*** Đọc các bài của Lm. Mễn: 1. Vào Facebook.com; tìm: Nguyễn Mễn;
hoặc https://www.facebook.com/ nguyen.men.71; 2. Vào Internet: Google, Youtube, Cốc Cốc, Safari, hoặc Yahoo.com;
tìm: Cha Mễn, hoặc linh mục Mễn 3. https://linhmucmen.com
4. Email: mennguyen296@gmail.com 5. ĐT: 0913 784 998 có zalo; 0394 469 165
**** "Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người” (Galata 6,10)
**** Lạy Chúa, xin hãy hoàn thành nơi con những ý định của Chúa. Và xin ban cho con ơn: Không làm trở ngại ý định của Chúa do hành vi của con. Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, chỉ vì Chúa muốn, như Chúa đã muốn và tới mức độ Chúa muốn. Amen.
Một cuốn phim Pháp với tựa đề "Gigot", đã kể lại cuộc đời cao thượng, nhưng vô cùng đáng thương của một người câm tên là Gigot. Ðúng như cái tên có thể gợi lên, Gigot là một người khờ khạo nhưng có một tâm hồn cao quí. Ngày ngày anh quét đường, kiếm từng đồng xu nhỏ để mua những mẩu bánh mì vụn sống qua ngày. Nơi trú ngụ của anh là một cầu thang bẩn thỉu nằm bên dưới một ngôi nhà. Những người bạn duy nhất của anh là các chú chó và một con mèo hoang. Hằng ngày, từ tiệm bánh mì đi ra, anh đều mang theo thức ăn cho chúng. Anh đi đâu, chúng quấn quít bên người đến đó... Những con thú thương anh như một người bạn, nhưng những người đồng bào của anh chỉ nhìn anh như trò đùa. Mỗi khi cần có một trận cười, người ta gọi Gigot đến cho anh uống rượu để anh có thể nhảy múa trong cơn say và làm trò hề cho họ.
Một đêm nọ, sau khi say túy lúy và làm đủ trò hề cho thiên hạ cười, Gigot đi ngã nghiêng về nhà giữa cơn mưa. Anh bắt gặp một người đàn bà và một đứa con gái nhỏ đang nằm co ro trong góc hè phố, mình mẩy ướt như chuột lột. Anh dìu hai mẹ con người đàn bà về nhà mình và dọn chỗ cho họ qua đêm. Trong những ngày kế tiếp, anh tìm đủ mọi cách để làm cho người đàn bà được hạnh phúc và cô bé được vui cười. Anh đưa cô bé đến nhà thờ và dùng thứ ngôn ngữ câm của mình để nói với nó về Chúa Giêsu... Một hôm, người mẹ muốn đi nơi khác vì không chịu nổi cảnh thiếu thốn trong căn nhà của anh. Người câm không biết làm gì hơn là đành phải đến hiệu bánh mì quen để đánh cắp một số tiền. Với số tiền ấy, anh có thể sắm sửa tươm tất cho hai mẹ con người đàn bà...
Thế nhưng, một hôm, khi thức giấc, anh không còn thấy người đàn bà trong căn gác của mình nữa. Anh đưa cô bé vào sâu trong cầu thang và làm trò đùa cho nó cười. Vô tình, căn gác đổ nát sụp xuống trên anh và đứa bé. Anh vừa mang đứa bé đến nhà thờ để xin cha sở chạy chữa, thì người ta cũng phát giác ra sự mất tích của nó... Người ta tri hô lên anh là thủ phạm bắt cóc đứa bé. Cuộc săn đuổi đã làm anh trượt té xuống một dòng sông... Một chiếc phà chạy qua. Chiếc mũ của anh trồi lên. Mọi người tưởng rằng anh đã chết chìm giữa dòng sông... Sự cảm thông và thương tiếc bỗng bừng dậy, người ta lấy chiếc mũ của anh, đặt lên một chiếc quan tài và cử hành nghi lễ tống táng. Người người sụt sùi khóc. Bao nhiêu bài điếu văn được đọc lên để ôn lại tấm lòng cao thượng của người quá cố... Nhưng từ một chòm cây trong nghĩa địa, Gigot lắng nghe tất cả, anh bật thành tiếng khóc, khóc vì sự cảm thông quá muộn màng của người đồng loại, mà có lẽ cũng khóc khi nghĩ đến thân phận của anh.
Hôm nay chúng ta bước vào tháng dành riêng để tôn kính Trái Tim Chúa Giêsu.... Có riêng một tháng để nhắc nhớ cho con người về Tình Yêu của Thiên Chúa, bởi lẽ con người không hiểu mà cũng dễ quên tình yêu của Thiên Chúa...
Thiên Chúa cũng giống như một người tình câm. Ngài làm mọi sự và tìm đủ mọi cách để cho con người hiểu được Tình Yêu của Ngài. Không còn ngôn ngữ nào nữa, Thiên Chúa đành phải dùng chính cái chết, bởi lẽ không có tình yêu nào trọng đại cho bằng mối tình của người chết vì người mình yêu...
"Chúng sẽ nhìn xem Ðấng chúng đã đâm thâu qua" (Gioan 19,37).
Qua cái chết của Ðức Kitô trên thập giá, con người mới có thể thấy được tình yêu của Thiên Chúa đối với mình.
Người Ả Rập giải thích nguồn gốc của sa mạc, bằng câu chuyện ngụ ngôn như sau:
"Thiên Chúa đang sáng tạo vũ trụ. Sau khi đã hoàn tất tinh tú, trái đất, biển khơi, sông ngòi, Thiên Chúa bắt tay vào việc tạo dựng con người. Ngài nặn được những thân hình thật đẹp, nhưng đó chỉ là những pho tượng, vì chưa có linh hồn".
Lúc bấy giờ, một tổng lãnh thiên thần mới đề nghị với Thiên Chúa là cần phải tạo dựng linh hồn cho con người. Thế là Thiên Chúa miệt mài giam mình trong phòng thí nghiệm để tác tạo linh hồn cho con người. Các linh hồn vừa mới ra lò còn rất mảnh khảnh và yếu ớt.
Ngài mang các linh hồn tươi tắn ấy xuống trần gian và phân phát cho loài người.
Nhưng rủi thay, hôm đó trời đổ mưa, cho nên một số linh hồn chưa đủ cứng cáp đã biến dạng.
Ngày nọ, một trong những người đã lãnh nhận được linh hồn méo mó, đã buột miệng nói ra một lời dối trá. Tuy chỉ là một lời dối trá không đáng kể, nhưng đó là một lời dối trá đầu tiên xuất hiện trong lịch sử loài người.
Thiên Chúa vô cùng hối hận, vì đã không ngăn ngừa được sự dối trá ấy. Ngài bèn tập trung loài người lại và tuyên bố:
"Từ nay, đừng có một người nào phạm thêm một điều dối trá nữa. Nếu không, cứ mỗi lần có một lời dối trá, ta sẽ cho rơi xuống mặt đất thành một hạt cát".
Nhiều người nghe lời đe dọa của Thiên Chúa, cười thầm trong lòng. Một hạt cát có đáng kể là bao, sánh với màu xanh trùng trùng điệp điệp của cây cỏ.
Thành ra, loài người đã không đếm xỉa đến lời cảnh cáo của Thiên Chúa.
Người thứ hai thêm một lời nói láo, mà vẫn đinh ninh đó chỉ là một lời không đáng kể, cũng như thêm một hạt cát trên trái đất, cũng không thay đổi được bộ mặt của nó.
Cứ thế, người thứ ba, rồi người thứ tư...
Người ta nói dối đến độ Thiên Chúa không còn đủ sức để cho cát rơi xuống trên mặt đất nữa...
Ngài đành phải dùng đến bàn tay của các thiên thần để cho mưa cát xuống...
Không mấy chốc, những đồng cỏ xanh tươi, những vườn cây um tùm, biến thành sa mạc khô cằn.
Thỉnh thoảng một vài ốc đảo xanh tươi mọc lên, đó là dấu hiệu sự hiện diện của một vài người còn biết tôn trọng sự thật.
Nhưng dần dà, ôn dịch dối trá lan tràn khắp nơi, trái đất chỉ còn là một bãi sa mạc.
Tất cả những ai sống trong một xã hội xây dựng trên dối trá, lừa đảo, đố kỵ lẫn nhau, đều biểu hiện được thế nào là sa mạc của tình người.
Sa mạc nào cũng là biểu hiện của sự chết:
- Chết của tình người.
- Chết của lòng tin tưởng lẫn nhau.
- Chết của hy sinh phục vụ.
- Chết của lòng quảng đại.
Tựu trung, dối trá cũng là tên gọi của ích kỷ.
Người dối trá là người chỉ biết sống cho mình.
Nếu ơn gọi của con người là sống yêu thương, sống cho người khác, thì kẻ dối trá là người chối bỏ chính mình.
*****
Chúa Giêsu đã lên án gắt gao thái độ dối trá.
Ngài nói:
"Có thì nói có, không thì nói không, thêm điều đặt chuyện là bởi ma quỷ mà ra".
Kẻ dối trá, do đó, tự đặt mình dưới quyền thống trị và điều khiển của ma quỷ.
Mỗi một thái độ dối trá, là một hạt cát rơi xuống trên sa mạc của tình người.
Nhưng mỗi một hành động của quảng đại, của yêu thương, của phục vụ là một ốc đảo xanh tươi của Chân lý, đó là Chân lý của tình yêu.
Dạo tháng 6 năm 1985, những người theo dõi truyền hình bên Tây phương, vẫn còn nhớ mãi hình ảnh chiếc máy bay đang đậu ở phi trường, với viên phi công trong buồng lái, ngó ra ngoài nói chuyện với một số phóng viên, trong khi có một người đứng bên cạnh, cầm súng dí sát vào đầu viên phi công. Ðó là hình ảnh của viên phi công John Testrake trên chiếc máy bay của hãng hàng không TWA, bị không tặc uy hiếp, trên đường bay từ thủ đô Hên của Hy Lạp về La Mã.
Trong suốt 17 ngày, không tặc đã dùng lựu đạn và súng uy hiếp viên phi công, buộc ông phải bay từ Bút, qua Alger, rồi bay về Bút, cả thảy bốn lần.
Họ cũng đã bắn chết một hành khách, đánh đập một số hành khách khác. Cuối cùng họ đã để cho 39 con tin trên máy bay được đem đến một căn nhà ở Bút, rồi được chở về Ðoác, trước khi được trả tự do.
Mặc dù không phải là con tin trên chiếc máy bay đó, nhiều người cũng thấy căng thẳng hồi hộp, chỉ vì theo dõi tin tức trên truyền hình, hay truyền thanh...
*****
Mới đây, viên phi công John Testrake có thuật lại kinh nghiệm hi hữu của mình.
Anh nói như sau:
"Lúc đó, tôi biết chắc chắn là có Chúa ở với tôi, nên tôi không những không sợ hãi, mà còn tràn ngập bình an tin tưởng là khác".
Anh cũng nói thêm rằng: Anh đã theo đạo năm lên 25 tuổi. Nhưng lúc bấy giờ, anh chưa thật sự thức tỉnh, chưa bắt đầu đọc Kinh Thánh và cầu nguyện một cách đều đặn.
Nhờ có Kinh Thánh mang trong mình, cho nên trong suốt 17 ngày bị uy hiếp, anh vẫn không tỏ ra nao núng, vì tin chắc có Chúa đang phù trợ anh...
Cách đây hai năm, John Testrake đã xin thôi, không làm việc cho hãng hàng không TWA, để tập trung vào các công việc từ thiện. Và để lái máy bay đưa các nhà truyền giáo đến các vùng xa xôi hẻo lánh.
Ði đến đâu, anh cũng thuật lại việc Chúa đã giải cứu anh. Nhất là việc Ngài đã ban cho anh được bình an, tin tưởng, khi phải chạm trán với tử thần.
*****
Ai trong chúng ta có lẽ cũng hơn một lần chạm trán với tử thần hay kinh qua những giờ phút đen tối trong cuộc sống...
Những người không có niềm tin thường sợ hãi bối rối, vì không biết những gì đang chờ đợi mình bên kia cuộc sống.
Những người có niềm tin hẳn không là những con người không biết sợ hãi, nhưng họ tin rằng: Bên cạnh họ, luôn có Ðấng che chở, phù trợ họ.
Chúng ta có thái độ nào, khi đứng trước những giờ phút nguy ngập, những thử thách trong cuộc sống?
Chúng ta có tin tưởng rằng: Có Ðấng luôn ở bên cạnh chúng ta, để giữ gìn, phù hộ chúng ta không?
Với niềm tin vững vàng vào Tình Yêu của Ðấng luôn có mặt bên cạnh chúng ta, chắc chắn chúng ta sẽ có thái độ lạc quan hơn trước cuộc sống, chúng ta sẽ can đảm, bình thản và vui tươi hơn, để đối đầu với những khó khăn và thử thách trong cược sống…
Raoul Follereau đã thuật lại một câu chuyện về một người phong cùi như sau:
Từ nhiều năm qua, ông ta sống chui rúc trong căn lều tối tăm của ông. Xa tránh ánh sáng, đôi mắt ông đã trở thành mù lòa.
Bóng tối trên đôi mắt đã đành, ông còn tự giam hãm bóng tối của tâm hồn.
Người đàn ông như đang tự chôn vùi mình trong chính đáy mồ của ông...
Mỗi ngày, có một nữ tu đến để tẩy rửa và băng bó các vết thương cho ông. Ông chấp nhận cho người nữ tu săn sóc, vì nghĩ rằng ít nhất người nữ tu cũng nở được nụ cười mãn nguyện.
*****
Ngày tôi đến thăm, người nữ tu cho tôi biết rằng, người đàn ông đã không bao giờ muốn ra khỏi căn lều tối tăm của mình...
Tôi tiến lại gần con người khốn khổ ấy và đưa cánh tay ra mời mọc.
Tôi nắm lấy cánh tay của ông và dìu ông đứng dậy.
Chúng tôi ra khỏi căn lều tăm tối…
Vừa đến bên cánh cửa, nơi ánh sáng mặt trời chiếu xuyên qua, người đàn ông đã có một thái độ, mà mãi mãi tôi không bao giờ có thể quên được.
Ra khỏi căn lều, đứng giữa ánh sáng, ông hô lên một tiếng kêu lớn:
"Tôi thấy!"
Kể từ khi bóng tối của bệnh phong cùi ụp phủ xuống trên cuộc đời, thì đây là lần đầu tiên, người bệnh mới cảm nhận thực sự có ánh sáng xung quanh mình.
Lấy tất cả sức lực còn lại, người đàn ông thét lên với cây cỏ, với núi non, với trời cao, với tất cả mọi người: Tôi thấy! Tôi thấy!
*****
Có những người tự giam mình trong bóng tối. Có những người bị người khác đầy ải vào trong bóng tối...
Vô tình hay hữu ý, có lẽ chúng ta cũng đã xô đẩy không biết bao nhiêu người vào trong bóng tối.
Một cuộc sống thiếu chứng tá, một khước từ giúp đỡ: Đó có thể là những hành động xô đẩy người khác rơi vào bóng tối. Và chúng ta cũng tự giam mình vào bóng tối hay giảm bớt cường độ ánh sáng trong chúng ta...
"Các con là ánh sáng thế gian".
Lời của Chúa Giêsu nói lên bản chất của người Kitô:
- Người Kitô chỉ là Kitô, khi họ là ánh sáng thế gian...
Ánh sáng không thể sáng soi nữa, ánh sáng ấy sẽ trở thành tăm tối.
Hãy chiếu ánh sáng bằng những việc làm của ánh sáng.
Một cuộc sống đầy gương sáng, một lời nói nâng đỡ, ủi an, một nụ cười thông cảm, một bàn tay đưa ra để dìu dắt, để đồng hành: Đó là bao nhiêu việc làm của ánh sáng, mà bao nhiêu người đang chờ đợi nơi chúng ta.
Và chúng ta cũng hãy tin rằng: Một ánh lửa càng được chia sẻ, thì càng sáng lên...
Một bệnh nhân nọ được đưa vào một bệnh viện, do các tu sĩ điều khiển.
Người ta không để cho anh nằm điều trị trong một căn phòng riêng rẽ, mà lại đặt anh nằm chung với các bệnh nhân khác trong một phòng lớn.
Vừa mới được khiêng vào căn phòng, người đàn ông đã bị các bệnh nhân khác tuôn đến bao xung quanh. Người thì kéo chăn, kẻ nắm áo, kẻ bứt tóc. Không mấy chốc, anh bị quăng xuống khỏi giường giữa những tiếng cười đùa của các bệnh nhân khác.
Không chịu đựng nổi trò chơi quái ác của các bệnh nhân, người đàn ông mới la hét để kêu cầu vị phụ trách.
Anh trình như sau:
"Tại sao ông lại đưa tôi vào đây. Tất cả các bệnh nhân xung quanh tôi đều cười đùa, nghịch ngợm như một đám con nít. Hẳn họ không đau yếu như tôi".
Vị phụ trách mỉm cười đáp:
"Họ còn đau yếu hơn cả anh. Nhưng tất cả đều khám phá ra một bí quyết, một bí quyết, mà ít người ngày nay biết đến, hoặc có biết đến, họ cũng không tin".
Người đàn ông muốn biết bí quyết ấy.
Vị phụ trách bệnh viện mới lấy một cái cân có hai đĩa ở hai đầu.
Ngài lấy một hòn đá đặt vào một đĩa cân, đĩa cân ở đầu bên kia liền được nhắc lên...
Ngài giải thích như sau:
Tôi vừa trình bày cho ông một bí quyết của các bệnh nhân ở đây.
Chiếc cân này là biểu trưng của tình liên đới giữa con người với nhau.
Hòn đá biểu hiện cho nỗi đau khổ của ông. Khi đau khổ đè nặng trên ông, thì ở đầu cân bên kia, niềm vui có thể đến với một người nào đó.
Niềm vui và nỗi khổ thường sánh vai với nhau. Nhưng nỗi khổ cần phải được đón nhận và dâng hiến, chứ không phải để giữ riêng cho mình. Hãy làm cho những người khác trở thành trẻ thơ, hãy làm cho nụ cười được chớm nở trên môi của người khác cho dẫu ta đang hấp hối".
*****
Cái chết của Ðức Kitô là cái chết của một người cho tất cả mọi người.
Ðó là Tình Yêu được dâng hiến cho tất cả mọi người. Ðó là Hy Sinh cho tất cả mọi người. Ðó là Lý Tưởng của một người sống và chết cho mọi người.
Nhìn ngắm Ðức Kitô trên thập giá, chúng ta thấy được định nghĩa đích thực về con người:
Con người chỉ có thể thể hiện được trọn vẹn tính người, khi sống cho người khác.
Càng sống cho tha nhân, con người càng tìm lại được chính bản thân. Càng chia sẻ với người khác, con người càng trở nên phong phú...
Có của cải, có thì giờ, có niềm vui để chia sẻ đã đành, nhưng con người còn có cả một kho tàng khác để chia sẻ cho người khác: Đó là nỗi đau khổ, sự bất hạnh, những hy sinh âm thầm của mình.
Âm thầm đón nhận một đau khổ mà không than trách, không phàn nàn, nhưng luôn để lộ trên khuôn mặt sự vui tươi, tinh thần lạc quan: Đó là một trong những chia sẻ cao độ nhất, mà chúng ta có thể dành cho người khác.
Vác lấy khổ đau, để trở thành gánh nặng cho người khác: Đó là một trong những chia sẻ cao quý nhất, mà chúng ta có thể dành cho người khác.
Dâng từng khổ đau, hy sinh và âm thầm phục vụ từng ngày, để cầu nguyện cho tha nhân: Đó là một trong những chia sẻ cao đẹp nhất, bởi vì chỉ có Chúa mới thấy được giá trị của sự chia sẻ ấy.
Một buổi sáng ngày 06 tháng 6 năm 1966, một người da đen 32 tuổi, đã bước xuống quốc lộ thứ 51 của thành phố Memphis, thuộc tiểu bang Mississipi, bên Hoa Kỳ, đã trương cao biểu ngữ với tựa đề: Tuần Hành Chống Lại Sợ Hãi.
Tiểu bang Mississipi có khoảng một triệu người da đen.
Mặc dù luật pháp Hoa kỳ bảo đảm cho mọi người công dân, không phân biệt chủng tộc và địa vị xã hội, quyền được bỏ phiếu, trong thực tế chỉ có 100 ngàn người da đen, đủ can đảm thi hành quyền này.
Con số còn lại, vì sợ hãi bởi nhiều sức ép khác nhau, đã không dám đi bỏ phiếu.
*****
James Meredith, người thanh niên da đen nói trên, đã tuyên bố:
"Chúng ta cần phải giải thoát khỏi những sợ hãi, do người da trắng tạo ra. Tôi sẽ tuần hành từ Memphis, đến thủ phủ của tiểu bang, để chứng tỏ cho mọi người thấy rằng, một người da đen có quyền sống và đi lại. Tôi muốn thắng vượt nỗi sợ hãi và những đe dọa do những người phân biệt chủng tộc tạo nên".
Trong phút chốc, nhiều người, kể cả những người da trắng, đã ra khỏi nhà và tuần hành bên cạnh Meredith.
Meredith tâm sự với một vị mục sư đi bên cạnh như sau:
"Thoạt tiên, tôi định mang theo một khẩu súng. Nhưng cuối cùng, tôi quyết định mang theo một khí giới duy nhất: đó là quyển Kinh Thánh".
Meredith dự định băng qua 350 cây số, để đến tiểu phủ của tiểu bang. Nhưng chưa đầy một ngày đường, thì anh đã bị một người da trắng quá khích bắn súng ngã gục.
Phát súng định mệnh đó làm rung động toàn thể nước Mỹ.
Giữa lúc Meredith đang nằm điều trị tại một nhà thương, từng đoàn người đến thăm và ủng hộ sáng kiến của anh. Sự sợ hãi, giờ đây nhường chỗ cho một phong trào đang vươn lên với đầy khí thế...
Mục sư Martin Luther King, giải thưởng Nobel về Hòa Bình và là thủ lãnh của phong trào tranh đấu bất bạo động của người da đen tại Hoa Kỳ, đã ngỏ lời với từng trăm ngàn người đang đứng trước cửa bệnh viện Memphis như sau:
"Cuộc tuần hành chống lại sợ hãi sẽ không bao giờ chấm dứt. Chúng ta sẽ xuống đường lại ngay, nơi mà Meredith đã bị bắn gục. Con đường từ Memphis đến Jackson chỉ dài độ 350 cây số. Nhưng xiềng xích của sợ hãi và đe dọa, mà chúng ta muốn bẻ gãy, lại còn dài gấp bội".
Những người da đen bên Hoa Kỳ đã phải trải qua những năm tháng dài, dưới sự đe dọa và sợ hãi.
Sợ hãi là tâm trạng thường tình của những ai đang sống trong đe dọa, bất an.
Không biết mình sẽ bị bắt giữ lúc nào, không biết mình sẽ được phóng thích lúc nào, không biết mình có đủ cơm ăn áo mặc cho ngày mai không, không biết tương lai của con em mình sẽ như thế nào, không biết niềm tin của mình rồi ra có còn đứng vững trước những đe dọa không. Từng nỗi hoang mang ấy khiến ai trong chúng ta cũng đã một lần trải qua sợ hãi.
*****
Chúa Giêsu, trong những giây phút nguy ngập nhất đã trấn an các môn đệ của Ngài:
"Các con đừng sợ hãi, vì Ta đã thắng thế gian".
Nghĩ đến cuộc khổ nạn đang chờ đợi ở trước mắt, Chúa Giêsu đã run rẩy sợ hãi đến độ toát mồ hôi máu.
Nhưng cuối cùng, Ngài đã thắng vượt tất cả bằng khí giới của Tình Thương.
Tình Thương là sức mạnh của Ngài trong bao thử thách...
Meredith đã không mang theo súng đạn để trấn an chính mình, anh chỉ mang theo một quyển Kinh Thánh.
Phải, bởi vì Kinh Thánh là biểu hiện của Tình Thương.
Sau một thời gian cần cù và chắt chiu, một người đàn ông nọ đã trở thành người giàu có nhất trong ngôi làng nhỏ bé của mình.
Từ lúc mua đươc một con lừa, anh ta mới có ý nghĩ làm một chuyến đi xa cho biết đó biết đây.
Anh đến một ngôi làng khác lớn hơn ngôi làng của anh.
Một ngôi nhà thật đẹp và sang trọng đập vào đôi mắt của anh. Sau khi dò hỏi, anh biết được đó là ngôi nhà của người giàu có nhất trong làng.
Anh bèn trở về ngôi làng nhỏ bé của mình và quyết trí làm ăn, dành dụm để có thể may ra xây được một ngôi nhà, đẹp hơn ngôi nhà, mà anh vừa trông thấy ở ngôi làng bên cạnh.
Không mấy chốc, tiền bạc dư dả, không những anh đã xây được một ngôi nhà sang trọng, đẹp đẽ hơn, mà còn mua được cả đàn ngựa và xe nữa.
Lần này, anh vượt qua các ngôi làng nhỏ để đến một đô thị lớn.
Tại đây, đâu đâu anh cũng thấy những ngôi nhà đẹp và ngôi nhà nào cũng đẹp hơn ngôi nhà của anh.
Anh nghĩ bụng:
Cho dẫu có lao nhọc cả quãng đời còn lại, anh cũng không tài nào có thể xây được một ngôi nhà đẹp như thế.
Anh bèn tiu nghỉu đánh xe quay trở lại ngôi làng cũ của mình.
Nhưng rủi thay, xe gặp tai nạn, anh đành phải bỏ chiếc xe, để leo lên lưng ngựa, cố gắng chạy về ngôi làng cũ của mình.
Nhưng dọc đường, vì mệt mỏi và đói lả, con ngựa đã lăn ra chết.
Người đàn ông chỉ còn biết lủi thủi đi bộ về nhà.
Ðêm đến, giữa sa mạc, anh nhìn thấy một ánh lửa bập bùng từ xa. Anh nấn ná tìm đến và khám phá ra túp lều của một vị ẩn sĩ.
Vào trong túp lều, người đàn ông mới nhận ra rằng: Có lẽ trong đời anh, chưa bao giờ anh thấy có cảnh nghèo nàn cùng cực hơn.
Anh ái ngại nhìn nhà tu hành rồi thắc mắc:
"Thưa ông, làm sao ông có thể sống được trong cảnh cùng cực như thế này?".
Nhà ẩn sĩ mỉm cười đáp:
"Tôi bằng lòng với cuộc sống... Thế còn ông, xem chừng như ông không được thỏa mãn về cuộc sống của ông cho lắm".
Người đàn ông ngạc nhiên hỏi:
"Sao ông biết tôi không được thỏa mãn?".
Nhà ẩn sĩ nhìn thẳng vào đôi mắt của người đối diện rồi thong thả nói:
"Tôi nhìn thấy điều đó trong đôi mắt của ông. Ðôi mắt của ông cứ chạy theo giàu sang, nhưng sự giàu sang không bao giờ đến với ông...
Ông hãy nhìn cảnh hoàng hôn. Ông có thấy những ánh sáng yếu ớt đang chiếu rọi trên cánh đồng không?
Chúng tưởng mình đang soi sáng cả vũ trụ. Nhưng không mấy chốc, các ngôi sao mọc lên, và những tia sáng hoàng hôn biến mất.
Những ánh sao tưởng chúng đang soi sáng cả bầu trời, nhưng khi mặt trăng vừa ló rạng, thì những ánh sao ấy cũng bắt đầu tắt ngụm.
Vầng trăng sáng kia tưởng mình soi sáng cả trái đất, nhưng không mấy chốc, mặt trời mọc lên và mọi thứ ánh sáng của đêm đen đều biến mất.
Nếu những thứ ánh sáng trên đây đều biết suy nghĩ về những điều ấy, thì có lẽ chúng sẽ tìm thấy nụ cười đã đánh mất".
Nghe câu chuyện ví von của nhà hiền triết, người đàn ông mở miệng mỉm cười, nhưng nỗi buồn vẫn còn thoáng trên gương mặt ông.
Vị ẩn sĩ tiếp tục câu chuyện:
"Ông có biết rằng: Sánh với tôi, ông là vua không?".
Người đàn ông tự nhiên so sánh căn nhà của mình với túp lều của vị ẩn sĩ. Nhưng đó không phải là điều mà vị ẩn sĩ muốn nói đến...
Ông cầm chiếc đèn đưa lên cao và mời người đàn ông đến gần bên mình.
Dưới ánh đèn, người đàn ông mới nhận ra rằng: Vị ẩn sĩ là người không còn, ngay cả đôi chân, để có thể di chuyển một cách bình thường.
*****
Giữa cuộc hành trình đầy cam go, Giáo Hội cho chúng ta chiêm ngắm cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi Tabor.
Chúa Giêsu muốn dùng thứ ánh sáng từ trên núi cao ấy để chiếu rọi vào cuộc tử nạn mà Ngài sắp trải qua, cũng như chính nỗi hoang mang lo sợ của các môn đệ, khi Ngài loan báo cái chết...
Xin cho ánh sáng Phục Sinh của Chúa chiếu rọi vào cuộc sống đầy âm u, tăm tối của chúng ta.
Xin cho chúng ta biết đón nhận từng đớn đau, thử thách trong cuộc sống với tinh thần lạc quan, phó thác, chấp nhận và hân hoan, vì tin rằng bên kia tăm tối là ánh sáng Phục Sinh đang chờ đón chúng ta.
Một ngày kia, thánh Gioan Bosco rao giảng về vinh quang của Mẹ Maria tại nhà thờ chính tòa Torino.
Giữa lúc đang thao thao bất tuyệt, ngài bỗng dừng lại thinh lặng một hồi lâu, rồi đặt câu hỏi với cử tọa như sau:
"Ai trong anh chị em có thể nói cho tôi biết Ðức Mẹ là ai?"
Thánh nhân phải lập lại câu hỏi đó đến ba lần, mới nghe được một tiếng trả lời yếu ớt từ phía cuối nhà thờ như sau:
"Thưa Cha, Ðức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa".
Thánh Gioan Bosco gật đầu nói tiếp:
"Ðúng thế, Ðức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng nói thế vẫn chưa đủ. Tôi muốn anh chị em kể hết những tước hiệu của Mẹ Maria".
Liền sau đó, cử tọa liền kể ra tất cả những tước hiệu của Mẹ: Mẹ là cửa Thiên Ðàng, Mẹ là Ðấng an ủi những kẻ có tội, Mẹ là Ðấng phù trợ các tín hữu, Mẹ là Ðấng cứu chữa kẻ bệnh tật v.v...
Sau khi nghe kể hết những tước hiệu, mà người ta gán cho Ðức Maria, thánh Gioan Bosco mỉm cười nói tiếp:
"Ðức Maria là tất cả những gì anh chị em vừa kể ra, nhưng vẫn chưa hết. Tôi muốn nói thêm về Ðức Maria...".
Chờ mãi, vẫn không thấy có câu trả lời nào, thánh nhân mới nói:
"Tôi xin được nói với anh chị em Ðức Maria là ai: Ngài là Mẹ chúng ta. Phải, Mẹ chúng ta. Ðó là điều đáng nói nhất về Mẹ Maria.
Trên trần gian này, không ai có thể gần gũi thiết thân với chúng ta cho bằng Mẹ chúng ta, không ai yêu thương chúng ta hơn Mẹ chúng ta.
Cũng thế trên Thiên Ðàng không có vị thánh nào yêu thương chúng ta và sẵn sàng lắng nghe chúng ta cho bằng Mẹ Maria...".
Chính lúc Ðức Maria đứng câm lặng dưới chân thập giá, mà Chúa Giêsu đã long trọng trối phó Ngài cho thánh Gioan và đồng thời cũng trao phó thánh Gioan cho Mẹ.
Sự sinh nở nào cũng diễn ra trong đớn đau. Chính trong niềm đau tột cùng của những giây phút đứng kề bên thập giá Chúa Giêsu, mà Ðức Maria mới sinh hạ chúng ta, đã trở thành Mẹ của chúng ta.
Thánh Gioan cũng tiếp nhận Mẹ trong niềm hiệp thông sâu xa vào thập giá của Chúa Giêsu.
Thập giá là nguồn ơn cứu rỗi, nhưng mãi mãi vẫn là biểu trưng của tội ác.
Sự độc ác tột cùng, mà người Do Thái và La Mã ngày xưa, đã trút xuống trên Chúa Giêsu qua thập hình, thì ngày nay vẫn còn được con người tiếp diễn dưới muôn hình thức khác.
Tựu trung khi con người chối bỏ chính mình, khi con người chà đạp người khác, thì đó là lúc con người dựng thêm những thập giá mới.
Thập giá vẫn luôn có mặt trong cuộc sống con người, như một nhắc nhở về tội ác của mình.
Kết hiệp với Chúa Giêsu trong cuộc tử nạn của Ngài, chính là cố gắng chiến đấu chống lại tội lỗi.
Sứ điệp của Ðức Maria trong tất cả những lần hiện ra đều có chung một nội dung:
Đó là kêu gọi loài người ăn năn sám hối, cải thiện cuộc sống. Cũng như ngày xưa, đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu, Mẹ đã câm lặng nuốt từng nỗi đớn đau, thì ngày nay khi nhìn thảm cảnh của những người con cái đang chối bỏ lẫn nhau, đang chém giết nhau, đang đóng đinh nhau, Mẹ cũng bày tỏ một niềm đau.
Một vị ẩn sĩ nọ, sau 60 năm sống khắc khổ giữa sa mạc, bỗng cảm thấy chán nản khi nghĩ rằng mình chưa hề làm được phép lạ nào như các vị tiền bối.
Ông quyết định rời bỏ sa mạc, để trở về đô thị sống một cuộc sống tiện nghi, bình thường như mọi người.
Nhưng đôi mắt Chúa lúc nào cũng dõi theo từng suy nghĩ, từng đường đi nước bước của ông.
Biết ông đang toan tính bỏ cuộc, để trở lại đô thị, Thiên Chúa bèn sai một thiên thần đến với ông.
Vị sứ thần đã nói với ông như sau:
"Ngươi đang toan tính điều gì thế? Ngươi hãy thử nghĩ xem: Có phép lạ nào kỳ diệu nào hơn chính cuộc sống của ngươi không?
Ai đã ban cho ngươi sức mạnh để có thể cầm cự được trong nơi hoang vu này trong mấy chục năm qua?
Ai đã chúc lành cho cây cỏ ngươi đã dùng trong thời gian qua, mà không hề gây nguy hại cho ngươi?
Ngươi lại đây và xin Chúa ban cho ngươi thêm lòng kiên nhượng...".
Ðược lời của vị sứ thần nâng đỡ, nhà ẩn sĩ ở lại trong sa mạc và tiếp tục cuộc sống tu trì của ông, với niềm tin vững rằng: Mỗi một phút giây qua đi trong cuộc sống, là một phép lạ, mà Thiên Chúa đang thực hiện cho ông.
"Ðây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ".
Giáo Hội mượn lời Kinh Thánh này để mời gọi chúng ta sống một cách sung mãn giây phút hiện tại.
Mỗi một giây phút hiện tại là một hồng ân cứu độ. Thiên Chúa vẫn tiếp tục biến mỗi phút giây của cuộc sống chúng ta thành một phép lạ.
Không là phép lạ sao tim của chúng ta vẫn tiếp tục đập, mũi chúng ta vẫn tiếp tục hít thở!
Còn gì kỳ diệu bằng chính sự sống, mà Thiên Chúa vẫn tiếp tục trao ban cho chúng ta.
Còn gì kỳ diệu bằng niềm tin Ngài đã trao ban, để chúng ta tiếp tục tiến bước trong cuộc lữ hành này.
Chúng ta vẫn thường nói:
Ngạc nhiên là khởi đầu của khám phá!
Nếu tất cả những khám phá của khoa học đều bắt nguồn từ những câu hỏi, mà con người tự đặt ra khi nhìn ngắm vũ trụ, thì sự ngây ngất trước những kỳ công của sáng tạo, trước cuộc sống, trước tình người, cũng phải là động lực, giúp người tín hữu Kitô chúng ta thấy được, cảm mến được, sự hiện diện và tác động kỳ diệu của Thiên Chúa.
Cái nhìn ấy sẽ giúp chúng ta thấy được giá trị của những công việc âm thầm từng ngày của chúng ta.
Cái nhìn ấy sẽ mang lại cho chúng ta sức mạnh để tiếp tục phấn đấu, khi phải đương đầu với bệnh tật, với thử thách, với mất mát trong cuộc sống.
Một Thiên Chúa luôn làm những kỳ diệu, cũng chính là Ðấng có mặt trong từng phút giây của cuộc sống chúng ta, để đem lại cho chúng ta những điều thiện hảo, đôi khi vượt quá khỏi cái nhìn nông cạn, sự thẩm định giới hạn của chúng ta.
Một tác giả nọ có kể một câu chuyện ngụ ngôn như sau:
Một nhà trí thức, một thương gia và một quan đầu tỉnh, bị quân cướp tấn công trong một cuộc hành trình giữa sa mạc.
Sau khi đã đánh đập, bọn cướp bỏ ba người dở sống dở chết bên lề đường.
Tuy nhiên, ba người cũng cố gắng lê bước, để tìm đến túp lều của một vị ẩn sĩ.
Sau khi đã băng bó các vết thương cho ba người, vị ẩn sĩ mới nói với họ:
"Túp lều của tôi quá nhỏ. Mùa đông lại sắp đến. Xin mỗi vị cố gắng làm riêng cho mình một căn lều để trú ẩn".
Nghe thế, cả ba người bộ hành đều chống chế, vì họ chỉ muốn tiếp tục cuộc hành trình mà thôi.
Vị ẩn sĩ mới cho họ biết rằng: Tuyết đã bắt đầu rơi và không còn một lối thoát nào có thể giúp họ ra khỏi vùng sa mạc.
Nhưng làm thế nào để tự mình có thể dựng cho mình túp lều?
- Nhà trí thức thì than phiền rằng mình không có sách vở trong tay.
- Thương gia thì quả quyết rằng cả đời mình chỉ biết đếm tiền và giao dịch.
- Còn viên đầu tỉnh thì cho rằng ông không thể làm việc gì mà không có thuộc hạ.
Nhưng nước đến trôn rồi thì cũng đành phải nhảy.
Không còn lý do gì để khước từ, cả ba người đành phải bắt tay vào dựng riêng cho mình căn lều.
Khi họ vừa hoàn thành túp lều thì mùa đông cũng vừa đến.
Trong suốt mùa đông dài, họ không còn biết làm gì hơn là ngồi bên bếp lửa để ôn lại chuyện quá khứ...
Vị ẩn sĩ thỉnh thoảng cũng xen vào câu chuyện, để góp ý và an ủi ba người bất hạnh.
Ðông tàn, xuân đến.
Ba người bộ hành muốn lên đường trở về tức khắc.
Nhưng lòng tốt và tình bạn của nhà ẩn sĩ không nỡ để họ ra đi.
Thành ra, họ đành ở nán lại một thời gian để giúp ông cày xới và gieo trồng, cũng như chăm sóc gia súc.
Và rồi, khi ánh nắng xuân chiếu tỏa giữa sa mạc, họ cũng ở lại thêm một thời gian để ngắm cảnh thiên nhiên...
Một ngày nọ, vị ẩn sĩ mới thắc mắc như sau:
"Tôi không còn nghe các ông nói đến sách vở, công việc làm ăn và những người thuộc hạ nữa.
Có chuyện gì xảy ra cho các ông không?".
Cả ba người đều giữ thinh lặng.
Vị ẩn sĩ mới nói tiếp:
"Tôi xin phép được trả lời cho các ông nhé.
Trước kia, các ông có một ông chủ, ông chủ của các ông có tên là sách vở, là tiền bạc, là các thuộc hạ.
Giờ đây, các ông cũng giống như chó lạc mất chủ, các ông cảm thấy tự do.
Nhưng tôi nghĩ rằng: Tốt hơn, là các ông nên trở về với sách vở, với tiền bạc, với các thuộc hạ của các ông.
Trở về, nhưng không với tư cách là nô lệ nữa.
Các ông hãy là chủ chính mình.
Và nếu các ông muốn có một người chủ luôn để cho các ông tự do hoàn toàn, xin hãy nhớ đến tôi và chủ của tôi".
*****
Lục soát cho kỹ trong lương tâm, có lẽ ai trong chúng ta cũng phải thú nhận rằng: Mình là nô lệ của rất nhiều ông chủ.
Có ông chủ mang tên là một ý thức hệ kiên cố đang trói buộc đôi cánh tư tưởng của chúng ta. Chúng ta bị giam hãm trong vòng nô lệ đến độ không dám đưa chân bước ra khỏi vòng tròn mà ý thức hệ đó đã vẽ sẵn.
Có ông chủ mang tên là những định kiến đối với cuộc đời, đối với xã hội, đối với con người, mà chúng ta không bao giờ muốn từ bỏ, mà chúng ta luôn chụp xuống trên người khác, có lẽ cũng là hàng rào kẽm gai, mà chúng ta khoanh tròn xung quanh chúng ta, để mãi mãi chỉ mang lấy một cái nhìn hẹp hòi, ích kỷ.
Có ông chủ là những thói quen xấu, mà chúng ta tích lũy như một pháo đài kiên cố để không muốn rời một bước.
Có ông chủ là thứ tôn giáo vụ hình thức, trong đó chúng ta cố gắng tô vẽ cho mình một bộ mặt đạo đức, nhưng kỳ thực lại hoàn toàn xa lạ với Tin Mừng của Chân Lý và tự do đích thực.
Mỗi người chúng ta cần phải rời bỏ những ông chủ quen thuộc, để đi vào trong túp lều nhỏ bé, nhưng chính do chúng ta cố gắng tự tạo ra.
Nơi sa mạc của cõi lòng, chúng ta sẽ gặp được chính Chúa là ông chủ đích thực của chúng ta.
Có trút bỏ mọi ràng buộc trong cuộc sống, chúng ta mới cảm thấy được Ngài chiếm ngự. Và lúc đó, chúng ta mới cảm nhận được niềm hạnh phúc đích thực, mà Chúa Giêsu đã hứa: "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó".
Một trong những chi tiết trong cuộc tử nạn của Chúa Giêsu vẫn còn tiếp tục gợi hứng cho các họa sĩ: Đó là việc hạ xác Ngài xuống khỏi Thập giá.
Tin Mừng theo thánh Gioan (29,38-42) ghi lại việc ông Nicôđêmô và một người môn đệ kín đáo khác của Chúa Giêsu, tên là Giuse Arimahtia, đã đến xin phép Philatô được tháo gỡ xác Ngài xuống khỏi Thập giá.
Trong hầu hết các bức tranh mô tả biến cố này, người ta đều thấy hình ảnh tiều tụy, không còn hình tượng của Chúa Giêsu mà hai người môn đệ đỡ xuống khỏi thập giá.
Một người tháo đinh ra khỏi tay Ngài, còn một người thì tháo đinh ra khỏi chân Ngài.
Một họa sĩ nọ, thay vì vẽ lại chân dung của hai người môn đệ của Chúa Giêsu, đã chọn những khuôn mặt của thời đại ông.
Và người tháo đinh ra khỏi bàn chân của Chúa Giêsu, không ai khác, hơn là chính ông.
Khi được hỏi lý do tại sao ông lại đồng hóa mình với một trong hai người môn đệ, nhà họa sĩ đã giải thích như sau:
"Những người như tôi rất thường đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá. Và những đinh sắt tôi dùng để đóng đinh Chúa chính là tội lỗi của tôi. Ðã đến lúc, tôi cảm thấy cần phải tháo gỡ chiếc đinh của tội lỗi của tôi ra khỏi thân xác của Ngài".
*****
Chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính:
"Người chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng tôi".
Ðiều đó có nghĩa là do tội lỗi của chúng ta, chúng ta góp phần vào việc đóng đinh Ngài vào thập giá.
Thập giá vẫn luôn mãi là một lời tố cáo, một bản án cho tội lỗi.
Nhưng đó không chỉ là một biểu tượng, mà là một hiện thực.
- Nếu Ðức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một,
- nếu Ðức Kitô vẫn tiếp tục sống trong lịch sử con người và
- nếu tội lỗi là một chối bỏ,
thì mỗi lần chúng ta phạm tội, chúng ta cũng chối bỏ chính Ngài, chúng ta đóng đinh Ngài vào thập giá một lần nữa.
Nếu Ðức Kitô vẫn tiếp tục sống trong lịch sử con người, nếu Ngài tự đồng hóa với con người, nhất là những kẻ khốn cùng, những kẻ thấp hèn nhất trong xã hội, thì mỗi một lần chúng ta khước từ hay xúc phạm đến người anh em, là mỗi lần chúng ta chối bỏ Ngài và đóng đinh Ngài vào thập giá.
Qua mỗi người anh em của chúng ta, Chúa Giêsu vẫn còn tiếp tục bị chối bỏ và chịu đóng đinh.
Trong tác phẩm Ðại Học Máu, văn sĩ Hà Thúc Sinh cũng giống như văn hào Nga Solzenitzyn, ghi lại thân phận tù đày của các tù nhân Việt Nam trong các trại học tập.
Nhưng giữa những đọa đày cùng cực của kiếp người, Hà Thúc Sinh vẫn có cái nhìn lạc quan về thân phận con người.
Con người bị bạo hành ở những mức độ vô nhân nhất, mà vẫn khôi hài, cười đùa, bỡn cợt được.
Trong tác phẩm đầu tay, ông có tựa đề "Hai chị em", Hà Thúc Sinh đã nêu bật được hình ảnh con người tranh đấu lạc quan, chẳng còn biết sợ là gì, nên sẵn sàng kịch liệt chống lại định mệnh, để tự thắng và tự cứu mình...
Hai chị em Lan và Trực bị đắm tàu trong một cuộc vượt biên đầy nguy hiểm.
Là hai người duy nhất còn sống sót, họ trôi dạt và tấp vào một hoang đảo giữa Thái Bình Dương.
Trong nguyên một tuần lễ, tác giả đề cao sức chịu đựng, tinh thần tháo vát của hai chị em.
Sau một tuần lễ chịu đựng, người chị ngã bệnh, Trực bèn kết bè để ra khơi mong tìm lại được chiếc ghe đắm trên đó còn chút ít lương thực, thuốc men và quần áo.
Khi ra đi, anh đã nhóm được một ngọn lửa trên núi cao, vừa làm dấu hiệu để kêu gọi sự chú ý của thuyền bè qua lại trong vùng, vừa lấy đó như ngọn hải đăng để còn có thể quay lại đảo...
Nhưng anh đã ra đi và không bao giờ trở lại hoang đảo...
Sóng to, gió lớn, có lẽ đã chôn vùi anh giữa lòng đại dương. Người chị tất tả chạy ra bãi cát giữa cơn giông bão để réo gọi tên em.
Tác giả đã kết thúc câu chuyện như sau:
"Nếu có thuyền bè chạy qua eo biển, một vùng hoang đảo trên Thái Bình Dương những ngày biển lặng, nếu có chăm chú lắm, thì người ta mới có thể nhìn thấy một ngọn lửa.
Ngọn lửa ấy cháy bập bùng trên một triền núi, khi lớn, khi nhỏ, khi tỏ, khi mờ. Nhưng có điều chắc chắn là nó chưa hề tắt".
*****
Sống là một cuộc chiến đấu không ngừng. Chiến đấu chống lại với những khắc nghiệt của thiên nhiên, chống lại không biết bao nhiêu kẻ thù, chống lại với chính bản thân đầy ươn hèn, xấu xa.
Nhưng người Kitô hữu không phải là một thứ anh hùng khắc kỷ, tự chiến đấu một mình và tin ở sức mạnh vô song của ý chí.
Chúa Giêsu đã chiến đấu, nhưng Ngài không là một anh hùng của một ý chí sắt đá. Sức mạnh duy nhất của Ngài chính là Thiên Chúa. Lương thực của Ngài chính là Thánh ý Chúa Cha. Khí giới của Ngài là sự kết hiệp với Chúa Cha.
Qua ba cơn cám dỗ, Chúa Giêsu đã luôn luôn qui chiếu vào Lời Chúa. Lời của Chúa là khí giới, là thuẫn đỡ của Ngài.
Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống, mà chính là Ðức Kitô sống trong tôi.
Ðó phải là ý lực sống của chúng ta.
Chúng ta cũng hãy nói:
Tôi chiến đấu, nhưng không phải là tôi chiến đấu, mà chính Ðức Kitô chiến đấu trong tôi.
Sức mạnh của Kitô giáo, bản chất của Kitô giáo, không phải là tổng số của các tín hữu, mà chính là Sự Sống của Ðức Kitô, đang châu lưu trong từng người tín hữu.
Một vị linh mục nọ đã có một sáng kiến rất ngộ nghĩnh để đánh động giáo dân trong giáo xứ.
Một buổi sáng Chúa Nhật nọ, dân chúng bỗng nghe một lời rao báo như sau:
"Một nhân vật trong giáo xứ vừa qua đời. Tang lễ sẽ được cử hành vào sáng thứ Tư tới".
Nghe lời loan báo ấy, cả giáo xứ nhốn nháo lên. Người nào cũng muốn biết con người quan trọng ấy là ai.
Ðúng ngày tang lễ, mọi người trong giáo xứ nườm nượp kéo nhau đến nhà thờ. Từ cung thánh cho đến cuối nhà thờ, không còn một chỗ trống.
Người ta đến không phải để cầu nguyện cho người quá cố, cho bằng để nhìn mặt lần cuối cùng, con người mà ai cũng muốn biết.
Sau thánh lễ, vị linh mục đến mở nắp quan tài để cho mọi người đến chào từ biệt lần cuối cùng người quá cố.
Ai ai cũng sắp hàng để nhìn cho kỳ được người chết.
Nhưng ai cũng đều ngạc nhiên, bởi vì thay cho thi hài của người chết, mỗi người chỉ nhìn thấy trong quan tài một tấm gương.
Và dĩ nhiên, khi cúi nhìn vào quan tài, mỗi người chỉ nhìn thấy dung nhan của mình mà thôi.
Chờ cho mọi người làm xong nghi thức từ biệt ấy, vị linh mục mới giải thích:
"Như anh chị em đã có thể nhận thấy, tôi đã cho đặt vào trong quan tài một tấm kính. Con người mà anh chị em nhìn thấy trong quan tài không ai khác hơn là chính mỗi người trong chúng ta.
Vâng, đúng thế, thưa anh chị em, mỗi người chúng ta cần phải mai táng chính mình...
Thánh lễ vừa rồi đã được cử hành cho tất cả chúng ta".
*****
Bắt đầu sứ mệnh công khai, Chúa Giêsu đã dìm mình xuống dòng nước sông Giodan, Chúa Giêsu muốn loan báo cho mọi người thấy rằng: Ngài đã vâng phục Ý Chúa Cha để đi vào Cái Chết và nhờ đó Ngài đã cứu rỗi được toiàn thể nhân loại.
Một cách nào đó, mầu nhiệm của Sự Chết và Sống lại đã được diễn tả qua việc Chúa Giêsu dìm mình trong dòng nước.
Thiết lập Phép Rửa như là cửa ngõ để đưa chúng ta vào cuộc sống trường sinh, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta tham dự vào mầu nhiệm chết và sống lại của Ngài.
Dìm mình trong nước của Phép Rửa, chúng ta khởi đầu cuộc sống Kitô hữu bằng chính cái chết.
Sống đối với chúng ta có nghĩa là chết:
- Chết cho những khuynh hướng xấu,
- chết cho những đam mê xấu,
- chết cho tội lỗi,
- chết cho ích kỷ,
- chết cho hận thù.
Cuộc sống do đó đối với chúng ta, cũng là một cuộc mai táng liên lỉ. Cũng như hạt lúa rơi xuống đất phải thối đi, cũng thế chúng ta phải chấp nhận chôn vùi con người cũ tội lỗi của chúng ta, thì chúng ta mới cóm thể sống lại với Chúa.
Sau khi phản bội Chúa bằng một cái hôn, Giuda cảm thấy thất vọng đến độ không còn nghĩ rằng, mình có thể được tha thứ nữa.
Ông cầm 30 đồng bạc, là giá của sự phản bội và đi vào Ðền thờ, để trả lại cho các thượng tế và kỳ lão.
Sau đó, ông ra ngoài, lấy dây thắt cổ tự vận.
*****
Câu chuyện ấy đã được xen vào vở tuồng thương khó nổi tiếng của dân làng Oberammergau bên Ðức.
Cứ 10 năm một lần, theo một lời thề hứa mà cha ông đã để lại từ mấy trăm năm qua, người dân làng vẫn đều đặn trung thành diễn lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu.
Vở kịch thu hút khán giả từ khắp nơi trên thế giới.
Người ta kể lại rằng:
Lần kia, một em bé gái 7 tuổi ngồi cạnh mẹ để xem vở tuồng. Người đóng vai Giuda, trong cơn thất vọng não nề đã thốt lên:
"Tôi biết đi đến với ai bây giờ?
Tôi đã phản bội Thầy tôi.
Thế là hết!
Tôi không biết phải chạy đến với ai nữa".
Em bé ngồi bên cạnh mẹ, cảm thông cho số phận của kẻ chìm đắm trong thất vọng.
Em muốn tìm cách để cứu vớt con người khốn khổ ấy.
Em bèn quay sang mẹ và nói lớn, đến độ tất cả mọi khán thính giả có mặt trong hội trường đều nghe được:
"Má ơi, sao ông ta không chạy đến với Mẹ Maria?".
*****
Chúa Giêsu cũng có một người Mẹ như mọi người, và nhất là Ngài cũng trải qua một thời thơ ấu như mọi người.
Kỷ niệm của những giây phút ngồi trên gối Mẹ, những lần sà vào lòng Mẹ, những lần mếu máo khi lạc mất Mẹ, hay những lần vòi vĩnh Mẹ... hẳn phải luôn đậm nét trong ký ức của Chúa Giêsu.
Có lẽ chính kinh nghiệm của bản thân ấy đã trở thành bài học về hồn nhiên trong trắng, tin tưởng, phó thác của tuổi thơ mà Chúa Giêsu luôn đề ra cho chúng ta khi Ngài nói:
"Nếu các ngươi không nên giống như trẻ nhỏ, các ngươi không được vào nước Trời".
Tuổi thơ thường gắn liền với mẹ.
Còn âm thanh nào bộc phát, tự nhiên, quen thuộc và êm dịu trên môi của trẻ thơ cho bằng tiếng "Mẹ".
Khi vui, trẻ thơ kêu mẹ, lúc đói, trẻ thơ cũng kêu mẹ.
Khi tỉnh thức, trẻ thơ cũng kêu mẹ, lúc ngái ngủ, trẻ thơ cũng kêu mẹ...
Mẹ là tất cả của trẻ thơ.
Chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của trẻ thơ, để được vào nước Trời.
Hẳn Chúa Giêsu cũng muốn nhắn gửi chúng ta cho Mẹ của Ngài.
Trở nên trẻ thơ trong nước Trời, cũng có nghĩa là biết chạy đến với Mẹ Ngài.
Trở nên trẻ thơ trong nước Trời cũng có nghĩa là mặc lấy tâm tình của chính Mẹ Ngài. Bởi có ai trong trắng, tin tưởng, phó thác cho bằng Mẹ Maria.
Văn hào Nga Dostoievski, với những tác phẩm nổi tiếng, như: Tội ác và Hình phạt, anh em nhà Karamazov, là người đã trải qua một cuộc đời đầy sóng gió.
Sau một thời gian dài bị giam cầm vì lý do chính trị, ông bị kết án tử hình. Nhưng, như một phép lạ, vào giữa lúc sắp sửa bị hành quyết, ông bỗng nhận được lệnh tha.
Người viết tiểu sử của ông kể lại như sau:
Thời gian trong tù đã in đậm nét trên quãng đời còn lại của ông.
Từ trên chiếc máy chém nhìn xuống đám người đang đứng dưới chân mình, ông chỉ còn thấy họ là những người bị áp bức, những người nô lệ đáng thương.
Dù họ có phạm tội ác tày trời đi nữa, tâm hồn họ vẫn là tâm hồn của những con người vô tội, do đó đáng được sự tha thứ.
Khi bước xuống khỏi máy chém, Karamazov thấy mọi sự như vô nghĩa.
Ðiều duy nhất còn có ý nghĩa đối với ông, chính là tình yêu.
Và cho dù trong suốt 30 năm sau, cuộc đời của ông đắm chìm trong bùn nhơ của tội lỗi, của khốn khổ, của ô nhục, ông luôn nhìn mọi sự qua lăng kính của yêu thương.
Một lần bị đưa lên máy chém ấy cho ông đã hiểu rằng:
- Con người là đau khổ.
- Tất cả mọi người đều đáng cảm thông, thương mến.
Ðó là sứ điệp mà Karamazov công bố suốt cuộc đời của ông.
Cả cuộc đời của ông là một cố gắng không ngừng, để diễn đạt câu nói:
"Hỡi người anh em,
không có gì có thể ngăn cản tôi yêu thương bạn".
*****
Nếu có những lúc chúng ta cảm thấy thất vọng về con người đốn mạt của chúng ta, nếu có những lúc chúng ta không còn tin tưởng ở tình người nữa, chúng ta hãy nhìn lên Chúa Giêsu. Chúng ta thấy ngay ánh mắt nhân từ, cảm thông của Ngài.
Khi Zakêu, thủ lãnh của phường thu thuế, leo lên cây cao để thấy Ngài, Chúa Giêsu đã ôn tồn nói với ông: "Hôm nay, tôi đến thăm nhà ông".
Khi người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình được dẫn ra trước mặt Ngài, Chúa Giêsu nhỏ nhẹ nói với bà: "Chị hãy về đi, tôi không kết án chị".
Khi Maria Madalêna đến quỳ dưới chân Ngài, Chúa Giêsu đã không hắt hủi cô.
Khi Phêrô phản bội Ngài, Chúa Giêsu nhìn ông với tất cả trìu mến, thông cảm.
Khi tên trộm cướp bị treo trên thập giá hướng về Ngài, Chúa Giêsu đã hứa với anh: "Hôm nay, anh sẽ được ở trên Thiên Ðàng với Ta ".
Ngài đã ngồi cùng bàn với phường thu thuế, bọn đĩ điếm, kẻ tội lỗi.
Ngài tha thứ những kẻ đóng đinh Ngài vào thập giá.
Qua cách cư xử của Chúa Giêsu, Thiên Chúa muốn nói với chúng ta rằng:
Ngài yêu thương con người. Bởi vì, Ngài không thể chối bỏ hình ảnh của Ngài nơi con người.
Chính ánh lửa tình yêu ấy đã khiến cho Thiên Chúa vẫn luôn nhận ra được hình ảnh của mình nơi con người, để không bao giờ thất vọng về con người.
Tại Roma có một ngôi thánh đường cổ tên là Dominus sub aquis, nghĩa là Chúa ở dưới nước...
Du khách đến Roma thường đến viếng thăm ngôi thánh đường này, vì phía trên bàn thờ, có một tượng thánh giá rất đặc biệt:
Bất cứ ai đến quỳ trước tượng thánh giá và cầu nguyện với tất cả thành tâm, đều nhận được sức mạnh và niềm an ủi thâm sâu...
Người ta kể lại rằng:
Tác giả của tượng thánh giá bằng cẩm thạch này đã mất rất nhiều năm mới hoàn thành được tác phẩm.
Hơn hai lần, mỗi khi treo bức tượng lên để ngắm nhìn, ông lại cho kéo xuống và đập phá đi vì ông cho rằng tác phẩm vẫn chưa diễn đạt được điều ông mong muốn...
Sau nhiều năm bỏ dở, ông lại bắt tay vào công trình lần thứ ba.
Nhưng, chính lúc ông miệt mài chú tâm vào công việc, thì cũng là lúc ông gặp nhiều thử thách nhất.
Nhiều người ganh tỵ, nên tìm cách hạ uy tín của ông.
Vợ con ông qua đời trong những hoàn cảnh thật đau thương.
Người nghệ sĩ chỉ còn biết kêu cầu xin Chúa giúp ông chịu đựng được mọi gian lao thử thách.
Ai cũng tưởng rằng cơn thử thách đã khiến ông bỏ cuộc.
Trái lại, ông càng miệt mài chú tâm vào công trình.
Người nghệ sĩ dồn tất cả niềm đau của mình lên khuôn mặt của Ðức Kitô.
Bức tượng của Chúa Giêsu trên thập giá, không là một phiến đá lạnh lùng, xa lạ, mà đã trở thành niềm đau đậm nét của một tâm hồn.
Bức tượng đã trở nên sống động và có sức thu hút, do chính tâm tình, mà người nghệ sĩ đã muốn tháp thập vào đó.
"Hỡi tất cả những ai gồng gánh nặng nề,
hãy đến với Ta và Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho".
Lời mời gọi trên đây của Chúa Giêsu, hẳn phải đem lại cho chúng ta an ủi đỡ nâng, nhất là trong những lúc chúng ta gặp đau khổ, thử thách.
Chúa Giêsu như muốn nói với chúng ta rằng: Ngài đang có đó, Ngài đang có mặt trong từng phút giây của cuộc sống chúng ta, Ngài mang lấy tất cả những sầu đau, buồn tủi của chúng ta.
Mãi mãi, Ngài vẫn là Ðấng Cứu Chuộc chúng ta.
Mãi mãi, Ngài đến với chúng ta, như đến với những người phong hủi, những kẻ bệnh tật, kẻ tội lỗi, phường thu thuế...
Ngài đón nhận tất cả mọi khổ nhọc, khó khăn của chúng ta.
Và bởi vì Ngài mang lấy mọi khổ đau của con người, cho nên Ngài cũng tự đồng hóa với con người, nhất là những người nghèo khổ, bất hạnh.
Trên những khuôn mặt gần như không còn hình tượng của con người nữa, chúng ta phải nhận diện được chính Ngài.
Ngài đã từng nói với chúng ta:
"Ai cho những kẻ bé mọn nhất, dù chỉ một chén nước lã thôi,
là họ đã cho chính Ta vậy".
Trút lên Ngài tất cả gánh nặng của khổ đau, được Ngài nâng đỡ bổ sức, chúng ta cũng hãy mang lại an ủi đỡ nâng cho mọi người xung quanh.
Sự đau khổ nào cũng có sức liên kết con người.
Kết hiệp với Ðức Kitô trên thập giá, chúng ta cũng dễ dàng liên đới, cảm thông với mọi người đang đau khổ...
Một tác giả người Thụy Ðiển đã tưởng tượng ra một cuộc tranh luận sôi nổi diễn ra giữa các dân cư sinh sống tại một khu rừng nọ.
Ðề tài của cuộc tranh luận là: Ðâu là ý nghĩa của cuộc sống?...
Kẻ kên tiếng phát biểu ý kiến đầu tiên, không ai khác hơn là chú chim họa mi, suốt ngày chỉ biết ca hát líu lo. Chú khẳng định rằng: "Ðời là một cuộc ca hát không ngừng".
Một chú chuột chũi phản pháo tức khắc.
Theo chú: "Ðời là một cuộc tranh đấu không ngừng, để chống lại bóng tối".
Con bướm có đôi cánh sặc sỡ thốt lên:
"Ðời là vui chơi và hạnh phúc".
Con ong đang miệt mài tìm mật bên mấy cánh hoa, không tán thành ý kiến ấy chút nào.
Nó bảo rằng:
"Ðời là một cuộc lao động vất vả".
Con kiến cũng nhất trí với con ong, để chỉ thấy rằng: Đời là lao động.
Từ trên cao, một con phượng hoàng cũng góp ý kiến: "Ðời là tự do".
Ðó là ý kiến của động vật.
Các thảo mộc cũng không thiếu ý kiến để đóng góp.
Cây thông cao sừng sững giữa rừng hoàn toàn tán thành ý kiến của con phượng hoàng: "Ðời là tự do".
Một cánh hoa dại giữa rừng thì lại hùa theo con ong và con kiến, để khẳng định rằng: Đời chỉ là lao động vất vả.
Cánh hoa hồng thì lại đồng quan điểm với con bướm, để cho rằng: Đời là hạnh phúc và vui tươi.
Thế giới vô tri cũng lên tiếng phát biểu.
Một đám mây đen ngao ngán thốt lên:
"Ðời chỉ là đắng cay và nước mắt".
Một dòng sông hiền hòa trôi chảy cũng nhận định:
"Ðời là một dòng nước chảy không ngừng".
Lời phát biểu cuối cùng, nhưng cũng là ý kiến tổng kết của cuộc tranh luận, là tiếng chuông từ một giáo đường bên cạnh khu rừng.
Thật thế, tiếng chuông ấy ngân lên những lời như sau:
"Tất cả những lời phát biểu của quí vị đều đúng cả. Ðời là hòa bình, đời là ca hát, đời là vui tươi, đời là tranh đấu, đời là bể khổ, đời là đắng cay, nhưng tất cả đều tươi nở trong lòng người, nhờ quyền lực của Chúa Thánh Thần".
- Tôi bởi đâu mà đến?
- Tôi sẽ đi về đâu?
- Tại sao tôi đau khổ?
Ðó là những câu hỏi lớn nhất, mà một lúc nào đó trong cuộc sống, chúng ta không thể tránh né được.
*****
Cám ơn Chúa, vì đã cho chúng ta giải đáp trong chính Chúa Giêsu Kitô.
Chính Ngài là Ánh Sáng chiếu rọi trên bí ẩn của cuộc đời cũng như trên chính Mầu Nhiệm của con người.
Công đồng Vatcican II trong hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng đã nói với chúng ta rằng: Huyền nhiệm của con người chỉ có thể được sáng tỏ trong chính Mầu Nhiệm của Ngôi Hai Nhập Thể.
Chúng ta chỉ có thể tìm thấy câu trả lời cho những câu hỏi lớn của cuộc sống, bằng cách nhìn vào Ðức Giêsu Kitô.
Quả thật, Ngài đã sống kiếp con người như mọi người.
Nhưng chính khi tiếp nhận mọi mùi vị của cuộc sống, Ngài đã mặc lấy cho cuộc sống một ý nghĩa, một hướng đi.
Cuộc sống có ngọt bùi, đắng cay, chua sót, cuộc sống có lao động, tranh đấu hay thảnh thơi...
Tất cả đều mang lấy một ý nghĩa.
Trong Chúa Giêsu, mất mát trở thành thắng lợi, thua thiệt trở thành cơ may, đau khổ trở thành dịu ngọt, cái chết trở thành khởi đầu của sự sống.
Nếu chúng ta đón nhận cuộc đời này với cái nhìn ấy, thì quả thực, không một thử thách, mất mát, đau khổ nào, khiến chúng ta thất vọng.
Với Quyền Lực của Thánh Thần, mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta, những bể khổ, những đắng cay, chua xót của cuộc sống, đều có thể nở hoa.
Những niềm vui nhỏ ấy sẽ mang lấy chiều kích vĩnh hằng.
Và những việc làm vô danh thường ngày sẽ mang lấy giá trị vĩnh cửu.
Thi sĩ Lamartine của Pháp có kể lại một giai thoại như sau:
Một hôm, tình cờ đi qua một khu rừng, ông nghe một âm thanh kỳ lạ.
Cứ sau mỗi tiếng búa gõ vào đá lại vang lên một tiếng: "Cám ơn".
Ðến gần nơi phát ra âm thanh, thi sĩ mới nhận thấy một người thợ đang miệt mài làm việc. Cứ mỗi lần gõ vào phiến đá, ông lại thốt lên: "Cám ơn'.
Thi sĩ Lamartine mới nấn ná đến trò chuuyện, người thợ đập đá giải thích: "Tôi cảm ơn Chúa".
Ngạc nhiên về lòng tin của một con người, mà cuộc sống hẳn phải lầm than lam lũ, thi sĩ mới nói:
"Giả như bác được giàu có, thì tôi hiểu tại sao bác không ngừng thốt lên hai tiếng cám ơn. Ðằng này, Thiên Chúa chỉ nghĩ tới bác có mỗi một lần duy nhất đó là lúc Ngài tạo nên bác. Sau đó, Ngài ban cho bác có mỗi cái búa này, để rồi không còn ngó ngàng gì đến bác nữa.
Thế thì tại sao bác lại mỏi miệng để cám ơn Ngài?".
Nghe thế, người đập đá mới hỏi vặn lại thi sĩ:
"Ngài cho rằng Chúa chỉ nghĩ đến tôi có một lần thôi sao".
Thi sĩ Lamartine bèn thách thức:
"Dĩ nhiên, Chúa chỉ nghĩ đến bác có mỗi một lần mà thôi".
Người thợ đá nghèo, nhưng đầy lòng tin, mới mếu máo thốt lên:
"Tôi nghĩ rằng: Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên cả. Ngài nghĩ rằng Thiên Chúa đã đoái thương đến một người thợ đá thấp hèn như tôi, dù chỉ một lần thôi.
Vậy không đủ cho tôi cám ơn Ngài sao?
Vâng, cám ơn Chúa, cám ơn Chúa".
Nói xong, ông bỏ mặc cho thi sĩ đứng đó và tiếp tục điệp khúc quen thuộc của ông, vừa đục đá vừa tạ ơn Chúa.
*****
Thiên Chúa yêu thương con người.
Ðó là bài ca, mà chúng ta không chỉ hát lên trong mùa Giáng Sinh, mà phải được lập lại trong từng khoảnh khắc của cuộc sống.
Nhưng khi chúng ta nói:
Thiên Chúa yêu thương con người.
Điều đó trước hết phải có nghĩa là Ngài yêu thương tôi. Thiên Chúa không yêu thương con người bằng một cách chung. Thiên Chúa yêu thương mỗi người bằng một tình yêu cá biệt, riêng rẽ.
Ðiều đó cũng có nghĩa là mỗi người là một chương trình trong trái tim của Thiên Chúa.
Ðối với Thiên Chúa, không có đám đông vô danh, cũng không có những con số.
Ngài gọi mỗi người bằng tên gọi riêng...
Chúng ta không thể đo lường Tình Yêu của Thiên Chúa bằng thước đo hẹp hòi, thiển cận của chúng ta.
Trong Tình Yêu Quan Phòng của Ngài, mỗi một con người là một chương trình và mỗi một chương trình đều cao cả.
Thiên Chúa không tạo dựng chúng ta theo một khuôn mẫu, mà theo một chương trình riêng cho mỗi người.
Mỗi một biến cố xảy đến đều được Ngài sử dụng, để đem lại điều thiện hảo cho chúng ta.
Nói như thánh Phaolô, Thiên Chúa quy mọi sự về điều thiện, cho những kẻ Ngài yêu thương.
Và chính vị thánh này cũng nói: "Tất cả nọi sự đều là ân sủng của Chúa".
Hakuin là một thiền sư nổi tiếng tại Nhật Bản. Ông sống ẩn dật trên núi.
Ngày kia, có một thiếu nữ con nhà gia giáo bỗng thấy mình có thai. Cô nàng tuyên bố với mọi người rằng: Chính thiền sư Hakuin là tác giả của bào thai.
Vừa nghe tin này, cả dân làng, do cha mẹ của cô thiếu nữ dẫn đầu, đã giận dữ kéo đến chòi của vị thiền sư. Họ la hét, chửi rủa vị thiền sư đủ điều...
Nhưng vốn điềm tĩnh, nhà sư chỉ biết mỉm cười thốt lên: "Thế ư?".
Ai cũng nghĩ đó là một cách chịu tội.
Ai cũng nghĩ chính ông là tác giả của bào thai trong lòng người thiếu nữ.
Khi đứa bé chào đời, thiền sư Hakuin lặng lẽ đến nhận nó và đưa về chiếc chòi nghèo nàn của mình.
Ông bồng lấy nó, nâng niu nó và chăm sóc nó như chính đứa con ruột của mình.
Nhưng khoảng 18 năm sau, người thiếu nữ bỗng hối hận về hành vi của mình. Cô thú nhận rằng người cha của đứa bé chính là chàng ngư phủ trẻ trong làng.
Nghe tin này, ai ai trong làng cũng cảm thấy xấu hổ, vì đã nghĩ xấu và nhục mạ một con người đáng kính.
Một lần nữa, dưới sự dẫn đầu của cha mẹ thiếu nữ, cả làng kéo nhau đến chòi của vị thiền sư. Mọi người sụp lạy tỏ dấu sám hối vì đã xúc phạm đến thanh danh của vị đạo sĩ thánh thiện.
Giữa lúc mọi người đồng thanh tuyên bố sự vô tội và cứu gỡ danh dự cho mình, vị thiền sư chỉ mỉm cười nói: "Thế ư?".
*****
Hai tiếng " Thế ư?" của thiền sư Hakuin trên đây xem chừng như cũng cùng một âm điệu với hai tiếng "Xin vâng" của Mẹ Maria.
Thái độ điềm nhiên và chấp nhận, không chỉ là kết quả của một sự rèn luyện ý chí, nhưng còn là một thể hiện của niềm tin.
Thưa xin vâng, trước tiên có nghĩa là tuyên xưng Tình Yêu không hề lay chuyển của Thiên Chúa.
Thưa xin vâng, là chấp nhận đi vào chương trình của Thiên Chúa, trong đó cho dù phải trải qua tăm tối và thử thách, con người vẫn tin ở sự thành toàn.
Thưa xin vâng, cũng có nghĩa là nói lên niềm tin nơi chính bản thân: Dù có yếu hèn, vấp ngã, con người vẫn luôn là đối tượng của một Tình Yêu chung thủy và là trọng tâm của một chương trình cao cả, mà Thiên Chúa đang thực hiện.
Thưa xin vâng, cũng có nghĩa là nói lên niềm tin vào cuộc đời.
Cuộc đời này, dù có đen bạc đến đâu, vẫn luôn có một ý nghĩa.
Và tha nhân, dù có thấp hèn, xấu xa đến đâu, vẫn tiếp tục mang lấy hình ảnh cao vời của Thiên Chúa.
Trong một khu vườn tuyệt đẹp kia có nhiều loại hoa đua nhau khoe màu tranh sắc: Hoa Hồng, hoa Hướng Dương, hoa Vạn Thọ, hoa Cúc, kể cả vài cụm bông Móng Tay và bông Mười Giờ.
Một ngày kia, có người đến nhìn ngắm những bông hoa đẹp, rồi lấy một cây thước ra đo chiều cao, chiều dài, cũng như đếm số các nụ hoa. Xong ông ta bỏ đi.
Ý thức về chiều cao và độ lớn của mình, hoa Hướng Dương càng vươn cổ lên cao và nói: "Trong khắp khu vườn, không hoa nào lớn mạnh như chúng tôi".
Nghe nói thế, hoa Hồng lên tiếng: "Nhưng không hoa nào đẹp và tỏa hương thơm ngát như chúng tôi".
Không chịu thua ai, hoa Vạn Thọ góp lời: "Hai người nói thế nghe sao phải, to lớn và thơm tho nào có ý nghĩa gì. Hai người làm gì có được nhiều bông hoa như chúng tôi".
Nghe những loại hoa trên tranh luận, các loại hoa Cúc, hoa Móng Tay và hoa Mười Giờ cảm thấy tủi phận. Hoa Móng Tay tìm lời an ủi hoa Mười Giờ: "Bọn mình không đẹp, không thơm, nhưng được cái là dễ trồng nên được nhiều người ưa thích".
Sau đó, khu vườn trở lại yên lặng trong khoảnh khắc. Nhưng hoa Cúc phá tan sự im lặng nặng nề với những phát biểu sau đây: "Sao các anh, các chị lại có thể suy nghĩ thế? Bởi đâu các anh các chị lại tranh nhau về chiều cao, về độ lớn, về vẻ đẹp, về hương thơm. Anh chị quên rằng: Dù lớn hay nhỏ, dù mạnh hay yếu, dù đỏ hay vàng, mọi bông hoa đều nhận lãnh hình hài, vẻ đẹp và hương thơm từ bàn tay của Ðấng Tạo Hóa và dưới mắt Người chúng ta đều như nhau. Mỗi chúng ta đều được Người ban cho đồng đều ánh sáng và hơi ấm của mặt trời. Mỗi bông hoa đều được Người cho mưa rơi xuống gốc và sương sa trên mình như nhau. Ðó là Mầu Nhiệm của lòng quảng đại và khoan nhân của Thiên Chúa".
Sự phân bì, ghen tuông đã và đang làm khổ đau cho con người cũng bằng tính tự cao, tự đại hay ít ra tính phân bì, ghen ghét cũng làm cho chúng ta không được thư thái, bình an. Vì thế, có người đã đề ra những phương pháp sau đây như những điều kiện để được hưởng sự bình an trong tâm hồn:
- Nếu tôi không muốn so sánh mình với người khác, tôi sẽ cảm thấy hạnh phúc với những gì tốt đẹp nơi tôi.
- Nếu tôi không làm nô lệ cho sự thành công, tôi có thể sản xuất những thành quả tốt đẹp kẻ khác chờ đợi nơi tôi.
- Nếu tôi không để mình bị vướng vào mạng lưới của sự cạnh tranh, tôi sẽ thông phần và chia sẻ được những cái tốt đẹp hàm ẩn trong tất cả mọi người.
Christophoro Columbo, người đã khám phá ra Châu Mỹ vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ 15, có lòng sùng kính Chúa Ba Ngôi cách rất đặc biệt.
Trước mọi hoạt động, ông đều kêu cầu Chúa Ba Ngôi, cũng như ông luôn khởi đầu những gì mình viết bằng dòng chữ: "Nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh".
Lần kia, khi Columbo trình bày về thuyết: "Trái đất tròn" trước một nhóm học giả được gọi là Hội Ðồng Salamanca, một tổ chức quy tụ những nhà khoa học và thần học danh tiếng nhất thời bấy giờ, ông đã khởi đầu như sau:
"Hôm nay, tôi được hân hạnh đứng trước mặt các ngài nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh, vì hoàng đế đã truyền lệnh cho tôi đệ trình lên sự khôn ngoan của quý vị một dự án, mà tôi xác tín là Chúa Thánh Thần Ba Ngôi Thiên Chúa, đã gợi hứng cho tôi".
Trong cuộc hành trình thứ ba của ông khởi hành năm 1948, Columbo đã thề hứa sẽ hiến dâng cho Chúa Ba Ngôi phần đất nào ông khám phá ra đầu tiên.
Vì thế, hòn đảo ông đặt chân xuống đầu tiên trong cuộc hành trình thám hiểm Tân thế giới ấy cho đến nay vẫn được gọi là "Trinidad", tức là Chúa Ba Ngôi.
*****
Trong suốt cuộc đời, người Kitô hữu chúng ta luôn có kinh nghiệm về sự gần gũi của Ba Ngôi Thiên Chúa:
- Lúc vừa mở mắt chào đời, chúng ta được nhận lãnh Phép Rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi.
- Trong suốt ngày sống, chúng ta thường ghi dấu thánh giá trên mình, với lời chúc tụng, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, cũng như mỗi lần chúng ta dùng bữa hay khi khởi đầu mọi sinh hoạt.
- Cộng vào đấy, mỗi lần chúng ta vấp ngã và khiêm nhượng đi xưng thú những lỗi lầm trong tòa cáo giải, chúng ta được giao hòa lại với Thiên Chúa và cộng đoàn nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi.
- Và cũng nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi mà các đôi trai gái yêu nhau, được nối kết để chung sống đời hôn nhân.
- Rồi cả các bệnh nhân cũng được ban ơn sức mạnh, nhờ danh Thiên Chúa Ba Ngôi để khi nhắm mắt xuôi tay, các Kitô hữu chúng ta cũng được tiễn đưa vào cuộc sống đời sau và được chôn cất nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
- Mặt khác, Chúa Ba Ngôi cũng là trung tâm và mục đích mọi hoạt động của những kẻ tin kính Người.
Bởi thế chúng ta thường kết thúc nhiều Kinh và những sinh hoạt bằng câu:
"Sáng danh Ðức Chúa Cha và Ðức Chúa Con và Ðức Chúa Thánh Thần".
Một trong các vở tuồng bất hủ trên sân khấu kịch nghệ quốc tế, phải kể là vở kịch mang tựa đề "Romeo và Juliet" của văn hào trứ danh người Anh, ông William Shakespeare.
Vở kịch này được sáng tác vào năm 1595, nhưng mãi cho đến nay, khi vở kịch được phổ nhạc, được các ca sĩ nổi tiếng trình diễn, khán giả vẫn nối đuôi nhau chờ mua vé, để vào theo dõi một câu chuyện tình cảm động, giữa hai thanh niên nam nữ yêu nhau thắm thiết, nhưng đường tình duyên bị trắc trở, không thể tiến đến hôn nhân, vì chàng và nàng thuộc về hai gia đình có mối thù truyền kiếp với nhau, trong bối cảnh xã hội mang nặng đầu óc nuôi oán, báo thù, tại Italia thời trung cổ.
Sau khi nàng Juliet đem câu chuyện tình ngang trái tỏ lộ cùng một vị linh mục và cho ngài biết ý định sẽ cùng với Romeo thoát ly gia đình, để tìm đến một phương trời xa lạ xây tổ uyên ương, vị linh mục đề nghị nàng dùng phương thế uống một thứ thuốc mê để giả chết.
Sau đó ngài sẽ cứu sống nàng và giao cho Romeo đem nàng đi. Kế hoạch này được giữ bí mật đến nỗi chính chàng Romeo cũng không hay biết.
Khi thấy người yêu đã vì mình dùng độc dược quyên sinh, chàng Romeo cũng dùng gươm tự sát để đáp lại mối tình tuyệt vọng của người yêu.
Khi thuốc mê đã hết hiệu nghiệm, nàng Juliet tỉnh dậy thấy người yêu đang thoi thóp bên vũng máu đào: Tình yêu kêu gọi tình yêu, nàng cũng dùng gươm kết liễu phận bạc để cùng chết với chàng.
Hình như những câu chuyện tình thương tâm trong tuồng kịch hay tiểu thuyết nào cũng kết thúc bằng trắc trở, chia ly, chết chóc.
Dù bi ai, nhưng các câu chuyện ấy cũng nói lên một phần nào sự thật.
Ðó, có lẽ là lý do tại sao trong các thiệp hồng báo tin hôn lễ, các đôi trai gái tính chuyện trăm năm thường chọn và cho in câu:
"Tình yêu mạnh hơn sự chết".
Trong các cuộc giao tế thường ngày giữa người với người. Hoặc trong mối quan hệ láng giềng, bạn bè, kể cả cha mẹ, con cái, anh chị em trong gia đình hay giữa tình thân, vợ chồng, chúng ta cần có những dấu chỉ biểu lộ ra bên ngoài, để diễn tả tâm tình yêu mến chất chứa bên trong:
Từ những dấu chỉ đơn sơ, thi vị "yêu nhau cởi áo cho nhau" đến chỗ hy sinh cả cuộc đời tận tụy, làm lụng vất vả, gánh chịu những nhọc nhằn, chịu đựng tha thứ cho nhau: "Một câu nhịn, chín câu lành" đối với những người thân thương trong gia đình.
Một lần kia, các phụ nữ giàu có sinh sống tại thành phố Firenze, miền bắc nước Italia nảy, ra sáng kiến góp một khối đá cẩm thạch lớn và thuê một nhà điêu khắc tạc thành bức tượng nào tùy ý, mà ông nghĩ là dân chúng sẽ ưa thích để làm quà cho thành phố.
Nhưng có lẽ đây không phải là một nhà điêu khắc tượng có biệt tài hay vì khối đá bị sẻ không đúng theo quy luật điêu khắc, nên sau khi nghiên cứu một thời gian, ông ta không biết dùng khối đá để tạc tượng gì, nên đành bỏ cuộc, với lời quả quyết:
"Ðây là một khối đá vô dụng".
Kể từ ngày ấy, khối đá cẩm thạch quý giá bị bỏ ngoài trời mặc cho mưa sa tuyết phủ.
Một nhà điêu khắc khác cũng được mời đến xem khối đá, nhưng sau khi nhìn ngắm và có người thử phác họa vài nét nháp trên giấy, tất cả đều bỏ đi với cùng một ý kiến của nhà khắc tượng đầu tiên.
Cho đến một ngày kia, Michelangelo, nhà điêu khắc và kiến trúc thời danh, có dịp ghé thăm thành phố nhà.
Không rõ có ai lưu ý ông về khối đá, hay ông tình cờ khám phá ra, nhưng ông cảm thấy muốn tạc một bức tượng, được tạc từ khối đá, mà ai cũng cho là vô dụng.
Ông đo mọi kích thước.
Ông bỏ hàng ngày để nhìn ngắm khối đá để tìm hứng.
Bỗng chốc ông thấy thật rõ ràng một bức tượng, mà ông xác tín là dân chúng thành Firenze sẽ rất mến mộ.
Ông nhìn thấy hình chàng thanh niên David, vai mang cái ná bắn đá, tay cầm những hòn sỏi, trong tư thế sẵn sàng ra chiến đấu với tên khổng lồ Goliát.
Những nhà khắc tượng khác đồng ý cho rằng: đây là một khối đá vô dụng. Nhưng dưới cặp mắt của Michelangelo, khối đá ấy đã mang hình ảnh chàng thanh niên David, vị anh hùng dân tộc Do Thái và lập tức ông lấy dụng cụ bắt tay vào việc, mặc cho những người tạc tượng khác lắc đầu, mỉm cười ngụ ý nói rằng: Đây là thật công dã tràng.
Nhưng Michelangelo vẫn miệt mài làm việc, gác ngoài tai những tiếng thị phi. Rồi cuối cùng, mỗi nhát búa, mỗi cái đục đẽo làm nổi hẳn một bức tượng chàng David hiên ngang, oanh liệt, mà trải qua bao thế kỷ, vẫn làm say mê hàng vạn du khách, trố mắt đứng nhìn một kỳ công tuyệt tác của nghệ thuật điêu khắc.
*****
Không ai trong chúng ta là khối đá vô dụng, khi được chọn để tạc thành những bức tượng tín hữu Kitô sống động dưới những nhát búa, nét đục của Chúa Giêsu.
Lời Chúa và sự hiện diện của Ngài, muốn tạo chúng ta thành những Kitô hữu, xứng với danh gọi là giống Chúa Giêsu.
Có một người khờ nọ muốn thoát khỏi cái bóng của mình...
Nhưng càng trốn, thì cái bóng càng đeo đuổi anh. Anh lăn lộn trên đất, anh lao mình xuống nước, dù anh đi đâu, dù anh làm gì, cái bóng của anh vẫn còn đó, vẫn theo anh.
Có một người khôn ngoan nghe chuyện, mới đến cố vấn cho anh khờ.
Người khôn ngoan ấy nói như sau:
"Ðể thoát khỏi cái bóng của anh,
anh chỉ cần đến đứng dưới bóng của một cây lớn".
*****
Có nép mình dưới bóng cây Thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta mới có thể thoát được cái bóng của không biết bao nhiêu phù phiếm, hư ảo trong cuộc sống của chúng ta.
Hôm nay, Giáo Hội mừng kính trọng thể ngày sinh của một con người, đã từng nép bóng dưới cây Thập giá của Chúa Giêsu.
Con người ấy chính là Goan Tẩy Giả, vị tiền hô của Ðấng Cứu Thế, nhưng đồng thời cũng là người luôn nép bóng trong Chúa Giêsu.
Thánh Gioan đã tóm tắt tất cả cuộc sống của Ngài trong câu nói:
"Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại".
Dưới cái nhìn của con người, như Chúa Giêsu cũng đã có lần khen tặng, Gioan là con người cao cả nhất được sinh ra từ người nữ.
Ngày sinh của Ngài, được đánh dấu bằng những biến cố khác thường.
Sự chào đời của Ngài đã mang lại niềm vui và hy vọng cho mọi người xung quanh.
Vị tiên tri được xem là cao cả nhất trong lịch sử Isreal ấy, đã lôi kéo được một đám đông, mà chưa từng có vị tiên tri nào đã quy tụ được...
Thế nhưng, cuối cùng, để hoàn tất sứ mệnh của mình, con người ấy đã nhỏ lại và mất hẳn, trong kiếp tù đày và một cái chết bỉ ổi.
Gioan nhỏ lại trong cái chết ấy, nhưng Chúa Giêsu lớn lên trong Mầu Nhiệm của Ngài, bởi vì cái chết của Gioan là một loan báo về chính cái chết của Chúa Giêsu...
Nhưng cũng chỉ trong cái chết của Chúa Giêsu, cái chết của Gioan mới có ý nghĩa...
Trong bóng thập giá của Chúa Giêsu, Gioan đã tìm lại được chính mình.
Chúng ta cầu xin điều gì trong ngày sinh của thánh Gioan Tẩy Giả, nếu không phải là bước đi trong từng bước nhỏ lại của Ngài.
Trong từng bước ấy, chúng ta hãy đặt mình dưới bóng vĩ đại của Thập giá Chúa Giêsu.
Chỉ trong chiếc bóng vĩ đại ấy của Thập giá Chúa Giêsu, những nghịch cảnh, những đau thương, những nghi ngờ và ngay cả những cái chết từng ngày, sẽ mang lấy ý nghĩa.
Và ý nghĩa ấy là gì, nếu không phải là sự lớn lên của Ðức Kitô trong chúng ta?
Chúng ta có nhỏ lại, trong cái nhìn hẹp hòi ích kỷ của chúng ta, chúng ta có nhỏ lại trong những ham muốn ganh tỵ bất chính của chúng ta, chúng ta có nhỏ lại trong hận thù nhỏ nhen của chúng ta, thì lúc đó, Ðức Kitô mới thực sự lớn lên trong chúng ta.
Trong những mẩu chuyện giáo lý ngắn, Ðức Gioan Phaolô I có thuật lại câu chuyện sau đây:
"Những người xem thường việc năng đi xưng tội, nhắc cho tôi nhớ đến anh giúp việc của ông Jonathan Swift.
Một lần kia, sau khi ngủ đêm trong một quán trọ, ông Swift bảo người giúp việc đem cho ông đôi giày ống, mà ông đã mang hôm qua.
Khi thấy đôi giày còn dính đầy bụi đất của cuộc hành trình vất vả xuyên qua những cánh đồng lầy lội, ông Swift nhíu mày tỏ vẻ khó chịu và bảo anh giúp việc:
"Tại sao anh lại không lau chùi đôi giày cho sạch sẽ?".
Thấy chủ bất bình và xẵng giọng, anh giúp việc hơi áy náy, nhưng cũng gãi đầu, ấp úng thưa:
"Tôi nghĩ là... lau chùi cũng không ích lợi gì. Vì hôm nay, sau khi ông đi vài dặm đường, đôi giày lại bị dơ bẩn trở lại".
Nghe người giúp việc biện luận như thế, ông Swift giả vờ gật đầu đồng ý, rồi bảo người giúp việc:
"Anh cho thắng yên ngựa, chúng ta khởi hành càng sớm càng tốt kẻo muộn".
Một lúc sau, mọi việc đã được thu xếp xong và ông Swift ra lệnh lên đường.
Nhưng người giúp việc chạy vội đến kéo nài:
"Thưa ông, chúng ta không thể lên đường ngay được vì tôi chưa ăn sáng".
Ông Swift vừa leo lên ngựa vừa bảo:
"Ăn uống làm gì cho uổng công, vì sau vài dặm đường, dạ dày anh lại cồn cào kêu đói".
*****
Cũng thế, có nhiều người bảo:
năng lãnh nhận bí tích Giải Tội có ích lợi gì. Vì thông thường sau khi xưng tội, linh hồn chúng ta lại bị dơ bẩn trở lại vì những tội tái phạm.
Có lẽ họ cũng có lý.
Nhưng giữ linh hồn thanh sạch một thời gian, dù ngắn ngủi, cũng là một việc nên làm.
Lại nữa, những người hiểu đúng nghĩa của phép Giải Tội và Xưng Tội đúng cách, sẽ được nghiệm thấy là phép Giải Tội không những rửa sạch mọi tì ố của tội lỗi, nhưng còn có khả năng giúp chúng ta tránh việc tái phạm những lỗi lầm thường vấp ngã, với mục đích củng cố tình thân hữu của mình với Ðức Giêsu và sống trọn tình hiếu thảo Cha con đối với Thiên Chúa.
Không ai trong chúng ta dùng cơm xong, lại thu dọn ngay những chén đĩa, nồi niêu đã dùng vào sóng chén, viện cớ là:
Rửa làm gì cho uổng công, đến bữa ăn sau chúng lại dơ bẩn trở lại.
Cũng không ai bảo:
Giặt quần áo hay tắm gội làm gì cho hoài công, tốn nước. Một thời gian sau thân thể và quần áo lại bị dơ bẩn trở lại.
Vâng, Ðức Gioan Phaolô I dạy chúng ta:
Hãy năng đi xưng tội, dù biết rằng con người yếu đuối hay tái phạm những lỗi lầm mình đã vấp ngã.
Và trong lúc lãnh nhận phép Giải Tội, hãy nhớ lời Ðức Giêsu bảo người phụ nữ ngoại tình:
"Này chị, những kẻ tố cáo chị đâu cả rồi, không ai lên án chị ư? Ta cũng vậy, Ta không lên án chị. Hãy về và từ nay, đừng phạm tội nữa".
*** (Bạn muốn có những sách này, hãy chép đường link của sách vào thẻ nhớ hoặc vào USB, đưa cho tiệm Photo, họ sẽ in, chỉ khoảng 15 phút là xong, vì mỗi sách đều đã có sẵn bìa, và mỗi sách không quá 100 trang A5. Chỉ khoảng 24 tờ A4 trở lại)
I. - Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật: (3 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-minh-hoa-tin-mung/ 1. Chuyện người đàn ông say mê quảng cáo - sách 1 2. Chuyện linh mục vào Thiên Đàng - Sách 2 3. Chuyện con két đi khám bác sĩ – Sách 3
II. – Chuyện đời chuyện đạo: (5 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-doi-chuyen-dao/ 1. Hãy vui hưởng hạnh phúc ta đang có - sách 1 2. Chuyện đời to và nhỏ - Sách 2 3. Những lời khuyên hữu ích - Sách 3 4. Những chuyện nhỏ mang nhiều ý nghĩa cho cuộc sống - Sách 4 5. Một phép lạ từ một tình thương cho đi - Sách 5
III. - Chuyện kể cho các gia đình: (14 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/ 1. Chuyện người thu thuế và Người biệt phái - sách 1 2. Đừng bỏ cuộc - sách 2 3. Bí quyết hạnh phúc - Sách 3 4. Một chuyện không ngờ thê thảm - Sách 4 5. Đi tìm một bảo hiểm -Sách 5 6. Một mẫu người sống đạo đáng khâm phục - sách 6 7. Yêu là yêu cho đến cùng - Sách 7 8. Những chuyện lạ có thật – Sách 8 9. Một niềm vui bất ngờ - Sách 9 10. Chuyện mẹ ghẻ con chồng - Sách 10 11. Chứng nhân giữa đời thường - Sách 11 12. Cho Chúa mượn thuyền - Sách 12 13. Nét đẹp của lòng thương xót - Sách 13 14. Chuyện tôi vào đạo Chúa - Sách 14
IV.- Chuyện lẽ sống: (8 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-le-song/ 1. Chuyện Chúa Giêsu đi xem bóng đá - Sách 1 2. Tình yêu là sức mạnh vạn năng - Sách 2 3. Ðời là một chuyến đi - Sách 3 4. Căn hầm bí mật - Sách 4 5. Thất bại, là khởi điểm của thành công - sách 5 6. Lịch sử ngày của mẹ - Sách 6 7. Chuyện tình Romeo và Juliet - Sách 7 8. Một cách trả thù độc đáo - Sách 8
V. – Kho sách quý: (3 cuốn) https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/ 1. Bí mật đầy kinh ngạc về các linh hồn trong luyện ngục – Sách 1 2. Lần hạt mân côi – Thánh Josémaria Escrivá– Sách 2 3. Tiếng nói từ luyện ngục – Sách 3