Ðời Là Một Chuyến Ði - Chuyện Lẽ Sống - Sách 3

Thứ bảy - 11/12/2021 00:47
Ðời Là Một Chuyến Ði - Chuyện Lẽ Sống - Sách 3
Ðời Là Một Chuyến Ði - Chuyện Lẽ Sống - Sách 3
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Mễn
(sưu tầm)


Ðời Là Một Chuyến Ði

Nguồn:
https://linhmucmen.com/news/chuyen-le-song/


---------------------------------

*** Đọc các bài của Lm. Mễn:
1. Vào Facebook.com; tìm: Nguyễn Mễn;
hoặc https://www.facebook.com/ nguyen.men.71;

2. Vào Internet: Google, Youtube, Cốc Cốc, Safari, hoặc Yahoo.com;
tìm: Cha Mễn, hoặc linh mục Mễn

3. https://linhmucmen.com
4. Email: mennguyen296@gmail.com

5. ĐT: 0913 784 998 có zalo; 0394 469 165

**** "Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người” (Galata 6,10)

**** Lạy  Chúa, xin hãy hoàn thành nơi con những ý định của Chúa. Và xin ban cho con ơn: Không làm trở ngại ý định của Chúa do hành vi của con. Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, chỉ vì Chúa muốn, như Chúa đã muốn và tới mức độ Chúa muốn. Amen.

----------------------------
Mục Lục

Bài 1: Giáo Ðường. 2
Bài 2: Người Cùi Hủi 3
Bài 3: Lầm Lỗi Là Chuyện Thường. 4
Bài 4: Ánh Sáng Hồi Phục. 6
Bài 5: Không Khí 7
Bài 6: Dân Thành Athènes. 8
Bài 7: Thiên Chúa Nói Không. 10
Bài 8: Ðám Ðông Dưới Chân Thập Giá. 12
Bài 9: Nụ Cười Của Bà Sarah. 13
Bài 10: Tro Tàn Của Lịch Sử. 15
Bài 11: Bàn Thờ Cho Người Nô Lệ. 17
Bài 12: Vàng Bạc Trong Tro Bụi 19
Bài 13: Các Con Hãy Nên Trọn Lành! 20
Bài 14: Bệnh Quên. 22
Bài 15: Những Tác Phẩm Ðể Ðời 24
Bài 16: Dachau. 26
Bài 17: Phục Sinh. 28
Bài 18: Hãy Làm Một Cái Gì Ðẹp Cho Chúa. 30
Bài 19: Gieo Gió Gặt Bão. 32
Bài 20: Cái Tách Thân Thương. 34
Bài 21: Chúng Ta Không Phải Là Thiên Thần. 35
Bài 22: Nếu Tôi Biết Tha thứ. 37
Bài 23: Tôi Muốn Con Tôi Sống. 39
Bài 24: Ðời Là Một Chuyến Ði 40
Bài 25: Cuộc Săn Thỏ. 42

----------------------------

Bài 1: Giáo Ðường


Văn hào Aleksandr Solzenicyn đã ca tụng những ngôi giáo đường bằng những vần thơ như sau:

"Thư thái trên sườn đồi, ngạo nghễ trên những ngọn núi cao, hãy ẩn mình trong những dòng sông sâu, những ngôi giáo đường đẹp như những công chúa vận xiêm y rực rỡ.

Nhìn xuống những mái nhà gỗ tranh, là những ngọn tháp chuông hùng dũng. Từ phố chợ đến thôn quê, từ đỉnh tháp hướng về trời cao, những tiếng chuông không ngừng giục giã gọi nhau.

Từ thuở nào, con người vẫn ích kỷ nhỏ nhen. Nhưng chiều về, khi tiếng chuông đổ hồi trên thôn xóm, trên đồng ruộng, trên núi rừng, người người dừng lại, ngẩng nhìn và ra khỏi cuộc sống thấp hèn của họ.

Cha ông của chúng tôi đã để lại phần cao quý nhất của các ngài. Mãi mãi, tâm tình của các ngài vẫn còn ghi khắc trong những viên đá này, trong những tháp chuông này".

Ở bất cứ nơi nào trên thế giới, giáo đường vẫn luôn là biểu trưng của sự sống. Còn gì buồn thảm cho bằng một ngôi giáo đường biến thành bảo tàng viện hoặc không còn người lui tới.

Giáo đường là nhà của con người: Gặp gỡ giữa trời cao và đất thấp, gặp gỡ giữa con người với Thiên Chúa.

Nhưng quan trọng hơn cả, giáo đường chính là nơi gặp gỡ giữa người với người: Gặp gỡ ở trong lời cầu nguyện, gặp gỡ nhau trong chia sẻ, gặp gỡ nhau trong lời chào bình an, trong cái bắt tay của tha thứ, của hòa giải, gặp gỡ nhau để nối kết vòng tay với người khác, gặp gỡ nhau để trở lại cuộc sống với hăng say và nhiệt thành hơn.

Chúng ta không thể đến nhà thờ mỗi ngày, mà vẫn khước từ gặp gỡ với tha nhân. Chúng ta không thể đến nhà thờ mỗi ngày, mà lại không muốn gặp gỡ Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Chúng ta không thể tách biệt nhà thờ ra khỏi cuộc sống. Bao lâu ngôi giáo đường còn đó, bấy lâu người Kitô vẫn được mời gọi để nối kết đức tin với cuộc sống hằng ngày.

---------------------
 

Bài 2: Người Cùi Hủi


Raoul Follereau, vị đại ân nhân của người phong cùi trên thế giới có kể lại mẩu chuyện đáng thương tâm như sau:

Trong một thị trấn nhỏ nọ, một người đàn ông lâm bệnh nặng. Sau khi khám nghiệm, các bác sĩ nghi ngờ anh ta đã mắc bệnh phong hủi... Tuy không là một phán quyết dứt khoát, nhưng kể từ đó người ta không còn thấy anh ra khỏi nhà nữa. Gia đình anh mỗi lúc lại càng xác tín hơn về bệnh tình của anh. Thế là để che dấu con người, mà họ coi như một sự xấu hổ chung, những người thân của anh đã giam anh trong một cái mùng lớn. Người đàn ông đáng thương chỉ còn sống vất vưởng nhờ lương thực tiếp tế mỗi ngày. Vũ trụ của anh chỉ còn là khung mùng phủ kín bốn chân giường. Ngậm đắng nuốt cay từng giờ từng phút, người đàn ông chỉ còn mỗi một hy vọng: Đó là trốn thoát được chính nhà giam của anh...

Ngày nọ, anh đã trốn ra khỏi khuôn mùng và gia đình của anh. Nhưng chẳng may, người ta đã nhận bắt được anh.

Lần này, người đàn ông khốn khổ dường như không còn một hy vọng nào nữa. Anh chỉ còn muốn tìm sự giải thoát qua cái chết...

Lần thứ hai, anh trốn khỏi vũ trụ tối tăm của anh. Nhưng lang thang mãi mà vẫn không tìm được sự tin tưởng và giúp đỡ của những người khác, anh đã tìm đến cái chết như một lời biện hộ cuối cùng. Người đàn ông đã mua thuốc ngủ và tự vận trước mặt mọi người. Cái chết của anh đã gây chấn động trong dư luận. Người ta yêu cầu cho khám nghiệm tử thi. Kết quả đã làm cho mọi người sửng sốt: Anh đã không bao giờ mắc bệnh phong cùi...

*****

Những ai đã và đang sống dưới một chế độ độc tài, trong đó mọi thứ tự do cơ bản nhất của con người bị chối bỏ, đều cảm nhận được sự độc hại của thái độ thiếu tin tưởng lẫn nhau giữa người với người...

Một xã hội mà quan hệ giữa người với người chỉ xây dựng trên dối trá, lừa đảo, hận thù, ganh ghét.... Một xã hội như thế không thể không đi đến chỗ diệt vong...

Người Kitô chúng ta luôn được mời gọi để xây dựng Nước Chúa, Nước của Chân Lý, của Công Bình, của Bác Ái, của sự tín nhiệm lẫn nhau...

Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta chế độ kiểu mẫu: Ngài không nhìn người bằng một nhãn hiệu, bằng một lăng kính có sẵn. Tất cả mọi người, dù tội lỗi thấp hèn đến đâu cũng đều được Ngài nhìn dưới ánh mắt của cảm thông, của yêu thương, của tha thứ... Tất cả mọi người đều được nhìn dưới ánh mắt yêu thương của Ngài như một giá trị độc nhất vô nhị trong tình yêu của Thiên Chúa.

Ðể được một cái nhìn như thế, chúng ta luôn được mời gọi để gạt bỏ mọi thứ thành kiến ra khỏi tâm hồn chúng ta. Trong tất cả mọi sự và trong mọi người, chúng ta hãy mặc lấy cái nhìn của Chúa Giêsu. Chỉ với cái nhìn ấy, chúng ta mới mong tái tạo được sự tín nhiệm và tin tưởng lẫn nhau trong xã hội chúng ta.

----------------------------
 

Bài 3: Lầm Lỗi Là Chuyện Thường


Hôm nay kỷ niệm ngày sinh của George Washington, vị tổng thống đầu tiên của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ.

Con người đã có công đưa nước Mỹ đến độc lập, tự do và phồn thịnh ấy nổi tiếng là người nóng nảy, nhưng luôn biết phục thiện và yêu sự thanh liêm. Ngay từ lúc thiếu thời, ông đã tỏ ra là người đơn thành và sẵn sàng nhận lỗi của mình...

*****

Ngày kia, cậu bé George được trao cho một con dao để ra vườn làm cỏ. Trong vườn có một cây anh đào nhỏ, mà cha mẹ cậu rất quý. Chưa phân biệt được thế nào là cỏ dại, thế nào là cây trái, George đã chặt đứt cây anh đào vô cùng qúy giá của cha mẹ mình.

Cha của George đau lòng nhìn thấy cây anh đào đổ xuống mặt đất. Ông đã thoáng nghi George là thủ phạm, nên mới hỏi cậu:

"Con có biết ai là người đốn hạ cây anh đào không? Cha không muốn thấy điều đó lập lại một lần nữa...".

George suy nghĩ một lúc và trả lời:

"Chính con là người đã đốn cây anh đào. Cha cứ phạt con đi".

Và George ngạc nhiên vô cùng khi nghe cha cậu trả lời:

"Ðiều con vừa làm là một điều sai trái.Nhưng con đã chữa được điều sai trái đó khi dám nói lên sự thật. Cha đánh giá lòng can đảm và sự thành thật của con, cao hơn là trăm nghìn những cây đẹp như thế...".

*****

Không ai trong chúng ta, đặc biệt là tuổi trẻ, mà lại không sống với hy vọng tốt đẹp hơn trong tương lai. Nhưng phải thành thật mà nói thì cuộc đời không phải lúc nào cũng là con đường trải hoa, vì nhiều lần chúng ta gặp hoàn cảnh vô cùng tệ hại. Ðối với nhiều người, dường như hy vọng về những điều tốt đẹp chỉ thành tựu trong mơ mộng mà thôi và thực tế rất phũ phàng.

Tuổi trẻ đi qua rất nhanh. Ngày tháng trôi qua, chúng ta chẳng mấy chốc già đi. Tóc trên đầu chúng ta mỗi lúc một điểm thêm nhiều muối tiêu. Sau khoảng 45, mỗi lần nhìn vào trong gương, chúng ta giật mình thấy mình già mau quá. Nhìn lại tập ảnh của gia đình, lắm khi chúng ta không có can đảm ngắm lâu hơn. Chẳng những gương mặt, mái tóc bên ngoài, mà tuổi già còn gặp nhiều hạn chế hơn tuổi trẻ.

Những môn thể thao trước kia ưa thích, nay không còn đủ sức để chơi nữa. Cặp mắt sắc sảo đã phải đeo thêm kính mới đọc được sách.

Khi bước vào lớp tuổi 60 trở lên, bước đi của chúng ta trở nên chậm chạp hơn. Trí nhớ mỗi lúc một ra kém cỏi...

Tuổi trẻ là một chuỗi những vấp ngã, tuổi già là những tháng ngày để ân hận và hối tiếc khi chợt nhận ra giới hạn của mình. Cuộc đời là thế.

Chúng ta có nên bi quan không?

Người Kitô chúng ta luôn được mời gọi để sống hy vọng. Ðổ vỡ, thất bại không phải là những ngõ cụt trong cuộc sống, nhưng phải là bàn đạp để chúng ta vươn cao hơn. Cuộc đời không phải là một chuỗi ngày giữa chiếc nôi và ngôi mộ. Cuộc đời là một hành trình đi từ chỗ hữu hạn đến chỗ vô hạn, từ chỗ tuyệt vọng đến chỗ đầy hy vọng. Và cuối cùng cánh cửa của sự chết mà chúng ta rồi đây sẽ bước qua, chỉ là một khúc quanh của cuộc hành trình này mà thôi...

--------------------------
 

Bài 4: Ánh Sáng Hồi Phục


Mới đây tại trường đại học y khoa Stanford bên Hoa Kỳ đã sáng chế ra một loại cửa sổ nhân tạo đặt trong các phòng hồi sức, nhằm giúp cho bệnh nhân chóng được hồi phục.

Người vẽ kiểu cho loại cửa sổ nhân tạo này là một phó nhòm thuộc tiểu bang California. Ông đã chứng kiến cái cảnh thoi thóp thở của cha mình, khi nhìn lên trần bảng của phòng hồi sức chỉ thấy toàn một màu trắng với những lỗ đen. Các bác sĩ cho biết, vì phải nằm lâu ngày trong căn phòng thiếu cửa sổ, thiếu ánh sáng tự nhiên, cho nên không những bệnh nhân khó hồi phục, mà còn để lộ những triệu chứng của bệnh tâm thần.

Với cánh cửa sổ nhân tạo nói trên, nhờ một hệ thống điện toán tinh vi, bệnh nhân có thể cảm thấy như đang tiếp xúc với ánh sáng bên ngoài.

Trong 24 giờ đồng hồ, ánh sáng trên khung cửa nhân tạo thay đổi 650 lần. Bệnh nhân có thể nhìn thấy ánh mặt trời lên cũng như những áng mây bay qua khung cửa. Tất cả đều nhằm để giúp cho bệnh nhân cảm thấy mình gần gũi với thiên nhiên và nhờ đó cảm thấy bớt cô đơn.

Trong tương lai gần đây, người ta cũng có thể tạo ra cảnh trăng lên, cũng như các vì lấp lánh trên khung cửa.

*****

Con người cũng như vạn vật cần có ánh sáng để sống. Riêng với con người, ánh sáng không những cần cho sự sống của thân xác, mà còn giúp cho con người khỏi cô đơn. Bóng tối dễ làm cho con người cô đơn và sợ hãi...

Có nhiều thứ bóng tối trong cuộc sống chúng ta. Bóng tối của ích kỷ, của ganh ghét, của hận thù, của đam mê... Càng giam mình trong bóng tối ấy, chúng ta càng cảm thấy cô đơn và càng trở nên bệnh hoạn. Người càng sống ích kỷ, người càng nghiền ngẫm đắng cay, hận thù, người đó càng hạ giảm nhân tính của mình...

Chúng ta cần có ánh sáng để sống, để lớn lên trong tình người, cũng như để chữa trị những băng hoại trong tâm hồn. Có ánh sáng của Lời Chúa để soi sáng dẫn từng đường đi nước bước của chúng ta. Có những ánh sáng của những nghĩa cử hằng ngày. Không có một nghĩa cử nào qua đi, mà không thêm một chút ánh sáng, để giúp chúng ta hồi phục, vì những vết thương đau trong cuộc sống. Một hành động bác ái, một biểu lộ tin yêu, dù nhỏ mọn đến đâu, cũng là một tia sáng, mang hy vọng đến cho tăm tối cô đơn trong tâm hồn chúng ta.

---------------------
 

Bài 5: Không Khí


Trong kho tàng văn chương Ấn giáo, có ghi lại câu chuyện như sau:

Có một đệ tử đến thưa với vị linh đạo của mình:

"Thưa thầy, con muốn gặp Chúa".

Vị linh đạo chỉ đáp trả bằng một cái mỉm cười thinh lặng.

Ngày hôm sau, người môn sinh trở lại và bày tỏ cũng một ước muốn. Vị linh đạo vẫn mỉm cười và tiếp tục giữ thinh lặng cố hữu của ông.

Một ngày đẹp trời nọ, ông đưa người thanh niên đến một dòng sông. Thầy trò cùng trầm mình xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát, bất thần vị linh đạo túm lấy anh và dìm xuống nước một hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy để trồi lên mặt nước. Lúc bấy giờ vị linh đạo mới hỏi anh:

"Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?".

Không một chút suy nghĩ, người đệ tử đáp:

"Thưa, con cần có không khí để thở".

Lúc bấy giờ vị linh đạo mới dẫn giải:

"Con có cảm thấy ước ao gặp gỡ Thiên Chúa như vậy không? Nếu con khao khát như thế, con sẽ gặp được Ngài tức khắc. Ngược lại, nếu con không hề có ước muốn ấy, thì dù con có vận dụng tất cả tài trí và cố gắng, con cũng sẽ không bao giờ gặp được Ngài".

- Chúng ta thánh thiện, không phải vì chúng ta đã làm việc thiện.
- Chúng ta thánh thiện không phải vì chúng ta đã tránh được điều xấu.
- Chúng ta thánh thiện không phải vì chúng ta đã cầu nguyện.
- Chúng ta thánh thiện không phải vì chúng ta đã sống tử tế.
- Chúng ta thánh thiện không phải vì chúng ta can đảm.
- Chúng ta thánh thiện không phải vì chúng ta cố gắng rèn luyện ý chí.
- Chúng ta thánh thiện không phải vì chúng ta hy sinh phục vụ...


Sự thánh thiện của chúng ta, chính là Thiên Chúa. Chính nhờ tham dự vào sự sống của Ngài, mà chúng ta mới có thể làm việc thiện, mới có thể tránh được điều xấu, mới có thể cầu nguyện, mới có thể can đảm, vui tươi...

Cũng như người đệ tử khao khát gặp Chúa, chúng ta hãy xin Ngài ban cho chúng ta được thông dự vào sự sống của Ngài, để nhờ đó chúng ta mới có thể mang lại hoa trái của sự thánh thiện.

------------------------
 

Bài 6: Dân Thành Athènes


Ngày kia, triết gia Esopos người Hy Lạp ngồi bên vệ đường trước cổng thành Athènes. Một người khách lạ tình cờ đi qua dừng lại hỏi ông như sau:

"Dân thành Athènes như thế nào?".

Triết gia bèn trả lời:

"Xin ông cho tôi biết: ông đến từ đâu và dân tình ở đó như thế nào?".

Người khách lạ nhíu mày cằn nhằn:

"Tôi đến từ Argos và dân Argos toàn là một lũ người láo khoét, trộm cắp, cãi cọ suốt ngày".

Một cách bình thản, triết gia Esopos mỉm cười đáp:

"Tôi rất lấy làm buồn, để báo cho ông biết rằng, rồi ra, ông sẽ thấy dân thành Athènes còn tệ hơn thế nữa".

Ngày hôm sau, một người khách lạ khác đi qua và cũng dừng lại đặt một câu hỏi:

"Dân thành Athènes như thế nào?".

Người khách lạ ấy cũng cho biết mình đến từ Argos, là nơi mà ông cho là quê hương yêu dấu, mà ông buộc lòng phải rời xa, bởi vì dân chúng Argos là những người rất dễ thương, dễ mến...

Lần này, triết gia Esopos cũng phát biểu đồng tình với người khách lạ như sau:

"Này ông bạn đáng mến, tôi rất vui mừng cho ông biết rằng: Ông sẽ nhận thấy dân thành Athènes cũng dễ thương dễ mến như thế".

Câu chuyện mang tính cách ngụ ngôn trên đây muốn nói với chúng ta rằng: Cách thẩm định người khác, tùy thuộc ở tình cảm của mỗi người.

Cùng một con người ấy, cùng một khung cảnh ấy, nhưng có người ưa, có kẻ chê. Sự khác biệt trong cách thẩm định ấy thường không nằm trong người khác hoặc cảnh vật khác, mà chính là ở tâm trạng của mỗi người.

Thi sĩ Nguyễn Du đã có lý khi bảo rằng:

"Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ".

*****

Người Kitô chúng ta luôn được mời gọi để có cái nhìn lạc quan về các biến cố và con người, nghĩa là chúng ta được mời gọi để luôn có cái nhìn tích cực về người khác và các biến cố.

Một thất bại rủi ro xảy đến ư?

Người Kitô hãy cố gắng khám phá ra những đường nét dễ thương dễ mến trong khuôn mặt, trong cách cư xử của người đó.

Chúng ta hãy làm như loài ong: Từ giữa bao nhiêu vị đắng cay của cánh hoa, loài ong chỉ rút ra toàn mật ngọt...

Ðức cố Giáo Hoàng Gioan 23 đã ghi trong nhật ký của Ngài như sau:

"Do bản chất, tôi vui vẻ và sẵn sàng, chỉ thấy những khía cạnh tốt đẹp của sự vật và con người, hơn là phê bình chỉ trích và đưa ra những phán đoán độc hại...

Mỗi một cử chỉ khiếm nhã đối với bất cứ ai, nhất là những người nghèo hèn, thấp kém, hoặc bất cứ một chỉ trích phá hoại nào, đều làm cho tôi đau lòng".

------------------------
 

Bài 7: Thiên Chúa Nói Không


Có một bài thơ của một tác giả vô danh, mà Hồng Y Jaime Sin, Tổng giám mục Manila, Phi Luật Tân, lấy làm ưng ý nhất và thường trích dẫn trong các bài giảng của Ngài. Bài thơ ấy như sau:

Tôi đã xin Chúa cất khỏi sự kiêu hãnh của tôi và Chúa trả lời: "Không".

Ngài nói rằng: Không phải Ngài là người cất khỏi, mà chính tôi mới là người phấn đấu, để vượt thắng nó.

Tôi đã xin Chúa làm cho đứa con tàn tật của tôi được lành lặn và Chúa trả lời: "Không". Ngài nói rằng tinh thần mới lành lặn, còn thể xác chỉ là tạm bợ.

Tôi đã xin Chúa ban cho tôi sự kiên nhẫn và Chúa đã trả lời: "Không".

Ngài nói rằng: Kiên nhẫn là trái của thử thách. Ngài không ban cho tôi trái ấy, mà để tôi tự tìm lấy.

Tôi đã xin Chúa ban cho tôi được hạnh phúc và Chúa đã trả lời: Không".

Ngài nói rằng: Ngài ban ân phúc cho tôi, còn hạnh phúc hay không, là tùy tôi.

Tôi đã xin Chúa gia tăng tinh thần cho tôi và Chúa đã trả lời: "Không".

Ngài nói rằng: Tôi phải tự lớn lên, nhưng Ngài sẽ cắt tỉa, để tôi mang nhiều hoa trái.

Tôi đã xin Chúa đừng để tôi đau khổ và Ngài đã trả lời: "Không".

Ngài nói rằng: Đau khổ là cho tôi được xa cách với những vướng bận trần gian và mang tôi đến gần Ngài.

*****

Tôi đã hỏi: "Liệu Ngài có yêu tôi không ?"

Và Ngài đã trả lời rằng:  "Có".

Ngài nói rằng: Ngài đã ban cho tôi Người Con Một, Ðấng đã chết vì tôi. Và một ngày nào đó, tôi sẽ được lên Thiên Ðàng, vì tôi đã tin.

Tôi đã xin Chúa giúp tôi yêu mến tha nhân, như Ngài yêu thương tôi và Chúa nói:

"Cuối cùng con đã xin đúng điều ta chờ đợi".

Nhìn lên thập giá Ðức Kitô, chúng ta được mời gọi để tin nhận rằng: Thiên Chúa đã yêu thương con người, Ngài đã yêu thương đến độ đã ban Người Con Một của Ngài cho thế gian. Tình Yêu của Thiên Chúa nhiệm mầu, thẳm sâu, đến độ sự thất bại, cái chết ô nhục, đã trở thành Một Dấu Chứng.

Tình yêu ấy nhiệm mầu thẳm sâu đến độ, ngay cả khi Thiên Chúa, xem ra nói không với chúng ta, Ngài vẫn yêu thương chúng ta.

- Ngài nói không, khi chúng ta xin được khỏe mạnh, và bệnh hoạn vẫn bám lấy chúng ta.

- Ngài nói không, khi chúng ta xin được thành công và thất bại lại đến với chúng ta.

- Ngài nói không khi chúng ta xin được cơm bánh hằng ngày và đói khổ lại cấu xé chúng ta...

Qua những cái không ấy, Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương chúng ta...

*****

Xin cho chúng ta cảm nhận được tình yêu ấy, mỗi khi chúng ta nhìn lên cái chết ô nhục của Người Con Một Thiên Chúa trên thập giá.

Và cũng giống như Người Con Một ấy, xin cho chúng ta vẫn tiếp tục dâng lời chúc tụng, ngay giữa niềm đau, tưởng chừng như không còn chịu đựng nổi.

Và giữa trăm nghìn đắng cay chua xót, xin cho chúng ta cũng được tiếp tục thốt lên lời xin tha thứ như Ngài...

Mãi mãi, xin cho chúng ta luôn phó thác như Ngài.

---------------------------
 

Bài 8: Ðám Ðông Dưới Chân Thập Giá


Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh họa Rembrandt, người Hòa Lan, sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh "Ba Thập Giá".

Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: Giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu trỗi lên một cách ngạo nghễ.

Dưới chân thập giá là cả một đám đông, mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét.

Tác giả như muốn nói rằng: Không trừ một người nào, mà không dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.

Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt gần như mất hút vào trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ để cho các nhà chuyên môn chẩn đoán rằng, đó chính là khuôn mặt của danh họa Rembrandt.

Tại sao giữa đám đông của những kẻ đang đằng đằng sát khí khi tham dự vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembrandt lại chen vào khuôn mặt của mình?

Câu trả lời duy nhất, mà người ta có thể đưa ra giải thích về sự hiện diện của tác giả giữa đám người lý hình: Đó là ý thức tội lỗi của chính ông.

Rembrandt muốn thú nhận rằng: Chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc treo Chúa Giêsu lên thập giá.

Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói với mỗi người chiêm ngắm bức tranh rằng: Họ cũng dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.

*****

Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là hành động tội ác của những người Do Thái và La Mã cách đây hai ngàn năm.

- Phêrô đã chối bỏ Ngài.
-  Philatô đã rửa tay để chối bỏ trách nhiệm của ông.
- Những người Do Thái đã cuồng tín kêu gào đóng đinh Ngài vào thập giá.
- Các binh sĩ La Mã đã đánh đập, hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài lên thập giá.


Dưới cái nhìn của người có niềm tin, thì cái chết của Ðức Kitô trên thập giá là một Mầu Nhiệm.

Mầu Nhiệm, bởi vì chúng ta không thể hiểu được tại sao Con Một Thiên Chúa đã phải trải qua một thân phận đớn đau như thế?

Mầu Nhiệm, bởi vì một cách nào đó, người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực sự tham dự vào việc đóng đinh ấy.

Chúng ta tuyên xưng rằng: Ngài đã chịu đóng đinh vì chúng ta, nghĩa là chính do tội lỗi của chúng ta, mà Ngài đã phải bị treo trên thập giá.

Tội lỗi của chúng ta ngày nay, cho dầu cách xa hai ngàn năm, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một sỉ vả hoặc chính một cái đóng đinh vào thân thể Ngài.

Khi chúng ta chối bỏ người anh em, khi chúng ta đối xử tệ bạc với người anh em, khi chúng ta chối bỏ chính mình mà quên sự đau khổ của người xung quanh, đó chính là lúc chúng ta dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá.

-------------------------
 

Bài 9: Nụ Cười Của Bà Sarah


Kinh Thánh thuật lại rằng: Khi bà Sarah, vợ của tổ phụ Abraham, một lão bà gần đất xa trời, được Chúa cho biết là sẽ cưu mang và sinh con, bà đã có một phản ứng thật là người và cũng thật là kỳ diệu: Bà đã cười!

Phải, bà cụ già Sarah có lẽ đã cười nắc nẻ, khi đứng trước một hoàn cảnh xem ra trớ trêu như thế: Một người đàn bà trên 70 tuổi, mà còn được Thiên Chúa cho có con!... Thiên Chúa xem ra thích khôi hài!

Và khi Thiên Chúa hỏi tại sao cười, Sarah lại chối rằng mình đã không hề cười.

Có lẽ do sợ hãi, mà Sarah đã nín cười. Sự sợ hãi, có lẽ không còn cho con người được nhìn thấy khía cạnh đáng cười, đáng vui trong cuộc sống...

Nhưng liền sau khi sinh con, bà Sarah đã tìm lại được óc khôi hài, cho nên bà đã đặt cho đứa con một cái tên khá ngộ nghĩnh là Issac; Issac theo tiếng Do Thái có nghĩa là được sinh từ một người đã cười...

*****

Cười, cười một cách lạc quan: Có lẽ đó là một trong những nét nổi bật của người có niềm tin.

Người ta thường định nghĩa rằng: Một vị thánh buồn, là một vị thánh đáng buồn...

Tất cả các vị thánh đều là những người có óc khôi hài. Các ngài là những con người đã từng biết cười với cuộc sống, với tha nhân.

Thánh Phanxicô thành Assisi, vị sứ giả của Hòa Bình, đã có lần tuyên bố:

"Hãy trả lại sự buồn phiền cho ma quỷ, bởi vì, chỉ có ma quỷ mới có đủ lý do để buồn phiền".

Cha sở họ Ars, là thánh Gioan Maria Vianey, mặc dù thường được người ta tạc tượng như một con người buồn bã, ảo não, nhưng kỳ thực không ai có tâm hồn vui tươi lạc quan như Ngài.

Thánh nhân đã nói:

"Linh hồn của những ai phục vụ Chúa đều được tràn ngập vui mừng, họ luôn luôn sống như nghỉ ngơi và luôn luôn sẵn sàng để ca hát..."

Thánh Thomas Moore, khi bị đưa lên máy chém, đã nói đùa với người lý hình rằng: Hãy để cho ngài được giúp một tay, cho việc hành quyết được dễ dàng. Ngài còn nói thêm rằng: Sau khi đã chém đầu ngài, chớ đụng đến bộ râu, vì bộ râu của ngài không hề phản bội một ai...

Một vị tu sĩ nào đó vào thời Trung Cổ đã viết như sau:

"Một nụ cười và óc khôi hài thu hút được nhiều người đến với tôn giáo hơn là những khuôn mặt dài vì ủ dột".

Chúa Giêsu bảo chúng ta rằng:

”Khi ăn chay hãm mình hãy xức dầu thơm vào người”.(Matthêu 6,17).

Còn thứ dầu thơm nào quý giá hơn để tô thắm cho gương mặt của chúng ta cho bằng niềm vui.

Cuộc sống, dù có trăm nghìn vất vả, đau thương, vẫn là cuộc sống đã được Chúa trao ban, như một kho tàng cao quý nhất.

Tình đời có đen bạc, nhân nghĩa có phôi pha: Những con người đang sống với chúng ta, vẫn là những người con cái Chúa và là anh em của chúng ta.

Hãy cười với cuộc sống.
Hãy cười với người anh em của chúng ta.


Đó là sứ điệp của Kitô Giáo, mà trọng tâm chính là Mầu Nhiệm Phục Sinh. Qua Mầu Nhiệm ấy, Thiên Chúa đã cười cợt, thách thức tội lỗi và sự chết.

Sự Sống và Niềm Hy Vọng, đã phát sinh từ cái chết của Ðức Kitô.

--------------------------
 

Bài 10: Tro Tàn Của Lịch Sử


Một buổi sáng dạo đầu tháng 8 năm 1990, dân chúng Bulgary bỗng chứng kiến một cảnh khác thường tại quảng trường chính ở thủ đô Sofia: Người ta kéo thi hài của chủ tịch Georgi Dimitrov ra khỏi lăng tẩm và mang đi hỏa táng. Chỉ có một vài người thân của ông tham dự nghi lễ hỏa táng. Sau đó, tro tàn của ông được mang đi cải táng bên cạnh phần mộ của mẹ ông.

Georgi Dimitrov đã từng được tôn thờ như anh hùng dân tộc, vì đã đánh đuổi được Phát xít và sáng lập Ðảng Cộng Sản Bulgary.

Năm 1949, khi ông qua đời, người ta đã ướp xác ông và đặt vào trong lăng tẩm, để dân chúng chiêm ngắm và suy tôn. Nhưng vinh quang của quá khứ ấy đã không đủ sức để bảo vệ ông khỏi đống tro của lịch sử...

Người ra lệnh đưa ông ra khỏi lăng tẩm và hỏa táng, không ai khác hơn chính là Ðảng Cộng Sản Bulgary. Nay đã đổi tên thành Ðảng Xã Hội...

Georgi Dimitrov là một trong số các lãnh tụ Cộng Sản như Lênin, Mao Trạch Ðông, Hồ Chí Minh đã được ướp xác và tôn thờ trong lăng tẩm, như các vua chúa Ai Cập thời cổ...

Con người bởi đâu mà ra?
Con người sống để làm gì trong cõi đời này?
Con người sẽ đi về đâu sau cái chết?...


Nếu ai cũng nghiêm chỉnh, tự đặt ra cho mình những câu hỏi lớn ấy, thì có lẽ không ai còn nhọc công để chạy theo tiền của, danh vọng. Không ai còn nghĩ đến chuyện ướp xác và xây lăng tẩm nữa...

Có ai thoát khỏi đống tro tàn của lịch sử?

Hôm nay người ta tôn thờ, ngày mai người ta hạ bệ.
Hôm nay người ta ướp xác, ngày mai người ta lại đưa ra đốt...


*****

Là người có niềm tin, chúng ta đặt tin tưởng nơi Ðức Kitô.

Qua cuộc sống, cái chết và sự Phục Sinh, Chúa Giêsu đã mang lại giải đáp cho tất cả những câu hỏi lớn của đời người.

Phúc thay cho những ai biết mình từ đâu đến, biết mình sống để làm gì và biết mình sẽ đi về đâu.

Một ý nghĩa, một hướng đi cho cuộc sống: Phải chăng đó không là điều chúng ta đang tìm kiếm?

Tin Mừng ghi lại phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều cho hơn 5 ngàn người ăn.

Chỉ bằng một lời nói, chỉ trong chớp nhoáng, Chúa Giêsu đã có thể nuôi sống hàng ngàn người đói khát.

Với quyền năng của Thiên Chúa, Chúa Giêsu có thể vung cây đũa thần, để mang lại no cơm, ấm áo cho nhân loại.

Nhưng Ngôi Hai Thiên Chúa đã không làm người vì sứ mệnh ấy. Ngài đến để mang lại một thức ăn khác: Một thức ăn sẽ không làm cho con người phải đói khát, phải chết, phải mai một trong hư vô của tiền của và danh vọng nữa...

Ngài đến để mang lại cho chúng ta Sự Sống Trường Sinh...

Ðó là lý do đã khiến Chúa Giêsu khước từ không chịu làm vua, khi người ta muốn tôn vinh Ngài.

Sau bữa ăn do phép lạ hóa bánh ra nhiều, Ngài mời gọi con người hãy hướng đến của thức ăn không hư nát, của ăn mang lại sự sống bất diệt.

---------------------------
 

Bài 11: Bàn Thờ Cho Người Nô Lệ


Du khách đến viếng thăm nước Tanzania bên châu Phi, không thể không dừng chân trước Nhà Thờ chính tòa Anh Giáo tại Zanzibar.

Bước vào nhà thờ, người ta có thể đọc ngay lời chào đón, được viết trên tường như sau:

"Bạn đang ở trong nhà thờ chính tòa của Ðức Kitô. Nơi đây đã từng là chợ buôn người nô lệ".

Ngôi thánh đường này đã được xây ngay trên chính khu đất, mà ngày xưa người da trắng đã tập trung không biết bao nhiêu người Phi Châu, để buôn bán, đổi chác, như những con thú.

Ðặc biệt nhất là bàn thờ của ngôi thánh đường: Đây là nơi mà trước khi được bán, người nô lệ phải chịu đánh đòn. Sở dĩ người ta phải dùng roi để quất vào người nô lệ, là để xem người ấy còn khỏe mạnh không.

Cột trụ ở ngay lối vào nhà thờ, là một cây thánh giá gỗ có mang tên của nhà giải phóng Livingstone, một nhà thám hiểm người Anh, đã hô hào chống lại cuộc buôn bán vô nhân đạo này.

Cây thánh giá mang tên ông đã được chạm trổ từ gốc cây, nơi ông thường đứng để hô hào cuộc chiến: Bãi bỏ việc buôn bán người nô lệ.

Mãi đến ngày 06 tháng 6 năm 1873, việc buôn bán người nô lệ mới chính thức bị cấm, chỉ bằng một đạo luật.

Kể từ đó, phẩm giá đích thực của người da đen, mới được nhìn nhận.

*****

Cũng như một đan viện dòng kín đã được dựng lên, ngay bên cạnh trại tập trung Auschwitz bên Ba Lan, để âm thầm nhắc nhở về những độc ác dã man, mà con người đã có thể làm cho người khác, thì nhà thờ chính tòa Anh Giáo tại Zanzibar cũng là một nhắc nhở về một quá khứ vô cùng đau thương và đen tối của cả nhân loại, khi con người chỉ xem những giống người khác, như thú vật để đổi chác.

Nhưng một tưởng niệm không chỉ dừng lại ở khía cạnh kết án, nó còn là một mời gọi để cam kết sống đích thực hơn.

Ðối lại với chà đạp dã man, phải là sự tôn trọng yêu thương, mà con người phải có đối với tha nhân.

Cuộc sống của người Kitô chúng ta, được xây dựng trên một tưởng niệm vô cùng cao cả: Đó là cái chết của Ðức Kitô, được thực hiện trong Thánh Lễ.

Thánh lễ:
- vừa là một nhắc nhở về cái chết vô cùng dã man, mà Ðức Kitô đã trải qua,
- vừa là một tưởng niệm về Tình Yêu vô bờ của Thiên Chúa đối với con người,
- vừa là một mời gọi sống yêu thương, yêu thương đến nỗi có thể chết thay cho người khác...


Chúng ta không thể tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu, mà vẫn tiếp tục cưu mang hận thù, mà vẫn nuôi dưỡng sự khinh rẻ đối với tha nhân.

---------------------------
 

Bài 12: Vàng Bạc Trong Tro Bụi


Trong kinh điển Phật giáo, có ghi lại câu chuyện ngụ ngôn như sau:

Có một người giàu có và tham lam nọ, bỗng thấy tiền bạc của cải của mình biến thành tro bụi. Người đó đau buồn đến độ không còn thiết gì đến ăn uống nữa.

Hay tin ông đau liệt, một người bạn tìm đến thăm. Sau khi đã tìm ra nguyên nhân của căn bệnh, người bạn đã nói như sau:

"Anh đã không biết sử dụng của cải của anh. Chính vì thế, mà anh càng thu tích, thì của cải của anh càng trở thành tro bụi. Xin anh hãy nghe lời khuyên sau đây của tôi: Anh hãy đưa cả đống tro bụi vào hiệu buôn của anh. Anh ngồi trên đó và rao bán cho mọi người".

Người giàu có làm theo lời khuyên của người bạn. Ông ngồi trên đống tro và rao hàng. Có người hỏi tại sao ông bán tro, ông trả lời như sau:

"Ðây là tất cả tài sản của tôi".

Một ngày kia, có một em bé gái mồ côi đi qua trước cửa hiệu. Em nghèo, nhưng trong lòng không hề vương vấn đối với của cải.

Thấy người giàu có ngồi trên đống tro, em bé mới nói:

"Thưa ngài, ngài không biết là ngài đang bán vàng và bạc đó sao?".

Ngạc nhiên trước lời nói chân thành của em bé, người đàn ông mới thành khẩn van xin:

"Xin cháu hãy chỉ cho chú biết đâu là vàng, đâu là bạc trong đống tro này?".

Ðứa bé đưa tay bốc lên một nắm tro. Tức khắc vàng hiện lên trên đôi tay em, trước sự ngạc nhiên của người giàu có.

Sự vật luôn có hai mặt. Kẻ tham lam nhìn vào chỉ thấy tro bụi và những của cải chóng qua ở đời này.

Trái lại, người có tâm hồn trong sạch sẽ, nhìn thấy được những giá trị vĩnh cửu.

Kẻ bi quan nhìn vào sự vật sẽ chỉ nhìn thấy bóng tối, nhưng người lạc quan lại nhìn thấy ánh sáng và vẻ cao đẹp của sự vật.

"Hãy thử nghĩ đến những sự vật trên trời"(2Corintô 5,1). Đó lời khuyên vàng ngọc của Thánh Phaolô.

Tưởng nghĩ đến những sự trên trời, không có nghĩa là sống trong thế giới của mơ mộng, ảo tưởng, mà trái lại, là sống tích cực trong thế giới này, sống bằng đôi mắt luôn tỉnh thức, để nhìn ra chiều kích vĩnh cửu của cuộc sống, sống bằng tâm hồn trong sạch để nhận ra được những giá trị cao đẹp của cuộc sống.

"Ðầu đội trời, nhưng chân đạp đất":

Đó là thế đứng đích thực của con người. Cắm rễ trong lòng cuộc sống này, nhưng vẫn luôn hướng nhìn về trời cao. Sống một cách trọn hảo trong từng phút giây của cuộc sống. Sống với tất cả trân trọng từng sinh hoạt hằng ngày. Sống với cái thường nhật của tất cả tin yêu, cảm mến...

Ðó chính là cách sống của người có niềm tin.

----------------------------
 

Bài 13: Các Con Hãy Nên Trọn Lành!


Người ta kể lại rằng: Thánh Antôn ẩn tu đã tìm đến gặp một người thợ giày, vì nghe đồn rằng, người thợ giày này có một đời sống đạo đức lạ thường.

Ðể trả lời câu hỏi: Đâu là bí quyết để nên thánh, người thợ giày đáp gọn: "Tôi chỉ biết đóng giày".

Ngạc nhiên vô cùng, thánh Antôn hỏi vặn lại: "Nếu chỉ có thế, thì làm sao mà gọi là thánh thiện được. Tôi đây, tôi tưởng nghĩ đến Chúa từng phút giây. Ông có bí quyết gì khác nữa không?".

Người thợ giày giải thích: "Tôi làm việc 8 giờ, cầu nguyện 8 giờ và ngủ nghỉ 8 giờ".

Thánh Antôn vẫn chưa cho đó là cuộc sống lý tưởng. Ngài cho biết, ngài cầu nguyện từng phút giây.

"Vậy ông sống đức khó nghèo như thế nào?".

Người thợ giày bảo: "Tôi cho Giáo hội một phần ba của cải của tôi, một phần ba tôi bố thí cho người nghèo, và một phần ba tôi giữ lại cho tôi".

Thánh Antôn chưa cho đó là bí quyết nên thánh trọn hảo, bởi vì chính ngài đã phân phát tất cả của cải của ngài cho Giáo hội và người nghèo...

Thánh nhân vặn hỏi mãi, cuối cùng người thợ giày mới khai ra bí quyết của ông như sau:

"Mặc dù tôi phân phát một phần ba tiền lương của tôi cho người nghèo, nhưng đêm ngày tôi không ngủ yên được, khi tôi nhìn thấy cảnh nghèo xung quanh tôi, đến độ tôi đã thưa với Chúa: Chúa ơi, thà để con đi hỏa ngục còn hơn nhìn thấy những người khốn khổ này phải triền miên trong cảnh nghèo đói...".

Nghe đến đó, thánh Antôn đã bỏ ra về. Ngài chợt hiểu rằng: Ngài chưa đủ thánh thiện như người thợ giày này đến độ dám hy sinh tất cả chỉ vì người nghèo.

*****

Có rất nhiều cách để nên thánh, nhưng dường như không có một mẫu mực thánh thiện chung cho tất cả mọi người.

- Có người nên thánh ngay trong bậc sống của mình giữa trần gian.
- Có người chịu tử đạo.
- Có người sống trong bậc tu trì.


Mỗi một vị thánh là một cách sống.

Tuy nhiên, giữa những khung khác biệt đó, vẫn có một mẫu số chung cho tất cả mọi cuộc sống thánh thiện: Đó là Tình Yêu.

Thánh Phaolô trong bài ca đức ái đã nói:

"Dù tôi có thể nói được các tiếng lạ lùng, dù tôi có thể làm được phép lạ chuyển núi di sông, dù tôi có làm được không biết bao nhiêu công trình... nếu tôi không có đức bác ái, tôi chỉ là một thứ thùng rỗng...".(1Corintô 13,13).

Không có đức bác ái, không có tình yêu thì tất cả tòa nhà đạo đức của chúng ta chỉ được xây dựng trên hão huyền mà thôi.

Chúa Giêsu cũng đã nói với chúng ta:

"Các con hãy nên trọn hảo như Cha các con trên trời". (Matthêu 5,48).

Thiên Chúa là Tình Yêu. Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, không loại trừ ai.

Và cuối cùng, vì yêu thương con người, Thiên Chúa đã hóa thân làm người như chúng ta... Ðó là tận cùng của Tình Yêu!

***

Người thợ giày trong câu chuyện của thánh Antôn, không những dành của cải của mình cho người nghèo, ông còn tưởng nghĩ đến người nghèo, như chính lẽ sống của mình.

Thánh Antôn đã nhận ra đó là bí quyết cao cả nhất, để nên thánh.

Bố thí tất cả của cải của mình, xa lánh tất cả các thú vui của cuộc sống, đêm ngày ăn chay cầu nguyện là điều tốt. Nhưng nếu sống như thế, chỉ là để tìm cho mình sự thanh thản trong tâm hồn, để người khác không quấy rầy, thì một cuộc sống như thế chưa phải là lý tưởng nhất.

"Hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời" (Matthêu 5,48).

Ðó phải là lý tưởng của người Kitô chúng ta.

Cha trên trời yêu thương tất cả mọi người. Cha trên trời đã yêu thương con người đến nỗi đã phó ban chính Con Một của Ngài.

Thiên Chúa chỉ được gọi là Cha, bởi vì Ngài sống cho con cái của mình...

Sự sống Ngài ban cho chúng ta, chỉ có thể triển nở và có ý nghĩa, nếu nó cũng được sống cho tha nhân.

---------------------------
 

Bài 14: Bệnh Quên


Trưa ngày 25/12/1985, sau khi dự lễ Giáng Sinh ở nhà thờ về, bà cụ Anne Mc Donnell ở tiểu bang New York, thấy một ông cụ già râu tóc bạc phơ như ông già Noel, đang đứng trước cửa nhà. Thoạt nhìn, bà cụ tưởng một người nào đó giả dạng ông già Noel để đùa, nhưng sau khi nhìn kỹ, bà cụ nhận ra đó là chồng mình, đã biệt tích từ 15 năm qua...

Nguyên do vào ngày 24/12/1971, ông James Mc Donnell bị té xuống thang lầu, rồi qua hôm sau, ông bị tai nạn xe hơi. Gần một tháng sau ông lại bị tai nạn xe hơi một lần nữa, bị chấn động não và bất tỉnh. Vài ngày sau đó, ông đi bách bộ ngoài trời cho thoáng khí, rồi từ đó đi biệt tích luôn.

Về sau, ông Mc Donnell kể lại rằng: "Tôi không còn nhớ gì cả. Tôi không biết tôi đã đến Philadelphia bằng phương tiện gì và bằng cách nào". Ông cũng không nhớ tên họ hay địa chỉ của mình, nên khi đi ngang qua một cửa hiệu có tên là Peter, ông tự đặt tên cho mình là Jim Peter, rồi kiếm việc làm ăn nơi đó gần 15 năm.

Ngày Giáng Sinh năm 1985 vừa qua, tình cờ va đầu vào trần nhà ở sở làm, ông Mc Donnell bỗng phục hồi được trí nhớ.

Ông nhớ lại tên tuổi, nơi sinh, chỗ ở cũng như quãng đời trước đó 15 năm. Ông liền tìm đến cuốn niên giám điện thoại, để xem vợ còn ở chỗ cũ không. Khi biết chắc vợ mình chưa thay đổi địa chỉ, ông Mc Donnell đã đáp xe lửa về lại nhà cũ, vào đúng ngày lễ Giáng Sinh...

Trong vòng 15 năm, ông Mc Donnell đã mắc một chứng bệnh: Đó là bệnh quên.

Quên có thể là một chứng bệnh, như trường hợp ông Mc Donnell bị té thang lầu, bị tai nạn xe hơi...

Quên cũng có thể là những chứng bệnh thông thường của nhiều người lớn tuổi, như nhiều cụ già, thường quên bẵng những sự việc vừa xảy ra, nhưng họ lại nhớ rất rõ ràng tỉ mỉ những việc đã xảy ra hằng ba bốn chục năm về trước.

Nhưng cũng có những trường hợp con người muốn quên đi một dĩ vãng đau lòng nào đó, như trường hợp nhiều người tìm quên lãng trong men rượu, khói thuốc...

Quên lãng có thể giúp con người tìm lại được đôi chút thanh thản trong tâm hồn, nhưng cũng có thể đưa con người đến chỗ vô ân.

Người không còn muốn nhớ đến nguồn gốc và công ơn sinh thành của cha mẹ mình là người đáng trách.

Người không còn muốn nhớ đến những liên hệ mình với người khác cũng là một người đáng trách.

Người khép mắt, bịt tai, trước những nỗi đau khổ của người khác, cũng là một người đáng trách...

*****

Người Kitô luôn được nhắc nhở để tìm ra dấu chỉ của thời gian, qua các biến cố, để nhờ đó, luôn nhận ra sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.

"Hãy làm việc này mà nhớ đến Ta". (Luca 22,19).

Ðó là khẩu hiệu hàng đầu của người Kitô.

Họ được mời gọi để ôn lại bước chân đi qua của Thiên Chúa trong cuộc sống hằng ngày.

Ðó là thái độ tỉnh thức, mà Ðức Kitô không ngừng mời gọi chúng ta hãy có trong từng giây phút.

---------------------------
 

Bài 15: Những Tác Phẩm Ðể Ðời


Nguyện đường Sixtina trong nội thành Vatican, đã được Ðức Giáo Hoàng Sixto IV cho xây cất vào cuối thế kỷ thứ 15.

Không những là nơi các vị Hồng Y tụ tập để bầu Giáo Hoàng, hay còn là nơi để tổ chức những buổi họp quan trọng khác, có tính chất thượng đỉnh, nguyện đường Sixtina còn là một bảo tàng viện, với những tác phẩm nghệ thuật bất hủ, nhất là những bức bích họa của Michelangelo.

Bất cứ du khách nào đến Roma, cũng tìm đủ mọi cách, để được một lần chiêm ngắm các bức tranh được vẽ trên tường và trên trần nhà này.

Người thưởng lãm không những chỉ ngắm nghía dưới khía cạnh lịch sử, nghệ thuật, văn hóa, nhưng còn để hồn hòa nhập vào niềm tin sâu sắc của nhà nghệ sỹ.

Thật thế, tất cả những bức tranh, mà Michelangelo đã thực hiện trong nhà nguyện Sixtina, đều được cảm hứng từ Kinh thánh.

Nhà danh họa của chúng ta đã phải nằm ngửa, trên một giàn gỗ, hướng mặt lên trần, ròng rã không biết bao nhiêu năm tháng.

Nóng lòng chờ đợi các tác phẩm của ông, ngày kia, đức Sixto đã to tiếng hỏi vọng lên từ dưới đất:

"Michelangelo, chừng nào ông mới hoàn thành công việc?".

Từ trên giàn gỗ, nhà danh họa đáp lại:

"Chừng nào con có thể!".

Vị Giáo Hoàng dường như mất hết kiên nhẫn:

"Thế ông có biết là ông đã bắt đầu mấy năm rồi chưa? Thế mà tôi vẫn chưa thấy gì hết...".

Một cách điềm tĩnh, Michelangelo trả lời:

"Thưa Ðức Thánh Cha, con không làm việc cho đời tạm này, mà cho đời sau...".

Có những bản nhạc, có những tác phẩm văn chương, có những công trình kiến trúc đã trở thành bất hủ.

Nghĩa là, qua dòng thời gian, người ta sẽ không bao giờ quên được những kiệt tác ấy.

Nhiều khi chính tác giả của những công trình bất hủ ấy, không bao giờ dám nghĩ đến sự trường tồn của tên tuổi mình như thế.

Danh họa và điêu khắc gia Michelangelo đã tiên đoán về những tác phẩm của mình.

Quả thực, ông đã để lại muôn thế hệ tên tuổi của ông, qua các sáng tác của ông.

Tượng Pieta, tượng Maisen, tượng David và các bức bích họa trong nguyện đường Sixtina sẽ không bao giờ mai một với thời gian.

Tuy nhiên, cái bất hủ nơi con người, chỉ là một cái bóng mờ đối với cái vĩnh cửu nơi Thiên Chúa.

Một cuộc chiến tranh tàn phá, một thiên tai vùi dập: Tất cả mọi tên tuổi và dấu vết của con người, cũng đều tan biến.

Duy chỉ có những gì được xây dựng trên nền tảng của Vĩnh Cửu, mới được trường tồn.

*****

Thiên Chúa không tạo dựng tất cả mọi người đều là thiên tài, để ai cũng có thể để lại cho hậu thế danh thơm tiếng tốt của mình.

Tuy nhiên, tất cả mọi người đều được tạo dựng, như một kiệt tác của vũ trụ. Kiệt tác đó sẽ mãi mãi đi vào Vĩnh Cửu của Thiên Chúa.

Nhưng mỗi đời người là một công trình cho vĩnh cửu.
Mỗi một việc làm vô danh và nhỏ bé nhất, cũng đều mang một giá trị vĩnh cửu.


------------------------
 

Bài 16: Dachau


Dachau: Đó là một địa danh, mà dân Âu châu không bao giờ xóa bỏ khỏi ký ức của họ.

Nơi tập trung và sát hại hàng triệu người Do Thái, dưới thời Ðức Quốc xã.

Dachau vừa là hỏa ngục của hận thù, độc ác, nhưng cũng là khung trời rực sáng những vì sao của yêu thương, tin tưởng.

Edmond Michelet, văn sĩ Pháp bị giam tại đây, và sau này, trở thành bộ trưởng Tư Pháp, đã viết lại ký sự của những ngày bị giam trong địa ngục Dachau.

Ông kể lại rằng: Mỗi buổi sáng, các linh mục bị giam tù lén lút cử hành Thánh lễ. Các tù nhân Công giáo, bất chấp mọi đe dọa đến mạng sống, chen chúc sát cánh bên nhau để tham dự Thánh lễ.

Phẩm phục của linh mục chủ tế, chỉ là một mảnh áo tù rách rưới thảm thương. Cái tách uống nước được dùng làm chén thánh, hộp thuốc ho, được dùng làm bình đựng bánh lễ.

Sau Thánh lễ, một số người được chia công tác mang Mình Thánh đến cho những người đang hấp hối, được giam riêng trong phòng đặc biệt...

Edmond Michelet kể lại rằng: Hình ảnh ông vẫn luôn ghi nhớ, đó là nụ cười rạng rỡ của những người đang tiến đến cõi chết.

Vào khoảng cuối năm 1944, một nghi lễ đặc biệt đã diễn ra ngay trong trại Dachau.

Một phó tế người Ðức, bị lao phổi, đang hấp hối... Các linh mục đang bị giam bèn nghĩ đến chuyện phong chức linh mục cho thầy... Một vị giám mục cùng bị giam, đã chấp thuận tiến hành nghi thức. Người ta làm mọi cách, để che mắt người lính canh.

Một người Do Thái đã chấp nhận chơi đàn vĩ cầm, để đánh lạc hướng sự chú ý của công an, vị giám mục người Pháp, trong bộ đồng phục rách rưới của tù nhân, đã phong chức linh mục cho một chủng sinh người Ðức.

Vị tân linh mục đã cử hành Thánh lễ đầu tiên ít ngày sau đó. Và đó, cũng là Thánh lễ cuối cùng của Ngài...

Trong quyển nhật ký của Ngài, người ta đọc thấy hai chữ: Tình Yêu, Ðền Bù...

Tình yêu mạnh hơn sự chết. Chân lý này sáng ngời một cách mãnh liệt ngay trong những nơi, mà hận thù, chết chóc ngự trị, như luật tối thượng của cuộc sống.

Hận thù càng dâng cao, chết chóc càng đe dọa, người ta càng thấy những tấm gương của hy sinh, xả kỷ và tin tưởng.

Dạo tháng 6 năm 1989, một số linh mục, giám mục người Ba Lan, đã hành hương đến trại tập trung Dachau, để kỷ niện 50 năm ngày thế chiến thứ hai bùng nổ và nhất là để tưởng niệm gương hy sinh của gần 3.000 linh mục, thuộc 9 quốc tịch khác nhau, bị giam giữ tại đây.

Trên ngôi mồ chôn lớn nhất, một Thánh lễ đã được cử hành, không phải để gợi lại hận thù, nhưng họ còn được mời gọi, để chỉ thấy Yêu Thương và tha thứ giữa hận thù.

*****

Ðó cũng chính là lời mời gọi của Ðức Kitô trong Thánh lễ, mà Giáo hội cử hành mỗi ngày.

Chúng ta không tưởng niệm những độc ác dã man trong cái chết của Chúa, chúng ta không gợi lại hận thù trong cuộc tử nạn của Ngài, nhưng chỉ nhìn thấy Yêu thương và tha thứ vô bờ của Ngài.

Ngài mời gọi chúng ta:

- Hãy chỉ nhìn thấy yêu thương và tha thứ giữa hận thù.
- Hãy múc lấy yêu thương và tha thứ. để đáp trả lại hận thù...


-------------------
 

Bài 17: Phục Sinh


Một linh mục Brazil thuật lại một kinh nghiệm Phục Sinh của mình như sau:

"Mỗi ngày, khi đi ngang qua một con đường ở Rio de Janeiro, tôi đều thấy một người đàn ông còn trẻ, ngồi dựa lưng vào tường, chìa tay xin ăn. Ông ta không đi được, vì đôi chân bị tật.

Vì qua lại khá thường, nên sự hiện diện và số phận của người ăn xin què quặt, không làm tôi bận tâm suy nghĩ: Thế nào là không đi được".

Nhưng một ngày kia, số phận của ông ta bỗng đánh động tâm hồn tôi mãnh liệt.

Nhất là khi dừng lại đằng xa quan sát, tôi thấy có bao nhiêu người đi ngang qua, mà hình như không trông thấy ông.

Tôi quyết định đến nói chuyện và hỏi ông:

"Ông có thể đứng dậy được không?
Ông có muốn đi không?".


Ông ta đưa cặp mắt mệt mỏi nhìn tôi dò xét. Và khi đọc được sự thành thật trên khuôn mặt của tôi, ông ta nói:

"Tôi luôn luôn hy vọng là một ngày nào đó cuộc đời tôi sẽ đổi mới. Dĩ nhiên tôi sẽ đi được, nhưng chi phí mua sắm những dụng cụ quá đắt, làm sao tôi với tới. Vì thế không còn cách nào hơn là đành quên giấc mơ có thể đi được".

Nghe xong tâm sự của ông, tôi xiết chặt tay ông giã từ và hứa:

"Một ngày gần đây, giấc mơ của ông sẽ thành sự thật".

*****

Trong bài giảng thánh lễ Chúa Nhật sau đó, tôi thuật về số phận của ông ăn mày và đề nghị cộng đoàn: Hãy làm một cái gì để giúp ông ta. Một cuộc lạc quyên được tổ chức và tôi vui mừng khi thấy số tiền quyên góp được vượt quá chi phí của cặp nạng và đôi chân nhân tạo.

Người hành khất càng hân hoan hơn, khi tôi báo tin mừng: Ông được chuyên chở ngay đến một bệnh viện đặc biệt. Và trong những tuần lễ kế tiếp, ông cố gắng tập đi đứng một mình.

Lễ Phục Sinh đến. Tôi mời ông đi dự lễ và dành cho ông một chỗ đặc biệt gần bàn thờ.

Trong bài giảng hôm ấy, tôi lại đề cập về ông đại ý như sau:

"Chúa Giêsu đã Phục Sinh, để sống một cuộc sống mới. Ngài đã cho chúng ta được thông phần vào cuộc sống mới của Ngài. Và cũng muốn chúng ta thông phần sự sống mới đó cho nhau.

Nhờ lòng hảo tâm của anh chị em, ông bạn của chúng ta đây đã được ban cho một cuộc sống mới".

Nói đến đây, tôi mời ông đứng dậy để giới thiệu ông với cộng đoàn, mà kể từ nay, ông đã trở nên một phần tử.

Ông đứng dậy và chống nạng, đi trước mặt mọi người. Tôi cảm thấy bầu khí nhà thờ lúc ấy tràn đầy sức sống.

Tin mừng thuật lại như sau: Sau mẻ lưới đầy cá, Chúa Giêsu mời các môn đệ cùng điểm tâm với Ngài. Và Ngài đã cầm lấy bánh và cá trao cho các ông ăn.

Phần các môn đệ, tuy không dám hỏi, nhưng họ biết rõ đó là Ngài.

Ðây là phương thế Chúa Giêsu tiếp tục hiện diện giữa những kẻ tin vào Ngài trải qua mọi thời đại: Tự nhiên như trong một bữa ăn thân mật, nhưng muốn cảm nghiệm sự hiện diện của Ngài, chúng ta phải noi gương Ngài, chia sẻ cho nhau tất cả những gì mình có.

----------------------------
 

Bài 18: Hãy Làm Một Cái Gì Ðẹp Cho Chúa


Mẹ Têrêxa Calcutta thường hay nói:

"Hãy làm một cái gì tốt đẹp cho Chúa".

Sau tên cực trọng của Chúa Giêsu, hai chữ thường nằm trên đầu môi chót lưỡi của Mẹ là "tốt đẹp và kỳ diệu".

Hai tiếng ấy là một tóm gọn của bài ca ngợi khen của Ðức Maria, mà Mẹ Têrêxa đã lấy làm tâm tình của mình.

Tốt đẹp và kỳ diệu thay Tình Yêu Quan Phòng của Chúa, được thể hiện qua những hy sinh và phục vụ của Mẹ, dành cho những người cùng khổ ở Ấn Dộ và trên khắp thế giới...

*****

Cách đây hơn 15 năm, Malcolm Muggerridge, một ký giả và bình luận gia nổi tiếng của đài BBC, đã cùng với một nhóm chuyên viên của đài đến Ấn Ðộ, để làm một cuộc phỏng vấn về Mẹ Têrêxa, về các hoạt động của Mẹ.

Sau năm ngày làm việc, đến lúc cắt xén và tháo ráp để dựng thành cuốn phim, Mẹ Têrêxa đã thốt lên: "Hãy làm một cái gì tốt đẹp cho Chúa".

Câu nói của Mẹ đã được ký giả Muggerridge lấy làm tựa đề của cuốn phim thời sự về Mẹ và các nữ tu của Mẹ.

Cuốn sách ghi lại cuộc phỏng vấn cũng mang cùng một tựa đề.

Sau khi cuốc phim được trình chiếu trên đài BBC, thế giới bỗng chú ý đến người nữ tu đã từ mấy chục năm qua âm thầm chăm sóc những người cùng khổ nhất trong các khu ổ chuột ở Calcutta.

Tốt đẹp và kỳ diệu thay! Khuôn mặt đau khổ của nhân loại được phơi bày, nhưng Tình Yêu của Thiên Chúa, cũng được thể hiện qua những âm thầm hy sinh phục vụ của Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Mẹ.

Ngày nay, khi đi qua một số thành phố lớn trên thế giới, thỉnh thoảng người ta đọc được bảng hiệu: "Hãy gìn giữ cho thành phố được sạch" hoặc "Hãy làm đẹp thành phố".

Những khẩu hiệu ấy nhắc nhở cho kiều dân và khách qua đường về nghĩa vụ tôn trọng trật tự, cũng như giữ cho thành phố được sạch sẽ và đẹp đẽ.

Mỗi người Kitô cũng là một thành phố của Thiên Chúa. Họ luôn được mời gọi để giữ thơm và làm sạch cho thành phố ấy.

Thay vì vứt bừa bãi ra bên ngoài những rác rưởi của những hành vi bất chánh, họ luôn được mời gọi để bày tỏ một bộ mặt tốt đẹp và kỳ diệu, để qua đó thiên hạ sẽ nhìn vào, mà ngợi khen Cha Trên Trời...

*****

- "Hãy làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa", đó phải là câu tâm niệm mà người Kitô thốt lên khi vừa thức giấc, đón chào một ngày mới.

- "Hãy làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa", bằng cách dâng lên Ngài hy sinh trong những công việc nhỏ bé hằng ngày.

- "Hãy làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa", bằng những cử chỉ quảng đại, hy sinh phục vụ đối với những người cùng khổ nhất trong xã hội.

- "Hãy làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa", bằng cách sống tử tế và không ngừng tha thứ cho những người xúc phạm đến mình.

- "Hãy làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa", bằng chứng tích của một cuộc sống đầy lạc quan và vui tươi, ngay cả khi chỉ gặp toàn đau khổ, thử thách...

-------------------------
 

Bài 19: Gieo Gió Gặt Bão


Ðêm 17/5/1987, một chiến đấu cơ do Pháp chế tạo, đã được Iraq sử dụng, để phóng đi hai hỏa tiễn Exocet, cũng do Pháp chế tạo.

Không rõ do tính toán hay tai nạn, hai hỏa tiễn này đã đâm bổ xuống hàng không mẫu hạm Satark của Mỹ, đang đậu trong vùng vịnh Ba Tư. 37 người Mỹ đã vong mạng trọng vụ ấy!

Người Ả Rập thường nói: "Kẻ thù của kẻ thù của tôi, là bạn tôi".

Có lẽ người Mỹ và nhiều nước Tây phương cũng xử sự theo châm ngôn ấy. Trong cuộc chiến kéo dài 8 năm của Iran và Iraq, đa số các nước Tây phương kể cả Liên Xô đều đứng về phía Iraq.

Liên Xô là nước cung cấp cho I raq nhiều vũ khí nhất. Từ giữa năm 1983 đến năm 1988, Iraq đã mua của thế giới một số vũ khí trị giá khoảng 34 tỷ Mỹ kim. Cùng với chiến xa T-72 và hỏa tiễn Scud-B, Liên Xô là nước đã bán cho thế giới đến 50% khí giới.

Ðể đổi lấy dầu của Iraq, Pháp đã bán cho nước này số khí giới trị giá khoảng 16 tỷ Mỹ kim. Ngày nay, 133 chiến đấu cơ Mirage F.I và hỏa tiễn Exocet, mà Iraq đã đưa vào cuộc chiến ở vùng vịnh Ba Tư, đều do Pháp cung cấp.

Năm 1984, Hoa Kỳ đã tái lập ngoại giao với Iraq và loại Iraq ra khỏi sổ những nước chuyên gây các cuộc khủng bố trên thế giới.

Sự tín nhiệm của Hoa Kỳ đối với Iraq, cũng khiến cho những nước Tây phương khác, như Tây Ðức cung cấp cho Iraq chuyên viên, kỹ thuật và nguyên liệu, nhờ đó Iraq đã có thể chế tạo các vũ khí hóa học và nguyên tử.

Vô tình hay hữu ý, các nước Tây phương đã củng cố cho nền độc tài của Saddam Hussein và đưa ông đến cuộc thách thức hiện nay.

Một nhà chính trị người Iraq hiện lưu vong tại Pháp đã nói như sau: "Chúng tôi đã lên tiếng về chế độ độc ác của Hussein.

Nhưng đó chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. Vì bức tường của những lợi lộc kinh tế, chúng tôi đã không được lắng nghe. Kết quả cho thấy là một nhà độc tài, như ong được nuôi trong tay áo, nay đang hiện nguyên hình thành một quái vật".

Câu chuyện trên đây, có thể giúp chúng ta rút ra một bài học về những hậu quả, mà người ta phải gánh chịu về những việc làm của mình.

Chúng ta vẫn thường nói: "Gieo gió thì gặt bão"...

Các nước Tây phương ngày nay, hẳn phải đấm ngực, để chịu đựng cơn bão táp, mà chính họ là người đã đóng góp vào, để tạo nên.

Khí giới do Tây phương cung cấp, ngày nay đã quay lại chống họ.

Thánh Phaolô trong thư gửi cho giáo đoàn Galata đã kêu gọi chúng ta, thay vì gieo trong xác thịt, hãy gieo trong thần khí.

Gieo trong xác thịt, tức là gieo rắc hận thù, chết chóc, là nuôi dưỡng ích kỷ, là gây đố kỵ, chia rẽ: những hạt giống ấy chỉ nảy nở thành cây của tang thương, đau khổ và hủy diệt cho chính mình, cũng như cho người khác.

Gieo trong thần khí chính là sống quảng đại, phục vụ, hòa nhã, yêu thương, cảm thông, nhẫn nhục, tha thứ...

Hạt giống của thần khí có thể là hạt giống nhỏ bé và âm thầm như hạt cải, nhưng sẽ trở thành cây to lớn.

Không có một nghĩa cử nào, dù nhỏ mọn đến đâu, mà không mang lại hoa trái Bình An cho tha nhân và cho chính bản thân.

Chiến tranh trên quy mô thế giới, chiến tranh giữa nước này với nước nọ, chiến tranh trong cùng một quốc gia: Ở mọi quy mô, chiến tranh nào cũng là cơn bão táp, mà chính con người tự góp gió, để thổi lên.

Nơi nào có bất hòa, thì nơi đó có chiến tranh. Nơi nào lợi lộc được đặt lên trên mọi giá trị khác, thì nơi đó đã có chiến tranh.

Người môn đệ của Ðức Kitô, Nguyên Ủy của Hòa Bình, luôn được mời gọi để xây dựng Hòa Bình. Và Hòa Bình chớm nở, khi con người bắt đầu gieo trồng hạt giống của Yêu Thương.

---------------------------
 

Bài 20: Cái Tách Thân Thương


Thánh Phanxico Assisi, nhân vật chính trong quyển tiểu thuyết: "Người nghèo của Chúa" do văn sĩ Hy Lạp Nikos Kazantakis biên soạn, đã kể một câu chuyện như sau:

"Có một vị ẩn sĩ nọ được nhìn thấy Chúa, nhưng không bao giờ đạt được ước nguyện. Vẫn còn một cái gì vướng mắc trong cái nhìn, khiến ông không thể nào nhìn thấy Chúa được. Càng cố gắng đọc kinh cầu nguyện bao nhiêu, càng ăn chay hãm mình bao nhiêu, ông càng thất vọng bấy nhiêu. Ông vẫn không hiểu đâu là chướng ngại, khiến ông không thể trông thấy Chúa được.

Thế rồi, một buổi sáng nọ, khi vừa ra khỏi giường, ông bỗng reo hò sung sướng, thì ra ông đã tìm ra lý do. Ðó là một cái tách uống nước nhỏ, nhưng rất đẹp, mà gia đình đã tặng cho ông. Ðây là kỷ niệm duy nhất của gia đình, mà ông cố gắng gìn giữ như một báu vật. Và dĩ nhiên, đây cũng là của cải trần thế duy nhất, mà ông còn bám víu vào.

Không một chút do dự luyến tiếc, vị ẩn sĩ cầm lấy chiếc tách thân yêu ném xuống nền nhà: Từng mảnh vụn vỡ ra, từng luyến tiếc tan vỡ...

Vị ẩn sĩ ngước nhìn lên, và sáng hôm sau ông đã nhìn thấy Chúa".

*****

Sách xuất hành đoạn 33, từ câu 18 đến câu 23 thuật lại rằng: Một hôm, Môisen thưa với Chúa rằng: Ông ước ao được nhìn thấy Dung Nhan Ngài.

Lúc bấy giờ Chúa mới trả lời cho Môisen:

"Không ai có thể nhìn thấy Ta, mà vẫn còn sống" (Đệ Nhị Luật 4,33).

Liền sau đó, Thiên Chúa bảo Môisen nấp sau một tảng đá lớn, để chỉ nhìn thấy sau lưng của Ngài mà thôi.

Khao khát được nhìn thấy Chúa: Đó cũng phải là ước mơ duy nhất của người tín hữu Kitô.

Chúng ta được tạo thành cho Chúa, chúng ta chỉ được yên nghỉ, khi được ngắm dung nhan Ngài mà thôi!

Nhưng không ai có thể nhìn thấy nhan Chúa, mà vẫn còn sống.

Ðiều đó có nghĩa là ”nỗi khao khát được thấy Chúa, chỉ lớn lên trong chúng ta, khi chúng ta biết dẹp bỏ những vướng bận và vướng ngại trong chúng ta...

Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng:

”Của cải chúng ta ở đâu thì tâm trí chúng ta cũng ở đó”.

Nếu chúng chạy theo tiền của, danh vọng, lạc thú, thì lòng trí chúng ta sẽ không muốn tưởng nghĩ đến Chúa.

Có chết đi cho bản thân, chúng ta mới khao khát gặp gỡ Chúa...

Thiên Chúa cho chúng ta thấy được đằng sau lưng của Ngài, phải chăng, đó không phải là sự hiện diện và tác động của Chúa, trong các biến cố và những gặp gỡ của chúng ta với tha nhân?...

Có ra khỏi chúng ta, chúng ta mới có thể nhìn thấy bóng dáng của Chúa, trong các biến cố của cuộc sống chúng ta.

Có ra khỏi chúng ta, chúng ta mới thấy được sự hiện diện của Chúa, trong người anh em của chúng ta.

------------------------------
 

Bài 21: Chúng Ta Không Phải Là Thiên Thần


Một cuốn phim Mỹ có tựa đề "Chúng ta không phải là Thiên Thần", do hai tài tử nổi tiếng là Robert de Niro và Sean Penn thủ diễn, đã kể lại một cuộc vượt ngục rất kỳ thú của hai tử tội bị giam trong một trại khổ sai, nằm giữa biên giới Hoa Kỳ và Canada.

Hai tử tội này, có lẽ đã từng phạm những tội ác như cướp của giết người.

Nhưng từ một ngục thật kiên cố, họ không bao giờ có ý định trốn thoát. Thế rồi, một hôm, một người tử tội đang được đưa lên ghế điện, bỗng cướp súng hạ sát một số viên cai ngục và tìm đường tẩu thoát. Trên đường trốn chạy, hắn đã cưỡng bách hai người tù cùng trốn thoát.

Sau một đêm đào tẩu giữa núi rừng phủ đầy tuyết, hai người tử tội đã mon men tìm đến một ngôi làng.

Một lão bà đã ngộ nhận là hai linh mục nổi tiếng trong vùng. Bất đắc dĩ họ đành phải đội lốt linh mục và được một tu viện gần đó tiếp đãi nồng hậu.

Giữa lúc đó, cảnh sát lại đi lùng khắp nơi, để tìm cách bắt lại ba kẻ đào thoát.

Người tử tội đã giết các viên cai ngục để trốn thoát, nay bị sa lưới lại. Hôm đó là một ngày rước kiệu trọng thể kính Ðức Mẹ, do tu viện nói trên tổ chức.

Nhờ lớp áo nhà tu, một trong hai tên tù đã lẻn vào nhà giam để giải thoát kẻ vừa bị bắt lại.

Người tù hung hãn cũng được khoác lên người chiếc áo dòng và nép mình trong chiếc kiệu vĩ đại có tượng Ðức Mẹ...

Giữa những tiếng cầu kinh sốt sắng của mọi người, hắn xuất hiện trước công chúng và dùng súng uy hiếp mọi người.

Một em bé gái câm trong đám rước kiệu đã bị hắn bắt làm con tin. Trong khi mọi người ngã rạp xuống đường vì sợ hãi, thì một trong hai vị linh mục giả đã nhào lên chiếc kiệu, để giải thoát em bé gái câm.

Cuộc xô xát đã làm cho người tù hung hãn bị trúng đạn, nhưng em bé gái câm và tượng Ðức Mẹ lại bị quăng xuống dòng sông giá buốt...

Không chút do dự, vị linh mục giả còn lại, đã nhào xuống dòng sông và cứu sống em bé.

Mở mắt nhìn vị ân nhân, em bé bỗng nhận ra người tù vượt ngục, mà hình ảnh được dán đầy trong khu phố...

Trong đoạn kết thúc cuốn phim, một người đã xin được tiếp tục tu trong tu viện, còn người cứu sống em bé tiếp tục làm lại cuộc đời với người mẹ của em...

"Chúng ta không phải là Thiên Thần".

Thiên thần một lần vấp ngã là vĩnh viễn trầm luân. Con người không phải là Thiên Thần, cho nên vấp ngã có chồng chất, vẫn còn có cơ may để chỗi dậy và làm lại cuộc đời.

Cuộc phiêu lưu của người tù trên đây, có lẽ cũng là hình ảnh của chính cuộc đời chúng ta.

Chúng ta không là Thiên Thần, cho nên sau bao nhiêu lần vấp ngã, Chúa vẫn còn tiếp tục cho chúng ta một cơ may khác để bắt đầu lại.

Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người. Lịch sử của loài người phải chăng đã không là những mò mẫm, té ngã và chỗi dậy không ngừng ư?

Thiên Chúa không bỏ cuộc vì con người, cho nên con người cũng không nên thất vọng về mình.

Thất bại có ê chề, tình người có bạc bẽo, đau khổ có chồng chất, tội lỗi có đè nặng đến đâu: Thiên Chúa lúc nào cũng ban cho chúng ta tia sáng của Hy Vọng, để mời gọi chúng ta chỗi dậy và tiếp tục tiến bước.

Ngài mời gọi chúng ta hãy chiêm ngắm chính cái chết của Con Ngài trên thập giá.

Loài người xem đó là tận cùng của số kiếp, nhưng Thiên Chúa lại nhìn vào đó như là khởi đầu của nguồn ơn cứu thoát...

---------------------------
 

Bài 22: Nếu Tôi Biết Tha thứ


Trong những năm 1944-1945, dân Roma khiếp sợ, mỗi khi nghe nhắc đến tên Peter Koch, một sĩ quan mật vụ Ðức quốc xã, đã từng giết hại không biết bao nhiêu mạng người.

Sau chiến tranh, anh ta bị bắt và bị kết án tử hình. Anh viết thư cho Ðức Giáo Hoàng Piô XII, để xưng thú các tội ác mình đã phạm và đặc biệt xin Ngài tha thứ cho anh tội đã tấn công vào Vương Cung thánh đường Thánh Phaolô ngoại thành.

Ðức thánh cha đã sai một linh mục đến nhà tù, để gặp anh ta và chuyển đến anh sự tha thứ của Ngài, đồng thời trao cho anh ta một tràng hạt mân côi.

Ðến nhà giam, sau khi đã làm theo lời căn dặn của Ðức Giáo Hoàng, vị linh mục đã nghe người tử tội thốt lên như sau:

"Tổ quốc con nguyền rủa con, đó là điều hợp lý. Tòa án đã kết án con, điều này cũng rất công bình. Ðức Giáo Hoàng đã tha thứ cho con và đã cho con một bài học cao qúy. Giả như con đã luôn nghĩ đến việc tha thứ, thì giờ này có lẽ con không phải ra pháp trường như thế này".

Nói rồi anh bật khóc:

"Con không dám động đến tràng hạt của Ðức Giáo Hoàng, bằng đôi tay vấy máu của con. Xin cha đeo tràng hạt vào cổ cho con".

Ít phút sau, Peter Koch ngã gục dưới loạt đạn, miệng anh vẫn còn cầu khẩn Mẹ Maria...

*****

Xin được tha thứ, đó là một trong những hành động vĩ đại nhất của con người...

Quỷ Satan đã có lần trách móc Thiên Chúa như sau:

"Ngài không công bình. Có biết bao nhiêu tội nhân đã làm điều ác. Họ chỉ trở lại một đôi lần, nhưng lần nào Ngài cũng niềm nở tiếp đón họ.

Tôi chỉ có làm một điều bậy, tôi chỉ có phạm tội một lần, thế mà Ngài đã tuyên phạt tôi đời đời".

Nghe thế, Thiên Chúa mới hỏi vặn lại Satan:

"Thế ngươi có bao giờ mở miệng xin tha thứ và ăn năn sám hối chưa?".

Mở miệng kêu xin tha thứ, là bước lần đến ngưỡng cửa Thiên Ðàng.

Nhưng xin tha thứ cho chính mình thôi chưa đủ. Con người cần phải tha thứ cho người khác. Cánh cửa Thiên Ðàng sẽ mở ra, mỗi khi con người thành thực thứ lỗi cho người khác.

Nhận ra lầm lỗi của mình, kêu cầu sự tha thứ và tha thứ cho người khác: Đó là đôi cánh Thiên Thần, giúp con người bay lên tới Chúa.

--------------------------
 

Bài 23: Tôi Muốn Con Tôi Sống


"Tôi muốn con tôi sống", đó là lời của bà Suzanna Petrosyan đã thốt ra và được báo chí nhắc lại.

Thực ra, có bà mẹ nào lại không muốn con của mình được sống đâu?

Thế nhưng, trường hợp của bà Petrosyan và đứa con gái 4 tuổi của bà, không giống như những trường hợp của nhiều bà mẹ khác. Vì hai mẹ con bà này, là nạn nhân của cơn động đất khủng khiếp tại Armeni, thuộc liên bang Xô Viết, hồi tháng 12 năm 1987.

Sau khi động đất, cũng giống như hàng ngàn người khác, cả hai mẹ con bà Petrosyan đều bị lấp vùi dưới hàng trăm ngàn tấn gạch, đá và xi măng, nhưng họ may mắn nằm lọt vào trong một khoảng trống nhỏ chỉ vừa đủ chỗ cựa quậy mà thôi.

Tất cả lương thực họ có, chỉ là một hũ mứt và chẳng mấy chốc hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó, cô gái 4 tuổi mới kêu:

"Mẹ ơi, con khát quá. Mẹ cho con uống nước".

Nhưng lấy nước đâu bây giờ?

Tiếng kêu khát của con cứ tiếp tục làm cho bà mẹ vừa đau lòng, vừa lúng túng.

Nhưng tình mẫu tử thiêng liêng đã gợi cho bà một ý nghĩ táo bạo: Đó là lấy những giọt máu cuối cùng của bà cho con uống, để cầm cự với tử thần.

Lúc đó, người mẹ đáng thương mới lấy tay sờ sẫm và vớ được một miếng kính bể. Bà lấy miếng kính cắt đầu ngón tay trỏ và đút ngón tay vào miệng con bảo con mút.

Em bé mút ngón tay của mẹ một lúc rồi nói: "Mẹ cắt một ngón tay nữa cho con mút thêm".

Bà liền cắt một ngón tay nữa, nhưng vì trời lạnh quá, nên bà không thấy đau đớn gì nữa...

Sau khi được cứu sống, người đàn bà thuật lại rằng:

"Lúc đó, tôi biết thế nào tôi cũng chết, nhưng tôi muốn con tôi được sống".

*****

Tấm gương hy sinh cao cả của bà mẹ trên đây, có thể gợi lên Tình Yêu của Ðấng đã nói:

"Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của kẻ thí mạng sống vì người mình yêu" (Gioan 15,13).

Cũng giống như một người mẹ sẵn sàng hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để cho đứa con được sống. Chúa Giêsu cũng đã hy sinh chính mạng sống của mình, cho con người được sống.

Sự sống thần linh, mà Chúa Giêsu muốn thông ban cho con người, cũng chính là tình yêu của Ngài.

Chịu treo trên thập giá, đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng, Chúa Giêsu chỉ muốn cho con người được sống và sống trong tình yêu. Ai sống trong tình yêu, người đó đang sống thực sự, bởi vì người đó đang sống trong Chúa.

Nhờ phép Rửa Tội, người Kitô chúng ta đang sống bằng sự sống của Thiên Chúa.

Ðó là kết quả của những giọt máu của Ðấng đã chịu chết vì chúng ta trên thập giá...

Những giọt máu thần linh ấy một cách nào đó, đang lưu thông trong chúng ta. Máu ngừng chảy, máu không lưu thông, tình yêu không được san sẻ cho người khác, cũng sẽ làm cho con người chết khô cằn...

Bao lâu chúng ta khước từ không san sẻ tình yêu cho người khác, chúng ta cũng chối bỏ chính tình yêu của Chúa.

---------------------------
 

Bài 24: Ðời Là Một Chuyến Ði


Một tác giả nọ đã nói lên tính cách bí ẩn của cuộc sống con người bằng một câu chuyện như sau:

Tại một vùng quê nọ bên Tây phương, một ông từ nhà thờ có thói quen mà không ai có thể lay chuyển được.

Mỗi ngày, cứ 15 phút trước giờ ngọ, ông gọi điện thoại đến cho người tổng đài trong vùng và hỏi giờ.

Ngạc nhiên về thói quen lạ lùng ấy, người tổng đài đã đặt câu hỏi:

"Thưa ông, nếu không có gì làm phiền ông, xin cho ông biết lý do hỏi giờ như thế mỗi ngày?".

Ông từ nhà thờ mới giải thích:

"Ồ, có gì đâu. Tôi là người phải kéo gác chuông mỗi ngày vào giờ ngọ. Tôi cần biết giờ chính xác".

Người tổng đài điện thoại mới vỡ lẽ ra. Ông nói với ông từ nhà thờ như sau:

"Thật là buồn cười. Trong khi ông hỏi giờ nơi tôi, thì chính tôi lại điều chỉnh đồng hồ theo tiếng chuông của ông".

*****

Tác giả của câu chuyện trên đây kết luận rằng: Cuộc sống quả là một bí ẩn, mà những người trong cuộc không thể nào tự mình tìm ra được câu trả lời.

Chúng ta cần một câu giải đáp từ bên ngoài về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống. Và người có thể nói với chúng ta về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống chính là Thiên Chúa, Chúa tể của sự sống.

Kinh thánh, Lời của Chúa, thường ví cuộc sống như một cuộc hành trình.

Từ lúc Noe xuống tàu, qua Abraham cất bước ra đi vào vùng đất xa lạ, đến ngày vội vã ra đi của Ðức Maria và cả cuộc đời không ngừng di động của Ðức Kitô: Tất cả đều là những hình ảnh diễn tả cuộc hành trình Ðức Tin của người Kitô chúng ta.

Ðời là một cuộc hành trình...

Ra khỏi lòng mẹ là nhập cuộc và ra đi không ngừng.

- Tuổi thơ và thanh niên được dệt bằng những năng động để không ngừng dự phóng và tiến tới.

- Ở tuổi trung niên, thành công tràn ngập, nhưng thất bại cũng giăng đầy lối đi: Có những người bạn chợt đến rồi đi; vui tươi hớn hở chớm nở, nhưng thất vọng cũng bao trùm...

- Rồi tuổi già chợt đến, chúng ta mới nhận ra rằng: Tất cả trên đời này, chỉ là tạm bợ...

*****

Ðời là một cuộc hành trình.

Ðức Kitô đã trải qua cuộc đời trần thế bằng không biết bao nhiêu cuộc hành trình.

- Sinh ra trong một cuộc hành trình,
- Vừa mở mắt chào đời đã phải vội vã ra đi như một người tị nạn.
- Năm 12 tuổi lạc mất trong một cuộc hành trình...
- Ra đời, Ngài không ngừng đi lại khắp nẻo đường Palestina.
- Và cuối cùng, Giêrusalem, đồi Calvê là điểm đến của cuộc hành trình.


Qua cuộc hành trình không nghỉ ngơi ấy, Ðức Kitô đã tuyên bố với chúng ta:

"Ta là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống" (Gioan 14,6).

Chỉ trong Ngài, qua dấu chân của Ngài, chúng ta mới thật sự tìm được hướng đi cho cuộc hành trình của chúng ta...

Ngài là Con Ðường dẫn chúng ta về cõi phúc vinh quang.

Nhưng Con Ðường của Ngài chính là Con Ðường của yêu thương và phục vụ...

Hãy tin tưởng rằng: Khi chúng ta sống yêu thương, sống phục vụ, là lúc chúng ta đang đi trên Con Ðường của Ngài.

----------------------------
 

Bài 25: Cuộc Săn Thỏ


Ðức hồng Y Carlo Martini, nguyên viện trưởng trường Kinh Thánh tại Roma và hiện là tổng giám mục Milano bên Italia, đã ghi lại trong quyển chú giải về Phúc Âm Thánh Gioan, câu chuyện sau đây:

Vào thế kỷ thứ ba, trong Giáo hội có vấn đề các tu sĩ ào ạt rời bỏ cuộc sống tu trì...

Ðể giải thích cho hiện tượng này, một thầy dòng nọ đã đưa ra hình ảnh của một đàn chó đi săn thỏ.

Một chú chó trong đàn đã bất chợt nhận ra một con thỏ. Thế là chú nhanh nhẩu rời đàn chó, và vừa chạy theo con thỏ, vừa sủa inh ỏi.

Không mấy chốc, mấy chú chó khác cũng rời hàng ngũ để chạy theo. Và cứ thế cả đàn chó bỗng chạy ùa theo.

Tất cả mọi con chó đều chạy, nhưng kì thực chỉ có một con chó là đã phát hiện ra con thỏ.

Sau một lúc săn đuổi, chú chó nào cũng mệt lả, cho nên từ từ bỏ cuộc, bởi vì đa số đã không được nhìn thấy con thỏ. Chỉ duy chú chó đầu tiên đã phát hiện ra con thỏ là tiếp tục đeo đuổi cuộc săn bắt.

*****

Vị tu sĩ đã đưa ra kết luận như sau:

"Ðã có rất nhiều tu sĩ đi theo Chúa, nhưng kỳ thực chỉ có một hoặc hai vị là đã thực sự thấy Chúa và hiểu được: họ đang đeo đuổi điều gì.

Số khác chạy theo vì đám đông, hoặc vì họ nghĩ rằng: Họ đang làm được một điều tốt. Nhưng kỳ thực họ chưa bao giờ thấy Chúa. Cho nên khi gặp khó khăn thử thách, họ bắt đầu chán nản bỏ cuộc".

Cuộc sống của người Kitô chúng ta, có lẽ cũng sẽ ví được với một cuộc săn thỏ...

Ở khởi đầu, ai trong chúng ta cũng hăm hở ra đi. Ai trong chúng ta cũng đều làm rất nhiều cam kết, nhưng một lúc nào đó, khi không còn thấy gì đến trước mắt nữa, chúng ta bỏ cuộc buông xuôi...

Ða số trong chúng ta hành động theo sự thúc đẩy của đám đông, mà không cần tìm hiểu lý do của việc làm chúng ta.

Người ta lập gia đình, mà không hiểu đâu là cam kết của đời sống hôn nhân.

Người ta gia nhập đoàn thể này, đoàn thể nọ, chúng ta cũng hăng hái tham gia, mà không cân nhắc kỹ lưỡng các lý do tại sao chúng ta tham dự.

Và biết đâu, người ta đi nhà thờ, chúng ta cũng đi nhà thờ, mà không bao giờ tự hỏi tại sao chúng ta đi nhà thờ.

Người ta đi xưng tội, rước lễ, chúng ta cũng đi xưng tội, rước lễ, mà có lẽ chưa bao giờ đặt ra câu hỏi nghiêm chỉnh: Tại sao chúng ta làm như thế...

Dĩ nhiên, Ðức Tin của chúng ta cần phải được nâng đỡ từ gia đình, xã hội, bởi người khác.

Nhưng chúng ta không thể quên được rằng:

- Trước hết, Ðức Tin là một cuộc gặp gỡ cá vị, giữa mỗi người và Thiên Chúa.
- Ðức tin là một cuộc hành trình, trong đó mỗi con người phải tự thấy con đường mình đang đi...


Chúng ta không thể sống đạo, giữ đạo vì người khác.

Người Kitô có một đồng phục chung là Ðức Ái, nhưng cuộc sống của mỗi người không phải vì thế, mà được đúc sẵn theo một khuôn mẫu, theo những công thức có sẵn, theo những lôi cuốn của đám đông.

Trong cuộc hành trình Ðức Tin, chúng ta cùng đồng hành với người khác, nhưng mỗi người cần phải thấy rõ địa điểm mình đang đi tới.

Có thấy rõ như thế, mỗi khi gặp mệt mỏi, chông gai thử thách, chúng ta mới có thể kiên vững, tiếp tục tiến bước.

--------------------------------------------------

Những sách đã in (33 cuốn):
https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/nhung-sach-da-in-1654.html

*** (Bạn muốn có những sách này, hãy chép đường link của sách vào thẻ nhớ hoặc vào USB, đưa cho tiệm Photo, họ sẽ in, chỉ khoảng 15 phút là xong, vì mỗi sách đều đã có sẵn bìa, và mỗi sách không quá 100 trang A5. Chỉ khoảng 24 tờ A4 trở lại)

I. - Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật: (3 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-minh-hoa-tin-mung/
1. Chuyện người đàn ông say mê quảng cáo - sách 1
2. Chuyện linh mục vào Thiên Đàng - Sách 2
3. Chuyện con két đi khám bác sĩ – Sách 3

II. – Chuyện đời chuyện đạo: (5 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-doi-chuyen-dao/
1. Hãy vui hưởng hạnh phúc ta đang có - sách 1
2. Chuyện đời to và nhỏ - Sách 2
3. Những lời khuyên hữu ích - Sách 3
4. Những chuyện nhỏ mang nhiều ý nghĩa cho cuộc sống - Sách 4
5. Một phép lạ từ một tình thương cho đi - Sách 5

III. - Chuyện kể cho các gia đình: (14 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/
1. Chuyện người thu thuế và Người biệt phái - sách 1
2. Đừng bỏ cuộc - sách 2
3. Bí quyết hạnh phúc - Sách 3
4. Một chuyện không ngờ thê thảm - Sách 4
5. Đi tìm một bảo hiểm -Sách 5
6. Một mẫu người sống đạo đáng khâm phục - sách 6
7. Yêu là yêu cho đến cùng - Sách 7
8. Những chuyện lạ có thật – Sách 8
9. Một niềm vui bất ngờ - Sách 9
10. Chuyện mẹ ghẻ con chồng - Sách 10
11. Chứng nhân giữa đời thường - Sách 11
12. Cho Chúa mượn thuyền - Sách 12
13. Nét đẹp của lòng thương xót - Sách 13
14. Chuyện tôi vào đạo Chúa - Sách 14

IV.- Chuyện lẽ sống: (8 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-le-song/
1. Chuyện Chúa Giêsu đi xem bóng đá - Sách 1
2. Tình yêu là sức mạnh vạn năng - Sách 2
3. Ðời là một chuyến đi - Sách 3
4. Căn hầm bí mật - Sách 4
5. Thất bại, là khởi điểm của thành công - sách 5
6. Lịch sử ngày của mẹ - Sách 6
7. Chuyện tình Romeo và Juliet - Sách 7
8. Một cách trả thù độc đáo - Sách 8

V. – Kho sách quý: (3 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/
1. Bí mật đầy kinh ngạc về các linh hồn trong luyện ngục – Sách 1
2. Lần hạt mân côi – Thánh Josémaria Escrivá– Sách 2
3. Tiếng nói từ luyện ngục – Sách 3

----------------------------------------------

 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây