Suy Niệm Tin Mừng ngày Mồng Một Tết Bài 201-203 Cầu Bình An Năm Mới, Tin vào Chúa quan phòng.
----------------------------- Phúc Âm: Mt 6,25-34: “Các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thầy bảo các con. Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì ăn; hay cho thân xác các con: lấy gì mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và thân xác không hơn áo mặc sao? Hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo, không gặt, không thu vào lẫm, thế mà Cha các con trên trời vẫn nuôi chúng. Nào các con không hơn chúng sao? Nào có ai trong các con lo lắng áy náy mà có thể làm cho mình cao thêm một gang được ư? Còn về áo mặc, các con lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng coi chúng mọc lên thế nào? Chúng không làm lụng, không canh cửi. Nhưng Thầy nói với các con rằng: Ngay cả Salomon trong tất cả vinh quang của ông, cũng không phục sức được bằng một trong những đóa hoa đó. Vậy nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn, mai bị ném vào lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc cho như thế, huống chi là các con, hỡi những kẻ kém lòng tin? Vậy các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: “Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì, hoặc sẽ lấy gì mà mặc?” Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng cha các con biết rõ các con cần đến những điều đó. Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều đó Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai, vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy”. - Ðó là lời Chúa.
– – – – – – – – – – – – – –
Phúc Âm Mt 11, 25-30: “Ta dịu hiền và khiêm nhường trong lòng”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu lên tiếng nói rằng: “Lạy Cha là Chúa trời đất, con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con trừ ra Cha; và cũng không ai biết Cha trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho. Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhường trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng”. - Ðó là lời Chúa.
– – – – – – – – – – – – – –
Phúc Âm Ga 14, 23-27: “Thầy ban bình an của Thầy cho các con”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. Kẻ không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Lời mà các con nghe, không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Ðấng đã sai Thầy. Thầy đã nói với các con những điều này khi còn ở với các con. Nhưng Ðấng Phù Trợ, là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con. Thầy để lại bình an cho các con; Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi”. - Ðó là lời Chúa.
– – – – – – – – – – – – – –
Phúc Âm Ga 20,19-23: “Bình an cho các con”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: “Bình an cho các con!” Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: “Bình an cho các con! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”. - Ðó là lời Chúa.
Từ ít tháng nay, tôi hay cầu xin Chúa ban cho tôi được ơn ra đi bình an trong ơn nghĩa Chúa. Có Tết Mồng 1-201
Từ ít tháng nay, tôi hay cầu xin Chúa ban cho tôi được ơn ra đi bình an trong ơn nghĩa Chúa.
Có một lúc, Chúa cho tôi thấy ý Chúa là thế này:Ra đi bình an trong ơn nghĩa Chúa là một hạnh phúc Chúa sẽ ban cho những kẻ tin theo Chúa biết cầu xin với Chúa.
Nhưng, điều mà các môn đệ Chúa cần cầu xin hơn, đó là biết ra đi hằng ngày trong suốt cuộc sống của mình.
Vâng ý Chúa, tôi cầu xin điều Chúa soi sáng cho tôi cầu xin, để trong năm mới này, tôi và các môn đệ Chúa biết ra đi trong chính cuộc sống của mình.
Dưới đây là những ra đi, mà Chúa muốn.
Hãy ra đi như thánh Phanxicô Assisi.
Thánh Phanxicô Assisi đã ra khỏi cuộc sống tiền của và quyền chức, để đi vào cuộc sống khó nghèo, hèn mọn.
Trong cuộc ra đi này, thánh Phanxicô Assisi đã làm chứng điều thánh Gioan tông đồ đã khuyên:“Anh em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian. Kẻ nào yêu thế gian, thì kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha, vì mọi sự trong thế gian như dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của đôi mắt, và thói cậy mình có của, tất cả những cái đó đều không phát xuất từ Chúa Cha, nhưng phát xuất từ thế gian. Mà thế gian thì đang qua đi cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn Thiên Chúa, thì tồn tại mãi mãi” (1Ga 2,15-17).
Ngoài ra, cuộc ra đi của thánh Phanxicô Assisi cũng làm cho ngài trở nên bạn hữu thân thiết của những người nghèo khổ. Nhờ được ngài yêu thương gần gũi, những kẻ nghèo khổ cảm được mình được Chúa yêu thương, được Chúa cứu độ. Họ càng được an ủi, khi, qua sự thân thương của thánh Phanxicô, họ cảm thấy trong họ vẫn còn một cái gì cao quý trước mặt Chúa. Từ đó, lương tâm của họ được đổi mới, sẵn sàng đón nhận Nước Trời.
Như vậy, ra đi của thánh Phanxicô là một chuyến đi của tình yêu cứu độ, rất đẹp lòng Chúa.
Cũng hãy ra đi như thánh Phanxicô Xavie.
Thánh Phanxicô Xavie đã bỏ cuộc sống an ổn và nơi ở ổn định, để đi đến những nơi xa lạ và những người nghèo túng, đem Tin Mừng đến những nơi và những người nghèo khổ.
Tin Mừng, mà ngài rao giảng cho họ đã rất đơn sơ, dễ hiểu. Tin Mừng là Chúa Giêsu, Đấng từ trời xuống, để đồng hành với họ, để thương yêu họ, để cứu họ. Giáo lý mà thánh Phanxicô Xavie dạy họ chỉ tóm tắt vào mến Chúa yêu người, như Chúa Giêsu đã dạy.
Khi thánh Phanxicô đến với những người gọi là ngoại đạo, tại những vùng đất xa lạ nghèo khó, ngài nhận thấy Chúa Thánh Thần đã tới đó từ lâu rồi. Bằng chứng là những nơi đó và những người ở đó đã sống theo một số điều thiện.
Mặc dầu gặp khó khăn, thánh Phanxicô Xaviê đã có thể nói như thánh Phaolô: “Vinh danh Thiên Chúa, Đấng có quyền năng làm cho anh em được vững mạnh theo Tin Mừng tôi loan báo, khi rao giảng Đức Giêsu Kitô” (Rm 16,25).
Sự ra đi của thánh Phanxicô Xaviê là một chuyến đi đầy ơn Chúa.
Cũng hãy ra đi như Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận.
Ngài đã bỏ một cuộc sống với tình yêu chân thành đối với nhiều ưu đãi, để đi vào một cuộc sống đón nhận tình yêu đối với thánh giá Chúa Giêsu.
Quả thực, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã có một cuộc sống nhiều năm với những hoạt động tưng bừng cho nhiều công trình lừng lẫy, trong những điều kiện ưu đãi. Nhưng rồi sau đó, Chúa đã bắt ngài phải bỏ lại tất cả, để đi vào một cuộc sống đón nhận những bất ngờ đau đớn tập trung vào tình yêu thánh giá. Qua kinh nghiệm, ngài đã xác tín: Chỉ có tình yêu Chúa Giêsu trên thánh giá mới có thể đổi mới được các tâm hồn, đưa họ về với Chúa. Càng về cuối đời, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận càng có thể nói như thánh Phaolô: “Hồi còn ở giữa anh em, tôi không muốn biết đến chuyện gì khác, ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thánh giá” (1Cr 2,2).
Sự ra đi của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đúng là một hồng ân Chúa ban cho ngài, cho tôi và cho Hội Thánh.
Cũng hãy ra đi như cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp.
Ngài đã bỏ ý định sống cho riêng mình, để đi vào ý định sống cho giáo dân và chết thay cho giáo dân.
Giáo dân của ngài đều là những người nghèo. Ngài chia sẻ cảnh nghèo với giáo dân. Ngài cứu giáo dân nghèo của ngài bằng những phương tiện vật chất và những phương tiện tinh thần. Sau cùng, ngài đã cứu đoàn chiên ngài bằng cách chết thay cho họ. Đi vào con đường chết thay cho đoàn chiên, cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp đã bước theo Chúa Giêsu một cách cụ thể và quảng đại.
Với quyết tâm chết thay cho đoàn chiên, cha đã làm chứng về lời Chúa Giêsu đã phán xưa, trước khi Chúa bước vào cuộc tử nạn. “Không tình yêu nào cao quý cho bằng tình yêu người liều mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15,13).
Sự cha Phanxicô chết thay cho đoàn chiên đã và đang là một lời rao giảng Tin Mừng sáng giá nhất hiện nay tại Việt Nam. Đúng là một ra đi đầy ơn Chúa.
Cũng hãy ra đi như Đức Thánh Cha Phanxicô.
Đức Thánh Cha Phanxicô ra khỏi cung điện, để đi ở trong nhà trọ Martha. Với sự ra đi đó, ngài muốn đổi mới Hội Thánh, bằng cách chọn một cuộc sống giản dị hơn, khó nghèo hơn, gần gũi với những người nghèo hơn.
Với sự ra đi của ngài như hiện nay, người ta có quyền nghĩ rằng: Đức Phanxicô đang muốn làm chứng về Chúa Giêsu theo hình ảnh đã được thánh Phaolô phác hoạ trong thư gởi tín hữu Philipphê: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến chết, chết trên thập giá” (Pl 2,6-8).
Sự ra đi của Đức Thánh Cha Phanxicô đang là một bài giảng gây chấn động khắp thế giới. Sự ra đi đó đúng là một sức mạnh có đầy ơn Chúa, để đổi mới Hội Thánh.
Với những ra đi trên đây, Chúa cho tôi thấy là chính những ra đi như thế đang làm nên Mùa Xuân cho Hội Thánh toàn cầu nói chung và cho Hội Thánh tại Việt Nam nói riêng.
Điều quan trọng nên biết, là những người ra đi như thế đều đã gặp được Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu Kitô luôn ở trong họ. Họ có đời sống nội tâm phong phú.
……
Thiết tưởng hình ảnh Hội Thánh Việt Nam cần được đổi mới. Hình ảnh các môn đệ Chúa tại Việt Nam càng rất cần được đổi mới. Đổi mới bằng cuộc sống tự nguyện nghèo, lo cho người nghèo, dám hy sinh, đến chết thay cho người nghèo, dâng mình làm của lễ tình yêu trên thánh giá để cứu chuộc người nghèo khổ. Hình ảnh đó muốn nói cho Quê Hương Việt Nam yêu dấu điều này:Cái thiếu hụt trầm trọng hiện nay không phải là kinh tế nhưng là đạo đức.
Thánh giá trên các thánh đường thực là đáng kính. Nhưng thánh giá trong cuộc đời những người nghèo khổ còn đáng kính hơn. Vì thế, nếu một ngày nào đó, thánh giá trên thánh đường bị hạ xuống, chỉ còn thánh giá trong những cuộc đời nghèo khổ, thì các môn đệ Chúa vẫn tìm được một cách ra đi hợp ý Chúa có sức cứu độ. Ra đi hợp ý Chúa nhất chính là cầu nguyện trên thánh giá.
Xin thân ái cầu chúc anh chị em một Năm Mới có những ra đi đầy ơn Chúa.
Xin cũng thương cầu nguyện cho tôi là kẻ có tội, bây giờ và trong giờ lâm tử.
Tết Nguyên Đán sắp đến. Lợn (Kỷ Hợi) sẽ được cậu Chó (Mậu Tuất) bàn giao công việc dân gian Tết Mồng 1-202
Tết Nguyên Đán sắp đến. Lợn (Kỷ Hợi) sẽ được cậu Chó (Mậu Tuất) bàn giao công việc dân gian trong 12 tháng năm mới.
Tản mạn đôi nét về chú lợn, con vật rất gần gũi được nuôi trong nhiều gia đình thôn quê và các trang trại.
Lợn và Heo
Người miền Bắc kêu là “con lợn”, còn miền Nam gọi là “con heo”. Có người giải thích đơn giản là: Lợn ăn ngô, heo ăn bắp.
Paulus Huỳnh Tịnh Của là một học giả người miền Nam, trong “Đại Nam Quốc Âm Tự Vị”, ông đã giải nghĩa Lợn là con Heo. Theo ông: người miền Nam phần lớn là những di dân từ miền Trung, tiếng nói của họ nặng, khi phải bẩm trình với quan lớn, họ lại phát âm thành “quan lợn”. Chẳng hạn như họ phát âm: trò chơi lợn (lớn), ăn quỵt (quýt), ông Giacọp (Giacóp). Quan cho là vô phép nên sai lính lấy hèo phạt, ai bẩm “quan lợn” là phải đòn 10 hèo. Nhiều người bị phạt hèo như vậy, nên khi thấy con lợn họ hình dung ngay ra những cây hèo vút vào mông họ, họ bèn mỉa mai gọi con lợn là “con hèo”. Rồi để khỏi lầm lẫn con lợn với cây gậy quái ác ấy, họ bớt đi dấu huyền, còn lại là con heo. Con lợn từ miền Bắc đi xuống miền Nam thành con heo là như thế.
Lợn, heo là một loại gia súc được nuôi bằng thức ăn tạp, nó cung cấp thịt cho người dùng. Có nhiều loại lợn: lợn sề, lợn nái, lợn giống, lợn cấn, lợn sữa, lợn choai, lợn tháu, lợn ỷ… Heo thì có heo nhà, heo ruộng, heo bông, heo lang, heo cỏ, heo bò, heo đen, heo nọc, heo nái, heo nưa, heo lứa, heo mọi… Đó là các loại heo nuôi trong nhà, còn loại heo hoang dã như heo lăn chai, heo rừng hay lợn lòi… là loài hung dữ, nhanh nhẹn.
Ngành chăn nuôi heo ngày nay đã công nghiệp hóa trong các trang trại quy mô hiện đại. Nhiều giống thuần chủng nhập khẩu như: heoYorshire, heo Landrace, heo Chester White, heo Duroc, heo Hampshire…
Hình ảnh con lợn trong văn hóa dân gian
Con gà cục tác lá chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi, con chó khóc đứng khóc ngồi, mẹ ơi đi chợ mua con đồng riềng. Vì sao chó phải có riềng, lợn có hành?
Triết lý Việt nam theo triết lý Trung hoa, chủ trương âm dương hoà hợp. Quan niệm đó được thể hiện trong lãnh vực ăn uống. Thịt gì món gì phải ăn với rau thơm hay gia vị nào đều có quy định cả. Người Việt ăn nhiều thứ rau mà các nước khác không có: rau mùi, rau răm, lá sung, lá xoài, củi tỏi, gừng riềng…Gà luộc cần có lá chanh, thịt lợn cần có củ hành, chó phải có củ riềng lá mơ.
Ba con vật này đứng chót trong thứ tự 12 con giáp. Gà lợn và chó là ba con vật nuôi rất thông dụng trong hầu hết các gia đình nông thôn Việt nam.
Theo cổ tích Việt Nam, tiền thân của lợn là một vị tiên trên trời, vì ham ăn, lại lười biếng chẳng chịu làm việc gì, nên Ngọc Hoàng đày xuống dương gian làm kiếp gà, bắt phải bới rác kiếm ăn. Vị tiên ấy chê giống gà nhỏ bé, đến con mèo con chó cũng bắt nạt được. Trời thương tình, cho làm kiếp bò. “Bò tuy lớn, nhưng chỉ được ăn cỏ mà còn phải vất vả kéo xe, kéo cày…”, nghĩ thế, nên vị tiên ấy lại năn nỉ:
– Xin Ngọc Hoàng cho con cái chức gì không phải làm lụng, mà được cơm bưng nước rót đến tận miệng…
– Vậy Ta cho người làm kiếp Lợn, người ta sẽ đem thức ăn đến tận mõm, chỉ việc ăn no ngủ kỹ, càng ăn lắm ngủ nhiều người ta càng thích, để thân xác béo mẫm ra cho người ta nhờ.
Thế là vị tiên đó hí hửng lạy tạ, xuống trần làm thân con lợn, không để ý đến hậu quả. Tới lúc lợn béo nùng nục, bị người ta lôi ra làm thịt, mới té ngửa ra, đòi xin hoá kiếp. Một tiên ông đến mách bảo “xin người ta thêm hành vào xào nấu với thịt thì ngươi được hoá kiếp”. Từ đó “con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi” là đề mong được hoá thân kiếp khác vậy.
Sống chung với loài người ở khắp nơi, đặc biệt thịt lợn có mặt trên các mâm cỗ, bàn tiệc và là thức ăn ít nhiều đều có trong bữa ăn gia đình ở thành thị cũng như thôn quê, từ đó hình ảnh con lợn đã đi vào nếp sống dân dã trên nhiều lãnh vực qua các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ tiếng Việt cũng thường nhắc đến động vật hữu ích này.
Ca dao Việt Nam từ rất xa xưa đã có những câu dí dỏm, tình tứ, nhân bản về việc cưới gả. Trong đó con heo cũng đóng vai trò quan trọng. Chẳng hạn một chàng trai đã “phải lòng” một cô thiếu nữ, nhưng lại vờ vĩnh hứa giúp “đằng ấy” khi “đằng ấy” lấy chồng:
Giúp em một thúng xôi vò,
Một con lợn béo một vò rượu tăm.
Nghe vậy, nàng cũng bắt được ý chàng, tuy tim nàng rung động nhưng cũng trấn tĩnh, ngúng nguẩy trả lời:
Anh về thưa với mẹ cha,
Bắt lợn đi cưới, bắt gà đi cheo.
Nói gà bắt gà đi cheo, chứ thật ra chàng trai phải nộp cheo cho làng bằng thủ lợn. Bởi vì:
Sọ lợn lớn hơn đầu mèo,
Làng ăn không hết làng treo cột đình.
Tục lệ ở Việt Nam xưa là như thế. Nạp cheo để chứng minh cho cả làng biết là chúng tôi thành vợ thành chồng đàng hoàng. Biên nhận nạp cheo là một thứ giấy giá thú. Nếu không có nó thì:
Có cưới mà chẳng có cheo,
Dẫu rằng có giết mười heo cũng hoài.
Cưới mà giết mười heo thì chỉ có con nhà phú hộ, còn nhà bình dân thì làm mâm cơm cúng ông bà cũng đủ:
Nhà họ giàu thì đầu heo nọng thịt,
Đôi mình nghèo thì cặp vịt với bông tai.
Số phận người con gái thời phong kiến xưa, chưa hẳn đã tự chọn cho mình được người bạn đời như ý. Vì chưng:
Mẹ em tham thúng xôi dền,
Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng.
Em đả bảo mẹ rằng đừng…
Mẹ em tham thúng bánh chưng,
Tham con lợn nái, em lưng chịu đòn.
Người Việt hay dùng hình ảnh ví von: Ngu như lợn. Bẩn như heo. Chỉ biết ăn no lại nằm như heo. Nói toạc móng heo. Mượn đầu heo nấu cháo. Cám treo heo nhịn đói. Gió heo may đã về?
Hình ảnh con lợn trong Thánh Kinh
Trong lịch sử niềm tin đạo giáo, hình ảnh loài heo được nhìn theo nhiều khía cạnh gần như trái ngược khác nhau.Thời xa xưa thượng cổ, người Ai Cập nhìn con heo là hình ảnh biểu tượng của mặt trăng. Vì thế, họ giết heo vào những ngày có trăng. Ở bên Syria con heo là con vật thánh, dùng để tế nữ Thần sinh sôi nẩy nở Astarte.
Do thái giáo và Hồi giáo cấm các tín hữu của họ đụng đến bất cứ món gì có liên quan đến con heo. Họ thà chết chứ nhất định không bao giờ đụng đến những món ăn có thịt heo. Có lối giải thích là hai tôn giáo này ghét con heo là vì vào thời Hy Lạp cổ đại, heo là con vật mà dân ngoại dùng để hiến tế cho nữ thần Demeter, nữ thần này yêu heo cho nên phần mở đầu của các lễ hiến tế Eleusis bao giờ cũng được bắt đầu bằng việc hiến tế một con heo to béo.
Người Do thái liệt heo vào loài thú vật dơ không thanh sạch. Ăn thịt heo đối với người Do thái là một tội vì như thế là phản đạo. Bởi vậy người Do thái cấm nuôi heo.
Trong Kinh Thánh Cựu ước, con heo cũng là con vật dơ bẩn: “Con heo, vì nó có chân chẻ làm hai móng, nhưng không nhai lại: các ngươi phải coi nó là loài ô uế. Thịt của chúng, các ngươi không được ăn, xác chết của chúng, các ngươi không được đụng đến; các ngươi phải coi chúng là loài ô uế” ( Lv11,7; Ds 14,8).
Trong các dịp cúng thần, dân Israel bị Vua Hylạp là Antiôkhô ép buộc phải ăn thịt heo. Cụ Êlêasa, tuy đã 90 tuổi nhưng phương phi đẹp lão. Cụ bị bắt phải há hàm để nhét thịt heo vào miệng, nhưng cụ thà chết vinh hơn sống nhục, đã khạc nhổ hết thịt heo ra khỏi miệng, rồi tự nguyện tiến ra nơi hành hình. Những người chủ tiệc kính thần vì quen cụ đã lâu nên đã kéo cụ ra riêng một chỗ, khuyên cụ ăn một miếng thịt khác không phải là thịt heo rồi giả vờ như đang ăn thịt heo tuân lệnh nhà vua. Làm như vậy cụ sẽ thoát chết. Nhưng cụ trả lời họ: “Ở tuổi chúng ta, giả vờ là điều bất xứng, e rằng làm gương mù cho lớp trẻ, họ sẽ bảo là ông già Êlêasa đã 90 tuổi mà còn theo dân ngoại ăn thịt heo, và họ bị lầm lạc vì tôi đã giả vờ…”. Cụ đã bị hành hình, lúc sắp lìa đời, cụ thì thào nói: “Đức Chúa là Đấng thông biết mọi sự, hẳn Người biết là dù có thể thoát chết, nhưng tôi vẫn cam chịu những cực hình nơi thân xác, mà tâm hồn tôi vui vẻ vì tuân giữ luật Chúa”. Cụ đã từ giã cuộc đời. Cái chết của cụ thật là tấm gương cao thượng chói sáng, không những cho các thiếu niên, mà còn cho phần lớn dân tộc.(x. 2 Mcb 6,18-31).
Trong sách Macacbê chương 7 kể chuyện về bữa tiệc cúng thần, có 8 mẹ con vì không chịu ăn thịt heo mà phải chịu các hình khổ tàn bạo cho đến chết.
Thánh vịnh 79 ví dân Israel như vườn nho Chúa đã vun trồng, đang xum xuê hoa trái mà sao Chúa bỏ cho hoang tàn:
Làm sao Người nỡ triệt hạ tường giậu nó Mặc cho khách qua đường bứt quả Mặc cho heo rừng phá phách tan hoang. (Tv 79, 13-14)
Sách Huấn ca đã phải than thở: “Với người dại chớ có nhiều lời, đừng đồng hành với con lợn”(Hc 22,13).
Sách Cách ngôn cho rằng người dại khờ khó có thể hiểu được những lời khôn ngoan hướng dẫn, họ giống như: “Đàn bà nhan sắc mà đần, khác nào vòng xuyến đeo nhầm mõm heo” (Cn 11,22)
Phúc âm Thánh Matthêu viết: “Ngọc trai chớ quăng trước bầy heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé anh em” (Mt 7,6).
Câu chuyện đứa con hoang đàng. Người con thứ đòi cha chia gia tài. Anh ta đem tiền của đó đi ăn chơi phung phí, đàng điếm. Lúc hết tiền, bạn bè ăn nhậu đều xa lánh. Miền đó lại gặp nạn đói, anh ta phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng, ông chủ bắt anh ta ra đồng trông coi đàn heo. Anh ta ước gì có thể lấy những thứ heo ăn mà thốn cho đầy bụng mà cũng chẳng có ai cho. Lúc ấy anh ta mới ăn năn hối hận trở về nhà và được người cha nhân hậu tiếp đón niềm nở, mở tiệc ăn mừng, vì: “con ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy” (x.Lc 15).
Đến thời Hy lạp La mã thống trị Israel, chuyện nuôi heo trở nên phổ biến.
Chúa Giêsu đã phá bỏ sự phân biệt vật dơ và thánh. Đối với Người cái gì dơ là từ bên trong mà ra. Vì thế không có loài vật nào là dơ cả. Thánh Phêrô thấy thị kiến và Lời Chúa phán với ông: “Những gì Thiên Chúa đã tuyên bố là thanh sạch, thì ngươi chớ gọi là ô uế” (Cv 10,9-16).
Năm Hợi hứa hẹn ấm no, hạnh phúc
Loại cá thông minh được Hải quân huấn luyện để chống đặc công là loại cá heo. Nước Cuba có vịnh Con Heo. Ở Đức nhiều nơi chọn hình heo con quảng cáo, như một sự may mắn phát tài. Bữa ăn tối ngày đầu năm của người Áo bao giờ cũng có món heo sữa quay, con vật tượng trưng cho mọi điều tốt lành. Con heo có một vị trí quan trọng trong ngày đầu năm ở Áo, vì họ tin rằng con heo lầm lũi bước đi với cái mũi hít đất là biểu tượng hoàn hảo nhất của sự may mắn và “sự chuyển động về phía trước” trong năm mới. Ở một số nước như Cuba, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hungragy, con heo biểu trưng cho sự phát triển, tiến bộ. Người ta đều nghĩ như vậy là vì con heo không biết đi lùi. Papua New Guinea là đảo quốc ở phía tây Thái Bình Dương, đa số thổ dân ở đây đều xem heo như một bái vật giáo. Có bộ tộc lấy mỡ heo trộn với tro bếp xoa lên mặt để biểu thị sự dũng mãnh. Có một số tộc trưởng còn xâu một lỗ trên mũi mình rồi cắm chiếc răng heo rừng vào đó để tượng trưng cho uy quyền. Heo là một trong những đồ lễ quan trọng trên cỗ xin đính hôn của các đôi nam nữ. Ở đất nước này có tờ tiền thật với hình con heo mệnh giá 20 Kina do chính phủ in ấn và phát hành từ năm 1999 cho nhu cầu lưu thông tiêu dùng hàng ngày. Tờ tiền con heo Papua New Guinea được ưa chuộng làm tiền mừng tuổi tết cho năm Kỷ Hợi 2019 này, đặc biệt với người Châu Á.
Người Việt và có thể nhiều quốc gia khác cũng có loại heo đất bỏ tiền tiết kiệm.
Con heo tạo nhiều cảm hứng cho hội họa và tranh dân gian mỗi dịp Xuân sang Tết về. Làng Đông Hồ nổi tiếng về vẽ tranh dân gian con heo.
Lợn được coi như là tiêu biểu cho sự may mắn, giàu sang.
Năm Tuất đã qua, năm Hợi lại đến với mọi người qua hình ảnh tượng trưng cho sự an nhàn của chú lợn nên tục ngữ có câu: “Tuổi Hợi nằm đợi mà ăn”, nói đến số phận sung sướng, an nhàn của những người sinh vào năm Hợi, hình như người tuổi Hợi ít ai vất vả cho lắm thì phải!?.
Con heo được người đời nuôi dưỡng, sống nhàn hạ, sung sướng, có lẽ để trả ơn con heo đã đem lại niềm vui, hạnh phúc trong đời sống thường nhật của con người. Năm Kỷ Hợi hy vọng sẽ no đủ, đầm ấm, hạnh phúc đến với mọi nhà.
Người đàn ông kia có chiếc xe thổ mộ do một con ngựa già nua và còm cõi kéo. Ông vẫn dùng Tết Mồng 1-203
Người đàn ông kia có chiếc xe thổ mộ do một con ngựa già nua và còm cõi kéo. Ông vẫn dùng chiếc xe này để chở khách, chở hàng kiếm sống qua ngày. Nhưng vì con ngựa đã già yếu nên nó kéo xe rất chậm chạp. Ông muốn con ngựa chạy nhanh hơn để chở khách và hàng hóa được nhiều hơn. Ngày kia, người chủ xe nghĩ ra một cách để Bắt nó chạy nhanh hơn. Ông ta Buộc một cây sào dài vào càng xe, rồi ông dùng dây Buộc một Bó cỏ non vào đầu cây sào ngay trước mắt con ngựa như là cái mồi nhử nó. Trước khi Bắt con ngựa kéo xe, người chủ không cho nó ăn no. Thế là, khi kéo xe, con ngựa luôn nhìn thấy Bó cỏ non trước mặt. Vì đói, nên nó cố chạy thật nhanh để với được Bó cỏ. Nhưng càng chạy nhanh Bao nhiêu, Bó cỏ càng lùi xa Bấy nhiêu. Con ngựa đâu Biết rằng nó Bị đánh lừa và chẳng Bao giờ nó với được Bó cỏ non.
Một ngày kia, vì cố gắng qúa sức, nó đã quỵ ngã trên đường và chết một cách thảm hại. Đến lúc ấy, nó cũng chưa nếm được mùi vị của Bó cỏ non.
Chúng ta cũng giống như người chủ chiếc xe thổ mộ kia : vì quá lo lắng để kiếm miếng ăn hằng ngày, nên đã Bắt cỗ xe đời mình chạy thật nhanh, chở thật nhiều và vì quá tải nên có thể gục ngã trên đường đời.
Trong xã hội “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” hôm nay, người ta luôn chạy đua với thời gian, tất Bật với công việc từ sáng sớm tới tối mịt. Con người ta đang quá lo lắng để kiếm miếng cơm manh áo, nên đã để cho gánh nặng của những đồng tiền đè lên đôi vai và đổ ập xuống cuộc sống, khiến họ đánh mất đời sống tinh thần nên đã đánh mất chính mình.
Ngày hôm nay, trong một xã hội văn minh tiên tiến, người ta đang lo lắng về nhiều điều : lo sợ vì khủng Bố, lo sợ vì chiến tranh, lo sợ vì Bệnh tật, lo sợ vì nghèo đói, thậm chí lo sợ cả chính tương lai : “sẽ ăn gì, uống gì, mặc gì ?”
Vì sự lo âu đó mà con người đang làm cho cỗ máy thế giới hoạt động hết công suất, đang đẩy cho cỗ xe cuộc sống chạy hết tốc lực. Con người đang Biến mình thành Bộ máy sản xuất không ngừng. Họ quên mất họ là một con người có thể xác và có một tâm hồn. Họ để mình Bị nuốt chửng trong một guồng máy khổng lồ của thế giới thực dụng. Trong thế giới ấy, họ quên cả tình nghĩa anh em, đã dẫm đạp lên anh em mình để mà tiến lên.
Hôm nay ngày đầu năm mới, chúng ta hãy dừng cỗ xe đời mình để nhìn lại quãng đường đời đã đi và định hướng cho cuộc hành trình sắp tới. Chúng ta hãy dừng lại để lấy nhiên liệu tinh thần từ Chúa, và tiếp tục tiến Bước về tương lai.
“Tiên vàn các con hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người”.
Con người chúng ta không chỉ có thể xác, nhưng còn có linh hồn. Vì thế, chúng ta không thể chỉ lo lắng tìm kiếm của ăn thể xác, nhưng còn phải lo lắng tìm kiếm lương thực cho tâm hồn. Đây mới là ưu tư hàng đầu của người tín hữu. Chúng ta hãy chọn lựa Chúa như gia nghiệp cuộc đời mình. Khi có Chúa, chúng ta có tất cả.
Hôm nay, khi nhìn vào chính Bản thân mình, chúng ta mới nhận ra có thể chúng ta dành cho Chúa quá ít thời giờ, sức lực, tâm trí, lòng mến. Hãy Biết đầu tư vào Thiên Chúa, để thu lời trong cuộc sống. Hãy tìm kiếm Thiên Chúa trước, mọi sự Ngài sẽ Ban cho sau.
“Các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai, vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai”.
Chúng ta vừa trải qua một năm với Biết Bao thảm cảnh đã xảy ra trên thế giới : đói khổ, chiến tranh, khủng Bố, thiên tai, chết chóc,…Ngay chính Bản thân và gia đình chúng ta cũng có những đau Buồn, tang tóc, chia ly…
Chúng ta lại đón nhận một năm mới với Biết Bao lo âu, trăn trở, khắc khoải trong lòng khi nhìn về tương lai.
Hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta hãy phó thác tất cả cho Chúa : “các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng : chúng ta sẽ ăn gì, uống gì, hoặc sẽ lấy gì mà mặc?…Cha các con Biết rõ các con cần đến những điều đó…”.
Chúng ta hãy trao vào tay Chúa tất cả cuộc sống hôm qua, hôm nay và ngày mai của chúng ta.
Vì Chúa là Đấng Sáng Tạo, Đấng làm chủ thời gian và toàn thể vũ trụ (St 1, 14 – 18). Ngài cũng sẽ dắt dìu chúng ta Bằng đôi Bàn tay của Đấng Quan Phòng, và Bằng trái tim của người cha nhân từ.
Tại Rumani, trận động đất lớn nhất vào cuối thập niên 80 đã làm chết hàng chục ngàn người. Ngay sau trận động đất, một người cha đã chạy đến nhà trường để tìm đứa con trai nhỏ.
Ngôi trường nhiều tầng đã đổ sập, nhưng người cha cố đào Bới trong đống gạch để tìm con. Những người lính chữa lửa và cảnh sát đến Bảo ông ta hãy về nhà và đừng đào Bới nữa vì rất nguy hiểm. Nhưng ông ta không chịu nghe, cứ tiếp tục đào Bới.
Đào thêm 12 tiếng đồng hồ cũng chẳng thấy tăm hơi con đâu. Ông vừa đào Bới vừa nghĩ : “Mình đã hứa với con, thì phải thực hiện cho đúng ! Nếu nó còn sống trong đống đổ nát này thì sao?”
Nghĩ thế rồi ông lại tiếp tục đào Bới… 24 rồi 48 tiếng đồng hồ trôi qua. Trong lúc nghỉ tay, ông lắng tai nghe và cố gọi tên con. Ông Bỗng nghe tiếng động và một lúc sau có tiếng đứa Bé trả lời. Ông hăng hái đào Bới tiếp đến tận phòng học của đứa con.
Đứa Bé còn sống cùng với 20 đứa trẻ khác. Nó ôm chầm lấy cha nó. Nước mắt ràn rụa và nói :
– Ba ơi, con đã Bảo với các Bạn của con ở đây rằng : Ba tôi đã nói dù thế nào đi nữa Ba cũng đến đón con. Ba tôi đến thì chúng ta sẽ sống. Hãy yên tâm, Ba tôi không Bao giờ sai lời hứa.
Những lúc chúng ta Bị đè Bẹp dưới Biết Bao gánh nặng cuộc đời, Chúa luôn luôn là người Cha nhân từ sẽ đến nâng đỡ chúng ta. Ngài không Bao giờ sai lời hứa. Ngài sẽ Ban cho chúng ta những điều tốt lành nhất trong năm mới này. Chúng ta hãy thực hành lời dạy của thánh Phaolô : “Trong khi cầu nguyện, anh em hãy trình Bày những ước vọng lên cùng Chúa, Bằng kinh nguyện và lời cầu xin đi đôi với lời cảm tạ…” (Pl 4, 4-7).
Trong năm mới này, chúng ta hãy đặt gánh nặng cuộc đời mình vào tay Đấng có thể gánh vác tất cả. Như thế, chúng ta sẽ luôn sống trong Bình an, thư thái.
Trong năm mới này, có Biết Bao điều Bất trắc có thể xảy ra. Khi tất cả Bỏ mặc chúng ta, chúng ta hãy Bỏ mặc tất cả cho Chúa. Như thế, chúng ta sẽ luôn sống tâm tình của người con thơ trong vòng tay yêu thương của Chúa từ nhân.