Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 4-A Bài 151-187: Hắn đi rửa, rồi trở lại trông thấy rõ ---------------------------------- Phúc Âm: Ga 9, 1-41 (bài dài): "Hắn đi rửa, rồi trở lại trông thấy rõ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, Chúa Giêsu đi qua, thấy một người mù từ khi mới sinh. Môn đệ hỏi Người: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội, anh này hay cha mẹ anh, khiến anh mù từ khi mới sinh?" Chúa Giêsu đáp: "Không phải anh cũng chẳng phải cha mẹ anh đã phạm tội, nhưng để công việc của Thiên Chúa tỏ ra nơi anh. Bao lâu còn ban ngày, Ta phải làm những việc của Ðấng đã sai Ta. Ðêm đến không ai có thể làm việc được nữa. Bao lâu Ta còn ở thế gian, Ta là sự sáng thế gian". Nói xong, Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy và bảo: "Anh hãy đến hồ Silôê mà rửa" (chữ Silôê có nghĩa là được sai). Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được. Những người láng giềng và những kẻ xưa kia từng thấy anh ta ăn xin đều nói: "Ðó chẳng phải là người vẫn ngồi ăn xin sao?" Có kẻ nói: "Ðúng hắn!" Lại có người bảo: "Không phải, nhưng là một người giống hắn". Còn anh ta thì nói: "Chính tôi đây". Họ hỏi anh: "Làm thế nào mắt anh được sáng?" Anh ta nói: "Người mà thiên hạ gọi là Giêsu đã làm bùn xức mắt tôi và bảo: Ngươi hãy đến hồ Silôê mà rửa. Bấy giờ tôi đi, tôi rửa và tôi trông thấy". Họ lại hỏi: "Ngài ở đâu?" Anh thưa: "Tôi không biết". Họ liền dẫn người trước kia bị mù đến với những người biệt phái, lý do tại Chúa Giêsu hoà bùn và chữa mắt cho anh ta lại nhằm ngày Sabbat. Các người biệt phái cũng hỏi anh ta do đâu được sáng mắt? Anh đáp: "Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt". Mấy người biệt phái nói: "Người đó không phải bởi Thiên Chúa, vì không giữ ngày Sabbat". Mấy kẻ khác lại rằng: "Làm sao một người tội lỗi lại làm được những phép lạ thể ấy?" Họ bất đồng ý kiến với nhau. Họ liền quay lại hỏi người mù lần nữa: "Còn anh, anh nói gì về người đã mở mắt cho anh?" Anh đáp: "Ðó là một tiên tri". Nhưng người Do-thái không muốn tin anh đã mù và đã được khỏi trước khi đòi cha mẹ anh đến. Họ hỏi hai ông bà: "Người này có phải là con hai ông bà mà ông bà bảo bị mù từ khi mới sinh không? Do đâu mà bây giờ nó lại trông thấy?" Cha mẹ y thưa rằng: "Chúng tôi xác nhận đây chính là con chúng tôi, và nó đã bị mù từ khi mới sinh. Nhưng làm sao mà bây giờ nó trông thấy, và ai đã mở mắt cho nó thì chúng tôi không biết. Nó khôn lớn rồi, các ông hãy hỏi nó, nó sẽ tự thưa lấy". Cha mẹ anh ta nói thế bởi sợ người Do-thái, vì người Do-thái đã bàn định trục xuất khỏi hội đường bất cứ ai dám công nhận Chúa Giêsu là Ðấng Kitô. Chính vì lý do này mà cha mẹ anh ta nói: "Nó khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó". Lúc ấy người Do-thái lại gọi người trước kia đã mù đến và bảo: "Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa! Phần chúng ta, chúng ta biết người đó là một kẻ tội lỗi". Anh ta trả lời: "Nếu đó là một người tội lỗi, tôi không biết; tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi mù và bây giờ tôi trông thấy". Họ hỏi anh: "Người đó đã làm gì cho anh? Người đó đã mở mắt anh thế nào?" Anh thưa: "Tôi đã nói và các ông đã nghe, các ông còn muốn nghe gì nữa? Hay là các ông cũng muốn làm môn đệ Ngài chăng?" Họ liền nguyền rủa anh ta và bảo: "Mày hãy làm môn đệ của người đó đi, còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của Môsê. Chúng ta biết Thiên Chúa đã nói với Môsê, còn người đó chúng ta không biết bởi đâu mà đến". Anh đáp: "Ðó mới thật là điều lạ: người đó đã mở mắt cho tôi, thế mà các ông không biết người đó bởi đâu. Nhưng chúng ta biết rằng Thiên Chúa không nghe lời những kẻ tội lỗi, mà hễ ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý Chúa, thì kẻ đó mới được Chúa nghe lời. Xưa nay chưa từng nghe nói có ai đã mở mắt người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì". Họ bảo anh ta: "Mày sinh ra trong tội mà mày dám dạy chúng ta ư?" Rồi họ đuổi anh ta ra ngoài. Chúa Giêsu hay tin họ đuổi anh ta ra ngoài, nên khi gặp anh, Người liền bảo: "Anh có tin Con Thiên Chúa không?" Anh thưa: "Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi tin Người?" Chúa Giêsu đáp: "Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang nói với anh". Anh ta liền nói: "Lạy Ngài, tôi tin", và anh ta sấp mình thờ lạy Người. Chúa Giêsu liền nói: "Chính vì để luận xét mà Ta đã đến thế gian hầu những kẻ không xem thấy, thì được xem thấy, và những kẻ xem thấy, sẽ trở nên mù". Những người biệt phái có mặt ở đó liền nói với Người: "Thế ra chúng tôi mù cả ư?" Chúa Giêsu đáp: "Nếu các ngươi mù, thì các ngươi đã không mắc tội; nhưng các ngươi nói "Chúng tôi xem thấy", nên tội các ngươi vẫn còn". - Ðó là lời Chúa. -------------------------------------------- MC 4-A151: MẮC KẸT.. 2 MC 4-A152: THẦY LÀ ÁNH SÁNG THẾ GIAN.. 4 MC 4-A153: CHỨNG MÙ ĐÁNG SỢ.. 6 MC 4-A154: ÁNH SÁNG NIỀM TIN.. 8 MC 4-A155: HÃY MỞ RA.. 9 MC 4-A156: CON MÙ LÒA, CHÚA LÀM CHO SÁNG.. 11 MC 4-A157: MÙ MỜ.. 13 MC 4-A158: HÃY ĐỂ ĐÔI MẮT ĐƯỢC THẮP SÁNG.. 15 MC 4-A159: MÀU HỒNG CỦA CHÚNG TA.. 16 MC 4-A160: NHÃN QUAN.. 19 MC 4-A161: NGUỒN SÁNG THẬT.. 25 MC 4-A162: HAI DẠNG THỨC MÙ LÒA.. 27 MC 4-A163: PHẢI TÔN TRỌNG SỰ THẬT.. 30 MC 4-A164: MÙ TÂM LINH.. 32 MC 4-A165: XIN CHO CON ĐỪNG THẤY! 38 MC 4-A166: ÁNH SÁNG.. 40 MC 4-A167: MỞ MẮT TÂM HỒN.. 42 MC 4-A168: SÁNG TRÍ SÁNG LÒNG.. 44 MC 4-A169: MÙ MÀ SÁNG – SÁNG MÀ MÙ.. 46 MC 4-A170: LÀM PHÚC CŨNG BỊ CHO LÀ CÓ TỘI 49 MC 4-A171: CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY_A.. 51 MC 4-A172: ĐIỀU KIỆN KÈM THEO.. 54 MC 4-A173: CHÚA GIÊSU LÀ NGUỒN ÁNH SÁNG.. 56 MC 4-A174: TỐI SÁNG.. 59 MC 4-A175: ĐỨC GIÊSU ÁNH SÁNG TRẦN GIAN.. 61 MC 4-A176: KHI CHÚA CHỮA NGƯỜI MÙ.. 64 MC 4-A177: SỰ SÁNG CỦA THIÊN CHÚA VÀ BÓNG TỐI CỦA CON NGƯỜI 67 MC 4-A178: CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY_A.. 71 MC 4-A179: MÙ và SÁNG.. 74 MC 4-A180: TỪ NƯỚC ĐẾN ÁNH SÁNG.. 76 MC 4-A181: CÁCH NHÌN.. 79 MC 4-A182: CÓ MẮT MÀ KHÔNG THẤY! 84 MC 4-A183: AI SÁNG AI MÙ, CHÚA ƠI! 86 MC 4-A184: NGƯỜI MÙ THÌ THẤY, KẺ THẤY LẠI MÙ.. 90 MC 4-A185: SÁNG THỰC VÀ MÙ THỰC.. 96 MC 4-A186: ĐƯỢC NHÌN THẤY ÁNH SÁNG LÀ CHÍNH CHÚA KITÔ.. 98 MC 4-A187: VẠCH MẶT KẺ PHẢN BỘI 102
Ði ngang qua, Ðức Giêsu nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. Các môn đệ hỏi Người: “Thưa MC 4-A151
Ði ngang qua, Ðức Giêsu nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. Các môn đệ hỏi Người: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?”. Ðức Giêsu trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh”. Đó là cuộc trò chuyện của Thầy trò sau khi vừa ra khỏi Hội đường. Câu trả lời đã quá rõ. Thế nhưng, những người Pharisêu vẫn bị mắc kẹt trong những gì các ông cho là đúng: Bệnh bởi tội mà ra.
Rảo qua các ngả đường Đức Giêsu đã đi, chúng ta sẽ được nhìn thấy những khuôn mặt rất thân quen: các môn đệ, dân chúng và đặc biệt là nhóm biệt phái, Pharisêu. Đã có rất nhiều người khi nghe Đức Giêsu giảng dạy, họ đã tin vào Người, được Người chữa lành. Ấy thế mà các kinh sư và người Pharisêu vẫn không thể tin nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô. Họ nghĩ rằng mình nhìn thấy, mình sạch tội. Họ là những người giữ luật hơn ai hết. Bởi đó, khi Đức Giêsu chữa bệnh vào ngày Sabat, họ cho rằng Người là tội nhân. Mà một tội nhân thì không thể từ Thiên Chúa mà đến. Thực ra, những người Pharisêu và các biệt phái không chỉ bị mắc kẹt trong Lề Luật mà họ vẫn giữ, mà còn bị mắc kẹt trong sự ghen ghét, đố kỵ, không biết mình. Bởi đó, họ không tin nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô.
Việc anh mù từ thuở mới sinh được nhìn thấy đã gây xôn xao dư luận. Một phiên tòa đã được mở ra. Trước khi phiên tòa mở ra, những kẻ cầm đầu đã ra bản án. Họ quyết định sẽ trục xuất bất cứ ai tin nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô. Phải chăng đó là một sự trơ trẽn mà họ vẫn thường làm? Theo dõi cuộc tranh luận, chúng ta có thể thấy được một sự đối lập, một sự chênh vênh trong cuộc xét xử. Những người cầm quyền hỏi tới hỏi lui cùng một vấn đề nhưng lại không thể nhận được câu trả lời thỏa đáng theo cách họ muốn. Người bị điệu ra tra khảo thì một mực quả quyết và làm chứng cho sự thật. Anh bị cho là kẻ tội lỗi ngập đầu từ lúc mới sinh nhưng đã can đảm nói lên sự thật. Anh tin rằng, người đã mở mắt cho anh là người đến từ Thiên Chúa. “Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt cho tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì.” (Ga 9, 30-33). Cuối cùng, anh bị trục xuất khỏi Hội đường.
Khi gặp lại anh mù đã bị trục xuất, Đức Giêsu một lần nữa mời gọi anh tuyên xưng đức tin của mình khi mạc khải cho anh biết chính Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến. Anh mù đã tin. Anh mù từ thuở mới sinh không chỉ được Đức Giêsu cho sáng mắt thể lý mà còn sáng mắt về tâm hồn, về đức tin. Còn những người Pharisêu, những người biệt phái tự cho mình sáng mắt thì lại trở nên mù tối trong đức tin, bị mắc kẹt trong những khung luật lệ và cách giữ luật mà họ vẫn cho là đúng. Chúa Giêsu đã chỉ cho họ thấy rõ: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘Chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn!” (Ga 9, 41).
Mỗi người chúng ta có thể tự hỏi mình rằng: tôi có đang bị mắc kẹt trong đức tin không và điều gì làm tôi bị mắc kẹt? Để đi đến một đức tin được khai sáng như anh mù trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta phải chấp nhận trả giá, chấp nhận làm chứng cho sự thật cả khi biết trước được những rủi ro, những khó khăn, những điều không hay sẽ xảy đến với mình, cả khi biết trước rằng, tôi sẽ bị người khác “trục xuất”. Hơn nữa, muốn không bị mắc kẹt như các kinh sư và người Pharisêu, chúng ta cần học lắng nghe, khiêm tốn, đón nhận người khác; dám vượt qua hàng rào của những thành kiến, ganh ghét, đố kỵ của bản thân để mở lòng ra với Thiên Chúa, Đấng luôn yêu thương và chăm sóc ta.
Hôm nay, vào dịp lễ Lều của người Do thái, Thầy Giêsu đã chữa lành cho một anh mù từ thuở MC 4-A152
Hôm nay, vào dịp lễ Lều của người Do thái, Thầy Giêsu đã chữa lành cho một anh mù từ thuở mới sinh và Thầy đã tự giới thiệu “Ta là ánh sáng thế gian”. Từ khi được Thầy Giêsu chữa lành đôi mắt thể xác, anh mù đã trải qua một hành trình đầy thử thách để đón nhận đức tin, trở thành môn đệ của Thầy Giêsu và bước theo Người. Có thể nói, từ khi anh có liên hệ đến Thầy Giêsu, cuộc đời của anh đã từ đêm đen bước ra ánh sáng: từ chỗ chỉ biết một người tên là Giêsu đến chỗ nhìn nhận Người là vị ngôn sứ, một “người kính sợ Thiên Chúa”, “người được Thiên Chúa sai đến”, và cuối cùng hoàn toàn “tin vào Con Người”. Thầy Giêsu là ánh sáng thế gian, ai đến với Người sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống (x. Ga 8, 12).
Vừa nhìn thấy anh mù đang ngồi ăn xin, các môn đệ liền hỏi Người: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” (Ga 9, 1). Thầy Giêsu đã phủ nhận lối suy nghĩ cho rằng tình trạng bị mù là hậu quả của tội lỗi của ai đó, khi nói: “không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy”. Người sẽ chữa lành cho anh, ban ánh sáng cho đôi mắt thể lý và từng bước để anh đón nhận ánh sáng đức tin. Khi được Thầy Giêsu trộn một chút bùn, xức vào mắt, rồi bảo: “Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa.” Nghe lời Thầy, anh mù đã đi, đã rửa và nhìn thấy. Lúc anh lắng nghe lời Thầy và làm theo, ta không nghe thấy anh mù van xin để được chữa lành theo như kiểu anh muốn, ta không nghe anh đối thoại với Thầy Giêsu để nài ép người chữa anh lành theo cách anh nghĩ là tốt nhất. Ta chỉ thấy anh đã lần mò tìm đến hồ Silôác để rửa. Cho đến khi được sáng mắt, anh vẫn chỉ biết “một người tên là Giêsu” đã chữa lành cho mình. Khi đối diện với những câu hỏi của người khác, anh cho họ biết, chính anh cũng không biết Người ở đâu. Anh được gặp Người trong một cuộc gặp gỡ tình cờ và anh cũng chưa một lần nói chuyện hay nhìn thấy vị đại ân nhân của đời mình. Thầy Giêsu đã chạm đến đôi mắt thể xác của anh và rồi đây Người cũng sẽ chạm đến tâm hồn anh.
Người ta dẫn anh mù đến với những người Pharisêu. Ta không biết anh tên gì, chỉ thấy người ta gọi anh là anh mù, dù bây giờ anh đã sáng mắt. Phải chăng, người ta chỉ nhìn thấy tình trạng mù lòa của anh, chẳng cần biết anh tên gì, vì một kẻ tội lỗi thì không đáng được nhắc đến. Những người Pharisêu thẩm tra anh về việc anh được sáng mắt. Trước những câu hỏi của họ, anh nhìn nhận Đức Giêsu là một vị ngôn sứ. Những câu hỏi không nhằm tìm ra sự thật nhưng chủ ý bắt bẻ người đã chữa lành. Hành động chữa bệnh trong ngày Sabát của Thầy Giêsu đã khiến họ chia rẽ. Người Dothái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến. Cha mẹ anh khẳng định anh là con của ông bà, bị mù từ thuở mới sinh, còn việc làm sao anh được sáng mắt thì ông bà không biết. Ông bà sợ bị trục xuất khỏi hội đường nên thoái thác, không trả lời. Ngay cả cha mẹ cũng từ chối bênh vực anh vì sợ, điều đó khiến anh phải tự mình bước đi trước áp lực của dư luận, trước mối đe dọa từ giới lãnh đạo tôn giáo. Anh sẽ hành xử thế nào để làm chứng cho sự thật, bất chấp mọi đau khổ mà mình phải trải qua?
Người ta lại gọi anh mù đến và tra hỏi. Sau khi đã can đảm nói lên tiếng nói của sự thật, lên tiếng bênh vực cho Thầy Giêsu trước lời kết án của người Dothái, quả nhiên anh mù bị họ trục xuất khỏi Hội đường, trở thành người bị khai trừ. Bị trục xuất cách nhục nhã và đang bơ vơ không lối đường, một lần nữa anh được Thầy Giêsu tìm gặp. Trong lần gặp đầu tiên, chính Thầy Giêsu đã chủ động đến với anh, chạm đến anh và chữa lành cho anh đôi mắt thể xác. Hành trình đón nhận đức tin của anh được khởi đi từ đây. Từ khi cuộc đời anh liên hệ đến Thầy Giêsu, anh được đón nhận niềm sướng vui hạnh phúc từ hồng ân Thầy ban, và cũng chính vì liên hệ với Thầy, anh gặp phải những rắc rối, nguy hiểm và cuối cùng bị trục xuất khỏi Hội đường vì dám làm chứng cho sự thật. Cho đến lúc này, anh chưa phải là người tin vào Thầy Giêsu, chỉ đến khi Thầy Giêsu chủ động tìm gặp anh, Người đã giúp anh đón nhận đức tin. Anh đã được gặp lại Người, đã biết Người là Đấng nào, để rồi anh đã thưa lên lời tuyên xưng của mình: “Thưa Ngài, tôi tin.” Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người. Như thế, đức tin chính là hồng ân nhưng không mà Thiên Chúa ban tặng cho mỗi người. Chính Thiên Chúa chủ động tìm kiếm con người, đồng hành với họ trong suốt hành trình cuộc đời để làm cho đức tin của họ đạt đến mức trưởng thành. Điều quan trọng là con người phải biết mở lòng ra đón nhận hồng ân đức tin, không thành kiến, không cứng lòng.
Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã luôn đi bước trước để đến với con, đồng hành và nâng đỡ con trong cuộc đời. Xin Chúa đốt lên trong con ngọn lửa yêu mến Chúa, ban cho con ơn can đảm dám sống và làm chứng cho Chúa giữa cuộc đời, dù phải trả giá bằng đau khổ và đắng cay. Con tin, Chúa vẫn ở kề bên con và ban tràn Thánh Thần trên con, giúp con biết phải nói gì và làm gì để đẹp lòng Chúa. Xin Chúa cho con biết đến với Chúa để luôn được bước đi trong Ánh sáng của Đấng ban sự sống. Amen.
Có đôi mắt sáng để thấy là một điều diễm phúc để nhìn thấy bao điều kỳ diệu trong thiên nhiên. Thế MC 4-A153
Có đôi mắt sáng để thấy là một điều diễm phúc để nhìn thấy bao điều kỳ diệu trong thiên nhiên. Thế nhưng, những người khiếm thị thì sao, họ cũng cảm nghiệm được khung trời bao la, những cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ, những con người đáng yêu và những khuôn mặt đau khổ. Không bằng đôi mắt nhưng bằng tâm hồn cảm nghiệm nhạy bén.
Chúa mở đôi mắt cho người mù không chỉ để cho mắt sáng, nhưng chỉ ra điều quan trọng, ánh sáng xua tan bóng tối.
Dù người mù không thấy về thể lý bằng đôi mắt, thế nhưng cũng không kết luận được sự mù tối của tâm hồn và đôi khi sự mù tối về tâm hồn của người sáng mắt còn tệ hại hơn.
Người Việt thường hay nói: “Cho sáng mắt ra!” như ám chỉ đến điều ngu dại của kẻ lầm lì trong sự mờ tối của mình. Không chịu học điều khôn ngoan nơi sách thánh hiền, hoặc chịu khó học nơi người khôn ngoan, những kiến thức cơ bản thường thức. Người lười biếng thường gặp nhiều trắc trở bởi những điều khó lường trước ở tương lai.
Chúa mở cho đôi mắt.
Không chỉ người mù Chúa mở cho đôi mắt để thấy mà ngay những người có đôi mắt sáng cũng cần Chúa mở cho đôi mắt để nhận ra Chúa đang ở với họ. Như người mù thành Giêrikhô ngồi bên vệ đường hành khất, chỉ nghe người ta nói Chúa đi qua, anh Bartimê cũng nhận ra Chúa và kêu lên: “Lạy con vua Đavit xin thương xót con” (Mc 10, 47). Anh Bartimê tuy mù nhưng nhận ra Chúa, còn những người sáng mắt đang đi bên cạnh Chúa lại không nhận ra Người.
Chúa cũng mở cho đôi mắt đố kỵ, xét đoán, kết tội người khác như những người cho rằng người mù từ bẩm sinh là do tội của cha ông để lại hậu quả. Người Việt cũng thường hay kết luận: “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước” hoặc “sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó”. Một phần nào đúng thôi, còn tùy thuộc vào đời sau tránh được nhờ kinh nghiệm sống “tích đức phòng thân”. Chúa Giêsu, Người cũng mở mắt cho những người kết án oan sai cho người mù, Chúa là Đấng Messia họ trông mong đang ở giữa họ, như tiên tri Isaia đã loan báo: “Thần khí Chúa ở trên tôi, bởi Người đã xức dầu cho tôi, Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, ban bố ân xá cho kẻ tù đày, cho người đui mù được thấy, cho kẻ bị áp bức được giải oan; loan báo năm hồng ân của Chúa.” (Lc 4, 18 – 19).
Chúa đi tìm kiếm con người, nhưng cũng cần con người nỗ lực đi gặp Chúa. Con người cần nỗ lực đi tìm gặp Chúa vì Chúa như đại dương mênh mông, con người ví như chiếc thuyền nhỏ, càng đi gặp Chúa càng thấy xa, càng thấy mới và đầy hấp dẫn. Chúa là Đấng lôi cuốn như nhiều người nói: “Người giảng dạy như Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc, 1, 21). Ngay cả các môn đệ những người theo sát Chúa với ba năm, nhiều lần hụt hẫng vì cứ tưởng như mình nghĩ, sẽ được ngồi bên trái, bên phải, trong Nước Chúa. Cứ tưởng Chúa Giêsu là Thầy, là Chúa, làm sao phải chịu bắt bớ, đánh đập và bị chết, rồi sau ba ngày sống lại. Cứ tưởng Chúa chịu chết là hết, người thì trốn chạy, người thì bỏ về quê tiếp tục nghề cũ… Chúa sống lại và mở mắt cho các môn đệ và ban Chúa Thánh Thần nội tâm hóa tất cả giáo huấn Chúa Giêsu truyền dạy. Mở lòng trí cho các ngài hiểu biết về Thánh Kinh, các lời tiên tri đã viết về Người, và làm sống lại những ký ức về Chúa, thành kinh nghiệm sống động, hoàn toàn hiến thân cho sứ mạng rao truyền Tin Mừng Chúa cho mọi người.
Xin Chúa mở cho chúng con đôi mắt, lòng trí, nhận biết Chúa và biết yêu thương anh chị em mỗi ngày hơn.
Ngày nào cũng vậy, anh vẫn ngồi ở đây, tai lắng nghe bao điều từ cuộc sống. Cuộc đời anh là MC 4-A154
Ngày nào cũng vậy, anh vẫn ngồi ở đây, tai lắng nghe bao điều từ cuộc sống. Cuộc đời anh là những tháng ngày dài sống trong bóng đêm dày đặc, anh là người mù từ thuở mới sinh. Anh không thể nhìn thấy dù chỉ là một tia sáng nhỏ. Anh vẫn tin mặt trời đang chiếu sáng trên anh, anh cảm nhận được cái nóng gắt của ánh nắng mặt trời đang phả lên da thịt mình. Đôi tai anh nghe rất rõ những gì người ta bàn tán về bản thân mình, về bố mẹ mình. Người ta xem anh là kẻ có tội, là một đứa con của những người tội lỗi. Có lẽ, chẳng bao giờ, anh có thể nghe được những lời yêu thương mà người khác có thể dành cho anh.
Cho đến một ngày, anh đã gặp Người. Đó là Thầy Giêsu. Thầy Giêsu đã đi ngang qua chỗ anh ngồi và Thầy đã dừng lại. Thầy dừng lại bên cuộc đời đầy cay đắng và tủi nhục của anh, Thầy cúi xuống trên nỗi đau của anh và xoa dịu nó. Các môn đệ của Thầy thắc mắc về việc anh bị mù. Phải chăng đó là do chính tội lỗi của anh hay của cha mẹ anh (x. Ga 9, 2). Những lời ấy làm cho anh thêm tê tái, anh thấy đời mình càng thêm tăm tối và anh co mình lại trong tổn thương. Giữa nhịp sống vội vã, người ta vẫn dừng lại bên đời nhau nhưng rồi họ lại vô tình gây cho nhau những tổn thương. Cũng giống như các môn đệ, không ít lần những thắc mắc của chúng ta về những người anh chị em lại trở thành những con dao vô hình đâm nát nỗi đau của họ. Đâu mới là sự nâng đỡ mà chúng ta có thể dành cho họ? Thầy nói rằng: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội” (Ga 9, 3). Lần đầu tiên có một người lạ lên tiếng bênh vực anh. Dù anh không thấy được ánh mắt trìu mến của Thầy đang dừng lại trên anh nhưng đôi tai anh nghe rõ lời Thầy nói. Lời ấy như một dòng nước trong lành chảy vào lòng anh làm vơi đi ưu phiền. Thầy nói với các môn đệ nhiều điều, anh cũng nghe nhưng tâm trí anh đã dừng lại trên lời này: “Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian (x.Ga 9, 5). Ánh sáng là một điều gì đó quá xa lạ với anh nhưng cũng chính là điều anh hằng khao khát.
Đã từ rất lâu, anh ao ước được nhìn thấy như một người bình thường. Niềm khao khát ấy, anh chỉ giữ riêng trong lòng mình biết. Anh nghe tiếng Thầy nói nhưng không nhìn thấy Thầy. Thế rồi, Thầy đã chạm vào đôi mắt tật nguyền của anh. Thầy xức bùn vào mắt anh. Những đụng chạm này thật ý nghĩa, đó chính là một sự vuốt ve đầy âu yếm mà lần đầu tiên anh nhận được. Theo lời Thầy căn dặn, anh lần mò tìm đến hồ Silôác để rửa. Anh đi trong sự tối tăm của đôi mắt nhưng lòng tràn hy vọng. Hy vọng chính là ánh sáng dẫn anh bước đi. Anh đã rửa và bây giờ anh nhìn thấy. Cuộc đời của anh chưa bao giờ có được một niềm vui lớn lao như thế. Anh xúc động mạnh mẽ. Anh muốn chạy thật nhanh để báo cho cha mẹ biết, muốn hét thật to để nói cho mọi người biết rằng, anh đã nhìn thấy.
Người ta thấy anh, có người nhận ra anh nhưng có người lại ngờ vực, cho rằng đó chỉ là một người giống anh (x. Ga 9, 8-9). Còn anh thì quả quyết: “Chính tôi đây!”. Người ta thắc mắc về việc anh được sáng mắt và anh đã kể lại những gì đã xảy đến cho anh. Những người Do thái không tin lời anh nói nên cứ hỏi đi hỏi lại nhiều lần về sự việc anh đã được mở mắt như thế nào. Anh kiên nhẫn và can đảm nói rõ cho họ biết. Anh can đảm làm chứng về ân huệ mình nhận được từ vị ngôn sứ Giêsu, và cuối cùng, vì sống và làm chứng cho sự thật, anh bị trục xuất khỏi hội đường. Anh đã lên tiếng bênh vực cho Đấng mang lại ánh sáng cho mình. Anh gặp lại Người không phải như một sự tình cờ nhưng do bởi lòng thương xót của Thiên Chúa. Thầy Giêsu hỏi anh: “Anh có tin vào Con Người không?”, anh muốn biết Đấng ấy là ai và khi biết Đấng ấy chính là Thầy Giêsu mà anh yêu mến thì anh reo lên: “Tôi tin!”, anh sấp mình xuống trước mặt Người. Hành trình đức tin của anh đã đạt đến đích điểm sau khi đã được trải qua muôn vàn thử thách. Chúng ta có mang lấy niềm vui của người được sáng mắt khi được lãnh nhận ánh sáng đức tin và sống cho niềm tin vào Chúa Kitô không?
Lạy Chúa Giêsu! Được nhìn thấy ánh sáng là một ân huệ tuyệt vời mà Chúa ban tặng cho chúng con. Hơn hết, chúng con được sống trong ánh sáng niềm tin vào Chúa. Cuộc đời chúng con vẫn dễ nghiêng chiều theo bóng tối. Có nhiều lúc, chúng con đã tự khiến mình ra mù lòa khi không đi trong ánh sáng của Chúa. Xin Chúa lôi kéo chúng con về nguồn ánh sáng tình yêu của Chúa, để chúng con được reo vui mãi vì biết rằng, chúng con được Chúa yêu thương. Amen.
Trên truyền hình, chúng ta thấy có những chương trình tư vấn, thảo luận hay bình luận như: “Hỏi MC 4-A155
Trên truyền hình, chúng ta thấy có những chương trình tư vấn, thảo luận hay bình luận như: “Hỏi xoáy đáp xoay”, “Phụ nữ và cuộc sống”… Bên cạnh đó cũng có các cuộc thảo luận, đối thoại giữa các quốc gia, giữa các đối tác làm ăn lớn nhỏ. Đó là những chương trình, những cuộc thảo luận đưa đến lợi ích chung. Tuy nhiên, trong cuộc sống, có những cuộc tranh luận không những không mang lại lợi ích mà còn gây ảnh hưởng không tốt cho cộng đồng.
Đức Giêsu nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. Ngài đã nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: “Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa”. Vậy, anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được (x. Ga 9,6-7). Mọi người láng giềng và những kẻ biết anh đã bàn luận với nhau khi nhìn thấy anh được chữa lành. Có kẻ cho rằng, đứa nào đó giống anh thôi. Họ hỏi anh: “Vậy, làm sao mắt anh lại mở ra được như thế?”. Anh trả lời: “Người tên là Giêsu đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: ‘Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa’. Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy” (x. Ga 9,10-11). Họ liền dẫn anh đến với những người Pharisêu. Các người Pharisêu thêm một lần nữa hỏi làm sao anh nhìn thấy được. Anh trả lời: “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy”. Họ tiếp tục tranh luận với nhau. Có kẻ nói: “Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?” Thế là họ đâm ra chia rẽ.
Sự tranh luận của người láng giềng và nhóm người Pharisêu điều xuất phát từ dán nhãn cho người khác. Những người láng giềng không đón nhận con người hiện tại của anh mà chỉ nhìn về quá khứ của anh và cho anh là một kẻ tội lỗi không đáng hưởng phúc ấy. Đối với người Pharisêu, nhiều lần họ đã có sự phản cảm về việc Đức Giêsu đã làm và muốn loại trừ Đức Giêsu từ lâu. Khi hay tin việc Đức Giêsu chữa người mù vào ngày Sabát, họ đã tìm cách để có được bằng chứng tố cáo Ngài. Tất cả mọi người đều không đón nhận sự thật là anh mù được Đức Giêsu chữa lành trong ngày Sabát. Từ đó, họ ra sức tranh luận bàn hỏi với anh và với nhau. Còn người thanh niên, sau khi được chữa lành, anh đã nói tất cả mọi sự về việc nhìn thấy và đã nhận được từ Đức Giêsu. Anh nói: “Người là một vị ngôn sứ” (Ga 9, 17) cho dù anh bị trục xuất khỏi hội đường. Nhờ hành động ấy, anh đã được gặp lại Đức Giêsu và được tăng thêm niềm tin vào Đấng ban sự sống.
Nhìn lại chính mình, mỗi người chúng ta đang rơi vào khuynh hướng bình luận người khác theo lối tích cực hay tiêu cực? Mỗi khi bình luận như vậy, chúng ta được lợi ích gì? Thường thường, mỗi người chúng ta dễ đặt người khác trong một cái khung, nhưng đó lại là cái khung quá khứ không mấy tốt đẹp. Bao lâu, chúng ta còn đóng khung người khác là bấy lâu chúng cũng đang đóng khung chính mình. Khi đã bị đóng khung, chúng ta không còn thấy gì nữa, chỉ còn lại là bóng đêm sự dữ. Chỉ khi nào chúng ta phá tan các khung hàng rào từ sự ích kỷ, thay vào đó là tình yêu thì chúng ta mới có thể nhìn thấy ánh sáng, ánh sáng Đức Giêsu.
Lạy Thiên Chúa, chúng con cảm tạ ngài đã yêu thương chúng con. Xin cho chúng con biết mở lòng và mở đôi mắt để nhìn xuyên qua khung thành mà chúng con đã dựng nên cho anh em mình, nhờ đó chúng con được thấy cái tốt đẹp của nhau, thấy Chúa trong nhau và xích lại gần nhau hơn để tất cả cùng được hưởng sự sống trong ánh sáng của Đức Giêsu suốt cả cuộc đời. Amen.
Chúa Nhật hôm nay, Chúa Nhật IV Mùa Chay được gọi là Chúa Nhật của niềm vui, niềm vui ơn MC 4-A156
Chúa Nhật hôm nay, Chúa Nhật IV Mùa Chay được gọi là Chúa Nhật của niềm vui, niềm vui ơn cứu độ đã gần kề. Màu sắc nào nói lên điều đó? Thưa là màu hồng. Ngoài sắc màu của phụng vụ, thì chi tiết nào trong Tin Mừng diễn tả niềm vui nữa? Xin thưa: Ánh sáng. Vâng, ánh sáng diễn tả niềm hân hoan. Chẳng hạn đang đêm cúp điện tối om, bỗng nhiên có điện lại, hẳn ai cũng vui mừng. Chính ánh sáng đã đem lại niềm vui. Cũng vậy, việc Chúa Giêsu mở mắt cho anh mù, đem lại ánh sáng cho anh, đồng nghĩa với việc Người đem lại cho anh niềm vui lớn lao. Không chỉ có một, mà cùng lúc anh có ba niềm vui.
1- Niềm vui được thấy
Từ khi mới sinh tới giờ, vì bị mù bẩm sinh, nghĩa là mù từ khi còn trong lòng mẹ, anh không có ý niệm gì về màu sắc, anh cũng chẳng hình dung được thế nào là đẹp xấu. Thế giới quanh anh chỉ là đêm tối dày đặc. Nay được Chúa làm cho sáng mắt, anh thấy được mọi sự: Thấy bầu trời bao la, thấy biển cả mênh mông, thấy cánh đồng bát ngát, thấy núi rừng trùng điệp, thấy ngàn muôn tinh tú lấp lánh, thấy sóng nước nhấp nhô, thấy hoa đồng cỏ nội xanh đỏ tím vàng… Và nhất là thấy ông bà, cha mẹ, thấy anh chị em ruột thịt, thấy bạn bè và những người thân thích. Hơn nữa, từ trước tới giờ, anh không thể soi gương được. Nay anh có thể nhìn ngắm dung nhan của mình trong gương. Anh có thể hát lên khúc hát: “Mẹ cho em đôi mắt sáng ngời để nhìn đời và để làm duyên” (Ns. Xuân Hồng). Được thấy như thế làm sao anh không vui được!
2- Niềm vui được tha tội
Người Do Thái xưa thường quan niệm rằng bệnh tật, tai nạn hay thất bại, rủi ro là do tội lỗi gây nên. Con người xúc phạm đến Thiên Chúa và vì thế bị Người giáng phạt. Tội càng to thì bệnh càng nặng. Anh đau khổ không chỉ vì không thấy đường đi, không thấy được gì, nhưng anh còn đau khổ vì bị mọi người coi là sinh ra trong đống tội, tội ngập đầu ngập cổ nên mới bị mù từ trong lòng mẹ (x. Ga 9,34). Mặc cảm tội lỗi như một cái gông đè nặng trên cuộc đời anh, khiến anh không thể đứng thẳng lên với trời và với đời được. Đau buồn chất chồng buồn đau.
Nhưng nay, khi được Chúa Giêsu chữa sáng mắt và được Người xác nhận: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh” (Ga 9,3). Anh và cả cha mẹ của anh hoàn toàn thoát khỏi mặc cảm tội lụy. Niềm vui của anh lúc này quả là rất lớn. Bước đi của anh nhẹ nhàng thanh thoát. Anh có thể ngẩng cao đầu mà không sợ mọi người xầm xì, chỉ trỏ. Hơn thế nữa, giờ đây anh có thể giới thiệu Chúa Giêsu với hết mọi người rằng Chúa chính là ánh sáng, như lời Người đã nói với các môn đệ: “Bao lâu Thầy còn ở với thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian” (Ga 9,5).
3- Niềm vui được cứu độ
Được Đức Giêsu ban ánh sáng, anh mù nhận ra Đức Giêsu không chỉ là một vị ngôn sứ, một vị lương y, một đại ân nhân, mà còn là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ trần gian. Và anh đã tin thờ Người (x. Ga 9,38). Đây chính là niềm vui lớn nhất, niềm vui tràn ngập, niềm vui mà những người Luật Sỹ, Biệt Phái không có được: niềm vui được cứu độ. Tên của anh có thể giờ đây đã được ghi vào sổ hằng sống. Anh được chính thức trở thành công dân Nước Thiên Chúa. Nói cách khác, ngoài quốc tịch Do Thái, giờ đây anh còn được mang thêm một quốc tịch mới, quốc tịch Nước Trời. Còn niềm vui nào lớn lao hơn niềm vui này?
Khi sinh ra, mặc dù không bị mù về cặp mắt thể lý nhưng chúng ta đã bị tội nguyên tổ làm cho đôi mắt tâm hồn ra u tối. Tuy nhiên, qua bí tích Rửa Tội, chúng ta đã được Chúa Giêsu mở mắt tâm hồn, mắt đức tin để nhận biết Chúa qua các công trình sáng tạo của Người; chúng ta được tẩy xoá mọi vết nhơ tội lỗi, được giải thoát khỏi vòng nô lệ của ma quỷ, nhất là được nhận biết Chúa chính là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ mọi loài.
Tâm tình của chúng ta lúc này phải là tâm tình tạ ơn Chúa vì những hồng ân mà Người đã tặng ban: hồng ân đức tin, hồng ân cứu độ. Đồng thời, chúng ta hãy vui mừng hân hoan vì chúng ta được Chúa yêu thương và cứu chuộc. Đặc biệt chúng ta hãy quyết tâm không để cho những thói hư tật xấu, những tội lỗi riêng làm cho cặp mắt tâm hồn của mình trở nên lu mờ tăm tối.
Xin Chúa giúp chúng ta thực hiện được quyết tâm này. Amen!
Mù mờ diễn tả hoàn cảnh không nhìn thấy gì hoặc nhìn không rõ, hình ảnh mờ mờ, ảo ảo. Đức MC 4-A157
Mù mờ diễn tả hoàn cảnh không nhìn thấy gì hoặc nhìn không rõ, hình ảnh mờ mờ, ảo ảo. Đức Kitô mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh nhìn thấy ánh sáng. Mở mắt sáng cho anh, Đức Kitô cho biết không phải do tội mà là nguyên nào khác gây nên, làm cho em nhỏ bị tật bẩm sinh. Các môn đệ hỏi Ngài. Chính em hay cha mẹ em phạm tội khiến cho em bị tật mù bẩm sinh? Các môn đệ mắt sáng nhìn thấy điều trước mắt là người mù từ lúc mới sinh; Đức Kitô nhìn thấy điều các môn đệ không nhìn thấy khi Ngài hướng dẫn các ông hiểu thêm hơn về lòng Chúa xót thương nhân loại. Ngài nói với các ông:
Không phải em, cũng không phải cha mẹ em, nhưng qua bệnh tật của em lòng Chúa xót thương được sáng tỏ hơn (c.3).
Khi nói điều đó Đức Kitô còn cho biết công việc của Ngài và công việc của Chúa Cha là một. Ngài là ánh sáng cho trần gian. Qua Ngài tình yêu và ân sủng Chúa đong đầy cho những tâm hồn chân thành đón nhận Ngài. Có rất nhiều giải thích về đau khổ, và giải thích nào xem ra cũng có vẻ thích hợp. Lời giải thích thích hợp thường thích hợp cho hoàn cảnh hiện tại, mà không thích hợp cho hoàn cảnh khác. Nó càng không phải là câu trả lời thích hợp cho mọi đau khổ. Đức Kitô không giải thích đau khổ từ đâu đến. Ngài cho biết đứng trước đau khổ, con người có chọn lựa. Hoặc tự quyết lấy hoặc nương tựa vào lòng Chúa xót thương. Những ai nương tựa vào lòng Chúa xót thương, họ đau khổ trong hy vọng, bởi có ơn Chúa trợ giúp. Những ai tự quyết họ đau khổ trong tuyệt vọng. Chối bỏ đau khổ, đau khổ càng tăng. Cho người mù mắt sáng Đức Kitô làm tròn điều tiên tri Isaiah tiên đoán nhiều năm trước về Ngài
‘Mở mắt cho người mù, giải thoát kẻ bị giam cầm và những ai sống trong bóng tối sẽ nhìn thấy ánh sáng Is 42,7.
Dùng nước miếng trộn đất bùn chữa mắt người mù Đức Kitô nhắc công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Trường hợp này được hiểu Đức Kitô ban cho anh một đời sống mới, tái tạo cuộc sống mới cho người mù. Thiên Chúa tạo dựng Ađam bằng đất. Ađam nhìn thấy Chúa trước khi nghe tiếng Ngài. Người mù Đức Kitô mở mắt sáng lại nghe được lời Đức Kitô trước khi xem thấy Ngài. Để được mắt sáng anh cần nghe theo lời Ngài hướng dẫn. Đi rửa tại hồ Siloam. Hành động đi và rửa tại hồ Siloam diễn tả một hành động trong bí tích Rửa Tội ngày nay Giáo Hội đang thực hiện. Hình ảnh nước cũng nhắc nhở điều Đức Kitô nói với người phụ nữ thành Samarita tại bờ giếng. Ngài là nước hằng sống.
Nhìn thấy sự thật, người mù trở thành nhân chứng cho sự thật, nhân chứng luôn bị cật vấn, nhân chứng cho Đức Kitô thường gặp chống đối, bắt bẻ bởi thế lực tối tăm. Chọn lối sống tối tăm là chọn sống trong bóng tối. Bóng tối luôn sợ ánh sáng và sống trong tối tăm thường nhìn sự vật mờ mờ, ảo ảo. Nhóm lãnh đạo Pharasiêu thẩm vấn người mù. Anh thành tâm đáp Đức Kitô cho anh mắt sáng, còn Ngài từ đâu đến thì anh không rõ. Câu trả lời thành thật và khiêm nhường kia hoàn toàn trái nghịch với thái độ kênh kiệu, ta đây, của nhà lãnh đạo. Họ tự nhận họ nhìn thấy nhưng thực ra họ không nhìn thấy. Họ tự nhận họ biết tất cả nhưng thực ra họ không biết nhiều như họ nghĩ họ biết. Mù mà biết mình mù thì đáng thương. Mờ mà không biết mình mờ thì đáng ngại bởi họ sẽ là nguyên nhân gây đau khổ cho người khác. Lãnh đạo Pharasiêu không nhận biết Đức Kitô là Thiên Chúa bởi tính tự kiêu, tự đại che mờ mắt họ. Họ không mù nhưng mờ. Điều này thể hiện rõ ràng khi họ kết án Đức Kitô là không tuân giữ luật ngày hưu lễ. Chính họ ngồi toà xét xử trong ngày hưu lễ thì sao? Có phạm luật chăng? Bởi mù mờ họ không nhìn thấy điều đó. Nhóm này ép buộc người mù vào phe cánh họ. Anh từ chối nên bị họ điệu đi điều tra, thẩm vấn nhiều lần đến độ anh phát cáu nói các ông muốn tin theo Đức Kitô thì đi theo Ngài, hỏi mãi làm chi. Họ đáp, anh mù vì tội của anh, còn chúng tôi vô tội. Không lôi cuốn được anh họ đuổi anh ra khỏi hội đường, và họ tiến đến áp đảo cha mẹ anh. Bởi không cảm nhận được lòng Chúa xót thương, hai ông bà sợ hãi chỉ dám xác nhận. Nó là con chúng tôi, bị mù từ bẩm sinh, còn làm sao nó mắt sáng thì nó lớn rồi, đi hỏi nó. Hai ông bà nói thế vì sợ bị trục xuất khỏi hội đường. Anh mù hoàn toàn tin tưởng vào Đức Kitô, anh dõng dạc tuyên bố, Ngài là Đấng đến từ Thiên Chúa bởi lòng xót thương Ngài diễn tả điều đó. Đến lúc này nhóm Pharasiêu chia rẽ trong bọn. Người thì hỗ trợ, cổ võ, điều anh mù xác định Đức Kitô đến từ Thiên Chúa; số còn lại kết án Đức Kitô là kẻ tội lỗi vì vi phạm luật ngày hưu lễ. Được sáng mắt, cuộc sống anh mù vẫn không hết khó khăn. Khi còn mù, đi ăn xin, người ta coi thường anh. Giờ mắt sáng, anh trở thành tâm điểm của điều tra, thẩm vấn. Bị điều tra thẩm vấn, anh không sợ bởi đây là cơ hội cho anh nói lên sự thật, nói điều anh thầm nghĩ bấy lâu mà không có ai nghe, không ai để í, nay điều anh nói được mọi người nghe, mọi người để í vì thế anh lớn tiếng nói lên sự thật về Đức Kitô. Dù gặp khó khăn, đau khổ, anh vững tâm làm chứng cho Ngài. Đức Kitô biết anh bị trục xuất khỏi hội đường, Ngài đến gặp anh, hỏi han. Anh xin Ngài cho anh biết Ngài là ai? Đức Kitô cho biết Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống. Anh mù đón nhận Ngài, tin theo và tôn thờ Con Thiên Chúa hằng sống.
Người được Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt trong Tin Mừng theo Thánh Gioan hôm nay là “người MC 4-A158
Người được Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt trong Tin Mừng theo Thánh Gioan hôm nay là “người mù từ thuở mới sinh”. Thái độ của anh đối diện với Chúa, với dấu lạ Chúa ban cho anh có nhiều biến đổi:
1. Khởi đầu, khi bị điều tra, anh nói về Chúa quá mơ hồ: “Người có tên là Giêsu trộn một chút bùn và xức vào mắt tôi” (Ga 9, 11). Anh chưa có thể nói thêm bất cứ kinh nghiệm hay cảm nghiệm nào của chính anh về Chúa.
2. Về sau, càng lúc anh càng thấm thía ân huệ mà mình đã nhận được, nhất là khi so sánh thái độ đố kỵ, hung hăng của những người có trách nhiệm khi đối diện với sự thật anh được chữa lành, cõi tâm hồn anh càng lúc càng biến đổi, càng lúc càng nhận ra Chúa. Anh khẳng khái nói về Chúa Giêsu: “Người là một vị ngôn sứ” (Ga 9, 17).
Anh dám phản biện những lời kết án Chúa Giêsu là người tội lỗi: “Ông ấy có phải là người tội lỗi không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được” (Ga 9, 25).
Khi bị tra khảo dồn dập, người từng bị mù còn dám trêu những kẻ đang đe dọa mình: “Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng?” (Ga 9, 27).
Càng lúc thái độ của anh càng mạnh mẽ. Anh cho thấy đức tin của mình vào Chúa Giêsu thật lớn, thật can đảm. Anh tuyên bố trước mặt những kẻ nắm quyền hành trong thế gian: “Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9, 31-33).
Hóa ra trước dấu lạ của Chúa, người mù không chỉ đã được sáng đôi mắt. Anh còn sáng cả tâm hồn, sáng cả một đức tin thật kiên cường.
Còn những kẻ chưa bao giờ mù đôi mắt, những kẻ cứ tưởng mình thật sáng suốt vì nắm giữ truyền thống tôn giáo lại là kẻ đui mù. Nguy hiểm và thật đáng sợ vì đây là sự đui mù về tâm linh, về nhận thức chân lý, về sự sống của đức tin.
1. Hành trình đức tin của người mù được chữa lành là khuôn mẫu cho hành trình đức tin của từng người. Chúng ta cần trưởng thành mỗi ngày một hơn trong hành trình sống của mình.
Nhất là những lúc đối diện với nguy nan, thử thách, đối diện với những ai tấn công đức tin của mình, chúng ta càng phải mang trong tâm tư một tư thế của người hãnh diện về đức tin, một tư thế của người luôn xác tín: Chỉ một mình đức tin vào Chúa Giêsu mới là tất cả.
2. Cả thái độ ngạo mạn, kiêu căng của những người bị mù tối tâm hồn cũng thành bài học kinh nghiệm cho chúng ta.
Hãy nhìn vào đó để luôn khiêm nhường nhận ra Chúa, thờ lạy Chúa trong bất cứ những điều tốt đẹp nào, nếu nó mang lại giá trị thiêng liêng cho linh hồn.
Hãy loại khỏi trái tim những đố kỵ, thù hằn, ganh tỵ, ganh ghét, để con mắt tâm hồn được sáng mà nhận ra những huyền nhiệm của Thiên Chúa trong cõi đời, và trong từng hoàn cảnh của đời sống.
Hãy sống có tình người để có thể yêu cái đáng yêu của người khác, cảm thông cái khó khăn của người khác, vui mừng với cái tốt mà người khác có được, hạnh phúc trong niềm hạnh phúc của người khác, đau trong cái đau của người khác, khóc hay cười trong tiếng khóc hay nụ cười của người khác…
Dù bất cứ hoàn cảnh nào, hãy để đôi mắt được thắp sáng.
“Không phải anh ta, cũng không phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhận thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh” (Ga 9,3).
Khi thấy một người mù tự khi mới sinh, các môn đệ hỏi Chúa, ai đã phạm tội khiến người này sinh MC 4-A159
Khi thấy một người mù tự khi mới sinh, các môn đệ hỏi Chúa, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta? (x. Ga 9,2). Thường thì chúng ta cũng vậy, khi thấy người khác bị bệnh này tật kia hoặc bị những thất bại hay khốn khó gì là chúng ta lên tiếng, tại sao anh ta, chị ta lại bị như vậy; có phải vì họ hay cha mẹ họ đã ăn ở thất đức chăng?
Câu trả lời của Đức Giê-su đã rõ ràng: “Không phải anh ta, cũng không phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhận thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh”. Như thế, chẳng phải họ hay cha mẹ họ ăn ở thất đức, bệnh này tật kia là do con người chúng ta không ăn uống điều độ và không lo cố gắng sống cho tốt thôi. Còn thất bại, khốn khó ai mà chẳng có.
Có thể nói, việc mù bẩm sinh, tức là không do con người tác động, thì sẽ cho thấy “công trình của Thiên Chúa”; còn những việc do tác động của con người thì sẽ cho thấy “công trình của con người” chúng ta có giới hạn thế nào. Con người không làm chủ được vận mệnh của mình. Con người không làm bá chủ được thế giới. Ngay con vi rút nhỏ xíu thế mà còn chưa tiêu diệt được nữa mà !!!!
Ví dụ như do nhiễm chất độc màu da cam, những trẻ được sinh ra sẽ bị dị dạng không như trẻ bình thường; hoặc thực tế ngày nay là đại dịch vi rút Co-ro-na đã lan tràn khắp thế giới, gây thương vong và ảnh hưởng rất lớn cho đời sống mọi người. Điều đó cho thấy, con người ngày nay được cho là phát triển tột bậc, chế tác được đủ mọi thứ, thế mà đã không ngăn nổi đại dịch. Như thế cũng cho thấy rõ “công trình của con người” là như thế nào.
“Công trình của Thiên Chúa” là công trình cứu độ; là chiếu sáng, đem lại ánh sáng cho con người. Không chỉ là ánh sáng bình thường mà là ánh sáng vĩnh cửu, ánh sáng của Thiên Chúa.
Do đó, chúng ta hãy bỏ đi những ý nghĩ không chính xác khi nhận xét về người khác. Có khi do người đó thật hay do cha mẹ người đó mà ra, dù vậy chúng ta cũng không nên có những ý nghĩ như vậy. Tại sao? Vì chưa chắc chúng ta đã tốt hơn người khác; coi chừng chúng ta hay con cái chúng ta cũng bị bệnh này tật kia hay bị thất bại, gặp khốn khó thì sao? Hay lúc đó, chúng ta lại lươn lẹo, lấp liếm, lấy lý do này lý do kia để biện hộ.
Như có người thấy mình được điều xa để làm việc thì nói là mình được “biệt phái” đi, tức là được phái đi cách đặc biệt; còn người khác sau đó cũng được điều đi đến đó thì lại nói là “bị đì”. Thế là thế nào? Đúng là “biệt phái Pha-ri-siêu” không hơn không kém. Những người Biệt phái Pha-ri-siêu thấy Đức Giê-su chữa lành người mù thì cảm thấy không vui, nên tìm cách chất vấn Đức Giê-su, cha mẹ và cả người mù nữa.
Họ cho rằng Đức Giê-su khi chữa lành người mù đã vi phạm ngày Sa-bát. Vì Đức Giê-su lấy bùn xức vào mắt người mù như thế là giống như “xây nhà” rồi. Còn người mù thì đi rửa mắt. Thành thử cả hai đều vi phạm ngày Sa-bát. Trọng tâm của cuộc tranh luận vẫn là Đức Giê-su. Đức Giê-su là ai?
Trong nhóm biệt phái, có người nói : Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì đã không giữ ngày Sa-bát. Còn người khác thì nói : Một người tội lỗi sao có thể làm được dấu lạ như vậy (x.Ga 9, 16).
Người mù thì nói: “Chúng ta biết Thiên Chúa không nhậm lời kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến thì ông ta chẳng làm được gì” (x.Ga 9, 31-33).
Vậy thì ai sáng hơn ai? Chính vì sự kiêu ngạo và vị luật mà những người Pha-ri-siêu đã không nhận ra Đức Giê-su là người của Thiên Chúa; cũng không nhận ra công trình của Thiên Chúa; còn người mù thì lại nhận ra.
Đức Giê-su nói : “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy và cho người xem thấy lại nên đui mù” (x.Ga 9,39). Nghe vậy, họ lên tiếng : “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao? Đức Giê-su bảo họ : “Nếu các ông đui mù thì các ông chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: Chúng tôi thấy, nên tội của các ông vẫn còn”(x. Ga 9, 40-41).
Chúng ta có thể diễn dịch lại như sau cho dễ hiểu. Sự xét xử của Đức Giê-su là người tự cho mình sáng là mù và người bị mù là sáng. Nếu ai tự nhận mình là người mù, thì tội sẽ được tha; còn ai tự nhận là sáng, là tốt lành, thánh thiện, thì tội người đó không được tha.
Thế đấy, thà nhận mình là người yếu đuối, hèn mọn, tội lỗi, bất toàn, bị đui mù đi, còn hơn là cho mình tốt lành, thánh thiện mà mắc thêm tội. Cái tội không biết; cái tội kiêu ngạo; cái tội khinh khi người khác; cái tội cho mình là hay, là giỏi, là sáng, là khôn.
Qua Lời Chúa hôm nay, Chúa dạy chúng ta hãy nhận biết mình là người yếu đuối, giới hạn, bất toàn; đừng bao giờ cho mình hay, mình giỏi, mình tốt lành, mình thánh thiện hơn người khác. Điều chúng ta cần làm đó là “những gì là lương thiện, công chính và chân thật” (x. Ep 5,9).
Thánh Phao-lô nói : “Anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng, mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật” (x.Ep 5,8-9). Nói cách khác nếu chúng ta cho mình là SÁNG thì chúng ta phải sống lương thiện, không sống lươn lẹo; phải sống công chính, không sống bất công và bất chính; phải sống chân thật, không sống giả hình, giả trá.
Vậy, chúng ta hãy noi gương người mù từ lúc mới sinh hôm nay, mà tin vào Đức Giê-su và thực hành điều Đức Giê-su dạy, để cặp mắt tâm hồn chúng ta được chiếu sáng mà thấy rõ công trình cứu độ của Thiên Chúa thực hiện nơi chúng ta, cũng như nơi người khác. Như thế, chúng ta sẽ lãnh nhận được ơn tha thứ của Chúa và hằng ăn ở như con cái ánh sáng.
Ánh sáng đó là màu hồng của phụng vụ hôm nay. Và Sống lương thiện, công chính và chân thật là màu hồng của chúng ta.
Con mắt có thể tiết lộ nhiều thứ độc hại, bởi vì “Ai nhìn với con mắt đố kỵ là người xấu, nó ngoảnh MC 4-A160
Con mắt có thể tiết lộ nhiều thứ độc hại, bởi vì “Ai nhìn với con mắt đố kỵ là người xấu, nó ngoảnh mặt đi và khinh dể thiên hạ.” (Hc 14:8) Con mắt cũng là “đường dẫn” nhiều thứ xấu xa: “Có thụ tạo nào tệ hơn con mắt? Gặp chi nó cũng phát khóc vì thèm.” (Hc 31:13) Người ta so sánh: “Mắt láo liên như thằng trộm cắp.” Vì thế, Kinh Thánh khuyên cẩn trọng: “Hãy học cho biết đâu là khôn ngoan, đâu là sức mạnh, đâu là thông hiểu, đâu là trường thọ và sự sống, đâu là ánh sáng soi con mắt, và đâu là bình an.” (Br 3:14) Trong đó có con mắt. Không hề đơn giản!
Với kinh nghiệm sống, tiền nhân đã xác định: “Giàu hai con mắt, khó đôi bàn tay.” Điều đó chứng tỏ rằng đôi mắt sáng thực sự là điều cần thiết cho cuộc sống đời thường. Người mù bẩm sinh còn đỡ khổ hơn người lớn lên rồi mới bị mù. Người mù bẩm sinh vẫn cảm thấy “bình thường” vì họ không có khái niệm về chiều kích hoặc màu sắc. Người lớn lên mới bị mù chắc chắn cảm thấy khổ sở hơn vì đã trải nghiệm những khái niệm liên quan cuộc sống.
Đau đâu khốn đấy. Có hai con mắt mà một mắt có thị lực yếu, bị đau hoặc bị mờ, thậm chí chỉ là bụi vào mắt, cũng thấy khổ lắm rồi chứ nói chi bị mù hẳn. Hai con mắt mà “khác” một chút thôi cũng đủ biết khổ sở, tình trạng “bốn mắt” cũng chẳng thoải mái gì, khổ suốt, vì cứ phải lệ thuộc vào cái kính. Vướng víu!
Con mắt cũng có khả năng biểu cảm – biết khóc, biết cười, biết giận, biết thương. Khó nhận biết khi mắt cười, nhưng ai cũng nhận biết khi mắt khóc. Khóc cũng đa dạng: vì vui, vì buồn, vì khổ, vì thương, vì nhớ, vì tức, vì sợ, vì nũng nịu, vì giả bộ,… Tuy nhiên, đôi khi người ta cũng cần phải biết khóc, vì nước mắt có thể “cuốn trôi” nỗi buồn và làm sạch mắt nhờ chất mặn. Về tâm linh, cần phải khóc vì tội lỗi mình đã phạm – tội với Thiên Chúa và lỗi với tha nhân. Nhiều lắm, nhất là trong tư tưởng và những thiếu sót.
Thật kỳ lạ, con mắt còn có khả năng “bật mí” nhiều thứ khác, thế nên đôi mắt được coi là “cửa sổ” của tâm hồn. Qua hai “cửa sổ bé nhỏ” này, người ta có thể nhận biết người đối diện như thế nào. Cửa sổ nhỏ hơn cửa ra vào, thế nhưng đôi khi cửa sổ vẫn thực sự quan trọng. Đối với con người, ai yếu vía sẽ “tự quay đi” khi nhìn vào mắt của người “mạnh vía” hơn mình. Dòng nước mạnh sẽ “lướt” dòng nước yếu. Tự nhiên vậy thôi!
Tình trạng mù lòa đồng nghĩa với tối tăm, trái ngược với sáng sủa. Khiếm thị hoặc mù lòa về thể lý là tình trạng tồi tệ đối với một con người, nhưng “mù lòa tâm linh” không chỉ tồi tệ mà còn nguy hiểm. Thế nên Chúa Giêsu xác định: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9:39) Thật đáng sợ nếu chúng ta bị Ngài quở trách như vậy. Lúc đó, chúng ta hóa thành người “có mắt như mù.” Quá đỗi khủng khiếp. Chết chắc!
Khóc vì buồn, buồn vì tiếc. Nhưng có đáng tiếc hay không? Ngày xưa, Thiên Chúa nói thẳng với Samuel: “Ngươi còn khóc thương Saun cho đến bao giờ, khi ta đã gạt bỏ nó, không cho làm vua cai trị Israel nữa? Ngươi hãy lấy dầu đổ đầy sừng và lên đường. Ta sai ngươi đến gặp Giesê người Bêlem, vì Ta đã thấy trong các con trai nó một người Ta muốn đặt làm vua.” (1 Sm 16:1) Thiên Chúa không đề cập con mắt, nhưng chúng ta biết Ngài nói đến mắt nhờ động từ “khóc” – liên quan nước mắt.
Chúng ta biết thông tin qua trình thuật 1 Sm 16:6-7, 10-13 rằng khi họ đến, ông Samuel thấy Êliáp, ông nghĩ: “Đúng rồi! Người Đức Chúa xức dầu tấn phong đang ở trước mặt Đức Chúa đây!” Thế nhưng Đức Chúa bảo ông Samuel: “Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng.” Cách nghĩ của Thiên Chúa hoàn toàn khác hẳn với loài người, tầm nhìn của Ngài cũng hoàn toàn khác với tầm nhìn của phàm nhân, kể cả tư tưởng – cách xa một trời một vực.
Theo cách nhìn của con người, chúng ta thường quan niệm rằng “quen sợ dạ, lạ sợ áo.” Vì nhìn thấy “con lợn béo” nên cho rằng “lòng nó ngon.” Thiên Chúa lại không có quan niệm niệm như vậy, Ngài không nhìn theo bề ngoài mà Ngài nhìn “thấu suốt” nội tâm. Tục ngữ Việt Nam nhắc nhở: “Chiếc áo không làm nên thầy tu.” Những người coi trọng bề ngoài là những người có nội tâm hời hợt, nông cạn – dạng “yếu bóng vía” hoặc “mắt kém.” Chúng ta thường dựa vào chức vụ hoặc bằng cấp (cả đời và đạo) để xác định “trình độ” của ai đó, nhưng thực sự là “bé cái lầm” mà thôi.
Rồi ông Giesê cho bảy người con trai đi qua trước mặt ông Samuel, nhưng ông Samuel nói với ông Giesê: “Đức Chúa không chọn những người này.” Quả là “mắt thần” có khác! Rồi ông lại hỏi rằng các con ông Giesê có mặt đầy đủ chưa. Ông Giesê nói còn cháu út đang chăn chiên. Ông Samuel liền bảo ông Giesê cho người đi tìm nó về rồi mới nhập tiệc. Ông Giesê cho người đi đón cậu về. Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn. Đức Chúa nói với ông Samuel: “Đứng dậy, xức dầu tấn phong nó đi! Chính nó đó!” Ông Samuel cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu. Thần khí Chúa nhập vào Đavít từ ngày đó trở đi.
Đáp ca hôm nay sử dụng cả 6 câu trong Thánh Vịnh 23 [22]. Đây là Thánh Vịnh phổ biến, quen thuộc, nói về niềm hạnh phúc được Chúa quan phòng và gìn giữ, đồng thời cũng đề cập lòng tín thác: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.” (Tv 23:1-4) Đó là cách sống đức tin – phó thác cho Thiên Chúa định liệu mọi sự.
Kinh nghiệm dù nhiều hay ít cũng cho thấy đúng như vậy. Quả thật, khi có Thiên Chúa đồng hành thì “dầu qua lũng âm u” cũng “chẳng sợ gì nguy khốn,” bởi vì có “côn trượng Ngài bảo vệ” thì hoàn toàn “vững dạ an tâm.” Thánh Vịnh gia cho biết: “Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên.” (Tv 23:5-6) Có Chúa là có tất cả, vì chúng ta được đi trên “con đường sáng” chứ không tăm tối. Chẳng phải lo chi, mà có lo cũng chẳng xong, sợ cũng chẳng được: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.”
Rất thực tế, Thánh Phaolô nói: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật.” (Ep 5:8-9) Có nghĩa là phải cẩn trọng xem “điều gì đẹp lòng Chúa,” chứ “đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối,” đặc biệt là “phải vạch trần những việc ấy ra mới đúng.” (Ep 5:10-11) Ông giải thích: “Vì những việc chúng làm lén lút thì nói đến đã là nhục rồi. Nhưng tất cả những gì bị vạch trần, đều do ánh sáng làm lộ ra; mà bất cứ điều gì lộ ra thì trở nên ánh sáng. Bởi vậy, có lời chép rằng: “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi!” (Ep 5:12-14) Có lẽ ai cũng sợ sự vạch trần hoặc tố giác. Tại sao? Vì đồng lõa với bóng tối – lãnh địa của ma quỷ.
Mặc dù bóng tối rất mạnh, chỗ nào không có ánh sáng thì nó phủ đầy ngay. Nhưng nó mạnh mà yếu, vì chỗ nào có ánh sáng, dù chỉ le lói, nó cũng sẽ phải lui ngay. Bóng tối dày đặc của cả thế gian cũng không thể che khuất một đốm sáng. Quẹt một que diêm sẽ thấy “tác động” giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng rất cần, nhưng chúng ta phải cố gắng “tạo” ra nó. Có một câu danh ngôn liên quan ánh sáng và bóng tối, ý nói chúng ta phải không ngừng nỗ lực trong cuộc sống: “Hãy thắp lên một ngọn nến còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối.”
Chỉ là chuyện đời thường tạm bợ mà chúng ta còn phải cố gắng thì chuyện tâm linh càng phải nỗ lực hơn rất nhiều, không thể gặp chăng hay chớ hoặc tùy hứng.
Trình thuật Ga 9:1, 6-9, 13-17, 34-38 cho biết rằng cả Thầy Trò cùng nhìn thấy một người mù bẩm sinh. Các môn đệ hỏi Sư Phụ Giêsu: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” Ngài trả lời: “KHÔNG phải anh ta, cũng CHẲNG phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.” Khi “thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện” là lúc Ngài được vinh danh.
Ngài nói rõ ràng, nhưng người ta vẫn chẳng “ngộ” ra sự thật, phải chăng vì không quan tâm? Thế nên trong cuộc sống, chúng ta vẫn “chắc nịch” cho rằng những người kém may mắn hơn mình (làm ăn thua lỗ, mùa màng thất bát, bị tai nạn, bị bệnh hoạn, bị xui xẻo, gặp hạn,…) đều là những người tội lỗi. Có người chỉ “để bụng,” nhưng có người lại dám “phán” rằng “Chúa phạt!” hoặc “Đáng đời!” Ôi, lạy Chúa, nói theo kiểu phim Hong Kong thì đúng là “thiện tai” thật!
Cũng chưa xong, người ta còn có thiên kiến – định kiến, thành kiến. Cùng sự cố như nhau (ví dụ: bệnh hoạn), với người không “hợp ý mình” thì người ta nói là do Chúa phạt, nhưng với người “hợp ý mình” thì lại nói rằng đó là Thánh giá Chúa trao. Đúng là “cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo.” Nếp nghĩ lệch lạc đó chính là động thái “giết người” mà không cần vũ khí. Thật đáng quan ngại!
Sau khi cho các đệ tử biết lý do, Chúa Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù và bảo: “Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa.” (Silôác [Siloah] nghĩa là Người Sai Phái. Hồ này ở phía Đông Nam Giêrusalem, cuối thung lũng Tyropeon.) Anh ta liền đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được. Chúa Giêsu có biệt dược độc đáo ghê đi, phải nói là “thần dược” hoặc “linh dược” mới đúng, mặc dù chỉ là “nước miếng trộn với bùn.” Hay quá chừng. Mấy lang băm chớ mà học đòi theo, kẻo các pháp sư phải sợ mà chạy có cờ, còn các lương y và bác sĩ danh tiếng phải tâm phục khẩu phục. Thật là tuyệt chiêu!
Người bàn ra, kẻ tán vào, xì xầm bàn tán theo ý kiến riêng, vì trước kia họ thường thấy anh ta ăn xin. Có người chắc chắn là chính hắn, có kẻ thì bảo không phải, kẻ khác lại bảo một người giống hắn. Chín người, mười ý, lắm lý nhiều ý, chẳng ai chịu ai. Thế rồi họ dẫn anh ta đến gặp nhóm Biệt Phái quái đản. Rắc rối là ngày Chúa Giêsu làm cho anh ta sáng mắt lại là ngày sabát. Nhóm Pharisêu hỏi thêm một lần nữa rằng tại sao anh ta sáng mắt, và chính anh xác nhận: “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy.” Trong nhóm Pharisêu, người thì bảo Chúa Giêsu không thể là người của Thiên Chúa vì Ngài không giữ ngày sa-bát, kẻ thì bảo rằng người tội lỗi không thể làm được những dấu lạ như vậy. Cũng chẳng ai chịu ai, thế là họ đâm ra chia rẽ. Ngộ dữ nghen, chuyện của người ta mà xía vô làm chi? Rồi họ lại hỏi ý kiến của anh ta về người đã chữa mắt. Anh ta nói ngay: “Người là một vị ngôn sứ!” Quá đúng. Nhưng cũng vì vậy mà nhóm Pharisêu phát tức, máu bốc tới chỏm đầu.
Sự thật rõ ràng, vậy mà người Do Thái vẫn không tin trước đây anh bị mù và bây giờ nhìn thấy, họ đã gọi cha mẹ anh ta đến. Họ hỏi anh có phải là con của họ hay không, cha mẹ anh xác nhận anh bị mù từ khi mới sinh, còn bây giờ anh sáng mắt thì họ không biết tại sao, cha mẹ anh bảo họ cứ hỏi anh ta là chính xác nhất. Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Do Thái, những người sẵn sàng trục xuất khỏi hội đường bất cứ kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô. Thật tồi tệ đối với những kẻ lắm quyền nhiều chức!
Và một lần nữa, chính họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: “Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi.” (Ga 9:24) Nhưng anh ta bảo rằng ông ấy có phải là người tội lỗi hay không thì anh không biết, mà anh chỉ biết một điều là trước đây anh bị mù nhưng nay anh nhìn thấy được. Họ hỏi anh xem Chúa Giêsu đã làm thế nào mà anh sáng mắt, anh bảo rằng anh đã nói rồi mà họ không chịu nghe. Anh thẳng thắn nói rằng có phải họ cũng muốn làm môn đệ Chúa Giêsu hay không. Máu tự ái lại bốc lên nên họ không tiếc lời mắng nhiếc, thóa mạ: “Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Môsê. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Môsê; nhưng chúng ta không biết ông Giêsu ấy bởi đâu mà đến.” Đúng là “kẻ ngu mở miệng là tai họa đến gần.” (Cn 10:14) Y như rằng!
Chó đen giữ mực. Kẻ ngu si không kìm được giận dữ và để lộ điều dại dột. (Cn 12:16; Cn 13:16) Anh ta thấy khó hiểu, vừa gãi đầu vừa nói: “Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến thì ông ta đã chẳng làm được gì.” (Ga 9:30-33) Cái “nếu” của anh mù đưa ra thật độc đáo. Thế nhưng họ vẫn cố chấp và đối lại: “Trứng khôn hơn vịt. Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?” (Ga 9:34) Và rồi họ liền trục xuất anh. Người có tâm địa xấu là vậy, chỉ chờ có thế thôi. Không còn sĩ diện, “ngu si mà cứ tưởng mình ngay chính.” (Cn 12:15)
Chuyện anh ta bị trục xuất, Chúa Giêsu cũng biết, nên khi gặp lại anh, Ngài hỏi anh có tin vào Con Người không, anh ta hỏi Đấng ấy là ai để anh ta tin. Ngài trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây.” (Ga 9:37) Vô cùng bất ngờ nhưng anh lại thấy vui mừng và nói ngay: “Thưa Ngài, tôi tin.” (Ga 9:38) Nói xong, anh sấp mình xuống trước mặt Ngài. Đức tin của “cựu người mù” này lớn quá! Tại sao? Thong thường thì đa số hơn thiểu số, mặc dù nhiều người ghét Chúa Giêsu mà anh vẫn có lập trường rõ ràng của riêng mình, không chịu “gió chiều nào ngả theo chiều nấy.” Anh này thật diễm phúc – nhờ có đức tin mạnh mẽ.
Chúa Giêsu biết anh ta thật lòng nên cho biết: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9:39) Những người Pharisêu đang ở đó và nghe vậy liền lên tiếng: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?” Lại tự ái. Đầu óc “bã đậu” và “nhỏ nhen” như thế thì chả bao giờ khá lên được. Đầu óc gì mà nhỏ như hạt đậu, hẹp như ống hút nước vậy! Có lẽ lúc ấy Chúa Giêsu cũng phải lắc đầu, rồi Ngài thản nhiên bảo họ: “Nếu các ông đui mù thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng ‘chúng tôi thấy’ nên tội các ông vẫn còn!” (Ga 9:41) Kẻ chảnh thì thường ngu đột xuất, bây giờ lại tiếp tục ngu kinh niên, ngu tầm cỡ quốc tế luôn. Chán ngán quá!
Thế nhưng có lẽ chúng ta cũng đã có những lần giống như nhóm Pharisêu, chẳng “thoáng” hơn họ bao nhiêu. Và rồi chúng ta cũng vẫn cứng lòng, không chịu “cho vào tai” những lời “thuận ngôn,” không chịu “cân nhắc” lời hơn lẽ thiệt, không chịu “mở mắt” to để nhìn rõ vấn đề, thế nên lời nguyền rủa “có mắt như mù” cũng chẳng hề oan ức. Thế thì đáng lo sợ lắm!
Chắc chắn rằng mù lòa thì khổ lắm, khổ đủ thứ. Chỉ mờ mắt một chút đã thấy khổ rồi, càng khổ hơn nếu cận thị, viễn thị hoặc loạn thị. Nói chung là khổ hết ráo khi “cửa sổ tâm hồn” không bình thường. Thánh Vịnh gia nói: “Mở mắt coi, bạn liền thấy rõ thế nào là số phận bọn ác nhân.” (Tv 91:8) Do đó, luôn phải biết cầu nguyện: “Xin mở mắt cho con nhìn thấy luật pháp Ngài kỳ diệu biết bao.” (Tv 119:18)
Thời gian trôi qua mau chóng. Chúa Nhật IV Mùa Chay là “cột mốc” cho biết đã qua nửa Hành Trình Mùa Chay. Mỗi chúng ta đã “nhìn” thấy gì, “sáng” thêm chút nào? Có chữ bớt cận thị, viễn thị hoặc loạn thị chưa? Cận thị vì ảo tưởng mà mạo nhận là mình đạo đức tốt lành, viễn thị vì không thấy “giỏ tội” của mình ngay trước mặt, và loạn thị vì không lo đấm ngực mình mà cứ lo đấm ngực người khác. Mùa Chay không còn dài thời gian, chúng ta cùng tạ ơn Chúa và tiếp tục xin Ngài dìu dắt chúng ta đi hết chặng đường Mùa Chay đúng ý Chúa muốn.
Lạy Thiên Chúa, xin đừng trách mắng con khi thịnh nộ, đừng sửa trị con lúc nổi lôi đình. (Tv 38:2) Xin giúp con biết yêu thương chân thành, nhận ra Ngài nơi tha nhân – những người được tạo nên giống hình ảnh Ngài, đặc biệt là những người đau khổ, nghèo khó, hèn mọn. Xin cho người khác cũng nhận thấy có Ngài thực sự sống động nơi con. Xin nâng đỡ những người khiếm thị và những người chăm sóc họ. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Tin Mừng các Chúa nhật Mùa Chay phụng vụ năm A đều chung một chủ đề là hướng các tín MC 4-A161
Tin Mừng các Chúa nhật Mùa Chay phụng vụ năm A đều chung một chủ đề là hướng các tín hữu đến bí tích Thanh tẩy, đồng thời diễn tả tiến trình đến với Chúa của các dự tòng. Vì thế, mỗi Chúa nhật đề cập tới một khía cạnh của bí tích này, cũng là mỗi khía cạnh thực tế và quan trọng của đời sống Kitô hữu. Thánh sử Gioan kể lại phép lạ Chúa chữa người mù bẩm sinh được sáng mắt. Phép lạ này được thực hiện trong bối cảnh khá căng thẳng giữa Chúa Giêsu và người Do Thái. Những người này phản ứng dữ dội trước lời giảng của Chúa Giêsu. Trước đó, ở chương 8, Chúa Giêsu tuyên bố “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12). Lúc này, với người mù bẩm sinh cũng như với dân chúng, là lúc Chúa Giêsu chứng minh điều Người đã nói. Với lối hành văn rất tài tình và tinh tế, tác giả Tin Mừng đặt ra sự so sánh giữa mù lòa thể lý với mù lòa tinh thần. Những biệt phái và luật sĩ khước từ giáo huấn của Chúa. Họ giống như những người mù không thể chữa trị. Đó là bệnh mù lòa thiêng liêng. Thành kiến, hận thù nhốt chặt họ trong một quan niệm khắt khe, nên họ không thể nhận ra nơi vị Ngôn sứ thành Nagiarét lời loan báo tình thương. Họ cũng không muốn cho người khác được những điều tốt lành may mắn trong cuộc sống. Sự khắt khe máy móc của họ đến mức khôi hài khiến độc giả bật cười ở chỗ người mù đã được sáng mắt quả quyết mình là người trước đây đã mù mà cũng không được. Nếu những người có hai con mắt tinh tường và lại còn học rộng tài cao hay ưa lý luận hạch sách, nay dưới ngòi bút của Thánh Sử, bị coi như những người mù, thì trái lại, người mù bẩm sinh từ trước tới nay không trông thấy gì xem ra lại rất sáng suốt và tinh tường. Những câu lý luận của người trước đây đã mù, xem ra “ngớ ngẩn” mà lại rất có lý, làm đối phương phải cụt hứng: “Nếu đó là một người tội lỗi, tôi không biết; tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi mù và bây giờ tôi trông thấy”. Qua trình thuật của Thánh sử Gioan, quan niệm “mù-sáng” đưa chúng ta tới một lối giải thích mới: người sáng là người biết nhận ra những điều kỳ diệu xung quanh mình do Chúa thực hiện, và biết đón nhận nó với trái tim chân thành. Người mù là người mặc dù có đôi mắt sáng, nhưng cố chấp trong những thành kiến khắt khe và trái tim vô cảm. Người mù bẩm sinh được chữa lành đã can đảm nhận ra Đấng đã làm ơn cho mình và tuyên xưng Đức tin vào Đấng ấy, xem ra anh phải cô độc và chơi vơi trong cuộc chiến để xác định niềm tin, vì chính cha mẹ ruột của anh cũng tránh né trước lời hạch sách của những người đang hùng hổ gây chuyện. Chính vào lúc anh bị những người tự coi là “sáng” đuổi ra ngoài, thì Chúa Giêsu đến gặp anh và Người tỏ cho anh biết Người là ai. Những cố gắng hy sinh của Mùa Chay, nếu được thực hiện cách nghiêm túc như Giáo Hội mong muốn, sẽ giúp cho chúng ta gặp Chúa. Ngài vẫn ở đó, khi con người sẵn sàng can đảm buông hết mọi ràng buộc níu kéo, thì sẽ được gặp Chúa. Cái nhìn của Đức tin sẽ giúp ta nhận ra những gì là chân thực. Việc ông Samuen chọn người làm vua kế vị Saun đã chứng minh điều đó. Con người thì nhìn xem bề ngoài, còn Thiên Chúa thì nhìn xem tâm hồn. Nhìn bề ngoài, Đavít không có tướng mạo làm vua, nhưng Chúa đã chọn ông vì Chúa thấy nơi ông một người có tâm hồn quảng đại. Bí tích Thanh Tẩy cho chúng ta được trở thành con cái ánh sáng. Mùa Chay là thời điểm tái khám phá ra ánh sáng thiêng liêng ấy. Những bon chen bận rộn của cuộc sống hằng ngày có nguy cơ làm cho chúng ta bị chìm vào bóng tối thế gian. Đức Giêsu đã đến để kéo chúng ta ra khỏi bóng đêm của tội lỗi để đưa đến ánh sáng kỳ diệu của ân sủng. Tuy thế, chỉ nguyên tước hiệu người được thanh tẩy không đủ cho chúng ta có con mắt sáng. Đó còn là những nỗ lực cố gắng dần dần trong suốt cuộc đời. Bởi lẽ cuộc sống trần gian là cuộc giành giật không ngừng giữa bóng đêm và ánh sáng. Có những lúc bóng đêm lại được tô vẽ bằng những ngôn từ mỹ miều choáng ngợp dễ làm cho người ta bị lừa. Vì thế, Thánh Phaolô khuyên chúng ta: “Anh em hãy ăn ở như con của sự sáng, bởi vì hoa trái của sự sáng ở tại tất cả những gì là tốt lành, là công chính và chân thật” (Bài đọc II). Đức Giêsu là nguồn sáng của đời tôi. Tôi có để ánh sáng của Người chiếu soi những góc khuất của cuộc đời tôi không? Tôi có nhận mình là còn mù tối để mở lòng đón nhận ánh sáng của Chúa không? Lạy Chúa Giêsu là “Ánh sáng bởi Ánh sáng”, xin chiếu soi tâm hồn con. Amen.
“Hãy nhìn về phía ánh mặt trời, các bóng tối sẽ khuất sau lưng bạn” (Whitman- Thi sĩ người Mỹ).
Thánh sử Gioan đã dành trọn chương 9 trong sách Tin mừng của Ngài để thuật lại câu chuyện Chúa MC 4-A162
Thánh sử Gioan đã dành trọn chương 9 trong sách Tin mừng của Ngài để thuật lại câu chuyện Chúa chữa anh mù bên hồ Si-lô-ác và một lần nữa, từ từ vén mở cho chúng ta chiêm ngắm chân dung cứu thế của Đức Giêsu. Ngài chính là ‘Ánh sáng trần gian’ (c.5). Thánh Gioan viết lại giai thoại này với mục đích duy nhất như đã nói trong phần kết của cuốn sách : ‘Những điều đã được chép ở đây để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Ngài (Ga 20,31)’. Đích nhắm ấy cũng được thể hiện rõ nét trong trình thuật hôm nay.
Hai sự mù lòa: Mù về thể lý và mù trong tâm hồn
Người thanh niên trong câu chuyện bị mù từ bẩm sinh. Nỗi khát khao duy nhất nơi anh ta là muốn được nhìn thấy. Thế giới của ánh sáng và cảnh vật chung quanh đã hoàn toàn khép lại. Nếu chúng ta có dịp đến thăm những người khiếm thị tại các mái ấm, chúng ta sẽ cảm thấu niềm khát khao nơi những con người bất hạnh này mãnh liệt như thế nào. Họ muốn tiếp cận với thế giới bên ngoài nhưng không thể. Chàng thanh niên bên hồ Si-lô-ác năm xưa cũng thế. Vào thời Chúa Giêsu, số phận của họ còn nghiệt ngã hơn nhiều. Xã hội lúc đó vẫn kết án và ‘đóng đinh’ người mù với những thành kiến xấu, vì nghĩ rằng anh bị Thiên Chúa trừng phạt do tội chính anh ta gây nên, hoặc do tội tiền nhân để lại. Ngay cả các môn đệ cũng nghĩ như thế (c.2). Do vậy vào thời Chúa Giêsu, dường như những người mù bị xã hội cô lập hoàn toàn. Họ sống cũng giống như những kẻ đã chết rồi. Nhưng may mắn, chàng thanh niên mù đã gặp được Đức Giêsu và Ngài đã chữa lành cho anh ta.
Nhưng, ngoài sự mù lòa thể lý còn có sự mù lòa tâm linh nghiêm trọng hơn rất nhiều. Đây là căn bệnh từ trong tâm hồn mà chính Đức Giêsu đề cập tới trong bài Tin mừng hôm nay, nhắm thẳng vào những người Pharisêu. Chúa nói : “Tôi đến thế gian để xét xử, cho người mù được xem thấy và kẻ xem thấy lại trở nên mù” (c.34). Khi nghe thế, những người Pharisêu tức tối và hỏi ngược lại : “Thế ra chúng tôi cũng đui mù cả hay sao?” (c.40). Chúa Giêsu đã vạch trần sự cố chấp và kiêu ngạo nơi họ, và Ngài xem đó là một tội ác (c.14). Đây chính là sự mù lòa nghiêm trọng phát xuất từ tâm hồn chai cứng của những người biệt phái năm xưa, và cũng có thể ẩn tàng nơi chính tâm hồn của mỗi người chúng ta ngày hôm nay.
Tiến trình chữa lành
Nếu chúng ta chỉ đọc qua bản văn một cách sơ sài mà không thấu triệt ý nghĩa thần học được thánh Gioan trình bày, chúng ta sẽ xem việc Chúa chữa anh mù là một công việc phản khoa học. “Ngài nhổ nước miếng xuống đất, trộn vào bùn và xức vào mắt người mù (c.6).” Có lẽ không ít người cảm thấy khó chịu và khó chấp nhận động thái xem ra mất vệ sinh đến thế. Nếu chỉ nghĩ đơn thuần như vậy, thì quả thật, đầu óc chúng ta cũng quá tối tăm và thiển cận. Đây chỉ là những hành vi mang tính biểu tượng nhằm khải thị những chân lý sâu xa hơn nhiều. Vả lại, thánh Gioan đã viết sách Tin mừng cách nay cả 20 thế kỷ, theo văn phong và não trạng y khoa lúc bấy giờ. Theo cách diễn tả của Gioan, Chúa chẳng khác gì một lang băm nhà quê. Song, điều mà thánh Gioan muốn trình bày chính là nêu bật dung mạo cứu thế của Đức Giêsu, là ‘Thầy thuốc’ vĩ đại và toàn hảo nhất. Ngài đến trần gian để giải cứu chúng ta thoát khỏi bóng đêm và sự mù lòa trong tội lỗi. Chúa trộn nước miếng xuống đất, nhào thành bùn như để nhắc nhở về thân phận của mỗi người chúng ta, vốn phát xuất từ bụi đất và sẽ trở về với đất bụi. Mọi người đều được sinh ra trong tội lỗi, và chúng ta đừng bao giờ nhìn người khác bằng cặp mắt Pharisêu, vẫn hay kết án tha nhân, còn mình thì không. Trong tiến trình chữa lành anh mù, giai đoạn cuối cùng Chúa nói với anh ta, là hãy đến hồ Si-lô-ác để rửa. Không phải vô tình mà thánh Gioan đã chú thích ngay sau đó hạn từ ‘Si-lô-ác’, tiếng Aram nghĩa là ‘Người được sai phái tới’ (c.7). Người được sai phái ở đây chính là Chúa Giêsu, Đấng được Chúa Cha sai đến trần gian để thực hiện ơn cứu độ. Trong máu của Người, mọi bùn đất tội lỗi chúng ta đều được rửa sạch, và nhờ thế chúng ta mới có thể ‘thấy’ được nguồn sáng cứu độ.
Con đường dẫn đến đức tin
Sau khi được sáng mắt, anh mù đã gặp lại Chúa Giêsu và Ngài hỏi anh ta : “Anh có tin vào Con Người không? Kết thúc tiến trình chữa lành, anh ta sấp mình phủ phục trước mặt Chúa và tuyên xưng : “Thưa thầy tôi tin”. Lộ trình đức tin của anh mù rất giản đơn. Trước hết, anh ta ý thức về sự khốn cùng nơi mình và khao khát vươn lên. Thứ đến, anh đến gặp Chúa Giêsu và Ngài ban tặng anh một thang thuốc quý, đó là ‘lấy bùn bôi vào mắt’ của anh. Song thực ra, thang thuốc vô giá anh có được chính là việc anh gặp được Chúa Giêsu và được Ngài sờ chạm đến. Cuối cùng anh đến hồ Si-lô-ác để rửa và thấy được. Thực ra anh mù đã được rửa trong ‘Đấng được sai tới’ và đã ‘thấy’, đã bắt đầu đi vào hành trình đức tin. Đây cũng là những giai đoạn thông thường trong lộ trình của chúng ta trên con đường tìm kiếm Chúa. Giai đoạn nào cũng quan trọng. Nhưng điều cần thiết trước tiên, là chúng ta cần phải nhận ra sự khốn cùng nơi thân phận tội lỗi của mình để biết chạy đến với Chúa và tiếp cận Ngài. Khi đã được sáng mắt, tức là đã ‘thấy’, chúng ta hãy sống theo lời khuyên của thánh Phaolô, được đọc lại trong bài đọc 2 hôm nay : “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ trong Chúa, ‘anh em là ánh sáng’. Trở nên ánh sáng để soi dẫn người khác là bản chất ơn gọi Kitô hữu nơi chúng ta.
Kết luận
Tại Lộ Đức ngay cổng vào có 1 bức tượng người mù khá ấn tượng. Chủ nhân là 1 doanh nhân Công giáo giàu có nhưng đã mất đức tin từ lâu. Ông ta không còn đến nhà thờ nữa, cũng chẳng còn tin vào Chúa một chút nào. Ông không muốn đi hành hương, nhưng vì nể vợ, nhất là thương đứa con gái tật nguyền, ông đã chấp nhận đi cùng với gia đình đến Lộ Đức. Đứa bé đã sốt sắng cầu nguyện với Đức Mẹ để xin ơn chữa lành, không phải cho em nhưng cho chính ông bố của em. Chúa đã chấp nhận và ông đã khôi phục lại được đức tin vốn bị đánh mất từ lâu. Ông cho tạc bức tượng người mù để ám chỉ về chính ông, một con người mù lòa trong đức tin nay được sáng mắt nhờ sự can thiệp của Đức Maria.
Có bao giờ chúng ta nhận ra sự mù lòa nơi chính mình hay chưa, hay chúng ta vẫn tưởng rằng mình sáng mắt như những người Pharisêu trong bài Tin mừng hôm nay ? Chúng ta hãy học lấy thái độ khiêm tốn của anh mù bên hồ Si-lô-ác, năng đến với Chúa để được Chúa yêu thương và chữa lành.
Ca dao Việt Nam có câu: “Thương nhau nước đục cũng trong, Ghét nhau nước chảy giữa dòng MC 4-A163
Ca dao Việt Nam có câu:
“Thương nhau nước đục cũng trong,
Ghét nhau nước chảy giữa dòng cũng dơ!”.
Tại sao nước đục mà lại trong? Và nước chảy giữa dòng mà lại dơ? Thưa vì con người đôi khi có cái nhìn lệch lạc, nhìn sai, nhìn không đúng. VÌ nhìn không đúng, nên sự thật đôi khi bị bóp méo. Cũng do tình cảm con người mà ra, hễ: “Yêu thì nên tốt, ghét thì nên xấu”.
Trường hợp Chúa Giêsu trong Phúc âm hôm nay. Ngài làm phép lạ chữa anh mù từ lúc mới sinh. Sự thật đã rõ như ban ngày, ai ai cũng biết. Thế mà bọn luật sĩ và biệt phái vì ghét Chúa Giêsu, nên cố tình che giấu sự thật.
Dân chúng ai cũng biết rõ, nên bảo nhau: “Người mù này vẫn ăn xin ở cửa đền thờ, nay nhờ ông Giêsu, người thành Nazareth chữa khỏi”. Sợ sự thật lan nhanh như vết dầu loang, nên bọn biệt phái vội bưng bít: Không đâu, các anh nhìn lộn đấy, một người giống như anh ta chứ không phải anh ta.
Người mù thấy có sự xuyên tạc, nên anh lên tiếng: “Chính tôi được ông Giêsu chữa lành chứ con ai?”. Bọn biệt phái vặn lại: “Nhưng sao ngươi được khỏi?” Anh đáp: “Người ấy đã sức nước miếng trên mắt tôi. Sau đó, mắt tôi được sáng”. Bọn biệt phái cả vú lấp miệng em: “Tội mày sờ sờ ra thế, đã kh6ong biết thân, lại còn đặt chuyện”. (Người Do Thái quan niệm bệnh là hình phạt của Thiên Chúa). Nhưng sự thật vẫn là sự thật.
Sau đó, họ dùng cha mẹ anh để gây áp lực. Họ hỏi hai ông bà: “Anh này con ông bà, và bị mù từ lúc mới sinh?” Ông bà đáp: “Thưa phải”. Bọn biệt phái hỏi: “Tại sao anh được sáng mắt?” Vì khi ấy đã có lệnh trục xuất bất cứ ai nhận Chúa Giêsu là Chúa Cứu Thế. Phần vì tránh đôi co, phần vì sợ liên lụy, hai ông bà đáp: “Điều đó chúng tôi không biết, chỉ biết nó bị mù từ lúc mới sinh. Còn nay, tại sao nó được sáng mắt, chúng tôi không biết. Nó lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó”.
Họ lại xoay đến anh mù: “Anh nghĩ thế nào về ông Giêsu? Anh tin ông ấy là Đấng Cứu Thế à? Đấng Cứu Thế đâu có chữa bệnh trong ngày Sa bát?”. Anh mù đáp: “Điều đó tôi không biết. Chỉ biết tôi bị mù từ lúc mới sinh, nay nhờ ông Giêsu chữa tôi được sáng mắt”. Bọn biệt phái tức bực đuổi anh ra khỏi đền thờ,…Họ dùng lý kẻ mạnh. Còn anh mù can đảm dám nói lên sự thật, dù sự thật mất lòng, dù sự thật phải trả giá.
Ở bài đọc II, thánh Phaolô viết cho tín hữu Êphêsô rằng: “Hoa trái của sự sáng ở tại sự tốt lành, sự công chính, sự chân thật. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái sự sáng”. (Eph 5, 8-14).
Thưa anh em.
– Sự thật không ở kẻ mạnh.
– Sự thật cũng không ở kẻ to mồm, to miệng. Nên trước khi hành động phải suy nghĩ, cân nhắc cẩn thận. Xét kỹ xem đâu là đúng đâu là sai.
– Đừng a-dua theo kẻ dữ làm bậy. Đừng hú theo tiếng hú của con chó sói. Trái lại, hãy đi trên con đường công chnính. Ngay nay có kẻ nói: “Bạn theo đạo, vừa mất giờ, mất sức lại giảm sức lao động”. Nếu con người là cái máy, thì nhận xét trên mới đúng. Đằng này, con người không là cái máy, mà là con vật biết suy nghĩ, là nhân linh ư vạn vật, là con cái Chúa,… Thì việc sống đạo, giữa đạo phải là một bổn phận của một loài thụ tạo đối với Đấng Hóa Công.
– Hơn nữa, người Công giáo hiểu hơn ai hết: “Theo Chúa, gắn bó với Chúa sẽ được gấp trăm ở đời này và được hạnh phúc đời sau”.
– Đạo là con đường dẫn con người tới hạnh phúc. Nên kẻ sống đạo tốt, cũng là người công dân tốt. Tin thần là đèn soi thân xác. Tin thần có sáng suốt thì đời sống con người mới thành công.
Xin Chúa soi sáng cho con nhìn biết sự thật, nhất là sự thật về Chúa Kitô, Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống, Ngài là Đấng cứu độ con. Xin giúp con đừng vì a-dua hay sợ kẻ khác mà không đi vào con đường ánh sáng.
Chúa phán: “Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống”. (Ga 8,12).
Khiếm thị không chỉ gây “bất tiện” mà còn có thể liên quan các bệnh khác như chậm phát triển MC 4-A164
tinh thần, rối loạn tự kỷ, bại não, suy giảm thích giác, và động kinh. Theo WHO, khiếm thị được định nghĩa là khi thị lực của một người dưới mức 20/500 hoặc thị trường nhỏ hơn 10 độ. Định nghĩa này được đưa ra năm 1972, và vẫn còn được thảo luận xem nó có nên được thay đổi một chút hay không.
Chỉ bị bụi vô mắt hoặc đau mắt thôi cũng đã thấy khổ rồi, chứ nói chi tới khiếm thị, lòa, thông manh hoặc mù lòa. Thảo nào tiền nhân đã xác định: “Giàu hai con mắt, khó đôi bàn tay”. Điều đó cho thấy đôi mắt sáng rất cần cho cuộc sống. Người mù bẩm sinh còn đỡ khổ hơn người lớn lên mới bị mù. Người mù bẩm sinh cảm thấy “bình thường” vì họ không có khái niệm về sáng – tối, cao – thấp, lớn – nhỏ, mập – gầy, vuông – tròn,… hoặc về màu sắc. Người lớn lên mới bị mù cảm thấy khổ hơn vì đã trải nghiệm nhiều khái niệm. Một người mắt sáng bình thường nhưng vẫn có những “điểm mù” đặc trưng nào đó.
Có hai con mắt, mờ một mắt, kém hoặc hư một mắt, thị lực yếu cũng là khổ lắm rồi, huống chi bị mù hẳn. Hai con mắt “khác” một chút như bị đau cũng thấy khổ rồi, tình trạng “bốn mắt” là khổ suốt – dù có thêm “hai con mắt” nữa. Kính mắt vừa tốn kém vừa vướng víu, phiền phức vì phải lệ thuộc nó!
Thật lạ lùng là mắt cũng biết khóc, biết cười, chứ không đơn giản chỉ để nhìn. Khó nhận biết khi mắt cười, nhưng ai cũng nhận biết khi mắt khóc. Khóc cũng đa dạng: vì vui, vì buồn, vì khổ, vì thương, vì nhớ, vì tức, vì sợ, vì nhõng nhẽo, vì giả bộ,… Tuy nhiên, đôi khi người ta cũng cần phải biết khóc, vì nước mắt có thể “cuốn trôi” nỗi buồn và làm sạch mắt nhờ chất mặn, nhờ biết khóc mà mắt thêm đẹp. Có điều đặc biệt là phải khóc vì tội lỗi mình đã phạm – tội với Thiên Chúa và lỗi với tha nhân!
Nước mắt là loại đặc ngữ mà trái tim không thể diễn tả. Mắt còn có khả năng “bật mí” nhiều thứ khác, như người ta ví von: “Đôi mắt là của sổ của tâm hồn”. Qua hai “cửa sổ” này, người ta có thể biết người đối diện như thế nào. Cửa sổ nhỏ hơn cửa ra vào, thế nhưng đôi khi cửa sổ vẫn quan trọng lắm đấy. Đôi khi không cần mở cửa ra vào nhưng lại rất cần mở cửa sổ. Người yếu vía sẽ “tự quay đi” khi nhìn vào mắt của người “mạnh vía”. Dòng nước mạnh sẽ “lướt” dòng nước yếu thôi!
Cảnh mù lòa đồng nghĩa với tối tăm, tất nhiên trái ngược với sáng sủa. Khiếm thị hoặc mù lòa về thể lý là tình trạng tồi tệ đối với một con người, nhưng “mù lòa tâm linh” còn nguy hiểm hơn nhiều. Thế nên Chúa Giêsu đã nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9:39). Thật đáng sợ nếu chúng ta bị Ngài quở trách như vậy. Chắc hẳn lúc đó chúng ta hóa thành người “có mắt như mù”. Khủng khiếp và đáng sợ quá!
Trong cuộc sống có nhiều hình thức mù, nhiều mức độ mù, và cũng đa dạng về “điểm mù”. Ngày xưa, Đức Chúa đã phán với ông Sa-mu-en: “Ngươi còn khóc thương Sa-un cho đến bao giờ, khi ta đã gạt bỏ nó, không cho làm vua cai trị Ít-ra-en nữa? Ngươi hãy lấy dầu đổ đầy sừng và lên đường. Ta sai ngươi đến gặp Gie-sê người Bê-lem, vì Ta đã thấy trong các con trai nó một người Ta muốn đặt làm vua” (1 Sm 16:1). Chúa không nói đến mắt, nhưng chúng ta biết Ngài nói đến mắt nhờ động từ “khóc”.
Trình thuật 1 Sm 16:6-7, 10-13 cho biết rằng khi họ đến, ông Sa-mu-en thấy Ê-li-áp nên nghĩ: “Đúng rồi! Người Đức Chúa xức dầu tấn phong đang ở trước mặt Đức Chúa đây!”. Nhưng Đức Chúa phán với ông Sa-mu-en: “Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng”. Cách nghĩ của Thiên Chúa đã khác hẳn với loài người rồi, mà cả tầm nhìn của Ngài cũng hoàn toàn khác.
Còn phàm nhân chúng ta ưa “trông mặt mà bắt hình dong”, cứ tưởng “con lợn béo” thì chắc chắn “lòng nó ngon”. Nhưng Thiên Chúa lại không như vậy, Ngài không nhìn theo bề ngoài mà Ngài nhìn “thấu suốt” nội tâm. Tục ngữ Việt Nam chí lý: “Chiếc áo không làm nên thầy tu”. Nhưng mấy khi chúng ta thóat được “điểm mù” này? Những người coi trọng bề ngoài là những người có nội tâm hời hợt, nông cạn – gọi là dạng “yếu bóng vía” hoặc “mắt kém”. Đó cũng là dạng tâm lý yếu kém.
Sau đó, ông Gie-sê cho bảy người con trai đi qua trước mặt ông Sa-mu-en, nhưng ông Sa-mu-en nói với ông Gie-sê: “Đức Chúa không chọn những người này”. Quả là “mắt thần” có khác! Rồi ông lại hỏi ông Gie-sê rằng các con ông có mặt đầy đủ chưa. Ông Gie-sê nói còn cháu út nữa, nó đang chăn chiên. Ông Sa-mu-en liền bảo ông Gie-sê cho người đi tìm nó về rồi mới nhập tiệc. Ông Gie-sê cho người đi đón cậu về. Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn. Đức Chúa nói với ông Sa-mu-en: “Đứng dậy, xức dầu tấn phong nó đi! Chính nó đó!”. Ông Sa-mu-en cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu. Và rồi Thần Khí Chúa liền nhập vào Đa-vít từ ngày đó trở đi. Đặc điểm của Đa-vít: tóc hung và đẹp trai (1 Sm 17:42).
Phụng vụ Chúa Nhật Hồng (Chúa Nhật Mừng – Laetare Sundae) sử dụng trọn Thánh Vịnh 23 (gồm 6 câu). Đây là Thánh Vịnh phổ biến nên rất quen thuộc, nói về niềm hạnh phúc được Chúa quan phòng, tiền định và che chở, đồng thời cũng có ý đề cập niềm tín thác vào Ngài: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv 23:1-4).
Thật vậy, khi có Chúa đồng hành thì chúng ta hoàn toàn an tâm và vui sống, “dầu qua lũng âm u” thì cũng “chẳng sợ gì nguy khốn”, bởi vì chúng ta có “côn trượng Ngài bảo vệ”. Tác giả Thánh Vịnh xác định: “Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23:5-6). Vâng, có Chúa là có tất cả, hoàn toàn an tâm vững dạ, bởi vì chúng ta được đi trên “con đường sáng” chứ không hề có chút bóng mờ hoặc tối tăm.
Nói về bóng tối tâm linh, Thánh Phaolô phân tích: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật” (Ep 5:8-9). Ông nhắc nhở chúng ta phải cẩn trọng cân nhắc xem “điều gì đẹp lòng Chúa”, chứ “đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối, phải vạch trần những việc ấy ra mới đúng” (Ep 5:10-11). Ông giải thích: “Vì những việc chúng làm lén lút thì nói đến đã là nhục rồi. Nhưng tất cả những gì bị vạch trần, đều do ánh sáng làm lộ ra; mà bất cứ điều gì lộ ra thì trở nên ánh sáng. Bởi vậy, có lời chép rằng: “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi!” (Ep 5:12-14).
Bóng tối đối nghịch với ánh sáng. Bóng tối rất mạnh, chỗ nào không có ánh sáng thì nó phủ đầy ngay. Nó mạnh mà lại yếu, vì chỗ nào có ánh sáng, dù chỉ le lói, nó cũng bị đẩy lùi ngay. Quẹt một que diêm sẽ thấy “tác động” giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng rất cần, nhưng chúng ta phải cố gắng “tạo” ra nó. Có một câu danh ngôn liên quan ánh sáng và bóng tối, ý nói chúng ta phải không ngừng nỗ lực trong cuộc sống: “Hãy thắp lên một ngọn nến còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối”.
Cuộc sống đời thường và tâm linh cũng tương tự. Chuyện đời thường mà chúng ta còn phải cố gắng thì chuyện tâm linh càng phải nỗ lực hơn nhiều lắm!
Một hôm, Thầy trò cùng nhìn thấy một người mù bẩm sinh. Các môn đệ hỏi Sư Phụ Giêsu: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?”. Đức Giêsu trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian” (Ga 9:3-5). Khi “thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện” là lúc Thiên Chúa được vinh danh.
Tuy nhiên, đáng lẽ chúng ta phải “ngộ” ra nhờ câu trả lời của Chúa Giêsu mới phải, thế nhưng có lẽ chúng ta vẫn không mấy quan tâm. Do đó, trong cuộc sống, chúng ta vẫn “chắc nịch” cho rằng những người kém may mắn hơn mình (làm ăn thua lỗ, mùa màng thất bát, bị tai nạn, bị bệnh hoạn, gặp điều xui xẻo,…) là những người tội lỗi, xấu xa hoặc độc ác. Có người chỉ “để bụng”, nhưng có người lại dám phán một câu “xanh rờn” rằng: “Chúa phạt!”. Ôi, lạy Chúa tôi! Nói theo phim bộ Hong Kong thì phải nói: “Thiện tai!”.
Không chỉ vậy, chúng ta còn có thiên kiến (định kiến). Cũng một sự việc như nhau (ví dụ: bệnh hoạn), với người không “hợp ý mình” thì chúng ta nói: “Chúa phạt cho đáng đời!”. Nhưng với người “hợp ý mình” thì chúng ta lại nói: “Thánh giá Chúa trao”. Đúng là “cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Chính định kiến đó là cách chúng ta “giết” người mà không cần gươm giáo!
Đừng quên Thiên Chúa đã nghiêm khắc cảnh báo: “Đừng tưởng mình là công chính trước mặt Đức Chúa, cũng đừng ra vẻ khôn ngoan bên cạnh đức vua. Đừng cười nhạo ai đang cay đắng trong lòng, vì có Đấng vừa hạ xuống vừa cất nhắc lên” (Hc 7:5 và 11). Mọi sự đã có Thiên Chúa quan phòng và tiền định, đừng cầm đèn chạy trước ô-tô, trứng đừng đòi khôn hơn vịt, vì đó KHÔNG là việc của chúng ta!
Trả lời các đệ tử xong, Chúa Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: “Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa” (Si-lô-ác có nghĩa là “người được sai phái”). Anh ta đến rửa ở hồ ngay lập tức, và trên đường về thì nhìn thấy được. Chúa Giêsu có “biệt dược” độc đáo ghê đi, hiệu quả liền. Mà phải nói là “thần dược” hoặc “linh dược” mới đúng ngữ nghĩa. Đó là “nước miếng trộn với bùn”. Hay dữ nghen! Mấy lang băm chớ mà học đòi theo Thầy Giêsu kẻo bệnh nhân hóa tệ hơn, còn các pháp sư thấy vậy thì phải sợ mà chạy có cờ, các lương y và bác sĩ danh tiếng cũng phải tâm phục khẩu phục!
Trước đó, dân chúng hằng ngày thấy anh ta ăn xin mới xì xầm bàn tán, kẻ thì bảo là chính hắn, kẻ thì bảo không phải, kẻ lại bảo ai đó giống hắn thôi. Chín người, mười ý. Chẳng ai chịu ai. Thế là họ dẫn anh ta đến với những người Pha-ri-sêu. Rắc rối là ngày Chúa Giêsu trộn bùn với nước miếng và làm cho anh ta sáng mắt lại là ngày sa-bát. Ấy thế, người Pha-ri-sêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Chính anh xác nhận: “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy” (Ga 9:15). Sự thật là sự thật, không thể nói khác được.
Còn trong nhóm Pha-ri-sêu, có người thì nói rằng Chúa Giêsu không thể là người của Thiên Chúa được, vì Ngài không giữ ngày sa-bát, có kẻ thì lập luận rằng người tội lỗi không thể làm được những dấu lạ như vậy. Cũng chẳng ai chịu ai, thế là họ đâm ra chia rẽ. Ngộ dữ nghen, chuyện của người ta mà xía vô làm chi vậy kìa? Rồi họ lại hỏi “cựu người mù” nghĩ gì về người đã mở mắt cho mình. Anh ta đáp ngay: “Người là một vị ngôn sứ!” (Ga 9:17). Rất thẳng thắn, rất rạch ròi. Sự thật là thế mà!
Những người Do-thái không tin trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, họ đã gọi cha mẹ của anh ta đến. Họ hỏi anh ta có phải là con không. Cha mẹ của anh ta XÁC NHẬN anh bị mù từ khi mới sinh, còn bây giờ anh ta sáng mắt, chuyện này thì họ không biết tại sao, cha mẹ của anh ta bảo họ cứ hỏi chính anh ta là rõ ràng nhất. Cha mẹ của anh ta nói thế vì sợ người Do-thái, những người sẵn sàng trục xuất khỏi hội đường bất cứ kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô. Có lẽ chúng ta cũng đã nhiều lần hèn nhát vì SỢ như cha mẹ của anh mù này. Chẳng oan ức chi mô!
Và rồi một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: “Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi” (Ga 9:24). Trước nói khác, sau nói khác. Đúng là “lưỡi rắn” của bọn Biệt Phái. Nhưng anh ta bảo rằng ông ấy có phải là người tội lỗi hay không thì anh không biết, mà anh chỉ biết một điều là trước đây anh bị mù nhưng nay anh nhìn thấy được. Họ hỏi anh xem Chúa Giêsu đã làm thế nào mà anh sáng mắt. Anh bảo rằng anh đã nói rồi mà họ không chịu nghe. Rồi anh thẳng thắn đặt vấn đề rằng có phải họ cũng muốn làm môn đệ Chúa Giêsu hay không. Tự ái bốc tới chỏm đầu nên họ không tiếc lời mắng nhiếc: “Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê; nhưng chúng ta không biết ông Giêsu ấy bởi đâu mà đến”. Thật là phiền toái với loại người lắm chuyện và giả hình như bọn Biệt Phái!
Nghe họ nói vậy, anh ta vừa gãi đầu vừa nói: “Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9:30-33). Họ đối lại: “Trứng khôn hơn vịt. Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?” (Ga 9:34). Và rồi họ liền trục xuất anh ta. Người có tâm địa xấu là vậy, chỉ chờ có thế thôi!
Chính Đức Giêsu cũng biết họ đã trục xuất anh ta. Khi gặp lại, Ngài hỏi anh ta có tin vào Con Người không, anh ta hỏi Đấng ấy là ai để anh ta tin. Đức Giêsu trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây” (Ga 9:37). Thật bất ngờ, nhưng anh thấy rất vui nên nói ngay: “Thưa Ngài, tôi tin” (Ga 9:38). Nói xong, anh sấp mình xuống trước mặt Ngài. Đức tin của “cựu người mù” này lớn quá! Tại sao? Thường thì đa số hơn thiểu số, nhiều người ghét Chúa Giêsu, nhưng anh vẫn có lập trường rõ ràng của riêng mình, không chịu “gió chiều nào ngả theo chiều nấy”. Mấy ai dám hành động như anh ta? Quả thật, anh ta rất can đảm, đáng để chúng ta noi gương lắm.
Biết anh thật lòng, vì Chúa Giêsu “đi guốc trong bụng mọi người” (Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6), Ngài nói với anh ta: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9:39). Những người Pha-ri-sêu đang ở đó và nghe vậy thì giật thót mình và liền lên tiếng: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?”. Lại tự ái. Đầu óc “bã đậu” và “nhỏ mọn” như thế thì chả bao giờ khá lên được. Đầu óc gì mà nhỏ như hạt đậu, hẹp như ống hút nước vậy! Có lẽ lúc ấy Chúa Giêsu cũng mắc cười và lắc đầu, nhưng vẫn thản nhiên bảo họ: “Nếu các ông đui mù thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng ‘chúng tôi thấy’, nên TỘI CÁC ÔNG VẪN CÒN!” (Ga 9:41). Họ thường ngu đột xuất, giờ lại tiếp tục ngu kinh niên, ngu tầm cỡ quốc tế luôn!
Thế còn chúng ta? Liệu đã có những lần chúng ta y như người Pha-ri-sêu vậy? Chắc chẳng hơn họ đâu! Và rồi chúng ta cũng vẫn cứng lòng, không chịu “cho vào tai” những lời “thuận ngôn”, không chịu “cân nhắc” lời hơn lẽ thiệt, không chịu “mở mắt” to để nhìn rõ vấn đề, thế nên chúng ta “có mắt như mù”. Thật đáng sợ biết bao!
Như chúng ta đã biết, mù lòa thì chắc chắn khổ, nhưng chỉ mờ mắt hoặc thông manh cũng khổ lắm, và cũng khổ nếu cận thị, viễn thị hoặc loạn thị. Nói chung là khổ hết ráo, nếu đôi mắt không bình thường. Tác giả Thánh Vịnh nói: “Mở mắt coi, bạn liền thấy rõ thế nào là số phận bọn ác nhân” (Tv 91:8). Do đó, chúng ta phải luôn biết cầu nguyện: “Xin mở mắt cho con nhìn thấy luật pháp Ngài kỳ diệu biết bao” (Tv 119:18).
Chúa Nhật IV Mùa Chay là “cột mốc” cho biết rằng chúng ta đã đi được nửa Hành Trình Mùa Chay. Con-mắt-đức-tin của chúng ta đã “nhìn” thấy gì, “sáng” thêm mấy độ, còn cận thị, viễn thị hoặc loạn thị nhiều hay ít? Chúng ta cận thị vì tưởng mình đạo đức tốt lành, viễn thị vì không nhìn rõ tội mình, và loạn thị vì cứ “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, và lỗi tại người khác một phần”. Đã qua nửa hành trình Mùa Chay, chúng ta cùng tạ ơn Chúa, đồng thời tiếp tục cầu xin Ngài dìu dắt chúng ta vác thập-giá-của-mình cho hết chặng Đời-Chay theo đúng Thánh Ý của Ngài.
Thiết tưởng cũng cần đề cập câu nói của Mahatma Gandhi: “Tôi yêu mến Chúa Kitô nhưng tôi ghét các Kitô hữu, vì họ KHÔNG GIỐNG Đức Kitô. Nếu họ giống Đức Kitô thì dân Ấn chúng tôi trở lại Công giáo cả rồi”. Thật là “nhức nhối” quá, vì chúng ta còn nhiều ảo tưởng lắm – tức là chứng mù trầm kha!
Lạy Thiên Chúa là Bác Sĩ Toàn Năng, xin mở mắt-đức-tin cho con, xin tăng thị-lực-tâm-linh cho con, xin giúp con nhìn thấy chính Chúa trong mọi người – nhất là nơi những người nghèo khổ, nơi những người hèn mọn, và xin cho bất kỳ ai gặp con cũng có thể nhận thấy Ngài sống động nơi con. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Tôi đến thế gian này chính là để xét xử..... Lời khẳng định của Chúa Giêsu xem ra khó nghe thậm MC 4-A165
“Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù” (Ga 9,39). Lời khẳng định của Chúa Giêsu xem ra khó nghe thậm chí thật khó hiểu nếu không ở trong ngữ cảnh lúc bấy giờ. Cùng với anh mù từ thưở mới sinh, chúng ta chân thành tin nhận “Người là ánh sáng thế gian” (Ga 9,5). Dưới cái nhìn đức tin này chúng ta có thể hiểu phần nào lời tuyên bố của Đấng Cứu Độ.
1. Người làm cho kẻ tự cho mình là thấy, là sáng, là am hiểu, trở nên đui mù, nghĩa là nhận ra sự lệch lạc, sai lầm của mình:
Xem quả thì biết cây. Không ai hái được trái nho nơi bụi gai. “Trong nhóm Pharisiêu, người thì nói: “Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày Sabbat”, kẻ thì bảo: “Một người tội lỗi thì làm sao có thể làm đựơc những dấu lạ như vậy?”. Thế là họ đâm ra chia rẽ. Một dấu lạ vượt quá khả năng bình thường của con người là làm cho kẻ mù từ thưở mới sinh được trông thấy. Đúng là một dấu lạ tốt đẹp. Một hành vi tự nó là tốt đẹp được thực hiện trong một hoàn cảnh trái với quy định của luật lệ thì có còn là tốt đẹp chăng? Nếu luật lệ ấy thuộc hàng thiên luật (như luật tự nhiên, luật mạc khải) thì nói chung là không còn là tốt đẹp vì “mục đích không thể biện minh cho phương tiện”. Tuy nhiên nếu luật đó thuộc hàng nhân luật (như luật quốc gia, luật Hội Thánh…), thì các việc tốt đẹp cao cả như việc cứu sống người hay mở mắt người mù thì luôn ở trên các quy định của nhân luật. Chúa Kitô không chỉ một lần như trong câu chuyện hôm nay mà đã nhiều lần vạch trần sự sai lầm của một số người biệt phái, luật sĩ khi họ tuyệt đối hoá nhân luật như luật Lễ nghỉ hay các tập tục tiền nhân mà xem nhẹ và bỏ qua lề luật của Thiên Chúa như đức công bình và đạo yêu thương, lòng từ bi và tình thương xót.
Chước cám dỗ muốn tuyệt đối hoá các chỉ thị, các quy định hay luật lệ của mình, dù chỉ là phàm nhân, vẫn còn đó dưới mọi hình thức. Tình trạng “phép vua thua lệ làng hay đạo trời còn dưới ý con người” vẫn đang tồn tại cách này cách khác ngoài xã hội và có khi cả trong các tập thể tôn giáo. Xin cho ánh sáng Đấng Cứu độ chiếu soi sự u minh của những người tự cho mình là sáng nhưng thực ra đang ở trong mê lầm. “Nếu các ông đui mù thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: “Chúng tôi thấy”, nên tội các ông vẫn còn” (Ga 9,41).
2. Người làm cho người không xem thấy được thấy: Con người thường xem xét dựa vào cái bên ngoài, còn Thiên Chúa thì thấy tận cõi sâu tâm hồn con người. Chính vì thế, để có một cái nhìn quân bình và toàn diện, cần phải biết nhìn theo cách nhìn của Thiên Chúa. Đức Kitô, cuộc đời, những lời giảng dạy và các hoạt động của Người chính là cách thế giúp ta nhìn nhận cuộc đời, con người, các sự vật, hiện tượng cách đúng đắn và chuẩn mực.
Chúa Kitô không chỉ dùng quyền năng làm cho anh mù từ thưở mới sinh được thấy ánh sáng tự nhiên, Người còn khai mở con mắt đức tin của anh khiến anh can đảm nhìn nhận và tuyên xưng Người là một vị Ngôn sứ cho dù phải bị trục xuất ra khỏi Hội đường. Các môn đệ vốn mù tối lầm lạc khi cho rằng anh mù từ thưở mới sinh là do tội của anh ta hoặc do tội của cha mẹ anh ta. Chúa Kitô đã mở mắt cho các ngài để các ngài nhận ra rằng có nhiều sự dữ là do tội lỗi con người gây ra nhưng cũng có nhiều sự dữ xảy ra mà chẳng do bởi lỗi của người này hay người kia. “Đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều là có thể được ” (Mt 19,26). Qua các sự dữ, Thiên Chúa có thể làm nổi rõ quyền năng và tình yêu của Người.
3. Là ánh sáng thế gian, Chúa Kitô thúc bách ta phải thấy cả những điều ta không muốn thấy. Quả thật, rất nhiều khi ta bị cám dỗ “được không nhìn thấy” để khỏi phải vất vả, khỏi phải hy sinh hay khỏi phải dấn thân, chia sẻ… Mở cửa ra, nhìn thấy người tàn tật, thế là được mời gọi chia sẻ. Một đôi lần thì có thể được, nhưng một ngày mà đến ba bốn lần nhìn thấy thì sao đây? Thấy chuyện bất công là được mời gọi săn tay áo để tạo lập sự công bằng… Không nguyên chỉ vất vả mà còn biết bao điều phiền toái có thể ập đến. Lắm khi chưa được mạ thì má đã sưng hoặc cảnh ai thổi lữa người đó bỏng môi là điều dường như khó tránh.
Lạy Chúa xin cho con đừng thấy. Một lời cầu xin để mình được an phận. Ánh sáng đã đến thế gian. Chúa Kitô đã đến thế gian, Người làm cho kẻ mù được thấy và bắt kẻ không thích nhìn thấy cũng phải thấy, ngoại trừ chính họ tự ý bịt mắt không muốn nhìn. Không cứu sống là đang giết chết. Không làm điều lành là đã làm điều dữ (x.Mc 3,1-5). Phải làm ngay hôm nay những gì ta thấy phải làm theo khả năng và hoàn cảnh của mình.
Cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con được biết việc phải làm…Một lời cầu xin thật chính đáng và phải đạo mà Kitô hữu thường xuyên đọc. Thế nhưng khi Chúa cho ta thấy, cho ta biết việc phải làm thì sao đây? Có khi nào ta bị cám dỗ “ước gì đừng thấy, ước gì đừng biết” chăng?
Người mù từ thuở mới sinh, Không nhìn chẳng thấy, bình minh rạng ngời. Chẳng do lỗi phạm MC 4-A166
Người mù từ thuở mới sinh, Không nhìn chẳng thấy, bình minh rạng ngời. Chẳng do lỗi phạm cuộc đời, Vì danh Thiên Chúa, cao vời biết bao. Ta là sự sáng trên cao, Soi lòng mở mắt, truyền rao chữa lành. Xoa bùn trên mắt rửa nhanh, Ra đi được thấy, nhân danh Chúa Trời. Láng giềng hàng xóm gọi mời, Đức tin cứu chữa, mọi người trần gian. Các người Biệt phái hỏi han, Do ai mở mắt, lạm bàn xét suy. Luật ngày Sa-bát là chi? Tại sao lỗi phạm, sinh nghi làm phiền. Điều tra kết án trước tiên, Chối từ phép lạ, ơn thiêng từ trời. Anh mù làm chứng giữa đời, Chính Ngài công chính, cao vời chí nhân. Bao người mắt sáng thế trần, Mù lòa tội lỗi, tâm thân thấp hèn.
Chúng ta nhìn thấy được mọi sự chung quanh là nhờ có ánh sáng. Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn. Nhờ qua cặp mắt sáng, chúng ta thấy sự hùng vĩ núi đồi, sông biển, sự cao siêu của vũ trụ, sự tuyệt vời của muôn vật và vẻ đẹp của thiên nhiên. Có được đôi mắt sáng là một hồng phúc Chúa ban. Đôi mắt là cửa sổ để chúng ta tiếp cận với thế giới bên ngoài.
Bài phúc âm nói về việc Chúa chữa người mù. Mù lòa thật khổ sở. Họ lần mò trong đêm tối. Không nhìn thấy chi cả. Họ bị thiệt thòi và mất mát quá nhiều. Chúa Giêsu đã chữa anh ta được sáng mắt. Sáng mắt cả thể xác lẫn tinh thần. Anh ta đã nhìn thấy rõ ràng minh bạch hơn cả những thầy Biệt Phái và Luật Sĩ. Anh ta nhìn thấy và tin vào Chúa là Đấng Cứu Thế. Nhìn thấy sự tốt lành và quyền năng nơi Chúa.
Có nhiều thứ đêm tối chúng ta đang bước đi. Có thứ đêm tối của u mê, ánh sáng văn minh có đó, sách vở có đó, nhưng chúng ta lại mù chữ không hiểu. Có thứ đêm tối của đức tin. Chúng ta thấy đó có các tôn giáo, các sự kiện lạ lùng xảy ra hàng ngày, sự hiện hữu của Thiên Chúa trong vũ trụ, nhưng chúng ta không thấy và không tin. Tin là thái độ của phó thác và dấn thân.
Chúng ta có mắt sáng, nhưng có lúc chúng ta như mù hoặc giả mù. Chúng ta muốn nhắm mắt làm ngơ trước những khổ đau của người khác. Có nhiều hình thức mù lòa trong tâm hồn như ích kỷ, vô tâm, vô cảm và thiên kiến. Những thứ mù lòa này sẽ vây hãm cuộc đời chúng ta trong đêm tối.
Câu chuyện một gia đình công giáo nửa vời. Ba là người công giáo, mẹ là đạo thờ ông bà. Ba dần dần nguội lạnh thờ ơ. Cháu có ông nội bị mù. Thấy vậy, cháu đến đưa ông đi lễ mỗi tuần. Cháu không muốn đi nhà thờ, nhưng chỉ để giúp dắt ông đi thôi. Một ngày kia, dịp lễ Giáng sinh, như có lời mời gọi huyền nhiệm vang vọng trong tâm hồn. Cháu cố đi nhanh tới nhà thờ với cặp mắt thấm lệ. Cháu nói: Nội ơi, nay cháu thực sự tìm thấy Chúa. Chính nội đã dắt cháu đến với Chúa.
Chúa chính là ánh sáng đến trong trần gian. Chúa đã mở mắt người mù. Xin Chúa mở mắt tâm hồn của chúng ta để chúng ta được nhìn thấy công trình cứu độ của Chúa. Nhìn thấy những nhu cầu của anh em chung quanh. Xin cho con mắt linh hồn chúng ta luôn trong sáng để nhìn biết Chúa qua những người lầm than, nghèo khổ, bệnh tật, tù đầy, bất toại và mù lòa.
Đôi mắt của con người thường được nói là cửa sổ tâm hồn. Qua đôi mắt, Chúa Giêsu nói đến MC 4-A167
Đôi mắt của con người thường được nói là cửa sổ tâm hồn. Qua đôi mắt, Chúa Giêsu nói đến: Ánh sáng và bóng tối – Thể lý và tâm hồn – Bí tích Thánh Tẩy.
Ở một góc độ nhỏ hẹp, chỉ xin chia sẻ về ý nghĩa việc Chúa Giêsu mở mắt tâm hồn để sống cuộc đời hạnh phúc.
Đôi mắt nói lên nhiều điều trong cuộc sống, bởi vì theo nhãn quan của mỗi người theo từng thời điểm, buồn hay vui, tích cực hay tiêu cực, thương yêu hay thù oán… Nhiều sự pha lẫn giữa bóng tối và sự sáng, nhiều khi bước đi trong ánh sáng mà tâm hồn vẫn tăm tối và đôi khi tâm hồn tươi sáng mà đang tiến bước đi giữa bóng tối của sự dữ đe dọa.
Mắt sáng nhưng tâm hồn tăm tối.
Câu chuyện Tin Mừng theo Thánh Gioan, trình thuật Chúa Giêsu chữa người mù từ mới sinh. Với những người thượng tế, kinh sư, cùng biệt phái, họ là những người hiểu biết Thánh Kinh, các lời tiên tri, nhưng họ lại bước đi trong đời sống tranh chấp, giận hờn, oán ghét, tỵ hiềm, ích kỷ…
Với một tâm hồn đen tối, nhìn sự gì cũng đen tối và lúc nào cũng tự hào mình đang sáng. Thông thường, những người như thế hay tìm cớ chế giễu, tìm những lỗi lầm trong đời tư của người khác, hoặc tìm cớ gây cho người khác những đau khổ và cũng không tránh khỏi họ đang là người đau khổ, bất hạnh hơn ai hết.
Mắt sáng biểu lộ một tri thức sáng suốt. Mở rộng tâm hồ bằng trí tuệ, đó là đôi mắt sáng Chúa muốn mở ra cho Thượng tế, kinh sư và biệt phái. Họ đọc mà không hiểu, họ nắm giữ các lề luật mà không thực hành.
Mở trí cho người mù có một tiến trình rõ rệt. Ban đầu anh chỉ biết một người tên là Giêsu – tiếp đến anh nhận ra là một tiên tri và sau cùng anh nhận biết đầy đủ Chúa Giêsu lá Con Người đang ở giữa nhân loại.
Tiếp cận với Lời Chúa không đơn giản như chỉ nhìn theo sự hiểu biết mặt chữ theo cách thượng tế, kinh sư. Hiểu biết là sống với Chúa, được Chúa đụng chạm vào tâm hồn, chữa lành những tâm thức mờ tối, để có tấm lòng trong và nhìn bằng con mắt sạch.
Mắt sáng biểu lộ tấm lòng thanh tịnh. Một đôi mắt nhìn cái gì cũng thấy tham – sân – si, biểu lộ cho thấy một tấm lòng còn nhiều dục vọng lôi kéo. Những vẩn đục của tâm hồn không thể làm cho đôi mắt sáng. Giữa anh mù và thượng tế, kinh sư, biệt phái, có hai lối đi ngược nhau: Người mù dần dần nhận ra Chúa, còn biệt phái, kinh sư dần dần đi vào sự mù lòa về Chúa.
Trong cuộc sống của con người cũng có thể đi theo chiều ngược lại như thượng tế, kinh sư và biệt phái. Thích đứng lì trong sự tối tăm của mình như Chúa nói để những việc làm trong tối tăm không bị đưa ra ánh sáng: “ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. “ (Ga 3, 20)
Khi không có lòng thanh tịnh thì không thể có đôi mắt sáng, cho nên Chúa Giêsu chữa người mù bẩm sinh, cũng muốn cho người mù trở thành nhân chứng “một tấm lòng thanh mới có được đôi mắt sáng”.
Đôi mắt hòa hợp, yêu thương. Sự kiện Chúa mở mắt cho người mù, cũng ẩn giấu một câu chuyện chia rẽ giữa những người Do Thái giáo và Kitô giáo vào những năm 90 (SCN), Thượng tế, kinh sư, biệt phái trục xuất người mù ra khỏi hội đường (Ga 9, 34 – 35). Lòng ganh tỵ không phải với người mù mà với Chúa Giêsu đã khiến thượng tế, kinh sư mang lòng hận thù, chỉ muốn giết chết Chúa.
Lòng ghen ghét, đố kỵ, đỉnh điểm của nó là muốn giết chết người khác qua nhân phẩm, danh dự và thủ tiêu. Gièm pha, nói xấu, vu oan,… Những tật xấu đó chỉ rõ tâm hồn còn chìm trong tối tăm. Sự kiện tối tăm của họ nguy hiểm cho chính họ chứ không ai khác, dù họ có kéo bè, kéo lũ ủng hộ lương tâm đen tối sai trái của họ, họ vẫn không thể che giấu được dưới ánh sáng, như người ta thường nói: “Cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra”.
Sự xấu bao giờ cũng là sự xấu, nếu không được chữa lành. Chúa Giêsu không những chỉ chữa cho người mù mà Chúa cũng muốn chữa lành cho những người đang sáng mắt mà đi trong tăm tối nữa. Rửa tấm lòng để có một trái tim rộng mở, biết yêu thương, biết sống hòa hợp, bồi đắp đức ái trọn vẹn.
Lạy Chúa, xin cho chúng con được đôi mắt trong sáng, một trí hiểu biết và yêu mến Chúa thật sự, cho chúng con nhận ra Chúa qua người anh chị em chúng con là hạnh phúc thật sự. Xin cho những nhà lãnh đạo có đôi mắt sáng, tấm lòng thanh, một trái tim yêu thương phục vụ mọi người như họ được ủy nhiệm giao phó.
Tiền nhân chúng ta rất thực tế trong giáo dục con cháu, với biết bao lời hay ý đẹp: việc người thì MC 4-A168
Tiền nhân chúng ta rất thực tế trong giáo dục con cháu, với biết bao lời hay ý đẹp: việc người thì sáng, việc mình thì quáng ; việc nhà thì nhếch nhác, việc chú bác thì siêng năng. Cha mẹ có quan tâm, nghĩ đến gia đình là nghĩ tới xã hội hiện tại và tương lai, con cháu vâng nghe cha mẹ trước là ấm áp cho bản thân, sau là góp phần làm rạng rỡ dòng tộc, đất nước hùng mạnh. Người khiếm khuyết tật nguyền thời nào cũng có, cha mẹ anh hùng con cháu hảo hán, kẻ tốt bụng, người quảng đại nghĩa hiệp, chẳng phải ít trên trần đời này, nhưng xem ra đau khổ, bất công, quanh ta lúc nào cũng báo động !
Sứ mạng yêu thương của Đức Giêsu hôm xưa quả là “đơn độc”, khi nhìn thấy người mù bên vệ đường, sự tối tăm cản trở trước hết ập đến Ngài là các học trò: “y mù là do tội của y hay do cha mẹ y” ? Bóng tối kế tiếp mà trình thuật cho thấy đó là láng giềng, họ là những tấm lòng nghĩa hiệp đã từng làm phúc bố thí cho kẻ mù lòa. Rồi “đêm đen” dày đặc hơn là các luật sĩ biệt phái, họ vừa buông lời thóa mạ, vừa cố phủ một mầu đen vây hãm Đấng mở mắt kẻ mù. Sáng và tối, bình minh công chính và đêm đen tội lỗi, luôn đối nghịch nhau, trong khi Đức Giêsu kiên nhẫn minh chứng bằng hành động, Ngài là tình yêu, là ánh sáng, là Đấng cứu độ trần gian.
Khoảng tối cuộc đời và ánh sáng soi lối đi, sẽ đưa ta tới chọn lựa, một là kiên vững tiến bước hai là ngã gục, vì nhân loại chỉ quen với thứ ánh sáng tự nhiên. Đức Giêsu dành cho anh mù một cơ hội, anh ta đã không bỏ lỡ, không thắc mắc nghi ngờ, đi tới hồ Si-lô-e rửa như được chỉ dạy, mắt anh ta liền trông thấy rõ. Không dừng lại ở việc nhìn, thấy, Đấng ban phát ánh sáng tin yêu, Chúa còn cho anh ta cơ hội để được mở mắt tâm hồn, và mong anh có mãi thứ ánh sáng đức tin. Không có lửa làm sao có khói, không quý hiếm, không giá trị, đâu ai phải tìm kiếm, hy vọng, trân trọng giữ gìn, minh chứng tình yêu về “món quà” mà mình đã nhận được.
Xưa nay xã hội luôn chú ý, tin dùng người sáng trí, sáng dạ, và né tránh càng xa càng tốt những kẻ bụng dạ tiểu nhân, tâm xà khẩu phật. Cha ông chúng ta còn nhắc nhớ con cháu: thật thà ma vật không chết. Phụng vụ Lời Chúa không có ý ca tụng một anh mù, nhưng có ý nói đến hồng ân Chúa Giêsu ban tặng. Ơn ban sẽ phát huy hiệu quả hơn, sau khi được sáng mắt, anh ta biết bênh vực về hành động yêu thương của Chúa Giêsu. Cho dù anh phải gặp khó khăn, bị tra hỏi, bị trục xuất khỏi hội đường, anh ta vẫn vui vì còn tình Chúa, còn ánh sáng tin yêu trong cuộc đời của anh.
Kinh nghiệm ở đời, đi trong đêm tối là đi trong bóng đêm sự chết, đầy nguy hiểm, vì vậy mà sách có câu: dù bạn không trộm cắp, nhưng không thể ngăn cản được chó sủa khi đi trong đêm tối. Trong hành trình thiêng liêng, chính ánh sáng Đức Kitô mới xóa tan được bóng đêm sự chết, tâm hồn mù lòa không thể xem thấy, không thể đón nhận được ơn Thiên Chúa cứu độ. Nếu kẻ mù lòa tâm trí không nhìn thấy Đức Giêsu là ánh sáng thế gian, là Đấng cứu độ, thì là vì tội lỗi, vì họ từ chối tiếng nói sâu thẳm từ bên trong, chứ không phải do Đức Kitô chưa phản chiếu ánh sáng đức tin nơi họ.
Trong đời sống tự nhiên, nhờ mắt sáng, nhờ chút chuyên môn, người ta phân định được bức tranh xinh đẹp, nhờ tai thính, người ta cảm nhận được thế nào là nhạc phẩm hay, nhờ cảm xúc nhiều, họ sẽ diễn tả ca khúc thật có hồn… Để gặp gỡ và nhận ra Đức Kitô, mắt sáng tai thông, địa vị chức tước, giầu nghèo, cảm xúc nhiều hay ít, chưa thể lấy gì bảo đảm cho ơn gọi làm thần dân của Ngài. Trước hết mắt tâm hồn phải sáng, tâm trí ngay thẳng, có tinh thần đơn sơ khiêm tốn, nhất định Đức Kitô sẽ dẫn dắt chúng ta đến tận cùng của hạnh phúc. Đức Giêsu giầu tình yêu thương và quyền năng, Ngài chữa lành người mù từ khi mới sinh, mở mắt tâm hồn cho anh ta, và sẽ còn mở mắt đức tin cho những ai biết sám hối tin tưởng nơi Ngài.
Xưa nay người ta thường quen nhau trong ánh sáng và yêu nhau trong đêm tối, Đức Giêsu thì nhìn thấy rõ từng tâm hồn mỗi người, khi ta còn đi trong bóng đêm tội lỗi, Ngài sẽ tiếp tục yêu thương tha thứ, nếu ta mạnh dạn để Ngài sửa chữa tâm hồn. Tất cả chúng ta có sáng trí sáng lòng hay không, hay chỉ lờ mờ như người nặng tai, mắt kém, Chúa vẫn tôn trọng tự do, vẫn để ta có cơ hội khao khát được yêu thương, được nhận biết quyền năng của Thiên Chúa. Chúng ta đã từng nghe nói: biết thì thưa thớt, không biết thì dựa cột mà nghe, nhưng sẽ xấu hổ hơn, nếu ta lầm tưởng nghĩ rằng, mắt sáng tinh thông thì tâm hồn cũng sáng. Chúa Giêsu thấu hiểu mù lòa, bệnh tật, nghèo túng, tội lỗi, đều gọi là khổ đau, đang ở trong bóng sự chết. Chúa Giêsu sẽ giải thoát, và phép lạ tình yêu thương chỉ có ý nghĩa khi mỗi người biết khiêm tốn, để Chúa cùng đồng hành dẫn đưa tới bến bờ hạnh phúc. Amen.
Sống trong cảnh mù loà là điều đáng sợ nhất. Thật là bất hạnh đối với một đứa trẻ ngay từ khi MC 4-A169
Sống trong cảnh mù loà là điều đáng sợ nhất. Thật là bất hạnh đối với một đứa trẻ ngay từ khi mở mắt chào đời đã phải sống trong tăm tối, phải chấp nhận một cuộc đời không thấy ánh sáng, không nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, con người cũng như cỏ cây! Lúc lớn lên có thể nghe mọi chuyện, có thể sờ mó tất cả, nhưng không thể nào hình dung ra được hình dáng, màu sắc! Ở đời, khi nói về nỗi khổ thể lý của người bị mù lòa, người ta vẫn thường nói: “giàu hai con mắt, khó hai bàn tay”. Đó là nói về mặt thể xác, ngoài ra, về tinh thần, con mắt còn được gọi là “cửa sổ của linh hồn”, là “ngọn đèn của thân thể” (“Đèn của thân thể là con mắt của anh. Khi mắt anh sáng, thì toàn thân anh cũng sáng. Nhưng khi mắt anh xấu, thì thân anh cũng tối. Vậy hãy coi chừng kẻo ánh sáng nơi anh lại thành bóng tối. Nếu toàn thân anh sáng, không có phần nào tối tăm, thì nó sẽ sáng hoàn toàn, như khi đèn toả sáng chiếu soi anh.” – Lc 11, 34-36).
Bài Tin Mừng hôm nay (CN IV/MC-A – Ga 9, 1-41) trình thuật về phép lạ Đức Giê-su chữa cho một người bị mù từ lúc mới sinh. Có một chi tiết rất đàng suy gẫm là theo quan niệm của người Do-thái đối với những kẻ tật nguyền bẩm sinh (đui mù, què quặt, nói chung là những khuyết tật từ trong lòng mẹ, khi sinh ra đã phải gánh chịu) đều là những kẻ có tội phải chịu những hình phạt khủng khiếp đó. Vì thế, các môn đệ mới hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” (Ga 9, 2). Tuy nhiên, để cảnh tỉnh các môn đệ khỏi bị ảnh hưởng bởi giáo lý sai lầm ấy, đồng thời nhận chân được sự thật nơi Người Thầy của mình, nên Đức Giê-su trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.” (Ga 9, 3).
Nội dung phép lạ lần này được thánh Gio-an tường thuật rất tỉ mỉ. Ngoài anh mù thể hiện lòng tin vào Người đã chữa lành cho mình, còn một số đông người Pha-ri-sêu không tin nên cứ tra vấn, vặn hỏi bệnh nhân (kể cả cha mẹ anh ta nữa) đủ điều, và cuối cùng trục xuất anh ra khỏi hội đường. Nghe tin ấy, Đức Giê-su gặp lại anh mù, đặt câu hỏi: “Anh có tin vào Con Người không?” để xác định niềm tin của anh. Anh mù đã sấp mình xuống tuyên xưng: “Thưa Ngài, tôi tin.” Còn đám người Pha-ri-sêu khi nghe Đức Ki-tô khẳng định: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Mc 8, 39), liền ngớ người ra và hỏi lại: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?”, khiến Đức Giê-su bảo họ: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: “Chúng tôi thấy”, nên tội các ông vẫn còn!” – Ga 9, 41).
Đức Ki-tô trả lời như thế thì cũng chẳng khác nào nói: Anh mù vì tin mà được sáng mắt, nhưng nhóm người Pha-ri-sêu mắt vẫn sáng, nhưng không tin, nên cũng chẳng khác kẻ đui mù. “Có mắt cũng như mù, có tai cũng như điếc” (tục ngữ VN), “Thấy mà không thấy – không thấy mà thấy”, đó là một nghịch lý trong cuộc sống, nhưng lại là “chuyện thường ngày ở huyện”. Nhân tình thế thái là vậy đó! Người không hiểu rõ, không thấy rõ mà vô tình làm những điều trái thường nghịch lý sẽ không cấu thành tội (như vô tình làm chết người sẽ được coi là “ngộ sát”, chẳng hạn); còn kẻ đã biết, đã thấy rõ mà vẫn làm như không thấy, cố tinh vi phạm thì bị kết án là điều tất nhiên (vd: cố tình giết người sẽ bị kết àn là “cố sát”). Câu trả lời của Đức Giê-su một lần nữa minh định điều luật trong Giao ước Si-nai: “Giết người không có mưu tính trước thì được tha, nhưng cố tình thì sẽ bị giết chết.” (Xh 21, 12-25).
Điển hình như trường hợp thánh Phao-lô với biến cố Đa-mát: Khi còn sáng mắt, nhưng vì nhiễm phải giáo lý sai lầm của nhóm luật sĩ, kinh sư Pha-ri-sêu, nên Sao-lô cũng chẳng khác chi người mù. Đến khi bị ánh sáng chói loà làm mù mắt ở Đa-mát thì lại là lúc được sáng mắt sáng lòng và trở thành một Tông đồ dân ngoại kiệt xuất Phao-lô (Cv 9, 1-19). “Mù mà sáng, sáng mà mù” là thế! Kể ra cũng thú vị, những người sáng mắt lúc nào cũng huênh hoang: “chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê; nhưng chúng ta không biết ông Giê-su ấy bởi đâu mà đến.” (Ga 9, 28-29), đã khiến cho người mù cũng phải ngạc nhiên: “Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì.” (Ga 9, 30-33).
Những người từng đứng trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy, thì lại không biết một tí gì về Con Người đã được ông Mô-sê (nhờ được Thiên Chúa mạc khải) tiên báo. Trong khi đó, một anh mù từ lúc mới sinh (chắc chắn không được học hành và giả thử có được học thì cũng chẳng tới đâu) lại biết về Thiên Chúa còn hơn cả đám người sáng mắt, khiến họ phát khùng (“Họ đối lại: “Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?” – Ga 9, 34). Chẳng cần lý luận đanh thép, lý thuyết sâu xa, mà chỉ căn cứ vào thực tế (anh được chữa khỏi bệnh mù), mà anh mù đã khiến đám Pha-ri-sêu lâm vào thế… bí, và đành giở chiêu quyền lực: trục xuất anh khỏi hội đường! Thế đấy! Như vậy thì ai sáng, ai mù thực sự đây?
Chung quy thì cũng chỉ vì vấn đề cốt tuỷ: đức tin. Anh mù được chữa lành bởi anh tin vào Con Người; mà cũng không phải chỉ riêng anh, tất cả những người bệnh hoạn, tật nguyền đến với Đức Ki-tô đều được chữa lành vì “Đức tin của anh em đã chữa lành anh em”. Còn đám người Pha-ri-sêu thì mù vẫn hoàn mù, bởi họ không tin vào Con Nguời, mà chỉ tin vào những giáo lý sai lầm như thánh Phao-lô trước khi biến cố Đa-mát xảy ra. Phép lạ chữa lành người mù bẩm sinh là dấu hiệu chứng tỏ rằng, cùng với thị giác, Chúa Ki-tô cũng muốn mở cái nhìn nội tâm, để đức tin của người tín hữu ngày càng sâu xa hơn và có thể nhận thấy nơi Người là Đấng Cứu Độ duy nhất. Chính Người soi sáng mọi tối tăm trong cuộc sống và làm cho con người sống ”như người con của ánh sáng”.
Nói đi nói lại không gì bằng mượn chính ngay lời người mắc bệnh mù nội tâm và được chữa lành, để minh hoạ: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật. Anh em hãy xem điều gì đẹp lòng Chúa. Đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối, phải vạch trần những việc ấy ra mới đúng. Vì những việc chúng làm lén lút, thì nói đến đã là nhục rồi. Nhưng tất cả những gì bị vạch trần, đều do ánh sáng làm lộ ra; mà bất cứ điều gì lộ ra, thì trở nên ánh sáng. Bởi vậy, có lời chép rằng: Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Ki-tô sẽ chiếu sáng ngươi!” (Ep 5, 8-14). Ước được như vậy. Amen.
Đoan Tin Mừng hôm nay, thật là một đoạn Tin Mừng đầy “lý lẽ”. Bởi vì có thành phần chính : Một MC 4-A170
Đoan Tin Mừng hôm nay, thật là một đoạn Tin Mừng đầy “lý lẽ”. Bởi vì có thành phần chính : Một là Chúa Giêsu, hai là : người mù, ba là : những người biệt phái.
Chúng ta thấy, Chúa Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa, đến trần gian , để gánh lấy tội lỗi nhân loại, Người đến để thực thi sứ mạng cứu chuộc, là một Ngôi Vị Thiên Chúa đến để giải thoát , để ban ơn bình an cho nhân thế, như Isaia đã nói từ mấy ngàn năm trước: “ Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Ngài sai tôi đem Tin Mừng đến cho người nghèo khó, công bố cho tù nhận được tha, cho người mù được sáng mắt, kẻ câm được nói, kẻ què được đi, người chết sống lại.” ( Lc 4, 18 -19).
Vâng, thành phần thứ hai là những đối tượng “bất hạnh” được giải thoát, để ứng nghiệm Lời Thánh Kinh.
Thành phần thứ ba là thành phần “chống đối “ lại “việc làm” của Chúa Giêsu. Những người “am hiểu” Kinh Thánh, nhưng không nhận ra “ánh sáng” bởi Kinh Thánh.
Như vậy, chúng ta thấy, thành phần thứ nhất là Chúa Giêsu đã tự mặc khải chính mình : “ Thầy là ánh sáng thế gian “ ( c 5). Như vậy, hai thành phần kia một bị mù thể lý, một bị mù tâm linh.
Người bị mù thể lý, bị người ta cho là do tội lỗi của người ấy, hoặc hậu quả do cha mẹ người ấy, nhưng Chúa Giêsu xác định cả hai đều không phải. Nhưng, để cho quyền năng Thiên Chúa được tỏ hiện. như vậy, rõ ràng việc mù thể lý vào chính thời điểm của Chúa Giêsu, chính là đối tượng được mời gọi cộng tác , hầu ơn cứu độ được thể hiện.
Vậy, đối tượng bị mù thể lý, khao khát được nhìn thấy ánh sáng, và rồi người ấy được gặp “Ánh Sáng Giêsu ”. Như vậy, thành phần thứ nhất và thành phần thứ hai gặp nhau, trở thành một “hữu lý”, đó là một bên trao ban ánh sáng và một bên nhận lấy ánh sáng. Ánh sáng là chân lý, vậy sự mù thể lý, nhưng tình thần người ấy không mù, vì người ấy nhận ra ánh sáng chân lý, đó là “ sự thật” người ấy được khỏi mù. Mặc nhiên, Người chữa cho anh ta sáng mắt , theo anh ta, Người ấy phải là một Người “ thánh thiện”, tốt lành. Vì, không kẻ gian ác nào được Thiên Chúa nhậm lời để làm nên điều cao cả.
Theo đó,” triết lý” của người mù thật sáng suốt. như vậy, anh ta chỉ mù thể lý, nhưng tâm linh sáng suốt.
Còn thành phần thứ ba, thành phần cố chấp phi lý, nơi những người nầy, dựa vào sứ sáng mắt thể lý, để bắt bẻ Chúa Giêsu, Người có quyền năng chữa lành sự mù lòa. Họ đọc Kinh Thánh, nhưng họ không nhận ra “ánh sáng” Kinh Thánh tỏ hiện nơi Chúa Giêsu. Mắt họ sáng, nhưng tâm trí mù lòa, bởi vì , họ tự cao, họ cho rằng Chúa Giêsu là “kẻ tội lỗi”, bởi vì, Người không tuân giữ ngày sabat. Họ viện cớ như vậy, vì họ không làm được như Chúa Giêsu, họ không thần phục Chúa Giêsu, không nhận ra Người có” quyền “ trên ngày sabat, vì Người là Chủ ngày sabat. Điều nầy thể hiện nơi Chúa Giêsu là hợp lý, chứ không phải vô lý. Vì, Con Người làm chủ ngày sabat. Luật dành cho con người chứ không phải con người vì luật. Lề luật chính là tình yêu, chứ không phải là “gông cùm”. Lề luật chỉ là “gông cùm” khi và chỉ khi đối với kẻ bất lương, được ngăn chặn để tránh làm hại người lành.
Khi thành phần thứ ba lên tiếng là họ tìm cách “bắt lỗi” Chúa Giêsu, “vạch lá tìm sâu”. Nhưng, chúng ta thấy sự mâu thuẫn giữa chính suy nghĩ của họ, tức khắc nảy sinh sự đối đáp giữa người mù” được sáng mắt” với những người pharisieu như : “ Chúng ta biết : Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi: còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy.” ( c 31)
Như vậy, người mù “sáng mắt” không những mắt thể lý, mà còn “mắt tâm linh “ nữa, vì anh ta đã “lên lớp” cho những người “bậc thầy” về Kinh Thánh.
Như vậy, mù thể lý không đáng sợ bằng mù tâm linh, mù tâm linh là không tin vào Chúa Giêsu , là ánh sáng của Thiên Chúa. Cuối cùng thành phần thứ hai vẫn ngoan cố , bảo thủ cho rằng họ “không mù”. Vì vậy, Chúa Giêsu đã quở trách họ. “ Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng, giờ đây các ông nói rằng : ‘ Chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn!” ( c 41).
Bài đọc II hôm nay ( Ep 5, 8 -14), thánh Phaolo diễn giải cho chúng ta thấy “… nếu chúng ta ở trong Chúa, thì chúng ta là con cái ánh sáng, mặc nhiên, chúng ta phải làm việc, hành động theo ánh sáng …”
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mở mắt người mù, cho chúng ta thấy, ý nghĩa người là Đấng Thiên Sai, đồng thời cử chỉ mở mắt người mù, cũng cho thấy dấu chỉ thiên sai của người được gọi, qua cử chỉ của Chúa. Được mời gọi sai đi là một hành động làm chứng cho Tin Mừng.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã mở mắt cho người mù không những là con mắt thể lý, mà còn là con mắt đức tin. Xin Chúa thương ban cho những ai được đón nhận “ánh sáng “ đức tin biết truyền bá ánh sáng ấy cho tha nhân. Hầu cho ngày càng có nhiều người được sáng con mắt tâm linh, để được nhìn thấy ánh sáng chân lý là chính Chúa./. Amen.
Nhìn lại quá trình làm thay đổi cuộc sống của người mù, chúng ta thấy có nhiều điều rất thú MC 4-A171
Nhìn lại quá trình làm thay đổi cuộc sống của người mù, chúng ta thấy có nhiều điều rất thú vị.
1- Lúc đầu, anh chẳng có một ý niệm gì về Chúa. Khi được hỏi về người đã chữa cho anh, anh trả lời một cách rất mù mờ: “Người mà người ta gọi là Giêsu”. “Người mà người ta gọi là Giêsu”(Ga 9,11). Đó là tất cả nhũng gì anh có thể nói về Chúa lúc ban đầu. Ngoài ra Người ở đâu, anh không biết. Ngài là người như thế nào anh cũng chẳng hay.
2- Thế nhưng sau khi anh được sáng mắt, từ trong cõi lòng anh đã dần dần nhận ra Chúa.
Khi anh được người ta tra vấn về nguyên do anh được sáng mắt, trong lúc người ta tìm cách để kết án Chúa thì anh lại dõng dạc tuyên bố: “Ngài là một tiên tri”(Ga 9,17).
Rất thẳng thắn và cũng rất chân thành. Không có gì là úp mở cả.
Rồi khi người ta dùng áp lực để dọa cha mẹ anh và tiếp sau đe dọa cả anh thì lúc ấy chúng ta thấy anh trở nên can đảm lạ thường. Dường như anh không còn biết sợ là gì nữa. Thái độ của anh khác hẳn với thái độ của cha mẹ anh. Anh thẳng thắn dõng dạc tuyên bố trước mặt mọi người “Chúng ta biết Thiên Chúa không nhậm lờì những kẻ tội lỗi. Còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe có ai đã mở mắt cho người mù từ khi mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến thì ông ta chẳng làm được gì”(Ga 9,31-33)
Vâng anh đã được mở mắt. Anh đã được thấy sự thật và anh đã dám gắn bó với sự thật đó và cho dù anh có phải trả một giá rất đắt anh cũng sẵn lòng. Chúng ta không thể hiểu hết những gì anh phải hứng chịu khi người ta dùng một biện pháp trục xuất anh ra khỏi hội đường để trừng phạt anh.
Trước kia anh mù, cuộc sống của anh đã khổ. Bây giờ anh được sáng mất, tưởng như cuộc sống sẽ thuận lợi hơn…ai dè bây giờ cha mẹ anh không dám bênh vực, xã hội chẳng giúp anh được gì. Chỉ còn một chút hy vọng vào cộng đoàn tôn giáo thì người ta lại trục anh, đưa anh trở lại với cuộc sống còn cô đơn và bất hạnh hơn trước.
Trước đây anh mù nhưng thỉnh thoảng còn có người thi ân bố thí. Có gần anh người ta cũng không phải sợ
Bây giờ khi anh bị trục xuất ra khỏi hội đường, anh sẽ phải tự cách ly với tất cả mọi người. Không ai dám tiếp xúc với anh, không ai dám giao thiệp với anh, không ai dám gần gũi với anh…thật là kinh khủng.
Thế nhưng thật may, giữa lúc cả loài người từ bỏ anh thì Chúa lại mở rộng đôi tay đón nhận. Dường như Chúa đã biết trước tất cả, cho nên ngay sau khi anh vừa buồn tủi cô đơn bước chân ra khỏi Hội dường thì Chúa đã chờ sẵn. Băng một Tình yêu rất đặc biệt và bằng một cái nhìn rất trìu mến Chúa hỏi anh:
– Anh có tin vào Con Người không?(Ga 9,36)
Anh thưa lại:
– Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?(Ga 9,36)
Chúa chậm rãi nói cho anh biết:
– Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây.(Ga 9,37)
Bằng cả một tấm lòng trìu mến, biết ơn và bằng một giọng nói đầy xúc cảm anh thưa lại với Chúa: ” Lạy Ngài, tôi tin”(Ga 9,38)
Và anh sấp mình xuống trước mặt Chúa.
Phúc âm không nói nhưng tôi chắc là Chúa đã cúi xuống để ôm trọn cả con người anh trong vòng tay yêu thương của Ngài.
Chỉ một ít phút trước đó anh tưởng anh mất tất cả bây giờ anh cảm thấy anh đã có lại tất cả. Chỉ một ít ít phút trước đó anh tưởng suốt đời anh sẽ phải cô đơn nhưng bây giờ anh thấy cuộc đời anh có hạnh phúc.
Cả loài người bỏ anh, nhưng Chúa đón nhận anh.
Cả loài người muốn xa cách anh, nhưng Chúa lại muốn gần gũi anh.
Cả loài người muốn từ khước anh, nhưng Chúa Chúa lại đón nhận anh .
Cả loài ngươi tưởng rằng anh sẽ bơ vơ lạc lõng khi anh bị trục xuất ra khỏi hội dường thì giờ đây anh lại được bước vào một xã hội mới không phải là của loài người nhưng là của Thiên Chúa trong đó mọi người được liên kết với nhau trong một niềm tin và được sống với nhau bằng chính Tình yêu Thiên Chúa đã yêu thương con người.
Trong Cuốn “Lẽ Sống” có một câu truyện rất hay. Câu chuyện thế này: Có hai người lái buôn rất giầu có. Hai người lại là bạn thân với nhau. Một hôm hai người nảy ra một ý định là phải đi tìm cho bằng được điều quí giá nhất trên đời. Sau đó thì mỗi người đi một ngả và thề sẽ gặp lại nhau sau khi đã đạt được mục đích.
Người thứ nhất lặn lội khắp mọi nơi để đi tìm một viên ngọc mà người ta gọi là quí nhất trên đời. Ông không ngần ngại lội suối băng rừng, bất chấp mọi hiểm nguy trên con đường để đi tìm và cuối cùng thì ông đã tìm thấy. Ông vui mừng trở về và chờ đợi người bạn của ông.
Nhiều năm trôi qua mà người bạn của ông vẫn vô âm biệt tín. Nhưng sau thì ông khám phá ra rằng sở dĩ người bạn của mình chưa về là vì ông ta không đi tìm vàng bạc mà là đi tìm Thiên Chúa. Sau bao nhiêu năm trời tìm thầy thọ giáo, nghiên cứu Thánh hiền, cặm cụi với sách vở vậy mà ông vẫn chưa tìm thấy Thiên Chúa.
Thế rồi một hôm kia ông đến ngồi thẫn thờ ở bên một giòng sông. Nhìn dòng nước trôi lững lờ, ông thấy một con vịt mẹ và một đàn vịt con. Tội nghiệp cho con vị mẹ. Nó cứ phải lận đận vất vả với những con vịt con. Mấy con vịt con cứ thích tách rời khỏi mẹ để đi tìm thức ăn riêng.
Vịt mẹ sợ vịt con lạc đàn nguy hiểm cho nên cứ phải đi thu con trở về đàn. Nhưng thu được con này thì lại mất con khác. Dầu vậy vịt mẹ vẫn kiên tâm, không hề tỏ ra một dấu gì là mệt mỏi, gắt gỏng hay giận dữ. Nhìn cái cảnh vịt mẹ cứ mải mê đi tìm vịt con như thế, người đó như tìm ra được câu trả lời cho cuộc tìm kiếm của mình. Ông vội vàng đứng dậy và lên đường trở về nhà.
Vừa giáp mặt là người bạn về trước đã hỏi ngay: “Cho tôi xem thử điều quí giá nhất mà anh đã tìm thấy coi. Tôi nghĩ nó phải là một cái gì tuyệt diệu lắm bởi chưa bao giờ tôi thấy anh có nét mặt mãn nguyện, vui tươi rạng rỡ như hôm nay.”
Con người trở về với hai bàn tay trắng nhưng tâm hồn lại ngập tràn niềm vui rả lời:
“Tôi đã đi tìm Chúa và cuối cùng thì tôi lại khám phá ra rằng chính Ngài là Đấng đi tìm tôi”
Vâng Chúa vẫn đi tìm. Ngài mải mê tìm kiếm chúng ta. Ngài đã đến tìm người phụ nữ ở giếng Giacob và đưa bà trở về. Ngài đã đích thân tìm đến người mù trong bài Tin mừng hôm nay để đưa anh về với cội nguồn ánh áng. Ngài vẫn tiếp tục đi tìm. Chúng ta hãy để cho Ngài dìu dắt hướng dẫn cuộc đời của chúng ta. Hãy can đảm đi theo sự chỉ dẫn của Ngài chúng ta sẽ tìm thấy ánh sáng. Amen.
Cuộc sống luôn có những điều kiện kèm theo, ngay cả khi nhìn ngắm mắt ta cũng bị điều kiện MC 4-A172
Cuộc sống luôn có những điều kiện kèm theo, ngay cả khi nhìn ngắm mắt ta cũng bị điều kiện hoá. Chính những điều kiện hoá này là nguyên nhân gây nên những cái nhìn khác nhau. Bởi nhìn khác nhau dẫn đến phán đoán khác nhau. Phán đoán khác nhau đưa đến hành động khác nhau. Điều kiện ảnh hưởng đến nhìn ngắm bên ngoài cũng lắm mà điều kiện bên trong cũng nhiều. Bên ngoài ảnh hưởng đến cách nhìn như tuổi tác, di truyền. Chính vì thế mà trong câu chuyện Đức Kitô mở mắt sáng cho người mù từ lúc mới sinh đưa ra những quan điểm khác nhau. Đại chúng cho là người mù là người từng ăn mày trong xóm nay được sáng mắt; số khác lại cho là một người nào đó giống anh ta mà không phải chính anh ta. Trong khi anh ta xác nhận là chính anh trước đây mù nay được sáng mắt.
Mù loà về lương tâm
Về phương diện lương tâm, tâm trí ta bị ảnh hưởng bởi phong tục, tập quán và chủ thuyết hay quan điểm chính trị. Những điều kiện này ảnh hưởng lớn tới cách suy luận, phán đoán của cá nhân. Kinh Thánh ghi nhận rõ ràng là những người Pharisiêu bị ảnh hưởng bởi phong tục của họ khi họ phê phán Đức Kitô là người tội lỗi vì đã phạm vào luật cấm làm việc ngày lễ nghỉ. Họ suy luận, phán đoán và tin chắc họ đúng. Số khác cãi lại không chú trọng vào ngày lễ nghỉ nhưng chú trọng vào thành quả tốt lành của người mù mắt sáng khi họ đáp. Nếu là người tội lỗi thì không thể làm điều kì lạ, mở mắt người mù từ lúc mới sinh. Lối giải thích này không được nhóm lãnh đạo chấp nhận.
Cha mẹ của người mù bị ảnh hưởng của điều kiện xã hội. Hai ông bà sợ bị phán xét và cấm đoán của tập đoàn lãnh đạo nên họ đành cay đắng nói dối lương tâm mình. Hai ông bà chối không biết vì sao con họ được mắt sáng. Thay vì vui mừng, họ lo sợ đáp với những người thẩm vấn họ. Chúng tôi xác nhận, nó là con chúng tôi, nó bị mù từ lúc nó mới sanh. Còn làm sao nó sáng mắt, ai chữa cho nó thì chúng tôi không biết. Nó khôn lớn rồi, quí vị hỏi nó thì tốt hơn. Kinh thánh thuật rõ. Hai ông bà nói thế vì sợ tập đoàn lãnh đạo hành hạ. Họ không thể kêu oan và có kêu rất có thể không được giải đáp thoả đáng còn bị tư thù hãm hại.
Mù loà về đức tin
Ánh sáng tâm linh đòi hỏi chúng ta phải vượt qua được các điều kiện về cả thể lí lẫn phong tục tập quán. Ánh sáng tâm linh được sách Samuel diễn tả rất rõ khi Samuel đuợc chỉ định đi xức dầu tấn phong vương quyền cho David, trở thành vua tương lai của Israel. Samuel gặp tất cả các con của Jesse. Ông vẫn chưa thấy yên tâm và tiếp tục hỏi cho đến khi gặp David đang chăn chiên ngoài đồng và ông xức dầu cho David bởi tâm ông được Thánh Thần hướng dẫn làm việc đó. Cái nhìn tâm linh đòi buộc chúng ta nhìn bằng con tim với tấm lòng yêu mến. Đừng để khối óc ảnh hưởng, phong tục, tập quán kiềm chế, ngoại hình lung lạc khi quyết định nhưng phán đoán sự việc dựa vào tình yêu và lòng mến để nhận định sự việc. Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Êphêsô cho biết chúng ta cần ánh sáng Đức Kitô soi đuờng, dẫn lối trong cuộc sống. Cần có ánh sáng Đức Kitô khi nhận định và phán đoán. Để làm được điều này cần dứt khoát loại bỏ bóng tối, đón nhận ánh sáng Đức Kitô với tất cả tấm lòng chân thành. Tin thờ các tà thần là dấu chỉ mù loà về đức tin; tôn thờ cá nhân, nhân vật lịch sử là mù loà về đức tin. Không chịu tìm hiểu về Kinh Thánh dẫn đến hậu quả mù mờ về đức tin Kitô giáo; biếng nhác lãnh nhận các bí tích sẽ biếng nhác việc phụng thờ Thiên Chúa và nguôi ngoai về đức tin. Chính vì lười biếng trong việc học hỏi về Kinh Thánh mà người ta coi bệnh tật là hình phạt do tội gây ra. Cây cối có tội gì, con vật có tội chi. Chúng cũng già nua, cũng ốm đau, bệnh tật. Như thế bệnh tật, già nua là một phần của tất cả các sinh vật.
Mở mắt người mù Đức Kitô giúp chúng ta nhận biết mù đức tin nguy hiểm hơn mù thể lí bởi mù đức tin dẫn đến con đường chết, con đường tối tăm ngàn thu. Nhờ lòng tin người mù nhìn nhận biết Đức Kitô là Đấng Cứu Thế trong khi người mắt sáng lại không nhìn nhận biết Đức Kitô. Bước đầu tiên để nhận ánh sáng đức tin là lòng khiêm nhường. Thiếu khiêm nhường không thể tiến bước trên đường tin theo Đức Kitô.
Ánh sáng là yếu tố cần thiết không thể thiếu cho con người và vũ trụ. Không có ánh sáng, trái đất MC 4-A173
Ánh sáng là yếu tố cần thiết không thể thiếu cho con người và vũ trụ. Không có ánh sáng, trái đất này sẽ chìm ngập trong tối tăm và băng giá, các sinh vật không thể phát triển được. Ánh sáng giúp cho con người có thể nhìn rõ đường đi và nhận ra mọi vật. Ngoài ánh sáng theo nghĩa vật lý, con người còn cần những ánh sáng khác như ánh sáng của trí tuệ và khoa học giúp con người có thể hiểu biết cách đúng đắn hơn. Nhưng con người còn cần một thứ ánh sáng đặc biệt hơn đó là ánh sáng đức tin, ánh sáng này giúp con người nhìn thấu mọi vật, mọi biến cố, nhất là giúp con người nhìn thấy sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời và trong vũ trụ.
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy sự khác biệt giữa các cách nhìn: Cái nhìn của Thiên Chúa khác với cái nhìn của con người. Con người thường nhìn nhau và đánh giá nhau qua dáng vẻ bên ngoài: xem mặt mà bắt hình dong. Họ đánh giá nhau theo cảm tính, theo quần áo hoặc theo những ấn tượng chủ quan. Nhưng Thiên Chúa nhìn theo cách khác, Ngài nhìn thấu con người, Ngài không đánh giá con người theo dáng vẻ hay vóc dáng, nhưng nhìn thấy những tâm hồn đơn sơ, chính trực.
Lúc bấy giờ, Chúa sai tiên tri Samuel đến nhà ông Giêsê để xức xầu cho một trong các con trai của ông này lên làm vua Israel. Đến nơi, Isaia toan chọn những đứa con có vóc dáng to cao, tướng mạo oai phong, nhưng Thiên Chúa nói với Samuel: Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó. Thiên Chúa không chọn những người đó, nhưng lại chọn một người nhỏ bé, rốt kém trong các con của Giêsê, đó là cậu trai út có tên là Davit. Cậu này là trai út trong nhà, hầu như không được mọi người quan tâm. Khi cậu bé đi chăn chiên ngoài đồng trở về, vừa trông thấy cậu, Chúa phán với Samuel: Đứng dậy, xức dầu tấn phong cho nó. Chính nó là người ta chọn. Samuel đã xức dầu cho cậu bé trước sự ngạc nhiên của mọi người, trong khi cậu bé vẫn chưa hiều điều gì đang xảy ra.
Bài Tin Mừng cho chúng ta thấy một thứ ánh sáng khác, đó là ánh sáng đức tin. Ánh sáng này không tùy thuộc vào mặt trời, cũng không tùy thuộc sự nhắm mắt hay mở mắt thể xác, nhưng hoàn toàn tùy thuộc vào con mắt của tâm hồn. Có những người mắt tuy mở, nhưng vẫn không nhìn thấy, trái lại, nhờ ánh sáng đức tin, có người tuy mù lòa, nhưng con mắt đức tin lại được sáng. Câu chuyện Chúa Giêsu chữa người mù từ khi mới sinh hôm nay cho thấy, có những người được mở mắt để đón nhận ánh sáng đức tin, còn có những người tuy mở mắt nhưng vẫn mù loa tăm tối.
Chúa Giêsu và các môn đệ gặp một người mù từ khi mới sinh đang ngồi ăn xin bên đường. Cái nhìn của các môn đệ và cũng là của người Do Thái cho rằng: Anh mù này như một kẻ tôi lỗi, đáng trách hơn là đáng thương. Các môn đệ hỏi Chúa Giêsu: Anh này bị mù do lỗi của anh hay lỗi của cha mẹ anh? Cái nhìn của Chúa Giêsu hoàn toàn khác, Ngài nhìn thấy nơi anh là một con người đáng thương, cần sự cứu giúp. Ngài trả lời các môn đệ: Không phải do anh, cũng không phải do cha mẹ anh, anh ta bị mù lòa là để thiên hạ được nhìn thấy công trình của Thiên Chúa muốn thể hiện nơi anh.
Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho mắt anh mù được thấy và cũng là để mở mắt cho những người chứng kiến phép lạ. Trước hết, Ngài xức bùn vào mắt anh mù và sai anh đi rửa tại hồ Silôê. Anh đã tin vào lời của Thầy Giêsu, đã rửa và được sáng mắt. Anh tin Ngài trước hết là một Đấng quyền năng và tin nhận Ngài là Ngôn sứ, tức là Đấng các tổ phụ các tiên tri đã loan báo. Lần đầu tiên bị tra hỏi Ai chữa mắt cho anh? Anh trả lời: Ngài đã thoa bùn vào mắt tôi và đã sai tôi đi rửa và tôi đã thấy. Lần thứ hai bị tra hỏi: Anh nghĩ gì về người đó? Anh đã trả lời: Người là một vị Ngôn sứ. Lần thứ ba bị tra vấn, anh đã tuyên xưng cách rõ ràng hơn về Chúa Giêsu: Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không chịu nghe. .. Xưa nay chưa có ai mở mắt người mù từ khi mới sinh nếu người ấy không phải bởi Thiên Chúa mà đến. Khi gặp lại anh Chúa Giêsu đã hỏi anh: Anh có tin vào Con Người không? Anh đã công khai tuyên xưng: Thưa Ngài, tôi tin. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Chúa Giêsu.
Anh mù trong câu chuyện đã được mở mắt thể lý, để nhìn thấy ánh sáng và thấy mọi người, anh còn được mở mắt đức tin để nhìn nhận Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng cứu thế. Ngược lại, những ngươi biệt phái tuy mắt vẫn mở, nhưng phải sống trong sự tăm tối mù lòa không nhận biết Chúa Giêsu bởi vì họ cứng lòng tin. Anh mù được sáng bởi vì anh đã để cho Chúa Giêsu đụng chạm đến trái tim và tâm hồn của anh, còn những người biệt phái đã kiêu căng đóng cửa lòng, khiến họ không đón nhận được ánh sáng đức tin.
Tâm hồn của những người biệt phái đã chứa đầy bóng tối của sự kiêu căng, cố chấp, khinh bỉ kẻ khác, khiến cho ánh sáng đức tin không thể đi xuyên qua được. Chúa Giêsu đã nói với họ: Tôi đến thế gian này chính là để xét xử, cho người không xem thấy được thấy và kẻ xem thấy lại trở nên đui mù; những kẻ cố chấp, nhất định từ chối ánh sáng của Thiên Chúa sẽ phải chịu trách nhiệm về chọn lựa của mình. Chúa Giêsu đã nói với người biệt phái: Nếu các ông bị mù thì các ông không có tội nhưng các ông nói: Chúng tôi thấy, nên tội các ông nặng hơn.
Thế giới ngày nay bị xen lẫn giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng của sự thật, công lý dường như bị bóng tối của sự ác gian dối và bất công vây bủa; ánh sáng của đức tin dường như bị che khuất bởi vật chất và các lối sống hưởng thụ. Có nhiều người muốn tránh né ánh sáng sự thật, bởi vì họ sống và làm việc trong gian dối; nhiều người sống trong u mê nghi ngờ Thiên Chúa, nghi ngờ đức tin và Giáo Hội. Nhiều người khác bị bao phủ bởi bóng tối của các luận điệu tuyên truyên xuyên tạc, các quan điểm vô thần, lối sống tự do, khiến họ đi lạc trong bóng tối tội lỗi. Mỗi chúng ta có bổn phận phải trở nên chứng nhân của sự sáng, bằng cách sống và thực hành theo chân lý, sống thật, nói thật, và hành động theo sự thật. Chúng ta còn cần phải đào sâu và học hỏi về giáo lý, để đức tin của mỗi người ngày càng tinh ròng và vững mạnh hơn và có thể tỏa sáng đến người chung quanh.
Nhiều người tuy chưa hẳn sống trong bóng tối, nhưng sống trong bóng mờ, khiến cho đời sống và hành động của họ trở nên mờ ám, thiếu sức sống. Đời sống gia đình của họ bị bóng tối của bất hạnh, cãi vã giận dỗi bao trùm, khiến cho gia đình trở nên tối tăm ngột ngạt. Các cha mẹ cần mạnh dạn khai sáng lại đời sống đức tin và các thực hành đạo đức trong gia đình, như việc tham dự thành lễ, các giờ kinh tối, các bữa ăn chung cần được tái lập, để có thể xua đi những bóng mờ bóng tối trong gia đình.
Khi lãnh Bí tích Rửa tội, chúng ta được giải thoát khỏi bóng tối của ma quỷ và tội lỗi, đã trở nên con cái của ánh sáng. Chúng ta không thể để mình rơi trở lại bóng tối, làm nô lệ cho bóng tối, nhưng xin cho chúng ta biết mở toang cánh cửa tâm hồn, để cho ánh sáng tin Mừng và tình thương của Chúa Giêsu chiếu tỏa. Xin Ngài giúp chúng ta biết sống và hành động như giữa ban ngày, xin Ngài loại bỏ khỏi ta những ngóc ngách tối tăm, nhưng hành động mờ ám, để ta sống đúng tư cách là con cái ánh sáng. Amen.
Tối sáng thuờng được áp dụng chỉ thời gian, ngày và đêm. Tối sáng cũng được nói về tinh thần MC 4-A174
Tối sáng thuờng được áp dụng chỉ thời gian, ngày và đêm. Tối sáng cũng được nói về tinh thần, về trí năng của một ai đó, tối trí, sáng trí. Tối sáng còn được áp dụng chỉ về thị giác, một trong năm giác quan con người. Người có hai mắt hoặc thấy hoặc không thấy gì. Mắt thấy gọi là mắt sáng, mắt không thấy gọi là mắt tối vì bị mù. Người mù luôn sống trong tăm tối.
CN 4 MC A hôm nay cho con người dấu chỉ mang lại niềm hân hoan tràn hy vọng: ĐGS là ánh sáng và là sự sống dựa vào phép lạ Người chữa mắt người mù từ bình sinh. Người mù được chữa lành mắt thể lý được thấy ánh sáng, cũng ám chỉ đến việc chữa lành đôi mắt tâm hồn: mắt đức tin để nhìn thấy đâu là nguồn sáng, sự sống!
Câu chuyện chữa mắt người mù thật đơn giản, nhưng đã kéo theo bao hệ lụy xem ra rất phiền toái khi mắt kẻ mù được sáng, được nhìn thấy.
ĐGS nhìn thấy người mù trên con đường Người đi qua. Các môn đệ hỏi Người về nguyên nhân mà một người sinh ra có đôi mắt bị mù: ‘Bởi tội y hay cha mẹ y? Người cho các ông biết: ‘Chuyện đó xảy ra là để việc của TC được tỏ hiện nơi anh’ (c.3b).
Câu chuyện chữa mắt người mù, Gioan ghi lại giản dị qua vài cử chỉ: Người nhổ nước miếng trên đất hòa thành bùn và đắp lên mắt anh, sai anh đi đến hồ Silôê rửa (Silôê có nghĩa: người được sai). Anh đi rửa và mắt anh được sáng. Câu chuyện chữa mắt người mù vừa là một phép lạ sự thật lại mang đầy tính biểu tượng như những gì mà ĐGS trả lời sau câu hỏi của các môn đệ.
Ra đi rửa mắt, mắt anh sáng, anh quay trở lại, ĐGS đã rời khỏi nơi ấy, nên anh không thể biết Người là ai!
Mọi người, trong số những người thân, bạn bè, nhìn thấy anh, việc sáng mắt của anh làm cho bao người ngạc nhiên. Họ bàn luận, chia rẽ nhau về chính danh con người anh, về cơ sự cũng như ‘ai là người’ làm cho mắt anh được sáng?
Một người được lành bệnh, sự thường, trong tình người, sẻ có được sự chia sẻ trong vui mừng cảm thông đầy yêu thương, đáng lẽ phải là chuyện như thế, đàng này không ai làm như vậy, mà người ta lôi anh đến gặp những người Pharisêu. Những người này tra hỏi anh. Ở đây, với anh, vì lòng đầy ấp vui mừng, nên đã bất chấp mọi hiểm nguy vì nghi kỵ hiềm thù của người Do Thái, anh tuyên nhận thẳng thừng, trước mọi câu hỏi dò xét, dựa vào niềm tin của chính mình: ‘Người là một vị ngôn sứ’ (c.17).
Cha mẹ anh cũng bị người Do Thái mời đến tra hỏi. Thái độ của họ giờ đây tỏ ra dè chừng, tránh né những gì liên lụy đến từ đứa con của mình được sáng mắt vì họ sợ người Do Thái với lệnh: ‘Trục xuất những ai tuyên xưng ĐGS là Đấng Kitô’ (c.22), Gioan ám chỉ một lệnh đồng nghĩa với vạ dứt phép thông công ở thời đầu của GH sơ khai.
Cuối cùng, sau những phiền lụy vì được sáng mắt và vì lời tuyên xưng đức tin, anh bị trục xuất ra khỏi hội đường. ĐGS am hiểu, quay lại gặp anh. Người muốn để anh được nhìn thấy Người, Đấng là Ánh Sáng, và là sự sống. Gặp nhau, Người hỏi anh: ‘Anh có tin vào Con Người không’? (c.35). Anh thưa: ‘Thưa Ngài, tôi tin’ (c.38).
Đức ‘tin’ của anh vào ĐGS là nguyên nhân gây bao phiền toái. Điều đó, rất phù hợp với những gì như ĐGS đã báo trước: ‘Phần anh em, anh em hãy coi chừng! Người ta sẽ nộp anh em cho các hội đồng và hội đường vì Thầy…để làm chứng cho họ được biết’ (Mc.13,19). Cùng một nội dung, Matthêu cũng ghi nhận: ‘Anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết’ (Mt.10,18).
Nhìn chung phép lạ chữa người mù từ bình sinh là một dấu lạ lớn, nhưng vẫn không làm nao núng xoay hướng người Pharisêu. Họ vẫn cứ khư khư không tin mà còn căm thù ĐGS hơn nữa. Không sao sửa đổi họ được, Người tỏ uy quyền một thẩm phán xét xử họ. Người nói: ‘Tôi đến thế gian này chính là để xét xử cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui ‘ (c.39). Nghe điều này Người Pharisêu càng căm phẫn vì ĐGS đã liệt họ vào những kẻ tội lỗi. Tội của họ là những người có mắt mà ra đui vì không thấy những điều rất thiết thực chạm đến đáy mắt và trí khôn quan sát, đánh giá và hiểu biết để chính mình đón nhận.
Trong cõi nhân gian, không thiếu những người đã thuộc về hạng Pharisêu từ bao dời theo kiểu thức ‘quan sát cứ quan sát, phán đoán cứ phán đoán, đón nhận thì không’ đến nỗi chưa một lần hay biết hoăc mình đúng hoặc mình sai để mau lẹ đổi hướng. Họ vẫn cứ tự tại tâm đắc về hành vi và đường lối ứng xử của mình khiến cho bao người lâm vào hệ lụy cùng khốn vì họ. Con mắt trí khôn họ mù, mà nếu có sáng chỉ để biết và nhìn thấy mối hiềm thù ghen ghét nặng ký trong họ đang dần tăng trọng nhằm triệt hạ bất kỳ ai là đối thủ mà tự họ cho là kẻ phá luật ngày sabbat, hay gieo rắc những ý tưởng rao giảng mới lạ khác họ.
Tâm ý ĐGS, vì là Đấng nhân lành, muốn giao hòa mọi người lại với TC, trở về trong sự thật đầy tinh thần và chân lý để sống nhân cách, phẩm giá, cùng đích làm người, trở nên những người con thiện hảo của tạo hóa dựng nên, được mời gọi sống hoàn thiện theo niềm tin vào Con TC làm người để cùng hưởng Nước Trời, Thiên giới hạnh phúc đã được hứa ban.
Với kitô hữu hôm nay, Người mù sáng mắt nên dấu chỉ của ơn TC ban. Người mù được sáng là bằng chứng cho một niềm tin bất khuất về ĐGS Con TC làm người. Người là ánh sáng của trần gian, là sự sống của mọi người, ơn ban cao vời, TC ban Con Một của Ngài vì yêu thương, để lôi kéo mọi người xây dựng và cũng cố niềm tin vào Người, nguồn mạch lấp đầy mọi khát vọng nơi mỗi con người là HẠNH PHÚC.
Lạy Chúa Cha từ ái, lạy Chúa Thánh Thần nguồn ánh sáng thật, xin cho con đủ can đảm để có thể mạnh dạn nói và nói thay cho nhiều người không dám nói: CON TIN, một đức tin bất khuất vào Con duy nhất của Ngài đã được CTT luôn đồng hành và hướng dẫn.
Sống trong cảnh mù loà là điều đáng sợ nhất. Thật là bất hạnh đối với một con người từ khi MC 4-A175
Sống trong cảnh mù loà là điều đáng sợ nhất. Thật là bất hạnh đối với một con người từ khi mở mắt chào đời đã phải sống trong tăm tối, phải chấp nhận một cuộc đời không thấy ánh sáng, không nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, con người cũng như cỏ cây! Lúc lớn lên có thể nghe mọi chuyện, có thể sờ mó tất cả, nhưng không thể thể nào hình dung ra được!
Ðức Giêsu đã chữa một người mù từ lúc mới sinh, một người lớn lên trong bóng đêm dầy đặc. Ngài cho anh được thấy ánh mặt trời lần đầu tiên, thấy khuôn mặt của những người thân thuộc. Nhưng quan trọng hơn, anh đã thấy và tin vào Ðức Giêsu, Ðấng là Ánh Sáng của thế gian
Đức tin là ánh sáng soi rọi vào đời sống tâm linh, cho ta thấy được những điều mà người không tin không thấy. Đức tin là ngọn đèn soi cho ta bước đi trên con đường tiến về đời sống vĩnh cửu. Ngọn đèn ấy chỉ đủ sáng cho ta bước từng bước nhỏ. Trong khi bầu trời vẫn tối đen để ta phải phó thác và tin tưởng.
Tin là một thái độ dấn thân. Anh đi ra hồ Silôê rửa theo lời dạy của Chúa Giêsu vì anh tin. Tin không thể không hành động, dấn thân và lên đường theo cách của Chúa muốn.
Tin là một hành trình đầy thử thách và gian khổ. Như chàng thanh niên, đã bước vào một hành trình đức tin đầy cam go. Lúc đầu, Ðức Giêsu chỉ là một người mà anh không rõ. Sau đó, anh dám khẳng định trước mặt mọi người. Ngài là một ngôn sứ, là người bởi Thiên Chúa mà đến. Cuối cùng, anh đã sấp mình để bày tỏ lòng tin vào Ngài. Ðức tin của anh lớn lên qua những hiểm nguy và đe dọa.
Anh đành chấp nhận một hành trình đơn độc. Vì tin Chúa anh đành cam chịu sự thờ ơ lãnh đạm của những người thân. Trung thành với niềm tin đã làm trái tim anh rướm máu.
Sự căng thẳng lên đến cực điểm khi anh phải đối đầu với giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái. Họ mạt sát anh là sinh ra trong tội lỗi. Họ tố cáo Chúa Giêsu đã phạm luật ngày Sabat. Và sau cùng, họ khai trừ anh khỏi hội đường.
Bị khai trừ khỏi hội đường, là hình phạt nặng nề nhục nhã nhất, đối với người Do Thái. Anh mù đã bị gia đình từ bỏ, giờ đây lại bị xã hội loại trừ. Anh trở thành người cô đơn nhất. Và đây cũng là thử thách lớn lao nhất. Nhưng anh đã vững vàng vượt qua. Sự lựa chọn của anh giờ đây là dứt khoát. Anh chấp nhận mất tất cả chỉ để trung thành với niềm tin của mình.
Niềm tin lớn dần với thử thách. Thử thách càng cam go, đức tin càng mạnh mẽ. Ban đầu, anh coi Chúa Giêsu chỉ là một con người, một người nào đó, trong muôn ngàn người trên đời, anh nói với mọi người: “Một người tên là Giêsu đã xức bùn vào mắt tôi”. Rồi sau những câu hỏi của đám đông những người xung quanh, những tra vấn của Pharisêu khiến anh suy nghĩ sâu xa hơn và anh nhìn nhận rằng: “Ngài thật là vị ngôn sứ”. Sau những sự tra hỏi nhiều lần của giới chức tôn giáo, lại khiến anh thêm xác tín hơn và khẳng định: “Người từ Thiên Chúa mà đến”. Và sau cùng anh đã nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.
Hành trình đức tin của anh thanh niên mù chính là khuôn mẫu cho hành trình đức tin của chúng ta. Anh đã phải chiến đấu với những bóng tối dày đặc bao phủ đức tin của anh. Anh đã kiên trì, chiến đấu và đã chiến thắng. Anh đã ra khỏi tối tăm, gặp được Chúa Kitô nguồn ánh sáng. Đời anh từ nay tràn ngập niềm vui.
Đâu là bóng tối đang phủ kín đời sống, tôi khiến chưa thoát ra được, để đến với Chúa, đến với tha nhân? Phải chăng vì tôi chưa chấp nhận để cho Chúa bôi nước miếng và đất bùn lên đôi mắt tâm hồn của tôi … hay tôi ngại cách chữa trị dơ bẩn của Chúa, ngại phải đi rửa… bao lâu tôi còn ngại, tôi chưa chấp nhận… thì bấy lâu tôi còn bị mù.
Phải chăng, chỉ vì một lỗi lầm, một yếu điểm nho nhỏ mà tôi được nhắc nhở, được vén mở nhưng vì tự ái, tôi cho là bị xúc phạm hơn là khiêm tốn chấp nhận ra đi để rửa sạch,để sửa đổi, theo ý Chúa muốn.
Phải chăng tôi cũng là người Pha-ri-siêu chỉ biết rình mò, bắt lỗi, phê bình và kết án người khác theo cái nhìn thiện cẩn và ích kỷ của tôi, qua lớp vỏ của người trung thành với luật. Rồi ở mãi trong cách giữ luật và sống luật theo ý riêng tôi.
Biết bao điều trong cuộc sống, Chúa mong muốn tôi nhìn và thấy như: cần giúp đỡ một ai đó, hy sinh một chút thời gian, chấp nhận một sự thật để được chút sửa dạy, một chút thua thiệt trong phục vụ nhưng biết bao lần tôi tránh né. Vì sợ liên lụy, sợ bị coi thường, sợ xấu hổ… Nên tôi cứ sống trong vòng luẩn quẩn của bóng tối lén lút, ích kỷ, ý riêng…nhất là trong cảm xúc của ấu trĩ nhất thời. Tôi không có được bình an nội tâm.
Vì thế, để mắt tâm hồn tôi được nhìn thấy Chúa và bao công trình của Ngài, tôi phải có đời sống cầu nguyện, sám hối, hoà giải, chia sẻ, cảm thông và yêu thương với mọi người . Xin Chúa Kitô là ánh sáng trần gian dẫn chúng ta đi trọn hành trình đức tin để đến gặp Đấng là ánh sáng đích thực, ánh sáng vĩnh cửu.
Lạy Chúa Giêsu nguồn ánh sáng, Như người mù trong Tin Mừng, biết mình mù lòa nên Chúa chữa trị để được sáng mắt. Xin cho con được nhìn thấy ánh sáng chói chang của Chúa, Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa, ánh sáng phá tan bóng tối trong con và đòi buộc con phải hoán cải. Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối chỉ vì chút tự ái cỏn con. Xin cho con khiêm tốn để đón nhận những tia sáng nhỏ mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày. Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý để Chân lý cho con được tự do. Amen.
Khi nói về những trường hợp mù, Tin Mừng nhất lãm luôn ghi nhận lời van xin của chính nạn nhân MC 4-A176
Khi nói về những trường hợp mù, Tin Mừng nhất lãm luôn ghi nhận lời van xin của chính nạn nhân: “Lạy con vua Đavit, xin thương xót chúng tôi!”. Chẳng hạn:
Tin Mừng theo thánh Mátthêu:
– Khi Ðức Kitô ra khỏi đó thì có hai người mù theo Ngài mà kêu rằng: “Lạy Con vua Ðavít, thương xót chúng tôi!” (Mt. 9:27).
– Có hai người mù ngồi ở vệ đàng; nghe biết Ðức Kitô đi ngang qua, thì họ kêu rằng: “Lạy con vua Ðavít, xin thương xót chúng tôi!” (Mt. 10:29-30).
Tin Mừng theo thánh Marcô: Con của Timê là Bartimê, một người mù ăn xin, ngồi ở vệ đàng. Nghe biết là Ðức Giêsu Nazarét, thì hắn lên tiếng kêu rằng: “Lạy con vua Ðavít, xin thương xót chúng tôi!” (Mc. 10:46-47).
Tin Mừng theo thánh Luca: Có người mù nọ đang ngồi ăn xin ở vệ đàng. Nghe có đông người đi ngang qua, hắn dò hỏi cho biết chuyện gì thế. Người ta cho hắn biết là có Giêsu Nazareth ngang qua. Và hắn la lên rằng: “Lạy con vua Ðavit, xin thương xót chúng tôi!” (Lc. 18:35-38).
Riêng Chúa nhật thứ IV mùa Chay năm A này, Tin Mừng theo thánh Gioan, người mù không hề lên tiếng xin điều gì, Chúa Giêsu tự tay chữa lành cho anh.
Ngay trước khi chữa lành, Chúa cho biết: Anh ta bị mù là cơ hội “để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh”. Chính vì thế, “chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, THẦY LÀ ÁNH SÁNG THẾ GIAN”.
Như vậy, khác với các thánh sử nhất lãm, đối với thánh Gioan, người mù không cần phải van xin, nhưng đây là nhiệm vụ của Chúa Giêsu:
Chúa Giêsu phải chứng tỏ và mạc khải quyền năng của Thiên Chúa. Khác các tác giả nhất lãm (chữa lành là chứng minh ơn tha thứ), thánh Gioan nhấn mạnh đến việc bày tỏ quyền năng vinh quang của Chúa.
Trường hợp anh mù, vì được chữa khỏi tật nguyền mà không ai có thể chữa được, quyền năng của Thiên Chúa đã được biểu lộ. Từ nay, bất cứ ai nhìn thấy anh, hay nghe nói đến anh, họ biết rằng, anh đã được sức mạnh siêu phàm chạm đến cuộc đời mình.
Qua tật nguyền mà anh được cứu chữa, Thiên Chúa cũng ân cần mạc khải tình thương của Người dành cho nhân loại. Bằng sự cứu chữa nơi một vài trường hợp trên thân xác, Thiên Chúa muốn nói rằng, Người quan tâm đến tâm hồn con người. Người muốn cứu độ họ. Thiên Chúa muốn chữa lành linh hồn họ.
Chữa lành bên ngoài là để nhấn mạnh đến ơn tha tội. Bởi bị tật nguyền nơi thân xác đã là bất hạnh. Nhưng tật nguyền trong linh hồn mới thật bất hạnh đời đời. Việc chữa lành trên thân xác, có cũng được, không có không sao. Nhưng nếu linh hồn mà không được chữa lành, không được Chúa đoái thương, con người sẽ đánh mất ơn vĩnh cửu trong Thiên Chúa.
Đàng khác, nếu không được chữa lành nơi thân xác, ta chấp nhận đau khổ. Đó chính là thập giá đời ta.
Chúa Giêsu từng mời gọi hãy vác thập giá của bản thân mà theo Người. Bởi thế, đau khổ vẫn là điều cần thiết để ta kết hợp với Chúa Giêsu mà cứu độ mình, cùng đền thay tội lỗi cho muôn người.
Thập giá đời ta sẽ phát sinh ơn cứu độ cho mình, cho mọi người, chỉ khi ta vui nhận trong tinh thần tín thác vào Thiên Chúa, và hiến dâng như của lễ toàn thiêu, hiến tế đời mình trong Chúa Giêsu.
Vì thế, những ai được chữa lành là điều đáng vui mừng, nhưng nếu không được chữa lành, thì bệnh tật nơi thân xác vẫn là điều quý giá. Giá trị và vinh quang của sự chiến thắng nằm ở chỗ, dù phải mang thánh giá đời mình, ta vẫn kiên trung tín thác và yêu mến Chúa.
Nói rằng, trong nhiều trường hợp (chẳng hạn trường hợp của người mù), bất hạnh của con người là để chứng tỏ vinh quang Thiên Chúa, không có nghĩa là, Thiên Chúa muốn cho một số người bị khuyết tật để qua họ Người bày tỏ chính mình.
Đúng hơn, ta phải hiểu rằng, tất cả bệnh tật, sự đau khổ, những yếu tố bất toàn của thiên nhiên… tất cả đếu có thể ập xuống trên con người. Đau khổ vẫn luôn hiện diện trong cõi nhân sinh. Dù muốn, dù không, mọi người đều có thể lâm vào đau khổ. Nó là người bạn không ai muốn, nhưng vẫn tự tìm đến ta.
Nhưng khi đau khổ đã xảy ra, Thiên Chúa có thể sử dụng chúng để mang lại nhiều ích lợi thiêng liêng khác. Chẳng hạn, Thiên Chúa sử dụng cuộc khổ nạn thương đau của Chúa Giêsu để mang lại ơn cứu độ cho trần thế.
Thiên Chúa vẫn không ngừng rút ra những điều tốt lành từ trong những thương đau, những bế tắc, thậm chí những tội ác… Vì thế, nếu biết chân thành suy niệm, ta có thể nhận ra ngay trong những thử thách của đời mình, có bàn tay Thiên Chúa. Không ít lần, ta kinh nghiệm rằng, giữa những khổ đau, ta nhận được qua nhiều sự đỡ nâng, sự ủi an hoặc nhiều những thuận lợi khác…
Chữa lành người mù, Chúa khẳng định: “THẦY LÀ ÁNH SÁNG THẾ GIAN”. Như vậy, qua việc mở đôi mắt cho người mù được thấy ánh sáng, Chúa Giêsu không nhắm việc chữa lành trên thân xác cho bằng nhắm đến sự cứu độ đời đời mà Người ban cho ta. Chỉ trong Chúa Kitô, chỉ có cách duy nhất là thông hiệp với Chúa Kitô, ta mới được tiến đến cùng ánh sáng là chính Người mà thôi.
Lời này được tuyên bố ngay giữa bối cảnh mà sự thù ghét Chúa trong lòng hàng ngũ lãnh đạo Dothái đang dâng cao. Bởi suốt cả chương 8, Tin Mừng theo thánh Gioan cho thấy, sự tranh luận ngày càng gay gắt giữa Chúa Giêsu và người Dothái.
Dù đang bị vây hãm bởi bóng đen dày đặc của lòng người, của tội lỗi thế gian, Chúa vẫn là Ánh Sáng. Chúa vẫn là Ánh Sáng duy nhất tỏa chiếu cho tất cả những ai chấp nhận để Chúa dẫn lối thoát ly khỏi mê lầm, tội lỗi.
Tình yêu và sự cứu độ của Chúa vẫn là những thực tại mà mỗi con người cần đến, không thể thay thế, không thể khác được. Chỉ có Chúa Giêsu Kitô, ánh sáng của chúng ta, Đấng đưa ta về sự sáng của tình yêu và ơn cứu độ.
Chúa nhật thứ IV mùa Chay, nghĩa là thời gian càng lúc càng gần những ngày cao điểm của mầu nhiệm Vượt Qua. Bạn và tôi hãy bắt chước người năm xưa, vững tin vào Chúa để được tình yêu và ân sủng của Người đưa lối ta đi về sự sáng vĩnh cửu.
Một khi bắt gặp Chúa, Đấng giải thoát mình khỏi cảnh mù tối, người mù bất chấp mọi sợ hãi, vẫn hiên ngang khẳng định lòng tin của mình vào Chúa Giêsu: “Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa, ông ấy đã chẳng làm được gì”.
Chúng ta là Kitô hữu, những người luôn xác tín Chúa Giêsu là Đấng cứu độ mình. Hãy như người mù, chúng ta cần chứng tỏ đức tin của mình mọi nơi, mọi, mọi hoàn cảnh, bất chấp những điều ấy có thể đe dọa sự an nguy của bản thân nơi cuộc đời này.
Sắp xếp của phụng vụ cho chúng ta có một cái nhìn nhất quán trong Mùa Chay. Chúa Nhật thứ I MC 4-A177
Sắp xếp của phụng vụ cho chúng ta có một cái nhìn nhất quán trong Mùa Chay. Chúa Nhật thứ I và thứ II luôn luôn là những cơn cám dỗ của Đức Giêsu và việc Người biến hình trên núi. Từ Chúa Nhật thứ III, mỗi năm A, B, C có một chủ đề khác nhau. Chúa Nhật Thứ III năm A với chủ đề Đức Giêsu là nguồn sống. Chúa Nhật Thứ IV hôm nay, phụng vụ lời Chúa mặc khải cho chúng ta Đức Giêsu là Ánh Sáng.
Với Ánh Sáng, chúng ta có được niềm vui. Điều đó Giáo hội muốn trình bày qua việc cho phép chủ tế mặc lễ phục màu hồng trong Thánh lễ hôm nay. Quả thật, bóng tối tượng trưng cho sự u buồn, thất vọng, tội lỗi và sự chết, nó được gói gọn trong đêm đen cô tịch; còn ánh sáng chính là vui mừng, hy vọng, thánh thiện và sự sống, nó được mở ra trong ánh nắng hồng rực rỡ.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Bài Đọc I: 1Sm 16, 1b.6-7.10-13ª
Saul được Chúa chọn làm vua dân Do Thái đầu tiên, nhưng vì ông sống, nhìn và giải quyết vấn đề theo cái nhìn trần tục, theo ý của riêng ông nên Thiên Chúa đã bỏ ông và quyết định chọ một trong tám người con ông Giesê lên thay thế. Vì Chúa không chỉ định rõ ràng nên Samuel lại chọn lựa theo kiểu cách của người đời, nhìn vóc dáng cao to… nhưng Thiên Chúa đã nói với ông: “Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó… người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng” (1Sm16, 7). Cuối cùng Đức Chúa đã chọn đứa con trai út, người mà chính Giesê, cha ruột của cậu cũng không có ý định cho cậu xuất hiện, có lẽ vì vóc dáng bé nhỏ và tính khí nghệ sĩ của cậu chăng?
Tin Mừng: Ga 9, 1-41
Trong Tin Mừng, cũng rất nhiều lần Đức Giêsu làm dấu lạ, và hơn một lần Ngài chữa cho người mù được sáng mắt, nhưng chưa có trường hợp nào Đức Giêsu làm dấu lạ lại phức tạp như trường hợp này.
Phức tạp từ chính các môn đệ khi họ nói lên suy nghĩ chung của người Do Thái: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” (Ga 9, 2). Đức Giêsu nói chẳng phải tại ai, nhưng là dịp để người ta “nhìn thấy công trình của Thiên Chúa nơi anh”.
Phức tạp từ chính cách chữa lành của Đức Giêsu: “Nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn, và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta đến hồ Silôac mà rửa, anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được” (Ga 9, 6-7). Đây là ý nghĩa tượng trưng, nhưng mục đích chính của Đức Giêsu là muốn anh ta “đến hồ Silôac” (có nghĩa là người được sai phái). Đức Giêsu muốn mặc khải Ngài chính là Đấng được sai phái đến để mở mắt cho người mù.
Phức tạp từ những người láng giềng vì người ta không thể ngờ một người mù mà nay lại thấy đường, nên người ta bàn tán xôn xao. Cuối cùng họ quyết định dẫn anh ta đến với những người Pharisêu, là những bậc thầy trong dân đế xin được hướng dẫn. Tại đây cuộc tranh luận về quyền năng của Đức Giêsu xảy ra. Họ không nhìn đến khả năng mở mắt cho người mù, mà họ chỉ nhìn thấy việc Đức Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabat, nên họ đã kết án Ngài là một con người tội lỗi. Những người sáng mắt, những người hướng dẫn đời sống đức tin cho dân chúng thì lại nhìn Đấng được Chúa Cha sai đến là một con người tội lỗi. Còn anh mù từ thuở mới sinh thì đã nhận ra người mở mắt cho mình là một vị ngôn sứ, và cuối cùng là CON NGƯỜI, và anh đã “sấp mình xuống trước mặt Người”.
Đức Giêsu đã đem đến ánh sáng cho người mù, chẳng những là ánh sáng vật chất, mà nhất là ánh sáng đức tin để anh nhận ra Ngài là Đấng được Thiên Chúa Cha sai đến; trong khi nhiều người vẫn còn sống trong mù tối, nghĩa là họ chưa nhận ra Đức Giêsu là Đấng được sai đến để giải thoát con người khỏi bóng đêm.
II. SỰ SÁNG CỦA THIÊN CHÚA
Thiên Chúa là Đấng toàn năng, toàn mỹ, nhưng một trong những mặc khải về quyền năng và nét đẹp của Thiên Chúa chính là sự sáng. Sự sáng đó được thể hiện trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đã đến thế gian và chiếu soi mọi người”(Ga 1, 9). Trong năm gia đình này, với lời Chúa hôm nay chúng ta khám phá sự sáng đó chính là:
Nhìn với cái nhìn linh thánh
Chính Samuel là người của Thiên Chúa, mà còn bị chi phối bởi cái nhìn giới hạn của con người. Ông ta được Chúa sai đi chọn người để làm vua và ông đã chọn theo cái nhìn tự nhiên, một con người với dáng vóc cao to và vẻ oai nghiêm bề ngoài. Còn Thiên Chúa lại có một cái nhìn hoàn toàn khác, Ngài đã chọn Đavit, một cậu bé có vóc dáng bé nhỏ, không oai nghiêm nhưng rất rất lóc chóc, lanh lẹ…
Khi người ta dẫn anh mù đã được Đức Giêsu chữa cho sáng mắt đến với những người Pharisêu, họ đã kết án Ngài là kẻ tội lỗi vì đã vi phạm luật ngày sabat. Một số người thì nói rằng người tội lỗi không thể nào làm được dấu lạ như vậy… Rõ ràng đó là cái nhìn vội vàng của con người. Còn người đã được chữa sáng mắt thì nói: “Xưa nay chưa hề nghe nói có ai mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu ông ta không phải người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9, 32-33). Chính nhờ cái nhìn linh thánh đó mà sau khi đã được chữa cho sáng mắt, anh còn nhận ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa: “Thưa Ngài, tôi tin!”
Đối xử bằng tình yêu thương
Sự sáng nổi bật nhất nơi Đức Giêsu chính là tình yêu thương. Có thể nói chính tình yêu đã làm cho cuộc đời của Đức Giêsu bừng sáng. Nơi đâu Ngài hiện diện, ở đó có tình yêu thương, và tình yêu thương đó lan tỏa, xua tan mọi bóng đêm của của tội lỗi, của chiến tranh, của giết chóc, của hận thù, của ghen ghét… Trớ trêu thay, chính Ngài lại là nạn nhân của tất cả những điều đó. Nhưng sau tất cả những điều đó, Ngài đã chiến thắng khải hoàn, để cho chúng ta nhận ra được chính Ngài đã phá tan đêm tối bằng ánh sáng yêu thương.
III. BÓNG ĐÊM CỦA CON NGƯỜI
Cái nhìn phàm tục
Tất cả mọi trục trặc trong cuộc sống, cách riêng trong gia đình đều do con người không có cái nhìn linh thánh, họ chỉ nhìn với cái nhìn phàm tục.
Có những người làm ăn bất chính, biết những điều sai mà vẫn cứ làm. Khi được người khác nhắc nhở, họ đã thách thức: “Đố ai làm cho họ nghèo được!”. Đó là một lời thách thức của những người có một cái nhìn hoàn toàn trần tục, và là một lời dại dột nhất của con người. Người ta nói “không ai giàu 3 họ, không ai khó 3 đời”. Dĩ nhiên đôi khi cũng có, nhưng câu thành ngữ này gởi đến cho chúng ta một thông điệp: Giàu nghèo không phải là một giá trị bền vững, nó dễ thay đổi lắm. Vì vậy những ai nghĩ rằng không bao giờ mình nghèo, thì đó là kẻ đang chống lại quy luật của tự nhiên. Hơn thế nữa, nhiều bằng chứng hiển nhiên trước mắt chúng ta, có người bị trộm, bị hỏa hoản, bị lường gạt… mất hết tất cả. Hoặc có những người lo thu gom tích trữ rồi tự hào về tài sản của mình, bỗng nhiên Chúa để cho mắc phải một căn bệnh nan y, thế là tiền bạc cũng hết, mà bệnh tật cũng không chữa khỏi. Và nhất là có tích trữ rồi đến lúc chết cũng không mang theo được gì.
Trong gia đình, có những thành viên chỉ biết sống theo những giá trị phàm tục như là chỉ biết kiếm tiền mà không lo sống đạo; chỉ biết thỏa mãn những đam mê riêng tư của mình mà không biết lo cho gia đình. Họ không nghĩ đến vận mệnh của cuộc đời mình rồi sẽ ra sao? Ngày mình chết, mình sẽ mang theo được gì nếu cứ mãi mê với cuộc sống trần gian?
Đó là bóng đêm rõ ràng nhất nơi những con người không biết nhìn với cái nhìn linh thánh, dám thách thức cả Thiên Chúa, hoặc chỉ lo sống theo kiểu cách của thế gian.
Thiếu vắng tình yêu thương
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: “Hơn bao giờ hết, nhân loại đang thiếu vắng tình yêu thương”. Bằng chứng là chiến tranh, chủ nghĩa khủng bố, nhiều người nghèo không có điều kiện sinh sống, nhiều trẻ em không được hưởng quyền lợi của mình. Thêm vào đó là tình trạng tội ác gia tăng, đạo đức xuống cấp nhất là nơi giới trẻ khi họ quá tự do trong chuyện giới tính và xử lý hậu quả của tự do đó bằng việc phá thai…
Tất cả những tình trạng xấu trong xã hội hôm nay xuất phát từ việc thiếu vắng tình yêu thương, chỉ nghĩ đến ích lợi của bản thân mình mà không biết nghĩ đến người khác. Trách nhiệm đó trước hết là của những nhà lãnh đạo quốc gia, khi họ dùng quyền hành của mình để trục lợi cho bản thân mà không quan tâm gì đến vận mệnh của đất nước cũng như đời sống của người dân.
Trách nhiệm đó còn là của từng thành viên trong gia đình khi họ chỉ biết sống cho mình mà không biết nghĩ đến những người xung quanh.
Chính vì vậy nơi nào thiếu vắng tình yêu thương thì sẽ tạo nên bóng đêm ở nơi đó: trong tâm hồn, trong gia đình, trong đoàn thể, trong họ đạo, ngoài xã hội, quốc gia và cả thế giới.
Đức Giêsu đã đến thế gian này để phá tan bóng tối bằng chính ánh sáng của sự linh thánh và tình yêu thương. Những ai biết quan tâm đến giá trị linh thánh và có tình yêu thương chân thành nơi con tim của mình thì sẽ không còn mù tối và hơn thế nữa còn góp phần để đem đến ánh sáng cho trần gian.
Gia đình của chị thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu và cha mẹ ngài là Louis và Zelie Martin là một minh chứng cho những người biết quý trọng những giá trị linh thánh và sống tình yêu thương trong gia đình của họ. Họ là ánh sáng cho năm gia đình này.
Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp cũng biết quý trọng những giá trị linh thánh bằng việc tin tưởng và phục vụ Chúa, hướng dẫn giáo dân sống đạo; và sống hết tình với đoàn chiên Tắc Sậy, nên cha Cha đã sẵn sàng chết cho đoàn chiên của mình.
Một số gia đình vẫn còn giữ việc đọc kinh hôm chung; nhắc nhở nhau đi lễ ngày Chúa Nhật, thậm chí là ngày thường; nhắc con cái học giáo lý bằng mọi giá; tham dự những việc đạo đức trong họ đạo như việc lần chuỗi, đi đàng thánh giá, Chầu Thánh Thể; tích cực tiếp giúp những công tác trong họ đạo bằng khả năng của họ… Họ là đã được Đức Giêsu làm cho sáng mắt đức tin và họ trở thành ánh sáng trong môi trường họ đang sống.
Tuy nhiên vẫn còn nhiều người, nhiều gia đình nhìn và sống với cái nhìn phàm tục, thách thức Thiên Chúa và không biết yêu thương. Họ không nghĩ đến ngày mình chết, đến ơn cứu độ mà Đức Giêsu đã đem đến cho họ. Chúng ta cầu nguyện thật nhiều cho những người đó.
Chúng ta biết cặp mắt là một chi thể rất quan trọng và cần thiết trong thân thể con người. Cặp mắt MC 4-A178
Chúng ta biết cặp mắt là một chi thể rất quan trọng và cần thiết trong thân thể con người. Cặp mắt giúp chúng ta nhìn thấy và phân biệt những sự vật chung quanh, cũng như có thể tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Ngoài cặp mắt thể xác, chúng ta còn có cặp mắt tinh thần giúp chúng ta nhận ra chân lý, sự thật và những giá trị tốt lành và thánh thiện.
Những bài Kinh thánh tuần thứ tư mùa chay này giúp chúng ta hiểu được sự khác biệt và hiệu quả của cặp mắt sáng tinh thần. Bài đọc 1 cho chúng ta biết lúc đó dân Do thái muốn tìm cho mình một vị vua để lãnh đạo. Vị vua đầu tiên được họ chọn là Sau-lê, nhưng vị vua này lãnh đạo theo ý riêng của mình hơn là ý Chúa, nên Chúa bỏ ông và thay thế bằng một vị vua khác. Do dó, Chúa truyền cho ông Samuel đến nhà ông Giêsê để xức dầu tấn phong một người con của Giêsê làm vua. Ông Giêsê lúc đó có 8 người con trai, và theo quan niệm, phong tục và qua diện mạo bề ngoài, Samuel có ý định xức dầu cho Eliab, nhưng Chúa không đồng ý và bảo: “Đừng nhìn xem diện mạo. Ta không xem xét theo kiểu con người, vì chưng con người nhìn xem diện mạo bên ngoài, còn Thiên Chúa thì nhìn xem tâm hồn.” Sau đó Samuel đã được Chúa soi sáng xức dầu tấn phong Đa-vít, người con út đang chăn chiên ngoài đồng trở về. Như vậy bài Kinh thánh này dạy chúng ta rằng muốn có một quyết định chính đáng, hay một đời sống đức tin trong ơn sủng của Chúa, và để có thể nhìn thấy thánh ý Chúa, hay mục đích, sứ mệnh và những giá trị cho cuộc sống, cho linh hồn, thì chúng ta phải có cặp mắt sáng tinh thần, được hướng dẫn bằng ánh sáng Lời Chúa.
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa một người mù bẩm sinh. Chúng ta có thể nhận ra lòng ao ước của anh là được nhìn thấy khuôn mặt của những người thân quen, nhìn thấy những cảnh vật chung quanh, hay có cuộc sống bình thường như mọi người. Anh mù thường ngồi ăn xin ở cổng thành, nhưng hôm nay, nghe biết Chúa Giêsu đi ngang qua, anh không xin cơm ăn hay tiền bạc, nhưng kêu xin Chúa cứu chữa cho anh được sáng mắt. Và như chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu đã thương chữa lành cặp mắt thể xác để anh có thể nhìn thấy cảnh vật như mọi người. Nhưng cao quí hơn, Chúa cũng đã mở cặp mắt tâm linh để anh nhận biết, tin, tôn thờ và làm chứng cho Chúa.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta cảm tạ Chúa đã cho chúng ta cặp mắt sáng thể xác để nhìn thấy mọi vật và mọi sự chung quanh. Thế nhưng chúng ta còn là những người được Chúa thương yêu ban cho cặp mắt sáng tinh thần hay cặp mắt đức tin, để chúng ta có thể phân biệt và nhận ra những gì là tốt, phải, thật, nhất là nhận ra những gì quạn trọng và cần thiết cho đời sống đức tin để làm những gì đẹp lòng Chúa. Chúng ta không bị mù thể xác, thực tế thì đúng như vậy! Nhưng chúng ta ý thức vì con người chúng ta yếu đuối, giới hạn và luôn bị lôi cuốn bởi những cám dỗ, cho nên có thể có những điểm tối trong cuộc sống. Có những điểm tối như những sự ghen ghét, ích kỷ, hay không công bằng, ngay thẳng và thành thật, làm cho người ta mù không thấy những nhu cầu của tha nhân hay không thấy những giá trị lợi ích chung. Ngoài ra, nếu chúng ta thành thực xét mình thì nhiều khi chúng ta mù lòa không nhìn thấy những điểm xấu, những lỗi lầm, khuyết điểm và giới hạn của mình, nhưng lại tìm tòi những lầm lẫn của người khác, nhiều khi để phê bình, chỉ trích hay nói xấu, và không thấy những việc mình đã làm đau lòng người khác.
Câu chuyện sau đây nói lên được sự kiện mù lòa này. Có hai vợ chồng đi tham quan một cửa hàng trưng bày tranh thêu lụa. Bà vợ nhìn chung quanh một hồi lâu, sau đó nhìn vào một bức tranh và nói với chồng: “Tranh gì đâu mà xấu vậy. Thêu người đàn bà chẳng giống ai!” Ông chồng vội bịt miệng bà và nói: “Không phải bức tranh đâu. Đó là hình ảnh của bà được phản chiếu qua tấm gương đấy! Chớ nhận xét hồ đồ!” Người đàn bà quá xấu hổ đành bỏ ra về.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta nhận thấy sự mù lòa tinh thần đưa con người đến tình trạng lầm lạc, sống trong tội lỗi và có thái độ cố chấp. Chúng ta biết sống trong tội lỗi là sống trong bóng tối sự chết và không có ơn sủng của Chúa. Cho nên muốn ra khỏi tình trạng mù lòa tinh thần, trước hết chúng ta phải tìm hiểu con đường đi tới ánh sáng của người mù hôm nay, và con đường này có nhiều giai đoạn hay nhiều bước. Bước thứ nhất là “Chúa Giê-su nhìn thấy.” Như Chúa nhìn thấy người mù, Chúa nhìn thấy rõ bên trong và bên ngoài con người của chúng ta. Chúa nhìn thấy rõ những điểm tối, sự mù lòa của chúng ta. Bước thứ hai “Chúa Giê-su thoa vào mắt người mù.” Chúng ta biết sự tiếp xúc giữa Chúa với bệnh nhân phải được coi là thần dược. Vì vậy, chúng ta phải đến với Chúa trong Bí tích Hòa giải, là thần dược chữa lành sự mù lòa của chúng ta. Bước thứ 3 “Ngài bảo: Hãy đi rửa ở hồ Si-lô-ê.” Có nghĩa là Chúa sai chúng ta đi đến một nơi đã có sẵn từ lâu, đó là Bí tích Hòa giải, nhưng nơi này chỉ thần dược có năng lực cứu chữa, nếu chúng ta can đảm thi hành ý Chúa. Bước thứ 5 “Tôi đã nhìn thấy” và “Ngài là một ngôn sứ.” Có nghĩa là liền sau khi chúng ta nhận được hồng ân, chúng ta phải “đền tội” đó là trở thành những nhân chứng cho Chúa dù phải trả giá, dù phải hy sinh hay bị thiệt thòi. Và bước thứ 6 “Chúa Giê-su đến gặp anh.” Chúng ta thấy đến đây, Chúa Giê-su ban cho anh mù một ơn sủng còn cao quí hơn mắt sáng thể xác, đó là mắt sáng đức tin và anh đã tuyên xưng: “Lạy Chúa, con tin.” Cũng vậy, qua thần dược ân sủng chữa lành sự mù lòa, chúng ta mới có thể nhìn rõ ra những ân sủng và sự hiện diện của Chúa trong đời sống, và dùng chính đời sống của mình mà tôn thờ Chúa.
Xin Chúa giúp chúng ta nhận ra tình trạng tăm tối của mình để chúng ta can đảm và thành tâm đến với Chúa Giêsu trong Bí tích Hòa giải để lãnh nhận thần dược tình yêu tha thứ của Chúa. Vào chiều Chúa nhật trong tuần tĩnh tâm, sẽ có nghi thức thống hối và xưng tội. Xin mời mọi người đến tham dự. Trong bài đọc 2, Thánh Phaolô khuyên bảo chúng ta hãy từ bỏ nếp sống cũ là sống trong giả dối, lầm lạc, mù quáng và tội lỗi để được làm con cái của ánh sáng.
Thế giới của người mù rất nhỏ bé, như một cái chum. Đó là tâm sự của một người phụ nữ bị MC 4-A179
“Thế giới của người mù rất nhỏ bé, như một cái chum”. Đó là tâm sự của một người phụ nữ bị bệnh và hoá mù ở tuổi 30. Quả vậy, trong bóng tối đặc quánh vì đôi mắt bị che phủ, người mù chỉ cảm nhận bằng đôi tay, qua những gì có thể sờ thấy. Tuy vậy, cuộc sống của người mù “chỉ bất tiện mà không bất hạnh”. Có nhiều người mù đôi mắt nhưng lại có những khả năng phi thường. Có những người mù là nghệ sĩ dương cầm, chuyên viên ẩm thực, thợ chữa đồng hồ hoặc ca sĩ nổi tiếng. Thượng Đế ban cho người mù một “con mắt” khác để bù lại đôi mắt đã bị lấy đi.
Nhân vật chính trong bài Tin Mừng hôm nay là một người mù từ khi bẩm sinh. Chúa Giê-su đã chữa cho anh được sáng mắt, giúp anh nhìn thấy được như bao người bình thường khác. Chữa lành người mù là đưa họ vào một thế giới mới. Người trước đây bị mù, khi được chữa lành, không chỉ cảm nhận được thế giới kỳ vĩ xung quanh với thiên nhiên tươi đẹp, mà anh còn nhận ra Chân lý. Anh đã tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng đến từ Thiên Chúa, là vị Ngôn sứ và là Đấng Cứu độ trần gian.
Nếu người thanh niên bị mù bẩm sinh là nhân vật chính trong câu chuyện, thì lại có nhiều nhân vật phụ cấu thành sự phong phú của sự kiện này. Phép lạ này được thực hiện trong bối cảnh khá căng thẳng giữa Chúa Giê-su và người Do Thái. Những người này phản ứng dữ dội trước lời giảng của Chúa Giê-su, khi Người tuyên bố “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12). Chúa Giê-su đến với một thế giới đang bị bóng tối che phủ và những người đương thời, xem ra đều “bị mù” do thành kiến, ích kỷ và độc đoán. Ngay từ đầu trình thuật, chúng ta đã thấy các môn đệ thưa Chúa Giê-su: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?”. Chúa Giê-su trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội”. Con người hồ đồ hay gán cho những sự kiện hay nhân vật lời kết án nghiệt ngã, trong khi Thiên Chúa là Đấng có quyền kết án thì lại không hề làm điều đó. Chúa Giê-su muốn giải thích cho mọi người hiểu: sự mù tối thiêng liêng còn nguy hại hơn mù tối thể lý.
Nhóm người mù tối thiêng liêng gồm: các môn đệ, một số người Biệt phái, kỳ lão và luật sĩ. Họ là những người học hành uyên bác, ấy vậy mà theo cách lập luận của họ đối với người trước đây đã bị mù, họ chẳng hiểu gì cả. Họ chỉ tìm cớ để hạch sách. Con mắt tâm hồn của họ bị mù tối. Họ cố tình lập luận để tìm cách tố cáo Chúa Giê-su. Họ kiếm cớ ngày Sa bát để bắt lỗi Chúa. Người mù chỉ được họ sử dụng như một nguyên cớ. Họ không vui mừng trước sự kiện một người thiệt phận nay được giải thoát khỏi bóng tối bao trùm cả cuộc đời. Những người này mới là người mù đích thực.
Trong số những người mù ấy, có cả cha mẹ của người được chữa lành. Thay vì vui mừng và cám ơn người đã chữa cho con mình, họ lại sợ hãi và tránh né câu hỏi hạch sách của những người Biệt phái. Họ cũng là những người cần được giúp đỡ để khai thông con mắt tâm hồn.
Nếu chàng thanh niên mù được chữa lành là nhân vật chính trong trình thuật, là để dẫn tới Chúa Giê-su là nguồn sáng thế gian. Qua phép lạ chữa người mù bẩm sinh, Chúa Giê-su chứng minh Người là Ánh sáng thế gian. Người mở mắt người mù, đồng thời cũng mở những tâm hồn mù tối, do ghen ghét hận thù và do ích kỷ nhỏ nhen. Lời tuyên bố của Chúa Giê-su ở cuối trình thuật đã khẳng định điều ấy: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!”
Người có con mắt sáng, là người có cái nhìn theo hướng dẫn của Chúa. Ông Samuel không xức dầu cho một người con nào khác trong số bảy người con của ông I-sai ở Belem, mặc dù những người con lớn cao to vạm vỡ, mà lại xức dầu cho Đa-vít là cậu út, vì Đa-vít là người được Chúa chọn (Bài đọc I).
Nhờ Bí tích Thanh tẩy, chúng ta trở nên con cái sự sáng. Chúng ta mang trong mình ánh sáng của Chúa Giêsu. Ơn gọi và bổn phận của người tín hữu là nên giống Chúa Giê-su, và làm lan toả ánh sáng của Người trong cuộc sống thường ngày. Cuộc sống trần gian là sự giành giật không ngừng giữa bóng đêm và ánh sáng. Có những lúc bóng đêm lại được tô vẽ bằng những ngôn từ mỹ miều choáng ngợp dễ làm cho người ta bị lừa. Vì thế, Thánh Phao-lô khuyên chúng ta: “Anh em hãy ăn ở như con của sự sáng, bởi vì hoa trái của sự sáng ở tại tất cả những gì là tốt lành, là công chính và chân thật” (Bài đọc II).
Mùa Chay vừa giúp ta nhận ra Chân lý, và giúp ta nhận ra những điều tốt đẹp nơi anh chị em mình. Nhờ việc phân định giữa “mù và sáng”, chúng ta cảm nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng đang hiện diện giữa chúng ta.
“Luôn nhìn thấy những người giỏi giang hơn mình, có nghĩa là chúng ta đang lên dốc; luôn nhìn thấy những người kém hơn mình, có nghĩa là chúng ta đang xuống dốc. Thay vì phàn nàn, hãy nghĩ về những thay đổi để tạo cho mình một tương lai tốt đẹp hơn” (Sưu tầm).
Chúa nhật IV Mùa Chay vẫn quen gọi là Chúa Nhật Niềm Vui (Lætare). Vui vì toàn thể Hội MC 4-A180
Chúa nhật IV Mùa Chay vẫn quen gọi là Chúa Nhật Niềm Vui (Lætare). Vui vì toàn thể Hội Thánh đã đi được nửa chặng đường của Mùa Chay Thánh, đánh dấu nửa chặng đường sám hối của mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng, ăn chay, cầu nguyện và làm phúc. Tinh thần của Mùa Chay năm nay theo hướng dẫn của vị cha chung là Đức Giáo hoàng Phanxicô, cả Giáo Hội cùng nhau thực hành Khổ Chế Mùa Chay và Hành Trình Đồng Nghị. Nay Giáo hội tạm dừng để chuẩn bị tốt hơn niềm vui Phục Sinh, nghỉ để nhìn lại những gì ta đã làm trong ba tuần đầu của Mùa Chay, lấy thêm can đảm bước tiếp những chặng đường tới.
Laetare – Mừng vui lên
Từ lời ca nhập lễ, Thánh Vịnh, Tin Mừng đến Kinh Tiền Tụng Chúa nhật IV Mùa Chay đều diễn tả niềm vui ngập tràn và thiêng thánh. "Mừng vui lên, Giê-ru-sa-lem ! Tề tựu cả về đây, hỡi những ai hằng mến yêu Thành ! Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở vui mừng và hân hoan tận hưởng, nguồn an ủi chứa chan." (Ca nhập lễ) Hay lời của Thánh vịnh gia : "Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi : Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa. Vui lên nào…". " Nhờ mầu nhiệm nhập thể, Người dẫn đưa nhân loại đang lần bước trong u tối đến nguồn ánh sáng đức tin. Nhờ phép rửa mang lại đời sống mới, Người giải thoát những kẻ sinh ra đã mắc tội truyền, và nâng lên hàng nghĩa tử của Chúa… " (Kinh Tiền Tụng Chúa nhật IV Mùa Chay năm A).
Làm sao chúng ta không thể không vui không mừng được. Mừng vui lên, hỡi những người trước kia ở trong sầu khổ, " Cùng Giê-ru-sa-lem khấp khởi mừng… được Thành Ðô cho hưởng trọn nguồn an ủi, được thoả thích nếm mùi sung mãn vinh quang…đón nhận dồi dào ơn an ủi …" (Is 66,10-11). Giáo hội chúc mừng con cái mình đã hăng hái đi được nửa hành trình của Mùa Chay Thánh.
Từ Nước tới Ánh Sáng
Nếu gọi Chúa nhật trước là Chúa nhật Nước, thì thật hợp lý để khi gọi Chúa nhật này là Chúa nhật Ánh Sáng. “Hắn ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được” (Ga 9,1). Từ Nước tới Ánh Sáng.
Khi đi ngang qua đường, thầy trò Giêsu thấy một người mù. Các môn đệ không màng chi đến bệnh khổ người mù mà nghĩ ngay đến tội nên hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội, anh này hay cha mẹ anh, khiến anh mù từ khi mới sinh?" Chúa Giêsu đáp: "Không phải anh cũng chẳng phải cha mẹ anh đã phạm tội, nhưng để công việc của Thiên Chúa tỏ ra nơi anh" (Ga 9,1-3). Chúa Giêsu tuyên bố : “Ta là sự sáng thế gian” (Ga 9,5). Nghĩa là không những Người là sự sáng nhưng còn là sự sáng thế gian, sự sáng đến trong thế gian. Việc Chúa Giêsu mở mắt người mù đã như ánh sáng bừng lên trước mặt mọi người. Đúng là: "Nhờ mầu nhiệm nhập thể, Người dẫn đưa nhân loại đang lần bước trong u tối đến nguồn ánh sáng đức tin…" (Kinh Tiền Tụng Chúa nhật IV Mùa Chay năm A).
Thấy anh mù bỗng được sáng mắt,ai cũng bàn tán hỏi nhau (x. Ga 9,8), chẳng làm sao hiểu được. Người ta phải đưa vấn đề trình lên các Biệt phái. Tòa làm việc nhộn nhịp, hỏi cung người mù, đòi chứng của cha mẹ anh ta, hỏi lại anh ta một lần nữa, nỗ lực vùi dập vụ này đi đúng như Gioan viết : “Ngài là sự Sống, và sự Sống là sự Sáng cho nhân loại. Và sự sáng rạng trong tối tăm, và tối tăm đã không triệt được sự sáng” (Ga 1,4-5). Sự sáng rạng trong tối tăm và tối tăm đã không triệt được sự sáng. Gioan muốn ám chỉ : Biệt phái đang mưu mô hại Chúa, nhưng họ sẽ thua. Cuộc tử nạn mà họ muốn Người phải chịu sẽ làm cho họ phải bẽ bàng vì biến cố Phục sinh. Chúa sống lại là đỉnh điểm của Mùa Chay Thánh.
Người mù bị các Biệt phái tống cổ ra ngoài. Hay tin, Chúa Giêsu đi tìm anh, ban cho anh ta được ơn nhận ra Người và thờ lạy Người. Còn các Biệt phái vì tự phụ là người sáng mắt, nên tội lỗi còn nguyên. Ðúng như lời Chúa nói : " Ta đã đến thế gian hầu những kẻ không xem thấy, thì được xem thấy, và những kẻ xem thấy, sẽ trở nên mù" (Ga 9,39).
Chúa Giêsu từ trời xuống thế, để cho phàm nhân được thấy Người và qua Người họ thấy Chúa Cha; chỉ có người mù mới không thể nhìn thấy Chúa. Người đã mở mắt người mù, để người mù thấy được Chúa Cha ở nơi Người. Người tự giới thiệu : " Ta là sự sáng thế gian" (Ga 9, 5) ; " Là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người." (Ga 1,9). Người chữa lành sự mù quáng của con mắt đức tin nơi những người không thấy để mà tin.
Anh mù cho biết, Chúa Giêsu làm cho anh sáng mắt bằng cách nhổ nước miếng trộn vào đất thành bùn rồi bôi vào mắt anh, bảo anh đi rửa, anh được sáng mắt làm cho chúng ta nhớ lại Ađam được Thiên Chúa sáng tạo với con mắt tinh tường, nhưng sau khi giao tiếp với con rắn xong, ông trở nên mù quáng (x. St 3, 1-7). Anh mù bẩm sinh vẫn ngồi… mà không xin bất kỳ một loại thuốc mỡ nào để chữa mắt mình ... anh chỉ hết mù khi anh tin (x. Ga 9,1-41). Chúa Giêsu, Vị thầy thuốc cao tay đã nhìn thấy những đau khổ của người mù ngồi đó, bằng quyền năng Thiên Chúa, Người đã làm phép lạ cho người mù được thấy.
Ađam được Thiên Chúa dựng tạo dựng bằng đất sét, bùn ướt : " Ðức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người" (St 2,7), nay chất liệu ấy được Chúa Giêsu dùng để chữa lành đôi mắt. Người đã phục hồi thị giác cho người mù từ khi mới sinh bằng nước bọt nhổ ra trộn vào đất, anh người mù nói : " Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt " (Ga 9,15). Người là quả là Ánh Sáng chiếu sáng thế gian và cho con người được nhìn thấy ánh sáng.
Người mù, sau khi được Chúa mở mắt cho, đã dần dần trở thành con người có giá trị đến nỗi xứng đáng được Chúa đi tìm để ban thêm ơn đức tin.
Mù lòa tinh thần – Tội lỗi làm chúng ta mù
Anh bị mù khiến anh lâm cảnh nghèo đói và phải sống phụ thuộc vào người khác trong mọi sự. Tội lỗi cũng vậy : nó làm cho chúng ta trở nên nghèo hèn và cô lập chúng ta. Đó là chứng mù loà tinh thần, không cho chúng ta nhìn thấy những điều chính yếu, không cho chúng ta nhìn ngắm tình yêu là điều đem lại sự sống.
Thế giới hôm nay có biết bao cơn cám dỗ có sức làm mờ đục cái nhìn của tâm hồn khiến chúng ta trở nên cận thị! Thật dễ dàng và sai lầm biết bao khi tin rằng cuộc sống phụ thuộc vào những gì chúng ta có, vào những thành công hay sự ngưỡng mộ chúng ta đạt được; khi tin rằng nền kinh tế chỉ là lợi nhuận và tiêu thụ; rằng những ham muốn cá nhân phải vượt trên trách nhiệm xã hội! Khi chỉ nhìn vào mình, chúng ta sẽ trở nên mù loà, tàn lụi và co cụm vào chính mình, không có niềm vui và cũng chẳng có tự do thật.
Chúng ta hãy xin Chúa Giê su là Ánh Sáng thật chiếu soi trần thế mở mắt mù loài tội lỗi và tinh thần của chúng ta.
Ai có đôi mắt bình thường thì cũng nhìn thấy bình thường. Mọi người có sự nhìn giống nhau nhưng MC 4-A181
Ai có đôi mắt bình thường thì cũng nhìn thấy bình thường. Mọi người có sự nhìn giống nhau nhưng cách nhìn và tầm nhìn khác nhau, có người nhìn xa trông rộng nhưng có người thiển cận. Có người có thể thấy vẻ đẹp ở cái gì đó nhưng có người chỉ thấy nó bình thường hoặc không thấy gì – một dạng “mù” về lĩnh vực nào đó. Về tâm linh cũng tương tự.
Đã qua nửa chặng đường Mùa Chay. Con mắt đức tin của tín nhân đã “nhìn” thấy gì, “sáng” thêm mấy độ, có còn cận thị, viễn thị hay loạn thị? Chúng ta cận thị vì tưởng mình đạo đức tốt lành, viễn thị vì không nhìn rõ tội mình, và loạn thị vì cứ “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, và lỗi tại người khác một phần.” Chúng ta luôn cần ơn Chúa, cũng phải biết cầu xin Ngài dìu dắt chúng ta vác thập giá của mình cho hết Chặng Đời của chính mình đến hơi thở cuối cùng.
Không thể nhìn thấy gì trong bóng, chỉ có thể nhìn thấy khi có ánh sáng. Ánh sáng rất cần, nhưng chúng ta phải cố gắng “tạo” ra nó. Có câu danh ngôn liên quan ánh sáng và bóng tối, ý nói chúng ta phải không ngừng nỗ lực trong cuộc sống: “Hãy thắp lên một ngọn nến còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối.” Cuộc sống đời thường mà chúng ta còn phải cố gắng thì cuộc sống tâm linh càng phải nỗ lực nhiều hơn nữa.
MÙ ĐƯỢC SÁNG
Chúa Giêsu và các môn đệ nhìn thấy một người mù bẩm sinh. Các môn đệ hỏi: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” Đức Giêsu trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.” (Ga 9:3-5)
Thật tuyệt vời khi “nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện,” đó là lúc Ngài được vinh danh. Đáng lẽ người ta phải “ngộ” ra nhờ câu trả lời của Chúa Giêsu mới phải, nhưng thường thì không mấy quan tâm. Do đó, có người vẫn “chắc nịch” cho rằng những người kém may mắn hơn mình (về bất cứ lĩnh vực nào) đều là những người tội lỗi, xấu xa hoặc độc ác. Có người chỉ “để bụng” nhưng có người lại dám phán một câu “xanh rờn” rằng “Chúa phạt!” Không chỉ vậy, người ta còn có định kiến về họ. Cũng một sự việc như nhau (ví dụ: bệnh hoạn), với người không “hợp ý mình” thì người ta nói: “Chúa phạt cho đáng đời!” Nhưng với người “hợp ý mình” thì người ta lại nói: “Thánh giá Chúa trao.” Đúng là “lưỡi không xương nhiều đường lắt léo” mà! Chính định kiến đó là cách “giết người” không cần vũ khí. Thật tồi tệ!
Mọi sự đã có Thiên Chúa quan phòng và tiền định, đừng cầm đèn chạy trước ô tô, trứng đừng đòi khôn hơn vịt, vì đó không là việc của chúng ta. Chính Thiên Chúa đã từng nghiêm khắc cảnh báo: “Đừng tưởng mình là công chính trước mặt Đức Chúa, cũng đừng ra vẻ khôn ngoan bên cạnh đức vua. Đừng cười nhạo ai đang cay đắng trong lòng, vì có Đấng vừa hạ xuống vừa cất nhắc lên.” (Hc 7:5 và 11)
Sau khi giải thích cho các đệ tử, Chúa Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: “Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa.” – Silôác nghĩa là “người được sai phái.” Anh ta đến rửa ở hồ ngay lập tức, và trên đường về thì nhìn thấy được. Chúa Giêsu có “biệt dược” độc đáo và hiệu quả ngay lập tức. Loại “thần dược” hoặc “linh dược” đó chỉ là “nước miếng trộn với bùn” mà thôi. Tuyệt thật!
Hỏa Ngục dân chúng vẫn thấy anh ta ăn xin nên họ xì xầm bàn tán, người này bảo là chính hắn, kẻ nọ nói không phải, kẻ khác lại bảo ai đó giống hắn. Chín người, mười ý. Chẳng ai chịu ai. Thế là họ dẫn anh ta đến với những người Pharisêu. Rắc rối là ngày Chúa Giêsu trộn bùn với nước miếng và làm cho anh ta sáng mắt lại là ngày sabát. Ấy thế, người Pharisêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Chính anh xác nhận: “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy.” (Ga 9:15) Sự thật là sự thật, không thể nói khác được.
Riêng những người Biệt Phái, có người nói rằng Chúa Giêsu không thể là người của Thiên Chúa, vì Ngài không giữ ngày sabát, có kẻ lập luận rằng người tội lỗi không thể làm được những dấu lạ như vậy. Cũng chẳng ai chịu ai, thế là họ đâm ra chia rẽ. Ngộ dữ nghen, chuyện của người ta mà xía vô làm chi? Rồi họ lại hỏi “cựu người mù” nghĩ gì về người đã mở mắt cho mình. Anh ta đáp ngay: “Người là một vị ngôn sứ!” (Ga 9:17) Rất thẳng thắn, rất rạch ròi. Sự thật mãi là sự thật thôi!
Vì không tin trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, những người Do Thái đã gọi cha mẹ của anh đến xem có phải là con họ hay không. Cha mẹ của anh ta xác nhận con của họ mù từ khi mới sinh, còn bây giờ nó sáng mắt thì họ không biết tại sao, họ bảo người Biệt Phái cứ hỏi chính anh ta thì biết rõ. Cha mẹ của anh ta nói thế vì sợ người Do Thái, những người sẵn sàng trục xuất khỏi hội đường bất cứ kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô. Có lẽ chúng ta cũng đã nhiều lần cảm thấy sợ như cha mẹ của anh mù này.
Họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: “Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi.” (Ga 9:24) Nhưng anh ta bảo rằng ông ấy có phải là người tội lỗi hay không thì anh không biết, mà chỉ biết một điều là trước đây anh bị mù nhưng nay anh nhìn thấy. Họ hỏi anh xem Chúa Giêsu đã làm thế nào mà anh sáng mắt. Anh ta thật thà kể chi tiết mà họ không chịu nghe. Rồi anh thẳng thắn đặt vấn đề rằng có phải họ cũng muốn làm môn đệ Chúa Giêsu hay không. Tự ái bốc tới chỏm đầu nên họ không tiếc lời mắng nhiếc: “Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Môsê. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Môsê; nhưng chúng ta không biết ông Giêsu ấy bởi đâu mà đến.” Thật là phiền toái với loại người giả hình và lắm chuyện!
Anh ta nghe họ nói vậy thì gãi đầu và nói: “Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến thì ông ta đã chẳng làm được gì.” (Ga 9:30-33) Họ đối lại: “Trứng khôn hơn vịt. Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?” (Ga 9:34) Và rồi họ liền trục xuất anh ta. Chỉ chờ có vậy, kẻ có tâm địa xấu là thế!
Chúa Giêsu biết họ đã trục xuất anh ta nên khi gặp lại anh, Ngài hỏi anh có tin vào Con Người hay không, anh hỏi Đấng ấy là ai để anh tin. Chúa Giêsu nói: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây.” (Ga 9:37) Thật bất ngờ, nhưng anh thấy rất vui nên nói ngay: “Thưa Ngài, tôi tin.” (Ga 9:38) Nói xong, anh sấp mình xuống trước mặt Ngài. Đức tin của anh lớn quá! Tại sao? Thường thì đa số hơn thiểu số, nhiều người ghét Chúa Giêsu, nhưng anh vẫn có lập trường rõ ràng của riêng mình, không chịu “gió chiều nào ngả theo chiều nấy.” Quả thật, anh ta rất can đảm, chứ không vào hùa theo nhiều người. Đâu phải đa số hơn thiểu số!
SÁNG HÓA MÙ
Biết anh thật lòng, Chúa Giêsu nói với anh: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9:39) Những người Pharisêu đang ở đó và nghe vậy thì giật thót mình và liền lên tiếng: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?” Lại tự ái. Có lẽ lúc ấy Chúa Giêsu cũng mắc cười, nhưng Ngài vẫn thản nhiên nói: “Nếu các ông đui mù thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng ‘chúng tôi thấy,’ nên TỘI CÁC ÔNG VẪN CÒN!” (Ga 9:41) Họ thường ngu đột xuất, giờ lại tiếp tục ngu kinh niên, ngu tầm cỡ quốc tế. Còn chúng ta? Liệu đã có những lần chúng ta y như người Biệt Phái? Và rồi chúng ta cũng vẫn cứng lòng, không chịu “cho vào tai” những lời thật, không chịu cân nhắc lời hơn lẽ thiệt, không chịu “mở mắt” to để nhìn rõ vấn đề, thế nên chúng ta có mắt cũng như mù mà thôi!
Tiền nhân đã xác định: “Giàu hai con mắt, khó đôi bàn tay.” Thật vậy, chỉ bị bụi vô mắt hoặc đau mắt thôi cũng đã thấy khổ rồi, chứ nói chi tới khiếm thị, lòa, thông manh hoặc mù lòa. Điều đó cho thấy đôi mắt sáng rất cần cho cuộc sống. Người mù bẩm sinh còn đỡ khổ hơn người lớn lên mới bị mù. Người mù bẩm sinh cảm thấy “bình thường” vì họ không có khái niệm về sáng – tối, cao – thấp, lớn – nhỏ, mập – ốm, vuông – tròn, đẹp – xấu,… hoặc về màu sắc. Người lớn lên mới bị mù cảm thấy khổ hơn vì đã trải nghiệm nhiều khái niệm. Tuy nhiên, một người mắt sáng bình thường nhưng vẫn có những “điểm mù” đặc trưng nào đó đối với cuộc sống.
Hai con mắt chỉ khác thường một chút cũng thấy khổ rồi, tình trạng “bốn mắt” thì khổ suốt, vướng víu lắm. Kính mắt vừa tốn kém vừa phiền phức vì cứ phải “lệ thuộc” nó. Có điều lạ là mắt cũng biết khóc, biết cười, chứ không đơn giản chỉ để nhìn. Khó nhận biết khi mắt cười, nhưng ai cũng nhận biết khi mắt khóc. Khóc cũng đa dạng: vì vui, vì buồn, vì khổ, vì thương, vì nhớ, vì tức, vì sợ, vì nhõng nhẽo, vì giả bộ,… Đôi khi người ta cũng cần phải biết khóc, vì nước mắt có thể “cuốn trôi” nỗi buồn và làm sạch mắt nhờ chất mặn, nhờ biết khóc mà mắt thêm đẹp. Có điều đặc biệt là phải khóc vì tội lỗi mình đã xúc phạm Thiên Chúa – và tha nhân.
Mù lòa đồng nghĩa với tối tăm, nghĩa là trái ngược với sáng sủa. Khiếm thị hoặc mù lòa về thể lý là tình trạng tồi tệ đối với một con người, nhưng “mù lòa tâm linh” còn nguy hiểm hơn nhiều. Thế nên Chúa Giêsu đã nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9:39) Thật đáng sợ nếu chúng ta bị Ngài quở trách như vậy. Có mắt như mù thì thật khủng khiếp!
Ngày xưa, Đức Chúa đã phán với ông Samuel: “Ngươi còn khóc thương Saun cho đến bao giờ, khi ta đã gạt bỏ nó, không cho làm vua cai trị Israel nữa? Ngươi hãy lấy dầu đổ đầy sừng và lên đường. Ta sai ngươi đến gặp Giesê người Bêlem, vì Ta đã thấy trong các con trai nó một người Ta muốn đặt làm vua.” (1 Sm 16:1) Chúa không nói đến mắt, nhưng chúng ta biết Ngài nói đến mắt nhờ động từ “khóc.” Trình thuật 1 Sm 16:6-7, 10-13 cho biết rằng khi họ đến, ông Samuel thấy Êliáp nên nghĩ: “Đúng rồi! Người Đức Chúa xức dầu tấn phong đang ở trước mặt Đức Chúa đây!” Nhưng Đức Chúa phán với ông Samuel: “Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng.”
Cách nghĩ của Thiên Chúa đã khác hẳn với loài người rồi, mà cả tầm nhìn của Ngài cũng hoàn toàn khác. Còn phàm nhân chúng ta ưa xét theo bề ngoài, cứ tưởng “con lợn béo” thì “lòng nó ngon.” Thiên Chúa lại không như vậy, Ngài không nhìn theo bề ngoài mà Ngài nhìn “thấu suốt” nội tâm. Tục ngữ chí lý: “Chiếc áo không làm nên thầy tu.” Nhưng chẳng mấy khi chúng ta thoát được “điểm mù” này! Những người coi trọng bề ngoài là những người có nội tâm hời hợt, nông cạn – gọi là dạng “yếu bóng vía” hoặc “mắt kém.” Đó cũng là dạng yếu tâm lý.
Ông Giesê cho bảy người con trai đi qua trước mặt ông Samuel, nhưng ông Samuel nói với ông Giesê: “Đức Chúa không chọn những người này.” Quả là “mắt thần” có khác! Rồi ông lại hỏi ông Giesê rằng các con ông có mặt đầy đủ chưa. Ông Giesê nói còn cháu út đang chăn chiên. Ông Samuel bảo ông Giesê cho người đi tìm nó về rồi mới nhập tiệc. Ông Giesê cho người đi đón cậu về. Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn. Đức Chúa nói với ông Samuel: “Đứng dậy, xức dầu tấn phong nó đi! Chính nó đó!” Ông Samuel cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu trước mặt các anh của cậu. Thần Khí Chúa liền nhập vào Đavít từ ngày đó. Tóc hung và đẹp trai là đặc điểm của Đavít. (1 Sm 17:42)
Đề cập niềm hạnh phúc được Chúa quan phòng, tiền định và che chở, Thánh Vịnh gia nói: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.” (Tv 23:1-4) Thật vậy, khi có Chúa đồng hành thì chúng ta hoàn toàn an tâm và vui sống, “dầu qua lũng âm u” thì cũng “chẳng sợ gì nguy khốn,” bởi vì chúng ta có “côn trượng Ngài bảo vệ.” Thánh Vịnh gia xác định: “Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên.” (Tv 23:5-6) Vâng, có Chúa là có tất cả, hoàn toàn an tâm vững dạ!
Thánh Phaolô phân tích về bóng tối tâm linh: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật.” (Ep 5:8-9) Ông nhắc nhở chúng ta phải cẩn trọng cân nhắc xem “điều gì đẹp lòng Chúa,” chứ “đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối, phải vạch trần những việc ấy ra mới đúng.” (Ep 5:10-11) Ông giải thích: “Vì những việc chúng làm lén lút thì nói đến đã là nhục rồi. Nhưng tất cả những gì bị vạch trần, đều do ánh sáng làm lộ ra; mà bất cứ điều gì lộ ra thì trở nên ánh sáng. Bởi vậy, có lời chép rằng: “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi!” (Ep 5:12-14)
Ai cũng biết rằng mù lòa thì khổ lắm, chỉ mờ mắt hoặc thông manh cũng khổ rồi, và cũng vẫn khổ nếu cận thị, viễn thị hoặc loạn thị. Nói chung là khổ hết ráo, nếu đôi mắt không bình thường. Thánh Vịnh gia nói: “Mở mắt coi, bạn liền thấy rõ thế nào là số phận bọn ác nhân.” (Tv 91:8) Do đó, chúng ta phải luôn biết cầu nguyện: “Xin mở mắt cho con nhìn thấy luật pháp Ngài kỳ diệu biết bao.” (Tv 119:18)
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin chữa lành chứng mù lòa và tăng thị lực cho chúng con. Xin cho những ai gặp chúng con có thể nhận ra Ngài nơi chúng con, và cho chúng con nhìn thấy Ngài hiện thân nơi tha nhân – nhất là những người hèn mọn. Xin cho chúng con có được cách nhìn của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất nhân loại. Amen.
Bạn có biết hiện nay trên thế giới có bao nhiêu người bị khiếm thị không? Theo như thống kê của MC 4-A182
Bạn có biết hiện nay trên thế giới có bao nhiêu người bị khiếm thị không? Theo như thống kê của tổ chức y tế thế giới viết tắt là WHO (the World Health Organization) thì hiện nay trên thế giới có khoảng 180 triệu người bị khiếm thị. Đó là con số của những người bị mù lòa về thể lý thôi. Thế nhưng nếu xét về tình trạng mù lòa về tinh thần, những người mà tiên tri Giê- rê-mi-a gọi là những kẻ có mắt để nhìn mà không thấy (5:21), thì con số còn cao hơn con số 180 triệu rất nhiều. Tôi xin đơn cử một vài ví dụ cụ thể, để chứng minh cho bạn thấy, con số mù lòa của nhân loại không phải chỉ dừng ở con số 180 triệu:
Là chồng, là vợ, là linh mục…nếu tôi đam mê bài bạc, cá độ football, casino…thì lúc đó tôi đang bị mù bởi vì tôi KHÔNG THẤY những nguy hại do đam mê cờ bạc và cá độ gây ra, đó là sự nghèo đói. Tôi cũng không thấy những sự chán nản, thất vọng, ưu phiền nơi cha mẹ, vợ chồng, con cái và giáo dân của tôi.
Là cha mẹ, nếu tôi không trung tín với nhau, phạm tội ngoại tình, cứ đi gieo vãi tình cảm lăng nhăng, hết bồ nhí đến kép nhí…thì lúc đó tôi đang bị mù bởi vì tôi KHÔNG THẤY được những nguy hiểm đang chờ đón tôi. Đi đêm có ngày gặp ma, cứ quan hệ tình dục lăng nhăng là thể nào cũng có ngày dính bệnh sida, bệnh hoa liễu, con rơi, con rớt, phải trả tiền child
support, gia đình tan nát, con cái bỏ bê việc học hành, bê tha, rượu chè, hút sách …
Là chồng, là vợ nếu tôi làm đơn ra tòa để ly dị giả, về Việt Nam làm hôn thú giả, đưa người khác qua đây để kiếm một mớ tiền… dưỡng già, thì lúc đó tôi đang bị đui mù bởi vì tôi KHÔNG THẤY những hậu quả do việc làm gian dối này gây ra: bị tù, bị phạt tiền và tệ hơn nữa làm cho con cái của tôi chán nản, bỏ học, hút xì ke ma túy… bởi vì nó không ngờ cha nó, hay mẹ nó lại bê bối như vậy (vì chúng đâu biết là giả!) Đó là chưa kể đến chuyện chơi hóa ra thiệt, lúc đầu chỉ là giả thôi nhưng sau đó thành thiệt, thế là gia đình tan nát.
Là linh mục, nếu tôi không chú tâm vào đời sống cầu nguyện, không sốt sắng trong việc cử hành thánh lễ, không lo giữ gìn ngũ quan, không chịu học hỏi Kinh Thánh, chỉ lo đến của cải vật chất thế gian, danh vọng và chức quyền… thì tôi sẽ KHÔNG THẤY những nguy hiểm đang rình rập: Ơn gọi sẽ mất, giáo dân sẽ thất vọng, sẽ khô khan nguội lạnh, có khi họ bỏ giáo xứ, lìa bỏ Giáo Hội và bỏ cả Chúa nữa!
Là cha là mẹ, nếu tôi chỉ lo kiếm tiền, không có giờ lo cho bản thân, không có giờ cho chồng, cho vợ, cho con cái, không có giờ đi lễ, không có giờ chăm lo cho phần linh hồn của mình và của con cái…thì lúc đó tôi đang bị mù lòa bởi vì tôi KHÔNG THẤY những sự nguy hiểm đang tràn ngập trong gia đình của tôi, ví dụ như:
• Con cái của tôi suốt ngày làm bạn với phim ảnh, trò chơi điện tử, internet… rồi có ngày nó sẽ diễn những trò… khỉ y như các diễn viên trong phim ảnh, bỏ bê việc học hành, hút sách, chơi bời trác táng…
• Con cái bị bệnh béo phì và bệnh tật bởi vì tôi không có giờ nấu ăn cho chúng, con cái tôi chỉ ăn fastfood, ăn tiệm quanh năm ngày tháng, không có đủ chất dinh dưỡng.
• Tình cảm giữa tôi và con cái sẽ dần dần nhạt nhẽo và lạnh lùng bởi vì chúng thiếu sự quan tâm, chăm sóc và cảm thông của tôi.
Bạn thân mến, nếu hôm nay bạn nhận ra rằng bạn đang sống trong tình trạng tăm tối, con mắt tâm linh của bạn đang bị mù lòa, thì xin hãy cố gắng làm ba việc sau:
1. CẦU NGUYỆN: Xin Chúa soi sáng để bạn có thể NHÌN THẤY những nguy hiểm, những tai hại và những hậu quả khốc liệt do sex, do tính đam mê cờ bạc, do việc bất tín, bất trung, do những tham lam… gây ra
2. LÃNH NHẬN BÍ TÍCH HÒA GIẢI: Hãy chạy đến Tòa Giải Tội xin Chúa tha thứ. Tòa Giải Tội chính là phòng mạch của Bác sĩ Giê-su, nơi đây tất cả mọi vết thương và bệnh tật về phần tâm linh sẽ được chữa lành.
3. THAM DỰ THÁNH LỄ: Trong mùa chay này, xin bạn hãy cố gắng siêng năng đến tham dự thánh lễ, vì chỉ ở trong Thánh Lễ, bạn mới được lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa. Khi đó, bạn có Chúa ở cùng bạn, Ngài sẽ ban ơn giúp sức, để bạn có đủ sức chống lại những cám dỗ của ma quỷ, thế gian và xác thịt.
Tôi tin chắc rằng, khi đôi mắt tâm linh và cặp mắt thể xác của chúng mình ở trong tình trạng sáng, trong tình trạng khoẻ mạnh thì lúc đó tôi và bạn mới có được sự hạnh phúc, bình an, và khi đó chúng mình mới có thể nhìn thấy những kỳ công mà Chúa đã và đang thực hiện trong đời sống của chúng ta. Nhờ thế, bạn và tôi mới có thể mở miệng ca khen và cảm tạ Ngài.
Trong bài Tin Mừng tuần trước, Thánh Gio-an đã thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và người MC 4-A183
Trong bài Tin Mừng tuần trước, Thánh Gio-an đã thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và người phụ nữ xứ Sa-ma-ri-a. Chúng ta học nơi người phụ nữ niềm xác tín rằng cuộc sống con người thuộc về Chúa, và chỉ có Chúa mới lấp đầy nỗi khát vọng của chúng ta mà thôi.
Hôm nay, Đức Giê-su và các môn đệ đang ở Giê-ru-sa-lem để tham dự lễ Lều tạm. Trong ngày bế mạc của tuần đại Lễ, Đức Giê-su đã loan báo: Ta là ánh sáng thế gian. (Ga 8:12). Điều này gây ra cuộc tranh cãi giữa Đức Giê-su với các nhà lãnh đạo tôn giáo và đại diện là những người Pha-ri-sêu. Sau cùng họ tính ném đá Người, nhưng Đức Giê-su đã lánh đi và ra khỏi Đền Thờ.
Trên đường đi ra, Đức Giê-su và các môn đệ nhìn thấy người mù từ lúc mới sinh. Anh không phải là người mù duy nhất hiện có mặt tại Giê-ru-sa-lem. Anh là kẻ mù như những người mù và những người tàn tật khác ngồi ăn xin bên vệ đường để đợi chờ sự bố thí và lòng thương xót của khách hành hương. Họ không thể vắng mặt vào các dịp lễ hội như thế này!
Anh là kẻ bị ruồng bỏ! Anh và người phụ nữ xứ Sa-ma-ri-a cùng một thân phận. Họ bị coi thường đến nỗi ngay cả tên của họ cũng không ai biết. Nhưng nhờ vào chi tiết này, chúng ta có thể đồng hóa mình vào câu chuyện một cách dễ dàng. Bởi vì, họ có thể là những nhân vật biểu tượng để ám chỉ các tín hữu thời sơ khai và chúng ta ngày nay, những người đang khao khát tìm nguồn nước hằng sống, những người đang mò mẫm để được nhìn thấy ánh sáng.
Người mù chưa bao giờ nhìn thấy khuôn mặt của chính mình, khuôn mặt của cha mẹ anh. Anh là một con người sống như không sống, anh hiện diện mà làm như chưa từng có mặt. Anh là một ngọn đèn chưa bao giờ được tỏa sáng, một tiếng nói chưa bao giờ được thốt ra khỏi miệng. Dân chúng và khách hành hương đi ngang qua cho dù đã nhìn thấy hình hài của anh, mà sự thật chẳng ai thấy anh ta ra sao!
Tuy nhiên chúng ta nên biết rằng: anh bị mù nhưng tai anh không điếc, anh vẫn con nghe thấy các biến chuyển xẩy ra chung quanh anh. Mũi anh vẫn còn ngửi và phân biệt được sắc hương. Người ta gọi anh là người mù; nhưng chưa hẳn anh đã không biết gì!
Trước ngày hôm nay, người mù ngồi đó không nhìn thấy ai và người ta cũng không nhìn thấy anh như một tạo vật của Thiên Chúa. Anh có mặt như chưa bao giờ tồn tại. Anh chưa bao giờ thấy ánh sáng của mặt trời cho đến hôm nay!
Hôm nay, với Đức Giê-su, người mù từ lúc sinh ra đã trở thành một tạo vật mới, một bằng chứng sống để tôn vinh Thiên Chúa; nhưng cho dù như thế những người hàng xóm, hàng ngũ lãnh đạo và thậm chí cha mẹ anh vẫn không nhìn ra sự thay đổi nơi anh!
Anh hay họ, ai bị mù?
Các môn đệ nhìn anh và thấy một câu hỏi thần học: thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta? Tầm nhìn của họ đã bị bóp méo bởi họ tin rằng đau khổ, bịnh tật và sự chết là hậu quả của tội lỗi. Đức Giê-su không chỉ đáp trả bằng lời nói khi công bố ‘Ta là ánh sáng thế gian’ mà cả bằng hành động; đó là làm cho người mù từ thủa mới sinh được nhìn thấy. Đức Giê-su đã làm dấu lạ này để bộc lộ vinh quang của Người.
Sau khi làm cho người mù được sáng mắt, Đức Giê-su biến mất, nhường lại vị trí cho người vừa được sáng mắt có cơ hội bảo vệ và tuyên xưng niềm tin của ông về những điều mà ông đã cảm nhận, đã thấy và sẵn sàng tuyên xưng. Ông đã trở nên tạo vật mới. Từ trước đến giờ ông chưa nhìn thấy điều gì; đây là lần đầu tiên ông nhìn thấy ánh sáng. Ánh sáng thể lý mà ông ta vừa được sáng tạo là bước đầu dẫn ông nhận ra nguồn sáng thiêng liêng mà ông nhận được từ Đức Giê-su, Đấng đã lấy bùn làm thuốc dẫn sai anh đi và anh đã đi, đã rửa và đã nhìn thấy.
Khi trả lời cho những người hàng xóm của mình, người vừa được sáng mắt quả quyết rằng chính tôi là người mù bẩm sinh, và tôi xin làm chứng rằng có người tên là Giê-su, đã bôi bùn vào mắt tôi, sai tôi đi rửa tại hồ Si-lô-ác. Tôi đã làm theo lời Người dậy bảo và tôi đã nhìn thấy. Hiện giờ tôi vẫn không biết Đức Giê-su đang ở đâu. Con đường đức tin của anh đã hé mở.
Trong khi đó, với những người láng giềng thì anh vẫn bị xem như là người bị mù. Quả thật đây là hai hình ảnh trái ngược nhau: người vừa được sáng mắt đã nhìn thấy, còn những người láng giềng không nhìn thấy diễn tiến của sự việc, nên họ không nhận ra việc anh được sáng mắt. Họ tưởng là mắt của họ sáng, nhưng thực ra họ không nhìn ra sự thay đổi mà Đức Giê-su đã làm cho người mù, cho nên họ vẫn mù tối trong lối suy nghĩ và cái nhìn bị đóng khung của họ.
Sau đó, anh bị dẫn đến trình diện những người lãnh đạo tôn giáo, thuộc phái Pha-ri-sêu. Hai lần họ thẩm vấn anh. Hai lần anh đã làm chứng và tôn vinh Thiên Chúa. Anh đã dõng dạc trả lời cho họ biết rằng “Đức Giê-su là một ngôn sứ.” Một bước tiến trên hành trình đức tin của anh được tỏ hiện khi tuyên xưng Đức Giê-su là ngôn sứ. Trong khi đó, mắt của những người Pha-ri-sêu vẫn bị đóng kín bởi tín niệm dựa vào truyền thống của họ. Họ mù quáng vì đã chọn không nhìn vào các dấu chỉ mà Đức Giê-su đã thực hiện. Họ đã chọn quyền lực, qui tắc, truyền thống, tập tục và giai cấp để đối chọi với sự thật mà Đức Giê-su đem đến; cho nên họ không nhận ra Người là Đấng Cha sai đến, là Ánh Sáng cho trần gian.
Ngay cả cha mẹ anh cũng không muốn xác nhận những gì đã xẩy đến cho anh. Họ không muốn dính vào sự thay đổi mà con của họ vừa mới trải qua. Họ chỉ muốn xác nhận về cuộc sống quá khứ của anh. Con của họ bị mù từ thủa mới sinh. Họ không làm gì khiến anh mù. Còn những gì xẩy ra trước mắt thì họ chối là không biết. Họ không dám làm chứng cho sự thật vì sợ bị trục xuất khỏi hội đường. Điều này phản ảnh một thực tế đã xẩy ra cho Hội Thánh tiên khởi và có thể cũng xẩy ra cho cộng đoàn của Gio-an, đó là những ai tin vào danh Đức Ki-tô thì bị trục xuất khỏi hội đường.
Nói chung, tất cả mọi người, ngay cả cha mẹ anh, đến những người hàng xóm và những người lãnh đạo tôn giáo thời đó, đã nhìn nhưng không ai thấy anh. Nếu họ thấy anh thì họ sẽ phải đối diện với sự mù quáng của họ. Sự khác biệt giữa anh và họ là người mù từ khi mới sinh biết mình bị mù, còn họ tưởng mình sáng mắt nên họ phải trả lời cho đôi mắt không nhìn thấy của họ, như Đức Giê-su đã phán dậy: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘Chúng tôi thấy,’ nên tội các ông vẫn còn.
Sau khi người mù vừa được sáng mắt bị trục xuất thì Đức Giê-su, người đã bị trục xuất trước, đến gặp anh. Trong cuộc gặp gỡ này Đức Giê-su bộc lộ căn tính của Người, lập tức vừa nghe đến đó anh vội vàng quỳ xuống và tôn vinh Người. Anh đã thấy và anh đã tin Đức Giê-su, Người vừa ban ánh sáng cho anh, là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa và để nhờ tin mà anh và chúng ta có sự sống nhờ Danh Người. Anh đã đi đến đích điểm của lòng tin, trong khi đó những người tự nhận mình là sáng mắt lại cứ sống trong u tối vì tự trói mình trong ‘sự khôn ngoan’ của một hệ thống tôn giáo đóng kín của họ!
Thưa anh chị em,
Nhờ tin vào Danh của Đức Giê-su mà chúng ta có sự sống, chúng ta được chiếu sáng. Nhưng trên thực tế, chúng ta vẫn còn đi trong bóng đêm, vẫn còn sống trong mù lòa. Mù không phải vì tầm nhìn ngắn về mặt thể lý của chúng ta. Mù cũng không phải về bóng tối xung quanh chúng ta, thật ra chúng ta mù vì bóng tối trong ta che lấp mọi sự. Nó bao gồm cách chúng ta nhìn người khác và những gì chúng ta nhìn thấy chung quanh mình. Chính vì thế nên chúng ta không nhìn thấy Thiên Chúa, con người, sự vật hay hoàn cảnh như đã được xẩy ra như ý muốn của Ngài khi tạo dựng chúng ta và vũ trụ này. Tất cả mọi sự Thiên Chúa dựng nên đều tốt đẹp!
Nếu chúng ta muốn thấy Chúa, nhìn ra cuộc sống mình và những người khác như họ thực sự hiện diện thì mắt chúng ta phải được Đức Ki-tô mở ra trước. Chúng ta phải thay đổi, không chỉ nhìn bằng đôi mắt, mà bắt đầu tập nhìn bằng trái tim nhân hậu mà Thiên Chúa đặt để trong mình.
Trước tiên hãy suy nghĩ và khám phá ra lối nhìn của mình?
Anh hay chị có biết độ nhìn của tôi tốt đến độ nào không? Tôi nhìn chồng/vợ tôi tốt đến độ nhà tôi phải cảm phục về độ xác thực đó. Sau đó tôi liệt kê một danh sách để giúp nhà tôi thay đổi. Nhưng sau đó tôi lại tự hỏi tại sao tôi cứ phải là người như thế nhỉ? Tại sao lúc nào cũng phải là tôi?
Điều mà tôi muốn nói ở đây là đôi mắt của tôi nhìn người khác và nhốt họ trong cách suy nghĩ của tôi, không phải là của họ. Vì thế, tôi tưởng là tôi sáng mắt, thật ra tôi mù trong các nhận định thiếu xác thực và không mấy phù hợp với hoàn cảnh và các diễn tiến xẩy ra trong cuộc sống của họ.
Tôi cần thay đổi!
Có lẽ tôi cần khám phá Đức Giê-su là ai trong cuộc sống của tôi trước? Tôi có nhận ra tình yêu thương của Đức Giê-su trong tôi không? Bởi vì nếu chúng ta không cảm nhận tình yêu của Người trong cuộc sống mình thì cách cư xử của chúng ta giống như những người láng giềng, những người lãnh đạo, thậm chí giống như cha mẹ của người mù mà chúng ta vừa nghe trong bài Tin Mừng hôm nay. Họ không nhìn nhận các diễn tiến xẩy ra trong cuộc sống của ông.
Tất cả chúng ta đều bị mù trong cuộc sống. Và trong hoàn cảnh bị mù lòa mà cứ tưởng mình sáng mắt, nên chúng ta dần dần đánh mất tình yêu, tiêu hủy dần dần các mối quan hệ khi chúng ta sống trong sự cạnh tranh, luôn ước ao chiếm vị trí đầu trong mọi công tác để tìm sự tán dương và khen thưởng nơi người khác. Tôi bị sức ép của danh vọng, uy quyền và tiếng khen chi phối. Tôi lầm tưởng rằng những gì chúng ta có được là do cố gắng và năng lực của bản thân mà quên đi bao đóng góp, hy sinh của nhiều người đã gầy dựng và hình thành trong tôi. Trong khi đó, bản thân tôi chỉ góp một phần rất nhỏ bé, thế mà tôi vẫn cứ lừa dối và cho rằng kết quả đó là của mình.
Sau cùng, chúng ta hãy xin Chúa mở mắt để nhận ra sự hiện diện của Đức Giê-su trong cuộc sống mình và có cái nhìn như cái nhìn của Chúa trong cách cư xử với nhau. Amen! mục lục
Đọc bài Tin Mừng Gioan hôm nay (Ga 9:1-41), cái hay là phần kết luận, nói về ý nghĩa “nhìn thấy MC 4-A184
Đọc bài Tin Mừng Gioan hôm nay (Ga 9:1-41), cái hay là phần kết luận, nói về ý nghĩa “nhìn thấy” Chúa Giêsu. Tác động này nói lên mức độ mù lòa của mắt chúng ta, sự cảm nghiệm của chúng ta về việc Chúa Giêsu chữa lành bệnh và hiểu biết về con người Giêsu. Giêsu là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Thế từ trời đến. Khởi đầu Tin Mừng Gioan, thắc mắc Đức Giêsu từ đâu đến đã được đặt ra. Ai đã sai người đến thế gian? Con người thành Nazareth đã học ở đâu mà có được nhiều kiến thức như vậy? Tại sao anh ta dám phá bỏ cả luật của Chúa? Những thắc mắc này có đầy dẫy trong câu chuyện người mù nhìn thấy.
Chữa người mù bẩm sinh trong ngày Sabbath là một chuyện lạ, bởi vì trong Cựu Ước sách Tôbia (7:7;11:7-13;14:1-2) người mù được chữa lành không phải là mù bẩm sinh. Câu chuyện hôm nay, dấu hiệu thứ sáu trong Tin Mừng Gioan, được nêu ra để làm nổi bật lời Chúa Giêsu đã phán: “Ta là Ánh Sáng thế gian” (Ga 8:12; 9:5).
Bài tường thuật nói lên sự tương phản giữa Đức Giêsu là Ánh Sáng và dân Do Thái là những kẻ mù lòa (Ga 9:39-41). Cũng vậy, chủ đề Nước lại một lần nữa được đưa ra ám chỉ suối nước Siloam. Nhưng buồn thay, Đức Giêsu lại bị dân Do Thái xét xử, mà xét xử theo Ánh Sáng thế gian xác thịt! (Ga 3:19-21).
CUỘC TRANH LUẬN VỀ NGƯỜI MÙ
Hành động chữa sáng mắt người mù chỉ nói gọn có hai câu, nhưng cuộc tranh luận lại kéo dài 39 câu và là chủ đề của câu chuyện! Để trả lời những thắc mắc về nguồn gốc của Đức Giêsu, người mù trả lời: “Ông ấy đã chữa sáng mắt tôi”. Anh nghĩ ông ta từ đâu đến? Người mù tuần tự làm sáng tỏ: Đức Giêsu là một người, là tiên tri và sau cùng anh tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa. Những người Pharisêu lúc đầu công nhận người mù được chữa sáng, nhưng sau đó họ hồ nghi và cuối cùng chối bỏ nguốn gốc Thiên Chúa của Đức Giêsu.
Câu chuyện thật đơn giản nhưng lại khiến những kẻ gọi là khôn ngoan trở nên bối rối để rồi cuối cùng họ không công nhận người này là người mù mà họ đã thấy trước kia. Điều đó cũng dễ hiểu đối với những người biệt phái Pharisêu, vì họ đã được huấn luyện theo nguyên tắc: quan sát, phân tích, diễn tả rồi cắt nghĩa hiện tượng trong những hoàn cảnh đặc biệt.
QUÁ KHỨ CỦA NGƯỜI MÙ
Người mù này thực sự không biết một tý gì về tôn giáo và cứu chuộc. Anh ta không phải là người ngoan đạo theo truyền thống hoặc kính nể những tổ phụ. Nhưng chắc chắn và rõ ràng nhất là anh đã một thời sống trong tăm tối và bây giờ anh đã thực sự sống trong thế giới chan hòa ánh sáng. Anh biết và nhận ra điều đó. Còn một điều nữa đặc biệt và cần thiết là anh muốn biết người làm cho anh hết mù là ai?
Anh mù này từ trước đã không biết một chút gì về tôn giáo, nhưng bây giờ thì biết chắc chắn Đức Giêsu là người duy nhất đã chữa cho anh khỏi mù, đã cứu, đã cho anh sự sống, niềm hy vọng và can đảm! Chúng ta đều biết người mù này không phải là người duy nhất công nhận “Đức Giêsu là Thiên Chúa, Đấng cứu chuộc, đã chữa cho anh được sáng mắt”, nhưng là tất cả con cháu, bà con thân thuộc… của người mù, cả một đạo binh xuyên suốt lịch sử loài người trong đó có chúng ta.
VẤN NẠN VỀ ĐAU KHỔ
Cố gắng giải quyết vấn đề đau khổ và chết thường mang lại nhiều đau khổ lớn lao hơn là nỗi đau ban đầu. Người ta đặt vấn đề: “Tại sao lại là tôi? Tại sao lại có đau khổ? Lỗi của ai mà tôi phải mù, điếc, câm và nghèo khó? Ý nghĩa của đau khổ và giá trị của nó là gì?” Ai đã tạo ra đau khổ? Tại sao tôi lại bị trừng phạt như vậy?”. Chúng ta thường bị ‘mù lòa’, ‘u tối’ nên không thể hiểu được ý nghĩa của đau khổ.
Nếu đọc bài Tin Mừng hôm nay như đọc một câu chuyện vui thì chúng ta đã bỏ mất một màn đối thoại đặc biệt và lý thú giữa Đức Giêsu và người mù được chữa sáng. Niềm Tin của anh ta đưa đến một hậu quả ghê gớm cho anh và tất cả chúng ta. Anh ta bị đuổi ra khỏi hội đường. Anh ta bị xa lìa khỏi luật Torah, khỏi gia đình, khỏi chiều thứ sáu ngày Sabbath cùng với gia đình và bạn bè –tất cả mọi sự, bởi lẽ anh đã đăm chiêu nhìn sâu và trực tiếp vào Ánh Sáng. Cái nhìn đăm chiêu và kiên quyết ấy đã chữa lành anh và anh thấy được ánh sáng.
SỰ MÙ LÒA CỦA CHÚNG TA NGÀY NAY
Nhiều người rất e dè không muốn biết nguồn gốc của ơn cứu độ và ai là người đem lại hy vọng và là nguyên cớ của niềm vui. Chúng ta ngại không muốn nhắc đến tên người đó, sợ phải nghe những điều mà người ta sẽ nói về Người. E dè vì phải chăng chúng ta chưa sẵn sàng chấp nhận người đó là Đức Giêsu? Đôi khi chúng ta diễn tả sự mù tối của chúng ta như là không thấy cây trong một cánh rừng, nhưng đó chẳng qua là ngụy biện, cắt nghĩa loanh quanh. Buồn cười hơn nữa là nại cớ vì mù bẩm sinh nên không được học hỏi. Ngoài ra sự phách lối kiêu căng chính là cội nguồn của mù tối. Chúng ta cần có phép lạ để cải đổi những cái nhìn như vậy. Đã bao lần chúng ta hành xử như những kẻ đã cố gắng ngăn cản tên mù Bartimaeus (Mc 10:46-52) không cho hắn được nhìn gặp Chúa? Chúng ta có hăm hở và vui vẻ mang bạn bè, đồng nghiệp, người mình yêu đến trước mặt Chúa không? Chúng ta có dám không thèm đến với Chúa khi biết nếu không có Chúa ta sẽ không có sự sống?
Trong sứ điệp Mùa Chay 2011 (http://www.zenit.org/article-31816?l=english) ĐGH Biển Đức XVI đã viết về bài Tin Mừng hôm nay như sau:
“Bài Phúc Âm này đặt vấn đề cho mỗi người chúng ta: Bạn có tin vào Con Người ấy không?”
“Lạy Chúa, con tin! (Ga 9:35;38). Người mù bẩm sinh vui vẻ tuyên xưng, cất lớn tiếng cho mọi người cùng nghe và cùng tin. Phép lạ chữa lành này là dấu hiệu mà Đức Kitô muốn, không phải chỉ ban cho chúng ta thị giác mà còn muốn mở rộng viễn kiến nội tâm của chúng ta, để niềm tin của chúng ta có thể trở nên thâm sâu hơn bao giờ hết và chúng ta có thể nhận biết Người là Đấng Cứu Chuộc duy nhất của chúng ta. Người soi sáng tất cả những gì tăm tối trong cuộc sống chúng ta và dìu dắt mọi người cả nam lẫn nữ đi trong cuộc sống như là “con cái của sự sáng.”
NHỮNG VÌ SAO CỦA TIN MỪNG MÙA CHAY
Câu chuyện chữa sáng mắt người mù trong Tin Mừng Gioan hôm nay đi song hành với những chuyện chữa lành người mù trong Máccô ở Bethsaida (8:22-26) và anh chàng tên Bartimaeus trên đường đi Jericho (10:46-52). Đây là những chuyện rất hiển nhiên không còn hồ nghi gì nữa và rất phổ thông trong Giáo Hội sơ khai. Đối với Giáo Hội hiện tại nó cũng rất đặc biệt.
Những phép lạ này đã làm mọi người rất ngỡ ngàng không thể tưởng tượng nổi. Người thường không thể làm được một việc quá phi thường như vậy. Nếu tôi đến gần được cửa thiên đàng, tôi sẽ xin thưa chuyện với những vì sao của Tin Mừng mùa chay như người đàn bà Samarita (Ga 4), người đàn ông mù (Ga 9) và ông Lazaro bị bệnh nặng sắp chết (Ga 11). Họ là những người có diễm phúc được Đức Giêsu can thiệp làm cho họ trở thành những người mới chỉ bằng cách đụng vào người, nhìn vào mặt một cách trìu mến và bằng những lời nói đầy lòng trắc ẩn yêu thương. Tôi sẽ hỏi mỗi người đó những câu sau: “Người đó từ đâu đến? Quý vị cảm thấy gì khi nhìn thẳng vào mặt ông ta? Quý vị có cảm nghĩ thế nào khi ông ta nói chuyện với quí vị? Làm sao quý vị biết được ông ta chính là Thiên Chúa?
Hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Chúa đừng chấp nhận đêm tối và bóng đen hiện có trên thế giới và trong Giáo Hội, xin Người đem ánh sáng tới xóa tan bóng tói âm u ấy đi. Xin Chúa ban cho chúng con cái nhìn cần thiết về Đức Giêsu, một cái nhìn đăm chiêu, chiêm nghiệm về một con người của hòa giải, là hy vọng, là ánh sáng và là an bình cho tất cả mọi người.
SỐNG MÙA CHAY TRONG TUẦN
1- Suy nghĩ về lời nói của nhà văn Hoa Kỳ tên Samuel Langhorne Clemens, cũng gọi là Mark Twain (1835-1910): “Tử tế là sứ điệp mà người điếc có thể nghe và người mù có thể thấy”.
Đọc chậm rãi những lời của Helen Keller (1880-1968), tác giả và là nhà họạt động chính trị, người mù và điếc đầu tiên đoạt văn bằng cử nhân văn chương. Helen đã vượt qua cảnh cô đơn do thiếu sót ngôn ngữ hầu như hoàn toàn, đã giúp người con gái bừng nở hoa khi nàng học hỏi nghiên cứu về truyền thông liên lạc. “Phải chăng tình yêu làm con người thành mù? Tôi không biết. Nhưng tình yêu có thể giúp người ta nhìn thấy. Tôi và nhiều người đồng ý cả ngàn lần.”
2- Khía cạnh nào của Giáo Hội, xã hội và nền văn hóa thời nay cần phải được chữa lành, sửa đổi và tái tổ chức? Đâu là những điểm mù của chúng ta? Do đâu mà chúng ta có cái nhìn cận thị và viễn thị? Chúng ta thường thích độc thoại hơn là đối thoại, từ chối không muốn tin và chấp nhận những điều dù là đúng do những kẻ chống đối và không đồng ý với chúng ta không? Chúng ta phải chăng lại không chịu thích nghi với những cái hay đẹp của văn hóa thời đại mới quanh chúng ta mà lại thích đối xử hẹp hòi, ngoan cố, giận dữ và ta đây? Tham lam, ích kỷ có làm mờ mắt bạn khiến bạn đối sử bất công, thiên vị với mọi người không? Tôi có bất nhã, cục cằn, vô lịch sự khi tiếp xúc với họ không? Tôi có đòi hỏi quá đáng những người mà tôi tiếp xúc hàng ngày không? Tôi có đối xử lịch sự với những người tôi gặp như những vật dụng tôi thường dùng không?
3- Nên đọc mục #106 “Tuyên xưng Lời Chúa và sự đau khổ’/ “The proclamation of the Word of God and the suffering” trong Tông Thư hậu Thượng Hội đồng về Lời Chúa “Verbum Domini”.
Khi Thượng Hội đồng làm việc, các nghị phụ đã coi việc tuyên xưng Lời Chúa cho những kẻ đau khổ, cả về thể xác lẫn tinh thần là một nhu cầu. Trong thời đại đầy đau khổ thì những vấn nạn tối hậu về ý nghĩa đời sống con người lại càng trở nên cấp thiết hơn. Nếu lời của loài người trở nên câm lặng trước những bí mật của ác quỷ và đau khổ, nếu xã hội đánh giá đời sống chỉ khi nào nó đáp ứng được một số kết quả tiêu chuẩn và an toàn hạnh phúc, thì Lời Chúa làm cho chúng ta nhìn thấy chính những thời khắc đó đã được tình yêu Thiên Chúa “ấp ủ” một cách huyền diệu. Niềm tin phát sinh do gặp Lời Chúa sẽ giúp chúng ta nhận thức được con người xứng đáng được sống một cách đầy đủ và trọn vẹn ngay cả khi bệnh hoạn và đau khổ làm cho nó yếu đi. Thiên Chúa tạo dựng nên chúng ta là để được sống và được hạnh phúc, trong khi đó bệnh tật, chết chóc đến thế gian là do tội lỗi (Kn 2:23-24).
Tuy nhiên Cha của sự sống chính là vị bác sĩ tuyệt hảo của loài người, Người không ngừng khom lung cúi đầu trên loài người đau khổ một cách âu yếm. Chúng ta chiêm ngưỡng sự tột đỉnh vinh quang của Thiên Chúa sát gần với nỗi khổ đau của chúng ta chính là nơi Chúa Giêsu, “Lời nhập thế. Người chịu đau khổ và chết cho chúng ta. Nhờ cuộc khổ nạn và cái chết của Người, Người mang sự yếu đuối của chúng ta lên với người và biến đổi nó một cách trọn vẹn”. Chúa Giêsu còn liên tục ở gần những kẻ đau khổ và còn kéo dài nhờ tác động của Chúa Thánh Thần trong sứ mệnh của Giáo Hội, trong giảng dạy và các phép bí tích, nơi những người thiện tâm, các cơ quan bác ái thực thi với tình yêu huynh đệ trong các cộng đồng khiến mọi người nhận ra dung mạo thật của Thiên Chúa và tình yêu của Người. Thượng Hội đồng tạ ơn Thiên Chúa vì những bằng chứng sáng ngời, thường là ẩn danh, của tất cả những Kitô hữu –linh mục, tu sĩ, giáo dân- đã đích thân làm và tiếp tục giúp tay, mắt và trái tim với Đức Kitô, một y sĩ thực sự của thể xác và tâm hồn. Thượng Hội đồng khuyến khích tất cả chúng ta tiếp tục săn sóc những người tàn tật, bệnh hoạn và mang lại cho họ sự hiện diện sống động của Đức Giêsu Kitô trong lời nói và phép Thánh Thể. Những ai đau khổ cần được khuyến khích đọc Kinh Thánh để nhận ra được là chính những điều kiện của họ có thể giúp họ chia sẻ một cách đặc biệt sự đau khổ cứu chuộc của Đức Kitô hầu cứu chuộc nhân loại (2 Cr 4:8-11,14).
4- Cầu nguyện bằng lời nguyện của Origen (185-253): “Xin được nhìn thấy”. Origen là một Kitô hữu người phi Châu kiêm học giả và nhà thần học; ông cũng là một văn sĩ rất nổi danh thời Giáo Hội sơ khai.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy chạm mắt chúng con, Như đã chạm mắt người mù, Để chúng con nhìn thấy những vật hữu hình Và cả những vật vô hình.
Xin Chúa mở mắt chúng con, Để chúng con đăm chiêu ngắm nhìn Không phải những thực tế hiện tại Mà là những ân phúc tương lai.
Xin Chúa mở mắt mở lòng chúng con, Để chúng con chiêm ngưỡng Thần Linh Thiên Chúa, Qua Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa Cùng với quyền lực vinh quang của Chúa Đến muôn đời. Amen. mục lục Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
Một nông dân kia vừa mới trở lại đạo. Một học giả vô thần hỏi anh ta : “Anh trở lại theo Đức Giê-su MC 4-A185
Một nông dân kia vừa mới trở lại đạo. Một học giả vô thần hỏi anh ta : “Anh trở lại theo Đức Giê-su mà có biết Người sinh ra ở đâu, đã làm những việc gì, đi đến bao nhiêu chỗ, nói bao nhiêu dụ ngôn không ? Có biết địa dư đất nước phong tục thời đại Người thế nào, Người để lại ảnh hưởng ra sao trên lịch sử không ?” Trước loạt câu hỏi tới tấp như thế, anh nông dân trả lời : “Tôi dốt nát nghèo hèn, làm sao biết được tất cả những điều cao siêu đó ! Tôi chỉ biết Người là Chúa của tôi, chỉ biết rằng từ khi theo Người, đời tôi sáng lên, tôi bỏ được tật nghiện rượu, gia đình tôi êm ấm, vợ chồng tôi thuận hòa, con cái tôi ngoan ngoãn…”.
1. Tiến trình hóa sáng.
Người nông dân tín hữu và vị học giả vô thần vừa thấy tương ứng với anh mù từ thuở mới sinh và nhóm Pha-ri-sêu (Biệt phái) trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay.
Phép lạ chữa mắt anh lành được mô tả cụ thể nhưng vắn gọn (chỉ trong 3 hàng), vì điều chính yếu đối với thánh sử Gio-an chính là ý nghĩa của các hình ảnh. Người mù từ thuở mới sinh chính là biểu tượng của một nhân loại bị chìm ngập trong bóng tối, khi không biết Chúa Giê-su, khi các đau khổ của mình xem ra vô nghĩa. Phép lạ sáng mắt là dấu chỉ Chúa Giê-su muốn đưa ra về chính mình. Câu chuyện với những lời hỏi thưa, đối đáp xoay quanh anh mù, nhưng thật ra liên quan đến chính Chúa. Người là đối tượng vắng mặt của một vụ án kỳ lạ. Có bốn cuộc hỏi cung liên tiếp xảy ra, ngày càng thêm dã tâm ác ý. Nhưng cuối cùng, chính Đức Giê-su xuất hiện để xét xử các địch thủ của Người.
Chính những kẻ thân cận láng giềng mở cuộc điều tra đầu tiên (cc. 8-12): chuyện gì đã xảy ra, xảy ra như thế nào, ai làm điều ấy ? Đây mới chỉ là tính tò mò tự nhiên đầy thiện cảm. Phần kẻ khỏi bệnh, anh như trở về từ một thế giới xa xôi. Anh chưa biết gì về Chúa Giê-su trừ ra cái tên của Người. Trong cuộc “hỏi cung” thứ nhì (cc. 13-17), nhóm Pha-ri-sêu chia rẽ nhau về nhân vật bí ẩn : kẻ binh người chống. Con người thiện chí chập chững tiến dần, kể ra nhờ phiền nhiễu của các kẻ điều tra anh. “Người là một ngôn sứ !” bây giờ anh khẳng định. Trong “phiên tòa” thứ ba (cc.18-23: cuộc thẩm vấn cha mẹ anh mù, mà bản văn phụng vụ lược bỏ), lại một thái độ trước Đức Giê-su : tránh né. Thiên hạ từ chối đặt ra cho mình một số câu hỏi có nguy cơ gây liên lụy. Chúng ta thỉnh thoảng có như thế không ? Nhúng tay vào chi hay đặt vấn đề chi cho đẻ chuyện thêm mệt ! Trong phiên tòa thứ bốn (cc. 24-34), người Pha-ri-sêu chìm sâu trong hệ thống lý luận của họ : họ “biết hết” mà ! Biết Cựu Ước, biết Mô-sê, biết luật ngày sa-bát, biết “Giê-su là một kẻ tội lỗi”. Nhưng không muốn biết tới một sự kiện hiển nhiên, mới mẻ, kỳ lạ, không muốn biết Chúa Giê-su từ đâu tới, vì như thế là gây lâm nguy cho hệ thống giáo lý của mình. Họ phạm cái tội duy nhất trong Tin Mừng Gio-an: từ chối tin… nhất quyết cứng lòng… tự bịt mắt trước mầu nhiệm Đức Giê-su mạc khải.
Đang khi mấy người Pha-ri-sêu khép mình trong thái độ vô tín của họ, thì anh mù không ngừng tiến tới trong đức tin. Và ta nhận thấy đức tin này chỉ đạt tới đỉnh cao nhờ sáng kiến và câu hỏi của Chúa Giê-su về mình. Mọi câu hỏi nhóm Pha-ri-sêu đã đặt cho anh giúp anh tiến lên, nhưng việc tuyên xưng niềm tin chân thực chỉ hoàn thành với việc đích thân gặp gỡ Chúa. Y như người phụ nữ Sa-ma-ri trong bài Tin Mừng tuần trước, anh mù thoạt tiên đứng trước “một người tên Giê-su” (9,11), rồi khám phá ra đó là “một ngôn sứ” (9,17)… “một người bởi Thiên Chúa mà đến” (9,33)… và sau hết là “Con Người” (9,35). Đây là một cuộc phản công phục thù của Thiên Chúa. Con người nghèo hèn khốn khổ đã tìm được hạnh phúc duy nhất đích thực. Phải mù từ thuở mới sinh, không mấy được láng giềng trợ giúp, cha mẹ nâng đỡ, bị trục xuất khỏi Hội đường như một kẻ mắc bệnh dịch… Nhưng niềm vui được tin lớn lao biết mấy. Đây cũng là phép lạ chính yếu, đích thực mà Chúa Giê-su muốn thực hiện. Sáng mắt đâu quan trọng bằng sáng lòng !
2. Thoái lộ thành mù
Đoạn cuối câu chuyện (cc.39-41, bản văn phụng vụ lược bỏ) là một cuộc đảo lộn hoàn toàn tình thế (gây ra do sứ mạng của Đức Giê-su ở trần gian): “tội” không nằm nơi Pha-ri-sêu (những kẻ khinh bỉ “thằng đui tội lỗi ngập đầu”) đã đặt lúc ấy… và sự mù lòa đích thực cũng chẳng ở chỗ họ (những kẻ tự cho mình thông sáng) đã nghĩ xưa nay. Chính họ là những kẻ mù lòa, là những người duy nhất từ chối nhìn xem cái đang đập vào mắt: “Nếu các ông đui, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông thấy (mà vẫn không tin), nên tội các ông vẫn còn!” (Ga 9,41). Nói cách khác, người công nhận mình đui mù, dốt nát, thì lãnh nhận được ánh sáng của Đấng mạc khải; còn kẻ tự phụ về những kiến thức của mình hoặc cho mình biết tuy mình chẳng biết thì khép lòng trí lại trước Đức Giê-su là Đấng đem ánh sáng cứu rỗi; vì thế, họ sẽ mãi mãi ở trong tối tăm và không thoát khỏi bị tiêu diệt.
Đặt mình ở trung tâm ngày sa-bát, Đức Giê-su xác nhận rằng sự đoạn tuyệt giữa người Do-thái và Ki-tô hữu trước hết và trên hết là một sự đoạn tuyệt mang tính Ki-tô học. Cuộc xét xử Người gây ra (c. 39) chính là việc chia rẽ vì Người. Tùy thái độ trước Ngôi Lời nhập thể mà phàm nhân hoặc ở trong tối tăm, hoặc ở trong ánh sáng.
Nhưng muốn mở lòng cho ánh sáng Chúa Ki-tô và sống nhờ đó, thì phải có nhiều điều kiện: + khiêm tốn, để chấp nhận rằng cái nhìn của Thiên Chúa không tương ứng với cái nhìn của ta; + trung thực, để đi tìm chân lý mà không tránh né những gì chân lý đòi hỏi; + tin tưởng, để phó mình theo những huấn luyện của Chúa, không ngập ngừng cũng chẳng lần lữa.
Tóm lại, toàn bộ trình thuật (Ga 9,1-41) nhắm làm nổi bật 3 điểm sau đây: 1- Mạc khải chân lý: Cuộc chiến thắng của ánh sáng (Thiên Chúa) đối với bóng tối (tội lỗi) (9,4-5.6-7.39b.41); 2- Mục tiêu hộ giáo: Cuộc tranh luận, tranh chấp giữa Giáo hội và Hội đường, giữa các môn đệ của ông Mô-sê và các môn đệ của Đức Giê-su vào thời Giáo hội sơ khai (9,28-33); 3- Bí tích Thánh tẩy: Trong giai đoạn cuối cùng, sau khi các dự tòng đã qua cuộc khảo sát và được coi như xứng đáng lãnh nhận bí tích Thánh tẩy, có đọc các bài Cựu Ước về nước thanh tẩy và bài Tin Mừng Ga 9; tiếp đó các dự tòng đọc kinh Tin kính (9,38-39). Cử chỉ mở mắt cũng là một phần trong nghi thức Thánh tẩy (9,6). Trình thuật cũng ám chỉ bí tích Thánh tẩy cách chung: dự tòng là như người mù từ thuở mới sinh; tình trạng đui mù tuyệt đối, tượng trưng cho tội lỗi, bị phá tan trong nước hồ Si-lô-ác (chỉ Đức Giê-su, người được Thiên Chúa sai phái); tội lỗi được rửa sạch trong nước thanh tẩy nhờ quyền năng của Người.
Xuyên suốt Tin Mừng theo thánh Gioan, thánh sử kể lại Chúa Giêsu trả lời những câu hỏi của MC 4-A186
Xuyên suốt Tin Mừng theo thánh Gioan, thánh sử kể lại Chúa Giêsu trả lời những câu hỏi của những người Pharisêu chất vấn Ngài và của những kẻ gièm pha khác. Nhưng trong chương thứ chín mà Giáo hội cho chúng ta nghe hôm nay, một người khác, một người mù, đã trả lời những câu hỏi của những người Pharisêu về Chúa Giêsu và anh đã trả lời rất tốt đến nỗi người ta thấy Chúa Giêsu không lên tiếng giảng giải gì thêm: “Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!... Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông vẫn không chịu nghe. Tại sao các ông còn muốn nghe lại chuyện đó nữa? Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng?” (Ga 9: 25-26).
Khả năng diễn thuyết hùng hồn của người mù bẩm sinh này rất đáng quan tâm vì anh làm như vậy để bênh vực Chúa Giêsu, Đấng đã cho anh nhìn thấy. Trong phần mở đầu sách Tin Mừng của mình, thánh sử Gioan đã mô tả chính Chúa Giêsu là Ngôi Lời của Thiên Chúa:
“Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Ngài vẫn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Ngài, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Ngài là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại” (Ga 1:1-4).
Thánh Gioan cho thấy người mù bẩm sinh rao truyền sự thật về Lời của Thiên Chúa. Đây là những lời của người mù bẩm sinh: “Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Ngài, thì Ngài nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9:25,27, 30-33). Những lời này của người mù có cùng một cách lập luận rất thực tế như những điều Thánh Gioan viết: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Ngài ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Ngài mà có, nhưng lại không nhận biết Ngài. Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1:9-11).
Đặc điểm nổi bật nhất về người mù bẩm sinh này là anh sẵn sàng lên tiếng bênh vực Chúa Giêsu: “Người tên là Giêsu đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: "Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa. Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy” (Ga 9:11). Người mù này được ban cho khả năng nhìn thấy, và chỉ điều đó thôi cũng đủ khiến những người xung quanh anh ta bắt đầu bàn tán về những dấu lạ mà Chúa Giêsu đã thực hiện. Mặc dù cha mẹ của người mù từ chối tham gia bàn luận về Chúa Giêsu với những người Pharisêu: “Họ hỏi: "Anh này có phải là con ông bà không? Ông bà nói là anh bị mù từ khi mới sinh, vậy sao bây giờ anh lại nhìn thấy được?" Cha mẹ anh đáp: "Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh. Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay” (Ga 9: 19-22). Nhưng người mù này không ngần ngại lên tiếng khi bị chất vấn: “Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?” Anh đáp: "Người là một vị ngôn sứ!”
Bởi Thiên Chúa mà đến.
Theo Tin Mừng thánh Gioan, trong hầu hết các dấu lạ mà Chúa Giêsu thực hiện, Chúa Giêsu chỉ nói một vài lời là đã mang lại sự thay đổi:
Nước trở thành rượu: “Chúa Giêsu bảo họ: "Các anh đổ đầy nước vào chum đi! " Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Ngài nói với họ: "Bây giờcác anh múc và đem cho ông quản tiệc." Họ liền đem cho ông. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu” (Ga 2: 7-10).
Hóa bánh ra nhiều: “Vậy, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. Khi họ đã no nê rồi, Ngài bảo các môn đệ: "Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi." Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng” (Ga 6:11-3).
Một người què bước đi: Chúa Giêsu bảo: "Anh hãy trỗi dậy, vác chõng mà đi! " Người ấy liền được khỏi bệnh, vác chõng và đi được” (Ga 5:2-9).
Nhưng hôm nay, khi ban cho người mù bẩm sinh ân huệ được nhìn thấy, Chúa Giêsu “nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù” (Ga 9:6) như lặp lại việc Thiên Chúa tạo ra con người đầu tiên từ bụi đất: “Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người” (St 2:4-7). Chúa Giêsu ám chỉ rằng Thiên Chúa là Đấng Sáng tạo, và nay Ngài, bởi Thiên Chúa mà đến, cũng là Thiên Chúa sáng tạo, đúng như người mù trả lời cho câu nói của nhóm người Pharisêu:
“Chúng ta không biết ông Giêsu ấy bởi đâu mà đến” (Ga 9:29).
“Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9:23).
Một đôi mắt được tạo dựng hoàn toàn mới.
Điều quan trọng cần lưu ý là người mù bẩm sinh này không nói lời nào hoặc làm một cử chỉ nào xin được sáng mắt. Chính Chúa Giêsu đã tự ý thực hiện việc đó. Người mù bẩm sinh này không được phục hồi thị lực, như nhiều người chúng ta thường nghĩ. Ngay từ khi mới sinh anh đã không thấy và do đó không nhận biết ánh sáng: “Cha mẹ anh đáp: "Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh” (Ga 9:20). Anh sinh ra đã không có khả năng nhìn thấy, vì vậy những gì Chúa Giêsu làm cho anh không phải là phục hồi thị lực. Chúa Giêsu không chữa lành đôi mắt đã hư hỏng của anh. Ngài tạo dựng cho anh một đôi mắt hoàn toàn mới. Việc Chúa Giêsu “trộn một chút bùn, xức vào mắt” anh để thực hiện dấu lạ này là ám chỉ một việc sáng tạo mới. Chúa Giêsu là Thiên Chúa Tạo Dựng, và người mù đang trải qua một cuộc tái sinh, từ u tối bước vào ánh sáng. Anh là người được Chúa Giêsu cho gia nhập vào đoàn “Dân đang bước đi trong tăm tối đã nhìn thấy một ánh sáng huy hoàng” (Is 9,1) vì Chúa Giêsu chính là: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người…Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Ngài, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Ngài, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1:9-4).
Những người không tên nhưng vẫn có mặt.
Người mù này là ai? Anh ta không có tên. Cha mẹ anh cũng chỉ xác nhận: “nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh” (Ga 9:20). Ngay cả “Các người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói: "Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao? " Có người nói: "Chính hắn đó! " Kẻ khác lại rằng: "Không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi!” (Ga 9:8-9). Còn anh ta thì sao? Anh ta nói gì về danh tính của mình? Trình thuật kể rằng: “Còn anh ta thì quả quyết: "Chính tôi đây!” (Ga 9:9). Điều này rất có ý nghĩa trong Tin mừng theo thánh Gioan vì việc thiếu tên cũng được thấy, chẳng hạn như, trong câu chuyện “người phụ nữ Samaria bên giếng nước Giacóp.” Thực tế không tên tuổi này cho thấy rằng mỗi người trong chúng ta đều có mặt trong câu chuyện này. Chúng ta có khả năng nhận ra tình trạng mù tối của chính mình và quả quyết “Chính tôi đây” như anh mù này trước mặt mọi người và nhất là trước mặt Thiên Chúa, thể hiện nơi Chúa Giêsu Kitô không? Chúng ta có “dám tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô” (Ga 9:22) dù có thể bị trục xuất khỏi “hội đường” của những kẻ mà Chúa Giêsu nói: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: "Chúng tôi thấy", nên tội các ông vẫn còn!” (Ga 9:41).
“Mù quáng” là chúng ta không có khả năng nhìn thấy bàn tay của Chúa đang hoạt động chung quanh chúng ta. Chúng ta cần cố gắng nhận ra sự khiếm thị tâm linh của mình để nhìn ra những phép lạ hàng ngày của ân sủng Chúa sống động trong cuộc sống của chúng ta và của những người khác. Nhận thức này sẽ đem lại cho chúng ta ước muốn được chữa lành tâm linh, ước muốn nhận ra Thiên Chúa đang hành động.
Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu đã đem lại ánh sáng cho người mù này, cũng như Ngài sẵn sàng đem lại ánh sáng cho chúng ta, vốn là điều dễ dàng đối với Chúa Giêsu. Vì vậy, lời cầu nguyện đầu tiên chúng ta nên thực hiện sau câu chuyện này đơn giản là: “Lạy Chúa, Chúa đã phán “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9:39), vậy thì xin cho con được thấy!” Việc khiêm tốn nhận ra sự mù quáng của chúng ta sẽ để cho ân sủng của Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu, hành động và chữa lành. Chúng ta thường tìm kiếm hành động của Chúa trong điều phi thường. Có lẽ chúng ta dễ bị cám dỗ nghĩ rằng Thiên Chúa chỉ trao ban ân sủng của Ngài qua những hành động vĩ đại hoặc anh hùng, rằng Thiên Chúa không thể sử dụng các hoạt động bình thường hàng ngày của chúng ta để thực hiện các phép lạ của Ngài. Điều này là không đúng! Chúa Giêsu có thể làm cho một điều rất bình thường trong cuộc sống hàng ngày trở nên nguồn ân sủng thiêng liêng của Ngài: “Chúa Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: "Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa” (Ga 9:6). Chính những hành động bình thường của cuộc sống là nơi Thiên Chúa hiện diện. Thiên Chúa có mặt khi tôi đang rửa bát đĩa, làm việc nhà, chở con cái đến trường, chơi trò chơi với nhau trong gia đình, trò chuyện hoặc chìa tay giúp đỡ nhau. Điều căn bản là khi Chúa Kitô hỏi: “Anh có tin vào Con Người không?” chúng ta luôn biết thưa với Ngài như anh mù: “Thưa Ngài, tôi tin” vì “Anh đã thấy Ngài. Chính Ngài đang nói với anh đây” (Ga 9:37-38).
Trong thực tế, hoạt động càng bình thường, chúng ta càng phải cố gắng để thấy Thiên Chúa đang hành động. Khi ấy, chúng ta sẽ được chữa lành khỏi sự mù quáng tâm linh của mình. Nhận ra sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống của mình khiến chúng ta trở thành ánh sáng, tức là sống lương thiện, công chính và chân thật, như Thánh Phaolô nói với các tín hữu Êphêsô: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật. Anh em hãy xem điều gì đẹp lòng Chúa. Đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối” (Ep 5:7-11).
Lạy Chúa là ánh sáng muôn đời chiếu soi mọi người sinh ra trong trần thế, xin rộng ban ân sủng làm cho tâm hồn chúng con được bừng sáng huy hoàng, để chúng con hằng biết suy tưởng những điều đẹp lòng Chúa, và chân thành yêu mến Chúa mỗi ngày một hơn. Amen (Lời nguyện hiệp lễ CN 4 Mùa Chay năm A).
Thiên Chúa luôn tìm cách để gần gũi, để nên một với con người. Ngài không ngừng yêu thương tỏ MC 4-A187
Thiên Chúa luôn tìm cách để gần gũi, để nên một với con người. Ngài không ngừng yêu thương tỏ mình cho con nguời. Chính Chúa Kitô là bằng chứng lớn lao cho tình yêu ấy.
Về phía con người, lẽ ra phải khát khao, phải vui mừng đón nhận, và đón nhận bằng tất cả niềm hạnh phúc của một thụ tạo được Đấng Tạo Hóa cúi xuống đoái thương, thì ngược lại, họ lại phản bội, lại ghanh ghét, chối từ, lắm lúc muốn thay quyền Thiên Chúa...
Chẳng hạn, ngày Chúa Giêsu giáng sinh, khi nhận được mạc khải từ các đạo sĩ, các cố vấn Kinh Thánh, và chính nguồn mạc khải thế giá không gì bằng là Lời Chúa trong Kinh Thánh, thay vì đón nhận, cảm tạ, thờ lạy và mang trong mình nỗi mừng vui không thể tả vì được Đấng Cứu Độ đến thăm, thì Hêrôđê và cả hoàng triều của ông lại thẳng tay xuống đao để giết chết Ngài. Dù không thể giết Thiên Chúa làm người, họ đã giết hàng loạt trẻ con Do thái.
Cũng vậy, câu chuyện Chúa chữa lành đôi mắt cho người mù từ khi mới sinh trong Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan cho thấy điệp khúc của việc bưng tai, bịt mắt trước tình yêu, quyền năng của Thiên Chúa vẫn lặp lại.
Thay vì nhận ra Thiên Chúa nơi dấu lạ sáng mắt của anh mù, người biệt phái lại cho đó là hành vi của tội lỗi. Họ nói về Chúa Giêsu: “Chúng ta biết người đó là một kẻ tội lỗi”, và nói về anh mù được chữa lành: “Mày sinh ra trong tội”!
Còn bản thân họ? Khẳng định người khác tội lỗi, người Dothái để lộ một khẳng định về chính họ: Kẻ trong sạch! Người thuộc về Thiên Chúa! Miệng họ nói điều đó: “Chúng ta là môn đệ của Môisen. Chúng ta biết Thiên Chúa đã nói với Môisen, còn người đó, chúng ta không biết bởi đâu mà đến”.
Nhưng ngay trong chính lời khẳng định mình là “môn đệ của Môisen”, là kẻ thuộc về Thiên Chúa, đã cho thấy chính họ mới là những kẻ đui mù trầm trọng: không thể biết Chúa Giêsu!
Đúng là nghịch lý. Nghịch lý đến mức mâu thuẫn lớn. Người “tội lỗi” lại có thể làm nên những điều kỳ diệu quá tốt đẹp mà từ xưa chưa một ai làm nổi: mở mắt người mù từ khi chưa biết nói, biết cười.
Còn “người sinh ra trong tội” lại thừa hưởng những điều kỳ diệu ấy cũng lớn lao không kém.
Trong khi kẻ “vô tội” lại không bao giờ có thể chữa lành cho ai, càng không thể làm nổi một dấu lạ, dù nhỏ nhất.
Đó mới thực sự là điều mỉa mai đầy đau xót. Nỗi đau xót ấy mới chính là bài học vô giá dạy ta biết ý thức mình, ý thức thân phận mong manh của một con người đầy giới hạn, để ngay bây giờ, luôn đón nhận anh chị em bằng tất cả yêu thương, chia sẻ, cảm thông.
Hóa ra mù mà lại sáng, còn kẻ sáng lại mù!
Anh mù được chữa lành có đôi mắt tâm hồn sáng, rất sáng. Đó chính là đức tin mà anh đón nhận từ Chúa Giêsu. Đôi mắt đức tin của người mù giúp anh nhìn thấu đáo về người chữa cho mình: “Đó là một tiên tri”. Khi đối diện với Chúa, anh tuyên xưng: “Lạy Thầy, tôi tin”.
Khẳnh định về Chúa, anh đồng thời vạch trần đui mù của biệt phái: “Đó mới thật là điều lạ: người đó đã mở mắt cho tôi, thế mà các ông không biết người đó ở đâu. Nhưng chúng ta biết rằng Thiên Chúa không nghe lời những kẻ tội lỗi, mà hễ ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý Chúa, thì kẻ đó mới được Chúa nghe lời. Xưa nay chưa từng nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì”.
Lời của anh mù được chữa lành đơn sơ quá, nhưng đẹp quá, hay quá. Lý luận của anh chắc quá. Giá mà những người biệt phái mềm lòng một chút, chỉ cần một chút thôi, đã có thể gặp gỡ Chúa và đón nhận Chúa.
Nhưng nơi anh mù, đâu chỉ có những lời đầy can đảm như trên. Đứng trước quyền lực tôn giáo và xã hội thời ấy, đôi mắt đức tin cho anh lòng kiên trung không chút sợ sệt. Anh khẳng khái lên tiếng dứt khoát, mạnh mẽ dẫu biết mình sẽ nguy hiểm, cuộc sống không còn bình an. Anh nói: “Nếu đó là người tội lỗi, tôi không biết, tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi mù và bây giờ tôi trông thấy”; “Hay các ông cũng muốn làm môn đệ Ngài chăng”...
Chúa đâu có hẹp hòi, chỉ có lòng người hẹp hòi. Chúa đâu có đòi điều gì cao xa, vượt quá sức. Chúa chỉ cần một chút thiện chí của ta thôi là đã có thể trở thành điều kiện tốt để Chúa đến với ta.
Chúa đâu có chối bỏ ai, chỉ con người mới chối bỏ Chúa. Chúa luôn dung thứ và tha thứ, chỉ có ta là kẻ vô tâm trước tình yêu của Chúa. Chúa mời gọi và ngỏ lời với ta, chỉ có ta khép chặt lòng mình để khỏi đón nhận mạc khải của Chúa. Chúa vẫn là Thiên Chúa trung thành, chỉ có ta không ngừng phản bội.
Chúng ta mượn lời thánh Augustinô, xin Chúa ban cho mình thoát tình trạng mù lòa tâm hồn, để có thể nhận ra Chúa nơi chính mình và nơi anh chị em:
"Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa. Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ, biết tán dương và chỉ nghĩ đến Chúa. Ước gì con biết hảm mình và sống trong Chúa. Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con và biết chọn theo Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa. Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa. Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa. Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen".