàn hảo. Khi ta bước vào ngưỡng cửa của vĩnh cửu, Đức Giêsu sẽ cho ta đôi mắt của Ngài để từ nay không còn nhìn thấy Cha lờ mờ nữa nhưng mà, “Người thế nào ta sẽ thấy Người như vậy”. (Bài 2) Trong mối tương quan tình yêu-Thánh thiện, bài đọc 1 trích từ sách Khải Huyền nhắc đến một con số đông không đếm được những người được mời gọi. Con số này không phải là 12, như 12 chi tộc Israen, nhưng là bình phương 12, như thế là cộng các chi tộc Israen vào số 12 Tông Đồ của Đức Giêsu: Người do thái và kitô hữu. Tuy nhiên, không phải là 144 nhưng là 144 nhân cho 1000, nghĩa là toàn thể nhân loại. Đúng vậy, Thiên Chúa muốn toàn thể nhân loại được thánh hóa bằng tình yêu và ân sủng, và như thế sẽ đạt được hạnh phúc vĩnh cửu trên trời. 144.000 không phải là một số để giới hạn, nhưng là một số biểu trưng cho toàn thể vũ trụ này.
GỢI Ý MỤC VỤ
1. Vinh tụng ca về cuộc sống thánh thiện. "Xin kính dâng Thiên Chúa chúng ta lời chúc tụng và vinh quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn, danh dự uy quyền và sức mạnh, đến muôn thuở muôn đời”, đây là lời vinh tụng ca không ngừng vang lên từ môi miệng các thánh trên trời. Đây cũng phải là lời vinh tụng ca mà ta phải tuyên xưng ngay ở dưới đất này, nhất là chúng ta, các kitô hữu, bằng cuộc sống thánh thiện. Qua lời vinh tụng ca chúng ta biểu lộ niềm vui sướng và tạ ơn của ta đối với Chúa. Ta vui sướng giữa bao đau khổ, và ta cầu xin Chúa. Ta vui sướng ngay khi mọi sự không xảy ra tốt đẹp cho ta, nói theo cách thức người đời, vì ta cần nhận ra sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Ta vui sướng, dù sống trong cảnh nghèo túng và bất lực, và ta cảm tạ Chúa vì Ngài cho ta biết sự quan phòng của Ngài. Ta vui sướng, dù bệnh tật biến ta thành vô dụng, để Thiên chúa được vinh quang trong thân xác ốm đau của ta và quyền năng của sự phục sinh được sáng tỏ hơn. Ta vui sướng, bởi vì ta sống trong bình an của Chúa và an bình với chính tâm hồn ta, bởi vì ta tin vào chiến thắng của ân sủng trên tội lỗi, bởi vì ta chỉ tìm kiếm thánh ý và vinh quang Chúa. Điều gọi là hạnh phúc mà thế gian coi trọng, thật ra chỉ là hạnh phúc của một ngày, và thường gọi bằng những từ mang ý nghĩa chóng qua như giải trí, tiêu khiển, vui thú, hoan lạc, vui lòng, và nhiều điều khác như vậy, chỉ là những mạnh vụn của cái hạnh phúc đích thật. Ta dành từ hạnh phúc để chỉ một điều vĩ đại hơn: đó là chiếm hữu được tình yêu Thiên Chúa, bắt đầu từ trần gian này và đạt đến đỉnh cao trên trời. Một vinh tụng ca như thế của một cuộc sống thánh thiện cần được hát vang lên mọi nơi trên thế gian này: trong nhà thờ cũng như tại gia, nơi công sở cũng như nơi phòng thể dục, trên núi cũng như dưới bãi biển. Tất cả chúng ta luôn ghi nhớ lời Thánh Augustinô, “Hãy hát bằng môi miệng, hãy hát bằng con tim, hãy hát luôn, hãy hát thật hay”.
2. Hiệp thông với các thánh trên trời. Ngày Lễ các Thánh, Hội Thánh cử hành để mừng những người đã chết đang vui hưởng và sẽ còn vui hưởng tình yêu Chúa mãi mãi, tình yêu dành cho mọi người và cho từng người. Đàng khác, ta cũng chắc chắn rằng nếu ta đang sống trong tình trạng ơn nghĩa với Chúa, ta đã là thánh ngay ở trần gian rồi. Như thế ta có sự hiệp thông giữa các thánh. Nói cách khác, các Thánh trên trời liên kết với chúng ta, họ quan tâm đến ta, họ soi sáng cuộc đời chúng ta bằng chính cuộc sống của các ngài, họ cầu bầu cùng Chúa cho ta. Những gì ta có thể nói đó là, như Thánh nữ Têrêxa thành Lisieux, “Tôi sẽ lên thiên đàng bằng cách làm tốt những việc ở trần thế” Tuy nhiên, tôi muốn đặc biệt nhấn mạnh đến sự hiệp thông của các thánh trên trần đời với các thánh trên trời. Các ngài là những người anh của ta, đã đi đến đích trước ta, và đang chờ đợi cả gia đình được đoàn tụ trong nước vĩnh cửu. Họ là những vì tinh tú trên trời soi chiếu ta trong đêm tối, không phải bằng ánh sáng của riêng họ nhưng bằng ánh sáng mà họ nhận được từ Mặt Trời Công Chính là Đức Kitô. Họ là những gương mẫu rất giản đơn, là những người giúp ta đạt đến một nhân đức hoặc một khía cạnh của sự hoàn thiện và sự thánh thiện là chính Đức Giêsu Kitô. Lẽ nào ta không đổi mới và làm sống lại mối hiệp thông của ta với các thánh trên trời sao? Hôm nay là lúc thích hợp để làm điều đó.
Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê
------------------------------
Khởi đầu ai trong các bạn, ít ra trong những giây phút chân thật, đã không thấy to, đã không thấy cao ? Tôi nhớ tới bài giảng đầu tiên của tôi tại chủng viện Bayonne... Đã hơn 50 năm rồi. Lúc đó, chúng tôi tập giảng, chúng tôi buộc phải giảng tại phòng ăn trước một cử tọa háu đói, tức là không có tai để nghe! Bài giảng đầu tiên của tôi (tôi còn giữ bản văn đã bắt đầu ố vàng) nhằm vào sự đòi buộc phải nên thánh, nêu rõ lời Bài Giảng Trên Núi: "Anh em hãy nên trọn lành như Cha anh em trên trời là Đấng trọn lành" (Mt 5, 48). Hôm nay, tôi cũng giảng bài giảng đó, chính bài giảng đó tôi giảng cho các bạn chính lúc này đây, một cách hết sức xác tín, nhưng với sự hối hận nhiều hơn bởi vì trong cuộc sống dài ngày của tôi, có những lúc tôi sợ nên thánh. Các bạn biết phần kết điên loạn của bài hát "Jeanne relapse et sainte" (Gioanna sa ngã và làm thánh ), do Georges Bernanos viết và được Darius Milhaud phổ nhạc: "Muốn nên thánh, vị Giám Mục nào mà không cho đi chiếc nhẫn của mình, mũ gậy của mình, vị Hồng Y nào không cho đi áo đỏ của mình, Giáo Hoàng nào không cho đi áo trắng của mình, giáo triều của mình, vệ sĩ của mình và tất cả của cải của mình? Ai mà không muốn có sức chạy cuộc phiêu lưu đáng phục này? Bởi vì sự nên thánh là một cuộc phiêu lưu". Và đôi lúc, tỉnh táo, ông nói thêm : "Nhưng ai chịu cực khổ để nên thánh đây?"
Hãy cầu xin trong thinh lặng và khiêm tốn
Ai chịu gian khó để nên thánh ngày nay? Chính các bạn, sáng nay, phải không? Với ân sủng của Chúa mà chúng ta cầu xin trong thinh lặng, khiêm tốn: Lạy Chúa, xin cho con sức mạnh để đi theo gần Chúa hơn, và theo Chúa cho tới cùng. "Dầu Thầy có đi nơi nào", thánh tông đồ Phêrô đã kêu lên trong một lúc phấn khích.
Để không sợ nên thánh, tôi mời các bạn khám phá những gương mặt các thánh. Tôi thích lặp lại tôn giáo của chúng ta là tôn giáo các gương mặt. Dầu có nói về Thiên Chúa hay là về con người, cũng đều qua gương mặt mạc khải con người. Bạn hãy nói cho tôi biết gương mặt của bạn và tôi sẽ nói bạn là ai. Người ta hiểu rõ rằng lịch sử dân Chúa thu gọn lại trong sự tìm kiếm "mặt giáp mặt".
"Chỉ có Chúa là Đấng Thánh", chúng ta khẳng định ba lần trong kinh "Thánh, Thánh, Thánh" trong Thánh Lễ. Và chúng ta sẽ không bao giờ lặp lại cho đủ, cũng như suốt ngày đêm bốn nhân chứng trong sách Khải Huyền (Kh 4,8). Không biết quá những gì chúng ta nói. Bởi vì, tựu trung, chúng ta không biết sự thánh thiện của Chúa là gì, sự thánh thiện đó không ai đạt tới được, không gì sánh được. Sự thánh thiện đó còn hơn một thuộc tính, sự thánh thiện là một phẩm tính của Chúa giữa bao nhiêu phẩm tính khác, sự thánh thiện đồng hoá với chính Chúa. Không có sự thánh thiện, nếu không được tháp cành vào Chúa Giêsu Kitô.
Chính trong Đức Giêsu Kitô mà Thiên Chúa tỏ bày đầy đủ sự thánh thiện của Người. Người là "hình ảnh Thiên Chúa vô hình" (Cl 1, 15). Tôi có thể nói cuộc phong thánh đầu tiên và duy nhất đó là cuộc phong thánh Chúa Giêsu do Chúa Cha, trong ngày lễ Hiển Dung, bởi vì nó mạc khải một sự thánh thiện đồng nhất, duy nhất: "Đây là Con Ta yêu dấu, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy nghe lời Người" và lời nói của thánh Phaolô vọng lại:"Thật vậy, nơi Người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể" (Cl 2, 9).
Chúng ta hãy dừng lại một chút với Chúa Giêsu Kitô. Lúc nào chúng ta mới có thời gian để chiêm ngắm gương mặt của Người? Để cho ánh sáng của người rọi đến chúng ta? Không có sự thánh thiện, nếu không tháp cành vào Chúa Kitô. Bạn có muốn biết bạn có ở trên đường nên thánh không, thì bạn hãy xét xem đã bao nhiêu lần người ta hỏi bạn: "Tại sao bạn là kitô hữu?" Một câu hỏi như thế là một dấu chỉ bạn cắt xuyên qua cảnh âm u bao quanh, nó là bằng chứng bạn đang leo lên núi Các Phúc, bạn biết những chân lý đi ngược lại những ý niệm đã lãnh nhận và vẽ lại gương mặt thật của Chúa Kitô bởi vì người đã sống các chân lý đó... "Tại sao bạn là người kitô hữu?" Người ta sẽ không hỏi bạn câu hỏi này nếu như Tin Mừng của bạn bị ép bẹp dí đến nỗi dễ dàng nhét dưới thềm cửa như bất cứ một tờ quảng cáo nào. Phúc cho bạn nếu bạn bị thách thức giành được sự kính nễ giữa các bạn bè của bạn về điều bạn đang giữ độc nhất, nguyên thuỷ trong bạn.
Hằng ngày tôi nói lúng túng
Người ta cũng đã đặt câu hỏi đó với tôi, nhất là các bạn trẻ và rất bất ngờ. Thú thật tôi không thích trả lời cho lắm, bởi vì nó động tới mầu nhiệm của tôi. Tôi muốn vặn lại: bạn hãy đi hỏi chính Chúa Kitô! Chính Người đã chộp bắt tôi, tôi cũng không biết bằng cách nào. Phần tôi, tôi buông mình theo. Tôi có ra sức đảm nhận với tư cách người trưởng thành bí tích Rửa Tội từ lúc còn bé của tôi, cũng vô ích, vì tôi không ngừng thấy chính Người, luôn luôn là Người đi bước trước đến với tôi, bước chân tình yêu, bước chân tha thứ. Và phần tôi, tuy là một hồng y già, tôi chỉ biết nhảy mừng, như một chú bé trồi lên từ dưới nước lấp lánh ánh mặt trời. Một câu hỏi rắc rối, mà cũng cấp bách. Mỗi khi người ta đặt cho tôi câu hỏi đó, tôi cảm thấy trẻ lại trong đức tin thanh tẩy của tôi, được lau sạch khỏi những vay mượn của thói quen dính ngoài da thịt tôi. Nhưng mà bạn hãy nói tại sao bạn là người kitô hữu? Đơn giản hết sức - đó là định nghĩa tuyệt nhất về tình bạn mà tôi biết - bởi vì chính là Người, bởi vì chính là tôi. Tôi không thể nói gì hơn, tôi bập bẹ mọi ngày, mọi buổi chiều như trong một đêm hè mà tôi đã khám phá những vì sao mới để theo Người. Nhưng tốt hơn khi câu hỏi ở số ít này được tôi trả lời cho... ở số nhiều, nghĩa là trong Giáo Hội. Tại sao tôi là người kitô hữu? Sáng nay, tất cả các bạn, đã giúp tôi trả lời, bởi vì chúng ta cùng là người kitô hữu, tôi, giám mục cũng làm môn đệ Chúa Kitô như các bạn. Cùng với Phêrô, tôi chỉ có thể nói: "Lạy Thầy, chúng con biết theo ai, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời."
Sự thánh thiện lây lan
Sự thánh thiện có tính lây lan bởi vì nó được sống trong tập thể, chúng ta hãy nói tiếng nói đó, trong Giáo Hội. Tin vào sự thánh thiện của Chúa Kitô, cho qua, nhưng tin vào sự thánh thiện của Giáo Hội, được không? Nhưng đó cũng là một điều trong kinh Tin Kính chúng ta: "Tôi tin có Hội Thánh thánh thiện?" Chắc chắn rằng thân thể Hội Thánh đầy vết tích và bộ phận giả. Chắc chắn đôi tai Hội Thánh đầy ắp tiếng gà gáy mà ông Phêrô tội nghiệp đã nghe. Chắc chắn cuốn sổ tay của Hội Thánh đầy dẫy những cuộc hẹn bỏ dở với những con người và những dân tộc. Nhưng điều làm nên sự thánh thiện của Hội Thánh, không phải là lòng trung thành nhiều hay ít xán lạn mà các kitô hữu giữ được cho Hội Thánh, nhưng chính là lòng trung thành tuyệt đối, không gì lay chuyển mà Phu Quân của Hội Thánh, Chúa Kitô, dành cho Hội Thánh. Hội Thánh là một công trình ân sủng, ân sủng tinh tuyền. Hội Thánh đứng vững không phải tự mình, cũng không phải tại chúng ta, nhưng nhờ một mình Chúa Kitô Đấng yêu mến Hội Thánh và phó mình cho Hội Thánh, đã muốn, như thánh Phaolô nói "để trước mặt Người có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tì ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền" (Ep 5, 27). Và chúng ta phải chiêm ngưỡng Hội Thánh và yêu Hội Thánh y như vậy đó, mọi lúc. Bernanos nói: "Tôi không nên sống ngoài Hội Thánh năm phút; và nếu người ta đuổi tôi ra ngoài Hội Thánh, tôi lập tức chạy trở lại ngay với chân trần, áo sơ mi."
Hội Thánh không thánh thiện vì được các thánh tạo ra; Hội Thánh thánh thiện là để tạo nên những vị thánh dưới hơi thở Chúa Thánh Thần. Thật nghịch lý, thay vì than khóc Hội Thánh qui tụ quá nhiều kẻ tội lỗi, mà phải nên hối tiếc vì hết mọi kẻ tội lỗi đã không có mặt ở đó! Bởi vì khả năng làm ra các thánh là vô tận. Đó là lý do tại sao Hội Thánh không ngừng chỉ cho chúng ta "đám đông các chứng nhân", đạo binh các thánh minh chứng sự thành công của Chúa Giêsu trong đời sống các ngài.
Tử đạo không phải là một kỳ công
Trong số các thánh được chiêm ngưỡng, phải bắt đầu với "Đức Thánh Maria", một thành công lớn nhất (Chúa Kitô có thể làm khác cho mẹ mình không!). Bây giờ người ta mới hiểu lòng sùng kính rất đặc biệt các người kitô hữu sốt sắng dâng kính Ngài. Đức Gioan Phaolô II nêu gương cho chúng ta với khẩu hiệu giáo hoàng của ngài "tất cả cho Mẹ". Những vị thánh đầu tiên được Hội Thánh nhìn nhận chính là những vị tử đạo. Không có chi lạ: tử đạo không phải là một kỳ tích, một thành tích mặc cho các giai thoại có nói như vậy. Tử đạo là sự hoàn thành một nếp sống bác ái đồng dạng với đức ái của Chúa Kitô đến độ hiến sinh mạng làm hy lễ. Trong nồi luyện đẫm máu này, những thế hệ kitô hữu đã được trui rèn. Chính cái chết của các ngài có tính thuyết phục và làm màu mỡ cho Hội Thánh. Nên lưu ý, dường như các vị lãnh đạo Hội Thánh được nhắm riêng cách đặc biệt do đòi hỏi của sự thánh thiện, dường như cuốn lịch các thánh tính được 31 vị giáo hoàng đầu tiên và phần đông các ngài là giám mục sáng lập các giáo phận. Tại sao nhắc lại điều này? Bởi vì, như Đức Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh, các thánh tử đạo đã trở lại với quyền lực trong vòng thế kỷ XX và nhắc đến các ngài là một khích lệ đối với những thế hệ đang lên của năm 2000. Theo nghĩa này, việc cử hành Năm Thánh và Đại Kết tại Colisée ngày 7 tháng Năm phải được sử dụng làm điểm qui chiếu để chúng ta đi vào ngàn năm mới này.
Mỗi ngươi phải có những vị thánh mình ưa thích
Hỡi các bạn trẻ năm 2000, các bạn không thể đương đầu với trận chiến cam go của sự nên thánh mà không có bên cạnh các bạn những chứng nhân anh dũng đức tin như là điểm tựa và gương sáng... Mỗi người phải có những vị thánh mình ưa thích. Đây là những vị thánh tôi ưa thích mà tôi cho các bạn biết tên, ít ra một vài vị. Trước hết thánh François le Poverello thành Assisi, người đã sống Tin Mừng không lời chú giải, từng chữ một... Tôi không thể mở hết cuốn sổ tay của tôi ghi những địa chỉ các thánh mà tôi thường thăm viếng; ngẫu nhiên, tôi kể ra đây thánh Augustin le Berbère, François Xavie le Basque (chị thánh nhân có chồng tại làng quê tôi), hai thánh Têrêsa, Têrêsa Cả d'Avila và Têrêsa nhỏ thành Lisieux, Pier Giorgio Frassati (thánh này người miền núi Alpin như tôi), Đức Gioan XXIII, trong 15 ngày nữa sẽ được phong chân phước (cách đây 50 năm, khi ngài còn làm sứ thần Toà Thánh tại Pháp, tôi có làm tài xế cho ngài một ngày tại Bayonne). Cũng có Charles de Foucault, Madeleine Delbrêl và nhiều vị thánh khác; nhưng tôi không kể nữa... Phần các bạn tùng phục những vị thánh nào hay những thầy thiêng liêng nào? Các bạn phải làm vậy đó, nhưng với điều kiện là sự bắt chước các thánh không quá nô lệ. Thánh Gioan Thánh Giá đã nói khôi hài: Đừng có quá bắt chước các thánh, bởi vì ma quỉ sẽ làm cho các bạn sao chép lại các nết xấu các thánh!" Các bạn hữu của Chúa Kitô, dầu họ là ai, chỉ ở bên chúng ta để lôi kéo chúng ta đến với Chúa Giêsu, tăng cường tình bạn chúng ta với Người. Các thánh là những người bẻ ghi thiên đàng giúp chúng ta vứt bỏ thói quen của những cuộc sống chúng ta không có đàng chân trời.
"Đừng có sợ làm thánh của ngàn năm thứ ba". Có ba nét nhấn trong câu nói vắn tắt của Đức Gioan Phaolô II. Nét nhấn thứ nhất: đừng có sợ. Nét nhấn thứ hai: làm thánh. Nét nhấn thứ ba: ngàn năm thứ ba. Tôi còn phải lưu ý tới nét nhấn thứ ba này:
Giáo Hội trao cho chúng ta một chiếc chìa khoá để vào cuộc. Người ta đã không viết gì về ngàn năm mới sao? Nhưng, cách chính xác, ai biết sự gì sẽ xảy ra? Ai dám làm ngôn sứ cho vấn đề? Sống trẻ trước hết là sống thời gian hiện tại với một cường độ tràn đầy đến tương lai. Không bao giờ được so sánh những thời gian kết chuỗi với nhau, kế tiếp nhau theo giòng các thế kỷ: mỗi thời đại có ơn gọi riêng của nó, sứ mạng riêng của nó trong chương trình của Thiên Chúa, chủ tể lịch sử. Nhưng điều bi thảm là không ai có khả năng nói trước sứ mạng đó là gì, cho ngày nay, còn ít hơn cho ngày mai.
May mắn thay, Giáo Hội cung cấp cho chúng ta một chiếc chìa khoá để vào cuộc với vai trò Chúa dành cho chúng ta. Chìa khoá đó là tập đọc những gì Đức Gioan XXIII và Công đồng Vatican II đã gọi là "những dấu chỉ của thời đại". Không gì ích lợi trong mạng lưới giao thông cho bằng sự hiện diện những bản dấu đi đường chỉ hướng đi. Đó là vấn đề: nhưng vấn đề là biết tìm kiếm cách nào, phân biệt làm sao, giải thích thế nào những dấu chỉ Chúa gởi tới để dẫn bước tiến của chúng ta trong một cảnh quan dày đặc sương mù, rối rắm hết sức? Muốn cập nhật hoá thật sự, trên đỉnh các biến cố, Giáo Hội yêu cầu chúng ta lưu ý tới những kẻ bé mọn, những người khiêm tốn, những kẻ nghèo, tất cả những kẻ Chúa Giêsu đã vui mừng nhận biết họ thấy được những gì bị che khuất đối với các kẻ thông minh và khôn ngoan (x. Mt 11, 25). Đừng bao giờ quên tiêu chuẩn Tin Mừng này, tiêu chuẩn quí nhất, chắc chắn nhất, cũng cụ thể nhất trong ý muốn của các bạn muốn biết những gì Chúa Kitô chờ đợi từ thế hệ các bạn. Chỉ người nào có hồn khó nghèo, mới đủ sức tách biệt, lột trần khỏi những tư lợi, để làm chủ giòng lịch sử và, nếu cần, điều chỉnh lịch sử. Nếp gấp này, nếp gấp đẹp nhất trong sự cam kết thiêng liêng của các bạn, thật rõ ràng: sống nghèo nàn như Chúa Kitô, sống với những kẻ nghèo để được sống với Chúa Kitô. Giáo Hội đổi mới mỗi khi Giáo Hội dám kết giao với các người nghèo.
"Điều làm tôi thích thú, đó là biết ta phải nên thánh cách nào". Cuối cùng chúng ta đây được đưa về những suy tư, những đòi hỏi lúc đầu. Chúng ta ý thức hơn rằng Tin Mừng không phải là một bộ phim hoạt hoạ cho những kẻ chậm trưởng thành, nhưng là một cuốn sách mỗi người viết với chữ bằng lửa và máu. Và sự thánh thiện là thế đó, chỉ là thế đó: trân trọng Tin Mừng, toàn bộ Tin Mừng. Chỉ cần trở nên điều chúng ta đã là qua bí tích Rửa Tội. Thay vì có quan niệm theo tinh hoa chủ nghĩa, quí tộc, phải nhìn nhận tất cả chúng ta đều được kêu gọi nên thánh. Nhưng cũng phải nhìn nhận rằng chúng ta không thể nên thánh mà không có Chúa Kitô. Ông Albert Camus bắt một nhân vật trong cuốn tiểu thuyết "La Peste" của ông nói: "Điều làm tôi thích thú, đó là biết người ta nên thánh cách nào - Nhưng ông không tin có Thiên Chúa, người ta hỏi lại ông. Đúng vậy, người ta có thể nên thánh mà không cần có Chúa không? Đó là vấn đề cụ thể duy nhất mà tôi biết ngày nay". Sự cám dỗ làm thánh mà không cần có Chúa là việc thường xảy ra lúc này, khi lố nhố những anh hùng đủ loại trên màn ảnh hay trong ngành thể dục thể thao, những anh hùng này là sự giải thích ngoại đạo về sự thánh thiện, về sự quá trớn của con người bởi con người và cho con người.
Phải chăng những vị thánh ngàn năm thứ ba được khơi gợi tới phần chủ yếu? Tôi tưởng đặc điểm riêng của các thánh là bám lấy cái thiết yếu trong một xã hội đang ngày càng trở nên một hiệu đồ cũ, một chợ trời nơi có thể mua tất cả, bán tất cả tuỳ theo sở thích, hữu dụng hay phù phiếm, của mỗi cá nhân. Phải, chúng ta được thúc ép nghĩ tới cái thiết yếu. Trong một hoàn cảnh khẩn cấp, người ta dự trữ thức ăn hơn là chén bát, người ta bảo vệ động cơ xe hơn là những miếng che trục bánh xe, người ta cứu đứa bé khỏi hoả hoạn hơn là bức chân dung bà nội nó. Gìn giữ phần thiết yếu cho Giáo Hội, đó là giữ Lời Chúa trong tiếng ồn ào của những lời nói con người. Vì con người có nhiều nghề khác nhau, người kitô hữu chắc chắn có chỗ đứng bên cạnh kẻ khác; nhưng đối với việc phục vụ Tin Mừng, chúng ta, người kitô hữu, chỉ một mình chúng ta mới có thể thực hiện được thôi. Hơn nữa, đó là điều những kẻ khác chờ đợi nơi chúng ta, miễn là chúng ta là những chuyên gia và không phải là những kẻ tài tử trong đời sống Tin Mừng.
Cái khó là phải đứng vững
Gìn giữ điều thiết yếu và giữ cho đến cùng. Điều khó nhất không phải là lao mình vào cuộc phiêu lưu làm thánh, nhưng là trụ ở đó như trong một cuộc chạy marathon vô tận. Theo Chúa Giêsu, cho tới chân Thánh Giá hay là tốt hơn đi theo Người trên tất cả quãng đường ngay từ đầu đã là đường thánh giá. "Tôi chỉ biết giữa anh em có Đức Giêsu", thánh Phaolô nói, nhưng ngài liền thêm như lời chỉ trích để đánh nổi căn tính thật sự của Người "và Đức Giêsu này là người bị đóng đinh" (x. 1 Cr 2, 2). Rất thường, Chúa Giêsu bị tầm thường hoá trong sự khôn ngoan loài người hay là bị đưa vào trong phòng thí nghiệm nào đó, để những sử gia, những nhà chú giải chiếm lấy Người như là để mổ xẻ Người. Chắc chắn, những con đường tiếp cận được vạch khá hơn, và những sự tìm kiếm này hữu ích cho chúng ta. Nhưng nghiên cứu bản đồ không thay thế được chính bước đi với Chúa Kitô, Ngài bắt mỗi người chúng ta đi qua Césarée de Philippe; các bạn biết chỗ này không được định vị rõ ràng và không có trong mạng internet nào hết, ở đây Chúa Kitô chờ đợi chúng ta một câu hỏi và một câu trả lời thích đáng: "Còn phần các anh, tôi là ai vậy?" (Mt 16, 15). Và đối với Chúa, con là ai? Và đối với con, Ngài là ai vậy?
Tình yêu của Người, may mắn biết bao! Một may mắn độc nhất để nên thánh
Ngày nọ, tôi bị đánh động bởi tiếng khóc của bà Maria Mađalêna thổn thức bên ngôi mộ trống: "Người ta đã lấy mất Chúa tôi" (Ga 25, 13); và bất giác tôi cũng kêu đòi như thế với tất cả những người giữ vườn của thế gian và Giáo Hội. "Người ta đã lấy mất Chúa tôi". Người ta, tôi không biết là ai. Tôi không tố giác ai. Khi quay trở lại, tôi, cũng như bà Maria Mađalêna, tôi gặp chính Chúa Kitô bằng người thật... Nhưng kìa, tôi không nhận ra Người. Và, lúc đó, tôi bắt đầu viết lời nguyện này, "Tôi không muốn một Đức Kitô cầu kỳ, trật khớp xương, đoạt giải ca nhạc hoặc phát triển trong điều kiện nhân tạo. Tôi muốn Đức Kitô của các Tông Đồ, Chúa Kitô của những kẻ bé mọn và những kẻ đơn sơ, Chúa Kitô mà tôi biết giọng nói rất gần với giọng nói basque của tôi, Chúa Kitô Đấng nói với tôi: "Philippe (Roger), ai thấy Thầy, là thấy Cha" (Ga 14, 9).
Lạy Chúa, ước gì đừng có ai đến lăn hòn đá nào giữa Chúa và con, bởi vì con muốn thấy Chúa sát bên, nghe Chúa nói trực tiếp, rờ được Chúa, Chúa là Con Thiên Chúa hằng sống.
Lạy Chúa, ước gì đừng có cuốn sách nào, dầu đạo đức xiết bao, đến làm nhạt đi sứ điệp của Chúa. Con càng chiêm ngưỡng Tin Mừng của Chúa cả bốn mặt, thì con càng khám phá ra con đang viết cuốn Tin Mừng thứ năm của con, Tin Mừng của đời sống con, Tin Mừng đó biến Chúa thành bạn đồng thời của con, vừa là bạn vừa là người chỉ đường cho con.
Lạy Chúa, chớ gì con khám phá ra Chúa trong Giáo Hội, nơi triển khai tầm vóc Chúa, tầm vóc trải dài cho tới tận cùng trái đất và vươn cao cho tới trời cao, trong mầu nhiệm hiệp thông các thánh, ai sẽ tách biệt con khỏi tình yêu Chúa? (x. Rm 35, 39)."
Hỡi bạn trẻ ngàn năm thứ ba, đừng sợ treo cao cái đà nên thánh, hay là tốt hơn bạn hãy để Chúa Kitô đặt cái đà ấy trên cái mức xem ra tốt nhất cho bạn. Bạn không biết bề cao đó: bạn chỉ ra sức, bằng sự luyện tập, nhảy cao hết sức có thể.
Tôi rất thích câu nói của Martin-Luther King: "Nếu bạn không thể làm cây thông trên đỉnh đồi, thì hãy làm bụi gai trong thung lũng. Nếu bạn không thể làm một cây to, thì hãy làm một bụi nhỏ bên bờ suối. Nếu bạn không thể làm con đường lớn, thì hãy làm lối đi nhỏ. Nếu bạn không thể làm mặt trời, thì hãy làm mặt trăng.
Không phải nhờ có dáng vóc mà bạn thắng.. nhưng nhờ sức mạnh yêu thương, cho dầu bạn là ai".
Bạn đừng có sợ làm một vị thánh của ngàn năm thứ ba. Chỉ có tình yêu mới đáng giá cho tương lai.
Tất cả chúng ta sẽ bị đoán xét bởi tình yêu, bởi tình yêu đầy thương xót của Chúa. Tình yêu của Ngài, may mắn biết bao! Đó là điều may mắn độc nhất để nên một vị thánh! Nên thánh, thật rất đơn giản: "chỉ cần, như đứa con trai hoang đàng, lên đường trở về với Cha mình", phần còn lại Người sẽ làm tất!"
Nguyễn Việt Nam
------------------------------
vô danh những thánh không ai biết đến và cả những vị thánh thời danh mà Hội Thánh đã tuyên phong làm gương mẫu cho dân Chúa. Sự thánh thiện là đặc điểm của đạo Chúa và là một trong những yếu tính của Hội Thánh chúng ta từng tuyên xưng trong kinh Tin kính mỗi chúa nhật : tôi tin có hội thánh thánh thiện công giáo duy nhất và tông truyền.
Nhưng hình như có mâu thuẫn khi giáo hội thánh thiện lại gồm toàn những tội nhân. Và trong lịch sử cũng đã có những giáo hoàng hay giám mục khôngmấy thánh thiện nếu không nói là làm gương xấu cho bổn đạo.
Tiếng thánh thiện theo nguyên nghĩa là được tách rời ra, được lựa chọn riêng ra để dâng lên Thiên Chúa. Các ngài có những nhân đức tập luyện đến mức độ anh hùng và nhất là cuộc sống hoàn toàn cho nước Chúa được thể hiện qua sự tuân theo ý Chúa và kết hợp với Chúa bằng cuộc sống nguyện cầu. Có thể nói mỗi hơi thở mỗi nhịp tim của các ngài là những rung động tình yêu Thiên Chúa và sự kết hợp nếm thử trước cuộc sống thiên đàng. Cuộc sống của các ngài luôn tràn đầy khổ đau và thử thách, nhưng đó chỉ là những dịp cho các ngài tăng thêm tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Tất cả các ngài đều là những vị tử đạo theo ý nghĩa là những chứng nhân anh dũng, bằng máu và cuộc sống anh hùng, tử đạo hàng ngày, làm chứng hằng ngày cho cuộc sống vĩnh hằng.
Cốt tủy của sự thánh thiện chính là sống cho Chúa cụ thể là những việc lớn nhỏ trong cuộc sống hàng ngày đều là cho Chúa và vì tình yêu Chúa : việc tầm thường nhưng làm cách khác thường. Gioan Berchmans vị thánh 25 tuổi đã nói : tôi đặt lý tưởng thật cao và cố đạt tới trong thời gian kỷ lục bằng sự anh hùng. Khi nghe tin thánh Phanxicô Salêsiô được phong thánh Phanxicô Borgia nói mình sẽ là Phanxicô thứ tư sau ba vị Phanxicô là Assisi, Xavier, Salesiô.
Hơn lúc nào hết giáo hội cần có các thánh để minh chứng cho thế gian : sự thánh thiện có thật và chỉ trong giáo hội mới có sự thánh thiện mà thế gian không hiểu nổi và sự thánh thiện làm cho giá trị của cuộc sống vĩnh cửu thành lý do cho ta sống và hi vọng cũng làm cho ta phấn khởi tin rằng dù sao cũng có những người đã làm được . Như thánh Augustino đã viết : Điều ông kia bà nọ làm được sao tôi không làm được ?
Lm Augustine Nguyễn Huy Tưởng
------------------------------
Ngày lễ đầu tiên trong lịch sử để vinh danh các thánh là ngày tưởng niệm "các vị tử đạo" được cử hành vào đầu thế kỷ thứ tư. Vào đầu thế kỷ thứ bảy, sau làn sóng trộm cắp đột nhập các hang toại đạo, Đức Giáo Hoàng Boniface IV đã cho thu lượm khoảng 28 toa đầy những hài cốt và chôn cất lại bên trong đền Pantheon, là đền thờ các thần của người La Mã, và ngài thánh hiến đền thờ này như một đền thờ Kitô Giáo. Theo sử gia của Giáo Hội là Bede Đáng Kính, đức giáo hoàng có ý định rằng "việc tưởng nhớ các thánh trong tương lai có thể thay cho việc thờ phượng mà trước đây không được dành cho thần thánh nhưng thờ ma quỷ" (Về Việc Tính Toán Thời Giờ)
Nhưng việc thánh hiến đền Pantheon, cũng như ngày kính nhớ đầu tiên các vị tử đạo xảy ra vào tháng Năm. Nhiều Giáo Hội Đông Phương vẫn kính nhớ các thánh vào mùa xuân, hoặc trong mùa Phục Sinh hoặc ngay sau lễ Hiện Xuống.
Tại sao Giáo Hội Tây Phương cử hành lễ này vào tháng Mười Một thì không ai hiểu. Người ta chỉ biết vào năm 800, thần học gia Alcuin người Anglo-Saxon cử hành lễ này vào ngày 1 tháng Mười Một, và người bạn của ông là Arno, Giám Mục của Salzburg cũng theo như vậy. Sau cùng, trong thế kỷ chứ chín, Giáo Hội La Mã đã chấp thuận ngày lễ này.
Lời Bàn
Đầu tiên lễ này để kính nhớ các vị tử đạo. Sau này, khi người Kitô được tự do tín ngưỡng, Giáo Hội đã dùng ngày lễ này để tỏ lòng kính trọng những người thánh thiện. Vào các thế kỷ đầu tiên, được coi là thánh thì chỉ cần một tiêu chuẩn là được nhiều người công nhận, ngay cả việc chấp thuận của vị giám mục cũng được coi là bước sau cùng để đưa vào niên lịch Giáo Hội. Việc phong thánh bởi đức giáo hoàng lần đầu tiên xảy ra vào năm 973; ngày nay việc phong thánh đòi hỏi cả một tiến trình lâu dài để chứng minh các đức tính thánh thiện. Ngày nay, lễ các thánh để kính nhớ các vị thánh vô danh cũng như nổi danh.
Lời Trích
"Sau đó, tôi thấy một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế...
[Một trong các kỳ mục] bảo tôi: "Họ là những người sống sót sau thời gian thử thách lớn lao; họ đã giặt sạch và tẩy áo mình tinh nguyên trong máu Con Chiên.'" (Khải Huyền 7:9, 14).
Lm Nguyễn Phước
------------------------------
Trong thị kiến về "những kẻ đã được niêm ấn" (tức là những kẻ thuộc về Thiên Chúa và ở trong sự bảo vệ của Người) được tuyển chọn tới trước ngai Con chiên, Thánh Gioan thấy số người đó thật đông đảo: "144 ngàn thuộc mọi chi tộc Israel" và một đoàn người khác đông đảo không thể đếm được thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng." Tất cả những người đó đều "mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế" chiến thắng (Kh 7,2-9). Đoàn người đông đảo không thể đếm được đó là chính các Thánh Nam Nữ mà chúng ta mừng kính trong ngày lễ đặc biệt hôm nay: Lễ Các Thánh.
Các ngài là những người khi còn sống đã biết thực hiện tinh thần của Nước Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã dạy trong bài giảng trên núi hôm nay. Đó là Tám Mối Phúc Thật hay cũng còn gọi là Hiến chương Nước Trời (Mt 5,1-12).
Có những vị đã thực hiện đức khó nghèo, khiêm nhường, nhỏ hèn (Mt 11,25; 18,2-4) vui nhận số phận rốt hết (Mt 19,30). Tinh thần khó nghèo đó đã dẫn các ngài tới một đời sống nghèo khó vật chất thực sự (Mt 6,19). Vì thế các ngài được Chúa chúc phúc và trọng thưởng: "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó vì Nước trời là của họ" (Mt 5,3).
Nhiều đấng khác đã sống đời hiền lành theo gương Chúa Giêsu (Mt 11,29) thì được Người khen tặng: "Phúc cho những ai hiền lành vì họ sẽ được đất nước làm cơ nghiệp" (c. 4). Và cứ thế, những vị đã sống đời ưu phiền, những kẻ đã "gieo trong nước mắt" (Tv 126,5) thì nay được an ủi. Những kẻ đã đói khát sự công chính thì nay được no đầy. Kẻ đã biết yêu thương người thì nay được Chúa thương yêu. Những người đã sống đời trong sạch thì nay được nhìn thấy Thiên Chúa. Những Thánh đã dùng tất cả đời mình để tác tạo hòa bình thì nay được gọi là con Thiên Chúa. Và những đấng khi còn sống đã bị bắt bớ, bị bách hại vì Chúa như các Thánh Tử Đạo Việt Nam thì nay được khen tặng phần thưởng Nước Trời.
Các ngài đã sống khác nhau, nêu những gương mẫu khác nhau như trăm hoa đua nở và "mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười" (Kiều). Nhưng tất cả đều có một điểm chung giống nhau là họ đã theo Chúa Giêsu mà chọn con đường Thánh giá đau khổ để tới vinh quang và họ đã ra sức giữ gìn "chiếc áo trắng ngày Rửa tội" tinh tuyền bằng Thánh sủng của ơn Cứu Độ: "Họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt và tẩy áo trắng trong máu Con chiên" (Kh 7,14).
Mừng lễ các Thánh, trước hết chúng ta ca tụng và cảm tạ Chúa vì những đặc ân và phần thưởng Chúa đã ban cho các Thánh. Su nữa, chúng ta cầu xin Các Thánh bầu cử cùng Chúa cho chúng ta nhiều ơn lành để sống noi gương các Ngài và hẹn sẽ gia nhập một trong tám đoàn người được Chúa chúc phúc hôm nay.
Lạy Chúa, tuần này con quyết noi gương các Thánh thực hiện một trong tám Mối phúc thật mà Chúa đã công bố trong bản Hiến chương Nước Trời hôm nay.
Lm. Bênađô Nguyễn Tiến Huân
------------------------------
Làm sao có thể diễn tả được nỗi vui mừng của Giáo hội khi nhìn thấy những người con đã đạt tới mục đích, đã bước vào quê hương Nước Trời, đã được hưởng niềm hạnh phúc với Thiên Chúa.
Đã nhiều lúc Giáo hội như một người mẹ băn khoăn lo lắng cho con cái mình đang vất vả chiến đấu với một thân phận giòn mỏng, với một bản tính yếu đuối, thì giờ đây Giáo hội có thể thở phào nhẹ nhõm và dâng lên Chúa tâm tình biết ơn, tâm tình cảm tạ, vì những người con ấy đã chiến thắng và lãnh nhận triều thiên sự sống. Trong bầu khí của ngày lễ Các Thánh hôm nay, tôi xin chia sẻ ba ý tưởng.
Ý tưởng thứ nhất là về quê trời. Giáo hội cầm tay chúng ta mà dẫn vào quê trời, nhưng chúng ta sẽ nhìn thấy gì ở đó? Thánh Gioan sách Khải huyền đã diễn tả :
- Thiên Chúa ngồi trên ngai có các thiên thần Kêrubim vây quanh, trước ngai là bàn thờ, trên bàn thờ có con chiên bị sát tế, tức là Đức Kitô, Đấng Cứu độ. Chung quanh bàn thờ là 80 vị bô lão, tượng trưng cho Cựu ước và Tân ước. Sau đó là một đám đông vô kể những người được lựa chọn thuộc mọi dân tộc, thuộc mọi ngôn ngữ, thuộc mọi màu da. Họ mặc áo trắng dài, tay cầm cành lá thắng trận và miệng hát vang khúc ca mới : Chúng tôi là những người đã được cứu chuộc bằng máu châu báu, chúng tôi đến từ khắp mọi dân nước. Và mọi người thờ lạy chúc tụng Thiên Chúa và Con chiên.
Dĩ nhiên đây chỉ là hình ảnh thánh Gioan nhìn thấy trong một thị kiến, còn về hạnh phúc Nước Trời, có lẽ chúng ta phải nói lên như thánh Phaolô :
- Mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe và trái tim chưa một lần cảm nghiệm được điều Thiên Chúa dành để cho những người yêu mến Ngài.
Bởi đó hãy dứt bỏ những sợi dây níu kéo và cột chặt chúng ta lại với mặt đất, hầu nhờ đó chúng ta hướng tâm hồn lên trời là quê hương đích thực của chúng ta, mà một ngày kia chúng ta sẽ được gia nhập vào cộng đoàn các thánh.
Ý tưởng thứ hai là về các Thánh. Giáo hội hướng dẫn chúng ta nơi trần gian và thúc đẩy chúng ta trở nên thánh qua việc thực hiện hiến chương Nước Trời, tức là tám mối phúc thật của Chúa.
Nhìn vào cuộc sống, chúng ta thấy có những người đói khổ, không đủ cơm ăn áo mặc, những người nô lệ bị bạc đãi, những bệnh nhân anh dũng chấp nhận khổ đau. Họ vui lòng chấp nhận và coi đó như là những thập giá được Chúa gửi đến và họ đã trở nên thánh thiện.
Bên cạnh những người bước đi trên con đường thập giá, chúng ta còn thấy có những tâm hồn quảng đại, trong trắng và yêu chuộng hòa bình. Họ là những người thật âm thầm và vô danh trước mặt người đời, nhưng lại có một giá trị to lớn trước mặt Thiên Chúa. Vậy chúng ta có muốn bước vào con đường của các ngài hay không?
Ý tưởng thứ ba đó là về chúng ta. Giáo hội mong muốn chúng ta trở nên những vị thánh. Lý tưởng nên thánh không phải là một cái gì được dành riêng cho linh mục tu sĩ, mà là một bổn phận chung của mỗi người con cái, vì con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, hay như Chúa Giêsu đã phán :
- Các con hãy trở nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là đấng trọn lành.
Sự thánh thiện không phải là một đỉnh cao mà chỉ một vài người đạt tới. Cũng không phải là một bông hoa chúng ta phải lặn lội vào tận rừng sâu mới hái được. Trái lại, ai trong chúng ta cũng có thể và phải trở nên thánh.
Nhìn vào các thánh trên trời chúng ta thấy : Không phải chỉ có các đấng được ghi trong niên lịch phụng vụ, mà còn là một số rất đông thuộc mọi dân mọi nước. Tất cả các ngài không phải là những người làm phép lạ, sống trong tu viện hay nổi tiếng về một phương diện nào đó. Trái lại, có những vị cũng tầm thường như chúng ta, cũng sa ngã như chúng ta, cũng sống giữa lòng cuộc đời đầy bon chen và cám dỗ như chúng ta, bởi đó chúng ta thêm phấn khởi mà nói lên như thánh Augustinô : Ông nọ bà kia lên thánh được, còn tôi tại sao không.
Trong ngày hôm nay, chúng ta hãy dốc quyết uốn nắn sửa đổi những sai lỗi, để trong ngày sau hết chúng ta được gia nhập cộng đoàn các thánh và vui hưởng niềm hạnh phúc Nước Trời.
------------------------------
Được viếng thăm những công viên quốc gia vĩ đại tại Mỹ, sẽ để lại một ấn tượng không thể nào quên. Nhưng được thám hiểm một trong những công viên đó, còn để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp hơn. Tại đó, bạn sẽ thấy những con đường được xây dựng một cách cẩn thận dành cho người đi bộ. Trên những con đường đó, có nhiều ngọn đèn sáng trưng. Tại những ngọn đồi hoặc những vùng đầm lầy, vì đó là những chỗ lên xuống khó khăn, nên người ta đều đẽo những bậc thang vào đá. Và chỗ nào nguy hiểm, bạn sẽ thấy đặt những biển báo hiệu.
Nhờ có những con đường được thiết kế rất tốt và được sử dụng từ lâu nay, ngay cả những người không chuyên, cũng có thể lên đường an toàn băng qua rừng sâu và núi non gồ ghề. Khi đi trên những con đường này, bạn sẽ kinh ngạc tự hỏi về công việc khó khăn để hoàn thành chúng. Và có một điều khá rõ ràng là : Nếu không có những con đường này, chắc hẳn những người đi bộ bình thường sẽ bị lạc lối.
Các thánh đã thực hiện một điều nào đó tương tự như vậy đối với chúng ta. Các ngài trải những con đường cho chúng ta, vạch sẵn những dấu hiệu trên đó. Khi tận dụng ân sủng của Thiên Chúa, các ngài chỉ cho chúng ta những điều mà bình thường giống như chúng ta có thể đạt được. Các ngài trở nên gương mẫu về sự quyết tâm, tận tụy và hy sinh.
Các Kitô hữu luôn luôn hướng về gương mẫu của các thánh. Một số vị thánh thẳng tiến đến mục đích. Có những vị thánh khác đã từng vấp ngã, sảy chân, sai lầm, trước khi đạt được mục đích cuối cùng. Nhưng tất cả các thánh đều đã phát triển được những khả năng về lòng yêu mến và sự can đảm của nhân loại.
Những ví dụ trên đây không hạn chế danh sách các vị thánh chính thức. Tất cả những người sống chung quanh chúng ta (ngay cả trong thời đại của chúng ta), có những đàn ông và phụ nữ, mà câu chuyện cuộc đời của họ đã hướng dẫn và thúc giục chúng ta trên hành trình cuộc đời – đó là những người mà nơi họ, hai giới răn vĩ đại, yêu mến Thiên Chúa và yêu mến người đồng loại, đã được kết hợp với nhau tới một mức độ đặc biệt khác thường. Chúng ta rút ra được sự khích lệ và nguồn cảm hứng từ những người đi trước chúng ta, và đã đánh dấu con đường cho chúng ta. Mỗi vị thánh đều làm ra một con đường tạo thuận lợi hơn cho chúng ta. Và khi chúng ta trải qua tình trạng mệt mỏi, thất bại và không đạt hiệu quả, thì dường như các ngài đang nói với chúng ta “Chúng tôi đang ở với bạn. Đừng bỏ cuộc”.
Tuy nhiên, người ta có khuynh hướng sùng bái các thánh theo lối quá tâng bốc, đến nỗi người ta cảm thấy phải tự biện hộ cho mình trong việc noi gương bắt chước các ngài. Trong trường hợp này, lòng sùng kính các thánh trở thành một điều gây cản trở nhiều hơn là giúp đỡ.
Các thánh đích thực đã để lại những gương mẫu cho chúng ta, bởi vì các ngài cũng là kẻ tội lỗi giống như chúng ta. Các ngài là những người nhắc nhở chúng ta về cuộc sống. Các ngài thông truyền cảm hứng, hướng dẫn, khích lệ và ban niềm hy vọng cho chúng ta. Và tất nhiên, các ngài cũng cầu bầu cho chúng ta nữa.
Nhưng các thánh không thể làm mọi sự thay thế chúng ta được. Các ngài cũng không cung cấp cho chúng ta những con đường tắt, để tránh khỏi những khó khăn vất vả và những con đường hẹp. Chúng ta không được chờ đợi người khác làm cho mình những điều mà chúng ta không thể ép mình vào khuôn khổ để thực hiện. Chính chúng ta phải đi trên con đường đó. Chúng ta phải thực hiện cuộc hành trình của mình. Các thánh sẽ giúp đỡ chúng ta đương đầu với cuộc hành trình đó.
------------------------------
Ngày nay, về mặt tâm người ta nhấn mạnh quá nhiều vào việc tìm kiếm chính mình. Điều này quan trọng, nhưng có một điều khác lại còn quan trọng hơn, đó là sống con người của mình, hoặc nói đúng hơn, trở nên chính mình. Xã hội không giúp ích gì được. Xã hội nói với chúng ta bằng quá nhiều cách thức, rằng hầu như chúng ta có thể sống con người của mình, bằng cách hành động và trở nên giống như người khác. Khi vị giám đốc huyền thoại của câu lạc bộ bóng đá Liverpool là Bill Shankley nghỉ hưu, Bob Paisley được chỉ định kế tục vai trò này. Vốn tính tình kín đáo, nói năng mềm mỏng, lúc đầu, Paisley đã từ chối công việc này, vì nhận ra rằng đó sẽ là một công việc đầy khó khăn. Cuối cùng, sau nhiều lần được thuyết phục, ông đồng ý nhận nhiệm vụ. Quả thật là công việc nặng nề, khi phải kế nhiệm một con người thành công như Bill Shankley. Liverpool không chỉ được khen ngợi do thành công về lãnh vực bóng đá, mà còn do có một phương pháp đặc biệt về cách thức điều hành bóng đá. Giám đốc, các cầu thủ, các quí bà pha trà – tất cả đều cảm thấy mình là thành phần của một đại gia đình. Đó là cách thức điều hành của câu lạc bộ. Ngay từ lúc đầu, có một sức ép nặng nề đòi hỏi Paisley phải trở thành một Bill Shankley khác. Nhưng ông kháng cự lại khuynh hướng này. Thay vào đó, ông đưa ra cách làm việc riêng của mình. Ông sắp xếp để tiếp tục những truyền thống của câu lạc bộ, trong khi vẫn giữ lại cá tính độc nhất của con người mình. Và ông đã tiếp tục thành công, thậm chí lại còn hơn cả Shankley.Đến khi về hưu, người ta hỏi ông về bí quyết thành công. Ông trả lời “Không có cách thức nào có thể trở nên vĩ đại được, khi bạn bắt chước người khác. Bạn phải trở nên chính mình thôi”. Quả thật đó là những lời nói khôn ngoan. Cả Shankley lẫn Paisley đều là những người rất thành công. Và cả hai tính cách vĩ đại đạt được đều vượt ra ngoài dư luận. Nhưng để đạt được sự vĩ đại theo con người riêng của mình, có thể không được phổ biến đối với sự thành công theo truyền thống.
Nhiều người đạo đức không nên thánh được, vì họ không bao giờ thành công trong việc sống con người của mình. Trở nên một vị thánh không phải là sống khổ hạnh, hoặc ngay cả sống nghiêm túc và gây ấn tượng. Nhưng người ta phải trở nên chính mình. Các thánh giúp đỡ chúng ta làm điều này, ngay cả các vị thánh nhỏ. Các ngài đã giương cao trước mặt chúng ta một viễn cảnh về đời sống cao cả hơn và trong sạch hơn. Các ngài là những mẫu mực, những giáo viên, bạn bè, luật sư của chúng ta. Bất kể đường đời của chúng ta ra sao, điều thực sự quan trọng là chúng ta hãy trở nên chính mình, con người duy nhất của mình. Nhưng điều tốt đẹp nhất mà chúng ta có thể thực hiện được, đó là trở nên người mà Thiên Chúa muốn chúng ta trở thành. Đó không phải là khước từ cuộc sống hoặc cố gắng trở nên một người nào khác, nhưng là phát triển mầm sống bên trong con người của chúng ta. Đây chính là cuộc hành trình trở về nhà Cha.
------------------------------
Bất cứ ai biết chuyện gì về nét đẹp của rừng rú, đều sẽ nói với bạn rằng không bao giờ nên vẽ về những cánh rừng nhiệt đới, chẳng hạn như rừng gỗ gụ và gỗ tếch. Những cánh rừng nhiệt đới rất xinh đẹp, khi chúng được ở nguyên trong trạng thái của chúng. Thật là sai lầm khi sử dụng bút vẽ hoặc bất cứ thứ gì khác để mô tả về chúng, đó là chỉ một công việc làm mất thì giờ, sức lực và tiền bạc mà thôi. Nếu người ta bổ sung thêm bất cứ thứ gì vào đó, thì sẽ chỉ đáp ứng được một mục đích, và là một mục đích duy nhất – tước đoạt vẻ đẹp tự nhiên của khu rừng. Tuy nhiên đôi khi, người ta vẫn tô vẽ, có lẽ là với mục đích để làm cho những khu rừng này trở nên hấp dẫn hơn. Ngay cả khi các bức tranh được thực hiện với con mắt thẩm mỹ và đầy tính sáng tạo, thì người ta thường chỉ làm hại, hơn là có lợi cho vẻ đẹp của khu rừng. Sau khi được hoàn tất, bức tranh đó thường mang vẻ giả tạo, hoặc ít nhất là không có thật. Trong trạng thái tự nhiên của chúng, những khu rừng đó mang vẻ thú vị hơn và ấn tượng hơn. Những khu rừng xinh đẹp là quà tặng của Thiên Chúa. Vẽ lại vẻ đẹp của khu rừng gần như là một sự báng bổ. Vai trò của người làm đồ gỗ mỹ thuật là làm nổi bật vẻ đẹp vốn có ở bên trong khu rừng, chứ không phải là sử dụng sơn màu để làm cho vẻ đẹp đó trở nên tối tăm. Có một khuynh hướng làm điều gì đó tương tự như vậy đối với các vị thánh. Đó là một công việc đánh bóng, làm cho hình ảnh về nhân cách của các thánh bị biến mất. Khi làm như vậy, các ngài không còn là những con người nữa. Nhưng nếu không còn là con người, thì các ngài trở nên không có thật và không tin tưởng được. Các thánh không trở nên thánh bằng cách sống theo con người giả tạo hoặc nhân tạo. Vai trò của đời sống thiêng liêng không phải là giấu giếm che đậy, nhưng có mục đích là thể hiện con người bên trong của chúng ta. Ân sủng xây dựng dựa trên yếu tố tự nhiên. An sủng không phá hủy con người nhưng làm cho nó được phát triển theo cách thế đầy đủ nhất. Ngay cả các vị thánh nhỏ cũng giương cao trước mặt chúng ta một viễn cảnh về đời sống cao cả hơn và trong sạch hơn. Các thánh thúc giục chúng ta nên cố gắng lấy lại con người tốt đẹp hơn, tử tế hơn và lành mạnh hơn. Các ngài đã phát triển những khả năng về lòng yêu mến và sự can đảm của nhân loại. Lòng đạo đức không thay thế được tấm lòng tốt. Có thể có tấm lòng tốt mà không có sự thánh thiện. Nhưng tôi tin chắc rằng không thể có sự thánh thiện, mà không có tấm lòng tốt. Bởi vì chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, nên tất cả chúng ta đều có khả năng sống tốt đẹp. Các thánh chỉ cho chúng ta cách diễn tả tấm lòng tốt này. Mục đích thực sự của chúng ta không phải là phấn đấu để đạt được hạnh phúc, nhưng là đạt được tấm lòng tốt, rồi hạnh phúc sẽ đi theo sau. Có những người tốt đã đau khổ vì nỗi cô đơn, và mang cảm giác buồn phiền vì không thực hiện được những việc mà họ phải làm. Đôi khi tất cả chúng ta cũng cảm thấy nỗi buồn vì mình không nên thánh.
------------------------------
Các thánh chúng ta mừng kính ngày hôm nay là những ai ?
Trước hết đó là những vị nổi tiếng về các nhân đức cũng như về các việc lành đã thực hiện, được Giáo hội tuyên phong để nêu gương cho chúng ta noi theo và bắt chước.
Tiếp đến, đó còn là những vị chưa được ai biết tới, chẳng hạn :
Có những người đã âm thầm tử đạo, chịu đựng mọi áp bức vì đức tin mà chúng ta chỉ có thể nhận ra mai ngày trên nước trời.
Có những người đã can đảm trung thành với những bổn phận hằng này của mình trong cô đơn lẳng lẽ, mà chẳng được một ai ghé mắt nhìn đến.
Có nhưng người đạo đức như các linh mục, tu sĩ và giáo dân, mà đời sống là một chứng tá hùng hồn cho Tin mừng tình thương của Chúa, mà chẳng được một ai nói tới.
Sau cùng, còn là những tín hữu bình thường và ngay cả những kẻ tội lỗi, đã ăn năn trở lại, được cứu thoát nhờ vào lòng thương xót của Chúa, sau một quãng thời gian đền bù và thanh luyện, như người trộm lành được Chúa tha thứ vào những phút giây cuối cùng trên thập giá.
Giờ đây, tất cả các Ngài đang được hưởng kiến nhan thánh Chúa nhãn tiền, như lời thánh Phaolô đã diễn tả :
- Hiện nay, chúng ta như kẻ nhìn vào trong gương, nhưng lúc bấy giờ chúng ta sẽ được xem thấy Ngài mặt đối mặt.
Giờ đây, tất cả các Ngài đang được hưởng hạnh phúc bên Chúa, như lời thánh Gioan đã xác quyết :
- Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt. Sẽ không còn tang tóc và khổ đau.
Giờ đây, tất cả các ngài đang được lãnh nhận phần gia nghiệp Nước Trời, như thánh Phaolô đã thú nhận :
- Mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe và trái tim chưa một lần cảm nghiệm về những sự tốt lành Thiên Chúa dành cho những người yêu mến Ngài.
Suy nghĩ về các thánh, chúng ta sẽ cảm thấy được vui mừng và hy vọng, được an ủi và khích lệ. Thực vậy, các ngài không phải là những vị thánh bẩm sinh, những vị thánh ngay từ lúc mới mở mắt chào đời, nhưng sự thánh thiện của các ngài chính là kết quả của những cố gắng không ngừng. Đôi tay các ngài cũng đã chai cứng và khuôn mặt các ngài cũng đã ướt đẫm mồ hôi.
Mặc dù hôm nay ở trên thiên đàng, nhưng ngày xưa các ngài cũng giống như chúng ta, nghĩa là cũng đã phải mang lấy một thân xác yếu đuối và thân phận khổ đau, cũng đã phải sống giữa một thế gian đen tối và nhiều cạm bẫy. Các ngài cũng đã bị cám dỗ, cũng đã nghiêng chiều về tội lỗi.
Thế nhưng, điều quan trọng khiến các ngài khác với chúng ta, đó là các ngài đã chiến đấu và đã trung thành với Chúa. Các ngài không phải là những thiên thần, nên nhiều khi cũng đã sa ngã, cũng đã vấp phạm. Tuy nhiên, sau đó các ngài đã biết ăn năn sám hối và làm lại cuộc đời.
Hẳn chúng ta còn nhớ câu nói bất hủ của thánh Augustinô :
- Ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi tại sao lại không ?
Ý tưởng này đã làm cho Augustinô, một thanh niên đầy đam mê dục vọng, phải băn khoăn suy nghĩ, để rồi từ bỏ cuộc sống bê tha tội lỗi mà trở nên một vị thánh nổi tiếng trong Giáo hội.
Cùng với những cố gắng của cá nhân, chúng ta còn phải biết cậy dựa vào ơn Chúa trợ giúp, mà chúng ta nhận được qua các bí tích cũng như qua những việc đạo đức.
Các thánh là những người đã lãnh nhận ơn Chúa như chúng ta. Tuy nhiên, các ngài đã biết sử dụng để thăng tiến bản thân và đổi mới cuộc đời.
Chúa Giêsu đã chết vì chúng ta và Ngài kêu gọi chúng ta trở nên thánh, như lời thánh Phaolô đã viết :
- Điều Thiên Chúa muốn, đó là chúng ta trở nên thánh thiện.
Như thế, trong ý định của Chúa, sự thánh thiện không phải chỉ là một ơn huệ dành cho một số người nào đó, nhưng là một bổn phận chung của mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc, như lời Ngài cũng đã nói :
- Các con hãy trở nên trọn lành như Cha các con ở chện trời là Đấng trọn lành.
Hãy trở nên thánh bằng việc thực thi những điều Chúa truyền dạy. Hãy trở nên thánh bằng lòng mến Chúa và yêu người. Hãy trở nên thánh bằng cách từ bỏ mình, vác thập giá mình mà bước theo Chúa.
Để kết luận, chúng ta hãy tự hỏi như thánh Augustinô : Ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi tại sao lại không ?
------------------------------
Tôi vẫn còn nhớ như in mồn một trong tâm trí của tôi lúc còn bé khi tới nhà thờ vào ngày lễ các thánh nam nữ tháng 11 mỗi năm,tâm trí tôi vẫn không sao mường tượng được,thế nào là các thánh? Tại sao Giáo Hội mỗi ngày đã mừng một vị thánh nào đó, lại có một ngày lễ chung vào tháng 11. Tất cả những thắc mắc, vấn nạn cứ từ từ được giải đáp khi tôi được học giáo lý kỹ càng.Thì ra khi mừng chung lễ các thánh nam nữ hằng năm, Giáo Hội là mẹ luôn để con cái biết ơn, noi gương nhiều vị thánh mà có lẽ chính Giáo Hội cũng không thể nào biết cặn kẽ để đưa tất cả lên bàn thờ với từng tên,từng đức tính, từng nhân đức vì có hàng hàng lớp lớp các thánh như sách khải huyền đã nói.
Nhưng có một điều và điều đó làm tôi sung sướng vì các thánh có muôn muôn vàn đã sống đẹp lòng Chúa, đã đi theo con đường của Chúa vạch ra, các Ngài đã sống những nhân đức hết sức anh hùng, các Ngài là tất cả những người đã được thánh hóa qua bí tích rửa tội và đã sống các nấc thang tám mối phúc một cách hết sức anh hùng. Chúa Giêsu xưa dậy các tông đồ và nhân loại phải sống tám mối phúc thật. Đây là hiến chương nước trời, dành cho tất cả những ai muốn nên thánh, nên trọn lành. Theo Chúa Giêsu mà chối bỏ các mối phước, chắc chắn con người sẽ trở nên xấu và không bao giờ có thể đạt được nước Thiên Chúa. Đọc các mối phúc, con người sẽ nhận ra rằng mỗi mối phúc là một ân huệ tuyệt diệu Chúa ban cho con người để con người trở nên đẹp lòng Chúa. Con người có thể giầu có, có tất cả điều mong ước, nhưng nếu muốn nên trọn lành chỉ có một điều duy nhất là làm theo lời của Chúa Giêsu khi Ngài nói với chàng thanh niên giầu có: "Hãy về bán tất cả những gì ngươi có, đem phân phát cho người nghèo khó và hãy đến theo Ta" (Mt 19,21). Chàng thanh niên quả thực đã sống tốt lành theo như anh nói, nhưngđứng trước lời mời gọi dứt khoát của Chúa Giêsu, anh đã không dám thực hiện và như thế, anh chưa đạt được Nước Trời.
Các thánh nam nữ hôm nay Giáo Hội mừng kính là những người đã biết "liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được"(Mt 10,39) và các thánh hôm nay là những người đã theo lời Chúa: "Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ là một chén nước lã mà thôi,vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em,người đó sẽ không mất phần thưởng đâu"(Mt 10,42). Vâng, các thánh Nam nữ là những vị có công phúc, nên sau khi chết đã được Chúa ban thưởng trên trời, được thấy Chúa đời đời vì khi sống ở trần gian các Ngài đã biết: "vác thập giá mà theo Chúa Giêsu".
Các thánh nam nữ là những người rất có thần thế trước mặt Chúa để cầu bầu cho con người. Các Ngài luôn gần gũi với con người để nâng đỡ và cầu bầu cho con người. Các Ngài đang hạnh phúc bên Chúa, nhưng các Ngài cũng luôn bảo vệ con người vì thấy con người đang phải đương đầu với ma quỉ, quân thù. Mừng lễ các thánh nam nữ, mọi người hãy nghe lời Giáo Hội dậy: "việc tôn kính các thánh đích thực không hệ tại nhiều ở những việc bề ngoài cho bằng ở cường độ tình yêu tích cực của chúng ta"(GH 51) và việc tôn kính các thánh: " không làm suy giảm sự tôn thờ dành riêng cho Thiên Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, trong Chúa Thánh Thần, nhưng phải làm cho sự tôn thờ ấy thêm phong phú hơn"(GH 51).
Càng lúc tôi càng thấm thía những gì mình thắc mắc và giờ đây nhờ ánh sáng Tin Mừng, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, tôi xác tín sâu xa hơn về những lời giáo huấn của Giáo Hội: "Các thánh không ngừng cầu bầu cho ta bên Chúa Cha… Các Ngài đã phục vụ Chúa trong mọi sự và hoàn tất trong thân xác mình những gì còn thiếu sót trong cuộc khổ nạn của Chúa Kitô,hầu mưu ích cho thân thể Người là Hội Thánh" (Cl 1,24). Do đó, với tình huynh đệ các Ngài lo lắng giúp đỡ chúng ta rất nhiều vì chúng ta yếu hèn (GH 49).
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, trong ngày đại lễ hôm nay, Chúa cho chúng con được mừng kính toàn thể các thánh trên trời. Nhờ bấy nhiêu vị hằng nguyện giúp cầu thay, chúng con tin tưởng nài xin Chúa cho chúng con được dồi dào ân sủng như lòng vẫn ước mong. ( Lời nguyện nhập lễ, lễ các thánh).
------------------------------
Trên một chuyến xe lửa, người ta chụm đầu vào nhau và bàn tán sôi nổi về một vụ phá thai vừa mới xảy ra ở trong vùng. Nhiều người đã bênh vực cho hành động ấy của người mẹ trẻ. Một vài người khác thì giữ thái độ yên lặng. Và chỉ có một cô gái đã thẳng thắn nói lên rằng :
- Không thể được, vì đó là một hành động sát nhân. Đứa nhỏ, dù mới chỉ là một thai nhi bé bỏng, cũng đã là một người có linh hồn và thể xác.
Chàng thanh niên, người tình của cô gái thì bĩu môi tỏ vẻ kinh bỉ trước lập trường dứt khoát của cô gái. Nhưng rồi ngày hôm sau, chàng thanh niên đã nhận được bức thư của cô gái, trong đó cô gái đã viết :
- Tôi không hy vọng rằng mình sẽ xây dựng được hạnh phúc với một kẻ không dám mở miệng bênh vực quan điểm của Giáo Hội.
Cô gái này quả thực là một người can đảm, dám lên tiếng bênh vực sự toàn vẹn của tôn giáo, dù có phải hy sinh cả một cuộc tình tốt đẹp. Tuy nhiên, cũng thật đáng buồn vì có rất nhiều người trong chúng ta lại hành động một cách khác hẳn. Đối với họ, sống là để làm việc. Và làm việc là để kiếm tiền. Và kiếm tiền là để nuôi sống gia đình, cũng như để có được những tiện nghi, những hưởng thụ tư riêng. Sau tất cả những công việc đó, nếu còn chút ít thời giờ, thì họ mới nghĩ đến tôn giáo và mới nhớ rằng mình cũng có một linh hồn bất tử và mình cũng là Kitô hữu. Có thể họ cũng sẳn sàng làm một vài việc đạo đức chiếu lệ nào đó, miễn là không mất quá nhiều thời giờ và không thiệt hại tới địa vị, danh vọng và lợi tức của họ. Còn nếu như đời sống tôn giáo đem lại những thiệt thòi và khó khăn, họ sẽ vội vã ban Chúa như Giuđa hay chối Chúa như Phêrô.
Nếu đọc lại lịch sữ Giáo Hội, chúng ta sẽ thấy những tín hữu đầu tiên đã không sống và hành động như thế. Họ luôn hãnh diện tuyên xưng mình là Kitô hữ. Họ coi tước hiệu Kitô hữu là như một ơn gọi của Thiên Chúa xuất phát từ trời cao.
Chính vì thế, thánh Phaolô đã khuyên nhủ họ :
- Anh em hãy sống xứng đáng với ơn gọi của mình.
Còn chúng ta thì sao ? Thái độ của chúng ta rất có thể đã thật khác xa với thái độ của các tín hữu sơ khai. Chúng ta đã lãnh nhận bí tích Rửa tội và có tên trong hồ sơ lưu trữ của giáo xứ. Đạo của chúng ta là đạo giấy tờ. Còn trong cuộc sống, chúng ta lại hành động trái với những gì chúng ta đã tin nhận, trái với lý tưởng cùa người Kitô hữu.
Phải chăng chúng ta chỉ là những Kitô hữu “dổm”, hữu danh vô thực. Có tên mà không sống, không làm, không hành động ? Phải chăng danh hiệu Kitô hữu chỉ còn là như một chiếc phù hiệu mà nhiều lúc chúng ta cũng chẳng muốn mang lấy, vì nó ảnh hưởng tới lý lịch, nghề nghiệp và địa vị của chúng ta. Chỉ cần nhìn vào một vài việc đạo đức là chúng ta có thể thẩm định được chúng ta nghĩ gì về ơn gọi Kitô hữu của chúng ta. Chẳng hạn ngày Chúa nhật, chúng ta đi tham dự thánh lễ. Đi thì đã muộn, rồi lại còn tụm năm tụm ba đứng bên ngoài nhà thờ nói chuyện và hút thuốc. Chúng ta làm dấy thánh giá một cách nguệch ngọc, như vẽ bùa trên mình. Rồi khi thánh lễ chưa kết thúc, chúng ta đã vội vã ra về, đúng với tiêu chuẩn : đi muộn về sớm.
Trong khi đó, chúng ta sẵn sàng thức khuya dạy sớm để coi một trận đấu bóng đá. Chúng ta lặn lội, bất kể đêm hôm mưa gió để đi coi một buổi trình diễn văn nghệ hay một vở tuồng cải lương…
Là Kitô hữu, chúng ta là những người đã được Chúa kêu gọi. Ơn gọi của chúng ta là nên thánh, là sống Phúc âm giữa lòng cuộc đời. Nếu chúng ta trung thành với ơn gọi, chắc chắn chúng ta sẽ được thừa hưởng vinh quang Nước trời mà Ngài đã hứa ban.
Đức Kitô là đường, là sự thật và là sự sống. Ngài sẽ soi lối để chúng ta biết kính mến Thiên Chúa và yêu thương anh em, nhờ đó xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Là Kitô hữu, chúng ta trở nên như men trong bột, như ánh sáng trong bóng tối và như muối trong thức ăn. Hoạt động của chúng ta tuy âm thầm nhưng có sức hoán cải và đội mới cả xã hội này.
Rất nhiều lần tôi nghe những anh em ngoại giáo phát biểu như sau :
- Là người có đạo thế mà cũng vợ nọ con kia, thế mà cũng gian tham độc ác, thế mà cũng rượu chè cờ bạc…Tin đạo chứ không tin kẻ có đạo…
Nghe qua những lời phát biểu trên, hẳn chúng ta đã cảm thấy nhức nhối và cay dắng, bởi vì quả thực, chúng ta chưa sống xứng đáng với ơn gọi của mình. Chúng ta chưa thực sự trở nên trọn lành như Cha chúng ta ở trên trời là Đấng trọn lành.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa, hôm nay chúng con mừng kính các thánh nam nữ, là những bậc đàn anh đàn chị đã đi trước chúng con và đã chu toàn được ơn gọi Kitô hữu của mình. Xin cho chúng con biết luôn cố gắng sửa đổi lại những sai lỗi và khuyết điểm, đồng thời ra sức thực thi giới luật yêu thương của Chúa để chúng ta trở thành những chứng nhân của Chúa giữa lòng cuộc đời. Xin cho chúng con luôn ghi nhớ lời thánh Augustinô : Ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi tại sao lại không ?
------------------------------
Kh 7 : 2-4, 9-14; 1 Ga 3 : 1-3; Mt 5; 1-12
Chủ đề: Các thánh đã gìn giữ đức tin cho chúng tạ Các Ngài là những người hướng dẫn chúng ta trong hành trình đức tin của chúng tạ
Khoảng 60 năm sau khi Chúa Giêsu ra đời, một cơn hoả hoạn khổng lồ đã xảy ra ở thành Rômạ Đám cháy kéo dài hơn một tuần lệ Người ta đồn rằng Hoàng đến Neron đã ra lệnh phóng hoạ Ông ta muốn tiêu huỷ thành phố Roma cổ xưa, xây dựng lại một thành mới và đặt bằng tên của chính ông tạ
Neron đã cố gắng hết sức để ngăn chận tiếng đồn ấy, nhưng nào có được. Cuối cùng trong cơn thất vọng, ông ta vội tìm một đối tượng để trút lên đó mọi lời nguyền rủa của dân chúng. Ông ta liền vu khống cho cộng đoàn Kitô hữu ở Roma là đã gây ra cơn hoả hoạn. Lời tố cáo của Neron khai mào cho cuộc bắt bớ tôn giáo kéo dài gần 300 năm. Một sử gia Rôma đã mô tả cuộc bắt bớ dưới thời Neron như sau: “Các Kitô hữu bị đối xử tàn bạo khác thường. Nhiều người phải khoác lên mình một tấm da thú để rồi bị đàn chó dữ cắn xé ra từng mảnh. Nhiều người khác bị treo lên thập tự giá và ban đêm bị dùng làm bó đuốc đốt sáng soi cho bóng đêmỰ
Để tự vệ và củng cố có thể thi hành đời sống tôn giáo của mình, nhiều Kitô hũư đã thực sự chui xuống sinh hoạt dưới lòng đất. Họ đào được hệ thống đường hầm tỉ mỉ trong lòng đất ở vùng có núi lửa tại Romạ Một số trong những đường hầm nổi tiếng này dài đến nhiều dặm và được thiết kế như những mê lộ để gây khó khăn cho các nhà cầm quyền đương thờị
Hiện nay, một số những hang động này (được gọi là hang toại đạo), là những trung tâm du lịch nổi tiếng, hấp dẫn du khách đi đến Rômạ Chính trong những đường hầm này, các Kitô hữu đã từng tổ chức Thánh lễ, rửa tội các cháu bé và chôn cất những người chết. Trong các tác phẩm của mình, thánh Jerôme cho biết: Khi còn là một chú bé, ngài và các bạn thường hay chơi trong các hang toại đạọ Sau thánh Jerôme nhiều thế kỷ, các chú bé Roma cũng vẫn thường vui chơi trong các hang toại đạọ Một ngày nọ, một nhóm các cậu bé đang đi lang thang qua các mê lộ, dưới đường hầm, đột nhiên chiếc đèn pin duy nhất của chúng bị hỏng. Các chú hoàn toàn lâm vào bóng tối, không biết lối ra, đang khi cả đám bị kinh hoàng cực độ, thì một chú bé cảm thấy như có một đường rãnh bằng phẳng nơi nền đá của đường hầm; đường này dẫn ra một lối đi đã được bào phẳng nhờ bước chân của hàng ngàn Kitô hữu trong thời kỳ bị bắt bớ ở Romạ Thế là các chú bé lần theo những dấu chân các vị thánh xưa và tìm được lối thoát khỏi hang sâu tối tăm và bình yên đến vùng có ánh mặt trờị
Chúng ta có hai lý do để suy nghĩ về câu chuyện trên:
Thứ nhất, nó cho ta thấy cái giá khủng khiếp mà tổ tiên những Kitô hữu chúng ta phải trả giá cho đức tin của ho Nếu các ngài đã không trả giá đắt như thế, có lẽ nhiều người trong chúng ta sẽ không được làm Kitô hữu như ngày hôm naỵ
Thứ hai, câu chuyện các cậu bé trong hang toại đạo giống như một loại dụ ngôn cho ta thấy các vị thánh ngày xưa vẫn còn đóng vai trò quan trọng trong cuộc đời chúng ta như thế nàọ
Nhiều người trong chúng ta giống những chú bé trong các hang toại đạo: chúng ta bị lạc lối, hoang mang vì những ý kiến xung đột nhau, chúng ta chả biết điều gì đúng điều gì sai, giống như chúng ta đang bị lâm vào bóng tối, không biết rõ đường đi nước bước. Câu chuyện các chú bé trong hầm mộ quả là một dụ ngôn cho chúng tạ
Các chú bé đã tìm ra con đường trên nền hầm được bước chân các vị thánh bào phẳng hằng bao thế kỷ trước. Nhờ đi thoát khỏi bóng tối trong hang để tới được ánh sáng ban ngàỵ Một cách tương tự, chúng ta cũng có thể bước theo các vị thánh để tìm ra con đường dẫn chúng ta khỏi vùng tối tăm và hỗn độn của thời đại chúng ta hầu đến được ánh sáng ban ngàỵ
Và như thế, là mừng CÁC THÁNH đem lại hai mục đích cho chúng ta:
Trước hết, lễ này nhắc nhở chúng ta công ơn rất lớn lao của các thánh thời xưa là những người đã bảo tồn đức tin Công giáo cho chúng tạ
Thứ đến lễ này nhắc chúng ta nhớ nếu chúng ta biết bắt chước các thánh và noi theo gương các ngài chúng ta cũng sẽ tìm ra lối đi dẫn chúng ta từ vùng tăm tối của trần thế bước vào ánh sáng huy hoàng của Chúạ
Các thánh chẳng phải là những người khác thường gì, các ngài cũng bình thường như chúng ta, nhưng đã sống cuộc đời bình thường của các ngài một cách phi thường. Chúng ta hãy dùng đoạn thơ nhan đề The Way (Con đường) của John Oxenham để kết thúc; đoạn này tóm tắt lời mời gọi và sự thách đố mà ngày lễ các Thánh hôm nay đặt ra cho mỗi người chúng ta:
“Ở đó, có hai con đường mở ra trước mặt mỗi người; một con đường cao và một con đường thấp. Những linh hồn cao thượng thích leo lên con đường cao mà đi, còn những linh hồn thấp kém lần mò theo con đường thấp mà đị Giữa hai con đường ấy là những linh hồn còn lại trôi vật vờ trên những vùng sương mờ vô định. Nhưng mỗi người phải quyết định xem trong hai con đường ấy linh hồn mình sẽ đi con đường nàoỰ
Lễ Các Thánh mời gọi chúng ta hãy can đảm bắt chước các thánh chọn con đường cao để một ngày kia chúng ta cũng sẽ được xum họp với các ngài trên trời để chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu muôn đờị.
------------------------------
Cách đây mười năm, một người Pháp tên là Pi-e Quốc (Alfred de Pierrecourt) để lại gia tài hai triệu đô la với lời di chúc phải dùng số tiền này gây giống những người khổng lồ. Người ta đã tìm và chuyển những người cao lớn ngoại khổ về một vùng gần tỉnh Ru-ăng (Rhuen), rồi khuyến khích họ lập gia đình với nhau, mong thành lập một dòng giống khổng lồ.
Chương trình này tiến hành được ít năm rồi thất bại. Còn Chúa Giêsu cũng muốn gây dựng một dòng giống vĩ nhân và đã thành công. Bí quyết thành vĩ nhân của Chúa đã tóm gọn trong Bài giảng trên núi, cũng gọi là là “Tám mối phúc thật”.
Chúa Giêsu công bố những bí quyết hạnh phúc này trên một ngọn núi. Khung cảnh làm tăng vẻ hùng vĩ long trọng, khiến ta nhớ tới núi Sinai của Cựu ước, nơi Thiên Chúa công bố mười giới luật. Những điều hạnh phúc này cũng gọi là Hiến Chương Nước Trời, đây là tóm lược toàn bộ giáo lý của Đức Kitô. Tuy đơn sơ giản dị nhưng là tinh hoa của Tin Mừng, Chúa muốn gửi gấm với tất cả nhân loại, nhất là những người đau khổ, ốm yếu, tật nguyền, nghèo túng, thất nghiệp, những người bị khinh chê, tuyệt vọng, giới thu thuế và người tội lỗi…
Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó ..., phúc cho những người hiền lành ... phúc cho những ai khóc lóc .... Phúc cho những ai đói khát công lý ..., phúc cho ai có từ tâm ...., phúc cho ai tinh sạch trong lòng ..., phúc cho ai kiến tạo hoà bình ...., phúc cho ai bị bắt bớ vì sự công chính…
Những người gặp khó khăn đau khổ sẽ được hạnh phúc trong giáo lý Đức Giêsu, đây là kiểu nói khác của Lời Chúa; “Ai vất vả mệt nhọc hãy đến với Ta và Ta sẽ cho nghỉ ngơi. Hãy nhận lấy gánh của Ta và hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng và các con sẽ được nghỉ ngơi lại sức vì ách của Ta thì êm ái, gánh của Ta thì nhẹ nhàng” (Mt.11,28-30). Chính vì đem hạnh phúc lại cho người đau khổ mà Chúa Giêsu mới đúng là “Đấng được trông chờ”, là “người được tiên báoỴ là “người đem Tin Mừng Cứu độỴ. Chúng ta đừng quên từ ngữ Tin Mừng Cứu Độ đã được chính Chúa nhắc lại: “Thần Linh Chúa xuống trên tôi, Người đã xức dầu tôi, sai tôi mang Tin Mừng cho người nghèo, băng bó cho ai có cõi lòng tan vỡ, công bố giải thoát cho các tù nhân an ủi những người bị áp bức ...” (Is.61,1-6; Lc4,18).
Hạnh phúc cho ho ... vì Nước Trời là của họ ... Tám mối phúc thật đóng khung trong kết lụân đó. Nước Trời thuộc anh em, không phải chỉ là lời hứa hẹn mai sau, nhưng niềm hạnh phúc này còn lan toả ngay trong hiện tại. Khi hiến chương tám mối phúc thật được thực hiện thì những người đau khổ sẽ hạnh phúc, tình thế sẽ thay đổi. Chúa không ca tụng đói nghèo, đau khổ, nhưng muốn cải thiện cuộc sống dưới ánh sáng Tin Mừng. Nước Trời, Nước Thiên Chúa là tổ chức được xây dựng ngay trong cuộc sống thế trần, và đầu tiên nhằm xoá hết khổ đau, áp bức. Chúa Giêsu không phải chỉ là Vua mai sau, nhưng ngay bây giờ Nước Chúa đã hình thành, và Chúa đã là Vua luôn đem hạnh phúc cho dân của Người.
Phúc cho người có tâm hồn nghèo, vì Nước Trời thuộc về họ. phúc cho người hiền lành, họ sẽ được đất. Trong từ ngữ Hy Lạp, hai ý đó chỉ có một từ. Đó không phải là thái độ chịu đựng tiêu cực, nhưng là một cố gắng đạt tới, để cho nhân quyền được tôn trọng.
Phúc cho ai than khóc, họ sẽ được ủi an, Phúc cho ai đói khát công chính, họ sẽ no thoả. Phúc cho ai có từ tâm, họ sẽ được thương xót. Phúc cho ai tinh sạch trong lòng, họ sẽ thấy Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã khóc với Matta và Maria, Chúa đã sống công chính rập mẫu Chúa Cha. Chúa đã thương xót các tội nhân, Người luôn tha thứ. Các tín hữu phải noi gương Chúa ban phát lòng thương xót và tha thứ. Khi đó họ được gọi là con Thiên Chúa, vì họ đã kiến tạo hoà bình.
Lạy chúa, xin giúp chúng con noi gương các bậc thánh thiện mà Giáo hội mừng kính hôm nay, biết thực hành những lời Chúa dạy trong Tám mối phúc thật, để chúng con được lãnh nhận hạnh phúc Chúa hứa ban.
------------------------------
Ít năm trước đây, một triệu phú người Pháp là công tước Alffred de Pierre-Cout, đã để lại trọn gia tài 2 triệu đôla để nuôi lớn những người khổng lồ. Toà án thực hiện đi chúc, cho trích một phần tư số tiền của gia tài là 500,000 đôla để dùng vào việc thử nghiệm này.
Các viên chức thành phố Rouen nước Pháp đã tìm kiếm trên thế giới những người đàn ông, đàn bà lớn con. Cho họ sống từng đôi trong những ngôi nhà gần Rouen. Thử nghiệm này chấm dứt ít năm sau.
2000 trước đây, một nhân vật vĩ đại nhất đã đến trên mặt đất này và để lại một di sản để làm phát sinh không phải người khổng lồ, nhưng là người phi thường thiêng liêng, không phải những người có thân thể to lớn, nhưng là những người có tâm hồn siêu việt. Chúng ta vừa đọc chúc thơ của Người trong bài Tin Mừng hôm nay. Bài giảng thời danh trên núi cho chúng ta phương cách để trở thành siêu việt. Chúng ta thường gọi là Tám mối phúc thật Ợ Tám con đường hạnh phúc.
Trong ngày lễ các thánh, chúng ta tôn kính tất cả mọi người nam, nữ, già trẻ trong mọi thời đại, thuộc mọi quốc gia, mọi nghề nghiệp. Họ đã sống theo đường lối này và đã trở thành siêu nhân. Tên tuổi và việc làm của hơn 40.000 siêu nhân này được ghi trong sổ bộ của Hội Thánh Chúa Kitô.
Nhưng còn một số đông vô kể không có tên trong sổ bộ. Các ngài cũng là những siêu nhân, chúng ta tôn kính các Ngài trong ngày hôm nay ... trong số đó có nhiều vị gần gũi và thân thương với chúng ta.
Điều gì làm cho các ngài thành vĩ nhân? Chúa Giêsu nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay; Các Ngài nghèo khó trong tinh thần; tiền bạc, của cải không phải là cái các Ngài quan tâm.
Các Ngài hiền lành, hoà nhã, ân cần, khoan dung. Các Ngài đã chịu đói, chịu khát, các Ngài nhân từ, dung thứ những thiếu sót của con người.
Các Ngài có tâm hồn trong sạch, không phải chỉ trong giới răn thứ sáu, nhưng còn trong mục đích làm đẹp lòng Chúa và ích lợi cho tha nhân. Các Ngài là người kiến tạo hoà bình; với chính các Ngài, với tha nhân và với Chúa.
Lòng tốt của các ngài đưa các Ngài đến tù tội, ngược đãi và ngay cả sự chết. Các Ngài bị xỉ nhục, bị nhạo cười vì niềm tin, vì hành động như những người theo Chúa Kitô.
Mỗi lần chúng ta thực hành một trong 3 mối phúc thật này, chúng ta lớn lên trên đường thiêng liêng, chúng ta trở nên cao lớn trước mặt Chúa.
Để khuyến khích chúng ta lớn lên, Mẹ Giáo hội nhắc nhở chúng ta suốt một năm tên của các vị Thánh. Hôm nay, ngày lễ các Thánh nam, nữ, gia đình Chúa xum họp quanh bàn Thánh Chúa để tôn kính tất cả, trong đó có bà con láng giềng đã trở nên siêu nhân, mặc dù chưa được ghi tên trong sổ bộ.
Sức mạnh để trở nên siêu nhân Chúa Kitô cho chúng ta trong của ăn, chúng ta lãnh nhận nơi bàn tiệc Thánh lễ. Ước gì tất cả chúng ta sẽ được trong số những người sẽ được tôn kính trong ngày lễ các Thánh mai sau.
Xin Chúa chúc lành bạn.
------------------------------
Mt 5,1-12a
Hạt giống nẩy mầm-lm.Carôlô Hồ Bạc Xái
* lịch sử
Lễ các thánh nam nữ đã có từ thế kỷ thứ IV. Thánh Ephraim người Syrie và thánh Gioan Kim Khẩu đều biết đến một ngày lễ mừng các thánh tử đạo vào ngày 13.5 hằng năm. Hay rõ hơn là Chúa Nhật thứ nhất sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Lễ này vẫn còn trong lịch sử phụng vụ của Giáo Hội Hy Lạp và được gọi là Chúa nhật chư thánh.
Trong Giáo Hội Tây Phương cũng có một thánh lễ từ thế kỷ thứ VII, lễ toàn thể các thánh tử đạo mừng vào ngày 13.5. Đó là ngày lễ thánh hiến đền Panthéon của Rôma, để Kính Đức Trinh Nữ Maria và toàn thể các thánh tử đạo vào ngày 13.5.609.
Lễ chư thánh (toàn thể các thánh, chứ không dành riêng cho các thánh tử đạo) được mừng vào ngày 1.11 hằng năm, chỉ xuất hiện từ thế kỷ thứ VIII do các thầy Dòng Irland, và Anh Quốc, khi sang truyền giáo ở Âu Châu đã đem theo và trong thời gian ngắn đã phổ biến rộng khắp Âu Châu. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
1. Trong Tin Mừng Mt, đây là lần đầu tiên Chúa Giêsu lên tiếng giảng trước đám đông dân chúng. Lần đầu tiên ngỏ lời với dân chúng, Chúa Giêsu loan báo ngay một Tin Mừng hạnh phúc.
2. Những người hạnh phúc ấy là ai ?
1/ "những người nghèo trong tâm hồn" : không nô lệ tiền của.
2/ "hiền lành" : Hiền lành nghĩa là vừa nhân từ vừa khiêm nhượng (xem Mt 11,29-30 : Đức Giêsu tự xưng là "hiền lành" và "khiêm nhượng" trong lòng).
3/ "sầu khổ" : Mt 9,15 nói về việc các môn đệ sẽ "sầu khổ" khi phải xa cách "Tân lang" là Đức Giêsu. Như vậy người sầu khổ là người biết mình tội lỗi và do đó phải xa cách Chúa. Như vậy phần phúc Chúa hứa cho họ là họ sẽ được Thiên Chúa "an ủi" bằng cách tha tội cho.
4/ "khao khát nên người công chính" : Trong Tin Mừng Mt, "công chính" là biết làm theo ý của Thiên Chúa.
5/ "xót thương người" : Hôsê đã viết "Ta muốn lòng thương xót chứ không muốn lễ vật" (Hs 6,6). Mt đã trích dẫn câu này 2 lần (9,13 12,7)., và cả 2 lần Mt đều hiểu thương xót nghĩa là thứ tha để cứu vớt kẻ lầm lỡ.
6/ "tâm hồn trong sạch" : nghĩa là có lương tâm ngay thẳng, không gian dối, không mập mờ nửa trắng nửa đen, không một dạ hai lòng.
7/ "xây dựng hòa bình" : Hòa bình ở đây là hòa thuận (không xung khắc, không thù hận). Nên lưu ý rằng các mối phúc khác đều nhắm đến một thái độ nội tâm, còn mối phúc nầy nhắm đến hoạt động bên ngoài mà đối tượng là những mối liên hệ giữa người với người, và mục đích là làm cho người ta hòa thuận với nhau.
8/ "bị bách hại vì sự công chính" : Ta cũng phải hiểu chữ "công chính" ở đây theo nghĩa của c.6, nghĩa là "sống theo ý Chúa". Vì sống theo ý Chúa mà bị người ta bách hại.
B. ... nẩy mầm.
1. Có thể quy tất cả 8 đức tính ấy vào một đức tính căn bản là "Tâm hồn nghèo". Người có tâm hồn nghèo là người :
. Mặt tiêu cực : không màng đến và không cậy dựa vào tiền bạc của cải, danh lợi lạc thú trần gian, ăn thua hơn thiệt đời này... (nói cách khác : không màng đến nước trần gian)
. Mặt tích cực : chỉ ước ao sống tốt theo ý Thiên Chúa và được hưởng những ơn lành của Thiên Chúa (nói cách khác : được sống trong Nước Trời)
Vì căn bản hạnh phúc là có tâm hồn nghèo, nên có thể nói : hạnh phúc đích thực của kitô hữu là vứt hết những gì mình có, để được lấp đầy bằng chính Chúa.
2. Hạnh phúc là gì ? Xét cho cùng, hạnh phúc là được sống đúng bản chất của mình. Con chim ở trong lồng son không hạnh phúc, nó chỉ hạnh phúc khi được bay nhảy thoải mái như chim. Con cá chỉ hạnh phúc khi được bơi lội như cá. Bản chất con người là được Thiên Chúa tạo dựng và được trở về với Thiên Chúa. Bởi đó, Chúa Giêsu dạy rằng hạnh phúc của con người là được ở trong Nước Thiên Chúa.
3. Một hôm khi cầu nguyện, một Linh mục xin Chúa cho tra vấn một tên quỷ :
- Nhân danh Chúa, ta hỏi mi : đâu là nơi hạnh phúc nhất ?
- Dĩ nhiên là thiên đàng. Ôi, được nhìn thấy Chúa là tất cả niềm hoan lạc. Nếu có lấy mọi vẻ đẹp của muôn vàn châu báu thế gian và mọi tinh tú trong vũ trụ, rồi đem so sánh với vẻ đẹp của Chúa, thì tất cả cũng chỉ là một con số không.
- Ngươi đã được hưởng tất cả những thứ đó, tại sao ngươi đánh mất hạnh phúc thiên đàng ?
- Chỉ vì chúng tôi kiêu ngạo phản loạn. Khổ nỗi là bây giờ đã quá muộn để hối hận. Lúc này dù phải chịu tất cả mọi cực hình hỏa ngục gom lại cho riêng tôi, tôi cũng sẵn sàng đón nhận, miễn là sau đó tôi được hưởng thiên đàng trong giây lát. Nhưng đã quá muộn rồi !
Thì ra ngay cả quỷ dữ cũng khao khát hạnh phúc. (Chờ đợi Chúa)
4. "Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa" (Mt 5,11)
Ngày 19-6-1988, cả Giáo hội Việt Nam hân hoan vui sướng vì 117 vị tử đạo đã được phong hiển thánh. Những nỗi đớn đau tủi nhục vì Chúa Kitô của các ngài đã được chúc phúc.
Hôm nay, chúng ta cũng không thoát khỏi những khó khăn, đớn đau và tủi nhục trong cuộc chiến cam go loại bỏ tật xấu, dứt khoát với tội lỗi, hay những suy nghĩ tiêu cực nơi chính bản thân. Cuộc chiến ấy đòi hỏi chúng ta phải can đảm.
Xin các thánh tử đao Việt Nam thông truyền cho chúng con dòng máu bất khuất của các ngài và giúp chúng con biết chiếu toả tôn nhan Thiên Chúa nơi chính con người và cuộc sống chúng con.
5. Các thánh đều là những công dân Nước Trời, đều đang hưởng hạnh phúc Nước Trời. Mỗi một vị Thánh đều là một tấm gương cho chúng ta về một trong 8 mối phúc.
6. Có nhiều thứ người đời cho là nguồn hạnh phúc nhưng thực chất là nguồn đau khổ, và ngược lại...
7. Bất cứ thứ gì không đưa ta vào Nước Trời đều không phải là hạnh phúc thật.
8. Bác sĩ Tom Dooley thường cứu giúp những người khổ sở. Ông có một cách hiểu đặc biệt câu Tin Mừng Mt 5,5 "Phúc cho những ai sầu khổ". Ông nói : "Sầu khổ không hẳn là bất hạnh, mà còn có nghĩa là quan tâm đến cảnh khổ ở đời hơn là cảnh sung sướng... Nếu bạn nhạy cảm với những cảnh khổ và cố gắng làm một điều gì đó để cho đời tươi sáng hơn, bạn sẽ thấy hạnh phúc" (Trích dẫn bởi Mark Link, Sunday homilies, Year C).
9. Đoàn cứu trợ đến căn nhà lụp xụp của một bà già. Họ hỏi thử bà :
- Nếu chính phủ cho bà 200 đôla. Bà sẽ làm gì ?
- Tôi sẽ đem cho những người nghèo.
Bà cụ này chính là một trong những người mà Chúa Giêsu nghĩ tới khi nói "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó" ; Từ những người có tâm hồn như bà cụ này đã xuất hiện những vị Thánh mà chúng ta tôn kính hôm nay ; Và tấm gương của bà cụ này khuyến khích chúng ta trở nên những kitô hữu tốt hơn (Mark Link, Sunday homilies, Year C).
10. "Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng danh cho anh em trên Trời thật lớn lao" (Mt 5,12)
Phêrô từng chối Chúa
Rồi thống hối ăn năn
Chúa thương thưởng thành thánh
Cuối cùng cũng theo Ngài
Ngài thương ban thành thánh.
Một người từng ăn trộm
Phút cuối biết quay về
Chúa cho được làm thánh
Têrêxa Hài đồng
Người yêu Chúa tử bé
Sống phục vụ yêu thương
Trong Tình yêu của Ngài
Thành thánh ngay trần gian
Thánh Augustinô
(Và còn nhiều thánh nữa)
Từng ăn chơi sa đọa
Theo ơn gọi quay về
Tích cực thành thánh ngay
....
Chúa luôn mời gọi con
Hãy là thánh nghe con
Vì Ta là Đấng Thánh.
Lạy Cha xin giúp con
Trong từng giây phút sống
Biết yêu thương trung thành
Để được nên giống Cha. (Hosanna)
------------------------------
Mt 5,1 - 12a
Ngày nay, con người luôn đặt ra cho mình thật nhiều mục tiêu.Rồi để đạt được mục tiêu mà mình đề ra, họ phải tìm mọi phương thế, có khi phải hy sinh cả tính mạng . Khi đã đạt được mục tiêu thì vui mừng. Nhưng sự vui mừng của họ cũng chỉ là “ tạm bợ, phù vân”. Vì sao như thế ? Mỗi người chúng ta dễ dàng có câu trả lời ngay: Vì mục tiêu của họ là “ Phù Vân” . Họ chỉ biết đi tìm danh vọng , vật chất, tình cảm... ở đời này mà họ đâu ngờ rằng mình đang như con thiêu thân lao mình vào lửa nóng mà không hề hay biết lại cứ ngỡ đó là ánh sáng vĩnh cữu. Nhưng cạnh bên cũng có rất nhiều người đã đạt được “ ánh sáng vĩnh cữu”. Đó chính là các thánh Nam Nữ mà hôm nay toàn thể Giáo hôi mừng kính.
1. Chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa không đòi hỏi những gì quá sức con người. Trước tiên là qua Bảng Hiến Chương Nước Trời Thiên Chúa cho chúng ta thấy Ngài muốn chúng ta thực hiện những việc rất nhỏ, rất tầm thường trong đời sống hàng ngày đó là: “hiền lành , hoà bình, nghèo khó...” Hầu như ai cũng có thể làm được, thậm chí cả những em nhỏ còn làm được, như chính Chúa Giêsu đã khẳng định "Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng”( Mt 10,15). Sau là Những nhân chứng sống động đó là các Thánh Nam Nữ có những người sống đơn sơ, hồn nhiên như thánh Têrêsa Hài Đồng , thánh Đaminh saviô dẫu biết rằng mỗi người nên thánh đều có một con đường linh đạo khác nhau nhưng Tại sao họ có thể đạt được điều đó, họ đâu phải là siêu nhân dị tướng. Nhưng ngược lại các thánh còn là những người rất bình thường, yếu đuối, quê mùa , nghèo khổ bị xã hội khinh khi... Đặc biệt, có một điều các Ngài có được mà nhiều người không hề có .Đó là, biết sống phó thác vào Chúa. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào các Ngài chỉ chọn một Thiên Chúa là lý tưởng, là lẽ sống cho đời mình. Các Ngài thật là những tấm gương sống động nhưng mấy ai trong chúng ta biết noi theo;Trong khi chúng ta lại là những con người yếu đuối rất cần có sự nâng đỡ, sự dìu dắt của các Ngài. Bởi vậy gương sống của các Thánh là một động lực, là điều hữu ích cho tất cả mọi người: sống không phải chỉ tồn tại hưởng thụ, mà con phải tìm một lý tưởng, một lẽ sống một quê hương vĩnh cữu.... mà Thiên Chúa đã dành sẵn cho mỗi người nếu chúng ta biết đi theo Chân Thầy Chí Thánh Giêsu như các bậc tiền nhân là các Thánh Nam Nữ đã đi.
2. Các Thánh nhân không chỉ chọn cho mình một lý tưởng sống mà các Ngài còn sống như Thánh Phaolô đã từng khẳng định: “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống nhưng là chính Chúa Kitô sống trong tôi” Cuộc đời của các thánh chỉ có Thiên Chúa, họ sống như chính Thiên Chúa sống vậy. Hay một câu nói đậm chất tu đức là các Ngài như những người “con trong Con”. Nhờ biết sống phó thác hoàn toàn trong “Con” với niềm tin tuyệt đối vào Chúa Cha mà các Ngài lấy làm hãnh diện khi được “ bách hại vì sống công chính, hay vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại...”. Nhìn lại cuộc sống đời thường của người Công Giáo chúng ta hôm nay,có rất nhiều lần chúng ta không dám mạnh dạn tuyên xưng hay làm chứng cho Thiên Chúa; như qua việc chúng ta không dám làm Dấu Thánh Giá trước khi ăn tiệc chung với người lương, trên tàu , trên xe... vì chúng ta sợ người khác nhìn thấy mình là người Công Giáo, như thế là chúng ta không dám tuyên xưng mình là người có đạo trước đám đông, chúng ta không dám hãnh diện mình là người Công Giáo, hay nói một cách khác là chúng ta không dám nhìn nhận mình là con Chúa. Hơn thế nữa, nhiều lúc vì vật chất , danh vọng mà chúng ta dám thẳng tay “đẩy Chúa ra” để đặt bút ký “ Tôi không phải là người Công Giáo” điều đó chứng tỏ chúng ta chọn “ Phù Vân” mà không chọn “ Thiên Chúa làm gia nghiệp, không chọn nước Trời làm nơi định cư” như các thánh Nam Nữ hôm nay đã chọn.
3.Xin Thiên Chúa Cho Mỗi người chúng ta biết noi gương các thánh Nam Nữ, biết đi theo đường mà các Ngài đã đi, biết chọn hướng sống mà các Ngài đã chọn để rồi chúng ta cũng được vui hưởng hạnh phúc trong nước Thiên Chúa với toàn thể các thánh trên trời.
------------------------------
QUYỆN VỚI TƯƠNG LAI.
LỄ CÁC THÁNH.
(Mt 5,1-12).
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.
1. Đây là tương lai.
Hai trong bốn thánh sử tường thuật lại các mối phúc thật như phần mở đầu của bài giảng về hiến chương của Đức Giêsu. Nhưng trong khi Lu ca đặt nó ở "đồng bằng" vào giữa quãng đời rao giảng của Đức Giêsu ở Galilê thì Mátthêu lại đặt nó ngay đầu sứ vụ ở Galilê và trong khung cảnh núi non, có ý chỉ núi Sinai là nơi ông Môsê mới, công bố lề luật của giao ước mới.
Chắc hẳn trình thuật của Lu ca-gồm bốn mối phúc và bốn lời nguyền rủa- là trung thực với những lời của Đức Giêsu hơn. Mátthêu có lẽ muốn nhờ tám mối phúc này để giáo huấn của Đức Giêsu mang tính hiện thực giúp các cộng đoàn của Ngài sống đời Kitô hữu.
Hạnh phúc mà các công đoàn tung hô, và vì thế họ chúc mừng những người đang sống trong hoàn cảnh thực tế của con người: "Hạnh phúc thay những người nghèo trong tâm hồn!... Hạnh phúc thay những người hiền lành...". Không phải là một cuộc chinh phục, nhưng là một ân huệ của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Hạnh phúc được ban tặng ngay bây giờ: "Nước Trời là của ho", nó sẽ triển nở ở đời sau: "Phần thưởng của các anh sẽ trọng đại ở trên trời".
Cl.Tassin quảng giải: Phúc thay tiếng hô trong Kinh Thánh này chúc mừng những ai làm cho ân huệ của Thiên Chúa sinh lời lãi, được cảm nhận một niềm hạnh phúc, và những ai sống trung thành với con đường mình đã chọn, sẽ được tuyên dương là công chính trong cuộc phán xét của Thiên Chúa". ("L'Evangile de Matthieu", Centurion 1991, trang 58).
2. ...một hiện tại quyện với tương lai.
Bốn mối phúc đầu của Thánh Mátthêu có liên hệ với nhau: cả bốn đều ca ngợi hạnh phúc của những ai khiêm nhường phó thác đón nhận Thiên Chúa và tránh mọi bạo lực.
+Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, "vì Nước Trời là của họ". Cái nghèo khó mà cái mối phúc thứ nhất này nói tới, không phải là cái nghèo vật chất; đây nói về thái độ tinh thần, của kẻ ra trước mặt Thiên Chúa như một người nghèo, không có gì cần đòi hỏi, mà luôn lãnh nhận từ Thiên Chúa từ bàn tay yêu thương.
J.Potel quảng giải: "Người Kitô hữu trước hết nhìn nhận rằng mình nhận được sự sống từ Thiên Chúa, mà Đức Giêsu đã dạy mình phải biết ơn và yêu mến như người Cha. Cái nghèo tinh thần là từ đáy lòng nhìn nhận rằng sự sống là một ân huệ hằng hữu của Cha. Thiên Chúa không ban vì công nghệp của con người, Người tự ý ban tặng nhưng không, đó là nguồn mạch của đức khiêm nhường Kitô giáo. Một điều nghịch lý là cái nghèo tận đáy này làm nên phẩm giá con người và mọi người. Thật vậy, phẩm giá này không do giàu sang cũng không do phẩm cách con người tạo nên, nhưng do tình thương của Thiên Chúa đối với mỗi con người và trước tiên đối với người nghèo. Chúng ta đang bàn đến cốt lõi của Phúc Âm muôn thủơ" (Jesus l'histoire vraie" Centurion 1994, trang 146-147).
+"Phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được đất hứa làm gia nghiệp". Câu thứ hai này nối dài phúc thứ nhất, dựa vào lời thánh vịnh 36: "Người hiền lành được đất hứa làm gia nghiệp, và vui hưởng cảnh an lạc chan hòa".
J. Potel triển khai tiếp: "Tính hiền lành là hoa quả của đức nghèo khó. Người nghèo không có phương tiện thể lý, luật pháp để bênh vực quyền lợi mình. Nhưng phải chăng người nghèo bất lực trước những kẻ từ chối nhìn nhận quyền lợi của họ? Không đâu, khí giới của họ là đức hiền lành, đức nhẫn nhục và lòng cậy trông vào Thiên Chúa. chiến thắng cuối cùng không thuộc về kẻ dùng vũ lực. Ngày nay người ta nói, nó là kết quả của thái độ bất bạo động" (Sđd, trang 147).
+"Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được ủi an". Ở đây phải hiểu là: họ sẽ được Thiên Chúa ủi an, bởi vì đây là cách nói theo thể "thụ động thần học".
Từ đáy vực sầu khổ, người tín hữu vẫn thấy lóe lên một đốm sáng. "Đốm sáng này là gương mặt của Thiên Chúa, Đấng đang đến để ủi an những người đang chìm ngập trong thử thách" (Sđd).
+"Phúc thay ai khao khát nên người công chính, vì họ sẽ được thỏa lòng", một lần nữa phải hiểu là "được Thiên Chúa cho thỏa lòng".
Sự công chính bàn đến ở mối phúc thứ bốn này là đức tính xuyên suốt toàn bộ Kinh Thánh, nó hệ tại "uốn nắn" tâm tình và cách sống trong cuộc sống cụ thể, theo cách Thiên Chúa hành động: Người là Đấng đã đến trần gian để gặp gỡ con người, và đã ký kết giao ước với họ.
"Suốt cuộc đời, người Kitô hữu cố gắng đáp trả những đòi hỏi tinh thần và luân lý của giao ước này, bằng cách thực thi "công chính" đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân" (Sđd).
"Họ sẽ được thỏa lòng". Khi đáp trả tận tình, người Kitô hữu sẽ nhận từ Thiên Chúa sự sống tràn đầy. Đối với họ, đời sống luân lý bắt nguồn và rập khuôn theo Thiên Chúa, thì cũng kết thúc nơi Thiên Chúa.
Bốn mối phúc cuối cùng ngả về lối sống có nét của người môn đệ Đức Giêsu.
+"Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương". Trước hết chiêm ngắm thái độ của Thiên Chúa là Đấng giàu lòng từ bi thương xót đối với mình, Người môn đệ của Đức Giêsu học cho biết tha thứ những xúc phạm của anh em đang sầu khổ (trong do thái giáo thường kêu là những "hoạt động từ thiện").
+"Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa". Đức trong sạch nói ở đây không liên quan trực tiếp đến giới tính. Nó chính là tính ngay thẳng, không nước đôi, đức tính nối kết lời nói với hành động, giữa hành động (bàn tay) với những động cơ sâu xa (con tim). Đức trong sạch tâm hồn này là con đường dẫn đến kết hiệp với Thiên Chúa.
+"Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa". Jean Potel giải thích thêm: "Đối với Đức Giêsu, yêu hòa bình, bằng cách theo đuổi lý tưởng sống hoà hợp và yên lành cũng chưa đủ, Ngài đòi một đức ái chủ động, đặc biệt khi không có hoà bình giữa người sống chung, nhu trong gia đình trong cộng đoàn Kitô hữu, giữa những nhóm, hội đoàn, giữa các dân tộc. Hoà bình không có biên giới giống như tình yêu Thiên Chúa không có giới hạn. những người kiến tạo hoà bình sẽ được gọi là con Thiên Chúa: bởi vì; bổn phận của người con là nối tiếp công trình của người Cha. Vậy, Cha trên trời muốn đem hoà bình đến cho loài người". (Sđd, trang 148).
+"Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ". Sự trung thành với giáo huấn của Đức Giêsu, được bày tỏ trong Bát phúc, sẽ gặp phải hiểu lầm, chống đối, bách hại, bởi vì những gía trị của vương quốc đối nghịch với những điều mà người đời thường coi như mẫu mực cuộc sống.
Đối với Đức Giêsu, người môn đệ bị bách hại chính là người nghèo đúng nghĩa của mối phúc thứ nhất, họ nắm chắc vương quốc đã hứa, sau khi đã vượt qua những khổ đau họ phải chịu.
Qua những mối phúc vừa nói, ta thấy hiện lên một dung mạo, đó là dung mạo Đức Giêsu. Các mối phúc ưu tiên nhắm tới chính dung mạo này. Jean Potel kết luận: "Thật là hạnh phúc đón nhận vương quốc mà họ chờ đợi hết lòng và vì vương quốc này họ sẽ dấn toàn thân. Cuộc sống, lời nói, việc làm của họ sẽ tỏ ra người nghèo, người hiền, người thương xót, người có tấm lòng thanh sạch, người xây dựng hoà bình, họ sẽ chỉ sống để làm cho Vương quốc trị đến, triều đại của Đấng mà các môn đệ tập sự để kêu cầu vời danh hiệu Cha" (Sđd, trang 149).
------------------------------
Lễ các thánh, chúng ta mừng kính hôm nay, phải là một dịp thuận tiện, để chúng ta đặt lại vấn đề đời sau.
Thực vậy, những người đã chết sẽ đi về đâu ? Về hư vô cát bụi, hay sẽ được sống một cuộc sống khác ở thế giới bên kia ?
Đối với những kẻ cắm đầu chạy theo vật chất, thì chết là hết. Và giờ chết sẽ là giờ cay đắng, bẽ bàng nhất, bởi vì họ sẽ phải để lại sau lưng tất cả những gì họ đã chắt chiu vun trồng và tích lũy.
Hơn thế nữa, con người được dựng nên là để sống, nhưng nếu lại kết thúc bằng cái chết để trở về hư vô, thì hẳn đó phải là một sự bất công không thể nào chấp nhận được.
Nếu thực sự là như vậy, thì phải chăng người lành và kẻ dữ, người thánh thiện cũng như kẻ tội lỗi đều chịu chung cùng một số phận thương đau ? Phải chăng những người giàu lòng bác ái yêu thương cũng chỉ là cát bụi như những kẻ gian tham thù oán?
Một kết thúc như vậy sẽ không thể nào được chấp nhận, bởi vì đức tin đã đem lại cho chúng ta một lời giải đáp. Vậy lời giải đáp ấy như thế nào ?
Trong tư tưởng của Chúa Giêsu, những người đã sống theo tinh thần nghèo khổ, trong sạch, yêu thương và khát khao sự công chính, thì sẽ được chúc phúc và ân thưởng, như lời Ngài đã nói :
- Hãy vào hưởng sự hân hoan vui sướng, vì phần thưởng được dành cho các ngươi sẽ vô cùng to lớn ở trên Nước trời.
Những lời ấy hẳn sẽ đem lại cho chúng ta niềm an ủi và khích lệ, niềm vui mừng và hy vọng giữa những cay đắng và khổ cực gặp phải trong cuộc sống thường ngày. Hạnh phúc Nước trời chắc chắn phải trổi vượt hơn mọi thứ hạnh phúc chúng ta có thể mường tượng ra trên mặt đất này.
Đúng thế, trên mặt đất này niềm vui của chúng ta thì nhỏ nhoi và chóng qua, trong khi đó đau khổ lại luôn rình rập, luôn chờ đón chúng ta trên vạn nẻo đường đời :
- Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe,
Đời có vui sao chẳng cười khì.
Thánh Gioan đã hé mở cho chúng ta thấy được đôi chút về hạnh phúc Nước trời qua hình ảnh được diễn tả trong sách Khải Huyền, dầu vậy thì đó cũng mới chỉ là những hình ảnh mờ nhạt, những lời nói bập bẹ mà thôi. Thánh tông đồ đã viết như sau :
- Ngay từ giờ, là con cái Thiên Chúa, chúng ta biết rằng trong ngày sau hết, chúng ta sẽ trở nên giống Chúa và sẽ được nhìn xem Chúa nhãn tiền.
Đúng thế, chiêm ngắm Chúa nhãn tiến, nhìn xem Chúa mặt đối mặt sẽ là một niềm vui tuyệt vời mà chúng ta không tài nào diễn tả nổi bằng ngôn ngữ nghèo nàn của nhân loại. Bởi vì chỉ mình Thiên Chúa mới thỏa mãn được những khát vọng của tâm hồn chúng ta mà thôi.
Hôm nay, Giáo hội mừng kính tất cả những người đã được diễm phúc bước vào vinh quang Nước trời. Trong đó, có những vị đã được tôn phong, nhưng cũng có những vị đã trở nên trong sạch sau một thời gian gạn lọc và thanh luyện.
Còn chúng ta, những người đang sống trên trần gian, những lữ khách đang tiến về quê hương vĩnh cửu. Chúng ta không được phép từ khước một cố gắng nào để xa tránh mưu chước của tội lỗi, làm cản trở bước chân chúng ta tiến về quê hương Nước trời, nơi đó Chúa Giêsu đang chờ đón chúng ta.
Niềm hạnh phúc Nước trời chính là được gắn bó, kết hiệp mật thiết với Chúa. Hạnh phúc ấy đã được thánh Phaolô diễn tả như sau :
- Mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe và trái tim chưa một lần cảm nghiệm được những gì Thiên Chúa dành cho những người yêu mến Ngài.
Và để kết luận, chúng ta hãy nhớ lại lời thánh Phaolô :
- Những đau khổ đời này chẳng thấm vào đâu so với vinh quang Chúa sẽ dành cho chúng ta trên Nước trời.
Vậy chúng ta có dám liều đề trở nên một vị thánh, hay nói cách khác, chúng ta có dám đánh đổi tất cả để chiếm lấy vinh quang và hạnh phúc Nước trời hay không ?
------------------------------
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ.
Một lần trong những lần đến Roma, thánh Phanxicô Salê thuê một căn phòng cho Ngài và người giúp việc trong một khách sạn nhỏ trên bờ sông Tiber. Khi trở về khách sạn ngủ, Ngài thấy anh giúp việc cho Ngài và anh quản lý khách sạn đang cãi nhau kịch liệt vì anh quản lý muốn cho người khác mướn phòng của Ngài. Thánh Phanxicô nói với người giúp việc: “Đừng cãi nhau, chúng ta đi sang khu phố khác”, tuy khó khăn, nhưng cuối cùng Ngài cũng tìm được một chỗ trọ vừa đúng lúc cơn mưa bắt đầu đổ xuống dữ dội, đến dộ nước sông Tiber dâng lên và nước cuốn đi một số nhà ở hai bên bờ, trong số đó có khách sạn thánh nhân đã dự định ở đó, có năm sáu người bị nước cuốn đi.
Tôi xin kể một câu chuyện khác để đưa ra ý tưởng cho ngày lễ hôm nay. Một gia đình, cha mẹ cãi nhau chí tử. Ho la, họ thét om sòm nên không nghe được bé Bobbie tám tuổi bước vào. Em bé nhảy lên ghế, giang hai tay kêu: “Bình an ! hãy yên lặng” Cả hai cha mẹ nhìn en bé rồi phá lên cười.
- Con học cái đó ở đâu vậy ?
- Trong sách giáo lý, chúng con học câu chuyện về Chúa Giêsu. Khi sóng gió nổi lên trong cơn bão, Chúa đã làm mọi vật im lặng.
Trong câu chuyện này, cái gì giống nhau, cái gì khác biệt ? Cả hai thánh Phanxicô và em bé Bobbie đều là người đem lại hoà thuận. Cả hai đã làm điều có thể cũng đem lại an bình. Điểm khác biệt ? Thánh Phanxicô có tên trong 40.000 vị thánh trong sổ bộ của Giáo hội công giáo. Bobbie thì không !
Nhưng hôm nay, ngày lễ các thánh, chúng ta tôn kính không những các vị đầy tớ Chúa anh hùng như thánh Panxicô mà nhiều người biết đến, chúng ta còn tôn kính các vị anh hùng vô danh không ai biết đến như kẻ đem lại hoà bình Bobbie. Chúng ta biết một số anh hùng nam, nữ mà tên tuổi của họ không có ghi trong sổ bộ của Hội Thánh. Họ đã sống chung quanh chúng ta. Họ đã làm việc như chúng ta. Họ đã cùng chúng ta tham dự việc phụng tự nơi đây, họ đã nói chuyện với chúng ta. Bạn hãy tìm và bạn sẽ thấy họ ít nhất họ ít nhất một số người.
Thiên Chúa Cha thông biết mọi sự, Người biết họ, Người biết những tín hữu chúng ta tôn kính hôm nay. Họ đông vô kể như thánh Yoan nói với chúng ta trong bài đọc thứ nhất: “Tôi thấy trước mặt tôi một đám đông vô kể không ai có thể đếm được. Họ đến từ khắp mọi nước, mọi giống nòi, mọi tiếng nói. Họ đứng trước ngai của Con chiên”. Thánh Yoan ghi lại thị kiến Ngài thấy ở trên trời.
Hãy chú ý trong kinh nguyện Thánh Thể II, chúng ta cầu xin: “Xin cho chúng con xứng đáng thông phần sự sống đời đời... cùng với các thánh, những người đã thi hành thánh ý Chúa trong suốt cuộc đời của họ”.
Hãy nghĩ tới “đám đông” trai, gái, trẻ, già, họ là bạn của Chúa, những người được chúc phúc và an vui vì họ đã cố gắng thực hành tám mối phúc Chúa ban bố cho chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay.
Hãy đọc đi, đọc lại và cố gắng thực hành. Cố gắng xài tiền đúng chỗ. Cố gắng đem lại hoà thuận, cố gắng xót thương. Cố gắng giữ lòng trong sạch. Bạn sẽ hy vọng, trong một ngày lễ các thánh, bạn ở trong số những người Chúa tôn vinh và ân thưởng, gia đình Chúa tôn kính.
Xin Chúa chúc lành bạn. Amen.
------------------------------
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ
Debbie Hoefling là một học sinh trunghọc ở Lockport, bang Illinois. Được giáo sư môn xã hội học khuyến khích, Debbie quyết định không nói một lời nào trong vòng bảy ngày. Cô muốn được biết cảm thấy thế nào là câm, là mất khả năng nói được.
Ngày đầu tiên Debbie đi mua đồ với mẹ cô. Hai cô gái bán hàng cười khúc khích khi Debbie cố gắng làm dấu hiệu cho biết thứ đồ cô muốn. Một cô gái nói khá to đủ nghe: “Hãy coi đứa bù nhìn kia”. Hai cô gái cố ý đâm sầm vào Debbie làm cho cô gần té xuống. Debbie hiểu rõ: “Đây là cách cảm nhận khi bạn khác biệt. Đây là cách bạn bị tổn thương”. Một tuần lễ trôi qua, Debbie tuyên bố: “Tôi rất hạnh phúc và biết ơn vì có thể nói được”.
Hàng triệu người đang bị tổn thương. Nhiều người trong các bạn có một vài điều va chạm hay bất lợi. Chúa những đang nói về bạn khi Ngài bảo chúng ta hôm nay: “Phúc cho những người có tinh thần nghèo khó, vì nước Trời là của họ”.
Thuở xưa những lời này liên quan tới những người nghèo của cải trên thế giới này, những người chấp nhận thân phận nghèo khổ, những người giàu có nhưng chia sẻ sự giàu có với người khác. Ngày nay các chuyên viên Kinh thánh cho những lời này một ý nghĩa rộng hơn. Họ giải thích rằng: “Tinh thần nghèo khó” bao gồm những người bị nghiền nát trong tâm hồn.
Không chỉ những người mất khả năng nói là bị tan vỡ trong tâm hồn. Người mù, người què, người điếc, người có tâm trí chậm hiểu thì cũng thế. Bạn hãy nghĩ đến những người già, người bệnh, người cô độc, người dốt nát người ít học, người thất nghiệp. Tâm hồn những người này bị kìm hãm biết bao, họ lo âu, thất vọng, vỡ mộng, ít hấp dẫn, không được yêu, không bạn hữu. Những người thiếu nhà ở, thiếu lương thực, thiếu quần áo, tâm hồn họ tan nát biết bao ! Những người khác màu da, khác quốc tịch, khác giai cấp xã hội, họ bị dồn nén chừng nào.
Những người anh em đồng loại này thiếu tính vui vẻ, lòng can đảm, sức mạnh, sự nhiệt tình của tâmhồn mạnh mẽ. Họ buồn sầu chán nản. Rất ít khi, nếu không phải là không bao giờ, họ kinh nghiệm về những vui sướng, ủi an, thoải mái của cuộc sống. Họ bị hành hạ, áp đảo, thất đoạt, sợ hãi vì thân phận của họ.
Thánh Tâm Chúa Giêsu đi ra tới những tâm hồn sầu khổ. Bảo chúng ta rằng họ được chúc phúc, thánh thiện, hạnh phúc. Họ được hạnh phúc vì Chúa Giêsu yêu thương họ với một tình yêu đặc biệt, Ngài kêu gọi họ: “Hết thảy những ai mệt mỏi và vất vả, hãy đến với Ta, Ta sẽ nâng đỡ ủi an” (Mt 11,28)
Bạn đang sầu khổ trong tâm hồn, bị áp bức, bị kiệt sức vì phải phấn đấu trong đời sống, bạn thật quan trọng trước mặt Chúa Giêsu, Ngài đã kinh nghiệm nhiều điều nghiền nát tâmhồn – sự khước từ, sự căm hờn, sự vô ơn, đau khổ về tinh thần và thể xác cho đến cái chết đẫm máu. Bạn đừng ngạc nhiên vì bạn quí báu đối với Ngài, đừng ngạc nhiên vì bạn là người được Ngài tuyển chọn, đừng ngạc nhiên vì Ngài muốn bạn ở với Ngài trên trời.
Không thời gian nào thuận tiện để suy nghĩ về chân lý này cho bằng ngày hôm nay khi chúng ta tôn vinh các thánh đã được tuyên phong hay chưa. Tất cả các thánh đã trải qua ít nhất cũng vài thảm kịch nghiền nát tâm hồn. Khi bạn dâng Chúa Kitô lên Chúa Cha, ước mong bạn dâng lời cầu nguyện cho tất cả những người bị nghiền nát trong tâm hồn.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
------------------------------
Cha hỏi chúng con: Hôm nay là lễ gì ha chúng con?
- Lễ các thánh.
Các thánh. Các là nhiều....nhiều vô số kể. Lý ra thì Giáo hội phải mừng kính từng vị thánh một, thế nhưng nếu mừng như thế thì Giáo hội không thể có đủ ngày để mừng. Chúng con biết một năm c ó bao nhiều ngày không?
- 365 ngày. 365 ít quá không thể nào đủ được. Chính vì thế mà hôm nay Giáo hội tổ chức mừng chung các thánh một cách rất trọng thể như chúng con thấy.
A- Tại sao phải nên thánh?
Trong Cựu Ước Chúa phán với Dân Israel như thế này: " Các người phải nên thánh vì Thiên Chúa Chúa của các người là Đấng thánh"
Bước sang Tân Ước Chúa Giêsu còn nói rõ hơn :"Chúng con hãy nên trọn lành như Cha chúng con ở trên trời"
Chúng con hãy nhắc lại với cha câu này.
Nên trọn lành như Cha ....ở trên trời.
Nhưng chúng con đã có ai thấy Chúa Cha chưa?
- Chưa....Cha cũng chưa thấy.
Ngày xưa khi nghe Chúa Giêsu nói về Chúa Cha thì các tông đồ của Chúa cũng chẳng biết Chúa Cha là Ai cả. Chính vì thế mà một hôm kia ông Philipphê thưa với Chúa :"Xin Thầy chỉ cho chúng con thấy Chúa Cha" và ông còn nhấn mạnh :"Và như thế là đủ cho chúng con rồi"
Đó chúng con tahý các tông đồ mà cũng còn như thế....huống chi là cha và chúng con.
Thế chúng con thấy Chúa trả lời cho các tông đồ làm sao? Chúa trả lời hay lắm. Chúa bảo : Này Philipphê...Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha....Sao con còn hỏi xon chỉ cho chúng con thấy Chúa Cha. Con không tin Thầy ở trong Cha và Cha ở trong thầy sao"
Bây giờ thì cha có thể nói với chúng con như thế này....Nên hoàn hảo như Chúa Cha.... là nên giống Chúa Giêsu. Hay nói cách khác: Nên giống Chúa Giêsu tức là đã nên giống Chúa Cha rồi.
B- Làm cách nào để được nên giống Chúa Giêsu ha chúng con?
Không có cách nào khác hơn là bắt chước sống như Chúa Giêsu đã sống. Tất cả các thánh đều đã làm như thế.
------------------------------
Kính thưa anh chị em,
Có lẽ trong suốt cả năm Phụng vụ không có thời điểm nào mà mầu nhiệm hiệp thông được Giáo Hội đề cao một cách sống động khác thường như là thời gian đâu tháng 11 này. Hôm nay Giáo hội cho chúng ta hướng nhìn về các thánh - tức là nhìn vào Giáo Hội chiến thắng. Ngày mai Giáo Hội hướng chúng ta về các đẳng linh hồn - hay là Giáo Hội đang đau khổ. Nhìn vào như thế để cho chúng ta đang sống trong Giáo hội tại thế mà tức là đang sống trong Giáo Hội chiến đấu biết tìm ra cho mình một hướng đi, đi thế nào để cho mai sau chúng ta cũng đạt được vinh quang như các thánh mà chúng ta mừng kính hôm nay.
A. Các thánh là những người đã sống cuộc sống như thế nào?
Nhìn vào cuộc sống của các ngài, những con người - nói theo kiểu của Chúa Giêsu - đã "cướp được Nước trời" chúng ta thấy có các Ngài là những người có những nét đặc trưng sau đây:
1. Trước hết: Các Ngài là những người đã biết đáp lại lời mời gọi của Chúa.
Lời mời gọi này được nói lên một cách đơn sơ qua tiếng nói của lương tâm ngay lành - được biểu lộ một cách cụ thể qua 10 giới luật của Chúa trong Cựu Ước và nhất là được thúc bách cách triệt để hơn qua con đường Tám mối Phúc thật của Phúc Âm .
Một thí dụ trong muôn ngàn thí dụ.
Vào khoảng năm 271 một thanh niên giầu có tới nhà thờ vào một buổi sáng Chúa nhật. Hôm đó vị Bài Phúc Âm được trích trong Phúc Âm của thánh Mathêô 19,16-22:"Xảy ra là có một người thanh niên đến thưa với Chúa rằng: Lạy Thầy, tôi phải làm gì tốt để được sống đời đời?- Chúa đáp: "Nếu ngươi muốn vào cõi hằng sống, hãy giữ các giới răn" Người đó thưa: "Những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ, tôi còn thiếu xót gì nữa chăng?" Chúa nói tiếp: "Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi"
Đó là một trong những lời mời gọi của Chúa. Người thanh niên đó bắt đầu suy nghĩ nhưng anh chưa thấy được con đường mà Chúa muốn cho anh đi là con đường nào.
Chúa nhật sau cũng trong khung cảnh của ngôi thánh đường quen thuộc đó, Lời Chúa lạ vang lên:" Các người đừng lo cho ngày mai. Việc ngày mai để cho ngày mai lo. Khó khăn ngày nào có đủ cho ngày đó"
Thế là con đường đã rõ, anh về bán tất cả tài sản do Bố mẹ để lại, chia phần của cô em nhờ Ông bác quản lý để lo cho em, còn của anh, anh bán tất cả và làm như lời Chúa dạy rồi anh vào trong rừng vắng sống cuộc đời tu trì ở trong đó. Đó là Thánh Antôn tu rừng, ông tổ của dòng tu chiêm niệm.
2. Đặc trưng thứ hai: Đó là những người đã cố gắng đem Lời Chúa áp dụng vào đời sống của mình.
- Đáp lại Lời Chúa mới chỉ là bước đầu. Việc quan trọng là phải sống Lời của Chúa một một cách đơn sơ, chân thành, không cầu kỳ, không gò bó.
Đức Cha Arthur Tone kể lại một câu truyện rất cụ thể như sau. Một gia đình ngài quen biết có hai vợ chồng và một đứa con. Một ngày kia không hiểu vì truyện gì mà hai vợ chồng to tiếng với nhau. Hai người tìm đủ mọi lý lễ để biện minh cho sự phải lẽ của mình. Vì quá hung hăng trong việc lời qua tiếng lại mà hai vợ chồng không để ý đến cậu con trai tên là Bobbie con của hai người mới đi học về.
Bobbie thấy vậy liền nhảy lên bàn giơ hai tay lên và nói thật lớn: "Bình an - Hãy im lặng"
Cả hai vợ chồng nhìn con rồi phá lên cười. Sau đó người mẹ ôm con vào lòng vào âu yếm hỏi: " Con học được cái đó ở đâu thế?"
Cậu thưa:" Thưa con học ở trong sách Giáo lý - Chúng con đã học câu truyện Chúa Giêsu dẹp yên bão tố - Chúa đã đưa tay ra và truyền cho sóng gió phải yên lặng"
Câu truyện nhỏ nhưng nó cũng cho chúng ta thấy một trong những cách vận dụng đem lời Chúa vào cuộc sống.
3. Cuối cùng đó là những người biết kiện trì, trung thành với sự chọn lựa của mình một cách đáng khâm phục.
Chúa đã từng khắng định: Con đường của Chúa là con đường hẹp, nhiều khi hẹp kinh khủng. Nó đòi hỏi những ai đi trên con đường đó một sự cố gắng hầu như là liên lỉ và nhiều khi rất anh hùng. Chỉ có những ai kiên trì và can đảm mới có thể đi trên con đường đó.
Một Antôn tu rừng mà tôi vừa mới nói ở trên chẳng hạn. Đọc tiểu sử của Ngài
chúng ta mới thấy. Bán hết mọi sự để theo tiếng Chúa gọi đó đã là khó. Nhưng theo Chúa còn khó hơn. Sau khi đã bán mọi sự, Antôn đi vào trong rừng vắng. Ma quỉ đã không để anh được yên. Chúng thi nhau tấn công anh, tấn công bằng mọi thủ đoạn kể cả những thủ đoạn tầm thường nhất. Chúng dùng đến cả những hình ảnh bẩn thỉu nhất để cám dỗ anh. Suốt cả cuộc đời là một cuộc chiến đấu. Nhờ kiên trì mà Antôn đã đã chiến thắng.
Một trong những bà thánh mà chúng ta hay nhắc tới như bà thánh Monica chẳng hạn. Chúng ta tưởng là bà đã nên thánh một cách đễ dàng sao? Không, hoàn toàn không ! Không dễ dàng chút nào cả mà là đầy những cố gắng. Hơn 30 năm trời cầu nguyện hãm mình hi sinh mà mới thành công đem được người con của bà về với Chúa. Hơn 30 năm trời kiên trì trong âm thầm lặng lẽ mới đạt tới vinh quang. Đó không phải là một cái giá đã cao. Còn nhiều sự trả giá còn cao hơn nữa. Chỉ có những ai biết nhẫn nại kiên trì, những người ấy mới xứng đáng với vinh quang Nước Trời. Chúa Giêsu đã nói: "Nước trời phải dùng sức mạnh mà cướp lấy".
B. Bây giờ về phần chúng ta. Đứng trước những tấm gương của các Ngài chúng ta phải có thái độ như thế nào.
Có lẽ chẳng ai trong chúng ta mà lại không muốn làm thánh. Nên thánh là mục đích mà mọi người chúng ta nhắm tới. Thế nhưng con người của chúng ta thường yếu đuối. Nói như lời thánh Phaolô: "Điều tôi muốn tôi lại không làm, còn điều tôi không muốn tôi lại cứ làm" Thân phận con người của chúng ta là thế. Chính vì vậy mà chúng ta phải xin với Chúa ơn can đảm.
Một chàng thanh niên thuở xưa có tên là Salésio. Anh có tên thánh là Phanxicô. Một lần kia anh đọc lịch sử Giáo Hội, anh thấy trong Giáo Hội đã có 3 người mang tên Phanxicô đã làm thánh: Đó là thánh Phanxicô khó khăn, thánh Phanxicô đệ Phaolô, thánh Phanxicô Xaviê, tự nhiên anh xảm thấy mình cũng phải làm gì để được nên thánh.Thế là anh đi tới một quyết định: Tôi sẽ là Phanxicô thứ 4. Anh đã giữ được quyết định đó và anh đã làm thánh. Đó là thánh Phanxicô Salésio.
Gần đây chúng ta hay nhắc đến Mẹ Têrêsa Calcutta. Tôi chắc chắn Mẹ đã biết trong lịch sử của Giáo Hội đã có hai vị thánh mang tên Têrêsa: Đó là thánh Têrêsa Avila. Têrêsa Hài đồng Giêsu. Tuy không nói ra nhưng tôi tin Mẹ cũng đã nguyện ước Mẹ cũng là một thánh Têrêsa khác. Và tôi tin là Mẹ đã thành công. Giáo Hội chưa phong thánh cho mẹ nhưng cả thế giới đều tin là mẹ đã là thánh. Chúng ta hãy chờ đợi. Có lẽ không bao lâu nữa chúng ta sẽ thấy Giáo Hội sẽ xác nhận điều này.
Xin Chúa giúp cho chúng ta biết can đảm. Trên con đường nên thánh, Thánh Augustinô đã gặp rất nhiều thử thách. Ngài đã dùng câu nói này như câu châm niệm để vươn tên: "Ông kia bà nọ làm được tại sao tôi lại không?" Chúa sẽ ban cho chúng ta mọi ơn chúng ta cần. Người nọ kia nên thánh được tại sao tôi lại không? Hãy cố gắng. Chúa sẽ phù trợ cho chúng ta. Amen.
------------------------------
Nguồn gốc:
Lễ các Thánh Nam Nữ được mừng vào ngày 01 tháng 11 hàng năm, chỉ xuất hiện từ thế kỷ thứ VIII do các thầy dòng Ireland và Anh quốc, khi sang truyền giáo ở Aâu Châu và đã đem theo và trong khoảng thời gian ngắn đã phổ biến rộng khắp Âu Châu.
(Phụng Vụ Chư Thánh, Tập 2, 1996, trang 313;315
Lm Augustino Nguyễn Văn Trinh)
Suy niệm:
Tám mối phúc của bài giảng trên núi, được trình bày dưới hình thức của những lời chúc phúc; theo nội dung thì đây cũng là những điều kiện để được vào Nước Trời.
Các mối phúc này được Chúa Giêsu công bố cho tất cả mọi người chứ không chỉ dành riêng cho các môn đệ hay một nhóm người đạo đức nào. Đồng thời đây cũng là những lời khẳng định và đòi buộc mỗi người chúng ta.
Qua bài Tin Mừng, những người nghèo, người đau buồn, người đói khát thì được chúc phúc, được chia sẻ Nước Trời, được bước vào thế giới mới của Thiên Chúa. Ở đây, Tin Mừng không chỉ nói đến những người nghèo về mặt kinh tế, nhưng là những người trước mặt Thiên Chúa, biết rõ và chấp nhận rằng họ không có gì và không thể làm gì, hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa. Đó là thái độ của một thụ tạo trước mặt Đấng Sáng Tạo của mình.
Sau những người nghèo, Nước Trời cũng được hứa ban cho những người vì Chúa Giêsu mà phải bị chửi rủa, bị xỉ nhục và bách hại.
Không phải vì Chúa Giêsu nghèo nên những người nghèo được chúc phúc; cũng không phải vì Chúa Giêsu bị bách hại mà những người bị bách hại được chúc phúc. Người được chúc phúc là những người biết chấp nhận sự nghèo khó và chấp nhận sự bách hại để có thể được vui sướng vì họ được giống Chúa Giêsu hơn; và trong sự yếu đuối của họ, họ nhận được sức mạnh của Thiên Chúa.
Mừng kính các thánh hôm nay, Giáo Hội suy tôn các ngài là những con người đã luôn trung thành và bền vững với ơn gọi nên thánh của mình khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Thật vậy, cuộc sống của các ngài đã hoàn toàn để cho Thiên Chúa chiếm đoạt. Các ngài đã luôn ý thức sự yếu đuối và bất toàn, sự khó nghèo và bất lực của mình để rồi tin tưởng phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa. Chính niềm tín thác ấy, các ngài luôn thành tâm thiện chí tìm kiếm và thực thi thánh ý Chúa. Dẫu cho cuộc sống có đầy cam go, dẫu cho phải chịu nhiều hy sinh mất mát hay đau khổ vì danh Thiên Chúa, các ngài luôn vui vẻ chấp nhận như một ân ban được thông phần vào cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Và ngày nay, các ngài xứng đáng lãnh nhận phần gia nghiệp Nước Trời.
Mừng lễ các thánh hôm nay, Giáo Hội mời gọi mỗi người chúng ta ý thức về ơn gọi nên thánh mà chúng ta đã lãnh nhận khi chịu phép Rửa Tội. Chúng ta được tham dự vào sự thánh thiện của Thiên Chúa. Sự thánh thiện ấy được cụ thể hoá nơi Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể, Đấng đã sống và chết cho tình yêu.
Con đường nên thánh thì đa dạng và phong phú. Đức Giá Hoàng Gioan Phaolo II đã nói: “Mỗi người là một con đường nên thánh”. Vì vậy, mỗi người chúng ta phải nên thánh trong môi trường, trong phận sự và điều kiện cuả mình. Nền tảng của ơn gọi nên thánh là đức ái, như thánh Augustino đã nói: “Hãy yêu đi rồi làm gì thì làm”. Thật vậy, chúng ta khiêm hạ trở nên nhỏ bé, trở nên những người nghèo của Thiên Chúa để rồi ngoan ngoãn dưới sự dạy bảo của Thánh Thần. Trong Thánh Thần, chúng ta trở nên khí cụ bình an trong bàn tay Thiên Chúa.
Lạy Chúa là Đấng Chí Thánh, chúng con xin cảm tạ và tri ân Chúa vì ân ban cho chúng con được tham phần vào chính sự sống và sự thánh thiện của Chúa. Xin cho chúng con luôn ý thức và nỗ lực sống thánh thiện bằng chính đời sống tin tưởng phó thác nơi Chúa, bằng chính đời sống yêu thương và tha thứ để đời chúng con trở nên chứng nhân cho tình yêu Chúa giữa thế trần.
------------------------------
Suy Niệm
Nếu chúng ta được lên trời để thăm các thánh, hẳn chúng ta sẽ không khỏi ngỡ ngàng trước sự đa dạng. Các thánh không phải chỉ là những vị được tôn phong, mà là tất cả những ai đang hưởng hạnh phúc trên trời.
Các thánh thật khác nhau về nhiều mặt: giới tính, tuổi tác, màu da, tiếng nói, nghề nghiệp, hoàn cảnh, thời đại, bậc sống, khả năng, tính tình... Có người không biết viết như thánh nữ Catarina Siêna. Có người đậu tiến sĩ triết hạng tối ưu như thánh Edith Stein. Có người làm bao phép lạ phi thường như ngôn sứ Êlia. Có người sống âm thầm như chị Têrêsa nhỏ.
Nói chung chẳng gì có thể ngăn cản chúng ta nên thánh, vì Thiên Chúa muốn mọi người nên thánh chẳng trừ ai.
Các mối phúc là con đường nên thánh. Con đường này chính Đức Kitô đã đi và mời ta cùng đi.
Ngài mời ta có tâm hồn nghèo khó, hiền lành, nghĩa là hoàn toàn tín thác vào một mình Thiên Chúa, có lòng khát khao sự công chính, chỉ mong làm trọn ý Ngài. Trong tương quan với tha nhân, Đức Kitô mời ta có lòng thương xót, biết đau nỗi đau của người khác, có tâm hồn trong sạch, nghĩa là sống ngay thẳng, chân thành, có tinh thần xây dựng hòa bình và công bằng xã hội, nghĩa là chăm lo phát triển toàn diện từng người và mọi người. Sống các mối phúc trên là chấp nhận mối phúc bị bách hại.
Mỗi vị thánh đều sống nổi bật trong một số mối phúc. Họ đã nếm phần nào hạnh phúc từ đời này trước khi hưởng hạnh phúc trọn vẹn bền vững trên trời.
Chúng ta thường nghĩ nên thánh là chuyện cao siêu dành cho một thiểu số hết sức đặc biệt.
Thật ra mọi kitô hữu đều được mời gọi nên thánh.
"Các con hãy nên trọn lành như Cha trên trời."
Chỉ Thiên Chúa mới là nguồn mọi sự thánh thiện. Ngài mời chúng ta chia sẻ sự thánh thiện của Ngài. Nên thánh là đáp trả lời mời đó.
Khi chiêm ngắm các thánh, ta có thể hiểu nên thánh là gì.
* Nên thánh là để cho tình yêu chi phối toàn bộ cuộc sống, là ra khỏi cái tôi hẹp hòi của mình để sống hết tình cho Thiên Chúa và tha nhân.
* Nên thánh là luôn lắng nghe tiếng Chúa và trung thành đáp lại trong giây phút hiện tại.
* Nên thánh là yêu mến cuộc sống mà Chúa tạng trao, là để cho Chúa yêu mình, nắm tay mình, dắt mình vào thế giới riêng tư của Chúa.
* Nên thánh là thuộc trọn về Chúa và về anh em, là để Chúa dần dần chiếm lấy mọi chỗ của đời mình.
Chúa mời tôi nên thánh với con người và hoàn cảnh riêng.
- với sa ngã của quá khứ và mỏng dòn của hiện tại,
- với cái dằm vẫn thường xuyên làm tôi nhức nhối.
Chúa muốn tôi nên thánh với mặt mạnh, mặt yếu của tôi. Ước gì đời tôi ven mở một nét nào đó của Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Các vị thánh rất khác nhau mà lại rất giống nhau. Theo ý bạn, đâu là những nét giống nhau nơi khuôn mặt các vị thánh mà bạn yêu mến?
Một vị thánh ở đất nước Việt Nam, vào thế kỷ 21, có những nét nào mà bạn cho là không thể thiếu?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, con phó mặc con cho Cha, xin dùng con tùy sở thích Cha. Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn.
Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả. Miễn là ý Cha thực hiện nơi con và nơi mọi loài Cha tạo dựng, thì, lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa.
Con trao linh hồn con về tay Cha. Con dâng linh hồn con cho Cha, lạy Chúa Trời của con, với tất cả tình yêu của lòng con.
Vì con yêu mến Cha, vì lòng con yêu mến thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha, thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha, không so đo, với một lòng tin cậy vô biên, vì Cha là Cha của con. (Charles de Foucauld)
------------------------------
Mt 5,1 - 12a
"Ra Đi gieo trong nước mắt, khi về gặt trong hân hoan..."
“ Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước trời là của họ.”
Hôm nay, ngày 01.11, Hội thánh mừng kính toàn thể các thánh trên trời. Lễ này được mừng kính khá sớm trong Phụng vụ từ thế kỷ thứ III hoặc IV, mừng theo lễ Phục sinh hoặc lễ Hiện xuống. Mối dây liên lạc với lễ Phục sinh, lễ Hiện xuống cho thấy ý nghĩa nguyên thủy của lễ này, đó là việc Chúa Kitô chiến thắng trong đời sống các tín hữu. Ở Rôma đến thế kỷ thứ V, lễ này vẫn còn được cử hành vào ngày Chúa nhật sau lễ Hiện xuống. Sau một thời gian dài, lễ này được biết đến với danh hiệu : lễ kính các Thánh Tử đạo, kính toàn thể các thánh + kính Đức Maria. Đức Giáo Hoàng Grêgôriô III (741) đã quyết định chọn ngày 01.11, nhân lễ cung hiến nhà nguyện Đại Thánh đường thánh Phêrô, để tôn kính các Thánh. Đức Grêgôriô IV (835) truyền mừng lễ các thánh trên toàn thế giới.
1. Ngày lễ này còn được gọi ngày hội của những người nghèo khó, bé nhỏ, đau khổ, bị bách hại, vì họ đã sống Hiến chương Nước Trời; chính vì thế mà hôm nay chúng ta được nghe đọc về 8 Mối phúc, cũng được gọi là Luật Phúc Âm. Dĩ nhiên, hôm nay Hội thánh muốn ca ngợi các thánh như là những tấm gương anh dũng của Chúa Kitô, đồng thời cũng nhìn nhận họ là những người đã thực thi tốt lành nhất Bản Hiến chương Nước Trời
2. Bây giờ, chúng ta thử nhìn đến phần thưởng của các thánh là những người đã sống Bản Hiến chương Nước Trời, và xem các ngài đã sống như thế nào :
Người có tâm hồn nghèo khó/ hiền hòa/ bị ngược đãi = phần thưởng = Nước Trời.
Người có lòng trong sạch = phần thưởng = được thấy Thiên Chúa.
Người đi xây dựng hòa bình = phần thưởng = được gọi là con Thiên Chúa.
Người lo buồn sầu khổ/ khao khát công chính/ thương xót người khác = phần thưởng = được TC an ủi, xót thương.
Kẻ nghèo khó, hiền hòa, bị ngược đãi, Thiên Chúa ban cho họ phần thưởng là Nước Trời, thật ra còn gì xứng đáng hơn? Vì họ đã sống khiêm tốn, nghèo nàn, nhìn nhận thân phận tội lỗi yếu đuối của mình, không biết cậy dựa vào ai, chỉ biết trông cậy vào một mình Thiên Chúa. Đúng như lời Chúa nói: ta đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi… và câu: người lành mạnh đâu cần thầy thuốc….
Người có lòng trong sạch, được Chúa thưởng công: được thấy Chúa: Phần thưởng này rất chính đáng, vì tâm hồn họ không vướng bợn nhơ, hay có mà đã đền bù đầy đủ rồi…. Nói cách khác tâm hồn họ đã không để thần khí sự dữ chiếm ngự; hay họ chỉ để một mình Thiên Chúa chiếm ngự họ mà thôi; chính lúc đó họ sẽ được thấy Thiên Chúa. Mức độ của cõi lòng họ trong sạch, thánh thiện cỡ nào, họ sẽ được thấy Thiên Chúa cỡ nấy….
Người đi xây hòa bình: họ sẽ được làm con Thiên Chúa. Đó là những vị thánh khiêm tốn hết mực, không bao giờ khinh dễ ai, dù người đó ngang tàng, xấu xa cỡ nào. Họ luôn nhìn thấy Chúa nơi anh em mình, và không tiếc bất cứ thứ gì trên đời để đem lại hòa bình chân thật cho anh em, thứ hòa bình chỉ có ở nơi Thiên Chúa. Những vị thánh như thế Chúa tiếc chi mà không gọi họ là con của Người?
Người sầu khổ, khao khát lẻ công chính: phần thưởng của họ là được Chúa ủi an, thương xót
3. Gợi ý sống và chia sẻ
* Các thánh chính là những người nghe và giữ lời TC trọn vẹn. Các ngài là thánh, chính vì các ngài đã chu toàn bổn phận với Thiên Chúa và với tha nhân. Ngày nay càng văn minh vật chất, mỗi người Kitô hữu chúng ta càng bị trói buộc phải chu toàn bổn phận kiên trì hơn nữa. chúng ta nghĩ sao?
* Nên thánh không phải là con đường ngắn nhất, khỏe nhất. Thời vua Tự Đức, 500 quân sĩ công giáo bị bắt, đã chối đạo hầu hết, chỉ còn lại có ba vị tử đạo mà thôi. Ta có ý thức được điều này, và luôn xin Chúa cho ta ơn can đảm tuyên xưng đức tin trước mọi người trong thời đại văn minh của ta không?
------------------------------
- Maranatha sưu tầm.
Một vài con số:
Từ Vatican II, số lượng những lần phong chân phước và phong thánh gia tăng theo cấp số cộng. Ta thử nhìn lại một vài con số để thấy rõ ràng hơn (số liệu tổng hợp) :
Thế kỷ 16: 1 lần phong thánh
Thế kỷ 17: 10 lần phong thánh cho 24 đấng.
Thế kỷ 18: 9 lần phong thánh cho 29 đấng.
Thế kỷ 19: 8 lần phong thánh cho 80 đấng.
Thế kỷ 20 cho đến nay:
Thánh Piô X (1903-1914): 2 lần phong thánh cho 4 đấng.
Đức Bênêđitô XV (1914-1922): 2 lần phong thánh cho 3 đấng.
Đức Piô XI (1922-1939): 17 lần phong thánh cho 34 đấng.
Đức Piô XII (1939-1958): 21 lần phong thánh với 33 đấng.
Đức Gioan XXIII (1958 -1963): 7 lần phong thánh cho 10 đấng.
Đức Phaolô VI (1963 – 1978): 20 lần phong thánh cho 81 đấng..
Đức Gioan Phaolô II (1978-2004): tính đến ngày 16 tháng 5, 2004, với lần phong cho 6 thánh mới tại Đền Thánh Phêrô, vị Giáo Hoàng này đã phong cho 486 thánh.
Cho đến triều đại của Đức Phaolô VI và Gioan Phaolô II, việc phong thánh là một nghi lễ long trọng mà Đức Giáo Hoàng dành cho những con người ngoại lệ. Từ Vatican II, việc phong thánh không còn mang tính chất ngoại lệ ấy nữa: Đức Gioan Phaolô II đã phong một số thánh nhiều hơn tất cả những vị tiền nhiệm của ngài trong thế kỷ 20, và cũng nhiều hơn tất tổng số tất cả các vị tiền nhiệm kể từ ngày Đức Sixtô thiết lập Thánh Bộ Nghi Lễ (Congrégation des Rites) năm 1588.
Đức Gioan Phaolô II đã giải thích việc gia tăng số lượng này qua diễn từ với các hồng y vào kỳ họp 14 – 06 – 1984 : “Người ta bảo rằng hiện nay có nhiều thánh được phong quá. Nhưng ngoài việc điều này phản ánh thực tế cho ân sủng Thiên Chúa, thì còn phù hợp với mong muốn của Công Đồng. Tin Mừng đã được loan truyền rộng rãi khắp thế gian và sứ điệp Phúc Âm đã cắm rễ thật sâu, nên số lượng lớn các thánh và chân phước được phong phản ảnh một cách sống động cho hoạt động của Chúa Thánh Thần và cho sức sống mà Người tuôn đổ trong lãnh vực chính yếu nhất của Giáo Hội: lãnh vực nên thánh. Cũng vì thế mà Công Đồng đã nhấn mạnh một cách đặc biệt lời kêu gọi hãy nên thánh”.
Sự thay đổi về số lượng này xuất phát từ việc thay đổi trong quan niệm về sự thánh thiện. Hiện nay, quan niệm về sự thánh thiện không phải là một cái gì ‘vượt khỏi cái bình thường’ mà là một cái gì gắn liền với cuộc sống đời thường của Kitô hữu.
Một quan niệm mới
Trước đây người ta quan niệm sự thánh thiện theo thánh Tôma. Thánh nhân bảo rằng sự thánh thiện thể hiện ở mức cao nhất trong hành vi con người hướng lên Thiên Chúa để công nhận quyền năng của Người, nói cách khác: muốn thánh thiện thì phải nhận ra Thiên Chúa và phục vụ Thiên Chúa đến mức cao nhất, bằng những việc đạo đức, khởi sự bằng các việc thờ phượng cho đến những ‘việc lành phúc đức’ (cf. Summa Theologia, quest. 81, art 8). Quan niệm mới về sự thánh thiện tương ứng với một lối ‘thờ phượng’ mới: đấy là hướng về con người; hay theo ngôn ngữ của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI: phục vụ con người (Đức Phaolô VI, Diễn văn bế mạc khóa thứ 4 Vatican II, ngày 7-12-1965). ‘Phục vụ con người’ có nghĩa là nhận ra phẩm giá của con người bằng cách trả lại tự do cho họ. Một vị thánh, theo quan niệm mới này, là một người bao dung. Như thế, lòng bao dung là một cách mới để thể hiện nhân đức đối thần là bác ái; vì vậy tinh thần bao dung là nhân đức hàng đầu làm nền tảng cho việc nên thánh, theo quan điểm của Vatican II và Dignitatis humanae.
Từ nền tảng trên, sự thánh thiện hệ tại ở ý thức, và muốn nên thánh hay trở thành một vị thánh thì chỉ cần khám phá bản chất mà mình đã có sẵn trong Chúa Kitô. Chỉ là một bước đi từ mặc nhiên đến minh nhiên, và như thế chiều kích ‘siêu việt’ không còn nữa: sự thánh thiện không phải là một lý tưởng vượt quá hoàn cảnh con người; trái lại nên thánh là một sự nối dài hợp lý cho hoàn cảnh hiện tại, và làm thánh không gì khác hơn là ý thức về giá trị nội tại của mình.
Do đó, nếu một người được phong thánh, thì sự thánh thiện của người ấy không còn là một gương mẫu để noi theo, nhưng đơn thuần là một dấu chỉ. Sự khác biệt giữa gương mẫu và dấu chỉ như sau:
Gương mẫu phải noi theo là một cái gì đó tác động đến lý trí thực hành và ý chí, nó ta cho biết điều gì chưa thực hiện và điều gì phải thực hiện. Theo quan niệm truyền thống, việc phong thánh được xem như là giấy chứng nhận để tín hữu biết những nhân đức nào là nhân đức anh hùng mà họ cần phải có để đi theo con đường nên thánh.
Dấu chỉ thì liên quan đến lý trí đơn thuần, và cho ta thấy bản chất mà mình đã từng có, nhưng ta chưa hoàn toàn thấy rõ: qua một con người được phong thánh, ta thấy rõ ràng bản chất ấy hơn.
Với quan niệm mới xuất phát từ Vatican II, sự thánh thiện trở thành một dấu chỉ: những ai đã ý thức về phẩm giá con người của mình và bảo vệ nó, thì được Giáo Hội nêu lên, hầu những người khác cũng ý thức về phẩm giá của mình như thế.
“Thánh nhân là chứng từ sáng chói nhất về phẩm giá được trao ban cho môn đệ Chúa Kitô.... Giáo dân cần phải ý thức và sống ơn gọi nên thánh ấy, không phải như là một đòi buộc mà mình không thể lẩn tránh, nhưng như là một dấu chỉ về ánh sáng vô biên của Chúa Cha, Đấng tái sinh họ trong sự sống thánh thiện.” (Christifideles laici, § 16)
Theo chiều hướng đó, cần phải đề ra nhiều dấu chỉ hơn nữa, bởi vì chính số nhiều ấy là một điều có ý nghĩa: càng nhiều người ý thức về phẩm giá của mình thì càng làm rõ một chiều kích mà Chúa Kitô đã mặc khải cho con người. Càng có nhiều lần phong thánh, càng có nhiều thánh được phong, thì phẩm giá của con người càng được tỏ lộ.
------------------------------
Có bao nhiêu thánh được Giáo Hội công nhận?
Câu trả lời thành thật nhất là chúng tôi không biết. Trong tám chín thế kỷ đầu không có nghi lễ phong thánh chính thức nào. Một vị nào đó được công nhận là thánh ấy là do sự tuyên dương của quần chúng tín hữu. Những người được xem là thánh, ấy là vì họ tử vì đạo hay đã sống một cuộc sống thánh thiện. Thường thì mộ phần của họ trở thành nơi hành hương và cầu nguyện. Chúng ta không biết có bao nhiêu người sống hay chết một cách thánh thiện mà không được công nhận là thánh. Đấy là lý do mà chúng ta mừng lễ (Tất cả) Các Thánh Nam Nữ (All Saints – Toussaint). Đôi khi một vị được công nhận là thánh ở một lãnh thổ nào đó. Đôi khi danh thơm về thánh thiện của một vị vượt khỏi biên giới của một quốc gia.
Chỉ đến năm 993 thì mới có nghi lễ phong thánh chính thức lần đầu. Đức Giáo Hoàng Gioan XV phong thánh cho Giám Mục Ulrich thành Augsburg.
Bộ sách Hạnh Các Thánh (Lives of Saints) của Butler, xuất bản lần đầu giữa năm 1756 và 1759, liệt kê 1.486 vị. Bộ sách nhuận chính năm 1956 có 2.565 vị. Bộ sách này đang được nhuận chính lại. Vì toàn bộ các tập chưa được phát hành, nên không biết sẽ có bao nhiêu thánh được nêu danh. Dù sao đi nữa, chúng tôi nghĩ rằng không ai có thể bảo rằng mình lập được một danh sách đầy đủ các thánh, mà theo nhiều người, con số lên trên 10.000
Một bộ sách khác cũng đang đưọc nhuận chính ấy là bộ ‘Danh mục các thánh’ (Martyrology) của Thánh Bộ Phụng Tự. Bộ ‘Danh mục các thánh’ là bản danh sách chính thức các ngày lễ kính các thánh.
Vì sao có ít giáo dân được phong thánh?
Tiến trình chính thức để phong thánh cần có một nhóm người quan tâm đến một người mà họ muốn được phong chân phước rồi phong thánh. Dù có một số giáo phận đề nghị giáo dân, thì thường là các cộng đoàn tu sĩ yễm trợ cho tiến trình phong thánh, gồm giai đoạn điều tra, công nhận khả kính, công nhận một phép lạ, rồi được chính thức phong chân phước, được công nhận một phép lạ thứ hai, sau đó là việc phong thánh.
Cho đến nay, đa số các giáo dân được phong chân phước hay phong thánh thì hoặc đã tử đạo (ví dụ: Thomas More hay Edith Stein) hoặc đã sáng lập dòng (Elizabeth Ann Seton hay Margarer Cortona). Ngày 21-10-2001, Đức Gioan Phaolô phong chân phước cho Luigi Beltrame Quattrochi và Maria Corsini, là bậc cha mẹ có 4 người con, trong số đó có ba người đi tu. Gần đây, ngày 15-05-2004, Gianna Baretta Molla, một bà mẹ được phong thánh vì sẵn sàng chết chứ không chịu phá thai. Một hướng mở ra cho giáo dân, nhưng cũng chỉ mới là hé mở.
Việc phong thánh cho một người là vì Giáo Hội, nghĩa là vì cộng đồng dân Chúa đang còn sống, chứ không thêm gì cho những vị được phong thánh, vì các ngài đang vui hưởng hạnh phúc cạnh Thiên Chúa, và không một vinh dự trần thế nào thêm được gì cho niềm hạnh phúc đó.
------------------------------
- Nên thánh là làm điều mình phải làm, là làm hoàn hảo những gì mình phải làm, là làm điều mình phải làm lúc cần phải làm.
- Nên thánh là làm điều mình phải làm, là làm hoàn hảo những gì mình phải làm, là làm điều mình phải làm lúc cần phải làm.
Khuyết danh
- Tôi thích một vị thánh có khuyết điểm hơn là một kẻ tội lỗi không khuyết điểm.
Charles Péguy
- Nên thánh không phải là một điều xa xỉ, mà làm một bổn phận - Thánh Maximilien Kolbe
- Một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn. Thánh François de Sales
- Nên thánh là một cuộc phiêu lưu, thậm chí đó là cuộc phiêu lưu duy nhất. - Bernanos
- Chỉ có một điều bất hạnh duy nhất, ấy là không nên thánh. - Léon Bloy
- Chỉ khi nào ta yêu thương kẻ thù thì mới có thể biết Thiên Chúa và cảm nghiệm được sự thánh thiện.
Martin Luther King
- Chỉ cần gặp thoáng một thánh nhân cũng đủ để xác nhận rằng Thiên Chúa hiện hữu.
Henri de Lubac
------------------------------
- Lm Nguyễn Hồng Giáo, OFM.
Lễ Các Thánh hằng năm nhắc nhở chúng ta rằng lý tưởng làm thánh không dành riêng cho thành phần nào trong dân Chúa, nhưng hết thảy mọi người Kitô hữu đều được kêu gọi nên thánh như nhau.
Một mẫu gương: thánh Lu-y, vua nước Pháp
Chỉ mấy tháng sau khi thánh Phanxicô Assisi qua đời, năm 1226, một thiếu niên 12 tuổi lên ngôi vua nước Pháp, lấy hiệu là Lu-y IX. Ông vua trẻ tuổi này sẽ trở nên một môn đệ xứng đáng của vị thánh mà thiên hạ quen gọi là Thánh Nghèo trong Dòng Ba Phan-sinh, một vị anh quân của nước Pháp và một người con hiển hách của Giáo Hội.
Người ta thường đề cao lòng đạo đức sốt sắng và tinh thần đền tội của thánh Lu-y, nhưng theo tôi, điều đáng nhấn mạnh hơn cả là: thánh nhân là một giáo dân kiểu mẫu, đã thực hiện sự thánh thiện Kitô giáo và xây dựng Nước Chúa với chính những thực tại trần thế của cuộc đời mình, qua các bổn phận của bậc sống mình.
Thực tại trần thế đó, trước hết là đời sống gia đình, với các nghĩa vụ và các vấn đề muôn thuở của một người chồng và một người cha. Sử sách ghi lại rằng Lu-y có một tình yêu thật thắm thiết đối với vợ là hoàng hậu Mac-ga-ri-ta. Hai người sinh được 11 đứa con. Tuy gánh việc nước nặng nề, ngài vẫn chu tất việc nhà, để tâm giáo dục con cái nên người tốt và nên người công giáo đạo đức.
Thực tại trần thế đó, còn là nhiệm vụ trị dân trị nuớc, lo lắng cho hạnh phúc của mọi người dân, cách riêng những người bé mọn, nghèo khổ. Trong Di Chúc để lại cho hoàng tử sẽ nối ngôi mình, thánh Lu-y căn dặn: "Con hãy có lòng thương xót đối với người nghèo, và tùy khả năng con mà giúp đỡ, an ủi họ. Đối với các bề tôi của con, con hãy ăn ở cho ngay thẳng, sao cho giữ được sự công bằng, không nghiêng bên phải, ngả bên trái, -và bao lâu chưa biết chắc chân lý nằm ở phía nào, con hãy luôn luôn nên nghiêng về phía người nghèo hơn là người giàu. Con hãy chăm lo sao cho các bề tôi của con được giữ gìn trong công lý và hoà bình"
Những lời căn dặn con như trên, chính thánh Lu-y đã tự mình thực hiện. Ngài được tiếng là người xét xử khôn ngoan và công minh. Và ta hãy nói ngay rằng ngài đang nên thánh khi làm trọn nhiệm vụ của một ông vua, ngài đang sống tinh thần phúc âm ngay khi làm những công việc phần đời.
Sau hết, thánh Lu-y đã suốt đời yêu mến Giáo Hội và nhiệt thành phục vụ lợi ích của Giáo Hội. Chính ngài đã chiêu mộ quân binh và đích thân đi giải phóng Thánh Địa hồi ấy đang bị quân Hồi Giáo chiếm giữ và cấm người Kitô hữu tới hành hương. Đó là một cách biểu lộ đức tin và lòng yêu mến Giáo Hội rất oanh liệt theo hoàn cảnh và quan niệm thời bấy giờ. Chính là trong một cuộc viễn chinh như thế mà ngài đã lâm bệnh và từ trần tại Tunis năm 1270, lúc 55 tuổi.
Để có thể sống một cuộc đời hương mẫu như thế trong mọi nhiệm vụ của đang bậc mình, chắc chắn thánh nhân đã làm những gì ngài sẽ dạy dỗ con sau này: "Con rất yêu dấu, trước tiên cha dạy con hãy kính mến Chúa là Thiên Chúa hết lòng, hết sức vì nếu không thì sẽ không được ơn cứu độ. Con hãy giữ mình cho khỏi tất cả những gì mà con biết là không là đẹp lòng Chúa, tức là tội trọng".
Trong ngày lễ kính mừng thánh Lu-y, Giáo Hội ca tụng ngài như người tôi tớ tốt lành và trung tín, đã biết dùng các nén bạc được giao mà làm lợi cho ông chủ của mình.
Vài suy nghĩ
Sống cách chúng ta gần tám thế kỷ, nhưng thánh Lu-y vẫn là một vị thánh hợp thời.
Nhiều người quen nghĩ rằng làm thánh là việc dành riêng cho các nhà tu hành, còn giáo dân thì làm sao có thể mơ tới lý tưởng cao cả ấy được? Quả thực có một thời người ta đã lấy các vị đan sĩ, tu sĩ làm mẫu mực cho lý tưởng Kitô giáo, và ai ai trong Hội Thánh, từ các giáo sĩ đến giáo dân cũng phải gắng sức xích lại gần mẫu mực ấy được chừng nào hay chừng ấy.
Công đồng Vatican II đã nhắc lại rằng tất cả mọi thành phần Giáo Hội đều được mời gọi nên thánh, nhưng mỗi người tùy theo đấng bậc, tùy theo khả năng và hoàn cảnh riêng mà mang một vẻ thánh thiện riêng, khiến cho Giáo Hội được trau dồi bằng những vẻ đẹp muôn màu muôn sắc. Mẫu mực thánh thiện chỉ có một nhưng cách "hoạ lại" mẫu mực ấy thì thiên hình vạn trạng.
Thánh Phanxicô đệ Sa-lê đã nói một câu rất đẹp theo ý ấy: "Bất kỳ Chúa trồng bạn ở đâu, bạn hãy trổ những bông hoa đẹp nhất cho Người ở đó".
Mỗi nơi có những điều kiện riêng, nơi ẩm nơi khô, nơi phì nhiêu nơi sỏi đá, nơi thấp nơi cao v. v. , mỗi đấng bậc, mỗi hoàn cảnh, mỗi tính tình cũng tương tự như thế. Chúa chỉ đòi hỏi ta ở chỗ nào thì tùytheo điều kiện cụ thể chỗ ấy mà trổ bông đẹp tức là nên thánh.
Trích Người Tín Hữu
------------------------------
- Nguyễn Chính Kết
1. Hai quan niệm trái ngược về hạnh phúc
Những điều nói trong bài Tin Mừng về Bát Phúc (x. Mt 5,1-12a) trong lễ Các Thánh thật trái ngược với quan niệm thông thường nếu chưa muốn nói rằng chỉ có người bất thường mới nghĩ như vậy. Quan niệm thông thường và chung chung của mọi người là: muốn hạnh phúc thì phải giàu sang, phú quí, có nhà cao cửa rộng, có vợ đẹp con khôn, có kẻ hầu người hạ, có địa vị, có quyền lực, được hưởng mọi của ngon vật lạ, mọi thú vui trên đời… Và quan niệm thông thường đó đã thúc đẩy con người tìm đủ mọi cách để đạt được những thứ ấy. Để đạt được những thứ ấy, người ta không ngại cố gắng, gian nan và đau khổ, thậm chí không ngại làm những việc độc ác, thất nhân tâm. Viễn ảnh hạnh phúc theo quan niệm thông thường ấy khiến người ta sẵn sàng chấp nhận những khó khăn rắc rối nhiều khi vượt quá sức chịu đựng của con người. Người ta đa số đều nghĩ rằng quan niệm về hạnh phúc như thế là hiển nhiên và đúng đắn.
Nhưng quan niệm của Đức Giêsu về hạnh phúc trong bài Tin Mừng hôm nay thật trái ngược lại với quan niệm thông thường ấy. Những ai theo quan niệm của Ngài thường bị người đời cho là bốc đồng, dở hơi, điên khùng hoặc giả hình. Nhiều người mang danh là theo Đức Giêsu cũng phán đoán y như vậy về những kẻ thật sự sống đúng theo quan niệm của Ngài. Sở dĩ họ phán đoán như vậy là vì họ không tài nào hiểu được phần thưởng đời sau dành cho những ai sống theo quan niệm của Đức Giêsu to tát như thế nào.
2. Quan niệm nào khôn ngoan hơn?
Giữa quan niệm thông thường của người đời và quan niệm khác thường của Đức Giêsu, quan niệm nào là đúng, là khôn ngoan? Người Kitô hữu phải theo quan niệm nào? Để rộng đường suy nghĩ, ta nên nhớ: Đức Giêsu, người đưa ra quan niệm khác thường ấy không phải là người điên hay bất thường, mà là người được cả thế giới công nhận là khôn ngoan thuộc loại bậc nhất. Ngài được người Kitô hữu nhìn nhận là sự Khôn ngoan của Thiên Chúa, là hiện thân của Chân Lý. Như vậy, quan niệm về hạnh phúc của Ngài chắc chắn là một quan niệm khôn ngoan vượt khỏi sự khôn ngoan thông thường của con người. Chính vì không hiểu được sự khôn ngoan ấy nên người bình thường cho đó là ngu xuẩn.
Thật ra, sự khôn ngoan của bài Tin Mừng Bát Phúc này chỉ có thể hiểu được trong niềm tin, tin rằng: đời sau thì vĩnh cửu còn đời này chỉ là tạm bợ mau qua, nhưng cách sống ở đời này quyết định cho số phận vĩnh cửu đời sau. Đây chính là mấu chốt của vấn đề: nếu không có đời sau, thì quan niệm như Đức Giêsu đúng là một quan niệm ngu xuẩn! Đời sống thật ngắn ngủi, không biết hưởng thụ nó thì thật là dại dột: «Vui xuân kẻo hết xuân đi, cái già sồng sộc nó thì theo sau» (Ca dao). Nhưng nếu có đời sau, một đời sau vĩnh cửu – mà đời sau hạnh phúc hay đau khổ lại hoàn toàn tùy thuộc vào cách sống ở đời này – thì quan niệm như Đức Giêsu mới là khôn ngoan.
Thật vậy, nếu chết rồi là hết, nếu sự sống chỉ tồn tại ở cuộc đời ngắn ngủi này, thì những điều nói trong bài Tin Mừng quả là điên rồ: sống nghèo khổ thiếu thốn, chịu bách hại vì Chúa, vì đạo thì quả là ngu xuẩn! khổ cực như thế thì ích lợi gì? Nếu chỉ có một cuộc đời ngắn ngủi này để sống, thì mục đích của đời này chỉ là hạnh phúc của chính nó, dù chóng qua giả tạm đến đâu. Nhưng nếu còn một đời sau lâu dài hơn, và nếu hạnh phúc đời sau tùy thuộc vào đời này, thì sự khôn ngoan đòi buộc phải lấy hạnh phúc đời sau làm mục đích, còn mọi sự đời này phải được coi là phương tiện. Do đó, phải sống cuộc đời ngắn ngủi này cách nào để đời sau vĩnh cửu được hạnh phúc. Nếu sẵn sàng chấp nhận đau khổ vĩnh cửu ở đời sau để được hạnh phúc chóng qua ở đời này thì thật là ngu xuẩn, tương tự như giữa hai món tiền: 1 triệu đồng và 1 đồng, lại đi chọn 1 đồng mà bỏ 1 triệu. Nếu giữa hai phải chọn lấy một, thì phải chọn cái nào có giá trị hơn, lâu dài hơn mới là khôn ngoan.
3. Mấu chốt của vấn đề: có đời sau hay không?
Đối với một bào thai, cuộc sống tăm tối trong bụng mẹ chỉ là cuộc sống tạm bợ ngắn ngủi trong 9 tháng 10 ngày. Cuộc sống ấy không chỉ kéo dài tới đấy là hết, mà toàn bộ cuộc sống ấy là để chuẩn bị cho một cuộc sống khác dài hơn gấp bội, có thể tới 90 năm. Cũng vậy, người Kitô hữu quan niệm rằng đằng sau cuộc sống ngắn ngủi này là cả một đời sống vĩnh cửu dài vô tận. Vì thế, người Kitô hữu – những kẻ theo Đức Giêsu – tuy sống trong thế giới này nhưng tâm hồn vẫn hướng về một thế giới khác tốt đẹp hơn, rộng lớn hơn, lâu dài hơn rất nhiều. Họ coi thế giới mai hậu ấy mới là đích điểm phải nhắm tới, chứ không phải thế giới này. Vì thế, đối với họ, mọi cơ cấu và thực tại trần gian tự bản chất đều là giả tạm, phụ thuộc.
Tuy nhiên, không vì thế mà họ coi thường cuộc sống hay thế giới này. Họ vẫn coi nó là quan trọng, vì cuộc sống này chính là điều quyết định cho số phận đời sau. Mà yếu tố quyết định cho số phận đời sau chính là tình yêu, niềm tin, lòng thành thật, sự công chính ngay ở đời này. Do đó, họ vẫn sống đời sống hiện tại một cách tích cực, vẫn hăng say xây dựng cuộc sống và thế giới này cho tốt đẹp. Nhưng dù coi cuộc sống này quan trọng đến đâu thì họ cũng chỉ coi nó là phương tiện dẫn đến cùng đích là đời sống mai hậu, chứ không bao giờ coi nó là cùng đích cả. Có quan niệm như thế ta mới hiểu được tinh thần bài Tin Mừng này.
Quan niệm ấy được mô tả trong câu chuyện sau đây. Một linh mục thánh thiện, khi được hỏi về những hy sinh vĩ đại của ngài, đã trả lời: «Tôi chỉ bỏ có vài cuộn giấy bạc và những thú vui trần tục thế mà mua được cả một niềm phúc lạc vô biên. So với cái kho tàng tâm linh quí báu này thì đó có thật là một sự hy sinh chăng? Trái hẳn lại, chính những người thế gian mới là người từ bỏ và hy sinh những kho tàng tâm linh vô giá trên đường Đạo để chạy theo những của cải vật chất giả tạm vô thường». Như vậy, ai mới là người thật sự hy sinh, và hy sinh cái gì cho cái gì?
4. Sự khôn ngoan của người Kitô hữu
Chọn lựa khôn ngoan trên đã được Đức Kitô cụ thể hóa bằng dụ ngôn kho báu và ngọc quí, trong đó người thương gia sẵn sàng bán hết gia tài của mình để mua kho báu hay viên ngọc ấy (x. Mt 13,44). Lý do, kho báu hay viên ngọc ấy giá trị gấp nhiều lần tài sản của ông ta. Đức Kitô cũng dạy ta: «Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?» (Mt 16,26). Chính vì nhắm đến hạnh phúc đời sau mà người kitô hữu sẵn sàng chấp nhận những thua thiệt, nghèo khó, bị bách hại, đau khổ ở đời này. Thánh Phaolô nói: «Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta?» (Rm 8,18). Để được hạnh phúc đời đời, Đức Kitô chỉ cho ta bí quyết: «Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy» (Mt 16,25).
Chỉ trong nhãn quan đức tin ấy, người ta mới hiểu sâu xa nội dung bài Tin Mừng về Bát Phúc hôm nay, và nhận ra rằng chỉ có những người sống theo tinh thần Bát Phúc mới là những người khôn ngoan đích thật. Và nếu thật sự sống tinh thần ấy, người Kitô hữu sẽ được hạnh phúc cả đời này lẫn đời sau. Thật vậy, con người sẽ được hạnh phúc trong đức tin nếu hết lòng gắn bó với đức tin ấy. Hạnh phúc đó có được là do họ coi nhẹ bản thân và những lợi ích chóng qua, nhờ đó, họ dễ dàng hy sinh cho người khác. Chính sự cao thượng này trở thành niềm vui cho họ trong cuộc đời này.
------------------------------
VietCatholic News (01/11/2004 )
Lễ các Thánh là ngày lễ dành cho tất cả những ai đã được chịu phép rửa tội, ở dưới đất cũng như ở trên trời. Họ rất đông đảo như sao trên bầu trời và họ không được ghi vào lịch phụng vụ hằng ngày. Họ là các thánh nam nữ của Thiên Chúa mà cuộc sống luôn hướng về Chúa Giêsu Kitô trên mọi nẻo đường trên trần thế! Các đấng thánh rất gần gũi chúng ta, họ ở trong gia đình, làng nước và chính trong họ đạo của chúng ta. Họ là các đấng thánh thuộc mọi quốc gia dân tộc, mọi ngôn ngữ, nhiều đến nỗi chúng ta không thể đếm hết được như đã diển tả trong sách Khải Huyền, một quyển sách đề cao niềm hy vọng chiến thắng sự chết và đời sống an lạc trên Thiên đàng.
Ngày lễ các Thánh, các thánh trên trời, các thánh dưới đất và các thánh hằng ngày chúng ta gặp gỡ: Lễ các Thánh được cử hành tại Phương Đông từ thế kỷ thứ 4, như một ngày lễ kính các “Thánh Tử đạo khắp nơi trên thế giới”. Bắt đầu từ thế kỷ thứ 8, lễ các Thánh được Giáo Hội Tây phương kính như “Lễ kính các Thánh cho những ai đã sống theo Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô”.
Đó là ngày lễ dành cho các tín hữu, dân của Thiên Chúa, cho những ai tìm kiếm và chiến đấu để có một đời sống thể hiện hình ảnh Thiên Chúa và yêu mến tha nhân. Tất cả mọi người theo Kinh Thánh “được tạo dựng như hình ảnh của Thiên Chúa” đều được mời gọi đem hết tâm tình và hành động theo Tin Mừng và các mối Phúc Thật: đó là con đường mà Chúa Giêsu đã vạch ra để chúng ta tiến tới niềm Hạnh Phúc chân thật.
Lễ các Thánh là niềm hy vọng cho mọi thành phần nam phụ lảo ấu sống với thành tâm thiện chí dang tay lên Thiên Chúa và mở rộng bàn tay với tha nhân.
Joseph Foliet đã nói về bài giảng trên núi áp dụng vào đời sống hằng ngày: Hạnh phúc thay cho ai biết tự cười mình thì họ luôn tìm được niềm vui tự tại. Hạnh phúc thay cho ai biết im lặng và lắng nghe: họ sẽ học hỏi được nhiều điều mới lạ! Hạnh phúc biết bao, nếu biết nhìn ngắm một nụ cười và xóa tan nếp nhăn nhó khó chịu: đường đi của mình sẽ tràn đầy ánh sáng rực rỡ! Hạnh phúc thay khi nhìn qua hình ảnh Chúa Kitô những người mà mình gặp gỡ: đó là đã tìm được nguồn sáng và sự khôn ngoan đích thật.
Phó Tế J.B. Huỳnh Mai Trác
------------------------------
VietCatholic News (27/10/2004 )
Chiều rộng của ơn cứu độ
Lễ Các Thánh Nam Nữ
Năm phụng vụ có năm mùa nhưng tựu trung chỉ mừng một mầu nhiệm duy nhất,mầu nhiệm cứu độ : Chúa Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta.Năm mùa phụng vụ đều quy về chính Chúa Kitô là Đấng Cứu độ.Ngài là Con Thiên Chúa nhập thể,đã sinh ra, đã chết, đã sống lại, lên trời ngự bên hữu Chúa Cha,và gởi Thánh Thần đến với Giáo hội.
Các ngày lễ về các Thánh nói lên thành quả của ơn cứu độ.Mỗi vị Thánh được tôn phong hàng ngày là một bằng chứng sống động về sự thành công của ơn cứu độ.Các ngày lễ này có hai cao điểm :Lễ Đức Maria hồn xác lên trời là chiều cao và chiều sâu của ơn cứu độ.Thiên Chúa cứu độ là cứu cả hồn xác,toàn diện con người”Người đã đoái thương nhìn đến phận hèn tớ nữ…Ngài đã làm những điều cao cả”Lễ các thánh Nam nữ là chiều rộng của ơn cứu độ “Lòng thương xót của Chúa trải rộng từ đời nọ đến đời kia”
Chúng ta mững lễ các Thánh Nam Nữ là mừng Nhà Cha rộng lớn như lòng Thiên Chúa,đủ chổ cho mọi chi tộc trong Israel.Bài đọc 2 trong sách Khải huyền Thánh Gioan viết” đã nghe nói số những kẻ được niêm ấn là 144 ngàn thuộc mọi chi tộc con cái Israel”.144 ngàn không phải là nhiều.Giáo phận Phan thiết có 137 ngàn giáo dân.Nhưng 144 ngàn trong Khải huyền là một con số tượng trưng,một con số tràn đầy ( 12 x 12 = 144).Số kẻ được niêm ấn là tròn đầy.Và điều tuyệt diệu là trong thị kiến Khải huyền chi tộc nào cũng có số người được niêm ấn như nhau : 12 ngàn thuộc chi tộc Giuđa,12 ngàn thuộc chi tộc Ruben,12 ngàn thuộc chi tộc Gad…không tên họ nào lấn lướt,không tên họ bị loại trừ.Các chi tộc đều được Thiên Chúa kêu mời đầy đủ.
Không chỉ Israel được thương mời mà”Sau đó tôi còn mãi nhìn,thì này một đoàn lũ không biết cơ man nào mà kể,thuộc mọi nòi giống,dòng họ, dân tộc,tiếng nói”Quả là đang trở thành hiện thực nơi Lời Chúa Giêsu đã thốt lên khi gặp được lòng tin của viên bách quản” Ta bảo thật các ngươi,nhiều kẻ tự phương đông,phương đoài mà đến và được dự tiệc cùng Abraham,Isaac và Giacop trong nước trời”.
Trong ngày lễ Các Thánh, Giáo hội nhìn lên trời có thể vui ca như cô gái Sion”vui ca lên nào thiếu nữ sion’.Hãy đưa mắt tư bề,muôn dân đông tây đang tập trung tới ngươi.Con cháu người đang từ đàng xa đổ về.Các thánh đông đảo trong Nhà Cha.Vì vậy,mừng lễ Các Thánh,người Kitô hữu vui tươi trong một nhãn giới lạc quan căn bản là có thể tin rằng Thiên đàng có nhiều chỗ hơn Hoả ngục..Niềm tin tưởng lạc quan của chúng ta lại có vẻ nghịch thường : con đường đi tới phải là con đường hẹp nhưng cửa nước trời lại được Thiên Chúa mở rộng thênh thang.
Ngày lễ hôm nay là lễ tưởng nhớ,vui mừng hiệp thông với cả bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ,anh em,bạn bè,tất cả những người thân của chúng ta đã ra đi trước chúng ta mà chỉ một mình Chúa biết lòng tin của họ ( Kinh Tạ Ơn IV)khi chúng ta có thể hy vọng họ được gia nhập vào hàng ngũ Các Thánh trên trời.Giáo hội vẫn mửng lễ các Thánh trước lễ cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời,các linh hồn đang ở luyện ngục.Luyện ngục dẫu sao chỉ là một thời gian tạm trú.Không ai có hộ khẩu thường trú ở đó cả.Nói cách khác luyện ngục chỉ là một chuyến đò ngang.Thiên đàng mới là bờ bến.Giáo hội dành tháng 11 để cầu nguyện cho các linh hồn,dâng thánh lễ, làm việc lành chuyển cầu cho các linh hồn,nói lên mối hiệp thông huyền nhiệm giữa người sống và kẻ chết trong lòng tin.Giáo hội thâm tín rằng:Thiên Chúa giàu lòng thương xót.Ơn tha thứ của Chúa cũng là ơn thành hoá,thăng hoa con cái Chúa trờ về Nhà Cha,không chỉ được ơn tha thứ mà còn dự tiệc muôn đời.
Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài.Trong muôn loài,có loài hoa,trong loài hoa Thiên Chúa đã tạo ra muôn loại,muôn giống khác nhau.Có thể nói,mỗi vị Thánh là một loài hoa khoe sắc trong vườn hoa thiêng liêng.Có nhiều vị thánh rao giàng tin mừng.Có thánh tử đạo,có thánh lo bác ái từ thiện,có thánh lo dạy học,có thánh chuyên sống đời cầu nguyện chay tịnh…Nhưng có một điểm chung nơi các thánh,đó là các Ngài đã bắt chước Chúa Kitô, sống cho hạnh phúc của người khác,it khi tìm hạnh phúc hay thú vui cho riêng mình.
Các Thánh không phải là những con người hoàn hảo,thánh thiện, tinh tuyền,không vướng mắc lỗi lầm thiếu sót hay tậ xấu nào.Không ai bẩm sinh đã là Thánh.Các Thánh cũng không phải là những siêu nhân,những con người phi thường vượt trên đám đông nhân loại.Các Thánh càng không phải là những người bất thường kỳ dị.Các Thánh là những con người bình thường như mọi người,nhưng các Ngài đã sống những điều tầm thường một cách phi thường.Nhờ Ơn Chúa trợ lực,các Ngài đã cố gắng tiến tới mẫu mực của mình là Chúa Kitô.Bí quyết nên thánh của các Ngài là sống tám mối phúc thật,là đón nhận ân sủng của Chúa vô điều kiện,hợp tác với ân sủng đó,vâng theo ý Chúa,chọn điều thiện, luyện tập nhân đức.
Nguyện xin các Thánh Nam Nữ giúp chúng con tâp sống mỗi ngày,thăng tiến trên con đường trọn lành như lời mời gọi của Chúa Giêsu : các con hãy nên thánh như Cha trên trời là Đấng Thánh.
Xin cho chúng con luôn ghi nhớ lời Thánh Augustinô : Ong nọ bà kia nên Thánh được,còn tôi tại sao lại không?
Lm Giuse Nguyển Hữu An.
------------------------------
VietCatholic News (29/10/2004 )
Mùa Xuân Vĩnh Cửu
Ca dao viết :
Cây có gốc mởi nở nghành sanh ngọn
Nước có nguồn mới bể rộng sông sâu
Người ta có gốc từ đâu
Có cha có mẹ rồi sau có mình
Lòng hiếu thảo và biết ơn của con cháu đối với ông bà cha mẹ rất quan trọng trong tâm thức người dân Việt nam.Tình cảm này không những được thể hiện qua cách đền ơn đáp nghĩa của con cháu đối với ông bà cha mẹ khi còn sống mà cả khi các Ngài đã qua đời, con cháu vẫn thực hiện việc cúng giỗ để báo hiếu,ghi nhớ công ơn những người đã gầy dựng nên cuộc đời mình.Việc cúng giỗ mang một sắc thái đặc biệt trong tín ngưỡng ngàn đời của dân tộc Việt nam, đó là tín ngưỡng Tôn Kính Tổ Tiên hay Đạo Ông Bà.
Người Việt nam tin rằng: con người có hồn có xác,chết chưa phải là hết hẳn,thể xác chết nhưng linh hồn vẫn còn tồn tại và lui tới với những người thân trong gia đình.Hồn mới thật cao quý là tinh anh của con người ”Thác là thể phách, còn là tinh anh”.Văn hoá truyền thống dân tộc gặp được ánh sáng Tin mừng soi dẫn và người Việt nam Công giáo chúng ta hướng tới một thực tại cao cả hơn đó là sự sống lại,là hạnh phúc Thiên đàng.Giáo hội dành tháng 11 cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời,nên tháng 11 là tháng của niềm hy vọng Phục sinh. Đây là thời gian mà mỗi khi thắp nén nhang trên phần mộ người chết, nhìn theo làn khói nhẹ toả bay ta cũng nâng tâm hồn lên tới Chúa là nguồn sự sống của mình.Và mỗi khi đặt bó hoa tươi trên phần mộ người thân yêu, ta thấy được mùa xuân vĩnh cửu đang bừng lên từ khắp những nấm mồ chung quanh.Quả that: sự sống thay đổi chứ không mất đi.
Sau thánh lễ chúng ta ra về, trên nghĩa trang này chỉ còn hương khói và những ngọn nến lung linh. Bầu khí tĩnh mịch thật trầm lắng và thánh thiện. Cảnh vắng lặng của một thế giới đang tan thành bụi đất như đang nói về sự rũ bỏ những vướng víu để đạt tới thành toàn viên mãn. Vài người thắp nến trên phần mộ người thân thương, ánh sáng toả ra một vùng nhỏ,toả vào ký ức nhớ những người thân đã khuất bóng.Gia đình cùng đọc kinh rồi im lặng để hình ảnh người đã khuất hiện dần lên trong trí nhớ. Những kỷ niệm lung linh nhập nhoà, bởi hình hài thể phách vật chất không còn nữa. Nơi đây là thế giới của tan rã, chỉ có bụi đất và cỏ cây,những người chết không còn nói năng,ăn uống, đi đứng, cảm xúc, nghĩ ngợi, nổi niềm, không ham muốn, không lo âu, không hoạch định không gắng sức. Họ đã bước vào cõi đời đời sau khi đã đi qua thế giới hữu hạn, họ trải qua mùa đông ảm đạm của sự chết để đi vào mùa xuân vĩnh cửu của sự sống thiên quốc. Như hạt lúa gieo xuống lòng đất tuy có bị thối đi nhưng chính từ trong hạt giống bị chết đi đó, môt cây lúa mới mọc lên, con người cũng vậy, chỉ có thể bước vào sự sống đời đời qua ngưỡng cửa sự chết.
Trong Phúc Am, các phụ nữ đã đến thăm mồ Chúa và các bà được Thiên sứ báo tin Người đã phục sinh. Các bà đã thấy chính Chúa Phục sinh xuất hiện ngay bên nấm mộ sự chết. Vậy thì hôm nay, khi cùng nhau cử hành thánh lễ nơi nghĩa trang - Đất Thánh, bên phần mộ những người thân yêu đã chết, người Kitô hữu chúng ta lắng nghe lời Đấng Phục Sinh khẳng định :Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống,ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống.Ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết. Và chúng ta cũng thưa với Chúa Giêsu như Macta xưa rằng :Lạy Chúa,con tin Thầy là Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống, Đấng phải đến thế gian.
Tạ ơn Chúa vì Chúa đã chết và sống lại để tiêu diệt sự chết và trao ban sự sống bất diệt cho chúng ta.Tạ ơn Chúa vì tình thương Người đã quy tụ chúng ta lại chung quanh bàn Tiệc Ly của Người để chúng ta hiệp thông với nhau,hiệp thông giữa những người đang sống và những người đã an giấc nơi đây đang được chiêm ngưỡng Chúa và hăng liên kết với chúng ta trong mối dây liên hệ mới bền vững muôn đời.
LmGiuse Nguyễn Hữu An
------------------------------
VietCatholic News (29/10/2004 )
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ (1/11)
Bài đọc 1: Kh 7, 2-4. 9-14
Bài đọc 2: 1 Ga 3, 1-3
Tin mừng: Mt 5, 1-12a
Ơn gọi nên thánh của mỗi Kitô hữu
Hôm nay có thể nói được là một trong những ngày quan trọng nhất, và vui nhất của từng người chúng ta, bởi vì hôm nay là ngày mà Giáo Hội mừng trọng thể chung tất cả các thánh, trong đó có thánh bổn mạng của chúng ta, có tổ tiên, ông bà, cha mẹ và những người thân yêu của chúng ta. Hiểu như thế, mỗi người chúng ta đều có sự liên đới trong Thánh Lễ hôm nay.
Mặt khác, khi tham dự Thánh lễ này, mỗi người chúng ta còn được nhắc nhớ một điều quan trọng: ơn gọi nên thánh không chỉ dành riêng cho một hạng người nào mà là cho hết thảy từng người chúng ta, những người đã được lãnh nhận phép Rửa trong Đức Giêsu Kitô. Từ ngày lãnh nhận phép Rửa, tất cả chúng ta đều nhận được lời mời gọi của Đức Giêsu: “Các ngươi hãy nên trọn lành như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5, 48).Do đó, trong phần chia sẻ lời Chúa hôm nay, tôi muốn cùng quý ông bà anh chị em tìm hiểu một đôi nét về Ơn gọi của người kitô hữu chúng ta.
1. Ơn gọi kitô hữu, ơn gọi nên thánh:
Do tội nguyên tổ và cả tội riêng từng người chúng ta, mỗi người chúng ta đã lãnh lấy án phạt và án phạt nặng nề nhất là cái chết. Thế nhưng vì yêu thương, Thiên Chúa đã cho con của Ngài xuống thế để chuộc tội cho chúng ta. Và không chỉ chuộc tội, Ngài còn cho ta được diễm phúc làm con Thiên Chúa như lời thánh Phaolô: “Đức Kitô (Ngài) đã bị phó nộp vì các lỗi lầm của ta, và đã sống lại vì là để ta được giải án tuyên công” (Rm 5, 25). Vâng, nhờ Đức Kitô, chúng ta được “giải án, tuyên công”, nghĩa là chúng ta không chỉ được “giải án” là tha tội, mà còn được “tuyên công”, được nhận làm nghĩa tử của Thiên Chúa, như lời thánh Phaolô: “Vì chưng phàm ai được Thần Khi Thiên Chúa dẫn đưa, thì họ là con cái Thiên Chúa… Nhờ đó ta kêu lên Abba, lạy Cha! Chính Thần Khí chứng thực cho thần hồn chúng ta rằng: chúng ta là con cái Thiên Chúa” (Rm 8, 14. 15b-16). Chúng ta được mời gọi làm con Thiên Chúa, nghĩa là chúng ta được mời gọi trở nên thánh, vì Cha chúng ta là Đấng ba lần Thánh, như chúng ta vẫn tuyên xưng trong lời Tiền tụng của mỗi Thánh lễ: “Thánh, Thánh, Thánh…”(x. Is 6, 6).
Như thế, tất cả chúng ta, những người đã lãnh nhận phép Rửa đều có chung một ơn gọi: Ơn gọi nên thánh. Ơn gọi này là do tình yêu nhưng không của Thiên Chúa dành cho từng người chúng ta như lời thánh Gioan chúng ta vừa nghe: “Các con hãy coi tình yêu của Chúa Cha đối với chúng ta là thế nào, khiến chúng ta được gọi là con Thiên Chúa và thực sự là thế… Và bất cứ ai đặt hy vọng nơi Người, thì tự thánh hoá mình cũng như Người là Đấng Thánh”. Hơn nữa, ơn gọi nên thánh này không giới hạn cho một hạng người nào hay một giai cấp nào, nhưng là cho hết thảy mọi người. Điều này được thánh Gioan diễn tả bằng những hình ảnh thật sinh động trong sách Khải huyền như sau: “Tôi thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng. Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế.”.
Thiên Chúa không chỉ mời gọi từng người chúng ta nên thánh, nhưng Ngài còn chỉ cho chúng ta một con đường, một cách thế để nên thánh, đó là con đường “Bát phúc” mà chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng.
2. Bát phúc, con đường nên thánh:
Bát phúc hay đơn giản hơn “Tám mối phúc thật” là lời kinh mà có lẽ nhiều người trong chúng ta đã thuộc nằm lòng từ tấm bé ở các lớp giáo lý. Thế nhưng, tại sao chúng ta vẫn chưa nên thánh? Tôi thiết nghĩ có lẽ vì hai lý do sau: Thứ nhất vì quá quen nên chúng ta không nhận ra điều quý giá của nó. Nó cũng giống như muối trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Muối rất rẻ và dễ kiếm, nhất là đối với địa phương của chúng ta, nên chúng ta không cảm thấy quý, nhưng chúng ta thử nghĩ xem: nếu một tháng hay đơn giản hơn, chỉ một ngày không có muối, không biết đời sống của chúng ta sẽ ra sao.
Thứ hai có lẽ vì ngại vất vả, sợ mất mát những quyền lợi trước mắt…, nên chúng ta không dám thực hành điều mà con đường “Bát phúc” đòi hỏi. Chúng ta biết con đường nên thánh, nhưng không thực hiện, thì cũng giống như người học võ chỉ biết khẩu quyết, lý thuyết mà không một lần luyện tập thì khi lâm trận, tất cả những khẩu quyết đó chẳng giúp ích gì cho bản thân mình cả.
Con đường “Bát phúc” này đòi hỏi chúng ta sống hiền lành, có tinh thần nghèo khó, đói khát sự công chính, lòng thương xót, lòng trong sạch, ăn ở thuận hoà, tác tạo hoà bình, sẵn sàng chịu bách hại vì lẽ công chính. Khi đọc bản liệt kê này, có thể chúng ta sẽ suy nghĩ: “Chúa đòi hỏi nhiều quá, ai mà theo nổi”. Rồi cứ thế, chúng ta cứ sống theo những lý luận, những suy nghĩ của chúng ta. Muốn đi trọn con đường “Bát phúc” theo lời mời gọi của Thiên Chúa, tôi thiết nghĩ, từng người chúng ta phải từ bỏ chính “cái tôi” của mình. Từ bỏ “cái tôi” là con đường Đức Giêsu đã đi như lời thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu thành Philipphê: “Ngài đã huỷ mình ra không,… Ngài đã hạ mình thấp hèn, trở thành vâng phục cho đến chết, và là cái chết thập giá” (Pl 2, 7a. 8). Thập giá là mầu nhiệm tự huỷ cao nhất của Đức Giêsu. Các thánh cũng đã đi con đường tự huỷ này, thánh Phaolô đã khẳng định: “Tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Từ bỏ “cái tôi”, chúng ta sẽ không còn tự ái, ghen ghét, ích kỷ, hận thù, tham lam, nóng giận…
Trong các bài hát sinh hoạt của các bạn trẻ, tôi thấy có một bài hát với tựa đề: “Tôi” rất có ý nghĩa: “Kiêu căng, tôi sắc sảo. Tôi thành tôi sắc tối. Huênh hoang, tôi huyền hoặc. Tôi thành tôi huyền tồi. Tự ái tôi nặng nề. Tôi thành tôi nặng tội. Khiêm tốn, tôi mỉm cười. Đơn giản tờ ôi tôi.”. Đúng như vậy, một khi tôi còn kiêu căng, tôi là “tôi sắc tối”. Lúc tôi còn tự ái, tôi trở thành “tôi nặng tội”. Những khi tôi huênh hoang, tôi trở thành “tôi huyền tồi”. Nhưng khi tôi khiêm tốn, tôi đúng thật sự là tôi, một con người mang hình ảnh của Thiên Chúa. Lúc đó, trong chúng ta sẽ chỉ còn cái tôi yêu thương, tôi bác ái, tôi chia sẻ, tôi tha thứ, tôi nhường nhịn, tôi khiêm tốn, tôi liên đới với người khác và hướng về Thiên Chúa…
Tóm lại, trở thành kitô hữu, mỗi người chúng ta đều nhận được ơn gọi trở nên thánh. Đây quả là con đường hẹp, nhưng là con đường dẫn đến sự sống. Đó là con đường hẹp, nhưng không phải là con đường không thể đi. Chính Đức Giêsu đã đi, và cùng với Ngài có một đoàn đông đảo các thánh cũng đã đi con đường này. Con đường này đòi hỏi nhiều hy sinh như lời sách Khải huyền: “Họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy trắng áo trong máu Con Chiên”. Những hy sinh, những cố gắng này, tự sức mình, chúng ta không thể thực hiện được, nhưng với ơn Chúa thì lại là chuyện có thể. Đức Giêsu đã mời gọi chúng ta: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng. Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi.” (Mt 11, 28).
Giờ đây, trong niềm vui mừng, tin tưởng, và cậy nhờ lời bầu cử của các thánh trong mầu nhiệm các thánh thông công, chúng ta tin chắc rằng: nếu chúng ta kiên trì đi con đường “Bát phúc”, bằng cách từ bỏ cái tôi ích kỷ của mình, chúng ta sẽ chu toàn ơn gọi nên thánh của mình. Như thế, vào ngày sau hết, tất cả chúng ta sẽ được hưởng hạnh phúc cùng các thánh trên Nước Trời muôn đời. Amen.
Lm Trần Thanh Sơn
------------------------------