Suy Niệm Tin Mừng Lễ Thánh Gia ABC Bài 51-100 Thánh Gia, một gia đình gương mẫu về mọi mặt.
------------------------- Năm A:
Lời Chúa: Mt 2, 13-15. 19-23: Hãy đem Con Trẻ và mẹ Người trốn sang Ai-cập
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi các đạo sĩ đã đi rồi, thiên thần Chúa hiện ra với ông Giuse trong lúc ngủ và bảo ông: "Hãy thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và ở đó cho tới khi tôi báo lại ông, vì Hêrôđê sắp sửa tìm kiếm Hài Nhi để sát hại Người". Ông thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người lên đường trốn sang Ai-cập đang lúc ban đêm. Ông ở lại đó cho tới khi Hêrôđê băng hà, hầu làm cho trọn điều Chúa dùng miệng tiên tri mà phán rằng: "Ta gọi con Ta ra khỏi Ai-cập". Bấy giờ Hêrôđê thấy mình bị các đạo sĩ đánh lừa, nên nổi cơn thịnh nộ và sai quân đi giết tất cả con trẻ ở Bêlem và vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo thời gian vua đã cặn kẽ hỏi các đạo sĩ. Thế là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia đã nói: Tại Rama, người ta nghe những tiếng khóc than nức nở, đó là tiếng bà Rakhel than khóc con mình, bà không chịu cho người ta an ủi bà, vì các con bà không còn nữa.
Khi Hêrôđê băng hà, thì đây thiên thần Chúa hiện ra cùng Giuse trong giấc mơ bên Ai-cập và bảo: "Hãy chỗi dậy, đem Con Trẻ và mẹ Người về đất Israel, vì những kẻ tìm hại mạng sống Người đã chết". Ông liền chỗi dậy, đem Con Trẻ và mẹ Người về đất Israel. Nhưng nghe rằng Arkhêlao làm vua xứ Giuđa thay cho Hêrôđê là cha mình, thì Giuse sợ không dám về đó.
Ðược báo trong giấc mộng, ông lánh sang địa phận xứ Galilêa, và lập cư trong thành gọi là Nadarét, để ứng nghiệm lời đã phán qua các tiên tri rằng: "Người sẽ được gọi là Nadarêô".
Năm C:
Phúc Âm: Lc 2,41-52: "Hai Ông Bà gặp Chúa Giêsu đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Hằng năm cha mẹ Chúa Giêsu có thói quen lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua. Lúc bấy giờ Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, cha mẹ Người đã lên Giêrusalem, theo tục lệ mừng ngày lễ Vượt Qua. Và khi những ngày lễ đã hoàn tất, hai ông bà ra về, trẻ Giêsu đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Người không hay biết. Tưởng rằng Người ở trong nhóm các khách đồng hành, hai ông bà đi được một ngày đàng, mới tìm kiếm Người trong nhóm bà con và những kẻ quen biết. Nhưng không gặp thấy Người, nên hai ông bà trở lại Giêrusalem để tìm Người. Sau ba ngày, hai ông bà gặp thấy Người trong đền thờ đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ, nghe và hỏi các ông. Tất cả những ai nghe Người nói đều ngạc nhiên trước sự hiểu biết và những câu Người đáp lại. Nhìn thấy Người, hai ông bà đã ngạc nhiên, và mẹ Người bảo Người rằng: "Con ơi, sao Con làm cho chúng ta như thế ? Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con". Người thưa với hai ông bà rằng: "Mà tại sao cha mẹ tìm Con ? Cha mẹ không biết rằng Con phải lo công việc của Cha Con ư ?" Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói. Bấy giờ Người theo hai ông bà trở về Nadarét, và Người vâng phục hai ông bà. Maria mẹ Người ghi nhớ những việc đó trong lòng. Còn Chúa Giêsu thì tiến tới trong sự khôn ngoan, tuổi tác và ân sủng, trước mặt Thiên Chúa và người ta. - Ðó là Lời Chúa. ---------------------------------------
Lễ Thánh gia năm này mang một ý nghĩa đặc biệt, vì trên bình diện quốc tế thì Giáo hội Công giáo toàn cầu đang hướng về cuộc gặp mặt quốc tế lần thứ 4 của các gia đình công giáo tại Manila (Philíppin) vào cuối tháng 1.2003, trên bình diện quốc gia thì 25 giáo phận của Giáo hội Việt Nam có Thư Mục Vụ của Hội đồng Giám Mục Việt Nam ban hành ngày 11.10.2002 và trên bình diện địa phương thì Giáo phận Sàigòn có thêm Thư Mục vụ Mùa Vọng của Đức Tổng Giám mục Sàigòn công bố ngày 30.11.2002. Cả hai Thư Mục vụ trên đều nói về Hôn Nhân và Gia đình. Do đó việc lắng nghe, tìm hiểu và sống Lời Chúa ngày Lễ Thánh Gia năm nay càng thêm động lực thúc đẩy mỗi người chúng ta.
* TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1. Thánh Giuse và Mẹ Maria đã vâng giữ Lề Luật một cách gương mẫu và sống tin cậy phó thác cách triệt để vào Thiên Chúa:
Không thua kém các tổ phụ được nêu trong sách Sáng thế và Thư gửi tín hữu Do Thái - là Apraham và Xara - Thánh Giuse và Mẹ Maria đã một lòng một dạ tuân giữ các điều Luật qui định trong Đạo và sống tin cậy phó thác vào Đức Chúa và kế hoạch nhiệm mầu của Người nơi Con Trẻ Giêsu. Việc hiến dâng Con Đầu Lòng cho Thiên Chúa và việc đón nhận các lời tiên tri của Ong Simêon và bà Anna là hai mặt của một biến cố. Bí mật về Con Trẻ “được bật mí” một cách hết sức bất ngờ và khốc liệt không thể tưởng tượng nổi. Hài Nhi Giêsu là Cứu Chúa của muôn dân nhưng cũng là đối tượng của chống báng, từ chối và phân hóa. Ngay từ những ngày đầu của thời thơ ấu của Con, niềm vui đã gắn kết chặt chẽ với nỗi đau khôn lường trong lòng Mẹ.
2. Thánh gia Nadarét là gương mẫu và nguồn sức mạnh của mọi gia đình:
Khi nghĩ hay nói đến Thánh gia Nadarét, nhiều người chúng ta chỉ nghĩ đến sự vinh quang và đời sống thánh thiện của ba thành viên của gia đình ấy -Giêsu, Maria và Giuse- mà quên bẵng đi những nỗi vất vả và khổ đau, những thử thách cam go mà ba Đấng ấy đã phải gánh chịu. Vì thế mà chúng ta không thấy được sự gần gũi và tương đồng giữa Thánh Gia thất và gia đình chúng ta. Nếu chỉ nhìn vào sự thánh thiện của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse làm sao chúng ta noi gương bắt chước cho được? Nhưng nếu chúng ta nghĩ đến cảnh Thánh Giuse thấy người bạn đời của mình có thai ngoài kế hoạch của hai người hay cảnh Thánh Giuse không tìm được chỗ trọ cho Đức Maria ở Bêlem khi giờ sinh ra đã gần kề hay cảnh Con Trẻ mới sinh được đặt trong máng cỏ trong chốn náu thân của đàn gia súc, hay cảnh hai ông bà đem con chạy trốn khỏi sự lùng bắt giết hại con trẻ của nhà vua thì chúng ta thấy gia đình Nadarét đã trải qua những khoảnh khắc nghiệt ngã giống như những cảnh huống đời thường của gia đình chúng ta ngày nay.
Hoặc nếu chúng ta hình dung cảnh lao động vất vả của hai cha con người thợ mộc kiêm thợ nề là Thánh Giuse và Chúa Giêsu trong thôn xóm nhỏ bé Nazareth thì chúng ta thấy cảnh lao động của các ngài cũng giống hệt như cảnh lao động của hàng triệu triệu con người trong các xã hội. Hoặc nếu chúng ta nghĩ đến cảnh Chúa Giêsu xuất hiện công khai, rao giảng Nước Chúa, nay đây mai đó, lang thang khắp xóm khắp làng, đi hết đầu đường xó chợ... để tìm kiếm chiên lạc và đem chúng về thì chúng ta thấy Chúa vất vả cực khổ hơn các nhà giảng đạo ngày nay bội phần. Nhất là cảnh Đức Maria đi bên cạnh Con trên đường lên Golgotha và thấy Con ngã lên ngã xuống dưới sức nặng của thập gía và rồi cảnh Mẹ đứng lặng bên chân thập giá mà Con Mẹ bị treo trên đó, thì chúng ta mới thấy cảnh ấy khủng khiếp kinh hoàng như thế nào đối với một người phụ nữ làm Mẹ.
Nói tóm lại, có nhiều người, nhiều gia đình phải sống những hoàn cảnh khắt khe nghiệt ngã, nhưng có lẽ chưa có ai, chưa có gia đình nào phải sống những cảnh mà Thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu đã sống. Chính vì thế mà chúng ta mới tin chắc rằng các Ngài hiểu chúng ta hơn ai hết, các Ngài cảm thông nỗi nhọc nhằn cơ cực của chúng ta và sẵn sàng giúp đỡ chúng ta nếu chúng ta chạy đến với các Ngài.
* SỐNG LỜI CHÚA
Khi gặp những cảnh khốn khó về mặt này mặt khác trong cuộc sống gia đình, con có chạy đến với Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse để chia sẻ với các Ngài những nỗi niềm tâm sự, những khó khăn thử thách và nài xin các Ngài hỗ trợ gia đình con không?
* CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA
Lạy Thánh Gia Nazareth, là gương mẫu của đời sống thánh thiện, công bình và yêu thương, xin cho gia đình chúng con trở nên nơi đào tạo nhân đức, trong hiền hoà, phục vụ và cầu nguyện. Xin cho chúng con xây dựng gia đình, thành nơi an ủi cho cuộc đời đầy thử thách. Xin cho chúng con biết làm cho mọi người trong gia đình, được thăng tiến để góp phần vào việc phát triển xã hội, và cộng tác trong việc xây dựng Giáo hội.
Xin Ba Đấng luôn hiện diện trong gia đình chúng con, khi vui cũng như lúc buồn, khi làm việc cũng như lúc nghỉ ngơi, khi lo âu cũng như lúc hy vọng, khi sinh con cũng như lúc có kẻ qua đời, để khi trải qua mọi thăng trầm của cuộc sống, chúng con luôn luôn chúc tụng Chúa, cho đến ngày được sum họp với Ba Đấng trong Nước Trời. Amen .
Hôm nay chúng ta mừng kính Thánh Gia Thất: Chúa Giêsu, Đức Bà và Thánh Giuse, một gia đình gương mẫu cho mọi gia đình trên thế giới. Bài Tin Mừng cho chúng ta một hình ảnh của đời sống gia đình, dù đó là gia đình Thánh. Các Ngài đã chu toàn lề luật Do Thái lúc đó: "Đủ ngày thanh tẩy theo luật Môisen, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa... và cũng để dâng lễ vật cho Chúa". Chính tại nơi đó Thánh Thần Chúa đã tỏ cho ông Simêon và và Anna về ơn Cứu Độ của Thiên Chúa đối với dân Người. Cũng tại nơi đây, được ơn linh ứng, ông già Simêon đã tiên báo về sự tham gia của Đức Maria trong cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu sau này.
Nhìn vào xã hội ngày nay, nhiều nền tảng gia đình lung lay, rối loạn và khủng hoảng. Đây chính là lúc mỗi người tín hữu Kitô phải nhìn lại mình trong ơn gọi gia đình qua gương mẫu của gia đình Thánh Gia Thất mà củng cố gia đình trong đức tin và cuộc sống. Một trong những điều căn bản nơi hạnh phúc gia đình mà nhiều khi người ta quên lãng, tức mỗi thành viên gia đình biết trao tặng tình yêu thương và thời giờ cho nhau. Chúng ta thường mong đợi người khác quan tâm đến những nhu cầu vật chất và tinh thần của mình, nhưng chính chúng ta lại ít khi nhớ tới hoặc để ý tới nhu cầu của những người thân yêu của mình. Bởi vì tình yêu thương không phải là cho đi cái gì, mà chính là cho đi bản thân mình. Nhưng không thể nói được là chúng ta đã cho đi chính mình hay tận hiến nếu chúng ta còn là nô lệ "cái tôi" ích kỷ nơi chính bản thân mình. Bao lâu chúng ta biết biến đổi bản thân mình để chấp nhận một cuộc sống yêu thương nơi tương quan vợ chồng, cha mẹ với con cái, chúng ta sẽ thể hiện một sự tận hiến của tình yêu thương.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II hằng nhắc nhở chúng ta về sự thánh thiêng của gia đình khi ngài gọi gia đình là: "Nền tảng của Giáo Hội". Còn Đức Phaolô VI gọi gia đình là: "Cung Thánh của Giáo Hội", là "trường học đầu tiên của con cái, mà cha mẹ là thầy dạy". Thật vậy, gia đình là Giáo Hội đầu tiên, nơi tình yêu chung thủy của hai vợ chồng thể hiện như dấu chỉ tình yêu chung thủy giữa Chúa Kitô và Giáo Hội: gia đình nơi trẻ em được Rửa tội qua đức tin của cha mẹ, ông bà. Gia đình còn là trường học đầu tiên, nơi bàn ăn gia đình, các em được học hiểu ý nghĩa của Tiệc Thánh Thể trước khi các em được Rước lễ lần đầu; cũng nơi đó mỗi thành viên gia đình tha thứ cho nhau những lầm lỗi, để cho con cái học hiểu hiệu quả nơi nhiệm tích Hòa giải. Gia đình còn là nơi đặc biệt sống lời Chúa Giêsu đã phán: "Đâu có hai ba người hợp nhau cầu nguyện nhân danh Thầy, Thầy ở giữa họ" (Mt 18,20)
Như vậy, trong cuộc sống hôn nhân và gia đình, khi mỗi người chúng ta biết thành tâm tìm kiếm Chúa và phụng sự Ngài, chắc chắn mỗi gia đình sẽ thể hiện được ơn gọi sống Thánh giữa đời của mình, tìm được bình an hạnh phúc cho nhau ở trần gian và đạt được hạnh phúc vĩnh cửu quê trời. Vì Thiên Chúa luôn là chìa khóa của hạnh phúc nơi cuộc sống gia đình.
Ước mong mỗi bậc cha mẹ luôn là tấm gương của tình yêu chân thành, tình yêu vô vị lợi, của hy sinh, chấp nhận, tha thứ và quảng đại trong cuộc sống hôn nhân. Vì con cái chỉ có thể lớn lên, khôn ngoan, có ơn nghĩa cùng Thiên Chúa nếu như chúng cảm nhận một bầu khí thánh thiện đạo đức nơi cha mẹ, như gương lành của Đức Maria và Thánh Giuse khi xưa.
Ước mong con cái ngày nay biết nhìn gương Chúa Giêsu đã vâng lời khiêm hạ với Đức Mẹ và Thánh Giuse suốt 30 năm trường dưới mái nhà Nazareth để trở nên một tấm gương hiếu thảo cho mọi người con biết thực thi lệnh truyền của Thiên Chúa: Vâng lời và yêu mến cha mẹ. Vì niềm vui và hạnh phúc của cha mẹ cũng là nơi con cái mình.
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Chúa, nhóm lên trong mỗi phần tử trong gia đình ngọn lửa tình yêu Chúa để mỗi người biết sống trọn vẹn ơn gọi của mình, để gia đình chúng ta có hạnh phúc thật như gia đình Nazareth xưa. Amen
Thánh Giu-se, Đức Ma-ri-a và Chúa Giê-su lên đền thánh Giê-ru-sa-lem để chu toàn hai bổn phận theo luật Mô-sê : Một là làm lễ nghi thánh tẩy cho Đức Ma-ri-a sau khi sinh con và hai là dâng con trai đầu lòng là Giê-su cho Thiên Chúa. Trong dịp này Thánh Gia đã gặp được ông cụ Si-mê-on và cụ bà tiên tri An-na. Riêng ông Si-mê-on khi gặp gỡ Chúa Giê-su thì đã được đầy ơn Thánh Thần. Ong đã dâng một bài ca cảm tạ hồng ân Thiên Chúa đã ban cho ông được gặp Hài Nhi Cứu Thế như lời Chúa đã hứa. Ngài là "Anh sáng soi đường cho dân ngoại" và là "vinh quang của Is-ra-en dân Chúa". Cuối cùng ông cũng báo trước cho Đức Ma-ri-a về những đau khổ mà bà phải chịu đựng vì con trẻ sau này.
CHÚ THÍCH :
* Khi đã đến ngày lễ Thanh Tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong luật Chúa rằng : "Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa, và cũng để dâng của lễ theo luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non" (Lc 2,22-24) :
+ Lễ nghi Thanh Tẩy : Theo luật Mô-sê thì các phụ nữ có thai và sinh con đều ra ô uế và cần phải được thanh tẩy tại dền thờ, do vị tư tế cử hành, vào ngày thứ 40 nếu sinh con trai, hoặc ngày thứ 80 nếu sinh con gái (x.Lv 12,2-5). + Lễ nghi Dâng Con : Luật Mô-sê cũng đòi dân Is-ra-en phải hiến dâng cho Đức Chúa mọi con trai đầu lòng, dù là người hay thú vật, vì chúng thuộc về Chúa (x. Xh 13,2). Sở dĩ phải dâng con đầu lòng là để tỏ lòng biết ơn Đức Chúa xưa kia đã dùng cánh tay hùng mạnh cứu thoát dân Is-ra-en ra khỏi kiếp sống nô lệ lầm than cho người Ai-cập (x.Xh 13,12-14).
+ Một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non : Luật Mô-sê cũng đòi cha mẹ phải dâng một con chiên và một chim bồ câu non hay một con chim gáy làm của lễ toàn thiêu và của lễ tạ tội. Riêng người nghèo có thể thay chiên bằng chim gáy hay bồ câu non. Vị tư tế sẽ cữ hành lễ xá tội cho bà mẹ được thanh sạch (x. Lv 12,8). Qua lễ vật dâng là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non, chứng tỏ hai ông bà Giuse và Maria thuộc lớp người nghèo.
* Và này đây tại Giê-ru-sa-lem, có một người tên là Si-mê-on. Ông là người công chính và sùng đạo. Ông những mong chờ niềm an ủi của Is-ra-en, và Thánh thần hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa (Lc 2,25-26):
+ Có Thánh Thần ngự trên ông : trong Cựu Ước, khi nói Thánh Thần ngự xuống trên người nào thì có nghĩa là người ấy được chọn làm ngôn sứ để nói tiên tri, để đại diện Đức Chúa mà dạy dỗ dân Người. Ở đây ông Si-mê-on đóng vai trò ngôn sứ để tuyên sấm về tương lai của Hài Nhi Giêsu và của Đức Maria Mẹ Ngài.
+ Đấng Ki-tô của Đức Chúa : Đây là một danh hiệu của Đấng Thiên Sai. Ong Si-mê-on nói tiên tri về việc Chúa Giêsu sẽ được xức dầu thiêng liêng để trở thành Đấng Thiên Sai khi Ngài chịu phép rửa sám hối của Gioan Tẩy Giả trong nước sông Gio-đan. Từ đó Ngài bắt đầu thi hành sứ mệnh Thiên sai đã được tiên tri I-sai-a báo trước (x Lc 3,21-22; 4,17-19).
* Được Thần Khí dun dủi, ông lên đền thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục luật đã truyền liên quan đến Người, thì ông ẳm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng : "Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân : Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài".
+ Cha mẹ Hài Nhi Giêsu : Dù đã xác định Đức Maria thụ thai Hài Nhi Giêsu bởi quyền năng Thánh Thần, nhưng Luca vẫn dùng tiếng "cha mẹ" (x. Lc 2,27), và cả chữ "cha" hay "cha của con" nữa (x. Lc 2,33.48), vì "thiên hạ vẫn luôn coi Chúa Giêsu là con đẻ của ông Giu-se" (x. Lc 3,23).
+ Bài ca "An bình ra đi" : Trong bài này, các lời tuyên sấm của ông Si-mê-on về sứ mệnh của Hài Nhi Giêsu song đối với các lời tuyên sấm của ông Da-ca-ri-a về Gio-an Tẩy Giả (x. Lc 1,67-79), nhưng mượn ngôn ngữ của phần II sách I-sai-a. Ong Si-mê-on ngôn sứ cuối cùng của thời Cựu Ước, cùng với ông Da-ca-ri-a, chào mừng cuộc giáng lâm của Đấng Cứu độ, và mặc khải cho hai ông bà Giuse Maria về sứ mệnh mà Ngài sẽ hoàn thành.
+ Xin để tôi tớ này được an bình ra đi : Ong Si-mê-on cảm thấy mãn nguyện khi lời Chúa hứa sẽ cho ông không phải chết trước khi nhìn thấy Ơn Cứu Độ đã được ứng nghiệm nơi Hài Nhi Giêsu mà ông đang bồng ẵm trên tay. Do đó ông sẵn sàng ra đi, nghĩa là sẵn sàng chết trong sự thỏa mãn.
+ Ánh sáng soi đường cho dân ngoại : Dân ngoại cũng được Chúa thương ban ơn cứu độ giống như dân Do Thái (x. Lc 24,47).
* Cha và mẹ hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Si-mê-on vừa nói về Người. Ong Si-mê-on chúc phúc cho hai ông bà , và nói với bà Maria, mẹ của Hài Nhi : "Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Chúa còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. Còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra".
+ Và nói với bà Maria, Mẹ của Hài Nhi : Lời tuyên sấm của ông Si-mê-on chỉ dành cho Đức Maria. Lời này sẽ được ứng nghiệm vào lúc Chúa Giêsu chịu treo trên cây thập giá (x. Ga 19,25).
+ Là duyên cớ cho nhiều người Is-ra-en phải vấp ngã hay được đứng dậy : Hài Nhi Giêsu được ví như một tảng đá góc tường có khả năng hủy diệt những kẻ chống đối và cứu thoát những ai tin cậy nơi Ngài (x. Is 8,14; Lc 20,17-18). Chúa Giêsu là "tảng đá góc" sẽ phân chia thế giới thành hai phe đối nghịch nhau. Một phe tin nhận, yêu mến và đi theo Chúa thì sẽ được chỗi dậy để đón nhận Ơn Cứu Độ. Còn phe kia thì từ chối , thù ghét và bách hại Ngài và cuối cùng sẽ bị té ngã và bị "tảng đá góc" làm cho tan xương nát thịt (x.Lc 20,17-18).
+ Là dấu hiệu bị người đời chống báng : Hài Nhi Giêsu là Đấng Cứu Thế, nhưng Ngài không muốn áp đặt người ta phải tin. Ngài luôn tôn trọng quyết định tự do của mỗi người. Một số lớn thành phần lãnh đạo dân Is-ra-en, do sự cố chấp và cứng lòng nên sẽ bịt tai nhắm mắt lại và không muốn đón nhận Ơn Cứu Độ do Chúa Giêsu đem đến (x. Cv 28,26-27). Cùng với Chúa Giêsu, Đức Maria sẽ bị người đời chống báng. Nhưng qua đó, mọi người sẽ biểu lộ thâm tâm là họ ủng hộ hay chống đối Đức Giêsu.
+ Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Bà: Giống như ở nhiều chổ khác, tâm hồn ám chỉ cả con người. Vì Đức Maria là thiếu nữ Si-on thực sự, nên cuộc đời của Ngài sẽ mang dấu ấn đau khổ của số phận dân Ngài. Hình ảnh lưỡi gươm ở đây là lời tiên báo về cuộc thương khó của Chúa Giêsu sau này, khi Đức Maria đứng kề bên thập giá để cùng chia sẻ sự đau khổ với người con yêu (x.Ga 19,25).
* Lại cũng có một nữ ngôn sứ tên là An-na, con ông Pơ-nu-en, thuộc chi tộc A-se. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi . Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giê-ru-sa-lem (Lc 2,36-38) :
+ Bà không rời bỏ Đền Thờ : Bà là một người Ít-ra-en hoàn hảo : chuyên cần làm việc phụng sự Chúa và cầu nguyện (x. Tv 23,6).
+ Thiên Chúa cứu chuộc Giê-ru-sa-lem : Công việc cứu chuộc mà Hài Nhi Giêsu sẽ hoàn thành sau này, luôn có liên can đến thành Giê-ru-sa-lem là thủ đô của Ít-ra-en. * Khi ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Na-da-rét miền Ga-li-lê. Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa (Lc 2,39-40) :
+ Làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền : Hai ông bà Giuse và Maria là những người đạo đức thật sự , thể hiện qua việc tuân giữ Lề Luật trong từng chi tiết.
+ Về nơi cư ngụ là thành Na-da-rét : Na-da-rét là một làng nhỏ mà Cựu Ước không bao giờ nhắc đến (x. Ga 1,45-46). Sau khi sinh Hài Nhi Giêsu tại Bêlem gần Giê-ru-sa-lem , hai ông bà Giuse Maria đem con về nơi thường trú là làng Na-da-rét thuộc Xứ Ga-li-lê miền Bắc nước Do Thái. Trong thời gian giảng đạo, Chúa Giêsu đã được nhiều người nói đến qua tên gắn liến với làng quê của Ngài là Giêsu Na-da-rét (x. Mt 2,23; Mc 1,24; Lc 16,37;24,19; Ga 18,5;19,19; Cv 2,22).
+ Lớn lên, vững mạnh, khôn ngoan, ân nghĩa : Đây là những từ ngữ nói lên phẩm chất tốt đẹp của Chúa Giêsu đối xứng với Gioan Tẩy Giả là tiền hô của Ngài (x. Lc 1,80). Qua câu này, Luca tóm gọn thời gian ẩn dật của Chúa Giêsu trước khi ra giảng đạo vào năm 30 tuổi (x. Lc 3,23).
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA
1) PHẢI XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TRÊN TÌNH YÊU VÀ TÔN TRỌNG NHAU:
* Thánh Phao-lô khuyên bảo các tín hữu phải sống yêu thương nhau, nhờ đó họ sẽ biết tha thứ lỗi lầm cho nhau và sẽ sống trong bình an hạnh phúc. Các tín hữu phải dùng Lời Chúa mà khuyên bảo lẫn nhau và dâng lời ngợi khen cảm tạ ơn lành của Thiên Chúa (x. Cl 3,12-17). Tình yêu là "tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả".
+ Về quan hệ giữa đôi vợ chồng : "Người làm vợ phải phục tùng chồng. Như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ. Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa . Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức,kẻo chúng ngã lòng" (Cl 3,18-21). "Người làm chồng hãy yêu thương vợ, như Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh… Chồng phải yêu thương vợ như yêu thân thể mình. Ai yêu vợ là yêu chính mình... Còn vợ hãy biết kính trọng chồng mình" (Ep 5,25.28).
+ Về quan hệ giữa cha mẹ và con cái : "Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa : Để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này. Những bậc cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa, bằng cách khuyên răn và sửa dạy" (Ep 6,1-4).
* CÂU HỎI : Hãy cho biết tình trạng ly hôn nơi các đôi vợ chồng thường do những nguyên nhân nào ? Ly hôn như thế sẽ gây ra những hậu quả gì đối với bản thân mỗi người và con cái ?
2) THÁNH GIA NA-DA-RÉT, GƯƠNG MẪU CÁC GIA ĐÌNH TÍN HỮU :
Một gia đình tín hữu chỉ thực sự là một gia đình đạo đức thánh thiện khi biết noi gương Thánh Gia Na-da-rét như sau :
+ Chu toàn mọi điều theo Luật Chúa dạy : Các gia đình tín hữu muốn trở nên đạo đức thánh thiện cũng phải động viên nhau tuân giữ Mười điều răn Đức Chúa Trời , sáu điều luật Hội Thánh, nhất là sống "Giới Răn Yêu Thương" của Chúa Giêsu (x.Ga 13,34). Cụ thể là thực hành kinh Thương Người và kinh Hoà Bình. Các bậc cha mẹ cần nêu gương đạo đức cho con qua việc siêng năng dự lễ tại Nhà Thờ vào các ngày Chúa Nhật và Lễ Trọng. Ngoài ra, nếu có điều kiện cũng nên dự lễ cả các ngày thường trong tuần nữa.
+ Dâng con cho Thiên Chúa : Các gia đình tín hữu ngày nay cũng hãy dâng con cho Thiên Chúa, để xin Ngài ban phúc lành và gìn giữ chúng khỏi các thói hư tật xấu, nhất là khỏi nghiện xì-ke ma-túy. Mỗi buổi tối, cha mẹ nên chọn thời gian thích hợp để tổ chức đọc kinh tối gia đình. Giờ kinh chỉ nên vắn gọn vào khoảng 15 phút và phải có một câu Lời Chúa làm châm ngôn sống và một lời nguyện tự phát thích hợp với hoàn cảnh ngày hôm ấy. Cũng cần đọc chung một chục kinh Mân Côi theo chiều hướng canh tân. Ngoài ra, để củng cố Đức Tin cho con cái, cha mẹ phải cho con theo học các lớp giáo lý như Xưng Tội Rước Lễ Lần Đầu, Thêm Sức, Bao Đồng, Cựu Ước, Tân Ước, Vào Đời và Hôn Nhân...tùy theo lứa tuổi.
+ Sống đơn sơ nghèo khó nhưng tràn đầy hạnh phúc : Các gia đình tín hữu cũng có thể lâm vào tình trạng nghèo khó và gặp nhiều thử thánh đau khổ. Nhưng phải làm thế nào để gia đình luôn có Thiên Chúa là Tình Yêu ngự trị. Người chồng phải có tinh thần trách nhiệm bảo vệ an toàn cho gia đình cà về vật chấy cũng như tinh thần. Các người con phải thảo hiếu vâng lời cha mẹ để làm vui lòng các ngài (x. Lc 2,52). Dù gặp bất cứ hoàn cảnh nào, nếu gia đình biết noi gương Thánh Gia thì chắc chắn gia đình ấy sẽ là một Thiên Đàng đầy bình an, niềm vui và hạnh phúc.
* CÂU HỎI : Giáo Hội có quá khắc nghiệt không khi cương quyết không chấp thuận cho các đôi vợ chồng bất hạnh được phép ly hôn để xây dựng một gia đình mới?
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU.
1) Lạy Chúa ! Thật không gì đẹp bằng hình ảnh một đôi trai gái đang yêu nhau. Đối với họ thời gian như ngừng lại và không gian chỉ của riêng hai người. Với nét mặt vui vẻ rạng rỡ, với cuộc sống đẹp như vầng thơ. Như con tằm đang kén tơ, như người thợ đang dệt vải, hai bạn trẻ cũng đang dệt mộng mơ...Lạy Chúa ! Thật không gì hạnh phúc bằng : tay đan tay và đôi chân cùng sánh bước, lời trao lời trước bàn thờ để thắt chặt tơ duyên. Rồi hai người cùng xây dựng một gia đình mới. Giờ đây, chung quanh họ là thân nhân, là bè bạn. Kẻ thì cầu chúc người lại tụng ca. Kẻ đang tung hoa, người lại tặng quà...Lạy Chúa ! Rồi một ngày hai ngày, và một năm hai năm qua thật mau... mộng dần tan vỡ để đời thực lộ ra. Nào cá tánh và gia tộc, nào công việc và tiền nong, nào con cái...Oi ! Đối diện với bao vấn đề phải tự mình giải quyết. Hạnh phúc có, thất vọng nhiều, vất vả không thiếu, thậm chí có lúc muốn lìa nhau !...Nhưng xin Chúa cho đôi vợ chồng trẻ hiểu rằng :Niềm vui nào rồi cũng hết, nỗi buồn nào rồi cũng qua ! sau cơn mưa rồi trời lại sáng ! Họ cần phải luôn xác tín rằng : Chúa vẫn ở luôn bên cạnh. Ngài luôn sẵn sàng giúp đỡ. Tuy đời có nhiều vị đắng. Nhưng sẽ biến thành niềm vui. Một khi ta biết cậy trông, và khiêm nhường phó thác cho Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
2) Lạy Mẹ Maria . Mẹ đã nêu gương đạo đức thánh thiện cho chúng con qua thái độ siêng năng lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu Ý Chúa và sẵn sàng Xin Vâng. Mẹ cũng nêu gương yêu người cho chúng con qua việc đi bước trước đem Chúa là nguồn vui đến cho mọi người và khiêm tốn phục vụ tha nhân trong sự quảng đại và vô vụ lợi. Xin cho chúng con luôn sống theo Mẹ : Chăm chỉ lắng nghe Lời Chúa mỗi khi họp mặt. Cùng nhau tìm hiểu Ý Chúa và xin vâng như Mẹ xưa. Xin cho các gia đình chúng con được luôn hoà hợp hạnh phúc, ai nấy biết chu toàn bổn phận của mình. Xin cho chúng con luôn sống yêu thương bằng việc "tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả và chịu đựng tất cả". Xin đừng để một gia đình nào bị đổ vỡ hạnh phúc và đi đến chỗ phải chia lìa và phân tán.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Lễ Thánh Gia 2002 đến với chúng ta hôm nay quả thực là đúng thời, đúng lúc, vì thời buổi ngày nay, trong nước cũng như ở hải ngoại, gia đình Công giáo Việt-nam hiện đang và đã gặp nhiều rạn nứt, nếu không nói trầm trọng. Tình yêu vợ chồng, tình mẹ cha, con cái... không còn được khăng khít như xưa. Vì đâu? Vì xã hội quê hương đã biến hóa, làm cho rất nhiều gia đình tan tác, con cái nhỏ tuổi lại chỉ còn biết đi kiếm ăn; giá trị truyền thống yêu thương, hiếu đễ của cha ông, đã bị đảo ngược; hoặc vì bị ngoại cảnh văn minh vật chất của nước người, chỉ chạy theo hưởng thụ khoái lạc; vì nhiều tà thuyết ra đời hô hào cuộc sống mới như tự do kết hôn, tự do ly dị như ta thấy dưới đây.
BỨC TRANH ẢM ĐẠM
Linh Mục Augustine S.J trong bài Suy niệm Lễ Thánh Gia năm 1999, đã nhập đề, trước khi nói đến nhìn lên gương thánh thiện của gia đình Nagiarét:
«Mừng lễ Thánh gia năm nay (1999) người Công giáo Việt Nam biết rõ hình ảnh gia đình ở VN cũng như trên thế giới không mấy rực rỡ qua các phương tiện truyền thông.» Rồi ngài nhắc đến vụ «cậu bé Đỗ như Hàn (Johnathan Prevette) 6 tuổi, đã bị đình chỉ đến trường vì vi-phạm chính sách khuấy rối tình dục. Còn ở Việt Nam, dư luận chưa hết sôi nổi vì những vụ gia đình nghèo, nên đã gả con cho người ngoài, bất kể tới hạnh phúc của con, thậm chí còn có bố mẹ cho con đi phục vụ khách hàng du lịch tình dục ở một nước bên cạnh...» (Vietcatholic 26.12.1999)
Và ngày nay, bốn năm sau, ta còn có thể kê thêm nhiều trường hợp đau thương không kém: tình vợ chồng (tương lai) không do tình yêu định đoạt, nhưng do tiền bạc chàng trai giàu có, bỏ ra trước để nuôi người con gái nghèo, ham học. Hai bên ký giao kèo sẽ làm lễ cưới sau khi nàng dùng tiền của chàng để học và thi đỗ vào đại học! Nếu rủi ra, nàng không chịu lấy chàng ân nhân cao-cả hào hùng đó, khi đã đỗ đạt, thì nàng phải bồi tiền gấp đôi cho chàng để «dứt nợ trần ai!». Rất nhiều cô gái nghèo tiền bạc, nhưng giàu thông minh, đã phải rơi vào «hũ gạo» đau thương đó!!!
NẠN LY DỊ
Tài liệu Hội nghị giáo hoàng về gia đình họp trong tháng 10.2002, đã đưa ra nhận định đáng buồn về vợ chồng ngày nay ly dị quá dễ dàng: «(...) Sự tan rã quá sớm về sự trói buộc vợ chồng là một đặc điểm của thời đại chúng ta, khắp nơi và làm cho xã hội trở nên lung lay. Sự ly dị dễ dàng làm suy yếu tình vợ chồng. (...) Ly dị không chỉ là một khủng hoảng nhất thời, nhưng ảnh hưởng lâu dài và sâu xa đến những người trong cuộc. Việc cắt đứt và hủy bỏ mọi liên lạc giao tiếp, luôn để lại những vết không bao giờ hàn gắn được.
(...) Hội nghị nhắc đến hiện trạng thế giới càng ngày càng thiên về vật chất, và nhiều gia đình tan rã vì lý do tài chánh, cũng như những lớp chống đối chỉ trích của lớp người đòi hỏi tự do phóng túng sai lầm, không dám dấn thân, không muốn sống chung và đặt nặng vấn đề tình dục...
(...) Hội nghị tin tưởng rằng nền văn hóa hiện tại cổ động lối sống mới, thời trang mới, giải trí mới, làm cho người ta ngờ vực giá trị hôn nhân và phát triển ý tưởng «việc kéo dài tình vợ chồng đến trọn đời là một ảo tưởng». (Vietcatholic News 13.11.02)
PHƯƠNG THUỐC
Trước tình trạng suy đồi của nhiều gia đình Công giáo Việt Nam (vì không phải tất cả), chỉ còn một phương thuốc: «phải đặt lại nấc thang giá trị: Tình yêu không chỉ là tình dục và khoái lạc, nhưng là một kế hoạch cho cuộc sống lứa đôi bằng cách hợp nhất và tương trợ cởi mở» (Hội nghị giáo hoàng)
Ta có thể đi xa hơn nữa: phải đặt để tình yêu gia đình, vợ chồng con cái trong tình yêu của Thiên Chúa đối với Giáo Hội, trong tình yêu Thiên Chúa đối với mỗi gia đình. Hãy sống lại bí tích hôn nhân lãnh nhận ngày mới thành hôn; hãy biết yêu thương chân thành thì biết tha thứ, hy sinh, chịu đựng, dạy dỗ con cái vì tương lai hạnh phúc của con mình, chứ không vì mình được nở mặt nở mày với thiên hạ, để được lợi lộc, được có tiếng con tôi thế này, thế kia. Tình yêu chân thật là tình yêu nghĩ đến kẻ khác, nghĩ đến kẻ mình yêu, chứ không nghĩ đến chính mình!
Ta hãy mượn Lời Phụng vụ lễ Thánh gia hôm nay để cầu xin Chúa ban cho ánh sáng và sức mạnh thi hành điều Chúa mong đợi:
«Lạy Chúa, Chúa đã muốn ban cho chúng con Thánh gia để làm mẫu mực, xin cho chúng con, noi gương ba đấng để thực hành nhân đức đời sống gia đình, và liên kết với tình yêu Chúa, trước khi chúng con được đoàn tụ đời đời trong niềm vui của nhà Cha» (Lời Nhập Lễ)
«Lạy Chúa, khi dâng của lễ làm hòa chúng con với Chúa, chúng con khiêm cung cầu xin: nhờ lời cầu của Maria, Mẹ Thiên Chúa, và lời cầu của thánh Giuse, Chúa củng cố gia đình chúng con trong ơn Chúa và ban cho chúng con được bình an» (Lời Dâng lễ).
1. Thiên Chúa có ba ngôi, sống và yêu thương nhau tương tự như trong một gia đình. Như vậy gia đình phải chăng là hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi? Nếu như thế, gia đình phải sống thế nào mới đúng bản chất của mình?
2. Lý do thông thường nhất khiến cho một gia đình trở nên bất hạnh là gì? Muốn gia đình trở nên hạnh phúc phải bắt đầu từ đâu?
3. Vai trò của gia đình trong việc huấn luyện con người biết yêu thương như thế nào? Vậy, các bậc cha mẹ phải tập cho con cái yêu thương như thế nào?
Suy tư gợi ý:
1. Gia đình là hình ảnh của Ba Ngôi Thiên Chúa
Nếu con người là hình ảnh của Thiên Chúa, thì có thể nói rằng gia đình là hình ảnh của Ba Ngôi Thiên Chúa. Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa sống đơn độc, mà là một Thiên Chúa mang tính gia đình, trong đó Ba Ngôi khác biệt nhau nhưng yêu thương nhau, sống chung, làm việc chung, và kết hợp với nhau thắm thiết như trong một gia đình, tới mức độ tuy là Ba Ngôi nhưng chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Nếu Thiên Chúa là tình yêu, thì «Tập Thể Ba Ngôi» là một môi trường để Ba Ngôi Thiên Chúa thể hiện tình yêu của mình với nhau. Vì Ba Ngôi yêu thương nhau vô cùng, nên sự hiệp nhất của Ba Ngôi đạt được mức độ tối đa là trở thành một Thiên Chúa duy nhất. Tình yêu và sự hiệp nhất ấy tạo nên thiên đàng hay hạnh phúc của Ba Ngôi.
Cũng vậy, nếu gia đình là hình ảnh của Ba Ngôi, thì mọi thành viên trong đó phải yêu thương nhau, hòa hợp với nhau đến mức hiệp nhất với nhau. Nhờ đó gia đình trở thành một thiên đàng tại thế. Như vậy, mọi thành viên của gia đình đã được hưởng nếm trước phần nào hạnh phúc của thiên đàng mai sau. Hạnh phúc trong những gia đình yêu thương nhau - được biểu lộ và hình thành cụ thể bằng việc quan tâm, lo lắng và hy sinh cho nhau - chính là hình ảnh trung thực của thiên đàng vĩnh cửu. Trái lại, nếu các thành viên trong gia đình không yêu thương nhau, không sẵn sàng hy sinh cho nhau, thì họ sẽ biến gia đình thành hỏa ngục tại thế, là hình ảnh của hỏa ngục vĩnh cửu. Trong 8 cái khổ mà Đức Phật kể ra, có cái khổ gọi là «oán tắng hội khổ», nghĩa là khổ vì không ưa nhau, ghét nhau mà lại phải sống chung với nhau.
2. Tính ích kỷ, nguồn gốc bất hạnh của mọi gia đình
Nhìn vào bất cứ một gia đình bất hạnh nào - nghĩa là một gia đình không hạnh phúc - ta luôn luôn thấy bóng dáng tính ích kỷ của một thành viên nào đó trong gia đình. Chính tính ích kỷ của thành viên này là nguồn gây nên đau khổ trong gia đình. Nếu thành viên ích kỷ ấy là người cha hay người mẹ, thì đau khổ trong nhà sẽ hết sức lớn lao. Gia đình nào càng có nhiều người ích kỷ, gia đình ấy càng bất hạnh. Gia đình mà càng có nhiều người sống vị tha, biết hy sinh cho người khác, gia đình ấy càng ít bất hạnh. Một gia đình mà mọi thành viên đều vị tha, đều quan tâm, chăm sóc và hy sinh cho nhau, đều sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho nhau, gia đình ấy chắc chắn hạnh phúc.
Câu chuyện minh họa về thiên đàng và hỏa ngục sau đây thật phù hợp với thiên đàng và hỏa ngục của gia đình. Cả thiên đàng và hỏa ngục đều dùng bữa với những thức ăn y như nhau, trong khung cảnh giống y hệt nhau, trong đó mỗi người đều phải dùng một đôi đũa dài cả thước để ăn. Thiên đàng và hỏa ngục chỉ khác nhau ở chỗ này: trên thiên đàng, mọi người không ai tự gắp thức ăn cho mình, mà gắp cho người khác ăn, vì thế, ai cũng được ăn no. Còn trong hỏa ngục, mọi người chỉ biết nghĩ đến mình, chỉ biết gắp thức ăn cho mình, nhưng vì đũa quá dài, chẳng ai gắp cho mình được gì cả, thế rồi chẳng ai được no, hết giờ ăn mà đói vẫn hoàn đói, từ đó họ trở nên căm thù nhau. - Cũng vậy, trong gia đình, không ai tự tạo hạnh phúc cho mình được mà không cần đến người khác, nên nếu ai cũng chỉ biết lo cho hạnh phúc của mình, thì chẳng ai hạnh phúc cả, và rồi sẽ phát sinh đủ thứ đau khổ. Tuy nhiên trong gia đình, người ta có thể tạo hạnh phúc cho người khác, vì thế, nếu mọi người trong nhà đều biết lo cho nhau, tạo hạnh phúc cho nhau, thì ai nấy đều hạnh phúc.
Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là tình thương, nên bản chất của con người cũng là tình thương. Vì thế, chỉ khi con người sống phù hợp với bản tính của mình là yêu thương, và thể hiện cụ thể tình yêu thương ấy với những người chung quanh, thì con người mới hạnh phúc. Nếu con người sống ích kỷ, tức ngược lại bản chất yêu thương của mình, con người sẽ đau khổ và làm cho những người chung quanh đau khổ.
3. Làm sao để có tình yêu thương?
Nhưng làm sao người ta có thể yêu thương nếu không có một động lực, một nguồn yêu thương ngay từ trong lòng mình phát xuất ra? Làm sao có được nguồn yêu thương ấy? - Vì «tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa» (1Ga 4,7), nên chính «Thiên Chúa là nguồn yêu thương» (2Cr 13,11). Vì thế, muốn yêu thương, muốn loại trừ tính vị kỷ, con người phải kết hợp làm một với Thiên Chúa, nguồn tình thương. Kết hợp với Thiên Chúa là luôn luôn ý thức rằng mình «là hình ảnh của Thiên Chúa» (St 1,27; 9,6; Ep 4,24), được tạo dựng giống như Thiên Chúa (x. St 1,26; 5,1), và «được thông phần bản tính của Thiên Chúa» (2Pr 1,4), một Thiên Chúa mà bản chất là yêu thương (x.1Ga 4,8.16).
Nếu bản chất của Thiên Chúa là yêu thương, mà ta giống Ngài, là hình ảnh của Ngài, được thông phần bản tính Ngài, tất nhiên bản chất của ta cũng là yêu thương. Ta không yêu thương hay không yêu thương đủ, là ta sống không đúng với bản chất của ta. Nhờ thường xuyên ý thức như thế, tình yêu và sức mạnh của tình yêu ngày càng lớn mạnh trong ta, khiến ta ngày càng yêu thương mọi người cách dễ dàng, và sẵn sàng làm tất cả để mọi người được hạnh phúc. Sống đúng với bản chất của mình là yêu thương, là hình ảnh Thiên Chúa, chính là sống thánh thiện.
4. Gia đình là trường thực tập yêu thương
Để giúp con người có một môi trường thuận lợi để phát triển và thực tập tình yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng và đặt con người sống trong gia đình. Khi vừa sinh ra, mọi người đều nhận được một tình thương dồi dào, vô điều kiện và vô vị lợi của cha mẹ - một tình yêu thuộc loại tốt đẹp nhất trên thế gian - đồng thời được mời gọi đáp lại tình yêu thương ấy. Đó là một bài tập hết sức dễ dàng về yêu thương mà mỗi người đều có thể thực tập ngay từ thuở nhỏ. Không gì dễ dàng bằng yêu thương người đã hết lòng yêu thương mình và hy sinh cho mình. Tình yêu đáp trả này tự phát sinh do mình nhận được từ cha mẹ mình quá nhiều. Đây là thứ tình yêu nhận nhiều hơn cho. Lớn lên một chút, mỗi người khám phá ra, ngoài cha mẹ mình, thì các anh chị em mình cũng yêu thương mình bằng một tình yêu tương đối vô vị lợi. Với tình yêu này, con người phải tập cho nhiều hơn và nhận ít hơn so với tình yêu đối với cha mẹ. Ngoài gia đình, mỗi người còn có bạn bè do chính mình chủ động chọn lựa và yêu thương. Đến khi trưởng thành, con người có tình yêu hôn nhân. Tình yêu này là một tình yêu do mình chọn lựa và tương đối có điều kiện: mình yêu và đòi hỏi người kia phải yêu lại, nếu đơn phương thì tình yêu sẽ khó tồn tại. Con người chủ động hiến thân và hy sinh cho người mình yêu với một ý chí tương đối tự do. Đến khi có con cái, con người tự nhiên yêu thương con bằng một tình yêu vô vị lợi, vô điều kiện, không lựa chọn. Đó là tình yêu cao cả nhất và phản ảnh trung thực nhất tình yêu của Thiên Chúa mà con người kinh nghiệm được trong đời sống gia đình.
Như vậy con người thực tập yêu thương - từ dễ đến khó - trong môi trường gia đình. Trong gia đình, con người kinh nghiệm tình yêu một cách tự nhiên và sâu xa: con người được yêu và chủ động yêu, nhận hy sinh từ người khác và chính mình cũng hy sinh cho người khác. Nhưng con người còn được mời gọi yêu một cách rộng rãi hơn, vượt khỏi phạm vi gia đình, để đến với những người ngoài, không ruột thịt máu mủ. Các tín đồ trong các tôn giáo, đặc biệt người Ki-tô hữu, còn được mời gọi yêu thương cả những người không hề quen biết, thậm chí cả kẻ thù. Yêu như thế khó hơn rất nhiều, nhưng nhờ áp dụng những kinh nghiệm về yêu thương đã có trong gia đình, việc yêu thương người ngoài gia đình, thậm chí kẻ thù, trở nên khả thi hơn. Như vậy, vai trò của gia đình trong việc đào luyện tình yêu cho con người thật hết sức quan trọng, không gì thay thế được.
Nếu những người trong gia đình - là những người cùng máu mủ ruột thịt, những người tự nhiên yêu thương ta nhất và ta dễ yêu thương nhất - mà ta không yêu thương được, thì làm sao ta có thể yêu những người xa lạ, những người khó có cảm tình, nhất là những người thường gây bất lợi cho ta? Kinh nghiệm cho tôi thấy, những ai đối xử không tốt với chính cha mẹ, vợ/chồng con, anh em mình, thì khi họ đối xử tốt với những người khác, sự tốt ấy thật đáng nghi ngờ! Rất có thể chỉ là giả tạo để đạt một mục đích nào đó, chứ không thể là thực tình được!
Vậy, các bậc cha mẹ hãy cho con cái mình những kinh nghiệm về yêu thương tốt đẹp nhất có thể. Đó là những gì tốt đẹp nhất mà họ có thể làm cho con cái họ! Cầu nguyện
Lạy Mẹ Ma-ri-a, Mẹ và thánh Giu-se đã làm cho gia đình của mình trở thành một gia đình gương mẫu vì mọi trong đó đều yêu thương nhau. Xin cho mọi người trong gia đình con thực tập từ bỏ tính ích kỷ để biết yêu thương nhiều hơn, hy sinh cho nhau nhiều hơn, để nên thánh thiện hơn.
Thiên Chúa đã sai con của Ngài là Đức Giêsu Kitô đến trong một gia đình. Chúa đã chọn con đường bình thường như mọi người để sinh ra. Ngài có thể tự mình trên trời xuống, hay tự mình vươn vai lớn lên như Phù Đổng Thiên Vương. Ngài có thể trở thành huyền thoại nếu Ngài muốn kỳ dị, khác thường như những sự việc về nhiều nhân vật đã xẩy ra trong những câu chuyện cổ tích. Chúa không làm như vậy mà Ngài được sinh ra rất tự nhiên, hoàn toàn bình thường và hoàn toàn người. Chúa được sinh ra trong một gia đình có mẹ có cha.
MỘT GIA ĐÌNH THÁNH, MUÔN VÀN THÁNH THIỆN VÀ NHÂN ÁI
Chúa Giêsu thực ra có thể sinh ra như một nhân vật thần kỳ nào đó trong các truyện thần thoại hay được giáng trần như Thánh Gióng, Tiên Nga. Nhưng Chúa Giêsu không muốn làm thế, Ngài muốn có một tổ ấm bình thường như nhiều tổ ấm khác trên thế gian trong đó một gia đình có mẹ có cha. Một gia đình như mọi gia đình nhưng rất phi thường vì gia đình của Chúa Giêsu là một gia đình thánh thiện trong đó Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse là những con người hoàn toàn phi thường nơi sự thánh thiện. Một gia đình luôn luôn sống trong sự tuân phục Thiên Chúa. Theo lẽ tự nhiên, thánh Giuse là chủ gia đình phải có uy quyền tuyệt đối. Mẹ Maria là mẹ và là nội trợ. Chúa Giêsu xét theo sự thường là con, nhỏ nhất trong gia đình thánh. Nhưng cả ba nhân vật trong gia đình thánh đều sống tôn trọng lẫn nhau và hoàn toàn sống rập theo thánh ý Thiên Chúa.
Gia đình thánh luôn làm nổi bật những nét căn bản của sách đức huấn ca 3, 3-7.14-17a nêu lên, và còn hơn thế nữa gia đình thánh gia lại còn sống sáng ngời những nhân đức, luân lý của một gia đình như thánh Phaolô nêu trong thơ thánh Phaolô gửi tín hữu Côlosê 3, 12-21.Thánh gia thất đã luôn sống trong tình yêu vì gia đình của ba Đấng đặt nền tảng trên: " Thiên Chúa là tình yêu". Và như thế, thánh Luca thánh sử trong đoạn tường thuật 2, 22-40 càng làm rõ nét hơn về sự nhẫn nhục, chấp nhận đau khổ trong ý định của Thiên Chúa.
Đây là sự thử thách nghiêm trọng nhất trong đời sống của gia đình thánh gia vì sóng gió mới tạm yên sau biến cố Chúa Giêsu sinh ra, trốn qua Ai Cập và giờ đây lời tiên tri của ông già Siméon quả thực giống như một mũi tên xuyên nát tâm hồn Mẹ Maria. Tuy nhiên, thánh Giuse và mẹ Maria vẫn can đảm chấp nhận ý Thiên chúa. Sự vâng phục trong khiêm nhượng đã làm cho mẹ Maria và thánh Giuse trở nên anh hùng vì những nhân đức các Ngài thực hiện đã vượt quá sự anh hùng bình thường.
Gia đình thánh ở Nagiarét đã nên mẫu gương cho mọi gia đình noi theo, bắt chước vì rằng gia đình của mẹ Maria và thánh Giuse luôn có Chúa ở cùng. Một gia đình có Chúa ở cùng là một gia đình hạnh phúc. Chúa Giêsu đã rất là người vì Ngài đã chọn một gia đình để sinh ra và qua đó nêu gương gia đình thánh của mình cho mọi gia đình.
GIA ĐÌNH THÁNH NAGIARÉT MÃI MÃI LÀ GIA ĐÌNH NỔI BẬT NHẤT
Năm 2002, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh về gia đình. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cũng ra một thư mục vụ năm 2002 nói về gia đình. Cả Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, cả các Đức Giám Mục Việt Nam và các Giám Mục trên thế giới đã luôn coi trọng gia đình.
Quả, nhiều người chắc còn nhớ tới biến cố quan trọng khi Đức thánh Cha Gioan Phaolô II vào tháng 5/1987 trở về thăm quê hương Ba Lan, Đức Thánh Cha đã làm hai cử chỉ ấn tượng và vô cùng cao quí: viếng mộ song thân và cử hành thánh lễ đặc biệt cho những đôi hôn phối. Sở dĩ Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II làm hai cử chỉ ấy vì Ngài tôn trọng, đề cao vai trò sinh thành, dưỡng dục của Cha mẹ, đồng thời đề cao gia đình. Ngài gióng lên tiếng nói giữa một thế giới mà nhiều gia đình bị lung lay tới tận gốc rễ. Đức Thánh Cha nói: " Hãy gìn giữ gia đình, hãy bảo vệ gia đình". Gia đình là nền tảng của xã hội. Gia đình là Giáo Hội nhỏ trong đó đức tin phải được tỏa sáng tới mọi gia đình. Mẹ Maria và thánh Giuse đã rất thực tế, các Ngài không sống mông lung, không như những người trời. Các Ngài luôn tin tưởng, luôn phó thác, luôn sống tình người, luôn sống con người thật và nhờ có Chúa ở với gia đình, các Ngài đã lướt thắng tất cả. Mọi khó khăn, thử thách đều được giải quyết êm đẹp nhờ có Chúa hiện diện, ở cùng.
Hôm nay, mừng lễ thánh gia Nagiarét, mọi gia đình hãy hiểu rằng tất cả các gia đình đều có những khó khăn, nhưng nếu có Chúa hiện diện, ở cùng mọi sự sẽ được giải quyết êm đẹp, thỏa đáng.
Chiêm ngắm gia đình thánh gia Nagiarét là nhận ra rằng ba Đấng trong gia đình thánh luôn sống hài hòa, tôn trọng, vâng phục lẫn nhau và trên hết là vâng phục ý Chúa.
Chúa Giêsu quả rất thực tế khi chọn một gia đình muôn muôn vàn thánh để sinh ra, để lớn lên... Chúa nâng cao phẩm giá gia đình và làm cho gia đình có nền tảng vững chắc nhờ sự hiện diện liên tục của Ngài trong mọi gia đình.
Lạy Chúa Giêsu, xin thánh hóa mọi gia đình để mọi gia đình luôn biết noi gương gia đình thánh Nagiarét vì mãi mãi gia đình thánh là gia đình nổi bật nhất về mọi phương diện.
GỢI Ý CHIA SẺ
1. Tại sao Chúa Giêsu lại chọn một gia đình để sinh ra ?
2. Bạn có biết tôn trọng gia đình ? Tại Sao ?
Lễ Giáng sinh là lễ của ánh sáng. Đêm Noel, không những trong ngôi thánh đường này, mà khắp nơi trên thế giới, ánh sáng rực rỡ hơn mọi ngày. Không phải chỉ là ánh sáng vật chất bên ngoài, nhưng chính là ánh sáng chân thật của Đấng Cứu thế bừng lên trong lòng thế giới. Sự kiện lớn lao ấy đã bắt đầu một cách khiêm tốn tại một nơi được dùng để nhốt thú vật, một nơi tối tăm hôi thối và ẩm ướt. Việc đầu tiên của thánh Giuse khi tới đó, là nhóm lên một bếp lửa, cho ấm áp và sáng sủa để dọn dẹp.
Trong triết học người ta thích định nghĩa ngôi nhà bằng bếp lửa. Nếu chỉ có bốn bức vách và hai mái che mưa nắng thì chưa được gọi là nhà, cần phải có một bếp lửa nữa mới thực sự là chỗ ở của con người.
Bếp lửa cần thiết không những để sưởi ấm mà còn để nuôi sống con người. Một trong những điểm làm cho con người khác hẳn con vật là biết dùng lửa. Khi bếp lửa được nhóm lên nơi hang đá Bêlem, thì chỗ cư ngụ của thú vật đã trở nên một tổ ấm, một mái nhà cho một gia đình nghèo khổ của thánh Giuse, Đức Mẹ và hài nhi Giêsu, cũng như đã trở nên một hình ảnh tượng trưng cho thế giới, cho nhân loại.
Thực vậy, từ đầu Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ và Ngài đã đem tình thương của Ngài đặt vào đó, và thế giới này trở thành một quê hương, một tổ ấm của con người. Thế nhưng con người đã từ chối tình thương ấy, khi xua đuổi Thiên Chúa. Con người đã dập tắt bếp lửa yêu thương mà Thiên Chúa đã nhóm lên trong lòng họ. Từ đó, chỗ ở của họ đã trở thành hoang vu, tình thương đã bị thay thế bằng hận thù, sự thật đã bị thay thế bằng gian tham lừa đảo.
Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn không bỏ mặc con người. Ngài đã sai con Ngài sinh ra trong cảnh tiêu điều tăm tối, để nhóm lại bếp lửa, biến đổi nơi hoang tàn trước kia trở thành một tổ ấm. Đức Kitô đã trở nên anh em của loài người. Ngài đã qui tụ tất cả lại trong gia đình con cái Thiên Chúa.
Vì vậy tiên tri Isaia đã xác quyết : Nhân loại bước đi trong u tối đã nhìn thấy ánh sáng chan hòa. Anh sáng ấy, ngọn lửa ấy không phải là của một que diêm, một bó đuốc, nhưng là của mặt trời. Đức Kitô là mặt trời công chính soi chiếu khắp chốn trần gian. Ngài là tình thương của Thiên Chúa sưởi ấm loài người.
Kể từ nay, thế giới biến thành một tổ ấm, một gia đình của con cái Thiên Chúa, vì có bếp lửa là chính Chúa Giêsu ở giữa. Hôm nay, ánh sáng không phải chỉ bao trùm trên những người chăn chiên, mà còn bao trùm trên toàn thể Bêlem, toàn thể xứ Giuđêa và toàn thể địa cầu.
Thế nhưng Bêlem vẫn ngủ mê, Giuđêa vẫn đắm chìm trong quên lãng và nhân loại vẫn vùi sâu trong lầm lạc. Chỉ có những tấm lòng đơn sơ nhỏ bé như những người chăn chiên mới đón nhận được ánh sáng ấy.
Đức Kitô đã biến thế giới này trở thành một tổ ấm, một gia đình cho những người con cái Thiên Chúa, nhưng điều ấy có ý nghĩa gì nếu chính gia đình nhỏ bé của chúng ta vẫn hoang tàn lạnh lẽo thiếu hẳn hơi ấm yêu thương, chỉ còn là một chỗ cho cãi cọ, xích mích và đay nghiến.
Bởi đó, hãy nhóm lại bếp lửa yêu thương cho gia đình chúng ta. Đây không phải là một chuyện quá khó, bởi vì lễ Giáng sinh nhắc cho chúng ta nhớ rằng : Anh sáng mặt trời đã tràn ngập, chỉ cần mở rộng cửa cho ánh sáng ấy tràn vào. Hãy đón Chúa Giêsu vào nhà để Ngài qui tụ mọi người thành con cái Thiên Chúa.
Hãy để tình yêu Ngài tràn ngập hầu gia đình chúng ta thực sự là một mái ấm đầy tràn hạnh phúc của những người con Thiên Chúa.
Hoàng đế của một vương quốc hùng cường và thịnh vượng, một ngày kia đã triệu tập các nghệ nhân từ khắp các nước đến dự một cuộc tranh tài. Cuộc thi mô tả dung mạo hoàng đế.
Các nghệ nhân An Độ đến với đầy đủ dụng cụ và các loại đá hoa cương quí hiếm. Các nghệ nhân Acmêni mang theo một loại đất sét đặc biệt. Các nghệ nhân Ai Cập mang đủ loại đồ nghề và khối cẩm thạch hảo hạng. Sau cùng, người ta hết sức ngạc nhiên vì phái đoàn nghệ nhân Hy Lạp chỉ mang đến vỏn vẹn một gói thuốc đánh bóng.
Mỗi phái đoàn thi thố tài năng của mình trong một phòng riêng. Khi thời gian ấn định đã hết, hoàng đế đến từng gian phòng để thưởng thức các tác phẩm. Vua hết lời khen ngợi bức chân dung của mình do các họa sĩ An Độ vẽ. Ông càng thán phục hơn khi nhìn ngắm các pho tượng của chính ông mà các người Ai Cập và Acmêni điêu khắc. Sau cùng, đến phòng trưng bày của người Hy Lạp, hoàng đế không nhìn thấy gì cả, duy chỉ có bức tường của căn phòng được đánh bóng đến độ khi nhìn vào ông thấy chân dung mình hiện ra từng nét. Dĩ nhiên, giải nhất thuộc về các nghệ nhân Hy Lạp. Bởi vì họ đã hiểu rằng chỉ có hoàng đế mới họa được dung mạo của chính mình.
Muốn họa lại dung mạo Đức Kitô, chúng ta cần phải đánh bóng lòng mình cho sạch mọi vết nhơ, mọi tì ố của tâm hồn. Một khi đã nên sáng bóng như gương, chúng ta sẽ tiếp nhận được khuôn mặt rạng ngời của Chúa.
Khi Đức Maria và thánh Giuse dâng Chúa Hài nhi trong đền thánh, có biết bao tư tế và luật sĩ thông thái, giỏi giang, am tường Kinh Thánh, và hiểu rõ các lời tiên tri loan báo về Đấng Cứu thế, nhưng họ đã không nhận ra Chúa. Duy chỉ có ông Simêon, và bà Anna đã nhận ra được dung mạo của Người.
Simêon và Anna đã dâng hiến trọn vẹn con người và cuộc đời, đã mài bóng đời mình bằng đạo hạnh và khiêm tốn, đã tôn thờ Chúa trong tin yêu và phó thác. Vì thế, dung mạo của Đấng Cứu thế đã tỏ hiện sáng ngời trước mặt các ngài. Simêon và Anna đã đón nhận Đấng Cứu thế như những người nghèo hèn bé nhỏ. Các ngài đã được bồng ẵm Chúa, được thay mặt cho cả nhân loại nói lời đầu tiên tôn vinh Chúa đến cứu độ con người.
Lễ Thánh Gia mời gọi chúng ta nhìn vào các gia đình. Truyền thống gia đình ngày càng sút giảm. Ly thân, ly dị, trẻ em lang thang, thanh niên nổi loạn, phá thai, mại dâm, ma túy ngày càng gia tăng. Gia đình là nền tảng của xã hội. Nếu không có những gia đình lành mạnh thì không thể có một xã hội tốt đẹp. Cuộc sống của gia đình phải tỏa hương thơm của thiên đàng.
Hơn bao giờ hết, các gia đình chúng ta phải nhìn lên Thánh Gia thất : một gia đình lý tưởng, đạo đức, yêu thương và chăm lo cho nhau. Thánh Luca đã ghi lại hình ảnh rất đẹp của Thánh Gia như sau : “Đức Giêsu đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài. Riêng Mẹ Người hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến”.
Xã hội chúng ta không thiếu các mẫu gương đạo hạnh : Louis Pasteur, nhà bác học thời danh, đã tâm sự khi đặt tấm bia kỷ niệm tại gia đình ông : “Kính thưa cha mẹ thân yêu của con đã khuất bóng, các ngài đã khiêm tốn sống trong nếp nhà bé nhỏ này. Con mắc nợ công ơn cha mẹ về hết mọi điều…”.
Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo Hội Pháp cũng tâm sự : “Những lời khuyên nhủ dịu dàng của mẹ tôi, gương đạo đức, lòng nhiệt thành hâm nóng linh hồn nguội lạnh của tôi, khuyến khích nâng đỡ tăng sức mạnh cho tôi. Chính nhờ giáo huấn của người mà tôi có đức tin”.Có lẽ thế giới biết nhiều đến thủ tướng Thái Lan, nhưng ít ai biết được cậu Chuam Leekpai còn là một người con giàu cảm xúc, hiếu thảo, và luôn nghĩ đến bậc sinh thành. Ông nói với mẹ : “Giờ đây, con đã là một chính trị gia và con không còn thời gian về thăm mẹ thường xuyên nữa. Điều này làm con cứ áy náy mãi. Tuổi mẹ càng cao thì nỗi lo của con càng nhiều. Do đó con cố gắng tìm mọi cơ hội về thăm mẹ”.
Đức Pio XI trong thông điệp về Giáo dục Kitô giáo có viết : “Nền giáo dục hữu hiệu nhất và bền bỉ nhất là nền giáo dục được nhận lãnh từ một gia đình Kitô giáo có qui củ và khuôn phép. Những gương lành của cha mẹ và của những người trong gia đình càng chiếu tỏa và bền bỉ, thì kết quả của giáo dục càng lớn lao”.
Hôm nay Giáo Hội muốn chúng ta chiêm ngưỡng Thánh Gia: Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse, một gia đình kiểu mẫu cho mọi gia đình. Vậy theo gương Thánh Gia, mỗi gia đình Công giáo phải thế nào ?
Tình yêu không phải là một xa xỉ phẩm, nó là một thứ tối cần để nâng đỡ và xây dựng cuộc sống. Tình yêu làm nên hạnh phúc. Vì thế, đi tìm và đón nhận tình yêu không phải là việc không quan trọng. Nhưng trước khi đi tìm tình yêu ở nơi khác, hãy tìm và hun đúc tình yêu nơi chính gia đình mình.
Tình yêu gia đình là tình yêu tự nhiên nhất, sớm sủa nhất và lành mạnh nhất. Gia đình phải là một tổ ấm tình yêu, để rồi lại trở thành nền tảng cho mọi thứ tình yêu khác. Tuy nhiên, tình yêu nào mà lại chẳng có hy sinh. Tình yêu thiếu hy sinh là tình yêu dỏm. Hy sinh thiếu tình yêu là hy sinh thừa. Tình yêu trong tổ ấm gia đình không phải là một luật trừ, cho dù gia đình gồm toàn những người rất thánh, cũng khó tránh khỏi những chuyện làm buồn lòng nhau. Vì thế, điều quan trọng không phải là tránh được hết mọi chuyện không vui, nhưng là biết lợi dụng tất cả những vui buồn để dắt nhau về cõi phúc. Nếu biết hiểu như thế, nhất là nếu biết thực hiện như thế, thì gia đình sẽ vừa là tổ ấm tình yêu, vừa là nơi đặt nền cho mọi tình thương, và cũng là lò luyện hy sinh.
Mỗi gia đình là một Giáo Hội, một Giáo Hội rút gọn. Đã là một Giáo Hội rút gọn thì mỗi gia đình phải lập lại hình ảnh Chúa Ba Ngôi : Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi hiệp nhất, yêu dấu và chia sẻ mọi sự với nhau thế nào, thì mỗi gia đình cũng phải đoàn kết trong tình yêu thương lẫn nhau giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái như vậy. Mỗi người không còn ích kỷ, tìm lợi riêng cho mình, nhưng quên mình để làm sao cho những người khác trong gia đình được nâng đỡ, được hạnh phúc vui tươi trong bầu khí yêu thương đó.
Nếu mọi người trong gia đình biết sống như thế thì gia đình thật là một Giáo Hội nhỏ, sống trong tình thương, và dâng lên Thiên Chúa những của lễ thiêng liêng là những hoạt động hằng ngày của gia đình. Như thế, dù chúng ta ở đâu, gần nhà thờ hay xa nhà thờ, gia đình chúng ta vẫn là một đền thờ tốt đẹp quí báu.
Một gia đình sống theo những điều trên đây sẽ là một trường rất tốt để dạy đức tin cho con cái. Có nhiều người trong gia đình chỉ lo làm ăn và nuôi dưỡng phần tự nhiên cho con cái. Điều đó tốt thôi, nhưng nếu xao lãng không quan tâm một chút nào đến việc dạy dỗ đức tin cho con cái thì là một thiếu sót lớn. Đàng khác, có nhiều gia đình cũng quan tâm đến việc ấy nhưng lại ỷ vào người khác như các cha, các tu sĩ, các giáo lý viên, các hội đoàn. Như vậy cũng không được. Đã đến lúc những người làm cha mẹ phải ý thức : công việc đó trước tiên là công việc của mình và chính mình phải chịu trách nhiệm về đức tin của con cái trước mặt Thiên Chúa sau này, như trong Hiến Chế về Giáo Hội, Công Đồng Vaticanô II đã nói : “Những người đầu tiên phải lấy lời nói và gương sáng mà dạy dỗ đức tin cho con cái chính là cha mẹ”.
Thực vậy, gia đình là trường dạy đức tin cho con cái tốt nhất, vì không phải chỉ dạy một tuần một hai giờ mà dạy hằng ngày, luôn luôn. Ước chi các bậc cha mẹ đều bắt chước thánh Giuse và Đức Mẹ như Tin Mừng nói : “Các ngài luôn vâng giữ lời Chúa và siêng năng dự các lễ nghi như luật dạy”. Nếu các người làm cha mẹ có lòng tin vững chắc, biết truyền lại cho con cái niềm tin của mình, bằng lời dạy dỗ, bằng gương sáng trong cách ăn ở hằng ngày, thì con cái chắc chắn sẽ theo đường lối ấy. Ước chi mỗi gia đình Công giáo đều hiểu và sống như vậy.
Những biến cố chung quanh việc thụ thai và sự ra đời của Đức Giêsu đánh dấu rằng Người là một con trẻ đặc biệt, với một vận mệnh duy nhất. Thông qua Người, lời hứa đối với ông Apbraham sẽ được nên trọn. Người sẽ trở thành niềm hy vọng và an ủi của dân Israen, và là ánh sáng cho các dân tộc. Nhưng Tin Mừng cũng nói về sự khước từ Đức Giêsu, một sự khước từ sẽ gây ra một lưỡi gươm đâm thấu qua trái tim của Đức Maria. Cha mẹ chia sẻ niềm vui và nỗi đau khổ của con cái họ, và ngược lại.
Không có lý do gì để tin rằng Đức Maria và thánh Giuse hiểu biết rõ ràng trọn vẹn hoặc về vận mệnh vĩ đại của Con Trẻ Giêsu. Tuy nhiên, khi đón nhận Người vào trong cuộc đời của mình, và nuôi dưỡng Người trong lòng tin và tình yêu thương, các ngài đã góp phần trong việc giúp đỡ Người nhận ra vận mệnh của mình. Tin Mừng cho thấy rằng tại nhà Nagiarét, các ngài đã tạo ra một bầu khí mà trong đó, Đức Giêsu có thể phát triển đến khi trưởng thành.
Mỗi đứa con đều là một quà tặng của Thiên Chúa. Và mỗi đứa con đều có một vận mệnh duy nhất. Nhưng vận mệnh đó còn ẩn giấu đối với cha mẹ. Họ thắc mắc không biết con cái họ sẽ trở thành gì. Một cách tự nhiên, họ mong muốn điều tốt đẹp nhất cho chúng. Nhưng tất cả điều mà họ có thể làm được, đó là khai mở cho chúng trên con đường đời của chúng. Vượt lên trên tất cả, họ phải cẩn thận để không ngăn cản kế hoạch của Thiên Chúa đối với con cái.
Cha mẹ nên cầu xin Thiên Chúa hướng dẫn con cái của mình theo những chọn lựa mà chúng thực hiện. Nếu chúng ta phải hoàn tất điều mà Thiên Chúa muốn chúng ta hoàn tất, thì tất cả chúng ta đều cần sự hướng dẫn của Người.
Nói một cách lý tưởng, gia đình phải là một cộng đoàn yêu thương nhỏ bé. Bầu khí trong gia đình là yếu tố quan trọng nhất. Bầu khí đó được xác định do phẩm chất của các mối tương quan. Cha mẹ và con cái đều đóng góp vào việc tạo ra bầu khí đó.
Cuộc sống gia đình mang rất nhiều thử thách. Gia đình không chỉ biết tiếp nhận; mà còn phải biết cống hiến nữa. Những mối dây liên kết trong gia đình làm cho chúng ta được phong phú, nhưng cũng ràng buộc chúng ta. Chúng lôi kéo theo những ràng buộc của trách nhiệm và tình yêu thương.
Mỗi năm, có một cuộc triển lãm ở Dublin, được gọi là “Triển lãm Mái nhà lý tưởng”. Nhưng đây không phải là cuộc triển lãm về mái nhà, cho bằng về những nơi chốn mà trong đó người ta sinh sống, và những đồ đạc đặt trong đó. Thật ra, nên gọi đó là “Triển lãm về Căn nhà lý tưởng”.
Có một sự khác biệt lớn lao giữa mái nhà và căn nhà. Một căn nhà là nơi người ta cất giữ những đồ đạc và tài sản. Một mái nhà là nơi người ta sống chung với nhau. Thật đáng buồn, có một số mái nhà mang ý nghĩa dành cho sự an toàn và tiện nghi của đồ đạc, hơn là dành cho những người sống trong đó.
Có một số mái nhà lại quá gọn gàng và sạch sẽ, đến nỗi chúng không còn phù hợp để sống trong đó nữa. Khi nhìn vào những mái nhà này, bạn không bao giờ ngờ được rằng lại có người đang sống ở đó. Chúng giống như viện bảo tàng hơn là mái nhà. Mặt khác, có những mái nhà nhắc cho bạn nhớ đến một cuốn sách được đọc quá nhiều, nghĩa là rõ ràng có người đang sống trong đó, họ là những người biết cách làm thế nào để nghỉ ngơi và vui hưởng cuộc sống.
Có một mái nhà không hẳn là có một căn nhà. Có mái nhà nghĩa là có hàng loạt những vùng phụ cận, các thói quen, sinh hoạt hàng ngày, và những người hàng xóm. Có mái nhà là có nguồn gốc, nghĩa là có một căn tính rõ ràng và không thể nhầm lẫn được. Có mái nhà là có hàng loạt những liên hệ gần gũi với những người chấp nhận chúng ta bằng chính con người chúng ta, họ là những người đem lại cho chúng ý nghĩa của sự thuộc về nhau. Đây là những yếu tố tạo nên một cảm giác duy nhất – cảm giác được ở dưới mái nhà của mình.
Người ta đã nỗ lực rất nhiều và bỏ ra nhiều tiền bạc trong việc xây dựng một căn nhà đẹp. Ai cũng có thể hiểu được nguyên nhân tại sao. Nhưng có lẽ có một mối nguy hiểm là bỏ qua điều quan trọng hơn – xây dựng một mái nhà, nghĩa là một cộng đoàn nhỏ bé của tình yêu thương.
Bầu khí của mái nhà lại còn quan trọng hơn cả phẩm chất và số lượng những đồ đạc. Bầu khí đó được xác định bằng phẩm chất của các mối quan hệ.
Đức Giêsu cũng cần có một mái nhà để trong đó, Người được lớn lên. Đức Maria và thánh Giuse đã cung cấp cho Người một mái nhà này tại Nagiarét. Bằng tình yêu thương đối với Người và đối với nhau, Đức Maria và thánh Giuse đã tạo ra một bầu khí mà trong đó, Người được phát triển. Nhưng theo như Tin Mừng chỉ ra cho chúng ta, Thánh Gia không hề có một cuộc sống dễ dàng. Trong suốt những năm đầu tiên, các Ngài đã phải chịu đựng thân phận của những kẻ di dân, không hề có nhà cửa gì cả.
Trong thời đại của chúng ta, gia đình rất dễ tan vỡ. Gia đình phải sống dưới những áp lực và khó khăn. Tuy nhiên, bất chấp mọi sự, có nhiều cha mẹ vẫn có những hy sinh lớn lao dành cho con cái của họ. Tất cả các bậc cha mẹ đó có thể rút ra được niềm cảm hứng từ gương mẫu của Đức Maria và thánh Giuse.
Một mái nhà lý tưởng là nơi mà chúng ta luôn luôn có thể trở về, và chắc chắn là được đón tiếp. Đó chính là nơi mà trong đó, chúng ta được nếm thử niềm vui và sự an bình của nơi mà Thiên Chúa dành sẵn cho chúng ta trên Nước Trời. Nói một cách lý tưởng, không có một chỗ nào giống như mái nhà. Nhưng không có một nơi chốn nào được như một mái nhà lý tưởng.
Nếu chúng ta trồng cây nơi đất trống, thì cây đó sẽ rất dễ bị lay động, vì đành phải phó mặc cho cơn gió thổi. Nếu còn sống sót, nó sẽ bị cong queo, trơ trụi, có thể trở thành một mẫu vật nghèo nàn. Nếu muốn trồng một cây để nó được phát triển với đầy đủ tiềm năng của nó, thì bạn phải trồng nó ở một nơi mà nó có thể được che chở nhiều hơn. Bạn đừng trồng cây đó ở riêng một chỗ, mà phải trồng nó cùng với một số cây khác.
Điều quan trọng sống còn là cần phải có một khoảng cách thích hợp giữa các cây. Chúng phải gần nhau đủ, để có khả năng cung cấp chỗ trú ẩn và bảo vệ cho nhau. Tuy nhiên, chúng không được quá gần gũi nhau, đến nỗi có thể hiếp đáp nhau. Chúng phải được trồng xa nhau vừa đủ, đảm bảo sao cho mỗi cây đều có một khoảng cách thích hợp, để phát triển với đầy đủ tiềm năng của nó.
Trồng cây một mình một chỗ là không tốt. Cũng vậy, nếu chúng ta ở một mình thì cũng không tốt. Vì tính cách toàn diện, và vì sức khỏe tinh thần của mình, chúng ta cần ràng buộc tình yêu và tình bạn với người khác. Thiên Chúa không dựng nên chúng ta để ở một mình, nhưng là để sống cộng đồng. Bản thân con người chúng ta không đủ để đáp ứng cho chính mình. Chúng ta cần có người khác nữa, để trở nên những gì Thiên Chúa chờ đợi nơi chúng ta.
Đây cũng là trường hợp được ứng dụng cho các gia đình. Cây cối được trồng trong cái hố nhỏ là hình ảnh tốt về gia đình. Trong một gia đình lý tưởng, phải có sự gần gũi, đồng thời cũng phải có một khoảng cách nhất định. Cần có sự gần gũi để các phần tử có thể giúp đỡ nhau. Cần có khoảng cách để đảm bảo rằng họ không xâm phạm vào sự riêng tư của mỗi người. Mỗi phần tử cần có một giới hạn, một sự thân mật và ấm cúng mà mỗi người cần có. Tuy nhiên, cũng cần phải có một khoảng không gian, để mỗi người phát triển đúng tiềm năng của mình. Đây là một thách đố lớn : Đó là phải làm thế nào để đạt được sự gần gũi, mà không xâm phạm hoặc thống trị nhau.
Trong gia đình, chúng ta học hỏi để hình thành những mối tương quan với những người khác, một điều gì đó là quan trọng sống động đối với chúng ta. Khi không có khả năng quan hệ, đó là sự cản trở và buồn phiền lớn. Nếu không có quan hệ gần gũi, chúng ta đành phải phó mặc cho cơn gió lạnh của nỗi buồn phiền và cô đơn.
Trong cộng đồng nhỏ bé của gia đình, chúng ta học hỏi để liên đới với người khác. Ở đây, chúng ta tạo ra một căn phòng cho người khác trong đời sống của chúng ta. Ở đây, chúng ta học hỏi cách thức chia sẻ và sống có trách nhiệm với người khác.
Trong xã hội, gia đình bị đặt dưới nhiều sức ép. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta không coi trọng giá trị của gia đình. Đó là vì chúng ta không được chuẩn bị các nguyên tắc để giữ được bầu khí êm thấm trong gia đình. Gia đình được xây dựng dựa trên những cam kết của lời hứa, sự trung thành và tự hiến. Bằng cách sống trong cộng đồng nhỏ bé của tình yêu với Đức Mẹ, thánh Giuse ở Nagiarét, Đức Giêsu có thể lớn lên trong sự khôn ngoan và nhân đức, trong lòng yêu mến của Thiên Chúa và loài người.
Trong cộng đồng nhỏ bé của gia đình, chúng ta có một nơi chốn, chúng ta có những ràng buộc, chúng ta có một căn tính, chúng ta có gốc rễ. Mặc dù gia đình nào cũng đều có khó khăn, nhưng đây không hẳn là điều xấu. Khó khăn có thể là một ân huệ. Những cây nào bị trồng trong đất xấu, thì cần phải có một bộ rễ vững chắc. Vì vậy, cần phải co sự đoàn kết với nhau hơn, để chống trả lại với những bão táp không thể tránh khỏi của cuộc đời.
Bài đọc 1 tường thuật về giới răn thứ bốn “Hãy thảo kính cha mẹ”. Thật đáng tiếc, người ta lại hay nhìn vào giới răn này theo nghĩa hẹp. Có ba yếu tố chính trong giới răn này :
Trước hết, bổn phận đầu tiên của cha mẹ là phải yêu thương và săn sóc con cái. Chúng ta nhận thấy tấm gương tốt đẹp nhất về phương diện này trong bài Tin Mừng hôm nay. Trong Tin Mừng, chúng ta nhận thấy những điều mà Đức Mẹ và thánh Giuse đã làm để bảo vệ sự an toàn cho con trẻ Giêsu. Ngay khi các ngài biết rằng đời sống con trẻ bị nguy hiểm, các ngài đã ra đi sống tha phương. Và khi cơn hiểm nguy qua đi, các ngài lại quay trở về quê hương của mình, và đã định cư ở Nadarét. Trong nhà của mình tại Nadarét, các ngài đã tạo ra được một môi trường mà trong đó, theo Tin Mừng thuật lại, Đức Giêsu có thể lớn lên trong sự khôn ngoan, có tầm cỡ, và trong lòng yêu mến đối với Thiên Chúa và mọi người.
Thứ đến, con cái bắt buộc phải vâng lời cha mẹ. Ở Nadarét, Đức Giêsu là nhân vật chính đối với Đức Mẹ và thánh Giuse. Đức Mẹ là người phụ nữ của lòng tin, ngài đã yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn, hết trí khôn. Còn thánh Giuse đã được Tin Mừng mô tả là một người công chính, nghĩa là một người luôn sống và làm việc theo luật của Thiên Chúa. Các ngài đã nuôi dưỡng, dạy dỗ và uốn nắn con trẻ Giêsu nên người.
Tại Nadarét, Đức Giêsu có thể âm thầm lớn lên trong sự che chở của cha mẹ Người. 30 năm đầu đời của Đức Giêsu rất quan trọng đối với Người. Trong suốt 30 năm ấy, Người đã lớn lên, trưởng thành và đã chín mùi. Trong suốt những yếu tố ảnh hưởng trên chúng ta, gia đình là yếu tố gây ảnh hưởng nhiều nhất. Những ảnh hưởng của gia đình tồn tại nơi chúng ta suốt đời.
Thứ ba, những người con đã trưởng thành bắt buộc phải đảm bảo cho cha mẹ khi về già, có thể được sống thoải mái, xứng đáng với nhân phẩm. Đây là trọng tâm của bài đọc 1.
Điều này liên quan đặc biệt đến thời đại chúng ta, khi những người lớn tuổi có khuynh hướng hay bị đẩy ra ngoài lề xã hội. Với sức mạnh của mình, chúng ta dễ dàng quên rằng họ là những người yếu đuối, và có lẽ hơi bị lão suy rồi. Có một câu tục ngữ “Một mẹ có thể nuôi được 10 con, nhưng 10 con không thể nuôi được một mẹ”. Dưới nhan Thiên Chúa, chúng ta mắc nợ cha mẹ chúng ta đủ thứ. Tác giả sách Giảng Viên đã quả quyết rằng lòng tận tụy của con cái đối với cha mẹ đặc biệt làm hài lòng Thiên Chúa, Người đón nhận tấm lòng đó như là một hành động chuộc lại lỗi lầm.
Gia đình Thánh Gia là mẫu mực. Khi Đức Giêsu sắp trút hơi thở cuối cùng trên thánh giá. Người đã nghĩ đến Mẹ Người, và đã trao phó Mẹ Người cho môn đệ Gioan chăm sóc. (Theo truyền thống, lúc đó thánh Giuse qua đời rồi).
Ngoài ra, việc quan tâm chăm sóc người thân trong họ hàng cũng không phải là điều dễ. Khi hoàn cảnh bắt buộc chúng ta phải nuôi dưỡng những người đó, thì quả thật là khó khăn. Nhất là đối với những người vốn có tính hay yêu sách. Mặc dù thế, khi chúng ta cư xử với họ bằng lòng từ tâm, là chúng ta đã làm một công việc thánh thiện nhất. Cũng như khi nhân danh Thiên Chúa, chúng ta cho người anh em một ly nước, đó là chúng ta đã phục vụ chính Thiên Chúa vậy.
Dương Phủ sinh ra trong một gia đình nghèo. Nhưng ông để hết tâm phụng dưỡng song thân. Một hôm, ông nghe nói bên đất Thục có ông Vô Tế đại sĩ. Dương Phủ bèn xin từ biệt song thân để đến thụ giáo bậc hiền triết. Đi được nửa đường, ông gặp một vị lão tăng. vị lão tăng khuyên Dương Phủ: "Gặp được bậc Vô Tế chẳng bằng gặp được Phật". Dương Phủ hỏi vặn lại: "Phật ở đâu?". Vị lão tăng giải thích: "Nhà ngươi cứ quay trở về, gặp người nào mặc cái áo sắc như thế này, đi đôi dép kiểu như thế này thì chính là Phật đấy". Dương Phủ nghe lời quay về nhà. Đi dọc đường, ông chẳng gặp ai như thế cả. Về đến nhà thì đã khuya, Dương Phủ gõ cửa gọi mẹ. Người mẹ mừng rỡ, khoác chăn, đi dép ra mở cửa. Bấy giờ, Dương phủ mới chợt nhận ra nơi mẹ mình hình dáng của Đức Phật mà vị lão tăng đã mô tả. Từ đấy, Dương Phủ mới nhận ra rằng cha mẹ trong nhà chính là Phật. Thứ nhất thì tu tại gia Thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa. Tu đâu cho bằng tu nhà Thờ cha kính mẹ mới là đạo con.
Để yêu thương con người một cách trọn vẹn, Chúa đã trở thành một con người. Chúa có cha, có mẹ. Chúa sinh ra trong một gia đình... Con người không chỉ được cứu rỗi một cách lẻ loi, nhưng trong một gia đình. Con người cần có một gia đình để sinh ra, để lớn lên và thành toàn... Tại Nagiaréth, Chúa đã lớn lên trong ân sủng và dáng vóc. Chúa đã vâng phục Thánh Giuse và Mẹ Maria. Chúa đã học đọc, học viết và ngâm nga từng câu kinh thánh với Mẹ Maria. Chúa cũng học cách sử dụng từng dụng cụ trong xưởng mộc của Thánh Giuse. Trong ba năm sống đời công khai, ngôn ngữ vàcách suy nghĩ của Chúa phản ánh phần nào sự giáo dục mà Chúa đã thụ hưởng nơi cha mẹ.
Xin Chúa thánh hóa tất cả mọi gia đình Việt Nam. Xin Chúa ban cho bậc cha mẹ ý thức được trách nhiệm giáo dục của họ. Xin Chúa ban cho con cái lòng hiếu thảo để biết vâng phục, kính yêu và phụng dưỡng cha mẹ, nhất là trong lúc tuổi già của các ngài... Và xin cho mọi gia đình Việt Nam luôn biết tranh đấu để bảo vệ sự hiệp nhất trong gia đình và biến gia đình thành Giáo Hội nhỏ của Chúa.
1. Lễ Thánh gia là lễ của mỗi gia đình. Văn hóa Đông phương đặt nền tảng gia đình trên đức Hiếu. Người nổi tiếng chí Hiếu nhất Đông phương là Vua Thuấn. Thiếu thời, Vua Thuấn là con nhà bần tiện. Bố là Cổ Tẩu dở dở ương ương, mắc tật nghiện rượu. Mẹ có tật lắm điều, ngồi lê mách lẻo. Anh là Tượng hỗn xược du đãng. Một cảnh gia đình địa ngục. Nhưng Thuấn dù nhỏ, ngày ngày ra đồng làm việc, thường kêu khóc với trời, tự mình nhận lấy tội lỗi của bố mẹ. Phụng sự bố mẹ rất kính cẩn, sợ hãi làm cho bố mẹ biết lo sửa mình (Kinh Thư ; Thuấn Điển 6 và Đại vũ mõ 21).
Nhờ đâu một con nhà tiện dân đã trở nên bậc thánh hiền chí hiếu ?
Thứ nhất nhờ vào niềm tin trời đất thâm sâu sống động của Vua. Khổng Tử kể : Ngay còn nhỏ, Thuấn ngày ngày ra đồng làm việc với nước mắt, kêu khóc với Trời : “Đế sơ vàng vu điền, nhật hào khấp mân thiên”.
Thứ hai : “Vu điền” - ông ra đồng chăm chỉ làm việc để phụng dưỡng gia đình, làm sao nuôi nổi ba miệng lười biếng ăn chơi phung phá ! Ông phải tận lực hy sinh làm việc mà không một lời phàn nàn than thân trách phận giữa cảnh gia đình đầy thói hư tật xấu.
Thứ ba : “Phụ tội dẫn thắc” – Thuấn còn hy sinh tự mình nhận lấy tội lỗi của bố mẹ. Một tinh thần trách nhiệm cao thượng. Người ta thường nói : Tội quy vu trưởng, pháp luật thường phạt cha mẹ khi con cái vị thành niên phạm pháp. Trái lại : ở đây tội quy vu ấu. Ấu thơ đã biết gánh lấy tội của gia đình để ăn năn kêu khóc với trời tha thứ và cứu giúp.
Thứ bốn : “Tái kiến Cổ Tẩu, quỳ quỳ trai lật” – Thăm viếng Cổ Tẩu kính cẩn, lo sợ đến mức nhịn ăn chay tịnh để chăm lo cho cha mẹ mọi sự, chỉ sợ cha mẹ buồn phiền than trách. Dù cha mẹ nhiều tật xấu đến đâu Thuấn cũng không dám tỏ vẻ bất kính.
Đức Hiếu của đứa con tiện dân đã thấu đến Đế Nghiêu, thấu đến Thượng Đế, cho nên Vua Nghiêu đã nhường cho Thuấn làm vua. Thuấn đã tu thân tề gia tốt đẹp, chắc chắn trị quốc, bình thiên hạ cũng được an vui thịnh vượng. “Đại hiếu tôn thân, kỳ thứ phất nhục, kỳ hạ năng dưỡng” : Đại hiếu thứ nhất tôn kính cha mẹ, thứ đến không làm nhục, sau là chăm nuôi (Lễ ký tế nghĩa).
2. Lễ Thánh gia mới thực sự hướng dẫn chúng ta thi hành trọn vẹn đạo Hiếu theo đúng giới răn thứ bốn của Thiên Chúa : Đạo làm con, đạo làm cha mẹ, vợ chồng.
Trước hết, Đạo làm con phải biết nhớ : “Công cha như núi Thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Ơn sinh thành, ơn thương mến của cha mẹ đã chảy ra từ nguồn sống tình yêu của Thiên Chúa, ban cho con cái sự sống. Không có vàng bạc châu báu nào so sánh được : Ca dao nói : “Mạng sống hơn đống vàng”. Phúc Âm cũng dạy : “Dù được lời lãi cả thế gian mà mất mạng sống nào được ích gì”.
Sinh thành mạng sống con, cha mẹ còn hết lòng, hết trí khôn lo lắng ấp ủ âu yếm, đùm bọc. Mạng sống con cũng là mạng sống, là xương thịt của cha mẹ : “Máu chảy ruột mềm”. Con đau khổ, cha mẹ ăn không ngon, ngủ không yên. Và để cho mạng sống của con được tăng trưởng lớn khôn, cha mẹ đã đổ ra bao nhiêu mồ hôi nước mắt, và sức lực hy sinh, làm ăn nuôi dưỡng, dạy dỗ, những công ơn đó chồng chất cao hơn núi Thái sơn.
Con biết ơn cha mẹ thì phải thảo kính, yêu mến, chăm sóc, chia vui sẻ buồn, làm vinh danh cha mẹ nhất là lúc già yếu. Đừng bao giờ : “Con nuôi mẹ, con kể từng giờ”.
Đạo Nho còn biết dạy : “Sống thì lấy lễ mà thờ, chết lấy lễ mà táng, lấy lễ mà tế” (Luận ngữ II, 5) huống chi Đạo Chúa.
Thứ đến : Đạo làm cha mẹ biết đón nhận con cái như con cái Thiên Chúa ban cho mình. Ý thức rõ như vậy, Đức Maria và thánh Giuse đã mau mắn dâng con cho Thiên Chúa trong đền thờ. Ngoài ra, các ngài dâng con là để tạ ơn Thiên Chúa đã cứu sống dân tộc thoát ách nô lệ Ai cập trở về Đất Hứa vẻ vang. Vì thế, sinh ra, lớn lên, sống còn của con dân này là một ân huệ vĩ đại của Thiên Chúa ban. Họ đã hiến dâng, phó thác trọn vẹn cuộc sống con mình trong tay Thiên Chúa toàn năng.
Hôm nay cha mẹ Hài Nhi Giêsu dâng con trong đền thờ, còn đặc biệt dâng lên Chúa Cha một thế hệ mới, một thế hệ được thanh tẩy bằng nước và Thánh Thần, một thế hệ được ghi ấn tín Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần để làm nên một trang sử vinh quang muôn đời trong nước Trời.
Cho nên, sứ mạng làm cha mẹ là một ân huệ từ trời ban xuống. Cha mẹ được vinh phúc tiếp tay với Thiên Chúa cộng tác vào chương trình sáng tạo, mặc khải và cứu chuộc con cái.
Để thực hiện tốt đẹp thiên chức cao cả đó, cha mẹ phải biết xây dựng gia đình mình thành một tổ ấm, một cái nôi chan hòa “tình thương yêu êm ái, nhân hậu, khoan dung, hiền lành, nhẫn nại, chịu đựng và tha thứ cho nhau, cởi mở chân thành để liên kết với nhau trong mối giây bác ái yêu thương tuyệt hảo”.
Hơn nữa, cha mẹ phải tạo dựng gia đình thành một đền thờ, trong đó “dâng lên Thiên Chúa những bài Thánh vịnh, những khúc hát Thánh ca, do Chúa Thánh Thần linh ứng. Hãy dùng lời Chúa dạy dỗ răn bảo nhau cho thật khôn ngoan để lời Chúa Kitô sinh hoa kết quả dồi dào trong gia đình. Khi làm gì, nói gì, hãy làm và nói nhân danh Đức Giêsu Kitô, và nhờ Người mà cảm tạ Chúa Cha” (Bài II. Cl. 3, 12-21). Như thế gia đình chúng ta sẽ trở nên như gia đình Thánh Gia.
3. Lễ Thánh Gia cho chúng ta thấy rõ Thánh Gia là đền thờ hoàn toàn dành riêng phụng thờ Thiên Chúa.
Giuse là Cha nuôi, nhưng hơn tất cả mọi người cha ruột thịt, Ngài đã âm thầm hy sinh, hiến trọn mạng sống mình để phụng dưỡng Con Thiên Chúa, bảo vệ an toàn gia đình thoát khỏi bàn tay khát máu của Hêrôđê, khỏi mọi gian nguy trên đường tỵ nạn băng qua sa mạc đến Ai cập và trở về Nagiareth bình an.
Maria, người mẹ thánh thiêng trinh trong tuyệt vời, luôn luôn sống với tinh thần tôi tớ của Thiên Chúa, sống dịu hiền, thương mến, thăm viếng, phục vụ bà con xóm làng, tích cực cộng tác với Con Thiên Chúa trong công trình cứu độ muôn dân và xây dựng Hội thánh. Quả thực, không một ai đứng kề thánh giá của con bằng Mẹ, không một ai sống giữa các môn đệ trong lúc cô đơn xao xuyến để cầu nguyện Thánh Linh xuống soi sáng và củng cố tinh thần các môn đệ bằng Mẹ.
Chúa Giêsu, Người chí hiếu, con thảo độc nhất của gia đình. Người con chí ái độc nhất của Thiên Chúa, đã sinh ra trong hang lừa hèn hạ, đã lớn lên trong cảnh lao động nghèo khó. Nhưng, cháu bé này là nguồn an bình muôn thuở cho những cụ già như Simêon ẵm bế, là nguồn hy vọng vinh phúc cho những bà góa neo đơn như Anna, là nguồn sáng soi đường cứu độ cho muôn dân và vinh quang cho Israel dân Ngài.
Giêsu – Maria – Giuse, còn gia đình nào tầm thường như gia đình các Ngài ! Còn gia đình nào siêu phàm như gia đình các Ngài ! Xin dạy gia đình chúng con biết sống giữa cảnh phàm trần với tinh thần người con, người mẹ, người cha chí ái, chí nhân, chí thánh. Xin cho chúng con biết mừng lễ Thánh Gia với cõi lòng chan chứa yêu thương, với tâm trí đầy tràn niềm tin, và với tâm hồn chan hòa ơn thánh. Amen.
Đoạn này gồm 3 chuyện: 1. Thánh Giuse, Đức Maria và Chúa Giêsu lên Đền thờ Giêrusalem: ThánhGia ABC 66
Đoạn này gồm 3 chuyện :
1. Thánh Giuse, Đức Maria và Chúa Giêsu lên Đền thờ Giêrusalem để chu toàn 2 bổn phận của lề luật : Thanh tẩy cho Đức Maria sau khi sinh con ; dâng Chúa Giêsu là con trai đầu lòng cho Thiên Chúa Câu chuyện cho thấy Thánh gia tuân giữ lề luật rất chu đáo ; đồng thời những lễ vật các Ngài dâng chứng tỏ Thánh gia nghèo.
2. Trong dịp này Thánh Gia đã gặp được cụ Simêon. Cụ được Thánh Thần soi sáng cho biết trẻ Giêsu chính là Đấng Messia cho nên toại nguyện vì gặp được Ngài. Cụ nói Chúa Giêsu là “ánh sáng soi đường cho dân ngoại”
3. Trong dịp này các Ngài cũng gặp nữ ngôn sứ Anna và bà cũng nói tiên tri về tương lại Chúa Giêsu.
B. ... nẩy mầm.
1. Gia đình Nadarét được gọi là Thánh Gia, là gương mẫu cho mọi gia đình tín hữu. Qua đoạn Tin Mừng này, ta có thể thấy những nét của một gia đình tín hữu tốt :
- Một gia đình tốt không chỉ co rút trong ngôi nhà của mình, nhưng còn thích cùng nhau lên Nhà Chúa : theo luật, việc dâng con cho Thiên Chúa có thể thực hiện tại nhà ; cũng theo luật, việc thanh tẩy người mẹ không buộc người cha phải đi theo lên Đền thờ. Nhưng cả ba đã cùng nhau lên Đền thờ.
- Một gia đình tốt là gia đình tuân giữ luật Chúa : “Cha mẹ hài nhi đem con lên Đền thờ để chu toàn Lề luật...”.
- Một gia đình tốt là gia đình biết dâng cho Chúa nhũng gì tốt nhất của mình : “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh dành cho Chúa”.
- Gia đình tốt có thể nghèo (lễ vật của Thánh Gia chứng tỏ các Ngài nghèo), và không tránh khỏi đau khổ (“Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà”), nhưng vẫn hạnh phúc vì có Chúa Giêsu ở giữa, có Chúa Giêsu là thành viên.
2. Một thanh niên Scốt-len tìm được một chân làm vườn trong một gia đình giàu có. Nhưng chỉ hai tuần sau, anh xin thôi việc. Một người bạn hỏi :
- Có phải công việc quá cực nhọc không ? - Không, công việc rất nhàn. - Có phải lương quá ít không ? - Không, lương khá lắm. - Hay anh không thích đồ ăn ở đó ? - Cũng không phải. Đồ ăn rất ngon. - Vậy tại sao anh thôi việc ? - Vì nhà đó không có mái che.
Đối với người Scốtlen, thành ngữ “nhà không có mái che” nghĩa là gia đình không biết cầu nguyện. (Tonne).
3. Một nhóm người thiện chí bàn nhau cách phổ biến Tin Mừng. Có người đề nghị quảng cáo trên TV, người khác đề nghị dùng báo chí. Một thiếu nữ Châu Phi chia xẻ : Ở xứ tôi, khi muốn loan Tin Mừng cho một vùng nào đó thì chúng tôi gởi đến đấy một gia đình công giáo tốt để gia đình này sống giữa những người khác trong vùng. (Barclay)
4. Trên tường một nhà thờ cổ ở Đức có một bức tranh được vẽ cách nay khoảng 500 năm, diễn cảnh trẻ Giêsu đang đi học. Họa sĩ vẽ Ngài là một cậu bé 6 tuổi đang một tay nắm tay bà ngoại Anna và tay kia cầm cặp.
Trẻ Giêsu cũng giống như những bé trai, bé gái cùng thời đến trường để thêm kinh nghiệm, như Thánh Kinh nói : “Con trẻ ngày càng khôn lớn”. (Góp nhặt).
5. Trong khi người Ấn độ được đánh giá là giỏi triết lý, người Trung hoa được đánh giá là giàu lễ nghĩa, thì người do thái được đánh giá là tinh thần tín ngưỡng cao. Nhờ đâu ? Nhờ người cha do thái biết quan tâm đến việc đạo trong gia đình. Trong gia đình do thái, người cha chủ sự những buổi cầu nguyện, người cha lãnh trách nhiệm khai tâm tôn giáo cho con, người cha hãnh diện truyền lại cho con truyền thống đạo đức của ông bà tổ tiên.
Bài đọc 1: Hc. 3, 2- 6; 12-14= Bổn phận đối với cha mẹ. Hãy săn sóc cha mẹ bạn khi các ngài đã già. Phúc cho ai biết kính sợ Chúa. Duties toward Parents. Take care of your parents when they are old. Happy are those who fear the Lord.
Bài đọc 2: Colôxê 3, 12- 21= Hãy để Lời Chúa cư ngụ trong anh. Tại sao gia đình tôi không chịu đọc Kinh thánh và chia sẻ đều đặn với nhau. Let the Word of Christ dwell in you. Why not try regular family Bible reading and sharing.
Tin Mừng (Gospel): Luca 2, 22- 40= Maria và Giuse đưa Đức Jesus lên đền thờ Giêrusalem. Ông Simêon được Thánh Thần linh báo, đã ẵm lấy Đức Jesus trên tay và chúc tụng Thiên Chúa. Maria and Joseph brought Jesus up to Jerusalem. Simeon inspires by the Spirit, he took Him in his arms and blessed God .
A - Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share )
1/ Trong sách Huấn ca hôm nay khuyên những người con như sau: "Ai kính cha thì được bù đắp lỗi lầm, ai mến mẹ thì tích trữ kho báu." Theo văn hóa Việt nam, ngoài ông Trời ra, cha mẹ được con cái kính trọng nhiều hơn hết trong gia đình vì đã sinh thành ra mình. Tôi đã làm được gì để tỏ lòng kính mến cha me?
He who honors his father atones for sins; he stores up riches who reverses his mother. ( Hc.3, 3- 4 )
2/ Thánh Phaolô khuyên những người cùng trong gia đình, cộng đoàn hôm nay: "Anh em hãy có lòng thương cảm , nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại." Nguyên nhân gây nên xào xáo, chia rẽ, đổ vỡ trong nhiều gia đình và đoàn thể hiện nay là thiếu những nhân đức trên. Vì cho mình có quyền, rồi áp đặt người khác phải theo ý mình. Bạn đã có kinh nghiệm nào để xây dựng tốt gia đình, nhóm, phong trào?
....close yourslves with heartfelt mercy, with kindness, humility, meekness and patience. ( Col. 3, 12 )
3/ Trong chỉ thị riêng cho Gia đình, thánh Phaolô nhấn mạnh: "Người làm vơ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ." Người vợ và chồng ai cũng cho mình la to lớn, không để Đức Kitô làm chủ và quyền năng của Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong mọi hành động. Tôi đã sống và mời Chúa đến giúp gia đình tôi như thế nào?
You who are wives, be submissive to your husbands...Husbands, love your wives, avoid any bitterness. (Col.3, 18)
4/ Trở lại bài Tin Mừng : "Khi đã đến ngày lễ Thanh tẩy của các Ngài theo luật Môsê, bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa." Gia đình Thánh gia đã làm gương cho các cha mẹ vễ sống gần con và săn sóc con như thế nào? Tôi đã gặp con, lắng nghe con nói và khuyên con điều gì?
...according to the law of Moses, Mary and Joseph brought Jesus up to Jerusalem ...be present to the Lord. (Lc. 2, 22 )
B - Câu Kinh Thánh thúc đẩy tôi chọn làm Châm ngôn Sống tuần này: ( The Best God's Word )
ANH HÃY CÓ LÒNG THƯƠNG CẢM, NHÂN HẬU, KHIÊM NHU, HIỀN HÒA VÀ NHẪN NẠI.
Close yourselves with heartfelt mercy, with kindness, humility, meekness and patience. (Col. 3, 12 )
C - Ngay bây giờ tôi phải làm gì cho đời sống Gia đình, Cộng doàn: (So what am I doing/ For Action )
a/ Tôi co thể chọn 1 trong 4 Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để thực hành trong tuần này.
b/ Bạn nên có những buổi ngồi nhận lỗi và lắng nghe anh em trong Nhóm, Đoàn thể... tỏ bầy ước nguyện.
D - Tôi cầu nguyện nhiều và Sống lời tôi cầu nguyện cho Gia đình: ( I pray and practice/ Pray in Action )
1/ Lạy Chúa, sách Huấn ca đã dạy: Ai kính cha thì được bù đắp lỗi lầm, ai mến mẹ thì tích trữ kho báu. Xin cho con biết yêu mến, yên ủi và săn sóc cha mẹ sinh thành như Chúa đã yêu thương con.
2/ Thánh Phaolô đã tha thiết khuyên con: Anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Xin cho con biết mời Chúa làm chủ và để quyền năng của Chúa Thánh Thần hướng dẫn.
Lời hay ý đẹp: CHÚA AN ỦI CHÚNG TA ĐỂ BIẾN CHÚNG TA THÀNH NHỮNG KẺ BIẾT AN ỦI God comforts us to make us comforters
Hôm nay kỷ niệm cha mẹ Hài nhi Giêsu đem Ngài lên Ịền thờ để được thanh tẩy theo lề luật Môsê và dâng Ngài cho Thiên Chúa. Thực ra luật thanh tẩy chỉ buộc các bà mẹ khi các bà sinh con. Còn hài nhi Giêsu vì là con đầu lòng nên phải chịu phép cắt bì để chứng tỏ thuộc dòng dõi Abraham và là sở hữu của Thiên Chúa. Lễ vật dâng hiến là con chiên một tuổi, trường hợp các người khó nghèo, thì một đôi chim gáy hay cặp bồ câu non. Cha mẹ Chúa Giêsu đã dâng tiến theo diện gia đình nghèo khổ.
Cho nên nhưng gia đình thiếu thốn trong xứ đạo chúng ta không phải tự ty, mặc cảm khi dâng cúng ít ỏi, họ có thể yêu tâm đồng hoá mình với gia đình Chúa Giêsu, Ịức Mẹ và thánh Giuse. Ngay cả trong một đất nước giàu có như Hoa kỳ, người ta cũng thống kê được 41 triệu người không có khả năng mua bảo hiểm y tế, nói chi đến các quốc gia trong thế giới thứ ba. Lễ thánh Gia không phải là cơ hội để chúng ta khua múa tài hùng biện, ca ngợi cảnh giàu sang phú quý của những nhân vật quyền cao chức trọng, nhưng là nhìn đến các điều kiện sống của các tầng lớp thuộc diện xoá đói giảm nghèo. Ịức Giêsu ngay từ những ngày đầu đời đã phải trải qua những kinh nghiệm cô đơn, giá rét, đói khát, bị loại trừ như phần đông nhân loại hiện nay. Nhìn vào những túp lều sơ sác, những đứa trẻ còm cõi thiếu ăn, chúng ta mới có thể hình dung được thánh Gia thất ngày xưa, còn những nhà cao tầng, các dinh thự lộng lẫy chẳng cho được một ý tưởng thánh thiện nào cả, nhiều khi ngược lại: nhung lụa và tội lỗi.
Chúng ta đang sống ở thời đại tôn thờ tuổi trẻ. Nhiều quý vị trung niên sành điệu nhiều tiền lắm của trả hàng triệu mỹ kim để bơm thuốc căng da mặt cho có được dáng vẻ tươi trẻ hơn. Người ta còn tổ chức những lễ hội căng da trong đó mọi người đua nhau bơm thuốc để được những giây phút tự hào vì mình trẻ đẹp trở lại. Thật tương phản với gương mặt của các cụ già Simêon và Anna trong Tin mừng hôm nay. Hai cụ đứng làm biểu tượng cho những gì khôn ngoan, tỉnh thức, mong đợi sự giải thoát cho Israel. Thực ra, Tin mừng khởi sự với những gương mặt như thế: Ịức Maria, thánh Giuse, Simêon, Anna, toàn là những linh hồn Do thái đơn sơ, đạo đức, thánh thiện. Họ đều chờ đợi Thiên Chúa làm tròn lời hứa trong con trẻ Giêsu.
Người đầu tiên đã nói lên điều đó là cụ Simêon. Cụ đã mạnh dạn và can đảm khai triển ý nghĩa Hài nhi được sinh ra cho thế gian. Ịây cũng là một lời tiên tri vĩ đại, sẽ được thực hiện trung thực đến từng chữ. Khác với thánh Mathêo khi tường thuật về thời thơ ấu của Chúa Giêsu, thánh Luca viết cho dân ngoại, nói tiếng Hy Lạp, sống ngoài ranh giới Palestin, chẳng hiểu biết gì về các truyền thống Do thái, cho nên ngôn ngữ tiên tri của cụ Simêon bao gồm luôn mọi dân tộc. Thành thử con trẻ Giêsu sẽ là Ịấng Cứu Thế của toàn thể loài người, chứ không riêng gì cho Israel mà thôi ( như Mathêo): "Vì chính mắt con được trông thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel dân Ngài." Vậy thì những tâm hồn ngoại giáo, các tổ chức kinh tế,chính trị, tôn giáo ngoại lai cũng đã được nghe loan báo và đón nhận Tin mừng về Chúa Giêsu. Ngài cũng được sinh hạ cho họ. Sau này đến thời kì rao giảng nước Trời, thánh Luca thường kể lại Chúa Giêsu ra khỏi ranh giới Palestin: Ngài là Chúa Cứu thế của muôn dân.
Câu chuyện của hai cụ Simêon và Anna là câu chuyện của ơn thánh. Tên Anna nghĩa đen là ân huệ. Một ám chỉ rất sớm của thánh Luca rằng: Phúc âm của ông thực chất là ân huệ nhưng không Thiên Chúa ban cho chúng ta, những linh hồn ngoại giáo, qua Chúa Giêsu và Thánh linh. Cả hai cụ Anna và Simêon là những giáo dân tiểu tốt lúc ấy, chẳng ai biết tới. Nhưng Thiên Chúa đã nhận ra họ và đổ tràn đầy ân huệ trên họ! Chỉ có thể do ơn Chúa Thánh linh mà cụ già Simêon, sau một thời gian chờ đợi lâu dài và qua muôn vàn con trẻ được đưa đến đền thờ, mới nhận ra ơn cứu độ của Thiên Chúa trong Hài nhi Giêsu! Cụ thú nhận: qua Thánh thần cụ được nhìn thấy điều lòng mình mong ước: "Vì chính mắt con được nhìn thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân" nghĩa là Thiên Chúa mở mắt cho cụ nhìn được, dưới bối cảnh bề mặt, công việc Ngài làm cho toàn thể nhân loại.
Tương tự như thế, chúng ta cũng cần ơn Chúa để nhìn ra ý nghĩa sâu xa trong các biến cố đời thường. Liệu Chúa Giêsu có hiện diện rõ nét hơn ở thánh đường, nơi các tín hữu tụ họp để thờ phượng hay trong gia đình với các công việc thường nhật? Liệu ngôi nhà thờ trang hoàng lộng lẫy với đèn sao Giáng Sinh có thần linh hơn những gian nhà chật hẹp, tối tăm chúng ta rời bỏ để kịp giờ lễ nửa đêm? Tốt hơn chúng ta nên đem tất cả những luộm thuộm, những lắng lo về cuộc sống, dâng lên Chúa Hài nhi. Trên bình diện rộng hơn, chúng ta cũng nên dâng lên Chúa các khắc khoải của cộng đoàn, của thế giới như chia rẽ nội bộ, đe doạ chiến tranh, xì ke, ma tuý, đổ vỡ kinh tế, buôn lậu ...Mới đây, tờ thời báo Times bình chọn các nhân vật của mình trong năm. Họ chọn được ba phụ nữ "huýt còi" tố cáo những việc làm "bưng bít" của cơ quan điều tra liên bang FBI và hai công ty hợp doanh lớn của Mỹ.
Nếu như họ bình chọn "gia đình" thì chắc hẳn gia đình chúng ta chẳng được vào vinh dự ấy. Chúng ta đang mừng lễ thánh gia trong nhà thờ giáo xứ, lấy lại kiểu làm của tờ báo Times thì phải thú nhận chẳng gia đình nào đến gần được hai từ "thánh thiện" ! Vậy xin hãy cầu xin thượng đế, ban cho chúng ta một món quà Giáng sinh "muộn", món quà tương tự của cụ Simêon: Mở mắt nhìn thấy ơn cứu độ muôn dân trong hài nhi Giêsu. Nhu cầu khẩn thiết của chúng ta hiện nay, không phải là nhìn thấy Chúa trong những nơi thánh thiêng, mà trong gia đình, trong cuộc sống hằng ngày với những khó khăn bận rộn, những tranh giành, cãi cọ, bỏ nhà ra đi, hút sách, rượu chè, cờ bạc, li dị... Thời buổi này, giữ được một gia đình êm ấm, mọi người thương yêu nhau, quả là một điều cực kì khó khăn. Nhưng như cụ Simeon hôm nay, suốt đời trông chờ niềm an ủi cho dân Israel, cuối cùng cụ được thoả lòng. Các gia đình chúng ta cũng mong đợi cơ hội hàn gắn những tan vỡ, tẩy sạch các đam mê, nết xấu. Thiên Chúa sẽ viếng thăm chúng ta trong phương thức không thể ngờ trước được. Chúng ta sẽ hoàn toàn ngỡ ngàng như cụ Simeon vậy.
Chính cụ làm gương sáng về lòng kiên nhẫn, chờ đợi ơn Chúa. Sự thực, hầu hết mọi gia đình có đạo trên hoàn vũ đều rất cần đến ơn an ủi. Thiên Chúa đã không phụ lòng cụ Simêon thì cũng không nỡ từ chối chúng ta. Vậy xin hãy vững lòng và kiên nhẫn đợi trông. Hãy đặt trước bàn thờ Ngài những mảnh vụn vỡ của gia đình và thành khẩn xin Thánh thần thực hiện điều mà sức lực loài người không thể làm được. Giữa những khó khăn của cuộc sống, mọi tín hữu đều khát khao được trông thấy "Ịấng Kitô của Ịức Chúa" ngự đến và chữa lành các bệnh hoạn, tật nguyền trong các mối tương giao gia đình hằng ngày. Ước vọng chính đáng đó chắc chắn sẽ được Ngài lắng nghe. Ngày nay dưới chiêu bài văn minh, tiến bộ các cuộc tấn công của thế gian, xác thịt, ma quỉ vào gia đình càng trở nên ác nghiệt. Tiếng kêu cứu càng thống thiết không còn là giả vờ giả tảng như người ta tưởng tượng. Mới đây, tôi ngồi thảo luận bàn tròn với một nhóm gia trưởng, tất cả đều thú nhận nhiệm vụ của họ quá nặng nề, không biết xoay sở thế nào để giữ vững các truyền thống tốt lành thuở xưa. Các ông thêm : chẳng nhận được bao nhiêu trợ giúp từ hoàn cảnh chung quanh kể cả nhà thờ. Tôi đành phải đề nghị đường lối thánh Luca mô tả cụ già Simêon "công chính và sùng đạo". Xem chừng cũng không giúp đỡ được nhiều. Thôi thì phó mặc họ vào niềm an ủi của Ịức Chúa Trời.
Tiên tri Anna là một trong sáu phụ nữ ngôn sứ được nói đến đích danh trong Tân ước. Theo Tin mừng thánh Luca, ngôn sứ là một nhân vật quan trọng có ân huệ thiêng liêng đặc biệt và duy nhất, có sứ vụ truyền đạt ý muốn của Thượng đế cho nhân loại. Lúc này, Luca kể đến hai câu chuyện sinh nở. Một của bà Elizabeth sinh thánh Gioan, một của Ịức Maria hạ sinh Chúa Giêsu. Bà Anna xuất hiện ở cuối câu chuyện thứ hai. Bà giữ vai trò độc đáo: tiên báo số phận của Ịức Mẹ và Chúa Hài nhi cho những người hiện diện. Bà là một goá phụ đạo đức. Bà sống với chồng được bảy năm. Nay bà đã 84 tuổi. Thường thường trong Tin mừng đàn bà được nhắc đến là bởi gắn liền với đàn ông. Nhưng trường hợp bà Anna được kể ra một mình, độc lập với phái nam trong cuộc sống. Thánh Luca có cảm tình với các bà goá, nên thường nêu các bà như gương mẫu đức tin, kiên trì và tỉnh thức cho chúng ta. "Bà không dời bỏ đền thờ, nhưng ăn chay, cầu nguyện, đêm ngày thờ phượng Thiên Chúa."
Ông Phanuel cũng được nói đến trong Tin mừng hôm nay. Ông là thân phụ của tiên tri Anna. Tên ông có nghĩa là nghịch cảnh hay địa điểm vật lôn, ông thuộc chi tộc Ase, một trong mười hai bộ lạc Israel. Như vậy, bà Anna sống trong nghịch cảnh của thân phận goá bụa, bà đợi chờ đến mòn mỏi đôi mắt ơn cứu độ của Israel. Mùa vọng đã qua, nhưng chúng ta còn được dạy bảo cho biết chờ đợi. Chờ đợi để làm sắc bén khả năng nhận biết Thiên Chúa và lượng giá lại các kì vọng của nhân loại vào lời Thượng đế hứa. Xem ra Thiên Chúa không dễ gì lắng nghe các ước mong của chúng ta. Có nhiều mong ước vô lý, phải được thanh lọc. Suốt thời gian đợi chờ dài, bà Anna đã phải điều chỉnh nhiều lần các mơ ước của mình. Bà cầu nguyện ăn chay là với mục tiêu đó. Nếu như bà đã gặp được Ịức Kitô sớm hơn trong cuộc đời, liệu bà có thể nhận ra Ngài không? Nếu như bà không phải mong đợi lâu như thế, liệu tâm thần bà có đủ sáng suốt để xác định ơn Chúa đến với loài người bằng đường lối đặc biệt khó nghèo như vậy? Cho nên, bà đã chỉ cho nhân loại con đường tỉnh thức, ăn chay, cầu nguyện để có thể nhận thấy Chúa Hài đồng khi Ngài đến với linh hồn mỗi người!
Tóm lại, câu chuyện của hai nhân vật Simêon và Anna là câu chuyện Ịức Chúa Trời trung tín làm tròn lời hứa của Ngài. giữa một thế giới băng hoại về quân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, luân lý. Cộng đoàn bé nhỏ của chúng ta nên noi gương hai vị tiên tri trên, trông chờ ơn "an ủi" cho các gia đình giáo xứ trong ngày lễ kính thánh Gia thất hôm nay. Amen. Fr. Jude Siciliano, OP.
Một bà mẹ trẻ ngồi ôm cậu con trai 4 tuổi trong lòng, bà nói với con là nó sắp có em bé. Bà me: ThánhGia ABC 69
Một bà mẹ trẻ ngồi ôm cậu con trai 4 tuổi trong lòng, bà nói với con là nó sắp có em bé. Bà mẹ giải thích cho con mình rằng nó có thể giúp săn sóc cho em bằng cách cầm chai sữa, đi lấy tã cho em khi cần, và đẩy xe cho em... Sau khi nghe mẹ nói một hơi, chú bé tuột xuống khỏi lòng mẹ, đứng nhìn vào mẹ và nói một cách nghiêm nghị:
- Vậy là bao nhiêu việc con phải làm hết, còn mommy không phải làm gì sao?
Gia đình là cộng đoàn tình yêu trong đó mỗi phần tử đều có vai trò phải chu toàn, đóng góp. Vợ chồng phải biết kính trọng yêu thương nhau. Cha mẹ có trách nhiệm dưỡng nuôi và dạy dỗ con cái nên người tốt, giúp ích cho xã hội. Con cái phải vâng lời, thảo kính cha mẹ. Đó là trật tự Thiên Chúa đã xếp đặt để mỗi người được sinh ra và lớn lên trong một bầu khí tràn đầy tình thương. Tuy nhiên trật tự đó đã bị con người ngày nay làm hư hại nặng nề vì cuộc sống buông thả theo tính dục. Con cái sinh ra không có gia đình yêu thương bao bọc, để rồi lớn lên trong sự hờ hững, hất hủi, đưa đến kết quả mang tâm trạng nổi loạn, bất cần đời, hận thù, giết hại người khác.
Gia đình là viên gạch xây dựng xã hội. Khi viên gạch bị hư hỏng, mục nát thì xã hội cũng bị xụp đổ, điêu tàn. Muốn gây dựng lại xã hội, người ta phải gầy dựng lại gia đình. Muốn tái lập gia đình, con người phải đặt Thiên Chúa vào địa vị tối cao nơi gia đình. Đó là bài học con người ngày nay cần học nơi Thánh Gia.
Bài Phúc Âm hôm nay diễn tả một hình ảnh đẹp của gia đình: Thánh Giuse và Đức Mẹ bế Chúa Giêsu hài nhi vào Đền thờ để dâng của lễ, phụng thờ Thiên Chúa. Tại Đền Thờ, Đức Maria đã được mạc khải rằng tương lai và sứ mạng của Mẹ gắn liền với Chúa Kitô trong những khổ đau đem lại ơn cứu chuộc cho nhân loại. Thánh gia đã đến thờ phượng Thiên Chúa như một gia đình. Từ đó Thiên Chúa đã mạc khải cho mỗi người nhận ra vai trò của mình nơi gia đình và trong xã hội. Muốn cho gia đình được đời sống êm ấm, hạnh phúc, chúng ta phải đặt tinh thần thờ phượng Thiên Chúa lên trên hết. Tinh thần đó thể hiện qua việc tham dự thánh lễ Chúa Nhật.
Gia đình cùng đi dự lễ, cùng ngồi với nhau. Cha mẹ dùng dịp này để giáo dục cho con cái về ý nghĩa việc dự lễ, ý nghĩa các bài đọc, lời linh mục giảng. Đứa trẻ nào cũng có vài cảm nghĩ nào đó mỗi khi dự lễ, về nhà thờ, về ca đoàn, về linh mục, về những nghi thức phụng vụ... Dò hỏi các em về những cảm nghĩ đó để hiểu biết tâm tư các em, lợi dụng cơ hội đó để dạy cho các em biết tham dự thánh lễ cách có ý nghĩa hơn. Ngoài ra gia đình nên có giờ đọc kinh tối mỗi ngày sao cho thích hợp với tuổi trẻ: một vài chục kinh Mân Côi, một đoạn Kinh Thánh với vài lời suy niệm, một lời nguyện tự phát dâng lên Chúa... Điều đó đem lại nhiều lợi ích cho người trẻ hơn những tràng kinh vô cùng, không amen.
Một cậu bé đón cha mình đi làm về và hỏi: “Bố ơi! bố đi làm được bao nhiêu tiền một giờ?”: ThánhGia70
Một cậu bé đón cha mình đi làm về và hỏi: “Bố ơi! bố đi làm được bao nhiêu tiền một giờ?”. Ông bố rất ngạc nhiên và bảo: “Này con, ngay cả mẹ của con cũng chẳng biết, đừng quấy rầy bố vì bố đang mệt.” Cậu bé lại hỏi: “Bố cứ cho con biết, lương của bố mỗi giờ được bao nhiêu tiền?” Cuối cùng thì ông bố bảo rằng: “Mỗi giờ bố được hai mươi đồng”. Cậu bé liền hỏi: “Vậy bố cho con mượn mười đồng”. Ông bố tỏ vẻ giận và mắng con: “Thì ra đấy là lý do con muốn biết tiền lương của bố? Bây giờ đi ngủ đi và đừng quấy rầy bố nữa”.
Đêm hôm ấy, ông bố nghĩ lại những điều đã nói với con mình và cảm thấy hối hận. Ông cho rằng có thể con mình đang cần tiền để mua món gì mà nó đang cần. Ông sang phòng của con mình và hỏi: “Con đã ngủ chưa?” Con ông đáp: “Con chưa ngủ”. Ông bố đưa tiền và bảo: “Đây là tiền con hỏi xin lúc nãy” Nó vui vẻ cám ơn bố, rồi lấy thêm tiền trong gối ra và nói: “ Con đã có đủ rồi! hai mươi đồng. Bây giờ bố bán cho con một giờ của bố.”
Bài phúc âm hôm nay nhắn nhủ ông bố kể trên và tất cả chúng ta là hãy dành cho gia đình mình nhiều thì giờ hơn nữa.
Thánh Luca đã cho chúng ta thấy Đức Giêsu ở tuổi mười hai, lứa tuổi được xem là trưởng thành và mọi thiếu niên Do Thái ở tuổi ấy phải tuân giữ luật Do Thái. Đây cũng là lúc thiếu niên Do Thái được chúc mừng để trở thành người lớn. Kể từ đấy, họ phải tuân giữ luật lệ và phải tham dự hành hương hằng năm tại đền thánh Giêrusalem. Thời ấy, có những thanh niên thì đánh dấu ngày này bằng cách đi chơi hoặc làm những điều không đúng với điều mà luật Do Thái đòi hỏi. Chúng ta thường cảm thấy con của mình đã lớn, khi chúng đi chơi với bạn bè mà không xin phép. Như chúng ta đã biết, Đức Giêsu cũng vậy. Để đánh dấu ngày đến tuổi trưởng thành theo luật Do Thái, Ngài đã tham dự lớp học kinh thánh tại đền thờ mà không báo cho cha mẹ mình biết. Khi cha mẹ tìm được Người sau hai ngày tìm kiếm khắp nơi, Người chỉ trả lời rằng “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Luca 2:49). Ngay cả thánh gia đôi khi cũng có những lúc căng thẳng và những hiểu lầm.
Điều làm cho chúng ta thắc mắc là trong đoạn cuối cuả phúc âm hôm nay “Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nazaret và hằng vâng phục các ngài.” (Luca 2:51). Thiếu niên Giêsu mười hai tuổi, đã biết rằng sứ mạng của mình là ở trong nhà của Cha mình và thực thi những sứ mạng ấy. Trong thời gian ngắn ngủi tại Giêrusalem, Người đã chứng tỏ khả năng và sự hiểu biết của Người, vì “Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu” (Luca 2:47). 1 Điều làm cho chúng ta phải suy nghĩ là: Nếu Đức Giêsu đã được mười hai tuổi, đã sẵn sàng và bằng chứng là có khả năng để bắt đầu sứ vụ giảng dạy công khai. Vậy tại sao Người lại đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nazaret và sống ẩn dật mười tám năm trong căn nhà nghèo nàn của người thợ mộc, và chỉ bắt đầu sứ vụ giảng dạy công khai ở tuổi ba mươi? Vậy mười tám năm ấy là vô vị và không có ích lợi gì chăng? Chắc chắn làcó lợi ích! Điều chúng ta nên tìm hiểu là cuộc sống ẩn dật cuả Đức Giêsu tại Nazaret là một phần trong sứ vụ của cuộc sống công khai của Người. Phúc âm nhắc chúng ta rằng: “Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Luca 2:52). Khi chúng ta suy niệm về điểm này, thì cứ một năm Người giảng đạo thì mười năm Người ở với gia đình. Từ đấy chúng ta sẽ hiểu tầm quan trọng và sự ưu tiên Người đã dành cho đời sống gia đình như thế nào.
Đời sống của chúng ta được chia thành hai phần: gia đình và công việc. Hai phần này thông thường thì phải hài hòa nhưng đôi khi lại đối chọi nhau và gây ra căng thẳng. Đức Giêsu đã hóa giải sự căng thẳng ấy bằng cách dành sự ưu tiên cho đời sống gia đình. Còn chúng ta thì thường hay cố gắng giải quyết mối căng thẳng ấy bằng cách dành sự ưu tiên cho công việc của mình, và để cho đời sống gia đình chịu tổn thương. Bà Rose Sands viết về người đàn ông bất hạnh, người mà chỉ nghĩ rằng mình có thể chứng minh tình thương của mình đối gia đình là phải làm việc hết sức mình “Để chứng tỏ tình yêu đối với vợ mình, ông ta bơi qua khúc sông sâu nhất, vượt vùng sa-mạc rộng nhất và leo ngọn núi cao nhất. Vợ của ông đã lìa bỏ ông, vì ông ta chẳng bao giờ có mặt ở nhà”.
Hôm nay, nhân dịp chúng ta mừng kính lễ Thánh Gia của thánh Giuse, Đức Maria và Chúa Giêsu, chúng ta hãy ôn lại và nhắc nhở chính chúng ta rằng: hãy đặt giá trị của đời sống gia đình lên trên công việc của mình, kể cả những việc quan trọng như việc bảo tồn thế giới này.
Có người cho rằng Thánh gia là một gia đình thánh. Còn chúng ta là người phàm, yếu đuối: ThánhGia ABC 71
Có người cho rằng Thánh gia là một gia đình thánh. Còn chúng ta là người phàm, yếu đuối, làm sao bắt chước cho được. Hơn nữa, các Ngài sống trong bầu khí bình lặng, êm đềm, ít phải cạnh tranh và chụp dựt, ít bị những ảnh hưởng xấu như thời buổi hiện đại. Quả thật, Thánh gia là một gia đình thánh, nhưng sự thánh thiện ấy không miễn chuẩn cho các Ngài những khó khăn vất vả, những cố gắng bươm chải. Cứ đọc lại Tin Mừng thời thơ ấu của Chúa Giêsu là chúng ta sẽ thấy : Có những thức thách khi Giuse thấy Mẹ Maria bỗng dưng có thai mà ngài không biết. Có những vất vả của hành trình từ Nagiarét lên Giêrusalem để kiểm tra dân số đang lúc Mẹ Maria sắp nở nhuỵ khai hoa. Có những buồn tủi khi không còn chỗ cho Mẹ Maria trong quán trọ, khiến Con Thiên Chúa phải sinh ra nơi máng cỏ khó nghèo. Và chắc hẳn Thánh gia đã thấu hiểu thế nào là thân phận lưu lạc nơi đất khách quê người bên Ai Cập để trốn thoát âm mưu hãm hại của bạo vương Hêrôđê. Trước những thử thách ấy, Thánh gia có hai phương thức để giải quyết.
Trước hết là tình yêu. Thực vậy, ngày nay hơn bao giờ hết, người ta càng khám phá ra tầm quan trọng của gia đình trong đời sống xã hội : gia đình là cái nôi của con người, vì chính ở đó con người được sinh ra. Là mái trường đầu tiên của con người, gia đình giữ một vai trò đặc biệt trong sự hình thành cá tính và nhân phẩm của con người. Nhưng cũng chính ngày nay, người ta phải chua chát thừa nhận rằng đang có những khủng hoảng trầm trọng làm lung lay tận nền tảng gia đình. Chính trong bối cảnh ảm đạm đó, hình ảnh Thánh gia vụt sáng lên như ánh sao chỉ đường. Vâng. Thánh gia mời gọi các gia đình hãy biết yêu thương và sống cho nhau. Nước chảy không ngược dòng, cây không sống cho chính mình nhưng sống cho quả. Cũng vậy, cha mẹ sống cho con cái. Thánh Giuse với tư cách là gia trưởng đã miệt mài làm việc để nuôi sống gia đình, ngài ghi dấu ấn lao động trên cuộc đời của người con, khiến sau này Chúa Giêsu khi rao giảng Tin Mừng, người ta đã phải tự hỏi : Ông ấy không phải là con bác thợ mộc và Maria sao ? Còn Mẹ Maria với tư cách nội trợ, Mẹ đã tập cho Chúa Giêsu cầu nguyện, giúp cho con biết quan sát thế giới chung quanh. Phải chăng những lời dạy dỗ của Mẹ Maria vẫn tiềm ẩn trong cung cách rao giảng của Chúa Giêsu sau này khi Ngài nói :
Nước trời giống như men, như muối… Và cậu bé Giêsu dưới mái nhà Nagiarét đã chia sẻ mọi cảnh ngộ của gia đình, đã sống đạo làm con đối với cha mẹ trong tinh thần yêu thương và vâng phục. Như thế, mẫu gương yêu thương và sống cho nhau đã được mọi thành viên trong Thánh gia thực hiện. Cha mẹ không chỉ nuôi con bằng cơm bánh vật chất, nhưng còn dạy dỗ, làm gương sáng cho con, còn người con đáp trả bằng tình hiếu thảo và vâng phục. Phải chăng chính sự yêu thương và ân cần dưỡng dục của cha mẹ đã ghi dấu ấn sâu xa trong tâm hồn Đức Giáo Hoàng Gioan 23, nên trong ngày sinh nhật thứ 50 của mình, ngài đã viết thư cho cha mẹ như sau : Thưa ba má, hôm nay con được 50 tuổi. Chúa thương ban cho con nhiều chức vụ trong Hội Thánh. Con đã đi nhiều nơi, đã học nhiều sách, nhưng không trường nào dạy dỗ con, làm ích cho con như hồi con được ngồi bên ba má.
Tiếp đến, phương thức thứ hai đó là ý Chúa. Thực vậy, yêu thương và sống cho nhau vẫn chưa đủ, đối với người Kitô hữu, tình yêu thương còn phải được định hướng bằng thánh ý Chúa. Thiếu sự định hướng này, lắm khi tình thương chỉ còn là tiếng loa dội lại của lòng ích kỷ, hoặc biến thành một thứ tình cảm mù quáng sai lầm. Không ít bậc cha mẹ, theo như kinh nghiệm cho thấy, đã giết chết tuổi thanh xuân của con cái qua sự cưng chiều quá đáng của mình. Cho nên cha mẹ thương con mà phải nhận ra rằng yêu thương không có nghĩa là chiếm đoạt, giữ rịt cho riêng mình. Mẹ Maria sẵn lòng trao Hài nhi Giêsu cho ông cụ Simêon, cũng như sau này, Mẹ dâng con trên đỉnh cao thập giá.Và Mẹ ý Chúa là trên hết. Mẹ Maria và thánh Giuse đã vâng theo ý Thiên Chúa ở mọi nơi và trong mọi lúc. Một khi đã lấy ý Chúa làm ngọn đèn hải đăng hướng dẫn thuyền đời, thì mái ấm của chúng ta chắc chắn sẽ vượt qua được những sóng gió của đại dương cuộc đời.
Ở Chicago, khi trời vừa lập đông, từng đàn ngỗng lũ lượt kéo nhau bay hàng ngàn dặm về: ThánhGia ABC 72
Ở Chicago, khi trời vừa lập đông, từng đàn ngỗng lũ lượt kéo nhau bay hàng ngàn dặm về phương Nam đi tìm nắng ấm. Chúng kêu gọi nhau xôn xao. Có những con lạc bầy vừa bay vừa kêu : “Quéc! Quéc! Quéc!” Khiến kẻ tha phương cũng phải chạnh lòng buồn theo vì nhớ mái ấm gia đình !
Các nhà khoa học nghiên cứu cuộc di cư hằng năm đi tìm nắng ấm của loài ngỗng đã đưa ra sáu điểm nhận xét giúp ta suy nghĩ về đời sống gia đình nhân dịp lễ Thánh Gia Thất hôm nay :
1. Chúng bay với nhau theo hình chữ vê ngược. Mỗi con đều vỗ cánh rất nhịp nhàng, êm ái. Một hàng chữ vê ngược bay chung với nhau như vậy sẽ tạo thêm được 17 phần trăm sức mạnh hơn là từng con bay riêng rẽ.
Đúng là “Hợp quần gây sức mạnh”. Tất cả mọi người trong một gia đình hay cộng đoàn hợp tác với nhau làm việc sẽ nhanh hơn và dễ hơn, vì họ cùng thúc đẩy và nâng nhau lên. “Niềm vui góp lại, niềm vui lớn. Nỗi lo chia sẻ, nỗi lo vơi !”
2. Khi có con nào bị rơi ra khỏi hàng ngũ, nó phải tìm cách mau chóng trở về hàng ngay để có sức mạnh nâng đỡ của cả bầy. Nếu không nó phải bay cô đơn một mình ! Bước ra khỏi gia đình hay cộng đoàn, ta sẽ cảm thấy bơ vơ lạc lõng, mất đi một điểm tựa nâng đỡ lớn lao. Khi phải một thân một mình chống chọi giữa đời, ta mới cảm thấy sự quý giá của mái ấm gia đình. Khi mồ côi ta mới thấy giá trị của tình phụ mẫu.
3. Khi con ngỗng dẫn đàn ở chính giữa mệt mỏi, nó sẽ trở xuống hàng phía dưới, con khác sẽ thay phiên lên dẫn đầu.
Thật là bất công khi trong gia đình hay cộng đoàn, có những người phải làm việc quá sức đang khi đa số những người khác lại nhàn hạ. Có nhiều gia đình cha mẹ phải làm việc đầu tắt mặt tối, trong khi con cái chơi bời lêu lổng suốt ngày. Theo thống kê, chỉ có 20/o số người đứng ra làm việc, nhưng phải đảm đương tới 80/o công việc của một tập thể, hay cộng đoàn !
4. Những con ngỗng vừa bay vừa kêu “Quéc ! Quéc !” Am thanh vang dội trong bầu trời. Cuộc hành trình dài muôn ngàn dặm. Cứ thẳng cánh mà bay. Những con bay phía sau kêu lên để khích lệ những con phía trước phải cố gắng giữ cho đúng tốc độ.
Trong gia đình hay cộng đoàn thường có sự ghen tương, dèm pha lẫn nhau hơn là khích lệ, cổ võ, và khen ngợi những ưu điểm của nhau ! Trong cuốn “Người Trung Quốc Xấu Xí” của Bá Dương, bản dịch của Nguyễn Hồi Thủ, tác giả đả kích tính ích kỷ, ghen tương, đấu đá lẫn nhau của người Trung Hoa bằng một kinh nghiệm như sau : “Ví dụ tôi đến thăm anh, thấy anh nhà cao cửa rộng, học vấn uyên bác, trong lòng tôi kính phục, hâm mộ anh. Trên đường về đáng lẽ tôi nghĩ phải cố gắng phấn đấu, làm việc, học hành để có thể được như anh. Đằng này lúc ra khỏi nhà anh tôi lại bảo : Ở nhà đẹp thế ! Không biết ăn cắp hay ăn cướp ở đâu ra lắm tiền ! Cầu trời cho ngày mai có đám cháy thiêu rụi cái nhà nó đi cho rồi !”
Tác giả dẫn chứng sự mất đoàn kết của người Trung Hoa bằng câu nói mỉa mai : “Một Hoà Thượng gánh nước uống. Hai Hoà Thượng khiêng nước uống. Ba Hoà thượng không có nước uống !”
5. Khi nào dừng cánh nghỉ ngơi, kiếm ăn trên đồng cỏ, không bao giờ tất cả mọi con ngỗng đều cúi đầu xuống ăn cùng một lượt ! Luôn luôn có 4 hay 5 con canh chừng trong khi những con khác ăn. Chờ đợi cho những con khác ngẩng đầu lên, lúc đó chúng mới cúi xuống.
Trong gia đình hay cộng đoàn, chúng ta phải biết tỉnh thức, canh chừng và bảo vệ nhau tránh khỏi những nguy hiểm của ma thù. Đừng vì say mê hưởng thụ vật chất mà quên đi những kẻ thù tinh thần rình rập trên hành trình tiến về quê trời.
6. Khi một con ngỗng bị bệnh hay bị bắn thương tích rơi xuống đất, sẽ có 2 con khác bay theo xuống đất để giúp đỡ và bảo vệ. Chúng ở lại cho đến khi con bị thương có thể bay được, hay phải chết, chúng mới bay đi nhập vào một hàng khác để bắt kịp bầy cũ của mình.
Tình nghĩa gắn bó, liên kết mọi người sống chết với nhau trong gia đình. Thường thường trước khi nhắm mắt xuôi tay, cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, đều muốn có nhau trong giờ phút cuối. Ai cũng muốn ra đi trong tình thương mến của gia đình. Không ai muốn chết trong cô đơn buồn tủi.
Trong bài Phúc âm hôm nay, thánh Luca kể lại việc Đức Mẹ Maria và thánh Giuse đưa Hài: ThánhGia ABC 73
Trong bài Phúc âm hôm nay, thánh Luca kể lại việc Đức Mẹ Maria và thánh Giuse đưa Hài Nhi Giêsu lên đền thờ “để hiến dâng Ngài cho Thiên Chúa… Và khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nagiarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.
Thánh Phaolô còn diễn tả chi tiết hơn những đặc tính của gia đình Thánh Gia ở Nagiarét, nơi Chúa Giêsu đã sinh ra và lớn lên : “Như những người được Thiên Chúa chọn, những người thánh thiện và được yêu thương anh em hãy học lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và hãy tha thứ cho nhau…
Có một chú rể nọ, trước ngày cưới, cùng với cô dâu đến xin lời khuyên của cha mẹ vợ trước khi về chung sống ăn ở với nhau. Cha mẹ vợ đã có tuổi, ống rất hạnh phúc với nhau trong 40 năm. Nhìn vào gương sáng của cha mẹ, chàng rể xin các ngài dạy cho bài học phải làm sao để giữ hạnh phúc trong gia đình. Ông bố vợ mới dạy một bí quyết như sau : “Để giữ cho gia đình hạnh phúc, êm ấm, bố mẹ đã cố gắng giữ một nguyên tắc như sau : Trong gia đình, bất cứ chuyện gì quan trọng, bố quyết định hết !” Nghe vậy, chú rể khoái chí, thúc cùi chỏ vào cô dâu dặn dò : “Nghe rõ chưa em ?” “Những chuyện nhỏ, mẹ con quyết định !” Ông bố nói tiếp : “Nhưng trong 40 năm chung sống với mẹ của các con, bố chưa thấy có chuyện gì đáng kể là quan trọng cả !”
Thánh Kinh đề cao những nhân đức giúp cho gia đình hạnh phúc. Các nhân đức này đều nhằm đến việc duy trì một hòa khí yêu thương, đồng tâm nhất trí, ý hợp tâm đầu. Đây chính là chìa khoá mở cửa hạnh phúc gia đình. Sau đây là bức thư đăng trong mục Ann Landers trên các tờ nhật báo lớn ở Mỹ.
Ann Landers thân mến.
Tôi năm nay 46 tuổi, ly dị chồng, đang sống với ba đứa con thơ. Tiếp theo việc giải phẫu ngực vì ung thư, vài tháng sau đó tôi được điều trị bằng hóa chất – chemotherapy. Tôi sắp xếp mọi công việc để đi bác sĩ khám bệnh lại, và vô cùng tuyệt vọng vì ung thư lại tái phát mạnh mẽ hơn trước !
Những người thân trong gia đình chẳng ai nâng đỡ, ngó ngàng gì đến tôi cả. Tôi là người đầu tiên trong gia đình bị ung thư, nên có lẽ chẳng ai biết cư xử với tôi ra sao. Họ cố gắng tử tế với tôi, nhưng tôi có cảm giác rằng họ sợ bị lây bệnh. Họ giữ khoảng cách ở xa xa, và gọi điện thoại hỏi thăm qua loa. Điều này làm tôi tủi thân và đau lòng.
Chúa nhật vừa qua tôi đem quần áo ra tiệm giặt. Tôi cũng gặp gỡ những khuôn mặt quen thuộc như mọi lần, cũng chào hỏi qua loa, nói vài câu. Tôi cố gắng giữ không tỏ lộ sự buồn bã, nhưng tinh thần sa sút trầm trọng. Đang khi đưa quần áo từ ngoài xe vào trong tiệm giặt, ngẩng đầu lên, tôi bắt gặp một người đàn ông, khuôn mặt quen quen. Ông vừa giặt xong, đang đưa quần áo ra xe đi về. Ông mỉm cười và chào tôi. Hôm nay có khoẻ không ?” Tôi bị mất tự chủ, trút hết nỗi lòng : “Hôm nay là ngày tệ nhất trong đời tôi ! Ung thư lại nặng thêm !” Rồi tôi bật lên khóc nức nở.
Ông choàng tay qua vai tôi, để tôi khóc tức tưởi, rồi nói, “Tôi hiểu chị. Vợ tôi cũng đã bị như vậy”. Sau vài phút tôi cảm thấy dễ chịu hơn, cám ơn ông vì sự thông cảm của ông, rồi bưng thùng quần áo đưa vào tiệm giặt. Khoảng 15 phút sau, người đàn ông tôi vừa gặp trở vào cùng với vợ ông. Chị bước đến với tôi, và không cần phải nói lời nào, chị ôm lấy tôi và nói, “Đừng ngại ngùng gì, hãy tâm sự với tôi, xưa kia tôi cũng đã từng bị như chị bây giờ. Tôi biết những khó khăn chị đang phải chịu”.
Bà Ann thân mến, tôi không thể diễn tả ra được cử chỉ của chị ấy đã giúp tôi là dường nào. Ở đây một người hòan tòan xa lạ, bỏ công lao, thì giờ ra để nâng đỡ và khích lệ tôi can đảm hướng về tương lai vào một thời điểm mà tôi dường như sắp sửa muốn buông xuôi. Tôi hy vọng Thiên Chúa sẽ ban cho tôi cơ hội để làm cho một người nào đó điều mà người phụ nữ tốt lành kia đã làm cho tôi. Nhưng trong lúc chờ đợi cơ hội đó, bà Ann thân mến, hãy làm ơn cho độc giả biết rằng mặc dù có rất nhiều người cứng lòng trên thế gian này, nhưng cũng có những người rộng lượng và nhân hậu không thể tưởng tượng được”.
Ngày nay đời sống hôn nhân và gia đình ở các nước tân tiến đang gặp khủng hoảng trầm trọng. Cuộc sống vật chất và ích kỷ đã tạo ra những sự sụp đổ trong quan hệ gia đình và vợ chồng. Theo thống kê một nửa hôn nhân kết thúc bằng ly dị !
Vì tình trạng gia đình tan vỡ, nên có nhiều trẻ em lớn lên không có cha hay mẹ săn sóc. Theo sách Sáng Thế, Thiên Chúa đã hoạch định cho con người có đời sống hôn nhân không phải vì ích lợi của đôi vợ chồng, bớt cô đơn, “người đàn ông ở một mình không tốt”, mà còn để sinh sản và giáo dục con cái trong sự quân bình tâm lý của một gia đình, biết được cả nam lẫn nữ là cha mẹ mình.
Nhân dịp đầu năm 1994, cử hành thánh lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, và cầu nguyện cho hoà bình thế giới, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đề cập đến việc trẻ em học được sự hòa bình qua đời sống gia đình ấm áp và yêu thương nhau giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái. Ngài nói : “Một người hoạt động để xây dựng đời sống gia đình tốt đẹp là làm việc cho hòa bình”.
Hôm nay mừng lễ Thánh Gia, ước gì những lời khuyên nhủ của thánh Phaolô gửi cho tín hữu Côlossê là yếu tố có thể thay đổi được tình trạng suy đồi nơi các gia đình và hôn nhân hiện nay. Những nhân đức đó, giúp cải thiện sự liên hệ giữa con người với con người, và tạo nên hòa khí trong một gia đình hạnh phúc, yêu thương nhau như gia đình Thánh Gia.
Mừng Lễ Thánh Gia, suy tư về gia đình Kitô giáo ngày nay!
Đại lễ Giáng Sinh mang một tính cách nhân bản rất đậm nét : Đó là Ngôi Hai Thiên Chúa: ThánhGia ABC 74
Ðại lễ Giáng Sinh mang một tính cách nhân bản rất đậm nét : Ðó là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, sinh hạ trong một gia đình nhân loại, có mẹ có cha, hoàn toàn như bất cứ gia đình nhân loại nào. Qua sự kiện đó Thiên Chúa muốn thánh hóa gia đình và công khai khẳng định lại các gia trị thánh thiêng của gia đình mà chính Người đã thiết lập nên khi Người nối kết tổ phụ loài người là Adong và Evà thành gia đình đầu tiên.
Vì thế, người ta có thể nói được rằng, Lễ Giáng Sinh thực sự là một Lễ gia đình. Vâng, người Tây phương nói chung có truyền thông vẫn coi Lễ Giáng Sinh là một Ðại Lễ của gia đình. Vì thế, các thành phần của gia đình, dù suốt năm vì sinh kế hay vì việc học hành hoặc vì bất cứ vì lý do gì phải sống xa gia đình cũng cố gắng hết sức về đoàn tụ với gia đình trong ngày Lễ Giáng Sinh để trước hết cùng nhau mừng Lễ Chúa Giáng Sinh, tiếp đến để trao cho nhau những món quà thân thương nói lên mối tình gia đình ruột thịt và những lưu luyến gắn bó giữa họ với nhau, và nhất là để cùng nhau chia sẻ mọi nỗi buồn vui trong suốt năm, v.v…
Nhưng nếu sợi dây gia đình của người Tây phương vốn lỏng lẻo mà họ còn quí mến và gắn bó với gia đình của họ như thế, thì người Việt Nam chúng ta với một truyền thống luôn kính trọng và đề cao gia đình, luôn lấy gia đình làm gốc, làm điểm tựa cho cuộc sống, đến nỗi thà hy sinh quyền lợi bản thân chứ không thà để cho danh dự của gia đình bị sứt mẻ, ngày Ðại Lễ Giáng Sinh hôm nay càng nhắc nhở chúng ta phải hướng về gia đình của chúng ta với bao tình cảm thân thương đầm ấm biết chừng nào!
Vâng, đã là con người, dù Âu hay Á, dù Tây hay Việt, dù muốn hay không, mỗi người chúng ta đều cảm nhận được rằng gia đình thật vô cùng quan trọng và cần thiết đối với cuộc sống của mỗi một người. Vì chỉ gia đình mới là tổ ấm thực sự cho con người. Chỉ trong gia đình con người mới thực sự được đón nhận bằng tình yêu thương chân thành. Chỉ với người trong gia đình người ta mới có thể nói tất cả những gì mình muốn. Chỉ với người trong gia đình người ta mới hoàn toàn được thoải mái bày tỏ mọi cảm xúc, mọi nỗi lòng của mình, người ta mới hoàn toàn được tự nhiên cười khóc,v.v… Nói tóm lại, gia đình mới thực sự là nơi người ta tìm gặp được tình yêu chân thành, sự thông cảm, sự tha thứ, sự tin tưởng, và sự bênh vực che chở chắc chắn. Gia đình là chốn nương tựa vững chắc nhất.
Nhưng khi nghe thế, chắc chắn có người sẽ thầm nghĩ rằng: Ðó chỉ là lý thuyết, chứ trong thực tế đời thường làm gì được lý tưởng như thế ! Vâng, có lẽ những người đó có lý khi nghĩ như vậy. Những lúc « cơm không lành, canh không ngọt », những va chạm, những cãi cọ tranh dành, những hiểu lầm, những xung đột bất bình, v.v… đến nỗi có những đêm thâu :
« Vừng trăng ai sẻ làm đôi,
nửa nằm phòng ngũ
nửa ngồi vòng khách »
là những khoảnh khắc rủi ro mà trong cuộc sống gia đình không nhà nào mà không thiếu. Ðiều đó rất dễ hiểu và không ai có thể phủ nhận được, vì bá nhân bá tánh, mỗi người mỗi khác, không ai giống ai, mỗi người có tư duy, có ý kiến và sở thích riêng. Vì sống ở trên đời, dù con người có thương yêu nhau có hòa hợp với nhau đến đâu đi nữa, họ vẫn không thể xóa đi được những sự dị biệt giữa họ.
Nhưng sự quan trọng cơ bản ở đây không phải là việc các gia đình và các thành viên của họ có phải đối mặt với các khó khăn, các hiểu lầm và va chạm trong cuộc sống hay không, nhưng là việc các gia đình và các thành viên của gia đình có biết cố gắng vượt thắng những ý kiến khác biệt, những khó khăn, những hiểu lầm và những va chạm giữa họ hay không !
Thiên Chúa đã thấu hiểu tất cả những bất toàn đó trong cuộc sống con người. Vì thế Người đã cho Con Một yêu dấu của Người là Ðức Kitô xuống thế làm người để nhập cuộc, để sống hòa mình với con người, để chia sẻ sự nghèo nàn và sự khốn cùng với con người. Ðức Giêsu Kitô đã tự nghuyện không những trở nên người như mọi người, ngoại trừ tội lỗi, nhưng Người còn trở nên một trong những kẻ bé mọn, nghèo nàn và bị kỳ thị nhất trong xã hội loài người. Ðức Giêsu từ khi sinh ra cho đến lúc chết là một người vô sản đúng nghĩa, thuộc tầng lớp vô sản, những người bị sa thải và phải sống ngoài lề xã hội. Người đã phải đích thân trải qua mọi đau thương của cuộc sống, đã phải tay lấm chân bùn để kiếm ăn, hằng ngày đã phải đổi mồ hôi nước mắt để lấy bát cơm cho bản thân và gia đình. Tuy nhiên, Ðức Giêsu đã sống một cuộc sống an bình và hạnh phúc nhất, vì Người không hề bi quan yếm thế, ngồi trách trời gần trách trời xa, không nguyền rủa số phận hẩm hưu đen bạc, nhưng Người luôn lạc quan tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa và luôn can đảm phấn đấu để vượt lên những nghiệt ngã của định mệnh.Vâng, Ðức Kitô đã biết chấp nhận cuộc đời, biết chấp nhận sự an bài đầy tình thương của Thiên Chúa và luôn biết can đảm đặt Thánh ý Thiên Chúa lên trên ý riêng mình, dù cho người phải hy sinh cả mạng sống mình và phải chết một cách đau thương nhục nhã !
Qua đó Người muốn làm gương và chỉ cho chúng ta biết cách phải làm thế nào để vượt lên những bươn chai vất vã và những khó khăn của cuộc đời, phải biết hòa giải với nhau thế nào sau những va chạm, phải biết tha thứ cho nhau thế nào sau những hiểu lầm và xung đột.
Thật ra, có lẽ tất cả chúng ta cũng đều biết rõ và đánh giá cao điều đó. Nhưng chúng ta lại thường thiếu can đảm để làm điều đó. Chúng ta thường thiếu can đảm để dẹp bỏ tự ái và giơ tay trước làm hòa với người khác. Chúng ta đã thiếu can đảm để nói lên một lời xin lỗi. Chúng ta đã thiếu can đảm để nhìn thẳng vào mặt người anh chị em mình để nói lên một lời thông cảm và tha thứ. Vâng, rất nhiều lúc trong cuộc sống, chúng ta đã phải đứng trước những hoàn cảnh như thế và phải quyết định : Tha thứ hay nuôi tức giận, hòa giải hay đoạn tuyệt, và thường chúng ta đã phải đầu hàng trước sức mạnh vỡ bờ của sự tự ái của mình và đã chiều theo những quyết định chủ quan lệch lạc của nó với hậu quả cuối cùng là chúng ta đã rơi vào cái vòng luẫn quẩn không có lối thoát của đủ thứ sai lầm và ôm vào mình sự đổ vỡ thất bại. Vậy, cái nguyên nhân chính đã đưa tới hậu quả thất bại không phải là những thách đố khó khăn của cuộc sống, nhưng là cái tôi quyền lực của chúng ta, là do chúng ta không thắng được sự tự ái của mình.
Do đó chúng ta cần phải cần đến sự trợ giúp của ơn Chúa, vì Người đã phán : « Không có Thầy, các con không thể làm được gì thiện hảo » (Ga 15,3). Vì thế, cùng với cả gia đình chúng ta cần phải luôn giao hảo và tiếp cận với Chúa qua việc trung thành tuân giữ các giới răn của Người và qua các kinh nguyện hằng ngày. Ðồng thời chúng ta cũng phải kết thân và sống hài hòa với mọi người. Ðúng vậy, hạnh phúc và sự đầm ấm chân thật của gia đình chúng ta chỉ có thể tìm gặp được nhờ vào sự trợ giúp của ơn Chúa và sự cố gắng hy sinh của chúng ta. Một gia đình sống xa lìa Thiên Chúa và Giáo Hội Người sẽ từ từ đánh mất bản sắc và nền tảng của mình, sẽ rơi vào cái vòng luẩn quẩn bất hạnh, sẽ phải gánh chịu đủ mọi thứ đổ vỡ đang thi nhau ập xuống trên gia đình đó. Và nạn nhân đầu tiên của những gia đình bất hạnh như thế là những đứa con vô tội của họ, những mầm non yếu ớt, đang cần sự vun trồng che chở thì đã phải tự sức đương đầu với sức nóng thiêu đốt của cuộc đời và đã phải bị cháy héo đau thương.
Nhưng để một gia đình có thể đón nhận được ơn Chúa và sống trong hạnh phúc thực sự, gia đình đó phải đươc xây dựng trên nền tảng tình yêu và sự chúc phúc của Thiên Chúa. Trái lại khi con người chỉ xây dựng gia đình trên những nền tảng của những đòi hỏi tự nhiên, trái với giới răn của Chúa và ngoài vòng luân lý của Giáo Hội thì sớm hay muộn họ cũng sẽ gặt hái những đổ vỡ chua cay. Ðặc biệt, ngày nay một số lớn thanh niên thiếu nữ đến tuổi cập kê, đã tự động sống chung với nhau, bất chấp mọi luân thường đạo lý và coi thường cả giới răn của Thiên Chúa. Họ đã mất hết những cảm thức tôn giáo hay luân lý trong cuộc sống. Họ chủ trương tự do sống theo những thôi thúc và đòi hỏi tự nhiên :
Cứ yêu nhau cho đến khi nào không còn cảm thấy yêu nhau nữa thì chia tay, ai đi đường người ấy, không vướng mắc, không bận bịu, không trách nhiệm gì cả. Họ chủ trương việc sống chung với nhau như thế là quyền tự do của họ, không ai được phép « xía » vô chuyện riêng tư của họ, dù Giáo Hội cũng không. Nhưng chúng ta biết rằng đó chỉ là những lời ngụy biện, tố cáo thái độ sống phóng đãng, vô luân lý của một số lớn con người ngày nay nói chung và của thanh thiếu niên nói riêng. Về phần các bậc làm cha làm mẹ khi đứng trước hoàn cảnh đó thì thường tỏ ra luống cuống hay đành chịu thất thủ, không biết phải xử trí ra sao nữa. Nhưng còn đáng buồn hơn nữa, có những bậc cha mẹ chẵng những không cản ngăn con cái mà còn đồng tình với chúng trong cuộc sống phóng túng như thế, vì lẽ chính họ cũng sống một cuộc sống tương tự.
Nay trong Mùa Giáng Sinh, những ngày kỷ niệm Con Thiên Chúa xuống thế làm người, sinh hạ trong một gia đình nhân loại, có mẹ có cha : Thánh Gia Na-da-ret, chúng ta sẽ rút tỉa được bài học cụ thể nào cho cuộc sống gia đình chúng ta ? Phải chăng qua đó Người muốn đề cao và khẳng định lại những giá trị nền tảng cao quí bất di dịch của gia đình : Tình yêu thương chân thành, sự cảm thông và tha thứ. Vâng, « những gì Thiên Chúa đã liên kết, con người không được phép phân ly » (Mt 19,6b).
Vậy chúng ta tất cả - vợ và chồng, cha mẹ và con cái – đang cùng nhau trên đường tìm kiếm và tiến tới hạnh phúc của cả gia đình, chúng ta hãy loại bỏ và tháo gỡ những vướng mắc, những khó khăn đang cản trở lộ trình của chúng ta, hầu chúng ta có thể bước theo dấu chân Ðức Kitô trên con đường chính Người đã đi qua.
Với niềm vui trọng đại Ngày Lễ Thánh Gia Na-da-ret, tôi xin chân thành cầu chúc tất cả mọi gia đình Kitô giáo ơn lành của Chúa Hài Ðồng Giêsu qua lời bầu cử của Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse, và niềm vui gia đình đoàn tụ hạnh phúc trong yêu thương đầm ấm thuận hòa. Amen.
Bạn có biết Thánh Gia Thất cũng đã phải trải qua những sóng gió, những thử thách và đau: ThánhGia ABC 75
Bạn có biết Thánh Gia Thất cũng đã phải trải qua những sóng gió, những thử thách và đau khổ y như mỗi gia đình của chúng ta không?
Mời bạn cùng với tôi điểm qua những biến cố rất đặc biệt trong Phúc Âm qua đó bạn sẽ thấy bức tranh cuộc đời của Thánh Gia Thất cũng được đan dệt bằng những sợi chỉ của HẠNH PHÚC và ĐAU KHỔ giống hệt như những bức tranh đời sống gia đình của bạn và của tôi.
HẠNH PHÚC khi chàng thanh niên Giuse làm lễ đính hôn với cô Ma-ri-a (Luke 1:27).
ÐAU KHỔ bởi vì trước khi hai người về chung sống thì “Maria đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giu-se …định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1:19).
HẠNH PHÚC khi nỗi lo lắng của Giuse được sứ thần giải tỏa “Này Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1:20).
ÐAU KHỔ vì phải sống trong một hoàn cảnh thiếu thốn, khó nghèo. Nghèo đến độ phải “sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.(Luke 2:7).
HẠNH PHÚC khi chứng kiến cảnh các nhà chiêm tinh tới quỳ xuống trước Hài Nhi và “sấp mình thờ lạy [và] mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến” (Mt 2:11).
ÐAU KHỔ vì đang nửa đêm cả gia đình phải chỗi “dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập. .. vì vua Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi” (Mt 2:13-14)..
HẠNH PHÚC khi gia đình được cấp visa hồi hương "Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi”(Mt. 2:13).
ÐAU KHỔ vì Giuse và Maria nghe lời tiên tri của ông Simêon về số phận của con trẻ "Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng. .. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà" (Luke 2:33-35).
HẠNH PHÚC khi cả hai ông bà chứng kiến cảnh “Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Luke 2:40).
ÐAU KHỔ vì trên đường về “không thấy con đâu [và chạy đôn chạy đáo đi tìm suốt]. .. ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ” (Luke 2:41-50).
HẠNH PHÚC khi gia đình được hưởng những ngày tháng hạnh phúc, an vui, đầm ấm và nhất là con trẻ “Giê-su ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Luke 2:51-52)
ÐAU KHỔ vì nghe người ta chê cười và nhạo báng rằng “đã mất trí. .. bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám và. .. dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ. .. ” (Mc 3:21-22).
HẠNH PHÚC khi Maria được nhiều người khen ngợi, tán tụng "Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!” (Luke 11:27).
ÐAU KHỔ vì con của mình bị bắt, bị tra tấn, bị hành hạ, và bị kết án như là một tội phạm "Đem đi! Đem nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!” (Jn 19: 15).
HẠNH PHÚC khi thấy sự hiếu thảo của con, trước lúc lâm chung còn chăm sóc, lo lắng cho mình: “Người nói với môn đệ: ‘Đây là mẹ của anh.’ Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình” (Jn 19:27).
Bạn thân mến, nếu bạn đồng ý với tôi là bức tranh cuộc đời của Thánh Gia Thất được đan dệt bằng những sợi chỉ ngang dọc của HẠNH PHÚC và ÐAU KHỔ thì mời bạn cùng với tôi suy nghĩ thử xem “Tại sao bức tranh ấy lại đẹp, lại toàn vẹn, không tả tơi, te tua và tơi tác trước những sóng gió và bão táp của cuộc đời như vậy?” Những chất liệu nào đã gìn giữ bức tranh cuộc đời của Thánh Gia Thất được bền đẹp như vậy?
Tôi nghĩ có hai chất liệu sau đây:
· Thứ nhất là trong mọi biến cố vui buồn của Thánh Gia Thất, luôn luôn có sự hiện diện của Chúa Giêsu.
· Thứ hai là trong những lúc sóng gió, bão táp, trong lúc đối diện với những buồn phiền và đau khổ thì các Ngài NÓI ÍT. Các ngài nói ít lắm!
Thật vậy, SỰ HIỆN DIỆN CỦA CHÚA GIÊSU trong các biến cố vui buồn của Thánh Gia Thất và đức tính NÓI ÍT của thánh Giuse và Mẹ Maria chính là những chất liệu gìn giữ bức tranh của gia đình các ngài được trọn vẹn và không bị phai nhòa trước những sóng gió và bão táp của cuộc đời. Bạn xem thử có đúng không nhé!
· Khi chàng thanh niên Giuse nghe tin vị hôn thê của mình có thai thì anh rất bình tĩnh, không la ó, không nổi cơn tam bành, cũng không đi tố giác cô hay ngồi rên rỉ “Khóc cho vơi đi những nhục hình, nói cho quên đi những tội tình, đời con gái cũng cần dĩ vãng mà em tôi chỉ còn tương lai...” nhưng chỉ âm thầm định tâm lìa bỏ cô Maria một cách kín đáo (Mt 1:19).
· Ðang nửa đêm lạnh lẽo, Giuse bị thiên thần đánh thức, dựng dậy bắt đi vượt biên, ông chẳng nói, chẳng than phiền, cũng chẳng càm ràm, nhưng vui vẻ trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập (Mt. 2:14).
· Khi phát hiện ra con trẻ bị thất lạc, hai ông bà không la ó, không chửi nhau, không đổ lỗi cho nhau nhưng chia nhau ra đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc (Lk 2:44). Rồi khi không thấy con đâu, thì hai ông bà trở lại Giê-ru-sa-lem mà tìm. Khi tìm được con rồi, thánh Giuse chẳng nói gì cả, chỉ có mẹ Maria nói một câu ngắn gọn: "Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!"(Luke 2:48).
· Còn nữa, khi chứng kiến những sự kiện lạ lùng trong đời: con mình được các mục đồng hát mừng, các chiêm tinh gia đến thờ lạy, Maria chẳng nói gì cả, không khoe khoang, cũng không tự mãn. Ngay cả khi nghe những lời sấm từ ông Simeon về những đau khổ của mình và của con trẻ, Maria chỉ ghi nhớ tất cả những điều ấy và suy niệm trong lòng (Luke 2:19, 51).
Bạn có muốn bức tranh của gia đình bạn được toàn vẹn và không bị phai nhòa và không bị hủy hoại bởi những sóng gió và bão táp của cuộc đời này không? Bạn hãy MỜI CHÚA GIÊSU vào trong gia đình của bạn và tập NÓI ÍT thôi! Tôi bảo đảm bức tranh của gia đình bạn sẽ mãi mãi tồn tại và nguyên vẹn như bức tranh của Thánh Gia Thất.
· Khi vợ hay chồng của bạn lớn tiếng hay nặng lời với bạn vì một chuyện nào đó, dù đúng, dù sai, bạn hãy lập tức nhắm mắt lại, đừng nói gì cả và hãy thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, xin gìn giữ miệng lưỡi con để con khỏi thốt lên những lời nói không hay không đẹp!”
· Khi phải đối diện với những đau khổ, thử thách: vợ ốm, chồng đau, con bị tai nạn, thất nghiệp. .. bạn hãy lập tức nhớ đến thánh Giuse, hãy cố gắng GIỮ THINH LẶNG cầu xin Chúa ban cho bạn sự bình tĩnh và sáng suốt để chấp nhận, để thưa lên hai tiếng XIN VÂNG như Đức Mẹ khi xưa.
· Khi bạn bất bình với chồng, với vợ, với con cái, với cha mẹ... ví dụ như con cái không vâng lời, vợ hay đi shopping về trễ, chồng uống rượu, chồng hay vợ bị tai nạn xe… xin bạn hãy GIỮ THINH LẶNG, đừng nói gì cả. Hãy vào phòng đóng cửa lại, quỳ xuống xin Chúa ban cho bạn ơn bình an.
· Khi gặp những đối xử bất công, bị hiểu lầm và ngay cả khi bị thử thách, khi gặp khó khăn, bạn hãy mời Chúa Giêsu vào trong tâm hồn của bạn. Phải nài nỉ Người giống như hai môn đệ trên đường Emmaus rằng “Xin Thầy ở lại với chúng con, vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn” (Luke 24:29).
Trong lúc mặt bạn đang nóng bừng, chân tay run lẩy bẩy, tim mạch của bạn đang đập loạn cào cào, và đang làm việc overtime thì bạn chớ có dại dột nói lời nào cả bởi vì lúc này bạn nói là nói sai. Tôi và bạn, chúng mình hãy tập NÓI ÍT thôi! Bạn cũng đừng làm gì trong lúc này là bởi vì bạn sẽ làm bậy. Có bao giờ bạn giương buồm ra khơi lúc bão tố không? Chắc chắn là không rồi!
Bạn đừng quên! Năng nói thì năng lỗi, càng nói nhiều, càng la lối, than phiền, than thân trách phận nhiều bao nhiêu thì bức tranh của gia đình bạn càng dễ bị rách và bị phương hại bấy nhiêu. Chớ có dại!
Cuối cùng, để có sự hiện diện của Chúa trong gia đình và để có thể noi gương Thánh Gia Thất nói ít, nghe nhiều, bạn và tôi phải biết cậy trông vào Chúa, phải cậy dựa nơi Ngài bởi vì Ngài đã phán: “Không có Thầy các con không làm được chi hết!” (Jn 15:5). Muốn cho bức tranh của gia đình được toàn vẹn và đẹp mãi, chúng mình hãy:
1. Siêng năng tham dự Thánh Lễ, xưng tội, và năng rước lễ bởi vì Chúa đã hứa: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Jn. 6:56).
2. Tham dự các giờ Chầu Thánh Thể ở nhà thờ, tham dự những buổi học hỏi và chia sẻ Thánh Kinh bởi vì “ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt. 18:20). Qua những giờ Chầu Mình Thánh Chúa và học hỏi, chia sẻ Kinh Thánh bạn và tôi sẽ có cơ hội ngỏ lời mời Chúa Giêsu vào ở trong nhà của chúng mình.
3. Dành ra khoảng 5-10 phút thinh lặng mỗi ngày để lắng nghe tiếng gõ cửa của Chúa Giêsu. Hãy mau mắn mời Ngài vào ở trong gia đình của bạn: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Rv 3:20).
Cầu chúc bạn một năm mới hạnh phúc, bình an, thánh đức, tràn ngập niềm vui và VẠN SỰ NHƯ. ..Ý CHÚA!
phamtinh@yahoo.com
Bức tranh của gia đình Thánh Gia
Khác chi của chúng ta, mỗi nhà
Lận đận, lao đao cùng vất vả
Các Ngài chấp nhận chẳng kêu ca!
Hạnh phúc, đau khổ đan lấy nhau
Niềm vui lẫn cay đắng tủi sầu
Gia đình Thánh Gia không ngoại lệ
Nhưng vui chấp nhận tuyệt làm sao!
Gia trưởng hãy học nơi Giuse
Lao động sớm hôm cực trăm bề
Nhưng ngài vẫn an vui chấp nhận
Làm nhiều, nói ít, chỉ lắng nghe.
Quý bà hãy noi gương Mary
Hiền thục, đơn sơ chẳng phân bì
Những lúc buồn vui hay đau khổ
Suy niệm trong lòng, Mẹ khắc ghi.
Lúc bạn giận giữ NÓI rất nguy!
Cũng đừng ngó ngoáy LÀM! Làm gì?
NÓI, LÀM trong khi bạn nóng giận
Tan nhà, nát cửa, chẳng lợi chi?
Năm mới Bính Tuất sắp đến rồi!
Kính chúc mọi người: nói ít thôi!
Noi gương Thánh Gia sống phó thác
Đời sống gia đình chắc chắn vui!
Cầu chúc độc giả ở khắp nơi
Vui xuân Bính Tuất trong tiếng cười
Buồn, vui, thành công hay thất bại
Xin cố mỉm cười, đời sẽ tươi!
Hôm nay lễ Thánh Gia Thất, gia thất là nhà cửa, cũng có nghĩa là gia đình, Thánh Gia Thất là: ThánhGia ABC 76
Hôm nay lễ Thánh Gia Thất, gia thất là nhà cửa, cũng có nghĩa là gia đình, Thánh Gia Thất là một gia đình thánh, trong đó có thánh cả Giuse, Đức Mẹ Maria và Chúa Giêsu.
Một gia đình đúng nghĩa là một gia đình có cha mẹ và con cái, nếu một gia dình mà chỉ có hai vợ chồng thôi thì chưa đủ, nhưng phải có con cái, con trai hay con gái cũng như nhau.
Gia đình của Thánh Giuse như thế nào, hình dáng ra sao, to nhỏ thế nào, chúng ta chưa ai thấy, nhưng có lẽ chúng ta thấy rõ ràng nhất gia đình của Thánh Gia trong ngày lễ hôm nay chính là Hang Đá, nhìn vào hang đá chúng ta thấy gì, thấy Hài Nhi nho nhỏ, có cha mẹ Người là thánh Giuse và Mẹ Maria quỳ bên. Nếu chúng ta nhìn như thế mà thôi thì chưa đủ, nhưng cần phải dùng con mắt tâm hồn để thấy được cái bao la rộng lớn của ý nghĩa mầu nhiệm Giáng sinh trong gia đình thánh này.
1- Chúng ta nhìn thấy sự Khiêm Nhường trong gia đình thánh.
Nhìn vào hang đá chúng ta nhìn thấy sự khiêm nhường thẳm sâu của Con Thiên Chúa làm người, một vóc dáng nhỏ bé đang chịu đựng những cơn gió lạnh như cắt, để nhân loại được ấm tình thương, một thân xác trần truồng để nhân loại được dư thừa ân sủng của trời cao. Hài Nhi nho nhỏ ấy chính là Đấng tạo hoá đã trở nên tạo vật để cho nhân loại thông phần vinh quang của Thiên Chúa.
Nhìn vào hang đá chúng ta nhìn thấy một bà mẹ trẻ đang say sưa ngắm con mình mới sinh hạ, Bà đã khiêm tốn nhận mình chỉ là nữ tì hèn mọn của Thiên Chúa, để rồi Thiên Chúa đã nhắc Bà lên cao trên tất cả mọi địa vị : làm mẹ của Thiên Chúa. Bà đang suy ngắm về Mầu Nhiệm Tình Yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại, một Thiên Chúa đã chấp nhận kiếp người để con người trở nên con của Thiên Chúa.
Nhìn vào hang đá chúng ta thấy thánh cả Giuse, một người công chính và trầm lặng, một người chồng rất mực khiêm cung khi nhận ra người bạn đời của mình mang thai la do ý định của Thiên Chúa, giờ đây đang cùng với Mẹ Maria chiêm ngắm và tự thâm tâm đang thờ lạy Ngôi Hai Thiên Chúa làm người đang ở trước mặt mình, là con của mình.
Bài học thứ nhất chúng ta học lấy nơi Thánh Gia Thất là sự khiêm nhường.
2- Chúng ta nhìn thấy sự Hi Sinh trong gia đình thánh.
Nhìn vào hang đá chúng ta thấy được tình yêu cao cả của Thiên Chúa dành cho nhân loại, một tình yêu có sự hi sinh cao cả, hi sinh này chính là mỗi người trong gia đình thánh đã từ bỏ đi cái của mình đang có, để thông phần vào sự không có của nhân loại.
Hài Nhi bé nhỏ ấy chính là Thiên Chúa, Ngài đã khước từ vinh quang của Thiên Chúa để mặc lấy xác phàm nhân trở nên giống chúng ta mọi đáng, ngoại trừ tội lỗi, không ai hạ mình đến cùng cực như thế, không ai hi sinh cái thân phận cao quý của mình như thế, chỉ có Thiên Chúa, vì yêu mới làm được như vậy.
Người thứ hai từ bỏ cái mình đang có chính là sự ước nguyện đồng trinh trọn đời của Mẹ Maria, Mẹ đã nhìn thấy kế hoạch cứu chuộc nhân loại của Thiên Chúa sau khi nghe sứ thần giải thích, thì lập tức Mẹ từ bỏ cái tôi của mình để vâng theo thánh ý của Thiên Chúa, sự hi sinh này thật là cao quý, và chỉ có Thiên Chúa mới có thể trả công xứng đáng cho Mẹ. Hi sinh chính là điều kiện để tập tành sự khiêm nhường, không có hi sinh thì cũng không có khiêm nhường.
Người thứ ba đã từ bỏ cái tôi của mình là thánh cả Giuse, ngài rất xấu hổ khi nghe tin người yêu chưa cưới của mình mang thai, không có sự nhục nhả và đau khổ nào cho người thanh niên, khi mối tình đầu của mình bị phản bội, ngài phải bỏ đi để cho người bạn của mình được thong dong mà không mang tiếng... nhưng cuối cùng ngài đã từ bỏ cái tôi của mình để nhận Mẹ Maria làm vợ, sự vâng phục mau chóng này là quá trình của một tâm hồn biết phó thác cho Thiên Chúa trong mọi sự, và Thiên Chúa đã thưởng công cho ngài quyền thay mặt Ngài để dạy dỗ vị Thiên Chúa làm người, ngài đã trở nên mẫu gương cho chúng ta.
Bài học thứ hai mà chúng ta học được nơi Thánh Gia Thất chính là sự hi sinh.
3. Nhìn vào hang đá chúng ta nhìn thấy sự Yêu Thương của Thánh Gia Thất.
Tất cả mọi yêu thương chân chính đều xuất phát từ Thiên Chúa, mà Thiên Chúa thì không hiện ra để dạy chúng ta sống yêu thương nhau, nhưng nhìn vào hang đá chúng ta sẽ nhận ra tình yêu của Thiên Chúa sáng rõ như ban ngày.
Ngôi Hai Thiên Chúa làm người, hay nói cách khác Tình Yêu của Thiên Chúa đã giáng trần, giáng trần ngay trong một hoàn cảnh cực kì khó khăn, cực kì nghèo túng, để cho chúng ta thấy được rằng : Tình yêu phải bắt đầu từ nơi cùng cực, từ nơi những con người bị bỏ rơi, nơi những con người mà xã hội tránh né họ, vì đôi lúc coi họ như là gánh nặng của mọi người. Thiên Chúa Tình Yêu không giáng trần trong cung điện nguy nga đồ sộ, Thiên Chúa cũng không sinh ra trong những nhà phú hộ tiền bạc dư thừa, nhưng Tình Yêu hạ cố đến những nơi bần cùng của con người, vì chính những nơi đó đang cần một tình thương chân thật, thế thôi.
Thánh Gia Thất là nơi cội nguồn của tình thương, từ nơi cội nguồn này, người cha người chồng trong gia đình noi gương thánh cả Giuse yêu thương con cái và chăm sóc gia đình cách khiêm tốn và mẫu mực. Thánh Gia Thất là nơi cội nguồn của tình thương, nơi cội người này, người mẹ người vợ trong gia đình học lấy sự khiêm hạ của Mẹ Maria, nuôi nấng và dạy dổ con cái nên người có ích cho xã hội. Thánh Gia Thất cũng là nơi xuất phát tình thương cho con cái, do đó, tất cả mọi người con hãy học lấy sự yêu thương nơi Hài Nhi bé nhỏ, yêu thương và kính trọng cha mẹ, vì các ngài đã thay mặt Thiên Chúa để sinh thành và dưỡng dục chúng ta., một người con có hiếu thì luôn luôn làm vui lòng cha mẹ mình.
Bài học thứ ba mà chúng ta học được nơi Thánh Gia Thất là sự Yêu Thương.
Anh chị em thân mến,
Lễ Thánh Gia Thất chính là một cách tôn vinh một gia đình thánh của nhân loại, là đề cao giá trị của gia đình, đề cao tình yêu chung thuỷ của chồng vợ, đề cao giáo huấn “nhất phu nhất phụ” của Giáo Hội, đề cao giá trị của sự sống và quyền được sống nơi các thai nhi, mà ngay nay, người ta, vì lí do kinh tế, lí do hưởng lạc, lí do tránh trách nhiệm để –trong một ngày- giết hàng ngàn vạn thai nhi đang còn trong bụng mẹ.
Lễ Thánh Gia Thất, chúng ta cầu xin Chúa ban cho mỗi thành viên trong gia đình, biết noi gương gia đình Thánh Gia để xây dựng một gia đình hạnh phúc, yêu thương và gương mẫu.
Mầu nhiệm Nhập Thể bắt đầu từ tiếng Xin Vâng ở Nadarét. Nadarét là nơi Ngôi Lời làm: ThánhGia ABC 77
Mầu nhiệm Nhập Thể bắt đầu từ tiếng Xin Vâng ở Nadarét.
Nadarét là nơi Ngôi Lời làm người sống phần lớn thời gian. Mái ấm Nadarét thật khác thường, và rất đỗi bình thường. Đây là một gia đình có bầu khí yêu thương, đạo hạnh.
Nadarét là trường học đầu tiên huấn luyện Đức Giêsu, chuẩn bị Ngài gánh vác sứ mạng Cha giao sau này. Nadarét là trường dạy cầu nguyện, dạy giáo lý, dạy lao động, dạy yêu thương đến hiến mình cho người khác.
Đức Giêsu đã vâng phục kỷ luật của trường này. Ngài đã chấp nhận những vị thầy đầu tiên là cha mẹ, và Ngài đã lớn lên, chững chạc, trưởng thành, quân bình cả về thân xác, trí tuệ lẫn tâm linh.
Con Thiên Chúa đã tập làm người ở Nadarét, và nền giáo dục ở Nadarét đã thành công khi trao cho ta một Giêsu khôn ngoan, đạo đức và nhân hậu, ở tuổi ngoài 30.
Nền giáo dục gia đình được coi là tốt khi giúp con cái mở ra trước những đòi hỏi của Thiên Chúa và tha nhân.
"Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà CHA con sao?" - Từ năm 12 tuổi, cậu Giêsu đã ý thức mình là Con của Thiên Chúa, Đấng mà cậu trìu mến gọi là Cha. Cậu đã sống mối tương quan thân tình độc đáo này và cậu cảm thấy điều đó kéo theo những bổn phận: ở lại trong nhà Cha hay lo việc của Cha.
Càng lúc Đức Giêsu càng ý thức về mình, trong tương quan với Cha và trong sự thúc bách của sứ mạng.
Con Thiên Chúa cần mẹ cha, cần một mái ấm để lớn lên, nhưng cả mối dây thân thương tự nhiên ấy cũng có lúc phải chịu hy sinh, nếu nó cản trở sứ mạng Cha trao phó.
Ta không rõ tại sao cậu Giêsu rất mực khôn ngoan đã ở lại Đền Thờ mà không báo cho cha mẹ. Nhưng chắc chắn sau này cậu sẽ phải chia tay với Mẹ Maria.
Đức Giêsu không chỉ là người con hiếu thảo với mẹ cha, nhưng trên hết và trước hết, Ngài là Con vâng phục CHA. CHA trên trời là ưu tiên vượt trên mọi ưu tiên khác.
Đức Maria không hiểu câu trả lời của Con mình. Dù Mẹ đã nghe bao mạc khải về Con từ Gabrien, Simêon, nhưng những biến cố đời thường vẫn làm Mẹ ngỡ ngàng.
Con vẫn là một mầu nhiệm vừa gần, vừa xa đối với Mẹ. Mẹ không hiểu nổi, không hiểu hết hay không hiểu ngay, nên Mẹ vẫn cung kính đứng trước mầu nhiệm bằng thái độ vâng phục của lòng tin và nghiền ngẫm mãi.
Mẹ chẳng giữ Con lại trong vòng tay của mình. Mẹ để Con lên đường, Mẹ dâng Con trên Núi Sọ.
Chỉ biến cố Phục Sinh mới làm Mẹ thật hiểu Con.
Cha mẹ vừa đùm bọc ấp ủ, vữa tiễn con mình vào đời.
Gia đình cung ứng những công dân tốt và tín hữu nhiệt thành.
Mỗi đứa con là một mầu nhiệm cần tôn trọng. Giáo dục là giúp con sống cuộc đời rất riêng của nó.
Ước gì mọi bà mẹ đều như Maria, sinh các con như Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Cuộc sống gia đình hôm nay gặp nhiều khó khăn (chung thủy, giáo dục con cái, thiếu thốn vật chất...) Theo bạn, đâu là khó khăn lớn nhất? Làm sao khắc phục?
Theo bạn, thế nào là một gia đình lý tưởng? Để xây dựng một gia đình như thế cần có những điều kiện gì?
Cầu Nguyện
Lạy Cha nhân ái, từ trời cao, xin Cha nhìn xuống những gia đình sống trên mặt đất trong những khu ổ chuột tồi tàn hay biệt thự sang trọng.
Xin thương nhìn đến những gia đình thiếu vắng tình yêu hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu, những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.
Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.
Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới, những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán, những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường, những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng.
Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất, từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ.
Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình; nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ hạnh phúc luôn ở trong tầm tay của từng người chúng con. Amen.
Erma Bombeck là một nhà viết nhật ký. Bài viết của cô đã được đăng tải trên 900 tờ báo khắp: ThánhGia ABC 78
Erma Bombeck là một nhà viết nhật ký. Bài viết của cô đã được đăng tải trên 900 tờ báo khắp nước Mỹ. Cũng giống như những nhà bình luận, cô nhận được rất nhiều lá thư của các độc giả.
Đây là đoạn trích thư của một người mẹ: "Cho dù là tòa đã phán quyết đứa con trai của tôi, nhưng tôi thì vẫn không. Nó là đứa con của tôi, làm sao mà tôi có thể phán quyết nó chứ? Tôi cầu nguyện cho nó; tôi khóc thương nó; tôi khuyến khích nó. Và trên hết, tôi yêu thương nó."
Đây là một ví dụ khác, dựa trên lá thư của một em bé 12 tuổi. Em viết: "Tôi là một bà mẹ thay thế. Khi người mẹ của tôi làm việc tại nhà hàng, thì tôi phải trông coi ba người em của tôi. Tôi phải lo vệ sinh cho chúng nó. Tôi lau nước mũi cho chúng. Tôi cho chúng ăn. Tôi đưa chúng vô giường ngủ. Tôi làm tất cả mọi việc mà người mẹ thật của tôi làm. Tuy nhiên, thay vì cám ơn tôi, các em của tôi đã ghét tôi. Một đôi lúc, tôi mong được chết đi. Tôi đã có ý định bỏ nhà ra đi, nhưng tôi không biết đi đâu và sẽ làm gì. Khi tôi lớn lên, tôi không muốn làm một người mẹ, bởi vì đó là một cái nghề tệ nhất trên trái đất này." (Based on Erma Bombeck, Motherhood: The Second Oldest Profession).
Hai ví dụ ở trên đều đưa đến một điểm giống nhau, đó là cho dù làm bậc cha mẹ hoặc làm bậc con cái trong gia đình đều không phải là dễ. Một đôi lúc, nó thật là nhức nhối.
Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy rằng, cho dù là Gia Đình Thánh Gia cũng chẳng ngừa được cái đau khổ tương tự.
Thí dụ, Mẹ Maria và Thánh Giuse đã phải đau khổ khi lạc mất con. Sự đau khổ cũng không giảm bớt khi họ tìm thấy Chúa Giêsu. Mẹ Maria đã nói với Chúa Giêsu: "Con ơi, sao con lại làm cho chúng ta như thế? Kìa cha con và mẹ đây, đã đau khổ tìm con."
Chúa Giêsu trả lời: "Mà tại sao tìm con? Cha mẹ không biết rằng con phải lo công việc của Cha con ư?"
Đó là một câu trả lời đau khổ cho câu hỏi của Mẹ Maria. Mẹ Maria đã phản ứng thế nào?
Mẹ đã không chạm trán với Chúa Giêsu, hoặc bắt Ngài phải giải thích. Mẹ chỉ đơn giản để những lời đó vào trong lòng và suy ngẫm. Phúc Âm viết: "Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói... Maria, Mẹ Người ghi nhớ những việc đó trong lòng" (Lc 2:48-51)
Một đôi lúc, giữ thinh lặng là cách duy nhất để giải quyết những cơn giận dữ. Erma Bombeck viết trong cuốn "Tình Mẹ": "Tôi cho rằng mỗi một người con đều nhớ một đức tính đặc biệt nào đó về người mẹ của mình. Đức tính đó có thể là một sự khôn ngoan cứu giúp người con khỏi cảnh nguy hiểm, hoặc là một lời nói chỉ đường để giúp người con đạt tới mục đích cách dễ dàng. Riêng tôi, tôi yêu mẹ của tôi, bởi vì trong mọi lúc bà ấy chẳng nói điều gì hết."
Để có thể giữ thinh lặng trong khi bên trong nội tâm của mình sôi sùng sục đòi hỏi rất nhiều sự tự chủ. Tuy nhiên, cũng có lúc những thinh lặng nói lớn hơn là những lời nói phát xuất từ miệng lưỡi.
Nếu vai trò của Mẹ Maria trong gia đình Thánh Gia không phải là một chuyện dễ dàng, thì vai trò của Thánh Giuse cũng chẳng thua kém gì.
Một người giảng phòng đã kết thúc bài giảng của ngài với các ông bố như sau: "Thánh Giuse là mẫu gương cho tất cả mọi người chúng ta."
Sau cuộc nói chuyện, một ông bố đã tiến lên vị giảng phòng và nói: "Với tất cả lòng tôn kính, thưa cha, trường hợp của Thánh Giuse thì khác hẳn với chúng tôi, những người bố bình thường. Thứ nhất, Ngài là một vị thánh. Thứ hai, vợ của Ngài vô nhiễm tội lỗi. Thứ ba, người Con của Ngài là Con Thiên Chúa. Tôi không phải là thánh, vợ của tôi thì tội lỗi, và con của tôi không phải là Con Thiên Chúa."
Vị giảng phòng trả lời: "Điều ông nói đúng, nhưng tôi xin thành thật hỏi ông thế này. Vợ của ông có phải là có thai trước khi đám cưới, mà ông không biết tại sao không? Hoặc là con của ông có khi nào bỏ nhà ra đi ba ngày mà ông không biết nó đi đâu không? Cả hai điều này đã xảy ra với Thánh Giuse."
Chúng ta thấy rõ, cho dù là một gia đình thánh thiện cũng không tránh khỏi sự khó khăn.
Chúng ta xin Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse phù hộ chúng ta sống thánh thiện yêu thương, noi gương Thánh Gia Nazarét.
Giáo hội thiết lập lễ Thánh gia vào năm 1921 khi mà đời sống gia đình trở nên lỏng lẻo. Trong: ThánhGia ABC 79
Giáo hội thiết lập lễ Thánh gia vào năm 1921 khi mà đời sống gia đình trở nên lỏng lẻo. Trong ngày lễ Thánh gia, bổn mạng các gia đình công giáo, ta cùng nhau học hỏi và noi gương mỗi phần tử trong gia đình thánh.
Theo chương trình quan phòng của Thiên Chúa, thánh Giu-se được chọn làm cha nuôi để săn sóc cho gia đình thánh. Thánh kinh ghi lại rất ít về thánh Giu-se, chỉ nói vắn tắt thánh Giu-se thuộc dòng dõi Đa-vít, là người công chính và có đầy lòng tin. Khi thấy trinh nữ Ma-ri-a mang thai, thánh Giu-se không muốn tố cáo, sợ làm ô danh bà, mà chỉ định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Đang lúc suy tư như vậy, thì thiên thần Chúa hiện ra can thiệp, bảo thánh Giu-se : Đừng ngại đón bà Ma-ri-a về nhà vì con bà cưu mang là do quyền phép Chúa Thánh thần (Mt 1:20). Thánh Giu-se liền chấp nhận với đức tin, mà không thắc mắc. Rồi trong giấc chiêm bao, thiên thần Chúa hiện ra bảo ông Giu-se hãy chỗi dạy, đem con trẻ và mẹ Người trốn sang Ai-cập để tránh cuộc tàn sát. Thánh Giu-se liền chỗi dạy và làm theo lời thiên sứ truyền. Khi vua Hê-rô-đê băng hà, thiên thần Chúa lại hiện ra bảo Giu-se đem con trẻ và mẹ Người trở về Na-da-rét. Thánh Giu-se đem mẹ Con về sống trong bàu khí gia đình đạo đức và hoà thuận theo những lởi chỉ dạy khôn ngoan mà sách Đức Huấn ca trong đạo cũ đề ra về sứ mệnh của người cha, người mẹ, và con cái. Như vậy ta thấy, qua việc lắng nghe, thánh Giu-se nhận ra khi nào phải hành động, khi nào ở lại và khi nào cần di chuyển.
Còn mẹ Maria, khi sinh con trong cảnh nghèo nàn, thiếu thốn, không tìm được quán trọ, mẹ cũng đã chấp nhận. Không một lời phàn nàn nào được ghi lại trong Thánh kinh. Khi phải đem con trốn sang Ai-cập cùng với thánh Giu-se, mẹ cũng không phàn nàn. Khi dâng Con vào đền thờ, Si-mê-on tiên đoán Con trẻ sẽ là mục tiêu cho người ta chống đối, còn mẹ Người sẽ phải đau khổ như lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn, Thánh kinh cũng không ghi lại lời phản ứng nào của mẹ. Chỉ khi gia đình lên Đền thờ và thất lạc Con, mẹ mới lên tiếng nhắc nhở Con cách nhẹ nhàng về việc Con không cho cha mẹ biết. Khi Chúa Giê-su giải thích là Người phải làm bổn phận của Chúa Cha trao phó, thì mẹ sẵn sàng chấp nhận lời giải thích, và theo Thánh kinh, mẹ Người ghi nhớ những điều đó trong lòng (Lc 2:51).
Làm xong bổn phận Chúa Cha trao phó, Chúa Giê-su cùng với thánh Giu-se và mẹ Ma-ri-a trở về Na-da-rét sống vâng phục các ngài và lớn lên trong khôn ngoan và ơn nghĩa trước mặt Thiên Chúa (Lc 2:52). Gia đình Na-da-rét sống trong cảnh bình dị và thanh đạm trong 30 năm mà hàng xóm láng diềng, theo Thánh kinh ghi lại, không thấy có gì khác biệt với họ: Người không phải là con ông Giu-se đó sao (Lc 4:22). Mẹ của ông không phải là bà Ma-ri-a sao? (Mt 13:55).
Bài học mẹ Maria và thánh Giu-se dạy ta hôm nay là sống theo thánh ý Chúa và nêu gương hy sinh. Những người làm chồng và làm cha được gọi sống theo thánh ý Chúa, đặt tin tưởng và phó thác vào đường lối quan phòng của Chúa. Cái phần thưởng cho người sống và làm theo thánh ý Chúa là tâm hồn bình an. Những người làm con cũng được kêu gọi sống vâng phục như Chúa Giê-su vâng phục thánh ý Chúa Cha và vâng lời cha mẹ trần gian.
Ta còn cần đem Chúa vào đời sống gia đình để Chúa cùng đồng hành và làm chủ đời sống gia đình. Đi dâng thánh lễ chung vào ngày Chúa nhật và cầu nguyện chung với gia đình cũng như ăn chung là những yếu tố quan trọng và cần thiết để liên kết các phần tử trong gia đình lại với nhau nhờ sức mạnh và ơn thiêng của Chúa. Thống kê tại Mỹ cho hay những gia đình ăn chung và cầu nguyện chung thường là những gia đình hạnh phúc hay ít ra tránh được những đổ vỡ. Công đồng Va-ti-ca-nô II khẳng định: Gia đình sẽ chu toàn được sứ mệnh đó, nếu gia đình tỏ ra như một đền thờ của Giáo hội trong nhà mình nhờ yêu thương nhau và cùng nhau dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa (TĐ # 11).
Nếu muốn tìm một gia đình hạnh phúc nhất trần gian, chắc chắn chúng ta phải tìm nơi thánh: ThánhGia ABC 80
Nếu muốn tìm một gia đình hạnh phúc nhất trần gian, chắc chắn chúng ta phải tìm nơi thánh gia : Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse. Vậy đâu là bí quyết dẫn đến hạnh phúc ?
Tôi xin thưa :
- Đó là sự thánh thiện, bởi vì chính đoạn Tin mừng hôm nay đã đem lại cho chúng ta lời giải đáp ấy.
Thực vậy, chúng ta thường hay nghĩ rằng :
- Những con người đặc biệt thì được miễn trừ nhiều việc, kể cả việc tuân giữ lề luật.
Trái lại, bài Phúc âm hôm nay cho thấy thái độ của thánh gia là sẵn sàng vâng phục Thiên Chúa bằng cách tuân giữ những lề luật của Ngài.
Chúa Giêsu thì chịu phép cắt bì. Mẹ Maria thì chu toàn nghi lễ thanh tẩy. Còn thánh Giuse thì nộp tiền chuộc theo như lề luật đã qui định.
Và hơn thế nữa, thánh Giuse cùng với Mẹ Maria hàng năm vốn thường dẫn Chúa Giêsu lên đền thờ, đặc biệt là năm Chúa mười hai tuổi, lứa tuổi chưa bị lề luật đòi buộc. Từ đó chúng ta ghi nhận : cha mẹ đạo đức bao giờ cũng muốn giáo dục con cái mình trở thành những người đạo đức như vậy.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ngài có thể không cần phải tuân giữ luật cắt bì và lên đền thời, bởi vì chính Ngài là đền thờ mà con người phải tôn kính. Mẹ Maria cũng chẳng cần phải chu toàn nghi lễ tẩy uế, bởi vì Mẹ được thu thai và sinh con bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, chứ không theo cách thức thông thường.
Thế nhưng, các Ngài đã tuân giữ lề luật, đã phục vụ Thiên Chúa một cách khiêm nhường trong tin yêu.
Việc dâng Chúa trong đền thờ không phải là điều luật buộc, nhưng là một sáng kiến tự nguyện của Mẹ Maria. Mẹ lợi dụng cơ hội chu toàn nghi lệ tẩy uế để dâng con mình cho Thiên Chúa.
Việc thánh Giuse cùng đi nhằm mục đích giúp đỡ hai mẹ con, bởi vì tiền chuộc có thể nộp ở bất cứ chỗ nào. Điều đó cho thấy Mẹ Maria và thánh Giuse luôn ở bên nhau để che chở cho hài nhi Giêsu, nhờ đó tạo nên một mái gia đình đầm ấm, đồng thời còn biểu lộ tinh thần trách nhiệm của những bậc làm cha làm mẹ.
Tiếp đến là những năm tháng dài tại Nagiarét. Cuộc sống của gia đình này không có gì là giàu sang, bởi vì các Ngài cũng đã phải lao động vất vả mới có được chén cơm manh áo, nhưng vẫn ngập tràn hạnh phúc, đầm ấm và thánh thiện, bởi vì giữa Mẹ Maria và thánh Giuse luôn có một chiếc gạch nối là Chúa Giêsu. Ngài chính là trọng tâm của gia đình.
Có năm chàng thanh niên sang Mỹ tìm vàng. Lúc trở về thì bốn người đã trở nên cộc cằn và hung dữ, vì ảnh hưởng của những thiếu thốn và cực nhọc đã phải gánh chịu. Riêng người thứ năm thì vẫn bình thường, vui vẻ và lạc quan. Người ta hỏi :
- Tại sao anh lại giữ vững được tinh thần như vậy ?
Anh ta trả lời :
- Sở dĩ như vậy là vì một hình ảnh tôi đã mang theo. Dĩ nhiên không phải là hình ảnh của một cô bạn gái, nhưng là hình ảnh của gia đình tôi vào buổi tối trước khi tôi lên đường. Tối hôm ấy, mọi người đã cầu nguyện và cha tôi đã chúc lành cho tôi. Chính hình ảnh này đã theo tôi trong suốt cuộc hành trình đầy gian khổ.
Noi theo mẫu gương của Thánh gia : chúng ta hãy tuân giữ lề luật của Thein Chúa và thực tình giúp đỡ lẫn nhau để gia đình của chúng ta sẽ mãi mãi là một mái ấm ngập tràn yêu thương và hạnh phúc.
Tại những quốc gia Âu Mỹ nào chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Kitô thì ngày lễ Giáng sinh: ThánhGia ABC -81
Tại những quốc gia Âu Mỹ nào chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Kitô thì ngày lễ Giáng sinh ngoài ý nghĩa tôn giáo như là ngày lễ cử hành Mầu Nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Lễ Giáng sinh còn mang ý nghĩa văn hóa xã hội nữa, như là ngày lễ của gia đình, ngày mà mọi thành phần gia đình sum họp bên nhau.
Giáo Hội đã luôn luôn nhắc nhở về mối tương quan giữa mầu nhiệm nhập thể và gia đình. Vì thế, trong chu kỳ phụng vụ luôn luôn cử hành lễ thánh gia đình Nagiarét vào Chúa nhật trong tuần bát nhật Giáng sinh. Giáo Hội muốn đặt gia đình trong ánh sáng của mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa, và gia đình đầu tiên hưởng lấy ơn của mầu nhiệm Giáng sinh là thánh gia đình Nagiarét. Con Thiên Chúa nhập thể làm người nhận lấy một thể xác để thánh hóa mọi khía cạnh của cuộc sống con người. Ngài nhập thể trong một gia đình tại Nagiarét để thánh hóa thực tại đời sống gia đình.
Sự hiện diện của Chúa trong gia đình là yếu tố căn bản để liên kết mọi thành phần gia đình chung lại với nhau, để thánh hóa tình yêu con người, mặc cho tình yêu phàm trần đó một chiều kích thần thiêng được thấm nhuần trong tình yêu thần thiêng, trong tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu tự nhiên trở thành tình yêu bác ái.
Bài đọc hai trong thánh lễ của Chúa nhật trong tuần bát nhật Giáng sinh được diễn tả như là hiến chương của đời sống Gia đình Kitô : “Hãy để cho Chúa hiện diện trong gia đình. Hãy để cho Lời Chúa cư ngụ dồi dào trong anh em. Hãy đọc Lời Chúa trong gia đình”.
Trong năm thánh 2000, các Giám mục Việt Nam trong bức thư Mục Vụ chung gởi toàn thể dân Chúa như sau : “Đối với người Việt Nam, gia đình vẫn là rường cột của Giáo Hội và xã hội. Gia đình phải là một Giáo Hội thu nhỏ, nghĩa là nơi lấy sự thật của Tin Mừng làm qui luật sống và làm quà tặng cho cộng đoàn rộng lớn hơn. Gia đình không phải chỉ là đối tượng cho Giáo Hội chăm sóc về mục vụ mà còn là một trong những tác nhân đắc dụng nhất trong công cuộc loan báo Tin Mừng”.
Tông huấn đề ra các phương thế thực hiện như gia đình tham gia vào các sinh hoạt của giáo xứ, lãnh nhận các bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể và Bí tích Hòa giải, dấn thân phục vụ các gia đình khác. Bậc cha mẹ phải cố gắng biến những giây phút của gia đình qui tụ bên nhau thành cơ hội để cầu nguyện, đọc và suy niệm Sách thánh.
Chúng ta mới cử hành ngày sinh của Hài Nhi Giêsu. Hôm nay, chúng ta mừng toàn thể gia đình: ThánhGia ABC 82
Chúng ta mới cử hành ngày sinh của Hài Nhi Giêsu. Hôm nay, chúng ta mừng toàn thể gia đình của Ngài. Một gia đình mà Giáo Hội muốn đề cao như gương mẫu cho mọi gia đình chúng ta.
Khi nhìn vào gia đình của Chúa Giêsu này và so sánh với các gia đình hôm nay, ta có thể tự nhủ : “Ôi khác biệt quá ! Gia đình Chúa Giêsu dồi dào sức khỏe, còn các gia đình hôm nay bệnh hoạn, rất bệnh hoạn !”
Đúng vậy. Các gia đình hiện nay đang đối diện với vô số vấn đề : cha mẹ ly thân, ly dị, tái giá… Những gia đình chỉ có cha hay mẹ mà thôi… Uy tín của người cha hay người mẹ giảm sút kinh khủng… Anh hưởng bên ngoài của xã hội mạnh hơn ảnh hưởng từ chính bên trong gia đình. Giới trẻ hầu như không còn tin tưởng gì nữa… Những người trẻ rời gia đình rất sớm…
Bao nhiêu cha mẹ than vãn về tình trạng hiện nay ! Bao nhiêu người cha người mẹ thất vọng vì những gì đã xảy đến trong chính gia đình của họ. Bao nhiêu cha mẹ không còn biết phải nghĩ sao nữa ! Quá nhiều lần ta đã nghe nói : “Nếu có thể làm lại được, tôi sẽ không lập gia đình, tôi sẽ không có con, như thế tôi sẽ không phải làm việc cựu nhọc để nuôi nấng một gia đình. Thật quá vất vả, quá bạc bẽo, quá đau đớn ! Phải đổ ra biết bao nhiêu là nước mắt !”
Phải làm gì khi tình trạng xấu đi ? Khi tình trạng xấu đến thế ? Bao giờ cũng thế, vẫn có hai con đường để chọn lựa : người ta có thể buông trôi hết hoặc cố gắng chấn chỉnh mọi sự ; người ta có thể bỏ cuộc hoặc làm lại ; người ta có thể chiều theo tính thờ ơ và vỡ mộng chán chường hoặc lăn xả vào việc tái thiết ; người ta có thể để cho tình hình xuống cấp hơn nữa hoặc tự trang bị bằng lòng can đảm để làm cho tình hình biến chuyển khá hơn.
Hai con đường để lựa chọn, nhưng lẽ ra chúng ta không nên mất thì giờ để xét xem phải chọn con đường nào. Chỉ có một giải pháp có giá trị thôi : đó là quyết tâm chữa trị gia đình khỏi bệnh tật, dù khó khăn trắc trở vẫn không ngừng nỗ lực làm cho gia đình trở thành nơi chốn mà người ta học biết làm người có trách nhiệm ; nơi mà người ta tập nhận ra sự tự lập và giá trị của kẻ khác ; nơi mà người ta được rèn luyện để biết sống tập thể, biết kính trọng và yêu thương kẻ khác, biết giúp đỡ lẫn nhau và chia sẻ bản thân mình, cùng với những gì mình có và những gì mình sống.
Để đào tạo con người về tất cả những điều này, người ta chưa tìm ra được môi trường nào tốt hơn gia đình và người ta sẽ chẳng bao giờ tìm ra được nơi nào tốt hơn. Gần đây, Đức Gioan Phaolô II đã viết : “Hôn nhân và gia đình là một trong những tài sản quí báu nhất của nhân loại” (Tông thư Familiaris consortio, số 1). Người ta không thể để cho tiêu tan một trong những tài sản quí báu nhất của nhân loại, người ta phải làm đủ cách để bảo vệ nó. Nếu nó ốm đau, người ta phải tìm mọi phương dược để chữa lành nó.
Từ miệng một linh mục, một người độc thân, những khẳng định này có thể làm cho một số người mỉm cười hay làm thất vọng một số người khác. Họ sẽ nói : “Nếu ngài biết ! Nếu ngài đã từng trải qua cuộc sống gia đình, ngài sẽ nói khác”. Tuy nhiên, những lời mời gọi của linh mục là những lời mời gọi của Giáo Hội, là tiếng vọng lại từ chính những lời kêu gọi của Thiên Chúa. Theo kế hoạch của Ngài thì người nam và người nữ kết hợp với nhau, có con cái, mang trách nhiệm về gia đình mà họ cố gắng làm cho nên giống gia đình của thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu.
Để làm điều đó không phải là không đau đớn, không vất vả, không gặp khó khăn trầm trọng. Đoạn Tin mừng được loan báo hôm nay mang đầy ý nghĩa về điểm này. Mẹ Maria và thánh Giuse lo lắng đau khổ : “Con ơi tại sao con làm cho cha mẹ như vậy ? Con xem, cha mẹ đã phải đau đớn tìm kiếm con…” Có biết bao nhiêu cha mẹ phải thốt lên những lời tương tự như thế.
Tuy nhiên Mẹ Maria và thánh Giuse không nản lòng. Biết rằng cuộc sống gia đình sẽ vất vả, các Ngài vẫn tiếp tục thương yêu và sống trước nhan Thiên Chúa bằng cách chu toàn tốt nhất những gì Chúa chờ đợi nơi các Ngài. Nơi điều này, các Ngài là gương mẫu của tất cả mọi cha mẹ trên thế giới. Và quá hiển nhiên, Chúa Giêsu con của các Ngài là gương mẫu cho tất cả các con cái trên thế giới.
Chỉ cách đây mấy ngày, chúng ta đã mừng sinh nhật của Đức Giêsu Kitô, hang đá vẽ cho: ThánhGia ABC 83
Chỉ cách đây mấy ngày, chúng ta đã mừng sinh nhật của Đức Giêsu Kitô, hang đá vẽ cho chúng ta một cảnh gia đình đầm ấm của Thánh Gia với tượng Chúa Giêsu đặt ở giữa. Lễ Thánh Gia hôm nay giúp chúng ta đào sâu thêm một điểm nòng cốt khác của gia đình, để gia đình Kitô có thể thực sự là một tổ ấm, mà trong đó mọi phần tử trong gia đình luôn giúp nhau tìm kiếm và thực hành thánh ý Chúa.
Ước gì thánh lễ hôm nay giúp mọi thành phầm trong gia đình Kitô ý thức, đóng góp cho xã hội trong việc cố gắng sống trọn bí tích hôn nhnâ để chung tay xây dựng một mái ấm gia đình hạnh phúc theo mẫu gương của Thánh Gia Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse. Bởi lẽ gia đình có hạnh phúc thì xã hội mới an vui phồn thịnh.
Chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn để lắng nghe và được nuôi dưỡng bởi Lời và bởi Mình Máu Thánh Chúa bằng cách nhìn nhận những lỗi lầm chúng ta đã vấp phạm trong những ngày qua, nhất là những lỗi lầm đối với cha mẹ, vợ chồng và anh chị em trong gia đình.
Trong những ngày lễ Giáng sinh linh thiêng vừa qua, thiết nghĩ mỗi người trong chúng ta đã một lần đến quì trước máng cỏ để nhìn ngắm Chúa Giêsu Hài đồng, được tình yêu của Đức Maria và thánh Giuse âu yếm bảo bọc, nâng niu, cộng với khung cảnh tuy đơn sơ nghèo nàn nhưng an bình thư thái của những gia súc, chiên, bò, lừa quây quần bên máng cỏ, chúng ta dễ dàng để ý tưởng tượng vẽ ra hình ảnh gia đình đầm ấm, trên dưới thuận hòa, mọi người yêu thương đùm bọc, hy sinh nâng đỡ nhau.
Nhưng bài Phúc âm dành cho lễ Thánh Gia hôm nay có lẽ dẫn chúng ta ra khỏi bầu khí ấm cúng của tổ ấm gia đình để trở về với thực tế của những sinh hoạt hằng ngày, nơi cả trong gia đình cũng có thể xảy ra những mâu thuẫn, những vấn đề, những hiểu lầm, những ngày tháng dường như cha mẹ con cái lạc mất nhau.
Thực tế nhiều khi phũ phàng nhưng nó vẫn là sự thật. Sự thật của cuộc sống ngày hôm nay là gia đình dễ dàng gặp những cơn khủng hoảng, đời sống kinh tế của hầu hết các gia đình chúng ta ngày nay đều khó khăn, sinh hoạt trong xã hội ngày nay tăng vận tốc, bắt mọi người ai nấy phải sống hối hả, sống vội vàng. Và vì kế sinh nhai khó khăn vất vả, theo họ dầu muốn dầu không cũng thiếu thốn vật chất và tinh thần để giáo dục con cái cũng trở nên trong những việc xa xỉ phẩm. Cộng vào đấy là sự đánh mất những giá trị cổ truyền trong gia đình, thí dụ như lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, sự kính trên nhường dưới giữa anh chị em, tinh thần hy sinh, nhịn nhục… đã bị các trào lưu tân tiến và nhất là đã bị ý thức hệ phủ nhận, những nền tảng gia đình bị phá vỡ mà không đề ra những giá trị mới thay thế vào.
Trên bình diện của niềm tin, nền tảng của gia đình cũng bị lung lay tận gốc rễ, vì thiếu đất đai màu mỡ của một đức tin có chiều sâu, thiếu phân bón của buổi đọc kinh chung trong gia đình, thiếu cả nước với những cố gắng sống với thực tại và những bổn phận do các Bí tích Thanh tẩy, Thêm sức và nhất là bí tích Hôn phối đòi hỏi. Đó là một trong những khó khăn mà các gia đình Kitô giáo Việt Nam ngày nay đang chạm trán.
Lễ Thánh Gia thất hôm nay mời gọi mọi người, mời gọi bạn và tôi đặt câu vấn nạn : “Có phải gia đình chúng ta lạc mất Chúa Giêsu rồi không ?”, đồng thời lễ Thánh Gia thất hôm nay cũng mời gọi mọi người, mời gọi bạn và tôi noi gương và nối gót Đức Maria và thánh Giuse lên đường tìm lại Chúa. Chúng ta phải ý thức rằng : đây không phải là một con đường bằng phẳng dễ đi, vì hai Ngài đã phải trải qua những giây phút hớt hả tìm kiếm, trải qua những đêm trằn trọc mất ngủ, trải qua những lo lắng bồn chồn để khi gặp lại Con phải nghe câu trả lời khó hiểu : “Tại sao cha mẹ lại tìm Con. Cha mẹ không biết rằng Con phải lo công việc của Cha Con sao ?”.
Đức Maria là người đã ghi nhớ những việc đó trong lòng, chắc hẳn đã phải dần dần tìm hiểu ý nghĩa câu trả lời của Đức Giêsu trong suốt khoảng thời gian ẩn dật của Chúa, để cuối cùng dưới chân thập giá mới hiểu nòng cốt của niềm tin Kitô, nòng cốt của người Kitô là tìm hiểu sống trọn thánh ý Thiên Chúa, và nòng cốt của gia đình Kitô là giúp nhau tìm hiểu và thực hành thánh ý của Ngài.
Đây là lời phê bình ngắn gọn về các bài đọc trong ngày lễ này: Bài đọc 1: Samuen là một đứa: ThánhGia ABC 84
Đây là lời phê bình ngắn gọn về các bài đọc trong ngày lễ này :
Bài đọc 1: Samuen là một đứa trẻ rất đặc biệt. Bà Anna nhìn thấy con trai mình như là một ân sủng đến từ Thiên Chúa, một dấu hiệu về đặc ân mà Thiên Chúa dành cho bà. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên, khi bà dâng hiến con trai bà cho Chúa. Đến kỳ hạn, Samuen tự mình thực hiện việc hiến thân đó, và tiếp tục đóng vai trò chính yếu trong lịch sử Israen.
Thật vậy, mỗi đứa trẻ đều là quà tặng của Thiên Chúa. Tất cả các bậc cha mẹ đều có hy vọng và mơ ước cho con cái của họ. Nhưng cha mẹ không thể xác định được tương lai của con cái. Con cái phải tìm kiếm con đường của bản thân chúng. Ngoài ra, có thể Thiên Chúa có những kế hoạch khác dành cho chúng ta, trái ngược với kế hoạch của các bậc cha mẹ.
Tin Mừng : Bài đọc này kể lại câu chuyện về con trẻ Giêsu 12 tuổi tại Giêrusalem. Bài đọc này cho thấy rằng sự hiểu lầm vẫn có thể xảy ra, ngay cả trong những gia đình tốt lành nhất. Chúng ta có khuynh hướng cho rằng Đức Giêsu bị thất lạc tại Đền thờ. Nhưng Đức Giêsu không bị thất lạc tại Đền thờ. Nói đúng hơn, Người ở nhà của Người tại đó. Chính tại nơi đó, Người bắt đầu tìm kiếm bản thân, và phát hiện được căn tính đích thực của mình. Người không chỉ là con của Đức Maria, mà còn là Con duy nhất của Thiên Chúa nữa.
Những tâm hồn cô đơn, lạc lõng, không nhà đã đến với nhà của Thiên Chúa, hầu như do tình cờ, họ đã đến đây, cảm thấy nơi đó như ở nhà mình, tìm được sự bình an và gặp được chính bản thân mình tại đó. Bất kể thế giới có thể nghĩ gì về chúng ta, khi ở trong nhà của Thiên Chúa, chúng ta biết rằng mình là những người con trai và con gái của Thiên Chúa.
Bài đọc 2 : Đức Giêsu có căn tính kép, Người vừa là con của Đức Maria, và cũng vừa là Con của Thiên Chúa. Chúng ta cũng có căn tính kép. Chúng ta không chỉ là con của cha mẹ chúng ta, mà còn là con cái của Thiên Chúa nữa. Thánh Gioan nói rất rõ ràng về điều này. Chúng ta thuộc về gia đình của Thiên Chúa.
Chính Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước. Chúng ta không cần phải làm gì, để đạt được tình yêu của Thiên Chúa. Chính bản thân chúng ta đã đủ để Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Chính sự hiện hữu của chúng ta là một dấu hiệu về tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Con cái đáp ứng lại tình yêu của cha mẹ bằng cách vâng lời cha mẹ. Cách chúng ta đáp ứng lại tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta, là tuân theo những huấn lệnh của Người, đặc biệt là giới răn yêu thương.
Trong sự kiện Đức Giêsu bị thất lạc và tìm thấy ở Đền thờ, chúng ta nhận ra được tình yêu thương mà Đức Maria và thánh Giuse dành cho Đức Giêsu. Sau đó, Người trở về nhà Nagiarét cùng với các ngài và vâng lời các ngài.
Mái nhà là một nơi mà trong đó, chúng ta được chấp nhận như là chính con người của mình, với những mặt mạnh và mặt yếu của chúng ta. Sự chấp nhận theo kiểu này giúp chúng ta có được khả năng để phát triển, với tư cách là con người nhân loại và là con cái Thiên Chúa.
Trong bài tường thuật của thánh Luca về thời thơ ấu của Đức Giêsu, Đức Maria là người duy nhất sẽ hiện diện trong sứ vụ công khai của Người, và cho đến tận lúc bắt đầu có Giáo Hội. Mẹ được giới thiệu cho chúng ta như là gương mẫu của người Kitô hữu.
Đức Giêsu lên 12 tuổi – đây là thời gian mà Người phải thực hiện những quy địnhcủa lề luật: ThánhGia ABC 85
Đức Giêsu lên 12 tuổi – đây là thời gian mà Người phải thực hiện những quy định của lề luật. Như vậy, Đức Maria và thánh Giuse đưa Người lên Giêrusalem, để cử hành lễ Vượt Qua. Các bậc cha mẹ có nhiệm vụ từng bước một đưa con trẻ hội nhập vào cộng đồng rộng lớn hơn, và dạy dỗ cho con trẻ những truyền thống của cộng đồng. Những đứa trẻ cũng cần phải được chỉ dạy con đường đi tới giếng nước thiêng liêng ; nếu không, chúng sẽ luôn luôn bị khát nước. Nhưng khi Đức Maria và thánh Giuse thực hiện cuộc hành trình trở về, thì Đức Giêsu vẫn còn ở lại, và mãi cho đến hết ngày đầu tiên, các ngài mới phát hiện ra rằng Người bị thất lạc. Đó không phải là một chuyện đùa – một đứa trẻ còn nhỏ, đã bị thất lạc trong một thành phố rộng lớn. Tuy nhiên, không ai đáng trách cả. Đây chỉ là do hiểu lầm mà thôi. Sự hiểu lầm vẫn có thể xảy ra, ngay cả trong những gia đình tốt lành nhất.
Các ngài bắt đầu lo lắng tìm kiếm Người. Khi không tìm được Người trong số những khách hàng quen biết, các ngài liền quay trở lại thành phố để tiếp tục tìm kiếm Người. Các ngài không thể hiểu nổi tại sao Người lại gây ra cho mình nỗi lo lắng đến thế. Nhưng khi một đứa con gây ra cho bạn nỗi lo lắng, thì nó vẫn là con của bạn, và bạn vẫn là cha mẹ của nó. Thật dễ dàng yêu thương con cái khi chúng còn nhỏ dại, khi tất cả những điều mà chúng cần đến là sự quan tâm chăm sóc và những nụ cười. Nhưng không dễ dàng yêu thương con cái, khi chúng bắt đầu khẳng định ý riêng của chúng.
Khi một đứa trẻ hay quanh quẩn bên cha mẹ nó, thì đó là một dấu hiệu tốt. Điều có có nghĩa là đứa trẻ này được an toàn. Có khi một đứa trẻ tin tưởng chắc chắn vào tình yêu thương của cha mẹ, nó có thể quên mất cha mẹ, và đi ra ngoài để khám phá thế giới. Đây là trường hợp của Đức Giêsu. Người không thực sự bị thất lạc, mà đang có một cuộc mạo hiểm. Người đang nhận biết mình ở đâu. Người đang ở trong nhà của Thiên Chúa.
Cuối cùng, khi tìm thấy Đức Giêsu, câu hỏi đầu tiên của Đức Maria và thánh Giuse rất dễ hiểu : “Con ơi, sao con lại cư xử với cha mẹ như vậy ?”. Và Người trả lời “Cha mẹ không biết rằng con có bổn phận phải ở nhà của Cha con sao ?”. Mặc dù không hiểu được lời giải thích của Đức Giêsu, nhưng các ngài vẫn không trách mắng Người. Khi làm như vậy, các ngài có thể tước đoạt của Ngài những thành quả của những cảm nghiệm tuyệt vời. Đôi khi, các bậc cha mẹ không biết được cách làm thế nào để khích lệ con cái, ngay cả khi họ chú ý đến những điều đáng giá. Nhưng Đức Maria ghi nhớ những lời nói của Đức Giêsu, và suy niệm trong lòng. Lắng nghe là một phần rất quan trọng của vai trò làm cha mẹ. Chúng ta phải lắng nghe những lời con cái nói. Trái ngược lại với cách tìm kiếm những nguyên nhân để kết án, lắng nghe có nghĩa là tìm kiếm những lý do thực sự, phía sau những vấn đề. Mặc dù sự kiện xảy ra là một điều gây đau lòng, thì sự kiện đó vẫn có thể mang lại hiệu quả là đưa người ta đến với nhau hơn. Đức Giêsu đánh giá được sự quan tâm mà Đức Maria và thánh Giuse dành cho mình nhiều đến như thế nào, nên Người đã vui vẻ vâng phục các ngài. Đức Maria và thánh Giuse đã nhận ra rằng Đức Giêsu là một đứa trẻ thật đặc biệt. Các ngài bắt đầu dành cho Người cơ hội để phát triển, mặc dù điều này có nghĩa là Người đang bắt đầu xa rời khỏi các ngài.
Bài học mà Đức Maria và thánh Giuse học được, chính là bài học mà tất cả các bậc cha mẹ cần phải bắt chước. Mỗi ngày qua đi, con cái chúng ta dần dần bớt thuộc về chúng ta, và trở nên con người của chúng nhiều hơn. Ngày sinh con cái trên đời chính là ngày mà cha mẹ bắt đầu đi vào cuộc chia tay lớn lao với chúng. Khi đã mang sự sống đến cho con cái, các bậc cha mẹ không được lấy lại cuộc sống đó. Nếu họ muốn có quyền sở hữu đối với con cái, thì họ sẽ không bao giờ biết được tình yêu thực sự của con cái họ.
Khi chúng ta nói rằng đứa trẻ nào là một đứa con “ngoan”, hiếm khi chúng ta có ý muốn nói rằng đứa trẻ đó nhạy cảm về mặt luân lý hoặc một cách phong phú. Nhưng chúng ta có ý muốn nói rằng đứa trẻ đó dễ bảo và biết vâng lời. Nhưng sự vâng lời không phải là một đức tính cao đẹp nhất.
Đức Giêsu không bị thất lạc tại Đền thờ. Nói đúng hơn, Người bắt đầu tìm thấy chính mình tại nơi đó, và phát hiện được căn tính đích thực của mình với tư cách là Con Thiên Chúa. Về phương diện này, gia đình Kitô hữu có thể giúp chúng ta rất nhiều.
Cuối bài Tin Mừng hôm nay, có một câu nói rất gây ấn tượng. Đó là “Đức Maria hằng ghi nhớ: ThánhGia ABC 86
Cuối bài Tin Mừng hôm nay, có một câu nói rất gây ấn tượng. Đó là “Đức Maria hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng”. Và sau cuộc thăm viếng của các mục đồng tại máng cỏ, chúng ta nhận thấy cũng có một câu tương tự như vậy. Thánh Luca nói rằng “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Đức Maria ghi nhớ những sự kiện này trong tâm hồn của Mẹ, với quan niệm là để nhận thức được ý nghĩa ẩn giấu phía sau những sự kiện tuyệt vời đó.
Rõ ràng Đức Maria đã không ngay tức khắc thấu hiểu được ý nghĩa của những gì xảy ra với mình, và điều mà Thiên Chúa đang đòi hỏi nơi mình. Nhưng những sự kiện luôn luôn diễn ra theo cách thế đó. Những kinh nghiệm sâu xa lúc nào cũng bắt đầu bằng sự phức tạp. Vào một lúc nào đó, chúng ta không bao giờ nhận biết được điều gì đang xảy ra cho chúng ta. Chỉ sau đó, có lẽ rất lâu, đôi mắt của chúng ta mới mở ra, và chúng ta bắt đầu hiểu được. Do đó, điều qaun trọng là phải biết suy niệm.
Hơn một lần, chúng ta đọc được trong các bài đọc. Tin Mừng kể rằng Đức Maria đã từng bối rối. Lúc đó, Mẹ làm gì ? Mẹ ngẫm nghĩ, suy niệm và cầu nguyện, tìm cách hiểu được điều gì đang xảy ra cho bản thân Mẹ và cho con Mẹ. Cách ngẫm nghĩ này không tránh khỏi sự bất an và lo lắng.
Đức Maria là một con người âm thầm, hay suy nghĩ. Trong suốt cuộc đời của mình, Mẹ luôn suy nghĩ và cầu nguyện về cách thức Thiên Chúa đối xử với mình. Khi không hiểu được điều gì, thì Mẹ ngẫm nghĩ trong tâm hồn, cho đến khi thấu hiểu được mục đích của Thiên Chúa qua những sự kiện đó. Bằng cách này, Mẹ đã đạt được sự thấu hiểu và khôn ngoan.
Emerson nói : “Cuộc sống ở phía sau chúng ta, giống như một cái mộ đá, mà từ đó, chúng ta khai thác đá và gạch ngói, dành cho người thợ nề ngày nay”. Chỉ bằng cách suy niệm, chúng ta mới thấu hiểu được những sự kiện diễn ra. Chúng ta có thể có được những sự kiện, nhưng thiếu mất ý nghĩa của những sự kiện đó, bởi vì chúng ta không biết suy nghĩ về chúng. Nhưng bằng cách suy niệm, thì chúng ta có thể rút ra được những hiểu biết quí giá từ các sự kiện đó.
Khi muốn nhớ lại những sự kiện thú vị, đó là một điều thật dễ dàng. Nhưng không hề dễ dàng chút nào, khi nhớ đến những sự kiện đau lòng. Chúng ta có khuynh hướng hay đè nén những ký ức đau thương. Ngay cả khi làm như vậy, chúng vẫn có thể ảnh hưởng trên chúng ta. Chúng ta có thể nhỏ một giọt chất độc vào tâm hồn chúng ta. Chúng ta cũng cần phải nhớ lại những sự kiện đau lòng nhưng cách thức chúng ta nhớ lại những sự kiện đó mới là vấn đề. Chúng ta có thể cung cấp những chất liệu sống để rồi từ đó, chúng ta hiểu biết được lòng thương xót và sự khôn ngoan. Sự kiện Đức Giêsu bị thất lạc ở Giêrusalem là một sự kiện đau lòng đối với Đức Maria. Tuy nhiên, Mẹ ghi nhớ sự kiện đó trong tâm hồn, và bằng cách làm như vậy, Mẹ đã học hỏi được từ sự kiện đó.
Thật đáng buồn, có những người dường như không hề học hỏi được gì từ các sự kiện xảy ra. Nhưng đối với những người khác, thì sự kiện là một trường học đích thực. Không ai có thể trở thành con người khôn ngoan, nếu chỉ trong một ngày, hoặc thậm chí trong một năm. Khôn ngoan là thành quả của sự suy nghĩ lâu dài.
Các bậc cha mẹ cần có rất nhiều sự khôn ngoan. Những điều mà Đức Maria học hỏi được từ việc cầu nguyện và suy nghĩ, Mẹ đã chuyển sang cho con Mẹ, Đấng học hỏi được từ việc cầu nguyện và suy nghĩ, Mẹ đã chuyển sang cho con Mẹ, Đấng mà thánh Luca kể cho chúng ta rằng “ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến”. Đức Giêsu đã được dạy dỗ, nuôi dưỡng và đào tạo do một người phụ nữ khôn ngoan, kính yêu Thiên Chúa với tất cả trái tim và linh hồn.
Thánh gia Nagiarét là một gia đình như hầu hết các gia đình khác nhưng lại khác hẳn tất cả: ThánhGia ABC 87
Thánh gia Nagiarét là một gia đình như hầu hết các gia đình khác nhưng lại khác hẳn tất cả những gia đình khác.
Như hầu hết các gia đình, gia đình Nagiarét : nghèo.
- Vì nghèo không có vốn đầu tư kinh doanh, gia đình Nagiarét phải lấy sức mình ra làm việc để sinh sống : thánh Giuse làm thợ mộc, Đức Maria làm nội trợ suốt ngày bận rộn với những việc nấu nướng, giặt giũ, may vá, quét dọn… Chúa Giêsu khi còn nhỏ thì phụ giúp cha mẹ, lớn lên nối nghiệp thánh Giuse làm nghề thợ mộc. Đây là một gia đình lao động tay chân.
- Lao động tay chân thì vất vả : đổ mồ hôi, tay chân chai sạm, quần quật suốt ngày…
- Mặc dù quần quật suốt ngày nhưng cũng chỉ đủ ăn không dư giả. Trong Tin Mừng ta tìm thấy hai bằng chứng về tình trạng không dư dả của gia đình Nagiarét : Khi đem con đầu lòng dâng vào Đền Thờ cùng với lễ vật theo luật định, những gia đình khác người thì dâng tiền, người thì dâng chiên cừu, còn gia đình của thánh Giuse chỉ dâng có một đôi chim câu là thứ lễ vật của những người nghèo. Khi đi Bêlem, hai ông bà không có tiền thuê nhà trọ nên đành phải trú chân trong hốc đá, chỗ làm nơi tạm trú cho súc vật. Gia đình này không dư giả.
- Vì không có dư dả nên dĩ nhiên cũng có những lúc túng thiếu, những ngày lo âu vì miếng cơm manh áo.
- Vì túng thiếu nên dĩ nhiên cũng không được người đời coi trọng mà còn bị khinh chê. Ta nhớ lúc Chúa Giêsu đã đi rao giảng mà vẫn còn có người nhận xét về Ngài bằng một giọng khinh chê “Con ông thợ mộc như thế mà là Đấng Cứu Thế cái nỗi gì !”
Nhưng gia đình Nagiarét lại khác tất cả các gia đình khác :
- Khác ở chỗ tự ý chọn cuộc sống : lao động chân tay nghèo nàn, là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu có thể chọn sinh ra trong một gia đình giàu có nhưng Ngài đã chọn sinh ra trong một gia đình lao động nghèo nàn như thế.
- Khác ở chỗ mặc dù nghèo nhưng những người trong gia đình này không lục đục với nhau như thường thấy trong các gia đình chúng ta : khi túng thiếu chúng ta sinh ra bực bội, gắt gỏng, gia đình hay cãi vã xung đột với nhau.
- Khác ở chỗ dù nghèo nhưng không gian tham, trộm cắp như thường thấy trong nhiều gia đình khác.
Tóm lại gia đình Nagiarét dù nghèo, dù làm lụng vất vả nhưng rất hạnh phúc rất thánh thiện.
Gia đình Nagiarét của thánh Giuse, Đức Mẹ và Chúa Giêsu thật là :
- một niềm hãnh diện cho các gia đình lao động nghèo nàn.
- một nguồn an ủi khích lệ cho các gia đình lao động nghèo nàn.
- Và là một tấm gương sáng cho chúng ta noi theo. Nhìn vào nếp sống gia đình này ta có thể học được rất nhiều bài học quí giá.
Bài học thứ nhất là : trong gia đình, mọi người đều phải làm việc.
Thánh Giuse làm thợ mộc, Đức Mẹ làm nội trợ, Chúa Giêsu khi nhỏ giúp cha giúp mẹ và lớn lên cũng làm nghề thợ mộc. Người nào việc ấy, người mạnh làm việc nặng, người yếu làm việc nhẹ, người chưa rành thì phụ giúp những người khác, ai cũng có công việc theo khả năng của mình.
Cổ nhân đã nói “Nhàn cư vi bất thiện: ở không thì sinh ra hư đốn làm điều không tốt. Những gia đình giàu có ở không riết rồi chồng thì say xưa, ngoại tình, vợ thì cờ bạc, ngồi lê đôi mách, con cái thì đua đòi, chơi bời lêu lỗng, tập tành nhiều thói xấu, ngay cả những gia đình nghèo nhưng không biết thu xếp công việc, cho con cái đi chơi suốt ngày thì chúng cũng hư : làm biếng, trộm cắp, ăn nói xàm sở, chửi thề nói tục đủ thứ…
Một số gia đình tổ chức công việc rất khéo : con cái những đứa còn nhỏ thì giao cho chúng những việc nhỏ, như quét nhà, rửa chén, giữ em ; những đứa lớn hơn thì tập cho chúng may vá, nấu cơm, nuôi heo, làm gia công những đồ tiểu thủ công nghiệp… Giờ nào học thì học, còn những giờ khác thì làm việc, ai cũng có việc nấy. Dần dần thành nếp, mọi người đều cần cù siêng năng, biết dùng thời giờ của mình làm việc hữu ích, biết giá trị của đồng tiền và nhờ đó biết tiết kiệm không hoang phí, cũng không có những thói xấu như chơi bời lêu lỗng, ngồi lê đôi mách, trộm cắp gian tham… Những gia đình biết thu xếp như vậy tuy nghèo nhưng không đến nỗi thiếu thốn vì ai cũng siêng năng và biết xoay sở.
Ngược lại trong một số gia đình chúng ta, cha mẹ thì làm ăn rất là vất vả nhưng con cái thì lại không tập cho chúng làm, để chúng đi chơi hầu như suốt ngày. Chúng vừa chẳng giúp gì cho gia đình, vừa là một gánh nặng cho gia đình, lại vừa lây nhiễm đủ thứ thói xấu ngoài xã hội.
Bài học thứ hai là ta phải nên thánh ngay trong những việc lao động hằng ngày của chúng ta.
Có rất nhiều người than rằng vì bận rộn làm ăn nên đạo hạnh bê trễ. Đây là một quan niệm sai lầm, tách đời ra khỏi đạo, chia cách việc làm với đạo đức. Dĩ nhiên người bận rộn làm việc thì không có nhiều giờ để đọc kinh, để đến nhà thờ. Nhưng mỗi sáng dành ra vài phút để cầu nguyện, mỗi tối dành vài phút cầu nguyện nữa, Chúa nhật thu xếp đi lễ khoảng hơn một tiếng đồng hồ, như vậy đâu phải là nhiều. Và thậm chí nếu mình quá bận rộn thực sự để không thể làm những việc đó thì Chúa cũng không bắt tội chúng ta, Chúa chỉ bắt tội lười có thể làm mà không làm thôi. Vả lại sống đạo đâu phải chỉ là đọc kinh cầu nguyện, mà là đem tinh thần đạo vào chính cuộc sống của mình.
- Người sống đạo thật không đợi đến lúc tới nhà thờ mới nhớ tới Chúa, nhưng họ luôn dâng mọi việc họ làm hằng ngày cho Chúa, kết hợp với Chúa trong chính công việc của mình.
- Người sống đạo thật cố gắng tránh những cám dỗ trong khi làm việc : cám dỗ làm cẩu thả, gian dối, cám dỗ lười biếng, cám dỗ trộm cắp. Như vậy vừa làm việc họ vừa rèn luyện đạo đức và lập công trước mặt Chúa.
- Người sống đạo thật biến việc làm hằng ngày thành những công nghiệp, những lễ vật dâng lên Thiên Chúa và họ nên thánh bằng chính những công việc họ làm.
Chúa Giêsu đã dùng 30 năm trong số vỏn vẹn 33 năm ở trần gian để sống trong gia đình Nagiarét, để làm việc lao động chân tay cực nhọc. Điều đó rất có ý nghĩa : Chúa muốn cho chúng ta thấy giá trị thánh thiện của việc lao động hằng ngày và Chúa muốn nêu gương cho chúng ta. Chúng ta hãy nhớ dạy cho con cháu mình biết làm việc cần cù siêng năng, và chúng ta hãy tự thánh hóa đời mình bằng chính những công việc hằng ngày.
Thầy Mạnh Tử, thuở nhỏ nhà ở gần nghĩa địa, thấy người đào, chôn, lăn, khóc, về nhà cũng: ThánhGia ABC 88
Thầy Mạnh Tử, thuở nhỏ nhà ở gần nghĩa địa, thấy người đào, chôn, lăn, khóc, về nhà cũng bắt chước đào, chôn, lăn, khóc. Bà mẹ thấy thế nói : chỗ này không phải chỗ con ta ở. Rồi dọn nhà ra gần chợ.
Thầy Mạnh Tử ở gần chợ, thấy người buôn bán điên đảo, về nhà cũng bắt chước cách buôn bán đảo điên. Bà mẹ thấy thế lại nói : chỗ này cũng không phải chỗ con ta ở. Bèn dọn nhà đến ở cạnh trường học.
Thầy Mạnh Tử ở gần trường học, thấy trẻ đua nhau học tập lễ phép, về nhà cũng bắt chước học tập lễ phép. Bấy giờ bà mẹ mới vui lòng nói : “Chỗ này là chỗ con ta ở đây”.
Một hôm, thầy Mạnh Tử thấy nhà hàng xóm giết lợn, về hỏi mẹ : “Người ta giết lợn làm gì thế”. Bà mẹ nói đùa : “Để cho con ăn đấy”. Nói xong, bà nghĩ lại, hối rằng : “Ta nói lỡ mồm rồi. Con ta thơ ấu, trí thức mới mở mang mà ta nói dối nó, thì chẳng ra ta dạy nó nói dối hay sao !”. Rồi bà đi mua thịt lợn, đem về cho con ăn thật.
Lại một hôm thầy Mạnh Tử đang đi học, bỏ học về nhà chơi. Bà mẹ đang ngồi dệt cửi, trông thấy, liền cầm dao cắt đứt tấm vải đang dệt trên khung, mà nói rằng : “Con đang đi học, mà bỏ học, thì cũng như mẹ đang dệt tấm vải này mà cắt đứt như vậy”. Từ hôm đó, thầy Mạnh Tử học tập rất chuyên cần. Về sau thành một bậc đại hiền. Thế chẳng là nhờ công giáo dục quí báu của bà mẹ hay sao ?
Thánh gia thất là mẫu gương giáo dục tuyệt vời cho các gia đình cũng như cho các cộng đồng tu viện.
Thánh gia thất là trường huấn luyện cho Chúa Giêsu, chuẩn bị ngày lãnh nhận sứ mạng Chúa Cha giao phó.
Thánh gia thất là chuẩn mực chính xác nhất cho các người cha, người mẹ và con cái trong gia đình.
Giuse đích thực là một người cha : Sáng ngời trong đức tin mạnh mẽ, nêu cao niềm phó thác cậy trông và tận tình chăm lo cho trẻ Giêsu cùng mẹ thánh Người. Người làm chủ gia đình với tinh thần đầy trách nhiệm, và siêng năng cần cù lao động, trong làng quê nghèo Nagiarét.
Maria chính là người mẹ : Gương mẫu trong đời sống nội tâm, và sâu lắng trong tâm tình cầu nguyện. Mẹ chính là người nội trợ đảm đang, chu toàn công việc gia đình và chăm sóc dạy dỗ con trẻ Giêsu.
Chúa Giêsu là người con thảo hiếu : “Hằng vâng phục cha mẹ” Giuse và Maria, lớn lên mỗi ngày trong sự khôn ngoan và nhân đức, nhất là luôn lo việc “bổn phận ở nhà Cha”.
Gia đình là nền tảng của xã hội. Gia đình có thuận hòa, thì xã hội mới an vui. Lễ Thánh gia chính là lễ của mọi gia đình. Noi gương Thánh gia thất, các gia đình chúng ta luôn sống có trật tự trên dưới, liên đới trong tình hiệp thông, và chăm lo cho nhau trong tình yêu thương đầm ấm.
Con Thiên Chúa chỉ ra giảng đạo có ba năm, nhưng đã phải chuẩn bị ở mái trường Nagiarét suốt ba mươi năm. Nagiarét là trường dạy cầu nguyện, dạy lao động, dạy yêu thương. Nagiarét là một vùng quê hẻo lánh, nhưng lại mang một mái ấm tình thương. Mái ấm Nagiarét rất đỗi bình thường, nhưng cũng lại rất khác thường.
Một mái ấm luôn chan hòa bầu khí yêu thương và đạo hạnh. Một mái ấm luôn ngập tràn tiếng cười vui vì hạnh phúc. Một mái ấm mà các thành viên luôn để ý quan tâm cho nhau.
Muốn có hạnh phúc trong mái ấm gia đình, trước tiên phải có Chúa hiện diện.
Mái ấm Nagiarét luôn hạnh phúc vì lúc nào cũng có Chúa ở giữa Giuse và Maria. Nếu mỗi gia đình chúng ta đều mời được Chúa đến ở trong gia đình thì chính Người sẽ là dây liên kết để chúng ta yêu thương nhau, là sức mạnh để chúng ta vượt thắng mọi sóng gió, là mẫu gương để chúng ta nhẫn nhịn và tha thứ cho nhau.
Muốn có hạnh phúc trong mái ấm gia đình, mỗi người chúng ta cũng hãy sống cho đúng cương vị của mình là cha, là mẹ, là chồng, là vợ, là con cái. Thánh Phaolô khuyên : “Hỡi các bà vợ, hãy phục tùng chồng trong Chúa cho phải phép. Hỡi những người chồng hãy thương yêu vợ mình, đừng đay nghiến nó. Hỡi những người con, hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự. Vì đó là đẹp lòng Chúa”.
Có câu nói “Một người mẹ có thể chăm sóc cho 10 đứa con. Nhưng 10 đứa con không chăm: ThánhGia ABC 89
Có câu nói “Một người mẹ có thể chăm sóc cho 10 đứa con. Nhưng 10 đứa con không chăm sóc nổi một người mẹ”. Chúng ta hãy suy nghĩ xem câu nói này đúng không.
Một con chim mẹ có một con chim con. Chim mẹ thương yêu chim con vô cùng. Mùa đông đến, các loài chim phải rời xứ lạnh để bay đến những xứ ấm áp hơn. Chim mẹ biết chim con còn yếu không bay xa nổi nên cõng con trên lưng. Ban đầu chim mẹ còn khỏe nên bay khá nhanh. Nhưng sau một đoạn đường dài, chim mẹ mệt và cảm thấy đứa con trên lưng mình ngày càng nặng, nhưng vẫn cố bay. Tuy nhiên một ngày kia chim mẹ đuối sức nên đành phải đáp xuống nghỉ. Trong lúc nghỉ ngơi, chim mẹ hỏi chim con : “Con ơi, hãy nói thật cho mẹ nghe nhé. Sau này khi mẹ đã già, không còn sức bay về phía nam ngang qua những đại dương bao la thì con có cõng mẹ trên lưng như mẹ đang làm cho con bây giờ không ?” Chim con trả lời : “Con e rằng không mẹ ạ !”. Chim mẹ ngạc nhiên hỏi tiếp : “Sao vậy ?”. Chim con lại đáp : “Vì khi đó, con phải cõng con của con”.
Câu trả lời của chim con gợi cho ta thấy hai điều :
a/ Một sự thật phũ phàng : cha mẹ nào cũng hết lòng thương con và hy sinh tất cả vì con. Nhưng con cái thì đáp lại không được bao nhiêu. Ca dao Việt Nam có câu : “Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng, con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày”. b/ Một qui luật tự nhiên : Cũng có câu “Nước luôn chảy xuống”. Cũng như dòng nước luôn chảy xuống thấp chứ không chảy lên cao. Chảy xuống là chảy xuôi, còn chảy lên là chảy ngược. Cha mẹ yêu thương con cái và hết lòng chăm sóc con cái là qui luật tự nhiên.
Trước hai điều hiển nhiên trên, chúng ta phải làm sao ? Một mặt, chúng ta hãy làm tất cả những gì có thể làm được để đền đáp công ơn trời biển của cha mẹ ; và mặt khác chúng ta hãy hết lòng chăm sóc con cái chúng ta. Hết lòng chăm sóc con cái mình cũng là một cách để đền đáp công ơn cha mẹ trước đây đã hết lòng chăm sóc mình vậy.
Ngày hôm nay chúng ta cùng họp nhau đây mừng kính lễ Thánh Gia. Vậy các em có hiểu chữ: ThánhGia ABC 90
Ngày hôm nay chúng ta cùng họp nhau đây mừng kính lễ Thánh Gia. Vậy các em có hiểu chữ Thánh Gia là gì không ? Nghĩa là gia đình thánh. Vậy gia đình thánh gồm bao nhiêu người ? Có ba người : Thánh Giuse, Đức Mẹ và Chúa Giêsu. Gia đình thánh có thương yêu nhau không ? Chắc chắn là có rồi. Các em vừa nghe Tin Mừng kể gì về gia đình thánh này ? Có phải là các ngài hành hương lên đền thờ Giêrusalem, rồi khi trở về thì lạc mất Chúa, khiến thánh Giuse và Đức Mẹ phải chạy ngược chạy xuôi tìm kiếm đến ba ngày mới thấy. Thế rồi khi gặp được Chúa Giêsu, Đức Mẹ chỉ hỏi : tại sao con làm cho cha mẹ phải lo lắng kiếm tìm ? Và sau đó, các ngài trở về Nagiarét chứ không hề thấy Tin mừng nói thánh Giuse và Đức Mẹ la mắng Chúa Giêsu phải không ?
Chắc hẳn các em nói rằng : nếu chúng mình mà như vậy thế nào cũng bị ba mẹ đánh đòn, hay ít ra cũng bị mắng cho một trận nên thân. Chúa Giêsu thật sướng, cha mẹ Ngài hiền quá và thương Ngài quá. Tuy nhiên, nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy ba mẹ chúng ta cũng rất hiền và cũng rất thương chúng ta. Có cha mẹ nào mà chẳng thương đứa con mình đã sinh ra và nuôi lớn với biết bao vất vả nhọc nhằn : Suốt cả cuộc đời mỗi người chúng ta từ khi sinh ra cho đến khi lớn khôn, lúc nào cũng được cha mẹ yêu thương, ân cần chăm sóc, dạy dỗ. Có ai trong chúng ta không được hưởng những lời ru êm ái của mẹ đâu : Dù ta đi trọn kiếp người, cũng không đi hết những lời mẹ ru. Ngoài mẹ ra, chúng ta còn có ba nữa. Và với ba thì có lẽ còn vui hơn : ba làm tàu lửa, ba làm xe hơi, ba làm con ngựa để con cưỡi con chơi…Ít có người con nào lại không có niềm vui được cha cõng trên vai, tay chân nhún nhảy…Các em thấy đó, ba mẹ là lá chắn che chở suốt đời cho con.
Vậy tại sao thỉnh thoảng ba mẹ cứ phải la rầy, có khi còn đánh mắng chúng ta nữa ? Những lúc áy ba mẹ có còn thương chúng ta không ? Chắc chắn là còn chứ. Các em thử nghĩ coi : một đứa trẻ hay gây gỗ, phá phách có được ai thương mến không ? Không. Một em học sinh lười, có được thầy cô và bạn bè thương mến không ? Cũng không luôn…Như vậy là vì không muốn chúng ta bị mọi người ghét bỏ mà ba mẹ phải la rầy. Không muốn chúng ta bị bệnh, bị tai nạn mà ba mẹ phải đánh đòn để chúng ta biết sửa lỗi…
Còn về Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay, tại sao không bị thánh Giuse và Đức Mẹ la mắng ? Thứ nhất vì các ngài tìm được Chúa Giêsu trong đền thờ, như vậy là Chúa Giêsu rất ngoan, rất vâng lời. Ngài không chạy chơi ngoài đường như chúng ta. Thứ hai vì khi được hỏi Chúa Giêsu không hề chối quanh để chạy tội, nhưng Ngài nhận ngay : Con ở lại để lo việc của Cha Con, tức là việc của Chúa Cha. Như vậy Chúa Giêsu rất thật thà và đạo đức. Thứ ba vì khi tìm được Chúa Giêsu, các ngài thấy Chúa đang ngồi nghe và hỏi các thầy Rabbi. Như vậy Chúa Giêsu cũng rất chăm học phải không ?
Các em thấy : một đứa trẻ vâng lời, thật thà, đạo đức và chăm học như vậy thì chẳng có lý do gì để cha mẹ phải la mắng cả. Vậy nếu các em muốn ba mẹ mình luôn hiền lành dịu dàng như thánh Giuse và Đức Mẹ, thì các em cũng phải luôn cố gắng sống ngoan ngoãn như Chúa Giêsu.
1. Gia đình quan trọng như thế nào?
2. Hội Thánh chăm lo cho các Gia Đình?
Suy tư gợi ý:
1. Tầm quan trọng của Gia Đình:
Trong cái nhìn của người có Đức Tin, gia đình là một thể chế và cộng đồng tự nhiên, được: ThánhGia ABC 91
Trong cái nhìn của người có Đức Tin, gia đình là một thể chế và cộng đồng tự nhiên, được Thiên Chúa thiết lập ngay từ thuở ban đầu, để cho con người sinh ra, lớn lên và trưởng thành, ngõ hầu có thể chu toàn các nhiệm vụ cao cả của một tạo vật có trí khôn và ý chí, có tự do và trách nhiệm. Vì thế gia đình hết sức quan trọng và cần thiết đối với từng con người. Gia đình còn là nền tảng của xã hội loài người và là mẫu mực của một cộng đồng nhân loại.
Muốn hiểu rõ hơn vai trò quan trọng của gia đình, chúng ta nên suy niệm về ba sự kiện này:
a) Ngay từ thuở tạo dựng con người, Thiên Chúa đã dựng nên loài người có nam có nữ và liên kết họ với nhau thành một cộng đồng keo sơn như xương với thịt (Đọc St 1, 1-2, 25).
b) Khi Ngôi Lời Nhập Thể làm người, thì Thiên Chúa đã chọn cho Người một phụ nữ (Đức Maria) làm mẹ và một người nam (Thánh Giuse) làm cha nuôi và một khung cảnh gia đình (Nagiaret) làm môi trường sinh ra, lớn lên và trưởng thành (Đọc Lc 1, 26-38; 3, 39-52 & Mt 1, 1-2.23).
c) Phép lạ đầu tiên mà Đức Giêsu đã thực hiện khi bất đầu đời sống công khai là phép lạ biến nước thành rượu để tạo Niềm Vui cho một Tiệc Cưới ở Cana (Đọc Ga 2, 1-12).
2. Hội Thánh chăm lo cho các Gia Đình:
° Ngay từ ngày đầu, Hội Thánh đã luôn quan tâm chăm lo cho các gia đình, vì Hội Thánh hiểu được tầm quan trọng của thể chế và cộng đồng tự nhiên này. Nhất là ngày hôm nay khi gia đình đang bi đe dọa bởi rất nhiều tệ nạn (đói nghèo, thất nghiệp, mù chữ, kỳ thị chủng tộc và giới tính, buôn bán phụ nữ và trẻ thơ, kinh doanh khoái lạc thể xác, phá thai v. v. .) thì sự chăm lo của Hội Thánh dành cho các gia đình càng nổi bật hơn nữa.
° Đặc biệt hơn nữa trong Năm Thánh 2000 này, Hội Thánh Công Giáo đã dành những ngày Năm Thánh cho các gia đình, với một chương trình hội học, thảo luận, chia sẻ, cầu nguyện và cử hành hết sức độc đáo tại Roma từ ngày 11 đến ngày 14 tháng 10 vừa qua, với chủ đề: "Con cái, Mùa Xuân của Gia Đình và Xã Hội"
° Trong buổi gặp gỡ các gia đình tại Roma vào dịp đặc biệt này, Đức Thánh Cha đã mạnh mẽ kêu gọi các tín hữu, mọi người thiện chí, các chính quyền, các tổ chức và đặc biệt là Liên Hiệp Quốc hãy bảo vệ gia đình và tôn trọng sự sống, làm sao để chúng chiếm ưu thế trong cuộc sống cũng như trong lĩnh vực văn hóa, các phương tiện truyền thông, các lựa chọn chính trị và luật lệ của các dân tộc. Đức Thánh Cha đã đưa ra lời kêu gọi trên đây trong bài huấn dụ nói với trên 200.000 người gồm các ông bà, các cặp vợ chồng và con cái đứng chật quảng trường thánh Phêrô chiều ngày 14/10/2000 trong khuôn khổ ngày Năm Thánh dành cho các gia đình.
° Chương trình gặp gỡ đã bắt đầu vào lúc 17h gồm các màn ca vũ nhạc, xen với các chứng từ của các thành phần khác nhau trong gia đình. Sau khi gởi lời chào thăm các gia đình trên toàn thế giới, Đức Thánh Cha nhắc lại ngài đã nhớ đến tất cả các gia đình khi quỳ cầu nguyện tại ngôi nhà của Thánh Gia ở Nazareth trong chuyến viếng thăm Thánh Địa. Ngài cũng muốn sống lại bầu khí êm đềm dịu ngọt đó ngày hôm nay tại quảng trường Thánh Phêrô này với các gia đình đến từ nhiều nơi trên thế giới.
° Đề tài "Con cái là Mùa Xuân của Gia Đình và của Xã Hội" là một loại xét mình thường xuyên đối với các bậc làm cha mẹ liên quan đến tình yêu thương dành cho con cái và sự sống. Con cái là mùa xuân vì chúng đem mọi người vào trong chân trời của sự sống, của mầu sắc, ánh sáng và tiếng hát của mùa xuân. Trẻ em là niềm hy vọng luôn tươi nở, một chương trình tiếp tục hiện thực, một tương lai rộng mở không ngừng. Chúng mang theo sứ điệp sự sống là chính đấng Tạo Hóa, chủ tể của sự sống.
° Tuy nhiên tình trạng của trẻ em trên thế giới ngày nay không phải như Thiên Chúa muốn bởi vì tuổi thơ đang bị đe dọa, sỉ nhục và khai thác đến độ cần phải có một Tông Thư gởi trẻ em. Thật thế, tình trạng của trẻ em hiện nay là một thách đố đối với toàn xã hội. Các em là nạn nhân của nạn ly thân, ly dị, và mang trong tâm hồn thương tích của cảnh gia đình xung khắc và ly tán ấy.
° Trước cảnh biết bao nhiêu gia đình tan nát, Giáo Hội không lên án nhưng đặt để ánh sáng Lời Chúa vào bên trong các vết thương của các thảm cảnh đó. Đây là đường lối mục vụ của Giáo Hội đối với anh chị em đã ly dị và tái hôn. Các anh chị em ấy không bị loại bỏ khỏi cuộc sống cộng đoàn, trái lại được mời gọi tham dự vào cuộc sống cộng đoàn và trưởng thành trong tinh thần của các đòi buộc của Tin Mừng. Tuy không im lặng trước sự thật luân lý khách quan mà họ phải sống và các hậu quả của tình trạng đó đối với việc lãnh nhận các bí tích, Giáo Hội muốn bầy tỏ tất cả sự gần gũi hiền mẫu đối với họ.
° Đức Thánh Cha cũng tái khẳng định các ơn thánh trợ giúp cần thiết mà bí tích hôn nhân ban cho các người sống ơn gọi vợ chồng và cha mẹ, giúp họ thắng vượt các khó khăn.
° Đức Thánh Cha cũng nhấn mạnh trên các quyền của các trẻ em và nhắn nhủ các bậc làm cha mẹ hãy luôn đặt hạnh phúc của trẻ em lên hàng đầu. Ngài cũng khuyến khích việc nhận con nuôi. Ngài kêu gọi các bà mẹ hãy luôn luôn là suối nguồn của sự sống chớ không phải suối nguồn sự chết. Ngài nói với các bậc làm cha mẹ rằng: "Anh chị em được mời gọi tham dự vào sứ mệnh cộng tác với Thiên Chúa tạo hóa trong việc truyền sinh, đừng sợ hãi sự sống nhưng hãy cùng nhau loan báo giá trị của gia đình và của sự sống. Không có các giá trị này sẽ không có tương lai xứng đáng với con người".
° Sau cùng, Đức Thánh Cha cầu mong ánh nến các gia đình thắp sáng lên trong buổi chiều gặp gỡ này như dấu chỉ đồng hành của đấng là ánh sáng, đấng kêu gọi họ dùng chứng tá sống động của họ như ánh sáng chiếu soi nhân loại trên các nẻ đường tiến về ngàn năm mới.
Nguyện:
Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con cảm tạ Cha đã dựng nên va chúc phúc cho các gia đình. Xin Cha yêu thương và che chở bảo vệ mọi người cha, mọi người mẹ, mọi người con sống trong các gia đình ấy.
Thầy Lương chưa dứt lời thì chị Xuân ở đầu dây bên kia mếu máo: "Thưa cha, thưa thầy, nhờ cha thầy làm ơn làm phúc... chạy ra ngoài cây xăng... chở đứa con của con về Nhà Dòng..."
Thầy Lương vẫn còn bỡ ngỡ chưa rõ đầu đuôi câu chuyện: "Vậy cháu muốn đi tu hở chị... đang ở trạm xe bus nào để tôi ra đón?"
Chị Xuân vội vàng cắt nghĩa: "Thưa thầy... không... con của con mới có mười tuổi, không có đi tu... tụi con tốp lại đổ xăng chỗ McDonal trên đường 44... và rồi bỏ sót cháu lại... tiện thể nhờ thầy mua cho cháu vé máy bay hộ con... con sẽ gởi tiền lại Nhà Dòng sau..."
Thì ra là trên đường trở về sau Ngày Thánh Mẫu, gia đình và họ hàng anh chị Xuân ngừng lại để đổ xăng và đi vệ sinh. Trong khi đứa bé còn đang đi vệ sinh thì hai xe tiếp tục chuyển bánh, vì mọi người trong xe bên này cứ ngỡ rằng em bé đã lên xe bên kia.
Mãi ba tiếng đồng hồ sau mới phát giác em bé bị bỏ sót...
Thánh Luca hôm nay cũng thuật lại việc Chúa Giêsu bị "bỏ sót" lại trong đền thờ, và sau ba ngày ròng rã kiếm tìm Đức Mẹ và Thánh Giuse đã tìm gặp Chúa. Ngẫm nghĩ về đoạn Phúc âm này, tôi thấy nơi gia đình thánh gia có hai điểm đáng chú ý:
1/ Thánh gia là một gia đình bình an, hạnh phúc. Người ta thường nói: "Gia đình cầu kinh, gia đình an bình." Thánh Luca đã thuật lại rõ ràng ngay câu đầu: "Hằng năm cha mẹ Chúa Giêsu có thói quen lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua." Điều này cho chúng ta biết là gia đình Thánh Gia thành tâm đi lễ phụng thờ Chúa, và yêu mến giữ luật Chúa truyền. Nơi khác thánh Luca nhắc rõ hơn: "Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môisen, cha mẹ Ngài liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa như đã chép trong Lề luật Chúa..." (Lk 2:22)
2/ Thánh gia là một gia đình đau khổ. Đau khổ vì lạc mất Chúa. Thử hỏi bà mẹ nào mà lại không đau khổ khi lạc mất đứa con mình thương yêu? Đức Mẹ và Thánh Giuse đã phải ròng rã suốt ba ngày để tìm Chúa, và khi gặp Chúa Đức Mẹ cũng không cầm được nỗi lòng: "Con ơi, sao con làm cho chúng ta như thế? Kìa cha con và mẹ đây, đã đau khổ tìm con." (Lk 2:48).
Đức Mẹ và Thánh Giuse lạc mất Chúa, nhưng các ngài đã không ở lại trong tình trạng lạc mất Chúa. Các ngài hằng luôn nôn nóng tìm Chúa. Và tôi thiết nghĩ đây là tấm gương sáng mà Đức Mẹ và Thánh Giuse muốn để lại cho chúng ta.
Nhìn lại cuộc sống hằng ngày, chắc chắn nhiều lần chúng ta dâng lên Chúa lòng biết ơn vì còn được gần Chúa -- tối sớm gia đình quây quần đọc kinh chung, hằng ngày/hằng tuần tham dự thánh lễ, sốt sắng tham gia những sinh hoạt trong cộng đoàn, bác ái viếng thăm những người bệnh hoạn, tật nguyền... Tuy nhiên, có lẽ cũng không thiếu những lần chúng ta "lạc mất Chúa," vì "công ăn việc làm."
Ước chi, trong ngày mừng lễ Thánh Gia, ngày cuối của năm 2000, chúng ta cùng cầu xin Chúa ban cho mỗi người được luôn tìm Chúa -- tìm Chúa trong những lúc an bình hạnh phúc cũng như khi gặp gian nan đau khổ. Chúa đã đến. Chúa đang ở giữa chúng ta. Chúng ta tin chắc rằng Chúa sẽ không bỏ chúng ta.
"Thượng đế không đến để xóa bỏ đau khổ, nhưng để Ngài hiện diện với chúng ta, để nhờ đó chúng ta biết chấp nhận tất cả những đau khổ trong cuộc sống." (Francois Mauriac, văn hào Pháp) ---------------------------
Đoạn Tin Mừng này đã cho chúng ta thấy Con Thiên Chúa đã sống mầu nhiệm nhập thể như thế nào. Khi chấp nhận làm người Do Thái, Ngôi Lời đã chấp nhận những luật lệ của Do Thái Giáo. Ngài đã chịu cắt bì vào ngày thứ tám sau khi sinh, và Ngài cũng được đặt tên trong cùng ngày. Như thế Con Thiên Chúa đã thành người Do Thái. Ngài cũng có một tên như mọi người, tên Ngài là Giêsu. Ngoài ra, vì Đức Giêsu là con đầu lòng nên Ngài thuộc quyền sở hữu của Thiên Chúa (Xh 13,1-2). Cha mẹ Ngài phải chuộc con bằng cách nộp cho tư tế một số bạc (Ds 3,47-48). Ở đây thánh Luca không nói đến chuyện chuộc con, nhưng lại nói đến chuyện dâng Hài Nhi cho Chúa. Thực ra dâng con không phải là điều mà luật Môsê bó buộc phải làm, nhưng là do lòng sốt sắng. Sa-mu-en ngày xưa cũng được dâng như vậy (1S 1,22).
Chúng ta nhìn ngắm Đức Maria lên Đền Thờ để dâng lễ vật. Theo sách Lêvi 12,2-8, người phụ nữ sinh con trai bị coi là nhơ trong 40 ngày, còn sinh con gái thì bị nhơ 80 ngày. Trong thời gian đó, bà phải ở nhà, không được đụng đến vật thánh hay vào Đền Thờ. Sau thời gian đã định trên, bà phải đem đến cho tư tế Đền Thờ một con chiên một tuổi để làm lễ toàn thiêu và một con chim gáy hay một bồ câu non để làm lễ tạ tội. Nếu bà không đủ tiền mua chiên thì phải dâng một cặp bồ câu non hay là một đôi chim gáy. Đức Maria đã dâng lễ vật của người nghèo (c.24).
Ngày nay chúng ta có thể thấy những luật trên đây là khó hiểu, thậm chí khó chấp nhận. Nhưng Con Thiên Chúa đã đón lấy tất cả chỉ vì Ngài muốn là người và là người Do Thái. Ngài được cắt bì như dấu chỉ kết ước với Gia-vê, dù Ngài vẫn luôn là một với Gia-vê. Ngài được dâng cho Thiên Chúa dù Ngài đã thuộc trọn về Thiên Chúa. Thánh Luca muốn cho chúng ta thấy thánh Giuse và Mẹ Maria là những ngườ giữ Luật Chúa một cách nghiêm túc vì lòng nhiệt thành và yêu mến. Bốn lần Luca nói đến Luật, Luật Chúa hay Luật Môsê (cc.22.23.24và 27). Luật biểu lộ ý muốn của Thiên Chúa và chi phối đời sống người tín hữu Do Thái. Chúng ta ngỡ ngàng khi thấy Đức Maria, Đấng mà chúng ta tuyên xưng là người sinh hạ Con Thiên Chúa, lại chịu thanh tẩy khi sinh con như những người phụ nữ khác.
Cần phải có Thánh Thần mới nhận ra mầu nhiệm lớn lao đang toả sáng nơi Hài Nhi bé nhỏ, con của một đôi vợ chồng nghèo. Si-mê-on là người có Thánh Thần ở trên, ông được thúc đẩy lên Đền Thờ để gặp Đấng mà ông suốt đời ngóng đợi (cc.25-27). Nhờ Thánh Thần soi sáng, ông nhận ra Hài Nhi nghèo hèn chính là Đức Kitô. Ông bồng Ngài trong vòng tay, môi bật lên lời chúc tụng. Ông hạnh phúc và mãn nguyện vì đã được thấy Đấng là ơn cứu chuộc cho muôn dân, là ánh sáng cho dân ngoại, là vinh quang cho dân tộc Ít-ra-en (cc.29-32). Để nhận ra Chúa trong cuộc sống buồn tẻ hay sôi động hàng ngày cũng cần có một đời sống đạo đức, gắn bó với Chúa và không để mình bị mê hoặc bởi tạo vật. Ông Si-mê-on là người công chính và mộ đạo. Còn bà nữ tiên tri Anna là một goá phụ, đã phụng thờ Chúa đêm ngày trong chay tịnh và cầu nguyện. Cuộc gặp gỡ Chúa tưởng như tình cờ, nhưng có thể đó là kết quả của một sự chờ đợi và chuẩn bị dài lâu.
Gia Đình Của Ngôi Lời Làm Người
Khi làm người, Ngôi Lời đã sống trong một gia đình, có mẹ, có cha. Tuy thánh Giuse và Đức Maria không có tương quan xác thịt vợ chồng, nhưng tình yêu lại không bao giờ thiếu dưới mái nhà Na-da-rét. Chúng ta không biết nhiều về đời sống của Thánh Gia, nhưng trong các Tin Mừng thời thơ ấu theo thánh Mát-thêu và Lu-ca, chúng ta luôn luôn thấy Hai Đấng ở bên nhau trong mọi biến cố vui buồn. Chính thánh Giuse đã đưa Đức Maria đi Bêlem để đăng ký. Đoạn đường không phải là ngắn và dễ dàng đối với một phụ nữ đã gần ngày sinh nở. Chắc chắn cả hai đã phải bối rối và lo âu khi không tìm được một quán trọ ấm áp cho Hài Nhi chào đời. Thánh Giuse cũng cùng đi với Đức Maria lên Đền Thờ như trong đoạn Tin Mừng trên đây. Chúng ta cũng không quên việc thánh Giuse hộ tống Hài Nhi và Đức Mẹ trốn sang Aicập, sau đó lại đưa về Na-da-rét sinh sống ở đó. Một kỷ niệm khó quên là lần Đức Giêsu ở lại Đền Thờ khi Ngài 12 tuổi. Những ngày dài tìm kiếm trong lo âu và nước mắt của hai ông bà, và cả niềm vui khi gặp lại được con. Cuộc sống của Thánh Gia không phải là luôn luôn phẳng lặng, cũng có lúc tưởng chừng như có thể tan vỡ (Mt 1,18-19). Chúng ta thường nghĩ một người sống trọn vẹn cho Chúa thế nào cũng được hưởng một cuộc đời êm ả và tràn đầy may mắn. Xét theo cái nhìn của người đời thì Mẹ Maria đã gặp những khổ đau và bất hạnh. Bất hạnh lớn nhất là phải chứng kiến Con mình bị treo trên thập giá giữa tuổi đời dang dở. Cuộc sống không sao tránh khỏi những hy sinh và mất mát, những bực bội và lo âu. Điều quan trọng là nắm lấy tay Chúa và cầm lấy tay nhau để có nghị lực mà vượt qua trong bình an thanh thản.
Chúng ta không rõ công việc hàng ngày của Đức Maria. Chắc Mẹ đã lo việc may vá, bếp núc và đội nước từ giếng về nhà. Một việc khác quan trọng hơn của Mẹ là cầu nguyện. Mẹ thấy mình đang sống bên một Mầu Nhiệm và chính đời hôn nhân của Mẹ cũng là một mầu nhiệm. Chính vì thế, Mẹ đắm mình trong cầu nguyện, các biến cố trở nên lời nói kín đáo của Thiên Chúa mà Mẹ thích "giữ kỹ và hằng suy niêm trong lòng" (Lc 2,50). Đời sống thiêng liêng của Mẹ là không ngừng tìm hiểu về Đức Giêsu và chấp nhận để cho Con ra đi hiến thân phụng sự Thiên Chúa.
Thánh Giuse là người đứng mũi chịu sào cho cuộc sống của cả gia đình. Nói đến cuộc sống là nói đến cái ăn, cái mặc, và những nhu cầu thúc bách khác. Thời nào cũng có những khó khăn riêng. Ông thợ mộc Giuse phải vất vả để lo sao cho gia đình mình sống được. Lao động nghiêm túc để phục vụ cho gia đình: đó là con đường nên thánh của Giuse.
Bầu khí của tổ ấm ở Na-da-rét là bầu khí yêu thương, cầu nguyện và cần cù lao động. Đức Giêsu đã lớn lên về mọi mặt nhờ bầu khí này. Động từ lớn lên cho ta thấy Con Thiên Chúa đã muốn đồng hành với con người. Ngài không phải là một thần đồng, cũng không phải là một Phủ Đổng Thiên Vương. Ngài lớn lên từ từ trong thời gian, thời gian là ánh mặt trời làm trái xanh được chín. Không hấp tấp hối hả, nhưng cũng không dậm chân tại chỗ. Hôm nay của Ngài vẫn liên tục với hôm qua, nhưng lại vượt hôm qua. Có những điều phải bỏ lại để đón nhận những điều mới. Hài Nhi Giêsu đã đi một chặng đường hơn 30 năm để trở thành một ông Giêsu trưởng thành và chính chắn, sẵn sàng đón nhận sứ mạng. Cường tráng, khôn ngoan và đầy tràn ân sủng: đó là sự triển nở hài hoà của Đức Giêsu. Chúng ta cám ơn Đức Mẹ và thánh Giuse đã cho thế giới một Đức Giêsu biết yêu thương, biết say mê cầu nguyện và lao động không mệt mỏi cho hạnh phúc của nhân loại và Nước Cha.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Theo ý bạn, ngày nay cái gì đang đe dọa hạnh phúc gia đình và việc giáo dục con cái? Gia đình xưa và nay có gì khác biệt? 2. Để có một xã hội lành mạnh và một Giáo Hội thánh thiện, cần có những gia đình sống theo mẫu của Thánh Gia. Theo ý bạn, cần làm gì để xây dựng một gia đình yêu thương, lao động và cầu nguyện?
Lúc còn là một thanh niên, một hôm tôi nghe một linh mục giảng : “ Thường cái đơn sơ nhất lại là cái khó hiểu nhất, vì trong những cái tầm thường, thường ẩn chứa những cái không tầm thường chút nào. Đó là mầu nhiệm cuộc đời.”
Khi đọc bài tin Mừng hôm nay, tôi liên tưởng đến những lời giảng trên đây và tôi cảm thấy thật thấm thía.
LẠC MẤT CHÚA TRONG CUỘC ĐỜI.
Khi thấy lạc mất con, Đức Maria và thánh Giuse lo lắng, vội vàng trở lại Giêrusalem và tìm ; sau ba ngày mới tìm thấy . Chúng ta hiểu được tâm trạng của hai ông bà khi lạc mất con : họ lo lắng hoảng hốt, không ăn không ngủ, ngày đêm lo đi tìm, vì đó là con của họ, cái quí giá nhất của cha mẹ .
Còn ta, khi lỡ lạc mất Chúa trong cuộc đời, vì một lý do nào đó, chúng ta có lo lắng đi tìm Chúa như thế không ? Nếu không, là vì đối với ta, có Chúa trong cuộc đời hay không, cũng chẳng quan trọng gì cho lắm ! Có người lỡ vì yếu đuối , phạm một tội nào, thì lo lắng đi xưng tội ngay, nhưng có nhiều người, tội chồng chất ngập đầu ngập cổ mà vẫn vui vẻ , tỉnh bơ, như chẳng có gì xảy ra cả. Đối với họ, có Chúa hiện diên trong cuộc sống hay không thì cũng vậy thôi . Nhiều khi sự hiện diện của Chúa còn làm cho họ bực mình, mất tự do là đằng khác . Chúa, đạo trở nên một gánh nặng . Đó là tình trạng của những kẻ ở bên bờ vực thẳm.
1. Hai ông bà không hiểu .
“Tất cả mọi người đều ngạc nhiênvà hai ông bà cũng ngạc nhiên ”. Biết ngạc nhiên trong cuộc sống nhiều khi lại là điều quan trọng . Người Biệt Phái và Pharisiêu không biết ngạc nhiên trước những gì Đưc Giêsu làm , họ tìm cách cắt nghĩa cả các phép lạ của Chúa : “Ông ấy dùng quỉ cả mà trừ quỉ,..ông ấy mất trí”. Một cách xuyên tạc đầy ác ý.
Ngạc nhiên khác với ngây ngô, dễ tin ; đó là thái độ của một Nicôđêmô trong Phúc Am : ngạc nhiên về những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, ban đêm ông đến với Ngài để tìm hiểu.
Tìm hiểu là thái độ đứng đắn và khôn ngoan nhưng điều đó không có nghĩa tìm là hiểu được tất cả . Trong cuộc sống thiếu gì những cái vượt xa sự hiểu biết của chúng ta , vì chúng thuộc về mầu nhiệm của cuộc sống.
“Cha mẹ không biết con phải lo việc Cha con trên trời hay sao ?”. Mặc dầu nhờ mầu nhiệm Truyền Tin, Thiên thần đã cho Mẹ biết, con của Mẹ cũng là Con Đấng Tối Cao, nhưng Mẹ vẫn không hiểu lời Con Mẹ nói hôm nay .
Mẹ là mẹ, nhưng cũng chỉ là một người phàm, làm sao Mẹ hiểu được Con Thiên Chúa . Ngài đâu phải là một người con như những người con tầm thường khác trong thế gian nầy.
Nhưng trước mầu nhiệm Con Thiên Chúa, Mẹ có một thái độ vừa khiêm tốn vừa khôn ngoan: “Maria Mẹ Người, ghi những việc đó trong lòng”.
Trong cuộc sống, có biết bao nhiêu việc chúng ta không hiểu ngay. Đối với nhiều người, đau khổ là một mầu nhiệm . Những lời của Chuá nhiều khi chúng ta không hiểu hết, vì đó là một kho tàng vô tậnThái độ của chúng ta trước những gì mình không hiểu là bỏ qua, hay tìm cách loại trừ , không biết ghi nhớ trong lòng mà suy gẫm như Đức Mẹ
2. Người vâng phục hai ông bà.
Ý thức được mình là Con Thiên và cha mẹ Ngài chỉ là người phàm, không thể hiểu được Ngài, nhưng Chúa Giêsu đã “theo hai ông bà trở về Nazareth và ngài vâng phục hai ông bà”như một đứa con bình thường . Có người cho đây là gương khiêm nhường của Chúá Giêsu, nhưng theo tôi, còn hơn thế nữa, Ngài vâng phục hai ông bà vì đó là ý của Chúa Cha , Đấng đã muốn cho Ngài sống ẩn dật, như một người bình thường trong ba mươi năm. Tầm thường đến nỗi người ta tưởng ngài là con bác thợ mộc và chị Maria, chứ không ai nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa. Trong cái tầm thường hằng ngày, có những cái không tầm thường chút nào. Đó là kết luận mà chúng ta có thể rút ra từ cuộc đời ẩn dật của Chúa Giêsu . Kết luận đó cũng giúp chúng ta đừng coi thường những cái tầm thường .
3. Gia đình gương mẫu.
Người ta thường hiểu, gương mẫu của thánh Gia Thất là gương mẫu trong các nhân đức đời sống gia đình: như đoàn kết yêu thương nhau, sống đạo đức, sống khiêm tốn và kính trọng nhauPhải, nhưng còn hơn thế nữa. Thánh Gia Thất còn là gương mẫu đi tìm Chúa khi lạc mất Chúa trong đời sống vì bất cứ lý do gì; gương mẫu trong việc lắng nghe và suy gẫm lời Chúa trong lòng ; gương mẫu trong sự biết ngạc nhiên và kính trọng mầu nhiệm của mỗi thành phần trong gia đình. Bởi vì ai mà hiểu được những gì mà Thiên Chúa đang làm trong mỗi tâm hồn.
4. Em bé bán diêm quẹt.
Ngày xưa Chúa đi lạc, có Đức Mẹ và thánh Giuse sốt ruột đi tìm Chúa; ngày nay nhiều khi Chúa đi lạc mà chẳng ai thèm tìm Chúa cả.
Đêm ấy là đêm Noel, sau thánh lễ, mọi người đều vui vẻ về nhà . Không một ai ngoài đường vào giờ ấy , vì đã hai giờ sáng rồi, trừ một bé gái độ 12 tuổi bán diêm quẹt . Ai cũng vào nhà, chỉ một mình em ở ngoài trời.
Trời mùa đông đã lạnh, nhưng sự cô đơn còn làm cho em lạnh hơn . Quanh em, đèn trong các nhà đều sáng trưng . Em nghe tiếng nhạc, tiếng hát, tiếng cười đùa vang lên vui vẻ. Và nhìn qua các cửa kính em thấy bóng của những người: đàn ông có đàn bà có, con nít có, đang đi qua đi lại, tay cầm ly rượu hay miếng đồ ăn gì đó mà em không đoán ra được cách chính xác. Có thể là thịt gà, cam, hay nho ? Em tự nhủ: họ hạnh phúc quá! Va em thấy tủi thân.
Cảnh hạnh phúc của những người có gia đình đoàn tụ, có mái ấm, có cha mẹ chợt làm em rùng mình. Rùng mình vì trời giá lạnh hay vì thèm khát hạnh phúc, cả hai chăng ?
Lạnh quá, em ngồi xuống co ro ở một góc tường. Em không có ai để bầu bạn, để sưởi ấm, ngoại trừ hộp diêm quẹt. Em lấy ra một hộp và bắt đầu quẹt từng cây một. Một ngọn lửa lóe lên. Một chút hơi nóngRồi tắt! Rồi lại lạnh! Em tiếp tục quẹt cây thứ hai, thứ bavà cứ vậy cho đến hộp diêm cuối cùng .
Và khi ánh lửa cuối cùng đã tắt, em lại cảm thấy lạnh cóng, em nhắm mắt lại, bó chặt mình và chờ chết. Em chết vì khí trời lạnh buốt. Đúng, nhưng còn đúng hơn: em chết vì thiếu tình người. Và mỉa mai thay, em lại chết ngay trong đêm Noel là đêm mà mọi người tụ họp vui vẻ để mừng Con Thiên Chúa xuống làm người.
Viết đến đây tôi nhớ một bài thơ không biết của ai:
Con chim non không tổ,Trẻ mồ côi không nhà,Hai đứa cùng đau khổ,Cùng vất vơ bê tha.Rồi ngày kia lạnh giá,Rụi chết bên đường đi.Thờ ơ con mắt lạnh,Nhìn chúng:có hề chi.
Khi chàng thanh niên Phanxicô thành Assidiô bắt đầu bước vào cuộc sống "ngông cuồng": bỏ công việc làm ăn của gia đình, "chôm đồ nhà" cho người nghèo khổ, lẻn đến trại cùi với bệnh nhân, đi xin ăn để sống qua ngày, kiếm vôi vữa đá gạch sửa lại mấy ngôi nhà nguyện đổ nát, hát nghêu ngao ngoài đường ca ngợi tình yêu Thiên Chúa, rồi có lúc không trở về nhà nữa... thì ông Bernađônê, thân phụ Phanxicô, hết sức xấu hổ và tức giận, còn bà mẹ thì đau khổ cách âm thầm Bữa nọ, nghe ngoài phố có tiếng hò reo, ông chạy ra thì thấy một bọn trẻ con đang theo sau Phanxicô, ném những thứ dơ dáy vào người chàng, trong lúc chàng vẫn tỏ ra hiên ngang vui vẻ. Ông liền nhào tới, nện cho chàng hai quả đấm như trời giáng khiến chàng sụm xuống tại chỗ. Lôi chàng vào nhà, ông nhốt chàng xuống ngay hầm rượu, bỏ đói, còn cấm vợ giáp mặt con. Nhưng vài hôm sau, vì chuyện làm ăn, ông phải rời gia đình. Vẫn giữ chìa khóa hầm rượu trong mình, ông ra lệnh cho vợ mỗi ngày chỉ cho Phanxicô ăn hai bữa thôi Đợi chồng đi khỏi, bà Bernađônê cho người phá tung cửa, ôm lấy con, nước mắt ràn rụa. Phanxicô giãi bày với mẹ tất cả bí ẩn và dự định trong tâm hồn mình. Thấy con muốn trở lại cảnh sống chàng đã chọn, tuy đau khổ, bà vẫn nói với con: "Con hãy làm theo những gì Chúa soi sáng". Rồi bà sắm sửa cho chàng những gì cần dùng Trở về, ông Bernađônê lôi thằng con "mất dạy" tới đức giám mục để xin ngài xử kiện. Trước mặt bá tánh, Phanxicô đã từ khước quyền thừa kế để chọn sống con đường khó nghèo.
Chàng cũng trút luôn mảnh xiêm y cuối cùng trên người, trả lại cho cha và tuyên bố: "Từ nay, con chỉ còn có một Cha trên trời mà thôi".
Nỗi đau khổ của song thân Phanxicô trước một sự đoạn tuyệt vì Thiên Chúa và Nước Trời, cũng là nỗi đau khổ mà ta có thể thấy được nơi song thân Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay. Nhưng trong cả hai câu chuyện đều có những bài học thấm thía.
Quả thế, khởi sự tại Giêrusalem, trong Đền thờ, với cuộc truyền tin cho ông Dacaria về việc chào đời của vị Tẩy giả, Tin Mừng Luca về thời thơ ấu của Đức Giêsu cũng kết thúc trong Đền thờ Giêrusalem với cảnh tượng lạ lùng của "cậu bé-thầy dạy", nội dung bài Tin Mừng lễ Thánh gia hôm nay. Đỉnh cao của trình thuật nằm trong câu đáp khô khan Đức Giêsu đưa ra cho song thân đang khắc khoải: "Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con à". Tuy nhiên, với thái độ "ghi nhớ tất cả những điều ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng", Đức Maria cũng trở thành thầy dạy cho hết thảy chúng ta về một phương diện khác.
1. Bài học của đứa con
Đức Giêsu đưa ra một phân biệt rõ rệt giữa gia đình trần gian của Người với gia đình mầu nhiệm vốn là nơi Người đã phát xuất. Thốt lên từ "Cha", Đức Giêsu mạc khải mầu nhiệm thần linh của mình. Ơn gọi của Người không phải là phục vụ một gia đình dầu thánh thiện của tạo vật nhân loại, nhưng là để Cha trên trời sử dụng tùy nghi.
Tuy nhiên, cậu bé đưa ra lời tuyên bố có vẻ nổi loạn ấy cũng chính là kẻ ngoan ngoãn theo cha mẹ lên Giêrusalem mỗi năm dịp lễ Vượt qua, chính là kẻ nhận lời quở trách: "Con ơi, sao con lại làm cho cha mẹ như thế?", chính là kẻ ngoan ngoãn theo cha mẹ trên con đường về Nadarét quê cũ, chính là kẻ "vâng phục các ngài", cho dẫu đã thành niên và được phú bẩm chính sự khôn ngoan của Thiên Chúa lẫn sự thông thái của Salomon, cho dẫu sự khôn ngoan của Người lớn dần với tuổi tác, sức vóc và ân sủng.
Đức vâng lời của Đức Giêsu bên trong gia đình khiêm tốn ấy do đó trở thành gương mẫu. Hơn nữa, như một học giả về trang Tin Mừng này là cha R.E. Brown đã viết, "đức vâng lời đó hết sức gây xúc động vì nằm bên cạnh sự thông minh của Đức Giêsu, vốn khiến tất cả ngạc nhiên và thán phục. Còn gây xúc động hơn nữa vì nằm bên cạnh "tham vọng" to lớn của Đức Giêsu là làm nhiều bổn phận đặc biệt trong tư cách Con Thiên Chúa, những bổn phận và ơn gọi mà cha mẹ Người không tài nào hiểu nổi".
Thái độ của Đức Giêsu là dấu chỉ cho thấy Người hiến thân cho con người, Người ra công phục vụ chứ chẳng muốn được phục vụ.
Đàng khác Đức Maria bắt đầu hiểu bằng kinh nghiệm sống rằng khoảng cách giữa mình với Con không phải là dấu tách xa nhưng là gần lại, vì với đức tin, bà ngày càng đi vào chương trình cứu rỗi mà Đức Kitô sắp thực hiện.
Dẫu sao, bên trong bức tranh ấy, đó là một yếu tố có thể chấp nhận bởi mọi gia đình. Nếu người con phải biết hiếu kính đón nhận tình yêu của cha mẹ, thì cha mẹ phải biết rằng con của họ có một số mệnh mà họ không thể xác định trước. Họ có thể mơ ước về đứa con theo hình ảnh của mình hay như kẻ thực hiện những dự phóng to lớn, nhưng cuối cùng họ phải biết chấp nhận nó đúng như con người nó, với các sở trường sở đoản của nó, với số phận khiêm hèn hay vinh quang của nó. Luôn biết cho và biết nhận, ấy là dấu chỉ của tình yêu.
Trái lại, thống trị hay xem đứa con, ông chồng bà vợ như sở hữu riêng, đó là sản phẩm của một tâm hồn ty tiện và chẳng có khả năng "suy đi nghĩ lại trong lòng". Nếu chấp nhận một từ nguyên vắn gọn nhưng sâu sắc về mặt sư phạm, thì "Quyền bính" đích thực (auctoritas, danh từ la tinh) có nghĩa là "làm cho lớn lên" (augeo, auctum, augere động từ la tinh). "Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại".
Đó là kiểu cách của gia đình Nadarét, là kiểu cách của chính "gia đạo" theo thánh Phaolô: "Như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy. Người làm chồng hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh. Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa... còn những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận" (Ep 5,24-25; 6,1-4).
2. Bài học của bà mẹ
Sau bài học của đứa con, tiếp đây là bài học của bà mẹ. Qua câu "Đức Maria hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng", Tin Mừng phác họa cho ta chân dung của Đức Maria như vị linh sư tuyệt hảo, khiến ta chẳng cần phải đi tìm các linh sư (Ấn giáo, Phật giáo, Hồi giáo...) như đang là cái "mốt" trong nhiều giới kitô hữu hiện thời. Nơi bà, đức tin đang tác động cách sâu thẳm, vì chẳng đời nào có ai sẽ phải đào sâu như thế, sẽ phải sống những điều gây hoang mang như thế.
Bà là người Do thái, được giáo dục theo lối Do thái. Việc trở thành mẹ Đấng Mêsia, như mọi thiếu nữ Do thái đều mơ ước, đã làm bà choáng ngợp và thỏa mãn. Tuy nhiên đã có những biến cố gây ngỡ ngàng mà trước tiên là việc thụ thai đồng trinh cách nhiệm lạ. Lập tức bà đã tỏ ra muốn tìm kiếm chân lý: "Tôi sẽ làm mẹ cách nào?" - "Thánh Thần sẽ đến trên bà".
Đó đã là điều cần phải suy niệm, và Maria đã bắt đầu một con đường đầy những câu hỏi ngày càng gây day dứt, băn khoăn. Là người Do thái, bà sẽ phải dần dần chấp nhận tư tưởng Đấng Độc Nhất có một người con, và người con ấy là Giêsu! Rồi bà phải làm quen với ý tưởng: Đấng Mêsia vinh hiển, đó là đứa trẻ đang sống trong thôn làng nhỏ bé và trong gia đình lao động của bà, như mọi đứa trẻ khác. Sau một chút xáo động lúc Người sinh ra, là sự chìm vào im lặng của một cuộc sống rất khiêm tốn.
Rồi có sự cố năm Đức Giêsu mười hai tuổi. Óc độc lập của Người quá ư bất thường và câu trả lời của Người quá ư hỗn láo nếu đã chẳng chất chứa biết bao mầu nhiệm: "Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?"
Không, họ đã không biết, Luca dám nói thế, "ông bà chẳng hiểu gì". Như nhiều người từng choáng ngợp trước các biến cố, Đức Maria cũng bị choáng ngợp. Nhưng bà vẫn cảm nhận mọi chuyện một cách sâu xa: "Bà hằng ghi nhớ những điều ấy trong lòng". Bà suy niệm, bà chồng chất các sự kiện, các từ ngữ, các ánh sáng. Từ nay, mọi hành vi và lời nói nơi đứa con lạ lùng của bà, thay vì làm bà khép kín trước cái bất khả đạt, lại sẽ mở lòng bà ra và nâng bà mỗi lần một chút lên tới mầu nhiệm: "Hỡi con yêu của mẹ, con là ai?"
Đức Giêsu thấy ba nỗ lực đó, nỗ lực mở lòng, suy niệm và thích nghi. Lần kia, nghe một phụ nữ la lên do phấn khởi cách hời hợt: "Phúc thay bà mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!" Người đã đáp lại bằng một lời gợi ý hãy vào sâu hơn: "Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa" (Lc 11,27-28).
Tại sao chúng ta chẳng đi đến trường học đức tin này? Không những tới với một mẫu gương chiêm niệm mà còn tới với một người mẹ rất hạnh phúc được giúp đỡ chúng ta và thích nghi chúng ta với mầu nhiệm. Đức tin Kitô giáo chẳng dễ dàng, người ta cảm thấy điều này khi nghe những người bỏ đạo và khi thấy sự tầm thường của chúng ta. Đã nghe mơ hồ nhiều lời, việc đó không đủ; phải khao khát đón nhận các lời nói và biến cố, rồi tiến dần tới tất cả mầu nhiệm Đức Giêsu nhờ mải miết suy niệm. Như Đức Maria, Đấng đầu tiên đã đi trọn con đường và có thể hướng dẫn chúng ta.
"Hằng năm cha mẹ Chúa Giêsu thường lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua. ...Chúa Giêsu cũng theo cha mẹ đi lễ." (Lk 2:41-42)
Mọi người đều công nhận rằng mình được sinh ra do tình yêu cha mẹ và được dưỡng dục trong một gia đình. Gia đình được diễn tả bằng nhiều danh từ khác nhau để nói lên một điểm chính yếu là: người con được cha mẹ săn sóc, yêu thương, dạy dỗ để thành người. Vì có những phong trào vô luân chống lại cơ cấu của gia đình nên khiến cho một số không hiểu được gía trị của gia đình và coi thường cha mẹ. Toàn thế giới đã báo động về sự sa sút này nên từ năm 1994 Gíao Hội kêu gọi các chính phủ tìm mọi phương thức để củng cố và nâng đỡ các gia đình. Hiển nhiên là gia đình tốt sẽ cung cấp cho xã hội những công dân tốt. Khi suy nghĩ sự êm đẹp của mái ấm gia đình: tình thương yêu vô bờ bến cha mẹ dành cho con, tình huynh đệ mà mọi người dành cho nhau và giúp đỡ nhau, một tâm hồn đã ca tụng và cầu khẩn rằng:1) Xin Chúa í a chúc lành cho đời Cha Mẹ của Con. Công ơn là như núi non, dưỡng nuôi Con bao ngày vuông tròn. Con sinh đến trong đời, an vui nhờ có ơn Trời và ơn Cha Mẹ suốt đời coi nhẹ khổ đau.Đ.K: Xin cho Cha Mẹ Con thắm mãi tình son của Chúa Trời.Cho Con giữa gia đình, luôn sống theo tình người Con ngoan.2) An vui cũng như đau buồn luôn đẹp tấm lòng Mẹ Cha. Ai qua là bao chốn xa, thấy đâu vui cho bằng mái nhà. Mai con lớn lên rồi, ra đi tung cánh trong đời, dù xa vô bờ vẫn nặng nhớ tình Mẹ Cha.3) Công Cha cũng như nghĩa Mẹ vun trồng lên đời của Con. Bôn ba là qua nắng mưa ước mong Con sau này nên người. Trông Ơn Thánh trên trời, noi gương nơi Chúa hiến tình; và hy sinh mình, hiến vẹn nghĩa tình Mẹ Cha.Thực Hành: "Hai Ông Bà tìm gặp Chúa Giêsu đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ ... Sau đó Người theo hai Ông Bà trở về gia đình ở Nagiarét." (Lk 22:50-51) Cho dù Con cái học hành thông giỏi đến đâu vẫn không thể từ chối quyền hạn của Cha Mẹ. Vì Thiên Chúa ban cho Cha Mẹ ơn sủng đặc biệt có đủ khôn ngoan để săn sóc và dạy dỗ Con cái theo đường lối khôn ngoan mà họ nhận lãnh. Xin Chúa giúp Con biết khiêm nhường vâng phục Cha Mẹ và biết qúi trọng, duy trì mái ấm gia đình.
Với Trần Thu Miên, Chỉ với bốn câu kết của thi tập Câu Kinh Tôi Đọc Giữa Đời Tha Hương: ThánhGia ABC 97
Với Trần Thu Miên
Chỉ với bốn câu kết của thi tập Câu Kinh Tôi Đọc Giữa Đời Tha Hương, nhà thơ Trần Thu Miên đã vẽ lên được một bức tranh sinh động diễn tả trọn những trăn trở rã rời của cuộc sống ly hương ngổn ngang đầy oan trái. Kết mà như mở, mọi tính toán xếp đặt xem ra tạm ổn mà vẫn như chưa nắm bắt được gì.
Đêm nằm nghe vợ thở dàichuyện nhà tan tác, chuyện ngoài tả tơisáng mai ngoác miệng nhìn đờilo cơm áo, đã rã rời xác thân.
THỜI ĐIỂM CÂU KINH NGHE RẤT TỘI TÌNH
Đúng thế. Sáng dậy pha ly cà-phê uống, chưa kịp "ngoác miệng nhìn đời", mình đã thấy đầy trang báo toàn tin tức mây đen u ám. Vụ hai chủng tộc, hai tôn giáo ở Kosovo cắn giết nhau tận lực, và vụ 14 học sinh choai choai chết ở Denver một cách phi lí chưa xong, thì lại xẩy ra vụ 23 ông bà già bị chết vì xe lật trên chuyến đi giải trí ở sòng bạc bên Mississippi. Về tuổi già chả biết làm gì thì lại được các "tổ chức" khéo cò mồi dụ khị cho đời bớt tẻ nhạt, may ra thêm chút nhựa sống chăng. Tất cả nghe ra thật tội tình mà chẳng sao tìm được câu giải đáp. Đặc biệt đối với người Việt tha hương, những ray rứt chới với như trùng trùng điệp điệp, không sao diễn ra được cho rõ nét. Thì đây, Trần Thu Miên đã bộc lộ, đã gợi trúng tim đen nhiều người. Những rung động trong Câu Kinh Tôi Đọc Giữa Đời Tha Hương là chính những giằng co trằn trọc bên trong mỗi người.
Có gì trong tuyết trắnglàm cay mù mắt anhđường chiều về hoang vắngvà lòng mình lạnh tanh...Có gì trong ngõ tốimà nghe lòng hoang vubước chân dường như mỏiđời nhục nhằn chưa nguôi...Có gì trong bước chânmà nghe lòng nặng trĩu.
Người Do Thái không cho phép thế hệ trẻ quên đi những nhục nhằn của cha ông. Vì đó cũng là động lực nối kết tinh thần dân tộc. Hướng đạo sinh tuyên thệ trên đồi Massada nơi những kháng chiến quân đã rút lên tử thủ cho đến người cuối cùng chứ không chịu đầu hàng; và những đứa trẻ từ khắp các nước Âu Mỹ được cha mẹ đưa về làm lễ nghi Bar Mitzvah bước vào tuổi lớn, hãnh diện đọc bài Kinh Thánh đầu tiên bằng tiếng mẹ đẻ bên Bức Tường Khóc ở Giêrusalem, nơi người Roma đã phá bình địa tất cả, chỉ để lại một bức tường đền thờ như một khắc ghi mối nhục để mà khiếp sợ không dám cựa quậy nữa. Vậy mà người Do Thái vẫn cứ cứng đầu bước tới, vẫn cứ cựa quậy, làm cho thế giới nể vì, do biết nhất định không quên nỗi nhục. Những xô đẩy chập chùng của kiếp phù sinh, những vết thương mỗi ngày mỗi hằn sâu vào da thịt, những nhục nhằn uất nghẹn cho thân phận người mình chuyên bị bắt làm con cờ thí, nhất là trong cuộc vượt biên mua sự sống và tự do bằng cái chết, Trần Thu Miên đã khắc ghi vào tâm thức làm động lực tác hành và tìm ra lẽ sống cho người còn sống sót sau bằng ấy chuyện ghê gớm như kiểu nói của Tô Thùy Yên: "Sống trên đời chuyện ghê gớm quá, vậy mà ta sống có kỳ không."
Tôi đọc mà muốn khóc, những dòng thơ Trần Thu Miên trào ra như dòng nước mắt với "câu kinh đọc, giọt mưa tuôn", ước mong lớp người ra đi cũng xây được một dấu tích tại một địa điểm nào đó làm "Bức Tường Khóc", mãi mãi dội lên trong tâm khảm người ra đi "kinh cầu hồn cho người vượt biển":
Xin làm loài chim biểnquanh quẩn một đời với đại dươngkhi bình minh tới dâng cao lời hátgọi những vong hồn chết đuối ngoài khơi;hay một đời rong ruổikhắp Biển Đông tìm xác anh emđã chết oan thuở vượt biên ngày nọgiờ ở chỗ nào trong đáy biển sâu...
Xin làm mây trên biểnmàu trắng khăn tang phủ đất trờithương những người đi nhục nhằn tức tưởithiếu nữ bỏ đời, hải tặc vô tâm.
Độ rung trên càng mạnh khi gia đình mình cũng có những người chết trên biển như vậy. Rồi trong cuộc sống ly hương với bao mộng ước, bỗng một ngày nào đó, một biến cố lớn xảy đến, một người thân chết với "câu kinh nghe rất tội tình, tiễn nhau nằm chết một mình xứ xa", tạo một cơn chấn động mãnh liệt làm thay cả nhãn quan về cuộc đời. Mường tượng đến sọ người cũng là mường tượng đến sọ ta, mà ngậm ngùi nhận ra được nét vô thường của cuộc sống.
Như loài ve sầu chếtsau một đời ngủ sayta rồi đi cũng đếnnơi chốn về thiên thu...Như là thân cát bụikhi về với cỏ câybao nhiêu điều mong ướcsẽ tan vào hư không.
SỨ ĐIỆP NÀO CHO THỜI ĐIỂM CUỐI NĂM 2000?
Chả lẽ đời người chỉ là một chồng chất những vật vã giẫy giụa của một sinh vật đáng thương trong một quãng thời gian ngắn ngủi rồi lăn ra chết?! Nếu cuộc sống là hư ảo, là biển trầm luân, thì việc mình sinh ra và hiện hữu trên mặt đất này tự nó đã là một phi lý, dù có đưa ra luận lý này hay biện chứng "bước tiến tất yếu của lịch sử" kia.
Hai môn đệ trên đường Emmaus cũng đã từng đối diện với một quãng đường phi lý xám xịt cụt lối như thế. Vậy mà trong bóng đen dầy đặc, một tia sáng lóe lên. Hai người bỗng thấy được chính Chúa vẫn đang đồng hành với mình qua mọi khúc quặt; Ngài đã sống lại mở lối dẫn đầu lịch sử. Đó là giây phút đốn ngộ. Đó là khoảnh khắc con mắt niềm tin được bật sáng. Họ trở lại cuộc sống với một con mắt hoàn toàn được khai mở, nhìn đời với một nhãn quan mới, giá trị mới. Đó cũng phải là con mắt vào thời điểm 2000.
Từ những "khô đạo" với "niềm tin đã chết, câu kinh đọc vu vơ", con mắt của người tin đạo bỗng tỉnh ngộ nhận ra Chúa Tình Yêu đang ngay bên cạnh mình, qua tình mẹ với "niềm tin như biển rộng, tình thương như mây trời", qua ươm mơ cho con khôn lớn bằng tim nhân ái "đi làm đẹp cuộc đời", qua việc sống lại những hình ảnh thời ấu thơ với "bài thánh ca hát bằng tim trong trắng", "vì Chúa ở bên con, trên màu hoa sắc lá", qua sức sống tình yêu thể nghiệm nơi đứa con vừa sinh ra đời:
bố run run nhìn con rồi nhìn mẹ, ôm trên tay bằng chứng của tình yêu, ôm trên tay niềm hạnh phúc vô bờôm trên tay một nhiệm mầu tuyệt đối.
Chạm đến được sức sống này là nối được vào dòng hơi thở sinh khí mà Chúa Giêsu đã chuyển đạt cho các môn đệ: "Lạy Cha, giờ đã đến, xin Cha tôn vinh Con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha, theo quyền năng đã ban cho Con trên mọi phàm nhân, để Con ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Con. Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Chúa Trời duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha sai đến, là Giêsu Kitô." (Gioan 17:1-3)
PHÚT THỂ NGHIỆM CHẤT TÌNH
Kết mà như mở, mọi tính toán xếp đặt xem ra tạm ổn mà vẫn như chưa nắm bắt được gì. Trong lúc như hụt hơi, tẻ nhạt hết nhựa sống, tôi cũng cũng muốn thắp sáng lại niềm tin thật đơn thành qua ánh mắt người mẹ. Gia tài "mẹ để lại cho con, câu kinh đọc một đời" là lời kinh đơn sơ mộc mạc qua tràng chuỗi như sợi dây thần cột chặt neo vào Chúa. Lời kinh dội lên trong tâm như hơi thở tình yêu chuyển từ đời nọ sang đời kia, cũng là ống sinh khí nhiệm mầu nối vào dòng sức sống linh thiêng.
Tôi cùng xác tín sứ điệp Tin Vui đạo Chúa với nhà thơ Trần Thu Miên, thể nghiệm sức sống tình yêu là lẽ sống: "Càng ngày tôi càng thấy niềm tin chính là tình yêu. Và chỉ có niềm tin và tình yêu mới đem lại bình yên... Cảm ơn mẹ đưa con vào đời bằng những lời kinh nguyện đơn sơ. Xin cho con đi hết cuộc đời với trái tim của người biết cảm nhận được hồng ân Chúa qua nụ cười tiếng khóc trẻ thơ, qua vỗ về an ủi của người yêu, qua chia sẻ thân tình của bạn bè, qua lắng lo đùm bọc gia đình. Và xin cho con luôn luôn nhìn thấy Chúa trong mọi hoàn cảnh."
Cho tôi lại câu kinh chiều mẹ đọc
ngọt như thơ, tha thiết tựa trời mưa;
cho tôi lại niềm tin yêu tuổi nhỏ
tuổi thơ ngây chưa vương vấn bụi trần.
Khi nói về Thánh Gia Thất, tín hữu thường có những hình ảnh rất êm đềm của một gia đình: ThánhGia ABC 98
Khi nói về Thánh Gia Thất, tín hữu thường có những hình ảnh rất êm đềm của một gia đình hạnh phúc giữa những con người mà nhân đức đã được nâng đến mức tuyệt đối. Ta hình dung Đức Mẹ thật đẹp, đẹp từ người tới tâm hồn; Thánh Giu-se hiền lành, quảng đại và luôn biết giải quyết mọi vấn đề trong gia đình. Phần Chúa Giê-su, Ngài là một con trẻ luôn làm hài lòng cha mẹ với trí thông minh tuyệt hảo, với tình yêu thương cha mẹ đậm đà, với tinh thần vâng phục không một nếp nhăn. Nếu ta nghĩ như thế thì không hẳn là sai, nhưng có vẻ đơn giản hóa thực tế. Cuộc sống thực tế của Thánh Gia như thế nào ?
Bài Phúc Âm hôm nay đã thoáng cho thấy một vài gợn sóng trên nếp sống yên hàn của Gia Đình Na-da-rét. Cậu con trai mới 12 tuổi đã lìa khỏi cha mẹ mà làm theo ý mình. Cậu không buồn xin phép cha mẹ để ở lại Giêrusalem, và khi gặp lại cha mẹ sau ba ngày họ ‘đau đớn’ tìm kiếm, thì cậu nói một câu mà không cha mẹ nào có thể chấp nhận được: “Sao cha mẹ lại tìm con ? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao ?” Trong bản dịch tiếng Việt, giọng nói của cậu Giê-su đã được dịu đi nhờ những chữ ‘cha mẹ – con’, nhưng trong nguyên bản, khi đọc những câu này, ta có cảm giác như cậu Giê-su nói: “Ông bà tìm tôi làm chi ? Bộ không biết là tôi phải ở nhà Cha tôi à ?” Cách hiểu này cũng không có gì là quá đáng khi chúng ta nhớ lại rằng chưa bao giờ Đức Giê-su gọi Thánh Giu-se và Đức Mẹ là cha mẹ cả.
Kinh Thánh không hề ghi lại một lời nào mà Chúa Giê-su đã nói với Thánh Giu-se, và hai lần nói với Đức Mẹ thì Ngài đều gọi mẹ mình là ‘( mụ ) đàn bà kia’, mà trong tiếng Hy-lạp là ‘gunai’ và tiếng La-tinh là ‘mulier’. Lần thứ nhất tại Ca-na: “Chuyện đó can dự gì đến tôi và mụ, mụ đàn bà kia ( gunai / mulier ) ?” ( Ga 2, 4 ), lần thứ hai khi Chúa hấp hối trên thập giá: “Mụ đàn bà kia ( gunai / mulier ), đây ( mới ) là con của mụ !” ( Ga 19, 26 ). Có lẽ cách dịch của tôi làm chói tai một số người, bởi vì các bản dịch đều chuyển những lời ấy ra những câu thật lễ phép như: “Thưa bà”. Tuy nhiên, sự kiện vẫn là sự kiện: khi nói với mẹ mình Chúa Giê-su đã gọi là ‘gunai / mulier’ ( đàn bà ) chứ không dùng ‘meter / mater’ ( mẹ ). Đấy, người con ngoan ngoãn trong Thánh Gia là như thế đấy.
Còn hai bậc sinh thành thì sao ? Thánh Giu-se là một người đàn ông mờ nhạt; mờ nhạt đến độ dân chúng trong làng không nhớ đến tên mà chỉ gọi là ‘ông thợ mộc’. Khi nói về Đức Giê-su họ bảo: “Ông ấy không phải là con ông thợ mộc và bà Ma-ri-a sao ?” ( Mt 13, 55; Mc 6, 3 ). Khi gặp lại Giê-su sau ba ngày ‘đi hoang’, ông cũng không nói được một lời ‘dạy dỗ’ mà phải để cho Đức Ma-ri-a lên tiếng.
Phần Đức Ma-ri-a thì sao ? Những bức tranh ta thường thấy vẽ lên một phụ nữ liễu yếu đào tơ, gương mặt thánh thiện nhưng rất ‘tiêu diêu’. Ta có cảm giác Đức Mẹ là một phụ nữ không làm gì cả ngoại trừ suốt ngày ‘cầu nguyện và chiêm niệm trong lòng’. Sự thật thì chưa chắc như thế. Cách đây 2.000 năm, với lối sống khắc nghiệt của môi trường Do-thái, tuổi thọ trung bình của một người là 45 tuổi. Thế nhưng Đức Mẹ đã sống cho đến ngày Chúa sống lại, nghĩa là phải trên 50 tuổi.
Như những người nghèo thời ấy, Đức Mẹ phải làm việc quần quật 10 giờ một ngày: nấu nướng, quét dọn, giặt giũ, xách nước và hàng ngàn công việc nặng nhọc khác. Mẹ phải là một người có một sức khoẻ dồi dào, vì vào tuổi 15, 17, dù đang mang thai, Mẹ vẫn còn sức lên đến miền cao nguyên để thăm bà chị Ê-li-sa-bét, và đến ngày sắp khai hoa nở nhụy, Mẹ vẫn còn đủ sức để đi năm ngày đường từ Na-da-rét đến Bê-lem. Với tư cách một người xốc vác như thế, Mẹ hẳn đã ‘lấn lướt’ chồng mình trong nhiều lãnh vực, đặc biệt là lãnh vực giáo dục con mình: “Tại sao con lại đối xử với cha mẹ như vậy ?” Và có lẽ Đức Mẹ cũng là người đã nhờ thân nhân đi bắt Chúa Giê-su về khi nghĩ rằng con mình ‘điên’ ( Mc 3, 21 ).
Đấy, Thánh Gia Thất là như thế đấy ! Cũng đầy vấn đề như bao nhiêu gia đình khác. Nhưng đó chính là một Gia Đình Thánh. Gia đình ấy thánh không phải vì mọi người không hề có một vấn đề gì, nhưng vì mọi người đã sống với nhau trong tình yêu và tha thứ. Thánh Giu-se và Đức Mẹ đã đón nhận và tha thứ cho Đức Giê-su mặc dù không hiểu Ngài nói gì. Chúa Giê-su trở về Na-da-rét và ‘vâng phục hai vị’, mặc dù Ngài có bổn phận phải ‘ở nhà Cha Ngài’. Qua đó, chúng ta thấy các thành viên trong Gia Đình Thánh này phải chịu đựng và tha thứ cho nhau đến độ nào.
Chúng ta không thể nào trở thành Chúa Giê-su, Thánh Giu-se và Đức Mẹ, nhưng tất cả chúng ta đều có thể sống những vấn đề của gia đình trong tình yêu và tha thứ như các Ngài, hầu biến gia đình mình thành một gia đình thánh; và đó là lý do mà Thánh Gia Thất trở nên mẫu mực cho mỗi gia đình chúng ta.
Cũng vì thế trong ngày lễ này, Giáo Hội cho đọc lại đoạn thánh thư sau: “Anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau...” ( Cl 3, 12 – 13 )
Trong bối cảnh các gia đình gặp nhiều khó khăn thử thách và quyền trẻ em bị nhiều người: ThánhGia ABC 99
Trong bối cảnh các gia đình gặp nhiều khó khăn thử thách và quyền trẻ em bị nhiều người, nhiều nước xâm phạm như hiện nay thì Lễ Thánh Gia Thất càng thêm nhiều ý nghĩa. Riêng đối với Giáo hội Việt Nam thì Lễ Thánh Gia Thất này kết thúc Năm Gia Đình. Nhưng nếu Năm Gia Đình được kết thúc thì không hề có nghĩa là những vấn đề của gia đình đã được giải quyết. Nên việc kiểm điểm đời sống riêng và chung và việc mở rộng tâm hồn đón nhận sứ điệp của Lời Chúa và đem sứ điệp ấy vào cuộc sống vẫn là những việc làm cần thiết và cấp bách vào thời điểm này.
II. LẮNG NGHE VÀ TÌM HIỂU LỜI CHÚA
Bài đọc 1: 1 Sm 1, 20 – 22 . 24 – 28:
“Sách Sa-mu-en quyển 1 và 2 khởi đầu với nhận vật Sa-mu-en như là vị “thủ lãnh” cuối cùng và là người thiết lập chế độ quân chủ theo yêu cầu của dân” ( Kinh Thánh trọn bộ, Dẫn nhập Cựu ước, trang 241 ).
1 Sm 1,-20 – 22 . 24 – 28: là câu chuyện bà mẹ Sa-mu-en hiến dâng con cho thày cả Ê-li, để Sa-mu-en sống trong Đền Thờ, được giáo dục theo tinh thần và đường lối của Chúa, để suốt đời lo việc phụng sự Thiên Chúa. Lý do khiến bà mẹ Sa-mu-en dâng hiến con mình như vậy là vì bà cho rằng chính Thiên Chúa đã ban cho bà người con ấy thì bổn phẩn của bà là hiến dâng lại cho Thiên Chúa chính người con ấy: “Tôi đã cầu nguyện để được đứa trẻ này và Đức Chúa đã ban cho tôi điều tôi đã xin Người. Đến lượt tôi, tôi xin nhượng nó cho Đức Chúa. Mọi ngày đời nó, nó sẽ được nhượng cho Đức Chúa.”
Đức Tin tinh tuyền và lý luận chặt chẽ của bà mẹ Sa-mu-en thật đáng khâm phục. Đức Tin Công Giáo chính thống dạy rằng: mọi con trẻ sinh ra đều là hồng ân của Thiên Chúa. Vì thế logích mà nói thì các bậc làm cha làm mẹ có trách nhiệm phải hiến dâng con cái mình cho Thiên Chúa, để chúng phụng thờ Thiên Chúa như bà mẹ Sa-mu-en đã làm trong Cựu Ước. Có điều khác là con người có thể ( và phải ) phụng sự Thiên Chúa không chỉ ở trong đền thờ, mà ở khắp mọi nơi, trong mọi bậc sống, mọi hoàn cảnh và mọi môi trường xã hội.
Bài đọc 2: 1 Ga 3, 1 – 2 . 21 – 24:
Thánh Gio-an viết về hồng ân lớn lao mà Thiên Chúa ban cho chúng ta: đó là ơn được làm con Thiên Chúa. Đã được ơn làm con Thiên Chúa thì sẽ được ơn nên giống Chúa Giê-su Ki-tô là người con mẫu mực của Thiên Chúa. Đã được ơn làm con Thiên Chúa thì sẽ được Thiên Chúa ban cho tất cả những ơn chúng ta cầu xin Người. Điều kiện để được như thế là chúng ta tuân giữ các giới răn của Người và làm những gì đẹp ý Người. Mà giới răn của Người là chúng ta phải tin vào danh Đức Giê-su Ki-tô và phải thương yêu nhau như Chúa đã dạy. Một khi chúng ta tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa thì chúng ta được ở lại trong Người và Người ở lại trong chúng ta. Và khi Thiên Chúa ở trong chúng ta thì Người sẽ ban Thần Khí của Người cho chúng ta.
Bài Tin Mừng: Lc 2, 41 – 52:
Đây là tường thuật của Lu-ca về một biến cố nổi bật trong cuộc đời ẩn dật của Đức Giê-su. Đó là lần hành hương lên Đền Thờ Giê-ru-sa-lem của gia đình Thánh Gia Na-da-rét khi Đức Giê-su được 12 tuổi. Cả ba vị cùng đi từ Na-da-rét lên Giê-ru-sa-lem. Khi các lễ nghi kết thúc Đức Ma-ri-a và Thánh Giu-se ra về mà không có con là Đức Giê-su đi cùng. Ông bà cho rằng con mình đi với những người họ hàng bà con khác, nên không đi tìm. Nhưng rồi không thấy con xuất hiện, ông bà mới hốt hoảng và quay trở lại Giê-ru-sa-lem.
Thánh Lu-ca ghi chép: Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các bậc thầy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cậu nói cũng kinh ngạc về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu. Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt và Mẹ Người nói với Người: “Con ơi, sao con lại làm cho cha mẹ như thế ? Con thấy không cha con và mẹ đây đang phải cực lòng tìm con !” Trước những lời trách móc nhẹ nhàng và đầy thương yêu ấy, độc giả không khỏi ngỡ ngàng về lời đáp lại của Đức Giê-su: “Sao cha mẹ lại tìm con ? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao ?” Lu-ca ghi nhận thêm: “Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói”
Sau biến cố ấy, Đức Giê-su trở lại cảnh sống bình thường ở Na-da-rét: vâng phục cha mẹ và phát triển hài hòa mọi chiều kích tâm linh, khôn ngoan, thể lý và tương quan xã hội: “Sau đó Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giê-su ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa trước mặt Thiên Chúa và người ta.”
III. ĐÓN NHẬN VÀ SỐNG SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA
Con cái là hồng ân của Thiên Chúa và thuộc về Người:
Đó là sứ điệp đầu tiên mà chúng ta rút ra được từ các bài Kinh Thánh hôm nay. Bà mẹ Samuen đã thấu hiểu điều ấy và đã thể hiện sự hiểu biết ấy bằng hành động cụ thể. Không phải chỉ là sự hiểu biết tri thức mà là sự cảm nghiệm thâm sâu trong tâm hồn. Câu nói “khó nghe” của Đức Giê-su với Mẹ Người cũng hàm ý rằng cha mẹ không có quyền sở hữu hay quản lý con cái như một món đồ, muốn làm gì với chúng thì làm. Không, Thiên Chúa không cho cha mẹ cái quyền ấy. Cha mẹ là người cộng tác với Thiên Chúa trong việc sinh con và giáo dục con nên người và nên người kính sợ Chúa. Cha mẹ có trách nhiệm hướng dẫn con cái mình biết phụng thờ Chúa bằng cả cuộc sống.
Phương pháp giáo dục của gia đình Na-da-rét:
Đó là bài học thứ hai mà chúng ta có thể rút ra được từ các bài Thánh Kinh, nhất là từ câu 52 của chương 2 Phúc Âm Thánh Lu-ca: “Còn Đức Giê-su ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa trước mặt Thiên Chúa và người ta.” Các nhà giáo dục Ki-tô giáo coi Đức Giê-su là kiểu mẫu phát triển hài hoà và toàn diện, đáng cho mọi bậc làm cha làm mẹ và mọi người trẻ noi theo. Đức Giê-su đã được cha mẹ chăm lo, giáo dục để phát triển cả về mặt thể lý ( thân xác ), cả về mặt khôn ngoan lẫn mối tương quan với Thiên Chúa ( đời sống tâm linh ) và xã hội ( với những người xung quanh ).
Tuy Phúc Âm không nói nhiều đến cách giáo dục của gia đình Na-da-rét, nhưng chúng ta cũng biết được đôi điều một cách chắc chắn, nhờ dựa vào nguyên tắc “xem quả thì biết cây”. Chúng ta biết chắc chắn là Đức Giê-su đã được sinh ra và lớn lên trong khung cảnh một gia đình đầm ấm, yêu thương, mọi người biết hy sinh cho Thiên Chúa và cho nhau. Thật vậy, Đức Ma-ri-a và Thánh Giu-se là những con người đã sẵn sàng hy sinh cả dự định và ước mơ riêng, thậm chí cả cuộc đời mình, để cho Thiên Chúa thực hiện kế hoạch và chương trình của Người. Đức Ma-ri-a đã có lời Xin Vâng bất hủ: “Vâng tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lòi sứ thần nói” ( Lc 1,38 ). Phúc Âm cũng ghi lại một thái độ tương tự của Thánh Giu-se: “Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần dạy và đón vợ về nhà” ( Mt 1,24 ).
Tinh thần vâng phục Thiên Chúa một cách tuyệt đối của cha mẹ, Đức Giê-su đã thuộc nằm lòng và đã thể hiện cách tuyệt vời trong cuộc đời của Người, nhất là trong những giờ phút đau khổ tột cùng: “Cha ơi, nếu được xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha... Lạy Cha nếu chén này không thể rời khỏi con, nhất định con phải uống, thì xin cho ý Cha được thể hiện” ( Mt 26, 39.42 ).
Chúng ta cũng biết được lòng yêu thương rộng mở của Đức Giê-su đối với mọi người như thế nào, nhất là đối với những người nghèo hèn, tội lỗi, bị khinh chê, bị loại trừ trong xã hội lúc bấy giờ. Trong Phúc Âm dường như Đức Giê-su không nặng lời với một ai, ngoại trừ với những người Pha-ri-sêu, vì thái độ kiêu căng và giả hình của họ. Nhưng ngày nay các nhà chú giải cho rằng 8 lời “Khốn cho các ngươi...” trong Mt 23, 13 – 29 phản ảnh thái độ gay gắt của các cộng đoàn Ki-tô hữu đầu tiên hơn là của chính Đức Giê-su, vì Phúc Âm được viết vào giai đoạn người Do-thái đang ra sức bách hại các cộng đoàn Ki-tô hữu ấy. Có nghĩa là Đức Giê-su hết lòng thương yêu mọi người, kể cả những kẻ thù, những người đã kết án và giết hại Người. Cái chết trên thập giá với những cực hình trước đó là một bằng chứng hùng hồn về Tình Yêu Thương vô bờ vô bến ấy của đức Giê-su đối với con người.
Sở dĩ Đức Giê-su đã sống như thế và thực hiện được những việc ấy, là nhờ công ơn –ít là một phần- của Đức Ma-ri-a và Thánh Giu-se.
Xem lại cách giáo dục con cái của chúng ta:
Không kể một số ít cha mẹ vì quá nghèo đói, túng thiếu, hoặc vì trình độ văn hóa thấp, nên không quan tâm mấy đến việc giáo dục con cái, chứ nói chung ngày nay đại đa số các bậc làm cha làm mẹ đều rất quan tâm đến việc giáo dục con cái. Tuy nhiên cách quan tâm của nhiều người lại không được quân bình và toàn diện. Chẳng hạn nhiều cha mẹ quan tâm thái quá đến sức khỏe thể lý và về việc học hành hay tri thức mà coi thường mối tương quan của con cái với Thiên Chúa ( đời sống tâm linh ) và với tha nhân cũng như coi thường việc giáo dục sự khôn ngoan của những người làm con cái Thiên Chúa. Vì thế trong tuần này, chúng ta hãy nhìn lại cách giáo dục con cái và cách sống của chính chúng ta: xem chúng ta có giáo dục con cái theo gương của Thánh Gia Thất Na-da-rét không ? xem chúng ta có sống gương mẫu cho con cái chúng ta không ?
IV. CẦU NGUYỆN Lạy Thiên Chúa là Cha toàn trí, toàn năng và toàn ái, chúng con hết lòng cảm tạ Cha đã ban cho Đức Giê-su Con Một Cha một gia đình hoàn hảo, thánh thiện để Người được chuẩn bị đầy đủ cho sứ vụ Cứu nhân độ thế. Chúng con cũng xin cảm tạ Cha vì Cha đã ban gia đình Na-da-rét cho chúng con, để chúng con noi theo khi thi hành nhiệm vụ làm cha làm mẹ của chúng con. ( Có thể đọc Kinh Gia Đình của Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô 2 )
Hôm nay lễ gia đình Công Giáo, chúng ta cùng nhau quy hướng về gia đình và cầu cho gia: ThánhGia ABC 100
Hôm nay lễ gia đình Công Giáo, chúng ta cùng nhau quy hướng về gia đình và cầu cho gia đình được êm ấm, hạnh phúc trong tình yêu của Chúa Trời.
Chúng ta cùng nhau nói chuyện về gia đình nơi phát xuất ra một tình yêu đầm ấm giữa cha mẹ và con cái.
Tôi xin kể câu chuyện tiêu biểu lột được tinh thần thánh thiện như gia đình Nazareth xưa. Đó là gia đình ông bà Louis Martin thân phụ mẫu của thánh nữ Têrêsa: Ông Louis Martin ngày ấy tiến đến cổng tu viện xin hiến thân cho đời tu. Cha Bề Trên mỉm cười bảo:
- Chúa không chọn con làm Linh Mục đâu. Con hãy về lập gia đình, NgàI muốn con sống trong bậc gia đình cơ.
Chưa tin, chàng đi tìm hiểu nơi khác nữa, những Bề Trên nào cũng khuyên giống như nhau. Biết đúng ý Chúa, chàng trở về sống đời gia đình.
Cô Maria Martin, một thiếu nữ thùy mỵ cũng gõ cửa tu viện Vincent De Paul, Bề Trên bảo nàng:
- Con đẹp, thùy mỵ, đoan trang đẹp nết, Chúa cũng thích, nhưng Ngài không chọn con đâu. Ngài muốn con theo một sứ mệnh khác.
Hôm đó, trên chuyến xe lửa cề làng, hai người gặp nhau, họ chuyện trò và đưa đến hôn nhân. Cuộc hôn nhân đẹp và đời sống thật ấm áp. Họ sinh được 2 con trai và 7 con gái. 2 trai và 2 gái qua đời còn lại 5 con gái thì đi tu, Thêrêsa làm thánh lúc mới 24 tuổi đời. Hai ông bà cũng làm thánh.
Bậc tu trì hay bậc gia đình cái nào cũng có thánh giá, nhưng "Ơn Ta đủ cho con vác". Và đòi phải trung thành với sứ mệnh. Chu toàn nghĩa vụ làm chồng, làm vợ, làm cha mẹ, làm gia đình Công Giáo, nghĩa vụ nặng nề đến rướm máu, nhưng yêu nhau mà không thánh giá thì tình yêu vô giá trị.
Gia đình ông Dương diên Nghệ sống chung 4 đời, ngày kia vua hỏi:
- Có bí quyết nào mà gia tộc sống chung vui vầy được thế? Ông đưa tay lên viết chữ "Nhẫn nhục".
Gia đình Nazareth cũng gặp nhiều thánh giá ghê hồn đến rướm máu, khi Giuse thấy bạn mình mang thai đã toan ly dị, ít là bỏ nàng rồi trốn đi nơi khác. Maria đau khổ cũng không tỏ cho thánh Giuse biết được, đành câm nín chờ Chúa tỏ hiện.
Lên đền thánh dâng lễ thì con bỏ đi mất, ông bà đau buồn không ít (Người thường có thể chửi nhau), nhưng đau đớn câm nín chờ khi tìm được con mới tỏ cho con biết "Cha mẹ đau đớn đi tìm con".
Như vậy, hôn nhân không phải là cập bến an toàn mà là lướt sóng ra khơi. Thiên đàng trần gian hay hỏa ngục trần gian đều do mình làm nên, nếu không chịu trung thành và không biết chấp nhận để thắng lướt. Bài học gia đình không bao giờ chấm dứt, còn học và học mãi.
Chúng ta hãy học ở nơi gia đình Nazareth gương sống: An Hòa trong im lặng. Bác Ái trong việc phụng sự nhau cả Yêu Thương nhau trong đời sống đạo hoàn hảo. (12.2003).