Đức Giê-su hiện ra tại Ga-li-lê, và sai môn đệ đi đến với muôn dân.
Khi ấy, 16 Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến. 17 Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. 18 Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: ”Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. 19 Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, 20 dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”
Khi ấy, 15 Chúa Giêsu nói với các môn đệ: ”Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. 16 Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án. 17 Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. 18 Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.”
19 Nói xong, Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. 20 Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.
-----------------------------------
Từ khi mệnh lệnh đã ban ra như một tiếng kèn vang trên đỉnh núi ở Galilê: “Anh em hãy ra đi và làm cho muôn dân thành môn đệ…” mười hai môn đệ đầu tiên đã ra đi, nhưng chưa, lệnh xuất phát phải được ban ra ngày Thánh Thần Chúa đến mở cửa nhà Tiệc Ly, họ mới thực sự ra đi. Và từ hơn hai mươi thế kỷ, nhiều người đang thi hành mệnh lệnh đó.
Loan báo Tin Mừng là một mệnh lệnh không phải của một con người mà là lệnh của Thiên Chúa: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất”. Ngài là Thiên Chúa thật, lệnh truyền của Ngài phải được tuân hành triệt để.
Các Tông đồ, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, đã ra đi loan truyền Tin Vui. Đọc lại sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta thấy các ngài đã tuân hành như thế nào. Giêrusalem đã vang dội lời sự sống qua thánh Phêrô và các Tông đồ, và hàng ngàn người đã nhìn nhận Chúa Kitô là Chúa, đến nỗi những nhà lãnh đạo Do Thái đã hốt hoảng vì nguy cơ do mấy tên đồ đệ của ông Giêsu mang đến. Họ đã loan truyền danh ông Giêsu chịu đóng đinh!
Những cuộc bách hại bắt đầu và tiếp tục. Các Kitô hữu phải tản mát đi khắp nơi và đây là dịp để Tin Mừng loan truyền và các giáo đoàn mọc lên khắp nơi. Và ai đã loan báo Tin Mừng? Phải chăng là các tín hữu?
Thánh Phaolô, khi chưa biết Chúa, đã hăng say bách hại các Kitô hữu để bảo vệ đạo của cha ông, nhưng khi đã gặp Chúa trên đường Đamát, đã trở thành nhà truyền giáo nhiệt thành và đã hy sinh triệt để cho Chúa.
Giáo hội từ hơn hai ngàn năm nay vẫn không ngừng rao truyền lời Chúa qua những con cái mình. Nhưng đến hôm nay, số người tin Chúa vẫn là thiểu số. Hôm nay đến phiên chúng ta, chúng ta đã làm gì và đã làm được gì để Tin Mừng của Chúa được sáng tỏ trong thế giới, trong xã hội chúng ta đang sống? Mệnh lệnh của Chúa, chúng ta thi hành như thế nào?
Việc truyền giáo không là công việc của một nhóm người mà là của tất cả những ai đã lãnh nhận phép rửa tội, đã tin và đã là con Chúa. Không phải chỉ là công việc của Giám Mục, linh mục hay một vài nhóm nào đó mà của mọi Kitô hữu.
Nhiều người khi nghe nói đến truyền giáo vẫn thấy như không phải là công việc của mình mà là của ai đó, vì họ khiêm tốn nhìn nhận rằng họ chẳng biết gì về việc truyền giáo và không biết làm gì.
Đó là tâm trạng của rất nhiều người có thể là số đông. Họ chỉ biết giữ đạo cho mình, để rỗi linh hồn. Đó là một sai lầm tai hại. Cũng vì thế mà Tin Mừng của Chúa không được rộng rãi rao truyền. Có lẽ chúng ta thấy nhà thờ vẫn đông và số người tin Chúa vẫn tăng, nhưng trong thực tế, dân số càng ngày càng thêm và người tin Chúa vẫn là con số khiêm tốn.
Giáo hội luôn khuyến khích con cái mình cố gắng rao truyền Tin Mừng, nhất là từ những thập niên gần đây, những lời mời gọi khẩn thiết của các Đức Giáo Hoàng, của Công Đồng Vatican II luôn thúc đẩy việc truyền giáo.
Không ai được phép nói rằng tôi không thể truyền giáo. Chúa Giêsu đã nói: “Anh em là ánh sáng thế gian”. Chúng ta phải là ánh sáng thế gian như Chúa đã nói. Đó là truyền giáo. Chúa Giêsu cũng nói: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em trên trời”.
Chúng ta là ánh sáng thế gian chưa? Chúng ta có làm việc lành như thế nào để người khác nhìn thấy và tôn vinh Cha chúng ta? Vậy truyền giáo đâu phải là làm cái gì lạ lùng hay khó khăn gì đâu mà chỉ là trở nên ánh sáng thôi. Nhưng làm sao trở nên ánh sáng? Đó là vấn đề. Nhiều người Công giáo thay vì trở thành ánh sáng lại trở nên bóng tối, làm cho mọi người chung quanh phải khó chịu và ngộp thở vì đời sống xấu xa của họ. Làm sao truyền giáo?
Phải trở thành ánh sáng trước hết bằng con tim. Chúa Giêsu đến trần gian loan báo Tin Mừng, Ngài đã đến với con tim. Ngài là Tình Yêu. Tin Mừng trước hết chính là Ngài. Tin Mừng là gì nếu không là biết được Chúa thương chúng ta? Chúa Giêsu nhập thể để nói cho mọi người biết Thiên Chúa là Tình Yêu và để thể hiện tình yêu của Ngài, Ngài đã sai Con Một của Ngài đến báo cho mọi người biết tin mừng lạ lùng đó: “Thiên Chúa đã yêu trần gian đến nỗi ban Con Một”.
Người Con Một đó đã chứng tỏ tình yêu của Chúa Cha bằng cả cuộc sống và cái chết trên thập giá và đã trở nên ánh sáng cho trần gian. Tin Mừng chính là Tình Yêu. Những sứ giả của Tin Mừng phải là những con người có con tim quảng đại đầy yêu thương như Thầy chí thánh của mình. Vì thế trước hết loan báo Tin Mừng phải loan báo bằng con tim.
Chúng ta được yêu thương vì đã được biết Chúa. Chúng ta muốn chia sẻ hạnh phúc đó cho mọi người chưa được diễm phúc đó. Nhưng chúng ta có cảm thấy được hạnh phúc đó không? Phải cảm nghiệm hạnh phúc đó mới có thể chia sẻ được.
Chúng ta phải yêu thương mọi người, chúng ta mới có thể chuyển thông cho họ những gì chúng ta có. Yêu thương là cho đi. Chúng ta có thực tình yêu thương không? Không lạ gì người Công giáo không loan báo Tin Mừng vì họ có yêu ai đâu! Hay họ chỉ yêu thương những kẻ thương mình thì không lợi ích gì. Truyền giáo chính là yêu thương người khác đến nỗi chúng ta làm bất cứ điều gì cho họ để họ được hạnh phúc biết Chúa và yêu mến Chúa. Hơn nữa, chúng ta loan báo một Thiên Chúa Tình Yêu, nếu chúng ta không biết yêu thương thì chúng ta loan báo điều gì? Chúng ta không loan truyền một lý thuyết mà là một Thiên Chúa Tình Yêu.
Tình yêu Thiên Chúa được nhận thấy qua những con người cụ thể chứ không qua những hình ảnh quảng cáo. Người loan báo Tin Mừng phải là chứng nhân chứ không chỉ là những chiếc loa phóng thanh hay những máy thu băng. Chúng ta sống Tin Mừng mới có thể loan báo Tin Mừng. Như thế việc loan báo Tin Mừng phải là một chứng tá sống động, chứ không là một bài diễn văn, dù hay đến đâu cũng không thuyết phục. Vì thế người loan báo Tin Mừng phải thấm nhuần Chúa Giêsu, sống thân thiết với Ngài và cùng làm việc với Ngài. Muốn thế phải lắng nghe lời Chúa và nhất là phải ăn lấy Chúa, sống với Chúa mới loan báo Chúa được. Cha Albert Peyriguère đã nói: “Nhiều người chỉ nói Chúa mà không sống Chúa. Chúa Giêsu khao khát biết bao những người sống Chúa chứ không chỉ nói Chúa”.
Chúng ta thấy rằng, các Tông Đồ, khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần mới có thể mở cửa bước ra và mạnh dạn làm chứng. Điều này cho chúng ta thấy rằng việc loan báo Tin Mừng là việc của Chúa Thánh Thần. Chính Thánh Thần Chúa ở trong chúng ta, soi dẫn và thúc đẩy chúng ta. Không có Chúa Thánh Thần, chúng ta chỉ là những tiếng kèn tiếng trống ồn ào chứ không ích lợi gì cho ai. Tại sao chúng ta không hăng say rao giảng Tin Mừng? Phải chăng vì chúng ta không có Thánh Thần? Chúng ta chỉ giữ đạo cho mình hơn là cho Chúa. Phải sống trong Thánh Thần mới có thể biết phải làm gì và làm thế nào. Vì thế, cầu nguyện là điều thiết yếu, liên kết với Chúa Thánh Thần mới có thể mở rộng cửa và bước ra làm chứng như các Tông Đồ.
Việc loan báo Tin Mừng không chỉ là một hoạt động của một vài cá nhân hay một vài nhóm người lẻ tẻ mà phải là công việc của toàn thể con cái Chúa. Công Đồng Vatican II cũng đã dạy trong Sắc lệnh Đến với muôn dân: “Mỗi Kitô hữu phải là một người truyền giáo”. “Mỗi chi thể của Giáo hội hoạt động tùy theo chức năng của mình, làm cho toàn thân triển nở…” Nơi khác Sắc lệnh cũng nói: “Các Kitô hữu, dù sống ở đâu, đều phải dùng chứng tá và gương mẫu đời sống để thể hiện con người mới mà họ đã tiếp nhận qua Bí tích Thánh Tẩy, đồng thời biểu dương sức mạnh của Chúa Thánh Thần đã củng cố họ qua Bí tích Thêm Sức…” Chúng ta là thân thể Chúa Kitô, là một tập thể. Tập thể này phải truyền giáo.
Đa số giáo dân chưa ý thức được vai trò của mình và thụ động, không làm gì cả, chỉ biết đọc kinh, dự lễ… Các linh mục cần biến giáo xứ của mình thành một giáo xứ truyền giáo, chứ không chỉ có một nhóm người trong các hội đoàn. Cần trang bị cho giáo dân một tinh thần truyền giáo thực sự và những hiểu biết cần thiết để loan báo Tin Mừng như Chúa đòi hỏi. Biến giáo xứ thành một giáo xứ chứng nhân của Tin Mừng. Đây là một công trình dài hạn và đòi hỏi nhiều cố gắng và nhiều nơi, các linh mục đã thành công. Giáo dân hăng say làm việc và mang lại nhiều kết quả đáng khích lệ. Những người già yếu trong giáo xứ được săn sóc, những người nghèo được giúp đỡ tận tình và giáo xứ trở thành một gia đình thân thiết, vui tươi. Đồng bào không Công giáo thân thiện với giáo dân. Thật là một cảnh êm đềm. Chúng ta trở lại với thời sơ khai của Giáo hội khi các Kitô hữu đầu tiên sống yêu thương nhau và nhờ đó họ trở thành những chứng nhân đích thực của Thiên Chúa Tình Yêu. Chúng ta hãy sống theo gương lành đó và làm cho Nước Cha trị đến…
Tin mừng Mt 28: 16-20: Trong việc loan báo tin mừng, Thiên Chúa cần chất lượng hơn là số lượng. Nhiều tấn muối lạc thì chỉ đáng vứt bỏ ra đường cho người ta chà đạp, còn một hạt muối mặn thì được trân quý vô cùng...
Kính thưa quý ông bà và anh chị em,
Ngày nay, người ta thường nói: “Thật thà thẳng thắng thường thua thiệt, lọc lừa luồng lách lại lên lương”. Quả thật không lạ gì khi thực tế có những công nhân đứng lên tố cáo sai phạm của các công ty, xí nghiệp. Họ được thắng kiện nhưng rồi họ bị cho... nghỉ việc. Còn những người lương lẹo luồn lách cứ mãi lên lương, lên chức. Cứ như thế, sống thật thà trong xã hội ngày nay như là một cái gì đó xa xỉ, nguy hiểm và thiệt hại. Tiếng nói của lương tâm ngày càng nhẹ ký, lương tâm đấu tranh riết, nói riết cũng không bằng lương tháng.
Sống trong bầu khí như thế, nhân ngày khánh nhật truyền giáo hôm nay, Chúa Giêsu gởi đến mỗi người Kitô hữu chúng ta một sứ mạng hết sức quan trọng và cần thiết: Sứ mạng truyền giáo, làm chứng cho nước trời bằng chính đời sống chứng tá: anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ. Hay nói cách khác, Chúa mời gọi mỗi người Kitô hữu hãy trở thành muối ướp mặn đời, là ánh sáng chiếu soi trần gian.
Đây là một sứ vụ khó nhưng nó lại là một điều bắt buộc đối với những ai mang danh là Kitô hữu, vì nếu không sống sứ vụ này thì sẽ bị vức bỏ và bị chà đạp, như Lời Chúa đã khẳng định: khi muối lạc đi thì nó đã thành vô dụng, chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp mà thôi. Hơn nữa, thánh Phaolô đã xác quyết: khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng nước trời.
Là người Kitô hữu thì phải mặn chất chân thật, phải tỏa sáng ánh sáng tin mừng cứu độ. Cho nên, người Kitô hữu không thể sống theo kiểu gian dối của thế gian được, người Kitô hữu không thể thấy người ta sống sao thì tôi sống vậy, hay thấy người ta làm bậy tôi cũng làm theo! Không, là Kitô hữu mang trong mình sứ vụ loan báo tin mừng, chúng ta là muối ướp mặn đời, chứ không phải là muối bị thế gian làm biết chất muối chân thật của mình, làm lu mờ ánh sáng tin mừng nơi mình.
Người ta thường có lập luận: “một con én không làm nên mùa xuân”, một mình sống ngay chính thật thà, một mình sống chất tin mừng cũng chẳng thể thây đổi được gì trong xã hội.
“Một con én không làm nên mùa xuân”, điều này đúng, nhưng nếu không có con én đầu tiên thì sẽ chẳng bao giờ có con én thứ hai, thứ ba, và nhiều con én khác nữa để làm nên mùa xuân. Nếu không có ai dám xung phong là người đầu tiên sống chất tin mừng thì sẽ chẳng bao giờ có người thứ hai.
Nếu nốt nhạc bảo rằng: Một nốt nhạc đâu làm nên ca khúc, thì hẳn sẽ không có bản trường ca.
Nếu viên gạch bảo rằng, một viên gạch đâu xây được bức tường, thì hẳn sẽ không bao giờ có một ngôi nhà.
Nếu hạt lúa bảo rằng một hạt lúa đâu phủ hết ruộng đồng, thì hẳn sẽ không có được mùa gặt.
Và nếu con người cứ bảo rằng một cử chỉ yêu thương thật thà đâu cứu được nhân trần, thì hẳn sẽ không bao giờ có công lý và hòa bình, nhân phẩm và hạnh phúc trên thế gian này.
Kính thưa quý ông bà và anh chị em thân mến,
Trong việc loan báo tin mừng, Thiên Chúa cần chất lượng hơn là số lượng. Nhiều tấn muối lạc thì chỉ đáng vứt bỏ ra đường cho người ta chà đạp, còn một hạt muối mặn thì được trân quý vô cùng.
Sống trong một xã hội có quá nhiều gương xấu như hôi của, hối lộ, tham nhũng, bằng giả, bằng gian, lừa gạt, cướp bóc… Thì con người ngày nay đang thiếu và đang rất cần những chứng nhân sống chất tin mừng của Chúa.
Ngày xưa, trước khi tiêu diệt thành phố Sôđôma sa đọa và tội lỗi, Chúa đã có cuộc thương lượng với Abraham. Chúa phán nếu Abraham tìm được 100 người sống thánh thiện trong thành Sôđôma thì Chúa sẽ tha thứ cho cả thành, tìm hoài không thấy, Abraham quay lại và trả giá với Chúa xuống còn 50, 30, 20, và cuối cùng xuống còn 5 người, và Chúa vẫn hứa vì 5 người đó, Chúa cũng sẽ tha thứ cho cả thành, nhưng Abraham tìm không thấy 5 người thánh thiện trong thành, nên Thành Sôđôma đã bị lửa tiêu diệt muôn đời. Thánh bị tiêu diệt vì thiếu 5 người công chính trong muôn ngàn người tội lỗi.
Và thực trạng thiếu vắng người công chính của thành phô Sôđôma ngày xưa cũng đang diễn ra nơi các thành phố, làng mạc, nơi mỗi giáo xứ, nơi mỗi cộng đoàn và trong từng gia đình ngày nay.
Nơi gia đình thiếu những thành viên dám sống chứng nhân để cứu cả gia đình. Vì thiếu vắng một người cha gương mẫu, một người mẹ hiền từ, hay một người con hiếu thảo nên gia đình bị tan vỡ.
Nơi trường học thiếu vắng những học sinh chăm chỉ, sống trung thực thật thà, nên trường học thiếu vắng đi chất men tin mừng.
Nơi công ty, công sở, nơi phố chợ đang thiếu những người sống ngay chính thật thà, nên đau khổ, khổ đau do sự lừa gạt cướp bóc cứ mãi dâng tràn.
Như ngôi nhà cần đến từng viên gạch, Như bản trường ca cần đến từng nốt nhạc, và như mùa gặt cần đến từng hạt lúa. Thì Thiên Chúa và nhân loại ngày nay cũng đang cần đến từng người chúng ta là những Kitô hữu sống mặn chất muối, và tỏa sáng tin mừng để cứu giúp những người thân trong gia đình mình, và những người xung quanh.
Đó là sứ mạng truyền giáo và loan báo tin mừng mà Chúa gởi đến cho mỗi người Kitô hữu chúng ta hôm nay và Chúa luôn đặt hi vọng và tin tưởng vào từng người chúng ta. Amen.
Cha Alexander De Rohdes, vị thừa sai truyền giáo ở nước Việt Nam từ 1624 đến 1645, sinh trưởng bên quê hương nước Pháp thành Avignon, và là một trong những vị tiên khởi đã sáng tạo tìm ra Chữ Quốc Ngữ cho văn hóa đất nước dân tộc Việt Nam từ thế kỷ 17, viết thuật lại ơn gọi truyền giáo của mình:
“Cùng lúc khi Chúa ban ơn gọi tôi gia nhập Dòng, thì cũng cho tôi quyết định rời bỏ Âu châu để đi Ấn Độ. Đó là lý do chính khiến tôi chọn Dòng này hơn các Dòng khác. Tôi chỉ thích đi tới những miền đất xa xôi tốt đẹp, nơi bao nhiêu linh hồn sa đọa vì thiếu người giảng, và Chúa đã thành công dẫn đưa tôi vào ý định Người đã gợi nơi tôi.“ (Alexander De Rohes, Divers voyages et missions 1653 - Hành trình và truyền gíao, bản dịch Việt ngữ của Hồng Nhuệ, 1994.).
Và trong dòng lịch sử Giáo Hội Công Giáo từ hơn hai ngàn năm luôn hằng có những tâm hồn nghe cảm nhận được tiếng Chúa kêu gọi hy sinh dấn thân rời bỏ quê hương nơi sinh ra đi đến miền vùng đất nước hẻo lánh xa lạ về mọi phương diện, để sống đời truyền giáo giữa con người xa lạ khác biệt về mọi khía cạnh nơi đó.
Họ sống như thế nào ở những nơi đó?
1. Nữ tu Ruth Katharina Pfau, sinh ngày 9.9.1926 ở thành phố Leipzig nước Đức, sau khi tốt nghiệp là nữ bác sĩ đã xin rửa tội trở thành tín hữu đạo Tin Lành, và sau đó năm 1953 xin vào đạo Công Giáo.
Năm 1957 Bác sĩ Pfau xin nhập Dòng Những người con của trái tim Đức Mẹ Maria. Năm 1960 nhà Dòng gửi chị nữ tu Pfau sang Ấn Độ làm việc là Bác sĩ cho các người phụ nữ. Nhưng vì giấy nhập cảnh bị trục trặc, nên vị nữ tu bác sĩ này ở lại thành phố Karachi bên nước Pakistan. Nơi đây nữ tu bác sĩ Ruth Pfau đã sống cống hiến đời mình chữa trị những bị bệnh phong cùi, bệnh lao phổi, cho tới khi qua đời ngày 10.08.2017.
Suốt cuộc đời vị nữ tu bác sĩ sống giữa những người bị bệnh lao phổi, bệnh phong cùi và chữa trị cho họ.
Khả năng chuyên là một thầy thuốc chữa bệnh, và là một nữ tu có tâm hồn đạo đức tràn đầy lòng thương yêu Thiên Chúa và con người, nên nữ tu Pfau đã không chỉ là một vị bác sĩ chữa bệnh phần thân xác cho những người mắc bệnh, nhưng còn mang đến cho họ tình yêu thương an ủi, niềm hy vọng, mà Chị đã lãnh nhận cùng cảm nghiệm ra từ nơi Thiên Chúa, đấng sinh thành ra đời mình.
Vì thế, Nữ tu bác sĩ Ruth Pfrau được ca ngợi vinh danh là “Mẹ của người phong hủi.“.
Sự hy sinh dấn thân nỗ lực làm việc của nữ tu Ruth Pfau giữa cùng cho người bệnh tật xấu số là muối men là ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14). Đó là công việc truyền giáo giữa lòng đời sống xã hội .
2. Mẹ Thánh Têrêxa thành Calcutta nước Ấn Độ sống cống hiến đời mình cho những người có cuộc sống bất hạnh xấu số thiếu thốn lương thực, bệnh tật đau yếu bị khinh miệt kỳ thị, những trẻ em sống lang thang bị bỏ rơi rơi ngoài đường
Mẹ Thánh Teresa sinh trưởng bên nước Albania, trở thành nữ tu Dòng Đức Mẹ bên Anh quốc, nhưng đã tình nguyên dấn thân sang thành phố Calcutta bên Ân Độ làm việc. Nơi đây vị nữ tu Teresa đã thành lập Dòng Những chị em truyền giáo cho tình yêu thương con người.
Suốt dọc đời sống cho tới khi qua đời ngày 05.09.1997, Nữ tu Teresa và Chị em Dòng đã sống trọn đời mình phục vụ cho những người bất hạnh xấu số ở nơi đó.
Mẹ Thánh Teresa và Chị em nữ tu Dòng của mẹ đã làm công việc truyền giáo: Cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho khách, con người có nhà ở nương thân, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ tù đày, chôn xác kẻ chết.
Việc truyền giáo của mẹ Thánh Teresa cùng Dòng của mẹ, và Nữ tu bác sĩ Ruth Pfau tập trung ở nơi cuộc sống ngay giữa con người nghèo khổ cần được giúp đỡ về vật chất cho thể xác và tinh thần.
Công việc truyền giáo của họ mang đến niềm an ủi, niềm hy vọng cho con người., đặt nền tảng trên Tám mối phúc thật, mà Chúa Giêsu đã rao giảng ( Mt 5, 1- 11)
Thánh Teresa thành Calcutta lúc sinh thời vì những công việc truyền giáo bác ái đã được vinh danh ca ngợi là Mẹ Teresa.
3. Cách đây 400 năm các Vị Thừa Sai từ bên Âu châu sang nước Việt Nam công việc truyền giáo là loan truyền tin mừng phúc âm của Chúa cho con người. Các ngài đã hòa mình chấp nhận cuộc sống xa lạ khác biệt về mọi phương diện, cuộc sống thiếu thốn khổ ải, tù đày rồi bị kết án hành quyết cho tới chết.
Các ngài không chỉ làm công việc rao giảng tin mừng phúc âm đức tin vào Chúa, nhưng còn nỗ lực tìm cách giới thiệu phát triển nếp sống văn minh mới của Âu châu cho con người nữa, mà không loại bỏ hay làm lu mờ phong tục tập quán nếp sống văn hóa cổ truyền của dân tộc. Các ngài đã làm công việc truyền giáo hội nhập văn hóa dân tộc nơi đó.
Chữ Quốc Ngữ là một bằng chứng điển hình cho nền văn hóa hội nhập trong lòng dân tộc đất nước hôm qua hôm nay và ngày mai.
Các nhà thờ cổ kính nghệ thuật văn hóa Âu châu mà các ngài đã có công xây dựng là những di tích lịch sử văn hóa lâu dài cho đất nước xã hội.
Các bài kinh sách, ca vè, những tập tục nếp sống đạo đức… các ngài đã phát triển theo cung cách hội nhập văn hóa cho trở nên có nét đẹp trong sáng vẫn hằng sống động trong nếp sống con người.
“Nhiệm vụ của kitô hữu trong thế giới này là trở thành các thừa sai của niềm hy vọng, mở ra các không gian của ơn cứu rỗi, như các tế bào của sự tái sinh, có khả năng tái trao ban nhựa sống cho những gì xem ra đã mất đi vĩnh viễn…
Đức tin, niềm hy vọng của chúng ta không chỉ là một sự lạc quan; nó là một cái gì khác, hơn nhiều! Nói như thể các tín hữu là những người có một “mảnh trời” hơn nữa ở trên đầu. Điều này thật đẹp! Chúng ta là những người có một mảnh trời hơn nữa ở trên đầu, được đồng hành bởi một sự hiện diện mà ai đó không thể trực giác được.
Như thế nhiệm vụ của các kitô hữu trong thế giới này là mở ra các không gian của ơn cứu rỗi, như các tế bào của sự tái sinh có khả năng trả lại nhựa sống cho những gì xem ra đã mất luôn mãi. Khi toàn bầu trời âm u, thì thật là một phúc lành ai biết nói về mặt trời.“ (Đức Giáo Hoàng Phanxico, Giáo lý buổi triều yết ngày thứ tư, 04.10.2017).
Tất cả những ai đã lãnh nhận bí tích Thánh tẩy đều được tháp nhập vào thân mình Chúa Giê-su, trở thành chi thể Chúa Giê-su. Thánh Phao-lô nhắc nhở chúng ta ghi nhớ điều này: “Anh em không biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Chúa Giê-su sao?” (IC 6,15).
