Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 5-A Bài 151-168: Ta là sự sống lại và là sự sống.

Chủ nhật - 26/03/2023 23:57
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 5-A Bài 151-168: Ta là sự sống lại và là sự sống.
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 5-A Bài 151-168: Ta là sự sống lại và là sự sống.
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 5-A Bài 151-168: Ta là sự sống lại và là sự sống.

-------------------------------------------
Phúc Âm: Ga 11, 1-45 "Ta là sự sống lại và là sự sống".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, có một người đau liệt tên là Ladarô, ở Bêtania, làng quê của Maria và Martha. (Maria này chính là người đã xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người. Em trai bà là Ladarô lâm bệnh). Vậy hai chị sai người đến thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, người Thầy yêu đau liệt". Nghe tin ấy, Chúa Giêsu liền bảo: "Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa và do đó Con Thiên Chúa sẽ được vinh hiển".
Chúa Giêsu thương Martha và em là Maria và Ladarô. Khi hay tin ông này đau liệt, Người còn lưu lại đó hai ngày. Rồi Người bảo môn đệ: "Chúng ta hãy trở lại xứ Giuđêa". Môn đệ thưa: "Thưa Thầy, mới đây người Do-thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại trở về đó ư?" Chúa Giêsu đáp: "Một ngày lại chẳng có mười hai giờ sao? Nếu ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì người ta thấy ánh sáng mặt trời; nhưng kẻ đi ban đêm sẽ vấp ngã vì không có ánh sáng". Người nói thế, rồi lại bảo họ: "Ladarô bạn chúng ta đang ngủ, dầu vậy Ta đi đánh thức ông". Môn đệ thưa: "Thưa Thầy, nếu ông ta ngủ, ông sẽ khoẻ lại". Chúa Giêsu có ý nói về cái chết của Ladarô, nhưng môn đệ lại nghĩ Người nói về giấc ngủ. Bấy giờ Chúa Giêsu mới nói rõ: "Ladarô đã chết. Nhưng Ta mừng cho các con, vì Ta không có mặt ở đó để các con tin. Vậy chúng ta hãy đi đến nhà ông". Lúc đó Tôma, cũng có tên là Ðiđimô, nói với đồng bạn: "Chúng ta cũng đi để cùng chết với Người".
Ðến nơi, Chúa Giêsu thấy Ladarô đã được an táng bốn ngày rồi. (Bêtania chỉ cách Giêrusalem chừng mười lăm dặm). Nhiều người Do-thái đến nhà Martha và Maria để an ủi hai bà vì người em đã chết. Khi hay tin Chúa Giêsu đến, Martha đi đón Người, còn Maria vẫn ngồi nhà. Martha thưa Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy". Chúa Giêsu nói: "Em con sẽ sống lại". Martha thưa: "Con biết ngày tận thế, khi kẻ chết sống lại, thì em con sẽ sống lại". Chúa Giêsu nói: "Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không?" Bà thưa: "Thưa Thầy, vâng, con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian".
Nói xong bà về gọi Maria em gái bà và nói thầm với em rằng: "Thầy ở ngoài kia, Thầy gọi em". Nghe vậy, Maria vội vàng đứng dậy và đi đến cùng Chúa. Vì lúc đó Chúa Giêsu chưa vào trong làng, Người còn đang đứng ở nơi Martha đã gặp Người. Những người Do-thái cùng ở trong nhà với Maria và an ủi bà, khi thấy bà vội vã đứng dậy ra đi, họ cũng đi theo bà, tưởng rằng bà đi ra khóc ngoài mộ. Vậy khi Maria đến chỗ Chúa Giêsu đứng, thấy Người, bà liền sấp mình xuống dưới chân Người và nói: "Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt đây, thì em con không chết". Khi thấy bà khóc nức nở và những người Do-thái theo bà cũng khóc, Chúa Giêsu thổn thức và xúc động. Người hỏi: "Ðã an táng Ladarô ở đâu?" Họ thưa: "Thưa Thầy, xin đến mà xem". Chúa Giêsu rơi lệ. Người Do-thái liền nói: "Kìa, xem Ngài thương ông ấy biết bao!" Nhưng có mấy kẻ trong đám nói: "Ông ấy đã mở mắt người mù từ khi mới sinh mà không làm được cho người này khỏi chết ư?" Chúa Giêsu lại xúc động; Người đi đến mộ. Mộ đó là một hang nhỏ có tảng đá đậy trên. Chúa Giêsu bảo: "Hãy đẩy tảng đá ra". Martha là chị người chết, thưa: "Thưa Thầy, đã nặng mùi rồi vì đã bốn ngày". Chúa Giêsu lại nói: "Ta đã chẳng bảo con rằng: Nếu con tin, thì con sẽ xem thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?" Thế là người ta cất tảng đá ra. Chúa Giêsu ngước nhìn lên và nói: "Lạy Cha, Con cảm tạ Cha đã nhậm lời Con. Con biết Cha hằng nghe lời Con, nhưng Con nói lên vì những người đứng xung quanh đây, để họ tin rằng Cha đã sai Con". Nói rồi, Người kêu lớn tiếng: "Ladarô! Hãy ra đây!" Người đã chết đi ra, chân tay còn quấn những mảnh vải, trên mặt quấn khăn liệm. Chúa Giêsu bảo: "Hãy cởi ra cho anh ấy đi".
Một số người Do-thái đến thăm Maria, khi được chứng kiến những việc Chúa Giêsu làm, thì đã tin vào Người. - Ðó là lời Chúa.

---------------------------------
MC 5-A151: NHỮNG KẺ CHÚA YÊU.. 2
MC 5-A152: SỰ SỐNG.. 4
MC 5-A153: CHÚA KHÓC.. 5
MC 5-A154: MIỀN SINH, CÕI TỬ.. 8
MC 5-A155: TIN CHÚA GIÊSU LÀ CHÚA CỦA SỰ SỐNG.. 14
MC 5-A156: PHẢI TIN NHƯ THẾ NÀO?. 17
MC 5-A157: DẤU CHỈ PHỤC SINH.. 19
MC 5-A158: NIỀM TIN SỰ SỐNG LẠI 22
MC 5-A159: ĐỂ ĐÓN NHẬN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI 25
MC 5-A160: TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIÂY PHÚT LÂM TỬ.. 27
MC 5-A161: NIỀM TIN TÍN THÁC.. 30
MC 5-A162: MƠ ƯỚC CHUẨN.. 32
MC 5-A163: CÙNG CHẾT VỚI NGÀI 34
MC 5-A164: NẾU THẦY CÓ Ở ĐÂY.. 36
MC 5-A165: TA LÀ SỰ SỐNG…... 38
MC 5-A166: BIẾT QUÍ TRỌNG SỰ SỐNG.. 42
MC 5-A167: LÀM NGƯỜI ĐÁNH THỨC.. 46
MC 5-A168: CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY_A.. 48

------------------------------
 

MC 5-A151: NHỮNG KẺ CHÚA YÊU


Lm Tôma Nguyễn Hoàng Phượng
 

Đức Kitô, Đấng Cứu Thế cứu giúp và yêu thương hết mọi người. Nhưng có những người Ngài yêu MC 5-A151


Đức Kitô, Đấng Cứu Thế cứu giúp và yêu thương hết mọi người. Nhưng có những người Ngài yêu thương một cách đặc biệt:

            1. Những người đó trước hết phải kể đến các tông đồ. Ngài tuyển chọn, huấn luyện và coi các ông là bạn thân. “Thầy không gọi các con là tôi tớ, nhưng gọi các con là bạn hữu”. (Ga 15,15).

            2. Trong 12 tông đồ, Gioan lại được Chúa thương đặc biệt hơn; Đúng thế, khi nói về Gioan, Phúc âm ghi: “Người môn đệ mà Chúa Giêsu yêu quý”. Và chỉ có mình ông mới được ban tặng danh xưng này. Dấu chỉ rõ nhất là dưới chân cây thánh giá, trước khi tắt thở, Chúa Giêsu trối Đức Mẹ cho thánh Gioan. Ngài trao người yêu thương nhất trên đời, là mẹ Ngài cho môn đệ Gioan: “Này là mẹ con”. Có kẻ nói vì Gioan độc thân, nên Chúa Giêsu thương ông đặc biệt hơn. Có thể là phần đúng. Nhưng nói thế tội nghiệp cho các môn đệ có gia đình. Theo tôi nghĩ: Tình yêu là một tặng phẩm Chúa muốn dành cho ai là tùy Chúa. Nhưng sống làm sao để được Chúa dành yêu thương cho mình mới là điều đáng để ý.

            3. Nói đến những kẻ Chúa yêu, còn phải kể đến một gia đình ở Bêtania. Đó là gia đình ba chị em: Matta, Maria và Lazarô. Phúc âm nhiều lần nhắc tới Chúa dừng chân tại gia đình này:

– Phúc âm kể lại việc Matta lăng xăng tiếp đón Chúa và các môn đệ khi phải lo cho các Ngài ăn uống. Chúa Giêsu nói với Matta: “Con lo lắng bối rối nhiều chuyện quá, một món đủ rồi”.

– Và nói đến cô em Maria ngồi dưới chân Chúa mà thưa chuyện….

– Phúc âm còn đề cập đến Lazarô, người Chúa Giêsu yêu quý.

– Phúc âm theo thánh Gioan đọc Chúa Nhật hôm nay, phác họa cho chúng ta biết Chúa Giêsu đã yêu thương gia đình này một cách đặc biệt.

– Matta và Maria nhờ người đi báo tin cho Chúa Giêsu biết Lazarô đang đau nặng. (Phải có liên hệ nào mới báo tin chứ)

– Câu nói có phần trách móc của hai chị em Matta và Maria: “Nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết”. (Không thân tình ai mà trách móc?).

– Các tông đồ thưa cùng Chúa Giêsu: “Xin Thầy đừng về Bêtania, về đó nguy hiểm lắm, vì kẻ thù đang tìm cách hại Thầy”. Nhưng Chúa Giêsu vẫn về Bêtania.

– Nhất là sự kiện Chúa Giêsu xúc động, không cầm được nước mắt trước mộ Lazarô, khiến cho mọi người phải nhìn nhận: “Kìa xem ông ấy thương Lazarô dường nào”.

Yêu là cho đi, Chúa Giêsu cho đi cảm tình đặc biệt cho các tông đồ, cho Gioan, cho 3 chị em: Matta, Maria và Lazarô. Và Ngài đã phục hồi sự sống cho Lazarô.

Thưa anh em.

Ta phải sống thế nào để có thể chiếm được cảm tình đặc biệt của Chúa?

– Mỗi người hãy đi theo Chúa, gần gũi, gắn bó với Chúa như các tông đồ.

– Hãy nên thân mật với Chúa như 3 chị em nhà Matta, Maria và Lazarô.

– Hãy yêu thương Chúa như thánh Gioan. Nghĩa là phải được Chúa yêu và phải yêu Chúa suốt đời.

Lạy Chúa Giêsu đáng mên, Chúa đã yêu thương và phục hồi sự sống cho Lazarô. Trong mùa chay thánh này, xin Chúa cũng thương canh tân, đổi mới cuộc đời con và phục hồi tâm hồn con, để con chết đi đối với tội lỗi và sống lại với Chúa Kitô.

---------------------------
 

MC 5-A152: SỰ SỐNG


Lm. Trần Việt Hùng
 

La-gia-rô chết ba ngày, Mồ chôn xác rữa, ai hay phận người. Phàm nhân sống chết ở đời, Tự MC 5-A152


La-gia-rô chết ba ngày,
Mồ chôn xác rữa, ai hay phận người.
Phàm nhân sống chết ở đời,
Tự nhiên theo luật, ơn trời trao ban.
Ma-ry tin nhắn nài van,
Chúa về thăm bạn, bệnh nan khó lành.
Vài ngày lưu lại trong thành,
Biết rằng ông chết, du hành hỏi han.
Họ hàng thân quyến khóc than,
Mar-tha gặp Chúa, kêu van đôi lời,
Em con vắn số cuộc đời,
Ơn Thầy cứu giúp, chưa rời thế gian.
Quyền Thầy cao cả trên ban,
Em con đã chết, yên hàn tấm thân.
Ra đi tới mộ sát gần,
Giê-su thổn thức, thế trần lệ rơi.
Thương thay kiếp sống con người,
Ngước lên cầu nguyên, tuyệt vời ân thiên.
Bước ra khỏi mộ nhãn tiền,
La-gia-rô sống, nhân hiền trời ban.

Người Ấn Độ có một suy tư nói rằng khi bạn mở mắt chào đời, bạn khóc và mọi người quanh bạn thì vui mừng. Bạn tiếp tục sống cuộc đời riêng tư. Khi bạn nhắm mắt lìa đời. Mọi người chung quanh sẽ khóc thương bạn, nhưng bạn lại vui trong an bình.

Câu truyện của ông Lazarô trong bài Phúc Âm hôm nay nhắc nhớ về cuộc đời của mỗi người chúng ta. Có sinh ắt có tử. Sinh ra là chúng ta bắt đầu đi dần tới sự chết. Lazarô chia sẻ cuộc sống như mỗi người chúng ta. Có sinh ra, lớn lên, rồi bệnh hoạn và chết. Khi chết đi đã có nhiều người thương tiếc. Chính Chúa Giêsu và các tông đồ cũng nhớ thương đến nhỏ lệ.

Đứng trước sự chết, con người đành bó tay. Một khi đã tắt hơi thở trở về cõi bên kia, khoa học văn minh cũng đầu hàng. Lazarô chết, có nhiều người đến viếng thăm. Người ta đã chôn xác ông ta được ba ngày rồi. Có nghĩa là theo luật tự nhiên xác đã đang rữa thối.

Rất may mắn, nơi đây có sự hiện diện của Đấng ban sự sống. Chúa Giêsu chính là nguồn sống. Chúa đã dùng quyền phép mình cho Lazarô chết ba ngày được sống lại. Quyền năng của Chúa cao vượt trí khôn loài người. Không ai có thể hiểu được. Mọi người trố mắt nhìn xem, nhưng không hiểu. Thiên Chúa đứng cạnh bên mà người ta vẫn không nhận ra. Chính Chúa đã phán: “Ta là sự sống và là sự sống lai. Ai tin vào Ta sẽ không phải chết”.

Chúng ta thường thấy trên các tấm bia mộ nơi nghĩa trang, đều có ghi tên tuổi và năm tháng ngày sinh và ngày từ trần. Các con số được ghi qua một gạch nối. Cuộc sống dài hay ngắn cũng chỉ có một gạch nối bẳng nhau. Gạch nối là biểu hiệu cho biết thời gian chúng ta đã sống bao lâu trên trần gian. Thật vậy, đời sống dài hay ngắn không quan trọng. Chỉ quan trọng là làm sao chúng ta sống một cuộc đời có ý nghĩa và để lại nhiều mến thương.

Chúa Giêsu sau khi bị kết án tử hình trên thập giá và chôn trong mồ, Chúa đã sống lại vinh hiển. Đây chính là niềm hy vọng sống lại ngày sau hết của chúng ta. Chúa Giêsu là đầu chi thể, tất cả chúng ta là chi thể mầu nhiệm của Ngài. Chúa đi trước mở lối cho chúng ta bước theo. Đặt niềm tin tưởng nơi Chúa Kitô phục sinh, chúng ta cũng sẽ được phục sinh với Ngài.    

-----------------------------
 

MC 5-A153: CHÚA KHÓC


 Lm. GB. Trần Văn Hào
 

Cái chết là ẩn số lớn nhất mãi luôn đeo bám phận người. Làm người ai cũng phải chết. Ẩn số MC 5-A153


Cái chết là ẩn số lớn nhất mãi luôn đeo bám phận người. Làm người ai cũng phải chết. Ẩn số này là bài toán không có lời giải đối với bao triết gia cũng như các lãnh tụ tôn giáo từ xưa đến nay. Nhưng đáp án cho bài toán nan giải này đã được Chúa Giêsu khải thị trong trình thuật Tin Mừng hôm nay. Trước khi cho Lazarô sống lại, Chúa đã nói với Matta: “Thầy là sự Phục sinh và là Sự Sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy thì không bao giờ phải chết”. Phép lạ làm cho Lazarô trỗi dậy sau 4 ngày được mai táng trong huyệt mộ đã chứng minh quyền năng Thiên Chúa nơi Đức Giêsu.

Chúa khóc.

Đứng trước cái chết của Lazarô, Chúa Giêsu đã thổn thức, đã xao xuyến trong lòng và đã khóc (c 33, 38). Chúa Giêsu là một Thiên Chúa rất Thiên Chúa, đồng thời cũng là một con người rất con người. Là Thiên Chúa quyền năng, Ngài có thể làm cho kẻ chết sống lại, điều mà con người không ai có thể làm được. Nhưng, là con người, Chúa cũng từng run sợ khi đối diện trước cái chết. Chung hòa kiếp sống làm người, Chúa vui với kẻ vui, khóc với người khóc. Ngài chung chia niềm vui cũng như nỗi buồn với bất cứ ai. Lặng đứng trước ngôi mộ nơi an táng người quá cố, Chúa Giêsu đã bật khóc.

Chúa Giêsu khóc không phải chỉ vì thương tiếc người bạn thân thiết đã ra đi. Ngài cũng không rơi lệ chỉ để tỏ bày lòng thương cảm đối với 2 chị em Matta và Maria. Nhưng Chúa đã khóc khi nghĩ đến phận người, và chính Ngài cũng đang chung chia thân phận bi thương ấy. Chúa biết trước rằng mình sẽ chết, một cái chết kinh hoàng và khủng khiếp giống như một tên tội phạm bị nhận xuống tận đáy bùn đen của xã hội loài người. Ngài sợ, và nỗi khiếp sợ này được tái hiện rõ nét hơn trong cơn hấp hối nơi vườn cây dầu. Ngài kinh hãi đến độ mồ hôi trộn với máu toát ra. Đứng trước mùi tử khí, Chúa đã khóc, những tiếng khóc kèm theo bao đau đớn vì biết trước rằng, mình sẽ phải nếm trải cái chết giống như vậy.

Chết là gì?

Đây là câu hỏi hóc búa nhất từ xưa đến nay. Đây cũng còn là bài toán trầm kha mà bao triết gia đã nhọc công vắt óc suy tư mà mãi vẫn không tìm ra được đáp án. Triết gia Jean Guitton, bạn thân của Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã kể lại một giai thoại. Hồi còn nhỏ, ban đêm ông ngủ với mẹ. Nhà hàng xóm bên cạnh có người chết. Giữa đêm khuya tĩnh lặng, có tiếng khóc ai oán vang xa nghe thật não nuột. Thằng bé sợ quá ôm chồm lấy mẹ. Nó thì thầm hỏi: “Mẹ ơi, chết là gì hở mẹ?” Bà mẹ trẻ lúng túng không biết trả lời đứa bé thế nào. Bà bật dậy ngồi vào bàn lấy cuốn Kinh thánh ra đọc. Trong Tin Mừng Gioan bà đọc thấy đoạn viết: “Trước lễ vượt qua, Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng (Ga 13,1)”. Gấp sách lại, bà trở về giường và trả lời đứa con:  “Con ơi, chết là trở về với Cha và yêu thương đến cùng”. Nơi Đức Giêsu, chết không phải là một dấu chấm hết, kết thúc cuộc đời cách vô nghĩa, nhưng là cửa ngõ mở thông dẫn đến một chân trời mới. Chết không phải là sự ra đi nhưng là cuộc hành trình trở về, trở về với Chúa Cha. Cái chết của Đức Giêsu trở nên cánh cửa đưa dẫn đến sự Phục sinh vinh thắng và đây là đáp án cho mọi ẩn số nơi thân phận bi thương của kiếp người. Thánh Augustinô đã viết: “Có một thời để sống, một thời để chết và một thời để đi vào vĩnh cửu. Thời để sống là lúc chúng ta đi tìm kiếm Thiên Chúa. Thời để chết là lúc chúng ta đến gặp gỡ Ngài. Thời đi vào vĩnh cửu là lúc chúng ta chiếm hữu Ngài cách trọn vẹn”. Đáp án cho bài toán nan giải về sự chết chính là ở đây.

Lazarô đã chết và được Chúa cho phục sinh. Nhưng, chàng thanh niên được Chúa cho sống lại chỉ là tạm thời. Cuối cùng anh cũng phải chết một lần nữa, phải đi vào thân phận cát bụi. Khởi đầu mùa chay thánh với việc cử hành nghi thức xức tro, Giáo hội đã nhắc lại cho chúng ta về chân lý này.

Ta là Sự Phục sinh và là Sự Sống

‘Phép lạ xảy ra là để anh em tin’ (c 15). Chúa Giêsu đã nói trước như thế. Trong sách Tin Mừng thứ tư, thánh Gioan đã nhiều lần nhắc đi nhắc lại đích nhắm của Ngài là: “Tin vào Đức Giêsu – Đấng Kitô, và ai tin thì có sự sống đời đời”. Cũng vậy, việc Chúa cho Lazarô sống lại không phải nhằm phô diễn một kỳ tích để cho thiên hạ vỗ tay. Chúa cũng không thực hiện phép lạ chỉ vì có lòng thương cảm mang tính riêng tư đối với các thành viên trong gia đình Bêtania, mặc dầu người Do Thái xầm xì: “Kìa xem, ông ta thương Lazarô biết mấy”. Trước khi làm phép lạ, Chúa đã nói với Matta “Thầy là sự sống lại và là sự sống” và Ngài hỏi tiếp “Chị có tin như thế không”(c.26).

Trong các trình thuật của Gioan, đức tin luôn là điều kiện để dẫn tới các phép lạ.

Lời tuyên bố của Chúa Giêsu trên đây không phải là một lối nói cường điệu hóa như trong xã hội thời nay, nhiều người vẫn hay ‘nổ’ một cách kênh kiệu và khá lố bịch. Đức Giêsu là Thiên Chúa đầy quyền năng, một Thiên Chúa hằng sống, Đấng không bao giờ phải chết, nhưng Ngài đã đi vào trần gian, mang lấy kiếp người hèn hạ và đã đón nhận cái chết một cách bi thương. Đây là một nghịch lý cao cả và nghịch lý đó đã được giải mã nơi biến cố Phục sinh. Vì vậy, Giáo hội hôm nay muốn nhắc lại để chúng ta xác tín điều mà Chúa công bố: “Tôi là Sự Phục sinh và là Sự Sống”.

Kết luận

Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu trên giường hấp hối đã thì thào nói với các chị em trong cộng đoàn: “Em sắp chết, nhưng không phải em chết mà em đang tiến về cõi sống”. Trong tập sách ‘Nhật ký một tâm hồn’, chị thánh cũng ghi lại: “Ơn gọi của tôi là tình yêu. Tình yêu là tất cả. Tình yêu vượt mọi thời gian và không gian. Ơn gọi của tôi không là gì khác ngoài tình yêu.” Tình yêu chính là tên gọi của Thiên Chúa như Thánh Gioan tông đồ đã khẳng quyết. Ai ở trong tình yêu người đó ở trong Thiên Chúa và sẽ không bao giờ phải chết, bởi vì Thiên Chúa là Đấng bất tử. Tư tưởng thần học này cũng được lập lại trong phụng vụ hôm nay để chúng ta suy gẫm. Trong sứ điệp mùa chay năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng mời gọi chúng ta hãy thực hành tình yêu cách cụ thể, đừng bắt chước thái độ sống của người phú hộ giàu có keo kiệt khi đối mặt với Lazarô nghèo khổ (Lc 16, 19-31). Nơi người phú hộ, sự ham mê của cải, thói ưa thích những lạc thú chóng qua và hay phô trương cái tôi, là ba hình thái loại trừ tình yêu chân thực, gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống và cuối cùng sẽ bị án phạt đời đời.

Trong mùa chay thánh, xin Chúa giúp chúng ta thực hiện cuộc hoán cải nội tâm để luôn biết bám chặt vào Đức Giêsu, Đấng là Sự Phục sinh và là Sự Sống, và là đối tượng duy nhấtcủa đức tin nơi chúng ta.

----------------------------------
 

MC 5-A154: MIỀN SINH, CÕI TỬ


Trầm Thiên Thu
 

Sinh – Tử là hai thái cực, hai đầu “mở” và “đóng” của cuộc lữ hành trần gian. Thật vậy, chính Chúa MC 5-A154


Sinh – Tử là hai thái cực, hai đầu “mở” và “đóng” của cuộc lữ hành trần gian. Thật vậy, chính Chúa Giêsu cũng đã qua hai “ngưỡng” này – từ Belem tới Can-vê. Thế gian có nhiều loại “cuộc”, nhưng có lẽ đặc biệt nhất là cuộc đời, với đủ thứ nhiêu khê đan xen trong cái “cõi sống” đó!

Cuộc đời cũng là cuộc sống, là sự sống, nhưng không là Nguồn Sống. B. Brech nói: “Cái đáng sợ không phải là chết, mà là sống rỗng tuếch”. Cách “sống rỗng tuếch” là sống-như-chết, tức là “chết ngay khi còn sống”. Còn Maxwell Winston Stone nói: “Đừng nghĩ đến cái chết về thể xác mà hãy trả lời câu hỏi: Bạn đã hoàn thành sứ mệnh của cuộc đời mình chưa? Nhắc đến cái chết và chuẩn bị cho cuộc hành trình sang thế giới bên kia dường như khiến người ta bị quan, lo sợ. Nhưng theo nghĩa lạc quan, có một điều mới lạ sắp đến. Khi đó, bạn không còn cảm giác lo lắng hay sợ hãi nữa”. Biết nghĩ đến cái chết để cố gắng sống tốt hơn, chứ không để bi quan hoặc yếm thế.

Chắc chắn ai trong chúng ta cũng có hai sự sống: Sự sống thể lý và sự sống tâm linh. Người vô thần cũng có hai sự sống, dù họ cố ý chối bỏ phần tâm linh. Chắc chắn rằng sự sống tâm linh quan trọng hơn, vì đó là sự sống của linh hồn, mà chính linh hồn mới làm cho thân xác sống. Tuy nhiên, điều quan trọng phải ghi nhớ là chỉ có Thiên Chúa mới là Nguồn Sống (Tv 36:10). Thật vậy, Chúa Giêsu đã minh định: “Chính Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14:6). Và Thánh Vịnh gia cũng đã phân tích rạch ròi: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy Sinh Khí lại, chúng tắt thở ngay mà trở về cát bụi. Sinh Khí của Ngài, Ngài gửi tới, chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này” (Tv 104:29-30).

Thật vậy, Cựu Ước đã xác định rằng “chính Ngài ban Sự Sống cho muôn vật, muôn loài” (Nkm 9:6), và nguyên tổ A-đam là người đầu tiên được đón nhận sự sống: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi Sinh Khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2:7). Được sinh ra làm người đã là một hồng ân rồi, dù chúng ta như thế nào – thậm chí là sống đời thực vật. Tất nhiên, chúng ta không có quyền đòi hỏi hoặc chọn lựa gì cả, bởi vì  “Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử”, Ngài có thể “đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên” (Đnl 32:39; 1 Sm 2:6; Kn 16:13). Đó là quyền của Ngài, được thể hiện qua sự quan phòng và tiền định từ thuở đời đời.

Sự sống rất cần, vì thế mà mọi người đều có trách nhiệm bảo vệ sự sống. Sự sống liên quan không khí. Không khí là dưỡng khí, là ô-xy để chúng ta hít thở. Thiếu không khí vài phút là mọi vật chết hết. Chính không khí là đại hồng ân Thiên Chúa trao ban cho mọi loài, chúng ta sử dụng liên tục mà vẫn coi thường, thậm chí là vô ơn bạc nghĩa. Làm ô nhiễm môi trường là hủy hoại môi sinh, tiêu diệt sự sống, tự giết chính mình. Đó là tội lỗi!

Liên Hiệp Quốc cảnh báo rằng, kể từ Thế Chiến II tới nay, chúng ta đang sống trong cơn khủng hoảng nhân đạo dữ dội nhất. Hàng hàng lớp lớp đang chịu đói khát cả về thể lý lẫn tinh thần. Quả thật, đây là báo động đỏ cho thời đại của chúng ta ngày nay vậy.

Thuở xưa, Thiên Chúa đã nói với ngôn sứ Ê-dê-ki-en: “Ngươi hãy tuyên sấm, hãy nói với chúng rằng Đức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Ít-ra-en. Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, khi Ta mở huyệt cho các ngươi và đưa các ngươi lên khỏi huyệt, hỡi dân Ta!” (Ed 37:12-13). Được ra khỏi huyệt mộ là thoát chết, tức là được sống. Thật là Đại Phúc cho ai được như vậy!

Và chẳng đâu xa, mỗi chúng ta đã và đang được nhận phúc lớn đó. Thật vậy, Thiên Chúa đã nói như một lời giải thích: “Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh. Ta sẽ cho các ngươi định cư trên đất của các ngươi. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, Ta đã phán là Ta làm” (Ed 37:14). Chúng ta được Thiên Chúa “thổi hơi” để trao ban Thần Khí, nhờ đó mà chúng ta có thể sống. Và còn hơn thế nữa, vì chúng ta còn được sống dồi dào (Ga 10:10), theo mong muốn của Chúa Giêsu. Nếu chúng ta không thể sống dồi dào là lỗi tại chúng ta. Lời Chúa xác quyết “Ta đã phán là Ta làm” khiến chúng ta an tâm. Quả thật, Ngài không hề sai lời và Ngài rất thẳng thắn, một là một chứ không xấp xỉ hoặc tương đương. Tuyệt vời là như thế đấy!

Tình trạng “ở trong bóng tối” tức là CHẾT, tình trạng “ở trong ánh sáng” tức là SỐNG. Chúng ta chết vì chúng ta ở trong bóng tối – bóng tối tội lỗi. Vì thế, chúng ta luôn phải khẩn cầu: “Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy Chúa, muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con. Dám xin Ngài lắng tai để ý nghe lời con tha thiết nguyện cầu” (Tv 130:1-2). Đó là lời cầu cấp tốc, lời cầu khẩn cấp, như tiếng còi vang lên từ xe cứu thương hoặc hiệu lệnh báo động.

Ôi, lại một hồng ân nữa: Chúng ta biết đánh tín hiệu cấp cứu “S.O.S” nên được cứu sống, nhờ Thiên Chúa đến kịp. Vâng, ước gì mỗi khi gặp hoạn nạn, chúng ta luôn biết “dò làn sóng của Thiên Chúa” bằng cách van xin: “Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài” (Tv 130:3-5). Tuy nhiên, muốn được như vậy cũng không hề dễ dàng, nếu chúng ta không “hết lòng mong đợi và cậy trông ở lời Chúa” (Tv 130:5). Thật vậy, nếu thực sự muốn “sống cho đúng nghĩa”, chúng ta phải tâm niệm rạch ròi: “Hồn tôi trông chờ Chúa, hơn lính canh mong đợi hừng đông. Hơn lính canh mong đợi hừng đông, bởi Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu chuộc nơi Ngài chan chứa. Chính Ngài sẽ cứu khỏi tội khiên muôn vàn” (Tv 130:6-8).

Thiên Chúa không ngừng phát “sóng hồng ân” liên tục 24/7, chúng ta không bắt được sóng của Ngài có thể là vì chúng ta không có ăng-ten, không muốn bắt “sóng thương xót” hoặc không muốn nghe các chương trình của Ngài vì cảm thấy “không hợp” với mình, cũng có thể vì thế mà chúng ta thích bắt các đài khác hợp ý mình hơn, nhưng khốn thay đó lại là các làn sóng của thế gian và Satan. Đó là “sống mà như chết”, thân xác thì sống thật đấy mà linh hồn lại chết rồi!

Chúng ta biết rằng chuyện sống – chết liên quan vấn đề xác – hồn. Điển hình và dễ nhận thấy là sự sống của thân xác. Nhưng cũng nên phân biệt rạch ròi hai vế là “xác thịt” (nhục thể, cụ thể) và “tính xác thịt” (trừu tượng). Đôi khi “tính xác thịt” còn nguy hiểm hơn “xác thịt”. Có lẽ vì thế mà Giáo hội “đề nghị” lời cầu nguyện trong mầu nhiệm thứ Năm của Mùa Thương: “Xin cho con biết đóng đinh tính xác thịt vào Thánh Giá Chúa”. Vả lại, chính Chúa Giêsu cũng đã cảnh báo: “Tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26:41; Mc 14:38).

Rất có thể khi nghe nói như vậy sẽ có người muốn “nổi loạn” và muốn “kiện” Chúa. Tại sao? Bởi vì họ cho rằng Ngài đã tạo nên một dạng thân-xác-yếu-hèn. Ý nói là Chúa đã “cài đặt” mặc định (default) như vậy rồi, y như máy vi tính đã “đóng băng” (Deep Freeze), chúng ta có thay đổi mọi thứ thì nó cũng trở về “mặc định” sau khi nó được khởi động lại (restart). Nhưng KHÔNG phải như vậy. Thật ư? Vấn đề thứ nhất: đó là mầu nhiệm, chúng ta không đủ trình độ để hiểu. Vấn đề thứ nhì: Thiên Chúa không bao giờ tạo dựng điều xấu, vì Ngài là Đấng chí thánh, nơi Ngài CHỈ CÓ ĐIỀU TỐT chứ KHÔNG CÓ ĐIỀU XẤU.

Quả thật, Thánh Phaolô đã nói: “Những ai bị tính xác thịt chi phối thì không thể vừa lòng Thiên Chúa” (Rm 8:8). Nhưng chúng ta thật may mắn vì chính tội-nhân-chúng-ta được trở thành con cái của Thiên Chúa, điều mà Thánh Phaolô đã giải thích: “Anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em. Ai không có Thần Khí của Đức Kitô thì không thuộc về Đức Kitô” (Rm 8:9). Còn hơn cả sự tuyệt vời!

Đối với chuyện sinh – tử, Thánh Phaolô giải thích và xác định chi tiết: “Nhưng nếu Đức Kitô ở trong anh em thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công chính. Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8:10-11).

Và Kinh Thánh cũng đã nói: “Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử, đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên” (1 Sm 2:6). Quả đúng là như vậy, vì “Thiên Chúa nắm chủ quyền trên mọi xác phàm” (Đn 14:5), chính “Chúa Cha đã ban cho Người [Đức Kitô] quyền trên mọi phàm nhân” (Ga 17:12) và “trên mọi chi tộc” (Kh 13:7). Rất rõ ràng, rất rạch ròi, không có gì mơ hồ!

Tin Mừng hôm nay là trình thuật Ga 11:1-45, kể lại một chuyện-cổ-tích-có-thật thế này: Một người bị đau nặng tên là La-da-rô, quê ở Bê-ta-ni-a, em trai của hai chị em cô Mác-ta và Ma-ri-a (người sau này sẽ xức dầu thơm và lấy tóc lau chân Chúa Giêsu). Một hôm, anh La-da-rô bị đau nặng và… tắt thở. Chuyện buồn xảy ra hằng ngày, không của riêng ai, vì ai cũng tới lúc này. Và ai cũng đã nhiều lần có cảm giác mất mát người thân hoặc bạn bè, càng nhiều tuổi càng trải qua nhiều cảm giác “lạ” này.

Ngay khi biết em trai bị bệnh nặng, khó qua khỏi, hai chị em gái cho người đến báo tin buồn cho Đức Giêsu: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng”. Chúng ta thấy rõ ràng La-da-rô là “người mà Chúa Giêsu thương mến”, thế nhưng Ngài vẫn thản nhiên bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh”. Giữa lúc dầu sôi lửa bỏng thế mà Chúa Giêsu vẫn bàng quan thế ư? Không phải đâu, Ngài không dùng từ nào thừa hoặc thiếu, nhưng rất chính xác và đầy đủ, vì Ngài biết Ngài là ai và Ngài sẽ làm gì.

Chúng ta được biết rằng Chúa Giêsu quý mến cả ba chị em Mác-ta, Ma-ri-a và La-da-rô, bằng chứng là Ngài đã lưu lại thêm hai ngày ở nhà họ. Sau đó, Ngài cùng các môn đệ trở lại Giu-đê. Các môn đệ thấy người Do-thái mới tìm cách ném đá Thầy, nên muốn can ngăn. Nhưng Ngài vẫn bình tĩnh bảo họ: “Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng mặt trời. Còn ai đi ban đêm thì vấp ngã, vì không có ánh sáng nơi mình!”. Một bài học nữa về cách sống tâm linh mà Chúa Giêsu dạy cho chúng ta, đặc biệt là các Kitô hữu.

Khi đó, Chúa Giêsu bảo họ: “La-da-rô, bạn của chúng ta, đang yên giấc. Tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây”. Các môn đệ nói: “Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc được, anh ấy sẽ khoẻ lại”. Các môn đệ không hiểu ý của hai từ “yên giấc” mà Ngài dùng, họ tưởng Ngài nói về việc ngủ nghỉ bình thường. Thật ra Ngài muốn đề cập SỰ CHẾT. Và rồi Ngài phải nói toạc móng heo luôn: “La-da-rô đã chết. Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi, nào chúng ta đến với anh ấy”. Ôi chao! Thấy người ta chết mà lại bảo là “mừng”. Coi bộ “căng” dữ nghen! Thế nhưng đúng là như vậy, Ngài mừng vì Ngài không có mặt ở đó để người ta thêm tin khi thấy việc Ngài làm: Cải tử hoàn sinh cho La-da-rô.

Hôm đó, các đệ tử đã đồng tâm nhất trí muốn “cùng chết với Sư Phụ”. Tốt lắm, ít ra cũng là như thế! Cuộc sống cần nhớ điều này: Dù CHƯA LÀM được điều mình MUỐN thì ít ra cũng phải biết MUỐN điều mình MUỐN THỰC HIỆN.

Chắc hẳn là La-da-rô bệnh nặng lắm nên mới mau chết như vậy. Bởi vì dù đường không xa, nhưng khi Chúa Giêsu đến nơi, người ta đã an táng La-da-rô được bốn ngày rồi. Kinh Thánh cho biết rằng Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem không xa, chưa đầy ba cây số, nhưng thời đó cuốc bộ suốt nên mất nhiều thời gian. Có nhiều người Do-thái đến chia buồn với chị em Mác-ta và Ma-ri-a. Dân làng với nhau mà, có chuyện gì cũng chia sẻ với nhau – dù là việc hỉ hay việc hiếu.

Khi nghe tin Đức Giêsu đến, cô Mác-ta liền vội ra ngõ đón Ngài, còn cô Ma-ri-a thì cứ ngồi ở nhà, cứ bình thường, ra vẻ như chẳng có gì quan trọng. Phong cách bình thản như thế kể cũng hay thật đấy! Nhà hiếu chưa yên chuyện buồn thì lại có chuyện khác. Cuộc đời thật là rắc rối như mớ bòng bong vậy!

Vừa gặp Chúa Giêsu, Mác-ta nói ngay: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”. Ngài liền bảo: “Em chị sẽ sống lại!”. Mác-ta thưa rằng cô vẫn tin kẻ chết sống lại trong ngày sau hết. Nhưng Ngài nói rõ: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết”. Ngài hỏi Mác-ta có tin thế không, Mác-ta cũng xác tín: “Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”. Một lời tuyên xưng tuyệt vời quá đỗi!

Sau đó, Mác-ta vội đi nói nhỏ với Ma-ri-a: “Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy!”. Nghe vậy, Ma-ri-a liền đứng lên và đến với Đức Giêsu. Lúc đó, Ngài chưa vào làng, vẫn ở chỗ Mác-ta đã ra đón. Những người Do-thái thấy Ma-ri-a vội vã đứng dậy đi ra thì cũng đi theo, vì họ tưởng cô ra mộ khóc em.

Khi đến gần Đức Giêsu, Ma-ri-a liền phủ phục dưới chân và nói: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết”. Thật là tội nghiệp hết sức! Thấy cô khóc, những người Do-thái đi với cô cũng khóc, và chính Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến. Có lẽ Ma-ri-a khóc em trai dữ lắm, đặc biệt là thể hiện niềm thương nỗi nhớ của chị dành cho em. Khi đó, Ngài hỏi xác anh ấy ở đâu. Họ mời Ngài đến mộ, và Ngài cũng bật khóc. Thấy thế, người Do-thái bảo nhau: “Kìa xem! Ông ta thương anh La-da-rô biết mấy!”. Có vài người trong họ dặt vấn đề rằng Đức Giêsu đã từng mở mắt cho người mù mà sao lại không làm cho anh ấy khỏi chết. Nghe họ nói vậy nên Chúa Giêsu lại thổn thức trong lòng. Thương lắm chứ, thương cả người chết và người sống, thế nên Ngài đã thể hiện “chạnh lòng thương” tới ba lần! Rồi Ngài đi tới mộ La-da-rô, phiến đá vẫn đậy kín cửa hang. Ngài bảo người ta lăn phiến đá ra. Mác-ta vội ngăn lại, và bảo đã nặng mùi, bởi vì La-da-rô đã an táng được bốn ngày rồi. Lúc đó, Chúa Giêsu nhắc lại chuyện đức tin, và không ai có thể nói gì thêm nữa.

Ngay sau khi phiến đá được đem đi, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con”. Nói xong, Ngài nói lớn: “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ!”. Ôi chao, thật là diệu kỳ, người chết bật dậy và lù lù đi ra trong khi thân xác vẫn còn quấn vải liệm. Chắc hẳn lúc đó ai cũng phải kinh ngạc. Đức Giêsu điềm nhiên bảo: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi”. Hai bà chị cũng ngạc nhiên không kém, nhưng họ rất vui mừng, không chỉ vì em trai sống lại mà chính là họ biết niềm tin của họ vào Thầy Giêsu là điều hoàn toàn chính xác.

Thánh sử Gioan cho biết thêm rằng trong số những người Do-thái đến đám tang La-da-rô hôm đó cũng đều được chứng kiến việc Đức Giêsu làm cho người chết sống lại, và trong số đó có nhiều kẻ đã tin vào Ngài. Họ thật diễm phúc vì đã tin. Tất nhiên cũng vẫn có những kẻ cứng lòng, một phần vì họ cố chấp, không muốn tin mặc dù thấy nhãn tiền. Ngày nay cũng vẫn có nhiều người cố chấp như thế đấy!

Hôm nay, khi đề cập vấn đề chuyện sinh – tử và có liên quan đức tin, chúng ta cùng nhớ lại một mối phúc đặc biệt – ngoài Tám Mối Phúc – mà Chúa Giêsu đã nói với tông đồ Tô-ma sau khi Ngài từ cõi chết sống lại: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20:29). Và đó cũng là lời “nhắc khéo” đối với chúng ta hôm nay vậy!

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng sinh, xin thương ban thêm đức tin cho con, bởi vì đức tin của con còn yếu đuối lắm, và con biết chắc rằng nếu không có Ngài thì con không thể làm được bất cứ điều gì (Ga 15:5). Abba – Lạy Cha! Xin giúp con biết cách biến đổi chính sự yếu đuối của con thành sức mạnh nhờ Đức Kitô, để dù SỐNG hay CHẾT, con vẫn mãi chỉ thuộc về Ngài mà thôi. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Người Tôi Trung đau khổ và Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

-------------------------------
 

MC 5-A155: TIN CHÚA GIÊSU LÀ CHÚA CỦA SỰ SỐNG


Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
 

Khao khát sống là khao khát mãnh liệt và sâu thẳm trong mỗi con người. Khi đối diện với bệnh MC 5-A155


Khao khát sống là khao khát mãnh liệt và sâu thẳm trong mỗi con người. Khi đối diện với bệnh tật, tai nạn bất thường, con người chợt nhận ra sự mong manh của cuộc sống. Cho dù y khoa đã phát triển đến mức độ cao, nhưng vẫn không giúp con người được an tâm mỗi khi đối diện với bệnh tật, không thể kéo dài được sự sống cho con người. Cái chết vẫn là điều ám ảnh nhiều người và là nỗi sợ hãi tột cùng cho những ai đang đối diện với nó.

Niềm tin dân gian cho rằng: Sống hay chết là do mệnh trời. Còn những Kitô hữu tin rằng: Thiên Chúa là Đấng hằng sống và là Đấng ban sự sống, Ngài không dựng nên sự chết. Cái chết là do ma quỷ và tội lỗi gây ra, cái chết trở thành đau khổ tột cùng của con người. Người đem cái chết đến cho nhân loại chính là nguyên tổ.

Lời Chúa tuần thứ V Mùa Chay hôm nay cho thấy, Thiên Chúa không vui khi thấy con người phải chết, Ngài không đành lòng khi nhìn thấy con người đau khổ dằn vặt bởi sự chết. Vì thế, qua miệng của Ezekien, Thiên Chúa đã báo trước cho Israel: Hỡi dân Ta, chính ta sẽ mở huyệt cho các ngươi, ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Israel. Lời này được cống bố khi dân Israel đang chịu cảnh lưu đầy khốn khổ tại Babylon, cuộc sống khổ sai khiến họ sống mà như đã chết.  Israel sống trong sự áp bức, ngục tù tăm tối, không hy vọng, không tương lai, như người đã chết bị vùi trong nấm mồ. Với lời tiên báo của Ezekien, Israel như được tăng sức mạnh, được hồi sinh và hy vọng Thiên chúa sẽ đưa họ ra khỏi cảnh chết chóc tù ngục này. Thiên Chúa không chỉ hứa đưa họ lên khỏi nấm mồ, mà còn hưa ban thần khí của Ngài vào tâm hồn họ để họ có thể sống một cuộc đời mới, với một sinh khi mới, có nghĩa là họ sẽ được hoàn toàn biến đổi. Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa đó khi cho họ được hồi hương trở về Giêrusalem tái thiết đền thờ, tái thiết quốc gia và tổ chức lại các việc tế tự. Từ đây, một trang sử mới mở ra cho cả dân tộc Israel.

Tuy nhiên, việc Thiên Chúa hồi sinh dân tộc Israel vẫn chỉ để báo trước về việc Thiên Chúa là chủ sự sống, Ngài có quyền trên sự chết, Ngài sẽ làm cho kẻ chết sống lại, ban tặng sự sống cho những ai tin tưởng nơi Ngài. Chúa Giêsu là hiện thân lòng thương xót của Thiên Chúa Cha. Ngài đến để chia sẻ thân phận đau khổ của con người, cảm thông với nỗi đau tột cùng khi con người phải đối diện và bất lực trước cái chết.

Tin Mừng Gioan muốn minh chứng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Đấng chạnh lòng thương và là Đấng có quyền trên sự sống và sự chết. Chúa Giêsu cũng là con người với tất cả những cảm xúc tự nhiên của con người. Sống trên trần gian, Chúa có những học trò thân tín là các tông đồ. Ngài cũng có những người bạn để tâm sự và thường lui tới thăm hỏi, như Lazarô và các chị em Matta, Maria. Thánh Gioan kể lại chuyện Matta và Maria cho người đến báo tin cho Chúa Giêsu: Người thầy yêu thương đang bệnh nặng. Chúa Giêsu đã không thể đến ngay để thăm người bạn và Ngài còn nói trước với các môn đệ: Qua căn bệnh của người bạn này, mọi người sẽ thấy quyền năng Thiên Chúa nơi Ngài. Khi đến nới, nhìn thấy cảnh đau khổ của chị em Matta và Maria, Chúa Giêsu đã không thể cầm lòng, Ngài đã khóc. Sự xúc động của Chúa Giêsu không chỉ là sự mủi lòng, nhưng là sự cảm thông sâu sắc bởi vì chính Ngài đã mất một người bạn thân, hai chị em cô Matta và Maria đã mất người em. Sự xúc động này còn là sự cảm thông trong thân phận con người khi đối diện với nỗi đau quá lớn, đó là sự chết, mà không ai có thể cưỡng lại được.

Là một người dễ xúc động và cảm thông, Chúa Giêsu đã rơi nước mắt trước cái chết của Lazarô, nhưng với quyền năng Thiên Chúa nơi Ngài, Ngài không chịu thua cái chết, Ngài không thể để cho cái chết mãi thống trị nhân loại. Chúa Giêsu sẽ thể hiện sức mạnh quyền năng của mình trên sự chết với điều kiện mọi người phải tin Ngài là Thiên Chúa. Tin Mừng cho thấy, để đi đến sự xác tín vào Chúa Giêsu, Đấng là sự sống lại và là sự sống, chị em cô Matta phải đi từng bước và được sự nâng đỡ của Chúa Giêsu.

Khung cảnh đầu tiên Tin Mừng giới thiệu là sự u buồn của cả hai chị em Matta, Maria, họ dường như đã hoàn toàn suy xụp vì cái chết của Lazarô. Khi nghe tin Chúa Giêsu đến, Matta đi đón Chúa, cô chỉ còn một chút hy vọng mong manh: Nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, con biết Thấy xin gì cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy. Chúa Giêsu không nỡ để cho ánh lửa đức tin mong manh này bị vụt tắt, Ngài đã khích lệ Matta: Em con sẽ sống lại. Cô Matta đã chưa thể bước một bước dài trong đức tin để tin vào sự sống lại, nên cô đã trả lời: Con biết, vào ngày tận thế, khi mọi người sống lại thì em con cũng sống lại.

Một lần nữa, Chúa Giêsu đã khơi lên để mời gọi Matta tin: Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ sống. Ai sống mà tin vào Thầy thì không bao giờ phải chết. Chị có tin như thế không? Cô Matta đã công khai tuyên xưng niềm tin của mình: Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian. Qua lời tuyên xưng này, cô Matta đã tin Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, Đấng mà các tổ phụ, các tiên tri đã loan báo. Cô còn tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, tức là tin Ngài là chính Thiên Chúa, Đấng làm chủ sự sống va sự chết, Đấng tạo dựng vũ trụ muôn vật muôn loài, Ngài nắm giữ giềng mối của vạn vật mọi loài.

Đối với cô Matta, từ việc tuyên xưng đức tin đến việc thực hành cụ thể vẫn là một thử thách. Khi Chúa Giêsu ra lệnh: Hãy mở nắp mộ Lazarô ra thì cô Matta đã ngăn cản: Thưa Thầy, đã nặng mùi rồi, vì em con đã chết bốn ngày. Một lần nữa, Chúa Giêsu đã phải khích lệ đức tin của cô khi nói: Thầy đã nói với chị, nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa !

 Sau khi ngước mắt lên trời cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu đã cất tiếng gọi: Lazarô, hãy ra khỏi mồ! Người chết từ trong mồ bước ra, tay chân vẫn còn quấn băng vải. Chúa Giêsu ra lệnh cho mọi người: Cởi khăn và vải cho anh ấy, Lazarô đã được hồi sinh trở lại với cuộc sống. Nhiều người chứng kiến phép lạ đã tin vào Chúa Giêsu.

Con người chúng ta luôn cảm thấy cuộc sống thật mong manh, cảm thấy sợ hãi khi phải đối diện với đau khổ, bệnh tật, nhất là đối diện với cái chết. Cái chết luôn là nỗi đau khổ dày vò, không chỉ vì thân xác phải tàn lụi, nhưng là vì không biết điều gì sẽ xảy ra sau khi chết, và số phận của mình sau cái chết là gì? Nhiều người đã thất vọng buông xuôi trong sợ hãi.

Lời Chúa hôm nay khơi lên cho chúng ta niềm tin và hy vọng vào lời hứa của Chúa Giêsu: Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào thầy dù có chết cũng sẽ được sống và ai sống mà tin vào Thầy thì sẽ không phải chết. Tin vào Chúa Giêsu, chắc chắn không chỉ là lời tuyên xưng trên môi miệng, nhưng phải là sự gắn bó cuộc đời trọn vẹn với Chúa, trung thành theo Chúa cả lúc vui lẫn khi buồn, phó thác cho Chúa tất cả tương lai và cuộc đời mình. Chúng ta chỉ có thể được sống khi chúng ta đón nhận sự sống Chúa trao ban qua Bí tích Thánh Thể và qua Lời Chúa. Chúa đã hứa: Ai ăn thịt và uống máu Ta thì có sự sống đời đời; và Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ Lời Chúa phán ra.

Cái chết thể xác là điều tất yếu của thân phận con người, nhưng sẽ vô cùng kinh khủng khi con người để cho mình phải chết cái chết về phần linh hồn. Xin cho chúng ta luôn trung thành theo Chúa và đón nhận sức sống của Chúa ngay từ hôm nay để chúng ta được nuôi dưỡng bằng sức sống của Chúa để khỏi chết đời đời. Amen.

------------------------------
 

MC 5-A156: PHẢI TIN NHƯ THẾ NÀO?


 Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
 

Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại!” chúng ta vẫn tuyên xưng như thế mỗi lần đọc kinh tin MC 5-A156


“Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại!” chúng ta vẫn tuyên xưng như thế mỗi lần đọc kinh tin kính. Ki-tô hữu tin chắc một ngày kia mình sẽ được Chúa cho sống lại, cho dầu chưa một ai có kinh nghiệm về điều đó. Niềm tin này về mặt tâm lý thật rất quan trọng, vì trước hết nó có tác dụng kìm hãm con người khỏi một cuộc sống buông thả, sa đọa. Ta vẫn thường tự hỏi, những người tự xưng mình là vô thần là duy vật, nếu quả thực họ xác tín mình như thế, thì động lực nào thôi thúc họ làm lành lánh dữ đây? Thế nhưng câu chuyện thánh sử Gio-an viết về ông La-da-rô được Đức Giê-su cho sống lại sau bốn ngày đã chôn cất trong phần mộ lại không đơn giản chỉ nhằm minh chứng cho niềm tin rằng con người sẽ được sống lại. Đúng hơn đoạn Tin Mừng buộc mỗi người chúng ta giáp mặt với một vấn nạn còn quan trọng hơn thế nhiều: tôi có hay không đặt niềm tin trọn vẹn nơi một mình Đức Ki-tô Giê-su là chính nguồn sống và ‘là sự sống lại’ của tôi?

Giống như phần đa các người Do Thái khác, cô Mác-ta tin rằng hết thảy mọi người một ngày kia sẽ sống lại: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”. Tuy nhiên Đức Giê-su không đòi cô chỉ tin có một điều như thế; khi hỏi: “Chị có tin thế không?” điều Người muốn cô (và mọi tín hữu) phải tuyên xưng là: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống mà tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”; thoạt nghe có vẻ như cả hai câu nói lên cùng một điều duy nhất, tuy nhiên nhìn kĩ ta mới khám phá ra rằng: câu Đức Giê-su khảng định có nội dung khác hẳn với câu Mác-ta tuyên xưng.

Mà quả thực là như vậy! Đáp lại câu hỏi “Chị có tin thế không?” cô Mác-ta đã vội vã sử dụng công thức tuyên tín quen thuộc: “Thưa Thầy, có! Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”. Cô thành thực tin rằng: Đức Giê-su quả là đấng Ki-tô; và như thế có nghĩa là Người chắc chắn có mọi quyền năng được Thiên Chúa ban cho; rồi cũng chính nhờ quyền năng đó mà Người có thể cứu cậu em La-da-rô mình khỏi chết: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”. Niềm tin đó tự nó đã cao đẹp lắm rồi, nhưng hình như vẫn còn quá yếu để cô nắm chắc rằng cậu em sẽ được sống lại. Quả vậy, khi Đức Giê-su truyền lăn phiến đá lấp cửa mồ ra, cô còn hớt hải phảng kháng:  “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày!” Đối với cô, quyền năng của Thiên Chúa chỉ có thể cứu sống La-da-rô khi chưa chết, chứ không thể làm cho ông anh ‘đã chết bốn ngày rồi’ chỗi dậy. Cho dù Đức Giê-su có quyền năng gì đi chăng nữa, thì cũng chỉ tới mức độ đó mà thôi.

Không thỏa mãn với niềm tin đó, Đức Giê-su khảng định cách chắc nịch và căn cơ hơn: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống!” Người còn thêm: ai tin điều đó, tất nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng, nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” Làm cho một kẻ đã chết về thể lý sống lại thì rõ ràng quyền năng của Thiên Chúa đã được chứng tỏ, còn nếu hoàn lại sức sống thần linh cho một kẻ đã chết trong tội thì lại càng phải biểu lộ vinh quang đó cách rõ rệt hơn (xem Mc 2:9-10)! Thế nhưng không may là thường khi chúng ta lại có ấn tượng ngược lại. Hơn nữa tin rằng Thiên Chúa là đấng hằng sống thì dễ, nhưng nhận biết ‘Ngài là sự sống lại’ thì ta chưa quen… Lý do là vì: nếu Thiên Chúa là sự sống lại, thì điều đó có nghĩa là: Người phải chết trước đã. Bất kỳ sự sống lại nào cũng đều phải kinh qua sự chết, cũng như bất cứ ai được sống lại về thể lý hay thần linh thì trước hết cũng đều phải kinh qua cái chết thể lý hay tinh thần; khảng định: “Chính Thầy là sự sống lại”, Đức Giê-su tuyên bố trước cái chết của Người trên thập giá. Dầu là hiện thân của Thiên Chúa hằng sống, thì để là sự sống lại, Người cũng nhất thiết phải kinh qua cái chết; nhất thiết phải tự hủy mình ra như không (xem Pl 2:7), phải bỏ trời xuống thế, phải mang lấy thân phận tội lỗi yếu hèn và nhận lấy cái chết của toàn nhân loại. Ta có thể nói: qua Đức Ki-tô, chính Thiên Chúa cũng trải qua cái chết; “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ… Ai tin vào con của người thì khỏi phải chết” (Ga 3:16-17; cũng cần xem thêm Ga 5:21.24). Vì là sự sống lại, nên Người không phải chỉ hằng sống và làm cho kẻ khác sống lại, mà chính Người cũng chết và sống lại; do đó sẽ là điều tự nhiên thôi: “Ai tin vào Thầy thì dù có chết cũng sẽ được sống!” Điều này chắc chắn Mác-ta không hiểu, nhưng Ki-tô hữu chúng ta thì phải khác; kinh nghiệm hàng ngày cống hiến cho ta muôn vàn dịp để thâm tín điều này, khởi đầu từ lãnh nhận Phép Rửa để nhen nhúm lên niềm tin sống lại; rồi những lần xưng tội sau những lỗi phạm và sa ngã…, trong đời sống mình Ki-tô hữu củng cố không ngừng niềm tin: Đức Ki-tô quả là, và liên tục là sự sống lại của tôi!

Phải, để tin chắc rằng Đức Giê-su chính là sự sống lại của mình, mỗi chúng ta đều cần có cảm nghiệm tội lỗi, một điều không khó vì trong suốt một đời người chẳng ai mà không có! Mùa Chay gửi tới các Ki-tô hữu sứ điệp: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng!” điều đó có nghĩa là: nhờ sám hối, tức là từ kinh nghiệm chết trong tội, chúng ta mới có thể tuyên xưng cách mạnh mẽ và tràn trề hy vọng: ‘Chúa chính là sự sống lại, là Cứu Chúa của tôi!’ Như thế, Thập Giá và Phục Sinh phải là một Tin Mừng liên hoàn duy nhất, chết và sống lại chỉ là hai mặt của cùng một lòng thương xót thứ tha của Thiên Chúa đối với con người mà thôi.

Tôi cần học lấy bài học quan trọng này, nhất là vào dịp cuối Mùa Chay thánh: nếu cùng chết với Đức Ki-tô, tôi chắc chắc sẽ cùng được sống lại với Người (xem Rm 6:4).

Lạy Chúa từ nhân, bây giờ thì con mới hiểu: chỉ có Chúa mới có thể biến kinh nghiệm ‘chết trong tội’ của con thành nguồn sống mới dồi dào; con mới hiểu được sức sống phục sinh được thánh Âu-tinh phát hiện trong cái chết của tội lỗi mình, để rồi ngài dám hét to lên: “Ôi tội hồng phúc!” Xin cho con cũng biết ngợi ca và tôn vinh Chúa không ngừng về ‘yếu tính’ tuyệt vời này của Người. Xin Chúa làm cho đời con, giữa các kinh nghiệm u tối của tội lỗi, luôn tìm thấy nơi Chúa ánh vinh quang bất diệt của sự sống lại. A-men.

-------------------------------
 

MC 5-A157: DẤU CHỈ PHỤC SINH


P. Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn,
 

Lời Chúa tuần IV Mùa Chay cho chúng ta biết Đức Kitô là “Ánh Sáng thế gian “, ánh sáng thật MC 5-A157


Lời Chúa tuần IV Mùa Chay cho chúng ta biết Đức Kitô là “Ánh Sáng thế gian “, ánh sáng thật. Vâng, ý nghĩa” ánh sáng “ , thật quan trọng. Bởi vì, không ai tiêu diệt được ánh sáng, người ta dù tìm mọi cách để “ quy chụp” ánh sáng, nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, nhưng không ai có thể “che đậy”  được ánh sáng thật, vâng, vì ánh sáng thật xuyên qua kẽ lá, xuyên qua bất cứ nơi nào có khe hỡ, dù là lỗ kim.

Vì vậy, Chúa Giêsu là “Ánh Sáng chân lý ”, tức là ánh sáng mặt trời, Người được gọi là: “Mặt Trời công chính”. Hôm nay đây, Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Chay, Chúa Giêsu nhắc lại Người là “Ánh Sáng” đó ( Ga 11, 9 -10). Chúa Nhật V Mùa Chay là Chúa Nhật cuối Mùa Chay, cho chúng ta biết Chúa Giêsu là Đấng hằng sống, nơi Người không có sự chết, nhưng , Người sẽ bước qua cuộc “Tử Nạn”, cho thấy tội ác nơi phàm nhân lớn lao đến độ nào.

Vâng, “Ánh Sáng chân lý” có nghĩa là “bất tử”, Chúa Giêsu không phải là “thầy phù thủy”, việc Người làm hôm nay minh chứng điều ấy. Vâng, Lazaro không phải là người đầu tiên và duy nhất được Chúa Giêsu cho “sống lại”. Tin Mừng ( Ga 5, 50) cũng thuật lại phép lạ thứ hai ở Cana, Chúa Giêsu cho con trai của viên sĩ quan “không chết”, có nghĩa là sống.

Nhưng, việc Chúa Giêsu cho Lazaro sống lại hôm nay minh chứng cách xác thực, rõ ràng hơn, vì Lazaro “đã chết” hơn bốn ngày rồi. Điều nầy chính là ý nghĩa tiên trưng cho sự” phục sinh “ của Người. Chúng ta thấy, ý nghĩa của việc Chúa Giêsu cho Lazaro phục sinh là hình ảnh sống lại của Người. Việc minh chứng nầy như trong hai câu ( Ga 11, 41 -42), Chúa Giêsu đã cầu nguyện với Chúa Cha, rằng: “Lạy Cha, Con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời Con. Phần Con, Con biết Cha hằng nhậm lời Con, nhưng, vì dân chúng đứng quanh đây, nên Con đã nói để họ tin là Cha đã sai Con.” (c 41  -42)

Vâng, điều quan trọng là: ” Cha đã sai Con “, câu nầy cho thấy, Chúa Giêsu không tự ý làm điều gì ngoài Thánh Ý Chúa Cha. Chúa Giêsu luôn thi hành Thánh Ý Chúa Cha. Người không tự mình làm điều gì khác, vì vậy, việc cho Lazaro sống lại là một việc nằm trong “kế hoạch” cứu độ loài người của Thiên Chúa, chứ không phải là “ý riêng” của Chúa Giêsu. Mọi việc làm của bất cứ ai “nhân danh “ Thiên Chúa mà hành động, đều là do bởi Thiên Chúa, vì vậy, khác với “ phù thủy ” là vậy.

Ai cũng biết, việc cho người chết sống lại không phải là một điều “bình thường”, điều nầy xác tín Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, bởi vì, ngoài Thiên Chúa ra không có sự sống thật, minh chứng cho thấy “quyền sống” và “làm cho sống “ ở nơi Thiên Chúa. Vì, Thiên Chúa có thể cho phép satan làm mọi thứ, nhưng satan không làm cho “sống”, vì satan có nghĩa là ”sự chết”.

Vâng, cái chết về phần nhân tính, thật đáng sợ, ai cũng phải sợ, phương chi là chết về phần linh hồn. Như vậy, chúng ta thấy ý nghĩa của “kế hoạch” cứu độ bởi Thiên Chúa, qua Đức Giêsu- Kitô là như vậy. Theo đó, chúng ta thấy ân sủng của Thiên Chúa là tình yêu vô biên, lòng thương xót cao cả là như vậy.

Người ta thường nói tinh yêu là “ mù quáng”, bởi vì tình yêu nơi nhân thế vốn nó đã mù quáng, vì nơi nhân thế không có ánh sáng thật, nhưng tình yêu nơi Đức Kitô là Con Thiên Chúa, có nghĩa là Ngôi Lời làm Người, là sự sáng thật, và là Thiên Chúa thật. Vì vậy, Chúa Giêsu đã nói: “Thầy chính là ánh sáng ban sự sống”.

Hôm nay, ánh sáng ấy, một lần nữa xác tín: “ Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống….” ( c 25), vì vậy ,  “Ai tin vào Thầy, thì dù có chết cũng sẽ được sống “.

Điều trên cho thấy, ngoài Chúa Giêsu ra không có sự “phục sinh”. Như vậy, chúng ta, “Áng Sáng Giêsu” là “Sự Sống Thần Linh”, từ ánh sáng tự nhiên, như ánh sáng mặt trời, hay ánh sáng của lửa, chúng ta nhìn thấy được, suy đến phần Nhân Tính của Chúa Giêsu, dù Người sẽ chết trên Thập Gía,  đến ánh sáng siêu nhiên là phần Thiên Tính của Người, tức nguyên lý của sự sống là Thần Khí, ( Thần là: sự sống ; Khí là: sự siêu nhiên, sự sống bay bổng), ( cũng có thể hiểu Thần là: Thiên Chúa, như vậy, Thiên Chúa là: Sự Sống) , ( như vậy, Thần Khí là sự sống của Thiên Chúa, vì vậy, người ta biết được Thiên Chúa hằng sống, linh hồn bất tử là như thế ), chúng ta thấy, Chúa Giêsu là sự sống siêu nhiên, làm chủ sự sống, tức Người là nguyên lý của sự sống, vì vậy, Người nói: “ Chính Thầy là sự sống lại và là  sự sống…” ( c 25).

Nhưng, điều kiện để được đón nhận sự sống “ vĩnh cửu ” nơi Chúa Giêsu là “ Lòng Tin “.

NIỀM TIN NƠI HAI CHỊ EM MACTA và MARIA:

Khi Chúa Giêsu đến nhà Lazaro, thì hai chị em Macta và Maria đều thưa với Chúa như sau: “ Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây , thì em con không chết” ( c 21, và c 32).
Chúa Giêsu nói: “ Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy , thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không ? “ ( c 25 -26)
Theo đó, Chúa Giêsu đã thẩm vấn niềm tin của Macta và chị đã thưa với Chúa như trên. Tiếp đến, chị Maria cũng đã tuyên xưng niềm tin như thế vào Chúa Giêsu .

Như vậy, điều kiện để được “ phục sinh ”, có nghĩa là đón nhận ơn cứu độ là phải “TIN “ vào Chúa Giêsu . Một sự tuyên xưng cần thiết và quan trọng không thể thiếu.

Bai đọc II (Rm 8, 8 -11) thánh Phaolo đã xác quyết như trên: “ Ai không có Thần Khí của Đức Kitô, thì không thuộc về Đức Kitô” ( c 9 c). Như vậy, ai không thuộc về Đức Kitô, thì không có phục sinh.

Khởi đi từ bài đọc I hôm nay ( Ed 37, 12 -14),: “ Đây Ta sẽ mở mồ mã các ngươi ra… Ta sẽ phú linh hồn vào thân xác các ngươi, thì các ngươi sẽ sống lại…”. Vậy, người Dothai vẫn “tin xác loài người ngày sau sống lại” là như thế, cũng là câu mà chị Macta đã thưa với Chúa Giêsu. Nhưng, khi Chúa Giêsu đến thì: “Chính Người là sự sống lại và là sự sống”. ( c 25).

Thánh Vịnh 129 cho chúng ta thấy: “sự sám hối chân thành và xin ơn tha thứ sẽ được ơn giải thoát “. Vì,  “ Nếu Chúa chấp tội, nào ai sống nổi, nhưng Chúa ban ơn khoan hồng khiến người đời suy phục kính tôn “ ( c 4).

Lạy Chúa Giêsu , Chúa đã mở mắt cho người mù, là cho biết Người là ” ánh sáng thế gian”, ánh sáng đức tin sẽ soi dẫn chúng con đến mầu nhiệm phục sinh, mà hôm nay Chúa đã cho Lazaro sống lại. Vì, Chúa chính là SỰ SỐNG LẠI VÀ LÀ SỰ SỐNG. Xin Chúa cũng mở lòng trí chúng con ra mà nhận biết Người là SỰ SỐNGTHẬT VÀ VĨNH CỬU . Muốn vậy, chúng con phải biết thi ân, giáng phúc cho tha nhân. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn đời./. Amen

--------------------------------
 

MC 5-A158: NIỀM TIN SỰ SỐNG LẠI


Anna Cỏ May
 

Ngày hôm nay có nhiều người và cả các bác sĩ đã phải ngạc nhiên trước những điều lạ. Một bệnh MC 5-A158


Ngày hôm nay có nhiều người và cả các bác sĩ đã phải ngạc nhiên trước những điều lạ. Một bệnh nhân tưởng chừng gần chết, vậy mà lại bình phục rất nhanh. Và họ cho đó là nhờ ơn trên. “Thánh An tôn hay làm phép lạ”. Đó là lời kinh cầu của mọi người xin Thánh nhân cứu giúp cho mau khỏi bệnh, được bình an và gia đình tai qua nạn khỏi. Đã không ít người được như ý muốn.

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy một phép lạ còn cao vượt hơn nữa. Phép lạ do Chúa Giê-su làm. Người được hưởng phép lạ ấy là ông La-da-rô đã chết và được sống lại.

Lời nhắn tin của hai chị em

Trong những lần ghé tại Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-su và các môn đệ thường đến trọ tại gia đình chị em Mát-ta. Sự ghé trọ đã tạo nên một mối thân tình cảm mến của gia đình với Chúa Giê-su. Vì mối thiện cảm ấy, khi em trai là La-da-rô bệnh nặng, Mát-ta cho người đến nói với Chúa Giê-su một câu ngắn ngủi: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng.”(x.Ga 11, 3). Lúc ấy Chúa Giê-su đang rao giảng tại xứ Pê-rê bên kia sông Gio-đan.

Đối với chúng ta, khi một người bạn thân mình mến hay một gia đình mình quen biết như người nhà, chẳng may họ gặp chuyện, ta liền chạy đến giúp đỡ. Còn trong Tin Mừng không nói gì về biểu hiện bất ngờ, sự lo lắng, hay đau buồn gì của Chúa. Người chỉ bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này Con Thiên Chúa được tôn vinh.”(x. Ga 11, 4). Lời Người nói khiến các môn đệ hiểu rằng La-da-rô chưa chết. Đối với người nhà La-da-rô thì họ đau khổ và thất vọng vô cùng. Chính giờ phút này là cơ hội để Chúa làm phép lạ, bẻ gãy sự chết và làm vinh danh Thiên Chúa. Chúa Giêsu còn lưu lại ở đó hai ngày.

Ánh sáng đức tin

Sau hai ngày, Chúa Giê-su bảo các môn đệ: “Nào chúng ta cùng trở lại miền Giu-đê !”(x. Ga 11, 7). Các môn đệ lo lắng thưa rằng: “Thưa Thầy, mới đây người Do-thái tìm cách ném Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao?” Đây là nỗi lo cho Thầy hay lo lắng cho bản thân đây? Chúa Giê-su biết rõ các môn đệ đang lắng lo, liền trấn an họ: “Ban ngày chẳng có mười hai giờ đó sao? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng mặt trời. Còn ai đi ban đêm, thì vấp ngã vì không có ánh sáng nơi mình” (x.Ga 11, 9-10). Ngài muốn nói cho các môn đệ biết về ánh sáng và bóng tối. Chính Người là ánh sáng và Người luôn đi trong ánh sáng. Ánh sáng luôn thắng bóng tối, vì thế không có gì phải sợ.

Tuy vậy, các môn đệ vẫn sợ và tiếp tục ngăn cản Thầy mình: “Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc được, anh ấy sẽ khỏe lại.”(x.Ga 11, 12). Chúa Giê-su không nói bóng nói gió nữa mà khẳng định luôn: “La-da-rô đã chết”. Các môn đệ nghe lời ấy, liền đi cùng Chúa đến miền Giu-đê nhưng bên trong đang cố gắng lấy lại bình an.

Mát-ta mất hết hi vọng

Khi Chúa Giêsu đến Giu-đê, thì La-da-rô đã được chôn bốn ngày rồi. Theo tục lệ Do-thái, việc an táng thường được cử hành cùng trong một ngày với ngày chết. Vì họ cho rằng, sau khi chết linh hồn người cố thường lượn lờ xung quanh để muốn chiếm đoạt thể xác, nên phải chôn cùng ngày. Đến ngày thứ tư thân xác mục rữa thì linh hồn sẽ ra đi vinh viễn. Ngày nay, chúng ta thường cho là “chết lâm sàng”. Chính vì vậy cô Mát-ta đã mất hy vọng, không còn tin em mình có thể sống lại. Nên khi Chúa đến cô đã nói rằng: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết.” (x.Ga11, 21). Với ý nghĩ và mất niềm hy vọng, cô đã hiểu khác đi lời Chúa: “Em chị sẽ sống lại!” Cô Mát-ta thưa: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết.” Chúa Giê-su liền phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống.”(x.Ga 11, 23-25). Chúa Ki-tô là nguồn sự sống thiêng liêng và là nguồn lực sự sống lại. Ai tin vào Người thì linh hồn được hưởng một sự sống mà thần chết không tiêu diệt được và thể xác con người được sống lại trong vinh quang của Người.

Chúa Giê-su rơi lệ

Đứng trước cảnh than khóc thảm thiết của chị em Mát-ta và mọi người, Chúa Giê-su “thổn thức và xao động”. Ngài biết rõ La-da-rô được cất ở đâu, nhưng vì cuộc sống Ngài đã tỏ ra như không biết: “Các ông để xác ông ấy ở đâu?”. Không ai nghĩ rằng Ngài sẽ làm phép lạ nên liền nói : “Thưa Thầy, xin đến mà xem.”(x. Ga 11, 34). Đến nơi phần mộ, Chúa Giê-su rơi lệ. Đây là lần đầu tiên người ta thấy Người khóc. Vì thế người Do-thái xầm xì với nhau, cũng có kẻ mỉa mai Người. Đó là một phản ứng tự nhiên về sự yếu đuối nơi con người là không chấp nhận người khác hơn mình cùng lòng ghen tương đố kỷ.

Chúng ta cũng sẽ ngạc nhiên như họ, vì Người vừa là Thiên Chúa vừa là con người lại xúc động rơi lệ. Thật là mầu nhiệm. Chúng ta không cầm lòng được trước những xúc động và dễ cho bản năng xao động theo cảm quan, lúc lo âu, lúc sợ sệt… Chúa xúc động trước những người nghèo khổ và tội lỗi. nhưng sự bộc lộ ấy chỉ trong chốc lát. Ngài không để nó ảnh hưởng đến công việc. Điều ấy cho chúng ta thấy Ngài hoàn toàn mang lấy những cảm xúc như chúng ta và Người hiểu rõ nỗi đau từng người.

Chúa Giê-su làm phép lạ

Chúa Giê-su nói: “Đem phiến đá này đi.” Cô Mát-ta có phản ứng tự nhiên: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày.” (x.Ga 11, 39). Chúa Giê-su có lẽ sẽ có cảm giác buồn vì cô. Cô đã mất niềm hy vọng và niềm tin vào Chúa. Nhưng Người vẫn kiên trì tiếp tục nói với cô: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?”(x.Ga 11,40). Người mời gọi cô hãy có một lòng tin để đón nhận và tiên báo một phép lạ sắp xảy ra. Người ta đẩy tảng đá ra, mọi người có lẽ đang chăm chú nhìn Chúa sẽ làm gì. Còn Chúa Giê-su vẫn làm như Người thường làm, đó là cầu nguyện với Chúa Cha trước. Sau đó, Chúa phán: “Anh La-da-rô hãy ra khỏi mồ!” (x.Ga 11,43). Tức thì người chết liền đi ra. Trông thấy thế dân chúng không khỏi xúc động và tin vào Người. Bởi vì phép lạ Người làm giữa thanh thiên bạch nhật, vì La-da-rô đã chôn bốn ngày.

Chúa Giê-su làm phép lạ không hẳn vì tình bạn hữu hay vì tình thân thiết. Người còn tiên báo về cái chết và sự sống lại của Người đang gần kề. Vinh quang của Người sắp tỏ lộ. Đối với các Thượng tế thì họ lo sợ tìm cách ngăn cản một uy quyền đang lộ diện. Họ bàn bạc tìm cách giết Chúa. Bản án tử đã được treo lơ lửng trên đầu Người. Họ chỉ chờ cơ hội thuận tiện kết án Người mà thôi.

Lạy Chúa chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con biết trước cái chết và sự sống lại của Chúa qua ông La-da-rô. Xin cho chúng con hằng vững niềm tin vào Người trong mọi hoàn cảnh, và luôn phó thác vào Chúa cho đến giây phút cuối cùng. Nhờ đó, chúng con được hưởng vinh phúc trên Thiên đàng với Chúa. Amen.

-----------------------------
 

MC 5-A159: ĐỂ ĐÓN NHẬN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI


Lm. Inhaxiô Trần Ngà
 

Trong muôn vàn nỗi sợ, thì sợ chết đứng hàng đầu. Thiết tưởng trên đời không có gì làm người MC 5-A159


Trong muôn vàn nỗi sợ, thì sợ chết đứng hàng đầu. Thiết tưởng trên đời không có gì làm người ta khiếp sợ cho bằng sự chết. Tin khủng khiếp nhất là tin bị mắc bệnh ung thư, bị án tử hình…

Và không gì đáng quý trọng, đáng khao khát trên đời cho bằng được vui sống, sống trong hạnh phúc và vĩnh cửu.

Sự giòn mỏng của kiếp người 

Tuy nhiên, sự sống đời này lại rất mỏng giòn, mong manh, tạm bợ. Các em nhỏ ngày xưa có trò chơi thổi bong bóng thật hay. Các em hòa một ít xà phòng trong ly nước, rồi dùng một cọng rơm nhúng vào đó và bắt đầu thổi. Thế là rất nhiều quả bóng lớn nhỏ khác nhau xuất ra từ đầu cọng rơm, bay nhởn nhơ trong không gian, long lanh hấp dẫn, óng ánh muôn màu. Nhưng rồi, chỉ vài giây sau, bong bóng nầy nối tiếp bong bóng kia, bụp, bụp bụp…! Tan biến hết! Tất cả trở về hư không!

Đời sống con người cũng thế. Chúng ta xuất hiện trên đời như những chiếc bong bóng xuất ra từ đầu cọng rơm, chúng ta nhởn nhơ trong cuộc đời, cuộc đời chúng ta cũng lóng lanh sắc màu như những quả bóng xà phòng kia và số phận chúng ta cũng như những quả bóng bé bỏng đó, kẻ trước người sau nối tiếp nhau từ giã cuộc đời.

Đứng trước thân phận giòn mỏng, phù du của kiếp người, một nhà thơ Nguyễn Công Trứ than rằng: “Ôi, nhân sinh là thế, như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao…”

Nhờ đâu có cuộc sống lâu bền?

Ai trong chúng ta cũng khát khao được sống, nhưng là muốn có được một đời sống lâu dài chứ không phải là đời sống giòn mỏng, tạm bợ; muốn có được một đời sống hoan lạc chứ không chỉ là một cuộc sống đầy gian truân khổ ải ở trần gian.

Nhưng làm sao để có được đời sống tuyệt vời như mong ước?

Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su bày tỏ cho chúng ta một bí mật tuyệt vời, một bí quyết giúp chúng ta chiếm hữu cho mình sự sống lâu bền bất tận, một đời sống hoan lạc trên thiên quốc. Bí mật đó, bí quyết đó đã được Chúa Giê-su bày tỏ từ hai ngàn năm qua, khi Chúa nói với Mác-ta là chị của La-da-rô,  khi anh này đã được mai táng bốn ngày:

“Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống. Và bất cứ ai sống mà tin vào Ta sẽ không chết bao giờ.” 

Để minh chứng cho lời mình nói, Đức Giê-su đã làm cho La-da-rô sống lại, dù ông nầy đã an giấc trong mộ.

Qua sự kiện nầy, Chúa Giê-su muốn tỏ cho chúng ta biết Ngài là nguồn ban sự sống. 

Như mặt trời là nguồn sáng cho địa cầu thế nào thì Chúa Giê-su là nguồn ban sự sống đời đời cho nhân loại như thế. Ngài đã ban lại sự sống cho người đã chết chôn trong mồ và chính Ngài sau khi chết đã tự mình sống lại.          

Làm sao để đón nhận sự sống đời đời từ Chúa Giê-su?

Muốn đạt tới sự sống đời đời, thì chúng ta cần phải tin vào Đức Giê-su Ki-tô, như lời Ngài phán: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống. Ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ.”

Nhưng tin là gì?  Tin ở đây không phải là tin suông. Vì “đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Tin vào Đức Giê-su là gắn bó đời mình với Đức Giê-su, kết hợp với Ngài và sống như Ngài đã sống, là yêu thương phục vụ mọi người như Ngài đã nêu gương… 

Lạy Chúa Giê-su là nguồn ban sự sống,
Bóng đèn muốn được toả sáng thì phải được nối kết với nguồn điện;
Cành nho muốn được trổ sinh hoa trái phải được tháp nhập vào thân nho;
Bàn tay muốn sống còn và hoạt động thì phải nối liền với thân thể. 

Xin cho chúng con luôn kết hợp với Chúa cách mật thiết, như bóng đèn với nguồn điện, như cành nho với thân nho, như bàn tay với thân thể… để được đón nhận sự sống đời đời do Chúa truyền ban.

---------------------------------
 

MC 5-A160: TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIÂY PHÚT LÂM TỬ


JM. Lam Thy 
 

Khi suy niệm Lời Chúa Chúa nhật V Mùa Chay năm A (Bài đọc 1: “Xương cốt trong nấm mộ MC 5-A160


Khi suy niệm Lời Chúa Chúa nhật V Mùa Chay năm A (Bài đọc 1: “Xương cốt trong nấm mộ” – Ed 37, 12-14;  Bài đọc 2: “Tính xác thịt” – Rm 8, 8-11;  Bài Tin Mừng: “Anh La-da-rô chết đã 4 ngày được Đức Ki-tô làm phép lạ cho sống lại” – Ga 11, 1-45), kẻ viết bài này chợt giật mình nghĩ về cái chết. Vì biết chắc chắn là con người không ai thoát khỏi cái vòng kim cô “sinh – lão – bệnh – tử”, nên giáo lý Ki-tô giáo luôn nhắc nhở tín hữu phải hằng ghi nhớ là sau cái giờ phút lâm chung khắc nghiệt ấy, là một cõi sống (hoặc sống trong nơi vinh hiển, hoặc sống trong lò lửa không bao giờ tắt). Đó là lý do Giáo hội luôn kêu mời con cái cầu nguyện hàng ngày cho thời hiện tại của cuôc sống và cả tương lai khi giây phút lâm tử cận kề (“Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử. Amen.” – Kinh Kính mừng). Ý thức tầm quan trọng đặc biệt của giây phút lâm tử, Tông thư Lòng Thương Xót và Nỗi Thống Khổ “Misericordia et Misera” (số 15) đã dạy:

“Cả ở đây nữa, chúng ta cũng thấy được tầm quan trọng đặc biệt của giây phút lâm tử. Giáo Hội bao giờ cũng cảm nghiệm thấy được cuộc vượt qua thảm thương này trong ánh sáng của Chúa Ki-tô phục sinh, một cuộc phục si-nh mở đường cho niềm tin tưởng vào sự sống đời sau. Chúng ta phải đương đầu với một thử thách lớn lao, nhất là trong nền văn hóa đương đại, một nền văn hóa thường có khuynh hướng coi thường cái chết cho đến độ coi nó như là một thứ ảo ảnh hay phủ lấp nó đi. Tuy nhiên, cần phải đối diện với cái chết và sửa soạn cho một cuộc vượt qua đớn đau và bất khả tránh, nhưng lại là một cuộc vượt qua chất chứa đầy những ý nghĩa, vì nó là tác động tối hậu của tình yêu đối với những ai chúng ta bỏ lại đằng sau cũng như đối với Thiên Chúa là Đấng chúng ta tiến lên gặp gỡ. Trong tất cả mọi tôn giáo, giây phút lâm tử, cũng như giây phút sinh vào đời, được hỗ trợ bởi sự hiện diện của đạo giáo. Là Ki-tô hữu, chúng ta cử hành phụng vụ an táng như là một việc cầu nguyện tràn đầy hy vọng cho linh hồn người quá cố cũng như cho niềm an ủi của những người đang phải chịu cảnh mất mát đi một người thân yêu.”

Trở lại với bài Tin Mừng hôm nay (Ga 11, 1-45) trình thuật phép lạ Đức Giê-su cho anh La-da-rô chết chôn đã 4 ngày được sống lại. Sự kiện anh La-da-rô bị đau nặng đã được chị Mac-ta và Maria cho người đến báo tin cho Đức Ki-tô (chắc cũng có ý muốn xin Người chữa bệnh cho em mình); nhưng Người lại không tới liền mà mãi 2 ngày sau mới tới. Việc làm này mang ý nghĩa gì? Nếu Người tới liền, thì có thể anh La-da-rô sẽ không chết và như thế thì Đức Ki-tô cũng chỉ là một thầy lang giỏi chữa bệnh mà thôi. Còn nếu Người tới mà La-da-rô vẫn chết và dù sau đó có được Chúa cho sống lại, thì người đời (thông qua các môn đệ) vẫn bán tín bán nghi, làm sao có thể hiểu được rằng “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh.” (Ga 11, 4).

Đúng là các môn đệ đã không hiểu được ý nghĩa sâu xa trong Lời dạy của Đức Ki-tô, nên khi nghe Người nói: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu” và sau đó Người còn nói: “La-da-rô, bạn của chúng ta, đang yên giấc; tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây.” (Ga 11, 11), các ngài đã cho là La-da-rô chỉ ngủ thiếp đi và sau giấc ngủ sẽ khoẻ lại. Sự kiện này khiến nghĩ tới lần Đức Giê-su chữa con gái ông trưởng hội đường (Mc 5, 35-43). Lần đó, Đức Giê-su cũng nói: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” (Mc 5, 39). Con gái ông trưởng hội đường đã chết, mọi người thương cảm than khóc, thì Đức Giê-su lại bảo là “nó ngủ đấy”. Lần này, nếu các môn đệ có cho rằng La-da-rô ngủ thì cũng không lạ. Và vì thế, Đức Ki-tô phải nói rõ hẳn ra: “La-da-rô đã chết. Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi, nào chúng ta đến với anh ấy.” (Ga 11, 14-15).

Lời dạy “Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin” (Ga 11, 15) đã minh hoạ rõ ràng là Đức Ki-tô  có chủ định để La-da-rô chết chôn được 4 ngày mới lại thăm và tỏ uy quyền của Thiên Chúa cho anh ta sống lại. Đúng là đáng mừng cho các môn đệ lúc nào cũng cứ nửa tín nửa ngờ, thì đây là dịp được “thực mục sở thị” một phép lạ chỉ có Thiên Chúa mới làm được. Vâng, Đức Giê-su không có mặt khi anh La-da-rô chết, và Người còn để anh được chôn trong hang đá tới 4 ngày, xác chết đã nặng mùi, như thế thì các môn đệ mới thực sự tin rằng anh La-da-rô đã chết (chớ không phải chỉ ngủ say). Và nhờ đó, khi Đức Ki-tô tới kêu anh ta ra khỏi mồ, mọi người mới tin thật rằng: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống.” (Ga 11, 25).

Quả thật, với các môn đệ lúc nào cũng bán tín bán nghi thì không còn cách nào để có thể củng cố đức tin cho các ngài hơn là dịp này. Được củng cố đức tin đến như thế, mà tới giờ phút phải bày tỏ niềm xác tín (Thầy bước vào cuộc khổ nạn, chết trên thập tự và sống lại hiển vinh) cũng vẫn còn nửa tin nửa ngờ. Đã không tin lúc Thầy còn sống và làm phép lạ, mà cả đến khi Thầy từ cõi chết sống lại hiển nhiên cũng vẫn hoài nghi. Tuy chỉ có một Tô-ma không có mặt lúc Thầy hiện ra nên mới bày tỏ sự hoài nghi (“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” – Ga 29, 25); nhưng còn những vị được diện kiến Thầy mình phục sinh hiện ra thì đã tin chưa? Nếu tin thì sao lại xảy ra cảnh “các ông kinh hồn bạt vía tưởng là thấy ma!” (Lc 24, 37)?

Ngay ở cái thế kỷ XXI này, sự hoài nghi còn vượt xa các Tông đồ tiên khởi. Hoá cho nên các ngài sống cách đây 2000 năm, nếu cứ hay nửa tin nửa ngờ cũng chẳng có gì đáng phàn nàn, vì bản chất con người là thế. Các tông đồ ở liền bên với Thầy mà cũng chỉ tin khi được trông thấy nhãn tiền người chết “chôn trong mồ đã 4 ngày và nặng mùi rồi”, Đức Ki-tô không hề chạm đến anh ta mà chỉ hô lớn tiếng: “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ!”, thì ngay lập tức anh ta bước ra khỏi mồ với khăn liệm còn quấn trên người. Một cách cụ thể thì các Tông đồ tiên khởi cũng như các Ki-tô hữu ở tiền bán thế kỷ XXI này vẫn rất cần được củng cố đức tin. Ấy cũng bởi vì: “Với Mác-ta, đang khóc thương cái chết của em trai mình là La-da-rô, Chúa Giê-su bảo: “Tôi đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ thấy vinh quang Thiên Chúa đó sao?” (Ga 11, 40). Ai tin, sẽ thấy; họ thấy bằng thứ ánh sáng đang soi sáng trọn cuộc hành trình của họ, vì ánh sáng này phát xuất từ Chúa Ki-tô phục sinh, sao mai không bao giờ lặn.”  (Thông điệp Ánh Sáng Đức Tin “Lumen Fidei”, số 1).

Cuối cùng thì vấn đề đặt ra là “nếu chị tin, chị sẽ thấy vinh quang Thiên Chúa”. Các ngôn sứ thời Cựu Ước cũng không ngoại lệ. Thật thế, “Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Ít-ra-en. Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA, khi Ta mở huyệt cho các ngươi và đưa các ngươi lên khỏi huyệt, hỡi dân Ta. Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh.” (Ed 37, 12-14). Vậy thì người Ki-tô hữu ở thế kỷ XXI này còn đợi gì mà không chân thành tái đặt trọn niềm tin của mình nơi Đấng đã phán dạy: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết.”

Nói tóm lại, xin đừng ỷ tài cậy sức, mà coi thường cái chết như những trào lưu văn hóa cấp tiến thời đại, nhưng đồng thới cũng đừng sợ hãi thái quá để rồi chạy hết đền nọ đến miếu kia cúng vái các ngẫu tượng. Người Ki-tô hữu ngày hôm nay “cần phải đối diện với cái chết và sửa soạn cho một cuộc vượt qua đớn đau và bất khả tránh, nhưng lại là một cuộc vượt qua chất chứa đầy những ý nghĩa, vì nó là tác động tối hậu của tình yêu đối với những ai chúng ta bỏ lại đằng sau cũng như đối với Thiên Chúa là Đấng chúng ta tiến lên gặp gỡ.” (Tông thư Lòng Thương Xót và Nỗi Thống Khổ “Misericordia et Misera”, số 15). Nói cách khác, người Ki-tô hữu hãy tái đặt trọn niềm tin vào Đấng Phục Sinh, để cầu xin Người ban Thánh Linh thêm sức mạnh vượt qua thử thách, đồng thời củng cố đức tin cho vững mạnh.

Muốn đạt ước nguyện, xin hãy chạy đến với Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Đức Tin, mà khẩn thiết van nài: “Lạy Mẹ, xin Mẹ giúp đỡ đức tin chúng con! Xin Mẹ gieo vào đức tin chúng con niềm vui của Đấng Phục Sinh. Xin Mẹ nhắc nhở chúng con rằng người tin không bao giờ đơn độc. Xin Mẹ dạy chúng con biết nhìn mọi sự bằng con mắt của Chúa Giê-su, để Người là ánh sáng soi đường chúng con đi. Và ánh sáng đức tin này luôn gia tăng nơi chúng con, cho tới hừng đông của ngày bất tận là chính Chúa Ki-tô, Con Mẹ, Chúa chúng con!” (Thông điệp “Lumen Fidei – Ánh Sáng Đức Tin”, kết luận). Ước được như vậy. Amen.

-------------------------------
 

MC 5-A161: NIỀM TIN TÍN THÁC


Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
 

Người ta hay nói chơi rằng: “đời là bể khổ và qua được bể khổ là qua đời!”. Xem ra cuộc đời là MC 5-A161


Người ta hay nói chơi rằng: “đời là bể khổ và qua được bể khổ là qua đời!”. Xem ra cuộc đời là một chuỗi năm tháng dài đầy những khổ đau và mất mát. Bể khổ cuộc đời cứ đan xen trong kiếp người đến nỗi mà cụ Nguyễn Du phải thốt lên rằng:

“Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”

Nhìn trò bãi bể nương dâu ấy con người thường ngậm ngùi nuối tiếc mà than thở:

“Khóc vì nỗi thiết tha sự thế
Ai bày trò bãi bể nương dâu”

Nhưng có người lại hỏi rằng: Đời có thật là “bể khổ” không? Hay chỉ những người nghèo mới khổ, người giầu có tiền rừng bạc biển, “có tiền là có tất cả”, dùng tiền mua được cả vua chúa, kẻ hầu người hạ, muốn gì được nấy, trong nhà thì chăn êm nệm ấm, ra ngoài thì mọi người nể sợ, cuộc đời sướng như thần tiên, có gì là khổ đâu?

Nếu hiểu bể khổ là nỗi đau của những mất mát, những thua thiệt thì giầu nghèo đều có nỗi đau ấy! Có người giầu sang nhưng một cơn gió thoảng họ cũng ra đi để lại tất cả. Có người bị nỗi đau của mất mát tài sản sau thời gian vất vả tiềm kiếm. Có người mải làm giầu mà mất vợ con. Có người bị nỗi đau của thất nghiệp, của nợ nần, của nghèo đói. Có người bị nỗi đau của bệnh tật, của chia ly…
Có người nhìn nỗi đau như Trời định để tự an ủi mình. Có người lại nhìn nỗi đau như Trời phạt hay bị Trời bỏ rơi nên oán trách trời đất. Dường như con người hay có cái nhìn đổ lỗi cho Trời. Tất cả cái xui xẻo đều do Trời không thương mình nên đầy đọa, bỏ rời mình. Nếu Trời ủng hộ thì ta đâu có bi cục của bãi bể nương dâu?

Đây cũng là cái nhìn của Matta. Bao lâu nay bà vẫn coi Chúa Giê-su là bạn tâm huyết thì đâu sợ gia đình gặp tai ương. Có Chúa thì đời bà sẽ tránh mọi rủi ro. Nhưng rồi em bà là Lagiaro lại chết. Cái chết tuổi xuân xanh của em khiến bà hụt hẫng mà trách Chúa. “Nếu Thầy ở đây thì em con không chết”. Tiếng bà nuốt nghẹn những nuối tiếc chia ly. Bà không cam lòng khi thấy em mình chết trẻ. Bà càng không hiểu tại sao Thầy Giê-su lại không đến giúp em mình khi nghe tin Lagiaro đau bệnh?

Ở đây chúng ta thấy thái độ của Chúa Giê-su rất điềm đạm và giầu tình thương. Ngài muốn qua biến cố này củng cố thêm đức tin cho Matta. Chúa nói với Matta rằng: “nếu ngay bây giờ con tin thì con vẫn thấy điều kỳ diệu xảy ra”. Việc người chết sống lại là không thể đối với loài người nhưng không khó đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa có thể từ hư vô mà tạo thành vạn vật. Thiên Chúa có thể chuyển bại thành thắng. Thiên Chúa có thể phục sinh kể chết vì Ngài là Đấng quyền năng. Thế nên, hãy tín thác nơi Ngài. Ngài có thể giúp con người vượt qua mọi bể dâu cuộc đời.

Matta đã tin và đã thấy việc kỳ diệu. Matta càng xác tín hơn về niềm tin của mình khi bà thưa cùng Chúa: “Thưa Thầy con tin. Con tin Ngài là Đức Ky tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian”. Và rồi chính nhờ đức tin ấy bà đã “thấy vinh quang Thiên Chúa”.

Cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những cái khổ tột cùng của nghèo đói, bệnh tật, chết chóc. . . Con người luôn phải đương đầu với sự dữ. Những bất hạnh rủi ro luôn rình rập và đổ xuống trên cuộc đời chúng ta. Nhìn cuộc đời khổ nhiều hơn vui khiến chúng ta vẫn từng hỏi: Chúa ở đâu sao để cuộc đời luôn giăng đầy sầu đau? Chúa có nhìn thấy những bất hạnh mà con đang gặp phải trong cuộc đời vốn dĩ lắm nổi trôi lại nhiều phiền muộn này?

Bài phúc âm hôm nay, mời gọi chúng ta đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn luôn quan tâm đến chúng ta. Người luôn đi bước trước để an ủi, nâng đỡ chúng ta. Người cũng đang mời gọi chúng ta đặt niềm tin vào Chúa như Matta để trong những biến cố đau thương nhất của cuộc đời chúng ta vẫn có thể thưa lên cùng Chúa: Con tin Chúa có thể làm những điều tốt đẹp nhất cho con.

Đau khổ là một sự dữ. Bất hạnh của cuộc đời là đêm tối của đức tin. Chính trong những bất hạnh đó, chúng ta mới thấy con người thật nhỏ bé, tầm thường, để biết đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa. Con người luôn bất lực trước sự dữ, nhưng nếu Thiên Chúa muốn, Ngài có thể giải thoát chúng ta ngay bây giờ khỏi mọi điều sự dữ. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn biết đặt niềm tin tưởng cậy trông vào Chúa ngay giữa những gian nan của dòng đời và ngay giữa những bất hạnh của cuộc đời chúng ta. Amen.

-------------------------------
 

MC 5-A162: MƠ ƯỚC CHUẨN


Lm. Jos. DĐH.
 

Điều chú ý đối với các chị em phụ nữ thiết tưởng là dược thảo nào sẽ giúp họ xinh đẹp, trẻ mãi MC 5-A162


Điều chú ý đối với các chị em phụ nữ thiết tưởng là dược thảo nào sẽ giúp họ xinh đẹp, trẻ mãi, là duyên thắm tình nồng, là ở mãi bên tình yêu chồng con. Thao thức của giới “mày râu” phải chăng là có danh có tiếng, sẽ được lịch sử ghi công ? Thước đo của xã hội về thành đạt, hạnh phúc, có thể còn rất mông lung, nhưng thông thường người ta quan tâm hơn cả vẫn là tài cao đức rộng. Dù sao thì cũng có những trường hợp cha mẹ chỉ mơ ước con cháu nên người hữu ích, con cái thì ước muốn được sống trong bầu khí gia đình trên thuận dưới hòa, người người biết cư xử tốt với nhau.

Sự kiện phi thường đến độ người chết 4 ngày mà Đức Giêsu cho sống lại, đúng là điều chưa mấy ai nghĩ tới, dù muốn được sống hoài, sống mãi, nhiều người ta đã từng mơ ước. Để phép lạ kẻ chết sống lại xảy ra, chị em Martha phải có thời gian quen biết Đức Giêsu, tin tưởng Ngài là Đấng quyền năng và đầy tình yêu thương: “nếu Thầy có mặt ở đây, thì em con không chết”. Mơ ước tình chị em không bị chia cắt, hiểu biết sống chết là quy luật chung không thể né tránh ; nhưng khao khát gặp Chúa Giêsu trong cầu nguyện, và mong muốn có Chúa Giêsu trong đời là tùy tự do của mỗi người.

Mơ ước như thế nào là đúng, đủ, vừa, cho cuộc sống hiện tại và tương lai ? Sống có trước có sau, sống có tình có nghĩa là đặt tình yêu thương vào trong các mối tương quan gia đình xã hội: anh em chín bỏ làm mười, lọt sàng xuống nia ? Đức Giêsu đặt để tình yêu thương vượt trên tình bạn bè thân thiết với chị em Martha, Ngài mở ra cho chị em họ một ý thức về sự sống mới hơn tình thầy trò: “em con sẽ sống lại”. Thiên Chúa làm được mọi sự, người Do-thái và Martha đều quan niệm như thế: “ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy”.

Mơ ước chuẩn nhất mà Chúa Giêsu gợi mở là hãy thể hiện niềm tin “Ta là sự sống lại và là sự sống”, nếu thiếu niềm tin căn bản đó, việc yêu mến, nhận biết tài năng đức độ về Đức Giêsu chỉ là “cảm tính”, hời hợt, loáng thoáng mà thôi. Đức Giêsu là Thầy, Đức Giêsu là Chúa, nghĩa là Đức Giêsu sẽ minh chứng tình yêu của Ngài đối với nhân loại, với niềm tin chân thật: “vâng, con tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến thế gian”. Niềm tin phải được lớn lên, niềm tin phải được trả lời bằng hành động, dù Lagiarô đã chết 4 ngày, đã nặng mùi rồi, nhưng họ cần vâng lời Thầy: “hãy đẩy tảng đá ra”. Chúa Giêsu tiếp tục khơi dậy niềm tin cho chị em Martha: “Ta đã chẳng bảo con rằng, nếu con tin thì con sẽ xem thấy vinh quang Thiên Chúa sao”?

Tin nông cạn, tin ở mức độ môi miệng, lý thuyết, tin như thế cùng lắm người ta chỉ nhận biết Đức Giêsu là tài giỏi theo lập luận hết sức thô thiển: “xem kìa, Ngài thương ông ấy biết bao”. “Ông ấy đã mở mắt người mù từ khi mới sinh mà không làm cho người này khỏi chết ư ?”. Niềm tin phải được xây dựng trên tảng là Đức Kitô, nếu không, Martha và Maria cũng chỉ có niềm vui tạm thời vì gặp lại thân xác bất động của Lagiarô sống lại trong một thời gian, nhất định rồi thân xác em họ sẽ lại chết. Chuẩn mực mà Đức Giêsu hướng chị em Marta và chúng ta là đức phải có hành động: “lạy Cha, Con cảm ta Cha vì đã nhậm lời Con. Con biết Cha hằng nghe lời Con, nhưng Con nói lên vì những người đứng xung quanh đây, để họ tin rằng Cha đã sai Con”.

Đức Giêsu là Thầy, là Chúa, khi Ngài vượt qua đau khổ sự chết rồi mới phục sinh, đó là đức tin căn bản mà người Kitô hữu chúng ta hằng tuyên xưng. Đức tin sống động mà Đức Giêsu đã thể hiện là sự vâng phục Thiên Chúa Cha, yêu đến cùng, chịu chết treo trên thập giá, chịu mai táng trong mồ đá rồi sống lại hiển vinh. Mơ ước của Đức Giêsu là tất cả mọi người đều cản nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa, được ơn cứu độ dựa trên hành động của đức tin. “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta dù có chết cũng sẽ được sống, và kẻ nào sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ”.

Để minh chứng hạnh phúc đời người không phải dựa trên bạc vàng, chỉ cần xây dựng trên tình yêu, Hoàng Thi Thơ, đã đưa hồn nhạc vào các tác phẩm của mình, ông đặt để trên sự lãng mạn của tình yêu đôi lứa: mộng vàng hai đứa có chi là quá xa xôi, ta mơ một mái nhà tranh, ta mơ một túp lều tình, tình mình đẹp mãi có anh và em. Chị em Marta xây dựng tình yêu thương trong Đức Giêsu, và chị em họ đã có cảm nghiệm tình yêu lớn mạnh dần: Đức Giêsu là Thầy, là Chúa, là Đấng Kitô. Sự sống lại còn là cơ hội cho tất cả những ai biết đặt niềm tin trên tình yêu Đức Kitô, biết sống đức yêu thương bằng hành động. Sự sống lại sẽ còn là phép lạ cho đời người Kitô hữu, cho tất cả những ai hằng mơ ước hạnh phúc thật: “vâng, con đã tin Thầy là Đấng Kitô”. Amen.

-------------------------------
 

MC 5-A163: CÙNG CHẾT VỚI NGÀI


Lm Vũđình Tường
 

Đức Kitô nói với các môn đệ Lazarus bạn của chúng ta đang ngủ, chúng ta đi Judea đánh thức anh MC 5-A163


Đức Kitô nói với các môn đệ Lazarus bạn của chúng ta đang ngủ, chúng ta đi Judea đánh thức anh ấy. Các ông không hiểu nên Đức Kitô nói rõ hơn. Lazarô đã chết chúng ta đến cứu anh ấy. Nghe vậy các tông đồ hoảng sợ bởi trước đó các ông biết rõ lãnh đạo Do Thái tìm cách giết Đức Kitô nên các ông lên tiếng. Họ đang tìm cách hãm hại Thầy mà Thầy lại đến đó sao? Ông Thomas lên tiếng nói với các bạn thì chúng ta cùng đi để cùng chết với Ngài. Theo mạch văn thì câu trên có giọng điệu phản đối hơn là hỗ trợ í kiến đi gặp chị em Martha và Maria. Khi nói câu trên có lẽ Thomas không thể nào biết được cùng chết với Đức Kitô là một đặc ân, không phải là một án phạt khổ hình. Từ lúc gặp Đức Kitô Phục Sinh Thomas và các tông đồ trở thành con người mới, sống cho Đức Kitô và các ông đều đổ máu mình ra làm chứng nhân cho Đức Kitô, ngoại trừ Gioan chết bệnh ở tuổi già. Việc hy sinh mạng sống mình cho Đức Kitô là bằng chứng tình yêu các ông yêu mến Đức Kitô hơn cả chính mạng sống mình. Không gì trên đời quí hơn là yêu mến Đức Kitô và chết cho Đức Kitô vì đó là một đặc ân. Kitô hữu có cuộc sống như những người khác nhưng khi đến giờ lìa bỏ cuộc sống trần thế, tất cả chúng ta đều ước mong được cùng chết với Đức Kitô bởi đó là một đặc ân. Mục đích của cuộc sống nơi trần thế là làm chứng nhân cho Đức Kitô Phục Sinh và khi chết được cùng chết với Ngài. Cùng chết với Ngài sẽ cùng được sống lại với Ngài, hưởng cuộc sống trường sinh, nơi không còn than khóc, đau khổ.

Không ai có thể trốn được sự chết. Tất cả chúng ta đều trải qua sự chết và muốn chết ở tuổi già, chết cách tự nhiên mà không phải chết cách đau khổ. Chết đau khổ, bị hành hạ thân xác, bêu xấu, tủi nhục vì đức tin là một án phạt ghê rợn, nặng nề nhất xã hội bắt người đó phải chịu. Giáo Hội thương tiếc những tín hữu bị bách hại vì đức tin, đồng thời Giáo Hội cũng tuyên xưng danh tánh và và lòng mến người đó dành riêng cho Đức Kitô. Họ trở thành anh hùng trong danh sách các thánh nam nữ. Anh hùng bởi họ cho kẻ chém giết họ biết lòng mến Đức Kitô của họ mạnh hơn cả đau khổ, tình yêu họ dành cho Đức Kitô thắng vượt cả sự chết và cái chết đau khổ của họ không đi vào quên lãnh nhưng được tuyên xưng là anh hùng tử đạo. Họ bị chết nơi phòng giam kín hay một địa phương nào đó nhưng tình yêu của họ dành cho Đức Kitô được Giáo Hội qua mọi thời đại, không ngừng nghỉ tuyên xưng hàng năm với ngày lễ tưởng nhớ, lễ kính trọng thể vượt không gian và thời gian cùng toàn thế giới ca tụng.

Kitô hữu vững tin và tin mãnh liệt là được chết cùng và cho Đức Kitô là một đặc ân, đặc sủng, không phải ai cũng được mà dành riêng cho Kitô hữu trung tín, yêu mến Đức Kitô một cách chân thành. Kitô hữu ước mong khi chết được cùng chết với Đức Kitô và không bị chết cách cô đơn, buồn tủi bởi có Đức Kitô cùng đồng hành trên con đường mà không một ai, kể cả người thân, nơi trần gian có thể giúp. Chết với Đức Kitô chính là chết trong ân sủng Chúa, chết trong tin yêu, hy vọng và lòng mến, mến Chúa, yêu tha nhân.

Khi ban sự sống lại cho Lazarus Đức Kitô cho biết Ngài là Chúa của sự sống và sự sống lại. Cái chết trên thập tự của Ngài sẽ được Chúa Cha, chúa của sự sống, qua sự hoạt động của Chúa Thánh Thần mang sự sống lại cho Đức Kitô. Kẻ bắt bớ, kẻ kết án, kẻ tra tấn, kẻ làm nhục Đức Kitô trên tin tưởng họ đã chiến thắng vẻ vang, đã thực hiện đuợc ước mơ họ mong thực hiện. Ba ngày sau ước mơ của họ tan thành mây khoí, bởi Thiên Chúa ban sự sống lại cho Đức Kitô, Ngài có thể thua nhiều trận chiến nhưng thắng trận chiến cuối cùng. khải hoàn, Phục Sinh, Đức Kitô thắng vượt thần chết. Con người luôn sợ thần chết. Đức Kitô đã không sợ mà còn bắt thần chết phục tùng, vâng lời Ngài.
Chúng ta xin ơn được chết cùng với Đức Kitô.

----------------------------------
 

MC 5-A164: NẾU THẦY CÓ Ở ĐÂY


Lm Uyen Nguyen
 

Chúa nhựt 5 MC A triển khai chủ đề ĐGS ‘mối lợi tuyệt vời’ (Pl.9,8a) theo Thánh Phaolô. Ai đặt MC 5-A164


Chúa nhựt 5 MC A triển khai chủ đề ĐGS ‘mối lợi tuyệt vời’ (Pl.9,8a) theo Thánh Phaolô. Ai đặt trọn niềm tin vào Người, ắt được mối lợi ấy! Do điều này, Phaolô đã dám cả quyết: ‘Tôi coi tất cả như rác, vì được biết ĐKT-Giêsu Chúa của tôi’ (ibđ.9,8b).

Tại sao ĐGS là mối lợi tuyệt vời?

Niềm tin của Phaolô không khác niềm tin trước đó của người phụ nữ Matta, người chị trong gia đình có ba chị em sống ở Bêtania đồng thời với ĐGS, được Người yêu mến. Khi được tin ĐGS đến, dù đang ôm nặng nỗi đau buồn do cái chết đứa em trai Lagiarô những ngày qua, Matta vẫn nhiệt tình như mọi lần, nhanh chân ra tiếp Người và thưa với Người trong lời nói đầu gặp gỡ mang dư âm tiếc nuối: ‘Nếu có Thầy ở đây’ (c.21a)!

Dù là lời ngắn gọn, cũng biểu tỏ được niềm tin cậy vững vàng đặt vào ĐGS, bất chấp có gì đó phản ảnh dư âm muộn phiền mà vẫn giữ được tâm tình cảm thông yêu mến.

Sở dĩ Matta tin tưởng cậy trông vào ĐGS để nói được như vậy, vì bà hiểu ĐGS, dù trong mức độ hạn định của một người phàm. Khi nghe tin Người đến, bà ra đón. Qua hành vi và lời nói, bà bày tỏ cả khối niềm tin cậy vào Người. Niềm cậy tin vào quyền năng của Người: ‘Nếu Thầy có ở đây thì em con đã không chết! Niềm tin cậy vào uy lực trong lời cầu xin hiệu quả với TC của Người: ‘Bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng TC, Ngài cũng sẽ ban cho Thầy’ (c.22). Tin vào Cựu Ước khi đối đáp nhuần nhuyễn theo sau lời Thầy nói: ‘Em chị sẽ sống lại’ (c.23). Matta: ‘Con biết em con sẽ sống lạị, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết’ (c.24). Sống lại ngày sau hết là niềm tin từ Cựu Ước.

Không chỉ vậy, với Gioan, Matta còn hiểu rõ vai trò và sứ mệnh ĐGS, khi bà nói với Người: ‘Con vẫn tin Thầy là ĐKT, Con TC, Đấng phải đến thế gian’ (c.27). Ý tưởng này chủ yếu để Gioan kín đáo chuyển hướng và đặt ĐGS vào biến cố thương khó, viễn cảnh sẽ xảy ra đang đến gần, lồng trong cái chết cùng sự phục hồi sự sống thể lý đầy tính biểu tượng ở đây bây giờ của Lagiarô. Điều đó được minh chứng, khi hai người được Mat-ta sai đi báo tin, Người đã nói cách xác quyết và chắc chắn điều sẽ xảy ra bằng một lối văn bâng quơ mà không dành riêng cho ai: ‘Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của TC. Qua cơn bệnh này, Con TC được tôn vinh’ (c.4). ‘Tôn vinh’ là sự vinh quang và hiển vinh của ĐGS trên cây thập giá.

Ai cũng biết, Gioan là một tông đồ mang đậm Thần Khí ĐGS, đã trên dưới gần 80 năm đi rao giảng, sau cùng ngồi lại viết TM dưới tác động TT hướng dẫn, trong suy gẫm cầu nguyện, ngài nhớ lại lời Thầy nói với anh em khi đó rất hàm ý: ‘Lagiarô đã chết! Thầy mừng cho anh em, vì Thầy không có mặt ở đó, để anh em tin’ (c.15). Thử hỏi tin điều gì trong lời nói không có đối tượng của Người? Tin Người là Đấng Kitô Con TC hằng sống, phải đến trong trần gian, như Matta đã tuyên nhận? Điều này Phêrô đã mạnh dạn tuyên tín thay anh em trên đường hướng ra Cêsarê Philipphê: ‘Thầy là Đấng Kitô, Con TC hằng sống’. Tin Người cứu sống Lagiarô? Điều này đã rõ khi Người cứu sống, qua lời nói từ xa, đứa con của viên sĩ quan nhà vua đã chết và con trai bà góa thành Naim đang trên đường đi chôn ra cổng thành, cũng như bao kẻ khác! Ở đây với một chút khác biệt, Lagiarô đã chết bốn ngày, nghĩa là Lagiarô đã chết hoàn toàn, hồn thiêng không sao có thể trở lại với xác thối rửa theo niềm tin dân gian Do Thái. Cái chết ấy được coi là không có tài phép nào cứu chữa được nữa. ĐGS bộc lộ uy quyền TC chiến thắng tử thần. Bảo chứng cho niềm tin: Người là TC hằng hữu.

Điều mà Gioan chú tâm lưu truyền qua phép lạ hồi sinh sự sống Lagiarô: dành cho mọi người đồng thời cũng như các thế hệ kế thừa, là niềm tin mà Người đặt vào Matta: ‘Em chị sống lại! Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, dù đã chết, cũng sẽ được sống! Ai sống mà tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết’ (c.25-26). Lời ĐGS nói hôm nay đồng nhất với lời trước kia, sau khi chữa lành một người bệnh trong ngày Sabbat, khi này, người Do Thái lên án Người. Người nói với họ: ‘Chúa Cha làm cho kẻ chết chổi dậy và ban cho họ sự sống thế nào, thì Người Con cũng ban sự sống cho ai tùy ý’ (Gn.5,21), Người tự xác quyết mình là Con TC sẽ làm được, vì Con TC được sai đến làm người, rồi đây Con Người sẽ bị nộp, bị kết án đóng đinh trên cây thập tự, Người cũng sẽ chết và sống lại như lời đã nói. Nói được làm được, Lagiarô sống lại thể lý là bằng chứng cho chính Người mai này sống lại vinh quang.

Nhìn lại, Khi biết tin người bạn Lagiarô đau nặng sắp chết. ĐGS còn ở lại đó hai ngày. Tại sao có sự ‘chậm trễ’ này? Sự chậm trể đó không là chuyện ngoài tâm ý của ĐGS theo Gioan. Sự chậm trễ nhằm dựng lên yếu tố hiển nhiên bộc lộ hành vi chiến thắng quyền lực tử thần của Người qua biểu tượng của Lagiarô đã chết, đã có mùi. Sự chậm trễ, còn hiểu xa hơn, để nói lên niềm tin vào ơn cứu độ được dành cho tất cả những ai đã tin vào Người, dù họ đến và chết trong trần gian trước hay sau Người.

Thân lạy CGS, Người Con dấu ái của Chúa Cha, Người chẳng nề tự hạ mình vâng lời làm Người cứu nhân độ thế. Xin cho mỗi người đừng phí phạm sự hi sinh của Người, luôn biết tích lũy để cứu lấy mình đáp đền ân sâu nghĩa nặng mà Người dành cho.

--------------------------------
 

MC 5-A165: TA LÀ SỰ SỐNG…


Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
 

Vào thời Chúa Giêsu, người ta chia làm hai phái: phái từ chối niềm tin có đời sau, thậm chí nhiều MC 5-A165


Vào thời Chúa Giêsu, người ta chia làm hai phái: phái từ chối niềm tin có đời sau, thậm chí nhiều người theo nhóm Sađốc quá khích còn chống lại niềm tin phục sinh và đời vĩnh cửu.

Nhưng đa số người Do thái và phe nhóm Pharisêu thì tin rằng, phía sau cái chết, người ta sẽ bước vào sự sống mới. Đó cũng là đức tin truyền thống của Do thái giáo. Họ còn cho rằng, ngay khi từ giã cuộc đời, người ta sẽ lập tức bước vào sự sống vĩnh cửu, vì thế, nhiều người không thích gọi người chết là “chết”, nhưng gọi là “đi về sự sống”.

Trong Tin Mừng, bà Mattha sau khi đi đón và gặp Chúa Giêsu, đã thốt lên những lời hết sức tự nhiên, “Nếu Thầy có ở đây thì em con không chết”, có vẻ như bà trách Chúa đã không đến kịp lúc.

Nhưng chính khi lên tiếng trách móc, bà lại cho thấy một điều khác quan trọng hơn: vừa là lòng yêu mến Chúa của bà, vừa là đức tin mà bà luôn luôn đặt vững vàng nơi Chúa. Bà tin Chúa có mặt kịp thời, em bà vẫn sẽ sống.

Lòng tin mà bà Mattha đặt nơi Chúa qua lời trách móc đã không dừng lại. Trước Chúa Giêsu, bà đã xác quyết bằng lời mà đức tin truyền thống của người Do thái vẫn tin: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”.

Tuy thế, ngay trong giờ phút đang đối thoại với Chúa, điều cần thiết hơn mà Chúa muốn bà phải tuyên xưng, đó là em bà sẽ sống lại chính trong hiện tại này, chứ không phải chỉ là ngày tận thế.

Như vậy, dù bà Mattha đã tin vào sự sống đời đời, nhưng bà đã tin chưa đủ mạnh, nếu không muốn nói là không dám tin rằng, ngay lúc này, Chúa sẽ trả lại sự sống trần thế cho người em yêu quý của bà.

Như bao nhiêu người trên cõi đời này. Mattha không dám mơ sẽ có một ngày, em bà đã chết, đã chôn táng, đã bắt đầu rữa nát, lại có thể đội mồ bừng dậy…

Còn Chúa Giêsu, Người muốn đi xa hơn điều mà mọi người vẫn tin như truyền thống dạy, đó là buộc mọi người phải nhìn nhận, Chúa có quyền trên mạnh sống, trên sự sống của từng con người.

Vì thế, đối diện cái chết của người bạn thân của mình, Chúa Giêsu lại “mừng”: “Lagiarô đã chết. Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin”.

Nói cách khác, bắt đầu từ hôm nay, sau khi chứng kiến anh Lagiarô bước ra từ nấm mồ sau bốn ngày an táng, anh em càng phải lớn lên, càng phải trưởng thành hơn trong niềm xác tín: Thầy là sự sống và là sự sống lại.

Thật vậy, trọn cả trình thuật về việc Chúa Giêsu cho người thanh niên Lagiarô, bạn của Chúa sống lại tập trung vào lời tuyên bố then chốt: “Ta là sự sống lại và là sự sống”.

Không chỉ bằng lời, nhưng còn bằng hành động cho anh Lagiarô sống lại, Chúa Giêsu mạnh mẽ khẳng định rằng, không chỉ Người có quyền trên sự sống, nhưng một khi hứa ban sự sống lại, Người sẽ giữ lời hứa: Tất cả loài người chắc chắn sẽ sống lại trong ngày sau hết. Điều đó đã được thể hiện trước bằng sự sống lại của Lagiarô hôm nay.

Tuy nhiên, Chúa còn liên kết niềm tin sự sống lại của con người với niềm tin sự sống lại của Chúa qua lời mạc khải “Ta là sự sống lại và là sự sống”.

Vì thế, hôm nay Lagiarô được phục hồi (mang tính tạm bợ, sẽ lại chết như bao nhiêu người đã chết) sự sống trần thế, để hướng cái nhìn của chúng ta về chính sự phục sinh (chứ không phải “phục hồi” ) của Chúa.

Thánh Phaolô nhìn thấy sự phục sinh của chúng ta trong sự phục sinh của Chúa Giêsu nhờ ơn Chúa Thánh Thần:

“Nếu Thánh Thần ngự trong anh em, Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô sống lại từ cõi chết sẽ dùng Thánh Thần của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác phải chết của anh em được sự sống mới” (Rm 8, 11).

Sách Giáo Lý Công Giáo cũng đồng thời tuyên xưng sự phục sinh của Chúa Kitô và sự phục sinh của chúng ta trong Chúa Kitô:

“Đức Kitô đã phục sinh với chính thân xác mình: ‘Hãy nhìn chân tay Thầy coi, đúng là Thầy đây mà’ (Lc 24, 39). Nhưng Người không trở về với đời sống trần thế. Cũng vậy, trong Người, mọi người sẽ sống lại với thân xác của mình, thân xác họ đang có bây giờ, nhưng thân xác đó sẽ biến đổi thành thân xác vinh hiển, thành thân xác có thần khí” (GLCG 999).

Cái chết luôn luôn là sự dữ làm cho người lâm vào, phải khiếp sợ, làm cho người thân cận còn sống đau buồn. Ngày nay, thế giới văn minh, cố tìm cách kéo dài sự sống, nhưng càng đi tìm sự sống trần thế bao nhiêu, người ta càng thất vọng bấy nhiêu. Bởi chưa một ai sống đầy một thế kỷ rưởi.

Ngược lại, thế giới hiện tại, bên cạnh những người sống lâu hơn, lại càng nhiều người có cuộc sống vắn vỏi hơn, thậm chí ngày càng có nhiều cái chết dữ hơn. Hằng ngày, theo dõi tin tức đó đây, biết được sự chết vẫn không ngừng bao vây thế giới văn minh, càng làm con người khiếp sợ hơn.

Chúng ta đau đớn, bởi quá nhiều người thân, người quen của mình, đang mạnh khỏe và không có bất cứ dấu hiệu gì ho thấy phải chết, lại đột tử, đột quỵ…

Chúng ta rùng mình trước những cuộc chiến tranh hiện đại; những vụ ám sát; những vụ đặt chất nổ; những vụ bắt cóc chặt đầu…

Chúng ta đau đớn đã có quá nhiều vụ chết vì phá thai; tự tử; ung thư; liệt kháng; nghiện ngập; những tai nạn giao thông bất kể là đường hàng không, hàng hải hay đường bộ; những căn bệnh lạ…

Biết bao nhiêu lần chúng ta nhói lên vì rung cảm, vì xúc động trước những thiên tai tàn phá khắp nơi trên thế giới sát hại từ vài ngàn người đến hàng trăm ngàn người…

Dù thế giới văn minh hơn, nhưng người ta vẫn không thể kéo dài sự sống mình hơn. Đó là thực tế đớn đau cho người ham sống cuộc sống trần thế.

Nhưng với Kitô hữu, dù cuộc sống trần thế có thế nào đi nữa, không làm họ thất vọng.

Dẫu không xa rời thực tế, bởi Kitô hữu luôn ý thức xây dựng trời cao khởi đi từ trần thế, họ vẫn biết rằng, sống hôm nay, đôi chân đặt nơi trần thế, lòng họ gởi vào trời cao.

Với Kitô hữu, Có Đấng đã từng phán “Ta là sự sống lại và là sự sống” soi dẫn, họ sống hôm nay nhưng hướng về ngày mai. Sống hôm nay nơi quê hương trần thế, họ vẫn biết đó là bệ phóng thúc giục họ về quê hương đời đời. Sống hôm nay như một chuyến lữ hành, họ sẽ đến chốn nghỉ ngơi bình an vô tận. Sống hôm nay, nhưng không cho hôm nay, mà cho một đời vĩnh cửu.

Vì thế, Kitô hữu sống hôm nay là sống trong tươi sáng, là sống đầy tin tưởng, là bước tới từng ngày trong hy vọng, là lòng vơi đầy hạnh phúc, tin yêu.

Cũng vì thế, Kitô hữu yêu mến trần thế, hòa nhập với trần thế, xây dựng trần thế bằng tất cả bổn phận, khả năng và hy vọng của mình.

Có hôm nay và có ngày mai. Như vậy, một mặt, họ không quá bám víu trần thế như chỉ có trần thế là đích đến của mình. Họ cũng không hời hợt với trần thế như chỉ có đời vĩnh cửu mà thôi.

Họ yêu mến trần thế và cũng yêu mến vĩnh cửu. Sự sống vĩnh cửu tốt đẹp, cũng như sự sống trên trần thế cũng không bao giờ bị họ rẻ rúng.

Do đó, sự chết chóc của trần thế, dù có gây xao xuyến, người sống niềm tin Kitô vẫn biết rằng tương lai bình an đang chờ họ.

Dù sự dữ và cái chết vây lấy thế giới, người sống niềm tin Kitô vẫn ngẩng cao đầu, vì tình yêu cứu độ của Thiên Chúa thắp sáng niềm tin của họ.

Tắt một lời, tất cả triết lý về sự sống, Kitô hữu xây dựng trên lời phán hứa không bao giờ qua đi của Chúa mình: “Ta là sự sống lại và là sự sống”.

-------------------------------
 

MC 5-A166: BIẾT QUÍ TRỌNG SỰ SỐNG


Lm. Giuse Nguyễn
 

Hai câu thơ của thi sĩ Ấn Độ Kahli Gibran đã được nhà văn Nguyễn Nhật Ánh dịch ra tiếng Việt MC 5-A166


Hai câu thơ của thi sĩ Ấn Độ Kahli Gibran đã được nhà văn Nguyễn Nhật Ánh dịch ra tiếng Việt, và trở thành nổi tiếng: “Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy, ta có thêm ngày nữa để yêu thương”. Tác giả cám ơn cuộc đời đã cho mình sự sống, và quyết tâm dùng sự sống đó để yêu thương. Còn Thiên Chúa đã vì yêu thương nên đã trao ban sự sống cho con người, và Ngài mời gọi con người hãy biết quý trọng sự sống đó.

I.  PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

Bài đọc I: Ed 37, 12-14

Khi Giuđa bị lưu đày ở Babylon, Thiên Chúa đã sai tiên tri Êdêkiel loan báo cho họ biết Ngài sẽ giải phóng họ, nhưng nhiều người đã nghi ngờ về điều đó vì sức mạnh của vua Nabucônôđôso quá lớn. Tiên tri cho họ biết dân tộc của họ hoàn toàn không có khả năng hồi hương, giống như bộ xương khô, nhưng Thiên Chúa sẽ ban Thần Khí của Ngài để bộ xương khô đó có sự sống mới.

Bài đọc 2: Rm 8, 8-11

Cũng chính Thần Khí đó làm cho Đức Giêsu sống lại, mà sự sống lại của Đức Giêsu cũng chính là để đem lại sự sống mới cho con người: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8, 11)

Tin Mừng: Ga 11, 1-45

Câu chuyện của đoạn Tin Mừng này có ngụ ý rõ ràng của Đức Giêsu khi Ngài hay tin Ladarô đau nặng, nhưng Ngài không đến ngày, mà lại nói: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa” (Ga 11, 4). Đợi đến khi Ladarô chết và người ta đem chôn được 4 ngày Ngài mới đến. Chắc chắn Ngài muốn dùng sự kiện này để mặc khải một chân lý cao cả nào đó. Chân lý cao cả đó là: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11, 25-26). Vì thương mến người bạn mà Đức Giêsu đã cho anh ta được sống lại trong sự sống tự nhiên.

Trong mối thân tình, Ladarô không chỉ xem Đức Giêsu là một người bạn, mà hơn thế nữa, giống như chị của anh là Matta, anh còn tin Ngài “là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” (Ga 11, 27). Nhờ niềm tin này, dù cho anh sẽ chết thêm một lần nữa về mặt thể lý, nhưng chắc chắn anh sẽ có sự sống đời đời. Trong khoảng thời gian còn lại của sự sống nhờ Đức Giêsu đã ban cho để chờ đợi ngày được sống muôn đời, chắc chắn anh sẽ trân quý từng giây phút, vì nó được ban cho bởi tình yêu của Đấng là sự sống.

Qua phụng vụ lời Chúa hôm nay, chúng ta nhận ra được sự sống là một ân ban của Thiên Chúa, để chúng ta phải biết quý trọng sự sống, cả đời này lẫn đời sau.

II.  QUÝ TRỌNG SỰ SỐNG ĐỜI NÀY

Sự sống đời này là sự sống tự nhiên mà Chúa đã ban cho riêng từng người, nó là huyền nhiệm từ khi được khởi sự cho đến lúc chấm dứt. Chúng ta không thể nào giải thích được về việc tại sao chúng ta có mặt ở trần gian này? Tồn tại được bao lâu? Tồn tại như thế nào?… Chỉ biết một điều, nó là tình yêu mà Thiên Chúa trân trọng trao gởi cho chúng ta, vì nếu không có Chúa chúng ta sẽ là không mãi mãi. Chính vì thế trong kinh Cám Ơn, chúng ta đã đọc: “Con cám ơn Đức Chúa Trời là Chúa lòng lành vô cùng, chẳng bỏ con, chẳng để con không đời đời, mà lại sinh ra con cho con đặng làm người”. Vì vậy hãy biết cám ơn Chúa vì đã cho mình được làm người, và bao lâu còn sống, hãy biết quý trọng sự sống đó.

Tôn trọng sự sống

Giáo lý Hội thánh Công giáo dạy chúng ta quý trọng sự sống bằng cách tôn trọng sự sống của mình và của người khác.

Tôn trọng sự sống của mình bằng cách giữ gìn sức khỏe, lao động để nuôi sống bản thân, không được hủy hoại 1 chi thể nào và nhất là không được hủy hoại mạng sống bằng việc tự tử. Tránh những điều làm ảnh hưởng đến sức khỏe và mạng sống. Ví dụ thức khuya, dùng chất khích thích, đua xe, chạy xe mà không tuân thủ luật giao thông, hoặc muốn thể hiện bản thân mình bằng những việc lạng lách, nẹt bô, buông tay…

Tôn trọng sự sống của người khác bằng việc không được gây thương tích, hoặc tấn công người khác cả về thể lý lẫn tinh thần.

Tôn trọng sự sống cho chính mình và cho người khác một cách cụ thể qua việc chung tay xây dựng một hành tinh xanh, sạch, đẹp,… Tôn trọng sự sống còn được thể hiện bằng việc buôn bán những thực phẩm sạch, không ảnh hưởng đến sức khỏe. Tôn trọng sự sống còn là việc giữ cho môi trường sống không bị ô nhiễm bởi chất độc hoặc âm thanh quá lớn.

Đặc biệt trong năm Gia đình 2017 với chủ đề chuẩn bị cho người trẻ bước vào đời sống hôn nhân, nhắc nhở cho những người trẻ phải biết quý trọng sự sống ngay khi được hình thành, để các bạn phải biết tôn trọng, gìn giữ cho nhau, đừng vì đam mê mà dẫn đến những hậu quả đáng tiếc, để rồi giải quyết bằng việc hủy diệt sự sống.

Người ta luôn cảm phục những con người đã dám hy sinh để bảo vệ sự sống một cách trọn vẹn cho những đứa con của họ. Từ Bắc chí Nam đều có tấm gương những người mẹ như thế. Đó là chị Hoàng Thị Yến ở Hà Nội, khi mang thai cũng là lúc chị phát hiện mình bị ung thư, nhưng chị cương quyết không bỏ đứa con để cứu mạng sống của mình. Vì chị gữ lấy bào thai nên chị không thể uống thuốc kháng sinh hay nhận bất kỳ một phác đồ trị liệu nào để bảo vệ sức khỏe cho đứa con. Vì vậy đôi mắt của chị ngày càng yếu đi, và ngày chị “vượt cạn” cũng chính là ngày chị hoàn toàn không còn thấy gì. Đó là câu chuyện gây nhiều cảm xúc của chị Đậu Thị Huyền Trân, thiếu úy công an ở Hà Tĩnh, đã từ chối điều trị cho mình để giữ lấy con. Hình ảnh cảm động nhất là hình ảnh chị phải ngồi, có hai ý tá đỡ phía sau lưng để bác sĩ mổ bắt lấy đứa con vì chị không thể nằm được vì dịch tràn ngập phổi. Đó là câu chuyện của chị Nguyễn Thị Bé Thủy ở Tp. Cần Thơ đã quyết đinh: “dù chết cũng giữ lấy con” khi được bác sĩ đề nghị phá bỏ bào thai vì chị mắc bệnh tim…  

Sống yêu thương

Không chỉ dừng lại ở việc tôn trọng sự sống, mà còn hơn thế nữa, phải biết sống yêu thương. Không chỉ tránh việc làm gây xúc phạm đến người khác, mà còn phải thực hiện những điều giúp người khác được thăng tiến hơn. Không thể đóng cửa nhà lại, ở trong nhà và nói: “Tôi không đụng chạm đến ai, thì cũng đừng ai đụng chạm đến tôi”; mà phải biết mở cửa ra, đến với những người xung quanh để thực thi tình bác ái. Đó cũng là một trong những thực hành cụ thể trong mùa chay thánh.

Trong chuyến thăm mục vụ Giáo phận Cần Thơ của vị đại diện không thường trú của Đức Thánh Cha tại Việt Nam, Đức TGM. Girelli đã để lại hình ảnh đẹp nhất không phải bằng những cuộc tiếp đón hoành tráng hay những bài phát biểu thâm thúy, sâu xa, ý nghĩa, mà chính là hình ảnh ngài biết cúi xuống bên những người nghèo khổ, tật nguyền ở họ đạo Tân Lập.

Chính vì thế, những hành động bác ái, yêu thương cụ thể là những hành động nói lên việc quý trọng sự sống một cách rõ ràng nhất.

III.  QUÝ TRỌNG SỰ SỐNG ĐỜI SAU

Con người là xác và hồn. Nếu biết quý trọng và bảo vệ sự sống tự nhiên bao nhiêu, thì càng phải biết lo cho sự sống siêu nhiên bấy nhiêu. Giữa sự sống đời này và sự sống đời sau, chắc chắn sự sống đời sau phải quan trọng hơn vì nó là vĩnh cửu, còn sự sống đời này chỉ là đời tạm, nay còn mai mất.

Thành công của ma quỷ cũng chính là cái ngu dại nhất của con người là chỉ lo cho sự sống đời này mà không nghĩ đến sự sống đời sau. Họ quần quật để làm ăn kiếm tiền mà không nghĩ đến lúc chết chẳng mang theo được gì. Họ tranh giành nhau từng chút trong cuộc sống mà không nghĩ đến lúc chết ai sẽ cho mình một câu kinh, một lời nguyện. Họ đắm mình trong những đam mê mà không nghĩ đến mai kia thân xác này sẽ bị giòi bọ rúc rỉa và cũng trở về cát bụi…

Kinh nghiệm cận tử của nhiều người cho thấy sau khi họ “trở về từ cõi chết”, dù trước đó họ có tin vào sự sống đời sau hay không, họ đều được thúc bách để sửa đổi cuộc sống hầu bước vào “vùng ánh sáng” mà họ đã thấy trong lúc cận tử. Chính vì thế nhiều người trước đó sống rất tệ, làm nhiều chuyện xấu, nhưng sau một cơn bệnh thập tử nhất sinh hay sau một tai nạn khủng khiếp, họ hoàn toàn thay đổi theo chiều hướng tích cực.

Ngược lại, có nhiều người được rửa tội, được học giáo lý ngay từ nhỏ, biết có sự sống đời sau, biết có sự thưởng phạt… nhưng họ vẫn làm những điều sai trái, dù được nhắc nhở bằng nhiều cách mà vẫn không biết dừng lại.

Lời Chúa hôm nay mặc khải cho chúng ta biết Đức Giêsu là sự sống lại và là sự sống. Ngài đã cho chúng ta được hiện hữu trên trần gian này, và đã dùng chính cái chết của Ngài để chuộc lại sự sống đời đời cho những ai tin vào Ngài. Quy tụ nhau nơi đây, chắc chắn chúng ta là những người muốn được hạnh phúc trong sự sống đời sau. Vì vậy hãy biết quý trọng sự sống hiện tại mà Chúa đã ban và quyết tâm sống cho trọn vẹn kiếp người. Nhưng đừng quên tìm kiếm sự sống đời đời bằng cách tin tưởng, sống gắn bó, thờ phượng Chúa cho phải đạo; tránh xa những điều sai lỗi, và nhất là sống thực tại Nước Trời ngay trong cuộc sống này bằng giá trị của tình yêu thương.

Nhưng trong thực tế, rất nhiều khi chúng ta không biết tôn trọng sự sống của chính mình và của người khác, và vì vậy làm tổn hại đến sự sống đời sau. Xét cho cùng cũng vì con người chúng ta yếu đuối, thích thỏa mãn tự do cá nhân mà không nghĩ đến hậu quả.


Đứng trước thực trạng xã hội hôm nay, trong năm gia đình và nhất là mùa chay thánh này, mỗi người chúng ta hãy ý thức lại sự yếu đuối của mình để xin Chúa ban thêm sức mạnh giúp chúng ta biết dừng lại trước những cám dỗ của ma quỷ, để đừng hành động mà thiếu suy nghĩ. Hãy nghĩ đến sự sống đời sau của chúng ta trong tất cả mọi việc.

Lạy Chúa, xin cho con con biết mến yêu cuộc sống này và quý trọng sự sống đời sau.

---------------------------------
 

MC 5-A167: LÀM NGƯỜI ĐÁNH THỨC


Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa 
 

Lazarô, bạn của chúng ta đang ngủ....”. Vì không hiểu ngụ ý của Chúa Giêsu, các tông đồ đã MC 5-A167


“Lazarô, bạn của chúng ta đang ngủ; tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy dậy.” (Ga 11,11). Vì không hiểu ngụ ý của Chúa Giêsu, các tông đồ đã phản ứng cách tự nhiên:

“Nếu anh ấy đang ngủ thì tự khắc sẽ dậy”. Chúa Giêsu đã từng có lần nói về tình trạng một người đã chết như là đang ngủ, chẳng hạn với cô bé gái con ông Giairô, viên trưởng Hội đường (x.Mc 6,39). Như thế, việc làm cho một ai đó sống lại từ cõi chết được Chúa ví như  là đánh thức họ dậy. Và chúng ta cũng có thể loại suy cách nào đó rằng khi đánh thức một ai đó là giúp họ lại được sống hay được sống lại đúng phẩm vị của mình.

Những người cần được đánh thức là những người đang ngủ mê.
-Trong những hạnh phúc trần thế chóng qua: Những thiện hảo đời này thật đáng quý nhưng chúng không thể lấp đầy ước vọng của con người. Dù cho đủ đầy những thành công về danh vị hay lợi lộc vật chất thì mọi sự rồi sẽ qua đi khi mà tuổi già chợt đến. Đặc biệt khi cái chết cận kề thì người ta mới nghiệm ra rằng chẳng có thể lấy gì mà mua được sự sống và mạng sống thật đáng quý biết bao. Có thể nói kiếp người là một chuỗi băn khoăn lo lắng mãi cho đến khi nghỉ yên trong lòng đất lạnh. Thế nhưng, tình trạng quá mãi lo lắng băn khoăn chính là một trong những hình thái mê ngủ vậy.

-Trong sự ganh đua hơn thiệt, được mất: Cái được, cái thua, cái mất, cái thắng ở đời này chỉ là tương đối. Rất nhiều khi những tưởng rằng thắng mà hoá thua, nghĩ rằng được mà lại mất. Nhiều vận động viên thể dục, thể thao trong các cuộc thi tài đã nghiệm thấy việc chiến thắng bản thân mới là điều quan trọng nhất. Và sự thật này thường được đón nhận khi người ta chiến bại hơn là chiến thắng.

2. Cùng với Đức Kitô, xin làm người đánh thức tha nhân. Một sự thật hiển nhiên dễ dàng đón nhận đó là sẽ chẳng một ai thoát được cái chết. Sự chết là một hiện tượng tất yếu của mọi loài xét như là sinh vật. Đã có sinh, thời có tử. Thế nhưng, cái chết là một sự thật mà con người, sinh vật bậc cao thường khó chấp nhận, đúng hơn là khó đón nhận vì luôn có đó khát vọng được trường sinh bất tử nơi lòng người. Chúa Kitô đã từng mời gọi “hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh” (Ga 6,27). Để làm được điều này thì hãy tin vào Người là Đấng Thiên Chúa sai đến. Vì chính Người là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Người, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Người thì sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26). Tin vào Chúa Kitô là sống như Người đã sống “không phải đến để được người ta hầu hạ, nhưng để hầu hạ người ta và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28). Tin vào Chúa Kitô là đón nhận lời Người và đem ra thực hành trong cuộc sống.

Để làm người đánh thức tha nhân thì cùng với Chúa Kitô, chúng ta cần:

– Ra đi: Ra đi khỏi sự yên ổn cá nhân mình, ra đi khỏi tình yêu vị kỷ và dĩ nhiên là chấp nhận bao gian khó đang chờ phía trước. Tông đồ Tôma đã giận lẫy với các bạn: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để cùng chết với Thầy” (Ga 11,16).

-Có tấm lòng xót thương: Thấy Chúa Giêsu khóc thương Lazarô, “người Do Thái mới nói: “ Kìa xem ! Ông ta thương Lazarô biết mấy” (Ga 11,35). Thiếu một trái tim biết thao thức trước hạnh phúc của tha nhân, biết thổn thức trước đau khổ của đồng loại thì đừng mong đánh thức được một ai.

-Đặt niềm tin vào quyền năng của Thiên Chúa: “Chúa Giêsu ngước mắt lên và nói: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con…” (Ga 11,41). Chính nhờ và với quyền năng của Thiên Chúa thì những sự tốt lành mới tỏ hiện. Quả thật, chúng ta không thể đánh thức lòng người nếu không có ân sủng Chúa độ trì.

Thức tỉnh là một trong những đề tài được nhiều nhà đạo đức hôm nay nói đến. Mãi mê thế sự là một biểu hiện của con người mọi thời, đặc biệt thời đại hôm nay. Thỉnh thoảng người ta chợt bừng tỉnh khi đối diện với cái chết của người này, người kia hoặc đối diện với cái chết đang cận kề mình. Thế nhưng những thời khắc thức tỉnh ấy rất dễ thoáng qua hay là quá bất chợt và kết quả thu được chẳng là bao. Chính vì thế mãi rất cần những con người đánh thức tha nhân. Chúa Kitô đã tiên phong, bạn và tôi, chúng ta có sẵn sàng tiếp bước Người để làm người đánh thức không? Ước gì chúng ta góp với Đấng Cứu độ một tay làm cho nhân trần bừng tỉnh về sự sống trường sinh mà chúng ta thường tuyên xưng: “Tôi tin có sự sống đời đời”. Chính khi biết hướng đến sự sống đời đời thì con người sẽ biết sống sự sống đời này cách hữu ích và có ý nghĩa.

------------------------------
 

MC 5-A168: CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY_A


Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến. 
 

Có một câu truyện được kể lại về một gia đình có một người con trai trong quân đội.  Vào khoảng MC 5-A168


Có một câu truyện được kể lại về một gia đình có một người con trai trong quân đội.  Vào khoảng 6 giờ chiều Thứ Sáu, người cha vừa đi làm về và đang đứng trước cảnh ngổn ngang của cái “garage” xe, dự tính sẽ thu dọn cho sạch sẽ sau bữa ăn tối. Thình lình ông nghe có người gọi tên ông. Ngẩng đầu lên ông nhìn thấy cha xứ và vợ của ông đang đứng trước cửa.  Ông ngạc nhiên và hỏi, “Có việc gì không?” Vợ ông trả lời: “Con trai lớn đã tử trận.”

Bàng hoàng và xúc động, ông vội ngồi xuống chiếc ghế sa-lông cũ và cảm thấy như là người mất hồn.  Ông hồi tưởng về lúc đứa con được 12 tuổi là một đoàn viên rất sốt sắng và nhanh nhẹn trong đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể trong giáo xứ.  Ông nhớ lại thời gian con ông giúp lễ cho cha xứ và mơ ước đứa con sau này sẽ trở thành linh mục. Cuối cùng, ông nhớ lại đứa con trong bộ quân phục sĩ quan Thủy quân lục chiến rất oai hùng.  Đây là đứa con mà ông luôn hãnh diện.  Một thời gian sau đó, người cha đã thú nhận rằng tin tử trận của đứa con đã làm ông bàng hoàng và xửng xốt đến độ ngay lúc đó không nói được với vợ một lời an ủi.  Đầu óc của ông lúc đó hoàn toàn nghĩ đến một thân xác lạnh cứng không lay động và không có sự sống của đứa con thân yêu.

Ông bà anh chị em thân mến.  Câu chuyện đau buồn trên đây hay những kinh nghiệm của những người có thân nhân qua đời giúp chúng ta hiểu được tâm trạng của Chúa Giê-su như thế nào khi nghe tin người bạn thân La-za-rô vừa qua đời.  Bài Tin mừng cho chúng ta biết Chúa cảm thấy bàng hoàng xúc động và rơi lệ. Sự kiện này cho chúng ta thấy bản tính con người thật của Chúa Giê-su như tất cả chúng ta. Chúng ta có thể nhận ra sự xúc động và thương cảm trong con người của Chúa như trong con người của chúng ta khi phải đối diện với hoàn cảnh tương tự. Chúng ta nhận thấy Chúa Giê-su cũng có một con tim biết yêu thương, biết xúc động và thương khóc như tất cả chúng ta, và cũng cảm thấy đau đớn trong thân xác như chúng ta.

Những dữ kiện này trong nhân tính của Chúa Giê-su rất quan trọng và chúng ta phải luôn luôn ghi nhớ.  Tại sao chúng ta phải luôn luôn ghi nhớ?  Thưa, vì những dữ kiện hay tâm trạng này tạo nên sự liên kết rất gần gũi giữa Chúa Giê-su với chúng ta.  Khi vâng lời Chúa Cha khiêm nhường xuống thế làm người và sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria, Chúa Giê-su đã mặc lấy bản tính con người, ngoại trừ tội lỗi, và sống giữa con người nhân loại chúng ta.  Bởi vì Chúa biết yêu thương, bởi vì Chúa biết thương khóc, bởi vì Chúa biết sầu khổ cho nên Chúa hiểu và cảm thông khi chúng ta yêu thương, khi chúng ta thương khóc, khi chúng ta sầu khổ.  Nếu chúng ta ý thức và nhận ra những điều này thì sẽ là một sự kích động, và sẽ trở nên động lực giúp chúng ta can đảm tiếp tục vững tiến bước, khi chúng ta đối diện với những hoàn cảnh khó khăn, thử thách, đau khổ hay nghịch cảnh trong cuộc sống. 

Nhưng, ông bà anh chị em thân mến, bài Tin mừng hôm nay còn cho chúng ta biết một điều sâu xa và trọng đại hơn về Chúa Giê-su, và rất quan trọng cho đức tin của chúng ta, đó là, ngoài việc khóc thương La-za-rô, Chúa còn cho La-za-rô sống lại.   Hay nói một cách khác, bài Tin mừng hôm nay không những cho chúng ta biết những sự kiện liên quan đến nhân tính của Chúa, mà còn mặc khải cho chúng ta biết thiên tính của Ngài.  Chúa Giê-su không những là một con người giống như chúng ta mà còn là Con Thiên Chúa hoàn toàn khác với chúng ta.   Bài Tin mừng còn đi một bước xa hơn nữa là cho chúng ta biết một lời hứa của Chúa Giê-su.  Chúa tuyên bố: “Ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống.”  Hay nói một cách khác, Chúa sẽ ban cho chúng ta ơn sủng trọng đại hơn ơn sủng Chúa đã ban cho ông La-za-rô.  La-za-rô được Chúa cho sống lại, nhưng cũng đã già đi và cũng đã chết. Có nghĩa là Chúa ban cho ông “sự sống tạm thời” trong cuộc sống ở trần gian này.  Nhưng nếu chúng ta tin vào Chúa là Con Thiên Chúa, thì Chúa sẽ ban cho chúng ta “sự sống vĩnh cửu” ở cuộc sống đời sau. 

Nói tóm lại, bài Tin mừng hôm nay mạc khải cho chúng ta biết 2 sự kiện quan trọng của lịch sử ơn cứu độ trong Kinh Thánh.  Thứ nhất, Chúa Giê-su là một người thật, và vì là con người thật, Người có những cảm xúc như yêu thương và sầu khổ, cũng như có những cảm nghiệm đau đớn thể xác như chúng ta, vì vậy, Chúa liên kết mật thiết và cảm thông với chúng ta.  Chúa biết khi chúng ta sầu khổ, Người sẽ an ủi và tăng sức mạnh cho chúng ta trong những hoàn cảnh này.  Và điều quan trọng thứ hai, bài Tin mừng cho chúng ta biết thiên tính của Chúa Giê-su, Người là Con Thiên Chúa hằng sống và là Đấng Cứu Độ của chúng ta.  Chúa và chỉ Chúa mới có thể ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu mà thôi.

Ông bà anh chị em thân mến.  Vì yêu thương và muốn cứu độ chúng ta, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Con Một Ngài xuống thế, trở thành một con người như chúng ta và hứa ban cho chúng ta sự sống của Thiên Chúa đời này và hạnh phúc đời sau.  Trong bài Tin mừng, Chúa nói với bà Mát-ta trong lúc đau buồn trước cái chết của em mình: “Ta là sự sống và là sự sống lại, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không?”  Cùng với bà Mát-ta, chúng ta thưa cùng Chúa: “Thưa Thầy, vâng, con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian.” 

Xin Chúa chỉ dạy chúng ta biết tìm kiếm cho mình sự sống vĩnh cửu ngay từ đời này. Biết tìm kiếm Chúa bằng đời sống cầu nguyện, hy sinh, phục vụ, bác ái và quảng đại, và thành tâm lắng nghe và can đảm sống Lời Chúa dạy.  Nhất là trong mùa chay thánh này nhận ra và đi theo con đường Chúa đã đi, để con người cũ ích kỷ chết đi, để được sự sống hạnh phúc đời đời như lời Chúa hứa.

------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây