Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 2 ABC Bài 301-350 Chúa biến hình cho thấy một thoáng vinh quang Thiên Giới ------------------------------------
Năm A: Phúc Âm: Mt 17, 1-9: "Mặt Người chiếu sáng như mặt trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu đã gọi Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông này, và Người đưa các ông tới chỗ riêng biệt trên núi cao. Người biến hình trước mặt các ông: mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết. Và đây Môsê và Êlia hiện ra, và đàm đạo với Người. Bấy giờ ông Phêrô lên tiếng, thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thầy ưng, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Lúc ông còn đang nói, thì có một đám mây sáng bao phủ các Ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán rằng: "Ðây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người". Nghe thấy vậy, các môn đệ ngã sấp xuống, và hết sức sợ hãi. Bấy giờ Chúa Giêsu đến gần, động đến các ông và bảo: "Các con hãy đứng dậy, đừng sợ". Ngước mắt lên, các ông thấy chẳng còn ai, trừ ra một mình Chúa Giêsu. Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các ông rằng: "Các con không được nói với ai về việc đã thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại". - Ðó là lời Chúa.
Năm B: Năm C: -------------------------------------
Tại nước Mêhicô, người ta thường tổ chức những cuộc đấu võ rất ác liệt. Đó là một loại võ tự do, nên các võ sĩ có thể phục sức tuỳ sở thích và có thể mang cả mặt nạ trong khi đấu võ.
Một linh mục tên là Gaêtanô đang làm công tác xã hội để giúp nuôi các trẻ em nghèo và mồ côi. Để có thêm tiền cho mục đích này, cha Gaêtanô liền nghĩ đến chuyện ghi danh tham dự các trận đấu.
Với một thân bình to lớn, thông thạo võ thuật và đầy lòng dũng cảm, mỗi khi lên võ đài, cha Gaêtanô mang một chiếc mặt nạ màu vàng để che dấu tung tích của mình. Ngài thường đấu với những đối thủ hung hãn nhất. Tất cả tiền thưởng hoặc thù lao nhận được, cha đều dành cho quĩ cứu trợ các trẻ em nghèo và mồi côi. Từ đó, chiếc mặt nạ vàng trở thành biểu tượng cho tấm lòng vàng của cha Gaêtanô.
Thưa anh chị em,
Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên võ đài cha Gaêtanô là một võ sĩ mang mặt nạ vàng, ở giữa đàn con cô nhi của cha. Cha là một linh mục sống hoàn toàn cho người khác, phản ảnh tình yêu cuả Thiên Chúa, một tình yêu cho đi mà không tính toán, không so đo, không sợ thương tích.
Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên núi Tabo, khuôn mặt Chúa Giêsu bừng sáng ánh hào quang của một Thiên Chúa. Ơ giữa loài người, Con Thiên Chúa vẫn mang khuôn mặt bình thường như chúng ta. Ba môn đệ đã quá quen với khuôn mặt Thầy Giêsu, khuôn mặt dãi dầu mưa nắng vì sứ vụ, khuôn mặt chan chứa mọi thứ tình cảm con người. Rồi đây, ba môn đệ này còn phải làm quen với khuôn mặt khổ đau trong Vườn Cây Dầu và khuôn mặt đẫm máu trên Thập giá của Thầy Giêsu. Biến hình chỉ là một hào quang phục sinh sắp đến. Thân xác Chúa Giêsu sẽ được vào vinh quang viên mãn khi thân xác âý chịu lăng nhục vào đóng đinh vì yêu Cha và yêu con người đến tột cùng.
Ở bài đọc 1 hôm nay, sách Sáng thế đã cho ta thấy: Thiên Chúa đã dung tha cho Abraham khỏi sát tế Isaac, người con duy nhất của lời Hứa. Nhưng Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một yêu quí của Ngài. Như lời Thánh Phaolô: “Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một mình, nhưng lại phó nộp vì tất cả chúng ta, há Ngài lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Ngài sao? (Rm 8,32). Nếu Thiên Chuá đã ban cho chúng ta Người Con duy nhất của Ngài thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa? Abraham là hình ảnh của Cha trên trời, không ngại dẫn con mình đến thật giá trên núi Sọ. Hơn nữa, hình ảnh của Isaac vác củi đi theo cha và bằng lòng để cho sát tế, cũng hướng chúng ta về cuộc Thương Khó: Chúa Giêsu vác lấy Thập giá rồi tự biến mình trên Thập giá theo ý Chúa Cha.
Trong cuộc biến hình huy hoàng rực rỡ của Chúa Giêsu trên núi Tabo, chính Chúa Cha đã xác quyết một lần nữa: “Chúa Giêsu chính là Người Con yêu quý của Thiên Chúa”. Người con trong thực tế rực rỡ vinh quang của Thiên Chúa, nhưng đã ẩn che vinh quang đó để đi vào con đường vâng phục cho đến chết và chết trên Thập giá, để dẫn đưa nhân loại đi qua cùng một con đường Thập giá đến vinh quang phục sinh. Cảnh tượng huy hoàng của núi Tabo hôm nay sẽ củng cố lòng tin của chúng ta khi đứng trước cảnh tượng tang thương trên Núi Golgôtha, đồng thời nhắn nhủ chúng ta phải biết tìm ra sức sống phong phú bên kia cái chết với Chúa để sống lại vinh quang với Ngài, đó là định luật căn bản của Kitô giáo. Abraham, “người Cha của mọi kẻ có lòng tin” đã lấy chính cuộc đời mình làm sáng tỏ định luật căn bản đó. Và cuộc biến hình trên núi Tabo cũng nhằm chứng minh định luật tất yếu chết để sống cuộc đời Chúa Kitô cũng như của chúng ta trên đường về cõi sống.
Chúng ta cũng được biến hình, được bừng sáng, nếu chúng ta dám yêu thương, dám từ bỏ cái tôi ích kỷ, để cái tôi đích thực được lộ ra, trong sáng. Thế giới hôm nay không thấy Chúa biến hình sáng láng, nhưng họ ó thể cảm nghiệm được phần nào, khi thấy các Kitô hữu có khuôn mặt vui tươi, chan chứa niềm tin, tình thương và hy vọng, như khuôn mặt mang mặt nạ vàng của Cha Gaêtanô trên võ đài, tượng trưng tấm lòng vàng của Cha đối với các em nghèo và mồ côi.
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu, “Người Con Một yêu quý của Cha, người đẹp lòng Cha”, đã chấp nhận tạm gác bỏ, dấu kín vinh quang Ngài vốn có từ thuở nơi Chúa Cha, để hoá thân làm người hầu cứu rỗi chúng ta, Ngài còn hy sinh đến cùng độ, hy sinh chính mạng sống mình theo ý Chúa Cha nữa. Vì thế, Ngài đã được Chúa Cha tôn vinh trên hết mọi loài, sau khi cho Ngài được Phục Sinh từ cõi chết.
Mầu nhiệm này đã được thực hiện trọn vẹn một lần trong lịch sử, nhưng hằng ngày, đặc biệt trong thánh lễ, mầu nhiệm ấy còn được tưởng niệm, tái hiện trên bàn thờ. Tham dự Thánh Thể, dấu hiệu và bằng chứng tình yêu của Chúa Kitô, chúng ta bày tỏ lòng yêu mến Chúa, biết ơn Chúa và cố gằng đổi mới đời sống hằng ngày của chúng ta,góp phần làm cho thế giới này biến hình đổi dạng trở nên Trời Mới Đất Mới trong ngày Chúa Giêsu Kitô trở lại trong vinh quang.
Maccô không nói phải dựa vào sự kiện nào để tính “sáu ngày" trên. Một lần nữa, sự thiếu chính xác này cho ta thấy, không nên đọc Tin Mừng theo cách thông thường. Đối với người Do Thái, đối với mọi người đã làm quen với Kinh thánh, thì "sáu ngày" trên chỉ là một kiểu nói thần học. Đó là thời gian cần thiết để con người thanh tẩy trước khi đến gần Thiên Chúa: "Sáu ngày sau, từ giữa đám mây, trên núi Sinai, Thiên Chúa mới gọi Môsê" (Xh 24,16). Chúng ta hãy lưu ý những từ: "sáu ngày"... "Môsê"... "đám mây"... "núi "... Trình thuật của Maccô cũng được dệt bằng những hình ảnh Kinh thánh như thế. Nhưng còn mang ý nghĩa hơn: Có phải là ngẫu nhiên mà “Lễ lều tạm" (Yom Sukkôt) tại Israel lại xảy ra sáu ngày sau "Lễ xá tội" (Yom Kippour) không? Vì thế Lễ lều tạm là lễ người ta dựng những lều bằng cành lá, làm nới trú ẩn mỏng manh trong thời gian lang thang nơi hoang địa, tượng trưng cho sự mỏng dòn của con người trên bước hành trình về Miền Đất Hứa. Sau này Phêrô cũng muốn dựng một nhà trú, một lều tạm.
Phêrô, Giacôbê và Gioan
Đức Giêsu không mời gọi tất cả các môn đệ, nhưng chỉ chọn có ba ông! Chi tiết đó cũng không phải là một ngẫu nhiên, mà nếu đọc qua ta có thể không để ý đến. Chính ba" môn đệ này đã chứng kiến việc Đức Giêsu làm bồi sinh bé gái 12 tuổi (MC 5,37), và chính ba ông này sẽ chứng kiến cơn hấp hối của Người tại Ghét-sê-ma-ni (MC 14,83).
Họ có phải là những con người được đặc ân không? Không phải vậy. Họ chỉ là ba con người sống những cảm nghiệm đặc biệt, để có khả năng nâng đỡ đức tin cho kẻ khác. Tại sao ta lại hay so bì và ghen tị? Mỗi người chúng ta cũng đều nhận được một ân riêng, độc nhất; ơn đó không chỉ dành riêng cho mình, nhưng để thông truyền cho kẻ khác.
Chỉ có ba ông, đi riêng với Người, lên một ngọn núi cao...
Đó là những điều kiện theo truyền thống Kinh thánh, để "gặp gỡ Thiên Chúa". Một đầu óc hiện đại có thể phản ứng lại. Thiên Chúa ở khắp nơi mà! Tại sao cứ phải bày vẽ ra như thế? Đúng vậy! Nhưng chúng ta là loài có thân xác nên không thể tránh bỏ một số những biểu tượng. Riêng tôi; tôi thấy hình ảnh đó thật đẹp và rất hùng hồn: Nào ta hãy tiến lên với "Thiên Chúa" (Xh 24,1-34,2; 1V 18,20-19,8-11). Bạn hãy đứng trên núi! Hãy tạo lập cho bạn một núi trong i.âm hồn, một đỉnh núi cô tịch và diện kề với Chúa. Hãy biết tận dụng những chân trời mở rộng! Bạn sẽ không khi nào nhìn thấy những chân trời đó, nếu không chấp nhận rời bỏ thung lũng, nương theo nhưng con đường mòn mà leo cao, nếu không chịu khổ nhọc lâu dài, thả dốc trên những đỉnh cao trước không khí loãng nhạt và gay gắt nếu không chịu tách xa đám động dân chúng.
Và Người biến đồi hình dạng trrớc mắt các ông
Khi con người cố diễn tả những tương quan giữa Thiên Chúa và thế gian, họ luôn bị dao động giữa hai do dự, hai quan niệm:
Một quan niệm "bi quan": Cần phải tiêu diệt thế gian để nhận thấy Thiên Chúa. Ta có thể gọi quan niệm đó là quan niệm của Thánh Au tinh, Luther và phái Tin lành phục hưng cách mạnh mẽ.
- Một quan niệm "lạc quan": Chính "thế gian này" là Nước Thiên Chúa. Người ta đề cao giá trị của con người và thế giới và làm giảm nhẹ ảnh hướng của Thiên Chúa. Đây có thể là cơn cám dỗ của người Công giáo, thường biến Giáo Hội trở nên một cái gì tuyệt đối, là Nước Trời đã đến.
- Nhưng cũng có một "quan niệm thứ ba biến dạng" Vâng, xác thịt là tốt và thân xác là do Thiên Chúa muốn tạo ra. Vâng, thế gian là tạo vật của Chúa, nhưng đó chỉ
là "hình ảnh", là "họa ảnh" tương tự của Thiên Chúa. Để thực sự tốt hẳn, thế gian không cần bị "tiêu diệt", nhưng cần được "biến dạng". Trên núi, Đức Giêsu không để một ánh sáng từ ngoài rọi chiếu vào, nhưng chính Người, trong thân xác Người, đã là ánh sáng. Và tất cả những gì là xác thịt trong ta, cũng phải trở nên ánh sáng, trong suốt, tinh thần. Bên Phương Đông thuộc Chính thống giáo, lễ Biến Hình là đại “Lễ", Lễ tôn kính Hình tượng, Con người được Thiên Chúa xuyên qua. Trong thời kỳ tập sự, không chỉ nhắm học một "kỹ thuật", người họa sĩ hình tượng trước hết phải về một ảnh Đức Giêsu biến hình, để chứng tỏ anh ta có khả năng vẽ được một khuôn mặt người – hình ảnh - của Thiên Chúa hay không. Đó là cả một quan niệm về cuộc đời, về xã hội loài người, về Giáo Hội, về phụng vụ mà mục đích là giúp ta rập theo đúng khuôn Đức Giêsu. Nếu những cách nhìn này có vẻ làm chúng ta choáng váng, thì có lẽ chúng ta phải khám phá ra ý nghĩa đích thực của Phép rửa, bí tích đã "dìm" ta trong Đức Kitô, đã làm cho ta được "tham dự vào bản tính của Thiên Chúa" (2 Pr 1,4). Đúng ra, toàn diện đời sống Kitô hữu chúng ta chỉ là một sự thông phần, một biến hình trong Đức Kitô. Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương. Như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như cao bởi tác động của Chúa là Thần khí" (2 Cr 3,18).
Chắc chắn, ở dưới trần gian này, mầu nhiệm phi thường đó - nghĩa là sự biến đổi thực sự con người trong Thiên Chúa vẫn không thể thấy đọc. Tuy nhiên, sự biến hình của ta đã đạt được, dù còn bí ẩn, nhưng một ngày nào đó sẽ bùng tỏa ra: "Sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang" (Cl 3,3-4).
Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy.
Đừng coi thánh Phêrô và thánh Maccô, thư ký của ông, lại ngây ngô hơn ta. Đó là những con người rất thực tế những kẻ bình dân, không phải là các nhà trí thức. Các ông mới biết mở miệng, nhưng chưa biết phải nói thế nào về cảm nghiệm phi thường đã "xảy đến" cho mình. Như thế cả chúng ta nữa, ta cũng không nên dừng lại ở mức độ sơ đẳng là "giặt sạch nhất", "trắng nhất". Vấn đề không nằm ở yếu tố đó.
Một lần nữa, chúng ta đang nằm trong lĩnh vực ngôn ngữ Kinh Thánh biểu tượng: Màu trắng là màu của thế giới trên trời và không gì ở trần thế so sánh được. Đó là màu của thiên sứ hiện đến lúc Phục sinh (Mt 28,3), lúc Chúa lên trời (Cv l,10). Đó là màu của những kẻ chiến thắng (Kh 3,4.20). Ao trắng khi chịu phép rửa, lúc tuyên xưng đức tín, áo trắng của cô dâu, áo trắng của linh mục lúc dâng lễ đều lấy lại hình ảnh biểu tượng này. "Anh em được mặc lấy Đức Kitô" (Gl 3,27). "Cái thân sẽ chết này sẽ mặc lấy sự bất tử" (l Cr 15,53). "Anh em hãy cởi bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới" (Cl 3,10).
Ong Êlia cùng Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu.
Môsê và Elia tượng trưng cho sự mong đợi của Israel được ghi trong "lề luật" và các "ngôn sứ". Chúng ta cũng! cần ghi nhận, họ không chỉ là những nhân vật đứng ra “làm vì". Đó là khuôn mặt tiêu biểu, đã chết trước đó nhiều thế kỷ mà lại hiện diện đồng thời với Đức Giêsu và đang nói chuyện với Người. Họ đang liên hệ sống động với Chúa. Đó là thứ ánh Sáng chiếu trên cuộc sống bên kia thế giới. Anh Sáng chiếu tỏa trên những người quá cố của chúng ta. Cái chết thay vì là kết điểm. Có phải là một "cửa ngõ" dẫn chúng ta vào thế giới của Thiên Chúa không?
Trong Cựu ước Môsê và Êlia là hai nhân vật vĩ đại đã được Thiên Chúa mạc khái cho "trên núi". Và truyền thống Do Thái vẫn mong đợi hai vị trở lại vào lúc kết thúc thời gian chuẩn bị cho Đấng Mêsia đến (Mt 3,22-ABC24). Vả lại theo thánh Maccô, thì đó cũng là câu hỏi mà các môn đệ đã đặt ra cho Chúa Giêsu, ngay sau khi diễn ra quang cảnh trên (MC 9,11-13).
Cùng với Đức Giêsu, thời cánh chung đã khởi sự.
Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây hay quá! Chúng con xin dựng ba cái lều”. Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông sợ quá.
Một lần nữa, Phêrô lại đóng vai phát ngôn viên. Chính ông, trước đó vài hôm, lúc ở Xêdarê đã nhân danh cả nhóm 'tuyên xứng đức tin" (MC 8,27-33). Chính ông đã đóng vai satan cám dỗ Đức Giêsu khước từ thập giá (MC 8,33). Hôm nay, ông vẫn chưa hiểu hơn gì. Đó là một “người chứng" không vẽ vời điều gì thêm. Các biến cố xảy đến cho ông, đều mang tính cưỡng ép, trái với ý ông. Sau này, ông sẽ viết: Đó không phải là những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo; chính chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người, khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người (2 Pr 1,16-18). Chúng ta cũng nên đọc lại đời ông: Phêrô không phải là con người chiêm niệm huyền bí; đó chỉ là anh chàng làm nghề biển! Chúng ta có thể tin tưởng vào khiếu quan sát của ông. Ngoài ra, ông cũng nhận ra rằng, đó là điều không thể hiểu được. Nhưng điều đó buộc ông phải chấp nhận. Ông không biết phải nói gì.
Bỗng có một đám mây bay đến bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người".
Theo kiểu nói biểu tượng đám mây là "Sự hiện diện của Thiên Chúa" (Xh 16,10; 19,9; 24,15; Ds 14,10). Tiếng nói trên đây cũng chính là tiếng nói ngày Đức Giêsu chịu phép rửa (MC 1,11). Nhưng lúc đó, tiếng nói đó chỉ dành cho Đức Giêsu. Còn hôm nay, tiếng phán này gửi cho các môn đệ.
Vậy Đức Giêsu là ai? Để đáp lại câu hỏi cơ bản này, ta không thể vận dụng "những suy luận" cá nhân, cũng không nhờ vào "những nghiên cứu Kinh Thánh", nhưng qua cách cầu nguyện "riêng một mình trên núi"; nếu ta biết lắng nghe! Căn tính đích thực của Đức Giêsu mà ta biết được chỉ nhờ Chúa Cha mạc khải. Đó là điều vượt khỏi khả năng nắm bắt của con người.
Ở trên núi xuống, Đức Giêsu cấm các ông không được kể lại cho ai nghe những điều đã thấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu "từ cõi chết sống lại" nghĩ a là gì?
Cần phải có Thập giá và Phục sinh, để các môn đệ khám phá ra căn tính đích thực của Chúa Giêsu.
Đức giám mục Curtis một lần tới thăm Đức hồng y Newman. Hai người đàm đạo lâu giờ về đủ thứ chuyện. Đức hồng y Newman cho Đức giám mục Curtis biết: Tòa Thánh đã cho ngài đặc ân được đặt Mình Thánh trong phòng. Không ngờ tin này làm Đức giám mục Curtis xúc động mạnh, đến nỗi khi Đức hồng y mời Đức giám mục Curtis ở lại ban đêm, ông trả lời: “Tôi không thể nào ngủ được khi biết Chúa của tôi đang ở với tôi chung một mái nhà”.
Đã hẳn bao giờ Thiên Chúa cũng ở bên ta vì Người là Thiên Chúa toàn năng hiện diện khắp nơi, nhưng một khi chúng ta ý thức điều đó, một khi có bằng chứng nhắc nhớ tới sự kiện đó, thì thường làm ta xúc động mãnh liệt. Ta biết điều này khi đọc thấy thái độ của các Tông đồ được chứng kiến Chúa tỏ vinh quang. Chúa là niềm vui tột đỉnh, là an ủi tràn đầy cho các tâm hồn. Và có thể định nghĩa thiên đàng là sự ý thức rõ ràng mình được sống bên sự hiện diện của Thiên Chúa. Nhưng muốn thưởng thức niềm hân hoan đó, niềm hân hoan làm các Tông đồ hầu như ngất ngây đó, chúng ta phải có một số điều kiện.
Trước hết ta cần bắt chước các Tông đồ lên một đồi cao. Khi lên cao chúng ta dễ có ý thức siêu thoát hơn. Vì vậy hầu hết các cuộc xuất hiện quan trọng của Thiên Chúa trong Kinh Thánh đều xảy ra trên núi cao. Không nhất thiết phải là một đỉnh núi, nhưng chắc chắn phải là sự vươn lên của tâm hồn, tránh được sự ám ảnh, vương vấn của cuộc đời trần tục. Cần có một đỉnh cao nội tâm, gắng đạt tới những chân trời xa rộng. Muốn vậy phải rời bỏ thung lũng thấp, cố gắng đi xa, chịu đựng gian khổ, ngột ngạt của độ cao… và tránh đám đông ồn ào gây nhiễu.
Chúa cho ba Tông đồ chứng kiến Chúa biến hình: Phêrô, Giacôbê và Gioan. Đây không phải tình cờ. Khi làm phép lạ cho bé gái 12 tuổi đã chết được sống lại, Chúa cũng đưa ba Tông đồ này theo để các ông được chứng kiến (MC 5,37). Cũng chính ba ông là những người gần gũi Chúa khi Chúa cầu nguyện và hấp hối trong vườn Cây Dầu (MC 14,33). Chúa cho ba ông chứng kiến quyền uy Thiên Chúa của Người và cũng được thấy nỗi khổ đau của nhân tính Chúa, để các ông thành chứng nhân cho niềm tin của mình và của anh em.
Một điều kiện nữa để thành môn đệ gần gũi của Chúa đã được chính Thiên Chúa Ngôi Cha phán bảo: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài”. Đây là lần thứ hai có tiếng từ trời phán xuống, nhưng lần này rõ ràng tiếng đó nói với chúng ta. Là môn đệ Chúa, thì phải nghe lời Chúa. Nghe lời Chúa trong Kinh Thánh, trong tìm tòi suy luận, nhưng nhất là trong Kinh Nguyện một mình riêng rẽ đối diện với Chúa nơi thanh vắng. Môn đệ của Chúa cần thiết phải được Chúa đích thân dạy dỗ, mặc khải cho.
Sự biến hình, bộc lộ đôi chút vinh quang Thiên Chúa, làm vui thỏa tâm hồn các môn đệ. Khi xuống núi, Chúa dặn các ông đừng kể lại với ai ‘cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại’. Vì Chúa biết rằng chỉ sau cái chết và Phục Sinh của Chúa, các ông mới hiểu rõ về Chúa. Khuôn mặt đích thực của Chúa Cứu Thế chỉ biểu lộ đầy đủ khi đã chết trên thập tự chứng tỏ tình yêu đối với nhân loại và sống lại khải hoàn do quyền lực Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin mở mắt lòng tin chúng con, cho chúng con được nhìn thấy Ngài luôn hiện diện trong cuộc sống chúng con.
Đáp lại câu hỏi thúc ép của Đức Giêsu, Phêrô vừa mới tuyên bố Thầy là Đấng Messia”. Đức Giêsu liền dẫn các môn đệ vào con đường khổ nạn và chết mà Người sẽ phải đi để hoàn thành sứ mạng của Người. Maccô viết: "Rồi Người bắt đầu dạy cho các môn đệ biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sống lại”. Viễn tượng kinh hoàng như thế đi ngược với tư tưởng Người thời đó. Về Đấng Cứu thế. Nghĩ rằng Đấng Cứu thế mà cũng phải trải qua đau khổ và sự chết là điều không ai dám nghĩ, cả những người Do Thái thời đó cũng như các môn đệ của Đức Giêsu: Bởi đó Phêrô tức tốc phản ứng, ông liền kéo riêng người ra và bắt đầu trách Người”. Cử chỉ đó đã làm cho Phêrô bị một lời quở trách cực mạnh từ Đức Giêsu: "Satan, lui ra đàng sau thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”. Sau đó, Đức Giêsu nói tiếp: "Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Con đường mà Con Người đi cũng là con đường bắt buộc đối với các môn đệ Người.
2. Cuộc hiển dung của Đức Giêsu trên núi.
Maccô đã đặt tường thuật hiển dung của Chúa trong tương quan với việc công bố lần thứ nhất cuộc khổ nạn, việc này đã vấp phải sự không hiểu nơi các môn đệ và khiến bọn họ kinh hoàng. Giống như Matthêu và Luca, tác giả Tin Mừng thứ hai diễn tả bằng một lối văn tượng trưng, mượn những yếu tố chính từ cuộc thần hiện (cuộc Thiên Chúa tỏ mình) ở núi Sinai ("Jésus, l'histoire vraie", Centurion, trang 330).
Ngày xưa, trong cuộc xuất hành qua hoang địa, Môsê đã công bố cho con cái Israel rằng: "Đức Chúa, Thiên Chúa của người, sẽ cho nổi lên giữa các người một vị ngôn sứ giống như Ta, các người hãy nghe lời Người”. Hôm nay Maccô đã bật mí: vị ấy đã đến rồi, đây là thời gian hoàn tất, một kỷ nguyên mới đã khai sinh.
Maccô viết: "Sáu ngày sau" mà lại không chỉ rõ sau cái gì, nhưng rất có thể là ông muốn nói về biến cố Xuất Hành.
+ Hoặc là nói về sáu ngày mà sau đó, theo Xh 24,1 6, "Thiên Chúa gọi ông Môsê từ giữa đám mây lên núi Sinai”. Nếu thế, theo Maccô, đó là một cách giới thiệu biến cố hiển dung như một Sinai mới và đồng thời giới thiệu Đức Giêsu như một Môsê mới.
+ Hoặc là nói về sáu ngày chuẩn bị cho đại lễ Lều Trại, lễ đó người ta dựng lều bằng cành cây (như người Do Thái còn làm ngày nay) để tưởng nhớ cuộc xuất hành, với hy vọng vào thời đại cứu thế mà Thiên Chúa sẽ đến cư ngụ mãi mãi ở giữa dân Người. Nếu thế, theo Maccô đó là một cách côgn bố thời đại mới đã khởi đầu.
Cũng như ngày xưa Môsê lên núi Sinai, thì Đức Giêsu cũng dẫn các bạn hữu của Người lên một ngọn núi cao. Nhưng ngọn núi nào? Từ ngữ này mang ý nghĩa thần học nhiều hơn là địa lý: núi ở trong Kinh Thánh là địa điểm đặc tuyển cho việc mặc phải thần linh. Ở đây nói về một Sinai mới, một cuộc mặc khải quyết định của Thiên Chúa.
- Cũng như Môsê, lúc lên núi nhận giao ước, chỉ đem theo Giousê, Đức Giêsu chỉ gọi riêng đi theo Người có "Phêrô, Giacôbê và Gioan”. Cũng ba người đó, những người bạn thân nhất được theo Chúa vào phòng bé gái chết mà được Người làm cho sống (5,37-43); ba người đã chứng kiến cuộc hấp hối của Người trong vườn cây dầu: Đức Giêsu đã liên kết họ với Người trong những thời điểm mạnh của mặc khải, để họ trở nên những trụ cột của Hội Thánh Người.
- Cũng như da mặt của Môsê ngời sáng, vì ông đã đàm đạo với Thiên Chúa và cũng như dân Israel xem thấy mặt ông chiếu sáng (Xh 34,29-35), Đức Giêsu "hiển dung" trước các môn đệ, vinh quang Thiên Chúa, cái vinh quang mà Đức Giêsu chiếu toả vào buổi sáng Phục sinh, lúc này đang xâm chiếm bao phủ Người.
Vào lúc đó ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người. Đó là hai vị có thần thế trong Cựu ước. Cả hại vị đều đã trèo lên núi: Môsê lên để lập giao ước, Êlia lên để nhận sứ mạng cải tổ giao ước. Hai vị tượng trưng cho toàn bộ Cựu ước: Lề Luật và các Ngôn sứ (Êlia) giờ đây được thực hiện: thời đại cứu thế đã khởi đầu.
Phêrô đề nghị "Chúng ta hãy làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”. Thực ra, ông không biết mình nói gì do quá kinh hoàng, Maccô giải thích. Phêrô đã lầm lẫn vì nghĩ rằng đã đến giờ mà Thiên Chúa cư ngụ vĩnh viễn ở giữa dân Người và họ có thể ở đó miên trường.
Sau cùng, cũng giống như khi lập giao ước ở núi Sinai, một đám mây, dấu chỉ hữu hình của sự hiện diện Thiên Chúa, đã bao phủ ngọn núi, thì ở đây một đám mây che phủ các ông. Rồi cũng giống như ở Sinai, có tiếng nói phát ra tử đám mây. Những lời này gần giống như tiếng vang của những lời đã phán lúc chịu phép rửa ở sông Giođan. Nhưng, lúc xưa tiếng đó nói với Đức Giêsu: "Con là Con Ta yê u dấu, Cha hài lòng về Con" (1,11), còn ngày nay tiếng đó nói với ba môn đệ: Tiếng đó soi sáng các môn đệ cho biết căn tính của Đấng mà Phêrô mới đây đã tuyên xưng là Đấng Thiên Sai (Mêsia): “Đây là Con yêu dấu của Ta”. Tiếng đó xác nhận giáo huấn của Đức Giêsu về cuộc khổ nạn - phục sinh của Con Người: "Các ngươi hãy vâng nghe lời Người".
J.Hervieux quảng giải: "Giờ đây dường như qua tia chớp loè sáng, họ đã thoáng thấy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa", và vượt qua khỏi sự chết, Người được Thiên Chúa dành cho một cuộc sống vinh quang. Lẽ nào họ không giữ niềm hy vọng và không tiếp tục theo Thầy trên con đường thập giá?" (L’evangile de Marc", Centurion p.125).
- Bỗng chốc, Maccô kết luận: "Các ông chợt nhìn chung quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi ở trên núi xuống Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trừ khi Con Người đã từ cõi chết sống lại”. Chúng ta lại thấy ở đây một lần nữa "bí mật thiên sai”, mà Maccô rất quí trọng: điều mà ba môn đệ vừa thấy vượt quá sức tưởng tượng quá đỗi, nó làm xáo trộn tận cùng hình ảnh Đấng Thiên Sai của các ông, nên tốt hơn các ông nên giữ im lặng ít lâu. Sau này, dưới ánh sáng của Phục Sinh, các ông sẽ hiểu rõ ý nghĩa. Lúc đó, các ông sẽ có thể làm chứng.
BÀI ĐỌC THÊM
1. "Mọi sự chứng tỏ một khởi đầu mới”.
(Célébrer, tạp chí C.N.P.L. số 266, trang 26).
Cuộc hành trình này kêu mời chúng ta từ bỏ một số hình ảnh Thiên Chúa. Ông Apraham đã khám phá dung mạo của một Thiên Chúa, không chấp nhận máu của tế vật và không đòi hy lễ nào khác ngoài sự vâng phục toàn tâm con người. Người Kitô hữu còn có thể khám phá một Thiên Chúa không đòi hỏi hy sinh "vượt sức người" (siêu phàm), mà chỉ đòi tin tưởng và phó thác.
Phêrô, Giacôbê và Gioan, cả các ông cũng vậy, phải loại bỏ một thứ hình ảnh Thiên Chúa, để khám phá ra một hình ảnh khác nơi Đức Giêsu Kitô. Loại bỏ thứ quan hệ dựa trên sự sợ hãi, họ phải cảm nghiệm được một Thiên Chúa, Đấng đã không dung tha con ruột mình, và chấp nhận sự mạc khải đau đớn một Đấng Thiên Sai chịu khổ nạn, Đấng ấy sẽ lôi kéo họ đi theo Người.
Và còn hơn nữa, Người còn đề nghị ta khám phá rằng nhân loại là con đường tới Thiên Chúa. Mà không phải một Thiên Chúa không có thân xác, nhưng một Thiên Chúa trong xác thịt hẳn hòi. Một thân xác được mời gọi để biến đổi hình dạng. Đó là con đường do Đức Giêsu vạch ra.
Người Do Thái trông đợi sự biến dạng sẽ xảy ra vào ngày tận thế. Khi trình bày điều đó đã thực hiện nơi Đức Giêsu, Maccô muốn tuyên báo rằng ngày tận thế đã khai mào. Thực vậy, mọi sự chứng tỏ một khởi đầu mới: Một hy vọng đáng nể cho tất cả những gì đang rên xiết "chuyển dạ sinh ra”.
2. “Điều kinh ngạc trong Đức Giêsu, Thiên Chúa tỏ mình rất phàm nhân”.
(Thư gởi các người Công giáo Pháp, Cerf, trang 49-50).
"Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3,16). Cả cuộc đời của Đức Giêsu, từ lúc sinh ra cho tới ngày chịu. chết và sống lại, luôn tỏ ra quy hướng về Chúa Cha; Người lãnh nhận tất cả mọi sự từ Chúa Cha, và dấn thân hoàn toàn vào công trình cửu độ theo mệnh lệnh của Chúa Cha.
Nhưng điều kinh ngạc không phải chỉ là việc nhập thể của Chúa Con, Đấng đến cư ngụ ở giữa chúng ta để bày tỏ tình thương của Chúa Cha.
Điều kinh ngạc còn là trong Ngôi Lời nhập thể, Đức Giêsu, Thiên Chúa tỏ mình ra quá phàm nhân. Trước hết, người phàm vì Người tỏ mình phàm hơn chính người trần: Chúa đi đến với những người lạc mất trong số người trần, kẻ bé nhỏ và kẻ bị loại trừ, kẻ đau yếu và kẻ tội lỗi. Người phàm, bởi vì Người chia sẻ hết mọi sự của bản tính nhân loại, đau khổ và bạo lực, bất công và chết chóc, chết trên cây thập tự. Hoàn toàn người phàm, đến độ ban tặng cho ta được thông công sự sống của Người. "Lạy Cha, Con muốn rằng, con ở đâu thì những người Cha đã ban cho Con cũng ở đó với Con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của Con, vinh quang mà Cha đã ban cho Con " (Ga 17, 24).
Lòng tin vào Đức Giêsu, Chúa con bao gồm sự bạo dạn dám đón nhận sự sống của chính Thiên Chúa vào sự sống người phàm của ta. Nếu chúng ta trình bày Lời Chúa và các Bí tích cho người khác, ta làm cũng vì mục đích đó: là để chúng ta biết được niềm vui sống và yêu mến như con thảo của Thiên Chúa, theo bước chân của Chúa Con, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Các lời mời gọi bản văn Biến Hình đưa ra có vẻ như dành cho con người hiện đại, nhất là Maccô.
Biết bao ý thức hệ triết học, tôn giáo, chính trị, khoa học v.v. chất chứa trong những khát vọng của chúng nỗi chờ mong một lúc mà nhân loại sẽ vượt lên chính mình và đạt tới một tình trạng trong đó nó sẽ được siêu thăng hóa. Khi la lớn rằng chúng không được thỏa mãn, phải chăng một vài ý thức hệ đã không tuyên bố cùng những khát vọng trên?
Trên bình diện đức tin Kitô giáo, cuộc Biến hình là câu trả lời của Chúa Giêsu cho các khát vọng ấy: con người được tạo dựng để hưởng vinh quang, nghĩa là để được tỏ hiện trong chính mình, bên kia cái mình đã làm, một cuộc sống siêu phàm của hữu thể mình mà không là gì khác ngoài sự sống được chia sẻ với Thiên Chúa khì đảm nhận thân phận hay chết của mình. Định mệnh này có một tính cách khiến lý trí chưng hửng ngạc nhiên. Có thể kinh nghiệm về nó và không hẳn là biết phát biểu ra nó. Chính cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu được nghe và được đi theo khi Người chỉ cho thấy mặc khải sau cùng về con người, mới cho phép phát biểu và tin vào định mệnh như thế.
Mặc dầu cuộc Phục sinh đã xảy ra và mặc dầu bức màn che đã hoàn toàn bị cất khỏi bản tính và con người. Chúa Giêsu khai mở nhân loại mới ấy, Kitô hữu vẫn không thể sống trong ảo tưởng: các thực tại bi thương của cuộc sống không bị tiêu trừ; chúng vẫn còn phần lớn trong một hoàn cảnh gần như hoàn cảnh các sứ đồ lúc cuộc Biến hình xảy ra. Cuộc Phục sinh đã chẳng hủy tiêu các giáo huấn đưa ra trước đó, song chỉ củng cố chúng mà thôi. Các là thánh sử làm tỏ rõ hơn hết các hoàn cảnh mà trong đó người ta tưởng đã hiểu và tuy vậy, vẫn chẳng bao giờ thôi thấy rằng người ta đã chưa hoàn toàn hiểu thấu. Ông trình bày Kitô hữu như những người đã khám phá trong Chúa Giêsu một con người duy nhất đã cho họ một kinh nghiệm quyết định nhưng chẳng chấm dứt bao giờ.
Đời sống môn đồ của Chúa Giêsu được trình bày như thỉnh thoảng có một nhịp mạnh. Núi là biểu tượng của nơi mà, nhờ phép rửa, đã xảy ra cho người ấy cuộc gặp gỡ với hữu thể vinh quang là Chúa Giêsu. Một khi trèo lên trên nó, người ấy đi vào trong một thế giới khác xem ra vừa kỳ diệu vừa lạ lùng, một thế giới biến đổi ý nghĩa đời họ. Nhưng tiếp đó họ phải trở về cuộc sống bình thường: phải tiếp tục trong cùng viễn tượng hấp dẫn của một sự sống vinh quang, nhưng không cùng trong một bầu khí, hoàn cảnh. Thành thử cuộc sống thường nhật này được đánh dấu bằng nhtĩng giai đoạn đưa kẻ ấy đến chỗ nghe con người Chúa Giêsu, những giai đoạn trở thành cho kẻ ấy những lúc "tách riêng" thật sự, vì chúng giúp họ đào sâu, một cách nội tâm hơn và thân tình hơn, lai lịch của Đấng là họ đang song hành với.
Hai yếu tố có tính cách quyết định đối với hiệu quả này. Một là sự rút lui thật sự khỏi cuộc sống thường ngày, dù có ý hay ngẫu nhiên. Bấy giờ là như thể một khung cảnh làm vỡ tung cái bình thường và chuẩn bị cho một cuộc bùng vỡ nội tâm. Đó chẳng phải là một sự rút lui kiểu ngoài giáo nhắm cắt đứt khỏi đời sống hoặc làm cho người ta trở về đó như về lại một cái gì không chịu nổi, nhưng là một kinh nghiệm thiêng liêng đích thực đưa người ta vào lại đời sống và giúp người ta trải qua cuộc sống bằng cách biến đổi cái thường nhật gần gũi. Hai là, trong đời riêng tư, phải kinh nghiệm sự đau khổ và ngay cả sự chết dưới bất cứ mọi hình thức, để đi vào sự hiểu biết mới mẻ ấy hơn.
Tuy nhiên, có một cám dỗ rình chờ Kitô hữu trên con đường ấy, đó là dừng lại ở một trong các giai đoạn, thôi bước và tuyệt đối hóa kinh nghiệm mình như thể nó đã có tính cách dứt khoát, phong thánh cho các viễn quan riêng mà, dầu có hảo ý, vẫn còn có tính cách nhân loại. Trên bất cứ điểm nào, Kitô hữu cũng phải là một con người đang hành trình chứ chẳng phải là một con người đã đến đích. Chỉ có con người Chúa Giêsu mà họ đi theo mới là tuyệt đối.
Sau cùng, bản văn kêu mời Kitô hữu phải hành động với cùng phương pháp sư phạm như Chúa Giêsu. Chẳng có gì lạ khi loài người chỉ khám phá được dần dần mầu nhiệm Người, khi đầu tiên họ lưu ý đến con người trong chính nó, rồi ngạc nhiên về cái ý thức mà Người cho thấy về một sự sống siêu nhiên đang ở trong Người mà Người gọi là Thiên Chúa. Cũng chẳng có gì lạ khi chờ đợi cho loài người đặt những câu hỏi trước lúc trả lời họ, khi một vài kẻ, để sẵn sàng hiểu hơn, đã kinh nghiệm trong cuộc đời họ thế nào là chết cho chính mình và kinh nghiệm được ước vọng vượt quá những giới hạn của họ.
Gilles Becquet, lecture d'evangiles,... année B. (p.186-200)
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Việc Chúa Kitô chịu đau khổ và chịu chết là một mầu nhiệm khó chấp nhận, "là cớ vấp phạm cho người Do thái, là sự điên rồ đối với dân ngoại" (Lc 1,23) Bởi đó Thiên Chúa đã chuẩn bị tâm hồn mọi người để có thể hiểu được phần nào mầu nhiệm ấy.
Cuộc chuẩn bị xa xôi nhất là việc Thiên Chúa đòi tổ phụ Abraham sát tế con trai duy nhất, dâng làm của lễ toàn thiêu cho Ngài. Việc đòi hỏi ấy thật là mâu thuẫn với lời Chúa hứa cho ông. Nhưng Abraham không thắc mắc, không phản đối mà hoàn toàn tin tưởng. Kết quả: ông được kể là công chính và Isaac con ông vẫn được sống, chứ chẳng bị sát tế (Bài đọc 1)
Sự công bình và lòng thương yêu của Chúa đối với ta đã đòi hỏi Chúa làm một điều tương tự như Abraham là "không dung tha Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta" (Rm 8,32). Isaac không bị giết mà Abraham vẫn được kể là công chính (Gc 2,21), còn Chúa Kitô thì đã bị giết, đã chết thực sự, nhưng đã sống lại, ngự bên hữu Chúa Cha và đã trở thành Đấng "công chính hóa" nhân loại (Bài đọc 2).
Chính là để cho các môn đồ thân tín giữ vững niềm tín thác khi thấy mình đau khổ và chết mà Chúa Kitô đã tỏ phần nào vinh quang của Người trên núi Taborê.
2. Chúa Giêsu đã đem ba môn đồ thân yêu lên núi Biến hình và cũng sẽ đem họ vào vườn Cây Dầu trong cơn hấp hối của Người. Mọi cảnh ngộ dầu là dịp Chúa gởi đến để kêu mời ta tiến sâu trong tình thân ái với Người. Hãy biết đọc các "dấu chỉ thời đại" dưới ánh sáng đức tin, trong tình yêu Chúa nồng nàn.
3. Các môn đồ không thể hiểu ngay mọi ý nghĩa của biến cố Biến hình. Trong đời sống thường nhật, đứng trước những khó khăn, gian truân, vui buồn, được an ủi hay bị bỏ rơi ta thật khó quán triệt ý nghĩa cuộc đời, khó khám phá ra Thiên Chúa tình yêu và công bình. Nhưng hãy kiên tâm, bền chí trong kinh nguyện, trong suy niệm lời Chúa. Trong đời hoạt động và ta sẽ thấy Thiên Chúa lớn hơn con tim chúng ta.
4. Ngày nay biến cố Biến hình vẫn còn tiếp diễn trong thế giới: Chúa Kitô biến hình trong người nghèo đói, bệnh tật, tù đày bơ vơ không nhà cửa, trong các sứ giả Tin Mừng... "Ai tiếp đón các con là tiếp đón Ta, ai tiếp dón Ta là tiếp đón Đấng dã sai Ta". Mùa Chay giúp ta thay đổi cái nhìn, kiện toàn cách cư xử của ta với tha nhân.
Thánh Marcô cho biết: sáu ngày sau khi thánh Phêrô truyên xưng Đức Giêsu tại Cêsarêa của vua Philippe, Đức Giêsu đã đưa ba môn đệ yêu qúi là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cao. Thánh sử không cho biết là núi nào: núi Tabor hay Hermon. Các nhà chú giải Thánh Kinh ngày nay nghiêng về núi Hermon, song cổ truyền cho biết chính Tabor đã được hồng ân ấy.
Vì đi đường mệt nhọc các ông lăn ra ngủ và khi thức giấc, các ông nhìn thấy cảnh lạ lùng: Chúa biến hình, “áo Ngài trắng như tuyết, không thể nào giặt được như vậy”. Có ông Maisen và Elia đàm đạo với Ngài để khuyến khích Ngài đi vào cuộc tử nạn và có tiếng phát ra trong đám mây:”Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Ngài”. Sau đó, Đức Giêsu trở lại tình trạng bình thường. Việc biến hình này có ảnh hưởng sâu đậm đến ba ông.
2. Ý nghĩa việc Chúa biến hình.
Đức Giêsu đã quyết định lên Giêrusalem, và quyết định ấy có nghĩa là chấp nhận thập giá. Ngài cần biết cách tuyệt đối rằng mình đã quyết định đúng trước khi tiếp tục dấn bước. Trên đỉnh núi Ngài đã chấp nhận đôi về quyết định của Ngài.
a) Sự hiện diện của Elia và Maisen.
Maisen là đại diện cho pháp luật và Elia là tiên tri đầu tiên và vĩ đại nhất trong các ngôn sứ. Khi hai nhân vật lỗi lạc đó hội kiến với Đức Giêsu, có nghĩa là nhà tuyên bố pháp luật vĩ đại nhất và nhà tiên tri lỗi lạc nhất đã nói với Đức Giêsu rằng “Xin cứ tiến lên”. Nó có nghĩa là hai vị thấy nơi Đức Giêsu sự hoàn thành của tất cả những gì họ từng mơ ước trong quá khứ. Nó có nghĩa là họ thấy nơi Ngài tất cả những gì mà lịch sử vẫn trông chờ từ lâu và đã hướng về đó với hy vọng tràn đầy. Dường như chính lúc đó Đức Giêsu được bảo đảm rằng Ngài đang đi đúng hướng vì cả lịch sử đều dẫn đến thập giá.
b) Biến hình giúp môn đệ vững tin.
Khi nghe Đức Giêsu báo cho họ biết là Ngài sẽ lên Giêrusalem để chịu chết, họ bàng hoàng, bối rối lo sợ vì bao điều mơ tưởng của họ sẽ bị tiêu tan, tương lai của họ trở nên bấp bênh, đen tối. Tuy thế, những gì đã xem thấy trên núi biến hình cho họ có cơ hội bám chặt lấy ngay khi họ chẳng hiểu gì. Cho dù có thập giá hay không, họ vẫn được nghe tiếng của Thiên Chúa xác nhận Đức Giêsu là Con Ngài.
Ngoài ra, việc Chúa biến hình trên núi khiến họ trở thành các chứng nhân cho sự vinh hiển của Chúa Cứu thế theo một ý nghĩa đặc biệt. Xác tín rằng mình là chứng nhân trước sự vinh hiển của Chúa Cứu Thế, sau này khi có dịp, họ đã có sẵn câu chuyện đang giấu kín trong lòng, sẽ kể lại cho mọi người nghe.
c) Lời mời gọi biến đổi.
Hãy nhìn chung quanh, chúng ta sẽ thấy mọi sự luôn biến đổi. Thí dụ nhìn một cái cây. Tuy nó vẫn là cái cây đó nhưng bên trong đó có biết bao biến đổi: có những chiếc lá tháng trước nay không còn ; nhiều chiếc lá mới mọc ra; và nhiều chiếc lá hiện nay sau sẽ không còn. Nếu cái cây vẫn y như thế từ tháng này sang tháng khác, từ năm này qua năm khác thì đó không còn là một cái cây sống nữa mà là một khúc gỗ.
Hãy nhìn lên trời, chúng ta cũng thấy qui luật biến đổi ấy: bầu trời hôm qua với bầu trời hôm nay đâu có hoàn toàn giống nhau mặc dù vẫn là một bầu trời.
Hãy nhìn xuống nước. Triết gia Héraclite đã nói:”Không ai tắm hai lần trong một dòng sông”. Và nhìn vào bản thân: các nhà khoa học nói rằng các tế bào luôn thay đổi, cái này chết cái kia sinh ra, sau 7 năm thì không còn tế bào nào là tế bào của 7 năm trước nữa.
Không biến đổi cũng đồng nghĩa với chết. Đối với cuộc sống thân xác thì như thế. Đối với cuộc sống thiêng liêng thì cũng như vậy. Bởi thế trong mùa Chay chúng ta cần biến đổi. Cứ sống y như cũ là chết (Carôlô, Sợi chỉ dỏ, năm B, tr 134-135).
Việc Chúa biến hình nhắc cho các môn đệ và chúng ta phải thay hình đổi dạng linh hồn mình. Thánh Phaolô cũng nhắc nhở chúng ta phải cởi bỏ con người cũ tội lỗi để mặc lấy con người mới tốt lành thánh thiện hơn:”Hãy lột bỏ con người cũ mặc lấy con người mới. Hãy để Thần Khí Thiên Chúa canh tân tận tâm linh anh em””(Ep 4,22).
Thánh Tông đồ còn khuyên nhủ chúng ta hãy làm một cuộc canh tân toàn diện để cho con người nội tâm của ta biết nghe theo luật của Chúa mà bỏ đường lối của xác thịt. Vì thế, trong thư gửi tín hữu Êphêsô Ngài đã viết:”Anh em hãy cởi bỏ kiểu sống xa xưa, con người cũ đã ra hư hốt buông theo những đam mê lầm lạc. Hãy để Thần Khí canh tân đổi mới thấu tận trí khôn. Hãy mặc lấy người mới đã được tạo dựng nên theo Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện bắt nguồn trong sự thật”(Ep 4,22-ABC24).
Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta phải đổi mới toàn diện, phải đổi từ con người cũ sang hẳn con người mới tốt lành. Đổi mới toàn diện là phải đổi mới tận căn chứ không phải chỉ đổi mới nửa vời hoặc đổi mới hời hợt một số cái, hoặc chỉ đổi mới cái bên ngoài để rồi trở thành con người mà người đời gọi một cách mỉa mai:”Nửa người ngửa ngợm nửa đười ươi”, đúng như người ta nói:
Thay quần thay áo thay hơi, Thay dáng thay dấp mà người chẳng thay.(Ca dao)
Truyện: Cách làm cho trắng da.
Người ta thuật rằng cả một khu đất kia chỉ có một gia đình người da đen ở. Gia đình đó gồm có một bà vợ, một người chồng và một đứa con trai 9 tuổi. Cậu bé đi học, nhưng giữa bọn trẻ da trắng, riêng mình đen thủi đen thui, nên lắm phen bị chê cười, chế nhạo. Cậu luôn luôn bị chọc ghẹo nên khó chịu, giống như một tấm lòng non nớt bị một vết thương sâu. Sau hết, cậu tự hỏi mình có thể thay đổi nước da chăng, rồi nhất định làm theo ý nghĩ đó.
Bữa nọ, thầy giáo thấy cậu vắng mặt, bèn hỏi đám học trò về cậu. Một trò thưa rằng thấy cậu đi đàng sau trường, giữa khu rừng nhỏ có rạch chảy qua. Thầy giáo ra công tìm kiếm và thấy cậu ở sát bờ rạch, đang dùng cát ướt kỳ cọ hai cánh tay đen. Thỉnh thoảng cậu dừng tay, rửa cát dính vào da, rồi nhìn xem mầu da mất chưa. Nhưng ! Màu đen quá sậm, cậu mất công. Vài phút sau, thầy giáo gọi cậu:
- Này em làm gì đấy ?
Cậu giật mình thưa:
- Con cố sức trừ bỏ màu da đen để nên người da trắng, song không sao được. (Ms Lê văn Thái, Những tia sáng, tập 2, tr 94-95)
II. BIẾN ĐỔI VÀ THỬ THÁCH.
1. Thử thách của tổ phụ Abraham. f Bài đọc I hôm nay thuật lại việc Abraham sát tế Isaác con mình. Việc này cho chúng ta thấy cá tính và đức tin của ông. Lệnh truyền sát tế Isaác, người con duy nhất sinh ra trong tuổi già, thì vượt quá tầm nhìn cách nghĩ của con người và xem ra là phi lý. Sẽ thực hiện ra sao đây lời chúc phúc của Thiên Chúa cho ông làm tổ phụ các dân tộc, nếu không còn người con trai này ? Thiên Chúa đòi hỏi ông hiến tế luôn cái cơ hội sống còn cuối cùng này của ông, đồng thời cũng là cái nền tảng cho niềm tin của ông. Yêu cầu của Thiên Chúa quá đỗi đau thương đoạn trường, nhưng với niềm tin cậy vào Thiên Chúa, ông vội vã thực hiện ngay lệnh truyền ấy. Cần vâng phục Thiên Chúa bất cứ giá nào. Ngay khi ông đang giơ cao con dao để hạ sát con trai, Thiên Chúa đã ngăn cản bàn tay ông và mạng sống Isaác được dành lại.
2. Thử thách của chúng ta.
Đường lối Thiên Chúa thật lạ lùng... nhiều khi đường lối Chúa lại chẳng xem ra đi ngược với mục đích đang tìm kiếm sao ? Câu chuyện về hy tế của Abraham khá làm sáng tỏ những phương thức của Thiên Chúa. Quả thật, tất cả chỉ là thử thách trong cuộc đời. Nhưng một khi chân trời mây mù bưng bít, không trông đâu được sự giúp đỡ của loài người, mọi sự dường như mất hết, chúng ta không còn cân nhắc suy tính được nữa, và thất vọng tự hỏi:”Tại sao Thiên Chúa xử như vậy” ?
Nhưng chúng ta phải hiểu rằng Thiên Chuá luôn yêu thương chúng ta, Ngài đã phó nộp Con Một Ngài trên cây thánh giá vì phần rỗi chúng ta. Như vậy, khi Ngài để cho chúng ta nhờ đau khổ và thử thách kết hợp với sự thương khó của Chúa Kitô, chúng ta chắc chắn rằng, nhờ đó, Ngài cũng muốn liên kết chúng ta vào sự Phục sinh và vinh quang của Chúa Kitô. Do đó, thử thách cũng có ý nghĩa tích cực vủa nó. Không lạ gì khi thấy người ta nói:
Có cứng mới đứng đầu gió (Tục ngữ)
Chính những đau khổ và gian nan thử thách sẽ làm cho chúng ta thêm giá trị trước mặt Chúa, nó thanh luyện chúng ta, nó làm cho chúng ta thể hiện lòng trung thành đối với Chúa. Lúc đó, đức tin của chúng ta mới có giá trị sau khi đã được thanh luyện như vàng ra khỏi quặng:
Có gió lung, mới biết tùng bá cứng, Có lửa hừng, mới biết thức vàng cao.(Tục ngữ)
Thánh Giacôbê Tông đồ nói về vấn đề này:”Phúc cho ai bị thử thách mà vẫn trung thành, bởi vì khi thành công trong cơn thử thách như thế, người đó sẽ được Thiên Chúa ân thưởng bằng sự sống mà Thiên Chúa đã hứa cho những ai yêu mến Ngài”(Gc 1,12).
Trong gian nan thử thách, hãy giữ vững niềm hy vọng và tin tưởng phó thác. Nhưng làm sao giữ được niềm hy vọng tâm hồn ? Hãy noi gương Chúa Kitô ! Tất cả cuộc đời Ngài chỉ là một chuỗi phó thác trong tay Chúa Cha. Trong lúc hấp hối Ngài than thở:”Lạy Cha, xin đừng theo ý Con, một theo ý Cha”. Sự tín thác mến yêu này là nguồn ơn cứu độ cho hết mọi người và là nguyên nhân của Phục sinh khải hoàn. Chính trong việc chiêm niệm về Chúa Kitô tín thác cho Tình Yêu mà chúng ta múc lấy nghị lực để nói như Ngài:”Lạy Cha, đừng theo ý con, một theo ý Cha”.
3. Thử thách và đức tin.
a) Đức tin cần được thử thách.
Trong những lúc bị thử thách, chúng ta không biết bám víu vào đâu vì những người chung quanh đều bất lực không thể giúp chúng ta. Lúc đó, chúng ta chỉ còn biết dựa vào đức tin để phó thác cho Chúa, xin Ngài đến cứu giúp. Đức tin cũng cần phải được thử thách thì mới có gia trị. Nếu ở trên núi Tabor, ông Phêrô thưa với Chúa:”Lạy Thầy, chúng con ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Elia và một cho Maisen”(MC 9,5). Các ông muốn đăng ký thường trú trên đỉnh núi Tabor, ngủ yên trong hào quang rực rỡ, bỏ lại dưới núi bạn đồng môn, muốn hưởng thụ đầy đủ ánh hào quang của Chúa, thì các ông sẽ nói thế nào ở vườn Cây Dầu và ở đồi Golgotha ?
Người đời cũng cảm nghiệm thấy giá trị và ích lợi của thử thách. Chính thử thách làm cho con người thêm giá trị. Con người chỉ được đánh giá đúng qua thử thách như thi sĩ Nguyễn công Trứ nói lại câu nói của cổ nhân:
Văn vô sơn thủy vô kỳ khí Nhân bất phong sương vị lão tài.
Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta phải có đức tin vững mạnh. Tuy thế đức tin không phải lúc nào cũng ở đỉnh cao, đức tin có lúc lên cao, có lúc xuống thấp theo nhịp điệu vui buồn, sướng khổ, may mắn hay trắc trở.
Khi lên tinh thần, đức tin của chúng ta cũng vững mạnh và sán lạn như đức tin của các tông đồ trong bài Tin mừng hôm nay. Khi đức tin ở đỉnh cao, chúng ta thấy gần gũi Đức Giêsu đến độ chúng ta tưởng rằng có thể đụng rờ được Ngài. Chúng ta cảm thấy gần gũi Thiên Chúa Cha đến độ dường như đôi tay của Ngài đang bao bọc chung quanh ta, và Thánh Thần dường như đang nói với chúng ta. Trái lại, khi xuống điểm thấp, đức tin của chúng ta yếu ớt như muốn mất hẳn, giống như đức tin của các môn đệ ở vười Cây Dầu (Mark Link).
Áp dụng vào trong cuộc sống hằng ngày, đôi lúc chúng ta cảm thấy đức tin mình ở những điểm cao, lúc đo ùchúng ta yêu thương hết mọi người. Chúng ta thắm thiết với bạn bè, và chúng ta tha thứ cho tất cả mọi thù địch. Vào những ngày như thế, chúng ta không thể hiểu được chúng ta đã từng cho rằng cuộc đời là khó khăn. Nhưng khi ở những điểm thấp, không có gì là trôi chảy cả: “Chúng ta cảm thấy bị đè nén và đáng thương, bị hiểu lầm, chán nản, bị mất mát thiệt thòi. Đó là lúc chúng ta thấy mình có nhiều kẻ thù hơn là thực tế, và thấy người bạn nào của mình cũng đều có lỗi với mình cả. Vào những ngày như vậy, chúng ta khó mà biết được tại sao có những lúc chúng ta lại nghĩ rằng cuộc đời này là dễ dàng vui tươi” (Anthony Padovano).
b) Tin tưởng và phó thác.
Những lúc gặp đau khổ hoặc gian nan thử thách chúng ta chỉ còn biết tin tưởng và phó thác cho Chúa. Ngài có thể làm được tất cả trong những cái loài người cho là không có thể, để quyền năng của Chúa được tỏ hiện nơi ta, như thánh Phaolô đã nói:”Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”(2Cr 12,10).
Có câu nói diễn đạt kinh nghiệm sống đạo, sống niềm tin trong đau khổ thật sâu xa:”Khi Thiên Chúa đóng của chính thì Ngài mở ra cửa sổ”. Thiên Chúa đóng cửa chính là khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ, không còn có thể nhìn thấy ánh sáng, sự hiện diện đầy quan phòng của Thiên Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra như bỏ rơi, mặc chúng ta đương đầu với thử thách, khó khăn. Lúc đó, chúng ta cần nhớ rằng: Thiên Chúa Ngài sẽ mở ra cửa sổ, mở ra một lối thoát, một giải đáp, một hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta.
Thiên Chúa đóng cửa chính nhiều lần trong cuộc đời mỗi người, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ để hướng chúng ta đến một điều tốt đẹp hơn mà trước đó chúng ta không ngờ. Những kinh nghiệm đau thương, tiêu cực mà chúng ta gặp phải trong cuộc đời, đôi khi đó là tiếng nói của Thiên Chúa để mời gọi chúng ta bước ra khỏi một hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị chúng ta sẵn sàng hơn đón nhận những hồng ân mới.
Truyện: Niềm đau tượng hình.
Du khách đến Roma thường đi thăm ngôi thánh đường cổ tên là Dominus sub aquis, vì phía trên bàn thờ, có một tượng thánh giá rất đặc biệt: bất cứ ai đến qùi trước tượng thánh giá và cầu nguyện với tất cả lòng thành đều được sức mạnh và an ủi thâm sâu.
Người ta kể rằng tác giả của thánh giá bằng tượng cẩm thạch này đã mất nhiều năm mới hoàn thành được tác phẩm. Hơn hai lần, mỗi khi treo bức tượng lên để ngắm nhìn, ông lại cho kéo xuống và đập bỏ, vì ông cho rằng tác phẩm vẫn chưa diễn đạt được điều ông muốn.
Khi ông bắt tay vào công trình lần thứ ba thì cũng là lúc ông gặp nhiều thử thách nhất. Nhiều người ganh tị nên tìm cách hạ uy tín ông. Vợ con ông qua đời trong những hoàn cảnh thật đau thương.
Ai cũng tưởng rằng cơn thử thách đã khiến ông bỏ cuộc. Trái lại, ông càng miệt mài chú tâm vào công trình. Người nghệ sĩ dồn tất cả niềm đau của mình lên khuôn mặt của Đức Kitô. Bức tượng của Chúa Giêsu trên thập giá không còn là một phiến đá lạnh lùng , xa lạ, mà trở thành niềm đau đậm nét của một tâm hồn. Bức tượng đã trở nên sống động và có sức thu hút do chính tâm tình mà người nghệ sĩ muốn tháp nhập vào. (Thiên Phúc, Chuyện hay đông tây, tập 1, tr 159)
Khi gặp những giây phút đen tối, chúng ta hãy bắt chước gương của Abraham trong bài đọc I hôm nay. Niềm tin của Abraham yếu ớt và dường như phai mờ khi ông nghĩ rằng Thiên Chúa đòi hỏi ông phải hy tế con trai của ông là Isaác. Điều đó làm cho ông khổ tâm và bối rối. Nhưng Abraham vẫn tin cậy vào Chúa, và Thiên Chúa không để ông thất vọng. Thiên Chúa đã chúc phúc và ban ơn cho ông hơn cả những ước mơ của ông.
Thiên Chúa cũng thử thách niềm tin của chúng ta như thế. Khi bị thử thách, tâm hồn chúng ta cũng đau khổ và bối rối. Nhưng nếu chúng ta tin cậy vào Thiên Chúa giống như Abraham, thì Thiên Chúa sẽ không để chúng ta thất vọng. Và cuối cùng, Thiên Chúa cũng sẽ chúc phúc và ban ân huệ cho ta nhiều hơn những gì chúng ta mơ ước.
Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một: Ngài là Đức Giêsu sáng láng trên núi Tabor, cũng là Đức Giêsu mướt máu trong vườn Cây Dầu, và cũng là Đức Kitô đau khổ trên thập giá ở đồi Golgotha. Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha cách nhau không xa, nhưng lại là con đường vạn lý, con đường đau khổ, con đường vượt qua: Đường Tình Yêu. Theo thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu thì:”Sống tình yêu không phải là căng lều trên đỉnh Tabor, mà là cùng với Đức Giêsu ta trèo lên đồi Calvê”. Hiểu được đau khổ là con đường tình yêu, thì thánh nữ Bernadette đã cầu nguyện:”Con không xin cho mình khỏi đau khổ, nhưng chỉ xin Ngài đừng bỏ con trong đau khổ”.
Match Point là một cuốn phim do đạo diễn Woody Allen vừa thực hiện đang đuợc trình chiếu tại các màn ảnh tại các thành phố lớn trên thế giới. Đây là một phim tình cảm lãng mạn với nhiều tình tiết khá ly kỳ hồi hộp về một huấn luyện viên thể thao quần vợt đầy tham vọng Chris Wilton.
Tình cờ, Chris gặp Tom Hewett -một thanh niên bay bướm ăn chơi xuất thân từ một gia đình rất giàu có. Tom và Chloe -cô em gái đang đến tuổi cập kê- chảng phải cực nhọc làm lụng gì và cả hai nhỡn nhơ sống bám vào gia tài kếch xù của cha mẹ mình. Tom đưa Chris về nhà giới thiệu với cha mẹ và khi Chloe mới liếc mắt đưa tình, Chris đã chộp ngay lấy cơ hội để mau chóng đạt đuợc những ước muốn thầm kín đời mình: “Thà sống may mắn hơn là sống tốt!”
Quan điểm sống may mắn, cầu cạnh, ăn bám vào mồ hôi người khác của Chris Wilson đuợc đạo diễn Allen thể hiện rõ nét hơn qua chàng ‘công tử Bạc Liêu’ Tom. Khi mọi người quây quần trầm trồ bên đứa con đầu lòng của Chris và Chloe và một người buột miệng nói “thằng bé này sẽ trở nên vĩ đại,” Tom quay ngay lại đốp chát: “Tôi chẳng thiết nó sẽ vĩ đại hay không! Tôi chỉ muốn nó sẽ đuợc may mắn thôi!”
Điều oái ăm là Chris lại phải lòng với Nola Rice, một cô gái Mỹ tràn đầy nhựa sống và là vợ sắp cuới của Tom. Chris bị cấu xé dằn vặt giữa nhục dục đam mê và một đời sống thừa mứa nhưng buồn chán đến tẻ nhạt bình thường. Và que sera, sera! Chris đã chọn một trong hai và đã phải trả giá đích đáng cho đời sống cầu cạnh ăn bám kia.Trước khi biến hình và tỏ bày thiên tính trên đỉnh núi cao, Chúa Giêsu, qua ngòi bút ngắn gọn nhưng rất điêu luyện thâm sâu của thánh sử Marcô, đã ba lần loan báo rõ ràng không úp mở cuộc Thương Khó của Người: “...Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị giết chết....” Nghe thế, thánh Marcô tả lại, “Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người!”
Con người bộc trực Phêrô nào có thể tưởng tuợng đuợc chuyện Thầy mình bị ruồng bỏ khinh chê rồi bị bắt và chịu chết nhục nhã trần truồng! Có thể với Phêrô, ngôn sứ là một cuộc đời làm chơi ăn thiệt, một cuộc sống rượu rót cơm bưng. Một số phận cực kỳ may mắn…
Và Chúa Giêsu đã trách Phêrô: "Xa-tan! Lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người." Rồi Người gọi đám đông cùng với các môn đệ lại và nói với họ rằng:"Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Ta.”
Sáu ngày sau, Người lại đem Phêrô, Giacôbê và Gioan lên đỉnh núi cao và Người biến hình. Lập tức, con người chất phác nhưng rất nông nỗi của Phêrô lại rõ nét hiện ra. Tuyệt vời quá! Bình an quá! Vĩ đại quá! Chẳng còn nơi nào bằng nơi này! Thầy ơi! Hãy ở lại đây và sẽ có một lều riêng cho Thầy. Và ở đây, Thầy sẽ không bị ruồng bỏ. Cũng sẽ chẳng bị bắt và chết tức tưởi đau thương. Và con cũng chẳng cần vác thánh giá làm chi cho nhọc sức nhọc lòng!!!
Xuống núi! Xuống núi! May mắn không thể là tĩnh từ của đời môn đệ Chúa. Mão bào chỉ sáng láng khi bàn tay đã chai cứng sẻ chia với những người cùng khốn. Không thể là ngôn sứ nếu không can đảm sống bằng chính mồ hôi và nước mắt đời mình.
Cuộc đời của Đức Giêsu là một hành trình, một chuyến đi đường. Điều này, tác giả MC đã cho thấy dọc theo tác phẩm của ngài với từ ngữ “con đường” (hodos), đặc biệt trong phân đoạn 8,27–10,45: ở đây chúng ta thấy Đức Giêsu thường xuyên ở trên đường cùng với các môn đệ (8,27; 9,33.34; 10,32). Trên đường đi, Đức Giêsu nhắc đi nhắc lại cách Người sống. Người tìm cách giải thích cho các môn đệ rằng, một bên, do chương trình mà Người sẽ thực hiện theo lệnh của Thiên Chúa, bên kia do kế hoạch của các đối thủ muốn khử trừ Người, Người phải chọn lựa giữa đánh liều mạng sống và phản bội sứ mạng. Vì đã chọn vâng lời Thiên Chúa, Người đi lên Giêrusalem.
Biến cố Đức Giêsu biến đổi hình dạng là cốt lõi của đoạn trung tâm 8,27–10,45 và được trực tiếp liên kết với phân đoạn Phêrô tuyên xưng đức tin và lời loan báo đầu tiên về Thương Khó (8,27–9,1).
Chúng ta có lý khi coi bài tường thuật về Hiển Dung như là cái trục của TM MC . Điều này càng rõ khi người ta nhận thấy bài này có thể dễ dàng tách khỏi ngữ cảnh: chỉ việc nối câu nói của Đức Giêsu về Quang Lâm gần kề (9,1) với cuộc tranh luận về Êlia phải đến trước (9,11-13) thì thấy tư tưởng cũng như thể văn không bị cắt đứt gì cả (Với lại các yếu tố của các bài tường thuật chỉ được nối với nhau bằng các liên từ kai: 9,1: “Và Người nói”; 9,2: “Và Người lên núi…”; 9,11: “Và các ông hỏi …”).
Sau khi đã nói đến những gian khổ mà các môn đệ phải chấp nhận nếu muốn đi theo Người, Đức Giêsu thêm: “Tôi bảo thật các người: trong số những người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm cái chết trước khi thấy Triều Đại Thiên Chúa đến, đầy uy lực” (9,1). Theo tác giả, biến cố Triều Đại (Nước) Thiên Chúa đến là đối tượng của Tin Mừng (1,14-15). Còn “uy lực” của Thiên Chúa thì sẽ được biểu lộ vào ngày Quang Lâm. Đức Giêsu đã khẳng định như thế nhiều lần (x. 12,18-27; 13,24-27; 14,61-62).
Nếu tạm bỏ bài Hiển Dung sang một bên, ta thấy cuộc tranh luận sau đó bàn về việc Êlia trở lại (9,11-13). Đồng hoá Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu với Êlia và các ngôn sứ Israel ngày xưa là một đề tài được MC thường xuyên đề cập đến, ở đây, cũng như ở trong 6,14-16 và 8,27-29. Cuộc tranh luận ấy trước tiên có tầm mức cánh chung, bởi vì ngôn sứ Malakhi đã loan báo Êlia sẽ trở lại làm vị tiền hô của Đấng Mêsia (x. Ml 3,23-24). Đức Giêsu đã nhìn nhận Gioan Tẩy Giả đóng vai trò này (MC 1,2-ABC8; x. Lc 1,17). Nói tóm, cuộc tranh luận về việc ngôn sứ Êlia trở lại, cho dù được coi là đã được thể hiện nơi Gioan Tẩy Giả, được ghép rất tự nhiên vào một lời của Đức Giêsu liên hệ đến biến cố Nước Thiên Chúa đến.
Vậy, bài tường thuật Hiển Dung đã được tháp vào đây là do nền thần học của tác giả và do cấu trúc ngài cung cấp cho tác phẩm của ngài, nhưng cũng là để làm một đoạn giải thích sự chậm trễ của Quang Lâm. Nếu như vậy, tác giả đã thực hiện được một sự hài hoà đáng phục bởi vì câu nói về Quang Lâm của Đức Giêsu được minh hoạ và báo trước trong biến cố Hiển Dung. Sự xuất hiện của Êlia được nhắc đến trong biến cố này, gợi ra câu hỏi về vai trò của Êlia sau đó. Khi đó, viễn cảnh Quang Lâm được lặp lại, càng thêm long trọng.
2.- Bố CụC
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu đưa ba môn đệ đi (9,2a-b); 2) Đức Giêsu biến đổi hình dạng (9,2c-8); 3) Đức Giêsu truyền lệnh giữ kín những điều đã biết (9,9-10).
Một số nhà chú giải đã khám phá ra có một sự “đóng khung” vừa chính xác vừa tinh tế, ở cc. 2 và 8. Một đàng, MC viết rằng “Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao”. Đàng khác, ông nói rằng “Các ông chợt nhìn chung quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”: kiểu đóng khung này đã bỏ ra bên ngoài cc. 9-10 là hai câu chứa đựng hai chủ đề riêng của TM MC , là bí mật thiên sai và sự không hiểu của các môn đệ, để nói về một mạc khải riêng cho ba môn đệ thân tín: Tác giả MC cho hiểu rằng muốn khám phá ra chân tính của Đấng Mêsia, cần phải được dẫn nhập dần dần. Bài tường thuật Hiển Dung này như muốn là biểu tượng của cuộc dẫn nhập tiệm tiến vào mầu nhiệm Đấng Mêsia: thị kiến được dành riêng cho ba môn đệ được dẫn riêng lên một ngọn núi; lệnh truyền từ trời là hãy chỉ lắng nghe Người Con; cuối cùng, lệnh truyền giữ kín mạc khải này.
3.- VAI DIỂM CHU GIẢI
- sáu ngày sau (2): Toàn bài gợi tới Xh 24. Cũng như Môsê, Đức Giêsu lên núi với ba bạn đồng hành nêu rõ tên (Xh 24,1.9). Tới ngày thứ bảy, Thiên Chúa nói với Môsê; qua sáu ngày, Đức Giêsu lên núi và có tiếng Thiên Chúa phán. Tác giả Riesenfield nhấn mạnh tới chi tiết “sáu ngày sau” mà cho rằng đấy là biến cố Đức Giêsu tỏ mình ra là Đấng Mêsia (truyền thống dành ngày thứ bảy để tưởng niệm Thiên Chúa đăng quang làm vua). Đám mây, cũng giống như trong Xh 24,16t, là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa.
- một ngọn núi cao: Ta không thể xác định đây là ngọn núi nào, nhưng nó có thể gợi tớùi núi Sinai (theo Xh 24). Ngọn núi là nơi có các cuộc thần hiển: Thiên Chúa nói với Môsê trên núi (Xh 24,15tt); Ngài tỏ mình ra với Êlia trên núi (1 V 19,8).
- Người biến đổi hình dạng: Không có kinh nghiệm nào trong quá khứ, dù là kinh nghiệm của Môsê ở trên núi Sinai, có thể giúp hình dung sự biến đổi hình dạng của Đức Giêsu ở đây. Điều đặc biệt là khi Người ở trong vinh quang thiên quốc, các môn đệ vẫn nhận ra Người. Đức Giêsu có “y phục rực rỡ, trắng tinh không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy” (c. 3). Thật ra đây là một “ánh sáng chói lọi”, là màu sắc của những thực tại thiên quốc và cánh chung. Cuộc Hiển Dung không phải là kết quả của một nỗ lực con người, nhưng là một biến cố được mô tả theo dạng thái bị động (c. 2: metemorphôthê, aorist passive) để cho thấy rằng Thiên Chúa là Đấng hành động một mình trong biến cố này.
- thấy ông Êlia cùng ông Môsê (4): Theo truyền thống, Môsê có vai trò rất quan trọng trong lịch sử dân Chúa. Thứ tự Êlia–Môsê của riêng tác giả MC tương ứng với vị trí quan trọng hơn mà Êlia có trong TM II. Ngoài ra, ông còn là một dung mạo mang tính khải huyền và thiên sai hơn Môsê. Tuy nhiên, c. 5, với tên Môsê ở trước, ta nhận ra dấu vết của truyền thống mà MC chưa xóa đi. Dù sao, sự xuất hiện của hai ông chứng tỏ “Nước Thiên Chúa đã đến gần”. Hai ông xuất hiện vừa cho thấy Đức Giêsu hiệp thông với thiên giới, vừa giới thiệu với tư cách và số phận của Người.
- đàm đạo với Đức Giêsu: MC không cho biết đề tài cuộc trao đổi giữa Đức Giêsu với Êlia và Môsê.
- chúng con xin dựng ba cái lều (5): Khi ba nhân vật thiên giới đàm đạo với nhau, ba tông đồ, những con người “phàm phu tục tử”, ở cách xa. Do đó, khi ngỏ lời với Đức Giêsu mà chỉ thưa Người là “Thầy” (rabbi) và đề nghị được dựng ba lều, Phêrô đã chứng tỏ sự ngỡ ngàng hụt hẫng của mình. Đề nghị của Phêrô là nhắm duy trì hoàn cảnh các ông đang trải nghiệm. Tuy nhiên, ta chỉ hiểu được đề nghị này nếu ta đặt nó vào trong khung cảnh lịch sử của Lễ Lều. Lễ này kéo dài kỷ niệm 40 năm dân Israel đã sống trong sa mạc, dưới lều, để phụng sự Đức Chúa (Yhwh), và được Ngài che chở (đám mây sáng). Nhân danh dân tộc mình, Môsê đã yêu cầu vua Pharaô để cho dân đi vào sa mạc để có thể cử hành lễ mừng Đức Chúa. Lễ này có thể trùng hợp với cuộc thần hiển tại núi Sinai, nhưng thật ra, nó bao trùm những năm dài trước khi vào Đất Hứa. Người Do-thái đã ghi giữ rồi nhớ nhung đời sống du mục này và đã kết tinh nó vào Lễ Lều, kéo dài một tuần, để kết thúc chu kỳ Lễ Vượt Qua và lễ Ngũ Tuần. Trong Do-thái giáo hậu lưu đày, Lễ này có chứa nỗi niềm chờ mong Đấng Mêsia.
Thật ra, vì mối bận tâm của MC là cho thấy hành trình đức tin của các môn đệ, nên đề nghị này của Phêrô chứng tỏ ông không hiểu gì (tương tự ở 8,32t): Do muốn duy trì niềm hạnh phúc thiên giới, ông lại đang muốn tránh những đau khổ chắc chắn phải đi vào.
- kinh hoàng (6): Tác giả đã nhận định: “Thật ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng” (9,6; xem 14,40: tình trạng ngây dại ở vườn Ghếtsêmani). Sự kinh hoàng này (tương tự sự kinh hoàng của các phụ nữ khi sứ thần hiện ra tại mộ, x. 16,5-8) chứng tỏ các ông khó mà hiểu, thậm chí không thể hiểu, tầm mức thiên sai của những lời nói và hành vi của Đức Giêsu. Phêrô đã minh giải sai cuộc tỏ mình của Đấng Mêsia trên núi; tất cả những gì ông có thể nói ra đều mang vẻ ngờ nghệch vì ông kinh hãi trước sự đột nhập của thế giới thần thiêng. Và khi MC ghi nhận ở c. 8 rằng “các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”, ta lại không nghe ra như một lời trách nhắm đến đến các tông đồ là đã không biết tiếp tục dựa vào lòng tin mà nhìn ra Đức Giêsu vẫn không ngừng sống cùng các thánh của Cựu Ước và sống trong tình thân thiết với Cha Người đó sao? Khi cũng những vị tông đồ này tự hỏi câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì, thì đây không phải hỏi về một vấn đề tín điều (bởi vì đây là một tín điều được mọi người, trừ phái Sađốc, chấp nhận), nhưng là băn khoăn về Đức Giêsu: Các ông đang vấp phạm vì cái chết mà Đức Giêsu sẽ phải đi qua. Chẳng phải là Đấng Mêsia sẽ được cất lên trời như Êlia, như Môsê sao? Chẳng lẽ Người lại phải xuống cõi chết trước khi sống lại? MC đã nêu bật sự tăm tối của các tông đồ dọc theo tác phẩm của Người (x. 4,13.40-41; 6,50-52; 8,17-21; 9,32; 10,24.26.32.38).
- Từ đám mây (7): Đám mây là tấm phông trên đó Đức Giêsu biến đổi hình dạng, từ đó Êlia và Môsê đi ra để nói chuyện với Đức Giêsu và từ đó tiếng Chúa Cha phát ra; Êlia và Môsê lại biến mất vào đó, và cùng với đám mây, cũng biến mất vinh quang của Đức Giêsu. Như trong cuộc Xuất hành, đám mây tượng trưng sự hiện diện gần kề của Thiên Chúa. Đám mây này là tấm màn ngăn cách một thời gian nữa những thực tại trần thế với những thực tại biên giới. Đám mây này đã xé ra khi Đức Giêsu đến thế gian và nhận phép rửa. Đám mây này là nơi Đấng Phục Sinh biến mất vào hôm sau ngày sống lại và theo lời sấm Đanien; trên đám mây này, Đức Giêsu sẽ tái hiện vào thời tận thế để quy tụ những kẻ được tuyển chọn.
- Đây là con Ta yêu dấu (7): Sự xuất hiện của đám mây và tiếng nói của Thiên Chúa vừa giải nghĩa cuộc Hiển Dung vừa trả lời cho phản ứng của Phêrô.
So với Lời nói tại Phép Rửa (1,11), lời công bố này không thêm gì mới về Đức Giêsu, Con Thiên Chúa và Đấng Mêsia, nhưng lời này đưa lại một điều chỉnh quan trọng cho lời tuyên xưng đức tin của Phêrô (8,29). Vị tông đồ chỉ tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Mêsia; Trời Cao chứng thực Người là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Nếu thị kiến về Đức Giêsu hiển dung giới thiệu trước vinh quang của Đức Giêsu vào ngày Phục Sinh và ngày Quang Lâm, Tiếng Nói lại chứng thực Đức Giêsu là Con luôn sống thân thiết với Chúa Cha và gợi ý rằng Người đã có từ muôn đời (tiền hữu). Lời gửi gắm cuối cùng đã đẩy cuộc truyện trò của Êlia và Môsê vào hàng thứ yếu; kể từ nay chính Đức Giêsu là Đấng duy nhất mà các tín hữu phải lắng nghe; Người là Đấng trung gian duy nhất của Giao Ước Mới trong đó Êlia, Môsê và tất cả các ngôn sứ được tham dự vào.
- truyền cho các ông không được kể lại (9): Đây là lệnh im lặng cuối cùng trong MC , lệnh này có một ý nghĩa căn bản cho cả các lệnh khác với cùng một giới hạn về thời gian. Bằng c. 9 này, tác giả hướng bài tường thuật Hiển Dung về Phục Sinh: bài tường thuật như thế nối kết số phận của Đức Kitô và lời loan báo về Triều Đại Thiên Chúa. Những gì ba môn đệ đã thấy trên núi làm cho các ông thành những người được nhận trước sự hoàn tất của lời hứa 9,1. Sau lệnh của Đức Giêsu, tác giả dừng lại với môn đệ. Các ông tuân giữ lệnh truyền (ton logon ekratêsan cũng có thể có nghĩa là là “ghi nhớ ký ức”, theo kiểu nói La-tinh [memoria] tenere), nhưng tranh luận xem “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì, chắc chắn theo nghĩa là “cuộc sống lại của Đức Giêsu”.
4.- Ý NGHIA CỦA BẢN VAN
* Đức Giêsu đưa ba môn đệ đi (2a-b)
Cuộc Hiển Dung lại là một truyện nữa trong đó Đức Giêsu đưa riêng ba môn đệ chọn lọc là Phêrô, Giacôbê và Gioan đi (x. chữa con gái Gia-ia, 5,35-43). Người chọn một quả núi cao, biểu tượng của tình trạng gần gũi với Thiên Chúa; Người chọn sự cô quạnh và biệt lập. Đức Giêsu đưa các môn đệ đi xa cuộc sống hằng ngày xô bồ náo nhiệt. Điều mà các môn đệ phải hiểu là một điều hoàn toàn lạ thường, nhưng không có gì là ngoạn mục hoặc gây cảm giác mạnh. Hoàn cảnh mà Người chọn và bố trí cho thấy rằng Người không muốn tạo ra một ấn tượng tức thời và hời hợt trên một đám đông, nhưng Người muốn biến đổi một vài người cách sâu xa và bền vững. Chỉ bằng cách để cho mình được dẫn vào nơi cô tịch và đến gần Thiên Chúa, ba môn đệ mới ở trong môi trường thuận lợi mà bước một bước quyết liệt đến chỗ hiểu biết mầu nhiệm bản thân Đức Giêsu.
* Đức Giêsu biến đổi hình dạng (2c-8)
Đức Giêsu đã biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Những gì xảy ra trên núi là nhắm cho các ông, chứ không phải cho Người. Bây giờ các ông hiểu rằng phương diện quan thuộc của con người trần thế nơi Đức Giêsu không diễn tả hết thực tại của Người; họ cũng nhận thấy rằng Người không bị giam hãm trong các giới hạn của thực tại trần thế. Đàng sau phương diện nhân loại trần thế của Đức Giêsu, có ẩn giấu thực tại thần linh siêu phàm của Người. Ở đây không những các giới hạn của thực tại trần thế bị vượt qua, mà cả những ranh giới của thời gian cũng bị vượt qua. Bên cạnh Đức Giêsu, xuất hiện Êlia và Môsê, hai gương mặt nổi bật trong lịch sử dân Israel. Các ngài tượng trưng cho sự ân cần của Thiên Chúa đối với dân (Môsê) và cuộc tranh đấu của Ngài cho dân (Êlia). Sứ mạng và nhiệm vụ của Đức Giêsu được ví với sứ mạng và nhiệm vụ của hai ngài. Hai ngài là những vị báo trước Đức Giêsu. Sự kiện Đức Giêsu ở giữa hai ngài và hai ngài thưa chuyện với Đức Giêsu cho ba môn đệ một bằng chứng nữa để có thể nhận biết Đức Giêsu là ai: Người thuộc về thế giới của Thiên Chúa. Nhưng Người cũng thuộc về lịch sử của dân Israel được Thiên Chúa hướng dẫn. Người sẽ phải đưa sứ mạng của Môsê và Êlia đến chỗ hoàn tất. Tiếng Nói từ trời với các môn đệ xác nhận điều này. Ngoài lời tuyên xưng của Phêrô đã nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô (8,29), bây giờ các môn đệ còn hiểu Đức Giêsu có quan hệ thế nào với Thiên Chúa. Đồng thời, các ông cũng hiểu hậu quả của quan hệ này đối với các ông: vì Người là Con Thiên Chúa, các ông phải vâng nghe lời Người. Tương quan của Đức Giêsu với loài người tùy thuộc quan hệ của Người với Thiên Chúa.
Sau khi đã mạc khải rằng Đức Giêsu là Con yêu dấu, rằng Đức Giêsu không chỉ là tôi tớ, mà ở trong một tương quan về nguồn gốc và bình đẳng do bản chất, Thiên Chúa còn tuyên bố về tình yêu đối với Người. Đây là bí mật đích thực của Người mà bây giờ ba môn đệ được chính Thiên Chúa đưa vào. Đức Giêsu không chỉ biết Thiên Chúa xa xa là Chúa tể, như Môsê và Êlia biết, nhưng biết Thiên Chúa như là Cha, trong một tương quan gần gũi và thân tình nhất. Bởi vì chúng ta không thể trực tiếp có một tương quan gần gũi với Thiên Chúa hơn và cũng không thể có một sự hiểu biết cao sâu hơn về Thiên Chúa, Đức Giêsu Đấng giúp chúng ta có sự hiểu biết tối hậu và vĩnh viễn về Thiên Chúa (x. Ga 1,18; MC 12,6). Cho tới nay, Israel đã nghe lời Môsê và Êlia, bây giờ họ phải nghe lời Đức Giêsu.
Cuộc Hiển Dung là một đỉnh cao trong mạc khải về Đức Giêsu. Ở đây, Người tỏ mình ra cho các môn đệ trong thực tại siêu phàm của Người, trong quan hệ của Người với lịch sử Israel, trong tương quan của Người với Thiên Chúa. Các môn đệ đã nhận được mạc khải sâu xa nhất và quan trọng nhất về Đức Giêsu. Ta chỉ hiểu được sự vĩ đại và sâu thẳm của mạc khải này trong mức độ ta hiểu Thiên Chúa là ai: chỉ từ điểm này ta mới có thể hiểu nội dung của những điều sau đây: Thiên Chúa tự mạc khải ra như là Cha, đầy tình yêu, của Đức Giêsu; Đức Giêsu là Con yêu dấu của Thiên Chúa; trong lời nói và hành động của Đức Giêsu, tình yêu từ phụ của Thiên Chúa được tỏ bày ra. Các môn đệ đã biết tất cả những điều đó trong cuộc Hiển Dung.
* Đức Giêsu truyền lệnh giữ kín những điều đã biết (9-10)
Sau mạc khải ấy, Đức Giêsu truyền các môn đệ giữ im lặng. Họ còn cần có thời gian và phải tham dự vào cuộc Thương Khó, cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu, trước khi có thể hiểu được bản chất đích thực và ý nghĩa của tư cách Con Thiên Chúa của Người. Khi đó, họ sẽ không được thinh lặng nữa, trái lại họ phải đi làm chứng công khai.
+ Kết luận
Nơi Đức Giêsu, các môn đệ được nghe lời của Con Thiên Chúa. Các ông sẽ ghi nhớ những lời Người nói về những đau khổ đưa đến vinh quang (8,31-9,1) và sẽ nghiền ngẫm những chặng đường mầu nhiệm của ơn cứu độ mà Đức Giêsu mạc khải cho các ông (9,9-13). Lời nói trong ánh sáng này lại không phải là dấu chỉ mà từ bao đời, dân tộc Do-thái và toàn thể nhân loại vẫn mong chờ, để đạt được cùng đích vận mệnh của mình sao?
5.- GỢI Ý SUY NIỆM
1. Những hoàn cảnh và điều kiện trong đó xảy ra mạc khải cho ba môn đệ cũng có một ý nghĩa cho việc chúng ta gặp gỡ riêng tư với Đức Giêsu và với Thiên Chúa: phải tách ra khỏi cuộc sống xô bồ, náo nhiệt, và phải để cho Đức Giêsu hướng dẫn. Khi đó, chúng ta lại được nghe Thiên Chúa giới thiệu Đức Giêsu: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Người không phải là Con Thiên Chúa theo bất cứ kiểu nào, nhưng là Người Con duy nhất có trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa là Cha Người.
2. Bên cạnh Đức Giêsu, có Môsê và Êlia. Xuyên qua sự hiện diện của hai nhân vật này, Đức Giêsu đi vào để thuộc về lịch sử cuộc quan hệ giữa Thiên Chúa Israel với dân Người. Đức Giêsu không chỉ là một nhà trừ quỷ hoặc một thầy chuyên làm phép lạ. Sự hiện diện của hai nhân vật đã tạo những hướng đi quan trọng trong lịch sử dân Israel nêu bật rằng Đức Giêsu đã đến nhân danh Thiên Chúa để tiếp tục công trình của hai ngài.
3. Cần phải suy nghĩ kỹ hơn về hậu quả giữa quan hệ của Đức Giêsu với Thiên Chúa và ý nghĩa của quan hệ này đối với chúng ta. Càng dành thì giờ thờ phượng, chúng ta càng hiểu sâu thêm về thực tại “Đức Giêsu là Con Thiên Chúa”, khi đó, chúng ta cũng nhận ra những hậu quả của thực tại này đối với chúng ta. Chúng ta phải “vâng nghe lời” Người và không được phép im lặng nữa. Chúng ta sẽ phải ra đi mà làm chứng.
4. Ma quỷ quả có hô to chân tính của Đức Giêsu, nhưng không rút ra được bất cứ hệ quả nào cho những người đang nghe chúng. Còn ở trên ngọn núi này, lời khẳng định và lệnh truyền của Chúa Cha đi đôi với nhau. Chỉ có ai vâng theo mệnh lệnh thì mới nhìn nhận thật sự lời khẳng định và mới bắt đầu ở trên đường đưa tới chỗ hiểu lời này trọn vẹn hơn. Lệnh Đức Giêsu cấm các môn đệ nói về điều vừa thấy (9,9) cho hiểu là mọi điều đó vẫn còn nguyên giá trị, nhưng nói ra bây giờ thì còn quá sớm. Từ đó, ta hiểu rằng các tiếng la của ma quỷ hoàn toàn sai chỗ và quá sớm, và chỉ có thể gây khó khăn thêm cho việc hiểu biết Đức Giêsu cách đích thực.
Năm 1990 trong cuộc Ðại Hội Liên Hoan giới trẻ Phong Trào Tổ Ấm tại Roma, mọi người đều chăm chú nghe lời chia sẻ của một Phật tử trẻ tuổi từ Thái Lan tới dự, trong số những người nghe có Ðức Gioan Phaolô II. Năm năm sau cũng người Phật tử này tái xuất hiện lần này trong bộ đồ của nhà sư Phật giáo! Ðó quả là một trường hợp hi hữu. Hãy nghe chính dự viên trả lời phóng viên cho biết mình là ai và tại sao xuất hiện trong cuộc Ðại Hội Liên Hoan giới trẻ Phong Trào Tổ Ấm.
Hỏi: Bạn Biên (Beer), xin bạn vui lòng cho mọi người biết cơ hội nào khiến bạn lần đầu tiên gặp giới trẻ Tổ Aám và cuộc gặp gỡ ấy có ý nghĩa gì đối với bạn? Mới rồi trong cuộc Ðại Hội Liên Hoan 95, bạn còn xuất hiện trong bộ đồ nhà sư Phật giáo, chắc nhiều người cũng tò mò muốn biết tại sao?
Trả lời: Lần đầu tiên tôi gặp các bạn trẻ Tổ Aám một cách không ngờ. Ðó là vào thời điểm tôi học xong trung học và quyết định đi học đại học ở Băng Cốc. Tôi có người bạn Công giáo khi ấy cũng muốn đi Băng Cốc học. Anh đã giới thiệu tôi với một nữ tu. Và chị này đã mời tôi cùng đi trong chuyến đi Băng Cốc. Chị cũng nói rằng tôi có thể trọ với những người bạn của chị. Vậy là tôi rời bỏ "vùng Tam Giác Vàng" Thái Lan để đi Băng Cốc. Bạn tôi cùng với tôi đến trọ ở căn nhà do chị nữ tu đề nghị. Những người trong nhà đó đều là những người lạ đối với tôi. Sau này, tôi mới biết đó là một nhà của Phong Trào Tổ Ấm.
Cảm nhận đầu tiên của tôi rất tích cực vì người ta dành cho tôi một sự tiếp đón rất nồng hậu. Tôi cảm thấy rất thoải mái như ở nhà mình vậy nên thầm nghĩ: "Ðây đúng là mái ấm gia đình rồi còn gì!" Khi lớn lên, tôi không thường xuyên cảm thấy được êm ấm trong gia đình và thực ra đã từng thấy điều đó. Cho nên lối sống dễ thương ở đây thật là hấp dẫn đối với tôi.
Tôi bắt đầu tự hỏi: "Họ là ai vậy? Ðộng lực nào khiến họ sống liên đới với nhau như vậy? Tôi cố gắng tìm ra manh mối. Tôi nhận ra giữa họ luôn có mối tương quan sâu đậm. Họ xem ra như là những người anh em ruột thịt. Không lâu sau đó, tôi được mời đi dự một chương trình đặc biệt dành cho giới trẻ Tổ Aám. Khi ấy tôi chẵng biết gì về phong trào trẻ này nhưng tôi lấy làm sung sướng được mời vì nghĩ rằng đó là cơ hội để tôi đáp lại tình yêu họ dành cho tôi. Vậy tôi đã nhận lời mời dự "Chương trình học hỏi dành cho giới trẻ Tổ Ấm" là chương trình được tổ chức tại một thành phố khác.
Chính qua cuộc gặp gỡ này tôi được trực tiếp làm quen với giới trẻ Tổ Ấm. Tôi cũng được biết họ nhắm tới những lý tưởng nào. Vậy tôi đã hỏi một người phụ trách xem tôi cần phải làm gì để trở nên thành viên giới trẻ Tổ Ấm nhưng người đó không trả lời rõ ràng, mà chỉ nói rằng: "Bất cứ lúc nào bạn muốn, bạn có thể đến thăm chúng tôi." Tôi đã cảm nhận được mối giây ràng buộc thiêng liêng với họ. Giữa tôi và họ không có cản trở gì về chủng tộc, tôn giáo hoặc quốc tịch. Tôi được thách đố và thấy cần phải cùng nhau làm việc chung với mọi người khác, để xây dựng một thế giới hiệp nhất. Trong khi chờ đợi, tôi sống trong một nhà nhỏ mà mọi người đều chung sống. Ngoài việc chia sẻ với nhau về đời sống, chúng tôi còn chia sẻ với nhau về của cải vật chất. Lối sống của phong trào Tổ Ấm đã trở nên lối sống riêng của tôi. Tôi đã cố công hết sức để đi ngược lại với lối sống không được tốt đẹp nơi đại học. Khi ấy tôi đã tìm được việc làm để tự túc khi đi học. Từ khi ấy tôi hiểu ra rằng lối sống Tổ Ấm này mọi Phật tử đều có thể sống. Chỉ cần có thiện chí để cùng nhau tiến bước.
Tôi thấy chính tôi có thể sống như họ
Vì là Phật tử nên tôi chưa dễ dàng lãnh hội hết được ngôn ngữ Kitô giáo. Nhưng tôi vẫn cố gắng rộng mở và yêu thương tha nhân cả đối với những người bản chất khác tôi. Nhờ yêu thương tôi nhận ra họ cũng cởi mở đối với tôi. Từ từ bằng cách đó tôi đã trở nên thành viên dấn thân trọn vẹn của giới trẻ Tổ Ấm. Ðời sống của thành viên Tổ Aám dựa trên cơ sở Phúc Âm. Tôi thấy chính tôi có thể sống như họ. Hiện đã có nhiều thành viên giới trẻ Tổ Ấm là Phật tử.
Năm 1990 khi tôi tới Roma tham dự đại hội liên hoan giới trẻ Tổ Ấm và chia sẻ lời chứng bản thân, tôi đã ngỏ lời cùng 12,000 bạn trẻ có mặt tại sân vận động Palaeur. Khi ấy có một dự viên ngoại thường lắng nghe tôi nói: Ðó là Ðức Gioan Phaolô II. Trong biến cố đại hội, tôi được hiểu rõ hơn bao giờ rằng lý tưởng hiệp nhất mà tôi bắt đầu sống tại Thái Lan là lý tưởng đích thực. Chính qua đại hội tôi có kinh nghiệm bản thân về hiệp nhất. Khi trở về Thái Lan, tôi tiếp tục học và đã tốt nghiệp với văn bằng kinh tế.
Hỏi: Vì sao bạn quyết định dành 2 năm rưỡi sống tại Trung Tâm Focolare Lỗ Phúc Nhân (Loppiano) Italia. Khi ở đó, bạn có gặp khó khăn nào không?
Trả Lời: Lý do vì tôi muốn biết thêm về linh đạo hiệp nhất. Chính khi sống hiệp nhất tôi trở nên gần gũi hơn với tinh thần người sáng lập Phong Trào Tổ Ấm là chị Chiara Lưu Bích. Tôi thực muốn biết rõ hơn tại sao con người này đã có thể yêu thương nhiều tới mức ấy và tại sao chị đã có thể chia sẻ mối tình của chị cách quảng đại đến như vậy. Tôi muốn là người con thiêng liêng của chị. Tôi đã thưa với chị rằng tôi thực sự muốn đào sâu sự hiểu biết của tôi về lý tưởng sống động của chị. Ðáp lại, chị Lưu Bích đã đề nghị tôi nên dành thời giờ để sống tại Lỗ Phúc Nhân nhằm hiểu sâu đậm về hiệp nhất. Nghe lời đề nghị đó, tôi rất mừng và đã đến sống tại Lỗ Phúc Nhân.
Ðời sống tại Lỗ Phúc Nhân đã dậy tôi cách yêu thương cũng như dậy tôi cách hiến mình cho tha nhân. Ở đó tôi có cơ hội sống với những người anh em đến từ nhiều nơi trên thế giới. Cùng với họ, tôi đã học để trở nên một "con người của thế giới", tức là trở nên một bản vị rộng mở đối với toàn cầu. Chúng tôi đã chia sẻ kinh nghiệm hàng ngày cũng như đời sống về niềm tin của nhau. Bằng cách đơn giản như vậy, chúng tôi có thể đi sâu vào đời sống nội tâm của nhau. Bản thân tôi cũng thấy tôi được hiểu chính mình hơn. Tôi đã hiểu chị Lưu Bích là con người như thế nào và tin như thế nào. Tôi tôn trọng niềm tin của chị. Mỗi lần chị Lưu Bích viết cho tôi, chị luôn giao phó tôi cho Ðức Maria. Tôi hiểu rằng Ðức Maria đã từng sống một đời sống như những người khác trong cuộc sống thường ngày. Nhưng tôi cũng hiểu rằng Người đã làm phát sinh ra sự sống, đó là sự sống mới. Sự hiện diện của Ðức Maria đã trở nên như mối giây nối kết trọn đời sống của tôi thành một tổng thể.
Lời chia sẻ ở trên cho thấy phần nào những khám phá mới mẻ của một bạn trẻ Thái Lan về hiệp nhất. Bạn ấy nói đại khái rằng: "Cần phải vượt mọi cản trở về chủng tộc, tôn giáo hoặc quốc tịch. Cần phải cùng nhau làm việc chung với mọi người khác để xây dựng một thế giới hiệp nhất. Ngoài việc chia sẻ với nhau về đời sống, chúng tôi còn chia sẻ với nhau về của cải vật chất. Tôi được dậy cách hiến mình cho tha nhân, trở nên một bản vị rộng mở đối với toàn cầu."
Chưa phải là Phục sinh nhưng hướng tới Phục sinh
Tin Mừng Máccô lần lượt mạc khải con đường của Ðấng Mêsia và của các môn đệ là từ bỏ mình (8,27-9,1), kế đến mới mạc khải vinh quang trong biến cố biến hình như thấy trong bài Tin Mừng hôm nay (9,2-ABC10). Sẽ có trình thuật về khổ nạn ở 2 chương MC 14-15, đưa tới ánh sáng Phục sinh ở cuối đường hầm ở MC 16. Phục sinh chính là trở về cùng CHA: "Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy" (Ga 14,3). Các môn đệ sẽ được hiệp nhất lại nơi Thầy các ông. Nhưng tột đỉnh của hiệp nhất mà họ nhắm tới phải là: "Con không chỉ cầu nguyện cho những người này (là nhóm 12) nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như, lạy Cha, Cha ở trong con, và con ở trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta." (Ga 17,20-21). Vậy những khám phá về hiệp nhất như được chia sẻ ở trên chỉ mới là bước đầu, chưa phải là Phục sinh nhưng hướng bạn Biên về Phục sinh cũng như bài Tin Mừng hôm nay hướng các môn đệ Chúa Giêsu từ cõi chết đến sống lại (c.10).
Một số câu hỏi gợi ý
Bạn tâm đắc được gì trong lời chia sẻ của bạn trẻ Thái Lan khi nói: "Cần phải cùng nhau làm việc chung với mọi người khác để xây dựng một thế giới hiệp nhất"? "Tôi được dậy để hiến mình cho tha nhân và trở nên bản vị rộng mở đối với toàn cầu"? "Sự hiện diện của Ðức Maria đã trở nên như mối giây nối kết trọn đời sống của tôi thành một tổng thể"?
Trong biến cố biến hình của Ðức Giêsu, bạn hiểu thế nào về tiếng nói từ đám mây phát ra: "Ðây là con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người"? (c.7)
Bạn hiểu thế nào khi nói những khám phá về hiệp nhất như được bạn Biên chia sẻ chưa phải là "Phục sinh" nhưng hướng về Phục sinh cũng như bài Tin Mừng hôm nay hướng các môn đệ Chúa Giêsu từ cõi chết đến sống lại?
Tước hiệu "Con Một" cho phép nhấn mạnh sự duy nhất chủ đề của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay.
St 22: 1-18
Trong bài đọc I nầy, chúng ta sẽ đọc chuyện tích về cuộc hiến tế I-sa-ác, "con một" mà tổ phụ Áp-ra-ham yêu mến.
Rm 8: 31-34
Đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi cho Giáo Đoàn Rô-ma gợi lên tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại quá lớn đến nổi "ngay chính Con Một của mình, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã để cho phải chết vì hết thảy chúng ta". MC 9: 2-ABC10
Trong biến cố Biến Hình mà thánh ký Mác-cô mô tả cho chúng ta, lời của Chúa Cha từ trong đám mây công bố: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người". Ấy vậy, cuộc Biến Hình chỉ sau vài ngày trước lời loan báo đầu tiên của Đức Giê-su về cuộc Tử Nạn của Ngài, nghĩa là về cuộc hiến tế của "Con Một" chịu chết vì hết thảy chúng ta.
Chuyện tích nổi tiếng nầy không được trích dẫn toàn bộ vì độ dài của nó. Dù chuyện tích nầy nổi tiếng mấy đi nữa, nó cũng để lại cho chúng ta một ấn tượng bất ổn; cách hành xử của Thiên Chúa làm chúng ta khó chịu. Làm thế nào một vị Thiên Chúa tốt lành, nhân ái đầy lòng yêu thương lại có thể đòi hỏi ở nơi một con người ngay chính một sự thử thách đến như vậy, thậm chí ngay từ đầu người kể chuyện nói trước "đây chỉ là một cuộc thử thách", nghĩa là không thực sự xảy ra, cũng không làm cho chúng ta khỏi hoang mang.
Tuy nhiên, giá trị ngôn sứ của bản văn thì rõ ràng. Mặt khác, lịch sử soi sáng cho câu chuyện và xua tan đi những xao xuyến của chúng ta. Phải phân biệt hai giai đoạn khác nhau ở nơi chuyện tích nầy:
- Chuyện tích ban đầu đã thất truyền, nhưng ý nghĩa của nó thì rõ ràng: ngay từ nguồn gốc, có một sự đối lập giữa tôn giáo của người Do thái và tôn giáo của người Ca-na-an về việc hiến tế con cái cho thần linh.
- Câu chuyện mà chúng ta đọc xuất hiện sau nầy, được soạn thảo mười một thế kỷ sau đó. Chuyện tích này được đưa vào trong chuyện dài của vị tổ phụ để bày tỏ một ý hướng khác với ý hướng của câu chuyện ban đầu: câu chuyện sau nầy là một thần học về sự thử thách, đồng thời loan báo một sứ điệp chan chứa hy vọng. Ở bên kia nhân vật I-sa-ác, ẩn hiện dân Chúa chọn, bị đe dọa diệt vong (nhất là vương quốc Phương Bắc): phải đặt trọn vẹn niềm tin tưởng vào Gia-vê, Ngài không thể để cho dân của lời hứa, dân mà Ngài gọi "con đầu lòng của Ngài" phải bị diệt vong (Xh 4: 22-ABC23).
1. Tôn giáo của dân Ca-na-an:
Tổ phụ Áp-ra-ham đến đất Ca-na-an có lẽ vào khoảng 1850 trước Công Nguyên. Ông đến từ miền Lưỡng Hà Địa thuộc nền văn hóa Su-me. Thành Ua của người Can-đê, quê hương của ông, đã là một thành phố rực rỡ nền văn minh Su-me. Nhưng Áp-ra-ham không là người Su-me: ông là người Sê-mít. Ông di dân đến sống với những người Sê-mít, được gọi chung là người Ca-na-an. Ông khám phá nhiều dị biệt không chỉ về văn hóa nhưng cũng về phụng tự nữa: như hy tế toàn thiêu gia súc, cũng như con cái cho thần linh mà dân Ca-na-an thực hành, trong khi dân Su-me lại không hề biết đến.
Các văn sĩ xưa làm chứng về phong tục tập quán nầy. Như Diodore, văn sĩ Hy lạp thuộc thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên kể lại rằng dân Ca-tha dâng hiến cho thần Kronos hai trăm con trẻ "thuộc những gia đình danh giá nhất" khi gặp tai họa (Bibl. Hist. 20: 14) và Philon de Byblos, được Eusède trích dẫn, viết: "Đây là một phong tục tập quán cổ xưa của dân Phê-nê-xi là dâng hiến những đứa con thân yêu nhất của mình một cách rất huyền bí khi quốc gia gặp nguy hiểm".
Khoa khảo cổ đã phát hiện ở Gézer cũng như ở bình nguyên Megido một nghĩa trang trẻ em được ghi niên biểu vào thế kỷ thứ mười bốn trước Công Nguyên. Tuy nhiên phải cẩn trọng vì chúng ta không biết chắc chắn đây là bằng chứng của việc hiến tế trẻ con hay không.
Ngay cả Kinh Thánh cũng cung cấp vài chứng liệu về việc hiến tế con cái của mình trong hai trường hợp: vào những hoàn cảnh đặc biệt (thiên tai, nguy hiểm, nguy cơ thất trận) để xin thần linh cho tai qua nạn khỏi, và vào lúc cử hành lễ đặt móng để xin thần linh cho công việc xây cất được hoàn thành. Trong tường hợp thứ nhất, nạn nhân được chọn phải là con người đắc giá nhất, thân thiết nhất như vua Mô-áp, khi thấy cuộc chiến ác liệt, không cầm cự nổi, "liền bắt con đầu lòng, là người có quyền lên ngôi kế vị, mà tế trên tường thành làm lễ vật toàn thiêu" (2V 3: 27). Vua A-khát, cai trị Giu-đa, mất niềm tin vào Gia-vê, trước hoàn cảnh tuyệt vọng của Giê-ru-sa-lem, "làm lễ thiêu con trai mình" (2V 16: 3). Một thế kỷ sau đó, vua Mơ-na-se cũng làm tương tự (2V 21: 6). Trong trường hợp thứ hai, sách Các Vua quyển thứ nhất tường thuật: "Ông Khi-ên, người Bết Ên, xây cất lại Giê-ri-khô, nhưng ông đã phải mất người con đầu lòng là A-vi-ram, khi đặt nền, và mất đứa con út là Xơ-gúp, khi dựng cửa" (1V 16: 34).
Phải chăng khi có ý định hiến tế I-sa-ác, ông Áp-ra-ham muốn bày tỏ tấm lòng thành của mình đối với Thiên Chúa của mình chẳng thua kém gì dân Ca-na-an đối với các thần linh của họ?.
2. Giai đoạn sau nầy:
Tuy nhiên, dù hy tế các con trai đầu lòng của vua có phẩm chất cao quý đến mấy đi nữa, tôn giáo Ít-ra-en luôn luôn ghê tởm những hành động như thế. Luật Mô-sê nói rất rõ: "Ngươi phải nhường lại cho Đức Chúa mọi con đầu lòng của loài người và mọi con đầu lòng của loài vật trong đàn vật của ngươi: các con đực thuộc về Thiên Chúa…Còn mọi con đầu lòng của loài người trong số con cái ngươi, thì ngươi sẽ chuộc lại" (Xh 13: 11-13).
Vào thế kỷ thứ mười và thứ tám trước Công Nguyên, những văn kiện và những truyền thống liên quan đến các tổ phụ được tập hợp lại và soạn thảo. Từ xa xưa, chuyện tích hiến tế I-sa-ác xác minh quyết định của luật Mô-sê. Trong câu chuyện nầy, chân dung của tổ phụ Áp-ra-ham được phát họa như một con người của sự quảng đại và con người của niềm tin.
2.1- Con người của sự quảng đại:
Lòng quảng đại của ông Áp-ra-ham thì thường hằng. Vị tổ phụ đã dẫn theo người cháu của mình, ông Lót từ Lưỡng Hà Địa. Rồi một ngày kia họ chia tay. Ông Áp-ra-ham để ông Lót chọn những cánh đồng màu mở nhất. Ông Áp-ra-ham biếu ông Men-ki-xê-đê một phần mười tất cả chiến lợi phẩm. Ông Áp-ra ham đã cứu giúp vua Sơ-đom nhưng từ chối mọi quà tặng mà vua đề nghị ban cho ông: "Dù một sợi chỉ, dù một quai dép, bất cứ cái gì của ông, tôi cũng không lấy" (St 14: 23). Đối với Thiên Chúa, ông Áp-ra-ham cũng hành xử một cách như vậy. Khi chấp nhận dâng hiến đứa con một của mình, ông cho tất cả.
2.2-ABC Con người của niềm tin:
Việc hiến tế I-sa-ác được định vị ở cuối một loạt thử thách ở đó vị tổ phụ đã bày tỏ niềm tin của mình rồi, bất chấp những vẻ bên ngoài khó tin. Thiên Chúa hứa ban cho ông một dòng dõi đông đúc như sao trên trời như cát dưới biển; ấy vậy thực tế, ông không có một mụn con nào còn vợ ông đã già và vô sinh. Thiên Chúa hứa ban cho ông tất cả đất đai mà ông thấy trước mắt, trong khi ông chỉ là một người phiêu bạt không có một tất đất để cấm dùi. Vị tổ phụ cũng giữ một thái độ tràn đầy niềm tin như vậy khi ông dẫn con mình lên núi để hiến tế theo lệnh truyền của Thiên Chúa. Cho dù ông không lý giải được lệnh truyền của Thiên Chúa nhưng ông vẫn tin là có một giải pháp, vì Thiên Chúa không thể nào mâu thuẩn với chính mình. Như vậy ông Áp-ra-ham dâng hiến một mẫu thức của đức tin, một đức tin dựa trên "lời của Thiên Chúa" chứ không trên lý lẽ của người đời. Vì thế, ông Áp-ra-ham được ba tôn giáo: Do thái giáo, Ki tô giáo và Hồi giáo, gọi "Cha của những kẻ tin".
Khi nhấn mạnh đức vâng phục của vị tổ phụ, một cách nào đó người kể chuyện muốn đặt ông Áp-ra-ham đối nghịch với nguyên tổ A-đam. Ông A-đam vì bất phục tùng đã đem đến những lời nguyền của Thiên Chúa trên nhân loại; ông Áp-ra-ham vì vâng phục đã đem đến những lời chúc phúc của Thiên Chúa trên muôn vàn thế hệ.
Đáp lại niềm tin và sự vâng phục anh hùng của vị tổ phụ, Thiên Chúa làm mới lại mọi lời hứa mà Ngài đã hứa với ông trước đó. Hơn nữa, Thiên Chúa còn cam kết: "Ta lấy chính danh Ta mà thề". Một cách nào đó, ông Áp-ra-ham trở thành một người bạn thân của Thiên Chúa, chứng nhân về một lời cam kết của Thiên Chúa, vì lời thề thì hơn một lời hứa.
3. Thần học về sự thử thách:
Tác giả Gia-vít sống vào khoảng năm 750 trước Công Nguyên trong vương quốc phương Bắc. Chẳng bao lâu sau vương quốc nầy bị tấn công và trở thành chư hầu của đế quốc Át-sua và cuối cùng bị tiêu diệt (721 trước Công Nguyên).
Để soi sáng cho những biến cố mà ông đã sống, ông đọc lại những chứng liệu lịch sử. Chẳng có gì quá đáng khi nói rằng ông đã thấy ở nơi cuộc hiến tế I-sa-ác một dấu chỉ của cách thức mà Thiên Chúa hướng dẫn lịch sử thánh: những ý định của Ngài bị thất bại chỉ là bên ngoài. Ông Áp-ra-ham luôn luôn hy vọng cho dù bên ngoài chẳng le lói một tia hy vọng nào. Ít-ra-en phải thấy ở nơi hành vi tròn đầy tin tưởng nầy nền tảng của việc mình được tuyển chọn và ở nơi việc Gia-vê can thiệp để cứu I-sa-ác một sự đảm bảo rằng Thiên Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi những đứa con của Lời Hứa.
Khi ghi lại chuyện tích hiến tế I-sa-ác, tác giả muốn trả lời cho những thử thách mà những người đương thời của ông đã trải qua trong suốt những khủng hoảng lớn của thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên.
4. Khía cạnh ngôn sứ:
Hình ảnh của người cha này hiến tế đứa con một của mình, đứa con rất mực dấu yêu của mình và hình ảnh của người con mang trên vai mình bó củi hy tế của mình, thật sự là những hình ảnh rất mạnh, gợi lên một tấm thảm kịch khác, thảm kịch của chính Thiên Chúa trao phó Người Con duy nhất và dấu yêu của mình để cứu độ nhân loại.
Thánh ký Gioan sẽ ám chỉ đến hy tế của I-sa-ác khi áp dụng vào Đức Giê-su tược hiệu "Người Con Một": "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3: 16). Ẩn hiện phía sau chuyện tích nầy, chúng ta đọc thấy sự thất bại bên ngoài của Thứ Sáu Tuần Thánh.
BÀI ĐỌC II Rm 8: 31-34
Thánh Phao-lô viết cho Giáo Đoàn Rô-ma vào mùa đông của những năm 56-57; lúc đó thánh nhân hiện ở Cô-rin-tô. Những ngày lưu lại ở đây giúp thánh nhân khây khỏa những căng thẳng (các bài đọc của những Chúa Nhật vừa qua đã cho chúng ta những vang âm của những căng thẳng nầy). Cũng chính ở đây mà ngài viết thư gởi cho các Ki tô hữu Rô-ma mà ngài nghĩ sẽ viếng thăm họ sắp đến. Như vậy, bức thư nầy chuẩn bị cuộc hành trình đến Rô-ma của ngài.
1. Bối cảnh:
Bài đọc II được trích từ chương 8, chương tràn đầy cảm xúc ở đó người ta cảm thấy hơi thở nồng nàn của vị Tông Đồ và tâm tình tôn giáo của ngài tỏa lan. Thánh nhân miêu tả hoàn cảnh ưu tiên của người Ki tô hữu: được Thần Khí ngự trong lòng, con cái của Thiên Chúa, được dành cho vinh quang ngay cả ở nơi thân xác của mình, được công chính hóa nhờ đức tin. Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến mức chúng ta chẳng có gì phải sợ ngoài việc sống trong niềm hy vọng tròn đầy.
2. Ý nghĩa:
Chương 8 nầy được kết thúc bởi một bài thánh thi ca ngợi Tình Yêu Thiên Chúa trên một cung giọng đắc thắng. Bài đọc II là phần khởi đầu của bài thánh thi nầy.
Không một quyền lực nào có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa: "Đến như chính Con mình, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã để cho phải chết vì hết thảy chúng ta". Còn sự đảm bảo nào có thể sánh ví với tình Chúa và những ân ban mà Ngài dành cho chúng ta đến như thế!
Thánh Phao-lô tưởng tượng tòa án ở đó những người Thiên Chúa chọn được điệu đến: "Ai dám buộc tội những người Chúa chọn?" Thiên Chúa không thể vừa kết án vừa tuyên bố họ công chính. Chẳng lẽ Đức Giê-su, Đấng ngự bên hữu Chúa Cha lại kết án chúng ta? Nhưng Ngài là Đấng đã cứu chúng ta và cầu bầu cho chúng ta. Vì thế, người Ki tô hữu chẳng có gì phải lo sợ cả.
TIN MỪNG MC 9: 2-ABC10
Biến cố Biến Hình là một trong những biến cố chất nặng mầu nhiệm Tin Mừng nhất, nhưng cũng là một trong những biến cố phong phú nhất về giáo huấn.
Thời điểm mà biến cố được định vị: "Sáu ngày sau" bày tỏ ý nghĩa của nó. Vài ngày trước đó, gần miền Xê-da-rê Phi-líp-phê, Đức Giê-su đã hỏi các môn đệ của Ngài: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?". Ông Phê-rô, đại diện các môn đệ, tuyên xưng: "Thầy là Đức Ki tô". Đức Giê-su nghĩ rằng đây là dịp thuận tiện để mặc khải sứ mạng mà Ngài sẽ thực hiện, vì thế Ngài báo trước cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Phê-rô không đồng tình với lời loan báo nầy liền tìm cách ngăn cản Ngài. Ba sách Tin Mừng Nhất Lãm đều đặt vào trong bối cảnh nầy biến cố Biến Hình, biến cố đem đến một câu trả lời.
Biến cố nầy phải được khảo sát dưới hai khía cạnh: đối với Đức Giê-su, biến cố nầy có ý nghĩa như thế nào?; và đối với ba nhân chứng: thánh Phê-rô, thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan, biến cố nầy có ý nghĩa như thế nào?
1. Biến cố Biến Hình đối với Đức Giê-su:
Biến cố Biến Hình là sự nâng đỡ tâm lý và tinh thần quan trọng nhất mà Đức Giê-su đã nhận được trong suốt sứ vụ của Ngài. Trong khi Đức Giê-su Nhập Thể đang hướng về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của mình, Chúa Cha đem đến cho Ngài một niềm an ủi đặc biệt. Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su được đảm bảo rằng con đường đau khổ mà Ngài sắp trải qua, sẽ dẫn Ngài đến vinh quang, vinh quang mà Ngài đã có trước khi nhập thể và lúc nầy đây Ngài đón nhận lại trong chóc lát.
"Ông Ê-li-a và ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su". Trên núi cao rực rỡ ánh quang gợi lên núi Xi-nai, sự hiện diện của ông Mô-sê và ông Ê-li-a không có gì phải ngạc nhiên. Cả hai nhân vật Cựu Ước nổi tiếng nầy đã gặp gỡ Thiên Chúa trong những hoàn cảnh tương tự. Ở đây, sự hiện diện của hai ông nêu bật tước vị Mê-si-a tuyệt vời: sự hiện diện của hai ông chứng thực rằng Kinh Thánh được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su. Chắc chắn, ông Mô-sê đại diện Lề Luật và ông Ê-li-a đại diện truyền thống Ngôn Sứ, nhưng ở bên kia hình tượng nầy, họ là "dấu chỉ"; quả thật, họ là những người mà truyền thống liên kết thường nhất với triều đại Thiên Sai. Mô-sê đã loan báo rằng một ngôn sứ vĩ đại sẽ đến, những lời của đấng ấy cũng sẽ là lời của Thiên Chúa (Đnl 18: 18), trong khi người ta truyền tụng rằng ông Ê-li-a sẽ trở lại chuẩn bị cho Đấng Mê-si-a ngự đến. Cuộc Biến Hình nhấn mạnh mối liên kết giữa Cựu Ước và Tân Ước.
"Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người". Tiếng phán của Chúa Cha công bố cùng những lời vào lúc Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy giả: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con" (MC 1: 11). Lời phán nầy một lần nữa khẳng định Tử Hệ thần linh của Đức Giê-su và trọn tình yêu của Chúa Cha dành cho Con của Ngài. Vì thế, lời nầy đem lại cho Đức Giê-su một niềm an ủi lớn lao mà Ngài đã nhận được vào lúc bắt đầu sứ vụ của Ngài, và được làm mới lại vào thời điểm Ngài khởi sự phần thứ hai, phần khó khăn nhất của sứ vụ của Ngài. Tuy nhiên, tiếng phán vào lúc Đức Giê-su chịu phép rửa nhấn mạnh trên sự hài lòng của Chúa Cha với Con Mình, trong khi tiếng phán vào lúc Biến Hình lại nhấn mạnh trên sứ điệp: "Hãy vâng nghe lời Người" bởi vì Đức Giê-su là Ngôi Lời Thiên Chúa.
2. Biến cố Biến Hình đối với các môn đệ:
Chỉ có ba nhân chứng được diễm phúc chứng kiến cuộc Biến Hình nầy: Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan. Đây là ba nhân chứng mà Đức Giê-su đã cho họ được chứng kiến cuộc sống lại của con gái ông Gia-ia (MC 5: 37-42); cũng chính ba Tông Đồ nầy Đức Giê-su sẽ đem theo với Ngài vào vườn Ghết-sê-ma-ni ở đó họ sẽ là nhân chứng về cơn hấp hối của Ngài. Vì thế, chúng ta có thể nói Ngài an ủi họ trước.
Việc thánh Phê-rô có mặt ở biến cố Biến Hình thật quan trọng: biến cố nầy đã củng cố những gì ông đã tuyên xưng từ trực giác của mình ở Xê-da-rê Phi-líp-phê và làm chứng rằng Đức Giê-su thật sự là Con Thiên Chúa hằng sống. Mặt khác, lời loan báo của Thầy mình về Đấng Mê-si-a chịu đau khổ mà ông không thể nào chấp nhận được lại được thay thế một Đức Giê-su chói ngời ánh quang thần linh. Vị lãnh đạo của các Tông Đồ và người bạn đồng hành của Đức Giê-su sau nầy sẽ có nhiệm vụ rao giảng một Đức Ki tô chịu đóng đinh giữa hai tên trộm cướp, vào giây phút nầy được chiêm ngưỡng chính Đức Giê-su vinh quang giữa hai nhân vật nổi danh nhất của lịch sử Ít-ra-en. Cuộc Biến Hình là phản đề của đồi Can-vê.
Như vậy, nền tảng niềm tin của Các Tông Đồ, mà trên đó tất cả niềm tin của Giáo Hội được tựa vào, được thiết lập. Thánh Gioan, người môn đệ trung thành cho đến cuối sẽ chiêm ngắm Thầy Mình chịu đóng đinh trên khổ giá cũng sẽ viết: "Chúng tôi đã thấy vinh quang của Ngài, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật" (Ga 1: 14). Trong Tựa Ngôn ẩn chứa biến cố Biến Hình. Còn Gia-cô-bê, ông sẽ là vị Tông Đồ đầu tiên chết vì niềm tin của mình.
Thánh Phê-rô là người duy nhất tuyên xưng đức tin ở Xê-da-rê-phi-líp-phê và cũng chính mình ông phản kháng trước lời loan báo về cuộc Tử Nạn của Ngài. Ở đây, ông là người duy nhất phản ứng. Thánh nhân đầy phấn chấn. Ông muốn thời gian dừng lại và giữ chân ba nhân vật chính của cuộc Biến Hình. Ông đề nghị dựng ba cái lều: một cái cho Thầy, một cái cho ông Mô-sê và một cái cho ông Ê-li-a. Trong tâm khảm của mình, ông chứng thực rằng ông luôn luôn tin vào triều đại vinh quang của Đấng Mê-si-a.
"Thực ra, ông không biết mình nói gì, vì các ông sợ quá". Đức Giê-su thình lình xuất hiện trước mặt các ông trong một mầu nhiệm cao cả đến nổi một sự sợ hãi linh thánh xâm chiếm các ông.
"Bổng có một đám mây bay đến bao phủ các ông". Trong Cựu Ước, đám mây tượng trưng cho sự hiện diện của Thiên Chúa. Như vậy, Chúa Cha hiệp nhất các ông với Đức Giê-su và liên kết các ông vào trong mầu nhiệm của Ngài, vào trong bí mật của mặc khải mà họ không được kể cho ai nghe "cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại", như Đức Giê-su đòi hỏi họ.
Vào lúc nầy đây, các Tông Đồ không không hiểu được "từ cõi chết sống lại" nghĩa là gì. Sau nầy, các ông sẽ nhớ lại và hiểu tại sao Đức Giê-su cho các ông chứng kiến việc con gái của ông Gia-ia sống lại và biến cố Biến Hình của Ngài.
Mối liên hệ giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Biến Hình nầy các ông sẽ công bố. Thánh Gioan, một trong ba nhân chứng, sẽ diễn tả rõ ràng điều nầy: "Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là Con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Ki tô xuất hiện, chúng ta nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy" (1Ga 3: 2). Thánh Phao-lô cũng viết như vậy: "Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài" (Pl 3: 21).
Tác giả Phúc Âm Mác-cô, và cả Mát-thêu và Lu-ca nữa, tường thuật sự kiện một ngày kia Chúa Giê-su đem Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an lên một núi cao và tại đó đã xảy một sự kiện khác thường. Ngay trước mắt các ông, Chúa Giê-su biến hình đổi dạng: áo của Người trở nên trắng toát và Mô-sê và Ê-li-a xuất hiện đàm đạo với Người. Rồi một đám mây bao phủ các tông đồ, và từ trong đám mây có tiếng của Thiên Chúa Cha phán với các ông lời này:
"Ðây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người!"
Cũng chính tiếng nhiệm mầu ấy đã được nghe thấy ngay từ lúc khởi đầu sứ mạng của Chúa Giê-su, khi Người nhận phép rửa ở sông Gio-đan: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con" (Lc 3, 21-22; MC 1, 9-11; Mt 3, 13-17).
Tuy nhiên, lần này thì Chúa Cha không chỉ phán bảo các môn đệ Chúa Giêsu mà còn ngỏ lời với tất cả chúng ta, mời gọi ta hãy lắng nghe Con của Người. Vậy, lời then chốt cho chúng ta là: hãy vâng nghe lời Người.
Nhưng Chúa Con đã nói khi nào? Ta có thể tìm thấy các lời của Người ở đâu? Trong Phúc Âm. Ta hãy mở và đọc các sách Phúc Âm với thái độ yêu mến trong tâm hồn. Phúc Âm chứa những lời của Chúa Giê-su.
Nhưng Người còn nói với ta bằng những cách khác.
Làm cách nào để có thể nhận ra tiếng của Người? Làm thế nào để có thể phân biệt tiếng ấy với vô vàn vô số những tiếng khác mà ta nghe và làm cách nào để có thể bắt được làn sóng tiếng nói của Người?
Có một giờ khắc đặc biệt Người nói với ta: trong cầu nguyện, và ta càng ra sức yêu mến Thiên Chúa hiện diện trong lòng ta thì ta càng nghe được tiếng của Người và càng được tiếng ấy hướng dẫn ta từ trong thâm tâm.
Mọi cuộc gặp gỡ của ta trong ngày đều có thể là một cơ hội để ta lắng nghe nếu trong mọi giao tiếp của ta với tha nhân, ta biết giữ thái độ thinh lặng đầy yêu thương, hoàn toàn cởi mở với tha nhân cho dù người đó là bất kỳ ai, bởi vì -như Chúa Giê-su đã giải thích cho ta (xem Mt 25, 40)-Chúa ẩn mình nơi mọi người.
Các mối quan hệ giao tiếp của ta sẽ thay đổi biết bao nếu ta nỗ lực vun trồng cái phẩm chất biết lắng nghe rất đáng quý này, mà đôi khi lại là phương thế duy nhất để biểu hiện, tỏ bày mình quan tâm đến những người chung quanh, kể cả người lạ!
Bí quyết là ở điểm mấu chốt này: cách tốt nhất giúp ta nghe được tiếng Thiên Chúa là phải thực sự biết lắng nghe những người anh chị em của mình.
"Ðây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người!"
Tiếng của Chúa Giê-su có một giọng không lẫn vào đâu được. Tiếng Chúa vang to và vang rõ khi Người hiện diện giữa chúng ta qua việc chúng ta yêu thương nhau. Chúa hiện diện giữa hai hoặc nhiều người họp lại nhân danh Người (xem Mt 18, 20) như một loa phóng thanh khuyếch đại tiếng nói của Thiên Chúa trong tâm hồn ta. Càng đồng thanh, đồng điệu với tư tưởng và giáo huấn của Chúa Giê-su, ta càng dễ nhận ra và nghe được tiếng Chúa hơn.
Trong Phúc Âm Lu-ca, Chúa Giê-su còn nhắc đến việc cần lắng nghe những người Chúa phái đi: "Ai nghe anh em là nghe Thầy" (Lc 10, 16). Ðó là 72 môn đệ. Ngày nay trong Hội Thánh Công Giáo, lời này đề cập đến những ai đã được Chúa giao phó sứ điệp của Người một cách đặc biệt: các thừa tác viên của Chúa, những người có sứ vụ loan báo Lời Thiên Chúa.
Ngoài ra còn có các"chứng nhân" của Chúa Giê-su, là những người lắng nghe và thực hành triệt để lời Người, làm cho lời ấy còn tiếp tục vang vọng khắp thế giới, mở các tâm hồn để người ta đón nhận lời Chúa.
Tóm lại, có nhiều cách để tiếng nói này của Chúa Giê-su ngỏ với ta: nơi thâm sâu trong tâm hồn ta và từ miệng của những người anh chị em, từ toà giảng trong nhà thờ, từ các trang Phúc Âm của Chúa hoặc trong các đặc sủng của các chứng nhân.
Lời Sống này sẽ giúp ta lắng nghe - và sống - tất cả những gì mà Chúa Giê-su muốn dạy bảo ta.
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, điều chúng ta rất lấy làm thú vị là Ngài luôn thích những đồi, núi, những nơi vắng vẻ để tâm sự thân tình với Thiên Chúa Cha. Chúng ta có thể thấy được ngọn núi, Đức Giêsu ngồi dạy các môn đệ và dân chúng tám mối phúc thật, núi Taborê nơi Ngài biến hình trước mặt ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan, núi Sọ và núi Oâliu, nơi Ngài được cất nhắc lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha.Thực tế cho chúng ta thấy núi Taborê, nơi Chúa Giêsu biến hình để tỏ vinh quang của Ngài và để củng cố đức tin của các môn đệ. Tuy nhiên, vinh quang này chỉ lóe lên rồi vụt tắt, báo trước vinh quang vĩnh cửu các môn đệ và nhân loại sẽ có khi Ngài về trời.
CHÚA GIÊSU ĐƯỢC CHA BIẾN HÌNH:
Đoạn Tin Mừng MC 9, 2-ABC10 cho chúng ta một cảnh rất thần tiên nhưng đầy mầu nhiệm. Đây chính là mầu nhiệm của đức tin. Bởi vì, biến hình không phải tự ý Chúa Giêsu mà là một việc làm đầy ý nghĩa của Chúa Cha. Sau khi gặp Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu được Cha biến hình.Việc biến hình này thay đổi tất cả con người, khuôn mặt của Chúa Giêsu và ngay cả đến y phục của Người. Vinh quang của Chúa Giêsu được Thiên Chúa Cha vén mở cho các môn đệ. Chúa biến hình sáng láng đến nỗi các môn bị lóa mắt không thể nhìn ra Người, họ phải phủ phục và che mặt lại như Môsê trên núi khi xưa, ông phải bỏ giầy và cúi mặt xuống. Bởi vì, ánh sáng lung linh chói lọi của sự biến hình vinh quang của Chúa Giêsu làm cho các môn đệ bị ngất ngây và không thể nào nhìn ra sự khác lạ đó, nhìn vào mặt Người họ sẽ phải chết. Cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi Taborê tiên báo cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu.Ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan đã ngất ngây và muốn ngủ yên trong hào quang của Chúa:” Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm,chúng con xin dựng ba lều, một Thầy, một cho Môsê và một Eùlia” ( MC 9, 5 ). Các môn đệ đâu có ngờ, vinh quang này chỉ để củng cố đức của các ông mà thôi, chứ Chúa lại trở về sứ vụ của Ngài là xuống núi để chuẩn bị vác thập giá lên đồi Canvê.
HÃY TRỞ VỀ VỚI THỰC TẾ:
Chúa biến hình chỉ trong chốc lát vì niềm hy vọng phục sinh. Chúa đâu có ở trong sự biến hình mãi mãi. Các môn đệ vẫn còn cả một cuộc hành trình xa vời. Cuộc hành trình đức tin không phải chỉ có ở chỗ vinh quang tạm thời, mà cuộc hành trình còn kéo dài mãi mãi.Bởi vì theo Chúa Giêsu không phải để lên cao hưởng thụ, không phải để sống phè phỡn, tạm thời. Nhưng theo Thầy, các môn đệ còn phải có trách nhiệm và nghĩa vụ với đám đông dân chúng đang khao khát Lời Chúa. Họ còn phải đi truyền giáo, còn phải giới thiệu nước trời và giới thiệu Thiên Chúa. Các môn đệ luôn phải ý thức rằng cuộc hành trình của họ còn dài và hạnh phúc vinh quang sẽ phải trải qua nhiều thử thách đến nỗi phải hy sinh cả mạng sống.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ:
Chúa vinh quang vì Người đã chấp nhận ý Thiên Chúa Cha, gánh tội cho trần gian và chết cho thế gian. Vinh quang của Chúa Giêsu trên đồi Taborê cũng là Đức Giêsu Kitô đang đi khắp mọi nơi để rao giảng Tin Mừng cứu độ, chữa bệnh hoạn tật nguyền và trừ quỷ. Vinh quang của Chúa Giêsu trên núi Taborê cũng là Đức Giêsu Kitô đẫm mồ hôi máu trong vườn Cây Dầu và bị treo trên thập giá trên đồi Canvê. Do đó, làm môn đệ Chúa cũng chính là đi con đường tình yêu, con đường khổ giá mà Chúa Giêsu đã trải qua. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã viết:”Sống tình yêu không phải là căng lều trên đỉnh Taborê, mà cùng với Chúa Giêsu chúng ta trèo lên đồi Canvê “.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu được muốn có vinh quang phải kinh qua khổ giá.
Tin mừng hôm nay tường thuật cuộc biến hình của Ðức Giêsu trên núi Tabo, trước sự hiện diện của ông Phêrô, Giacôbê và Gioan; đồng thời có Môsê và Ê-lia làm chứng (Môsê được coi là đại diện cho Luật và Ê-lia là đại diện cho các ngôn sứ; Luật và các ngôn sứ là hai thế giá hàng đầu trong Cựu ước). Những biểu tượng như núi, lều, mây... gợi lên khung cảnh Si-nai thời Cựu ước. Như thế, cả trình thuật muốn phác họa Ðức Giêsu chính là "Môsê mới".
• Trong cuộc Biến Hình, Ðức Giêsu tỏ mình là Thiên Chúa, là Người Con được Cha yêu thương. Nói khác, cuộc biến hình chính là việc tỏ hiện vinh quang Thiên Chúa trong Ðức Giêsu, đặc biệt trong cuộc tử nạn của Người. Ðó chính là câu trả lời của Thiên Chúa Cha về cách thức Ngài muốn thực hiện Ơn Cứu Ðộ nơi Người Con Yêu Dấu. Cuộc biến hình cũng chính là ý nghĩa cuộc khổ nạn được nhìn dưới ánh sáng Ðức Tin. Thật vậy, trước cuộc biến hình ít ngày, Ðức Giêsu đã loan báo cho các môn đệ về cuộc khổ nạn của mình. Người hoàn toàn ý thức mình đang tiến đến cái chết. Người chấp nhận điều đó để hoàn thành Thánh Ý Cha và để thực hiện Ơn Cứu Ðộ nhân loại.
Như thế, cuộc Biến Hình giúp chúng ta sống Mùa Chay; biết đối diện với những gian lao của cuộc sống trong tinh thần "Vâng ý Cha dưới đất cũng như trên trời".
• Ðức Giêsu biến hình khi Người đang cầu nguyện; các vị thánh cũng thế, các ngài nhận ra Thánh Ý Chúa nhờ đời sống cầu nguyện.
Cầu nguyện là một cuộc gặp gỡ, là sống mối tương giao với Thiên Chúa. Ðời sống Kitô giáo là một cuộc cầu nguyện miên trường để tạ ơn, chúc tụng, ngợi khen Thiên Chúa; xin Ngài tha thứ tội lỗi và cầu ơn phúc cho mình cũng như cho nhân loại. Nhờ đời sống cầu nguyện, con người mới có thể nhìn nhận Thiên Chúa là Ðấng tuyệt đối duy nhất cứu độ nhân loại, Ngài vẫn hiện diện, dẫn dắt và hành động trong đời ta. Khi đó, Thiên Chúa đang từng ngày thực hiện cuộc biến hình tâm linh nơi mỗi người.
Mùa Chay là thời gian thuận tiện để giúp chúng ta cầu nguyện tích cực hơn, hướng tâm hồn về Thiên Chúa nhiều hơn; đồng thời xin Ngài thực hiện cuộc biến hình tâm linh trong đời ta.
Lạy Thiên Chúa, Chúa chúng con,
Xin cho chúng con biết nhận ra Chúa trong thế giới; Biết nhìn thấy Chúa nơi mọi biến cố trong lịch sử và trong cuộc đời chúng con. Xin mở rộng tâm trí, để chúng con biết tìm kiếm Tình Yêu Chúa; Xin uốn nắn miệng lưỡi, để chúng con biết xưng tụng Thánh Danh Chúa; Xin hướng dẫn bàn tay, để chúng con xây dựng vương quốc của Chúa; ...Vì chính Chúa mới ban cho cuộc sống chúng con một ý nghĩa đích thực. Dựa theo Francois Chagneau
Biến cố Ðức Giêsu biến đỗi hình dạng trong cuộc gặp gỡ trên đỉnh núi có thể được coi như một cuộc chuyển giao quyền hành, một nghi thức phụng vụ về cuộc đăng quang của Ðấng Mê-si-a. Tuy vậy, nghi lễ này rất đơn giản: đây là một nghi lễ của tình bạn, diễn ra trong bầu khí thân mật, chẳng có sấm chớp như trong các cuộc thần hiện thời Cựu Ước. Chỉ có ánh sáng rực rỡ, có lẽ phát xuất từ chính thân thể của Ðấng Mê-si-a.
Sự kiện Ðức Giêsu biến đổi hình dạng có nghĩa là Vinh Quang đã trở thành Xác phàm, và cuộc sống vinh phúc có thể thực hiện ngay tại trần gian này. Biến cố này cũng là cuộc hiển linh, là sự tỏ hiện của tình thân mật, của sự hiệp thông và việc trao đổi trong tình huynh đệ. Nói tóm, đây là một mặc khải về tình thân mật theo chiều kích Tin Mừng, được bày tỏ trong một kinh nghiệm ngọt ngào. Thực vậy, tình yêu vẫn là yếu tố nền tảng và sâu xa của Tin Mừng.
Sự kiện Ðức Giêsu biến đổi hình dạng hoàng toàn khác hẳn với sự kiện Ðức Giêsu chịu cám dỗ trong sa mạc. Trước hết là nơi chốn: hôm nay, Ðức Giêsu biến đổi hình dạng trên một ngọn núi cao, còn trước đây, Người chịu cám dỗ trong sa mạc. Ở đây, Ðức Giêsu có các bạn hữu cùng tham dự, còn trong câu chuyện trước, chỉ có một mình Người chống lại các cám dỗ của ma quỷ.
Câu chuyện trong sa mạc là một phần trong hành trình tâm linh của Ðức Giêsu: Người muốn đồng hình với nhân loại đến tận cùng của bóng tối. Sa mạc khắc nghiệt, những ảo ảnh: các yếu tố này thuộc về con người cũ, đơn độc, không có sự trợ giúp của ân sủng.
Ngược lại, câu chuyện trên núi cao là mầu nhiệm của con cái ánh sáng. Như Ngôi Lời, họ là những người phát xuất từ Ánh Sáng. Ðồng thời, câu chuyện này cũng là mầu nhiệm về tình thân mật. Cùng với Ðức Kitô, con người đạt tới tình thân hữu chân thực.
Nói tóm, việc biến đỗi hình dạng là một dự báo về cuộc phục sinh. Ðức Kitô của ngày hôm qua, con người chịu cám dỗ, nhắc nhớ lại cuộc thử thách lâu dài của dân Do-thái: họ đã đi đến tận cùng của hoả ngục là Ai-cập và sa mạc. Còn hôm nay, Ðức Kitô đã cho thấy hình ảnh về Phục Sinh, trong đó Người được tôn vinh và hoàn toàn rực rỡ.
Ngoài ra, trong câu chuyện hôm nay, vây quanh Ðức Giêsu là các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an, những người bạn thân tín nhất. Người cho các ông tham dự vào mầu nhiệm của Người. Cũng theo cách thức này, vào buổi chiều ngày Phục Sinh, Ðức Giêsu sẽ đàm đạo với các môn đệ đang trên đường trở về Em-mau. Sau đó Người còn dùng bữa tối với họ, như những người bạn chân tình.
Xưa kia, ngôn sứ I-sai-a đã la lên: "Hãy trèo lên núi cao, hỡi những kẻ loan Tin Mừng cho Giê-ru-sa-lem, hãy cất tiếng lên cho thật mạnh ... Kìa Thiên Chúa các ngươi" (Is 40,9).
Tin Mừng - cũng như Ðức Kitô, không cần có những nơi cao, nhưng chỉ cần một cử chỉ, đó là chia sẻ tình huynh đệ. Chỉ một cử chỉ đó thôi là ánh sáng của núi Ta-bo sẽ ló rạng, Ðức Kitô xuất hiện, và tâm hồn mỗi người sẽ bừng cháy. Mỗi người Kitô hữu đều có thể làm được điều này.
Việc biến đổi hình dạng của Ðức Kitô vẫn được tiếp diễn vào cuối một chặng đường cùng đi với nhau, cùng ngồi vào bàn và chia sẻ. Ðó cũng là ý nghĩa của Thánh lễ.
Ðược tách riêng ra ...
Các chi tiết trong trình thuật Ðức Giêsu biến đổi hình dạng đều rõ ràng và ai nấy đều biết ; tuy thế, mỗi tác giả sách Tin Mừng vẫn có một vài chi tiết riêng. Chẳng hạn, thánh Mác-cô có ý nhấn mạnh đến chi tiết một mình Ðức Giêsu với các môn đệ, đặc biệt là câu hỏi của các môn đệ: "Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì ?" Các tác giả Mát-thêu và Lu-ca không nhấn mạnh đến chi tiết này.
"Ðức Giêsu đưa các ông đi riêng ra một chỗ ... chỉ mình các ông thôi ... Các ông chợt nhìn quanh ... chỉ còn Ðức Giêsu với các ông mà thôi ..."
Cuộc đời của người tín hữu không thể nào tránh được những khoảng thời gian cô độc.
Giữa một thế giới nghi ngờ, hay không biết đến Thiên Chúa, người tín hữu cảm thấy mình lạc lõng, cô độc. Ngoài ra, trong bước đường riêng tư, con người vẫn luôn phải đối diện với những điều không rõ ràng, luôn phải loay hoay trước những vấn đề của mình, nên họ cũng thường cảm thấy cô đơn.
Có thể Tin Mừng vẫn ít được biết đến, và người tín hữu sống trong một xã hội dường như bằng lòng thoả mãn với tình trạng này. Ai quyết định đáp trả lại tiếng gọi của lòng tin cũng là quyết định sống cô đơn.
Và những ai đi theo chọn lựa này, Ðức Giêsu đưa riêng họ ra một nơi. Chính Ðức Giêsu đã sống tình trạng này: đi qua tình trạng cô đơn trên thập giá để rồi đạt tới vinh quang Phục Sinh. Trên bước đường đó, ánh sáng đức tin, cũng như ánh sáng của biến cố trên núi Ta-bo, sẽ luôn chiếu toả trên cuộc sống, đưa đến một cái nhìn mới về con người và cuộc đời.
Tuy thế, ánh sáng này không làm cho các môn đệ hết thắc mắc. Các ông vẫn bàn tán với nhau: "Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì ?"
T việc được soi sáng đến kinh nghiệm đức tin, luôn có một khoảng cách, một hành trình làm thành một cuộc vượt qua. Cuộc vượt qua này không chỉ là một biến cố lịch sử, nhưng là một thực tại diễn ra bên trong mỗi người.
Lúc này, các vấn đề được đặt ra trong ánh sáng đức tin, và con người tiến bước vào trong mầu nhiệm thân mật của Thiên Chúa.
Lệnh cấm hay là ký thác
Ở trên núi xuống, Ðức Giêsu cấm các ông không được kể lại cho ai nghe những điều đã thấy, cho đến khi con người từ cõi chết sống lại" (MC 9,9).
Chúng ta có thể nghĩ rằng lệnh truyền này không liên hệ gì đến chúng ta, bởi vì chúng ta là những người sống sau biến cố Phục Sinh, chúng ta có bổn phận phải loan báo dung nhan hiển vinh của Ðấng Cứu Thế, dù gặp thời thuận tiện hay không.
Tuy nhiên, chúng ta không có quyền cho rằng lời nhắn nhủ về bí mật thiên sai không còn giá trị. Thật thế, chúng ta biết rằng, sau khi chịu khỗ hình, Ðức Giêsu đã chỗi dậy từ cõi chết và đã được đưa lên ngự bên hữu Chúa Cha. Nhưng chúng ta cũng biết rằng, cuộc Phục Sinh của Ðức Kitô, đỉnh cao trong cuộc đời tại thế của Người, mới chỉ là giai đoạn đầu trong việc cứu độ toàn thể nhân loại. Sau nhiều năm lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, mỗi chúng ta vẫn chưa ra khỏi ngôi mộ và chưa thể cất lên tiếng hát của những người được cứu. Hội Thánh vẫn chưa thật sự nhận thấy dung nhan vinh hiển được dành cho mình. Nhân loại ở thế kỷ XX vẫn chưa hoàn toàn đạt tới tình trạng tự do của những người con được sinh ra từ Chúa Thánh Thần.
Như thế, tình trạng của chúng ta cũng giống như của các môn đệ sau khi Ðức Giêsu biến đổi hình dạng, tức là luôn lên đường tiến về thành đô, tức là giữa nhân loại, nơi Ðức Giêsu chịu khổ hình và chịu chết. Chúng ta chưa vội báo tin ầm ỹ về chiến thắng vượt qua, bởi vì có nguy cơ chúng ta đi bên lề hoặc bỏ qua những ngày thứ Sáu, thứ Bảy Tuần Thánh của con người đương thời. Chúng ta mang trong mình một mầu nhiệm, nhưng vẫn còn rất lạ lùng ; chúng ta khám phá thấy nơi mình sức mạnh của sự Phục Sinh, nhưng vẫn còn rất mỏng manh ; chúng ta đã chiêm ngắm Ðức Kitô, nhưng vẫn còn đầy bí ẩn.
Hãy giữ lấy tất cả những điều ấy, và hãy vùi vào giữa cuộc đời của chúng ta như một hạt giống. Ðừng kể lại những điều đã thấy nếu như Con Người chưa bắt đầu phục sinh nơi chúng ta.
Theo tin mừng Luca và Marcô thì các môn đệ không hiểu và sợ hãi khi nghe Thầy loan báo về cuộc thương khó. “Nhưng các ông không hiểu gì cả;đối với các ông, lời ấy còn bí ẩn, nên các ông không rõ những điều Người nói” (Lc 18,34); “Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình” (MC 10,32).
Vì không hiểu nên sợ. Sợ nên không muốn đi. Phêrô kéo riêng Chúa ra mà ngăn cản và trách móc nên bị Chúa mắng cho là satan.
Chúa đưa ba môn đệ lên núi Tabor. Biến Hình rực rỡ nhằm củng cố tinh thần cho các môn đệ sau khi Chúa loan báo cuộc khổ nạn.
Tôi được diễm phúc lên Núi Tabor. Từ khách sạn ở Nazareth xe đi qua những thung lũng với nhiều vườn cây ôliu, vườn chuối, vườn cam xanh tươi ngút mắt. Tabor là ngọn núi rất đẹp, nó đưa mình lên êm ả từ một cánh đồng cỏ xanh. Xe buýt chỉ đến chân núi, sau đó phải đổi xe chuyên leo núi. Lên dốc cao, đường ngoằn ngoèo theo vòng xoáy trôn ốc như đường Đèo Ngoạn Mục. Trời thật lạnh khoảng 40c, gió thổi rét buốt trên đỉnh có độ cao 600m làm ai nấy run lên vì lạnh. Núi Tabor có một ngoại hình rất cân đối. Núi mọc lên giữa cánh đồng như một bàn thờ giữa trời đất, giống như lễ đàn của các bộ lạc để tế thần minh. Lúc Chúa Giêsu đem ba môn đệ yêu quý lên đây, không gian phải rất im vắng. Chỉ có gió vi vu và mây nắng với rừng cây thắm một màu xanh hùng vĩ.
Núi tiêu biểu cho quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa. Núi là nơi mặc khải những điều trọng đại như khi xưa Thiên Chúa hiển linh trên núi Sinai với Môisê, núi Khoreb với Êlia, núi Tabor với ba môn đệ. Từ đỉnh núi, nhìn về hướng nam là làng Naim, một thành cổ hiện tại người Ảrập sinh sống, nơi đây Chúa cho con trai bà goá sống lại. Nazareth, một thị trấn sầm uất về hướng tây và Biển hồ Galilê mênh mang phía đông. Tabor, ngọn núi thiêng tạo thành một tam giác đều. Cả ba nơi đều gắn liền với cuộc đời Chúa Giêsu: lớn lên, truyền đạo và hiển dung. Bên ngoài, phía trái Nhà thờ vẫn còn dấu vết tường đá tu viện các cha dòng Bênêđictô một thời Trung cổ huy hoàng.
Theo sử gia Josephus thì nhóm Nhiệt Thành (Zelot) đã chiến đấu với quân Roma tại đây vào năm 66tcn. Năm 1634 các thầy Phanxicô mới dành lại được ngọn núi này từ tay quân Thổ. Nhưng mãi gần 300 năm sau mới xây đựơc Nhà thờ. Nhà Thờ Hiển Dung xây dựng từ năm 1925 do các cha dòng Phanxicô phụ trách. Mặt tiền nhà thờ đựơc kiến trúc nổi bật với hai ngọn tháp vuông cao vút. Bên trong hai ngọn tháp này là hai nguyện đường nhỏ kính tổ phụ Môisen và Êlia. Một bức tranh tuyệt đẹp theo nghệ thuật mosaic phía trên bàn thờ vòm cung thánh. Chúa biến hình trong hào quang rực sáng. Hai bên có Môisen trên núi Sinai và Êlia trên núi Carmel. Phía dưới là ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê.
Tường thuật biến cố biến hình, cả ba Phúc âm đều nhấn mạnh đến thái độ hoảng sợ của các môn đệ. “Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông hoảng sợ” (MC 9,6); “Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ” (Lc 9,34); “Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng ngã sấp mặt xuống đất” (Mt 17,6). Và khi Phêrô “ngã sấp mặt xuống đất” thì Chúa đến chạm vào ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ”. Các môn đệ không thể hiểu được hành trình của Đấng Cứu Thế sao lắm gian nan; kẻ theo Ngài làm sao không ngại ngùng sợ hãi cho được! (x. Mt 17,13-14; MC 8,34; Mt 8,18; MC 13,9; Lc 9,26). Nếu người ta làm an toàn những viên thuốc đắng bằng vỏ bọc kẹo ngọt, thì Chúa Giêsu cũng hoá giải tin cuộc khổ nạn bằng cuộc Biến hình rực rỡ. Bọc kẹo chứ không bọc thuốc ngũ. Hoá giải chứ không gây mê. Chúa cho các môn đệ thấy trước một thoáng Phục Sinh trước Phục Sinh. Chúa cho cảm nếm một chút Thiên đàng. Các ông đã tưởng là Thiên Đàng nên Phêrô xin làm ba lều để an nhàn trên núi cao, ngũ yên trong hào quang, quên đi các bạn và các cuộc truyền giáo dưới chân núi. Các ông không biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốt lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá bước vào cuộc thương khó. Hai đỉnh núi Tabor và Calvariô không xa nhau lắm về mặt địa lý, nhưng lại là con đường vạn lý. Chúa Giêsu đã nối kết hai đỉnh núi bằng con đường tình yêu cứu độ.
Biến cố Chúa biến hình trên núi Tabor là một trong những biến cố đặc biệt. Nó trở nên như một ngôi sao sáng cho các môn đệ trong đêm tối của những gian nan thử thách. Biến cố ấy vẫn luôn ghi đậm trong ký ức của các môn đệ. Nó là một điểm tựa, là một trợ lực cho đức tin của các ngài trong suốt tiến trình theo Chúa Giêsu.
Câu chuyện Chúa Biến hình trên núi Tabor được đặt làm sườn cho cả văn kiện “Tông Huấn Vita Consecrata” (đời sống thánh hiến). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban hành ngày 25.3.1996, đúc kết những thành quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tháng 10.1994. Tông Huấn trình bày vẻ đẹp của đời tu. Con đường tu đức được ví như một cuộc đi tìm cái đẹp (số 19),hướng tới sự chiêm ngưỡng nhan Chúa, chân phúc dành cho các tâm hồn trong trắng. Các tu sĩ đã bị thu hút bởi vẻ đẹp của Chúa; họ mê say chiêm ngưỡng Chúa, để rồi phản chiếu khuôn mặt rạng rỡ của Ngài (số 27) sau khi lên núi chiêm ngắm Chúa Biến hình, các môn đệ được mời hãy đi xuống núi để phục vụ (số 75); họ còn phải trèo lên một núi khác đó là núi Calvariô (Số 14;40).Từ chỗ đi theo Đức Kitô (số 15;18),hoạ lại nếp sống của Ngài, đời tận hiến tiến tới chỗ “ Lắng nghe tiếng Chúa, ở kề bên Chúa”,”Đồng hoá hiện thân” ( số 16) với Ngài. Ngoài việc hoạ lại nếp sống khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục của Đức Kitô, đời thánh hiến còn diễn tả mầu nhiệm Thập giá và Phục sinh của Ngài nữa (số 23-24). Đức Kitô cần phải qua núi Calvariô để vào vinh quang thiên quốc.Trước đây, đời tu trì quen được ví với việc khắc kỷ tu thân, vác thập giá để đi theo Chúa. Nhưng đó mới chỉ là cái nhìn của truyền thống Latinh; còn truyền thống Đông phương thì muốn nêu bật sự biến dạng đổi hình từ con người phàm tục sang con người thần thiêng khi đi theo Chúa. Đức Gioan Phaolô II đã kết hợp cả hai cái nhìn về đời tu trong quang cảnh Chúa Biến hình: chủ đề thập giá và vinh quang gắn liền với nhau trong mầu nhiệm vượt qua của Đức Kitô. Đức Thánh Cha còn gọi đời Thánh hiến là một Đoàn Sủng đặc biệt trong Giáo hội,phát xuất và duy trì bởi Chúa Thánh Thần.Tu sĩ là món quà Chúa Thánh Thần ban cho Giáo hội và là một kho báu mà Giáo hội trân trọng giữ gìn.
Người sống đời tận hiến cũng như người tín hữu, muốn được “biến hình” trong đời sống cũng như muốn được trở nên “con yêu dấu” của Thiên Chúa cần phải “vâng nghe lời Người”.
Cả ba Phúc âm đều tường trình tiếng nói từ trời cao. Lời Chúa Cha như giới thiệu, chuẩn nhận Chúa Con và là lệnh truyền cho chúng ta. “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5); “ Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (MC 9,6); “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35).
“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Đó là lệnh truyền của Chúa Cha, là điệp khúc kết luận của tiếng nói từ trời cao. Điệp khúc quan trọng vì cả ba Phúc âm đều nói đến. Lời của Chúa Kitô chính là chuẩn mực, là lề luật tuyệt đối mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Lời của Chúa Kitô là Lời Giao Ước vĩnh cửu cho con người được tham dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi.
“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”, một phán quyết long trọng và công khai của Chúa Cha. Từ nay, vâng nghe Lời Chúa Kitô, chúng ta sẽ được biến hình với Chúa Kitô, cùng được hưởng vinh quang Phục sinh với Chúa Kitô.
Chúa Kitô biến hình một khoảnh khắc thoáng qua. Cuộc biến hình trọn vẹn qua mầu nhiệm Phục sinh, đây là cuộc biến hình ngàn thu. Cuộc biến hình này là căn tính niềm tin của những người theo Chúa. Hãy để hồng ân của Chúa chiếu rực trong cuộc đời của chúng ta ngỏ hầu nhân loại thấy chúng ta biến hình, nghĩa là có thể thấy Chúa Kitô nơi khuôn mặt và đời sống chúng ta.
St 22,1-2.9a.10-13.15-18; Rm 8,31b-34; MC 9,2-ABC10
I. PHÚC ÂM: MC 9, 1-9
"Ðây là Con Ta rất yêu dấu".
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi, trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế. Rồi Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu. Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng sợ. Lúc đó có một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Ðây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". Bỗng nhìn chung quanh, các ông không còn thấy ai khác, chỉ còn một mình Chúa Giêsu với các ông. Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu ra lệnh cho các ông đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: "Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?"
Lời khẳng định thâm tín đó của thánh Phaolô có thể coi như diễn tả đúng niềm tin của Abraham trong cuộc hành trình về quê hương mới: quê hương sự sống qua ngõ sự chết. Trong sứ mệnh nhập thế cứu đời, Ðức Kitô cũng không đi con đường nào khác ngoài con đường chết-để-sống: nếu Người đã biến hình sáng chói để loan báo trước cảnh vinh quang ngày Người lại đến, thì chính Người cũng đã cho môn đệ biết trước đêm tối của giờ Thương khó Người sẽ phải đi qua (MC 14,34-36).
Chấp nhận mất tất cả để được nhận lại tất cả, chết với Chúa để sống lại vinh quang với Người, đó là định luật căn bản của Kitô giáo. Ðịnh luật đó, hôm nay Giáo hội nhắc lại cho chúng ta qua niềm tin của Abraham trong cơn thử thách cũng như qua ánh sáng cuộc biến hình của Ðức Kitô trên núi Tabo.
1. "Ðem Con Một... Lên Ðường... Hiến Tế"
Lệnh Chúa truyền như phản ngược lại với Lời Chúa hứa. Abraham vẫn nhớ rõ lời Thiên Chúa vừa mới giao ước. Isaac từ nay sẽ là người nối dõi tông đường cho dòng họ Abraham (Kn 21,12). Ông cũng không quên Isaac là người con duy nhất của mình. Mẹ con Hagar đã bị đuổi đi, mà Sara thì lại quá già nua cằn cỗi. Bây giờ lệnh truyền phải đem con đi tế hiến! Phải chăng lưỡi dao oan nghiệt giáng xuống trên Isaac sẽ chấm dứt dòng dõi của ông và do đó giao ước sẽ bị phá hủy? Chắc hẳn trong thân phận làm người của mình, Abraham đã không thể nào nghĩ khác được. Nhưng ông đã lên đường, không chần chờ, không do dự. Và rồi đã tới đỉnh cao, nơi cử hành hy lễ, ông giơ tay, cầm dao, sẵn sàng giết con, người con duy nhất mà hơn ai hết, ông biết rõ nếu chết đi là ông mất tất cả.
Thái độ dứt khoát và hành động quyết liệt của Abraham, tự nó, nói lên trọn vẹn niềm tin của ông: nó cho ta thấy ông biết rõ ông tin vào ai và phải tin thế nào.
Abraham biết mình tin vào Ðấng không muốn sự chết nhưng muốn sự sống. Chính nhờ đó mà ông nhìn thấy được sự sống phong phú qua cái chết tế hiến của con mình. Việc Chúa đòi ông hy sinh con một mình chứng tỏ Chúa hoàn toàn làm chủ sự sống. Bởi vì Người là nguồn gốc sự sống nên chỉ mình Người mới ban sự sống và có quyền đòi lại sự sống đã ban. Thiên Chúa đã trao Isaac cho Abraham, bây giờ Người đòi lại sự sống đó, dù rằng Người đã cam kết: Isaac sẽ khởi đầu của một miêu duệ đông đảo. Sự đòi hỏi bất thường đó chỉ nhằm nói lên khả năng của Thiên Chúa làm được những việc đối với ta xem ra nghịch lý: khơi dậy sự sống từ cái chết, gọi được cái có từ cái không (Rm 4,17).
Nhờ biết rõ mình tin vào ai, nên Abraham đã tin một cách dứt khoát, trọn vẹn, triệt để: Chúa bảo ông đem Isaac đi, ông dẫn đi. Chúa bảo ông lên đường, ông lên đường. Chúa bảo ông tế hiến con một của ông, ông thi hành. Nhưng không phải vì thế mà niềm tin của ông mất hết vẻ nhân bản thông thường. Ông biết rõ dù là con do lời hứa, Isaac thực sự cũng là con của ông. Vâng lệnh Chúa tế hiến con mình, Abraham không thể không cảm thấy lòng mình bị xâu xé vì mối tình phụ tử. Nhưng ông đã tuân theo thiên ý với niềm tin vững chắc: Chúa sẽ trù liệu mọi sự để thực hiện lời hứa và chương trình cứu độ của Người. Chính niềm tin phó thác đó đã giúp ông mau mắn làm điều ông có thể và để cho Chúa làm điều vượt quá sức ông. Kết quả là sức mạnh của đức tin đã biến đổi đời ông. Ðể ông khỏi ray rứt suốt đời vì mặc cảm giết con, thì đây Thiên Chúa gửi đến cho ông một tế vật, khiến ông có thể tôn thờ Người với lòng tín phục hân hoan. Thay vì phải chấm dứt tuổi già trong nỗi cô đơn của một gia tộc tuyệt tự, thì ông thanh thản sống nốt những ngày còn lại trong niềm hãnh diện; con mình đã được thánh hiến và dòng dõi phát sinh từ đó là một dân tộc thánh.
2. Chết Ðể Sống Lại
Chính vì biết mình tin vào ai, nên Abraham đã dứt khoát lên đường, chấp nhận với tâm hồn phó thác, leo trọn con đường tế hiến lên đỉnh Mô-ri-gia, để rồi từ điểm cao của núi đồi và tuyệt đỉnh của hy tế, ông đã hưởng trọn niềm vui ngắm khung trời đầy sao, nhìn bãi biển trắng cát, liên tưởng đến miêu duệ đông đảo của mình. Mất đi để nhận lại, chết rồi để được sống, người cha của mọi kẻ có lòng tin đã lấy chính cuộc đời mình để làm sáng tỏ định luật đó của lịch sử cứu độ. Tin Mừng của Marcô hôm nay (9,2-ABC10) thuật lại cuộc biến hình trên núi Tabo cũng nhằm chứng minh quá trình tất hữu đó của cuộc đời Chúa Kitô cũng như của chúng ta trên đường về cõi sống.
Quả vậy, định hướng của Tin Mừng là nhằm làm nổi bật mầu nhiệm chết-để-sống lại của Chúa Cứu thế. Chính trong viễn tượng đó mà sau khi đã cho các tông đồ thoáng thấy bóng tối của con đường Thương khó Người sắp đi qua, Người đã biến hình sáng chói, báo trước cuộc Phục sinh và ngày trở lại vinh quang của Người, để nhắn bảo các ông phải biết tìm ra sức sống phong phú bên kia cái chết. Vẻ huy hoàng của Tabo hôm nay không làm ta quên dòng sông Yorđan ngày trước. Nếu hạt thóc không mục nát đi trong lòng đất, thì không bao giờ nẩy sinh được cây lúa xanh tươi. Ta cũng phải chết đi với Chúa Kitô để được sống lại với Người. Và trong Người, chúng ta được trở thành con cái Thiên Chúa.
Nhưng, cũng như Abraham, ta phải dứt khoát tin ở Ðức Kitô và chấp nhận đi vào con đường cứu rỗi của Người, đồng thời sống trọn vẹn mầu nhiệm biến hình trong đời sống hằng ngày của chúng ta, nghĩa là sẵn sàng để cho Thần Khí Ðức Kitô đổi mới con người chúng ta và can đảm góp phần làm cho thế giới này biến dạng. Muốn thế, ta phải trung thành lắng nghe Lời Con Thiên Chúa (MC 9,7) trong Sách Thánh và qua mọi biến cố của cuộc đời ta.
III. GIẢNG LỄ
Chúa Yêsu đưa ba môn đệ lên núi cao để họ được chiêm ngưỡng vinh quang của Con Thiên Chúa. Phụng vụ Giáo hội cũng đưa ta đến đây, để chứng kiến và tham dự vào mầu nhiệm cao cả.
Trước hết ta hãy nhìn xem câu truyện Chúa thử thách Abraham. Phụng vụ mùa Chay đọc cho ta nghe câu chuyện kinh hoàng này, vì như ta đã thấy trong Chúa nhật tuần trước, mùa Chay là mùa thử thách, thử thách đức tin của những người con Chúa. Abraham hồi đó chỉ có một đứa con, đứa con duy nhất của tuổi già, đứa con của Lời Hứa từ bao năm. Thế mà hôm nay Chúa gọi: Abraham! - Dạ. - Hãy đem người con yêu quý của ngươi đi hiến tế cho ta! Chúng ta hãy tưởng tượng xem diện mạo và tâm can của người cha già lúc đó như thế nào. Lời Chúa thật mạnh hơn tiếng sét lớn. Nhưng Abraham không ngã, không mất tinh thần. Sách Thánh viết: ông dậy sớm, bổ củi, thắng lừa rồi dắt Isaac đi, đi ba ngày trời ròng rã, ba ngày đau như cắt mỗi khi nghĩ tới giờ phút kinh hoàng sẽ phải hạ sát đứa con vô tội. Chắc chắn không ai có được thái độ đó. Chắc chắn không người cha nào đủ sức đi như vậy. Nhưng Abraham không phải là con người thường. Ông là con người có đức tin. Lòng ông tin Chúa thật tuyệt đối và vô điều kiện. Ông không lấy suy luận loài người chất vấn mệnh lệnh Chúa. Lời Chúa ông đã nghe rõ nên ông chỉ còn biết thi hành. Ông phó mặc hậu quả cho Thiên Chúa định liệu. Ðức tin của ông thật là gương mẫu. Phải nói mạnh hơn, lòng tin đó quả thật vô địch. Thế nên ông được xưng tụng là cha của các thế hệ tín hữu, là tổ phụ của dòng dõi tin tưởng. Ông là tổ phụ của ta, chứ không riêng của con cái Israel. Và câu truyện về ông mà hôm nay phụng vụ nhắc lại cho ta, thúc giục chúng ta tin mạnh mẽ hơn vào Chúa, dứt khoát chấp nhận Lời Chúa mà không so đo hơn thiệt. Có như vậy chúng ta mới được chấp nhận vào giao ước mà Chúa đã thề hứa với Abraham và miêu duệ ông đến muôn đời.
Ta hãy để ý đến tư tưởng Giao ước mà đoạn cuối bài đọc thứ I đã gợi lên. Và nếu ta còn nhớ, thì bài Cựu Ước Chúa nhật trước cũng nói đến Giao ước. Chúa đã giao ước với Noe. Ngài hứa không còn phạt loài người như trong vụ đại hồng thủy nữa. Trong bài đọc hôm nay, Ngài hứa ban phúc lộc chan hòa cho Abraham; dòng dõi ông sẽ nhiều như sao trên trời và như cát ngoài biển; mọi dân tộc trên mặt đất sẽ nhờ con cháu ông mà được hạnh phúc. Như vậy từ giao ước Noe tới giao ước mà Chúa đã thề hứa với Abraham đã có một tiến bộ rõ rệt. Chẳng những Chúa không muốn sát phạt loài người nữa, mà còn muốn cho họ được phát triển và hạnh phúc. Rồi đây, trong các Chúa nhật sau ta sẽ thấy Chúa còn hành động cụ thể hơn nữa để dần dần thực thi mọi Lời Hứa. Và như vậy, rõ ràng bao giờ Chúa cũng chỉ muốn ban thêm ơn cho ta, cho những người tin Chúa, tin đến nỗi sẵn sàng hy sinh tất cả để chấp nhận Lời Ngài. Hôm nay, chúng ta hãy tin vào Chúa mạnh mẽ hơn nữa, chắc chắn bàn tay của Ngài đang hướng dẫn đời sống của ta đi đến chỗ tốt đẹp, nên ta sẽ cố gắng bắt chước Abraham, không sờn lòng khi gặp thử thách, mà - có thể nói - cứ nhắm mắt thi hành mọi lời Phúc Âm ta nghe được. Làm như vậy có liều lĩnh không? Chắc chắn là không và chỉ có thể làm cho ta trở nên giống Ðức Kitô hơn và sẽ đạt tới vinh quang như Người. Ðiều đó thật rõ rệt, như Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy.
Ðức Kitô biến hình ở trên núi cao. Người được hưởng vinh quang đang dành cho Người sau ngày Phục sinh. Chúa Cha muốn Người nếm trước vinh quang đó, không phải để khích lệ Người đi vào con đường tử nạn. Ngay từ đầu Người đã quảng đại chấp nhận đi vào con đường này rồi. Có thể nói không lúc nào Người quên nghĩ tới giờ của mình, giờ ra đi chịu chết để đưa nhân loại về cùng Thiên Chúa Cha. Sở dĩ hôm nay có cuộc biến hình này là vì các môn đệ và chúng ta. Người muốn củng cố đức tin của mọi người, để đừng ai nao núng khi nhìn thấy bộ mặt đau thương của Người trên thập giá. Vinh quang Chúa Cha dọi vào Người trên núi thánh, để chúng ta có ấn tượng đích thực về Người hầu bao giờ chúng ta cũng nghe theo tiếng Người kêu gọi. Nhưng đồng thời vinh quang ấy cũng đã bao bọc các môn đệ. Và qua sự kiện biến hình này, Chúa Cha muốn cho chúng ta tin chắc vào vinh quang mà chính chúng ta sẽ được trong vinh quang của Chúa Con. Có lần nhìn vào cộng đoàn các tín hữu, thánh Phaolô phải thú nhận rằng: xét về phương diện trần gian quả thật chúng ta chẳng đáng tự phụ gì, vì chúng ta thua kém người ta về mọi mặt. Nhưng sau này sẽ thế nào? Thánh Kinh là Lời Chúa đoan chắc với chúng ta: Ðức Kitô ở đâu, ta cũng sẽ ở đó. Ngài ở trong vinh quang, chúng ta cũng sẽ trở nên sáng láng; Ngài biến hình ở trên núi cao trước mắt môn đệ, để họ thấy vinh quang đang chờ Ngài và đồng thời cũng để họ biết mình sẽ được ở trong vinh quang ấy.
Thế thì niềm tin của chúng ta quả thật quá phấn khởi! Và chúng ta phải gia tăng niềm tin. Abraham chưa thấy gì mà đã tin mạnh mẽ. Ông chỉ tin rằng Chúa sẽ trù liệu tất cả. Còn ta, chúng ta có bảo chứng về niềm tin của mình. Hơn cả ba môn đệ, chúng ta biết chắc Ðức Kitô đã phục sinh, Người đang ở trong vinh quang, và Người đang sửa soạn chỗ vinh quang cho những ai tin Người. Những người nghi ngờ về tương lai tốt đẹp của mình, hãy nghe lời thánh Phaolô trong bài đọc II, Chúa Cha đã không khước từ ban Con Một Mình chịu chết để cứu chuộc ta, thì hỏi có gì và có ai khiến ta phải sợ hãi nữa? Ðể ta được hạnh phúc, Người đã hy sinh đến cả người Con yêu dấu của mình, thì hỏi ai còn có thể nghi ngờ về lòng Người thương ta? Và thương ta đến như vậy mà Người không muốn ta được hạnh phúc sao? Abraham chưa phải hy sinh đứa con mà đã được hạnh phúc chan hòa. Huống nữa là Chúa Cha đã hy sinh Con mình thật sự! Không lẽ tình thương của Người đối với ta không được thỏa mãn sao? Nghĩa là không lẽ chúng ta sẽ không hạnh phúc như lòng Cha nhân từ mong muốn sao? Không, dù hiện nay bề ngoài đời sống của ta còn phần nào chưa vinh hiển, ta vẫn phải đinh ninh rằng: chẳng qua mình đang ở trần gian, Ðức Kitô cần mặc lấy thân xác để đi con đường thánh giá, nhưng Người đã đạt tới vinh quang và chắc chắn sẽ đưa chúng ta vào nơi vinh hiển.
Và để bảo đảm điều đó, Người muốn dùng chính Thánh Thể mà chúng ta cử hành bây giờ , để đi vào trong ta, sống trong ta, đi qua trần gian với ta, để đưa ta đến nơi sáng láng.
Chúng ta hãy tin vào Thánh Thể; hãy rước lấy Chúa vào lòng, hãy để tinh thần của Chúa hướng dẫn đường đi nước bước của ta để dù có gặp thử thách lớn lao như Abraham, lòng tin của ta vào đạo Chúa vẫn không hề nao núng, khiến mọi Lời hứa trong giao ước sẽ thực hiện ở nơi ta, và nhiều người nhờ đấy cũng được phúc.
Từ bao nhiêu năm nay, chúng ta quen gọi việc Chúa Giêsu biến đổi diện mạo sáng chói trên núi Tabor với danh từ là “Chúa Biến Hình”. Thế nhưng, trong các sách phụng vụ, lịch Công Giáo ngày nay thì không gọi là “Chúa Biến Hình”, nhưng gọi là “Chúa Hiển Dung”. Sự thay đổi ngôn từ như vậy có lẽ không phải do ngẫu hứng và cũng không phải là vô nghĩa, nhưng là nhằm mục đích để cho chúng ta hiểu đúng nội dung của cuộc Hiển Dung của Chúa Giêsu. Bởi vì, danh từ “Chúa Biến Hình” có thể làm cho chúng ta nghĩ đến việc thay hình đổi dạng như những thần linh trong các câu chuyện cổ tích hay như hình ảnh Tôn Ngộ Không trong truyện Tây Du Ký.
Chúa Giêsu Hiển Dung không phải là Chúa Giêsu biến hình theo nghĩa đó, mà là sự vinh quang ngàn đời của Thiên Chúa đã bị ẩn giấu trong con người Chúa Giêsu Nazarét, một con người mà nhìn bên ngoài sống bình thường như tất cả mọi người, vì Ngài giống chúng ta mọi sự ngoại trừ tội lỗi. Sự vinh quang ngàn đời của Chúa Giêsu đã bị ẩn giấu trong dáng vẻ tầm thường của con người thì bây giờ vinh quang đó đã được chiếu tỏa ra bên ngoài. Hiển Dung là như vậy. Đồng thời, Thánh Kinh cũng đã dùng ngôn ngữ “thần hiện” để diễn tả nội dung đó, Thánh Kinh sử dụng hình ảnh của đám mây, sự hiện diện của Môsê và Êlia, sự bừng sáng của khuôn mặt, cái áo trắng và nhất là tiếng phán tự trời cao: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (MC 9, 7). Tất cả những hình ảnh đó đều diễn tả nội dung vinh quang của Thiên Chúa bị ẩn giấu trong con người Chúa Giêsu nay được chiếu tỏa ra bên ngoài.
Các Tông đồ ở trong biến cố Hiển Dung của Chúa Giêsu đã có được một kinh nghiệm đức tin về Chúa Giêsu vinh hiển, chắc chắn chúng ta cũng sẽ có được kinh nghiệm này sau cuộc đời tại thế khi chúng ta đối diện với Chúa Giêsu trong vinh quang của một vị thẩm phán. Tuy nhiên, các Tông đồ không phải đợi đến sau cuộc đời tại thế, mà ngay ở đây các ông có được kinh nghiệm đức tin về Chúa Giêsu vinh hiển, về con người Chúa Giêsu vẫn thường sống với các ông có vẻ rất bình thường nhưng thực sự là Con chí ái của Thiên Chúa Cha, để sau đó các ông có đủ can đảm theo lời của Người, các ông có đủ can đảm cùng với Người đi về Giêrusalem. Những khuôn mặt của Phêrô, Giacôbê và Gioan có mặt trong cuộc Hiển Dung cũng sẽ có mặt trong cơn hấp hối kinh hoàng của Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu. Do đó, khi các Tông đồ có được một kinh nghiệm đức tin về Chúa Giêsu vinh hiển thì các ông cũng có đủ can đảm chấp nhận hành trình thập giá với Người.
Khi suy niệm về cuộc Hiển Dung của Chúa Giêsu như vậy, mỗi người chúng ta cũng phải nhớ tới chính mình. Trong Phụng vụ, mùa chay là thời gian để chuẩn bị cho các dự tòng lãnh nhận Bí tích Rửa Tội và đồng thời cũng là thời gian cho những người đã lãnh nhận Bí tích Rửa Tội như chúng ta sống lại, ý thức lại ơn gọi Kitô hữu của mình. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta đã trở nên con cái của Thiên Chúa, mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, cho nên chúng ta phải có bổn phận thực hiện cuộc Hiển Dung của Thiên Chúa trong cuộc đời của mình, nghĩa là làm cho khuôn mặt của Thiên Chúa được bừng sáng lên trong cuộc đời của chúng ta được rõ nét hơn. Người Kitô hữu là người sống một cuộc đời như mọi người, chính Chúa Giêsu cũng sống một cuộc đời như mọi người, nhưng trong chính cuộc sống đời thường ấy, chúng ta phải làm cho Thiên Chúa được Hiển Dung. Đây là một điều rất khó cho mỗi người chúng ta. Bởi vì, do chính đời sống tội lỗi của chúng ta đã che lấp hình ảnh đẹp đẽ của Thiên Chúa nơi bản thân, rồi dần dần lại ngủ quên trong tình trạng xấu xa của tội lỗi. Chính vì thế, điều quan trọng là chúng ta hãy thay đổi lối sống hằng ngày của mình, cố gắng từ bỏ tội lỗi, để khuôn mặt của Thiên Chúa bừng sáng lên trong cuộc đời của mình được rõ nét hơn.
Nói cách khác, nếu chúng ta muốn khuôn mặt của Thiên Chúa được chiếu tỏa trong cuộc đời của mình, chúng ta buộc phải sống tốt cuộc sống đời thường, là vác thập giá hằng ngày để đi theo Chúa, đó là ơn gọi và nghĩa vụ của mỗi người, cách riêng là người Kitô hữu chúng ta. Thật vậy, khi cho con người có mặt trên thế gian này, Thiên Chúa đã giao cho mỗi người một công việc. Công việc ấy có thể là bác sĩ, y tá trong các bệnh viện; là công nhân nơi các xí nghiệp, là người nội trợ, anh bán vé số, chị bán hàng ... Công việc ấy có thể thay đổi theo thời gian, theo nhu cầu của cuộc sống: hôm nay, tôi là học sinh, sinh viên, ngày mai tôi là bác sĩ, là kỹ sư; hôm nay tôi làm ruộng, ngày mai tôi có thể làm những công việc khác mà cuộc sống đòi hỏi tôi.
Tuy nhiên, điều quan trọng không phải là làm những công việc gì, nhưng là: tôi đã làm việc như thế nào? Tôi đã sống như thế nào? Tôi có thực sự sử dụng những công việc ấy để mưu ích cho phần thưởng đời sau hay chưa? Tôi có để cho người khác nhận ra Thiên Chúa trong cuộc sống của tôi hay chưa? Thật vậy, sẽ chẳng có hạnh phúc đời sau cho chúng ta, nếu như hôm nay chúng ta đang sống trong gian dối, lừa lọc, đối xử bất công với người khác, dùng nghề nghiệp của mình để bức hiếp người khác.
Con người sống là sống trong lịch sử, sống với người khác, không ai là một hòn đảo giữa biển khơi. Con người nên thánh là nên thánh giữa dòng đời. Do đó, nếu chúng ta muốn hưởng hạnh phúc đời đời, mỗi người chúng ta buộc phải sống xứng đáng với ơn gọi mà mỗi người đã lãnh nhận, đó là làm cho khuôn mặt của Thiên Chúa được Hiển Dung trong cuộc sống của chúng ta. Chúng ta hãy dùng chính đời sống và nghề nghiệp của mình để diễn tả tình thương của Thiên Chúa bằng cách trở nên một chứng tá yêu thương giữa lòng đời, chính điều đó sẽ làm cho Thiên Chúa được Hiển Dung trong cuộc đời của mình.
Ước gì mỗi người chúng ta cảm nghiệm về Chúa Giêsu Hiển Dung cách sâu sắc hơn để cố gắng thay đổi đời sống của mình cách quyết liệt hơn. Nhờ đó, khi chúng ta quay trở về với đời thường, cho dẫu những hình bóng của thập giá được cắm đầy trên những con đường chúng ta đi là những đau khổ, thử thách trong công việc, trong đời sống hằng ngày, chúng ta vẫn có can đảm chấp nhận vượt qua để tham dự vào vinh quang Phục Sinh trong Nước Chúa. Amen.
Ca dao Việt Nam có những câu như sau: “ Yêu nhau mọi sự chẳng nề, dẫu trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”.
“ Yêu nhau sinh tử cũng liều, thương nhau lặn suối qua đèo có nhau”.
Trong cuộc sống đời thường, người đời khi thương nhau thì người ta sẵn sàng hy sinh cho nhau, họ làm tất cả vì người mình yêu thương, họ dám sống hết mình vì người mình thương yêu. Còn trong đời sống đức tin, trong đời sống đạo, trong đời sống của người con cái Chúa, chúng ta có dám sống chết cho Chúa chưa ? Chúa ta đã sống thiệt tình với Chúa hay chưa?
Ngày hôm nay chúng ta cùng suy nghĩ, chúng ta cùng nhìn lại thái độ của chúng ta đối với Thiên Chúa, Đấng đã sống chết cho chúng ta.
Bài đọc I, sách Sáng Thế kể lại một câu chuyện thật hay, một mẫu gương thật đẹp cho mỗi người chúng ta học hỏi, đáng cho chúng ta phải bắt chước. Ông Abraham đã gần một trăm tuổi rồi (x. Rm 4,19 ) mà bà Sara, vợ ông mới sinh được cho ông một đứa con trai để “nối dõi tông đường” như lời Thiên Chúa đã hứa. Vậy mà một bữa tối nọ, Thiên Chúa biểu ông Abraham: Abraham ơi! Con đem đứa con trai yêu dấu của con lên núi, rồi giết nó tế lễ cho Ta đi. Abraham vâng lời Thiên Chúa. Sáng hôm sau, ông làm theo y như lời Chúa biểu.
Mặc dù biết rằng: Chúa biểu ông chết thì còn dễ hơn là đi giết con trai độc nhất, đứa “con cầu con khẩn” này. Nhưng vì tình yêu mến của Abraham đối với Thiên Chúa, vì lòng tin tưởng vào Thiên Chúa, vì lòng biết ơn mà ông đã sống hết mình và hết tình cho Thiên Chúa, Đấng mà ông đã chọn ưu tiên trước cả đứa con yêu quí của mình. Thế nhưng, Thiên Chúa chỉ thử lòng ông Abraham thôi, vì sau đó, ông được lại đứa con mà ông định giết nó để tế lễ cho Thiên Chúa.
Đây có phải là một bài học hết sức quý báu cho mỗi người chúng ta hay không? Sống thánh thiện, sống yêu thương Thiên Chúa là phải sống như ông Abraham vậy đó. Sống hết mình vì Chúa, sống hết tình vì Thiên Chúa của mình. Chúa biểu cái gì, ông Abraham làm cái đó. Chúa dạy làm sao, Abraham sống y như vậy. Mà sở dĩ chúng ta phải sống thiệt tình với Chúa, phải sống hết mình với Chúa là vì chính Chúa đã sống thiệt tình, đã đối xử hết mình với chúng ta.
Trong bài đọc II, thư gởi tín hữu Rôma, thánh Phaolô nhắc cho mỗi người chúng ta nhớ: Thiên Chúa, Đấng quá yêu thương con người, yêu đến nỗi ngay cả chính Con Một của mình Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì yêu thương chúng ta. Mà Người Con Một đó là ai?
Bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe: Chính Chúa Cha đã long trọng tuyên phán, đã nói từ trời cao, Ngài đã nói rằng: Người Con Một đó chính là “ Con Yêu Dấu” của mình.
Yêu thương con người, Thiên Chúa “chẳng tiếc”( Rm 8,32) khi ban “ Con Yêu Dấu” (MC 9,7) của mình để chịu chết đền tội thay cho chúng ta. Tin tưởng, yêu mến Thiên Chúa, ông Abraham cũng đã “chẳng tiếc” ( St 22,12) “đứa con một yêu dấu” ( St 22,2) của mình khi ông sẵn sàng đem nó đi giết để tế lễ cho Thiên Chúa. Đối với ông Abraham, việc hiến tế Isaac, “đứa con yêu dấu” là một bằng chứng cho lòng yêu mến, tin tưởng và trung thành của ông đối với Thiên Chúa.
Còn đối với Thiên Chúa, việc hiến tế Đức Giêsu, “ Con Yêu Dấu” của Chúa Cha là bằng chứng cho lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với nhân lọai. Việc Abraham đem con lên núi để sát tế cho Thiên Chúa chỉ là việc thử thách của lòng tin, thử thách của tình yêu, nó mới chỉ nằm trong ước muốn của Abraham thôi. Còn Đức Giêsu, Chúa của chúng ta, Ngài đã tự hiến tế, đã chết thiệt sự trên thánh giá, đã chết trần truồng nhục nhã trên thánh giá vì chúng ta đó.
Thiên Chúa đã sống hết mình vì chúng ta, Ngài đã sống chết cho chúng ta. Chúng ta phải đáp trả bằng cách nào đây? Chỉ có tình yêu mới đáp trả được tình yêu. Vì nhiều lúc trong cuộc sống, chúng ta chưa yêu mến Chúa đủ, nên chúng ta chưa sống hết mình, chưa dám sống thiệt tình với Chúa, Đấng hết sức yêu mến chúng ta.
Trời mưa một chút là chúng ta ngại, không muốn đi lễ. Hôm nay mệt quá, thôi bỏ lễ đại một bữa đi. Tối nay phim hay quá, nghỉ đọc kinh tối bữa đi, bỏ khúc phim hay uổng quá! Thôi, bữa nay rước lễ xong, khỏi ở lại cám ơn Chúa, tôi phải về liền để một chút còn đi đám nữa. Đi lễ mà quỳ thì đau đầu gối quá, thôi đứng cho nó khỏe.... Có rất nhiều rất nhiều những lúc chúng ta tính toán từng li từng tí với Chúa.
Một lần kia, ở họ đạo vùng quê. Hôm nọ, đang lúc Cha Sở giảng, có mấy ông bỏ ra ngòai đốt thuốc hút. Tôi nhẹ nhàng bước tới, họ định dụi điếu thuốc, nhưng tôi nhanh miệng nói: Thôi đừng dụi bỏ uổng, lỡ đốt thì cứ hút, nhưng sao không chờ lễ xong rồi hãy hút? Có một ông trả lời: Ghiền quá chịu hỏng nổi! Nhịn thuốc một chút, hy sinh cho Chúa một chút cũng không nổi thì dở quá phải không!
Việc chúng ta sống hết mình vì Chúa còn thể hiện ở chỗ: Chúng ta cũng hãy sống hết mình vì người khác, nhất là những người đau khổ nghèo hèn. Vì như thánh Louise de Marillac dạy:” Hãy yêu thương những người nghèo khó. Hãy tôn trọng họ như Chúa Kitô”. Và trong kinh nghiệm sống, Mẹ Têrêsa Calcuta cũng đã thốt lên:” Mỗi cá nhân đối với tôi là Chúa Kitô”.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng con biết noi gương Abraham, sống giống như ông Abraham: Chúa biểu cái gì thì làm cái đó, Chúa dạy làm sao thì xin cho chúng con sống được như vậy, để như Chúa đã sống thiệt tình cho chúng con thì chúng con cũng sống thiệt tình với Chúa nữa.
Đoạn Tin mừng của Chúa nhật thứ 2 Mùa Chay hôm nay cũng được sử dụng trong lễ Chúa Hiển Dung (ngày 6/8) sắp tới. Trước đây, lễ Chúa Giêsu Hiển Dung thường được gọi là lễ Chúa Biến hình. Nhưng gọi như thế dễ gây cho người ta sự hiểu lầm, vì cứ tưởng rằng Chúa Giêsu biến hình cũng giống như Tề Thiên trong Phim Tây Du Ký hay dùng phép mầu để biến mình thành người này người nọ, hay thành con vật này vật kia. Vì thế, ngày nay Giáo hội gọi lễ Chúa Biến hình là lễ Chúa Hiển Dung, thuật lại việc Chúa Giêsu bày tỏ ra vinh quang vốn có của Ngài ra cho 3 môn đệ thân tín được chiêm ngắm .
Thế thì tại sao Giáo hội lại dùng đoạn Tin mừng này để đọc trong Chúa nhật 2 Mùa Chay trước khi Giáo hội cử hành mầu nhiệm tử nạn của Đức Giêsu vậy? Và thực tế là ngày xưa Chúa Giêsu cũng bày tỏ vinh quang của Ngài cho các môn đệ thấy trước khi Ngài đi vào con đường khổ nạn. Việc này có ý nghĩa gì không? Thưa có, và chắc chắn là biến cố ấy mang một ý nghĩa sâu xa lắm. Chúa Giêsu thừa hiểu là khi Ngài chấp nhận đi vào con đường Thập giá như thế thì các môn đệ của Ngài sẽ thất vọng, sẽ sợ hãi và từ đó mất niềm tin vào Ngài. Do đó, Ngài cho các môn đệ được nếm trước vinh quang thật sự và vốn có của Ngài để các ông được can đảm theo Ngài trên con đường Thập giá. Như vậy, Chúa Giêsu biến hình là vì các môn đệ, là vì chúng ta chứ không phải để khoe khoang gì về Ngài.
Điều đáng cho chúng ta dừng lại để suy nghĩ hôm nay là thái độ của các môn đệ được chứng kiến việc Chúa biến hình, đặc biệt là thái độ của thánh Phêrô để xét xem đó có phải là thái độ của chúng ta ngày hôm nay hay không? Và chúng ta phải làm gì để có thể được ở lại trong vinh quang của Đức Giêsu luôn mãi?
Thánh Maccô thuật lại cho chúng ta biết là khi Đức Giêsu biến đổi hình dạng trước mặt 3 môn đệ thân tín là thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan, thì các ông đều ngây ngất và say sưa chiêm ngắm vinh quang của Đức Giêsu. Tất cả các ông đều muốn ở lại trong vinh quang này mãi. Các ông muốn "dựng lều", "làm nhà" ở đấy để được kéo dài hạnh phúc tròn đầy này, nhưng rồi hạnh phúc ấy đã mau chóng tan biến trong sự nuối tiếc của 3 môn đệ và Chúa Giêsu lại dẫn các ông xuống núi, trở lại với cuộc sống đời thường, trở lại với nhiệm vụ mà thầy trò đang thực hiện.
Chúa Giêsu muốn dạy cho các môn đệ hiểu rằng: muốn được hưởng vinh quang ấy mãi mãi thì phải bước theo Ngài đi vào con đường tử nạn để chết đi cho tội lỗi của mình, để đóng đinh tính xác thịt của mình vào thập giá Chúa. Và khi đã chết đi với con người cũ, con người tội lỗi của mình thì chúng ta sẽ được cùng Ngài bước vào vinh quang Phục sinh viên mãn và vĩnh cửu. Như vậy, vinh quang làm các môn đệ ngây ngất trên Núi Tabo ngày xưa chỉ xảy ra, kéo dài và làm thoả mãn lòng người trong cuộc sống mai sau mà thôi.
Nhưng thường thì thái độ của chúng ta cũng như các môn đệ ngày xưa là muốn thấy ngay vinh quang, muốn hưởng hạnh phúc ấy ngay lập tức, ngay trên trần gian này. Chúng ta muốn hưởng hạnh phúc mà không phải trải qua bất kì sự hy sinh hay khổ chế nào. Nhưng Lời Chúa nói cho chúng ta biết là sẽ không có vinh quang và hạnh phúc nào mà không phải trả bằng hy sinh và mất mát, ngay cả mất cả tính mạng của mình. Nếu có thứ hạnh phúc nào ở trần gian thì đó cũng chỉ là hạnh phúc chóng qua, giống như một cơn gió thoảng làm chúng ta thấy dễ chịu trong chốc lát vậy thôi. Nó cũng giống như giấy phút mau qua của các 3 môn đệ trên Núi Tabo ngày xưa thôi. Bất cứ một chiến thắng nào cũng chỉ đến sau một cuộc chiến đấu khốc liệt. Đứa con chào đời là kết tụ của hơn chín mang nặng đẻ đau. Chúng ta không gieo thì chắc chắn sẽ không có cái để gặt. Thánh Phaolô đã dùng hình ảnh của nhà nông phải thức khuya dậy sớm, phải vất vả suốt ngày trên cánh đồng thì mới có được những bông lúa nặng trĩu bông để gặt về, để khuyến cáo chúng ta trong đời sống đức tin và trong hành trình theo Chúa.
Ước gì đừng có ai trong chúng ta nghe theo lời dụ dỗ của những người đã hư mất mà biếng trễ, lơ là trong đời sống đức tin vì nghĩ rằng Chúa nhân từ vô cùng! “Đừng để ma quỷ thừa cơ lợi dụng”, thánh Phêrô đã từng khuyến cáo chúng ta như thế.
Có lẽ, có nhiều người trong chúng ta đang có những hạnh phúc nào đó trong cuộc sống. Nhưng chúng ta hãy ý thức, đó chỉ là hạnh phúc mà Thiên Chúa ban tạm thời cho chúng ta. Chúng ta đừng dừng lại ở đó, đừng “cắm lều và xây nhà” ở đó, nhưng hãy biết “xuống núi Tabo”, hãy biết ra khỏi hạnh phúc tạm thời ấy để nỗ lực sống đức tin, tu sửa bản thân, hy sinh trong những bổn phận và nỗ lực sống bác ái với những người xung quanh chúng ta, những người mà chúng ta có điều kiện gặp gỡ. Đó là cách chúng ta cùng với Chúa Giêsu đi vào cuộc khổ nạn của Ngài để mai sau, chúng ta được thông phần vinh quang Phục sinh với Ngài.
Vậy trong Mùa Chay này và ngay hôm nay, chúng ta hãy xét lại xem, chúng ta đang sống đạo như thế nào? Chúng ta đang gieo gì: gieo nhân đức, điều thiện hay ta đang gieo tai hoạ và sự biếng lười của chúng ta? Sống đạo thật sự là hằng ngày biết dựa vào ơn Chúa, dựa vào Lời Chúa dạy bảo mà chỉnh sửa đời sống mình để xem coi nếu chúng ta có lạc đường thì còn biết quay trở lại. Chúa đang chờ đợi chúng ta ở cuối con đường cuộc đời với "triều thiên sự sống" dành cho những ai hết lòng trung tín trong niềm tin vào Thiên Chúa.
Thiên Chúa một khi tạo dựng và trao ban cho loài người quyền tự do và quyền làm chủ trái đất thì cũng muốn con người nhận biết nguồn gốc xuất phát của mình. Ngài đối xử rất tốt với con người như một người cha lo cho cái mình. Vì thế, con người cần biết đáp trả tình thương ấy với tấm lòng hiếu thảo đặc biệt.
Trong thời cựu ước, Abraham vì nhận biết ơn thiêng tràn trề của Thiên Chúa đối với mình nên ông sẵn sàng dâng hiến cho Chúa tất cả. Ông dâng hiến ngay cả đứa con Một là món quà quý nhất Chúa ban, và là người ông yêu quí hơn cả mạng sống mình.
Abraham tin và hiểu biết tình yêu Thiên Chúa đối với mình. Ông hiểu rằng tất cả những gì ông có là do Chúa ban: của cải, đất đai, quyền hành và cả đứa con trai của mình nữa. Ông sẵn sàng dâng lại cho Chúa tất cả nếu Chúa muốn. Vì vậy Chúa đã ban thưởng cho ông và chọn dòng dõi ông làm dân riêng của Ngài. Chúa đã gìn giữ, ban sức mạnh cho con cháu ông chiến thắng mọi quân thù và trở nên dân tộc mang niềm hạnh phúc của Chúa cho địa cầu. Khi đến thời viên mãn, Ngôi Hai Thiên Chúa xuống làm người trong dân tộc Israel. Ngài trở nên Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người, đại diện loài người đáp trả tình yêu Thiên Chúa cách triệt để nhất, cảm động nhất: Đó là dâng hiến cả cuộc đời mình làm theo ý Chúa Cha và cuối cùng chết trên thánh giá làm của lễ toàn thiêu chuộc tội cho nhân lọai.
Trước khi chịu nạn, Chúa Giêsu đã tỏ lộ vinh quang của Người, vinh quang mà người có trước khi tạo dựng vũ trụ. Vinh quang đó được tỏ cho 3 tông đồ thân tín của Ngài vừa để củng cố đức tin các ông, vừa để mạc khải sự thật bao lâu nay còn giữ kín. Trên núi cao, lúc Chúa Giêsu biến hình, áo người trở nên chói lọi, trắng tinh trước mặt 3 tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan. Và lúc đó, Chúa Cha làm chứng cho Con của mình trước mặt các tông đồ: “ Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”.
Cuộc biến hình của Ðức Giêsu giúp các Tông đồ và chúng ta hôm nay hiểu hơn về con người thật của Ðức Giêsu và chương trình cứu chuộc của Ngài: đi từ đau khổ đến vinh quang, vinh quang mà Ngài vẫn có từ trước và sau này cả thân xác của Ngài cũng được vinh quang hằng cửu.
Ðức Giêsu sẵn sàng chấp nhận chịu mọi sỉ nhục, đau khổ vì tình yêu Chúa Cha cho đến chết. Thì nay, chúng ta là môn đệ Chúa, cũng là con cháu của Abraham về lòng tin, chúng ta cảm nhận về tình yêu của Chúa đối với mình và đáp trả cho cân xứng. Việc đáp trả tình thương Chúa không phải nhờ việc làm của mình nhưng do thái độ vâng phục kết hợp với công nghiệp Chúa Giêsu trên thập giá. Chắc chắn Chúa Cha rất yêu thương chúng ta sẽ ban phần thưởng bất diệt cho chúng ta.
Chúng ta hãy bắt chước Chúa Giêsu dâng hiến toàn thân, cả của cải, con cái, sự nghiệp cho Chúa. Chắc chắn, Ngài sẽ ban phúc lành tương xứng cho chúng ta, nhất là niềm hạnh phúc đời đời trên Thiên quốc.
Nhiều người chỉ thấy và tin vào những thực tại bề ngoài của sự vật, cũng giống như những người chỉ thấy vỏ trái dừa mà chẳng bao giờ thưởng thức được nước và cùi dừa. Với họ, chiếc bắp cải chỉ là một cái lá; nhưng ta biết có thể ăn được. Với họ, viết chỉ là đánh dấu trên giấy ; nhưng ta biết những dấu này nói lên điều gì đó. Người trần gian giống như những người ở vùng rừng núi xa xôi, họ nhìn vào một ống dẫn và không hề nghĩ rằng nước đang chảy trong đó. Họ chỉ thấy bề ngoài, không thấy được bên trong. Hôm nay, Chúa nhật thứ hai Mùa Chay, bài Phúc âm thánh Maccô nói về cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi. Ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan đã ở với Chúa Giêsu hằng ngày, họ đã nhìn thấy Ngài, lắng nghe Ngài giảng dạy, chứng kiến những phép lạ Ngài làm, nhưng họ vẫn chưa thực sự nhận ra Ngài là ai, hôm nay họ mới nhìn thấy vinh quang của Con Thiên Chúa lần đầu tiên, và họ thật sự là hạnh phúc, và sung sướng.
Trong đời sống, rất nhiều khi chúng ta đối xử với người khác, theo những vẻ bên ngoài mà ta thấy được nơi họ, chứ không theo bản chất đích thực của họ. Những gì bên ngoài thì dễ thay đổi, nay còn mai mất, nay thế này mai thế khác: như của cải, tài năng, quyền lực… Thật vậy, nhiều người hôm trước còn giàu “nứt khố đổ vách”, thì liền hôm sau có thể biến thành trắng tay. Nói cụ thể hơn, chúng ta đối xử với tha nhân tùy thuộc vào đánh giá bên ngoài; sự giàu nghèo, vào quyền lực, vào tính nết của họ… Chúng ta không nhìn vào bản chất Nhưng vào chính bản chất bên trong. Bài Tin Mừng hôm nay, các môn đệ được nhìn thấy nhãn tiền bản chất của Thầy mình qua những hình ảnh mang tính biểu tượng diễn ra trước mắt các ông. Hai nhân vật vĩ đại tiêu biểu cho Lề Luật và các ngôn sứ “ông Ê-li-a cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su”. Hơn nữa, Câu nói từ trong đám mây phán xuống cho các ông biết rõ bản chất đích thực của Ngài: «Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người». Vậy thì Ngài chính là Con Thiên Chúa. Điều các ông thấy bằng mắt, nghe bằng tai về Thầy mình hôm nay là bản chất đích thực của Ngài, khác với bình thường các ông chỉ thấy những hiện tượng bên ngoài của Ngài.
Trong Chúa nhật tuần trước, Giáo Hội mời gọi chúng ta cùng bước vào sa mạc với Chúa Giêsu, để chịu thử thách, để rèn luyện đời sống tâm linh của mình cho vững mạnh, tiếp tục chiến đấu , chấp nhận đau khổ để con người cũ chết đi và sống lại với con người mới. Thì hôm nay, Cuộc biến hình trên núi Tabor được xếp đặt trước việc tiên báo khổ nạn. Nếu người ta làm cho an toàn những viên thuốc đắng bằng một lớp vỏ bọc đường, thì Đức Giêsu cũng hóa giải tin khổ nạn bằng cuộc biến hình rực rỡ. Bọc đường chứ không bọc thuốc ngủ. Hoá giải chứ không gây mê. Nhưng qua lời nói của Phêrô ta thấy các ông như muốn ngây ngất trong vinh quang đó: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê và một cho Elia" (MC .9,5). Vậy là Phêrô, Giacôbê và Gioan muốn đăng ký thường trú trên đỉnh núi Tabor. Họ đòi ngủ yên trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa. Các ông đâu biết rằng muốn đến vinh quang thì phải trải qua gian khổ, muốn được phục sinh thì phải đi qua cái chết. Trong mùa chay này, càng làm cho ta thêm xác tín vững vàng hơn về những đau khổ mà chúng ta đang phải mang lấy ở giây phút hiện, chính khi mang lấy “thập giá hàng ngày” là lúc chúng ta đang đến vinh quang mà Thiên Chúa đã dành cho mình mai sau.
Lạy Chúa, chỉ có con đường thập giá mới đưa đến vinh quang. Xin cho con biết chấp nhận chết với Chúa để cùng được sống lại với Người. Amen
Con xin hỏi: Tại sao Chúa Giêsu biết trước Giuđa sẽ phản bội Ngài, mà Ngài vẫn để yên cho Giuđa dẫn người đến bắt Ngài?(Têrêsa Ngọc Nga.
Trả lời: Chị Ngọc Nga mến,
Một câu hỏi tưởng chừng đơn giản, mà rất khó trả lời!
Từ ngữ “biết trước” là kiểu nói của loài người, vì loài người chúng ta ở trong thời gian và lệ thuộc vào thời gian, nên nói chuyện “biết trước” hoặc “biết sau”. Thiên Chúa thì không ở trong thời gian và không lệ thuộc thời gian, nên Người luôn biết và thấy mọi chuyện ở trong tình trạng hiện tại. Ở đây, chúng ta chạm phải hai lãnh vực hoàn toàn khác nhau: lãnh vực của Thiên Chúa, vô biên và luôn hiện tại; lãnh vực của loài người, giới hạn và lệ thuộc thời gian (có quá khứ, hiện tại và tương lai), mà chúng ta không thể nào dung hòa được trong trí tuệ của chúng ta. Chúng ta chỉ có thể cố gắng mô tả: trong mầu nhiệm nội tại của Người, Thiên Chúa “đang” thấy sự chọn lựa tự do của loài người để đi theo ý Người hoặc để chống lại ý Người, dù trong thế giới con người, điều đó chưa xảy ra: Khi đó, chúng ta nói theo cái khung suy tư của chúng ta là “Thiên Chúa biết trước”. “Sự biết trước” này không hề có nghĩa là “tiền định”, là quy định trước cho loài người phải làm ý như thế.
Thật ra nếu nói “tiền định”, thì cũng có phần đúng theo nghĩa là Thiên Chúa ban cho con người có tự do “để họ có thể yêu mến Thiên Chúa và yêu thương nhau” (Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 387) mà thôi. Nói tổng quát, khi ban cho con người có tự do, Thiên Chúa soi sáng và nâng đỡ để con người biết chọn lựa đúng đắn, nhưng như thế cũng có nghĩa là Người không làm con người mất tự do chọn lựa giữa điều tốt và điều xấu. Thiên Chúa có khả năng đăc biệt là khi đã ban cho chúng ta điều gì thì điều ấy hoàn toàn thuộc về loài người chúng ta, y như thể điều đó hoàn toàn phát xuất từ chúng ta. Khả năng chọn lựa là một ơn như thế. Thiên Chúa tôn trọng con người đến mức như thế. Là Ngôi Lời Nhập Thể, Đức Giêsu chấp nhận ở trong thời gian và lệ thuộc thời gian; có những điều sẽ xảy ra Người không biết (chẳng hạn, ngày tận thế), nhưng cũng có những điều sẽ xảy ra Người cho chúng ta thấy là Người biết “trước”(chẳng hạn, việc Giuđa phản bội). Không những Người “biết trước”, Người còn tìm cách đánh thức lương tâm Giuđa trong nhiều dịp nhiều cách (chẳng hạn, Người báo trước việc phản bội trong bữa Tiệc Ly; tại vườn Ô-liu, Người gọi ông là “bạn” và hỏi tại sao bán Người bằng một cái hôn). Đấy chính là mầu nhiệm tự do của con người mà Thiên Chúa đang tôn trọng. Vì Giuđa vẫn chọn đi theo con đường của ông, thì Đức Giêsu tôn trọng sự chọn lựa đó. Giả sử Giuđa tỉnh ngộ quay trở lại kịp để không trao nộp Thầy thì sao? Đức Giêsu có “thoát khỏi” cái chết thập giá không? Nếu Người thoát chết thập giá, kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa phải sụp đổ chăng? Chúng ta không thể nào tưởng tượng về một chuyện không bao giờ có thể xảy ra nữa, nhưng dù sao chúng tôi cũng xin gợi ý thế này:
Chúng ta đừng lo rằng Thiên Chúa cạn sáng kiến trong việc cứu chuộc loài người. Đàng khác, cái chết thập giá của Đức Giêsu có giá trị không phải là vì nó đẫm máu, nhưng vì đó là cách thế thâm sâu nhất Đức Giêsu đã chọn với Chúa Cha để bày tỏ được tối đa lòng yêu mến và vâng phục đối với Chúa Cha, là điều mà Ađam và Evà đã đánh mất. Cứ giả sử là không có thập giá đi, chẳng lẽ Đức Giêsu không còn cách nào để diễn tả tối đa lòng yêu mến và vâng phục đối với Chúa Cha sao? Lại có vấn nạn: Trong Cựu Ước có nhiều bản văn báo trước sự phản bội của Giuđa và cái chết đau đớn của Đức Giêsu rồi, tức là Thiên Chúa đã “định trước” cả rồi còn gì? Thật ra, những bản văn đó cho thấy Thiên Chúa “đang thấy” mọi sự (quá khứ, hiện tại, tương lai) của con người – nói theo kiểu loài người, thì Thiên Chúa đã thấy kết quả mọi sinh hoạt của con người từ tạo thiên lạp địa cho đến tận thế rồi –, nhưng không hề có nghĩa là Người “quy định trước” (= tiền định) là con người phải làm y như thế. Với lại thật ra chúng ta chỉ thấy những bản văn Cựu Ước ấy ứng nghiệm sau khi các sự việc đã xảy ra. Dù sao, cần phải thấy trong biến cố Giuđa phản bội, “sự biết trước” của Đức Giêsu không đi ngược lại với việc tôn trọng tự do chọn lựa của ông, Người “biết trước” cũng không có nghĩa là Người quy định trước công việc của ông, để khỏi rơi vào nguy cơ cho là Đức Giêsu biết hết mà còn đóng kịch, hoặc cho rằng Giuđa hoàn toàn đi đúng kế hoạch của Thiên Chúa, thế mà lại bị trách cứ nặng nề!
Trong Cựu Ước, có một câu truyện tương tự ở sách Sáng thế (18,17-33): Thiên Chúa cho Abraham biết là Người định tiêu diệt hai thành Sôđôma và Gômôra. Abraham liền năn nỉ và “xuống nước”: Nếu có năm mươi, rồi bốn mươi lăm, rồi bốn mươi, ba mươi, hai mươi, cuối cùng nếu chỉ có mười người công chính trong thành, không có lẽ Chúa vẫn tiêu diệt người công chính với kẻ bất lương? Sau đó, ông không “mặc cả” nữa, và thế rồi hai thành đó bị tàn phá. Vấn đề là: nếu thực sự trong thành đó có được số người ít ỏi như ông đề nghị, thì chắc chắn Thiên Chúa sẽ tha, vì Người đã hứa. Nếu Thiên Chúa tha, có nghĩa là trước đó, Người đã quyết định vội vã: chuyện này hoàn toàn bất xứng với Thiên Chúa quá! Còn nếu Người “biết trước” là Abraham sẽ không tìm ra đủ số người công chính như ông đề nghị đâu, biết rằng ông sẽ không dám “mặc cả” cho đến khi chỉ còn lại số người của gia đình Lót, có nghĩa là chắc chắn Chúa sẽ làm như Người đã định, hóa ra là Người chơi trò “mị dân”, cứ mặc kệ cho Abraham năn nỉ cho ông hài lòng, hóa ra là Người lừa ông ấy khi hứa là sẽ tha nếu ôntg tìm ra số người công chính đề nghị: chuyện này cũng chẳng xứng đáng với Thiên Chúa tí nào! Ở đây, Kinh Thánh đã diễn tả bằng kiểu rất “nhân bản” là Abraham được sống rất thân tình với Thiên Chúa nên ông đã trở thành đấng cầu bầu cho kẻ khác và Thiên Chúa cho ông được cùng tham dự vào quyết định về vận mạng của kẻ khác.
Chúng ta còn có thể đặt vấn đề về câu chuyện vườn Địa đàng: Tại sao Thiên Chúa “biết trước” mà lại để cho Ađam và Evà hái và ăn trái cây bị cấm? – Đó là vì Người tôn trọng tự do của con người, để con người có thể lớn lên mà trở thành những người con trưởng thành của Người. Nhưng khi con người đã chọn lựa xấu để đi vào bế tắc, Thiên Chúa lại tìm cách cứu chữa. Điều khiến chúng ta phải suy nghĩ nữa, đó là Thiên Chúa chấp nhận cho con người dùng ơn Người ban (vì tự do là một ơn Chúa) mà chọn chống lại Người.
Trong Tân Ước, có một trường hợp chọn lựa tích cực, đó là tiếng “xin vâng” của Đức Maria. Ở đây cũng vậy, chắc chắn Thiên Chúa “biết trước”, nhưng cũng không có nghĩa là Người quy định cho Đức Maria “phải” “xin vâng”. Chắc chắn Người ban ơn cho Đức Maria có khả năng thưa “vâng” và cũng có đủ khả năng để thưa “không”; nếu không phải như thế, thì lời “xin vâng” của Maria không có tự do, tức không có công phúc. Đức Maria đã chọn thưa “vâng” sau khi đã đặt câu hỏi để xin được soi sáng. Thiên Chúa tôn trọng tự do con người đến mức “treo” kế hoạch vĩ đại là việc Ngôi Lời Nhâp Thể nơi câu trả lời của người trinh nữ làng Nadarét. Giả sử Đức Maria đã không “xin vâng” thì sao? Mầu nhiệm Nhập Thể có thể thực hiện được không? Ở đây cũng vậy, chúng ta đừng lo là Thiên Chúa hết sáng kiến trong việc cứu độ loài người. Thái độ thiêng liêng lành mạnh nhất vẫn là dừng lại nơi những việc đã xảy ra, coi đó là những bài học để chúng ta suy ngẫm rồi chọn lấy cách ứng xử thích hợp.
Chúng ta cùng cám ơn Chúa Ba Ngôi cho nhau, vì Người đã ban cho chúng ta ân huệ cao quý là sự tự do. Xin Người hướng dẫn chúng ta trong việc sử dụng tự do này.
Việc Chúa Giêsu chịu đau khổ và chịu chết, hay nói một cách khác, mầu nhiệm thập giá của Ngài mãi mãi vẫn là một điều khó chấp nhận, một cớ vấp phạm cho người Do Thái, một sự điên rồi đối với dân ngoại. Chính vì thế mà Thiên Chúa đã chuẩn bị tâm hồn mọi người để có thể hiểu được phần nào mầu nhiệm ấy.
Cuộc chuẩn bị xa xôi nhất, đó là việc Thiên Chúa đòi tổ phụ Abraham sát tế người con duy nhất của mình là Isaac, để làm của lễ toàn thiêu dâng kính Ngài. Việc đòi hỏi này thật là mâu thuẫn với lời Chúa đã phán hứa với ông. Nhưng Abraham đã không thắc mắc, đã không phản đối, trái lại ông hoàn toàn tin tưởng, và thi hành đúng theo lệnh truyền của Chúa và kết quả: Ông được gọi là kẻ công chính, còn Isaac con ông thì được cứu sống, chứ chẳng bị sát tế.
Hình ảnh của Abraham là biểu tượng cho tình thương của Chúa đối với chúng ta. Thực vậy sự công bình và lòng thương yêu của Chúa đối với chúng ta đã đòi Chúa làm một việc tương tự như Abraham, đó là không dung tha con mình, nhưng phó thác con mình cho tất cả chúng ta. Ngày xưa, Isaac không bị giết, mà Abraham vẫn được kể là kẻ công chính. Còn bây giờ, Đức Kitô đã bị giết. Ngài đã chết thực sự, nhưng sau đó Ngài sống lại, ngự bên hữu Chúa Cha, hoàn tất công trình cứu độ nhân loại và đã trở thành Đấng công chính hoá loài người.
Tiếp đến là cuộc chuẩn bị gần, như chúng ta thấy qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chính vì muốn để cho các môn đệ thân yêu giữ vững niềm tin khi thấy mình bị đau khổ và chịu chết một cách nhục nhã trên thập giá, mà Chúa Giêsu đã tỏ lộ phần nào vinh quang của Ngài trên đỉnh Tabor. Nếu lưu ý một chút, chúng ta sẽ thấy ba môn đệ được Chúa đưa lên đỉnh Tabor hôm nay cũng chính là những môn đệ mà Ngài sẽ đưa vào vườn cây dầu trong cơn hấp hối. Qua đó chúng ta thấy, mọi biến cố, dù vui hay buồn, cũng đều là những dịp Chúa gửi đến để kêu mời chúng ta tiến sâu trong tình thân với Ngài.
Do đó, hãy biết đọc các dấu chỉ thời đại, hãy biết nhìn những sự kiện xảy ra dưới ánh sáng đức tin và trong yêu mến Chúa nồng nàn. Các môn đệ lúc đầu đã không thể hiểu ngay mọi ý nghĩa của việc Chúa biến hình. Trong đời sống thường ngày cũng vậy, đứng trước những khó khăn hay dễ dàng, gian khổ hay vui mừng, được an ủi hay bị bỏ rơi, chúng ta khó mà thấu hiểu được ý nghĩa của nó, khó mà khám phá ra được tình thương và sự công bình của Chúa. Thế nhưng, chúng ta hãy kiên tâm bền chí, trong kinh nguyện và trong suy niệm Lời Chúa, trong đời sống và trong hành động, chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa lớn hơn con tim của chúng ta. Hãy biết tìm ra thánh ý Chúa được gởi gắm qua những sự kiện hằng ngày, nhất là nơi những đau thương, gian khổ và thập giá vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới phục sinh.
Abraham và Sara lúc tuổi đời đương tận, Chúa đã ban cho ông bà một đứa con hồng phúc là Isaac. Isaac rạng ngời tuổi xuân xanh, lớn nhanh, xinh đẹp, khôn ngoan và thành tín. Đôi má thiếu niên như quả hồng ửng chín. Tiếng suối reo vui, thua kém nụ cười . Hạnh phúc tuổi già thêm thắm thêm tươi, nhờ giọng đùa vui êm đềm như khúc hát. Nhưng Thiên Chúa thử lòng tín thác:
“Ngươi hãy đem đứa con hồng phúc, đến đất Meriyah Mà tế lễ thượng hiến cho Ta Trên một quả núi Ta sẽ chỉ” (St 22,2)
Lòng Abraham quặn đau như cắt, khi phải tế lễ đứa con yêu. Nhưng vì niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, ông thưa: “Lạy Thiên Chúa, vâng Lời Ngài phán dạy.Tôi sẽ lên đường đi về nơi ấy, và bằng lòng tế lễ đứa con yêu.”
Hôm sau, trời sáng nhẹ, gió hiu hiu Ông đưa con lên núi…
Khi ông vung gươm sát tế con mình, thiên thần Chúa xuất hiện: “Hãy nghe đây, đừng hại con trẻ nữa. Thiên Chúa đã biết ngươi, luôn tín thác nơi Người. Ngươi kính sợ Chúa, và vâng lời Thiên Chúa, bằng lòng tế lễ chính con một của mình”. Ông nói với con: “Con yêu của Cha, Hãy tạ ơn Thiên Chúa quyền linh. Kìa con cừu mắc sừng vào bụi rậm-thánh ý nhiệm mầu từ trời cao thẳm-sẽ thay con làm lễ tế Thiên Chúa chí cao”.
Chuyện xảy ra trên núi…Thiên Chúa đã ký Giao Ước với Abraham. Uy quyền của Thiên Chúa trở thành tình thương tuyệt đối dành cho người có lòng tin tuyệt đối.
Từ trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã hò hẹn với con người trên núi, để tỏ cho con người biết uy quyền, ý định, và tình thương của Ngài, như đã hò hẹn với Mô-sê ở núi Si-nai, với Elia ở Horeb, với Abraham trong câu chuyện St 22,1-2.9a.10-13.15-18.
Hình ảnh “con cừu mắc sừng vào bụi rậm” làm lễ tế thay cho Isaac là hình ảnh tiên báo cho “Con Chiên Thiên Chúa”, Đức Giêsu, chịu sát tế đền thay tội lỗi nhân loại.
Hôm nay, đã sắp đến giờ trọng đại ấy. Biết các tông đồ trong tình trạng khiếp sợ trước các thế lực chống đối, trước con đường thương khó sắp đến, trước giờ chịu sát tế, Chúa Giêsu đưa ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi Tabor, để các ông chứng kiến tận mắt thiên tính và sứ vụ của con người Giêsu mà các ông đang cộng sự.
Không có con đường lên núi nào dễ dàng cả; không ngoằn ngoèo, khúc khuỷu thì cũng sỏi đá, gai góc um tùm. Và tư thế đi lên bao giờ cũng bị sức hút của trái đất kéo xuống, làm bước chân thêm nặng.
Núi không chỉ mang duy nhất một nghĩa vật lý, mà còn là biểu trưng của một sự hướng thượng, hướng tâm lên cùng Thiên Chúa. Cũng vậy, không có sự hướng thượng nào mà không khỏi những kéo lôi của chiều hướng hạ.
Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta cùng Ngài lên núi, bằng cách tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa uy quyền và đầy tình thương như lòng tin của Abraham, bằng một cuộc vươn lên khỏi những sức cuốn hút nặng nề của những điều xoàng thường hư hèn trong cuộc sống. Vì, cuộc chiến đấu trong mùa Chay, trong đời người, không dừng lại, không ngủ quên trên chiến thắng những cơn thử thách những cám dỗ trong hoang địa cuộc đời, mà còn phải cùng Đức Giêsu đi lên với Thiên Chúa, đi vào mầu nhiệm vinh hiển của Thiên Chúa, kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa.
Biến hình
Trên núi Tabor, Chúa Giêsu đã gặp gỡ Thiên Chúa, đã đàm đạo với Mô-sê và Elia. Không có một phóng viên nào, một hãng thông tấn nào có thể nắm được nội dung cuộc hội kín ấy. Chỉ có thể tường thuật điều đã trông thấy là thân xác sáng láng vinh hiển của Chúa Giêsu. Một sự thật huy hoàng vượt quá trí khôn trí hiểu của loài người, làm Phêrô choáng ngợp đến bộc phát cái cảm tính rất người của mình: "Thưa Thầy, chúng con ở đây thì sướng lắm. Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông E-li-a". ( MC 9, 5)
Chúa Giêsu muốn cho các tông đồ hiểu rằng đang có một sự kết hợp toàn vẹn – toàn tâm toàn ý giữa Cha và Con trong hào quang của Thánh Thần. Và, vinh quang của Thiên Chúa tỏ hiện ra nơi Đức Giêsu, người Con chí ái. Thân xác sáng láng tinh tuyền ấy, không phải là sự biến đổi, biến hình, nhưng là sự mạc khải, sự tỏ bày thiên tính hằng có của Ngôi Con Thiên Chúa trong Đức Giêsu.
Không nhất thiết vì câu nói đơn sơ của Phêrô, nhưng vì ý định mạc khải của Thiên Chúa, một tiếng vọng thần linh đã xé toang cả chín tầng mây dội xuống cho con người thấu hiểu mạc khải cách trọn vẹn: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người." (MC 9, 7)
Vào mùa chay, với lời nhắc nhớ thân phận con người, mỏng manh hư hèn như một hạt bụi nhỏ nhoi trong trời đất. Nhưng quí hóa thay, Thần linh đã thổi vào hạt bụi vô danh ấy sự sống Thiên Chúa, làm cho con người được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa qua Đức Giêsu.
Và hôm nay, Đức Giêsu cho chúng ta niềm xác tín vững chắc rằng chúng ta cũng sé có “một thân xác sáng láng tinh tuyền” khi “vâng nghe lời Chúa Giêsu” để cùng Ngài đi vào mầu nhiệm Thiên Chúa. Chúa Giêsu không biến hình, nhưng Ngài làm cho mỗi chúng ta biến hình từ tình trạng hư hèn đến bền vững, từ tăm tối nên sáng láng, từ ngu muội xấu xa thành khôn ngoan tuyệt mỹ… với điều kiện, chúng ta có lòng tin tuyệt đối và chấp nhận lên núi với Ngài - ngọn núi sát tế trong chương trình cứu thế. Như thế, ngọn núi Tabor không chỉ là nơi ‘mạc khải thần tính Thiên Chúa nơi Đức Giêsu’ mà còn mạc khải công trình phục sinh vinh hiển của Ngài bắt đầu từ cuộc thương khó mà các tông đồ sẽ tham dự. “Đức Giê-su truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu "từ cõi chết sống lại" nghĩa là gì”. (MC 9,9-10)
Lên đường thương khó
Không ở lại trên núi với vinh quang mạc khải, nhưng để được vinh quang ấy, Đức Giêsu phải trải qua một đoạn đường đầy đắng cay tủi nhục. Thầy trò xuống núi. Và bắt đầu vào cuộc thương khó kinh khủng nhất của đời Người Cứu Thế: Chết để sống lại.
Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta, những ai muốn sáng láng vinh hiển với Người, hãy bắt đầu ngay cuộc xuống núi để lên đường thương khó, đau khổ và có thể tử nạn ấy.
Nhờ xác tín chịu đau khổ với Đức Giêsu, cùng chết với Chúa Giêsu, đồng nghĩa với niềm hy vọng vinh quang cùng Ngài, nên đã có biết bao con người dấn thân vào cuộc đời tăm tối:
- Cùng Chúa Giêsu đến với những người đau khổ. Có những người chấp nhận làm những người điên đến chia sẻ với người đầu đường xó chợ, những người khuyết tật, những người tâm thần, những người phung cùi trong cái túi của số phận suốt đời thua kém, những người chui rúc trong khu ổ chuột hôi thối, hay dưới các gầm cầu. Có những chuyến về Việt Nam đầy ý nghĩa của một số anh chị em hải ngoại: không phải về Việt Nam thăm quê hương, mà là thăm tất cả những con người cùng khốn trong đất nước! Thiết nghĩ họ không đi một mình, họ đi với Chúa Giêsu, với tấm lòng của Chúa Giêsu. Những con người ấy, cùng Chúa Giêsu đã làm cho đau khổ biến hình thành niềm vui cho đời.
- Cùng Chúa Giêsu tỏ lòng thương xót những người sống trong mặc cảm xấu xa vì tội lỗi. Có những người mở rộng trái tim tha thứ và đón nhận bao con người lầm lỡ mà xã hội đòi ném đá, kết tội, loại trừ. Có những người hy sinh cả thời gian tiền bạc để xây dựng nơi ăn chốn ở cho những người lầm lỡ, tạo mọi điều kiện cho họ có công ăn việc làm chân chính và phục hồi nhân phẩm quí giá cho họ. Mặc cảm tội lỗi được biến hình thành niềm ủi an, hy vọng.
- Cùng Chúa Giêsu, góp phần xây dựng hạnh phúc cho người. Có những em bé, những gia đình, những giáo xứ đã bắt đầu chương trình “hủ pig Tabor” ngay từ đầu mùa Chay, để những đồng tiền hy sinh bớt phần ăn sáng, phần quà, phần chi tiêu cà phê thuốc lá, rượu chè, phần sắm sửa, thẩm mỹ… sẽ biến hình thành những căn nhà tình thương, thành cơm gạo, thành chiếu chăn mùng màn cho người nghèo trong giáo xứ vào ngày Chúa Phục Sinh. Thật đáng trân trọng.
- Cùng Chúa Giêsu thu hồi lại những công trình của Thiên Chúa mà con người cố tình hủy diệt. Có những người ngày đêm dày vò trăn trở, anh dũng lên tiếng bảo vệ sự sống trước tình trạng triệu triệu thai nhi không được sinh ra làm người, mà phải chết tức tưởi từ trong đạo luật, từ trong ý hướng khoái lạc vô trách nhiệm của con người, rồi ra đến bọc ny lon, ra đến thùng rác. Cũng có những người âm thầm lượm mót từng xác thai nhi, an táng rồi thắp nén hương xin chính vong hồn thơ bé ấy thứ tha cho người đã hóa ngợm từ lâu. Những nấm mồ thai nhi được biến hình thành lời cảnh tỉnh tội ác của con người.
- Cùng Chúa Giêsu đấu tranh cho sự thật cho công bằng “trả cho Cesar những gì của Cesar, trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”. Biết bao người đã hy sinh cả phẩm hàm chức vị, danh dự, chịu bao lời mai mỉa, kết án của cuộc đời, chịu dùi cui, chịu hơi cay, chịu đánh chịu đập đổ máu đầu máu mũi, chịu đứng trước vành móng ngựa nhận những oan sai, chịu ngồi tù, chịu lưu vong, chịu chết vì công lý. Biết bao người mạnh dạn đòi lại những quyền cơ bản của con người, không chỉ có ăn no mặc ấm, mà còn được tôn vinh Thiên Chúa, Đấng đã tác thành và dưỡng nuôi. Những mồ hôi máu lệ khổ đau ấy đã biến hình thành Tin Mừng của Thiên Chúa.
- Cùng Chúa Giêsu Cứu Thế, đi vào mọi ngõ ngách của cuộc đời, đi vào mọi tâm hồn đau thương, kể cả phải anh dũng đi vào những tâm hồn chai đá chống đối Thiên Chúa, để đem họ trở về với Thiên Chúa.
Những người đang lên đường thương khó, là những người có lòng tin tuyệt đối như Abraham, là những người sống trước mầu nhiệm phục sinh nhờ tin chắc Chúa Giêsu sẽ biến hình cho mình, là những người muốn sống trong mầu nhiệm Thiên Chúa, là những người xác tín mạnh mẽ như Thánh Phaolô: “Thưa anh em, có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta ? Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?” (Rm 8,31b-34)
Có biết bao người cùng Chúa Giêsu lên đường thương khó. Nhưng, trong số đó, có thể, chưa có bạn, chưa có tôi!
Tham dự tiệc Lời Chúa chúa nhật II mùa chay, chúng ta có cơ hội hỏi lại lòng mình có thực sự muốn phục sinh vinh hiển với Chúa không; nếu có, chắc chắn chúng ta không thể làm người vô tình trước những công việc của Chúa Giêsu, mà ngược lại, khẩn trương cùng Ngài lên đường cho công cuộc cứu thế và cứu rỗi chính mình, nhất là mùa chay nầy: cơ hội thuận tiện.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con lên núi với Ngài, để đức tin vào ơn Phục Sinh của chúng con được củng cố, và xin cho chúng con cùng Ngài lên đường thương khó để mang lại cho cuộc đời niềm hạnh phúc an vui. A men.
Nhiều nhà chú giải Thánh Kinh cho là cảnh hiển dung này là một trong những sự kiện quan trọng nhất của Tân Ước, vì tuy không phải là chóp đỉnh, biến cố này thật sự tóm tắt tất cả mạc khải. Chúng ta thấy ở đây, Mô-sê và E-li-a, các phát ngôn viên của lề luật và ngôn sứ (tắt một lời các đại diện của Cựu Ước) giới thiệu đấng Ki-tô của Tin Mừng cho các môn đệ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an được coi là những ‘cột trụ’ của Giáo Hội theo lối diễn tả của Phao-lô trong thư gửi tín hữu Ga-lát, là những người có trách nhiệm rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo (Chú thích MC 9,1tt trong ‘Lời Chúa Cho Mọi Người’). Nếu thật là như thế thì hiển dung đâu phải chỉ đơn thuần là một liệu pháp tâm lý đề vực dậy tinh thần các môn đệ trước cuộc khổ nạn đau thương đức Giê-su sẽ phải chịu tại Giê-ru-sa-lem. Ý nghĩa của nó chắc phải lớn hơn nhiều…; vì thế tôi phải dành thời giờ tìm hiểu thôi.
Vinh quang, hay diện mạo đích thực của Thiên Chúa là điều con người qua mọi thời đại và tôn giáo đều muốn kiếm tìm. Mô-sê và Ê-lia là hai nhân vật Cựu Ước đã được diễm phúc chớm thấy vinh quang đó tỏ lộ. Mô-sê trên định Si-nai khi lãnh tấm bia giới luật (xem Xuất Hành chương 19), và Ê-li-a trên đỉnh Khô-rếp trên đường trốn chạy khỏi sự truy đuổi của hoàng hậu I-de-ven (xem 1 Vua chương 19). Vinh quang Gia-vê mà hai ông được chứng kiến lại đã rất khác nhau: một đàng là ‘Đức Chúa ngự trong đám lửa mà xuống, khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh… (Xh 19, 18), đàng khác là ‘Sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa là tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe tiếng đó, ông Ê-li-a lấy áo choàng che mặt, rồi ra đứng ở của hang… (1 V 19, 12-ABC13). Thế thì vinh quang mà đức Giê-su muốn hiển thị trong lần biến dạng này phải có gì rất khác. Chắc hẳn phải là một thứ vinh quang rất thực, vượt xa một ánh hào quang nhìn thấy được bằng mắt phàm. Hiển dung lần này có sự góp mặt của cả Mô-sê lẫn Ê-li-a, chắc hẳn phải vượt xa những lần tỏ vinh quang trong Cựu Ước.
Tác giả Lu-ca cho biết ‘hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem’ (Lc 9, 31), điều đó chứng tỏ vinh hiển mà các ông đã từng chứng kiến chưa hẳn là tột đỉnh; tột đỉnh vinh quang chính là cuộc xuất hành được đề cập tới. Đức Giê-su cũng hàm ý nói điều này khi căn dặn ba môn đệ trên đường xuống núi: “không được kể lại cho ai nghe các điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại”. Đúng như vậy, cuộc tử nạn, hay cuộc vượt qua Người sắp chịu mới chính là vinh quang đích thực, trong đó tình yêu cứu độ của Thiên Chúa được bộc lộc cách rực rỡ nhất. Nếu Thiên Chúa chính là tình yêu, thì vinh quang chói lọi không thể là điều gì khác hơn là nhân từ xót thương. Sau này, khi tới giờ ra đi chịu chết, chính đức Giê-su trong cầu nguyện với Cha đã không ngần ngại gọi giờ phút trọng đại đó là giờ Thiên Chúa tỏ lộ vinh quang Ngài, giờ Thiên Chúa được tôn vinh cách tuyệt đối. “Lạy Cha, giờ đã đến, xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha… xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17, 1.8).
Chính Mô-sê và E-li-a cũng hầu như còn đang mong đợi được thấy thứ vinh quang đó, vinh quang của Tân Ước. Và đức Giê-su thật sự mong các môn đệ Người, đặc biệt ba ông, loan truyền cho mọi người thứ vinh quang ‘xuất hành’ đó, hơn là chựng lại (làm ba lều) bên thứ vinh quang của diện mạo sáng láng và y phục trắng tinh. Phải chăng đây chính là cuộc chuyển biến quyết định từ Cựu Ước qua Tân Ước, từ vinh quang của quyền uy (lửa, động đất, loa vang dội…) qua vinh quang của tha thứ và cứu độ, từ một Gia-vê quyền phép qua một Chúa Cha của đức Ki-tô Giê-su đầy xót thương? Đối với các môn đệ gốc Do Thái, sự chuyển tiếp này đầy ngỡ ngàng và khó khăn. Các ông vẫn còn phải ‘bàn nhau xem câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì.’ Và Đức Giê-su còn phải cất công giải thích nhiều lần nữa. Điều này sẽ mãi mãi, qua mọi thời đại, là vấn đề muôn thuở của niềm tin tuyệt đối, của phó thác không chút do dự… vì nó không theo bất cứ lô-gich hay lối suy nghĩ thông thường nào. Và sẽ không còn cách nào khác hơn là để mình bị hoàn toàn khuất phục bởi mạc khải thập giá của đức Giê-su: “Hãy vâng nghe lời Người!”
Mùa chay chính là thời gian để tôi vâng nghe và đón nhận vinh quang cứu độ của Thiên Chúa.
Lạy Chúa là đấng Cứu Độ của con! Con xin được như Phê-rô dựng lều, không phải để chiêm ngắm dung mạo hiển dung sáng láng, nhưng để say mê vinh quang cứu độ Chúa dành cho con. Chính Chúa đã chủ động kêu mời con ở lại trong tình yêu của Người, không những chỉ trong mùa chay thánh mà còn trong suốt cuộc sống dương thế, và mãi mãi trong hạnh phúc Quê Trời mai sau. Amen
Người xưa có câu: “chọn mặt gửi vàng”. Nghĩa là để tin tưởng một ai cũng cần xem mặt, xem hoàn cảnh, gia cảnh người đó để đánh giá về họ có đáng tin hay không? Thế mà, vẫn sai lầm. Vẫn chọn sai người. Vì “Sông sâu còn có kẻ dò – Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng”.
Vâng, lòng người nham hiểm hơn núi sông, biết người còn khó hơn dự đoán thời tiết. Thời tiết còn có xuân hạ thu đông và sáng – trưa – chiều - tối, còn con người, giữa mảng tối và sáng thật khó phân biệt. Thời tiết còn có hiện tượng bên ngoài để suy đoán những điều sẽ xảy ra, còn lòng người vẫn cò thể đóng kịch đến mức độ “nói vậy mà không phải vậy”. Có ai đó nói không ngoa rằng: con người là một diễn viên tài ba nhất, vì họ có thể đóng kịch để lừa dối nhau suốt cả đời mà vẫn không bại lộ. Thực vậy, có người bên ngoài ôn hậu hiền lành, trong lòng lại kiêu căng ngạo mạn, không có việc gì lợi mà không dám làm; có người bộ dạng như quân tử, thực ra là tiểu nhân; Có người bên ngoài nhu mì, nhưng nội tâm cương trực; Có người xem có vẻ kiên trinh, thực tế lại nhút nhát. Điều này cho thấy con người thật phức tạp, khó mà biệt được thực hư một người.
Có lẽ mỗi người trong chúng ta đều nghe biết về Chí Phèo trong truyện của Nam Cao. Chí Phèo là đứa con hoang, được mô tả là một người dị dạng, một tên lưu manh, nát rượu chuyên rạch mặt ăn vạ và sẵn sàng sinh sự với mọi người. Chí Phèo là kẻ trên không sợ Trời, dưới không sợ người. Người ta tránh Chí Phèo hơn tránh ôn dịch. Chí Phèo đem lòng yêu Thị Nở. Thị Nở là một cô gái xuất thân từ một nhà có mả hủi, tuổi đời ngoài 30, dở hơi, nghèo và rất xấu. Xấu ma chê quỷ hờn. Xấu đến nỗi người ta tránh thị như tránh một con vật rất ghê tởm.
Ấy vậy mà cả hai con người ấy vẫn nhận ra bản chất tốt đẹp của nhau. Thị Nở thấy Chí Phèo là một người hiền lành. Hiền như đất. Vẫn thường cho Thị xin lửa và có lần con cho Thị xin rượu về bóp chân. Ngược lại, Chí Phèo cũng thấy Thị Nở là một người có duyên. Thị Nở đã biết nấu cháo hành nóng cho Chí Phèo ăn, giúp cho Chí Phèo tỉnh cơn say và làm sống lại nơi Chí Phèo ý thức về sự lương thiện của bản thân mình.
Cuộc sống con người luôn phức tạp. Phức tạp đến nỗi khó lòng đánh giá nhau từ bên ngoài. Thực tế, vẫn có những người thân phận chẳng ra gì như Chí Phèo và Thị Nở, bị coi là cặn bã và thậm chí là quái thai của xã hội. Thế nhưng, ngay cả nơi những con người ấy bản chất tốt đẹp mà Thiên Chúa đã trao ban cho họ vẫn không hư đi, khả năng nhận ra những điều tốt đẹp nơi người khác của họ cũng không mất đi. Vì thế, không gì có thể khiến chúng ta tuyệt vọng về con người. Con người vốn là hình ảnh của Thiên Chúa. Là tinh hoa của trời đất. Là chóp đỉnh của quá trình sáng tạo vũ trụ và vạn vật. Con người dù tội lỗi mấy đi chăng nữa, cũng không thể xoá nhoà hình ảnh của Thiên Chúa nơi mình. Con người dù tha hoá mấy đi chăng nữa, cũng không thể huỷ hoại bản chất tốt đẹp của mình. Con người dù có bị dục vọng thống trị mấy đi chăng nữa, cũng vẫn không ngừng toả sáng bản chất của mình là “nhân linh ư vạn vật”.
Vâng, con ngừơi chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Không ai xấu, vì khi tạo dựng, Thiên Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp. Bản tính giống hình ảnh Thiên Chúa vẫn còn nơi con người đó. Họ làm việc xấu chứ con người họ vẫn cao qúy, vẫn mang phẩm giá làm người, thế nên ta vẫn phải yêu thương và tôn trọng. Hãy yêu thương để giúp họ phục hồi phẩm gia cao đẹp của con người mà bấy lâu nay họ bị phủ lấp bằng tội lỗi và đam mê. Bên cạnh đó, có những người có thể rất xấu về diện mạo nhưng tâm hồn họ lại thanh cao. Họ có thể là những con người có “duyên lặn vào trong” dầu rằng bên ngoài chẳng có gì hay ho.
Như thế điều quan yếu là hãy biết nhận ra điều tốt nơi nhau. Cho dù họ có xấu đến đâu, mình vẫn có thể tìm ra điều tốt nơi họ. Hơn nữa, nhân vô thập toàn. Ai trong chúng ta mà không bị tội lỗi, tật xấu, đam mê mù quáng làm mất đi hình ảnh đẹp trong lòng anh em hay trước mắt mọi người. Mỗi người chúng ta đều cần người khác đánh giá tốt về mình thì chính chúng ta cũng hãy nói tốt và nghĩ tốt với tha nhân.
Khi Chúa hiển dung trong bản tính Thiên Chúa để củng cố niềm tin nơi các tông đồ. Ngài cũng nhắc nhở chúng ta cũng phải biết tỏ ra phẩm giá cao quý nơi mỗi người chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa qua cách đối như con cái sự sáng để tạo niềm tin nơi nhau. Đồng thời cũng phải biết tôn trọng nhau vì đều được tạo dựng giống hình ảnh Người. Chúa Giê-su Ngài hoà nhập vào đời nhưng Ngài không đồng hoá mình như bao tội nhân. Ngài đã trở nên giống như con người ngoại trừ tội lỗi. Con người chúng ta không thể đồng hoá mình với con vật như thuyết Duy Vật đã nói, để rồi sống theo bản năng, chiều theo tính xác thịt nhưng luôn biết chế ngự tính xác thịt nơi bản năng con người. Chúa hiển dung là lời mời gọi chúng ta hãy toả sáng hình ảnh của Chúa trong đời sống của mình khi thống trị tật xấu và đam mê. Hãy chế ngự tính hư nết xấu trong con người cùa mình. Hãy để hình ảnh Chúa tỏ hiện nơi chúng ta qua đời sống thanh sạch, công bằng, bác ái và yêu thương. Con người không thể là con vật thuần tuý vì con người không chỉ có thể xác mà còn có hồn thiêng bất tử, nên không thể chiều theo thể xác mà đánh mất linh hồn, hay tự huỷ trong những đam mê tội lỗi. Con người phải hơn con vật khi biết chế ngự tính hư nết xấu, làm theo lẽ phải và hướng về sự thiện.
Ước gì hình ảnh Chúa đừng đánh mất nơi chúng ta. Ước gì hình ảnh Chúa luôn tỏ hiện qua đời sống thanh cao, luôn biết sống theo công lý và tình thương. Xin cho mỗi người chúng ta luôn biết gìn giữ phẩm giá cao đẹp của mình là hình ảnh Thiên Chúa. Xin đừng để những đam mê mù quáng làm hoen ố hình ảnh tốt đẹp ấy nơi mỗi người chúng ta.
Khi Chúa Giê-su tỏ cho các môn đệ biết Người phải lên Giê-ru-sa-lem để chịu khổ hình và chịu chết, các môn đệ cảm thấy rúng động tâm hồn!
Không lẽ cuộc đời của Thầy Giê-su lại kết thúc bi đát đến thế ư?
Đã bao lần họ mơ tưởng đến một tương lai huy hoàng khi được ngồi bên tả, bên hữu vua Giê-su trong vương quốc vinh hiển của Người; lẽ nào giấc mộng vàng đó lại sớm tan thành mây khói? Nếu Chúa Giê-su mà còn phải chịu số phận oan nghiệt như thế thì số phận các ông rồi sẽ ra như thế nào đây?
Không chấp nhận viễn ảnh đen tối ấy, ông Phê-rô kéo riêng Chúa Giê-su ra và lên tiếng trách móc, tìm cách can gián để Người đừng đón nhận sứ mạng đau thương ấy (MC 8, 32).
Để củng cố tinh thần các môn đệ đang sa sút trước tin chẳng lành vừa loan báo, “sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình. Người đưa các ông … tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Và ba môn đệ thấy ông Ê-li-a cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su.”
Bấy giờ tinh thần ba môn đệ hết sức phấn chấn. “Ông Phê-rô thưa với Chúa Giê-su rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.”
“Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.”
Thế là nhờ chứng kiến sự vinh hiển của Chúa Giê-su trong giờ phút vinh quang của Người trên núi cao, ít nữa có môn đệ Gioan vững bước theo Chúa Giê-su đến cùng trên đường khổ nạn.
* * *
Đời người có mặt tối và mặt sáng, có mặt tốt và mặt xấu, có mặt phải và mặt trái, có lúc phấn khởi vui tươi cũng có những lúc ủ dột ưu sầu.
Cuộc đời Chúa Giê-su cũng có mặt sáng mặt tối. Mặt tối là đêm vườn Dầu đau thương ảm đạm; mặt sáng là cuộc biến hình sáng láng trên núi cao. Nếu các môn đệ chỉ nhìn thấy mặt đen tối, mặt u ám của đêm vườn Dầu, lúc Chúa Giê-su bộc lộ nhân tính hèn yếu của mình, tỏ ra kinh khiếp hãi hùng trước cuộc khổ nạn sắp tới đến nỗi phải đổ mồ hôi máu và phải van lơn cầu khẩn với Chúa Cha xin cho khỏi uống chén đắng (Lc 22, 41-44)… mà không thấy được mặt sáng của Người trên núi cao thì các ông sẽ ngã lòng thất vọng. Và biết đâu, các vị đào tẩu hết, lấy ai làm nhân chứng cho biến cố phục sinh! Lấy ai loan báo Tin Mừng cứu độ?
Vì thế, Chúa Giê-su cho các ông thấy mặt sáng của Người trước, qua việc tỏ cho các ông thấy dung mạo sáng láng vinh hiển của Người, tỏ cho họ thấy Người là “Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha” để động viên tinh thần các ông khỏi sa sút, thất vọng trong đêm vườn Dầu sắp đến.
***
Ngôi nhà nào cũng có mặt trước mặt sau. Nếu người ta chỉ nhìn mặt sau tồi tàn của ngôi nhà mà không nhìn mặt tiền hoành tráng của nó, người ta sẽ thất vọng vì nó.
Tấm huy chương nào cũng có mặt trái mặt phải. Nếu chỉ biết mặt trái sần sùi của tấm huy chương mà không để mắt đến mặt phải vinh hạnh của nó, thì người ta sẽ xem thường nó.
Hoa hồng rất đẹp và kiêu sa nhưng cũng đầy gai. Nếu người ta chỉ chú trọng đến những gai nhọn của hoa hồng mà không để ý đến sắc hương tuyệt vời của nó thì hoa hồng chẳng còn gì hấp dẫn.
Đối với người anh em chung quanh cũng thế. Mỗi người đều có mặt sáng và mặt tối, mặt tốt và mặt xấu. Không ai hoàn toàn tốt, chẳng ai hoàn toàn xấu. Nếu chúng ta chỉ nhìn vào mặt đen tối của một con người, mà quên đi mặt sáng của họ; nhìn vào nhược điểm mà quên đi ưu điểm, thì chúng ta sẽ rất thất vọng về người đó.
Sự kiện Chúa Giê-su tỏ cho ba môn đệ thân tín cảm nhận thời khắc vinh hiển của Người trên núi cao để chuẩn bị tinh thần các ông đương đầu với thời khắc đen tối của Người trong đêm vườn Dầu và đêm khổ nạn, là bài học cho chúng ta trong tương quan với người khác.
Nhờ ngắm nhìn cụm hoa hồng rực rỡ kiêu sa và thưởng thức hương thơm dịu dàng của nó, người ta quên đi những gai nhọn đáng phàn nàn của nó.
Ước gì chúng ta cũng biết nhìn vào điểm sáng, điểm tốt, vào ưu điểm của người khác để dễ dàng cảm thông với những mặt trái, mặt xấu của họ.
Nhờ đó, chúng ta cảm thấy những người quanh dễ thương hơn; tương quan của ta với người khác được cải thiện tốt hơn và đời sống giữa chúng ta với nhau sẽ hạnh phúc hơn.
Ngày xưa ông Mô sê đã hai lần lên núi Sinai mây phủ trắng xóa, suốt 40 đêm ngày mỗi lần, để được Đức Chúa ban Giao ước (Xh 24, 15-18, & Xh 34, 1-28).
Sau này, khi ngôn sứ Elia tế lễ Đức Chúa thành công, đánh bại 450 tư tế thần Baal, liền bị hoàng hậu Jezabel cho người truy sát. Trên đường chạy trốn, vì quá mệt mỏi, ông than thở với Chúa: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi vì con chẳng hơn gì cha ông của con” (1V 19, 4). Ông nằm vật ra, chờ chết. Nhưng thiên sứ của Đức Chúa đã nuôi dưỡng ông, rồi chỉ ông đi 40 đêm ngày, đến núi Khô rép để gặp Đức Chúa.
Đến thời Tân Ước, trên núi Tabor, Chúa Giêsu hiển dung trước mặt ba môn đệ, Phêrô, Gioan và Giacôbê. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. (Mt 17, 2). Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Êlia và ông Môsê. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem. (Lc 9, 30-31). Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia”. Thật ra ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh . (MC 9, 5-6)
Như thế, các ông Môsê, Êlia và ba môn đệ đã được diễm phúc cảm nhận Thiên Chúa vinh hiển, tựa gần như được chạm đến cõi Thiên Đàng. Nơi mà ông Môsê phải lấy khăn che mặt, không dám nhìn trực diện Đức Chúa, nơi mà ngôn sứ Êlia phải lấy áo choàng che mặt trước Đức Chúa, và nơi các môn đệ kinh hoàng, lẫn vui mừng khôn tả, không biết phải nói gì trước nhan thánh Chúa Giêsu vô cùng sáng lạn.
Các thánh nhân sau này cũng có vị dược chạm đến ngưỡng của Thiên Đàng, qua những lúc xuất thần. Như Thánh nữ Faustina tiết lộ thị kiến: “Hôm nay trong thần trí tôi được ở trên Thiên Đàng và nhìn thấy những điều mỹ diệu, cũng như hạnh phúc tuyệt vời đang chờ đợi chúng ta sau khi qua đời ... Giờ đây, tôi hiểu được câu nói của Thánh Phaolô tông đồ: “Mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe và lòng chưa tuwnfgnghieejm được những gì Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những kẻ yeeu mến Ngài.” (NK 777 – 80)
Như thế, Thiên Chúa đã phần nào tiết lộ nguồn hạnh sphusc vô biên trên cõi Thiên Đàng, dành cho những linh hồn nào được Ngài đón nhận mai sau. Những linh hồn đã chiến thắng ngoạn mục cả ba kẻ thù: thế gian, thân xác và ma quỷ, để sống mật thiết trong tình yêu cứu độ của Chúa Cứu Thế.
Lạy Chúa Giê su xin giúp con biết hối cải, hy sinh, dốc lòng theo Chúa, để được hưởng phúc trường sinh trên Thiên Đàng.
Lạy Mẹ từ bi nhân hậu, xin dẫn dắt con về đường ngay nẻo chính, xin giúp con tu thân, tích đức, xứng đáng hưởng Thánh Nhan Chúa muon đời. Amen AM. Trần Bình An
Toàn bộ Lời Chúa hôm nay là những bài học Đức Tin:
Abraham sẵn sàng tế sát đứa con trai độc nhất của mình vì niềm tin vào Thiên Chúa toàn năng, nhân ái và công bình. Người đã ban cho ông đứa con trai trong lúc tuổi già thì ông không có lý do gì để từ chối Thiên Chúa. Ông cũng tin rằng Chúa chẳng nỡ để ông phải chịu thiệt thòi. Khi ông sẵn sàng sát tế con trai để dâng lên Thiên Chúa là ông đã xác tín: “Tôi chẳng có gì cả, và đây, của Thiên Chúa tôi xin gửi lại cho Thiên Chúa.”
Thư thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma đã đặt ra những luận chứng nhằm thuyết phục những kẻ cứng lòng tin. “Người không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta, há Người lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Người sao?” Đó chính là phần thưởng cho những kẻ tin.
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu muốn củng cố Đức Tin cho các môn đệ thân tín trước khi Người phải chịu nạn kẻo lòng các ông chao đảo khi phải đối diện với thực tế khắc nghiệt, tang thương. Và Người còn cảnh báo một điều mà có lẽ lúc bấy giờ các ông chưa hiểu thấu: “Con Người từ cõi chết sống lại”.
Và để định hướng cho Đức Tin ấy, Chúa Cha đã cất tiếng phán: “Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Đúng vậy, NGHE và THỰC HÀNH Lời Chúa chính là thái độ sống Đức Tin mà Chúa muốn nơi mỗi người chúng ta. Vì tin, Abraham sẵn sàng hy sinh thứ quý giá nhất đời mình để thi hành Thánh Ý.
Vì tin, Phaolô sẵn sàng đứng vào hàng ngũ những người chịu bắt bớ mà trước đó chính mình đã từng săn đuổi.
Vì tin, ba môn đệ đã quên bản thân mình để chỉ nghĩ đến làm đẹp lòng Chúa bằng cách dựng ba lều “một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”.
Xem ra, Đức Tin khiến người ta có vẻ điên rồ trong cách hành xử: “Thật vậy, thế gian đã không dùng sự khôn ngoan mà nhận biết Thiên Chúa ở những nơi Thiên Chúa biểu lộ sự khôn ngoan của Người. Cho nên Thiên Chúa đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để cứu những người tin” (Cr1. 1, 21).
Bấy lâu nay, tôi cũng tin Chúa và sống đạo rất “chuẩn”. Cũng đi dâng lễ hàng ngày, đọc kinh sáng tối… Nhà có gì nguy khó, tôi đều chạy đến Chúa, Đức Mẹ và các Thánh để cầu xin… Tôi không ăn trộm, ăn cắp… Tôi không dối lừa, phỉnh gạt hay ám hại ai… Có vẻ như, tôi cũng đã thực hành Lời Chúa đầy đủ! Nhưng tôi không điên. Tôi vẫn đủ khôn ngoan, tỉnh táo để người khác phải kính nể. Tôi biết “lập trình” cho mình một cuộc sống không chê vào đâu được: Tôi đã hết sức tranh thủ cho cả hai vợ chồng đều có biên chế để về hưu có thể an dưỡng tuổi già.
Tôi đã hết sức tranh thủ để con cái tôi vào được những trường tốt nhất. Tôi đã hết sức tranh thủ để mọi người trong gia đình tôi đều được đóng bảo hiểm y tế hẳn hoi.
Tôi đã hết sức tranh thủ để có được thực phẩm an toàn hằng ngày. Tôi đã hết sức tranh thủ để gửi gắm tài sản của chúng tôi vào nơi an toàn nhất. Tôi đã hết sức tranh thủ để nhà cửa chúng tôi có những thiết bị bảo vệ tối tân nhất. Tôi đã hết sức tranh thủ để…
Bấy nhiêu thứ “hết sức tranh thủ” đó cũng đủ khiến tôi mệt nhoài! Việc giữ đạo của tôi cũng là một cách “hết sức tranh thủ” để có được Nước Trời mai sau. Vậy mà, sao tôi thấy Đức Tin của tôi vẫn không giống Đức Tin của Abraham, của Phaolô, của Phêrô, Gioan và Giacôbê? Thì ra, tôi “hết lòng hết sức” là cho tôi chứ không phải cho Chúa. Các vị trên đều quên đi bản thân mình khi có được Đức Tin. Còn Đức Tin của tôi lại nhằm phục vụ cho chính bản thân mình. Tôi chỉ tin khi Chúa làm những điều có lợi cho tôi. Khi gặp gian nan, tôi cũng chạy đến cầu xin Chúa giải gỡ gian nan cho tôi. Tôi không dám phó thác cho Chúa bất cứ điều gì dù là nhỏ nhặt nhất. Tôi không dám đánh đổi cái biên chế, cái bảo hiểm… để có Chúa. Và thế là, Chúa không có được một kẻ hỡ dù là nhỏ nhất để “chen” vào đời tôi. Tôi cứ nghĩ mọi thứ tôi có được là “của tôi” hoặc do công sức và công đức “của chính tôi”!
Trong một chuyến bay từ Rôma sang New York, cô nữ tiếp viên hàng không rất khó chịu khi thấy một vị giáo sĩ trong trang phục hồng y cứ nhìn chằm chặp vào mình. Khi cô tiến lại gần để phục vụ hành khách, vị Hồng Y nói nhỏ với cô:
Cô có biết là cô đẹp lắm không?
Hơi bất ngờ trước lời khen tặng mà cô cho là hơi thiếu đứng đắn đối với một nhà tu, cô hỏi lại:
Ý cha là…?
Vị Hồng Y vẫn điềm tĩnh:
Cô có biết là Chúa đã lấy đi nhan sắc của bao nhiêu người phong cùi để ban cho cô không?
Cô thoáng bối rối… Sau đó, qua truyền hình, cô được biết đó là Hồng Y Fulton Sheen – một nhà thuyết giảng tài ba ở New York. Cô đã tìm đến ngài để xin một lời khuyên và sau đó cô đã từ giã cha mẹ, từ bỏ chức nghiệp, lìa quê hương sang Việt Nam, tìm đến trại cùi Di Linh phục vụ.
Quả là điên rồ! Một nữ tiếp viên hàng không xinh đẹp với bao nhiêu triển vọng tươi sáng đang chờ ở phía trước.
Cô có thể tự biện rằng công việc chăm sóc người cùi đâu cần nhan sắc hay kiến thức.
Cô có thể tự biện rằng cô có ích cho nhân loại ở những lĩnh vực khác hơn.
Cô có thể tự biện rằng cô đang làm một việc lương rất cao và cô sẵn sàng trích một phần nhỏ đó để thuê người chăm sóc cho người cùi.
Vậy mà cô đã chọn phương án điên rồ nhất chỉ bởi vì cô thấy ở đó có Tình Yêu, nghĩa là có Chúa. Cô không đặt nhan sắc, năng lực, kiến thức hay tài sản của cô lên bàn cân để so sánh thiệt hơn bởi vì cô TIN mọi sự cô có đều là của Chúa và cô trao cho Chúa toàn quyền sử dụng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết điên rồ vì niềm tin vào Chúa. Điên rồ vì dám coi thường những gì mà thế gian cho là bảo đảm. Điên rồ vì chỉ “đặt cược” vào một Thiên Chúa hứa hẹn Thánh giá, ngõ hẹp và chông gai. Điên rồ vì không giữ gì cho riêng mình mà toàn tâm toàn ý dâng lại cho Chúa. Và để có được sự điên rồ đó, xin giúp con từ bỏ những khôn ngoan theo thói đời vẫn tôn vinh, ca tụng như lời Thánh Phaolô: “Nếu trong anh em có ai tự cho mình là khôn ngoan theo thói đời, thì hãy trở nên như điên rồ, để được khôn ngoan thật” (Cr1. 3, 18). Amen.
Đức Kitô đã làm Người, và Ngài đã sống một mùa chay.
Mùa chay và thân phận của con người thật gần gũi, bởi vì mùa chay có cám dỗ, có chiến đấu, và có tự do chọn lựa.
Vâng tuần thứ nhất đã mời gọi chúng ta cùng Đức Kitô sống một mùa chay như thế để giúp chúng ta nhận rõ hơn những khuynh hướng cám dỗ của thế gian, và hiểu thế nào là thân phận của con người. Chúa không dùng quyền năng để thỏa mãn những nhu cầu của riêng mình, không muốn phô trương để được ngưỡng mộ, lại càng không muốn khuất phục trước lợi lộc và vinh quang của trần thế ban tặng.
Nhưng hôm nay, nhìn về câu chuyện diễn ra trên núi Tabor, thật khác xa và trái ngược với những gì đã diễn ra trong sa mạc của 40 đêm ngày. Điều mà Satan nhọc hơi cám dỗ Chúa GiêSu không được, thì chính Chúa lại lấy sáng kiến để tỏ ra cho ba môn đệ thân tín của Ngài được thấy. Đó là "vinh quang của Con Thiên Chúa" Và vinh quang ấy còn được làm chứng bởi hai nhân vật lịch sử Cựu Ước, đó là Môsê và Êlia.
- Điều gì đã khiến Đức Kitô từ chối không tỏ cho Satan biết Ngài là Con Thiên Chúa?
- Satan đã cám dỗ Chúa: Hãy tỏ mình là Con Thiên Chúa bằng cách phô trương thân thế và biểu dương quyền lực.
- Chúa Giêsu đã từ chối trước dịp bày tỏ vinh quang đó, nhưng...Ngài sẽ tỏ mình là Con Thiên Chúa trong mầu nhiệm Khổ nạn và Phục Sinh. Vâng! chính Thập Giá mới là nơi Ngài tỏ cho nhân loại biết mình là Con Thiên Chúa.
- Chúa Giêsu không những đã không màng đến của cải, địa vị, thậm chí đến cả quyền lực Ngài có sẵn. Mà Ngài còn không màng đến chính phẩm giá của mình, đến nỗi chấp nhận để cho thiên hạ cười chê là "bạn với quân thu thuế và phường tội lỗi", là kẻ "phạm thượng", và do đó Ngài đã bị kết án và chết như một phạm nhân giữa những người trộm cướp. Nhờ sự hạ mình thẳm sâu và quên mình tới mức tự hủy như thế, mà Ngài đạt được "danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu".
Chính vinh quang mà Chúa sẽ chỉ đạt được trong mầu nhiệm Thập giá, thì hôm nay Ngài tỏ cho ba môn đệ được thấy, với mục đích là để các ông đừng ảo tưởng về một vinh quang trần thế, đồng thời cũng chuẩn bị cho các ông khỏi chán nản thất vọng khi thấy Ngài bị lên án và chết thảm trên Thập giá.
Bởi thế biến cố trên núi Tabor, rất mật thiết và gắn liền với mầu nhiệm Khổ nạn và Phục Sinh. Biến cố đó đã xảy ra thực sự, và được ghi chép như là điềm báo trước vinh quang của Đấng Phục Sinh từ cõi chết.
Ba môn đệ được chứng kiến Đức Kitô biến hình, cũng là ba môn đệ được ở riêng với Ngài trong đêm Ngài bị bắt nơi vườn cây Dầu.
Hành trình làm người cũng là hành trình đức tin, không thiếu những niềm vui và nỗi buồn, ngọt ngào và cay đắng. Điều quan trọng đối với mỗi người Kitô hữu là: Bình tĩnh trước mọi biến cố, dù thuận lợi cũng như bất lợi, vì cả hai đều có giá trị giúp chúng ta tiến sâu vào vinh quang vĩnh cửu của Thiên Chúa, bởi Thánh Phaolô có nói rằng: "Mọi sự đều sinh ích cho kẻ có lòng mến Chúa".
Và...trên hành trình chúng ta đi hằng ngày để đến với Chúa, Ngài vẫn biến hình hằng ngày trong những người bệnh tật, nghèo đói, đau khổ, bơ vơ, và ngay cả trong những người chúng ta đang tiếp xúc và cùng phục vụ. Nếu mang con tim và cái nhìn của Chúa, chúng ta sẽ nhận ra được hình ảnh của Ngài trong con người họ để mà yêu thương.
Như thế là chúng ta đã biết nhìn và sống mùa chay trong sự sống động của tình yêu, và trong sự tỏa sáng của Thập giá. Nhờ đó, cuộc đời của mỗi chúng ta sẽ mang giá trị của sự sống, vì đã biết kết hiệp vào sự khổ nạn và sự biến hình hằng ngày để nên tốt lành thánh thiện ngày mỗi hơn.
Vậy nên, mọi thực hành đạo đức trong mùa chay như "cầu nguyện, khổ chế, hy sinh và bác ái" phải được thực hiện bởi tình yêu và được nhìn bằng ánh mắt tình yêu. Tất cả chỉ vì lòng mến cho đi, chứ không mong để phô trương tỏa sáng.
Hãy nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh, gẫm suy và đọc những thao thức của Ngài để biết rằng không phải Ngài phổ biến vẻ huy hoàng sáng láng của Ngài, mà chính là để minh chứng tình yêu vô biên. Ngài nhìn về cảnh khổ nạn sắp tới như một chứng minh của tình yêu trong hạ mình khiêm tốn, trong hy sinh từ bỏ, mà Ngài muốn gởi gắm lại cho tất cả chúng con. Không phải do đau khổ cứu chuộc, nhưng chính tình yêu của Ngài đã cứu chuộc chúng ta.
Cùng nguyện xin Chúa Giêsu ban ơn sức mạnh và trái tim của Chúa, vì thực ra cuộc sống của mỗi người chúng ta là một mùa chay liên lỉ, bởi vì chúng ta thường xuyên gặp cám dỗ, và phải luôn chiến đấu để sống theo tinh thần Chúa Kitô. Ước gì Lời Chúa hôm nay cảnh tỉnh chúng ta tránh chạy theo ảo tưởng, thích phô trương, và thích lợi lộc cá nhân trong phục vụ.
Lạy Chúa Giêsu, con đường Ngài đã đi xưa, vẫn là con đường Ngài đã chọn cho những ai thành tâm theo Ngài hôm nay, và Chúa Cha cũng đã rất đẹp lòng: "Đây là Con Ta yêu dấu, các con hãy nghe Lời Ngài". Xin giúp chúng con biết vâng nghe Lời Chúa, trong ánh sáng của Thần Khí, để tin rằng trong cuộc khổ nạn của Ngài, cũng sẽ có cuộc khổ nạn của mỗi chúng con, cùng kết hợp và trung thành đến cuối cuộc đời chúng con. Amen. Thanh Hương
Ông bà ta vẫn thường nói “Ở trong chăn mới biết chăn có rận !” hay là “Đèn nhà ai nấy rạng”. Những câu nói ấy như muốn nói rằng khi và chỉ khi ở trong hoàn cảnh thì mới hiểu được chứ còn ở ngoài không thể nào hiểu được. Người ta cũng thường nói “có đau bệnh mới thương người ốm !”. Cũng như ý ở trên, ông bà ta muốn nói rằng khi mình đối diện với thực tại, đối diện với hoàn cảnh bi đát của cuộc đời người ta mới biết chứ còn chưa đối diện thì không thể nào biết được.
Nhớ lại thầy già trong nhà Dòng. Những ngày cuối đời, Thầy phải đối diện với những cơn đau đớn vật vã do chứng bệnh ung thư mang lại. Khi đến thăm Thầy, thầy thỏ thẻ với tôi: “Bây giờ có ai đến an ủi đi chăng nữa thì cũng không thể nào hiểu được cơn đau của tôi !”. Và cứ như vậy, Thầy cố gắng chịu đựng, dâng những cơn đau của thể xác lên cho Chúa như của lễ cuối đời của Thầy vậy. Câu nói của Thầy già làm tôi nhớ mãi. Chỉ có ai đau bệnh mới biết nỗi đau là gì chứ còn chỉ đến thăm, chỉ đến an ủi thì cũng chẳng thể nào hiểu được cơn đau đang hành hạ bệnh nhân.
Và rồi, một linh mục đàn anh cũng ra đi với căn bệnh ung thư quái ác. Những ngày cuối đời, cũng vào thăm anh nhưng tôi chỉ lặng lẽ nhìn anh chứ không dám nói gì vì có nói gì thì nói cũng chẳng thể nào xoa dịu được nỗi đau của anh. Đôi khi lời an ủi, lời nói nó trở thành phản cảm khi người bệnh vì lẽ chúng ta không hiểu, không mang tâm trạng đau đớn là gì. Phải có sự hy sinh và đặc biệt là có lòng tin con người mới có thể chịu đựng, vượt qua những cơn đau đớn mà thể xác bị hành do đau bệnh.
Mới đây, chiều mùng 1 Tết. Nhận được cuộc điện thoại của một Sơ báo tin một Sơ thân quen vừa được Chúa gọi về sáng mùng 1. Kể lại hành trình chuyển Sơ kia từ thành phố về Buôn Ma Thuột, Sơ bên kia điện thoại nhấn đi nhấn lại chuyện phải đấu tranh với ma quỷ trong những giờ phút cuối đời của bệnh nhân. Những cơn đau đớn hoành hành, những cơn vật vã do chứng bệnh ung thư đôi khi làm nhụt chí bệnh nhân, làm cho bệnh nhân nản lòng trông cậy. Sơ nói với tôi rằng, lúc ấy phải đọc kinh, cầu nguyện để giành giật lại với sức lôi kéo của ma quỷ.
Nhớ đến giờ khắc cuối cùng của Mẹ tôi cũng thế ! Bà bị bệnh ung thư ! Trước khi mời cha đến xức dầu, Mẹ cứ quay mặt vô tường không thèm nhìn ai, nói chuyện với ai dù lúc đó Mẹ rất tỉnh táo. Kể từ lúc lãnh bí tích xức dầu và được người đọc kin phó linh hồn, bỗng dưng bà quay ra nhìn mọi người lần cuối và vẻ mặt thanh thản hơn trước đó ! Thế đấy ! Giờ phút cuối, giờ phút chuẩn bị ra đi của con người, giờ phút phải đối diện với cái chết thật là căng thẳng. Chính giờ phút ấy con người phải đối diện với lòng tin vào Đấng Cứu Độ mà bao nhiêu lâu nay họ theo. Chính giờ phút ấy là giờ phút quyết định ơn cứu độ của con người và con người phải dứt khoát trước giờ phút ấy.
Câu chuyện về Abraham sát tế cục cưng của mình là Isaac chúng ta đã nghe quá nhiều lần. Nhiều đến độ chỉ cần nghe “Lời Chúa trong sách sáng thế …” rồi “Người gọi ông: "Áp-ra-ham! " Ông thưa: "Dạ, con đây ! ". Cứ nghe như vậy là chúng ta biết về trình thuật về việc Thiên Chúa thử lòng tin của ông. Phải nói là Thiên Chúa quá cay nghiệt khi bắt Abraham đáp trả lòng tin bằng việc sát tế đứa con yêu của mình. Thử hỏi mỗi người chúng ta khi phải từ bỏ vật chất, từ bỏ một chút lợi lộc nào đó chúng ta chưa dám bỏ chứ huống hồ gì là đứa con độc nhất vô nhị của mình. Nghe nhiều, đọc nhiều thấy chẳng có gì cả vì chúng ta biết trước kết cục của câu chuyện là Abraham đã sẵn sàng sát tế con mình nhưng Thiên Chúa đã ra tay ngừng lại như đoạn sách mà chúng ta vừa nghe.
Biết câu chuyện, biết trình thuật, biết kết quả có lẽ không hay lắm khi ta phải đối diện với thử thách to lớn như Abraham. Nói thì ai nói cũng được và nói thì dễ nhưng làm thì quả là quá khó khăn, quá xa vời. Thử đặt mình vào hoàn cảnh thật của Abraham chúng ta sẽ thấy căng thẳng đến chừng nào khi đáp trả lời mời gọi của Chúa. Lòng tin lúc đó được thử thách một cách hết sức căng thẳng. Thử hỏi chúng ta có một đứa con duy nhất chúng ta có dám sát tế để dâng cho Chúa không ? Trường hợp Abraham còn bi đát hơn khi ông và bà Sara vợ ông đã quá thời sinh nở. Có đứa con cầu con tự vậy mà Chúa lại bảo phải hiến dâng ! Thật là cay nghiệt, thật là bi đát.
Sau khi thử thách lòng tin, Thiên Chúa đã ban cho ông ân huệ đúng như lời Thiên Chúa hứa là cho ông trở thành cha của nhiều dân tộc, là cha của dòng dõi những kẻ tin. Abraham đã được Thiên Chúa đổi tên và từ đó, cuộc đời của ông được ơn nghĩa với Thiên Chúa và ơn của Chúa ở với ông cho đến suốt đời.
Cũng như những người bệnh, chúng ta khi đối diện chúng ta mới biết được căng thẳng là dường nào. Chúng ta có đáp trả lại lòng tin trong thử thách đau đớn phút cuối đời để sau đó chúng ta được hưởng phúc vinh quang với Chúa là Đấng Cứu Độ chúng ta không ?
Chúng ta chúc tụng, hoan hô, ca ngợi Abraham thì cũng bằng thừa vì lẽ chuyện đã xảy ra rồi. Phải nói là Abraham liều mạng, Abraham đã bỏ ngõ cuộc đời mình, bỏ ngõ tương lai của mình vào phán quyết của Thiên Chúa. Đứng vào vị thế của Abraham chúng ta sẽ trả lời với Chúa như thế nào ? Câu trả lời ấy tuỳ thuộc vào mỗi người chúng ta, vào lòng tin của mỗi người chúng ta.
Trang Tin mừng mà chúng ta vừa nghe thánh Maccô thuật lại cho chúng ta thấy việc Chúa Giêsu tỏ mình cho các môn đệ thân tín. Trong giây phút huy hoàng của cuộc đời, các ông nói với Thầy rằng: “chúng con ở đây thật là hay !”. Thế nhưng sau cái giây phút vinh quang ấy, trở về với đời thường, lòng tin của các ông cũng rất chênh vênh, cũng rất cheo leo. Đơn giản nhất mà chúng ta thấy đó là vào giây phút nghiệt ngã nhất của cuộc đời Chúa Giêsu, giây phút mà Chúa Giêsu lên Giêrusalem để chịu đau khổ ấy thì chúng ta thấy còn được mấy môn đệ theo Chúa ? Lúc bấy giờ còn ai dám nói với Thầy Giêsu rằng “chúng con ở đây thật là hay” nữa. Chỉ còn mình Mẹ Maria và môn đệ yêu dấu là Gioan mà thôi.
Thật ra, chúng ta thấy các môn đệ được Chúa Giêsu tỏ mình và rồi các môn đệ đã một lần nữa xác tín cuộc đời của mình vào Thầy Chí Thánh. Dẫu cuộc đời có những lúc chênh vênh, có những lúc chuệch choạc như Phêrô chối Thầy nhưng cuối cùng Phêrô vẫn tin vào Thầy và được làm Đá Tảng của Hội Thánh.
Vâng ! Chắc có lẽ cuộc đời của ta cũng giống như các môn đệ xưa thôi ! Chúng ta vẫn đi theo Chúa, chúng ta vẫn được Chúa tỏ mình nhiều lần nhiều cách trong cuộc đời nhưng chúng ta không nhận ra chúng ta không tin để chúng ta biến đổi cuộc đời như các môn đệ xưa.
Chúng ta dừng lại đôi chút để nhìn lại cuộc đời mình. Chúa ban cho chúng ta quá nhiều ơn, Chúa đã tỏ mình cho chúng ta quá nhiều lần nhưng lòng chúng ta cứ chai lại, cứ cứng thêm.
Qua các ngôn sứ, qua sách Thánh chúng ta biết rõ rằng Đức Giêsu Kitô – Chúa chúng ta – đã đón nhận cái chết và chết nhục nhã trên thập giá để cứu độ chúng ta nhưng lòng chúng ta cứ hững hờ làm sao đó.
Một con người phải nói là cứng tin, quay lưng lại với Chúa nhưng rồi sau những biến cố của cuộc đời đã thay đổi cuộc đời, đã biến đổi lòng tin của mình. Người ấy chính là tác giả thư gửi tín hữu Rôma mà chúng ta vừa nghe đấy. Cuộc đời của Ngài có quá nhiều thử thách. Ngài sinh ra thuộc dòng dõi Bengiamin, là người Pharisêu chính hiệu, Ngài được học hành tử tế và giữ luật Do Thái một cách không ai trách khứ được như Ngài đã từng tâm sự. Ban đầu bắt Chúa đấy nhưng cuối cùng đã quay về với Chúa và quy phục trước Chúa. Trong đoạn thư ngắn hôm nay Ngài quả quyết với chúng ta: “Vậy còn phải nói gì thêm nữa ? Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta ? Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta ? Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn ? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính ? Ai sẽ kết án họ ? Chẳng lẽ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta ?” (Rm 8,31b-34).
Để có lòng tin vào Chúa thánh Phaolô đã trải qua biết bao nhiêu thử thách về lòng tin, về sự từ bỏ những vinh quang lợi lộc trần gian. Qua những thử thách, qua những khó khăn Thánh Phaolô đã khẳng định, đã xác quyết với mỗi người chúng ta về Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa sau những trải nghiệm của đời Ngài. Ngài đã minh định lòng tin cho chúng ta để rồi lòng tin của chúng ta có nền tảng. Không chỉ mình Thánh Phaolô mà còn nhiều vị thánh Tông đồ và các thánh khác đã tuyên xưng lòng tin của mình trước bao nghịch cảnh của cuộc đời. Sau khi được biến đổi lòng tin, cuộc đời của các Ngài đã được biến đổi và được hưởng Nhan Thánh Chúa muôn đời.
Con đường của lòng tin, con đường của sự tín thác vào Thiên Chúa không đơn giản như một số người nghĩ. Lòng tin luôn bị thử thách và luôn luôn cần được đáp trả. Như Abraham xưa, chúng ta vẫn được Thiên Chúa mời gọi lời đáp trả về lòng tin.
Thiên Chúa ngày hôm nay có thử thách chúng ta thì Ngài không thử thách khắc nghiệt như thử thách Abraham hay Phaolô. Thiên Chúa không còn đòi buộc chúng ta phải sát tế đứa con thừa tự duy nhất của chúng ta như Abraham hay là Thiên Chúa không đòi buộc chúng ta phải từ bỏ tất cả những vinh hoa phú quý của cuộc đời như Phaolô. Thiên Chúa thử thách chúng ta qua những biến cố nho nhỏ trong cuộc đời: Chúa mời gọi chúng ta từ bỏ một chút đố kỵ trong lòng chúng ta, Chúa mời gọi chúng ta bỏ một chút lòng tự cao tự đại trong ta, Chúa mời gọi chúng ta bỏ một chút tính điêu ngoa chua chát trong lòng chúng ta …. Phần đáp trả chính là phần của chúng ta. Thiên Chúa luôn luôn ở lại với mỗi người chúng ta như Chúa đã từng ở với Abraham, với Phaolô.
Nguyện xin Chúa đến và ở lại với mỗi người chúng ta để chúng ta xác tín hơn lòng tin của chúng ta vào Chúa. Xin Chúa thương ban thêm lòng tin cho mỗi người chúng ta để chúng ta có thể đứng vững trước bao nhiêu sóng gió của cuộc đời.
Xin Chúa biến đổi lòng tin của chúng ta, xin Chúa biến đổi cuộc đời của chúng ta như xưa Chúa biến đổi cuộc đời Abraham, cuộc đời Thánh Phaolô và các thánh nam nữ của Thiên Chúa.
Chúng ta đã bước sang Chúa Nhật II Mùa Chay.Trong Chúa Nhật II Mùa Chay, bài Phúc Âm cả ba chu kỳ năm A (Matthêu 17: 1-9), năm B (Matcô 9: 2-ABC10), và năm C (Luca 9:28-36) đều nói đến việc Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cao cầu nguyện và Ngài ‘biến hình’ trước mặt các ông. Tuy có một vài chi tiết nhỏ khác nhau, nhưng cả ba Thánh Sử đều ghi lại ‘dung nhan Chúa Giêsu biến đổi, sáng láng, áo Ngài trắng tinh tuyền…’; rồi các ông cảm thấy thật hạnh phúc và muốn ‘dựng lều’ để ở lại trên đó luôn. Đặc biệt cả ba Thánh Sử đều ghi lại lời Chúa Cha nói: “Này là Con ta yêu dấu!...” Đây cũng là lời Chúa Cha nói về Chúa Giêsu sau khi Chúa Giêsu chịu Phép rửa của Thánh Gioan Tẩy Giả (Matthêu 3:17). Lời này nhắc đến Thánh vịnh 2,7 “Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con!” và lời tiên tri Isaia “Đây là tôi tớ Cha, Ta hài lòng về Người” (Isaia 42:1).
Bài Đọc I trong cả năm A, năm B và năm C đều nói về tổ phụ Abraham. Ông Abraham đã được coi như người Cha của những người có lòng tin nơi Chúa (The Father of Believers). Ông đã tin tưởng tuyệt đối nơi Chúa là Đấng đã gọi ông và ông đã vâng theo lời Chúa, từ bỏ quê hương của mình là đất Ur và ra đi đến nơi Chúa chỉ cho ông là đất Palestine (Năm A: Sáng Thế 12: 1-4). Thiên Chúa đã ký kết với ông một giao ước cho dòng dõi của ông tồn tại và phát triển và được hưởng phần đất Palestine làm gia nghiệp (Năm C: Sáng Thế 15: 5-12, 17-18). Abraham đã thấy rõ tình yêu thiên Chúa đối với ông. Ông luôn luôn tin tưởng nơi Chúa và chấp nhận mọi thử thách, gian nan trong cuộc sống theo Thánh ý Chúa. Cả khi Chúa thử thách ông và bảo ông hy sinh người con trai duy nhất của ông là Isaac cho Chúa, ông đã sẵn sàng ngay (Năm B: Sáng Thế 22: 1-2,9,10-13,15-18). Dù Isaac không bị giết, nhưng tấm lòng của Abraham đã chứng tỏ niềm tin và tình yêu tuyệt đối của ông đối với Chúa, sẵn sàng hy sinh tất cả để đáp trả tình yêu Chúa.
Bài Đọc II (Roma 8: 31-34) nhắc đến tình yêu muôn đời của Thiên Chúa đối với chúng ta; đã tạo dựng chúng ta “theo hình ảnh Chúa”, cho chúng ta vượt xa mọi loài thụ tạo, chúng ta có xác, và cũng có hồn thiêng, được chung hưởng cuộc sống đời đời với Chúa. Hơn nữa, cũng vì yêu thương chúng ta , ‘Thiên Chúa đã hy sinh chính Con một yêu dấu của Ngài để hy sinh đền vì tội lỗi chúng ta!”
“Tình yêu đáp trả tình yêu!”
Mùa Chay là thời gian ‘thuận tiện’ để chúng ta suy gẫm về tình yêu Chúa đối với nhân loại và mỗi người chúng ta. Chúng ta đã làm gì để đáp trả lại tình yêu của Chúa đối với chúng ta. Chúng ta có dám hy sinh tất cả DANH, LỢI, THÚ để sống trọn vẹn cho Chúa, để hoàn toàn tận hiến cho Chúa, dám cùng chết đi với Chúa theo tính xác thịt của chúng ta, từ bỏ tính hư nết xấu, chết đi thật cho tội lỗi để có thể sống lại thật với Chúa trong Mùa Phục Sinh.
Cuộc đời là một thử thách không ngừng qua các lỡ làng, đau khổ hàng ngày, mà bản tính con người lại thích an hưởng, thích ‘dừng lại’ và ‘dựng lều’; nhưng thử thách cứ luôn xảy ra, và mỗi người chúng ta đều “phải chịu nhiều gian khổ mới được vào nước Thiên Chúa!” (Công Vụ Tông Đồ 14,22). Chính Thánh Phêrô cũng muốn ‘dựng lều’ để hưởng hạnh phúc êm đềm khi Chúa ‘biến hình’ ; nhưng không được, Thày trò phải ‘xuống núi’, phải đối diện với thực tế, với bao gian truân vất vả trên đường truyền giáo, rồi cũng phải chịu khó khăn và chịu chết.
Xin cho chúng ta luôn biết nhìn lên Thập Giá của Chúa, để can đảm “bỏ mình đi, vác thánh giá hàng ngày theo chân Chúa” (Matcô 8, 34…) đến đỉnh núi Gôn-gô-ta, và chấp nhận thử thách cuối cùng là cái chết, ‘chịu táng trong mồ’, để có thể ‘được sống lại và lên trời vinh hiển’ , hưởng hạnh phúc đời đời với Mẹ Maria, các Thiên Thần và các Thánh. (2009)
Khi còn bé và ngay cả bây giờ tôi rất mê ảo thuật. Còn bé khi xem ảo thuật, tôi đã tin chắc rằng nhà ảo thuật có tài và có phép. Nhưng lúc này tuy không còn tin như thế nữa, tuy nhiên, vẫn thán phục tài nhanh nhẹn, khả năng xảo thuật và trình độ nhà nghề của họ.
Thí dụ, nhà ảo thuật cho mọi người nhìn thấy một cái lồng kính to và dài trống trơn không có gì trong đó. Thế nhưng sau khi đã phủ một tấm vải đen, rồi bằng cách nào không biết, hô lên một tiếng rồi kéo tấm vải ra, và kìa, một con cọp to tướng đang nằm nhe răng, giơ vuốt trong đó. Thính giả chỉ còn trố mắt ra nhì, rồi trầm trồ khen ngợi. Hoặc nhà ảo thuật xòe bàn tay ra không thấy gì, nhưng loáng một cái, búng ngón tay liền có một con chim câu xinh xắn, trắng mượt mà đậu trên tay. Nhất là bằng một cái búng tay, nhà ảo thuật nắm ngay trong tay một xấp giấy bạc trăm dollars.
Hôm nay Chúa Giêsu cũng làm ảo thuật. Bằng trí tưởng tượng, chúng ta hình dung ra sau khi Chúa Giêsu đưa ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan lên đỉnh núi cao. Ngài tiến lên đứng trước mặt ba ông. Có lẽ lúc đó Chúa cũng cười cười và ra điều bí mật khiến cho ba ông nhìn Ngài chăm chú. Rồi bằng một tiếng hô lớn “biến” Ngài trở thành sáng láng, vinh hiển, uy nghi trước các ông. Các ông lúc ấy bằng một thái độ thơ ấu thiêng liêng, cũng đã la lớn: “Hay quá! Giỏi quá! Thích quá! Thầy giỏi quá! Giỏi quá!”. Điều này có thể diễn nghĩa bằng lời mà Phêrô đã nói với Chúa trong lúc ngất ngây nhìn Ngài: “Lậy Thầy được ở đây thì tốt quá!” (MC 9:5). Thích và mê mẩn đến nỗi theo Thánh ký ghi nhận, ông cũng không biết mình nói gì nữa.
Là người cha nhân lành luôn luôn thương chiều con cái mình, thấy Phêrô thích như vậy, Chúa Cha cho luôn qua lời phán bảo: “Đây là Con Ta hằng yêu dấu hãy vâng giữ lời ngài” (MC 9:7).
Thật vậy, có lẽ lúc bấy giờ và ngay bây giờ nhiều lúc chúng ta cũng không để ý lắm đến những gì chúng ta xin và ước ao. Chúng ta còn lơ là đến nỗi không kể gì đến những ơn lành và tình thương mà Thiên Chúa ban cho chúng ta một cách dư dật trong đời sống. Một trong những ơn ấy là ơn được làm con Thiên Chúa. Ơn được biết Ngài. Ơn sống trong Giáo Hội của Ngài. Những ơn này còn quí giá và cần thiết hơn ơn được nhìn thấy Chúa sáng láng trên núi cao, và ơn được ở với Chúa trong trạng thái như vậy.
Vì Chúa không muốn Ngài chỉ là một nhà ảo thuật làm cho chúng ta được xem một xuất ảo thuật rồi sau đó chúng ta ra về. Ngài muốn biến chúng ta, muốn chúng ta thay đổi và được như Ngài. Và nếu chúng ta được như Ngài, thì chúng ta cũng được ở bên Ngài bằng hành động “biến đổi” chính chúng ta như một nhà ảo thuật. Vì Chúa Cha đã nói với chúng ta rằng: “Hãy vâng giữ lời Ngài”. Có nghĩa là, nếu chúng ta vâng giữ và thực hành lời Chúa Giêsu, Ngài sẽ biến đổi chúng ta cùng với chúng ta. Và chúng ta cùng với Chúa biến đổi chúng ta để trở thành như Chúa và ở mãi mãi bên Ngài.
Nhưng lời Ngài là gì? Chúng ta làm sao biết được lời của Ngài? Đối với các Tông Đồ, những người đồng thời với Chúa Giêsu, các ngài và những người ấy được diễm phúc nghe trực tiếp Ngài qua những lần giảng giải ở các nơi công cộng. Phần chúng ta lời Ngài được chứa đựng trong Thánh Kinh. Tác phẩm tình yêu vỹ đại nhất của nhân loại. Một tác phẩm được ghi chép bằng khải dẫn của Chúa Thánh Thần. Và câu hỏi là: “Đã bao nhiêu lần chúng ta đọc và suy ngắm lời Ngài”. Quan trọng nhất , như Chúa Cha đã nói, chúng ta có “giữ” lời Chúa Giêsu dậy hay không?!!
Thật vậy, sao màn ảo thuật có một không ai ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ đều xuống núi. Mọi sinh hoạt trở lại bình thường. Chúa và các môn đệ vẫn đi rao giảng, vẫn làm phép lạ, và vẫn bị bọn Pharisiêu, Luật Sỹ, và Thượng Tế ghen ghét. Kết quả là Chúa Giêsu bị bọn này chủ mưu giết hại. Nhưng màn ảo thuật hôm nào trên núi đó đã không cứu Chúa khỏi cảnh chết nhục nhã. Lời Chúa Cha phán trên núi ấy tưởng như rơi vào quên lãng.
Nhưng rồi, cái mà con người tưởng chừng như việc tầm thường và vô nghĩa kia đã có tác dụng rất xâu xa vào cuộc đời các môn đệ và quan các ông đến phần chúng ta. Đó là vì nghe và vâng giữ lời Chúa Giêsu, chúng ta đã có một cuộc đổi mới. Chúa đổi mới chúng ta và chúng ta cùng đổi mới với Chúa Giêsu. Qua cái chết của Ngài và qua cuộc phục sinh của Ngài, chúng ta được tham dự vào thân xác hiển linh và sức sống thần linh Ngài. Chúng ta được làm con Thiên Chúa qua bí tích Rửa Tội, và được hiệp thông với Thiên Chúa qua các bí tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể.
Nếu những nhà ảo thuật trần gian chỉ qua mặt được người xem bằng kinh nghiêm, bằng hành động nhanh tay, và khả năng đánh lừa thị giác của người xem. Họ là những ảo thuật gia có tài nhưng không có phép. Phần Chúa Giêsu, ngài thật sự có tài và có phép. Ngài làm được điều mà con người không làm được, và làm những điều ấy bằng chính quyền phép của mình. Cho kẻ chết sống lại, què đi được, mù xem được, điếc nghe được...và trường hợp Chúa biến hình hay làm “ảo thuật” trước mặt ba môn đệ là một lối diễn tả bản tính Thiên Chúa cao cả nơi thân xác con người tự nhiên của Ngài. Qua đó, Ngài cũng muốn nhắc nhở con người chúng ta về linh hồn bất tử và thân xác sống lại của mình sau này. Một thân xác nhờ quyền năng phục sinh của Ngài cũng được sáng láng và đẹp lộng lẫy nơi vĩnh hằng sau này.
Còn phần chúng ta thì sao. Có muốn “ở” với Chúa để xem ảo thuật như Phêrô không? Và có muốn được Chúa dậy cho làm ảo thuật hay không? Nếu muốn hãy siêng năng, sốt sắng, và chăm chỉ mỗi ngày dành cho Ngài 5 hay 10 phút, mở Thánh Kinh ra đọc và suy ngắm để xem Thiên Chúa muốn nói gì với mình rồi hành động như vậy. Và lúc ấy, tự nhiên chúng ta sẽ thấy mình được biến đổi, để rồi không phải là Phêrô, mà là chính chúng ta sẽ kêu lên: “Lậy Chúa được làm con cái Chúa thì có phúc quá. Xin cho chúng con mãi mãi sống trong ân tình Chúa và đừng bao giờ bỏ xa chúng con”.
Lời Chúa là lời hằng sống. Lời ban sự sống đời đời. Lời có sức biến đổi cuộc đời chúng ta.
Từ xưa, người Công giáo quen gọi việc Chúa Giêsu biến đổi diện mạo sáng chói trên núi cao là “Biến Hình”. Đúng hơn, phải gọi là “Hiển Dung”. Bởi đây là cuộc tỏ mình vinh quang, chứ không là cuộc “chạy trốn”. Kẻ chạy trốn, buộc phải ẩn mình đi, mới phải “biến hình”. Đàng khác, đây càng phải là “Hiển Dung”, vì cuộc Hiển Dung này báo trước sự phục sinh khải hoàn của chính Chúa Giêsu.
I. ĐÀNG SAU CUỘC HIỂN DUNG LÀ GÌ?
Trong mùa Giáng sinh, Hội Thánh cũng mừng đến hai thánh lễ Chúa tỏ mình, đó là lễ Chúa Giêsu giáng sinh và lễ Hiển Linh (hay còn gọi là lễ Ba Vua). Để tỏ mình trong mầu nhiệm Giáng sinh, Thiên Chúa nhờ thiên thần báo tin, nhờ ánh sao sáng trên bầu trời để nói với các mục đồng, nói với ba nhà đạo sĩ, với cả loài người rằng, em bé Giêsu mà họ nhìn thấy trong máng cỏ đơn hèn là Chúa, là Đấng Cứu Độ trần gian.
Còn cuộc Hiển Dung hôm nay, trước mắt các môn đệ, không phải thiên thần – đại diện của Thiên Chúa, không phải ánh sao sáng, mà là chính thân xác sáng láng tuyệt hảo của con người Giêsu ấy. Tỏa sáng đến nỗi tác giả Marcô reo lên sung sướng: “Áo Người trở nên rực rỡ trắng tinh, không một thợ gặt nào ở trần gian giặt trắng được như vậy”.
Còn thánh Phêrô, lần đầu nhìn thấy ánh sáng siêu phàm, ông như người mất trí, tiêu tan hồn phách: “Chúng ta ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Môisen và một cho Êlia”. Ông nói, nhưng nếu hỏi ông vừa nói gì, ông sẽ không thể trả lời. Ông chìm trong hạnh phúc tuyệt diệu đến nỗi như ngớ ngẫn, như mất trí, không biết mình vừa nói gì! Càng kinh hoàng hơn, khi ngay sau đó, ông nghe có tiếng nói như xé trời vọng xuống, chứng minh Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”.
Chúa Hiển Dung để báo trước ánh sáng huy hoàng của ơn Phục sinh mà Nguời sẽ bước vào. Nhưng ta đừng quên một điều cần phải nhấn mạnh: Trước khi đi vào Phục sinh vinh hiển, Chúa Giêsu phải chấp nhận cuộc sống con người, phải đi vào đau khổ đến tột cùng và chết tủi nhục trên đồi Calvariô. Để có sự biến đổi huy hoàng như Chúa đang mạc khải cho ta trong cuộc Hiển Dung của Người, tất yếu Người phải nếm trải thử thách. Thử thách chẳng còn bao xa. Nó ở ngay phía trước cuộc Hiển Dung mà thôi. Đàng sau cuộc Hiển Dung rực rỡ không là hạnh phúc viên mãn, nhưng sẽ là thử thách đang giăng mắc.
Có một người Thầy nêu gương chấp nhận như thế, ta cũng chấp nhận chính cuộc sống mà Chúa ban cho mình hôm nay. Chỉ có sự chấp nhận toàn bộ cuộc sống này, và kiên vững đi hết con đường mà Chúa an bài cho ta, ta mới được tham dự vào cuộc Phục sinh hồng phúc của Người. Chúa cho các môn đệ nhận ra sự vinh hiển của Chúa, cũng là cách báo cho ta biết cuộc phục sinh của chính chúng ta. Bởi Chúa đã làm người, đã sống, đã chết như ta, thì ta cũng sẽ sống lại và hưởng vinh quang như Người. Nói cách khác, bởi Chúa của ta hội nhập trong thử thách để được biến đổi, thì đến lược mình, ta cũng chỉ có một con đường phải chọn để được biến đổi là đón nhận thử thác của đời mình.
II. HỘI NHẬP THỬ THÁCH ĐỂ BIẾN ĐỔI CHÍNH MÌNH
Một hình ảnh giúp ta hiểu cuộc hội nhập này: Một học sinh, nếu ươn lười, không dám đương đầu với bài học, em sẽ thất bại trong các cuộc ứng thí. Để có được sự tiến triển ngày càng cao trong học tập, rồi lên từ bậc cấp này đến bậc cấp khác, đưa tới thành công trong cuộc sống sau này, thì ngay hiện tại, em học sinh ấy phải miệt mài đèn sách, phải chăm chú hết sức vào việc ôn luyện, lắm khi mất cả ăn, cả ngủ… Cuộc đời của em chỉ có thể biến đổi từ sự vất vả sang hạnh phúc khi em chấp nhận sự khó nhọc của thời hiện tại.
Ông Abraham là mẫu gương kiên cường, là bài học lớn cho ta về việc hội nhập thử thách: Một ngày kia, Thiên Chúa gọi Abraham. Ngay từ lúc bắt đầu nhận lời mời gọi đầu tiên của Thiên Chúa, cũng đồng thời với việc ông nhận lấy sự thử thách đầu tiên dành cho mình: Thiên Chúa muốn Abraham phải bỏ xứ sở, gia đình và mọi thứ thuộc về ông, để ra đi. Nhưng lại hoàn toàn đi vào vô định. Ông đi, nhưng chẳng hề biết đích phải đến là đâu.
Chưa hết! Chúa vẫn tiếp tục thử thách ông. Người hứa ban cho ông một dòng dõi đông như sao trên trời, như cát ngoài biển, nhưng ông đã phải chờ, phải đợi đến mỏi mòn mới có duy nhất một đứa con trai trong sự già nua tuổi tác. Đến lúc ấy, lời hứa về một dòng dõi, tuy chưa hề nên vóc nên hình, nhưng vẫn còn có thể hy vọng, thì lại quá sức bất ngờ, quá sức khó hiểu: Ông nhận được lệnh Chúa truyền, phải sát tế đứa con duy nhất của ông cho Người. Có lẽ ông sẽ thật cay đắng và chua chát trước lời đề nghị của Chúa?
Không! Không phải thế! Bài đọc một trình bày một trong các cuộc biến đổi của ông Abraham: Thiên Chúa vừa cất tiếng gọi “Abraham”, ông lập tức đáp lại “Dạ tôi đây”. Chúa muốn ông làm một việc vừa ngược với tình cảm của ông, ngược với lời hứa về một dòng dõi đông đúc, vừa cho thấy sự độc ác quá đỗi khi đòi người cha giết con tế lễ cho mình: “Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Isaac… dâng nó làm lễ toàn thiêu… trên một ngọn núi, Ta sẽ chỉ cho”. Đã nhiều lần hội nhập vào thử thách, giờ đây Abraham lại liều mình một lần nữa: Cúi đầu đón nhận lời Thiên Chúa, ông không hề có một tiếng than thở, thắc mắc, càng không có bất cứ một lời oán trách nào.
Đức tin kiên cường của Abraham đã làm cho ông biến đổi hoàn toàn trong tất cả các lần ông hội nhập vào thử thách: Ông càng tin Chúa mãnh liệt. Ông nhận ra cách chắc chắn rằng, chỉ cần để Chúa dẫn dắt, ông sẽ khám phá lòng thương vô cùng của Chúa. Người sẽ đưa ông đi từ hết bất ngờ này đến bất ngờ khác. Nhờ đó, ông bước tới từ hết cuộc biến đổi này đến hết cuộc biến đổi khác. Thiên Chúa trả lại cho ông điều ông yêu quý nhất: “Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: Đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc… Ta lấy chính danh Ta mà thể: bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển… Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được chúc phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta”.
Thánh giá trong đời không là điều lạ. Đó là cơn thử thách triền miên của từng người. Chúng xuất hiện dưới nhiều hình thức. Dù có chạy trốn, vẫn không bao giờ có ai có thể trốn thoát. Càng tìm cách trốn chạy bao nhiêu, đau khổ như càng bám chặt lấy đời người bấy nhiêu. Càng trốn chạy, lòng ta càng đi từ sự mất bình tỉnh đến chẳng còn bình an.
Nhưng những thử thách trong đau khổ, nếu được ta hội nhập với mình như một trong vô số những sự kiện đã từng xảy ra, ta sẽ có đủ sáng suốt để mà giải quyết, mà vượt trên chúng. Đón nhận thử thách và vượt lên trên nó, là cách tốt nhất cho thấy ta vừa không cam chịu, vừa không quá sức bi quan.
Nhìn vào bài học hội nhập thử thách của tổ phụ Abraham, chúng ta chấp nhận đau khổ như ông để được biến đổi chính mình. Bởi nếu Abraham, dù đời ông xảy ra quá nhiều thử thách, ông vẫn lớn lên trong đức tin, thì chắc chắn sự hội nhập thử thách của ta cũng sẽ đưa ta tới sự biến đổi như ông.
Suy niệm về cuộc Hiển Dung của Chúa Giêsu, ta không bao giờ được phép quên rằng: Chúa Kitô vinh quang của Tabor cũng chính là Chúa Kitô của sự chấp nhận bị chống đối, bị thù nghịch trên khắp nẻo đường truyền giáo của Palestine. Chúa Kitô vinh quang của Tabor cũng chính là Chúa Kitô trong cơn hấp hối tại vườn Dầu đã túa mồ hôi pha trong máu. Chúa Kitô vinh quang của Tabor cũng chính là Chúa Kitô mang cả một thân xác bầm giập, trần trụi bị treo trên đỉnh đồi tử nạn Golgota.
Sau cùng, cũng chính Chúa Kitô vinh quang của Tabor, nhưng héo úa ngay sau đó trên đỉnh đồi tử nạn, lại thực sự là Chúa Kitô của ngày sống lại huy hoàng. Trong vinh quang phục sinh, Người dạy chúng ta cách hết sức thấu đáo bài học của sự hội nhập thử thách để biến đổi chính mình.
Loài người thật vinh phúc, bởi họ có Thiên Chúa, vì yêu thương, cúi mình sâu xuống để nên một trong họ và cho họ điểm tựa là chính Người để họ vượt qua và có thể đạp trên đầu sóng ngọn gió của đời thường mà giữ niềm tin, nghị lực và được biến đổi như Người. Abraham đã đi bước trước. Chúa Giêsu đã dùng chính mình để dạy bài học hội nhập thử thách ấy. Vì thế, loài người hãy nhìn vào đó mà suy niệm và học tập suốt đời để sống cho mình, cho anh em của mình, dù có phải đối đầu với bất trắc lớn đến mức độ nào đi nữa
Lạy Chúa xin cho chúng con được hiển dung. Nhờ đó, chúng con biết thay đổi đời sống của mình. Chúng con hiểu, thay đổi không có nghĩa là chúng con trở thành một cái khác. Đúng hơn, khi được hiển dung, chúng con sẽ trở về với cái tôi sâu thẳm của mình, để nhận ra chính chúng con cũng là con yêu dấu của Chúa. Nhận ra chính mình rồi, chúng con sẽ trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, Con Chúa, mà thêm sức chịu đựng chấp nhận thánh giá, chấp nhận thân phận kiếp người của mình mà đi hết con đường trần thế. Chúng con tin, một khi nên giống Chúa Kitô, Đấng cứu chuộc chúng con, chúng con cũng sẽ tham dự vào vinh quang phục sinh trong nhà Chúa trên trời.
Niên lịch phụng vụ của Giáo Hội Chúa Nhật này bước sang tuần thứ 2 Mùa Chay của chu kỳ phụng vụ Năm B. Nếu để ý diễn tiến của phụng vụ Mùa Chay chúng ta thấy rằng bài Phúc Âm cho Chúa Nhật thứ hai Mùa Chay cho cả ba chu kỳ phụng vụ A, B và C này, bao giờ cũng là bài Phúc Âm về biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi. Nếu Giáo Hội cố ý chọn lựa và sắp xếp cho Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay tuần trước với bài Phúc Âm Chúa Giêsu vào sa mạc chay tịnh và cho Chúa Nhật thứ hai Mùa Chay với bài Phúc Âm Chúa Giêsu biến hình trên núi cao, thì không phải Giáo Hội có ý nhắc nhở cho Kitô hữu môn đệ Chúa Kitô về Linh Đạo Vượt Qua của Kitô giáo hay sao, một Linh Đạo Vượt Qua theo gương Đấng Sáng Lập của mình, Đấng đã trải qua một Cuộc Vượt Qua từ sự chết đến sự sống, từ tử giá đến phục sinh, một Cuộc Vượt Qua Cứu Độ sẽ được Giáo Hội của Người long trọng cử hành trong Tam Nhật Thánh, thời điểm tột đỉnh của cả phụng niên.
Thật vậy, Linh Đạo Vượt Qua của Kitô Giáo đã được bắt nguồn từ Cuộc Vượt Qua Cứu Độ của Chúa Kitô và có thể được thấy rõ ràng qua hai cảnh hoàn toàn đối nghịch nhau giữa sự chết và sự sống ngay trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước và tuần này. Trước hết, về địa điểm, nếu bài Phúc Âm tuần trước cho thấy Chúa Giêsu ở trong sa mạc, nơi hoang địa khô cằn, chỉ thấy toàn là sỏi đá cát bụi vô hồn, tiêu biểu cho sự chết, thì bài Phúc Âm tuần này cho thấy Người ở trên núi cao, tiêu biểu cho thắng vượt, cho phục sinh, cho sự sống chiến thắng sự chết, cho siêu việt, cho cao cả bất biến. Tiếp đến, nếu bài Phúc Âm tuần trước cho thấy Chúa Giêsu sống giữa hoang thú, tiêu biểu cho đời sống bản năng tự nhiên, một đời sống phi đức tin và sẽ đưa đến chỗ chết đời đời, thì bài Phúc Âm tuần này cho thấy Người ở giữa hai vị tiêu biểu cho Cựu Ước là Êlia và Moisen, một vị tiêu biểu cho tiên tri và một vị tiêu biểu cho lề luật, hai yếu tố chính yếu thuộc Mạc Khải Cựu Ước, một mạc khải qui về Chúa Kitô và nên trọn nơi Chúa Kitô, Đấng là trọng tâm của tất cả Mạc Khải Thần Linh và là chính Mạc Khải Thần Linh, một Mạc Khải Thần Linh ban sự sống đời đời cho những ai tin tưởng chấp nhận Người (x Jn 3:16). Chưa hết, nếu bài Phúc Âm tuần trước cho thấy Chúa Giêsu bị Satan cám dỗ, tức Người bị Satan là tên gian trá và là tên sát nhân ngay từ ban đầu (x Jn 8:44), là con cựu xà đầy những nọc đọc sự chết (x Rev 12:9) và đã cắn chết loài người nơi hai nguyên tổ (x Gen 3:13-14), xui dại Người làm những gì trái với ý muốn của Thiên Chúa, tức thi hành sự dữ đưa tới sự chết, thì bài Phúc Âm tuần này cho thấy Người được Chúa Cha khen tặng và truyền phải vâng nghe Người là Đấng có lời ban sự sống đời đời (x Jn 6:68). Còn nữa, nếu bài Phúc Âm tuần trước cho thấy Chúa Giêsu được các thiên thần đến hầu cận, đến phục vụ phần xác của Người, một thân xác sẽ tử nạn, sẽ chết đi, thì bài Phúc Âm tuần này cho thấy chính thân xác tử nạn ấy, chết đi ấy đã biến hình vinh quang sáng láng trước mắt các môn đệ thân tín nhất của Người, thành phần theo hộ tống Người, những vị thấy thế đã hào hứng tình nguyện xin suốt đời hầu hạ phục vụ Người ở đó bằng việc dựng ba lều cho cả Người cũng như cho Elia và Moisen.
Tuy nhiên, cũng chính trong bài Phúc Âm Chúa Nhật thứ hai Mùa Chay tuần này, Thánh Ký Marcô còn cho chúng ta thấy một hình ảnh hết sức ngược ngạo nữa, đó là sự kiện ngày sau khi thấy vinh quang biến hình của Thày mình, đến nỗi đã hứng khởi xin Thày cho dựng ba lều thì “Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoaœng sợ”. Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao tông đồ Phêrô không hiểu mình nói gì?
Nếu lý do là “vì các ông đều hoảng sợ”, thì tại sao một trong các vị lại có thể hào hứng nói lên được những điều hết sức tích cực, tốt lành và rõ ràng như vậy (rõ ràng ở chỗ dựng ba lều cho ba vị, và dựng ở chỗ vinh quang này chứ không phải ở chỗ khác). Phúc Âm Thánh Ký Mathêu và Luca về cùng một trình thuật biến hình của Chúa Giêsu này cho chúng ta thấy thêm một số chi tiết rõ ràng hơn nữa. Trước hết, Phúc Âm Thánh Luca cho chúng ta biết biến cố biến hình xẩy ra sau khi tông đồ Phêrô tuyên xưng Người là Đức Kitô và sau đó Người tỏ cho các môn đệ biết lần đầu tiên về Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người; biến cố biến hình này xẩy ra sau đó tám ngày (9:28); nhưng mục đích Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ thân tín nhất của Người lên núi bấy giờ là để cầu nguyện (9:28); tuy nhiên, đang khi Người cầu nguyện thì Người biến hình, biến đổi dung nhan và y phục (9:29); trong lúc Người cầu nguyện và biến hình có hai nhân vật tiêu biểu của Cựu Ước ở với Người bấy giờ thì ba tông đồ đang ngủ ngon lành ở một nơi cao ráo mát mẻ như vậy và khi tỉnh giấc các vị đã chứng kiến thấy như thế (9:32); khi hai vị kia đang bỏ đi không ở với Thày mình nữa thì tông đồ Phêrô mới lên tiếng xin dựng lều cho Thày mình và các vị nhưng bấy giờ vị tông đồ này không hiểu mình nói gì nữa (9:33), chắc là vị tông đồ này không muốn hai vị ấy đi; khi tông đồ Phêrô đang nói một cách mê sảng như thế thì có đám mây đến vây phủ cả ba đấng và các tông đồ đâm ra sợ hãi khi thấy hai nhân vật ở với Thày mình đi vào trong đám mây (9:34); sau đó các môn đệ mới nghe thấy tiếng phán từ trong đám mây (9:35). Đến đây, Phúc Âm Thánh Mathêu cho biết các vị hoảng sợ quá sức đến nỗi đã ngã nhào xuống đất khi các vị nghe thấy tiếng phán ra từ đám mây, đến nỗi chỉ sau khi được Chúa Giêsu chạm tới với lời truyền “Hãy chỗi dậy. Đừng sợ”, các môn đệ mới hoàn hồn (x Mt 17:6-7).
Như thế, căn cứ vào Phúc Âm Thánh Luca và Mathêu, cảm giác sợ hãi của các môn đệ được chứng kiến biến cố biến hình của Chúa Giêsu trên núi cao bắt đầu xẩy ra vào lúc các vị thấy đám mây bao phủ Thày mình và hai vị kia, một cảm giác sợ hãi đã lên tới tột độ khi các vị nghe thấy tiếng phán ra từ đám mây, và là một cảm giác chỉ được giải tỏa bởi bàn tay và lời nói của Chúa Giêsu mà thôi. Theo tôi, có hai yếu tố góp phần vào sự kiện này, cũng là hai lý do tại sao các tông đồ thân tín nhất của Chúa Giêsu hoảng sợ trước một cách tượng tuyệt vời này, và sự kiện tông đồ Phêrô không hiểu những gì ngài tỉnh táo nói lên bấy giờ một cách hết sức rõ ràng. Yếu tố thứ nhất liên quan đến tâm linh của các vị, đó là vì đây là một cơn mê nội tâm của thành phần môn đệ Chúa Giêsu bấy giờ chưa hiểu vấn đề sống lại, như cuối bài Phúc Âm Năm B Chúa Nhật tuần này cho thấy. Tuy nhiên, sự kiện các tông đồ không hiểu được vấn đề sống lại ra sao lúc ấy không có nghĩa là các vị không tin có phục sinh, tức các vị cũng chủ trương không có vấn đề sống lại như nhóm Saddôcê đã vấn nạn Chúa Giêsu về trường hợp sống lại của một người đàn bà làm vợ của cả bảy người anh em ruột (x Mt 22:23-28). Đúng hơn, các tông đồ tin tưởng có vấn đề sống lại nhưng không hiểu rõ sống lại như thế nào, đúng hơn không hiểu nổi vấn đề ấy lại làm sao có thể xẩy ra trong thời của các ngài, chứ không phải vào ngày tận thế, như Matta đã tin tưởng và tuyên xưng như thế trước khi Chúa Giêsu làm cho Lazarô em chị hồi sinh bước ra khỏi mồ (x Jn 11:24).
Yếu tố thứ hai, liên quan đến đời sống của các vị môn đệ, một yếu tố cũng có thể góp phần không nhỏ vào sự kiện các tông đồ hoảng sợ trước vinh hiển biến hình của Chúa Giêsu báo trước cuộc phục sinh của Người, đó là vì các tông đồ còn sống theo tự nhiên, không biết hay chưa biết tỉnh thức và cầu nguyện như lúc các vị chờ đón Quyền Lực từ trên cao là Thánh Thần Thiên Chúa (x Acts 1:12-ABC14). Theo Thày lên núi cầu nguyện ngay giữa ban ngày, ngay giữa thanh thiên bạch nhật mà các vị còn ngủ được thì biết là xác thịt của các vị nặng nề đến chừng nào, một tình trạng nặng nề khiến cho các vị càng khó tránh được cảm giác mê ngủ khi cũng ba vị này đi cầu nguyện với Người trong đêm tối ở Vườn Cây Dầu ngay sau khi ăn uống no nê (có rượu) với Người để cử hành Lễ Vượt Qua của dân Do Thái cũng là Bữa Tiệc Ly của các vị với Người. Trước Mầu Nhiệm Chúa Kitô vô cùng cao cả, xác thịt mang bản chất chết chóc không thể nào hiểu được (x Mt 16:17), thì làm sao con người sống theo xác thịt, được tiêu biểu qua tác động mê ngủ, lại không bị choáng váng ngất ngư chứ? Nếu trước cảnh vinh hiển biến hình trên núi cao của Thày các vị mà các vị tông đồ chợt tỉnh giấc được chứng kiến thấy còn mang đầy những cảm giác hoảng sợ, thì không lạ gì phản ứng tự nhiên của các vị ở trong Vườn Cây Dầu với Người, ở chỗ, các vị chẳng những không tỉnh thức an ủi Thày mà còn cùng nhau trốn chạy thoát thân sau khi Thày bị bắt giải đi nữa (x Mk 14:50). Ngay cả khi Thày của các vị từ trong kẻ chết sống lại hiện ra sờ sờ trước mắt các vị mà các vị còn sợ, còn tưởng ma quái (x Lk 24:37-39), huống chi lần đầu tiên các vị được thấy vinh hiển phục sinh của Người trong cuộc Người biến hình.
Thế nhưng, chính cái tâm trạng có vẻ hỗn loạn của các tông đồ nơi biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi này, cái tâm trạng vừa hứng khởi, qua lời xin tình nguyện dựng ba lều, lại sợ hãi ngay trong lúc hứng khởi này cho chúng ta thấy chẳng những tâm trạng hết sức thực tế của con người, mà còn cho thấy Linh Đạo Vượt Qua của Kitô Giáo nữa. Nếu tâm trạng vừa vui vừa sợ của con người, như điển hình cho thấy nơi trường hợp các môn đệ trong biến cố biến hình của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần hai Mùa Chay này, cho thấy con người khao khát được vinh quang và muốn hoan hưởng vinh quang, nhưng thực tại vinh quang lại vượt ra ngoài tất cả những gì con người có thể tưởng tượng ra, mong ước thấy, nhất là vượt quá tầm tay với của con người tự nhiên và thấp hèn, thì quả thực Linh Đạo Vượt Qua, vượt qua từ sợ hãi đến vui mừng, từ sự chết đến sự sống, từ đau khổ đến vinh quang, đúng là đường lối sống đạo của Kitô hữu và cho Kitô hữu vậy.
Lời Chúa tuần này đến với chúng ta với câu truyện rất quen thuộc: câu truyện Chúa biến hình trên dỉnh núi Tabore. Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ lên núi, và ở đó Ngài đã hé mở cho các ông vinh quang của Ngài. Với chú ý mạc khải cho các ông biết Ngài là Con Thiên Chúa nên Chúa Cha đã phán từ trời: “Đây là con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”.
Những lời mạc khải này không chỉ dành cho ba môn đệ nhưng cũng dành cho chúng ta qua muôn thế hệ. Qua lời mạc khải này, các Kitô hữu chúng ta cần phải tự hỏi chính mình rằng: Đức Ktiô là ai đối với tôi? Tại sao tôi lại theo đạo Công Giáo? Tại sao tôi lại muốn mang danh là Kitô hữu? Nói các khác, tôi theo đạo công giáo là theo ai, hay tìm kiếm điều gì? Và đâu là trung tâm điểm của đạo công giáo mà tôi cần xác tín? Các câu hỏi này nhiều khi nhức nhối và khó trả lời, bởi vì khi trả lời là chúng ta phải xác định niềm tin của mình vào Đức Kitô.
Trung tâm điểm của đạo Công giáo chúng ta không phải là những tín điều thường được đọc trong kinh Tin Kính, dù đây là những tín điều thánh thiêng và cao siêu. Trung tâm điểm của đạo công giáo cũng không chỉ là những giáo điều phải tuân giữ, được gồm tóm trong Mười Điều Răn Đức Chúa Trời và Sáu Điều Răn Hội Thánh, dù đây là những điều cần thiết cho cuộc sống con người. Trung tâm điểm của đạo Công giáo chúng ta nằm ở một người mang tên Giêsu. Ngài vừa là Thiên Chúa, vừa là con người. Là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã nhập thể làm người để dậy cho chúng ta Thiên Chúa là ai, và chỉ đường cho chúng ta về với Thiên Chúa. Vậy, khi theo đạo công giáo là chúng ta muốn có sự liên hệ với Đấng mang tên Giêsu này. Để có sự liên hệ chặt chẽ và bền vững, chúng ta sẽ tự nguyện thay đổi con người mình, bằng cách tin theo và tuân giữ các điều Ngài truyền dạy, hầu ngày càng trở nên giống Người hơn. Chúng ta hãy nhìn vào cơ cấu gia đình. Giữa hàng ngàn cô gái trẻ đẹp, dễ thương, một người thanh niên chỉ chọn một cô để “anh đem nàng về dinh”. Và giữa trăm ngàn người thanh niên đẹp trai, con nhà giầu, học giỏi, mỗi thiếu nữ cũng chỉ chọn một anh để “thiếp theo chàng một phen” mà thôi. Và khi chúng ta lựa chọn người nào là chúng ta muốn có sự liên hệ mật thiết và lâu bền với người đó. Do đó, chúng ta sẽ tự nguyện thay đổi tính tình, tập quán, cách trang phục và ngay cả thối quen ăn uống để chiều lòng và hòa hợp được với người mình chọn lựa. Điều này tương tự như cách thức chúng ta theo đạo. Khi chúng ta tin hoặc giữ những điều Đức Giêsu dạy, chúng ta tin hoặc giữ những điều Đức Giêsu dạy, chúng ta tự nguyện biến đổi chúng ta ngày càng giống Chúa hơn.
Theo Chúa kitô là tập biến đổi con người tội lỗi, nhiều tật xấu, đam mê nên người thánh thiện đạo đức. Câu trả lời của người tân tòng cho một người vô thần trong sách “Tiếng Hót Muông chim” của cha Anthony De Mello, SJ, là sự xác định niềm tin đáng cho chúng ta suy nghĩ. Một người vô thần đã hỏi người tân tòng mới theo đạo xem anh có biết về quốc tịch, tuổi tác, quê quán, và bao nhiêu bài giảng của Đức Giêsu không. Người tân tòng đều trả lời không biết. Người vô thần lắc đầu nói rằng: anh theo Đức Giêsu mà anh lại không biết thân thể Ngài, vậy anh biết được những gì? Người tân tong lúc đó mới chậm rãi trả lời: tôi thật hổ thẹn vì biết về Ngài rất ít. Nhưng tôi biết rõ rằng ba năm trước đây, tôi là người nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu. Gia đình tôi xuống dốc kinh khủng. Tôi là nỗi tủi nhục cho vợ và các con tôi. Nhưng nay, tôi đã bỏ rượu, hết nợ nần. Gia đình tôi hòa thuận. Vợ con tôi trông ngóng tôi trở về nhà mỗi tối. Những điều này Đức Kitô đã làm cho tôi. Và đó là tất cả những gì tôi biết về Ngài (trang 102).
Xác định niềm tin và Đức Kitô và thay đổi chúng ta ngày trở nên giống Ngài là căn bản của đời sống người Kitô hữu chúng ta.
Phó tế Đaminh Nguyễn Bình An NS Trái Tim Đức Mẹ 2012
Theo tường trình của các nhà tâm lý ở Hoa kỳ thì số người tìm đến để giúp trị liệu ngày càng gia tăng, đặc biệt là giới trẻ, vì một lý do rất đơn giản là họ không tìm được mục đích và ý nghĩa của cuộc sống. Điều khiến tôi ngạc nhiên hơn cả là trong số này cũng có rất nhiều người Công giáo. Nếu là người Công giáo tại sao không chịu mở sách Giáo lý ra mà tìm hiểu để khỏi phải mất công tốn của đi nhờ các nhà tâm lý. Vì chưng, sách Giáo lý Công giáo ngay từ những hàng đầu tiên đã khẳng định rằng: mục đích chúng ta sống ở đời này là để nhận biết và mến yêu Thiên Chúa, rồi từ đó phát sinh hiệu quả thương yêu mọi người như anh chị em và cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp... để sau cùng trở về với Thiên Chúa là Đấng đã gọi chúng ta ra đi cũng là Đấng mong ngóng chúng ta trở về. Đây chính là ơn gọi phổ quát mà mọi người sinh vào trần gian được kêu mời để đạt tới, vì nó bao trùm hết những ơn gọi khác mà chúng ta vẫn hằng đáp trả qua những tiếng xin vâng nối tiếp nhau trong cuộc sống.
Để đạt được mục đích tối hậu của cuộc sống con người, Thiên Chúa mời gọi chúng ta vào những bậc sống khác nhau với quyền tự do chọn lựa: kẻ sống độc thân, người lập gia đình, và có một số rất ít chọn cuộc sống tu trì. Trong mỗi bậc sống đó, Thiên Chúa liên tục mời gọi chúng ta dưới nhiều hình thức để thăng tiến bậc sống mình đã chọn. Nói chung, dù ở bậc sống nào chăng nữa thì tất cả cũng chỉ là phương tiện để chúng ta tìm gặp Chúa mà thôi. Do đó, điều quan trọng không hệ tại bậc sống nhưng hệ tại việc chúng ta lợi dụng các phương tiện Chúa ban để sống trọn ơn gọi của mình.
Để gầy dựng một dân riêng, Giavê đã mời gọi Abram từ bỏ quê cha đất tổ, đi đến miền đất xa lạ mà ông chưa từng biết đến. Sau đó, lại truyền cho ông sát tế Isaac là người con duy nhất để làm của lễ toàn thiêu... Tuy ngập ngừng và khó hiểu nhưng ông vẫn vâng nghe và nhờ đó đã trở thành tổ phụ của một dân tộc hùng vĩ. Đang khi hăng say bắt bớ các Kitô hữu, thánh Phaolô được Chúa mời gọi để đem Tin Mừng cho dân ngoại. Dẫu sợ sệt và cảm thấy mâu thuẫn nhưng ông cũng can đảm vâng nghe và đã trở thành rường cột của Giáo hội. Ba thánh tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan trong bài Phúc âm hôm nay cũng được Chúa mời gọi lên núi để chiêm ngưỡng dung nhan vinh hiển của Ngài. Mặc dù các ông rất thích đến nỗi muốn dựng lều để được ở luôn trên đó, nhưng vì Chúa muốn cách khác nên các ngài lại xuống núi. Chính vì sự mau mắn vâng nghe đó mà sau này chẳng những các ông được chiêm ngưỡng, nhưng còn được dự phần vào vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu nữa.
Điều này tỏ cho chúng ta thấy rằng cuộc sống của mỗi người, dù có đi lên hay bước xuống, rẽ trái hay quẹo phải, tất cả đều có thể đạt được mục đích tối hậu là chiếm hữu được Chúa, nếu chúng ta bước theo tiếng gọi của Ngài. Nói theo kiểu bình dân thì cuộc đời dẫu lên voi hay xuống chó đều có thể gọi là một cuộc đời thành tựu nếu chúng ta biết chấp nhận giới hạn của mình và làm cho nó thăng tiến theo chiều hướng thích hợp với những giới hạn đó. Không ai hạnh phúc cho bằng người biết chấp nhận và vui với những gì có được trong tầm tay. Chúa không dựng nên bất cứ ai trong chúng ta chỉ để ăn hại, nhưng Ngài dựng nên mỗi người với một dụng ý riêng. Cũng mười ngón tay thon dài như nhau nhưng của người này thì Chúa muốn họ dùng để đánh đàn, viết sách, còn của kẻ khác thì Ngài mời gọi họ dùng để trồng cây hoặc đào mương, vét giếng... Chính vì vậy mà không ai có quyền tự hào cho rằng ơn gọi hay công việc của mình cao trọng hơn của người khác. Bởi lẽ, nếu để hoàn thành ơn gọi của mình theo ý Chúa mà làm công việc hèn mọn như làm đầy tớ cả đời thì cũng cao đẹp và công phúc như người có bổn phận xây nhà thờ cho Chúa vậy. Điều can hệ là chúng ta đã tận dụng các khả năng Chúa ban để nhận ra và đáp trả lời mời gọi của Ngài trong cuộc sống hay không mà thôi.
Xin Mẹ là Đấng đã mau mắn và tự tình thưa lời "Xin Vâng" với Chúa giúp chúng con biết lắng nghe và mau mắn thưa lời "Fiat" với ơn Chúa soi động trong cuộc sống thường ngày, để ngày sau được cùng Mẹ thông phần vào vinh quang rực rỡ của Chúa Kitô Phục Sinh. Amen.
Targer là một tín hữu nhiệt thành trong một cuộc chia sẻ với chúng bạn về Chúa tình thương, anh đã cất lên lời cầu nguyện này: "Lạy Chúa, con thấy những người yêu thương con trên trần gian thì họ ở bên con từng ngày từng giờ, còn Chúa, Chúa nói Chúa yêu con vô bờ bến thì Chúa lại ẩn mình, chẳng thấy bóng Chúa đâu".
Phải chăng lời cầu ấy hình như cũng là tư tưởng của chúng ta, của hết mọi người theo Chúa. Theo Chúa như theo đuổi một người tình, một người tình không chân dung, một người tình ẩn dấu. Ngài ẩn dấu quá kỹ để người yêu của Ngài dong duổi tìm kiếm trọn cuộc đời?
Một thiếu nữ rất chân thành đang học đạo cũng cầu nguyện rằng "Lạy Chúa, con tìm hiểu về Chúa hoài mà không đủ. Chúa mầu nhiệm quá vậy sao? Nếu Chúa có thật thì xin Chúa hãy tỏ mình ra cho con. Chúa ẩn mình hoài, nhất là trong cái thế kỷ khoa học và kỹ thuật tân tiến này. Đâu đâu cũng chỉ thấy dấu tích của con người, của trí tuệ thông minh và tài khéo của họ để lại, mà chẳng thấy dấu tích của Chúa đâu cả. Thực ra có đúng thế không?"
Nhưng khi nhìn lại những cái hữu hình trước mắt: Nhìn con người, nhìn trăng sao rực sáng, nhìn thiên nhiên mỹ lệ, nhìn vũ trụ bao la, núi non trùng trùng điệp điệp ..... ta lại thấy việc Thiên Chúa ẩn mình không phải là điều khó hiểu.
Ngay trong những người thân giữa cuộc sống gia đình, chúng ta biết tên biết tuổi, biết rõ cả nghề nghiệp, tính tình, khả năng ..... Nhưng trong họ còn có nhiều điều chúng ta không biết, suy mãi đoán hoài cũng không ra. Mỗi con người vẫn là một bí ẩn thì có lạ gì việc Thiên Chúa ẩn mình. Người ẩn mình do chính bản chất của Người - Vì Người là Đấng siêu việt, Đấng bất khả thấu dò, Đấng ngự trị trong ánh sáng siêu phàm - Không có cái gì đủ để xứng hợp chứa được Ngài. Nếu ngài bị giới hạn trong con người như chúng ta thì tình của Người quá nhỏ nhoi, chân dung của Ngài quá hạn hẹp, sao chia sẻ cho hết mọi người trên thế giới!
Biến cố Chúa tỏ mình trên núi Tabore trước mặt Phêrô, Jacobê và Gioan chính là câu trả lời cho các ông và cho chúng ta. "Người ta bảo thầy là ai?" Ngài là Đấng có diện mạo sáng láng như mặt trời, áo Ngài trắng tinh như tuyết. Ngài uy hùng rực rỡ hơn cả vẻ nguy nga của vũ trụ. Mắt Ngài thấu tỏ cả trong tâm tư thầm kín của lòng người, nơi mà không ai thăm dò được, trừ ra có mình họ và Chúa.
Nếu tự bản tính Chúa là Đấng ẩn mình thì cuộc hành trình tin có Chúa là một cuộc mạo hiểm, mạo hiểm nhưng không liều lĩnh, không suy ra được, vì chúng ta có Chúa Giêsu tỏ cho thấy. Chúa không phải là người tình không chân dung mà đã thành người tình rõ mặt "Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Ai nghe Thầy là nghe Cha. Ai sống theo lời Thầy dạy là sống theo ý Đấng đã sai Thầy .... ". Như thế chúng ta đừng chỉ dừng lại trong những lý luận của trí óc nhân loại, của khoa học, của kỹ thuật, mà hãy bám vào một con người cụ thể là Chúa Giêsu Kitô, Đấng Thiên Chúa yêu thương sai đến để bày tỏ, để dạy chúng ta biết về Ngài. Hãy dựa vào đó mà đi, không hồ nghi, không sợ sệt. Hãy sống niềm tin thực hành đạo dạy. Chỉ có con đường ấy mới dẫn chúng ta đến nhìn thấy diện mạo huy hoàng của Chúa, mới làm cho chúng ta thốt lên "Lạy Thầy ở thiên đàng thế này thì tuyệt quá". Đến lượt chúng ta cũng hãy trở thành dấu chỉ hữu hình về Thiên Chúa vô hình qua lối sống đạo thực hành, để người đời lần tìm về với cuộc tình muôn thuở.
Một nhà đại phú hộ người Pháp, suốt đời chỉ lo hưởng thụ mọi vinh hoa phú quí, dinh thự nguy nga đồ sộ, đầy tớ tấp nập, ra vào hầu hạ, yến tiệc xa hoa với mọi lạc thú trần gian... Rồi bỗng nhiên, một hôm ông ngã bệnh nặng, hết bác sĩ này đến danh y khác được mời đến điều trị bệnh tật cho ông với lời hứa, nếu cứu ông khỏi chết sẽ được hậu tạ, dầu phải chấp nhận bất cứ điều kiện nào... Nhưng sau khi chẩn mạch, khám nghiệm và gắng sức chữa chạy, tất cả các bác sĩ, danh y đều bó tay vì bệnh trạng của ông đã đến hồi vô phương cứu chữa.
Khi biết mình không thể sống nổi, nhà đại phú hộ rất buồn bã thất vọng, gọi vợ con đến trăng trối: "Khi ta chết rồi, hãy khắc vào một bia đá đặt trên mộ ta lời rất bỡ ngỡ nhưng chân thật này: "Đây là mồ chôn một kẻ khờ dại!"
I. NÚI TABORÊ HUY HOÀNG
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật sự kiện Chúa Kitô biến hình, tỏ vinh quang Người cho ba Tông Đồ Pherô, Gioan và Giacobê, cho ba ông thưởng nếm một chút hạnh phúc Thiên Đàng, khiến các ông cảm nghiệm được niềm vui sướng và khoái lạc tràn đầy, đến nỗi Thánh Pherô đã phải sửng sốt kêu lên: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Maisen và một cho Elia".
Thế rồi, lúc còn đang ngây ngất bỡ ngỡ trước cảnh thiên thai, huy hoàng thần tiên đó, bỗng có một đám mây bao phủ các ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán ra: "Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Ngài". Giây phút vui sướng thần tiên qua đi, các ông bừng tỉnh nhìn chung quanh, không còn thấy ai nữa, duy có một mình Chúa Giêsu và các ông.
Mục đích cho ba môn đệ thân tín nhất của Chúa, được hưởng sự vinh quang và hạnh phúc trong cuộc Chúa biến hình hôm nay, là để củng cố niềm tin tưởng của các ông và các môn đệ khác; khiến các ông thêm can đảm và kiên trì trong gian lao thử thách sẽ gặp, nhất là khỏi thất vọng trước cuộc khổ hình đau thương và cái chết tất tưởi đẫm máu của Thầy mình.
II. TIÊN BÁO VINH QUANG BẤT DIỆT
Niềm vui sướng hạnh phúc ba vị được nếm hưởng hôm nay, chỉ là hình bóng một chút vinh quang bất diệt, Chúa đã sắm sẵn cho các tôi trung con thảo của Chúa trên Quê Trời. Sau đời gian truân thử thách trần gian qua đi, những tôi trung con thảo của Chúa sẽ được vào nơi đầy ánh sáng huy hoàng tráng lệ, tận hưởng niềm vui sướng khoái lạc triền miên, hạnh phúc vô cùng vô tận. Thân xác sẽ được phục sinh vinh quang và trường tồn, y phục sẽ trở nên trắng hơn tuyết và sáng ngời như mặt trời... Chính Thánh Phaolô, sau khi được thưởng nếm những giây phút hạnh phúc Thiên Đàng này, trong cuộc thị kiến nơi tầng trời thứ ba, đã chỉ có thể thuật lại bằng một câu nói rất vắn gọn này: "Mắt chưa hề xem, tai chưa hề nghe, lòng chưa hề cảm nghiệm được hạnh phúc mà Chúa đã sắm sẵn cho các tôi trung con thảo được Chúa yêu thương".
Ngay khi còn sống nơi trần gian này, Chúa cũng đã cho một vài vị Thánh được tiên hưởng những khoái lạc phúc đức đó trong giây lát. Cũng có khi cho thân xác các ngài được tiên hưởng hình bóng sự không hư nát của thân xác vinh quang sau này trên Nơi Vĩnh Phúc.
Trong cuốn sách nhan đề "The Incorruptibles", tác giả Jean Carrol Cruz đã đề cập đến 102 vị Thánh, được chôn cất đã nhiều năm trong hầm mộ, mà thân xác các ngài vẫn còn tươi tốt như lúc còn sinh thời, chẳng hạn như các vị sau đây:
Thánh Gioan Maria Vianney, Cha Sở họ Ars nước Pháp, sau 45 năm chôn cất, lúc cải táng trong dịp điều tra tôn phong Hiển Thánh, người ta thấy xác ngài vẫn còn tươi tốt y nguyên.
Thánh Albertô Cả, từ trần năm 1280, sau hơn 200 năm được cải táng, xác ngài vẫn còn nguyên vẹn.
Thánh Nữ Agatha, từ giã trần gian năm 251, thế mà sau 11 thế kỷ, vẫn không hề tan rữa.
III. ĐỂ ĐƯỌC ĐỒNG HƯỞNG VINH QUANG
Để được đồng hưởng vinh quang hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa trên Quê Trời, chúng ta cũng cần phải chết với Chúa: Chết cho tội lỗi, chết cho tính mê nết xấu, chết cho những đam mê thú tính, chết cho tính tự ái kiêu căng... và vâng giữ các giáo huấn Chúa Kitô dạy, như lời Chúa Cha đã tuyên phán: "Các ngươi hãy vâng nghe và tuân giữ lời Ngài".
Trần gian không phải là nơi hưởng thụ như nhà đại phú hộ trên kia. Ông chỉ lo tận hưởng những khoái lạc trần gian, mà không màng chi tới hạnh phúc trường tồn trong đời sống mai hậu, nên cuối đời ông đã phải thất vọng trăng trối, đặt trên mồ ông tấm bia khắc ghi lời quả quyết thú nhận sự lầm lỡ của mình: "Đây là mồ chôn một kẻ khờ dại!"
Trái lại, trần gian chính là đường dẫn chúng ta, là những người lữ hành đang tiến về Quê Hương Vĩnh Cửu. Vì trần gian là chốn đền tội, là nơi lập công, là trường tập đức, đào tạo chúng ta nên những kẻ anh hùng chiến thắng, những công dân Nước Trời, những vị Thánh, những con ngoan thảo của Thiên Chúa, sẽ được khải hoàn vinh quang tiến về Quê Hương Chân Thật giữa muôn ngàn Thần Thánh.
Kết Luận
Thánh Phaolô Tông Đồ đã căn dặn chúng ta phải ghi tâm khắc cốt lời này: "Đây là thời thuận tiện, đây là ngày cứu độ". Bao lâu còn sống trên trần gian, chúng ta còn thời giờ để lập công đức, để khi giờ Chúa gọi ra đi, chúng ta khỏi hối tiếc thất vọng.
Nếu chúng ta biết: "Vâng nghe lời Con Chúa" truyền dạy, chắc chắn chúng ta sẽ đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu Chúa hứa ban.
Ở Hoa Kỳ, một trong những phi trường quốc tế lớn nhất và đầy đủ nhất là phi trường Pensylvania. Gần phi trường này có một ngôi thánh đường đồ sộ cao vút, nhất là có cái tháp chuông chọc trời, khiến cho mọi người sợ nguy hiểm cho máy bay mỗi khi bay lên đáp xuống. Để giúp mọi người thoát khỏi nỗi lo sợ đó, giáo dân trong xứ đã gắn trên ngọn tháp chuông một ngọn đèn né-on thật to theo hình thánh giá. Từ đó, mỗi lần bay lên đáp xuống phi đạo, các phi công đều hướng nhìn vào thánh giá đó như một tiêu chuẩn bảo đảm an toàn chắc chắn…
Cuộc sống trần gian có lẫn lộn buồn vui với sướng khổ về tinh thần, có cay đắng ngọt bùi cho giác cảm. Theo tính tự nhiên ai cũng thích của ngon của ngọt, thích vui sướng hoan lạc, chứ chẳng ai thích đau thương tan tác…. Thế nhưng có những vị anh hùng đã bất chấp gian nguy, khó nhọc để liều thân giúp đỡ đồng loại trong cảnh lầm than tai họa. Lịch sử thế giới đã ghi dấu ân tình của biết bao vĩ nhân qua các thời đại. Hôm nay Phúc Âm cũng nói về vị Đại Cứu Tinh sẽ phải trải qua đau thương kinh khủng để giải thoát con người khỏi vòng vây của tội lỗi. Nhưng trước khi phải trải qua nỗi thương đau ấy, Ngài đã tỏ mình ra cho các môn đệ một cách đầy uy nghi sáng chói để củng cố niềm tin cho các môn đệ. Ngài đã biến hình trên núi Thabor, biến cố lịch sử ấy mặc khải nhiều điều rất mầu nhiệm, những vấn đề liên quan bao trùm cả Cựu Ước và Tân Ước.
Vào thời Chúa Giêsu, Thabor là quả núi trơ trọi, cỏ mọc phất phơ. Sau hồi khởi nghĩa của người Do Thái năm 66-70, chính phủ La-mã đã xây pháo đài trên núi này. Hiện nay bên cạnh pháo đài đổ nát ấy, đứng sừng sững một ngôi thánh đường nguy nga tráng lệ. Thánh đường này do các giáo hữu Hoa Kỳ góp tiền xây dựng để kỷ niệm việc Chúa biến hình.
Tất cả không gian và biến cố ở đây đều nói lên ý nghĩa cung thánh của Chúa.
-Núi cao là biểu tượng nơi Thiên Chúa ngự trị, nơi đây xứng tiện cho việc Thiên Chúa bày tỏ vinh quang và thần tính của Người. Sự thanh vắng ở đây để tâm hồn dễ tĩnh tâm, suy niệm, cầu nguyện. Chúa vẫn thường lui vào nơi tĩnh mịch để cầu nguyện với Thiên Chúa Cha.
-Chiếc lều mà thánh Phêrô muốn thiết dựng cho Chúa cũng là ý nghĩa của lịch sử thánh thời Cựu Ước. Lều tượng trưng ở nơi Thiên Quốc, lúc đó thánh Phêrô muốn vương quốc hoá nơi chốn và muốn kéo dài giây phút thánh thiêng này mãi mãi. Về nơi chốn thiên cung, trong sách xuất hành, Chúa đã dặn bảo Moisen lấy vàng, bạc, đồng, vải điều, gỗ keo, hương liệu v.v. để làm vật liệu làm Hòm Bia, Nhà Tạm và Khung Lều để làm nơi thánh cung cho Chúa ngự trị (Xh. Đoạn 25,26,27).
-Đám mây bao phủ chỉ sự hiện diện của Chúa vào thời Nước Trời đã đến. Cũng thời Cựu Ước, trong ngày khánh thành Đền Thờ, sau khi được Salomon xây cất, một đám mây đã bao phủ đền thờ. Việc đám mây giáng xuống như thế, người Do Thái hiểu ngay rằng Đấng Mêsia đã đến.
-Moisen và Êlia: Moisen tượng trưng cho lề luật; Ngài là nhân vật tối cao đã ban bố luật pháp của Thiên Chúa. Êlia tượng trưng cho tiên tri; Ngài là vị tiên tri đầu tiên và vĩ đại nhất trong các tiên tri. Hai nhân vật lỗi lạc đó hội kiến với Chúa Giêsu nói lên niềm mong ước trong quá khứ và là sự hoàn thành giữa Cựu Ước và Tân Ước. Chúa Giêsu là tất cả những gì mà lịch sử đợi trông và mọi người hướng về Ngài với hy vọng tràn đầy ơn cứu chuộc.
Ba môn đệ “yêu dấu” được Chúa tỏ vinh quang rực sáng, được thấy cả tổ phụ Moisen và Êlia. Các Ngài đã từng chứng kiến các phép lạ nhưng chưa bao giờ gây ấn tượng và xúc động mạnh mẽ như việc Chúa biến hình hôm nay. Nhất là được nghe thấy tiếng Chúa Cha phán từ đám mây rằng; “Đây là Con Ta rất yêu dấu”. Đó là kỷ niệm khôn phai và là niềm hy vọng tràn đầy để các môn đệ tiếp tục theo Chúa Giêsu lên đồi Canvê tham dự vào hy tế Thập Giá Cứu Độ.
Sự thực khi nhận ra Chúa biến hình các tông đồ đã cảm thấy hạnh phúc muốn ở bên Chúa mãi. Thánh Phêrô thưa rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng tôi xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Moisen, một cho Elia”. Trong đời sống chúng ta chắc cũng được ngất ngây tình Chúa trong các dịp đại lễ của Giáo Hội, nhất là trong các dịp xưng tội rước lễ lần đầu, thêm xức v.v. Nhưng chúng ta cũng phải tập sao cho lòng bên lòng với Chúa Kitô trong cả những cảnh huống đau thương da diết nhất của cuộc đời như thánh Phaolo nói: “Không gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu Chúa Kitô, dù gươm đao, đánh đòn, tù ngục v.v. Ngay cả trong tình người, chúng ta cũng phải vui buồn sướng khổ cho nhau trong tình bạn hữu, tình vợ chồng chẳng hạn. Lúc an nhàn cũng như lúc gian nan; lúc thịnh vượng cũng như lúc suy thoái; lúc tuổi thanh xuân cũng như lúc về già, khi mà chỉ còn “bộ xương cách trí” với “tấm da đồi mồi” và tọc tựa giải ngân hà phất phơ.
Cuối cùng chúng ta phải từ bỏ tội lỗi, dục vọng xấu xa để Thiên Chúa biến hình ở nơi chính thân xác và linh hồn của mình. Chắc rằng lúc đó chúng ta sẽ được sung sướng hạnh phúc từ nội tâm. Từ đó chúng ta sẽ dễ nhận ra được hình ảnh Thiên Chúa biến hình nơi tha nhân, nơi các vị đạo đức thánh thiện, nơi những tha nhân xấu số mà chúng ta cần nâng đỡ về tinh thần và vật chất đang bơ vơ khắp nẻo đường trần gian.
Câu chuyện được viết sau khi Đức Giêsu Phục sinh vinh quang, đã đuợc tin vững vàng, đã được rao giảng rộng rãi và cũng để củng cố đức tin của các tín hữu.
Để hé mở cho biết từ từ về chính mình Đức Giêsu bắt đầu bằng câu hỏi: người ta nói Thầy là ai? Phêrô đã đáp đúng: Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa. Nhưng mọi người chưa hiểu đúng mặc dù Người đã giải thích bằng "loan báo sự thương khó". Đấng Kitô phải chịu đau khổ nhiều, bị giết chết, ngày thứ ba mới sống lại vinh quang, Nhưng người ta sợ sự thương khó nên sự sống lại vinh quang bị che khuất mắt họ. Đức Giêsu cho ba môn đệ thân tín nhất thấy trước trong chốc lát sự sống lại vinh quang mong các ông hiểu mà tin và giúp người khác tin: Người biến hình vinh quang.
Vài điểm CHÚ GIẢI
- Sáu ngày sau: không phải ngày thứ sáu mà là ngày trước ngày sa bát, là ngày cuối, ngày sống lại.
- Đức Giêsu đem Phêrô, Giacôbê và Gioan di theo mình: Ba môn đệ thân tín nhất, sẽ có mặt trong giờ Đức Giêsu hấp hối. Thân tín, đi theo là điều kiện khởi đầu để thấy sự biến hình vinh quang.
- Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi: Điều kiện tiếp theo là "đi riêng ra một chổ, chỉ mình các ông thôi" với Đức Giêsu. Không còn với ai hết, tách riêng ra khỏi những người khác chưa đủ điều kiện để được thấy.
- Tới một ngọn núi cao: Núi nào? Chỉ một nơi riêng biệt dành cho những việc quan trọng nhất. Trong văn chương Do thái những điều trọng đại thì được xảy ra trên núi. Núi: quan trọng bậc nhất.
- Rồi Người biến hình trước mắt các ông: Thiên tính tiềm ẩn trong Đức Giêsu hiển lộ ra.
- Y phục người trở nên rực rỡ trắng tinh, không thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy: Chưa có ngôn ngử để diển tả đúng thực tế siêu nghiệm nầy, đành phải dùng những từ ngữ có sẳn dù không cân xứng. Con người được nhìn thấy qua y phục.
- Ông Êlia và ông Môsê hiện đến đàm đạo với người: Êlia trước Môsê vì đi ngược từ Đức Giêsu . Lịch sử được tính từ Đức Giêsu vế trước cũng như về sau. Êlia là các tiên tri, Môsê là lề luật. Cả hai là Cựu Ước. Bàn giao Cựu Ước cho Đức Giêsu để Người lập ra Tân Ước.
- Thưa Thầy được ở đây thì tốt lắm: ở đây là hiện tại vinh quang mà các ông thấy. Là cách diễn tả đơn sơ nhất về visio beatifica (phúc kiến) hạnh phúc thiên đàng cũng là chính xác nhất. Ở đây tốt lắm: không thể tốt hơn nữa nên cũng không muốn đi đâu nữa. Hoàn toàn thoả mãn rồi.
- Chúng con xin làm ba lều: Trong cuộc Xuất Ai Cập Hòm bia Thiên Chúa tượng trưng cho sự hiện diện của vinh quang Thiên Chúa ở trong lều .
- Bỗng có một đám mây bao phủ các ông: Đám mây và tiếng phán từ trong đám mây là văn chương do thái tả sự hiện diện của Thiên Chúa. Đáp lại lời của Phêrô: Thiên Chúa không ở trong lều mà ở trong đám mây: Thiên Chúa ở trên trời. Không cần làm lều.
- Và từ đám mây có tiếng phán: Thiên Chúa ở trên trời, hiện diện trong đám mây. Có tiếng phán mới nhận ra có Thiên Chúa.
- Đây là Con Ta yêu dấu: Đức Giêsu của phép rửa đã biến hình vinh quang. Lời tuyên bố "Con Thiên Chúa" được hiện thực. Con Thiên Chúa đồng bản tính thì cũng có vinh quang như Thiên Chúa. Con yêu dấu "đẹp ý Cha hoàn toàn". Vâng ý Cha trong moi sự.
- Hãy vâng nghe lời Người: Xứng đáng được vâng lời, nghe lời. Là điều kiện cuối cùng để chúng ta được "biến hình" hầu hưởng vinh quang như Đức Giêsu biến hình.
- Không thấy ai nữa chỉ con một mính Đức Giêsu: Môsê, Êlia thuộc thời kỳ quá độ đã bàn giao cho Đức Giêsu, Đấng được Thiên Chúa uỷ nhiệm làm Đấng cứu độ. Đức Giêsu mới cứu độ. Đi theo Người thì được cứu độ. Chỉ Đức Giêsu mà thôi. Ngoài Người không có ai khác.
Khi cho Con xuống thế làm người Thiên Chúa Cha dã vạch ra chương trình cuứ độ. Đức Giêsu phải hoàn thành mọi chi tiết thì mới được Thiên Chúa tôn phong là Đấng Cúư Độ và Chúa. Trên thập giá khi Đức Giêsu tuyên bố "đã hoàn tất" thì Người được Thiên Chúa cho sống lại vinh quang. Người đã mở ra con đường tới sự sống lại vinh quang cho loài người. Đó là con đường làm con Thiên Chúa. Thiên Chúa không muốn đường thập giá mà muốn đường "làm con". Đức Giêsu làm con yêu dấu của Thiên Chúa thì cũng được thông phần vinh quang của Thiên Chúa. Và tiếng Chúa Cha đã căn dặn "hãy nghe lời Người". Là điều kiện Chúa Cha đã đặt ra.
Phương tiện để thực hiện tốt điều kiện của Chúa Cha là đi theo Đức Giêsu trên con đường của Người: Được Đức Giêsu đem đi "theo", đi riêng, lên núi cao, nhất là nghe lời Ngưòi, chỉ một mình Đức Giêsu (không còn Môsê và Êlia, cũng không còn tiếng phán từ đám mây). Tóm lại phải làm sao để nghe lời Đức Giêsu tốt nhất. Có các dòng tu chiêm niệm tập trung học hỏi Kinh Thánh và cầu nguyện. Ngày nay người ta quan tâm tới "thực hành" nhiều hơn nên có những dòng tu hoạt động xã hội nhưng trên căn bản của LỜI. Lời là ý của Thiên Chúa. Đức Giêsu dạy cho chúng ta biết ý của Thiên Chúa để làm theo và được làm con như Người. Vâng ý Cha là làm con.
Lời Chúa mới biến hình chúng ta được. Lời được thực hành mới có kết quả.
Hôm nay, Chúa nhật thứ hai Mùa Chay, chúng ta được thánh sử Maccô trình bày về cuộc biến hình của Chúa Giêsu. Cuộc biến hình này mạc khải Thiên tính của Chúa Giêsu, đồng thời mạc khải con đường mà Chúa Giêsu phải đi. Đó cũng là con đường mà các môn đệ và tất cả chúng ta cũng phải đi qua.
Ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan đã ở với Chúa Giêsu hằng ngày, họ đã nhìn thấy Ngài, lắng nghe Ngài giảng dạy, chứng kiến những phép lạ Ngài làm, nhưng họ vẫn chưa thực sự nhận ra Ngài là ai, hôm nay họ mới nhìn thấy vinh quang của Con Thiên Chúa lần đầu tiên, và họ thật sự là hạnh phúc.
Thật thế, Thiên Chúa là tình yêu. Ngài vẫn từng phút từng giây đổ tràn tình yêu của Người vào đời sống chúng ta. Thánh Macco kể lại việc Chúa Giêsu cho ba môn đệ hôm nay lên núi cao để hiểu biết về Người hơn. Ngài đưa họ vào đời sống thâm sâu của Người. Đó là sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Sự sống này là tình yêu không ngừng trao ban và nhận lãnh. Tình yêu đó là nguồn mạch sự sống và nguồn mạch hạnh phúc. Sự sống và hạnh phúc ấy đổ tràn vào tâm hồn những ai đến sống thân mật với Chúa. Ai đã một lần nếm cảm hạnh phúc ấy rồi, vĩnh viễn không thể tách rời Thiên Chúa được nữa. Chính vì thế, sau khi nhìn ngắm dung nhan Đức Giêsu và sau khi nghe lời Chúa Cha nói: "Đây là Con Ta yêu dấu", Phêrô cảm nhận được niềm hạnh phúc ngập tràn đến độ muốn ở lại mãi mãi trên núi, không muốn trở uống nữa. Hay hai môn đệ Gioan và Anrê, sau một buổi chiều sống với Đức Giêsu đã quyết định đi theo làm môn đệ của Người. Thánh Phaolô sau khi được đưa lên tầng trời thứ ba đã mạnh dạn nói: "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô ? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo...? Không, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta".
Trên núi Tabor, cuộc biến hình của Chúa Giêsu cho chúng ta thêm xác tín " Chúa Giêsu chính là con yêu quý của Thiên Chúa". Người Con này vinh quang rực rỡ nhưng đã chẳng những bằng lòng mà còn vui lòng đi vào con đường khổ nạn và thập giá để mang ơn cứu độ cho mọi người. Người Con này đã hoàn toàn vâng phục theo thánh ý Thiên Chúa, dù phải trải qua con đường đau thương và khổ giá. Ngài chấp nhận đi con đường khổ giá và vâng phục cho đến chết trên cây thập giá để dẫn đưa nhân loại đi qua con đường thập giá này mà đến bến bờ vinh quang mai ngày. Và ba ông đã thấy vinh quang của Chúa Giêsu, ba ông được biết chương trình của Thiên Chúa, chương trình của Chúa đó là chương trình của tình yêu. Tình yêu này được minh chứng qua sự hy sinh; Chúa Cha, vì yêu thương ta, đã đành hy sinh Con Một yêu quý của Người. Ngài đã không dung tha cho chính con yêu quý của người nên Thánh Phaolo đã diễn tả: "Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một mình nhưng lại phó nộp vì tất cả chúng at, há Ngài lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với con của Ngài sao" (Rm 8, 32). Nếu Thiên Chúa đã ban cho Người Con Duy Nhất của Ngài thì Ngài còn tiếc gì chúng ta nữa. Còn phần Chúa Con, Ngài đã chấp nhận liều mạng sống như lời Người nói: "Không có tình yêu nào lớn lao bằng tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu". Chương trình tình yêu của Chúa để cứu chuộc ta được thực hiện qua sự đau khổ và cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu Kitô mặc dù là Thiên Chúa nhưng đã mặc lấy xác phàm, trở nên con người sống ở giữa loài người, chấp nhận hy sinh, chấp nhận từ bỏ tất cả để đi vào cuộc khổ nạn, nhằm mang ơn cứu rỗi chúng ta. Ngài đã hy sinh tất cả, hy sinh cả mạng sống mình để làm theo ý Chúa Cha. Vì thế, Ngài đã được Chúa Cha tôn vinh trên hết mọi loài, sau khi cho Ngài từ cõi chết sống lại.
Mầu nhiệm hy tế của Chúa Giêsu được thực hiện một lần cho đến muôn đời. Và hằng ngày hy tế thánh này vẫn được tái diễn nơi Thánh lễ mà linh mục cử hành. Khi tham dự Thánh Lễ là dấu hiệu và bằng chứng tình yêu của Chúa Giêsu Kitô, chúng ta bày tỏ lòng yêu mến Chúa, biết ơn Chúa và cố gắng sống đổi mới theo hướng tích cực hơn, góp phần làm cho thế giới này được biến đổi mang màu sắc và phẩm chất yêu thương, một tình yêu hiến mạng sống của Chúa Giêsu Kitô dành cho nhân loại.
Rồi đây ba môn đệ sẽ bước với Thầy Giêsu đi vào con đường đau khổ chết trên thập giá. Biến hình chỉ là một hào quang lóe lên ngắn ngủi, bất ngờ, báo trước vinh quang phục sinh sắp đến. Thân xác Chúa Giêsu sẽ được vào vinh quang viên mãn khi thân xác ấy chịu đóng đinh vì yêu mến Chúa cha và yêu thương nhân loại tột đỉnh. Chúa Giêsu Kitô đã chấp nhận đi vào con đường đau khổ, bước vào cái chết và tiến đến phục sinh vinh hiển để ban ơn thánh hóa và cứu chuộc con người. Theo dấu chân Chúa Giêsu đã đi qua, Hội thánh vẫn luôn tiếp tục hành trình đó nhằm mang ân sủng cứu độ con người bằng Thánh Lễ và các Bí tích. Do đó, ý thức được tình thương mà Thiên Chúa dành cho, chúng ta hãy tri ân Thiên Chúa và siêng năng đến lãnh nhận ân sủng từ Thánh Lễ và các Bí tích. Để làm được điều này, đòi buộc chúng ta đón nhận bằng tình yêu. Chấp nhận hy sinh thời giờ, công việc, các thú vui, danh lợi...trong cuộc sống.
Tiếp tục con đường Chúa Giêsu đã đi, chúng ta thấy Hội thánh và cụ thể là các vị Giáo sĩ, tu sĩ và những người có tâm hồn thành tâm thiện chí. Họ chấp nhận và bước theo Thầy Giêsu, đi con đường Ngài đi. Họ đã sống từ bỏ và đã hy sinh. Họ muốn làm theo ý Chúa và Hội Thánh. Con tim của họ tràn đầy yêu thương vì con tim này được tu luyện, bồi dưỡng bởi tình thương nhân từ của Thiên Chúa. Họ không quản ngại cho đi sức khỏe, thời gian, tuổi thanh xuân. Họ đã sống cho tình Chúa và cho tình người. Họ can đảm cho đi sứ mạng hữu hình và thiêng liêng. Dám sống quên mình cho đàn chiên vì sự sống và ơn cứu độ cho nhân loại. Hơn nữa, noi gương Chúa Giêsu, các vị kể trên đã yêu mến Thiên Chúa hết lòng, sẵn sàng bước theo Chúa Kitô, đi theo con đường Ngài đã đi, sống sứ mạng dấn thân cho sứ vụ. Dù gặp gian nan, thử thách, đau khổ và như con đường thập giá Chúa Giêsu đã đi qua, họ luôn tin vào Chúa Kitô, xác tín rằng mình cũng sẽ được phục sinh vinh hiển với Ngài. Như Chúa Giêsu, Chúa Cha là lẽ sống của Ngài thì chính Chúa Kitô cũng chính là lẽ sống của họ. Chính niềm tin phục sinh ấy giúp họ bắt đầu và bắt đầu lại, giúp họ tiếp tục rồi lại tiếp tục cuộc hành trình sống chúng nhân giữa đời trong sứ vụ của mình.Đồng thời chúng ta cũng nhận thấy họ cũng phải chiến đấu với ba thù. Chúng ta hãy biết ơn các vị Giáo sĩ và tu sĩ là những người mang đức tin và ơn cứu độ cho chúng ta. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban ơn cho họ trung thành bước theo con đường Chúa Giêsu đã đi với lòng tin, cậy và yêu mến Chúa mãnh liệt.
Mỗi người chúng ta cũng phải đi qua con đường khổ giá để bước vào vinh quang, bước đến tình yêu và sự sống đời đời mà Chúa sẽ ban tặng cho chúng ta.Vì thế, chúng ta hãy vui lòng đi trên con đường mà Chúa Giêsu và các bậc tiền nhân đã đi để được hưởng hạnh phúc với các ngài. Hơn nữa chúng ta tin rằng có Đấng ủng hộ chúng ta là Đấng đã đi trước mở đường cho chúng ta. Do đó, như Chúa Giêsu đã biến hình, chúng ta cũng sẽ được biến hình hằng ngày, biến đổi cả con người cũ kỹ, yêu hèn, tội lỗi của chúng ta nếu chúng ta dám từ bỏ lối sống ích kỷ, chấp nhận cuộc sống yêu thương tha nhân... Ngày nay có thể người ta không thấy Chúa biến hình nhưng họ sẽ cảm nghiệm phần nào khi thấy các người Công Giáo sống vui tươi, chan hòa tình người, tình yêu thương. Họ thấy được những người sống mãnh liệt vào niềm tin và hy vọng vào Chúa Kitô.
Là người Công giáo, chúng ta được tái sinh bởi Bí tích Rửa tội, nghĩa là chúng ta được chết cho con người cũ tội lỗi và sống cho con người phục sinh của Chúa Kitô. Người Công Giáo khi đó được gia nhập công đoàn Hội Thánh, được nuôi dưỡng Mình Máu Chúa và được tha thứ không ngừng để bước đi theo Chúa Giêsu trong Bí tích Giải tội. Mặt khác, chúng ta không ngừng nhận được các hồng ân khác hằng hằng ngày. Chúng ta hãy tri ân Chúa. Chúng ta hãy cám ơn Hội Thánh. Đồng thời chúng ta hãy mạnh dạn bước theo con đường Chúa Giêsu đã đi, chúng ta chấp nhận vượt qua khó khăn vất vả trong cuộc sống, chúng ta chấp nhận hy sinh hằng ngày để làm sáng danh Chúa, để đi con đường Ngài đi. Chúng ta hãy sống thân mật và gắn bó với Chúa Giêsu. Chúng ta nhận ra con người chúng ta là hồng ân Thiên Chúa ban tặng.
Khi đã biết những sự thật về Chúa và về bản thân, chúng ta sẽ có một cái nhìn khác về con người và thế giới. Ta sẽ nhìn mọi người bằng ánh mắt của Thiên Chúa. Ta sẽ nhìn thế giới như thể nó đã được biến hình trong Chúa Giêsu. Ta sẽ nhìn thấy tình yêu Chúa dành cho mỗi người. Mỗi người đều là kết quả của tình yêu cứu độ của Chúa. Ta cũng sẽ nhìn thấy con đường mình phải đi là con đường thánh giá. Chính những đau khổ sẽ thanh luyện, giúp ta nên tinh tuyền để càng ngày càng gần gũi thân mật với Chúa hơn, để can đảm đi theo con đường đau khổ và phục sinh mà Chúa Kitô đã đi trong niềm tin và lòng mến chứa chan.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con nhận ra tình yêu thương mà Chúa dành cho chúng con. Đồng thời xin cho chúng con can đảm bước theo con đường mà Chúa đã đi với lòng tín thác thật sự và lòng yêu mến nồng nàn. Amen.
Trong cuộc sống đời thường, ai cũng muốn cho mình được sung sướng, hạnh phúc. Thế mà anh chị em nhìn thấy hằng ngày, biết bao nhiêu người luôn tìm sự cực khổ, họ lam lủ suốt ngày, tay lắm chân bùn, vất vả với bao công việc nặng nhọc. Có người không có thì giờ nghĩ ngơi. Trong số đó có cả chúng ta, là những người đang ngồi trong nhà thờ đây. Như vậy tất cả mọi người không biết tìm hạnh phúc, không biết sống sung sướng sao ? Hay mọi người bị một thế lực nào ép buộc phải làm như thế ? - Thưa chính vì muốn tìm đời sống hạnh phúc, muốn tìm sự sung sướng mà con người phải tìm sự vất vả, cực nhọc như thế. Mới nhìn tưởng chừng như đó là một nghịch lý. Nhưng thực sự đó là một chân lý ngàn đời mà ai cũng đều biết. Muốn có được hạnh phúc thì phải biết chuẩn bị, chuẩn bị từ những đau khổ, từ những vất vả của cuộc sống. Nếu nằm không đó mà chờ thì hạnh phúc sẽ không bao giờ đến được.
Lạy Thầy chúng con được ở đây thì tốt lắm! Lời nói của Phêrô thốt lên cách vui sướng, nhưng ông không biết mình đã nói gì, vì Thiên Chúa đã cắt ngang tư tưởng của ông. Chúa Giêsu đã dẫn các ông từ dưới lên núi cao. Ngài cho các ông nhìn thấy và hưởng được một chút hạnh phúc của cuộc sống mai sau. Các ông muốn ở lại trong hạnh phúc đó, hạnh phúc mà các ông không cần phải chuẩn bị, không cần phải tìm kiếm, không cần phải vất vả. Các ông vui sướng, niềm vui sướng đó khiến các ông bật thành tiếng. Nhưng các ông không nói được hết lời, sự vui sướng cũng không còn nữa, các ông lặng thinh trong sự tiếc nuối. Chúa Giêsu lại dẫn các ông trở xuống, không cho ở trên cao nữa, trở về cuộc sống đời thường, cuộc sống của sự chuẩn bị cho chu đáo để đến hạnh phúc bất diệt, hạnh phúc chỉ để cho những người biết chuẩn bị.
Lạy thầy chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nhiều lần trong đời sống chúng ta cũng đã thốt lên câu đó. Cũng nhiều lần niềm vui của chúng ta không được trọn vẹn, bị cắt ngang nữa chừng và chúng ta cũng không biết mình đang làm gì. Điều mình muốn , điều mình đang tận hưởng, điều mình đang hài lòng thì bổng nhiên không còn nữa. Hằng ngày lại xuất hiện toàn những nghịch lý của cuộc đời: những điều làm cho mình phải vất vã khó chịu, những điều làm cho thân xác phải khổ nhọc, những điều làm cho mình phải đau đớn. Chúng ta chỉ biết bực mình, than van trách phiền, đôi lúc chúng ta muốn trốn chạy để tìm sự sung sướng hơn. Có khi nào chúng ta tự nghĩ: đây là lúc chúng ta đang đi xuống núi, trở về cuộc sống đời thường, đây là lúc chúng ta đang chuẩn bị cho hạnh phúc của chính mình, niềm hạnh phúc mà không ai có thể lấy đi được. Hay chúng ta vẫn còn đang mơ ước ở trên núi cao, để rồi không biết mình đang nói gì. Vì chúng ta đang muốn chiếm lấy một điều không có thực, muốn chiếm lấy một điều không phải của chính mình, chúng ta muốn chiếm lấy một niềm hạnh phúc, một sự sung sướng mà không cần sự chuẩn bị nào hết. Cũng giống như Phêrô muốn dựng lều ở trên núi, muốn ở luôn lại nơi không phải của mình. Nhưng Thiên Chúa lại đem chúng ta trở về cuộc sống thực tại của con người, một cuộc sống đời thường. Chúng ta có mất mát gì đâu, tại sao lại buồn bực khó chịu, tại sao lại trách móc kêu ca. Nếu chúng ta không biết chuẩn bị, thì làm sao có thể đón nhận hạnh phúc khi Con Người từ cỏi chết sống lại. Chúng ta có chu toàn trách nhiệm mình một cách tốt đẹp, chúng ta có làm tròn bổn phận của mình đối với Chúa chưa ? Mọi người nhìn vào đời sống của chúng ta, họ có thể bắt chước được một chút gương tốt nào nơi chúng ta không. Nều chúng ta làm được những điều trên, đó là chúng ta đã vâng lời, nắm tay Chúa Giêsu và đi xuống núi với Ngài để chuẩn bị hưởng hạnh phúc ngay từ những giây phút hiện tại này thật tốt đẹp.
Xin Chúa cho chúng con biết chấp nhận cuộc sống hiện tại với những vui buồn sướng khổ theo Thánh ý Chúa, để biết chuẩn bị cuộc sống mai sau cho xứng đáng.
Khi nói biến hình, người ta nghĩ ngay đến việc thay đổi hình dạng từ trạng thái này sang trạng thái khác. Bài Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại việc biến hình của Chúa Giêsu, nhưng Ngài không biến thành một người khác. Chúa Giêsu biến hình để củng cố niềm tin cho các tông đồ và đồng thời chuẩn bị cho các ông có thể đón nhận việc Chúa Giêsu chịu đau khổ và chịu chết.
Có lẽ ai trong chúng ta cũng biết nhân vật Tề Thiên Đại Thánh trong phim "Tây Du Ký" với 72 phép thần thông. Ngộ Không có thể thổi phù một cái là lập tức trở thành người khác. Điều này diễn tả quan niệm thông thường của con người: biến hình là trở thành một người khác hay ít ra cũng là mượn hình dạng của ai đó.
Nếu hiểu như thế thì chúng ta luôn biến hình đổi dạng trong từng giây từng phút mà chúng ta không biết. Trước tiên, chúng ta có khuynh hướng muốn biến hình thành người khác. Chẳng hạn, tôi muốn giống ngôi sao ca nhạc, điện ảnh HôngKông, Hàn Quốc, nên tôi ăn mặc y chang họ từ tóc tai, quần áo cho đến đồ trang sức của ngôi sao ấy sử dụng. Chính lúc này tôi không còn là tôi nữa mà là cái bóng của thần tượng đó. Chúa Giêsu mời gọi ta biến hình giống như Ngài, tức là làm cho hình ảnh của Thiên Chúa nơi tôi được sáng ngời, trở nên đẹp hơn, để người khác nhìn vào cuộc sống tôi sẽ thấy được Thiên Chúa.
Kế đến, biến hình là chúng ta làm cho mình xấu đi. Chẳng hạn, tôi đua đòi ăn chơi, xì ke ma túy, chạy theo thú vui xác thịt. Ai cũng có những ước mơ vươn tới một cái đẹp, cái tốt. Tại sao tôi lại biến mình xấu đi? Chúa Giêsu mong tôi biến đổi nên giống như Thiên Chúa: thánh thiện, đạo đức.
Vậy để biến đổi theo lời mời gọi của Chúa Giêsu, thiết nghĩ chỉ có CẦU NGUYỆN, vì chính lúc ấy chúng ta gặp được Chúa và Ngài sẽ thay đổi chúng ta. Vì thế, chúng ta hãy sốt sắng cầu nguyện ở mọi nơi, mọi lúc, cố gắng biến đổi đời sống hằng ngày: ai rượu chè, cờ bạc, gain lận hãy dứt khoát với những tính xấu của mình, chăm chỉ làm ăn bằng sức lao động của hai bàn tay mình. Ai nguội lạnh, khô đạo hãy trở về với Chúa. Những ai giận hờn, xích mích nhau hãy làm hòa với nhau. Hãy biến ánh mắt ganh tỵ thành cảm thông, lời nói chua cay thành dịu dàng, lời nói phê bình thành lời xây dựng, con tim hận thù thành yêu thương.
Ước gì từng giây từng phút trong cuộc đời chúng ta là từng giây phút biến đổi theo hướng tốt hơn, trở về với con người thật của mình là hình ảnh Thiên Chúa, để hình ảnh ấy ngày càng rõ nét hơn. Thánh lễ hôm nay chúng ta cầu nguyện cho nhau, xin Chúa cho mỗi người đều được biến đổi thật sự trong Mùa Chay này, để khi tiếp xúc với ta, mọi người phải thốt lên rằng: "Thật là hạnh phúc cho tôi, vì tôi đã gặp được Chúa Kitô nơi anh, nơi chị".
CÂU HỎI GỢI Ý:
Một số bạn trẻ bỏ rất nhiều tiền để sửa sang sắc đẹp và chạy theo mốt. Bạn nghĩ gì về tương quan giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp trong tâm hồn con người? Cầu nguyện có thể làm con người "biến hình". Bạn có tin điều đó không? Bạn có quen ai đã biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện không?
Năm nào cũng vậy, cứ đúng vào ngày Chúa nhật thứ hai Mùa chay, là Giáo hội cho chúng ta đọc lại câu chuyện Đức Giêsu biến hình trên núi Ta-bor. Sự kiện này xảy ra sau khi Đức Giêsu tiết lộ cho các môn đệ của mình biết về chương trình mà Đấng Kitô con Thiên Chúa, sẽ phải thực hiện để mang lại ơn cứu rỗi cho tất cả mọi người. Sự kiện ấy được Thánh Marcô thuật lại như thế này: Cũng như mọi khi, Đức Giêsu vẫn thường lên núi cầu nguyện. Thế nhưng lần này, Người đem theo ba đồ đệ thân tín nhất của mình, đó là Phêrô, Gioan và Giacôbê. Đang khi cầu nguyện thì dung mạo của Người biến đổi khác thường: Khuôn mặt sáng chói như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết, trắng đến độ mà không có một thợ giặt nào trên trần gian này có thể làm được như thế. Đồng thời, bên cạnh Người còn có hai nhân vật nổi tiếng thời Cựu ước là Môisen và Elia. Hai vị này cũng sáng láng vinh hiển giống như vậy. Phêrô và hai môn đệ kia nhìn thấy cảnh tượng này thì lấy làm vui mừng sung sướng: "Lạy Thầy! Nếu chúng con được ở mãi tại nơi này thì tốt quá". Thế nhưng Đức Giêsu đã bác bỏ lời đề nghị ấy; Bởi vì Người còn phải trở xuống núi để hoàn tất con đường mà Người đã khởi sự từ lúc nhập thể đi vào cuộc đời này.
Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao Chúa Giêsu muốn thực hiện cuộc hiển dung có thể nói là đầy ngoạn mục như thế trước mặt các môn đệ của mình ? Đọc lại những đoạn Phúc âm trước đó, chúng ta sẽ nhìn thấy dược hai lý do này. Trước hết là không chỉ riêng gì mười hai môn đệ, mà hầu hết những người Do thái lúc bấy giờ, đều không nhận ra, hay đúng hơn là không muốn nhận ra Đức Giêsu là Con thiên Chúa, là Thiên Chúa thật ; Mặc dù họ đã nghe không biết là bao nhiêu những điều hay lẽ phải, đã chứng kiến rất nhiều những phép lạ mà Người đã làm. Chính vì thế mà hôm nay đây, qua sự kiện này, Chúa muốn cho họ, ít ra là những môn đệ của mình, nhìn thấy được sự thật về Người. Người chính là Thiên Chúa thật, đang muốn đưa tay cứu vớt mọi người, chứ không phải là Elia, Giêrêmia hay bất kỳ một vị tiên tri nào khác.
Lý do thứ hai là qua sự kiện này, chúa muốn củng cố niềm tin cho các đồ đệ của mình. Theo Chúa bấy lâu nay, dường như các ông muốn mình đạt được một cái gì đó để làm rạng rỡ gia đình dòng họ. Chính vì thế mà liền sau khi Đức Giêsu tiên báo về cuộc khổ nạn mà Người sắp phải chịu, thì Phêrô như thể là thay mặt cho anh em nhóm mười hai của mình, ngăn cản Chúa Giêsu. Các ông hoàn toàn không muốn Thầy của mình phải bước vào con đường đó; Bởi vì đó là con đường của đau khổ, con đường của thất bại. Và nếu như Chúa Giêsu thất bại, thì cũng có nghĩa là những ước mơ, những hy vọng của họ bị tiêu tan. Hiểu được tâm trạng đó, Chúa Giêsu mang họ lên núi, tỏ cho họ thấy một chút vinh quang để cho họ hiểu được rằng: Muốn đạt tới vinh quang, thì phải đi trên con đường thập giá. Muốn có được hạnh phúc, thì phải bước qua con đường của sự đau khổ. Không muốn bước trên con đường thập giá, ngại ngùng đi trên đường đau khổ, thì Chúa Giêsu đã nói trước: "không thể làm môn đệ Ta được".
Thưa anh chị em! Sống trong kiếp làm người, ai ai cũng đã từng có những niềm vui, có những hạnh phúc bất ngờ; Nhưng rồi cũng không thiếu vắng những nỗi buồn đau xót, những gian nan khổ cực, những điều mà mình phải đón nhận bằng cay đắng xót xa, bằng tủi buồn nhục nhã. Nói khác đi là đau khổ gắn liền với thân phận của con người, nên người ta mới có câu: "Hữu sinh hữu khổ" là như thế. Chúa Giêsu đến trần gian này không phải là để cất đi những đau khổ đó. Và cũng vậy, việc chúng ta sống làm con cái Chúa, cũng chẳng phải là để miễn chuẩn cho mình thoát khỏi những vất vã nhọc nhằn trong cuộc sống hiện tại. Nếu như năm xưa, Chúa đã khích lệ Phêrô và các môn đệ của mình, hãy mạnh dạn bước trên con thập giá để trở thành nhân chứng phúc âm cho Người, thì hôm nay, Người cũng mở ra cho chúng ta một niềm tin vững mạnh, một niềm hy vọng sâu sắc khi chúng ta phải đối diện với những nghịch cảnh, với những gian nan trắc trở trong cuộc sống đời thường. Nghĩa là chúng ta cũng sẽ được vinh hiển sáng láng giống như Chúa khi mình sẵn sàng vác lấy thập giá của cuộc đời mình mà trung thành bước theo Chúa trong đời sống đạo hàng ngày.
Tất cả chúng ta đều biết rằng: Đau khổ tự nó là một điều xấu và không có giá trị gì cả. Tuy nhiên, điều làm cho những đau khổ trở thành ích lợi cho mình chính là cách thức mà chúng ta xử lý nó. Chúng ta chối bỏ trốn tránh nó, nó sẽ trở nên chua chát nặng nề hơn. Còn ngược lại, chúng ta đối diện với nó như thể nó là một phận của đời sống mình, thì nó sẽ trở nên nhẹ nhàng và làm cho mình khiêm tốn và khôn ngoan hơn. Ước mong rằng: Mỗi Thánh lễ mà chúng ta tham dự, đều thật sự là một cuộc lên núi với Chúa, để nhờ đó mà chúng ta có đủ sức mạnh sống trọn vẹn cuộc đời Kitô hữu của mình. Chúng ta nên nhớ rằng: Mỗi người một thập giá và mỗi ngày một thập giá, nhưng không có một thập giá nào nặng hơn đôi vai của chúng ta; Đó là điều mà Chúa đã trả lời với Phaolô khi ngài than vãn về những khốn khó trong cuộc đời của mình: "Ơn Ta đủ cho con". Và thưa anh chị em! Sẵn lòng đón nhận những đắng cay khổ nhọc trong cuộc đời như là một thập giá riêng của mình, đó chính là một trong những phương cách hữu hiệu để chúng ta sống tinh thần của Mùa chay thánh này.
1. Biến cố hiển dung trong đoạn Phúc Âm chúng ta vừa nghe, hé mở trước vinh quang thật của Chúa, về phương diện nào đó thiết nghĩ để củng cố niềm tin cho các Tông đồ. Bởi 6 ngày trước đây, theo Phúc Âm Mátthêu và Máccô (còn Lc thì 8 ngày), ĐG báo cho các ông biết rằng Người sắp dẫn các ông lên Giêrusalem, ở đó Người sẽ bị đánh đập và bị giết chết, và những ai muốn làm môn đệ Chúa thì cũng phải vác thập giá mình mà theo Chúa, điều này đang làm cho các ông hoang mang, lo sợ. Chính Phêrô ngăn cản Chúa đừng đi vào con đường đau khổ này.
2. Đang lúc các ông trong tâm trạng bất ổn đó, ĐG dẫn các ông lên núi cao, chính nơi đây trước mặt hai nhân vật nổi danh của Cựu Ước: Môisen và Êlia đại diện cho Lề Luật và các tiên tri. Việc này như báo rằng thời Cựu Ước đã hết, thời Đức Giêsu, thời Tân Ước bắt đầu. Chính Chúa Cha xác nhận ĐG là con yêu dấu, và bảo hãy vâng nghe lời Ngài. Trước cảnh vinh quang của Đức Giêsu, Phêrô và các Tông đồ xin được kéo dài điều ấy: Vì vậy, các ông xin làm ba lều (1 cho Chúa, 1 cho Môisen, và 1 cho Elia). Điều này có ý nghĩa gì ? Thưa các ông muốn khai mạc thánh đô ngay tại đây, các ông muốn lưu lại trong lễ hội vinh quang, các ông không muốn xuống núi. Nhưng cảnh ấy chỉ được Chúa cho diễn ra cách ngắn ngủi. ĐG và các Tông đồ lại xuống núi, lại tiếp tục công việc vất vả loan truyền Nước Chúa.
3. Phải chăng, chúng ta hôm nay cũng như các Tông đồ xưa, bước theo Chúa để chỉ muốn được những điều thuận lợi, mà khước từ những khó khăn, những hy sinh? Ước vọng của các Tông đồ, hay ước vọng của chúng ta bước theo Chúa để tìm được hạnh phúc thật, đó là điều đúng, chính đáng. Nhưng chúng ta đừng quên rằng, Đức Kitô đã phải trải qua khổ nạn mới được phục sinh, mới được suy tôn trong vinh quang sao? Người Kitô hữu cũng được mời gọi đi theo con đường ấy, chính ĐG nói: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo" (MC 9,34).
Khi nói tới vác thập giá của mình, ta thường nghĩ: Thầy Giêsu có những đau khổ, và mỗi người ai cũng có cái khổ riêng. Điều đó không sai, nhưng chúng ta nên hiểu đúng hơn, đó là khi bước theo Chúa thì phải chấp nhận những cái khó khăn do việc theo Chúa mang lại: như phải tuân giữ những điều Ngài dạy, nghĩa là chấp nhận những hy sinh, vất vã của việc giữ đạo, sống đạo, từ bỏ con người cũ... Đôi khi còn phải hy sinh cả mạng sống (như thời kỳ cấm cách). Đây là con đường hẹp, con đường thập giá, nhưng là con đường dẫn đến hạnh phúc thật.
4. Muốn đạt tới vinh quang, hẳn phải trải qua con đường thập giá đó cũng là điều dễ hiểu thôi. Chẳng hạn như các bạn trẻ muốn có một nghề nghiệp, một bằng cấp đại học, các bạn cũng biết rằng phải đầu tư, phải hy sinh cho việc học hành như thế nào? Các bậc gia trưởng, hiền mẫu nhìn lại xem, để có một cơ ngơi, một mái ấm gia đình như hôm nay hẳn quý ông bà phải hy sinh, vất vả để xây dựng như thế nào? v.v. Cũng vậy, để được phúc trường sinh, mọi người chúng ta cũng phải hy sinh, cũng phải chịu cực khổ để bước theo Chúa, nghĩa là phải sống đạo, chứ không phải khi lãnh nhận BT Rửa tội là đương nhiên sẽ được phúc Thiên Đàng.
5. Có thể nói thập giá là biểu tượng của Kitô giáo, ở đâu có Kitô hữu, ở đó có thập giá: trên nóc nhà thờ, trên cổng nhà, trên người, trên mộ, nhưng thập giá được trưng bày như thế không bao giờ quan trọng cho bằng thập giá trong cuộc sống hằng ngày: thập giá khi nỗ lực chu toàn bổn phận, khi quên mình đi để quan tâm tới người khác, khi nói tiếng "không" với những gì đi ngược lại với những giá trị Phúc Âm. Thập giá không là điểm kết của Đức Giêsu, mà qua thập giá Ngài mới đạt đến Phục Sinh vinh hiển. Vì thế những hy sinh, những cố gắng của chúng ta hôm nay làm vì danh Đức Giêsu, là thập giá, là chìa khoá để mở cửa vào Thiên Quốc ngày sau với Ngài.
6. Bầu khí mùa chay rất thuận lợi cho việc chúng ta bước vào con đường thập giá của ĐKT. Thế nhưng hơn 10 ngày của mùa chay năm nay đã qua, mỗi người chúng ta hãy nhìn lại để xem mình đã bước theo Chúa được đến đâu ? Mình giống Chúa được đến đâu ? Chúng ta cũng nhớ rằng, chúng ta không chỉ bước theo Chúa trong mùa chay, mà còn bước theo Chúa trong suốt cuộc đời nữa.
7. Vinh quang mà Phêrô, Giacôbê và Gioan được cảm nếm trong khi Chúa biến hình, vinh quang của Đức Kitô Phục sinh cũng sẽ là vinh quang của chúng ta mai ngày, nếu chúng ta trung thành bước theo Chúa, và chấp nhận những khó khăn do việc bước theo Chúa mang lại. Nhưng liệu vinh quang ấy có đủ sức hấp dẫn để giúp chúng ta vượt qua mọi thử thách, mọi cám dỗ, mọi cạm bẫy trong cuộc đời để đi trọn con đường mà Chúa mời gọi chúng ta đi vào hay không ?
Sau khi tiên báo mình phải đi vào cuộc thương khó, phải chịu nạn chịu chết, Chúa Giêsu nhận thấy các môn đệ của Ngài băn khoăn không hiểu "tại sao Thầy mình lại phải như thế ?" Để an ủi các môn đệ, Chúa Giêsu dẫn các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình lên núi và Ngài tỏ cho các ông thấy vinh quang của Ngài để củng cố niềm tin cho các ông. Ở đó Chúa Giêsu biến đổi hình dạng, y phục Người trở nên rực rỡ trắng tinh, làm cho các môn đệ phải một phen kinh hoàng vì sự lạ lùng đang diễn ra trước mắt. Nhưng sự lạ lùng này không làm cho các ông kinh hãi, sợ sệt; ngược lại làm cho các ông thích thú vô cùng và muốn được ở như thế mãi mãi nên thốt lên "Thưa Thầy chúng con ở đây thì thật là hay". Hơn thế nữa, các ông còn muốn định cư luôn ở đó để được chiêm ngắm Chúa mãi, không hề muốn rời xa tình trạng ấy, nên xin dựng ba lều một cho Thầy, một cho Môsê và một cho Êlia.
Chúa Giêsu biến hình để trở về tình trạng Thiên Chúa của Người. Hình dạng đó làm cho các môn đệ không muốn lìa xa nữa, các ông không còn bận tâm điều gì nữa, chỉ muốn chiêm ngưỡng mãi mãi hình ảnh mà các ông đã thấy nơi Thầy của mình. Chúng ta có thế nói rằng các môn đệ này đã được "lên thiên đàng" khi các ông còn đang sống. Các ông hết sức sung sướng chiêm ngưỡng vinh quang của Chúa, không muốn xa rời nữa. Điều này làm cho các ông hạnh phúc vô cùng không còn tha thiết với môt điều gì khác ngoài Chúa. Giờ đây mọi sự trong thế không còn ý nghĩa gì nữa đối với các ông.
Mỗi ngày các môn đệ đều ở với Chúa Giêsu, cùng ăn với Chúa Giêsu, cùng nghe Chúa Giêsu giảng dạy, cùng hoạt động với Chúa Giêsu, có lẻ những bận rộn ấy đã che mắt các ông làm cho các ông không thể nào nhận ra vinh quang của Chúa Giêsu. Hôm nay Chúa Giêsu tách các ông ra khỏi những bận rộn và lo toan của cuộc sống đời thường để tỏ cho các ông thấy vinh quang vốn có của Ngài. Điều này làm cho các ông hạnh phúc vô cùng. Đó là một thứ hạnh phúc lấp đầy mọi khao khát của con người. Đây cũng là dịp để chúng ta hiểu thêm về hạnh phúc thiên đàng mai sau. Ở đó chúng ta sẽ được hạnh phúc tràn đầy và không còn ước ao một điều gì khác nữa.
Trong cuộc sống thường ngày chúng ta có quá nhiều công việc phải lo, phải nghĩ, nào là cơm áo, gạo tiền, nào là danh vọng quyền thế, nào là những thú vui phù phiếm nhưng không kém phần hấp dẫn, nào là những thói hư tật xấu: bài bạc, rượu bia, quậy hoạn, du côn du đảng, phá làng phá xóm, nào là thói quen nói hành nói xấu người khác, # kiến chúng ta không còn nhớ tới Chúa, không còn giờ để gặp Chúa, không còn nhận ra tiếng nói của Chúa trong lương tâm mình nữa.
Mùa Chay là thời gian thích hợp để chúng ta quay về với Chúa, từ bỏ con người cũ tỗi lỗi xấu xa, để mặc lấy con người mới theo khuôn mẫu Chúa Kitô. Hãy gặp gỡ Chúa nhiều hơn qua các bí tích nhất là bí tích Thánh Thể và Giải tội, hãy dành thời gian để Chầu Thánh Thể nhiều hơn, cũng như gia tăng các việc lành phúc đức.
Xin Chúa giúp chúng ta nhận thấy rỏ thực trạng con người của mình hơn để dấn thân theo Chúa hơn. Gặp gỡ Chúa nhiều hơn sẽ kiến lương tâm chúng ta nhạy bén hơn với tiếng nói của Chúa trong tâm hồn chúng ta. Nhờ đó mỗi ngày chúng ta nên giống Chúa hơn, để Chúa ở đâu chúng ta cũng được ở đó với Người.
Vũ trụ chúng ta sống luôn biến đổi. Người sống vùng sa mạc nhận biết biến đổi rõ nhất là trong sa mạc. Sau một cơn bão thung lũng cát biến thành núi cát. Sức mạnh đó vượt ngoài tưởng tượng của loài người. Các khoa học gia có thể giải thích, đo lường, tìm hiểu nhưng bất lực không thể ngăn cản. Người sống vùng đồng bằng nhận biết biến đổi qua nước chảy trên sông. Người ta nói nước chảy đá mòn. Thực tế dân sống vùng sông ngòi biết nước chảy vài ba năm sông bị cạn dần, bờ sông bị mòn, lòng sông đã không mòn mà còn bị phù sa bù lấp làm lòng sông nông cạn. Biến đổi trong vũ trụ là điều không thể tránh. Cuộc sống đời người cũng có nhiều biến đổi theo từng giai đoạn. Từ trẻ thơ biến thành thiếu niên rồi thanh niên rồi trưởng thành, thành người lớn trước khi phải nhờ đến cây gậy chống bước đi, cụ ông, cụ bà. Mỗi một giai đoạn đều có thay đổi về cả vóc dáng lẫn tinh thần.
Tương tự như thế cuộc sống tâm linh cũng có những giai đoạn phát triển, thay đổi. Mỗi một giai đoạn giúp chúng ta biến thành con người khác. Cũng vóc dáng đó, cũng con người đó nhưng trong tâm hồn có biến đổi, có giao động, có dấu chỉ của thành hình. Thành hình như thế nào tuỳ thuộc vào chọn lựa lối sống của mỗi cá nhân.
Mừng kính lễ Chúa biến hình giúp chúng ta nhận biết con người trung tín theo Chúa không biến hình nhưng thành hình. Thành hình như thế nào chúng ta không thể khẳng định rõ ràng. Chúng ta chỉ biết qua hình ảnh nhận được trên núi thánh chúng ta mường tượng ra cuộc sống tương lai của người trung thành theo Chúa sẽ tương tự như hình ảnh trên núi thánh. Nhìn vào hình dạng biến đổi của Thầy để có cảm nghiệm là sẽ trở nên giống Thầy. Toàn thân sẽ trắng như tuyết, mặt mày sáng tươi và tinh thần đầy hoan lạc. Điều này tự mình không thể hoàn thành nhưng nhờ vào ơn Thầy ban cho. Kẻ tin theo Chúa được khai mở chút ít về cuộc sống tương lai nhờ các môn đệ được Chúa cho cảm nhận trên núi thánh. Con người trở nên trong sáng nhờ ánh sáng của Thầy chiếu dọi. Như mặt trăng sáng nhờ mặt trời, các môn đệ trung tín trở nên trong sáng nhờ ánh sáng mặt trời công chính là Đức Kitô chiếu toả.
Môn đệ không dám so với Thầy thì ít ra hình ảnh các tổ phụ cho biết các ngài cũng biến đổi như thế. Các ngài không so với Thầy, các ngài có được sự sáng nhờ Thầy ban cho, nhờ sống trung tín trong niềm tin. Niềm tin đây chính là ai tin vào Thầy cũng sẽ cảm nhận được sự sống mới nơi Thầy ban cho. Sự sống đó biến đổi con người bất toàn của ta trở nên tốt hơn, đẹp hơn, cao quí hơn, hoàn toàn hơn và cuối cùng trong sáng như tuyết. Đây là một cảm nghiệm, niềm hạnh phúc tuyệt vời mà trần thế không thể nào diễn tả. Các môn đệ đi theo Thầy được Thầy ưu đãi cho cảm nghiệm sự sống tương lai.
Các ngài được nhìn thấy tương lai đời mình hạnh phúc như hình ảnh trên núi thánh. Dù chỉ hé mở một chút đã khiến các ngài say mê, muốn buông bỏ mọi sự nơi trần thế, không còn quyến luyến chi. Trước khi thực sự bước vào cộc sống mới, cuộc sống thành hình đó các ngài phải xuống núi. Xuống núi không phải để tích trữ, thu góp. Xuống núi để chính thức từ bỏ, dứt khoát xa lìa những gì thuộc về trần thế. Mỗi một hành động tốt lành đều giúp ta trở nên trong sáng hơn, mỗi một cử chỉ bác ái, yêu thương đều biến ta trở nên tốt lành hơn. Chính những biến đổi hàng ngày trên thay hình đổi dạng cuộc sống của ta, giúp ta trở nên trong sáng hơn. Từ bỏ lối sống tự tạo để bước theo con đường Thầy đã đi qua, con đường Thầy dẫn đường, chỉ lối. Con đường từ bỏ dù chông gai, cay đắng cũng rất đáng từ bỏ, cố gắng, trung tín bước theo Thầy vì sau những vất vả, gian truân là ánh sáng ngập tràn. Sau những âu lo, phiền muộn là niềm vui vĩnh cửu. Sau những khổ đau là hạnh phúc tuyệt vời. Sau những xua đuổi, rượt bắt là tưng bừng chào đón, đàm đạo. Hình ảnh đám mây bao phủ chính là trở ngại ngăn cách lớn nhất cho những ai không thể dứt khoát từ bỏ. Chỉ khi nào vượt qua đám mây che phủ đó con người mới nhận biết chân giá trị của cuộc sống mai hậu đang đón chờ.
Chúng ta cầu xin tâm tình trong lòng luôn ấp ủ cảnh sống tươi sáng. Ước mong niềm hy vọng tươi sáng sẽ xoá tan mây mù, tăm tối.
Trong những năm tháng theo Chúa Giêsu, được Ngài đào tạo, hướng dẫn và làm phép lạ để chứng tỏ quyền năng, đồng thời củng cố lòng tin còn non yếu của các tông đồ.Chúa Giêsu đã minh chứng cho các tông đồ, cầu nguyện là điều cốt yếu trong đời sống làm môn đệ và truyền giáo. Chúa Giêsu thường chọn chỗ cao, chỗ hoang vu, vắng vẻ để cầu nguyện, khẩn nài và trò chuyện thân mật với Thiên Chúa Cha. Hôm nay, Chúa biến hình đổi dạng trước mặt ba môn đệ thân tín Phêrô, Giacôbê và Gioan...
Vâng, các ngọn núi vẫn là những điểm chúa Giêsu ưa thích, chọn làm nơi cầu nguyện. Càng ở nơi hoang vu, thanh vắng, Chúa Giêsu càng tỏ ra say mê cầu nguyện, trò chuyện với Chúa Cha. Một ngon núi, Chúa đã dùng dạy dỗ các môn đệ bài giảng nhớ đời. Núi Tabôrê hôm nay, Chúa biến hình trước ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan. Núi Sọ và núi Oliu, nơi Chúa Giêsu lên trời trước mặt các môn đệ sau khi Ngài sống lại và ở với các ông 40 đêm ngày. Ngọn đồi Canvê hay Gongotha là nơi Chúa Giêsu chịu chết để cứu chuộc nhân loại. Núi Tabôrê, nơi Chúa Giêsu biến hình chỉ là vinh quang thật đẹp, nhưng lại chỉ là bất ngờ và mau qua để củng cố đức tin của ba môn đệ thật thân tín, trước khi Ngài tỏ vinh quang viên mãn cho các môn đệ khi Ngài trở về Quê Trời, trở về Thiên Quốc...
Chúa Giêsu đã được Chúa Cha biến hình đổi dạng, sự biến hình làm thay đổi cả thân xác và khuôn mặt, cả thể lý của Chúa Giêsu. Nó còn ảnh hưởng đến cả y phục:áo quần của Chúa. Vinh quang của Chúa Giêsu mãi hôm nay mới được Chúa Cha vén mở cho các môn đệ để các ông tin vào Chúa Giêsu. Môsê khi xưa trên núi Sinai đã phải che mặt khi đối diện với Thiên Chúa. Ai gặp gỡ Chúa cũng được biến hình. Đời sống của người Kitô hữu khi kết hợp mật thiết với Chúa luôn được thay hình đổi dạng. Biến hình có nghĩa là trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa. Chúa muốn dạy các môn đệ, dạy chúng ta: " Biến hình đầu tiên là chịu đau khổ và sau đó sẽ được sống lại vinh quang ".Mầu nhiệm vượt qua luôn vang lên trong tâm trí mọi Kitô hữu suốt mùa chay này vì mầu nhiệm vượt qua là trung tâm của đời sống Kitô giáo và là trung tâm của phụng vụ thánh. Mọi Kitô hữu đều đã được rửa tội và mọi người được tham dự vào mầu nhiệm vượt qua của Chúa Giêsu.Bởi vì, Kitô hữu là ngườì được kết hiệp với cái chết của Chúa Giêsu và được phục sinh với Người trong đời sống mới.
Người Kitô hữu khi được rửa tội đã được bước vào một cuộc biến hình tiệm tiến và liên tục. Đời sống của người Kitô hữu là một cuộc lên núi như ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan và rồi lại trở về đời sống bình thường như các môn đệ. Đời sống của người Kitô hữu là đi con đường hẹp nghĩa lả cùng sống cuộc sống với Chúa, nhờ đó người Kitô hữu được biến hình đổi dạng với Người. Người Kitô hữu lên núi với Chúa để hưởng nếm sự dịu ngọt ngất ngây với Chúa trong sự biến hình với Người và cùng xuống núi với Chúa để sống phục vụ, yêu thương, chia sẻ với tha nhân, với mọi người. Nhờ hiệp thông mật thiết với Chúa, người Kitô hữu sẽ hiểu được thế nào là vác thập giá, thế nào là chịu đau khổ và thế nào là được sống lại với Chúa. Đời sống Kitô hữu sẽ giúp họ sống đức tin nghĩa là sống mầu nhiệm vượt qua: " Đức Kitô đầu tiên phải chịu đau khổ rồi Người sẽ đến trong vinh quang của sự sống lại " và như thế, sẽ làm cho người Kitô hữu được sung mãn trong sự sống trường sinh.
Đức tin có những lúc vững mạnh, nhưng cũng có lúc bị yếu kém. Tuy nhiên, nếu con người hay nói cách rõ hơn, chúng ta luôn trung thành với niềm tin. Thiên Chúa sẽ chúc phúc và ban cho chúng ta sự sống đời đời. Thánh Giacôbê đã viết: " Phúc cho ai bị thử thách mà vẫn trung thành, bởi vì khi thành công trong cơn thử thách như thế, người đó sẽ được Thiên Chúa ân thưởng bằng sự sống mà Thiên Chúa đã hứa cho những ai yêu mến Ngài " ( Gc 1, 12 ).
Tin Mừng của Chúa nhật II mùa chay cho chúng ta thấy rõ điều đó. Đức tin cũng giống như dòng đời, như cuộc sống, cũng có những lúc lên núi, có những lúc xuống núi, xuống đồng bằng. Khi ở trên cao chúng ta dễ dàng tin Chúa và yêu mến Chúa. Nhưng khi ở dưới núi, dưới đồi khi gặp thử thách gian nan, chúng ta khó lòng nhìn ra Chúa để yêu mến Người. Nhưng nếu chúng ta vẫn mãi trung thành với những thử thách, với những gian nguy mà cứ một niềm tin Chúa, bám chặt lấy Chúa, Thiên Chúa chắc chắn sẽ thưởng công cho chúng ta, Ngài sẽ ban cho chúng ta đời sống mà Ngài đã hứa cho những ai yêu mến Ngài.
Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con phải vâng nghe Con yêu dấu của Chúa; xin lấy lời hằng sống nuôi dưỡng đức tin của chúng con, nhờ vậy cặp mắt tâm hồn chúng con sẽ trong sáng để nhìn thấy vinh quang Chúa tỏ hiện trong cuộc đời chúng con. Amen.
Tình yêu, hai tiếng thân quen mà rất khó diễn đạt. Chuyện cũng thường tình vì nhiều thi nhân đã từng hỏi: đố ai biết chữ tình là chữ chi chi ? Mùa chay là mùa đặc biệt mời gọi đoàn tín hữu hoán cải ăn năn. Ăn năn hoán cải, không nguyên chỉ vì thấy sự xấu xa của kiếp tội đòi mà còn vì cảm nhận mối tình bao la mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Thấy sự xấu xa và bi đát của thân phận tội lỗi của bản thân, để rồi quay bước trở về là điều chính đáng và hợp lý, nhưng chưa hẳn là sâu xa và lâu bền. Một sự hoán cải, trở về dựa trên niềm xác tín vào tình yêu của Thiên Chúa mới thực sự là bền vững và sâu xa hơn nhiều. Giáo lý Công giáo đề cập đến hiện thực này khi phân biệt hai hình thức ăn năn tội đó là ăn năn tội vì Chúa và ăn năn tội vì mình, hay nói cách khác là ăn năn tội cách trọn và ăn năn tội cách chẳng trọn. Để góp phần giúp chúng ta trở về cách trọn hảo hơn, xin được chiêm ngắm tình yêu của Thiên Chúa qua các bài đọc của Chúa Nhật II Mùa Chay B này.
Yêu mến ai thì không chỉ muốn mà còn tìm mọi cách thế để hiến dâng điều tốt nhất của mình cho người mình yêu.. " Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Isaac, hãy đi đến xứ Môrigia mà dâng nó làm của lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho" ( St 22, 2 ). Được hiểu như là lệnh truyền của Thiên Chúa, nhưng đó chính là tấm lòng của Abraham dành cho Đấng đã kêu gọi ông ra khỏi nơi quê cha đất tổ mà tiến về hứa địa. Dù băn khoăn, đau xót, nhưng Abraham vẫn muốn hiến dâng điều tốt nhất của mình là chính sự sống nối dài của mình, qua người con một.
Tình yêu thật diệu kỳ. Chính khi trao dâng là lúc lãnh nhận và lãnh nhận gấp trăm, gấp nghìn lần. Abraham đã không mất người con một yêu quý, mà đã trở thành cha của một đoàn con đông đảo "như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển". Tình yêu thật diệu kỳ, vì Thiên Chúa là Tình Yêu ( 1Ga 4,8 ). Là Đấng phải được mọi vật mọi loài tôn thờ và chúc tụng, là Đấng đáng được mọi người thần phục mến yêu và hiến dâng tất cả, thì Thiên Chúa lại trao ban tất cả cho chúng ta. Thánh Tông đồ dân ngoại đã luận lý rằng: Một khi Thiên Chúa đã ban chính Con Một cho chúng ta thì lẽ nào Người lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta ? ( x. Rm 8,32 ).
Các Tin Mừng Nhất Lãm đều tường thuật sự kiện Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabôrê. Có Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Người. Nội dung đàm đạo là về cuộc khổ nạn mà Chúa Giêsu sắp chịu tại Giêrusalem. Và đó chính là đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại. Vì không có tình yêu nào cao quý cho bằng mối tình của người hiến dâng mạng sống vì người mình yêu ( x. Ga 15,13 ). Đây không phải là một tình cảm nhất thời mang tính tự phát, nhưng là một ý đinh có từ ngàn đời qua một chương trình được chuẩn bị từ ngàn xưa, mà sự hiện diện của Môsê và Êlia, đại diện cho Lề luật và hàng Ngôn sứ là một minh chứng hiển nhiên.
Nếu nói rằng Thiên Chúa trao ban chính Con Một, vì nhân loại bội phản, bất trung, sa ngã, phạm tội thì quả không sai. Nhưng nếu nói rằng Thiên Chúa hiến ban Con Một của Người cho nhân loại để mạc khải chính Người là Tình Yêu thì đúng hơn nhiều. "Biên giới của tình yêu là một tình yêu không biên giới".
Thập giá Chúa mời gọi ta hoán cải. Mùa chay, mùa đặc biệt mời gọi đoàn tín hữu chiêm ngắm cuộc khổ nạn của Đấng cứu độ. Các khổ hình Chúa Kitô đã chịu và cái chết tủi nhục của người trên thập giá như một lời tố cáo tội ác của nhân loại chúng ta. Thấy được sự xấu xa của bản thân mình, hẳn nhiên ít nhiều, chúng ta cũng được thúc đẩy chê ghét tội lỗi và hoán cải ăn năn. Tuy nhiên chính tình yêu của Chúa mới làm chúng ta vươn lên, đổi mới, nên hoàn thiện và nhất là biết sống yêu thương cách quên mình.
Được chiêm ngắm dung nhan sáng láng của Thầy chí thánh, đúng hơn là nhờ được thông phần một cách nào đó "bản thể của Đấng là Tình Yêu", thì Phêrô đã lên tiếng: " Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay ! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê và một cho ông Êlia."( MC 9,5 ) Sao chỉ có ba cái lều mà không là bốn, năm hay là sáu ? Dù đang kinh hoàng và không biết phải nói gì, nhưng Phêrô đã thay hai bạn đồng môn Gioan và Giacôbê nói lên tấm lòng của mình, một tấm lòng quên mình vì người khác.
"Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người" ( MC 9,7 ). Ước gì chúng ta hằng luôn ghi khắc vào tâm khảm những lời từ miệng của Đấng Cứu Độ sau đây: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" ( Ga 14,24 ). " Vậy, nếu Thầy là Thầy và là Chúa, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em" ( Ga 13,12 ). " Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó" ( Mt 7,12 ).
Ai hiểu được chữ tình ? Có thể nói rằng đó là những ai biết ở lại trong tình yêu Đấng Cứu Độ, đồng thời, nhờ và với tình yêu của Người, đã biết yêu thương như Người yêu thương. Thấy tội ác của mình, người ta có cơ may hối hận, ăn năn. Nhưng nghiệm thấy được tình yêu cứu độ người ta sẽ biết đổi đời và vươn lên.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa (Nguồn vietcatholic.org)