Một khi đã trở thành một chi thể trong thân mình Chúa Giê-su, chúng ta được Ngài sử dụng để làm những công việc của Ngài, cũng như ta sử dụng tay chân của mình để hoạt động.
Thế là từ đây, Chúa Giê-su tiếp tục đến với mọi người, đặc biệt là những người bất hạnh qua chúng ta là đôi chân của Ngài, tiếp tục săn sóc những người đau khổ, dìu dắt những người lầm lạc qua chúng ta là đôi tay của Ngài, tiếp tục yêu thương mọi người qua chúng ta là con tim của Ngài, tiếp tục rao giảng lời ban sự sống qua chúng ta là môi miệng của Ngài.
Những nỗi đau của Chúa Giê-su
- Khi chân không cất bước được.
Một người mẹ khao khát đi thăm viếng ủi an đứa con lâm bệnh hiểm nghèo đang nằm viện suốt cả tuần qua nhưng bà không cất bước nổi vì đôi chân bà bị tê bại. Đôi chân tê bại khiến bà không thể đến với con làm cho lòng bà thêm đau xót.
Chúa Giê-su rất mong muốn nhờ chúng ta là đôi chân của Ngài để đến với những anh chị em bất hạnh chung quanh, thế mà chúng ta không chịu cất bước, thì Ngài buồn khổ xiết bao!
- Khi tay không nhấc lên được.
Khi khát nước khô cổ, cháy họng, tôi giơ tay ra để bưng ly nước lên môi nhưng tay tôi bại xụi, không giơ ra được, không cầm nắm được. Khát lắm, nước sẵn đó, ngay trong tầm tay mà không với tới để uống được… thì thật là khốn đốn cho tôi!
Chúa Giê-su cũng đang khát, khát mong đoàn con lưu lạc tìm về bên Ngài, vui sống với Ngài. Ngài mong muốn chúng ta là đôi tay của Ngài hãy vươn ra để dẫn đưa các anh chị em lưu lạc này về nhà Cha, nhưng chúng ta cứ im lìm bất động, y như những cánh tay tê liệt, cứ để cho Ngài tiếp tục bị cơn khát dày vò… thì Ngài đau khổ xiết bao!
- Khi miệng bị câm
Sáng hôm nay thức dậy, ông A mở miệng gọi người giúp việc mà không hiểu vì sao chỉ ú ớ trong cổ họng mà không thể phát ra lời. Ông cố gắng thêm lần nữa, rồi lần nữa… nhưng cũng không thốt được lời nào. Bấy giờ, sự kinh hoàng đột nhập vào ông. Ông kinh hãi, buồn phiền vô cùng, đau khổ tột độ vì không ngờ mình trở nên câm đặc.
Hôm nay, Chúa Giê-su cũng truyền lệnh cho chúng ta là miệng lưỡi của Ngài hãy mở ra để loan Tin mừng cho bao người chung quanh, nhưng chúng ta vẫn cứ lặng im. Ngài thúc giục hoài, Ngài truyền dạy mãi… nhưng chúng ta là miệng lưỡi của Ngài vẫn câm nín, vẫn lặng im. Thế là, Ngài đau khổ, buồn phiền khôn xiết! Nhiều người không muốn loan Tin mừng vì nghĩ rằng, việc đó không phải là việc của mình.
Nghĩ như thế không đúng vì bất cứ ai đã được lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy thì đều là chi thể của Chúa Giê-su, là một thành phần trong thân mình Chúa, do đó phải tham gia vào sứ mạng loan báo Tin mừng, vì đây là công việc chính yếu của Chúa Giê-su là Đầu và của Hội Thánh là Thân mình của Chúa.
Vì thế, chúng ta phải tích cực tham gia vào sứ mạng này mà không được thoái thác với bất cứ lý do gì. Chỉ khi nào chúng ta bị cắt lìa ra khỏi Chúa Giê-su, không còn là chi thể của Chúa Giê-su nữa, bấy giờ ta mới có thể ngừng loan báo Tin mừng mà thôi.
Lạy Chúa Giêsu,
Không ai có thể trao ban điều mình không có. Nếu chúng con không có lời Chúa trong tâm hồn thì không thể ban phát cho ai được. Xin Chúa giúp chúng con siêng năng học hỏi và suy niệm lời Chúa hằng ngày, nhờ đó tâm hồn chúng con có dồi dào lời Chúa để có thể chia sẻ cho anh chị em chung quanh.
Khi nghe hay được nhắc tới hai chữ “Truyền Giáo” ACE có ấn tượng hay suy nghĩ gì? Tại sao chúng ta cần phải có Thánh lễ dành riêng cho ngày Truyền Giáo này? Truyền Giáo là nhiệm vụ của ai? Có phải là bổn phận, trách nhiệm của những người đi tu, của các Cha, các Soeur đúng như vậy không?
Chủ đề của sứ điệp mà Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh và mời gọi trong ngày truyền giáo năm nay 2020, được gợi hứng từ lời đáp trả rất khiêm tốn, ngoan ngoãn và hoàn toàn tín thác của Tiên tri Isaia trước lời mời gọi của Chúa và ông đã thưa: “Dạ, này con đây, xin hãy sai con đi”. Thưa ACE, lời đáp trả này liệu có phải là lời đáp trả của mỗi Kitô hữu chúng ta ngày hôm nay hay không?
Trong Tin mừng theo Thánh Matthêu, Chúa Giêsu đã sai các môn đệ ra đi với sứ vụ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em”. Không những thế Chúa còn hứa ban ơn thánh với sự hiện diện đồng hành của Chúa: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Thật vậy, rao giảng Tin mừng, hay ra đi làm việc truyền giáo vừa là một ơn ban cao quý, nhưng đồng thời cũng là sứ vụ-nhiệm vụ rất cao cả, là căn tính của mọi tín hữu.
Về ơn ban: được sai đi để loan báo Tin mừng chính là ơn ban, là hồng ân đặc biệt để tiếp nối sứ vụ của Chúa Giêsu cho nhân loại. Mặc dầu các môn đệ và mỗi người chúng ta được Chúa sai đi để rao giảng Tin mừng, nhưng tác nhân chính - nhân vật chính của việc loan báo Tin mừng là Chúa Thánh Thần, trong tác nhân này, “Chúa Giêsu chính là vị truyền giáo của Chúa Cha”. Như vậy, truyền giáo chính là công việc của Ba Ngôi Thiên Chúa. Nhưng vì yêu thương, Chúa đã mạc khải và trao ban ơn thánh sứ vụ này cho chúng ta để chúng ta cũng được thông phần trong sứ vụ tình yêu này của Chúa.
Về sứ vụ hay nhiệm vụ: một khi chúng ta là những người được thừa hưởng - hưởng thụ sứ vụ cao quý này. Chúng ta cũng có bổn phận và trách nhiệm với sự đáp trả trong tâm tình cảm tạ và tri ân. Thánh Phaolo trong thư gởi tín hữu Côrintô đã khẳng định: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng”. Đức Thánh Cha Phanxicô trong tông thư cũng nhắc nhở cho chúng ta biết: “Thiên Chúa vẫn đang tiếp tục tìm kiếm chúng ta, những con người quảng đại, sẵn sàng đáp lại lời mời gọi của Chúa”. Thật vậy, sứ vụ truyền giáo này rất cần thiết hơn bao giờ hết trong thời đại của chúng ta; trong lúc nhiều AEC của chúng ta đang phải đương đầu với không biết bao nhiêu thách đố của cuộc sống, từ đại dịch bệnh, từ thiên tai, từ những khó khăn của cuộc sống. Qua những khủng hoảng, nhiều người đã không tìm được lối thoát, đã mất định hướng và rơi vào tuyệt vọng trong đau khổ.
Thưa ACE, đứng trước những thách đố cấp bách như vậy, sứ vụ rao giảng Tin mừng có phải là của mỗi người chúng ta hay là không? Chắc chắn, đây là bổn phận và sứ vụ của chúng ta rồi. Nhưng cũng có thể, chúng ta đang phân vân, chần chừ, không biết phải sống và thực thi sứ vụ này như thế nào đây? Hai vị thánh được gọi là quan thầy của các xứ truyền giáo. Hai con người này hoàn toàn khác nhau về tính tình, đời sống ơn gọi và cung cách, thái độ sống; thế nhưng họ lại có chung một ý chí mãnh liệt: đó là luôn khao khát để được dấn thân, ra đi đáp trả ơn ban và lời mời gọi của Chúa để cho Tin mừng tình yêu cứu độ của Chúa đến với tha nhân. Đó là Thánh Têrêxa HĐ. Giêsu và Thánh Phanxicô Xaviê. Têrêxa chỉ ở trong đan viện, nhưng với lời cầu nguyện, hy sinh cách âm thầm, làm mọi việc vì lòng mến Chúa và hy sinh cho công cuộc truyền giáo. Trong khi đó, Phanxicô Xaviê thì bôn ba khắp Á Châu, loan báo Tin mừng bằng những chứng từ và gương sáng hào hùng. Hai vị Thánh này chính là mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta trong việc phân định ơn gọi, sứ vụ của mỗi người.
Ai trong chúng ta cũng được Chúa ban ơn và soi sáng cho biết những cách thế khác nhau để sống sứ vụ loan báo Tin mừng này. Điều quan trọng là chúng ta có nhận ra ơn ban và sứ vụ này hay không? Chúng ta có muốn cho ơn thánh Chúa được trao ban và chuyển tải đến cho ACE mình hay không? Đức Thánh Cha Phanxicô cũng mời gọi chúng ta suy niệm và cân nhắc điều này: “Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta trước với tình yêu này, hôm nay Thiên Chúa đến và mời gọi chúng ta..: Ta sẽ sai ai đi đây? và Ngài đang tha thiết mong chờ chúng ta quảng đại đáp trả lại như Isaia: Dạ con đây, xin sai con đi”.
Cùng với Đức Trinh Nữ Maria là “Ngôi sao loan báo Tin mừng, Đấng an ủi, môn đệ truyền giáo của Chúa Giêsu”, xin Mẹ cầu thay nguyện giúp và nâng đỡ chúng ta trong sứ vụ truyền giáo cao quý này. Xin cho chúng con cũng biết noi gương Mẹ, noi gương Thánh Têrêxa HĐ Giêsu và Thánh Phanxicô Xaviê để trong ơn gọi riêng của mỗi người, trong từng hoàn cảnh, luôn hăng say dấn thân loan báo Tin mừng của Chúa cho tha nhân. Amen.
(Bài giảng lễ của Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc – Giám mục Giáo phận Mỹ Tho, tại Trung Tâm Mục Vụ GP. Mỹ Tho, vào 16g00 ngày 11.10.2011, ngày Hội Truyền Giáo của Giáo phận) (Dcr 8,20-23 ; Rm 10,9-18 ; Mt 28, 16-20)
1. Hôm nay anh chị em, đáp lại lời kêu gọi của Giáo phận, tụ họp lại đây khá đông đảo, để cùng nhau tuyên xưng đức tin, cử hành mầu nhiệm trọng tâm của đời sống đức tin, nhận lãnh sức mạnh từ trên là Chúa Thánh Thần, và được sai đi loan báo Tin Mừng Tình Yêu của Chúa Giêsu. Lời Chúa trong các bài đọc Kinh Thánh hôm nay, soi sáng cho chúng ta rất nhiều và rất rõ về ý nghĩa của việc Truyền giáo, còn được gọi là Loan Báo Tin Mừng, hay Phúc Âm Hoá.
2. Trong lịch sử của Giáo hội Công giáo, đã có những giai đoạn nhiều người dấn thân mạnh mẽ trong công việc truyền giáo, không những tại quê hương mình, mà cả tại những nơi xa xôi hẻo lánh, đất khách quê người. Nhờ công lao của các nhà truyền giáo ngoại quốc, mồ hôi, nước mắt và máu của các ngài đã đổ ra trên cánh đồng truyền giáo Việt Nam, ngày hôm nay mới có chúng ta, có Giáo hội của Chúa Kitô tại Việt Nam, sinh động và sốt sắng.
3. Dù vậy, người ta cũng tranh cãi nhiều về ý nghĩa và giá trị của việc truyền giáo. Và chính những tranh luận này, trong thực tế cũng đã ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt truyền giáo của Giáo Hội. Có lúc mạnh mẽ hăng say, có khi tựa hồ như đang dừng lại. Để có thái độ đúng đắn và quân bằng về sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội và mọi người Kitô hữu, nên hoàn toàn dựa vào Lời Chúa trong Kinh Thánh và Huấn quyền của Giáo hội.
4. Truyền giáo là gì? Chúng ta làm những gì để được coi là truyền giáo thực sự? Đâu là những nội dung chính yếu của việc truyền giáo?
Truyền giáo trước hết là Rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu về Tình Yêu của Thiên Chúa, về ý muốn Cứu độ của Thiên Chúa, được bày tỏ nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết và sống lại cho chúng ta được tha tội, và thông phần Tình yêu của Thiên Chúa (x. Rm 10, 9-10). Hay nói cách ngắn gọn hơn là rao giảng “Danh Chúa Giêsu Kitô”, để mọi người có thể kêu cầu Danh Người và nhờ đó được cứu thoát (Rm 10, 13). Thư Rôma nhấn mạnh điều này, nói rất rõ ràng và dễ hiểu: người ta chỉ có thể kêu cầu Danh Chúa Giêsu và được cứu rỗi, khi đã tin vào Danh ấy, và chỉ có thể tin nếu đã được nghe giảng, nghe nói về Danh ấy, và chỉ có thể nghe khi có những người được sai đến rao giảng (x.Rm 10, 13-15). Chính vì thế, rao giảng hay loan báo Tin Mừng là bước đầu tiên và quan trọng nhất; vì lý do này mà người ta gọi việc truyền giáo là “loan báo Tin mừng”.
5. Nội dung thứ hai của công việc truyền giáo là “thiết lập cộng đoàn các môn đệ”, cộng đoàn những người tin vào Chúa Kitô, và cộng đoàn này chính là Giáo Hội. Trong đoạn Tin mừng Mát-thêu hôm nay, Chúa Giêsu nói rõ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19). Chỉ trích những cố gắng của các nhà truyền giáo và các Kitô hữu, để có thêm những người tin vào Chúa Kitô, cho “Dân Chúa ngày thêm đông số” là hành vi hoàn toàn đi ngược với ý muốn của Chúa Giêsu đã được chính Chúa minh nhiên bộc lộ.
6. Nội dung quan trọng khác của việc truyền giáo là “cử hành Phụng vụ và các Bí tích”. Ở đây Chúa Giêsu cũng nói rõ: “làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28, 19). Các Bí tích thuộc về Nhiệm cục Cứu độ của thời đại Tân Ước, vì loài người là những thụ tạo hữu hình, chứ không phải là thiên thần, cần những dấu chỉ hữu hình và hữu hiệu, được Chúa Giêsu thiết lập, để qua đó ban ơn cứu độ cho con người. Chỉ trích việc làm Phép Rửa cho các dự tòng, cũng hoàn toàn đi ngược với ý muốn của Chúa Giêsu. Chúa còn để lại cho Giáo Hội Bí tích Thánh Thể, luôn được coi là chóp đỉnh và nguồn suối của mọi sinh hoạt truyền giáo.
7. Cuối cùng, công việc Huấn giáo hay dạy Giáo lý cũng là một sinh hoạt cốt yếu trong sứ vụ Truyền Giáo, như chính Chúa Giêsu đã căn dặn: “Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19). Mục tiêu của Huấn giáo là dạy cho biết Chúa, tin Chúa và yêu Chúa, giúp cho người Kitô hữu có thể gặp gỡ Chúa, tiếp xúc với Chúa trong đời sống cầu nguyện, cũng như trong đời sống thực tế hằng ngày. Huấn giáo là “dạy cho sống Đạo”, và điều này tối quan trọng trong sứ vụ truyền giáo.
Tin mừng Mt 28, 16-20: Một cuộc biểu dương niềm vui, vì Chúa Giêsu Kitô, Người Con được Chúa Cha sai đến Phúc Âm Hoá thế gian, đang nâng đỡ và đồng hành với chúng ta trong các nỗ lực truyền giáo.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói trong Sứ Điệp Ngày Khánh Nhật Thế Giới Truyền Giáo 2014 như sau: ngày nay vẫn còn rất nhiều người chưa nhận biết Đức Giêsu Kitô. Thế nên, sứ mạng “đến với muôn dân” (ad gentes) vẫn còn hết sức cấp bách. Mọi phần tử của Hội Thánh được kêu gọi tham gia sứ mạng này, vì Hội Thánh tự bản chất là truyền giáo: Hội Thánh được sinh ra để “đi ra”.
Ngày Thế Giới Truyền Giáo là cơ hội đặc biệt để các tín hữu trên khắp các châu lục cùng nhau cầu nguyện và có những hành động liên đới cụ thể để nâng đỡ các Giáo Hội trẻ tại các xứ truyền giáo. Đây là một cuộc biểu dương ân sủng và niềm vui. Một cuộc biểu dương ân sủng, bởi vì Chúa Thánh Thần được Chúa Cha sai đến ban phát sự khôn ngoan và sức mạnh cho những ai vâng theo tác động của Người.
Một cuộc biểu dương niềm vui, vì Chúa Giêsu Kitô, Người Con được Chúa Cha sai đến Phúc Âm Hoá thế gian, đang nâng đỡ và đồng hành với chúng ta trong các nỗ lực truyền giáo. Đây chính là lý do để tôi đề nghị một biểu tượng Kinh Thánh mà chúng ta gặp thấy trong Tin Mừng Thánh Luca 10,21-23
Thánh Luca kể lại cho chúng ta rằng: Chúa sai 72 môn đệ từng hai người một đi vào các thành thị và làng mạc loan báo Nước Thiên Chúa, và chuẩn bị cho dân chúng gặp gỡ Đức Giêsu.
Sau khi chu toàn sứ mạng rao giảng, các môn đệ trở về lòng tràn ngập niềm vui: các môn đệ tràn ngập niềm vui, phấn khích vì họ có quyền năng giải thoát người ta khỏi ma quỷ. Đức Giêsu cảnh báo họ đừng quá vui mừng vì quyền năng họ đã nhận được, nhưng vui mừng vì tình thương họ nhận được, “vì tên anh em đã được ghi trên trời” (Lc 10,20). Chúa cho các môn đệ trải nghiệm tình thương của Thiên Chúa, nhưng cũng cho họ khả năng chia sẻ tình thương ấy. Và trải nghiệm này là một lý do để Đức Giêsu biểu lộ tâm tình tạ ơn và niềm vui. Thánh Luca diễn tả niềm hoan lạc này trong ý nghĩa của sự hiệp thông giữa Ba Ngôi: “được Thánh Thần tác động, Ðức Giêsu hớn hở vui mừng”,
Ngài nhìn lên Chúa Cha và chúc tụng Người. Giờ phút vui mừng sâu xa này phát sinh từ mối tình con thảo của Đức Giêsu đối với Chúa Cha là Chúa Tể trời đất, Đấng che giấu những điều này đối với những người tài trí khôn ngoan, nhưng lại mặc khải cho những kẻ bé mọn (x. Lc 10,21).
Đức Phanxicô đã nhấn mạnh đến niềm vui Chúa cho các môn đệ cảm nghiệm được tình thương của Chúa và cũng cho họ khả năng để chia sẻ tình thương đó. Đây chính là cốt lõi của việc truyền giáo, vì chính trong tình thương này Thiên Chúa đã hiện diện trong cuộc sống của chúng ta như thế nào? Thiên Chúa đã chi phối cuộc sống của chúng ta ra rao?
Chúng ta phải cảm nghiệm ra rằng: rời xa tình thương của Chúa là chúng ta không thể tồn tại, hay nếu có tồn tại thì chúng ta cũng chỉ sống như một thây ma, một cái xác không hồn. Phải có cảm nghiệm như thế thì chúng ta mới có thể đáp ứng lời mời gọi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô: Truyền giáo chính là một cuộc biểu dương ân sủng và niềm vui. Làm sao có thể biểu dương niềm vui được khi chúng ta không có niềm vui đó trong tâm hồn. Để có thể biểu dương niềm vui, tất nhiên chúng ta phải có niềm vui đã rồi mới biểu dương ra bên ngoài. Nghĩa là chúng ta phải có Tin Mừng đã rồi mới biểu dương, loan báo Tin Mừng đó. Và nếu đã là Tin Mừng, Tin Vui thì chúng ta không thể giữ kín mà tất nhiên chúng ta sẽ chia sẻ Tin Mừng Tin Vui ấy cho những người chung quanh chúng ta. Cảm nhận được tình thương của Chúa, chính là Tin Vui, Tin Mừng đích thực của chúng ta. Cảm nhận được tình thương Chúa, đó cũng chính là nền tảng để ra đi truyền giáo.
Sau đây là cảm nghiệm của một người tân tòng đã cảm nhận được Tin Vui đích thực và ông đã chia sẻ như sau
Người Công Giáo là kẻ có cảm thức được Thiên Chúa yêu thương, được yêu thương một cách sâu thẳm và được mời gọi đáp trả lại tình yêu thương đó. Có cái gì như một kẻ si tình. Si tình ở đây bắt nguồn từ sự điên rồ của màu nhiệm Khổ Giá (la folie de la croix); và như chữ Thương Khó, Khổ Nạn (passion) không phải không có âm hưởng của cái gì như là đam mê (cũng là passion). Sự so sánh giữa các thánh của Kitô Giáo với các thiền sư, các đạo gia, thì một bên có cái gì da diết, đầy đam mê (passion), một bên thì thanh thản, đầy minh triết (sagesse)”.
Và người tân tòng chia sẻ tiếp: “cuộc đời của Đức Giêsu trước hết gợi lên lòng thương của tôi đối với một người vô tội bị oan khiên, sau đó là sự hấp dẫn của một người dịu dàng, đơn sơ, bình dị. Có thể nói tình cảm đầu tiên đối với Ngài là lòng thương mến hơn là lòng tôn kính đối với một bậc tôn sư: có một cái gì như tình bạn ít nhiều bình đẳng giữa hai người cùng hội cùng thuyền. Ấn tượng đầu tiên đối với Ngài có cái gì tương tự như sự an ủi của người mẹ hiền, người bạn quí, hàn gắn thương đau, khuyết điểm, khuyến khích về mặt cảm tính khi chán nản; sưởi ấm cõi lòng khi cô đơn – nhiều hơn là một vị tôn sư dạy một giáo thuyết”.
Ông cho rằng “sự hấp dẫn của Chúa Giêsu hình như do chính con người và cuộc đời của Ngài từ việc sinh ra trong máng cỏ, qua 30 năm âm thầm lặng lẽ, ba năm nay đây mai đó, trà trộn với dân chúng, rồi bị giết oan, nhiều hơn là do đạo lý Ngài truyền dạy. Bởi vì, xét về mặt tâm lý đạo đức thì các bài dạy của Ngài cũng chẳng có gì là cao siêu tuyệt vời, nhưng điều làm cho tôi cảm mến Ngài chính là “con người” và “cuộc sống”của Ngài (sa “personne” et sa “vie”). Đã có cảm tình với Ngài rồi thì khó quên, khó phai và hình như càng lâu càng thắm thiết hơn… đối với các bậc thánh hiền khác, thì có thể nhớ bài dạy của Ngài mà quên đi con người và cuộc đời của các ngài. Đối với Đức Giêsu thì khác hẳn: đôi khi quên lời Người dạy, nhưng chính Ngài thì không thể quên được. Và có lẽ càng hay sống trái lời Ngài dạy, thì hình ảnh Ngài lại càng thêm xoáy vào tâm khảm… nhớ quay nhớ quắt, nhớ quằn quại đến độ không chịu được!… thông minh, tài trí, dũng cảm…có lẽ nhiều người hơn Đức Giêsu, nhưng đáng yêu nhất thì chỉ duy nhất có một mình Ngài mà thôi!”
Lạy Chúa xin ban niềm vui đó cho chúng con để chúng con cùng với toàn thể Giáo Hội biểu dương niềm vui đó cho thế giới hôm nay. Amen.
Hôm nay, chúng ta cầu nguyện sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội, đồng thời chúng ta cũng ý thức sứ mệnh truyền giáo đó cũng là sứ mệnh của mỗi người Kitô hữu. Trong bối cảnh ngày nay, người ta thiên về những hoạt động thực tế để sinh sống, tin vào những thành công của khoa học. Họ không thích nói đến chuyện đạo, cho rằng đó là chuyện xa vời, thiếu thực tế, tin vớ vẫn, mê tín dị đoan. Trong bối cảnh này, chúng ta thấy khó mà truyền giáo.
Giáo Hội cũng đã đề nghị chúng ta một số giải pháp khác nhau tuỳ theo hoàn cảnh mỗi người: hoặc bằng cầu nguyện hy sinh, hoặc bằng góp tiền bạc ủng hộ việc truyền giáo, bằng cuộc sống chứng tá đức tin... Trong các giải pháp đó, hôm nay tôi đề nghị đi sâu vào giải pháp chứng tá đức tin bằng đời sống bác ái khoan dung, tạm gọi là truyền giáo bằng trái tim.
Tại sao lại truyền giáo bằng trái tim? Lý do là, cái yếu nhất và cũng là mạnh nhất đối với con người là vấn đề tình cảm, tình yêu. Chỉ có tình yêu thương bác ái mới có thể làm lay động được tâm hồn con người. Tình yêu thương bác ái cũng chính là giới răn mà Thiên Chúa truyền cho chúng ta để trở nên thánh thiện, xứng đáng làm con cái Chúa.
Tại Nam Tư, trong một lần giúp lễ, một cậu bé vô tình đánh rơi lọ rượu. Vị linh mục tức giận tát cậu bé và thét lên: “Cút đi, đừng bao giờ trở lại đây nữa.” Cậu bé ấy không bao giờ trở lại nhà thờ nữa, bởi sau này cậu đã trở thành chủ tịch của một nước cộng sản, cậu bé ấy chính là Titô, chủ tịch nước Nam Tư.
Và cũng tại một nhà thờ chính toà, một buổi lễ cho Đức Giám Mục chủ tế đang cử hành. Môt em bé 7 tuổi, giúp lễ, cũng vô tình đánh rơi lọ rượu. Âm thanh lọ rượu rơi trên nền đá cẩm thạch, đối với em bé còn lớn hơn là âm thanh của một trái bom nguyên tử. Em sợ hãi đến chết được. Vì mấy cậu bé giúp lễ cứ nghĩ là Đức Cha là người rất nghiêm khắc. Thế nhưng sau thánh lễ, ngài gọi em bé đến và hỏi: "Lớn lên con sẽ học trường nào?" Rồi Ngài nói tiếp: "Con có bao giờ nghe nói tới Louvain không?" Em đáp: “Thưa Đức Cha, chưa”. Ngài nói: “Vậy con hãy về nói với mẹ con rằng, khi con lớn lên, con sẽ vào đại học Louvain”.
Không ngờ rằng 20 năm sau, em bé đó, khi chịu chức linh mục đã ngồi trên chuyến xe lửa đi về Louvain. Em bé đó chính là Đức Giám Mục Fulton Sheen, một diễn giả đại tài ở Mỹ. Chính Ngài đã kể chuyện đời mình như một kinh nghiện về tình yêu về sự khoan dung tha thứ. Ngài nói tiếp: Cũng một biến cố đánh rơi lọ rượu, nhưng tôi đã đi về hướng này. Còn Titô thì đi về hướng ngược lại.
Cũng một biến cố nhưng với cách đối xử không có tình cảm đã đưa một người đến vô thần, nhưng với cách đối xử đầy tình yêu mến đã đưa một người thành một Kitô hữu đạo đức và hơn nữa một con ngưòi đáng kính trọng trong Giáo Hội.
Mẹ Thánh Têrêsa Calcuta là một minh chứng hùng hồn hơn ai hết về truyền giáo bằng trái tim. Mẹ đã không đứng ra để giảng thuyết hùng hồn, nhưng mẹ đã truyền giáo bằng hành động yêu thương cứu gíup những người nghèo, những người bị xã hội bỏ rơi bên lề đường, hay những bệnh nhân bên đống rác. Tình yêu của mẹ, của một người nữ nghèo âm thầm làm việc vì tha nhân, vì tình yêu, đã đánh động cả thế giới, kể cả những người có đức tin tin hay không có đức tin. Khi giải Nobel hoà bình năm 1979 được quyết định trao cho mẹ, báo chí thi nhau nêu lên những tước hiệu độc đáo để giới thiệu một nhân vật ngoại hạng: Tờ Grazia nói “ Giải Nobel cho mẹ những người nghèo”. Tờ Figaro MagaZine gọi mẹ là “Mẹ Têrêsa, giải Nobel bác ái”, Pari Match có bài tường thuật dài dưới tựa đề: “Giải Nobel cho vị nữ tu bé nhỏ của những người cùng đinh”. Tờ Le Courrier Francais tuyên bố: “Giải Nobel của những người nghèo”.
Như vậy khi nhìn cánh đồng truyền giáo, cho dù có nhiều khô cằn vì ảnh hưởng của đời sống văn minh vật chất, thì cũng có những đang có những cây xanh tốt đang mọc lên, bao giờ chúng ta cũng thấy nổi bật hơn hết là sức sống bác ái. Chính trái tim rộng mở của người Công giáo mới có thể đánh động được trái tim của những người ngoài Công giáo. Cho nên có thể nói rằng bí quyết truyền giáo là ở trái tim. Chìa khoá truyền giáo là trái tim, một trái tim giống như trái tim của Chúa Giêsu: hiền lành, khiêm nhường, bác ái và bao dung.
Hôm nay, Giáo hội long trọng cử hành Khánh nhật Truyền Giáo, ngày cầu nguyện cách đặc biệt cho việc loan báo Tin mừng. Theo nghĩa Hán Việt, “Khánh nhật” là mở ra một ngày trọng đại, có một sự kiện đặc biệt. Khánh nhật Truyền giáo là ngày Giáo hội mời gọi tín hữu toàn cầu hợp lòng một ý cầu nguyện và cộng tác cho công cuộc loan báo Tin Mừng như lệnh truyền của Chúa Giêsu từ khi thiết lập Hội Thánh. Mỗi năm, Giáo Hội cũng dành riêng một Chúa Nhật để kêu gọi các tín hữu cầu nguyện, hy sinh, đóng góp, đồng thời thúc giục mọi người luôn thao thức về việc đem Tin Mừng ơn Chúa cứu chuộc đến cho mọi người, công cuộc truyền giảng Tin Mừng rất cao quý.
Đoạn Tin mừng cho chúng ta thấy nhiệm vụ loan báo Tin mừng là một việc cấp bách, thậm chí với những người đức tin cũng còn non yếu, nhưng không vì thế mà lại thu mình lại, hay cứ chần chừ. Lời Chúa Giêsu trao lại cho những người đầu tiên của Hội thánh mới thành hình: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em”. Việc truyền giáo không phải là việc của chỉ những người đứng đầu Hội thánh hay những vị kỳ cựu trong đạo, nhưng đó là sứ mệnh của Kitô hữu.
Việc truyền giáo không của riêng ai, và không phải là một việc làm tùy hứng, muốn làm hay không cũng được. Không, đây là một bổn phận mà không một ai có quyền trốn tránh, cũng như không ai có lý do nào được miễn chuẩn. Từ một em bé đến một cụ già, từ một bệnh nhân trong bệnh viện đến một công nhân ngoài công trường hay một giáo viên trên bục giảng, từ một nhân viên trong các cửa hàng thức ăn nhanh đến một Graber xe ôm công nghệ, từ một người buôn gánh bán bưng đến một thương gia, từ người đi khắp bốn phương trời đến một người nội trợ, từ một người bình dân đến một người trí thức… trong mỗi hoàn cảnh sinh sống, người nào cũng có thể tìm thấy cách thức truyền giáo thích hợp với khả năng của mình vì “Mỗi người ở ngoài Chúa là một cánh đồng truyền giáo, và mỗi người ở trong Chúa là một nhà truyền giáo”.
Chúng ta được tái sinh trong Bí tích Rửa tội, liền với đó, tự trong bản chất Kitô hữu, chúng ta thực thi sứ mạng Loan báo Tin mừng. Lời Đức Thánh cha Phanxicô nhắn nhủ với các Kitô hữu rằng “Mỗi người đã chịu phép rửa là một sứ mạng.” Vậy, đây không phải là việc của những người rảnh rỗi, nhàn cư, khá giả… cũng không phải là một công chuyện gì đó thêm vào hay việc rốt hết, để rồi chừng nào tôi sắp xếp xong hết mọi thứ mới nghĩ đến nhiệm vụ loan báo Tin mừng. Công đồng Vaticanô II xác quyết: “Tự bản chất, giáo hội mang sứ mạng truyền giáo”
Trong năm nay, năm được ghi dấu bởi những đau khổ và thách đố do đại dịch Covid-19 gây ra, Sứ điệp Truyền giáo 2020 của Đức thánh cha Phanxicô cho biết con đường truyền giáo của toàn Giáo hội tiếp tục được tìm thấy dưới ánh sáng trong tường thuật ơn gọi của tiên tri Isaia: “Dạ, con đây, xin sai con đi” (Is 6,8). Đây là câu trả lời luôn luôn mới trước câu hỏi của Chúa: “Ta sẽ sai ai đây?” Lời kêu gọi này xuất phát từ con tim của Thiên Chúa, từ lòng thương xót của Người, chất vấn cả Giáo hội và nhân loại trong cuộc khủng hoảng thế giới hiện nay.
Biết rằng ai trong chúng ta đứng trước đại dịch và cái chết hàng loạt từ người bình dân đến hàng trung lưu, từ người thường dân đến các quan chức làm cho chúng ta thực sự hoảng sợ, mất phương hướng và khiếp đảm. Cái chết làm cho chúng ta cảm nghiệm sự yếu đuối của con người; nhưng đồng thời nhắc nhở chúng ta về một khát vọng mạnh mẽ về sự sống và về việc được giải thoát khỏi sự dữ. Trong bối cảnh này, lời mời gọi loan báo Tin Mừng, lời mời ra khỏi chính mình vì tình yêu Thiên Chúa và người lân cận được trình bày như một cơ hội để chia sẻ, phục vụ và cầu bầu. Sứ vụ mà Thiên Chúa giao phó cho mỗi người đi từ cái tôi sợ hãi và khép kín đến cái tôi được tìm thấy và đổi mới từ chính việc trao ban chính mình cho người khác.
Dẫu biết rằng không phải ai ai cũng có thời giờ hoặc khả năng, nhưng mọi người đều có thể thực hiện công việc loan báo Tin mừng cách gián tiếp. Chẳng hạn, cầu nguyện cho việc truyền giáo; đóng góp vào việc truyền giáo bằng những hy sinh, bớt tiêu xài một chút trong gia đình hay cho cá nhân mình để đóng góp vào công cuộc truyền giáo. Và trên hết là loan báo Tin mừng bằng đời sống chứng nhân. Và cách truyền giáo tốt nhất và hữu hiệu nhất vẫn là lời mời gọi như bài đọc I: “Hãy giữ luật và thực thi công bình”. Truyền giáo bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta, một đời sống đạo đức chân thành, cởi mở, yêu thương và công bằng là một tấm gương sáng trước mặt mọi người.
Ngày 07/12/1990 Đức Giáo Hoàng Phaolô II đã gởi cho toàn thể Giáo Hội Công Giáo một thông điệp mang tựa đề: "Sứ vụ Đấng Cứu Độ" (Redemptoris Missio). Thông điệp được công bố để kỷ niệm 25 năm ngày Công Đồng Vatican II ban hành Sắc lệnh về Hoạt động Truyền Giáo của Giáo Hội: "Đến Với Muôn Dân" (Ad gentes) đồng thời nhân dịp kỷ niệm 500 năm Christophe Colomb tìm ra Tân Thế giới và Tin Mừng được rao giảng ở Châu Mỹ. Thông điệp còn xuất phát từ những đòi hỏi cấp bách của xã hội và Giáo Hội trong những năm cuối của thiên niên kỷ II tiến tới năm 2000. Mới đây, trong Tông thư "Tiến tới Thiên niên kỷ III", Đức Thánh Cha lại kêu gọi toàn thể Giáo Hoi chuẩn bị mừng Năm Thánh 2000 bằng việc canh tân đời sống thánh thiện trong Giáo Hội để tiến tới công cuộc truyền giáo mới. Đức Thánh Cha không chuẩn bị cho Giáo Hội tiến tới ngày tận thế! Trái lại, Ngài thúc đẩy Giáo Hội nhân dịp bước qua Thiên niên kỷ III, tìm gặp lại sự thánh thiện và lòng nhiệt thành tông đồ mà Giáo Hội cần phải có để theo đuổi sứ mạng của mình trong thế giới nhằm phục vụ Tin Mừng cho Nước Chúa hiển trị.
Đã một thời, hễ nói đến truyền giáo là chúng ta nghĩ đến việc ra đi đến những miền đất xa xôi, những vùng dân cư chưa hề biết Chúa vì chưa bao giờ có các nhà truyền giáo tới với họ. Ngày nay, không phải chúng ta không nghĩ tới những vùng đất nầy nữa, nhưng chúng ta phải quan tâm đến môi trường chúng ta đang sống, vì có những anh chị em chưa biết Chúa đang sống bên cạnh chúng ta. Chúng ta không cần phải đi đâu xa xôi nữa. Theo Tông huấn "Loan báo Tin Mừng" của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI thì truyền giáo là đem Tin Mừng đến môi trường nhân loại và nhờ tiếp xúc với Tin Mừng, con người được biến đổi từ bên trong, tạo nên một nhân loại mới, bằng bí tích Thánh Tẩy và đời sống theo Tin Mừng. Vì vậy, ngày nay Giáo Hội dùng từ ngữ "Tin-Mừng-hóa" thay cho truyền giáo. Tin Mừng hóa là làm cho Tin Mừng thấm nhập vào mọi thực tại của cuộc sống con người. Không một thực tại nào, không một lãnh vực nào của đời sống con người mà không phải là đối tượng của việc loan báo Tin Mừng.
Như vậy, quan niệm truyền giáo ngày nay bao quát rộng rãi hơn, bao trùm cả cuộc sống con người, tất cả các công cuộc thăng tiến hay phát triển con người toàn diện, bắt đầu từ công cuộc giải phóng con người khỏi đói kém, bệnh tật, mù chữ, nghèo túng, bất công, áp bức, bóc lột. Tất cả các vấn đề đó không phải là điều xa lạ với việc loan báo Tin Mừng (x. LBTM 30,31). Lý do chính là vì bác ái: "Làm sao có thể công bố giới răn mới của Chúa Giêsu tức là giới răn yêu thương, mà không xúc tiến trong công lý và hòa bình, sự phát triển đích thực của con người" (LBTM 31). Thực ra, việc loan báo Tin Mừng của Giáo Hội từ bao giờ vẫn luôn đi kèm theo những công cuộc thăng tiến con người: như mở trường học, xây cất bệnh viện, tổ chức cứu trợ, khai hoang lập ấp, nâng ca dân trí... Việc thăng tiến con người được xem là thành phân của chính sứ mạng rao giảng Tin Mừng, vì được bao gồm trong ơn cứu độ Chúa Kitô đem đến và Giáo Hội tiếp tục công bố và thực hiện.
Vì vậy, thưa anh chị em, ở đây vai trò của anh chị em giáo dân thật là quan trọng, không thể thay thế được. Giáo Hội quý trọng anh chị em, khuyến khích anh chị em dấn thân vì đồng loại. Ngay trong lúc cố gắng tạo các điều kiện giúp anh em đồng loại sống xứng đáng với nhân phẩm hơn, anh chị em biết rằng, mình cũng đang làm nhiệm vụ loan báo Tin Mừng, đang làm việc tông đồ; dù các môi trường hay các tổ chức, các cơ quan trong đó anh chị em dấn thân không thuộc về Giáo Hội. Tuy nhiên, nhiệm vụ loan báo Tin Mừng nầy không dừng lại ở việc thăng tiến đời sống con người mà thôi, mà cuối cùng phải nhằm đưa con người đến chỗ sống một cuộc sống mới từ bên trong, nhờ lãnh nhận bí tích Rửa Tội và hoán cải cuộc sống theo Tin Mừng.
Nhưng bằng cách nào? Thưa anh chị em,
Hình thức đầu tiên của việc loan báo Tin Mừng là chứng tá đời sống. Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II trong Thông điệp "Sứ Vụ Đấng Cứu Độ" đã nhất trí với nhận định của Đức Phaolô VI trong Tông huấn "Loan báo Tin Mừng" rằng: "Con người ngày nay tin vào các nhân chứng hơn là các thầy dạy". Muốn người khác tin, không phải chỉ dạy đạo lýc mà còn phải sống đạo lý mình dạy nữa. Con người hôm nay chờ đợi nơi nhà truyền giáo:
- Một sự quan tâm đặc biệt đến con người nói chung, nhất là những người nghèo, thấp cổ bé miệng, những người đau khổ. Những hoạt động bác ái là những nét son của Giáo Hội trong mọi thời đại.
- Một sự dấn thân phục vụ công lý và hòa bình, thăng tiến phụ nữ, bảo vệ trẻ em và bênh vực quyền con người.
- Một sự hòa nhập vào đời sống của dân tộc mình: trugn thành với đất nước, quyền dân tôc, với nền văn hóa dân tộc mình trong lúc vẫn đề cao tình huynh đệ đại đồng giữa các dân tộc.
- Lòng khiêm tốn để nhìn nhận các giới hạn và sai sót của mình, để mỗi ngày một cải tiến.
- Lòng can đảm để chống lại mọi áp bức, mọi bất công hay bóc lột.
Nếu đáp ứng đủ những sự chờ đợi nầy, lời rao giảng của nhà truyền giáo sẽ có cơ may được đón nhận dễ dàng hơn.
Ngoài ra, nhà truyền giáo phải hết sức thận trọng để luôn trung thành với giáo huấn cả Đức Kitô, hiệp nhất với toàn thể Giáo Hội và ý thức mình chỉ là "người được sai đi". Trong mọi hoàn cảnh, thuận lợi hay không thuận lợi, nhà truyền giáo luôn xác tín rằng tự đáy lòng mọi người đều mong chờ được đón nhận chân lý về Thiên Chúa, về con người và về con đường cứu độ. Như Đức Kitô xưa, nhà truyền giáo can đảm rao giảng Lời Chúa. Nếu nhà truyền giáo có bị xiềng xích, bị tù đầy hay bị mất mạng sống vì đức tin... thì đó là một lời loan báo Tin Mừng hùng hồn và có sức thuyết phục nhất (x. SVĐCĐ 26-81).
Anh chị em thân mến,
Trong viễn tượng của ngày năm thứ ba sắp đến, chúng ta hãy là những người phát ngôn cho Tin Mừng, hãy phổ biến với hết sức lực của chúng ta lời cứu rỗi, sự thật của Thiên Chúa để biến đổi trọn cả thực tại trần gian theo tinh thần Tin Mừng. Không phải là lúc phải lo sợ, không phải là lúc để dành cho người khác thi hành trách vụ nầy. Mỗi người, xét theo là thành phần của Giáo Hội, cần phải lãnh lấy phần trách nhiệm của mình. Mỗi người trong chúng ta cần phải làm cho những ai sinh sống gần bên, trong gia đình, tại học đường, trong các môi trường lao động, văn hóa, được hiểu rằng: "Chúa Kitô là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống" của loài người (Ga 14,6). Cần phải công bố và làm cho từng người biết được sự thật cứu rỗi, vì chúng ta không thể nào sống lãnh đạm trước sự kiện hàng triệu triệu người chưa biết hay biết không đúng về Chúa Kitô và Tin Mừng cứu độ của Ngài.
Hai ngàn năm đã qua đi kể từ khi những lời "Các con hãy ra đi giảng dạy muôn dân" được Chúa Kitô truyền dạy. Công cuộc rao giảng Tin Mừng cho muôn dân tùy thuộc vào chúng ta. Chúa Kitô cần đến chúng ta để đem Tin Mừng cứu độ đến mọi nẻo đường thế giới. Chúa Kitô cần đến tâm hồn quảng đại và sẵn sàng của chúng ta, cần đến đời sống chứng tá của chúng ta để bày tỏ cho tất cả mọi người tình thương vô biên của Ngài.
Tin mừng Mt 28: 16-20: Ngày hôm nay, Chúa Nhật này được gọi là Khánh Nhật Truyền Giáo. Giáo hội mời gọi chúng ta, ngày hôm nay, mỗi người trong cái hoàn cảnh của mình, trong cái ơn gọi của mình là truyền giáo. Bởi vì bản chất của Giáo hội là truyền giáo...
Ngày hôm nay, Chúa Nhật này được gọi là Khánh Nhật Truyền Giáo. Giáo hội mời gọi chúng ta, ngày hôm nay, mỗi người trong cái hoàn cảnh của mình, trong cái ơn gọi của mình là truyền giáo. Bởi vì bản chất của Giáo hội là truyền giáo. Truyền Giáo không dành cho các linh mục, tu sĩ. Nhưng Chúa mời gọi tất cả mỗi người chúng ta: trong hoàn cảnh của mình, trong đời sống của mình, chúng ta truyền giáo theo cái cách thức, theo đường lối: miễn sao Đức Kitô được rao giảng mà thôi.
Điểm nổi bật trong các bài đọc hôm nay, chúng ta thấy: ra đi và đi đến.
Bài đọc thứ I, ngôn sứ Giacaria họa lại một bức tranh đầy ấn tượng rằng là cái cảnh người ngoại giáo níu gấu áo của người Do Thái, và xin: “Chúng tôi đi với các ông, vì chúng tôi nghe nói rằng: Thiên Chúa ở cùng các ông.”
Từ thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã đặt trong lòng nhân loại, cái niềm khát vọng đi tìm Ngài. Thúc đẩy họ đi tìm đến dân tộc Do Thái, và tin rằng: “Chúa của dân này là Chúa tể của vũ hoàn, là Đấng mà họ phải tôn thờ”.
Và qua bài đọc thứ II, chúng ta thấy Tin Mừng được loan truyền không chỉ gói gọn ở đất nước Palestina. Bị bách hại, các Kitô Hữu phải tản mát khắp đất nước La Mã, và chính vì cái sự kiện đó, thay vì bị khống chế là cơ hội mà Tin Mừng được loan báo.
Và ngày hôm nay, kết thúc Tin Mừng theo Thánh Mátthêu. Chúng ta thấy, Chúa Giêsu trước khi chia tay với các môn đệ, Chúa Giêsu đã trao quyền trên Trời dưới đất cho các ông và Chúa Giêsu mời gọi: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ và làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và ChúaThánh Thần.”
Mệnh lệnh truyền giáo đó, chúng ta thấy không gói gọn ở các Tông đồ, nhưng cứ được: loan đi, loan đi, hết người này đến người khác, để minh chứng Thiên Chúa là tình yêu.
Và chúng ta thấy trong cuộc đời của thánh Phêrô. Thánh Phêrô, với một cái bài giảng mà đã kéo được 3000 người trở về với Chúa, rất là tuyệt vời. Bởi vì, qua cái cách mà biện luận của Phêrô, Phêrô đã thuyết phục người ta trong niềm tin.
Và chúng ta thấy thánh Phaolô đặc biệt trong cái tâm tình cuộc đời của ngài, có cái hay: “Anh em hãy đi rao giảng trong mọi hoàn cảnh có những lúc thuận tiện.”Chúng ta thấy có những lúc khản cổ, Phaolô đi rao giảng nhưng không ai theo đạo cả! Nhưng rồi cuộc đời của Phaolô chính là minh chứng cho niềm tin, minh chứng cho sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời của mình, để sau đó Phaolô đã hi sinh cả cuộc đời của mình để loan báo Tin Mừng.
Thánh Phaolô nói với chúng ta rằng: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Và đặc biệt, tôi đến với anh em bằng lời lẽ rất là bình thường, rất là bình dân. Chứ tôi không đến với anh em bằng những lời lẽ hùng hồn này nọ. Chúng tôi đến với anh em bằng cả cuộc đời của chúng tôi, chúng tôi nói với anh em bằng cả niềm tin của chúng tôi.
Và chúng ta thấy đặc biệt nơi cuộc đời của Thánh Phanxicô. Ngài đã đi hàng ngàn cây số và Ngài đã Rửa tội cho hàng trăm ngàn người. Có thể tính được là một cây số, ngài rửa tội cho một người. Và cuộc đời của thánh Phanxicô phải nói rằng đó là một mẫu gương truyền giáo, và ngài chính là bổn mạng của các xứ truyền giáo. Khi bước chân của Phanxicô đi đến đâu thì ngài loan báo Tin Mừng đến đó! Phải nói rằng khuôn mặt của Phanxicô là một khuôn mặt lớn trong Giáo Hội, đặc biệt về Loan Báo Tin Mừng bằng đời sống của mình, bằng những nẻo đường truyền giáo của mình.
Thế nhưng truyền giáo không chỉ dừng lại, không có khép kín ở trong cái chuyện là phải ra đi, phải lên đường.
Và một khuôn mặt, chúng ta thấy, một Têrêsa Hài Đồng Giêsu rất là dễ thương! Mới có 24 tuổi đời, nhưng Têrêsa Hài Đồng Giêsu được phong là bổn mạng của các xứ truyền giáo, bởi sao? Bởi vì lẽ, trong cái dòng kín Terêsa sống, có đụng chạm với chị em mình, thế nhưng rồi tất cả Têrêsa đã dâng lên Chúa bằng tất cả tình yêu thương. Tất cả những hy sinh đó, bằng tình yêu thương của mình, mà Têrêxa đã chấp nhận tất cả những khổ đau đó!
Khi thấy chị em giặt đồ hắc ướt vào mặt mình, Têrêsa Hài Đồng Giêsu vẫn mỉm cười, nhưng trong lòng xin dâng lên Chúa tất cả những cay đắng, những đắng đót của cuộc đời. Khi bị chèn ép Têrêsa Hài Đồng Giêsu, vẫn đón nhận và chấp nhận tất cả! Để hi sinh, để dâng lên cho Chúa.
Và rồi chúng ta nhìn thấy nơi khuôn mặt của Têrêsa Calcutta, với tất cả tấm lòng, mẹ Têrêxa đã băng bó vết thương cho những người bị bỏ rơi, và mẹ Têrêsa đã cố gắng làm cho những con người bị bỏ rơi, những con người đau yếu, những con người bệnh tật đó, được chết trong tư cách là người. Một khuôn mặt truyền giáo rất tuyệt vời! Ngày hôm nay, chúng ta lại được nhìn đến: nơi khuôn mặt của mẹ, một tấm lòng đầy bác ái và yêu thương.
Và chúng ta có thể truyền giáo trong mọi hoàn cảnh.
Có một người lính năm 1945 ở đảo Guam, lính Mỹ. Anh ta mới kể lại câu chuyện rằng:
Khi mà anh ta làm cảnh sát trưởng thì, đêm hôm đó, chiều hôm đó nhóm lính của anh đi hành hương về và dơ bẩn tất cả mọi người đều hăm hở đi tắm, để đi ăn. Riêng có một người Công giáo, anh ta ngồi lại và anh ta đọc kinh và anh ta mới ăn cơm, thì cái viên đội trưởng đó tức quá, mới đạp cái anh này một cái.
Nhưng mà rồi đến sáng hôm sau, thấy lọc cà, lọc cọc lúc 4:30 sáng, ngay đầu giường, thì ra là người lính người Công giáo này đã tỉ mĩ, đã chùi đôi giày cho đội trưởng của mình.
Và đến sáng hôm sau, người đội trưởng đã tức tốc chạy đến cha Tuyên uý để xin: “Xin cho con được rửa tội!”
Cha tuyên úy hỏi: Tại sao vậy? Thì người chỉ huy này mới kể lại: hình ảnh của người lính Sĩ quan Công Giáo anh bị chửi bị đạp đó! nhưng anh vẫn đón nhận và chịu đựng và đó là tấm gương để lo cho người đội trưởng trở về với Chúa của mình, không chút đắn đo suy nghĩ. Bởi vì: qua tấm gương của người lính, anh ta thấy nơi người Công giáo một đời sống rất tuyệt vời!
Bất cứ trong hoàn cảnh nào chúng ta thấy, cách đây 2 năm Đức Thánh Cha Phanxicô phong Chân Phước cho ba mẹ của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Chúng ta thấy ngài đề cao về đời sống gia đình. Mẹ của Thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu mất sớm, còn lại bố của ngài. Và bố của ngài đã chăm chuốt cho các con và dâng lên Giáo Hội những người con ưu tú, những người con sống trong đời đan tu.
Chúng ta thấy đó, lược qua cái đời sống truyền giáo của Giáo hội. Ngày hôm nay chúng ta thấy đó! Có thể chúng ta sống trong một cái hoàn cảnh của bước chân đi loan báo Tin Mừng, trong hoàn cảnh của 4 bức tường trong tu viện, trong hoàn cảnh của một đời sống gia đình. Nhưng mà liệu rằng chúng ta có sống cái đời sống chứng nhân của chúng ta như cái anh chàng lính Công giáo đó hay không?
Ngày hôm nay, người ta không cần đến thầy dạy nữa! bởi vì thầy dạy thì quá nhiều! Ngày hôm nay, người ta cần chứng nhân, chứng nhân về một tình yêu, về lòng thương xót của Thiên Chúa ở giữa cuộc đời này.
Chúng ta được mời gọi sống Truyền giáo, chúng ta có thể, trong mọi hoàn cảnh của chúng ta. Làm sao chúng ta có thể nói cho người khác biết rằng: chúng ta có Chúa trong đời chúng ta, bằng một đời sống đượm tình Bác Ái, Yêu Thương.
Ngày hôm nay người ta nghe nhiều quá! người ta cũng chán, nghe nói nhiều quá người ta cũng chán, bởi vì một cái thực tế mà người ta đang sống. Đó là: một cái xã hội vô cảm.
Khi người này không cần biết tới người kia, và người ta sống bởi cái chủ nghĩa Mặc kê nô và người ta vun vén cho mình thì chúng ta là những người Kitô Hữu, chúng ta lại lội ngược dòng và chúng ta lại được mời gọi làm chứng cho Chúa giữa cuộc đời này, bằng tình Bác Ái, Yêu Thương của chúng ta.
Nói thì dễ, nhưng làm thì khó lắm! Bởi vì ai trong chúng ta cũng mang trong mình cái ích kỷ, ai cũng mang trong mình cái tôi!
Và được Chúa mời gọi, nếu như chúng ta mở lòng ra, để chúng ta đón nhận Thần Khí của Chúa: “Thần Khí Chúa đã sai tôi đi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng.”
Nếu chúng ta có Chúa Thánh Thần ở cùng chúng ta, thì chúng ta sẵn sàng và chúng ta có đủ sức, để chúng ta bước chân lên đường đi loan báo Tin Mừng như Chúa mời gọi chúng ta.
Vẫn là những con người yếu đuối, vẫn là những con người hạn chế trong cái thân phận làm người, nhưng nếu có ơn Chúa và nhờ Chúa giúp chúng ta, chúng ta sẽ bước chân lên đường loan báo Tin Mừng trong hoàn cảnh sống của mình, trong mọi ngày sống của mình.
Có thể chỉ là một ly nước, có thể chỉ là một bát cơm, có thể chỉ là một ổ bánh mì cho những người nghèo xung quanh chúng ta, hay là có thể chỉ là một lời cầu nguyện chân thành, để cầu nguyện cho tất cả những vị đang truyền giáo.
Thiên Chúa ban ơn cho chúng ta, để dù trong bất cứ hoàn cảnh nào khó khăn tật nguyền hay là không có thời gian đến với Chúa nhiều, chúng ta vẫn có thể sử dụng bằng đời sống cầu nguyện, đượm tình bác ái, yêu thương của chúng ta, để chúng ta sống làm chứng nhân Tin Mừng của Chúa giữa cuộc đời, và trở thành những người truyền giáo như lòng Chúa mong muốn. Amen.
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” (c. 2). Trong hành trình truyền giáo cuối cùng với thánh Phaolô (Cv 20, 5), Luca hẳn đã thấy những cánh đồng lúa chín ở mọi nơi, đang chờ nhiều người gặt hái gấp, kẻo lúa bị hư hoại. “Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi…” (c. 3). Dù chưa bao giờ gặp mặt Đức Giêsu, nhưng Luca đã nghe được tiếng gọi sai đi của Ngài. Ông đã là cộng tác viên ở bên thánh Phaolô khi người ở tù (Plm 24), và đã một mình ở lại khi người bị giam lúc cuối đời (2 Tm 4, 11). Là người dân ngoại được đón nhận Tin Mừng, Luca muốn trao lại Tin Mừng đó cho những người dân ngoại khác. Vừa có học thức và khiếu văn chương, lại vừa là y sĩ (x. Cl 4, 14), Luca đã dùng tài năng của mình để phục vụ cho Lời Chúa (x. Lc 1, 2). Người ta cho rằng Luca là một họa sĩ đã vẽ chân dung Đức Mẹ, nay được tôn kính ở Đền thờ Đức Bà Cả tại Rôma. Nhưng điều chắc chắn hơn nhiều là Luca đã vẽ chân dung Đức Giêsu, khi thánh nhân cầm bút viết sách Tin Mừng cho dân ngoại. Qua việc nghe lời giảng của các tông đồ, qua tìm hiểu và chiêm niệm, Luca trở nên người hiểu rất sâu về trái tim nhân từ của Thầy Giêsu. Không hiểu Thầy Giêsu thì không thể viết được cuốn Tin Mừng như thế. Luca cho ta thấy một Giêsu say mê cầu nguyện, từ khi Ngài chịu phép rửa của Gioan đến khi chịu treo trên thập tự. Cầu nguyện là giây phút Ngài có thể nói lên tiếng Abba với Cha. Giây phút riêng tư ấy, cả môn đệ cũng không khuấy động được. Luca còn cho thấy một Giêsu cương quyết lên Giêrusalem, vì đó là ý Cha. “Hôm nay, ngày mai, và ngày mốt, tôi phải tiếp tục đi…” (13, 33). Ngài đi đến nơi khổ đau và cái chết đang chờ đợi (Lc 9, 51 -19, 27). Tin Mừng của Luca tràn ngập khuôn mặt của người nghèo, nghèo sức khỏe, nghèo tiền bạc, nghèo phẩm giá, nghèo đời sống tâm linh. Đức Giêsu đã chữa bệnh và trừ quỷ, chúc lành và tha thứ. Ngài đem đến cuộc cách mạng của Thiên Chúa, cho người nghèo nên giàu, đem tình thương tha thứ vô bờ của Thiên Chúa cho tội nhân đem sự bình đẳng cho các phụ nữ để họ trở nên người cộng tác (8, 2-3). Vì thế Tin Mừng của Luca cũng tràn ngập niềm vui, từ niềm vui của Dacaria, của Gioan trong bụng mẹ, của các mục đồng, đến niềm vui của các môn đệ sau khi Đức Giêsu thăng thiên (24, 52). Thánh sử Luca là một người dân ngoại được ơn viết Sách Thánh. Chúng ta cũng là dân ngoại được ơn lãnh nhận đức tin. Dù không thể viết được những câu chuyện tuyệt đẹp như thánh Luca, về người cha nhân hậu hay về hai môn đệ đi Emmaus, nhưng chúng ta vẫn có thể kể câu chuyện đời mình cho người khác, câu chuyện đầy ắp ân sủng Thiên Chúa và chan chứa niềm vui tri ân. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng chúng con ít khi nghĩ đến những hạt giống đã âm thầm chịu nát tan để trao cho đời cây lúa trĩu hạt. Có bao điều tốt đẹp chúng con được hưởng hôm nay là do sự hy sinh quên mình của người đi trước, của các nhà nghiên cứu, các người rao giảng, của ông bà, cha mẹ, thầy cô, của những người đã nằm xuống cho quê hương dân tộc. Đã có những con người sống như hạt lúa, để từ cái chết của họ vọt lên sự sống cho tha nhân. Nhờ công ơn bao người, chúng con được làm hạt lúa. Xin cho chúng con đừng tự khép mình trong lớp vỏ để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình, nhưng dám đi ra để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ. Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày. Để chọn tha nhân và Thiên Chúa, chúng con phải chết cho chính mình. Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm vượt qua đi từ cõi chết đến nguồn sống, đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở trước Đấng Tuyệt Đối và tha nhân. Amen. --------------------------------
Dân số Châu Á chiếm gần hai phần ba thế giới nhưng số người nhận biết Chúa chưa tới 3%. Cánh đồng lúa chín mênh mông đang cần thợ gặt. Ðức Giêsu hôm nay vẫn có nhiều nơi Ngài muốn đến, nhiều căn nhà, nhiều thành phố Ngài muốn đặt chân. Ngài cần những người đi trước để chuẩn bị cuộc gặp gỡ giữa Ngài với con người. Khoa học càng tiến bộ, cuộc sống càng văn minh thì càng có nhiều lãnh vực mới Ðức Giêsu cần vào. Ðưa Ngài vào thật là một thách đố cho chúng ta. Ngài phải vào cả những nơi tưởng như bị cấm. Nhưng nếu chúng ta được Ngài sai vào trước, thì thế nào cuối cùng Ngài cũng vào được. Nếp sống cao ở thành thị vừa gây cản trở, vừa cung ứng cho ta nhiều phương tiện để đưa Ngài vào. Hãy chuẩn bị cho Ngài vào thành phố của bạn, vào trường học, sân vận động, vào xí nghiệp, công ty... Hãy chuẩn bị để Ngài vào từng nhà, gặp từng người. Mọi Kitô hữu đều được mời gọi để làm việc đó. Ðâu là khuôn mặt của người được sai hôm xưa? Hiền lành như chiên giữa bầy sói. Khó nghèo thanh bạch, không túi tiền, giầy dép, bao bị. Khiêm tốn đón nhận sự giúp đỡ về nhà ở cơm ăn. Tôn trọng tự do tha nhân, chấp nhận bị từ chối. Người Châu Á hôm nay dễ đón nhận người tông đồ sống khổ hạnh, thoát tục, sống thư thái, trầm tư, sống nhân từ, phục vụ. Cuộc sống của họ phải tỏa hương thơm của thế giới mai sau, phải có khả năng nâng con người lên Ðấng Tuyệt Ðối. Ðâu là đóng góp của người được sai hôm xưa? Vừa chữa người đau yếu và trừ quỷ, vừa loan báo về triều đại Thiên Chúa gần đến. Việc làm chứng thực lời giảng, lời giảng soi sáng việc làm. Cả hai đều đem lại niềm vui, bình an và hạnh phúc. Thế giới hôm nay vẫn là một thế giới bệnh tật, một thế giới thèm khát tự do, thèm được là mình. Chúng ta sẽ rao giảng gì cho 97% dân Châu Á mà phần đông đã tin vào một Ðấng Cứu Ðộ? Ðức Giêsu đem đến cho nhân loại quà tặng đặc biệt nào? Chúng ta phải tập trình bày sứ điệp Kitô giáo, nên cũng phải học nhiều nơi các tôn giáo Á Châu. Các giám mục Malaysia, Singapore và Brunei đã liệt kê những gì có thể học được nơi họ. Học cầu nguyện, ăn chay, bố thí nơi người Hồi giáo. Học và chiêm niệm nơi người Ấn giáo. Học từ bỏ của cải và trọng sự sống nơi người Phật tử. Học thái độ thảo hiếu, tôn lão kính trưởng nơi đạo Khổng. Học sự đơn sơ, khiêm tốn nơi người theo đạo Lão. Càng học, ta càng dễ giới thiệu Ðức Giêsu, và càng thấy Ngài đang ẩn mình nơi những tôn giáo khác.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, đâu là những nét đặc biệt của mẹ Têrêxa Calcutta, khiến cả thế giới mộ mến?
Theo ý bạn, muốn truyền giáo thành công cho dân tộc Việt Nam, người tông đồ cần có những đức tính căn bản nào?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên đường nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau. Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý, biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân. Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa. Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần. Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát. -------------------------------
Sứ điệp: Chúa sai người môn đệ đi truyền giáo trong một môi trường khó khăn, nguy hiểm, để ban tặng bình an, giúp đỡ người đau yếu và loan báo Nước Thiên Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa sai bảy mươi hai môn đệ đi rao giảng Nước Trời, có nghĩa là Chúa sai tất cả mọi người, trong đó có con nữa. Con là người tiền hô, là người đi trước chuẩn bị cho Chúa đến. Chúa muốn cuộc sống của con là một tiếng nói về Chúa, là một lời loan báo về sự hiện diện của Chúa.
Hôm nay, con muốn ý thức lại điều ấy, để con sống xứng đáng với ơn gọi Kitô hữu của con. Chúa muốn con là chiên giữa sói rừng. Cuộc sống như vậy có thể gây nguy hiểm cho con, làm cho con bị thua thiệt. Chúa không muốn con sống “mánh mung” như người khác, không muốn con khai thác anh em con để thủ lợi, không muốn con vì lợi lộc mà quên đi giá trị đạo đức. Chúa muốn con là chiên hiền lành, chấp nhận những thua thiệt, chịu đựng những hy sinh… Chúa muốn con duy trì sự bình an của tâm hồn, bình an trong ân sủng của Chúa, để con ban tặng bình an của Chúa, và trở nên dụng cụ của bình an cho tha nhân.
Lạy Chúa, xin Chúa giúp con luôn biết bám víu vào Chúa, trung thành với ơn Chúa, để con sống xứng đáng với danh xưng người môn đệ Chúa trong hoàn cảnh sống của con, nơi gia đình, tại chỗ làm việc, để con có thể trở nên dấu chỉ sự hiện diện của Chúa. Amen. Ghi nhớ: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”.
- “Sau đó Đức Giêsu chỉ định 72 người khác và sai các ông đi”: Theo tường thuật của Thánh Luca, Chúa Giêsu đã sai đi rao giảng không phải chỉ nhóm tông đồ mà còn cả nhóm môn đệ nữa. Luca muốn nhấn mạnh rằng không riêng gì các tông đồ, mà tất cả mọi người đều được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng. Ý này lại được làm rõ thêm với con số 72. Đây là số dân của loài người mà sách sáng thế chương 10 đã liệt kê.
Luca đã ghi một bài sai truyền giáo nhắm đến nhóm 12 tông đồ (Lc 9, 1-6). Bây giờ Luca lại ghi một bài sai truyền giáo khác nhắm đến 72 môn đệ. Theo St 10, con số 72 là số chỉ tất cả các dân trên trái đất. Như thế, việc truyền giáo là sứ mạng không riêng của các tông đồ mà còn của tất cả mọi tín hữu.
- “Từng nhóm hai người”: Việc loan Tin mừng không phải là việc của một cá nhân riêng lẻ, mà là việc của cộng đoàn, không phải là độc quyền của riêng ai, nhưng phải liên đới và liên kết với nhiều người khác.
- “Hãy cầu xin”: Việc đầu tiên mà nhà truyền giáo phải làm là “cầu xin”. Thiên Chúa là chủ mùa gặt, nhận ai vào Nước Thiên Chúa là quyền của Ngài và là ơn của Ngài. Chúa Giêsu bảo cầu xin là để các môn đệ ý thức rằng họ được gọi là nhờ ơn Chúa, và để có thêm nhiều người nữa nhận được ơn ấy.
- “Như chiên non vào giữa sói rừng”: Chúa Giêsu khuyến cáo các môn đệ về những hiểm nguy và sự thù nghịch mà có thể họ sẽ gặp phải.
- “Đừng chào ai dọc đường”: việc chào hỏi của người Phương Đông thường kéo theo những câu chuyện rề rà rất lâu. Trong khi sứ mạng loan Tin mừng đòi phải gấp.
- “Bình an cho nhà này”: đây vừa là một lời chúc vừa là một lời ban ơn bởi vì nó có sức tạo nên điều vừa cầu chúc (Is 45, 23). Người rao giảng Tin Mừng phải là “con cái của sự bình an”. Họ phải có bình an trong mình và sau đó đem bình an ấy ban lại cho người khác. Nếu nhà nào đáng được hưởng ơn bình an thì được bình an, nếu không thì ơn bình an trở lại cho người chúc.
- “Cứ ở lại nhà ấy”: gặp nhà nào đầu tiên cho ở thì người môn đệ hãy ở đó. Đừng tìm hiểu nhà để so sánh chọn lựa nhà nào tiện nghi hơn. Điều quan trọng là loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa chứ không phải tiện nghi cho mình hoặc cách người ta tiếp rước mình.
- “Ăn uống của người ta cung cấp cho mình”: sứ mạng của môn đệ đừng để bị ảnh hưởng bởi những quan tâm có tính cách trần thế (đòi hỏi hoặc e ngại những của ăn thức uống người ta lo cho mình)
- “Thợ đáng trả lương”: đây là một nguyên tắc (1Tm 5, 18; 1Cr 9, 11). Nhưng người thừa sai cũng có thể tự ý từ chối (1Cr 9, 14-18).
- “Người ta dọn thức gì cứ ăn thức ấy”: Người rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu không còn bị bận vướng bởi luật Môsê về sự phân loại thức ăn nào sạch, thức ăn nào dơ (1Cr 10, 27).
- “Hãy chữa lành các bệnh nhân”: Đây là dấu hiệu Nước Thiên Chúa gần đến. Việc làm chính của người truyền giáo là “chữa lành các bệnh tật”, nghĩa là làm giảm bớt đi những đau khổ tinh thần và vật chất của người ta.
“Anh em hãy ra đi. Đừng mang theo túi tiền, bao bị giày dép (Lc 10, 4). Người truyền giáo phải lưu ý: cái họ cần có hơn là ơn Chúa chứ không phải là những phương tiện vật chất (túi tiền, bao bị, giày dép…)
Nếu phải thực hiện một chuyến đi dài, tôi sẽ mang theo thứ gì? Chắc chắn là những gì gọn nhất, nhẹ nhất, cần thiết nhất. Và hôm nay, trong lệnh truyền của Chúa Giêsu tôi đọc được nét nhẹ nhàng thanh thoát ấy trong bước chân của người môn đệ không giày dép, bao bị, tiền nong...
Và phải chăng cũng vang động trong tâm hồn tôi lời mời gọi dấn thân nhập cuộc.
Giáo Hội mời gọi chúng ta đọc và những câu đầu tiên của chương 10 Phúc Âm theo thánh Luca. Ðây là bài diễn văn truyền giáo số 2. Bài diễn văn truyền giáo số 1 là chương 9, Phúc Âm thánh Luca. Trong bài diễn văn truyền giáo số 2, Chúa Giêsu ngỏ lời căn dặn bảy mươi hai môn đệ mà Ngài sai đi từng nhóm hai người một để làm như một cộng đoàn làm việc chung với nhau, chứ không phải một cách riêng rẽ. Con số mười hai tông đồ nhắc đến mười hai chi họ Israel; con số bảy mươi hai môn đệ nhắc đến chi tiết nơi chương 10 sách Sáng Thế: “Khi tất cả các dân nước trên mặt đất”.
Như thế, chúng ta có thể nói rằng bài diễn văn truyền giáo số 2 của Chúa Giêsu trong đoạn Phúc Âm thánh Luca mà hôm nay chúng ta là những lời căn dặn của Chúa Giêsu cho tất cả mọi thành phần Giáo Hội Dân Chúa đến từ khắp mọi nơi không phân biệt màu da, chủng tộc, tiếng nói. Tất cả mọi người đồ đệ của Chúa đều phải là những nhà truyền giáo, những chứng nhân của Chúa và phải tuân giữ những gì Chúa căn dặn nơi chương 10 này.
Những lời dặn dò trên của Chúa Giêsu thật là cặn kẽ, cụ thể, với những chi tiết hết sức thực tế. Dĩ nhiên, tinh thần phải có khi thực hiện những việc làm trên là điều quan trọng hơn. Thời đại đã thay đổi, thời chúng ta đang sống khác với thời của Chúa Giêsu. Những hành động cụ thể của một thời đã thay đổi, chẳng hạn như ngày xưa đi bộ, cầm gậy thì ngày nay đã có các phương tiện giao thông liên lạc khác, nhưng tinh thần của những hành động cụ thể mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ có không bao giờ thay đổi. Trong những giây phút ngắn ngủi này chúng ta không thể nào tất cả mọi khía cạnh của tinh thần truyền giáo nơi môn đệ của Chúa.
Ước chi mỗi người chúng ta tìm thì giờ rảnh rỗi trong ngày, trong tuần để trở lại thêm về những lời căn dặn của Chúa nơi chương 10 Phúc Âm thánh Luca.
Chúng ta hãy nhớ lại những lời đầu tiên Chúa Giêsu nói trong đoạn Phúc Âm hôm nay: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người, các con hãy ra đi”. Qua câu đầu tiên này của đoạn Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta điểm khởi đầu căn bản của mọi hoạt động truyền giáo: trước hết là nhận thức nhu cầu của anh chị em chung quanh, thứ hai là đưa nhu cầu đó vào trong lời cầu nguyện của chính mình và thứ ba là sẵn sàng để được sai và hăng say ra đi khi được trao phó cho sứ mạng. Chúng ta hãy tự vấn xem chính mình đã có những tư tưởng căn bản này chưa? Những quan tâm truyền giáo làm chứng cho Chúa có được chúng ta đưa vào trong lời cầu nguyện của chính mình chưa? Trong cuộc đối thoại giữa mình với Thiên Chúa chưa?
Lạy Chúa,
Này con đây đã sẵn sàng, Chúa muốn con làm gì xin hãy phán và con xin lắng nghe. Xin ban ơn biến đổi mỗi người chúng con trở thành những chứng nhân đích thực của Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Thánh Luca đã tường thuật việc Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Qua đó cho thấy thánh ý Thiên Chúa muốn việc rao giảng Tin Mừng không chỉ dành riêng cho các tông đồ, mà còn có những người khác cũng được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng, họ là những môn đệ được sai đi từng hai người một để cộng tác với nhau, giúp đỡ cho nhau… khi đang thi hành sứ vụ rao giảng (x. Lc 10,1-2).
Hôm nay đây, Chúa Giêsu cũng vẫn đang mời gọi các Kitô hữu tham gia vào sứ mạng rao giảng Tin Mừng như các môn đệ xưa, trong đó cũng có tôi. Để được là người môn đệ – những cộng tác viên đắc lực của Thiên Chúa – Thiết nghĩ tôi phải biết từ bỏ bản thân, dứt khoát với nếp sống cũ kỹ của con người xác thịt của mình bằng cách tham gia vào việc tông đồ dưới nhiều hình thức, mà Giáo Dân Đa Minh chính là một trong những hình thức đó.
Môn đệ ngày nay cần phải thích nghi với những đòi hỏi của thời đại nhưng cũng không quên nhắc nhở mình phải siêu thoát với của cải vật chất và những hệ lụy của nó.
Vậy truyền giáo là gì, mà tôi cũng được mời gọi thực thi ?
Với tôi:
Truyền giáo là những việc làm thiết thực để giảm bớt những đau khổ tinh thần và vật chất cho tha nhân.
Truyền giáo là sẵn sàng dấn thân nhập cuộc như “chiên con đi vào giữa bầy sói” dám đương đầu với những gian nguy, thử thách đang chờ đón phía trước; cậy nhờ vào ơn Chúa chứ không phải sức mình và những phương tiện vật chất (túi tiền, bao bị, giày dép…)
Truyền giáo là chiến thắng bạo lực của sự dữ, nhưng không phải bằng bạo lực; mà chính bằng lời tạ ơn và ca tụng Thiên Chúa, bằng cách phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa, bằng chính sự dịu hiền của Thiên Chúa.
Truyền giáo là một vinh dự được chung phần vào mầu nhịêm thập giá của Đức Kitô.
Truyền giáo là biết chyên cần cầu nguyện xin chủ ruộng sai thêm nhiều thợ đến gặt lúa của Người.
Truyền giáo là biết chu toàn bổn phận của mình mỗi ngày bằng tâm tình mến Chúa, yêu người.
Lạy Chúa, trên hành trình tiến về nhà Chúa, xin giải thoát con khỏi những ràng buộc của bản thân, của lề thói xã hội; để con biết trao ban cho anh em chính Chúa chứ không phải chính bản thân con. Xin Chúa cho con luôn sẵn sàng lên đường, dám lao mình vào nơi bất định trên tinh thần nhẹ nhàng và thanh thoát. Amen.
Khi dân một làng Samaria không đón tiếp, Đức Giêsu đã đi sang làng khác. Đức Giêsu đã chỉ định bảy mươi hai môn đệ, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, để mở đường. Thực ra, con số bảy mươi hai đây chỉ là biểu tượng, không phải con số số học. Con số bảy mươi hai là lớn, nhưng thấm vào đâu so với cánh đồng lúa chín mênh mông. Lúa chín vàng không gặt sẽ rụng, khoai quá ngày không cuốc cũng hỏng. Thiếu các thừa sai, con người cũng hư mất.
Để có các Thừa sai, Đức Giêsu đưa ra cho chúng ta một giải pháp, đầu tiên là sự cầu nguyện. Đối với Người, rõ ràng công việc Tông đồ, không phải là công việc của con người như tuyên truyền hay quảng cáo, nhưng là một công việc của Thiên Chúa. Thiên Chúa là chủ, Phaolô trồng, Apôlô tưới. Thiên Chúa làm cho phát triển, vì thế phải cầu nguyện. Cầu nguyện là công việc đầu tiên và cốt lõi của việc Tông đồ.
Công việc Tông đồ được Đức Giêsu gọi với danh hiệu mùa gặt. Mùa gặt, theo truyền thống Kinh thánh được dùng là hình ảnh để nói về thời kỳ sau hết, về sự can thiệp của Thiên Chúa vào thời thế mạc (Ge 4,13 & Mt 13,19 & Kh 14,15-16). Trong Đức Giêsu, thời kỳ sau hết này đã bắt đầu. Đức Giêsu nhìn thấy sự dồi dào của mùa gặt thiêng thánh ấy. Trong mùa gặt ấy, các tín hữu, những môn đệ được sai đi: “Thầy sai anh em đi”, đó là một mệnh lệnh.
Đức Giêsu không che dấu sự khó khăn trong công việc này. Đức Giêsu đã lấy hình ảnh chiên con và bầy sói, để nói lên những khó khăn đó. Vâng, trong công việc truyền giáo, người tín hữu như một con chiên con bị bầy sói tấn công. Vì thế, chúng ta đừng ngạc nhiên khi có nhiều người mất đức tin, do những thất bại to lớn trong việc truyền bá đức tin. Chúng ta cũng đừng gán cho dân ngoại, những lương dân là bầy sói. Thực ra, mọi dân ngoại, mọi người vô tín đều được Chúa yêu thương. Họ là những con chiên bơ vơ, chưa được đưa về đàn. Chúng ta có bổn phận phải đưa họ về, để chỉ có một đàn chiên và một Chủ chiên.
Điều đáng lưu ý, hành trang người truyền giáo phải có, không phải túi tiền, bao bị, giày dép… nhưng là cách sống, trước tiên là nghèo khó. Không nên ỷ lại vào các phương tiện của con người. Đức Giêsu đã không sử dụng các vũ khí quyền lực của sự giàu sang, của vẻ lộng lẫy huy hoàng… Đức Giêsu không ra vẻ trịnh trọng, Người vốn giàu sang đã trở nên nghèo khó. Yêu sách đầu tiên Chúa đòi giáo hội phải theo gương Người, là nghèo khó.
Người truyền giáo cũng không nên mất thời gian vì những cử chỉ lễ phép quá mức và dài dòng, vì những lề thói thế tục. Cũng cần chào hỏi, nhưng đừng để ảnh hưởng đến việc truyền giáo. Việc truyền giáo là việc làm cấp bách. Trong Luca, điều gây ấn tượng mạnh là sứ giả của Tin Mừng chạy khắp nơi. Đức Maria vội vã đi thăm bà Isave, các mục đồng chạy đến máng cỏ, Philiphê chạy để đuổi kịp chiếc xe của một người Ethiôpe (Cv 8,30)….
Đức Giêsu cũng dạy người truyền giáo: “Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: Bình an cho nhà này”. Vâng, sứ mệnh của người truyền giáo là thông ban sự bình an, sự bình an đó chính là Đức Kitô. Tin Mừng cũng chính là điều đó. Người ta chỉ có thể cho người khác cái mình có. Người truyền giáo cũng chỉ thông ban sự bình an của Đức Kitô cho người khác, khi người ấy có. Cũng chỉ ai đáng hưởng, sự bình an của Đức Kitô mới đậu trên người ấy, bằng không sự bình an đó sẽ quay về với nhà truyền giáo.
Về vấn đề ăn uống, nhà truyền giáo không phải bận tâm, hãy ăn những thức ăn người ta dọn cho. Không cần đặt câu hỏi: Thức ăn đó sạch hay dơ? Như thế, Đức Giêsu có ý dạy ta phải có một tâm hồn cởi mở, phóng khoáng đối với tục lệ tập quán của những người khác, chấp nhận các tục lệ văn hoá của các dân tộc mà chúng ta muốn rao giảng Tin Mừng. Nói cách khác là hội nhập văn hoá.
Tuy nhiên, sứ mạng của các môn đệ là rao giảng Nước Thiên Chúa, nói với họ về Triều đại của Thiên Chúa. Triều đại của Thiên Chúa là gì? Chính là Đức Giêsu. Với Đức Giêsu, Thiên Chúa hiển trị, Thiên Chúa ở đó ngay từ bây giờ. Trong Đức Giêsu, Thiên Chúa hoàn thành thế gian. Thế gian sẽ không trường tồn mãi. Lịch sử của nhân loại sẽ có lúc kết thúc. Nhưng sự chấm dứt này, không phải là hư vô. Cùng đích của vũ trụ là chính Thiên Chúa. Thế gian là một cuộc chiến đấu, Chính nghĩa Thiên Chúa sẽ thắng. Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Thánh ý của Thiên Chúa sẽ là điều tốt lành trọn vẹn của con người: Sự chữa trị các bệnh tật là một dấu chỉ của thánh ý ấy. Như Lời Chúa nói: “Anh em hãy chữa lành những người đau yếu trong thành, vì Triều đại Thiên Chúa đã đến”. Triều đại đó luôn được các môn đệ, các tín hữu công bố, dù người ta tin hay không, một ngày kia Thiên Chúa sẽ hiển trị. Đó là ngày phán xét. Dĩ nhiên những người ngoan cố chối từ, trong ngày ấy, họ sẽ bị trừng phạt hơn thành Sôđôma.
Bảy mươi hai môn đệ ra đi, trở về hân hoan, vì những thành công của họ, ngay cả ma quỷ cũng phải khuất phục. Đức Giêsu bảo họ: Điều đáng mừng hơn, đó là tên họ đã được ghi trên trời.
Một buổi tối nọ, ông John Keller, một diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước khoảng một trăm ngàn người tại vận động trường Los Angeles. Đang diễn thuyết, bỗng ông dừng lại và nói: “Xin các bạn đừng sợ. Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này”.
Đèn tắt, sân vận động chìm sâu trong bóng tối dày đặc. Ông John Keller nói tiếp: “Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên: “Đã thấy!” Một que diêm được bật lên, cả vận động trường vang lên “Đã thấy!”
Sau khi đèn được bật sáng, ông John Keller giải thích: “Anh sáng của một hành động nhân ái nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy”.
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: “Tất cả những ai có mang theo hộp quẹt, xin hãy đốt cháy lên!” Bỗng chốc, cả vận động trường rực sáng.
Ông John Keller kết luận: “Tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau, có thể chiến thắng bóng tối, sự dữ và oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta”.
Đã qua hơn 2000 năm những lời dạy của Chúa Giêsu vẫn như đang nói với chúng ta hôm nay: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”. Thế giới có trên 6 tỉ người, mà kẻ tin vào Chúa mới chỉ hơn một tỉ. Riêng tại Á Châu, chiếm 2/3 dân số thế giới, nhưng người Công giáo chỉ không tới 3/o.
Cánh đồng lúa mênh mông còn bị bỏ hoang không thợ gặt hái. Thế giới này dường như vẫn còn mò mẫm trong bóng đêm dày đặc của sự dữ, của tranh chấp, của oán thù; rất cần những đốm sáng của tình thương, của khoan dung, của tha thứ. Thế nên, không lạ gì Chúa Giêsu đã nói: “Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói”.
“Ra đi” chứ không phải “ở lại”, đó là một lệnh truyền. Cả cuộc đời của Thầy là một hành trình: Sinh ra ngoài đường, sống và rao giảng ngoài đường, cuối cùng chết cũng ngoài đường. Thầy luôn lên đường và không ngừng ra đi. Công đồng Vaticanô II cũng long trọng khẳng định: “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo”. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng qủa quyết: “Không một ai trong những người tin vào Đức Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo Hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này: Đó là loan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc”
Vậy ơn gọi của người tín hữu Kitô là “ra đi”.
Ra đi đem “bình an” đến cho các dân tộc, bình an giữa mọi người với nhau, bình an với Chúa.
Ra đi chữa lành bệnh nơi thể xác cũng như trong tâm hồn.
Ra đi loan báo Nước Thiên Chúa đã đến gần, nước tình yêu và ân sủng, nước công chính và bình an.
Thánh Phaolô đã phải thốt lên: “Khốn cho thân tôi: nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Nhưng việc làm mới chứng thực cho lời rao giảng, và lời rao giảng sẽ soi sáng cho việc làm. Ra đi là để làm chứng, và lời chứng sáng giá nhất chính là việc làm. Đúng như L. Moody đã nói: “Các ngọn hải đăng không thổi còi ầm ỉ, chúng chỉ chiếu sáng”.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa sai chúng con ra đi không mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, là để chúng con được siêu thoát mà lên đường, không cậy dựa vào sức riêng hay trần thế, nhưng chỉ phó thác nơi một mình Chúa mà thôi.
Xin cho chúng con luôn tin tưởng lên đường, dám sống chết cho sứ mạng Chúa đã trao ban. Amen.
“ Châm ngôn của Đức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình mà Giáo Hội Việt Nam nói chung và Tổng Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng đã cử hành đại tang lễ. Ngay từ ngày thụ phong giám mục, Đức Tổng Giám Mục đã chọn cho mình câu châm ngôn “Hãy đi giảng dạy” cũng là mệnh lệnh truyền giáo của chính Chúa Giêsu. Đức Tổng Giám mục là một Giám mục truyền giáo. Quả thật, 40 năm kể từ ngày thụ phong Giám mục cho đến lúc từ trần, Ngài đã thể hiện câu châm ngôn sống: “Hãy đi giảng dạy”. 40 năm, con đường thật dài và khúc khuỷu. Khúc khuỷu vì những biến động của thời đại, khúc khuỷu vì những đổi thay của thể chế xã hội, chính trị và kinh tế. Và khúc khuỷu của lòng người vốn khó thăm dò. Nhưng dẫu khó khăn và khúc khuỷu đến đâu, Ngài vẫn đi. Đi trong suy tư và cầu nguyện. Đi bằng thái độ hiền hòa, khiêm tốn và kiên nhẫn. Đi trong tin tưởng và phó thác. Và Đi để giảng dạy. Vì xác tín rằng, ẩn bên trong những khúc khuỷu của thời đại và lòng người, vẫn là khát vọng được sống, sống mãnh liệt và phong phú. Và cũng xác tín rằng chỉ có Đức Kitô mới là Đấng đáp trả và đong đầy khát vọng sống mãnh liệt ấy, nên Ngài không ngừng nỗ lực giới thiệu Đức Kitô cho mọi người.
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng là một Giáo hoàng truyền giáo. Ngài đã ra khỏi giáo triều ở Rôma nhiều nhất để đi đến với muôn dân trên khắp năm châu. Đến đâu Ngài cũng luôn rao giảng Tin Mừng Đức Kitô cho mọi người. Những chuyến công du mục vụ ấy đã cho Ngài thấy rằng: Mệnh lệnh “Hãy đi rao giảng Tin Mừng” của Chúa Giêsu chưa được các Kitô hữu thi hành. Đối với Đức Thánh Cha, vấn đề cấp bách là: phải đem Tin Mừng đến cho những vùng đất mênh mông chưa biết Chúa. Phải tái Phúc Âm hóa những vùng đất xa xưa đã một lòng tôn thờ Chúa nhưng nay đã lơ là, bỏ Chúa. Phải đem Tin Mừng thấm nhập các sinh hoạt xã hội loài người.
“Lúa chín đầy đồng, thợ gặt quá ít”. Một nhận định vừa hân hoan vừa báo động. Đối với chúng ta hôm nay là một lời báo động, vì nếu lúc chín vàng đồng mà gặt không kịp, lúa sẽ rụng hết. Một thực tế bi đát vì tình trạng thiếu thợ gặt so với cánh đồng lúa chín vàng bát ngát. Mười hai Tông đồ được sai đi, rồi lại thêm 72 môn đệ nữa, cũng chưa đáp ứng đủ yêu cầu. Các Giám mục, các linh mục, rồi các tu sĩ nam nữ cũng còn quá ít, cần phải có sự tiếp tay của các giáo dân nữa.
Vào tháng 10 năm 1987, Thượng Hội Đồng Giám mục thế giới đã khai mạc tại Rôma. 232 Giám mục từ khắp năm châu kéo về Rôma để cùng nhau nghiên cứu vấn đề “ơn gọi và sứ mạng của người giáo dân trong Giáo Hội và trong thế giới ngày nay”. Vì là vấn đề liên quan đến giáo dân, nên bên cạnh các Giám mục, người ta còn thấy có 53 giáo dân: 27 nam và 26 nữ. Nếu chúng ta đối chiếu 12 Tông đồ với các Giám mục thì sự hiện diện của 27 ông và 26 bà trong Thượng Hội Đồng Giám mục thế giới ở Rôma là một sự kiện mới mẻ, như trong Tin Mừng hôm nay: “Chúa Giêsu chọn thêm 72 môn đệ nữa”. Từ Thượng Hội Đồng nầy, một tông huấn mang tựa đề: “Ngừoi Kitô hữu giáo dân” đã được công bố. Trong đó, Đức Thánh Cha nói: “Giáo dân, vì là thành phần của Giáo Hội, nên mang ơn gọi và sứ mạng loan báo Tin Mừng. Các bí tích khai tâm kitô giáo và các ân huệ của Chúa Thánh Thần đã trang bị khả năng và thúc giục họ thi hành sứ vụ của mình” (số 33). Đức Thánh Cha còn nói: “Chắc chắn rằbg: mệnh lệnh của Chúa Giêsu ‘Hãy đi loan báo Tin Mừng’ vẫn mang giá trị trường tồn và đặt ra một cách cấp bách. Tuy nhiên, tình trạng hiện nay trong thế giới, đang đòi hỏi tuyệt đối phải thực thi mệnh lệnh của Chúa một cách khẩn trương và quảng đại hơn. Một người môn đệ đích thực của Chúa Kitô không có quyền từ chối lời đáp trả của riêng mình: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16). Cho hay, cái mới mẻ trong việc thực thi cuộc loan báo Tin Mừng là tất cả toàn dân Chúa, không phân biệt nam nữ, già trẻ, giàu nghèo, mạnh yếu. Tất cả đều được sung vào việc tông đồ truyền giáo.
Trước tình trạng khẩn trương ngày nay, chúng ta đâu có quyền trông đợi những vị truyền giáo ở các nước ngoài đến giảng đạo cho chúng ta như ngày xưa đã đến giảng đạo cho ông bà chúng ta. Giờ đây, chính những linh mục đã được chọn giữa chúng ta cũng chưa bù đắp được gì cho số người đông đúc và đa dạng ngày nay. Vì thế, Đức Thánh Cha hô hào: “Giáo dân ngày nay phải dấn thân vào công tác truyền giáo của Giáo Hội”. Thượng Hội Đồng Giám Mục đã định nghĩa vị thế độc đáo của người giáo dân giữa lòng Giáo Hội và giữa thế giới bằng hai mệnh đề như sau: “Giáo dân là ‘người của Giáo Hội’ trong lòng thế giới”. “Giáo dân là ‘người của thế giới’ trong lòng Giáo Hội”. Là người của Giáo Hội, người giáo dân phải đem Giáo Hội và Chúa Giêsu vào trong thế giới. Và là người của thế giới, giáo dân phải đem thế giới đến cùng Giáo Hội và Chúa Kitô.
Tông huấn “người Kitô hữu Giáo Dân” vẫn nhắc lại sắc lệnh Tông Đồ Giáo Dân của Công Đồng Vatican II để kêu gọi giáo dân ý thức nhiệm vụ làm tông đồ trong môi trường của mình. Chính người tín-hữu-thương-gia, tín-hữu-công-nhân phải đem Chúa đến và làm gương sáng cho anh em mình nơi đồng ruộng, ngoài thị trường, trong cơ quan xí nghiệp của mình. Hãy coi nơi mình đang ở, chỗ mình đang làm việc là những nơi Chúa sai mình đến “như chiên ở giữa đàn sói”, không phải để bị sói vồ chụp cắn xé, nhưng để biến sói thành chiên; không phải lấy sức mạnh đọ lại với sức mạnh, không phải dùng mưu mô đối lại với mưu mô, nhưng khí giới của chúng ta là khí cụ bình an và hiên hòa, theo gương cuộc sống của Đức Cố Tổng Giám Mục của chúng ta. Bởi vì Chúa không cho những người được sai đi mang theo gì cả, không được dự trữ tiền của hoặc võ trang tối thiểu để đối phó với mọi tình huốc trắc trở. Chúa muốn chúng ta phải đến với những người anh em mình một cách đơn sơ chân thành, không băn khoăn bối rối, không rào trước đón sau. Hơn nữa, còn phải loan báo Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh tật, nghĩa là phải lo cho anh em phần hồn, phần xác. Đi đến với người mạnh cũng như kẻ yếu; quan tâm đến tinh thần và cả đến đời sống vật chất nữa. Như vậy tức là để ý đến con người toàn diện và tất cả mọi người. Các người chung quanh chúng ta, bà con hàng xóm láng giềng, các bạn đồng nghiệp của chúng ta trong cơ quan, xí nghiệp nhất định sẽ tin vào Chúa Kitô, nếu chúng ta loan báo Chúa Kitô với tinh thần dịu hiền, vô vụ lợi, hoàn toàn phục vụ, phó thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Mọi người sẽ tin vào chứng ta của chúng ta khi thấy chúng ta sống yêu thương nhau, cộng tác với nhau cách chân tình, không ganh tị và định kiến, biết tôn trong chân lý và công bình, sẵn sàng phục vụ lợi ích chung của đồng bào và đất nước. Nhờ sự hiện diện và hoạt động tích cực giữa đời như vậy, anh chị em sẽ làm sáng danh Chúa và góp phần hữu hiệu vào việc xây dựng Nước Trời. Sống như thế, anh chị em mới có lý do chính đáng để hân hoan vui mừng, vì như Chúa đã bảo đảm: “Anh chị em hãy vui mừng vì tên tuổi anh chị em sẽ được ghi đậm nét ở trên trời”.
Một triết gia Ấn Độ đã nhìn lại quãng đời đi của mình như sau: Lúc còn trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất mà tôi dâng lên Thượng Đế là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để thay đổi thế giới.
Đến tuổi trung niên, tôi mới nhận thấy rằng một nửa đời tôi đã qua đi mà tôi chưa thay đổi được một người nào. Lúc đó, tôi mới cầu nguyện với Thượng Đế: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được biến cải tất cả những người con đã gặp gỡ hằng ngày, nhất là gia đình con, bạn bè con. Làm được như thế là con mãn nguyện rồi.
Nhưng giờ đây, cuộc đời đã về chiều, tôi mới nhận thức rằng tôi đã khờ dại biết bao: làm sao biến đổi cuộc đời người khác khi ta chưa biến đổi được bản thân ta. Thế nên giờ này, tôi chỉ còn biết cầu nguyện như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được thay đổi chính con.
* * *
Cải thiện bản thân là điều kiện tiên quyết, là việc phải làm trước hết để có thể thay đổi những người chung quanh, đúng như Khổng Tử dạy: “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.” (theo “Lẽ sống”)
Tương tự như thế, khi được mời gọi phúc âm hoá thế gian, chúng ta phải lo Phúc Âm hoá bản thân chúng ta trước, rồi chúng ta mới có thể Phúc Âm hoá người khác sau.
Cầu cho ai được sai đi?
Trước khi sai 72 môn đệ ra đi, Chúa Giêsu dặn các ông: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”.
Xin chủ mùa sai ai đây?
Khi cầu xin ơn bình an, sức khoẻ và may mắn, thì chúng ta cầu cho bản thân ta trước; còn khi cầu cho có người làm thợ gặt trong cánh đồng của Chúa, thì chúng ta cầu Chúa ban ơn đó cho mọi người khác, ngoại trừ ta!
Dù muốn dù không thì đa số trong chúng ta đây đã là thợ gặt bẫm sinh rồi, vì ngay từ thơ ấu, khi được lãnh bí tích rửa tội, chúng ta đã trở nên chi thể của Chúa Giêsu, nên đã được thông dự vào sứ vụ tiên tri, tức sứ vụ loan Tin Mừng của Chúa Giêsu rồi. Vậy thì phải loan Tin Mừng, phải làm thợ gặt thôi, không thể nào thoái thác được, trừ phi chúng ta tự tách lìa mình khỏi Thân Thể Chúa.
Là thợ gặt của Thiên Chúa, chúng ta cũng được sai đi để loan Tin Mừng Nước Thiên Chúa, để đẩy lùi quyền lực của ma quỷ như 12 tông đồ và 72 môn đệ xưa.
Ai là người cần được rao giảng trước tiên?
Giáo điểm đầu tiên cần được truyền giảng Tin Mừng là chính bản thân chúng ta và gia đình chúng ta.
Dù mang danh là Kitô-hữu, đôi khi chúng ta còn xa lạ với Tin Mừng. Xa lạ với Tin Mừng vì chúng ta chưa đọc hết Tin Mừng và chưa từng khám phá kho tàng khôn ngoan ẩn dấu trong đó.
Xa lạ với Tin Mừng vì đời sống chúng ta và những giáo huấn của Tin Mừng còn cách biệt nhau rất xa!
Nếu Tin Mừng của Chúa Giêsu chưa sáng lên trong cuộc đời ta, trong tim ta, trong lòng ta… thì làm sao ta có thể đem lửa Tin Mừng ấy thắp lên cho người khác được. Không ai có thể cho điều mình không có. Lý do của việc thất bại trong công cuộc loan Tin Mừng là ở đó.
Thế nên, chính bản thân mỗi người chúng ta phải được phúc âm hoá trước, rồi ta mới có thể phúc âm hoá người khác sau.
Ai là người cần được xua trừ ma quỷ trước tiên?
Sứ mạng thứ hai mà Chúa Giêsu uỷ thác cho các môn đệ khi đi loan báo Tin Mừng là giải thoát con người khỏi quyền lực của Sa-tan.
Chưa bao giờ quyền lực Sa-tan trở nên khủng khiếp và mãnh liệt như trong thế kỷ nầy. Ma quỷ đã tận dụng mọi phương tiện truyền thông như sách báo, văn chương nghệ thuật, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình, internet, âm nhạc, hội họa… để nô dịch hoá con người, đưa nhiều người vào trong cạm bẫy và tội lỗi.
Ma quỷ đang hoành hành khắp nơi trên thế giới, nhưng trước hết ma quỷ cũng đang chi phối mỗi người chúng ta. Phải nhận rằng nhiều lần bản thân chúng ta cũng đã bị ma quỷ xô đẩy làm điều sai trái đáng trách.
Vậy thì trước khi giải thoát người khác khỏi tai ách Sa-tan, chúng ta phải lo giải thoát mình trước.
Vậy người đầu tiên cần được giải thoát khỏi quyền lực ma quỷ lại cũng là chính chúng ta.
* * *
Qua Tin Mừng hôm nay, thánh Luca thuật lại cho chúng ta biết sau cuộc hành trình truyền giáo ngắn ngày, 72 môn đệ vui vẻ trở về báo cáo với Chúa Giêsu những thắng lợi vẻ vang: “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con”.
Xin Chúa giúp chúng ta cũng đạt được những thắng lợi vẻ vang như vậy ngay trên chính cuộc sống của mình.
Người chủ ruộng sẽ rất lo âu và sốt ruột khi nhìn thấy đồng lúa mênh mông bát ngát của mình đang vào thời kỳ chín rục mà chẳng tìm đâu ra thợ gặt để thu hoạch lúa về.
Chúa Giêsu cũng cảm thấy tâm hồn nôn nao xao xuyến khi phần đông nhân loại đang cần được cứu độ một cách khẩn thiết, nhưng chẳng mấy ai dấn bước đem ơn cứu độ cho họ.
Thế nên, khi sai 72 môn đệ ra đi, Chúa Giêsu căn dặn các ông: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ ruộng sai thợ ra gặt lúa về.” Lời căn dặn nầy hôm nay cũng được lặp lại với mỗi người chúng ta.
Đáp lời Chúa mời gọi, chúng ta sẵn sàng cầu xin có thêm thợ gặt, nhưng vấn đề là chúng ta sẽ cầu cho ai đi làm thợ gặt đây?
Ai là thợ gặt của Chúa?
Khi cầu xin ơn bình an, sức khoẻ và may mắn, thì chúng ta cầu cho bản thân ta trước; còn khi cầu cho có người làm thợ gặt trong cánh đồng của Chúa, thì chúng ta cầu Chúa ban ơn đó cho những người khác, ngoại trừ ta!
Nhưng, dù muốn dù không thì chúng ta đã là thợ gặt chính danh ngay từ khi được lãnh Bí Tích Thánh Tẩy. Nhờ Bí Tích nầy, chúng ta trở nên chi thể của Chúa Giêsu, nên được thông dự vào chức vụ ngôn sứ, tức sứ vụ loan Tin Mừng của Người. Vậy thì trách nhiệm ‘gặt lúa’ là trách nhiệm của chúng ta, không thể thoái thác được, trừ phi chúng ta tự tách lìa mình khỏi Thân Thể Chúa.
Là thợ gặt của Thiên Chúa, chúng ta cũng được sai đi để loan Tin Mừng Nước Trời, để đẩy lùi quyền lực của ma quỷ như 12 tông đồ và 72 môn đệ xưa.
Ai là người cần được rao giảng trước tiên?
Đứng trước đồng lúa mênh mông, thợ gặt không biết phải bắt đầu từ đâu? Nói khác đi, phải loan Tin Mừng cho ai trước hết?
Giáo điểm đầu tiên cần được rao giảng Tin Mừng là thế giới nội tâm của chúng ta, vì dù mang danh là ki-tô-hữu nhưng có thể chúng ta còn xa lạ với Tin Mừng.
Xa lạ với Tin Mừng vì chúng ta chưa đọc hết bốn Tin Mừng và chưa từng khám phá kho tàng khôn ngoan chứa đựng trong đó.
Xa lạ với Tin Mừng vì đời sống chúng ta và những giáo huấn của Tin Mừng còn cách biệt rất xa!
Nếu Tin Mừng của Chúa Giêsu chưa sáng lên trong cuộc đời ta, chưa bừng cháy trong tim ta… thì làm sao chúng ta có thể đem lửa Tin Mừng ấy thắp lên cho người khác được. Không ai có thể cho điều mình không có.
Thế nên, chính bản thân chúng ta phải được phúc âm hoá trước, rồi ta mới có thể phúc âm hoá tha nhân.
Ai là người cần được xua trừ ma quỷ trước tiên?
Sứ mạng thứ hai mà Chúa Giêsu uỷ thác cho các môn đệ song song với việc loan báo Tin Mừng là giải thoát con người khỏi quyền lực của Sa-tan.
Chưa bao giờ quyền lực Sa-tan trở nên khủng khiếp và mãnh liệt như trong thế kỷ nầy. Ma quỷ đã tận dụng mọi phương tiện truyền thông như sách báo, văn chương nghệ thuật, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình, internet, âm nhạc, hội họa… để lôi cuốn nhiều người vào cạm bẫy và tội lỗi.
Ma quỷ đang hoành hành khắp nơi trên thế giới, nhưng cũng phải nhận rằng ma quỷ cũng đang chi phối mạnh mẽ cuộc đời chúng ta, đang lôi kéo chúng ta làm nhiều điều sai trái.
Một người đang mang xiềng xích không thể giải thoát được ai. Vậy thì trước khi giải thoát người khác khỏi ách Sa-tan, chúng ta phải tự giải thoát mình trước.
Vậy người đầu tiên cần được giải thoát khỏi quyền lực ma quỷ lại cũng là chính chúng ta.
***
Lạy Chúa Giêsu,
Qua Tin Mừng hôm nay, thánh Lu-ca thuật lại cho chúng con biết sau cuộc hành trình truyền giáo ngắn ngày, 72 môn đệ vui vẻ trở về báo cáo với Chúa nhiều thắng lợi vẻ vang: “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con.” (Lc 10,17)
Xin Chúa giúp chúng con là những người được Chúa sai đi thi hành sứ vụ, cũng đạt được những thắng lợi vẻ vang như vậy ngay trên chính cuộc sống của mình.
Trong việc huấn luyện các môn đệ đi truyền giáo, Đức Giêsu vừa dạy, vừa cho thực tập. Trước đây (Lc 9,3-5) Chúa đã sai mười hai Tông đồ đi thực tập truyền giáo. Hôm nay (Lc 10,1-12) Người lại sai bảy mươi hai môn đệ đi thực tập nữa, nghĩa là đi chuẩn bị dân chúng đón nhận Chúa đến.
Tin Mừng hôm nay Thánh Luca muốn nhấn mạnh rằng không riêng gì các Tông Đồ, mà tất cả mọi người đều được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng. Việc loan báo Tin Mừng không phải là việc của một cá nhân riêng lẻ, mà là việc của cộng đoàn. Việc đầu tiên người truyền giáo phải làm là “cầu xin”. Thiên Chúa chủ màu gặt, nhận ai vào nước Chúa là quyền của Ngài và là ơn của Ngài. Người rao giảng Tin Mừng vào nhà nào hãy chúc bình an cho nhà ấy, chữa lành các bệnh tật. Khi đi không mang bao bị túi tiền, giày dép. Ở đây Chúa Giêsu nhắc nhở người môn đệ chúng ta về tinh thần nghèo khó đích thực. Cuộc sống nghèo khó của Chúa Giêsu là một chọn lựa: Ngài đã chọn sinh ra trong nghèo khó, Ngài đã lớn lên trong nghèo khó, và trong ba năm sống công khai Ngài cũng đã chọn lựa nếp sống nghèo khó.
Khi sai các môn đệ lên đường rao giảng Nước Trời, Ngài cũng khuyên dụ các ông hãy sống khó nghèo, và tinh thần siêu thoát. Người Tông đồ ra đi hai tay không, người ta tiếp đón thì ở lại, người ta không niềm nở thì ra đi, rũ bỏ lại mọi thứ bụi trần, đó là hình ảnh của sự siêu thoát mà Chúa Giêsu luôn đòi hỏi ở các môn đệ Ngài: “đừng mang theo túi tiền, bao bị giầy dép, người ta cho ăn uống gì thì hãy ăn thức đó, đừng đi đến hết nhà nọ đến nhà kia” (Mt 10,9-10).
Nghèo khó và siêu thoát là sứ điệp khả tín về Nước Thiên Chúa. Cùng với đòi hỏi về khó nghèo và siêu thoát, Chúa Giêsu xác định rõ ràng nội dung lời rao giảng: “Nước Thiên Chúa đã đến gần”. Nước Thiên Chúa là sản nghiệp và cùng đích của cuộc sống, đương nhiên con người phải đánh đổi tất cả để được vào nước ấy. Chúa Giêsu là hiện thực của nước ấy, vì Ngài đã chọn lựa sinh ra, sống và chết nghèo.
Người môn đệ của Chúa Giêsu cũng được mời gọi sống theo lý tưởng ấy, Giáo hội tiên khởi cũng đã thực hiện từng chữ lời khuyên khó nghèo của Chúa Giêsu.
Ngày nay, người Kitô hữu noi gương Chúa Giêsu cũng phải có tinh thần nghèo khó, đích thực, biết luôn giữ khoảng cách đối với của cải vật chất, biết sử dụng nó như phương thế để tìm kiếm và xây dựng những giá trị Nước Trời, như thực hiện công bằng, bác ái, liên đới, mưu cầu công ích, chia sẻ với người túng thiếu. Bằng bàn tay và trái tim rộng mở, người Kitô cần phải siêu thoát vật chất, để hết tâm lực và thời giờ vào việc tông đồ mở mang nước Chúa để trở thành lời loan báo và dẫn chứng đích thực rằng nước Chúa đang đến.
Một nam tu sĩ thuộc dòng của Mẹ Têrêsa Calcutta nói với Mẹ: “Thưa Mẹ, ơn gọi của con là phục vụ những người cùi. Con nguyện đem tất cả cuộc sống, tất cả năng lực của con để sống ơn gọi ấy”.
Nghe thế Mẹ Têrêsa giải thích: “Thầy lầm rồi, ơn gọi của Thầy là thuộc về Chúa Giêsu, chính Ngài đã chọn Thầy và công việc mà Thầy đang làm chỉ là phương tiện để diễn tả tình yêu của Thầy đối với Ngài mà thôi. Do đó, công việc mà Thầy chọn không quan trọng, điều quan trọng là thuộc về Ngài, là đón nhận từ Ngài, nhưng phương tiện chỉ để phục vụ Ngài”.
Lạy Chúa, trên hành trình tiến về nhà Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi những ràng buộc của bản thân, của lề thói xã hội, để biết trao ban cho anh em chính Chúa chứ không phải chính con.
Có một linh mục người Mỹ thuộc dòng Tên, giảng dạy tại một trường đại học Công giáo nổi tiếng tại Phi Luật Tân. Ngày kia, tình cờ vị linh mục này đi vào một khu xóm lao động nghèo nàn và gặp một tu sĩ Tiểu đệ người Bỉ. Sau một hồi trao đổi, linh mục người Mỹ đã hỏi tu sĩ người Bỉ như sau: Anh ở đây làm gì vậy. Tu sĩ người Bỉ trả lời: Tôi đi chợ, nấu ăn, giặt giũ quần áo, tôi sống với những người anh em nghèo trong khu xóm lao động này. Nghe thế vị giáo sư người Mỹ có lẽ như tiếc rẻ cho sự hy sinh lãng phí ấy, nên mới nói về mình như sau: Tôi sang đây là để dạy học và thuyết trình, tôi đi đây đi đó, tôi đào tạo những con người hữu ích cho xã hội.
Qua cuộc đối thoại này, có lẽ chúng ta thấy được những khía cạnh khác nhau của việc truyền giáo trong Hội Thánh. Vị linh mục người Mỹ trên đây là điển hình cho một đội ngũ đông đảo các nhà truyền giáo của Hội Thánh trên khắp thế giới, từ thành thị đến nông thôn, từ học đường đến công sở. Nếu có những nhà truyền giáo hăng say hoạt động rao gảing thì cũng có những nhà truyền giáo âm thầm, sống như những chứng nhân. Tựu trung, hoạt động hay sống âm thầm, cả hai hình thức đều có chung một sứ mạng, đó là làm chứng cho Đức Kitô và nước của Ngài. Cả hai đều được sai đi, cả hai đều bị ràng buộc bởi một đòi hỏi giống nhau, đó là làm chứng cho Nước Trời bằng cuộc sống siêu thoát.
Đây là đòi hỏi cơ bản nhất mà Chúa Giêsu đã đề ra cho các môn đệ khi Ngài sai các ông lên đường rao giảng Tin Mừng. Ngài nói với các ông: Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, áo xống, giày dép và đừng chào hỏi ai dọc đường. Một cuộc sống siêu thoát, không lệ thuộc vào của cải trân gian, đó là biểu hiện tiên quyết cho chứng nhân Nước Trời.
Ra đi không hẳn là rời bỏ quê hương của mình để đến những miền đất xa lạ, nhưng chủ yếu là ra khỏi chính mình, ra khỏi con người ích kỷ của mình để đến với tha nhân trong tinh thần hoà giải, yêu thương và phục vụ. Đó là ý nghĩa của mệnh lệnh Chúa truyền: Vào nhà nào trước tiên các con hãy nói: bình an cho nhà này. Hiện diện giữa tha nhân, hiện diện với tha nhân bằng tinh thần chia sẻ, cảm thông và tha thứ, đó chính là sự ra đi đích thực của nhà truyền giáo. Giáo Hội tự bản chất là truyền giáo.
Là thành phần của Giáo Hội, mỗi người tín hữu, tự bản chất cũng là một nhà truyền giáo. Điều đó có nghĩa là những giá trị của Nước Trời cần phải được thể hiện trong chính cuộc sống giữa chúng ta. Chúng ta phải sống thế nào để những người chung quanh nhìn vào sẽ phải thốt lên sự bỡ ngỡ như những người Do Thái ngày xưa nhìn vào các tín hữu tiên khởi đã phải kêu lên: Kìa xem họ yêu thương nhau dường nào.
Bằng lời nói và nhất là bằng cuộc sống dạt dào yêu thương, chúng ta hãy trở nên là những chứng nhân sống động cho Đức Kitô giữa lòng cuộc đời.
Chỉ có mình thánh Luca ghi lại việc sai phái bảy mươi hai môn đệ đi trước sửa soạn cho Chúa Giêsu đến. Điều này phù hợp với việc Chúa kéo dài cuộc hành trình trên đường về Giêrusalem. Công tác của họ chỉ trong một thời gian hạn định, nhưng trong lời huấn thị đưa ra cho họ, Chúa Giêsu đã đưa ra những nguyên tắc căn bản áp dụng cho mọi thời. Trước hết Ngài tỏ cho biết lý do của sự lựa chọn họ: lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Trước khi thế gian nhận được sứ điệp họ mang tới, họ và những người kế vị họ phải tha thiết cầu nguyện với Chúa mùa gặt sai thợ đến. Đó là một lời cầu nguyện mà mọi kẻ phụng sự Chúa Kitô phải dâng lên tự đáy lòng mình. Lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa sẽ khiến chúng ta cố gắng hoàn thành công tác mau chóng hơn, và muốn được vậy cần phải có đông công nhân hơn.
Đối với người Do Thái, số bảy mươi hai là số biểu tượng. Đó là số các trưởng lão đã được lựa chọn để giúp đỡ lãnh tụ Môsê, với phận sự điều khiển, hướng dẫn dân chúng trong sa mạc. Đó là số thành viên của Hội đồng quốc gia. Nếu số bảy mươi hai chỉ đoàn thể nào trong hai đoàn thể đó thì họ cũng là phụ tá cho Chúa Giêsu. Số đó cũng được coi như số các nước trên thế giới lúc bấy giờ. Luca là người có tầm mắt quốc tế, có lẽ ông đang nghĩ đến một ngày mà mọi nước trên thế giới sẽ nhận biết và yêu mến Chúa Giêsu, như ông đang yêu mến Ngài vậy.
Đoạn Kinh Thánh cho ta biết mấy điều hết sức quan trọng về người truyền đạo cũng như thính giả.
1) Người rao giảng khi ra đi phải sẵn sàng chấp nhận sự hiểm nguy “như chiên giữa bầy muông sói”, nhưng họ cũng đừng để cho lòng bối rối vấn vương vào những sự thế tục. Sứ giả cần lên đường cách nhẹ nhàng.
2) Người rao giảng cần phải chú tâm vào bổn phận của mình, đừng phí thời giờ vào những nghi lễ lạt lẽo vô vị, nhưng phải ra đi như những con người được thúc giục bởi một động lực cao cả; “Người ấy không được chào ai dọc đường”; điều này nhắc lại lời tiên tri Êlisa bảo tên đầy tớ Giêkhađi đi giúp cho bà ân nhân đất Sunêm khi đứa con đã chết: “Hãy thắt lưng, cầm gậy của ta mà đi! Gặp ai thì đừng có chào, ai chào thì đừng đáp lại” (2V4,29). Đó không phải là dạy làm điều bất lịch sự nhưng là người của Thiên Chúa không nên quay ngang hoặc trì trệ vì những điều nhỏ nhặt đang khi những việc lớn chờ đợi kêu gọi mình.
3) Người rao giảng không nên làm việc để kiếm tư lợi. Người ấy nên ăn những món người ta dọn cho mình, không nên đi từ nhà này qua nhà khác cố ý tìm nơi dễ chịu hơn, đầy đủ tiện nghi hơn. Chẳng bao lâu sau khi Hội Thánh được thiết lập đã có những hạng người ăn bám. Cuốn “Giáo lý của mười hai tông đồ” được viết khoảng năm 100 là cuốn sách về trật tự Hội Thánh đầu tiên. Trong thời đó có những tiên tri đi lang thang từ thành này sang thành khác. Sách đã quy định rằng, nếu vị tiên tri nào muốn ở lại nơi nào lâu hơn ba ngày mà không có việc làm thì kẻ ấy là tiên tri giả, và nếu tiên tri nào xưng mình ở trong Thánh Linh mà xin tiền hay xin thức ăn thì kẻ ấy là tiên tri giả. Người thợ đáng lãnh tiền công, nhưng đầy tớ của Đấng chịu đóng đinh không thể là một kẻ say mê lạc thú.
Ngay từ khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, người Kitô hữu đã được Chúa Cứu Thế kêu mời thi hành sứ mệnh: “Hội Thánh nhân danh Thiên Chúa hết sức kêu mời tất cả các giáo dân, hưởng ứng sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, hãy mau mắn, đại độ và sẵn sàng đáp lại tiếng gọi của Chúa Kitô, Đấng giờ đây đang thiết tha mời gọi họ. Ước gì giới trẻ hiểu rằng lời mời gọi của Người được đặc biệt gởi tới họ và ước gì họ vui mừng quảng đại đón nhận. Quả thật chính Chúa Giêsu một lần nữa nhờ Thánh Công Đồng này, mời gọi tất cả các giáo dân hãy kết hợp với Người ngày một mật thiết hơn và nhận thức được những gì của Người cũng là của chính mình (Ph 2,5). Họ hãy tham gia vào sứ mạng cứu rỗi của chính Người và một lần nữa Ngài sai họ đi tới các thành và những nơi Người sẽ đến. Như thế giáo dân hãy chứng tỏ mình là cộng tác viên của Chúa Giêsu cộng tác vào cùng một công việc tông đồ của Giáo Hội bằng nhiều hình thức và phương tiện khác nhau. Những cộng tác viên phải luôn thích nghi với những đòi hỏi mới của thời đại và không ngừng ra sức phục vụ Chúa bởi biết rằng khó nhọc của mình không phải là uổng phí trong Người” (TĐ33).
Đức Kitô muốn thông ban cho các môn đệ lòng can đảm trong việc tông đồ nên khi Ngài nói “Ta sai các con” điều mà thánh Gioan Kim Khẩu chú giải: “Điều này đủ cho các ngươi được can đảm, điều này làm cho các ngươi được tin tưởng”. Các sứ giả được can đảm vì ý thức rằng mình được Thiên Chúa sai đi, như sau này Phêrô giải thích rõ ràng cho Thượng Hội Đồng ông hành động như thế nhân danh Đức Giêsu Nagiarét, “vì dưới gầm trời này không có danh nào khác khiến người ta được cứu rỗi”. Rồi thánh Grêgôriô Cả thêm vào để giải thích huấn thị của Chúa: Đừng mang bao bị giày dép, đừng chào hỏi ai dọc đường, Người rao giảng phải đặt niềm tin vào Chúa tới độ dầu không trang bị cho mình những nhu cầu để sống, vẫn xác tín rằng sẽ không thiếu. Thật thế, nếu Ngài bận tâm cho những sự thế tục, Ngài sẽ không thể ban phát chung quanh Ngài những sự trên trời. Truyền giáo đòi hỏi một sự hiến thân bao gồm sự từ bỏ, thế nên thánh Phêrô là người đầu tiên thực hành lời dạy của Chúa và đã nói với người hành khất ở Cửa Đẹp đền thờ: “Vàng bạc thì tôi không có”. Thánh Ambrôsiô thêm vào “không phải để phô trương sự nghèo khó, nhưng đúng hơn để vâng phục lệnh Chúa, dường như Ngài muốn bảo anh: Thấy tôi là một môn đệ của Đức Kitô mà anh lại xin tiền à? Chúng ta có thể cho anh ta cái gì còn có giá trị hơn vàng bạc nữa; quyền năng hành động nhân danh Chúa. Tôi không có cái mà Chúa Kitô không cho tôi, nhưng tôi có cái mà Ngài cho tôi: nhân danh Chúa Giêsu thành Nagiarét anh hãy dậy mà đi”. Do đó, việc truyền giáo đòi hỏi phải siêu thoát của cải vật chất, cũng như phải luôn luôn mau lẹ sẵn sàng vì công việc cấp bách.
“Đừng chào hỏi ai dọc đường”. Thánh Ambrôsiô tự hỏi “Sao lại thế? Chúa lại bỏ qua một việc xã giao thường tình? Nhưng phải để ý Chúa không bảo đừng chào ai nhưng bảo đừng chào ai dọc đường, không thừa đâu!
Khi tiên tri Êlia sai tên đầy tớ đi cứu giúp đứa con bà góa bằng cách để cây gậy của vị tiên tri trên đứa bé đã chết, ông cũng ra lệnh đừng chào hỏi ai dọc đường: Ông có ý bảo phải mau mau cứu bé sống lại, đừng để chậm trễ vì những người cùng đi đường với mình. Như thế không phải bỏ qua hết phép lịch sự xã giao, nhưng hạn chế những gì ngăn trở để việc phục vụ được mau lẹ. Khi Thiên Chúa đã bảo, điều gì thế tục phải tạm thời để qua một bên, chào hỏi nhau là tốt, nhưng tốt hơn là thi hành cho mau điều Chúa dạy vì chậm trễ có thể trở nên vô ích.
Về phần thính giả, lời Chúa hôm nay dạy rằng nghe lời Thiên Chúa là một trách nhiệm lớn. Người ta sẽ chịu phán xét theo những gì mình đã may mắn biết được. Chúng ta không chấp trách trẻ con điều mà chúng ta kết án người lớn, chúng ta tha thứ cho người man ri những thái độ, hành động mà nếu xảy ra nơi người văn minh thì bị trừng phạt. Trách nhiệm là mặt trái của đặc ân. Chối bỏ lời mời của Thiên Chúa là một tai họa. Ở một phương diện thì mỗi lời hứa của Chúa có thể thành lời buộc tội cho người nào nghe đến. Nếu người ấy tiếp nhận các lời hứa đó thì quả thật đó là sự vinh hiển nhất, nhưng nếu người ấy xén bỏ đi, thì một ngày kia, lời ấy sẽ là chứng cớ nghịch lại cùng người ấy vậy.
Bảy mươi hai môn đệ trở về với vẻ mặt sáng rỡ vì những chiến thắng đã dành được trong danh Chúa. Ngài nói với các ông một câu khó hiểu: “Ta thấy satan bị tấn công và nước Thiên Chúa xuất hiện”. Nó có thể có nghĩa là Chúa Giêsu biết rằng nhát đòn tử thương đã giáng xuống satan và các quyền lực của nó, tuy rằng chiến thắng cuối cùng có thể còn trì hoãn lâu.
Nhưng câu đó cũng có thể là lời cảnh báo cho tính kiêu căng. Vì do kiêu ngạo satan chống nghịch Thiên Chúa, nên đã bị ném ra khỏi trời. Có thể Chúa Giêsu ngụ ý cùng bảy mươi hai môn đệ rằng: “Các ngươi đã thu hoạch được nhiều thắng lợi, hãy giữ mình kẻo sinh kiêu ngạo”. Chúa Giêsu luôn cảnh báo các tôi tớ Ngài về tội kiêu ngạo và quá tự tín. Quả thực họ được Chúa ban cho mọi quyền phép, nhưng vinh hiển lớn nhất của họ là được ghi tên vào sổ trên trời. Có một điều mãi mãi là sự thật, ấy là vinh hiển lớn nhất của con người không phải là những gì mình đã làm được, mà là những gì Chúa đã làm cho mình. Có người cho rằng việc khám phá ra thuốc mê đã giúp con người giảm bớt đau đớn nhiều hơn bất cứ khám phá nào khác trong y khoa. Một hôm có người hỏi James Simpson: “Ông cho điều gì là khám phá lớn nhất của ông?” và mong đợi câu trả lời rằng: “Thuốc mê”, vì chính ông là người đã khám phá ra môn thần dược này. Nhưng Simpson đã trả lời: “Khám phá lớn nhất của tôi là Chúa Giêsu, Chúa Cứu Chuộc của tôi”. Tính kiêu ngạo đã cản đường lên thiên đàng, nhưng đức khiêm nhường là giấy thông hành để được gặp Chúa.
Chúa sửa sai thái độ của các môn đệ khi chỉ cho các ông lý do thật để vui mừng, đó là niềm hy vọng đạt nước thiên đàng chứ không phải trong quyền năng làm phép lạ, khi Người trao sứ mạng này cho các ông. Trong dịp khác, Chúa cũng cho một bài học tương tự (Mt 7,22-23). Trước mắt Chúa, thi hành ý Ngài quan trọng hơn là làm phép lạ.
Trong suốt cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã rảo khắp các nẻo đường xứ Palestien để rao giảng Tin Mừng. Đồng thời, Ngài cũng đã chọn lựa và sai phái các môn đệ ra đi, để tiếp tay với Ngài trong sứ mạng cao cả ấy.
Tuy nhiên những cố gắng ấy dường như không đáp ứng nổi với nhu cầu khẩn thiết, vì thế mà Chúa đã nói:
– Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ tới gặt lúa.
Trải qua dòng thời gian, lời xác quyết này vẫn còn là một sự thật, bởi vì ngày hôm nay con số những người tin nhận Chúa mới chiếm được 30%, và riêng những người Công giáo thì mới chỉ được có 17% dân số trên thế giới.
Đồng thời qua lời xác quyết ấy, Chúa cũng muốn kêu mời chúng ta hãy trở nên là những người thợ gặt của Chúa. Có nghĩa là, chúng ta cũng hãy góp phần vào việc truyền bá đức tin, làm cho Giáo hội được phát triển. Dĩ nhiên chúng ta có rất nhiều phương pháp để rao giảng Tin Mừng.
Chẳng hạn bằng việc ra đi như các tông đồ các vị thừa sai, bằng việc cầu nguyện như các vị tu sĩ trong dòng kín… Thế nhưng, hôm nay tôi muốn giới thiệu tới quí ông bà một phương pháp mà mỗi người chúng ta đều có bổn phận phải thực hiện, đó là truyền giáo bằng chính đời sống, bằng chính gương sáng của chúng ta.
Để hiểu được hậu quả tốt đẹp mà phương pháp này đem lại, tôi xin kể hai mẩu chuyện nho nhỏ.
Mẩu chuyện thứ nhất đó là có một người Tin Lành, nghe tiếng cha Vianney là một người đạo đức thánh thiện, bèn tìm đến xứ Ars để kiểm tra sự thật. Sau khi ra về, người ta hỏi ông đã thấy được những gì, thì ông trả lời:
– Tôi đã thấy Thiên Chúa trong một người.
Và sau đó thì ông đã trở lại với Giáo hội Công giáo.
Mẩu chuyện thứ hai đó là có một người khô khan nguội lạnh, tình cờ đi ngang qua nhà thờ, ông thấy một cô bé đang dẫn mấy em nhỏ vào nhà thờ. Ông đứng quan sát và rồi đã đi theo cô bé. Thấy nét mặt trang nghiêm và sốt sắng của cô bé khi cầu nguyện, ông đã thực sự xúc động, và rồi cuối cùng, ông cũng đã trở về cùng Chúa.
Với hai mẩu chuyện này chúng ta thấy được sức cảm hóa của gương sáng như thế nào. Tục ngữ Việt Nam cũng bảo:
– Lời nói như gió lung lay, việc làm như tay lôi kéo.
Hay như một câu danh ngôn cũng đã nói:
– Gương sáng chính là một bài giảng hùng hồn nhất, có sức lôi cuốn và thuyết phục người khác.
Đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta chính là một thứ ánh sáng cần thiết cho xã hội như lời Chúa đã phán:
– Các con là ánh sáng thế gian. Bởi vì nhờ các việc chúng ta làm mà người khác sẽ nhận ra sự hiện diện của Chúa, để rồi cũng sẽ tin nhận Ngài.
Giữa một thế giới đã xa lìa Thiên Chúa, đang chìm dần vào sa đọa và tội lỗi, thì chúng ta có bổn phận phải thắp lên một ngọn lửa, chứ đừng ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.
Và ngọn lửa chúng ta thắp lên là gì? Tôi xin thưa đó chính là đời sống gương mẫu của mỗi người chúng ta.
Vào thời Chúa Giêsu sinh ra lớn lên và họat động truyền giáo thì đất nước Do-thái bị đế quốc Rôma cai trị. Vì thế mà người Do-thái phải nộp thuế cho nhà vua là Cêsarê. Cũng vì thế mà đồng tiền Lamã với hình ảnh của vua Cêsarê, được sử dụng. Dĩ nhiên sống dưới sự đô hộ của đế quốc Roma thì phần đông dân chúng Do-thái bầt mãn và mong chờ một cuộc lật đổ. Nhưng cũng có không ít kẻ làm chó săn, tìm cách lập công với nhà cầm quyền và làm hại các đồng hương cua mình.
Đó là bối cảnh của câu chuyện được kể lại trong Bài Phúc âm Chúa nhật XXIX thường niên năm A hôm nay (Mt 22,15-21). Các biệt phái cử người đến hỏi Chúa Giêsu: “Có được phép nộp thuế cho Cêsarê hay không?" Biết ý đồ thâm độc của các biệt phái, Chúa Giêsu đã trả lời “Của Xêda trả về Xêda, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa"
Thật ra Chúa Giêsu không chỉ trả lời cho thắc mắc của các biệt phái Do-thái mà Người còn trả lời cho tất cả mọi người và mọi chính quyền dân sự trên thế giới và trong mọi thời đại; vì chưng người ta chỉ biết đến quyền lợi của riêng mình mà không quan tâm đến quyền lợi của Thiên Chúa nên dễ dàng xâm phạm. Nhà cầm quyền của đế quốc Roma và của nhiều nước khác đã lạm quyền mà Thiên Chúa đã giao cho họ để phục vụ dân tộc đất nước họ, nên đã không tôn trọng, thậm chí tiếm đoạt, nhiều quyền thuộc về Thiên Chúa, thuộc về người dân.
Chúng ta được mời gọi suy gẫm cho thấu đáo và thực hành cho đến nơi đến chốn sứ điệp của Lời Chúa trong ngày Truyền Giáo hôm nay.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (Is 45,1.4-6): "Ta đã cầm tay hữu của Cyrô để bắt các dân suy phục trước mặt nó" Đây Chúa phán cùng Cyrô, kẻ xức dầu của Chúa mà Ta đã cầm tay hữu nó, để bắt các dân suy phục trước mặt nó, bắt các vua quay lưng lại, mở các cửa trước mặt nó, và các cửa không được đóng lại:
Nhân vì Giacóp tôi tớ Ta, và Israel kẻ Ta kén chọn, Ta đã gọi đích danh ngươi: Ta đã kêu gọi ngươi khi ngươi không nhận biết Ta. Ta là Chúa, và chẳng còn chúa nào khác: ngoài Ta ra, không có Thiên Chúa nào nữa. Ta đã thắt lưng cho ngươi khi ngươi không nhận biết Ta, để các kẻ từ đông sang tây nhận biết rằng ngoài Ta ra không có ai khác: Ta là Chúa, và chẳng có chúa nào khác.
2.2 Trong bài đọc 2 (1 Tx 1,1-5b): "Tôi hằng nhớ đến đức tin, đức cậy và đức mến của anh em" Phaolô, Silvanô và Timôthêu kính gửi giáo đoàn thành Thêxalônica trong Thiên Chúa Cha và trong Chúa Giêsu Kitô. Nguyện chúc cho anh em được ân sủng và bình an.
Tôi hằng tạ ơn Thiên Chúa cho mọi người anh em, trong khi tôi cầu nguyện, tôi hằng nhớ đến anh em không ngừng; tôi nhớ đến sự nghiệp của lòng tin, công việc của lòng bác ái, sự vững lòng trông cậy của anh em vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta. Hỡi anh em là những kẻ được Thiên Chúa yêu mến, tôi từng biết anh em được Chúa tuyển chọn, bởi vì Tin Mừng của chúng tôi ở nơi anh em, không phải chỉ với lời nói mà thôi, mà là với quyền năng, với Thánh Thần và với lòng xác tín. .
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 22,15-21): "Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho ông Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa" Khi ấy, các người biệt phái họp nhau lại bàn mưu để bắt bẻ Chúa Giêsu trong lời nói. Các ông sai môn đồ của các ông đi với những người thuộc phái Hêrôđê đến nói với Người rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người ngay chính, căn cứ theo sự thật mà dạy bảo đường lối Thiên Chúa. Thầy chẳng cần để ý đến ai, vì Thầy không tây vị người nào. Vậy xin Thầy nói cho chúng tôi biết Thầy nghĩ thế nào: Có được phép nộp thuế cho Cêsarê hay không?" Chúa Giêsu thừa hiểu ác ý của họ, nên nói: "Bọn người giả hình, các ngươi gài bẫy Ta làm gì? Hãy đưa Ta xem đồng tiền nộp thuế". Họ đưa cho Người một đồng bạc. Và Chúa Giêsu hỏi họ: "Hình tượng và danh hiệu này là của ai?" Họ thưa rằng: "Của Cêsarê". Bấy giờ Người bảo họ rằng: "Vậy, cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa".
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
- là Đấng đã làm cho vua Kyrô được các dân xung quanh quy phục vì Thiên Chúa muốn dùng vua ấy để làm cho các dân biết rằng Người là Thiên Chúa duy nhất trên trần gian này không có Chúa nào khác (bài đọc 1).
- là Chúa Giêsu, Đấng đã xử sự một cách hết sức khôn ngoan và tỉnh táo trước lòng nham hiểm và thâm độc của những kẻ thù ghét Người. Chúa Giêsu chẳng những không để cho mình sa bẫy của họ mà Người còn lợi dụng cơ hội để truyền đạt một giáo huấn hết sức quan trọng trong cuộc sống con người thời xưa cũng như thời nay: nếu các vua chúa thời xưa và các chính quyền ngày nay có quyền của mình (thật ra thì quyền này cũng do chính Thiên Chúa ban cho) thì Thiên Chúa cũng có quyền của mình. Chúa Giêsu đòi hỏi quyền này cho Thiên Chúa, vì các nhà cầm quyền thường có xu hướng lãng quên, không nhìn nhận và thậm chí tiếm quyền của Thiên Chúa: "Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa" (bài Phúc âm).
- là Chúa Thánh Thần, Đấng hiện diện và hành động cùng Chúa Cha và Chúa Giêsu. Người cũng là Đấng tác động và giúp đỡ các Kitô hữu và những ai thành tâm thiện chí nhìn nhận quyền của Thiên Chúa mà tôn trọng trong đời sống cá nhân và xã hội.
3.2 Giáo Huấn của Thiên Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?):
Qua ba bài Sách Thánh, chúng ta khám phá ra giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: Giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa được diễn tả trong hai câu Lời Chúa, một ở trong Sách Isaia, một ở trong Phúc Âm Mátthêu:
“Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác; chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ Ta” (Is 45,5) và “Của Cêsarê, trả về Cêsarê; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa" (Mt 22,21).
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn đối với Đấng ban ơn, như tạo vật đối với Đấng Tạo Hóa, như đầy tớ đối với ông chủ.
4.2 Thực thi sứ điệp (hay giáo huấn) của Lời Chúa
chúng ta có hai việc phải làm:
* Một là chúng ta CHỈ TÔN THỜ MỘT MÌNH THIÊN CHÚA MÀ THÔI và
NHÌN NHẬN QUYỀN TỐI THƯỢNG & TUYỆT ĐỒI CỦA THIÊN CHÚA
trên tất cả những gì chúng ta đã đang và sẽ có: hiện hữu của chúng ta với thân xác và linh hồn bất tử, tài năng, sức khỏe, của cải, thời gian và hoàn cảnh xã hội của chúng ta như những nén vàng nén bạc mà Thiên Chúa trao cho chúng ta quản lý và sinh lời sinh lãi cho Nước Trời.
* Hai là chúng ta phải tôn trọng và bảo vệ quyền của Thiên Chúa trong đời sống con người và cộng đồng xã hội, bằng cách tôn trọng và bảo vệ sự sống, phẩm giá và quyền con người, công lý và sự thật.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 «Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác; chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ Ta» Chúng ta hãy hiệp lời cầu nguyện cho các dân, các nước trong thế giới ngày nay để mọi người và mọi dân sớm nhìn nhận Thiên Chúa là Chúa, là Thần Linh duy nhất trong vũ trụ này.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 «Thưa anh em là những người được Thiên Chúa thương mến, chúng tôi biết rằng Thiên Chúa đã chọn anh em» Chúng ta hãy hiệp lời cầu nguyện cho Đức Thánh Cha Phanxicô, các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ Nam Nữ và cho toàn thể các tín hữu, để mọi Kitô hữu cảm nghiệm được tình yêu nhưng không và sự chọn lựa yêu thương của Thiên Chúa.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 «Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình!» Chúng ta hãy hiệp lời cầu nguyện cho các mọi người thuộc giáo xứ/cộng đoàn chúng ta, để mọi người sống chân thật với Chúa và với nhau như ý Chúa muốn.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 «Của Cêsarê, trả về Cêsarê; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa» Chúng ta hãy hiệp lời cầu nguyện cách đặc biệt cho các cấp chính quyền Việt Nam để mọi quan chức nhà nước biết tôn trọng quyền của Thiên Chúa và của người dân khi điều hành mọi hoạt động kinh tế, tài chánh, văn hóa, chính trị và xã hội của đất nước.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Sàigòn ngày 18 tháng 10 năm 2023 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Hôm nay toàn thể Giáo Hội dành Chúa Nhật này để suy niệm về bản chất truyền giáo của mình và mời gọi từng tín hữu tích cực loan báo Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô cho muôn loài. “Vì khi chúng ta loan báo Tin Mừng, không phải chỉ có lời chúng ta nói mà còn có quyền năng, có Thánh Thần và một niềm xác tín sâu xa” (1Ths 1,5) như thánh Phaolô quả quyết trong Bài đọc II.
Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ 16 đang họp tuần cuối ở Rôma và sẽ kết thúc vào ngày 29/10. Chủ đề Thượng Hội đồng nhắc nhở ta về sứ mệnh truyền giáo: muốn có một Giáo Hội đồng hành với thế giới và nhân loại, ta cần phải hiệp thông với Chúa Ba Ngôi để nhận được quyền năng và ân sủng Thánh Thần, từ đó ta mới có thể tham gia vào mọi hoạt động của Giáo Hội và mới thi hành các sứ vụ truyền giáo cách hiệu quả.
Hôm nay cũng là ngày lễ kính nhớ thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, vị thánh đã định hướng việc truyền giáo cho thời đại hôm nay là phải “hội nhập văn hoá để loan báo Tin Mừng” thì mới có kết quả, nhưng nhiều người lại không quan tâm. Vì thế, chúng ta dành ít phút để tìm hiểu điều này.
1. Lịch sử truyền giáo gắn chặt với việc hội nhập văn hoá
Công đồng Vaticanô II đã xác định trong Sắc lệnh Truyền giáo Ad Gentes ở số 2 rằng: “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành là người được sai đi vì cội nguồn của Giáo Hội gắn liền với việc Chúa Con và Chúa Thánh Thần được sai đến theo ý định của Chúa Cha”. Như thế, Giáo Hội tự bản chất mang tính truyền giáo.
Sau khi con người phạm tội, Chúa Cha đã cho Con của Ngài là Ngôi Lời Nhập thể trở thành người, để đưa tất cả nhân loại và vũ trụ trở về với mình và được chia sẻ sự sống vĩnh hằng của con cái Thiên Chúa. Nhờ Chúa Thánh Thần quy tụ, Chúa Giêsu Kitô đã thiết lập các môn đệ thành một dân mới là Giáo Hội và sai họ đi khắp thế gian để loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Do đó, lịch sử Giáo Hội chính là lịch sử truyền giáo và lịch sử của mỗi người môn đệ cũng là việc giới thiệu con đường của Đức Giêsu.
Tuy nhiên, việc giới thiệu Đức Giêsu và những lời dạy của Người cho một cá nhân hay cho một dân tộc tuỳ thuộc vào trình độ văn hoá của người loan báo Tin Mừng và cả người được loan báo, nghĩa là họ có khả năng nói cho người khác nghe và hiểu về Đức Giêsu để đón nhận Người.
Hoạt động truyền giáo này tương tự như mầu nhiệm nhập thể và nhập thế của Đức Giêsu. Người là Ngôi Lời Thiên Chúa vô hình, đã hoà nhập vào thế giới hữu hình, đón nhận nền văn hoá cụ thể của dân tộc Do Thái để rao giảng về Chúa Cha và giới thiệu con đường sự thật và sự sống của Người, như lời xác định trong bài Tin Mừng (x. Mt 22,15-21): “Chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa”.
Người cũng dùng cách suy nghĩ, các từ ngữ, hành vi, tâm tình của con người đồng thời với mình để loan báo Tin Mừng cứu độ. Đây là hoạt động mà ngày nay chúng ta gọi là hội nhập văn hoá, nghĩa là đem những giá trị cao quý của Thiên Chúa hoà nhập vào đời sống con người và biến đổi những giá trị tốt đẹp của con người thành cao quý, siêu việt như Thiên Chúa.
Lịch sử Giáo Hội toàn cầu và lịch sử Giáo hội Việt Nam đã chứng thực rằng khi người tín hữu rao giảng và sống theo những giá trị của Tin Mừng, họ luôn lôi cuốn và biến đổi người khác, biến đổi cả dân tộc và thế giới đi theo Chúa Giêsu Kitô.
Giáo Hội Công giáo đã giới thiệu cho xã hội loài người thời đó nền văn hoá Công giáo với những giá trị nền tảng. Giá trị cao cả nhất là Thiên Chúa Ba Ngôi như một sự thật để loại bỏ tất cả các thần linh giả tạo của tôn giáo Hy Lạp và La Mã. Giá trị con người với thể xác cần được tôn trọng và linh hồn bất tử cần được cứu độ thay cho nền văn hoá La Mã tôn thờ thân xác với các dục vọng của nó và đối xử tàn tệ với các dân tộc làm nô lệ cho họ. Giá trị của gia đình một vợ một chồng, chung thuỷ với nhau cho đến chết, bảo vệ nuôi dạy con cái thay vì đa thê, trọng nam khinh nữ, phá thai của xã hội thời đó. Giá trị của nền dân chủ cộng đồng đặt nền tảng trên tình yêu Thiên Chúa dành cho mọi người thay vì dựa trên quyền lợi và sức mạnh chiếm đoạt của con người dành cho một cá nhân hay một dòng họ theo chế độ quân chủ độc tài.
Các giá trị này đã biến đổi nhiều dân tộc và cả cộng đồng nhân loại cho đến ngày nay. Mỗi khi Giáo Hội thực hành việc hội nhập văn hoá là Giáo Hội thành công trong việc truyền giáo.
2. Hội nhập văn hoá để loan báo Tin Mừng
Công đồng VaticanôII đã nhận ra định luật hội nhập văn hoá này nên đã thúc đẩy việc hội nhập văn hoá của Giáo Hội trong các văn kiện của mình. Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã phân tích sâu xa định luật này trong Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, ban hành tại Ấn Độ ngày 6/11/1999 ; ngài nhắc đến cả trăm lần từ văn hoá và hội nhập văn hoá trong một tông huấn. Còn ĐGH Phanxicô đã đúc kết Thượng Hội đồng Giám mục 13 năm 2012 với chủ đề: “Tân Phúc Âm hoá để thông truyền đức tin Kitô” bằng Tông huấn Niềm vui Tin Mừng cũng nói nhiều đến hội nhập văn hoá.
Tuy nhiên, nhiều người Việt Nam chưa hiểu hội nhập văn hoá là gì. Người ta nghĩ rằng hội nhập văn hoá là mặc các bộ quần áo thời xưa, xây dựng nhà thờ với mái cong như đình chùa ở Việt Nam, hát các bài Thánh ca theo điệu nhạc dân tộc… mà không quan tâm đến việc phổ biến các giá trị nền tảng của nền văn hoá Công giáo bằng chính đời sống hằng ngày của mình.
Dù đau lòng, nhưng ta phải nhận ra sự thật này là nhiều người thời nay thờ ơ với tôn giáo, nhất là những người trẻ, và việc loan báo Tin Mừng không có kết quả khả quan ở hầu hết các nước trên thế giới, trừ một vài nước biết hội nhập văn hoá như Hàn Quốc. Người Công giáo hiện nay chỉ chiếm 17,7% dân số thế giới. Lịch sử đã cho chúng ta thấy rằng khi những giá trị căn bản của Kitô giáo được các tín hữu can đảm loan báo bằng chính đời sống liêm chính, tốt đẹp, an vui thì đó là những thời kỳ truyền giáo hiệu quả.
Một điểm quan trọng nữa đó là việc hội nhập văn hoá đòi hỏi người tín hữu “đồng hành với thế giới và con người thời đại”. Những khám phá mới nhất của khoa học về con người trong khoảng 20 năm gần đây là lợi thế để giúp nhân loại xác tín về vị trí của con người trong vũ trụ, về giá trị của tinh thần con người không phải do tiến hoá tự nhiên của vật chất, về sự hiện hữu đầy yêu thương của Thiên Chúa. Nhưng những ngôn ngữ mới để truyền giáo đó lại chưa được tín hữu Công giáo biết đến. Điểm quan trọng thứ hai là xác tín về sự hiệp thông với Chúa Ba Ngôi vì chỉ khi nào ta gắn bó mật thiết với Chúa Ba Ngôi, ta mới nhận được tình yêu của Chúa Cha, quyền năng của Chúa Con và ân sủng của Chúa Thánh Thần để loan báo Tin Mừng và chứng minh lời loan báo bằng việc chữa lành bệnh nhân, xua trừ ma quỷ và những phép lạ kèm theo như Chúa Giêsu.
Lời kết
Cầu chúc anh chị em trở thành những chứng nhân sống động của Chúa Giêsu qua việc loan báo Tin Mừng của Người. Amen.
Lệnh truyền của Chúa vẫn còn vang dội cho đến tận thế: “Anh em hãy ra đi và làm cho muôn dân Truyền_giáo 229
Lệnh truyền của Chúa vẫn còn vang dội cho đến tận thế: “Anh em hãy ra đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”. Giáo Hội vẫn tiếp tục vâng theo và nỗ lực thi hành. Giáo Hội được sai đi, nghĩa là tất cả mọi người con cái Giáo Hội cũng phải ra đi, đem Tin Mừng cứu độ cho mọi người. Thế giới hôm nay là không gian hoạt động của chúng ta. Chúa không chỉ hạn chế hồng ân cứu độ của Ngài trong dân Itraen mà thôi, mà muôn dân đều phải được hưởng nhờ. “Ý định của Chúa Cha là cứu vớt hết mọi người”. Chúa Giêsu đến trần gian là để thực hiện ý định cứu độ đó của Chúa Cha. Tin Mừng của Chúa không chỉ dành cho dân Do Thái hay một số người nào, mà cho mọi người ở mọi thời. Giáo Hội là công giáo, là dành cho mọi người. Giáo Hội không biết đến ranh giới, không phân biệt màu da chủng tộc, không dừng lại trong một trạng thái nào, cũng không là một pháo đài mà là cánh cửa luôn luôn rộng mở.
Khi ban lệnh truyền ra đi nầy, Chúa Giêsu nói rõ: “Mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy”. Lệnh truyền nầy không là của một con người mà là của một Thiên Chúa nắm quyền trên trời dưới đất. Ngài đã chiến thắng tội lỗi và sự chết mở ra con đường sự sống cho mọi người. Ngài chính là Con Một Chúa Cha hằng sống, là “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là ánh sáng thế gian, là đường, là sự thật và là sự sống”. “Ngài là Tình Yêu”.
Lệnh truyền của Ngài là lệnh truyền của tình yêu. Con người luôn đói khát tình yêu. Truyền giáo chính là mang tình yêu đến cho mọi người, chính là mang Thiên Chúa Tình Yêu cho con người đang đói khát tình yêu, đang sống trong hận thù tranh chấp. Vì thế yêu thương là truyền giáo và truyền giáo là yêu thương. Không biết yêu thương là không thể truyền giáo. Không thể truyền giáo mà không yêu thương. Muốn thế, phải gắn bó với Thánh Thần Tình Yêu, không có Ngài chúng ta chỉ là những cây khô không trái. Truyền giáo không phải là dạy một lý thuyết mà là mang tình yêu đến người mình yêu. Chúng ta hãy đọc lại bài ca bác ái của thánh Phaolô: “Không có bác ái, chúng ta chỉ là những não bạt phèn la inh ỏi” mà chẳng lợi ích gì cho ai.
Chúa Giêsu là nhà truyền giáo đầu tiên, vì Ngài là Tình Yêu. Ngài chính là Tin Mừng Cứu độ. Ngài đến trần gian vì Ngài yêu thương trần gian, thi hành đến cuối cùng ý định của Chúa Cha.
Ngài biết, khi mặc lấy xác phàm, Ngài chỉ sống trong một thời gian, vì thế Ngài đã kêu gọi các môn đệ để tiếp tục công trình của Ngài. Ngài đã sai họ ra đi, mặc dù giữa sói dữ. Nhưng Ngài đã bảo đảm: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Công việc Ngài giao sẽ phải tiếp tục đến tận thế. Giáo Hội không ngừng hoạt động cho danh Cha cả sáng.
Sau khi lãnh nhận sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ đã không ngừng đi ra rao giảng. Tin Mừng bắt đầu cuộc hành trình dài đi vào thế giới. Mặc dù bị bách hại triền miên, các ngài vẫn tiếp tục vâng theo lệnh truyền của Chúa, và đã chết cho Chúa. Thánh Phaolô, nhà truyền giáo không mỏi mệt đã bôn ba khắp nơi, làm tôi tớ của Tin Mừng, phục vụ Tin Mừng, và cũng đã nhận lấy triều thiên tử đạo như Ngài mong ước.
Qua hơn hai mươi thế kỷ, biết bao công khó đã đổ ra vì Tin Mừng. Biết bao nhiêu máu đào đã đổ ra vì Tin Mừng, vì yêu thương những người anh em chưa biết được hạnh phúc của mình, chưa nhìn thấy được ánh sáng mang lại sự sống. Ma quỷ đã tự xưng là đạo binh, gieo rắt sự chết, chúng ta cũng là đạo binh mang lại sự sống.
Nhưng chúng ta thấy rằng, thời Giáo Hội sơ khai, tất cả mọi người theo Chúa đều những nhà truyền giáo, và họ đã truyền giáo bằng cả cuộc sống yêu thương của họ, yêu thương nhau và yêu thương mọi người. Họ cảm thấy phải loan truyền Tin Mừng vì họ cảm thấy được hạnh phúc khi lãnh nhận Tin Mừng, họ không thể giữ cho riêng mình hạnh phúc mà họ đã lãnh nhận. Chúng ta cũng theo gương lành đó để tự biến thành những người rao giảng Tin Mừng dù chúng ta chỉ là những con người tầm thường, không có trình độ cao, nhưng có lòng mến cao độ.
Trong Giáo Hội, qua hai ngàn năm, vẫn có biết bao nhiêu chiến sĩ truyền giáo khắp nơi như thánh Phanxicô Saviê đăng trình rao giảng Tin Mừng. Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, dù ở trong bốn bức tường tu viện, ngài vẫn luôn truyền giáo bằng lời cầu nguyện và những hi sinh hằng ngày, và biết bao nhiêu đấng thánh khác.
Các Đức Giáo Hoàng vẫn không bao giờ ngơi nghỉ thúc giục việc truyền giáo. Những Giáo Hoàng gần đây là những vị Giáo Hoàng truyền giáo. Các Ngài không những thúc giục bằng những thông điệp mà bằng cả việc làm. Đức chân phước Phaolô VI, Thánh Gioan-Phaolô II, Đức đương kim Giáo Hoàng Phanxicô đã đi khắp năm châu rao giảng Tin Mừng. Công Đồng Vatican II là một Công Đồng truyền giáo. Chúng ta có thể đọc lại những Sắc lệnh của Công Đồng về truyền giáo để thấy được đường hướng của Công Đồng. Chính Công Đồng đã thúc đẩy giáo dân đi ra khỏi pháo đài của mình để dấn thân vào thế giới, mang Tin Mừng cho mọi ngưởi anh em chưa được diễm phúc biết Chúa.
Giáo Hội không mỏi mệt thúc đẩy việc truyền giáo khắp nơi. Gần đây nhất, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã ban Tông huấn Niềm vui Tin Mừng là một tài liệu truyền giáo mà chúng ta phải thấm nhuần và thi hành. Ngài đòi buộc Giáo Hội phải là một Giáo Hội “đi ra”. Ngài nhắc lại những lời của những Giáo Hoàng đi trước và đưa ra một lối truyền giáo sống động và là niềm vui của Giáo Hội: “Chúng ta không được giảm bớt nỗ lực rao giảng Tin Mừng… vì đây là nhiệm vụ hàng đầu của Giáo Hội”. “Chúng ta không thể thụ động và thản nhiên ngồi đợi trong các nhà thờ của chúng ta”. Phải cương quyết đi ra, hòa mình vào cuộc sống của mọi người với tư cách là kitô hữu.
Truyền giáo không phải là tuyên truyền. Chúng ta không thể là những chiếc loa phóng thanh, dù cực mạnh, chỉ làm bực bội người nghe mà không mang lại kết quả gì. Chúng ta là nhân chứng. Cuộc sống hằng ngày của chúng ta phải chứng minh cho mọi người thấy Thiên Chúa là Tình Yêu và là tình yêu đích thực, sống động. Chúng ta không giảng một lý thuyết mà là giới thiệu một Thiên Chúa yêu thương con người và muốn cho họ hạnh phúc. Tình yêu sống động mới có sức mạnh thuyết phục.
Nhưng nhìn lại chúng ta phải chân nhận rằng, việc truyền giáo hôm nay vẫn không mang lại nhiều kết quả? Gần như nhiều nơi vẫn giẫm chân tại chỗ ?
Vì không có người truyền giáo, chưa có nhiều người dấn thân rõ rệt, sống cuộc đời truyền giáo. Nhiều người chỉ nghĩ rằng tôi chẳng làm được gì. Việc truyền giáo không phải là việc của tôi. Đó là công việc của Giám mục, linh mục hay các hội đoàn. Đó là một sai lầm của rất nhiều tín hữu. Họ chỉ biết giữ đạo cho bản thân, lo rỗi linh hồn một mình thôi. Việc giữ đạo như thế cũng không đi đến đâu, vì họ chưa biết giữ đạo là gì. Họ chưa biết rằng việc truyền giáo là nhiệm vụ hàng đầu của mỗi kitô hữu. Chúa Giêsu không thể bị nhốt trong một nhà tù. Chúng ta lãnh nhận Chúa Giêsu khi chịu phép rửa tội, Ngài phải được lớn lên và được mọi người yêu thương. Ngài phải được “công bố trên mọi mái nhà”, vì Ngài là hạnh phúc của mọi người.
Vì chúng ta chưa yêu Ngài đủ. Chúng ta không yêu Ngài thì làm sao làm cho người khác yếu mến Ngài ? Chúng ta cũng chưa là ánh sáng làm sao soi sáng cho người khác ? Vì thế cần phải gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu mới dám nói về Ngài, mới dám sống cho Ngài, mới trở thành hình ảnh sống động của Ngài giữa anh em. Điều nầy đã được nhắc đi nhắc lại trong mọi văn kiện Công Đồng và những giáo huấn của các Đức Giáo Hoàng, thiết tưởng không cần phải nhắc lại. Đây là điều kiện tiên quyết. Phải gắn bó với Chúa Giêsu với bất cứ giá nào, sống với Ngài, yêu thương với Ngài, cuộc sống chúng ta trở thành truyền giáo, không cần một kỷ thuật nào, không cần phải chạy tìm những phương cách nào. Tình yêu là khí giới duy nhất của con người truyền giáo, sau đó chúng ta muốn là gì cũng đều có lợi.
Được nuôi dưỡng bằng chính thịt máu Chúa, mỗi kitô hữu phải là một nhà truyền giáo. Chúa Giêsu là sức mạnh huyền diệu thúc đẩy chúng ta từ bên trong. Ngài hành động với những ai luôn thân cận với Ngài, trao phó cả cuộc đời cho Ngài. Như thế mọi hành động của chúng ta, mọi tiếng nói của chúng ta mang lấy chất liệu của Ngài, mới có thể đi sâu vào tâm hồn con người, vì chính Ngài hành động trong ta chứ không phải là ta. Sau mỗi thánh lễ, linh mục sai chúng ta đi vào thế giới: “Anh em ra về bình an” . Ra về nghĩa là mang lấy kho tàng tình yêu Chúa cho mọi người.
“Hãy đi khắp muôn dân rao giảng Tin Mừng”. Không thể nào chối từ khi chúng ta đã ăn lấy Ngài và đã là một với Ngài qua Tấm Bánh Tình Yêu Ngài trao ban. Từ chối là đắc tội. Vì Ngài đã yêu chúng ta trước, và đã yêu chúng ta đến tận cùng. Chúng ta phải đáp lại bằng cách “làm dịu cơn khát của Ngài trên thập giá”, bằng cách dám sống cho Ngài một cách thành thực mỗi ngày một hơn.
Tháng 10 DL được Đức Giáo Hoàng Phanxicô gọi tên là Tháng Truyền giáo và Chúa Nhật này Truyền_giáo 230
Tháng 10 DL được Đức Giáo Hoàng Phanxicô gọi tên là Tháng Truyền giáo và Chúa Nhật này cao điểm nên được gọi là ngày Thế giới Truyền giáo.
Truyền giáo là điều mà Chúa Giêsu và các tông đồ đã dành tất cả tâm huyết và nhiệt tình để thi hành và Chúa đã để lại mệnh lệnh cũng là di chúc cho Giáo hội phải noi gương Chúa mà làm như vậy.
Chúng ta thấy cả 4 Tin mừng và sách Tông đồ Công vụ đều ghi lại Lời Chúa dạy về Truyền giáo như sau:
- Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép Rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần (Mt 28, 19)
- Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo (Mc 16,15)
- Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội ( Lc 24,47)
- Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em (Ga 20, 21)
- Anh em sẽ là nhân chứng của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất (Tđcv 1, 8b)
Như vậy chúng ta không thể chối cãi được mệnh lệnh của Chúa Giêsu để lại cho Giáo hội cũng như cho mọi người Kitô hữu chúng ta là phải thi hành việc Truyền giáo.
Giáo hội nhận thức được tâm huyết và lệnh truyền của Chúa Giêsu Thầy mình như vậy, nên đã nói lên như sau: "Rao giảng Tin Mừng là ân huệ và ơn gọi của Giáo hội, là chân lý sâu sa nhất của Giáo hội. Giáo hội hiện hữu là để rao giảng Tin Mừng" (Tông huấn Loan báo Tin Mừng số 14)
Công đồng Vaticano II xác quyết: "Giáo hội tự bản chất là Truyền giáo"(Ag 2). Như thế nếu không Truyền giáo thì Giáo hội sẽ đánh mất căn tính của mình.
Tông huấn Loan báo Tin mừng cho biết: "Chính Chúa Giêsu, Tin Mừng của Thiên Chúa là nhà truyền giáo đầu tiên và vĩ đại nhất: Ngài đã rao giảng đến cùng nghĩa là đến mức hoàn toàn, đến hi sinh cả cuộc sống dương thế của Ngài"(số 6)
"Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con"Ga 20,21): Chúa Giêsu tự nhận là Người được Thiên Chúa sai đến trần gian và đến lượt Chúa sai lại các tông đồ: Chúa lập Giáo hội tông truyền trên nền tảng những người được sai đi để loan báo Tin Mừng.
Nay tới lượt chúng ta là Kitô hữu, chúng ta phải làm gì để truyền giáo như lòng Chúa mong muốn? Chúng ta tiếp nối bước chân truyền giáo của cha ông chúng ta đã làm; nhưng Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II yêu cầu phải Tân Phúc Âm hóa tức là phải mới về lòng nhiệt thành, mới về phương cách và mới về cách diễn đạt có như vậy khả dĩ chúng ta mới thâu lượm được nhiều thành quả tốt đẹp.
Có nhiều phương cách truyền giáo, mỗi người chúng ta hãy chọn cho mình một vài phương cách phù hợp:
Chúng ta có thể áp dụng phương cách như Chúa Giêsu sai các môn đệ từng hai người đi tới các gia đình như anh chị em Legio Mariae thường làm cũng đem lại những kết quả nhất định.
Chúng ta có thể dâng hi sinh, dâng lời cầu nguyện âm thầm như chị thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu cho anh em lương dân nhận biết Chúa và cho những người tội lỗi ăn năn trở lại cùng Chúa.
Chúng ta có thể hiến dâng đời sống cho việc rao giảng, ban bí tích Rửa tội cho nhiều tân tòng như thánh Phanxicô Xavie nếu ta được ơn gọi thừa sai.
Chúng ta có thể yêu Chúa và yêu mến các linh hồn qua việc thực hiện các công việc từ thiện Bác ái như Mẹ Têrêsa Calcutta khi săn sóc cho những người khốn khổ bệnh tật nghèo đói trong xã hội không phân biệt lương giáo.
Chúng ta thực hiện lời Đức Giáo Hoàng Phanxicô hãy đi tới vùng ven vùng xa, vùng ngoại biên để gặp gỡ anh em đang cần được biết Chúa và những người thiệt thòi nghèo khổ.
Đạo Chúa thời Giáo hội sơ khai hấp dẫn được người ngoại giáo vì họ thấy cộng đoàn kitô hữu sơ khai có lòng thương yêu nhau nên họ nói: "Kìa xem các người có đạo Chúa yêu thương nhau dường nào!". Chúng ta thực hiện việc làm chứng cho Chúa bằng đời sống đức tin và bác ái yêu thương như lời Chúa dạy: "Cứ dấu này người ta sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em yêu thương nhau"(Ga 3,35)
Có lần Hội đồng Giám mục Việt nam đưa ra gương sáng của Giáo hội Hàn quốc khi yêu cầu một người công giáo kết thân với một người ngoại và một gia đình công giáo kết thân với gia đình ngoại giáo để cầu nguyện và cố gắng đem họ về với đạo Chúa. Giáo hội Hàn quốc đã rất thành công trong chiến dịch này.
Chúng ta thành kính cử hành ngày Thế giới Truyền giáo và Tháng Truyền giáo này để xin gia tăng số người tin kính Chúa hầu được hưởng ơn Cứu độ. Amen.
Đức Thánh Cha Phanxicô trong sứ điệp ngày Truyền Giáo năm nay 2021, mời gọi chúng ta cùng Truyền_giáo 231
Đức Thánh Cha Phanxicô trong sứ điệp ngày Truyền Giáo năm nay 2021, mời gọi chúng ta cùng nhau suy niệm về ý nghĩa của việc truyền giáo dưới ánh sáng của Lời Chúa từ (Cv 4, 20) “Những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra”. Thật ra, khi nghe hay được nhắc tới hai chữ “Truyền Giáo” ACE có ấn tượng hay suy nghĩ gì không? Tại sao chúng ta cần phải có ngày Chúa Nhật dành riêng cách đặc cho công cuộc Truyền Giáo? Thật ra, Truyền Giáo là nhiệm vụ của ai? Có phải là bổn phận, trách nhiệm của những người đi tu, của các Cha, các Thầy, các Soeurs đúng như vậy không? Còn với mỗi người chúng ta là con cái Chúa, là Kitô hữu thì bổn phận, hay sứ vụ truyền giáo của mỗi người chúng ta, đặc biệt hơn, trong hoàn cảnh dịch bệnh như ngày hôm nay truyền giáo mang ý nghĩa gì? Có bao giờ chúng ta nhận ra được ơn gọi, sứ vụ đặc biệt nào mà Chúa đã ban cho mình và đã được Ngài thúc bách để thực thi sứ vụ này không?
Trong Tin mừng theo Thánh Matthêu (Mt 28, 16-20) Chúa Giêsu đã sai các môn đệ ra đi với sứ vụ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em”. Không những thế Chúa còn hứa ban ơn thánh với sự hiện diện đồng hành của Chúa: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Thật vậy, rao giảng Tin mừng, hay ra đi làm việc truyền giáo vừa là một ơn ban cao quý, nhưng đồng thời cũng là sứ vụ-nhiệm vụ rất cao cả, là căn tính của mọi tín hữu.
Về ơn ban: Được sai đi để loan báo Tin mừng chính là ơn ban, là hồng ân đặc biệt để tiếp nối sứ vụ của Chúa Giêsu cho nhân loại. Mặc dầu các môn đệ và mỗi người chúng ta được Chúa sai đi để rao giảng Tin mừng, nhưng tác nhân chính-nhân vật chính của việc loan báo Tin mừng là Chúa Thánh Thần, trong tác nhân này, “Chúa Giêsu chính là vị truyền giáo của Chúa Cha”. Như vậy, truyền giáo chính là công việc của Ba Ngôi Thiên Chúa. Nhưng vì yêu thương, Chúa đã mạc khải, trao ban và muốn cho chúng ta được cộng tác trong ơn thánh, sứ vụ này, nhờ đó chúng ta cũng được đón nhận và hiệp thông trong sứ vụ tình yêu này của Chúa.
Về sứ vụ hay nhiệm vụ: Một khi chúng ta là những người được thừa hưởng - hưởng thụ sứ vụ cao quý này. Chúng ta cũng có bổn phận và trách nhiệm với sự đáp trả trong tâm tình cảm tạ và tri ân. Thánh Phaolo trong thư gởi tín hữu Côrintô đã khẳng định: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng”. Thật vậy, sứ vụ truyền giáo này rất cần thiết hơn bao giờ hết trong thời đại của chúng ta; trong lúc nhiều AEC của chúng ta đang phải đương đầu với không biết bao nhiêu thách đố của cuộc sống, từ đại dịch bệnh, từ thiên tai, từ những khó khăn của cuộc sống. Qua rất nhiều khủng hoảng, đau khổ đã kéo dài hơn hai năm qua, nhiều người trong chúng ta đã không tìm được lối thoát, đã mất định hướng và rơi vào tuyệt vọng trong đau khổ.
Thưa ACE, đứng trước những thách đố cấp bách như hiện nay, sứ vụ rao giảng Tin mừng, hay công cuộc truyền giáo có phải là của mỗi người chúng ta hay là không? Chắc chắn, đây là bổn phận và sứ vụ của chúng ta rồi. Nhưng cũng có thể, chúng ta đang phân vân, chần chừ, không biết phải sống và thực thi sứ vụ này như thế nào đây? Hai vị thánh được gọi là Đấng Quan Thầy của các xứ truyền giáo. Hai con người này hoàn toàn khác nhau về tính tình, đời sống ơn gọi, cung cách và thái độ sống; thế nhưng, họ lại có chung một ý chí kiên cường, mãnh liệt đó là: Luôn khao khát để được dấn thân, được ra đi để đáp trả ơn ban và lời mời gọi của Chúa để cho Tin mừng tình yêu cứu độ của Chúa được lan tỏa đến với tha nhân. Đó chính là Thánh Têrêxa HĐ. Giêsu và Thánh Phanxicô Xaviê. Têrêxa chỉ ở trong đan viện, nhưng với lời cầu nguyện, hy sinh cách âm thầm, làm mọi việc vì lòng mến Chúa và hy sinh cho công cuộc truyền giáo. Trong khi đó, Phanxicô Xaviê thì bôn ba khắp Á Châu, loan báo Tin mừng bằng những lời rao giảng với chứng từ và gương sáng hào hùng. Hai vị Thánh này chính là mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta trong việc phân định ơn gọi, sứ vụ của mỗi người.
Đức Thánh Cha Phanxicô kết thúc sứ điệp của ngày truyền giáo với sự cổ võ và lời mời gọi tha thiết, khẩn trương đến tất cả chúng ta: “Truyền giáo là sẵn sàng suy nghĩ như Chúa Kitô, cùng với Người tin tưởng rằng những người xung quanh chúng ta cũng là anh chị em của tôi. Xin tình yêu thương từ bi của Người chạm đến trái tim chúng ta và làm cho tất cả chúng ta trở thành những môn đệ truyền giáo đích thực”.
Ai trong chúng ta cũng được Chúa ban ơn và soi sáng cho biết những cách thế khác nhau để sống sứ vụ loan báo Tin mừng này. Điều quan trọng là chúng ta có muốn mở tai, mở lòng trí để lắng nghe Lời Chúa, nghe được những thánh ý mà Chúa muốn nói với chúng ta, hay chúng ta có thật sự khiêm tốn để tin và nhận ra ơn ban cùng với sứ vụ mà Chúa qua Giáo hội đang ủy thác cho chúng ta hay không? Chúng ta có muốn cho ơn thánh Chúa được trao ban và lan tỏa đến cho ACE mình hay không?
Cùng với Đức Trinh Nữ Maria trong tháng Mân Côi, Đức Mẹ là “Ngôi sao loan báo Tin mừng, Đấng an ủi, Môn đệ truyền giáo của Chúa Giêsu”, xin Mẹ cầu thay nguyện giúp và nâng đỡ chúng ta trong sứ vụ truyền giáo cao quý này. Xin cho chúng con cũng biết noi gương Mẹ, noi gương Thánh Têrêxa HĐ. Giêsu và Thánh Phanxicô Xaviê để phân định và nhận ra sứ vụ truyền giáo trong ơn gọi riêng của mỗi người, trong từng hoàn cảnh sống, để luôn hăng say dấn thân loan báo Tin mừng tình yêu và ơn thánh của Chúa cho tha nhân. Amen.
Cha Phanxicô đã chủ sự Thánh lễ ngày 23 tháng Chín năm 2015 tại Đền Thánh Đức Mẹ Vô Truyền_giáo 232
Cha Phanxicô đã chủ sự Thánh lễ ngày 23 tháng Chín năm 2015 tại Đền Thánh Đức Mẹ Vô nhiễm ở Washington DC để tuyên thánh cho Cha Junipero Serra, một vị thừa sai dòng Phanxicô gốc Tây Ban Nha. Vị Thánh đã đến Châu Mỹ làm việc cho thổ dân da đỏ và đã đón nhận cái chết tử đạo để minh chứng đức tin. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nhắc lại câu châm ngôn của vị thánh, đó là “Hãy luôn tiến lên phía trước để rao giảng Tin mừng”. Đức Thánh Cha cũng gợi lại tư tưởng mà Ngài đã viết trong tông huấn ‘Niềm vui của Tin mừng’ (Gaudium Evangelii): “ Từ sâu tận tâm hồn, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy ra đi. Đừng ở lỳ một chỗ để an hưởng một cuộc sống nhàn hạ. Đức Giêsu nói với các Tông đồ: Hãy đi rao giảng. Niềm vui Tin mừng là điều chúng ta phải trải nghiệm cách cụ thể. Chúng ta không có niềm vui đó nếu chúng ta không biết xả thân và trao ban”. Đây cũng là sứ điệp Giáo hội gửi trao đến chúng ta trong ngày Chúa nhật truyền giáo hôm nay.
Truyền giáo là lên đường.
Trong thư gửi giáo đoàn Ephêsô, Thánh Phaolô đã nói đến bốn phần vụ trong Giáo hội để xây dựng nhiệm thể Đức Kitô, đó là: làm tông đồ, làm ngôn sứ, làm người loan báo Tin mừng, làm người coi sóc và dạy dỗ (Eph 4, 11). Trong bốn chức năng đó, trở thành người loan báo Tin mừng đòi hỏi sự hi sinh và dấn thân hơn cả, bởi vì người đó phải ra đi và lên đường. Người đi rao giảng Tin mừng phải rời bỏ tất cả: từ gia đình, quê hương, đến nơi ăn chốn ở và mọi dính bén khác. Căn gốc của sự ra đi chính là từ bỏ chính mình. Khi sai các học trò đi thực tập truyền giáo, Chúa Giêsu chỉ trang bị cho các ông một món hành trang duy nhất, đó là ‘năng quyền trừ quỷ và chữa lành các bệnh tật’, ngoài ra không tiền bạc, không bao bị, không mặc hai áo, không giầy dép..(Lc 9,3). Vì vậy truyền giáo trước hết là phải sẵn sàng lên đường và ra đi đến mọi ngõ ngách của thế giới, đặc biệt đến những vùng ven (peripheries) như lời Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi. Cuộc ra đi như vậy đòi hỏi phải chấp nhận phiêu lưu cách mạo hiểm, và cao điểm của cuộc hành trình liều lĩnh đó là chấp nhận cái chết như Đức Kitô trên Thập giá. Khi phong Thánh cho Cha Serra cuối tháng Chín vừa qua, Đức Thánh Cha đã nhắc lại đôi nét về sự ra đi của Ngài. Vị Thánh đã quảng đại từ khước địa vị danh giá là ghế giáo sư đại học ở Tây Ban Nha để lên đường sang Tân thế giới, phục vụ cho Tin mừng và ơn cứu độ. Cuộc mạo hiểm của Ngài đã phải trả giá, nhưng là cái giá của vinh thắng. Vừa khi mới đặt chân đến Mexicô, chân của Ngài đã bị sưng tấy vì dị ứng và đau đớn tột cùng, giống như bị ung thư hay bị nhện rừng cắn. Cao điểm của cuộc phiêu lưu này là Ngài đã bị giết chết, để bảo vệ các thổ dân. Một thi sỹ đã viết: “ Ra đi là chết trong lòng một ít”. Nhưng sự ra đi trong hành trình truyền giáo là sao chép lại tận căn chính cái chết của Đức Giêsu, vị truyền giáo đầu tiên, và cũng là nguyên mẫu cho chúng ta trong việc thực thi sứ mệnh rao giảng Tin mừng.
Đức Giêsu, nguyên mẫu của ơn gọi truyền giáo.
Năm mươi năm trước, Công đồng Vaticanô 2 đã ban hành sắc lệnh về truyền giáo ‘Ad Gentes’. Ngay từ chương đầu tiên của giáo huấn này, Giáo hội mời gọi chúng ta nhìn về Đức Kitô như là nguyên mẫu cho sứ vụ truyền giáo. Công đồng đưa dẫn nhiều trích đoạn kinh thánh để cho chúng ta thấy Đức Kitô là Đấng được Chúa Cha sai đến trần gian hầu thực hiện sứ mạng cứu thế (Col 1, 13; Cv 10, 38; 2C 8, 9..). Vì vậy khi nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta có thể nghiệm ra rằng, 2000 năm trước Ngài đã đi vào trần thế không phải để sáng lập một tôn giáo, cũng như không phải để quảng bá một học thuyết chính trị. Ngài đến chỉ với sứ mạng duy nhất là công bố cho chúng ta một Tin mừng, đó là Tin mừng về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người. Đức Giêsu đã lập đi lập lại sứ điệp này trong suốt ba năm rao giảng công khai, và cái chết của Ngài trên Thập giá chính là đỉnh điểm của lời công bố Tin mừng vĩ đại ấy. Vì vậy, để sống tinh thần truyền giáo, chúng ta phải học nơi Thập giá Đức Giêsu. Ngài chính là vị truyền giáo đầu tiên, và là mẫu gương trọn hảo cho tất cả chúng ta (trích Tông huấn Evangelii Nuntiandi số 7). Trong các đợt xuất phát truyền giáo, các hội dòng thường trao cho các vị thừa sai Thánh giá truyền giáo cũng với hướng đích này.
Truyền giáo là bản chất của Giáo hội
Trong các phiên họp khoáng đại của công đồng chung Vaticanô 2, Đức Thánh Cha Phaolô đệ lục có nêu ra một câu hỏi rất giản đơn cho các nghị phụ: “ Ta sống ở đời này để làm gì?” Đây cũng là câu hỏi đầu tiên trong các sách giáo lý căn bản mà chúng ta đều biết cũng như đã thuộc lòng câu trả lời, đó là:‘Ta sống ở đời này để nhận biết và kính mến Chúa, cho ngày sau được hưởng hạnh phúc đời đời’. Các nghị phụ cũng trả lời như thế. Nhưng Đức Thánh Cha nói rằng câu trả lời còn thiếu. Ngài cắt nghĩa: “ Ta sống ở đời này để nhận biết và yêu mến Chúa, cho ngày sau được cứu rỗi, nhưng chúng ta cũng sống ở trần gian này còn để giúp người khác yêu mến và nhận biết Thiên Chúa, để họ cũng được ơn cứu độ như chúng ta”. Cha Thomas Merton, một tu sỹ dòng Trappist ở Hoa Kỳ có viết một tác phẩm tựa đề: ‘Không ai là một hòn đảo’. Tư tưởng của Ngài rất thâm thúy, và trong dịp viếng thăm Hoa Kỳ vừa qua, khi đọc diễn văn tại lưỡng viện quốc hội, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng gợi nhắc khuôn mặt tiêu biểu này. Cha Thomas Merton lý luận rằng, không ai trong chúng ta có thể sống cô lẻ một mình như một ốc đảo. Khi sống hiệp thông trong Hội thánh, chúng ta liên đới với anh chị em mình trong sự thánh thiện cũng như cả trong tội lỗi. Vì vậy không ai trong chúng ta sẽ lên thiên đàng một mình hoặc cũng không ai xuống hỏa ngục một mình. Chúng ta nên thánh bằng cách giúp người khác nên thánh, và đây cũng là ý nghĩa của sứ mệnh truyền giáo. Sứ mệnh này thuộc bản chất của Giáo hội, gắn liền với Giáo hội và cũng là bổn phận của mọi Kitô hữu. Trước khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đã chuyển giao sứ mạng cứu thế cho Giáo hội bằng mệnh lệnh: “ Anh em hãy đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân” (Mc 16,15). ‘Cho muôn dân’ tức “ ad gentes”, cũng chính là tựa đề của sắc lệnh về truyền giáo mà công đồng Vaticanô 2 đã để lại cho chúng ta.
Chứng nhân hơn là thầy dạy
Trong một sứ điệp ngày truyền giáo, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 cũng viết: “ Truyền giáo là thước đo đức tin của mọi tín hữu”. Lời khẳng định này cũng tương hợp với giáo huấn của Thánh Giacôbê tông đồ khi Ngài viết: “ Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Việc làm đó được thực hiện rõ nét nhất qua sứ vụ truyền giáo. Rao giảng Tin mừng là một bổn phận của những ai thuộc về Đức Kitô và được Chúa mời gọi trở nên môn đệ Ngài. Thánh Phaolô xác tín mạnh mẽ bổn phận ấy nên Ngài nói: “ Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng”(1Cr 9,16). Nhưng, cách thái rao giảng Tin mừng để đạt hiệu quả mới là điều quan trọng mà chúng ta cần phải lưu tâm.
Có lần, một số các vị truyền giáo đang làm việc ở Ấn Độ đến gặp ông Mahatma Gandhi và hỏi ông bí quyết làm sao để có thể truyền giáo cho người dân Hindu ở đây. Ông Gandhi mời gọi các vị truyền giáo hãy suy nghiệm bí quyết từ cánh hoa hồng. Người ta thích hoa hồng không phải chỉ vì vẻ đẹp bên ngoài mà còn vì mùi hương quyến rũ từ bên trong tỏa ra. Ông kết luận, muốn truyền giáo thành công, phải học bí quyết ấy, tức là rao giảng không phải bằng lý thuyết xuông nhưng bằng gương sáng cụ thể của cuộc sống. Điều ông ta nói tới cũng giống như giáo huấn của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 khi Ngài diễn tả: “ Ngày nay, Giáo hội cần những chứng nhân hơn là những thầy dạy.”
Kết luận: Chứng tá Tin mừng
Sau biến cố 30 tháng 04 năm 1975, một cán bộ nhà nước thuộc dạng cao cấp có hỏi một anh em tu sĩ dòng Tên ở Thủ Đức: “ Các anh là những người theo tôn giáo, chắc các anh rất sợ chúng tôi là những người vô thần?”. Vị tu sĩ đó bình thản trả lời: “Vâng thưa ông, chúng tôi rất sợ những người vô thần. Nhưng nếu các ông là những người vô thần thực sự và sống đúng với lý tưởng của các ông, thì chẳng có gì đáng sợ cả. Xin chúc mừng các ông nếu các ông thật sự cảm thấy hạnh phúc trong sự xác tín lý tưởng của mình. Nhưng ngược lại, chúng tôi rất sợ những người vô thần trong thực hành. Họ mang danh là Kitô hữu, nhưng lại sống như những người vô thần thực sự và còn tệ hơn cả những con người công khai chối bỏ Thiên Chúa. Bởi vì, cuộc sống của họ đang tàn phá Giáo hội, làm lung lạc đức tin người khác và làm cho Giáo hội của chúng tôi ngày càng suy yếu.”
Nếp sống vô thần trong thực hành như thế chính là một lối sống phản chứng tá. Thay vì rao giảng Tin mừng, thì cuộc sống như vậy lại cản che và bóp chết hạt giống Lời Chúa trong những sỏi đá và gai góc nơi chính tâm hồn của họ. Trong ngày khánh nhật truyền giáo hôm nay, chúng ta hãy nhìn lại cuộc sống chính mình để duyệt xét xem chúng ta đã thực thi bổn phận quan trọng ấy như thế nào.