Ngày 1/5 Thánh Giuse thợ

Thứ năm - 01/05/2025 10:38
Ngày 1/5 Thánh Giuse thợ
Ngày 1/5 Thánh Giuse thợ
Ngày 1/5 Thánh Giuse thợ

Người thợ vô danh: Thinh lặng, cầu nguyện và xin vâng.
01/05 – Thánh Giuse thợ.
"Ông ta không phải là con bác phó mộc sao?"

* Là một người thợ ở làng Galilê, thánh Giuse là mẫu gương người Kitô hữu phải noi theo để chu toàn các bổn phận nghề nghiệp, vì thánh Giuse đã làm việc trong tâm tình liên kết với Đức Giêsu. Lao động thì vất vả nhưng cũng đem lại niềm vui.
Lao động phục vụ con người, nhưng cũng giúp đưa tới gần Thiên Chúa: đó là điều ta học được nơi trường học Nagiarét.

---------------------------------
Mục Lục:

01/05-1Thánh Giuse Thợ. 2
01/05-2: Thánh GIUSE THỢ.. 4
01/05-3: GIU-SE, MỘT NHÂN CÁCH HƯỚNG THẦN.. 6
01/05-4: GIẤC MỘNG CỦA THÁNH GIU-SE.. 9
01/05-5: Giuse Lao Động. 12
01/05-6:THÁNH GIUSE THỢ.. 15
01/05-7: TRUYỀN TIN CHO THÁNH GIU-SE.. 18
01/05-8: THÁNH GIU-SE, CHA NUÔI CHÚA GIÊ-SU.. 21
01/05-9: Con đường đời sống. 25
01/05-10: THÁNH GIUSE, CON NGƯỜI KHÔN NGOAN.. 28
01/05-11: LỄ THÁNH GIUSE THỢ 1/5. 30
01/05-12: Đức Giêsu về quê. 32
01/05-12: Thánh Giuse Thợ. 34
01/05-13:  Thánh Giuse Lao động. 35
01/05-14: Thánh Giuse là mẫu mực các kẻ làm ăn. 38
01/05-15: Giuse trong xóm nhỏ điêu tàn. 41
01/05-16: Thánh Giuse: người lao động. 43
01/05-17:  Thánh Giuse Thợ. 44
01/05-18: Nghĩ về lao động, nhân lễ thánh Giuse thợ. 45
01/05-20: Thánh Giuse, Người Cha lao động. 48
01/05-21: Thánh Giuse. 50
01/05-22: Thánh Giuse Thợ. 52
01/05-23: Thánh Giuse. 53
01/05-24: Lễ thánh Giuse thợ. 54
01/05-25: Lao động biểu lộ vinh quang của Chúa Giêsu phục sinh. 57
01/05-26: Suy niệm ngắn về thánh Giuse thợ. 60
01/05-27: Lễ thánh Giuse thợ. 61
01/05-28: Giá trị của lao động. 63
01/05-29: Bởi đâu ông được mọi điều ấy như thế?. 64
01/05-30: Lễ thánh Giuse thợ: bổn mạng các người cha gia đình. 65
01/05-31: Lao động như phụng tự. 67

---------------------------------

 

01/05-1Thánh Giuse Thợ

 

Đời sống lao động luôn gắn liền với con người: người ta có thể làm việc chân tay và có người: 01/05-1


Đời sống lao động luôn gắn liền với con người: người ta có thể làm việc chân tay và có người dùng tới trí óc. Tất cả đều là lao động.Có một thời giới thợ thuyền đã đứng lên tranh đấu để nâng cao phẩm giá và nâng cao đời sống của họ vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ thứ XX tại Âu Châu. Nhiều phong trào đấu tranh đã nổi dậy đòi giới chủ ông phải tăng lương và xem xét lại giờ giấc, điều kiện lao động. Giáo Hội qua các vị lãnh đạo tinh thần đã lắng nghe tiếng nói, tiếng cầu cứu của họ. Đức Thánh Cha Lêô XIII và Piô XI đã mở ra những chân trời mới trong giới lao động. Đức Giáo Hoàng Piô XII đã chọn Thánh Giuse làm bổn mạng của giới cần lao. Thế giới đã dùng ngày 01 tháng năm để mừng ngày lễ Lao động.

Thánh Giuse là ai ?

Thánh Giuse sinh tại Nagiarét, một thôn nhỏ bé và nghèo thuộc nước Do Thái. Thánh Giuse thuộc hoàng tộc vua Đavít, nhưng vì gia cảnh sau bao nhiêu đời, bao nhiêu thế hệ lâm cảnh sa sút, nên thánh Giuse phải sống cuộc đời khó khăn, nghèo nàn với nghề thợ mộc để kiếm sống, nuôi gia đình.

Thánh Giuse là một người lao động chân chính. Cuộc đời của Ngài là một chuỗi những thử thách triền miên. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã chọn Ngài làm bạn Đức Trinh Nữ Maria và là Cha của Chúa Giêsu Cứu Thế. Suốt đời của Ngài năm chìm bảy nổi chín long đong. Được chọn lựa làm bạn với Mẹ Maria để săn sóc Con Một Thiên Chúa và để giúp nhau sống đời tận hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa.

Thánh Giuse đã gặp thử thách ngay khi đính hôn với Maria. Đức Trinh Nữ Maria đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần:Ữ Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là GiêsuỮ( Lc 1, 31). Ẫ Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà&Ữ( Lc 1, 35 ). Thánh Giuse lúc đó chưa hiểu ý Chúa, nên Ngài đã bị thử thách lớn lao. Rồi, thánh Giuse và Mẹ Maria đi về quê quán làm sổ hộ khẩu, Mẹ Maria tới ngày mãn nguyệt khai hoa, đã đản sinh Chúa Giêsu nơi hang đá Bêlem(Lc 2, 1-20 ). Như thế vẫn chưa hết, khó khăn và thử thách hầu như lúc nào cũng gắn liền với thánh Giuse: thánh Giuse đưa Mẹ Maria, Chúa Giêsu trốn qua Ai Cập để tránh sự tàn bạo của Hêrôđê, rồi khi Hêrôđê băng hà, Ngài lại đưa Mẹ Maria và Hài Nhi Giêsu trở về Nagiarét( Mt 2, 13-23 ). Rồi tới tuổi, thánh Giuse lại đưa Chúa Giêsu cùng với Mẹ Maria dâng Chúa vào đền thờ: Ông già Simêong nói ngôn sứ về Hài Nhi ( Lc 2, 22-28 ).

Trong mọi biến cố, trong mọi sự chông gai khó khăn, thánh Giuse luôn can đảm, phó thác và sống hoàn toàn công chính, tin cậy tuyệt đối vào sự quan phòng của Thiên Chúa Giavê. Thánh Giuse đã được các thánh sử viết Tin Mừng ca ngợi là người công chính, người được ơn nghĩa với Thiên Chúa.

Giáo Hội ca ngợi thánh Giuse:Ữ Người công chính tươi tốt như cây dừa, lớn lên như cây hương nam núi Libăng trồng nơi nhà Chúa trong đền thánh Người "(Tv 92, 13-14 ) và Ca Nhập lễ, lễ thánh Giuse 19/3 đã viết:Ữ Đây là người quản gia trung tín và khôn ngoan. Chúa đã đặt lên coi sóc gia đình ChúaỮ( Lc 12, 42 ). Thánh Giuse quả thực trở thành gương mẫu cho mọi người về mọi nhân đức.

Thánh Giuse là mẫu gương lao động cần cù

Đứng đầu gia đình thánh tại Nagiarét, thánh Giuse đã cần cù lao động, âm thầm thinh lặng và làm việc, đưa lại cho lao động một ý nghĩa cao sâu linh thánh. Thánh Giuse đã chấp nhận một công việc, một nghề tay chân: nghề thợ mộc. Với nghề thợ mộc, một nghề không có gì là vinh dự lắm trong xã hội Do Thái, thánh Giuse vẫn kiên trì phục vụ. Ngài làm việc với tất cả ý thức trách nhiệm của mình. Qua việc làm, qua nghề thợ mộc, thánh cả Giuse đã âm thầm chiêm ngắm mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô, Đấng đang sống nhờ nghề thợ mộc của Ngài. Nơi Nagiarét, thánh Giuse đã phục vụ hết mình: mồ hôi, sự mệt nhọc và lòng hy sinh, quảng đại cố gắng của thánh Giuse đã mặc cho lao động một ý nghĩa tốt đẹp.

Chúa Giêsu trong gia đình thánh Nagiarét đã học nơi thánh Giuse sự cần mẫn lao động, đã học nơi Mẹ Maria sự kiên nhẫn, đơn sơ phục vụ trong những công việc gia đình hết sức tầm thường nhưng là những công việc của đời thường, là những lao công của cuộc đời con người.

Khởi đi từ gia đình Nagiarét, người Kitô hữu trên khắp thế giới cũng được mời gọi yêu mến lao động dù là lao động chân tay hay lao động trí óc. Tất cả đều được gọi mời gắn liền với thánh cả Giuse, quan thầy và là Đấng bảo trợ của giới lao động. Trong một thế giới đan xen ánh sáng và bóng tối, trong một thế giới văn minh tuyệt đỉnh, lao động dù trí óc, chân tay hay kỹ thuật máy móc điện tử vẫn luôn cần thiết. Sự im lặng: nói ít, làm với hết khả năng, với óc sáng tạo luôn được đề cao, trân trọng. Thánh Giuse đã im lặng để phục vụ, để làm việc. Sự thinh lặng nội tâm của Ngài luôn có một ý nghĩa quan trọng. Thánh Giuse đã luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm: làm việc với đức tin, với lòng yêu mến.

Trong Năm Thánh hoá Gia đình, việc lao động cũng cần được mọi gia đình xem xét lại vì cuộc đời của từng con người liên kết với công ăn việc làm của mình. Gia đình có đủ ăn, đủ mặc, gia đình có bảo đảm được vật chất, kinh tế của mình, đời sống tâm linh mới tốt hơn. Thánh Giuse đã nêu gương cần lao, đã biến gia đình Nagiarét thành trường đào tạo công ăn việc làm với tất cả lòng tin yêu. Chúa Giêsu cũng đã xuất thân trong gia đình Nagiarét, đã chấp nhận một công việc và làm cho việc lao động tràn đầy ý nghĩa. Mẹ Maria cũng đã làm việc nội trợ với tất cả ý thức, với tất cả lòng tin yêu của mình.

Mừng lễ Thánh Giuse Thợ 01 tháng 5, xin thánh cả Giuse cầu thay nguyện giúp để mọi người, mọi gia đình luôn yêu mến công việc của mình vì những công việc chân chính sẽ giúp cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa.

Lạy Thiên Chúa tạo thành trời đất, Chúa đã muốn cho con người lao động để tiếp tục công trình của Chúa. Xin nhận lời Thánh cả Giuse chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương Người để lại là chu toàn nhiệm vụ Chúa đã giao phó, hầu được hưởng niềm vui Chúa đã hứa cho tôi tớ trung thành. (Lời nguyện nhập lễ, lễ Thánh Giuse thợ ).

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT 

---------------------------------

 

01/05-2: Thánh GIUSE THỢ

 

Thánh Giuse. Cả hai bản của thánh Mathêu và thánh Luca, đều nói rằng: Ngài thuộc giòng họ: 01/05-2


Thánh Giuse. Cả hai bản của thánh Mathêu và thánh Luca, đều nói rằng: Ngài thuộc giòng họ David. Nhưng vào thời khởi đầu công nguyên, miêu duệ cùng giòng giống vương giả này chẳng còn danh giá và giàu có gì. Vài điều chúng ta biết được về thánh Giuse qua việc dâng Chúa Giêsu vào đền thờ (Lc 2,24), cho biết rằng Ngài là một người nghèo khó, không có đặc quyền nào. Gia đình Ngài vốn thuộc về Belem đất Giudêa, nhưng đã dời về Nazareth đất Galilea nơi Ngài sinh sống bằng nghề thợ mộc (Mt 13,55)

Con người bình thường được nhắc tới với một chút khinh thường như “bác thợ mộc” ấy  lại là gương mẫu cho mọi Kitô hữu và cách riêng cho những Kitô hữu sống nghề lao động tay chân. Ngài thật là người công chính như một dụng cụ nhẫn nại của Thiên Chúa, thực hiện mọi điều Chúa đòi hỏi với một đức tin không nghi nan. Ngài sốt sắng tuân giữ luật Do thái, trung thành bảo vệ gia đình, Ngài có trách nhiệm, chấp nhận mọi khó khăn mau mắn vâng theo lệnh truyền, vững chí dưới cơn thử thách, luôn lặng lẽ đáng kính phục. Nhân tính hấp dẫn của Chúa Kitô với tính cương trực, lòng can dảm và đức bác ái sâu xa, chắc chắn đã được phát triển theo gương mẫu và sự nuôi dưỡng Người nhận được từ Thánh cả Giuse.

Dầu vậy, sự cao cả của thánh nhân ở một mức độ sâu xa hơn từ ngữ vẫn áp dụng cho Người là “Cha nuôi Chúa Giêsu”. Từ ngữ này gợi lên một liên hệ bóng gió nào đó với Chúa Kitô. Đúng hơn có lẽ phải nói rằng thánh Giuse là Cha của Chúa Giêsu như các sách Tin Mừng đã là ngần ngại nói như  vậy, Chúa Giêsu thực là hoa quả của cuộc hôn nhân mà thánh Giuse giữ vai trò thiết yếu. Nếu tình phụ tử của Ngài là trinh khiết thì không phải vì thế mà mối tình ấy thấp hèn hơn tình phụ tử về thể xác. Liên hệ của người cha trinh khiết với Chúa Giêsu cũng tương tự như mối liên hệ của Người Mẹ Trinh khiết đối với Người. Cả Đức Mẹ và thánh Giuse đều góp phần hoàn hảo của mình vào mầu nhiệm nhập thể. Phần đóng góp này còn mở rộng tới thân thể mầu nhiệm của Ngôi Lời hoá thành nhục thể là Giáo hội. Thánh Giuse vẫn tiếp tục vai trò của mình trong việc nuôi dưỡng bảo vệ và hướng dẫn Giáo hội.

Bởi đó năm 1870, Đức Giáo Hoàng Piô IX tuyên xưng thánh Giuse là Đấng bảo trợ của cả Hội Thánh khắp hoàn cầu. Và đặt lễ kính vào ngày 19 tháng 3 mỗi năm.

Từ vai trò đặc biệt của thánh Giuse đối với toàn thể Hội Thánh, thánh nhân chắc chắn cũng liên hệ đến từng người trong thân thể mầu nhiệm này. Thánh nhân đã thi hành sứ mạng của mình trong cuộc sống lao động như người thợ. Do đó, Ngài có một mối liên hệ đặc biệt với lớp người đông đảo sống bằng sức lao động chân tay của mình. Năm 1955, Đức Giáo Hoàng  Piô XII đã lập nên lễ thánh Giuse và đặt ngày kính nhớ vào mồng 1 tháng 5, ngày mà nhiều nước chọn cử hành lễ lao động. Niên biểu không hoàn toàn phổ quát nên lễ thánh Giuse Thợ cũng được để tự do. Tuy nhiên, chính Đức Giáo Hoàng đã nói tới ý nghĩa của lễ này:

- “Chắc hẳn chúng ta phải hân hoan vì Người thợ vô danh ở Nazareth chẳng những là hiện thân  cho giá trị lao động tay chân trước mặt Chúa và Giáo hội mà còn là vị Giám hộ mẫn tiệp của mọi người và của các gia đình các bạn lao động nữa”.
Để nói về quyền năng của Đấng bảo trợ, Ngài tiếp:

- “Không có Vị Giám hộ nào có đủ khả năng Linh nghiệm truyền thông Phúc âm cho đời sống thợ thuyền hơn bằng thánh Giuse thợ”

Mừng lễ thánh Giuse thợ, chúng ta hãy nhớ lời vị Cha chung nhắn nhủ, cũng như bài diễn văn đọc vào ngày lễ thánh Giuse thợ đầu tiên này:

- “Nếu các con muốn được gần Chúa Kitô, Cha nhắc nhớ các con hôm nay: Ite ad Joseph – Hãy đến với Giuse” (St 41,55) (ĐGH PIÔ XII, Diễn văn ngày 01.5.1955)

---------------------------------

 

01/05-3: GIU-SE, MỘT NHÂN CÁCH HƯỚNG THẦN

 

Nhân lễ kính Thánh Giu-se Thợ 1.5.2001, chúng ta hãy cùng nhau đón nhận bữa tiệc Lời Chúa mà: 01/05-3


Nhân lễ kính Thánh Giu-se Thợ 1.5.2001, chúng ta hãy cùng nhau đón nhận bữa tiệc Lời Chúa mà Giáo Hội đã dọn sẵn: Tin Mừng Mt 13, 54 – 58 song chiếu với đoạn Lc 4, 16 – 30. Chúng ta nhận ra thái độ của thiên hạ, những người đồng hương Na-da-rét dành cho Đức Giê-su đã chuyển rất nhanh, xoay vù vù cứ như là chong chóng: Từ... thán phục – hoài nghi – khước từ – chống đối – cuối cùng là định... giết Đức Giê-su cho xong chuyện !

Tại sao thế nhì ? Rõ ràng chỉ vì bản lý lịch của Đức Giê-su thường quá, kém thớ quá, chẳng nổi tiếng một chút nào ! Giá mà Đức Giê-su có một bà mẹ là một viện sĩ, một giáo sư tiến sĩ... Giá mà Đức Giê-su có một ông bố là tổng thống, là quốc vương một xứ dầu hỏa... Giá mà anh chị em bà con của Đức Giê-su là các cầu thủ siêu sao của Brasil, là hoa hậu, là người mẫu thời trang, là diễn viên điện ảnh Hàn Quốc... chắc khi ấy, người ta sẽ hoan hô Đức Giê-su, người ta sẽ ào ào tuôn đến, bu theo Người nườm nượp như thể Người là một thần tượng !

Thiên hạ có ngờ đâu: những người thân của Đức Giê-su tuy có vẻ tầm thường mờ nhạt, tuy có vẻ kém thớ thua cơ trong xã hội ấy, lại là một gia đình đã đạt đến 3 tiêu chuẩn xuất sắc, đó là: một gia đình có Chúa, sống theo ý Chúa, và luôn cộng tác với Chúa.

Vâng, Đức Giê-su là Con Một của Đức Chúa Cha, nhưng khi Nhập Thể làm người, đăng ký tạm trú ở cõi nhân sinh này, Đức Giê-su lại cần có một người cha trần thế là bác thợ Giu-se. Rõ ràng Thiên Chúa có thể bao cấp hết mọi sự, nhưng Thiên Chúa, Ngài lại muốn cho con người tự do và tình nguyện cộng tác với Ngài. Do vậy, chắc chắn nơi “con người” Đức Giê-su, cái phần nhân tính của Người có đóng góp của nhân cách ông bố là Giu-se.

Ngày hôm nay, 1.5, ngày cả thế giới đồng lòng chọn làm ngày Lễ Lao Động, Giáo Hội chúng ta lại chọn mừng lễ Thánh Giu-se, còn các ông, các anh, các bậc gia trưởng lại chọn Thánh Giu-se Thợ làm Bổn Mạng của mình. Hẳn là chúng ta rất muốn tìm cho được, hiểu cho được đâu là nhân cách của Thánh Giu-se ?

Phải công nhận rằng: Kinh Thánh không ghi lại một lời nào mà Thánh Giu-se đã nói, nhưng không phải vì thế mà dám bảo rằng ngài... câm ! Ngài có nói chứ, nhưng là nói rất ít, nghĩa là không lèm bèm lắm lời nhiều chuyện, không nói dai, không thích những chuyện tào lao, không to tiếng nạt nộ độc tài với vợ con, không hùng hổ hung hăng với hàng xóm láng giềng... Thánh Giu-se chắc là cũng không bao giờ nói dối, nói gạt, không ba hoa, không “nổ” tưng bừng về tay nghề của mình với khách đến đặt hàng...

Thánh Giu-se chỉ nói khi cần thiết nhất, và do vậy sự thinh lặng của ngài lại nói lên rất nhiều điều sâu sắc. Thánh Giu-se chỉ nói điều Thiên Chúa muốn ngài nói, Thánh Giu-se chỉ nói điều phù hợp với chương trình mầu nhiệm của Thiên Chúa.

Mà như thế, suy ra, ắt hẳn Thánh Giu-se phải là một người cha, một người chồng gương mẫu xét theo góc độ nhân bản bình thường: Không nhậu nhẹt, không bài bạc, không lăng nhăng, cũng không ép vợ phải đi... phá thai khi bị vỡ kế hoạch gia đình như thường thấy trong xã hội thực dụng ngày nay. Thánh Giu-se chỉ một mực chí thú làm ăn lương thiện và gắn bó với gia đình bằng sợi dây yêu thương sinh tử mật thiết đến kỳ lạ, ngược đời đến khó tin là lại có thật 100 %, đó là: có vợ mà lại không phải là người đầu gối tay ấp, có con trai mà lại không phải là huyết nhục truyền sinh. Nhân cách như thế, trước tiên, là một Nhân Cách Đối Nhân.

Có thẳng thắn mà nói, nghề thợ mộc của Thánh Giu-se, cho dẫu có nhất nghệ tinh nhất thân vinh, thì vẫn là một nghề lao động tay chân, vất vả mà nghèo, nghèo mà sạch, nghèo mà vẫn không khổ ( ấy là nói về cái khổ tâm khổ trí quay quắt vì ước muốn làm giàu như thường gặp ở đời ). Vâng, nghèo như thế mà nhân cách của ngài vẫn cứ tỏa sáng cái ánh sáng nhè nhẹ và dìu dịu, cái ánh sáng âm thầm lặng lẽ và khiêm tốn như thể nép đàng sau cái vinh quang rực rỡ chói lòa đương nhiên của Chúa Cha nơi Đức Giê-su. Nhân cách ấy đúng là một Nhân Cách Hướng Thần, nghĩa là một nhân cách có Chúa, vì Chúa và cho Chúa, một ví dụ minh họa cho biện chứng của Tin Mừng: Cho đi trắng tay – Nhận lại tràn đầy, chẳng còn giữ lại tý gì cho mình thì sẽ lại có được tất cả.

Một nhân cách như thế rất xứng đáng để được thay mặt Đức Chúa Cha, để được Đức Chúa Cha ủy quyền việc chăm lo giáo dục Đức Giê-su và yêu thương che chở bà Ma-ri-a, yên tâm ký thác cả một Kế Hoạch Cứu Độ vô tiền khoáng hậu ! Nhưng tại sao lại có thể gọi đó là một Nhân Cách Hướng Thần ? Bà Ma-ri-a thì đã thưa Xin Vâng với Thiên Chúa, cưu mang và hạ sinh Đức Giê-su, rồi sau này cứ mãi thủy chung đồng hành với Đức Giê-su cho đến tận đỉnh đồi Gôn-gô-tha. Trong khi đó, Thánh Giu-se thì đã dưỡng dục Đức Giê-su nên “người”, để rồi trân trọng trao Đức Giê-su vào vòng tay của nhân loại, xong xuôi là mất hút, không thấy Kinh Thánh nói gì thêm nữa.

Sẵn hôm nay, tuy là ngày lễ Thánh Giu-se Bổn Mạng của các ông làm chồng và làm cha, cũng xin không quên ngỏ lời một chút với các chị, các bà vốn đã chọn Đức Ma-ri-a là Bổn Mạng của người những làm vợ và làm mẹ trong gia đình.

Xin cứ vô phép mà nghĩ sâu nghĩ xa thế này: Giả sử mà Thánh Giu-se không biết vâng lời sứ thần của Thiên Chúa, cứ âm thầm bỏ đi cho khỏi rách việc, hoặc tệ hơn, la toáng lên về chuyện vợ mình mới đính hôn mà đã chửa hoang, bù lu bù loa đòi Hội Đường Do-thái phải can thiệp, vạch mặt chỉ tên, xét xử cô vợ hư cho ra ngô ra khoai... thì Đức Ma-ri-a ( cùng với bào thai Giê-su mới tượng hình trong lòng mẹ ) chắc là phải khốn đốn, nhẹ là bị đấu tố xỉ vả, nặng thì bị lôi đi ném đá không thương xót với bản án ngoại tình ô nhục. Sự thể đã không như thế mà ngược lại !

Cũng đâu đã hết, gánh lấy cái gánh nặng oằn mà không thể hiểu nổi ấy, Thánh Giu-se đã phải xóa sạch mọi dự án và kế hoạch riêng tự cho cuộc đời sự nghiệp của một người đàn ông, hay nói cho văn chương một tý: đến cái “mộng bình thường” là vợ đẹp con ngoan, gia đình êm ấm, yên ổn làm ăn... cũng đi đứt. Chịu hết, vâng, Thánh Giu-se chịu hết, mà là vui vẻ chịu, trìu mến yêu thương mà chịu, không một lời càm ràm cay cú.

Đức Ma-ri-a đã chọn được một tấm chồng tuyệt vời để nượng dựa nép mình. Còn các chị, các bà làm vợ hôm nay thì sao nhỉ ? Tại sao con số ly dị lại cứ ngày một leo thang ? Người ta đã tốn bao nhiêu là giấy mực, bao nhiêu là nước bọt cho cách mạng giải phóng phụ nữ, cho đấu tranh đòi “nam nữ bình quyền” mà sao vẫn cứ rẫy đầy những cảnh gia đình đổ vỡ tan hoang, có khi chỉ vì những lý do tầm phào trẻ con ? Mà thôi, xin cứ để câu trả lời được treo lửng vậy...

Đến đây, đã tâm sự với các ông rồi với các bà, thiết tưởng cũng nên được gợi thêm một hình ảnh, một suy nghĩ  nữa với các bạn trẻ là con cái trong gia đình như thế này:

Chúng ta cứ hình dung rằng Thánh Giu-se không mất sớm, thì vào cái ngày Đức Giê-su phải chịu chết oan ức trong tư thế giang thẳng cánh, ắt là thế nào cũng có mặt Thánh Giu-se bên cạnh Mẹ Ma-ri-a. Cả hai sẽ sóng đôi như vẫn từng sóng đôi, tựa vào nhau, dìu nhau cùng đứng vững dưới chân Thập Giá. Khi ấy Đức Giê-su sẽ nói với môn đệ Gio-an: “Này là bố mẹ của anh !”

Và thế là, người môn đệ trẻ tuổi nhất của Đức Giê-su là Gio-an sẽ đưa ông Giu-se và bà Ma-ri-a về nhà mình mà phụng dưỡng báo hiếu thay cho Đức Giê-su...

Vậy, ngày hôm nay, tại sao các bạn trẻ chúng ta lại nỡ lòng nào mà bất hiếu bất kính với chính cha mẹ của mình được nhỉ ? Mà một khi đã bất hiếu bất kính với bố với mẹ, làm gì mà các bạn còn có thể theo được Đức Giê-su như là một môn đệ ? Làm gì mà chúng ta còn dám tự nhận mình là một Ki-tô hữu ?

Lm. LÊ QUANG UY, DCCT, 1.5.2001

---------------------------------

 

01/05-4: GIẤC MỘNG CỦA THÁNH GIU-SE

 

Đời vua Trang Tông bên nước Tề, có một người tên là Tân Ti Tụ, đêm nằm mơ thấy một người to: 01/05-4


Đời vua Trang Tông bên nước Tề, có một người tên là Tân Ti Tụ, đêm nằm mơ thấy một người to lớn mặc quần gai, áo vải, đội mũ trắng, đi giày mới, đeo thanh gươm, tự dưng đi vào nhà rồi nhổ vào mặt. Ông ta giật mình, sực tỉnh dậy, tuy biết là chuyện chiêm bao, nhưng ông ta vẫn tức, ngồi suốt đêm lấy làm bực dọc khó chịu.

Sáng hôm sau, ông ta mời một người bạn thân đến và nói rằng: “Bác ơi ! từ thuở bé đến giờ tôi vẫn là người hiếu dũng, đến nay đã 60 tuổi, chưa phải đứa nào làm nhục bao giờ. Thế mà đêm qua bị một đứa nó làm nhục, tôi định tìm kỳ được đứa ấy, báo thù mới thôi. Nếu tôi tìm thấy nó thì hay, nếu không tìm thấy thì tôi chết mất”.

Rồi từ hôm đó sáng nào ông cũng cùng người bạn ra đứng ngoài đường cái để rình. Rình đã ba ngày mà vẫn không thấy, ông ta về nhà uất lên mà chết.

Truyện kể rằng: ngày nọ Trang Chu ( Trang Tử ) nằm mộng thấy mình hoá bướm. Tỉnh dậy, ông nghi ngờ, chẳng hay bướm hoá thân thành Trang Chu hay Trang Chu biến thành bướm !

Chẳng bao lâu sau biến cố mùa xuân 1975, có bà cụ kia đã nhờ người đào bới mấy ngôi mộ của quân nhân Miền Nam được chôn chất trong một nghĩa trang cạnh nhà, vì lý do đêm qua bà nằm mơ thấy có người đến mách bảo là dưới những ngôi mộ ấy ngoài những thi thể mục rữa là cả mấy kho tàng vàng bạc châu báu. Người ta đào mãi nhưng rốt cuộc cũng chỉ tìm thấy những hài cốt đen sậm khô khốc…

Tin Mừng Mát-thêu cũng thuật lại sự kiện hai lần ông Giu-se nằm mộng thấy Thiên Sứ Chúa hiện đến báo mộng. Một lần Thiên Sứ đến báo tin ông hãy đón nhận cô Ma-ri-a bạn ông về làm vợ ( Mt 1, 20 ). Lần kia Thiên Sứ xuất hiện để báo tin cho ông hãy dậy đưa bà Ma-ri-a và con trẻ trối sang Ai-cập vì Hê-rô-đê đang tìm giết hại con trẻ ( Mt 2, 13 ).

Từ những giấc mộng trên chúng ta có một vài nhận định:

Theo các nhà tâm lý thì con người ta không đêm nào không nằm mộng, thế nhưng khi tỉnh giấc chúng ta chỉ có thể nhớ những giấc mộng xảy đến gần với khi ta vừa tỉnh giấc mà thôi. Còn những giấc mơ xảy ra từ lúc ta vừa ngả lưng ngon giấc hoặc xảy đến xa với lúc tỉnh giấc thì nó đã không được bộ nhớ của ta lưu giữ.

Vẫn theo các nhà tâm lý, thì mộng là một hiện tượng lặp lại của trí nhớ. Người ta không thể mộng thấy những gì mà trong thực tế người ấy chưa một lần thấy hay chưa một lần tưởng tượng. Chẳng qua những điều ta đã nghe, đã thấy, đã tưởng tượng đó theo ngày tháng đã đi vào vô thức khiến ta có cảm tưởng những gì trong giấc chiêm bao đêm qua ta gặp là những gì mới mẻ đó thôi. Nhất là những gì người ta khao khát, ước ao thì đêm về người ta sẽ thấy nó lặp lại trong giấc chiêm bao: người ta sẽ gặp lại người yêu, hay được một ai đó đến cho một số tiền, hoặc cả sự hận thù trả oán của người khác... tất cả đều tuỳ thuộc ở những suy nghĩ, tưởng tượng, ao ước của ta trong thực tế đời thường.

Nói như tác giả quyển Giải Mã Truyện Tây Du thì: “Những ức chế, dồn nén ban ngày chưa biến thành hành động, thì sẽ đợi đến đêm về, sẽ biến thành cơn mơ giấc mộng dẫn dắt người đi... hoang”. Không lạ gì trong thực tế chúng ta thấy có những giấc mơ đẹp thơ mộng hay hãi hùng, cũng có những giấc mộng mà khi tỉnh giấc ta không nhận ra đêm qua mình đã chiêm bao điều gì, vì nó được chắp vá bởi nhiều hiện tượng xung quanh ta. Vì thế, nhiều nhà tâm lý cũng khuyên chúng ta trước khi đi ngủ không nên xem các phim ảnh bạo lực, đọc sách báo xấu. Chẳng phải vì những lý do đó mà các nhà tu đức đã không ngừng khuyên ta nên đọc một vài kinh hay một đoạn Thánh kinh trước khi đi ngủ đó sao !

Trở lại vấn đề, như thế, chắc chắn trong thực tế ông Tân Ti Tụ kia đã ít nhất một lần trong đời bị một kẻ nào ấy mạ lị, hay chính ông đang mang một mối thù oán đối với ai đó mà hình ảnh người đó nay đã rơi vào vô thức, bất chợt trong giấc mơ nó hiện lên đó thôi. Cũng như cụ bà kia, vì thân phận nghèo khổ ngày qua tháng lại bương chải với cuộc sống nhưng vẫn không đủ ăn, nên đã từng mơ ước, tưởng tượng ra những kho báu dưới mấy ngôi mộ kia như thể đó là một thực tế.

Như thế ta lý giải sao đối với những giấc chiêm bao của Thánh Giu-se trên đây. Những giấc mơ đó có thật chăng hay cũng chỉ là sản phẩm của một niềm mơ ước, là thành qủa của một nỗi khao khát chờ mong Đấng Cứu Thế từ bấy lâu nay ?

Có điều ta cần lưu ý: Ông Tân Ti Tụ đã thực hiện theo giấc mơ mình gặp nhưng vẫn không hề đạt được trong thực tế. Cụ bà kia vẫn thực hiện theo sự chỉ vẽ của giấc mơ nhưng kết quả của cuộc đào bới vẫn là trống không vô ích. Còn giấc chiêm bao của Trang Chu kia thì đó cũng chỉ là thành quả của niềm khát khao của một vị thánh hiền hằng mong mỏi một ngày nào đó được lột xác hoá thân trong sự ngời sáng và nhẹ nhàng thanh thoát như loài bướm kia cơ hồ bay cao giữa một bến đời đầy ô trọc !

Thánh Giu-se dẫu gặp Sứ Thần Thiên Chúa đến với mình trong giấc chiêm bao, nhưng ngài đã không thắc mắc, song đã mau mắn thực hiện theo sự chỉ vẽ của người. Quả thế, mọi điều được nói đến trong giấc mơ đối với thánh nhân đều đã được trở nên hiện thực trong thực tế. Như vậy đó đâu phải là sản phẩm của một niềm mơ ước. Nhưng là một sự thật, sự thật huyền nhiệm.

Thánh sử Mát-thêu gọi hai biến cố Sứ Thần Thiên Chúa đến với Thánh Giu-se trong đêm đó là giấc mộng. Nhưng có lẽ nên hiểu đó là một cuộc gặp gỡ giữa Thánh nhân và Thiên Chúa qua trung gian Sứ Thần của Người. Hay nói cách khác đây là một cuộc tiếp xúc trong một giờ cầu nguyện khi mà Thánh Cả Giu-se đang trong cơn tuyệt vọng, trong một cơn xâu xé nội tâm. Tại sao lại nói Thánh Giu-se đang trong cơn tuyệt vọng !

Dựa vào đâu ? Chúng ta hãy lưu ý đến chi tiết: “Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa Sứ Thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông” ( Mt 1,18 – 20 ).

Định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo: chúng ta biết luật Do-thái một người bị bắt qủa tang phạm tội ngoại tình, hay một người bị tố cáo là đã quan hệ bất chính với một người nào đó bất luận là đàn ông hay đàn bà đều bị điệu ra trước công chúng cho người ta ném đá ( x. Ga 8,1 – 11; Tl  22, 22 – 23; Lv 20; Ds 5 ).

Thánh Cả Giu-se đang bị giằng co giữa hai thái cực: một bên là có nên nhận Ma-ri-a về làm vợ hay không. Trong khi cái bào thai trong bụng cô là con của ai ấy chứ mình đâu phải tác gỉa của nó. Liệu nhận cô ta về làm vợ có phải là vớ vẩn không đấy chứ ! Điều đó không chạm tự ái đối với những người đàng hoàng đứng đắn sao ! Một thanh niên liêm khiết, được gọi là công chính dễ gì chấp nhận một người con gái khi đã đỉnh hôn với mình nhưng còn lang bang với một kẻ nào đó ! Và bên kia là: nếu đem Ma-ri-a ra công chúng để người ta ném đá, liệu ai có thể chịu nổi ! Nỡ lòng nào mình ác tâm đến thế để tố giác một người mà khi mình chưa nắm chắc bằng chứng ! Hơn nữa dẫu cô Ma-ri-a có là gì đi nữa thì ít ra cô cũng đã là bạn của mình cơ mà !

Quả vậy Thánh Giu-se đang bị giằng co một bên là lý và một bên là tình đối với cô Ma-ri-a người vợ tương lai, nhưng giờ lại có chuyện chẳng lành. Trong khi định tâm như thế thì Sứ Thần Chúa đã đến báo mộng cho ông.

Lần thứ hai khi Sứ Thần Thiên Chúa hiện đến báo mộng thì đã quá rõ. Điều cần bàn thêm ở đây là liệu giấc mộng của Giu-se có giống giấc mộng của Cụ già nước Tề kia, và của cụ bà nọ ?

 Câu trả lời là: Giu-se thức dậy và làm như lời Sứ Thần truyền. Và điều đáng làm cho chúng ta ngạc nhiên đó là những gì Thánh Giu-se nằm mộng đều đã trở nên hiện thực trong thực tế. Sự việc Thánh Giu-se nhận Ma-ri-a về làm vợ vẫn chưa trả lời được gì, nhưng chính là cả cuộc đời và con người của Chúa Giê-su sau này. Và cũng thế, sự việc Thánh Giu-se thức dậy đưa con trẻ và Mẹ Người trốn sang Ai-cập vẫn chưa trả lời được gì, nếu không có những gì xảy ra sau đó đều đúng với lời báo mộng. Như là biến cố Hê-rô-đê giết hại các hài nhi trong vùng.

Nói tóm lại, giấc mộng của Thánh Giu-se không phải là một giấc mộng tâm lý bình thường như những giấc mộng khác của bao người. Nhưng đúng hơn, phải nói theo ngôn ngữ của sách Khải Huyền thì đây là những “thị kiến ban đêm”.

ĐCV Sao Biển, ngày 1 tháng 5 năm 2001, Lễ Thánh Giu-se Thợ, ĐAN LÊ

---------------------------------

 

01/05-5: Giuse Lao Động


Một vài nhận định:

 

Trong niên lịch Phụng vụ của Hội Thánh chúng ta thấy các thánh được mừng kính dưới nhiều: 01/05-5


I. Một vài nhận định:

A. Trong niên lịch Phụng vụ của Hội Thánh chúng ta thấy các thánh được mừng kính dưới nhiều tước hiệu hay chức vụ.

- Tước hiệu như : Tông đồ, tiến sĩ, tử đạo,ẩn tu đồng trinh vui vẻ.

- Chức vụ như: Giáo Hòang, Giám mục, Linh mục

một mình thánh Giuse được mừng kính dưới một danh nghĩa không giống ai: Giuse thợ.

B. Làm như thế Giáo Hội muốn nhắc nhớ cho chúng ta điều gì?

Nhắc nhớ cho chúng ta về giá trị của lao động: Lao động có giá trị như một phương thế để thánh hóa cuộc đời của chúng ta.

Giuse không phải là thánh tiến sĩ vì Giuse chẳng để lại một dòng chữ nào.
Giuse chẳng là thánh ẩn tu vì Giuse không sống ….
Giuse không phải là thánh tông đồ vì Giuse…
Giuse không phải là Giáo Hòang.
Giuse không phải là Giám mục
Giuse không phải là linh mục

đời của Người gắn liền với cái đục, cái cưa, cái búa…

Hồi chưa kết bạn với Đức Maria cũng như thế

Rồi khi được nhận lãnh chức vụ là cha nuôi của Đấng Cứu thế cũng như thế.

Cuộc sống ở Nazareth rất vất vả nhưng rất vinh dự vì đã lấy mồ hôi và công sức của mình để nuôi sống gia đình

Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người trên thế giới hôm nay biết yêu chuộng và nhất là biết dùng công ăn việc làm như một phương thế để nên thánh.

II. Hôm nay cũng là ngày đầu tháng Đức Mẹ.

Trong số các thánh chỉ có Đức Mẹ là được Giáo Hội dành cho những vinh dự lớn nhất. Một năm Giáo Hội dành đến hai tháng để kính Đức Mẹ

Sau Công đồng Giáo Hội đã có một sự thay đổi rất lớn về Phụng: Giáo Hội chỉ còn giữ lại một số các vị thánh tiêu biểu. Riêng Đức Mẹ thì không những không bớt mà còn thêm nữa. Chẳng hạn thêm vào lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa.

Con đường nên thánh của Đức Mẹ cũng là con đường rất âm thầm lặng lẽ. Suốt cả cuộc đời Đức Mẹ chỉ có hai tiếng "Xin vâng". Cả cuộc đời của Đức Mẹ là thế. Xin vâng trong từng giây từng phút của cuộc đời. Suốt cà cuộc đời chỉ một lòng một dạ với hai tiếng xin vâng. Một lòng một dạ.

Thánh ý Chúa muốn như thế nào Đức Mẹ thi hành như thế.

Đứng trước mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể, với tư cách là một con người Đức Mẹ chẳng làm sao mà hiểu thấu. Thế nhưng Thiên Chúa muốn, Đức Mẹ xin vâng.

Chúa Giêsu làm người....một Thiên Chúa làm người sống cuộc đời của một con người. Bao nhiêu năm trời ở Nagiareth, ngoại trừ một dấu chỉ nhỏ nhoi lúc Chúa lên 12 tuổi, Vâng chỉ có thế. Ngoài ra thì Chúa không hề tỏ ra một dấu hiệu nào cho người ta biết Ngài là một Thiên Chúa. Ba mươi năm trời như tế. Ba mươi năm trời...hơn một phần tư thế kỷ....Kỳ lạ quá...Mầu nhiệm quá. Đức Mẹ cũng chỉ biết Xin vâng.

Rồi vào cuối cuộc đời công khai của Chúa...Chúa bị người ta kết án Chúa bị con người treo lên trên cây Thập giá. Một Thiên Chúa thất bại trước con người. Một Thiên Chúa bị con người xỉ nhục mà vẫn câm nín. Nếu không phải là Đức Mẹ thì làm sao con người có thể chịu đựng nổi những cảnh nhục nhã đó mà không oán không than. Không Đức Mẹ chỉ biết Xin Vâng.     

............

Một hôm trong đám những người hành hương đến Arc có một người đàn bà mang đại tang. Bà vào giữa nhà thờ đứng như trời trồng ở giữa mọi người. Bà có vẻ rất đau khổ. Lý do là chồng bà, một người đã bỏ đạo từ lâu cách đây mấy bữa đã nhảy xuống sông tự tử…đã chết mà không được lãnh nhận những bí tích cuối cùng. Cha Gioan Maria Vianey đi qua….Bà chưa kịp nói gì thì Cha ghé vào tai bảo bà:

- Ông nhà đã được cứu rỗi rồi.

Thấy người đàn bà có vẻ quá ngạc nhiên, cha nói lại một lần nữa:

- Tôi đã bảo ông nhà đã được cứu rỗi rồi mà.
Bà thắc mắc hỏi lại với một giọng đầy hoài nghi, cha nhấn mạnh từng tiếng:
- Tôi bảo bà là ông nhà đã được cứu rỗi rồi. Ông hiện đang ở trong Luyện ngục. Phải cầu nguyện nhiều cho ông ta. Giữa nhịp cầu và dòng nước ông đã có được một thời gian để ăn năn thống hối. Bà còn nhớ là trong tháng Đức Mẹ, bà đã cho làm một bàn thờ trong phòng của bà không? Thỉnh thoảng, chồng của bà, mặc dầu đã bỏ đạo cũng đến hợp lời cầu nguyện với bà. Thái độ đó đã đem lại cho ông ta ơn thống hối và tha tội vào phút cuối cùng của cuộc đời.

Lạy Mẹ Maria

Đã một lần Mẹ nhận nhân loại chúng con làm con của mẹ
Và từ dạo ấy
Mẹ đã yêu nhân loại với tất cả tấm lòng từ mẫu
Chúng con là những người trong khối nhân loại ấy
Và như thế chúng con đã đương nhiên là con của Mẹ
Và đương nhiên là Mẹ thương chúng con
Xin dạy chúng con
biết chiêm ngắm Chúa Kitô
và suy đi nghĩ lại những Lời của Người
trong tâm tình yêu mến như Mẹ
Xin dẫn lối cho chúng con
trên bước đuờng theo Chúa
cũng như đem Chúa đến cho mọi người
Xin dạy chúng con biết luôn bước đi trên con đường tình yêu
Với tâm tình phó thác
Xin dẫn chúng con
đến sự sống muôn đời
bằng cách đặt bàn tay chúng con
vào bàn tay của Chúa Kitô
Đấng đã có lần nói với mọi người
Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Amen.

---------------------------------

 

01/05-6:THÁNH GIUSE THỢ


Mt 13,54-58

* lịch sử

 

Chính Đức Thánh Cha Pi-ô XII đã xác định lễ thánh Giuse Thợ vào ngày 1.5 ; đó cũng là ngày toàn: 01/05-6


Chính Đức Thánh Cha Pi-ô XII đã xác định lễ thánh Giuse Thợ vào ngày 1.5 ; đó cũng là ngày toàn thế giới mừng ngày Lao Động Quốc Tế. Trong ngày này, thánh Giuse được tôn kính, nhưng cũng ý thức được giá trị lao động của con người.

 Thánh Giuse đã lao động bằng đôi tay mình để phục vụ lương thực cho Thánh Gia. Lao động ngày hôm nay khác với ngày xưa, nhưng cũng có cùng một ý nghĩa khi con người sử dụng thân xác và trí óc của mình để lao động, họ hiện thực chính cuộc sống của mình, phát triển nhân vị và làm cho cuộc sống có giá trị ở giữa trần gian

Người Kitô hữu lại cần phải ý thức, chính họ nhận sự lao động này từ Thiên Chúa và phải qui hư
ớng mọi lao động này về Người (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...

Sau một thời gian hoạt động ở những nơi khác, Chúa Giêsu trở về quê hương Nadarét và vào giảng dạy trong hội đường. “Sự khôn ngoan và quyền làm phép lạ” của Ngài đã khiến cho những người đồng hương phải ngạc nhiên. Nhưng sự ngạc nhiên này không dẫn họ đến đức tin, bởi còn một chướng ngại ngăn cản, đó là xuất thân của Ngài : vì người ta biết quá rõ cha mẹ anh em Ngài đều là những người nghèo hèn quê mùa cho nên người ta không tin Ngài là Messia. Do người ta không tin, nên Chúa Giêsu không làm nhiều phép lạ.

B.... nẩy mầm.

1. Những người Nadarét đã ngạc nhiên và thán phục Chúa Giêsu. Họ đã tiến đến gần tới đức tin. Nhưng rất tiếc, hành trình ấy đã bị chận lại vì thành kiến. Họ nghĩ : một con người có cha mẹ và anh em là những kẻ nghèo nàn và tầm thường như thế không thể nào là Đấng Messia được.

Có những thành kiến thật vô lý, thế nhưng người ta vẫn để cho những thành kiến vô lý ấy ảnh hưởng đến mình.

Phải chăng nhiều lần tôi cũng đánh giá người khác theo những thành kiến : Anh ấy, chị ấy không thể nào khá được ! Con người như thế đó mà làm được cái gì !

2. Ngày xưa các phụ nữ quý phái Trung Hoa bó chân để chứng tỏ mình không phải lạo động. Thời đó, lao động là việc làm của những kẻ hèn hạ. Chúa Giêsu đã bỏ ra 30 trong số 33 năm ở trần thế để lao động ; và việc Giáo Hội mừng kính Thánh Giuse Thợ là những lời nhắc nhở chúng ta tôn trọng giá trị của lao động, đặc biệt là lao động tay chân.

3. “Nào ông ấy chẳng phải là con bác thợ mộc sao ?” : Trong số các thành kiến của chúng ta, có thứ thành kiến quái dị này là “cha nào con nấy”, cha mẹ dở thì con không thể giỏi, cha mẹ xấu thì con không thể tốt. Đành rằng, di truyền cũng có ảnh hưởng phần náo đó, nhưng không phải là tất cả. Có biết bao tấm gương về những đứa con tài giỏi thánh thiện xuất thân từ cha mẹ tầm thường và tội lỗi.

4. Một du khách mới đi Trung hoa về báo cáo rằng giới trí thức Trung hoa tuyên bố : “Không, việc truyền giáo của quí vị không bám rễ vào đất nước chúng tôi được đâu, vì các nhà truyền giáo của quí vị mới đến chưa hiểu gì đã tuyên bố là đạo của chúng tôi là sai lạc.” Và một người Á đông khác cũng nói : “Các ông muốn chúng tôi bỏ những gì mà chúng tôi tin và chấp nhận những gì mà các ông tin” Đi truyền giáo mà có định kiến thì thà ở nhà còn hơn. (Góp nhặt)

5. “Ngài không làm nhiều phép lạ ở đó, vì họ chẳng có lòng tin” : Phép lạ chỉ diễn ra vì lòng tin và với lòng tin của con người. “Nếu chúng con có đức tin chỉ bằng hạt cát, chúng con có thể bảo quả núi này dời xuống biển…”.

Xin ban thêm đức tin cho con.

6. “Chúa Giêsu về quê, giảng dạy dân chúng trong hội đường của họ, khiến họ sửng sốt và nói : “Ông ta không phải là con bác thợ hay sao ? Mẹ ông không phải là bà Maria sao ?... Vậy bởi đâu ông ta được khôn ngoan như thế ?” Và họ vấp ngã vì Người.” (Mt 13,54-57)

Lạy Chúa Giêsu, dân làng Nadarét đã không tin vào Chúa vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công. Các muôn đệ đã không tin vào Chúa khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự. Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa chỉ vì Chúa sống như một con người. Cũng có lúc con không tin có Chúa hiện diện dưới hình bánh mong manh nơi một linh mục yếu đuối trong một Hôi Thánh có nhiều bất toàn. Dường như Chúa thích ẩn mình nơi những gì thế gian chê bỏ, để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin. Xin thêm đức tin cho chúng con để khiêm tốn nhận ra Ngài tỏ mình thật bình thường trong cuộc sống. (Hosanna)

7. “Đức Giêsu về thăm quê hương, giảng dạy trong hội đường khiến dân làng sửng sốt và nói : Ông không phải là con bác thợ mộc sao ?” (Mt 13,55)

Nghe Đức Giêsu giảng dạy, người ta giật mình kinh ngạc, vì cái chiều sâu thăm thẳm của cuộc sống đã được Đức Giêsu cảm nhận cách sống động, tinh tế. Ngài như thưởng thức được nét tinh khiết của bông huệ ngoài đồng, nét lung linh của giọt sương. Ngài thán phục trước những cánh chim tự do trên bầu trời, cái ngọt ngào mượt mà của đồi nho, đồng lúa. Ngài nhìn thấy nét hùng mạnh trong lao tác của người đàn ông, cái âm thần tế nhị, quảng đại nơi người nữ và ánh mắt trong sáng của trẻ thơ… Và trên hết là tâm tình ngợi ca Tình yêu của con người trước Thiên Chúa.

Tôi hình dung ra bác thợ mộc Giuse với cưa, đục… trên vai, cùng bé Giêsu hồn nhiên tung tăng trên con đường làng…

Và trong xưởng thợ, ánh mắt âm thầm trìu mến của bác thợ dừng lại bên mái đầu vô tư của bé Giêsu, ở đó, họ cùng mở ra những trang Tin Mừng của cuộc sống.
Lạy Chúa, xin cho người trẻ chúng con biết mở rộng cõi lòng với thiên nhiên, biết quan tâm chăm sóc và góp phần trong công cuộc tạo dựng. Amen (Epphata)

8. “Ông không phải là con bác thợ mộc sao ?” (Mt 13,55

“Tháng nữa tốt nghiệp rồi. Nếu cháu muốn ở lại đây dạy thì bác giúp cho… dạy ở phổ thông, trung tâm… rồi muốn học thêm gì cũng tiện. Chứ về…” Mẹ của cô bé mà tôi làm gia sư nói như thế.

Giêsu ơi, con phân vân quá. Con vẫn biết lao động là để phục vụ cho con người hạnh phúc hơn. Nhưng đứng trước sự chọn lựa để dấn thân phục vụ, con vẫn ngập ngừng… Xin cho con can đảm chọn lựa dấn thân, và như Thánh Giuse, con có thể góp phần nhỏ bé của mình để xây dựng “nền văn minh tình thương” (Hosanna)

9. Mầm khác :

-------------------------------

 

01/05-7: TRUYỀN TIN CHO THÁNH GIU-SE

 

Trong Tin Mừng của Thánh Lu-ca chúng ta đọc câu chuyện kể về việc Truyền Tin cho Đức Ma: 01/05-7


Trong Tin Mừng của Thánh Lu-ca chúng ta đọc câu chuyện kể về việc Truyền Tin cho Đức Ma-ri-a. Về phần Thánh Mát-thêu, Ngài đã chọn cho chúng ta môt câu chuyện gần gũi khác. Ngài đã kể cho chúng ta phần câu chuyện về việc Truyền Tin cho Thánh Giu-se ( Mt 1, 18 – 24 ). Qua câu chuyện của Thánh Mat-thêu, tôi sẽ chia sẻ cho các bạn về 3 sự suy nghĩ này:

Sự khủng hoảng của đôi vợ chồng.

Một con người biết chấp nhận nhìn lại sự quyết định của mình.

Sự ký kết của Thiên Chúa

SỰ KHỦNG HOẢNG CỦA ĐÔI VỢ CHỒNG

Từ ban đầu, Đức Mẹ Ma-ri-a và Thánh Giu-se là một cặp hứa hôn rất là hạnh phúc. Vào thời điểm này người ta cưới nhau rất là trẻ, Đức Mẹ và Thánh Giu-se ở vào lứa tuổi từ 15 đến 20 tuổi, như tất cả những ngươi trẻ yêu nhau khác, họ cũng có nhiều dự tính cho tương lai... Và rồi, sự đau khổ đã đến, rất là hiện hữu, khi Thánh Giu-se hiểu rằng người mà mình đã hứa hôn đang mang thai. Tất cả đều sụp đổ, Thánh Giu-se rất đau khổ, cơn khủng hoảng ập đến...

Sau câu chuyện kể của Tin Mừng, chúng ta thử tưởng tượng Thánh Giu-se đã lo lắng cho vấn đề của mình như thế nào ? Ngài phải quyết định như thế nào ?

Thánh Giu-se là một người công chính. Ngài chỉ luôn ao ước sống công chính trước mặt Thiên Chúa. Và thế là Ngài đã quyết định không muốn tố giác Đức Ma-ri-a và định tâm bỏ bà cách kín đáo, để tránh tối đa điều sẽ làm cho Đức Mẹ đau khổ. Thánh Giu-se nghĩ rằng quyết định này là do ý Chúa, và ông nghĩ sẽ làm đúng với ý định của Thiên Chúa. Nhưng khi Sứ Thần hiện đến trong giấc ngủ, ông đã thay đổi quyết định...

Trong đời sống của chúng ta, chúng ta cũng sống những lúc khó khăn nhất của cuộc sống giữa cha mẹ và con cái, giữa những liên đới của ta với người này người khác. Chúng ta có những quyết định tự quyết trong những vấn đề quan trọng, không lắng nghe ý kiến của cha mẹ, của những người có trách nhiệm, chúng ta phản kháng và toan tính vượt qua những ý muốn của Thiên Chúa. Thế nhưng, trong câu chụyên của Thánh Giu-se, chúng ta có chỉ tìm ý của Thiên Chúa trong những vấn đề khó khăn nhất mà chúng ta gặp phải không ? Chúng ta có tin là chúng ta sẽ thực hiện được điều đó không ?

Một con người biết nhìn lại quyết định của mình. Quả vậy, điều mà Thiên Chúa đòi hỏi nơi Thánh Giu-se là hãy nhìn lại quyết định của mình. Điều Thiên Chúa cần và muốn phó thác cho ông hai vai trò:

Hãy đón Đức Ma-ri-a về nhà mình như một người vợ.

Hãy đặt tên cho đứa trẻ, có nghĩa là nhận Chúa Giê-su làm con nuôi và đảm nhận tư cách làm cha hợp pháp cho đứa trẻ này. Chúng ta thấy rằng Thiên Chúa không muốn rằng Chúa Giê-su là người “không có giấy tờ”.

Bởi đã được nhận làm con nuôi, chính Chúa Giê-su cũng trở nên “con vua Đa-vít”. Sứ Thần đã nói trong giấc mộng của Thánh Giu-se. Trong Kinh Thánh, Sứ Thần của Thiên Chúa cũng chính là Thiên Chúa. Và giấc chiêm bao là phương cách chuyển đạt truyền thống ý muốn của Thiên Chúa và con người. Điều quan trọng là, qua tất cả sự việc đó Thánh Giu-se đã biết chấp nhận biến đổi những dự tính của ông và làm theo những dự tính của Thiên Chúa . Ông đã làm theo điều Thiên Chúa muốn.

 Còn vấn đề đối với chúng ta là: chúng ta có biết chấp nhận để Thiên Chúa biến đổi những dự tính của chúng ta và để Ngài khôi phục những dự tính đó trở nên là những dự tính tuyệt vời hơn, kết quả hơn chăng ?

SỰ KÝ KẾT CỦA THIÊN CHÚA

Trong Tin Mừng của Thánh Mát-thêu đã lấy lại lời của tiên tri để thêm vào để lời này cho nên trọn: “Này đây một Trinh Nữ sẽ thụ thai một con trai”. Và Thiên Chúa nói trong giấc chiêm bao với Thánh Giu-se: “Đứa trẻ này sinh ra bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần”.

Sự mang thai trinh khiết bởi Chúa Thánh Thần là như thế. Một sự giao ước của tuyệt vời của Thiên Chúa ! Sự mang thai trinh khiết này, các bạn hiểu rằng khác với vô nhiễm nguyên tội, đứa trẻ sinh ra bởi một phép lạ mà Thiên Chúa đã muốn. Sự can thiệp của Thiên Chúa đối với sự sinh ra của Chúa Giê-su không một tì vết nào đối với con người của Chúa Giê-su, đối với con người của Đức Mẹ cũng như của Thánh Giu-se. Mà là đó là công việc của Chúa Thánh Thần. “Chúa Thánh Thần cũng là Thiên Chúa và Ngài đã cho sự sống”, như chúng ta đã đọc trong kinh Tin Kính.

Khi những người tin nhìn vào công việc tạo thành thế giới, họ có thể nhìn thấy Thiên Chúa thực hiện tất cả mọi điều vượt quá sức con người. Họ có thể nhìn thấy Thiên Chúa đang đóng dấu ấn trong công việc sáng tạo của Người.

Khi những người tin chiêm ngắm Chúa Giê-su, Em-ma-nu-en, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, Ngài đến để cứu độ chúng ta, họ có thể thấy Chúa Thánh Thần hoạt động trong con người của Chúa Giê-su.

Quả vậy, chúng ta có thê chiêm ngắm sự ký kết của Thiên Chúa trong việc thụ thai trinh khiết bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần.

Còn vấn đề của chúng ta, chúng ta có đủ khiêm tốn chấp nhận rằng: Thiên Chúa là Thiên Chúa thật và những khả năng của Ngài vượt quá sức vô cùng cái khả năng mà chúng ta có, nhất là Ngài đã cho chúng ta một cho tình yêu táo bạo nhất và một tình yêu điên rồ nhất, chúng ta có tin rằng chính tình yêu đó đã cứu vớt nhân loại không ?

 JOSEPH CASSART, bản dịch của Nữ Tu ĐOÀN THỊ LOAN, cộng đoàn Lao Động Truyền Giáo

-------------------------------

 

01/05-8: THÁNH GIU-SE, CHA NUÔI CHÚA GIÊ-SU

 

Điều đáng để ý, là Chúa Thánh Linh nói về những người nổi tiếng trong Kinh Thánh ít oi biết: 01/05-8


Điều đáng để ý, là Chúa Thánh Linh nói về những người nổi tiếng trong Kinh Thánh ít oi biết bao. Ví dụ kinh điển của điều ấy là Thánh Giu-se. Ngài là vị Thánh nổi bật nhất trong phụng vụ Công Giáo, sau Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Tuy vậy không có một từ nào trong Kinh Thánh đề cập đến Thánh Giu-se. Dự tính của chúng ta ở đây là nhận dạng NĂM ĐỨC TÍNH của Thánh Giu-se. Mỗi đức tính sẽ được mô tả ngắn gọn và áp dụng cho chính chúng ta. Trong 25 câu Kinh Cầu Thánh Giu-se, những câu mà chúng ta tập trung chính là các câu mà chúng ta biết về vị hôn phu của Mẹ Thiên Chúa. Mỗi lời cầu khẩn chứa đựng một pho bình luận.

1. THÁNH GIU-SE LÀ ĐẤNG KHIÊM NHƯỜNG

Lòng khiêm nhường, như chúng ta biết, là sự thật. Đó là nhân đức cho phép ta nhận ra và hành động trên sự nhận thức mối liên hệ thật sự của chúng ta, trước hết với Thiên Chúa và sau là với tha nhân. Theo tiêu chuẩn này, thì Thánh Giu-se là một người rất khiêm nhường: Ngài thừa nhận vị trí của Ngài với sự kính trọng đối với Đức Ma-ri-a và Chúa Giê-su. Ngài biết Ngài thua kém cả hai trong bậc thang ân sủng. Dù vậy Ngài chấp nhận vai trò vị hôn thê của Đức Ma-ri-a và người canh phòng Con Thiên Chúa.

Bài học cho chúng ta là lòng khiêm nhường đích thực này ngăn chúng ta không cho mình là tốt hơn hoặc vượt hơn những gì chúng ta thật sự là. Đồng thời, chúng ta cũng không được đánh giá thấp chính mình. Một người khiêm nhường không cho mình hơn những gì mình có, nhưng cũng không tự nghĩ mình kém hơn những điều mình có. Nếu chúng ta thực sự khiêm nhường, chúng ta không giả vờ làm ra vẻ hơn những gì chúng ta là, đó là sự kiêu ngạo. Nhưng nếu chúng ta chối những gì mình có và cho rằng mình kém hơn, thì đó là sự khiêm nhường giả hình.

Lòng khiêm nhường là một nhân đức luân lý ngăn con người không vượt qua bản thân. Đó là nhân đức hạn chế ước ao vô độ tìm cho bằng được vinh quang cá nhân và dẫn con người đến một tình yêu có trật tự về chính bản thân dựa trên căn bản một sự đánh giá đúng đắn vị trí của mình đối với Thiên Chúa và đồng loại. Lòng khiêm nhường đạo đức thừa nhận sự lệ thuộc hoàn toàn của mình đối với Thiên Chúa. Lòng khiêm nhường luân lý nhìn nhận sự bình đẳng của loài thụ tạo đối với các sinh vật khác. Khiêm nhường không chỉ đối lập với kiêu căng. Nó còn đối lập với sự hạ thấp chính mình thái qúa, tức là không nhìn nhận những ân huệ Chúa ban và sử dụng chúng theo như ý muốn của Chúa.

2. THÁNH GIU-SE LÀ ĐẤNG KHIẾT TỊNH

Truyền thống bất biến của Giáo Hội luôn cho rằng Thánh Giu-se sống một đời thanh tịnh hiến dâng. Một vài ngụy Phúc Âm mô tả Ngài như một ông lão, kể cả là một người góa vợ. Đó không phải là giáo huấn của Giáo Hội. Chúng ta tin rằng Ngài trinh khiết và sống hôn nhân khiết tịnh với Đức Ma-ri-a. Đó là để bảo vệ danh giá của Mẹ Ma-ri-a và gìn giữ phẩm giá của Con Mẹ.

Bài học cho ta ư ? Sự thanh khiết ấy có một mục đích Tông Đồ. Nó được dùng làm phương tiện để giúp chúng ta lôi kéo các linh hồn. Nó cũng cho thấy Thiên Chúa đánh giá nhân đức khiết tịnh cao vời biết bao, cho thấy Chúa Quan Phòng sắp đặt một loạt những điều kỳ diệu của đức khiết tịnh:

Sự thụ thai trinh khiết của Đấng Cứu Thế
Sự sinh ra trinh khiết của Con Thiên Chúa
Hôn nhân của Đức Ma-ri-a và Giu-se
Đời sống của Chúa Giê-su Ki-tô.

Khiết tịnh là nhân đức tiết chế ước muốn khoái lạc dục tình theo các nguyên tắc Đức Tin. Với những kẻ đã kết hôn, khiết tịnh tiết chế sự thèm muốn thích hợp với cuộc sống của họ. Với những người chưa kết hôn mà muốn có hôn nhân, sự thèm muốn được kìm giữ cho đến khi kết hôn. Với những ai quyết định không sống bậc vợ chồng, thì khiết tịnh giúp ước ao được thánh hiến hoàn toàn.

Khiết tịnh, trinh khiết, giản dị và đoan trang so sánh được trong trong ý nghĩa căn bản của tự do khác với bất cứ sự gì là dâm ô tục tĩu. Chúng khác nhau hoàn toàn. Khiết tịnh tự thân là sự đối nghịch với vô luân trong ý nghĩa dục vọng phóng túng. Nó gợi ý kiềm chế khỏi mọi hành vi hoặc tư duy không thích hợp với giáo huấn của Giáo Hội về việc sử dụng năng lực sinh sản truyền sinh của mỗi người. Nó đặc biệt nhấn mạnh phải tránh không làm những điều dơ bẩn hoặc khiến linh hồn nhơ nhớp bởi vì thân thể không được kiểm soát trong việc áp dụng đam mê cấp bách nhất của nó...

3. THÁNH GIU-SE LÀ ĐẤNG HAY VÂNG LỜI

Sự vâng lời của Thánh Giu-se bao phủ lên mọi khía cạnh trong cuộc đời của Ngài. Ngài vâng lời khi nhận kết hôn với Đức Trinh Nữ Rất Thánh Ma-ri-a. Ngài vâng lời trong sự tự ý bỏ Đức Ma-ri-a khi, dù Ngài biết Mẹ Ma-ri-a vô tội, Ngài đã tìm thấy hai mẹ con. Ngài vâng lời đi Bê-lem để kê khai nguyên quán cùng với Mẹ Ma-ri-a và đã chấp nhận mình hèn kém khi phải để Chú Giê-su sinh ra trong hang bò lừa. Ngài đã vâng lời khi đem Chúa Giê-su và Mẹ Người trống sang Ai-cập cả đêm. Ngài đã vâng lời khi đem Chúa Hài Nho lên Giê-ru-sa-lem, theo như Luật dạy, và chấp nhận thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa, khi lạc mất con trẻ và ý muốn của Thiên Chúa nữa khi Giê-su nói với Đức Ma-ri-a là Người phải làm việc của Cha Người, nagy cả cho có làm đau lòng Giu-se, dưỡng phụ của người, để thi hành ý muốn của Cha Người.

 Đâu là những bài học cho chúng ta ? VÂNG LỜI là một minh chứng tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa. Luật lệ của Chúa là cách thức Chúa làm cho ta có khả năng chứng tỏ tình yêu của chúng ta đối với Chúa. Không thể có vâng lời ở nơi nào không có tình yêu. Nơi nào càng yêu nhiều, thì càng vâng lời nhiều.

Thánh Giu-se là đầu của Thánh Gia. Ngài không có cấp trên tỏ tường mà Ngài phải vâng lời. Do đó sự vâng lời của Thánh Giu-se chủ yếu là nội tâm. Điều nầy được thể hiện qua việc mỗi lần Thánh Giu-se có việc phải vâng lời, thì Ngài đều nhận được từ sự linh ứng thượng giới. Ngài vâng lời thánh ý Thiên Chúa theo bản năng siêu nhiên. Không cần phải nói, Ngài không nhận lệnh từ Thiên Chúa để hành xử uy quyền trên Đức Giê-su và Mẹ Ma-ri-a. Chúng ta có thể nói rằng Thánh Giu-se vâng lời không phải vì Ngài được nói cho biết phải vâng lời, mà vì tâm trí Ngài luôn được thích nghi với tinh thần của Chúa. Chúng ta còn có thể nói được rằng lòng tin của Thánh Giu-se luôn nhìn thầy trong Đức Giê-su Thiên Chúa hằng sống, chỉ dẫn cho dưỡng phụ đều đặn trong mọi việc mà Thiên Chúa muốn Thánh nhân làm.

4. THÁNH GIU-SE LÀ ĐẤNG KHÔN NGOAN

Sự khôn ngoan của Thánh Giu-se là bộ phận Đức Tin Công Giáo của chúng ta. Nó được đặc biệt tỏ hiện trong sự im lặng đáng để ý của Ngài. Tất nhiên, Thánh Giu-se có nói. Dù Phúc Âm không ghi lại lời nào của Ngài, nhưng không nghi ngờ gì việc dạy chúng ta rằng nếu chúng ta muốn thực hành nhân đức khôn ngoan, thì chúng ta phải lưu ý thực hành sự im lặng.

Chúng ta giữ im lặng khi những người khác muốn chúng ta nói và chúng ta thực hành bác ái bằng sự tự chủ. Chúng ta giữ im lặng khi cố nhiên cần thiết phải làm một điều gì và không nói về điều ấy. Đối với một số người, nói và nói nhiều hơn nữa để lấy cớ là thực hiện ý Chúa, nhưng lời nói không thể thay thế hành động. Không có ai thực hành sự khôn ngoan cho bằng Đức Giê-su và Mẹ Ma-ri-a. Nhưng Thánh Giu-se dạy chúng ta rằng sự khôn ngoan là nhận thức đúng đắn về những việc phải làm hoặc, nói rộng hơn, là sự nhận thức những việc phải được làm và những việc cần phải tránh.

Sự khôn ngoan là một nhân đức thuộc về trí tuệ, qua đó một con người nhận ra bằng cách nào đó cái gì là tốt và cái gì là xấu. Trong ý nghĩa nầy, sự khôn ngoan là một nhân đức luân lý cho phép một người nghĩ ra, lựa chọn và chuẩn bị những phương tiện thích hợp để đối đầu với bất cứ sự dữ nào. Sự khôn ngoan hệ tại trong thực hành trí tuệ và cả hai thứ đều được thủ đắc bằng hành động riêng mình và được thấm nhuần bởi ơn thánh hóa. Sự khôn ngoan có thể coi lả tự nhiên khi được phát triển bằng nỗ lực riêng và được coi là siêu nhiên bời vì được Thiên Chúa phó ban.

Với tư cách là một hành vi nhân đức, sự khôn ngoan bao hàm ba giai đoạn chung sức tinh thần: tự mình suy nghĩ chín chắn và hỏi ý kiến người khác; phán đoán chính xác dựa trên nền tảng bằng chứng gần ngay; và điều khiển phần còn lại của sinh hoạt mình theo những tiêu chí được đề ra sau khi đã có được một phán đoán khôn ngoan.

5. THÁNH GIU-SE YÊU MẾN ĐỨC GIÊ-SU VÀ MẸ MA-RI-A

Thánh Giu-se xứng đáng sự ca ngợi của chúng ta vì những nhân đức khác của Ngài, nhưng Ngài đáng được noi gương bắt chước đặc biệt về tình yêu mến của Ngài đối với Đức Giê-su và Mẹ Ma-ri-a.

Ngài được đặ vào giữa cuộc đời của Đức Giê-su và Mẹ Ma-ri-a bằng một sự Quan Phòng vô cùng sáng suốt và sống theo những mong đợi của Thiên Chúa bằng việc chú tâm chăm sóc Đức Giê-su và Mẹ Ma-ri-a hết tình. Điều đáng nhấn mạnh nhất không hẳn là việc Đức Giê-su và Mẹ Ma-ri-a sống cận kề bên Thánh Giu-se về thể lý. Ngài cùng ở với họ ngày này sang ngày khác trong nhiều năm. Nhưng chủ yếu là Thánh Giu-se đã đem tình yêu của Ngài vào cuộc sống, để làm việc. Ngài sống vho tình yêu và vì tình yêu.

 Đó là bí mật của tình yêu đích thực. Chúng ta thật lòng dân hiến cho Đức Giê-su và Mẹ Người khi chúng ta làm những gì các Ngài muốn chúng ta làm. Và đó là điều gì ? – Đó là thấy sự quan phìng của Thiên Chúa trong tất cả mọi sự đi vào cuộc sống của chúng ta.

Những sự thất vọng và thất bại. Các sự việc thay đổi đột ngột ngoài ý muốn. Những chậm trễ gây bực bội. Những đòi hỏi không mong muốn. Cách cư xử lạ lùng của một số người. Sự im lặng bí ẩn của thiên chúa, đấng thường che dấu mục đích người có và nói với chúng ta, qua người khác, điều người muốn ta làm.

Thánh Giu-se hẳn nhiên đáng cho ta học hỏi và kêu cầu giúp chúng ta yêu Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a, như Ngài đã yêu các Đấng:

Lạy Thánh Giu-se là cha nuôi Chúa Giê-su và là Đấng bảo vệ Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. xin hãy dạy chúng con bài học khó nhọc nhất mà chúng con phải học trong suốt cuộc đời; yêu như Thánh Nhân đã yêu, với hết tâm tình thiết tha. Xin hãy dạy chúng con hiểu được Đức Mẹ muốn chỉ dạy chúng con điều gì, khi Người nói:”xin hãy làm cho tôi theo như ý Ngài” và hiểu được Chúa Giê-su muốn dạy gì khi Ngài nói” nếu các con yêu mến Thầy, các con hãy giữ các giới răn của Thầy”

JOHN A. HARDON, SJ, trích TRANG LIÊN LẠC CVK số 72

------------------------------

 

01/05-9: Con đường đời sống


01.05.2010 13:59

 

Các triết gia suy nghĩ đời sống con người khác nào như một cái chai rỗng. Và trong suốt dọc đời 01/05-9


Các triết gia suy nghĩ đời sống con người khác nào như một cái chai rỗng. Và trong suốt dọc đời sống cái chai đời sống được đổ đầy bằng sự giáo dục dậy dỗ từ gia đình do cha mẹ, bằng kiến thức học hỏi ở trường học, bằng kinh nghiệm sống trải qua nơi trường đời, bằng cảm nghiệm suy tư về sự an ủi bình yên tìm thấy nơi niềm tin tôn giáo.
 
Những điều này giúp cái chai đời sống con người dần dần đầy . Lẽ tất nhiên có sự gạn lọc lựa chọn cái hay điều tốt, điều thích hợp, điều mình ưa thích, tùy theo tâm tính khả năng mỗi người đã được Trời cao khắc ghi phú bẩm ban cho cùng hoàn cảnh nghề nghiệp và nền văn hóa nơi sinh sống.
 
Cái chai đời sống càng chứa đựng nhiều điều hay, điều tốt lành, việc hữu ích, kiến thức văn hóa tình người cao đẹp, càng trong sáng và càng có gía trị.
 
Cũng có suy nghĩ cho rằng đời sống con người là một con đường dài. Độ dài ngắn bao nhiêu không ai biết trước được. Và chúng ta xưa nay đo con đường đời sống bằng tuổi thời gian sống ở đời.
 
Điều này đúng. Nhưng con đường đời sống con người không chỉ đơn giản đo được bằng con số đếm theo thời gian năm tháng sống trải qua, mà còn phải đo kể đến phần đời sống tinh thần ẩn sâu trong mỗi con người nữa.
 
Con đường đời sống phần này mới góp phần làm nên gía trị đường đời sống mỗi người.
 
Con đường đời sống phần này tuy không lấy thước gì đo được độ dài ngắn, cao sâu viết ra con số. Nhưng từ trong tâm hồn tỏa ra nét phản chiếu nơi khuôn mặt, nơi ánh mắt, nơi lời nói, qua cử chỉ những gì diễn ra trong thâm tâm suy nghĩ mỗi người, mà người đối diện cảm nhận ra được.
 
Con đường đời sống của cha mẹ chúng ta không chỉ là những năm tháng ngày giờ đếm được bằng tuổi thời gian sống thọ. Nhưng kết dệt bằng những hy sinh dấn thân cho gia đình con cháu hôm qua, hôm nay và ngày mai.
 
Con đường đời sống của vợ chồng từ lúc thành hôn với nhau cho đến ngày tận cùng, cũng không chỉ là những năm tháng ngày giờ sống chung bên nhau. Nhưng là tình yêu họ trao cho nhau, cùng nhau chịu đựng xây dựng mái ấm gia đình chung.
 
Con đường đời sống của một em bé, của một bạn trẻ thanh thiếu niên không chỉ là thời gian phát triển lớn lên đếm được. Nhưng là niềm vui, niềm hy vọng hồn nhiên như đóa hoa tươi họ mang đến cho đời sống cha mẹ, cho gia đình xã hội.
 
Con đường đời sống của một người lăn lộn làm ăn sinh sống trong trường đời không chỉ là những năm những tuần lễ làm việc lao động hay những gì nổi bật chói sáng. Nhưng là sự trung thành với việc làm, những hy sinh âm thầm, những suy nghĩ sáng kiến làm sao giúp đời sống cho tốt đẹp hơn.
 
Con đường đời sống của những người chọn nếp sống tu trì trong Giáo Hội không phải chỉ đơn thuần là những năm tháng tuổi đời trong bậc tu trì dài ngắn nhiều ít. Nhưng là nếp sống dấn thân phục vụ trong đời sống bậc tu trì.
 
Không dám qủa quyết có tích cách tiêu cực, con đường đời sống tựa như một trường chiến đấu đòi hỏi nhiều hy sinh vác thánh gía. Nhưng trong mọi giai đoạn con đường đời sống luôn đòi hỏi lòng kiên tâm.
 
Thánh Giuse, là cha nuôi Chúa Giêsu, là người theo Kinh Thánh thuật lại đã sống trải qua con đường đời sống không để lại dấu vết những năm thánh tuổi thọ bao nhiêu. Nhưng với nhiều thử thách khó khăn cùng kiên nhẫn chịu đựng.
 
Dẫu vậy Thánh Giuse vẫn một lòng trung thành với gia đình. Và ngày nay Giáo Hội ca ngợi gía trị con đường đời sống của Thánh nhân, như trong kinh cầu Thánh Giuse có câu: „ Ông Thánh Giuse là đấng kiên tâm mạnh mẽ mọi đàng.“   
 
Con người chúng ta, và có khi cả Thánh Giuse cùng các bậc Thánh nhân khác nữa, trên con đường đời sống không phải lúc nào cũng giữ một mực lòng kiên tâm như mình mong muốn. Trái lại có nhiều khi mệt mỏi, nản chí thất vọng, không vừa ý than trách kêu ca, hồ nghi không chỉ người khác, mà cả Giáo Hội và Thiên Chúa nữa, hay muốn buông xuôi không chừng...
 
Những lúc gặp hoàn cảnh như thế, lời Thiên Chúa nhắn nhủ qua môi miệng Thánh Tiên tri Isaia viết để lại khác nào như ly nước mía lúc trời nắng nóng bức, giúp tâm trí tìm lại sự thanh thản quân bình:
 
"Đường tôi đi, ĐỨC CHÚA không nhìn thấy,
quyền lợi của tôi, Thiên Chúa chẳng đoái hoài? "

Ngươi chẳng biết, chẳng nghe thấy sao?

ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa vĩnh cửu,là Đấng sáng tạo toàn cõi đất.
Người không mệt mỏi, chẳng nhọc nhằn, trí thông minh của Người khôn dò thấu.
Người ban sức mạnh cho ai mệt mỏi,
kẻ kiệt lực, Người làm cho nên cường tráng.
Thanh niên thì mệt mỏi, nhọc nhằn,trai tráng cũng ngả nghiêng, lảo đảo.
Nhưng những người cậy trông ĐỨC CHÚA thì được thêm sức mạnh.
Như thể chim bằng, họ tung cánh.
Họ chạy hoài mà không mỏi mệt, và đi mãi mà chẳng chùn chân.“ ( Isia 40, 27-31)

 Lễ kính Thánh Giuse thợ 01.05.2010

------------------------------

 

01/05-10: THÁNH GIUSE, CON NGƯỜI KHÔN NGOAN

 

Tại Việt Nam, thánh Giuse được tôn kính đều khắp. Nơi thì đề cao ở Ngài vai trò gia trưởng. Chỗ thì: 01/05-10


Tại Việt Nam, thánh Giuse được tôn kính đều khắp. Nơi thì đề cao ở Ngài vai trò gia trưởng. Chỗ thì nhấn mạnh nơi Ngài chức vị Đấng bảo vệ Hội Thánh.

Dù với xu hướng nào, hầu như mọi người tôn sùng thánh Giuse đều nhìn Ngài là một Đấng thánh khôn ngoan. Khôn ngoan trong việc bảo vệ thánh gia. Khôn ngoan trong việc bảo vệ Hội Thánh.

Khôn ngoan nói đây là thứ khôn ngoan được ca ngợi trong sách Khôn Ngoan của Cựu Ước. Khôn ngoan đó cũng được Chúa Giêsu khuyên nhủ và khen thưởng nhiều lần trong Tân Ước.

Ở đây, suy gẫm của tôi về sự khôn ngoan nơi thánh Giuse sẽ để ý đến ba lãnh vực, mà sự khôn ngoan của Ngài được sáng tỏ :

- Khôn ngoan của nghề nghiệp.
- Khôn ngoan của Lời Chúa.
- Khôn ngoan của chiêm niệm

1/ Khôn ngoan của nghề nghiệp

Trước hết, thánh Giuse được Kinh Thánh giới thiệu là ông thợ mộc. Dân làng gọi Ngài bằng tên một người có nghề.

Có một nghề, đó là một danh dự. Kẻ được thụ hưởng, mà không có nghề, vẫn không được kính trọng.

Nghề mộc có nhiều liên hệ tốt. Như liên hệ trực tiếp với thiên nhiên. Cây gỗ là một chất liệu của thiên nhiên. Thiên nhiên có trước nghề mộc. Người thợ mộc đẽo gọt nó thành dụng cụ, để phục vụ con người.

Khi phục vụ con người bằng nghề mộc, người ta có những liên hệ trực tiếp với đủ loại người. Những liên hệ đó không chỉ trong vấn đề tiền công, mà còn trong những lãnh vực đòi thăng tiến nghề nghiệp : Làm sao sản phẩm của mình có những tiến tới về sáng tạo, về mỹ thuật. Nó chứng tỏ phần nào óc thông minh và ý chí.

Từ những liên hệ trực tiếp với con người, thánh Giuse đã có những liên hệ về cuộc đời. Những cuộc đời khát vọng và thất vọng. Những cuộc đời nụ cười và nước mắt.

Thánh Giuse coi mình cũng như mọi người. Ngài hòa mình vào cuộc đời. Ngài ở giữa mọi người, kiếm sống như mọi người. Họ và Ngài có những liên hệ quen thân.

Từ những kinh nghiệm đó, thánh Giuse rút ra sự khôn ngoan cần thiết, để nuôi dưỡng và bảo vệ thánh gia. Những liên hệ thân thương hài hòa sẽ bảo vệ thánh gia một cách có hiệu quả.

2/ Khôn ngoan của Lời Chúa

Khi nhận được lời thiên thần báo mộng, thánh Giuse hiểu đó là ý Chúa. Chúa muốn trao cho Ngài một nhiệm vụ hết sức quan trọng. Nhiệm vụ đó là bảo vệ Đức Maria và Hài nhi Giêsu.

Mặc dù sự việc coi như có phần nghịch lý, nhưng thánh Giuse vẫn vâng phục. Ngài giữ luật đời, luật đạo, và vâng phục kế hoạch Chúa trao cho Ngài.

Ngài tin chắc Lời Chúa là con đường phải đi.

Sức mạnh xây dựng niềm tin nơi Ngài là ơn thiêng của Chúa Thánh Thần. Ơn thiêng ấy tác động từ bên trong tâm hồn, đi đôi với báo mộng, Ngài đón nhận như ơn gọi, một ơn gọi chỉ dành riêng cho Ngài.

Ngài sống ơn gọi đó một cách khiêm nhường. Khiêm nhường nên giữ kín. Khiêm nhường nên vẫn khó nghèo. Khiêm nhường là môi trường cho ơn gọi của Ngài được phát triển. Phát triển một cách sâu rộng, từ ý thức, đến tiềm thức, vô thức.

Nếu ồn ào, phô trương, Ngài sẽ không bảo vệ được thánh gia.

Chính vì Lời Chúa được đón nhận và thực hiện một cách khiêm nhường, mà thánh Giuse có được sự khôn ngoan. Sau này thánh Phaolô tông đồ gọi đó là sự khôn ngoan của thánh giá. Chính sự khôn ngoan này đã giúp thánh Giuse bảo vệ Đức Mẹ và Chúa Giêsu một cách rất hiệu quả qua biết bao thử thách.

3/ Khôn ngoan của chiêm niệm

Ngôi Hai xuống thế làm người, đó là một sự kiện. Sự kiện cao cả đó đã được Ngài nhìn thấy và chạm tới. Sự kiện ấy không xuất hiện như một sự kiện, nhưng như là một mầu nhiệm. Thánh Giuse chiêm niệm mầu nhiệm ấy, một mầu nhiệm luôn sống động bên Ngài.

Chiêm niệm đã cho Ngài khám phá thấy sự tự hạ lạ lùng của Đấng Cứu thế.

 Thánh Phaolô viết : “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).

Khám phá trên đây của thánh Phaolô đã là chứng kiến của thánh Giuse. Nếu tìm lý do tại sao Chúa Giêsu đã có một chọn lựa tự hạ như vậy, thì câu trả lời vẫn là : mầu nhiệm của tình yêu Chúa.

Một tình yêu dùng sự tự hạ và thánh giá, để chiến thắng tội lỗi và xây dựng Nước Trời là nước tình yêu.

Một tình yêu đơn sơ và thiết thực, để đưa người ta đi vào cuộc sống thân mật của Chúa giàu lòng thương xót.

Một khi đã được nếm sự ngọt ngào của mầu nhiệm tình yêu Chúa, thánh Giuse chỉ còn biết đi sâu vào thân phận nghèo khó, bé mọn. Ý nguyện đó được Chúa thực hiện qua đời sống kín đáo và cái chết thầm lặng của thánh Giuse. Như thế là để tập trung vào điểm chính là Đức Giêsu Kitô. Đó là sự khôn ngoan của đời chiêm niệm.

Suy gẫm trên đây khiến tôi khát khao sự khôn ngoan của thánh Giuse. Khát khao có nghĩa là chưa có. Khát khao cũng có nghĩa là đi tìm.

Tôi chưa có, nên tôi đi tìm. Trên đường đi tìm, tôi luôn cầu nguyện cho tôi gặp được thánh Giuse. Tôi tin Ngài thương tôi, bây giờ và suốt đời. Sao cho suốt đời tôi luôn được chia sẻ phần nào sự khôn ngoan, mà Chúa đã ban cho Ngài.

Chúng ta cần rất nhiều khôn ngoan để có thể bảo vệ Hội Thánh, nhất là trong những tình thế phức tạp.

------------------------------

 

01/05-11: LỄ THÁNH GIUSE THỢ 1/5

 

Lễ Thánh Giuse thợ được Đức cố Giáo Hoàng Piô XII thiết lập năm 1955 và được mừng vào ngày 1: 01/05-11


Lễ Thánh Giuse thợ được Đức cố Giáo Hoàng Piô XII thiết lập năm 1955 và được mừng vào ngày 1 tháng 5. Đây cũng là ngày Quốc tế lao động trên toàn thế giới. Ngày trân trọng các giá trị nhân bản và siêu nhiên của công việc.

Trong sách Sáng thế, Thiên Chúa được mô tả như một nghệ nhân miệt mài với công việc tạo thành vũ trụ và con người. Từ ngày thứ nhất cho tới ngày thứ sáu, Thiên Chúa làm việc liên lỉ, và Ngài đã hoàn thành mọi sự một cách tốt đẹp. Trong công trình sáng tạo, con người là trọng tâm của tạo thành. Thiên Chúa cho con người làm quản lý các công trình Ngài đã dựng nên. Thiên Chúa muốn con người làm chủ và hòan thành kế hoạch tình thương của Ngài: ”Ta hãy làm ra người theo hình ảnh Ta, như họa ảnh của Ta. Chúng hãy trị trên cá biển và chim trời, và trên súc vật và mọi loài mãnh thú và mọi thứ côn trùng nhung nhúc trên đất” ( St 1, 26). Như vậy, lao động bắt nguồn từ lệnh truyền của Thiên Chúa, con người phải mồ hôi đẫm mặt, mới có bánh ăn (St 3, 19). Thánh Giuse, người thợ mộc làng quê Nazareth đã sống cuộc đời bình dị bằng mồ hôi và công sức của mình, điều đó giúp chúng ta hiểu được giá trị và sự cao cả của lao động. Từ Hy Lạp Tectôn được dịch là “thợ mộc”, gán cho Giuse (x. Mt 13,55). Với truyền thống của gia đình, chắc hẳn Đức Giêsu cũng được hướng dẫn để làm nghề này, một nghề ”cha truyền con nối”. Sách Talmud đã chép: ”Kẻ nào không dạy nghề tay chân cho con mình, kẻ

Nội san Huynh đệ Phan sinh - Dòng Phan sinh tại thế - Việt Nam

HĐPS số 270 Tháng 5.2016 Trang 8 của 40

đó như thể cướp mất sự nghiệp sinh tồn của con cái”. Tin mừng Marcô ghi rằng: ”Đức Giêsu không phải là bác thợ, con bà Maria sao?” (Mc 6,3). Kinh thánh không nói nhiều về Thánh Giuse, thế nhưng với nghề thợ mộc, Thánh nhân đã hoàn thiện gia đình Thánh gia, một mẫu gương tuyệt vời cho các gia đình. Con người từ cổ chí kim, luôn coi trọng lao động, bất cứ ở dưới hình thức nào: Lao động chân tay, hay lao động trí óc, giá trị của chúng đều như nhau. Đức Giêsu dạy cho con người chăm chỉ làm việc, Ngài bắt chước Cha: ”Cha Ta làm việc liên lỉ Ta cũng vậy” (Ga,17).Trong các dụ ngôn về nước Trời, Đức Giêsu luôn nói về lao động: dụ ngôn người Mục tử (Ga,1-16); người nông dân (Mc 12, 1-12) người gieo giống (Mc 4, 1-9)… Thánh Phaolô làm nghề may lều, và Ngài tự hào về nghề này, vừa có thể làm tông đồ, vừa có thể phục vụ cho vấn đề mưu sinh:” Ngày đêm chúng tôi làm việc vất vả lam lũ, để không phải phiền tóai đến ai trong anh em”(2Tx 3,8). Thánh Phaolô còn nhấn mạnh rằng:” Hễ ai không muốn làm việc thì đừng có ăn” (2Tx 3,10).

Công đồng Vaticanô II dạy rằng:” Đối với các tín hữu, chắc chắn sinh hoạt cá nhân cũng như tập thể của nhân lọai, hoặc nỗ lực vĩ đại của con người vất vả qua các thế kỷ nhằm cải thiện hòan cảnh sinh sống, tự nó vốn phù hợp với ý định của Thiên Chúa. Thật vậy con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, nên đã nhận mệnh lệnh chinh phục trái đất cùng tất cả những gì chứa đựng trong đó, cai quản vũ trụ trong công bình và thánh thiện, và khi nhận Thiên Chúa là Đấng tạo dựng muôn loài, họ quy hướng chính bản thân mình cũng như vũ trụ về Ngài. Như thế khi con người chinh phục tất cả thì danh Chúa được tôn vinh khắp địa cầu” (GS, 34).

Nguyễn văn Quyền

---------------------------------

 

01/05-12: Đức Giêsu về quê


--Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Suy niệm:

 

Sau khi đã chịu phép Rửa, vào hoang địa để cầu nguyện, ăn chay, có một ngày nào đó, Đức Giêsu 01/05-12


Sau khi đã chịu phép Rửa, vào hoang địa để cầu nguyện, ăn chay,
có một ngày nào đó, Đức Giêsu chia tay Đức Mẹ để lên đường.
Lên đường là bỏ lại ngôi làng Nazareth dấu yêu với bao kỷ niệm.
Chính tại đây Ngài đã sống hơn ba mươi năm trong bầu khí gia đình.
Chính tại nơi này, Ngài đã lớn lên quân bình về thân xác, trí tuệ, tâm linh.
Nazareth như một ngôi trường lớn, chuẩn bị cho Ngài chững chạc đi sứ vụ.
Tại đây, Đức Giêsu đã là con bác thợ Giuse (c. 55),
và đã trở thành thợ theo truyền thống cha truyền con nối.
Ngài đã được dạy nghề và hành nghề để kiếm sống cho bản thân và gia đình.
Đức Giêsu là một người thợ tại Nazareth, phục vụ cho nhu cầu dân làng.
Ngài biết đến cái vất vả của công việc chân tay nặng nhọc.
Đức Giêsu không thuộc giới trí thức, thượng lưu, quyền quý.
Lao động làm Ngài gần với người nghèo và thấy sự đơn sơ của tâm hồn họ.
Cũng tại Nazareth, đời sống cầu nguyện của Đức Giêsu được nuôi dưỡng.
Ngài học được lối cầu nguyện một mình ở nơi vắng vẻ.
Đức Giêsu có khả năng thấy sự hiện diện yêu thương của Cha nơi mọi sự,
nơi một bông hoa, nơi chim trời, nơi ánh nắng và cơn mưa.
Tình thân của Con đối với Cha ngày càng trở nên sâu đậm.
Ngài tìm ý Cha mỗi lúc và để Cha chi phối trọn vẹn đời mình.
Hôm nay Đức Giêsu trở về làng cũ sau một thời gian đi sứ vụ.
Ngài vào lại hội đường quen thuộc, gặp lại những khuôn mặt đồng hương.
Không rõ trước đây có lần nào bác thợ Giêsu được mời giảng ở đây chưa.
Nhưng lần này, khi trở về với tiếng tăm từ những phép lạ làm ở nơi khác,
Đức Giêsu đã khiến dân làng sửng sốt vì sự khôn ngoan trong lời giảng dạy.
Hai lần họ đặt câu hỏi: Bởi đâu ông ta được như thế? (cc. 54. 56).
Một câu hỏi rất hay, nếu được tìm hiểu một cách nghiêm túc.
Câu hỏi này có thể đưa họ đi rất xa, để gặp được căn tính của Đức Giêsu.
Tiếc thay, dân làng Nazareth lại không quên được nghề nghiệp của cha Ngài.
Họ nhớ rất rõ họ hàng gần xa của Ngài là mẹ và các anh chị.
Họ có thể kể tên từng anh chị em của Ngài, vì đều là bà con lối xóm (c. 55).
Đức Giêsu là người mà họ biết quá rõ từ thuở ấu thơ.
Làm sao con người bình thường, ít học đó lại có thể là một vị ngôn sứ?
Làm sao từ ngôi làng Nazareth vô danh này lại xuất hiện ngôn sứ được?
Và họ vấp ngã vì Đức Giêsu, nghĩa là họ đã không tin vào Ngài.
Cái biết gần gũi của họ về Ngài lại trở nên thành kiến
khiến họ không thể tiến sâu hơn vào mầu nhiệm con người Đức Giêsu.
Người đồng hương của Ngài đã không trả lời được câu hỏi: Bởi đâu…?
Mỗi con người là một mầu nhiệm mà ta phải khám phá mãi.
Có những mầu nhiệm lớn ẩn trong lớp áo tầm thường.
Dân làng Nazareth đã không nhận ra hồng phúc mà họ đang hưởng.
Chúng ta cũng cần được giải thoát khỏi những cái biết hẹp hòi,
để thấy mình hạnh phúc khi sống với người khác gần bên.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
 
---------------------------------

 

01/05-12: Thánh Giuse Thợ


--Mt 13,54-58

--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

 

Không ai được tôn trọng ở quê….. Đây chính là câu nói nổi tiếng của Chúa Giêsu và có tính 01/05-12


“Không ai được tôn trọng ở quê hương của mình”. Đây chính là câu nói nổi tiếng của Chúa Giêsu và có tính cách tiên tri. Thật vậy, trải qua biết bao thế hệ, từ những bậc tiền nhân đến chúng ta, hẳn mọi người đều biết hay đã cảm nghiệm được tính tiên tri của Chúa Giêsu qua câu nói trên hoàn toàn ứng nghiệm.

Chúa Giêsu trở về quê hương của Ngài là Nazareth, nhưng dân chúng tại đây không tin nhận Chúa, bởi vì họ suy tưởng và hành động theo thói quen, theo thành kiến. Họ đã quen với Chúa Giêsu như là con bác thợ mộc Giuse sống giữa họ từ bao năm nay, do đó giờ đây phải nhìn Chúa và đón nhận giáo huấn của Ngài với một tâm thức mới thì họ bị vấp phạm. Quả thật, như lời cụ già Simêon đã nói trong biến cố dâng Chúa vào Đền thánh: Chúa Giêsu luôn luôn là dấu gợi lên chống đối; trực diện với Ngài, con người phải chọn lựa hoặc tin nhận hoặc từ chối.

Tin mừng thuật lại việc Chúa Giêsu về giảng tại quê hương của mình cũng làm dấy lên những thông tin trái chiều về Ngài. Những người đồng hương Nazareth có lẽ đã nghe đồn thổi về Ngài và càng ngạc nhiên hơn khi nghe chính Ngài phát biểu trong Hội đường của họ. Những thành tích về sự khôn ngoan và phép lạ Ngài làm đã dấy lên trong họ câu hỏi: “Phải chăng Ngài không phải là Đấng Cứu Tinh mà Thiên Chúa đã hứa cho dân tộc?” Và họ bắt đầu tra cứu với một phương pháp rất khoa học: họ mở Kinh thánh ra và thấy rằng Đấng Cứu Tinh xuất thân từ một nơi khác, chứ không phải từ ngôi làng nghèo nàn tăm tối như Nazareth. Họ điều tra về nguồn gốc Chúa Giêsu và thấy rằng: cha mẹ và anh em Ngài đều là những người nghèo hèn mà họ biết rõ ngọn nguồn. Với lối suy luận và lý luận rất khoa học ấy, những người đồng hương với Chúa Giêsu đã khước từ Ngài. Nguồn gốc tăm tối của Chúa Giêsu đã là mạng chắn khiến họ không tin nhận nơi Ngài (Mỗi ngày một tin vui).

Thành kiến được định nghĩa là một suy nghĩ, một cái nhìn khó thay đổi về việc gì đó. Khăng khăng bảo vệ quan điểm của mình “như đúng rồi” lại còn úp lên đó cái khung cứng nhắc của cảm tính, người thành kiến sẽ không thể nhìn người khác như họ là, mà trái lại sẽ đánh giá theo kiểu: “Thương nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau quả bồ hòn cũng méo”. Chẳng những thế, người thành kiến lại thích đeo cặp kính đen để chỉ nhìn thấy phương diện xấu xa, bi quan, tiêu cực của sự việc. Những người đồng hương đương thời với Đức Giêsu đã nhìn Người với đôi mắt thành kiến như thế. Đối với họ thì gà thì đẻ ra gà, chứ không thể đẻ ra công được. Với cái nhìn thành kiến, họ không thể nào nhận ra Đức Giêsu mà họ vẫn tưởng là con bác thợ mộc Giuse lại là Con Thiên Chúa được (5 phút Lời Chúa).

---------------------------------

 

01/05-13:  Thánh Giuse Lao động


--Lm. Giuse Đinh Tất Quý

 

Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng lễ kính Thánh Giuse Lao động. Sở dĩ có Thánh lễ 01/05-13


Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng lễ kính Thánh Giuse Lao động.

Sở dĩ có Thánh lễ hôm nay là vì Giáo Hội muốn cho chúng ta ý thức được giá trị cao quí của lao động trong đời sống của mỗi người chúng ta.

Quả vậy, lao động có những giá trị to lớn nhưng nhiều khi chúng ta không nhìn ra.

Công Đồng Vaticanô II trong Hiến chế “Vui Mừng và Hy Vọng” đã có những lời lẽ rất hay về vấn đề này: “Thực vậy, được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, con người đã nhận mệnh lệnh chinh phục trái đất cùng tất cả những gì chứa đựng trong đó, cai quản vũ trụ trong công bình và thánh thiện và khi nhìn nhận Thiên Chúa là Ðấng tạo dựng mọi loài, họ qui hướng về Người chính bản thân mình cũng như muôn vật: Như thế, khi con người chinh phục tất cả thì danh Chúa được tôn vinh khắp địa cầu. Những điều nhận định trên đây cũng ứng dụng được nơi những công việc hoàn toàn thường nhật. Thực vậy, trong khi mưu sinh cho mình và cho gia đình, tất cả những người nam cũng như nữ hoạt động để phục vụ xã hội một cách hữu hiệu đều có lý để tin rằng nhờ lao công của mình, họ tiếp nối công trình của Ðấng Tạo Hóa, phụng sự anh em, đóng góp công lao mình vào việc hoàn thành ý định của Thiên Chúa trong lịch sử”.(Chương III số 34)

1. Lao động làm cho con người tìm được niềm vui và ý nghĩa cho cuộc sống mình.

Vào thời Trung cổ, có một tín hữu Kitô nọ muốn thực hiện một cuộc hành hương.

Sau vài ngày đi bộ, người đó bị lạc vào trong một khu rừng vắng. Tuy là khu rừng vắng nhưng hai bên đường, người ta cũng thấy có những người thợ đá đang cố gắng đục đẽo và vác trên vai từng tảng đá lớn đem về. Người khách hành hương mon men đến gần một người thợ, mồ hôi đang chảy ra nhễ nhãi và muốn gợi chuyện, nhưng người thợ đập đá ấy chỉ trả lời một cách nhát gừng:

- Ông không thấy tôi đang lao động một cách vất vả sao mà cứ hỏi hoài vậy?

Người khách hành hương tìm đến người thứ hai, người này còn có dáng vẻ nặng nhọc hơn. Được hỏi đang tham gia vào công trình xây dựng nào, người thợ này chỉ trả lời:

- Người ta thuê tôi làm việc, tôi chỉ biết rằng từ sáng sớm đến chiều tà, tôi đổ mồ hôi xôi con mắt ra là để kiếm cơm bánh cho vợ con tôi thôi, còn xây dựng gì thì tôi không cần biết.

Trong thinh lặng, người khách hành hương lại tiếp tục cuộc hành trình. Lên đến đỉnh đồi ông lại gặp một người thợ đập đá khác. Người này cũng có dáng vẻ mệt nhọc tiều tụy không kém 2 người trước, nhưng nhìn kỹ trong ánh mắt của người thợ đập đá này, người khách hành hương thấy toát lên một sự thanh thản và nhẫn nhục lạ thường. Đến gần người khách hành huơng lên tiến hỏi:

- Ông đang làm gì đó?

Người đàn ông mỉm cười và vui vẻ đáp:

- Ông không biết à, tôi đang góp công xây dựng một ngôi thánh đường

Và người thợ đập đá đưa tay chỉ xuống một thung lũng, nơi đó, người khách hành hương nhận ra một ngọn tháp cao và từng viên đá được xếp lại ngay ngắn để làm nên bốn bức tường của một ngôi thánh đường.

Vâng! Cùng một công việc nhưng người ta đã không có được một cái nhìn giống nhau về mục đích của nó. Và chính vì thế mà cuộc sống của con người khác nhau: Người thì được hạnh phúc, kẻ thì phải đau khổ. Hãy cố mà tìm ra cho cuộc đời của mình một ý nghĩa qua những công việc hằng ngày để từ đó chúng ta có thể có được thật nhiều niềm vui!

2. Lao động còn giúp con người sống tình liên đới một cách tốt đẹp hơn.

Trong suốt mùa hè năm ấy, tôi có dịp quan sát một bé trai khoảng 12 tuổi, mỗi buổi sáng vào lúc 7 giờ, đến làng bên cạnh là địa phương chúng tôi để giao bánh mì. Đây là một em bé linh động, luôn vui vẻ và đúng giờ như một chiếc đồng hồ. Em dừng lại trước cửa những nhà giàu có muốn có bánh mì ăn sáng và sau đó lại vội vã đạp xe trở về nhà.

 Ngày nọ, tôi có một cuộc đối thoại lý thú với em bé này như sau:

- Mỗi buổi sáng em phải dậy sớm, vậy em tự mình dậy hay phải có ai thức em dậy?

- Má em! Má em đánh thức tất cả mọi người trong nhà, trước hết là em. Kế đó, má cho em ăn sáng và em ra đi. Sau đó, má đánh thức ba dậy, dọn xúp cho ba ăn trước khi ba đi làm. Rồi lại đến giờ đánh thức mấy đứa em của em dậy đi học. Xong xuôi tất cả thì má lo cho đứa út, cho nó uống sữa và cuối cùng mẹ tự dùng sáng.

Mỗi chuyến giao hàng buổi sáng em được người ta trả cho bao nhiêu?

- Mỗi tuần 20 quan. Em có 10 khách hàng.
- Thế ba em lãnh một ngày được bao nhiêu?
- 30 quan, em nghĩ vậy.
- Còn má em, má em nhận được bao nhiêu?
- Má em ư? - em bé nhìn tôi lộ vẻ kinh ngạc-. Nhưng má làm việc không vì gì cả cơ mà!

Vâng! Công việc làm là phương cách hữu hiệu nối kết con người lại với nhau trong tình tương thân tương ái và nhờ đó họ có thể cảm nghiệm được tình đoàn kết với nhau một cách cụ thể hơn.

Chúa đã tạo dựng nên mỗi người một cách độc đáo không ai giống ai. Chẳng có ai là hoàn toàn trên trần gian này. Chúa tạo dựng nên mỗi người trong hạn hẹp bất toàn như vậy là để cho con người biết quý trọng nhau, biết hợp tác với nhau để nhờ đó mà cuộc sống của con người được tốt đẹp hơn.

3. Lao động là con đường làm cho con người trở nên xứng đáng làm người hơn.

Sau khi tạo dựng nên con người trong vườn địa đàng, Thiên Chúa trao cho con người trách nhiệm trông coi công trình sáng tạo của Thiên Chúa.

Chúa Giêsu đã từng nói: “Cha Ta và Ta hằng làm việc và làm việc không ngừng” (Ga 5,17).

Thiên Chúa vẫn hằng làm việc. Như vậy khi ta làm việc là ta cộng tác với Thiên Chúa để làm cho trái đất này mỗi ngày mỗi đẹp hơn và cũng làm cho cuộc đời của ta giống Chúa hơn. “Cha ta và ta hằng làm việc và làm việc không ngừng”.

Thiền sư Trung Hoa Hyakyjo thường làm việc với các đệ tử, mặc dù ông đã 80 tuổi. Ông thường nhổ cỏ trong vườn, quét sân, hái củi. Các đệ tử của ông cảm thấy buồn vì ông thầy già của họ làm việc cực nhọc, không chịu nghỉ ngơi theo lời họ khuyên. Vì thế, một lần kia họ đem giấu hết dụng cụ làm việc của thầy Hyakyjo. Ngày hôm đó, thầy Hyakyjo không chịu dùng bữa. Ngày hôm sau, rồi hôm sau nữa, ông thầy già cũng không ăn. Các đệ tử đoán: “Chắc bởi vì tụi mình dấu đồ làm việc của thầy chứ gì? Thôi, tốt hơn là đem trả lại chỗ cũ cho thầy”.

Thế rồi, ngày họ làm việc, ông thầy già cũng làm và dùng bữa như trước. Chiều đến, Hyakyjo dạy họ: “Không làm, không ăn!”.

Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.

--------------------------------

 

01/05-14: Thánh Giuse là mẫu mực các kẻ làm ăn


--Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên

 

Ngày xưa, có một ông vua muốn thử xem thần dân của mình ra sao, ông bèn tổ chức một cuộc 01/05-14


Ngày xưa, có một ông vua muốn thử xem thần dân của mình ra sao, ông bèn tổ chức một cuộc vi hành. Ông lén đặt một tảng đá thật to giữa một con đường nhiều người qua lại, không phải để bắt buộc người dân phải bê nó đi, mà muốn xem người dân sẽ phản ứng tự nhiên ra sao với những vật gây cản trở mà họ bất ngờ gặp trên đường.

Sau khi đặt tảng đá, ông nấp vào một chỗ gần đó để quan sát. Nhiều người trông rất giàu có và lịch sự, ăn mặc áo lượt quần là đi qua. Họ than phiền với nhau rằng tảng đá làm nghẽn đường đi, coi nó là một vât đáng ghét. Thậm chí còn xúc phạm Đức Vua đã không cho người giữ đường xá sạch sẽ. Nhưng có một điểm chung là: chẳng ai đoái hoài gì đến tảng đá đó, họ thà đi vòng chứ không chịu đẩy nó ra vệ đường.

Tình cờ một bác nông dân nghèo đi chợ về ngang với một giỏ đầy rau. Nhìn thấy tảng đá, bác đặt giỏ của mình xuống và cố đầy tảng đá đi. Nhiều người đi qua thấy vậy, cười giễu bác là nhiễu sự. Nhưng chẳng một ai dừng lại giúp đỡ bác.

Sau nhiều nỗ lực, cuối cùng bác nông dân cũng thành công. Khi đẩy tảng đá đi được, bác mới phát hiện có một cái túi nằm trên mặt đường, ở chổ mà lúc nãy tảng đá nằm. Bác mở cái túi thì thấy có rất nhiều tiền. Lúc bấy giờ bác đã hiểu được một điều mà nhiều người khác không hiểu: Sau mỗi trở ngại, đều ẩn chứa những cơ hội cho mỗi con người.

***

Chúng ta biết rằng, vào năm 1955, ĐGH Piô XII đã long trọng đặt thánh Giuse là Đấng Bảo trợ cho những người lao động trên khắp thế giới.

Thông thường, người ta hay gán cho những người quyền thế một tước vị cao sang đi kèm theo… thế nhưng ở đây, ĐGH lại đặt Thánh Giuse làm đấng bảo trợ những người lao động chân tay - một tước vị xem ra, có vẻ bình thường, thế nhưng lại làm toát lên tất cả phẩm chất phi thường của con người “công chính” này.

Chúng ta biết, Thánh Kinh không dùng nhiều lời để nói về Thánh Giuse. Bản thân ngài cũng chẳng để lại một lời nào trong Kinh Thánh, nhưng qua việc làm của ngài, đã mang lại cho chúng ta những bài học quý giá.

Tự ban đầu, lao động vốn không phải là một hình phạt, nhưng là một lời mời gọi cộng tác với công trình tạo dựng của Thiên Chúa để làm cho đất đai, hoa màu sinh sôi, nảy nở. Lao động làm cho con người phát triển một cách toàn diện về sức vóc cũng như nhân cách. Chính Thiên Chúa cũng luôn luôn làm việc, như lời Đức Giêsu nói: “Cha Ta làm việc liên lỉ, và Ta cũng làm việc liên lỉ”. Thế nhưng, kể từ sau khi Nguyên Tổ phạm tội, thì đất đai trở nên gai góc. Lao động trở nên cực nhọc: Con người phải lao tác, đổ mồ hôi mới có miếng ăn.

Tuy là Cha nuôi Đức Giêsu – Con Thiên Chúa – nhưng thánh Giuse cũng mang thân phận con người như chúng ta, nên bản thân ngài cũng phải lao tâm khổ tứ để có thể nuôi sống gia đình Nadarét. Dù lao động vất vả cực nhọc, nhưng không ai thấy ngài có một lời phàn nàn, kêu trách. Ngài cũng không đòi cho mình được hưởng những quyền lợi mà đáng lý mình được hưởng, nhưng một lòng chấp nhận kiếp sống “Lấy bát mồ hôi đổi bát cơm”. Chắc hẳn, qua việc làm và đời sống của thánh nhân, ít nhiều cũng ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách của Đức Giêsu.

Không chỉ làm việc cực nhọc vất vả, mà thánh Giuse còn luôn làm việc trong sự “lắng nghe tiếng Chúa”. Ngài mau mắn thi hành ý Chúa mà không một lời phản ứng hay hoài nghi. Ngài sẵn sàng đón nhận Đức Maria về nhà làm vợ mình theo lời Sứ thần yêu cầu, cho dù ngài chưa hiểu được việc Đức Maria mang thai là do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Theo lời Sứ thần báo mộng, Ngài tức tốc đưa trẻ Giêsu và Mẹ Người trốn sang Ai cập đang lúc đêm khuya. Ở nơi đất khách quê người, để kiếm được miếng cơm manh áo nuôi sống một gia đình là điều không hể dễ dàng chút nào. Kinh nghiệm đó, có lẽ những anh chị em đã từng đi làm ăn xa là những người thấu hiểu hơn ai hết.

Rồi cũng chính ngài, theo lời Sứ Thần, lại đưa Đức Giêsu và Mẹ Người từ Ai Cập trở về sống tại miền quê nghèo Nazarét. Ở nơi đây, Ngài sống gần gũi và hòa đồng với mọi người đến nỗi, người làng Nadaret gọi Đức Giêsu là “con bác thợ mộc Giuse”.

***

Trong một xã hội mà đối với nhiều người, lao động đang trở thành một gánh nặng, thì mẫu gương lao động của Thánh Giuse là lời nhắc nhở chúng ta. Câu khẩu hiệu “Lao động là vinh quang” dường như ai ai cũng thuộc, thế nhưng, trong thực tế, không ít người lại tìm cách trốn tránh cái “vinh quang” đó. Trong khi, nhiều người xả thân ngày đêm lo lắng cho sự nghiệp chung, lo cho sự thăng tiến của cộng đồng, thì cũng có những người chỉ tìm cách vun vén cho lợi ích của bản thân mình. Trong khi nhiều người bôn ba xuôi ngược để kiếm bát cơm, manh áo, thì lại không thiếu những người chỉ muốn ăn trên ngồi chốc hoặc tìm cách làm giàu trên mồ hôi nước mắt của người khác. Trong khi nhiều người làm ăn chân chính, thì cũng không thiếu những người dùng những thủ đoạn, mánh khóe, thậm chí dùng những phương thế tầm thường nhất để tiến thân.

Vậy làm sao để “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn?”, làm sao để sống và làm việc một cách ngay chính giữa cuộc đời vốn có quá nhiều nhiễu nhương này? Thiết tưởng, chúng ta hãy nhìn lên tấm gương của Thánh Giuse: Một con người vĩ đại nhưng cũng rất đỗi khiêm nhường.

Vĩ đại - bởi ngài là cha nuôi Chúa Cứu Thế đồng thời là bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ Maria.

Nhưng cũng thật khiêm nhường - bởi ngài sống và làm việc một cách cần mẫn trong sự tin tưởng tuyệt đối vào tình thương và sự quan phòng của Thiên Chúa.

Mừng lễ Thánh Giuse công nhân hôm nay, chúng ta cùng cầu xin Chúa, qua lời chuyển cầu của thánh Giuse giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa của việc lao động, để qua những công việc hằng ngày, dù vất vả nặng nhọc hay an nhàn thư thái, chúng ta vẫn luôn tìm được niềm vui, bởi biết được rằng: Trong và qua lao động, chúng ta đang tiếp nối công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Và nếu có gặp phải những trở ngại trên đường đời hay trong công việc làm ăn thì chúng ta cũng được an ủi, bởi vì chính thánh Giuse - đấng bảo trợ của chúng ta - cũng đã trải qua những giai đoạn khó khăn như vậy, nhưng chúng ta luôn tin tưởng rằng: Ở đằng sau mỗi trở ngại đều ẩn chứa những cơ hội cho mỗi con người.

Lạy Thánh Giuse là mẫu mực các kẻ làm ăn. Xin cầu cho chúng con!

--------------------------------

 

01/05-15: Giuse trong xóm nhỏ điêu tàn


--‘Lẽ Sống’

--Radio Veritas Asia

"Giuse trong xóm nhỏ điêu tàn..."

 

Có lẽ không một người công giáo Việt Nam nào mà không thuộc nằm lòng bài thánh ca trên 01/05-15


Có lẽ không một người công giáo Việt Nam nào mà không thuộc nằm lòng bài thánh ca trên đây của cố linh mục Ðạo Minh, dòng thánh Giuse... Tác giả đã sáng tác ca khúc trong giai đoạn đau thương của đất nước giữa hai thập niên 40 - 50 và cũng như thánh Giuse, đã ra đi âm thầm trong một cái chết vô cùng bí ẩn sau ngày thay đổi chế độ.

Lời ca đơn sơ xuất phát từ cuộc sống lam lũ qua mọi thời đại của người Việt Nam. Nhưng tâm tình đó lại càng hợp với hoàn cảnh sống của người Việt Nam hơn bao giờ hết. Với khẩu hiệu lao động là vinh quang... dường như sau năm 1975, người Việt Nam nào cũng đã hơn một lầm mồ hôi nhễ nhại với cây cuốc, cái cày hoặc còng lưng trên chiếc xích lô đạp...

Trong cảnh sống đó, có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy gần gũi với thánh Giuse, vị thánh được mệnh danh là người công chính, nhưng đồng thời cũng là con người thinh lặng nhất trong Phúc Âm. Có rất nhiều thứ thinh lặng. Thinh lặng của những người câm điếc, bị trói buộc trong bất lực tự nhiên của mình. Thinh lặng trong cô đơn buồn chán. Thinh lặng trong căm thù oán ghét. Thinh lặng trong khép kín ích kỷ. Thinh lặng trong kiêu hãnh trước đe dọa, thử thách...

Thánh Giuse đã thinh lặng trong tinh thần chấp nhận và chiêm niệm. Trong cuộc sống âm thầm tại Nagiaréth, thánh Giuse đã thinh lặng để chiêm ngưỡng mầu nhiệm nhập thể kỳ diệu trong con người của Chúa Giêsu. Cuộc đời của thánh Giuse đã bắt đầu bằng một giấc mơ để rồi tiếp tục trong một giấc mơ triền miên. Nhưng đây không phải là một giấc mơ của mộng ảo phù du, mà là một giấc mơ trong chiêm niệm về hiện thực...

Trong sự thinh lặng chiêm niệm ấy, từng biến cố nhỏ của cuộc sống đã mang nặng sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.

Hôm nay là ngày lao động Quốc tế. Ngày lao động Quốc tế này gợi lại cả một quá trình tranh đấu của giới thợ thuyền của Âu Châu vào đầu thế kỷ vừa qua. Từ những bất công xã hội, cuộc đấu tranh của giới thợ thuyền đã làm trồi dậy phẩm giá của con người và giá trị của sự cần lao...

Ðối với người Kitô, ngày Quốc tế lao động này gắn liền với con người của Thánh cả Giuse, quan thầy và gương mẫu của giới cần lao. Do đó ngày hôm nay đối với chúng ta phải là một ngày của suy tư và cầu nguyện. Suy tư về ý nghĩa và giá trị những công việc hằng ngày của chúng ta. Cầu nguyện cho mọi người biết nhận ra sự hiện diện và tác động và lời kêu mời của Chúa trong cuộc sống...

--------------------------------

 

01/05-16: Thánh Giuse: người lao động.

 

Con bác thợ mộc”! Lời phát biểu này không có gì là khinh chê, chỉ tỏ vẻ ngạc nhiên, người ta 01/05-16


“Con bác thợ mộc”! Lời phát biểu này không có gì là khinh chê, chỉ tỏ vẻ ngạc nhiên, người ta không thể tưởng tượng được cậu con trai tầm thường, mà mọi người trong làng Nadarét đều biết con của Giuse sống trong tối tăm. Thế mà mọi người đều thấy cậu khôn ngoan, đầy quyền lực làm phép lạ. Luca đã dẫn hai câu châm ngôn ngắn gọn: Ngôn sứ không ở quê nhà! thầy thuốc không thiêng cho bà con! để giải thích hoàn cảnh này, họ còn đi xa hơn nữa biến đổi sự ngạc nhiên ra sự xúc phạm: họ dận dữ và quyết định giết đi cho khuất mắt. Cả ba Tin Mừng nhất lãm đều có nói: Đức Giê-su không muốn và cũng không thể làm được phép lạ vì họ cứng lòng tin... Những Phúc Âm hoang đường đã viết, Người đã làm nhiều điều kỳ diệu để tỏ cho họ biết Người là vị anh hùng vĩ đại, chỉ giản dị với danh hiệu: “Con bác thợ mộc”. Bác thợ mộc không có một ngôn sứ, không biết ăn nói, Giêsu chỉ là con ông Giuse thinh lặng thôi...

Giuse, Ngài đã nhận những lệnh của trời không qua cuộc đàm thoại như Ma-ri-a và Giacaria, nhưng qua giấc mơ, Ngài không thể nói gì, chỉ biết tỉnh dậy vâng lời; Giuse chỉ nói một tiếng như thiên sứ bảo; đặt tên con trẻ sinh ra bởi Ma-ri-a là Giêsu (có nghĩa là Thiên Chúa cứu độ như Giosuê). Ngài đã nhận lệnh đặt tên, để biểu lộ Ngài được những đặc quyền thuộc dòng dõi David. Đó là dấu chỉ ân phúc cho Ngài như thiên sứ nói để giải tỏa nỗi âu lo của Ngài trước sự mang thai của Ma-ri-a: Giuse con dòng David... đó là vai trò thừa kế, không phải bằng đời sống huyết nhục, nhưng bằng sự nghiệp phong phú của lịch sữ Israel để thực hiện lời hứa với David. Nơi người con nuôi duy nhất của mình... vâng, Giuse chỉ nói một tiếng Giêsu, nhưng tiếng nói này quyết định cho lịch sử cứu độ. Rồi Ngài lại đi vào thinh lặng.

Như Claude đã viết: “Khi những dụng cụ được xếp vào chỗ của chúng rồi thì công việc trong ngày đã xong. Khi con lạc đà ở sông Giócdan ở Israel ngủ trong cánh đồng lúa về ban đêm... thì Giuse đi vào trong cuộc nói chuyện của Thiên Chúa với những tiếng thở dài không dứt...”.

L.P

------------------------------

 

01/05-17:  Thánh Giuse Thợ


--Enzo Lodi

1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ

 

Lễ này đã được Đức Giáo Hoàng Piô XII thiết lập năm 1955 và được ấn định vào ngày 1 tháng 5 01/05-17


Lễ này đã được Đức Giáo Hoàng Piô XII thiết lập năm 1955 và được ấn định vào ngày 1 tháng 5 để mang lại cho lao động một chiều kích Kitô-giáo. Thật vậy, khuôn mặt thánh Giuse, người thợ mộc ở Nagiarét, đã kỳ diệu góp phần giúp chúng ta hiểu được giá trị và sự cao cả của giới lao động. Từ Hy-lạp Tectôn được dịch là “thợ mộc” gán cho Giuse có lẽ chỉ định người thợ mộc, thợ đá hoặc thợ kim loại và cũng có thể là thợ xây dựng nhà cửa.

Do truyền thống gia đình, chắc chắn Đức Giêsu đã được hướng dẫn để làm nghề này. Vì thế, chúng ta đọc trong Tin Mừng của Marcô: (Đức Giêsu) không phải là bác thợ, con Bà Maria sao? (Mc 6,3). Đối với người Do Thái thuộc thời soạn thảo Kinh thánh, công việc tay chân cũng thánh thiêng, đối với các Rabbi hay các tư tế cũng thế. Các Rabbi bình giảng sách Giảng viên cũng nói: “Con hãy lo cho mình có được một nghề nghiệp, song song với việc học hỏi lẽ khôn ngoan”. Thế rồi, không những hành nghề mà thôi, song còn phải truyền nghề cho con cái vì như sách Talmud đã chép: “Kẻ nào không dạy nghề tay chân cho con mình, kẻ đó như thể cướp mất sự nghiệp sinh tồn của con cái”. Sách này còn nhấn mạnh đến tính chất thánh thiêng và giá trị của công việc tay chân: “Người thợ, trong lúc lao động, không buộc đứng dậy tiếp bậc kinh sư cho dù là vị cao trọng nhất... Kẻ nào giúp ích cho người đồng loại bằng sức lao động của mình thì cao trọng hơn người học biết Thiên Chúa... Kẻ nào nuôi sống mình bằng sức lao động thì cao trọng hơn người vô công rỗi nghề, chỉ biết giam mình trong các tâm tình đạo đức...”

2. Thông điệp và tính thời sự

a. Lời nguyện trong Thánh lễ gợi cho chúng ta “Gương thánh Giuse”, được Tin mừng gọi là “người thợ mộc” (Mt 13,55). Truyền thống cho thấy ngài sống thân tình với Đức Maria, hôn thê của mình và với trẻ Giêsu, chính Người cũng được gọi là “bác thợ mộc” (Mc 6,3). Như thế cả ba vị đều tôn vinh Thiên Chúa, Đấng tạo thành vũ trụ; Người muốn con người lao động để tôn vinh Người và tiếp tục công trình sáng tạo của Người (lời nguyện nhập lễ).

b. Bài đọc - Kinh sách, trích Vaticanô II (Hội thánh trong thế giới ngày nay) làm nổi bật ý nghĩa Kitô giáo trong các sinh hoạt của con người. “Nổ lực này đáp ứng với ý định của Thiên Chúa... Điều ấy cũng bao gồm các sinh hoạt thông thường nhất. Vì con người, nam cũng như nữ, khi nuôi sống mình và gia đình, đều phải hoạt động phục vụ xã hội. Họ có quyền nghĩ rằng sức lao động của họ mở mang công cuộc của Đấng tạo hóa và mang lại hạnh phúc cho các anh chị em, cũng như khả năng riêng của mỗi người, cũng góp phần kiện toàn kế hoạch của Thiên Chúa trong lịch sử”. Nơi khác, cũng Hiến chế này ghi nhận: “Nhờ việc làm của mình dâng lên Thiên Chúa, con người cộng tác vào chính công cuộc cứu rỗi của Đức Giêsu Kitô, Đấng đã nâng cao giá trị của việc làm khi Người làm việc với chính hai bàn tay của mình tại Nagiarét. Do đó, mỗi người có bổn phận phải trung thành làm việc và cũng có quyền làm việc nữa” (Vaticanô II: LG 67,2).

------------------------------

 

01/05-18: Nghĩ về lao động, nhân lễ thánh Giuse thợ


--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

 

Ngày mùng 01 tháng 5, ngày Quốc Tế Lao Động, ngày lễ thánh Giuse thợ. Đúng thật là một 01/05-18


Ngày mùng 01 tháng 5, ngày Quốc Tế Lao Động, ngày lễ thánh Giuse thợ. Đúng thật là một cơ hội tốt đẹp để chúng ta suy nghĩ về ý nghĩa của lao động theo quan điểm kitô giáo.

Lần giở lại những chương đầu của Sách Sáng Thế, chúng ta thấy sau khi tạo dựng vũ trụ mọi loài mọi vật, “Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn địa đàng, để họ trồng tỉa và coi sóc vườn” (St 2, 15). Như thế, con người được tạo dựng giống hình ảnh Chúa, không những giống trong tư tưởng và lòng yêu thương, mà còn giống trong sự sáng tạo nữa. Lao động là một phần trong tình trạng nguyên thủy của con người và đã có trước khi con người phạm tội. Do đó lao động không phải là hình phạt hay một lời chúc dữ. Lao động chỉ trở nên vất vả và cực nhọc khi con người (Adam và Eva) phạm tội phá vỡ tình thân nghĩa thiết với Thiên Chúa, với vũ trụ vạn vật và với nhau.

Phải khẳng định rằng: Lao động có một vị trí danh dự, vì đó là nguồn đem lại sự phú túc, là công cụ hữu hiệu để chống lại sự nghèo đói, góp phần phát triển cá nhân, gia đình cũng như xã hội. Tất cả những thành tựu mà nhân loại đạt được trên thế giới hôm nay chính là thành quả của lao động. Ai cũng biết “lao động là vinh quang”, “bàn tay ta làm nên tất cả, có sức người sỏi đá cũng thành cơm” ( Trích “Bài ca vỡ đất”- Hoàng Trung Thông).

Phải chăng con người ngày nay đã và đang phá vỡ mối quan hệ hòa thuận với Thiên Chúa khi con người tàn phá thiên nhiên, làm ô nhiễm môi trường và suy kiệt tài nguyên? Phải chăng lao động đang trở thành gánh nặng khi đất đai khô cằn, nhiễm độc do thuốc trừ sâu, phân bón hóa học; cá tôm không sống nổi khi sông ngòi và biển cả bị ô nhiễm bởi các nguồn nước thải do chăn nuôi, bụi bùn, hóa chất phun màu; gây ô nhiễm khí quyển làm thủng tầng ôzôn?

Con người với lòng tham và sự tàn nhẫn độc ác, đã biến lao động thành nỗi hãi hùng cho người khác. Lao động có còn ở “vị trí danh dự”, là “vinh quang” hay không khi người ta bị bắt làm nô lệ, bị cưỡng bức lao động, bị lao động khổ sai nơi các trại tập trung, trại cai nghiện và các nhà tù ở nhiều nơi trên thế giới?

Toàn thể trái đất vang lên lời ca ngợi tôn vinh sự làm việc, thì Kitô Giáo nói gì, nghĩ gì về lao động, về nền văn minh trần thế, và về sự giầu có? Đức Giêsu dạy thế nào về việc làm và liên quan đến việc làm? Người thúc đẩy chúng ta làm việc hay nhìn vào đó với sự lo âu?

Phải khẳng định rằng, lao động là một phần chương trình tình yêu của Thiên Chúa; con người được mời gọi vun trồng và giữ gìn tất cả các thiện ích của thụ tạo, và như thế tham dự vào công trình tạo dựng! Lao động là yếu tố nến tảng đối với phẩm giá của một người. Lao động làm cho chúng ta được tràn đầy phẩm giá; giúp chúng ta giống Thiên Chúa, là Ðấng đã làm việc, đang làm việc, và luôn làm việc (x. Ga 5,17). Lao động cho chúng ta khả năng nuôi sống chính mình, gia đình mình, góp phần vào việc phát triển quốc gia, thăng tiến nhân loại.

Để phục hồi phẩm giá con người, lấy lại ý nghĩa của lao động, Con Thiên Chúa đã thân hành xuống thế, sinh ra trong một gia đình lao động. Phúc Âm thánh Máthêu kể rằng trong một lần Chúa Giêsu trở về thăm quê hương mình là Nagiarét và giảng trong hội đường, các người đồng hương kinh ngạc trước sự khôn ngoan của Người và hỏi nhau: “Ông ấy không phải là con bác thợ mộc sao?” (Mt 13,55). Chúa Giêsu đã bước vào lịch sử của chúng ta, Người đến giữa chúng ta, sinh ra từ Ðức Maria bởi công trình của Chúa Thánh Thần, nhưng với sự hiện diện của thánh Giuse, người cha hợp pháp, giữ gìn Chúa và dạy Chúa làm việc.

30 năm lao động với bàn tay của mình: người ta gọi Đức Giêsu là bác phó mộc và là nông dân. Chắc chắn Người đã lao động ở xưởng mộc Nagiaret, đã trồng những cây ôliu, cây nho, đã chăn chiên. Người biết giá trị của lao động để kiếm cơm ăn áo mặc. Biết đồng tiền là cần thiết và dĩ nhiên bàn tay Người đã tiếp nhận những đồng tiền người ta trả về cho những đồ vật Người làm, và đã chọn những tông đồ đầu tiên giữa các người đánh cá. Người đã nâng lao động chân tay lên khỏi tình trạng thấp hèn. Nếu Đấng Sáng Tạo đã không chê bai lao động, Đức Giêsu cũng không hờn dỗi việc làm, thì không có người nào trên thế giới lại phải lấy đó làm cực nhọc, xấu hổ. Đỉnh cao của giáo huấn Thánh Kinh về lao động là mệnh lệnh phải nghỉ ngơi ngày Chúa nhật, để con người không trở thành nô lệ cho lao động.

Khoa học kỹ thuật càng phát triển thì con người càng khai thác triệt để lao động. Bên cạnh đó, lối sống thiên về hưởng thụ vật chất cũng thôi thúc con người lao động quần quật để đáp ứng nhu cầu mua sắm, tiêu dùng, hưởng thụ các phương tiện hiện đại, thỏa mãn các “nhu cầu ảo”. Một ngày người ta cố làm việc nhiều ca, làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm luôn Chủ nhật và ngày lễ. Người ta thấy vui khi được tăng ca để kiếm thêm tiền. Và nại vào công việc, họ không có thì giờ để quan tâm, thăm viếng nhau, không có thì giờ cho việc cầu nguyện hay Kinh, Lễ. Phải chăng trong trường hợp này, con người đã “nô lệ tự nguyện” cho lao động và biến lao động thành “ngẫu tượng”?

Khiến tiền bạc lên ngôi ông chủ, con người làm việc hết lòng hết sức để mong chiếm hữu được thật nhiều tiền của vật chất. Danh vọng lên ngôi ông chủ, sai khiến con người tìm đủ mọi cách để đánh bóng mình trước mắt mọi người. Tình dục và những khoái lạc xác thịt cũng có lúc lên ngôi, chúng trói buộc con người trong cái vòng vây xiết chặt. Ông chủ của ta còn có thể xuất hiện dưới nhiều dáng dấp khác nhau: một chiếc điện thoại cao cấp, một chiếc xe hợp thời, một ngôi nhà tiện nghi… Giữa cuộc sống hiện đại, những ông chủ ấy đi vào cuộc đời ta, chiếm hữu tâm trí ta, thu hút toàn bộ năng lực của ta, dần dần biến thành mục đích sống duy nhất của đời ta. Ngạn ngữ có câu: tiền bạc là một đầy tớ tốt, nhưng là một ông chủ hà khắc.. Cái nguy hiểm không hẳn nằm ở tiền bạc, nhưng nằm con tim mỏng manh mà tham lam của con người. Một khi tiền bạc và những của cải vật chất lên ngôi, rất dễ làm con người hoán đổi vị trí và tôn tiền bạc lên làm ông chủ của mình. Hãy nhớ rằng, ngay từ thủa ban đầu của tạo dựng: “Thiên Chúa đã đặt con người làm chủ”.

Mừng lễ Thánh Giuse Thợ, xin Ngài cầu thay nguyện giúp để mọi người biết mến yêu lao động, vì lao động giúp ta cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa. Chúng ta không làm việc một mình, nhưng có Chúa cùng hoạt động. Lao động là cần thiết, nhưng chính Thiên Chúa mới là nguồn gốc của sự sống và là mục tiêu cuối cùng của con người.

Lạy Chúa, xin củng cố việc tay chúng con làm. Amen.

 ------------------------------

 

01/05-20: Thánh Giuse, Người Cha lao động


--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

 

Ngày 01 tháng 5, ngày Quốc Tế Lao Động, ngày lễ thánh Giuse lao động là cơ hội giúp chúng ta 01/05-20


Ngày 01 tháng 5, ngày Quốc Tế Lao Động, ngày lễ thánh Giuse lao động là cơ hội giúp chúng ta suy nghĩ về ý nghĩa của lao động theo quan điểm kitô giáo.

Thiên Chúa đặt con người làm chủ

Sau khi đã tạo dựng vạn vật muôn loài, Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta, để chúng làm chủ cá biển, chim trời, dã thú khắp mặt đất” (St 1, 26). Thế là “Thiên Chúa lấy bùn đất nắn thành con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi và con người trở thành một vật sống . Thiên Chúa lập một vườn tại Eđen về phía đông và đặt vào đó con người mà Ngài đã dựng nên” (x. St 2, 7-9). Việc con người được dựng nên từ bùn đất cho thấy tính chất yếu hèn, mỏng dòn của thân phận. Nhưng Thiên Chúa lại tạo nên con người và ban cho con người hình ảnh của Chúa, cho con người được chia sẻ sự sống của Chúa, phú ban cho con người sự sống siêu nhiên và nhiều đặc ân như trí khôn minh mẫn, ý chí hướng thiện, không phải đau khổ và không phải chết và nhất là đặt con người làm chủ công trình Chúa sáng tạo, làm chủ chính mình trong ơn sủng mà Thiên Chúa đã ban cho.

Con người phạm tội

Hình ảnh vườn địa đàng, nơi con người là chủ, sống, cày cấy và canh giữ đất đai (x. St 2,4-15). Thật là đẹp, vì con người sống thân tình với Thiên Chúa, hài hòa với chính mình, với nhau và vũ trụ vạn vật. Nhưng hỡi ôi, hạnh phúc ấy bị tuột mất khi con người phạm tội. Adam và Eva đã đánh mất quyền làm chủ, lao động đã trở nên cực nhọc vất vả lao công.

Trở nên thân nô lệ

Đỉnh cao của giáo huấn Thánh  Kinh về lao động là truyền phải nghỉ ngơi ngày Chúa nhật, để con người không trở thành nô lệ cho lao động. Khoa học kỹ thuật càng phát triển thì con người càng khai thác triệt để lao động. Một ngày người ta cố làm việc nhiều ca, làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm luôn Chủ nhật và ngày lễ. Người ta thấy vui khi được tăng ca để kiếm thêm tiền. Và nại vào công việc, họ không có thì giờ để quan tâm, thăm viếng nhau, không có thì giờ cho việc cầu nguyện hay kinh, lễ. Phải chăng trong trường hợp này, con người đã “nô lệ tự nguyện” cho lao động và biến lao động thành “ngẫu tượng”?

Thiên Chúa không muốn con người sống kiếp nô lệ. Nên khi tạo dựng, Thiên Chúa đặt vào mọi sự vào tay con người, cùng với lời chúc phúc: hãy làm chủ mọi loài (St 1, 28).

Ngày nay người chỉ huy không phải là con người mà lại là tiền bạc. Đồng tiền ra lệnh. Nhưng Thiên Chúa Cha chúng ta đã không giao nhiệm vụ “chăm sóc trái đất” cho đồng tiền mà là cho chúng ta. Thế mà người ta lại hy sinh cho các thần tượng của lợi nhuận và tiêu thụ, khiến tiền bạc lên ngôi ông chủ, con người làm việc hết lòng hết sức để mong chiếm hữu được thật nhiều tiền của vật chất. Danh vọng lên ngôi ông chủ, sai khiến con người tìm đủ mọi cách để đánh bóng mình trước mắt mọi người. Tình dục và những khoái lạc xác thịt cũng có lúc lên ngôi, trói buộc con người trong cái vòng vây xiết chặt. Ông chủ của ta còn có thể xuất hiện dưới nhiều dáng dấp khác nhau: một chiếc điện thoại cao cấp, một chiếc xe hợp thời, một ngôi nhà tiện nghi… Giữa cuộc sống hiện đại, những ông chủ ấy đi vào cuộc đời ta, chiếm hữu tâm trí ta, thu hút toàn bộ năng lực của ta, dần dần biến thành mục đích sống duy nhất của đời ta. Ngạn ngữ có câu: tiền bạc là một đầy tớ tốt, nhưng là một ông chủ hà khắc. Cái nguy hiểm không hẳn nằm ở tiền bạc, nhưng nằm con tim mỏng manh mà tham lam của con người. Một khi tiền bạc và những của cải vật chất lên ngôi, rất dễ làm con người hoán đổi vị trí và tôn tiền bạc lên làm ông chủ của mình. Hãy nhớ rằng, ngay từ thủa ban đầu của tạo dựng: “Thiên Chúa đã đặt con người làm chủ”

Thánh Giuse, người cha lao động

Tông thư Patris Corde, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nên bật Thánh Giuse là người lao động. Với nghề thợ mộc, ngài làm việc lương thiện để nuối sống gia đình. Nơi thánh Giuse, Chúa Giêsu đã học được giá trị, phẩm giá và niềm vui của việc ăn miếng bánh là thành quả lao động của chính mình. Thánh Giuse nhắc nhở chúng ta rằng: chính Thiên Chúa, khi làm người, đã không khinh thường công việc.

Quả thật, ngày nay kinh tế khó khăn, người cha đứng mũi chịu sào nơi đầu ngọn gió phải làm việc cực nhọc, kiếm từng miếng cơm manh áo cho gia đình, họ chỉ muốn gia đình được ấm no hạnh phúc. Bởi họ là trụ cột, là điểm tựa của mọi người trong gia đình khi gặp khó khăn.

Xã hội hôm nay vẫn còn nhiều người cha không chịu lao động, không làm hết trách nhiệm, không phát huy được vai trò quan trọng của mình. Một số người say xỉn về đánh đập vợ con khiến gia đình bất hòa, làm cho con cái tổn thương về mặt tình cảm. Một số thì không quan tâm tới gia đình, làm ảnh hưởng đến tình cảm của mọi người, nhất là trẻ em. Những người cha như thế sẽ làm gương xấu cho thế hệ mai sau, không giáo dục được con cái, khiến chúng học theo những điều xấu, trở thành người không có ích cho xã hội.

Hãy chịu khó lao động, khi lao động, con người tham gia vào công trình cứu độ của Thiên Chúa, và phẩm giá con người được đề cao. Không có việc làm các gia đình sẽ gặp nhiều khó khăn, căng thẳng, rạn nứt và thậm chí là sự cám dỗ tuyệt vọng và phân tán. Với hình ảnh người thợ mộc, thánh Giuse như một khuôn mẫu vào thời điểm mà thế giới cũng như Giáo hội đang vật lộn với những thách thức do thời hiện đại đặt ra. Thánh Giuse hiện lên như một nhân chứng cho Giáo hội và thế giới hiện đại.

Thánh Giuse dạy Chúa Giêsu lao động, như công đồng Vatican II đã nêu trong Gaudium et Spes: “Con Thiên Chúa đã làm việc với đôi tay con người, suy nghĩ bằng trí óc con người, hành động theo một ý chí con người, yêu mến bằng quả tim con người.” (Gaudium et Spes – Vui mừng và Hy vọng, 22,2).

Ðiều này nhắc nhở cho chúng ta biết phẩm giá và sự quan trọng của lao động. Lao động là yếu tố nến tảng đối với phẩm giá của một người. Lao động làm cho chúng ta giống Thiên Chúa (x. Ga 5,17). Lao động trao ban cho chúng ta khả năng nuôi sống bản thân, gia đình, góp phần vào việc phát triển quốc gia mình.

Kính xin Thánh Giuse người cha lao động cầu thay nguyện giúp để mọi người biết ý thức về sứ mạng cao cả mà Thiên Chúa đã trao ban là làm chủ, để chúng ta mến yêu lao động, cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa.

 ------------------------------

 

01/05-21: Thánh Giuse


--giaophanvinhlong.net

Gương thánh nhân:

 

Năm 1955, Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII đã lập lễ thánh Giuse thợ. Mỗi năm kính nhớ vào ngày 1 tháng 5 01/05-21


Năm 1955, Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII đã lập lễ thánh Giuse thợ. Mỗi năm kính nhớ vào ngày 1 tháng 5, ngày mà hầu hết các nước trên thế giới chọn làm ngày lễ lao động, tán dương khích lệ công lao con người đã dùng tài năng sức lực của mình để phục vụ đồng loại. Đức Giáo Hoàng đã nói rõ ý nghĩa ngày lễ thánh Giuse thợ như sau:

"Chắc chắn chúng ta phải hân hoan, vì người thợ vô danh ở Na-da-rét chẳng những là hiện thân cho giá trị chân tay trước mặt Chúa và Hội thánh mà còn là vị Giám hộ mẫn tiệp của mọi người và của các gia đình và các bạn lao động."

Như chúng ta biết, thánh Giuse được Chúa chọn làm cha nuôi Chúa Giêsu, khi Người sinh ra làm người để cứu độ nhân loại. Thánh nhân là người công chính, luôn tuân hành thánh ý Chúa, sẵn sàng vâng nghe và làm theo lời Chúa dạy. Ngài tận tâm bảo vệ Đức Mẹ, nhiệt thành cộng tác với Mẹ nuôi dưỡng, chăm sóc Chúa Giêsu. Để chu toàn sứ mệnh đó. Ngài làm nghề thợ mộc vất vả hằng ngày. Ngài lấy sức lao động của mình bảo đảm cuộc sống hằng ngày của Thánh gia.

Ngài là gương mẫu cho mọi người sống nghề lao động chân tay và cách riêng cho các Kitô hữu: lương thiện, cần mẫn, siêng năng làm việc lo cho gia đình. Chẳng những lo cho gia đình mà còn phát triển xã hội và tôn vinh Chúa, vì theo thánh công đồng Vaticanô II: "Đối với các tín hữu, chỉ có một điều chắc chắn là: hoạt động cá nhân cũng như tập thể của nhân loại, các nỗ lực vĩ đại của con người vất vả qua các thế kỷ là nhằm cải thiện hoàn cảnh sinh sống. Việc này tự nó phù hợp với ý định của Thiên Chúa.

Thật vậy, được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, con người đã nhận mệnh lệnh chinh phục trái đất cùng tất cả những gì chứa đựng trong đó. Họ phải cai quản vũ trụ trong công bình và thánh thiện. Nhận diện Thiên Chúa là Đấng sáng tạo mọi loài, họ phải quy hướng cả bản thân mình cũng như muôn vật về Người: để khi con người chinh phục được tất cả, thì danh Chúa được tôn vinh khắp địa cầu.

Điều đó cũng ứng dụng cho những công việc rất thường nhật. Khi mưu sinh cho mình và cho gia đình, những người đàn ông, đàn bà hoạt động để phục vụ xã hội một cách hữu hiệu, đều có lý để coi lao động của mình tiếp nối công trình của Đấng Tạo hóa, phục vụ đời sống của anh em và đóng góp công lao vào việc hoàn thành chương trình của Thiên Chúa trong lịch sử." 1

Thánh Giuse là gương mẫu của người lao động. Ngài còn là vị Giám hộ của những người làm việc chân tay. Và Ngài là vị Giám hộ đắc lực nhất, như lời Đức Thánh Cha Pi-ô XII nói: "Không có vị Giám hộ nào có đủ khả năng linh nghiệm truyền thông Phúc Âm cho đời sống thợ thuyền bằng thánh Giuse thợ."

Quyết tâm: Hằng ngày, tôi siêng năng làm việc, để giúp ích cho gia đình, xã hội, theo gương thánh Giuse, và chuyên cần kêu xin thánh nhân cầu thay nguyện giúp cho những người lao động nghèo khổ, bất hạnh.

Lời nguyện: Lạy Thiên Chúa tạo thành trời đất, Chúa đã muốn cho con người lao động để tiếp tục công trình của Chúa.Xin nhận lời thánh cả Giuse chuyển cầu, mà cho chúng con biết noi gương người để lại, là chu toàn nhiệm vụ Chúa đã giao phó, hầu được hưởng niềm vui Chúa đã hứa cho tôi tớ trung thành.

------------------------------

 

01/05-22: Thánh Giuse Thợ


--Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi  DCCT

 

Viết về thánh Giuse, chúng ta như có một cái gì đó thật ngỡ ngàng về con người im lặng trầm lắng 01/05-22


Viết về thánh Giuse, chúng ta như có một cái gì đó thật ngỡ ngàng về con người im lặng trầm lắng của Người. Nhưng, thánh Giuse lại là một Người đầy quyền thế trước mặt Chúa Giêsu đến nỗi thánh Têrêsa Avila đã cảm nghiệm sâu sắc về vai trò của thánh Giuse, Ngài viết: ”…Trên trời thánh Giuse truyền lệnh hơn là van xin”.

Hôm nay ngày 01/5, ngày Quốc Tế Lao Động, cũng là ngày thánh Giuse được tôn vinh làm Bổn Mạng giới lao động.

CON NGƯỜI CỦA THÁNH GIUSE: MỘT HUYỀN NHIỆM: Nói đến thánh Giuse, mọi người đều hiểu rằng thánh nhân là một con người hoàn toàn im lặng, hầu như không được các Tin Mừng ghi chép lại một lời nào do miệng Người thốt ra. Nhưng chính sự im lặng của thánh nhân giúp chúng ta nghiệm ra mầu nhiệm của Thiên Chúa. Thánh Giuse sở dĩ im lặng là để giúp nhân loại nhận ra rằng Thiên Chúa nói đã đầy đủ, bao gồm tất cả và thánh nhân không cần phải thêm gì vào Lời của Thiên Chúa.Thánh Giuse đã thinh lặng để chiêm ngắm mầu nhiệm Con Thiên Chúa. Suốt cuộc đời của Người ở làng quê Nagiarét, thánh nhân vẫn im lặng hơn là nói. Sự thinh lặng của thánh Giuse luôn mang ý nghĩa lớn lao về sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.

Chúng ta có thể nói về thánh Giuse mà không sợ quá lời, Ngài thinh lặng trong chiêm niệm để Chúa Thánh Thần dẫn đưa cuộc đời Ngài và để Ngài hoàn toàn tự do hành động theo ý của Thiên Chúa. Đây là một điều kỳ diệu, một huyền nhiệm cao siêu của cuộc đời thánh Giuse. Thánh Giuse đã thinh lặng để lắng nghe, để đón nhận và để cho trái tim mới của mình hướng dẫn và chỉ bảo con đường của Ngài theo ý của Thiên Chúa. Đúng là thánh Giuse đã biết lắng nghe, biết mở rộng tấm lòng để sống hiệp thông với Thiên Chúa.

THÁNH GIUSE LÀ MẪU GƯƠNG LAO ĐỘNG: Theo Tin Mừng, thánh Giuse sống ở Nagiarét, làm nghề thợ mộc để nuôi sống bản thân và gia đình. Thánh Giuse đã sống đời lao động theo kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Bởi vì, việc nhập thể của Chúa Giêsu làm người để sống với, sống vì, sống cho nhân loại, cho con người mở ra cho thấy thế giới được Thiên Chúa cứu độ. Thế giới nếu không có sự hiện diện của Thiên Chúa, thế giới sẽ thiếu vắng và không được cứu độ. Việc lao động của con người nằm trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.

Con người với những suy nghĩ, với sự thiện chí của mình đã không chỉ nghĩ đến lợi nhuận, nghĩ đến làm giầu và tích lũy của cải, vật chất, nhưng có rất nhiều người,nhiều nhóm, nhiều phong trào đã đưa lao động càng lúc càng tiến gần đến kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa. Lao động sẽ không còn là đơn điệu, lập đi lập lại hàng ngày những công việc, những cách làm một cách máy móc, cho có lệ, qua loa để mau hết giờ để kiếm nhiều lợi ích, tiền của cho cá nhân, cho bản thân của mình, nhưng lao động theo mẫu của thánh Giuse là làm cho lao động mang một ý nghĩa cứu độ và phục vụ, lao động theo lời mời gọi của Thiên Chúa.

Thánh Giuse quả thực đã sống hoàn toàn theo tiếng gọi của Chúa và làm việc cũng theo tác động và lời mời gọi của Chúa. Do đó, ngày hôm nay, ngày Quốc Tế lao động chúng ta hãy cầu nguyện và noi gương bắt chước thánh Giuse sống, lao động theo đúng ý nghĩa lao động là góp tay làm vinh quang cho Thiên Chúa qua sự sáng tạo vũ trụ, con người và làm việc là để ơn cứu rỗi được chan hòa nơi thế giới này.

Lạy  Thiên Chúa tạo thành trời đất, Chúa đã muốn cho con người lao động để tiếp tục công trình của Chúa. Xin nhận lời thánh cả Giuse chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương Người để lại là chu toàn nhiệm vụ Chúa đã giao phó hầu được hưởng niềm vui, Chúa đã hứa cho tôi tớ trung thành 9 Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Giuse thợ ).

------------------------------

 

01/05-23: Thánh Giuse


--theovetchannguoi

 

Ứng với việc tổ chức “Ngày Lao Ðộng” khắp nơi trên thế giới,  Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã thiết 01/05-23


Ứng với việc tổ chức “Ngày Lao Ðộng” khắp nơi trên thế giới,  Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã thiết lập ngày lễ Thánh Giuse Thợ vào năm 1955. Nhưng sự liên hệ giữa Thánh Giuse và ý nghĩa lao động đã có từ lâu trong lịch sử.

Trong nỗ lực cần thiết để nói lên nhân tính của Ðức Giêsu trong đời sống thường nhật, ngay từ ban đầu Giáo Hội đã hãnh diện nhấn mạnh rằng Ðức Giêsu là một người thợ mộc, hiển nhiên là được cha nuôi của Người huấn luyện, một cách thành thạo và khó nhọc trong công việc ấy. Nhân loại giống Thiên Chúa không chỉ trong tư tưởng và lòng yêu thương, mà còn trong sự sáng tạo. Dù chúng ta chế tạo một cái bàn hay một vương cung thánh đường, chúng ta được mời gọi để phát sinh kết quả từ bàn tay và tâm trí chúng ta, nhất là trong việc xây đắp Nhiệm Thể Ðức Kitô.

Lời Bàn

“Sau đó Thiên Chúa đưa người đàn ông vào sống trong vườn Êđen, để cầy cấy và chăm sóc khu vườn” (Sáng Thế 2:15). Thiên Chúa Cha đã tạo dựng nên mọi sự và muốn con người tiếp tục công trình tạo dựng ấy. Con người có phẩm giá là qua công việc, qua sự nuôi nấng gia đình, qua sự tham dự vào đời sống sáng tạo của Chúa Cha.

Thánh Giuse Thợ có thể giúp chúng ta tham dự một cách sâu xa vào mầu nhiệm tạo dựng ấy. Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã nhấn mạnh đến điều này khi nói, “Thần khí chan hòa trên bạn và mọi người phát xuất từ con tim của Ðấng vừa là Thiên Chúa vừa là con người, Ðấng Cứu Ðộ trần gian, nhưng chắc chắn rằng, không người lao động nào được thấm nhuần thần khí ấy một cách trọn vẹn và sâu đậm cho bằng cha nuôi của Ðức Giêsu, là người sống với Ngài một cách mật thiết trong đời sống gia đình cũng như làm việc. Do đó, nếu bạn ao ước muốn đến gần Ðức Kitô, một lần nữa chúng tôi lập lại rằng, ‘Hãy đến cùng Thánh Giuse”” (xem Sáng Thế 41:44).

------------------------------

 

01/05-24: Lễ thánh Giuse thợ


--Antôn Lương Văn Liêm

 

Trong kho tàng ca dao tục ngữ Việt Nam có câu: “Tay làm thì hàm nhai, tay quai thì miệng trễ 01/05-24


Trong kho tàng ca dao tục ngữ Việt Nam có câu: “Tay làm thì hàm nhai, tay quai thì miệng trễ”, với thánh Phaolô thì: “Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn” (2Tx.3,10). Vâng! Đã mang lấy kiếp nhân sinh thì dù lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo, quyền uy hay bần cùng, đời tu hay đời thường… ai cũng phải lao động vất vả mới có miếng ăn. “Lao động là vinh quang”, đây là câu nói khích lệ, trân trọng tất cả những ai đã và đang ngày đêm làm lụng vất vả trong việc mưu kế sinh nhai, trong việc giáo dục, chuyển giao luân lý, tri thức, khoa học, y học cho tầng lớp kế thừa…

Không vinh quang sao được! Vì làm việc, lao động tất cả đều khởi đi từ Thiên Chúa, Đấng hoạt động, làm việc không ngưng nghỉ như lời minh định của Đức Giêsu: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga.5,17). Thiên Chúa là Đấng lao động và thực hiện công việc của Ngài  với mục đích duy nhất là bầy tỏ và trao ban tình yêu.

Vì yêu Thiên Chúa đã thực hiện việc tác dựng vũ trụ, vạn vật; vì yêu Thiên Chúa tác dựng và trao ban sự sống cho con người nhân loại, vì yêu mà Thiên Chúa thực hiện một công việc vĩ đại khi tự hạ bước xuống cõi trần mặc lấy thân xác con người yếu đuối, hữu hạn  để dạy dỗ và cứu độ con người nhân loại….Khi mặc lấy kiếp phàm nhân (ngoại trừ tội lỗi), Thiên Chúa qua con người của Đức Giêsu, Ngài cũng có một cái tên là Giêsu thành Na-ra-rét, được sinh ra và lớn lên trong mái ấm gia đình, có mẹ là Đức Trinh Nữ Maria và dưỡng phụ là Thánh Cả Giuse, điều mà những người Do Thái khi xưa đã nói về Đức Giêsu Con Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa: “Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ ông không phải là bà Maria sao?” (Mt.13,55); “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả”(Ga.6,42).

Thực trạng xã hội hôm nay, vì chạy theo lối sống “văn hóa thành công” đã và đang làm hình ảnh những người thợ trong mọi lĩnh vực, từ trong nhà đạo cho đến bình diện xã hội không còn mang những nét đẹp, cao thượng, mang những trái tim thịt mềm của Thiên Chúa. Nói theo cách của những anh em làm nghề xây dựng khi ta thán về cách nghĩ và hành động của công nhân: “Họ làm theo lương tuần, chứ không theo lương tâm”, nói như thế không có nghĩa là “vơ đũa cả nắm”, nhưng điều này đang là một đại dịch, là ung nhọt gây nhức nhối cho gia đình, Giáo Hội và xã hội.

Trong ngày lễ kính Thánh Giuse Thợ, Đấng bảo trợ cho tất cả những ai đang ngày đêm làm việc, lao động. Trước tiên ta cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho ta sự sống, sức khỏe, tri thức để giúp ta lao động, làm việc, trước là tạo của ăn nuôi thân, giúp ích cho đời, Ngài mời gọi ta cùng cộng tác với Ngài trong chương trình sáng tạo và bảo tồn những gì mà Ngài đã tác dựng, ta cảm tạ Ngài vì Ngài đã và đang song hành, cùng làm việc với ta trong từng ngày sống.

Khi chiêm ngắm hình ảnh và gương sống của Thánh Cả Giuse, một người thợ, dẫu trong Kinh Thánh không nói nhiều về Ngài, không tường thuật một lời nào của Ngài, ngoại trừ lời giới thiệu của thánh sử Mát-thêu: “Ông Giuse, chồng bà là người công chính” (Mt.1,19). Vâng! Với niềm tin vào Thiên Chúa một cách đơn sơ, khiêm nhường, xin vâng theo Thánh ý Thiên Chúa một cách mau lẹ, không do dự; lòng quảng đại và từ bỏ ý riêng, ước mơ và sở thích của mình để thuận theo ý Chúa; chấp nhận và đón nhận những điều trái với ý riêng mình, đặc biệt là thấm nhuần Kinh Thánh và có một trái tim bao dung, yêu thương của Thiên Chúa. Tất cả những đức tính đó đã giúp cho Thánh Nhân lọt vào tầm ngắm của Thiên Chúa khi Ngài mời gọi và trao ban cho Thánh Nhân trách vụ trở thành người bạn đời của Đức Maria, trở thành dưỡng phụ của Đấng Cứu Thế.

Hướng về Thánh Cả Giuse, Ngài là một người thợ, người lao động, người chủ gia đình gương mẫu, thánh thiện, là cành huệ trắng luôn tỏa hương thơm ngát và không bao giờ tàn phai, ta nguyện xin Thánh Nhân giúp ta biết noi gương sống của Ngài, luôn tin tưởng và phó thác cuộc đời cho bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, giúp ta thực hiện mọi công việc từ lời nói tới hành động bằng một tình yêu, yêu Chúa và yêu người, ta xin Ngài cầu thay nguyện giúp cùng Thiên Chúa, nhất là với Thánh Tử Giêsu, để nhờ ơn Chúa giúp ta sáng suốt hơn, khôn ngoan hơn trong việc tìm kiếm kế sinh nhai, luôn chu toàn bổn phận của mình trong gia đình, cộng đoàn và ngoài xã hội, luôn là một người thợ chân chính. Cuối cùng ta nguyện xin Thiên Chúa qua lời chuyển cầu của Thánh Cả Giuse giúp ta và nhất là những vị lãnh đạo Giáo hội, những nhà truyền giáo luôn là những người thợ lành nghề trong cánh đồng truyền giáo còn bao la bát ngát giữa thế giới hôm nay.

Thánh nữ Têrêsa Avila đã quả quyết một cách mạnh mẽ khi Thánh Nhân cầu cùng Thánh Cả Giuse: “Chưa bao giờ tôi xin Thánh Giuse điều gì mà Ngài không nhận lời”

Để kết thúc xin mượn lời cầu của thánh nữ Têrêsa Avila: “Lạy Thánh Cả Giuse! Trong suốt cuộc đời, Cha là niềm hy vọng, khi sinh hạ Chúa Giêsu, khi trốn sang Ai Cập, khi sống những ngày tha hương. Cha đã tìm thấy sức mạnh trong sự tin tưởng sắt đá vào quyền năng và lòng Nhân Lành của Chúa.

Hôm nay! Chúng con hết lòng trông cậy, chạy đến cầu xin Ngài. Xin Ngài hiệp lời cầu với chúng con, để xin Con Ngài nâng đỡ chúng con trong cơn khốn khó, xin Ngài ban sức mạnh để chúng con tiến lên như Ngài đã đã vượt thắng. xin Ngài ban cho chúng con ơn trông cậy mà Ngài đã có như ánh sáng hướng dẫn mọi ngày trong đời chúng con. Amen.”

------------------------------

 

01/05-25: Lao động biểu lộ vinh quang của Chúa Giêsu phục sinh


--Lm. Giuse Đinh Quang Thịnh

 

Chúa Giêsu khi từ cõi chết sống lại, Ngài hiện ra với bà Maria Madalêna, Ngài không tỏ  vinh 01/05-25


Chúa Giêsu khi từ cõi chết sống lại, Ngài hiện ra với bà Maria Madalêna, Ngài không tỏ  vinh quang như trên núi Hiển Dung cho các môn đệ (x Mt 17), mà bà Maria Madalêna thấy Chúa Giêsu Phục Sinh tưởng đó là người làm vườn (x Ga 20,15). Chúa Giêsu Phục Sinh hữu ý mang dáng dấp người làm vườn là Ngài muốn nối tiếp sứ mệnh Thiên Chúa trao cho ông Adam phải canh tác vườn, nói lên quyền làm chủ vạn vật Thiên Chúa đã tạo dựng (x St 1,26 - 2,3.15), để Đức Giêsu trở nên mẫu người lao động cho cả loài người. Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Thiên Chúa làm người, cho con người được làm Thiên Chúa”. Nghĩa là nơi Đức Giêsu có hai bản tính: Bản tính loài người và bản tính Thiên Chúa. Do đó ai muốn trở nên giống Thiên Chúa trong bản tính loài người, thì phải lao động việc trần thế, và qua Bí tích Khai Tâm, con người đã được thông dự vào bản tính Thiên Chúa, thì còn phải lao động vào việc Nước Thiên Chúa.

I. VỚI BẢN TÍNH LOÀI NGƯỜI, ĐỨC GIÊSU LAO ĐỘNG  VIỆC TRẦN THẾ.

Suốt ba mươi năm đầu cuộc đời Đức Giêsu, trong xưởng mộc với ông Giuse, cha Ngài tại Nazareth, thì người ta chỉ nhìn Ngài là “con bác thợ mộc” (x Mt 13,55), Ngài nói: “Con không thể làm gì tự mình, nhưng mọi sự đều vì đã trông thấy Cha làm, điều gì Người làm thì Con cũng làm như thế” (Ga 5,19).

Giáo huấn của Công Đồng Vat.II, dạy chúng ta biết về giá trị lao động trần thế: “Hoạt động của con người phát xuất từ con người, nên quy hướng về con người. Thật vậy, khi làm việc, con người không những biến đổi sự vật và xã hội, mà còn cải thiện chính mình. Bởi vì khi làm việc, con người học biết được nhiều điều, phát triển tài năng, cũng như thoát ra và vượt khỏi chính mình (*). Nếu được hiểu cho đúng thì, sự tăng triển này còn đáng gía hơn mọi của cải thu tích được. Giá trị của con người hệ tại ở “CÁI MÌNH LÀ” hơn là ở “CÁI MÌNH CÓ”. (x Hiến Chế Hội Thánh Trong Thế Giới Hôm Nay số 35).

 Như thế làm việc không nhất thiết phải đạt thành công trước mắt, nhưng đã trở nên nghĩa người hơn. Chính Đức Giêsu suốt đời làm việc không ngơi nghỉ giống Cha trên trời (x Ga 5,17), thế mà cuối đời xem ra thất bại, bị mọi người khai trừ! Nhưng chính lúc ấy, Tổng trấn ngồi xử án, lại chỉ riêng vào Đức Giêsu đang đứng trước một rừng người, và ông lớn tiếng tuyên bố: “Này là Người” (x Ga 19, 5).

Kinh thánh kết án kẻ lười: “Kẻ lười tệ kém hòn phân, ai mà đụng nó là tay phủi liền” (Hc 22,2).Ai không chu toàn bổn phận mình, nó là anh em với quân phá hoại (x Cn 18,9).

(*) Khi làm việc con người được THOÁT RA: tức là thoát ra khỏi kiếp loài vật, vì con vật ăn sẵn những gì Thiên Chúa hoặc con người tạo nên cho nó: như con sâu ăn lá cây, con gà ăn giun, con heo ăn cám… Trái lại, con người dùng thực phẩm do tay mình làm ra.

Khi làm việc con người VƯỢT KHỎI CHÍNH MÌNH, tức là nhờ làm việc, con người có thêm của cải để chia sẻ. Chính nhờ biết chia đi, mà con người được biểu lộ giống Chúa, vì Thiên Chúa làm mọi sự chỉ để ban tặng cho loài người.

II. VỚI BẢN TÍNH THIÊN CHÚA, ĐỨC GIÊSU HẾT LÒNG LÀM VIỆC NHẰM THIẾT LẬP NƯỚC THIÊN CHÚA LÀ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO.

Tất cả những việc Đức Giêsu làm trong sách Tin Mừng ghi lại chỉ nhằm mục đích cho mọi người nhận biết Ngài là Thiên Chúa cứu độ duy nhất (x Cv 4,12), để dạy mọi người cách sống yêu. Đức Giêsu đã biểu lộ tình yêu của Ngài qua việc làm: Kẻ đói Ngài cho ăn, người bệnh tật Ngài chữa lành, nhất là Ngài hết lòng rao giảng Lời Chúa Cha nhằm cứu độ loài người,và huấn luyện các môn đệ để nối tiếp sứ mệnh của Ngài. Những việc làm ấy, chỉ có giảng Lời và huấn luyện môn đệ, dù người ta chống đối, loại trừ, nhưng vẫn còn tồn tại cho đến tận thế. Như vậy, giảng Lời và huấn luyện con người,tạo chất xám phục vụ Nước Thiên Chúa quan trọng nhất. Vì ngay khi Đức Giêsu còn trên dương thế, những ai chỉ muốn Ngài cho bánh ăn, hoặc được lành bệnh, thì Ngài trốn đi cầu nguyện! (x Lc 4).

Thánh Giuse trong Tin Mừng chỉ cho biết ông làm  nghề thợ mộc, công việc này để phụ giúp Đức Maria nuôi dưỡng Đức Giêsu. Nhưng ông khuất đi rất sớm, thì chắc chắn Đức Giêsu phải vất vả tiếp nối công việc của cha Giuse để phụ kinh tế trong gia đình với Mẹ Ngài. Thế thì việc lao động cơ bắp của ông Giuse không quan trọng lắm, mà quan trọng nhất là ông luôn tỉnh thức mau mắn làm theo Lời Chúa dạy, để đóng góp vào chương trình cứu độ loài người Con Thiên Chúa thực hiện.

Thực vậy, ông Matthêu ghi lại ba lần trong đêm tối ông Giuse mau mắn chỗi dậy thực thi Lệnh Chúa truyền:

- Lần I: Ban đêm Chúa ra lệnh cho ông Giuse phải chỗi dậy đón Maria, vợ ông về chung sống, để Maria sinh Con Đấng Tối Cao được an toàn, nếu không sẽ bị người đời ném đá, và ông còn có nhiệm vụ đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu, để Đức Giêsu được sinh ra làm ứng nghiệm lời Sách Thánh đã tiên báo Đấng Cứu Thế thuộc dòng vua Đavid, vì ông Giuse thuộc dòng này (x Mt 1,18t).

- Lần II: Ban đêm Chúa ra lệnh cho ông Giuse mau chỗi dậy để đưa Hài Nhi trốn sang Ai Cập, vì vua Hêrôđê đang lùng kiếm giết Hài Nhi (x Mt 2,13-18).

- Lần III: Đang đêm Chúa bảo ông Giuse chỗi dậy đưa Maria và Hài Nhi trở về Nazareth, vì Ngài có sứ mệnh giải phóng loài người thoát nô lệ Satan, hơn sứ mệnh của ông Môsê đưa dân Do Thái thoát nô lệ Ai Cập (x Mt 2,19-23).

Ba lần trong đêm ông Giuse chỗi dậy làm theo ý Chúa tiên báo về Đức Giêsu sau ba ngày từ cõi chết sống lại, để hoàn tất việc giải phóng loài người thoát tay tử thần.

Như thế, qua Kinh Thánh Chúa muốn mọi người xác tín: Phải chu toàn việc Nước Thiên Chúa trước khi chu toàn việc trần thế, thì cuộc đời con người mới hạnh phúc. Chính vì thế mà kẻ nào chỉ lo chạy đến cầu cứu Đức Giêsu cho của ăn vật chất, hoặc được lành bệnh, thì Ngài đã trốn họ. Nếu họ cứ tìm đến Ngài, Ngài phải lên tiếng nhắc nhở: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận”. Họ liền hỏi Người: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” Đức Giêsu trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến” (Ga 6,27-29).

Vậy mọi người muốn được Chúa chăm sóc, thì phải thực hành Lời Ngài dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).

 “Tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài trước nhất”, cụ thể là mau mắn làm theo ý Chúa để chung tay phát triển Tin Mừng, xây dựng Hội Thánh, với tinh thần thánh Tông Đồ dạy: “Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha. Bất cứ làm việc gì, hãy làm tận tâm như thể làm cho Chúa, chứ không phải cho người đời,vì biết rằng anh em sẽ nhận được phần thưởng Chúa ban, là gia nghiệp dành cho dân Người. Đức Kitô là Chủ, anh em hãy phục vụ Người” (Cl 3,14.17,23-24: Bài đọc).

Muốn sống tinh thần lao động như Đức Giêsu, như thánh Giuse, ta phải cầu nguyện: “Lạy Chúa, việc tay chúng con làm xin Ngài củng cố” (Tv 90/89,). Để “ngày lại ngày, xin chúc tụng Chúa, Thiên Chúa cứu độ ta, Người đỡ nâng ta” (Tv 68/67,20).

Lễ thánh Giuse Lao Động được đặt vào đầu tháng năm, tháng Hoa kính Đức Mẹ. Hội Thánh muốn con cái mình hãy làm việc với tinh thần giống Chúa Giêsu và thánh Giuse, để trở thành những bông hoa tươi thắm dâng kính Mẹ Maria.

Bất cứ làm việc gì, hãy làm tận tâm như thể làm cho Chúa, chứ không phải cho người đời,vì biết rằng anh em sẽ nhận được phần thưởng Chúa ban, là gia nghiệp dành cho dân Người. Đức Kitô là Chủ, anh em hãy phục vụ Người (Cl 3,23-24).

------------------------------

 

01/05-26: Suy niệm ngắn về thánh Giuse thợ


--Gương Thánh Nhân

 

Vì muốn nâng cao tầm quan trọng của sức lao động của con người trong việc giữ gìn và phát 01/05-26


Vì muốn nâng cao tầm quan trọng của sức lao động của con người trong việc giữ gìn và phát triển thế giới, nên Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã thiết lập ngày lễ Thánh Giuse Thợ vào năm 1955. Nhưng sự liên hệ giữa Thánh Giuse và ý nghĩa lao động đã có từ lâu trong lịch sử.

Trong nỗ lực cần thiết để nói lên nhân tính của Ðức Giêsu trong đời sống thường nhật, ngay từ ban đầu Giáo Hội đã hãnh diện nhấn mạnh rằng Ðức Giêsu là một người thợ mộc, hiển nhiên là được cha nuôi của Ngài huấn luyện, một cách thành thạo và khó nhọc trong công việc ấy. Nhân loại giống Thiên Chúa không chỉ trong tư tưởng và lòng yêu thương, mà còn trong sự sáng tạo. Dù chúng ta chế tạo một cái bàn hay một vương cung thánh đường, chúng ta được mời gọi để phát sinh kết quả từ bàn tay và tâm trí chúng ta, nhất là trong việc xây đắp Nhiệm Thể Ðức Kitô.

Lời Bàn

"Sau đó Thiên Chúa đưa người đàn ông vào sống trong vườn Eden, để cầy cấy và chăm sóc khu vườn" (Sáng Thế 2:15). Thiên Chúa Cha đã tạo dựng nên mọi sự và muốn con người tiếp tục công trình tạo dựng ấy. Con người có phẩm giá là qua công việc, qua sự nuôi nấng gia đình, qua sự tham dự vào đời sống sáng tạo của Thiên Chúa Cha. Thánh Giuse Thợ có thể giúp chúng ta tham dự một cách sâu xa vào mầu nhiệm tạo dựng ấy. Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã nhấn mạnh đến điều này khi nói: "Thần khí chan hòa trên bạn và mọi người phát xuất từ con tim của Ðấng vừa là Thiên Chúa vừa là con người, Ðấng Cứu Ðộ trần gian, nhưng chắc chắn rằng, không người lao động nào được thấm nhuần thần khí ấy một cách trọn vẹn và sâu đậm cho bằng cha nuôi của Ðức Giêsu, là người sống với Ngài một cách mật thiết trong đời sống gia đình cũng như làm việc. Do đó, nếu bạn ao ước muốn đến gần Ðức Kitô, một lần nữa chúng tôi lập lại rằng, 'Hãy đến cùng Thánh Giuse''" (xem Sáng Thế 41:44).

 ------------------------------

 

01/05-27: Lễ thánh Giuse thợ


--Lm. Phêrô Trần Đình

 

Lễ Thánh Giuse thợ hôm nay là cơ hội giúp chúng ta suy nghĩ về ý nghĩa của lao động theo quan 01/05-27


Lễ Thánh Giuse thợ hôm nay là cơ hội giúp chúng ta suy nghĩ về ý nghĩa của lao động theo quan điểm kitô giáo.

Lao động nào cũng đổ mồ hôi. Có khi vì thế mà người kitô hữu tự nhủ mình: âu cũng chỉ là hậu quả của nguyên tội. Có thật đúng như vậy hay không?.

Kinh thánh khẳng định: lao động không phải là một hình phạt do tội, nhưng là điều kiện bình thường của con người. Trước khi con người   sa ngã, “Thiên Chúa đã đặt họ trong vườn Eđen để họ canh tác và giữ vườn” (St 2, 15). Nếu thập giới có buộc giữ ngày Sabbat thì đó là vì con người đã làm việc sáu ngày (Xh 20, 8 tt). Hình ảnh mô tả việc sáng tạo trong sáu ngày nhấn mạnh rằng: việc làm của con người hoà hợp với ý muốn của Thiên Chúa, đồng thời phản ánh hành động của Tạo Hoá. Câu chuyện này cho ta hiểu: khi tạo dựng con người giống hình ảnh Người, Thiên Chúa đã muốn tháp nhập lao động vào trong chương trình của Người và sau khi thiết định vũ trụ, Người lại đặt lao động vào tay con người với quyền chiếm hữu và cai trị trái đất (1, 28).

Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi tác động tạo dựng của Thiên Chúa được mô tả bằng cử chỉ của người thợ đang nắn con người (St 2, 7), chế tạo bầu trời với ngón tay của Người và định vị các tinh tú (Tv 8, 4).

Cho nên, kinh thánh đã nghiêm khắc với sự ở nhưng, nguyên chỉ vì người lười biếng không có gì ăn (Cn 13, 4) và có nguy cơ chết đói (21, 25). Thánh Phaolô không ngần ngại dùng lý chứng này để chứng tỏ sự sai lầm của những người ngán ngẩm lao động: “Ai không làm việc thì đừng ăn” (2 Th 3, 10). Hơn thế nữa, ở nhưng là một sự hư đốn. Kinh thánh thán phục người đàn bà luôn tỉnh thức, nàng “không hề ăn bánh của sự ở nhưng” (Cn 31, 27) đồng thời chế nhạo kẻ lười biếng: “Kẻ lười biếng lăn trở trên giường khác nào cánh cửa xoay trên bản lề” (Cn 26, 14). Tuy nhiên, kinh thánh không chút thương hại  kẻ tạc ngẫu tượng, bởi vì những cố gắng ấy không được tích sự gì (Ys 40, 19 tt ; 41, 6tt).

Nhưng vì là một dữ kiện nền tảng của đời sống con người, nên lao động đã bị ảnh hưởng sâu xa bởi tội: “Ngươi phải đổ mồ hôi trán mới có ăn” (St 3, 19). Cần hiểu cho đúng. Đối tượng lời chúc dữ của Thiên Chúa không phải là lao động cũng như không phải là chính việc sinh nở của phụ nữ. Cũng như sinh nở là chiến thắng đớn đau của sự sống trên cái chết, thì lao khổ hằng ngày của con người đánh dấu việc thể hiện quyền bính mà Thiên Chúa đã ban cho con người như đã nói trên. Quyền bính vẫn còn tồn tại, nhưng mặt đất, vì bị chúc dữ, đã trở nên đối kháng lại con người và cần phải được chinh phục. Nhà thần học R. Koch giải thích rất sâu sắc khi nói về đặc tính của các hình phạt: “Có lẽ tác giả Giavít muốn dạy ta rằng: sự thay đổi đã diễn ra trong nội tâm con người. Sau khi phạm tội, con người đã nhìn thế giới bằng cặp mắt khác”.

Người kitô hữu phải quan niệm về lao động với ý nghĩa cao cả như thế.

Tuy nhiên, trong sự cố gắng của lao động, điều tệ hại nhất là, cả khi nó đưa tới những thành công ngoạn mục, thì cái chết sẽ đến và làm cho nó trở nên vô bổ: “Ích gì những lao nhọc? Những ngày gian nan, những bận tâm công việc, những đêm dài trằn trọc? Tất cả đều là phù vân” (Hc 2, 22 tt).

Cái chết, một thực tại hiển nhiên, một “dự phóng phá đổ mọi dự phóng” (J.P.Sartre)! Thất vọng ư? Buông xuôi ư?. Không, Đức Giêsu đã đến, Người đã soi sáng lao động bằng những nghịch lý và ánh sáng của Tin Mừng: phải đề cao lao động, nhưng không được dừng lại ở đó, nếu không con người không thể ra khỏi ngõ cụt, không có lối thoát.

Phải đề cao lao động. Tại sao? Thưa bởi vì Đức Giêsu không bao giờ loại trừ lao động ra khỏi cuộc sống của Người. Đồng hương của Người đã không lầm lẫn khi gọi Người là “con bác thợ” (Mt 13, 35), “ông thợ mộc” (Mc 6, 3). Người đã sống cái “nghiệp” ấy trong 30 năm trời tại Nadarét.

Một Đức Giêsu lao động! Điều ấy có nói gì với niềm tin của chúng ta không?. Có và rất nhiều. Nói rằng Đức Giêsu lao động hay nói rằng Đức Giêsu đảm nhận thân phận con người cũng chỉ là nói một điều. Mà “cái gì không được đảm nhận thì không được cứu độ” (Thánh Irênê). Cho nên phải nói rằng, với Đức Giêsu, lao động đã mang một ý nghĩa cứu độ. 30 năm lao động âm thầm, Đức Giêsu chẳng những đã thánh hoá công việc, nhưng còn biến nó thành một phương tiện cứu độ khi liên kết nó với tất cả công trình cứu độ của Người. Và nếu cái chết của Người là cao điểm của việc cứu độ, thì quả thật mỗi hành vi của đs Người  – trong đó có lao động – đã mang ý nghĩa cứu độ này rồi, bởi vì thật ra lao động là thành phần của mầu nhiệm Nhập Thể của Đức Kitô, nếu không thì những năm trường tăm tối tại Nadarét chẳng có một ý nghĩa nào khác ngaòi miếng cơm manh áo hay sao?.

Lao động quả thật  phải được đề cao. Tuy nhiên, Đức Giêsu dạy ta không được dừng lại ở đó. Lao động chỉ là một giá trị trong bậc thang các giá trị mà thôi.

“Hãy lao công đừng vì lương thực hư nát, nhưng vì lương thực sẽ lưu lại mãi mãi đến sự sống đời đời” (Ga 6, 27). Đó là châm ngôn sống của người kitô hữu.

Khi Đức Giêsu bắt đầu cuộc đời rao giảng, Người không nói đến vấn đề lao động, nhưng chỉ nói đến Vương Quốc của Thiên Chúa đang đến và đã đến. Người xem nhẹ lao động chăng?. Hay là vì đã hiểu được nỗi cực nhọc và đắng cay của lao động?. Không, chỉ vì Nước Trời phải vượt lên trên tất cả: “Tiên vàn phải tìm kiếm Nước Trời…” (Mt 6, 33). Những điều khác: ăn, uống, mặc không phải là không quan trọng , nhưng ai quá ưu tư về các điều đó đến nỗi mất cả Nước Trời thì sẽ mất tất cả, cho dù họ có chinh phục được cả vũ trụ đi nữa (x. Lc 9, 23). Mọi cái khác đều phải lu mờ trước cái tuyệt đối là chiếm hữu được Thiên Chúa. Trong một thế giới mà “bộ mặt đang qua đi” (1 C 7, 31), thì chỉ có cái gì “gắn bó hoàn toàn với Thiên Chúa” (7, 35) mới đáng kể.

Thánh Giuse chắc hẳn là người trước tiên đã sống ý nghĩa cũng như yêu sách của lao động trong chính cuộc hiện hữu của ngài.

------------------------------

 

01/05-28: Giá trị của lao động


--5 phút Lời Chúa

“Ông này không phải là con bác thợ mộc ư?” (Mt 13,55)

 

Con Thiên Chúa Đấng Tạo thành khi xuống thế làm người, sống giữa loài người, đã được biết đến 01/05-28


Con Thiên Chúa Đấng Tạo thành khi xuống thế làm người, sống giữa loài người, đã được biết đến như là “Con bác thợ mộc”! Ngài thực sự đã đồng hoá với loài người, chia sẻ đời sống của loài người: làm việc để nuôi sống, để phát triển bản thân và xã hội. Việc Chúa tự hạ làm con người lao động thật đáng cảm kích. Và giá trị của lao động thật cao cả, vì nâng con người lên địa vị cao là con cái Thiên Chúa.

Mời Bạn: Ngày nay, con người thấy rõ giá trị của lao động và vai trò của minh trong chương trình “thống trị trái đất” (St 1,28) của Đấng Tạo Dựng, đặc biệt qua những thành tựu khoa học kỹ thuật… Tuy nhiên về phương diện xã hội và đạo đức, thì còn rất “chậm tiến”! Cứ xem những cuộc đấu tranh, lắm khi rất căng thẳng, thậm chí bạo động, xảy ra mọi nơi hiện nay, thì biết việc lao động của con người vẫn còn ở giai đoạn “kiếm sống”: hàng triệu người hiện nay vẫn đói đủ ăn!… Việc lao động để “thống trị trái đất” như Chúa muốn, phải thực sự giải phóng con người, phát triển con người toàn diện nhất là phần tâm linh.

Chia sẻ: Qua việc Thiên Chúa nhập thể làm người trong “giới lao động”, chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại việc lao động của chúng ta có giúp cho tôi và anh em tôi được xích lại gần nhau hơn không!

Sống Lời Chúa: Trước khi làm việc, dâng lên Chúa một lời nguyện xin Ngài thánh hoá việc lao động mình sắp làm.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, mỗi ngày khi con bắt đầu công việc lao động, dù là lao động trí óc hay chân tay, xin giúp con biết làm việc không chỉ để kiếm sống mà còn để làm cho trái đất này được xinh đẹp hơn và phẩm giá anh em con được tôn trọng hơn.

------------------------------

 

01/05-29: Bởi đâu ông được mọi điều ấy như thế?


--Lm. Micae Võ Thành Nhân

 

Những người quê nhà của Chúa thắc mắc như vậy: “Bởi đâu ông này khôn ngoan và tài giỏi 01/05-29


Những người quê nhà của Chúa thắc mắc như vậy: “Bởi đâu ông này khôn ngoan và tài giỏi như thế? Ông không phải là con bác thợ mộc ư? Mẹ ông không phải là bà Maria? và Giacôbê, Giuse, Simon và Giuđa không phải là anh em của ông sao? Và tất cả chị em của ông không phải ở nơi chúng ta đó sao? Vậy bởi đâu ông được mọi điều ấy như thế?” (Mt 13, 54 – 56), chúng ta có thể trả lời với họ rằng: “Chúa đươc như thế là vì Chúa là Ngôi Hai Thiên Chúa làm người mà họ không nhận ra". Họ không nhận ra vì họ mơ tưởng một vị Thiên Chúa theo ý muốn của họ, đó là Chúa phải lên làm vua để đem lại cho họ cơm, áo, gạo, tiền, danh thơm tiếng tốt…. Nhưng ý Chúa khác ý của họ, Chúa ẩn mình, Chúa sống khiêm hạ, Chúa chỉ là con bác thợ mộc Giuse, mẹ của Chúa là bà Maria làm nội trợ, Giacôbê, Giuse, Simon và Giuđa là anh em của Chúa cũng như các chị em của Chúa đang ở nơi gần họ. Họ biết rất rõ về gia đình dòng họ của Chúa, để rồi họ coi thường, họ không chịu đón nhận Tin Mừng của Chúa. Chúng ta thấy chính họ làm đỗ vỡ mối tương quan giữa họ với Chúa bởi thành kiến ganh tỵ, hơn thua với Chúa, họ cứng lòng tin với Chúa.

Ngày hôm nay, người ta vẫn hỏi chúng ta về Chúa như những người Do Thái ngày xưa, chúng ta trả lời với họ rất suông sẻ " Chúa làm được mọi sự vì Chúa là Ngôi Hai Thiên Chúa làm người ", nhưng đó là lý thuyết trên môi miệng. Câu trả lời hoàn hảo nhất là chúng ta phải sống với Chúa trước đã, chúng ta trả lời bằng chính cuộc sống của mình thì lúc đó Chúa mới đi vào cuộc sống của anh chị em chúng ta, và Lời Chúa mới lan rông khắp mọi tâm hồn trên thế giới này.

Lạy Chúa, hôm nay Giáo Hội mừng lễ thánh Cả Giuse Thợ trong hoàn cảnh thế giới có rất nhiều những khó khăn trong cuộc sống, nhất là về kinh tế, nhiều người không có công ăn việc làm, để rồi trở nên thiếu thốn, nghèo túng, bần cùng, tuyệt vọng, nợ nần. Xin Chúa qua lời bầu cử của thánh Cả Giuse Thợ cứu vớt thế giới này, cứu với nhân loại chúng con, cho mọi sự người chúng con có công ăn việc làm để chúng con bớt khổ đau, sống phụng sự Chúa và giúp đỡ anh chị em chúng con tốt hơn. Amen.

------------------------------

 

01/05-30: Lễ thánh Giuse thợ: bổn mạng các người cha gia đình

 

Việc Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người trong một gia đình lao động không phải là một 01/05-30


Việc Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người trong một gia đình lao động không phải là một cớ vấp phạm (như đối với những người đồng hương của Chúa Giêsu thời bấy giờ), nhưng mang lại một ý nghĩa cao cả cho sinh hoạt của con người nơi trần  thế. Đó là một “Tin Mừng về lao động”, khi Con Thiên Chúa đi vào đời thường của con người để giúp thánh hóa lao động, nâng cao phẩm giá lao động và mang lại ý nghĩa cho lao động.

Lao động không phải là một hậu quả của tội lỗi, bởi vì trước khi con người phạm tội, Thiên Chúa đã đặt họ vào vườn Ê-đen “để canh tác và chăm sóc”. Lao động chỉ trở nên “vất vả và  cực nhọc” khi Adong và Evà phạm tội: “ngươi phải đổ mồ hôi mới có miếng ăn”.

Nhưng giờ đây, với sự hiện diện của Chúa Giêsu trong gia đình nhân loại, xuyên qua một gia đình lao động, Ngài đã trả lại cho lao động giá trị của nó và làm  tăng thêm ý nghĩa.

Vạch ra các ý nghĩa khác nhau của lao động, trước tiên nêu lên:

+ ý nghĩa căn bản đầu tiên, đó là kiếm sống, nuôi sống bản thân. Thánh Phaolô nói: “Ai không làm thì đừng có ăn”. ừ đó mỗi người con trong giáo xứ đừng vì lười biếng mà trở nên một gánh nặng cho người khác, ăn bám người khác. Nhưng mỗi người hãy ra sức làm việc để có miếng ăn nuôi sống bản thân. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở ý nghĩa này mà thôi, thì con người vẫn thấp lè tè, vì mỗi ngày con gà, con vịt vẫn kiếm ăn.

+ Chính vì thế phải nâng cao ý nghĩa lao động con người, không chỉ kiếm tiền, kiếm sống mà  thôi, nhưng là qua lao động để hoàn thiện bản thân. Hoàn thiện không chỉ về mặt kỹ thuật, kỹ năng, nhưng còn về con người, cần được trưởng thành hơn trong nhân cách, được nhân bản hóa, trau dồi các đức tính con người: trở nên người hơn.

Bởi vì ý thức rằng một người thợ giỏi chưa phải là một con người tốt! Lao động là cơ hội con người khẳng định chính mình, như là một chủ thể lao động, với những quyền và nghĩa vụ.

+ Điều đó dẫn đến ý nghĩa thứ ba của lao động: lao động là phương tiện trao ban chính mình. Qua lao động, con người không chỉ ích kỷ nuôi sống bản thân, vơ vét cho chính mình, nhưng là trao ban và làm phong phú cho người khác: cho gia đình của mình và cho xã hội. Một người cha hay mẹ không đem tiền về nuôi sống gia đình và nuôi dưỡng con cái, nhưng đem tiêu xài, cờ bạc rượu chè, thì không phải là lao động đích thực. Và mỗi người chỉ góp phần xây dựng xã hội khi đóng góp xây dựng tích cực cho xã hội qua công ăn việc làm của mình.

Đó là tham gia vào công trình tạo dựng của Chúa bằng việc nhân bản hóa môi trường xã hội, bằng việc trao ban, như Thiên Chúa đã trao ban cho con người coi sóc và  canh tác vũ trụ, thì con người qua lao động cũng biết trao ban những gì mình làm  cho người khác.

+ ý nghĩa truyền giáo của lao động. Lao động là phương tiện để thánh hóa bản thân và thánh hóa đời sống xã hội. Nó góp phần vào việc loan báo Tin Mừng qua việc dấn thân xây dựng lòng tôn trọng phẩm giá con người, xây dựng công bằng và liên đới, không trở nên nô lệ cho công việc, cho đồng tiền (một Kitô hữu sửa xe mà gian dối thì không thể loan báo Tin Mừng được!).

Qua lao động, người Kitô hữu còn hướng đến chân trời vĩnh cửu là sự sống đời đời, chứ không chỉ hạn hẹp trong thế giới này, như Đức Bênêđíctô XVI đã nói: “Nếu không có tầm nhìn vào đời sống vĩnh cửu, sự phát triển con người sẽ thiếu sức sống trong thế giới này…” (Caritas in veritate, 11).

+ Sau cùng, đối với người Kitô hữu, lao động là họa lại hình ảnh của Chúa Kitô: không chỉ nhờ Chúa Kitô, cùng với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô thánh hóa lao động của mình, nhưng giờ đây, những làm lụng vất vả cực nhọc từ nay mặc lấy một ý nghĩa mới, chúng không còn là hậu quả của tội lỗi, nhưng là tham dự vào mầu nhiệm thập giá của Chúa Kitô. Qua lao động, con người cộng tác vào chương  trình cứu độ của Thiên Chúa.

Chính trong các ý nghĩa đó mà cha Quản xứ cầu chúc cho các người cha gia đình, trong ngày lễ bổn mạng của mình, không chỉ là những người xây dựng gia đình bằng làm lụng kiếm sống, nhưng còn là những con người biết tạo ra những giá trị và ý nghĩa trong gia đình của mình, những giá trị đức tin, luân lý và nhân bản. Đó là đỉnh cao của lao động, qua lao động con người là những chủ thể biết tạo nên các giá trị và ý nghĩa cho sinh hoạt của mình.

------------------------------

 

01/05-31: Lao động như phụng tự


“Ông ấy không phải là con bác thợ sao?” (Mt 13,55)

 

Khi Steve Jobs qua đời, nhiều người trên thế giới đã đặt nến và trái táo cắn dở trước các chi nhánh 01/05-31


Suy niệm: Khi Steve Jobs qua đời, nhiều người trên thế giới đã đặt nến và trái táo cắn dở trước các chi của tập đoàn Apple, bày tỏ lòng thương tiếc, tri ân một thiên tài đã làm thay đổi cuộc sống con người với các sản phẩm độc đáo như ipod, iphone và ipad.

Bên cạnh các tên tuổi lớn với những phát minh vĩ đại như ông, vẫn có đại đa số những con người vô danh không có một phát minh nào, nhưng lại đóng góp thật to lớn cho sự thiện hảo và hạnh phúc của con người.

Thánh Giu-se là một trong những người lao động thầm lặng ấy. Hội Thánh đặt ngài làm bổn mạng cho những người lao động âm thầm không chỉ để nói lên giá trị về các đóng góp cho hạnh phúc của gia đình và xã hội, mà còn để nêu cao mẫu gương sáng chói nhất của thánh nhân là: biến lao động thành một của lễ dâng để thờ phương Thiên Chúa.

Mời Bạn: Tựa như thánh Giu-se, công việc bạn làm không quan trọng, điều quan trọng trước mặt Chúa là cách bạn làm.

Ý hướng của bạn khi lao động và những đức tính cần thiết kèm theo khi lao động quyết định giá trị việc bạn làm trước cái nhìn của Thiên Chúa.

Sống Lời Chúa: Lao động là món quà yêu thương tôi gởi đến những người thân yêu mà tôi có nhiệm vụ chăm sóc.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa không giao phó việc giáo dục Đấng Cứu Thế cho một người cha nuôi là tiến sĩ luật hay một kinh sư, nhưng cho một bác thợ mộc.

Chúa muốn cho thấy giá trị cao cả trong lao động của con người, dù là những công việc thô sơ, đơn giản, thông thường. Xin cho chúng con có một cái nhìn mới về lao động, và sử dụng lao động như phương cách đẹp lòng Chúa.

-----------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây