Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 3-A Bài 151-200: Chúa Giêsu - Nguồn Nước Hằng Sống ---------------------------------- Phúc Âm: Ga 4, 5-42 (bài dài): "Mạch nước vọt đến sự sống đời đời".
Lời Chúa cho thấy Đức Yêsu là người trọn vẹn, Ngài chịu đói chịu khát như tất cả mọi người; tuy MC 3-A151
Lời Chúa cho thấy Đức Yêsu là người trọn vẹn, Ngài chịu đói chịu khát như tất cả mọi người; tuy vậy, Ngài mặc khải Chúa Cha và Thánh Thần, Ngài là tình yêu Thiên Chúa đối với con người.
1. Đức Yêsu chia sẻ thân phận con người
Trên đường từ Yuđêa về Galilê, Đức Yêsu phải băng qua Samaria. Đoạn đường dài, trời nóng bức, đói và khát. Các môn đệ vào làng mua thức ăn, Đức Yêsu mệt mỏi ngồi phệt xuống cạnh giếng. Khát mà không có nước uống, vì không có gầu múc nước.
Chợt có một phụ nữ tới múc nước. Đức Yêsu đã ngỏ lời xin chị cho nước uống. Chị phụ nữ ngạc nhiên, vì luật không cho người Do Thái được tiếp xúc giao dịch với người ngoại, mà người ngoại đối với người Do Thái bao gồm cả người Samaria. Chắc hẳn không phải Đức Yêsu khát quá nên không giữ luật, nhưng vì một lý do khác mà chúng ta có thể nhận ra ngay trong đoạn Tin Mừng!
Kitô hữu thường nhìn Đức Yêsu như Thiên Chúa làm người, đôi khi quá chú trọng đến tính Thiên Chúa mà coi nhẹ tính người của Đức Yêsu. Thực sự, Đức Yêsu giống chúng ta mọi đàng (Dt.2, 17; 4, 15). Chỉ có một điều khác: chúng ta phạm tội, còn Ngài không. Là người, có lúc chúng ta đói, khát, mệt mỏi, thì Đức Yêsu cũng vậy. Ngài cũng đói, khát, mệt mỏi như chúng ta. Ngài đói đến nỗi có lúc muốn có một trái vả để ăn cho đỡ đói (Mt.21, 18-19). Ngài bị cám dỗ (Mt.4, 1-11), bị cám dỗ cả về lòng tin tưởng trông cậy nơi Thiên Chúa nữa (Mc.15, 34); có điều, tuy bị cám dỗ khủng khiếp, khi ở hoang địa và cả trên thập giá, Đức Yêsu vẫn chiến thắng (Lc.23, 46). Ngài vẫn yêu, cho dù không được yêu. Trên thập giá, Đức Yêsu đã hứa cho anh trộm được ở với Ngài ngay khi Ngài lên Nước của Ngài. Ngài cũng xin Cha tha cho những người thù ghét và giết Ngài. Dù giống chúng ta mọi đàng, nhưng Ngài không chỉ không sa ngã phạm tội, mà Ngài còn luôn yêu trong mọi hoàn cảnh, trong mọi nơi mọi lúc.
2. Thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và sự thật
Đã có thời gian, người ta tưởng rằng để thờ phượng Thiên Chúa, phải thờ phượng Ngài tại một nơi nào đó. Người Do Thái thì cho rằng phải thờ Chúa tại Yêrusalem, người Samaria thì bảo phải thờ phượng Thiên Chúa trên “núi này”. Những người đơn sơ như chị phụ nữ này, chẳng biết ai đúng ai sai, cứ làm như cha ông dạy. Và dĩ nhiên, cả người Do Thái lẫn người Samaria đều gặp được Thiên Chúa mà họ tìm kiếm, dù họ thờ phượng Ngài ở đền thờ Yêrusalem hay trên “núi này”.
Bây giờ, Đức Yêsu là Đấng Massiah, Ngài mặc khải cho con người biết phải thờ phượng Thiên Chúa ở đâu và như thế nào. Con người có thể thờ phượng Thiên Chúa ở bất cứ đâu, miễn là phải thờ phượng Ngài trong Thần Khí và sự thật. Nếu thờ phượng Thiên Chúa mà không từ bỏ lòng hận thù, không từ bỏ bất công với người nghèo, nếu vẫn nuôi lòng gian ác, thì cho dù thờ phượng Ngài ở đền thờ Yêrusalem, cũng không đẹp lòng Ngài và cũng không được Ngài chấp nhận.
Thiên Chúa là Thần Khí. Ngài là Cha tất cả mọi loài. Ngài yêu thương tất cả mọi người cho dù thuộc bất cứ dân tộc nào, sắc dân nào, vì tất cả đều là con dân Ngài. Hãy phó thác cuộc đời cho Ngài, vì Ngài là Thiên Chúa yêu thương. Thánh Thần Thiên Chúa vẫn luôn hoạt động trong lòng con người, để dẫn con người trở về với Thiên Chúa, để giúp con người sống cho đẹp lòng Thiên Chúa trong mọi nơi mọi lúc.
3. Thánh Thần như mạch nước vọt lên trong lòng người
Trong Cựu Ước, Thần Khí mang lại sự sống. Chẳng hạn như trong thị kiến thung lũng đầy xương khô, Thần Khí mà Thiên Chúa thổi vào mang lại sự sống cho những bộ xương khô (Ed.37,1-14). Nước từ tảng đá vọt ra nuôi sống dân Do Thái trong hoang địa, cũng là biểu tượng Thánh Thần từ Thiên Chúa, thánh hoá và làm sống con người.
“Ai uống nước này hãy còn khát, nhưng ai uống nước Ta ban sẽ không còn khát nữa, vì nước Ta ban sẽ trở thành mạch nước muôn đời”. Thánh Thần ngự nơi mỗi người, như mạch nước nơi lòng con người, làm dịu mát lòng người, làm con người khao khát Thiên Chúa, tẩy rửa tội lỗi, thánh hoá con người, mang lại sự sống cho con người. Với Đức Yêsu, Thánh Thần được mặc khải như Đấng Bầu Chữa, như Đấng dẫn con người vào tất cả sự thật, như Đấng làm chứng cho Đức Yêsu qua các tông đồ và các Kitô hữu, như Đấng thánh hoá.
Đức Yêsu là người mẫu cho Kitô hữu và cho tất cả con người, để con người theo gương Ngài sống trong trần gian trong hoàn cảnh cụ thể của mình. Cũng qua Đức Yêsu, Thánh Thần vĩnh viễn ở với con người, tác động và thánh hoá con người, làm con người thuộc về Thiên Chúa trong mọi nơi mọi lúc. Thiên Chúa là Thiên Chúa tình yêu. Cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều yêu thương con người, và luôn tác động làm con người sống. Chúng ta được mời gọi để cộng tác với Thiên Chúa trong công trình cứu độ chính mình và tha nhân.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Đức Yêsu có là người gần gũi với bạn không? Bạn thấy Ngài gần bạn lúc nào nhất? 2. Bạn có thường ý thức Thánh Thần luôn ngự trong tâm hồn bạn không? 3. Người “tội lỗi” có thể là dịp để người khác gặp gỡ Thiên Chúa không? Tại sao? Chẳng hạn trường hợp chị phụ nữ.
1. Mệt mỏi vì đường xá, Đức Yêsu ngồi phệt xuống cạnh giếng
Hình ảnh Đức Yêsu mệt mỏi ngồi bên cạnh giếng, cho ta thấy Đức Yêsu gần gũi chúng ta biết MC 3-A152
Hình ảnh Đức Yêsu mệt mỏi ngồi bên cạnh giếng, cho ta thấy Đức Yêsu gần gũi chúng ta biết dường nào! Ngài cũng đói, khát, mệt mỏi như chúng ta! Thiên Chúa không xa chúng ta, Ngài gần gũi với chúng ta.
Kể từ khi Thiên Chúa nhập thể, Ngài đã biết mệt, biết đói biết khát! Nét đẹp của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Yêsu- Thiên Chúa nhập thể.
2. Yêu mến và kính trọng con người
Điều làm một người trở nên đẹp, là yêu mến và kính trọng con người.
a) Nét đẹp của phụ nữ nhân ngày quốc tế phụ nữ
Nét đẹp của phụ nữ không chỉ là những "đường cong" như người ta thường hay nói. Chị phụ nữ đã tế nhị bỏ vò nước lại cho Đức Yêsu và các môn đệ; nếu không có vò nước này, làm sao Đức Yêsu và các tông đồ có nước uống trong lúc đói khát này!
Sau một thời gian nói chuyện với Đức Yêsu, chị phụ nữ đã dám nhận sự thật "tôi không có chồng", vì người chị đang sống với không phải là chồng chị!
Chị phụ nữ "mà nhiều người không tôn trọng vì đã năm đời chồng" này, đã được biến đổi. Chị đã dám loan báo cho dân làng biết điều chị ta xác tín: "Ngài không phải là đức Kitô sao?".
Phụ nữ đẹp! Điều này cũng được thấy nơi một số chị phụ nữ vẫn hay đi theo Đức Yêsu trên con đường Ngài rao giảng, và các chị thường hay giúp đỡ Ngài.
Phụ nữ vẫn là người hiền dịu, kiên nhẫn, thông cảm, mềm mỏng với người khác. Điều này chúng ta thấy rõ nơi mẹ mình, nơi em gái mình, nếu không muốn kể đến người yêu thương mình đặc biệt. Có ai trong đời mà chẳng cảm thấy "lòng mẹ bao la như biển thái bình dạt dào"? Có ai không thấy mẹ mình yêu thương mình, nhất là những khi mình đi xa về, mẹ lo ăn lo uống, ngay cả dọn cơm và rửa chén cho mình, dù rằng với tuổi mình, những chuyện đó phải do mình đảm trách. Dường như với người con, mẹ là người đẹp nhất.
Còn một phụ nữ đẹp tuyệt vời, đó là Đức Mẹ! Mẹ luôn xin vâng trước mọi đòi hỏi của thánh ý Chú, và mẹ luôn yêu thương giúp đỡ mọi người.
b) Nét đẹp của Đức Yêsu trong cách Ngài đối xử với con người
Đức Yêsu tôn trọng, yêu thương con người. Đặc biệt trong bài tin mừng Ga.4, 1-42, Ngài tìm cách gợi chuyện với chị phụ nữ bên bờ giếng Giacóp. Ngài không bị nô lệ bởi "truyền thống không giao du đối xử với người Samari".
Lúc khởi đầu, "chị phụ nữ năm đời chồng rồi mà người đang sống với chị không là chồng chị" phản ứng rất cứng rắn với Đức Yêsu: "ông là người Dothái mà lại xin tôi là người Samari nước uống?!"; Đức Yêsu vẫn chấp nhận và vượt qua, để tiếp tục nói chuyện với chị!
Dần dần chị phụ nữ cởi mở lòng hơn khi nhận mình không có chồng! Và Đức Yêsu đã mặc khải cho chị: "Đã đến giờ, con người thờ phượng Thiên Chúa không phải ở trên núi này, cũng chẳng phải tại Yêrusalem; ... đã đến giờ, và chính là lúc này đây, ai thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật" (Ga.4, 21-23). Hơn nữa, Đức Yêsu còn mặc khải Ngài là Đấng Kitô, điều mà Ngài cũng đã mặc khải cho Phêrô và các tông đồ.Đức Yêsu đã mặc khải cho chị như Đức Yêsu đã từng mặc khải cho những người thân tín nhất!
Đức Yêsu đã đối xử rất đẹp đối với con người, và cụ thể hôm nay, chúng ta thấy Ngài đối xử rất đẹp đối với chị phụ nữ.
3. Của ăn của Thày là làm theo ý Đấng đã sai thầy
Đức Yêsu luôn luôn làm theo ý Cha. Ý Cha trở thành lương thực của Ngài!
Đói khát và mỏi mệt vì đường xa, nhưng Đức Yêsu như tỉnh dậy khi chị phụ nữ "ông là người Dothái mà lại xin tôi -một người Samari- nước uống?!" Chị phụ nữ này đã bị thành kiến này trói buộc, và Đức Yêsu đã nhận ra mời kêu gọi giúp chị phụ nữ nhận ra sự thật "không phải tại Yêrusalem hay trên núi này người ta phải thờ phượng Thiên Chúa"! Đức Yêsu đã tìm mọi cách để nói chuyện, giúp chị mở lòng đón nhận Tin Mừng, và giải phóng chị ta khỏi nô lệ một quan điểm sai lầm.
"Thày có một thức ăn mới mà anh em không biết" (Ga.4, 32)! Chính khi thực hiện ý Chúa, Đức Yêsu như có một khí lực mới.
Thực hiện Ý Cha! Không phải dễ dàng đối với con người! Chấp nhận cái đói cái khát, chấp nhận những gì trái ý trong đời mình: "Lạy Cha, nếu có thể được xin cho con khỏi uống chén này, nhưng đừng theo ý con mà là ý Cha". Đức Yêsu đã chiến đấu đến nỗi đổ máu (Dt.12, 4), để thực hiện ý Cha.
4. Làm sao để được đẹp như Đức Yêsu
Trở về với Thiên Chúa! Ăn năn sám hối lỗi lầm của mình và bắt đầu lại cuộc đời. Hiện tại là lúc quan trọng nhất. Nếu tôi trở lại với Thiên Chúa từ bây giờ, tôi có thể trở thành người đẹp tuyệt vời.
Hãy tập yêu. Nếu chúng ta yêu thương, chúng ta sẽ được yêu thương! Hãy yêu thực sự, và muốn làm gì thì làm.
Được yêu thì hạnh phúc biết bao. Nhưng, yêu thì hạnh phúc hơn là được yêu! Chúc bạn mỗi ngày mỗi đẹp như Đức Yêsu, người đẹp tuyệt vời.
Nước, tuy dù hiếm ở vùng Cận Đông, vẫn là một thực tại tự nhiên. Trình thuật ở Xh.17, 3-7 giúp MC 3-A153
Nước, tuy dù hiếm ở vùng Cận Đông, vẫn là một thực tại tự nhiên. Trình thuật ở Xh.17, 3-7 giúp nhận ra nước cũng là hồng ân Thiên Chúa ban mà người ta lâu nay cứ tưởng nó "tự nhiên" không cần Thiên Chúa. Sự khan hiếm nước, giúp người ta nhận ra sự thật "tình yêu của Thiên Chúa" bao phủ con người, mà nếu chúng ta biết nhìn, chúng ta có thể bắt gặp trong từng nhu cầu của con người. Con người, tự thuở nào, vẫn là một hiện hữu đòi hỏi và hay "nổi loạn" với Thiên Chúa. Bao hồng ân Thiên Chúa làm cho người Do Thái để dẫn họ ra khỏi Ai cập, nhưng họ vẫn cứng lòng không thần phục Thiên Chúa. Biến cố thiếu nước, giúp người ta biết mình hơn! Cũng chính biến cố này, mời gọi con người hãy trở nên dễ dạy hơn với Thiên Chúa: "Hôm nay, nếu các ngươi nghe tiếng Chúa, các ngươi đừng cứng lòng nữa" (Tv. 94, 8).
Nước, làm người ta đã khát; nước, làm mát lòng người; nước, thanh tẩy dơ uế! Nước, hôm nay là biểu tượng của Thánh Thần. Nước hằng sống mà Đức Yêsu ban tặng, sẽ trở thành mạch nước vọt lên ban sự sống đời đời (Ga.4, 14). Nước Thần Khí mà Đức Yêsu ban tặng, sẽ giúp con người thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và sự thật. Đức Yêsu xin nước, để rồi qua đó Ngài gợi ý, để người ta xin Ngài Nước Hằng Sống- nước làm người ta không còn khát nữa! Nước Thánh Thần, sẽ làm người ta đã khát (Ga.4, 14; 7, 37-38), và cũng sẽ làm con người luôn khao khát Thiên Chúa.
Đức Yêsu là một hình ảnh tuyệt vời. Ngài mời gọi chúng ta nên giống Ngài. Cho dù mệt mỏi ngồi "phệt" bên cạnh bờ giếng, Ngài vẫn bắt chuyện để nói về Thiên Chúa và để mặc khải ban ơn cứu độ, Ngài vẫn tìm được điều tốt để khen nơi chị phụ nữ đã năm đời chồng và người chị ta đang sống với lại không là chồng chị, Ngài vẫn hăng say nói về Thiên Chúa và mặc khải cho chị phụ nữ Samaria. Đức Yêsu luôn tìm ý Thiên Chúa và thực hiện ý Thiên Chúa đến quên ăn, hơn nữa: "của ăn của Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy" (Ga. 4, 34). Ý Thiên Chúa đối với Đức Yêsu, trở thành của ăn. Khi làm theo ý Thiên Chúa, Đức Yêsu như thể có thêm sức lực, như được bổ dưỡng bởi một lương thực nào đó.
Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Đức Yêsu và Thánh Thần. Thiên Chúa đã yêu chúng ta, ngay khi chúng ta còn là tội nhân (Rm.5, 8). Đức Yêsu và Thánh Thần là bằng chứng rõ ràng về tình yêu tuyệt vời này. Thánh Thần giúp chúng ta yêu mến Thiên Chúa, giúp chúng ta hiểu biết về Thiên Chúa, hiểu biết về Đức Yêsu hơn.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết lắng nghe và để Thánh Thần thực hiện những gì Ngài muốn cho chúng ta, xin cho chúng ta được biến đổi, cho chúng ta được trở về với Thiên Chúa và trở về với anh em.
Không gì trên đời lấp đầy khát vọng của con người. Con người có nhiều khao khát: khát tiền, khát MC 3-A154
Không gì trên đời lấp đầy khát vọng của con người.
Con người có nhiều khao khát: khát tiền, khát quyền lực, khát danh vọng, khát hạnh phúc…
Nhưng không gì trên đời có thể lấp đầy những khát vọng đó.
Chưa có tiền thì khao khát có được ít tiền. Có tiền rồi thì muốn có nhiều hơn và cứ thế mãi không dừng.
Chưa có quyền thì khao khát cho có, có rồi thì khát được nhiều quyền hơn… không bao giờ no thoả.
Vì thế, ông Arthur Schopenhauer (1788-1860), một triết gia người Đức cho rằng: “Những lạc thú mà thế gian cống hiến cho con người cũng chỉ như nắm cơm bố thí cho người hành khất, chỉ làm dịu cơn đói hôm nay, rồi ngày mai lại đói.”
Cha Anthony de Mello cũng nhận định tương tự: “Việc thoả mãn dục vọng không giải thoát chúng ta khỏi dục vọng, nhưng tạo thêm một dục vọng khác còn mãnh liệt hơn để rồi cái vòng lẩn quẩn: khát khao - thoả mãn, thoả mãn - khát khao… cứ tiếp diễn mãi không cùng”, càng về sau lại càng tăng “đô” hơn. Và cứ thế, người ta phải chịu dày vò, thiêu đốt vì ngọn lửa khao khát trong lòng mình.
Người phụ nữ xứ Sa-ma-ri trong Tin mừng hôm nay (Ga 4, 5-42) cũng đã từng trải qua cơn khát tương tự. Chị đã mưu tìm hạnh phúc qua năm đời chồng rồi nhưng lại phải lần lượt chia tay với cả năm, để mưu tìm hạnh phúc với người thứ sáu. Rốt cuộc chẳng ai trong họ có thể đem lại cho chị hạnh phúc thực sự trong cuộc đời. Chị đi tìm hạnh phúc cũng y như đi lấy nước. Ngày nào cũng phải lặn lội tìm đến giếng nước xa, múc cho đầy vò rồi ngày hôm sau lại khát và tiếp tục đội vò đi tiếp…
Chính vì thế nên Chúa Giê-su khẳng định với người phụ nữ Sa-ma-ri: “Ai uống nước nầy sẽ còn khát lại.” Với những lời này, Chúa Giê-su muốn cho ta biết không gì trên đời có thể đáp ứng khát vọng của con người.
Chỉ có Thiên Chúa mới lấp đầy khát vọng con người
Xưa kia, tâm hồn của Augustinô cũng bị giày vò bởi nhiều khao khát, nhưng không gì trên thế gian có thể lấp đầy con tim khao khát của ngài. Mãi đến tuổi 33, nhờ ơn soi sáng của Thiên Chúa và lời nguyện cầu liên lỉ của người mẹ thánh thiện là Mô-ni-ca, Augustinô mới khám phá Thiên Chúa là Nguồn Suối đáp ứng khát vọng của ngài và làm cho tâm hồn ngài dạt dào niềm vui. Bấy giờ lòng đầy hoan lạc, Augustinô thốt lên: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, vì thế hồn con mãi thổn thức khôn nguôi, cho đến khi được nghỉ yên trong Ngài.”
Chỉ trong Thiên Chúa, khát vọng của Augustinô mới được lấp đầy. Quả đúng như Lời Chúa Giê-su nói: “Ai uống nước nầy sẽ còn khát lại, còn ai uống nước Tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” (Gioan 4, 13-14)
Lạy Chúa Giê-su,
Còn rất nhiều người đang khát Chúa mà vẫn chưa tìm thấy Chúa là Nguồn Nước mang lại hoan lạc và bình an cho tâm hồn. Xin cho họ được nhận biết Chúa chính là Nguồn Suối mà họ hằng khát khao.
Xin cho chúng con, như người phụ nữ Sa-ma-ri xưa, một khi đã tìm được Chúa là Nguồn Nước trường sinh, thì cũng mau mắn giới thiệu cho mọi người đến gặp Chúa, để họ cũng được đón nhận Chúa là Mạch Suối mang lại sự sống đời đời.
Tin mừng Ga 4: 5-42: Bài Tin Mừng kể lại một cuộc gặp gỡ nhìn qua rất bình thường giữa một khách bộ hành khát nước và một phụ nữ đi múc nước...
Niềm Vui Tin Mừng tràn ngập...... Trong cuộc sống hàng ngày, ai ai cũng có những cuộc gặp gỡ MC 3-A155
“Niềm Vui Tin Mừng tràn ngập tâm hồn và toàn thể đời sống của những người gặp gỡ Chúa Giêsu, những người để cho mình được Người cứu độ và giải thoát khỏi tội lỗi, sầu khổ, trống rỗng nội tâm và cô lập” (Tông Huấn “Niềm Vui Tin Mừng”, số 1).
Trong cuộc sống hàng ngày, ai ai cũng có những cuộc gặp gỡ khác nhau. Có những lần gặp gỡ như gió thoảng mây trôi…thoáng qua không để lại dấu ấn nào. Và cũng có những lần gặp gỡ đã làm thay đổi cả một đời người.
Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ Samari bên giếng nước Giacop. Nhân việc xin nước uống, Chúa đã hứa ban nước trường sinh cho chị.
1. “Cho tôi xin nước uống." (Ga 4,7).
Bài Tin Mừng kể lại một cuộc gặp gỡ nhìn qua rất bình thường giữa một khách bộ hành khát nước và một phụ nữ đi múc nước. Người phụ nữ Samaria mỗi ngày ra giếng kín nước. Tổ phụ Giacop đã phát hiện ra giếng nước, nơi mà sau này người ta đặt tên là giếng Giacóp, như một tài sản quý giá cho con cháu ông đến đây lấy nước để uống và sinh hoạt. Giếng Giacóp sâu 39m nên việc múc nước cho người và gia súc uống rất khó nhọc. Tại Palestina, một đất nước khô khan, cằn cỗi thì nước cũng quý hóa như lúa, như gạo, nước là nguồn sống cơ bản của con người. Dân Israel ngày xưa đi trong sa mạc, không có nước uống, đã cảm thấy cái nguy sắp phải chết, nên kêu trách ông Môsê, bài đọc 1 kể lời trách móc đó: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai cập để làm gì? Có phải là để chúng tôi, con cái chúng tôi và súc vật của chúng tôi bị chết khát hay không?”.
Thế nhưng, cuộc gặp gỡ bên bờ giếng Giacóp thật lạ lùng. Sau một cuộc hành trình xa dưới nắng nóng, mệt mỏi, Chúa Giêsu khát nước, đến giếng nước và gặp người kín nước. Giếng nước có liên hệ tới vài câu chuyện trong Cựu ước. Ở miền Cận Đông thời xưa, giếng nước là nơi tốt nhất để gặp gỡ. Sách Sáng Thế cho hai ví dụ xảy ra ở giếng nước đều đánh dấu một biến cố quan trọng trong lịch sử dân Israel: người lão bộc của ông Abraham gặp cô Rêbêca vào trao nhẫn cưới, hỏi vợ cho Isaac (St 24,10-27); Ông Giacóp và cô Rakhen gặp nhau tại giếng nước và nên duyên vợ chồng (St 29,1-14).
Chúa Giêsu mở đầu cuộc đối thoại bằng một lời nài xin. Xin nước uống là tạo dịp gặp gỡ, là bắc một nhịp cầu qua vực sâu ngăn cách hai dân tộc Samaria và Do thái vốn dĩ đã thù ghét và xa lánh nhau từ ngàn xưa. Chẳng ai hiểu nổi một bậc thầy như Chúa Giêsu lại nói chuyện và xin nước một phụ nữ Samaria. Chúa Giêsu đã phá bỏ những hàng rào ngăn cách để xây dựng một cuộc đối thoại đích thực và bình đẳng.
Khát nước và xin nước uống là một điều tự nhiên bình thường. Nhưng ở đây không phải Chúa khát nên xin nước uống mà chỉ là dịp để Ngài đề cập đến một vấn đề quan trọng hơn. Chúa muốn nói cho người phụ nữ biết: chính chị là người đang khát, và Chúa cũng muốn nói cho chị biết: Ngài là ai, là người sẽ làm cho chị hết khát: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa”.
Từ việc xin nước uống, Chúa Giêsu đã cho người phụ nữ Samaria biết Ngài là Đấng Cứu Thế khao khát nhân loại “Ngài là người đến tìm chúng ta trước. Ngài xin ta cho Ngài nước uống, vì Thiên Chúa khao khát chúng ta” (GLCG # 2560).
2. “Nước vọt lên đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14).
Những cuộc gặp gỡ đối thoại với Nicôđêmô, Matta và Maria, Lêvi, Giakêu… Chúa Giêsu đều giúp họ thay đổi cuộc đời.
Bài tường thuật cho thấy một quá trình thay đổi nhận thức của người phụ nữ về Chúa Giêsu. Trước hết chị ta nhận thấy Ngài là một khách bộ hành lạ mặt, một người Do Thái (câu 9). Nhưng khi Chúa Giêsu tỏ ra thấu hiểu cuộc đời riêng tư của chị, thì chị nhận ra đó là một vị Ngôn Sứ (câu 19). Cuối câu chuyện, chị được biết thêm Ngài là Đấng Kitô (c.25–26). Sau đó dân làng Samaria tuyên xưng “Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (c.42). Người phụ nữ Samaria cũng thay đổi trong ngôn ngữ khi nói chuyện với Chúa. Lúc đầu chị gọi Chúa Giêsu là Ông, kế đó là Thưa Ngài, rồi từ việc nhận thức Ngài là một tiên tri đến Đấng Thiên Sai.
Khi đã khám phá được con người của Chúa Giêsu, người phụ nữ Samaria cũng khám phá ra được thứ nước mà Ngài muốn ban tặng. Lúc đầu, khi nghe nói đến nước, người phụ nữ nghĩ tới thứ nước trong giếng Giacóp. Nhưng rồi, từ thứ nước bên ngoài ấy, Chúa Giêsu đã dẫn người phụ nữ đi tìm thứ nước nằm ngay trong lòng con người, thứ nước đem lại sự sống đời đời. Thứ nước ấy chính là Thần khí và Sự thật.
Giống như Philipphê khi đã gặp được Chúa Giêsu liền đi tìm Nathanaen để loan báo Tin Mừng; bà Maria Mađalêna đã vội vã đi tìm các môn đệ và loan báo là đã gặp thấy Chúa; người phụ nữ Samaria không còn quan tâm đến giếng nước và vò nước nữa, chị chạy một mạch về làng, thông báo về nước hằng sống vừa khám phá: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?”. Mọi người tin lời chị, họ đến gặp Chúa Giêsu và họ cũng tin Ngài. Sau khi gặp Chúa, người phụ nữ đã tin và làm chứng cho Ngài giữa những người Samaria trong làng. Chị đã dẫn đưa bà con trong làng đến gặp Đức Kitô, nguồn nước hằng sống. Dân làng sau khi gặp Chúa, đã xin Ngài ở lại với họ, và hân hoan tuyên xưng rằng: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian”.
Giếng nước Giacóp là nơi gặp gỡ kỳ diệu làm biến đổi dân chúng cả làng Samaria. Giếng nước đã là nguồn gợi hứng cho một phương pháp truyền giáo rất hiệu quả. Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII dùng hình ảnh xứ đạo với giếng nước đầu làng, từ nơi ấy mọi người có thể giải khát, tìm được sự tươi mát của Tin Mừng.
Sứ điệp Thượng Hội đồng Giám mục thế giới tháng 10 năm 2012, có đề nghị mô hình giếng nước đầu làng. Các nghị phụ đã liên hệ hình ảnh Chúa Giêsu bên bờ giếng Giacóp để nói về trách nhiệm của Giáo Hội hôm nay trước một thế giới đang khát khao chân lý. Giáo Hội có sứ mạng hướng dẫn và giới thiệu Chúa Giêsu là nguồn nước hằng sống. Chỉ có Ngài mới có thể lấp đầy cơn khát của nhân loại.“Như Chúa Giêsu bên giếng nước Xykha, Giáo Hội cũng cảm thấy phải ngồi cạnh những người nam nữ thời nay, để làm cho Chúa hiện diện trong cuộc sống của họ, nhờ đó họ có thể gặp Chúa, vì chỉ mình Ngài mới là nước ban sự sống vĩnh cửu đích thực” (số 1). Trong thánh lễ ngày 18-5-2003, tại Đại chủng viện thánh Giuse Sài gòn, Đức Hồng Y GB Phạm Minh Mẫn ban huấn từ cho các vị đang phục vụ trong các Hội đồng mục vụ Giáo xứ toàn Giáo phận, ngài mong muốn giáo xứ cũng phải trở nên như một giếng nước đầu làng.
3. “Thờ phượng trong thần khí và sự thật” (Ga 4,23).
Trong bài đọc II, thánh Phaolô so sánh ơn Chúa Thánh Thần với một thứ nước kỳ diệu mà Thiên Chúa đổ vào lòng các tín hữu. Đó là Thánh Thần tình yêu. Thánh nhân viết: “trông đợi như thế (nghĩa là trông đợi hưởng vinh quang với Chúa), ta sẽ không thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần Người ban cho ta”.
Nước Hằng Sống mà Chúa Giêsu ban tặng chính là Thánh Thần tình yêu. Từ nay nhân loại thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật. Để giải thích điều này, Chúa Giêsu nói: “Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật”. Nếu Thiên Chúa là thần khí, thì để gặp Ngài, con người cũng phải dùng thần khí của mình tức tâm hồn mình để gặp Ngài. Vì chỉ có thần khí mới gặp được và hòa nhập được với thần khí. Như vậy nghĩa là phải gặp Ngài trong chính tâm hồn mình. Thật vậy, nơi dễ gặp gỡ Thiên Chúa nhất, chính là cung lòng của mỗi người chúng ta. Không gì linh thánh bằng con người, hay tâm hồn con người, vì “con người là hình ảnh của Thiên Chúa” (St 1,26-27; 9,6; Kn 2,23). Và cũng không nơi nào linh thiêng bằng cung lòng con người: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em” (1Cr 3,17; 6,19). Có gặp được Thiên Chúa ở ngay cung lòng mình, thì mới có thể gặp gỡ Thiên Chúa trong Thánh Thể, trong nhà thờ, trong tha nhân, trong thiên nhiên. Thiên Chúa ở ngay cung lòng mình mà mình không gặp được, thì mong gì gặp được Thiên Chúa ở bên ngoài. Thánh Augustinô đã từng than thở: “Con đã tìm Chúa ở ngoài con, nên con đã không gặp được Chúa của lòng con”. Muốn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa, còn phải gặp Ngài trong sự thật. Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của sự thật, vì thế, người gian dối, không thành thật thì không thể gặp được Ngài.
Lời mạc khải của Chúa Giêsu bên giếng Giacóp mời gọi chúng ta hãy tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi. Thờ phượng “trong thần khí” là thờ phượng theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần; thờ phượng “trong sự thật” là thờ phượng với tâm tình kết hợp với Chúa Giêsu, Đấng là Đường là Sự Thật và là Sự Sống. Thờ phượng Chúa Cha, dưới tác động của Chúa Thánh Thần và được nuôi dưỡng bằng mọi chân lý đến từ Chúa Giêsu. Khi tụ họp với nhau hay khi làm việc thờ phượng cách riêng rẽ, chúng ta đều được Thánh Thần trợ giúp để có thể cầu nguyện, ngợi khen, thờ phượng, cảm tạ, tuyên xưng Chúa Kitô và Thiên Chúa.(x. Ep 5,18-20; 6,18; Rm 8,26-27; Cl 3,16-17).
Hãy tin vào Chúa Giêsu để lãnh nhận nước hằng sống, hầu mang lại sự sống đời đời là chính là Thánh Thần tình yêu của Thiên Chúa. Tin là gặp gỡ Chúa Giêsu như người phụ nữ Samaria và những người đồng hương của chị đã gặp và đã khám phá ra nguồn nước trường sinh. Niềm tin vào Chúa Giêsu là điều kiện cần thiết để được ơn cứu độ, và niềm tin ấy là hoa quả của Thánh Thần (x. Ga 5,22; 1Cor 1,9). Con người có niềm tin viên mãn cũng là con người đầy Thánh Thần (Cv 6,5; 11,24). Sứ vụ của Thánh Thần là củng cố, làm cho niềm tin phát triển và trở nên viên mãn. Thánh Thần làm cho chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô là Con Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết khao khát, tìm kiếm và sống các mầu nhiệm đức tin trong cuộc sống hằng ngày. Amen.
Tin mừng Ga 4: 5-42: Chúa Giêsu từ Giuđêa trở về Galilêa băng qua vùng dân ngọai Sychar xứ Samaria. Trời hè oi bức, Chúa Giêsu và các môn đệ ngồi nghỉ bên giếng Giacob....
Chúa Giêsu từ Giuđêa trở về Galilêa băng qua vùng dân ngọai Sychar xứ Samaria. Trời hè oi MC 3-A156
Chúa Giêsu từ Giuđêa trở về Galilêa băng qua vùng dân ngọai Sychar xứ Samaria.
Trời hè oi bức, Chúa Giêsu và các môn đệ ngồi nghỉ bên giếng Giacob.
Trong lúc các môn đệ đi mua thức ăn, thì một thiếu phụ trong làng ra giếng múc nước và đã gặp Đức Giêsu bên bờ giếng.
Bắt đầu câu chuyện chỉ là một việc xin nước uống bình thường, nhưng dần dần, đã chuyển hướng từ lãnh vực tự nhiên qua lãnh vực siêu nhiên theo một diễn tiến thật tuyệt vời:
Ban đầu Chúa Giêsu mở miệng xin chị cho mình nước uống
Tiếp đến Người cho chị biết có một thứ nước hễ uống vào thì không bao giờ khát nữa.
Chị tưởng đó là một thứ nước “phép” nên mở miệng xin Người “để hết khát và khỏi đến đây lấy nước nữa”
Cuối cùng Chúa Giêsu nói nước ấy chính là Người.
Có thể lúc đầu, thiếu phụ chỉ gặp gỡ vì tò mò và coi Chúa như một người khách như bao người khách khác. Nhưng sau đó nghe giọng nói cũng như cách ăn mặc, thiếu phụ nhận ra đó là một người Do Thái.
Như chúng ta biết người Do Thái và người Samaria có một mối thù truyền kiếp.
Họ cùng là con cháu Abraham, nhưng họ đã cắt đứt liên lạc cả hàng 400 năm rồi.
Người Samaria đã xây một đền thờ riêng tại Garidim đối địch lại với đền thờ Giêrusalem.
Từ đó chúng ta mới hiểu được tại sao người thiếu phụ lại hỏi Chúa Giêsu: “làm sao một người Do Thái như ông mà lại xin nước uống với một người phụ nữ Samaria được”.
Rồi như một sự thách thức chị nói “gầu thì không có, giếng thì lại sâu, làm sao mà có nước được”.
Nhưng rồi nghe lời hứa về một thứ nước kỳ lạ, tuy chưa hiểu nhưng cũng cố xin cho được thứ nước đó. Nước đó chính là Đức Giêsu.
Nếu câu chuyện chỉ dừng lại ở đây thì chưa thể làm chuyển biến cuộc đời của người thiếu phụ này. Chúa Giêsu đã đánh thẳng vào tim đen của chị, nên Người nói “về gọi chồng chị tới đây”.
Chính ở điểm này mà chị đã nhận ra Chúa Giêsu không chỉ là một ngôn sứ, nhưng còn là Đấng Messia mà mọi người đang trông đợi.
Thế là chị đã bỏ vò nước lại bên bờ giếng và đi loan báo cho cả dân làng.
Phải, bên bờ giếng, có một khách bộ hành mỏi mệt dừng chân. Cũng bên bờ giếng đó, một thiếu phụ đã để lại cái vò nước của mình, bởi vì từ nay nó chẳng giúp ích gì cho chị nữa. Cái vò nước bị bỏ quên đó sẽ mãi mãi nói với chúng ta về một người phụ nữ mà số phận đã từng bị giam hãm trong đủ thứ công việc hàng ngày, trong những quan hệ chẳng đi tới đâu với một lọat đời chồng, nay bỗng tìm thấy ý nghĩa cho đời mình qua cuộc gặp gỡ Đức Giêsu.
Người ta kể lại rằng một nhà thám hiểm nọ đi trong sa mạc, chuyển từ nơi này đến nơi kia, nhìn hết hướng nay đến hướng khác, ở đâu ông cũng chỉ thấy toàn cát với cát.
Ông lê gót trong tình trạng tuyệt vọng, tình cờ chân ông vấp phải một gốc cây khô.
Ông không còn đủ sức đứng lên, ông không còn đủ sức chiến đấu và cũng không còn một chút hy vọng sống sót nào.
Trong tư thế bất động ấy, nhà thám hiểm bỗng ý thức được về sự thinh lặng của sa mạc. Bốn bề chỉ có thinh lặng. Thình lình ông ngẩng đầu lên.
Trong thinh lặng tuyệt đối của sa mạc, ông bỗng nghe được như có tiếng thì thào yếu ớt vọng lại bên tai.
Dồn tất cả sự chú ý, nhà thám hiểm mới nhận ra được đó là tiếng chảy róc rách của một con suối từ xa vọng ại.
Như sống lại từ cõi chết, ông xác định nơi xuất phát của tiếng suối, ông dùng hết nguồn năng lực còn lại, ông cố gắng lê lết cho đến khi gặp được dòng suối.
Nhà thám hiểm đã gặp được con suối. Chính nước suối này đã cứu ông khỏi chết về phần xác. Nếu không có con suối này ông đã chết trong tuyệt vọng.
Còn người phụ nữ Samaria trong bài Tin Mừng hôm nay sống trong tội lỗi, nhưng đã gặp được nguồn nước là chính Chúa Giêsu.
Tin Mừng không cho chúng ta biết cuộc sống sau đó của chị ra sao, nhưng chúng ta có thể đóan chắc rằng, chị đã dứt khóat bỏ lại tất cả quá khứ cùng với vò nước bên bờ giếng để bắt đầu cho một cuộc sống mới, một cuộc sống được nuôi dưỡng bằng chính nguồn nước không bao giờ cạn, đó chính là Đức Giêsu, Đấng Messia mà mọi người đang trông đợi. Amen.
Chúa Giêsu đăng trình rao giảng, mỏi mệt ngồi bên bờ giếng Giacob. Chắc không phải vô ý MC 3-A157
Chúa Giêsu đăng trình rao giảng, mỏi mệt ngồi bên bờ giếng Giacob. Chắc không phải vô ý mà Ngài đã chọn nơi đó để nghỉ mệt. Ngài chờ đợi một người, một người mà Ngài sẽ ban cho một hồng ân lớn lao: “Con Người đến không phải để tìm những người công chính nhưng tìm người tội lỗi”. Ngài thực hiện đúng như lời Ngài nói.
Mười hai giờ trưa. Nắng như thiêu như đốt. Đường xa mệt mỏi, khát nước là chuyện thường. Nhưng đối với Ngài, mọi hoàn cảnh đều là những dịp để ban bố hồng ân.
Một người phụ nữ Samari đến múc nước. Chắc nàng không để ý gì đến người đàn ông Do Thái đang ngồi cạnh bờ giếng, vì người Do Thái không thuận thảo gì với người Samari. Người Do Thái xem người Samari là người lạc đạo và trong lịch sử có những cuộc va chạm đôi khi đẫm máu, vì thế giữa Do Thái và Samari có hố sâu ngăn cách càng ngày càng sâu. Chúa Giêsu gợi chuyện bằng cách xin nàng cho một chút nước uống.
Người phụ nữ ngạc nhiên vì có một người Do Thái hạ mình xin nàng chút nước uống. Câu chuyện bắt đầu bằng những lời không mấy thiện cảm: “Ông là người Do Thái mà lại xin tôi nước uống là thế nào?” Nghĩa là ông không là người thân mà là người thù, sao lại xin tôi chút nước? Ông không thấy nhục sao? Chúa Giêsu bắt đầu bước thêm một bước và gây ngạc nhiên: “Nếu chị nhận ra ân huệ Chúa ban…” Và như thế câu chuyện tiếp diễn nhờ đó Chúa Giêsu mở mắt cho chị thấy những gì chị không thể thấy. Ân huệ Chúa ban là đây: Một người khát nước và một người khao khát sự thật; từ nước giếng Chúa Giêsu cho thấy một thứ nước mang lại sự sống đời đời; Đền thờ trần gian và cách thờ phượng trong thần khí và sự thật.
Thời bấy giờ, Giêrusalem là trung tâm của Do Thái giáo, người Samari xây một đền thờ riêng trên núi Garidim. Việc thờ phượng được tập trung tại Giêrusalem. Chúa Giêsu cho thấy, “Nhưng giờ đã đến rồi – và chính là lúc này đây… chỉ thờ phượng Chúa Cha trong tinh thần và sự thật mà thôi”. Đền thờ sẽ là Ngài, không còn Đền thờ xây bằng đá nữa. Việc thờ phượng không chỉ tập trung vào một nơi chốn nào nữa nhưng là nơi Ngài.
Trong một cuộc đối thoại ngắn ngủi, Chúa Giêsu đã mạc khải cho người phụ nữ Samari nguồn sống mới, đã đổi mới tâm hồn đang lạc lõng của chị.
Người phụ nữ ấy chính là hình ảnh của mỗi người chúng ta. Phụ nữ ấy chỉ có sáu người chồng, chúng ta có bao nhiêu người yêu? Không chỉ là sáu mà là một khối: ích kỷ, kiêu căng, tham lam, hận thù, đam mê xác thịt, ý muốn thống trị… Không thể kể ra hết. Thế mà chúng ta cứ ung dung như không có vấn đề gì. Tâm hồn chúng ta quá quen với tội lỗi đến nỗi không còn thấy xốn xan hay khó chịu nữa, như người phụ nữ kia. Sáu đời chồng mà như không có chuyện gì.
Hãy đến bờ giếng Giacob, chúng ta sẽ gặp một người đang chờ đợi chúng ta.
Thời xa xưa, thời ông Giacob và Môsê, bờ giếng gần như là nơi hẹn hò. Giacob đến bờ giếng và gặp Rakhen và sau này cưới nàng; Môsê cũng đến bờ giếng ở xứ Mađian và đã gặp con gái thầy cả xứ đó và sau này đã cưới nàng.
Bờ giếng Giacob là nơi người phụ nữ Samari gặp Chúa và đã mở mắt thấy được giếng nước hằng sống, đã gặp được Đấng Mêsia, mà trong tâm hồn nàng vẫn mơ hồ nghĩ đến. Nàng đã khám phá ra người Do Thái đang đối thoại với nàng là ai và đã đạt đến niềm tin. Nàng đã nhìn nhận ông này là một vị ngôn sứ khi nói cho nàng biết mọi sự về quá khứ không mấy tốt đẹp của nàng. Nàng bắt sang một vấn đề khác, vấn đề thờ phượng. Tại sao đang nói về nước uống, nàng lại nói đến vấn đề thờ phượng? Tuy nàng là một phụ nữ lăng loàng, nhưng trong thâm tâm nàng vẫn ưu tư về vấn đề đạo đức. Theo tâm lý, những người sống trong hoàn cảnh bất hợp pháp, hay trong tội, thường không mấy khi muốn nói đến việc đạo đức, nhưng người phụ nữ này vẫn còn lòng đạo, vẫn khao khát một cái gì đó mà chính nàng không biết, vẫn còn ưu tư thao thức nào đó. Chúa Giêsu đã đến đáp ứng nhu cầu tâm linh của nàng, đã khơi lại trong lòng nàng ước mơ đạo đức đã lâu ngày ngủ yên. Ngài chính là Đấng không “dập tắt ngọn đèn còn leo lét, không bẻ gãy cây lau bị giập”. Ngài đến như một sự đón tiếp ân cần. Chúng ta có đón nhận Ngài và đối thoại với Ngài không?
Ngài sẽ dẫn chúng ta từ những thực tại trần gian đến những thực tại thiêng liêng như đối với người phụ nữ Samari. Ngài sẽ cho chúng ta hiểu chính mình và khuôn mặt thần linh của Ngài. Ngài sẽ nói cho chúng ta biết: “Đấng Mêsia, chính là tôi, người đang nói với chị đây”. Chúng ta đã từng nghe nói đến Đấng Cứu Thế, chính là Ngài, nhưng có lẽ chúng ta chỉ biết mà không tìm hiểu sâu hơn. Chúng ta không thấy Ngài là sự sống và là sự sống lại, là hiện thân của Chúa Cha, là Người Con Một đầy ân sủng và chân lý.
Ngài sẽ cho chúng ta tìm thấy mạch suối đem lại sự sống đời đời. Ngài sẽ dạy chúng ta thờ phượng Chúa Cha trong tinh thần và sự thật. Chúng ta sẽ không còn chạy theo những thần tượng khác. Chúng ta sẽ không còn khát thứ nước trần gian nữa. Chúng ta sẽ tin vào Ngài như người dân Samari, khi đến với Ngài. Họ nài xin Ngài ở lại với họ… Chính Ngài đã mời gọi tha thiết: “Hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng…” Phải, Ngài biết cuộc sống không dung thứ cho chúng ta, Ngài biết chúng ta đang khao khát hòa bình, khao khát tình thương… Hãy xin Ngài ở lại với chúng ta và dạy chúng ta yêu mến Chúa Cha, lấy ý Cha làm lương thực. Sống trong tình Cha như những đứa con yêu quý.
Người phụ nữ kia đã tìm được điều nàng đang mơ ước, tìm được Đấng Mêsia, “Đấng sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”. Nàng vui mừng chạy nhanh về trong làng, loan báo cho mọi người biết Đức Kitô đã đến thật rồi, và nhờ đó nhiều người Samari đã tin Ngài. Chúng ta đã tìm được Chúa chưa? Sao chúng ta không vui mừng?
Niềm vui của chúng ta ở đâu? Nơi trần thế, chúng ta tìm được những gì? Mọi sự sẽ qua đi. Các nền văn minh theo nhau đi vào đổ nát và quên lãng, còn chăng là một vài vết tích mà người ta cố gắng bảo vệ. Để làm gì? Để thỏa mãn một nhu cầu hoài cổ nào đó. Tương lai của thế giới này sẽ là gì? Chiến tranh, giết chóc, hận thù, tội ác… Còn gì nữa để con người hạnh phúc? Con người chỉ sống để làm khổ nhau thôi sao?
Chúa Giêsu đem đến một niềm vui luôn luôn mới. Niềm vui chính là Ngài, hạnh phúc chính là Ngài: “Đấng Mêsia là chính tôi, người đang nói với chị đây”. Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Chỉ nơi Ngài chúng ta mới thấy được ý nghĩa của cuộc sống. Vũ khí con người sản xuất chỉ đem lại cái chết. Chỉ có tình yêu mới đem lại hạnh phúc. Chính Ngài là Tình Yêu. Yêu mến Chúa, chính là hạnh phúc thật mà thôi.
Ngài luôn có mặt. Bên bờ giếng của linh hồn, Ngài đang ngồi chờ đợi. Chờ đợi để trao ban, trao ban chính bản thân Ngài làm của ăn. Của ăn này sẽ đưa chúng ta đi thật xa, đi vào thế giới của tình yêu.
Ăn lấy Ngài phải chăng là một niềm hạnh phúc lớn lao nhất cho những kẻ tin. Hãy đến, bàn tiệc vẫn luôn sẵn sàng đón tiếp, và niềm vui của chúng ta sẽ tràn đầy sung mãn: “hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”.
Bài Tin Mừng cho thấy một điều lạ là Đức Giêsu đi tới gặp một phụ nữ bên bờ giếng để xin MC 3-A158
Bài Tin Mừng cho thấy một điều lạ là Đức Giêsu đi tới gặp một phụ nữ bên bờ giếng để xin nước uống vì mõi mệt, vì khát nước. Sao Ngài lại xin trong khi Ngài đang có? Ngài đang có nước, mà lại nước hằng sống! Nếu Ngài có nước hằng sống, thì cứ lấy ra mà uống đi, cần gì phải xin?
Người ta vẫn nghĩ rằng Chúa Giêsu rất khôn ngoan về khoa sư phạm, Ngài chỉ tìm cách gợi chuyện để rao giảng mà thôi. Và kết quả là rất thành công, khiến cho cả làng ra đón tiếp và tin Ngài.
Hãy xem, Chúa có cho nước hằng sống không? Người phụ nữ đã xin: "Thưa ông, xin cho tôi nước ấy, để tôi khỏi chết khát và khỏi phải đến đây lấy nước". Nhưng Chúa Giêsu lại nói lãng qua chuyện khác: "Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây". Rồi sau đó Chúa Giêsu lại nói đến chuyện thờ Thiên Chúa đích thực là trong Thần khí và Sự Thật.
Tuy nhiên, chuyện lạ lùng đã xảy ra: người phụ nữ nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế và sau đó cả làng đều tin.
Vậy thì nước hằng sống mà Chúa Giêsu đã ban cho họ chính là Đức Tin. Đó là tin rằng Ngài là Đấng Cứu Thế. Chúa đã cho người phụ nữ và cả làng ơn đức tin, cũng là nước hằng sống mà họ muốn có.
Tin Ngài là Đấng Cứu Thế lại liên hệ sâu xa đến việc thờ phượng Thiên Chúa. Rõ ràng là khi tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng mà Thiên Chúa Cha ban cho chúng ta vì yêu thương, thì lúc đó chúng ta thực hiện sự tôn thờ, kính mến Thiên Chúa. Khi chúng ta tin vào Đức Giêsu, cùng với cả cuộc đời Ngài vâng phục là chết trên thập giá vì tình yêu thương, và chúng ta sống theo gương Ngài, thì chính lúc đó chúng ta tôn thờ Thiên Chúa.
Hôm nay Chúa Giêsu nói, tôn thờ Thiên Chúa đích thực không phải sự tôn thờ trên núi này hay trên núi nọ mà là trong Thần Khí và Sự Thật. Chúng ta vẫn thường nghĩ rằng đơn thuần là thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý, hiểu như là trong tinh thần thì khác với thể xác, trong chân lý thì khác với trong gian dối. Các nhà Kinh Thánh thấy rằng, nó không đơn giản như vậy, vì tác giả Tin Mừng Thánh Gioan viết rất sâu xa.
Đó là sự thờ phượng Thiên Chúa trong Chúa Thánh Thần và Chúa Giêsu Trong Sự Thật cũng là trong Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chính là Sự Thật, như có lần Ngài nói: Ta là Đường là Sự Thật và là Sự Sống. Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời. Cả mầu nhiệm Nhập thể cứu độ cũng là Sự Thật, Sự Thật cứu độ, cần phải tin để được sống đời đời.
Trong Thần Khí hay trong Tinh Thần cũng có nghĩa là trong Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta tin và sống đức tin mạnh mẽ. Chính nhờ Chúa Thánh Thần ban ơn để ta tin vào Sự Thật là Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa. Tin vào Chúa Giêsu, cũng có nghĩa là tin Thiên Chúa Cha ban cho nhân loại chính Con Một Ngài, vì yêu thương thế gian.
Để dễ hiểu, hãy nghĩ đến sự thờ phượng Chúa trong Thánh Lễ. Cử hành Thánh Lễ cũng là cử hành hiến tế của Đức Giêsu lên Thiên Chúa Cha. Đó là sự thờ phượng của Chúa Giêsu. Ngài, nhờ tay linh mục dâng hiến tế, thực hiện trong Chúa Thánh Thần, Đấng Thánh hóa lễ vật. Chúng ta dự lễ, có nghĩa chúng ta được dự phần thờ phượng Thiên Chúa trong Chúa Giêsu, nhờ công nghiệp vô cùng quý giá của Chúa Giêsu, như lời đọc của linh mục chủ tế "chính nhờ Người, với Người và trong Người mà mọi chúc tụng và vinh quang đều quy về Chúa là Cha toàn năng trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời'.
Chính đức tin và sự thờ phượng trong Chúa Giêsu và trong Chúa Thánh Thần đem lại cho ta nước hằng sống, tức là sự sống đời đời.
Tuy nhiên đức tin với kiểu chỉ nói "lạy Chúa", "lạy Chúa" mà không thực hiện Lời Chúa thì cũng không mang lại được sự sống đời đời. Đức tin phải thể hiện bằng việc làm, bằng cuộc sống.
Đức tin của người phụ nữ Samaria ít nhất cũng thấy được là chị đã làm chứng cho Đức Giêsu cho những người Samari khác trong thành. Chị đã thuyết phục họ bỏ qua đi những kỳ thị ghen ghét lẫn nhau để đến với Đức Giêsu và tin Ngài là Đấng Cứu Thế.
Người phụ nữ cũng như dân Samaria thừa biết “người Do Thái không được giao tiếp với người Samaria”. Vậy mà khi nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, họ đã vượt qua “hố sâu ngăn cách” ấy cũng như vượt trên "tự ái dân tộc” để đến gặp Đức Giêsu và xin Ngài ở lại với mình.
Trong thực tế đời sống, không dễ chút nào trong việc vượt qua những rào cản của tự ái của mặc cảm của sự cách biệt để ta đến với người anh em để sống yêu thương vâng phục như Đức Kitô; không dễ chút nào trong việc thoát khỏi xiềng xích trói buộc của tội lỗi mà trở về cùng Chúa.
Chính khi gặp gỡ Đức Kitô, sống trong Đức Kitô, trong Chúa Thánh Thần, thì chúng mới có khả năng dẹp bỏ những rào cản những khó khăn này. Nói một cách khác, trong mọi hoàn cảnh người Kitô hữu phải liên kết với Chúa Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần để sống đức tin, để thờ phượng Thiên Chúa. Điều này cũng có nghĩa là chúng ta đang thờ phượng Chúa cách đích thực, trong Tinh Thần và Chân Lý.
(Suy Niệm Chú Giải Lời Chúa của Lm. Inhaxio Hồ Thông)
Trong chu trình Mùa Chay, Giáo Hội dành Chúa Nhật III và Chúa Nhật IV Mùa Chay cho bí MC 3-A159
Trong chu trình Mùa Chay, Giáo Hội dành Chúa Nhật III và Chúa Nhật IV Mùa Chay cho bí tích Thánh Tẩy, vì thế các Bài Đọc được chọn lựa nhằm chuẩn bị cho tân tòng đón nhận Thánh Tẩy vào đêm vọng Phục Sinh. Như vậy, vào Chúa Nhật III Mùa Chay này, chủ đề nổi bật là “nước hằng sống”, nguồn mạch cứu độ.
Xh 17: 3-7
Suốt cuộc hành trình trong hoang địa, dân Do thái phải chịu cảnh đói khát. Thiên Chúa đã ban cho họ nước mát trong tuôn trào từ tảng đá. Qua đó, Thiên Chúa tỏ cho dân Ngài biết rằng Ngài vừa là Đá Tảng vừa là Nguồn Mạch luôn luôn tuôn trào sự sống và ơn cứu độ.
Rm 5: 1-2; 5-8
Thánh Phao-lô nói cho tín hữu Rô-ma biết rằng chính nhờ Đức Tin mà họ trở nên công chính và vui hưởng niềm hy vọng lớn lao, đó là một ngày kia sẽ được dự phần vào vinh quang của chính Thiên Chúa. Đức cậy này có một nền tảng vững chắc bởi vì nó cắm rễ sâu vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Ga 4: 5-42
Tin Mừng tường thuật cuộc đối thoại của Đức Giê-su với người phụ nữ Sa-ma-ri ở bên bờ giếng Gia-cóp. Đức Giê-su tự đồng hóa mình với nguồn nước hằng sống đem lại sự sống đời đời.
BÀI ĐỌC I (Xh 17: 3-7)
Nhan đề của sách Xuất Hành tự nó nói lên nội dung của sách: “cuộc xuất hành khỏi đất Ai-cập”. Chương 17 này tường thuật một loạt những thử thách mà dân Do thái đã trải qua trong suốt cuộc hành trình gian khổ băng qua hoang địa: cái đói, cái khát, chiến tranh, từ đó họ kêu trách, gây gổ và nổi loạn.
Đoạn văn được trích dẫn hôm nay tường thuật dân Do thái trải qua cuộc thử thách về cái khát, và từ đó nẩy sinh sự nghi nan ngờ vực về sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài. Đối lại, Thiên Chúa đáp trả nhu cầu của dân. Vì thế biến cố này bao gồm hai bài học.
1. Qua việc ban nước hằng sống, Thiên Chúa tỏ mình ra là Đấng cứu độ
“Ông Mô-sê đập cây gậy vào tảng đá. Từ tảng đá, nước sẽ chảy tràn ra cho dân uống”. Đây không là một phép lạ từ hư không (ex nihilo). Chính Đức Giê-su cũng sẽ không thực hiện bất kỳ phép lạ từ hư không nào. Ngài luôn luôn sử dụng chất liệu tự nhiên: từ nước ở Ca-na, Ngài biến thành rượu; từ năm chiếc bánh và hai con cá Ngài nuôi một đám đông dân chúng. Cũng vậy trong trường hợp của ông Mô-sê, từ đá tảng Thiên Chúa cho nước mát trong chảy tràn ra cho dân chúng uống.
Cây gậy mà ông Mô-sê sử dụng là cây gậy mà Thiên Chúa đã ban cho ông để chiến thắng các cây gậy của các nhà phù thủy của Pha-ra-ô (Xh 7: 11-12). Việc cây gậy thần hay chiếc đũa thần làm nên những điềm thiêng dấu lạ chẳng có gì đáng ngạc nhiên đối với những chuyện tích nhân gian, nhưng điều quan trọng chính là Thiên Chúa, qua người đại diện của Ngài, cho thấy quyền năng của Ngài hơn các quyền năng của các vị thần linh Ai-cập, qua các vị pháp sư này. Thật ý nghĩa biết bao ở Ds 20: 7-8, câu chuyện này được đọc lại, thay vì cây gậy của ông Mô-sê, chính là “lời của ông” khiến nước phun ra từ tảng đá: “Đức Chúa phán với ông Mô-sê: ‘Hãy cầm lấy cây gậy, và cùng với A-ha-ron, anh ngươi, triệu tập cộng đồng lại. Trước mặt chúng, các ngươi sẽ nói với tảng đá và chúng sẽ cho nước…”.
Ân ban nước trong sa mạc Rơ-phi-đim được ghi trong sách Xuất Hành này là một hành động cứu độ. Thiên Chúa ban ơn cứu độ. Vì thế, trong Kinh Thánh, “nước” không chỉ là một yếu tố tự nhiên đảm bảo sự sinh tồn, nhưng còn hổ trợ cho một chủ đề huyền nhiệm và biểu tượng: hình ảnh về sự sống tâm linh:
“Hai tay cầu Chúa giơ lên,
hồn con khát Chúa như miền đất khô” (Tv 143: 6)
hay:
“Như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước trong,
hồn con cũng trong mong được gần Ngài, lạy Chúa” (Tv 42: 2).
Tảng đá phun trào nước mát trong cho dân chúng uống ở Rơ-phi-lim mặc lấy cũng một ý nghĩa này. Truyền thống này vang dội trong thư thứ nhất của thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-rin-tô: Cha ông chúng ta “cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô” (1Cr 10: 4).
2. Kiên vững trong thử thách
Ông Mô-sê đã phải hứng chịu cơn thịnh nộ của dân chúng. Họ sợ hãi trước một cái chết thảm khốc: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai cập để làm gì? Có phải để cho chúng tôi, con cái chúng tôi, và súc vật của chúng tôi bị chết khát hay không?”. Đoạn, sự nghi nan ngờ vực trở thành lời nói phạm thượng: “Có Chúa ở giữa chúng tôi hay không?”.
Trước cuộc nổi loạn của dân chúng, ông Mô-sê sợ hãi kêu lên cùng Chúa: “Tôi phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ còn chút nữa là họ lấy đá ném chết tôi!”. Ông Mô-sê chấp nhận đánh cược niềm tin của mình; Thiên Chúa phục hồi uy tín cho ông trước mắt mọi người khi cho ông thực hiện ân ban của Ngài trước sự chứng kiến của một số kỳ mục mà ông dẫn theo đến tảng đá.
Chính nhờ niềm tin mà ông Mô-sê đã vượt qua cơn nguy khốn này. Ông tin rằng không gì mà Thiên Chúa không thể làm được. Hơn nữa, ông đặt trọn niềm tin tưởng vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa, Đấng, bất chấp những cằn nhằn gây gổ của dân Ngài, đã không từ chối ra tay cứu giúp họ. Đức tin không thể tương hợp với sự tuyệt vọng.
Việc dân Do thái thách thức và cằn nhằn gây gổ ở Ma-xa và Mê-ri-ba được sách Đệ Nhị Luật nêu lên: “Anh em đừng thách thức Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, như anh em đã thách thức ở Ma-xa” (Đnl 6: 16). Khi chịu thử thách trong hoang địa, Đức Giê-su đáp lại cơn cám dỗ thứ hai của Xa-tan cũng bằng chính những lời này: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.” (Mt 4: 7).
BÀI ĐỌC II (Rm 5: 1-2, 5-8)
Thần học về ơn công chính hóa là phần cốt yếu của thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-ma. Trong phần đạo lý (1: 16-11: 36), thánh Phao-lô nói cho chúng ta biết rằng chúng ta được trở nên công chính nhờ tin vào Đức Ki-tô. Phần đạo lý này được khai triển thành hai phần: phần thứ nhất (1: 18-4: 25) trong đó thánh Phao-lô chứng minh rằng ơn công chính hóa đạt được nhờ đức tin và phần thứ hai (5: 1-11: 36) trong đó thánh nhân sẽ bàn đến những hoa trái mà ơn công chính hóa sản sinh ở nơi những ai được trở nên công chính.
Đoạn trích hôm nay là phần đầu chương 5, chương đóng chức năng như bản lề của phần đạo lý này. Trong các chương trước, thánh Phao-lô đã trình bày cho chúng ta biết rằng chúng ta được cứu độ và trở nên công chính nhờ đức tin chứ không nhờ công này việc nọ. Bây giờ thánh nhân tiếp tục giải thích những hoa trái của đời sống mới. Hoa quả đầu tiên là “sống hòa hợp với Thiên Chúa” và “niềm hy vọng vào vinh quang tương lai”.
1. Sống hòa hợp với Thiên Chúa (5: 1-2)
Được trở nên công chính, con người lại có thể sống trong mối thân tình với Thiên Chúa. Tội lỗi kéo theo sự thù địch giữa con người với Thiên Chúa, trong khi ơn công chính hóa chấm dứt tình trạng thù địch này. Con người sống trong tình trạng giao hòa với Đấng Tạo Hóa của mình. Những mối liên hệ giữa thụ tạo và Tạo Hóa được bình thường hóa. Đức Giê-su Ki-tô là Đấng trung gian của cuộc sống hoà hợp này. Để nhắc lại vai trò trung gian của Đức Giê-su, thánh Phao-lô cậy nhờ đến hình ảnh tế tự. Như một người tiến vào cung thánh nhờ chu toàn vài điều kiện, cũng vậy, hiện nay Đức Giê-su, Đấng cứu độ chúng ta, mở lối cho chúng ta vào để chúng ta được vui hưởng ân sủng của Thiên Chúa.
Vì thế, ân sủng không gì khác hơn là hành động của Thiên Chúa, nhờ đó con người được thụ hưởng ân này đến ân khác. Con người chỉ có thể tự hào và hoan hỉ vì những gì Thiên Chúa đã làm cho mình. Cuộc sống hòa hợp với Thiên Chúa mà con người được thụ hưởng hôm nay bảo đảm cho họ rằng ngày mai họ sẽ dự phần vào vinh quang Thiên Chúa, vào chính cuộc sống của Thiên Chúa. Ân ban bình an là tham dự trước vinh quang thiên quốc, ân ban này là bảo chứng cho cuộc sống thần linh mà một ngày kia họ sẽ thụ hưởng viên mãn.
2. Niềm hy vọng vào vinh quang tương lai (5: 5-8)
Thánh Phao-lô nêu lên hai lý do để khẳng định rằng niềm hy vọng vào vinh quang tương lai là có cơ sở vững chắc:
A -Ân ban Thánh Thần (5: 3-5)
Được công chính hóa, chúng ta không chỉ vui mừng vì đang được sống hòa hợp với Thiên Chúa và hy vọng về phần thưởng ngày mai, cho dù hiện nay phải gặp thấy niềm hoan hỉ trong những gian truân thử thách, vì “ai quen gặp gian truân thì quen chịu đựng; ai quen chịu đựng thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là người trung kiên, thì có quyền trông cậy” (5: 4). Điều quan trọng nhất chính là Thiên Chúa đang hoạt động để dẫn đưa chúng ta đến cứu cánh tối hậu mà Ngài dành sẵn cho chúng ta. “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta”.
B -Hiến dâng Con Một của Người (5: 6-8)
Thánh Phao-lô nêu ra một bằng chứng khác để khẳng định rằng niềm cậy trông của chúng ta là có cơ sở vững chắc, đó là Đức Giê-su đã chết để cứu độ chúng ta. Tình yêu này còn lớn lao hơn, bởi vì thật khó gặp thấy một ai sẵn sàng hiến dâng mạng sống mình cho một người lương thiện, ấy vậy, Đức Giê-su đã chết cho chúng ta trong khi chúng ta còn là hạng phản nghịch cùng Thiên Chúa. Như vậy, không chỉ Chúa Con, nhưng cũng Chúa Cha đã bày tỏ tình yêu của mình trong cái chết của Đức Ki-tô.
TIN MỪNG (Ga 4: 5-42)
Phần mở đầu (4: 5-6) cho chúng ta biết cuộc hành trình của Đức Giê-su từ miền Giu-đê trở lại Ga-li-lê băng qua Sa-ma-ri, thời gian: “khoảng mười hai giờ trưa”, giờ nóng nhất trong ngày, và nơi diễn ra những cuộc đối thoại của Ngài với người phụ nữ xứ Sa-ma-ri (4: 7-26), với các môn đệ Ngài (4: 27-38) và sau cùng với dân Sa-ma-ri (4: 39-42) là bên “giếng của ông Gia-cóp”.
1. Cuộc đối thoại của Đức Giê-su với người phụ nữ Sa-ma-ri (4: 7-26)
Trong khi các môn đệ vào thành để mua thức ăn để Thầy lại một mình vừa đói vừa khát bên bờ giếng Gia-cóp, thì có một người phụ nữ xứ Sa-ma-ri đến múc nước. Vì thế, Ngài ngỏ lời xin chị: “Chị cho tôi xin chút nước uống” (4: 7), nhưng gặp phải phản ứng không mấy thuận lợi từ phía người phụ nữ qua câu trả lời của chị: “Ông là người Do thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao?” (4: 9). Cuộc đối thoại khởi đi từ đó. Phải nhấn mạnh rằng cuộc đối thoại phát xuất từ sáng kiến của Đức Giê-su. Chính Ngài là người đầu tiên ngỏ lời bắt chuyện với người phụ nữ để dẫn chị vào trong mầu nhiệm của Ngài.
Trong cuộc đối thoại, những trao đổi giữa Đức Giê-su và người phụ nữ đề cập đến hai chủ đề quan trọng: nước hằng sống (4: 10-14) và thờ phượng đích thật (4: 20-26). Chen vào giữa hai chủ đề này là một cuộc trao đổi ngắn về đời tư của người phụ nữ (4: 15-19) như một nhịp cầu nối giữa hai chủ đề này.
A- Nước hằng sống (4: 10-14)
Trong câu trả lời của mình, người phụ nữ nêu lên hai lý do để từ chối nói chuyện với Đức Giê-su: trước hết, mối thù truyền kiếp giữa hai dân tộc này như lời giải thích của người kể chuyện: “Quả thế, người Do thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri” (4: 9); thứ nữa, phong tục tập quán vào thời ấy không cho phép người phụ nữ được nói chuyện với một người đàn ông, nhất ở nơi hoang vắng.
Nhưng Đức Giê-su muốn phá đổ bức tường ngăn cách giữa hai dân tộc này cũng như giữa nam và nữ, để mở ra cuộc đối thoại với chị: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người đang nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống” (4: 10). Đức Giê-su lợi dụng biểu tượng phong phú về “nước hằng sống” để chị có thể khám phá chân tính của Đấng không chỉ là ân huệ Thiên Chúa ban, nhưng còn là Thiên Chúa đích thân, Đấng đến từ trên cao (Ga 3: 3), từ trời (Ga 3: 31), nhờ đó chị có thể đón nhận lời của Ngài, lời ban sự sống.
Với câu trả lời này, vai trò của Đức Giê-su và của người phụ nữ đảo ngược: giếng ban nước mát trong vẫn ở đó, nhưng nhường chỗ cho sự hiện diện của Đức Giê-su, Đấng ban “nước hằng sống”. Cặp đối lập: “Ông, người Do thái” và “tôi, người phụ nữ Sa-ma-ri” vẫn còn đó, nhưng bị vượt qua bởi “Đấng hiện thân ân huệ Thiên Chúa”. Câu trả lời của Đức Giê-su ở thể điều kiện, nghĩa là lời đề nghị, hay lời mời gọi. Nếu chị chấp nhận điều kiện, lời hứa sẽ trở thành hiện thực.
Tuy nhiên, người phụ nữ chưa nắm bắt thực tại thần linh của biểu tượng, vì thế chị vẫn cứ bám vào thực tại vật chất của giếng Gia-cóp: “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính người đã uống giếng nước này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy” (4: 11-12). Đây là phương pháp “ngộ nhận” của Tin Mừng Gioan được dùng hai lần: trong cuộc đối thoại với người phụ nữ về “nước hằng sống” và trong cuộc đối thoại với các môn đệ về “lương thực đích thật”. Điều này giúp cho Chúa Giê-su khai triển sâu xa hơn điều Ngài muốn người đối thoại đạt đến.
Vì thế, Chúa Giê-su xác định rõ ra sự khác biệt giữa nước mà giếng Gia-cóp ban cho và nước mà Ngài ban cho: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (4: 13-14). Trong câu 13 nói về nước mà giếng Gia-cóp ban cho, kiểu nói: “Ai uống nước này, sẽ lại khát” đã được sách Huấn Ca sử dụng: “Ai ăn Ta sẽ còn đói, ai uống Ta sẽ còn khát” (Hc 24: 21) để diễn tả người nào đã nếm lời Khôn Ngoan, sẽ ao ước được nếm mãi không thôi. Trong câu 14a nói về nước mà Ngài ban cho, kiểu nói: “Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa” đã được ngôn sứ I-sai-a sử dụng: “Họ sẽ không còn đói và khát nữa” (Is 49: 10-13) để loan báo thời thiên sai và hoàn vũ. Như vậy Đức Giê-su khẳng định rằng nước mà Ngài ban cho không thuộc trật tự vật chất, nhưng thuộc trật tự biểu tượng: Ngài tỏ mình ra như “ân huệ” tuyệt mức mà Thiên Chúa ban cho con người (Ga 3: 16-17). Khi gặp gỡ Ngài, người ta không đơn giản gặp bậc tôn sư dạy những lời khôn ngoan xuất phát từ Mặc Khải, nhưng chính nguồn Mặc Khải. Đức Giê-su là hiện thân Mặc Khải (Ga1: 14). Đó là lý do tại sao Ngài mời người đối thoại hãy tiếp nhận và sở hữu lời Ngài để lời Ngài trở nên nguồn sống đời đời trong lòng của mình: “Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (4: 14b).
B -Đời tư của người phụ nữ (4: 15-18)
Chủ đề “nước hằng sống” xem ra đến hồi kết thúc với lời đáp trả của chị: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước” (4: 15). Như vậy, với lời đáp trả này, chị chấp nhận một sự hoán chuyển vai trò giữa “người xin” và “người cho” như lời đề nghị của Chúa Giê-su ngay từ đầu câu chuyện (3: 10). Nhưng rõ ràng người phụ nữ này chưa đạt đến niềm tin vào Ngài như Chúa Giê-su muốn, vì thế Ngài muốn câu chuyện được tiếp tục để dẫn chị đi xa hơn nữa.
Để thoát khỏi thế bế tắc, Đức Giê-su chứng tỏ cho chị thấy là Ngài biết mọi điều ẩn kín về chị như Ngài đã làm đối với ông Na-tha-na-en. Cho dù đã không đạt được lời tuyên xưng tròn đầy như Na-tha-na-en (1: 49), chị nhận ra rằng người biết đời tư của chị phải là một ngôn sứ. Khởi đi từ đó, chị bắt đầu cởi mở tấm lòng mình cho Ngài. Như vậy phân đoạn này đóng vai trò chuyển tiếp giữa chủ đề “nước hằng sống” đi trước và chủ đề “thờ phượng đích thật” theo sau.
C -Thờ phượng đích thật (4: 19-26)
Từ đó, người phụ nữ Sa-ma-ri nêu lên với Ngài một vấn đề then chốt, một vấn đề ám ảnh tâm thức tôn giáo của chị: chân lý thuộc về phía nào, về phía tín đồ phụng thờ Thiên Chúa ở đền thờ Ga-ri-zim hay về phía tín đồ phụng thờ Ngài ở đền thờ Giê-ru-sa-lem? Câu trả lời của Chúa Giê-su không là người này hay kẻ kia, “nhưng đến giờ – và chính là lúc này – những người thờ phượng đích thật sẽ thờ phượng Chúa Cha theo thần khí và sự thật” (4: 23).
Cụm từ “thần khí và sự thật” theo “kiểu thế đôi” đặc trưng của Tin Mừng Gioan theo đó chữ thứ hai bổ túc cho chữ thứ nhất, vì thế phải được hiểu là “Thần Khí sự thật”, tức là Đấng mà Đức Giê-su sẽ nói với các môn đệ trong bữa Tiệc Ly (Ga 14: 17; 15: 26; 16: 13) và là Đấng mà Ngài sẽ hứa ban cho họ sau khi Ngài sống lại (Ga 7: 37-39 ; 20: 22). Như vậy, thờ phượng đích thật là thờ phượng được nuôi dưỡng bằng Mặc Khải của Đức Giê-su dưới tác động của Thần Khí sự thật, Đấng “sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (14: 26) và “sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (16: 13). Tác động của Thần khí sự thật cốt là làm cho sự thật của Đức Giê-su hiện diện trong chúng ta và giúp chúng ta hiểu biết đích thật về Ngài. Vì thế, thờ phượng đích thật không còn quy chiếu đến một đền thờ do người phàm xây dựng, nhưng đến Mặc Khải của Chúa Giê-su dưới tác động của Chúa Thánh Thần, qua đó Chúa Cha bày tỏ tận mức tình yêu của Ngài cho nhân loại. Đó sẽ là thờ phượng đích thật, nét đặc trưng của thời đại mới.
Trên bình diện cấu trúc và ngữ nghĩa, câu trả lời của người phụ nữ: “tôi biết” ở 4:25 là lời đáp trả tương ứng với lời đề nghị của Đức Giê-su ngay đầu câu chuyện: “nếu chị biết” ở 4:10. Như vậy cuộc đối thoại khởi đi từ lời mời gọi khám phá chân tính của “Đấng đang nói với chị” (4:10) và hoàn tất ở nơi việc Ngài tự mặc khải mình ra: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây” (4: 26).
2. Cuộc nói chuyện của Đức Giê-su với các môn đệ (4: 31-38)
Có một cuộc hoán chuyển vai trò của những người đối thoại với Chúa Giê-su. Trước đó, các môn đệ đi vào thành phố mua thức ăn để nhường không gian và thời gian cho người phụ nữ Sa-ma-ri từ thành phố đến múc nước bước vào cuộc đối thoại với Chúa Giê-su. Bây giờ, người phụ nữ Sa-ma-ri trở về thành phố để nhường không gian và thời gian cho các môn đệ từ thành phố trở về bước vào cuộc đối thoại với Thầy.
Ở giữa lòng lịch sử niềm tin của dân Sa-ma-ri xảy ra một cuộc đối thoại của Đức Giê-su với các môn đệ của Ngài (4: 31-38). Cuộc đối thoại này là dịp để Đức Giê-su giải thích không chỉ cuộc đối thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri và việc dân Sa-ma-ri đến với Ngài, nhưng cũng sứ mạng của Ngài và sứ mạng của các môn đệ Ngài. Cuộc đối thoại của Đức Giê-su với các môn đệ được dàn dựng như bức tranh bộ đôi: ở tiền cảnh, dân Sa-ma-ri đang trên đường đến với Ngài vì lời loan báo của người phụ nữ, trong khi ở hậu cảnh, Đức Giê-su vẫn ngồi bên bờ giếng và nói chuyện với các môn đệ về ý nghĩa của những gì đã và đang xảy ra.
Trong cuộc đối thoại, những trao đổi giữa Đức Giê-su với các môn đệ đề cập đến hai chủ đề quan trọng: “lương thực” (4: 31-34) và “sứ vụ” (4: 37-38). Chen vào giữa hai chủ đề này là một cuộc trao đổi ngắn về “mùa gặt” (4: 35-36) như một nhịp cầu nối giữa hai chủ đề này.
A -Lương thực (4: 31-34)
Chủ đề “lương thực” là một bước tiến giúp hiểu mầu nhiệm của Đức Giê-su so với chủ đề “nước hằng sống” trước đó. Người phụ nữ Sa-ma-ri đã ngộ nhận ý nghĩa “nước hằng sống” mà Đức Giê-su nói với chị như thế nào, thì các môn đệ ngộ nhận ý nghĩa “lương thực” mà Chúa nói với họ cũng như thế khi họ hỏi nhau: “Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?” (4: 33).
Theo Tin Mừng Nhất Lãm, Đức Giê-su đã đáp trả Tên Thử Thách muốn khai thác cái đói vật chất của Ngài trong hoang địa: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra” (Mt 4: 4), theo đó lương thực nuôi sống Đức Giê-su không chỉ cơm bánh vật chất nhưng còn là Lời Thiên Chúa. Theo Tin Mừng Gioan, lời đáp trả của Ngài còn triệt để hơn: lương thực duy nhất nuôi sống Ngài là “thực hiện ý muốn của Cha, chính là hoàn tất công trình của Người” (4: 34).
Khi đối chiếu lời đáp trả của Đức Giê-su ở đây: “Thực hiện ý muốn của Cha, chính là hoàn tất công trình của Người” (4: 34) với lời nguyện hiến tế của Ngài: “Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao phó cho con làm” (17: 4) và với lời nói sau cùng của Ngài trên thập giá: “Thế là đã hoàn tất”(19: 30), các nhà chú giải đều nhận định rằng “công việc” mà trọn cuộc đời Đức Giê-su theo đuổi trên trần gian cho đến khi “hoàn tất” đó là kế hoạch cứu độ mà Chúa Cha đã khởi xướng. Nói cách khác, ý muốn của Chúa Cha được hoàn thành ở nơi công trình của Chúa Con, như Chúa Giê-su nói với người Do thái: “Nếu tôi không làm các việc của Cha tôi, thì các ông đừng tin tôi. Còn nếu tôi làm các việc đó, thì dù các ông không tin tôi, ít ra cũng tin các việc đó. Như vậy các ông sẽ biết và ngày càng biết thêm rằng: Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha” (11: 37-38). Như vậy, “thực hiện ý muốn của Cha” không cốt chỉ thực hiện một sứ vụ đúng thời đúng buổi, nhưng theo đuổi trọn một cuộc đời cho đến lúc hoàn tất trên Thập Giá.
B -Mùa gặt (3: 35-36)
Đức Giê-su dùng hình ảnh “lương thực” để diễn tả sứ mạng của Ngài hiệp nhất với ý muốn của Cha Ngài cho đến mức cả hai nên một lòng một ý. Những câu tiếp theo (4: 35-36) sẽ soi sáng sứ mạng của Ngài bằng hình ảnh khác, hình ảnh “mùa gặt”.
Mới nhìn thoáng qua, có một mối liên hệ giữa hình ảnh “lương thực” và hình ảnh “mùa gặt”. Nếu lương thực là thành quả của mùa gặt, thì mùa gặt là thời gian sau cùng của một tiến trình khởi đi từ gieo giống. Tương tự như vậy, công việc của mỗi vụ mùa bắt đầu với “người gieo” và hoàn tất với “người gặt”.
Đức Giê-su lưu ý các môn đệ: “Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt sao?” (4: 35), lời này rõ ràng ám chỉ đến mùa gặt chưa đến, vì câu trả lời được mong đợi phải là: “Vâng, còn bốn tháng nữa sẽ đến mùa gặt”. Quả thật, đây là khoảng thời gian giữa “gieo” và “gặt” ở miền đất Pa-lét-tin (Am 4: 7). Nhưng lời mời gọi tiếp theo: “Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái!” (4: 35) đưa các môn đệ vào bình diện khác, từ bình diện mùa gặt vật chất sang bình diện mùa gặt biểu tượng, theo đó mùa gặt không còn phải đợi cho đến bốn tháng nữa. Đức Giê-su chỉ cho các môn đệ cánh đồng lúa chung quanh còn bốn tháng nữa sẽ đến mùa gặt để mời gọi họ vươn tầm nhìn cao hơn: đồng lúa chín vàng đang chờ ngày thu hoạch đó chính là dân Sa-ma-ri đang trên đường đến với Ngài.
Trong khi truyền thống Nhất Lãm nhấn mạnh mùa gặt dưới khía cạnh án phạt: “Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi” (Mt 13: 30, 40), thì Tin Mừng Gioan nhấn mạnh mùa gặt dưới khía cạnh niềm vui: “Cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng” (Ga 4: 36b). Truyền thống Cựu Ước cũng loan báo rồi vào thời Thiên Sai không còn khoảng cách giữa người gieo với kẻ gặt: “Này đây sắp đến những ngày thợ cày nối gót thợ gặt, kẻ đạp nho tiếp nối bước người gieo giống” (Am 9: 13; Lv 26: 5). Trong bối cảnh cuộc gặp gỡ của Đức Giê-su với dân Sa-ma-ri, chúng ta có thể nghĩ rằng Đức Giê-su ám chỉ đến cuộc quy tụ của dân Sa-ma-ri chung quanh Ngài như niềm vui của mùa gặt thời Thiên Sai (4: 39-42).
C -Sứ vụ (4: 37-38)
Xét về phương diện hình thức, có một sự liên tục giữa đề tài mùa gặt đi trước (4: 35-36) và đề tài sứ vụ theo sau (4: 37-38). Trước hết, liên từ: “Thật vậy” ở đầu câu 37 tiêu biểu Tin Mừng Gioan, khẳng định những điều đi trước, đồng thời khai triển những điều theo sau như nhân với quả (x. Ga 9: 30; 13: 35; 15: 8). Quả thật, qua câu tục ngữ: “kẻ này gieo, người kia gặt”, việc sai các môn đệ ra đi thi hành sứ vụ như những thợ gặt khai thác cùng một hình ảnh “mùa gặt” trước đây. Nhưng nếu 4: 36b hiệp nhất “cả người gieo lẫn kẻ gặt”, thì 4: 37 lại phân biệt “kẻ này gieo, người kia gặt”.
Chính trên nền tảng của sự phân biệt này mà chủ đề sứ vụ của các môn đệ như những thợ gặt được khai triển: “Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả; còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ” (4: 38). Câu nói trầm buồn này ám chỉ cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Ngài. Nhờ sự nhọc mệt vất vả của Ngài, mùa thu hoạch sẽ là ơn cứu độ cho con người. Như vậy, cuộc Khổ Nạn của Đức Ki-tô đóng khung toàn bộ câu chuyện lớn lao này: cái khát của Ngài bên bờ giếng Gia-cóp loan báo một cái khát khác: “Ta khát” (Ga 19: 28) trên thập giá. Chính vì mùa gặt này mà Ngài sẽ sai các môn đệ Ngài đi gặt những gì Ngài gieo bằng cuộc sống vắt cạn của mình.
3. Cuộc gặp gỡ của dân Sa-ma-ri với Đức Giê-su (4: 39-42)
Lời chứng của người phụ nữ làm xôn xao dân Sa-ma-ri và thúc dục họ lên đường đích thân đến với Đức Giê-su, xin Ngài ở lại với họ, và Ngài đã chấp nhận ở lại với họ hai ngày.
Dù khởi điểm niềm tin của họ xuất phát từ lời chứng của người phụ nữ, tuy nhiên niềm tin của họ không dừng lại nhưng vượt qua lời chứng này: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (4: 42). Do đâu mà dân Sa-ma-ri đạt đến một niềm tin sâu xa như vậy, nếu không phải là họ đã lợi dụng hai ngày Đức Giê-su ở lại với họ để đích gặp gỡ và đối thoại với Ngài? Nếu thế, đức tin của họ không còn dựa trên lời chứng của người phụ nữ, nhưng trên kinh nghiệm cá nhân của mình trong cuộc gặp gỡ và đối thoại với Đức Ki-tô. Lúc đó, sự kiện “Dân Sa-ma-ri xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày” (4: 40) phải là trọng tâm của câu chuyện giữa Chúa Giê-su và dân Sa-ma-ri.
Thật kỳ diệu, “Đấng Cứu Độ xuất thân từ dân Do thái” được người Sa-ma-ri đón tiếp một cách nồng hậu và được tuyên xưng là “Đấng cứu độ trần gian”, tức là Đấng vượt lên trên tất cả mọi xung đột chủng tộc, văn hóa và tôn giáo. Sự nghịch lý này vang dội ngay ở đầu Tin Mừng:
“Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở thành con Thiên Chúa” (Ga 1: 11-12).
Thánh ký kết thúc câu chuyện của mình bằng cách gợi lên tước hiệu mà dân Sa-ma-ri ban cho Ngài: “Đấng cứu độ trần gian”. Quả thật, thánh Gio-an là thánh ký duy nhất sử dụng tước hiệu này. Toàn bộ câu chuyện nhận được ý nghĩa sâu xa của nó: loan báo chiều kích hoàn vũ của ơn cứu độ.
Vài nhà chú giải vạch ra một sự đối xứng đáng ngạc nhiên giữa bài tường thuật về sứ vụ của Đức Giê-su ở Sa-ma-ri và bài trình thuật về cuộc Tử Nạn của Ngài trong Tin Mừng Gioan. Quả thật, cả hai đều kể ra thân xác mệt mỏi của Ngài, cơn khát của Ngài và sự hoàn tất công việc của Ngài. Từ đó, họ nghĩ rằng có một mối liên hệ giữa công trình truyền giáo mà Đức Giê-su thực hiện ở Sa-ma-ri, ở đó, Ngài được tuyên xưng là “Đấng Cứu Độ trần gian” và công trình cứu độ thế giới mà Ngài thực hiện trên thập giá; nghĩa là giữa thời gian mặc khải Đấng cứu độ trần gian và thời gian thực hiện ơn cứu độ cho trần gian. Lúc đó, “mười hai giờ trưa” ở trong câu chuyện này ám chỉ đến “mười hai giờ trưa” trong 19: 14, giờ siêu thăng, giờ ban Thánh Thần, giờ sinh ra Giáo Hội.
(Chú giải và Suy niệm của Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt)
CÂU HỎI GỢI Ý
Đoạn văn này được xếp đặt thế nào trong bối cảnh chung của các chương 2- 4? Bố cục của nó MC 3-A160
1. Đoạn văn này được xếp đặt thế nào trong bối cảnh chung của các chương 2- 4? Bố cục của nó ra sao?
2. Hai ám dụ “ơn của Thiên Chúa” và “nước sống” tiêu biểu gì? Có phải là hai thực tại khác biệt nhau không?
3. Trong chương 7, 38- 39, Chúa Giêsu đồng hóa nước sống với Chúa Thánh Thần. Nước sống này có phải là cùng một loại với nước mà Chúa Giêsu đề cập tới trong đoạn văn đây, ở câu 10- 12 và 13-15 không?
4. “Năm người chồng” ở câu 18 có nhất thiết mang một ý nghĩa tượng trưng chăng?
5. Câu 23 phải chăng đồng nghĩa với sự kết án việc phụng tự bên ngoài?
6. Câu 34 có mặc khải điều gì về mối tử hệ thần linh của Chúa Giêsu không?
7. Làm sao giải thích các câu 35-38 cho mạch lạc với nhau?
1. Quang cảnh tại giếng Gia-cóp là một trong những cảnh đầy tình người và đẹp nhất của Tin Mừng thứ 4. Trang sách này của thánh Gioan để lại cho những ai đã đọc và suy niệm một cảm tưởng khó quên nhờ có nhiều hoài niệm Thánh Kinh; nhờ tính cách thi vị của khung cảnh, của những cuộc gặp gỡ bên bờ giếng, của hình ảnh nguồn suối lạ lùng, mạch nước trào phun, đồng lúa chín vàng; nhờ nét tế nhị và sâu sắc của câu chuyện giữa Chúa Giêsu và người thiếu phụ lúc đầu chỉ là một ngươi xa lạ nhưng sau đó đã thành một kẻ tin; nhờ những nhãn giới rộng rãi mở ra cho sứ mạng của Giáo Hội và cho việc tôn thờ Chúa Cha trong Thần khí và sự thật.
Tuy nhiên tầm quan trọng của đoạn văn này trước tiên nằm trong lãnh vực thần học. Đôi khi người ta muốn gán cho trình thuật một lối giải thích có tính cách tâm lý và mục vụ: chẳng hạn như bảo rằng Chúa Giêsu muốn chỉ dạy cho chúng ta phải ăn nói thế nào với một tâm hồn tội lỗi để kéo họ hối cải trở về. Số người khác thì đề nghị một cách chú giải thiên về bí tích; nước sống là nước rửa tội, của ăn mà Chúa Giêsu đề cập ở 4, 33-34 ám chỉ phép Thánh Thể. Nhưng cả hai cách giải thích trên đều không tôn trọng đủ các dữ kiện của bản văn. Quan điểm của tác giả chủ yếu là một quan điểm Kitô luận: ở đây ông trình bày một khía cạnh trong chủ đề cơ bản của Tin Mừng ông trả lời cho câu hỏi “Giêsu là ai” là con người đạt được niềm tin vào Người.
Ta chỉ hiểu được sự khai triển chủ đề này nếu biết đặt đoạn văn vào trong bối cảnh chung rộng lớn hơn của các chương 2- 4. Cả phần này được khai mào bằng hai trình thuật, hai “dấu lạ” có tính cách mặc khải Đấng Thiên sai, tạo thành một bức song bình: “dấu lạ” Cana (2, 1- 12) và “dấu lạ” Đền thờ Giêrusalem (2, 13-22). Trong các cuộc đối thoại theo sau, ba nhân vật đàm đạo với Chúa Giêsu tượng trưng cho ba hạng người đạt được niềm tin: Nicôđêmô (3, 1 -21); thiếu phụ mà Chúa Giê-su gặp bên bờ giếng Giacóp (4, 1 -42); viên quan chức thành Cana (4, 43-54). Cả ba nhân vật hình như đều mang một giá trị biểu trưng: Nicôđêmô, người Do thái gốc Giêrusalem và vị thầy trong dân Israel” (3, 10), dưới con mắt của Gioan, là hiện thân cho Do thái giáo chính thức; người thiếu phụ Sychar (4, 5) là hiện thân cho Do thái giáo ly khai của người Samari, và viên quan chức thành Cana, có lẽ là người ngoại giáo, tượng trưng cho thế giới ngoài Do thái.
Giai thoại người thiếu phụ Samari được bố cục rất kỹ lưỡng. Nó gồm hai cuộc đối thoại chính lồng vào trong những câu thuật sự:
1. Nhập đề: Chúa Giêsu trở lại Galilê và băng qua Samari; người đến giếng Giacóp (1- 6)
2. Đối thoại với thiếu phụ Samari (7- 26) – Chúa Giêsu hứa ban nước sống (7-15) – Chúa Giêsu là Ngôn sứ (16-19) – Mặc khải của Giêsu Thiên sai (20-26)
3. Chuyển đề: Các môn đồ trở về, thiếu phụ ra đi, dân thành Samari đến (27-30)
4. Đối thoại với các môn đồ (31- 38) – Lương thực của Chúa Giê-su (31 -34) – Mùa gặt thiên sai (35- 38)
5. Kết luận: Dân thành Samari tin vào Chúa Giêsu (39- 42)
Mỗi cuộc đối thoại được khai triển theo một lược đồ văn chương đặc biệt của Tin Mừng thứ 4: các lại mặc khải của Chúa Giêsu xen kẽ với những ngộ nhận của con người. Trong các câu 7-15, người thiếu phụ Samari chỉ nghĩ đến nước giếng trong lúc Chúa Giêsu cố gắng giải thích cho bà hiểu nước ban sự sống mà Người hứa là một loại nước khác: đó là thứ nước sẽ dập tắt vĩnh viễn cơn khát và sẽ trào phun trong chính con người, vọt đến sự sống đời đời. Trong phần cuối của màn đối thoại (20-26) người thiếu phụ chỉ nghĩ đến vấn đề gây chia rẽ giữa người Do thái và người Samari, tức vấn đề nơi chốn của việc phung tự đích thật: phải thờ phượng Thiên Chúa trên núi Garizim hay tại Đền thờ Giêrusalem? Nhưng Chúa Giêsu mặc khải cho bà biết việc tôn thờ Chúa Cha vào thời thiên sai sẽ được thi hành trong Thần khí và sự thật. Ngay các môn đồ cũng tỏ ra không hiểu tý gì. Từ thành trở về chỉ bận tâm lo lắng bắt Chúa Giêsu dùng lương thực vật chất. Nhưng Người trả lời với họ rằng thức ăn đích thật của Người là chu toàn sứ mệnh (31- 34). Sau hết, trong các câu 35- 38, Chúa Giêsu dựa vào một câu nói của các môn đồ về mấy tháng nữa mới tới mùa gặt để mở cho họ một cái nhìn về một mùa gặt khác: mùa gặt thiên sai, lúc mà thợ gặt sẽ thu lượm thóc lúa cho sự sống đời đời.
2. Cuộc đàm thoại giữa Chúa Giêsu và người thiếu phụ Samari gợi nhớ các cảnh tượng khác trong Thánh kinh, mô tả cuộc gặp gỡ giữa người lữ khách mệt mỏi và những người đàn bà đến múc nước ( St 24, 11- 27 ; 29, 1- 21 ; Xh 2, 15-21). Chúa Giêsu, ngồi bên bờ giếng, nói với thiếu phụ xứ Sychar: “Cho tôi uống với” (c.7). Ngay từ đầu, chủ đề thứ nhất, chủ đề “nước”, đã được đề cập: Chúa Giêsu chụp ngay cơ hội để mặc khải cho thiếu phụ Samari mầu nhiệm nước sống. Nhưng bà vẫn ở trong bình diện các tương giao nhân loại sao? ông là người Do thái mà lại xin với tôi là đàn bà Samari nước uống à? – Số là dân Do thái không liên lạc với dân Samari” (c.9). Trong câu trả lời, Chúa Giêsu cho bà hiểu là Người muốn nói tới một thực tại bí nhiệm mà nước giếng chỉ là biểu tượng thôi: “Nếu bà biết được ơn của Thiên Chúa và ai là người nói với bà: cho tôi uống với, thì chính bà sẽ khẩn xin và Người sẽ ban cho nước sống” (c . 10)
a- Có cần phải coi hai ám dụ “ơn Thiên Chúa” và “nước sống”: chỉ hai thực tại khác biệt nhau không. Một vài người đã nghĩ như thế (Euthymius, Tolet, Van den Bussche). Tuy nhiên số đông các nhà chú giải đều công nhận một cách hợp lý rằng ơn của Thiên Chúa chính là nước sống. Căn cứ vào câu song song ở 7, 37-39, nhiều tác giả quả quyết rằng ở đây Chúa Giêsu rnuốn nói tới Thánh Thần, nhưng có lẽ nào quan niệm được rằng Chúa Giêsu đã trù tính ban Thánh Thần cho người thiếu phụ này trước ngày sống lại! Với một số khác, thì ơn nước sống đúng hơn là chính sự mặc khải của Chúa Giêsu về bản thân mình. Có lẽ nên tìm câu giải đáp trong lối giải thích này, nhưng nên phân biệt hai giai đoạn liên tiếp trong nhiệm cục mặc khải như chúng ta đã thấy sau: thời gian của Chúa Kitô và thời gian của Thánh Thần. Chính bản văn cũng cho chúng ta một chỉ dẫn quý giá: theo lời tuyên bố của Chúa Giêsu với người thiếu phụ thì “biết ơn của Thiên Chúa” là biết Người là ai. Sự khám phá dần dần mầu nhiệm Giêsu, sự hiểu biết thâm sâu Người là ai, chính đó là ơn của Thiên Chúa, ơn nước sống vậy. Phân tích đơn giản hai chủ đề này, ta sẽ thấy rõ hơn.
b- Theo các sách của người Do thái, ơn tuyệt hảo nhất của Thiên Chúa là luật Môisen, chẳng hạn như một đoạn văn của F.Josèphe, Ant. Jud. 4,8,47- 31, 8), có nói: Môisen, sau cuộc thần hiện ở Sinai, đã kêu mời dân thờ kính Thiên Chúa với những lời như sau: “Phận sự của các ngươi là tôn thờ Thiên Chúa và tuân giữ các giới luật của Ngài, hồng ân quý báu nhất trong tất cả mọi sự mà Ngài đã ban cho các ngươi và sẽ còn ban nữa, theo lòng nhân hậu trường cừu của Ngài”. Bài tựa của thánh Gioan đã vang vọng lại truyền thống ấy: luật được ban cho nhờ Môisen” (1, 17). Nhiều chỗ khác trong Tin Mừng thứ tư động từ “ban cho” rất được năng dùng. Chỉ một lần duy nhất, nó có túc từ là Đấng Bầu Chữa (14, 16): nhưng trong bài diễn từ sau Tiệc ly này, động từ ở thì tương lai và quy hướng về thời gian của Giáo Hội. Tuy vậy trong 3, 34, động từ lại ở thì hiện tại: có lẽ ám chỉ: Chúa Giêsu, Đấng Thiên Chúa sai đến kẻ “nói được lời của Thiên Chúa” và “ban cho Thần khí không giới hạn ” ơn Thần khí đã có cách nào đó trong các lời nói của Chúa Giêsu; nhưng việc làm cho lời đó ăn sâu vào tâm hồn nhờ Thánh Thần, thì sẽ chỉ được thực hiện sau ngày Phục sinh). Vậy câu 14,16 không thể dùng như một câu song song với câu của chúng ta đây được (4, 10). Còn theo 3,16, động từ “ban cho” có túc từ là Con Một Thiên Chúa. Thường thì động từ ấy được áp dụng vào những lời mà Chúa Cha đã ban cho Chúa Con và Chúa Con ban cho các môn đồ (17, 8.14), hoặc áp dụng vào huấn lệnh của Chúa Cha hay Chúa Con (12, 49 ; 13, 34 ; 14, 31). Kiểu nói ở 4,10 tổng hợp các dữ kiện trên. “Ơn của thiên Chúa” không còn là Luật Môisen như trong Do thái giáo nữa, song là Luật Mới, là mặc khải tối hậu trong Chúa Giêsu. Lời ấy của Chúa Giêsu, lời mặc khải chung quyết của thời đại thiên sai, đã kiện toàn mặc khải bất toàn của Sinai. Theo 1, 17, cái từ nay sẽ thay thế luật Môisen, chính là mặc khải do Chúa Giêsu đem tới, chính là sự thật, chính là Người (14, 6). Vì thế, khi hứa ban ơn Thiên Chúa cho thiếu phụ Samari, Chúa Giêsu ngầm cho hiểu là Người sắp tỏ mình cho bà; và thực sự để tiếp nối lời hứa còn mơ hồ của câu 10: “Nếu bà biết … ai là người nói với bà …”, câu kết luận xác quyết rõ ràng: “(Đấng Messia) Chính là Ta, người đang nói với bà đây” (26).
c. Biểu tượng “nước sống” còn quan trọng hơn biểu tượng trước, vì Chúa Giêsu sẽ dùng lại nó ở câu 14, rồi sau này một lần nữa, trong mặc khải long trọng vào dịp lễ Lều trại (7, 38t). Theo nghĩa vật chất, nước sống chỉ nước chảy, đối nghịch với nước tù (St 26, 19 ; Lv 2, 13). Nơi các ngôn sứ, thì nước sống trở thành một trong các biểu tượng lớn về những hồng ân của thời đại thiên sai. Trong ngày đó, nước sống sẽ vọt lên từ Giêrusalem” (Dcr 14, 8 ; x. Ed 47, 1; Gr 4, 18). Nhưng trong các sách khôn ngoan, ý nghĩa của hình ảnh này trở nên rõ hơn: nước sống chỉ làn sóng của sự khôn ngoan, hoặc chỉ giáo huấn rút ra từ Lề Luật (Cn 13, 14; 16, 22: 18, 4 ; Hc 24, 30t). Một vài văn phạm Do thái theo lối giải thích này khi chú giải cách ẩn dụ các giếng nước đề cập trong Thánh Kinh (nhất là Ds 21, 17- 19): theo truyền thống ấy thì một giòng nước bí nhiệm đã được ban cho Israel, giéng mà từ đó phát xuất làn nước sống; giếng là Lề Luật, nước sống tuôn tràn) ra là giáo thuyết khôn ngoan mà người ta tìm được khi nghiền ngẫm Lề luật. Hãy để ý là trong các bản văn tiền-Kitô giáo này. Nước sống không bao giờ là biểu tượng trực tiếp của Thần khí, cả trong các sách mà chúng ta vừa nêu ra, nước sống chỉ sự khôn ngoan, sự thật, sự phong phú chứa đựng trong mặc khải.
Đó là cách giải thích ám hợp hơn hết đối với lời của Chúa Giê-su nói với thiếu phụ Samari (Ga 4, 10: nước sống tượng trưng chỉ giáo thuyết đầy sức tác sinh mà Chúa Giêsu Đấng Khôn ngoan mang lại (x. 4, 25) cho sự thật mà Người tuyên bố (1, 17), cho mặc khải mà Người đem tới trong chỉnh bản nhân người (14, 6). Thế là chúng ta gặp lại cách chú giải đưa ra trên đây về ám dụ “ơn của Thiên Chúa”; điều đó xác nhận rằng hai ám dụ trên cùng chỉ một thực tại duy nhất mà thôi.
3. Dầu sao cũng còn một vấn nạn. Trong 7, 38- 39, Chúa Giêsu tự áp dụng cho mình một lời Kỉnh thánh: “Tự lòng Người, có những sông tuôn chảy nước sống”. Và thánh sử ghi thêm: người nói về Thần khí mà các kẻ tin vào Người sẽ lĩnh lấy vì Thần khí chưa có, bởi Chúa Giêsu chưa được tôn vinh”. Nhiều nhà chú giải xét rằng cần phải lấy cách giải thích như thế để áp dụng cho nước sống mà Chúa Giêsu đề cập ở chương 4, trong cuộc đối thoại với thiếu phụ Samari: nghĩa là Nước sống chỉ Thánh Thần.
Tuy nhiên, nhãn giới của hại đoạn văn rất khác biệt. Trong 7, 38-39, theo chính thánh Gioan, thì Chúa Giêsu muốn nói tới ơn Thần khí mà các kẻ tin sẽ lãnh nhận sau khi Người được tôn vinh. Còn lúc đầu buổi đàm thoại với thiếu phụ Samari, Chúa Giêsu nói ở thì hiện tại: trong nhãn giới của Gioan, không thể có chuyện Thần khí ở đây. Gioan phân biệt rõ ràng hai thời gian liên tiếp trong tiến trình mặc khải. Trong mạch văn của cuộc đàm thoại ở giếng Giacóp, nước sống mà Chúa Giêsu đề cập tại là một sự “vén màn” tiệm tiến mầu nhiệm của chính Người. Nhưng ngay sau đó, Người mở rộng nhãn giới rất nhiều; bắt đầu câu 13, không còn nói đến người thiếu phụ nữa, mà “bất cứ ai” muốn uống; và ở câu 14 thì các động từ đều ở thì tương lai: hai sẽ uống nước Ta sẽ ban cho, sẽ không bao giờ khát: nước sẽ trở nên trong nó mạch suối nước vọt đến sự sống đời đời”. Ở đây và chỉ ớ đây mà thôi, nhãn giới mới trùng hợp với nhãn giới trong câu tuyên bố của Chúa Giêsu vào dịp lễ Lều trại (7, 38- 39), nghĩa là từ chỗ này mới đến cái thời gian bắt đầu với giờ của Chúa Giêsu, cái thời gian mà Người sẽ không ngừng được mặc khải nhờ Thánh Thần trong Giáo Hội.
Thành ra nơi thánh Gioan, chúng ta chứng kiến một sự đào sâu ý nghĩa của ám dụ nước sống. Đầu cuộc đối thoại với người thiếu phụ, nước bí nhiệm kia, đúng theo nghĩa có sẵn trong truyền thống tiền kitô giáo, chỉ tượng trưng cho lời của Chúa Giêsu, cho sự thật của Người. Nhưng lời đó, sự thật đó, không thể ở ngoài con người: như sự khôn ngoan, nước sống cần phải được người tin sống (4, 14t ; 7, 37 ; x. Cn 9, 18, bản 70 ; Hc 15, 3); chỉ với điều kiện đó nó mới trở thành “trong ngươi ấy” (Ga 4.14b) một suối nước vọt lên. Điều đó muốn nói rõ rằng lời mặc khải của Chúa Giêsu cần phải được thấm nhuần sâu thẳm trong tâm hồn của người môn đồ (5, 38). Và đó chính là hoạt động của Thần khí Sự thật vậy (14, 26).
Như thế, ám dụ nước sống mang một âm hưởng cố chiều kích Giáo Hội, chính điều này cho ám dụ một tầm quan trọng thật đối với đời sống của Kitô hữu: nước sống mà họ phải uống chính là sự thật của Chúa Giêsu, chính là sứ điệp được lãnh hội trong thần khí, chính là Chúa Giêsu, Đấng tỏ lộ dần dần mầu nhiệm của người qua Tin Mừng cho các kẻ tin để thông ban cho họ sự sống thần linh. Đó cũng là cách chú giải của thánh Thomas. Đối với ngài nước sống chỉ một trật giáo thuyết của Chúa Giêsu và ơn của Thánh Thần: “Ơn Thánh Thần thật đúng là nước sống” (Super vang. S.Joann. số 577) ; nhưng (Chúa Giêsu cũng) muốn chỉ rằng giáo thuyết của Người là nước tốt lành nhất” (số 585); “nước được hiểu là “trí khôn ngoan có sức cứu rỗi” (số 634).
4. Lần này cũng thế, phản ứng của người thiếu phụ Samari chứng tỏ bà hoàn toàn không hiểu gì: bà xin Chúa Giêsu cho bà thứ nước ấy đè khỏi phải đến giếng múc nước nữa (c.15). Chúa Giêsu không kéo dài vấn đề thêm và đột nhiên hướng câu chuyện qua một lối khác: “Hãy về gọi chồng bà đến đây.” (c.16). Và khi thấy thiếu phụ bảo là không có chồng, Chúa Giêsu bắt bẻ: bà đã có 5 chồng rồi, nhưng bà nói phải, vì người đang sống với bà không phải là chồng bà thật.
Nhiều tác giả nghĩ rằng phải giải thích câu trả lời của Chúa Giêsu như một ẩn dụ: ngươi đàn bà với “năm ông chồng” tượng trưng cho xứ Samari, nơi quy tụ các bộ lạc khác nhau của dân Babylon, mỗi bộ lạc có một vị thần riêng (tiếng hy bá baal, “chủ”, có thể chỉ một vị thần ngoại giáo cũng như chỉ một người chồng). Năm ông chồng nhắc đến việc người Samari tôn thờ 5 thần minh, là những vị thực sự không phải là thần chính thức; người chồng thứ sáu, cũng bất chính thức, có lẽ ám chỉ việc phụng thờ Giavê cách hỗn hợp và sai lầm. Lối chú giải ấy dựa vào 2V 17, 24- 42 là đoạn kể ra 5 bộ lạc Babylon di cư đến Samari, mỗi bộ lạc du nhập vào đó thần tượng của mình. Nhưng lối giải thích này cũng không phải là không gặp khó khăn.
Trước tiên người ta sẽ chất vấn rằng 2V 17, 30- 32.41 kể đến bảy vị thần giả tạo của người Samari chứ không phải là năm để trả lời vấn nạn, các nhà chủ trương lối giải thích ẩn dụ bảo rằng bốn vị thần sau cùng trong số 7 vị kia được liên kết thành từng đôi, nên chỉ còn năm việc phụng tự ngẫu tượng mà thôi. Hơn nữa, chính F. Josèphe, một sử gia đương thời với Chúa Giêsu cũng đã hiểu như thế (Ant. Jud. 9, 288).
Dầu vậy, cách giải thích ẩn dụ này, cho dù có thể được, vẫn không có tính cách bắt buộc, vì chứng cớ dựa vào Cựu ước quá yếu. Tác giả Tin Mừng không cho một dấu gì chứng tỏ ông liên tượng đến Cựu ước. Trái lại, lời ám chỉ ở câu 29: Tất cả những gì tôi đã làm” hình như quy về tác phong cụ thể của người thiếu phụ. Hơn nữa ta không hiểu được tại sao một lời ám chỉ khó hiểu đến các thần minh Samari như vậy lại có thể giúp người thiếu phụ nhận ra Chúa Giêsu là một ngôn sứ; trong lúc đó giả thuyết trái ngược lại có vẻ thật hơn: Chúa Giêsu đã dò thấu tâm can của người đàn bà và đã cho bà biết, như trước đây đã cho Nathanael biết (1, 47- 49), rằng dưới mắt Người bà không phải là một kẻ xa lạ vô danh. Ngẩn ngơ sững sờ, người đàn bà kết luận Chúa Giêsu là một ngôn sứ, một người biết rõ các bí mật trong quá khứ và tương lai (x. 2, 25). Trong khi mặc khải cho thiếu phụ Samari biết đời tư của bà, Chúa Giêsu đã tự mặc khải chính mình. Mục đích của người không phải là đem người đàn bà thống hối trở lại cho bằng là chuẩn bị cho bà khám phá mầu nhiệm của chính Người. Đó là chủ đề của những câu tiếp theo.
5. Nhận thấy người đối thoại với mình sáng suốt, thiếu phụ Samari liền nêu ra vấn đề lâu đời chia rẽ người Do thái với người Samari: Phải thờ phượng Thiên Chúa trên núi này hay tại Đền thờ Giêrusalem? đối với người Samari, núi Garizim là núi thánh: sau trận đại hồng thủy, Noê đã dựng ở đó một bàn thờ; cũng chính đấy là nơi mà họ cho là Abraham dâng hy tế; theo sách Ngũ kinh của người Samari (Đnl 27,4-8), thì người Hy bá đã dâng tại đây hy tế đầu tiên của họ, sau khi vào Đất hứa. Đền thờ do người Samari xây trên núi Garizim đã trở nên đối thủ của đền thờ Giêrusalem. Nhưng theo sách Đệ nhị luật (12, 1- 14), thì trong Israel, chỉ có một đền thánh độc nhất mà thôi. Nên câu hỏi do bà Samari đặt ra rất hiện thực: nơi thờ phụng đích thật là nơi nào?
Chúa Giêsu trả lời với một giọng điệu trịnh trọng: “Này bà, hãy tin Ta …”. Qua câu đó, người không chỉ muốn nói với kẻ đối thoại là hãy tin vào lời Người, song còn gởi đến bà một lời kêu mời đức tin thực sự. Người xin bà tiếp nhận mặc khải mà Người sắp ban cho về việc phụng tự đích thực của thời đại thiên sai: “Sẽ đến giờ (c.21) … Sẽ đến giờ, và là lúc này đây …” (c.23). Với Người, một thời kỳ đã chấm dứt, một thời kỳ khác bắt đầu: thời mà việc phụng lự gắn liền với ngọn núi đã trôi qua, việc tranh chấp giữa các đền thờ cũng xưa rồi. Từ nay, những kẻ thờ phượng đích thật sẽ thờ phượng Cha trong Thần khí và sự thật ” (c.23).
Từ thời Cải cách (Tin lành), người ta đã lạm dụng kiểu nói này dễ sợ, làm như đó là một lời kết án mọi việc phụng tự bên ngoài. Nhưng đây không phải là điều mà bản văn Tin Mừng muốn nói. Trong Thần khí “chẳng có nghĩa là một cách thiêng liêng, không cần hình hài ” như các giáo phụ Hy-lạp đôi khi đã tưởng, vì chịu ảnh hưởng của thuyết nhị nguyên Platon; thần khí lại càng không chỉ tinh thần con người hoặc linh hồn nhân loại. Chúa Giêsu chẳng muốn nhấn mạnh ở đây về đặc tính nội tâm của việc cầu nguyện (đó chỉ là cách chú giải tâm lý của trường phái Augustin). Tiếng Pneuma mà người nói đây là Thần khí của Thiên Chúa (x. câu 24), Thần khí là một lời cầu do Thánh Thần gợi hứng trong tâm hồn tín hữu (x. Rm 8, 26- 27). Các nhà chú giải Tin Mừng thứ 4 thời Trung cổ dã không nhầm lẫn về điểm này, chẳng hạn như J. Scot Erigène: “Những ai được Thánh Thần soi sáng, sẽ thờ phụng trong Thần khí” (Pl 122, 339a).
Phần thứ hai của công thức trên cũng thường bị xuyên tạc ý nghĩa còn hơn phần thứ nhất nữa. Nhiều người cho đó là một trạng từ có ý nghĩa tĩnh từ như trong các sinh ngữ hiện đại: việc thờ phượng “trong Sự thật” là việc thờ phượng “đích thật”. Nhiều kẻ khác, nhất là các giáo phụ, thì cho sự thật” chính là thực tại của phụng tự Kitô giáo, đối nghịch với các tiền- trưng của nó trong Lề luật cũ. Nhưng đối với thánh Gioan thì từ ngữ “sự thật” chẳng có nghĩa là thực tại”, song chỉ sự mặc khải thời thiên sai, thứ mặc khải đồng hóa với sứ điệp là con người Chúa Giêsu (14, 6 ; x. de la Poterie, “Je suis la voi, la Vérité ét la Vie”, Nouvelle Revue Théologique 88 (1966) tr. 907- 942). Dưới tác động của thần khí, sự thật của Chúa Ki-tô hiện diện là sinh hoạt trung tâm hồn người tín hữu (2 Ga 2): sự thật trở thành nguồn mạch bí mật của đời sống Kitô hữu: nó gợi hứng cho việc thực thi bác ái (lửa 3,18-19 ; 2 Ga 1- 2), cho ước muốn nên thánh (Ga 17, 17-19), cho việc thờ phượng Chúa Cha (4, 22- 23). Phần cuối của cuộc đối thoại, như thế, gắn liền với phần đầu: “Thần khí và Sự thật” không gì khác hơn là nước sống mà Chúa Giêsu đề cập trước đó.Việc phượng thờ của thời đại thiên sai được khơi nguồn và được nuôi dưỡng bằng mặc khải của Chúa Kitô dưới tác động của Thần khí Sự thật: việc thờ phượng Chúa Cha ấy, ngọn lửa của lời kinh ấy, vọt lên một cách tự nhiên từ mọi tâm hồn Kitô hữu, nơi có Sự thật bừng cháy.
Thành ra chủ đề do thiếu phụ Samari nêu lên ở câu 20 không bị bỏ rơi: vấn đề luôn xoay quanh nơi chốn của việc phụng tự đích thật. Nhưng Chúa Giêsu mặc khải cho thiếu phụ Samari biết rằng vào thời thiên sai, nơi ấy sẽ có tính cách thiêng liêng: dưới tác động của Thánh Thần, từ nay phải cầu nguyện Chúa Cha “trong sự thật” nghĩa là trong chính Chúa Giêsu. Người ta thường chú trọng đến chữ “trong Thần khí”, nhưng theo cách dùng của gian, khi nào hai thành ngữ được nối ghép vào nhau bởi liên tự “và”, thì thành ngữ thứ hai quan trọng hơn; chẳng hạn như 20, 8: “ông thấy và ông tin”. Việc thờ phượng Chúa Cha được thực hiện “trong Thần khí”, dưới sự linh ứng của Ngài, và “trong sự thật”, trong sự hiệp thông với Chúa Giêsu. Sự kết hiệp ấy với Chúa Kitô tạo thành không gian bên trong của lời cầu nguyện Kitô giáo; lời cầu nguyện được thực hành “in Christo”; Chúa Giêsu là Đền thờ mới, từ nay sẽ thay thế Đền thờ trên núi Garizim lẫn đền thánh Giêrusalem. Ngoài ra, việc cầu nguyện này còn mang chiều kích Ba Ngôi: được linh ứng, do Thần khí Sự thật, nó được thực hành trong sự thông hiệp với Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, và dâng lên Chúa Cha. Đó là lời cầu có tính cách hiếu thảo nhất, lời cầu đặc biệt của con cái Thiên Chúa.
Thiếu phụ Sychar chả hiểu gì mấy về tất cả diễn từ này “tôi biết rằng Đấng Messia, tức là Chúa Ki-tô sẽ đến; khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự” (c.25). Dù không bắt được ý nghĩa các câu nói của người đối thoại với mình, bà ta cũng đã bắt đầu quan tâm đến các vấn đề tôn giáo; hy vọng của bà bây giờ hướng về Đấng Messia, như hướng về một người sẽ mang lại ánh sáng mặc khải giải phóng. Không cần đợi gì hơn nữa, Chúa Giêsu giờ có thể nói với bà lời tuyên bố quyết định: “Chính Ta đây, người đang nói với người”. Sứ điệp ánh sáng, mà thiếu phụ Samari mong đợi, được ban cho bà cách đột ngột: Giêsu Messia tỏ mình cho bà; thời gian đã hoàn tất; giờ thờ phượng Chúa Cha trong Thần khí và Sự thật” đã đến.
6. Sau khi người thiếu phụ đi về thành, các môn đồ liền bắt chuyện với Thầy. Họ trình cho Người thực phẩm kiếm được và giục Người ăn (31). Ở câu sau (35) khi ám chỉ đến các cánh đồng mà họ vừa băng qua để trớ lại bên bờ giếng, các môn đồ sẽ nói về mùa gặt sắp đến. Mấy lời bày tỏ có tính chất thường tình ấy trở nên cơ hội để Chúa Giêsu nâng cao bình diện của diễn từ và hướng cái nhìn của các môn đồ về thời gian sắp đến.
Ta gặp lại ở đây, với một chút thay đổi, cái phương pháp hành văn đã đề cập lúc đầu, là xen kẽ mặc khải của Chúa Giêsu với những ngộ nhận của con người. Đó là lược đồ hai thì của việc mặc khải: mặc khải lần thứ nhất (bí nhịệm) – ngộ nhận – mặc khải lần thứ hai rõ rệt).
Để bắt đầu cuộc đàm thoại với thiếu phụ Samari, Chúa Giêsu đã xin nước uống. Đó là dịp để Người hứa ban cho thiếu phụ ơn nước sống (c. 10). Ở đây thì trái lại, chính các môn đồ khơi mào cuộc đối thoại: “Rabbi, mời Thầy ăn”. Chúa Giêsu trả lời một cách khó hiểu: “Có thứ lương thực Thầy phải ăn mà các con không biết”.
Theo truyền thống các sách Khôn ngoan bánh cũng như nước và rượu, là biểu tượng cho ân huệ của Đức Khôn ngoan và của Lề luật. Đức Khôn ngoan mời con người đến dự tiệc như sau: “Hãy đến, hãy ăn bánh và uống rượu mà ta đã dọn” (Cn 9,5); Đức Khôn ngoan “cho con người ăn bánh tinh khôn” (Hc 15, 3 ; 24, 21). Nhưng sự khôn ngoan theo người Do thái không chỉ là lý thuyết, mà còn quy hướng về hành động và phải biến đổi đời sống. Thành ra, ta hiểu được rằng Chúa Giêsu. Ở đây muốn lấy ám dụ lương thực áp dụng vào việc chu toàn sứ mạng của người: “Lương thực của Ta, là làm theo ý Đấng đã sai Ta và chu toàn công việc của Ngài” (c.34). Hai phần của câu trả lời này không phải đồng nghĩa đầu; phần thứ hai nói lên nhiều hơn phần thật nhất.
Chúa Giêsu từ trời xuống dể thực hiện thành ý của Đấng đã sai Người (6,38). Người hằng “tìm kiếm” thánh ý của Thiên Chúa (5,30) như tìm kiếm lương thực mà Người không thể nào bỏ qua; tương tự như thế, người chỉ tìm kiếm vinh quang của Đấng đã sai Người (7, 18 ; 8, 50). Động từ “tìm kiếm” và ám dụ lương thực này nói lên khía cạnh cơ bản trong cuộc đời của Chúa Giêsu, cho thấy động lực thâm sâu thúc đẩy mọi hoạt động của Người. Thành ra không phải là không mỉa mai mà tác giả Tin Mừng đã ghi chép câu 27: Sau khi nhận xét rằng các môn đồ ngạc nhiên vì thấy Chúa Giêsu nói chuyện với một người đàn bà, tác giả ghi tiếp: “Tuy vậy không có ai nói “Thầy tìm gì” hay “nói gì với bà ấy”. Tính cách lạ lùng của câu hỏi thứ nhất (ti zêteis) đã làm cho nhiều dịch giả bối rối, khiến họ thường dịch là: “Thầy xin gì” hay “Thầy muốn gì nơi bà ấy? ” … Nhưng thánh Gioan đâu quan tâm đến điều Chúa Giêsu chờ đợi nơi người đàn bà, ông chỉ muốn cho chúng ta tự hỏi Chúa Giêsu. Tìm kiếm gì khi nói chuyện với bà ấy thôi; nên phải cùng với TOB dịch từng chứ như thế này: “Thầy tìm gì?”. Đó là câu hỏi thiết yếu, song lại chẳng có môn đồ nào đặt ra với Chúa Giêsu. Họ không hiểu được điều Chúa Giêsu tìm kiếm thật sự. Bằng câu chuyển mạch đó, Gioan đã khéo léo nối kết cuộc đàm thoại của Chúa Giêsu cùng thiếu phụ Samari với cuộc đối thoại cùng các môn đồ. Ý nghĩa thâm sâu của câu chuyện thứ nhất nằm trong câu chuyện thứ hai: khi đàm đạo với thiếu phụ Sychar, bất chấp dư luận bàn tán, Chúa Giêsu đã thực thi ý muốn của Cha, đã tìm cách chu toàn công việc của Ngài vậy.
Chúa Giêsu thường nói về các “công việc” Người phải hoàn thành; khi hạn từ được dùng ở số ít (c.34), thì nó chỉ toàn thể hoạt động của Chúa Giêsu, toàn thể công việc mặc khải và cứu rỗi: công việc này là của Chúa Cha; vì thế, nó nói lên sự hiệp nhất giữa Chúa Giê-su với Cha Người (10, 38). Việc đề cập đến “công việc” chỉ gặp lại trong lời nguyện tế hiến, trong bối cảnh trực tiếp của “Giờ “: “Con đã tôn vinh Cha dưới đất, đã chu toàn công việc Cha giao phó cho Con làm” (17,4). Trong 4,34, khi nói với các môn đồ về công việc của Thiên Chúa mà Người muốn hoàn tất, Chúa Giêsu đã mở một viễn tượng về Giờ Khổ nạn Phục sinh và về thời gian của Giáo Hội.
Ga 4,34 là một trong những bản văn chủ chốt của Tin Mừng 4 bàn về sự vâng phục hoàn toàn của Chúa Giêsu đối với Đấng đã sai Người. Chúa Giêsu chẳng có gì là của riêng mình: người chỉ là kẻ Thiên Chúa sai đến; tư tưởng, và dự phóng của Người là tư tưởng và dự phóng của Chúa Cha; các lời người thông truyền không phải của người, song là lời Chúa Cha (3, 34 ; 7, 16 ; 8, 26. 38. 40 ; 14, 10. 24 ; 17, 8. 14). Người không hoàn tất các công việc của Người, nhưng của Chúa Cha (5,17. 19- 20. 30, 36 ; 8, 28 ; 10, 25. 37; 14, 10 ; 17, 4), Người chẳng thi hành ý muốn riêng tư, song ý của Đấng đã sai mình (4, 34 ; 5, 30 ; 6, 38). Sự khuất phục triệt để như thế cho thấy phần nào mầu nhiệm của Chúa Giêsu. Dĩ nhiên sự vâng phục ấy là của con người Giêsu. Nhưng như Origène và thánh Cyriile thành Alexandrie đã hiểu đúng, sự hiệp nhất tuyệt diệu giữa ý muốn của Chúa Giêsu vì Chúa Cha cuối cùng chỉ có thể giải thích là vì Người là Con của Thiên Chúa và đồng bản thể với Chúa Cha. Theo Origène, sở dĩ ý muốn của Chúa Cha là lương thực đích thực đối với Chúa Giê-su, là vì Người đã lấy ý muốn của Thiên Chúa làm của mình đến nỗi kể như không còn ý muốn riêng nữa: sự hiệp nhất hoàn hảo giữa ý muốn nhân loại của Chúa Giêsu với ý muốn của Thiên Chúa tỏ lộ một sự hiệp nhất sâu xa hơn: hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con, vì ý muốn của Chúa Con và ý muốn của Chúa Cha là một; bởi thế nên Người có thể bảo: “Cha và Ta, Chúng Ta là một” (10, 30) (PG 14, 460.1). Thánh Cyrille còn nói mạnh dạn hơn: “Chúa Con là ý muốn sống động và có bản thể của Chúa Cha” (PG 73, 324c).
Nhưng khi nhấn mạnh ước muốn chu toàn công việc của Đấng đã sai Người, Chúa Giêsu đi vào phần cuối của bài diễn từ và hướng lòng trí các môn đồ về sứ mạng Kitô hữu.
7. Các câu tiếp theo (35-38) có phần nào tối nghĩa và đã gây ra nhiều lối giải thích khác nhau. Phải chăng Chúa Giêsu trích hai lần (c.35a và 37b) một câu tục ngữ, hay là Người chỉ nhắc lại một câu nói của các môn đồ, ít nhất trong trường hợp thứ nhất? Người muốn ám chỉ ai khi nói đến kẻ gieo (36c) người gặt (37b), khi nói đến “những kẻ khác” đã vất vả khó nhọc trước lúc các môn đồ thừa hưởng hoa quả do công lao của họ? (38c). Chắc chắn phải bảo “người gieo” của câu 36 với “người gieo” của câu 37 là một. Về điểm này cũng như các điểm khác, chúng ta sẽ làm nổi bật sự nhất thống sâu xa của bốn câu văn, nhưng chúng ta cũng sẽ minh chứng rằng công việc Chúa Giêsu chu toàn được mô tả ở đây trong viễn ảnh việc tông đồ mà các môn đồ sẽ phải hoàn tất khi đến phiên họ.
“Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt” (35). Người ta đôi lúc giát thích lời này như một câu tục ngữ nông thôn (Bốn tháng có qua, mùa màng mới đến). Nhưng câu dẫn nhập trước đó (“Các người lại chẳng nói thế này sao gần giống như câu dẫn nhập vào cc. 31 và 33 (“môn đồ nói nằng với Người mà rằng”, các môn đồ mới nói”), cho phép ta giả thiết rằng các tiếng báo trước như thế có một phận vụ giống nhau trong cuộc đối thoại. Điều Gioan muốn ở đây, không phải là trích dẫn một câu ngạn ngữ quen thuộc (mà chẳng đâu khác nói đến), song là ghi lại một nhận định riêng của chính các môn đồ, để làm sáng tỏ thêm một lần nữa óc chậm hiểu của các ông. Phải bốn tháng nữa mới tới mùa gặt” các ông nhìn những cánh đồng xung quanh và nói như thế. Nhưng Chúa Giêsu đã dùng một công thức Kinh Thánh cổ xưa để mở đầu câu trả lời của mình: “Hãy ngước mắt lên mà nhìn”. Trong Cựu ước, đó là tiếng mời gọi chiêm ngắm sự cao cả của Thiên Chúa (Is 40, 26), sự phổ quát của những lời hứa cho Abraham (St 13, 14) và nhất là sự quy tụ các dân nước (Is 49,18 ; 60, 4 ; Br 5, 5- 6).
Trong Ga 4, 35, việc áp dụng các tiếng này thật rõ ràng. Chúa Giêsu đặt mình ngay vào bình diện thiêng liêng. Trái ngược với điều các môn đồ nghĩ, ngay bây giờ đồng lúa đã chín vàng chờ gặt rồi: dân thành Samari, đang tới gần và trong chốc lát sẽ tin vào Người (41), là những hoa quả đầu tiên của mùa gặt thiên sai đối với Chúa Giêsu; việc muôn dân nước quy tụ mà các ngôn sứ tiên báo đã bắt đầu thực hiện với họ. Trong Thánh Kinh, mùa gặt có hai nghĩa: nói thì chén lúa chí sự phán xét của Thiên Chúa; chỗ khác mùa gặt tượng trưng, niềm vui ơn cứu độ (Is 9, 2 ; Am 9, 13 ; Tv 126, 5), sự trở về của những người tản mác tha hương (Is 27, 12- 13) và trong Tân ước, tượng trưng cho hoa quả của việc truyền giáo (Mt 9, 37). Đó là trường hợp nêu ra ở đây: Chúa Giêsu gợi lên niềm vui của thợ gặt, phần thưởng của họ, hạt lúa mà họ thâu lượm cho sự sống đời đời. Thường thường là vậy trong Tin Mừng Gioan, các thực tại thời cánh chung được xảy ra trước trong sứ vụ của Chúa Giêsu.
Ta tự hỏi ở đây người gieo và kẻ gặt tượng trưng cho ai? Phải chăng họ chỉ là những yếu tố mô tả dùng để khai triển đề tài mùa gặt? Khuynh hướng dừng biểu tượng của Tin Mừng thứ tư mời gọi chúng ta nên hiểu kẻ gieo người gặt theo nghĩa ám dụ; việc chú giải cũng phái lưu ý đến cái nguyên tắc được nhắc lại ở câu 37 trong ngạn ngữ: “Kẻ gieo khác, người gặt khác”. Kẻ gieo không chỉ những người đi trước Chúa Giêsu (các ngôn sứ hay Gioan Tẩy giả), cũng chẳng chỉ Chúa Cha, nhưng chỉ chính Chúa Giêsu mà lời nói, theo Tin mừng, là một hạt giống (Lc 8, 11); thực vậy, cuộc đàm thoại với thiếu phụ Samari đã mang lại những hoa trái đầu tiên. Do đó, hình ảnh người gặt chỉ có thể áp dụng cho các môn đồ; mặc dầu chưa sai họ đi truyền giáo, nhưng Chúa Giêsu đã thấy việc rao giảng của Người được nối tiếp trong việc rao giảng của họ (x. câu 38): “Kẻ gieo cùng người gặt đều hoan hỉ” (c.36): ngay từ bây giờ, Chúa Giêsu và các môn đồ đều vui sướng nhìn hoa quả của công việc truyền giáo.
“Ta sai các ngươi đi gặt nơi các ngươi đã chẳng vất vả làm ra” (c.38). Tin Mừng thứ 4 không hề nói đến một cuộc truyền giáo nào của các môn đồ khi Chúa Giêsu còn tại thế cả: việc sai đi truyền giáo chỉ xảy ra vào ngày Phục sinh (20,21). Thành ra, để có thể hiểu 4,38, phải cùng với tác giả đặt mình trong quan điểm của việc rao giảng thời đầu Giáo Hội: các người truyền giáo phải luôn nhớ rằng mình đã được Chúa Kitô sai đi. Họ sẽ gặt nơi “họ không vất vả làm ra”. Ở đây cũng còn phải coi nhứ một lời ám chỉ đến công việc của Chúa Giêsu. Vẫn biết động từ “làm vất vả” (kopiân) thường diễn tả công việc tông đồ khó nhọc, nhất là trong khung cảnh truyền giáo của thánh Phaolô (1Cr 15, 10 ; 16, 16 ; Gl 4,11 ; Pl 2, 16 ; Cl 1, 29 ; 1Tm 5, 17), và Gioan cũng áp dụng động từ này cho các môn đồ (với thể phủ quyết ở câu 38: ou kekopiakate), nhưng lúc đầu câu chuyện, ông đã áp dụng động từ cho Chúa Giêsu: người mệt mỏi (kekopiakos) vì đường sá (c.6). Ta có thể nghĩ rằng, đối với tác giả, đó là người “mệt mỏi” vì gieo hạt. Công khó của Chúa Giêsu đưa người đến thánh giá, sẽ mang lại hoa quả trong sứ vụ của các môn đồ; cái chết của Người là hạt giống (12, 24. 32- 33); nhưng các môn đồ sẽ cảm nếm niềm vui của mùa gặt.
Ở cuối câu 38, việc đồng hóa các nhân vật trở nên rắc rối, vì chủ từ của động từ là số nhiều: “Những người khác đã vất vả rồi, còn các ngươi đến thừa hướng công lao của họ”. Những “người khác” này không thể hiểu là một mình Chúa Giêsu được. Theo cách chú giải thông thường của các tác giả xưa thì từ ngữ chỉ những người đi trước Chúa Giêsu: các Tổ phụ và các ngôn sứ; một vài kẻ lại cho là Gioan tẩy giả và môn đồ của ông. Nhưng sự song đối giữa “gieo” và “vất vả làm ra” không cho phép chúng ta nghĩ đến một thời đại trước Chúa Giêsu. Bản văn làm nổi bật nét tương phản giữa việc rao giảng đầu tiên (“gieo” “vất vả”) và sự phong phú hoa quả trong Giáo Hội (“gặt”). Chúa Giêsu là người đầu tiên giữa “những kẻ khác” này, nghĩa là người đầu tiên trong các người thợ đã vất vả khó nhọc để rao giảng Lời. Nhưng viễn ảnh mở rộng ra ngay lập tức, như cách thay đổi thì của các động từ cho thấy: từ việc rao giảng của Chúa Giêsu (xem cuộc đối thoại với thiếu phụ Samari), tất cả chú ý đều chuyển qua sứ mệnh truyền giáo của Kitô hữu. Có lẽ Gioan liên tưởng đến sứ vụ truyền giáo đầu tiên tại Samari, có kể lại trong sách Công vụ (8,4- 17): tại đây Tin Mừng được rao giảng trước tiên do những người Do thái hy hóa, nhất là do Philipphê, nhưng ơn Thần khí chỉ được ban cho người Samari do các sứ đồ Phêrô và Gioan những kẻ khác từng vất vả trước các sứ đồ là tất cả những ai đã rao truyền Tin Mừng trước họ, đầu tiên là chính Chúa Giêsu, và sau Người là các nhà rao giảng Tin Mừng tiên khởi. Bên bờ giếng Giacóp, Chúa Giêsu đã xây nền móng cho sứ vụ truyền giáo của Kitô hữu vậy.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Người phải băng qua Samari”. Lộ trình ngắn nhất và dễ nhận từ Giuđê đến Galilê chạy ngang qua miền Samari. Edei, “Người phải “, diễn tả một sự bắt buộc hay một sự tiện lợi về địa dư? Động từ dei, trong Tin Mừng Gioan (3, 7.14. 30 ; 4, 20. 24 ; 9, 4 ; 10, 16 ; 12, 34 …) cũng như trong các Tin Mừng Nhất Lãm (Mc 8, 31 ; 9, 11) thường có nghĩa một sự bắt buộc phát xuất từ ý định cứu rỗi của Thiên Chúa. Có thể bảo edei vừa xác định thêm chi tiết địa dư, vừa đặc biệt ám chỉ rằng Thiên Chúa muốn có câu chuyện này xảy ra ở Samari để mặc khải tính cách phổ quát của ơn cứu độ do Con Ngài mang đến.
“Lúc ấy chừng giờ thứ sáu”. Những lối xác định thời gian loại đó ta còn gặp thấy trong 1, 39 ; 4, 52 và 19, 14. Trong 19, 14, cũng một thành ngữ như ở đây tái hiện trong bối cảnh vụ xử án Chúa Giêsu: có thể Gioan đã muốn dùng cùng một cách nói như vậy để ngụ ý là tính cách phổ quát của ơn cứu rỗi, được tỏ lộ trong câu chuyện hôm nay, tùy thuộc vào cái chết cứu chuộc của Chúa Kitô.
“Cho tôi uống với”: Như trong mọi trình thuật của Gioan, chính Chúa Giêsu là người khởi xướng. Lời xin của Người có vẻ tự nhiên, vì lúc đó là buổi trưa, sau khi đi đường xa mệt mỏi. Nhưng đối với độc giả của Gioan, thì một lời xin như thế có vẻ lạ thường, vì người xin uống nước là chính người phải ban cho nước sống dư tràn.
“Trong Thần khí và sự thật”. Một lối chú giải rất được phổ biến cho đây là lời ám chỉ việc phụng tự thiêng liêng, nội tâm, loại bỏ mọi hy tế và mọi nơi thờ phượng. Việc phụng tự hoàn toàn nội tâm này được khơi nguồn do sự hiểu biết đích thực về Thiên Chúa và do lòng sùng kính thành thật đối với chân lý. Song một lối giải thích như vậy vẫn còn thiếu sót, vì không lưu ý tới tính cách mới mẻ của việc phụng tự do Chúa Kitô thiết lập. Thật vậy, các ngôn sứ đã đòi hỏi việc phụng tự nội tâm nhiều lần rồi (Am 5, 20- 26 ; Is 1, 11- 20 ; 29, 13 ; Tv 50, 7- 23; 51, 18tt). Vào thời Chúa Giêsu, người Do thái cũng như dân ngoại đều biết rằng phụng tự nội tâm trồi vượt phụng tự bên ngoài. Việc phụng tự mới được Chúa Kitô trình bày ở đây không thể chỉ là lặp lại lý tưởng các ngôn sứ rao giảng; nó phải được đặt vào trong bối cảnh chung của khởi điểm mới trong Chúa Kitô. Việc phụng tự Chúa Cha đích thực phải đáp ứng với địa vị mới của người tín hữu là được trở thành con Thiên Chúa: “Những kẻ thờ phượng đích thật” là những kẻ “sinh bởi Thiên Chúa” (1, 13) bằng nước và Thần khí (3, 5) và được hiến thánh nhờ sự thật (17, 17. 19). Thành ra việc phụng tự mới là việc phụng tự khơi nguồn bởi nguyên lý sự sống của các Kitô hữu. Đây là phụng tự trong sự thật”, vì được thành hình do mặc khải vẹn toàn của Chúa Giêsu.
“Thiên Chúa là Thần khí”. Xác quyết này là một trong ba xác quyết quan trọng của Gioan về Thiên Chúa (“Thiên Chúa là ánh sáng ” 1Ga 1, 5; “‘Thiên Chúa là Tình yêu” 1Ga 4, 8- 16). Nó có vẻ như là một định nghĩa về Ngài. Nó gần giống như phản ứng của các người Do thái hy hóa và các triết gia ngoại giáo chống lại những lối trình bày nhân hình về Thiên Chúa. Với lại ta không thấy một giáo huấn nào tương tự trong Cựu ước cả. Vì vậy có kẻ nghĩ rằng lời xác quyết của Gioan ở đây mang nguồn gốc Hy lạp. Tuy nhiên, không nên giả thiết một sự vay mượn như thề vì giáo thuyết của Gioan về Thần khí nối dài giáo thuyết của Cựu ước, theo đó thì Thần khí không phải là cách hiện hữu đối nghịch với vật chất, nhưng là hoạt động sáng tạo của Thiên Chúa nhằm phát sinh sự sống. Đó cũng là ý nghĩa cơ bản mà ta thường gặp nơi Gioan (3, 5-8 ; 6, 63 ; 7, 38 ; 14, 17- 19). Thành ra phải kết luận rằng ớ đây Gioan không có ý chống lại những cái nhìn vật chất, như nhìn về Thiên Chúa, song chỉ muốn xác nhận quyền năng đáng tạo sự sống của Ngài.
KẾT LUẬN
Qua việc dùng các tước hiệu khác nhau, những tước hiệu mời gọi niềm tin dần dần, trang sách này của thánh Gioan đã mặc khải một khía cạnh cơ bản trong mầu nhiệm Chúa Giêsu. Lúc đầu, Người chỉ là một lữ khách vô danh. Sau đó, thiếu phụ Samari khám phá ra Người là một người Do thái (c 9). Khi nghe lời hứa kỳ lạ về một thứ nước sống, bà hỏi Người: “Dễ chừng Ngài lại lớn hơn Giacóp cha chúng tôi sao?” (c. 12). Lúc nhìn thấy là Người đã thấu rõ bí mật đời tư của mình, bà mới nhận ra Người là một ngôn sứ (c. 19). Sau cùng, khi Chúa Giêsu đã mặc khải cách hoàn toàn rồi, bà phỏng đoán Người có lẽ là Đấng Kitô (c.29). Nhưng chính dân thành Samari, hoa quả đầu mùa của các dân tộc, mới tuyên xưng đức tin của họ vào Chúa Giêsu “Đấng Cứu Thế” (c.42). Từ đầu đến cuối, việc mặc khải vẫn nằm trong viễn ảnh lịch sử cứu độ. Các chương Tin Mừng khác mặc khải Chúa Giêsu là Đáng Thiên Chúa sai đến và là Con Chúa Cha. “ki tô ” và “Con Thiên Chúa” là hai tước hiệu căn bản của bản tuyên tín theo thánh Gioan (20, 31). Còn “Đấng Cứu Thế” là tước hiệu tổng hợp: Kẻ đã đến như ánh sáng trần gian (8, 12; 12, 46), như Người mặc khải, như Đấng Kitô, là chính Con Một được Thiên Chúa sai đến để cứu rỗi thế gian và cho mọi người có sự sống vĩnh cửu trong mình (3, 16- 18) .
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Chúa Giêsu khai mào câu chuyện với thiếu phụ Samari bằng cách khêu gợi tính tò mò của bà. Người tự đặt mình vào thực tế tầm thường của đời sống thường nhật, vào hoàn cảnh của kẻ phải mệt mỏi kín nước đều đều, để rồi làm cho bà cảm thấy không phải chỉ cần có thứ nước ấy mới sống được, không phải chỉ có những thực tại vật chất là đáng kể trong đời sống. Hôm nay đây, Chúa còn hiện diện trong cuộc sống thường ngày của ta. Ta có biết nhận ra Người chăng? Có chấp nhận đối thoại với Người? Có đồng ý là không phải chỉ những thực tại vật chất mới đáng kể trong đời sống của ta, có cố gắng để đừng bị vật chất chi phối chăng? Vì không chỉ có thứ nước tự nhiên mà thôi, song còn thứ nước siêu nhiên vọt đến sự sống vĩnh cửu. Cuộc đời của ta còn phải được nuôi dưỡng bằng việc cầu nguyện và tôn thờ Thiên Chúa.
2. “Ai uống nước giếng này, sẽ còn khát lại” (c. 13). Nước này không giải khát thật sự, nó vừa tạm thời xoa dịu cơn khát, vừa duy trì và kích thích cơn khát. Ai lại không biết cái chu kỳ quỷ quái của dục vọng, luôn luôn tái phát, chẳng bao giờ nó thỏa; ai mà không cảm thấy các nhu cầu được thỏa mãn cứ trào lên vô tận, thúc đẩy mình hưởng thụ cách nào đó: càng khát, lại càng uống, càng uống lại càng khát! Và luôn luôn theo lối lý luận ích kỷ ấy mà người thiếu phụ Samari đón nghe những lại của Chúa Giêsu về nước sống và tìm cách lợi dụng cơ hội: xin Ngài ban cho tôi thứ nước ấy để tôi hết khát và khỏi đến cây múc nước” (c.15). Một ngộ nhận như thế cũng gặp thấy nơi người Do thái trong diễn từ Bánh sự sống: thưa Ngài, hãy luôn luôn cho chúng tôi bánh ấy” (6, 34). Theo bản năng tự nhiên, ta có khuynh hướng muốn chụp lấy ơn Thiên Chúa như một thứ bảo hiểm sinh mạng khả dĩ miễn cho mình lăn lộn với đời, như một số vốn mang lại nhiều lợi giúp mình mãi mãi an cư, muốn thứ bánh, thứ nước Ngài ban cho ấy trở thành kho vô tận, dùng mãi không bao giờ cạn. Nhưng ơn Thiên Chúa đâu có muốn giản lược ta vào trong sự thỏa mãn cái tính cách dinh dưỡng đó: “Ai uống nước Ta sẽ ban, thì đời đời sẽ không khát nữa” Chúa Giêsu bảo vậy (c.14). người không giữ nước ấy trong một bình đóng kín, bưng bít một cách ích kỷ. Trái lại, nước Ta sẽ ban cho nó sẽ trở nên trong nó một suối nước vọt đến sự sống đời đời” (c.14). Nước sống ấy có sức giải khát vì, vượt ra ngoài bản năng bảo tồn, nó làm phát sinh trong ta chính nguồn sống, và dạy chúng ta rằng sống chính là trao ban, là chia sẻ không tính toán, là phun trào ra mà không giữ lại.
3. Cuộc đối thoại chuyển qua hướng mới với mệnh lệnh của Chúa Giêsu: “Hãy đi gọi chồng bà …”. Để cho thiếu phụ Samari hiểu và đón nhận ơn Thiên Chúa, Chúa Giêsu đột ngột đề cập đến bí mật đời tư của bà. Trong lãnh vực này, cơn khát của người đàn bà, cơn khát tình yêu, cũng chẳng được thỏa mãn; thiếu phụ đã có năm đời chồng và người đang sống với bà hiện giờ không phải là chồng đích thực (c. 18). Giống như nước mà bà phải đến múc uống luôn song chẳng đã khát, những nỗ lực tình yêu liên tiếp của bà đã làm bà thất vọng và đẩy bà vào nỗi cô đơn. Mục đích của Chúa Giêsu không phải là đem người thiếu phụ trở về thái độ sám hối song là cho bà thấy, như đã cho Nathanael thấy (1, 47- 50). Người thông suốt lạ lùng, là khiến bà cúi đầu trước uy nhan của vị Ngôn sứ và từ đó chuẩn bị cho bà lãnh hội mặc khải của Thần khí. Thực vậy, không một tiếng quở trách, không một lời khuyến khích nào trên môi miệng Chúa Giêsu; không một tâm trạng tội lỗi, không một giọng thống hối nơi người đàn bà; nhưng chỉ có một lời khen ngợi đầy vẻ ngạc nhiên: thưa Ngài, tôi thấy Ngài là một ngôn sứ (c.19), và sau đó, trong câu nói với dân làng: một người đã bảo cho tôi biết mọi sự tôi đã làm (c. 9). Nếu có chuyện tội chăng nữa, thì vấn đề không phải chỗ đó, hoặc hình như bị gác ngay qua một bên. Với ánh mắt nhân từ và sáng suốt, Chúa Giêsu cũng mời gọi ta hãy nhìn thăng mình không chút tự mãn song cũng chẳng chút xấu hổ, cay đắng và thất vọng. Đặc biệt Người muốn dẫn đưa ta đến chỗ nhìn nhận Người là vị “Ngôn sứ Thiên Chúa sai đến, là Đấng mặc khản về bản tính nhân loại đích thực của ta, là Đấng giúp ta khám phá ý nghĩa và không chiều kích của cơn đói khát trong ta, là Đấng tố cáo những mưu kế mà ta dùng để đánh lừa hoặc thỏa mãn cơn khát ấy một cách rẻ tiền. là Đấng dạy cho ta biết sống và trào dâng nước sống của ơn Chúa.
Tin mừng Ga 4: 5-42: Đức Giê-su trả lời: "Ai uống nước này, sẽ lại khát.14 Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên...
Mặc dù vào lứa tuổi thanh thiếu niên, Juan Jose Martinez đã mang trong lòng mối thù hận chống MC 3-A161
Mặc dù vào lứa tuổi thanh thiếu niên, Juan Jose Martinez đã mang trong lòng mối thù hận chống lại Giáo Hội, nhưng hôm nay Juan Jose Martinez đã trở thành một linh mục và nói rằng mình đã khám phá ra “Thiên Chúa thật sự hiện hữu và muốn trở thành một linh mục của Chúa.”
Hiện nay cha Juan Jose đang phục vụ tại Giáo Phận Almeira, Tân Ban Nha, nhớ lại rằng “Vào những buổi sáng Chúa Nhật tôi thường đứng ở hành lang trên lầu nhà mình và nhổ nước miếng xuống những người đi lễ. Tôi nói với họ rằng Giáo Hội là một giáo phái chỉ muốn tiền.”
Cha mẹ của Juan Jose không phải là người Công Giáo và cũng chẳng bao giờ dạy dỗ con mình về tôn giáo cả. Cha Juan Jose đã nói rằng thực ra mình cũng chẳng biết tại sao lại ghét đạo như vậy dựa trên cái ý niệm là Giáo Hội và Thiên Chúa chỉ là “một tổ chức đa quốc gia với nhiều chi nhánh ở khắp mọi nơi để kiếm tiến, giống một giáo phái vậy.” “Tôi nhất định chống đạo. Tôi là học sinh đầu tiên trong trường tôi và trong thành phố Carboneras, thị trấn Almeria không bao giờ chịu học về tôn giáo và môn thay thế tôn giáo của tôi là môn Đạo đức. Cuối cùng cả lớp đều học môn Đạo đức, không còn ai học môn Tôn giáo cả.”
Cha Juan Jose đã không thể ngờ được rằng mình lại chính là người giúp các bạn cũ trở về với Giáo Hội. Cha nhớ rất rõ cái ngày đầu tiên cha tới một nhà thờ Công Giáo với ý định là đến để diễu cợt những người đã mời mình.“Một ngày vào tháng Giêng năm 1995, một số bạn cùng lớp rủ tôi tham dự một buổi cầu nguyện Canh Tân Đặc Sủng. Dĩ nhiên tôi nói với họ là tôi không đi vì tôi không muốn họ tẩy não tôi. Nhưng họ cứ kiên trì mời tôi mãi cả tháng trời, cuối cùng thì tôi nể tình mà đi theo họ. Tôi nhớ hôm đó là vào ngày Thứ Năm của Tháng Hai, năm 1995, lần đầu tiên tôi bước vào nhà thờ.”
Và chính khi đối diện với Thánh Thể, cha Juan Jose đã cảm nhận: “Mắt tôi được mở ra và tôi đã thấy Thiên Chúa không phải là truyện thần thoại, nhưng Chúa hiện hữu, Ngài nâng đỡ và hướng dẫn tôi. Tôi cảm nghiệm rằng Thiên Chúa yêu tôi rất nhiều và chính Ngài đã gọi tôi.”
Cha Juan Jose đã được rửa tội và rước lễ lần đầu theo mong ước của ông bà nội nhưng mà vẫn chưa cảm thấy gắn bó với Chúa nhiều. Cho mãi đến khi được chịu phép Thêm Sức thì “tôi mới cảm thấy có sự hoán cải và đó chính là món quà tuyệt vời Chúa ban. vào tháng Chín, năm 2000, Jose đi vào chủng viện.
Vào năm 2006, cha Juan Jose đã được thụ phong Linh Mục tại nhà thờ chính tòa Almeria,
“Khi có ai đó nói với tôi là họ không tin vào Thiên Chúa, tôi luôn nói với họ rằng cả tôi cũng đã không tin vào Ngài. Nhưng đó là sự sai lầm của tôi bởi vì tôi đã khám phá ra niềm hạnh phúc tuyệt vời mà Thiên Chúa ban cho tôi. Nếu bạn cảm thấy không hạnh phúc, thì hãy xin Chúa giúp bạn bởi vì chỉ có Chúa mới ban cho bạn niềm hạnh phúc thật mà thôi.” (Giuse Nguyễn Thẩm, Một người đã từng khinh miệt những người đi lễ nhà thờ - bây giờ trở thành linh mục. Nguồn: http://vietcatholic.com/News/Html/216599.htm )
Cha Juan Jose được hoán cải chính là nhờ cuộc gặp gỡ với Đức Kitô, một cuộc gặp gỡ giữa một người có ý định phỉ nhổ đức tin với chính Đấng là đối tượng của đức tin. Juan jose được hoán cải không bởi tự chính mình, nhưng chĩnh bởi Đấng là yêu thương, Đấng đến để đi tìm kẻ tội lỗi để đưa họ trở về. Đấng yêu thương tự có sáng kiến để đến gặp gỡ, và làm cho cuộc gặp gỡ trở thành biến cố hồng ân cứu độ. Sáng kiến gặp gỡ của Đấng yêu thương vượt qua mọi định kiến, mọi trở ngại để làm sao cho chân lý được rọi soi vào bóng tối, cho hy vọng được bừng lên nơi chán chường thất vọng.
Nếu như không vượt qua mọi định kiến của luật lệ, của truyền thống thì làm sao có cuộc gặp gỡ với người phụ nữ Samarie, để có thể giúp cho không những một mình chị mà cả làng nơi chị cư ngụ nghe được Tin Mừng?
Mùa chay là thời gian không chỉ là mời mời gọi người Kitô hữu chúng ta hoán cải, nhưng còn là kêu mời chúng ta giúp người khác hoán cải. Điều đó cũng có nghĩa là nhắc nhở chúng ta không mải lo đóng của phòng để cầu nguyện, để chay tịnh, nhưng còn là lên đường tìm kiếm những kẻ đang lạc lối trên con đường tìm kiếm chân lý được nhận ra con đường dẫn tới sự sống đích thật. Con đường đó không gì khác chính là Đức Kitô. Bởi đó, sống tâm tình Mùa chay cũng là làm cho người khác gặp được Đức Kitô qua chính đời sống Kitô hữu của chúng ta. Như là một phần chi thể của Nhiệm Thể Chúa Kitô chúng ta phải thực sự trở thành dấu chỉ làm cho Đức Kitô được hiện diện trong môi trường chúng ta sống.
Để được như thế, trước tiên chúng ta “đổi mới cuộc gặp gỡ của chúng ta với Chúa Kitô, Đấng đang sống trong lời của Người, trong các bí tích và nơi người thân cận của chúng ta”. Chúng ta phải thanh luyện chính bản thân qua “một cuộc hành trình thực sự của hoán cải, để chúng ta có thể tái khám phá hồng ân lời Chúa, được thanh tẩy khỏi tội lỗi đã làm cho chúng ta ra mù loà, và phục vụ Chúa Kitô hiện diện trong những anh chị em của chúng ta đang túng thiếu” (x. Sứ Điệp Mùa Chay 2017 của Đức Phanxicô). Lạy Chúa, xin cho chúng co n luôn nỗ lực tìm đến với mọi người đang sống trong tình trạng xa cách được khám phá ra chân lý hằng sống, qua việc chúng con thành khẩn thanh luyện bản thân ngày càng trở nên giống Chúa, để những ai gặp chúng con là họ gặp được chính Chúa, và nhở đó họ được hoán cải. Amen.
Hơn một tháng đã trôi qua kể từ thời điểm tin tức về bệnh dịch Corona được loan đi từ thành phố MC 3-A162
Hơn một tháng đã trôi qua kể từ thời điểm tin tức về bệnh dịch Corona được loan đi từ thành phố Vũ Hán. Cả thế giới vẫn còn bàng hoàng, thì đại dịch ập đến một cách nhanh như vũ bão. Mọi người không trở tay phòng vệ kịp thời. Trong chớp mắt, dịch bệnh đã lây lan khắp nơi và đã không còn là chuyện riêng của người dân Vũ Hán. Tổ chức Y Tế Thế Giới đã phải thông báo tình trạng khẩn cấp tình trạng bệnh dịch lang tràn toàn cầu. Virus Corona gây bệnh dịch viêm phổi cấp thì vô hình, nhưng nỗi hoang mang lo sợ đã thành hình trong ánh mắt, trong tâm hồn và trên gương mặt con người. Những xáo trộn đã hiển hiện trong nhịp sinh hoạt tâm lý, thiêng liêng và đời sống xã hội của con người ở rất nhiều thành phố và quốc gia trên khắp thế giới.
Trước tình hình đó, các Đức giám mục nhiều Giáo phận mời gọi anh chị em hãy kiên trì cầu nguyện, tín thác vào Lòng thương xót Chúa, nhất là hy sinh, hãm mình để cầu xin Thiên Chúa, Đấng có quyền năng chữa lành anh chị em bị nhiễm bệnh, ban cho các nhà khoa học sớm tìm ra phương thuốc chữa trị dịch bệnh này, cho các y bác sĩ tận tình chữa trị bệnh nhân, ban bình an và sự an ủi cho các bệnh nhân và thân nhân của họ, nhất là cho nạn dại dịch sớm chất dứt. Rõ ràng, hơn bao giờ hết trong thời gian dịch bệnh đang hoành hành, mọi người chúng ta ai cũng kháo khát được Chúa ban cho mạnh khỏe, gìn giữ khỏi nhiễm bệnh và cho lành bệnh mọi bệnh dịch kể cả thân xác và tâm hồn. Niềm khao khát đó trong lúc này cũng giống như người nữ Samari, chúng ta đang khao khát một Dòng Nước Hằng Sống mà Chúa Giêsu ban cho bà trong Tin Mừng hôm nay. Nước và Máu cứu độ từ cạnh sườn chảy ra trên cây thập tự.
Nước là ân huệ, là quà tặng, là dấu chỉ của Chúa ban. Thiên Chúa săn sóc dân Ngài qua hình ảnh ban nước cho dân và đàn súc vật của họ. Nước nói lên ý nghĩa biểu chưng cho sự sống, nó còn ám chỉ chúng ta phải hoàn toàn lệ thuộc vào Ngài về vật chất cũng như tinh thần. Không được Ngài liên tục nâng đỡ, dân Chúa sẽ héo khô như cây cỏ thiếu nước dưới ánh nắng mặt trời gay gắt như lưả đốt. Bài đọc 1, sách Xuất hành hôm nay đặt dân Do thái vào giữa hoang địa khô cằn dưới chân núi Horeb. Họ phàn nàn vì thiếu nước. Horeb có nghĩa là "Khô". Xét về phương diện tinh thần thì ở giai đoạn này đúng là họ đang "khát" Thiên Chúa. Họ cần Ngài để đủ can đảm tiến bước vào sa mạc, lang thang suốt 40 năm trong hoang địa.
Cuộc đời của mỗi người chúng ta cũng có những giây phút đầy thử thách bệnh dịch như thế này. Chúng ta bắt buộc phải "ra đi" vào những hành trình dài thăm thẳm về tinh thần cũng như vật chất. Cụ thể cuộc sống đầy lo âu sợ hãi hay khó khăn hàng ngày, chúng ta cần phải thay đổi liên tục để có thể thăng tiến: vừa tìm kiếm cơm áo gạo tiền vừa sợ bệnh dịch lây nhiễm; sợ bệnh dịch nhưng không bỏ tính hư tật xấu ăn chơi đi khắp tới phương thiên hạ; vừa lo sợ dịch bệnh vừa bỏ giữ lễ Chúa Nhật nếu có đi cũng vì bổn phận sợ tội chứ tâm trí và niềm tin sao lãng và lung lây… Dẫu rằng đứng trước muôn vàn khó khăn, bấp bênh và sợ hãi nhưng nhìn lại dân Israel, con đường thoát khỏi nô lệ của họ muôn vàn khó khăn chồng chất nhưng nhờ đức tin vào Thiên Chúa quyền năng, họ vững tin dấn bước, chấp nhận gian nan để vượt qua khó khăn thử thách. Vì vậy, Thánh Phaolô đã nhắc nhớ chúng ta trong bài đọc 2: "Anh em đã được công chính hóa nhờ đức tin". Ðối với người Do thái, đức tin đó là của Abraham. Còn với các tín hữu là của phép rửa tội. Nó là khởi đầu của đời sống mới, không phải do sức riêng mình, mà đến từ Thiên Chúa như Chúa Giêsu tuyên bố trong Phúc Âm hôm nay: "Nếu chị biết nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban". Tất cả đều là ân sủng. Chúng ta chẳng thể ép buộc ân sủng xảy đến cho mình, chúng ta cũng chẳng thể sản xuất ra nước trong hoang địa. Nhưng chúng ta cần ân sủng để sống còn. Nước - hình ảnh nhắc nhớ về Thiên Chúa - chúng ta đói khát, nhưng chẳng thể nào tự liệu được cho mình mà chỉ có Thiên Chúa ban cho mà thôi. Như Chúa Giêsu nói: “Ai uống nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời".
Nhìn chung quanh thế giới chúng ta đang sống thời bệnh dịch này hầu như thấy lo âu, sợ hãi cho nên trong tình hình này, cơn khát cùng cực về tình người hiệp lòng một ý chống dịch và nhất là khát quyền năng Thiên Chúa xoa dịu cơn đại dịch luôn là cần được thỏa khát mong chờ của từng người. Xin hãy nhớ lại Thiên Chúa của Xuất hành: Bờ biển sậy và vua quan Ai cập sau lưng! Ðột nhiên biển mở ra - Họ băng qua biển khô chân. Họ chết đói khát trong sa mạc - Chúa ban Manna bởi trời và Chúa truyền lệnh cho Môsê dùng gậy đập đá, và nước vọt ra. Chính Thiên Chúa chịu trách nhiệm trên dân Ngài và Ngài đã ra tay cứu dân Ngài trong cơn hoạn nạn.
Hôm nay chúng ta vẫn kêu xin Chúa dủ lòng thương chúng ta như dân tộc Israel xưa. Thánh Phaolô nói rằng chúng ta đã được nên công chính nhờ đức tin. Thì chúng ta tin vào Thiên Chúa và chúng ta cần ân huệ hằng sống của Ngài vì chưng ân huệ của Chúa vượt ngoài khả năng của chúng ta. Thiên Chúa như người cha săn sóc con cái trên mỗi chặng đường khó khăn để chúng ta được giải cứu với điều kiện chúng ta hãy tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa, hy sinh, hãm mình, sám hối, yêu thương xây đắp tình người và đặc biệt cầu nguyện thật nhiều trong cơn dịch bệnh này. Đúng như Lời Chúa trong bài đọc 2, Thánh Phaolô xác tín: “một khi đã được nên công chính nhờ đức tin, chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Vì chúng ta tin, nên Đức Giê-su đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa. Nhưng không phải chỉ có thế; chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng: ai gặp gian truân thì quen chịu đựng; ai quen chịu đựng, thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là trung kiên, thì có quyền trông cậy. Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta”.
Lời Chúa trong Bài đọc 1 nói đến một vị lãnh đạo tài ba của dân Israel ra khỏi Ai cập về lại MC 3-A163
Lời Chúa trong Bài đọc 1 nói đến một vị lãnh đạo tài ba của dân Israel ra khỏi Ai cập về lại miền đất Hứa và ông cũng là người đại diện cho tất cả lề luật Cựu ước, đó là ông Môsê. Xuyên qua cuộc đời và những biến cố của Môsê, chúng ta khám phá ra khuôn một người được Thiên Chúa hằng yêu thương chăm sóc, gìn giữ ông thoát mọi hoàn cảnh nguy nan đưa ông đến nguồn sự sống đời đời đồng thời giải thoát con người khỏi tội lỗi. Ông Môsê sinh ra trong hoàn cảnh khó khăn và nguy hiểm. Khi sinh ra, ông được đặt trong cái thúng thả trôi sông, sự sống của ông đúng ngàn cân treo sợi tóc. Thế nhưng chính trong hoàn cảnh đấy Chúa đã ra tay che chở. Cô gái con gái của vua Pharaon tắm sông, thấy và vớt đem về nuôi cho ăn học văn võ song toàn dù là ông người là Do thái hầu chuẩn bị cho ông lãnh đạo dẫn dân Chúa ra khỏi Ai cập. Khi giải thoát dân Israel ra khỏi Ai cập, ông Môsê và dân Chúa phải trải qua 40 năm trong sa mạc biết bao nhiêu khó khăn gian khổ đói và khát. Chính lúc ấy dân Do thái đặt câu hỏi với ông Môsê có Chúa ở với chúng tôi không? Chúa trả lời bằng hành động, bảo ông Môsê lấy gậy đập vào tảng đá nước vọt ra và dân đến múc uống đả cơn khát. Rồi Thiên Chúa tỏ danh của Ngài cho Môsê là Ta là hằng hữu, rồi chính Ngôi hai Thiên Chúa xuống thế làm người có tên là Emmanuel nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Quả thế, hôm nay Thiên Chúa ở với chúng ta để chia sẻ cơn khát và đói với chúng ta. Cụ thể, Tin Mừng chúng ta vừa nghe kể rằng có một người phụ nữ Samari đến lấy nước. Đức Giêsu nói với người ấy: "Chị cho tôi xin chút nước uống!” Rồi trên cây thập giá, Chúa Giêsu kêu than rằng: Ta khát. Rõ ràng Chúa Giêsu là Chúa xuống thế làm người để chia sẻ những cơn khát nước, khát cơm áo của chúng ta và còn hơn thế nữa Ngài khơi dậy cơn khát sâu thẳm đó là: khát tự do, khát công bằng, chân lý, yêu thương, khát hạnh phúc và sự sống đời đời. Vì thế, mà Người phụ nữ Samari liền nói: "Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao? Đức Giê-su trả lời: "Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: "Cho tôi chút nước uống", thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống." Đức Giê-su nói tiếp: "Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời."
Mùa chay Giáo hội mời chúng ta ăn chay, cầu nguyện, hy sinh và hãm mình để giúp chúng ta khám phá ra mình cơn đói và khát thể xác thật khổ sở biết bao và chỉ trong cơn đói và khát ấy mình lại khám phá ra rằng nếu mình đói khát Thiên Chúa và đói khát sự sống đời đời, thì cuộc đời này và đời sau mình sẽ khốn khổ biết mấy. Cho nên, chỉ có Chúa Giêsu mới có khả năng thoả mãn cơn khát trong sâu thẳm này. Ngày xưa, ông Môsê lấy gậy đập tảng đá nước vọt ra dân uống, đả khát; ngày nào đó người lính cầm đòng đâm vào cạnh sườn Chúa Giêsu nước và máu chảy ra. Người Công giáo tin rằng dòng nước và máu đó là dòng máu sự sống làm đả cơn khát sâu nhất trong lòng con người, quả đúng như lời Chúa Giêsu quả quyết: “Ai uống nước này sẽ còn... không khát bao giờ...”.
Cuộc sống của chúng ta là hành trình đi trong sa mạc. Một khi đã ra đi là giả từ cái gì trong quá khứ, đồng thời dấn bước vào hành trình của tương lai có nhiều nguy hiểm và thiếu thốn đủ điều nhưng điều quan trọng là Chúa đi với chúng ta, Chúa ở trong mọi bước đường của cuộc sống. Chúa Giêsu chia sẻ với chúng ta tất cả: cô đơn, đói, khát, ngược đãi, đau khổ... kể cả những hoàn cảnh bi đát nhất, Chúa ở với chúng ta và ơn Chúa luôn đủ cho ta. Vì chưng, Lời Chúa trong bài đọc hai xác quyết: “Một khi đã được nên công chính nhờ đức tin, chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Vì chúng ta tin, nên Đức Giê-su đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa. Nhưng không phải chỉ có thế; chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng: ai gặp gian truân thì quen chịu đựng; ai quen chịu đựng, thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là trung kiên, thì có quyền trông cậy. Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta”.
Vì vậy, điều quan trọng là chúng ta có chấp nhận để Chúa ở với mình hay mình để Chúa ở với chúng ta không? Giống vợ chồng ở với nhau: mình với ta tuy hai mà một ta với mình tuy một mà hai, tình yêu nối kết chúng ta, ta thương nhau quá nên hai hóa ra thành một. Cho nên, ở với Chúa có nghĩa là trung tín, chung thủy với Chúa trong từng bước đi của cuộc sống; dám tin vào Chúa ngay cả những cái xem ra mau thuẫn, nghịch thường, khó khăn nhất, đau khổ nhất. Nếu chúng ta chấp nhận để Chúa ở với mình chắc hành trình của chúng ta sẽ đi về sự sống đời và ở nơi đó cơn khát sâu xa nhất của lòng người được thoả mãn. Cụ thể là ông Môsê mà chúng ta vừa mới chiếm ngắm. Rồi, Thánh Augustinô, sau một khoảng đời đi tìm kiếm danh vọng, địa vị, tiền tài, tình yêu, hạnh phúc, cuối cùng đã chán ngán, ăn năn sám hối trở lại với Chúa và ngài đã thốt lên: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, thế mà bấy lâu nay con chỉ mải mê tìm kiếm cái gì khác ở ngoài Chúa. Vì vậy lòng con luôn băn khoăn thao thức mãi cho đến khi được an nghỉ trong Chúa. Lạy Chúa, con đã biết Chúa quá muộn! Con đã yêu Chúa muộn quá rồi!”. Người thiếu phụ Samari hôm nay khi gặp được Đức Giêsu – nguồn mạch nước hằng sống – đã phải thốt lên với mọi người: “Mau hãy đến xem một ông đã nói với tôi mọi việc tốt đã làm. Phải chăng ông ấy là Đấng Kitô”. Sau khi dân thành Samari kéo đến gặp Chúa Giêsu và xin Ngài ở lại, họ đã hân hoan tuyên xưng rằng: “Không phải vì lời chị kể lại mà chúng tôi tin. Chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Ngài thật là Đấng Cứu Thế”.
Lạy Chúa, chúng con tin và tôn thờ Chúa là nguồn Nước Hằng Sống và chỉ có Chúa mới đem lại sự sống đời đời. Amen.
Vào tháng Ba năm ngoái (2004), qua chương trình thám hiểm không gian mang tên "Mars Exploration MC 3-A164
Vào tháng Ba năm ngoái (2004), qua chương trình thám hiểm không gian mang tên "Mars Exploration Rover Mission" (Sứ Mệnh Rover Thám Hiểm Hoả Tinh), và sau 7 tháng bay từ trái đất đến hỏa tinh và đáp xuống an toàn, chiếc xe thám hiểm Rover đã chuyển các hình ảnh đầu tiên của hỏa tinh về trái đất, và mọi người đều bàng hoàng trước cảnh tượng của một hành tinh cách xa trái đất đến 35 triệu miles!
Một trong những điều quan trọng mà cuộc thám hiểm này muốn tìm kiếm là vết tích của sự sống, và muốn có sự sống thì phải có nước. Trong bản tin ngày 2-3-2004, các khoa học gia của cơ quan NASA cho biết họ đã tìm thấy chứng cớ rằng trước đây hành tinh này ẩm ướt đủ để có sự sống, nhưng hiện giờ xe thám hiểm Rover không tìm thấy vết tích nào của sinh vật.
Nước cần thiết cho sự sống, không những ở trên trái đất, mà nước còn cần thiết ở bất cứ đâu trong vũ trụ. Các phi hành gia Hoa Kỳ đã đặt chân lên mặt trăng vào năm 1969 để thám hiểm, và họ xác nhận một điều là trên mặt trăng không có sự sống, chỉ vì không có nước.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, sau một hành trình lâu dài và mệt mỏi, Đức Giêsu khát nước và đến bên cạnh giếng, và khi thấy có một phụ nữ đến múc nước, Người đã xin nước uống. Phản ứng tự nhiên của Đức Giêsu cho chúng ta thấy Đức Giêsu là một con người bình thường như chúng ta-đói thì muốn ăn, khát thì muốn uống.
Phản ứng của người phụ nữ, chúng ta thấy cũng là phản ứng của một con người bình thường, một con người sống theo bản năng tự nhiên-nói chung là ích kỷ, không muốn giúp đỡ người khác. Do đó, khi được xin nước uống, bà đã hỏi lại Đức Giêsu "Làm sao ông là người Do Thái mà lại xin tôi, một người đàn bà Samari, nước uống?" Bà đã đặt lại vấn đề thù hiềm giữa hai dân tộc để từ chối khéo. Nói cách khác, trong tâm hồn của bà không có tình thương, không có lòng bác ái để sẵn sàng giúp đỡ Đức Giêsu, bất kể những dị biệt. Có lẽ Đức Giêsu ngạc nhiên trước câu trả lời của bà và Người đã tiết lộ cho bà một sự thật: "Nếu bà đã biết ơn sủng của Thiên Chúa và nhận ra ai là người đang nói với bà, 'Cho tôi uống nước', thì có lẽ bà đã xin và người ấy sẽ ban cho bà nước hằng sống."
"Nếu bà đã biết ơn sủng của Thiên Chúa" cũng là câu nói của Đức Giêsu cho mỗi người chúng ta. Chúng ta có thực sự biết ơn sủng của Thiên Chúa như thế nào không? Ơn Chúa có phải là phép lạ hiển nhiên mà mắt phải thấy, tai phải nghe? Hay ơn Chúa nhẹ nhàng như cơn gió thoảng nhưng đủ xoá tan cái nóng giận khi chúng ta tha thứ cho ai đó xúc phạm đến chúng ta? Ơn Chúa có phải thay đổi chớp nhoáng toàn bộ con người chúng ta? Hay ơn Chúa có thể giúp chúng ta ngày càng chế ngự được bản tính thấp hèn của con người qua những cố gắng sống Phúc Âm? Ơn Chúa có phải trùm lấp sự tự do lựa chọn của chúng ta? Hay ơn Chúa có thể giúp chúng ta biết lựa chọn những gì là xứng hợp? Ơn Chúa có thể đem lại cho chúng ta ơn cứu độ nhưng đó có phải là điều chúng ta tìm kiếm?
Sự ích kỷ của người phụ nữ Samari đã trở nên như bức màn che khiến bà không hiểu được sự thật, không nhận ra được người đang xin bà chút nước uống là ai, bởi thế bà đã hỏi lại Đức Giêsu với giọng mỉa mai: "Này ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu; vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống?"
Có lẽ Đức Giêsu thấy tội nghiệp cho bà vì chỉ nhìn đến những gì trước mắt mà quên đi một thực tại quan trọng hơn nhiều, nên Người trả lời: "Ai uống nước này, sẽ lại khát; còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa; nước tôi cho sẽ trở thành mạch nước đem lại sự sống đời đời nơi người ấy."
Cái nhìn của người phụ nữ Samari có thể tiêu biểu cho quan điểm của chúng ta ngày nay. Trong một xã hội giầu sang đề cao sự hưởng thụ, điều mà chúng ta nhìn thấy trên truyền hình, nghe được trong các đài phát thanh là "hãy hưởng thụ tối đa" dù có phải nợ ngập đầu, "hãy sống cho riêng mình" dù có phải dứt bỏ tình nghĩa gia đình: vợ chồng, con cái. Và rồi chúng ta lao vào vòng lẩn quẩn của vật chất, của ích kỷ. Càng hưởng thụ chúng ta càng lệ thuộc, càng nô lệ cho vật chất. Càng ích kỷ chúng ta lại càng cảm thấy mình hèn kém, nhỏ mọn, tầm thường. Và càng tầm thường chúng ta lại càng bám víu vào vật chất để cố tạo cho mình một giá trị-dù là bề ngoài. Vòng lẩn quẩn đó nói lên một sự thật, đó là vật chất không thể thoả mãn những khao khát của con người. Và khao khát lớn lao nhất của chúng ta là phẩm giá đích thực của một con người.
Đức Giêsu đem lại gì cho chúng ta? Tại sao Đức Giêsu có thể giúp chúng ta khỏi khát?
Đối nghịch với ích kỷ là tình yêu, là bác ái. Nói đến tình yêu là nói đến hy sinh, tha thứ và quảng đại. Và sự hy sinh, tha thứ, quảng đại giúp chúng ta trở nên cao thượng. Một người cao thượng là một người đã tìm lại được phần nào phẩm giá đích thực của mình, và vì thế họ trở nên trọn vẹn, trở nên đầy đủ, và vì thế họ không còn thèm khát. Nói khác đi, Thiên Chúa là tình yêu và ai sống trong tình yêu là sống trong Thiên Chúa. Và Thiên Chúa là tất cả, bởi đó ai có được Thiên Chúa là có được tất cả, là được no thỏa.
Trong chương trình "Good Morning America" của ABC News vào sáng thứ Tư 2 tháng Hai vừa qua (2005), có phần phỏng vấn những người trúng số độc đắc ở Hoa Kỳ. Sau đây là một vài trường hợp mà phóng viên Jonann Brady đã kể cho chúng ta nghe:
- Ông Billie Bob Harrel Jr. ở Houston, vào năm 1997 ông trúng xổ số $31 triệu của tiểu bang Texas. Hai năm sau, vì tiêu sài phung phí và hôn nhân đổ vỡ, ông đã tự tử bằng súng shotgun.
- Ông William "Bud" Post làm việc với một tổ chức du ngoạn và là một thợ sơn làm công nhật. Năm 1988, ông trúng xổ số $16.2 triệu của tiểu bang Pennsylvania. Chỉ trong vòng vài tháng, cô bạn gái của ông đã thắng kiện để lấy được 1/3 số tiền trúng số, và em trai của ông bị bắt vì tội thuê mướn du đãng để giết ông. Ông Post bây giờ sống với tiền trợ cấp xã hội $450 một tháng và "food stamp."
- Gần đây nhất là trường hợp trúng số của ông Jack Whittaker, sống ở vùng West Virginia. Vào Giáng Sinh 2002 ông đã trúng xổ số lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ--$314.9 triệu-nhưng sau đó biết bao tai họa đã đổ xuống đời ông.
Lần đầu, ông mất trên $500,000 tiền mặt và ngân phiếu khi bị ăn cắp từ chiếc xe của ông đang đậu ở bên ngoài câu lạc bộ vũ khoả thân Pink Pony; lần sau, $100,000 đô la khác cũng bị lấy trộm từ chiếc xe của ông đậu ở trước nhà. Sau đó cuộc đời ông ngày càng xáo trộn. Ông bị bắt giam nhiều lần vì tội đánh người ta. Kế đến, người ta tìm thấy thi hài người bạn trai của đứa cháu gái ông-chết vì sử dụng ma tuý quá liều--ngay trong nhà của ông trong khi ông đi vắng. Và sau hai lần bị bắt về tội say rượu lái xe, ông bị giam trong trung tâm chừa rượu 28 ngày. Gần đây, hai năm sau ngày trúng số, cô cháu gái 17 tuổi của ông là Brandi Bragg, bị chết vì sử dụng ma tuý quá độ. Trong cuộc phỏng vấn với phóng viên đài ABC, ông Whittaker và luật sư của ông không cho biết gì thêm, nhưng vợ của ông, bà Jewel đã nói với tờ The Charleston Gazette rằng: "Phải chi tôi đã xé tấm vé số ấy thì giờ đây đâu có khổ như thế này!"
Ông Stephen Goldbart là một tâm lý gia và đồng sáng lập viên của tổ chức "Money, Meaning and Choices Institute" ở San Francisco, tổ chức này cố vấn cho những ai bỗng dưng trở nên giầu có, và ông cho biết "Trong xã hội Hoa Kỳ, chúng ta có khuynh hướng đánh giá quá cao vai trò của đồng tiền. Ước mơ của người Hoa Kỳ là thành công tài chánh. Đó là liều thuốc vô bổ, nhưng hầu hết ai cũng muốn."
Lời nhận định của ông thật đáng cho chúng ta suy nghĩ.
Đức Giêsu đã xuống thế cách đây 2000 năm, và tất cả những giảng dậy của Người vẫn còn có giá trị. Hơn bao giờ hết, ngày nay chúng ta phải cần đến ơn Chúa để có thể nhận ra được những gì là chân lý và vượt qua được những thử thách trong một đời sống thật phức tạp. Chúa vẫn sẵn sàng ban ơn cho chúng ta trong các bí tích. Qua bí tích rửa tội và thêm sức chúng ta được gia nhập vào cộng đồng của những người theo Chúa Kitô. Và Chúa Kitô đã không bỏ rơi chúng ta ở trần thế mà Người vẫn hiện diện và nuôi dưỡng chúng ta với Mình và Máu, là sự sống của Người. Vấn đề còn lại là chúng ta có cho đó là quan trọng để tìm kiếm ơn Chúa, để thay đổi đời sống cho xứng đáng với Mình và Máu Chúa mà chúng ta lãnh nhận trong mỗi Thánh Lễ.
Hãy nhớ rằng, khi chúng ta có sự sống của Chúa Kitô thì "nước ấy sẽ trở thành mạch nước đem lại sự sống đời đời" cho chúng ta.
Các Chúa nhật 3 và 4 mùa Chay đặt trước mắt tín hữu 3 biểu tượng lớn về đức tin. Đó là nước MC 3-A165
Các Chúa nhật 3 và 4 mùa Chay đặt trước mắt tín hữu 3 biểu tượng lớn về đức tin. Đó là nước, ánh sáng và sự sống. Các biểu tượng này được thánh Gioan ưa thích sử dụng để miêu tả đời sống thiêng liêng trước ơn thánh của Thiên Chúa trong linh hồn chúng ta. Chúa nhật hôm nay là về nước, trong một dụ ngôn hết sức sống động: Câu chuyện Chúa xin nước uống nơi người phụ nữ Samaria ở giếng ông Gia-cóp. Có lẽ đó là câu truyện của một bài giáo lý dự tòng thời Giáo hội sơ khai. Hội thánh sửa soạn họ để chịu phép rửa tội trong đêm vọng Phục sinh. Tuy câu truyện đơn giản nhưng ý nghĩa hết sức thâm thúy, nói về cuộc sống mới của người tín hữu, nhất là đời sống nội tâm của các tu sĩ, linh mục, hàng giáo phẩm. Càng suy ngẫm chúng ta càng thấm thía. Trước hết, chúng ta có thể đồng hóa với Chúa Giêsu trong cơn khát của Ngài, khi Ngài tiến gần giếng ông Gia-cóp. Rõ ràng Ngài cũng ở trong điều kiện hoàn toàn nhân loại như chúng ta:
Chịu đói khát, nhọc nhằn vì hành trình xa xôi. Đường đi của Ngài là từ miền nam (xứ Giudea), ngang qua xứ Samaria (miền trung) về miền bắc (xứ Galilea), quê hương của Ngài, sau dịp lễ Vượt qua thứ nhất. Thánh Gioan viết: “Biết thế, Đức Giêsu bỏ miền Giudea mà trở lại miền Galilea. Do đó, Người phải băng qua Samaria (4,3)”. Người Do thái đạo đức thường tránh con đường này vì coi là đất lạc đạo. Họ đi đò vượt qua sông Giođan sang bờ phía đông, rồi lại đi đò lần nữa trên miền bắc để vào xứ Galilea. Con đường xa hơn nhiều so với đường tắt Samaria, nhưng tránh được đi vào đất thù địch. Chúa Giêsu chọn con đường tắt này và gặp chị phụ nữ Samaria ở giếng Gia-cóp vào buổi trưa, lúc vắng người. Đích thực là Chúa Giêsu đói và khát. Thánh Gioan kể tiếp: “Các môn đệ trở về … thưa với Người rằng Rabbi, xin mời Thầy dùng bữa.” (4, 31) Câu truyện thật hấp dẫn, nhiều độc giả ưa thích nó, lấy làm mẫu mực cho văn chương nhân loại. Chúng ta cũng không tránh khỏi sự thu hút của nó, và có cảm tưởng như được đặc ân tham gia vào tính cách riêng tư của hai nhân vật đàm thoại, coi như chuyện của linh hồn mình (mà thực đúng là như thế).
Đối với những ai có đức tin thì đây không phải cuộc trò chuyện giữa Chúa Giêsu với người phụ nữ Samaria mà thôi. Nhưng là của bất cứ linh hồn đói khát đời sống tâm linh nào. Chúng ta được chứng kiến một phụ nữ không tin đã thay đổi nếp sống một cách ngoạn mục để trở nên một tông đồ nhiệt thành rao giảng về Chúa Kitô. Điều xảy ra cho chị khi xưa cũng là điều chúng ta được hưởng bây giờ, nếu chúng ta thành tâm phục thiện như chị. Tai hại thay, thực tế không được như vậy, bởi những bức tường tâm lý kiên cố mà chúng ta dựng nên chung quanh mình. Nhưng xin suy nghĩ lại, giữa sức nóng khủng khiếp trưa hè của cuộc sống, chúng ta cần đến “nước giải khát” để có thể sống đức tin trung thành. Chúng ta cần đến Chúa Giêsu. Nhiều khi phải vật lộn với hoàn cảnh để giữ vững lý tưởng, giống như các lữ khách sa mạc trên con đường khô khan nóng cháy. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta chẳng mấy được nâng đỡ về lòng đạo đức. Ngược lại bị “thập diện mai phục” bởi các cám dỗ xa lìa Thiên Chúa. Vậy thì tìm đâu được nước canh tân đức tin? Chúng ta sẽ chạy đến với ai? Các bài đọc hôm nay cho câu trả lời.
Trước hết, bài đọc Cựu ước trình thuật về cơn khát của dân tôc Israel. Họ khát và Thiên Chúa đã cho nước uống. Nếu câu chuyện đơn giản như thế thì chẳng có chi đáng nói. Đằng này, họ gây sự với Môsê và đe dọa ném đá ông: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai cập để làm gì? Có phải để chúng tôi, con cái chúng tôi và súc vật của chúng tôi bị chết khát không? ông Môsê kêu lên cùng Đức Chúa: “Con phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ một chút nữa là họ ném đá con.” Trong cơn khát, dân Do thái nổi loạn và trâng tráo đặt câu hỏi: “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không?” trả lời bằng cách cho họ uống nước thỏa thuê từ một tảng đá giữa sa mạc. Tảng đá này chính là Đức Kitô của giao ước mới. Tuy nhiên, những người nổi loạn bị Thiên Chúa giáng phạt chết hết cả đám trong 40 năm lang thang ở hoang địa (Tv 95, 11). Phần các tín hữu, thánh Phaolô nói cho hay Thiên Chúa giải khát chúng ta bằng cách thức khác, qua Bí tích Thánh tẩy. Ngài tuyên bố với giáo đoàn Rôma rằng họ được công chính hóa nhờ Đức tin. Nghĩa là được Thiên Chúa cho no thỏa cơn khát thiêng liêng do Đức tin Ngài ban cho. Chúng ta cần nước rửa tội để tẩy sạch lỗi lầm khỏi linh hồn mình, khỏi lạc xa Thiên Chúa và chia lìa tha nhân. Trên “hoang địa” của cuộc đời mình, chúng ta chẳng thể nào tự cung cấp thứ nước ấy. Phải tuyệt đối cậy nhờ vào bàn tay Thiên Chúa. Thực tế, Ngài đã ban cho mỗi người khi lãnh nhận phép Thanh tẩy. Trong bài đọc 2, thánh Phaolô công bố rõ như vậy khi nói về tình yêu Thiên Chúa dành cho các tội nhân: “Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.”
Cho nên, ơn Đức tin hoàn toàn là nhưng không do Đức Kitô mang lại cho mỗi tín hữu. Trong “sa mạc” cuộc đời, nhiều lúc chúng ta cũng tự hỏi: “Có Thiên Chúa không?” Thánh Phaolô trả lời “Có” bằng những chứng cớ rất cụ thể: “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta.” Cái công thức ông dùng: “Công chính hóa nhờ Đức tin” nói lên một điểm hết sức cơ bản: Ngay từ khởi đầu cuộc sống tâm linh, khi chịu phép Thánh tẩy, ơn Đức tin là một quà tặng miễn phí Thiên Chúa ban cho mỗi người. Không ai có quyền đòi hỏi hay mua sắm được bởi công nghiệp riêng. Chúa Giêsu cũng nói rõ trong Tin mừng: “Nếu chị nhận ra ơn huệ Thiên Chúa ban.” Cho nên, chúng ta không thể nào sản xuất được nước giải khát trong “sa mạc” đời mình, cũng chẳng thể làm cho ân huệ Chúa xuất hiện trên mình. Vì tất cả đều đến từ Thiên Chúa. Chúng ta cần ơn Ngài để sống sót về tâm linh và mỗi ngày tiến dần đến tự do đích thực. Như vậy, cố gắng sống đạo đức thánh thiện trong mùa chay này để được Thiên Chúa xót thương là điều cần thiết.
Hằng ngày, chúng ta có nhiều cuộc trò chuyện. Có những câu chuyện không quan trọng. Chẳng hạn, nói chuyện để giết thời gian khi chờ đợi tàu xe, chuyện tầm phào trong quán xá, tửu lầu. Có những cuộc trò chuyện cần thiết như hỏi thăm đường xá, đi khám bệnh, mua bán, hàn huyên gia đình, đưa đón con cái học hành. Có những cuộc trò chuyện tối cần thiết như giáo huấn, bán tính làm ăn, sữa chữa lỗi lầm. Hôm nay, chúng ta có cuộc trò chuyện tối cần thiết giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ xứ Samaria, liên quan đến phần rỗi của chị. Bởi vì, vai trò của chị và tầm quan trọng của Chúa Giêsu nên câu chuyện trở nên căn bản cần thiết. Nó là vấn đề sinh tử: Con người là gì? Tôi đang làm chi? Rồi sẽ đi về đâu? Tôi cần phải thay đổi như thế nào để cuộc đời có ý nghĩa? Ngoại cảnh có làm cho tôi hạnh phúc không? Đại loại như vậy và là những vấn đề thiết yếu.
Tuy không phải lúc nào chúng ta cũng đưa ra bàn luận. Nhưng thỉnh thoảng người ta vẫn đề cập đến. Bởi chúng gây nên nhiều lo âu. Nên ngừng lại những bận rộn thường ngày, ngồi bên những giếng mát, như chị phụ nữ hôm nay, để tư lự về ý nghĩa cuộc đời. Thánh Gioan có thói quen ghi rõ ngày tháng và nơi chốn các biến cố và cho nó một ý nghĩa biểu trưng. Giờ thứ 6 tức phỏng 12 giờ trưa, lúc mà thiên hạ ít đến giếng kín nước. Vì tự cảm thấy nếp sống không tốt đẹp của mình, người phụ nữ lợi dụng lúc vắng vẻ để ra giếng, tránh những con mắt khinh bỉ của hàng xóm láng giềng. Người Do thái coi giờ này như giờ hoàng đạo của âm lịch, tức giờ xấu. Quý vị hiểu ra ý nghĩa thánh Gioan muốn chuyển tải! Ngược lại, giếng Gia-cóp danh tiếng về lịch sử, chiều sâu và sự ngọt ngào mát mẻ của nước, ý nói đến nội dung tôn giáo của sấm truyền cũ. Chúa Giêsu đến thay thế cho giếng nước và chuyện vãn với một linh hồn tội lỗi để ban cho chị mạch nước vọt lên sự sống đời đời.
Tuy nhiên, tôi không muốn quá đi sâu vào chiều kích tâm linh, rời xa hoàn cảnh cụ thể hằng ngày. Gần đây tôi phải chịu đựng một trong những chuyến bay gồ ghề nhất, đến mức phải tự hỏi tại sao lại dại dột đến vậy. Số là vì nhỡ chuyến bay đi thành phố Dallas, tôi phải thu xếp chuyến bay khác và gọi điện thoại nhắn tin người đón tôi ở phi trường. Tôi tìm mua một bữa ăn Trung hoa đông lạnh. Nhưng có lẽ, người Tàu chính hiệu cũng không thể nhận ra nó. Tôi ngồi nhấm nhí bữa ăn trong khi chờ đợi chuyến bay tiếp. Rồi mở lá thư cũ ra đọc. Ông bạn viết thư cho tôi cũng là một thương gia bận rộn. Ông đi làm ăn khắp đó đây. Lá thư là một bài báo cắt từ tuần san sức khỏe, nhan đề: “Làm thế nào điều khiển được căng thẳng trí óc?” Đúng là chuyện hợp thời. Tôi thích thú đọc lại. Tác giả khuyên: Hãy tìm những chuyện làm cho tinh thần bạn bay bổng. Và đề nghị: âm nhạc, đọc sách, giã ngoại sinh thái, suy ngẫm và cầu nguyện. Tuy không phải là tờ báo tôn giáo, nhưng tác giả thêm: “Hãy thường xuyên dành thời gian cho các hoạt động tinh thần.” Dưới ánh sáng Tin mừng hôm nay, tôi xin phép mở rộng: Và tìm thời gian cho các cuộc chuyện trò ý nghĩa nữa.
Câu chuyện Phúc âm là về một tâm hồn đang bị căng thẳng. Cô ra giếng một mình vào giờ vắng vẻ có thể cô cảm thấy tủi phận vì sống ngoải lề. Cô cần được cứu giúp và Đức Kitô đã nhận ra nỗi thống khổ của cô. Cô khao khát thứ nước làm cho linh hồn mình yên ổn. Cái giếng cô kín nước không có khả năng ấy. Cho nên cô dừng lại suy nghĩ, đợi chờ một sự giải thoát khác, một cuộc trò chuyện đầy ý nghĩa như tuần san sức khỏe trên đề nghị. Ngõ hầu tinh thần cô bay bổng khỏi tình trạng nặng nề hiện tại. Chúng ta được phép tham dự vào câu chuyện riêng của cô đúng theo bản chất của nó. Và ngay cả trước khi cô chạy về thành phố loan báo cho dân chúng biết câu chuyện của mình, thì chúng ta đã khám phá ra Đức Kitô là ai. Kỳ thực chính cô đã giúp đỡ chúng ta tìm hiểu về Ngài. Liệu chúng ta có đủ cam đảm thú nhận cơn khát của mình giống như của cô? Liệu chúng ta dám dấn thân vào câu chuyện “ý nghĩa” với Chúa Giêsu? Liệu chúng ta dám bộc bạch tâm tư với Ngài, để được lột xác như cô? Vần đề đòi hỏi câu trả lời thành thực. Người phụ nữ Samaria nêu gương cho các tín hữu phải đối diện với Thiên Chúa ra sao? Cô chỉ dẫn chúng ta lắng nghe Chúa dạy bảo, nhất là trong những dịp hội họp như Thánh lễ hôm nay. Cũng như cô, chúng ta phải sẵn sàng thay đổi. Cố chấp chẳng được lợi ích chi và đi tham dự Thánh lễ như vậy chỉ tốn thời gian vô ích.
Người phụ nữ bên giếng nước sẵn lòng đổi thay nếp sống của mình bằng cách đặt câu hỏi, lắng nghe và trả lời Chúa Giêsu ngay thật, để có cơ hội điều chỉnh lại hạnh kiểm của mình. Trong xóm làng, cô bị mang tiếng xấu vì có tới năm đời chồng. Có thể do lỗi của cô, nhưng cũng có thể cô gặp toàn bất hạnh vì các người đàn ông không trung thành, kiểu ăn bánh trả tiền, nhanh chóng phụ bạc cô. Chúng ta không có quyền xét đoán. Tuy nhiên, sự kiện không làm cho Chúa Giêsu từ chối trao đổi với cô. Đúng là do lòng thương xót của Chúa. Ngài sẵn sàng hiện diện trước mặt cô để ban ơn thay đổi. Chúng ta có thể mường tượng người phụ nữ này là lời an ủi khích lệ cho toàn nhân loại. Bởi tất cả đều là tội nhân, đều rụt rè trước tôn nhan oai nghiêm Thiên Chúa để thú nhận tội lỗi mình. Chúng ta không dám mở lòng mình ra và chuyện vãn với Chúa Kitô về tình trạng linh hồn. Gương can đảm của người phụ nữ thúc đẩy chúng ta mạnh dạn tiến đến cùng Chúa. Cô kích thích Đức tin của chúng ta đến hành động. Cho nên, Mùa chay này câu chuyện của cô sửa soạn chúng ta thành thực tuyên hứa lại lời thề Bí tích rửa tội trong đêm vọng Phục sinh tới. Chúng ta thâm tín rằng nước thanh tẩy sẽ rửa chúng ta khỏi mọi tội khiên, ban ơn tha thứ và giải phóng tín hữu khỏi các hình thức nô lệ. Chúng ta sẽ cùng nhau tụ họp bên giếng nước trong lành lắng nghe và trả lời những điều Thiên Chúa muốn dạy bảo mình.
Riêng trong buổi phụng vụ này, Thánh thể chính là giếng nước chúng ta cần phải uống. Giếng nước ban sự sống đời đời. Chúng ta có cơ hội tốt để lặp lại câu chuyện người phụ nữ Samaria. Chúng ta hồi tâm đàm đạo với Chúa Giêsu về câu chuyện ý nghĩa đời mình. Chúng ta đang ở giai đoạn nào của cuộc sống? Dự tính đi về đâu? Chúa Thánh thể sẽ ban hành lý thế nào để tiếp tục tiến bước? Chúng ta cần mạch nước trong lành nào hiện giờ? Gợi lại bài báo tôi đọc ở phi trường, chúng ta cùng với cộng đoàn giáo xứ lắng nghe rõ Lời Chúa trong các bài đọc, lãnh nhận sốt sắng đời sống của Ngài trong Bí tích Thánh thể. Đó là cơ hội tốt nhất để làm cho tinh thần mình “bay bổng”. Amen. Fr. Jude Siciliano, OP. --------------------------
* Thuật chuyện người phụ nữ với năm đời chồng có lẽ thánh Gioan muốn ám chỉ tình trạng tôn giáo tại xứ Samaria. Họ lập đền thờ riêng trên núi Ga-ri-zim và tuân giữ năm cuốn sách đầu của Cựu ước, tức lề luật Môsê. Vì thế, thánh nhân tuyên bố Chúa Giêsu cao trọng hơn ông Gia-cóp, tổ phụ họ. Kỳ thực cuối cùng người phụ nữ (đại diện cho dân tộc Samaria) phải công nhận Chúa Giêsu là Ngôn sứ, là Đấng Thiên sai (Messia). Như vậy, toàn bộ câu chuyện là lịch sử biểu trưng (allegoria) của Hội thánh tại Samaria.
Mấy tháng nay ở vùng Bắc Carolina nước Mỹ trời hạn hán nặng. Vài cơn mưa rào tháng Giêng vừa MC 3-A166
Mấy tháng nay ở vùng Bắc Carolina nước Mỹ trời hạn hán nặng. Vài cơn mưa rào tháng Giêng vừa qua được đón nhận như các trận mưa giải thoát. Hạn hán có các mức độ khác nhau tùy theo vùng. Vào thập niên 80 của thế kỷ trước, tôi sống ở bang California, trời làm hạn tới 7 năm liền. Các hồ chứa nước báo động từng ngày. Khách sạn không được phép đặt nước trên bàn ăn, trừ phi có yêu cầu đặc biệt. Cả bang không được rửa xe. Người ta chỉ được tắm bông sen thật nhanh. Cấm tắm bồn. Radio và Tivi liên tục nhắc nhớ tiết kiệm nước. Nhưng vì sức khỏe, cả bang North Carolina và bang California đều cho phép uống nước từ vòi chảy tùy thích. Tuy vậy, nhiều hộ vẫn lén lút tưới trộm các thảm cỏ xanh. Khí hậu ở các sa mạc còn tệ hại hơn, nhất là vào thời Kinh thánh chưa có kỹ thuật thủy lợi. Miền Palestine, nước không được chảy tự do. Nếu như thiếu nước hoặc bị phung phí thì có nghĩa là chết khát! Vì thế nước giữ vai trò nổi bật trong các trình thuật Thánh kinh. Từ Cựu ước hình ảnh nước đã được nhấn mạnh. Nước đại hồng thủy. Nước giải thoát khỏi cảnh nô lệ Ại Cập - Sang đến Tân ước, Gioan tẩy giả làm phép rửa thống hối bằng nước sông Giođano. Chúa Giêsu ban nước hằng sống cho người đàn bà Samaria trong Tin Mừng hôm nay. Nước và Máu cứu độ từ cạnh sườn chảy ra trên cây thập tự.
Như vậy, chúng ta dễ dàng nhận ra mối liên hệ dân Kinh thánh đã mường tượng giữa nước và Thiên Chúa: Nước là ân huệ Chúa ban, là quà tặng, là dấu chỉ của người cha nhân lành. Thiên Chúa săn sóc dân Ngài qua hình ảnh ban nước cho dân và đàn súc vật của họ. Nước nói lên ý nghĩa biểu chưng cho sự sống, nó còn ám chỉ chúng ta phải hoàn toàn lệ thuộc vào Ngài về vật chất cũng như tinh thần. Không được Ngài liên tục nâng đỡ, dân Chúa sẽ héo khô như cây cỏ thiếu nước dưới ánh nắng mặt trời gay gắt như thiêu như đốt. Bài đọc sách Xuất hành hôm nay đặt dân Do thái vào giữa hoang địa khô cằn dưới chân núi Horeb. Họ phàn nàn vì thiếu nước. Horeb có nghĩa là "Khô". Xét về phương diện tinh thần thì ở giai đoạn này đúng là họ đang "khát" Thiên Chúa. Họ cần Ngài để đủ can đảm tiến bước vào sa mạc, lang thang suốt 40 năm trong hoang địa. Vậy mà họ chưa học được phải cậy trông Thiên Chúa ra sao! Họ nhìn khắp chung quanh chỉ toàn là đe dọa. Tai họa có mặt khắp mọi nơi. Khát là một từ đầu lưỡi, bởi làm gì có nước trong sa mạc? Vậy thì Thượng đế ở đâu? Cái gì đã lôi cuốn họ đi theo Môsê và Thiên Chúa vô hình vào cái nóng ghê hồn của hoang địa "Horeb"?
Cuộc đời của mỗi người chúng ta cũng có những giây phút đầy thử thách như thế. Chúng ta bắt buộc phải "ra đi" vào những hành trình dài thăm thẳm về tinh thần cũng như vật chất. Cụ thể là cuộc sống khó khăn hàng ngày. Chúng ta cần phải thay đổi liên tục để có thể thăng tiến: Tìm kiếm tư vấn cho các nhu cầu của cuộc sống. Cần giúp đỡ để đối phó với tính hư nết xấu. Rời bỏ cương vị béo bở để có một nếp sống trong sạch và ý nghĩa hơn. Kiếm thêm thời giờ rảnh rỗi để giúp đỡ những kẻ bất hạnh. Chấm dứt đàng điếm với bạn bè xấu thói. Thôi không hút thuốc gây hại cho thiên hạ. Ở nhà để giáo dục con cái tốt hơn. Theo tiếng Chúa gọi đi truyền giáo miền đất xa lạ … Dẫu rằng bước ban đầu đầy khó khăn, bấp bênh và sợ hãi. Nó đòi hỏi bỏ lại đàng sau tiền tài, danh vọng, nếp sống ấm cúng cũ. Nhưng lời hứa hẹn những thứ tốt đẹp hơn thúc giục chúng ta tiến bước. Thí dụ kiêng ăn để được một thân hình mảnh dẻ cân đối hơn làm chúng ta khốn khổ, nhưng với hy vọng được thiên hạ khâm phục, chúng ta vẫn cứ tiến hành. Những điều quan trọng còn đòi hỏi hơn nhiều.
Vì thế con đường dẫn đến tự do tinh thần không thể không có khó khăn và hy sinh. Sự đổi thay có thể là rất dài, gập ghềnh và nhiêu khê. Thử hỏi dân Israel, con đường thoát khỏi nô lệ của họ lâu bao nhiêu? Không dưới 40 năm ròng. Khó khăn thì chồng chất. Cố gắng lắm họ mới theo được tiếng gọi của Môsê đi vào hoang địa, và trung thành với thuở ban đầu. Cuộc đời nào mà chẳng có khía cạnh sù sì của nó. Nhìn lại quá khứ là bước vào cảnh nô lệ một lần nữa. Đó là những cảnh nản chí, kêu ca của dân Do thái trong bài đọc một hôm nay. Chẳng lẽ chúng ta muốn lặp lại?
Thánh Phaolô đã ngăn cản được tín hữu thành Roma làm điều đó. Ngài nhắc nhớ họ: "Anh em đã được công chính hóa nhờ đức tin". Đối với người Do thái, đức tin đó là của Abraham. Còn với các tín hữu là của phép rửa tội. Nó là khởi đầu của đời sống mới, không phải do sức riêng mình, mà đến từ Thiên Chúa. Hay như Chúa Giêsu tuyên bố trong Phúc Âm hôm nay: "Nếu chị biết ân huệ Thiên Chúa ban". Tất cả đều là ân sủng. Chúng ta chẳng thể ép buộc ân sủng xảy đến cho mình, chúng ta cũng chẳng thể sản xuất ra nước trong hoang địa. Nhưng chúng ta cần ân sủng để sống còn. Nước - hình ảnh nhắc nhớ về Thiên Chúa - chúng ta đói khát, nhưng chẳng thể nào tự liệu được cho mình.Vậy mà chúng ta cần có nó hàng ngày để tiến thêm một bước trên con đường tiến đến tự do.
Thế thì, hiện thời chúng ta đang ở chặng nào trên con đường đó? Đói khát ra sao? Thỏa mãn với những điều kém hơn Thiên Chúa? Nhìn chung quanh toàn là bế tắc trong cơn khát cùng cực? Xin hãy nhớ lại Thiên Chúa của Xuất hành. Thiên Chúa đầy hai tay những bất ngờ cho Dân Ngài! Họ đang bị dồn vào điểm chết: Bờ biển sậy và vua quan Ai cập sau lưng! Đột nhiên biển mở ra - Họ băng qua biển khô chân. Họ chết đói trong sa mạc - Chúa ban Manna bởi trời. Và lúc này họ thiếu nước đến chết khát - Chúa truyền lệnh cho Môsê dùng gậy đập đá, đá vọt ra nước. Cây gậy giải phóng hay quyền năng Thượng đế? Chính Thượng đế chịu trách nhiệm trên dân Ngài và Ngài đã ra lệnh để dân Ngài được cứu thóat. Cho nên không phải những đe dọa vật chất mà là sự sợ hãi nội tâm, sự mất tin tưởng vào Thiên Chúa gây nên những lo lắng ghê gớm cho chúng ta.
Ngày nay Thiên Chúa còn ở với chúng ta nữa không? Hàng ngày chúng ta vẫn kêu ca như dân tộc Israel xưa. Liệu Chúa còn đáp lời, thực hiện những phép lạ? Liệu Ngài còn khả năng giải cứu? Thánh Phaolô nói rằng chúng ta đã được làm nên công chính nhờ đức tin. Chúng ta tin vào Thiên Chúa và ân huệ hằng sống của Ngài. Chính bởi vì chúng ta thiếu thốn mà ân sủng được ban. No đủ rồi thì cần chi nữa mà ban ơn? Cầu nguyện hoàn hảo rồi thì cần chi đến ơn lành? Chu toàn mọi lời giáo huấn rồi, trợ giúp làm chi? Cho nên ân ban là bởi vì nhu cầu. Vậy thì ân sủng vượt ngoài khả năng của chúng ta. Ai đó sẽ giơ gậy đập tảng đá và nước sẽ chảy ra. Truyền thuyết ngoài Kinh thánh kể rằng hòn đá Môsê lấy nước di chuyển với dân Do thái suốt hành trình sa mạc và ban nước khi dân cần. Truyện đó thật không? Có thể là thật cũng có thể là không. Điều muốn nói là Thiên Chúa luôn di chuyển với chúng ta, không phải như tảng đá lúc nào cũng sẵn sàng sản xuất nước. Mà như người cha săn sóc con cái trên mỗi chặng đường khó khăn để chúng ta được giải cứu. Câu truyện sau đây khó tin nhưng có thật. Bởi do chính nhân vật trong truyện nói ra: Một người bị ung thư khoe rằng nếu được cơ hội tránh bệnh, thì phản ứng của anh sẽ là không! Bởi lẽ nhờ mắc bệnh, anh đã tìm được đời sống mới! khó tin thật. Làm sao người ấy đủ can đảm nói như thế? Nhưng ai đó đã đập tảng đá cứng và nó đã vọt nước ra. Phép màu này có ngày nào đến với chúng ta không? Thánh Phaolô dạy rằng chúng ta được công chínhhóa nhờ đức tin. Bây giờ chẳng thể chứng minh được điều đó. Nhưng khi cần, Chúa sẽ thực hiện. Bởi Ngài là đá tảng di chuyển với chúng ta luôn mãi trong hoang địa trần gian. Amen.
Ý KIẾN MỚI VỀ EVA
(của một độc giả nhân dịp mùa Chay).
Xưa nay vẫn có ý kiến rằng: Evà vì yếu đuối nên đã sa ngã.
Tôi nghĩ không phải vậy. Tư cách bà ta rất mạnh. Bà là người duy nhất được dựng nên không trực tiếp từ bụi đất mà từ xương thịt Ađam. Nói theo kiểu tân thời, nhân bản Ađam. Bà là người trước nhất tranh luận, suy tư và trả lời cho câu hỏi Thiên Chúa đã truyền dạy cái gì.
Như vậy bà là người đầu tiên làm thần học! Lệnh cấm ăn trái cây biết lành, biết dữ đã ban cho Ađam khi bà chưa được "sinh" ra! Con rắn hỏi: Các ngươi không được phép ăn hết mọi trái cây trong vườn sao? Evà sửa lưng con rắn: Mọi trái cây trong vườn chúng tôi được ăn trừ trái cây ở giữa vườn thì không được, bởi Thiên Chúa đã bảo: Khi nào các người ăn hoặc động tới, các người phải chết. Chỉ người trực tiếp nghe lệnh truyền mới có thể thêm vào lệnh cụm từ "đụng vào trái hay cây". Người nghe gián tiếp thì thêm thế nào được. Trừ phi lệnh đó lại ban ra lần nữa cho Evà, ngoài ra là suy luận.
Con rắn hợp lý hóa lời dối trá: Chẳng chết chóc gì đâu. Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra và sẽ nên như những vị thần biết điều thiện, ác.
Evà suy nghĩ: ăn trái thì có 3 lợi ích, bổ dưỡng, đã thèm và khôn ngoan. Bà hái ăn, rồi đưa cho chồng cùng thưởng thức. Ađam chẳng cần suy nghĩ: ăn liền. Ai có cá tính mạnh mẽ hơn? Sau đó Ađam hèn nhát đổ lỗi Thiên Chúa vì đã cho ông Evà. Evà đổ lỗi cho con rắn … Coi chừng chúng ta là Ađam khi không đắn đo phải trái và là Evà khi tra xét lời Chúa. Làm thần học mà!
Nếu anh chị em biết tôi thương yêu anh chị em dường nào!
Hôm đó dân làng Cồn Cát (Kôn Kơ Xâm) uống rượu cần chung với nhau tại nhà rông, có một số dân: MC 3-A167
Hôm đó dân làng Cồn Cát (Kôn Kơ Xâm) uống rượu cần chung với nhau tại nhà rông, có một số dân làng bên cạnh cũng được mời. Ông Hồ Mua tới mời bốn vị thừa sai người ngoại quốc lên nhà rông uống rượu với ông, rượu riêng của ông. Mọi người đã tụ tập và trò chuyện ồn ào, hơi men bốc lên đầu. Ông Hồ Mua uống ít, gương mặt có vẻ lo âu.
Nhóm người ngoại quốc ngồi tại nhà rông khá lâu mới thấy ông Hồ Mua đứng phắt dậy, và bằng một giọng oang oang, ông nói:
"Tôi biết có nhiều người đã kết tội tôi vì làm bạn thân với những người Kinh xa lạ này, và tôi cũng nhận thấy người ta trách tôi tại sao lại mời họ đến dự buổi tiệc rượu này. Tại sao những người Kinh này lại có những kẻ thù ở giữa chúng ta? Họ đã làm điều gì xấu đối với chúng ta? Họ đã phạm điều bất công nào? Nếu họ đã ăn gạo của các người thì họ trả tiền sòng phẳng và không ai buộc các người phải bán cho họ thứ gì. Có ai trong các người, từ đứa bé cho đến ông già, đã bị họ làm điều gì xúc phạm? Hãy đứng lên xem nào, các người là những kẻ chỉ biết nói thầm nói lén và âm mưu ác đức trong bóng tối. Đồ hèn nhát, người nào dám trả lời tôi, hãy đứng lên xem! Phải, tôi nói thẳng trước mặt cả làng, tôi thương những người xa lạ này, bởi vì họ tốt lành, và chỉ mình tôi biết đối xử công bình với họ."
Vừa dứt lời, ông Hồ Mua bỗng nhảy bổ tới cạnh bếp lửa, chụp lấy một thanh củi đang cháy và cắm ngay vào miệng, rồi gọi đích danh tên đầu đảng âm mưu sát hại nhóm thừa sai ngoại quốc và nói: "Nếu mày dám chống lại tao, thằng hèn nhát, thì hăy cắn vào thanh củi này tiếp theo tao. Hãy thề kết hận với tao như tao thề kết hận với mày."
Tôi đã hứng chịu bao nhiêu nhọc nhằn vất vả!
Một sự im lặng căng thẳng đè nặng trên căn nhà trước đó vang lên tiếng chuyện trò huyên náo, đến độ người ta có thể nghe thấy tiếng ruồi bay giữa gian nhà đông đặc những người. Không ai dám đứng lên đối đáp với ông Hồ Mua. Tên đầu đảng bị gọi đích danh, run lên như tàu lá trước gió thổi. Chàng ta xin lỗi ríu rít. Và màn kịch chấm dứt ở đó.
Riêng cha Đỗ Đình Bộ (Dourisboure) và các bạn thừa sai người ngoại quốc chưa biết tiếng Bana, nên không hiểu gì về màn kịch nói trên. Ba năm sau tên đầu đảng trở lại đạo và được chịu phép rửa, các ngài mới rõ câu chuyện. Khi ấy nhớ tới tội tày đình anh suýt gây nên, anh vô cùng hối hận và đã sấp mình dưới chân cha Cung (Combes) và xưng thú. Anh nói với cha Cung: Thưa cha, khốn cho con là kẻ đã từng mưu sát cha. Nhưng bây giờ, nếu ai muốn tấn công cha, thì con sẽ sẵn sàng bảo vệ cha và chết vì cha. Người đó sẽ phải bước qua xác chết của con mới có thể làm hại được cha."
Nhất là tôi đã phải xa lìa người mẹ tốt lành thánh thiện với biết bao đau lòng đứt ruột!
Quả thật, khác hẳn với bối cảnh ba năm về trước, khi cha Bộ và các thừa sai mới tới làng Cồn Cát, mọi người đều chạy trốn. Cha Bộ đã đau lòng ghi lại như sau: "Khi thấy anh chị em dân tộc chạy trốn chúng tôi, thì tim tôi như ứa máu, quặn đau không sao kể xiết! Chúa Giêsu nhân hậu đã nói với người đàn bà xứ Samari rằng: "Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: cho tôi chút nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống" (Ga 4,10). Những lời dịu dàng này thường đến với tâm trí tôi. Đôi khi, vì không thể làm cho anh chị em dân tộc hiểu được mình; cũng không làm sao cho tiếng nói của mình đến tai họ được, tôi la lên từ xa, với những kẻ chạy trốn: Hỡi anh chị em dân tộc đáng thương và yêu quí! Ước gì anh chị em biết tôi thương yêu anh chị em dường nào và tôi muốn làm điều tốt lành cho anh chị em, tôi đã từng hứng chịu bao nhiêu nhọc nhằn vất vả, đã vượt biển cả, xem thường bão tố! Ước chi anh chị em biết được tổ quốc tôi như thế nào mà tôi đành lìa bỏ vì anh chị em! Nhất là anh chị em biết người mẹ tốt lành, thánh thiện của tôi ở nơi đó, cách xa đây hàng ngàn dặm, mà tôi phải xa lìa với biết bao đau lòng đứt ruột! Và tất cả những điều đó tôi chịu chỉ vì thương yêu anh chị em, thế mà anh chị em lại chạy trốn tôi, lại sợ tôi là người bạn tốt nhất của anh chị em!"
Trong câu chuyện vừa kể theo Dân Làng Hồ, Sàigòn 1972, cha Đỗ Đình Bộ ước ao biết bao để anh chị em dân tộc Bana nhận ra tình thương ngài dành cho họ: Còn trong Tin Mừng hôm nay, chính Đức Giêsu ước ao biết bao dân ngoại Samari nhận ra cái mới Người mang lại cho họ: Đó là suối nước vọt tới sự sống vô cùng vô tận; đó là nền phụng tự đích thực hợp với Đấng là Thần Khí. Cái mới ấy nối tiếp một loạt cái mới khác trong Tin Mừng Gioan dưới biểu tượng rượu mới tại Cana; Đền thờ mới chính là thân thể Đức Giêsu; cuộc tái sinh vượt bậc trong nước và Thần Khí. Đức Giêsu nhấn mạnh về của ăn Người dùng thường ngày là thể hiện ý của Thiên Chúa Cha. Ý ấy phần nào nhắm thẳng cánh đồng truyền giáo đã chín muồi cho việc gặt hái.
Khi ấy Đức Giêsu rời bỏ xứ Giuđê ở miền Nam, lên Galilê theo hướng Bắc. Người đi xuyên qua xứ Samari và vì mệt nhọc, Người ngồi nghỉ cạnh giếng nước do tổ phụ Giacóp đào, mà ngày nay người dân vẫn còn đến kín nước. Chính nơi đây diễn ra hai cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari (cc.7-26); giữa Đức Giêsu và các môn đệ (cc.31-38).
Với người phụ nữ Samari, Đức Giêsu cho biết chính Người mang lại suối nước vọt tới sự sống đời đời (c.14) vượt hẳn thứ nước từ giếng Giacóp. Kế đó, Đức Giêsu cho phụ nữ ấy nhận ra Người biết tất cả quá khứ của bà, đó là điều khiến bà đặt niềm tin vào Đức Giêsu (c.19).
Người phụ nữ Samari còn được cho biết về phượng tự trong thần khí và sự thật: "Giờ đã đến... những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế" (c.23).
+ Với các môn đệ, Đức Giêsu cho họ biết "Lương thực của Thầy là thi hành y muốn của Đấng đã sai Thầy và hoàn tất công trình của Người." (c.34). Người còn gợi ý để họ phóng cái nhìn về cánh đồng truyền giáo đã chín vàng đang chờ đợi ngày gặt (c.35).
Kết luận: Nhiều người Samari tin Đức Giêsu thật là Đấng cứu độ trần gian (c.42).
Quả thực, hành trình đức tin của chúng ta cũng không khác con đường đức tin của người phụ nữ MC 3-A168
TMĐP- Quả thực, hành trình đức tin của chúng ta cũng không khác con đường đức tin của người phụ nữ Samari, vì như chị, mỗi người chúng ta đều đặt cho mình cùng một câu hỏi: Đức Giêsu, Đấng hứa ban nước hằng sống cho những ai tin vào Ngài là ai?
Không gì đáng sợ hơn chết khát, vì đói còn có thể cầm cự đôi ba ngày, nhưng khát thì chỉ dăm ba giờ là ngắc ngư, té xỉu.
Như nhiều người trong chúng ta đã có kinh nghiệm khát cháy cổ dưới cái nóng đổ lửa của mùa hè khi đi lạc, Ítraen, dân Chúa trên đường về Đất Hứa, sau khi rời bỏ đất nô lệ Ai Cập cũng đã trải qua những ngày không có nước cho dân và đoàn súc vật. Vì khát, “dân đã gây sự” và phẫn nộ “kêu trách ông Môsê: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai Cập để làm gì? Có phải là để cho chúng tôi và súc vật của chúng tôi bị chết khát hay không?” (Xh 17,2.3).
Sách Xuất Hành ghi lại cảnh họ than thở, trách móc, giận dữ và chỉ một chút nữa là họ ném đá ông Môsê, người đã vâng lời Đức Chúa giải phóng họ khỏi gông cùm nô lệ Ai Cập để đưa họ về Đất Thiên Chúa hứa ban.
Ở bước đường cùng, giữa những bế tắc khó vượt qua, “Môsê đã kêu lên cùng Đức Chúa”, và Ngài đã sai ông cầm lấy cậy gậy đập vào tảng đá ở núi Khôrếp và nước đã chảy ra cho dân uống (x. Xh 17,5-6).
Qua trình thuật về thái độ gây sự của Ítraen khi khát nước trong sa mạc, với những lời thách thức Thiên Chúa: “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không?” (Xh 17,7), chúng ta nhận ra tình trạng dễ dàng sa sút niềm tin của dân Chúa, cũng là của chúng ta khi gặp thử thách trong đời sống. Niềm tin khủng hoảng khi không còn tin vào bàn tay dẫn dắt tràn đầy yêu thương của Thiên Chúa; niềm tin cạn kiệt khi không còn hy vọng vào lòng thương xót của Đấng hằng trung tín với lời Ngài hứa. Và đó chính là thách đố của tất cả những ai đang trên đường Vượt Qua với Đức Giêsu.
Nếu bài đọc Cưu Ước cho thấy Ítraen đã khát, và Môsê đã xin Đức Chúa ban nước cho họ uống, thì Tin Mừng Gioan lại cho chúng ta thấy một Thiên Chúa đang khát, vì đi đường mỏi mệt lúc giữa trưa (x. Ga 4,6) đã xin con người nước uống, khi nói với người phụ nữ Samari đang kín nước ở giếng ông Giacóp: “Chị cho tôi xin chút nước uống!” (Ga 4,7).
Tuy xin chút nước uống, nhưng Đức Giêsu đã đi vào đối thoại chân tình với người phụ nữ. Câu chuyện khởi đi từ mối bất hoà giữa hai miền khi người phụ nữ ngỡ ngàng hỏi Đức Giêsu: “Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông uống nước sao?”, và cứ thế, trao đổi giữa Đức Giêsu và chị ấy càng lúc càng sâu sắc đã dẫn người phụ nữ Samari đến niềm tin: Đức Giêsu, người đàn ông Do Thái đã được chị cho uống nước và đang nói với chị chính là Đấng Thiên Sai đã được loan báo và mọi người trông đợi (x.Ga 4,25-26).
Tin Mừng còn cẩn thận ghi lại: sau khi nhận ra “ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người đã nói với chị: Cho tôi xin chút nước uống”, “người phụ nữ đã để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao? Họ ra khỏi thành và đến gặp Người” (Ga 4,10.28-30).
Quả thực, hành trình đức tin của chúng ta cũng không khác con đường đức tin của người phụ nữ Samari, vì như chị, mỗi người chúng ta đều đặt cho mình cùng một câu hỏi: Đức Giêsu, Đấng đích thân đến gặp tôi là ai? Đức Giêsu, Đấng xin tôi nước uống trong cơn khát của Ngài là ai? Đức Giêsu, Đấng hứa ban nước hằng sống cho những ai tin vào Ngài là ai?
Ước gì hôm nay chúng ta không còn cứng lòng như Ítraen xưa kia trong sa mạc đã thử thách Thiên Chúa, dù đã thấy những việc Ngài làm, nhưng mở lòng và lắng nghe tiếng Ngài phán dạy (x. Tv 94,8) hầu được Thiên Chúa “mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Ngài …” (Rm 5,2) như người phụ nữ Samari đã không chỉ quảng đại mở rộng đôi tay lấy gầu, kéo nước từ giếng sâu lên cho Thiên Chúa làm người đang khát uống, nhưng còn chân thành mở rộng con tim để lắng nghe, và đón nhận lời Ngài là mạch nước được Ngài làm vọt lên, đem lại sự sống đời đời (x. Ga 4,14) nơi những người tin Ngài là Đức Kitô, Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu thế gian.
Hầu hết mọi người đều cho rằng: tình yêu chân chính không thể vừa gặp đã yêu, mà là lâu ngày MC 3-A169
Hầu hết mọi người đều cho rằng: tình yêu chân chính không thể vừa gặp đã yêu, mà là lâu ngày sinh tình. Cuộc sống cho ta kinh nghiệm: thật dễ dàng để làm quen với một người xa lạ, nhưng sẽ thật khó để quên đi một người xa lạ ta đã từng quen. Không bao giờ các học trò có thể lĩnh hội được hết kiến thức của thầy, hoặc tài giỏi bằng thầy; không phải tất cả các cặp đôi đều hạnh phúc, nhưng chắc chắn càng đối diện với nhiều khổ đau, hạnh phúc của họ càng bền vững. Không ai nghi ngờ gì việc: con hơn cha nhà có phúc, nhưng người ta sẽ tâm phục khẩu phục khi tiếp xúc với thầy giỏi trò ngoan. Cuộc sống thú vị biết bao, khi con cháu nhận ra tình yêu thương là món quà quý báu nhất, mà bậc sinh thành ban tặng họ. Các học trò chỉ làm cho thầy của họ vui, khi ghi nhận được kiến thức và kỹ năng sống thầy đã chân thành chia sẻ.
Cho và nhận từ xa xưa vẫn là một ân ban, bao gồm cả thực tế và trừu tượng, được đong đầy bởi tình yêu. Cho đi yêu thương, hạnh phúc tự tìm đến, lạc quan vui vẻ: khổ đau, thất vọng, rồi sẽ qua. Câu chuyện một thanh niên Do-thái xin thiếu phụ Samari một chút nước, ít nhiều cũng phản ánh một chân lý: điều kỳ diệu sẽ xảy đến với người biết cho đi, bạn càng cho nhiều, bạn càng có nhiều. “Xin chị cho tôi uống nước” ? Thiết tưởng việc cho và nhận chút nước uống, thế là xong giữa người Do-thái và thiếu phụ Samari. Cho nước uống, nhận lời cám ơn, đã gọi là đủ lý đủ tình. Chào hỏi nhau, nói chuyện với nhau, không phải chỉ dừng lại ở phương diện xã giao, còn cho thấy con người tự nhiên đã khao khát được lắng nghe, được cảm thông, để hiểu nhau, rồi sống đúng, sống đẹp hơn. Vì nếu không có người tốt, mấy ai tự biết được giới hạn của mình ?
“Ông là người Do-thái mà lại xin nước uống với tôi là người Samari ư ? Giếng thì sâu, mà ông thì không có gầu, làm sao ông múc được nước để cho tôi” ? Phải chăng Ngài trọng hơn tổ phụ chúng tôi sao ? Nếu thiếu phụ đó mà sống ở thời đại hôm nay, chắc cô ta còn nói: thôi ông đừng nổ, đừng cưa bom ! Vâng, xã hội cho rằng: nhất lý nhì lỳ, kiên nhẫn ắt sẽ thành. Từ việc khát nước, Đức Giêsu khơi dậy ước muốn “Nước hằng sống” nơi người thiếu phụ, từ việc khát tình yêu thương, Đức Giêsu mở ra cho người phụ nữ một hy vọng, ơn cứu độ sẽ được trao ban. Túng thiếu vật chất, khổ đau tinh thần, đói khát cơm bánh, đói khát tình yêu thương, chính là những đòi hỏi cần thiết được khoả lấp. Cho và nhận, ban phát và ân thưởng, thực sự đẹp và chuẩn, khi đôi bên có tự do, có đặt tình yêu thương vào tương quan đó.
Kinh nghiệm ở đời cho thấy: người ta dễ bị thuyết phục bởi tình hơn lý, người ta dễ nghe, dễ đón nhận âm thanh vừa đủ, chẳng cần phải dùng những từ ngữ dao to búa lớn, văn hoa, bác học, hay ngọt ngào uỷ mị, mà là nghiêm túc, chân thành. Cuộc sống luôn công bằng, sòng phẳng: thật hạnh phúc khi bạn biết cho đi mà không cần nhớ đến, biết đón nhận mà không hề quên ơn. Đức Giêsu cho người thiếu phụ biết: “ai uống nước giếng này sẽ còn khát …”. “Hãy tin Ta, vì đã đến giờ người ta sẽ thờ phượng Chúa Cha không phải ở trên núi này hay ở Giêrusalem …”. Đói khát, túng thiếu, nghèo khổ, hoặc yếu đuối tội lỗi, cũng không dẫn ta đến ngõ cụt, chỉ tại bởi ta sử dụng tự do không đúng nên bị lạc vào đường cùng. Mỗi người, mỗi hoàn cảnh, tuy phức tạp khác nhau, nhưng ai cũng có cơ hội để trở nên người tốt, biết cho đi và biết nhận lãnh.
Cho và nhận vừa thú vị, vừa linh thiêng: một nụ cười có thể làm thay đổi ngày buồn thành ngày vui; một lời nói đúng, nói đẹp, có thể khơi dậy ham muốn đổi đời của một người. Ngày hôm nay các nhà giáo dục chủ trương: mau nghe, chậm nói hoặc bằng đối thoại trong trưởng thành, sử dụng tự do và đặt tình yêu vào hành động. Đức Giêsu đã nói: “ai uống nước Ta sẽ cho, thì không bao giờ khát nữa”. Trong khi đó, người thiếu phụ bị thu hút bởi sự kỳ diệu phát xuất từ nơi Đức Giêsu: “thưa Ngài, xin cho tôi thứ nước đó để tôi chẳng còn khát, và khỏi phải đến đây xách nước nữa”. Trong lòng người thiếu phụ thấy vui do cuộc đối thoại thú vị, hẳn chị ta phải hiểu cho và nhận, biết và tin: khởi đầu từ một thanh niên Do-thái, rồi đến một tiên tri. Tiếp đến, người thiếu phụ tin và thán phục: “tôi biết Đấng Messia mà người ta gọi là Kitô sẽ đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”.
Có một du khách gặp sư thầy gánh nước, du khách hỏi: thưa sư thầy, thầy gánh nước ở đây được bao lâu rồi ? Sư thầy đáp: thưa thí chủ, từ khi mới tập tu. Vậy thầy không buồn sao, quanh năm suốt tháng chỉ một công việc ? Sư thầy tự tin trả lời: lúc ban đầu tôi cũng nôn nóng lắm, cứ mong sao được thay đổi công việc … Bỗng một ngày kia sư phụ nói: nếu con thật lòng muốn đắc đạo, đừng phàn nàn hoặc khao khát làm điều to lớn. Tôi thầm cám ơn vì đã hiểu: cho và nhận. Không phải ta giữ chức vụ to lớn là ta vĩ đại, đúng hơn, ta sẽ trưởng thành, khi biết làm điều nhỏ nhặt với tình yêu vĩ đại. Hạnh phúc ở đời là đi đúng đường, đúng lối, niềm vui nơi đệ tử là học hỏi, thu thập kiến thức, kinh nghiệm sư phụ truyền đạt. Đức Giêsu trao ban yêu thương, đã nhận được sự biến đổi nơi người thiếu phụ, và rồi cả dân làng tìm đến nghe, và họ cùng vui sống Tin Mừng. Amen.
Nguồn nước sạch ngày càng hiếm trên hoàn vũ. Không ở đâu xa, tại Việt nam, những con sông MC 3-A170
Nguồn nước sạch ngày càng hiếm trên hoàn vũ. Không ở đâu xa, tại Việt nam, những con sông đang chết dần vì nước thải, nước nhiễm hóa chất và nước ngập mặn… Nguồn nước chết không mang lại sức khỏe, sự sống cho nhiều loài, nhiều ruộng vườn và cho con người. Nước Hằng Sống rất quan trọng để tìm nguồn nước ấy cho sự sống đời này và đời sau.
Ý nghĩa của nước.
Nước đóng một vai trò thiết yếu liên quan tới tất cả sự sống. Nước tự tái tạo qua quá trình bốc hơi, thành mây, làm mưa xuống. Quá trình này được diễn tả: “Sông đổ mãi vào biển nhưng biển chẳng hề đầy; hơi nước bay về nguồn, nước trở lại với dòng sông, sông lại đổ vào biển” (Gv 1, 7). Có thể hiểu: “Hồng ân Chúa như mưa, như mưa, rơi xuống đời con miên man.” Nhưng nếu là hồng ân con người cần có trách nhiệm để cho nước phát sinh hoa quả, nảy nở hồng ân đến cho tha nhân: “Vì cũng như mưa với tuyết từ trời sa xuống, tất không lùi lại về trời, nếu đã không thấm nhuận đất đai, nếu không làm cho đất sinh sản, nảy chồi, và cho người gieo có giống, cùng bánh cho người ta ăn.” (Is 55, 10).
Nước đôi khi cũng chỉ ý nghĩa dòng đời mỗi người trên trần gian. Ngược xuôi theo những dòng nước trôi. Đôi khi, chẳng vận động, buông thả theo dòng nước với việc: “bèo giạt mây trôi”, không định hướng, quyết định cho đời mình được gì cả. Cuộc đời nhàm chán, buồn tênh, chẳng biết đi về đâu hay cứ luẩn quẩn với khúc sông vẩn đục đời mình. Ân sủng Chúa ban cần có sự cộng tác của con người, Thánh Augustine chia sẻ: Chúa tạo dựng nên con, Chúa không cần con, nhưng để cứu độ con, Chúa cần con cộng tác”.
Nước cũng là biểu tượng của Chúa Thánh Thần, Đấng ban sự sống thần linh. Đấng làm cho sạch, nghĩa là thánh hóa những gì bợn nhơ. Chúa Thánh Thần cũng là sức mạnh và mềm mại, uyển chuyển, năng động như đặc tính của nước. Có thể phá vỡ mưu chước thù nghịch là ma quỷ, có thể là băng bó chữa lành như phương dược, có thể là Đấng an ủi, khích lệ người đau khổ, kẻ ưu phiền. Chúa Thánh Thần còn là Đấng làm nên mới trong tác động thanh tẩy và tái sinh trong ơn gọi làm con Thiên Chúa.
Nước trời.
Trong danh xưng người Việt đồng hóa nước với tên gọi quốc gia, như nước Việt Nam hay quốc gia Việt Nam. Tên gọi nước là một danh xưng ở đó ngầm hiểu là đất nước, có một lãnh thổ, những người dân trên lãnh thổ đất ấy. Cũng trên đất không thể thiếu nước để mọi dân được sống nhờ nước mang lại hoa màu và nguồn thanh tẩy. Khi gọi nước thay cho quốc gia, người ta ngầm hiểu một ý nghĩa sâu xa, nước là cội nguồn của sự sống, sự tồn vong của một quốc gia. Chính vì vậy mất nước là mất tất cả.
Nước ở trần gian có một vị thế đặc biệt huống chi Chúa muốn nói về Nước Trời. Ngày xưa ở người Do Thái, người ta tránh gọi đến danh xưng Thiên Chúa, cho nên họ nói trại đi là Nước Trời. Chúa Giêsu cũng nói về Nước Trời nhưng cũng nói về Nước thiên Chúa như nhau.
Nước Chúa Giêsu nói với người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacop, là hàm ý Nước Thiên Chúa. Nước ấy bao hàm tất cả mọi quốc gia, mọi dân tộc, mọi ngôn ngữ trên toàn cầu. Nước ấy không chỉ ở Nước Chúa trên trời mà còn Nước Chúa tại trần thế như nhiều dụ ngôn Chúa Giêsu nói. Nước Thiên Chúa hiển trị trên trần gian, hệ tại ở việc thờ phượng Thiên Chúa trong Thánh Thần và trong sự thật. Nghĩa là trong tâm hồn được sinh lại làm con Thiên Chúa, được thanh tẩy nhờ Chúa Thánh Thần, và như Thánh Phaolô diễn giải: ““Anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta kêu lên: “Abba, Cha ơi!” (Rm 8,15). Sống trong nước Thiên Chúa là sống trong tự do đích thật, không còn làm nô lệ cho tội lỗi.
Chúa Thánh Thần là Đấng cầu nguyện cho chúng ta ”Cũng vậy Thần khí đỡ đần tình cảnh yếu hèn của ta. vì cầu xin thế nào cho phải, ta nào có biết. Song chính Thần khí chuyển cầu cho ta, bằng những tiếng rên khôn tả. Nhưng nếu Ðấng dò thấu lòng dạ biết hứng của Thần khí, (Người biết) Thần khí chuyển cầu cho các thánh rập theo ý Thiên Chúa. (Rm 8, 26 – 27)
Nước Thiên Chúa vừa là nguồn nước ban sự sống, ban ơn thanh tẩy, thánh hóa, tái sinh; còn là nơi Thiên Chúa sống với con người ở trần gian và đưa con người tín thác vào Chúa vào Nước của Thiên Chúa.
Như người phụ nữ Samaria xin Chúa: Xin cho chúng con nước này, để không còn khát nữa” (Ga 4, 15)
Khát đáng sợ hơn đói, vì đói vài ngày vẫn là chuyện nhỏ, nhưng khát ba ngày giữa mùa hè nóng MC 3-A171
Khát đáng sợ hơn đói, vì đói vài ngày vẫn là chuyện nhỏ, nhưng khát ba ngày giữa mùa hè nóng bức sẽ là chuyện lớn, phát sinh thành lớn chuyện.
Khi khát, người ta tìm nước ở ao hồ, sông rạch. Thôn quê Việt Nam không lạ lẫm gì với giếng nước ở giữa làng, ở đó bà con hằng ngày lũ lượt đến kín nước về uống, tắm giặt.
Ngày ấy, trên đường rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu phải băng qua Samari là vùng đất thù nghịch đối với người Do Thái, đến một thành có tên là Xykha, “ở đấy có giếng của ông Giacóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc ấy khoảng mười hai giờ trưa” (Ga 4,6).
Thánh sử Gioan đã rất chi tiết khi ghi rõ: Đức Giêsu đến bờ giếng vào “mười hai giờ trưa”, cái giờ nắng gắt chói chan, mà ai đã có lần đi viếng Đất Thánh đều phải sợ.
Lúc bấy giờ, “có một người phụ nữ Samari đến lấy nước. Đức Giêsu nói với người ấy: Chị cho tôi xin chút nước uống !” (Ga 4,7). Và chị ấy đã cho Đức Giêsu nước uống, bằng chứng là chị đã ngạc nhiên hỏi Đức Giêsu: “Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông uống nước sao ?” (Ga 4,9).
Nhưng chỉ sau một cuộc đối thoại ngắn, ở đó, Đức Giêsu nói với chị về nước hằng sống, mà Ngài sẽ ban cho, khi qủa quyết: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,13-14), thì người cho trở thành người xin, khi chị nói với Đức Giêsu: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát, và khỏi phải đến đây lấy nước nữa” (Ga 4,15).
Đến lúc này thì bên bờ giếng Giacóp hôm ấy, dưới cái nắng trưa làm khát cổ, cháy da, có hai người khát nước xin nhau nước uống:
Đức Giêsu khát niềm tin của người phụ nữ Samari:
Gặp gỡ và ngỏ lời xin nước uống, Đức Giêsu đã đi vào đối thoại thân tình với người phụ nữ lận đận, vất vả trong đường tình duyên, gia đình, vì chị “đã năm đời chồng, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị” (Ga 4,18), để rồi khơi dậy trong chị ánh sáng sự thật, sự thật của đời chị, bởi niềm tin Thiên Chúa phải khởi đi từ sự thật của chính mình. Nói cách khác, người ta không thể tin Thiên Chúa, không thể đi vào tình yêu của Thiên Chúa, nếu không thật với chính mình, không dám nhìn nhận sự thật về mình, không can đảm đối diện với những gì “mình là, mình có”, bởi sự thật của “cái tôi” là nền tảng của niềm tin ở Thiên Chúa, nên sẽ không có niềm tin đích thực ở Thiên Chúa, bao lâu còn giấu diếm, che đậy sự thật của “cái tôi” ; sẽ không thể tin Chúa, nếu không dám tin mình, khi chấp nhận toàn bộ sự thật của mình, dù sư thật ấy có đen đúa, xơ xác, tiều tụy đến đâu.
Người phụ nữ đã thật với chính mình, để có thể nhận ra mình cần nước hằng sống, cần thứ nước của Đức Giêsu, mà “ai uống, sẽ không bao giờ khát nữa” (Ga 4,14). Nhờ nhận ra sự thật của mình, mà chị đã nhận ra: Đức Giêsu “thật là một ngôn sứ” (Ga 4,19), là “Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô” (x. Ga 4,25-26), và vấn nạn từ lâu làm trăn trở tâm hồn chị về Thiên Chúa đã được Đức Giêsu tháo gỡ: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem… Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” (Ga 4,21.23).
Đức Giêsu khát niềm tin, và Ngài đã nhận được nước uống của niềm tin nơi người phụ nữ Samari bên bờ giếng, khi “có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm” (Ga 4,39).
Người phụ nữ Samari khát tình yêu đích thực: Câu chuyện giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp thật thân tình, dễ thương, và đầy tin tưởng giữa hai người. Nhờ bầu khí thân thiện, ân tình và tương kính này, mà người phụ nữ với nhiều mặc cảm vì tình duyên và đời vợ chồng trắc trở mới có thể trút bỏ tâm sự thầm kín, và thao thức, khắc khoải với Đức Giêsu, người đàn ông Do Thái đã dám xin nước chị là người phụ nữ Samari bị coi là thù nghịch.
Khi chia sẻ, tâm sự với Đức Giêsu về nỗi trống vắng của tâm hồn, không chỉ là trống vắng tình yêu, hạnh phúc, mà còn là trống vắng của niềm tin, trống vắng lý tưởng sống, trống vắng lẽ sống, người phụ nữ Samari đã gặp được Đấng làm cho chị khỏi khát nữa, khi ban cho chị nước hằng sống là Ân Huệ của Thiên Chúa, khi nói với chị: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chi: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống” (Ga 4,10). Và chị ấy đã xin và đã nhận được Tình Yêu, Hạnh Phúc, và Bình An của Đấng Cứu Thế, khi chị tin vào lời Đức Giêsu nói với chị: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây” (Ga 4,26), và khi chị “để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao ?” (Ga 4,29).
Vâng, người phụ nữ Samari đã khát tình yêu, và chị đã gặp được Tình Yêu đích thực, đời đời là chính Thiên Chúa ở Đức Giêsu Kitô, Đấng đã làm bước chân thứ nhất đến với chị, và mở lời đầu tiên “xin chị nước uống”, vì yêu chị và không muốn chị phải khát nữa, bởi chỉ Tình Yêu Thiên Chúa mới làm “đã khát” cơn khát tình yêu trong chị ; chỉ Tình Yêu Đức Giêsu mới cho chị Nước Hằng Sống để trái tim chị từ nay không bao giờ phải khát nữa.
Qủa thực, như dân Do Thái xưa trong cơn khát giữa sa mạc nắng cháy đã nghi ngờ tình thương của Đức Chúa Giavê và bị qửơ trách: “Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơriva, như ngày ở Maxa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã từng thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm” (Tv 94,8-9), chúng ta trong cơn khát ơn sủng, cũng có thể rơi vào những cám đỗ đủ loại dẫn đến nguy cơ đánh mất sự sống đời đời.
Và Mùa Chay chính là cơ hội làm sống lại tinh thần và sức sống của Bí Tích Rửa Tội, ở đó chúng ta nhận được nguồn sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chỉ một điều kiện Thiên Chúa đòi để được nhận Nước Hằng Sống, để không còn phải khát và “chết vì khát”, đó là sống thật với chính mình và với Thiên Chúa. Đây là chià khóa mở cửa tâm hồn, cởi trói trái tim để “Thiên Chúa đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5)
Trưa đã muộn, mọi người đã về nhà để tránh cái nóng đang sôi sục như muốn thiêu đốt cả vùng MC 3-A172
Trưa đã muộn, mọi người đã về nhà để tránh cái nóng đang sôi sục như muốn thiêu đốt cả vùng trời Samari. Sao năm nay nắng thế! Không biết bên mấy vùng trời kia thời tiết có gay gắt như thế này không? Vừa lẩm bẩm, chị vừa kéo vội tấm khăn che mặt và cầm chiếc bình đi lấy nước. Chị ra giếng lúc người ta đã về hết, chị đi lúc mọi người đã nghỉ ngơi. Không phải chị không muốn đi sớm nhưng chị sợ phải gặp nhiều người, sợ đám đông, sợ những cái nhìn lạnh lùng… Vì chị vẫn cần nước để sống nên chị vẫn phải đối diện với những nỗi sợ khi đi lấy nước. Chị tự nhủ thầm rằng: “Thôi thì đi lúc vắng vẻ nhất!” Mỗi ngày, người ta đều thấy chị đi lấy nước vào buổi trưa. Nhìn biểu hiện bên ngoài của chị thì chắc chả mấy ai bận tâm, nhưng đằng sau sự bình thường đó là cả một nỗi lòng dài không ai thấu.
Giữa những gian nan, cô đơn, khổ cực, tủi nhục chị luôn chỉ có một mình. Chị không hề thanh minh về cuộc sống của mình. Dường như, chị đã quá đau đớn, quá long đong với những thăng trầm của cuộc đời nên chị cứ để vậy, không muốn vươn lên nhưng cũng không có nghĩa là không còn muốn sống. Chị vẫn đi lấy nước mỗi ngày vào trưa nắng. Chị cần có nó để duy trì sự sống, dù cuộc sống của chị cũng gay gắt như ánh nắng mặt trời mỗi trưa chị đi lấy nước vậy. Nó làm cho chị ngày càng khép lại sau những tổn thương. Chị tưởng mình đã có tất cả. Nhưng thật ra, chị chẳng có gì. Những gì chị có chỉ là tạm bợ, nó làm cho chị tan nát và hối hận. Chị không biết cuộc đời mình rồi sẽ ra sao, sẽ như thế nào. Sống ngày nào hay ngày đó! Chị vẫn đi lấy nước mỗi trưa, vẫn đầy những mặc cảm và xấu hổ, cùng tâm trạng luôn thấy mình thấp kém. Đã có lúc, chị muốn đến trò chuyện với những người xung quanh, với mấy chị, mấy cô và cả đám nhỏ nữa… nhưng tự chị thấy có những ngăn cách khi muốn đến với mọi người. Những ngăn cách đến từ đâu? Phải chăng là từ chị, từ cuộc đời chẳng mấy tươi sáng của chị, hay là từ những thành kiến do những chuẩn mực rập khuôn đã khiến mọi người xa lánh chị. Đau khổ quá! Sống giữa cộng đồng mà chỉ có một mình, chị đi từ cái khát thể lý đến cơn khát tương quan.
Hôm nay, nắng thật gắt. Chị đi cho nhanh kẻo về trễ quá trời sẽ thiêu chị trong cái nắng như đổ lửa này. Bất chợt, chị không muốn tới giếng vì thấy có bóng người. Ai như một người đàn ông, và ông ta lại là người Do Thái thì phải. Thôi kệ! Nếu người quen có gặp cũng chẳng ai muốn nói với chị nửa lời thì huống gì người lạ. Việc ai người ấy lo. Chị đến bên giếng múc được vò nước, đang ngồi nghỉ để lấy sức đi về thì người lạ bắt chuyện với chị. Chị ngạc nhiên quá sức. Đây là lần đầu tiên chị được hỏi chuyện. Kể từ khi người ta biết về cuộc sống của chị, chưa hề có ai chủ động đến với chị trước. Chị sống giữa cộng đồng nhưng lại bị người ta coi thường, bị cô lập trong chính những đau khổ mà chỉ mình chị mới cảm thấu. Được hỏi chuyện, chị như nhận ra rằng mình vẫn đang sống và chị cần có những tương quan trong cuộc sống. Điều đó từ lâu chị đã chẳng có được.
Chị đi từ bất ngờ đến sửng sốt, vì một người Do Thái đang nói chuyện với chị. Ông bỏ qua cái định kiến hàng bao nhiêu thế kỷ qua về người Do Thái và người Samari, để nhìn chị như một con người theo đúng những gì mà chị cần được nhìn. Dù là người Do Thái hay người Samari, ai cũng tự cho bên mình là đúng, là tốt hơn. Chính định kiến ấy đã chia rẽ những con người đang cùng tìm kiếm và tôn thờ Thượng Đế. Nhưng giờ đây, cái nhìn chị đang nhận được là cái nhìn không một chút đánh giá, bình phẩm, chê bai, không dựa trên những quy chuẩn mà con người ta đặt ra cho nhau. Người lạ mặt xin nước để uống. Người lạ và cách ứng xử cũng khác lạ. Thật quá lạ lùng! Chị không sao hiểu được những gì đang xảy ra nơi bờ giếng này. Chị thấy mình đang được đón nhận. Thì ra, khi được trao ban một chút gì đó, dù chỉ là một ly nước thì cũng khiến cho con người ta cảm thấy mình thật có giá trị. Vẫn còn có người đón nhận chị và nhìn chị như chị là chứ không như những gì chị làm. Người này đã không e ngại khi đến với chị. Ông ta cho chị cái mà chị thực sự cần. Chị cần tình thương hơn là sự xa lánh, cần thông cảm hơn là oán trách và loại trừ, để có thể vươn lên khỏi những trói buộc và nghịch cảnh của cuộc sống. Cả một cộng đồng không có ai dành cho chị điều tưởng chừng như đơn giản đó. Hôm nay, chị đã nhận được điều đó, điều làm cho chị thấy cuộc sống của chị không chỉ là cần đi lấy nước ở giếng mỗi ngày để rồi lại khát, nhưng còn là cần mở lòng đón lấy một điều làm cho tâm hồn chị không còn khát nữa. Từ một người cho nước, chị trở nên người được no thỏa cơn khát bằng chính tình thương mến mà chị nhận được nơi Đấng mà chị nhìn nhận rằng: “Ông thật là một ngôn sứ”. Đấng mà chị đã gặp, đã thấy, chính Người đã gột rửa tâm hồn và làm bừng lên trong chị điều mà trước đây chị chưa bao giờ dám nghĩ tới. Chị bỏ vò nước lại cùng với thứ nước làm đã không xoa dịu được cơn khát của chị mà còn làm cho chị thêm bao đau khổ, đắng cay. Giờ đây, chị đã có thứ nước làm cho chị không bao giờ khát nữa, thứ nước làm cho chị sống thực sự, thứ nước đó là chính Đấng Kitô.
Lạy Chúa! Xin cho con cũng được gặp Chúa và để con cũng cảm nhận được cái nhìn đầy mến thương của Chúa dành cho con. Cái nhìn đã cho con nhận thấy con thực sự được Chúa yêu thương và từ đó con cũng dành cho tất cả những anh chị em tình mến thương của Chúa. Một tình mến giúp con nhìn tha nhân như những gì họ là chứ không như họ làm và gạt bỏ đi mọi thành kiến cố hữu đang ngăn cách chúng con. Mạch nước mà Chúa ban cho con chính là mạch nước tình yêu và chỉ có tình yêu mới làm cho con thực sự sống và sống dồi dào.
Ai trong chúng ta cũng đã từng trải qua cơn khát. Giữa trưa hè nóng nực, đi đường mỏi mệt, chúng MC 3-A173
Ai trong chúng ta cũng đã từng trải qua cơn khát. Giữa trưa hè nóng nực, đi đường mỏi mệt, chúng ta thèm một ly nước mát cho thỏa lòng, cho quên đi mỏi mệt. Có một cơn khát của tâm hồn còn mãnh liệt hơn cơn khát của thể lý. Tâm hồn chúng ta đang khao khát điều gì?
Thầy Giêsu vừa đi đường mỏi mệt, lúc ấy vào khoảng mười hai giờ trưa, Người ngồi ngay xuống bờ giếng Giacóp để nghỉ chân. Các môn đệ đã vào thành tìm mua thức ăn, chỉ còn một mình Thầy ngồi lại bên bờ giếng. Họng khát khô nhưng Người chẳng có gầu để múc lấy một giọt nước. Người chờ đợi một ai đó có thể cho Người chút nước hay Người cố tình chờ sẵn ở đây, vì biết rằng, có một tâm hồn đang khao khát Nước Hằng Sống?
Thấp thoáng một người phụ nữ đang tiến lại, tay chị cầm vò và cả gầu để múc nước. Chị là một phụ nữ Samari. Khuôn mặt chị sắc sảo nhưng lại phảng phất một chút gì đó lo âu. Tại sao chị lại chọn lấy nước vào lúc giữa trưa, lúc mà mọi người đã về nhà để nghỉ ngơi, để tránh cái nắng nóng đến rát mặt? Thầy Giêsu ngỏ lời với chị: “Chị cho tôi xin chút nước uống!” (Ga 4, 7). Thầy ngỏ lời xin chị chút nước vì chính Thầy đang khát khô cả họng. Thầy chẳng ngần ngại xin chị nước, chẳng ngần ngại mở đầu câu chuyện với một phụ nữ Samari. Thầy chẳng khinh miệt chị nhưng trò chuyện với chị như một người bình thường.
Thầy Giêsu nói với chị về nước hằng sống mà chính Người sẽ ban cho. Nước ấy sẽ làm cho muôn người không bao giờ khát nữa và nước ấy cũng sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời (x. Ga 4, 10-14). Lời giới thiệu của Thầy Giêsu đã thuyết phục chị, chị thưa rằng: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước” (Ga 4, 15). Thầy nói với chị về cuộc đời của chị bằng nỗi cảm thông sâu sắc. Thầy dẫn chị đến những khám phá mới về việc thờ phượng Thiên Chúa và cả khám phá về chính con người của chị, về nỗi khát khao ẩn giấu trong tâm hồn. Thầy Giêsu đã phá tan rào cản của tôn giáo, của sự khinh miệt bao đời giữa người Do Thái và người Samari. Khi đã bày tỏ những băn khoăn của mình về việc thờ phượng Thiên Chúa, chị cũng đã từng bước bày tỏ cho Thầy Giêsu về chính tâm hồn mình. Chính khi gặp gỡ Thầy Giêsu, người ta cũng sẽ tìm thấy một lối đường để bước đến cùng Thiên Chúa, tìm thấy một niềm hy vọng để sống dồi dào hơn, và người ta cũng sẽ tìm gặp chính mình.
Hằng ngày, Thầy Giêsu cũng ngỏ lời với từng người chúng ta. Người ngỏ lời xin chúng ta cho Người chút nước. Thầy đã xin ta chút nước, để chính khi ta cho Người chút nước, ta cũng bày tỏ với Người nỗi khát khao cháy bỏng trong tâm hồn ta. Khi trao ban “một chút nước” là những gì ta có cho những người anh chị em, ta đã trao cho chính Người chút nước quý báu của tâm hồn mình.
Ai là những người thờ phượng đích thật mà Chúa Cha đang tìm kiếm? Đó là những ai biết tìm kiếm thánh ý Người trong cầu nguyện và cả trong chính cuộc sống thường ngày của họ, trong những lúc cuộc đời đầy thử thách. Một đời sống gắn bó mật thiết với Chúa chắc hẳn sẽ mang lại nơi tâm hồn ta một mạch nước dồi dào của tình yêu và lòng tha thứ, để chính trong nơi sâu thẳm nhất của tâm hồn ta, mạch nước ấy vọt lên và mang đến cho những anh chị em ta gặp gỡ một thứ nước mát lành của tâm hồn tràn đầy tình yêu.
Lạy Chúa Giêsu là nguồn mạch sự sống. Xin Chúa ban tràn đầy Thánh Thần tình yêu trên chúng con, để mỗi ngày, chúng con biết thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật; để chính khi được Lời Chúa biến đổi, cuộc đời chúng con cũng chứa đựng mạch nước tình yêu là chính Chúa, để trao ban tình yêu ấy đến với những ai chúng con gặp gỡ. Ước gì Lời Chúa trở thành lương thực mỗi ngày cho cuộc đời chúng con. Xin Chúa dạy chúng con biết để vò nước là những gì chúng con có và đang tìm kiếm lại dưới chân Chúa, để hân hoan ra đi loan Tin Mừng cho anh chị em. Niềm vui là khi những người con gặp gỡ, chính họ cũng nhận được một món quà vô giá hơn từ Chúa: “Không phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian (Ga 4, 42). Amen.
Trong cuộc sống hằng ngày, mỗi người chúng ta có nhiều điều khao khát, có thể khao khát có MC 3-A174
Trong cuộc sống hằng ngày, mỗi người chúng ta có nhiều điều khao khát, có thể khao khát có một chai nước mát, khao khát tìm được một công việc hay khao khát có bữa ăn ngon… Cái khát đó không bao giờ dừng lại. Khi tìm được một công việc, chúng ta lại mong muốn được lên chức hay tăng lương. Cứ như thế, chúng ta luôn ở trong tình trạng khát. Đó là cái khát bên ngoài. Còn trong sâu thẳm tâm hồn, chúng ta có đang khao khát điều gì chăng?
Người phụ nữ Samari lấy nước bên giếng Giacóp, sau khi trò chuyện và nghe Chúa Giêsu nói về thứ nước uống không bao giờ khát nữa. Chị đã xin Chúa Giêsu rằng: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước. Chúa Giêsu bảo chị ấy: “Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây.” Người phụ nữ đáp: “Tôi không có chồng”. Chúa Giêsu bảo: “Chị nói: ‘Tôi không có chồng’ là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị nói đúng.” (Ga 4,15-18) Chúa Giêsu không vô tình nói đến cuộc sống riêng tư của người phụ nữ, nhưng Ngài muốn thức tỉnh và khơi gợi niềm khao khát thật sự bên trong của chị. Chị đang khao khát một cái gì cao siêu hơn, không phải là nước uống vật chất, không phải là tình thương nhục dục, khao khát của chị là ơn cứu độ, khao khát được gặp Đấng Thiên sai. Chị đã nói ra sự khao khát thật bên trong tâm hồn, chị nói: “Tôi biết Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”. Chúa Giêsu nói: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây” (Ga 4,25-26). Nghe lời ấy xong, chị đã để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?” (Ga 4,29). Con đường đức tin của chị đã bắt đầu. Chị đón nhận lời Chúa Giêsu và trở thành chứng nhân cho Ngài, chị chạy về làng kêu mời mọi người đến gặp Chúa Giêsu. Chị thật sự đã uống nước không bao giờ khát nữa và trở thành một người có mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời cho chính mình và cho người khác, đó là mạch nước đức tin (x. Ga 4,14).
Qua người phụ nữ Samari, chúng ta có thể nhìn lại chính mình: tâm hồn tôi đang khao khát điều gì? Tôi đã gặp Chúa như thế nào? Tôi có tin vào Chúa Giêsu, tin Ngài là Đấng đem lại sự sống cho mọi người khi cơn dịch vẫn còn đó? Vâng, Chúa Giêsu, Đấng có thể dùng những tật xấu hay những tội lỗi của chúng ta để thức tỉnh và mời gọi chúng ta trở về với Chúa Cha. Đấng ban nguồn mạch nước là chính Ngài, để chúng ta được sống và sống dồi dào, không bao giờ khát nữa.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con nhìn thấy tình trạng của tâm hồn mình, cảm nhận cơn khát bên trong tâm hồn. Nhờ đó, chúng con biết chạy đến và kêu xin với Ngài, để được hưởng sự sống đời đời. Amen.
Năm nay Miền Tây của chúng ta đang thiếu nước ngọt trầm trọng. Nhiều năm qua Miền Tây hầu MC 3-A175
Năm nay Miền Tây của chúng ta đang thiếu nước ngọt trầm trọng. Nhiều năm qua Miền Tây hầu như không còn lũ về, điều này ảnh hưởng không chỉ môi trường, mà còn trực tiếp ảnh hưởng đến mùa màng, đời sống của người dân. Năm nay tình trạng thê thảm hơn, do nắng hạn kéo dài, lượng mưa ít, do Trung Quốc và một số quốc gia ở thượng nguồn xây nhiều thuỷ điện trữ nước, khiến cho toàn đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam thiếu nước ngọt trầm trọng. Trong những ngày qua, nước mặn từ biển đã xâm nhập sâu vào đất liền, các dòng sông bị nước mặn tràn ngược vào, khiến cho cây cối, lúa mạ đều chết vì không chịu nổi nước mặn. Các nhà khoa học dự báo chỉ trong thời gian ngắn nữa thôi, đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị ngập mặn hoàn toàn, các vườn cây ăn trái và lúa sẽ chết. Nếu điều này xảy ra, sẽ là một thảm hoạ cho cả nước vì Miền Tây là nơi cung cấp phần lớn gạo và trái cây trên toàn quốc. Qua sự kiện này, chúng ta thấy nguồn nước và sự sống gắn liền với nhau: Nơi nào không có nguồn nước, nơi đó trở thành sa mạc, thành vùng đất chết; nơi nào có nguồn nước, nơi đó có sự sống.
Các bài đọc Chúa Nhật III mùa chay cho chúng ta thấy, Thiên Chúa chính là nguồn, là mạch nước đem lại sự sống cho linh hồn và thân xác con người và vũ trụ. Bài đọc một kể lại câu chuyện thời Xuất Hành, qua Môsê, Thiên Chúa đã cho mạch nước từ tảng đá vọt ra cứu sống dân Do Thái. Câu chuyện này là hình ảnh báo trước việc Thiên Chúa sẽ ban cho nhân loại nguồn nước đem lại sự sống đời đời sau này qua Đức Giêsu. Câu chuyện cho thấy, mặc dù dân Do Thái đã chứng kiến bao phép lạ lẫy lừng Thiên Chúa đã thực hiện tại Ai Cập để buộc vua Pharaô phải thả cho dân Do Thái ra đi, nhưng họ vẫn không tin vào quyền năng của Thiên Chúa. Kế đến là Thiên Chúa đã dùng quyền năng của Ngài để đưa dân vượt qua Biển Đỏ khô chân và người Do Thái đã chứng kiến việc Thiên Chúa để cho Biển Đỏ vùi lấp quân binh của người Ai Cập đang đuổi theo họ. Khi thiếu thức ăn trong sa mạc, Thiên Chúa đã cho mana từ trời rơi xuống nuôi họ suốt bốn mươi năm. Họ đói, Chúa nuôi bằng bánh bởi trời; họ thèm thịt, Chúa cho họ ăn thịt đến chán. Chứng kiến các phép lạ phi thường như thế, nhưng dường như người Do Thái vẫn hồ nghi vào sự tín trung và quyền năng của Thiên Chúa.
Câu chuyện tại Mêriba hôm nay, một lần nữa lại cho thấy sự cứng đầu của dân Do Thái trước quyền năng của Thiên Chúa. Đi trong sa mạc, dân Do Thái khát nước, họ quay lại kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê: “Có phải ông đưa chúng tôi và đàn vật vào trong hoang địa để chúng tôi chết khát ở nơi này hay không?”. Nhiều lần dân chúng phản loạn như thế và cũng đã có lần Thiên Chúa muốn bỏ mặc họ, thậm chí muốn tiệu diệt họ để làm nên một dân khác, nhưng Thiên Chúa đã không làm như vậy. Trong nỗi khổ tâm, ông Môsê thưa cùng Chúa: “Con phải làm gì cho dân này bây giờ, chỉ chút nữa là chúng ném đá con rồi! Thiên Chúa đã truyền cho ông Môsê lấy cây gậy đập lên tảng đá.” Ông đã làm như thế trước mặt các kỳ mục và toàn dân Israel. Thiên Chúa đã cho nước từ tảng đá ấy chảy ra cứu sống dân Israel và đàn vật của họ. Nguồn nước từ tảng đá trong sa mạc trở thành nguồn sống cho dân Israel.
Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mạc khải cho thấy Ngài chính là mạch nước thoả mãn mọi khát khao trong tâm hồn và là mạch nước đem lại sự sống đời đời cho những ai tin và đón nhận Người. Câu chuyện Chúa Giêsu gặp người phụ nữ tại bờ giếng Giacop được thánh Gioan cảm nhận như là việc Chúa khơi gợi và huấn luyện đức tin cho người phụ nữ cùng ban ơn biến đổi cho chị. Câu chuyện kể lại: Lúc Chúa Giêsu đang ngồi nghỉ chân tại bờ giếng, thì có một người phụ nữ Samaria đến múc nước. Đức Giêsu đã ngỏ lời với chị: “Chị cho tôi xin chút nước uống.” Việc này làm cho người phụ nữ ngạc nhiên vì thông thường người Do Thái và người Samarian không bao giờ trò chuyện với nhau. Người Do Thái cho rằng tiếp xúc với người Samaria như vậy là ô uế, nhưng ở đây Chúa Giêsu lại mở lời trước và còn xin chị nước uống.
Chúa đã gây cho chị bất ngờ khác khi Chúa nói với chị: “Nếu chị nhận ra ân huệ Chúa ban và ai là người nói với chị: ‘cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin người ấy ban cho chị nước hằng sống.” Chắc chắn người phụ nữ này chưa biết Chúa Giêsu là ai và cũng chưa thể hiểu ‘nước hằng sống’ là gì, chị chỉ nghĩ đến nước dưới giếng mà thôi. Chị tự hào vì ông Giacop đã để lại cho con cháu một cái giếng có thể giải khát, cứu sống biết bao thế hệ và đàn vật của họ. Chúa Giêsu đã mở ra cho chị một cái nhìn siêu nhiên hơn khi nói với chị: “Ai uống nước này sẽ còn khát. Ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời.”
Mặc dù chưa hiểu hết, nhưng người phụ nữ này đã thể hiện sự khiêm tốn của mình và mở lời: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.” Chúa Giêsu đã chỉ cho thấy chị đang bị dày vò bởi cơn khát khác, đó là cơn khát của dục vọng. Ngài nói với chị: “hãy về gọi chồng chị, rồi trở lại đây.” Chị đáp: “Tôi không có chồng.” Chúa Giêsu chỉ cho chị thấy cuộc sống chung của chị với năm đời chồng là một cản trở khiến chị không thể đón nhận được nước hằng sống và nó còn làm cho chị khát mãi.
Sau khi nói với chị về nước hằng sống và giúp người phụ nữ này nhìn lại thực trạng cuộc sống của mình, người phụ nữ này đã đi đến một niềm tin, chị thưa rằng: “Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ, cha ông chúng tôi đã thờ phượng trên núi này.” Nhận thấy chị đã mở lòng để đón nhận đức tin, Chúa Giêsu đã mạc khải cho chị về chính Ngài và về việc thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực: “Thiên Chúa là thần khí; và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật. Người phụ nữ thưa: Tôi biết Đấng Mêsia gọi là Đức Kitô sẽ đến…Chúa Giêsu đáp: Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.” Người phụ nữ đã được biến đổi, chị chạy về báo tin cho dân làng: “Đến mà xem, có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?” Dân chúng kéo đến gặp Chúa Giêsu và đã tin Ngài. Người phụ nữ Samaria đã đón nhận được nguồn nước sự sống của Chúa Giêsu, Ngài đã giải thoát chị khỏi cơn khát của dục vọng và những ham muốn thế trần và làm cho tâm hồn chị được tái sinh. Chúa Giêsu cũng làm cho nguồn nước mà chị đã đón nhận lại tiếp tục tuôn tràn sức sống đến nhiều người khác nữa.
Thưa quý OBACE, qua câu chuyện trong bài Tin Mừng cho thấy, nước hằng sống mà Chúa Giêsu đem đến cho nhân loại, là mạch nước cải tử hoàn sinh, đem lại sức sống cho những ai khao khát và mở lòng ra đón nhận. Mạch nước này, qua những người đón nhận, còn có sức lan toả đến những tâm hồn thành tâm thiện chí khao khát tìm kiếm Chúa. Mạch nước ban sự sống của Chúa Giêsu chính là mạch nước đã chảy ra từ cạnh sườn của Chúa bị đâm thâu trên thánh giá. Máu và nước chảy ra từ cạnh sườn của Chúa có sức thanh tẩy chúng ta sạch tội lỗi, biến chúng ta nên con người mới và ban cho chúng ta sự sống trường sinh, hạnh phúc đời đời.
Qua dòng nước của Bí Tích Rửa tội, chính Chúa Giêsu đã thanh tẩy chúng ta, làm cho chúng ta nên tạo vật mới và nhận chúng ta vào gia đình của Người. Chúa Giêsu còn tiếp tục nuôi dưỡng chúng ta bằng của ăn và của uống có sức mạnh gia tăng sinh lực và bảo đảm hạnh phúc đời đời cho chúng ta, đó chính là mạch nước trường sinh: “Ai ăn bánh ta ban sẽ không còn đói, ai uống chén ta ban sẽ không còn khát bao giờ.” Các thứ nước giải khát, tăng lực ngày nay chỉ có thể thoả mãn cơn khát của cơ thể trong chốc lát, nhưng nó không thể thoả mãn cơn khát sâu thẳm trong tâm hồn đó là khát tự do, khát tình yêu, hạnh phúc và sự sống đời đời. Những cái khát sâu thẳm này chỉ có thể được thoả mãn bởi dòng nước ban sự sống của Chúa Giêsu mà thôi. Vì thế, những ngày này chúng ta được thôi thúc cách đặc biệt để đến với Chúa Giêsu là nguồn mạch sự sống, tình yêu và hạnh phúc, để được ngụp lặn và được uống tận nguồn của lòng thương xót và tha thứ của Chúa.
Một khi được nuôi dưỡng và thoả mãn cơn khát sâu thẳm trong tâm hồn, giống như người phụ nữ Samaria, chúng ta sẽ trở thành những người tiếp tục làm cho sức sống và nguồn nước ấy lan toả đến các thành viên khác trong gia đình và trong cộng đoàn. Nguồn nước sự sống của Chúa Giêsu sẽ biến đổi gia đình và xã hội mỗi ngày nên hạnh phúc, yêu thương và là bảo đảm cho hạnh phúc nước trời.
Xin Chúa cho chúng ta tin tưởng và khiêm tốn, siêng năng đến lãnh nhận nguồn nước ban sự sống là chính Chúa Giêsu và để Ngài tưới mát, biến đổi và ban sức sống cho tâm hồn và thể xác chúng ta. Amen.
Khi đi trong sa mạc khô cháy, trên đầu là nắng lửa, dưới chân là cát nung, đoàn dân Chúa xưa trong MC 3-A176
Khi đi trong sa mạc khô cháy, trên đầu là nắng lửa, dưới chân là cát nung, đoàn dân Chúa xưa trong hoang địa mới cảm thấy cái khát hành hạ người ta đến độ nào, và nhu cầu được uống nước mới bức xúc làm sao. Chính khi bị cơn khát dày vò mà họ vùng lên nổi loạn, đổ lỗi cho Môsê đã đưa họ vào nơi hoang địa khô cháy, và đòi đem vị lãnh tụ nầy ra mà ném đá. (Xh 17, 3-7).
Ngoài những cơn khát tự nhiên, con người còn có một khao khát siêu nhiên, là một khát vọng vô biên, mà không có gì làm cho no thoả. Dù có được tất cả thế gian này, thì cũng chỉ là bụi bay trong phút chốc.
Người phụ nữ xứ Samari trong Tin Mừng cũng đã từng trải qua cơn khát tương tự. Chị đã mưu tìm hạnh phúc qua năm đời chồng, nhưng rồi phải lần lượt chia tay, để ở tiếp với người thứ sáu. Chị đi tìm hạnh phúc cũng y như đi lấy nước. Ngày nào cũng phải lặn lội đến giếng nước xa, múc cho đầy vò rồi ngày hôm sau lại khát.
Ông tổ triết hiện sinh là Arthur Schopenhauer (1788-1860) cho rằng: “Những lạc thú mà thế gian cống hiến cho con người cũng chỉ như nắm cơm bố thí cho người hành khất, chỉ làm dịu cơn đói hôm nay, rồi ngày mai lại đói.”
Cha Anthony de Mello cũng nhận định tương tự: “Việc thoả mãn dục vọng không giải thoát chúng ta khỏi dục vọng, nhưng tạo thêm một dục vọng khác còn mãnh liệt hơn để rồi cái vòng lẩn quẩn: khát khao – thoả mãn, thoả mãn – khát khao… cứ tiếp diễn mãi không cùng”, càng về sau lại càng tăng “đô” hơn. Và cứ thế, người ta phải chịu dày vò, thiêu đốt vì ngọn lửa khao khát trong lòng mình.
Chúa Giêsu đã chỉ cho phụ nữ Samari cũng như cho chúng ta một Nguồn Suối hạnh phúc: “Ai uống nước nầy sẽ lại khát, còn ai uống nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” (Ga 4, 13-14). Chúa Giêsu chính là Mạch Nước trường sinh.
Thánh Augustinô sau những năm mê man tìm kiếm lạc thú trần gian, rồi cũng đến những ngày chê chán, vì chẳng thấy gì có thể lấp đầy trái tim mình. Cuối cùng, nhờ ơn Chúa qua lời nguyện cầu liên lỉ của người mẹ thánh thiện, Augustinô mới khám phá ra Thiên Chúa là suối nguồn hạnh phúc của đời mình. Ngài đã thốt lên với lòng đầy hy vọng: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên hồn con luôn thao thức băn khoăn, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa.”
Nhân loại hôm nay vẫn còn đây cơn khát vô tận, cho dù loài người có văn minh tiến bộ đến đâu thì cũng thế. Chỉ cần dành vài phút giây để nhìn vào thế giới, ta thấy biết bao điên đảo trong kiếp người, cũng vì chưa nhận ra chân giá trị của đời mình nơi Thiên Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Chúa! Tuổi trẻ chúng con đầy những khát khao, nhưng mấy khi hiểu được điều mình khao khát, có ý nghĩa gì và sẽ đưa cuộc sống đến đâu, hay lại vùi lấp mình trong bùn sâu danh vọng, vì không nghe được tiếng Chúa tự cõi lòng, đang khơi nguồn cho khát vọng vô biên.
Con háo hức muốn chiếm ngay điều trước mắt, muốn làm bằng mọi giá để nắm bắt thành công, nên có những khát vọng đã biến thành tham vọng, khi con chỉ tìm sở hữu và thỏa mãn nhất thời.
Ít khi con dành giờ đối diện với chính mình, để thấy những gì đang diễn biến trong tâm, và khi mất đi những giây phút lặng trầm, con biến mình thành cuộc đua không đích điểm.
Con chỉ nhắm tới những gì mình tìm kiếm, nên con tim như hoang vắng im lìm, khiến tâm hồn khô cạn, lối sống khô khan, trí não khô cứng, tình yêu khô cằn.
Nội tâm con không thiếu những uẩn khúc, những nhập nhằng, cả những ô nhơ hoen ố, Con xấu hổ và tìm cách che lấp bản thân, nhưng rồi ánh sáng của Chúa đã phơi trần.
Xin Chúa đến làm mới lại đời con, cho con biết được điều con phải trở bước, hiểu được điều con phải trở về, nghe được điều con phải trở nên, thấy được điều con phải trở thành.
Xin cho con vượt lên những khát khao tầm thường, đừng để mình bị lụy vướng vào tình trường thế tục, mà lo đạt tới Chúa, nguồn mạch của tình thương, là Đấng làm cho con được no thỏa miên trường. Amen.
Chúa Xin Thế Gian Nước Giải Khát. Ngài Tặng Nhân Loại Nguồn Trường Sinh. Đói và khát MC 3-A177
Chúa Xin Thế Gian Nước Giải Khát Ngài Tặng Nhân Loại Nguồn Trường Sinh
Đói và khát thường đi đôi với nhau, và là nhu cầu cấp thiết của con người. Đói liên quan đồ ăn, khát liên quan đồ uống. Đó là vấn đề cơ bản của thể lý. Nhịn đói được lâu hơn nhịn khát. Thiếu nước là nỗi khổ không chỉ của con người mà cả sinh vật, cụ thể là tình trạng hạn hạn đang xảy ra ở miền Tây Việt Nam trong mùa hè năm Con Chuột Chù 2020 này.
Về thể lý, muốn hết khát thì phải có nước để giải khát. Ngày nay, trên đường đi thường thấy có những nhà để bình “nước đá miễn phí” cho khách vãng lai sử dụng. Một nghĩa cử đẹp mang tính nhân đạo. Tất nhiên nước đó chỉ có lợi cho những người lao động nghèo thôi, người giàu chẳng ai “để ý” làm chi. Về tinh thần, muốn hết khát thì phải có loại nước đặc biệt: tình yêu thương.
Cho (trao, tặng, biếu) người khác những thứ đơn sơ, nhỏ mọn, có thể chỉ là “chuyện nhỏ,” nhưng với tình yêu lớn, đó lại là sự chia sẻ thực sự quan trọng và cần thiết. Chẳng đáng gì với một ly nước lạnh mà vẫn giá trị, nhất là vào những ngày hè nắng nóng bức, cái nắng oi ả mà tiền nhân ví von là “nắng tháng Ba, chó già le lưỡi.” (tục ngữ Việt Nam) Việc nhỏ mà công to, chính Chúa Giêsu cũng chúc lành cho những việc làm “nhỏ bé” như vậy, và Ngài hứa: “Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.” (Mt 10:42) Mẹ Thánh teresa Calcutta nhận định rằng chúng ta không làm được những việc to lớn nhưng có thể làm được những việc nhỏ với tình yêu lớn. Thế thôi, nhưng thực sự tuyệt vời lắm!
Cái khát về thể lý đã là cấp bách rồi, cái khát về tinh thần (ước mong, khát vọng,…) cũng cấp bách lắm, đặc biệt là cái khát về tâm linh còn cấp bách và mãnh liệt hơn nhiều. Hạn hán là “thiên tai” (thường là nhân tai), nghĩa là thiếu nước vì không có mưa, đất đai khô cằn, nguy hiểm lắm, nhưng hạn hán tâm linh còn nguy hiểm hơn, vì rõ ràng đó là “nhân họa.” Chỉ có Mưa Giêsu mới khả dĩ cứu nguy con người khỏi cơn đại hạn cho mảnh đất tâm hồn. Thực sự chúng ta phải khao khát Ngài, vì Ngài là nguồn mạch Nước Hằng Sống.
Thời Cựu Ước xưa, trên hành trình qua sa mạc tiến về Đất Hứa, dân khát nước nên đã kêu trách thủ lĩnh Môsê: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai Cập để làm gì? Có phải là để cho chúng tôi, con cái chúng tôi, và súc vật của chúng tôi bị chết khát hay không?” (Xh 17:4) Nắng đồng bằng đã khó chịu rồi, nắng cao nguyên cũng ghê gớm lắm, nắng sa mạc thì hẳn là như lửa thiêu. Vì chịu không nổi cái nắng nóng nên dân muốn nổi loạn, ông Môsê cũng “ngán” lắm mà không biết làm sao, thế nên ông phải kêu cứu Thiên Chúa: “Con phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ một chút nữa là họ ném đá con!” (Xh 17:4) Rõ ràng là dân bức xúc lắm rồi, có thể bạo động và làm bất cứ hành động nào, và thủ lĩnh Môsê thấy sợ lắm rồi!
Thật chứ chẳng chơi. Vùng đó sẵn đá, muốn gì lấy đá chọi ngay. Phải trái thế nào tính sau, chết chắc. Thấy ông Môsê kêu xin, Đức Chúa cho biết: “Ngươi hãy đi lên phía trước dân, đem theo một số kỳ mục Israel; cầm lấy cây gậy ngươi đã dùng để đập xuống sông Nin, và đi đi. Còn Ta, Ta sẽ đứng ở đằng kia trước mặt ngươi, trên tảng đá ở núi Khô-rếp. Ngươi sẽ đập vào tảng đá. Từ tảng đá, nước sẽ chảy ra cho dân uống.” (Xh 17:5-6) Ôi, thế thì còn gì bằng! Ông Môsê nghe và làm theo ngay. Và điều kỳ diệu đã xảy ra. Ông đặt tên cho nơi ấy là Maxa và Mơriva, nghĩa là Thử Thách và Gây Sự, vì con cái Israel đã gây sự và thử thách Chúa. Họ nghi ngờ nên đặt vấn đề: “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không?” (Xh 17:7) Kể cũng to gan, lớn mật. Liều thật!
Ngày nay có thể chúng ta cho rằng dân Israel “uống thuốc liều” quá chỉ định, “coi trời bằng vung” nên mới dám gây sự và thử thách Chúa, kiểu “bán trời không cần văn tự.” Tuy nhiên, chắc gì chúng ta đã hơn họ, có khi còn liều mạng hơn họ. Thật vậy, khi gặp gian nan thử thách theo kiểu “mắc nối tiếp” như kiểu nối các bóng điện, gọi là “họa vô đơn chí,” chắc hẳn cũng đã có những lúc đức tin của chúng ta bị rung rinh. Mặc dù không nói ra nhưng các động thái của chúng ta cũng bộc lộ sự hoài nghi: “Có Chúa thật hay người ta chỉ ảo tưởng?” Cũng đã thấy có những người còn liều hơn – kể cả người Công giáo, đã từng dám thốt thành lời: “Trời không có mắt, trời mù!” Trời là ai? Thế thì chúng ta chẳng liều hơn dân Israel sao? Nghĩa là chúng ta tự thấy mình “ngon” lắm!
Việc ăn năn sám hối không chỉ là động thái được thực hiện trong Mùa Chay, Mùa Vọng, dịp tĩnh tâm hay cấm phòng, mà phải được thực hiện không ngừng trong suốt cuộc đời. Ai cũng có tội nên luôn cần sám hối, ngày nào cần sám hối thì ngày đó là Mùa Chay. Đó là cách sống sẵn sàng dầu đèn như mười cô trinh nữ khôn ngoan đi đón chàng rể. (x. Mt 25:1-13) Giáo Hội ấn định Mùa Chay như tiếng chuông cảnh báo để “đánh động” mạnh hơn, nhất là đối với những người còn “ngủ mê,” do đó mà có nghiêm luật: “Xưng tội mỗi năm ít là một lần.” Xưng tội liên quan rước lễ trong Mùa Phục Sinh.
Cứ chân thật ngắm thiên nhiên, nhìn vạn vật thì sẽ nhận ra Thiên Chúa. Điều đơn giản nhất là không khí. Không có không khí thì không gì có thể sống được một lúc. Cái rất nhỏ nhưng lại là điều quan trọng, là đại hồng ân. Vì thế, đừng làm ngơ lời mời gọi của Thánh Vịnh gia: “Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn.” (Tv 95:1-2) Hằng ngày trong Giờ Kinh Phụng Vụ, Giáo Hội vẫn sử dụng Thánh Vịnh này để chúc tụng Thiên Chúa.
Nước đầy thì tràn ly, lòng đầy thì miệng nói ra. Ngoại tại chứng tỏ nội tại. Thánh Vịnh gia cho biết: “Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta. Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt.” (Tv 95:6-7a) Đặc biệt là mỗi dịp Mùa Chay, chúng ta cũng thường được nghe nhắc nhở câu này: “Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa phán: Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơriva, như ngày ở Maxa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã từng thách thức và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm.” (Tv 95:7b-9) Cái gì cứng thì khó hóa mềm, lòng cứng cũng chẳng dễ mềm chút nào – vì không biết sợ. Kinh Thánh nói: “Phúc cho người luôn luôn biết sợ, còn kẻ cứng lòng sẽ gặp phải tai ương.” (Cn 28:14)
Hai địa danh Mơ-ri-va và Ma-xa nhắc nhở chúng ta “ĐỪNG gây sự và CHỚ thử thách Thiên Chúa.” Không dám làm vậy là biết sợ, có thể bắt đầu tin có Thiên Chúa hiện hữu, và chính niềm tin đó là khởi đầu của chuỗi hệ lụy tốt lành: Tín thác – Thương yêu – Tha thứ – Thánh ân – Trắng án – Trường sinh. Một chuỗi các mẫu tự T thật kỳ diệu, liên kết thành con đường nên thánh để được làm công dân Nước Trời. Thế thì thật tuyệt!
Có nhiều mối phúc khác ngoài Bát Phúc (Mt 5:3-11; Lc 6:20-23), một trong các mối phúc có liên quan đức tin: “Phúc thay những người không thấy mà tin.” (Ga 20:29) Đức tin thật kỳ diệu, vì đức tin có thể làm cho người ta nên công chính. Thánh Phaolô cho biết: “Một khi đã được nên công chính nhờ đức tin, chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.” (Rm 5:1-2) Đức tin là đèn sáng soi đường chúng ta đi về hướng có Thiên Chúa.
Những người tin vào Thiên Chúa không phải là ngu dốt mà là khôn ngoan. Càng có tri thức thì người ta càng dễ nhận ra Ngài. Các bác học lừng danh đều có niềm tin vào Thiên Chúa, cụ thể là: Roger Bacon (khoảng 1214-1294, người áp dụng phương pháp thực nghiệm và các phương pháp khoa học tân tiến, viết về luật thiên nhiên, cơ khí, địa lý và quang học), Johannes Kepler (1571-1630, nhà vũ trụ học, tính toán sự di chuyển của các thiên hà), René Descartes (1596-1650, bác học về hình học và những con số bất biến, người hướng dẫn cuộc Cách Mạng Khoa Học của Tây phương), Blaise Pascal (1623-1662, thần đồng toán học, vật lý, và lý thuyết), Isaac Newton (1643-1727, nhà khoa học và toán học vĩ đại nhất của mọi thời đại), Louis Pasteur (1822-1895), Albert Einstein (1879-1955), Max Planck (1858-1947, đoạt giải Nobel về vật lý và là cha đẻ của Thuyết Quantum Mechanics), Georges Lemaître (1894-1966, linh mục Công Giáo, người khởi xướng thuyết Big Bang), và còn rất nhiều nhà bác học khác đều là các Kitô hữu tốt lành. Họ đã KHÁT và đã được uống Nước Giêsu.
Lời giải thích của Thánh Phaolô rất chi tiết: “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta. Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, họa may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.” (Rm 5:8) Sự thật minh nhiên, đến nỗi chính viên đại đội trưởng đã run sợ sau khi Chúa Giêsu trút hơi thở, và phải thốt lên: “Quả thật ông này này là Con Thiên Chúa.” (Mt 27:54; Mc 15:39; Lc 23:47)
Chúng ta thấy điều gì trong các thư của Thánh Phaolô cũng được diễn tả rất chi tiết, dễ hiểu. Vâng, tình yêu và lòng thương xót của Chúa quá vĩ đại, cao thượng, bao la. Thật vậy, có lần Chúa Giêsu đã xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15:13) Nhưng đâu dễ mấy ai! Tha thứ đã khó rồi chứ nói chi chết thay ai đó. Vậy mà Thánh Maximilian Kolbe (1894-1941, linh mục Dòng Phanxicô) đã làm được, ngài dám tự nguyện “thế mạng” cho một tù nhân khác tại trại tập trung Auschwitz trong thời gian Đức chiếm đóng Ba Lan hồi Đệ Nhị Thế Chiến. Đó là dạng khát vọng rất khác người nhưng lại giống Chúa Giêsu.
Như một đoạn phim thú vị, trình thuật Ga 4:5-42 đề cập tính nhân bản và nỗi khát vọng chính đáng: Một hôm, Chúa Giêsu đến thành Xy-kha thuộc xứ Samari, gần thửa đất ông Giacóp đã cho con là ông Giuse. Ở đấy, có giếng của ông Giacóp. Ngài đi đường mỏi mệt trong khi các môn đệ vào thành mua thức ăn, vả lại lúc đó khoảng mười hai giờ trưa, nắng nóng như lửa, nên Ngài ngồi ngay bên giếng nước.
Sự ngẫu nhiên là ngay lúc đó có một người phụ nữ Samari đến lấy nước. Trưa nắng mà đi lấy nước thì cũng lạ thật. Và rồi Đức Giêsu đã xin chị chút nước uống. Chị ngạc nhiên nói: “Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?” Thời đó, người Do Thái và người Samari phải “cách ly” với nhau, không được giao tiếp. Đức Giêsu ôn tồn: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’ thì hẳn chị ĐÃ xin, và người ấy ĐÃ ban cho chị nước hằng sống.” Chúa Giêsu dùng thì quá khứ trong khi Ngài nói là thì hiện tại – loại giả định có thật. Điều đó cho thấy rằng những gì Ngài nói đều là sự thật, như Ngài khẳng định với Tổng trấn Philatô: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT.” (Ga 18:38) Chỉ có sự thật mới giải thoát và làm cho người ta được tự do thực sự. (x. Ga 8:32)
Phụ nữ này còn thắc mắc rằng giếng sâu mà Chúa Giêsu không có gầu, làm gì có được nước hằng sống mà cho. Chị còn chứng minh rằng tổ phụ Giacóp với cả con cháu và đàn gia súc cũng xài nước ở giếng này. Chúa Giêsu vẫn nở nụ cười hiền và trầm giọng: “Chị Hai à, ai uống nước này sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” Có lẽ lúc đó chị vừa gãi đầu vừa nghĩ bụng: “Mèn ơi, lạ dữ nghen!” Không lạ sao được, thế mới đáng nói. Cơn khát của phụ nữ này không còn đơn thuần là khát nước, mà bắt đầu là cơn khát tâm linh.
Cứ từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, hết mắt tròn rồi mắt dẹt, miệng chữ A rồi mắt chữ O, thế nhưng chị thực sự cảm thấy tin tưởng “Anh Chàng” này nói thật, vì có gì đó rất khác thường, và chị nói ngay: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.” Chúa Giêsu không bảo cho hay không cho, mà bảo chị ấy gọi chồng ra. Chị bảo rằng chị chỉ “mình ên” thôi, không chồng con chi cả. Chúa Giêsu cười và xác nhận chị nói đúng. Ngài nói thẳng luôn là chị đã có tới năm đời chồng rồi, ngay cả người hiện đang sống với chị cũng không phải là chồng. Chắc đó là dạng “sống thử” hoặc “nửa nhân ngãi, nửa vợ chồng” đây. Chị hết hồn hết vía vì thấy Chúa Giêsu không phải thầy bói mà nói trúng phoóc, y chang như “đi guốc trong bụng” vậy. Ngại thì có ngại, nhưng chị cũng phải công nhận: “Ông ơi, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ.” Hay tuyệt!
Và rồi không chỉ có vậy, Chúa Giêsu còn nói điều “ngược đời” lắm. Ngài bảo rằng không được thờ phượng Thiên Chúa trên núi nữa, mà Giêrusalem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa. Kể ra chị Hai ngoại giáo này cũng dễ tiếp thu “cái mới” đấy. Thế thì thật tốt!
Như thấy chị có vẻ “khó hiểu” về việc thờ phượng vừa được đề cập, Chúa Giêsu nghiêm túc xác định: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do Thái. Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” Chị Hai này hay thiệt, xem chừng cũng giỏi Kinh thánh nữa, vì chị nghe Ngài nói vậy mà không “phản ứng” chi cả, rồi chị nói: “Tôi biết Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.” Quá đúng. Thật giỏi. Và Chúa Giêsu nói ngay: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.” Ôi chao, chị này diễm phúc quá, được gặp và nói chuyện với Đức Kitô. Chẳng còn hạnh phúc nào hơn nữa!
Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và phụ nữ Samari tới đó thì các môn đệ trở về, họ rất ngạc nhiên vì thấy Thầy nói chuyện với một phụ nữ. Kỳ ghê ta! Thế nhưng chẳng đệ tử nào dám hỏi Thầy. Còn người phụ nữ phấn khởi đến nỗi bỏ cả vò nước lại, chạy vào thành và bảo người ta đến xem một “Người Lạ” rất giống Đấng Kitô. Chị này tự nguyện làm nhân chứng sống. Thế là dân thành tuôn ra như trẩy hội. Mọi người được tận mắt thấy một “Dị Nhân” độc nhất vô nhị là cơ hội ngàn vàng chứ ít gì. Lạ lắm, và cũng vui lắm. Chắc hẳn ai cũng rất phấn khởi vì thỏa niềm khát vọng lâu nay – đặc biệt là chị Hai ngoại giáo. Niềm vui không thể giấu, phải chia sẻ thôi!
Không còn sớm nữa, quá trưa rồi, bụng ai cũng đánh lô-tô, thế nên các môn đệ thưa: “Xin mời Thầy dùng bữa.” Nhưng Ngài nói với các ông điều cao xa hơn: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết.” Các môn đệ lại gãi đầu và ngơ ngác nhìn nhau: “Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?” Họ tưởng Thầy ăn rồi, không cần gì nữa. Các ông đâu có hiểu rằng Thầy nói về “siêu lương thực” là THI HÀNH Ý CHÚA CHA và HOÀN TẤT CÔNG TRÌNH CỨU ĐỘ. Thì phải vậy thôi, trò sao hơn thầy được, bằng thầy cũng khá lắm rồi. (x. Mt 10:24-25) Tất nhiên Thầy rất thông cảm cho các đệ tử. Mưa lâu thấm sâu, dần dần rồi sẽ hiểu. Phải biết uống sữa rồi mới có thể ăn cháo, ăn cháo rồi mới có thể ăn cơm – và các món khác.
Theo lời kể của Thánh Gioan, hôm đó có nhiều người Samari trong thành đã tin vào Chúa Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm. Hiệu quả nhãn tiền của việc làm chứng. Vâng, chỉ có Thiên Chúa mới biết mọi sự, từ thuở hồng hoang tới tận thế, nói chi tới quá khứ, kể cả tương lai của con người. bởi vì “Thiên Chúa thấu suốt mọi sự.” (1 Sb 28:9b; Gđt 8:14; Et 4:17d; Et 5:1a; 2 Mcb 6:30; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Gr 10:12; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 10:12; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 2:10; 1 Cr 12:4-6; 1 Ga 3:20)
Lòng tin tạo sự hiếu khách, dân Samari xin Ngài ở lại với họ, và Ngài đã ở lại đó hai ngày. Và rồi số người tin lời Chúa Giêsu tăng thêm nhiều. Họ bảo chị Hai nọ: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian.” Không thành vấn đề, chị Hai không hề buồn, chị chỉ muốn người ta cũng tin như chị thôi. Ngày nay, mỗi chúng ta cũng được Thiên Chúa tuyển chọn, bằng cách này hay cách khác – bất kể cộng đoàn hoặc chức vụ nào, như Thiên Chúa đã tuyển chọn chị Hai ngoại giáo xưa. Bổn phận và trách nhiệm của chúng ta là chia sẻ Thiên Chúa và đức tin cho những người khác.
Khát vọng là ước muốn mạnh mẽ, tiếng kêu thảm thiết của Chúa Giêsu từ trên Thập Giá năm xưa vẫn vang lên: “Tôi khát!” (Ga 19:28) Đó là nỗi “khát tình yêu thương.” Ngài khát khao thương xót mọi người mà bị phụ tình: “Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu.” (Mt 23:37; Lc 13:34) Ngài còn có khát vọng khác thường là “khát vọng đau khổ,” Ngài bằng lòng uống “chén đắng,” không chỉ vui vẻ uống mà còn say sưa uống. Thế mà chúng ta lại nhẫn tâm đối xử tệ bạc với Ngài, chẳng khác bọn thủ ác cho Ngài nếm giấm chua, (Ga 19:29) đúng như từ xưa Thánh Vịnh gia đã than thở: “Thay vì đồ ăn, chúng trao mật đắng, con khát nước, lại cho uống giấm chua.” (Tv 69:22) Đau khổ chồng chất!
Hôm nay, trong Cõi Lặng Thánh, ước gì mỗi chúng ta đều biết thực sự khát vọng sống công chính, biết tin mến Đức Kitô giống như chị Hai và dân thành Xy-kha, đồng thời luôn xác tín: “Linh hồn con khao khát Chúa Trời hằng sống.” (Tv 42:3) Chị Hai và dân thành Xy-kha tin vào “Người-Lạ” là điều hợp lý và đúng ý Chúa. Chúng ta đều là tội nhân bất xứng, không đáng tiếp cận Ngài, nhưng Ngài vẫn rộng lòng “hỉ xả” với chúng ta, bởi vì “nếu Ngài chấp tội, chẳng ai có thể được cứu độ” (x. Tv 130:3) Nhưng Lòng Thương Xót của Ngài bao phủ tất cả.
Điều cần thiết đối với tội nhân chúng ta là yêu mến. Thánh Gioan Thiên Chúa nói: “Nước dập tắt lửa thế nào, tình yêu cũng rửa sạch tội lỗi như vậy.” Vâng, thật là tuyệt vời, bởi vì tình yêu có thể khỏa lấp mọi khoảng cách. Xin tạ ơn Thiên Chúa muôn đời!
Lạy Thánh Phụ nhân từ, xin Ngài thương xót và chấp nhận trở nên gia nghiệp đời đời của chúng con, xin giúp chúng con khôn ngoan phân định, biết đáp lại lời kêu khát của Chúa Giêsu nơi những con người bé mọn dọc đường đời chúng con gặp hằng ngày. Lạy Chúa các Chúa, xin giúp chúng con luôn biết khát mong ơn Ngài cứu độ. (Tv 119:174) Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Giếng là nơi người ta đến lấy nước uống, rồi gặp gỡ trò chuyện và nảy sinh tình yêu với nhau. Như MC 3-A178
Giếng là nơi người ta đến lấy nước uống, rồi gặp gỡ trò chuyện và nảy sinh tình yêu với nhau.
Như thế, giếng cũng mang đặc điểm giống nhà thờ là nơi chúng ta đến uống nước hằng sống, gặp gỡ Chúa và gặp gỡ nhau, rồi nảy sinh tình mến Chúa yêu người.
Chúa Giêsu thỏa mãn cơn khát yêu thương của nhân loại.
1. KHÁT NƯỚC
Nước đem sự sống. Không có nước thì chết. Nên khát nước là dấu chỉ diễn tả khao khát sự sống.
Tuy nhiên, nước mới chỉ mang lại sự sống cho con người như sự sống sinh học của cây cối và động vật.
Con người có sự sống cao hơn nên khao khát nhiều thứ mãnh liệt hơn như: khát tiền bạc, khát quyền lợi, khát danh vọng, khát tự do, khát công lý, khát hạnh phúc, và nhất là khát tình yêu.
2. KHÁT TÌNH
Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa là tình yêu.
Nên trong sâu thẳm lòng người luôn có một cơn khát vô biên, đó là khao khát tình yêu, điều này cũng được diễn tả thi vị trong câu ca dao:
“Qua bờ giếng, liệng bờ ao. Nước thì không khát, khát khao duyên nàng.”
Câu chuyện bên bờ giếng cho thấy người phụ nữ không chỉ khát nước, mà còn khát tình người, tình Chúa.
Tình yêu Chúa không phải là thỏa mãn những thèm thuồng khoái cảm thân xác mà là sự no thỏa hạnh phúc tâm hồn.
Tình yêu Chúa không như trung tâm mua sắm nhằm thỏa mãn cơn khát sở hữu vật chất mà như một trung tâm từ thiện mở lòng cho đi, đem hạnh phúc cho người khác.
Thánh Augustinô đã thốt lên:
“Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, tâm hồn con luôn khao khát cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”.
Thánh nhân khao khát Chúa, còn tôi đang khao khát điều gì?
Khát nước tự nhiên thì mở vòi, mở miệng uống, nhưng khát nước hằng sống Giêsu thì phải mở Lời Chúa, mở tâm lòng mới uống được. Amen.
Khả năng hiểu biết, thành đạt giầu có, chỗ đứng trong xã hội, và còn nhiều thứ khác, như khát MC 3-A179
Khả năng hiểu biết, thành đạt giầu có, chỗ đứng trong xã hội, và còn nhiều thứ khác, như khát tình yêu thương, khát được hạnh phúc, có phải đó là những khao khát chính đáng không, khi ta mang thân phận người ? Câu hỏi làm gì để ta hết khát, sẽ phức tạp đối với người thông thái, và rất đơn giản với những tâm hồn đơn sơ bé nhỏ: khát nước thì đi uống nước. Quy luật tự nhiên, khát cơm bánh thì phải chăm chỉ làm ăn, khao khát kiến thức phải nghiêm túc học tập, hoặc theo quan niệm dân gian: có chí làm quan có gan làm giầu. Còn khát tình yêu thương, nên tìm gặp Đức Giêsu, chiêm ngắm thập giá Chúa Kitô ; kẻ ấy sẽ có câu trả lời: “Thiên Chúa là Đấng giầu lòng xót thương”, và vì sao người thiếu phụ bên bờ giếng Gia-cóp hết khát, khi trò chuyện với Đức Giêsu.
Thực ra, để giải toả cơn khát thể lý còn có công thức áp dụng: cơm ba chén, thuốc ba thang ; để no thoả đời sống tâm linh, người ta phải tin Đức Giêsu là Đấng cứu độ trần gian, tuân thủ theo quy trình: sám hối, từ bỏ, và sống niềm tin từng ngày. Ví như mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh, ai chẳng muốn giải toả cơn khát của mình, nhưng trước hết, chúng ta phải xác định tôi đang khát tiền, khát tình, khát hạnh phúc trần gian, hay ta đang khát ơn Chúa ? Cứ theo lý lẽ ở đời, đói khát cơm bánh, quyền lực, người ta không thể “ngồi ngáp” chờ đợi như chờ “sung rụng”. Khát ơn Chúa, khao khát sự sống đời đời, không ai lại tìm đến đại gia, không ai khờ đến độ tìm kiếm cơm bánh nuôi linh hồn, hoặc uống bia ngoại, rượu tây, để thoả mãn cơn khát tâm linh. Đức Giêsu đã chẳng kiên nhẫn khai trí mở lòng cho người thiếu phụ: “ai uống nước giếng này sẽ còn khát, nhưng ai uống nước Ta ban sẽ không bao giờ khát nữa”.
Bạn đang khát điều gì ? Bạn có nghĩ rằng, địa vị giầu sang tại trần thế này sẽ đem lại hạnh phúc đời đời cho bạn không ? Thánh Phaolô nơi bài đọc 2 đã nói: “Thiên Chúa yêu thương con người ngay khi họ còn là tội nhân ; Thiên Chúa đã ban Con Một Ngài đến thế gian: chịu chết và sống lại, để nhân loại qua Đức Kitô được biến đổi, được sự sống đời đời”. Nếu Thiên Chúa thực thi điều kỳ diệu từ tảng đá ở núi Ho-rép cho dân chúng thoả mãn cơn khát, thì tại nơi bờ giếng Gia-cóp, Đức Giêsu đã lay động được tâm tư người thiếu phụ biết khát niềm tin, khát sự sống: “xin Ngài cho tôi thứ nước mà Ngài vừa nói đến, để tôi khỏi khát và từ nay không phải ra đây múc nước nữa” !
Cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người thiếu phụ năm xưa cho thấy: những khát vọng của con người và tình yêu thương của Thiên Chúa mà gặp nhau, việc hoán cải và ơn biến đổi tất nhiên sẽ mở ra sự sống đời đời là có thật. Đức Giêsu đã nói với người thiếu phụ Samari: “này chị, hãy tin tôi, đã đến giờ các ngươi sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. Nhưng giờ đã đến, những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế”.
Nhờ cuộc đối thoại trong yêu thương chân tình, người thiếu phụ “khát đủ thứ” đã được biến đổi, đã biết khát thứ nước “siêu nhiên”, và chị đã tin Đức Giêsu là Thầy, là Ngôn Sứ, là Tiên Tri, là Đấng cứu độ duy nhất. Ở trong nhà thờ này, ở trong tình hiệp thông cầu nguyện lúc này, bạn và tôi có muốn bày tỏ cơn khát của mình với Đấng cứu độ trần gian không ? Cuộc đời của mỗi người có phải là một quá trình tìm kiếm hạnh phúc không, dù ở hoàn cảnh nào, chúng ta cũng có thể đối thoại, gặp gỡ thân tình với Đức Giêsu, và chỉ ở trong tình yêu Giêsu, người ta mới hết khát, mới đủ bình an, niềm vui thật.
Trong kho tàng truyện dân gian có nói tới 5 ông thầy bói mù đi xem voi đầy vẻ tự đắc: ông thì sờ mặt voi, ông thì sờ ngà voi, ông thì sờ trúng tai voi, ông thì sờ chân, ông khác lại sờ đuôi voi. Tất nhiên, mỗi ông thầy mù đó có quyền nói về hình thù voi theo suy nghĩ của các ông đụng chạm tới con voi. Thế rồi chẳng ai chịu cho mình là sai, và cãi nhau, đánh nhau, chỉ vì các ông thầy mù đã thoả mãn được cái khát về sản phẩm mà các ông đã đụng chạm tới chi thể con voi.
Con người khát hiểu biết, khát hoàn thiện, khát chân lý, nhưng căn bản hơn đó là khát được hạnh phúc, khát sự sống đời đời. Mỗi người kitô hữu, trước hết và trên hết, chúng ta phải xác định xem mình có khao khát ơn Chúa không, có khát hạnh phúc đời đời không ? Không giống như 5 thầy mù đi xem voi, nhưng những người Samaria đã nói với người phụ nữ: “không phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe, và biết rằng “Người” thật là Đấng cứu độ trần gian”. Xin tình yêu Chúa soi trí mở lòng, hầu tất cả chúng ta đều biết khiêm tốn tỏ bày với Đức Giêsu trên thập giá: con tin Chúa, con khao khát được theo Chúa làm môn đệ, làm thần dân của Chúa. Amen.
Thiên Chúa không bao giờ từ bỏ con người và ân sủng của Người vẫn hằng chan chứa cho cả MC 3-A180
Thiên Chúa không bao giờ từ bỏ con người và ân sủng của Người vẫn hằng chan chứa cho cả những ai được coi là không xứng đáng. Đó là chủ đề mà chúng ta suy niệm trong thánh lễ Chúa Nhật III Mùa Chay dưới ánh sáng của các bài đọc Lời Chúa hôm nay.
1- Thiên Chúa sẵn sàng thi ân giáng phúc
Trong bài đọc I (Xh 17,3-7), dân Do Thái hành trình trong sa mạc, họ phải chịu cảnh đói khát vì không có thức ăn và nước uống. Họ cần của ăn và nước uống. Họ lãng quên những việc kỳ diệu mà Thiên Chúa đã làm. Nên họ kêu trách ông Môsê và Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa trả lời cho dân “vô ơn” này bằng việc ban cho họ nước uống. Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Người không thù hận ai. Thiên Chúa hiểu thấu nỗi thống khổ của họ và ban cho họ những gì cần thiết.
Trong bài đọc II (Rm 5,1-2.5-8), thánh Phaolô nhắc bảo chúng ta rằng tình yêu Thiên Chúa và ơn cứu độ của Chúa Giêsu ban cho chúng ta không phải bởi vì chúng ta xứng đáng. Ân sủng đến từ cuộc khổ nạn, cái chết và phục sinh của Chúa Kitô minh chứng rằng tình yêu đó là hoàn toàn nhưng không và do lòng nhân hậu của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Bởi lẽ, Chúa Giêsu đã chết cho chúng ta trong khi chúng ta là những người yếu đuối, những người vô đạo, trong khi chúng ta còn là tội nhân. Chúa Giêsu chết vì chúng ta và như thế niềm hy vọng của chúng ta đặt trên nền tảng vững chắc là tình yêu của Chúa Kitô và ân sủng vững bền do Người ban tặng.
Trong bài Tin Mừng (Ga 4,5-42), chúng ta lắng nghe câu chuyện nổi tiếng về cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ Samari tại bờ giếng Giacóp ở Xykha, vào giữa trưa. Trong cuộc gặp gỡ này, có rất nhiều chi tiết: nơi chốn, thời gian và những nhân vật. Chúng ta tập trung suy tư về cuộc gặp gỡ xem ra bình thường này như là thời điểm của ân sủng mà Chúa Giêsu rộng ban cho con người qua người phụ nữ này. Ân sủng đã làm cho người phụ nữ Samari phải ngạc nhiên.
2- Vượt qua những giới hạn
Chúng ta biết rằng mọi sự đang chống lại người phụ nữ này: Trước hết, bà là một người Samari. Vào thời điểm đó, người Samari và người Do Thái đang thù địch nhau và tránh mặt nhau. Người Do Thái coi người Samari như là những người dân ngoại, những người không có niềm tin. Vì thế, người Do Thái không dám sử dụng những gì mà người Samari đã dùng, kể cả thức ăn, thức uống.
Thứ đến, bà là một người phụ nữ. Vào thời đó, cả với những người phụ nữ Do Thái và nhất là đối với những người phụ nữ dân ngoại Samari, họ thực sự bị coi là thuộc hạng thấp cổ bé miệng, không có quyền lợi và ưu tiên nào cả. Làm sao người phụ nữ này dám nói chuyện với Chúa Giêsu? Tiếp theo, như trình thuật cho thấy, chúng ta biết rằng bà đã có năm đời chồng rồi, một người có vấn đề về gia đình và chắc bà này là người có vấn đề về tính cách phụ nữ, một người có vấn đề về đời sống khác thường. Như thế, tất cả những điều này vốn là những sự cản trở ngăn cản Chúa và bà gặp nhau. Nhưng Chúa Giêsu chủ động đến nói chuyện với bà trước. Chúa Giêsu cởi mở bắt chuyện với bà. Chúa Giêsu đi bước đầu hội thoại với bà bằng việc xin nước uống, từ đó, Chúa hướng bà tới một thứ nước khác, nước hằng sống mà Người sẽ ban. Theo Gioan, nước đây chính là ân huệ Thánh Thần. Nước biểu tượng của sự sống từ Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ được ban như là nguồn mạch sự sống mới cho con người. Thánh Thần sẽ được đổ vào lòng chúng ta nhờ Đấng Phục Sinh để chúng ta được gọi là con Thiên Chúa và kêu lên rằng Ápba – Cha ơi (x. Rm 5,5; Gl 4,6).
Điều đó làm cho bà phải ngạc nhiên. Bà không thể tin rằng một người Do Thái như Đức Giêsu lại có thể nói chuyện với bà, một người Samari như thế này được. Bà không thể tin rằng một người đàn ông Do Thái lại có thể trao đổi với một người phụ nữ Samari được. Bà cũng không thể tin rằng người đàn ông này lại biết rõ về bà. Trái tim và cuộc sống của bà không thể che dấu người này được. Từ những trao đổi về cuộc sống cá nhân, Chúa Giêsu hướng bà tới những điều cao cả hơn: “Nhưng giờ đã đến và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4,23). Những điều này làm cho bà phải ngạc nhiên và tự hỏi: “Ngài có phải là một vị ngôn sứ hay Ngài có phải là Đấng Mêsia không?” Người đàn bà dẫu không xứng đáng, nhưng qua cuộc gặp gỡ này Chúa Giêsu đã ban cho bà ân phúc cao cả, hồng ân tuyệt vời là nhận biết Đấng Mêsia và nhờ Người để bà biết tôn thờ Thiên Chúa.
3- Những điều kỳ diệu của ân sủng
Nhưng ân sủng này không chỉ cho một mình bà mà còn cho những người khác nữa. Bà đã chạy về báo tin cho mọi người trong làng biết rằng bà đã gặp Đấng Kitô. Họ kéo nhau ra để gặp Người. Có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng. Bà trở thành một tông đồ của Chúa Giêsu khi bà kể cho họ nghe về việc bà gặp một người đặc biệt, một tiên tri và có thể là Đấng Mêsia mà người Do Thái đang trông chờ. Đấng đó biết rõ về cuộc đời tôi. Người yêu thương tôi. Người tôn trọng tôi và tôi cảm thấy được Người chúc phúc.
Ân sủng này từ một cuộc gặp gỡ nếu được dùng theo tiêu chuẩn của thế gian có thể không được ban cho người phụ nữ này, vì thân thế của bà là hoàn toàn bất xứng với ân sủng đó. Nhưng Thiên Chúa hành động hoàn toàn khác với tiêu chuẩn của con người. Thiên Chúa bảo đảm cho mọi người tội lỗi, cho tất cả những ai bất xứng rằng: “Ơn Ta đủ cho con” (2 Cr 12,9). Ơn Ta không bao giờ cạn đối với con.
Thánh Giuse mà chúng ta mừng kính trong tháng Ba này là một mẫu gương khiêm tốn trước mặt Thiên Chúa. Ngài chỉ là một người thợ mộc nghèo hèn, đơn sơ, không có vai vế gì trong xã hội. Nhưng thánh nhân luôn tin tưởng vào Thiên Chúa nên ngài luôn được chúc phúc. Cũng thế, bao nhiêu con người khiêm tốn trên thế gian này, những người thực sự cảm thấy mình bất xứng với hồng ân Thiên Chúa, họ vẫn có thể quay trở về và đón nhận ân sủng của Người ban một cách nhưng không. Bởi vì ơn cứu độ, lòng thương xót của Thiên Chúa vượt trên mọi giới hạn của con người. Tình yêu Chúa lớn hơn tội lỗi con người. Thiên Chúa luôn là quảng đại, rộng lượng và nhân ái đối với hết mọi người, ngay cả khi chúng ta bất xứng để đón nhận ân sủng Người. Đó là điều làm cho chúng ta vững tin vào Chúa. Đó là điều mang lại cho chúng ta sự an ủi thiêng liêng. Đó là điều làm cho chúng ta luôn biết trở về với Chúa ngay cả khi chúng ta cảm thấy mình bất xứng và tội lỗi nhất. Cả lúc đó Chúa vẫn giang tay chờ đón chúng ta.
Mùa Chay là thời gian thuận tiện để chúng ta suy ngắm tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa, đồng thời cũng là cơ hội để canh tân đời sống của mình như là nghĩa cử đáp lại lòng thương xót và ân sủng mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Amen!
Hành trình phụng vụ Mùa Chay năm A dẫn đưa chúng ta sống con đường của các anh chị em MC 3-A181
Hành trình phụng vụ Mùa Chay năm A dẫn đưa chúng ta sống con đường của các anh chị em dự tòng đang chuẩn bị lãnh nhận bí tích Rửa Tội, làm sống lại trong chúng ta ơn Thánh Tẩy.
Giáo Hội luôn kết hợp lễ Vọng Phục Sinh với việc cử hành Bí tích Rửa tội trong đó hiện thực mầu nhiệm cao cả của đời sống người tính hữu là: chết đi cho tội lỗi, tham dự vào sự sống mới trong Chúa Kitô phục sinh và nhận lấy Chúa Thánh Thần, Ðấng đã cho Ðức Giêsu từ cõi chết sống lại (x. Rm 8,11).
Thế nên, Chúa Nhật thứ nhất gọi là Chúa Nhật cám dỗ, vì giới thiệu các cám dỗ Chúa Giêsu phải chịu trong sa mạc, và mời gọi chúng ta đứng về phía Chúa Giêsu để chống lại các cám dỗ. Chúa Nhật này sau khi nghe chứng tá của các cha mẹ đỡ đầu, Giáo Hội cử hành việc tuyển chọn những người sẽ được nhận lãnh Bí tích Rửa tội trong đêm Vọng Phục Sinh.
Chúa Nhật thứ hai gọi là Chúa Nhật của tổ phụ Abraham và Chúa Nhật Hiển Dung. Bí Tích Rửa tội là bí tích của đức tin và thiên chức làm con Thiên Chúa: theo Abraham tin tưởng vào Chúa và ra đi để trở nên con cái Chúa.
Bước vào Chúa Nhật thứ ba, chúng ta nghe lại cuộc đối thoại nổi tiếng của Ðức Giêsu với người thiếu phụ Samaria, được Thánh sử Gioan tường thuật. Người thiếu phụ hằng ngày đi lấy nước từ một giếng nước cổ xưa, có từ thời tổ phụ Giacóp. Hôm ấy, chị gặp Ðức Giêsu đang ngồi trên bờ giếng, mệt mỏi sau một hành trình dài (x. Ga 4,5-42). Chúa Giêsu chính là Nước Hằng Sống, Người làm cho con người đỡ khát, nước Chúa Thánh Thần. Chúa Nhật này Giáo Hội cử hành việc bỏ phiếu các tân tòng lần thứ nhất và trong tuần trao cho họ Kinh Tin Kính.
Chúa Giêsu là Nước Hằng Sống
Vào những thế kỷ đầu của Kitô giáo, Các Giáo phụ đã sớm nhận ra nơi «nước hằng sống» biểu tưởng của phép Rửa tội, mà Đức Kitô là chính Nguồn Nước ấy. Chúa Giêsu xin người đàn bà xứ Samaria nước uống, không phải lý do khát về thể lý cho bằng khát đức tin, khát sự sống đời đời, khát một linh hồn khô héo. Đấng Cứu Thế giả vờ khát nước đến xin người đàn bà nước để trao ban thứ nước ân sủng khỏi khát đời đời. Đó chính là nguồn nước mà Tin Mừng nói tới khi Người xin nước của người đàn bà xứ Samaria… Thực ra, nguồn nước ấy không bao giờ cạn, Đấng là nước hằng sống không thể uống nước bị ô nhiễm ở vùng đất này. Câu hỏi được đặt ra:
Phải chăng Đức Kitô khát nước?
Vâng, Người khát, nhưng Người không khát nước trên mặt đất này, hay khát thức uống của con người, mà khát các linh hồn, khát sự cứu chuộc nhân loại. Thánh Ephrem viết: “Khi khát nước, Chúa chúng ta đã ngó đầu vào miệng giếng; Người xin người đàn bà nước uống. Từ giếng nước, Người đã câu được một tâm hồn. Nhưng tâm hồn ấy đã lại câu tiếp được cả dân trong thành” (Thánh Thi Giáng sinh số 4, 43-44).
Tại sao Chúa Giêsu lại xin người đàn bà xứ Samaria nước uống khi bà đến kín đầy vò nước, không những thế, Người còn khẳng định rằng, Người có thể trao ban mạch nước dồi dào hơn từ giếng thiêng liêng nếu ai đến xin Ngài?
Câu trả lời là vì dân Samaria thờ ngẫu tượng, tâm trí họ hướng về địa giới, nên Người khát đức tin không chỉ của người đàn này mà cả và nhân loại. Chúa Giêsu nói: “Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với bà: ‘xin cho tôi uống nước’, thì chắc bà sẽ xin Người, và Người sẽ cho bà nước hằng sống (…) Tất cả những ai uống nước này sẽ còn khát : nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa; vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời” (Ga 4, 10-14). Đúng như lời Kinh Tiền Tụng thánh lễ hôm nay diễn tả: “Lạy Chúa là Cha chí thánh… Khi người phụ nữ xứ Sa-ma-ri cho nước uống, Người đã ban cho bà đức tin. Vì Người tha thiết ước mong bà tin vững mạnh, nên đã đốt lên trong lòng bà ngọn lửa yêu mến Chúa…”
Hình ảnh người tân tòng
Người đàn bà xứ Samaria là hình ảnh của người tân tòng, còn đang chịu sự ràng buộc của ma quỷ, năm đời chồng bà đã từ bỏ, người đàn ông thứ sáu đang sống với bà là tượng trưng. Giếng nước Giacóp thể hiện tiệc cưới của tâm hồn bà cử hành với Thiên Chúa đã được thanh tẩy bằng nước Rửa tội. Theo M. Dulaey thì: “Giữa thế kỷ thứ III, Origène giải thích rằng, giếng nước này là dấu chỉ giao ước giữa Thiên Chúa với dân Người và hiệp nhất tâm hồn với Thiên Chúa”. Từ nay, bà tuyên xưng đức tin trước mặt mọi người và đi loan báo Đức Kitô cho dân làng bà, kết quả là : “Một số đông người Samaria ở thành đó đã tin Người vì lời người đàn bà làm chứng rằng : Ông ấy đã nói với tôi mọi việc tôi đã làm” (Ga 4, 39). Theo Origène: “Vị Hôn Phu đích thực là Chúa Kitô (Ga 13, 181). Một khi người đàn bà này tìm thấy Ngài, bà liền chạy về loan báo cho dân làng biết; người đàn bà này là hình ảnh của người kitô hữu tuyên xưng đức tin của mình”.
Nguồn suối cứu độ là chính Đức Kitô
Đức Kitô, Đấng ngồi nghỉ trên miệng giếng chính là nguồn nước, từ cạnh sườn bên phải Người, tuôn trào dòng nước xót thương; một phụ nữ có sáu đời chồng đã được tẩy sạch bằng dòng nước hằng sống ấy. Thật ngưỡng mộ biết bao: một người phụ nữ nhẹ nhàng đến giếng Samaria kín nước, bà lấy nước từ dòng nước Giêsu! Tìm được nước, bà ra đi với sự tiết hạnh. Ngay lập tức bà xưng thú các lỗi mà Chúa Giêsu ám chỉ, bà nhận ra Đức Kitô và loan báo Đấng Cứu Thế. Bà để vò nước xuống, mang ơn sủng vào thành; vai nhẹ bớt, bà trở về tràn đầy sự thánh thiện… Đúng là ai đến trong tội lỗi sẽ trở về với sứ mạng tiên tri.
Nước hằng sống này đối với chúng ta là nguồn suối dâng trào sự sống đời đời, nước này không phải là nước hòa với Máu Chúa Kitô, đã chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu trên cây Thánh giá đó sao? Đây không phải là các bí tích của Giáo hội mà Phép rửa trình bầy mầu nhiệm của nước ấy, để ám chỉ rằng nước đó phát sinh từ cái chết cứu độ của Đấng Cứu Thế đó hay sao? Trong mọi trường hợp, các Giáo phụ thấy nước tuôn chảy từ tảng đá do Môisen đập ra (Xh 17, 3-7) là hình ảnh tiên trưng của nước chảy ra từ cạnh sườn Đấng Cứu Thế bị đóng đinh.
Mỗi người chúng ta đều có thể nhìn thấy chính mình nơi hình ảnh của người thiếu phụ Samari: Ðức Giêsu chờ đợi chúng ta, nhất là trong thời điểm của Mùa Chay này, để đối thoại với chúng ta, nói với con tim của chúng ta. Chúng ta hãy dừng lại trong một khoảnh khắc thinh lặng, để lắng nghe lời Ngài nói với chúng ta: “Nếu bạn nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban…”
Lạy Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria, xin đừng để chúng con đánh mất cơ hội gặp gỡ này, là nơi chúng con có thể kín múc nguồn hạnh phúc đích thực cho cuộc đời chúng con. Amen.
Câu chuyện về sự gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ xứ Samaria trên bờ giếng Giacop có MC 3-A182
Câu chuyện về sự gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ xứ Samaria trên bờ giếng Giacop có một chi tiết nghịch lý thú vị:
1. Mở đầu:
Chúa Giêsu ngỏ lời: “Chị cho tôi xin chút nước uống!”. Từ khoảnh khắc đó, Chúa dẫn dắt chị đi vào bầu trời thánh ân của yêu thương, bao dung, tha thứ.
Chúa nhìn thấy tâm hồn chị. Chúa biết chị luôn sống trong mặc cảm của tội, bởi chị đã có đến “năm đời chồng và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị”.
Nhưng Chúa cũng nhìn thấy khả năng đón nhận chân lý nơi chị, vì thế, chính Chúa lên tiếng: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị: cho tôi chút nước, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống” (Ga 4,10).
Nhưng trên tất cả, Chúa muốn chị phải hiểu rằng, chỉ nhờ Chúa, con người mới đạt tới viên mãn: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14).
2. Sau cùng:
Chị trở thành người cầu xin: “Xin cho tôi thứ nước ấy”.
Rồi lại trở thành người tuyên xưng đức tin: “Tôi thấy ngài thật là một ngôn sứ…” (Ga 4, 19), sau khi được Chúa gợi ra chính tình trạng tâm hồn tội lỗi của chị, kẻ đã có đến sáu đời chồng, nhưng chẳng ai là chồng thực sự.
Chúa dứt khoát dẫn chị đi gặp “Chân Lý” mà chị cần gặp, chị phải gặp. “Chân lý” ấy không phải ai khác mà là chính Chúa, Đấng đã tự mình tìm đến với chị: “Đấng Mêsia chính là Ta, Người đang nói với chị đây” (Ga 4, 26).
Cái hay của câu chuyện đó là sự nghịch lý thú vị: Người xin nước uống trở thành người trao ban; còn kẻ được xin trở thành kẻ lãnh nhận.
Chị phụ nữ Samaria, người đã được Chúa xin nước, lại là người lãnh nhận cả một kho tàng không thể có bất cứ điều gì có thể so sánh. Kho tàng ấy là chính Chúa Giêsu, mạch suối trao ban nguồn nước trường sinh, đó là được sống chính sự sống của Chúa, sống vĩnh cửu.
Hóa ra cần đến nước nhưng không phải là nước. Trong hoàng cảnh này, nước chỉ là biểu tượng của sự sống trường sinh.
Và Chúa Giêsu, người đến xin nước không phải để uống nước, nhưng để trao ban chính mình.
Khai mở bằng một cơn khát nước của Đấng Cứu Chuộc, nhưng kết thúc không phải là một cơn, mà là cả một niềm khao khát mãnh liệt vươn tới tình yêu vĩnh cửu, vươn tới sự sống thường hằng và bình an đích thực của người đã có thể ý thức mình tội lỗi.
Bằng một cơn khát thể lý của Đấng Cứu Chuộc, đã có thể tạo đà cho nhân loại đi tới một cơn đói khát tâm linh, cần thiết để chuẩn bị nhân loại mở lòng đón nhận ơn lớn lao là chính Đấng Cứu Chuộc.
Chúa vẫn yêu thích tìm đến cùng chúng ta. Chúa vẫn chờ đợi để được trao ban chính mình Người.
Chúa muốn chúng ta hãy khiêm tốn nhìn nhận thân phận thụ tạo, thân phận yếu đuối, thân phận dễ đổ ngã của bản thân, để Chúa là sức mạnh, là thuẫn đỡ, là khiên che, là chính ơn tha thứ, là chính nguồn tái sinh, là hạnh phúc đích thực cho ta ngã nhào vào mà tìm lẽ sống, mà đạt đến sự sống.
Chúng ta hãy làm như người phụ nữ Samaria, đó là mềm lòng để Chúa uốn nắn. Từ nay ta sẽ trở về, biết chối từ quá khứ lầm lỡ đển vươn tới tương lai thánh thiện trong Chúa.
Từ nay ta sẽ ăn năn hối lỗi, biết lột trần con người của mình để càng lúc càng dễ dàng nhận ra, mình chỉ là kẻ đón nhận, chỉ mình CHÚA MỚI THẬT LÀ ĐẤNG TRAO BAN.
Kéo nước từ giếng sâu là việc làm khó nhọc, gánh nước leo đồi về nhà càng vất vả hơn, nhất là MC 3-A183
Kéo nước từ giếng sâu là việc làm khó nhọc, gánh nước leo đồi về nhà càng vất vả hơn, nhất là gánh vác vào buổi trưa hè. Giếng đầu làng là nơi thu nhập và truyền bá tin tức trong ngày. Thời gian người ta chờ nhau kéo nước cũng là lúc tin tức trong làng được truyền miệng. Người phụ nữ thành Samarita đi kéo nước vào buổi trưa vì lúc đó vắng người. Bà hy vọng tránh không bị lôi kéo vào sinh hoạt đó. Bà cũng hy vọng không có ai ở đó. Ngạc nhiên thay, ba thấy Đức Kitô đang ngồi bờ giếng từ lúc nào, và Ngài xin bà nước uống. Việc Đức Kitô xin bà nước uống cho biết Ngài không đồng í với luật lệ trọng nam, khinh nữ và coi thường dân ngoại thời đó. Theo luật, đàn ông không được nói chuyện với phụ nữ nơi công cộng. Do Thái giáo không nhờ vả dân ngoại. Xin nước uống người phụ nữ dân ngoại là điều cấm kị. Cuộc đối thoại giữa Đức Kitô và người phụ nữ tiến triển qua ba giai đoạn. Đức Kitô mổ đầu, xin nước uống cho đỡ khát; tiếp đến người phụ nữ chân thành xác nhận những gì Đức Kitô biết về quá khứ bà đều đúng, và cuối cùng bà trở thành môn đệ Đức Kitô. Bà rất ngạc nhiên khi Đức Kitô xin bà nước uống vì đó là điều tối kị. Đức Kitô cho biết nếu bà biết Ngài là ai thì chính bà xin Ngài ban cho nước uống, chứ không phải Ngài xin bà. Điều này gây thắc mắc hơn nữa, bởi giếng nước sâu, Ngài không có gầu múc nước làm sao có thể lấy được nuớc. Đức Kitô cho biết nước Ngài ban là nước hằng sống, không bao giờ cạn. Dù không hiểu bà cũng xin Ngài ban cho nước không hề cạn. Đức Kitô nói với bà, hãy về gọi chồng bà ra đây. Bà tự thú bà không có chồng. Câu tiếp theo khiến nhiều học giả Kinh Thánh giải thích người phụ nữ thay đổi niềm tin như thay áo, bà đã phục vụ năm bảy vị thần khác nhau và không hài lòng với vị thần nào, ngay cả vị thần bà đang tôn kính. Số học giả khác không đồng í với giải thích trên. Tuy nhiên không ai có thể chối cãi một thực tế là Đức Kitô không hề kết án, cũng như nhắc đến tội của bà.
Ngay sau khi bà xác định bà không có chồng, câu chuyện đổi sang việc thờ phượng. Đức Kitô hướng dẫn bà về cách thờ kính Thiên Chúa. Không phải cách hay nơi thờ phượng, hay núi thánh mà là tâm tình thờ phượng phải chatn thành. Việc thờ phượng Thiên Chúa chính đáng nhất là tôn thờ với tất cả tấm lòng và trong sự thật. Vì hướng dẫn trên mà học giả Kinh Thánh giải thích chữ ‘chồng’ ở đây không đồng nghĩa như nghĩa thông thường xã hội dùng. Người phụ nữ đón nhận giải thích về cách tôn thờ chính đáng Đức Kitô đưa ra. Bà cũng cho biết cách thờ phượng đó chỉ một mình Đấng Messiah hướng dẫn khi Ngài đến. Đức Kitô nói với bà chính Ngài là Đấng Messiah. Đúng lúc đó thì các môn đệ Đức Kitô đi mua ăn trưa trở về và cuộc đối thoại bị gián đoạn. Cuộc đối thoại biến sang giai đoạn ba, giữa Đức Kitô và đám đông dân làng. Người phụ nữ về làng thông báo cho mọi người biết tại bờ giếng bà gặp một vị xem ra vị này là Đấng Cứu Thế bởi Ngài có thể nói những việc thầm kín quá khứ đời bà. Vì niềm tin phóng khoáng, đổi thần, thay thánh, của bà mà nhiều người không tin lời bà nói. Ngạc nhiên thay, lần này người ta tin và họ kéo nhau ra giếng gặp Đức Kitô. Sau khi nghe Đức Kitô, họ tin Ngài là Đấng Cứu Thế. Đám đông nói với bà. Chúng tôi tin Ngài là Đấng Cứu thế không phải do lời bà loan báo mà chính mắt chúng tôi đã thấy, tai chúng tôi đã nghe Ngài giải thích, và chúng tôi tin. Dù giải cuộc sống bà thích thế nào chăng nữa, bà chính là người loan báo Tin Mừng cho dân làng, và những điều bà loan báo minh xác sự thật- Đức Kitô là Đấng Cứu Thế.
Người phụ nữ tin vào Đức Kitô vì bà chân thành lắng nghe, cởi mở cõi lòng và bà khẩn khoản xin Đức Kitô ban cho nước hằng sống. Bà không hiểu rõ nước hằng sống là gì? Điều này cho biết tin theo Đức Kitô không phải có các câu trả lời cho thắc mắc về đức tin, mà chính là yêu mến Ngài. Tin theo Đức Kitô giúp thoả mãn khát khao của tâm hồn, giúp con tim tìm được bình an ngay trong cảnh hỗn loạn, và giúp sống trong hy vọng. Với bà, ơn không ngoan Đức Kitô trao cho dư thừa, không cần phải tìm nguồn khôn ngoan nào khác.
Ngày 22 tháng 3 hàng năm đã được Liên Hiệp Quốc chọn làm Ngày Nước Thế Giới – ngày để con MC 3-A184
Ngày 22 tháng 3 hàng năm đã được Liên Hiệp Quốc chọn làm Ngày Nước Thế Giới – ngày để con người nhìn lại tầm quan trọng của tài nguyên quý giá bậc nhất trên Trái đất. Nước là tài nguyên chiếm 3/4 diện tích Địa cầu nhưng chỉ có khoảng 2,5% trong tổng số đó là nước có thể sử dụng được. Tổ chức Y tế Thế giới đang cảnh báo về tình trạng thiếu nước sạch trên toàn thế giới. Hiện nay mỗi năm có khoảng 1,2 triệu trẻ em dưới 5 tuổi chết vì thiếu nước sạch.
Tại Việt Nam, nhiều người vẫn chưa được sử dụng nước sạch, kể cả tại những thành phố lớn như Sài Gòn, Hà Hội. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng thiếu nước là do việc khai thác bừa bãi, sử dụng nước cách phí phạm. Nguyên nhân trầm trọng hơn, đó là tình trạng ô nhiễm môi trường do con người gây ra. Các khu công nghiệp, các cơ sở sản xuất và các gia đình xả thẳng chất thải, hóa chất chưa được xử lý vào môi trường, khiến cho nguồn nước ngầm bị nhiễm độc bởi hóa chất và các kim loại nguy hiểm. Theo Bộ Y tế, tại Việt Nam, hàng năm có tới 10 ngàn người chết vì các bệnh liên quan đến việc sử dụng nước ô nhiễm. Một trong các bệnh dễ thấy đó là các bệnh ung thư và các bệnh liên quan đến tiêu hóa, đường ruột.
Lời Chúa tuần thứ ba mùa chay hôm nay giới thiệu cho chúng ta: Chúa Giêsu là Nguồn Nước đem lại sự sống đời đời. Ngày xưa dân Do Thái đã có kinh nghiệm thế nào là thiếu nước và khát nước, khi họ vượt qua sa mạc. Hành trình vượt sa mạc phải đối đầu với bão cát và gió nóng, thì việc thiếu nước là một thảm họa cho cả con người và súc vật. Thay vì tin tưởng vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa, dân Do Thái đã tỏ ra thất vọng và muốn nổi loạn chống lại Thiên Chúa và Mose. Họ trách ông Mose: Tại sao ông đưa chúng tôi vào hoang địa này để chúng tôi và đàn vật phải chết khát ở đây? Trong lúc không biết phải giải quyết thế nào, Mose chỉ còn tin tưởng và cầu khẩn cùng Thiên Chúa. Ông thưa với Chúa những điều dân chúng oán trách ông. Thiên Chúa đã thể hiện quyền năng trước lời kêu xin của Mose. Ngài muốn cho Mose và dân Do Thái thấy rằng Ngài có thể làm được tất cả, kể cả những việc tưởng chừng như không thể, Ngài làm cho thành có thể. Chúa truyền cho Mose lấy cây gậy đập vào tàng đá. Từ tảng đá tại Meriba, Chúa đã cho một nguồn nước trong lành, tươi mát chảy ra cho toàn dân và súc vật được uống thỏa thuê, không còn khát nữa.
Phép lạ Chúa làm trong hoang địa ngày xưa, báo trước việc Thiên Chúa sẽ ban cho nhân loại một nguồn nước vô cùng quý giá, đó là Nước Trường sinh, nước đem lại sự sống cho tất cả nhân loại. Nguồn nước sẽ được ban cách dồi dào nới chính con người của Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã nhận ra và giới thiệu cho chúng ta qua câu chuyện Chúa Giêsu gặp gỡ và đối thoại với người phụ nữ Samaria.
Sau một hành trình dài, Chúa Giêsu và các môn đệ ngồi nghỉ tại bờ giếng Giacop, thuộc miền Samaria. Có một phụ nữ Samaria đến múc nước. Chúa Giêsu đã chủ động khởi đầu câu chuyện bằng việc xin người này: Chị cho tôi xin chút nước. Người phụ nữ Samaria lúc đầu, chỉ hiểu người đàn ông lạ này xin nước múc lên từ giếng sâu. Nhưng Chúa Giêsu đã khiến cho chị đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác khi nói với chị: Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị: Cho tôi xin chút nước, thì hẳn chị đã xin người ấy ban cho chị nước hằng sống. Chúa Giêsu đã bắt đầu bằng việc uống nước để nói về một nguồn nước đặc biệt hơn đó là nước hằng sống. Nguồn nước do chính Ngài đem đến cho trần gian, có sức thanh tẩy tâm hồn con người và đem đến cho con người sự sống đời đời. Nguồn nước này sẽ được ban tặng nhưng không, cho những ai được Thiên Chúa ban ơn để tin vào Chúa Giêsu.
Người phụ nữ Samaria chưa thể hiểu những điều Chúa Giêsu muốn mạc khải. Chị tự hào vì tổ phụ Giacop đã để lại một giếng nước sạch cho con cháu, nhưng Chúa Giêsu đã quả quyết: Ai uống nước giếng này, sẽ vẫn bị khát, ai uống nước do Ngài ban tặng sẽ không bao giờ khát nữa và còn bảo đảm đem đến sự sống đời đời. Nói đến đây, người phụ nữ Samaria, dù chưa thể hiểu hết, nhưng chị đã bắt đầu tin và mở lời xin Chúa Giêsu: Thưa Ngài, xin cho tôi thứ nước đó để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.
Chúa Giêsu đã nói với người phụ nữ: Chị hãy về gọi chồng chị rồi trở lại đây. Người phụ nữ đã thành thật thưa: tôi không có chồng. chúa Giêsu trả lời: Chị đã có năm đời chồng rồi, và người hiện tại đang ở với chị không phải là chồng chị. Người phụ nữ ngạc nhiên khi thấy Chúa Giêsu nói chính xác về quá khứ của chị. Chị đã thưa: Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ, cha ông chúng tôi đã thờ trên núi này. Qua đoan đối thoại này, Chúa Giêsu chỉ cho người phụ nữ Samaria thấy, trước đây chị đã bị vật vã trong cơn khát của thế gian đó là sự thiếu thốn tình yêu, thèm khát dục vọng. Cơn khát trần gian này sẽ dằn vặt và chi phối lôi cuốn chị vào dòng chảy của nó, không có điểm dừng. Còn người phụ nữ đã đi đến một niềm tin rằng, người lạ đang nói chuyện với chị không phải là người thường, mà là một ngôn sứ. Ngôn sứ này hơn hẳn các ngôn sứ trước đây, chị khẳng định: Ngài thật là ngôn sứ cha ông chúng tôi tôn thờ trên núi này.
Người phụ nữ sau khi đã tin Chúa Giêsu là nguồn nước hằng sống, là một vị ngôn sứ tổ tiên chị đã tôn thờ, chị đã vào làng, gọi mọi người trong làng và nói cho họ về Chúa Giêsu. Nhiều người Samaria đã tin Chúa Giêsu vì thấy người phụ nữ này đã được biến đổi nhờ gặp được Chúa Giêsu là nguồn nước ban sự sống mới. Chị đã làm chứng rằng: Ông ấy đã nói cho tôi về việc tôi đã làm. Chị đã được lấp đầy, được giải khát khỏi cơn khát của xác thịt, dục vọng và sự trói buộc của quá khứ, bằng chính những điều Chúa Giêsu đã nói với chị.
Cuộc sống chúng ta hôm nay không chỉ bị ô nhiễm về nguồn nước, chúng ta còn đang bị đầu độc bởi những chất độc hại là những tư tưởng sai lạc nghịch lại với Giáo Hội. Những sách báo phim ảnh và những lối sống dễ dãi buông thả chiều theo dục vọng đang kéo nhiều người, đặc biệt là các bạn trẻ vào cơn khát của nó; có nhiều người bị chìm vào cơn khát quyền lực, khát danh vọng, khát tiền bạc và của cải, khiến họ quay cuồng với cuộc sống và không có điểm dừng.
Chỉ có Chúa Giêsu là nguồn nước hằng sống mới có thể thỏa mãn cho sự khát khao sâu xa trong tâm hồn. Ngài sẽ thỏa mãn khát khao hạnh phúc, khát khao được sống đời đời và khát khao trở nên một với Thiên Chúa nơi mỗi chúng ta. Lời Chúa và Thánh Thể là nguồn sức sống cho nhân loại, có sức mạnh lấp đầy khát vọng sâu thẳm của con người. Xin cho chúng ta tin tưởng đến với Chúa Giêsu, đón rước Ngài và cầu xin với Ngài: Xin ban cho con Nước trường sinh phát xuất từ trái tim yêu thương của Chúa và thương lấp đầy mọi kháo khat trong tâm hồn chúng ta. Chúa sẽ đáp ứng cho chúng ta như chúng ta khát mong. Amen.
Cuộc đời phàm nhân có nhiều loại khát – khát về thể lý và khát về tinh thần. Mức độ khát cũng MC 3-A185
Cuộc đời phàm nhân có nhiều loại khát – khát về thể lý và khát về tinh thần. Mức độ khát cũng đa dạng và khác nhau. Cơn khát nào cũng cần được giải khát. Cơn khát của Chúa Giêsu là cơn khát đặc biệt, liên quan cả thể lý lẫn tinh thần: “Tôi khát!” (Ga 19:28).
Về thể lý, khát là trạng thái thiếu nước. Muốn hết khát thì phải có nước để làm cho hết khát, gọi là giải khát. Đồ uống cần gấp hơn đồ ăn, vì người ta có thể nhịn đói dài ngày hơn nhịn khát. Ngày nay, trên đường đi thường thấy có những nhà để bình “nước đá miễn phí” cho khách vãng lai sử dụng. Một nghĩa cử đẹp lắm! Tất nhiên nước đó chỉ có lợi cho những người lao động nghèo thôi, người giàu chẳng ai “để ý” làm chi.
Điều đó là động thái rất đơn giản và chỉ là “chuyện nhỏ”, nhưng lại thực sự cần thiết, nhất là vào những ngày hè nắng nóng, như tục ngữ Việt Nam ví von: “Nắng tháng Ba, chó già le lưỡi”. Việc nhỏ mà công to, chính Chúa Giêsu cũng chúc lành cho những việc làm “nhỏ bé” như vậy: “Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mt 10:42). Thật là tuyệt vời!
Về tinh thần, cơn khát đa dạng hơn (hạnh phúc, tình yêu, danh vọng, sự nghiệp,…), và cũng cấp bách lắm. Plato (khoảng 427-347 TCN, triết gia cổ đại Hy Lạp) phân tích: “Hành vi của con người bắt đầu từ ba nguồn chính: khao khát, cảm xúc và tri thức”. Còn Denis Diderot (1713-1784, văn sĩ kiêm triết gia người Pháp) xác định: “Chỉ có một khát khao, khát khao hạnh phúc – Il n’y a qu’une passion, la passion du bonheur”.
Cơn khát thể lý cấp bách, nhưng cái khát về tâm linh còn cấp bách và mãnh liệt hơn nhiều. Hạn hán là “thiên tai” (có thể là “nhân tai” nhưng người ta đổ lỗi cho Ông Trời), không mưa nên thiếu nước, đất đai khô cằn, nguy hiểm lắm, nhưng hạn hán tâm linh càng nguy hiểm hơn, vì đó là “nhân tai” (chắc chắn cái này chỉ là “nhân tai” mà thôi). Và rồi chỉ có Mưa Giêsu mới khả dĩ cứu nguy con người khỏi hạn hán. Chúng ta phải thực sự khát Ngài.
CƠN KHÁT THỂ LÝ
Thời Cựu Ước, trong hành trình sa mạc, dân khát nước nên đã kêu trách ông Mô-sê: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập để làm gì? Có phải là để cho chúng tôi, con cái chúng tôi, và súc vật của chúng tôi bị chết khát hay không?” (Xh 17:4). Nắng đồng bằng đã khó chịu rồi, nắng cao nguyên cũng ghê gớm lắm, nắng sa mạc thì hẳn là như lửa. Chịu không nổi cái nắng nóng nên dân muốn nổi loạn, ông Mô-sê cũng “ngán” lắm nên kêu lên cùng Đức Chúa: “Con phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ một chút nữa là họ ném đá con!” (Xh 17:4).
Đá luôn có sẵn, vùng sỏi đá có khác, muốn “chơi” thì cứ việc lấy đá chọi thẳng tay ngay. Chả biết phải trái thế nào, lạng quạng là chết chắc. Kể cũng “ngại” thật! Thấy tội nghiệp, Đức Chúa phán với ông Mô-sê: “Ngươi hãy đi lên phía trước dân, đem theo một số kỳ mục Ít-ra-en; cầm lấy cây gậy ngươi đã dùng để đập xuống sông Nin, và đi đi. Còn Ta, Ta sẽ đứng ở đằng kia trước mặt ngươi, trên tảng đá ở núi Khô-rếp. Ngươi sẽ đập vào tảng đá. Từ tảng đá, nước sẽ chảy ra cho dân uống” (Xh 17:5-6). Ôi chao, thế thì còn gì bằng! Ông Mô-sê nghe vậy và làm y chang trước mắt các kỳ mục Ít-ra-en. Và điều kỳ diệu đã xảy ra. Ông đặt tên cho nơi ấy là Ma-xa và Mơ-ri-va, nghĩa là THỬ THÁCH và GÂY SỰ, vì con cái Ít-ra-en đã dám gây sự và thử thách Đức Chúa mà nói: “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không?” (Xh 17:7). Đặt vấn đề như vậy là nghi ngờ sự hiện hữu của Thiên Chúa. Chắc hẳn chúng ta cũng đã có lúc “đặt vấn đề” về đức tin như vậy!
Có lẽ chúng ta cho rằng dân Ít-ra-en “uống thuốc liều” quá chỉ định, vì dám gây sự và thử thách Chúa. Đúng là “bán trời không cần văn tự”. Tuy nhiên, chúng ta cũng chẳng hơn gì, có khi còn hơn họ nữa đấy. Thật vậy, khi gặp gian nan thử thách theo kiểu “mắc nối tiếp” như nối các bóng điện, dạng “họa vô đơn chí”, chắc hẳn cũng đã có những lần chúng ta bị “lung lay” về đức tin. Dù không nói ra nhưng các động thái của chúng ta cũng bộc lộ nghi vấn: “Có Chúa thật hay người ta chỉ ảo tưởng?”. Có những người còn liều hơn – kể cả người Công giáo, đã từng dám thốt thành lời: “Trời không có mắt, trời mù!”. Với các Kitô hữu, Trời là ai chứ? Như vậy không phải là chúng ta “liều mạng” hơn dân Ít-ra-en sao? Chẳng oan ức chi mô!
Việc ăn năn sám hối không là động thái chỉ được thực hiện trong Mùa Chay, Mùa Vọng, kỳ tĩnh tâm,… mà phải được thực hiện không ngừng trong suốt cuộc đời: Mùa nào cũng là mùa sám hối, ngày nào cũng là Mùa Chay, khi nào cũng là lúc tĩnh tâm (cấm phòng). Đó là sẵn sàng dầu đèn như 10 cô trinh nữ khôn ngoan đi đón chàng rể (x. Mt 25:1-13). Giáo Hội ấn định Mùa Chay như tiếng chuông cảnh báo để “đánh động” mạnh hơn, nhất là đối với những người còn “ngủ mê”, do đó mà có nghiêm luật: Xưng tội mỗi năm ít là một lần, đồng thời xưng tội và rước lễ trong Mùa Phục Sinh.
Chúng ta sẽ nhận ra Thiên Chúa khi nhìn vào vạn vật, thiên nhiên. Đơn giản nhất là không khí. Không có không khí thì không gì có thể sống được một lúc. Cái cực tiểu nhưng lại là cực đại. Còn những thứ khác như ánh sáng, không có ánh nắng thì ai cũng như mù vậy. Vì thế, hãy nghe lời tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn” (Tv 95:1-2). Thánh Vịnh này phổ biến, quen thuộc, vì được Giáo Hội sử dụng hằng ngày trong Giờ Kinh Phụng Vụ.
Không thể im lặng, tác giả Thánh Vịnh nói thêm: “Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta. Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt” (Tv 95:6-7a). Trong Mùa Chay, chúng ta thường xuyên được nhắc nhở câu này: “Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa phán: Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơ-ri-va, như ngày ở Ma-xa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã từng thách thức và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm” (Tv 95:7b-9). Và Thánh Phaolô cũng đã xác định: “Đây thời kỳ Chúa thi ân, Thời gian cứu độ dành phần cho ta” (2 Cr 6:2).
Khi đề cập Mơ-ri-va và Ma-xa tức là nhắc nhở chúng ta “đừng gây sự và thử thách Thiên Chúa”. Không dám làm vậy là chúng ta bắt đầu tin Chúa hiện hữu. Niềm tin là khởi đầu của mọi thứ: Tin Chúa (tín thác) → Thương người → Tha thứ (thương xót tha nhân) → Thánh ân (được hưởng) → Trắng án (sạch tội) → Trường sinh (nên thánh, làm công dân Nước Trời). Một chuỗi những chữ T kỳ diệu!
CƠN KHÁT TINH THẦN
Chấp nhận hay từ chối, đó là tin. Đức tin thật kỳ diệu, vì đó là một trong các “mối phúc ngoại lệ” (*), và vì đức tin có khả năng làm người ta nên công chính. Thánh Phaolô cho biết: “Một khi đã được nên công chính nhờ đức tin, chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa” (Rm 5:1-2).
Để dễ hiểu và có thể hiểu thấu đáo, Thánh Phaolô giải thích: “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta. Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5:8).
Khi đọc các thư của Thánh Phaolô, chúng ta thấy điều gì cũng được diễn tả rất chi tiết, mạch lạc. Quả thật, tình yêu của Thiên Chúa quá vĩ đại, quá cao thượng, và chúng ta gọi là Lòng Chúa Thương Xót. Đã có lần Chúa Giêsu minh định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Thế nhưng đâu mấy ai! Tha thứ đã khó rồi chứ nói chi chết thay ai đó. Đó là dạng khát “không giống ai”, rất khác lạ. Sẵn sàng tha thứ là làm thánh rồi đấy!
Như một đoạn phim thú vị về tính nhân bản và niềm khát khao, trình thuật Ga 4:5-42 nói về phụ nữ Sa-ma-ri gặp Chúa Giêsu bên giếng nước và được Ngài ban cho loại nước trường sinh bất tử, uống vô hết khát liền.
Thánh sử Gioan cho biết: Một hôm, Chúa Giêsu đến thành Xy-kha thuộc xứ Sa-ma-ri, gần thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giuse và có giếng của ông Gia-cóp. Ngài đi đường mỏi mệt nên ngồi ngay xuống bờ giếng, còn các môn đệ vào thành mua thức ăn, vả lại lúc đó khoảng mười hai giờ trưa, nắng như lửa thiêu.
Lúc đó có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giêsu xin chị chút nước uống. Chị ngạc nhiên: “Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao?”. (Vì kính trọng Chúa Giêsu khi dịch Kinh Thánh thôi, chứ Chúa Giêsu lúc đó còn trẻ măng, nếu là người Việt thì chắc là phụ nữ ngoại giáo kia sẽ dùng hai đại từ là Anh và Em hoặc Tôi). Tại sao chị ấy ngạc nhiên? Vì thời đó, người Do-thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri. Đức Giêsu xởi lởi: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’ thì hẳn chị ĐÃ xin, và người ấy ĐÃ ban cho chị nước hằng sống”. Chúa Giêsu dùng thì quá khứ trong khi Ngài nói là thì hiện tại. Điều đó cho thấy rằng những gì Ngài nói đều là sự thật, như Ngài khẳng định với Tổng trấn Phi-la-tô: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT” (Ga 18:38).
Cô nàng vô danh người Sa-ma-ri còn thắc mắc rằng Chúa Giêsu không có gầu, giếng lại sâu, làm gì có được nước hằng sống mà cho. Chị không hiểu ý Chúa Giêsu. Rồi chị còn chứng minh rằng tổ phụ Gia-cóp với cả con cháu và đàn gia súc cũng xài nước ở giếng này. Đức Giêsu lại cười rất hiền, và trầm giọng: “Chị Hai à, ai uống nước này sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời đấy”. Chị gãi đầu và nghĩ thầm: “Chu choa! Lạ dữ nghen!”. Không lạ sao được, thế mới đáng nói chứ!
Ôi chao, từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, hết mắt tròn rồi mắt dẹt, cứ miệng chữ A rồi mắt chữ O, thế nhưng chắc hẳn chị cảm thấy tin tưởng “Anh Chàng” này nói thật, vì thấy có gì đó rất kỳ lạ. Và chị nói với Đức Giêsu: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước”. Chả bảo cho hay không cho, mà Ngài lại bảo chị ấy gọi chồng ra đó. Chị bảo rằng chị chỉ “mình ên” thôi, không chồng con chi cả. Đức Giêsu cười và bảo chị nói đúng. Ngài nói “toạc móng heo” là chị đã có tới năm đời chồng rồi, ngay cả người hiện đang sống với chị cũng không phải là chồng. Chắc đó là dạng “sống thử” hoặc “nửa nhân ngãi, nửa vợ chồng” đây. Chị hết hồn hết vía vì thấy Chúa Giêsu không phải thầy bói mà nói trúng phoóc. Ngại thì có ngại, nhưng chị cũng phải công nhận ngay trước mặt Chúa Giêsu: “Ông ơi, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ”.
Và không chỉ có vậy, Chúa Giêsu còn nói điều “ngược đời” lắm. Ngài bảo không được thờ phượng Thiên Chúa trên núi nữa, mà Giêrusalem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa. Kể ra chị Hai ngoại giáo này cũng dễ tiếp thu “cái mới” đấy. Tốt lắm!
Sau đó, Đức Giêsu nghiêm sắc mặt và nói “dài hơi” chút xíu: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-thái. Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật”. Chị Hai này hay thiệt, xem chừng giỏi Kinh Thánh nữa nghen, vì chị nghe Ngài nói vậy mà không “théc méc” chi ráo trọi, rồi chị còn nghiêm túc thưa: “Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”. Trúng phoóc. Giỏi dữ nghen! Và Đức Giêsu nói ngay: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây”. Chị này diễm phúc quá xá luôn. Chị được gặp và nói chuyện với Đức Kitô. Sướng rơn!
Câu chuyện vừa tới đó thì đúng lúc các môn đệ đi chợ về, lỉnh kỉnh đồ ăn và thức uống. Các ông ngạc nhiên vì thấy Sư Phụ nói chuyện với một phụ nữ. Kỳ à nghen! Thế nhưng chẳng đệ tử nào dám hỏi nửa lời.
Sau đó, người phụ nữ phấn khởi đến nỗi bỏ vò nước lại, chạy vào thành và bảo người ta đến xem một “Người Lạ”, rất giống Đấng Kitô. Chị này tự nguyện làm nhân chứng sống. Thế là dân thành tuôn ra như trẩy hội. Được tận mắt thấy một “Dị Nhân” độc nhất vô nhị là cơ hội ngàn vàng chứ ít gì. Lạ mà vui! Chắc là ai cũng rất phấn khởi vì thỏa mãn niềm khát khao lâu nay, nhất là chị Hai ngoại giáo.
Đã quá trưa rồi, chắc là ai cũng đói meo, thế nên các môn đệ thưa: “Bạch Thầy, xin mời Thầy dùng bữa”. Ngài “bóng gió” với các ông: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết”. Các môn đệ lại gãi đầu và ngơ ngác nhìn nhau: “Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?”. Họ tưởng Sư Phụ no xôi chán chè rồi, chả cần gì nữa. Các ông đâu ngờ Sư Phụ nói về loại “siêu lương thực” là THI HÀNH Ý CHÚA CHA và HOÀN TẤT CÔNG TRÌNH CỨU ĐỘ. Thì phải vậy thôi, trò sao hơn thầy được, bằng thầy cũng khá lắm rồi (x. Mt 10:24-25). Dĩ nhiên Ngài rất thông cảm cho các đệ tử của mình thôi. Thuận ngôn nào cũng gây nghịch nhĩ!
Thánh sử Gioan cho biết rằng, hôm đó có nhiều người Sa-ma-ri trong thành đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng: ÔNG ẤY NÓI VỚI TÔI MỌI VIỆC TÔI ĐÃ LÀM. Hiệu quả nhãn tiền của việc làm chứng thật. Vâng, chỉ có Thiên Chúa mới THẤU SUỐT MỌI SỰ, từ thuở hồng hoang tới tận thế, nói chi tới quá khứ và tương lai của một con người (Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6).
Ngày hôm đó, dân Sa-ma-ri xin Ngài ở lại với họ, chắc hẳn Ngài rất vui nên đã ở lại đó hai ngày. Và rồi số người tin lời Đức Giêsu còn tăng thêm nhiều. Họ bảo chị Hai ngoại giáo: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian”. Chả có vấn đề gì, chị Hai không hề buồn, chị chỉ muốn người ta cũng tin như chị thôi. Chúng ta là những người được Chúa tuyển chọn, cách này hay cách khác – giáo sĩ, tu sĩ, cán bộ hoặc hội viên các hội đoàn,… Liệu chúng ta có cảm thấy mắc cở, xấu hổ? Thiên Chúa có tuyển chọn chị Hai ngoại giáo? (Chỉ có mỗi người TỰ TRẢ LỜI được thôi).
Khi đề cập niềm khát khao, chúng ta còn nghe văng vẳng tiếng kêu thảm thiết của Chúa Giêsu từ trên Thập Giá trên Đồi Sọ năm xưa: “Tôi khát!” (Ga 19:28). Đó là nỗi “khát tình”. Ngài khát yêu thương, muốn thương xót mọi người, nhưng người ta không lưu ý. Ngài còn có cái khát khác thường là “khát đau khổ”, Ngài bằng lòng uống “chén đắng”, không chỉ vui vẻ uống mà còn say sưa uống. Thế mà chúng ta lại nhẫn tâm đối xử tệ bạc với Ngài, chẳng khác bọn thủ ác cho Ngài nếm giấm chua (Ga 19:29), và ứng nghiệm lời tác giả Thánh Vịnh than thở thuở xưa: “Thay vì đồ ăn, chúng trao mật đắng, con khát nước, lại cho uống giấm chua” (Tv 69:22).
Trong Mùa Chay, ước gì mỗi người đều biết thực sự khát khao điều công chính, luôn tin kính Đức Kitô y như chị Hai Sa-ma-ri và dân thành Xy-kha, đồng thời luôn xác tín: “Linh hồn con khao khát Chúa Trời hằng sống” (Tv 42:3). Chị Hai và dân thành Xy-kha tin vào “Người-Lạ” là rất hợp lý, là “đúng ý Chúa”. Chúng ta đều là tội nhân bất xứng, không đáng tiếp cận Ngài, nhưng Ngài vẫn rộng lòng “hỉ xả” với chúng ta: “Nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 130:3). Và tất nhiên chúng ta không thể không “hỉ xả” với người khác.
Thánh LM Thomas Aquinas (1225–1274, Tiến Sĩ Giáo Hội) đã soạn kinh nguyện chuẩn bị Thánh Lễ thế này: “Con bệnh tật tìm đến Bác Sĩ Sự Sống, con không tinh tuyền tìm đến Giếng Nước Lòng Thương Xót, con mù lòa tìm đến Ánh Sáng chói lọi đời đời, con nghèo nàn và thiếu thốn tìm đến Chúa Tể Càn Khôn”. Ước gì chúng ta cũng có “cơn khát” như thánh nhân!
Lạy Thiên Chúa là ĐẤNG HẰNG SINH (Xh 3:14; Đnl 5:26; Gs 3:10; Tl 8:19; R 3:13; 1 Sm 14:39 và 45; 1 Sm 17:26 và 36; 1 Sm 19:6; 1 Sm 20:3 và 21; 1 Sm 25:26 và 34; 1 Sm 26:10 và 16; 1 Sm 28:10; 1 Sm 29:6; 2 Sm 2:27; 2 Sm 4:9; 2 Sm 12:5; Tv 42:3; Tv 84:3; Mt 16:6; Mt 26:63; Ga 6:57; Ga 8:24b; Cv 14:15; 2 Cr 3:3; 2 Cr 6:16; 1 Tx 1:9; 1 Tm 3:15; 1 Tm 4:10; Dt 7:24-25), con không biết xin Ngài điều gì, chỉ xin Ngài là “tất cả của đời con”. Lạy Chúa các Chúa, xin giúp con luôn biết khát Ơn Cứu Độ của Ngài (Tv 119:174), biết can đảm bỏ chiếc-bình-tội-lỗi bên giếng-đời, dám đốt chiếc-áo-tội-lỗi-quá-khứ để mặc chiếc-áo-tín-thác-mới-tinh, và xin Thần Khí Ngài tác động để con biết mau mắn đáp lại lời kêu khát của Chúa Giêsu hiện thân nơi những con người bé nhỏ trên đường đời mà con gặp. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của nhân loại. Amen.
----------------------------- (*) Ngoài Tám Mối Phúc “nòng cốt” (Mt 5:3-11; Lc 6:20-23), còn nhiều các “mối phúc” khác được đề cập trong Kinh Thánh: Lc 7:22-23; Lc 11:28; Lc 14:15; Ga 20:29; Rm 4:7-8; Rm 14:22; Tv 1:1-2; Tv 33:12; Tv 112:5-6; Tv 106:3; Tv 119:1-2; Tv 144:15; Tv 146:5; Cn 3:13; Cn 8:32; Cn 8:34; Hc 28:19; G 5:17; Is 56:2; Gr 17:7; Gc 1:12; Gc 5:11; Kh 1:3; Kh 19:9; Kh 20:6.
Bài Phúc âm hôm nay thuật lại cuộc đàm thoại của Chúa Giêsu và người đàn bà Samaria chung quanh MC 3-A186
Bài Phúc âm hôm nay thuật lại cuộc đàm thoại của Chúa Giêsu và người đàn bà Samaria chung quanh vấn đề ơn cứu rỗi, và nước trường sinh. Đây là trang Phúc âm hồn nhiên và đẹp đẽ nhất. Lần này Chúa Giêsu không giảng trước một cử tọa đông đúc, nhưng Ngài nói chuyện với một người phụ nữ ngoại quốc về thân thế, và sự nghiệp của Chúa Kitô. Đọc đoạn Phúc âm này, ta thấy Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến những điểm nổi bật sau đây:
Chúa Giêsu muốn chúng ta sống tinh thần hợp nhất yêu thương:
Để sống hợp nhất yêu thương, như Chúa Giêsu: Chúng ta không là người định kiến, không kỳ thị chủng tộc, không phân biệt giai cấp, trái lại sống bao dung, quảng đại, coi mọi người đều là anh em một cha trên trời.
Thái độ tự nhiên của Chúa Chúa Giêsu đã làm cho người đàn bà Samaria ngạc nhiên. “Tại sao ông là người Do Thái mà lại xin nước uống với tôi là người xứ Samaria? Vì người Do Thái không hề giao thiệp với người Samaria”.
Thái độ của Chúa Giêsu cũng làm các môn đệ ngạc nhiên. Họ hỏi nhau: “Tại sao Thầy mình lại nói chuyện với phụ nữ ngoại quốc”. Vì người Do Thái thời bấy giờ ít giao thiệp với người ngoại quốc.
Ngày nay, khi đọc chuyện này, có lẽ chúng ta cũng hổ thẹn với lương tâm. Chúng ta đừng trách người Do Thái hay các môn đệ quá hẹp hòi, ích kỷ, kỳ thị chủng tộc. Nhìn vào người Việt Nam chúng ta, nhìn vào các cộng đồng công giáo trong các xứ đạo, và nhìn vào chính bản thân mỗi người chúng ta, đâu đâu chúng ta cũng thấy có kỳ thị, thiên kiến và chia rẽ. Chia rẽ giữa Bắc và Nam, chia rẽ giữa cũ và mới, chia rẽ giữa giàu và nghèo,…Rồi người theo khuynh hướng này, kẻ thích khuynh hướng kia. Đúng là “trăm người trăm ý”. Đúng là “lắm thầy thối ma”. Nếu không vì Chúa vì Giáo hội của Chúa, vì lợi ích chung mà hinh sinh từ bỏ ý riêng thì khó có thể làm được việc gì nên chuyện.
Hơn nữa, sở dĩ có chia rẽ là vì thiếu tin tưởng và tìm hiểu nhau. Nếu mỗi người biết để ra một bên những thành kiến của mình, mà xích lại gần nhau để đối thoại với tha nhân trong tinh thần Phúc âm thì không còn hố sâu chia rẽ nữa.
Do đó, để sống một đời sống tốt đẹp, Chúa muốn chúng ta sống hiệp nhất yêu thương. Ngoài ra, Chúa còn muốn chúng ta hợp nhất trong vấn đề thờ tự và phụng vụ:
Người Do Thái và người Samaria từ xa xưa vốn không hợp nhau ở nhiều điều, kể cả vấn đề tôn giáo. Tuy cũng tôn thờ một Đức Giavê đấy; nhưng người Do Thái bảo phải thờ Chúa ở Giêrusalem mới đúng; còn người Samaria bảo phải thờ Thiên Chúa ở Garazim mới đúng. Bởi thế, người đàn bà nơi bờ giếng Giacob mới thắc mắc với Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, phải thờ Chúa ở đâu mới đúng?”. Chúa Giêsu trả lời: “Bây giờ không còn thờ Chúa ở đây hay ở kia, mà phải thờ Chúa torng tinh thần và chân lý”.
Đây không phải là một câu chuyện xa xưa. Ngày nay, chúng ta còn thấy cái quan niệm hẹp hhòi đó torng Giáo Hội. Người thì đòi làm lễ bằng tiếng Latinh, người thì thích làm lễ bằng tiếng bản xứ, người thì muốn phụ nữ cũng được làm Linh mục, người thì không muốn. Hơn nữa, có người thích chọn nhà thờ này, người khác chỉ chọn nhà thờ kia. Có kẻ thích Linh mục già, có kẻ thích Linh mục trẻ, kẻ ưa cha này, kẻ chuộng cha kia,…Toàn là chuyện nhố nhăng.
Điều cốt yếu đã được Chúa Giêsu nói rõ trong Phúc âm hôm nay: “Đã đến giờ và chính là lúc này, những kẻ tôn thờ đích thật sẽ tôn thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý…”(Jn 4,23). Như thế, theo Chúa là theo với cả đời sống của ta với hết lòng TIN – CẬY – MẾN, chứ không luẩn quẩn với nhà thờ này, nhà thờ nọ, Linh mục này, Linh mục kia,…
Thánh Phaolô viết: “Như vậy, Chúa Kitô bị phân chia rồi sao?”. Chúa Kitô phải là một chứ không phải Chúa Kitô bị phân chia.
Và Chúa cũng muốn những kẻ theo Chúa phải hợp nhất với nhau nên một: “Lạy Cha, xin cho chúng được hợp nhất với nhau nên một, như Cha ở trong Con, và như Con ở trong Cha”.
Suy kỹ bài Phúc âm hôm nay, ta thấy Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống chiều sâu đạo Chúa:
– Hãy làm cho thân xác chúng ta trở thành đền thờ xứng đáng của Chúa Thánh Linh.
– Hãy làm cho đời sống chúng ta trở thành một ca khúc thờ phượng chân thật.
– Và hãy làm cho chúng ta thành Kitô hữu luôn biết yêu thương mọi người, chẳng trừ ai.
Đói ăn khát uống là hậu quả của lười biếng, bạo bệnh, hay do một quan niệm đầy ẩn ý như MC 3-A187:
Đói ăn khát uống là hậu quả của lười biếng, bạo bệnh, hay do một quan niệm đầy ẩn ý như câu tục ngữ: giầu hai con mắt, khó đôi bàn tay ? Hiểu, biết, là kiến thức được trau dồi như tiền nhân chúng ta vẫn tự tin ví von: không thầy đố mày làm nên, hay khả năng là do “trời phú” ? Thực ra, khao khát chung chung là khao khát được no đủ, được khỏe mạnh, hoặc hạnh phúc là không còn đau khổ, mọi nhu cầu được thỏa mãn, được đáp ứng. Biết bao công khó làm nên sự nghiệp, đầy dẫy kinh nghiệm được chia sẻ, nhưng các đấng bậc thì chưa an tâm về khả năng linh hội của con cháu, trong khi thao thức hạnh phúc thì luôn dư thừa.
Cuộc gặp gỡ như tình cờ giữa Đức Giêsu và người thiếu phụ bên bờ giếng Gia-cób, hẳn sẽ rất phong phú cho nhiều tâm hồn, mỗi khi chúng ta đặt tình yêu thương trong đối thoại, trong xã giao hàng ngày. Người thiếu phụ Samaria tới giếng kín nước sử dụng là nhu cầu tự nhiên, Đức Giêsu đến bên giếng nước vì đi đường nắng nóng. Ngoài nhu cầu tự nhiên, tâm hồn người thiếu phụ còn khát một thứ mà bấy lâu chị hằng tìm kiếm, đó là khát bình an, khát sự sống. Ở bên bờ giếng lúc trời nóng bức, Đức Giêsu sau đó đã chia sẻ cho các môn đệ biết Ngài thực sự có một cơn khát siêu nhiên, đó là khát mong thực thi thánh ý Chúa Cha, cứu giúp được nhiều tâm hồn.
Trong binh pháp của Tôn Tử có câu: không kế sách, lấy chi giải bế tắc. Đức Giêsu, người thiếu phụ, các môn đệ, và cả chúng ta hôm nay, tuy không làm chính trị, nhưng tất cả vẫn đồng ý rằng để thành đạt ở đời là do biết chăm chỉ làm việc, là nhờ có kế hoạch, có phương pháp làm việc, có cân nhắc bàn hỏi. Đức Giêsu không dùng mưu, không dùng sức, bằng sự thân thiện, khiêm tốn, đầy tình người, Ngài nói: “xin chị cho tôi uống nước”. Người thiếu phụ, không mặc cảm tự ti về thân phận, không tự mãn vì có gầu, có điều kiện để múc nước, đúng hơn là vì chị tôn trọng Đấng đang mở lời với chị. “Sao thế ! Ông là người Do-thái mà lại xin nước uống với tôi là người xứ Samaria”?
Sách có câu: sắc đẹp, người tài, chỉ thu hút được ánh mắt, còn phẩm giá, tính chất bên trong, mới thu phục được tâm hồn. Nhu cầu được no đủ, được hết khát, được bình an hạnh phúc, nhu cầu được hoàn thiện, sẽ là người có ích, không phải là xa vời, khi chúng ta biết chân thành cởi mở, khiêm tốn đối thoại, dù hoàn cảnh không mấy thuận lợi. Cái nết đánh chết cái đẹp, hay nói phải, củ cải cũng nghe, đó chính là lợi thế để thu phục lòng người, để được thêm bạn bớt thù. Khi Đức Giêsu nói đến thứ nước trường sinh, thứ nước mà ai uống sẽ không còn phải khát nữa, người thiếu phụ đã bừng tỉnh, vì từ sâu thẳm tâm hồn chị đã từng khát sự bình an, khát sự sống thật, chỉ thế thôi !
Rất có thể người thiếu phụ Samaria chưa hề nghe nói tới thứ nước “kỳ lạ” mà khi uống rồi, sẽ không còn khát nữa. Có thể chị ấy và nhiều người chúng ta vẫn lẫn lộn thứ hạnh phúc tự nhiên và hạnh phúc siêu nhiên. Thật may mắn cho người thiếu phụ gặp gỡ và có được lời giải thích hữu hiệu về cơn khát tự nhiên và cơn khát siêu nhiên hằng thổn thức trong lòng chị. Nếu không được sự ân cần của Chúa Giêsu, thiếu phụ Samaria đó có tìm kiếm và sống với nhiều đời chồng khác, chị ta vẫn không thể giải thoát được cơn khát khao lớn trong tâm hồn của chị. Chính Đức Kitô mới chỉ cho người thiếu phụ Samaria hiểu mạch nước sự sống thật ở đâu, và cần phải làm gì để chị có mãi sự sống hạnh phúc đó.
Chỉ khi có niềm tin, tâm hồn người thiếu phụ mới được vui sướng hân hoan, chị bỏ vò nước, mau chóng chạy về loan tin mừng cho dân làng đến gặp gỡ, cùng tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô. Tiến trình để chúng ta hôm nay biết khát tình yêu, khát sự sống thật, sẽ không khác gì thiếu phụ Samaria năm xưa tìm được mạch nước hằng sống, ta cần phải khiêm tốn, đối thoại, xin Đức Giêsu chỉ đường dẫn lối. Điều làm cho người thiếu phụ hôm xưa “hết khát” không phải là tìm được tiền của vật chất, tìm được ông chồng lý tưởng, mà là tâm hồn chị ta vui, bình an, vì chị sẽ có mãi lời giáo huấn của Chúa Giêsu trong cuộc đời còn lại của chị.
Cuộc sống này, người ta học cách để kiếm tiền vì vẫn được xem là nhu cầu, nên không mấy ai than là khó, nhưng học hỏi để rồi biết sống có tình, có nghĩa, bao giờ cũng khó hơn, vì ta vẫn xem đó thuộc phạm vi tinh thần. Người Kitô hữu gặp Chúa thì dễ hơn người thiếu phụ Samaria vì chúng ta không vướng phải thứ kỳ thị giữa hai sắc tộc. Nhưng để đối thoại, nhận ra Chúa, hiểu và sống thánh ý Chúa sẽ không tùy thuộc đạo gốc hay đạo mới, mà hệ tại chúng ta có đủ khiêm tốn để cậy dựa vào sức mạnh Chúa như thế nào.
Tục ngữ có câu: thương cho roi cho vọt, Chúa Giêsu không cho roi, không quở trách người thiếu phụ, Ngài đối thoại và làm cho người thiếu phụ biết Thiên Chúa là Đấng yêu thương, hiện diện và cứu giúp kẻ tội lỗi, sám hối. Có thể thiếu sự khiêm tốn, người ta sẽ dễ vấp váp, tự mãn đầy thách thức kỳ thị như kiểu nói: “giếng thì sâu mà ông lại không có gầu, vậy Ngài lấy đâu ra nước để cho ?” Hy vọng khi tin Đức Giêsu là Thiên Chúa, chúng ta sẽ tin vào quyền năng, tình yêu thương của Đức Giêsu cách tuyệt đối hơn. Đức Giêsu đã giúp người thiếu phụ thỏa mãn được cơn khát triền miên, đó là khát bình an tâm hồn, khát sự sống đời đời, Ngài sẽ còn thỏa mãn cho tất cả những ai tin Ngài là mạch nước ban sự sống. Amen.
Có người nói đùa rằng: Chúa đã tạo nên thế gian chứ không phải “thế ngay” nên ở đâu cũng thấy MC 3-A188
Có người nói đùa rằng: Chúa đã tạo nên thế gian chứ không phải “thế ngay” nên ở đâu cũng thấy sự gian dối lừa gạt. Và xem chừng sự lừa dối cũng tăng tốc theo đà tiến của nhân loại. Thế giới càng văn minh thì sự lừa dối lại càng tinh vi.
Ngày hôm nay ở môi trường nào cũng có sự lừa dối. Lừa dối trong kinh doanh hàng hóa bằng hình thức đa cấp, bằng mẫu mã, bao bì, bằng sự ngon miệng… Lừa dối trong tôn giáo bằng việc sống hai mặt, giả nhân giả nghĩa, đánh bóng chính mình . . . Hầu hết các vụ lừa dối thường có lợi cho bản thân nhưng thiệt hơn rất lớn về tài sản, về danh dự cho tập thể và cá nhân người bị hại. Có những trường hợp lừa dối ở mức siêu đẳng đến nỗi ai họ cũng lừa được và môi trường nào cũng bị họ lừa. Thế nên, sống trong một môi trường thực hư lẫn lộn điều khôn ngoan là phải tỉnh thức và suy xét để không bị lừa dối.
Trong chuyện cổ học Trung Hoa có kể rằng: Chu Cổ Dân rất thích văn học lại có tài năng, một hôm ông ta đến nhà của Thang tiên sinh, Thang tiên sinh nói:
– “Mọi người đều nói anh rất có tài đánh lừa người khác, giả như anh có thể đánh lừa tôi đi ra bên ngoài cửa, thì tôi mới phục anh là người có tài”.
Chu Cổ Dân cười cười nói:
– “Làm sao có thể như thế được, bên ngoài gió rất lạnh anh làm sao có thể dám đi ra chứ ? Giả như anh đi ra ngoài cửa còn tôi ở trong nhà, thì nhất định tôi có thể dùng kế để lừa anh đi vào”.
Thang tiên sinh cho là có lý, thế là đi ra ngoài cửa, nói với Chu Cổ Dân:
– “Dùng phương pháp của anh để lừa tôi đi vào chứ ?” Lúc ấy, Chu Cổ Dân cười, nói: – “Tôi đã lừa ông đi ra ngoài cửa rồi đấy nhé”.
Trong đời sống thiêng liêng ta cũng dễ bị ma qủy đánh lừa bằng biết bao cám dỗ ngọt ngào. Nó mời chào bằng những hình thức quảng cáo thật hấp dẫn. Nó đi vào lòng người từng ngày và chiếm trọn hồn ta. Hằng ngày biết bao người bị cám dỗ qua sách báo phim ảnh xấu. Nó làm cho con người có nhu cầu thèm khát. Từ thèm khát đến nghiện ngập lúc nào mà ta chẳng hay. Hằng ngày cũng có biết bao những giao tiếp làm chúng ta từng xao xuyến đi vào con đường xấu. Có người vì mối làm ăn mà xa Chúa. Có người vì chỉ muốn thử một lần cho biết để rồi trở thành con nghiện . . . Đó là lúc ma quỷ đang gieo vào lòng chúng ta những cơn đói khát để ta chỉ biết tìm kiếm thỏa mãn nhu cầu thế xác mà quên đi gìn giữ nét đẹp linh hồn là hình ảnh của Chúa.
Người phụ nữ Samria đã từng lao vào cơn thèm khát dục tình. Chị thèm khát và đã lạng quạng kiếm chác tới năm người đàn ông một lúc mà vẫn không thỏa mãn đam mê. Chị vẫn thèm khát, vẫn khắc khoải trong cơn nghiện trần tục.
Thánh Gioan đã nói “vì chị đã có 5 đời chồng”. Nói 5 đời chồng không có nghĩa là một mình thiếu phụ đã đi lập gia đình năm đời chồng liên tiếp. Nhưng có lẽ là 5 mối tình bất chính. Năm mối tình nhưng vẫn không thỏa mãn cơ mê. Cho tới khi chị gặp được Đức Giê-su, Đấng có thể hiểu thấu lòng chị. Đấng đã cho chị biết cơn khát dục vọng sẽ không bao giờ làm ta thỏa mãn, chỉ khi biết tự chủ cơn khát bằng nguồn ơn thánh của Chúa sẽ giải thoát chị khỏi nô lệ xác thịt. Vì chưng, chính Chúa Giê-su đã nói: “Ai uống nước này sẽ không còn khát nữa”.
Mùa chay mời gọi chúng ta hãy tự kiểm điểm lại đời sống của mình: tôi đang khao khát những gì? Tôi đã tìm được chúng chưa? Tôi thường tìm thoả mãn về những điều gì? Điều đó có giúp ta nên thánh hay đang huỷ hoại mình trong những cơn đói khát bất chính?
Lời Chúa vẫn mời gọi chúng ta: “ai uống nước này sẽ không còn khát nữa”, chúng ta có tin và sống như thế hay không? Hay chúng ta vẫn đói khát của cải danh vọng, quyền thế để khi không được, chúng ta lại trách Chúa như dân Do Thái hồi ở Masa trong sa mạc năm xưa?
Chúa ngồi bên giếng nước trong, Nơi thành ngoại giáo, trong lòng hân hoan. Một người phụ nữ MC 3-A189
Khoảng giờ thứ sáu, hoàn toàn vắng tanh. Tông đồ môn đệ vào thành, Một mình xách nước, giờ lành tránh dân. Chúa xin nước uống cận lân, Ngạc nhiên ‘sao thế’, khác phần dân ta. Ông người Do-thái kia mà, Không quyền giao thiệp, ông cha bao đời. Ta cho nước uống bởi trời, Trường sinh mạch sống, mọi thời Chúa ban. Giếng sâu nước cạn khô khan, Lấy đâu nước đó, đổ tràn khắp nơi. Cho tôi nước uống từ trời, Hồn thiêng giải khát, tuyệt vời biết bao. Mở lòng đón nhận dạt dào, Phụng thờ Thiên Chúa, khát khao tâm hồn Tinh thần chân lý kính tôn, Niềm tin phó thác, ơn khôn ở đời.
Nước chính là nguồn sống. Tất cả mọi thụ tạo cần nước để sinh sống và phát triển. Từ những thực vật nhỏ li ti đến những loài động vật to lớn đều cần có nguồn nước để tiếp tục sinh xôi nẩy nở. Vì nước là một trong những nguyên tố chính để nuôi sống vạn vật. Đối với dân du mục ngày xưa, họ thường quây quần bên suối nước hoặc nơi có giếng nước. Đây cũng là nơi mọi người trong xóm làng tụ họp, gặp gỡ và truyện trò thông tin.
Câu truyện dài của người phụ nữ Samaritanô gặp gỡ Chúa Giêsu nơi giếng nước giúp chúng ta hiểu được sự quan trọng của nguồn nước. Chúa Giêsu có cơ hội trò truyện với người phụ nữ bên giếng nước. Chúa rất tế nhị trong đối thoại. Chúa gợi truyện xin cô ta cho nước uống và từ đó Chúa tìm cách dẫn cô ta ra khỏi con đường lầm lạc. Chúa cho cô ta nguồn nước trường sinh. Uống vào sẽ không bao giờ khát. Đó là nhận biết lòng nhân hậu của Chúa và sống trong ngồn chân lý đích thực.
Cuộc sống có biết bao khát khao. Người thì khao khát chân lý, kẻ thì khao khát tự do, công bình, người thì khao khát yêu thương và hạnh phúc. Tất cả những khao khát đó đều là biểu hiện của một khát vọng thâm sâu. Khao khát về chân, thiện và mỹ.
Từ khát nước bên bờ giếng, Chúa đã dẫn dắt người phụ nữ khát khao chân lý. Chúa giúp cô ta nhìn được con người thật của mình. Những khoái lạc trong cuộc sống bon chen càng làm cô khát. Khát khao một cuộc sống chân thật và an bình. Cô đã tìm thấy đường về để tôn thờ một Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý. Chúa đã khơi dạy tâm hồn cô ta như khơi dạy một mảnh đất khô cằn. Có xới, có đau và có xót xa, nhưng nguồn nước mới có thể thấm nhuần và trổ sinh bông trái tươi tốt.
Mùa chay tiếp tục kêu gọi chúng ta tìm về nguồn. Nguồn của lòng từ bi thương xót. Nguồn của sự bình an. Chúa Giêsu đã nói với người phụ nữ: “Nếu cô nhận biết ân huệ của Thiên Chúa… Chúa sẽ ban cho cô nước hằng sống”. Cô đã nhận biết ân huệ và cô đã đáp trả ân huệ. Cô bắt đầu ra đi loan tin vui cho mọi người. Chúng ta đã lãnh nhận biết bao ân huệ Chúa ban, chúng ta hãy tiếp tục ra đi loan tin vui ơn cứu độ cho mọi người.
Suy niệm bài đọc 1 hôm nay (CN III/MC-A – Xh 17, 3-7), mớI thấy nước cần cho sự sống con MC 3-A190
Suy niệm bài đọc 1 hôm nay (CN III/MC-A – Xh 17, 3-7), mớI thấy nước cần cho sự sống con người như thế nào. Dân Do-thái được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai-cập, đã nghe lời ngôn sứ Mô-sê mà “đi hết chặng này tới chặng khác” băng qua sa mạc. Khi “đóng trại ở Rơ-phi-đim, nhưng tại đấy không có nước cho dân uống. Dân gây sự với ông Mô-sê.” (Xh 17, 1-2). Có đi cả ngày trời trong sa mạc khô cháy, trên đầu là nắng lửa, dưới chân là cát nung như đoàn dân Do-thái ngày xưa trong hoang địa, mới cảm nhận được cái khát hành hạ người ta như thế nào và nhu cầu được uống cho đã cơn khát mới bức xúc làm sao. Thế nên khi bị cơn khát giày vò, họ đổ lỗi cho Mô-sê đã đưa họ vào nơi hoang địa khô cháy và đòi đem vị lãnh tụ nầy ra mà ném đá.
Sa-ma-ri là vùng đất nằm giữa Giu-đê (phía nam) và Ga-li-lê (phía bắc). Con đường ngắn nhất để đi từ Giu-đê lên Ga-li-lê là phải đi ngang qua Sa-ma-ri. Tuy nhiên, người Do-thái luôn kỳ thị và ghét bỏ người Sa-ma-ri vì họ không phải là dân Do-thái thuần chủng. Tưởng cũng nên nhắc lại rằng người Sa-ma-ri được hình thành bởi sự pha trộn giữa người Do-thái và dân ngoại nên họ có văn hóa khác biệt. Về tín ngưỡng thì họ không chỉ tôn thờ Đức Chúa Trời, mà còn thờ cúng nhiều ngẫu tượng. Chính vì vậy, khi người Do-thái muốn đi từ Giu-đê về Ga-li-lê hay từ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem, họ thường không đi ngang qua vùng Sa-ma-ri, mà đi đường vòng dọc theo thung lũng sông Gio-đan, rồi từ Giê-ri-khô đi lên Giê-ru-sa-lem. Đi vòng như vậy phải đối diện với cái nóng của sa mạc và phải mất thêm khoảng 40 cây số đường dài, nhưng họ cho là đáng làm vì không muốn va chạm với người Sa-ma-ri để bị ô nhiễm xấu xa. Người Giu-đa ghét dân Sa-ma-ri đến nỗi khi một người nào đó bị kêu là người Sa-ma-ri thì đó là một sự sỉ nhục.
Đức Giê-su xuất thân từ Do-thái, nhưng không theo quan niệm hẹp hòi của Do-thái, Người luôn đến với tất cả mọi người, không phân biệt dân ngoại (pha tạp) hay dân nội (thuần chủng). Nhất là đối với những người hèn mọn, đau ốm, tật nguyền, thì Người luôn chạnh lòng thương và tìm đến để chữa lành cho họ. Chính cách hành xử đó đã khiến bọn kinh sư luật sĩ Pha-ri-sêu luôn trách Người chuyên “ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi”. Đức Giê-su đã thẳng thắn vạch cho họ thấy sứ mệnh mà Người được Chúa Cha sai đến thế gian không gì khác hơn là: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.” (Lc 5, 30-32). Đó là lý do giải thích tại sao Đức Giê-su lại chọn con đường tắt đi ngang qua Sa-ma-ri để lên Giê-ru-sa-lem. Và vì thế mới có “Cuộc gặp gỡ đổi đời” với người phụ nữ Sa-ma-ri.
Bài Tin Mừng hôm nay (CN.III/MC-A – Ga 4, 5-42) trình thuật việc Đức Giê-su tới miền Sa-ma-ri, và Người đã xin nước uống nơi một người phụ nữ đến lấy nước tại giếng Gia-cóp. Khát nước mà xin nước uống là chuyện bình thường đối với phàm nhân. Đức Giê-su là Thiên Chúa mặc xác phàm, nên chuyện đói khát về thể lý cũng bình thường như bao người khác. Nhưng câu chuyện thánh sử Gio-an trình thuật lại gây một ấn tượng độc đáo, đó là sự hoán vị của 2 nhân tố “xin” và “cho”: Người xin nước uống trở thành người cho nước và người cho nước uống lại trở thành người xin nước. Một câu hỏi được đặt ra: Như vậy thì “người xin nước” và “người cho nước”, ai mới là người thực sư khát nước?
Thực ra, việc Đức Giê-su xin nước uống chỉ là một cái cớ để Người cho những người Do-thái biết được Người không phân biệt dân ngoại hay dân nội như quan niệm hẹp hòi của họ, bởi họ thường cho mình mới thật là dân xịn – dân Thiên Chúa tuyển chọn chính hiệu – còn ngoài ra, tất cả đều là dân ngoại, là “quân tội lỗi”, là đồ bỏ. Đám người Do-thái vẫn tự nhận mình là con cái tổ phụ Ap-ra-ham và liệt Đức Giê-su vào hạng người bị qủy ám, là “dân ngoại” (“Người Do-thái đáp: “Chúng tôi bảo ông là người Sa-ma-ri và là người bị quỷ ám thì chẳng đúng lắm sao?” – Ga 8, 48), rồi còn “lượm đá để ném Người” (Ga 8, 59). Ỷ mình là dân nội, họ không tin vào những điều giảng dạy của Đức Ki-tô, nhưng người phụ nữ Sa-ma-ri – là dân ngoại – thì lại thật sự tin tưởng vào Đấng Mê-si-a mà chị được gặp lần đầu. Và thế là chị đang là người được Chúa Giê-su xin nước uống, đã trở thành người xin nước hằng sống.
Sở dĩ vậy, vì Đức Ki-tô đã khơi lên sự tò mò để người phụ nữ Sa-ma-ri tìm hiểu qua một công việc thường ngày là đến giếng kín nuớc về để giải toả cơn khát thể lý. Từ đó, Đức Giê-su gợi ý đến cơn khát tâm linh: Khát nước hằng sống. Câu chuyện chưa dừng lại ở đây, mà chuyển sang hướng khác, khi Đức Ki-tô đề cập đến đời sống riêng tư của người phụ nữ, mà cơn khát tình yêu dường như vẫn chưa được thoả đáng (đã sống với 5 đời chồng và hiện đang sống với người không phải là chồng mình). Đức Giê-su muốn người phụ nữ mở rộng tầm mắt để nhìn ra người đang nói chuyện với mình và quả nhiên chị đã nhìn ra. Với một người được gặp lần đầu tiên, mà người ấy lại biết rõ đời sống riêng tư của mình thì người ấy chỉ có thể là ngôn sứ (“Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ” – Ga 4, 19).
Tin người đối diện với mình là ngôn sứ, nên chị nêu thắc mắc không hiểu vì sao mà: “Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa.” – Ga 4, 20). Đức Giê-su đã chỉ rõ cho chị biết là thờ phượng Thiên Chúa không phải ở núi này hay núi khác, ở chỗ này hay chỗ kia, mà là “Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” (Ga 4, 24). Cuối cùng thì “Người phụ nữ thưa: “Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.” Đức Giê-su nói: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.” (Ga 4, 25-26). Và thế là “Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với mọi người: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao?” Họ ra khỏi thành và đến gặp Người.” (Ga 4, 28-30).
Chính cái quá khứ của người phụ nữ bị Đức Giê-su khơi lại, khiến chị ta tin tưởng vào những gì Người nói với chị và từ “người khát nước hằng sống” chị đã trở nên “người gieo” tin tức về một Đấng Mê-si-a mà chị đã được diện kiến. Như vậy, sau khi gặp “người xin nước” Giê-su, chị phụ nữ Sa-ma-ri đã tin và làm chứng cho Chúa Ki-tô giữa những người vốn được coi là dân ngoại, và chính những người này sau khi được gặp Chúa đã xin Chúa ở lại với họ và tuyên xưng: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian.” (Ga 4, 42).
Tóm lại, chính là nhờ Đức Ki-tô đến xin nước mà người phụ nữ Sa-ma-ri có được cuộc gặp gỡ đổi đời: Từ một người tội lỗi trở thành người loan báo Tin Mừng về một Đấng Mê-si-a Cứu Độ nhân loại. Nói cách khác, người phụ nữ Sa-ma-ri nhờ cuộc gặp gỡ đổi đời, đã được chính Đấng Thiên sai đổi mới tận căn, và có lẽ đó là lý do Giáo hội chọn bài Tin Mừng này để vào CM III Mùa Chay. Cũng bởi vì “Mùa Chay là mùa thuận lợi cho việc đổi mới cuộc gặp gỡ của chúng ta với Chúa Ki-tô, cho việc sống trong lời Ngài, trong các phép bí tích và nơi những người láng giềng của chúng ta. Chúa, là Đấng đã chiến thắng sự lừa dối của tên cám dỗ trong bốn mươi ngày trong sa mạc, chỉ cho chúng ta thấy con đường chúng ta phải đi. Nguyện xin Chúa Thánh Thần dẫn đưa chúng ta vào một cuộc hành trình thực sự của hoán cải, qua đó chúng ta có thể tìm lại hồng ân lời Chúa, được thanh tẩy khỏi những tội lỗi làm mờ mắt chúng ta, và phục vụ Chúa Ki-tô hiện diện nơi những anh chị em cùng quẫn của chúng ta.” (Sứ điệp Mùa Chay 2017, số 3).
Ôi! Lạy Chúa! Suy niệm Lời Chúa hôm nay, chúng con mới hiểu ra rằng chúng con luôn luôn khát nước hằng sống, mãi mãi khao khát Lời Chân lý. Cúi xin Chúa đoái thương ban Thánh Thần giải tỏa cơn khát tâm linh cho chúng con, ban cho chúng con thứ nước chúng con uống vào sẽ không còn khát nữa, đó chính là thứ nước đem lại cho chúng con sự sống đời đời. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.
Truyền giáo không phải “bắt buộc“ người khác theo Đạo, mà là “ mong muốn “ người ta bước MC 3-A191
Truyền giáo không phải “bắt buộc“ người khác theo Đạo, mà là “ mong muốn “ người ta bước theo “chân lý”. Vâng, vì chân lý chính là một “ Mạch Nước Trường Sinh”. Tại sao vậy , thưa quý vị ? Thưa, vì thế gian luôn bị “khao khát” chân lý. Vâng, thật vậy, hình ảnh “khát nước “ hữu hình cho chúng ta cảm nghiệm ấy. Từ đó, chính Chúa Giêsu đến để làm thỏa cơn khát của nhân thế, hay nói cách khác , Người đến để ban “Nước Hằng Sống “ cho chúng ta.
Vâng, từ mạch nước tự nhiên, Người dẫn người dân Samaria “tin” vào Người, há chẳng phải là một “ nghệ thuật” truyền giáo sao ?! Vâng, tai sao chúng ta khát nước ? Thưa bởi vì, cơ thể tự nhiên của con người là 70% nước, nếu lượng nước trong cơ thể được bài tiết, qua những cơ quan nội tạng đi ra ngoài, mà nhân thế không được “nạp” vào một lượng nước đã bị mất đi, thì chúng ta sẽ bị khát, người ta gọi là ”khát nước “. Vậy, khát nước là một nhu cầu chân chính của nhân sinh. Vì , nước không thể thiếu trong đời sống tự nhiên của con người được, vậy, nước tự nhiên thật quý giá, nhưng “rẻ tiền “. Khi “rơi “ vào sa mạc, chúng ta thấy nước thật quý giá, hơn cả bạc vàng, nhưng, ở đồng bằng , nước ở chúng quanh ta, vì vậy, chúng ta cảm thấy “rẻ tiền “.
Nhưng, chính lúc khát , thì “nước” quý giá hơn bạc vàng, bạc vàng không “trực tiếp” nuôi sống chúng ta, nhưng dung để cất giữ để dành và mang ra trao đổi, vì vậy, giá trị của mỗi vật phụ thuộc vào chức năng của nó. Lấy tiền mua “nước “, cũng có thể lấy “ nước “ đổi lấy tiền.
Vâng, sự sống tự nhiên cần nước là thế, vậy sự sống siêu nhiên thì sao ?! Thưa , Sự sống siêu nhiên cũng vậy, cũng cần đến một “thứ nước “ hằng sống, đó là Chúa Giêsu , vì : “ Ai uống nước nầy sẽ lại còn khát. Còn ai uống nước Tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho, sẽ trở thành nơi người ấy, mạch nước vọt lên mang lại sự sống đời đời” ( Ga 4, 13- 14).
Vâng , quả thật, nước mà Chúa Giêsu nói, chắc chắn không phải là thứ nước tự nhiên, mà là một thứ nước siêu nhiên. Đó chính là “NƯỚC TRỜI”, cũng có thể hiểu, Nước Trời là chân lý. Vì , chân lý là sự sống đích thực, sự sống siêu mãn, nếu không có chân lý, mặc nhiên sự sống bị bóp nghẹt và dẫn đến diệt vong.
Vì vậy, vì yêu thương nhân loại lỗi lầm, chính Thiên Chúa ban sự sống siêu nhiên là chân lý là chính Đức Giêsu – Kitô cho chúng ta, và quen gọi là Nước Trời tức sự sống siêu nhiên vĩnh hằng, mà cũng được gọi là Thiên Đàng, vì cụm từ Thiên Đàng có nghĩa là ” Nhà ở trên Trời ”, khác với Địa Đàng là dương gian, dưới thế. Nhưng thật sự chỉ là cách gọi. Vì , Nước Trời chính là “tâm hồn “ người thế, thế nhân có Thiên Chúa ngự trị, mà Thiên Chúa chính là : “ Thần Khí và Chân Lý” ( Ga 4 , 24).
Như vậy, chân lý thuộc về Thần Khí, chứ không phải thuộc về thế gian, thế gian chỉ là một mớ bòng bong mà thôi. Từ đó, suy ra, thiên đàng chính là “ niềm tin “ vào Thiên Chúa qua ơn cứu độ bởi Thiên Chúa làm Người là Đức Kitô – Giêsu.
Như vậy, qua Đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy, Chúa Giêsu gặp gỡ và đối thoại với một người đàn bà bất hạnh, chưa dược đón nhận ơn cứu độ, tức chưa đón nhận niềm tìn vào chân lý của Thiên Chúa, qua người phụ nữ xứ Samaria nầy, ơn cứu độ được đem đến cho một dân tộc bị phân biệt và ngăn cách với dân tộc Israel, vì vậy, hôm nay , Chúa Giêsu mang ơn cứu độ đến cho dân tộc Samaria, vì người đến để cứu độ nhân loại, nhưng , khởi đi từ dân tộc Dothai.
Chúng ta thấy, khởi đi từ bài đọc I hôm nay, (Xh 17, 3 -7), cho thấy nước vọt lên từ tảng đá, một hiện tượng lạ chỉ có Thiên Chúa, Đấng hiện hữu và lắng nghe dân của Ngài kêu cầu. Đây là ý nghĩa tiên trưng về mầu nhiệm” Nước Hằng Sống “, nơi mà nước sẽ vọt ra từ tảng đá “GIÊSU”.
Bài đọc II, ( Rm 5, 1-2 . 5- 8) thánh Phaolô cho chúng ta biết, khi chúng ta tin vào Đức Giêsu- Kitô, thì chúng ta sẽ trở nên công chính. “Vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người đã ban chúng ta) ( c 5b).
Như vậy, ơn cứu độ không độc quyền cho một dân tộc nào, quốc gia nào, mà là ơn cứu độ ban cho hết thảy mọi dân tộc, mọi quốc gia, mọi chủng tộc, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu và Thần Khí của Người vào lòng nhân thế. Vì vậy, Đoan Tin Mừng hôm nay minh chứng rõ ràng về sự thật ấy, là Chúa Giêsu đã đưa Tin Mừng của Người đến với dân tộc Samaria.
Lạy Thiên Chúa là Cha, Cha đã ban cho chúng con Chúa Giêsu – Kitô, Người đã đến thế gian hầu cứu chuộc nhân thế, xin ban cho chúng con biết nhân ra tình Chúa cao vời qua ơn cứu chuộc của Người, vì chính Người là Nước Hằng Sống, như xưa Người đã tỏ ra cho dân tộc Samaria và họ đã đón nhận ân sủng đức tin. Xin cho ngày nay có nhiều dân tộc cũng đón nhận niềm tin như thế. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con ./. Amen.
Trở về với tinh thần hồi tâm sám hối’ là chủ đề của CN 3 MC, dành cho chu kỳ ba năm A,B,C. Hồi MC 3-A192
‘Trở về với tinh thần hồi tâm sám hối’ là chủ đề của CN 3 MC, dành cho chu kỳ ba năm A,B,C. Hồi tâm sám hối là lời mời gọi của Mùa Chay hồng ân, lời ứng đáp của mỗi người, tinh thần sống trọng tâm Mùa Chay. Hiển Dung tuần qua đã là sản nghiệp hấp dẫn, hoa trái ban thưởng cho những ai có hành vi đón nhận on Hồi Tâm sám hối.
CN 3 MC năm A giới thiệu mẫu một người đàn bà Samari tân tòng trở lại. Khi chị đã phát hiện nơi ĐGS bao nét cao cả vô song của Người, đem lòng tin kính, đầy khâm phục mến yêu. Trong cuộc đàm thoại, chị đã từng bước nhanh chóng biến đổi cuộc sống mình dựa vào niềm tin bị thuyết phục. Rất thiết thực và cụ thể, chị mau mắn thực hiện việc loan báo ĐGS để mọi người cùng chiêm ngắm, cùng tin, cùng yêu mến. Nhờ chị, mọi người trong làng kéo nhau ra gặp, chiêm ngắm Người. Họ có cùng chung đức tin vào ĐGS như chị:‘Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian’ (c.42).
Trước đó, trên đường trở lại Galilê, ĐGS cố tình lấy con đường bất lợi Samari để đi. Con đường thù nghịch giữa người Do Thái-Samari. Người vào làng Samari, dừng chân bên bờ giếng. Giếng này gọi là giếng Giacob, nơi đây từ xưa, là phần đất gốc gác các tổ phụ Do Thái. Giacob đã tạo giếng này, dùng chung mỗi khi nạn hạn hán xảy ra.
Giếng là nơi hội tụ, ít là dành cho mọi người trong làng lui tới lấy nước khi cần, khách lữ hành tạm có nơi thích hợp dừng chân nghỉ ngơi, nên địa bàn và cơ hội gặp gỡ. Giếng nước còn là biểu tượng BT Rửa Tội, nước ban sự sống. ĐGS chọn nơi đây dừng lại. Dừng lại không chỉ đơn sơ vì lộ trình dài, mà còn trong tâm ý gặp gỡ. Một TC tìm chiên lạc. Đấng cứu độ xây dựng hòa bình, hòa giải. Riêng ở đây, cần hòa giải mối thù lưu truyền giữa những con người cùng sống chung trên quê cha đất tổ, liền một dãi hai miền đất, chỉ vì niềm tin tôn giáo phụng thờ thần khác biệt đã ngăn cách tình người.
ĐGS gặp người đàn bà từ trong làng ra lấy nước. Người xin chị nước (c.7). ‘Người đang khát’. Qua chị, Người nhận ra mối hiềm thù vẫn ‘màu-xanh-lá’ thấm đậm và chưa hề có dấu mờ nhạt. Người từng bước dẫn chị đi vào ân sủng nhận biết Người cũng như tự quay về với lòng mình để nhận ra chính mình. Người giúp chị khám phá ra Người là Đấng ban nước hằng sống, một tiên tri thấu triệt quá khứ tương lai, (quá khứ và hiện tại nơi chị), Đấng Messia dựa theo lời chị đã gợi ý: ‘Tôi biết’ (c.25). Với Người, từ nay hết thảy hãy thờ phượng một TC duy nhất không phải ở đâu, nơi nào, mà trong ‘thần khí và sự thật’: là chính nơi con người, ở đó niềm tin chân thành trung tín, làm sao để Ngài hiện diện, và đem lòng gắn bó không rời.
Người đàn bà giờ đây trở thành ‘huyền thoại’, một con người như bao người, còn là một kẻ tội lỗi, vậy mà, qua tiếp chuyện, khám phá được chân tính, vai trò và sứ mệnh của vị khách đối diện. Lòng chị tràn khâm phục mến yêu. Không chút e dè hay ngần ngại, chị nhanh chân thực hiện vai trò người loan TM ĐGS cho những người cùng làng, không cần biết mình nên tông đồ từ bao giờ, từ khi nào là người như thế, đóng vai người nhận tin vui và hân hoan mang đi loan báo tin vui ấy: ‘Dấng cứu độ đến đang ở giữa mọi người’.
ĐGS, từ ban đầu bên bờ giếng, Người được nhìn dưới con mắt phàm nhân, là một người Do Thái, ‘kẻ thù vạ lây’ với cư dân miền đất Samari. Phút chốc, mọi sự thay đổi. Từng bước, nhờ ân ban, được nhìn ra là tiên tri, là TC ban nước hằng sống, là Đấng Messia Cứu Chúa thiết thân đến giao hòa con người lại với nhau và với TC. Cũng như cần thiết ở đây, hòa hợp người Do Thái với người Samari trong tình huynh đệ, xóa đi mối thù nghịch từ lâu không sao hàn gắn đến tận ngày nay.
ĐGS dung mạo Chúa Cha, thừa hành sứ mệnh Cha ủy thác, Người không thể làm gì tuyệt hảo hơn khai sáng người Samari đón nhận đức tin và ơn cứu độ. Ở đây, Samari nên dấu chỉ đại diện cho toàn thể các dân tộc trên trái đất, không loại trừ, đều được hưởng ơn cứu độ. Riêng với dân Do Thái, Người muốn quy tụ họ thành một dân họp nhất: ‘Ta còn phải đi đến với các con chiên lạc nhà Israel’ (Mt.15,24), để ứng nghiệm lời các ngôn sứ trong Cựu Ước: ơn cứu độ đến với toàn mặt đất, phải xuất phát từ Do Thái, dân riêng TC.
Nhìn chung, ĐGS đang thực hiện tuyệt hảo vai trò của mình: Đấng cứu dộ hòa giải, Messia hiến mình làm giá chuộc muôn người. Hạ sinh làm người không để sống cho riêng mình mà vì sứ mệnh ủy thác, vì yêu, hiến mạng đổi lấy muôn người trên thế gian được sống. Không từ nan dù chỉ là một con chiên lạc nhỏ bé, thương xót và bằng mọi cách, mọi giá đưa về đàn để được bao bọc sống yên bình trong viễn ảnh chăm chú dựng xây phúc trường sinh.
Thân lạy Đấng cứu độ nhân ái, xin thương xót con, xin cứu con, vì con tội lỗi.
Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật III mùa Chay, đặc biệt bài đọc thứ nhất (Xh 17,3-7) và bài MC 3-A193
Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật III mùa Chay, đặc biệt bài đọc thứ nhất (Xh 17,3-7) và bài Tin Mừng (Ga 4,5-42) hướng chúng ta đến chủ đề “nước”. Đi trong sa mạc, dân Chúa xưa đã nổi loạn với Môsê vì thiếu nước và Thiên Chúa đã ban cho họ nước chảy ra từ tảng đá tại Horeb. Trên đường truyền giáo, Chúa Giêsu đã dừng chân bên giếng nước Giacob, Người đã xin một phụ nữ Samaria chút nước và Người hứa ban cho chị ta nước trường sinh.
Nói đến nước là nói đến một trong những nhu cầu căn bản của con người xét như loài có sự sống. Thiếu nước là như sự chết đang cận kề. Người ta có thể vượt qua những thiếu thốn của cải, tiện nghi… và người ta cũng có thể chịu đựng cái đói trong một thời gian khá dài, trên dưới một tháng, thế nhưng không một ai có thể cầm cự với cái khát quá dăm bảy ngày. Chính vì thế mà việc đáp ứng nhu cầu khát nước trở thành một việc cấp thiết mang tính sống còn. Vượt trên các loài sinh vật bậc thấp, loài người chúng ta ngoài cái khát tự nhiên là khát nước thì còn có nhiều nổi khát xuất phát từ nhu cầu của sự phản tỉnh hay sự tự nhận biết về hiện hữu của mình.
A. Những cái khát của kiếp nhân sinh:
1. Khát mong được nhìn nhận: Tôi là một con người. Đây là một chân lý hiển nhiên. Thế mà vẫn đã từng có, trong quá khứ và ngay cả hôm nay, rất nhiều người chưa được nhìn nhận như là một con người. Đó là trẻ em, phụ nữ, người nô lệ, người bất hạnh, quả phụ, cô nhi, ngoại kiều, người nghèo hèn, kém phận… Đọc Cựu Ước, chúng ta thấy rõ hiện tượng này. Các Ngôn sứ đã không ngừng lên tiếng về đề tài này. Người phụ nữ bên bờ giếng Giacob phải chăng không là ngoại lệ. Dù đã năm đời chồng và hiện đang sống với người thứ sáu, thế mà có thể chị chưa được nhìn nhận như là một người vợ? Phải chăng chị vẫn còn bị xem như một thứ “sở hữu” của người chồng?
Khi sinh thời mẹ Têrêxa thành Calcutta gặp gỡ rất nhiều người bất hạnh, xấu số. Sau khi gặp mẹ, họ đã từng tâm sự rằng họ mãn nguyện vì cho dẫu chưa được sống như một con người thì họ cũng đã được chết như một con người. Chúa Kitô mạnh mẽ tuyên bố rằng không cần đã giết người thì mới bị đoán phạt, nhưng nếu loại bỏ tha nhân từ trong tâm trí và lối ứng xử của ta tức là không nhìn nhận tha nhân như là một con người thì ta cũng đã đáng bị trừng phạt (x.Mt 5,21-22).
Người ta không chỉ khát khao được nhìn nhận như một con người mà con mong được nhìn nhận như là một người khác. Điều này nói lên sự độc lập, khác biệt của tha nhân đối với ta. Ngay cả trong đời sống hôn nhân, dù nỗ lực làm cho “mình với ta, tuy hai mà một” nhưng họ vẫn phải luôn ý thức để tôn trọng sự thật “ta với mình, tuy một mà vẫn là hai”. Quả thật người ta sẽ chẳng còn là chính mình một khi bị đồng hóa do bởi một ai đó hay bởi một thế lực nào đó.
2. Khát mong được chấp nhận và được đón nhận: Được nhìn nhận như là một con người, như là một người khác vẫn chưa đủ nếu ta không được kẻ khác chấp nhận và đón nhận. Từ đáy sâu thẳm của từng người, luôn có đó khát mong được tha nhân chấp nhận và đón nhận mình như mình đang là, đang có. Một trong những lẽ sống của con người là khi thấy mình còn có giá trị, đang còn hữu ích cho ai đó. Và điều này được chứng thực khi tha nhân chấp nhận và đón nhận ta. Khi tìm hiểu nguyên nhân khiến cho nhiều người, kể cả giới trẻ tìm đến cái chết bằng sự tự vẫn thì người ta nhận ra một trong những nguyên nhân chính đó là vì họ mang mặc cảm bị người chung quanh khước từ hay loại bỏ.
Con người chúng ta thường bị cám dỗ chấp nhận hay đón nhận kẻ khác“với điều kiện”. Người ta phải thế này, phải thế kia thì tôi mới nhận, mới tiếp. Có những điều kiện mang tính khách quan, nhưng cũng không thiếu những điều kiện mang tính chủ quan hoặc duy ý chí. Điều này mặc nhiên nói lên rằng ta sẽ chỉ nhận nhau khi hội đủ điều kiện theo ý mình và nếu vì lý do gì đó mà không đủ điều kiện thì sẽ bị loại trừ.
B. Chúa Kitô: Đấng giải khát cho nhân loại.
“Chị cho tôi xin chút nước uống”. Khi mở miệng xin người phụ nữ chút nước, Chúa Giêsu nhìn nhận sự hiện hữu của chị và cả sự cần thiết của chị. Tin mừng tường thuật Chúa Giêsu đi đường mỏi mệt, Người đang cần nước uống và Người không có gầu. Như thế việc Người xin chị phụ nữ cho chút nước là một việc tự nhiên, rất thật của đời thường. “Ông là người Do Thái mà lại xin tôi, một phụ nữ Samaria, cho ông nước uống sao?”. Không đơn thuần là câu hỏi vặn ngược mà thực chất là lời khẳng định của chị: Dù là Samaria, dù là phụ nữ, thì tôi cũng là một con người như ông và ông đang cần tôi. Chị Samaria đã được giải khát, môt cái khát nền tảng của kiếp nhân sinh là được nhìn nhận.
“Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm”. Lời giới thiệu của chị phụ nữ với dân làng đã nói lên sự thỏa khát vô bờ của chị. Chị đã được Chúa Giêsu đón nhận như chị đang là, dù chị đã trải đời với năm người đàn ông và đang chung sống bất chính với người thứ sáu. Mà chắc gì người thứ sáu này sẽ nhận chị! Chúng ta đừng quên thời bấy giờ hiếm có chuyện đàn bà bỏ đàn ông mà ngược lại.
Các Ngôn sứ thường lên án tội lỗi của dân Chúa xưa và loan báo các hình phạt họ phải chịu. Thế nhưng sau đó lại gợi mở về sự khoan dung tha thứ của Chúa. “Dân Ta cứ miệt mài buông theo bội tín, chúng được kêu mời hãy vươn lên, mà chẳng một ai ngóc đầu dậy! Hỡi Ephraim, Ta từ chối ngươi sao nổi! Hỡi Israel, Ta trao nộp ngươi sao đành!…Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi” (Hs 11,7-8). Mọi người và mỗi người đều có chỗ đứng trong Trái Tim Cực thánh của Đấng Cứu Độ. Không một ai là đồ bỏ đi. Bất cứ ai cũng đều được Thiên Chúa đón nhận, chỉ trừ khi họ cố tình khước từ. Vì đó là tội phạm đến Chúa Thánh Thần (x.Mt 12,32).
“Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào Tôi, hãy đến mà uống! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước trường sinh” (Ga 7,38). Biết bao con người đang khát ở quanh ta. Là Kitô hữu, ước gì chúng ta góp phần giải khát cho tha nhân khi nhìn nhận nhau, chấp nhận nhau và đón nhận nhau ngay trong hiện trạng của nhau.
Sắp xếp của phụng vụ Năm A cho chúng ta có một cái nhìn thống nhất về ơn cứu độ mà Đức MC 3-A194
Sắp xếp của phụng vụ Năm A cho chúng ta có một cái nhìn thống nhất về ơn cứu độ mà Đức Giêsu sẽ đem đến cho chúng ta trong suốt mùa Chay. Chúa Nhật thứ nhất mùa chay cho cả 3 năm phụng vụ A, B, C luôn luôn là những cơn cám dỗ của Đức Giêsu. Chúa Nhật thứ hai cũng vậy, 3 năm luôn luôn là cuộc biến hình của Đức Giêsu trên núi Tabor. Riêng các Chúa Nhật kế tiếp trong Năm A sẽ mặc khải cho chúng ta về công cuộc của Đức Giêsu. Chúa Nhật thứ III hôm nay cho chúng ta thấy Ngài là nguồn Nước Hằng Sống, nguồn nước này đem lại sự sống đích thực cho con người.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Bài Đọc I: Xh 17, 3-7
Thiên Chúa muốn cho dân của Ngài được hạnh phúc nên đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ của người Ai Cập. Nghĩa là Ngài muốn đưa họ đến với suối nguồn hạnh phúc đích thực. Dân cũng phấn khởi ra đi, vượt qua Biển Đỏ dưới sự dẫn dắt của Môsê để tìm đến nguồn suối ấy. Thế nhưng khi bị cơn khát thể lý nổi lên họ đã quên đi suối nguồn hạnh phúc. Họ bắt đầu kêu trách Môsê: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai Cập để làm gì? Có phải là để cho chúng tôi, con cái chúng tôi, và súc vật chúng tôi bị chết khát hay không?” (Xh 17, 3). Thiên Chúa đã thỏa mãn cơn khát của họ bằng một dấu lạ qua bàn tay Môsê: “Ngươi sẽ đập vào tảng đá. Từ tảng đá nước sẽ chảy ra cho dân uống” (Xh 17, 6b). Qua đó Thiên Chúa muốn nhắc nhở cho dân rằng, có Thiên Chúa thì mọi khao khát của họ sẽ được thỏa mãn.
Tin Mừng: Ga 4, 5-42
Câu chuyện về cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu với người phụ nữ Samari là một trong những trang đẹp nhất của Tin Mừng Gioan. Chúa Giêsu đã cố tình đi ngang qua vùng đất Samari là vùng đất của dân ngoại; đã dừng lại tại bờ giếng Giacob là nơi thỏa mãn cơn khát thể lý của người dân trong vùng, là nơi để mọi người trong vùng có thể gặp gỡ, tâm sự, chia sẻ với nhau. Điểm đặc biệt là người phụ nữ này lại đi lấy nước vào buổi trưa, thời gian nắng gay gắt, ít người đi lấy nước. Nếu như vậy thì chắc chắn chị không thể gặp gỡ, không thể chia sẻ, tâm sự với những người dân trong vùng đó. Và đó là điều cố tình của chị. Chị chỉ muốn sống cô độc trong tội lỗi của mình. Chị sợ phải đối diện với sự thật, đối diện với người khác.
Nhưng Đức Giêsu đã không để cho chị yên trong bình an giả tạo đó. Ngài đã khoấy động tâm hồn chị để những cặn bã, những dơ dáy bấy lâu nay vốn nằm yên phải trồi lên, để từ đó Ngài gạn đục, khơi trong cho tâm hồn chị. Chị định đi lấy nước, thứ nước chỉ làm thỏa mãn cơn khát vật chất, và sẽ còn khát mãi, nhưng chị đã gặp được nguồn nước làm thỏa mãn tâm hồn chị và không bao giờ khát nữa.
Ánh sáng lời Chúa hôm nay đã soi dọi để tôi nhận thấy nơi mỗi người đều có những khao khát. Tất cả những khao khát này thực ra chỉ là việc đi kiếm tìm hạnh phúc.
Đối với dân Do Thái ngày xưa, hạnh phúc đối với họ chỉ đơn giản là thức ăn, nước uống. Khi không có những điều đó họ đã kêu trách Môsê vì ông đã không thỏa mãn khao khát chính đáng của họ.
Đối với người phụ nữ trong bài Tin mừng hôm nay, hạnh phúc của chị chỉ đơn giản là việc sống một cuộc sống bình thường bên người chồng hờ, để ngày ngày chị lầm lủi làm những công việc theo thói quen của một người nội trợ. Và biết đâu một ngày nào đó chị lại bỏ đi theo tiếng gọi tình yêu khác như chị đã từng bỏ 5 đời chồng trước, vì rõ ràng cuộc sống hiện tại vẫn chưa đem đến hạnh phúc cho chị.
Tất cả mọi người khi đến tuổi trưởng thành đều nghĩ đến việc kiếm tìm hạnh phúc. Đó là khao khát chính đáng của con người. Nhưng khổ nỗi có những người quan niệm hạnh phúc không đúng đắn, và cũng có những người tìm hạnh phúc bằng phương thế xấu.
Hạnh phúc không đúng đắn
Ông phú hộ trong Tin Mừng Lc 12, 19 đã nói: “Hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài trong nhiều năm, Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã”. Hạnh phúc của ông phú hộ này là hài lòng với tài sản ông đang có. Tuy nhiên, ông phú hộ sẽ không có được sự nghỉ ngơi, ăn uống và vui chơi nếu: “Nội đêm nay người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc 12, 20)
Có nhiều bạn trẻ đặt mục tiêu 30-40 tuổi phải đầy đủ “1 vợ, 2 con, 3 lầu, 4 bánh”. Đó là hạnh phúc của họ. Tuy nhiên có nhiều người vợ chính thức, vợ dự bị, vợ để dành, vợ lớn, vợ bé, vợ vừa… cũng đâu làm họ hạnh phúc; thậm chí những ông chủ ngân hàng chẳng những 1 nhà 3 lầu mà còn 3 nhà 9 lầu cũng phải lâm vào cảnh tù tội…
Thế cho nên quan niệm hạnh phúc một số người chưa đúng đắn.
Tìm hạnh phúc bằng phương thế xấu
Quan niệm hạnh phúc không đúng đắn đã là một sai lầm, đi tìm hạnh phúc bằng những phương thế xấu còn tệ hại hơn. Vua Đavit đã vì đam mê sắc dục mà bày mưu giết chết vị tướng giỏi và trung thành của mình để đoạt vợ của ông ta.Nhiều người vì không muốn người khác cạnh tranh buôn bán với mình nên đã mướn xã hội đen bảo kê để một mình làm vua một cõi.
Những điều đó đối với con cái thế gian, đối với những kẻ vô thần đã là xấu, huống hồ chi đối với những người có đức tin, những người đã được rửa tội, những người mang danh là Kitô. Một số người Công giáo vẫn buôn bán không có lương tâm, một số người có đạo vẫn làm ăn phi pháp, một số kitô hữu vẫn xúc phạm đến các linh mục của Chúa vì lợi ích cá nhân của họ…
“Tôi khao khát một mối tình, một tình yêu chỉ riêng dành cho tôi. Để ngày tôi ngắm tôi soi, để đêm đắp áo cho người xông hương. Để xa tôi nhớ tôi thương, để gần tôi thấy thiên đường ở bên. Để khi trống trãi ưu phiền, ngã vào lòng bạn là tan hết sầu. Để khi nước lớn sông sâu, được cầm tay bạn qua cầu bình yên. Tôi đang khao khát đi tìm, một tình yêu chỉ là riêng của mình”.
Tác giả muốn nói đến chỉ tình yêu nơi Thiên Chúa mới làm thỏa mãn sự khao khát của ông.
Vâng, đúng vậy, tất cả những gì chúng ta vất vả tìm kiếm ở thế gian này mà không có tình yêu Thiên Chúa, không có sự linh thánh ở trong đó đều trở nên vô ích, thậm chí là tai hại cho chúng ta.
Đức Giêsu ngày xưa đã giúp cho người phụ nữ bên bờ giếng Giacob tìm gặp được hạnh phúc đích thực, thì ngày hôm nay chính Ngài cũng sẽ dẫn đưa chúng ta đến hạnh phúc đó.
Tuần rồi trên Vietcatholic News có đăng bảng tin về 2 nhân vật thành đạt đã từ bỏ công việc nhiều người mơ ước và nể phục để bước theo “một tình yêu chỉ là riêng của mình”. Người đầu tiên là cha Jaime Maldonado-Aviles, một cựu khoa học gia của Đại Học Yale, Hoa Kỳ, chuyên nghiên cứu về bộ não của con người. Người thứ hai là Cha Roy Edward Campbell vừa được Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm làm giám mục phụ tá cho tổng giáo phận phận Washington D.C. trong tuần qua. Ngài là một người trước đây từng nắm giữ vai trò chấp hành của Ngân Hàng America với chức vụ phó chủ tịch ngân hàng quốc gia.
Cả hai nhân vật này đều có một điểm chung là thành đạt trong hai lĩnh vực nổi bật nhất của xã hội đó là khoa học gia và tài chánh ngân hàng. Hơn thế nữa họ còn có một điểm chung là khao khát một tình yêu đích thực, và họ đã tìm gặp nơi Đức Giêsu nên đã từ bỏ tất cả để dấn thân trọn vẹn cho Ngài.
Năm Gia Đình 2017 này Giáo hội nhắc nhở các gia đình hãy biết khao khát và tìm kiếm những giá trị cao cả hơn, vì quả thực tất cả những giá trị ở thế gian này dù tốt đẹp đến mấy rồi cũng sẽ qua đi. Vì vậy mỗi người hãy cố gắng đưa giá trị linh thánh vào những sinh hoạt của cuộc sống hằng ngày. Ví dụ gia đình tôi vẫn làm ăn buôn bán nhưng hãy cố gắng buôn bán cho đúng với lương tâm, và nhất là cố gắng đừng vì công việc mà bỏ lễ Chúa Nhật. Các bạn trẻ vẫn học hành, vẫn đi làm, nhưng cố gắng tránh những thú vui sa đọa, tránh những điều làm cho con người mất giá trị cả về nhân phẩm và đạo đức; hãy cố gắng làm sao để cho mình có một nền tảng đạo đức thực sự, nghĩa là biết quan tâm để tìm hiểu, học hỏi lời Chúa, đi lễ, tham gia những sinh hoạt đạo đức, biết suy nghĩ và khao khát, tìm kiếm những giá trị cao cả hơn là những giá trị thấp hèn…
Trong tất cả, dù ở vị trí nào, dù làm gì chúng ta cũng hãy đặt câu hỏi: “Điều này đã có đem lại hạnh phúc đích thực cho tôi hay không?”. Là một Kitô hữu, chúng ta phải thường xuyên xác quyết: “Chỉ nơi Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn”. Đó là điều chúng ta tin tưởng và cầu nguyện cho nhau trong thánh lễ này.
Chủ đề nước gồm ba đặc tính chính: Nguồn sống – Thanh tẩy – Tái sinh. Nguồn nước ngày nay MC 3-A195
có một vị thế quan tâm nhiều hơn bao giờ hết vì nhiều vấn nạn do con người gây ra làm ô nhiễm nguồn nước. Nếu nguồn nước ô nhiễm, người ta không dùng vào việc gì được nữa mà còn tốn thêm kinh phí để lọc lại nguồn nước.
Nguồn sống:
Tài nguyên nước đang là vấn đề cấp bách đòi hỏi làm sạch lại nguồn nước. Sự phá hủy của con người tác động vào nguồn nước rất lớn: phá rừng làm nguồn nước ngầm thiếu hụt, có thể gây ra sụt lún. Thủy điện mỗi năm mùa mưa lại đến xã lũ làm tan nát nhà cửa, tàn phá ruộng vườn, mùa khô làm cạn kiệt các dòng sông, khiến ngập mặn các vùng ven biển và có nguy cơ lấn sâu vào đất liền.
Vấn đề rác thải công nghiệp và sinh hoạt làm ô nhiễm nguồn nước trầm trọng, nguy cơ sớm thiếu nguồn nước sạch để sinh tồn.
Nước, mang nguồn sống cho mọi loài và con người. Theo nguồn gốc của nước là ân huệ của trời ban cho thiên nhiên và con người để sinh sôi, nảy nở, phong phú. Ca dao có câu: “Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy đầy bát cơm, lấy rơm tôi thổi, lấy chổi quét nhà, con gà nhặt thóc…”. Bao nhiêu sự sống đều nhờ nước, vậy mà không biết giữ gìn nguồn nước để sống, khác nào tự đào đất chôn sống mình và con cháu sau này.
Thanh tẩy.
Nước sạch mới có công dụng thanh tẩy. Nước dùng trong bí tích rửa tội, rảy nước thánh thanh tẩy hồn xác. Nước tự nó là biểu tượng của sự thanh khiết, không bợn nhơ. Tự thân nước biểu hiện tính hiền minh, trong suốt, tự do không chịu ràng buộc, từ cao đổ xuống thấp, tạo sự bằng phẳng không hơn không kém, biểu hiện tính mực thước. Mềm mại và đông cứng, biểu hiện tính uyển chuyển và nghiêm khắc. Nước có thể nuôi sống hay giết chết,
Trong Thánh Kinh. Những giếng nước trong hoang mạc, hoặc trong làng, là nơi gặp gỡ, nơi trai gái nảy sinh tình yêu bắt đầu, nơi thông tin mọi chuyện trong nhà ngoài ngõ như chức năng của cái chợ, cái đình. Ông Giacóp về quê hương mình là Pátđan Aram để hỏi vợ. Bên cạnh giếng làng, Ông đã gặp cô Rakhen, con ông Laban, đang múc nước giếng cho đàn vật của cha mình uống. Mối tình đã nảy nở trong cuộc gặp gỡ này. Ông Giacóp đã cưới bà Rakhen làm vợ (x St 29,1-14). Cuộc gặp gỡ nên duyên của ông Môisê (Xh 2, 16 – 22). Giếng nước nơi Thiên Chúa tập họp dân Người: Đây chính là giếng mà Chúa đã nói đến, khi phán với ông Mô-sê: “Hãy tập họp dân lại, và Ta sẽ ban nước cho chúng.” Bấy giờ Ít-ra-en xướng lên bài ca này: “Vọt lên đi nào, mạch giếng ơi! Các bạn hãy ca mừng giếng nước! Giếng xưa kia bậc thủ lãnh đã đào, hàng quyền quý của dân đã khơi bằng phủ việt, bằng quyền trượng các ngài! ” (Ds 21, 17 – 18).
Tại bờ giếng Giacop, Chúa Giêsu gặp người phụ nữ Samaria và nói về nước hằng sống. Nguồn nước từ bên phải đền thờ Edekiel nói đến “Từ bên phải Đền thờ chảy ra” ((Ed 47, 1- 2) chính là nguồn nước từ cạnh sườn Chúa đổ ra (Ga 19, 34) rửa sạch vết nhơ tội lỗi và ban nước trường sinh. Thánh Athanasiô diễn tả: Chúa Cha là nguồn, Chúa Con là dòng sông và có lời phán rằng chúng ta uống Thánh Thần”. Chúa Giêsu nói với người phụ nữ: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” (Ga 3, 13 – 14).
Tái sinh.
Nước dùng trong bí tích rửa tội mang ý nghĩa của nước tái sinh, theo nghĩa sinh lại trong Chúa Kitô, nhờ Chúa Thánh Thần để được gia nhập vào gia đình Chúa Cha. Trong câu chuyện với ông Nicôđêmô, Chúa nói: “Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí.” (Ga 3, 5).
Rảy nước thánh trên các tín hữu, xưa kia thường rảy trên các tín hữu trước khi cử hành Thánh lễ. Sau này, chỉ rảy trong lễ Vọng Phục Sinh sau khi làm phép nước với ý nghĩa của Thánh Vịnh: “Xin dùng cành hương thảo rảy nước thanh tẩy con, con sẽ được tinh tuyền; xin rửa con cho sạch, con sẽ trắng hơn tuyết.” (Tv 51, 9)
Người tín hữu có một thói quen, nơi nào đặt nước thanh tẩy ở cửa ra vào nhà thờ, họ thường chấm nước rồi làm dấu trước khi vào và ra khỏi nhà thờ. Việc cử hành này nhắc nhở một ý nghĩa, trút bỏ mọi lo âu, phiền muộn, công việc để đến với Chúa với con người hoàn toàn thuộc về Chúa, để sống với Chúa, và khi ra về một lần nữa xin Chúa làm cho bí tích rửa tội được đi vào đời sống, như sứ vụ được trao: Ngôn sứ, tư tế, vương đế.
Giống như người phụ nữ Samaria, chúng con cũng cầu xin Chúa ban cho chúng con nguồn nước hằng sống ấy luôn mãi. Xin cho chúng con biết giữ gìn nguồn nước trong môi trường thiên nhiên, được hưởng suối nước dồi dào ẩn sủng của Chúa thương ban. Và nhắc nhở chúng con sống xứng đáng với bí tích rửa tội mà chúng con đã lãnh nhận.
Nước và sức khoẻ có quan hệ mật thiết. Người mạnh khoẻ uống li nước lạnh khi khát thấy nước MC 3-A196
Nước và sức khoẻ có quan hệ mật thiết. Người mạnh khoẻ uống li nước lạnh khi khát thấy nước ngọt lịm, mát lòng, mát dạ; khi không được khoẻ uống nuớc thấy nhạt nhẽo, không thấy mùi cũng chẳng có vị. Bệnh tật không những làm mất vị giác, còn làm cho ta cảm thấy mất hứng thú trong việc ăn uống. Người phụ nữ thành Samaritanô ra giếng múc nước mỗi ngày. Nơi đây bà gặp Đức Kitô đang ngồi nghỉ nơi bờ giếng trong lúc các môn đệ vào làng mua thực phẩm. Bà rất đỗi kinh ngạc khi Đức Kitô xin bà nước uống. Bà đáp lại với vẻ diễu cợt.
Sao được, ông là người Do Thái mà lại xin tôi nước uống.
Cuộc đàm thoại tiếp tục bà lại đáp với vẻ vừa thắc mắc vừa nghi.
Ông không có gầu múc nuớc, giếng lại sâu làm sao ông có thể cho tôi nước uống.
Đức Kitô tiếp tục nói với bà và bà thay đổi thái độ từ không quan tâm đến có vẻ nghi ngờ và giờ đây bà tỏ ra kính trọng khi nói với Đức Kitô là ‘thưa Ngài’. Ngôn từ thay đổi cho biết thâm tâm bà cũng thay đổi. Mỗi bước đổi thay trong cách đối xử là một biến chuyển nội tâm.Từ chỗ coi Đức Kitô là người xa lạ, đến chấp nhận đàm thoại và biến sang kính trọng ‘thưa Ngài’ rồi đổi sang ‘ông là một tiên tri’. Mỗi bước là một biến chuyển trong tâm hồn, quan trọng nhất khi bà coi Đức Kitô là tiên tri bởi tiên tri là nguời đại diện và phát ngôn cho Đấng Vô Hình. Tiên tri là người chịu nhiều thử thách bởi ngôn từ và lời kêu gọi thống hối, hoán cải, thay đổi lối sống. Tiên tri thường gặp chống đối mãnh liệt từ tấm lòng tự cao, tự đại. Từ đó dẫn đến tìm cách triệt hạ tiên tri, đổ máu người kêu gọi sống công chính. Người phụ nữ thành Samaritanô nhận ra Đức Kitô là phát ngôn cho Đấng Vô Hình nhưng bà không biết Đấng đó sẽ chịu chết đền tội thay nhân loại. Bà thú nhận Ngài là ‘Đấng Cứu thế’ nhưng không biết Đấng đó cứu độ bằng cách nhận chết thay cho nhân loại. Tuyên xưng đức tin xong bà nhanh chân chạy vào làng báo cho mọi người biết có Đấng Cứu Thế đến thăm dân làng. Dân chúng ùa ra gặp Đấng Cứu Thế và sau khi nghe Đức Kitô họ xác nhận. Chúng tôi tin không phải do lời bà nói mà chính tai chúng tôi nghe thấy, mắt chứng kiến và chúng tin Ngài là Đấng Cứu Thế.
Cả hai cùng nói về nước nhưng mỗi người hiểu nước một cách khác nhau. Bà nói về nước cần thiết cho cuộc sống trần gian, Đức Kitô nói về nước cần thiết cho cuộc sống thiên quốc. Nước thiên nhiên mang sức sống cho cơ thể; nước hằng sống mang sự sống trường sinh cho tâm hồn. Nước thiên nhiên đến từ lòng đất; nước hằng sống đến từ lòng con người. Nước thiên nhiên đến từ bên ngoài; nước hằng sống có nguồn sống từ nội tâm. Nước thiên nhiên mang niềm vui cho chính mình; nước hằng sống là nguồn hoan lạc cho tha nhân và mình là một thành phần trong đó. Nước hằng sống ban cho nhờ sức mạnh của Thánh Thần Chúa.
Cuộc đàm thoại giữa Đức Kitô và người phụ nữ cho biết Đức Kitô đã phá một số rào cản của xã hội thời đó. Thứ nhất là phụ nữ và đàn ông không đàm thoại nơi công cộng, nhất lại là bờ giếng là nơi phụ nữ trong làng ra kéo nước. Thứ hai người đàn ông đó lại là người xa lạ. Kế đến người Do Thái không xã giao với người ngoài tôn giáo của họ. Hơn nữa người phụ nữ bên bờ giếng lại là người nổi tiếng trong làng về tư cách của cô ta nên ai đó liên hệ với cô đều bị người khác coi thường, khinh miệt. Chính vì thế mà cô lựa lúc trời nóng bức, lút vắng người ra kín nước giếng để lấy nước.Đức Kitô đã làm việc đó và chính người phụ cũng ngạc nhiên và các môn đệ Ngài nhìn thấy cũng nhột nhạt. Người phụ nữ cũng tỏ ra có một ít kiến thức về tôn giáo. Hoặc cũng có thể cô ta đang tìm kiếm hướng đi cho cuộc sống tâm linh và cô gặp Đức Kitô soi sáng. Tội lỗi làm lu mờ tâm trí và ảnh hưởng đến việc chọn lựa cho tâm linh. Đức Kitô đã khai sáng cho cô từng bước một cho đến khi cô trở thành môn đệ Chúa.
Chân thành lắng nghe lời Đức Kitô dẫn đến nhận biết Ngài là Đấng Cứu Thế, Đấng đến mang nuớc hằng sống cho nhân loại. Đối thoại với Đức Kitô bà học biết về cuộc đời mình và việc đã làm nên bà tự thú ‘Ngài đã nói cho tôi biết các việc tôi từng làm’. và cô trở thành môn đệ Đức Kitô.
Nơi con người, có sự sống thân xác và sự sống tâm linh. Nước là nhu cầu không thể thiếu đối với MC 3-A197
Nơi con người, có sự sống thân xác và sự sống tâm linh. Nước là nhu cầu không thể thiếu đối với thân xác thì nước cũng rất cần cho đời sống tâm linh. Cả hai đều chết vì khát. Sự sống tâm linh sẽ chết khi khát đức tin, khát ân huệ của Thiên Chúa. Cái khát ấy sẽ đưa con người đến sự hủy diệt muôn đời.
Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari bên giếng nước Giacóp đã đánh dấu một cuộc biến đổi. Đức Giêsu là người trước tiên xóa bỏ ranh giới ngăn cách giữa người Do Thái và người Samari.Từ nước ở giếng Giacóp, Ngài đã đưa người phụ nữ đến cơn khát tinh thần: “ Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị: Cho tôi chút nước uống, thì hẳn chị đã xin và người ấy ban cho chị nước hằng sống.” Nước hằng sống là mạch nước mà ai uống, sẽ không bao giờ khát nữa, và nước ấy sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời.Đức tin là nguồn nước hằng sống.Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma đã viết:“Một khi đã được nên công chính nhờ đức tin, chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.”Đó là nguồn nước hằng sống.
Khi đã cho người phụ nữ Samari biết mình là ai, Đức Giêsu hướng tâm hồn chị đến việc phải thờ phương Chúa Cha trong thần khí và sự thật, chứ không phải khép kín trên núi hay tại Giêrusalem. Người phụ nữ Samari đã trở về với cõi lòng mình để biến đổi cuộc đời.
Cha Doyle, một Linh mục dòng Tên, người Ailen, nổi tiếng thánh thiện và hay giúp đỡ người khác. Một buổi tối, sau khi giảng một bài về sự truyền giáo, ngài đi ra đường và gặp một thiếu nữ. Ngài dịu dàng nói với cô: “ Con ạ, trời đã khuya. Con chưa về nhà sao? Đừng làm Chúa đau khổ. Ngài yêu con.”
Năm tháng trôi qua. Vào một đêm nọ, có điện thoại của bề trên sai ngài đi Dublin ngay lập tức để gặp một người nữ tù sắp bị hành hình vào sáng mai, vì người phụ nữ ấy yêu cầu được gặp ngài.Người nữ tù ấy là cô Fanny Cranbush, đã bị kết án cộng tác với kẻ khác để đầu độc nhiều người. Vừa thấy linh mục, cô quỳ gối và nói: “Thưa cha, cảm ơn Chúa vì cha đã đên đây.” Linh mục ngạc nhiên hỏi: “ Nhưng con ạ, cha chưa biết con. Con cần gì?” Cô ta đáp lại: “ Cha không nhớ con sao? Hai năm trước đây, cha đã gặp con trên đường phố Yarmouth vào một đêm tối. Cha đã nói với con: “ Con ạ, trời đã khuya. Con chưa về nhà sao? Đừng làm Chúa đau khổ. Ngài yêu con.” Chúa là ai? Con chưa biết. Con chưa bao giờ cầu nguyện và chưa được rửa tội. Nhiều tuần lễ, con muốn tránh xa con đường tội lỗi; nhưng vì cái đói, mỗi ngày con càng lún sâu trong tội lỗi đến độ giờ đây con sắp bị treo cổ. Con đã tuyệt vọng. Nhớ lại lời cha đã nói, con khóc và muốn được gặp cha để nghe cha nói về Chúa Giêsu.
Cha dạy giáo lý cho cô với thời gian cho phép, trước khi rửa tội cho cô. Cha lập một bàn thờ trong nhà giam, dâng Thánh Lễ và cho cô rước lễ lần đầu cũng là lần cuối. Trên đường đi xử, cô thì thầm: “ Thưa cha, con thật hạnh phúc. Chúa Giêsu biết con ăn năn hối lỗi vì đã xúc phạm đến Ngài. Con tin Chúa Giêsu hằng yêu mến con. Amen.”
Thiên Chúa là Tình yêu. Ngài luôn yêu thương chúng ta ngay cả khi chúng ta đang ở trong tình trạng tội lỗi. Khi dân Do Thái xuất hành qua sa mạc, bất chấp sự vô ôn ơn hay lời oán trách của họ,Thiên Chúa đã không từ bỏ dân của Ngài; nhưng qua Môsê, Ngài đã cung cấp nước cho họ. Thánh Phaolô cũng đã khẳng định trong thư gữi tín hữu Rôma: “ Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.”
Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari bên giếng nước Giacóp đã chứng minh chân lý ấy.
Một học sinh về nhà sau lớp giáo lý và người mẹ hỏi em đã học gì trong lớp giáo lý hôm nay. Cậu MC 3-A198
Một học sinh về nhà sau lớp giáo lý và người mẹ hỏi em đã học gì trong lớp giáo lý hôm nay. Cậu trả lời với mẹ cả buổi học hôm nay học về ông Mô-sê và về việc Thiên Chúa sai ông xâm nhập hậu cần của quân thù để giải thoát Dân Chúa đang bị nô lệ bên Ai cập. Cậu bé nói tiếp: “Giáo lý viên nói với chúng con rằng ông Mô-sê đã dẫn dân chúng tiến xa tới Biển Đỏ, rồi ông đã sai các kỹ sư xây một cầu nổi để tất cả dân chúng có thể đi qua biển an toàn. Sau khi tất cả dân đã đi qua, ông đã dùng chất nổ phá sập cầu để quân đội Ai cập không thể đuổi theo dân Do thái. Sau đó tất cả dân chúng đã đi qua sa mạc và vui mừng đến Đất Hứa an toàn. Người mẹ của cậu bé ngạc nhiên hỏi: “Con! Có phải giáo lý viên thật sự dạy con như vậy không?” “Không phải như vậy đâu mẹ.” Cậu bé trai trả lời. “Nhưng nếu con thưa với mẹ câu chuyện y như giáo lý viên đã nói với chúng con trong lớp thì con biết mẹ sẽ không thể nào tin được.”
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta nhận biết thực sự phải có một niềm tin vững chắc thì chúng ta mới hoàn toàn xác tín vào những phép lạ trong Kinh thánh. Hôm nay trong bài đọc 1 chúng ta nghe phép lạ Thiên Chúa làm cho nước tuôn ra từ tảng đá cho dân chúng uống để khỏi bị chết khát nơi sa mạc trong cuộc hành trình về Đất Hứa. Và trong bài Tin mừng, qua một lối diễn tả kỳ diệu, thánh Gioan đã cho chúng ta biết về Chúa Giê-su, Người sẵn sàng cung cấp cho chúng ta nước hằng sống nếu chúng ta thật sự tin vào Người.
Bài Tin mừng hôm nay rất phong phú, có nhiều chi tiết và tôi có thể dùng 20 hay 30 phút để nói về những điểm này, nhưng tôi không bắt ông bà anh chị em phải nghe bài giảng 30 phút trong giấc ngủ! Nhưng có mấy điểm quan trọng mà chúng ta cần phải chú ý đến. Điểm quan trọng thứ nhất là nước và cũng là chủ đề chính của bài Tin mừng. Chúa Giê-su xin nước và sau đó đã ban tặng người đàn bà xứ Samaria nước hằng sống. Dĩ nhiên vào thời đó dân chúng không có nguồn cung cấp nước tại nhà như hiện nay, cho nên mọi người phải ra giếng gần đó để múc nước về nhà. Chúng ta nhận biết người đàn bà giải thích câu nước hằng sống có nghĩa là chỗ phun nước hay suối nước, và không có một ý nghĩ gì về nước hằng sống mà Chúa đề cập đến dẫn đến sự sống đời đời. Chúng ta biết nước là nhu cầu thiết yếu cho sự sống, cho nên sự sống của con người tùy thuộc vào nước, và có nước mới có sự sống. Tin tức gần đây cho biết có dấu hiệu nước ở hành tinh Mars, và nếu chứng minh hay tìm ra được sự hiện diện của nước ở hành tin này thì sự sống đã có thể hiện hữu trước đó ở đây. Cũng giống như vậy, đời sống Ki-tô hữu và những ân sủng của Chúa bắt đầu từ nước, nước của Bí tích Thanh tẩy hay Rửa tội. Và đời sống Ki-tô hữu cần phải được tiếp tục tưới bằng Nước Hằng Sống là Chúa Giê-su Ki-tô.
Điểm quan trọng thứ hai của bài Tin mừng mà chúng ta có thể nhận ra được đó là tiến trình nhận biết ra Chúa một cách đầy đủ và sâu sa hơn. Chúng ta thấy lúc đầu trong khi thưa chuyện với Chúa người đàn bà Samaria ngoại giáo dùng chữ “ông” một cách lịch sự để đàm thoại. Sau khi nhận ra Chúa là một ngôn sứ, bà đã dùng từ “Ngài” để xưng hô với Chúa, cuối cùng bà đã nhận ra chính Chúa là Đức Ki-tô, có nghĩa là Messia, Đấng Thiên Sai. Trong niềm hân hoan vui sướng, bà đã quên lấy nước và chạy vào làng báo tin cho mọi người biết. Chúng ta thấy những người trong làng đã nhìn nhận ra Chúa Giê-su không phải chỉ là Đấng Thiên Sai cho người Do thái, mà còn là Đấng Thiên Sai cho mọi người.
Một sự kiện đáng cho chúng ta chú ý là sau sự phục sinh của Chúa và sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống trong ngày lễ Ngũ tuần trên các tông đồ, người Samaria dễ tiếp nhận lời giảng dạy của các tông đồ hơn những người khác. Giả sử sự kiện diễn tả trong bài Tin mừng hôm nay báo trước cho sự biến đổi và tin vào lời Chúa của họ sau này. Tiến trình từ từ nhận ra Chúa Giê-su một cách hoàn toàn và sâu sa hơn của người đàn bà Samaria ngoại giáo này cũng là tiến trình đức tin trong suốt cuộc đời của mỗi Ki-tô hữu chúng ta, từ lúc lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy cho đến ngày chúng ta thực sự đứng trước mặt Chúa. Mỗi ngày đức tin của chúng ta phải triển nở và lớn mạnh hơn nhờ được kết hợp mật thiết với Chúa Ki-tô, Nước Hằng Sống.
Ông bà anh chị em thân mến. Những điểm nêu ra trên đây như nước và tiến trình đức tin là những điều rất quan trọng chứa đựng trong bài Tin mừng hôm nay. Nhưng tất cả đều xảy ra bắt đầu bằng một cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa người đàn bà với Chúa, và đây chính là điểm gây ấn tượng và có thể nói là quan trọng nhất. Chúng ta sẽ không bao giờ biết Chúa hay được kết hợp mật thiết với Chúa nếu chúng ta không hy sinh thời giờ để gặp gỡ và nói chuyện với Chúa. Chúa sẽ không hiện đến qua những tia hào quang rạng rỡ hay qua những tia sấm chớp lòe sáng, nhưng Chúa đến qua những phương cách rất thông thường qua hình dáng của một người bạn, có khi ngay cả qua một người đối nghịch với chúng ta, hay trong những chữ, những lời của một cuốn sách, đặc biệt là những chữ, những lời trong cuốn sách mà chúng ta gọi là Kinh Thánh. Chúa hiện diện trong đám đông, trong cộng đồng của những người có đức tin, như trong những buổi làm lá hiện nay trong giáo xứ, hay trong những sự vật đơn giản như nước, cơm, bánh và rượu. Chúng ta phải nhận biết, xác tín và yêu mến Chúa, thì mới nhận ra nước, cơm, bánh và rượu là tình yêu, là ân sủng Chúa ban cho chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta phải hy sinh thời giờ để lắng nghe, để đáp trả, để trả lời hay để nói chuyện, tâm sự, đàm thoại, để làm một cái gì đó sâu sa hơn là chỉ nói với Chúa những điều chúng ta muốn Chúa làm hay ban cho chúng ta. Chúng ta sẽ không bao giờ biết đến người nào đó nếu chúng ta không dành thời gian và nói chuyện với họ. Nếu chúng ta nghĩ rằng Chúa là người rất quan trọng và chúng ta cần đến Chúa thì chúng ta phải dành thời giờ nói chuyện, tâm sự với Chúa.
Ước gì tất cả chúng ta trong mùa Chay Thánh này biết dành cho Chúa, biết hy sinh thời giờ để tâm sự, nói chuyện với Chúa, để chúng ta biết Chúa một cách sâu sa hơn, để đức tin của chúng ta vững mạnh hơn và yêu mến Chúa tha thiết hơn, trở thành những chứng nhân cho Chúa như người đàn bà trong bài Tin mừng hôm nay.
Thánh Gio-an là tác giả duy nhất tường thuật cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ MC 3-A199
Thánh Gio-an là tác giả duy nhất tường thuật cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Giacóp. Trình thuật này mang nhiều ý nghĩa. Chúng ta đã biết về hình ảnh người Samari nhân hậu chăm sóc người bị nạn được ghi lại trong Tin Mừng theo Thánh Lu-ca. Hôm nay, chúng ta lại thấy một người phụ nữ Sa-ma-ri. Chị là đại diện cho những người đang đi tìm Chân lý và đang khao khát những giá trị thiêng liêng vĩnh cửu.
Như nội dung trình thuật cho thấy, Chúa Giêsu đã chủ động “bắt chuyện” với người phụ nữ, khi chị này đến giếng để múc nước. Trong đời thường, không bao giờ một người Do Thái lại nói chuyện với một người Sa-ma-ri. Vì thế, người phụ nữ vẫn luôn giữ khoảng cách và cảnh giác. Dưới ngòi bút tài tình của tác giả Gio-an, nội dung cuộc đối thoại này diễn biến từng bước, để rồi từ bầu khí nghi ngờ trở thành sự thân thiện; từ một người bất mãn trở thành một người lạc quan; từ một người vô tín, trở thành một tín hữu; và nhất là từ một người dửng dưng, nay trở thành một nhân chứng năng động nhiệt thành giới thiệu Chúa Giêsu cho những người đồng bào.
Qua cuộc đối thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri, Chúa Giêsu khẳng định: Thiên Chúa là Cha của mọi người. Giáo huấn này không chỉ được thể hiện trong câu chuyện người phụ nữ Sa-ma-ri, mà được dàn trải trong suốt Tin Mừng. Chúa Giêsu đến để nói với con người về dung mạo đầy lòng thương xót của Chúa Cha. Chính Người là hình ảnh sống động của Chúa Cha. Qua đời sống và sứ vụ của mình, Đức Giêsu minh chứng Chúa Cha là Đấng nhân hậu. Những ai thờ phượng Chúa, cũng phải thờ phượng trong tinh thần và Chân lý. Việc thờ phượng Chúa không bị tuỳ thuộc vào một không gian, như ở Giê-ru-sa-lem hay ở trên đồi Ga-ri-zim, nhưng bất cứ ai kêu cầu Thiên Chúa với trái tim chân thành, dù ở nơi đâu, đều được Chúa nhận lời. Sau này, thánh Phê-rô can đảm tuyên bố trong bài giảng tại nhà ông Cornêliô: “Quả thật, tôi nghiệm biết rằng Thiên Chúa không thiên tư tây vị, nhưng ở bất cứ xứ nào, ai kính sợ Người và thực hành sự công chính, đều được Người đón nhận. Thiên Chúa đã sai Lời Người đến cùng con cái Israel, loan tin bình an, nhờ Chúa Giêsu Ki-tô là Chúa muôn loài” (Cv 10,34-36). Lưu ý là ông Phê-rô tuyên bố những lời này sau khi được thấy thị kiến về một tấm khăn lớn từ trời thả xuống, trong đó có đủ mọi loài sinh vật. Đây là hình ảnh diễn tả tính phổ quát của ơn cứu độ mà Thiên Chúa thực hiện trong Đức Giêsu. Điều này ngược lại với quan niệm truyền thống của người Do Thái, vì họ cho rằng chỉ có dân riêng Chúa chọn mới được hưởng ơn cứu độ của Ngài.
Trong Mùa Chay, phụng vụ nhắc chúng ta: Chúa Giêsu là suối nguồn ơn phúc. Bài Tin Mừng cũng chứng minh cho thấy niềm khát vọng vô biên của con người. Một xã hội phát triển và giàu có về vật chất, chưa hẳn đã là hạnh phúc. Ngoài những nhu cầu vật chất, con người còn cần đến những nhu cầu tinh thần. Người phụ nữ Sa-ma-ri đã năm đời chồng, nhưng vẫn không thấy hạnh phúc. Điều đó chứng minh sự dồi dào về vật chất và buông thả về luân lý không phải bao giờ cũng đem lại cho con người niềm vui. Chị vẫn đang trăn trở đi tìm ý nghĩa của cuộc đời. Khởi đi từ nước giếng, là nước thường dùng trong cuộc sống thường ngày, Đức Giêsu đã từng bước giúp chị hiểu nước của ân sủng, nước thiêng liêng. Đó chính là giáo huấn và ơn cứu độ mà Đức Giêsu mang đến cho nhân loại ở mọi nơi mọi thời.
Bài đọc I kể cho chúng ta về một sự kiện liên quan đến nước. Trong cuộc lữ hành sa mạc, dân Israel đã kêu cầu Chúa, và Ngài đã làm phép lạ để nước chảy ra từ tảng đá. Nước sa mạc vừa nhắc nhở lòng thương xót của Chúa, và cũng như một kỷ niệm buồn, vì dân phản loạn kêu trách Chúa. Thiên Chúa nhân hậu bao dung. Ngài không chấp tội con người. Ngài sẵn sàng tha thứ những lỗi phạm, và sửa dạy họ, để họ nên tốt hơn.
Những người dân thành Samari đóng vai trò “diễn viên phụ”, nhưng cũng rất quan trọng. Thánh Gioan đã viết: “Số người tin vì lời Đức Giêsu nói còn đông hơn nữa. Họ bảo người phụ nữ: Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng: Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (Ga 4, 41-42). Cuộc trò chuyện thân thiện giữa Chúa Giêsu với người phụ nữ đã đem lại những kết quả không ngờ. Qua hình ảnh mùa gặt, Đức Giêsu nói với chúng ta: xung quanh chúng ta, rất nhiều người có trái tim chân thành. Họ như những mảnh đất tốt sẵn sàng đón nhận hạt giống Lời Chúa và làm cho Lời ấy nảy mầm, đâm bông kết trái. Trình thuật của thánh Gio-an đã chứng minh điều đó.
“Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa. Người phán: “Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mê-ri-ba, như ngày ở Ma-xa trong sa mạc”. Hành trình mùa Chay nhắc lại cuộc lữ hành trong sa mạc của dân Israel tiến về đất hứa. Trong hành trình này, nhiều người đã ngã gục, vì kiêu ngạo, tội lỗi, bất trung hoặc vì thiếu nghị lực, không có lòng cậy trông. Đức Giêsu là Đấng dẫn đường về đất hứa vĩnh cửu, tức là Quê Trời. Thánh Phaolô khẳng định: theo lẽ thường, hầu như không ai chết vì người công chính, thế mà Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Noi gương Chúa Giêsu bên bờ giếng Gia-cóp, chúng ta hãy cố gắng thực thi những việc thiện, trân trọng và bác ái với những người xung quanh, để dỡ bỏ khoảng cách, kết nối yêu thương và xây tình huynh đệ.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay từ bài đọc I trích sách Xuất hành đến bài Tin Mừng đều nói về MC 3-A200
Phụng vụ lời Chúa hôm nay từ bài đọc I trích sách Xuất hành đến bài Tin Mừng đều nói về Nước, ám chỉ Nước Rửa tội. Trong thư gửi tín hữu Rôma, thánh Phaolô cũng giúp chúng ta hiểu về Bí tích Thánh Tẩy, nên Chúa nhật này có thể gọi là Chúa nhật Nước giúp chúng ta suy nghĩ về Nước trong Cựu Ước nơi Tân Ước và tại Giếng Rửa tội.
Lộ trình tới Nước Đêm Vọng Phục Sinh
Trong sách Nghi Thức Khai Tâm từ số 133 đến số 135 ghi: “Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay cử hành nghi thức “Ghi Danh” hay “Tuyển Chọn” các dự tòng. Các số từ 152 đến 180 ghi là : “Chúa Nhật hôm nay (tức Chúa nhật III, IV, V Mùa Chay) cử hành Nghi Thức Khảo Hạch Các Dự Tòng lần thứ nhất, lần thứ hai, lần thứ ba cho những người lớn sẽ lãnh nhận Bí Tích Khai Tâm vào đêm Vọng Phục Sinh sắp tới (Nghi Thức Khai Tâm, số 152-166). Như vậy, lộ trình phụng vụ Mùa Chay năm A từng bước dẫn đưa chúng ta sống con đường của anh chị em dự tòng đang chuẩn bị lãnh nhận bí tích Rửa Tội, làm sống dậy trong chúng ta ơn Thánh Tẩy chúng ta đã lãnh nhận.
Giáo Hội luôn kết hợp lễ Vọng Phục Sinh với việc cử hành bí tích Rửa tội, hiện thực hóa mầu nhiệm cao cả của đời sống người kitô hữu là: chết đi cho tội lỗi, tham dự vào sự sống mới trong Chúa Kitô Phục Sinh và nhận lấy Chúa Thánh Thần, Ðấng đã cho Ðức Giêsu từ cõi chết sống lại (x. Rm 8,11). Thế nên, Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay gọi là Chúa Nhật cám dỗ. Chúa Nhật thứ hai gọi là Chúa Nhật của tổ phụ Abraham và Chúa Nhật Chúa Biến Hình. Bí Tích Rửa tội là bí tích của đức tin và thiên chức làm con Thiên Chúa: theo Abraham tin tưởng vào Chúa và ra đi để trở nên con cái Chúa.
Bước vào Chúa Nhật thứ ba, kể về cuộc đối thoại nổi tiếng của Ðức Giêsu với người thiếu phụ Samaria bên giếng nước cổ xưa có từ thời của tổ phụ Giacóp. Và ngày hôm ấy, chị gặp Ðức Giêsu đang ngồi trên bờ giếng, mệt mỏi sau một chặng hành trình (x. Ga 4,5-42). Chúa Giêsu chính là Nước Hằng Sống, Người làm cho con người đỡ khát, Nước Chúa Thánh Thần.
Nước trong công trình của Chúa
Sách Sáng Thế mô tả, Nước đã có trong công trình sáng tạo thế giới và vũ trụ muôn loài (x.St 1,1-2). Chúa đã tạo ra nước để làm cho ruộng đất phì nhiêu. Nước tưới vườn Êđen địa đàng trần gian. Nước làm cho vạn vật sinh sôi nảy nở (x.St 1, 6 – 9), cho thân xác con người được mát mẻ sạch sẽ. Chúa còn tạo ra nước như dụng cụ của lòng từ bi Chúa: Chúa đã làm cho Nước Biển Ðỏ và Nước sống Giorđan dựng lên thành tường để Dân Chúa thoát ách nô lệ và đi vào Đất Hứa. Và lời Chúa hôm nay minh chứng nhờ nước Chúa đã làm dịu cơn khát của Dân Chúa trong sa mạc (x. Xh 17,3-7); các tiên tri đã dùng hình ảnh nước mà loan báo giao ước mới Chúa sẽ thiết lập với loài người; sau hết nhờ nước mà Đức Kitô đã thánh hóa trong sông Gioađan (x. Mt 3,13-17; Mc 1,7-11; Lc 3,15-16.21-22), Chúa đã đổi mới bản tính hư hỏng của ta con trong giếng nước tái sinh.
Chúa đã dùng Nước để sửa phạt Dân Chúa, như cho Nước lụt Đại Hồng Thủy phủ lấp toàn cõi địa cầu tội lỗi (St 7,17-24), hoặc không cho mưa rơi để dân tội lỗi ăn năn thống hối. Chúa đã dùng Nước để cứu sống khi truyền cho Môsê cầm cây gậy đập Nước Biển Ðỏ để nó rẽ ra cho Dân đi qua, rồi sau khép lại giết hết quân quốc Aicập (x. Xh 14,15-31). Trên núi Horeb, Chúa cũng bảo Môsê đập đá để Nước chảy ra cho Dân uống.
Cây gậy Môsê cầm đập vào đá, Nước ở đá chảy ra để Dân uống cho khỏi khát nhắc cho những người uống nước hôm nay nhớ đến cây gậy Môsê cầm đập Nước Biển Ðỏ rẽ ra thành hai bên tả hữu để Dân Chúa đi qua ráo chân ngày Chúa đã giải thoát họ khỏi đất nô lệ. Vậy nếu cuộc vượt qua Biển Ðỏ thường được dùng để nói về Ơn Nước Rửa tội trong mầu nhiệm Vượt qua của Ðức Kitô, thì câu chuyện Môsê đập đá để có Nước chảy ra cho Dân uống, cũng thích hợp để đưa tâm trí chúng ta nghĩ tới Ðức Giêsu Kitô là Môsê mới sẽ ban Nước cứu sống và cứu độ cho những ai đến gần Người.
Chúa Giêsu là Nước Hằng Sống
Vào những thế kỷ đầu của Kitô giáo, Các Giáo phụ đã sớm nhận ra nơi “Nước Hằng Sống” biểu tưởng của phép Rửa tội, mà Đức Kitô chính là Nguồn Nước ấy. Chúa Giêsu xin người đàn bà xứ Samaria nước uống, không phải lý do khát về thể lý cho bằng khát đức tin, khát sự sống đời đời, khát một linh hồn khô héo. Đấng Cứu Thế giả vờ khát nước đến xin người đàn bà nước để trao ban thứ nước ân sủng khỏi khát đời đời. Đó chính là nguồn nước mà Tin Mừng nói tới khi Người xin nước của người đàn bà xứ Samaria… Thực ra, nguồn nước ấy không bao giờ cạn, Đấng là Nước Hằng Sống không thể uống nước bị ô nhiễm ở vùng đất này.
Đức Kitô, Đấng ngồi nghỉ trên miệng giếng chính là Nguồn Nước, từ cạnh sườn bên phải Người, tuôn trào dòng nước xót thương; một phụ nữ có sáu đời chồng đã được tẩy sạch bằng dòng Nước Hằng Sống ấy. Một người phụ đến giếng Samaria kín nước, bà lấy nước từ dòng Nước Giêsu! Tìm được Nước, bà ra đi với sự tiết hạnh. Ngay lập tức bà xưng thú các lỗi mà Chúa Giêsu ám chỉ, bà nhận ra Đức Kitô và loan báo Đấng Cứu Thế. Bà để vò nước xuống, mang ơn sủng vào thành; vai nhẹ bớt, bà trở về tràn đầy sự thánh thiện… Đúng là ai đến trong tội lỗi sẽ trở về với sứ mạng tiên tri.
Nước hằng sống này đối với chúng ta là nguồn suối dâng trào sự sống đời đời, nước này là nước hòa với Máu Chúa Kitô, đã chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu trên cây Thánh giá. Nước tn chảy từ tảng đá do Môsê đập ra (Xh 17, 3-7) là hình ảnh tiên trưng của Nước chảy ra từ cạnh sườn Đấng Cứu Thế bị đóng đinh.
Lạy Chúa Giê-su, xin ban cho chúng con chính Chúa là Nước Hằng Sống, để chúng con khỏi còn khát Nước Chúa ơi.