TẤM BÁNH ĐỜI THƯỜNG
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
(Nhà xuất bản Tôn giáo 2016)
Gồm 327 bài suy niệm Lời Chúa hằng ngày.
-------------------------------------------------
101 - Thứ 4 Phục sinh 4: ÁNH SÁNG SỰ SỐNG.. 3
102 - Thứ 5 Phục sinh 4: ĐÓN TIẾP CHÚA GIÊ-SU.. 4
103 - Thứ 6 Phục sinh 4: ĐƯỜNG SỰ SỐNG.. 5
104 - Thứ 7 Phục sinh 4: TRÀN ĐẦY HOAN LẠC VÀ THÁNH THẦN.. 6
105 - Thứ 2 Phục sinh 5: BỎ ĐIỀU HÃO HUYỀN.. 7
106 - Thứ 3 Phục sinh 5: TÂM BẤT BIẾN.. 8
107 - Thứ 4 Phục sinh 5: SINH NHIỀU HOA TRÁI 9
108 - Thứ 5 Phục sinh 5: NIỀM VUI TRONG CHÚA.. 10
109 - Thứ 6 Phục sinh 5: NHƯ THẦY YÊU THƯƠNG.. 11
110 - Thứ 7 Phục sinh 5: THẾ GIAN GHÉT BỎ.. 12
111 - Thứ 2 Phục sinh 6: LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT.. 13
112 - Thứ 3 Phục sinh 6: ĐẤNG BẢO VỆ.. 14
113 - Thứ 4 Phục sinh 6: SỰ THẬT TOÀN VẸN.. 15
114 - Thứ 5 Phục sinh 6: HIỆN DIỆN PHỤC SINH.. 16
115 - Thứ 6 Phục sinh 6: TẦM NHÌN PHỤC SINH.. 17
116 - Thứ 7 Phục sinh 6: ĐẤNG TRUNG GIAN.. 18
117 - Thứ 2 Phục sinh 7: THẦY ĐÃ THẮNG THẾ GIAN.. 19
118 - Thứ 3 Phục sinh 7: TÌNH YÊU VÀ TRẬT TỰ.. 20
119 - Thứ 4 Phục sinh 7: NIỀM VUI TRỌN VẸN.. 21
120 - Thứ 5 Phục sinh 7: TÌNH YÊU VÀ SỰ SỐNG.. 22
121 - Thứ 6 Phục sinh 7: YÊU MẾN HƠN.. 23
122 - Thứ 7 Phục sinh 7: LỜI BAN SỰ SỐNG.. 24
123 - Thứ 2 TN 1: HÃY SÁM HỐI 25
124 - Thứ 3 TN 1: UY QUYỀN CỦA CHÚA GIÊSU.. 26
125 - Thứ 4 TN 1: MẦU NHIỆM HIỆP THÔNG.. 27
126 - Thứ 5 TN 1: ĐỨC TIN BAN SỰ SỐNG.. 28
127 - Thứ 6 TN 1: LẮNG NGHE LỜI CHÚA.. 29
128 - Thứ 7 TN 1: LỜI THIÊN CHÚA.. 30
129 - Thứ 2 TN 2: ĐẠO.. 31
130 - Thứ 3 TN 2 THIÊN CHÚA CỦA NIỀM HI VỌNG.. 32
131 - Thứ 4 TN 2: VUA CÔNG CHÍNH, VUA HÒA BÌNH.. 33
132 - Thứ 5 TN 2: ÔNG LÀ CON THIÊN CHÚA.. 34
133 - Thứ 6 TN 2: GIAO ƯỚC MỚI 35
134 - Thứ 7 TN 2: MẤT TRÍ 36
135 - Thứ 2 TN 3: SỨC MẠNH CỦA CHÚA.. 37
136 - Thứ 3 TN 3: GIA ĐÌNH THIÊN CHÚA.. 38
137 - Thứ 4 TN 3: NGƯỜI ĐI GIEO LỜI 39
138 - Thứ 5 TN 3: ĐẶT TRÊN GIÁ ĐÈN.. 40
139 - Thứ 6 TN 3: HẠT GIỐNG TỰ MỌC.. 41
140 - Thứ 7 TN 3: CHƯA CÓ LÒNG TIN.. 42
141 - Thứ 2 TN 4; CUỘC CHIẾN XÂY DỰNG NƯỚC THIÊN CHÚA.. 43
142 - Thứ 3 TN 4: SỰ ÂN CẦN.. 44
143 - Thứ 4 TN 4 BẢN TÍNH KHÓ DỜI 45
144 - Thứ 5 TN 4: VƯƠNG QUYỀN.. 46
145 - Thứ 6 TN 4: ĐA-VÍT VÀ HÊ-RÔ-ĐÊ.. 47
146 - Thứ 7 TN 4: LỜI BAN SỰ SỐNG.. 48
147 - Thứ 2 TN 5: QUYỀN NĂNG VÀ YÊU THƯƠNG.. 49
148 - Thứ 3 TN 5 HÌNH VÀ BÓNG.. 50
149 - Thứ 4 TN 5: TRONG VÀ NGOÀI 51
150 - Thứ 5 TN 5: AN VÀ LOẠN.. 52
151 - Thứ 6 TN 5: MỞ VÀ ĐÓNG.. 52
152 - Thứ 7 TN 5: ĐÓI VÀ NO.. 53
153 - Thứ 2 TN 6: ĐỨC TIN.. 54
154 - Thứ 3 TN 6: MEN BIỆT PHÁI 55
155 - Thứ 4 TN 6: SÁNG TẠO MỚI 56
156 - Thứ 5 TN 6: TƯ TƯỞNG CỦA THIÊN CHÚA.. 57
157 - Thứ 6 TN 6: ĐỨC TIN VÀ HÀNH ĐỘNG.. 58
158 - Thứ 7 TN 6: ĐỨC TIN HI VỌNG.. 59
159 - Thứ 2 TN 7: KHÔN NGOAN.. 60
160 - Thứ 3 TN 7: HAI NẺO ĐƯỜNG.. 61
161 - Thứ 4 TN 7: KHÔN NGOAN THEO CHÚA.. 62
162 - Thứ 5 TN 7: MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG TIỆN.. 63
163 - Thứ 6 TN 7: TRUNG TÍN VÀ YÊU THƯƠNG.. 64
164 - Thứ 7 TN 7: BÉ NHỎ.. 65
165 - Thứ 2 TN 8: THANH LUYỆN.. 66
166 - Thứ 3 TN 8: PHẤN ĐẤU VÌ NIỀM HY VỌNG.. 67
167 - Thứ 4 TN 8: PHỤC HỒI VINH QUANG.. 68
168 - Thứ 5 TN 8: XIN CHO CON ĐƯỢC THẤY.. 69
169 - Thứ 6 TN 8: PHỤC VỤ THIÊN CHÚA.. 70
170 - Thứ 7 TN 8: TRUY TÌM KHÔN NGOAN.. 71
171 - Thứ 2 TN 9: MỌI SỰ LÀ CỦA CHÚA.. 72
172 - Thứ 3 TN 9 TRẢ CHO CHÚA.. 73
173 - Thứ 4 TN 9: THIÊN CHÚA SỰ SỐNG.. 74
174 - Thứ 5 TN 9: YÊU MẾN.. 75
175 - Thứ 6 TN 9: LỜI CHÚA ỨNG NGHIỆM... 76
176 - Thứ 7 TN 9: THẨM PHÁN CHÍ CÔNG.. 77
177 - Thứ 2 TN 10: PHÚC THAY.. 78
178 - Thứ 3 TN 10: MUỐI VÀ ÁNH SÁNG.. 79
179 - Thứ 4 TN 10: KIỆN TOÀN LỀ LUẬT.. 80
180 - Thứ 5 TN 10: CÔNG CHÍNH HƠN BIỆT PHÁI 81
181 - Thứ 6 TN 10: THIÊN CHÚA CỦA NIỀM HY VỌNG.. 82
182 - Thứ 7 TN 10: ĐỜI SỐNG MỚI 83
183 - Thứ 2 TN 11: THỪA TÁC VIÊN CỦA CHÚA.. 84
184 - Thứ 3 TN 11: YÊU KẺ THÙ.. 85
185 - Thứ 4 TN 11: CHÚA SẼ TRẢ LẠI 86
186 - Thứ 5 TN 11: NHƯ NGƯỜI CON HIẾU THẢO.. 87
187 - Thứ 6 TN 11: TÍCH TRỮ KHO TÀNG TRÊN TRỜI 88
188 - Thứ 7 TN 11: KHÔNG THỂ LÀM TÔI HAI CHỦ.. 89
189 - Thứ 2 TN 12: XÉT ĐOÁN.. 90
190 - Thứ 3 TN 12: VÀO CỬA HẸP. 91
191 - Thứ 4 TN 12: CÂY TỐT SINH QUẢ TỐT.. 92
192 - Thứ 5 TN 12: XÂY NHÀ TRÊN ĐÁ.. 93
193 - Thứ 6 TN 12: TÔI MUỐN.. 94
194 - Thứ 7 TN 12: TỪ PHƯƠNG ĐÔNG PHƯƠNG TÂY.. 95
195 - Thứ 2 TN 13: ĐƯỢC VÀ MẤT.. 96
196 - Thứ 3 TN 13: THIÊN CHÚA LÀ CHÚA TỂ.. 97
197 - Thứ 4 TN 13: THOẢ HIỆP. 98
198 - Thứ 5 TN 13: TỰ DO.. 99
199 - Thứ 6 TN 13: DÒNG DÕI ÁP-RA-HAM... 100
200 - Thứ 7 TN 13: BẦU DA MỚI 101
-------------------------------------
Cv 12,24 – 13,5a; Ga 12,44-50
Chúa Giê-su đi từ hữu hình đến vô hình. Từ lời nói đến ý tưởng. Từ ngọn đến nguồn. Nguồn sự sống. Nguồn sáng. Từ người được sai đi đến Đấng sai đi. Từ Chúa Con đến Chúa Cha. Chúa Cha vô hình nhưng Chúa Con hữu hình. Chúa Con nói nhưng là lời của Chúa Cha. “Ai tin vào tôi, thì không phải là tin vào tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai tôi; ai thấy tôi là thấy Đấng đã sai tôi”.
Tất cả phát xuất từ Chúa Cha. Chúa Giê-su phát xuất từ Chúa Cha. Lời Chúa nói, việc Chúa làm, đều phát xuất từ Chúa Cha. “Thật vậy, không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì…Vậy những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi”.
Mà lời Chúa Cha chính là lời sự sống: “Và tôi biết: mệnh lệnh của Người là sự sống đời đời”. Sự sống là ánh sáng. Cái chết là bóng tối. Chúa Giê-su đến đem lời Chúa Cha ban sự sống đời đời. Đem ánh sáng sự sống soi vào bóng tối chết chóc cõi nhân gian. “Tôi là ánh sáng, tôi đã đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối”. Vì thế ai đón nhận Chúa Giê-su là đón nhận Chúa Cha. Là đón nhận ánh sáng. Là đón nhận sự sống.
Cộng đoàn các môn đệ và các tín hữu đầu tiên đã tin nhận Chúa Giê-su là Thiên Chúa. Vì thế các ngài đón nhận được ánh sáng và sự sống. Vì thế cộng đoàn không ngừng phát triển mạnh mẽ. Khi làm cho lời lan tràn khắp nơi. Bác-na-ba liên tục kêu gọi tăng cường nhân sự. Thoạt tiên là đi đón Phao-lô ở Tác-sô. Nay lại cho vời Gio-an Mác-cô. Cho một sức sống bừng lên mạnh mẽ, tại An-ti-ô-khi-a có một bộ khung hùng hậu: “có những ngôn sứ và thầy dạy, đó là các ông Ba-na-ba, Si-mê-on biệt hiệu là Đen, Lu-ki-ô người Ky-rê-nê, Ma-na-en, bạn thời thơ ấu của tiểu vương Hê-rô-đê, và Sao-lô”.
Vì phát triển mạnh mẽ, nên phải tách ra: “Một hôm, đang khi họ làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần phán bảo: “Hãy dành riêng Ba-na-ba và Sao-lô cho Ta, để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy làm”…Vậy được Thánh Thần sai đi, …. Đến Xa-la-min, hai ông loan báo lời Thiên Chúa trong các hội đường người Do thái”.
Đón nhận Lời Chúa là ánh sáng ban sự sống, các môn đệ lớn mạnh. Ra đi khắp nơi. Rao giảng Lời Chúa không ngừng. Để soi sáng sự sống vào mọi chân trời trần gian.
----------------------------
Cv 13,13-25; Ga 13,16-20
Chúa Giê-su là trung tâm lịch sử. Trước Chúa Giê-su, tức thời Cựu Ước, dân chúng mong chờ. Giê-su nghĩa là Thiên Chúa Cứu. Từ ngàn xưa vì con người tội lỗi hư hỏng. Nên phải chịu nhiều đau khổ. Chịu chết. Nhưng vì tình thương yêu, Thiên Chúa đã hứa ban Đấng Cứu Độ. Đấng Cứu Thế phát sinh từ dòng tộc Đa-vít, Vị Thánh Vương lẫy lừng và đạo hạnh. Đã đưa vương quốc Giu-đa đến đỉnh vinh quang. Và toàn dân luôn mong chờ Đấng Cứu Thế mau đến để thực hiện lời Thiên Chúa hứa. Phục hồi vương quốc lẫy lừng. Đấng Cứu Thế chính là Chúa Giê-su Ki-tô. Khi Gio-an Tẩy giả xuất hiện, người ta cứ tưởng đó là Đấng Cứu Thế. Nhưng Gio-an Tẩy giả đã làm chứng về Người khi nói: “Tôi không phải là Đấng mà anh em tưởng đâu, nhưng kìa Đấng ấy đến sau tôi, và tôi không đáng cởi dép cho Người”.
Thời Tân Ước chính là thời đón tiếp Chúa Giê-su. Nhưng tiếc là khi Chúa đến người ta đã không đón tiếp Chúa. Trái lại còn trao nộp Chúa. Kết án Chúa. Hành hình Chúa. Và đóng đinh Chúa trên thánh giá. Vì Chúa Giê-su không đến như một vị Quân Vương oai phong lẫy lừng. Nhưng đến như một tôi tớ hèn mọn. Không sinh ra trong hoàng cung lộng lẫy tại thủ đô. Nhưng sinh ra trong chuồng súc vật tại một làng quê nhỏ bé. Không sống trong gia đình quyền quý. Nhưng sống trong gia đình thợ thuyền. Không đến như vị tướng bách chiến bách thắng. Nhưng như một tôi tớ phục vụ. Người đã quỳ xuống rửa chân cho môn đệ.
Người truyền cho môn đệ phải tiếp tục sứ mạng cứu thế bằng phục vụ như Người: “Thật, Thầy bảo thật anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi. Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em”. Chúa cho mọi người biết, tuy các môn đệ sống nghèo hèn phục vụ. Nhưng là thừa sai của Chúa. Và “ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”. Đó là đón tiếp Chúa Cha. Là đón tiếp ơn cứu độ. Là đón tiếp phúc trường sinh.
Ta hãy rút kinh nghiệm của người Do thái. Đừng mơ tưởng một vị quân vương hiển hách. Người môn đệ hãy biết sống nghèo hèn phục vụ như Chúa. Và mọi người hãy biết đón tiếp người được Chúa sai đến. Có thể đó là Giáo hội, giáo quyền, bề trên. Nhưng có thể đó là những người nghèo hèn bất hạnh trong xã hội. Hãy biết nhận ra Chúa. Hãy đón tiếp người nghèo như đón tiếp chính Chúa. Ta sẽ được hạnh phúc. Ta sẽ được ơn cứu độ.
--------------------------------
Cv 13,26-33; Ga 14,1-6
Đức Phật bi quan vì thấy con người đắm chìm trong vòng xoáy khắc nghiệt của sinh, lão, bệnh, tử. Nên Phúc, Lộc, Thọ mãi mãi là niềm mơ ước của con người. Mơ ước chỉ là mơ ước. Vì chưa ai tìm ra con đường đến được nơi ước mơ. Nhưng hôm nay Chúa Giê-su loan báo một lời làm nức lòng con người. Sáng lên niềm hi vọng: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống”. Chúa là đường. Đi theo Chúa ta sẽ đến nơi. Chúa là sự thật. Đi theo Chúa ta không lo bị lầm lạc. Chúa là sự sống. Sống với Chúa ta không bao giờ chết. Và còn hơn nữa ta sẽ được hạnh phúc. Vì đó là thiên đàng. Thiên đàng là nơi Chúa Giê-su ở với Chúa Cha. Đây không còn là ước mơ. Nhưng là hiện thực. Vì chính Chúa chuẩn bị chỗ cho ta ở thiên đàng. “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”.
Tuy nhiên đi theo Chúa không phải dễ dàng. Vì có những thế lực ma quỷ luôn tìm cách chặn đường. Bằng gian dối. Bằng chết chóc. Chính Chúa Giê-su đã phải chiến đấu để mở ra con đường sự thật và sự sống.
Thế gian là gian dối. Muốn bịt miệng sự thật. “Tuy không thấy Người có tội gì đáng chết, họ vẫn đòi Phi-la-tô xử tử”. Người Do thái dùng chứng gian tố cáo Người. Phi-la-tô biết Người vô tội. Nhưng vì sợ người Do thái, ông phải kết án Chúa. Để đánh lừa lương tâm, ông rửa tay và nói: “Ta vô can trong việc đổ máu người này” (Mt 27,24). Gian dối cấu kết với gian dối để tiêu diệt sự thật.
Người chết liên minh với người chết để tiêu diệt sự sống. “Sau khi thực hiện tất cả mọi điều Kinh Thánh chép về Người, họ đã hạ Người từ trên cây gỗ xuống và mai táng trong mồ”. Hơn nữa họ còn đòi Phi-la-tô niêm phong và cho lính canh gác ngôi mộ. Người sống phải canh giữ người chết. Nhưng chính họ mới là người chết. Vì họ không ngăn nổi sự sống. Chúa Giê-su đã phá tung cửa mồ. Sáng láng bước ra. Vì “Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết”.
Chúa Giê-su đã mở ra con đường. Người là con đường dẫn đến sự thật và sự sống. Đi theo Người ta cũng phải chiến đấu với các thế lực gian dối và sự chết. Nhưng ta hãy tin tưởng. Vì Chúa đã chiến thắng. Chúa là sự thật. Nên đã chiến thắng gian dối. Chúa là sự sống. Đã chiến thắng thần chết.
------------------------
Cv13, 44-52; Ga 14, 7-14
Phi-lip-phê tâm thành muốn biết Đức Chúa Cha. Nhưng câu trả lời của Chúa Giê-su đầy bức xúc, buồn phiền lẫn với trách móc: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh chưa biết Thầy ư”? Hỏi về Cha mà lại trả lời về Con. Vì “Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” . Vì thế “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”. Hỏi về Cha như thế là chưa hiểu Con. Chưa hiểu vì chưa đi vào tình yêu. Tình yêu không thể định nghĩa. Chỉ có thể cảm nghiệm. Ai chưa yêu thì chưa hiểu được tình yêu.
Thiên Chúa là tình yêu. Ba Ngôi trong một Chúa. Một tình yêu hoàn hảo. Nên Ba Ngôi kết hợp mật thiết . Vì “Ta và Cha Ta là một”. Chúa Giêsu hoàn toàn kết hợp với Chúa Cha. Đến độ “Các lời Thầy nói với an hem, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình”. Cuộc kết hợp chặt chẽ đến nỗi Chúa Giêsu “sống nhờ Chúa Cha”. Và vì lương thực của Chúa Giêsu chính là làm theo ý Chúa Cha. Như vậy trọn tấm thân, cuộc sống, mọi tư tưởng, lời nói, việc làm của Chúa Giêsu đều là của Chúa Cha. Tình yêu trong Chúa Thánh Thần khiến Ba Ngôi trở thành nguồn mạch tình yêu, nguồn mạch sự sống, nguồn mạch hạnh phúc.
Hôm nay Chúa Giê-su cũng hỏi tôi như hỏi Phi-lip-phê: “Thầy ở với con bấy lâu mà con không biết Thầy sao”. Vì biết Chúa Giêsu thì phải đi vào tình yêu. Phải sống nhờ Chúa Giêsu. Và như Chúa Giêsu sống nhờ Chúa Cha, tôi phải để Chúa Giêsu suy nghĩ, nói năng và hành động trong tôi.
Thánh Phao-lô là người đạt đến trình độ đó. Nên ngài có thể nói: “Tôi đã chịu đóng đinh vào thập giá cùng với Chúa Kitô. Nên nếu tôi sống, không còn là tôi mà là Chúa Kitô sống trong tôi”.
Các tông đồ sau ngày Chúa Phục Sinh cũng đã đi vào tình yêu Chúa Kitô. Các ngài không còn sống theo xác thịt nữa, nhưng sống theo Chúa Thánh Thần. Các ngài sống trong tình yêu. Các ngài thực sự biét Chúa Kitô, biết Chúa Cha và luôn sống theo Chúa Thánh Thần. nên các ngài luôn bình an. Dù gặp gian nan khốn khó, bắt bớ. Nhưng các ngài luôn tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần.
---------------------------------------
Cv 14, 5-18; Ga 14, 21-26
Con người thiện chí. Nhưng dễ rơi vào những điều hão huyền. Dân chúng và các tư tế đền thờ thần Dớt tại Ly-cao-ni-a là một bằng chứng. Họ nghĩ tưởng về thần thánh theo phạm trù khái niệm họ tự đặt ra. Quả quyết Phao-lô và Bar-na-ba là thần Dớt và thần Hẹc-mét. Trong khi đó không tin lời của chính đương sự nói. Nên Phao-lô khuyên nhủ họ phải từ bỏ những điều hão huyền để trở về với Thiên Chúa là đường ngay nẻo chính.
Thực ra không ai có thể biết Thiên Chúa. Trừ khi Thiên Chúa tỏ mình cho. Thiên Chúa vượt xa mọi tầm hiểu biết của con người. Vượt xa mọi khái niệm của con người. Vượt xa mọi điều con người có thể suy nghĩ và mường tượng ra. Nhưng Thiên Chúa cũng không thể tỏ mình cho bất cứ ai. Thiên Chúa không tỏ mình một cách vô lý cưỡng ép. Nhưng chỉ có thể tỏ ra với những điều kiện phải có. Điều kiện đó là tình yêu.
Thiên Chúa là Tình Yêu. Chỉ những ai yêu mới đón nhận được Thiên Chúa. Không phải yêu lý thuyết nhưng là yêu thực sự cụ thể. Đó là tuân giữ giới răn như Chúa Giêsu đòi hỏi: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ đượ Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy”. Thiên Chúa tình yêu tỏ mình ra cho người có tình yêu. Và chỉ người có tình yêu mới hiểu và đón nhận được Thiên Chúa là Tình Yêu.
Còn hơn cả tỏ mình ra, Thiên Chúa sẽ ở lại và kết hợp với ta trong tình yêu. “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”. Đó chính là lúc ta cảm nhận được tình yêu thực sự. Đó chính là ta đón nhận được tình yêu thực sự. Tình yêu cụ thể. Tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Tình yêu tuyệt hảo giữa Cha và Con trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần.
Ta hãy từ bỏ những điều hão huyền. Lối sống hão huyền. Mơ ước hão huyền. Tình yêu hão huyền. Hạnh phúc hão huyền. Yêu mến và tuân giữ Lời Chúa ta sẽ có tình yêu thực sự. Được Thiên Chúa Ba Ngôi Tình Yêu đến ở với ta, ta sẽ cảm nhận được tình yêu thực sự. Sẽ có niềm vui chan chứa. Sẽ hưởng hạnh phúc vĩnh cửu.
-------------------------------
Cv 14,19-28; 14,27-31a
Cuộc đời luôn có mâu thuẫn. Vì thế phải chiến đấu. Như Chúa Giê-su.
Mâu thuẫn đi – đến. Chúa ra đi nhưng không vắng mặt. Mà để hiện diện. Vắng mặt thể lý. Nhưng hiện diện mầu nhiệm. Hiện diện bí tích. Hiện diện thực sự tích cực hơn.
Mâu thuẫn thế gian - Chúa Cha. Chúa đi vì Thủ lãnh thế gian đến. Không phải Chúa chịu thua ác thần. Nhưng chỉ vì muốn làm trọn thánh ý Chúa Cha.
Mâu thuẫn chiến đấu - bình an. Từ bỏ thế gian để làm theo ý Chúa Cha. Đây là cuộc chiến đấu quyết liệt. Vì trong thế gian có ta. Ý riêng của ta giống với thế gian. Trái với ý Cha. Chỉ khi từ bỏ chính mình ta mới bình an.
Mâu thuẫn biến động - bất biến. Cả thế gian xao động. Toa rập nhau chống lại Chúa. Từ vua chúa đến thượng tế. Từ dân chúng đến môn đệ. Và ý riêng. Chúa Giê-su giữ tâm hồn bất biến. Luôn kết hợp với Chúa Cha. Luôn vâng lời Cha.
Chúa đạt đến bình an. Chúa để lại bình an đó cho ta. Bình an là chính Chúa. Vì thế ta phải chiến đấu để đạt tới Chúa. Như thánh Phao-lô vượt qua mâu thuẫn.
Đi – đến. Khi Chúa còn ở dương gian, thánh nhân chưa hề gặp Chúa. Nhưng khi Chúa đã ra đi, thánh nhân gặp Chúa sống động, mãnh liệt. Thay đổi cả cuộc đời.
Thế gian – Nước Trời. Hôm nay người ta đã ném đá. Để ngài thoi thóp ngoài thành. Nhưng ngài không sợ đau khổ, vất vả. Vì ngài làm theo ý Chúa.
Chiến đấu – bình an. Thánh nhân đã chiến đấu quyết liệt. Với ác thần. Với công việc. Với thiên nhiên. Với chính mình. Để đạt tới bình an trong tâm hồn.
Biến động – bất biến. Cuộc đời ngài đầy xáo động. Vì vua chúa kết án. Vì thượng tế tố cáo. Vì dân chúng hành hung. Nhưng tâm hồn ngài bất biến. Giứ được tâm bất biến giữa giòng đời vạn biến.
Xin cho con nhận được bình an của Chúa. Cho con biết vượt qua mọi mâu thuẫn trong đời. Để con đạt tới chính Chúa. Là nguồn bình an đích thực.
------------------------------------
Cv 15,1-6; Ga 15,1-8
Cây nho là hình ảnh quen thuộc của Kinh Thánh. Để diễn tả Dân Chúa, nhà Ít-ra-en. Nhưng Chúa Giê-su dùng cây nho để nói lên đời sống thiêng liêng thâm sâu nhiệm mầu.
Trước hết đó là đời sống kết hợp với Chúa. Hình ảnh cây nho và cành nho nói lên cuộc kết hợp thâm sâu. Nên một. Không chỉ là hình thức. Nhưng còn là sự sống. Cành và cây không chỉ liền lạc với nhau mà còn sống nhờ cùng một dòng nhựa, một sự sống. Sự sống từ thân cây chuyển sang cành cây. Thiên Chúa ban cho ta sự sống của Người.
Kế đến là đời sống kết hợp với anh em. Cây nho và cành nho là một toàn thể. Tất cả các cành, cùng với gốc rễ và thân, tạo thành một cây nho duy nhất. Sống bằng một dòng nhựa duy nhất. Dân Chúa là một cộng đồng. Không thể có tính cá nhân ích kỷ. Phải có hiệp thông. Với Chúa. Và với anh em.
Sau cùng là kết quả của đời sống kết hợp. Trổ sinh hoa trái. Cây cung cấp nhựa sống. Nhưng cành trổ sinh hoa trái. Để hoa trái tốt đẹp đòi hai điều kiện. Cành phải gắn chặt với thân. Và không được phung phí nhựa vào những cành lá dư thừa. Như thế bên trong ta phải kết hợp mật thiết với Chúa. Bên ngoài phải cắt tỉa những gì dư thừa. Thanh luyện những ô uế. Để sinh nhiều hoa trái.
Cộng đoàn tín hữu sơ khai là một Dân Mới của Chúa. Dân cũ chỉ có người Do thái. Dân Mới gồm cả người gốc Do thái và người gốc dân ngoại. Dân cũ là cây nho. Nhưng Dân Mới có Chúa Giê-su là cây nho thật. Dân cũ sống bằng Lề Luật. Dân Mới sống bằng Thánh Thần của Chúa Giê-su. Dấu chỉ của dân cũ là phép cắt bì. Dấu chỉ của dân mới là phép rửa trong Thánh Thần. Dân cũ cho rằng tự mình nên công chính bằng Lề Luật. Nhưng thực ra đó là những cành nho không gắn liền với thân nho. Nên không sinh hoa kết quả. Dân mới được thành hình và được sống nhờ kết hợp với Chúa Giê-su. Chính trong Chúa Giê-su mà dân mới sinh nhiều hoa trái. Điều đó được chứng nghiệm. Vì dân ngoại chỉ cần chịu phép rửa là nhận được Thánh Thần. Không cần đến phép cắt bì.
---------------------------------------
Cv 15, 7-21; Ga 15, 9-11
Chúa Giêsu không bảo ta hãy yêu Chúa. Nhưng bảo ta hãy ở lại trong tình yêu của Chúa. Ở lại trong tình yêu là lời mời gọi tha thiết hơn nhiều, thân thiết hơn nhiều. Yêu ở đây không phải là một tình cảm, một thái độ, nhưng là một đời sống. Ở trong tình yêu là sống trong tình yêu. Sống nhờ tình yêu. Sống cho tình yêu. Tình yêu của Chúa là một bầu trời. Thiên Chúa ấp ủ ta trong tình yêu. Ta hít thở tình yêu. Ta hấp thụ tình yêu. Ta lớn lên trong tình yêu. Ta hạnh phúc trong tình yêu.
Chúa có kinh nghiệm vì đã ở lại trong tình yêu của Chúa Cha. Ở lại trong tình yêu của Chúa Cha làm cho Chúa được phong phú, được bình an và vui tươi vì tràn ngập hạnh phúc. Nên Chúa muốn ta cũng ở trong Chúa để được sống, được phong phú, được bình an và được vui tươi hạnh phúc như thế. “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy… như Thầy ở lại trong tình thương của Cha”.
Ở lại là một kết hợp sâu xa. Kết hợp đó khiến ta nên một với Chúa. Chúa sống trong ta. Chúa biến đổi ta. Để ta suy nghĩ như Chúa. Nói năng như Chúa, Hành động như Chúa. Cũng như Chúa nên một với Chúa Cha. Nên không làm theo ý mình. Nhưng làm theo ý Cha. Người nói là nói lời đã nghe nơi Chúa Cha. Người làm là làm theo ý Chúa Cha.
Khi ta hoàn toàn ở lại trong Chúa, hoàn toàn kết hợp với Chúa, hoàn toàn nên một với Chúa, ta sẽ có niềm vui tràn đầy. Niềm vui đó chính Chúa đã cảm nghiệm khi ở trong Chúa Cha, nên Chúa truyền lại cho ta để ta cũng được hưởng niềm vui trong Chúa: “Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh emđược hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn”.
Ở trong tình yêu Chúa biến đổi ta cho ta được sống và được phong phú. Chứ không phải nhờ những nghi thức bên ngoài như phép cắt bì. Chính vì thế các Tông đồ đã quyết định bỏ phép cắt bì với những luật lệ của người Do thái. Chỉ trong tình yêu Chúa Kitô ta được biến đổi nên người mới. Được sống. Được hạnh phúc. Và tràn đầy niềm vui
-------------------------------------
Cv 15,22-31; Ga 15,12-17
Đơn sơ, rõ ràng và cụ thể. Đó là Lời Chúa. Là Luật Chúa. Là Luật Mới: Yêu Thương. Đơn sơ vì vắn gọn và tập trung vào một điểm. Rõ ràng vì ai cũng hiểu được và làm được. Cụ thể vì chính Chúa đã thực hành trước khi truyền dạy cho ta. Yêu thương nhưng phải yêu thương như Chúa yêu thương. Có 3 điểm.
Chúa nâng ta lên. “Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết”. Tôi tớ được nâng lên ngang hàng với chủ nhân. Môn sinh được nâng lên thành bạn hữu của Thầy. Ở mức cao nhất. Vì được cùng Thầy chia sẻ tâm tư tình cảm. Kể cả chương trình hành động.
Chúa chết vì ta. “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Chúa đã làm như vậy.
Chúa tuyển chọn và sai ta đi. “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái”. Đó là tình bạn ở mức độ cao. Tin tưởng. Đồng hoá. Coi người bạn là đại diện cho mình. Cũng như Chúa Cha và Chúa Con là một.
Thật đáng mừng. Vì các môn đệ và các tín hữu đầu tiên đã thực hành Giới Luật Yêu Thương của Chúa. Đã coi nhau là bạn hữu. Kể cả người dân ngoại. “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết”. Đã hi sinh tính mạng cho nhau. “Ông Ba-na-ba và ông Phao-lô, những người đã cống hiến cuộc đời vì danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta”. Vì anh em mà chấp nhận hiểm nguy, kể cả hi sinh tính mạng. Đã tin tưởng, cắt đặt và sai đi. Cộng đoàn đặt tay sai Ba-na-ba và Phao-lô đi. “Vì thế, chúng tôi đã đồng tâm nhát trí quyết định chọn một số đại biểu, và phái họ đến với anh em”.
Các ngài đã thực hành Giới Răn Mới của Chúa. Vì thế cộng đoàn tràn đầy niềm vui: “họ vui mừng vì lời khích lệ đó”. Ta hãy Yêu Thương Như Chúa. Sẽ được niềm vui. Và đem niềm vui cho mọi người.
-------------------------------------
Cv 16, 1-10; Ga 15, 18-21
Ta thường băn khoăn bực dọc không hiểu tại sao người ta o ép người có đạo, gây khó dễ cho sinh hoạt đạo, tịch thu tài sản đất đai của Giáo hội. Ta đau buồn vì thấy tại nhiều nơi trên thế giới cuộc bách hại vẫn tiếp diễn. Các nhà thờ bị đốt phá. Các thừa sai bị giết chết. Các tín hữu chịu đối xử bất công. Ta thắc mắc tại sao người ta gian dối không bao giờ nói sự thật. Giáo hội bị vu khống là theo nước ngoài, là đi với thực dân phản bội dân tộc. Nhà thờ không được xây dựng vì không có nhu cầu. Linh mục không được bổ nhiệm vì lý do an ninh.
Thực ra sau cùng chỉ còn một cuộc chiến giữa Thiên Chúa và ma quỉ. Giữa những người tin Chúa và những tay sai của ma quỉ. Hôm nay Chúa Giê-su nhắc nhở ta điều đó. Đừng băn khoăn thắc mắc làm gì. “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước”.
Vậy nếu ta bị ghét bỏ, bị đối xử bất công thì đừng lạ và cũng đừng buồn. Vì đó là dấu hiệu ta thuộc về Chúa. Đó là dấu hiệu ta không thuộc về thế gian. “Vì Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em”.
Trái lại khi nào ta được thế gian ưu đãi yêu chiều hãy lo sợ. Đừng tưởng rằng như thế là thuận lợi cho việc truyền giáo, là vinh danh cho Chúa, là phát triển Giáo hội. Ông Lưu bách Niên, chủ tịch Ủy ban Đoàn kết Công giáo Trung quốc đã nói: Chúng tôi vẫn có đức tin. Chúng tôi mới làm cho Giáo hội phát triển. Đó là dấu hiệu ta thuộc về thế gian. Lời Chúa hôm nay cảnh báo ta: “Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó”.
Thánh Phao-lô là người hiểu rõ điều đó hơn ai hết. Vì theo Chúa Giêsu ngài đành mất tất cả những ưu quyền đặc lợi trước kia. Thuộc về Chúa Kitô, ngài không còn sống theo xác thịt nữa, chỉ tuân theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng. Nên ngài không vào Axia hay Bithynia, nhưng lại vào Ma-kê-đô-nia.
Một cuộc sống theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng sẽ được bình an và hoan lạc. Dù bị thế gian ghét bỏ, bạc đãi. Dù gặp rất nhiều nghịch cảnh trên đời. Niềm bình an hoan lạc vì biết mình thuộc về Chúa, được sống trong Chúa và có Chúa trong mình.
----------------------------------
Cv 16, 11-15; Ga 15, 26 – 16,4a
Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Vệ và Thần Chân Lý. Hai chức năng quan trọng và rất cần thiết cho thời đại chúng ta.
Chúng ta cần Đấng Bảo Vệ vì chúng ta không ngừng bị tấn công. Mà không có phương tiện gì chống trả hay tự vệ. Chúa Giê-su đã từng bị tấn công rồi. Sau đó Giáo hội liên tục bị như thế. Bắt bớ 3 thế kỷ ở Rô-ma. Bắt bớ 3 thế kỷ tại Việt nam. Ngày nay các thừa sai vẫn bị giết. Nhiều cộng đoàn Kitô hữu vẫn bị ngược đãi. Ngày nay các cuộc tấn công còn tinh vi bạo tàn hơn nữa. Vì không tấn công thể lý nữa, nhưng tấn công luân lý. Người ta tố cáo Giáo hội ngược đãi trẻ em. Trọng nam khinh nữ. Ràng buộc lương tâm khiến con người không được hạnh phúc…
Chúng ta cần Thần Chân Lý vì kẻ tấn công nguy hiểm nhất chính là sự gian dối. Những đánh tráo khái niệm. Những từ ngữ hoa mỹ phỉnh gạt. Phá thai thì gọi là pro choice. Tôi có quyền lựa chọn nhưng sao không cho bào thai có quyền được sống.
Sự thật trần gian đã khó biết. Sự thật Nước Trời còn khó nhận hơn. Và Chúa kêu gọi chính chúng ta phải cùng với Thần Chân Lý làm chứng cho sự thật. Sự thật về Thiên Chúa, về Nước Trời có thực sự chiếu tỏa nơi ta hay không? Ta có sống thật vui tươi vì cảm nghiệm hạnh phúc Nước Trời trong một đời sống quên mình, nghĩ đến người khác không?
Cộng đoàn tín hữu sơ khai đã sống sự thật theo Thần Chân Lý. Nên thánh Phao-lô không còn tha thiết gì với những gì xưa kia ngài coi là lợi lộc nữa. Sau khi gặp Chúa Giê-su Phục sinh ngài chỉ còn biết một mình Chúa và coi đây là mối lợi lớn lao nhất. Ngài đi tìm dấu vết những người tin Chúa để cùng hợp đoàn với họ. Ngài không còn sống theo xác thịt nữa, chỉ theo Thần Chân Lý hướng dẫn.
Bà Ly-đi-a cũng để cho Thần Chân Lý hướng dẫn nên gặp được Phao-lô, gặp được Lời Chúa. Từ đó bà không coi trọng việc buôn bán vải điều nữa. Nhưng dành hết tâm trí sức lực vào đức tin, thực hành đức bác ái, mong được đón tiếp các tông đồ, phục vụ anh chị em.
Ta hãy tha thiết xin Chúa Thánh Thần đến trong ta và trong xã hội hôm nay. Ta hãy kiên quyết sống theo ơn Chúa Thánh Thần. Sống và Bảo vệ Chân Lý.
------------------------------------------
Cv 16, 22-34; Ga 16, 5-11
Các môn đệ đã từ bỏ tất cả để gắn bó với Chúa Giê-su. Nay Người ra đi hỏi sao các môn đệ không buồn phiền lo lắng. Nhưng Chúa Giê-su quả quyết: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Vệ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em”.
Chúa Giê-su ra đi thì có lợi. Vì các môn đệ từ nay không sống bằng thế giới khả giác nữa, nhưng đi vào thế giới siêu nhiên mầu nhiệm. Ánh mắt dõi theo Chúa trong ngày lễ Thăng Thiên sẽ hướng về nội tâm, để họ kết hợp với Chúa Giê-su vinh hiển trong thế giới thần linh. Đó là thế giới của mầu nhiệm Ba Ngôi. Và biểu hiện mạnh mẽ qua Chúa Thánh Thần.
Ngôi Lời nhập thể hữu hình trong thời gian phải chịu những giới hạn của con người. Nay Người ra đi về thế giới thần linh. Để quyền năng của Người thể hiện qua Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là sự sống của Chúa Giê-su. Là Thần Khí Đức Ki-tô.
Đấng Bảo Vệ đến bảo vệ các môn đệ. Điều đó thể hiện cụ thể trong bài sách thánh hôm nay. Người bảo vệ Phao-lô và Si-la tuy bị đánh đập nhưng không phải chết. Tuy bị giam cầm nhưng tâm hồn vẫn tự do và vui tươi. Vẫn ca hát và dậy dỗ, khuyên nhủ và rao giảng. Cửa sắt và gông xiềng chẳng đủ sức trói buộc các ngài.
Thần Chân Lý đến cho thế gian thấy sự sai lầm. Thế gian cụ thể qua viên cai ngục. Sau biến cố động đất và cửa ngục cùng gông xiềng bật tung ra, viên cai ngục nhận biết mình tội lỗi vì đã không tin Chúa. Nên quì sấp mặt xin Phao-lô tha tội. Ông muốn sống công chính khi trả về cho Chúa quyền năng trên cuộc đời minh. Nên ông tuân phục Thiên Chúa. Và ông tránh án phạt. Vì không tin Chúa là đi vào sự chết. Chỉ tin Chúa mới đem đến sự sống. Ông đã hỏi Phaolô: “Tôi phải làm gì để được ơn cứu độ”. Thánh Phaolô đã vạch cho ông con đường sự sống: “Phải tin vào Chúa Giêsu”.
Tạ ơn Chúa Giêsu hiển vinh đã ban Đấng Bảo Vệ và Thần Chân Lý đến. Xin Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy trong con. Để con được bình an hoan lạc. Và luôn sống theo sự thật của Chúa.
----------------------------------
Cv 17, 15, 22 – 18, 1; Ga 16, 12-15
Chúa Giê-su không thể nói hết. Vì quá sức chịu đựng của các tông đồ. Các ngài không thể nhớ hết. Và càng không thể hiểu nổi. Nhưng Thần Chân Lý sẽ đến và sẽ dẫn các ngài đến chân lý vẹn toàn.
Tiếng nói của Chúa Thánh Thần là tiếng nói thiêng liêng trong tâm hồn. Ai lắng nghe sẽ thấu hiểu những chân lý cao siêu. Và sự thật toàn vẹn sẽ vô cùng phong phú.
Chúa Giê-su là Ngôi Lời. Nên từ cử chỉ, lời nói, hành động, và toàn bộ cuộc sống, cái chết, phục sinh của Người đều là lời, là chân lý vô cùng phong phú, sâu xa. Thánh Gio-an chỉ sống sau các tông đồ khác khoảng gần 30 năm, nhưng Tin mừng Gio-an đã vô cùng sâu sắc và phong phú. Thánh nhân cho biết ngài chỉ viết ra những điều giúp người ta tin thôi. Nếu phải viết hết mọi điều thì thế gian không đủ chỗ chứa.
Thánh Thần sẽ dẫn ta đến chân lý vẹn toàn. Thánh Phao-lô có thể hiểu điều đó xuyên qua thất bại hôm nay. Đến A-the-na là thủ đô của sự khôn ngoan, Phao-lô đã vận dụng trí thông minh, sự khôn ngoan của người Hi lạp và kiến thức quảng bác của ngài về văn chương triết học Hi lạp để thuyết phục Hội đồng A-re-o-pa-go. Nhưng ngài đã thất bại. Bẽ bàng, ngài bỏ A-the-na đi Co-rin-tô.
Tại Co-rin-tô, ngài đã nhận ra không thể dùng sự khôn ngoan của người đời, nhưng phải dùng sự điên rồ của thánh giá: “Thưa anh em, khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa.… nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm….Để nói về những điều đó, chúng tôi không dùng những lời lẽ đã học được nơi trí khôn ngoan của loài người, nhưng dùng những lời lẽ học được nơi Thần Khí (1Cr 2, 1-13).
Lạy Chúa xin ban Thánh Thần cho chúng con, để chúng con biết sự thật toàn vẹn của Chúa.
-------------------------------------
Cv 18,1-8; Ga 16,16-20
Trước khi chịu khổ nạn. Chúa Giê-su loan báo cho các tông đồ: “Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy.Anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui”. Khi Chúa chịu chết và an táng trong mộ, các tông đồ không còn trông thấy Thầy. Không phải chỉ không trông thấy, mà còn có tâm hồn trống rỗng, cô đơn, tuyệt vọng. Trái lại thế gian đắc thắng vui cười. Chúa đã chết. Đó là thắng lợi của trần gian. Họ niêm phong cửa mộ. Cắt đặt lính canh. Đắc thắng.
Nhưng khi Chúa phục sinh, các tông đồ lại tràn ngập niềm vui. Vui vì được gặp lại Chúa. Nhưng ở một chiều kích khác. Hai môn đệ đi đường Em-mau đi bên Chúa suốt mấy tiếng đồng hồ. Nhưng không nhận biết Chúa. Họ nhìn thấy nhưng không nhận ra. Trái lại khi Chúa đã biến đi rồi thì họ lại thấy Chúa, nhận ra Chúa đang hiện diện. Không thấy Chúa bằng đôi mắt thể xác. Họ thấy Chúa bằng ánh mắt nội tâm. Vì Chúa vắng mặt. Nhưng lại hiện diện tràn đầy. Đó là hiện diện phục sinh. Họ đã chết. Nhưng nay sống. Sống mãnh liệt. Sống phong phú. Đó là đời sống đức tin.
Chính ánh mắt nội tâm đó. Chính sự hiện diện phục sinh đó. Chính đời sống đức tin đó làm cho các tín hữu sơ khai. Dù bị bắt bớ, bị xua đuổi, kể cả bị giết chết, mà vẫn bình an. Và như thánh Phao-lô, bị chống đối mà vẫn bình tĩnh. Bị đánh đập mà vẫn kiên cường. Bị nhục mạ mà vẫn vui tươi. Vì có Chúa ở cùng. Chúa phục sinh luôn ở bên các ngài.
Đó là sức sống mới. Sức sống của Chúa phục sinh. Sức sống tràn trào thôi thúc các ngài đi rao giảng, làm chứng về Chúa. Hàng ngày phải lao động sinh nhai. Cuối tuần vẫn hăng say rao giảng: “Ông ở lại nhà họ và cùng làm việc: họ làm nghề dệt lều. Mỗi ngày sa-bát, ông thảo luận tại hội đường, cố thuyết phục cả người Do thái, lẫn người Hy-lạp”. Bị chống đối nơi này thì đi nơi khác. Bị người này chống đối thì rao giảng cho người khác. “Bởi họ chống đối và nói lọng ngôn, nên ông giũ áo mà bảo họ: “Máu các người cứ đổ xuống trên đầu các người! Phần tôi, tôi vô can; từ nay trở đi, tôi sẽ đến với người ngoại”.
Xin cho con cảm nhận được sự hiện diện phục sinh của Chúa. Để con có niềm vui tươi hăng hái làm chứng cho Chúa.
-----------------------------------
Cv 18, 9-18; Ga 16, 20-23a
Chúa Giêsu phục sinh mở ra một thế giới mới và vì thế mở ra một tầm nhìn mới. Thế giới bị phân đôi thành thượng giới và hạ giới. Chúa Giêsu về trời hiển trị. Nhưng các môn đệ còn ở lại trần gian. Chúa như vắng mặt khỏi trần gian. Quyền lực thế gian thống trị thế giới. Sự ác lộng hành. Sự thiện bị áp chế. Thế gian reo cười đắc thắng. Các môn đệ Chúa phải khóc lóc than van.
Nhưng giữa tình trạng tồi tệ đến tuyệt vọng đó, Chúa lại nhóm lên niềm hi vọng. Ta hi vọng vì tuy Chúa vắng mặt nhưng vẫn ở với ta. Dù thế gian toàn quyền thống trị thế giới, nhưng Chúa vẫn âm thầm ở bên cạnh con cái của Người như lời Chúa nói với thánh Phaolô: “Đừng sợ! Cứ nói đi, đừng làm thinh, vì Thầy ở với anh”. Thế gian hung hăng nhưng Chúa dịu hiền. Thế gian ồn ào nhưng Chúa lặng lẽ. Thế gian tấn công nhưng Chúa che chở. Thế gian hủy diệt nhưng Chúa xây dựng. Thế gian giết chết nhưng Chúa cứu sống. Giữa những hỗn loạn ngay tại dinh quan thống đốc Ga-li-on, Phao-lô đã thoát đi bình an.
Ta còn hi vọng hơn nữa vì Chúa cho biết đau khổ chính là mảnh đất tốt cho cây sự sống mọc lên và kết trái hạnh phúc. Đau khổ là lưỡi cày cày xới ruộng đất cho phì nhiêu. Buồn phiền là phân bón cho cây sự sống lớn mạnh. Khóc lóc phát sinh nước mắt tưới cho hạnh phúc kết trái. Rồi đau khổ sẽ qua. Hạnh phúc sẽ đến. Bấy giờ “nỗi buồn biến thành niềm vui”. Tất cả những gian nan thử thách ở đời này giống như giây phút người phụ nữ sinh con. Khi đến giờ thì rên la đau đớn. Nhưng khi sinh con rồi thì hạnh phúc chứa chan. Sẽ đến ngày Chúa “xé bỏ chiếc khăn che phủ muôn dân… sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người,… sẽ xóa sạch nỗi ô nhục của dân Người”. Đau khổ là điều kiện phát sinh và là tường thành chắc chắn cất giấu kho tàng hạnh phúc, không ai có thể lấy mất được.
Khi ban cho ta niềm hi vọng hạnh phúc, Chúa mở ra một tầm nhìn mới về thế giới hôm nay. Đó là tầm nhìn phục sinh giúp ta nhìn thấy thế giới vô hình. Nhìn thấy tương lai tươi sáng qua hiện tại tăm tối. Nhìn thấy những hạt lúa vàng trên đống bùn đen lầy lội. Nhìn thấy hạnh phúc thiên đàng qua đau khổ trần gian.
Các thánh là những người có một tầm nhìn phục sinh sắc bén, nên có những thái độ ứng xử siêu thoát. Các thánh tử đạo đi ra pháp trường như đi dự tiệc. Các thánh tông đồ hân hoan vì đã bị đánh đập nhục mạ. Chân phước Mẹ Têrêxa Calcutta cám ơn người nghèo vì người nghèo cho Mẹ cơ hội phục vụ Chúa. Sống mầu nhiệm phục sinh ta hãy có tầm nhìn phục sinh. Sẽ thay đổi cuộc đời. Sẽ cho ta niềm hi vọng.
---------------------------------------
Cv 18, 23-28; Ga 16, 23b-28
“Thầy từ Chúa Cha mà đến và Thầy đã đến thế gian. Nay Thầy lai bỏ thế gian mà đến cùng Chúa Cha”. Vai trò con thoi đi lại nối kết giữa hai nơi xa xôi diệu vợi như trời với đất, giữa hai đối tượng nghìn trùng cách biệt như Thiên Chúa với con người đã khiến Chúa Kito trở thành Đấng Trung Gian.
Người là Đấng Trung Gian tuyệt hảo vì đưa ta đến gặp gỡ trực tiếp với Đức Chúa Cha: “Thật, Thầy bảo thật anh em: anh em mà xin Chúa Cha điều gì, thì Người sẽ ban cho anh em nhân danh Thầy. Cho đến nay, anh em đã chẳng xin gì nhân danh Thầy. Cứ xin đi, anh em sẽ được, để niềm vui của anh em nên trọn vẹn”. Chúa Giêsu dẫn ta đến với Chúa Cha rồi để ta trực tiếp gặp gỡ với Chúa Cha.
Người là Đấng Trung Gian tuyệt hảo vì dẫn đưa ta đến tình yêu: “Thầy không nói với anh em là Thầy sẽ cầu xin Chúa Cha cho anh em. Thật vậy, chính Chúa Cha yêu mến anh em, vì anh em đã yêu mến Thầy”. Tình yêu Chúa Ki-tô dẫn ta đến tình yêu của Chúa Cha.
Người là Đấng Trung Gian tuyệt hảo vì dẫn đưa ta đến sự sống. Ta được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi trong vòng tròn tình yêu ngày càng lan rộng. Chúa Giê-su yêu mến Chúa Cha. Ta yêu mến Chúa Giê-su. Chúa Cha yêu mến ta. Tình yêu trao ban và nhận lãnh tạo nên một chuyển động không ngừng nghỉ làm phát sinh sự sống ngày càng sung mãn.
Các tín hữu thời sơ khai đã sống tinh thần trung gian tốt đẹp.
Thánh Phao-lô đi rao giảng, đi đến đâu cũng bị chống đối, nhưng thánh nhân vẫn yêu thương các giáo đoàn, đi lại thăm viếng khích lệ và làm cho tất cả các giáo đoàn được vững mạnh. A-pô-lô là người đạo mới, nhờ am tường Kinh Thánh và có tài hùng biện, đã thuyết phục được nhiều người, nhưng vẫn còn yếu kém về đạo, lập tức được vợ chồng Prít-ki-la và A-qui-la mời về nhà để bổ sung. Khi A-pô-lô muốn đi A-kai-a, anh em đã khuyến khích và viết thư giới thiệu cho các môn đệ để ông được đón nhận. Nhờ vòng tròn yêu thương ngày càng lan rộng đã làm cho sức sống của Giáo hội sơ khai mạnh mẽ và phát triển mau chóng.
Mỗi ngày ta có nhiều gặp gỡ, tiếp xúc, xin cho ta trở nên trung gian tốt lành để mọi cuộc gặp gỡ tiếp xúc của ta đều hướng dẫn mọi người đến với Thiên Chúa, xin cho những người tiếp xúc gặp gỡ ta đều hướng đến tình yêu, như thế cộng đoàn chúng ta sẽ có sức sống mạnh mẽ trong tình yêu nồng nàn.
-------------------------------------
Cv 19, 1-8; Ga 16, 29-33
“Thầy đã thắng thế gian”. Lời nói đầy khích lệ đối với các môn đệ trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Thế gian là một trận chiến khốc liệt. Vì là trận chiến toàn diện. Thế gian có tất cả, bao trùm tất cả. Vì là trận chiến cô đơn. Ta chỉ có một mình chống lại tất cả. Vì thế gian bàng bạc khắp nơi. Ngấm cả vào máu thịt. Nên chống lại thế gian là phải chống lại chính mình.
Chống lại thế gian là một trận chiến cô đơn vì không ai có thể giúp ta. Ta phải tự mình chiến đấu.Nhưng chính trong cô đơn ta gặp được Thiên Chúa. Khi đã dám dứt bỏ tất cả, ta gặp được Thiên Chúa. Ở sâu trong nỗi cô đơn, Thiên Chúa chờ đợi ta như một phần thưởng, như một người bạn thân thiết nhất chỉ xuất hiện khi những bạn bè giả dối ra đi. Như kho tàng chôn giấu trong ruộng. Như viên ngọc nằm trong đá chỉ xuất hiện sau khi loại bỏ những lớp bùn đất bao phủ bên ngoài.
Chiến đấu trong cô đơn đòi hỏi sự trung tín. Khi dám dứt bỏ tất cả, kể cả từ bỏ chính mình, tâm hồn minh chứng một sự trung tín sâu xa với Thiên Chúa. Chính trong sự trung tín, Thiên Chúa hiện diện vì Thiên Chúa là Đấng vô cùng trung tín.
Chúa Giêsu đã trải qua cuộc chiến khốc liệt và đã chiến thắng. Mọi người đã bỏ Chúa. Chúa đã cảm thấy cô đơn tột cùng. Nhưng rồi Chúa vượt lên trên tất cả và lên cùng Đức Chúa Cha. Các môn đệ chẳng thể đi con đường nào khác ngoài con đường của Thầy. Các môn đệ chẳng thể vượt trội hơn Thầy thoát khỏi nỗi cô đơn. Chúa không hứa giải thoát các ông khỏi cuộc chiến đấu. Chúa loan báo trước cuộc gian nan khốn khó của các môn đệ: “Trong thế gian anh em sẽ phải gian nan khốn khó”. Nhưng chỉ cho các ngài cách thế chiến thắng đó là “Trong Thầy anh em được bình an”. Chỉ đi theo con đường của Chúa, chiến đấu trung tín cho đến cùng, chỉ khi đã vượt thoát hết những ràng buộc của trần gian, người môn đệ mới đạt đến Chúa, mới ở trong Chúa và mới được hưởng sự bình an. Cuộc chiến sẽ rất khốc liệt. Thế gian như miệng sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé. Nhưng “Hãy can đảm lên vì Thầy đã thắng thế gian”.
Can đảm là ơn Chúa Thánh Thần. Sức mạnh phát xuất từ Chúa Thánh Thần. Vì thế, như các tín hữu sơ khai, ta hãy tha thiết xin Chúa Thánh Thần ngự đến và giúp ta trong cuộc chiến đấu với thế gian này. Có ơn Chúa Thánh Thần ta mới hi vọng đạt đến chiến thắng. Vượt lên khỏi thế gian và những ràng buộc của nó, ta mới đạt đến sự bình an là hoa trái của Chúa Thánh Thần.
------------------------------------------
Cv 20, 17-27; Ga 17, 1-11a
Càng đến giờ phút giã từ trần gian, tình yêu của Chúa Giê-su càng dâng cao. Tình yêu của Người luôn qui hướng về Chúa Cha. Nhưng tình yêu đó cũng có vương vấn các tông đồ. Tình yêu Chúa Giê-su biểu lộ trong cuộc trao dâng trọn vẹn. Tặng phẩm quí nhất của tình yêu là chính bản thân Người. Người dâng hiến cho Chúa Cha cả linh hồn cả thân xác của Người. Người dâng lên Chúa Cha cả những môn đệ Người yêu quí. Nhưng tình yêu đó lớn lao không chỉ vì những cảm xúc, những quà tặng, mà còn vì được thể hiện trong trật tự.
Chúa Giê-su hiểu rằng Chúa Cha là nguồn cội của bản thân mình và của mọi loài. Mọi sự đều bởi Chúa Cha ban cho. Nên mọi sự phải qui về Chúa Cha. Chính vì thế phải chu toàn thánh ý Chúa Cha. Thân xác Chúa Giê-su là do Chúa Cha ban cho. Nên Người dâng lại cho Chúa Cha trong cái chết vâng phục trên thánh giá. Các môn đệ cũng là do Chúa Cha ban cho. Nên Người xin Chúa Cha gìn giữ để các môn đệ luôn tuân giữ lời Người mà qui hướng về Chúa Cha.
Khi con người hoàn toàn qui phục Chúa Cha thì Chúa Cha được tôn vinh. Và chính con người cũng được tôn vinh vì hoàn thành nhiệm vụ. Trong cuộc tôn vinh đó tình yêu càng dâng cao. Con người càng được hạnh phúc.
Chúa Giê-su mong ước được tôn vinh nơi chúng ta. Cũng như Chúa Cha được tôn vinh nơi Người. Vì thế Người đã cầu nguyện để xin Chúa Cha gìn giữ các môn đệ khỏi thế gian, nhưng luôn chu toàn ý Chúa cha.
Thánh Phao-lô đã hiểu được điều đó, nên luôn bày tỏ tình yêu với Thiên Chúa trong trật tự. Yêu mến hết tình nên thánh nhân dâng hiến trọn đời sống để Thiên Chúa sử dụng: “Giờ đây, bị Thần Khí trói buộc, tồi về Giê-ru-sa-lem mà không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi”. Yêu mến trong trật tự nên thánh nhân không kể mạng sống mình là gì, chỉ mong chu toàn thánh ý Thiên Chúa: “Nhưng mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng giá gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận từ Chúa Giê-su”.
---------------------------------
Cv 20, 28-38; Ga 17, 11b-19
Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha. Tình yêu luôn khát khao kết hợp. Kết hợp tạo nên hạnh phúc. Hạnh phúc đem đến niềm vui. Nay Chúa hết thời hạn ở trần gian để trở về cùng Chúa Cha. Nên Chúa tràn đầy niềm vui, Đó là niềm vui trọn vẹn.
Vì yêu thương, Chúa muốn các môn đệ được tham dự vào tình yêu đó. Được hòa nhập trong tình yêu hiệp thông của Ba Ngôi. Được hưởng niềm vui trọn vẹn.
Tuy nhiên còn có khó khăn vì các môn đệ còn ở trần gian. Vì thế phải sống tất cả những mâu thuẫn của ơn gọi. Phải sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Phải thuộc về Thiên Chúa nhưng còn phải chịu xa cách Người. Phải làm chứng về Nước Trời cho trần gian. Phải sống đời siêu nhiên trong tự nhiên. Phải yêu mến nhưng lại phải dứt bỏ trần gian. Đó là những nghịch lý. Hóa giải và vượt qua những nghịch lý đó là nhiệm vụ của người môn đệ.
Chính Chúa Giêsu đã trải qua những khó khăn đó với tất cả những cám dỗ, những thử thách, những đau khổ. Chúa đã phải chiến đấu với chính mình đến toát mồ hôi máu ra. Nên Chúa cầu nguyện xin Chúa Cha gìn giữ môn đệ để tuy sống giữa thế gian nhưng họ không bị nô lệ cho ác thần.
Và Chúa xin Chúa Cha thánh hóa môn đệ bằng Lời Chân Lý. Lời Chân Lý vạch ra những giả trá của thế gian. Lời Chân Lý dẫn đưa đến sự thật và sự sống. Chính Chúa Giêsu đã dùng Lời Chân Lý mà chống lại lời giả trá của ma quỉ trong ba cuộc cám dỗ. Và Chúa làm gương cho các môn đệ khi tự hiến thân mình khi hoàn toàn dứt khoát từ chối trần gian. Chỉ sống theo thánh ý Chúa Cha.
Thánh Phao-lô là một môn đệ gương mẫu đã thực hành lời Chúa dạy. Ngài cảnh báo các kỳ mục Ê-phê-sô về sự giả trá và chia rẽ xuất phát từ chính nội bộ. Đó chính là thế gian với những lời lẽ giả trá. Phao-lô thuộc về Chúa nên từ chối thế gian. Không ham mê của cải danh vọng chức quyền thế gian. Trái lại ngài làm chứng cho Nước Trời bằng cuộc sống siêu thoát và cho đi. Và ngài hiến dâng đoàn chiên cho Thiên Chúa, cho lời ân sủng của Thiên Chúa. Phao-lô làm gương tự hiến mình để mọi người thấy chỉ có Chúa là sự sống, là sự thật và là hạnh phúc. Chỉ nơi Chúa niềm vui mới trọn vẹn.
---------------------------------------
Cv 22, 30; 23, 6-11; Ga 17, 20-26
Hợp nhất là sự sống trong tình yêu. Chúa Ba Ngôi chính là nguồn mạch tình yêu và sự sống trong sự hợp nhất trọn vẹn. “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha”. “Cha và Con là Một”. “Ai thấy Thầy là thấy Cha”. Kết hợp sâu xa trong một tình yêu hoàn hảo được biểu lộ trong chuyển động dâng hiến trọn vẹn: “Mọi sự của Cha là của Con. Và mọi sự của Con là của Cha”. Sự dâng hiến làm nên sự sống. “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng sai Thầy”. “Thầy sống nhờ Cha”. Cuộc trao đổi dâng hiến làm cho tình yêu không bao giờ vơi cạn. Và sự sống ngày càng sung mãn.
Tình yêu và sự sống đó lan tràn đến nhân loại. Nhưng để lãnh nhận con người phải hòa mình vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Hình ảnh rất đẹp mà Chúa Giê-su đã dùng là cây nho: “Thầy là cây nho. Anh em là nhành nho”. Như cành cây phải gắn liền với thân cây. Muốn nhận lãnh sự sống từ Thiên Chúa ta phải gắn liền vào Thiên Chúa. Muốn gắn liền vào Thiên Chúa ta phải có tình yêu. Tình yêu làm cho ta ở trong Chúa và Chúa ở trong ta. Khi ta ở trong Chúa Giêsu thì Chúa Cha ở trong ta: “Con ở trong chúng và Cha ở trong Con”. Tình yêu đó phất sinh sự sống trong ta. Một sự sống dồi dào sung mãn.
Khi hợp nhất với Thiên Chúa, người ta tự nhiên hợp nhát với nhau. Đó chính là hình ảnh của cộng đoàn tín hữu sơ khai. Yêu mến Thiên Chúa nên bỏ của cải làm của chung. Vì thế cộng đoàn có một sức sống mãnh liệt. Và đó là một cộng đoàn chứng nhân. Thế gian thấy họ mà tin vào Chúa: “Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con”.
Thế gian tin và muốn gia nhập cộng đoàn tín hữu sơ khai. Vì từ thâm tâm ai cũng hướng về tình yêu và sự sống. Trong hợp nhất tình yêu và sự sống được biểu lộ. Trở thành sức hấp dẫn với mọi người.
Phao-lô có sức hấp dẫn vì ông luôn kết hợp với Chúa: “Tôi sống nhưng không còn là tôi, nhưng là chính Đức Kitô sống trong tôi”. Chúa hài lòng về điều đó nên mời gọi ông: “Con hãy tiếp tục làm chứng cho ta tại Rô-ma nữa”
-----------------------------------
Cv 25,13b-21; Ga 21,15-19
Hai người tiền phong. Phê-rô và Phao-lô. Đá Tảng và Trụ Đồng nâng đỡ Giáo hội. Hai tông đồ trưởng. Hai tâm hồn ưu tuyển. Với chỉ một điều kiện: Yêu Mến Hơn.
Chúa Giê-su hỏi Phê-rô: “Này anh Si-mon, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em này không”? Đây là lời mời gọi Thứ 2. Cách lời mời gọi đầu khoảng 3 năm. Lời mời gọi đầu khi Chúa Giê-su khởi sự đời công khai. Khi Phê-rô còn bồng bột hăng say. Chúa mời gọi ông hãy đi chinh phục: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ lưới người như lưới cá”. Và Phê-rô hăng say đáp trả: “Dù mọi người bỏ Thầy, con quyết không bỏ Thầy”.
Hôm nay lời mời gọi đi vào chiều sâu: Con có yêu mến Thầy hơn những anh em này không? Chúa cần tình yêu. Tình yêu là đủ. Và Chúa trao nhiệm vụ mới. Không phải đi chinh phục. Nhưng quan tâm chăm sóc đoàn chiên: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy”. Phê-rô thưa lại. Tuy không bồng bột hăng say. Nhưng đầy quyết tâm và sâu lắng: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy”. Sau tất cả những gì đã trải qua, lời đáp trả thật sự sâu lắng, vững chắc, nhưng cũng đầy khiêm tốn. Chúa cũng không úp mở hứa hẹn. Thẳng thắn báo trước cái chết. Nhưng Phê-rô vẫn cương quyết bước theo. Đó chính là tình yêu đã lớn manh. Đã yêu mến hơn.
Thánh Phao-lô cũng đi trên con đường yêu mến hơn. Từ khi được biết Chúa, ngài yêu mến. Đến nỗi cùng chịu đóng đinh với Chúa. Để từ nay không còn sống cho chính mình nữa. Chỉ sống cho Chúa. Để Chúa sống trong ngài. “Tình yêu Chúa Ki-tô thúc bách” ngài. Khiến ngài ra đi không ngừng nghỉ. Rao giảng trở thành lẽ sống. “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Biết chắc “xiềng xích và Thánh Thần đang chờ đợi”, nhưng ngài luôn hiên ngang tiến bước. Chỉ ước mong được hi sinh cho Chúa và cho anh em: “Tôi hoàn thành nơi thân xác tôi những cực hình còn thiếu sót nơi cuộc khổ nạn của Chúa. Hầu sinh ơn ích cho Giáo hội”.
Hôm nay Chúa đang cần những tâm hồn yêu mến hơn. Chúng ta có quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa không? Hôm nay Chúa cũng muốn hỏi tôi: “Con có yêu mến Thầy hơn những anh em này không”? Tôi đáp lại thế nào?
------------------------------------
Cv 28, 16 – 20, 30-31; Ga 21, 20-25
Câu kết thúc Phúc Âm thánh Gio-an khiến ta ngạc nhiên: “Còn có nhiều điều khác Chúa Giê-su đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra”.
Chúa Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa. Ngôi Lời Thiên Chúa vốn toàn năng toàn tri toàn thiện và phổ quát. Nhưng Ngôi Lời Nhập Thể tự nhận những giới hạn của con người. Lời Thiên Chúa thì vô hạn. Ngôn ngữ con người thì hữu hạn. Lời hữu thanh chẳng diễn tả hết ý vô thanh. Thánh Gioan đã tựa đầu vào ngực Chúa. Đã nghe được nhịp đập của trái tim Chúa. Đã nghe được lời vô thanh của Thiên Chúa. Đã hiểu được lời vô hạn của Thiên Chúa. Đã ôm ấp Lời Thiên Chúa cao sâu muôn trùng, mênh mông vô biên, trời đất chứa chẳng nổi.
Thánh Phao-lô cũng là người nghe được lời vô hạn, vô thanh, vô ngôn của Thiên Chúa. Ngài đã được đưa lên tầng trời Thứ 3. Đã được Thiên Chúa trực tiếp dậy dỗ. Và đã hình thành một Tin Mừng riêng biệt của mình. Tin Mừng đầy ắp trong tâm hồn khiến ngài bị thúc bách nói ra: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”(1Cr 9,16). Vì thế ngài rao giảng không ngừng. Chờ thụ án tử hình vẫn rao giảng. Rao giảng cho đến hơi thở cuối cùng.
Như thế Phúc Âm không phải là một quyển sách nhưng là một cuộc gặp gỡ. Có bao nhiêu cuộc gặp gỡ với Chúa Giê-su là có bấy nhiêu Phúc Âm.
Theo lời truyền khi thánh Gioan về già, không thể nói nhiều. Mỗi lần tín hữu tụ tập lại, người ta khiêng ngài ra. Ngài chỉ giảng một câu: “Anh em hãy yêu thương nhau”. Ngài giảng mãi câu ấy không biết chán. Giáo dân nghe câu ấy suốt đời không biết mệt. Vì lời hữu hạn của con người đã gặp Chúa, có sức chuyên chở nội dung sức sống vô biên của Lời Thiên Chúa.
Ở đây nữa ta thấy sự sâu xa của Lời Thiên Chúa vô hạn đối nghịch với lời hữu hạn của con người. Chỉ một Lời Thiên Chúa ngắn ngủi lại tràn đầy sức sống, tràn đầy ý nghĩa và làm say đắm lòng người hơn nhiều bài giảng dài dòng, huyên thiên, vô nghĩa trong lời hữu hạn của con người.
------------------------------------
Dt 1, 1-6;1S 1,1-8; Mc 1, 14-20
“Thời đã mãn”. Đã hết thời cũ. Gioan Tẩy giả là tiên tri cuối cùng của thời cũ đã bị bắt giam. Hết thời của các trung gian. Nay đến thời mới, thời Thiên Chúa trực tiếp nói với nhân loại. Con Thiên Chúa xuất hiện với đầy đủ quyền năng. Người là trưởng tử mọi loài thọ sinh. Người mở đường cho đoàn em đông đảo đi theo Người vào con đường đạt tới vinh quang (năm lẻ).
Khởi đầu một thời kỳ mới đòi phải có con người mới. Hôm nay, khi đầu tiên ngỏ lời với nhân loại, Người kêu gọi đào tạo con người mới bằng 2 phương thế: Sám hối và Tin vào Tin mừng. Sám hối là từ bỏ con người cũ để trở thành người mới. Tin vào Tin Mừng để sống một đời sống mới.
Bốn môn đệ đầu tiên đã thực hành Lời Chúa dậy. Các ngài bỏ con người cũ để đi theo Thiên Chúa. Xưa kia các đệ tử đi theo thầy. Như Anrê và Gioan đã từng là môn đệ của Thánh Gioan Tẩy giả. Chỉ qua trung gian người thầy mới đến với Thiên Chúa. Nay con người mới trực tiếp được Chúa kêu gọi, trực tiếp đi theo Thiên Chúa, đến với Thiên Chúa, sống cùng Thiên Chúa.
Bỏ con người cũ với những lo toan cũ như Phêrô và Anrê. Xưa lo toan về cuộc sống trần gian. Nay lo toan về cuộc sống thiên đàng. Xưa chài lưới để bắt tôm cá. Nay đi qui tụ con người. Xưa bận tâm đến phát triển cuộc sống trần gian với bữa cơm có cá ngon. Nay lo dọn bữa tiệc trên trời.
Bỏ người cũ với những tài sản, địa vị cồng kềnh như Gioan và Giacôbê, có cả lưới và thuyền, có cả cha mẹ và những người làm công, để từ nay sống không cửa không nhà, không kẻ hầu người hạ, không có người thân thích bên mình, để hoàn toàn sống cho Nước Trời, chỉ có Chúa làm gia nghiệp, sống chết cho ơn cứu độ.
Bỏ con người cũ chỉ tin vào loài người như bà Anna. Để hoàn toàn tin vào Thiên Chúa. Quả nhiên Thiên Chúa ban cho bà một người con để sống đời sống mới vui tươi trong Chúa. Người con này là Samuel, Thiên-Chúa-nhận-lời, sẽ chấm dứt thời cũ của Hêli vì các con thầy cả không còn giữ lề luật Chúa. Chính Samuel cũng khởi đầu thời kỳ mới cho lịch sử Israel khi ông tấn phong hai vị vua đầu tiên cho Dân Chúa (năm chẵn).
Xin ban ơn cho con biết sám hối và tin vào Tin Mừng.
----------------------------------
Dt 2, 5-12; 1S 1, 9-20; Mc 1, 21-28
Thiên Chúa toàn năng uy quyền phép tắc. Đó là điều dễ hiểu và dễ tin nhận. “Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời. Một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú”(Tv 33, 6). Cho người trinh nữ sinh con. Cho người son sẻ như bà Anna được có người con xuất sắc là Samuel. Chúa có thể làm được mọi sự. Nhưng với Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người thì khác. Chúa Giêsu tuy là người nhưng gây ngạc nhiên vì Người rao giảng như Đấng có uy quyền.
Uy quyền trong lời nói. Người đưa ra một giáo lý mới mẻ. Người nói xác quyết. Vì Người biết rõ mọi sự. Vì Người từ trời xuống nên biết rõ những sự trên trời. Vì Người từ Chúa Cha mà ra nên chỉ có Người biết Đức Chúa Cha. Hơn nữa Đức Chúa Cha đã trao cho Người nhiệm vụ làm người lãnh đạo thập toàn, đưa muôn vàn con cái đến vinh quang. Thày cả Hêli cũng có uy quyền trong lời nói. Vì thầy nói lời của Thiên Chúa. Thầy truyền đạt sứ điệp của Thiên Chúa khiến bà Anna đang lo buồn được bình an. Tuy nhiên thầy không có uy quyền trong việc làm vì thầy không thể tự mình làm được những điều kỳ diệu.
Chúa Giêsu không chỉ uy quyền trong lời nói mà còn uy quyền trong việc làm. Không chỉ nói mà còn làm. Những việc làm chưa từng có trong thế giới loài người. Chữa bệnh đã khó nhưng còn thấy được. Phục sinh kẻ chết thì tuyệt nhiên ngoài khả năng của con người kể cả những danh y tài ba lỗi lạc nhất. Nhưng Người còn thống trị được ma quỉ. Đây là điều hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Chúa Giêsu có toàn quyền chế ngự được thiên nhiên, vũ trụ, con người và cả ma quỉ cũng phải vâng phục.
Tuy nhiên uy quyền Người chỉ đạt tới mức thập toàn sau khi đã trải qua đau khổ và nhất là trải qua cái chết. Đó chính là để cảm thông với nhân loại. Và nhất là để chiến thắng quyền lực cuối cùng của ma quỉ là cái chết. Từ đó mở ra nguồn ơn cứu độ cho con người. Mở cho con người con đường dẫn đến Thiên Chúa.
Vì thế uy quyền lớn lao nhất của Chúa Giêsu đó là uy quyền thương yêu. Vì thương yêu nên dám hi sinh mạng sống mình. Vì dám chết nên khuất phục được thần chết. Vì thế uy quyền của Chúa Giêsu chính là sự sống cho nhân loại.
Xin cho chúng ta biết đi theo người trên đường thương yêu. Hoàn toàn tin tưởng nơi tình yêu thương của Người. Theo Người trên con đường hi sinh. Đó chính là con đường sự sống.
-------------------------
Dt 2, 14-18; 1S 3, 1-10.19-20; Mc 3, 7-14
Chúa Giês-su hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện”. Kết hợp trọn vẹn với Chúa Cha nên việc cầu nguyện là một việc vừa tự nhiên vừa là nhu cầu thiết yếu của Chúa Giê-su. Bắt đầu ngày mới bằng việc cầu nguyện, Người múc lấy sức mạnh và tìm những chỉ dẫn cho mọi hoạt động từ nơi Chúa Cha. Không chỉ hiệp thông trong tâm tình mà còn trong hành động. Nên Người đã xuống thế làm người theo chương trình của Thiên Chúa. Trong suốt cuộc đời Người không làm gì tự ý mình, nhưng hoàn toàn làm theo thánh ý Chúa Cha. Vâng lời Chúa Cha cho đến bằng lòng chịu chết trên cây thánh giá. Đó là cuộc hiệp thông trọn vẹn. Hoàn toàn từ bỏ bản thân. Để thánh ý Chúa Cha được thể hiện.
Người cũng hoàn toàn hiệp thông với nhân loại. Hiệp thông trọn vẹn với nhân loại nên Người trở nên đồng huyết nhục, trở thành anh em của mọi người. Người đã sống hoàn toàn như một con người. Sống cuộc sống vất vả của người thợ mộc. Lang thang đây đó, “không có nơi tựa đầu”. Chịu đói chịu khát. Trải qua biết bao thử thách và đau khổ. Chịu cám dỗ. Bị phản bội. Bị trao nộp. Chịu hành hình và chịu chết. Người luôn ở gần những người nghèo khổ bệnh tật để giúp đỡ họ. Hãy chiêm ngắm cảnh tượng Người cầm tay bà nhạc mẫu của Phêrô, ân cần nâng dậy và chữa khỏi bệnh tật. Hãy chiêm ngắm cảnh tượng lớp lớp trùng điệp người bệnh vây quanh Người. Tất cả trở nên một cơ thể đau khổ vì Người hoàn toàn hòa nhập với con người. Hiệp thông trọn vẹn với con người, Người trở thành người đại diện, người trung gian, trở thành vị Thượng Tế nhân từ và trung tín dâng tâm tình thờ phượng lên Đức Chúa Cha. Và lời cầu nguyện của Người được đẹp lòng Thiên Chúa. Hiệp thông trọn vẹn với con người nên Người đã dùng cái chết mà giải phóng con người khỏi nô lệ sợ hãi cái chết. Và vì đã trải qua thử thách đau khổ Người có thể cứu những ai bị thử thách (năm lẻ).
Sa-mu-en phần nào giống Chúa Giêsu. Kết hợp mật thiết với Thiên Chúa nên “không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu”. Kết hợp mật thiết với toàn dân. Ông quên bản thân mà lo cho việc dân việc nước. Ông đã sống mầu nhiệm hiệp thông (năm chẵn).
Để hiệp thông phải từ bỏ chính mình. Chúa Giê-su đã từ bỏ chính mình. Hoàn toàn sống cho Thiên Chúa. Hoàn toàn hiến mình vì nhân loại. Từ mầu nhiệm hiệp thông phát sinh nguồn ân phúc bao la cho nhân loại. Xin cho chúng ta hiểu điều này. Biết sống mầu nhiệm hiệp thông. Để thế giới được chứa chan ân sủng của Chúa.
---------------------------------
Dt 3, 7-14; ; 1S 4, 1-11; Mc 1, 40-45
Theo quan niệm của người Do thái, bệnh tật là tội lỗi, ô uế. Và bệnh phong là nan y. Nên người bệnh phong bị coi như đã chết. Họ chết về thể lý. Vì bệnh là vô phương cứu chữa. Nhưng ghê gớm hơn, họ chết về phương diện xã hội. Vì bị loại trừ ra khỏi xã hội. Không được còn được sống với mọi người. Nhưng kinh khủng nhất là họ chết phần linh hồn vì phạm tội. Khi chữa anh, Chúa không chỉ chữa lành thân xác. Nhưng còn tha thứ tội lỗi. Trả lại cho anh sự sống thể lý khi chữa lành vết thương. Trả lại cho anh sự sống xã hội khi cho anh đi trình diện với thày tư tế. Trả lại cho anh sự sống linh hồn khi tha tội cho anh. Cho anh được đến trước tòa Chúa dâng của lễ. Tất cả là do lòng thương xót của Chúa. Nhưng cũng vì anh tin tưởng vào Chúa. Quả thật đức tin ban cho anh sự sống. Sự sống đời đời.
Vì thế thánh Phao-lô khuyên nhủ ta hãy giữ vững đức tin. Đừng để lòng ra chai đá như người Do thái trong sa mạc. Người Do thái cứng lòng nên đã không được vào Đất Hứa, đất chảy sữa và mật, đất sự sống. Thế hệ đó, kể cả Mô-sê đều chết trong sa mạc (năm lẻ).
Ta có đức tin nhưng phải là đức tin sống động thực sự. Đừng như những người con thày cả Hê-li là Pin-khát và Khóp-ni. Họ không có đức tin. Vì họ không kính sợ Chúa. Không nghe lời răn dậy của Chúa. Dám phạm những tội tầy đình ngay trước mặt Chúa trong lều Hội ngộ. Vậy mà khi đánh nhau với quân Phi-li-tinh, dám cả gan khiêng Hòm Bia ra chiến trận. Đó là mê tín chứ không phải đức tin. Nếu có đức tin họ đã không dám phạm tội trước Nhan Chúa. Và đúng ra họ phải sám hối trước khi lâm trận. Lâm trận rồi họ không còn thời giờ nữa. Vì thế họ đã bị chết. Đến cả Hòm Bia cũng bị quân Phi-li-tinh chiếm mất (năm chẵn).
Vì thế thánh Phao-lô khuyên nhủ chúng ta phải sám hối ngay khi còn kịp. Bao lâu còn là “ngày hôm nay” thì phải lắng nghe tiếng Chúa. Đừng để lòng ra chai đá. Hãy tin. Một đức tin sống động. Như người bệnh phong. Bệnh trầm trọng nhất là tội lỗi. Tội lỗi là thứ bệnh phong không thuốc nào chữa được. Chỉ có sức mạnh, quyền năng và Lòng Thương Xót của Chúa mới chữa ta khỏi. Vì thế ngay hôm nay hãy đến với Chúa. Hãy sám hối ngay. Kẻo không kịp.
-----------------------------------
Dt 4, 1-5.11; 1S 8, 4-7.10-22a; Mc 2, 1-12
Lời Chúa có hiệu quả khác nhau. Tuỳ cách ta đón nhận. Có lời rơi trên vệ đường. Chim chóc đến tha đi. Có lời rơi vào đất tốt. Sinh hoa kết quả gấp trăm nghìn.
Lời Chúa tăng cường đức tin cho người bị bại liệt. Đức tin đó ảnh hưởng tới những người thân. Nên họ sẵn sàng khiêng anh tới chỗ Chúa Giê-su. Đức tin của anh càng mãnh liệt hơn khi Chúa nói với anh: “Hãy đứng dậy vác giường mà về”. Nhưng Lời Chúa lại gây bất mãn cho người không tin. Những kinh sư lẩm bẩm: “Ông ta nói phạm thượng. Ai có quyền tha tội nếu không phải là Thiên Chúa”.
Lời Chúa chữa lành người bệnh. Chữa lành nhanh chóng, hiệu quả tức thì. Người bại liệt không đi nổi nay đã tự mình đứng dậy. Trước kia không mang nổi thân mình nay có thể vác giường đivề. Lời Chúa trái lại khiến các kinh sư sinh bệnh. Lúc người bệnh đứng dậy cũng là lúc các kinh sư ngã gục. Lúc người bại liệt vác giường thì các kinh sư lại liệt giường. Lời Chúa nâng dậy người bệnh và xô ngã người kiêu căng cứng cỏi.
Lời Chúa khiến người bại liệt bình an thư thái. Những người lắng nghe Chúa được tràn đầy niềm vui. Chúa đưa họ vào nơi an nghỉ. Vì họ đã có niềm tin yêu phó thác. Tâm hồn được thứ tha tội lỗi hưởng nếm sự ngọt ngào của niềm bình an và tình yêu thương được kết hiệp với Chúa. Đặc biệt người bại liệt không chỉ được Lời Chúa chữa lành thân xác mà còn được chữa lành tâm hồn khi Chúa phán: “Tội con đã được tha”. Vì thế tâm hồn ông tràn đầy bình an. Trái lại, Lời Chúa khiến các kinh sư bất an. Họ trở về tâm hồn bực tức và ganh ghét. Họ càng lún sâu trong tội lỗi nên càng bị bóng tối bất hạnh vây phủ.
Vì thế thánh Phao-lô khuyên nhủ chúng ta “hãy biết sợ rằng trong khi lời hứa được vào chốn yên nghỉ của Thiên Chúa vẫn còn đó, mà có ai trong anh em bị coi đã mất cơ hội”. “Vậy, chúng ta hãy cố gắng vào chốn yên nghỉ này, kẻo có ai cũng theo gương bất tuân đó mà sa ngã”(năm lẻ).
Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước. Là ánh sáng chỉ đường con đi. Hãy tuân theo Lời Chúa, dù phải bỏ ý riêng. Như Sa-mu-en không muốn dân Do Thái có vua. Ông sợ họ lìa xa Chúa. Và có thể ông mất quyền lợi. Nhưng ông đã tuân theo ý Chúa. Xức dầu phong cho dân Do Thái một vị vua. Dù thâm tâm ông không muốn. Xin cho chúng ta luôn sống theo Lời Chúa. Để Lời Chúa hướng dẫn tư tưởng, lời nói, việc làm của ta (năm chẵn).
----------------------------------
Dt 4, 12-16; 1S 9, 1-4.17-19; 10, 1a; Mc 2, 13-17
Lời Chúa thật mạnh mẽ. Có sức biến đổi cuộc đời. Không chỉ Lê-vi mà cả bạn bè của ông cũng theo Chúa. “Có nhiều người thu thuế và người tội lỗi cùng ăn với Chúa Giêsu và các môn đệ, vì họ đông và đi theo Người”.
Lời Thiên Chúa thay đổi số phận con người vì Thiên Chúa quá yêu thương, quá tin tưởng con người. Quá yêu thương nên trong ánh mắt Người không ai là xấu xa, đáng ghê tởm. Trái lại, mọi người đều có chỗ trong trái tim Người. Càng yếu hèn, tội lỗi, bị bỏ rơi lại càng được Thiên Chúa yêu thương, quan tâm giúp đỡ. Vì “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần”. Còn hơn thế nữa, đó là mục tiêu của Người: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi”. Thật là một tình yêu không thể hiểu được với trí óc con người.
Quá tin tưởng nên Người tin rằng mọi người đều có thể thay đổi, có thể nên tốt. Quá tin tưởng nên Người không nhìn về quá khứ mà chỉ nhìn về tương lai. Quá tin tưởng nên dù quá khứ có xấu xa đến đâu Người vẫn mở cho kẻ tội lỗi một cánh cửa tương lai. Hôm nay, Lê-vi nhận được một lời mời gọi bất ngờ: “Hãy theo Thầy”. Một người thu thuế bị coi là tội lỗi công khai được mời gọi không chỉ thay đổi đời sống mà còn nên tông đồ đi rao giảng Tin mừng, viết sách Tin mừng truyền lại Tin mừng cho đến ngàn sau. Lòng Thương Xót của Chúa là vô bờ bến.
Quả thật Chúa Giê-su là vị Thượng Tế “biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội”. Vậy nên “ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (năm lẻ).
Xót thương nên Chúa sẵn sàng ban cho Ít-ra-en một vị vua để đứng đầu, dù Sa-mu-en không muốn. Xót thương nên phán bảo, chỉ dẫn Sa-mu-en từng chi tiết trong đời sống. Xót thương nên tuyển chọn Sa-un làm vua đầu tiên của Ít-ra-en. Dù ông thuộc chi tộc nhỏ bé nhất trong Ít-ra-en (năm chẵn).
Lạy Chúa con yếu hèn tội lỗi. Xin phán một lời để thay đổi con người con. Lạy Chúa, xin hãy phán. Vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe. Chúa có lời ban sự sống đời đời.
----------------------------
Dt 5,1-10; 1S 15,16-23; Mc 2,18-22
Đạo là con đường. Con đường nối kết con người với Thiên Chúa. Như vậy đạo là mối liên hệ, tương quan. Đạt đến Thiên Chúa. Kết hợp thân mật với Người. Đó là đạt đạo.
Ăn chay là một phương tiện giúp ta chế ngự xác thịt, siêu thoát trần gian. Để kết hợp với Thiên Chúa. Tuy nhiên đã có nhầm lẫn. Có người coi ăn chay là giữ đạo. Thậm chí còn coi đó là quan trọng không thể thiếu. Tệ hơn người Pha-ri-sêu coi ăn chay là lập công. Là đương nhiên công chính. Không cần đến Thiên Chúa.
Hôm nay Chúa Giê-su cho ta hiểu biết đạo thật là gì. Ở với Chúa là đạt đạo. Không cần ăn chay. Chỉ khi mất Chúa mới phải ăn chay. Điều quan trọng là được Chúa. Chứ không phải công phúc.
Sa-un đã dùng lý do chiếm đoạt chiến lợi phẩm dâng cho Chúa để biện minh cho sự bất tuân. Nhưng Sa-mu-en đã vạch rõ sai lầm của Sa-un: “Đức Chúa có ưa thích các lễ toàn thiêu và hy lễ như ưa thích người ta vâng lời Đức Chúa không? Này, vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ, lắng nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu”. Chúa không cần của lễ. Chúa chỉ muốn tấm lòng. Chỉ muốn tình yêu. Chỉ muốn sự kết hợp. Đó cũng là hạnh phúc của loài người (năm chẵn).
Chính Chúa Giê-su làm gương cho ta. Chúa đã được Chúa Cha tấn phong làm Thượng Tế khi nói: “Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-sê-đê”. Chúa Giê-su trở nên thập toàn. Vì Người dâng của lễ đẹp lòng Chúa Cha. Đó là dâng chính mình trong sự vâng phục: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dẫu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (năm lẻ).
Với sự vâng phục hoàn toàn. Vâng phục đến hiến dâng chính mạng sống. Chúa Giê-su mở cho ta con đường sống đạo đích thực. Kết hợp hoàn toàn với Thiên Chúa. Từ bỏ mình hoàn toàn. Để hoàn toàn làm theo ý Chúa. Đó là đạo. Đạo mang đến cho ta hạnh phúc đích thực. Khi dẫn đường ta đến kết hợp hoàn toàn với Thiên Chúa.
----------------------------
Dt 6, 10-20; 1S 16, 1-13; Mc 2, 23-28
Đời sống con người nhiều khi bế tắc. Thân phận yếu kém. Hoàn cảnh khắc nghiệt. Lãnh đạo thiển cận, hẹp hòi và chuyên quyền. Nhưng thánh Phao-lô khuyên ta nên kiên trì giữ vừng niềm tin, vì Thiên Chúa chính là hi vọng.
Thiên Chúa là hi vọng vì Người trung tín. Lời thề hứa của Thiên Chúa là bất di bất dịch. Vì nếu mọi người phải mượn danh Chúa mà thề vì danh Chúa chí thánh là nền tảng vững chắc. Đằng này chính Thiên Chúa thề hứa thì không thể sai chạy. Điều đó chứng tỏ qua cuộc tuyển chọn Áp-ra-ham (năm lẻ) và Đa-vít (năm chẵn). Và càng chứng tỏ hơn nữa qua việc thực hiện lời thề hứa với các ngài. Giữ lời hứa cho Áp-ra-ham một giòng dõi đông đúc ông đã cao tuổi mà vẫn chưa có con. Giữ lời hứa trung tín với nhà Đa-vít nên đã cho Ngôi Lời sinh trong dòng họ này.
Thiên Chúa là hi vọng vì Người luôn quan tâm và khai thông những bế tắc. Con người sai lầm. Lịch sử bất ổn. Hoàn cảnh khó khăn. Nhưng Thiên Chúa luôn biết cách đổi mới. Khi con người lỗi phạm, Thiên Chúa đã tuyển chọn Áp-ra-ham lập nên một giòng dõi mới. Khi Sa-un đi chệch đường, Thiên Chúa tuyển chọn Đa-vít lập triều đại mới. Và khi Cựu Ước chấm dứt Thiên Chúa sai Con Một xuống lập giao ước mới. Khai mạc triều đại mới. Thiên Chúa luôn mở ra những chân trời mới. Khai thông bế tắc. Đem lại hi vọng lớn lao.
Thiên Chúa là hi vọng vì Người làm chủ vũ trụ. Người có toàn quyền trên muôn vật muôn loài. Làm chủ vũ trụ. Làm chủ vận mạng con người. Làm chủ lề luật. Người tự do và làm cho ta tự do. Người giải thoát ta khỏi mọi ràng buộc. Không bị ràng buộc vào diện mạo bên ngoài. Không phải tuân theo thứ tự trước sau. Người chọn Đa-vít là con út và là người có vóc dáng nhỏ bé. Người chọn Áp-ra-ham là người cao niên mà chưa có con. Lề luật vốn để phục vụ con người. Khi lề luật trở nên gánh nặng, nên gông cùm trói buộc, Người đã giải thoát con người. Vì Người làm chủ lề luật. Chính vì thế Người đem lại niềm hi vọng cho con người.
Khi chưa thấy lời hứa thực hiện ta cũng vẫn tín thác vì Chúa luôn trung tín. Khi ta gặp bế tắc tưởng chừng không lối thoát ta vẫn an tâm vì Chúa luôn quan tâm sẽ khai thông mọi bế tắc. Khi ta bị vây kín trong vòng giam hãm của lề luật ta vẫn tự do vì Chúa làm chủ lề luật sẽ giải thoát ta.
---------------------------------
Dt 7, 1-3.15-17; 1S 17, 32-33.37.40-51; Mc 3, 1-6
Men-ki-sê-đê có nghĩa là “Vua Công Chính”, ông lại là vua Sa-lem, nghĩa là “Vua Hòa Bình”. Đa-vít, thánh vương báo hiệu triều đại Nước Chúa cũng là vua công chính và vua hòa bình. Chúa dùng ông để trả lại công bằng cho dân tộc bị áp bức. Và đem lại nền hòa bình cho Dân Chúa. Vì thế Chúa cho ông sức mạnh chiến thắng Gô-li-át khổng lồ của người Phi-li-tinh hùng mạnh.
Nhưng Chúa Giê-su mới thật là Vua Công Chính. Người trả lại mục đích nguyên thủy của lề luật là để phục vụ con người. Ngày sa-bát được Chúa dựng nên để con người được nghỉ ngơi và phát triển toàn diện. Trên hết, cần phát triển đời sống tâm linh. Khi chất vấn người Biệt phái: “Ngày sa-bát được phép làm điều lành hay điều dữ..?” Chúa nhắc họ phải tìm về đúng ý nghĩa nguyên thủy của ngày nghỉ sa-bát.
Người trả lại cho con người quyền được sống và sống dồi dào. Chúa tạo dựng nên con người để con người được hạnh phúc. Nhưng tội nguyên tổ đã phá hỏng công trình của Chúa. Vì thế Chúa đã phải sai Con Một xuống phục hồi lại phẩm giá cao quí, sửa chữa lại những hư hại nơi bản tính con người. Chúa chữa lành những vết thương không chỉ nơi thân xác mà cả nơi tâm hồn và trong xã hội nữa.
Chúa Giê-su là Vua Hòa Bình. Vì Chúa hòa giải con người với Thiên Chúa. Tội lỗi gây nên mối bất hòa. Chúa Giê-su chịu chết đền tội thay cho loài người để loài người được hòa giải với Thiên Chúa. Theo quan niệm của người Do thái, bệnh tật là dấu hiệu của tội lỗi. Khi Chúa Giê-su chữa bệnh phần xác, Người có ý chữa bệnh trong linh hồn, đưa con người trở về làm hòa với Cha của mình.
Chúa Giê-su hòa giải con người với nhau. Người bệnh tật là người bị loại trừ. Chữa lành bệnh là đưa người bệnh trở lại hội nhập với xã hội, làm hòa với anh em để sống đề huề trong gia đình nhân loại và gia đình của Chúa.
Chúa Giê-su hòa giải con người với chính mình. Người bệnh tật, người tội lỗi là người có sự phân hóa ngay trong bản thân, bất mãn với bản thân. Khi chữa lành bệnh tật, Chúa Giê-su đưa con người trở về chính mình, yêu thương chính mình, kính trọng chính mình. Chính khi làm hòa với chính mình, con người khởi đầu sống hạnh phúc.
Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con được theo Chúa trong phục vụ công bình và hòa giải.
--------------------------------
Dt 7, 25-8,6; 1S 18, 6-9; 19, 1-7; Mc 3, 7-12
Mọi người bệnh tật đến với Chúa để được chữa lành. Không phải chỉ dân Do thái, nhưng cả dân ngoại. Không phải chỉ miền Ga-li-lê, nhưng cả miền Giu-đê. Không phải chỉ trong nước, nhưng cả miền I-đu-mê, Tyr và Si-don. Không phải chỉ bệnh thể lý, nhưng cả những người bị tâm thần, bị quỉ ám. Dân chúng chỉ biết có sức mạnh từ nơi Người phát ra. Họ chỉ cần chạm vào áo Người lập tức được khỏi. Nhưng ma quỉ biết rõ nên kêu lên: “Ông là Con Thiên Chúa”.
Là Con Thiên Chúa nhưng mặc xác phàm ở giữa loài người, Chúa Giê-su trở thành người trung gian tuyệt hảo. Muôn dân phải qua Người đến với Chúa Cha.
Hình ảnh thái tử Gio-na-than phần nào diễn tả vai trò trung gian này. Gio-na-than thân phận là thái tử nhưng rất yêu thương Đa-vít. Coi Đa-vít không chỉ như bạn thân thiết mà còn như chính bản thân mình. Đến nỗi bảo vệ bênh vực Đa-vít dù Đa-vít có thể chiếm mất ngai vàng của Gio-na-than. Vì là con vua Sau-un nên Gio-na-than dùng tình yêu và địa vị can thiệp với vua cha cho Đa-vít. Nhiều lần cứu Đa-vít thoát chết (năm chẵn).
Thư Do thái cho thấy vai trò trung gian của Chúa Giê-su là tuyệt hảo. Vì Người yêu thương nhân loại. Trở nên một con người ở giữa loài người, Người trở nên đại diện cho toàn dân. Của lễ của Người toàn hảo vì Người thánh thiện vô song. Hơn nữa Người dâng chính bản thân mình. Địa vị của Người toàn hảo vì Người là Con yêu dấu của Chúa Cha. Ở bên hữu Chúa Cha nên lời chuyển cầu của Người thần thế được Chúa Cha nhận lời. Là Con Thiên Chúa nhưng cũng là Con Loài Người, Chúa Giê-su là trung gian duy nhất. Là giải pháp duy nhất cho thế giới (năm lẻ).
Thế giới hôm nay quá nhiều bế tắc, nhiều vấn đề, nhiều chia rẽ, nhiều đau khổ. Vấn đề lớn lao nhất là ma quỉ đang thao túng, đang tàn phá, thống trị con người và thế giới. Sự dữ khắp nơi. Khủng bố. Phá thai. Tham nhũng. Hối lộ. Nhưng sự dữ lớn lao nhất là con người đánh mất lương tâm và lương tri. Coi sự dữ là sự lành.
Ta không thể giải quyết vấn đề. Hãy noi gương người thời xưa chạy đến với Chúa Giê-su. Người là trung gian duy nhất. Người là cứu cánh duy nhất. Người là giải pháp duy nhất cho con người và cho thế giới. Chỉ cần chạm vào gấu áo Người ta sẽ được khỏi.
---------------------------------
Dt 8,6-13; 1S 24,3-21; Mc 3,13-19
Thiên Chúa kiên trì trong chương trình yêu thương của Người. Nên luôn có những sáng kiến mới. Mở ra những chân trời mới.
Khi giao ước cũ không đem đến hiệu quả như mong muốn, Thiên Chúa quyết định lập ra Giao Ước Mới: “Đức Chúa phán: Này sắp đến những ngày Ta hoàn thành một Giáo Ước Mới với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa”. “Giao Ước Mới tốt đẹp hơn. Căn cứ vào những lời hứa tốt đẹp hơn”.
Có Thượng Tế cao trọng hơn. Chúa Giê-su là trung gian Giao Ước Mới. Vô cùng cao trọng hơn trung gian giao ước cũ. Chúa Giê-su là trung gian tuyệt vời. Vì Người vừa là Thiên Chúa, vừa đứng đầu nhân loại. “Vị Thượng Tế của chúng ta được một tác vụ cao trọng hơn, bởi vì Người là trung gian của một giao ước tốt đẹp hơn”. Người dâng hiến chính thân mình. Giao Ước Mới được ký kết bằng chính máu Người đổ ra. Nên có giá trị vô biên.
Có con người mới tốt đẹp hơn. Vì Lề Luật không còn ghi vào bia đá. Nhưng ghi vào trong tâm hồn: “Đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó. Đức Chúa phán: Ta sẽ ghi vào lòng trí chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng lề luật của Ta”. Cũng như khi Sa-un hư hỏng, Chúa đã chọn Đa-vít, tôi trung của Chúa. Đa-vít kính sợ Chúa. Dù Sa-un ghen ghét đuổi bắt ông vô cớ. Nhưng khi có thể giết Sa-un, Đa-vít vẫn không dám xúc phạm đến Sa-un là người đã được Chúa xức dầu. Ông để cho Chúa phân xử: “Điều ác từ kẻ ác mà ra, nên tay con sẽ không đụng đến cha” (năm chẵn).
Có nền tảng mới là 12 tông đồ thay cho 12 chi tộc cũ. Các tông đồ được Chúa đích thân tuyển chọn. Được sống với Chúa để thấm nhiễm luật mới. Rồi mới được sai đi để làm chứng về Chúa. Xua trừ ma quỉ. Thiết lập triều đại mới của Thiên Chúa: “Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người, và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ”.
Xin Chúa đổi mới con. Để con xứng đáng là dân mới. Được hưởng những lời hứa từ Giao Ước Mới. Xin cho con trở nên con người mới. Giống như các tông đồ. Được ở với Chúa. Để thấm nhập luật mới của Chúa.
------------------------------------
Dt 9,2-3.11-14; 2S 1,1-4.12.19.23-27; Mc 3,20-21
Người bình thường lo cho bản thân. Những nhu cầu tối thiểu trong đời sống hằng ngày: ăn uống, ngủ nghỉ. Nhưng “Chúa Giê-su cùng với các môn đệ trở về nhà, và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được”. Người đời và nhất là thân nhân, những kẻ thương mến Người “liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí”. Người đã rất quyết liệt. Nên không để bị bắt trở về. Từ đây Người giã từ gia đình trần thế. Để hiến thân cho gia đình Nước Trời. Để thi hành thánh ý của Cha. Để toàn tâm toàn ý cho tha nhân. Cho gia đình mới của Người.
Anh hùng là những người quên bản thân, quên lợi ích riêng tư, vì quyền lợi chung của đất nước, của dân tộc. Sa-un và Gio-na-than là những bậc anh hùng. Vì đất nước, dân tộc mà tử nạn. Nên Đa-vít và toàn dân khóc thương các ngài. Các ngài quên mình vì dân tộc: “Thiếu nữ Ít-ra-en hỡi, hãy khóc Sa-un, người đã mặc cho các cô vải điều lộng lẫy, đính trên áo các cô đồ trang sức bằng vàng”(năm chẵn).
Chúa Ki-tô đáng ca tụng gấp bội. Vì Sa-un và Gio-na-than lo cho đời sống vật chất mau qua của dân Ít-ra-en. Còn Chúa Ki-tô hiến mình vì đời sống vĩnh cửu và vì kho tàng không hư nát của mọi dân tộc trên thế giới.
Sa-un và Gio-na-than bất đắc dĩ chịu chết. Còn Chúa Ki-tô tự hiến thân mình để đền tội muôn dân.
Chúa Ki-tô là Thượng Tế trổi vượt. Các thượng tế dâng lễ vật là súc vật. Còn Chúa Ki-tô dâng chính bản thân mình. Các thượng tế phải dâng nhiều lần. Còn “Người vào chỉ một lần, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta” Máu chiên bò chỉ làm cho thân xác trong sạch. “Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết”(năm lẻ).
Người không chỉ mất trí. Mà còn điên dại. Yêu ta nên tự hiến mình chịu chết. Đổ máu mình ra. Nhưng chính nhờ tình yêu điên dại của Người ta được ơn cứu độ. Được sống. Được hạnh phúc.
Thế giới hôm nay cần nhiều người mất trí để lo cho tha nhân. Cần nhiều môn đệ bước theo tình yêu điên dại của Thầy Giê-su. Thế giới mới được cứu rỗi.
-----------------------------------
Dt 9,15.24-28; 2S 5,1-7.10; Mc 3,22-30
Dân Ít-ra-en khi tấn phong Đa-vít làm vua đã trích dẫn lời Chúa: “Chính ngươi sẽ chăn dắt Ít-ra-en, dân Ta, chính ngươi sẽ là người lãnh đạo Ít-ra-en”. Quả thực “Vua Đa-vít ngày càng mạnh thế, và Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh ở với vua”. Nên vua đánh đâu thắng đó. Thu thập các dân tộc chung quanh. Thu hồi đất đai Chúa hứa. Xây dựng vương quốc hùng mạnh. Danh tiếng lừng lẫy. Trở thành vị vua mẫu mực. Dân Ít-ra-en muôn đời tưởng nhớ. Và chờ mong một vị vua mới từ dòng dõi vua Đa-vít sẽ xuất hiện. Phục hồi vương quốc hùng mạnh, danh tiếng thuở xưa (năm chẵn).
Lời tiên báo đến thời thực hiện. Niềm chờ mong đã được đáp đền. Chúa Giê-su đến với sức mạnh vô biên của Thiên Chúa. Con người dẫu mạnh mẽ cũng chỉ thắng được con người thôi. Chưa có ai thắng được ma quỉ. Thế lực siêu nhiên luôn thống trị con người. Thế mà Chúa Giê-su đã chiến thắng ma quỉ. Ra lệnh cho ma quỉ. Xua trừ ma quỉ ra khỏi con người. Các kinh sư thấy sức mạnh của Chúa không những không tin mà còn vu cáo Chúa chính là tướng quỉ nên ma qủi mới thuần phục. Chúa Giê-su đã vạch rõ ác ý của họ khi chứng minh lời họ là sai ở cả hai phía. Xa-tan tự chia rẽ cũng tận số. Và nếu có người mạnh đến chiến thắng thì Xa-tan cũng tận số: “Nếu Xa-tan mà chống Xa-tan, Xa-tan mà tự chia rẽ, thì không thể tồn tại, nhưng đã tận số. Không ai có thể vào nhà kẻ mạnh mà cướp của được, nêu không trói kẻ mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó”.
Sức mạnh vô biên của Thiên Chúa thể hiện nơi Chúa Giê-su là tình yêu. Tình yêu lớn lao chưa từng có. Là dám hi sinh tính mạng vì người mình yêu. Chúa Giê-su bày tỏ sức mạnh vô biên trong tình yêu vô biên dám chấp nhận cái chết. Đã trở thành “trung gian của một Giao Ước Mới, lấy cái chết của mình mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ”. Với quyền năng vô biên, ngài chỉ dâng hiến một lần là đủ: “Người đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình”. Ma quỉ chỉ mạnh khi người ta tội lỗi. Nay Chúa Giê-su tiêu diệt tội lỗi. Nên ma quỉ mất hết quyền lực. Con người được giải phóng, được “kêu gọi lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu” (năm lẻ).
Tình yêu Chúa lớn vô biên. Tình yêu trở thành quyền năng vô biên. Đó là điều làm cho ta tin tưởng. Trong quyền năng Chúa ta được cứu chuộc. Trong tình yêu Chúa ta được yêu thương. Lạy Chúa, xin hãy đến giải thoát con khỏi mọi thế lực của ma quỉ.
----------------------------------
Dt 10,1-10; 2S 6,12b-15.17-19; Mc 3,31-35
Cuộc đón rước Hòm Bia thật long trọng. Đa-vít ca hát nhảy múa hết mình. Và dâng lễ vật trọng hậu lên Thiên Chúa: “Khi những người khiêng Hòm Bia của Đức Chúa đi được sáu bước, thì vua sát tế một con bò và một con bê béo. Vua Đa-vít quấn ê-phốt vải gai, nhảy múa hết sức mình trước nhan Đức Chúa”. Việc dâng lễ vật tuy trọng hậu, nhưng chỉ rời rạc. Không qui tụ được toàn dân. “Rồi toàn dân ai nấy về nhà mình” (năm chẵn).
Dâng lễ vật theo Lề Luật, dù trọng hậu đến đâu, dù dâng suốt năm này qua năm khác, vẫn không thể tha tội. Vì chung qui cũng chỉ là dâng súc vật. Còn Chúa Giê-su chỉ dâng một lần là đủ tha các tội. Vì Chúa dâng chính thân mình. Và dâng hiến để tỏ lòng vâng phục Chúa Cha. Là con, Chúa nhận thân thể từ Chúa Cha. Nên dâng lại cho Chúa Cha chính thân mình nói lên tình liên hệ cha con sâu xa thắm thiết biết bao. “Khi vào trần gian, Đức Ki-tô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài…Theo đó, chúng ta được thánh hoá, nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ”. Vì thế Người dâng hiến thân mình để qui tụ tất cả chúng ta (năm lẻ).
Chúa Giê-su đã hiến dâng thân mình để trở thành người con hiếu thảo. Việc vâng phục thánh ý Chúa Cha gây dựng một gia đình Thiên Chúa. Nhờ đó Người qui tụ chúng ta về gia đình Thiên Chúa. Người trở thành Anh Cả của một đàn em đông đúc. Trở thành Trưởng Tử dẫn gia đình về với Thiên Chúa. Gia đình Thiên Chúa không còn là liên hệ huyết thống với con người, nhưng là liên hệ thiêng liêng với Thiên Chúa. Như Chúa Giê-su đã hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa để trở thành người con hiếu thảo, tất cả những ai tuân hành thánh ý Thiên Chúa, đều trở thành người trong gia đình Thiên Chúa. Trở thành ruột thịt với Chúa Giê-su: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi? Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chúng quanh và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi”.
Xin cho con biết tự hiến thân mình làm của lễ. Để con trở thành anh chị em của Chúa.
------------------------------------
Dt 10,11-18; 2S 7,4-17; Mc 4,1-20
Thiên Chúa gieo Lời Người xuống trần gian. Đó là lời tình yêu. Lời sự sống. Lời hạnh phúc. Nhưng con người vô tâm không lắng nghe. Để ma quỉ tha đi mất. Như bà E-và. Nhưng Thiên Chúa không nản lòng. Vẫn tràn đầy yêu thương. Vẫn tiếp tục gieo hạt. Lời không bén rễ sâu. Vì con người hời hợt. Mau thay đổi. Thiên Chúa vẫn tiếp tục gieo. Hạt đã bắt đầu mọc. Nhưng con người quá ham mê dục vọng. Để dục vọng chèn ép. Lời Chúa không lớn mạnh được. Như trường hợp Sam-son. Thiên Chúa kiên trì yêu thương. Gieo cho đến khi Lời gặp được mảnh đất tốt. Sinh hoa kết quả trăm nghìn.
Sách Sa-mu-en cho ta thấy hai vị vua đầu tiên là hai mảnh đất khác nhau. Sa-un được Thiên Chúa tuyển chọn. Nhưng ông không tuân giữ Lời Chúa. Lòng tham lam và dục vọng chèn ép làm cho Lời Chúa chết nghẹt. Ông trở nên mảnh đất sỏi đá. Lời Chúa không phát triển được. Chúa từ bỏ ông. Trái lại Đa-vít là vị vua thánh thiện. Luôn lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Nên Lời chúa sinh hoa kết quả. Không những trong đời ông. Mà còn tồn tại đến đời con cháu. Như Lời Chúa hứa. “Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi – một người do chính ngươi sinh ra – và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền. …Tình thương của Ta sẽ không rời khỏi nó, như Ta đã cho rời khỏi Sa-un, nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ muôn đời bền vững” (năm chẵn).
Tất cả lời hứa của Thiên Chúa ứng nghiệm trong Chúa Giê-su Ki-tô. Chúa Giê-su là dòng dõi Đa-vít lên trị vì. Và vương quyền Người muôn đời bền vững. Chúa Giê-su chính là Thiên Chúa xuống trần gian để đi gieo Lời. Chính Người là Ngôi Lời được gieo xuống trần gian. Người là sự sống, là tình yêu, là hạnh phúc gieo xuống lòng nhân loại. Chính Người trở thành hạt giống mục nát đi. Dâng hiến chính đời mình. Chết đau thương. Được chôn táng trong mộ.Trở thành hạt lúa tốt sinh hoa kết quả trăm nghìn. Tạo nên một mùa gặt mới phong phú dồi dào. Vì chính Người là mảnh đất tốt. Đón nhận Lời của Chúa Cha. Vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết. Nên mùa gặt phát sinh. Mùa gặt sự sống. Mùa gặt tình yêu. Mùa gặt hạnh phúc (năm lẻ).
Ta hãy noi gương Chúa Giê-su. Hãy hăng say đi gieo Lời Chúa. Hãy trở thành thửa đất tốt. Luôn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Hãy trở thành hạt giống được gieo xuống lòng đất. Mục nát đi. Sẽ sinh hoa kết quả muôn ngàn.
-----------------------------
Dt 10,19-25; 2S 7,18-19.24-29; Mc 4,21-25
Đoạn này nối tiếp dụ ngôn “Người gieo giống”. Lại hai lần nói về lắng nghe. Nên hầu chắc nói về thái độ đối với Lời Chúa.
Lời Chúa là ngọn đèn sáng phải đặt trên giá để soi đường cho mọi người đi lại. Không chỉ soi bên ngoài. Nhưng quan trọng hơn soi trong tâm hồn. Lời Chúa sẽ soi sáng mọi ngõ ngách tối tăm nhất của tâm hồn con người. Chẳng điều gì có thể che giấu được ánh sáng Lời Chúa.Khi trong ngoài sáng tỏ ta sẽ sống trong sự sáng. Làm con sự sáng. Nhưng liệu ta có tai lắng nghe không? Lắng nghe là để Lời Chúa soi rọi vào đáy sâu tâm hồn.
Ai càng lắng nghe lại càng được Lời Chúa soi sáng. Càng hiểu biết lại càng say mê Lời Chúa. Đã có lại cho thêm. Như mảnh đất tốt khiến hạt giống sinh bông hạt trăm nghìn.
Đa-vít là một chiếc giá đèn. Lời Chúa soi sáng cuộc đời ông. Ông lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Nên Chúa không ngừng ban ân huệ cho ông. Đã chọn ông làm vua. Lại còn hứa cho dòng dõi ông trường tồn. Khiến chính ông phải ngạc nhiên: “Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, con là ai và nhà của con là gì, mà Ngài đã đưa con tới địa vị này? Nhưng lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, Ngài còn coi đó là quá ít; Ngài lại hứa cho nhà của tôi tớ Ngài một tương lai lâu dài”. Và Đa-vít trở thành mẫu mực cho toàn dân noi theo. Để biết lắng nghe và thực hành thánh ý (năm chẵn).
Chúa Giê-su là Lời Thiên Chúa bằng xương bằng thịt. Là ánh sáng soi dẫn đường ta đi. Vì Người đã đổ máu để mở cho ta con đường mới. Con đường dẫn đến Thiên Chúa. Chính Đức Chúa Cha đã tuyên dương Người và mời gọi ta hãy nghe lời Người. Theo Chúa Giê-su ta tràn trề hi vọng. “Vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (năm lẻ).
Nếu ta tuân giữ Lời Chúa, ta sẽ càng thêm phong phú. “Vì ai đã có, thì sẽ được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy đi”.
-----------------------------------
Dt 10,32-39; 2S 11,1-4a.5-10a.13-17; Mc 4,26-34
Nước Thiên Chúa là công trình của Thiên Chúa. Không phải của con người. Như hạt giống tự mọc. Người gieo rồi về nằm ngủ. Hạt giống nảy mầm và mọc lên thế nào, không ai biết. Người gieo chỉ biết gieo và vun trồng. Nhưng không thể làm cho hạt giống nảy mầm và mọc lên. Vì đó là việc của Thiên Chúa. Việc Thiên Chúa làm rất khác với việc của con người. Như hạt cải gieo trong vườn. Khi gieo xuống là hạt bé nhỏ nhất. Chịu vùi lấp dưới lòng đất. Chịu huỷ hoại đi. Mất cả hình dáng. Nhưng khi mọc lên lại thành cây cao lớn, cành lá xum xuê. Đến nỗi chim trời đến trú ẩn.
Giáo hội, hình ảnh hữu hình của Nước Thiên Chúa, đã từng trải qua kinh nghiệm hạt giống tự mọc. Khởi đầu Giáo hội rất bé nhỏ. Nghèo hèn. Bị khinh miệt. Và bị bách hại. Tưởng như bị tận diệt. Điều đó khiến nhiều người chán nản. Nhưng thánh Phao-lô khuyên nhủ ta hãy tin tưởng vào lời Chúa hứa. “Xin anh em nhớ lại những ngày đầu: lúc vừa được ơn chiếu sáng, anh em đã phải đối phó với bao nỗi đau khổ dồn dập. Khi thì anh em bị sỉ nhục và hành hạ trước mặt mọi người, khi thì phải liên đới với những người cùng cảnh ngộ. Quả thật, anh em đã thông phần đau khổ với những người bị tù tội, và đã vui mừng để cho người ta tước đoạt của cải…Anh em cần phải kiên nhẫn, để sau khi thi hành ý Thiên Chúa, anh em được hưởng điều Người đã hứa” (năm lẻ).
Có khi đau khổ yếu đuối đến từ chính bản thân. Như trường hợp Đa-vít. Ông vóc người bé nhỏ. Nhưng phạm phải những lỗi lầm lớn lao. Cướp vợ của U-ri-gia. Lại còn giết chết U-ri-gia. Chúa trừng phạt ông vì tội lỗi của ông. Nhưng Chúa vẫn trung tín giữ lời hứa cho dòng dõi ông trường tồn. Cho Đấng Cứu Thế sinh bởi dòng dõi ông. Cho thấy đó là kế hoạch của Thiên Chúa. Đó là quyền năng của Thiên Chúa. Đó là lòng thương xót của Thiên Chúa (năm chẵn).
Hạt giống tự mọc. Vì thế tôi phải biết khiêm nhường nhận biết mình yếu hèn kém cỏi. Hạt giống tự mọc. Tôi không nản lòng khi sự ác có vẻ thắng thế, lấn át sự thiện. Hạt giống tự mọc. Tôi kiên trì khi những chương trình mục vụ truyền giáo thất bại, Hạt giống tự mọc. Tôi xin Chúa tha thứ những lỗi lầm của bản thân. Hạt giống tự mọc. Tôi vững tin rằng sau khi gặp nhiều thử thách thất bại Nước Chúa sẽ lớn mạnh. Trở thành nơi cho mọi người nương ẩn.
------------------------------------
Dt 11,1-2.8-19; 2S 12,1-7.10-17; Mc 4,35-41
Biển khơi là một sức mạnh đáng sợ. Nhất là khi biển nổi sóng gió. Các môn đệ sợ hãi là bình thường. Tại sao Chúa mắng các ông: “Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao”. Vì đã trải qua nhiều sự kiện như phép lạ hoá bánh ra nhiều, Chúa Giê-su đi trên mặt nước. Tất cả chứng tỏ Chúa làm chủ vật chất. Là Chúa Tể muôn loài. Đã được chứng kiến những phép lạ như thế mà các ông vẫn còn chưa có lòng tin. Đó là điều khiến Chúa buồn. Và hôm nay nữa. Sau khi Chúa quát mắng “ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ”. Thế mà các ông vẫn chưa nhận biết Chúa. Lại còn thắc mắc hỏi nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”
Chẳng sánh được với tổ phụ Áp-ra-ham. Luôn tin tưởng nơi Chúa. Tin vào lời Chúa hứa cho một miền đất chảy sữa và mật. Nên sẵn sàng ra đi. “Ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu”. Tin vào lời Chúa hứa cho một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. nên “bà Xa-ra, vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín”. “Tất cả các ngài đã chết, lúc vẫn còn tin như vậy, mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa”. Dám sát tế I-xa-ác, đứa con duy nhất. “Quả thật, ông Áp-ra-ham nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy”. Quả là một đức tin lớn lao. Trọn vẹn. Không lay chuyển (năm lẻ).
Có lẽ Đa-vít gần gũi với ta hơn. Vì tuy tin Chúa. Nhưng có lúc yếu đuối mất đức tin. Ông đã cư xử như người không có đức tin. Đã chiếm đoạt vợ của U-ri-gia. Lại còn giết chết ông này nữa. Nhưng khi được tiên tri Na-than cảnh tỉnh, ông đã ăn năn sám hối. Ông chấp nhận những hình phạt của Chúa với tinh thần sám hối, vâng phục sâu xa. “Đa-vít nói với ông Na-than: “Tôi đắc tội với Đức Chúa”. Ông đã biểu lộ đức tin sâu xa. Khi đứa trẻ bị bệnh nặng, “Vua Đa-vít cầu khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà ngủ đêm thì nằm dưới đất”. Cũng như Áp-ra-ham, vua Đa-vít tin tưởng, dù không hi vọng gì. Đó cũng là một đức tin lớn lao (năm chẵn).
Xin cho chúng ta có một đức tin vững vàng vì “đức tin là bảo đảm cho những điều ta hi vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy”. Để ta an vui sống giữa dòng đời đầy biến động thăng trầm này.
-----------------------------------
Dt 11,32-40; 2S 15,13-14.30 ; 16,5-13a; Mc 5,1-20
----------------------------------
Xây dựng Nước Thiên Chúa là xây dựng hạnh phúc. Nhưng đó không là hạnh phúc có sẵn. Đó thực sự là một cuộc chiến. Cuộc chiến chống ma quỉ. Cuộc chiến rất khốc liệt. Vì ma quỉ rất mạnh và rất đông: “Tên chúng tôi là đạo binh. Vì chúng tôi đông lắm”.
Ma quỉ là lực lượng sự chết. Chúng muốn tiêu diệt con người. Giam cầm con người trong bóng tối của thế giới kẻ chết. “Từ đám mồ mả, có một kẻ bị thần ô uế ám liên ra đón Người. Anh này thường sống trong đám mồ mả”. Chưa hoàn toàn giết chết anh, nhưng ma quỉ làm cho anh chết dần mòn. Trước hết là tâm trí mê man, mụ mẫm. Không còn sáng suốt. Không còn tỉnh táo. Vì bị ma quỉ khống chế. Không có tự do để làm điều tốt. “Suốt đêm ngày, anh ta cứ ở trong đám mồ mả và trên núi đồi, tru tréo và lấy đá rạch mình”. Chỉ làm theo sự sai khiến của ma quỉ. Và tiếp tay với ma quỉ tàn phá. “Anh bị gông cùm và bị xiềng xích, nhưng anh đã bẻ gãy xiềng xích, và đập tan gông cùm. Và không ai có thể kiềm chế anh được”.
Chỉ có Thiên Chúa và Đấng Người sai đến, là Chúa Giê-su Ki-tô, mới chiến thắng ma quỉ. Chúa truyền lệnh. Ma quỉ phải ra khỏi con người. Khi thoát khỏi ách ma quỉ, con người sống lại “ăn mặc hẳn hoi và trí khôn tỉnh táo”. Và có thể làm việc lành. “Anh nài xin được ở với Người”.
Ma quỉ có thể dùng con người giết hại lẫn nhau. Như Áp-sa-lôm, đòi giết vua cha Đa-vít để cướp ngôi. Như Sim-y, nguyền rủa và ném đá vua Đa-vít. Đa-vít đã dùng quyền năng Thiên Chúa chiến thắng. Nhận mình tội lỗi. Không phản ứng lại các xúc phạm. Để Thiên Chúa phân xử và hành động theo ý Chúa. “Cứ để nó nguyền rủa, nếu Đức Chúa đã bảo nó. May ra Đức Chúa sẽ đoái nhìn đến nỗi khổ cực của ta, và Đức Chúa sẽ trả lại cho ta hạnh phúc” (năm chẵn).
Ma quỉ có thể dùng vua chúa bắt đạo. Môn đệ Chúa phải chống lại bằng sự hi sinh quên mình. Dâng hiến mạng sống. Để xây dựng Nước Thiên Chúa. Chiến thắng ma quỉ. Nhờ đức tin, các ngài chiến thắng bằng sức mạnh của Thiên Chúa. “Có những người bị tra tấn mà không muốn được giải thoát, để được hưởng một sự sống lại tốt đẹp hơn”. Nhờ đó các ngài xây dựng Nước Thiên Chúa. Làm cho Nước Thiên Chúa lớn mạnh.
--------------------------------
Dt 12,1-4; 2S 18,9-10.14b.24-25a.30 – 19,3; Mc 5,21-43
Bài Tin mừng cho thấy quyền năng phi phàm nhưng đồng thời cũng cho thấy sự ân cần của Chúa. Giữa những người chen lấn vẫn có sự quan tâm đến từng người. Giữa những người cao sang vẫn còn thì giờ quan tâm đến những người bé nhỏ. Quan tâm đến một phụ nữ vô danh. Đưa chị ra ánh sáng để ca ngợi đức tin mạnh mẽ của chị. Con người này cao quí vì có đức tin mạnh mẽ chứ không vì có địa vị trong xã hội. Quan tâm nên đến tận nhà một em bé. Thời xưa, trẻ con, nhất là trẻ gái, thường không được quan tâm. Huống hồ đây là một trẻ gái đã chết. Thái độ của Chúa thật ân cần. Chúa cầm tay và nói với em. Vừa yêu thương. Vừa trân trọng.. Và còn ân cần hơn nữa. Khi mọi người tíu tít mừng rỡ thì Chúa quan tâm lo cho em ăn uống.
Điều này khiến ta an tâm tin tưởng. Vì Chúa yêu thương và quan tâm đến từng người chúng ta. Dù chúng ta là những người bé nhỏ nghèo hèn, vô danh tiểu tốt. Còn hơn cả quan tâm, Chúa hi sinh vì chúng ta. Chúa gánh lấy mọi bệnh hoạn, đau khổ tật nguyền của chúng ta. Để chúng ta được lành mạnh. Người còn cam lòng chịu chết cho ta được sống. Như thư Do thái khẳng định: “Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa. Anh em hãy tưởng nhớ Đấng đã cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình như thế, để anh em khỏi sờn lòng nản chí”. Vì thế nếu ta gặp khó khăn thử thách, hãy vững lòng tin tưởng chiến đấu. Vì Chúa sẽ trợ giúp và giải thoát ta. “Hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Đức Giê-su là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (năm lẻ).
Chúa bày tỏ tấm lòng của người cha yêu thương con. Nếu Đa-vít tiếc thương Áp-sa-lôm là đứa con phản bội. Thánh vương còn muốn chết thay cho con. Khi Áp-sa-lôm đã chết, nhà vua khóc thương: “Áp-sa-lôm con ơi! Phải chi cha chết thay con”. Nhưng Chúa không chỉ muốn chết thay cho ta. Chúa thực sự đã chết cho ta (năm chẵn).
Vì thế dù tội lỗi đến đâu, ta hãy tin tưởng. Đứng dậy trở về. Vì Chúa quan tâm yêu thương từng người. Chúa đến tìm con chiên lạc. Chúa sẵn sàng chết cho ta được sống.
--------------------------------------
Dt 12,4-7.11-15; 2S 24,2.9-17; Mc 6,1-6
Con người khó thay đổi. Khó thay đổi vì quá quen thuộc. Đã thành nếp. Nếp ăn. Nếp nghĩ. Người dân Na-da-rét quá quen với hình ảnh Chúa Giê-su thợ mộc. Cha Người làm thợ mộc. Người cũng làm thợ mộc. Không thể khác được. Khó thay đổi vì ngại ngùng. Tuy nghe tiếng Người ở Ca-phác-na-um đã làm những điều kỳ diệu. Tuy trực tiếp nghe những lời lẽ khôn ngoan Người nói. Họ ngạc nhiên vì sự thay đổi nơi Chúa Giê-su. “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” Nhưng chính họ không chịu thay đổi. Đã quen với ý niệm Giê-su thợ mộc, họ không thể đổi thành ý niệm Giê-su tiên tri được. “Và họ vấp ngã vì Người”.
Con người vốn yếu đuối và hay sai lầm. Vì thế cần thay đổi. Cần sám hối. Cần được chỉ dạy.
Thư Do thái khuyên nhủ ta hãy biết khiêm tốn nhận lời chỉ dạy của Chúa. Đó là tình yêu thương của Chúa. Yêu cho roi cho vọt. “Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt. Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy”. Chỉ khi khiêm tốn đón nhận, ta mới thay đổi để nên tốt hơn. “Ngay lúc bị sửa dạy, thì chẳng ai lấy làm vui thú mà chỉ thấy buồn phiền. Nhưng sau đó, những người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính” (năm lẻ).
Đa-vít trở nên thánh vương vì ngài biết khiêm nhường chấp nhận tội lỗi. “Con đã phạm tội nặng khi làm như thế. Giờ đây, lạy Đức Chúa, xin bỏ qua lỗi lầm của tôi tớ Ngài, vì con đã hành động rất ngu xuẩn”. Sám hối ngay khi được tiên tri Gát cảnh tỉnh. Và sẵn sàng đón nhận sự sửa dạy của Chúa. “Ngài coi, chính con đã phạm tội, chính con có lỗi; nhưng đàn chiên đó đã làm gì? Xin tay Ngài cứ đè trên con và nhà cha con!” Thay đổi như thế cần sự khiêm nhường. Biết mình. Phục thiện. HOàn toàn đón nhận thánh ý (năm chẵn). Đó là điều người dân Na-da-rét thiếu. Họ kiêu ngạo. Không biết mình. Và tệ nhất là không phục thiện để thay đổi.
Xin cho con biết khiêm nhường. Biết mình. Và mạnh dạn thay đổi. Theo lời Chúa dạy.
---------------------------------------
Dt 12,18-19.21-24; 1V 2,1-4.10-12; Mc 6,7-13
Đa-vít là vị vua đạo đức. Chúa hứa cho dòng dõi ông trường tồn. Vương quyền thuộc về nhà ông mãi mãi. Nếu con cháu ông đi trong đường lối của Chúa. Ý thức điều đó nên trước khi lìa đời Đa-vít kỹ lưỡng dặn dò Sa-lô-môn: “Hãy tuân giữ các huấn lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa của con, mà đi theo đường lối của Người, là giữ các giới răn, mệnh lệnh, luật pháp, và chỉ thị của Người, như đã ghi trong Luật Mô-sê. Như thế con sẽ thành công trong mọi việc con làm và trong mọi hướng con đi, và Đức Chúa sẽ thực hiện lời Người đã phán với cha rằng: “Nếu con cái ngươi sống cho phải đạo, là hết lòng hết dạ bước đi trung thực trước nhan Ta, thì ngươi sẽ không bao giờ thiếu người ngự trên ngai Ít-ra-en””(năm chẵn).
Lời hứa đó đã ứng nghiệm nơi Chúa Giê-su. Nhưng đã đổi mới. Chúa Giê-su thuộc dòng tộc Đa-vít. Nhưng khai mạc một vương quốc mới. Không phải vương quốc trần thế. Nhưng vương quốc trên trời. Không còn cai trị Ít-ra-en cũ với 12 chi tộc. Nhưng một dân mới đặt trên nền tảng 12 tông đồ. Không còn chiến đấu với các dân nước lân bang. Nhưng chiến đấu với thần ô uế, với quỉ dữ. Không còn giữ luật Mô-sê. Nhưng tuân giữ Lời Chúa. Không cậy dựa vào sức mạnh trần gian. Nhưng tin vào sức mạnh của Thiên Chúa. Không chỉ làm cho dân được an cư lạc nghiệp. Mà còn cho dân được an vui hạnh phúc. Nhưng để được làm dân trong vương quốc mới của Thiên Chúa, ta phải ăn năn sám hối. Từ bỏ lối sống cũ trong tội lỗi. Để sống đời sống mới trong ân sủng, thánh thiện. “Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh”.
Vương quyền của Chúa Giê-su bền vững muôn đời. Vương quyền Người nhận được vì đã đổ máu ký kết giao ước mới: “Máu đó kêu thấu trời còn mạnh thế hơn cả máu A-ben”. Ta được trở thành công dân mới. Sống trong “thành đô Thiên Chúa hằng sống, là Giê-ru-sa-lem trên trời”. Nơi đó ta không còn bị tà thần ám ảnh. Vì ta sống “với muôn vàn thiên sứ”. Nơi đó ta “tới cùng Thiên Chúa, Đấng xét xử mọi người, đến với linh hồn những người công chính đã được nên hoàn thiện”. Ta tới vương quốc hạnh phúc muôn đời: “Anh em đã tới dự hội vui, dự đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên trời”.
---------------------------------
Dt 13,1-8; Hc 47,2-11; Mc 6,14-20
Đa-vít và Hê-rô-đê là hai vị vua có nhiều điểm giống nhau. Đa-vít say mê sắc dục. Chiếm vợ của U-ri-gia. Lại còn giết chết U-ri-gia. Hê-rô-đê cũng say mê sắc dục. Chiếm đoạt bà Hê-rô-đi-a là vợ của Phi-líp-phê, anh vua.
Nhưng càng về sau hai vị vua càng khác biệt. Được Na-than nhắc nhở, Đa-vít tỉnh ngộ và ăn năn sám hối. Nhưng Hê-rô-đê chỉ lưỡng lự phân vân. Sau đó còn nghe lời tình nhân, giết chết Gio-an Tẩy giả.
Từ khi ăn năn sám hối, Đa-vít sống tốt lành thánh thiện. Luôn tuân phục thánh ý Thiên Chúa. Đặc biệt ông dùng tài ca nhạc, sáng tác ca tụng Thiên Chúa. “Với trọn cả tâm tình, ông hát lên những khúc thánh thi tỏ lòng yêu mến Đấng tạo thành ông”. Ông còn sắp đặt lễ nghi phượng tự cho long trọng. Vì thế “Đức Chúa đã xoá bỏ tội lỗi của ông và nâng cao uy thế ông luôn mãi” (năm chẵn).
Còn Hê-rô-đê vì lưỡng lự nên không những không tiến bộ mà ngày càng lún sâu vào tội ác. Nếu Đa-vít dùng đàn ca ca tụng Thiên Chúa, thì Hê-rô-đê bị đàn ca mê hoặc đến nỗi đưa ra những lời hứa nhẹ dạ. Nếu Đa-vít khiêm tốn nhận mình tội lỗi, thì Hê-rô-đê sĩ diện, lỡ hứa rồi, biết là nông nổi, nhưng không dám rút lại. Nếu Đa-vít nghe lời can gián, thì Hê-rô-đê giết người can ngăn mình phạm tội. Vì thế triều đại Đa-vít bền vững mãi mãi. Còn triều đại Hê-rô-đê mau chóng suy tàn.
Thư Do thái khuyên nhủ ta hãy noi những tấm gương ấy mà chọn một con đường tốt đẹp. “Anh em hãy nhớ đến những người lãnh đạo đã giảng lời Chúa cho anh em. Hãy nhìn xem cuộc đời họ kết thúc thế nào mà noi theo lòng tin của họ. Đức Giê-su Ki-tô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời”. Chúa vẫn thế. Thế cuộc đổi thay. Nhưng những nguyên tắc đạo đức ở trong thánh ý Chúa không hề thay đổi. Vẫn là kim chỉ nam đưa ta đến sự sống.
Xin cho con noi gương thánh vương Đa-vít. Biết sám hối tội lỗi. Và dành thời gian còn lại của đời sống đền bù lỗi lầm. Ca tụng tôn vinh Chúa.
-----------------------------------------
Dt 13, 15-17.20-21; 1V 3, 4-13; Mc 6, 30-34
Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành. Mục tử ban sự sống cho đoàn chiên. Sự Sống đến từ Lời Chúa. Vì Lời Chúa là Ngôi Lời, là chính Thiên Chúa. Chính vì thế khi thấy đám đông tất tưởi bơ vơ thì Chúa dậy dỗ họ. Chính vì thế mà dân chúng say mê nghe Lời Chúa đến quên ăn quên ngủ, quên cả đường về.
Con người là một tổng thể phức tạp với những khát vọng vô biên. Những con người, phương tiện, lý thuyết, tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội của loài người chẳng thể nào thỏa mãn được khát khao của con người. Từ xa xưa biết bao người nghĩ tưởng có thể giải quyết được mọi vấn đề trên thế giới, đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Nhưng tất cả đều chỉ là ảo tưởng, có khi còn tha hóa, hạ nhục con người. Thế kỷ 20 chứng kiến sự sụp đổ của hai lý thuyết lớn là Phát xít và Cộng sản. Hai lý thuyết này khi mới xuất hiện từng đưa ra ảo tưởng xây dựng thiên đường nơi trần thế. Nhưng 1 thế kỷ trôi qua, họ đã xây dựng những địa ngục trần gian với tất cả sự chết chóc qua 2 cuộc thế chiến, qua các trại học tập cải tạo. Sự nghèo đói. Và khủng khiếp hơn, sự suy thoái đạo đức. Tất cả chỉ là bánh vẽ. Tệ hơn nữa là những trái cây bên ngoài đẹp đẽ nhưng bên trong chứa thuốc độc chết người. Tất cả chỉ là những người chăn thuê bóc lột đoàn chiên cho lợi ích riêng tư.
Chỉ có Chúa là mục tử nhân lành. Chúa ban lương thực nuôi sống đoàn chiên. Lương thực đó không chỉ là vật chất. Nhưng còn là lương thực thiêng liêng. Dẫn con người đi trên đường ngay nẻo chính. Đến sự thật toàn vẹn. Đến sự sống muôn đời. Chính Chúa chịu chết để minh chứng điều đó. Thịt Máu Chúa trở thành lương thực nuôi đoàn chiên (năm lẻ). Đường Chúa đi trở thành con đường dẫn ta đến hạnh phúc thiên đàng. Chính vì thế Salomon không xin điều gì khác ngoài biết lắng nghe và biết theo Lời Chúa mà phân biệt phải trái. Vì thế ông trở thành người khôn ngoan nhất trong các kẻ khôn ngoan (năm chẵn).
Ta hãy noi gương dân chúng thời Chúa Giêsu. Hâm mộ tìm nghe Lời Chúa. Say mê suy niệm Lời Chúa. Và nhiệt thành thực hành Lời Chúa. Đó chính là Con Đường ngay thẳng. Đó chính là Sự Thật toàn vẹn. Đó chính là Sự Sống viên mãn. Sẽ lấp đầy mọi khát vọng thâm sâu của con người. Sẽ giải quyết mọi vấn đề của thế giới. Sẽ đem đến hạnh phúc cho nhân loại.
-----------------------------------
St 1, 1-19; 1V 8, 1-7.9-13; Mc 6, 53-56
Thuở tạo thiên lập địa, quyền năng Thiên Chúa trổi vượt và chiến thắng. Chiến thắng bóng tối để sáng tạo ánh sáng. Chiến thắng khối hỗn mang để tạo dựng vũ trụ nên hình dạng tốt xinh. Chiến thắng khoảng không vô định hình để làm nên trật tự lạ lùng. Chiến thắng lớn lao nhất là ban sự sống cho muôn loài. Sự sống là một chiến thắng kỳ diệu. Đó là món quà quí giá nhất. Thiên Chúa ban cho muôn loài được tham dự vào sự sống của Người (năm lẻ).
Thời Cựu ước, quyền năng của Người bày tỏ ra trong sự hiện diện uy nghiêm. Khói tỏa mịt mù trong lều hội ngộ. Sức mạnh phi thường của Hòm Bia khiến cả quân thù cũng phải khiếp sợ. Thực ra trong Hòm Bia không có gì. Chỉ có hai bia đá làm bằng chứng giao ước (năm chẵn).
Đến thời sau hết, loài người được diễm phúc chiêm ngưỡng Thiên Chúa bằng xương bằng thịt trong Chúa Giê-su Ki-tô. Đó là Thiên Chúa vẫn tràn đầy quyền năng phép tắc. Quyền năng phép tắc thậm chí còn mạnh mẽ hơn. Vì phải đối địch lại với ác thần. Cánh tay hùng mạnh của Ngài vẫn chiến thắng. Chiến thắng tội lỗi để tha thứ cho con người. Chiến thắng bệnh tật cho con người lành mạnh. Nhất là chiến thắng ác thần xua đuổi ma quỉ ra khỏi con người.
Nhưng còn hơn cả quyền năng phép tắc. Vì Thiên Chúa đến ở với con người, gần gũi con người. Con người có thể đụng chạm đến Người. Xưa kia Thiên Chúa uy nghi xa cách, con người chỉ “kính nhi viễn chi”. “Áo ngài mặc toàn oai phong lẫm liệt. Cẩm bào ngài khoác là muôn vàn ánh hào quang”. Nay thì con người có thể đụng đến gấu áo của Người. Và gấu áo tuy gần gũi nhưng vẫn có quyền năng chữa lành. Con người cảm thấy tình yêu thương của Chúa thật ấm áp. Chúa cảm thương. Chúa cầm tay người bệnh. Chúa vuốt ve vết thương của người bệnh phong. Chúa chúc lành trẻ em.
Xin cho con biết nối tiếp công trình của Chúa. Tiếp tục kiến tạo trần gian nên tốt đẹp. Tiếp tục bày tỏ quyền năng Chúa chống lại cái ác, cái xấu. Nhất là tiếp tục tình yêu thương của Chúa. Gần gũi những người đau yếu, bệnh tật, bị thần ô uế ám ảnh. Lạy Chúa, xin chiếu tỏa quyền năng của Chúa cho sự thiện hiển trị.
-----------------------------------
St 1,20-2,4a; 1V 8,22-23.27-30; Mc 7, 1-13
“Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình”. Thật trân trọng biết bao. Thật yêu thương biết bao. Nhưng cũng phải biết vị trí giới hạn. Dù được nâng lên hàng cao quí, con người cũng chỉ là bóng mãi mãi thuộc về hình. Hình có tồn tại thì bóng mới hiện hữu. Thiên Chúa như mặt trời tỏa ánh sáng. Con người chỉ như mặt trăng. Dù có đẹp đẽ sáng láng. Nhưng cũng chỉ sáng bằng ánh sáng mặt trời. Không có mặt trời mặt trăng chìm vào đêm tối (năm lẻ).
Nhưng con người không hiểu điều đó. Ngay từ khởi đầu bà Evà đã muốn thoát khỏi Thiên Chúa. Vì thế lâm vào khốn cùng. Các Pha-ri-sêu và Kinh sư cũng không hơn gì. Tuân giữ truyền thống của con người hơn tuân thủ Lời Chúa. Bóng muốn thoát khỏi hình sao được. Thế mà ở đây mặt trăng còn muốn lấn át mặt trời. Con người muốn lấn át Thiên Chúa khi đặt thói lệ của tiền nhân lên trên Lời Chúa dạy.
Thế giới hôm nay không khác gì. Người ta coi trọng con người hơn Thiên Chúa. Sợ hãi con người hơn Thiên Chúa. Chạy theo dư luận, lợi nhuận, chức quyền, danh vọng, và cả dục vọng. Nên phải chối từ Thiên Chúa. Con người muốn lấn át Thiên Chúa. Muốn tự mình trở thành mặt trời. Muốn điều hành cả vũ trụ lẫn Thiên Chúa. Vì thế lâm vào cảnh khốn cùng.
Hãy noi gương Sa-lo-môn, người khôn ngoan nhất trần đời. Khi xây xong ngôi đền thờ nguy nga tráng lệ, Sa-lo-mon đã nhận biết đền thờ chẳng xứng đáng với Thiên Chúa: “Này trời cao thăm thẳm còn không chứa nổi Ngài, huống chi ngôi nhà con đã xây đây”. Ngôi nhà không chứa đựng Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa ấp ủ ngôi nhà. Sa-lo-mon giầu sang tuyệt đỉnh, quyền uy ngập trời. Nhưng ông không dám trông nom Thiên Chúa. Trái lại ông cầu xin Thiên Chúa “xin Ngài để mắt nhìn đến ngôi nhà này đêm ngày”. Dù cao sang nhất trần đời nhưng ông không bao giờ dám ra lệnh cho Thiên Chúa. Trái lại ông luôn khiêm nhường cầu nguyện: “Xin Chúa đoái đến lời tôi tớ Chúa cầu xin khẩn nguyện, mà lắng nghe tiếng kêu cầu của tôi” (năm chẵn).
Con chỉ là bóng. Chính Chúa là hình. Xin cho con biết luôn đi theo Chúa, vâng nghe Lời Chúa, thực thi ý Chúa. Như bóng luôn đi theo hình. Có thế bóng mới tồn tại.
-----------------------------------------
St 2, 4b-9.15-17; 1V 10, 1-10; Mc 7, 14-23
Giáo huấn của Chúa thật sâu xa. Vừa theo luật tâm lý, giúp ta hiểu cặn kẽ con người, giúp đánh giá chính xác hành vi. Vừa đưa ra chuẩn mực về đời sống đạo đức. Chúa không nhìn bên ngoài nhưng nhìn vào đáy sâu tâm hồn. Chúa dạy ta sống không phải bằng hình thức bên ngoài nhưng bằng tâm tình phát xuất từ đáy lòng. Nên hôm nay Chúa đưa ra chỉ dẫn tuyệt đối: Mọi sự tốt xấu đều từ trái tim mà ra.
Thật vậy Chúa dựng nên mọi sự đều tốt đẹp. Xấu xa là từ lòng người. Mọi trái cây đều tốt. Nhưng vì bà E-và ăn với ý đồ đen tối: muốn trở nên bằng Chúa. Chính ý đồ đen tối đã tẩm nọc độc vào trái cây. Khiến gây nên đau khổ chết chóc cho loài người (năm lẻ).
Người làm sao chiêm bao làm vậy. Mọi sự đều nên tốt cho kẻ lành. Với kẻ có tâm hồn xấu xa thì mọi sự bên ngoài dù có tốt đẹp cũng trở thành xấu xa. Còn với người có tâm hồn tốt lành thì mọi sự bên ngoài dù có xấu xa cũng trở thành tốt đẹp. Ta hãy nhìn gương các thánh tử đạo. Vua chúa xấu xa bắt đạo. Các ngài bị hành hạ bằng những hình khổ đáng ghê tởm. Nhưng đối với các ngài tất cả là ơn phúc. Bị bắt bớ là dịp được gặp Chúa. Bị hành hình là được chia sẻ với đau khổ của Chúa. Chịu chết là được về với Chúa. Những gì xấu xa đã trở nên tốt lành. Vì tâm hồn các ngài tốt lành.
Trái tim quyết định tất cả. Sa-lo-mon khôn ngoan nhất trần đời vì ông nhìn thấu tâm can con người. Vì thế mà phân biệt được phải trái. Vì thế mà xét xử công minh (năm chẵn).
Trái tim quyết định tất cả. Người khôn ngoan sẽ lo thanh tẩy trái tim hơn rửa bên ngoài chén đĩa.
Trái tim quyết định tất cả. Sự xấu chỉ xâm nhập nếu tôi cho phép. Vì thế tôi kiên quyết không thỏa hiệp với cái xấu. Để mọi cử chỉ lời nói của tôi đều tốt lành.
-------------------------------------
St 2, 18-25; 1V 11, 4-13; Mc 7, 24-30
Thiên Chúa tạo dựng tất cả vì con người và cho con người. Đặt mọi vật dưới chân con người. Cho con người đặt tên cho mọi sinh vật. Theo quan niệm Do thái, đặt tên trên ai là có quyền trên người đó. Thấy con người vẫn chưa vui, Thiên Chúa tạo dựng nên phụ nữ để làm bạn ngang hàng với người nam. Thuở ban sơ mọi thứ đều đẹp đẽ, ổn định trong trật tự: Thiên Chúa – con người – vạn vật. Mọi loài thanh thản an vui vì sống trong tự do, trong Thiên Chúa. Nam nữ không là đối tượng để chiếm đoạt hay thống trị. Nhìn nhau với tâm hồn thiên thần. Nên không hề xấu hổ (năm lẻ).
Nhưng ma quỉ đến phá vỡ tình trạng bình an trong tự do. Trật tự bị đảo lộn. Con người không còn vâng phục Thiên Chúa. Vạn vật nổi loạn muốn thống trị nhau. Nam nữ trở thành đối tượng chiếm đoạt. Nhìn nhau với ánh mắt thèm muốn. Vì thế trở thành ngẫu tượng. Sa-lo-mon khôn ngoan là thế mà cũng rơi vào lầm lạc khi để cho dục vọng chi phối. Để cho phụ nữ điều khiển. Vì thế rơi vào tôn thờ ngẫu tượng. Vì thế mất hết ơn nghĩa với Thiên Chúa. Mất hết quyền trên vạn vật. Đang là con cái trong nhà được ngồi trên bàn ăn bỗng nhiên trở thành chó con phải ngồi dưới gầm bàn. Đang tự do trở thành nô lệ. Đang giầu có bỗng mất tất cả (năm chẵn).
Muốn chuộc lại phải có đức tin mạnh mẽ. Như người phụ nữ Ca-na-an. Vượt qua hết mọi chướng ngại. Từ bỏ tất cả để trở về với Chúa. Tin nhận Chúa trên hết. Tất cả chỉ là phụ thuộc. Kể cả bản thân cũng chỉ là chó con dưới gầm bàn. Chúa là tất cả. Chúa là tuyệt đối. Nhờ đó thân phận được phục hồi. Từ chó con dưới gầm bàn trở thành con cái trong nhà. Được đồng bàn với Thiên Chúa. Được hưởng mọi ơn lành Chúa ban. Khi trật tự được vãn hồi, bình an trở lại. Ma quỉ phải ra đi. Bệnh tật chấm dứt. Và Thiên Chúa ngự trị.
--------------------------------------
St 3, 1-8; 1V 11, 29-32; 12, 19; Mc 7, 31-37
Con người có tương giao. Nhưng không phải tương giao nào cũng tốt. Vì thế tâm hồn cần có cánh cửa để đóng mở hợp lý. Mở ra với những tương giao tốt đẹp làm phong phú bản thân. Đóng lại với những tương giao nguy hiểm để bảo toàn tâm hồn.
Bà E-và không đóng mở hợp lý. Bà mở ra với loài rắn độc nguy hiểm. Bà lắng nghe những lời phỉnh nịnh đường mật. Bà mở sang thế giới tội lỗi. Nên thấy mình thật xấu xa. Khi mở sang thế giới ma quỉ, bà đóng lại tương giao với Thiên Chúa. Đóng lại cánh cửa ân phúc. Cắt đứt mối tình cha con. Và trốn tránh Thiên Chúa. Trốn tránh cả tha nhân bằng che phủ mình đi. Khi còn tương giao tốt đẹp với Thiên Chúa bà tự do và thành thực. Đến với Chúa và tha nhân làm phong phú và tươi đẹp nên không cần che giấu. Nhưng khi đóng chặt tâm hồn bà chìm trong tội lỗi. Thấy mình thật nghèo nàn nhơ uế. Không dám gặp gỡ. Trốn trong bụi rậm. Không còn chân thực. Nên phải che giấu (năm lẻ).
Đó cũng là trường hợp của Sa-lo-mon.Khi còn tương giao tốt đẹp với Thiên Chúa và toàn dân ông càng thêm phong phú. Nhưng khi đóng lại với Thiên Chúa ông trở nên nghèo nàn. Càng chiếm hữu thêm dục vọng và tà thần càng thấy trống rỗng, nghèo túng và khô cằn. Ông giống như manh áo rách. Ông đánh mất đất nước. Đánh mất dân chúng (năm chẵn).
Chúa Giê-su đến mở ra cánh cửa tâm hồn. E-pha-ta. Chúa đóng kín cánh cửa xấu xa. Giam kín ma quỉ và dục vọng. Để con người mở ra tiếp xúc với Thiên Chúa và tha nhân. Để lắng nghe và trao đổi. Để làm cho tâm hồn phong phú. Tương giao với Thiên Chúa là tương giao thân tình và quan tâm chăm sóc. Hãy chiêm ngắm Chúa “đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh”. Thật là thân tình. Thật là quan tâm chăm sóc. Cảnh tượng này gợi nhớ đến thuở tạo dựng Thiên Chúa nặn nên con người, thổi hơi vào lỗ mũi, ban sự sống cho con người. Hôm nay Chúa Giê-su ban sự sống mới. Sự sống trong tương giao. Con người mở ra để gặp gỡ Thiên Chúa và đồng loại. Để cho đi và lãnh nhận trong một trao đổi phong phú. Để dứt khoát với thái độ đóng kín vào bản thân đầy nghèo nàn, tù túng và tàn lụi. Để mở ra trong một đời sống mới phong phú, tự do và triển nở.
--------------------------------------
St 3, 9-24; 1V 12, 26-32; 13, 33-34; Mc 8, 1-10
Ăn trái cấm, nguyên tổ thỏa mãn dục vọng. Nhưng lại bắt đầu những cơn đói khát. Đói khát sự hợp nhất. Tưởng rằng có tất cả nhưng bây giờ mất tất cả. Chia rẽ giữa con người với Thiên Chúa. Chia rẽ giữa con người với tạo vật. Chia rẽ giữa con người với nhau. Một cuộc trốn chạy Thiên Chúa. Đổ lỗi cho nhau và cho con rắn. Đói khát tình yêu. Không còn khả năng yêu mến Thiên Chúa. Nên phải ẩn trốn. Không còn tự nhiên yêu mến nhau vì tình yêu đã biến thành dục vọng thèm khát. Không còn yêu mến thiên nhiên vì đã có mối thù với con rắn. Đói khát hạnh phúc. Con người đánh mất hạnh phúc. Không còn thoải mái với chính mình. Phải lấy lá che thân cho khỏi xấu hổ. Hạnh phúc được ở với Thiên Chúa trở thành hình phạt giày vò. Hạnh phúc với thiên nhiên trở thành lời kết án. Hạnh phúc vợ chồng trở thành nỗi thèm khát. Hạnh phúc có con cái trở thành đau khổ. Hạnh phúc lao động trở thành án phạt vất vả. Đói khát sự sống. Trên hết là đánh mất sự sống. Bị đuổi ra khỏi vườn E-đen. Bị cấm đến gần cây trường sinh. Con người giờ đây đói khát sự sống. Nhưng cái chết cứ rình rập. Và nỗi sợ hãi cái chết trở thành một ách nô lệ đè nặng lên kiếp người (năm lẻ).
Đó là số phận của ông bà nguyên tổ. Đó cũng là số phận của vương quốc Israel. Gia-róp-am đói khát quyền lực. Nhưng khi vun đắp quyền lực bằng quay lưng lại với Chúa ông đánh mất tất cả. Và ông mau chóng đánh mất quyền lực. Vương quốc Israel mau chóng sụp đổ (năm chẵn).
Trái lại những người đói khát Lời Chúa lại được no đầy. Họ bỏ nhà cửa, công ăn việc làm, bỏ cả ăn uống nghỉ ngơi, để được gần Chúa và nghe Lời Chúa. Nên họ được tất cả. Chúa là nguồn mạch hợp nhất. Họ được kết hợp với Chúa, kết hợp với nhau và kết hợp với thiên nhiên vạn vật. Chúa là nguồn mạch tình yêu thương. Ở bên Chúa họ được tình yêu mến Chúa, yêu mến nhau và yêu mến mọi người. Cụ thể tỉnh yêu được tỏ lộ qua Lời Chúa giảng dậy, qua sự thân mật thân tình và qua sự quan tâm chăm sóc của Chúa. Chúa là hạnh phúc nên họ ngập tràn hạnh phúc đến quên ăn quên ngủ quên cả đường về. Ta thấy giống như thánh Phêrô trên núi Tabor. Họ được no thỏa sự sống. Vì họ được nuôi dưỡng bằng bánh hằng sống. Bên Chúa họ cảm thấy sự sống thật. Sự sống viên mãn. Họ được no thỏa. Đói trần gian. No thiên đàng.
---------------------------------
St 4,1-15.25; Gc 1,1-11; Mc 8,11-13
Chúa Giê-su buồn và than phiền về thế hệ này. Họ chỉ đòi dấu lạ. Nhưng không có đức tin. Có đức tin thì không cần dấu lạ. Không có đức tin thì dấu lạ cũng vô ích. Nên Chúa quyết định: “Thế hệ này sẽ không được một dấu lạ nào cả. Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền qua bờ bên kia”. Chúa Giê-su bỏ họ lại đó với sự cứng lòng chết chóc của họ. Chúa sang bờ bên kia của đức tin. Chỉ có đức tin mới nối kết được con người với Thiên Chúa.
Nhưng đức tin luôn gặp thử thách vì những khó khăn trong đời sống. Những thử thách Chúa gửi đến có mục đích thanh luyện đức tin, kiểm nghiệm đức tin và ban thưởng đức tin.
Người có đức tin có Thiên Chúa ở cùng. Nên vui tươi trong mọi hoàn cảnh. Vui tươi khi gặp khốn khó. “Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn”. Vui tươi chấp nhận mọi thăng trầm thành bại trong đời. Vì biết rằng mọi sự mau qua. “Người anh em phận hèn hãy tự hào khi được Chúa nâng lên; còn người giầu có hãy tự hào khi bị Chúa hạ xuống, vì họ sẽ qua đi như hoa cỏ”. Vì thế người có đức tin không do dự. Luôn cầu xin ơn khôn ngoan để biết phân định trong đời sống. Nhờ đó sống trung tín trong mọi hoàn cảnh. Luôn trung tín (năm chẵn).
Người không có đức tin sống như không có Chúa. Ca-in giết em, tưởng Chúa không biết. Nên chối “Con không biết. Con là người giữ em con hay sao?”. Không có đức tin nên không chiến đấu để vượt qua cám dỗ. Dù đã được cảnh báo: “Nếu ngươi hành động không tốt, thì tội lỗi đang nằm phục ở cửa, nó thèm muốn người; nhưng ngươi phải chế ngự nó”. Không chế ngự được mình. Không có đức tin. Nên Ca-in sống trong buồn rầu, thất vọng. “Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em ngươi, ... Ngươi có canh tác đất đai, nó cũng không còn cho ngươi hoa màu của nó nữa” (năm lẻ).
Đức tin như thế là một cuộc vượt qua. Vượt qua những gì khả giác để thấy thế giới siêu nhiên. Vượt qua những giá trị mau qua để chiếm được vương quốc vĩnh cửu. Vượt qua được những cám dỗ rình rập. Vượt qua chính mình để đạt tới Chúa.
---------------------------------
St 6,5-8 ; 7,1-5.10; Gc 1,12-18; Mc 8,14-21
Men kích thước rất nhỏ. Nhưng tác dụng rất lớn. Chỉ một nắm men nhỏ cũng làm dậy lên cả thúng bột. Có men tốt. Nhưng cũng có men xấu. Vì thế Chúa dạy các tông đồ: “Anh em phải coi chừng, phải đề phòng men Pha-ri-sêu và men Hê-rô-đê”. Đừng nhiễm một chút nào những thói xấu của họ.
Men Pha-ri-sêu là thói giả hình. Bề ngoài đạo đức. Nhưng bên trong xấu xa. Như mồ mả tô vôi. Là thói kiêu ngạo. Tự cho mình là công chính. Khinh miệt người khác. Là thói duy luật. Thờ kính Chúa bằng môi miệng. Nhưng lòng dạ thì xa Chúa. Câu nệ lề luật. Nên tàn nhẫn với tha nhân.
Men Hê-rô-đê là thói ham quyền. Dùng nhiều thủ đoạn để chiếm ngai vàng. Là thói ham hưởng thụ. Vì sắc dục mà làm điều phi luân. Say sưa yến tiệc và sắc đẹp. Nên bốc đồng hứa quàng. Là thói bất công. Sẵn sàng đàn áp, giết chóc. Cướp vợ của anh trai. Giết hàng loạt hài nhi vô tội. Giết cả vị tiên tri đáng kính.
Men thói đời rất nguy hiểm. Nó làn tràn khắp nơi. Như thời No-e. Khiến Chúa buồn phiền hối hận. “Đức Chúa thấy rằng trên mặt đất sự gian ác của con người quả là nhiều, và suốt ngày lòng nó chỉ toan tính những ý định xấu. Đức Chúa hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất, và Người buồn rầu trong lòng”. Và quyết định rửa sạch trái đất. Chỉ mình No-e, nhờ không nhiễm thói đời, nên được Chúa cứu thoát. “Người hãy vào tàu, ngươi và cả nhà ngươi, vì Ta chỉ thấy ngươi là người công chính trước nhan Ta trong thế hệ này” (năm lẻ).
Cám dỗ là một hạt men nhỏ. Phát triển trong dục vọng. Tàn phá trong cái chết. “Nhưng mỗi người có bị cám dỗ, là do dục vọng của mình … Rồi một khi dục vọng đã cưu mang thì đẻ ra tội; còn tội khi đã phạm rồi, thì sinh ra cái chết”. Vì thế thánh Gia-cô-bê khuyên nhủ ta hãy kiên trì chiến đấu chống lại men cám dỗ. “Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách, vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lãnh phần thưởng là sự sống Chúa đã hứa ban cho những ai yêu mến Người” (năm chẵn).
Phải có phân định chính xác. Vì men rất tinh vi. Phải có thanh luyện liên tục. Vì men rất dễ nhiễm. Phải quyết liệt. Vì nếu nhân nhượng sẽ dẫn đến cái chết.
---------------------------------------
St 8, 6-13.20-22; Gc 1, 19-27; Mc 8, 22-26
Việc Chúa chữa anh mù thật kỳ công. Đưa anh riêng ra khỏi làng. Trộn bùn và nước bọt. Xức vào mắt anh. Cử chỉ này khiến ta liên tưởng cảnh sáng tạo con người. Thiên Chúa lấy bùn đất nặn nên con người. Thổi hơi vào lỗ mũi. Và con người có sự sống.
Anh mù chưa bao giờ nhìn thấy ánh sáng. Chưa bao giờ nhìn thấy thế giới. Hôm nay là lần đầu tiên anh thấy ánh sáng và anh thấy thế giới. Anh được thực sự có sự sống. Anh được tái tạo.
Nhưng ánh sáng trong anh tiệm tiến. Khởi đầu anh thấy lờ mờ. Sau này mới thấy rõ ràng. Ánh sáng chói lọi nhất là anh nhận biết Chúa là sự sáng. Và là sự sống. Anh sống trong một thế giới mới. Thế giới tự nhiên rực rỡ chan hoà ánh sáng. Và hơn nữa thế giới siêu nhiên trong Thiên Chúa tươi sáng hơn bội phần.
Tổ phụ No-e cũng đã có thứ ánh sáng đó. Bốn mươi ngày chìm trong bóng tối. Mưa gió đen tối. Cửa tầu đóng kín trong tăm tối. Chỉ khi chim bồ câu tha nhành ô-liu về tổ phụ mới thấy ánh sáng. Ánh sáng là trái đất có sự sống. Đây là sự sống mới. Tất cả sự sống cũ đã bị huỷ diệt. Tổ phụ tràn đầy niềm vui vì được sinh lại. Được sống một đời sống mới. Bắt đầu một thế giới mới. Tổ phụ ý thức sâu xa chính Thiên Chúa là ánh sáng ban sự sống. Trong thế giới mới được tái tạo, No-ê trở thành tổ phụ mới. Của mọi sự sống trên thế giới mới. Đó là năm 601. Và đó là tháng thứ nhất. Bắt đầu một lịch sử mới. Lịch sử đó do Thiên Chúa làm chủ. Nên No-e đã dâng lễ vật cho Chúa để tạ ơn và bắt đầu một thời kỳ mới. Thời kỳ của lòng thương xót. Vì Chúa sẽ không bao giờ trừng phạt thẳng tay như thế nữa (năm lẻ).
No-e sở dĩ tồn tại và trở thành tổ phụ cho thời kỳ mới vì ông không nói năng gì. Chỉ nghe và tuân giữ Lời Chúa truyền. Đó là điều thánh Gia-cô-bê dạy ta. Đừng ham nói. Hãy nghe. Và thực hành Lời Chúa. Nghe Lời Chúa mới chỉ hiểu biết lờ mờ. Như anh mù nhìn thấy người ta như cây cối đi đi lại lại. Chỉ tuân giữ Lời Chúa mới nhìn thấy rõ ràng. Vì hiểu biết thực sự về Chúa. Về vũ trụ. Về con người. Và về bản thân. Nghe và giữ Lời Chúa sẽ biến ta nên con người mới. Giúp ta xây dựng thế giới mới. Hài hoà. Yêu thương. Đức hạnh (năm chẵn).
----------------------------------
St 9,1-13; Gc 2,1-9; Mc 8,27-33
Sau cơn đại hồng thuỷ, Chúa xót xa khi thấy con người bị tiêu diệt, cỏ cây và súc vật biến mất khỏi địa cầu. Cả một cảnh tượng tang thương chết chóc. Chúa chạnh lòng thương. Nên ra lệnh bảo vệ vũ trụ. Truyền con người phải sinh sản cho lan tràn trên mặt đất. Cấm đổ máu con người. và thật cảm động. Chúa ký kết giao ước với cả vũ trụ. Không chỉ với con người. Mà còn với cả súc vật cỏ cây. “Đây ta lập giao ước của Ta với các ngươi, vói dòng dõi các ngươi sau này, và tất cả mọi sinh vật ở với các ngươi: chim chóc, gia súc, dã thú ở với các ngươi, nghĩa là mọi vật ở trong tầu đi ra, kể cả dã thú”. Ký kết chưa đủ. Chúa còn thề hứa: “Đây là dấu hiệu giao ước Ta đặt giữa Ta với các ngươi, và với mọi sinh vật ở với các ngươi, cho đến muôn thế hệ mai sau…” (năm lẻ).
Lòng Thương Xót của Thiên Chúa lên đến cực điểm. Vào thời cuối cùng, Thiên Chúa không trừng phạt con người khi con người tội lỗi. Nhưng lại sai chính Con Một xuống trần chết thay cho loài người. Đền tội con người. Cứu sống con người. Ôi lòng Thiên Chúa bao la ai nào hiểu thấu! Tình thương yêu của Thiên Chúa cao sâu ai nào dò thấu!. Lòng Thương Xót của Thiên Chúa vượt mọi hiểu biết, tính toán, lô-gích của con người. Để bảo vệ sự sống của con người. Con Chúa phải chịu chết. Để cứu sống con người, Con Chúa phải chịu trừng phạt. Vì thế Phê-rô khuyên can liền bị Chúa trách mắng nặng lời: “Xa-tan! Lui ra đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Theien Chúa, mà là của loài người”.
Vì Thiên Chúa quá yêu thương mọi người. Yêu thương cả súc vật cỏ cây. Nên ta cũng phải có tấm lòng của Chúa. Yêu thương mọi người mọi vật. Vì Thiên Chúa trân trọng sự sống của cả con người lẫn súc vật cỏ cây. Nên ta cũng phải trân trọng con người. Không phân biệt giầu nghèo. Vì ‘Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời, để họ trở nên người giầu đức tin và thừa hưởng vương quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người hay sao?” (năm chẵn).
Xin cho con có tấm lòng của Chúa. Để con yêu thương mọi người, kính trọng mọi người. Trân trọng cả thiên nhiên, súc vật, cỏ cây. Xin cho con có tư tưởng của Chúa. Để con đi vào con đường của Chúa. Hiến thân. Phục vụ. Quên mình.
-------------------------------------
St 11,1-9; Gc 2,14-24.26; Mc 8,34 – 9,1
Nền tảng của đức tin là Chúa. Tin Chúa là tất cả. Đó phải là chân lý điều hướng cả con người và cuộc đời chúng ta. Vì thế tin là phó thác toàn thân cho Chúa. Chỉ đi tìm Chúa. Để đạt tới cùng đích là chiếm hữu được Chúa. Được sự sống đời đời. Một niềm tin chân chính phải biến thành hành động.
Trước hết phải từ bỏ thế giới này. Thế giới này là vật chất. Ta phải tìm những gì cao hơn vật chất. Thế giới này là chóng qua. Ta phải tìm điều vĩnh cửu. Thế giới này là thung lũng nước mắt. Ta phải tìm hạnh phúc đích thực. Thế giới này sẽ chết. Ta phải tìm sự sống đời đời. Như Lời Chúa dạy: “Được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống mình, thì người ta nào có lợi gì ? Quả thật, người ta lấy gì mà đổi lại mạng sống mình”?
Còn sâu xa hơn nữa, phải từ bỏ chính mình: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Cái tôi luôn chống lại Chúa. Muốn được Chúa phải từ bỏ cái tôi. Để Chúa chiếm hữu tôi. Tôi sẽ chiếm được Chúa: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.
Về đức tin chúng ta phải noi gương tổ phụ Áp-ra-ham. Đó là một đức tin sống động. Dám từ bỏ cả cuộc đời. Dám hi sinh cả đứa con duy nhất. Chỉ cần Chúa. Chỉ đạt tới Chúa là đủ. Đó là đức tin có việc làm. Là đức tin hoàn hảo. “Bạn thấy đó: đức tin hợp tác với hành động của ông, và nhờ hành động mà đức tin nên hoàn hảo. Như thế ứng nghiệm lời Kinh Thánh đã chép: Ông Áp-ra-ham tin Thiên Chúa, và vì thế Thiên Chúa kể ông là người công chính…. Thật thế, đức tin không có hành động là đức tin chết” (năm chẵn).
Khi có đức tin như thế, con người sẽ hợp nhất với chính mình, với nhau. Và tất cả qui về Thiên Chúa. Khi không có đức tin, con người tự phân hoá. Trong bản thân có nhiều mâu thuẫn. Trong xã hội có nhiều tranh chấp. Và thế giới phân hoá. Đó chính là hậu quả của tháp Ba-ben. Con người kiêu ngạo muốn chống lại Chúa, sẽ chống lại nhau. “Bởi vậy, người ta đặt tên cho thành ấy là Ba-ben, vì tại đó, Đức Chúa đã làm xác trộn tiếng nói cua rmoij người trên mặt đất, và cũng từ chỗ đó, Đức Chúa đã phân tán họ ra khắp nơi trên mặt đất”. Phải chăng Ba-ben là Ba-by-lon, đại diện thế lực trần gian chống lại Thiên Chúa? (năm lẻ).
-----------------------------
Dt 11,1-7; Gc 3,1-10; Mc 9,2-13
Thư Do thái khẳng định: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy”. Ta tin tưởng vì Lời Chúa hoàn toàn chân thực và quyền năng.
Ta hi vọng tin tưởng, vì Lời Chúa sáng tạo vũ trụ. Vì thế Thiên Chúa là Chúa Tể Càn Khôn. Nơi Người tràn đầy sức sống, tình yêu và hạnh phúc. Đó chính là điều nhiều vị thánh đã được chứng nghiệm. Mô-sê trên đỉnh Xi-nai khói lửa mịt mù. I-sa-i-a trong thánh điện rực rỡ vinh quang. Hôm nay các môn đệ trên đỉnh núi Ta-bo. “Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy”. Đó chỉ là cố gắng diễn tả. Ngôn ngữ trần gian không tài nào tả hết cảnh huy hoàng lộng lẫy của thiên đình. Càng không thể diễn tả hết niềm hạnh phúc tâm hồn cảm thấy. Phê-rô mê mẩn thưa rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay!”..Thật ra ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng”. Không thể diễn tả. Nhưng thật đáng mơ ước. Kinh hoàng vì vượt quá sức loài người. Nhưng hạnh phúc vì đạt tới niềm vui khôn tả. Đó là niềm hi vọng có thật. Hoàn toàn vững chắc. Bảo chứng muôn đời.
Ta hi vọng tin tưởng, vì Lời Chúa dẫn đường chỉ lối cho ta đạt tới hạnh phúc Chúa hứa: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. Các tổ phụ đã có đức tin lớn lao nên đã vâng nghe Lời Chúa. Và đạt tới lời Chúa hứa. “Nhờ tin…, ông A-ban đã được chứng nhận là người công chính…Ông Kha-nốc ..khỏi chết…vì đã làm đẹp lòng Thiên Chúa. Mà không có đức tin, thì không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa…Nhờ đức tin, ông Nô-ê …cứu được gia đình ông. Tin như thế là ông đã lên án thế gian, và được phần gia nghiệp là sự công chính nhờ đức tin” (năm lẻ).
Ta hi vọng tin tưởng, vì Lời Chúa chân thật xứng đáng cho ta tin cậy. Lời thế gian thường gian dối. Nó phát xuất từ cái lưỡi “làm cho toàn thân bị ô nhiễm, đốt cháy bánh xe cuộc đời, vì chính nó bị lửa hoả ngục đốt cháy….Cái lưỡi thì không ai chế ngự được: nó là sự dữ không bao giờ ở yên, vì nó chứa đầy nọc độc giết người”. Vì thế thánh Gia-cô-bê khuyên nhủ ta hãy biết dùng lời mà nói những lời thánh thiện và chân thật. Đó là phải “dùng lưỡi mà chúc tụng Chúa là Cha chúng ta”. Đã tin vào Lời Chúa, ta phải luôn nói lời chân thật “Ai không vấp ngã về lời nói, ấy là người hoàn hảo” (năm chẵn).
-------------------------------
Hc 1,1-10; Gc 3,13-18; Mc 9,14-29
Chỉ có một sự khôn ngoan đích thực. Đó là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa là chính sự khôn ngoan. Sự khôn ngoan cao vượt đất trời, thống trị vũ trụ muôn loài. “Tất cả sự khôn ngoan đều phát xuất từ Đức Chúa, và khôn ngoan vẫn ở với Người đến muôn đời…Trời cao đất rộng vực sâu và sự khôn ngoan, ai dò cho thấu?...Chỉ có một Đấng Khôn Ngoan rất đáng sợ, ngự trên ngai của Người. Đó chính là Đức Chúa”. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu ban sự sống. “Người rộng ban khôn ngoan cho những ai yêu mến Người” (năm lẻ)
Thánh Gia-cô-bê cho biết sự khôn ngoan đích thực phát xuất từ Thiên Chúa. Và làm những điều tốt đẹp. “Người ấy hãy dùng lối sống tốt đẹp mà chứng tỏ rằng: những hành động của họ phát xuất từ lòng hiền hậu và đức khôn ngoan”. Trái lại sự khôn ngoan phát xuất từ thế gian thì làm những việc xấu xa. Gây ra chia rẽ, bất hoà. “Nhưng nếu trong lòng anh em có sự ghen tương, chua chát và tranh chấp, thì anh em đừng có tự cao tự đại mà nói dối, trái với sự thật. Sự khôn ngoan đó không phải từ trời cao ban xuống, nhưng là sự khôn ngoan của thế gian, của con người tự nhiên, của ma quỷ”. Sự khôn ngoan của ma quỷ đưa đến ghen ghét. Ghen ghét dẫn đến chết chóc. Còn sự khôn ngoan từ Thiên Chúa là yêu thương. Dẫn đến sự sống (năm chẵn).
Ma quỷ luôn luôn muốn dùng sự khôn ngoan đen tối ác độc để khống chế con người. Muốn thống trị thế giới. Bằng sự sợ hãi. Bằng nô lệ. Bằng bệnh tật. Bằng cái chết. Ma quỷ luôn muốn giết chết con người. “Nhiều khi quỷ xô nó vào lửa hoặc đẩy xuống nước cho nó chết”. Con người không sao thoát ra khỏi thế lực của ma quỷ. Nói gì đến kháng cự. “Tôi đã nói với các môn đệ Thầy để họ trừ tên quỷ đó, nhưng các ông không làm nổi”. Vâng sức con người không thể chống lại ma quỷ. Phải có sức mạnh của Thiên Chúa. Muốn có sức mạnh của Thiên Chúa cần hai điều kiện. Người bệnh cần có lòng tin “Mọi sự đều có thể dối với người tin”. Người trừ quỷ cần cầu nguyện. “Giống quỷ ấy, chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi”. Tin để Chúa hành động. Và cầu nguyện để có sức mạnh của Chúa. Chỉ khi sự khôn ngoan của Thiên Chúa đến mới đẩy lui được sự khôn ngoan của ma quỷ.
------------------------------------
Hc 2,1-11; Gc 4,1-10; Mc 9,30-37
Thiên Chúa và thế gian. Hai nẻo đường. Thế gian chiều theo dục vọng. Ham muốn. Khoái lạc. Tiền tài. Danh vọng. Chức quyền. Tất cả dẫn đến xung đột. Từ ngay trong bản thân. Tranh chấp với tha nhân. Bất hoà bất ổn trong xã hội. “Thật vậy, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau”. Theo thế gian là chống lại Thiên Chúa. Vì thế gian đi đến kiêu ngạo. Thiên Chúa dẫn đến khiêm nhường. “Anh em hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa và Người sẽ cất nhắc anh em lên” (năm chẵn).
Người đi theo đường của Thiên Chúa chống lại thế gian chắc chắn sẽ gặp nhiều thử thách. “Con ơi, nếu con muốn dấn thân phụng sự Đức Chúa, thì con hãy chuẩn bị tâm hồn để đón chịu thử thách… Vì vàng phải được tôi luyện trong lửa, còn những người sáng giá thì phải được thử trong lò ô nhục”. Nhưng nếu ta kiên trì Chúa sẽ đến cứu giúp ta “Hãy tin vào Người, thì Người sẽ nâng đỡ con. Đường con đi, hãy giữ cho ngay thẳng và trông cậy vào Người….Vì Đức Chúa là Đấng nhân từ và hay thương xót: Người thứ tha tội lỗi và cứu vớt trong lúc gian truân” (năm lẻ).
Chính Chúa Giê-su xuống thế làm người nêu cho ta tấm gương luôn tìm thánh ý Chúa Cha. Đi vào con đường khiêm nhường phục vụ. Vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết Người sẽ sống lại”.
Các môn đệ của Chúa còn nặng thói thế gian. Nên “khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả”. Chúa Giê-su dạy các môn đệ hãy từ bỏ thói thế gian. Đi vào con đường của Chúa. Đường của Chúa ngược hẳn với đường thế gian: “Ai muốn đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. Khiêm nhường sẽ dẫn đến hạ mình. Yêu thích những điều hèn mọn và những người bé nhỏ. Con đường ấy dẫn đến Thiên Chúa. “Rồi Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”.
Xin cho con biết chọn đi vào con đường của Chúa. Để con đạt tới chính Chúa.
--------------------------------
Hc 4,11-19; Gc 4,13-17; Mc 9,38-40
Con người nơi nào thời nào cũng mơ ước được khôn ngoan. Sách Huấn ca hôm nay cho thấy: Khôn ngoan làm cho con người nên cao trọng. Được sự sống. Được vinh quang. Người khôn ngoan sẽ lãnh đạo người khác. Dòng dõi sẽ trường tồn. Tuy nhiên để đạt tới khôn ngoan phải qua một cuộc thử luyện: “Vì ban đầu, khôn ngoan sẽ đồng hành với họ qua nẻo đường quanh co, giáng xuống trên họ hãi hùng run rẩy, và dùng kỷ luật của mình mà tôi luyện bao lâu chưa tin tưởng họ được,; rồi lại thử thách họ qua những phán quyết của mình” (năm lẻ).
Thánh Gia-cô-bê cho biết khôn ngoan chính là người biết từ bỏ ý mình để làm theo ý Chúa. Chúa làm chủ muôn vật muôn loài. Làm chủ cuộc đời chúng ta. Làm chủ cả linh hồn. Cả thân xác. Cả trí tuệ. Cả tài năng. Cả chương trình. Cả thời gian. Vì thế đừng tự mình toan tính gì. Khôn ngoan chính là biết tìm ý Chúa. Làm mọi sự theo ý Chúa. Muốn những gì Chúa muốn. Để Chúa điều khiển cuộc đời. “Thật vậy, các người chỉ là hơi nước xuất hiện trong giây lát, rồi lại tan biến đi. Thay vì nói: “Nếu Chúa muốn, chúng ta sẽ sống và làm điều nọ điều kia”, thì các người lại tự phụ vì những chuyện khoác lác của mình. Mọi thứ tự phụ như thế đều xấu” (năm chẵn).
Chúa Giê-su dạy ta biết khôn ngoan là đừng tìm theo ý mình. Chỉ làm vinh danh Thiên Chúa. Các tông đồ thiếu khôn ngoan. Vì bị tính tự ái, phe nhóm, độc quyền chi phối. Chỉ tìm thoả mãn tự ái của mình. Muốn độc quyền thuộc về Chúa và làm chứng về Chúa. Vì thế mà khép kín. Ích kỷ. Nghĩ cho bản thân. Không nghĩ cho Chúa. Cho Nước Chúa. Hẹp hòi. Không chịu mở rộng cánh cửa. Càng không mở rộng tâm hồn. Chúa đã chỉnh đốn các ông. Hãy khôn ngoan. Tìm ý Chúa chứ đừng tìm ý riêng. Tìm đồng thuận chứ đừng tìm đối nghịch. Tìm điểm chung chứ đừng tìm điểm riêng. Tìm hài hoà chứ đừng tìm khác biệt. Tìm hợp nhất chứ đừng tìm chia rẽ. “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”. Thật đơn sơ biết bao. Mà thâm sâu biết bao. Rộng mở. Mà khôn ngoan.
Lạy Chúa, xin ban cho con đức khôn ngoan. Để con biết phục vụ Chúa.
----------------------------------
Hc 5,1-8; Gc 5,1-6; Mc 9,41-50
Cần biết phân biệt mục đích và phương tiện. Vì phương tiện là để sử dụng. Mục đích là để đạt tới. Phải dùng phương tiện để đạt tới mục đích. Không phải ngược lại. Đừng vì tiếc phương tiện mà để lỡ mục đích. Đừng dừng lại phương tiện. Nếu phương tiện cản trở. Phải mạnh dạn gạt bỏ. Để đạt tới mục đích.
Đời sau là mục đích. Đời này là phương tiện. Linh hồn là mục đích. Thân xác là phương tiện. Phải biết dùng đời này để đạt được đời sau. Phải biết dùng thân xác để đạt tới linh hồn. Hi sinh đời này sẽ đạt được đời sau. Hi sinh một phần thân thể, kể cả mạng sống, sẽ đạt được Nước Trời. “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt”.
Vì thế đừng cậy vào của cải. Đừng chiều theo dục vọng. Tất cả đều chóng qua. Phải mau sám hối. Đừng đợi đến lúc Chúa nổi lôi đình. Sẽ kinh khủng. Và không còn kịp nữa. “Đừng trì hoãn, hãy trở về với đức Chúa đi; đừng lần lữa hết ngày này qua ngày khác, vì thình lình Đức Chúa sẽ nổi cơn thịnh nộ, và trong thời trừng phạt, con sẽ phải tiêu vong. Đừng cậy dựa vào của cải bất chính, vì điều đó chẳng ích gì cho con ngày con gặp bất hạnh” (năm lẻ).
Của cải là phương tiện chứ không phải mục đích. Của cải để sử dụng chứ không phải để tích trữ. Nếu không biết dùng của cải sẽ là bằng chứng tố cáo. Nhất là đừng chiếm đoạt của cải cách bất công. Bất công sẽ bị kết án. Bấy giờ sẽ phải than van khóc lóc. “Giờ đây, hỡi những kẻ giầu có, các người hãy than van rên rỉ về những tai hoạ sắp đổ xuống trên đầu các người….Vàng bạc của các ngươi đã bị rỉ sét; và chính rỉ sét ấy là bằng chứng buộc tội các người…Các người đã gian lận mà giữ lại tiền lương của những thợ đi cắt lúa trong ruộng của các người. Kìa, tiền lương ấy đang kêu lên oán trách các người, và tiếng kêu của những thợ gặt ấy đã thấu đến tai Chúa các đạo binh” (năm chẵn).
Đừng vì thân xác mà mất linh hồn. Đừng vì vật chất mà mất Nước Trời. Hãy hi sinh thân xác để được linh hồn. Hãy quảng đại chia sẻ tài sản. Để mua lấy Nước Trời. Đó là thái độ khôn ngoan cần thiết.
-----------------------------
Hc 6,5-17; Gc 5,9-12; Mc 10,1-12
Trung tín là một phẩm chất cao quý của con người. Vì thế nó bao gồm nhiều phẩm chất khác.
Sách Huấn ca đưa ra ba phẩm chất. Trước hết cần có sự cẩn trọng. Đừng vội vàng trong chọn lựa bạn bè. Phải xem xét kỹ lưỡng. “Nếu con muốn làm bạn với ai thì hãy thử người ấy trước, nhưng đừng vội tin tưởng ngay. Vì có kẻ chỉ là bạn nhất thời, ngay con gặp nạn, nó chẳng còn là bạn con nữa”. Kế đến cần có sự trung tín. Muốn có bạn tốt chính ta phải là bạn tốt. Muốn người trung tín với ta chính ta phải trung tín trước. “Vì bản thân mình thế nào, thì cận thân mình cũng thế”. Trên hết phải kính sợ Chúa. Vì “những ai kính sợ Đức Chúa sẽ gặp được người bạn như vậy. Người kính sợ Đức Chúa thì điều khiển được tình bạn của mình”. Yêu mến Chúa sẽ biết trung tín với bạn bè (năm lẻ).
Thư Gia-cô-bê đề nghị hai phẩm chất khác. Trước hết là sự kiên nhẫn. Người trung tín là người kiên nhẫn vượt qua khó khăn. “Phúc thay những kẻ đã có lòng kiên trì! Anh em đã nghe nói đến lòng kiên trì của ông Gióp”. Gióp đã gặp rất nhiều thử thách. Nhưng ông vẫn kiên trì vượt qua. Cuối cùng giữ được lòng trung tín với Chúa. Để trung tín cũng cần ngay thẳng. “Đừng có thề, dù là lấy trời, lấy đất, hay lấy cái gì khsc mà thề. Nhưng hễ “có” thì nói “có”. “Không” thì nói “không”. Trung tín thật thà thì ngay thẳng và đơn sơ. Quanh co phức tạp thường khó thật (năm chẵn).
Tuy nhiên sang đến tình yêu và hôn nhân thì còn đòi thêm phẩm chất tình yêu. Yêu đến độ trở nên một. Đó là ý định của Thiên Chúa: “Vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”. Nếu yêu nhau thật sự hai người sẽ nên một. Nên một rồi không thể lìa xa nhau. Không thể sống thiếu nhau. Đó là tình yêu theo khuôn mẫu của Thiên Chúa. Ba Ngôi Thiên Chúa yêu thương nên không thể tách lìa. Thiên Chúa yêu con người nên luôn trung tín. Dù con người tội lỗi đến đâu Thiên Chúa vẫn tha thứ. Dù con người phản bội muôn ngàn lần, Thiên Chúa vẫn yêu thương. Cứu chuộc. Chết cho con người.
Trung tín giúp đạt tới tình yêu đích thực. Trung tín làm nên phẩm giá của con người có trách nhiệm. Trung tín giúp con người đạt tới Thiên Chúa.
------------------------------------
Hc 17,1-15; Gc 5,13-20; Mc 10,13-16
Thế gian trọng lớn khinh nhỏ. Đó là thú tính. Càng văn minh càng biết trân trọng những gì bé nhỏ. Càng thánh thiện càng biết sống bé nhỏ. Vì nhận biết con người thật của mình. Biết Thiên Chúa lớn lao. Biết mình bé nhỏ. Biết Thiên Chúa có tất cả. Mình chỉ là hư vô. Biết Thiên Chúa là Cha. Mình là con. Mình tuỳ thuộc vào Thiên Chúa. Từ mạng sống. Đến sức khoẻ. Tài năng. Hạnh phúc. Tất cả đều bởi Chúa. Vì thế cần sống tâm tình người con bé nhỏ.
Các môn đệ cũng theo thói đời, khinh thường trẻ nhỏ. Nhưng Chúa đã dạy các ông chân lý về Nước Trời. “Khi ấy, người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giê-su, để Người đặt tay trên chúng. Nhưng các môn đệ la rầy họ. Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là chủa những ai giống như chúng”.
Sách Huấn ca dạy ta: Ta phải biết mình bé nhỏ. Vì Thiên Chúa tạo dựng ta từ hư vô. Từ bụi đất. Ta phải tạ ơn Chúa không ngừng. Vì Thiên Chúa nâng ta lên làm con cái, cho ta trổi vượt muôn loài. Ta phải tạ ơn Chúa. Vì Thiên Chúa ban cho ta trí khôn phân định phải trái. Phải biết ca tụng, tạ ơn Chúa. Và nhất là phải luôn tuân giữ lề luật và sống trong thánh ý Chúa: “Người đặt con mắt mình vào tâm hồn chúng, để chúng nhận ra các công trình vĩ đại của Người. Danh Thánh Người, chúng sẽ ca ngơi, những công trình vĩ đại của Người, chúng sẽ kể ra… Bổn phận đối với tha nhân, Người truyền cho ai nấy phải thi hành. Đường lối của chúng luôn luôn ở trước mặt Người, và không bao giờ giấu mắt Người được” (năm lẻ).
Khi biết mình hoàn toàn tuỳ thuộc vào Chúa ta sẽ phó thác cho Chúa tất cả. Dù vui. Dù buồn. Dù đau yếu. Dù khoẻ mạnh. “Ai trong anh em đau khổ ư? Người ấy hãy cầu nguyện. Ai vui vẻ chăng? Người ấy hãy hát thánh ca”. Người phó thác cho Chúa sẽ trở thành công chính. Lời cầu nguyện của người công chính sẽ được Chúa nhận lời. Tiên tri Ê-li-a hoàn toàn sống cho Chúa. Phó thác vào Chúa. Nên lời cầu của ngài rất có hiệu lực. “Ông Ê-li-a xưa cũng là người cùng chung một thân phận như chúng ta; ông đã tha thiết cầu xin cho đừng có mưa, thì đã không có mưa xuống trên mặt đất suốt ba năm sáu tháng. Rồi ông lại cầu xin, thì trời liền mưa xuống, và đất đã trổ sinh hoa trái” (năm chẵn).
Hãy sống bé nhỏ. Như người con thơ dại đối với Thiên Chúa. Chúa là Cha nhân từ sẽ lo liệu cho ta mọi sự. Sẽ làm việc thay ta. Sẽ sắp xếp mọi sự thuận lợi cho ta.
-----------------------------------
Hc 17,24-29; 1Pr 1,3-9; Mc 10,17-27
Lời Chúa hôm nay nói về thanh luyện. Trong vũ trụ hiếm có vật gì nguyên tuyền. Vạn vật trong vũ trụ sống bên nhau. Ảnh hưởng lẫn nhau. Xâm nhập vào nhau. Muốn có nguyên tố tinh tuyền. Cần phải thanh luyện.
Thánh Phê-rô cho biết vàng tuy là vật chất ở trần gian. Cũng đòi có cuộc thanh luyện. Huống hồ chúng ta có gia tài cao quí hơn gấp bội trên trời. Có thứ vàng vĩnh cửu. Có gia tài không bao giờ vẩn đục tàn phai. “Chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã từ cõi chết sống lại, để được hưởng gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai. Gia tài này dành ở trên trời cho anh em”. Để đạt tới gia tài lớn lao cao quí ấy ta cũng phải được thanh luyện bằng những đau khổ lớn lao. “Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội” (năm chẵn).
Hôm nay Chúa Giê-su cho biết cuộc thanh luyện đó thật khốc liệt. Vì rốt ráo. Muốn vào Nước Trời phải thanh luyện tâm hồn khỏi những dính bén trần tục. Kho tàng trần tục đối lập với kho tàng Nước Trời. Giá trị khác nhau. Chất liệu khác nhau. Và cách thức thủ đắc cũng khác nhau. Kho tàng trần gian là vật chất. Kho tàng Nước Trời là ân sủng. Kho tàng trần gian mau qua. Kho tàng Nước Trời vĩnh cửu. Kho tàng trần gian có được nhờ thu góp. Kho tàng Nước Trời thành hình nhờ phân tán. Kho tàng trần gian qui về bản thân. Kho tàng Nước Trời dành cho tha nhân. Như Chúa dạy chàng thanh niên: “Hãy về bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời”. Hai kho tàng này mâu thuẫn nhau. Chỉ được một trong hai. Muốn được kho tàng Nước Trời phải bán hết kho tàng trần gian. “Con lạc đà chiu qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Chúa”.
Gắn bó với của cải trở thành chướng ngại. Chọn trần gian là tội lỗi. Vì quay lưng lại Nước Trời. Vì thế cần sám hối. Cần trở về với Chúa. Xa lánh trần gian. “Hãy trở về với Đức Chúa và từ bỏ tội lỗi, hãy cầu khẩn trước nhan Người, và giảm bớt dịp tội. Hãy đoạn tuyệt với gian ác, trở về cùng Đấng Tối Cao, và cực lực gớm ghét mọi điều ghê tởm”. Không ai ngờ chàng thanh niên kia là tội lỗi. Nhưng anh thực sự chạy theo tội lỗi. Vì trước lựa chọn. Anh từ bỏ Chúa mà chạy theo tiền tài. Mà Chúa đã nói công khai: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền của được”(Mt 6,24) (năm lẻ).
Xin cho con luôn biết sám hối. Thanh luyện tâm hồn khỏi bụi bặm trần gia. Để chọn lựa Chúa. Và sống cho Chúa.
----------------------------------
Hc 35,1-12; 1Pr 1,10-16 - Mc 10,28-31
Chúa Ki-tô là niềm hy vọng. Đó là điều các tiên tri loan báo từ ngàn xưa: ngày Chúa Ki-tô sẽ tỏ hiện. Bằng chịu đau khổ và đạt tới vinh quang. Nhưng thánh Phê-rô cho biết, để niềm hi vọng trở thành hiện thực, cần phải có thái độ tích cực chuẩn bị. Muốn mục đích phải muốn phương tiện. Muốn được thấy Chúa Ki-tô tỏ hiện, phải từ bỏ lối sống xưa cũ theo xác thịt để sống một đời sống mới theo thần khí, tiết độ, từ bỏ bản thân.“Đừng chiều theo những đam mê trước kia, lúc anh em còn mê muội. Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, đên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em” (năm chẵn).
Sách Huấn ca hướng dẫn cách bày tỏ niềm hy vọng bằng việc từ bỏ. Trước hết là từ bỏ tội lỗi. “Từ bỏ gian tà thì đẹp lòng Đức Chúa. Chấm dứt bất công là dâng lễ đền tội”. Kế đến là từ bỏ đường tà. Đi theo đường ngay chính. Đó là tuân giữ Lề Luật của Chúa. “Tuân giữ Lề Luật là làm cho lễ phẩm thêm phong phú. Gắn bó với lệnh truyền là dâng lễ kỳ an”. Và sau cùng từ bỏ của cải. Dâng của lễ trọng hậu lên Chúa. Nhưng cũng phải dâng với tấm lòng quảng đại. Và nhất là với nét mặt vui tươi. Chắc chắn Chúa sẽ hài lòng. Và sẽ ban lại cho gấp bội. Đó chính là niềm hy vọng. “Hãy tôn vinh Đức Chúa với tấm lòng quảng đại…Dâng cúng chi, cũng phải giữ nét mặt tươi cười; dâng hiến của thập phân, hãy hân hoan vui vẻ. với tấm lòng quảng đại, hãy dâng hiến Đấng Tối cao, tuỳ theo nhưng gì Người ban tặng và tuỳ theo khả năng con có. Vì Đức Chúa là Đấng thưởng công, sẽ trả lại cho con gắp bảy lần” (năm lẻ).
Thánh Phê-rô cũng chính là người hỏi Chúa Giê-su về niềm hi vọng: Chúng con đã bỏ hết mọi sự mà theo Thầy, chúng con sẽ được gì bù lại? Chúa Giê-su không ngần ngại loan báo trước niềm hi vọng: Các con sẽ được lại gấp trăm.
Niềm hi vọng là được thấy Chúa tỏ hiện, được hưởng hạnh phúc trong Nước Chúa. Nhưng cần phải trải qua giai đoạn thanh luyện bằng từ bỏ. Địa vị trong Nước Chúa không được sắp xếp, đo lường bằng chức vị trong Giáo hội hay bằng thời gian theo Chúa, nhưng bằng mức độ từ bỏ. Càng từ bỏ nhiều thì càng gần Chúa. Càng gần Chúa thì càng hạnh phúc. Có những người theo Chúa đã lâu, nắm giữ những địa vị cao trọng trong Giáo hội, nhưng mức độ từ bỏ chưa cao. Trong khi có những người mới theo Chúa, giữ địa vị thấp kém trong Giáo hội, nhưng mức độ từ bỏ lại cao hơn. Vì thế Chúa Giê-su cảnh báo: “Quả thật, nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, còn những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu”.
Hc 36,1,4-5a.10-17; 1Pr 1,18-25; Mc 10,32-35
Bị ngoại bang xâm lấn. Mất nước. Nô lệ. Nhục nhã. Người Do thái nhớ lại thời huy hoàng. Được Chúa phù trợ. Ngẩng đầu hiên ngang trước các cường quốc. Vì thế họ nài xin Chúa hãy trở lại. Hãy tái diến những kỳ công thuở xa xưa. Hãy phục hồi dân Chúa. Để cho mọi người nhận biết và tôn thờ Chúa. “Xin cho tái diễn những điềm thiêng và lại làm những dấu lạ khác. Các chi tộc Gia-cóp, nguyện chúa thương quy tụ cả về. Xin thương trả lại phần gia sản, như Chúa đã cho họ thuở ban đầu…Xin làm cho khắp cả Xi-on vang lời tường thuật những kỳ công của Chúa, và làm cho thánh điện, được rực rỡ ánh vinh quang của Ngài.. Và mọi người trên mặt đất sẽ nhìn nhận Ngài là Đức Chúa, là Thiên Chúa muôn thuở muôn đời” (năm lẻ).
Thiên Chúa đáp lời. Gửi Con Một từ trời xuống cứu độ con người. Nhưng không phải bằng bạo quyền thống trị theo thói người đời. Như hai anh em nhà Dê-bê-đê lầm tưởng. Nhưng bằng khiêm nhường phục vụ. Đến hi sinh mạng sống. Như Chúa dạy dỗ các tông đồ: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em, thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến, không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ , và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Con đường của Chúa là con đường khiêm nhường. Hạ mình để phục hồi anh em. Chịu chết để cứu sống anh em. Chịu nhục nhã để anh em được vinh quang. Vì thế Chúa quả quyết lên Giê-ru-sa-lem để chịu chết. Điều đó khiên các môn đệ kinh hoàng. Nhưng đó mới là con đường vinh quang. Chúa được vinh quang. Và Chúa phục hồi ta trong vinh quang.
Vì thế thánh Phê-rô khuyên nhủ chúng ta. Trước hết phải nhận biết sự thật. Chúng ta được phục hồi không phải do thế lực trần gian. Nhưng do bửu huyết của Chúa Giê-su. Chúa đi vào con đường khiêm nhường phục vụ. Chịu chết rồi phục sinh. Đó là niềm hi vọng của chúng ta. Nếu đã biết sự thật. Ta hãy thanh luyện tâm hồn khỏi các thế lực trần gian. Hãy biết khiêm nhường phục vụ lẫn nhau. Yêu thương nhau: “Anh em hãy tha thiết yêu mến nhau với tất cả tâm hồn. Vì anh em đã được tái sinh, không phải do hạt giống mục nát, mà do hạt giống bất diệt, nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống và tồn tại mãi mãi” (năm chẵn).
---------------------------------
Hc 42,15-25; 1Pr 2,2-5.9-12; Mc 10,46-52
Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và quyền năng. Người làm ra biết bao điều kỳ diệu. “Vinh quang Đức Chúa bao phủ công trình Người sáng tạo. Các thánh của Đức Chúa không tài nào kể lại mọi kỳ công của Người”. Vì những công trình quá lớn lao. Vượt quá tầm hiểu biết của con người. Bao thiên niên kỷ qua rồi mà người ta chưa hiểu thấu hết những bí mật Chúa đặt vào trong vũ trụ. Bao nghiên cứu tìm hiểu,
nhưng “những gì thấy được chỉ như một ánh lửa” nhỏ bé. (năm lẻ).
Chính vì thế mà điều con người cần cầu xin là xin cho được thấy. Thấy những kỳ công Chúa thực hiện. Thấy những bí mật của đời mình. Và quan trọng nhất thấy Chúa và thấy được con đường mình phải đi để đạt tới Chúa. Đó chính là điều anh mù Ba-ti-mê đã xin. Trong cảnh mù loà anh tuyệt vọng. Vì chẳng ai có thể cho anh được thấy. Chỉ mình Chúa Giê-su. Anh đã tin Người là Đấng Cứu Thế khi anh tuyên xưng Người là Con Vua Đa-vít. Lòng tin lớn mạnh vượt qua được những chướng ngại. Nên đã được Chúa nhận lời. “Lòng tin của anh đã cứu anh”. Và khi được thấy anh đã làm điều cơ bản nhất. Không dùng ánh sáng để đi tìm trần gian. Tìm tiền của. Nhưng anh “nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi”. Thật khôn ngoan. Và cơ bản. Thấy Chúa và đi theo Chúa. Đó là đi vào điều cốt lõi trong đời sống. Đi vào ơn cứu độ. Đi vào sự sống đời đời. Đó là thành đạt lớn nhất đời.
Đó chính là điều thánh Phê-rô khuyên nhủ ta. “Hãy khao khát sữa tinh tuyền là Lời Chúa, nhờ đó anh em sẽ lớn lên để hưởng ơn cứu độ”. “Hãy tiến lại gần Đức Ki-tô”. Vì do lòng thương xót, Chúa “mời gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền”. Chúng ta đang trên đường từ bỏ bóng tối để tiến về ánh sáng. Chúng ta hãy noi gương anh mù Ba-ti-mê đi theo Chúa trên đường Chúa đi. Nghĩa là “tránh xa những đam mê xác thịt, vốn gây chiến với linh hồn”. Hãy làm chứng cho Chúa bằng đời sống ngay chính giữa ban ngày. “Anh em hãy ăn ở ngay lành giữa dân ngoại, để ngay cả khi họ vu không, coi anh em là người gian ác, họ cũng thấy các việc lành anh em làm, mà tôn vinh Thiên Chúa trong ngày Người đến viếng thăm” (năm chẵn).
Lạy Chúa, xin cho con được thấy ánh sáng của Chúa. Đi theo ánh sáng của Chúa. Và chiếu sáng ánh sáng của Chúa.
-----------------------------------
Hc 44,1.9-13; 1Pr 4,7-13; Mc 11,11-26
Dân Do thái là dân riêng được Thiên Chúa tuyển chọn. Để phục vụ Thiên Chúa. Để làm chứng về Thiên Chúa. Khi Dân Chúa không phục vụ Thiên Chúa. Họ bị biến chất. Và sẽ bị thay đổi.
Cây vả là một minh hoạ. Trong Kinh Thánh, cây vả và cây nho thường được dùng để chỉ Dân Chúa. Cây vả này không phục vụ Thiên Chúa. Không có quả khi Chúa đến tìm. Nên nó bị thay thế. Nó phải chết.
Đền thờ là một minh hoạ càng rõ nét hơn. Đền Thờ để phục vụ Thiên Chúa. Nhưng đã biến thành nơi phục vụ lợi nhuận của con người. Đó là hang trộm cướp. Vì con người cướp quyền Thiên Chúa. Vì thế nó phải được thanh tẩy. Đền thờ cũ bị thay thế. Đền thờ mới sẽ là thân thể Chúa Giê-su. Thân thể con người. Của lễ không còn phải là chiên, bò, bồ câu. Nhưng là chính Chúa Giê-su.
Con người để phục vụ Thiên Chúa. Những ai không phục vụ Thiên Chúa sẽ mau chóng tàn lụi. Những con người đánh mất căn tính. Như cây vả và đền thờ. Sẽ mau chóng tàn lụi. “Có những người không còn ai nhớ nữa. Họ qua đi như chẳng bao giờ có”. Còn những người kiên trì phục vụ Thiên Chúa. Chuyên chăm giữ vững giao ước, thực thi Lề Luật. Thì dòng dõi tồn tại. Và vinh quang chói sáng: “Các vị sau đây là những người đạo hạnh, công đức của các ngài không chìm vào quên lãng. Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại. Vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ” (năm lẻ).
Có biến chất là vì những ích kỷ quy về bản thân luôn là một cơn cám dỗ lớn. Vì thế thư Phê-rô khuyên nhủ ta kiên trì phục vụ Thiên Chúa. Bằng tuân giữ điều răn Chúa truyền: Hãy yêu thương. Phục vụ. Đừng phí phạm ơn Chúa. “Ai có nói thì nói lời Thiên Chúa. Ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc, chúng ta tôn vinh Thiên Chúa”. Để được như thế phải kiên trì vượt qua mọi cám dỗ thử thách. Như thế, “khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cũng được vui mừng hoan hỷ” (năm chẵn).
--------------------------------------
Hc 51,12-20; Gđ 17, 20b-25; Mc 11, 27-33
Thượng tế, kinh sư và kỳ mục hỏi Chúa một câu hỏi. Chúa Giê-su trả lời bằng một câu hỏi khác. Theo triết học thì câu hỏi là một truy tìm khôn ngoan. Câu hỏi của các thượng tế hướng về quyền lợi. Đó là khôn ngoan theo trần gian. Vì Chúa Giê-su xua đuổi người buôn bán ra khỏi Đền Thờ. Giới thượng tế mất uy tín và lợi nhuận. Câu hỏi của Chúa Giê-su xoáy vào lương tâm. Hỏi về sự thật. Mở ra khôn ngoan theo Nước Trời. Họ không dám trả lời. Vì nếu trả lời theo lương tâm và sự thật thì họ mất uy tín và quyền lợi. Họ không tìm khôn ngoan. Họ tìm lợi nhuận. Nói đúng ra họ chọn khôn ngoan theo thế gian. Nên không nghe lời Chúa.
Giới kinh sư, thượng tế và kỳ mục không có niềm vui. Vì họ né tránh sự thật. Tuy họ không dám trả lời câu hỏi của Chúa Giê-su, nhưng câu hỏi vẫn còn đó. Chất vấn lương tâm họ. Đặt họ đối diện với sự thật. Vì họ không tìm sự khôn ngoan. Nên lương tâm họ ray rứt. Trái lại tác giả sách Huấn ca tha thiết tìm sự khôn ngoan. Nên tâm hồn ông bình an. Hạnh phúc. Và tin tưởng. “Như hoa tươi nở, tựa chùm nho chín, đức khôn ngoan làm hoan hỷ lòng tôi…Vì tôi đã cương quyết sống theo đức khôn ngoan, tôi hăng say tìm điều thiện, và sẽ không xấu hổ thẹn thùng”. Biết rằng đức khôn ngoan ở nơi Chúa, nên ông tha thiết cầu nguyện xin Chúa ban cho sự khôn ngoan. “Nơi thánh điện tôi hằng cầu xin, và cho đến mãn đời, tôi vẫn tìm kiếm đức khôn ngoan”. Khi tìm được ông tha thiết giữ gìn: “Trong đức khôn ngoan, hồn tôi đã phấn đấu, và chuyên cần tuân giữ Lề Luật”. Và ông tạ ơn Chúa ban cho ông sự khôn ngoan: “Trong đức khôn ngoan, tôi tiến lên mãi, và tôi sẽ tôn vinh Thiên Chúa, Đấng đã cho tôi được khôn ngoan”.
Thư Giu-đa rõ ràng hơn. Cho biết do dự là thiếu khôn ngoan. Sẽ dẫn đến hoả ngục. “Đối với những người do dự thì anh em phải thương xót; hãy lo cứu họ, kéo họ ra khỏi lửa thiêu”. Người khôn ngoan theo Nước Trời phải dứt khoát mạnh mẽ trung thành với một chọn lựa duy nhất: sống theo đức tin. Tin vào Chúa Giê-su. Cậy trông vào lòng thương xót của Chúa. Đó là khôn ngoan. Vì sẽ dẫn ta đến sự sống đời đời: “Anh em hãy xây dựng đời mình trên nền tảng đức tin rất thánh của anh em, hãy cầu nguyện nhờ Thánh Thần, hãy cố gắng sống mãi trong tình thương của Thiên Chúa, hãy chờ đợi lòng thương xót của đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, để được sống đời đời” (năm chẵn).
------------------------------------
Tb 1,3; 2,1a-8; 2Pr 1,2-7; Mc 12,1-12
Mọi sự là của Chúa. Đó là chân lý nền tảng. Chúa tạo dựng con người từ hư vô. Chúa còn chăm sóc ân cần. Đó là hình ảnh cây nho và vườn nho mà Chúa dành hết tâm lực chăm chút. “Có người kia trồng được vườn nho; ông rào giậu chung quanh, đào bồn đạp nho và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi phương xa”. Chúa tạo dựng vũ trụ. Cho con người làm chủ. Để xây dựng phát triển. Nhưng con người không ý thức thân phận của mình. Muốn chiếm đoạt của Chúa. Muốn tự tung tự tác. Muốn giết chết Chúa. Để mình hoàn toàn làm chủ vũ trụ này. “Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và gia tài sẽ về tay ta”. Thật là sai lầm. Khi loại trừ Thiên Chúa thế giới sẽ thành hỗn độn. Con người sẽ bị tiêu diệt. “Ông sẽ tiêu diệt các tá điền, rồi giao vườn nho cho người khác”.
Tô-bít là người ý thức điều đó. Ông biết mọi sự là của Chúa ban. Nên ông luôn muốn chia sẻ với anh em. “Ngày lễ Ngũ Tuần…người ta bày bàn, dọn cho tôi nhiều món. Tôi nói với tô-bi-a, con tôi: “Con ơi, con hãy đi tìm trong số các anh em chúng ta bị đày ở Ni-ni-vê, một người nghèo hết lòng tưởng nhớ Theine Chúa, rồi dẫn người ấy về đây cùng dùng bữa với cha”. Nhận biết Chúa làm chủ vũ trụ và làm chủ đời mình. Ông luôn “ăn ở theo sự thật và lẽ ngay suốt mọi ngày đời tôi”. Tôn thờ Chúa hơn vua chúa trần gian. Giữ luật Chúa hơn luật trần gian. Nên ông lo chôn cất người chết, dù bị cấm đoán. Và có thể bị nguy đến tính mạng. Và bị láng giềng chế nhạo: “Hắn vẫn còn chưa sợ! Người ta truy nã để giết hắn về tội ấy và hắn đã trốn đi, thế mà hắn lại vẫn chôn cất người chết!” (năm lẻ).
Thánh Phê-rô khuyên nhủ ta hãy ý thức điều đó. Tất cả là của Chúa ban để giúp ta được hạnh phúc. “Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa”. Vì thế thánh nhân khuyên nhủ ta hãy biết phát triển những ơn Chúa ban: “Chính vì thế anh em hãy đem tất cả nhiệt tình, làm sao để khi đã có lòng tin thì có thêm đức độ, có đức độ lại thêm hiểu biết, có hiểu biết lại thêm tiết độ, có tiết độ lại thêm kiên nhẫn, có kiên nhẫn lại thêm đạo đức, có đạo đức lại thêm tình huynh đệ, có tình huynh đệ lại có thêm bác ái”. Có bác ái ta sẽ ở trong Chúa. Đó là hạnh phúc. Đó là đích điểm đời ta (năm chẵn).
Đừng loại trừ Chúa. Đừng giết chết Chúa. Vì sẽ làm cho đời ta héo úa tàn lụi. Hãy đón nhận Chúa. Hãy sống theo Lời Chúa. Thế giới sẽ an vui phát triển.
---------------------------------
Tb 2,9-14; 2Pr 3,12-15a.17-18; Mc 12,13-17
Người ta thường trích dẫn Lời Chúa để phân biệt tôn giáo với chính trị. Thế quyền có toàn quyền ở trần gian. Thiên Chúa có quyền ở trên trời. Nhưng người ta rất thường quên rằng quyền lực trần gian chỉ có ở đời này. Thiên Chúa có quyền ở đời sau. Ở đời sau mọi quyền lực đều qui về một mình Thiên Chúa. Mọi người phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa. Chịu Thiên Chúa xét xử. Như thế mọi sự đều phải trả về cho Thiên Chúa. Như Chúa Giê-su cảnh báo Phi-la-tô: “Ông chẳng có quyền gì nếu từ trên không ban cho ông”. Càng ngày người ta càng muốn thoát ảnh hưởng của Chúa. Vua La mã thậm chí còn coi mình là thần thánh. Đã in trên đồng tiền nộp thuế là: Au-gút-tô Xê-da. Thần thánh Xê-da. Chúa Giê-su vạch rõ sự giả hình của nhóm Biệt phái. Theo Lề Luật cấm thờ ngẫu tượng. Thậm chí cấm khắc hình ảnh Thiên Chúa. Vậy mà nhóm Biệt phái này dám mang hình ảnh ngẫu tượng Xê-da trong túi. Họ ham tiền. Lại làm ra vẻ giữ luật Chúa. Chúa vạch trần sự giả hình của họ.
Tô-bít là người thực hành Lời Chúa. Ông biết mọi sự là của Chúa. Nên ông trả hết cho Chúa. Ông không sợ quyền lực thế gian. Dám lỗi luật vua chúa cấm chôn cất người chết. Để thực hành Lời Chúa dạy: chôn xác kẻ chết. Ông bất chấp nguy hiểm đến tính mạng. Bất chấp sự phản đối của hàng xóm, của thân nhân. Và của chính vợ ông. Ông tuyệt đối giữ sự công bằng. Bảo bà vợ: “Con dê nhỏ đó ở đâu ra vậy? Có phải của trộm cắp không? Đem trả lại cho chủ nó đi”. Với Thiên Chúa còn quyết liệt hơn. Tất cả là của Chúa. Phải trả cho Chúa (năm lẻ).
Thánh Phê-rô hướng đức tin của ta về ngày sau cùng. Tất cả phải trả cho Chúa. Đời này rồi sẽ qua đi mau chóng. “Ngày mà các tầng trời sẽ bị thiêu huỷ và ngũ hành sẽ chảy tan ra trong lửa hồn”. Rồi sẽ có “trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị”. Công lý tuyệt đối của Thiên Chúa. Trong khi chờ đợi ngày đó, đừng để mình bị đời này cám dỗ. Đừng để ảo ảnh đời này lừa dối. “Anh em hãy coi chừng kẻo bị những kẻ phạm pháp và lầm lạc lôi cuốn, mà không còn đứng vững nữa chăng”. Hãy kiên vững trong đức tin. Vì cuối cùng mọi sự thuộc về Chúa. “Xin kính dâng Người vinh quang, bây giờ và cho đến muôn đời. Amen” (năm chẵn).
------------------------------------------
Tb 3,1-11a.16-17a; 2Tm 1,1-3.6-12; Mc 12,18-27
Có hai luồng tư tưởng sai lầm. Không tin vào đời sau. Hoặc tin vào đời sau nhưng cho rằng đời sau cũng giống như đời này. Hôm nay Chúa Giê-su bài bác cả hai lập trường sai lầm ấy.
Có đời sau. Vì tại bụi gai cháy đỏ Thiên Chúa nói với Mô-sê: “Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, và Thiên Chúa của Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống”. Thiên Chúa đang sống nên mới có thể truyện trò với Mô-sê. Và các tổ phụ cũng đang sống bên nên Thiên Chúa mới khẳng định Người là Thiên Chúa của họ.
Nhưng đời sau không còn giống như đời này. Chúa Giê-su minh định: “Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời”.
Chúng ta có bằng chứng vững chắc. Vì Chúa Giê-su đã từ trời xuống. Và đã lên trời. Trở về với Chúa Cha. Người đã chiến đấu với thần chết. “Chính Đức Ki-tô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử”. Đó là niềm hy vọng vững chắc cho ta. Đó là đích điểm ta nhắm tới. Đó là con đường ta phải đi theo. Các thế lực ma quỉ thế gian luôn tìm cách lung lạc niềm tin đó. Nhưng thánh Phao-lô là người loan Tin Mừng Chúa Ki-tô phục sinh. Tin Mừng sự sống. Tin Mừng hy vọng cho nhân loại. Dù ngài phải chịu bắt bớ, đau khổ. Và chịu chết nữa. “Chính vì lý do ấy mà tôi phải chịu những đau khổ này; nhưng tôi không hổ thẹn, vì tôi biết tôi tin vào ai, và xác tín rằng: Người có đủ quyền năng bảo toàn giáo lý đã được giao phó cho tôi, mãi cho tới Ngày Người đến” (năm chẵn).
Chính vì niềm tin vào đời sau, nên những người công chính muốn thoát khỏi đời này. Vì thế gian là “thung lũng đầy nước mắt”. Chỉ khi về với Thiên Chúa ta mới được hạnh phúc thật. Tô-bít chịu nhiều đau khổ oan ức ở đời đã cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin truyền lệnh cho con được giải thoát khỏi số kiếp gian khổ này. Xin để con ra đi vào cõi đời đời”. Còn Xa-ra, quá đau khổ, nhưng không dám tự tử. Vì còn tin vào Chúa. Và vì yêu thương cha mẹ. Nhưng cô chỉ xin Chúa cho được chết đi: “Nên tốt hơn là tôi đừng thắt cổ tự tử, mà phải cầu xin Chúa cho tôi chết đi”(năm lẻ).
Xin cho con vững tin vào Chúa. Vào sự sống đời sau. Để con sống xứng đáng ở đời này. Nhưng không lưu luyến. Và không quá mê mải đời này.
---------------------------------
Tb 6,10-11; 7,1.9-17; 8,4-8; 2Tm 2,8-15; Mc 12,28b-34
Yêu mến là hạnh phúc. Ai cũng muốn. Cũng cần. Có rất nhiều. Nhưng sao cứ đau khổ. Đó là vì chưa biết yêu. Hôm nay Chúa dậy ta điều cơ bản nhất. Hãy yêu. Nhưng phải có thứ tự. Và có phương pháp.
Thứ tự. Phải yêu mến Thiên Chúa trên hết. Vì Thiên Chúa là tất cả. Là sự sống. Là tình yêu. Là hạnh phúc. Không có Thiên Chúa thì không có ta. Yêu sự sống của mình là điều rất tự nhiên. Và cần thiết. Chúa làm mọi cách cho ta được hạnh phúc. Yêu hạnh phúc của mình là quá chính xác. Thiên Chúa là Tình Yêu. Yêu trong Tình Yêu là đi đúng đường.
Phương pháp. Phải yêu mến “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực người”. Yêu sự sống, tình yêu và hạnh phúc. Đương nhiên phải làm hết sức lực, hết linh hồn, hết trí khôn. Thì mới mong đạt đến mục đích.
Thứ tự tiếp theo. Yêu tha nhân. Phương pháp. Như chính mình. Ai thực hiện sẽ đạt tới hạnh phúc.
Bảy người muốn cưới Xa-ra trước kia đều chết. Vì đã sai thứ tự và phương pháp. Họ không yêu mến Thiên Chúa. Cũng không yêu Xa-ra. Họ yêu chính mình. Theo thúc đẩy của dục vọng. Nên xa lìa Thiên Chúa. Rơi vào tay ma quỷ. Tô-bi-a và Xa-ra đã hiểu biết điều đó. Nên đến với nhau vì Chúa và vì tình yêu đích thực. Trước khi thành hôn, Tô-bi-a nói với Xa-ra: “Đứng lên, em! Chúng ta hãy cầu nguyện”. Và cả hai nguyện rằng: “Giờ đây, không phải vì lòng dục mà con lấy em con đây, nhưng vì lòng chân thành. Xin Chúa đoái thương con và em con”. Họ đã được Thiên Chúa chúc phúc (năm lẻ).
Sự sống, tình yêu và hạnh phúc của ta được biểu lộ trong cái chết và sự phục sinh của Chúa Giê-su Ki-tô. Người chết để cho ta được sống. Người chịu ghét bỏ để ta được yêu thương. Người chịu bất hạnh cho ta được hạnh phúc. Đó là Tin Mừng lớn lao cho ta. Thánh Phao-lô say mê và kiên quyết rao truyền Tin Mừng đó. Với niềm tin vững chắc: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người”. Ngài đã yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Ngài đã đạt đến sự sống, tình yêu và hạnh phúc (năm chẵn).
Lạy Chúa, xin dạy con yêu mến Chúa. Vì Chúa là sự sống, là tình yêu và là hạnh phúc của con.
------------------------------------
Tb 11,5-17; 2Tm 3,10-17; Mc 12,35-37
Khi trích dẫn Thánh vịnh 110, Chúa Giê-su cho biết Người có hai bản tính. Bản tính nhân loại, Người là con cháu thuộc dòng tộc Đa-vít. Bản tính Thiên Chúa, Người là Con Thiên Chúa. Và vương quyền Người trổi vượt Đa-vít. Không những Đa-vít phải gọi Người là Chúa Thượng. Mà Thiên Chúa Cha còn đặt cả vũ trụ dưới chân Người.
Đồng thời Chúa cũng cho biết Kinh Thánh đã được Thiên Chúa linh hứng. Đa-vít nói theo linh hứng của Thánh Thần. Nên tuy ông chưa hiểu. Mà sự thật đó ứng nghiệm. Các kinh sư là những người am tường Kinh Thánh đã không hiểu thấu Kinh Thánh. Trước những giải thích của Chúa Giê-su, không ai chối cãi được. Còn dân chúng thì vui mừng hoan hỷ. Vì Kinh Thánh mở ra những chân lý cao siêu.
Tuy nhiên Chúa Giê-su sẽ phải chịu đau khổ, chịu chết. Rồi mới được vinh quang. Người sẽ phải “thua kém các thiên thần một chút”. Rồi mới hiển trị trên thiên quốc.
Bất cứ ai thực hành Lời Chúa cũng đều trải qua đau khổ. Đó là điều gia đình Tô-bít cảm nghiệm. Ông phải chịu đau khổ nhục nhã một thời gian. Nhưng cuối cùng sẽ được Thiên Chúa yêu thương giải cứu. Nên khi được sáng mắt ông và “vợ ông, và mọi người quen biết đều tôn vinh Thiên Chúa. Bấy giờ, ông Tô-bít nói: “Lạy Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en, con xin chúc tụng Ngài vì Ngài đã sửa phạt con, nhưng cũng chính Ngài đã cứu thoát con; và này đây, con đang nhìn thấy Tô-bi-a, con trai của con” (năm lẻ).
Thánh Phao-lô cho biết ai phục vụ Chúa cũng phải đi vào con đường đau khổ. Chính Ngài đã gặp rất nhiều đau khổ: “Tại An-ti-ô-ki-a, I-cô-ni-ô, Lýt-ra, đã biết tôi chịu bắt bớ như thế nào. Nhưng Chúa đã giải thoát tôi khỏi tất cả. Vả lại, nhưng ai muốn sống đạo đức trong Đức Ki-tô Giê-su, đều sẽ bị bắt bớ”. Và ngài khuyên nhủ Ti-mô-thê hãy hoàn toàn tin vào Kinh Thánh. Vì Lời Chúa sẽ đem đến ơn cứu độ. Và có thể sử dụng trong mọi hoàn cảnh giúp người môn đệ hành xử: “Anh đã biết Sách Thánh, sách có thể dạy anh nên người khôn ngoan để được ơn cứu độ, nhờ lòng tin vào đức Ki-tô Giê-su. Tất cả những gì viết trong Sách thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục, để trở nên công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn, và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành” (năm chẵn).
Tôi có yêu mến Lời Chúa. Tin tưởng Lời Chúa. Và có thực hành Lời Chúa?
--------------------------------
Tb 12,1.5-15.20; 2Tm 4,1-8; Mc 12,38-44
Chúa “ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao”. Và Chúa phán xét: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết”. Chúa không nhìn bề ngoài. Nhưng nhìn trong tâm hồn. Chúa phê phán những người sống bề ngoài nhưng không có nội tâm. “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng…Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn”.
Chúa vẫn luôn quan sát đời sống chúng ta. Và sẽ thưởng phạt đúng với công việc. Tổng lãnh Thiên thần Ra-pha-en đã cho Tô-bít biết điều đó. “Hãy biết rằng khi ông và cô Xa-ra cầu nguyện, chính tôi đã tiến dâng những lời cầu nguyện đó lên trước nhan vinh hiển của Đức Chúa, để xin Chúa nhớ đến hai người; tôi cũng làm như vậy khi ông chôn cất người chết. Và khi ông không ngại trỗi dậy, bỏ dở bữa ăn để đi chôn cất người chết, bấy giờ tôi được sai đến bên ông để thử thách ông. Thiên Chúa cũng sai tôi chữa lành cho ông và cô Xa-ra, con dâu ông”. Sở dĩ Tô-bít và Xa-ra được Chúa thương như vậy. vì họ sống chân thật, nghèo khổ mà vẫn bố thí. Khó khăn mà vẫn cầu nguyện. Như Ra-pha-en cho biết: “Cầu nguyện kèm theo đời sống chân thật, bố thì đi đôi với đời sống công chính, thì tốt hơn có của mà ở bất công; làm phúc bố thí thì đẹp hơn là tích trữ vàng bạc” (năm lẻ).
Nhưng quan trọng hơn Chúa là Thẩm Phán chí công ở đời sau. Đời sau mới quyết định số phận vĩnh cửu. Hạnh phúc đích thực. Vì thế thánh Phao-lô chấp nhận chịu thiệt thòi, mất mát, kể cả hi sinh mạng sống, để được Chúa thưởng ở đời sau: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi… Giờ đây, tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy”. Và thánh nhân khuyên nhủ người con Ti-mô-thê-ô cũng hãy kiên trì phục vụ Chúa như ngài. Để cũng được thưởng như ngài: “Trước mặt Thiên Chúa và Đức Ki-tô Giê-su, Đấng sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết, Đấng sẽ xuất hiện và nắm vương quyền, tôi tha thiết khuyên anh: hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (năm chẵn).
Hãy luôn sống trước Nhan Chúa, dưới ánh mắt của Chúa. Chúa thấu suốt tâm hồn. Sẽ thưởng phạt chính xác. Đời này không có công lý. Ta chấp nhận thiệt thòi vì Chúa. Rồi Chúa sẽ trả lại cho ta.
------------------------------------
2Cr 1,1-7; 1V 17,1-6; Mt 5,1-12
Chúa Giê-su đến khai mạc Nước Trời. Tám Mối Phúc là hiến chương. Đem đến bao niềm hi vọng. Hi vọng cho ta không tìm được ở trần gian này. Sẽ tìm được trong Chúa. Trong Nước Trời. Hi vọng vì chính Chúa Giê-su đã sống lời Người loan báo. Người đã sống nghèo giữa người nghèo. Hiền lành khiêm nhường vượt bậc. Gặp nhiều đau khổ. Khiến phải rơi lệ. Toát mồ hôi máu. Nhưng luôn giữ được tâm hồn trong sạch. Và trái tim xót thương. Cả trên thánh giá. Những người sống theo Chúa Giê-su sẽ đạt tới hạnh phúc như lời Chúa hứa. Nhưng ngay từ bây giờ họ đã trở thành niềm hi vọng cho trần gian. Tìm những giá trị cao hơn của cải vật chất. Không tìm quyền lực thống trị. Nhưng tìm khiêm nhường phục vụ. Biết hi sinh cho chân lý. Biết quên mình. Quan tâm yêu thương phục vụ người khác. Đó là điều thế gian đang thiếu thốn. Đó là phúc cho trần gian.
Ê-li-a suốt đời phục vụ Chúa. Bảo vệ giáo lý chân chính. Công khai chống lại vua A-kháp. Vì vua nghe lời hoàng hậu Giê-sa-ben. Bỏ Chúa mà thờ thần dân ngoại. Bị vua A-kháp, nhất là hoàng hậu Giê-sa-ben ghét bỏ, loại trừ. Nhưng Ê-li-a luôn được Chúa an ủi. Ông đói mệt. Chúa gửi thiên thần đến nâng đỡ, mang bánh và nước cho ông. Ông ẩn trốn trong hang núi. Chúa cho suối nước chảy. Cho quạ mang bánh hằng ngày. Ông đau khổ vì trần gian bách hại. Nhưng ông được phúc vì Chúa yêu thương. Và ông trở thành phúc lành cho dân Ít-ra-en (năm chẵn).
Chính vì thế thánh Phao-lô khuyên nhủ tín hữu Cô-rin-tô hãy sống tinh thần Tám Mối Phúc của Chúa. Khi cùng Chúa chịu đau khổ. Vì bị thế gian bắt bớ. Chính Chúa sẽ an ủi ta. Và ta cũng hãy noi gương Chúa. Được Chúa an ủi. Ta cũng hãy biết an ủi nhau. Được Chúa chúc phúc. Ta hãy trở thành phúc lành cho anh em. “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúc chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Theien Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó. Vì cũng như chúng ta chia sẻ muôn vàn nỗi khổ đau của Đức Ki-tô, thì nhờ Người, chúng ta cũng được chứa chan niềm an ủi”. Ta sẽ được phúc trên Nước Trời. Và ngay từ bây giờ ta mang phúc Nước Trời cho người trần gian (năm lẻ).
-----------------------------
2Cr 1, 18-22; 1V 17,7-16; Mt 5,13-16
Sau khi giảng bài Tám Mối Phúc, Chúa Giê-su nói các môn đệ phải là muối và ánh sáng. Hiển nhiên là muối mang vị mặn thiên đàng. Và ánh sáng Nước Trời. Quả thật thế gian đang hư hỏng vì thói cạnh tranh. Tìm tiền của. Mạnh hiếp yếu. Tìm hưởng thụ vui chơi. Tàn nhẫn. Lương tâm hoen ố. Áp bức. Người tông đồ của Chúa cần có vị muối mặn và ánh sáng của Tám Mối Phúc. Không coi trọng tiền của. Tránh xa quyền lực. Giữ tâm hồn trong sạch. Biết cảm thương. Hiền lành khiêm nhường. Để ướp mặn thế gian. Để soi sáng thế gian. Thế gian sẽ không bị hư hỏng. Thế gian sẽ biết đi trong ánh sáng. Đến hạnh phúc.
Phao-lô là muối mặn của Chúa. Là ngọn đèn sáng của Chúa. Nơi ngài rạng ngời hương vị Tin Mừng. Giữa thế giới điên đảo gian dối hỗn độn, ngài làm chứng về một Thiên Chúa chân thật, trường cửu. Không lập lờ vừa “có” lại vừa “không”. Nơi Người chỉ là “có”. Là thực tại. Là sự thật. Là trường cửu. Chúa đã hứa ban hạnh phúc Nước Trời là đúng thật. Lời hứa còn được củng cố bằng việc Chúa xức dầu và ban Thần Khí cho ta: “Quả thật, mọi lời hứa của Thiên Chúa đều là “có” nơi Người. vì thế, cũng nhờ Người mà chúng ta hô lên “Amen” để tôn vinh Thiên Chúa. Đấng củng cố chúng tôi cùng với anh em trong Đức Ki-tô và đã xức dầu cho chúng ta, Đấng ấy là Thiên Chúa. Chính Người cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng” (năm lẻ).
Ê-li-a cũng là muối và là ánh sáng của Chúa. Giữa một dân tộc hư hỏng vì chạy theo vua A-kháp và hoàng hậu Giê-sa-ben, ông vẫn giữ lòng trung tín với Chúa. Muối đó ướp mặn bà goá Xa-rép-ta. Khiến cho bà tin tưởng vào Chúa. Không tìm chạy theo lợi lộc vật chất. Nhưng đã hi sinh phục vụ vị tiên tri. Tiên tri chiếu lên ánh sáng của Chúa. Ánh sáng sự thật. Nên lời hứa của tiên tri được thực hiện. “Ông Ê-li-a nói với bà: “Bà đừng sợ, cứ về làm như bà vừa nói….Vì Đức Chúa , Thiên Chúa của Ít-ra-en phán thế này: “Hũ bột sẽ không vơi, vò dầu sẽ chẳng cạn cho đến ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất”. Bà ấy đi và làm như ông Ê-li-a nói; thế là bà ấy cùng với ông Ê-li-a và con bà có đủ ăn lâu ngày. Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Ê-li-a mà phán” (năm chẵn).
Chúng ta hãy dám sống sự thật của Tám Mối Phúc. Chắc chắn Chúa sẽ thực hiện lời hứa. Ban phúc cho ta. Và ban phúc cho những người nghe và tin vào Lời Chúa. Bấy giờ ta trở nên muối và ánh sáng cho thế gian.
----------------------------------
2Cr 3,4-11; 1V 18,20-39; Mt 5,17-19
Thấy Chúa Giê-su hành xử khá tự do. Chữa bệnh ngày sa-bát. Không ăn chay. Lui tới với người tội lỗi, phong cùi. Nhiều người nghĩ rằng Chúa đến để phá huỷ Lề Luật. Nhưng hôm nay Chúa minh định: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn”. Chúa kiện toàn thế nào? Có ba yếu tố cơ bản. Kiện toàn bằng tình yêu. Xưa kia luật là cứng ngắc. Khắt khe. Không nhân nhượng. Nhưng Chúa đã cho biết nền tảng của Lề Luật là tình yêu. Phải giữ luật vì lòng yêu mến. Mến Chúa và yêu người. Như Chúa dạy: “Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ”. Thậm chí Người còn ban hẳn một điều răn mới thay cho các điều răn cũ. Đó là phải thương yêu. Kiện toàn bằng lòng thương xót. Xưa kia máy móc nghĩ rằng cứ giữ luật là nên công chính. Tôi có thể tự mình nên công chính. Nay phải cậy nhờ lòng thương xót của Chúa. Chỉ nhờ lòng thương xót của Chúa tôi mới có thể được ơn cứu độ. Kiện toàn bằng Thần Khí. “Lời Chúa là Thần Khí và là sự sống”
Ê-li-a là người đầy Thần Khí và có lòng yêu mến lớn lao nên dám hi sinh tính mạng khi chống lại hoàng hậu I-de-ven độc ác. Cả nước đã theo hoàng hậu mà thờ thần Ba-an, nhưng Ê-li-a, với lòng yêu mến Chúa trung tín, vẫn tuân giữ lề luật của Chúa. Ông tin tưởng vững vàng vào lòng thương xót của Chúa nên dám thách thức các sư sãi của Ba-an trong một buổi cầu nguyện dâng hi lễ công khai trước mặt toàn dân. Tin tưởng và khiêm nhường, ông đã cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác và Ít-ra-en! Ước chi hôm nay người ta biết rằng trong Ít-ra-en Ngài là Thiên Chúa, và con là tôi tớ Ngài. Cũng vì lời Ngài phán mà con đã làm tất cả các việc này”. Vì thế Chúa đã nhận lời ngài. Cho lửa bởi trời xuống thiêu đốt lễ vật ông dâng. Và toàn dân đã lấy lại được niềm tin. “Toàn dân thấy vậy, liền phủ phục sát đất và nói: “Đức Chúa quả là Thiên Chúa!” (năm chẵn).
Thánh Phao-lô cho biết Chúa kiện toàn bằng Thần Khí. Giao Ước cũ căn cứ trên chữ viết. Giao Ước dựa vào Thần Khí. Chữ viết thì giết chết. Thần Khí mới ban sự sống. Chữ viết thì mau qua. Thần Khí thì vĩnh cửu. Vì thế Giao Ước mới là hoàn hảo. Và người phục vụ Giao Ước mới cũng sẽ được vinh quang. “Nếu việc phục vụ Lề Luật – thứ Lề Luật chỉ đưa đến sự chết và được khắc ghi từng chữ trên những bia đá – mà được vinh quang đến nỗi dân Ít-ra-en không thể nhìn mặt ông Mô-sê được, vì mặt ông chói lọi vinh quang – dù đó chỉ là vinh quang chóng qua -, thì việc phục vụ Thần Khí lại không được vinh quang hơn sao…Thật vậy nếu cái chóng qua mà còn được vinh quang, thì cái còn mãi lại chẳng vinh quang hơn sao”? (năm lẻ).
---------------------------------
2Cr 3,15 – 4,1.3-6; 1V 18,41-46; Mt 5,20-26
Chúa kiện toàn Lề Luật để phù hợp với Nước Trời. Và môn đệ phải sống theo luật mới để công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu.
Luật cũ đòi buộc bên ngoài. Luật mới đòi buộc trong tâm hồn. Luật cũ cấm ghen ghét. Luật mới đòi yêu thương. Không chỉ cấm giết người. Mà còn cấm cả ghen ghét. “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người…Còn Thầy, Thầy báo cho anh em biết: Bất cứ ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt”. Không những không được giận anh em. Mà còn không được để cho anh em bất bình với mình. “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình”. Luật mới là luật yêu thương. Yêu thương không phải ở bề mặt. Mà phải từ đáy sâu tâm hồn. Như thế mới đẹp lòng Chúa. Là của lễ xứng đáng dâng Chúa. Mới công chính hơn kinh sư.
Đó là không còn sống theo xác thịt. Nhưng theo Thần Khí. Ê-li-a là người sống theo Thần Khí. Ông không để lòng giận ghét ai. Dù ông bị vua A-kháp và hoàng hậu I-de-ven làm hại. Ông chỉ làm theo lệnh Chúa. Xong việc rồi ông lại đối xử tốt với vua A-kháp. Khi Chúa tha tội, ban mưa xuống đất Do thái, Ê-li-a đã chăm sóc cho vua. Lo cho vua ăn uống cho kịp chạy mưa. Và khi mưa xuống ông chạy trước xe để tháp tùng vua theo đúng nghi lễ quân thần. “Vua A-kháp cỡi xe đi Gít-rơ-en. Tay Đức Chúa đặt trên ông Ê-li-a; ông thắt lưng và chạy trước vua A-kháp cho tới lúc vào Gít-rơ-en”. Đó quả là con người sống theo Thần Khí (năm chẵn).
Phao-lô cho biết lý do luật mới công chính hơn. Đạo cũ đọc Kinh Thánh qua một tấm màn. Còn đạo mới gặp trực tiếp với Chúa. Chúa là Thần Khí. Thần Khí là tự do. Nên tâm hồn không bị ràng buộc trong sự chết. Nhưng phản chiếu vinh quang Chúa Ki-tô. Tự do yêu thương. Vì thế Tin Mừng Chúa Giê-su bừng sáng lên. Tuy nhiên những ai sống theo xác thịt vẫn không nhìn thấy ánh sáng đó. Chỉ những ai sống theo Thần Khí mới bừng sáng lên. Sống theo Thần Khí. Con người tràn đầy tự do. Và tràn đầy yêu thương. Đó là công chính hơn biệt phái (năm lẻ).
Lạy Chúa xin “làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng con, để tỏ bày cho thiên hạ được biết vinh quang của Thiên Chúa, rạng ngời trên gương mặt Đức Ki-tô”.
---------------------------------------
2Cr 4,7-15; 1V 19,9a.11-16; Mt 5,27-32
Chúa tiếp tục kiện toàn Lề Luật. Bằng nội tâm hoá. Giữ luật không phải theo hình thức bề ngoài. Nhưng từ đáy sâu tâm hồn. Đó là diệt tận căn sự dữ. Thực ra việc làm chỉ là kết quả cuối cùng. Chỉ là phần ngọn. Phần gốc khởi đầu và ăn sâu trong tâm hồn. “Bất cứ ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi”.
Phải diệt trừ tội lỗi tận gốc. Vì sự sống. Đây là kiện toàn Lề Luật ở mức cao nhất. Luật cũ đưa đến sự chết. Luật mới đưa đến sự sống. Chịu thiệt thòi đời này để được sự sống đời đời. “Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục”.
Thiên Chúa là Thiên Chúa của sự sống. Của niềm hy vọng. Những ai phục vụ Chúa. Chịu thiệt thòi ở đời này. Đừng nghĩ rằng thế là hết. Là chết. Chúa sẽ mở ra con đường hy vọng mới. Mở ra sự sống mới. Ê-li-a tuyệt vọng. Vì cuối cùng chỉ còn mình ông thờ phượng Chúa. Ông bị săn đuổi sắp chết. Sẽ chẳng còn ai tiếp tục thờ phượng Chúa. Nhưng trong cơn gió thoảng nhẹ nhàng, Chúa cho ông thấy cả một niềm hy vọng, một sự sống mới nảy sinh. “Ngươi hãy đi con đường ngươi đã đi trước qua sac mạc cho tới Đa-mát mà về. tới nơi, ngươi sẽ xức dầu phong Kha-da-ên làm vua A-ram; Còn Giê-hu con của Nim-si, ngươi sẽ xức dầu tấn phong nó làm vua Ít-ra-en. Ê-li-sa, con Sa-phát, người A-vên Mơ-khô-la, ngươi sẽ xức dầu tấn phong nó làm ngôn sứ thay cho ngươi” (năm chẵn).
Thánh Phao-lô quả quyết điều đó. Ngài có thể bị xua đuổi, hành hạ. Nhưng như thế sự sống của Chúa càng tỏ hiện. “Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giê-su, để sự sống của Đức Giê-su cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi. Thật thế, tuy sống, chúng tôi hằng bị cái chết đe doạ vì Đức Giê-su, để sự sống của Đức Giê-su cũng được biểu lộ nơi thân xác phải chết của chúng tôi”. Càng chịu đau khổ vì Chúa, thì sự sống của Chúa càng mạnh mẽ. Càng chết cho Chúa thì sự sống sẽ càng sung mãn. Và sẽ dẫn đến sự sống lại. Sự sống đời đời. Đó chính là niềm hy vọng. “Quả thật, chúng tôi biết rằng Đấng đã làm cho Chúa Giê-su trỗi dậy cũng sẽ làm cho chúng tôi được trỗi dậy với Chúa Giê-su, và đặt chúng tôi bên hữu Người cùng với anh em” (năm lẻ).
Hãy diệt trừ tội lỗi. Dù phải chịu đau khổ. Kể cả mất mạng sống. Nhưng Chúa sẽ trả lại cho ta sự sống. Sự sống đích thực. Sung mãn. Vĩnh cửu.
------------------------------
2Cr 5,14-21; 1V 19,19-21; Mt 5,33-37
Cuộc kiện toàn Lề Luật nhằm đưa đến kết quả tối ưu. Đó là sự sống. Sự sống mới trong Chúa. Vĩnh cửu. Từ bỏ sự sống mau qua của trần gian. Tại sao phải thể thốt? Đó là để đạt được trần gian. Trước hết là lòng tin. Thực ra khi phải thề thì niềm tin đã suy giảm rồi. Thường đạt được lòng tin là để được một mối lợi ở đời này. Chúa Giê-su dạy ta đừng thề thốt. Đừng tìm nương tựa nơi người đời. Đừng tìm lợi lộc đời này. Nhất là phải dùng lời thề. Hãy sống trong Chúa. Chúa là sự thật. Khi sống trong Chúa ta sống trong sự thật. Sự thật đơn sơ. Nguyên tuyền. Chúa là sự sống. Khi sống trong Chúa ta là đạt đến sự sống. Sự sống mới. Đời đời.
Chúa Giê-su đã làm gương cho ta. Người đã chết cho trần gian. Không màng một mối lợi nào nơi trần gian. Không tìm được uy tín nơi trần gian. Vì thế ta cũng phải đi theo con đường của Người. Chết cho trần gian. Để sống cho Thiên Chúa. “Đức Ki-tô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình”. Sống cho Chúa ta được hoà giải với Chúa Cha. Được thông phần sự sống của Thiên Chúa. Ta trở nên thụ tạo mới. “Cho nên , phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thụ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi”. Ta được đổi mới vì Chúa đã chịu tội thay để ta được nên công chính. “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người”. Vậy ta phải sống trong Chúa. Dứt bỏ lối sống cũ. Để từ nay không còn nhìn xem, phán đoán và cư xử theo xác thịt nữa. “Vì thế, từ đây chúng tôi không còn biết một ai theo quan điểm loài người”. Ta sống sự sống mới (năm lẻ).
Ê-li-sa là người làm gương cho ta. Ông là người giầu có. Có nhiều ruộng. Có gia nhân. Có nhiều súc vật. Đang cầy ruộng với 12 cặp bò. Nhưng khi được Ê-li-a kêu gọi, ông đã giã từ đời sống cũ. Giã từ những giá trị trần gian. Quyết liệt. Khi giết bò. Chẻ cầy. Đốt làm lễ toàn thiêu dâng Chúa. Để giã từ trần gian. Từ nay sống cho Chúa. Nghèo nàn trong Chúa. Phụng sự Chúa. Sống trong Chúa. Ông sống sự sống mới. Trong ân sủng. Trong tương giao nghĩa thiết với Chúa. “Ông Ê-li-sa bỏ ông Ê-li-a mà về,bắt cặp bò giết làm lễ tế, lấy cày làm củi nấu thịt đãi người nhà. Rồi ông đứng dậy, đi theo ông Ê-li-a và phục vụ ông” (năm chẵn).
Xin cho con biết từ bỏ trần gian với những giá trị của nó. Để tìm sự sống mới trong Chúa. Trong sự thật. Trong tình bạn với Chúa.
------------------------------------
2Cr 6,1-10; 1V 21,1-16; Mt 5,38-42
Người đời cư xử với nhau theo sức mạnh. Mạnh được yếu thua. Câu chuyện vườn nho Na-vốt là tiêu biểu. A-kháp đã có nhiều vườn tược. Nhưng vẫn còn ham muốn vườn nho của Na-vốt. Hoàng hậu I-de-ven đã dùng thủ đoạn gian dối. Vu cáo Na-vốt. Giết chết ông. Và chiếm vườn nho. Người có quyền thế có mọi sự. Sai bảo người khác làm điều dữ. Giết người. Cướp của. Nhưng lại dùng chiêu bài đạo đức. “Trong thư bà viết rằng: “Hãy công bố một thời kỳ chay tịnh và đặt Na-vốt ngồi ở hàng đầu dân chúng. Hãy đặt hai đứa vô lại ngồi đối diện với nó, để chúng tố cáo nó: ‘Ông đã nguyền rủa Thiên Chúa và đức vua’. Và hãy đem nó ra ngoài ném đá cho chết”.Thật là ghê gớm (năm chẵn).
Ngược hẳn với thói cư xử của người đời, Chúa dạy ta điều răn mới. Kiện toàn Lề Luật. Đề ra một lối sống mới. Đó là tinh thần Nước Trời. Và sẽ canh tân trần gian. Không còn mạnh hiếp yếu. Quyền lực áp chế dân đen. Nhưng là hiền lành, khiêm nhường và bác ái. Không dùng bạo lực. Chỉ dùng bác ái. Quảng đại. Yêu thương. Phục vụ: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: … Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặn, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin , thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi”. Đó chính là tinh thần của Chúa. Chính Chúa Giê-su đã làm như thế. Quỳ xuống rửa chân cho các tông đồ. Chữa lành anh lính bị Phê-rô chém đứt tai. Tha thứ cho những kể giết mình. Xin Chúa tha tội cho những kẻ làm hại mình. Đó chính là tinh thần Nước Trời.
Thánh Phao-lô ý thức được cộng tác với Chúa trong công trình xây dựng Nước Trời. Ngài làm tròn vai trò thừa tác viên của Chúa. Sống tinh thần của Chúa. Làm chứng cho Nước Trời. “Trong mọi sự, chúng tôi luôn chứng tỏ mình là những thừa tác viên của Thiên Chúa: gian nan, khốn quẩn, lo âu, đòn vọt, tù tội, loạn ly, nhọc nhằn, vất vả, mất ăn mất ngủ, chúng tôi đều rất mực kiên trì chịu đựng”. Về phương diện con người ngài bị coi như khốn khổ. Nhưng ngài cảm thấy đầy đủ, bình an, sung mãn trong Chúa: “Bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực chúng tôi vẫn sống; … coi như nghèo túng, nhưng kỳ thức chúng tôi làm cho bao người trở nên giầu có; coi như không có gì, nhưng kỳ thực chúng tôi có tất cả”(năm lẻ).
Xin cho con sống tinh thần của Chúa. Và làm chứng cho Nước Trời ở giữa trần gian. Bằng chấp nhận mọi thiệt thòi ở đời này. Để được sung mãn trong Nước Trời.
--------------------------------------
2Cr 8,1-9; 1V 21,17-29; Mt 5,43-48
Yêu kẻ thù. Ai cũng bảo là không thể. Đó là vì ta theo thói quen. Để đối tượng qui định tình cảm. Gặp người tốt thì ta quý. Gặp người dễ thương thì ta thương. Người làm ơn cho ta thì ta biết ơn và quý trọng. Gặp người xấu thì ta tránh xa. Gặp người khó thương thì ta chối từ. Đó chẳng có gì lạ. Nhưng đó là để cho đối tượng qui định tình cảm của mình. Ta đâu có chủ động. Vì ta không có nền tảng. Phải có nền tảng tình yêu ở nơi Chúa. Phải có tình yêu từ trong trái tim mình. Khi đó ta sẽ yêu bất chấp ngoại cảnh thế nào. Vẫn yêu bất chấp người đối diện là thế nào. Vẫn yêu bất chấp người khác có làm gì cho ta, dù tốt, dù xấu. Như thế yêu kẻ thù là có thể. Ta không yêu để đáp lại kẻ thù. Nhưng ta yêu vì tình yêu đầy trong trái tim ta. Đó chính là tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Tình Yêu. Trong Người chỉ có yêu thương. Như mặt trời. Như cơn mưa. Không phân biệt.
Chính vì thế Chúa luôn tha thứ. Luôn chạnh lòng thương. A-kháp phạm tội tầy đình. Nhưng khi nghe Chúa tuyên án, ông khóc lóc ăn năn. Chúa liền tha thứ. “Khi nghe những lời ấy, vua A-kháp xé áo mỉnha, khoác áo vải bố bám sát vào thịt, ăn chay, nằm ngủ với bao bì và bước đi thiểu não. Bấy giờ có lời Đức Chúa phán với ông Ê-li-a, người Tít-be rằng: “Ngươi có thấy A-kháp đã hạ mình trước mặt Ta thế nào không?...nên Ta sẽ không giáng hoạ trong buổi sinh thời của nó”. Quả thật là tình yêu nguyên tuyền. Chỉ có yêu thương (năm chẵn).
Thánh Phao-lô khen ngợi tín hữu Ma-kê-đô-ni-a. Vì họ đã có tình yêu của Chúa. Trong mọi gian nan thử thách họ vẫn vui tươi. Vì họ có Chúa ở cùng. “Trải qua bao nỗi gian truân, họ vẫn được chan chứa niềm vui; giữa cảnh khó nghèo cùng cực, họ lại trở nên những người giàu lòng quảng đại. Họ đã tự nguyện theo sức họ, và tôi xin làm chứng là quá sức họ nữa; họ khẩn khoản nài xin chúng tôi cho họ được phúc tham dự vào việc phục vụ các người trong dân thánh”. Yêu thương. Quảng đại. Họ đã nên hoàn thiện như Cha trên trời.
Thánh Phao-lô dùng tấm gương đó mà khích lệ tín hữu Cô-rin-tô. Và cả chúng ta nữa. Hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời. Có Chúa trong ta sẽ có tình yêu trong ta. Có tình yêu ta sẽ tràn đầy niềm vui. Và tình yêu sẽ lan toả đến khắp mọi người. Kể cả kẻ thù. Vì bấy giờ tim ta không có gì khác ngoài tình yêu. Nó không còn bị qui định bởi đối tượng bên ngoài. Chỉ biết toả lan tình yêu. Như Chúa Giê-su “Chúa chúng ta,…Người vốn giầu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (năm lẻ).
---------------------------------
2Cr 9,6-11; 2V 2,1.4.6-14; Mt 6,1-6.16-18
Tôn giáo là một tổ chức. Nhưng thực chất lại là mối liên hệ sâu xa và riêng tư giữa từng người với Thiên Chúa. Càng sâu xa và riêng tư hơn nữa khi đó là mối liên hệ Cha – Con. Vì thế các thực hành tôn giáo đúng nghĩa chỉ nói lên mối tình Cha – Con riêng tư. Không để khoe khoang thành tích. Không làm để cho người đời khen tặng. Thực tế đã có nhiều giả hình, phô trương trong sinh hoạt tôn giáo. Mượn đạo tạo đời. Đó là điều Chúa Giê-su cảnh báo: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. Vậy khi bố thí, đừng có khua chiếng đánh trống, …Khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy…Khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả,…Còn anh, khi ăn chay, phải làm…để không ai thấy là anh ăn chay, ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh”.
Chúa sẽ trả lại. Trả cách hậu hĩnh. Như thánh Phao-lô cảm nghiệm. “Thưa anh em, tôi xin nói điều này: gieo ít thì gặt ít; gieo nhiều thì gặt nhiều. Mỗi người hãy cho tuỳ theo quyết định của lòng mình, không buồn phiền, cũng không miễn cưỡng, vì ai vui vẻ dâng hiến, thì được Thiên Chúa yêu thương. Vả lại, Thiên Chúa có đủ quyền tuôn đổ xuống trên anh em mọi thứ ân huệ, để anh em vừa được luôn đầy đủ mọi mặt, vừa được dư thừa mà làm việc thiện”. Người vui vẻ dâng hiến cho Chúa. Chỉ vì Chúa sẽ được Chúa trả lại gấp bội (năm lẻ).
Ê-li-a suốt đời phục vụ Chúa. Ông chỉ biết một mình Chúa. Bất chấp vua A-kháp và hoàng hậu I-de-ven. Kết hợp mật thiết với Chúa. Hi sinh trọn đời cho Chúa. Rồi cuối cùng Chúa ban phần thưởng trọng hậu. Cho có người nối tiếp nhiệm vụ tiên tri. Cho xe lửa và ngựa lửa đón ngài về trời. Để lại quyền năng cho Ê-li-sa, người kế vị: “Các ông còn đang vừa đi vừa nói, thì này một cỗ xe đỏ như lửa và những con ngựa đỏ như lửa tách hai người ra. Và ông Ê-li-a lên trời trong cơn gió lốc…E-li-sa trở về và đứng bên bờ sông Gio-đan. Ông lấy áo choàng của ông Ê-li-a đã rơi xuống mà đập xuống nước … nước rẽ ra hai bên, và ông Ê-li-sa đi qua” (năm chẵn).
Khi sống đạo hình thức. Ta không có Chúa. Đạo thật buồn nản. Là gánh nặng. Nhưng khi sống nội tâm. Với một mình Chúa. Ta có niềm vui. Và sức sống. Vì Chúa sẽ đổ tràn niềm vui mừng hạnh phúc, trả lại cho ta.
---------------------------------------
2Cr 11,1-11; Hc 48,1-14; Mt 6,7-15
Cầu nguyện là hành vi cao đẹp. Vì nâng con người lên. Chúa Giê-su dạy ta cầu nguyện. Đừng lải nhải nhiều lời như người dân ngoại. Đừng biến mình thành kẻ ăn mày. Nhưng nâng tâm hồn lên. Như người con hiếu thảo. Người con hiếu thảo quan tâm đến việc nhà. Đến chương trình của cha. Cầu nguyện đầu tiên là tha thiết với chương trình của Cha. Cộng tác với chương trình của Cha. “Nguyện Danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Hiến thân thực hiện chương trình của Cha. Vì trong chương trình đó có hạnh phúc của ta. Vì Cha nên yêu thương anh em. Cầu nguyện cho tha nhân. Tha thứ cho anh em. Để nên một trong Cha. Chúa Giê-su là người đầu tiên. Là Con Một Yêu Dấu. Hiếu thảo. Đã hoàn toàn huỷ mình ra không. Để thánh ý Cha được thể hiện.
Ê-li-a là người con hiếu thảo. Hoàn toàn quên mình vì Chúa. Vì Chúa ông chịu thiệt thòi. Bị săn đuổi. Phải chạy trốn. Bị bỏ rơi. Nhưng ở trong Chúa, ông được đầy uy lực. “Ông dùng lời Thiên Chúa mà đóng cửa trời, và ba lần cũng cho lửa đổ xuống… Ông dùng lời của Đấng Tối Cao mà làm cho một kẻ chết trỗi dậy”. Sau đó lại đến Ê-li-sa. Người đã bỏ hết gia đình, ruộng vườn, bò bê. Để thực hiện chương trình của Thiên Chúa. “Lúc sinh thời, ông đã làm nhiều dấu lạ, sau khi chết, ông vẫn còn thực hiện những điềm thiêng” . Các ngài đến với Chúa như những người con hiếu thảo. Nên Chúa dùng các ngài thực hiện chương trình của Chúa. Vì kết hợp với Chúa, các ngài được quyền năng. Và Lời Chúa ở với các ngài (năm chẵn).
Thánh Phao-lô cũng là một người con hiếu thảo. Ngài yêu mến Chúa Giê-su. Chết cho bản thân. Để chỉ sống cho Chúa. Ngài yêu thương dân bằng tình yêu của Chúa. Nên ngài mong ước dân thuộc về Chúa. Nên một với Chúa. Trung tín với Chúa. Đừng thay lòng đổi dạ. “Thật thế, vì anh em, tôi ghen cái ghen của Thiên Chúa, bởi tôi đã đính hôn anh em với một người độc nhất là Đức Ki-tô, để tiến dâng anh em cho Người như một trinh nữ thanh khiết”. Nên một với Chúa. Để cộng tác với Chúa. Trở thành cánh tay nối dài. Thực hiện chương trình của Chúa trên trần gian. Như thánh Phao-lô. Làm hết sức mình để chương trình của Chúa được thực hiện: “Tôi đã hạ mình xuống để tôn anh em lên, khi rao giảng không công cho anh em Tin Mừng của Thiên Chúa. Tôi đã bóc lột các Hội Thánh khác, ăn lương của họ, để phục vụ anh em”.
Xin cho con trở thành người con hiếu thảo. Để khi cầu nguyện con gặp người Cha quyền năng và yêu thương. Và không mong gì hơn là hiến mình cho công trình của Cha được thực hiện. Đó là hạnh phúc của con.
-----------------------------------
2Cr 11,18.21b-30; 2V 11,1-4.9-18.20; Mt 6,19-23
----------------------------
Tích trữ thường đi với đầu cơ. Thu thập của cải, hàng hóa, hoặc tiền bạc để dành chờ khi cần đem ra dùng hoặc bán lại với giá thật cao, thu được nhiều lợi. Có nhiều món hàng hôm nay chẳng có giá trị gì nhưng mai sau giá cao khôn lường. Tùy tầm nhìn, tùy chuyên môn, tùy thời hạn, có người tích trữ nhà đất, có người tích trữ vàng bạc, có người tích trữ thóc lúa, có người tích trữ tranh ảnh, có người đầu tư vào con người như bà Giơ-hô-se-va đã bồng Gio-át vào trốn trong Đền Thờ, thoát lưỡi gươm của A-than-gia. Sáu năm sau ông trở thành vua cai trị Í-ra-en (năm chẵn).
Chúa Giêsu khuyên ta hãy khôn ngoan tích trữ kho tàng sao cho không bao giờ hư hao hay bị mất mát. Đó là kho tàng ở trên trời. Kho tàng trên trời khác hẳn kho tàng dưới đất. Giữa hai kho tàng, ta phải khôn ngoan lựa chọn. Lựa chọn này không phải dễ dàng vì kho tàng dưới đất là thứ khả giác, dễ thấy còn kho tàng trên trời vô hình khó thấy. Kho tàng dưới đất tiện dụng ngay tức khắc, kho tàng trên trời chỉ dùng được ở đời sau. Kho tàng dưới đất đem lại tiện nghi hưởng thụ cho hiện tại. Kho tàng trên trời phải chấp nhận thiệt thòi trong hiện tại để được hưởng thụ trong tương lai.
Thánh Phaolo đã khôn ngoan khi từ bỏ kho tàng dưới đất để tích trữ kho tàng trên trời khi từ bỏ những ưu thế, phẩm giá, quyền lợi của ngài trong thế giới Do thái để chấp nhận bị đánh đòn, bị ném đá, bị đắm tàu, bị nguy hiểm, chịu đói khát, rét mướt trần truồng vì Chúa và vì Tin Mừng. Đó là ngài tích trữ kho tàng ở trên trời. Ngoài ra ngài còn chăm lo cho Hội Thánh là di sản Chúa Giê-su để lại: “Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh” (năm lẻ).
Lựa chọn lý tưởng là nền tảng cho cuộc sống. Sáng suốt sẽ chọn được lý tưởng tốt và sẽ đạt tới hạnh phúc. Người khôn ngoan trong Chúa có cặp mắt sáng là người có lựa chọn đúng. Nếu chọn sai là mắt có vấn đề, nhìn không thấy mà chọn lựa bóng tối sẽ đi trong bóng tối. Đã lựa chọn nền tảng sai thì cả cuộc đời chìm trong bóng tối.
Xin cho con khôn ngoan, có đôi mắt sáng để biết chọn lựa, chấp nhận những đau khổ thiệt thòi ở đời này, đó chính là tích trữ kho tàng trên trời, để sau này được hưởng hạnh phúc đích thực trong Nhà Cha, nơi hạnh phúc vững bền mãi mãi.
------------------------------------
2Cr 12,1-10; 2Sbn 24,17-25; Mt 6,24-34
Chúa Giê-su dứt khoát nói với ta: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được”. Ai lo tìm những giá trị đời này sẽ bỏ quên Thiên Chúa. Ai tìm Thiên Chúa sẽ không màng gì những lợi lộc đời này. Vì Thiên Chúa đã ban cho ta điều cơ bản nhất: sự sống. Thế mà ta cứ lo tìm những gì phụ thuộc. “Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?” Chúa đưa ra ví dụ cụ thể. Chim trời không gieo không gặt vẫn được Chúa nuôi dưỡng. Bông hoa ngoài đồng không dệt không may mà áo đẹp còn hơn vua chúa. Huống chi chúng ta là con cái của Chúa. “Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao?” Vì thế Chúa khuyên ta cứ an tâm phục vụ Thiên Chúa. “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”.
Gio-át là người hai lòng hai dạ. Ông đã thờ phượng Chúa. Nên được Chúa phù hộ. Qua thầy cả Giơ-hô-gia-đa. Nhưng nghe lời xiểm nịnh của các thủ lãnh Giu-đa ông đã thay lòng đổi dạ. Bỏ “Đền Thờ của Đức Chúa là Thiên Chúa tổ tiên họ, mà phụng sự các cột thờ và các ngẫu tượng”. Tư tế Da-ca-ri-a, là con tư tế Giơ-hô-gia-đa, đứng lên ngăn cản. “Họ liền toa rập chống lại ông và, theo lệnh vua, họ ném đá giết ông trong sân Đền Thờ Đức Chúa”. Vì thế Chúa đã từ bỏ ông. Một số ít quân đội A-ram tiến đánh. Nhưng số đông Giu-đa thua trận. “Vua bị giết ngay trên giường. Vua đã chết ,…nhưng không được chôn nơi phần mộ hoàng gia” (năm chẵn).
Thánh Phao-lô là người chỉ chọn phụng sự Thiên Chúa. Ngài đã từ bỏ mọi lợi lộc trần gian. Tuy được Thiên Chúa yêu thương ban tràn đầy ân sủng. Một ân huệ lớn lao là được đưa lên tầng trời Thứ 3. Nhưng ngài vẫn còn chịu đau khổ. “Thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Xa-tan được sai đến vả mặt tôi”. Đó là thiệt thòi ngài chịu nơi trần gian. Ngài tha thiết xin Chúa “cho thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối”. Và điều lạ lùng xảy ra. “Tôi tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi… Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”. Khi hoàn toàn không còn trông cậy gì ở trần gian. Chỉ trông cậy vào Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ làm việc. Và thánh nhân “cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô”. Từ bỏ trần gian. Chỉ phụng sự Chúa. Sẽ có tất cả (năm lẻ).
-------------------------------------
St 12,1-9; 2V 17,5-8.13-15a.18; Mt 7,1-5
Ai cũng thích xét đoán. Nhưng thường sai lầm. Có hai sai lầm cơ bản. Sai lầm vì chủ quan. Không xét mình nhưng luôn xét người. Xét mình thì nặng thành nhẹ. Xét người lại nhẹ thành nặng. “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại nói với người anh em: ‘Hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt bạn’. trong khi có cả một cái xà trong con mắt anh?”. Sai lầm khác nguy hiểm hơn. Đó là quên Thiên Chúa mới có quyền xét đoán. Vì Thiên Chúa là chủ. Không chỉ xét đoán bâng quơ. Nhưng ấn định số phận đời đời của ta. “Anh đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán”. Nhưng Thiên Chúa rất công bằng và nhân hậu. Người xét đoán ta theo cách ta xét đoán anh em. “Vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em”. Chính ta tự tạo thước đo và bàn cân cho mình. Nên hãy cẩn thận.
Tổ phụ Áp-ra-ham không xét đoán ai. Và cũng chẳng coi trọng xét đoán của người đời. Chỉ quan tâm đến Thiên Chúa. Nhất nhất thi hành mệnh lệnh của Chúa không sai chạy. Vững tin vào Lời Chúa hứa. Dù trải qua những giây phút thật khó khăn. Vẫn tin cả khi không còn gì để tin. Luôn để Chúa làm chủ đời mình. Luôn cư xử hoà nhã tốt lành với đồng loại. Vì thế ông được chúc phúc. Và muôn dân cũng nhờ ông mà được chúc phúc. “Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi; Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc”. Nhờ trung tín với Chúa, Áp-ra-ham trở thành chuẩn mực. Phúc cho ai chúc phúc cho ông. Thiệt cho ai nguyền rủa ông (năm lẻ).
Ít-ra-en, đặc biệt vào thời vua Hô-sê thì không được như thế. Nên bị thua vào tay Át-sua. Và bị lưu đầy. Vì phản bội Chúa. “Sự việc đó xảy ra, vì con cái Ít-ra-en đã đắc tội với Đức Chúa, Thiên Chúa của họ, là Đấng đã đem họ lên từ đất Ai-cập, đã giải thoát họ khỏi tay Pha-ra-ô, vua Ai-cập, và vì họ đã kính sợ các thần khác”.
Chúa làm chủ lịch sử. Làm chủ thế giới. Làm chủ vận mệnh bản thân ta và dân tộc ta. Chúa mới có quyền phán xét. Và phán xét mới quyết định số phận. Hiểu biết như thế ta sẽ không còn e ngại những bậc quyền cao chức trọng. Sẽ biết kính sợ Thiên Chúa. Vì Chúa sẽ phán xét ta. Nhưng ta cũng tin tưởng. Vì Người phán xét ta theo cách ta đoán xét người khác. Sẽ khoan dung với ta. Nếu ta biết khoan dung với anh em.
----------------------------------
St 13, 2.5-18; 2V 19, 9b-11.14-21.31-35a.36; Mt 7, 6.12-14
Chúa chỉ cho ta con đường dẫn đến sự sống đó là phải vào qua cửa hẹp.
Cửa hẹp là chế ngự được thú tính. “Đừng quăng của thánh cho chó; đừng liệng ngọc trai cho heo”. Trong ta có của thánh và ngọc quí. Đó là đức tin, là ơn thánh, là tước hiệu con cái Chúa. Quí giá vì quyết định hạnh phúc đời đời. Vì thế phải bảo vệ trân trọng bằng bất cứ giá nào. Bằng cả mạng sống ta. Nhưng trong ta cũng có những con thú. Thú dữ như chó. Thú dơ bẩn như heo. Nếu ta không kềm chế, thả lỏng những con thú này. Chúng sẽ chà đạp hết những gì cao quí trong con người ta rồi quay lại cắn xé ta tan nát. Chế ngự thú tính là bắt mình đi vào cửa hẹp, không cho thú tính tự do tung tác. Như thế mới bảo vệ được ơn thánh và ngọc quí trong ta.
Cửa hẹp là biết quan tâm đến tha nhân sống chung quanh ta. Quan tâm để phục vụ: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta”. Đó là yêu người như mình. Khi muốn làm vui lòng tha nhân, phải từ bỏ mình. Phải chịu hẹp một chút. Đó là vào cửa hẹp yêu thương. Cửa hẹp này sẽ mở rộng cánh cửa tâm hồn của ta và của tha nhân.
Như Áp-ra-ham biết giữ những giá trị tinh thần cao quí. Giá trị đó là đức tin vào Chúa một cách tuyệt đối. Giá trị đó cũng là tình gia tộc. Phải phân chia nơi ở để gìn giữ hòa khí. Trong phân chia, Áp-ra-ham đã đi vào cửa hẹp là nhường nhịn. Dành cho Lót quyền ưu tiên chọn lựa. Dù Lót là phận dưới. Lại chỉ là người ăn theo lời hứa. Lót đã chọn thành Xô-đô-ma là một thành phố giầu sang thịnh vượng. Vừa dễ làm ăn vừa vui tươi. Còn Áp-ra-ham theo lời hứa đã chọn hướng ngược lại, vào sa mạc cắm lều dưới rặng sồi Măm-rê. Ông đã giữ được của thánh và ngọc quý. Ông được Chúa thưởng công gấp bội (năm lẻ).
Như Khít-ki-gia. Không cậy dựa vào sức mạnh của nhân loại. Cũng không hèn nhát hàng phục. Nhưng phó thác cho Chúa. Trước sức hung hãn của Át-sua. Giống như chó dữ. Và như heo dơ bẩn. Muốn cắn xé đức tin của ông. Muốn chà đạp sự linh thiêng của Chúa. Khít-ki-gia đi vào cửa hẹp. Lên Đền Thờ tỏ bày với Chúa. Và ông đã được Chúa cứu thoát khỏi ách xâm lược của Át-sua. “Chính đêm ấy, thiên sứ của Đức Chúa ra đánh chết một trăm tám mươi lăm ngàn người trong trại quân Át-sua. Vua Át-sua là Xan-khê-ríp nhổ trại và lên đường. Ông rút về Ni-ni-vê” (năm chẵn).
Đường rộng thênh thang muôn lối nhưng dẫn đến diệt vong. Xin Chúa cho con biết đi vào đường hẹp, chỉ có một lối duy nhất của Chúa dẫn đến sự sống.
------------------------------------
St 15, 1-12.17-18; 2V 22, 8-13;23, 1-3; Mt 7, 15-20
Cây tốt sinh quả tốt đòi hỏi thời gian. Khi cây chưa ra quả chưa phân biệt được tốt xấu. Có những cây cành lá um tùm nhưng lại không có quả như cây vả bị Chúa chúc dữ. Có những cây khẳng khiu nhưng lại sinh hoa thơm trái ngọt. Vì thế phải kiên nhẫn. Kiên nhẫn chờ đợi và kiên nhẫn vun trồng. Khi ta xét đoán người hãy biết chờ đợi cho đến thời đến buổi, đừng sớm xét đoán. Khi ta xét mình ta hãy biết kiên nhẫn để không nản lòng nhưng vẫn luôn vươn lên dù những yếu đuối khiếm khuyết. Sẽ có ngày Chúa cho sinh hoa quả tốt lành.
Cây tốt sinh quả tốt đòi hỏi đức tin kiên vững như tổ phụ Áp-ra-ham. Ra đi khi tuổi đã cao nhưng vẫn tin lời Chúa hứa. Chưa thấy đất chẩy sữa và mật nhưng vẫn tiến bước trong sa mạc. Chưa thấy con cháu nối dõi, đã phải chọn gia nhân làm người thừa kế theo thói thế gian nhưng vẫn tin vào lời Chúa hứa. Và quả thật Chúa đã giữ lời hứa cho Áp-ra-ham thành tổ phụ những người tin ngày càng đông đúc và kéo dài cho đến tận thế. Đức tin kiên vững là một cây tốt sinh hoa trái xum xuê, như cây trồng bên bờ suối, cho hoa trái quanh năm và cây không bao giờ tàn úa (năm lẻ).
Cây tốt sinh quả tốt đòi hỏi sự trung thành với giao ước. Đã ký kết giao ước rồi Chúa luôn trung thành. Lời Chúa hứa là một thân cây có khi gai góc, có khi khẳng khiu, có khi èo uột tưởng chừng tàn lụi trong mùa đông lạnh giá. Đó là những thử thách từ hoàn cảnh khó khăn, từ những vấp ngã của con người, từ những thế lực trần gian luôn nhũng nhiễu quấy phá. Nhưng rồi đến thời điểm Chúa định, một mùa xuân bừng dậy, cây lời hứa đơm hoa kết trái phúc lộc man vàn. Chỉ cần con người kiên tâm, trung thành vượt qua mùa đông lạnh giá, Chúa trung thành chờ đón tôi trung vào mùa xuân vĩnh cửu.
Cây tốt sinh quả tốt đòi hỏi can đảm dấn thân ký kết giao ước như vua Khít-ki-gia. Biết Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống và sức mạnh. Biết tổ tiên đã sai lỗi khi phế bỏ giao ước nên đã đi vào tiêu vong. Vua thống hối và lập tức ký kết giao ước với Thiên Chúa. Đó chính là vun trồng cây tốt. Đó chính là trồng cây trên đất tốt. Đó chính là chọn mặt gửi vàng (năm chẵn).
Xin cho con biết phân biệt cây tốt với cây xấu. Xin cho con đừng trở thành cây xấu sống giả dối. Chỉ có hình thức bề ngoài đẹp đẽ nhưng linh hồn xấu xa. Chỉ có lời nói đẹp đẽ nhưng ý hướng đen tối. Xin cho con trở thành cây tốt. Sống chân thật. Nói lời chân thật . Để sẽ có hoa trái là hạnh phúc đích thật.
------------------------------
St 16,1-12.15-16; 2V 24,8-17; Mt 7,21-29
Thật đáng ngạc nhiên. Và đáng sợ hãi. Những người đã từng “nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ”. Nhưng Chúa nói với họ: “Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác”. Chúa không biết họ. Vì họ không từ Chúa mà đến. Chúa không sai họ. Họ làm điều gian ác. Vì làm do lòng kiêu ngạo, phô trương. Vì bản thân. Không phải vì Chúa. Họ không tuân giữ Lời Chúa. Họ là những ngôi nhà xây trên cát. “Ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ , sụp đổ tan tành”.
Khi lên ngôi vua, Giơ-hô-gia-khin đã từ bỏ Lời Chúa. “Vua đã làm điều dữ trái mắt Đức Chúa hệt như vua cha”. Vì thế mà triều đại nhà vua mau chóng tàn lụi. Na-bu-cô-đô-nô-xo tiến đánh Giê-ru-sa-lem. Phá huỷ đền thờ. Và các đồ thờ bằng vàng. “Vua đày Giơ-hô-gia-khin sang Ba-by-lon; vua đày mẹ vua này, các cung phi, các thái giám và phú hào trong xứ, sang Ba-by-lon. Tất cả những người có thế giá, bảy ngàn người, thợ rèn và thợ làm khoá, một ngàn người, và tất cả các binh lính” (năm chẵn). Đó là xây nhà trên cát. Sụp đổ tan tành.
Áp-ra-ham xây nhà trên đá. Vì ông luôn tuân giữ Lời Chúa. Chúa hứa cho ông một dòng dõi đông đúc. Nhưng 80 tuổi vẫn chưa có con. Ông toan chọn người quản gia làm người thừa kế. Nhưng Chúa không đồng ý. Bà Xa-rai thấy mình không có con đề nghị ông đi lại với nàng hầu A-ga của bà. A-ga có thai. Khinh thường bà chủ. Nên bà hành hạ. Đến độ A-ga phải bỏ trốn. Nàng sinh con. Nhưng Chúa không đồng ý cho Ít-ma-en thừa kế. Phải chính là con ruột của Áp-ra-ham mới được. Áp-ra-ham vẫn tin tưởng vào Chúa. Và cuối cùng lời Chúa hứa được thực hiện. Bà Xa-ra đã sinh ra I-sa-ác. Đó mới thật là dòng dõi của Áp-ra-ham. Đó là Chúa thực hiện lời hứa. Nhờ Áp ra-ham kiên trì tin tưởng vào Lời Chúa Hứa. Ông thực hành Lời Chúa. Ông trở thành ngôi nhà xây trên đá tảng vững bền. Lời Chúa hứa với ông đã được thực hiện (năm lẻ).
Xin cho con biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Để khi khó khăn thử thách xảy đến, con vẫn vững vàng. Như nhà xây trên đá.
----------------------------------
St 17,1.9-10.15-22; 2V 25,1-12; Mt 8,1-4
Người “mắc bệnh phong tiến lại, bái lạy Người và nói: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Bệnh phong là bệnh nan y thời ấy. Không ai có thể chữa lành. Bệnh phong giống như người chết. Vì bị khai trừ ra khỏi cộng đoàn. Người bệnh phong này có đức tin mãnh liệt. Chỉ có Chúa mới có thể chữa ông. Chúa Giê-su “giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh hãy được sạch”. Chúa là Thiên Chúa của sự sống. Chúa dựng nên sự sống. Không dựng nên sự chết. Chúa muốn sự sống cho con người. Chúa giơ tay đụng vào người bệnh. Bàn tay yêu thương đụng đến chỗ đau yếu nhất. Ngón tay thần linh ban sự sống. Như ngón tay Thiên Chúa chạm vào ngón tay A-đam. Thiên Chúa ban sự sống. Kỳ diệu hơn nữa. Thiên Chúa trả lại sự sống.
Thiên Chúa muốn sự sống. Nên đã tuyển chọn Ít-ra-en. Nhưng các vua chúa lại phản bội. Làm điều dữ trước mặt Chúa. Nên đi vào con đường sự chết. Xít-ki-gia-hu cũng đi vào đường tội lỗi như vua cha. Nên dẫn đến cái chết. Cái chết của một dân tộc. Tất cả phải đi lưu đày. Chỉ còn “lại một phần dân cùng đinh trong xứ để trồng nho và canh tác”. Vua chết dần mòn vì “vua Ba-by-lon đâm mù mắt vua Xít-ki-gia-hu, lấy hai dây xích đồng xiềng vua lại và điệu về Ba-by-lon”. Chết cả dòng họ. Tuyệt tự. “Chúng cắt cổ những người con của vua Xít-ki-gia-hu trước mắt vua cha”. Không còn sự sống (năm chẵn).
Áp-ra-ham thờ phượng Chúa nên Chúa ban sự sống qua dòng dõi trường tồn. Ông đã nản lòng. Vì chín mươi chín tuổi mà chưa có con. Ông muốn người quản gia thừa kế. Chúa không đồng ý. Ông muốn đứa con của nữ tỳ thừa kế. “Ước chi Ít-ma-en được sống trước nhan Ngài”. Chúa cũng không chịu. Vì Chúa sẽ ban cho ông người con chính ông sinh ra. “Không đâu! Chính Xa-ra, vợ ngươi, sắp sinh cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ đặt tên cho nó là I-xa-ác. Ta sẽ lập giao ước của Ta với nó; đây sẽ là giao ước vĩnh cửu cho dòng dõi nó sau này” (năm lẻ).
Chúa là Thiên Chúa của sự sống. Chúa muốn ta được sống. Và sống đời đời. Nhưng sự sống chỉ có ở trong Chúa. Hãy ở lại trong Chúa. Bằng tuân giữ Lời Chúa. Như tổ phụ Áp-ra-ham. Ta sẽ ở trong sự sống. Sự sống yêu thương. Sự sống sung mãn. Sự sống trường cửu.
-------------------------------
St 18,1-15; Ac 2,2.10-14.18-19; Mt 8,5-17
Áp-ra-ham là người công chính. Từ nhân loại tội lỗi Thiên Chúa đã tuyển chọn Áp-ra-ham để lập ra một dân riêng. Chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế giáng trần. Áp-ra-ham là vị Tổ phụ mẫu mực. Ngài có tấm lòng rộng mở đón nhận Lời Chúa. Ngài có tấm lòng trung tín luôn vâng theo ý Chúa. Cuộc đời ngài hoàn toàn dâng hiến cho thánh ý Thiên Chúa. Hãy xem cách ngài đón tiếp Thiên Chúa đến viếng thăm. Làm tất cả mọi sự vì Thiên Chúa. Tuyệt đối tin vào Lời Hứa. Dù đã trăm tuổi mà vẫn chưa có con. Nhưng vẫn tin vào Lời Chúa. “Tại sao Xa-ra lại cười và nói: ‘Có thật tôi già thế này mà còn sinh đẻ được chăng?’ Nào có điều gì kỳ diệu vượt sức Đức Chúa? Vào độ này sang năm, ta sẽ trở lại thăm người, và Xa-ra sẽ có một con trai”. Ông đã trở thành Tổ phụ lớn lao và gương mẫu (năm chẵn).
Tiếc rằng đến thời sau dòng dõi huyết tộc của ông không còn giữ được đức tin và lòng trung tín với Thiên Chúa. Vì họ đã nghe những tiên tri giả mà phạm sai lầm. Rơi vào ảo tưởng. Nên bị Thiên Chúa trừng phạt. “Mọi nơi cư ngụ của Gia-cóp, Đức Chúa huỷ diệt chẳng chút xót thương; nổi trận lôi đình. Người triệt hạ đồn luỹ của thiếu nữ Giu-đa….Ngôn sứ của ngươi tỏ cho ngươi thấy toàn điều hư ảo, toàn chuyện khói mây, còn lỗi lầm ngươi, chúng không vạch rõ để đảo ngược số phận của người”. Tiên tri kêu gọi họ sám hối, cầu xin để được Thiên Chúa tha tội: “Trước nhan Chúa hãy trút niềm tâm sự, giơ tay hướng về Người mà cầu cho sinh mạng của đoàn con đang lịm dần vì đói” (năm chẵn).
Đến khi Chúa Giê-su đi rao giảng, cũng kêu gọi sám hối. Nhưng dân chẳng tin. Trái lại có những người ngoại đạo tin. Như ông đại đội trưởng quân đội Rô-ma hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Lại có lòng khiêm tốn sâu xa: “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh”. Chúa Giê-su đã ngạc nhiên và khen ngợi ông: “Tôi bảo thật các ông: tôi không thấy một người Ít-ra-en nào có lòng tin như thế. Tôi nói cho các ông hay: Từ phương ddoong phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗi tối tăm bên ngoài”. Như thế dòng dõi Áp-ra-ham có hai. Về huyết thống thì yếu lòng tin nên bị loại bỏ. Về đức tin. Bất cứ ai tin sẽ được gọi là con cháu Áp-ra-ham. Sẽ được vào dự tiệc Nước Trời.
Tinh thần quý hơn thể xác. Đức tin quý hơn huyết thống. Như Chúa Giê-su từng nói: “Ai nghe và tuân giữ Lời Chúa. Đó là anh em, chị em và là Mẹ Ta” (Lc 8,21). Xin cho con được thuộc về dòng dõi những kẻ tin. Để trở thành thân nhân của Chúa.
------------------------------
St 18,16-33; Am2,6-10.13-16; Mt 8,18-22
Thiên Chúa bắt ta phải có lựa chọn tuyệt đối, dứt khoát. Giữa Thiên Chúa và thế gian. Chọn Thiên Chúa ta phải cam lòng mất tất cả những gì thuộc về trần gian. “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo”. Thật là một tâm hồn quảng đại. Yêu mến chân thành. Nhưng Chúa trả lời quyết liệt: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”. Thật là ghê gớm. Muốn đi theo dù đi đến đâu. Nhưng không có “đâu” để mà theo. Không có nơi đi. Không có nơi đến. Hư vô. Từ bỏ hết. Không có chỗ tựa đầu nữa. Đừng tựa vào gì khác. Chỉ một mình Chúa thôi. Chọn lựa dứt khoát quá. Đau đớn quá. Vì phải từ bỏ cả những mối thân tình rất quý giá như cha mẹ. “Xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã…Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ”. Hãy dứt khoát giã từ cõi chết. Theo Chúa là đi vào cõi sống. Chúa là sự sống. Có sự sống là có tất cả.
Đó là điều tổ phụ Áp-ra-ham đã chứng nghiệm. Lót đã chọn thế gian. Đến cư ngụ tại thành Xơ-đôm phồn vinh. Nhưng rồi mất tất cả. Bà Lót vì tiếc sót của cải. Quay đầu nhìn lại. Nên cũng hoá tượng muối. Đuổi theo hư ảo trần gian. Ta cũng trở nên phù du bọt bèo. Áp-ra-ham chỉ chọn Chúa. Ở đâu cũng được. Miễn là ở trong Chúa. Trong Lời Hứa của Chúa. Ông chọn ở trong sa mạc. Khô khan cằn cỗi. Nhưng vì ở trong Chúa. Nên ông được tất cả. Được trở nên bạn hữu của Chúa. Được tham dự vào chương trình của Chúa: “Ta có nên giấu Áp-ra-ham điều Ta sắp làm chăng? Áp-ra-ham sẽ trở thành một dân tộc lớn mạnh, và nhờ nó mọi dân tộc sẽ được chúc phúc”. Nhờ đó ông cứu được Lót và gia đình khỏi tai hoạ (năm lẻ).
Tiên tri A-mốt nhắc lại cho dân biết chân lý quan trọng này. Khi họ chọn Chúa. Họ được tất cả. Thắng quân đội Ai-cập. Chiếm đất E-mô-ri: “Chính Ta đã đem các ngươi lên khỏi đất Ai-cập, dẫn các ngươi đi trong sa mạc bốn mươi năm trường để các ngươi chiếm đất của người E-mô-ri”. Dù người E-mô-ri “cao lớn như cây hương nam và hùng mạnh như cây sồi”. Nhưng giờ đây dân đã phản bội. Chọn thế gian chứ không chọn Chúa. “Tội của Ít-ra-en đã lên tới cực độ…Vì chúng bán người công chính để lấy tiền, bán kẻ nghèo khổ với giá một đôi giày. Vì chúng đạp đầu kẻ yếu thế xuống bùn đen và xô người khiêm hạ ra khỏi đường lộ..Và rượu của người bị nộp phạt, chúng đem uống tại đền thờ Thiên Chúa”. Vì thế Chúa sẽ phạt họ. Họ sẽ mất tất cả. “Vậy này đây, ta sắp cán lên các ngươi như chiếc xe chất đầy lúa cán lên mặt đất”. Mọi người sẽ chết. Họ sẽ mất tất cả (năm chẵn).
Bỏ tất cả để chọn Chúa. Ta sẽ được tất cả. Bỏ Chúa để chọn tất cả. Ta sẽ mất tất cả. Vì Chúa là tất cả.
----------------------------
St 19,15-29; Am 3,1-8; 4,11-12; Mt 8,23-27
Đời sống được ví như con thuyền vượt biển. Luôn tràn đầy sóng gió. Có rất nhiều khó khăn thử thách. Nhưng Thiên Chúa là Chúa Tể muôn loài. Vận mệnh chúng ta ở trong tay Thiên Chúa. Mọi thế lực trần gian phải tùng phục Thiên Chúa. Vì thế nếu ta ở trong Chúa. Ở với Chúa. Ở bên Chúa. Ta sẽ bình an vô sự. Nếu có hiểm nguy Chúa cũng sẽ giúp ta vượt qua. Hôm nay các tông đồ vượt biển. “Bỗng nhiên biển động mạnh khiến sóng ập vào thuyền”. Các tông đồ sợ hãi. Nhưng Chúa Giê-su nói: “Sao nhát thế, hỡi những kẻ kém lòng tin! Rồi Người trỗi dậy, ngăm đe gió và biển: biển lặng như tờ”. Thiên nhiên tùng phục Chúa. Sóng và biển phải vâng lệnh Chúa. Chúa cứu thoát chúng con. Vì Chúa là Chúa Tể muôn loài.
Nhưng khi con người phạm tội, Chúa phải trừng phạt. Đó là trường hợp Xơ-đôm và Gô-mô-ra. “Đức Chúa làm mưa diêm sinh và lửa từ Đức Chúa, từ trời, xuống Xơ-đôm và Gô-mô-ra. Người phá đổ các thành ấy và cả Vùng, cùng với toàn thể dân cư các thành ấy và cây cỏ trên đất”. Vì khi phạm tội họ ra khỏi Chúa. Chống lại Chúa. Không có Chúa họ phải chết. Áp-ra-ham luôn ở trong Chúa. Ở bên Chúa. Ở với Chúa. Nên Chúa nghe lời ông cầu nguyện. Cứu ông Lót là cháu ông Áp-ra-ham> “Như vậy , khi Thiên Chúa phá huỷ các thành trong cả Vùng, Thiên Chúa đã nhớ đến ông Áp-ra-ham và đã cứu ông Lót khỉ cuộc tàn phá”. Ai ở trong Chúa sẽ được cứu. Ai ở ngoài Chúa sẽ điêu tàn. Vì Chúa là Chúa Cả Trời Đất (năm lẻ).
Đó là điều A-mốt nhắc nhở cho dân Ít-ra-en. Thiên Chúa là Chúa Tể. “Giả như tai hoạ xảy ra trong thành, lẽ nào lại không do Đức Chúa? Vì Đức Chúa là Chúa Thượng không làm điều gì mà không bày tỏ kế hoạch của Người cho các ngôn sứ, tôi tớ của Người được biết”. Ít-ra-en đã được cứu thoát. Cần phải nhớ thân phận mong manh bọt bèo của mình. “Các ngươi khác nào thanh củi được rút khỏi đống lửa cháy; thế mà các ngươi vẫn không chịu trở về với Ta”. Đã được cứu thoát khỏi Ai-cập. Nhưng họ không ý thức. Cãi lại lệnh Chúa. Nên họ sẽ bị trừng phạt. “Ta đã làm cho các ngươi phải sụp đổ như chính Thiên Chúa đã làm sụp đổ thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra; các ngươi khác nào thanh củi được rút khỉ đống lửa cháy; thế mà các ngươi vẫn không chịu trở về với Ta”(năm chẵn).
Xin cho con luôn ở với Chúa. Ở trong Chúa. Ở bên Chúa. Để con không còn sợ hãi. Vượt qua mọi sóng gió của cuộc đời. Lạy Chúa là Thiên Chúa, Vua cai trị lòng con.
-------------------------------
St 21,5.8-20; Am 5,14-15.21-24; Mt 8,28-34
Tại sao ma quỷ vẫn còn hiện diện. Và tiếp tục hoành hành? Vì sự thoả hiệp của ta. Ma quỷ như loài ký sinh trùng. Chỉ sống được nhờ vào cơ thể người khác. Cơ thể đó trở thành đau bệnh. Như hai người bị quỷ ám ở Ga-đa-ra. Họ mất hết nhân tính. Hung hăng như loài thú dữ. Họ ở trong mồ mả. Vì họ thuộc thế giới kẻ chết. Và sẽ phục vụ đắc lực để mở rộng thế giới chết chóc đang phát triển trong chính bản thân họ. Chúa Giê-su đến cứu con người. Xua đuổi ma quỷ. Cho con người trở lại nhân tính. Trở lại sự sống. Bắt ma quỷ phải trở về nơi của chúng. Đó là súc vật. Là dơ bẩn. Là chết chóc. Nhưng buồn thay. Thay vì đón nhận Chúa để xua đuổi ma quỷ. Họ đón nhận ma quỷ nên từ chối Chúa. Họ chấp nhận con cái phải chết. Để bảo vệ được tài sản. Ma quỷ vẫn còn đất dung thân. Vì họ đã thoả hiệp với chúng.
Không thoả hiệp. Đó là điều A-mốt luôn cảnh báo dân. “Hãy tìm điều lành chứ đừng tìm điều dữ”. Tại sao? Vì hai lý do: “Rồi các ngươi sẽ được sống và như vậy Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh sẽ ở cùng các người”. Và làm điều lành, theo A-mốt, là thực thi công lý: “Hãy ghét điều dữ và chuộng điều lành, nơi cửa công, hãy thiết lập công lý”. Ghét điều dữ. Tìm điều lành. Ở với Thiên Chúa. Như thế mới có sự sống. Thoả hiệp. Sẽ không có Chúa. Sẽ chết. Ma quỷ đang làm điều dữ. Đó là bất công. Gian ác. Hãy làm cho công lý toả rạng. Có Thiên Chúa. Có sự sống (năm chẵn).
Thoả hiệp. Đó là điều ta thường làm. Như tổ phụ Áp-ra-ham. Khi đã có I-xa-ác rồi vẫn muốn giữ Ít-ma-en ở trong nhà. Xa-ra không chịu vì ghen tức. Nhưng Thiên Chúa cũng không chịu thái độ thoả hiệp đó. Vì hai lý do. I-xa-ác đến từ lời hứa của Thiên Chúa. Ít-ma-en là toan tính của con người. I-xa-ác là con của người vợ chính thức trong hôn nhân tự do. Ít-ma-en là con của người nô lệ trong dục vọng của con người. Thiên Chúa dạy Áp-ra-ham phải để Ít-ma-en ra đi. Đó là tôn trọng Thiên Chúa và tin tưởng vào lời hứa của Người. Đó là tách bạch rõ ràng tự do và nô lệ, con chính thức và con ngoại hôn. Không thoả hiệp nhập nhằng. Ý định của Thiên Chúa không thể pha trộn dục vọng của con người. Con cái tự do không thể sống chung với con cái nô lệ (năm lẻ).
Chúng ta sẽ sống thế nào. Chọn Thiên Chúa. Chấp nhận thiệt thòi vật chất. Hay chọn vật chất. Sống chung với ma quỷ. Để Thiên Chúa ra đi?
-------------------------------------
St 22,1-19; Am 7,10-17; Mt 9,1-8
Người bại liệt bị bệnh tật trói buộc. Không thể cử động chân tay, hoặc di chuyển theo ý muốn. Anh không có tự do. Đó là hình ảnh một tâm hồn tội lỗi. Tội lỗi là sợi dây trói buộc khiến con người mất tự do. Không thể làm điều mình muốn. Giải phóng thể xác thì dễ. Giải phóng tâm hồn thật khó. Giải phóng tâm hồn là khai thông bế tắc giữa con người với Thiên Chúa. Trong Chúa con người mới có tự do. Mới có thể làm được điều tốt. Theo thánh ý Chúa. Như người bại liệt có thể tuân lệnh Chúa. Khi Chúa truyền cho anh: “Đứng dậy, vác giường mà đi về nhả”. Người bại liệt đứng dậy, đi về nhà”.
A-mốt là một người tự do. Ông không sợ nhà vua. Cũng không sợ tiên tri giả A-mát-gia. Thẳng thắn tuyên án phạt với nhà vua Gia-róp-am. “Gia-róp-am sẽ chết vì gươm, và Ít-ra-en sẽ bị đày biệt xứ”. Và lệnh trừng phạt tiên tri giả A-mát-gia. “Vợ ngươi sẽ làm điếm trong thành phố, con trai con gái ngươi sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, lãnh thổ ngươi sẽ bị phân chia từng mảnh, còn ngươi, ngươi sẽ chết trên một miền đất ô uế”. Ông chỉ biết vâng lời Thiên Chúa. “Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: “Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân Ta”. Ông tự do vì ở trong Chúa. Vì có thể làm theo thánh ý Chúa bất chấp những chướng ngại (năm chẵn).
Tổ phụ Áp-ra-ham là một con người hoàn toàn tự do. Ngài có thể làm theo ý Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào. Tin vào Chúa không đòi điều kiện nào. Tin vô điều kiện. Tin đến độ sẵn sàng tuân hành thánh ý trong cả những hoàn cảnh khó khăn nhất. Đó là sát tế I-xa-ác, người con duy nhất. Dù trong lúc tuổi già, không còn hy vọng sinh con. Dù lời hứa của Chúa cho một dòng dõi đông đúc như cát biển sao trời. Ngài hoàn toàn tự do vì luôn ở trong Chúa. Ý chí của ngài hoà hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Vì thế nên ngài được đầy ân sủng. “Bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Dòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta” (năm lẻ).
Xin cứu con khỏi ách nô lệ tội lỗi. Xin cho con được tâm hồn tự do. Trong sạch. Hoàn toàn tuân theo ý Chúa. Để con được sự sống đời đời.
------------------------------
St 23, 1-4.19; 24, 1-8.62-67; Am 8, 4-6.9-12; Mt 9, 9-13
Áp-ra-ham là người trung tín với lời Chúa hứa. Chúa đã hứa cho ông một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. Ông không dám chung đụng với dân ngoại. Vì thế phải tìm vợ cho I-xa-ác trong dòng họ của ông. Thật là một sự trung tín đáng trân trọng. Ông vẫn nghĩ dòng dõi Chúa hứa là theo phương diện huyết thống thể lý. Nhưng ông cũng đã hiểu phải có một dòng dõi mới sống theo Lời Chúa Hứa. Nên bằng mọi cách phải đưa cô dâu đến. “Coi chừng, đừng có đưa con trai tôi về đó” (năm lẻ).
Quan niệm đó dần dần được Thiên Chúa thanh luyện. Khi dân Do thái không trung thành với Lời Chúa, lời hứa theo phương diện huyết thống thể lý mất hiệu nghiệm. A-mốt cho thấy dân phạm tội nên đánh mất lời hứa. “Chúng sẽ thất thểu từ biển này qua biển nọ, từ phương bắc đến phương đông, chúng sẽ lang thang để kiếm tìm lời Đức Chúa mà không gặp được”. Lòng họ trở nên thửa đất bờ ruộng, nơi chim trời đến tha mất Lời Chúa. Lòng họ trở nên gai góc sỏi đá bóp nghẹt Lời Chúa (năm chẵn).
Chúa Giêsu đến mở ra một chân trời mới, thiết lập dòng dõi mới của Áp-ra-ham. Biệt phái và Luật sĩ, Kinh sư tự hào mình là dòng dõi Áp-ra-ham nhưng lại đóng chặt cửa lòng không nghe Lời Chúa. Những kẻ tội lỗi lại mở lòng đón nhận. Một lời kêu gọi, lập tức Lê-vi chỗi dậy theo Chúa. Bỏ bàn thu thuế đầy tiền bạc. Bỏ nghề thu thuế nhiều lợi nhuận. Bước theo Chúa vào con đường phiêu lưu vô định.
Đây quả là dòng dõi mới của Áp-ra-ham. Biệt phái, Luật sĩ, Kinh sư tự hào là con cháu Áp-ra-ham nhưng không nối tiếp truyền thống thiêng liêng của tổ phụ. Chính Mát-thêu và những người tội lỗi nối tiếp truyền thống này. Như Abraham vừa nghe Lời Chúa đã từ bỏ quê hương, gia đình, tài sản, Lê-vi vừa nghe Lời Chúa đã từ bỏ tiền của, nghề nghiệp. Như Áp-ra-ham lên đường đến miền đất Chúa hứa, Lê-vi và các bạn lên đường theo Chúa Giê-su. Như Áp-ra-ham chỉ biết vâng lời Chúa không tính toán so đo, kể cả sát tế I-xa-ác dâng hiến Chúa, Lê-vi không tính toán, theo Chúa mà chẳng có gì thủ thân. Đây đích thực là dòng dõi mới của Áp-ra-ham. Dòng dõi theo đức tin chứ không còn theo huyết thống.
Tôi thuộc dòng dõi cũ hay dòng dõi mới của Áp-ra-ham? Tôi khép kín hay mở rộng tâm hồn lắng nghe, đón nhận và thực hành Lời Chúa?
--------------------------------
St 27,1-5.15-29; Am 9,11-15; Mt 9,14-17
Thiên Chúa luôn bất ngờ. Vì luôn yêu thương. Luôn đi bước trước. Luôn có sáng kiến. Bất ngờ vì vượt quá sức tưởng tượng của con người. Bất ngờ vì luôn yêu thương, tha thứ. Và nhất là sửa chữa lại những sai lầm của con người một cách trổi vượt. Kế hoạch đầu tiên trao gửi cho bà E-và đã thất bại. Lập tức Chúa có sáng kiến tuyển chọ Áp-ra-ham để thiết lập một dân riêng. Dân tộc mà Chúa yêu thương tuyển chọn luôn thay lòng đổi dạ, phản bội Chúa. Họ lãnh lấy hậu quả thảm khốc. Mất nước. Thành quách xiêu đổ. Dân bị lưu đầy. Đất đai thuộc về đế quốc nên phải nộp hoa màu cho kẻ xâm lược. Nhưng sau một thời trừng phạt, Chúa lại yêu thương phục hồi họ. “Ta sẽ đổi vận mạng của Ít-ra-en dân Ta: chúng sẽ tái thiết những thành phố điều tàn và định cư ở đó; chúng sẽ uống rượu vườn nho mình trồng, ăn thổ sản vườn mình canh tác” (năm chẵn).
Nhưng khi cần Chúa sẵn sàng làm ra những con người mới. Để có thể hoàn thành kế hoạch của Chúa. Vua Sa-un không vâng lời Chúa. Lập tức Chúa tuyển chọn Đa-vít. E-sau thất bại vì đã ham ăn mà bán chức trưởng nam. Chúa lập tức tuyển chọn Gia-cóp. Và Gia-cóp trở thành tổ phụ được hưởng mọi phúc lành. “Xin Thiên Chúa ban cho con sương trời với đất đai màu mỡ, và lúa mì rượu mới dồi dào. Các dân phải làm tôi con, các nước phải sụp xuống lạy con” (năm lẻ).
Kế hoạch sau cùng vô cùng tuyệt hảo. Đó là Con Một Chúa xuống thế làm người ở với chúng ta. Đó là một sáng kiến vô cùng mới mẻ. Cao siêu vượt quá trí khôn loài người. Chúa lập ra đạo mới vượt xa đạo cũ. Đạo cũ chuyên chăm giữ luật. Đạo mới sống với Chúa trong tình yêu. Chúa lập ra một dân mới thay thế dân cũ. Dân cũ căn cứ vào huyết thống Áp-ra-ham. Dân mới căn cứ vào đức tin của Áp-ra-ham. Đạo mới là tấm áo mới may bằng vải mới. Là chất rượu mới thơm tho mãnh liệt. Con người vì thế phải đổi mới để thích hợp. Phải trở thành áo mới. Không thể vá áo cũ. Phải trở thành bầu da mới. Để chứa đựng rượu mới nồng nàn. Không đổi mới sẽ như manh áo cũ rách tả tơi. Như bầu da cũ nổ tung khi gặp rượu mới. Phải đổi mới. Như Gia-cóp có thể thay thế E-sau. Như Đa-vít trổi vượt Sa-un. Như các môn đệ vượt qua các kinh sư và biệt phái.
Xin cho con không ngừng từ bỏ con người cũ. Không ngừng đổi mới. Để con trở thành bầu da mới. Chứa đựng được rượu mới của Chúa.
------------------------------
(Xin xem tiếp Phần III Bài 201-327)