Thánh Cyrillô và thánh Mêthođiô là hai anh em ruột được sinh ra trong một gia đình giầu sang, quí phái, đã có công đem ánh sáng Tin Mừng cho dân tộc Slaves. Hai thánh được cha mẹ nuôi dưỡng ở thành phố Byzance. Các Ngài lớn lên trong sự giáo dục cẩn thận của cha mẹ của các Ngài cả mặt học vấn, lẫn tu đức. Các Ngài đã sớm chứng tỏ là những người thuộc trọn về Thiên chúa để loan báo Tin Mừng cho người dân Slaves.
THÁNH CYRILLÔ VÀ THÁNH MÊTHOĐIÔ:
Hai vị thánh anh em ruột này đã minh Chứng một đời sống đạo đức, tinh thần phục vụ vô vị lợi, lòng quảng đại sâu xa. Thánh Cyrillô được triều đình Constantinô rất nể vì, kính trọng vì trí thông minh, học thức uyên bác và nhân đức tuyệt vời của Ngài. Thánh nhân có khiếu dậy triết học, Ngài đã dậy triết lý cho nhiều trường đại học, giữ chức vụ ngoại giao ở Ả Rập. Ngài tỏ ra là một nhà ngoại giao tài giỏi và bén nhậy. Tương lai, danh vọng đang rực sáng, nhưng thánh nhân đã vứt bỏ tất cả để hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa. Còn thánh Mêthođiô lại có một sức chịu đựng bền bỉ, dẻo dai và hết sức kiên trì khôn ngoan. Cà hai vị thánh này đều được vua Michel III sai đến Moravie. Năm 863, hai vị thánh anh em đã đưa cả dân tộc Moravie về với đức tin công giáo và nhận biết Chúa Giêsu Kitô. Tiếng tăm của các Ngài vang tới nước Ý vì tinh thần truyền giáo, lòng quảng đại, xả kỷ, hy sinh của các Ngài.
GIÁO HỘI THƯỞNG CÔNG CÁC NGÀI:
Vì danh tiếng của các Ngài tỏa sáng tới tận nước Ý. Do đó, vào năm 868, các Ngài được Đức Giáo Hoàng Nicôlao I cho triệu vời về Roma và nơi đây các Ngài được Đức Tân Giáo Hoàng Adrien phong chức giám mục. Năm 869, thánh Cyrillô được Chúa rước về tại Roma. Còn thánh Mêthođiô trở về Moravie và Ngài đã đưa dân Bohêmes, Pannoniens, Bulgaries về với Giáo Hội công giáo. Thánh nhân cũng loan báo Tin mừng tại Balan. Sau khi thánh nhân lập tòa giám mục tại Léopol, Ngài được sai đến Moscou và thành lập giáo phận tại Kiev. Năm 885, thánh Mêthođiô trở về Moravie và an giấc thanh thản, bình an sau khi đã đem được rất nhiều linh hồn về với Chúa.
Thánh Cyrillô và thánh Mêthođiô được Đức Giáo Hoàng Lêo XIII truyền tôn vinh trên khắp thế giới. Dân tộc Slaves đã mừng lễ hai thánh ngay từ năm 1880.
Lạy Chúa, Chúa đã dùng hai anh em thánh Cyrillô và thánh Mêthođiô, để đưa các dân tộc slaves tới ánh sáng Tin Mừng. Xin mở lòng chúng con đón nhận lời Chúa dậy và biến đổi chúng con thành dân riêng của Chúa luôn đồng tâm nhất trí với nhau, để sống đức tin chân thật và thẳng thắn tuyên xưng( lời nguyện ca nhập lễ, lễ thánh Cyrillô và Mêthođiô ).
Hôm nay Giáo Hội lại cho chúng ta mừng kính một lần nữa hai vị thánh trong cùng một ngày. Lý do cũng rất đặc biệt vì hai vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay là con của cùng một gia đình. Cyrillô là em út và thánh Methôđiô là anh cả trong một gia đình bảy người con. Các ngài được sinh ra tại Thessalonica (Hy lạp). Cha các ngài là một viên chức cao cấp của đế quốc Byzantine. Cyrillô được ăn học thành tài tại Constantinople, và sau đó làm giáo sư tại đại học của hoàng đế. Methôđiô theo đuổi sự nghiệp chính trị, lên đến chức tổng trấn.
Nhưng ơn Chúa thật lạ lùng. Hai con người với tương lai sáng ngời. Hai con người với cuộc sống quyền uy sang trọng đang mời gọi. Hai con người với hai trái tim còn ôm ấp bao dự định to lớn. Vậy mà Chúa đã chuyển hướng đời họ. Quyền uy, danh vọng tất cả đã phải dừng bước. Các ngài đã quyết bỏ mọi sự để bước vào cuộc đời mới, cuộc đời hiến thân cho sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Cyrillô được gọi lên chịu chức thánh, ngài hết sức vui mừng. Hơn nữa ngài còn cảm thấy như bị thôi thúc bởi một lý tưởng cao cả hơn. Ơn Chúa đổ xuống và đốt nóng ý chí của Cyrillô. Tuy nhiên ngài vẫn chờ đợi trong yên lặng và cầu nguyện.
Còn Mêthôđiô thì luôn theo sát em mình như hình với bóng, lúc nào cũng yêu mến và giúp đỡ em thi hành ý định. Tính tình của Mêthôđiô hơi khác với em mình một chút. Hình như Mêthôđiô được sinh ra và sống giữa hai thái cực. Vui thì như tết nhưng nóng lại nóng như lửa. Có khi hoà nhã êm đềm, cũng có lúc lại nổi xung đến hung bạo, đanh thép. Tuy nhiên lúc nào cũng biết nhẫn nại và thích nghi với những hoàn cảnh phức tạp để bênh vực chân lý. Thêm vào đó, Mêthôđiô còn có một sức chịu đựng dẻo dai và không bao giờ chịu lui bước khi phải làm chứng cho sự thật. Đã mấy lần Mêthôđiô dám nói thẳng vào mặt đối phương muốn dùng lối ngụy biện trí trá để xuyên tạc những chân lý của đạo Chúa: “Các anh định chọi nhau với sắt ư! Được lắm, chỉ sợ các anh sẽ bị vỡ tan tành”.
Với lòng tận tụy hy sinh thêm vào một tài trí lanh lợi và một cách tiếp nhân xử thế tế nhị, hai anh em Cyrillô và Mêthôđiô đã làm cho Thessalonica quê hương mình được hãnh diện với các giáo đoàn khác, nhất là các ngài đã mang về cho Chúa nhiều chiên lạc. Các ngài cũng đã là những nhịp cầu thông cảm nối kết giữa Giáo hội Đông và Tây trong những hoàn cảnh cam go, chia rẽ. Đồng thời các ngài còn lấp đầy được cái hố sâu ngăn cách giữa hai giáo đô Byzanciô và Rôma.
Công việc và thời gian đã làm cho anh em Mêthôđiô và Cyrillô càng ngày càng trưởng thành hơn. Thêm vào đó các ngài còn luyện cho mình được những đức tính cần thiết để sau này có thể mang ra thi hành trong việc rao truyền Tin Mừng.
Thiên Chúa là Đấng an bài mọi sự. Hoàng đế Rasdelaw xứ Môravia đã sai sứ giả đến Cyrillôpôli xin Hoàng đế Micae III cử người đến giảng Tin Mừng cho dân tộc mình.
Với sự am hiểu phong tục và tính tình của các dân miền đó, nhất là cả hai đều thông thạo tiếng slave nên hai anh em đã được Đức Giáo hoàng Photius tín nhiệm sai đi. Hai nhà truyền giáo đã không do dự, nhanh chóng nhẹ bước lên đường.
Công việc đem Tin Mừng cho xứ Môravia lúc đầu gặp khá nhiều khó khăn và những khó khăn này không nhỏ. Hai anh em phải đối diện với cả một dân tộc mới chỉ có ngôn ngữ nói mà chưa có ngôn ngữ đọc. Chính vì thế mà công việc rao giảng Tin Mừng rất khó khăn. Tuy nhiên với lòng yêu mến các linh hồn sẵn có cũng lòng kiên trì không biết mệt mỏi, nhờ ơn Chúa, các ngài đã dần dần vượt qua được tất cả.
Nói tới đây tôi chợt nhớ tới hoàn cảnh nước Việt Nam của chúng ta trước đây. Cũng may mà chúng ta được Chúa cho một người là Cha Đắc Lộ. Ngài đã "Chế" ra chữ quốc ngữ mà hiện nay chúng ta đang sử dụng. Đây là công lao rất to lớn của ngài.
Sau khi đã "chế" ra được ngôn ngữ viết, các ngài đã mạnh dạn đem áp dụng vào việc dạy giáo lý nhất là vào việc cử hành phụng vụ.
Đây phải nói đây là một cuộc cách mạng lớn cho dân Môravia và sau này cho các Giáo Hội nhất là sau công đồng chung Vaticano II.
Lịch sử còn ghi lại ngày mà Cyrillô và Mêthôđiô vui mừng nhất là ngày các ngài được Roma cho phép được cử hành phụng vụ bằng tiếng Môravia. Nhưng ý Chúa thật khó hiểu. Tới khi được thành công thì Cyrillô đã vội về nơi an nghỉ, ngày 14-02-869 tại giáo đô Rôma. Cyrillô đã để lại cho giáo dân một cái tang đau đớn. Thánh nhân ra đi, đã để lại thương tiếc cho bao nhiêu người nhất là những người Môravia. Thánh nhân ra đi, Giáo hội mất một cán bộ lành nghề, nhưng công phúc của ngài sẽ làm cho Lời Chúa được truyền đi muôn nơi. Xác thánh nhân được chôn cất tại nhà thờ thánh Clêmentê.
Mất Cyrillô là Mêthôđiô đã mất một cánh tay đắc lực cho công cuộc truyền giáo. Tuy nhiên Mêthôđiô vẫn hiên ngang và vui vẻ trở về Môravia tiếp tục công việc đang còn dở dang.
Trước khi nhắm mắt về quê trời, Mêthôđiô còn phải nỗ lực dịch Kinh thánh và những sách giáo phụ sang tiếng Nga. Và ngày 06-04-885 thánh nhân phó linh hồn trong tay Chúa.
2. Bài học
a/ Có lẽ công ơn lớn nhất của các ngài là việc phát minh ra một bản mẫu tự mới để làm ngôn ngữ viết cho dân Môravia. Công việc này không hề dễ dàng chút nào. Tuy nhiên việc này đã dần dần đã làm giảm bớt được những khó khăn về ngôn ngữ để từ đó Tin Mừng được truyền bá khắp đó đây. Hai nhà truyền giáo đã bắt đầu dùng ngôn ngữ mà các ngài đã lập ra để cử hành phụng vụ và dịch Sách Thánh.
Phải nói đây là một cuộc cách mạng lớn mà sau này công đồng Vaticanô II cũng đã thực hiện. Chúng ta thử tưởng tượng nếu không có cuộc cách mạng cho sử dụng tiếng địa trong công việc cử hành phụng vụ và học hỏi Lời Chúa thì thì việc phổ biến Tin Mừng sẽ bị hạn chế và sự thiệt thòi sẽ lớn như thế nào.
Cám ơn Chúa đã soi sáng để có những người mở đường để công việc của Chúa mỗi ngày được tốt đẹp và hữu hiệu hơn.
b/ Cyrillô và Mêthôđiô đã để lại cho Giáo Hội một tấm gương sáng lạng về việc phục vụ Tin Mừng.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã coi các ngài như những mẩu mực mà các thế hệ mai sau phải noi theo.
Chúng ta hãy tận dụng mọi hoàn cảnh trong cuộc sống: sinh nhật, qua đời, bệnh tật, các cuộc mừng trong gia đình… Chúng ta luôn có những cơ hội để đưa tha nhân đến gần Chúa, chẳng hạn giới thiệu cho họ một cuốn sách tốt. Chúng ta có thể an ủi hoặc khuyên nhủ một ai đó trong cảnh lao đao. Chúng ta có thể gợi ý gia chủ xin linh mục làm phép căn nhà của họ. Chúng ta có thể cho người ta biết cách xin thiên thần bản mệnh phù giúp trong ngày sống. Chúng ta có thể đề nghị người quen treo ảnh Đức Mẹ trong nhà để tôn vinh Mẹ Thiên Chúa. Đó là những tập tục đơn sơ mà các Kitô hữu đã thực hiện suốt bao thế kỷ đã qua. Những tập tục ấy như chất huyết tương, kích hoạt đời sống đức tin. Chúng ta cần đưa Chúa vào hàng ngàn giây phút bình thường trong cuộc sống. Chúng ta hãy hiến dâng công việc, giờ nghỉ ngơi, hoặc kỳ nghỉ của chúng ta cho Thiên Chúa. Đức tin phải thấm nhuần mọi hoạt động của chúng ta để làm chúng thêm phong phú và đẹp lòng Chúa. Chúng ta sẽ thấy nỗ lực siêu nhiên này làm cho các hoạt động của chúng ta thêm tình nhân ái.
---------------------------------
12/02-3: Thánh CYRILLÔ, tu sĩ & Thánh MÊTÔĐIÔ, giám mục
Cyrillô và Mêtođiô thuộc về một gia đình nghị viên miền Thessalônica. Triều đình đã muốn xem người con trưởng sáng sủa xinh đẹp như thần đồng. Nhưng đối với anh sự khôn ngoan đáng quí chuộng hơn mọi hư danh trần thế. Người con út có tính cách vừa trầm tư vừa hung hăng hay lý sự nữa. Sau khi theo học ở tại Constantinople, hai anh em đều chiếm giữ những chức vụ thuộc dân sự. Cyrillô làm giáo sư triết học. Sau cùng thì lần lượt họ đạt tới lý tưởng làm linh mục.
Nhà vua Moravia xin hoàng đế gửi các thừa sai tới. Vì biết tiếng Slave nên hai anh em đã được chọn. Các Ngài đã phát minh ra mẫu tự Slave cũng như văn chương người Slave sau này được mọi người chấp thuận.
Cyrillô còn học tiếng Hípri để tranh luận với người Do Thái. Hai anh em thừa sai thực hiện hoạt động vừa chính trị vừa tôn giáo. Các Ngài tổ chức Kitô giáo ở Bulgaria, Moravia và nơi những dân Slave mà bước chân đế quốc đặt tới.
Một giai thoại chứng tỏ tính khí mạnh mẽ của Mêtođiô. Ngài chỉ đích danh được thù nhân người Đức của mình để phá tan họ. Ngài nói: - “Các ông chống lại sắt thép, các ông sẽ bể sọ.” Với lòng đầy nhiệt thành, Ngài lau mồ hôi và kể lại một ngụ ngôn:
"Người ta hỏi một triết gia, tại sao ông lại toát mồ hôi như vậy?"
Và Ngài thêm vào câu trả lời: - “Chính vì tôi đã phải tranh luận với những người đần độn.”
Các Giám mục người Đức chống lại việc nhà truyền giáo đã đưa ngôn ngữ Slave vào phụng tự mà các Ngài coi như dụng cụ tuyệt hảo trong công cuộc chinh phục của mình. Hai anh em phải đi Rôma để biện minh cho mình và được Đức Giáo hoàng Nicola I ưng thuận. Vị kế nhiệm của Đức Nicola I còn tấn phong ngài làm giám mục nữa. Cyrillô đã qua đời tại Rôma năm 869, lúc 42 tuổi.
Mêtodiô còn sống thêm hai mươi năm để truyền giáo cho các dân tộc tại Slave. Ngài chịu đau khổ nhiều, bị một bồi thẩm đoàn giám mục miền Bavière tố cáo là lạc giáo và bị giam giữ hai năm tại một nơi xa vắng lạnh lẽo. Ngài lại bị mang ách, luôn bị bách hại, bị tố cáo tới Rôma là đã làm sai lạc Đức Tin. Hai lần ngài phải đi giải trình với Đức Thánh Cha và Đức Thánh Cha đã coi những lời tố cáo là vu khống. Hoàng đế Basiliô xin ngài đi Consttantinople là nơi ngài được tiếp đón nồng hậu. Cũng vị vua này đã muốn gửi ngài trở lại Russi và Bulgaria, nhưng thánh nhân trở lại Moravia và qua đời tại đó năm 884.
Hai anh em đã mang văn minh lại cho dân Slave khi truyền bá Đức Tin cho họ. Các Ngài đồng thời vừa là các tông đồ vừa là các văn hào tiên khởi của dân tộc Slaves.
Nguồn: Theo vết chân Người
---------------------------------
12/02-4: Thánh Cyrillô, đan sĩ và Thánh Méthôđô, giám mục
Ngày lễ kính thánh Cyrillô và Mêthôđô, được kính như các Tông Đồ dân Slave và được Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II công bố năm 1980, như thánh quan thầy Âu Châu, cùng tước hiệu với thánh Bênêđictô, trùng với ngày qua đời của thánh Cyrillô, khi đến Rôma vào ngày 14.02.869.
Hai anh em Cyrillô và Mêthôđô gốc ở Salonique (Hy Lạp ngày nay). Trước khi đi truyền giáo vùng Moravie, Méthôđô là Tổng trấn một tỉnh người Slave và Cyrillô, nhỏ tuổi hơn, nhưng lại sáng chói hơn, đã chu toàn những sứ vụ tôn giáo và ngoại giao quan trọng. Cả hai nói lưu loát tiếng Slave.
Sứ vụ làm cho hai vị nổi tiếng là sứ vụ do Thượng phụ Photios sai đi từ năm 862-963 với mục đích dạy dỗ và Phúc Âm hóa dân Slave ở Moravie trong ngôn ngữ của họ. Vì thế Cyrillô và Mêthôđô bắt đầu dạy ngữ vựng đầu tiên, được gọi là “Cyrillique” và họ cũng đã dịch các văn bản tôn giáo ra tiếng Slave : Thánh Vịnh, các Phúc Âm, các Thư Tông Đồ, kinh nguyện…
Sau vài năm ở Moravie, Cyrillô và Mêthôđô tiếp tục công tác ở Pannonie (Hungarie và một phần đất Yougoslavie ngày nay), trước khi đến Rôma, nơi họ được Đức Giáo Hoàng Adrien II đón nhận và công nhận các việc họ làm về Phụng Vụ Slave. Tại Rôma, Cyrillô ngã bệnh và qua đời vào ngày 14.02.869, lúc ấy ngài khoảng độ 40 tuổi.
Sau cái chết của người em, Méthôđô được gọi làm giám mục ở Pannonie và sứ thần toà thánh cho dân Slave; ngài gặp nhiều khó khăn do sự chống đối của hàng giáo sĩ Đức; nhưng điều này không ngăn cản được công trình Phúc Âm hoá và hội nhập văn hóa mà ngài đã theo đuổi cho đến chết (885).
Các môn đệ ngài đã rao giảng Tin Mừng miền Bohême, ông hoàng Bozyvojd được rửa tội theo nghi thức Slavon, sau đó là dân Serbie và Lusace (vùng Croatia), tiếp đến là Ba Lan, Bulgarie, Roumanie và vùng Kiev.
Với công trình như thế, chúng ta mới thấy được công khó của hai thánh Cyrillô và Mêthôđô trong việc thiếp lập các cộng đoàn Kitô giáo trong nhiều vùng Đông Âu. Việc này đã tạo một bước tiến để thành lập Âu Châu, không những về mặt tôn giáo, nhưng cả về mặt chính trị và văn hóa.
Mỹ thuật trình bày thánh Cyrillô với bản ngữ vựng, và thánh Mêthôđô với một quyển Phúc Âm mở ra, được ghi bằng tiếng Slavon.
2. Thông điệp và tính thời sự
Thánh Cyrillô ngã bệnh và biết trước giây phút cuối cùng của mình, vẫn nhận ra ơn gọi cao cả: “Xưa tôi chưa hiện hữu, bây giờ tôi đã hiện hữu và tôi sẽ hiện hữu mãi mãi.” Ngài cầu nguyện cùng Thiên Chúa: “Lạy Chúa, xin gìn giữ đàn chiên trung thành này… Xin triển khai Giáo Hội với số lượng cao và qui tụ mọi thành phần vào trong sự hiệp nhất. Xin thu tóm tất cả thành một dân được tuyển chọn, kết hiệp mọi người trong đức tin và giáo lý chính thống…” (Phụng Vụ Giờ Kinh).
Được giao nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô, Cyrillô và Mêthôđô đã giảng dạy “đức tin chân thật và giáo lý chính thống”, nhưng hai ngài còn hoàn tất công tác Phúc Âm hóa khi hội nhập sứ điệp Kitô giáo vào trong văn hóa các dân Slave. Nhờ thế, khi công trình của hai vị được hoàn tất, đã cho phép ngôn ngữ Slave xứng đáng trở thành văn tự phổ biến. Nhờ việc đề cao ngôn ngữ và văn hóa, các dân tộc Slave đã có thể chống cự lại thứ chính trị thống trị và đồng hóa của người German và người Hy Lạp.
Công trình của Cyrillô và Mêthôđô vô cùng to lớn, đánh dấu bằng sự can đảm trí thức và sự khiêm tốn, vì trong thời gian mà người ta chỉ được cầu nguyện ca tụng Thiên Chúa bằng tiếng Hipri, Hy Lạp hay La Tinh, hai vị thánh Tông Đồ của dân Slave đã đáp trả bằng tiếng Slave, và qua đó cho thấy mọi người có thể với Thiên Chúa bằng ngôn ngữ của mình.
Bên cạnh các tác phẩm tôn giáo, cả hai đã dịch và suy diễn “Bộ Luật Justinien”, được xem như bộ luật cổ nhất của Slave (Zakon Sudnyj). Người ta cũng cho rằng thánh Mêthôđô đã dịch quyển Nomokanon, thu tập các luật Giáo Hội và luật dân sự Byzantin.
Phúc Âm được chọn cho Thánh lễ này là dụ ngôn người gieo giống (Mc 4,1-20). Các khó khăn mà vị Tông Đồ đã phải gánh chịu (Mêthôđô cũng đã phải vào tù) không ngăn cản được hạt giống rơi vào đất tốt và mang lại nhiều hoa trái.
Công trình Phúc Âm hóa vẫn chưa kết thúc. Chính vì thế Hội thánh, trong ngày lễ kính hai vị thánh Tông Đồ này, đã hát trong Thánh lễ Thánh Vịnh 95: Từ ngày này sang ngày khác, hãy công bố ơn cứu độ của Người / hãy thuật lại cho muôn dân vinh quang của Người / cho muôn dân kỳ công của Người. Chúng ta có thể nhắc lại những lời cuối cùng của Cyrillô nói với anh mình là Mêthôđô: “Anh ơi, chúng ta đã chia sẻ cùng một số phận, cùng dắt một cái cày trên cùng một luống. Em biết anh vẫn thích Núi thánh của anh (sự cô tịch), nhưng đừng bỏ trách nhiệm giảng dạy để trở về với núi đó. Thật vậy, anh tìm được nơi nào để hoàn tất ơn cứu độ của anh?”