MỘT CÁCH TRẢ THÙ ĐỘC ĐÁO - Chuyện Lẽ Sống - Sách 8

Thứ năm - 10/02/2022 03:56
MỘT CÁCH TRẢ THÙ ĐỘC ĐÁO - Chuyện Lẽ Sống - Sách 8
MỘT CÁCH TRẢ THÙ ĐỘC ĐÁO - Chuyện Lẽ Sống - Sách 8
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Mễn
(sưu tầm)


MỘT CÁCH TRẢ THÙ ĐỘC ĐÁO

Nguồn:
https://linhmucmen.com/news/chuyen-le-song/


---------------------------------

*** Đọc các bài của Lm. Mễn:
1. Vào Facebook.com; tìm: Nguyễn Mễn;
hoặc https://www.facebook.com/ nguyen.men.71;

2. Vào Internet: Google, Youtube, Cốc Cốc, Safari, hoặc Yahoo.com;
tìm: Cha Mễn, hoặc linh mục Mễn

3. https://linhmucmen.com
4. Email: mennguyen296@gmail.com

5. ĐT: 0913 784 998 có zalo; 0394 469 165

**** "Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người” (Galata 6,10)

**** Lạy  Chúa, xin hãy hoàn thành nơi con những ý định của Chúa. Và xin ban cho con ơn: Không làm trở ngại ý định của Chúa do hành vi của con. Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, chỉ vì Chúa muốn, như Chúa đã muốn và tới mức độ Chúa muốn. Amen.

----------------------------

Mục Lục

Bài 1: Bí quyết của hạnh phúc. 2
Bài 2: Đi tìm một niềm vui đích thực. 4
Bài 3: Hãy giữ mãi nụ cười của cảm thông, tha thứ và yêu thương. 5
Bài 4: Thiên Chúa yêu thương ta trong sự yếu hèn và thiếu sót của ta. 7
Bài 5: Đức Kitô là chiếc cầu nối liền Trời cao và Ðất thấp. 9
Bài 6: Một cách trả thù độc đáo. 10
Bài 7: Là một đại họa, khi con người chối bỏ Thiên Chúa. 12
Bài 8: Nỗi cô độc của người đang đi tìm chân lý. 14
Bài 9: Hạnh phúc của bản thân, chính là khi làm cho người khác được hạnh phúc. 16
Bài 10: Chúa Giêsu là Ðấng Giải Thoát chúng ta. 18
Bài 11: Bộ mặt Tình Yêu của Thiên Chúa trong mọi người 19
Bài 12: Tôn giáo là sức mạnh cải thiện xã hội 21
Bài 13: Cuộc đời là một Hồng Ân Chúa ban. 23
Bài 14: Kitô hữu có sứ mệnh mang tinh thần lạc quan cho những người 26
Bài 15: Chúa Giêsu đã khai thông con đường dẫn đến sự sống. 28
Bài 16: Ơn gọi của Kitô hữu là xây dựng những giá trị vĩnh cửu, ngay trên chính những cái chóng qua đời này. 30
Bài 17: Hạnh phúc, chính là biết đón nhận những niềm vui nhỏ trong cuộc sống. 32
Bài 18: Kitô hữu là sứ giả của niềm vui 34
Bài 19: Đừng nhân danh tự do, để chối bỏ tự do của người khác. 36
Bài 20: Người con Chúa phải thấy hình ảnh của Chúa nơi mọi người 38
Bài 21: Có Chúa trong tâm hồn, ta sẽ thấy mọi sự vui tươi hơn. 39
Bài 22: Có Thiên Chúa luôn ở với ta. 41
Bài 23: Thiên Chúa luôn tỏ tình với con người 43
Bài 24: Thánh nhân là người biết nhìn thấy Chúa trong nỗi bất hạnh. 45
Bài 25: Cuộc sống sẽ dễ thở, nếu ta biết cảm thông và tha thứ. 46

----------------------------

 

Bài 1: Bí quyết của hạnh phúc


Hans Christian Andersen, văn sĩ Ðan Mạch sống vào khoảng cuối thế kỷ 19, là tác giả của những câu chuyện dạy đời bất hủ. Ông có kể một câu chuyện như sau:

Có một đôi vợ chồng già nọ sống bên nhau rất hạnh phúc. Thật ra người nắm giữ bí quyết hạnh phúc trong gia đình này chính là người vợ. Lúc nào bà cũng hài lòng về bất cứ hành động nào của người chồng.

Một hôm, người vợ đề nghị với chồng là nên bán bớt một con bò. Thật ra tất cả tài sản của họ chỉ là đôi bò.

Người chồng tán thành ý kiến của vợ.

Ngay từ sáng sớm, ông dắt bò ra chợ. Nhưng đường dài, mặt trời mỗi lúc một chói chang. Con bò già lại không thể bước nhanh. Do đó khi thấy một người nông dân khác cũng đang dắt heo ra chợ bán, người chồng mới có ý nghĩ đem đổi bò lấy con heo. May ra con heo có thể đi nhanh hơn không?

Ðổi được con heo và đi được một quãng đường, người chồng lại cảm thấy không thoải mái chút nào. Con heo cứ muốn đi theo hướng của nó. Vừa bực tức với con heo, ông lại thấy một người nhà quê khác cũng đang dắt dê ra tỉnh. Ông nghĩ rằng dê có thể là con vật ít cồng kềnh hơn con heo, cho nên ông mới nấn ná đến người chủ dê để đề nghị hoán đổi.

Ðổi được dê, người đàn ông như cảm thấy nhẹ nhõm trong người. Nhưng chỉ trong vài phút đồng hồ, ông mới khám được cái tính bất thường của loài dê. Nó chạy bên này, nhảy bên kia, nó đưa sừng húc khắp mọi nơi...

Giữa lúc ông ngán ngẩm với con dê, thì bỗng đâu một người nhà quê khác tiến lại gần ông với cả một đàn ngỗng. Con ngỗng dù sao cũng ít cồng kềnh hơn con dê. Nghĩ vậy cho nên ông mang con dê đến đổi lấy một chú ngỗng trắng. Ôm lấy chú ngỗng vào lòng, người đàn ông cảm thấy thoải mái hơn bao giờ hết. Ông tin chắc là mình sẽ đến chợ sớm hơn. Nhưng chưa đến chợ, thì ông lại thấy một người buôn gà. So sánh gà với ngỗng, dĩ nhiên gà phải nhẹ hơn...

Tính toán mãi, cuối cùng, ông đã đem chú ngỗng đến đổi lấy một con gà.

Mặt trời mỗi lúc một lên cao. Cơn khát như muốn đốt cháy cổ họng ông. Bụng ông lại trống rỗng. Vừa thấy một quán ăn bên vệ đường, người đàn ông không còn cầm được cơn cám dỗ. Ông đành phải đem con gà bán đi với giá một đồng bạc. Một đồng này vừa đủ cho một bữa ăn trưa cộng với một ly bia.

Những người đàn ông trong quán ăn biết chuyện mới tỏ ra ái ngại cho giây phút ông phải đối đầu với người vợ.

Thế nhưng, con người luôn luôn được vợ hài lòng ấy vẫn tỏ ra bình thản. Ông tin tưởng rằng vợ ông sẽ không bao giờ trách móc ông. Một người đàn ông có máu cờ bạc, không tin ở thái độ của bà vợ ông, cho nên mới đề nghị đánh cá. Ông ta đưa ra hai mươi đồng và đi theo người đàn ông về đến nhà. Ôn núp một nơi kín đáo để theo dõi phản ứng của người vợ.

Quả thực, người đàn ông bắt đầu báo cáo lại cho vợ từng chi tiết của những cuộc trao đổi của ông. Cứ mỗi lần người đàn ông kể lại một cuộc đổi chác của mình, người vợ đều tỏ ra hài lòng. Khi người đàn ông kể đến chuyện ông bán con gà được một đồng và vào quán ăn trưa, người vợ mới mỉm cười thốt lên như sau:

"Tạ ơn Chúa, cũng may là mình bán được con gà. Như vậy là mình có thể ngủ yên mà không sợ tiếng gà gáy phá giấc. Ðiều quan trọng đối với tôi là biết rằng mình thỏa mãn là được".

Người chồng thắng được vụ cá cuộc. Ông được hai mươi đồng, số tiền còn lớn hơn cả giá bán con bò.

*****

Hãy đón nhận từng giây phút hiện tại với hân hoan, cảm mến.
Hãy làm công việc trong phút giây hiện tại như là công việc quan trọng nhất.
Hãy đón tiếp người trước mặt như một người quan trọng nhất.
Hãy chấp nhận mọi người với cảm thông, tha thứ và lạc quan.
Hãy chấp nhận chính bản thân với sự bằng lòng, thoải mái:


Đó là tất cả bí quyết của hạnh phúc, mà chúng ta cần phải nắm lấy.

------------------------

 

Bài 2: Đi tìm một niềm vui đích thực


Người Ba Tư có kể một câu chuyện ngụ ngôn như sau:

Ngày xưa, tại quảng trường của một thành phố nọ, có một nhà hiền triết xuất hiện và tuyên bố sẽ giải đáp được tất cả mọi thắc mắc của bất cứ ai đến vấn kế.

Một hôm, giữa đám người đang say mê lắng nghe nhà hiền triết, có một anh chăn chiên từ trên núi cao đến. Nghe tiếng đồn về sự thông thái và khôn ngoan của nhà hiền triết, anh muốn chứng kiến tận mắt, nghe tận tai và nhất là để hạ nhục nhà hiền triết giữa đám đông.

Anh tiến đến gần nhà hiền triết, trong tay bóp chặt một con chim nhỏ. Anh đặt câu hỏi như sau:

“Thưa ngài, trong tay tôi có một con chim. Ngài là bậc thông thái biết được mọi sự. Xin ngài nói cho tôi biết con chim tôi đang nắm trong tay sống hay chết?".

Nhà hiền triết biết: Đây là một cái bẫy, mà anh chăn chiên tinh ranh này đang giăng ra. Nếu ông bảo rằng con chim đang còn sống, thì tức khắc người mục tử sẽ bóp cho nó chết trước khi mở bàn tay ra. Còn nếu ông bảo rằng con chim đã chết thì lập tức con người khôn manh ấy sẽ mở bàn tay ra và con chim sẽ bay đi.

Sau một hồi thinh lặng, trước sự chờ đợi hồi hộp của đám đông, nhà hiền triết mới trả lời như sau:

"Con chim mà ngươi đang nắm trong tay ấy sống hay chết là tùy ở ngươi. Nếu ngươi muốn cho nó sống thì nó sống, nếu ngươi muốn cho nó chết thì nó chết".

*****

Ai trong chúng ta cũng khao khát hạnh phúc. Ai trong chúng ta cũng mong ước được cuộc sống an bình, vui tươi. Nhưng lắm khi chúng ta chạy theo chiếc bóng mờ ảo của hạnh phúc, hơn là hưởng nếm chính hạnh phúc đang cầm trong tầm tay của chúng ta.

Hạnh phúc đích thực chính là con chim, mà mỗi người chúng ta đang có ở trong lòng tay.

Con chim ấy sống hay chết là tùy ở mỗi người chúng ta.

Chúng ta được hạnh phúc, chúng ta được an bình hay không là do chính chúng ta.

Hạnh phúc đích thực của chúng ta, niềm vui đích thực của chúng ta chính là Thiên Chúa.

Nếu chúng ta để cho Thiên Chúa chiếm ngự, nếu chúng ta để cho Thiên Chúa lấp đầy, thì cho dẫu ngoại cảnh có là bầu trời đen tối đi nữa, chúng ta vẫn cảm thấy an bình, hạnh phúc.

Ý thức được sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn, để cho Chúa chiếm trọn tâm tư, lấy Chúa làm tất cả trong cuộc sống, chúng ta sẽ có được niềm vui đích thực.

-------------------------

 

Bài 3: Hãy giữ mãi nụ cười của cảm thông, tha thứ và yêu thương


Trong tập thơ có tựa đề "Nhật ký", nữ thi sĩ công giáo Pháp là Marie Noel, đã tưởng tượng ra một mẩu chuyện như sau:

Hôm đó là ngày cuối năm. Từ trên Thiên Quốc nhìn xuống dương trần, Chúa thấy dân chúng đổ xô về một ngôi nhà thờ đổ nát, không có chuông, cũng chẳng có tháp chuông. Vị linh mục già đành phải khua mõ vào bất cứ đồ vật nào có thể gây ra tiếng vang, để giục giã dân chúng đến giáo đường đọc Kinh "Te Deum", để tạ ơn, để ngợi khen Chúa nhân ngày cuối năm.

Trời mưa lạnh như cắt. Vậy mà, từ khắp nơi trong xóm giáo, người ta vẫn đổ xô về ngôi giáo đường.

Chúa theo dõi từng cử động một của một người đàn bà đơn độc, mà ngôi nhà vừa bị thiêu rụi trong một trận hỏa hoạn.

Chúa lại nhìn thấy một thiếu phụ mà cách đó không lâu bọn Ðức Quốc Xã đã tước đoạt mọi tài sản.

Một người đàn bà khác, mà chồng đã bị giết trước mắt, cũng lặng lẽ tiến đến nhà thờ.

Có cả thiếu phụ mất con, mà người ta không tìm ra tung tích.

Có cả người đàn ông mà vợ và con bị chôn vùi dưới đống gạch vụn...

Và còn có biết bao nhiêu người khốn khổ khác nữa. Họ không biết đi đâu, họ không có gì để ăn, bởi vì quân thù đã đốt phá và cướp đi tất cả những lương thực dự trữ.

Vậy mà những người khốn khổ ấy có mặt đầy đủ trong ngôi giáo đường.

Có một vài tiếng khóc. Nhưng tất cả đều cất tiếng hát bài "Te Deum" ngợi khen Chúa trong ngày cuối năm, vì những ơn huệ Ngài đã ban cho trong năm qua.

Nhìn thấy cảnh tượng ấy, cũng như lắng nghe lời ca ngợi của những con người khốn khổ, Thiên Chúa vô cùng cảm động.

Ngài nói với các Thiên Thần như sau:

"Quả thực, quả thực, Ta bảo các ngươi: Con người là loài thụ tạo thánh thiện. Các ngươi hãy nhìn xuống đám người đáng thương kia. Cách đây 12 tháng, họ đã phó dâng cho Ta cả năm để được hạnh phúc, an khang. Vậy mà tai ương và thảm sầu đã xảy đến với họ... Họ đã kêu cầu bình an, nhưng chiến tranh đã đè bẹp họ. Họ đã xin lương thực hằng ngày, nhưng họ chỉ toàn gặp là đói khát. Họ đã phó dâng cho ta gia đình, người thân và tổ quốc của họ, nhưng tổ quốc, gia đình và người thân của họ lại bị xâu xé trăm bề. Dĩ nhiên, Ta có những lý do riêng của Ta...

Ta không thể thanh tẩy thế giới, mà không thể thử thách nó như thời Noe.

Nhưng đây là công việc của một Thiên Chúa, không ai có thể hiểu được việc Thiên Chúa làm.

Nhưng con người lại phải gánh chịu mọi sự.

Vậy mà họ vẫn tiếp tục ngợi khen và cảm tạ Ta, cứ như Ta đã bảo vệ họ trong từng phút giây của cuộc sống họ...

Quả thực, lòng tin của họ lớn lao...

Các ngươi có nghe họ hát "Thánh, thánh" với tất cả trang trọng không?

Hỡi các Thiên Thần và các Thánh, nào các ngươi hãy hát lên một bài ca để tôn vinh những ai, mặc dù gặp gian lao khốn khó, vẫn lên tiếng tôn vinh Ta".

Nói xong, Thiên Chúa cùng với các thần thánh trên trời cất lên bài ca "Ngợi khen con người".

*****

Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài không thể không say mê con người, Ngài không thể không chung thủy với con người. Giữa muôn ngàn khó khăn của cuộc sống hiện tại và những khắc khoải lo âu cho tương lai, chúng ta hãy tiếp tục dâng trọn niềm tín thác cho Thiên Chúa.

Tin tưởng ở tình yêu Thiên Chúa, chúng ta tin tưởng ở tình người. Tình người dù có bội bạc, mỗi một con người, dù có đốn mạt, xấu xa đến đâu, cũng vẫn còn chất chứa trong đáy thẳm tâm hồn mình vẻ đẹp cao vời, phản ảnh chính tình yêu của Thiên Chúa.

Ðáp lại với những phản trắc lừa đảo, đáp lại với những thấp hèn đê tiện, người có niềm tin nơi Thiên Chúa và tin ở tình người, hãy giữ mãi nụ cười của cảm thông, tha thứ và yêu thương.

-----------------------

 

Bài 4: Thiên Chúa yêu thương ta trong sự yếu hèn và thiếu sót của ta


Truyện cổ Roma có ghi lại các cuộc chiến thắng khải hoàn của các vị Hoàng đế.

Sau một lần thắng trận, các vị hoàng đế thường hướng dẫn các đoàn quân tiến qua các ngã phố cho dân chúng ca ngợi, tung hô.

Lần kia, các đường phố đều đông nghẹt. Người ta phải dựng một khán đài đặc biệt để hoàng gia có thể theo dõi cuộc diễu hành. Khi hoàng đế và quân đội tiến đến gần khán đài nơi hoàng hậu và các công chúa, hoàng tử đang chờ đợi, người ta kinh ngạc vô cùng, vì vị hoàng tử nhỏ nhất đã rời khỏi khán đài và chạy vụt đến chiến xa của hoàng đế.

Những người vệ binh có trách nhiệm giữ an ninh hai bên đường đã chận hoàng tử lại. Họ giải thích cho cậu biết rằng: Xa giá đang tiến lại gần, chính là xa giá của hoàng đế. Không ai được phép đến gần... Vị hoàng tử nhỏ điềm nhiên trả lời: "Ngài là hoàng đế của các ông, còn đối với tôi thì ngài là cha của tôi".

*****

"Ngài là cha tôi": đó phải là danh xưng, mà chúng ta có quyền sử dụng để gọi Thiên Chúa.

Ðó cũng là danh xưng nói lên mối liên hệ mật thiết, mà Thiên Chúa luôn muốn thắt chặt với từng người trong chúng ta.

"Ngài là cha tôi": Danh xưng ấy cũng cho phép chúng ta khẳng định về giá trị của con người chúng ta. Dù chúng ta có bất tài, yếu hèn, tội lỗi đến đâu, chúng ta vẫn có thể gọi Chúa là Cha.

"Ngài là cha tôi": Danh xưng ấy không cho phép chúng ta thất vọng về chính mình. "Hãy trở nên chính mình". Ðó là mệnh lệnh mà Thiên Chúa dành cho từng người chúng ta. Thiên Chúa yêu thương từng người trong chúng ta và yêu thương chúng ta, vì những cá biệt của từng người.

*****

Hôm nay chúng ta mừng trọng thể hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Hai trụ cột của Giáo hội, nhưng đồng thời cũng là hai tính khí khác nhau, có khi lại xung khắc nhau.

Một người xuất thân từ một dân chài, nóng nảy, cục mịch. Một người xuất thân là một thư sinh học rộng, hiểu sâu.

Hai trình độ khác nhau, hai tính tình khác nhau, nhưng mẫu số chung nối kết hai tâm hồn: Đó là cuộc gặp gỡ với Ðức Kitô.

Cuộc gặp gỡ ấy cũng diễn ra trong hai trường hợp khác nhau. Một người chỉ thực sự khám phá ra con người của Ðức Kitô sau ba lần phản bội.

Một người chỉ nhận biết Ngài sau những lần truy lùng gắt gao, giết hại các môn đệ của Ngài...

Một người đã nhận ra tình yêu của Ngài qua những giọt nước mắt của sám hối.

Một người đã gặp gỡ Ngài sau một lần ngã ngựa đớn đau.

Hai tính khí khác nhau, hai trực giác khác nhau, hai đường hướng hoạt động tông đồ khác nhau, nhưng đã gặp gỡ nhau trong tình yêu Chúa và bổ túc cho nhau để xây dựng Giáo hội của Chúa.

Hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô vừa là hình ảnh đa diện phong phú của Giáo Hội, vừa là biểu trưng của Tình Yêu của Chúa đối với chúng ta. Thiên Chúa yêu thương chúng ta trong sự yếu hèn, thiếu sót của chúng ta.

Tình yêu đó không đòi hỏi chúng ta phải chối bỏ con người tự nhiên của chúng ta.

Trái lại Chúa muốn sử dụng tất cả những khuyết điểm, những giới hạn của con người chúng ta, để làm nổi bật sức mạnh và sự khôn ngoan của Ngài.

------------------------------

 

Bài 5: Đức Kitô là chiếc cầu nối liền Trời cao và Ðất thấp


Vào khoảng năm 1850, một họa sĩ tài ba của Hoa Kỳ tên là James Mc Neil Whisler đang còn là một thanh niên đầy nhiệt huyết. Mặc dù có tâm hồn nghệ sĩ, Whisler cũng đăng ký vào trường đại học quân sự West Point.

Người ta kể lại rằng:

Khi giáo sư ra đề tài vẽ về một chiếc cầu, dĩ nhiên, các sinh viên phải hiểu đây là một chiếc cầu cần được thiết kế trong mục tiêu quân sự.

Thế nhưng, tâm hồn nghệ sĩ của Whisler đã không đếm xỉa gì đến khía cạnh quân sự. Anh vẽ một chiếc cầu thơ mộng bắc qua một mỏm núi thơ mộng. Dọc theo hai bên bờ sông là một tấm thảm cỏ xanh tươi. Nhưng thơ mộng hơn nữa là có hai đứa bé đứng câu cá trên chiếc cầu ấy.

Ông giáo sư cầu cống không ưng ý chút nào, nên đã ra lệnh cho anh phải bôi đi hình ảnh của hai đứa bé. Viên sĩ quan bèn di chuyển hai cậu bé từ chiếc cầu xuống thảm cỏ bên bờ sông. Lần này, ông giáo sư lại càng giận giữ hơn. Ông quát tháo ầm ĩ: "Tôi đã bảo anh phải cất chúng ra khỏi bức tranh".

Nhưng con người có tâm hồn nghệ sĩ xem chừng như không thể vẽ cảnh thiên nhiên, mà thiếu bóng dáng của con người.

Không được sáng tác theo ý mình muốn, Whisler bèn vẽ hai cái mộ trên thảm cỏ dọc theo dòng sông và muốn ông giáo sư hiểu ngầm rằng anh đã chôn hai cậu bé trong hai cái mộ ấy.

Chiếc cầu được bắc qua dòng sông là để nối liền hai bờ sông và chiếc cầu nối liền hai bờ sông là để cho con người ở hai bên bờ sông được liên lạc với nhau. Thiếu sự đi lại của con người thì chiếc cầu trở thành vô nghĩa.

*****

Chúa Giêsu là chiếc cầu nối liền Trời cao và Ðất thấp. Nơi Ngài, con người và Thiên Chúa gặp gỡ nhau. Chỉ trên chiếc cầu của Ðức Kitô con người mới có thể gặp gỡ Thiên Chúa và gặp gỡ nhau.

Ngài sinh ra trong một gia đình, Ngài lớn lên trong một gia đình. Ngài đến để quy tụ tất cả nhân loại thành một gia đình.

Con đường cứu rỗi của Ngài là con đường mở rộng cho mọi người cùng nắm tay đi với nhau.

Chiếc cầu nối liền Thiên Chúa và con người là chiếc cầu của gặp gỡ, của cảm thông, của yêu thương.

Chúng ta chỉ có thể đi về cõi phúc trên chiếc cầu của gặp gỡ, của yêu thương ấy.

------------------------

 

Bài 6: Một cách trả thù độc đáo


Những người thổ dân Nam Phi thường đề cao sự tha thứ bằng câu chuyện sau đây:

Có hai người thổ dân rất thù ghét nhau.

Một ngày kia, một trong hai người gặp cô gái nhỏ của kẻ thù mình trong rừng. Hắn đã bắt lấy cô gái và lấy dao chặt đứt hai ngón tay của cô bé. Cô bé vừa chạy về vừa khóc lóc đau đớn, còn tên hung thủ thì vừa đi vừa đắc trí hô lớn: "Ta đã trả thù được rồi".

Mười mấy năm sau, cô bé đáng thương ấy đã lớn lên rồi có gia đình.

Một hôm, có một người ăn xin đến gõ cửa nhà cô. Cô nhận ra ngay người hành khất chính là kẻ đã chặt tay cô cách đây mười mấy năm.

Không một chút oán hờn, không một lời trả đũa, cô vội vàng vào nhà và mang thức ăn ra hầu hạ cho kẻ đã từng hành hạ mình.

Khi người hành khất đã ăn no rồi, người đàn bà liền đưa bàn tay cụt mất hai ngón cho ông ta xem và nói:

"Tôi cũng đã trả được mối thù rồi".

*****

"Lấy ân trả oán": Đó phải là phương châm hành động của người Kitô chúng ta.

Không có cách trả thù nào cao quý hơn bằng yêu thương, tha thứ cho chính kẻ thù.

Nói như thánh Phaolô, chúng ta không mắc nợ với nhau điều gì ngoài tình thương mến.

Chỉ có tình thương, chỉ có lòng tha thứ mới có thể tiêu diệt được hận thù.

Còn lấy bạo động, để tiêu diệt bạo động, con người chỉ đổ thêm dầu vào hận thù và tăng thêm bạo động mà thôi.

Cuộc cách mạng bạo động và đẫm máu nào cũng chỉ mang lại tang thương, chết chóc và không biết bao nhiêu hệ lụy khổ đau khác.

Chỉ có một cuộc cách mạng duy nhất có thể cứu vãn được nhân loại:

Đó là cuộc cách mạng, mà Chúa Giêsu đã đề ra.

Chỉ có cuộc cách mạng tình thương ấy mới có thể tiêu diệt được hận thù.

Ðó là cuộc cách mạng, mà người Kitô chúng ta cần phải đeo đuổi mỗi ngày: Thay vì tiêu diệt kẻ thù, chúng ta hãy tiêu diệt chính sự thù hận trong tâm hồn chúng ta.

------------------------

 

Bài 7: Là một đại họa, khi con người chối bỏ Thiên Chúa


Ngày kia, có một đan viện phụ Công giáo tìm đến một vị tu sĩ Ấn Giáo tại chân núi Himalaya.

Với tất cả ưu tư phiền muộn, vị đan viện phụ trình bày về tình trạng bi đát của tu viện do ông điều khiển.

Trước kia, tu viện này là một trong những trung tâm Công giáo thu hút không biết bao nhiêu khách hành hương. Nhà nguyện lúc nào cũng vang lên tiếng ca hát của các tu sĩ và giáo dân đến từ khắp nơi. Các căn phòng lúc nào cũng có người ở...

Nay tu viện gần như trở thành một ngôi chùa trống vắng.

Làn sóng những người trẻ tìm đến tu viện hầu như tắt lịm.

Nhà nguyện vắng vẻ, không có kẻ ra người vào.

Một số nhỏ tu sĩ còn lại sống trong uể oải buông thả...

Vị viện phụ muốn hỏi nhà tu sĩ Ấn Giáo: Đâu là nguyên nhân đã đưa đến tình trạng này?

Phải chăng vì một tội lỗi tày đình nào đó, mà bàn tay Chúa đã đè nặng trên cộng đoàn?

Sau khi nghe đức viện phụ kể lể, vị tu sĩ Ấn Giáo mới ôn tồn nói:

"Cái tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn: đó là tội vô tình".

Vị tu sĩ Ấn Giáo mới giải thích như sau:

"Ðấng Cứu Thế đã cải trang thành một người giữa chư vị, nhưng chư vị đã vô tình không nhận ra Ngài".

Nhận được lời giải thích của vị tu sĩ Ấn Giáo, đức viện phụ mới hối hả trở về tu viện, trong lòng ông không khỏi miên man đặt câu hỏi:

"Ai là người được Ðấng Cứu Thế đang mượn hình dáng để trở lại với loài người?".

Cả tu viện chỉ có tất cả không đầy mười người. Ðấng Cứu Thế không thể là chính ông, vì ông tự biết mình là một con người tội lỗi yếu hèn.

Nhưng ông cũng biết rõ các tu sĩ khác trong tu viện: Có người nào toàn vẹn để Ðấng Cứu Thế mượn lấy hình dáng?

Thế nhưng, ông vẫn tin theo lời của vị tu sĩ Ấn Giáo để xác quyết rằng Ðấng Cứu Thế đang cải trang thành một người nào đó trong cộng đoàn...

Với niềm xác tín ấy, ông quy tu tất cả các tu sĩ lại và loan báo cho mọi người biết rằng:

Ðấng Cứu Thế đang cải trang thành một người trong nhà.

Ðôi mắt của mọi người bắt đầu mở to ra và ai cũng bắt đầu dò xét từng người trong nhà.

Chỉ có một điều chắc chắn là: Bởi vì Ðấng Cứu Thế đã cải trang, cho nên, không ai có thể nhận ra Ngài được.

Thành ra mỗi người trong nhà đều có thể là Ðấng Cứu Thế...

Từ đó, ai ai cũng đối xử với nhau như đối xử với chính Ðấng Cứu Thế.

Không mấy chốc, bầu khí yêu thương, huynh đệ, sức sống và niềm vui đã trở lại với tu viện.

Sự thánh thiện ấy không mấy chốc được đồn thổi đi khắp nơi. Các tín hữu từ khắp nơi trở lại tu viện để tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều ngưởi trẻ cũng đến gõ cửa Nhà Dòng...

*****

Nếu người người, ai ai cũng nhìn nhau và đối xử với nhau như đối xử với chính Chúa Giêsu, thì có lẽ hận thù, chiến tranh sẽ không bao giờ có lý do để tồn tại trên mặt đất này.

Sự vắng bóng của Thiên Chúa trong xã hội, hay đúng hơn sự vô tình của con người để không nhận ra Thiên Chúa trong cuộc sống: Đó là đầu mối của mọi thứ bất hòa, chiến tranh, xáo trộn trong xã hội.

Chối bỏ Thiên Chúa, cũng có nghĩa là chối bỏ con người.

Sự băng hoại của những xã hội xây dựng trên chủ thuyết vô thần, là một bằng chứng hùng hồn về hậu quả của sự chối bỏ Thiên Chúa.

Khi con người chối bỏ Thiên Chúa, con người cũng chà đạp con người...

Con người là hình ảnh cao quý của Thiên Chúa đến độ Ngài đã trở thành con người và tự đồng hóa với con người.

Từ nay, con người chỉ có thể nhận ra Ngài trong mỗi người anh em của mình mà thôi.

Thánh thiện hay tội lỗi, giàu sang hay nghèo hèn, bạn hữu hay thù địch: Mỗi một con người đều là hình ảnh của Thiên Chúa và chỉ có xuyên qua tình yêu đối với con người, con người mới có thể đến với Thiên Chúa...

------------------------

 

Bài 8: Nỗi cô độc của người đang đi tìm chân lý


Người Ấn Ðộ có kể lại một câu chuyện ngụ ngôn sau đây:

"Vì tội lỗi của loài người, Thượng Đế dọa sẽ trừng trị họ bằng một trận động đất. Ðất sẽ nứt nẻ và nước sẽ rút hết vào trong lòng đất... Một thứ nước độc sẽ tràn ngập mặt đất. Ai uống vào sẽ trở nên bất bình thường.

Một vị tiên tri nọ đã tin vào lời đe dọa của Thượng đế, nên ông đã chuẩn bị một cuộc đương đầu với biến cố bằng này, bằng cách: Ngày nào ông cũng cố gắng mang nước cho thật nhiều lên đỉnh một ngọn núi cao. Số nước dự trữ, đủ cho ông sống đến ngày tàn của cuộc đời...

Rồi cuộc động đất đã xảy đến, bao nhiêu sông nước trên mặt đất đều bốc hơi, một thứ nước khác được thay thế vào.

Một tháng sau, vị tiên tri trở lại đất bằng để xem những gì đang xảy ra cho loài người.

Ðúng như lời đe dọa của Thượng đế, mọi người sống trên mặt đất đều hóa ra điên dại.

Nhưng kỳ lạ thay, loài người không ý thức được tình trạng điên dại của mình.

Trái lại, ai cũng muốn ra đường để chế diễu vị tiên tri, vì họ cho rằng ông mới là người điên dại...

Buồn tình, vị tiên tri trở lại chốn núi cao của mình. Ông sung sướng vì nước dự trữ vẫn còn và ông vẫn là người duy nhất còn có một tâm trí lành mạnh, bình thường...

Nhưng ngày qua ngày, ông cảm thấy không chịu nổi sự cô đơn của mình. Ông khao khát được sống một cách bình thường với những người đồng loại. Thế là một lần nữa, ông trở lại đồng bằng. Và một lần nữa, ông lại bị dân chúng ruồng rẫy, vì họ cho rằng ông không còn giống họ nữa.

Không còn chịu được sự hắt hủi của những người đồng loại, vị tiên tri đã đổ hết số nước dự trữ của mình và ông uống lấy nước mới của người đồng loại để cũng được trở nên điên dại như họ..."

Con đường dẫn đến chân lý, không phải là con đường rộng thênh thang. Người đi tìm chân lý thường là người chấp  nhận sống cô độc...

*****

Hôm nay, chúng ta kính nhớ thánh Tôma tông đồ.

Ai trong chúng ta cũng đều biết lời tuyên bố bất hủ của thánh Tôma, về biến cố Chúa sống lại:

Nếu tôi không xỏ tay tôi vào lỗ đinh và cạnh sườn Ngài, tôi không tin...

Theo phương pháp khoa học, nhiều người đã lấy câu nói của Tôma làm châm ngôn cho việc đi tìm chân lý. Nghĩa là, nếu tôi không kiểm chứng được, nếu tôi không sờ mó được, tôi không chấp nhận điều đó là đúng...

Thái độ đó chưa hẳn là thái độ thực tiễn trong cuộc sống.

Giá trị cao cả nhất trong cuộc sống: Đó là sự tin tưởng, tín nhiệm đối với người khác.

Ðau yếu, chúng ta đi mua thuốc, chúng ta buộc phải tin tưởng ở người bán thuốc.

Lạc đường, chúng ta buộc phải tin tưởng ở lòng thành thật của người chỉ lối...

Thái độ đó càng đúng hơn trong lĩnh vực Ðức Tin...

Chúng ta tin vào sự sống lại của Chúa Giêsu, không phải vì chúng ta đã thấy Người hiện ra, nhưng chỉ vì lời chứng của các tông đồ, của các tiền nhân...

Một thái độ như thế đòi hỏi rất nhiều phấn đấu của lý trí. Lắm khi, chúng ta chỉ là một thiểu số cô độc.

Chúng ta dễ dàng rơi vào nỗi cô độc của những người đang đi tìm chân lý.

Người Kitô thường phải đi ngược dòng.

Ðiều người đời cho là bất bình thường, có lẽ là cái bình thường đối với người Kitô.

Ðiều người đời cho là yếu nhược, có khi là sức mạnh của người Kitô.

Ðiều người đời cho là điên dại, có khi là lẽ khôn ngoan của người Kitô.

-----------------------------
 
 

Bài 9: Hạnh phúc của bản thân, chính là khi làm cho người khác được hạnh phúc


Một bà lão nọ qua đời, được các Thiên Thần mang đến tòa phán xét.

Trong khi duyệt xét các hành động của bà trong suốt cuộc sống, Ðấng phán xét đã không tìm thấy bà làm một việc từ thiện bác ái nào , ngoại trừ có một lần bà đã cho người ăn mày một củ cà rốt.

Tuy nhiên, Ðấng phán xét tối cao đầy lòng nhân từ, cũng xem hành động ấy có đủ điểm để cho bà vào Thiên Ðàng.

Dĩ nhiên, củ cà rốt sẽ được dùng, như sợi dây, để bà bám vào mà leo lên các bậc thang dẫn đưa tới Thiên Ðàng.

Người ăn mày cũng chết vào khoảng trong thời gian ấy. Anh cũng được diễm phúc bám vào gấu áo của người đàn bà để được đưa lên Thiên Ðàng.

Một người khác cũng qua đời vào ngày hôm đó. Người này cũng níu lấy chân của người hành khất. Không mấy chốc, chiếc thang bắt đầu từ củ cà rốt, mỗi lúc một dài ra, đến gần như vô tận: Mọi người đều níu kéo nhau để lên Thiên Ðàng.

Nhưng từ trên đỉnh thang nhìn xuống, người đàn bà bỗng châu mày khó chịu. Bà thấy sợi dây mỗi lúc một dài, bà sợ nó sẽ căng ra rồi đứt chăng. Cho nên trong cơn bực tức, bà cố gắng để dành riêng cho mình củ cà rốt và la lên: "Các người giang ra, đây là củ cà rốt của tôi".

Người đàn bà cố gắng giữ củ cà rốt cho riêng mình, cho nên sợi dây tạo nên chiếc thang bắc lên Trời bị đứt. Bà rơi nhào xuống đất và cả đoàn người bám víu vào sợi dây ấy cũng rơi theo.

*****

Một tác giả nào đó đã nói như sau:

"Nguyên nhân của tất cả các sự dữ trên trần gian, đều bắt đầu từ câu nói: Điều này thuộc về tôi, điều kia thuộc về tôi".

Khi con người muốn chiếm giữ cho riêng mình là lúc con người cũng muốn chối bỏ và loại trừ người khác.

Nhưng càng muốn chiếm giữ cho riêng mình, con người không những chối bỏ người khác, mà cũng đánh mất chính bản thân mình.

Tình liên đới là điều thiết yếu cho sự thành toàn của bản thân chúng ta. Càng ra khỏi chính mình, để sống cho người khác, chúng ta càng gặp lại bản thân, chúng ta càng lớn lên trong tình người.

Ðó là nghịch lý mà Chúa Giêsu đã nói với chúng ta:

"Ai liều mất mạng sống mình, thì người đó sẽ tìm gặp lại bản thân".

Hạnh phúc của bản thân chính là làm sao cho người khác được hạnh phúc.

-------------------------

 

Bài 10: Chúa Giêsu là Ðấng Giải Thoát chúng ta


Ðại thi hào Rabin-dranath Tagore của Ấn Ðộ có kể lại câu chuyện ngụ ngôn như sau:

Khi còn trẻ, tôi cảm thấy tràn đầy năng lực...

Một buổi sáng nọ, tôi ra khỏi nhà và hô lớn:

"Tôi sẵn sàng phục vụ bất cứ ai muốn".

Thế là tôi hăm hở lên đường và trong tư thế sẵn sàng phục vụ bất cứ ai chờ đợi.

Từ đằng xa, đức vua và đoàn tùy tùng tiến đến. Vừa nghe tiếng tôi, ngài đã dừng lại và nói với tôi:

"Ta đưa ngươi vào cung hầu hạ ta. Và bù lại, ta sẽ ban cho ngươi quyền hành".

Ngẫm nghĩ, không biết dùng quyền hành để làm gì, tôi đành lặng lẽ bỏ đi...

Tôi tiếp tục ra đi và hô lớn:

"Tôi sẵn sàng phục vụ bất cứ ai muốn".

Chiều hôm đó, có một cụ già ngỏ ý thuê tôi và để đền bù, cụ cho tôi những đồng bạc, mà âm thanh của nó vang lên như tiếng nhạc.

Nhưng tôi cảm thấy không cần tiền bạc, cho nên đành tiếp tục đi.

Tôi tiếp tục đi và tiến gần đến một căn nhà xinh đẹp. Một em bé gái xinh đẹp chào tôi và đề nghị với tôi:

"Tôi thuê anh và bù lại, tôi sẽ tặng cho anh nụ cười của tôi". Tôi cảm thấy do dự.

Một nụ cười sẽ kéo dài bao lâu? Chỉ trong chớp nhoáng, cô bé đã biến vào bóng tối...

Khi tôi rời bỏ căn nhà xinh đẹp, thì trời cũng đã tối. Tôi ngã người trên thảm cỏ và ngủ thiếp.

Sáng ngày hôm sau, tôi thức giấc trong sự mệt mỏi.

Khi mặt trời vừa lên, tôi đi lần ra bãi biển. Một cậu bé đang chơi đùa trên cát. Vừa thấy tôi, nó ngẩng đầu lên, mỉm cười như thể đã từng quen biết với tôi.

Một lúc sau, nó nói với tôi:

"Tôi sẵn sàng thuê anh và bù lại, tôi không có gì để cho anh cả".

Tôi đón nhận ngay giao kèo của cậu bé.

Và chúng tôi bắt đầu chơi đùa với nhau trên bãi cát. Những người qua lại ngỏ ý muốn thuê tôi, nhưng tôi từ chối, bởi vì từ ngày hôm đó, tôi mới thực sự cảm thấy mình là một con người tự do.

*****

Không có gì quý bằng độc lập tự do.

Không chừng câu khẩu hiệu quen thuộc này ứng dụng một cách rất xác thực vào đời sống Ðức Tin của chúng ta...

Chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là Ðấng Cứu Thoát, bởi vì Ngài đến để giải phóng chúng ta, Ngài đến để làm cho chúng ta được tự do.

Và tự do mà Ngài mang lại cho chúng ta là gì, nếu không phải là tự do, được thoát khỏi tội lỗi, tự do thoát khỏi đam mê, tự do thoát khỏi ích kỷ, tự do thoát khỏi danh vọng, tiền bạc và tất cả những gì ràng buộc con người...

---------------------

 

Bài 11: Bộ mặt Tình Yêu của Thiên Chúa trong mọi người


Theo một câu chuyện cổ tích của người Nhật Bản, thì ngày xưa, có một đôi vợ chồng sống rất hạnh phúc bên cạnh một đứa con gái nhỏ.

Người chồng là một hiệp sĩ samourai, nhưng anh chỉ sống khiêm tốn trong một khu vườn nhỏ ở đồng quê.

Người vợ là một người trầm lặng đến độ nhút nhát. Chị không bao giờ muốn ra khỏi nhà.

Một hôm, nhân dịp lễ đăng quang của Nhật Hoàng, với tư cách là một hiệp sĩ, người chồng cảm thấy có bổn phận phải về kinh đô để bái lạy quân vương.

Sau khi đã làm xong nghĩa vụ của một hiệp sĩ, anh ghé ra chợ mua quà cho vợ con.

Riêng cho người vợ, anh mua một tấm gương soi mặt bằng bạc...

Ðón nhận món quà, người đàn bà bỡ ngỡ vô cùng: Chị chưa bao giờ trông thấy một tấm gương, chị chưa một lần nhìn thấy mặt mình. Do đó, vừa nhìn thấy mặt mình trong gương, người vợ mới ngạc nhiên hỏi chồng:

"Người đàn bà này là ai?".

Người đàn ông mỉm cười đáp:

"Mình không đoán được đó là gương mặt kiều diễm của mình sao?".

Một thời gian sau, người đàn bà lâm bệnh nặng. Trước khi chết, bà cầm tay đứa con gái và nói nhỏ:

"Mẹ không còn sống trên mặt đất này nữa. Sáng chiều, con hãy nhìn vào tấm gương này và sẽ thấy mẹ".

Sau khi người mẹ qua đời, sớm tối, lúc nào đứa con gái ngây ngô cũng nhìn vào tấm gương và nói chuyện với chính hình ảnh của nó. Nó nói chuyện với hình trong tấm gương như với chính mẹ nó.

Ngày kia, bắt gặp đứa con gái đáng nói chuyện với chính mình nó trong tấm gương, người cha tra hỏi, đứa con gái mới trả lời:

"Ba nhìn kìa, mẹ con không có vẻ mệt mỏi và xanh xao như lúc bị bệnh. Mẹ lúc nào cũng trẻ và cũng mỉm cười với con".

Nghe thế, người đàn ông không cầm nổi nước mắt, nhưng không muốn cho nó biết sự thật, ông nói với nó:

"Nếu con nhìn vào gương để thấy mẹ con, thì ba cũng nhìn vào con để thấy mẹ con".

*****

Tha nhân chính là tấm gương phản chiếu gương mặt của chúng ta.

Khi chúng ta lạc quan, khi chúng ta vui tươi, khi chúng ta yêu đời, khi chúng ta hòa nhã, chúng ta sẽ nhận ra nét đó trên khuôn mặt của những người xung quanh.

Trái lại, khi chúng ta cau có, khi chúng ta giận dữ, khi chúng ta buồn phiền, khi chúng ta thất vọng, chúng ta cũng sẽ thấy được những nét ấy trên gương mặt của người khác...

Tha nhân cũng chính là hình ảnh của Thiên Chúa.

Nếu đứa con có thể nhìn thấy gương mặt khỏe mạnh, vui tươi của người mẹ trong tấm gương, nếu người cha nhìn thấy hình ảnh của người vợ trong đứa con, thì với ánh mắt của tin yêu, chúng ta cũng có thể nhìn thấy gương mặt Tình Yêu của Thiên Chúa trong mọi người.

Có Thiên Chúa trong ánh mắt, nhìn thấy Thiên Chúa trong mọi người, chúng ta sẽ thấy rằng đời có ý nghĩa, tha nhân không phải là hỏa ngục đáng xa lánh...

Chúng ta hãy nhìn vào tấm gương của tha nhân, với nụ cười của trẻ thơ để luôn luôn nhận ra được bộ mặt Tình Yêu của Thiên Chúa trong mọi người.

---------------------

 

Bài 12: Tôn giáo là sức mạnh cải thiện xã hội


Chuyện "Nghìn lẻ một đêm" của Ba Tư có kể lại một phiên tòa như sau:

Có hai người anh em ruột nọ bắt trói được thủ phạm giết cha mình.

Họ lôi kéo tên sát nhân đến trước quan tòa và yêu cầu xử theo luật “mắt đền mắt răng đền răng”.

Kẻ sát nhân đã dùng đá để ném chết cha của họ, thì hắn cũng phải bị ném đá theo như luật đã quy định...

Trước mặt quan tòa, tên sát nhân đã thú nhận tất cả tội lỗi của mình.

Nhưng trước khi bị đem ra xử, hắn chỉ xin một ân huệ, đó là được trở về nhà trong vòng ba ngày, để giải quyết mọi vấn đề có liên quan đến một người cháu được ký thác cho hắn trông coi từ nhỏ.

Sau thời hạn đó, hắn sẽ trở lại để chịu xử tử...

Quan tòa xem chừng như không tin ở lời cam kết của tên tử tội.

Giữa lúc quan tòa đang do dự, thì trong đám đông, những người tham dự phiên tòa, có một người giơ tay cam kết:

"Tôi xin đứng ra bảo đảm cho lời cam kết của tử tội. Nếu sau ba ngày, hắn không trở lại, tôi sẽ chết thế, thay cho hắn".

Tên tử tội được tự do trong ba ngày để giải quyết việc gia đình. Sau đúng kỳ hạn ba ngày, giữa lúc mọi người đang chờ đợi để chứng kiến cuộc hành quyết, hắn hiên ngang bước ra giữa pháp trường và dõng dạc tuyên bố:

"Tôi đã giải quyết mọi việc trong gia đình. Giờ đây, đúng theo lời cam kết, tội xin trở lại đây để chịu tội. Tôi muốn trung thành với lời cam kết của tôi, để người ta sẽ không nói: Chữ tín không còn trên mặt đất này nữa".

Sau lời phát biểu dõng dạc của kẻ tử tội, người đàn ông đã đứng ra bảo lãnh cho hắn, cũng ra giữa đám đông và tuyên bố:

"Phần tôi, sở dĩ tôi đứng ra bảo lãnh cho người này, là vì tôi không muốn để cho người ta nói: Lòng quảng đại không còn trên mặt đất này nữa".

Sau hai lời tuyên bố trên , đám đông bỗng trở nên thinh lặng. Dường như ai cũng cảm thấy được mời gọi để thể hiện những gì là cao quý nhất trong lòng người...

Từ giữa đám đông, hai người thanh niên bỗng tiến ra và nói với quan tòa:

"Thưa ngài, chúng tôi xin tha cho kẻ đã giết cha chúng tôi, để người ta sẽ không còn nói: Lòng tha thứ không còn hiện hữu trên mặt đất này nữa".

*****

Giữa sa mạc cằn cỗi, một cụm cỏ hay một cánh hoa dại là cả một bầu trời hy vọng cho những người lạc lõng.

Giữa sa mạc nóng cháy, một tiếng suối róc rách là cả một nguồn hy vọng tràn trề cho những ai đang đói khát...

Giữa một xã hội khô cằn tình người, giữa một xã hội, mà những giá trị tinh thần và đạo đức đã bị bóp nghẹt, chứng từ của người tín hữu Kitô cần thiết hơn bao giờ hết.

Giữa biển khơi mù mờ, có biết bao kẻ chới với đang cần một chiếc phao của chữ tín, của lòng thành, của lòng quảng đại, của sự tha thứ...

Người tín hữu Kitô phải sống thế nào để người ta có thể nói; Niềm tin vào cuộc sống, ý nghĩa của cuộc đời vẫn còn cháy sáng giữa xã hội.

Người tín hữu Kitô phải sống thế nào, để người ta có thể nói:

Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người.

Người tín hữu Kitô phải sống thế nào để người ta có thể nói: Con người vẫn có thể yêu thương nhau và sống cho nhau.

Người tín hữu Kitô phải sống thế nào để người ta có thể nói: Tôn giáo không là thuốc phiện mê hoặc quần chúng, nhưng là sức mạnh để cải thiện xã hội.

--------------------------

 

Bài 13: Cuộc đời là một Hồng Ân Chúa ban


Ðể khuyên chúng ta chấp nhận cuộc sống, người Ðức thường kể câu chuyện sau đây:

Có một nhà hiền triết nọ chuyên cố vấn giúp đỡ cho những ai gặp buồn phiền, chán nản trong cuộc sống.

Bất cứ ai đến xin chỉ bảo, cũng đều nhận được lời khuyên thiết thực...

Một hôm, có một người thợ may, mặt mày thiểu não chạy đến xin cầu cứu.

Gia đình ông gồm có ông, vợ ông và bảy đứa con trai nhỏ. Tất cả chen chúc nhau trong một căn nhà gần như đổ nát. Người vợ phải la hét suốt ngày vì bị sự quấy phá của bảy đứa con. Xưởng may của ông lúc nào cũng lộn xộn, bẩn thỉu vì những nghịch ngợm của lũ con. Thêm vào đó là những tiếng la hét, khóc nhè suốt ngày, khiến người thợ may không thể chú tâm làm việc được.

Nghe xong câu chuyện, nhà hiền triết mới đề nghị với người thợ may như sau:

"Anh hãy ra chợ mua cho kỳ được một con dê, rồi dắt nó về cột ngay trong xưởng may của anh".

Người đàn ông đáng thương không đoán được ẩn ý của nhà hiền triết, nhưng đặt tất cả tin tưởng vào ông, cho nên anh về thu gom hết tiền của trong nhà để ra chợ mua cho kỳ được con dê.

Chúng ta hãy tưởng tượng: sự hiện diện của con dê trong xưởng may sẽ giúp được gì cho anh ta?

Con vật hôi hám ấy không những phóng uế nhơ bẩn lại suốt ngày còn kêu những tiếng không êm tai chút nào.

Cái xưởng may chỉ trong một ngày đã biến thành một chuồng súc vật bẩn thỉu không thể chịu đựng được...

Người thợ may lại đến than phiền với nhà hiền triết, vì sự hiện diện của con dê.

Lúc bấy giờ, nhà hiền triết mới bảo anh:

"Anh hãy tức khắc mang nó ra chợ và bán lại cho người khác".

Người đàn ông cảm thấy như nhẹ nhõm cả người. Anh dắt con vật ra chợ.

Trong khi đó, ở nhà, vợ anh mang nước vào tẩy uế cái xưởng may. Bảy đứa nhóc con của anh bắt đầu trở lại xưởng may và hò hét trở lại.

Người đàn ông nhìn xuống xưởng may rồi mỉm cười, nhìn mấy cậu con trai của anh đang chạy nhảy la hét.

Anh tự nhủ: Dù sao, tiếng la hét của mấy đứa con của anh, so với tiếng kêu của con vật dơ bẩn, vẫn dễ chịu hơn...

Và chưa bao giờ anh cảm thấy hạnh phúc hơn ngày hôm đó.

*****

Tâm lý thông thường, chúng ta dễ có thái độ "đứng núi này nhìn núi nọ". Những cái quen thuộc, những cái trước mặt, những cái thường ngày, những cái nhỏ bé thường dễ bị khinh thường...

Mang lấy thân phận con người, sống trọn vẹn kiếp người, Chúa Giêsu mặc cho tất cả mọi thực tại của cuộc sống một ý nghĩa mới, một giá trị mới. Chỉ qua những thực tại từng ngày, chỉ qua các sinh hoạt hàng ngày con người mới có thể gặp gỡ được Thiên Chúa.

Giá trị của mỗi một phút giây hiện tại chính là mang nặng sự hiện diện của chính Chúa.

Giá trị của cuộc sống chính là được dệt bằng những gặp gỡ triền miên giữa Thiên Chúa và con người...

Không ai trong chúng ta chọn lựa để được sinh ra.

Không ai trong chúng ta chọn lựa cha mẹ và gia đình để được sinh ra.

Có người sinh ra trong cảnh giàu sang phú quý.
Có người sinh ra trong cảnh nghèo nàn.
Có người thông minh.
Có ngưòi đần độn...


Mỗi người chúng ta đến trong cuộc đời với một hành trang có sẵn.

Chúa mời gọi chúng ta đón nhận cuộc đời như một Hồng Ân của Chúa.

Ngài mời gọi chúng ta đón nhận từng phút giây của cuộc sống như một ân huệ...

Nói như Thánh Phaolô: "Tất cả đều là ân sủng của Chúa": Tất cả đều phải được đón nhận với lòng biết ơn và tín thác.

--------------------

 

Bài 14: Kitô hữu có sứ mệnh mang tinh thần lạc quan cho những người


Người Ả Rập thường kể câu chuyện ngụ ngôn như sau:

Một ông lão tên là Bi Quan, đãng trí và vô tình đến độ không còn nhớ được mình đã một lần trải qua tuổi hoa niên.

Kỳ thực, cả cuộc sống, dường như ông chưa bao giờ biết sống là gì. Ông đã không học biết sống, cho nên cũng không học chết cách nào cho hợp lý, cho xứng đáng với con người...

Ông không có hy vọng, cũng chẳng có ưu tư. Ông không biết cười, cũng chẳng biết khóc. Không gì trên trần gian này có thể gây được sự chú ý và ngạc nhiên cho ông. Suốt ngày, ông ngồi trước cửa lều, nhìn trời, mà không biết trời xanh hay trời đục...

Ngày kia, có người tìm đến vấn kế, vì nghĩ rằng: Tuổi đời chồng chất, ông hẳn phải là bậc thông thái khôn ngoan.

Không mấy chốc, thiên hạ tuôn đến căn lều để tham khảo ý kiến...

Những người thanh niên hỏi ông:

"Làm thế nào để có được niềm vui?".

Ông trả lời:

"Niềm vui là một bày vẽ của những kẻ ngu dốt".

Những người có tâm huyết phục vụ đến xin ông chỉ giáo để trở nên người hữu dụng cho xã hội.

Họ hỏi ông:

"Làm thế nào để xả thân phục vụ người anh em một cách hữu hiệu?".

Ông trả lời:

"Ai xả thân hy sinh cho nhân loại, người đó là một thằng điên".

Các bậc phụ huynh đến hỏi ông:

"Làm thế nào để hướng dẫn con cái trên đường ngay nẻo chính?".

Ông trả lời:

"Con cái chỉ là loài rắn độc. Chúng chỉ có thể phun ra nọc độc mà thôi".

Các nghệ sĩ, thi sĩ cũng đến xin chỉ giáo, để diễn tả được những gì là cao quý nhất trong tâm hồn, ông trả lời:

"Tốt nhất là nên thinh lặng".

Những lời chỉ giáo của con người chưa biết sống, biết yêu, biết chết ấy không mấy chốc được quảng bá trên khắp thế giới. Tình yêu, lòng thiện hảo, nghệ thuật không mấy chốc biến khỏi Trái đất. Cuộc sống con người chìm ngập trong ảm đạm buồn thảm...

Nhận thấy những tai hại do những lời chỉ giáo của ông lão Bi Quan gây ra trên mặt đất, cho nên Thượng đế mới tìm cách chữa trị.

Thì ra, suốt cả đời, ông lão này chưa hề nhận được một cái hôn nào. Thế là Thượng đế mới sai một em bé đến với ông lão. Ðứa bé đã vâng lệnh Thượng đế, nó tìm đến với ông lão Bi Quan, bá lấy cổ ông và đặt lên gò má sần sù của ông một nụ hôn...

Ông lão như sực tỉnh.

Lần đầu tiên trong đời, ông biết ngạc nhiên và ngây ngất.

Ông mở mắt nhìn đứa bé, nhìn vào cuộc đời, rồi nhắm mắt xuôi tay, mà nụ cười vẫn còn tươi nở trên môi, nhờ nụ hôn của đứa bé.

Cô đơn là nguyên nhân làm cho con người bi quan. Người cô đơn không những không cảm nhận được tình yêu, mà cũng không biết yêu.

Tín hữu Kitô phải là người lạc quan bởi, vì họ cảm nhận được Tình Yêu của Chúa, và được mời gọi để loan báo và san sẻ tình yêu ấy cho người khác.

Có biết bao nhiêu tâm hồn già nua vì không cảm nhận được tình yêu, vì không tìm thấy ý nghĩa cho cuộc sống.

Có biết bao nhiêu tâm hồn khô cằn, chai đá vì không hề nhận được một nghĩa cử yêu thương của những người xung quanh...

Người tín hữu Kitô không những sống lạc quan, nhưng còn có sứ mệnh mang lại tinh thần lạc quan cho những người xung quanh.

Có biết bao nhiêu người xung quanh đang chờ đợi một cái mỉm cười, một nụ hôn, một cái bắt tay, một lời chào hỏi, một cử chỉ an ủi, đỡ nâng...

Bầu trời của cuộc đời sẽ trong sáng biết bao, nếu người người chỉ biết đối xử với nhau bằng Tình thân ái, sự tử tế, lòng quảng đại, tha thứ...

-------------------------

 

Bài 15: Chúa Giêsu đã khai thông con đường dẫn đến sự sống


Có một lý tưởng để đeo đuổi, có một hướng đi cho cuộc đời: Đó là nguồn hạnh phúc lớn lao cho con người.

Thông thường, những kẻ than thân trách phận, những con người bất mãn trong cuộc sống, những kẻ chán đời, không phải là những kẻ nghèo khổ, những người kiếm cơm kiếm gạo từng ngày, mà chính là những con người dư dả, giàu sang.

Thi sĩ Anh, Lord Byron, mặc dù sống trên nhung lụa, vẫn than thở:

"Sâu bọ, ruồi nhặng, khổ đau là thức ăn hằng ngày của tôi".

Văn sĩ nổi tiếng của Pháp là Voltaire, mặc dù có một đời sống phú túc và danh tiếng vẻ vang, vẫn phải thốt lên:

"Tận cùng của cuộc sống, chính là buồn thảm. Khoảng giữa của cuộc sống là vô nghĩa. Và khởi đầu của cuộc sống, chính là thô bỉ... Phải chi tôi đừng sinh ra thì hơn".

Talleyrand, một nhà chính trị nổi tiếng của Pháp vào thế kỷ thứ 19, sau một quãng đời sống trong nhung lụa và vinh quang, đã ghi lại trong tập nhật ký của mình, nhân ngày sinh 83 như sau:

"83 năm của đời tôi đã đi qua, không để lại một kết quả nào khác hơn là mệt mỏi, trong thể xác, lẫn tâm hồn, một nỗi đắng cay, khi nhìn về tương lai, và chán chường khi nhìn lại quá khứ".

*****

Tại sao những con người trên đây đã tỏ ra đắng cay và thất vọng về cuộc sống?

Thưa là bởi vì họ đã không tìm ra được mục đích của cuộc đời.

Một cuộc đời không có mục đích thì chẳng khác nào một công trình xây dựng không đồ án.

Với tất cả mọi vật liệu, nhưng nếu không có đồ án, người ta không thể kiến thiết được bất cứ công trình nào.

*****

Một cuộc sống không có mục đích, một cuộc sống không có lý tưởng, thường cũng chỉ kéo theo cay đắng, buồn sầu, bất mãn...

Chúa Giêsu đã chẳng nói với chúng ta:

"Lời lãi cả thế gian để làm gì, nếu để mất linh hồn?"

Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, phúc cho những ai hiền lành, phúc cho những ai khóc lóc, phúc cho những ai đói khát công chính, phúc cho những ai có lòng thương xót, phúc cho những ai có lòng trong sạch, phúc cho những ai kiến tạo hòa bình, phúc cho những ai bị bách hại vì Nước Trời...

Trước khi công bố Hiến Chương của Hạnh Phúc ấy, Chúa Giêsu hẳn phải là con người hạnh phúc.

Hạnh phúc đối với Chúa Giêsu không có nghĩa là không có nước mắt và đau khổ.

Hạnh phúc đối với Chúa Giêsu không có nghĩa là được mọi may mắn trên cõi đời này.

Hạnh phúc đối với Chúa Giêsu không có nghĩa là thành công trong cuộc sống này.

Ngài đã sống như một con người đau khổ.
Ngài đã không trốn chạy khỏi đau khổ.
Ngài đã không cất lấy đau khổ khỏi cuộc đời này.


Hạnh phúc của Ngài, chính là tiếp nhận đau khổ, là đi vào cõi chết.

Nhưng Ngài không tiếp nhận đau khổ và đi vào cõi chết, như một ngõ cụt.

Mà trái lại, Ngài đã khai thông một con đường dẫn đến sự sống.

Cuộc đời đã có một hướng đi.

Cuộc đời đã có một ý nghĩa, và đó chính là nguồn hạnh phúc đích thực của con người.

-----------------------------

 

Bài 16: Ơn gọi của Kitô hữu là xây dựng những giá trị vĩnh cửu, ngay trên chính những cái chóng qua đời này


Hôm nay Giáo Hội tôn kính nhớ thánh Bênêđictô (11/7), bổn mạng của toàn thể Châu Âu.

Vào cuối thế kỷ thứ 5, đế quốc La Mã bị lung lay vì cuộc xâm lăng của những người, mà thế giới Kitô tại Âu Châu gọi là dân man di.

Một người thanh niên thuộc dòng dõi quý tộc tại miền trung nước Italia muốn trốn thoát khỏi cuộc loạn nhiễu nhương ấy, cho nên đã leo lên ngọn núi Su-bia-co để dìm mình trong cuộc sống ẩn dật.

Chính giữa nơi thanh tịnh thoát tục ấy, mà chàng đã nghe được tiếng Chúa phán trong tâm hồn: Có nhiều giá trị của đế quốc La Mã cần phải được bảo tồn. Càng ra sức làm việc, để đem lại sự thống nhất và văn minh cho các dân xâm lược ấy.

Lấy những thôi thúc ấy làm lý tưởng cho cuộc sống, Bênêđictô, người thanh niên quý tộc ấy đã quy tụ xung quanh mình một số người đồng chí hướng và thiết lập tu viện đầu tiên tại Monte cas-sino.

Chàng đã nói với Mauro, Placido và những người môn đệ đầu tiên như sau:

"Chúng ta giam mình trong bốn bức tường kiên cố, không phải là để xa cách những người khác, nhưng là để tiếp nhận từ trên cao ánh sáng của Chúa và thông đạt cho thế giới, để học hỏi một cách sâu xa hơn nền văn minh vừa Kitô giáo, vừa nhân bản và làm cho nền văn minh ấy chiếu sáng giữa những người anh em của chúng ta.

Tôn chỉ của chúng ta là thập giá và cái cày, bởi vì một dân tộc chỉ có thể phát sinh và lớn lên, với sự cầu nguyện, nghiên cứu, học hỏi và lao động".

Những điểm chính trong quy luật của chúng ta là:

Hát bảy lần một ngày, để ca tụng Chúa và làm cho màn đêm tăm tối cũng được ấm cúng với lời ca tụng này.

Thứ đến, mỗi ngày bỏ ra nhiều giờ để lao động ngoài đồng áng, học hỏi những sự trên trời và dịch lại những tác phẩm cổ điển.

Sau cùng, phục vụ nhau như những người anh em của nhau, nhất là tại bàn ăn, là nơi vừa nghe đọc sách, vừa thưởng thức chút rượu.

Vị thánh đã đưa ra chút quy luật đơn sơ trên đây, đã được chọn làm bổn mạng của toàn thể Âu Châu, bởi vì nền văn minh của Kitô giáo hiện nay, nền văn minh nhân bản của thế giới ngày nay, đã phát sinh từ chính lý tưởng cao quý ấy:

Sống chung trong yêu thương, để ca tụng Chúa và phục vụ con người.

*****

Giữa cơn khủng hoảng của đời sống tu trì, như người ta đang chứng kiến hiện nay, tại hầu hết các nước Tây Phương, người ta lại thấy một dấu hiệu đầy hy vọng:

Các tu viện sống đời chiêm niệm vẫn tiếp tục thu hút thanh niên thiếu nữ.

Giữa một thế giới dư dật, nhưng trống rỗng, hơn bao giờ hết, người ta càng ngày càng cảm thấy có nhu cầu phải cầu nguyện, phải sống kết hợp với Chúa.

Ðời sống tu trì, dù bất cứ dưới hình thức nào đi nữa, cũng không là một lẩn trốn đầy sợ hãi trước thế gian...

Người tu sĩ đích thực xa lánh thế gian, chứ không xa lánh con người.

Người tu sĩ đích thực xa lánh sự sa đọa của thế gian, để rồi lại kiến tạo một xã hội nhân bản hơn, dễ thở hơn, dễ sống hơn.

Ðó không chỉ là sứ mệnh của người được Chúa chọn cho cuộc sống chiêm niệm và cầu nguyện, mà cũng là sứ mệnh của mọi người Kitô.

Người tín hữu Kitô luôn được mời gọi để thoát tục, để đi ngược lại tinh thần của thế tục, để tiêu diệt nơi mình những sức mạnh của sự dữ, để ra sức kiến tạo một thế giới đáng sống hơn.

Sống giữa thế giới, nhưng không thuộc về thế gian: Đó là thế đứng của người Kitô.

Ơn gọi và sứ mệnh của họ là kiến tạo Nước Chúa, nghĩa là xây dựng những giá trị vĩnh cửu ngay trên chính những cái chóng qua ở đời này.

---------------------------

 

Bài 17: Hạnh phúc, chính là biết đón nhận những niềm vui nhỏ trong cuộc sống


Biết tận hưởng những niềm vui nhỏ trong cuộc sống: Đó là một trong những bí quyết của hạnh phúc.

Người Nhật Bản thường kể câu chuyện như sau:

Một người đàn ông nọ đi qua một cánh đồng, thình lình bị cọp đuổi...

Anh ta chạy bán sống bán chết, mà vẫn không tìm ra chỗ dung thân.

Anh chạy mãi, để rồi cuối cùng, thấy mình đứng bên bờ vực thẳm.

Phía sau lưng, con cọp vẫn không buông tha. Không còn biết làm gì nữa, người đàn ông phải lấy sức để đu lên một cành cây bắc qua vực thẳm. Nhìn xuống dưới thung lũng, anh ta lại thấy một con cọp khác cũng đang nằm chờ chực. Người đàn ông đáng thương chỉ còn niềm hy vọng duy nhất, đó là nằm chờ đợi cho đến khi hai thú vật mệt mỏi bỏ đi...

Chờ đợi trong lo sợ vẫn là cực hình lớn lao nhất đối với con người.

Giữa lúc anh ta đang phải chiến đấu với sợ hãi và mệt mỏi, thì tình cờ bỗng có hai con chuột từ đâu xuất hiện trên chính cành cây anh đang đu vào.

Hai con vật bắt đầu gặm nhấm lớp vỏ xung quanh cành cây. Bình thường, chuột là một trong những loài thú, mà anh gớm ghiếc nhất, vì sự dơ bẩn của nó.

Tiếng kêu của nó cũng là một âm thanh làm cho lỗ tai anh khó chịu.

Thế nhưng, trong cơn sợ hãi tột cùng này, người đàn ông bỗng nhìn thấy hai con chuột thật đáng yêu. Những hàm răng mũm mĩm của chúng trông dễ thương làm sao!

Tiếng kêu của hai con vật cũng trở thành một âm thanh êm dịu hơn tiếng gầm thét của hai con cọp.

Giữa lúc anh đang theo dõi từng động tác của hai con chuột, thì một con chim bỗng từ đâu bay lại, thả rớt trên cành cây một chùm dâu rừng. Anh đưa tay nhặt lấy trái dâu và thưởng thức hương vị ngọt ngào của trái rừng, bỗng nên thơ, đáng yêu lạ lùng.

*****

Thiên Chúa tạo dựng con người để được sống hạnh phúc và hạnh phúc ngay trên cõi đời này.

Do đó, hạnh phúc không chỉ đến trong cuộc sống mai hậu, hạnh phúc không hẳn nằm ở ngoài tầm tay với con người.

Kitô giáo không chỉ hướng chúng ta đến hạnh phúc đời sau, nhưng còn mời gọi chúng ta hưởng niềm hạnh phúc ấy trong cõi đời này.

*****

Mang lấy thân phận con người, nhập cuộc vào trần gian này, Chúa Giêsu như mang hạnh phúc Thiên Ðàng đến với con người.

Ngài mời gọi chúng ta hưởng niềm hạnh phúc ấy.

Ngài nói với chúng ta rằng: Cuộc sống trần gian này là một cuộc đời đáng sống.

Chấp nhận cuộc sống, chấp nhận chính bản thân, chấp nhận ngay cả những nghịch cảnh trong cuộc sống: Đó chính là bí quyết của hạnh phúc trên đời này.

Bí quyết của hạnh phúc, cũng chính là biết đón nhận những niềm vui nhỏ trong cuộc sống mỗi ngày.

Có những ngày tù đày, chúng ta mới thấy được giá trị của hai chữ tự do.

Có sống xa gia đình, chúng ta mới nhung nhớ những ngày sống êm ấm thân thương bên những người thân.

Có những lúc nằm quằn quại trên giường bệnh, chúng ta mới thấy được giá trị của sức khỏe...

Cuộc sống của chúng ta tràn ngập những niềm vui nhỏ, mà chỉ khi nào mất đi, chúng ta mới cảm thấy luyến tiếc.

"Hãy quẳng gánh lo đi và vui sống".

Đó là lời kêu gọi Chúa Giêsu không ngừng nhắn gửi cho chúng ta, khi Ngài mời gọi chúng ta chiêm ngắm hoa huệ ngoài đồng và chim chóc trên rừng...

Hãy quẳng gánh lo đi và vui sống, có nghĩa là hãy đón nhận từng phút giây trong cuộc sống, với niềm cảm mến và hân hoan.

Hãy quẳng gánh lo đi và vui sống cũng, có nghĩa là biết nhìn để thấy, xuyên qua những mất mát, thua thiệt, và ngay cả tội lỗi, bàn tay quan phòng nâng đỡ của Chúa...

Chúa Giêsu không bao giờ loan báo cái chết một cách riêng rẽ, Ngài luôn gắn liền nó với sự Phục Sinh.

-----------------------------

 

Bài 18: Kitô hữu là sứ giả của niềm vui


Theo một bảng thống kê, thì hằng năm tại Hoa Kỳ, có khoảng 60 triệu toa bác sĩ cho mua thuốc Valium. Valium hiện nay được xem là loại thuốc an thần công hiệu nhất.

Nói chung, xem chừng như văn minh càng tiến bộ, con người càng bất an. Niềm vui đích thực trong tâm hồn dường như đã vỗ cánh bay xa.

Nhưng an bình và vui tươi, là vấn đề sống còn của con người.

Ðạt được tất cả, có được tất cả, nhưng không có niềm vui trong tâm hồn, thì sống chẳng khác nào như một xác chết.

Người Ai Cập thời cổ tin rằng: Khi chết, con người phải trình diện trước thần Osires, để trả lời cho hai câu hỏi:

- "Ngươi có tìm thấy niềm vui không?

- Ngươi có mang lại niềm vui cho người khác không?".

Số phận đời đời của họ, tùy thuộc vào cách họ trả lời cho hai câu hỏi ấy.

*****

Số phận đời đời của con người, tương quan của con người với Thiên Chúa, tùy thuộc ở niềm vui của họ trong cuộc sống này.

Một ngày kia, người ta hỏi nhạc sĩ Franz Joseph Haydn:

Tại sao nhạc tôn giáo của ông lúc nào cũng vui tươi?

Nhà nhạc sĩ tài ba của thế kỷ thứ 18 đã trả lời như sau:

"Tôi không thể làm khác hơn được. Tôi viết nhạc theo những cảm xúc của tôi. Khi tôi nghĩ về Chúa, trái tim tôi tràn ngập niềm vui, đến nỗi các nốt nhạc như nhảy múa trước ngòi bút của tôi".

Người tín hữu Kitô, theo định nghĩa, không thể không là người của niềm vui. Họ phải vui mừng bởi vì Thiên Chúa chính là gia nghiệp của họ, bởi vì tâm hồn của họ luôn có Chúa.

Trong quyển sách có tựa đề: "Những sự thuộc về Chúa Thánh Thần", Ðức Gioan Phaolô II đã viết như sau:

"Ðức Kitô đến, để mang lại niềm vui: Niềm vui cho con cái, niềm vui cho cha mẹ, niềm vui cho gia đình và bạn hữu, niềm vui cho công nhân và trí thức, niềm vui cho người bệnh tật, già cả, niềm vui cho toàn nhân loại. Theo đúng nghĩa, niềm vui là trọng tâm của sứ điệp Kitô và ý lực của Phúc Âm. Chúng ta hãy là sứ giả của niềm vui".

*****

Nhưng niềm vui không phải là một kho tàng có sẵn: Nó đòi hỏi phải được kiến tạo.

Người ta kiến tạo niềm vui bằng cách làm cho người khác được vui. Càng chia sẻ, càng trao ban, niềm vui càng lớn mạnh.

Mỗi ngày, chúng ta van xin người khác không biết bao nhiêu lần: Xin vui lòng.

Chúng ta xin người "vui lòng", nhưng chúng ta lại không muốn làm cho lòng mình vui lên.

Nếu chúng ta muốn người khác "vui lòng" để ban ân huệ cho chúng ta, thì chúng ta phải làm cho lòng mình vui lên bằng một bộ mặt vui tươi hớn hở của chúng ta, bằng những chia sẻ vui tươi của chúng ta, bằng những nụ cười vui tươi của chúng ta, bằng những chịu đựng vui tươi của chúng ta.

------------------------------

 

Bài 19: Đừng nhân danh tự do, để chối bỏ tự do của người khác


Trong tập thơ mang tựa đề Gitanjali, thi hào Tagore đã có bài thơ về tù nhân như sau:

"Hỡi tù nhân, hãy nói cho ta hay: Ai đã xiềng xích ngươi.

Tù nhân đáp, thưa chính là chủ tôi. Tôi đã muốn thắng vượt mọi người, bằng của cải và quyền lực, cho nên tôi đã vơ vét vào kho tàng của tôi tất cả tiền bạc của chủ.

Mệt mỏi vì cuộc chạy đua theo tiền của tôi, cuối cùng tôi đã thiếp ngủ ngay trên chính giường của chủ tôi.

Khi thức dậy, tôi thấy mình đã bị giam hãm ngay trên kho tàng của tôi.

Hỡi tù nhân, hãy nói cho ta hay ai đã rèn chiếc xích sắt này cho ngươi.

Tù nhân đáp: Tôi đã muốn giam hãm tất cả thế giới, vì như thế tôi sẽ được tự do và không còn ai quấy rầy. Ngày đêm, tôi đã dùng lửa, búa và chiếc dũa để rèn sợi xích này.

Khi nó được hoàn thành, và chiếc mốc cuối cùng được nối lại, tôi đã để cho sợi xích giam hãm cả cuộc đời của tôi, khiến không có gì bẻ gãy được".

*****

Năm 1989, nước Pháp đã mừng kỷ niệm 200 năm cuộc cách mạng 1789. Cùng với việc lật đổ chế độ quân chủ, bản tuyên ngôn nhân quyền được công bố ngày 04 tháng 8 năm 1789 đã đánh dấu một bước dài của nhân loại tiến đến tự do, dân chủ.

Nhưng oái oăm thay, người ta đã nhân danh tự do để chống lại tự do và phạm không biết bao nhiêu tội ác đối với con người.

Nhân danh tự do, Robes-pierre đã giết hại 25 ngàn người, cũng như cấm chế nhiều quyền tự do, trong đó cơ bản nhất, là quyền tự do tôn giáo.

Lịch sử cũng đã được lập lại trong rất nhiều cuộc cách mạng sau này.

Mới đây tại Trung Quốc, người ta đã nhân danh tự do dân chủ, để đạp đổ Nữ Thần Tự Do và sát hại không biết bao nhiêu người đòi tự do.

Nhân danh tự do, để chối bỏ tự do của người khác, nhân danh quyền con người để chà đạp quyền sống của người khác:

Đó là thảm trạng của không biết bao nhiêu cuộc cách mạng trong thời đại ngày nay.

Chính khi con người chối bỏ tự do và chà đạp quyền sống của người khác, cũng chính là lúc con người tự giam hãm mình trong nô lệ: Nô lệ cho quyền lực, nô lệ cho tiền bạc, nô lệ cho bất an...

Lắm khi con người tự rèn lấy cho mình xích xiềng để tự trói lấy mình. Nhà tù ấy, sợi xích ấy, chính là lòng tham lam nơi con người: Tham lam tiền của, tham lam quyền lực, tham lam danh vọng.

--------------------------

 

Bài 20: Người con Chúa phải thấy hình ảnh của Chúa nơi mọi người


Một người Ả Rập nọ có một con ngựa rất đẹp... Ai thấy cũng gợi lòng tham muốn.

Có một người láng giềng, đã tìm đủ mọi cách để mua cho kỳ được con ngựa đó, nhưng chủ nhân vẫn một mực từ chối.

Không còn biết làm cách nào để thuyết phục chủ nhân, người đó đành phải nghĩ ra mưu kế để chiếm đoạt.

Biết người chủ ngựa thường hay đi qua sa mạc, hắn mới cải trang thành một người hành khất nằm rét run bên vệ đường.

Người chủ ngựa là một người tốt bụng, gặp bất cứ ai hoạn nạn cũng đều ra tay cứu giúp. Vừa thấy người hành khất, người đó cảm thấy thương hại, mới đề nghị cho chở về một quán trọ để săn sóc.

Khi người chủ ngựa vừa mở miệng đề nghị, thì tên bất nhân mới than thở:

"Ðã mấy ngày nay, tôi không có được một hạt cơm trong bụng, lấy sức đâu để leo lên ngựa".

Nghe thế, con người tốt bụng xuống ngựa để giúp người hành khất leo lên lưng ngựa.

Nhưng vừa leo lên lưng ngựa, tên bất lương hiện nguyên hình...

Hắn giựt dây cương và thúc vào hông ngựa mà chạy...

Người chủ ngựa đáng thương chỉ còn biết nhìn theo mà hối tiếc!

Nhưng ông cũng cố gắng chạy theo và nói với tên bất lương như sau:

"Ngươi đã ăn cắp con ngựa của ta. Nhưng ta sẵn sàng bỏ qua cho. Ta chỉ xin ngươi một điều, là đừng bao giờ kể cho bất cứ ai nghe mưu mẹo ngươi đã dùng để cưỡng chiếm con ngựa của ta. Một ngày nào đó, sẽ có những người bệnh thật sự nằm rên rỉ bên vệ đường và kêu cầu sự giúp đỡ. Ta e ngại rằng sẽ không còn ai dám dừng lại để cứu giúp kẻ hoạn nạn nữa".

*****

Dè dặt, thủ thế, nghi kỵ có lẽ là thái độ thường tình của tất cả những ai đang sống dưới chế độ độc tài. Lừa lọc, phản bội, tố cáo lẫn nhau, đã khiến cho lòng người mỗi ngày một thêm khép kín...

Sợi dây chuyền của khép kín mỗi lúc một dài ra và quấn lấy con người.

Mỗi một hành động xấu, trong dây chuyền của tình liên đới, đều gia tăng đau khổ cho người khác.

Khi tôi lừa đảo, không những hành động của tôi chỉ trực tiếp hãm hại một vài người có liên hệ, nhưng nó cũng góp phần giảm thiểu niềm tin của không biết bao nhiêu người xung quanh.

Khi tôi bạo động, không những tôi chỉ xúc phạm đến người trong cuộc, nhưng hành động của tôi cũng xóa mờ đi phần nào lòng tự ái của nhân loại...

Tôi là một phần của nhân loại. Cả nhân loại sẽ đau đớn rên rỉ, vì một vết thương của tôi, cũng như vì một nhát gươm của tôi.

Người Kitô luôn được mời gọi để nhìn nhận hình ảnh của Chúa nơi mọi người và đón nhận mọi người như anh em của mình.

Trong cái nhìn ấy, cuộc sống của chúng ta phải luôn hướng đến người anh em của chúng ta:

Niềm đau của người anh em cũng chính là niềm đau của chúng ta.

Hạnh phúc của người anh em cũng chính là hạnh phúc của chúng ta.

---------------------------

 

Bài 21: Có Chúa trong tâm hồn, ta sẽ thấy mọi sự vui tươi hơn


Để trả lời cho một chàng thanh niên mong mỏi được biết rõ về mình, một cụ già nọ đã kể một câu chuyện như sau:

Ngày nọ, từ một đỉnh núi cao, người ta thấy ở một chân trời xa tắp có hai bóng đen ôm lấy nhau.

Một em bé thơ ngây buộc miệng nói:

"Hai bóng đen đó là ba với má đang ôm nhau".

Một chàng thanh niên đang mơ mộng phát biểu:

"Ðó là hai tình nhân đang quấn quýt nhau".

Người có tâm hồn cô đơn thì nhận xét:

"Hẳn phải là hai người bạn gặp lại nhau sau hằng vạn thế kỷ xa nhau".

Kẻ có lòng tham lam, chỉ nghĩ đến tiền bạc thì lại quả quyết:

"Ðây hẳn phải là hai thương gia vừa ký với nhau một giao kèo làm ăn".

Một người đàn bà có quả tim trìu mến thì thào thốt lên:

"Ðây là một người cha trở về từ chiến trận đang ôm lấy đứa con gái của mình".

Một tên sát nhân đứng gần đó góp ý:

"Ðây phải là hai người đàn ông đấm đá vật lộn nhau trong một cuộc giao chiến một mất một còn".

Một người đàn ông không màng đến những gì đang xảy ra xung quanh mình, lên giọng gắt gỏng:

"Ai mà biết được họ ôm nhau hay cắn xé nhau"…

Nhưng cuối cùng, một vị thánh có quả tim chứa đầy Thiên Chúa, mới mỉm cười giảng hòa:

"Không có gì đẹp bằng hai người ôm nhau".

Kể xong câu chuyện trên đây, cụ già kết luận:

"Mỗi một tư tưởng của bạn, để lộ bạn là ai. Bạn nên tự vấn lương tâm xem bạn thường tưởng nghĩ đến những gì.

Hơn bất cứ một bậc thầy nào, những tư tưởng của bạn, sẽ nói cho bạn biết, bạn là ai".

"Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ", chúng ta thường trích dẫn câu thơ này của cụ Nguyễn Du, để nói lên hình ảnh của tư tưởng, của tâm tình đối với ngoại giới.

Khi chúng ta vui, cảnh cũng vui lây, người cũng vui lây.

Khi chúng ta buồn, cảnh cũng buồn, mà người cũng buồn lây.

Khi chúng ta vui, chúng ta muốn cho mọi người cùng vui với chúng ta.

Khi chúng ta buồn, chúng ta cũng cảm thấy khó chịu, khi người khác vui.

Hãy chất đầy tâm hồn bằng những tư tưởng vui tươi, lạc quan:

Đó là một trong những bí quyết để được hạnh phúc trên đời này.

Riêng đối với người Kitô hữu chúng ta, bí quyết sống hạnh phúc của chúng ta chính là: Trở thành Ðền thờ sống động của Chúa.

Có Chúa ngự trị trong tâm hồn, chúng ta sẽ nhìn đời, nhìn người bằng chính cái nhìn của Ngài.

-------------------------

 

Bài 22: Có Thiên Chúa luôn ở với ta


Có hai người lái buôn và cũng là hai người bạn thân, quyết chí lên đường đi tìm cho kỳ được điều quý giá nhất trên trần gian này.

Mỗi người ra đi một ngả và thề thốt sẽ gặp lại nhau, sau khi đã tìm được điều quý giá nhất ấy.

- Người thứ nhất lặn lội đi tìm cho kỳ được viên ngọc, mà ông cho là quý giá nhất trên trần gian này.

Ông băng rừng, vượt biển và không bỏ sót thành phố, làng mạc nào, mà không ghé qua.

Bất cứ nơi nào có bán đá quý, ông đều tìm tới.

Cuối cùng, ông mãn nguyện, vì đã tìm được viên ngọc, mà ông cho là quý giá nhất trần gian.

Ông trở lại quê hương và chờ đợi người bạn của ông.

Nhiều năm trôi qua. mà người bạn của ông vẫn biệt vô âm tín.

Thì ra điều ông đi tìm kiếm không phải là vàng bạc, châu báu, mà là chính Chúa.

- Ông đi khắp nơi để thọ giáo những bậc thánh hiền. Ông cặm cụi đọc sách, nghiền ngẫm, nhưng vẫn không tìm gặp được Chúa.

Ngày nọ, ông đến ngồi thẫn thờ bên một dòng sông. Nhìn dòng nước trôi lững lờ, bỗng ông thấy một con vịt mẹ và một đàn vịt con đang bơi lội. Ðàn vịt con tinh nghịch, cứ muốn rời mẹ để đi kiếm của ăn riêng.

Ði tìm con này đến con nọ, con vịt mẹ cứ phải lặn lội đi tìm đàn con, mà không hề tỏ dấu giận dữ, hay gắt gỏng...

Nhìn thấy cảnh vịt mẹ cứ mãi đi tìm con như thế, người đàn ông mỉm cười và đứng dậy trở về quê hương.

Vừa gặp nhau, người bạn đã tìm được viên ngọc quý mới buột miệng hỏi trước:

"Cho tôi xem thử điều quý giá nhất, mà anh đa tìm được. Tôi nghĩ đó phải là điều tuyệt diệu, bởi vì gương mặt anh dường như đang nở nụ cười mãn nguyện chưa từng thấy".

Con người trở về với hai bàn tay trắng, nhưng tâm hồn tràn ngập hân hoan trả lời:

"Tôi đã đi tìm Chúa và cuối cùng tôi đã khám phá ra rằng: Chính Ngài là Ðấng luôn đi tìm tôi".

*****

Có con vịt mẹ đi tìm con, không hề biết mệt mỏi, có lời loan báo của sứ thần cho các mục tử trong đêm Giáng Sinh, có ánh sao lạ dẫn đường chỉ lối cho các nhà đạo sĩ...

Có trăm phương nghìn cách, để Thiên Chúa đi tìm con người, tìm không ngừng, tìm không mệt mỏi, và đã ngỏ lời với con người.

Thiên Chúa không ngừng đi tìm kiếm và ra dấu cho con người:

Ngài ra dấu cho chúng ta, qua muôn vàn kỳ công trong vũ trụ.

Ngài ra dấu cho chúng ta, qua những khám phá thật kỳ diệu của con người, trải qua mọi thời đại.

Ngài ra dấu cho chúng ta, qua những thiện chí, thể hiện tình người của chính con người đối với nhau...

Bao nhiêu vẻ đẹp, là bấy nhiêu những vì sao dẫn đường, chỉ lối cho con người.

Nhưng, Thiên Chúa không dẫn đường chỉ lối, không phải chỉ bằng những ánh sao lạ, mà Ngài còn mời gọi chúng ta, bằng những tiếng gọi âm thầm.

Có những tiếng gọi âm thầm của buổi bình minh, của chiều tà, của những đêm không trăng sao.

Có những tiếng gọi âm thầm của những nụ cười vừa hé mở.

Có những tiếng gọi âm thầm của những tiếng khóc câm lặng.

Có những tiếng gọi âm thầm của những mất mát, đổ vỡ.

Mỗi một khoảnh khắc qua đi, là một tiếng gọi âm thầm.

Phải, Ngài đang có mặt trong từng phút giây của cuộc sống chúng ta, bởi vì tên của Ngài là Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.

-----------------------

 

Bài 23: Thiên Chúa luôn tỏ tình với con người


Vua Friedrich Wilhelm cai trị nước Phổ, vào khoảng đầu thế kỷ thứ 18.

Ông nổi tiếng là người nóng nảy, khó tính.

Ông không thích những nghi thức rườm rà.

Ông chỉ thích đi dạo một mình giữa các đường phố Berlin.

Thích sống đơn giản, nhưng ông lại rất nhạy cảm với bất cứ một sự xúc phạm nào của thần dân.

Nếu chẳng may có người nào chạm đến ông giữa đám đông, ông sẽ không ngần ngại dùng gậy đập túi bụi vào người đó.

Thành ra, khi thấy đức vua đang đi đến, mọi người đều tìm cách lẩn tránh.

Lần kia, khi ông đang đi giữa phố Berlin, một người đàn ông đang đi tới, trông thấy vua, ông liền lẩn tránh đi nơi khác.

Vừa ngạc nhiên, vừa bực tức vì dân chúng lẩn tránh mình, vua Friedrich mới chận người đàn ông lại và hỏi lý do tại sao ông ta lẩn tránh đi nơi khác.

Người đàn ông luống cuống mãi, cuối cùng đành phải thú nhận rằng: Sở dĩ ông ta lẩn tránh nhà vua, là vì sợ hãi.

Nghe đến đó, vua Friedrich nổi tam bành, túm lấy vai người đàn ông đáng thương, vừa lắc mạnh, vừa thét lên:

"Tại sao ngươi dám sợ ta. Ta là vua của ngươi. Ngươi phải yêu mến ta. Ngươi phải yêu mến ta, ngươi có biết điều đó không?".

*****

Chỉ có con người mới biết yêu, bởi vì chỉ có con người mới có tự do.

Không ai có thể cưỡng bách người khác phải yêu mình...

Tạo dựng con người có tự do, Thiên Chúa vẫn luôn tôn trọng tự do ấy.

Ngài không cưỡng bách con người phải yêu mến Ngài, nhưng chỉ mời gọi và tỏ tình.

Bằng công cuộc tạo dựng, bằng cuộc sống và cái chết của Con Một Ngài, Thiên Chúa đã tỏ tình với con người...

Tình yêu luôn đi bước trước. Bước trước ấy là một lời nói, một ánh mắt, một nụ cười, một món quà, một nghĩa cử.

----------------------

 

Bài 24: Thánh nhân là người biết nhìn thấy Chúa trong nỗi bất hạnh


Một người Nga, sau khi mãn tù, đã kể lại tâm trạng mình như sau:

Dáng vẻ bên ngoài của tôi xấu xí đến độ không có ai muốn gần tôi.

Trong thời gian lao động cải tạo, thay vì làm trại chung với các trại viên khác, tôi đã tự giam mình dưới hầm... Tình cờ một tai nạn xảy ra, khiến tôi bị gù lưng.

Một ngày kia, có một cậu bé nhìn tôi thật lâu rồi hỏi một cách ngây thơ:

"Chú ơi, chú mang cái gì trên lưng vậy?".

Tôi nghĩ rằng: Cậu bé chế nhạo tôi, dù vậy tôi vẫn bình thản trả lời:

"Cục bướu đấy cháu ạ".

Tôi chờ đợi cậu bé tiếp tục trò chơi gian ác của nó...

Nhưng không, nó nhìn tôi một cách trìu mến và nói:

"Không phải thế đâu chú ạ. Chúa là tình yêu. Ngài không cho ai hình thù kỳ dị cả. Không phải chú có cục bướu đâu. Chú đang mang trên lưng một cái hộp đó. Trong cái hộp, có dấu đôi cánh của Thiên Thần...

Rồi một ngày nào đó, cái hộp sẽ được mở ra và chú sẽ được bay lên trời với đôi cánh đó".

Ý nghĩ ngộ nghĩnh của cậu bé đã làm tôi sung sướng đến khóc thành tiếng.

Biết nhìn xa hơn, đằng sau cái mặt nạ của mỗi người, đó chính là cái nhìn của thánh nhân.

Thánh nhân là người biết nhìn thấy Thiên Chúa trong những nỗi bất hạnh, là người biết nhìn thấy sự may mắn, ngay cả trong những mất mát, thua thiệt và nhất là biết nhìn thấy Thiên Chúa trong những người không ai muốn nhìn đến...

Nhưng để có  được cái nhìn ấy, người ta cần có một cái nhìn thông suốt và tràn ngập ánh sáng của Thiên Chúa.

--------------------------

 

Bài 25: Cuộc sống sẽ dễ thở, nếu ta biết cảm thông và tha thứ


Cách đây không lâu, tại nhà của một quan tòa ở Milano, bên Italia, đã xảy ra một câu chuyện như sau:

Có hai người tranh chấp với nhau lâu ngày, cuối cùng đã đưa nhau đến quan tòa của thành phố, xin được phân xử.

- Người thứ nhất trình bày câu chuyện và tự biện hộ cho mình. Anh vừa dứt lời thì quan tòa dõng dạc tuyên bố: "Anh có lý".

- Ðến lượt người thứ hai phân trần, anh cũng đem ra mọi lý lẽ để làm nghiêng cán cân công lý về phía mình. Sau khi nghe anh trình bày dông dài, quan tòa cũng tuyên bố: "Anh có lý".

Cậu con trai nhỏ của quan tòa theo dõi câu chuyện từ đầu. Nó ngạc nhiên vô cùng: làm thế nào cả hai đều có lý cả?

Quan tòa cũng đưa ra phán quyết về nhận xét của con mình như sau: con cũng có lý.

Mỗi người chúng ta, ai cũng có lý của mình, nhưng có lẽ chúng ta không muốn nhận ra phần có lý của người khác, cũng như nhận chính phần lỗi của mình.

Và đó chính là đầu mối của mọi bất hòa.

*****

Vô nhân thập toàn, nhưng cũng không có ai là người xấu hoàn toàn.

Nếu chúng ta biết khiêm tốn, nhận ra những giới hạn của mình và chấp nhận giá trị của người khác, thì có lẽ chúng ta sẽ không bất mãn về người khác, cũng như đối với chính mình.

Cuộc sống chỉ có thể thở được, nếu mỗi người chúng ta biết cư xử bằng sự cảm thông và tha thứ.

--------------------------------------------------

Những sách đã in (33 cuốn):
https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/nhung-sach-da-in-1654.html

*** (Bạn muốn có những sách này, hãy chép đường link của sách vào thẻ nhớ hoặc vào USB, đưa cho tiệm Photo, họ sẽ in, chỉ khoảng 15 phút là xong, vì mỗi sách đều đã có sẵn bìa, và mỗi sách không quá 100 trang A5. Chỉ khoảng 24 tờ A4 trở lại)

I. - Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật: (3 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-minh-hoa-tin-mung/
1. Chuyện người đàn ông say mê quảng cáo - sách 1
2. Chuyện linh mục vào Thiên Đàng - Sách 2
3. Chuyện con két đi khám bác sĩ – Sách 3

II. – Chuyện đời chuyện đạo: (5 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-doi-chuyen-dao/
1. Hãy vui hưởng hạnh phúc ta đang có - sách 1
2. Chuyện đời to và nhỏ - Sách 2
3. Những lời khuyên hữu ích - Sách 3
4. Những chuyện nhỏ mang nhiều ý nghĩa cho cuộc sống - Sách 4
5. Một phép lạ từ một tình thương cho đi - Sách 5

III. - Chuyện kể cho các gia đình: (14 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/
1. Chuyện người thu thuế và Người biệt phái - sách 1
2. Đừng bỏ cuộc - sách 2
3. Bí quyết hạnh phúc - Sách 3
4. Một chuyện không ngờ thê thảm - Sách 4
5. Đi tìm một bảo hiểm -Sách 5
6. Một mẫu người sống đạo đáng khâm phục - sách 6
7. Yêu là yêu cho đến cùng - Sách 7
8. Những chuyện lạ có thật – Sách 8
9. Một niềm vui bất ngờ - Sách 9
10. Chuyện mẹ ghẻ con chồng - Sách 10
11. Chứng nhân giữa đời thường - Sách 11
12. Cho Chúa mượn thuyền - Sách 12
13. Nét đẹp của lòng thương xót - Sách 13
14. Chuyện tôi vào đạo Chúa - Sách 14

IV.- Chuyện lẽ sống: (8 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-le-song/
1. Chuyện Chúa Giêsu đi xem bóng đá - Sách 1
2. Tình yêu là sức mạnh vạn năng - Sách 2
3. Ðời là một chuyến đi - Sách 3
4. Căn hầm bí mật - Sách 4
5. Thất bại, là khởi điểm của thành công - sách 5
6. Lịch sử ngày của mẹ - Sách 6
7. Chuyện tình Romeo và Juliet - Sách 7
8. Một cách trả thù độc đáo - Sách 8

V. – Kho sách quý: (3 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/
1. Bí mật đầy kinh ngạc về các linh hồn trong luyện ngục – Sách 1
2. Lần hạt mân côi – Thánh Josémaria Escrivá– Sách 2
3. Tiếng nói từ luyện ngục – Sách 3
----------------------------------------------
 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây