THÁNH MẮC-XI-MI-LI-A-NÔ MA-RI-A KÔ-BÊ, linh mục, tử đạo
Ngày 14/8Mt 18, 15-20
Cuộc đời của một con người được đánh giá bằng những việc tốt đẹp mình đã làm, đã để lại: 14/8-1
Cuộc đời của một con người được đánh giá bằng những việc tốt đẹp mình đã làm, đã để lại cho hậu thế. Chết là hết theo quan niệm của con người. Nhưng người xưa đã để lại một câu chí lý:"Cọp chết để da, người ta chết để tiếng". Xem ra cái da của cọp có giá trị kinh tế cao, tiếng tăm của con người lại còn có giá trị hơn nữa . Con người được đánh giá bằng những công việc thiện,công việc tốt họ đã làm . Thánh Mác-xi-mi-li-a-nô Konbê cũng không khỏi định luật ngàn đời ấy . Đời của Ngài trải qua nhiều thăng trầm, nhưng cũng để lại bằng chứng anh hùng khiến bao người ca ngợi . Thánh nhân đã biến cuộc đời mình hòa tan cho tha nhân, đã gắn kết đời mình với thập giá Chúa Kitô . Một cuộc đời , một con người . Cuộc đời của thánh nhân liên kết chặt chẽ với sự khổ nạn của Chúa Giêsu . Nếu chặng đường khổ nạn dẫn Chúa Giêsu lên ngọn đồi Can-vê để lãnh nhận cái chết trên thập giá :" ơn cứu độ chứa chan nơi Người" " Khi nào Ta được treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta " . Chúa Giêsu đã qui tụ và cứu độ muôn người . Thánh Mắc-xi-mi-li-a-nô Konbê đã cứu mạng sống cho một bạn tù nhân vì hạnh phúc của anh ta, của vợ và của các con anh ta . Hành động của thánh nhân là hành động cứu độ vì thánh nhân đã chấp nhận cái chết vì hạnh phúc cho người khác . Đây là tình yêu hy sinh cao cả như lời Chúa nói :" Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu" ( Ga 15, 13 ).Thánh nhân sinh ngày 7/01/1894 tại Zdunska-wola nước Ba Lan . Năm 1918, Ngài được thụ phong linh mục Dòng Thánh Phanxicô . Cả cuộc đời linh mục của Ngài gắn chặt lấy Đức Maria vô nhiễm nguyên tội . Ngài có khiếu về báo chí, nên năm 1922, Ngài thành lập giới báo chí công giáo tại Ba Lan và năm 1930 tại Nhật Bản. Ảnh hưởng của Cha Macximilianô Konbê rất lớn không những về mặt trí thức, tư tưởng do báo chí Ngài phát hành , mà đời sống đạo đức của Ngài cũng lan rộng. Vì thế, Đức Quốc Xã đã quyết tâm trừ khử ảnh hưởng lan rộng của Ngài. Năm 1940 ,phát xít Đức đã bắt Ngài vào trại giam Oranienburg và vào năm 1941, họ chuyển Ngài vào trại giam khét tiếng Auschwitz . Trại giam này đã giết chết bao nhiêu người vô tội . Ở đây có qui luật khắt khe, cứ một tù nhân trốn trại, 10 tù nhân khác phải thế mạng . Hình phạt lúc đầu là bắn chết, nhưng để đỡ tốn đạn, họ đã bỏ đói tù nhân cho tới chết. Một ngày tháng 8 năm 1941, có một người tù trốn trại, thế là 10 người tù khác được chỉ định thay mạng trong số đó có anh lính tên Gajowniczek . Trước án tử hình oan uổng, người lính này khóc lóc thảm thiết vì anh còn vợ hiền và đàn con.Cảm động và chạnh lòng thương xót như Chúa Giêsu cảm thông, xót thương Maria, Mácta và con bà góa thành Naim , Cha Mácximilianô Konbê đã xin chết thay cho người lính tử tù trẻ . Lời xin của Ngài đã được chấp nhận. Cha và 9 người tử tù khác phải bước qua phòng hơi ngạt số 14 . Sáng hôm sau, người ta phát hiện ra Ngài còn thoi thóp thở, nên họ đã chích cho Cha một mũi thuốc ân huệ . Cha Macximilianô Konbê đã trút hơi thở đúng vào lễ vọng Đức Maria hồn xác lên trời . Cha Mácximilianô Konbê đã được Mẹ Maria đưa Cha vào trời ngay chiều áp lễ Mẹ lên trời vì suốt đời Cha đã gắn bó với Đức trinh nữ Maria vô nhiễm nguyên tội .Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nâng Cha Macximilianô Maria Konbê lên hàng chân phước ngày 17/10/1971 và Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã phong hiển thánh cho Ngài .Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con lòng nhiệt thành yêu mến tha nhân như thánh Mácximilianô Konbê đã sống và đã thực hiện trong đời mình.Xin cho chúng con lòng sốt sắng gắn bó với Đức Trinh Nữ Maria vô nhiễm như thánh Macximilianô Konbê đã sống .Xin cho chúng con biết đặt tin tương tuyệt đối vào Chúa như thánh Mácximilianô Konbê vì "chỉ trong Thiên Chúa mà thôi , hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn " ( Tv 61 ).
Ngày 30 tháng bảy năm 1941, có một tù nhân trốn ra khỏi trại tập trung Đức Quốc xã Auschwitz, tại: 14/8-2
Ngày 30 tháng bảy năm 1941, có một tù nhân trốn ra khỏi trại tập trung Đức Quốc xã Auschwitz, tại xứ Ba Lan. Viên chỉ huy trại độc ác bắt tất cả tù nhân phòng giam số 14 phải sắp hàng và hắn chọn mười người đem giam đói vào hầm tối cho đến chết để đền tội thay thế cho người đã trốn trại.
Mười người được chỉ định, trong đó có Francis Gajowniczek, đã than khóc: ẪVợ và các con khốn khổ của tôi ơi, tôi chẳng còn bao giờ được gặp lại các người nữa!Ữ Lúc đó thì có một tù nhân bước ra xin diền chỗ của anh ta. Viên chỉ huy hỏi: ẪAnh là ai? Tù nhân đã trả lời: ẪTôi là một linh mục Công giáo!Ữ Viên chỉ huy chấp thuận, cha Kolbe đã thay thế cho Francis trong số 10 người bị giam đói.
Cha Kolbe sinh năm 1894 tại Zdunsla, xứ Ba Lan. Năm 16 tuổi ngài gia nhập Dòng Phanxicô. Ngài rất yếu vì bệnh lao phổi nên thường đi nằm bệnh xá. Tuy vậy ngài là người rất nhiệt tâm và có tài tổ chức. Sau khi thụ phong linh mục, ngài liền tổ chức Phong trào Hiệp sĩ Đức Mẹ Đồng Trinh. Phong trào này phổ biến loan truyền việc tôn kính Đức Mẹ qua sách báo và rất thành công tại Ba Lan. Năm 1930, ngài dược gởi đến truyền giáo tại Nhật bản, ngài cũng thành lập Phong trào tôn sùng Đức Mẹ tại dây và đã thành công vượt mức tưỏng tượng.
Năm 1939 ngài trở về lại Ba lan khi Đức Quôc Xã chiếm đóng xứ này. Ngài sửa soạn chấp nhận mọi đau khổ gian truân với đồng bào của mình, Ngài nói: ẪTôi muốn được chịu đựng dau khổ và chết một cách anh hùng dù phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để mang thế giới về cho Đức Mẹ Chúa Trời!Ữ
Cha Kolbe bị bắt giữ tháng 2 năm 1941 và tháng năm thì bị giải về Auschwitz. Bị hành hạ đánh đập, ngài đã làm việc cực nhọc trong ba tháng dù bị bệnh lao phổi rất nặng. Trong lúc đó cha Kolbe luôn nêu gương đức tin cho các tù nhân và khuyến khích họ dừng bao giờ để mất niềm hy vọng vào Thiên Chúa và Đức Mẹ.
Cuộc khổ nạn bắt đầu khi chúng đem nhốt cha Kolbe vào hầm tối vào tháng 7 năm 1941. Ở đó không có gí để uống chỉ có uống nước tiểu của mình để qua cơn khát dữ dội. Cha Kolbe suốt ngày đêm hướng dẫn các bạn tử tội đọc kinh, sửa soạn cho họ được chết trong niềm hy vọng. Họ lần lượt ra đi, đến ngày 14 tháng 8 chỉ một mình cha Kolbe và ba người nữa còn sống sót. Bọn Đức Quốc Xã không muốn chờ đợi lâu hơn được nữa nên chúng đem các tù nhân sống sót ra tiêm thuốc độc và đem đốt tại lò thiêu sống.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phao lồ II, khi còn là Giám mục Cracow thường dến cầu nguyện nơi Cha Kolbe tử đạo. Năm 1982 khi là Giáo Hoàng, ngài đã chủ tọa cuộc phong hiển thánh cho cha Maximilian Kolbe tại Roma.
Hiện diện trong buổi lễ có Francis Gajowniczek, mà cha Kolbe đã chết thay cho ông. Đức Thánh Cha nói: Cha Kolbe là đấng tử đạo và là đấng thánh của thời đại, lòng bác ái đã vượt qua mọi thử thách và sự chết. Đức Thánh Cha đã đọc lên lời Phúc Âm của Thánh Gioan: ẪKhông có tình yêu nào lớn hơn là người đã hy sinh mạng sống của mình cho bạn hữu.
Cuộc đời của một con người được đánh giá bằng những việc tốt đẹp mình đã làm, đã để lại Ngày 14/8-3
cho hậu thế. Chết là hết theo quan niệm của con người. Nhưng người xưa đã để lại một câu chí lý: “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”. Xem ra cái da của cọp có giá trị kinh tế cao, tiếng tăm của con người lại còn có giá trị hơn nữa .Con người được đánh giá bằng những công việc thiện,công việc tốt họ đã làm.
Thánh Mác-xi-mi-li-a-nô Konbê cũng không khỏi định luật ngàn đời ấy . Ðời của Ngài trải qua nhiều thăng trầm, nhưng cũng để lại bằng chứng anh hùng khiến bao người ca ngợi .Thánh nhân đã biến cuộc đời mình hòa tan cho tha nhân, đã gắn kết đời mình với thập giá Chúa Kitô . Một cuộc đời , một con người . Cuộc đời của thánh nhân liên kết chặt chẽ với sự khổ nạn của Chúa Giêsu .Nếu, chặng đường khổ nạn dẫn Chúa Giêsu lên ngọn đồi Can-vê để lãnh nhận cái chết trên thập giá :” ơn cứu độ chứa chan nơi Người ” ” Khi nào Ta được treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta ” . Chúa Giêsu đã qui tụ và cứu độ muôn người .Thánh Mắc-xi-mi-li-a-nô Konbê đã cứu mạng sống cho một bạn tù nhân vì hạnh phúc của anh ta, của vợ và của các con anh ta . Hành động của thánh nhân là hành động cứu độ vì thánh nhân đã chấp nhận cái chết vì hạnh phúc cho người khác . Ðây là tình yêu hy sinh cao cả như lời Chúa nói :” Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu ” ( Ga 15, 13 ).
Thánh nhân sinh ngày 7/01/1894 tại Zdunska-wola nước Ba Lan . Năm 1918, Ngài được thụ phong linh mục Dòng Thánh Phanxicô . Cả cuộc đời linh mục của Ngài gắn chặt lấy Ðức Maria vô nhiễm nguyên tội .Ngài có khiếu về báo chí, nên năm 1922, Ngài thành lập giới báo chí công giáo tại Ba Lan và năm 1930 tại Nhật Bản. Ảnh hưởng của Cha Macximilianô Konbê rất lớn không những về mặt trí thức,tư tưởng do báo chí Ngài phát hành , mà đời sống đạo đức của Ngài cũng lan rộng. Vì thế, Ðức Quốc Xã đã quyết tâm trừ khử ảnh hưởng lan rộng của Ngài. năm 1940 ,phát xít Ðức đã bắt Ngài vào trại giam Oranienburg và vào năm 1941,họ chuyển Ngài vào trại giam khét tiếng Auschwitz . Trại giam này đã giết chết bao nhiêu người vô tội .Ở đây có qui luật khắt khe, cứ một tù nhân trốn trại, 10 tù nhân khác phải thế mạng . Hình phạt lúc đầu là bắn chết, nhưng để đỡ tốn đạn, họ đã bỏ đói tù nhân cho tới chết. Một ngày tháng 8 năm 1941, có một người tù trốn trại, thế là 10 người tù khác được chỉ định thay mạng trong số đó có anh lính tên Gajowniczek . Trước án tử hình oan uổng, người lính này khóc lóc thảm thiết vì anh còn vợ hiền và đàn con.Cảm động và chạnh lòng thương xót như Chúa Giêsu cảm thông,xót thương Maria, Mácta và con bà góa thành Naim , Cha Mácximilianô Konbê đã xin chết thay cho người lính tử tù trẻ . Lời xin của Ngài đã được chấp nhận. Cha và 9 người tử tù khác phải bước qua phòng hơi ngạt số 14 . Sáng hôm sau, người ta phát hiện ra Ngài còn thoi thóp thở, nên họ đã chích cho Cha một mũi thuốc ân huệ . Cha Macximilianô Konbê đã trút hơi thở đúng vào lễ vọng Ðức Maria hồn xác lên trời . Cha Mácximilianô Konbê đã được Mẹ Maria đưa Cha vào trời ngay chiều áp lễ Mẹ lên trời vì suốt đời Cha đã gắn bó với Ðức trinh nữ Maria vô nhiễm nguyên tội .
Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nâng Cha Macximilianô Maria Konbê lên hàng chân phước ngày 17/10/1971 và Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã phong hiển thánh cho Ngài .
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con lòng nhiệt thành yêu mến tha nhân như thánh Mácximilianô Konbê đã sống và đã thực hiện trong đời mình.
Xin cho chúng con lòng sốt sắng gắn bó với Ðức Trinh Nữ Maria vô nhiễm như thánh Macximilianô Konbê đã sống .
Xin cho chúng con biết đặt tin tương tuyệt đối vào Chúa như thánh Mácximilianô Konbê vì “chỉ trong Thiên Chúa mà thôi , hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn ” ( Tv 61 ).
CAN ĐẢM LÀM CHỨNG CHO ĐỨC KITÔ NHƯ THÁNH MACXIMILIANÔ KÔNBÊ
Thánh Mác-xi-mi-li-a-nô Kôn sinh tại Đun-ka Quô-la, nước Ba-lan, năm 1894. Lớn lên, thánh nhân Ngày 14/8-4
Thánh Mác-xi-mi-li-a-nô Kôn sinh tại Đun-ka Quô-la, nước Ba-lan, năm 1894.
Lớn lên, thánh nhân có lòng ước muốn phụng sự Chúa và phục vụ các linh hồn, nên đã xin nhập dòng Phan-xi-cô, Ngài chuyên cần học hỏi thần học, kinh tế và hằng ngày chịu khó tập rèn nhân đức.
Năm 1918, thánh nhân được thụ phong Linh mục. Từ đó ngài hiến mình cho công cuộc truyền giáo, xả thân cứu rỗi các linh hồn. Đặc biệt ngài hết lòng vâng phục kẻ trên và tôn sùng Đức Ma-ri-a Vô Nhiễm, và hằng cậy nhờ Mẹ nâng đỡ phù trì trong mọi công tác tông đồ mục vụ.
Trong một bức thư gởi cho đồng nghiệp, thánh nhân đã kêu gọi phải lấy lòng nhiệt thành lo cho các linh hồn được cứu rỗi và thánh hoá, nhờ đức tuân phục và lòng sùng kính Mẹ Ma-ri-a:
“Đây là đường lối khôn ngoan, là con đường duy nhất mà qua đó chúng ta có thể quy chiếu vinh quang cao cả về cho Thiên Chúa. Nếu có con đường nào khác và thích hợp hơn thì chắc chắn Đức Ki-tô đã bày tỏ cho ta bằng lời nói và gương mẫu của Người. Nhưng Kinh Thánh đã tóm gọn thời gian Người sống ở Na-da-rét bằng những lời nầy: và Người vâng phục các ngài. Kinh Thánh cũng phác hoạ cả quảng đời còn lại gần như bằng dấu chỉ vâng phục, khi cho thấy ở một số đoạn rải rác là Người đã xuống thế gian để làm theo ý Cha. Vì vậy, chúng ta hãy yêu mến và đầy lòng yêu mến Cha trên trời là Đấng rất yêu thương, và chớ gì sự vâng phục của ta làm chứng cho lòng mến hoàn hảo nầy. Khi nào ta hy sinh ý riêng, khi ấy ta tỏ ra vâng phục nhất. Vì chưng, chúng ta không biết một phe cánh cao quý nào khác hơn là chính Đức Giêsu-Kitô chịu đóng đinh, để chúng ta tiến triển trong tình yêu của Thiên Chúa.
Chúng ta sẽ có được mọi điều đó dễ dàng hơn nhờ Đức Trinh nữ Vô Nhiễm, Đấng được Thiên Chúa chí nhân ủy thác việc ban phát lòng thương xót của Người. Thực vậy, điều chắc chắn là ý muốn của Đức Ma-ri-a là chính ý muốn của Thiên Chúa đối với ta. Khi tự hiến mình cho Mẹ, chúng ta trở thành dụng cụ của lòng thương xót Chúa trong tay Mẹ, như chính Mẹ là dụng cụ trong tay Thiên Chúa. Do đó, chúng ta hãy cho Mẹ hướng dẫn, để Mẹ dẫn dắt ta đi, và chúng ta sẽ được yên hàn bình an khi có Mẹ dìu dắt. Vì chưng, Mẹ sẽ xem xét và tiên liệu mọi sự cho ta, sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu thể xác linh hồn. Chính Mẹ sẽ tháo gỡ các khó khăn trở ngại”.
Phương pháp làm đặc biệt của thánh nhân là dùng báo chí truyền bá đức tin và củng cố lòng đạo. Ngài đã mời nhiều người cộng tác và xuất bản báo Công giáo ở Ba-lan và Nhật-bản. Năm 1927, ngài sáng lập nhà xuất bản, chuyên in ấn sách báo Công giáo, phổ biến giáo thuyết Chúa Ki-tô, cổ võ lòng tôn sùng Đức Mẹ Vô Nhiễm. Đồng thời ngài cũng thành lập đài phát thanh, tuyên truyền cổ động cho Nước Chúa Trị Đến.
Thấy ngài gây được nhiều ảnh hưởng lớn lao trong quần chúng, năm 1940, phát xít Đức bắt giam ngài tại Ốt-quít; đây là một trại tập trung rất khổ cực, kỷ luật gắt gao. Trong các quy luật đó, có điều khoản qui định: khi một tù nhân trốn trại, thì 10 người khác phải chết thế. Vậy một ngày trong tháng 8 năm 1941, có một tù nhân trốn khỏi trại, và người ta đã chỉ định 10 người chết thế; trong số đó có anh Ga-đô-nít-sét. Anh kêu la than khóc thảm thiết khi bị chỉ định chết thế, vì anh còn mẹ già con thơ, không ai nuôi dưỡng ! Đứng trước thảm cảnh đó, cha Mắc-xi-mi-en Kôn không thể cầm lòng nổi, và vì lòng mến Chúa yêu người, cha đã xin chết thay cho anh…
Thế là 10 người tử tù, trong số đó có cha Mắc-xi-mi-en Kôn, bị đẩy vào phòng hơi ngạt cho đến chết cách đau đớn !…
Thánh nhân đã được Đức Giáo Hoàng Phao-lô 6 nâng lên Chân phước và Đức Gioan-Phaolô 2 tôn phong Hiển thánh.
Tin Mừng được gói trọn trong hai điều răn là: “Mến Chúa và yêu người”; nói cách khác: “Mến Chúa và yêu người là hai mặt của một thực tại”. Thật vậy, nếu nói mến Chúa mà không yêu người thì là người nói dối vì sự thật không ở trong người đó. Vì thế, luật Tin Mừng đòi hỏi mến Chúa và yêu người phải luôn đi đôi với nhau.
Hôm nay, Đức Giêsu dạy cho người thanh niên một Ngày 14/8-học về sự tha thứ khi anh ta đến hỏi: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?”. Đức Giêsu liền nói: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”. Điều đó cho thấy rằng: tha thứ triền miên, tha thứ không giới hạn…
Nhưng muốn tha thứ trong tự do và đem lại hạnh phúc, thì điều quan trọng là nhận ra mình không là gì cả, nhưng vẫn được Chúa yêu thương. Mình đáng phải chết mà Chúa đã cứu sống và tha thứ, vì thế, mình phải có trách nhiệm cứu giúp và yêu thương anh chị em đồng loại như Chúa đã thương mình. Dụ ngôn “Tên mắc nợ không biết thương xót” là điều mà con người hay mắc phải. Tức là chỉ cầu cứu Thiên Chúa tha thứ cho mình, còn người khác khi có lỗi với mình, mình tìm mọi cách triệt tiêu cho bằng được.
Mỗi người Kitô hữu chúng ta được mời gọi canh tân, thực hiện cuộc hoán cải nơi chính bản thân mình bằng cách đi vào mối tương quan cá vị, thân tình với Đức Giêsu Kitô để chính mình được phúc âm hóa. Tin mừng, lời dạy của Đức Giêsu Kitô phải thấm nhập vào trong con tim, khối óc chúng ta, để chúng ta có thể sống tình thương yêu thực sự với người anh chị em, mong muốn điều tốt lành cho họ và giúp họ thăng tiến; đồng thời xây dựng một đời sống cộng đồng lành mạnh, tốt đẹp tiến tới sự hiệp nhất như Đức Giêsu mong muốn.