Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 5-A Bài 101-150: Ta là sự sống lại và là sự sống.

Chủ nhật - 26/03/2023 23:56
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 5-A Bài 101-150: Ta là sự sống lại và là sự sống.
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 5-A Bài 101-150: Ta là sự sống lại và là sự sống.
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 5-A Bài 101-150: Ta là sự sống lại và là sự sống.

-------------------------------------------
Phúc Âm: Ga 11, 1-45 "Ta là sự sống lại và là sự sống".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, có một người đau liệt tên là Ladarô, ở Bêtania, làng quê của Maria và Martha. (Maria này chính là người đã xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người. Em trai bà là Ladarô lâm bệnh). Vậy hai chị sai người đến thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, người Thầy yêu đau liệt". Nghe tin ấy, Chúa Giêsu liền bảo: "Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa và do đó Con Thiên Chúa sẽ được vinh hiển".
Chúa Giêsu thương Martha và em là Maria và Ladarô. Khi hay tin ông này đau liệt, Người còn lưu lại đó hai ngày. Rồi Người bảo môn đệ: "Chúng ta hãy trở lại xứ Giuđêa". Môn đệ thưa: "Thưa Thầy, mới đây người Do-thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại trở về đó ư?" Chúa Giêsu đáp: "Một ngày lại chẳng có mười hai giờ sao? Nếu ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì người ta thấy ánh sáng mặt trời; nhưng kẻ đi ban đêm sẽ vấp ngã vì không có ánh sáng". Người nói thế, rồi lại bảo họ: "Ladarô bạn chúng ta đang ngủ, dầu vậy Ta đi đánh thức ông". Môn đệ thưa: "Thưa Thầy, nếu ông ta ngủ, ông sẽ khoẻ lại". Chúa Giêsu có ý nói về cái chết của Ladarô, nhưng môn đệ lại nghĩ Người nói về giấc ngủ. Bấy giờ Chúa Giêsu mới nói rõ: "Ladarô đã chết. Nhưng Ta mừng cho các con, vì Ta không có mặt ở đó để các con tin. Vậy chúng ta hãy đi đến nhà ông". Lúc đó Tôma, cũng có tên là Ðiđimô, nói với đồng bạn: "Chúng ta cũng đi để cùng chết với Người".
Ðến nơi, Chúa Giêsu thấy Ladarô đã được an táng bốn ngày rồi. (Bêtania chỉ cách Giêrusalem chừng mười lăm dặm). Nhiều người Do-thái đến nhà Martha và Maria để an ủi hai bà vì người em đã chết. Khi hay tin Chúa Giêsu đến, Martha đi đón Người, còn Maria vẫn ngồi nhà. Martha thưa Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy". Chúa Giêsu nói: "Em con sẽ sống lại". Martha thưa: "Con biết ngày tận thế, khi kẻ chết sống lại, thì em con sẽ sống lại". Chúa Giêsu nói: "Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không?" Bà thưa: "Thưa Thầy, vâng, con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian".
Nói xong bà về gọi Maria em gái bà và nói thầm với em rằng: "Thầy ở ngoài kia, Thầy gọi em". Nghe vậy, Maria vội vàng đứng dậy và đi đến cùng Chúa. Vì lúc đó Chúa Giêsu chưa vào trong làng, Người còn đang đứng ở nơi Martha đã gặp Người. Những người Do-thái cùng ở trong nhà với Maria và an ủi bà, khi thấy bà vội vã đứng dậy ra đi, họ cũng đi theo bà, tưởng rằng bà đi ra khóc ngoài mộ. Vậy khi Maria đến chỗ Chúa Giêsu đứng, thấy Người, bà liền sấp mình xuống dưới chân Người và nói: "Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt đây, thì em con không chết". Khi thấy bà khóc nức nở và những người Do-thái theo bà cũng khóc, Chúa Giêsu thổn thức và xúc động. Người hỏi: "Ðã an táng Ladarô ở đâu?" Họ thưa: "Thưa Thầy, xin đến mà xem". Chúa Giêsu rơi lệ. Người Do-thái liền nói: "Kìa, xem Ngài thương ông ấy biết bao!" Nhưng có mấy kẻ trong đám nói: "Ông ấy đã mở mắt người mù từ khi mới sinh mà không làm được cho người này khỏi chết ư?" Chúa Giêsu lại xúc động; Người đi đến mộ. Mộ đó là một hang nhỏ có tảng đá đậy trên. Chúa Giêsu bảo: "Hãy đẩy tảng đá ra". Martha là chị người chết, thưa: "Thưa Thầy, đã nặng mùi rồi vì đã bốn ngày". Chúa Giêsu lại nói: "Ta đã chẳng bảo con rằng: Nếu con tin, thì con sẽ xem thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?" Thế là người ta cất tảng đá ra. Chúa Giêsu ngước nhìn lên và nói: "Lạy Cha, Con cảm tạ Cha đã nhậm lời Con. Con biết Cha hằng nghe lời Con, nhưng Con nói lên vì những người đứng xung quanh đây, để họ tin rằng Cha đã sai Con". Nói rồi, Người kêu lớn tiếng: "Ladarô! Hãy ra đây!" Người đã chết đi ra, chân tay còn quấn những mảnh vải, trên mặt quấn khăn liệm. Chúa Giêsu bảo: "Hãy cởi ra cho anh ấy đi".
Một số người Do-thái đến thăm Maria, khi được chứng kiến những việc Chúa Giêsu làm, thì đã tin vào Người. - Ðó là lời Chúa.

---------------------------------
MC 5-A101: Cho một niềm tin - Thiên Phúc. 3
MC 5-A102: Thời gian là của Chúa – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 5
MC 5-A103: Hành trình đức tin. 7
MC 5-A104: Chứng nhân của tin mừng sống lại 8
MC 5-A105: Chúa Nhật Thứ 5 Mùa Chay. 13
MC 5-A106: Suy niệm của Lm. Gioakim Bùi Văn Ninh. 18
MC 5-A107: Gieo mầm sự sống – Lm. Giuse Đỗ Đức Trí 20
MC 5-A108: Chôn cất – Lm Vũ Đình Tường. 24
MC 5-A109: Từng bước – Lm Vũ Đình Tường. 25
MC 5-A110: Chúa Kitô là sự sống lại và là sự sống. 28
MC 5-A111: Sự sống vĩnh cữu. 30
MC 5-A112:  LAZARÔ SỐNG LẠI 32
MC 5-A113: Chúa Kitô Là Sự Sống Lại Và Là Sự Sống. 35
MC 5-A114:Chúa Giê-su là sự sống lại và sự sống. 37
MC 5-A115: Niềm tin vào Chúa Ki-tô là sự sống lại và sự sống. 39
MC 5-A116: CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY.. 41
MC 5-A117: QUYỀN NĂNG VÀ YÊU THƯƠNG.. 44
MC 5-A118: SỐNG THẬT.. 48
MC 5-A119:  ĐƯỢC SỐNG LẠI 51
MC 5-A120: Để phép lạ xảy ra. 54
MC 5-A121: "Tôi là Sự Sống Lại và là Sự Sống". 56
MC 5-A122: Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành. 58
MC 5-A123: Hãy ra ngoài 61
MC 5-A124: Ta là sự sống lại 63
MC 5-A125: Suy nghĩ về câu chuyện kẻ chết sống lại 65
MC 5-A126: HÃY RA KHỎI MỒ! 68
MC 5-A127: Hãy ra khỏi mồ! 70
MC 5-A128: Hy vọng sống lại 72
MC 5-A129: Khát sống. 74
MC 5-A130: Sự Sống. Sự Phục Sinh. 76
MC 5-A131: Chúa cho Lazarô sống lại 78
MC 5-A132: Chúa Nhật 5 Mùa Chay. 82
MC 5-A133: Chúa Nhật 5 Mùa Chay. 84
MC 5-A134: Chính Ta Là Sự Sống Lại 86
MC 5-A135: Thầy là Sự Sống Lại và là Sự Sống. 87
MC 5-A136: Chúa Nhật 5 Mùa Chay. 89
MC 5-A137: Chú giải của Noel Quession. 98
MC 5-A138: Phục sinh Lagiarô. 102
MC 5-A139: Sự sống đời đời 110
MC 5-A140: SỰ VĨ ĐẠI CỦA TÌNH YÊU.. 112
MC 5-A141: MÙA DỊCH, SỐNG LẠI TÌNH BẰNG HỮU.. 114
MC 5-A142: TRẬN ĐẠI DỊCH CHO TA HIỂU CUỘC ĐỜI 116
MC 5-A143: HÃY RA KHỎI MỒ! 117
MC 5-A144: HÃY VỮNG TIN! 119
MC 5-A145: CHỈ CÓ CHÚA MỚI LÀM CHO SỐNG.. 120
MC 5-A146: CHÍNH THẦY LÀ SỰ SỐNG LẠI VÀ LÀ SỰ SỐNG.. 122
MC 5-A147: HAI CUỘC ĐỜI 124
MC 5-A148: THẦY LÀ SỰ SỐNG LẠI VÀ LÀ SỰ SỐNG.. 130
MC 5-A149: HÃY RA KHỎI MỒ.. 134
MC 5-A150: GIA ĐÌNH THÂN THIỆN CỦA CHÚA.. 136

-------------------------------
 

MC 5-A101: Cho một niềm tin - Thiên Phúc

(Trích “Như Thầy Đã Yêu”)
 

Thời chiến quốc, có người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người ấy bưng vịt huốc vào, MC 5-A101


Thời chiến quốc, có người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người ấy bưng vịt huốc vào, viên quan canh cửa hỏi rằng:

- Vị thuốc này có uống được không?

Người ấy đáp:

- Uống được.

Tức thì viên quan giật lấy mà uống. Chuyện đến tai vua. Ông liền bắt viên quan đem giết. Viên quan kêu rằng.

- Thần đã hỏi người đem dâng thuốc. Người ấy nói rằng: “uống được”, nên thần mới dám uống. Thế là thần vô tội mà lỗi ở người dâng thuốc. Vả chăng, người đem dâng thuốc nói là thuốc bất tử. Thế mà thần mới uống vào đã sắp phải chết, vậy là thuốc thử chứ sao gọi là thuốc bất tử được? Nhà vua giết thần, thực là bắt tội một người vô tội. Hơn nữa, còn chứng tỏ rằng thiên hạ dối được nhà vua mà nhà vua vẫn tin.

Vua nghe nói có lý, bèn tha cho viên quan ấy, không giết ông nữa.

***

Làm gì có thuốc bất tử trên trần gian này ! Chỉ có những kẻ quá ham sống sợ chết nên mới mơ tưởng đến loại thần dược chỉ có trong huyền thoại. Chúng ta không bao giờ có thể thuyết phục cái chết dời xa cánh cửa đời ta.

Thực ra, vẫn có sự sống bất tử, nhưng là trong cuộc sống đời sau. Tuy nhiên, vị thuốc bất tử ấy người ta lại phải chiếm hữu cho bằng được trong cuộc sống đời này. Tin mừng hôm nay giới thiệu cho chúng ta vị thuốc bất tử ấy: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết (Ga 11,25-26). Vâng, chính “niềm tin vào Đức Kitô” là một bảo đảm tuyệt đối để được sống mãi muôn đời. Đâu phải chỉ vì tình bạn thân thiết với Ladarô mà Đức Giêsu cho ông được sống sau khi chôn bốn ngày trong huyệt đá, mà chính là niềm tin của Maria và Macta vào Đức Kitô là “sự sống và là sự sống lại” (c.25).

Phép lạ cho Ladarô sống lại chỉ là chuẩn bị cho một phép lạ vô cùng lẫy lừng, một phép lạ trọng đại nhất trong đạo, chính là Đức Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại vinh quang mà chúng ta sẽ cử hành trong Tuần Thánh sắp đến. Đức Kitô chết và sống lại là để dẫn đưa con người từ cõi chết trở về cõi sống, từ nơi tạm bợ về chốn vĩnh hằng. Đó là niềm tin của người tín hữu, cũng là đức tin của Kitô giáo. Niềm tin đó bảo đảm cho sự trường tồn của Giáo Hội. Thánh Phaolô nói: “Nếu đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của mình” (1Cr 15,17)

Tin Đức Kitô là “sự sống lại và là sự sống”, chính là sống yêu thương tự hiến như Đấng đã sống và đã chết cho tình yêu.

Tin Đứ Giêsu là “sự sống lại và là sự sống” chính là chết đi cho tội lỗi để được sống lại vinh quang với Đấng Phục Sinh.

Tin Đức Giêsu là “sự sống lại và là sự sống”, chính là chết cho tình yêu trần thế, để sống cho niềm tin Nước Trời.

***

Lạy Chúa, trong đoạn Tin mừng hôm nay có một câu ngắn nhất trong toàn Kinh Thánh. Đó là câu “Đức Giêsu liền khóc” (Ga 11,35). Ngắn nhất nhưng lại bày tỏ một tình yêu sâu đậm nhất Chúa dành cho Ladarô.

Xin cho mối tình thân thiết của chúng con với Chúa ngày càng mật thiết hơn, để chúng con cũng được Chúa thương, cho cùng sống lại với Chúa trong vinh quang đời đời. Amen.

------------------------------------
 

MC 5-A102: Thời gian là của Chúa – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

 

Nếu được hỏi cái gì cần nhất? Có lẽ nhiều người trong chúng ta sẽ trả lời là tiền. Vì tiền là Tiên, MC 5-A102


Nếu được hỏi cái gì cần nhất? Có lẽ nhiều người trong chúng ta sẽ trả lời là tiền. Vì tiền là Tiên, là Phật. Thế nhưng, có một thứ mà tiền cũng không thể mua được, đó là thời gian. Thời gian khép lại cũng đồng nghĩa mọi sự sẽ qua đi chẳng còn ích lợi gì cho chúng ta. Dù rằng chúng ta có khối tài sản lớn. Dù rằng chúng ta có một địa vị cao. Thời gian chấm hết thì mọi sự cũng sẽ chia tay chúng ta. Hơn nữa, thời gian của con người thật mong manh tựa như bóng câu qua cửa sổ, tựa như cơn gió thoảng qua...

Có một người rất keo kiệt, lúc nào cũng chắt bóp chẳng dám ăn tiêu gì. Tích cóp cả đời, anh ta để dành được cả một gia tài lớn.

Không ngờ một ngày, Thần Chết đột nhiên xuất hiện đòi đưa anh ta đi. Lúc này anh ta mới nhận ra mình chưa kịp hưởng thụ chút gì từ số tiền kia. Anh ta bèn nài nỉ:

- Tôi chia một phần ba tài sản của tôi cho Ngài, chỉ cần cho tôi sống thêm một năm thôi.

- Không được. – Thần Chết lắc đầu.

- Vậy tôi đưa Ngài một nửa. Ngài cho tôi nửa năm nữa, được không? – Anh ta tiếp tục van xin.

- Không được. – Thần Chết vẫn không đồng ý.

Anh ta vội nói:

- Vậy… tôi xin giao hết của cải cho Ngài. Ngài cho tôi một ngày thôi, được không?

- Không được. – Thần Chết vừa nói, vừa giơ cao chiếc lưỡi hái trên tay.

Người đàn ông tuyệt vọng cầu xin Thần Chết lần cuối cùng:

- Thế thì Ngài cho tôi một phút để viết chúc thư vậy.

Lần này, Thần Chết gật đầu. Anh run rẩy viết một dòng:

- Xin hãy ghi nhớ: “Bao nhiều tiền bạc cũng không mua nổi một ngày”.

Hóa ra ở đời điều quan trọng không phải là tiền. Điều quan trọng là mình biết sử dụng thời gian có ý nghĩa hay không? Có tiền mà sống vô nghĩa cũng uống phí. Có tiền mà không biết tận hưởng hạnh phúc cuộc sống cũng bằng thừa. Thế nên, hãy biết trân trọng thời gian. Hãy làm việc tích đức cho cuộc đời. Đừng để uổng phí cuộc đời trong những đam mê của danh lợi thú. Thời gian sẽ trôi qua không chờ không đợi. Thời gian sẽ qua đi như hoa sớm nở chiều tàn. Hãy sống cho có ý nghĩa là sống có ích cho tha nhân, cho cuộc đời. Đừng chỉ sống cho mình kẻo uổng phí thời gian.

Người ta cho rằng tuổi thọ trung bình của người Việt là 70 năm. Nhưng trong 70 năm ấy, có người sống trọn nhưng không để lại thứ gì cho đời. Có người sống 30 năm nhưng lại để lại biết bao điều tốt đẹp cho đời.

Thiên Chúa là chủ thời gian. Chính Ngài làm chủ sự sống của chúng ta. Sống chết đều nằm trong sự quan phòng của Ngài. Thế nên, hãy sống trong ân nghĩa với Ngài. Hãy sống trong sự hiệp nhất với Đấng làm chủ cuộc đời chúng ta, để chính Ngài sẽ cho chúng ta được sống và sống đời đời.

Lagiarô dầu được Chúa trả lại sự sống một lần nhưng rồi với quy luật thời gian, ông cũng chết như bao người khác. Điều quan trọng và quý giá của cuộc sống là biết sống trong ân nghĩa với Thiên Chúa, biết sống kết hợp trọn vẹn với Thiên Chúa cả ở đời này lẫn đời sau. Nhờ vậy mà chúng ta được sống hạnh phúc đời này và cả đời sau.

Giả dụ như chúng ta cũng được như Lagiarô Chúa cho chết rồi sống lại. Chúng ta sẽ sống cuộc sống còn lại như thế nào? Liệu có còn muốn bon chen, tích góp, giành giật hay sống dành thời gian cho có ý nghĩa với gia đình, với cuộc đời. Nếu ai đã từng trải qua bệnh tật thập tử nhất sinh có lẽ sẽ cảm nghiệm điều này: tiền tài, danh vọng chẳng là gì một khi đã nhắm mắt xuôi tay. Một khi mình không có nắm giữ được chúng nữa thì những gì mình tích góp cũng uổng công.

Đồng tiền không mua được thời gian, ước gì chúng ta biết sử dụng thời gian cho hợp lý. Xin đừng vì danh lợi thú mà sống xa rời Thiên Chúa, lỗi luật với Ngài để rồi chúng ta sẽ mãi lạc vào cõi hư vong. Ước gì chúng ta biết noi gương Chúa Giê-su sống trọn vẹn thời gian trong sự kết hợp với Chúa Cha và phục vụ tha nhân với hết khả năng của mình. Có như vậy chúng ta mới sống tròn ý nghĩa cuộc đời là tôn vinh Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. Amen.

------------------------------------
 

MC 5-A103: Hành trình đức tin

 

Câu chuyện phép lạ Chúa Giêsu làm cho Ladarô sống lại là câu chuyện dài nhất và quan trọng MC 5-A103


Câu chuyện phép lạ Chúa Giêsu làm cho Ladarô sống lại là câu chuyện dài nhất và quan trọng nhất được nêu lên trong cuộc xét xử giữa ánh sáng và bóng tối. Qua câu chuyện phép lạ này, Chúa Giêsu chứng minh cho mọi người thấy " Người là sự sống lại và là sự sống", và Người có sự sống đời đời đem đến cho những ai tin vào Người. Hôm nay, tôi xin chia sẻ với quý ông bà anh chị em đề tài: Hành Trình Đức Tin. Trong bài tường thuật này, chúng ta thấy Mácta được xem như mẫu gương cho cuộc hành trình đức tin của mỗi người Kitô hữu. Qua diễn tiến của bài tường thuật, tôi thấy cuộc hành trình đức tin của bà trải qua ba giai đoạn sau. Thứ nhất, đó là một đức tin dựa trên nhu cầu của thân xác con người. Sở dĩ nói thế là vì khi em bà ngả bệnh nặng, bà sợ em bà sẽ chết, nên bà cho người đi mời Chúa đến cứu em bà. Thế nhưng Chúa không đến và em bà chết. Sự kiện này làm bà buồn rầu và tuyệt vọng. Nhưng đi xa hơn, tôi thấy được giai đoạn thứ hai, đó là một đức tin dựa trên những điều đã được truyền dạy. Bà đã được dạy chỉ có sự sống lại vào ngày tận thế và bà đã tin chắc như thế. Tin như vậy đúng và đủ chưa? Thưa chưa, điều này được thể hiện qua câu nói bà nói với Chúa: "Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết".

Thế nhưng trước lời đáp Chúa Giêsu khẳng định: "Em bà sẽ sống lại" (c. 23), bà đã nói: "con tin em con sẽ sống lại vào ngày sau hết", và qua đối thoại thêm, bà khựng lại. Chính sự khựng lại này tạo cơ hội cho Chúa mạc khải Người chính là sự sống lại và là sự sống. Và tin vào Người chính là con đường duy nhất dẫn đến sự sống lại và sự sống bởi "tin thì đã đi ngang qua cái chết mà vào sự sống và dù có chết phần xác, thì tin vào Chúa đảm bảo cho có sự sống vượt trên sự chết. Thế mà Mácta vẫn chưa tin như Chúa muốn. Tuy nhiên, đi xa hơn nữa, tôi thấy được giai đoạn thứ ba và cũng là giai đoạn cuối, đó là một đức tin dựa trên kinh nghiệm đã gặp Chúa. Chúa biết bà còn yếu tin, nên Người làm phép lạ giúp khơi dậy đức tin sự sống thật là chính Người. Người đã yêu cầu "đem phiến đá đi" và dù chưa tin bà vẫn vâng lời làm theo lời Chúa nói. Chính vì vậy, Chúa ban thêm đức tin cho bà và qua việc Chúa gọi Ladarô ra khỏi mộ và anh bước ra, cặp mắt tâm hồn bà liền nhận ra Chúa là sự sống lại và là sự sống, tức khắc đức tin của bà đạt đến mức tột đỉnh, một đức tin Chúa muốn những người đi theo Chúa phải đạt được.

Thật vậy, cuộc hành trình đức tin của Mácta là một cuộc hành trình tiệm tiến giống như những nấc thang của một cầu thang. Nó khởi đi từ nấc đức tin dựa trên nhu cầu của thân xác con người để đến nấc đức tin đức tin dựa trên những điều đã được truyền dạy và rồi cuối cùng đạt đến nấc tột đỉnh của đức tin khi dựa trên kinh nghiệm gặp Chúa.

Giờ đây, chúng ta hãy nhìn lại cuộc hành trình đức tin của mình. Với Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được Chúa ban cho sự sống của chính Chúa. Sự sống này được lớn lên dần nhờ cầu nguyện, nhờ Thánh Thể, nhờ Bí tích Hoà Giải, nhờ kết hợp với Chúa hằng ngày. Tuy nhiên, cuộc đời con người luôn là một cuộc chiến khốc liệt giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng là Đức Kitô. Còn bóng tối chính là sự chết, sự tội, những khó khăn thất bại. Chúng luôn tìm mọi cách đẩy chúng ta xa dần ánh sáng. Nếu không ý thức và không tỉnh thức, chúng ta sẽ không nhận ra. Trước những khó khăn thử thách, bệnh tật... Chúng ta thường xin Chúa ban ơn. Và rồi nếu Chúa không cho như ý chúng ta xin, chúng ta thường trách móc, phàn nàn và ngay cả chửi rủa Chúa nữa. Chính những sự này ngăn cản chúng ta nhận ra sự hiện diện và sự trợ giúp của Chúa.

Vì vậy, khi những khó khăn thử thách xảy đến, chúng ta hãy coi đây như những phương cách Chúa gởi đến để thanh luyện đức tin của mình và để giúp mình ý thức sự bất lực của mình qua những thách đố đó. Đặc biệt, chúng ta cần đón nhận chúng với thái độ bình tâm, tin tưởng phó thác vào để những người xung quanh nhận ra trong chúng ta sự hiện diện của Chúa. Thí dụ về chiếc thuyền trên dòng sông là một minh hoạ cụ thể cho cuộc sống đức tin của chúng ta. Bình thường nó không di chuyển hoặc di chuyển không đáng kể. Nhưng khi gió bão đến, nếu không được cột, nó sẽ trôi dạt đi rất xa. Còn nếu được cột cẩn thận vào một cây cột đá, thì dù gió bão lớn đi nữa, nó cũng vẫn trụ lại được, có thể nó vẫn di chuyển qua lại. Cuộc sống đức tin của chúng ta cũng giống như chiếc thuyền trên dòng sống vậy. Nếu khi gặp khó khăn thử thách, chúng ta biết bám chặt lấy Chúa thì chắc chắn chúng ta sẽ vượt qua được vì khi ta đuối sức Chúa không bỏ chúng ta mà giơ taynắm lấy tay chúng ta, vì ở đâu có khó khăn thì ở đó có ơn Chúa. Với tâm tình Mùa Chay, Giáo hội mời gọi chúng ta sám hối, tức là hãy làm sống lại ơn ban sự sống của Chúa trong chúng ta, coi lại xem trước những khó khăn thử thách, chúng ta có thái độ nào? Buông xuôi hay thể hiện một đức tin trưởng thành bằng cách bám vào chúa để tin tưởng, phó thác và làm theo những gì Chúa dạy? Và giờ đây mỗi người tự hỏi: "tôi cần làm những gì và cần tránh những gì để khi giờ chết đến, tôi dám thưa với Chúa: "mọi sự đã hoàn tất", để rồi ra đi cách bình an như Chúa muốn. Amen!

------------------------------------
 

MC 5-A104: Chứng nhân của tin mừng sống lại


(Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền)

1. Tin vào sự sống:
 

Trước huyền nhiệm sự chết, con người thường bị ném vào một hụt hẫng, vỡ vụn: Để rồi không biết MC 5-A104


Trước huyền nhiệm sự chết, con người thường bị ném vào một hụt hẫng, vỡ vụn:

Để rồi không biết bao nhiêu câu hỏi đã đặt ra: Tại sao như thế? Con người là "Nhân ư linh vạn vật" kia mà? Và làm sao Thiên Chúa tốt lành, quyền năng lại để xảy ra như thế? Như những câu thơ oán thán "Trời già" của một người cha mất đứa con yêu:

"Ái ăn đâu, Ái ở đâu?
Để thương để nhớ để u sầu.
Trời già độc địa làm chi bấy?
Nỡ bắt con tôi bảy tuổi đầu !

Phải chăng đó cũng chính là dụng ý của câu nói mà hai chị em Matta và Maria ở Bê-ta-ni-a đã trách móc Chúa Giêsu khi đối diện với cái chết của người em trai yêu dấu: "Phải chi có Thầy ở đây thì em con không chết !".

Phần chúng ta, vấn nạn "nhân sinh quan" nầy gần như đã được giải đáp ngay từ những trang đầu của Kinh Thánh. A-đam-E-Va, sau khi khước từ Lời Thiên Chúa "Ngày nào các ngươi ăn trái cây nầy, các ngươi sẽ phải chết" (St 2,17), nghe lời ma quỷ xúi dục, đã đưa tay "hái trái cấm"...và thế là "sự chết đã lan tràn tới mọi người" (Rm 5,12): Ca-in giết A-ben, lụt đại hồng thủy, bảo lửa hủy diệt Sodoma và Gomora...Và cho tới mãi hôm nay, hình như thế giới cứ lần mò tiến đi giữa một "nền văn minh sự chết": khủng bố, chiến tranh, hận thù sắc tộc, tôn giáo, Si-đa, ma túy, phá thai, dịch bệnh...

Thế nhưng, đó lại không phải là ý càng không là chương trình của Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ là "Chúa của kẻ chết" mà là "Chúa của người sống".

Cho nên, từ hơn năm trăm năm trước khi Chúa Cứu Thế giáng sinh, chính trong cái "vũng lầy nhầy nhụa" đầy những đống xương khô của bóng tối và sự chết, của đọa đầy và thất vọng, của đắng cay ưu phiền trong kiếp nô lệ của thời lưu đầy Babylon (587 B.C)...dân Ít-ra-en đã nghe vang lên lời của Thiên Chúa như "tiếng kèn hy vọng" qua miệng của ngôn sứ Ê-giê-ki-en: "Nầy hỡi dân ta, Ta sẽ mở cửa huyệt cho các ngươi. Ta sẽ đem các ngươi lên khỏi huyệt...Ta sẽ đặt Thần Khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh..." (BĐ 1).

Nếu thân phận lưu đày của ít-ra-en là ảnh hình của một nhân loại đọa đầy tội lỗi, thì "tin vui hy vọng" của Ê-giê-ki-en kia cũng chính là tín thư riêng tặng cho mỗi người chúng ta mà nội dung xuyên suốt chính là: niềm hy vọng chứa chan vào lòng trung tín của Thiên Chúa vượt trên khổ đau và chết chóc và tình yêu cứu độ của Thiên Chúa mãi mãi là sức mạnh hồi sinh, là quyền uy giải thoát. Chân lý nầy nếu được diễn tả bằng ngôn ngữ của đời thường cuộc sống hôm nay thì sẽ được hiểu rằng: chúng ta không được quyền thất vọng cho dù phải đối diện với bao thảm cảnh cuộc đời, cả cái chết. Bởi vì Thiên Chúa đang có mặt trên mọi nẽo đường và biến cố để thổi vào Thần Khí tác sinh, để gieo vào hạt mầm của sự sống và hồng ân cứu độ. Niềm tin đó không là chuyện hoang tưởng của những đầu óc mê lầm,lú lẩn, nhưng là một chân lý rõ như ban ngày đúng như nhận xét thâm thúy của Gilbert K. Chesterton: "Nếu những hạt giống trong lòng đất đen mà còn có thể biến thành những cánh hoa hồng xinh đẹp như thế, thì trái tim con người còn thể biến thành thế nào nữa trong cuộc hành trình hướng đến các vì sao".

Và có một điều kỳ lạ là Thiên Chúa không bao giờ chỉ nói suông mà "Lời luôn đi kèm hành động". Biến cố "cải tử hoàn sinh" cho người bạn La-gia-rô chết thúi 4 ngày trong huyệt mộ là một minh họa rõ nét cho chân lý nầy. Thật vậy, chính ngay "quê hương của tử thần", ngay cánh cửa dẫn vào huyệt mộ, một tiếng nói quyền năng đã âm vang thấu tận âm phủ, mở toang cánh cửa âm ty: "Hỡi La-da-rô hãy bước ra", "Ta là sự sống lại và là sự sống" (TM).

Như vậy bài học đầu tiên của Lời Chúa hôm nay mà chúng ta phải thuộc, tin mừng tiên khởi mà hôm nay chúng ta phải sống chính là:Tin vào sự sống.

Tin vào một Thiên Chúa tình yêu ban sự sống, tin vào một Đấng Kitô Phục sinh dẫn ta vào cuộc sống vĩnh hằng, tin vào Chúa Thánh Linh đang thổi vào hồn ta nguồn sống mới, thì liệu có mang lại chuyển biến nào cho chính ta và cho thế giới hay chăng? Thưa có đấy. Bởi vì chỉ với niềm tin như thế ta mới thấy thế giới đẹp vô cùng, ta mới thấy cuộc sống mới đáng sống làm sao, mới thấy mỗi một con người, mỗi một sinh linh là một công trình kỳ diệu, mới thấy mỗi một cuộc đời, cho dù què cụt điếc câm, cho dù thấp cổ bé miệng, cho dù dốt nát bần hàn...vẫn là một "kỳ công vĩ đại của Thượng Đế" luôn cần được kính trọng, luôn phải được sẻ chia, yêu thương và phục vụ. Bởi vì tất cả đều là sự sống tốt lành phát xuất từ nguồn sống vĩnh cửu và sẽ được thăng hoa, qui hướng về cội nguồn vĩnh cửu rạng ngời vinh quang đó.

Vâng, chỉ với niềm tin đó thì chúng ta mới trụ vững giữa trăm chiều thử thách, mới đủ can đảm mĩm cười với số phận cho dù số phận có khắc nghiệt oái ăm, mới đủ quảng đại và khoan dung để yêu thương và tha thứ, cho dù bị bách hại đọa đầy. Và nhất là, chỉ với niềm tin đó, chúng ta mới bình thản sống cuộc sống hôm nay như một cuộc lên đường, một cuộc vượt qua, một cuộc tái sinh để bước vào quê hương vĩnh cửu. Niềm tin đó sẽ củng cố niềm hy vọng vĩnh hằng trong ta và giúp ta mạnh mẽ góp phần xây dựng nền "văn minh sự sống", "văn minh tình yêu", cho ta con tim rộng mở để đón nhận và yêu thương con người, cho ta nghị lực và hy vọng để chiến thắng và đẩy lùi sự dữ trong ta và quanh ta.

Cách riêng đối với những anh chị em dự tòng sắp sửa lãnh nhận các bí tích gia nhập kitô giáo, niềm tin vào sự sống lại sẽ là một cảm nghiệm mới mẻ tinh khôi của những con người vừa kết thúc một chặng đường "vượt qua" đầy nhiêu khê và thử thách để hân hoan tiến vào "miền đất của tái sinh", hội nhập vào một cuộc sống mới mẻ của một đoàn dân được cứu chuộc.

Tin vào sự sống, còn có nghĩa là tin vào một Thiên Chúa đã nhập thể trong chính nổi đau và cái chết:

2. Thiên Chúa đã nhập thể trong chính nổi đau và cái chết:

Quả thật, khi vào đời, Con Thiên Chúa nào tránh né cái kiếp phận long đong của con người. Hãy xem: những giọt nước mắt đã lăn dài trên má của Chúa Giêsu khi chứng kiến cái chết của người bạn thân La-da-rô ở Bê-ta-ni-a; và chắc chắn sẽ không thiếu những "nụ cười" chia sẻ niềm vui với đôi tân hôn tại tiệc cưới Cana khi giúp họ có thêm mấy trăm lít rượu ngon để niềm vui trọn vẹn và được mãi nối dài. Nếu không có "trái tim trắc ẩn" của Ngài dừng lại trên quan tài của người thanh niêm xấu số bạt phần thì làm sao có nổi vui đong đầy trong cõi lòng của người mẹ mất con, góa phụ Naim? Nếu không có đôi tay sẻ chia và phục vụ giơ lên để chúc lành thì làm sao mấy ngàn người đói meo giữa hoang mạc có được bánh cá thơm ngon đã đời chắc ruột? Phải chăng, vì chính Ngài đã không chê những giọt nước mắt nóng hổi tình yêu sám hối của M.Mađalêna để lại trên chân mà đã khiến cho Matthêô sẵn sàng bỏ lại tất cả để theo Ngài lang thang rao giảng tình yêu? Phải chăng vì Ngài đã không kết án người phụ nữ ngoại tình mà Gia-Kê trưởng ty thu thuế giàu sụ sẵn sàng leo lên cành sung để được ngắm nhìn Ngài cho sướng mắt để sau đó sẵn sàng trở nên kẻ nghèo để sẻ chia và sống công chính. Phải chăng vì Ngài đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh mà đôi mắt tâm hồn của tên trộm bị đóng đinh bên hữu đã chợt mở ra để nhìn thấy trong cái thân xác bê bết máu kia là chìa khóa của quyền uy đang mở cửa vào Vương quốc vĩnh hằng?

Sống đức tin hôm nay đó chính là ý thức mãnh liệt rằng: Đức Kitô phục sinh đang hiện diện trong mọi ngỏ ngách và biến cố cuộc sống, nhất là, Ngài có mặt ngay trong những phút giây và cảnh ngộ bi đát nhất như cảnh ngộ của gia đình Bêtania trong biến cố La-gia-rô qua đời.

Thê thảm nhất, khổ sầu nhất, thất vọng nhất, là khi con người chối từ và phản bội Thiên Chúa để không bao giờ thấy được ánh sao hy vọng ở cuối trời, không nhận ra ánh mắt yêu thương và tha thứ đang dõi nhìn theo...mà chỉ một mình loay hoay bước đi trong cõi nhân sinh buồn thảm. Trong hoàn cảnh đó, trong thái độ đó, quả thật cuộc sống đã trở thành cõi chết, hương vị ngọt ngào của cuộc sống đã trở nên ngải đắng, ánh sáng ấm nồng mùa xuân trở thành đêm đông băng giá...Và như thế, một liều thuốc độc, một phát súng, một dây thòng lọng đã trở nên "phương tiện gần gũi dẫn lối đưa đường vào cõi chết tuyệt vọng" ! Chúng ta đừng quên câu chuyện "Ngày Thứ Năm Tuần Thánh": khi Giu-đa phản bội Thầy, bỏ bàn tiệc ra đi, thì "bóng tối dâng lên"...và "bóng tối quái ác" đó đã phủ ngập trái tim Giu-đa cho đến khi y đưa đầu vào chiêc giây thòng lọng để chọn cái chết buồn tênh tăm tối. Trong khi đó, chiều Thứ Sáu hôm sau trên đồi Can-vê nắng úa, một kẻ trộm bị đóng đinh đang hấp hối, đã nhìn ra trong cái chết đớn đau oan nghiệt của con người tử tội Giêsu Na-da-rét một ánh sáng chứa chan niềm hy vọng: "Khi Thầy vào Nước của Thầy xin nhớ đến tôi". Và lập tức anh ta được đáp ứng: "Hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi". Như thế đó, Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô đã nhập thể trong chính nổi đau và cái chết để dẫn đưa những ai tin vào Ngài tiến vào cuộc sống đích thực, như hôm nay Ngài xác quyết: "Ai sống mà tin vào Ta sẽ không chết bao giờ".

Phải chăng đây cũng chính là kim chỉ nam cho đời thường cuộc sống và là sự chuẩn bị cuối cùng của Mùa Chay Thánh, chuẩn bị bằng sự can đảm "chết đi cho cái tôi đáng ghét" của mình, can đảm quay lưng chối từ cái quá khứ của cuộc đời nô lệ tội lỗi, can đảm thoát ra khỏi vũng lầy của yếu đuối, đam mê và dục vọng...để đĩnh đạt cùng với Đức Kitô bước vào niềm hy vọng phục sinh, cuộc sống mới trong hoan vui ân sủng.

Tin vào sự sống, tin vào Đấng đã nhập thể trong nổi đau và cái chết để phục hồi tất cả trong vinh quang phục sinh sẽ không là một công thức suông được lặp đi lặp lại như "điệp khúc của mùa Chay", mà phải hiện thực ngay trong thánh lễ nầy, khi chút nữa đây, Thịt Máu Ngài sẽ trở nên lương thực trường sinh để biến cuộc đời ta, thân xác ta ngập tràn "Thần Khí. Điều quan trọng giờ nầy là ta hãy mạnh dạn trả lời câu hỏi của Đức Kitô: "Con có tin như thế không?" không phải bằng cách lặp lại thuộc lòng lời của cô Matta: "Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian", nhưng là bằng tất cả con tim và cuộc sống: con tim sẵn sàng yêu đến cùng cho dù phải thí mạng vì bạn hữu và cuộc sống sống hết mình cho vinh quang Thiên Chúa và cứu rỗi anh em cho dù phải kinh qua nẻo đường hẹp thập giá.

Để yêu và để sống như thế, dĩ nhiên, sẽ là chuyện bất khả khi với thân phận con người, nhưng lại là chuyện có thể khi chúng ta biết sẵn sàng để cho "Thần Khí chi phối". Đó chính là kinh nghiệm của Thánh Phaolô, một con người đã được Thần Khí đổi mới toàn diện từ một tay "sát thủ" tận lực tiêu diệt kitô giáo đã trở nên chứng nhân của Tin Mừng sống lại.

Nguyện xin Thần khí của Đức Kitô hôm nay cũng biến đổi tất cả chúng ta nên những con người mới, nên những chứng nhân của Tin Mừng Sống lại. Amen.

------------------------------------
 

MC 5-A105: Chúa Nhật Thứ 5 Mùa Chay


(6-4-2003)

ĐỌC LỜI CHÚA

· Gr 31,31-34: (33) Đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Ítraen: Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta.

· Dt 5,7-9: (8) Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; (9) và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người,

 · TIN MỪNG: Ga 12,20-33

Đức Giê-su loan báo Người sẽ được tôn vinh nhờ cái chết của Người

 (20) Trong số những người lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy-lạp. (21) Họ đến gặp ông Philípphê, người Bếtxaiđa, miền Galilê, và xin rằng: «Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu» . (22) Ơng Philípphê đi nói với ông Anrê. Ơng Anrê cùng với ông Philípphê đến thưa với Đức Giêsu. (23) Đức Giêsu trả lời: «Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! (24) Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. (25) Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. (26) Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy». (…).

CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
 

Trong việc buôn bán, muốn thu tiền vào, trước hết người ta phải bỏ tiền ra để đầu tư (mua hàng). Tại sao  MC 5-A105


1. Trong việc buôn bán, muốn thu tiền vào, trước hết người ta phải bỏ tiền ra để đầu tư (mua hàng). Tại sao phải làm điều trái ngược như vậy? Đó là chuyện lạ hay là lẽ thường tình? Muốn hạnh phúc, có cần phải chịu đau khổ trước không? Có hạnh phúc nào không đòi hỏi phải đau khổ không?

2. Bạn có rút được qui luật gì về sự sống và sự chết, hạnh phúc và đau khổ không? Giữa hai thái cực ngược nhau ấy, có sự liên hệ mật thiết nào không?

3.Lời Đức Giêsu: «Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời» có mâu thuẫn hay phi lý không? Bạn có kinh nghiệm nào về chân lý này không?

Suy tư gợi ý:

1. Định luật đời sống: muốn thu vào phải biết bỏ ra,

muốn hạnh phúc phải chấp nhận đau khổ

Trên đời, ta thấy sự vật luôn luôn biến đổi và có chiều hướng tiến hóa. Nhưng tiến hóa không phải theo kiểu thẳng một đường, mà theo kiểu hình «sin» hay hình lưỡi cưa, nghĩa là vẫn có tiến có lùi, nhưng tiến nhiều lùi ít, để rồi nhìn chung là luôn luôn có tiến hóa. Do đó, muốn tiếp tục tiến, nhiều khi cần thiết phải biết lùi: lùi một để tiến hai, hoặc lùi hai để tiến ba, v. v… Cũng như muốn đóng đinh, không thể chỉ đập búa xuống, mà còn phải nhấc búa lên. Nếu không nhấc búa lên thì tuyệt đối không thể tiếp tục đập xuống. Nâng búa lên tuy chẳng làm đinh lún thêm chút nào, nhưng cũng cần thiết và quan trọng không kém gì đập búa xuống, mặc dù chỉ động tác đập xuống mới có tác dụng hữu ích. Nâng búa lên tuy vô ích nhưng lại rất cần thiết!

Tương tự, một người buôn bán cứ phải bỏ tiền ra để mua hàng hóa khiến tiền bạc bị hao hụt đi, nhưng nhờ vậy mà có hàng bán ra để thu tiền vào và có lời, khiến tiền bạc ngày càng gia tăng và trở nên giàu có. Nếu người ấy không chịu bỏ tiền ra để đầu tư, cứ giữ khư khư số tiền mình có, thì làm sao gia tăng số tiền ấy lên được? Vậy, điều cần thiết để có thêm là phải cho ra hay cho đi. Nhưng đời thường, hễ thu vào thì vui, còn cho ra thì buồn. Vì thế, kẻ thiểu trí chỉ muốn thu vào mà không muốn bỏ ra, nên thu vào chẳng được bao nhiêu. Người ngu chỉ muốn hưởng sướng mà không chấp nhận chịu khổ nên chẳng sướng được nhiều. Còn người khôn thì sẵn sàng bỏ ra để thu vào cho nhiều, sẵn sàng chấp nhận đau khổ để được hạnh phúc hơn. Bỏ ra càng nhiều thì thu vào cũng càng nhiều. Cũng vậy, càng chấp nhận đau khổ thì càng có khả năng hưởng thụ hạnh phúc. Những người thiểu trí thường không nhận ra qui luật này.

2. Đau khổ và hạnh phúc luôn gắn liền và đi đôi với nhau

Bài Tin Mừng hôm nay giúp ta áp dụng định luật ấy vào đời sống, vào cuộc hành trình đi đến hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu của ta. Đức Giêsu cho biết: «Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!» Và Ngài cho ta biết lý do nào khiến Ngài được tôn vinh, hay nói cách khác, Ngài phải sống hay làm thế nào mới được tôn vinh: «Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác». Ngài còn diễn tả chân lý ấy theo kiểu khác: «Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời».

Qua những lời ấy, Đức Giêsu cho thấy sự song đôi tất yếu của từng cặp yếu tố trái ngược nhau: chết đi và sinh ra, hạnh phúc và đau khổ. Hạt lúa có chết đi mới sinh ra những hạt khác. Con người có đau khổ mới làm cho mình và người khác hạnh phúc. Thật vậy, nếu người ta cứ sống mãi không chết, làm sao thế giới có đủ chỗ và tài nguyên cho các thế hệ con cháu sinh ra sau? Đời sống kinh tế mới khó khăn lên một chút là người ta đã lo hạn chế sinh sản, lo ngừa thai phá thai rồi! Do đó, chết là điều kiện tối yếu của sống, và đau khổ là điều kiện tối yếu của hạnh phúc. Thật vậy, trên đời, có hạnh phúc nào mà không được xây dựng trên đau khổ, hoặc của chính mình, hoặc của người khác? Đúng thế, hạnh phúc và sự no ấm của con cái chính là thành quả của những vất vả, cực nhọc của cha mẹ. Sự yên vui của người dân là do sự hy sinh xương máu của những chiến sĩ xả thân bảo vệ quê hương. Vinh quang của một học sinh thi đậu xây dựng trên những ngày vất vả cắp sách đến trường, những đêm thức khuya cặm cụi với bài vở. Ngược lại, có biết bao đau khổ phát sinh vì những hạnh phúc mà chính mình hay người khác đã hưởng quá sớm, hoặc đã hưởng một cách trái đạo. Thật vậy, dân chúng nghèo đói là do các quan trên tham nhũng. Gia đình túng thiếu, vợ con cảm thấy cay đắng là vì người chồng đàng điếm, rượu chè. Biết bao thanh thiếu niên làm hỏng cả một cuộc đời chỉ vì sa đà vào nghiện hút, vì biếng học ham vui.

Vì thế, Đức Giêsu nói: «Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời». Trên thương trường, người buôn bán muốn thu thêm tiền vào thì lại phải chấp nhận bỏ tiền ra đầu tư. Cũng vậy, trong đời sống, người muốn được hạnh phúc thì phải chấp nhận đau khổ. Người buôn bán muốn thu tiền vào mà lại không chịu bỏ tiền ra đầu tư thì chẳng thu được đồng nào, mà còn bị mất tiền vì phải tiêu dùng cho những nhu cầu cần thiết của đời sống. Cũng vậy, tìm hạnh phúc mà không muốn trải qua đau khổ, thì cuối cùng chẳng những không đạt được hạnh phúc mà nhiều khi phải chuốc lấy những đau khổ nặng nề. Chẳng hạn những người muốn giàu có mà không chịu lao tâm khổ trí, không muốn làm lụng vất vả, bèn dùng những cách bất chính như trộm cướp, tham nhũng… thì thường đi đến những hậu quả hết sức bi đát (như tù tội, bị trả thù, sạt nghiệp…).

Còn rất nhiều câu Kinh Thánh khác nói lên sự đi đôi giữa sống và chết, giữa đau khổ và hạnh phúc, trong đó một vài câu ta thường nghe như: «Người đi trong nước mắt, đem hạt giống gieo trên ruộng đồng. Người về miệng vui ca, tay ôm bó lúa ngào ngạt hương» (Tv 126,6). «Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài; nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài» (2Tm 2,11-12; x. Rm 6,8; 8,17).
 
3. Giải thoát khỏi nỗi sợ chết, sợ đau khổ, sẵn sàng chấp nhận đau khổ hoặc chết

(vì Chúa, vì lương tâm) là bí quyết để sống thanh thản, bình an và hạnh phúc

Về câu nói của Đức Giêsu: «Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời», tôi có kinh nghiệm sau đây, xin chia sẻ với mọi người. Tôi cũng như mọi người, rất ham sống sợ chết. Trong mọi trường hợp, tôi luôn luôn nghĩ đến sự an toàn của bản thân tôi trước tiên. Vì thế, mỗi khi thấy chuyện gì nguy hiểm xảy đến cho tôi là tôi run sợ, lo lắng, bất an. Tình trạng lo lắng ấy có thể kéo dài nhiều ngày tháng, khiến tôi không còn cảm thấy hạnh phúc nữa. Nhưng cách đây vài năm có xảy ra một trường hợp: tôi phải chọn lựa dứt khoát giữa sự an toàn bản thân và tiếng lương tâm. Phải dứt khoát, vì chọn làm theo sự thúc đẩy của lương tâm thì thật là nguy hiểm cho bản thân, và chắc chắn còn liên lụy đến gia đình: cha mẹ, anh em, vợ con; còn chọn an toàn cho bản thân thì bị lương tâm cắn rứt, chịu không nổi. Sau khi bị lương tâm dằn vặt nhiều ngày chịu không nổi vì chưa làm theo sự đòi hỏi của nó, tôi quyết định làm theo tiếng lương tâm, bất chấp mọi sự. Thà chấp nhận nguy hiểm còn hơn để lương tâm bất an! Thế rồi những khó khăn xảy đến… trong nhiều ngày tháng… Như một phản ứng tự vệ, tôi phó thác mạng sống và sự an nguy của tôi trong tay Chúa. Khi hồi hộp lo âu, tôi lẩm nhẩm hát trong trí: «Chúa khoan nhân là mục tử tôi, tôi không còn thiếu gì, tôi không còn e sợ nỗi gì (…) Dầu tôi đi qua trong thung lũng tối đen hiểm nguy, lòng tôi không lo ngại tai họa gì: vì Chúa ở cùng tôi, cây trượng và cây gậy Chúa khiến tôi an lòng» (Tv 23). Thế rồi mọi khó khăn đều qua!

Nhiều lần phải chọn lựa tương tự như vậy, lần nào tôi cũng làm theo sự đòi hỏi của lương tâm. Dần dần tôi cảm thấy nhu cầu đòi hỏi an toàn cho bản thân giảm đi, khiến hiện nay, khi gặp nguy hiểm cho bản thân, tôi cảm thấy an tâm hơn trước rất nhiều. Giữa những nguy hiểm, tôi tập sẵn sàng chấp nhận mất tất cả, kể cả mạng sống. Lạ lùng thay, dần dần tôi cảm nghiệm được một sự thanh thản, bình an sâu thẳm trong tâm hồn. Và tôi khám phá ra thật sự có bàn tay quan phòng của Thiên Chúa luôn bảo vệ tôi, luôn lo lắng cho tôi tất cả những nhu cầu cần thiết.

Qua kinh nghiệm trên, tôi khám phá ra rằng: lúc nào cũng nghĩ trước hết đến sự an toàn bản thân chỉ tạo cho ta một thói quen sợ sệt, lo lắng, mất bình an. Còn tập buông bỏ tất cả những gì mình vẫn thường bám víu như: sự sống, sự an toàn, các tham vọng, tiền bạc, nhà cửa, danh dự… sẵn sàng chấp nhận mất tất cả, chỉ bám víu vào một mình Thiên Chúa, thì sự bình an và hạnh phúc sẽ đến. Hiện nay, tôi cảm thấy tâm hồn bình an và hạnh phúc hơn trước rất nhiều: một thứ bình an hạnh phúc thường hằng và bền vững, khác với thứ bình an trước đó. Bình an và hạnh phúc của tôi bây giờ phát xuất từ bên trong, từ Thiên Chúa, không bị chao đảo khi những điều kiện bên ngoài thay đổi nữa. Qua kinh nghiệm này, tôi thấy chính lúc mình chấp nhận đau khổ, thì đau khổ không còn ảnh hưởng tới mình nhiều như trước nữa. Chính lúc mình sẵn sàng chấp nhận chết bất kỳ lúc nào, thì mình lại sống thanh thản và trọn vẹn hơn bao giờ hết. Điều Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay quả là đúng!

CẦu nguyỆn

Lạy Cha, Đức Giêsu cho con thấy tương quan mật thiết giữa sống và chết, giữa hạnh phúc và đau khổ. Xin cho con đủ tình thương để chấp nhận đau khổ hầu làm cho những người chung quanh con hạnh phúc. Con biết rằng nếu con làm được điều ấy, con sẽ thấy cuộc đời này tràn đầy ý nghĩa và hạnh phúc. Xin cho con đủ dũng cảm để làm điều ấy.

Joan Nguyễn Chính Kết
1-4-2003


------------------------------------
 

MC 5-A106: Suy niệm của Lm. Gioakim Bùi Văn Ninh

 

Thời gian này chúng ta đi sâu vào Mùa Chay, và cũng trong thời gian này nhiều giáo xứ đã tổ MC 5-A106


Thời gian này chúng ta đi sâu vào Mùa Chay, và cũng trong thời gian này nhiều giáo xứ đã tổ chức Bí Tích Hòa Giải để nhiều người sám hối trở lại cùng Chúa, nhiều anh chị em dự tòng đang chuẩn bị tâm hồn đón nhận bí tích Thánh Tẩy. Tôi có tin nhận rằng Đức Giêsu Kitô đã chết và sống lại vì tôi không?

Các bài đọc hôm nay cho thấy sự xuyên suốt với chủ đề: Sự Sống Lại.

Bài đọc Cựu ước: Thiên Chúa cho dân Ngài sống lại.
Bài Tin Mừng: Đức Giêsu làm cho Ladarô sống lại.
Bài đọc Tân ước: Thánh Thần ban sự sống cho mọi xác phàm.

Qua phép lạ Chúa Giêsu đã làm Chúa muốn ban cho con người từ sự sống lại đến sự sống đời đời. Câu then chốt trong bài Tin mừng hôm nay là: “Phục sinh và sự sống chính là Ta ! Ai tin vào Ta thì dầu chết cũng sẽ sống và mọi kẻ sống mà tin vào Ta sẽ không phải chết bao giờ” (c 25). Và để giúp người ta tin như thế, Chúa Giêsu đã cho Ladarô sống lại.

Bước vào đời sống rao giảng công khai, Chúa Giêsu đã không ngừng làm cho mọi người tin Người có sự sống đời đời đem đến cho người ta. Hôm nay sắp bước vào cuộc khổ nạn, Chúa càng khẳng định mạnh mẽ hơn để củng cố niềm tin của mọi người và nói lên ý nghĩa việc Người chấp nhận sự chết.

Sự sống thể xác:

Hầu hết ta lo lắng cho phần xác nhiều thời giờ hơn: ăn uống, tiền bạc, thuốc men, hưởng thụ… và cũng rất nhiều tội ta phạm vì quá lo cho sự sống thể xác.

Tin mừng Thánh Gioan kể lại hôm nay, bà Matta, bà Maria nhiều người Do thái thân cận cũng đã lo lắng, buồn phiền, thương tiếc trước cái chết thể xác của người thân là Ladarô cả Chúa Giêsu cũng thổn thức trong lòng ít nhất là 2 lần trước cái chết thể xác của Ladarô.

Ladarô được Chúa Giêsu cho sống lại, ông sống thêm một thời gian nữa rồi cũng phải chết như những người khác.

Ai cũng biết rằng sự sống thể xác con người gặp rất nhiều giới hạn và giới hạn cuối cùng là cái chết và chính Chúa Giêsu cũng chấp nhận cái giới hạn đó.

Sự sống thần linh:

Qua tiên tri Êdêkien Chúa phán: “Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh” (Ed 37, 14a).

Thánh Phaolô gởi thư cho tín hữu Rôma: Thánh Thần làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết sống lại trong anh em, thì cũng làm cho xác phàm hay chết của anh em được sự sống mới”.

Sự sống thần linh quan trọng hơn sự sống thể xác bởi sự sống này thuộc về Thiên Chúa.

Gợi ý áp dụng:

Ladarô được Chúa Giêsu cho sống lại để làm vinh danh Chúa, làm cho những người Do Thái, các Tông Đồ và cả tôi nữa tin rằng Chúa Giêsu đã được Thiên Chúa sai đến với nhân loại.

Ladarô sống lại giúp cho tôi xác tín vào niềm tin phục sinh của ngày mỗi người sẽ sống lại do quyền năng Thiên Chúa.

Kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”, mà tôi không sống đúng với lời tuyên xưng niềm tin ấy và chưa dám tin vào Lời Chúa nói: “Ai dám liều bỏ mạng sống thì sẽ được sống đời đời”.

Mùa Chay giúp ta chuẩn bị chia sẻ sự sống đời đời với Đức Giêsu. Cuộc sống thần linh của ta có thể đã chết hay chưa sống dồi dào. Ta hãy kết hợp với Chúa Giêsu mà xin ơn Phục Sinh và tin chắc rằng ta sẽ được miễn là ta thực sự muốn mình Phục Sinh với Chúa.

Sau câu chuyện này Thượng Hội Đồng Do Thái đã quyết định giết Chúa Giêsu, như vậy Chúa đã chết để cho tôi được sống.

“Ai tin Ta sẽ không chết bao giờ” sau câu nói đó Chúa đã hỏi Matta: “con có tin như thế không”. Đó cũng chính là câu hỏi Chúa hỏi ta mỗi ngày và mỗi ngày ta sống như thế nào là câu trả lời đối với niềm tin vào Chúa Phục Sinh là sự sống đời đời.

Trong thánh lễ chúng ta luôn tuyên xưng: “Chúng con loan truyền Chúa chịu chết, và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”, đó là lời nhắc nhở việc Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô.

------------------------------------
 

MC 5-A107: Gieo mầm sự sống – Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

 

Tuần qua, trên báo có bài viết: “Đường đi của cái chết” nói về những đường dây ma túy từ Châu MC 5-A107


Tuần qua, trên báo có bài viết: “Đường đi của cái chết” nói về những đường dây ma túy từ Châu Phi và từ một số quốc gia đang đổ vào Việt Nam dưới rất nhiều hình thức. Một điều khó khăn cho những người có trách nhiệm đó là ma túy ngày nay rất đa dạng và rất mới, còn hành động của những kẻ gieo rắc cái chết trắng thì hết sức tinh vi và là một mạng lưới xuyên quốc gia. Những chất ma túy này hằng ngày đang gieo bao nhiêu sự chết chóc cho người Việt, gây nên một sự bạc nhược uể oải cho lớp trẻ, và ăn mòn tuổi trẻ của nhiều người. Bên cạnh những cái chết trắng còn có nhiều người đang gieo cái chết âm thầm cho người khác qua việc sản xuất thực phẩm không an toàn, hoặc gieo rắc những hình ảnh những lối hành xử giết chóc vào trong tâm hồn người khác qua phim ảnh bạo lực sách báo với lối sống thù hằn. Ở Việt Nam còn có cái chết mà các nơi khác rất ít có, đó là cái chết đường phố: những hung thần trên đường phố tại Việt Nam mỗi tháng cũng cướp đi sinh mạng của hàng ngàn người, mỗi năm hơn 10 ngàn người chết vì tai nạn giao thông, và cũng có từng đó người thương tật.

Thưa quý OBACE, xã hội và thế giới quanh ta dường như càng ngày càng được bao trùm bởi sự chết chóc, lo âu và sợ hãi như thế, thì Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng muốn cho con người được sống và sống hạnh phúc. Đức Giêsu chính là Đấng đã sống lại từ cõi chết và đem đến sự sống cho nhân loại. Câu chuyện Chúa Giêsu cho anh Lazarô được sống lại hôm nay muốn nói lên điều đó.

Cái chết là đau khổ tột cùng của con người, đau khổ cho cả người chết và người còn sống. Khi đối diện với cái chết con người lo âu sợ hãi, sợ hãi vì họ phải đối đầu với cái chết một mình, cảm thấy cô đơn không có ai đi cùng. Đối diện với cái chết người ta sợ hãi là vì người ta không biết bên kia cánh cửa sự chết điều gì sẽ xảy ra cho họ, và họ sẽ bị hủy diệt vĩnh viễn. Chính vì thế mà ai cũng muốn kéo dài sự sống. Bên cạnh đó cái chết còn để lại cho người sống một nỗi đau đớn mất mát vì phải vĩnh viễn chia tay với người thân yêu. Vì những lý do đó mà cái chết luôn là sự ám ảnh sợ hãi cho con người.

Trong cái nhìn đó, chúng ta mới thấy hoàn cảnh đau thương của gia đình Matta và Maria, họ chỉ có ba chị em, mà giờ đây mất đi người em út. Đọc câu chuyện chúng ta thấy cái chết của Lazarô đã làm cho tinh thần của hai người chị xuống dốc trầm trọng và đức tin của họ bị chao đảo và thử thách nặng nề. Trước đây, họ vẫn đón tiếp Chúa Giêsu như một vị Thầy quyền năng, và chắc chắn đã nhiều lần hai cô cũng chứng kiến việc Chúa làm phép lạ cho kẻ chết sống lại, tuy nhiên lần này khi Lazarô bị bệnh nặng, báo tin cho Thầy Giêsu, thì Thầy đã không đến ngay, vì thế hai cô rơi vào thất vọng, nên khi Đức Giêsu vừa đến thì cô Matta đã trách Chúa trong tuyệt vọng: Nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết.

Dù là trách Chúa, nhưng cô vẫn còn một chút hy vọng khi cô nói: Nhưng con biết bây giờ Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, thì Người cũng sẽ ban cho Thầy. Chúa Giêsu đã không nỡ để cho hy vọng cuối cùng ở nơi cô bị vụt tắt nên Ngài đã nâng đỡ đức tin cho cô khi nói với cô: Em con sẽ sống lại. Tuy nhiên cô Matta vẫn chưa vượt qua được sự cản trở tự nhiên và sự suy nghĩ của con người, nên cô cũng chỉ nói lên niềm tin vào sự sống đời sau mà thôi, chứ cô không tin rằng Đức Giêsu có thể làm cho em cô sống lại ngay bây giờ, vì thế cô nói: Vâng con biết đến ngày tận thế thì em con sẽ sống lại.

Chúa Giêsu đã muốn cho cô Matta đi một bước xa hơn trong niềm tin vào quyền năng Thiên Chúa ở nơi Ngài, tin Ngài có thể làm được tất cả, nên Ngài mới giải thích cho Matta: Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Thầy thì dù có chết cũng sẽ được sống, ai sống mà tin vào Thầy thì không bao giờ phải chết. Giải thích điều đó, Chúa Giêsu muốn cô Matta tuyên xưng niềm tin của mình khi Ngài hỏi cô: Con có tin như thế không? Lúc này cô Matta đã vâng phục hoàn toàn không cần phải giải thích thêm, cô đã tuyên xưng: Thưa Thầy có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian. Với lời tuyên xưng này, cô Matta đã tin nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô, có nghĩa là Đấng được xức dầu, là Đấng Cứu Thế, và còn tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa, có nghĩa là tuyên xưng Đức Giêsu là chính Thiên Chúa, Đấng có quyền năng của một vị Thiên Chúa.

Mặc dù hoàn toàn tin tưởng Đức Giêsu là Thiên Chúa quyền năng, nhưng cô Matta, chị của người chết vẫn cứ để cho sự chết ràng buộc mình, cho nên khi Chúa Giêsu ra lệnh cho mọi người khiêng tảng đá lấp cửa mộ ra, thì cô Matta đã can ngăn mọi người: Thưa Thầy, không thể được, vì đã bốn ngày rồi. Một lần nữa Đức Giêsu lại nâng đỡ đức tin cho cô Matta: Nếu chị tin, chị sẽ thấy vinh quang Thiên Chúa. Bằng một mệnh lệnh: Lazarô hãy ra đây, người chết liền bước ra khỏi mồ, trên người còn quấn những khăn liệm. Chứng kiến phép lạ này nhiều người đã tin vào Đức Giêsu.

Đức Giêsu chính là Thiên Chúa là Đấng ban sự sống cho nhân loại và vũ trụ, Ngài là Đấng đã mang lấy thân phận của con người đã chấp nhận cái chết và đã dùng quyền năng của Thiên Chúa mà chỗi dậy từ cõi chết để đem đến cho nhân loại sư sống, những ai tin Ngài và đón nhận Ngài thì đón nhận được sự sống Ngài ban tặng. Việc hồi sinh cho Lazarô là một minh chứng về quyền năng của Thiên Chúa, tuy nhiên Lazarô vẫn chỉ hồi sinh để sống lại cuộc sống cũ, còn những người tin vào Đức Giêsu, thì đón nhận được một sức sống mới hoàn toàn khác hẳn với cuộc sống cũ. Sức sống mới này là sức sống của Thần Khí của Thiên Chúa mà Đức Giêsu trao ban sau khi Người từ cõi chết sống lại.

Thần Khí sự sống mà Đức Giêsu ban tặng đã được tiên tri Ezekiel nhắc đến khi tiên báo rằng: Thiên Chúa phán: Ta sẽ mở cửa mồ cho các ngươi, Ta sẽ đặt Thần Khí của Ta vào trong các ngươi, và các ngươi sẽ được hồi sinh. Thánh Phaolô đã hiểu điều này, đã tin và đã nói cho cộng đoàn Rôma rằng: Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, Ngài cũng sẽ dùng Thần Khí của Ngài mà làm cho thân xác anh em được sự sống mới.

Thưa quý OBACE, chúng ta vẫn phải đối diện với cái chết về thể xác, nhưng đối với những người tin vào Đức Giêsu, thì cái chết không còn là nỗi sợ hãi kinh hoàng nữa, vì chúng ta tin vào lời Chúa hứa hôm nay: Ai tin vào Thầy thì dù có chết cũng sẽ được sống, và ai sống mà tin vào Thầy thì sẽ không phải chết nữa. Do đó với người Kitô hữu cái chết sẽ trở nên nhẹ nhàng, là ngưỡng cửa bước qua để chúng ta được vào hưởng sự sống đời đời với Thiên Chúa.

Tuy nhiên chúng ta không chỉ mong đợi sự sống đời đời mai sau, nhưng ngay hôm nay, nhờ được dìm vào dòng nước rửa tội, cùng dìm vào cái chết của Đức Giêsu Kitô, thì ngay hôm nay, lúc này, chúng ta đang đón nhận được sự sống Ngài trao ban. Sự sống ấy chính là Thánh Thần của Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động trong chúng ta. Như thế, theo thánh Phaolô, chúng ta không thể để mình sống theo con người cũ, không thể để mình buông theo lối sống của xác thịt và của thế gian, nhưng phải để cho Thánh Thần chi phối và dẫn dắt, và chỉ những ai để cho Thánh Thần dẫn dắt thì mới thuộc về Đức Kitô. Mỗi người chúng ta đã được lãnh nhận sức sống của Thánh Thần trong ngày rửa tội và được tăng cường mạnh mẽ trong ngày lãnh Bí tích Thêm Sức, tuy nhiên, nhiều người đã bỏ quên sự hiện diện của Thánh Thần, đã để cho mầm sống mới của Đức Kitô bị thui chột bởi cuộc sống bê tha lười biếng.

Một lần nữa lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tái khẳng định niềm tin vào Chúa Giêsu, để nhờ tin vào Ngài, chúng ta được lãnh nhận Thánh Thần là sự sống của Ngài, và được sống. Hãy đem sự sống của Đức Giêsu vào trong đời sống và trong gia đình của mình, hãy lắng nghe và vâng theo sự hướng dẫn của Thánh Thần, Chúa Thánh Thần sẽ soi dẫn chúng ta, giải gỡ những khó khăn trong cuộc sống, giúp chúng ta điều chỉnh lại nếp sống để cho gia đình mỗi ngày thêm hạnh phúc hơn. Hãy cùng nhau tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu là Thiên Chúa quyền năng, và dám phó thác cuộc sống và gia đình cho Ngài, Ngài sẽ canh tân đổi mới cuộc sống gia đình chúng ta.

Nhiều người ngày nay đang bị chôn vùi trong tội lỗi, trong cái tôi ích kỷ lười biếng và tự mãn của mình, nhiều người trẻ thì bị những dây băng là các thứ nghiện ngập đam mê trói buộc như games, internet, phim ảnh, sách báo xấu, ma túy, cờ bạc, cá độ,… khiến họ nằm lỳ trong tình trạng xa Chúa, nhiều bạn khác vì bị nhồi nhét bởi những tư tưởng vô thần, những phong trào chống phá bôi xấu Giáo Hội, nó như nấm mồ chôn chặt cuộc sống và suy nghĩ của họ. Hãy tin tưởng vào quyền năng của Đức Giêsu để lăn tảng đá xấu xa đó ra khỏi cuộc đời, hãy giúp nhiều bạn trẻ tháo cởi khỏi những sợi dây băng chết chóc ràng buộc đó, để giúp họ có thể đến với Đức Giêsu và đón nhận được Thần Khí sự sống của Ngài. Amen.
 

------------------------------------
 

MC 5-A108: Chôn cất – Lm Vũ Đình Tường

 

Không phải hễ có chết là có an táng cả đâu. Rất nhiều trường hợp hết đời âm thầm, tàn lụi không MC 5-A108


Không phải hễ có chết là có an táng cả đâu. Rất nhiều trường hợp hết đời âm thầm, tàn lụi không an táng. Không ai an táng một tư tưởng ngay cả có thời nó được coi là vĩ đại. Không ai an táng một mối tình đứt quãng giữa đường. Chẳng ai an táng cái chết của một niềm tin, dù là niềm tin vào Đức Kitô.

Ban sự sống lại cho Lazarô Đức Kitô ban nguồn sống mới cho các tông đồ và tăng thêm niềm tin cho những người từng quen biết Lazarô. Chính những người này thắc mắc vào quyền năng Thiên Chúa. Họ hỏi nhau ông Jêsu có thể mở mắt cho người mù mà không thể cứu sống được bạn mình sao. (c,38)

Đức Kitô nhắc cho chị em Maria và Martha biết về quyền năng của Thiên Chúa khi Ngài phán bảo các cô Ngài là Thiên Chúa của sự sống. Mary và Martha tin vào quyền năng của Thiên Chúa vượt lên khỏi sự chết, đau khổ và bệnh tật và các cô, dù không hiểu hay hiểu rất mù mờ vẫn đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô. Tin vào Đức Kitô không đòi hỏi chúng ta hiểu một cách cặn kẽ. Có lẽ điều cốt yếu cần học hỏi để tin nhiều hơn là học biết tình yêu Chúa dành cho con người cao xa, vượt khỏi tầm hiểu biết của ta.

Ban sự sống lại cho Lazarô Đức Kitô mặc khải sức mạnh tình yêu Chúa. Mặc khải sức mạnh tình yêu Chúa chính là làm sáng Danh Chúa. Đức Kitô cho biết sức mạnh tình yêu Chúa lớn hơn sự chết và Danh Chúa cả sáng biểu lộ qua tình thương bao la Ngài dành cho nhân loại. Đức Kitô đánh bại sự chết cho thấy ngay cả ‘thần chết’ cũng phải quy phục Ngài. Chết là chặng đường ta đi qua trước khi bước vào ngưỡng cửa Phục Sinh vinh quang.

Mary và Martha tin vào quyền năng Chúa nhưng vẫn mù mờ thắc mắc tại sao Thiên Chúa chậm chạp trong việc đáp lại lời ta cầu xin. Cả hai cô, dù không bàn với nhau trước nói với Đức Kitô cùng một câu. Nếu Thầy đến sớm thì em con sẽ không chết (c.21, 32)

Thiên Chúa có chương trình riêng của Ngài, không phải chương trình của ta. Khi nào Ngài đáp lời ta cầu xin là do Ngài chọn lựa thời gian, địa điểm. Việc chọn lựa này đặt căn bản trong việc thực hiện í Chúa Cha như Ngài từng phán Ta đến không phải để làm theo í Ta mà là làm theo í của Chúa Cha. Khi nào thỉ đến giờ Ngài thực hiện điều ta xin là quyền của riêng Ngài. Tiệc cưới Cana chứng tỏ điều đó khi Đức trinh nữ xin Ngài giúp gia chủ vì giữa tiệc hết rượu. Ngài đáp: Giờ Ta chưa đến.

Hai chị em Mary and Martha tin tưởng Đức Kitô sẽ cho Lazarô sống lại và ngày đó sẽ xảy ra trong ngày sau hết. Ngày sau hết khi nào chỉ mình Thiên Chúa định đoạt. Chúng ta cũng không quên Thiên Chúa làm chủ sự sống và Ngài làm chủ cả thời gian. Đối với chúng ta có sớm, có muộn vì chúng ta ảnh hưởng bởi thời gian. Thiên Chúa không ảnh hưởng bởi thời gian nên không có sớm, cũng không có muộn, cũng không có tương lai. Đối với Ngài thời gian luôn là hiện tại. Liên kết với Đức Kitô để được luôn sống trong hiện tại và ơn Phục Sinh thuộc về Ngài.

Hành trình đi từ cõi chết đến sự sống là hành trình mỗi người chúng ta đều trải qua. Chết về phần thân xác để sống vinh quang phần tâm linh. Hành trình này gây đau khổ, xót thương như hai chị em Maria và Martha đã trải qua trước khi đón nhận sự sống mới của Lazarô. với đức tin vào Đức Kitô chúng ta tin rằng chết thân xác chỉ là biến đổi từ xác phàm trước khi mặc lấy thân xác vinh hiển. Chết thân xác chỉ là tạm bợ vì tình yêu Chúa cao vời vĩ đại hơn tội lỗi con người.

------------------------------------
 

MC 5-A109: Từng bước – Lm Vũ Đình Tường

 

Ba tuần qua chúng ta nghe nhiều về sự sống trường sinh. Đầu tiên là chuyện Đức Kitô đối thoại MC 5-A109


Ba tuần qua chúng ta nghe nhiều về sự sống trường sinh. Đầu tiên là chuyện Đức Kitô đối thoại với người phụ nữ thành Samari tại bờ giếng. Nơi đó Đức Kitô xin chị nước uống. Với lòng thành chị nhận ra Ngài là Đấng ban nước hằng sống và chị đã nhận được nước trường sinh.

Tuần qua lại nghe chuyện Đức Kitô mở mắt người mù từ lúc mới sinh. Mắt thể xác anh được sáng và mắt đức tin của anh còn sáng hơn. Nhờ mắt đức tin mà anh nhận biết Đức Kitô là Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ trần gian.

Tuần này chúng ta nghe về việc Đức Kitô làm cho Lazarô sống lại từ cõi chết.

Bằng nhiều dụ ngôn khác nhau Đức Kitô dẫn chúng ta đi từng bước, giải thích về tình yêu Thiên Chúa và sự sống đời sau - Ban nước trường sinh cho người phụ nữ thành Samari- mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh và ban sự sống cho Lazaro là chuẩn bị cho chúng ta hiểu về sự chết và Phục Sinh của chính Ngài.

Các dụ ngôn trên cho thấy tình yêu Thiên Chúa mạnh hơn sự chết. Vì yêu mà Đức Kitô hiến thân ban sự sống cho nhân loại.

Hiến mạng

Đức Kitô từ bỏ vùng đang rao giảng để thực hiện điều rao giảng. Đây là chuyến đi định mệnh. Đức Kitô chết để ta được sống. Nguyên nhân Đức Kitô chết vì Ngài yêu thương. Thí mạng sống vì đàn chiên. Con người muốn Ngài chết vì danh Ngài vang dội. Phúc Âm ghi lại án tử bằng câu.

Từ ngày đó họ quyết định giết Đức Kitô (Ga 11,53)

Thì ra người ta giết nhau, thanh trừng nhau vì ghen. Sợ danh người khác lấn át danh mình. Muốn hơn tiếng phải thanh trừng, khai trừ. Án tử cho Đức Kitô đã định sẵn. Không còn phải thắc mắc. Nếu có chỉ là thời gian, tìm dịp thuận tiện để thi hành. Đức Kitô chết vì thực hiện điều rao giảng: bác ái, yêu thương, thứ tha. Vì bác ái bị người thù. Vì yêu người bị người ghét. Vì tha thứ bị người khai trừ. Vì sao? Vì nhân đức nghịch với khuynh hướng, lối sống và cách xử thế thế gian nên thế gian ghét những gì không thuộc về chúng. Bác ái, yêu thương, tha thứ thành trò cười cho thiên hạ chế diễu. Thể hiện qua lời móc méo của kẻ trộm và viên trưởng lãnh binh. Trước khi xỏ lưỡi đòng thâu tim, họ đã xiên lưỡi đòng tâm lí.

Hắn cứu được người khác mà không cứu được mình. (Lc 23,35)

Thiên Chúa không đáp lại lời châm biếm nhưng biến lời chế diễu thành lời rao giảng, tuyên xưng. Lời xỏ xiên kia xác nhận Đức Kitô ban sự sống cho người khác. Tự thú Ngài không sống cho chính Ngài nhưng sống cho tha nhân và phó mình làm giá chuộc muôn dân. Từ khởi nguyên ý định xuống thế cứu chuộc không hề lay chuyển. Ngài xuống trần gian không phải để làm theo ý riêng nhưng làm theo ý Chúa Cha. Mà ý Chúa Cha là muốn mọi người nhận ơn cứu rỗi. Đức Kitô thể hiện ý Chúa Cha, hoàn tất một cách trọn vẹn. Lời cuối trên thập tự thể hiện điều này: Mọi sự đã hoàn tất – Nói xong, Ngài tắt thở.

Bạn của Thiên Chúa

Mở đầu bằng hứa ban nước trường sinh cho người phụ nữ Samari tại bờ giếng. Một người dân ngoại. Đức Kitô còn kể dụ ngôn người dân ngoại thành Samarita nhân lành, cứu người bị nạn dọc đường, đưa vào quán trọ nhờ săn sóc (Lc 10,25-37). Câu hỏi đặt ra cho mỗi người chúng ta người dân ngoại nhân lành đó là ai?

Là chính Đức Kitô và mỗi người trong chúng ta? Đối với lãnh binh đền thờ và thượng tế Đức Kitô là dân ngoại. Tệ hơn nữa còn bị quỉ ám.

Chúng tôi bảo ông là người Samari và là người bị quỉ ám thì chẳng đúng lắm sao (Ga 8,48)

Vì mở mắt sáng cho người mù từ lúc mới sinh mà họ kết án Ngài

Chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi (Ga 9,24)

Vì ban sự sống cho bạn thân là Lazarô nên họ chủ trương giết Ngài. Ai là bạn hữu của Ngài? Câu trả lời thật rõ

Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dậy. Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu (Ga 15,14)

Để trở thành bạn Đức Kitô người đó cần nhận tội, sống yêu thương, tha thứ và thực thi đức ái. Khiêm nhường thú nhận tội lỗi, sống bác ái, yêu thương biến chúng ta thành bạn hữu Đức Kitô.Tình bạn không dành cho riêng ai mà trải dài, vươn rộng cho tất cả những ai tin vào Ngài

Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết (Ga 11,26)

Tin vào Đức Kitô sẽ nghiệm thấy chết thể lý là biến đổi để bước vào sự sống trường sinh. Sự sống đó không cần phải đợi đến ngày kẻ chết sống lại mà khởi đầu ngay khi hồn lìa khỏi xác. Đây chính là ý nghĩa câu ‘sẽ không bao giờ phải chết’. Hồn lìa khỏi xác để đoàn tụ cùng Chúa, thể hiện điều Đức Kitô ước mong trong lời nguyện hiến tế

Lạy Cha, Con muốn rằng Con ở đâu thì những người Cha đã ban cho Con cũng ở đó với Con (Ga 17,24)

Chúng ta cầu xin sống tinh thần khiêm nhường, thú tội, nhận biết, tin theo Đức Kitô. Sống theo lời Chúa dậy, đầy nhân hậu, giầu bác ái, nhiều tình thương, chậm bất bình và hay tha thứ.

------------------------------------
 

MC 5-A110: Chúa Kitô là sự sống lại và là sự sống


(Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Văn Độ)
 

Sau khi Giáo hội ngưng nghỉ để (Laetare) chuẩn bị tốt hơn niềm vui Phục Sinh dù còn hai tuần MC 5-A110


Sau khi Giáo hội ngưng nghỉ để (Laetare) chuẩn bị tốt hơn niềm vui Phục Sinh dù còn hai tuần nữa, nhưng niềm vui ấy đã ló rạng trong các bài đọc Chúa nhật hôm nay, tuy không nói về sự sống lại của Chúa Giêsu vì đó là điều tất yếu, nhưng nói về sự phục sinh của chúng ta, chính Chúa Kitô ban cho chúng ta: trỗi dậy từ trong cõi chết.

Phục sinh Lagiarô báo trước cái chết của Chúa Giêsu

Sự kiện Lagiarô sống lại như một bi kịch giữa Sự Sống và Sự Chết, giữa Đấng được Chúa Cha sai đến là Đức Giêsu Kitô, Chúa của Sự Sống, và thủ lãnh sự chết tiềm ẩn nơi: bệnh tật, cái chết của Lagiarô, cũng như các âm mưu chống lại Chúa Giêsu.

Ngay từ đầu, Chúa Giêsu cho thấy những thử thách về bệnh tật của bạn mình, cũng như cái được cái mất trong cuộc thương khó của Ngài: "Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa" (Ga 11,4). Chúa Giêsu biết rõ, Lagiarô chết và việc của Ngài nên nói với các môn đệ: "Lagiarô đã chết" ( Ga 11, 14). Nhưng Ngài sẽ cho sống lại, vì "sáng danh Thiên Chúa" (Ga 11,4).

Đây là phép lạ thứ bẩy và cuối cùng thu hút sự chú ý nhất của dân chúng vào Chúa Giêsu trước khi Ngài bị bắt. Khi loan báo cho các môn đệ biết về ý muốn trở lại Giuđêa của Chúa Giêsu để gặp Lagiarô đã chết, các ông hết sức ngạc nhiên và lo lắng nên nói: "Thưa Thầy, mới đây người Do thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại trở về đó ư?" (Ga 11,8). Quả thật, các nhà lãnh đạo Do thái đã để mất Chúa Giêsu vào dịp này: "Bởi vậy từ ngày đó, họ quyết định giết Người" (Ga 11, 53 ). Nhưng phản ứng của Chúa Giêsu là: "Ladarô đã chết, chúng ta hãy đi với anh ta" (Ga 11, 15), Ngài sẽ đánh bại sự chết, cứu con người khỏi chết và ban cho sự sống.

Niềm hy vọng của chúng ta

Trọng tâm của Tin Mừng hôm nay là câu: "Ta là sự sống và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ "(Ga 11, 25-26). Nếu chúng ta đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, Chúa Cha "Đấng đặt Thánh Thần của Ngài trong chúng ta, và chúng ta đang sống" sự sống của Người (Ez 1, 13) thì chúng ta sẽ được Thiên Chúa cho sống lại ngày sau hết.

Chúa cho Lagiarô sống lại như Ngài đã làm cho con gái ông Giairô, con trai của bà góa thành Naim trở lại sự sống tự nhiên lần thứ hai trong một thời gian ngắn. Trái lại, "Đức Kitô sống lại từ cõi chết, không còn chết nữa, sự chết không còn bá chủ được Ngài nữa" (Rm 6, 9) vì Ngài sống sự sống của Thánh Thần Thiên Chúa. Nhưng "nếu Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần Người ngự trong anh em" (Rm 8,11). Sao chúng ta không thể hy vọng được.

Phần lớn chúng ta mong đợi trở lại cuộc sống tự nhiên. Chắc chắn chúng ta sẽ chết, bởi vì "thân xác chúng ta đã chết vì tội lỗi" (Rm 8, 10) nhưng "nếu Đức Kitô ở trong chúng ta" và chúng ta ở trong Ngài với đức tin sống động, thì linh hồn chúng ta sẽ sống bằng sự sống của Thiên Chúa và được tham dự vào sự bất tử của Ngài. Hơn nữa: chúng ta tin vào phép rửa "Vậy nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Đức Kitô, nhờ bởi vinh quang của Cha, mà được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới". (Rm 6, 4).

Thật là đại tin mừng: "nơi Ngài là sự Sống, và sự Sống là sự Sáng cho nhân loại. Và sự sáng rạng trong tối tăm, và tối tăm đã không tiêu diệt được sự sáng" ( Ga 1, 4-5). Nếu như tác giả Tin Mừng đã hai lần thuật lại điều Martha và Maria than với Chúa về đau khổ của hai bà: "Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết", há không phải muốn nhấn mạnh rằng, từ nay, tiếng khóc không còn nữa đó sao? Chúa Giêsu thổn thức và xúc động. Người hỏi: "Đã an táng Lagiarô ở đâu?" Nước mắt Chúa như mưa, Lagiarô như hạt giống, và ngôi mộ như một thửa đất. Chúa Giêsu hô lớn tiếng, tiếng Ngài làm cho sự chết run sợ, Lagiarô đã bung lên như hạt giống, anh bước ra khỏi mồ và tôn thờ Đấng đã cho anh sống lại.

Mãnh lực của sự chết đã thống trị Lagiarô bốn ngày. Chúa Giêsu đã đánh bại sự chết ngày thứ ba, đúng như lời Ngài đã hứa rằng, Ngài sẽ sống lại ngày thứ ba sau khi chết (x. Mt 16, 21)

"Hãy đẩy tảng đá ra" (11, 39). Cái gì vậy, Đấng đã làm cho kẻ chết sống lại, nay không thể mở cửa mồ hay phán một lời để di chuyển tảng đá đóng cửa mồ hay sao? Chắc chắn, Ngài có thế khiến tảng đá lăn ra khỏi mồ bằng lời Ngài phán, khi Ngài bị treo trên thập giá, Ngài đã từng chẻ đôi tảng đá và mở tung các cửa mồ (Mt 27,51-52 ).

"Hãy cởi ra cho anh ấy đi" (11, 44). Chúa bảo người chung quanh cởi cho anh để họ nhận ra chính anh là người họ đã bọc vào trong khăn an táng, thân xác đã phân hủy, nay sống lại nhờ quyền năng Chúa.

Hình ảnh báo trước và là lời hứa phục sinh cho các dự tòng

Là người thật, Đức Kitô đã khóc Lagiarô, bạn hữu Người; là Thiên Chúa hằng sống, Người đã truyền cho Lagiarô sống lại ra khỏi mồ. (Kinh Tiền Tụng ). Hôm nay Chúa cũng tuyên bố: " Ta là sự sống lại và là sự sống" và hỏi "Con có tin điều đó không?" Cùng với Martha chị của Lagiarô các anh chị em dự tòng thưa: "Thưa Thầy, vâng, con đã tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian” (Ga 11,). Chúa phục sinh Lagiarô là hình ảnh báo trước sự phục sinh cho các dự tòng là những người mong đợi trong Đêm Vọng Phục Sinh. Khi dìm mình trong nước nước Rửa tội, người dự tòng được giải thoát khỏi sự chết và sống lại với Chúa Kitô. Sự sống lại này, như lời tiên tri Êgiêkiêl: "Ta sẽ mở cửa mồ cho các ngườ, Ta sẽ kéo các người ra khỏi mồ" (Ez 37, 12-14). "Ta đặt thần khí ta vào tâm hồn anh em" (Ez 37, 6): nhờ Phép Rửa tội, Thần Khí Đức Kitô ngự vào trong chúng ta (Rm 8, 8-11), Thần Khí kết hợp người chịu phép rửa trong tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con ; khi đón nhận, chúng ta được tham dự vào tình yêu này của Ba Ngôi Thiên Chúa. Amen.

------------------------------------
 

MC 5-A111: Sự sống vĩnh cữu

 

Cái chết là nỗi đau tột cùng của con người. Cái chết đưa con người xa rời với những gì trước đây MC 5-A111


Cái chết là nỗi đau tột cùng của con người. Cái chết đưa con người xa rời với những gì trước đây mình gắn bó. Của cải, người thân, ước mơ, hy vọng tất cả đều qua đi trong nháy mắt. Những gì còn lại chỉ là nắm mộ sâu với những tiếc nuối của người thân. Đứng trước cái chết con người mới thấy rõ sự sống đáng quý là dường nào. Cuộc sống nơi trần gian có giới hạn, mang tính tạm thời nhưng ai ai cũng bám víu, cố giữ không muốn xa rời.

Sự sống tạm thời thật quý, sự sống vĩnh cửu còn đáng quý hơn biết chừng nào. Chúa Giêsu đã tự nói về mình " Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Ta thì dù đã chết cũng sẽ được sống " (Ga11,25). Lời Chúa Giêsu mang đến niềm vui cho những ai đang đau buồn trước cái chết, đem đến niềm vọng cho những ai vừa thất vọng trước sự ra đi của một người.

Sự chết là nỗi đau của con người.

Con người ai cũng phải chết. Người lành cũng chết, người dữ cũng chết. Người tội lỗi cũng chết. Người thánh thiện đạo đức cũng không loại trừ. Người được Chúa Giêsu yêu như Lazaro cũng phải chết hay ngay chính bản thân Chúa Giêsu, Ngài phải đi qua cái chết mới đến vinh quang phục sinh. Cái chết cho ta hiểu rằng mọi vật đều hư vô. Cuộc sống đời này không là hạnh phúc vĩnh cửu. Mọi vật mọi loài đều hữu hạn trong thời gian và không gian. Chỉ nơi Thiên Chúa mới có sự sống thật, mới có hạnh phúc thật. Thiên Chúa là địa chỉ cần thiết mà con người cần phải tìm về. Bởi lẽ nơi Ngài sự chết sẽ không còn hiện diện. Nỗi khổ đau buồn sẽ được Ngài xoa dịu. Tất cả những tang thương sẽ được Thiên Chúa mặc cho những giá trị mang lại ơn cứu rỗi ngàn đời.

a. Chết trong tinh thần.

Cái chết tự nhiên khiến ai nấy cũng đau buồn. Nhưng cái chết tinh thần làm cho con người cần phải suy nghĩ nhiều hơn.

Chết vì không được ai quan tâm.

Có những người vẫn còn hiện diện trước mắt mọi người nhưng thật ra họ đã chết. Đó là những người sống mà không có tình thương, không có hy vọng, bị người đời bạc đãi phản bội.

Có những người già phải sống cô đơn, sống nghèo khổ giữa những đứa con đầy đủ tiện nghi mà không quan tâm gì đến mình. Họ đang sống nhưng thật ra họ đã chết.

Có những người đang vật lộn với cơn bệnh tật, thế mà chẳng ai kình viếng, chẳng ai thăm nom, con cái cũng chẳng màn, thỉnh thoảng về thì cho ít tiền để cơm cháo. Quả thật, họ đang sống nhưng thật ra họ đã chết từ lâu rồi.

Có những em nhỏ bụi đời lang thang ngoài phố chợ không biết đâu là nhà, không biết cha mẹ mình là ai, không được học hành, không một tương lai, không một hy vọng cho ngày mai. Những em đó đang sống nhưng thật ra đã chết rồi.

b. Chết vì còn sống trong tội lỗi.

Cái chết tinh thần không dừng lại ở sự lạnh lẽo, bội bạc của con người. Khi con người phạm tội chính là lúc họ đang ở trong sự chết, vì đã căt đứt mối dây hiệp thông sự sống với Thiên Chúa. Họ chết đuối không bởi do người khác nhấn chìm nhưng vì họ không có cố gắng vươn lên. Họ dường như buông xuôi, đành chấp nhận hiện trạng xấu xa của mình. Họ cho rằng tội lỗi là không thể nào diệt được và đức hạnh thì không bao giờ đạt tới được. Họ không cố đi lên nên đành phải thụt lùi. Sống trong tội khác nào sống mà như đã chết.

Một thái độ khác không muốn sám hối ăn năn. Lần đầu phạm tội ta thấp lo sợ. Lần thứ hai vấp phạm cảm thấy lo lo. Lần thứ ba đã thấy ít lo sợ hơn trước. Và rồi nhiều lần sau kế lỗi phạm ta chẳng còn đắn đo suy nghĩ gì nữa. Dần dần sẽ hình thành nơi ta một sự chai lì trong tội. Ta chẳng cần để ý mình có phạm tội hay không, không còn chiến đấu nữa, phạm tội mà không muốn ăn năn nữa. Đó là ngày mà tâm hồn ta đã chết.

Chúa Giêsu là sự sống lại

Trong một thế giới mà sự chết luôn đe doạ thì vai trò sự sống Chúa Giêsu càng được tỏ hiện. Cô Matta thưa cùng Chúa Giêsu " Thưa Thầy nếu có thầy ở đây, em con đã không chết " (Ga11,21). Đây là một câu nói đầy nữ tính của Matta. Lời cô nửa trách móc vì không cầm lòng được trước cái chết của em, nửa tin tưởng vào Thiên Chúa. Cô như trách CG rằng: Lúc con báo tin sao Thầy không đến ngay, bây giờ mọi sự đã rồi, em con đã chết rồi thầy đến chi nữa! Nhưng khi thốt ra lời ấy, cô Matta nói tiếp những lời biểu lộ niềm tin vững mạnh. Cô nói bằng một hy vọng trong tuyệt vọng " Nhưng con biết bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy " (Ga11,22). Chúa Giêsu không phụ lòng mong mỏi và niềm tin tưởng của Matta. Ngài đã cho Lazaro sống lại khi thân xác đã nặng mùi. Phép lạ của Ngài là lời minh chứng Ngài chính là sự sống thật.

"Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống ". Khi nói câu này chắc chắn Chúa không nghĩ về sự sống thể xác. Bởi vì một người tin Chúa không thể chết, điều này không đúng sự thật. Do đó, Chúa Giêsu ngầm nói đến sự chết do tội lỗi, do sự nhẫn tâm của con người gây ra. Cho dù người ta có thể trở thành vô tri vô giác như một kẻ đã chết trước sự đau khổ của người khác; Cho dù người ta có thể dấn thân vào việc làm bất lương chẳng còn biết vinh nhục là gì; Cho dù một người đã lâm vào tình trạng tuyệt vọng trong đời sống tâm linh; Chúa Giêsu vẫn có thể khiến những người ấy sống lại.

------------------------------------
 

 MC 5-A112:  LAZARÔ SỐNG LẠI


Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

CHÚA NHẬT V MÙA CHAY, năm A

Ga 11,1-14
 

 Nói đến cái chết, con người từ cổ chí kim đều lo âu sợ hãi. Do đó, đã có nhiều vị Vua chúa, nhiều MC 5-A112 Đalat


Nói đến cái chết, con người từ cổ chí kim đều lo âu sợ hãi. Do đó, đã có nhiều vị Vua chúa, nhiều nhà giầu có. Nhiều đại gia đã cố đi tìm loại thuốc kéo dài sự sống. Tuy nhiên, ai cũng phải chết là một định luật bất di bất dịch: không ai được miễn trừ cái chết ! Chúa nhật V mùa chay cho chúng ta đọc bài Tin Mừng của thánh Gioan nói về việc Chúa Giêsu làm phép lạ cho Lazarô chết chôn trong mồ bốn ngày được sống lại. Phụng vụ chuẩn bị cho chúng ta đi vào cái chết và phục sinh của Chúa Giêsu. Đức Giêsu Kitô cũng đã chết và đã sống lại, chúng ta cũng sẽ phải chết và được sống lại với Chúa.

Thực tế, khi nói về sự sống lại nhiều người xem ra khó tin, đặc biệt những người không phải là Kitô hữu. Nhiều bản điều tra của những người có đạo cho thấy rằng dù họ tin Chúa nhưng nói về cái chết và sự sống lại sau cái chết, họ tỏ vẻ ngần ngừ, do dự. Sở dĩ có sự do dự bởi vì có thể khi con người sung túc, giầu sang, dư ăn, dư mặc, tiền tài chất đống, con người dễ lìa xa Thiên Chúa hoặc khi con người nghèo túng, khốn cùng, họ cũng dễ đi đến chỗ tuyệt vọng, khó lòng tin cậy vào Thiên Chúa. Do đó, giầu có quá và nghèo khó cùng cực cũng dễ đẩy con người xa cách Thiên Chúa.

Tin mừng Ga 11,1 – 45 tường thuật lại việc Chúa Giêsu mạc khải cho gia đình chị em Matta, Maria và Lazarô về sự sống vĩnh cửu, sự sống đời đời:” Ta là sự sống lại và là sự sống; ai tin Ta, sẽ không chết đời đời “ ( Ga 11, 25a.26 ). Vâng, Chúa đã mạc khải sự thực căn bản này cho gia đình của Matta, Maria và Lazarô tại làng Bêtania. Đáng lẽ Chúa phải đến sớm hơn khi Lazarô đang đau nặng, đang cần sự có mặt của Chúa. Mặc dầu Chúa biết gia đình của Lazarô đang rất cần sự giúp đỡ của Chúa, nhưng Chúa không đáp lại lời mong đợi của họ:” Nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết”. Giờ này, Lazarô đã chết, đã được chôn trong mồ bốn ngày rồi, chị em Matta và Maria cùng mọi người đang hoang mang, bối rồi, Chúa lại đến. Sự có mặt của Chúa lúc này, theo sự suy nghĩ của gia đình Matta là để an ủi, động viên để họ vượt qua cơn thử thách lớn lao, nặng nề này.

Tuy nhiên, Chúa không an ủi, động viên, khích lệ gia đình nhà tang theo lẽ thường tình, ở đây Chúa lại nói về sự thật căn bản của sự sống đời đời:” …ai tin vào Ta sẽ không chết bao giờ “. Sự thật này đã được Chúa Giêsu minh xác nhiều lần:” Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một mình; tất cả ai tin ở Ngài, sẽ sống đời đời “ ( Ga 3, 16 ) hay “ Đây là ý của Cha Ta, là hễ sự gì Người đã ban cho Ta, Ta chẳng để hư mất, nhưng ngày sau hết, Ta sẽ cho nó sống lại “ ( Ga 6, 39 ) hoặc “ Đây là ý của Cha Ta, là hễ ai tin vào Chúa Con, thì được sống đời đời, và ngày sau hết, Ta sẽ cho nó sống lại “ (Ga 6, 40 ).  Chúa Giêsu đã mạc khải về sự sống lại, sự sống trường sinh giữa lúc Matta và Maria, cùng đại gia đình của họ đang rất lạc lõng, bối rối. Hai chị em của Matta lúc đó và hai người Do Thái đến chia buồn với Maria và Matta đang xem Chúa Giêsu có thể làm một cái gì chăng thay đổi hoàn cảnh tang thương lúc đó ! Tuy nhiên, Matta và Maria đã ra khỏi con người thường của mình để tin thật vào Chúa là Đấng đang nói với họ:” Ta là sự sống lại…”. Matta đã tuyên xưng mạnh mẽ:” Lạy Thầy, con tin “. Maria và cả Matta đã tin như tông đồ trưởng Phêrô đã tuyên xưng:” Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa…”.

Lời tuyên xưng của Matta lúc này và tại nơi Chúa đang có mặt là một lời tuyên xưng thẩm sâu vào Chúa là “ Đường, là Sự thật và là Sự sống “. Chính niềm tin của Matta, của Maria, Chúa Giêsu đã làm cho Lazarô sống lại sau khi được chôn trong mồ bốn ngày. Khi làm phép lạ cho Lazarô sống lại, Chúa cũng làm cho cả Matta và Maria sống lại. Chính nhờ niềm tin mà Chúa đã làm cho Lazarô sống lại. Thực tế, có nhiều Kitô hữu còn sống đã mất niềm tin vào Chúa, nên họ cũng mất niềm tin vào sự sống lại.  Thánh Phaolô đã xác tín mạnh mẽ khi Ngài viết:” Nếu chúng ta cùng chết với Chúa Kitô, thì chúng ta sẽ cùng sống với Người; nếu chúng ta kiên tâm chịu đựng, chúng ta sẽ thống trị với Người “ ( 2 Tim 2, 11-12a ) hoặc “ Quê hương chúng ta ở trên trời, nơi đó chúng ta mong đợi Đấng Cứu Chuộc là Đức Giêsu  Kitô, Chúa chúng ta “ ( Phil 3, 20 ).

Biến cố Chúa làm cho Lazarô sống lại chuẩn bị cho chính việc lạ lùng, kỳ diệu là chính cái chết và sống lại của Chúa Giêsu mà chúng ta mừng trong Tuần Thánh. Chúa chết và sống lại để hoàn thành mạc khải Chúa đã loan báo, cứu chuộc loài người, cứu độ con người và cho con người được sống lại với Chúa:” Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin vào Ta, sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không  ? “. Matta thưa:” Thưa Thầy: vâng, con đã tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian “ ( Ga 11, 26-27 ).

Chắc hắn Chúa cũng sẽ hỏi chúng ta như Chúa đã hỏi Matta và Maria xưa:” Ta là sự sống lại và là sự sống “, con có điều đó hay không ?

Lạy Chúa, Chúa đã chết và đã sống lại, xin cho chúng con luôn xác tín mạnh mẽ chúng con chết và sẽ được sống lại với Chúa. Xin Chúa ban cho chúng con luôn sẵn sàng tỉnh thức để đón chờ Chúa đến. Amen.
 
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:

1.Chúng ta có tin vào sự chết và sống lại hay không ?
2.Chúa đã mạc khải với Martha điều gì ?
3.Martha đã thưa gì với Chúa Giêsu ?
4.Tại sao Chúa lại không an ủi Martha và Maria khi Lazarô đã chết ?

------------------------------------
 

MC 5-A113: Chúa Kitô Là Sự Sống Lại Và Là Sự Sống


Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật V Mùa Chay – năm A

(Ga 11, 1-45)
 

Với Chúa nhật của Niềm Vui (Lætare) vừa qua, màu hồng Phụng Vụ của Giáo hội là màu của bình MC 5-A113


Với Chúa nhật của Niềm Vui (Lætare) vừa qua, màu hồng Phụng Vụ của Giáo hội là màu của bình minh, hé mở ánh sáng huy hoàng của Đại Lễ Phục Sinh sắp tới. Dù còn hai tuần nữa, nhưng niềm vui ấy đã ló rạng trong các bài đọc Chúa nhật hôm nay, tuy không nói về sự sống lại của Chúa Giêsu vì đó là điều tất yếu, nhưng nói về sự phục sinh của chúng ta, chính Chúa Kitô ban cho chúng ta: trỗi dậy từ trong cõi chết.

Phục sinh Lagiarô báo trước cái chết của Chúa Giêsu

Sự kiện Lagiarô sống lại như một bi kịch giữa Sự Sống và Sự Chết, giữa Đấng được Chúa Cha sai đến là Đức Giêsu Kitô, Chúa của Sự Sống, và thủ lãnh sự chết tiềm ẩn nơi: bệnh tật, cái chết của Lagiarô, cũng như các âm mưu chống lại Chúa Giêsu.

Ngay từ đầu, Chúa Giêsu cho thấy những thử thách về bệnh tật của bạn mình, cũng như cái được cái mất trong cuộc thương khó của Ngài: "Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa " (Ga 11, 4). Chúa Giêsu biết rõ, Lagiarô chết và việc của Ngài nên nói với các môn đệ: " Lagiarô đã chết " ( Ga 11, 14). Nhưng Ngài sẽ cho sống lại, vì "sáng danh Thiên Chúa " ( Ga 11, 4).

Đây là phép lạ thứ bẩy và cuối cùng thu hút sự chú ý nhất của dân chúng vào Chúa Giêsu trước khi Ngài bị bắt. Khi loan báo cho các môn đệ biết về ý muốn trở lại Giuđêa của Chúa Giêsu để gặp Lagiarô đã chết, các ông hết sức ngạc nhiên và lo lắng nên nói: "Thưa Thầy, mới đây người Do thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại trở về đó ư ? "(Ga 11, 8). Quả thật, các nhà lãnh đạo Do thái đã để mất Chúa Giêsu vào dịp này: " Bởi vậy từ ngày đó, họ quyết định giết Người " (Ga 11, 53 ). Nhưng phản ứng của Chúa Giêsu là: " Lagiarô đã chết, chúng ta hãy đi với anh ta" (Ga 11, 15), Ngài sẽ đánh bại sự chết, cứu con người khỏi chết và ban cho sự sống.

Niềm hy vọng của chúng ta

Trọng tâm của Tin Mừng hôm nay là câu: " Ta là sự sống và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ "(Ga 11, 25-26). Nếu chúng ta đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, Chúa Cha " Đấng đặt Thánh Thần của Ngài trong chúng ta, và chúng ta đang sống " sự sống của Người (Ez 1, 13) thì chúng ta sẽ được Thiên Chúa cho sống lại ngày sau hết.

Chúa cho Lagiarô sống lại như Ngài đã làm cho con gái ông Giairô, con trai của bà góa thành Naim trở lại sự sống tự nhiên lần thứ hai trong một thời gian ngắn. Trái lại, "Ðức Kitô sống lại từ cõi chết, không còn chết nữa, sự chết không còn bá chủ được Ngài nữa" (Rm 6, 9) vì Ngài sống sự sống của Thánh Thần Thiên Chúa. Nhưng "nếu Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần Người ngự trong anh em" (Rm 8,11). Sao chúng ta không thể hy vọng được.

Phần lớn chúng ta mong đợi trở lại cuộc sống tự nhiên. Chắc chắn chúng ta sẽ chết, bởi vì " thân xác chúng ta đã chết vì tội lỗi " (Rm 8, 10) nhưng " nếu Đức Kitô ở trong chúng ta" và chúng ta ở trong Ngài với đức tin sống động, thì linh hồn chúng ta sẽ sống bằng sự sống của Thiên Chúa và được tham dự vào sự bất tử của Ngài. Hơn nữa: chúng ta tin vào phép rửa " Vậy nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Ðức Kitô, nhờ bởi vinh quang của Cha, mà được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới ". (Rm 6, 4).

Thật là đại tin mừng: " Nơi Ngài là sự Sống, và sự Sống là sự Sáng cho nhân loại.  Và sự sáng rạng trong tối tăm, và tối tăm đã không tiêu diệt được sự sáng" ( Ga 1, 4-5). Nếu như tác giả Tin Mừng đã hai lần thuật lại điều Martha và Maria than với Chúa về đau khổ của hai bà: "Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết",  há không phải muốn nhấn mạnh rằng, từ nay, tiếng khóc không còn nữa đó sao? Chúa Giêsu thổn thức và xúc động. Người hỏi: " Đã an táng Lagiarô ở đâu? " Nước mắt Chúa như mưa, Lagiarô như hạt giống, và ngôi mộ như một thửa đất. Chúa Giêsu hô lớn tiếng, tiếng Ngài làm cho sự chết run sợ, Lagiarô đã bung lên như hạt giống, anh bước ra khỏi mồ và tôn thờ Đấng đã cho anh sống lại.

Mãnh lực của sự chết đã thống trị Lagiarô bốn ngày. Chúa Giêsu đã đánh bại sự chết ngày thứ ba, đúng như lời Ngài đã hứa rằng, Ngài sẽ sống lại ngày thứ ba sau khi chết (x. Mt 16, 21).

" Hãy đẩy tảng đá ra " (11, 39). Cái gì vậy, Đấng đã làm cho kẻ chết sống lại, nay không thể mở cửa mồ hay phán một lời để di chuyển tảng đá đóng cửa mồ hay sao ? Chắc chắn, Ngài có thế khiến tảng đá lăn ra khỏi mồ bằng lời Ngài phán, khi Ngài bị treo trên thập giá, Ngài đã từng chẻ đôi tảng đá và mở tung các cửa mồ (Mt 27,51-52 ).

" Hãy cởi ra cho anh ấy đi "(11, 44).  Chúa bảo người chung quanh cởi cho anh để họ nhận ra chính anh là người họ đã bọc vào trong khăn an táng, thân xác đã phân hủy, nay sống lại nhờ quyền năng Chúa. 

Hình ảnh báo trước và là lời hứa phục sinh cho các dự tòng

Là người thật, Ðức Kitô đã khóc Lagiarô, bạn hữu Người; là Thiên Chúa hằng sống, Người đã truyền cho Lagiarô sống lại ra khỏi mồ. (Kinh Tiền Tụng ). Hôm nay Chúa cũng tuyên bố: " Ta là sự sống lại và là sự sống" và hỏi "Con có tin điều đó không?" Cùng với Martha chị của Lagiarô các anh chị em dự tòng thưa: "Thưa Thầy, vâng, con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian” (Ga 11,). Chúa phục sinh Lagiarô là hình ảnh báo trước sự phục sinh cho các dự tòng là những người mong đợi trong Đêm Vọng Phục Sinh. Khi dìm mình trong nước nước Rửa tội, người dự tòng được giải thoát khỏi sự chết và sống lại với Chúa Kitô. Sự sống lại này, như lời tiên tri Êgiêkiêl: "Ta sẽ mở cửa mồ cho các người, Ta sẽ kéo các người ra khỏi mồ " (Ez 37, 12-14). "Ta đặt thần khí ta vào tâm hồn anh em " (Ez 37, 6): nhờ Phép Rửa tội, Thần Khí Đức Kitô ngự vào trong chúng ta (Rm 8, 8-11), Thần Khí kết hợp người chịu phép rửa trong tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con ; khi đón nhận, chúng ta được tham dự vào tình yêu này của Ba Ngôi Thiên Chúa. Amen.

 Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
 
------------------------------------
 

MC 5-A114:Chúa Giê-su là sự sống lại và sự sống


Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Ed 37:12-14;  Rm 8:8-11;  Ga 11:1-45)
 

Hôm nay là buổi sát hạnh thứ ba và cuối cùng của nghi thức chuẩn bị các dự tòng.  Có thể gọi đây MC 5-A114


Hôm nay là buổi sát hạnh thứ ba và cuối cùng của nghi thức chuẩn bị các dự tòng.  Có thể gọi đây là đỉnh điểm của chương trình giáo lý dự tòng, những anh chị em đi tìm sự sống lại và sự sống trong Chúa Ki-tô.  Đó là lý do Phụng vụ Lời Chúa hôm nay chọn đề tài sự sống lại và sự sống.  Tuy nhiên đề tài ấy không chỉ dành riêng cho những ai sắp được rửa tội vào đêm Vọng Phục Sinh, mà còn cho tất cả chúng ta là những người cần được sống lại và sống đời sống thiêng liêng mỗi ngày.  Quả thực đây là đề tài rộng lớn, một ít phút suy niệm không thể nào đủ, nên chúng ta sẽ dừng lại ở một vài điểm chủ yếu gặp được trong các bài đọc.

Bài đọc 1 trích sách Ê-dê-ki-en trình bày Thiên Chúa là nguồn sự sống sẽ làm cho dân Người được sống lại sau khi họ đã chết trong tội lỗi.  Dân Ít-ra-en sống trong cảnh lưu đày, sống mà như đã chết.  Nhưng Thiên Chúa không bỏ rơi họ.  Qua ngôn sứ Ê-dê-ki-en, Người hứa:  “Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh”.  Những khổ cực nơi miền đất lưu đày không những làm cho dân Chúa mất dần đi căn tính của họ, mà còn khiến họ đi theo lối sống của dân ngoại nghịch lại đường lối Thiên Chúa.  Tình trạng lưu đày của họ khác nào tình trạng của những kẻ chết nằm trong huyệt, không còn nhớ tới Thiên Chúa của họ nữa.  Cho nên việc đầu tiên khi Thiên Chúa làm cho họ được hồi sinh, đó là Người đưa họ ra khỏi huyệt “Ba-by-lon”, rồi đem họ về đất Ít-ra-en.  Tinh thần của Thiên Chúa nơi họ đã chết rồi, nên Người sẽ ban cho họ một thần khí mới.  Diễn trình hồi sinh được thực hiện do lòng từ bi của Thiên Chúa.  Người mở huyệt để đem họ lên, rồi đặt sự sống mới vào trong họ, sau cùng cho họ định cư trên đất Người đã ban cho họ. Nhưng điều quan trọng nhất trong việc hồi sinh này là gì? Là để họ “nhận biết Đức Chúa là Thiên Chúa”!  Làm sống lại một mối tương quan đã chết do tội lỗi là việc Chúa làm cho Ít-ra-en dân Người, và cũng cho hết thảy chúng ta là con cái Người.

Nếu chúng ta hiểu việc Thiên Chúa đặt Thần Khí của Người vào trong dân Chúa để cho họ được hồi sinh là một trong những điểm nền tảng của thần học Cựu Ước, thì việc Chúa Thánh Thần là Thần Khí của Chúa Ki-tô ngự trong chúng ta cũng là một điểm nền tảng của thần học Tân Ước.  Thánh Phao-lô đã khẳng định việc thân xác chúng ta được sống lại là nhờ Thần Khí của Chúa Ki-tô.  Ngài viết:  “Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới”.  Ngài đề cập đến sự sống lại của thân xác, nhưng đồng thời cũng ám chỉ sự sống lại thiêng liêng của linh hồn chúng ta nữa.

Đối với Tin Mừng Gio-an, dấu lạ được Chúa Giê-su thực hiện luôn nhằm nói lên một thực tại thiêng liêng, thí dụ phép lạ cho người mù được nhìn thấy là để hỗ trợ cho chân lý Chúa Giê-su là ánh sáng thế gian.  Cũng vậy, dấu lạ Chúa Giê-su cho anh La-da-rô sống lại là để chứng minh Chúa là sự sống lại và là sự sống.  Cốt lõi của câu chuyện Tin Mừng hôm nay nằm trong những lời Chúa Giê-su hỏi bà Mác-ta:  “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống.  Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống.  Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết.  Chị có tin thế không?”  Tuy nhiên chúng ta gặp một chi tiết không kém quan trọng trong câu chuyện, đó là việc Chúa Giê-su biểu lộ lòng thương yêu của Người dành cho La-da-rô.  Người khóc trước mộ của anh.  “Kìa xem!  Ông ta thương anh La-da-rô biết mấy!”  Chúng ta tin Chúa Giê-su là sự sống lại và là sự sống.  Đúng vậy, nhưng điều cũng không kém quan trọng, đó là hãy xem, Chúa yêu thương mỗi người chúng ta biết chừng nào!

Sống sứ điệp Lời Chúa

Có khi nào bạn thắc mắc về lời Chúa dạy:  “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống” không?  Tại sao Chúa không nói “Thầy là sự sống và sự sống lại”?  Đặt sự sống lại đi trước sự sống có ý nghĩa gì?  Suy niệm câu “Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”, thánh Augustinô viết rằng trước hết Chúa nói ta phải qua ngả nào, rồi sau mới đi tới đâu.  Tức là ta phải đi trên đường Giê-su thì mới gặp được sự thật Giê-su và sự sống Giê-su.  Cũng vậy, ta cần được sống lại trong sự sống mới, rồi mới sống đời đời với Chúa!

      Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

------------------------------------
 

MC 5-A115: Niềm tin vào Chúa Ki-tô là sự sống lại và sự sống


 Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng  (Gio-an 11:1-45)
 

Mặc khải về Chúa Ki-tô vẫn theo mức độ tăng tiến qua phụng vụ của ba Chúa Nhật liên tiếp, MC 5-A115


Mặc khải về Chúa Ki-tô vẫn theo mức độ tăng tiến qua phụng vụ của ba Chúa Nhật liên tiếp, vượt những trở ngại nội tâm cũng như ngoại tại để tiến đến tột đỉnh:  Chúa Giê-su là sự sống lại và sự sống đời đời của chúng ta.  Danh hiệu này của Chúa Giê-su được tỏ ra qua biến cố Chúa cho ông La-da-rô đã chết bốn ngày được sống lại.  Đặc biệt trong lần tỏ ra này, những người tuyên xưng đức tin lại là những bạn hữu của Chúa Giê-su, khác với trường hợp người phụ nữ Sa-ma-ri và người mù bẩm sinh tại Giê-ru-sa-lem.  Vậy sự khác biệt này có thể giúp chúng ta suy nghĩ lại đức tin của mình là những “bạn hữu” hôm nay của Chúa Giê-su.

Sự thân thiết giữa Chúa Giê-su và gia đình anh La-da-rô là điều hiển nhiên ai cũng biết.  Hai cô chị đã gọi La-da-rô là “người Thầy thương mến”.  Chính Chúa Giê-su cũng gọi anh là “La-darô, bạn của chúng ta”.  Ngay đến kẻ thù của Chúa Giê-su cũng nhận ra điều ấy, họ bảo:  “Kìa xem, ông ta thương anh La-da-rô biết mấy!”  Để nói lên sự thân thiết này, thánh sử Gio-an ghi:  “Đức Giê-su quý mến cô Mác-ta, cùng hai người em là cô Ma-ri-a và anh La-da-rô. 

Nhưng hiện thời anh La-da-rô đã chết.  Tuyên xưng đức tin vào Chúa Giê-su là việc dành cho người sống, nhưng việc anh La-da-rô đã chết rồi được sống lại sẽ là một bằng chứng hùng hồn nói lên chân lý của niềm tin Chúa Ki-tô là sự sống lại và là sự sống.  Chúa trì hoãn không đến ngay lúc được tin anh La-da-rô bị đau nặng, mà đợi sau khi anh chết rồi Chúa mới đến.  Giải thích sự trì hoãn này, Chúa bảo các môn đệ:  “Thầy mừng cho anh em, vì Thầy không có mặt ở đó, để anh em tin”.  Rõ ràng là Chúa Giê-su muốn dùng cơ hội này để:   Người mặc khải chân lý Người là sự sống lại và sự sống đời đời, các môn đệ tin vào Người, và nhiều người trong số những người Do-thái được chứng kiến việc Đức Giê-su làm tin vào Người.

Như vậy, tâm điểm của câu chuyện Tin Mừng hôm nay phải là những lời đối thoại giữa Chúa Giê-su và cô Mác-ta, cũng như lời tuyên xưng của cô.  Cô đã tin vào uy quyền giảng dạy và quyền năng chữa lành của Chúa Giê-su.  Giờ đây cô tuyên xưng thế giá của Chúa trước mặt Thiên Chúa Cha:  “Bây giờ con biết:  Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”.  Chúa liền cho cô biết về điều Người xin cùng Thiên Chúa, là:  “Em cô sẽ sống lại!”  Ngay sau lời tuyên bố của Chúa:  “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống… Chị có tin không?”, cô đã vội vàng thưa:  “Thưa Thầy, có.  Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”.  Thật là lời tuyên xưng đầy đủ.  Không những cô tin Chúa Giê-su là sự sống lại và sự sống đời đời, mà cô còn tin Người là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian!  Một điều chúng ta thấy rõ ràng là cả ba bài Tin Mừng của ba Chúa Nhật liên tiếp đều nói lên cùng một lời tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa.

Sống sứ điệp Tin Mừng

Một hình ảnh đầy ý nghĩa trong câu chuyện Tin Mừng có thể giúp chúng ta áp dụng vào đời sống đức tin, đó là hình ảnh anh La-da-rô sau khi Chúa gọi, liền ra khỏi mộ, nhưng “chân tay còn quấn vải và mặt còn phủ khăn”.  Rồi Chúa phán:  “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi”.  Có phải đây là hình ảnh của chính chúng ta, những người với đức tin bị tội lỗi ràng buộc nên không thể đi và thể hiện đức tin bằng việc làm?  Qua ngôn sứ Ê-dê-ki-en, Chúa hứa:  “Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh” (bài đọc 1).  Thánh Phao-lô cũng quả quyết: “Nhưng nếu Đức Ki-tô ở trong anh em, thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống” (bài đọc 2).  Như thế, tuyên xưng Chúa Giê-su là sự sống lại và sự sống chính là để cho Chúa Cha “hồi sinh” chúng ta, để cho Chúa Ki-tô “ở trong” chúng ta, và để cho Chúa Thánh Thần “chi phối” chúng ta.

Chúng ta sẽ cử hành cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Chúa tuần tới.  Ý nghĩa danh hiệu “Đấng Ki-tô” được diễn tả đầy đủ qua cuộc Thương Khó và Chúa Nhật Phục Sinh công bố chân lý Chúa Giê-su là sự sống lại và là sự sống.  Vậy chúng ta, các “bạn hữu” của Chúa đã sẵn sàng tuyên xưng đức tin để được sống đời đời với Chúa chưa?

           Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

------------------------------------
 

MC 5-A116: CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY


(Gio-an 11: 1-45)
 

 Tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô (Chúa Nhật 3) và là Con Người (Chúa Nhật 4) là điều Giáo MC 5-A116


Tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô (Chúa Nhật 3) và là Con Người (Chúa Nhật 4) là điều Giáo Hội muốn những anh chị em ứng viên Bí tích Khai tâm nói lên trong hai lần Sát hạch.  Hôm nay cũng là lần cuối cùng trong Nghi thức, họ sẽ cùng với Giáo Hội tuyên xưng Chúa Giê-su là sự sống.  Tin Mừng Gio-an ghi lại câu truyện Chúa Giê-su cho anh La-da-rô sống lại nhằm nói lên chân lý về Chúa Ki-tô:  “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống.  Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11:25).  Sự sống là cao điểm và đích tới của tất cả mặc khải.  Sự sống ấy phải đạt tới mức toàn hảo của nó, tức là được vĩnh cửu và hạnh phúc.  Mầu nhiệm Phục sinh là mầu nhiệm của sự sống lại và sự sống, nhưng cũng là cốt tủy của đời sống Ki-tô hữu.  Cho nên có lẽ đây là lý do Phụng vụ Lời Chúa mời gọi ta suy niệm về mầu nhiệm này qua bài Tin Mừng của Gio-an, trước khi ta bước vào Tuần Thánh với cuộc Thương khó của Chúa Giê-su, để cùng chết đi với Người và sống lại trong con người mới.
 
a)  “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống”

 Tuyên bố như thế, Chúa Giê-su đưa ta vào tâm điểm của mặc khải Thiên Chúa.  Mặc khải là nỗi thao thức của Thiên Chúa muốn cho nhân loại biết tất cả những gì về Người và những gì Người làm cho nhân loại.  Thiên Chúa đã “nhiều lần nhiều cách” và nhất là “qua Thánh Tử” phán dạy chúng ta (Dt 1:1-2).  Những điều Người phán dạy đều xoay chung quanh mục đích chính là để con người “được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10).  Thiên Chúa tạo dựng nên con người là để con người được sống (Kn 2:23).  Nhưng tội lỗi đã gieo cái chết vào nhân loại (Rm 5:12).  Trong kế hoạch phục hồi sự sống cho con người, Thiên Chúa dùng ông Mô-sê và các ngôn sứ để dạy cho con người biết sống theo thánh chỉ của Người.   Thế vẫn chưa đủ.  Do đó, vì quá yêu trần gian, Thiên Chúa đã sai Con Một đến trần gian với sứ mệnh cứu thế.  Là Lời ban sự sống (Ga 6:68), Chúa Giê-su ban bố cho ta Luật Mới và lối sống gương mẫu của Người khi Người ra đi rao giảng Tin Mừng.  Là Đấng Cứu Chuộc (Cv 5:31), Chúa Giê-su đã chịu khổ nạn và chết trên thập giá để đền bù tội lỗi chúng ta và đưa chúng ta trở về với Thiên Chúa.  Tuy nhiên, con đường cứu chuộc ấy phải đưa ta tới sự sống viên mãn và vĩnh cửu, cho nên chân lý Chúa Ki-tô là sự sống lại và là sự sống của ta sẽ là mặc khải cuối cùng nhưng cũng quan trọng nhất trong tiến trình Thiên Chúa phán dạy con người.
 
b)  Tin vào Chúa Giê-su thì sẽ được sống

 Nhờ tin vào Chúa Giê-su, ta sẽ được sống.  Thánh Gio-an cho ta thấy có hai hoàn cảnh tin vào Chúa Giê-su:  chết mà tin vào Chúa, và sống mà tin vào Chúa.  Hai hoàn cảnh này có lẽ nói lên hai giai đoạn của cuộc sống ta.  Cho dù ta là kẻ phải chết (cả phần xác lẫn linh hồn) vì hậu quả tội lỗi, nhưng nhờ lòng tin vào Chúa là Đấng cứu chuộc ta, ta sẽ được sống lại trong con người mới, làm con cái Thiên Chúa.  Rồi sau khi được làm dưỡng tử của Thiên Chúa và đồng thừa tự với Chúa Ki-tô, nếu ta cứ tiếp tục tin vào Chúa Giê-su, thì ta sẽ dược sống đời đời.

Hiểu như vậy, ta mới nhận ra tại sao Chúa Giê-su lại nói:  “Ta là sự sống lại” rồi Người mới tiếp:  “và là sự sống.”  Nghĩa là sự sống lại đi trước sự sống.  Người là sự sống lại của ta, khi ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội để được làm con cái Chúa cũng như khi ta được sống lại trong ngày tận thế.  Người là sự sống của ta, sự sống theo Thánh Thần khi ta sống như một Ki-tô hữu đích thực ở đời này và sự sống vĩnh cửu khi ta được cùng Người hưởng gia nghiệp Thiên Chúa ở đời sau.
 
c)  “Chị có tin thế không?”

 Chúa Giê-su muốn chị Mác-ta tuyên xưng đức tin vào Người.  Nếu mặc khải “Chúa Giê-su là sự sống lại và là sự sống” là tột đỉnh của lịch sử cứu độ, thì việc tuyên xưng đức tin vào Chúa Giê-su là sự sống lại và là sự sống cũng phải là tuyệt đối.  Ta cứ nghe câu trả lời của chị Mác-ta thì đủ thấy tầm quan trọng của việc tuyên xưng đức tin này như thế nào.  “Thưa Thầy, có.  Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.”  Trong lời tuyên xưng đầy đủ này, ta có thể nhận ra được toàn bộ đức tin của ta vào danh hiệu, con người và sứ mệnh của Chúa Giê-su.

Có rất nhiều chi tiết trong câu truyện thật là cảm động.  Mỗi nhân vật, mỗi lời nói, mỗi cử chỉ đều có thể làm đề tài cho ta suy niệm.  Tuy nhiên cảnh Chúa Giê-su thổn thức trước mộ anh La-da-rô có thể cũng là điều Người làm cho toàn thể nhân loại và cho từng người chúng ta.  Ta sống trong sự chết của tội lỗi, thì Chúa Giê-su thổn thức và muốn ta được sống lại.  Cũng như Người đã nói với anh La-da-rô:  “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ!”, Người cũng nói với ta:  “Hỡi con, hãy ra khỏi tình trạng tội lỗi và tiếp tục sống như con cái Chúa!”  Người mong ta sống tự do như con cái Chúa, thoát khỏi mọi ràng buộc của trần gian.

Càng gần tới lễ Phục Sinh, ta càng phải vững lòng tin vào Chúa Giê-su hơn.  Sống Mầu nhiệm Phục Sinh là sống niềm tin rằng Chúa Giê-su là sự sống lại và sự sống của ta.  Niềm tin ấy hướng dẫn ta tiếp tục sống lại từng phút giây trong cuộc đời và sống theo Thần Khí của Chúa Giê-su, nhờ đó ta biến đổi mỗi ngày một trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giê-su.
 
d)  Suy nghĩ và cầu nguyện

Tôi có được sự sống mới nhờ Bí tích Rửa tội.  Đó là ân sủng vô cùng lớn lao của Chúa ban.  Vậy tôi có sống tâm tình cảm tạ hằng ngày về tình yêu vô biên của Chúa (Ga 3:16) không?

Nguyên lý của sự sống mới này là Chúa Thánh Thần.  Vậy tôi có sống theo Thần Khí của Chúa Ki-tô trong cuộc sống của tôi không?  Làm sao tôi biết được Thần Khí của Chúa Ki-tô?

Tôi trả lời thế nào câu hỏi của Chúa Giê-su:  “Con có tin Thầy không?”

 Cầu nguyện:

  “Lạy Chúa Giê-su, xưa Chúa có người bạn thân là La-da-rô, Chúa cũng coi các môn đệ là bạn hữu. Tạ ơn Chúa đã cho con những người bạn để nâng đỡ con trên đường đời.

Dù chúng con có nhiều điểm khác biệt,
nhưng xin hiệp nhất chúng con trong tình yêu.
Xin cho chúng con biết
yêu thương nhau thật tình,
chia sẻ cho nhau mọi nỗi buồn vui,
nâng nhau dậy khi vấp ngã,
phấn khởi trước những thành công,
khích lệ trước một cố gắng nhỏ,
và nhất là thẳng thắn góp ý cho nhau,
để cùng nhau tiến bộ.

Lạy Chúa, xin mở rộng vòng tay con,
để có thể đón nhận những người bạn mới.
Xin cho con đừng trở nên nghèo nàn
vì chỉ muốn làm bạn với ai giống con.
Xin dạy con biết thế nào là gặp gỡ.
Gặp gỡ không phải chỉ là quảng đại cho đi,
mà còn là khiêm nhường nhận lãnh.
Gặp gỡ không chỉ là tâm sự về mình,
mà còn là lắng nghe người khác.
Gặp gỡ không phải chỉ là phân phát sự giàu có của mình,
mà còn là nhìn nhận và đón nhận
sự phong phú của tha nhân.

Lạy Chúa Giê-su,
xin cho chúng con trở nên bạn của Ngài,
nhờ đó, chúng con mãi mãi
là bạn thân của nhau.  A-men.”

(Trích RABBOUNI, lời nguyện 115)

 Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
11-3-2005

------------------------------------
 

MC 5-A117: QUYỀN NĂNG VÀ YÊU THƯƠNG

 

Chúa Giêsu là Ngôi Lời nhập thể làm người. Ngài đồng hành cùng mọi người trong đời sống trần thế. MC 5-A117 Ephata


Chúa Giêsu là Ngôi Lời nhập thể làm người. Ngài đồng hành cùng mọi người trong đời sống trần thế. Ngài đã từng đến chia sẻ niềm vui trong đám cưới tại Cana ( x. Ga 2, 1 ). Ngài đã buồn sầu thương khóc Ladarô cùng với hai chị em cô Martha ( x. Ga 11, 32-38 )…

Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật. Tin Mừng các Chúa Nhật Mùa Chay kể chuyện rõ ràng, Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Chúa Nhật I: Chúa Giêsu chịu cám dỗ trong thân phận con người. Chúa Nhật II: Chúa Giêsu Hiển Dung trong thần tính vinh quang trên núi Tabor. Chúa Nhật III: Chúa Giêsu là Nước Hằng Sống đem lại sự sống vĩnh cửu cho những ai tin vào Ngài. Chúa Nhật IV: Chúa Giêsu là sự sáng thế gian, ai đi theo Ngài sẽ bước đi trong ánh sáng. Chúa nhật V: Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ngài thì được sống đời đời.

Nhiều lần Chúa Giêsu nói về sự sống đời đời. Với người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp, Ngài xác quyết: "Nước Ta ban sẽ vọt lên đem lại sự sống đời đời". Sau phép lạ bánh hoá nhiều, Ngài nói với người Do Thái: "Ta là bánh ban sự sống". Nơi khác Ngài bảo: "Ta là ánh sáng mang lại sự sống". Có lần Ngài khẳng định: "Ta là đường, là sự thật và là sự sống". Chúa Giêsu đến thế gian để cho con người được sống và sống dồi dào.

“Thầy là sự sống lại và sự sống”, lời tuyên bố của Chúa Giêsu trước khi làm cho Ladarô sống lại là một trong những lời kỳ diệu nhất đối với người thời đại cũng như bao người ngoài Kitô giáo và những người vô thần ngày nay. Nhưng đối với chúng ta, lời tuyên bố đó là chính nền tảng, và là hy vọng của cuộc đời.

Ladarô đau nặng, Martha và Maria sai người đến báo tin cho Chúa Giêsu hay: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng”. Chúa bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang Thiên Chúa”.

Cho dù Ladarô đã chết, nhưng Chúa Giêsu vẫn nói với các môn đệ: “Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó để anh em tin”. Chúa Giêsu và các môn đệ lên đường tới Bêtania. Martha đón Ngài và biểu lộ niềm tin tưởng tuyệt đối: “Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”. Ladarô đã chết nhưng Martha tin chắc chắn Chúa có thể làm cho em trai mình được sống bởi vì Ngài là Đấng quyền năng.

Chúa Giêsu mạc khải: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. Với lời xác quyết vừa trang trọng vừa lạ lùng này, Chúa Giêsu đòi hỏi Martha phải xác tín: “Con có tin điều đó không ?” Martha tuyên xưng: “Thưa Thầy có, con vẫn tin Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian”. Martha biết Chúa Giêsu là Đấng quyền năng, Ngài có thể truyền lệnh cho sự chết cũng như Ngài đã truyền lệnh cho sóng gió phải im lặng.

Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ. Sau khi đã cầu nguyện và cảm tạ Chúa Cha, Chúa Giêsu truyền cho Ladarô sống lại, bước ra khỏi mồ. Trước sự thật hiển nhiên này, một số người đã tin theo Chúa. Một số khác, nhất là các Pharisêu và các Thượng Tế lại chống đối cách quyết liệt hơn nữa. Họ hội họp với nhau và quyết định kết án tử hình cho Chúa.

Bài Tin Mừng hôm nay chứng minh cách tổng hợp, Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa quyền năng vừa là con người yêu thương. Quyền năng làm cho kẻ chết sống lại. Con người nhân ái đến thăm gia đình có người qua đời, trái tim rung động thổn thức. Chúa Giêsu khóc nức nở trước ngôi mộ của Ladarô khiến dư luận bàn tán: “Coi kìa. Ông ấy thương Ladarô biết dường nào !” Thánh Gioan cũng thấy như vậy: “Đức Giêsu quý mến cô Mácta cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô”.

Ladarô đi vào đường hầm của sự chết. Chúa đã gọi anh quay trở lại: “Ladarô, hãy ra đây ! Người chết đi ra, chân tay còn quấn những mảnh vải…” Ladarô xuất hiện với cùng một thân xác như khi đi vào mồ. Anh nằm trong mộ bốn ngày rồi, xác thối rữa ra rồi, thế mà Chúa bảo hãy đi ra. Anh đi ra thật, giải băng còn quấn cứng ngắc... Sự hoảng hốt bao trùm. Niềm vui bùng nổ. Hàng ngàn người lại nườm nượp tuôn đến. Đến để xem người chết sống lại. Ladarô sống lại là hiện thân của một biến cố lịch sử ngàn năm một thuở.

Trong Cựu Ước, Ngôn Sứ Êlia đã làm cho con trai của bà góa ở Sarépta sống lại ( x. 1V 17, 17-24 ); Ngôn Sứ Êlisa cũng làm cho đứa con trai của bà Sunêm sống lại ( x. 2V 4, 32-37 ). Trong Tân Ước, Phêrô làm cho bà Tabitha đã chết được sống lại ( x. Cv 9, 39-42 ).

Chúa Giêsu làm cho người chết sống lại ít nhất ba lần: cho con trai bà góa thành Naim ( x. Lc 7, 11-15 ), cho con gái một ông trưởng hội đường ( x. Mt 9, 18-26; Mc 5, 35-43; Lc 8, 49-56 ), và cho Ladarô. Cũng như những người được hồng ân sống lại từ cõi chết, Ladarô sau này sẽ lại chết, người thân phải mai táng anh lần nữa.

Chúa Giêsu đối đầu với sự chết ngay trong lãnh địa thần chết. Ngài vào và ra khỏi đó như một người chủ vì Ngài nắm giữ chìa khóa sự chết và âm phủ ( Kh 1, 18 ). Ngài đã chịu chết nên Thiên Chúa đã ban triều thiên vinh quang cho Ngài ( Dt 2, 9 ); Ngài trở nên “trưởng tử giữa các vong nhân” ( Cl 1, 18 ). “Nhờ sự chết của mình, Chúa Giêsu đã giao hòa chúng ta với Thiên Chúa” ( Rm 5, 10 ) “để chúng ta được lãnh gia nghiệp đã hứa cho” ( Dt 9, 15 ).

Đối với người Kitô hữu, chính cái chết thân xác mang một ý nghĩa mới. Chết không còn là một định luật con người đành phải tuân theo, đành phải chấp nhận hay một hình phạt do tội lỗi gây ra. Người Kitô hữu “chết cho Chúa”, như đã sống cho Chúa ( Rm 14, 7; Pl 1, 20 ). Nếu họ hy sinh đổ máu để làm chứng cho Chúa, cái chết của họ là một hy lễ tiến dâng lên Thiên Chúa ( 1Tm 4, 6 ) và đáng được triều thiên sự sống ( Kh 2, 10; 12, 11 ).

Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự sống. Tin vào Ngài là thông hiệp vào sự sống lại sau khi chết, khiến cái chết không còn nghĩa lý gì nữa. Cái chết của Ladarô chỉ là một giấc ngủ ( Ga 11, 11 ), người tin Chúa sẽ coi nhẹ cái chết chỉ như một giấc ngủ, một chặng đường dẫn tới sự kết hợp vĩnh viễn với Chúa. Đức Tin, nền tảng tư duy dẫn vào cuộc đổi mới đời mình và đổi mới cả môi trường trần thế đang là đất sống của con người tại thế.

Từ chỗ là do định luật thiên nhiên đáng lo sợ, cái chết trở thành cõi phúc “Phúc thay những người chết trong Chúa” ( Kh 14, 13 ), để được sống đời sống mới và ở đó “không còn sự chết nữa” ( Kh 21, 4 ). Đối với những ai sống lại với Chúa Kitô sẽ không có “cái chết lần thứ hai” ( Kh 20, 6 ). Như thế đối với người Kitô hữu, chết là một phúc lợi vì được chính Chúa Kitô là sự sống ( Pl 1, 21 ).

Thiên Chúa là Đấng có quyền trên sự sống của con người. Chúa Giêsu hứa ban sự sống lại vào ngày sau hết cho những ai tin vào Ngài. Chúa Giêsu đã nối kết niềm tin vào sự sống lại của con người với niềm tin vào chính sự sống lại của Ngài: “Ta là sự sống lại và là sự sống” ( Ga 11, 25; 1Cr 15, 16-19 ). Chúa Giêsu đã đưa ra một chiều kích hiện sinh mới, mở ra cho ta con đường tiến tới chân lý sự sống bằng sự chết mà Ngài đã thực hiện. Chính sự khổ nạn và phục sinh của Ngài làm cho mọi cái chết trở thành Tin Mừng của Sự Sống.

Chúa Giêsu không chỉ yêu thương chúng ta bằng tình yêu thần linh của một vị Thiên Chúa, mà còn yêu bằng chính tình cảm đầy tính người của con người. Và dù mang tính con người, tình yêu ấy vẫn rất bao la, quảng đại và triệt để: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” ( Ga 13, 1b ). “Đến cùng” ở đây là tới mức tận cùng của tình yêu con người, không ai có thể yêu hơn được nữa: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” ( Ga 15, 13 ).

Sự chết và sống lại của Chúa Giêsu Kitô không những đã chuộc lại những gì con người đã mất do tội lỗi nhưng còn là một cuộc sáng tạo. Nhờ sự chết và sống lại mà Ngài đã nối nhịp cầu hiệp thông liên kết giữa Thiên Chúa và con người, thiết lập một tương quan mới Cha-con. Nhân loại từ đây không những được ơn tha thứ, được gột rửa sạch tội lỗi để khỏi án chết đời đời, nhưng còn được trở nên con cái Thiên Chúa, được gọi Người là "Abba, Cha ơi !" ( Rm 8, 15 ).

Sự sống mà Thiên Chúa ban cho con người khi sáng tạo là sự sống trong tương quan giữa Hoá Công và thọ tạo. Sự sống mà Chúa Kitô đem lại cho con người là sự sống trong tương quan giữa Thiên Chúa là Cha và loài người được nâng lên địa vị làm con. Sự sống “tự nhiên” là một thực tại khách quan. Sự sống mới hay sự sống “siêu nhiên” là một trạng thái ân tình mà con người phải đi vào để được thực sự thông hiệp với Thiên Chúa.

Tin và sống trong ân tình Chúa Kitô chính là chiến thắng sự chết, là mang trong mình mầm mống của sự sống đời đời. “Ai sống và tin vào Thầy thì sẽ không bao giờ chết” ( Ga 11, 26; 1Ga 14 ). “Không bao giờ chết” là không bao giờ mất hiện hữu trong tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa, không bao giờ mất sự sống trong tương quan ân tình với Người.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con. Xin cho chúng con được sống lại trong niềm tin vào Chúa để chúng con được sống dồi dào trong tình thương của Chúa. Amen.

Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN

------------------------------------
 

MC 5-A118: SỐNG THẬT

 

Hơn 1.000 năm trước, một nhà sư Nhật Bản có tên Kukai tự ướp xác bản thân ở ngôi chùa trên núi MC 5-A118


Hơn 1.000 năm trước, một nhà sư Nhật Bản có tên Kukai tự ướp xác bản thân ở ngôi chùa trên núi Koya, tỉnh Wakayama. Theo  báo Epoch Times, nghi thức ướp xác Sokushinbutsu sẽ dẫn tới cái chết và bảo tồn cơ thể hoàn chỉnh. ( Ảnh chụp ngôi đền trên núi Yamadera, nơi thực hiện việc ướp xác ).

Kukai ( 774-835 ) là một nhà sư, công chức, học giả, nhà thơ, nghệ sĩ, đồng thời là người sáng lập của giáo phái bí truyền Shingon ( kết hợp các yếu tố từ Phật Giáo, Đạo Shinto, Đạo giáo, và nhiều tôn giáo khác ). Cuối đời, Kukai đi vào trạng thái thiền định sâu, không sử dụng thực phẩm và nước, dẫn đến cái chết tự nguyện. Kukai được chôn trên núi Koya ở tỉnh Wakayama. Sau khai quật, các chuyên gia phát hiện thân xác nhà sư giống như một người đang ngủ, làn da không thay đổi và tóc mọc dài ra. Kể từ thời điểm đó, nghi thức ướp xác Sokushinbutsu bắt đầu phát triển. Một số tín đồ của giáo phái Shingon tự ướp xác, nhưng không xem đây là hành động tự sát mà như một hình thức giác ngộ.

Quá trình tự ướp xác trải qua nhiều bước nghiêm ngặt và đau đớn. Trong 1.000 ngày đầu tiên, họ có chế độ ăn đặc biệt gồm hạt và trái cây, thực hiện nhiều hoạt động thể chất để đẩy chất béo ra khỏi cơ thể.

Họ chỉ ăn vỏ cây và rễ cây trong 1.000 ngày tiếp theo và bắt đầu uống trà độc làm từ nhựa cây Urushi, gây nôn mửa và nhanh chóng làm mất các chất dịch của cơ thể, ở giai đoạn gần cuối. Chất độc đóng vai trò như một chất bảo quản, hạn chế vi khuẩn có thể làm phân hủy cơ thể.

Sau khoảng sáu năm, các nhà sư tự nhốt mình trong một ngôi mộ bằng đá chỉ lớn hơn cơ thể một chút và đi sâu vào trạng thái thiền định, trong tư thế ngồi thiền "hoa sen" cho đến khi qua đời. Ống khí nhỏ sẽ cung cấp oxy cho ngôi mộ, trong khi nhà sư sẽ rung chuông để mọi người bên ngoài biết ông vẫn còn sống. Khi tiếng chuông không còn, ống dẫn khí oxy sẽ được gỡ bỏ và ngôi mộ bị bịt kín trong 1.000 ngày. Sau khi mở ngôi mộ và xác nhận quá trình ướp xác thành công, nhà sư sẽ được tôn là Phật và thờ phụng trong chùa. Nếu cơ thể bị phân hủy, họ sẽ được chôn lại xuống đất.

Hàng trăm nhà sư được cho là đã tự ướp xác, nhưng chỉ có 28 người thành công. Phương pháp tự ướp xác kéo dài đến khoảng thế kỷ thứ 19. ( Lê Hùng, Nhà sư Nhật tự ướp xác như thế nào, Vnexpress ).

Chay tịnh để chuẩn bị chết, trở thành xác ướp, mai này thành Phật, được sùng bái. Nhà sư Kukai đã diệt được bản năng sống, nhưng chưa diệt nổi tam độc, tham, sân si, háo danh lợi. Như thế chỉ là sống vọng tưởng, chưa thể giác ngộ. Còn sống đúng với phận làm con Chúa, ngay bây giờ và tương lai, mới thật sự giá trị, hữu lý và xứng đáng đầu tư trọn vẹn cuộc đời tin theo Chúa.

Chuẩn bị bước vào Tuần Thánh, Tin Mừng theo Thánh Gioan hôm nay tường thuật phép lạ Chúa cho Ladarô sống lại, sau bốn ngày chết trong mồ, hướng Kitô hữu đến cùng đích cao quý cuộc đời. Hai người chị đã hoàn toàn tin cậy Đức Giêsu: "Lạy Thầy, người Thầy yêu đau liệt." Nhưng Người muốn thử thách những người thân yêu.

Theo Chúa, cái chết chỉ là giấc ngủ

"Ladarô bạn chúng ta đang ngủ, dầu vậy Ta đi đánh thức ông." Dẫu người bạn Ladarô đã giã biệt người thân, chôn trong mồ, Đức Giêsu vẫn coi như Ladarô chỉ mới thiếp vào giấc ngủ ngắn ngủi, rồi sẽ thức dậy sống cuộc đời mới.

Khi người tín hữu Kitô được nhận phép Thánh Tẩy, liền được hồi sinh, được nhận lãnh ân sủng Đức Chúa Thánh Thần với những hoa trái: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ.” ( Gl 5, 22-23 ). Nhưng tội lỗi, thói xấu, đam mê xác thịt lại xiềng xích, trói buộc con người vào lại sự chết.

Theo Chúa, được giải thoát khỏi cái chết

Dẫu trầm luân trong ngục tù sự dữ tối tăm, ai tin theo Chúa, sẽ được giải thoát khỏi phận nô lệ, được thanh thoả, tự do làm con Chúa, nhờ ơn Cứu Chuộc của Đức Giêsu Kitô. Cả hai bà chị Martha và Maria đều tuyên xưng niềm tin, niềm cậy trông chân thật, mạnh mẽ, vững chãi vào Đức Giêsu, dù lòng đang xót xa, đau buồn. "Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết.”

Mặc dù chú em Ladarô đã chết bốn ngày trong mồ, nhưng hai bà chị vẫn không hề chao đảo, nghi ngờ, khủng hoảng niềm tin, sói mòn niềm hy vọng. “Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy."

Theo Chúa, sống viên mãn

Nhân cứu thoát Ladarô ra khỏi cái chết xác thịt, Đức Giêsu mạc khải cho nhân loại biết Người chính là Đấng Ban Sự Sống: "Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ.” Cái chết phần hồn đời đời mới đáng sợ hơn cái chết phần xác phù du. Chỉ duy nhất Đức Giêsu mới có thể giải cứu con người khỏi trầm luân vĩnh viễn.

Sống theo Chúa, lắng nghe và thực hiện Lời Chúa thì chắc chắn được Chúa thương cứu rỗi, sống vinh phúc bên Chúa. “Ai tuân giữ lời tôi, sẽ không bao giờ phải chết.” ( Ga 8, 51 ). Người luôn ao ước mọi người đều trung kiên sống theo Người, để có thể chiến thắng và vượt qua sự chết.”Cha của anh em, Ðấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.” ( Mt 18, 14 ).

Vào tuần 5 Mùa Chay, Đức Giêsu đang mong chờ tín hữu Kitô chân thành sốt sắng ăn năn, sám hối, can đảm từ bỏ bản thân, thế gian và ma quỷ, để trở về với Đấng Hằng Sống. Người từng tận tình nhắn nhủ: “Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy.” (Lc 13, 3 ).

Không phải tin một Chúa xa xôi mơ hồ, nhưng tin như Phêrô: "Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống," tin như Gioan: "Thiên Chúa là Tình Yêu." ( Đường Hy Vọng, số 277 ).

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con can đảm bỏ mình và mọi sự thế gian, quyết tâm theo Chúa, nghe Chúa, thực hành Lời Chúa, để chúng con được sống viên mãn.

Khấn xin Mẹ Maria luôn cần bầu cho chúng con tràn đầy ba ơn trụ Tin, Cậy, Mến, để chúng con vững bền theo Chúa đến trọn đời, Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN

------------------------------------
 

MC 5-A119:  ĐƯỢC SỐNG LẠI


Suy Niệm TIN MỪNG CHÚA NHẬT 5, MÙA  CHAY, Năm A
 

Được sống đã là một hạnh phúc, nay được sống lại thì niềm vui phải ngàn lần lớn hơn, nên khó MC 5-A119


Được sống đã là một hạnh phúc, nay được sống lại thì niềm vui phải ngàn lần lớn hơn, nên khó có lời để diễn tả nước mắt hạnh phúc, thay cho giòng lệ xót xa, tiếc thương của hai chị em Mácta và Maria khi em trai Ladarô chết đã bốn ngày vừa được Đức Giêsu gọi ra khỏi mồ, trong khi “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn” (Ga 11,44).

Tin Mừng cho chúng ta biết: gia đình ba chị em Mátta, Maria và Ladarô là chỗ thân tình của Đức Giêsu, nơi Ngài và các môn đệ thường ghé nghỉ ngơi trên đường truyền giáo, như thánh sử Gioan ghi rõ: “Đức Giêsu qúy mến cô Mácta, cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô” (Ga 11,5), nên khi Ladarô lâm bệnh, hai cô chị đã cho người đến báo với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng” (Ga 11,3). 

Cứ sự thường, khi nghe người thân đau nặng, người ta tức tốc, vội vàng về ngay, vì biết có thể không kịp gặp, bởi cơn bệnh có thể lấy đi bất cứ lúc nào sự sống của người thân. Nhưng hôm ấy, Đức Giêsu có một thái độ bình tĩnh đến khác thường, khi Ngài không về Bêtania ngay để gặp ba chị em trong cơn khốn quẫn, mà sự có mặt của Ngài vô cùng cần thiết đối với họ. Trái lại, “sau khi được tin anh Ladarô lâm bệnh, Người còn lưu lại thêm hai ngày tại nơi đang ở” (Ga 11,6). Hơn thế nữa, Ngài còn tỏ ra vui, khi nói với các môn đệ: “Ladarô đã chết. Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin” (Ga 11,14).

Thái độ và việc làm của Đức Giêsu cho chúng ta thấy: điều quan trọng hơn đối với Ngài lúc này không phải Ladarô được khỏi bệnh, cho bằng anh được sống lại từ cõi chết để mọi người tin Ngài là Đấng làm cho con người được ra khỏi cái chết để đi vào sự sống với Ngài: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26).

Qủa thật, khi mặc khải Chân Lý sự sống lại và sự sống này, Đức Giêsu đã giải toả nỗi lo nhức nhối của con người, khi biết mình phải chết, nhưng hoàn toàn vô vọng vì không biết sự gì tiếp nối sau cái chết, chết rồi đi đâu, có một sự sống khác sau khi chết hay chết là hết, chết là trở về tuyệt đối hư vô ? 

Khi cho Ladarô ra khỏi mồ trở lại sự sống, Đức Giêsu đã thực hiện lời tuyên sấm của ngôn sứ Êdêkien: “Các xương khô kia ơi, hãy nghe lời Đức Chúa. Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này với các xương ấy: Đây Ta sắp cho Thần Khí nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ được sống. Ta sẽ đặt gân trên các ngươi, sẽ khiến thịt mọc trên các ngươi, sẽ trải da bọc lấy các ngươi. Ta sẽ đặt Thần Khí vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được sống. Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa” (Ed 37,4-6). “Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, khi Ta mở huyệt cho các ngươi và đưa các ngươi lên khỏi huyệt, hỡi dân Ta” (Ed 37,13).

Gọi ra khỏi mồ Ladarô, người đã chết ; mở huyệt cho dân ra khỏi gông cùm của chết chóc, Thiên Chúa đã qủa quyết: Ngài là Đấng nắm giữ sự sống của con người, và duy một mình Ngài mới cho con người được sống lại và được sống đời đời, mầu nhiệm sự sống mà Đức Giêsu đã mặc khải qua phép lạ cho Ladarô sống lại ở Bêtania.

Qua phép lạ này, chúng ta ghi nhận:

1.   Con đường chúng ta phải đi để được Thiên Chúa ban sự sống viên mãn và đời đời:

a.   Lắng Nghe  Đức Giêsu:

Như hai chị em Mácta và Maria say mê lắng nghe Đức Giêsu, khi các cô quấn quýt bên Ngài, lúc thì nũng nịu bắt đền: “Nếu có Thầy ở đây, thì em con đã không chết” (Ga 11,21), vì các cô biết: khi nghe tin Ladarô, em trai các cô đau nặng, Đức Giêsu đã không thu xếp về ngay, mà vẫn “lưu lại hai ngày tại nơi đang ở” (Ga 11,6) ; lúc thì  một chút giận dỗi, phụng phịu: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết” (Ga 11,24). Nhưng luôn luôn các cô chăm chú Lắng Nghe Lời Ngài.

b.  Đón nhận Đức Giêsu:

Gia đình Bêtania rất yêu mến và từ lâu đã luôn đón tiếp Đức Giêsu với tất cả lòng trân trọng, và chân tình qúy mến. Bất cứ lúc nào cả ba chị em đều dành cho Đức Giêsu tình cảm nồng nàn và sự đón tiếp ân cần, nồng hậu, cũng như sẵn sàng chia sẻ, giúp đỡ Ngài và các môn đệ trên đường truyền giáo.

Đức Giêsu cũng đáp lại tấm lòng của ba chị em bằng tình cảm đặc biệt của Ngài, như hôm nay, cả đám đông đều thấy Ngài khóc (Ga 11,35), vì “thổn thức trong lòng và xao xuyến” xót thương Ladarô và cảm thương hai chị em Mácta, Maria (x. Ga 11,33), và nhiều người có mặt đã ngạc nhiên nói với nhau: “Kìa xem ! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy !” (Ga 11,36).

Thực vậy, thánh sử Gioan đã ghi lại nét dễ thuơng của hai chị em Mácta và Maria, khi ân cần, vồn vã đón tiếp Đức Giêsu trong trình thuật phép lạ cho Ladarô sống lại:
·               “Vừa được tin Đức Giêsu tới, cô Mácta liền ra đón Người” (Ga 11,20).

·               Khi được chi Mácta  gọi và nói nhỏ: “Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy !... cô Maria vội đứng lên và đến với Đức Giêsu.” (Ga 11,28-29).

Tâm tình niềm nở, trông ngóng, mong mỏi được đón tiếp Đức Giêsu của hai cô được biểu hiện qua thái độ nhanh nhẩu, vội vàng, ngay lập tức diễn tả qua cụm từ “liền ra đón”, “vội đứng lên và đến với”. Tất cả đã nói lên các cô rất hân hoan, vui mừng được đón tiếp Đức Giêsu vào nhà mình, đến với mình, ở lại với mình trong bất cứ cảnh huống, tâm trạng nào.

c.    Tin Đức Giêsu:

Con đường thiêng liêng nào cũng phải dẫn đến niềm tin vào Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, cũng như các phép lạ Đức Giêsu làm cũng chỉ có mục đích “cho mọi người tin vào Ngài”, như Đức Giêsu đã nói với các môn đệ trước khi lên đường đến Bêtania: “Ladarô đã chết. Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin” (Ga 11,14), hoặc với Mácta: “Chị có tin thế không ?” (Ga 11,26), “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao ?” (Ga 11,40)

Thực vậy, con đường đến với “Đức Giêsu là Sự Sống Lại và là Sự Sống” chỉ có thể thực hiện khi đạt đến Niềm Tin: Đức Giêsu là Thiên Chúa Cứu Độ, Đấng đã đến trong  đời để cứu độ loài người và ban lại cho con người sự sống đời đời.

Tin là điều kiện không thể thiếu để “được sống lại và được sống” như Đức Giêsu khẳng định: “Ai tin vào Thầy thì dù có chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26).

Như thế, chúng ta không còn nghi ngờ, nghi nan về điều kiện để được sống lại và được sống đời đời, vì chính Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người đã công khai mặc khải. Vấn đề là chúng ta có cố gắng đi con đường về sự sống như ba chị em gia đình Bêtania không: Con đường “lắng nghe Chúa, đón tiếp Chúa, và tin vào Chúa”, bởi để tin vào Ngài, chúng ta phải bắt đầu bằng Lắng Nghe Ngài nói và đón tiếp Ngài vào cuộc đời chúng ta.

Và để tiến bước trên con đường Chúa muốn, chúng ta cần tháo cởi khỏi mình những giây nhợ của “cái tôi” ích kỷ, ganh ghét, kiêu căng, những “vải buộc” của thành kiến, kỳ thị, nhất là tấm vải che lương tâm, và bịt kín ánh sáng của Thần Khí, như lệnh truyền của Đức Giêsu: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi”, khi Ladarô vừa ra khỏi mồ, “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn” (Ga 11,44), bởi “Hướng đi của tính xác thịt là sự chết, còn hướng đi của Thần Khí là Sự Sống và Bình An” (Rm 8,6). 

Jorathe Nắng Tím

------------------------------------
 

MC 5-A120: Để phép lạ xảy ra


(Văn Chính, SDB chuyển ngữ)

“Ai tin vào Thày, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11, 1-45)
 

Trong số những phép lạ Đức Giê-su đã thực hiện, việc làm cho anh La-da-rô sống lại gây ngạc MC 5-A120


Trong số những phép lạ Đức Giê-su đã thực hiện, việc làm cho anh La-da-rô sống lại gây ngạc nhiên nhất cho những người sống trong thời đại của Ngài. Truyền Thống Do Thái tin rằng linh hồn của người chết dù sao vẫn còn ở lại nơi thân xác đó 3 ngày. Sau 3 ngày, linh hồn vĩnh viễn rời bỏ thân xác và không bao giờ trở lại nữa. Kể từ lúc đó, thân xác mới bắt đầu bị phân hủy. Tin mừng Gioan thuật lại việc Đức Giê-su đến trước ngôi mộ của La-da-rô và truyền lệnh: “Đem phiến đá này đi!”. Phiến đá lấp cửa mộ của La-da-rô phải được mang đi theo lệnh của Đức Giê-su. Thế nhưng Mát-ta phản đối việc mở mồ của La-da-rô, chị nói: “Thưa Thày, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày” (Ga 11,39). Rõ ràng Mát-ta muốn nói lên một quan niệm chung của thời đó rằng trường hợp này thì thật vô vọng. Tại sao Đức Giê-su lại trì hoãn việc đến cứu giúp La-da-rô, khiến cho việc cứu chữa La-da-rô trở nên vô vọng như thế? G.K đã giải thích: “Hy vọng có nghĩa là vẫn còn mong đợi những điều xem ra vô vọng, hay chẳng còn chút khả thể nào”. Trong truyền thống Do thái, quan niệm một người chết trỗi dậy sau khi đã chết dược 4 ngày rồi, và khi thân xác đang trong tiến trình phân hủy, thì là chuyện không thể tưởng tượng được, như thị kiến của Ê-dê-ki-en về những bộ xương khô của những kẻ đã chết. Những bộ xương khô đét này chỉ có thể trỗi dậy nhờ vào phép lạ mà thôi.

Đối với các Ki-tô hữu thời Giáo Hội sơ khai, câu chuyện làm cho La-da-rô sống lại muốn ám chỉ tới sự phục sinh của Đức Giê-su. Đức Giê-su trỗi dậy vào ngày thứ ba, và thân xác Ngài sẽ không bao giờ bị phân hủy nữa. Với họ, đây thực sự là một phép lạ và biến cố này làm cho họ không bao giờ mất đi niềm hy vọng, ngay cả khi phải sống trong những hoàn cảnh xem ra vô vọng, dầu với tư cách cá nhân, hay giáo hội hoặc quốc gia. Với quyền năng của Thiên Chúa, chẳng có gì là quá trễ để làm cho một người, một Giáo hội hay một quốc gia được sống lại. Thế nhưng, trước tiên chúng ta phải học biết cộng tác với Thiên Chúa.

Làm thế nào chúng ta có thể cộng tác với Thiên Chúa một khi đã trải nghiệm quyền năng phục sinh của Thiên Chúa nơi cuộc sống của chúng ta và của thế giới này? Mọi người dường như đều có được câu trả lời: chính nhờ Đức tin. Nhưng đó không phải là điều mà Thánh Gio-an muốn nhấn mạnh trong câu chuyện này. Thực thế, chẳng có ai trong trình thuật này, ngay cả Maria hay Mát-ta, là những người tin rằng Đức Giê-su có thể làm cho La-da-rô sống lại sau 4 ngày cả. Chẳng ai kỳ vọng Ngài có thể làm được chuyện đó, và vì thế một niềm tin như đáng được mong đợi, lại không được nhấn mạnh ở đây. Điều cần nhấn mạnh hơn trong trình thuật, đó là: Việc chúng ta cần cộng tác với một vị Thiên Chúa làm-phép-lạ như thế nào, lại được thể hiện qua sự vâng phục thực tiễn và làm theo ý Thiên Chúa.

Để cho phép lạ xảy ra, Đức Giê-su truyền 3 lệnh, và cả 3 lệnh này đều phải được vâng theo từng chữ một. Nhờ thế mà phép lạ đã xảy ra. Lệnh thứ nhất, “Đức Giê-su nói: đem phiến đá này đi!... rồi người ta đem phiến đá đi” (c. 39-41) Liệu người ta có hiểu được lý do tại sao họ phải làm một công việc nặng nhọc là lăn hòn đá che lấp cửa mộ đi, để lộ ra một thân xác đang bị thối rữa và bốc mùi? Chắc chắn là dân chúng không hiểu. Ở đây, dù xem ra không hợp lý theo suy nghĩ thường tình của lý trí, nhưng dân chúng vẫn tin vào lời của Đức Giê-su và thể hiện qua sự vâng lời cụ thể. Tại sao Đức Giê-su không truyền lệnh để hòn đá lấp cửa mộ tự lăn sang một bên, mà chẳng cần ai đụng tay vào? Chúng ta chẳng hiểu được. Tất cả những gì chúng ta biết là: Đấng có quyền năng Thiên Chúa luôn đòi hỏi sự cộng tác của chúng ta, như C.S Lewis đã nói: “Thiên Chúa dường nhưng chẳng tự mình làm những gì mà Ngài có thể ủy thác cho các tạo vật của Người”. Thiên Chúa sẽ chẳng hóa phép điều mà con người có thể làm với sự vâng phục.

Lệnh truyền thứ hai mà Đức Giê-su đưa ra thì trực tiếp nói với kẻ chết: “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ! Người chết liền ra...” (c. 43-44) Chúng ta không biết những chi tiết của những gì xảy ra trong ngôi mộ. Những gì chúng ta biết được, đó là lệnh truyền của Đức Giê-su được đưa ra, và theo sau là một sự vâng phục ngay tức khắc. La-da-rô đang chập choạng tìm lối ra khỏi ngôi mộ tăm tối, “tay chân còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn” (c. 44) Ngay cả một con người đang thối rữa ra trong ngôi mộ, vẫn còn có thể tự làm được việc này cho bản thân mình.

Lệnh truyền thứ ba lại được nhắm tới dân chúng: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi” (c. 44). Ngay cả La-da-rô cũng có thể bị vấp té khi bước ra khỏi ngôi mộ, vì anh ta không thể tự tháo cởi dây băng mà người ta đã quấn khi liệm xác của anh. Anh cần đến dân chúng giúp anh ta làm điều này. Nhờ việc tháo gỡ dây và khăn liệm, anh có thể tự do trở lại với cuộc sống bỉnh thường chung với cộng đồng.

Nhiều ki-tô hữu và những cộng đoàn ki-tô hữu ngày nay đã phải chết vì tội. Nhiều người đã phải ở trong những nấm mồ của sự vô vọng và sự hủy diệt, vì những thói quen hoặc lối sống tội lỗi của họ. Chẳng có một phép lạ nào đưa họ trở về với sự sống trong Đức Ki-tô. Thế nhưng Đức Ki-tô vẫn sẵn sàng làm phép lạ. Ngài đã nói: “Ta đến để cho chiên đực sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).

Liệu chúng ta có sẵn sàng cộng tác với Đức Giê-su để phép lạ xảy ra? Liệu chúng ta có sẵn sàng thực hiện bước đầu tiên để ra khỏi cõi chết? Liệu chúng ta có sẵn sàng tháo cởi (chẳng hạn tha thứ) cho người khác và giúp họ được tự do? Đây là những cách thế khác nhau mà chúng ta có thể cộng tác với Thiên Chúa trong việc thực hiện phép lạ mang lại sự sống cho từng người trong chúng ta, hay cả tập thể là giáo hội hoặc một dân nước.

------------------------------------
 

MC 5-A121: "Tôi là Sự Sống Lại và là Sự Sống"


(Suy niệm của John W. Martens - Văn Hào, SDB chuyển ngữ) (John W. Martens: Giáo sư trợ giảng môn Thần học tại đại học St. Thomas, Minnesota).

“Tôi là Sự Sống lại và là Sự Sống. Ai tin vào tôi , dù có chết sẽ được sống” (Ga 11,25)
 

Tại sao Đức chúa Giêsu khóc, khi thấy những giọt lệ rơi trên khóe mắt của hai chị em ông La-da-rô MC 5-A121


Tại sao Đức chúa Giêsu khóc, khi thấy những giọt lệ rơi trên khóe mắt của hai chị em ông La-da-rô và các bạn hữu của Ngài? Rốt cục, Chúa Giêsu biết rằng La-da-rô đã chết thật rồi. Các động thái của Ngài cho thấy, Ngài vẫn để cho cái chết xảy ra. Vì vậy, tại sao Ngài lại khóc khi tiếp cận những khuôn mặt ủ dột sầu thương? Câu chuyện Chúa phục sinh La-da-rô khởi dẫn chúng ta đi vào thực tại nhân tính của Đức Giêsu và tìm hiểu những lý do về việc Ngài đến để chiến thắng sự chết.

La-da-rô có hai chị em: Maria và Mát-ta. Họ “đã gửi cho Đức Giêsu một thông điệp”, báo tin La-da-rô đang ốm nặng. Chúa Giêsu quyết định không đến ngay để thăm người bạn đang hấp hối, nhưng phải đợi đến hai ngày sau khi La-da-rô đã chết. Ngài đến để “đánh thức La-da-rô dậy”. Chúa Giêsu muốn minh thị rằng cái chết thể lý không phải là kết thúc cuộc sống chúng ta, nhưng đó chỉ là một giấc ngủ và chúng ta sẽ được quyền năng Thiên Chúa làm cho thức dậy. Quả thật, Đức Giêsu vẫn để cho cái chết xảy đến. Ngài có vẻ như hài lòng vì đã không có mặt, để cho các môn đệ “tin” vào Ngài.

Chúa Giêsu và các môn đệ đến nhà ông La-da-rô, người đã được mai táng trong mồ bốn ngày rồi. Mát-ta ra đón đường và nói với Chúa đến đây làm gì nữa. Chị ta nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, nếu thầy có mặt ở đây, em con đã không chết”. Chúa Giêsu trả lời: “Em con sẽ sống lại”. Chị ta hiểu rằng La-da-rô sẽ sống lại trong ngày sau hết. Nhưng, Đức Giêsu khẳng định lời tuyên bố của Ngài như là khuôn thước cho niềm tin vào Ngài. “Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào thầy dù có chết cũng sẽ sống, và bất cứ ai sống và tin vào thầy, người đó sẽ không bao giờ chết. Còn con có tin điều đó không?” Mát-ta đã công bố niềm tin vào Đức Giêsu.

Và rồi Maria cũng đến, sau chị của mình. Vài người bạn nghĩ rằng Maria ra mộ La-da-rô để than khóc nên cũng đến với Maria để an ủi cô. Ở đây câu chuyện không chỉ xoay quanh quyền năng Thiên Chúa, Đấng làm cho sống lại, nhưng lại hướng về nỗi buồn đau gây nên do bởi cái chết. Maria nói với Đức Giêsu: “ Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây em con đã không chết”. Câu nói của Maria trong câu 32 cũng tương đồng với lời nói của Mát-ta trong câu 21. Nhưng Maria bắt đầu gào khóc dưới chân Chúa, khi thốt ra những lời này, không giống cô chị Mát-ta khi Chúa Giêsu an ủi cô với viễn ảnh về sự phục sinh mai sau.

Khi Đức Giêsu thấy những giọt lệ trên khuôn mặt Maria và các bạn, Ngài không trả lời “Em con sẽ sống lại”, như đã nói với Mát-ta. Thay vào đó, Ngài bắt đầu cảm thấy xao xuyến và trái tim bắt đầu lay động. Nhưng tại sao Ngài dàn dựng cảnh này, và tỏ ra hài lòng vì La-da-rô đã chết, để khơi dậy niềm tin nơi các môn đệ và có lẽ cả nơi những người đã quen biết La-da-rô. Ngài trực diện với sự mất mát tang tóc do cái chết thể lý gây nên, và Ngài cũng bắt đầu khóc. Ở đây, chúng ta cũng lại hỏi lý do tại sao, trong khi Ngài biết Ngài có thể làm cho La-da-rô sống lại, và Ngài cũng biết cái chết không có quyền lực sau cùng trên Ngài cũng như trên con người, sao Ngài lại khóc?. Lúc này, thực tại con người cùng với cái chết đã mang âm hưởng nơi Đức Giêsu qua cách thức chưa từng xảy ra. Qua cuộc gặp gỡ này, Đức Giêsu không chỉ giản đơn biết về cái chết theo cách trừu tượng nhưng trong chính thực tại nhân sinh kiếp người. Ngài thấy các bạn bè khóc, cả những người vẫn tin rằng sự chết một ngày kia sẽ bị khuất phục. Ngài cũng thấy một sự đau đớn xuyên thấu tâm hồn, khi đứng trước hình hài của một người thân đang được vùi chôn trong mộ.

Ray Jasper, khi đứng trước một dãy xác người đang thoi thóp sắp chết, đã diễn tả cảm xúc của mình như sau: “Xúc cảm trào dâng giúp bạn có được một trải nghiệm trước cảnh tượng đó. Cảm xúc đó nói lên: Nếu người chết đó chính là tôi thì sao? Đức Giêsu đã bật khóc vì Ngài cũng cảm thấy nỗi đau đớn. Ngài cũng thông chia vào những đớn đau nơi thân phận kiếp người. Ngài cũng có thể nói “Người chết đó chính là tôi.”

Đức Giêsu đã trải nghiệm cái chết như một kiếp người, cảm thấu sự mất mát bi thương nơi các bạn hữu. Ngài biết rằng cái chết sẽ gây nên sự tàn phá, đưa chúng ta trở về cát bụi, nơi mà chúng ta đã xuất phát. Chúng ta nhớ rằng, trong Mùa Chay, chúng ta cần phải tập chết như thế, để cứu chúng ta thoát khỏi cái chết thực sự, bởi vì Đức Giêsu đã thấy được những giọt lệ than khóc từ nơi những người khác. Ngài không muốn cùng với chúng ta đón lấy cái chết, nhưng muốn lau khô giọt lệ của chúng ta luôn mãi. Ngài nói với chúng ta hãy khu trừ sự chết, vì chúng ta được dựng nên để được sống và sống muôn đời.

------------------------------------
 

MC 5-A122: Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

 

Bệnh tật, chết chóc là những nỗi khổ của con người. Nhưng có khi qua bệnh tật, chết chóc con MC 5-A122


Bệnh tật, chết chóc là những nỗi khổ của con người. Nhưng có khi qua bệnh tật, chết chóc con người lại nhận được những bài học có giá trị cho cuộc sống. Chúng ta có thể thấy được điều này qua “sự cố” của ông Ladarô mà câu chuyện Tin Mừng hôm nay kể lại.

1. Bài học thứ nhất: Sự liên đới và quan tâm giúp đỡ

Đó chính là tình liên đới giữa Đức Giêsu với ba chị em Martha, Maria và Ladarô: Xét về phạm vi tự nhiên, giữa Đức Giêsu và ba chị em của Martha có một mối tương quan tình bạn gần gũi, thân thiện và trong sạch. Hiện diện với nhau khi vui, có mặt với nhau khi buồn, đồng cảm với nhau trong mọi hoàn cảnh. Trong một xã hội mà con người dễ bị cám dỗ sống dửng dưng với nhau như hôm nay, thì tình liên đới tốt đẹp giữa Đức Giêsu với ba chị em nhà Martha là mẫu gương cho mỗi người chúng ta noi theo.

Đó là tình liên đới giữa các thành viên trong gia đình: Khi biết Ladarô bị bệnh, hai chị em Martha và Maria đã cho người nhắn tin cho Đức Giêsu: “Người Thầy yêu đau nặng” (Ga 11,3). Việc làm này thể hiện sự quan tâm của Martha, Maria đối với em là Ladarô. Trong cuộc sống, chúng ta cần có sự liên đới giúp đỡ nhau, nhất là giữa những người thân thuộc trong gia đình. Khi một ai đó trong gia đình bị bệnh, những thành viên khác cần quan tâm giúp đỡ, nhất là tìm thầy chạy thuốc, để người ốm đau được khám chữa bệnh một cách chu đáo hầu mong chóng khỏe lại.

2. Bài học thứ hai: Làm Sáng Danh Chúa

Trong bài Tin Mừng Chúa nhật tuần trước, khi các môn đệ hỏi Đức Giêsu về trường hợp anh mù từ khi mới sinh. “Anh ta bị mù là do tội anh ta hay do tội của cha mẹ anh ta?” Đức Giêsu trả lời: "Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh” (Ga 9, 3). Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, khi Martha và Maria sai người đến báo tin cho Đức Giêsu biết “Người Thầy yêu đau nặng.” Đức Giêsu cũng trả lời rằng: “Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa và do đó Con Thiên Chúa sẽ được vinh hiển” (Ga 11,4). Và sau đó, diễn biến của câu chuyện Tin Mừng thực sự đã làm sáng danh Thiên Chúa. Bởi vì, qua câu chuyện Tin mừng này niềm tin của các Tông đồ được cũng cố, chính Đức Giêsu đã nói: “Ladarô đã chết. Nhưng Thầy mừng cho các con, vì Thầy không có mặt ở đó để các con tin. Vậy chúng ta hãy đi đến nhà ông”(Ga 11,14). Không những niềm tin các Tông đồ được cũng cố mà niềm tin nơi các người hiện diện cũng được cũng cố. Chính Martha thưa với Đức Giêsu khi Ngài hỏi về niềm tin rằng: "Thưa Thầy, vâng, con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian" (Ga 11, 27). Và nhiều người Do thái cũng đã tin vào Đức Giêsu khi chứng kiến phép lạ này (x. Ga 11,45).

3. Bài học thứ ba: Giúp mọi người hiện diện tin vào sự sống đời sau

Phép lạ Đức Giêsu cho ông Ladarô sống lại báo trước sự phục sinh của Ngài sau này, đồng thời hé mở cho chúng ta thấy viễn tượng sống lại trong ngày sau hết như chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy.”

Thật vậy, con người có hai sự sống: sự sống thể xác và sự sống linh hồn. Trong bài đọc II, Thánh Phaolô gọi là sự sống phần xác và sự sống theo Thần Khí. Cũng vậy, con người có hai cái chết: chết về phần xác và chết về phần linh hồn.

Đối với phần xác: Có ngày khai sinh, có ngày khai tử. Không ai sống mãi ở trên cõi đời này. Người trẻ cũng chết. Người già cũng chết. Người giàu cũng chết. Người nghèo cũng chết. Người có quyền cao chức trọng cũng chết. Người thường dân cũng chết. Ladarô trước khi được Đức Giêsu cho sống lại cũng đã chết 4 ngày và chắc chắn sau đó ông cũng phải chết. Đức Giêsu vì mang bản tính con người cho nên Ngài cũng chết. Nhưng đức tin kitô giáo dạy chúng ta “xác loài người ngày sau sẽ sống lại.”

Ngoài phần xác, con người còn có phần linh hồn. Linh hồn nhận được sự sống của Thiên Chúa khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Linh hồn được nuôi dưỡng nhờ Bí tích Thêm sức, Giao Hòa, Thánh Thể, Xức dầu… Sự sống linh hồn sẽ được kéo dài vĩnh viễn bên Chúa khi con người chết trong ơn nghĩa Chúa. Chúng ta gọi là chết lành. Đó là trường hợp của ông Ladarô trong “dụ ngôn nhà phú hộ và ông Ladarô” (x. Lc 16,19-31), đó là tình trạng của năm cô khôn ngoan trong “dụ ngôn mười trinh nữ” (x. Mt 25,1-13), đó là tình trạng của những người đứng bên hữu Đức Giêsu trong ngày phán xét (x. Mt 25, 31.46). Đó là tình trạng của các thánh trên Thiên đàng. Chính Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã nói: "Nếu một mai bạn thấy tôi nằm chết, bạn đừng buồn, vì chính Cha chung của chúng ta là Thiên Chúa đã đến đón tôi đi, đơn giản vậy thôi."

Nhưng sự sống linh hồn cũng có thể bị chết do tội lỗi. Khi con người cố tình phạm tội trọng thì coi như linh hồn đã chết. Nếu tình trạng đó kéo dài sau khi chết cả phần xác thì sẽ lâm vào tình trạng chết đời đời. Chúng ta gọi là chết dữ. Đó là tình trạng của nhà phú hộ trong “dụ ngôn người phú hộ và ông Ladarô,” năm cô trinh nữ khờ dại trong “dụ ngôn mười trinh nữ” và những người đứng bên tả Đức Giêsu trong ngày cánh chung.

Tóm lại, sự cố của ông Ladarô là cơ hội để con người thể hiện sự quan tâm và tình liên đới với nhau. Đặc biệt đây là dịp để làm sáng danh Chúa và củng cố niềm tin vào sự sống đời đời của chúng ta.

Lạy Chúa, chúng con cám tạ Chúa đã cho chúng con có đức tin, nhất là đức tin về sự sống đời sau. Xin cho mỗi người chúng con không chỉ tuyên xưng niềm tin mà còn thể hiện niềm tin đó trong cuộc sống để ngày sau chúng con được sống mãi với Chúa trên Thiên Đàng. Amen.

------------------------------------
 

MC 5-A123: Hãy ra ngoài


(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
 

Sự sống là điều đáng quý. Đầu năm 2020, thế giới đã đổi khác từ khi cơn dịch hoành hành. Con MC 5-A123


Sự sống là điều đáng quý.

Đầu năm 2020, thế giới đã đổi khác từ khi cơn dịch hoành hành.
Con vi-rút Covid-19 đe dọa sinh mạng của mọi người chẳng trừ ai.
Nó chu du như chỗ không người qua mọi quốc gia, mọi biên giới.
Vì quý mạng sống, nên người ta phải hy sinh nhiều điều.
Những thành phố trở nên vắng vẻ, mọi sinh hoạt vui chơi ngừng lại.
Nhà thờ không thánh lễ, trường học đóng cửa, người già ở nhà.
Phong tỏa và cách ly, sát trùng và đeo khẩu trang.
Để bảo vệ sự sống, dù đó chỉ là sự sống tạm bợ ở đời này của thân xác,
người ta đã phải chấp nhận hạn chế tự do cá nhân,
ngưng làm những điều mà trước đây tưởng không thể bỏ.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng nói về sự sống và cái chết.
Cái chết của một anh thanh niên được Đức Giêsu thương mến.
Anh bị đau nặng, không rõ bệnh gì.
Hai bà chị của anh vội vã nhờ người đến báo cho Đức Giêsu,
hy vọng Ngài mau đến nhà chữa anh khỏi bệnh.
Nhưng hai hôm sau Ngài mới thu xếp để lên đường đi Bêtania.
Khi Ngài đến nơi thì anh đã được chôn bốn ngày rồi.
“Nếu Thầy ở đây thì em con đã không chết” (Ga 11,21.32),
Cả hai chị em Mácta và Maria đều nói câu đó với Đức Giêsu.
Câu nói bắt đầu bằng chữ “nếu” đầy nuối tiếc buồn thương.
Người ta vẫn hay nói như thế trước những chuyện đã lỡ.
Tại sao Thầy lại không có mặt ở đây để cứu Ladarô, bạn của Thầy?
Chắc chắn Thầy đủ khả năng chữa cho em con khỏi cơn bệnh nặng.
Bây giờ thì muộn rồi, chẳng còn làm được gì nữa.
Em con đã chết, nghìn trùng xa cách, bình vàng đã vỡ tan.
Khi Đức Giêsu nói: “Em chị sẽ sống lại !” (Ga 11,23),
Mácta chỉ nghĩ em mình sẽ sống lại vào ngày tận thế.
Dù chị tin rằng Thiên Chúa luôn nghe lời Thầy nài xin (Ga 11,22),
và tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa (Ga 11,27)
nhưng chị chẳng tin Thầy sẽ làm được gì trước ngôi mộ.
Ngôi mộ là nơi sự chết thống trị, chưa ai thắng được nó.
Chính vì thế khi Đức Giêsu bảo “Đem phiến đá này đi”
Chị đã vội vã ngăn lại.
Chị không tin Thầy có thể làm gì được với một thi thể đã bốc mùi.                                                
Một xác người chết đã bốn ngày thì đâu còn gì để hy vọng.
Nhưng tại ngôi mộ này, vinh quang Thiên Chúa sẽ được bày tỏ.
Đức Giêsu sắp làm dấu lạ lớn nhất tại đây,
Để cho thấy Ngài thật là sự sống lại và là sự sống (Ga 11,25).
Ngài lớn tiếng gọi tên người chết và bảo anh đi ra khỏi mồ.
Ladarô đã vâng lệnh đi ra, dù chân tay còn bị quấn băng vải,
mặt còn phủ khăn (Ga 11,44).
Anh ấy được giúp để khỏi vướng víu và tự do đi được.
Ladarô đã được hoàn sinh và ra khỏi thế giới của âm hồn.
Đức Giêsu đã đánh thức Ladarô, và cho hai chị được gặp lại em.
Chúng ta có quyền tin Đức Giêsu đã nở một nụ cười
trên khuôn mặt chưa khô nước mắt,
đã đón lấy Ladarô trong vòng tay, người mà Ngài thương mến.
Ladarô rồi cũng có ngày sẽ chết, vì sự sống đời này chỉ là phù du.
Qua dấu lạ này, Đức Giêsu đưa chúng ta đi xa hơn.
Ngài hứa ban sự sống vĩnh cửu cho những ai tin vào Ngài,
nơi đó cái chết không còn quyền lực (Ga 11,25-26).
Vì làm cho Ladarô được sống lại mà Ngài bị kết án tử (Ga 11,45-54).
Nhưng cái chết của Ngài đem lại cho chúng ta cuộc sống vĩnh hằng,
nơi không còn buồn phiền, tang tóc, chia ly.
Chỉ mong chúng ta hôm nay tin mạnh hơn chị Mácta
khi cái chết rình rập và quật ngã bao người trên thế giới,
khi niềm hy vọng tưởng như vỡ tan, vì nấm mồ đã chôn vùi mọi sự.

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa là Thiên Chúa của lòng con,
Chỉ mình Chúa biết và thấy mọi nỗi xao xuyến của con.
Chỉ mình Chúa biết rằng
mọi khắc khoải của con đều do con sợ mất Chúa,
sợ xúc phạm đến Chúa,
sợ không yêu Chúa nhiều
như con phải yêu và khao khát yêu.

Lạy Chúa là Đấng thấu biết mọi sự,
Đấng duy nhất có thể thấy tương lai,
Nếu Chúa biết chính vì vinh danh Chúa hơn,
và vì phần rỗi của con
mà con phải ở lại trong tình trạng cùng khốn này,
thì xin Chúa cứ để yên như vậy.
Con không muốn né tránh đâu.

Xin cho con sức mạnh để chiến đấu
và chiếm được phần thưởng Chúa ban
dành cho những tâm hồn mạnh mẽ.
Cha thánh Padre Piô.

------------------------------------
 

MC 5-A124: Ta là sự sống lại

 

Phép lạ lớn nhất: Cho Lazarô chết chôn bốn ngày sống lại. Ta là nước sự sống. Ta là ánh sáng MC 5-A124


Phép lạ lớn nhất: Cho Lazarô chết chôn bốn ngày sống lại.
Ta là nước sự sống.

Ta là ánh sáng thế gian.

Ta là sự sống.

Cứu độ là cứu cho sống. Phép lạ nầy là đỉnh của các phép lạ Sự sống là đỉnh của công trình cứu độ. Ta là sự sống là đỉnh của giáo lý cứu độ của Đức Giêsu. Được sống lại là được biến đổi như Đức Giêsu biến hình vinh quang. Điều kiện:

- Người Thầy thương mến: là nghĩa thiết, thân tín với Đức Giêsu.

- Đức Giêsu yêu mến Matta và hai em là Maria và Lazarô. Người thường đến trọ nhà Bêtania.

- Lazarô, bạn của chúng ta (các môn đệ). Có ý kiến cho rằng Lazarô là"môn đệ Đức Giêsu yêu mến".

- Đức Giêsu khóc - Kìa xem Người thương anh ấy dường nào.

Câu chuyện:

Hai cô cho người đến nói với Đức Giêsu: Người Thầy thương mến đang đau nặng. Chắc là Đức Giêsu sẽ đến ngay vì Lazarô là "bạn của chúng ta". Nhưng Đức Giêsu bảo: bệnh nầy không đến nổi chết, nhưng để vinh quang Thiên Chúa được tỏ hiện và Con Thiên Chúa được tôn vinh. Hai ngày sau Người nói: Lazarô bạn chúng ta đang yên giấc, chúng ta đi đánh thức anh ấy. Khi đến nơi thì Lazarô đã được chôn bốn ngày rồi. Matta ra đón Người và nói: nếu có Thầy ở đây thì em con không chết. Lời trách nhẹ "nếu Thầy đến sớm hơn"vì lẽ ra Đức Giêsu đã phải đến trước "vì Người thương mến nhà nầy". Nhưng lại là một mạc khải "có Chúa là sự sống thì không có sự chết". Nhân đó Đức Giêsu mạc khải thêm: Em cô sẽ sống lại. Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Ta thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống mà tin vào Ta thì muôn đời sẽ không phải chết. Cô có tin thế không? Thưa Thầy: Có. Con vẩn tin Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian. Maria ra gặp Đức Giêsu cũng nói: Nếu có Thầy ở đây thì em con không chết (cũng trách "sao Thầy không đến sớm hơn"). Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến. Người khóc. Đức Giêsu là người thật, có những tình cảm tự nhiên như mọi người. Người hỏi:Chôn anh ấy ở đâu? Mời thầy đến xem. Hãy cất tản đá ra.Matta nói: Thưa Thầy: thối rồi vì đã bốn ngày. Đức Giêsu ngước mắt lên, cầu nguyện cùng Chúa Cha rồi kêu lớn: Lazarô hãy ra đây. Người chết liền đi ra.

Phép lạ lớn nhất dành cho "người thầy thương mến", không cho ai khác mặc dù là để " vinh quang Thiên Chúa được tỏ hiện và Con Thiên Chúa được tôn vinh". Hãy là nhà Bêtania được Đức Giêsu yêu mến. Hãy là Lazarô "người Thầy thương".

Lazarô được sống lại nhưng rồi cũng chết. Không là bao vì sống lại trong xác phàm. Xác phàm là phải chết. Đức Giêsu cũng phài cởi bỏ xác phàm để mặc lấy vinh quang Thiên Chúa là sự sống vỉnh cữu. Sống vỉnh cữu mới là sống. Sống tạm, phải chết thì không là sống.

Việc cho Lazarô sống lại ngoài việc"tỏ hiện vinh quang Thiên Chúa và tôn vinh Đức Giêsu " không nói gì nhiều hơn. Không báo truớc sự Phục Sinh vinh quang của Đức Giêsu như thường hiểu vì sự phục sinh nầy không"vinh quang".

Người ta muốn xin cho người chết của họ sống lại như Lazarô và nếu được thì thích lắm còn nói sự sống lại vinh quang ngày sau thì không gây ấn tượng bao nhiêu, chỉ lờ mờ, không hâm hở mấy.

Hãy động tâm, động nảo một tí. Cái nào lớn hơn và hãy muốn cái lớn hơn, muốn nhiều hơn, mạnh mẽ hơn, bằng mọi giá, sẳn sàng đổi tất cả, cả mạng sống của thân xác vì cái đuợc lại là sự sống đời đời.

Để được vào trong vinh quang của Thiên Chúa Đức Giêsu cương quyết "lên Giêrusalem" vì sau thập giá mới có Phục Sinh vinh quang. Phải cởi bỏ thân xác phàm tục, biến đổi nó thành "Phục Sinh vinh quang". Noi gương Đức Giêsu đã có biết bao nhiêu người, tử đạo, hiển tu..đã từ bỏ, đã chấp nhận không ngại, không quản dù là gian nan khốn khó thế nào để bảo đảm cho được Phục sinh vinh quang với Đức Giêsu. Họ đã đúng. Chúng ta hãy nối bước theo họ mà tiến bước mạnh mẽ, vửng vàng như họ để được như họ và chắc chắn. Đức Giêsu đã mở đường và đang dẩn đường. Cùng Người bước đi trên con đường Người đi thì lo gì.

------------------------------------
 

MC 5-A125: Suy nghĩ về câu chuyện kẻ chết sống lại


(Suy niệm của Phạm Yên Thịnh)
 

Câu chuyện Chúa Giêsu cho ông Lazaro sống lại được đề cập trong ngày hôm nay là một đề MC 5-A125


Câu chuyện Chúa Giêsu cho ông Lazaro sống lại được đề cập trong ngày hôm nay là một đề tài thú vị, nhưng nghe qua thật là nghịch lý với những gì chúng ta thấy trong cuộc sống hằng ngày. Quả thật Đức Giêsu đã chữa lành, đã làm cho ông Lazarô chết trong mồ 4 ngày sống lại.

Đoạn Tin mừng này có thể nói là để lại cho chúng ta nhiều cảm giác phác tạp khác nhau, phải chăng đó cũng là cảm giác của Mátta khi Chúa Giêsu đề cập đến sự sống lại của Lazarô em của chị. Chúng ta hãy cũng xem đoạn Tin mừng hội thoại này giữa Chúa Giêsu và chị Mátta.

Trước tiên Chúa Giêsu đến với chị em nhà Mátta, thì chị ra đón Người. Chúa Giêsu không nói một lời nào để chia buồn hay an ủi chị về cái chết của một người em thương yêu. Chứng tỏ Chúa Giêsu biết rõ việc Ngài sắp làm còn quan trọng hơn, có nghĩa là hơn về cái chết, hay nỗi buồn của họ.

Mátta: "Thưa thầy, nếu thầy ở đây thì em con đã không chết". Qua câu nói này chúng ta thấy rằng Mátta biết rõ Chúa Giêsu rất có khả năng chữa lành tật nguyền cho người ta. Nhưng sự thật em chị đã chết rồi, khiến chị rất đau buồn và tiếc nuối (khi em chị bệnh nặng chị đã sai người đi báo cho Chúa Giêsu nhưng Chúa đã lưu lại chỗ ở 2 ngày, để cho anh Lazarô phải chết).

Tuy nhiên, sau đó chị Mátta đã thêm vào: "Nhưng bây giờ con biết, nếu thầy xin gì cùng Thiên Chúa thì Ngài đều ban cho". Một câu nói như hẻ mở một niềm hy vọng, hình như chị dám muốn thầy mình làm một điều gì cao cả hơn bình thường là chữa bệnh. Bởi thế Chúa Giêsu đã trả lời chị: "Em của chị sẽ sống lại".

Tưởng chừng như Mátta hiểu được điều Chúa Giêsu nói, tưởng chừng như chị có đủ niềm tin để xin Chúa cho em chị sống lại, tưởng chừng như chị sẽ reo lên vì vui mừng. Nhưng sự thật không phải thế, chị lại chẳng dám tin, chị lại hiểu như những gì chị đã nghe thầy mình giảng dạy, nên thưa: " Con biết em con sẽ sống lại ngày sau hết, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết."

Một lời tuyên xưng rất căn bản và rất quan trọng, sau này Giáo hội cũng giác định trong Kinh Tin Kính, nhưng trong trường hợp này lại có tác động ngược lại. Và bởi thế Chúa Giêsu mới lý giải cho chị về chính Ngài (đã đề cập ở Gioan chương 4):

"Chính Thầy là sự sống lại và lạ sự sống;

Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết,
cũng sẽ được sống.
Ai sống và tin vào Thầy
sẽ không phải chết.
Chị có tin không?"

Sự sống và cái chết mà của Chúa Giêsu đề ở đây là sự sống mai hậu, sự sống mà khi đến ngày tận thế, khi mọi thứ bị hủy giệt thì Thiên Chúa sẽ cho những ai tin vào Người sẽ được cứu rỗi. Kẻ tin và người không tin sẽ có hậu quả như ngày phán xét chung bị phân chia ra hai bên như chiên và dê. Có thể chị Mátta chỉ có hiểu được như thế nên mới đáp lại:

"Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian." (câu 27)

Lại một lời xác nhận hay một lời tuyên xưng hết sức quan trọng nữa được phát ra từ miệng cô Mátta, nhưng về vấn đề Đức Kitô sẽ cho em cô sống lại ngay lúc đó thì quả là một điều mờ mịt đối với cô. Một thông điệp mà Đức Kitô bày tỏ trong câu 25 và 26 là Người sẽ cứu mọi người khỏi sự chết do tội Adam đã gây ra chỉ cần tin vào Người, mà điều này vẫn còn tiềm ẩn đối với Mátta. Bởi thế nói xong lời trên cô "lặn " đi về nhà, "nhường" chỗ cho em gái mình ra tiếp chuyện Thầy Giêsu.
Có lẽ Mátta không nghĩ rằng Thầy Giêsu sẽ cho em mình sống lại và chính mắt cô sẽ được trông thấy, thể hiện ở câu 39, khi Chúa Giêsu bảo người ta mở ngôi mộ ra thì cô đã can ngăn: "Nặng mùi rồi, vì đã được bốn ngày". Bởi thế Đức Giêu mới nhắc lại cho cô, đây như là lời tái mặc khải nhưng hình như có chút trách móc:

"Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quan của Thiên Chúa sao?"(câu 40)

Rồi một phép lạ đã xẩy ra, Đức Giêsu cầu nguyện cùng Thiên Chúa và sau đó kêu lớn tiếng: "Anh Lazarô, hãy ra khỏi mồ!" Kẻ chết liền đi ra khỏi mồ, ai nấy đều ngạc nhiên và biết bao nhiêu kẻ tin vào Người.

Mátta, Maria vui sướng dường bao khi đứa em của họ đã chết bốn ngày nay đã sống lại. Ôi, ai dám tin rằng đây là sự thật. Có thể hai cô Mátta và Maria hay cả những người xung quanh đã nghĩ rằng mình đang trong cơn mơ. Vâng, một sự lạ, một dấu chỉ Đức Kitô đã làm để vinh danh Thiên Chúa, một sự lạ Chúa Giêsu đã thực hiện để thiên hạ thấy được thân phận và trách vụ của Đức Kitô. Một sự lạ mà Chúa Giêsu muốn mọi người biết trước về tương lai của Ngài, về cái chết mà Ngài sẽ đi qua, về sự phục sinh mà Thiên Chúa sẽ ban tặng cho Ngài. Một dấu lạ mà đồng thời Chúa muốn cho ta thấy, ai tin vào Ngài thì ngày sau hết cũng sẽ được sống lại như vậy: "Ai tin vào Ta, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống." (câu 25)

Nhưng đối với chúng ta, đối với nhiều người Kitô hữu có lúc đây là một điều thần kỳ, nhiều lúc chẳng dám tin và hơn thế nữa còn nhiều câu hỏi chất vần làm sao điều đó có thể xảy ra. Vì Tín Điều Kẻ Chết Sống Lại, trong đó có chúng ta làm sao để hiểu được, đôi khi chúng ta còn cầu xin Chúa cho mình một dấu chỉ hay một cảm nghiệm để cho niềm tin của chúng ta được rõ ràng hơn, được một cái gì đó gọi là "có thể nắm được", lòng trí của chúng ta có thể lý giải được, diễn tả được.

Đây là vấn đề thách đố cho không ít người, khi thuyết sống lại của Chúa Giêsu nghịch với khoa học. Nhưng ngược lại, cũng chúng ta nhiều lúc cũng cầu xin Chúa ban thêm đức tin để chúng ta cũng được sống lại mai sau. Chẳng có gì xấu hay nguy cơ gì khi chúng ta dám cầu xin Chúa điều đó, dấu lạ đó. Nhưng nên nhớ rằng trước khi làm phép lạ cho anh Lazarô sống lại thì Chúa hỏi cô Mátta là: "Con có TIN không?" (câu 26), chứ Ngài không hỏi là con có HIỂU không? Đức tin nếu muốn dùng ngôn từ để lý giải cho minh bạch thì chắc là chẳng được gọi là tin nữa. Dĩ nhiên để hiểu được điều chúng ta tin thì nhìn vào cuộc sống của chúng ta xem Thiên Chúa đã làm gì cho chúng ta, xem Đức Kitô đã dạy gì cho chúng ta, và xem Thánh Thần đã dẫn dắt cuộc đời chúng ta thế nào, như thế có thể bảo đảm được phần nào.

Đối với kẻ chết sống lại, Giáo hội cũng đã khẳng định như thế trong Kinh Tin Kính, an tâm mà tin tưởng, còn bao giờ chúng ta nắm bắt được thì chờ một ngày nào đó mà Thiên Chúa cho phép chúng ta, lúc đó mọi người sẽ vui mừng mà thốt lên: "Ôi! Tuyệt vời quá!"

------------------------------------
 

MC 5-A126: HÃY RA KHỎI MỒ!

 

Xin Chúa ban cho chúng con niềm hy vọng không đổi dời vào tình thương bao la của Chúa. Ai MC 5-A126


TMĐP- Xin Chúa ban cho chúng con niềm hy vọng không đổi dời vào tình thương bao la của Chúa.

Ai cũng biết mình sẽ phải chết, nhưng không ai muốn chấp nhận sự thật này, vì chết là thực tại kinh hoàng, đáng sợ nhất, bởi con người chỉ được biết mình sẽ phải chết, nhưng  không được biết chết là hết hay chết rồi vẫn còn; chết là tiêu tan thành tro bụi hay sẽ đến một nơi nào khác; chết rồi khổ hơn vì hình phạt nặng nề, hay chết sẽ sướng hơn vì được thưởng công bội hậu?

Chính vì không hay biết gì về thế giới phiá sau sự chết của mình và của người thân, mà sự chết mãi là một vấn nạn không đáp số làm băn khoăn, lo lắng mọi người.

May mắn cho chúng ta, những người đi theo Đức Giêsu. Chúng ta không như nhiều người khác thường rất hoang mang, hoảng sợ trước sự chết, vì Thiên Chúa, Cha chúng ta đã mặc khải cho chúng ta sự chết trong niềm hy vọng được Ngài cho sống lại.

Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã nói với dân Ngài qua miệng ngôn sứ Êdêkien, khi từ mồ sâu vọng lên lời thở than ai oán: “Xương cốt chúng tôi đã khô, hy vọng của chúng tôi đã tiêu tan, chúng tôi đã rồi đời!”, và  Ngài an ủi chúng rằng: “Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt, và đem các ngươi về đất Ítraen… Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi, và các ngươi sẽ được hồi sinh” (Ed 37,12.14).

Sấm ngôn của Êdekien không chỉ nói đến niềm hy vọng được cứu thoát của Ítraen, mà còn hé lộ việc Thiên Chúa cho những ai tin vào Ngài được chính Ngài gọi ra khỏi huyệt sau khi chết, như Đức Giêsu đã gọi ông Ladarô ra khỏi mồ.

Tin Mừng Gioan tường thuật rất chi tiết biến cố Ladarô được Đức Giêsu gọi ra khỏi cõi chết, khi người chết đã nặng mùi, như lời của cô Mácta, chị ruột người quá cố: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày.” (Ga 11,39).

Qua sấm ngôn của ngôn sứ Êdêkien trong Cựu Ước, và qua biến cố Ladarô được  Đức Giêsu gọi ra khỏi mồ, Thiên Chúa muốn nói với chúng ta nhiều điều:

Sự chết là thực tại không thể tránh khỏi của thân phận làm người.
Sở dĩ con người phải chết, vì tội lỗi đã gieo mầm chết vào sự sống của người, như sách Sáng Thế đã khẳng định: “Vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,19), nên đã làm người, thì ai cũng phải chết, vì chết thuộc số phận của con người.

Khi hay tin người bạn Ladarô đau nặng sắp chết, Đức Giêsu đã không tức tốc về Bêtania ngay. Điều này đã làm các môn đệ Ngài phải ngạc nhiên. Thấy các ông tỏ vẻ ngỡ ngàng, Ngài liền cho các ông biết một điều quan trọng, đó là sự chết, tuy là một  thực tại được coi như một kết cục thất bại gây mất mát, thương đau, nhưng không vì thế mà cái chết của người tin vào Thiên Chúa  mất  cơ hội làm vinh danh Thiên Chúa, như Ngài qủa quyết: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dip để bày tỏ vinh quang  của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh” (Ga 11,5, bởi “dù sống, dù chết”, theo thánh Phaolô “chúng ta vẫn thuộc về Thiên Chúa”: “Thật vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa” (Rm 14,7-8).

Cái chết của người thân yêu làm chúng ta đau buồn, thương nhớ:
Một trong những điểm đặc biệt ở Đức Giêsu khi Ngài về Bêtania thăm mộ phần Ladarô là Ngài bùi ngùi, xúc động và khóc. Tin Mừng Gioan kể lại: “Khi đến gần Đức Giêsu, cô Maria vừa thấy Người, liền phủ phục dưới chân và nói: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết”. Thấy cô khóc và những người Do Thái đi với cô cũng khóc, Đức Giêsu thổn thức trong lòng  và xao xuyến. Người hỏi: “Các người để xác anh ấy ở đâu?” Ho trả lời: “Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem”. Đức Giêsu liền khóc” (Ga 11, 32-36), và Ngài còn khóc nữa trên đường đi tới mộ (x. Ga 11,38).

Như thế, khóc thương người quá cố biểu hiện tình yêu và lòng thương nhớ chúng ta dành cho họ. Đó là một nghiã cử thánh thiện vì chan chứa lòng thương xót và đem lại niềm ủi an, nâng đỡ cho nhau, như những người Do Thái thân quen với tang gia có mặt hôm đó đã phần nào được an ủi và nguôi ngoai nỗi buồn, khi họ thấy Đức Giêsu cũng khóc thương Ladarô như họ đang khóc, và  to nhỏ nói với nhau: “Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy!” (Ga 11,36).

Đức Giêsu chính là sư sống lại và sự sống:
Nếu Cựu Ước chỉ loan báo:  Thiên Chúa sẽ mở huyệt cho người đã chết, thì trong Tân Ước, Đức Giêsu đi xa hơn và quả quyết: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11, 25-26).

Thực không lời nào quả quyết, mạnh mẽ, và bảo đảm hơn lời của Đức Giêsu  vừa nói với cô Mácta. Chính lời này làm chúng ta, những người tin vào Đức Giêsu và sống cho Ngài được vững tâm và tràn trề niềm hy vọng được Ngài cho sống lại và sống đời đời trong Vương Quốc tình yêu của Ngài, như lời Ngài hứa.

Xin Chúa ban cho chúng con niềm hy vọng không đổi dời vào tình thương bao la của Chúa, Đấng không đành lòng chấp tội ai, vì Chúa biết “nếu Chúa chấp tội, nào có ai có thể đứng vững?” (Tv 129,3), nhưng luôn “rộng lòng thứ tha”, “từ ái một niềm và ơn cứu chuộc nơi Người hằng chan chứa” (Tv 129,4.7) để chúng con luôn vui sống yêu thương, phục vụ như Chúa dạy, và bình an trông đợi ngày Chúa cho chúng con được sống lại từ cõi chết với Chúa, Đấng “là sự sống lại và sự sống”  của chúng con.

Jorathe Nắng Tím

------------------------------
 

MC 5-A127: Hãy ra khỏi mồ!


(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
 

Chúa Giêsu là nguồn mạch sự sống”. Đó là một đề tài quan trọng trong Tin Mừng Thánh Gioan. Ý MC 5-A127


“Chúa Giêsu là nguồn mạch sự sống”. Đó là một đề tài quan trọng trong Tin Mừng Thánh Gioan. Ý tưởng này được nhấn mạnh nhiều lần trong Tin Mừng thứ tư và trong các Thư được truyền thống Giáo Hội công nhận tác giả là Gioan. Khi nhấn mạnh đến đề tài này, tác giả Tin Mừng muốn trình bày Đức Giêsu chính là Thiên Chúa và là nguồn mạch sự sống. Bởi trong giáo huấn của Cựu ước, thì chỉ có Thiên Chúa mới làm chủ sự sống và sự chết. Chỉ có Thiên Chúa mới có quyền mở huyệt và đưa những người trong âm phủ đi ra.

“Hỡi dân Ta, này chính Ta sẽ mở huyệt cho các ngươi!”. Ngôn sứ Edêkien đã khơi lên nguồn hy vọng cho người Do Thái. Lời hứa “mở huyệt” này, vừa ám chỉ tới việc Chúa giải phóng Dân người khỏi ách nô lệ lúc bấy giờ để đưa về quê cha đất tổ, vừa hướng họ tới sự sống trường sinh vĩnh cửu, tức là sự sống Thiên Chúa sẽ ban cho con người sau khi chết. Theo giáo huấn của ngôn sứ Êdêkien, ngôi huyệt sẽ không còn là chỗ dừng chân mãi mãi, nhưng chỉ là tạm thời. Thiên Chúa quyền năng sẽ mở huyệt để thân xác con người không còn chết nữa, nhưng được sống với Chúa mãi mãi.

Chúa Giêsu nhiều lần khẳng định: chính Người là sự sống. “Ta là Đường, là Sự thật, và là Sự sống” (Ga 14,6). Trong các phép lạ Chúa làm, có những phép lạ cho kẻ chết sống lại, như trường hợp người thanh niên là con bà góa ở thành Naim, hay bé gái 12 tuổi đã chết mà Chúa cho sống lại. Phép lạ cho ông Lagiarô sống lại là một phép lạ điển hình, nhằm chứng minh những gì Chúa khẳng định về sự sống. Trong cuộc đối thoại với bà Mátta, chị của người chết, Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Chính Thày là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thày, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống mà tin vào Thày, sẽ không bao giờ phải chết” (11, 25-26). Cũng như lời Chúa tuyên bố qua ngôn sứ Êdêkien, lời Chúa Giêsu vừa nhắc tới sự sống trần gian, vừa hướng tới sự sống vĩnh cửu. Người là Thiên Chúa, Đấng có quyền làm cho kẻ đã chết được sống lại. Người cũng là Đấng ban cho con người sự sống đời đời. Lời hứa với người trộm lành trên cây thập giá đã chứng minh điều đó: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở trên Thiên Đàng với tôi” (Lc  23,43). Đức Giêsu đã dùng quyền năng Thiên Chúa kêu gọi ông Lagiarô ra khỏi mồ. Sự kiện này đã giúp cho người Do Thái tin vào Chúa. Thánh Gioan diễn tả một Đức Giêsu thực sự là “người”. Người chạm đến nỗi đau của con người, rơi lệ trước đau khổ của người khác và đưa họ từ cái chết đến sự sống. Chúa Giêsu không giống như một nhà phù thủy, nhưng là Thiên Chúa làm người có trái tim nhân loại, sẻ chia và mang lấy nỗi đau của con người, nhường cho con người hạnh phúc và vinh quang.

“Tôi chính là Mục tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11). “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Những lời tuyên bố này cho thấy Chúa Giêsu hiến mình cho sự sống của con người. Hôm nay cũng như mọi thế hệ, Chúa vẫn tiếp tục hiến mình vì sự sống của chúng ta. Chuẩn bị cử hành mầu nhiệm thập giá và Phục sinh, đề tài “Chúa Giêsu là nguồn mạch sự sống” giúp chúng ta nhìn xuyên qua cái chết để thấy sự sống tuôn chảy từ thập giá. Nhờ cái chết của Chúa Giêsu mà nhân loại được sống. Người đã chết thay cho chúng ta. Người đã mang lấy án tử cho chúng ta được sống. Trên cây thập giá, Thiên Chúa đã làm cho Đức Giêsu thành tội nhân vì chúng ta.

“Hãy ra khỏi mồ!”. Lệnh truyền này đã đưa ông Lagiarô từ cõi chết trở về cõi sống, đồng thời đem niềm vui cho thân bằng quyến thuộc. Mùa Chay là lời mời gọi đoạn tuyệt với tội lỗi để sống cuộc sống mới. Những thực hành Mùa Chay giúp ta ra khỏi nấm mồ tối của sự ích kỷ, chia rẽ và hận thù. Để bước ra khỏi huyệt mộ của tội lỗi, đòi hỏi mỗi chúng ta phải hy sinh cố gắng nhiều khi đến mức anh hùng. Vì thay đổi đời sống, hướng cuộc đời sang một ngã rẽ khác cũng có nghĩa là đoạn tuyệt với quá khứ, dứt bỏ mọi ràng buộc để được sống trong tự do của con cái Chúa, hướng về tương lai tươi sáng trong bình an. Nhờ cuộc sống mới, họ giống như người đang đi trong ánh sáng mặt trời, không sợ vấp ngã. Bà Mátta, chị của Lagiarô, mặc dù tuyên xưng đức tin một cách quả quyết, cũng không hy vọng em mình có thể sống lại. Bà nói với Chúa: “Thưa Thày, nặng mùi rồi, vì em con đã ở trong mồ được bốn ngày” (Ga 11, 39). Chính trong lúc không một tia hy vọng theo lý luận thông thường của con người, thì quyền năng Thiên Chúa đã được tỏ bày. Chúa Giêsu đem hy vọng cho con người vào lúc họ cảm thấy bi đát nhất ở ngõ cụt của cuộc đời. Một thân xác bắt đầu thối rữa, nhờ quyền năng của Chúa, vẫn có thể được hồi sinh. Một con người dù tội lỗi tràn trề, nếu biết dừng lại sám hối, vẫn có thể được ơn tha thứ.

Những ai đã can đảm và dứt khoát bước ra khỏi huyệt mộ thì sẽ sống một cuộc sống mới. Cuộc sống ấy không còn bị xác thịt chi phối nữa, tức là không còn bị những đam mê xác thịt ràng buộc và cản trở. Họ được tự do thanh thoát mặc dù vẫn sống trong thân xác còn mang nhiều yếu đuối. Chính Chúa Thánh Thần thúc đẩy và đổi mới chúng ta, nhờ đó chúng ta có sức mạnh để vươn lên trong sự sống mới này (Bài đọc II).

Giữa đại dịch COVID-19, chúng ta không khỏi hoang mang lo sợ. Cả thế giới cầu nguyện nhưng dường như Thiên Chúa không để ý quan tâm. Lời Chúa hôm nay khích lệ chúng ta: hãy hy vọng và tín thác. Thiên Chúa có chương trình và phương pháp riêng của Ngài. Đến như thân xác ông Lagiarô đã bốc mùi và phân hủy Chúa còn làm cho sống lại. Lời cầu nguyện của chúng ta chắc chắn được Chúa nhận lời, vào lúc Chúa muốn, theo như cách Chúa muốn và nhằm tới ích lợi thực sự của chúng ta. Bởi lẽ, Thiên Chúa là Cha nhân hậu, luôn muốn điều tốt cho con cái của mình.

------------------------------
 

 MC 5-A128: Hy vọng sống lại


(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
 

Đức Yêsu cố tình trì hoãn không đến Yerusalem để Ladarô chết, hầu Ngài có dịp mặc khải cho MC 5-A128


Đức Yêsu cố tình trì hoãn không đến Yerusalem để Ladarô chết, hầu Ngài có dịp mặc khải cho chính Ngài cho các tông đồ.

Ladarô còn trẻ, cái chết đã cướp đi người em của Matta và Maria! Một mất mát không gì có thể bù đắp lại được. Đức Yêsu thổn thức và xao xuyến (Ga.11, 33). Đức Yêsu chia sẻ nỗi buồn đau của kiếp người, như bất cứ ai.

Giọt nước mắt, là chuyện thường tình, nhưng cũng là giọt nước mắt thánh trong tình yêu. Sự thổn thức xao xuyến của kiếp người, cũng là những tình cảm thiêng liêng thánh thiện.

"Nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết; nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy" (Ga.11, 21-22). Một lời trách nhẹ nhàng, và một lời diễn tả điều ao ước mà không dám nói! Phải chăng chị Matta tin Đức Yêsu có thể làm cho Ladarô sống lại, mà chị không dám xin "nhưng con biết bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người sẽ ban cho Thầy". Một niềm tin quá tuyệt!

"Em chị sẽ sống lại"! Chuyện này rõ rồi, con cũng tin như vậy: "con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại", nhưng.... (Thầy có hiểu điều con muốn xin mà không dám nói với Thầy không?) . "Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống; Còn ai sống mà tin Thầy thì sẽ không phải chết" (Ga.11, 25-26).

Đức Yêsu đã phục sinh Ladarô! Niềm vui như vỡ trào, không chỉ đối với chị em Matta Maria mà còn đối với cả dân chúng nữa! Còn cái gì nữa? Thiên Chúa muốn làm gì nữa qua con người Yêsu này (lúc này dân chúng chưa biết Đức Yêsu là Thiên Chúa)? Tất cả mọi người sẽ sống lại? (Nếu chết ba ngày rồi mà Đức Yêsu còn có thể làm cho sống lại, thì chẳng lẽ Ngài không thể làm cho kẻ chết bốn ngày sống lại được? Và tương tự như thế cho những người đã chết năm ngày hay sáu ngày, v.v.?). Vấn đề chính là Đức Yêsu có muốn hay không mà thôi!

Qua biến cố Đức Yêsu làm Ladarô sống lại, Thiên Chúa đã khơi bùng lên niềm tin vào Thiên Chúa của dân Ngài.

Tin vào Đức Yêsu, người chết có thể sống lại!

Bao nhiêu người sống mà như đã chết: buồn bã, không niềm hy vọng, tuyệt vọng trước mọi sự! Đức Yêsu là sự sống lại và là sự sống! Người ta có thể bắt đầu lại! Người ta có thể làm lại cuộc đời! Bao cuộc đời dang dở, bao cuộc đời không còn đáng sống nữa, có thể hồi sinh. Chị phụ nữ tội lỗi trong Lc.7, 36-50 là một ví dụ.

Bao nhiêu người mẹ mong chờ con hoang trở về, bao nhiêu người con chờ mong bố hay mẹ trở về, bao nhiêu người vợ mong chồng trở lại, bao nhiêu người chồng mong vợ tỉnh ngộ, nhưng thực tế ... như vô vọng! Thiên Chúa có thể biến đổi lòng người! Và chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm được mọi sự!

Thiên Chúa mang lại cho con người niềm hy vọng!
Chỉ với Thiên Chúa, người ta mới có thể hy vọng được thôi!
Đức Yêsu là sự sống lại và là sự sống!

--------------------------
 

MC 5-A129: Khát sống


(Suy niệm của Lm Ignatiô Trần Ngà)
 

Con người có nhiều cơn khát: Khát tiền, khát danh vọng, khát quyền lực, khát tình yêu, khát hạnh MC 5-A129


Con người có nhiều cơn khát: Khát tiền, khát danh vọng, khát quyền lực, khát tình yêu, khát hạnh phúc… Và trong hàng loạt cơn khát đó, thì khao khát được sống là cơn khát mãnh liệt nhất, thúc bách nhất, khẩn thiết nhất.

Để đáp ứng khao khát này, người ta sẵn sàng lao động vất vả, chấp nhận muôn vàn hy sinh gian khổ để nuôi sống mình, để vun đắp cho đời sống mình được sung túc hơn.

Rồi khi sự sống bị đe dọa trầm trọng bởi bệnh tật, như bị ung thư chẳng hạn, người ta sẵn sàng bán hết tất cả những gì mình có để chạy chữa đến cùng, hễ còn nước thì còn tát…

Vì quý trọng mạng sống nên từ cổ chí kim, không ai trên đời chịu đem mạng sống mình để đổi lấy trân châu bảo ngọc hay phú quý giàu sang hoặc quyền cao chức trọng... Sự sống luôn luôn là trên hết.

Tuy nhiên, đời sống con người cũng như bông hoa sớm nở chiều tàn, như bóng đèn hiu hắt trước gió… Dù ta có tiếc nuối, có kìm giữ, có níu kéo cách nào đi nữa, cũng không thể giữ lại sự sống cho mình. Đến ngày, đến hạn, nó sẽ ra đi.

Vì thế, mọi người đều nơm nớp lo sợ thời khắc định mệnh ấy, lo sợ ngày tang tóc ấy, không biết sẽ chụp xuống lúc nào.

Thần Chết như đang lởn vởn, rình rập đâu đây, sẽ vung lưỡi hái ra tước đoạt mạng sống người ta bất cứ lúc nào!

Hy vọng đã bừng lên

Thế rồi, một niềm vui và hy vọng đã bừng lên: Giữa khung trời u tối và tang tóc vì sự sống sẽ mất đi và sự chết đang bao trùm ấy… bỗng lóe lên một tia chớp hy vọng, hy vọng được cứu sống.

Qua việc làm cho La-da-rô, một thanh niên đã chết bốn ngày, mùi tử khí đã xông lên nồng nặc, được sống lại và trở về với cuộc sống, Chúa Giê-su mang đến nhân loại một tin vui, tin vui đó là Ngài sẽ ban lại sự sống cho những ai lìa trần và không chỉ ban cho họ sự sống đời này mà thôi, nhưng còn ban sự sống vĩnh cửu đời sau. Ngài khẳng định điều đó với cô Mác-ta: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11, 25).

Thế là nhờ Chúa Giê-su, bóng đêm sự chết không còn bao phủ địa cầu. Ngài đến xé tan màn đêm sự chết, tiêu diệt thần chết và ban lại sự sống cho những ai tin vào Ngài.

Thế thì từ đây, nhân loại nắm được một bí quyết rất đỗi tuyệt vời để dành lại sự sống và đạt tới sự sống đời đời, đó là TIN vào Chúa Giê-su. Thế là từ đây, ước mơ cao cả nhất, khát vọng lớn lao mãnh liệt nhất của con người đã được Chúa Giê-su đáp ứng.

Muốn được thoát chết và được sống muôn đời muôn kiếp với Thiên Chúa trên thiên đàng, thì mỗi người phải TIN vào Chúa Giê-su, nhưng không phải là tin suông, vì tin mà không có hành động kèm theo thì vô nghĩa; Ai thực sự tin Chúa Giê-su thì phải thực hành giáo huấn của Ngài, noi gương bắt chước Ngài và sống như Ngài đã sống.

Lạy Chúa Giê-su là nguồn ban sự sống cho trần gian,
Không gì trên đời quý bằng được sống. Không gì đáng khao khát cho bằng sự sống đời đời.

Xin cho chúng con luôn kết hợp với Chúa cách mật thiết, như bàn tay kết hợp với thân mình… để được đón nhận sự sống đời đời do Chúa truyền ban và kiên quyết không bao giờ phạm tội trọng để khỏi đánh mất sự sống muôn đời. Amen.

--------------------------------
 

MC 5-A130: Sự Sống. Sự Phục Sinh


(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
 

Trong hai tuần liên tiếp, chúng ta đã nghe tường thuật hai phép lạ cả thể của Chúa Giêsu: Chúa chữa MC 5-A130


Trong hai tuần liên tiếp, chúng ta đã nghe tường thuật hai phép lạ cả thể của Chúa Giêsu: Chúa chữa người mù từ khi mới sinh và cho Ladarô sống lại. Hai phép lạ này chỉ có Gioan kể lại, các phép lạ khác đã có các thánh sử khác tường thuật, Gioan không cần phải kể lại. Và hai phép lạ này mang một ý nghĩa độc đáo và mạc khải cho chúng ta thấy khuôn mặt thần linh của Chúa Giêsu là ánh sáng trần gian và là sự sống. Hai phép lạ cùng một ý hướng như nhau: để vinh quang  của Chúa được tỏ hiện. Công việc của Chúa là cứu vớt trần gian khốn khổ này, đem ánh sáng cho con người đang chập choạng trong đêm tối, mang lại sự sống và sự sống thật cho người đã chết trong tội.

Chúa Giêsu biết Ngài muốn làm gì và làm như thế nào, làm như Ngài đã có chương trình của Ngài, và Ngài thực hiện từng chi tiết, tuần tự, dẫn nó đến cùng đích Ngài muốn.

Thánh Gioan nói rõ: “Ngài quí mến ba chị em Matta”. Thế nhưng tại sao Ngài chậm trễ đến nỗi ba chị em phải đi ngang qua thử thách đau đớn  như thế? Đây phải chăng là ý muốn của Ngài: “Để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa; qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh”. Những người thân của Ngài đều được mời gọi thông phần vào sứ mệnh cứu rỗi của Ngài nhờ đau khổ. Chị em Matta được mời gọi bước vào chương trình của Ngài bằng đau khổ, và các môn đệ cũng bước vào con đường đó. Tất cả những người có liên hệ mật thiết với Ngài đều phải thông phần đau khổ của Ngài, chia sẻ mầu nhiệm của Ngài như Mẹ Maria, như các môn đệ sau này.

Chị Matta đã sai người đến với Chúa Giêsu và báo cho Ngài biết: “Người Thầy thương đang bệnh”. Nhưng hình như Ngài không để ý gì đến tin đó và lại nói rằng: “Bệnh này không đến nỗi chết”, và Ngài vẫn tiếp tục rao giảng ở đó thêm hai ngày mới nhắc đến tình trạng của Ladarô. Ngài cũng không nói rõ chỉ nói một cách mơ hồ: “Bạn Ladarô của chúng ta đang yên giấc”. Các môn đệ không hiểu. Lúc đó Ngài mới nói thật: “Ladarô đã chết. Thầy mừng cho anh em, vì Thầy không có mặt ở đó, để anh em tin”. Câu này thật quan trọng: “Thầy mừng cho anh em… để anh em tin”. Điều này chứng tỏ, Chúa Giêsu muốn dùng cái chết của Ladarô để giúp đức tin của các môn đệ, cũng như trong tiệc cưới ở Cana, thánh Gioan đã nói: “Các môn đệ tin Ngài”. Điều quan trọng mà Ngài luôn chú ý là củng cố niềm tin cho các môn đệ. Lúc này là lúc Ngài sắp bước vào giai đoạn cựu kỳ quan trọng của đời Ngài, Ngài sắp bước vào cuộc thử thách nặng nề, cần phải củng cố đức tin của các môn đệ để khi việc xảy đến, các ông sẽ vững tin hơn.

Khi Chúa đến Bêtania, thì Ladarô đã nằm trong mộ bốn ngày rồi. Matta ra đầu làng đón Ngài bằng một câu như trách móc: “Nếu Thầy có ở đây thì em con không chết”. Cuộc đối thoại diễn ra ngắn ngủi thôi, nhưng đầy ý nghĩa, tập trung vào một vấn đề duy nhất: “Con có tin không”? Tin rằng Thầy là sự sống lại và là sự sống không?

Chúng ta có tin không? Chúng ta dám tuyên xưng như cô Matta không: “Thưa Thầy, con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian”. Cuộc sống của chúng ta có thể hiện được niềm tin như thế không? Hay chúng ta nói tin mà lòng chúng ta không mấy xác tín? Thánh Phaolô cũng tin như chúng ta, đến nỗi “đối với Ngài, sống là Chúa Kitô”.

Matta trở về nhà báo tin cho Maria: “Kìa Thầy đến và gọi em”. Maria vui mừng chạy ngay vì cô cùng mấy chị em hàng xóm đang khóc. Gặp Thầy, Maria chỉ nói được một lời y như chị Matta: “Nếu Thầy ở đây thì em con không chết!” Cô òa lên khóc. Các chị em đi theo cô cũng khóc. Chúa Giêsu, đứng trước sự bùng nổ của niềm đau cũng không cầm được nước mắt. Những giọt nước mắt hiếm hoi của Thầy! Thầy khóc vì thấy Maria tiều tụy thảm thương. Ngài biết nỗi đau của Maria, nàng phải hy sinh vì vinh quang  của Thiên Chúa. Ngài đã đòi hỏi sự hy sinh đó. Maria, cô con gái liếng thoáng và trầm tư đã từng ngồi dưới chân Ngài để nghe lời Ngài giảng dạy, hôm nay chỉ là hiện thân của đau khổ.

Chúa Giêsu đến trước mộ của Ladarô. Ngài khóc. Người Do Thái ngạc nhiên và cho rằng Ngài thương Ladarô đặc biệt, nhưng Ngài không chỉ khóc vì Ladarô, Ngài nhìn xa hơn. Ngài nhìn thấy Ladarô là hiện thân của một nhân loại đang tan rữa trong tội ác. Ngài khóc cho một nhân loại đang đi dần đến vực thẳm hư mất. Ngài đến là để vực dậy một nhân loại đã băng hoại trong ách nô lệ tội lỗi.

Sau giây phút mềm lòng, thái độ Chúa Giêsu thay đổi hẳn. Ngài trở nên hiện thân của quyền uy, một thứ quyền uy lạ lùng sẽ làm mọi người kinh hãi, đã làm cho bão tố im lặng, đã vực dậy chàng thanh niên con bà góa thành Na-in đã chết. Ngài ra lệnh: “Đem phiến đá này đi”. Chị Matta hoảng hốt can thiệp: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi vì đã bốn ngày rồi”. Ngài đáp với một giọng uy quyền rõ rệt: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng, nếu chị tin, chị sẽ thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” Sau khi cầu nguyện, Ngài ra lệnh: “Ladarô, ra đây!” Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải…

Chúng ta làm sao hiểu được niềm vui của chị em bà Matta! Chúng ta làm sao biết được phản ứng của những người chứng kiến dấu lạ! Tất cả đau khổ, buồn sầu biến tan trong niềm vui phục sinh. Không thể nào tưởng tượng được. Một người chết đã bốn ngày, giờ đây sống lại! Một việc vĩ đại chưa từng xảy ra. Chỉ cần một lời nói, mọi sự đã biến đổi. Những hy sinh của chị em Ladarô không vô ích.

Thánh Gioan tóm gọn trong một câu: “Tất cả những người đến thăm cô Maria và đã chứng kiến việc Đức Giêsu làm, có nhiều người đã tin vào Người. Đây là kết quả mà Chúa Giêsu nhắm tới khi để Ladarô chết: khơi lên đức tin của những người chung quanh.

Chúng ta tin không?

Chúng ta có tin rằng Chúa Giêsu là  sự sống lại và là sự sống không? Chúng ta sẽ còn thấy một sự lạ cả thể hơn. Chính Chúa Giêsu sống lại vinh hiển. Cái chết và sự sống lại của Ladarô báo trước cái chết và sự phục sinh của Ngài. Ngài là sự sống và là sự sống thật. Ngài ban chính mạng sống của Ngài và Ngài có quyền lấy lại. Ngài đến trần gian là để chúng ta được sống vì chúng ta đã chết trong tội, được sinh ra trong tội. Chúa Giêsu là vị cứu tinh duy nhất của chúng ta.

Tin vào Ngài, chúng ta mới được sự sống mới. Thánh Phaolô luôn nói đến sự sống mới này.Muốn được sống đời đời, phải bám vào Đấng là sự sống lại và là sự sống, phải bỏ mình, vác thập giá. Chúng ta muốn được sống không? Hay cuộc sống hôm nay đã cuốn hút chúng ta làm cho chúng ta chỉ biết lo củng cố cuộc sống vật chất mà thôi?

Hôm nay, hãy đến với Đấng ban sự sống, Đấng ban nước hằng sống. Ngài đã đến với chúng ta qua tấm bánh nhỏ nơi bàn thờ, nhưng đó chính là Bánh Hằng Sống. Ăn lấy Chúa để đươc sống và được sống dồi dào. Trần gian chỉ là tro bụi. Hãy tìm Nước Thiên Chúa, và mọi sự khác sẽ được ban cho chúng ta.

-----------------------------
 

MC 5-A131: Chúa cho Lazarô sống lại


(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ  Văn Thụy)

Tin Mừng Ga 11: 3-7.17.20-27.33-35: Lazarô đã chết, thế là Chúa Giêsu lên đường trở về Giuđêa, mặc dầu trước đó không lâu suýt nữa Chúa Giêsu đã bị ném đá...
 

Bêtania ở phía đông núi Ôliu, cách Giêrusalem 3 cây số. Đây là nhà của ba chị em Matta, Maria và MC 5-A131


Bêtania ở phía đông núi Ôliu, cách Giêrusalem 3 cây số. Đây là nhà của ba chị em Matta, Maria và Lazarô. Với Chúa Giêsu, Bêtania trở thành một nơi rất quen thuộc. Chúa nhiều lần đã qua lại nơi đây sau những ngày rao giảng mệt nhọc, nhất là  sau khi cảm nếm  sự cứng lòng  của những người lãnh đạo Do Thái, khiến Người có cảm giác như bị thất bại  và ruồng bỏ. Tình bạn giữa Chúa Giêsu và những thành viên trong gia đình Bêtania thật là thắm thiết, đến nỗi khi Lazarô đau nặng, hai chị em đã cho người báo tin cho Chúa: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng” (Ga 11,3).

Lazarô đã chết, thế là Chúa Giêsu lên đường trở về Giuđêa, mặc dầu trước đó không lâu suýt nữa Chúa Giêsu đã bị ném đá. Điều đó cho thấy Chúa Giêsu đã thương mến ba chị em như thế nào. Rồi qua diễn tiến câu chuyện chúng ta càng thấy rõ tâm tình của Chúa Giêsu dành cho gia đình này.

Chúng ta nghe tiếp câu chuyện: khi nghe tin Chúa Giêsu đến với gia đình, Matta đã đi đón Người: ”Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết”.

Sau đó bà về gọi Maria, em gái bà và nói với em rằng: “Thầy ở ngòai kia, Thầy gọi em”.

Maria đến gặp Chúa và cũng lặp lại lời của Matta:” Thưa Thầy, nếu Thầy ở đây thì em con không chết”. Khi thấy bà khóc và những người Do Thái bà cũng khóc, Chúa Giêsu thổn thức, xúc động và đã rơi lệ.

Một cảnh tượng thật cảm động. Một cảnh tượng cho thấy Chúa Giêsu thực là một con người. Một con người với tất cả những gì là tự nhiên nhất của nó.

Chính ở đây cho chúng ta thấy: Một Thiên Chúa đã phản ứng như một con người. Phải, chúng ta có một Thiên Chúa, một Thiên Chúa rất gần với con người. Một Thiên Chúa sống giữa con người. Một Thiên Chúa biết chia sẻ những mất mát lớn lao của những người thân trong gia đình. Người đã rơi lệ.

Một Thiên Chúa biết rung cảm với một gia đình mà ở đó chỉ có ba chị em. Hai người chị và một đứa em trai. Bây giờ đứa em trai đã chết. Quả thật, một sự mất mát vô cùng lớn đối với hai người chị này.

Và làm sao an ủi được hai chị em này. Thế là Chúa đã khóc. Chúa đã rơi lệ. Những giọt nước mắt rơi xuống. Những giọt nước mắt của một con người, nhưng cũng là một Thiên Chúa.

Tất cả đều hé mở cho chúng ta một điều vô cùng quan trọng: Không có một tôn giáo nào lại có một vị thần minh ở với con người như Chúa Giêsu ở với chúng ta. Phải, một Thiên Chúa đã đến ở  với con cái loài người. Và vị Thiên Chúa đó đã cảm nhận được những nỗi đau thương, những nỗi thống khổ cũng như những mất mát của con người.

Và một phép lạ đã xảy ra: Lazarô đã sống lại.

Sự sống lại của Lazarô muốn nói với chúng ta điều gì?

Dĩ nhiên sự sống lại của Lazrô nói lên quyền năng của Chúa Giêsu, nhưng đồng thời cũng hé mở cho chúng ta về cuộc sống mai hậu.

Trong chúng ta không có ai có kinh nghiệm  về sự sống lại, nhưng mấy năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và  Mỹ đã chú ý  đến hiện tượng mà họ gọi là "kinh nghiệm cận tử" (near death experience): nhiều người vì một tai nạn hay vì một lý do gì đó làm họ ngất đi trong một thời gian khá lâu. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết, nhưng sau đó họ sống lại.

Các bác sĩ đã phỏng vấn 1.370 trường hợp. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm chung sau đây:

- Họ không còn sợ chết nữa.
- Cuộc sống ở "cõi bên kia" hạnh phúc hơn cuộc sống  ở đời này.
-  Họ không còn ham muốn kiếm tiền bạc, danh vọng và lạc thú nữa.

Điều duy nhất  mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người.[1]   

Kinh nghiệm của những người cận tử là họ không còn sợ chết nữa, nhưng ai trong chúng ta vẫn sợ hãi khi cái chết đến với chúng ta.

Một câu chuyện kể rằng:

Có người kia rất giầu sang phú qúi. Một hôm, ông tìm đến hang đá của vị ẩn tu nổi tiếng là thánh thiện và được đặc ân có đường dây liên hệ trực tiếp với Chúa. Người phú hộ xin vị ẩn tu cầu nguyện cho mình và hỏi Chúa xem sau khi chết ông có được vào  thiên đàng hay không.

Lời thỉnh xin của người phú hộ xem ra hơi khác thường, nhưng vì người ấy cứ nài nỉ, nên vị ẩn tu chấp nhận sẽ cầu nguyện với Chúa cho ông, với điều kiện là cho thêm ít hôm để cầu nguyện với Chúa.

Một tuần lễ sau, nhà phú hộ trở lại với vị ẩn tu  để được nghe lời Chúa muốn nói với ông. Vị ẩn tu nói:

- Tôi đã được Chúa cho biết điều ông mong ước cầu xin. Nhưng có một tin vui và một tin buồn, vậy ông muốn nghe điều nào trước? Tin vui hay tin buồn?

Nhà phú hộ phân vân suy nghĩ một lúc. Sau đó chọn xin cho biết tin vui trước.

Vị ẩn tu đáp:

- Tin vui là ông sẽ được rỗi linh hồn và sẽ được lên thiên đàng.

Nghe vậy, nhà phú hộ vui mừng thích chí lắm và tự nhủ: ”Ngoài tin vui mừng lớn lao này, trên đời này còn gì phải là tin buồn nữa”. 

Như bị tính tò mò thôi thúc, nhà phú hộ hỏi thêm cho biết:

- Tin buồn là gì?

Vị ẩn tu đáp: Có lẽ tin buồn mà ông không muốn nghe nói tới, đó là ông sẽ phải chết ngay hôm nay.[2]

Bình thường thì ai cũng sợ chết, nhưng với kinh nghiệm của những người cận tử đã cho chúng ta thấy:

- Họ không còn sợ chết nữa.
- Cuộc sống ở "cõi bên kia" hạnh phúc hơn cuộc sống  ở đời này.
-  Họ không còn ham muốn kiếm tiền bạc, danh vọng và lạc thú nữa.

Điều duy nhất  mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người Những điều nghiên cứu trên đây thật là một điều quí giá cho chúng ta. Nếu ai trên trần thế này cũng sống  như kinh nghiệm của những người "cận tử" thì chúng ta thấy quả  là thiên đàng đã xuất hiện ngay trên trần gian này rồi. Amen.
------------------------
[1] Willie Hoffsuemmer
[2] R. Veritas, Ánh sáng thế gian,  trg. 151

------------------------------------
 

MC 5-A132: Chúa Nhật 5 Mùa Chay


(Suy niệm của Lm. JB. Lê Ngọc Dũng)

AI TIN VÀO ĐỨC KITÔ THÌ DÙ ĐÃ CHẾT CŨNG SẼ ĐƯỢC SỐNG
 

Tin Mừng hôm nay tường thuật lại việc Chúa Giêsu cho Lazaro sống lại. Ông đã chết bốn ngày MC 5-A132


Tin Mừng hôm nay tường thuật lại việc Chúa Giêsu cho Lazaro sống lại. Ông đã chết bốn ngày rồi, xác đã bốc mùi, nhưng Chúa Giêsu vẫn làm cho ông được sống lại. Nhưng thử hỏi Lazarô có sống mãi không. Lazaro sống lại. Rồi sau đó ông sống được thêm 20, 30, 40 năm nữa rồi ông cũng chết, chứ không sống mãi!

Vậy thì, chúng ta hãy thử tìm hiểu ý nghĩa về niềm tin vào Đức Kitô và về sự sống lại trong bài Tin Mừng là như thế nào, trong đó Matta chị của Lazzarô, đã tỏ  niềm tin vào sống lại: "Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại ngày sau hết" (Ga 11,24).

Thật ra, tin rằng mình sẽ được sống lại ngày sau hết, cũng chưa phải là điều lạ lùng hay đặc biệt, mà chỉ có Matta tin. Cũng có nhiều người khác, ở những tôn giáo khác họ vẫn tin vào sự sống đời sau, như trong dân gian tin có thiên đàng thưởng kẻ lành, hay trên thiên đình có tiên có  Phật. Họ tin rằng có âm phủ địa ngục phạt những kẻ gian ác, có những chảo dầu sôi sùng sục và những con quỷ dữ cầm những chỉa ba ném người ác vào đó để hành hình…

Điều quan trọng mà Tin Mừng kêu gọi không phải chỉ là tin chung chung vào cuộc sống đời sau, hay thưởng kẻ lành phạt kẻ dữ như vậy, nhưng là tin vào chính Đức Kitô, vào chính con người cụ thể của Ngài. Ngài nói:

"Chính Thầy là sự sống và là sự sống lại. Ai tin vào Thày thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết" và Chúa Giêsu hỏi: "Chị có tin như thế không?". Matta đã thưa: "Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian" (Ga 11, 25-26).

Matta đã tuyên xưng quá tuyệt vời! Đây mới là điều đặc biệt và trổi vượt của niềm tin nơi Matta. Lúc ấy chưa chắc các môn đệ hay các Tông đồ của Chúa Giêsu lại có thể tuyên xưng như vậy. Matta không những tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô mà còn tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa. Tuyên xưng Ngài là Đức Kitô, nghĩa là Đấng được xức dầu để cứu Dân Do Thái thì còn có thể tuyên xưng được, nhưng tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa quả là một điều quá sức tưởng tượng đối với người Do Thái.

Như chúng ta sẽ thấy, chính Chúa Giêsu bị lên án tử hình vì Ngài nhận mình là Con Thiên Chúa. Trong cuộc xử án, vị thượng tế liền xé áo mình ra và nói: "Hắn nói phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Đấy, quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa, quý vị nghĩ sao?" Họ liền đáp: "Hắn đáng chết!" Rồi họ khạc nhổ vào mặt và đấm đánh Người. Có kẻ lại tát Người và nói: "Ông Kitô ơi, hãy nói tiên tri cho chúng tôi nghe đi: ai đánh ông đó?" (Mt 26,65-68).

Đến đây chúng ta tự hỏi, vậy tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa trong bối cảnh này có ý nghĩa gì?

Có thể nói, đó là tin vào thập giá của Ngài, tin vào một điều vượt quá lý trí của con người bình thường. Vì khi Ngài vừa xác nhận mình là Con Thiên Chúa thì lập tức Ngài bị khạc nhổ vào mặt và bị đấm đánh, tát vào mặt! Sao Con Thiên Chúa lại lạ lùng như vậy, bị hành hạ sỉ nhục như vậy mà không phản ứng lại!

Ngài vừa xác nhận mình là sự sống và là sự sống lại với Matta và Ngài cũng đã cho Lazaro sống lại, nhưng rồi chính Ngài lại bị chết thảm thương trên thập giá. Đây quả là một điều quá phi lý đối với lý trí bình thường, vì vừa xác nhận mình là sự sống thì lại bị người ta giết chết một cách dễ dàng.

Tin vào Đức Giêsu là Kitô là Con Thiên Chúa thì chúng ta cũng phải tin vào giá trị của những hành vi xem ra trái với lý trí thông thường, hay ngược đời đó.

Ngày xưa, thánh Concorđiô bị giam vì đạo. Trong buổi xử án, quan toà hỏi: "Ông là ai ? Và người ta gọi ông thế nào?"

- "Tên tôi là Kytô-hữu, và người ta gọi tôi là Kytô-hữu".

Quan toà tức tối: "Ta không nói chơi đâu. Ta không hỏi ngươi theo đạo nào. Ta chỉ muốn biết tên ngươi mà thôi."

Thánh Concordio vẫn thong thả trả lời: - "Tôi đã nói rồi. Tôi là người Kytô-hữu, Tên tôi do Chúa Kitô mà ra. Vì thế, tôi thuộc về Ngài và sống chết, tôi muốn phụng sự Ngài."

Quan liền bắt thánh Concorđiô chịu những cực hình ghê rợn. Thánh Concorđiô không nhượng bộ. Trước khi tắt thở, ngài còn nói lên một lần cuối cùng: "Tôi là người Kytô-hữu", nghĩa là, tôi thuộc về Đức Kitô.

Thánh Phalô trong thư Roma dạy: "Ai không có thần Khí Đức Kitô thì không thuộc về Đức Kitô. Nhưng nếu Đức Kitô ở trong anh em, thì dẫu cho thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống” (Rm37, 9-10). Tin vào Đức Kitô cũng có nghĩa là dám hy sinh cho tha nhân, như hạt lúa mì rơi xuống đất, chịu mục nát đi để sinh nhiều bông hạt. Tin vào Đức Kitô là sẵn sàng chịu chết đi cho thế gian, để sống trong Thần Khí Chúa.

----------------------------
 

MC 5-A133: Chúa Nhật 5 Mùa Chay


(Chia sẻ lương thực Lời Chúa cho những ai không thể tham dự Thánh Lễ trực tiếp - Lm Gioan Phan Tiến Dũng)
 

Đứng trước Đại Dịch Covid-19, biết bao nhiêu người bị lây nhiễm, bị bệnh và qua đời; con người MC 5-A133


Đứng trước Đại Dịch Covid-19, biết bao nhiêu người bị lây nhiễm, bị bệnh và qua đời; con người trong xã hội ngày nay, đã và đang làm gì trước thảm họa đau thương này. Các nhà chức trách, các đội ngũ y bác sỹ và tất cả mọi người đã và đang tích cực chung tay cộng tác, hầu để tìm mọi cách tốt nhất có thể giúp đỡ anh chị em đồng loại của mình. Thế nhưng, chúng ta thấy, sức của con người thật có những giới hạn khi đối diện với đại thảm họa này.

Trong hoàn cảnh này, Bài tin mừng của Chúa Nhật thứ 5 Mùa Chay hôm nay giúp và soi sáng cho chúng ta. Tin mừng thuật lại câu chuyện phép lạ của Chúa Giêsu trước cái chết của Lazarô; Chúng ta biết rằng theo tường thuật của Gioan, phép lạ cho Lazarô sống lại từ cỏi chết là phép lạ cuối cùng của Chúa Giêsu làm, trước khi Ngài đi vào cuộc thương khó của chính mình. Như vậy, chắc chắn Chúa Giêsu cũng ý thức được về chính cuộc tử nạn và cái chết của mình sắp xảy ra.

Khi đối diện với người bạn thân Lazarô đã chết, Chúa Giêsu đã làm gi? Thực ra, Chúa Giêsu đã biết tin khi Lazaro sắp chết. Theo cách của con người, đáng lẽ với người bạn thân Lazarô, Chúa phải thật vội vàng để chạy đến Bêtania, để thăm hay cứu chữa Lazarô, hay ít ra cũng để gặp người bạn lần cuối. Nhưng không, tin mừng thuật lại, “khi biết tin, Chúa vẫn chưa đến ngay”. Có phải Ngài muốn trì hoãn, chần chừ, hay không quan tâm? Không phải vậy, Chúa Giêsu biết rõ và rất ý thức về cái chết sắp xãy ra cho Lazarô, và Chúa Giêsu đã muốn để xãy ra và cho Thánh ý Thiên Chúa được thể hiện, và cho Thánh ý của Chúa Cha được tôn vinh.

Đây chính là điều cốt lõi, là vẽ đẹp trong cuộc đời, sứ vụ và hành động của Chúa Giêsu.

Khi đến trước ngôi mộ của Lazarô, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cùng Chúa Cha, Ngài đã cầu nguyện với cả tâm hồn và nước mắt. Ngài cầu nguyện với niềm tín thác hoàn toàn vào Chúa Cha. Và sau khi đã cầu nguyện cách mật thiết với Chúa Cha, Ngài đã gọi: “Lazaro hãy ra đây”, Lazarô đã được sống lại, và bước ra từ nấm mồ của kẻ đã chết.

Một đểm thú vị khác, chúng ta nhận ra được thánh ý của Thiên Chúa nơi cuộc trò chuyện của Chúa Giêsu với Matta. Khi đến gặp Matta, và biết rằng Lazaro đã chết, Chúa Giêsu hẵn biết Ngài phải làm điều gì. Nên Ngài đã hỏi Matta, con có tin là em con sẽ sống lại? Dù Matta tin, nhưng Matta vẫn ngăn cản Chúa khi Ngài muốn cho Lazaro sống lại. Tại sao Matta lại ngăn cản Chúa? vì Lazarô đã chết, đã an táng được bốn ngày, và đã nặng mùi. Có thể với Matta, khi để cho Chúa Giêsu tiếp xúc với người chết như vậy thì không tốt cho Chúa Giêsu. Thế nhưng, khi Chúa Giêsu mời gọi Matta, con hãy tin. Và với lời mời gọi đó của Chúa Giêsu, Matta đã tuyên xưng: “con tin rằng em con ngày sau sẽ sống lại”. Và qua đó, Chúa Giêsu đã công bố: Ta là sự sống lại và là sự sống, cho dù người nào chết mà tin Ta thì cũng sẽ được sống. Ở đây, Khi Chúa Giêsu đề cập đến “người nào chết”, chết ở đây có hai ý nghĩa, cả cái chết về phần thể lý, và cái chết về Đức tin. Thật vậy, nếu tin vào Chúa Giêsu, con Thiên Chúa, bằng cách quay trở lại và sống thân mật với Chúa, thì tình thương và lòng thương xót Chúa sẽ làm cho chúng ta sống lại và sống lại thật.

Thưa anh chị em, điều quan trọng là, liệu chúng ta có tin vào Chúa, muốn quay trở về, sống kết hiệp và gắn bó cuộc đời của chúng ta cách mật thiết với Chúa không?

Đứng trước những khó khăn và thách đố hôm nay, với căn bệnh dịch, với bất an, đau khổ và cái chết, và khi mà nhiều tín hữu không thể tham dự bàn tiệc Thánh Thể cách trực tiếp… chúng ta đang được mời gọi “hãy vững tin”, tin vào Chúa và lòng thương xót của Ngài. Thánh vịnh 128 vọng lên: “Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu chộc nơi Ngài chan chứa”. Chúng ta hãy vững tin, nếu lúc này chúng ta loại Chúa ra khỏi cuộc sống và tâm trí chúng ta, chúng ta sẽ thất vọng, cô đơn và và sẽ “chết” (với cái nghĩa đức tin và ngay cả thể lý).

Đồng thời, khi tin vào Chúa, tuyên xưng niềm tin vào Ngài, chúng ta cũng được mời gọi như Chúa Giêsu, hãy làm gì đó cho những anh chị em đang đau khổ của chúng ta. Trong những lúc khó khăn như thế này, việc cầu nguyện tại tư gia, đọc và suy niệm Lời Chúa, làm và chia sẻ những việc bác ái yêu thương, và ngay cả giữ gìn sức khỏe của bản thân cũng là những cách thế mà chúng ta cùng hành động với Chúa Giêsu cho người mà mình yêu thương. Hãy làm mọi việc vì lòng yêu mến, hãy làm mọi việc vì lòng tin, và hãy làm mọi việc để làm sáng danh và tôn vinh Thiên Chúa. Amen.

--------------------------------------
 

MC 5-A134: Chính Ta Là Sự Sống Lại


(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)

Tin Mừng Ga 11: 1-45 Đối diện với cái chết của Lazarô Chúa Giêsu thổn thức. Quả thật, xuống thế làm ngừoi, Chúa Giêsu đã chia sẻ trọn vẹn thân phận làm người.
 

Đối diện với cái chết của Lazarô Chúa Giêsu thổn thức. Quả thật, xuống thế làm ngừoi, Chúa Giêsu MC 5-A134


Đối diện với cái chết của Lazarô Chúa Giêsu thổn thức. Quả thật, xuống thế làm ngừoi, Chúa Giêsu đã chia sẻ trọn vẹn thân phận làm người. Thánh Phaolô đã minh định: Chúa Giêsu giống như chúng ta hoàn toàn ngoại trư tội lỗi (x. Pl 2,70), bởi đó những giọt nước mắt Chúa đổ ra do bởi một tình yêu trong mối tương giao bằng hữu với Lazarô. Đó cũng là những giọt nước mắt tỏ bày sự bất lực trước cái chết của thân phận làm người. Những giọt nước mắt Chúa đổ ra nói lên sự  đồng cảm của Chúa với con người trước sự bất lực này.

Tuy nhiên sứ vụ của Chúa không dừng lại ở việc đồng cảm với thân phận hèn yếu của con người, nhưng còn phải làm cho con người vượt qua sự bất lực của mình để đạt tới sự sống, và không còn phải chứng kiến nỗi đau do sự chết gây nên. Cách thế để con ngừoi đạt tới sự sống chính là tin vào Chúa Giêsu, Đấng là sự sống , được Thiên Chúa Cha sai đến trần gian để ban lại sự sống cho con người. Chính Đức Kitô đã minh định: Ai tin vào Ta, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Ta, sẽ không bao giờ phải chết.

Tin vào Đức Kitô để được sống là một hành vi xác tin rằng, Người chính là nguồn mạch sự sống, và đức tin không là một lời nói suông, nhưng là một cuộc gặp gỡ sống động và cá vi giữa Đức Kitô và người tin. Chính trong cuộc gặp gỡ nầy chúng ta khám phá ra rằng, Đức Kitô không là một con người phi thường, một dị nhân nhưng Người là Đấng được thiên Chúa sai đến trần gian. Một sự nhận biết mang một tầm vóc quan trọng để có thể xác tín rằng: nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết.

Sự xác tín như thế nhằm minh định rằng, chính Chúa Kitô không những là nguồn sống mà Người còn làm chủ lấy sự sống, điều đó cũng nhằm nói lên sống hay chết không thuộc về thế gian, nhưng thuộc thẩm quyền của Thiên Chúa. Quả thật thế gian không thể trao ban sự sống, vì ở nơi đó không có suối nguồn yêu thương. Thế gian chất chứa nguyên nhân đưa tới sự chết như sự thù hận ganh tương, lòng tham lam, tính ích kỷ, lòng mê đắm sự tà dâm, sự gian dối, tính kiêu ngạo… Ở thế gian này hết sự dữ này đến sự dữ khác tiếp nối lôi kéo con người đến với sự huỷ diệt, chẳng hạn từ nỗi lo về cuộc sống trong một môi trường sinh thái đang bị huỷ hoại vì nạn ô nhiễm mối trường, đến lo lắng về nạn thực phẩm nhiễm độc không an toàn, nay xã hội lại đối diện vói sự bất an về nạn ấu dâm, các trẻ em không còn được an toàn khi vắng bóng cha mẹ….

Sự sống chỉ đến từ Thiên Chúa, bởi Ngài là Đấng yêu thương, và Đức Kitô xuất hiện trên trần gian là để trao ban sự sống này. Người đã đến với trọn vẹn lòng thương xót của Thiên Chúa. Người hiện diện để chữa lành, để cứu vớt, mọi hành vi, lời nói của Người đều chất ngất tình yêu thương và từ đó tuôn trào sự sống bất diệt. Nhưng không phải ai cũng nhận ra điều đó, chỉ có những người thường xuyên đón rước Chúa, thường xuyên gặp gỡ và đối thoại với Chúa mới có thể khám phá nguồn sống nơi Người.

Lạy Chúa, cuộc đời chúng con đối diện với bao thách đố, bao hiểm nguy, nhưng như cô Matta chúng con dám thân thưa: Lạt Thầy có Thầy ở đây chúng con không sợ gì, bởi chính Chúa là nguồn ơn cứu độ của chúng con. Amen.

----------------------------------
 

MC 5-A135: Thầy là Sự Sống Lại và là Sự Sống


(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
 

Hôm nay đã là Chúa nhật 5 của Mùa Chay, vào chỉ còn một tuần nữa chúng ta bước vào tuần Thánh MC 5-A135


Hôm nay đã là Chúa nhật 5 của Mùa Chay, vào chỉ còn một tuần nữa chúng ta bước vào tuần Thánh, ấy thế mà điều đặc biệt của Mùa Chay năm nay khác hẳn với mọi mùa Chay mà chúng ta đã từng trải qua, đó là những mấy tháng qua và gần hết Mùa Chay mà ai ai cũng ít để ý đến những gì là chay tịnh, là hy sinh, hãm mình ăn năn đền tội nhưng lo sợ về bệnh dịch Corona, sự lây nhiễm, sự cách ly, lo sợ thiếu ăn thiếu mặc, lo sợ sự chết chóc lan tràn chúng đeo đẳng lấy tâm trí ta từng ngày hôm nay. Bệnh dịch Corona nó làm con người bị tê liệt hoàn toàn. Còn cái chết thì như một nhát dao cắt đứt tất cả mọi dự tính về cuộc sống của chúng ta. Ngay cả đối với người tín hữu, cái chết vẫn là một mầu nhiệm làm chúng ta run rẩy lo âu là sợ hãi. Chính Đức Giêsu trong Vườn Dầu cũng sợ hãi trước cái chết. Vì sao sợ cái chết? Vì cái chết đưa đến chia ly vĩnh biệt trong có nước mắt, tiếc thương, nhung nhớ, xót xa và đau lòng… như chúng ta nghiệm thấy khi người thân yêu chúng ta xa lìa cuộc đời, hay thấy hàng trăm người chết vì dịch bệnh Corona xảy ra hàng ngày trên thế giới hôm nay.

Và hôm nay trong Tin Mừng, hai chị em Macta và Maria rất đau buồn trước cái chết của người em là Lazarô. Cả hai đều tiếc vì Chúa Giêsu không có mặt lúc ấy. Bốn ngày đã trôi qua, đá đã lấp cửa mồ. Thi hài người chết đã bắt đầu rữa nát. Chẳng còn chút hy vọng nào... Khi nghe tin về Anh bạn Lazarô chết, bất chấp nguy hiểm đến tính mạng, Đức Giêsu trở lại Giuđê để đến thăm gia đình mà Ngài có lòng quý mến. Ngài biết Ngài sẽ làm gì để tôn vinh Chúa Cha, và qua đó chính Ngài cũng được tôn vinh. Dầu vậy, trước nỗi đau của hai chị em, Đức Giêsu vẫn thổn thức và xao xuyến. Ngài bật khóc trên đường đi đến mộ. Trước ngôi mộ đá, Ngài đã cất tiếng cảm tạ Cha, vì Cha đã nhận lời Ngài xin khi cho Ngài quyền làm cho người chết được sống lại. Và Chúa đã cho cho anh Lazarô sống lại thật sự, cả ba chị em và những người chứng kiến phép lạ vui mừng khôn tả.

Thế giới văn minh nhưng bệnh dịch Corona đã giết chết quá nhiều người hơn chiến tranh, đói kém, phá thai, tự tử, những vụ ám sát, hay tai nạn giao thông... Cái chết thân xác phản ánh một cái chết nguy hiểm như cái chết của tình yêu ở trong lòng con người, cái chết niềm tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa, vào sự sống đời đời... nó nguy hiểm hơn nhiều vì cái chết làm cho con người sống buông xuôi, chán chường, mất đức tin, bỏ Chúa, sống khép kín trong ích kỷ, tuyệt vọng và vong thân.

Đức Giêsu là sự sống lại và là sự sống. Ngài trả lại sự sống cho Lagiarô. Ngài lau khô nước mắt cho Macta và Maria, Ngài đêm lại niềm vui, bình an và hạnh phúc cho họ nhờ họ yêu mến, gắn bó, tin tưởng và cầu xin Chúa Giêsu tha thiết. Vậy, chỉ khi gắn bó với Đức Giêsu, chúng ta cũng có khả năng thông truyền sự sống, đức tin và niềm vui, hạnh phúc cho mọi người xung quanh chúng ta và toàn thế giới đang sống trong lo sợ bệnh dịch này. Chính vì thế, mà trong ngày Chúa nhật đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đọc kinh truyền tin tại quảng trường Thánh Phêrô không một bóng người, Ngài nói rằng: “Chính Tin Mừng là Lời của Chúa Giêsu đã làm thay đổi thế giới và tâm hồn chúng ta. Do đó, chúng ta được mời gọi tín thác vào Lời của Chúa Kitô, để mở tâm hồn đón nhận Lòng thương xót của Chúa Cha và để cho bản thân mình được biến đổi nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần.”

Trước khi bước vào Tuần Thánh là đỉnh cao của mầu nhiệm Khổ Nạn Phục Sinh, Giáo Hội đọc bài Tin Mừng hôm này nhằm kêu gọi chúng ta tin vào Đấng là sự sống lại và là sự sống. Niềm tin ấy thắp sáng lên trong chúng ta một hy vọng vững chắc mà trần gian này đang bị bóng đen của sự chết dịch bệnh lan tràn mạnh đến đâu cũng không thể nào dập tắt được. Đức tin không chuẩn chước cho chúng ta khỏi những tang chế đau thương, những chia ly mất mát hay sự sợ hãi khi đối diện với cái chết. Nhưng đức tin là chấp nhận hiểu và sống các biến cố hiện tại dưới ánh sáng của sự sống siêu việt mà Đức Giêsu Kitô, Đấng là nguồn cội sự sống đã loan báo. “Tôi là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Tôi sẽ không chết bao giờ”. “Matta, con có tin điều đó không?”, Chúa Giêsu hỏi. “Vâng, thưa Thầy, con tin”. Matta nói lên niềm tin của chị cũng là niềm xác tín của chúng ta: “Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”.

Chớ gì khi tuyên xưng: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”, trong kinh Tin Kính chúng ta sắp đọc, niềm tin ấy không chỉ được phát biểu cách máy móc ngoài môi miệng, nhưng sẽ trở nên sức mạnh giúp chúng ta vững tin, can trường chịu đựng và lòng cây trông yêu mến Chúa thiết tha trước mọi đau khổ thử thách như hiện giờ chúng ta không đến nhà thờ dâng lễ được, đang bị cách ly, không buôn bán làm ăn gì được, đang bệnh tật ốm đau và ngay cả cái chết vì chưng chính Lời Chúa trong bài đọc hai xác tín với chúng ta rằng: “Nếu Đức Ki-tô ở trong anh em, thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công chính. Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới”.

---------------------------------
 

MC 5-A136: Chúa Nhật 5 Mùa Chay


(Suy Niệm Chú Giải Lời Chúa của Lm. Inhaxio Hồ Thông)
 

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Mùa Chay hôm nay nói về sự sống lại, về đời sống mới. Ed 37 MC 5-A136



Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Mùa Chay hôm nay nói về sự sống lại, về đời sống mới.

Ed 37: 12-14

Qua một thị kiến về những bộ xương khô, ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo cho những người lưu đày ở Ba-by-lon biết rằng sẽ đến ngày Thiên Chúa ra tay giải thoát họ, và cuộc giải thoát này sẽ được sánh ví như cuộc tái sinh.

Rm 8: 8-11

Trong Bài Đọc II, thánh Phao-lô công bố: “Nếu Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giê-su Ki-tô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su Ki-tô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống”.

Ga 11: 1-45

Trong Tin Mừng, Đức Giê-su nói với cô Mác-ta: “Thầy là sự sống lại và là sự sống”. Để minh chứng điều đó, Ngài cho anh La-za-rô sống lại sau khi anh đã được mai táng trong mồ bốn ngày rồi.

BÀI ĐỌC I (Ed 37: 12-14)

Như ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en là tư tế trước khi được Thiên Chúa kêu gọi làm ngôn sứ của Ngài. Ông là vị ngôn sứ thứ ba trong bốn Đại Ngôn Sứ và là dung mạo vĩ đại nhất của Do Thái Giáo trong suốt thời lưu đày, vì thế được gọi là “cha của Do thái giáo”. Ông là vị ngôn sứ duy nhất trong số các ngôn sứ đã lãnh nhận ơn gọi ngôn sứ ngoài đất Ít-ra-en, ở Ba-by-lon. Ông kết hợp mật thiết tinh thần tư tế và tinh thần ngôn sứ.

Ê-dê-ki-en đã trải qua những thời điểm bi thảm nhất, đó là thành thánh Giê-ru-sa-lem bị đạo quân Ba-by-lon xâm chiếm vào năm 598. Ông thuộc vào đoàn người đầu tiên bị dẫn đi lưu đày tại Ba-by-lon. Ông chia sẻ cuộc sống lưu đày với dân Ít-ra-en tại một thị trấn nhỏ, không xa Ba-by-lon, được gọi là Tel-Aviv (tên mà quốc gia Do thái hiện nay đặt cho thủ đô của họ để tưởng nhớ đến vị ngôn sứ này, người đã tiên báo “sự hồi sinh” của dân Ít-ra-en) và ông đã qua đời ở đó vào năm 571.

1. Hoàn cảnh của dân Ít-ra-en vào thời Ê-dê-ki-en

Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã lên án những bất trung của dân Chúa và loan báo sự trừng phạt sẽ giáng xuống trên Giê-ru-sa-lem. Nhưng khi những bất hạnh bất ngờ xảy đến, vị ngôn sứ loan báo thời kỳ Thiên Chúa xót thương. Thiên Chúa sẽ khai đường mở lối cho đoàn người lưu đày được trở về quê cha đất tổ. Cuộc giải thoát này sẽ như một cuộc tái sinh, một cuộc tạo dựng mới. Lời văn đầy những hình tượng.

2. Hai lời hứa của Thiên Chúa

Trong thị kiến, vị ngôn sứ được Thiên Chúa dẫn đưa vào một thung lũng đầy những bộ xương khô (37: 1-2). Thị kiến này mô tả hoàn cảnh tù đày của dân Ít-ra-en tại Ba-by-lon được sánh ví với những bộ xương khô: “Hỡi con người, các xương đó chính là toàn thể nhà Ít-ra-en”, và niềm hy vọng được cứu thoát của họ đã tiêu tan: “Xương cốt chúng tôi đã khô, hy vọng của chúng tôi đã tiêu tan, chúng tôi đã rồi đời” (37: 11).

Trong hoàn cảnh bi thương tuyệt vọng đó, qua vị ngôn sứ của mình, Thiên Chúa hứa với dân Ngài hai điều. Trước tiên, Thiên Chúa hứa sẽ cứu họ khỏi cảnh từ đày và sẽ dẫn đưa họ trở về quê cha đất tổ: “Hỡi dân Ta, Ta sắp mở huyệt cho các ngươi. Ta sẽ đem các ngươi lên khỏi đó, và đưa ngươi về đất Ít-ra-en” (37: 12). Khi làm như vậy, Thiên Chúa cho thấy Ngài vẫn trung tín với Giao Ước của Ngài: “Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, khi Ta mở huyệt cho các ngươi và đưa các ngươi lên khỏi huyệt, hỡi dân Ta” (37: 13).

Thứ nữa, Thiên Chúa hứa ban thần khí của Ngài, nhờ hơi thở sáng tạo, những kẻ lưu đày bất hạnh sẽ được tái tạo, có thể nói, được hoàn lại cho họ cuộc sống như trước đây trên quê cha đất tổ: “Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi, và các ngươi sẽ được hồi sinh. Ta sẽ cho các ngươi định cư trên đất của các ngươi”. Lời hứa thứ hai cũng kết thúc với lời quả quyết trung thành của Thiên Chúa với Giao Ước: “Bấy giờ các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Ta đã nói là Ta làm” (37: 14).

3. Phục hưng một dân tộc

Lời Thiên Chúa hứa thứ nhất bắt đầu và kết thúc với lời kêu gọi gửi đến dân Ít-ra-en: “Hỡi dân Ta”. Lời Thiên Chúa hứa thứ hai được gửi đến toàn thể dân Ít-ra-en chứ không cá nhân. Như vậy, sấm ngôn này loan báo sự phục hưng của một đất nước, sự canh tân của một dân tộc, chứ không sự phục sinh của cá nhân. Quan niệm về sự phục sinh của cá nhân như thế vào thời của vị ngôn sứ Ê-dê-ki-en không thể nào nghĩ tưởng được. Sẽ phải chờ đợi đến thời kỳ Ma-ca-bê (giữa thế kỷ hai tCn) khi đó niềm hy vọng vào sự phục sinh cá nhân được phát biểu rất rõ nét. Niềm hy vọng này đã nâng đỡ các vị tử đạo khi các ngài nhất quyết trung thành niềm tin của mình, dù phải chịu các cực hình: “Vua là một tên hung thần, vua khai trừ chúng tôi ra khỏi cuộc đời hiện tại, nhưng bởi lẽ chúng tôi chết vì Luật pháp của vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời” (2Mcb 7: 9).

Louis Monloubou mời gọi người tín hữu hiện tại hóa thị kiến này vào trong lịch sử cuộc đời mình để khám phá sự hiện diện cứu độ của Thiên Chúa: “Ngày nay dân Thiên Chúa phải kinh qua những giải thoát mà Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử của cuộc đời mình, thậm chí trong chính thân xác của mình; ngõ hầu họ hiểu hơn, và rốt cuộc hiểu hơn ai thực sự là Thiên Chúa của mình, đối tượng niềm tin của mình không là một bóng ma nào đó, nhưng Đức Chúa, Đấng Cứu Độ. Cuối cùng ngày nay, Thiên Chúa chúng ta luôn luôn là Thiên Chúa nói với dân Ngài, khuyến khích họ, ở bên cạnh họ, như bạn đồng hành thân thiết, Đấng cứu độ trung tín và có hiệu quả”.

BÀI ĐỌC II (Rm 8: 8-11)

Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô họa nên một bức tranh tăm tối về nhân loại tội lỗi không thể tự sức mình giải thoát mình khỏi tội lỗi, vì thế cần phải đặt trọn niềm tin tưởng vào sự can thiệp của Thiên Chúa. Sau đó, thánh nhân mô tả đầy cảm xúc cuộc sống mới của người Ki-tô hữu: cuộc sống trong ân sủng, nghĩa là cuộc sống được Thần Khí tác động chứ không còn chịu xác thịt chi phối nữa. Đoạn văn hôm nay được trích từ chương 8, chương dâng hiến một sự bình an và niềm vui.

1. Xác thịt và Thần Khí

Thánh Phao-lô thích vận dụng những cặp đối nghịch: luật và đức tin, xác thịt và thần khí, con người cũ và con người mới, chế độ lề luật và chế độ ân sủng, vân vân.

Thánh nhân ban cho từ ngữ “xác thịt” một nét nghĩa tiêu cực không được gặp thấy trong Cựu Ước. Qua từ ngữ xác thịt, Thánh Kinh chỉ toàn bộ con người được Thiên Chúa sáng tạo, vì thế, xác thịt thực chất không thể nào là xấu được. Ngôi Lời sẽ đảm nhận xác thịt và “làm người”. Khi ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo rằng Thiên Chúa sẽ ban tặng cho Ít-ra-en “một trái tim bằng thịt thay cho trái tim bằng đá” ông ban cho từ ngữ “xác thịt” tất cả sự cao quý của nó. Chắc chắn ở nơi nhân tính có một khía cạnh địa giới mà từ ngữ xác thịt gợi lên, do đó đối lập với thiên giới, thế giới thần linh.

Trong cặp đối nghịch xác thịt-thần khí, thánh nhân được gợi hứng từ cặp đối nghịch: địa giới-thiên giới, theo quan niệm mang đậm nét Do thái, chứ không theo quan niệm nhị nguyên Hy lạp: thân xác-linh hồn. Tuy nhiên, thánh nhân xem bản tính địa giới là bản tính xấu, được ghi dấu bởi tội lỗi.

2. Sống theo Thần Khí

Dù vẫn còn ở trong sự đối nghịch giữa xác thịt và thần khí, kinh nghiệm của người Ki-tô hữu chứng nhận rằng tác động Thần Khí biến đổi tận bên trong con người. Thánh nhân ngỏ lời với những người lãnh bí tích Thánh Tẩy: “Anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em” (8: 9). Và thánh nhân chứng minh cho họ thấy việc phục sinh thân xác là tất yếu. Đây là nét độc đáo của đoạn văn này.

3. Thần Khí là sự sống và là nguyên lý của sự sống lại

Do tội lỗi, thân xác của chúng ta tất yếu phải chết. Như ở nơi khác, thánh nhân đồng hóa thân xác phải chết với “con người cũ” phải bị diệt vong. Ấy vậy, Thần Khí ở nơi chúng ta là Sự Sống – chính ở đây mà quan niệm Do thái về một con người toàn diện, bất khả phân thân xác và thần thiêng, đóng một vai trò trong lập luận – Thần Khí này chắc chắn biến đổi thân xác chúng ta, thân xác sẽ trở thành “thần thiêng” và bất khả hư hoại.

Đây là điều thánh nhân đã nói với các tín hữu Cô-rin-tô rồi: “Việc kẻ chết sống lại cũng vậy: gieo xuống thì hư nát, mà trỗi dậy thì bất diệt, gieo xuống thì hèn hạ, mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà trỗi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí. Nếu có thân thể có sinh khí, thì cũng có thân thể có thần khí” (1Cr 15: 42-44). Thánh Phao-lô là chứng nhân của Đấng Phục Sinh. Ánh sáng đã bao phủ thánh nhân trên đường đi Đa-mát và đã soi sáng cuộc đời ngài. Ở trung tâm những khai triển thần học của thánh nhân, chúng ta không ngừng gặp lại biến cố then chốt: sự kiện Phục Sinh. “Sự phục sinh của Đức Giê-su cấu tạo nên bước khởi đầu của cuộc tạo dựng mới mà chúng ta được dự phần vào nhờ đức tin. Từ đó phải rút ra những hiệu quả: trong đức ái, chúng ta sống như những con người được phục sinh; trong đức cậy, chúng ta đảm bảo sự phục sinh tương lai của chúng ta” (Karl Gatzweiler).

TIN MỪNG (Ga 11: 1-45)

Bài trình thuật: “Chúa Giê-su cho anh La-da-rô sống lại”, là bài trình thuật về dấu lạ dài nhất trong Tin Mừng Gioan, qua dấu lạ này, Đức Giê-su kín đáo loan báo cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Dấu lạ này cũng là lời cảnh báo tối hậu mà Đức Giêsu gửi đến cho những ai không chịu mở lòng ra mà tin vào Ngài. Vả lại, lời mời gọi tin vào Ngài là một chủ đề chạy xuyên suốt toàn bộ câu chuyện này. Sự căng thẳng giữa Đức Giê-su và dân Ngài, vốn hình thành nên hậu cảnh của Tin Mừng Gioan, không bao giờ đạt đến cao độ như thế ở nơi câu chuyện này.

– Dẫn nhập (11: 1-5)

Ngay từ đầu câu chuyện, người kể chuyện giới thiệu gia đình của ba chị em: cô Mác-ta, cô Ma-ri-a và anh La-da-rô quê ở Bê-ta-ni-a, một gia đình Chúa Giê-su yêu quý (11: 5), và hoàn cảnh mà họ gặp phải: “Anh La-da-rô, người bị đau nặng” (11: 2). Chỉ vừa mới đây, Chúa Giê-su cùng với các môn đệ “lánh sang bên kia sông Gio-đan, đến chỗ trước kia ông Gio-an đã làm phép rửa và Người đã ở lại đó” (10: 40) để tránh dân chúng ném đá Ngài, như các môn đệ nhắc cho Ngài (11: 9). Chính ở nơi đây mà hai chị em cô Mác-ta và cô Ma-ri-a nhờ người đến báo tin cho Đức Giê-su về bệnh tình của anh La-da-rô, em trai của hai cô: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang đau nặng” (11: 3). Đức Giê-su trả lời: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này Con Thiên Chúa được tôn vinh” (11: 4).

 Như thường xảy ra trong Tin Mừng Gioan, lời Đức Giê-su chứa đựng hai nghĩa. Quả thật, Đức Giê-su sẽ “được tôn vinh” qua dấu lạ mà Ngài sắp thực hiện, nhưng dấu lạ này sẽ dẫn Ngài đến cái chết của chính mình, vì Ngài sẽ khiến kẻ thù của Ngài công phẫn đến tận xương tủy. Đối với Tin Mừng Gioan, vinh quang của Đức Giê-su rực sáng nhất ở nơi cuộc Tử Nạn của Ngài. Thánh Giá là cửa ngõ đưa Ngài trở về nhà Cha Ngài. Tin Mừng Gioan sẽ làm sáng tỏ sự kiện Thiên Chúa đã đặt “vinh quang” của chính mình vào trong sứ mạng cứu độ con người, vì Ngài đã đặt vào đây tất cả tình yêu của Ngài.

1. Cuộc đối thoại của Chúa Giê-su với các môn đệ (11: 6-16)

Khi được tin báo, thay vì khởi hành đến Bê-ta-ni-a ngay, Đức Giê-su lại trì hoãn. Sau hai ngày, Ngài mới tuyên bố: “Nào chúng ta cùng trở lại miền Giu-đê” (11: 7). Như vậy, Đức Giê-su đến Bê-ta-ni-a chỉ sau khi anh La-da-rô đã chết và mai táng trong mồ được bốn ngày rồi. Lý do của việc trì hoãn này chắc chắn là Ngài muốn gây ấn tượng ở nơi hành động của Ngài khi hoàn sinh người chết sau khi đã chết và mai táng trong mồ.

Các môn đệ lưu ý Thầy về hoàn cảnh nguy hiểm: “Thưa Thầy, mới đây người Do thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy còn đến đó sao?” (11: 8). Trong câu chuyện này, độc giả được loan báo rằng việc Ngài ra đi không nhằm bất kỳ lý do thuần túy nhân loại, nhưng mặc một ý nghĩa cao siêu, tức là bày tỏ vinh quang Thiên Chúa. Tuy nhiên, các môn đệ chưa ngộ được ý nghĩa cao siêu này. Phản ứng của họ là phản ứng cẩn trọng của con người: ở Giu-đê, cuộc sống của Đức Giê-su bị đe dọa, vì thế Ngài không nên trở lại đó để thăm người bạn đang lâm bệnh vào lúc này. Đây là đề tài: “một từ đa nghĩa”, rất quen thuộc của Tin Mừng Thứ Tư.

Đức Giê-su sẽ giúp cho các môn đệ vượt qua từ sự hiểu biết thuần túy địa giới đến một tiên cảm về mầu nhiệm. Như thông thường trong Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su khai lòng mở trí cho các môn đệ nhờ vào cách thức mặc khải bí nhiệm. Dựa trên ý nghĩa ẩn dụ “ngày và đêm”, Ngài công bố mầu nhiệm của Ngài. Theo nghĩa vật lý, thành ngữ này muốn nói rằng có thời gian cho mỗi việc, và thật thích hợp khi chọn ban ngày để bước đi ngỏ hầu tránh những tai nạn khi phải bước đi trong đêm tối. Theo nghĩa ẩn dụ (nghĩa của Tin Mừng Thứ Tư), “ngày” là thời gian của ánh sáng. Điều này muốn nói rằng bao lâu Đức Giê-su vẫn còn đó, phải tận dụng ánh sáng của Ngài, mặc khải mà Ngài đem đến. Vì thế, nỗi sợ hãi thật sự không xuất phát từ những nguy hiểm do con người tạo ra, nhưng từ sự vắng bóng Ánh Sáng. Việc Đức Giê-su tiến về Giê-ru-sa-lem không được đánh giá theo sự chuyển biến thận trọng của con người, đúng hơn, thuộc phạm vi bày tỏ Ánh Sáng. Vì thế, đây là một lời mời gọi hãy tin vào Ngài nhờ vào Ánh Sáng này, nhưng cũng là lời loan báo về viễn cảnh đầy đe dọa của đêm sắp đến: cái chết và cuộc chiến thắng bóng tối, tức là quyền lực tử thần (x. Ga 13: 30b).

Tiếp đó, dù không ai cho biết điều gì về bệnh tình của anh La-da-rô, Đức Giê-su công bố rằng anh La-da-rô đã chết qua hình ảnh giấc ngủ: “La-da-rô, bạn của chúng ta đang yên giấc; tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây” (11: 11), như trước đây đối với bé gái của viên trưởng hội đường: “Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” (Mc 5: 39). Đức Giê-su vui mừng vì sứ điệp của Ngài sẽ dễ dàng được hiểu ở nơi dấu lạ Ngài sắp thực hiện.

Các môn đệ không còn tìm cách ngăn cản Ngài nữa. Một trong các môn đệ của Ngài, ông Tô-ma, tự phát và bạo dạn nói với các bạn đồng môn của mình: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để cùng chết với Thầy” (11: 16). Ông không ngờ rằng lời ông diễn tả chân tính người môn đệ của Đức Giê-su.

2. Cuộc đối thoại của Đức Giê-su với cô Mác-ta (11: 17-27)

Khởi đi từ câu 17, câu chuyện bắt đầu một giai đoạn mới: khung cảnh không còn ở Ga-li-lê, nhưng ở Bê-ta-ni-a, chiều kích mặc khải của dấu lạ không còn được loan báo, nhưng được vén mở. Chính trong khung cảnh của cuộc đối thoại với cô Mác-ta mà ý nghĩa dấu lạ dần dần được sáng tỏ.

A- Niềm tin của cô Mác-ta

 Trong khung cảnh Bê-ta-ni-a, chúng ta gặp lại tính tình khác nhau của hai chị em này: cô Mác-ta thì năng động, còn cô Ma-ri-a có đời sống nội tâm sâu lắng, đã được Tin Mừng Lu-ca ghi nhận trong một dịp Chúa Giê-su viếng thăm nhà của hai cô (Lc 10: 38-42). Tuy nhiên, trong câu chuyện của Tin Mừng Gioan, tính tình năng động của cô Mác-ta đã là cơ hội giúp Chúa Giê-su dẫn đưa cô, và qua cô dẫn đưa độc giả vào một mạc khải cao vời về chân tính của Ngài.

Dù bận rộn tiếp đón những người thân đến chia buồn, nhưng vừa khi nghe tin Chúa Giê-su đến, cô Mác-ta hối hả ra tận đầu làng để đón Ngài. Khi vừa mới gặp Chúa Giê-su, cô Mác-ta trách cứ Ngài, Ngài đã cứu chữa biết bao bệnh nhân, ấy vậy lại đã không đến kịp lúc để cứu chữa người bạn mà Ngài thương mến. Tuy trách cứ như vậy, nhưng cô vẫn nuôi hy vọng: “Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người sẽ ban cho Thầy” (11: 22). Nhưng Đức Giê-su muốn kiện toàn đức tin của cô, Ngài không muốn cô Mác-ta chỉ hài lòng thấy Ngài là “người của Thiên Chúa”, nghĩa là những gì Ngài cầu xin đều được Thiên Chúa nhận lời, nhưng cô còn phải nhận ra chân tính của Ngài.

B- “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống”

Khi nói với cô Mác-ta: “Em chị sẽ sống lại” (11: 23), Chúa Giê-su cho cô biết đó là dự định của Ngài khi đến đây. Nhưng cô Mác-ta lại hiểu lời này là lời an ủi nên cô đáp: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sẽ sống lại” (11: 24). Ở nơi câu trả lời của cô hàm chứa niềm tin của đạo Do thái. Từ nhiều thế kỷ trước đó, niềm tin vào sự sống lại thuộc về gia sản tinh thần của đạo Do thái, ngoại trừ nhóm Sa-đu-xê-ô.

Chúa Giê-su tuyên bố: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống” (11: 25a), lời tuyên bố này được Chúa Giê-su khai triển xa hơn: “Ai sống và tin vào Thầy, thì dù đã chết, thì cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (11: 25b). Những lời này của Đức Giê-su đã được hiểu theo nhiều cách khác nhau và được giải thích theo nhiều cách khác nhau, tuy nhiên một điều chắc chắn: Đức Giê-su khẳng định Ngài là nguồn mạch sự sống đời đời. Thêm nữa, tiến trình của câu chỉ ra rằng Ngài muốn hiệu đính, hay đúng hơn bổ túc lời khẳng định của cô Mác-ta: Đối với người Ki-tô hữu, còn hơn cả sự sống lại vào ngày sau cùng, một cuộc sống siêu nhiên vô tận khơi nguồn ở nơi sự hiệp nhất của họ với Đức Ki-tô ngay từ cõi thế này. Ngoài ra, Giáo Hội còn dạy rằng cuộc sống không kết thúc ở nơi cái chết. Trong Thánh Lễ Cầu Hồn, Giáo Hội khẳng định: “Cuộc sống không hề mất đi, nhưng thay đổi” (vita mutatur non tollitur).

Cuộc Mặc Khải chấm dứt với lời mời gọi dứt khoát theo thể nghi vấn: “Chị có tin thế không?” (11: 26). Câu hỏi này được đặt ra, ở bên kia cô Mác-ta, cho những ai hiểu lời hứa này của Đức Ki-tô. Cô Mác-ta đã lắng nghe. Cô đã đạt đến một niềm tin cao vời khi nhận ra Đức Giê-su là Đấng Ki-tô (Mê-si-a) và là Con Thiên Chúa: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”.

3. Thực hiện dấu lạ (11: 28-44)

Sau lời tuyên xưng đức tin của cô Mác-ta, câu chuyện bước vào giai đoạn thứ ba, trực tiếp hướng đến việc thực hiện dấu lạ. Sự hiện diện của cô Ma-ri-a và của những người Do thái đem đến cho câu chuyện một hướng phát triển mới, một bước nhảy vọt. Việc thực hiện dấu lạ không đem đến những yếu tố mới cho phần mặc khải trước đó, nhưng cho phép ghi nhận thêm lần nữa vài phản ứng tiêu biểu của những người chứng kiến dấu lạ.

A- Đức Giê-su xúc động

Cảm xúc của Đức Giê-su được gợi lên đến ba lần: Ngài thổn thức tận đáy lòng (11: 33), Đức Giê-su liền khóc (11: 35), Đức Giê-su lại thổn thức tận đáy lòng (11: 38). Hơn bất cứ biến cố nào khác, biến cố này bày tỏ “nhân tính” của Đức Giê-su rất rõ ràng: sự xúc động của Ngài, sự dịu dàng của Ngài, nước mắt của Ngài, đồng thời cũng biểu lộ “thần tính” của Ngài, Đấng chủ tể sự sống và cái chết khi cho anh La-da-rô đã chết và được mai táng bốn ngày rồi được sống lại.

B- “Hãy cất phiến đá này đi”

Người kể chuyện kể tỉ mỉ ngôi mộ: “Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại”, vì những chi tiết này báo trước một cuộc mai táng khác, cuộc mai táng của chính Chúa Giê-su, theo đó cũng một phiến đá được lăn lấp mộ và được lăn ra khỏi mộ một cách mầu nhiệm.

Khi cầu nguyện lớn tiếng, Chúa Giê-su có chủ ý khơi động niềm tin của những người có mặt, niềm tin vào Ngài, niềm tin vào sự hiệp nhất của Ngài với Cha Ngài, niềm tin mà Ngài muốn các môn đệ của Ngài phải kiên vững ngay trước khi cuộc thử thách lớn lao sắp xảy đến và để họ nhớ lại quyền năng của Ngài trên sự chết vào buổi sáng Phục Sinh.

Khi mô tả cách chi tiết việc anh La-da-rô ra khỏi mồ, chân tay còn quấn vải liệm và mặt còn phủ khăn liệm, Tin Mừng Gioan có chủ ý nhấn mạnh với độc giả sự tương phản với cuộc Phục Sinh của Đức Giê-su, Ngài bỏ lại trong mồ mọi liên hệ với cái chết, cái chết này Ngài đã chiến thắng cách vĩnh viễn, không còn tác động gì đến Ngài.

Đoạn Tin Mừng Gioan được trích trong Phụng Vụ hôm nay chấm dứt với câu 45 nhưng chúng ta phải đọc cho đến câu 53 để thấy dấu lạ của sự phục sinh này gây nên hai phản ứng trái ngược nhau từ phía người Do thái, những chứng nhân của dấu lạ: những người này tin (11: 45) trong khi những người khác “đi gặp nhóm Biệt phái và kể cho họ những gì Đức Giê-su đã làm” (11: 46), theo cách nào đó, đó là những người cộng tác vào quyết định của những kẻ thù của Đức Giê-su, bởi vì dấu lạ này còn là cái cớ để giai cấp lãnh đạo Do thái buộc tội và kết án tử cho Chúa Giê-su.

---------------------------------
 

MC 5-A137: Chú giải của Noel Quession.

 

Có một người bị đau nặng tên là Ladarô, quê ở Bêtania làng của hai chị em cô Mácta và Maria MC 5-A137


Có một người bị đau nặng tên là Ladarô, quê ở Bêtania làng của hai chị em cô Mácta và Maria. Cô Maria là người sau này sẽ Xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người (Ga 12,1-3). Anh Ladarô. Người bị đau nặng, là em của cô.

Bêtania ngày nay vẫn luôn mang tên bằng tiếng Ả Rập “El Azaneh", làng của Ladarô. Trong tiếng Do Thái “Beithaneiah" có nghĩa là "nhà của người nghèo". Bêtania! ở triền phía Đông của núi Ô-liu, ở 3 km phía Đông Giêrusalem, đó là phía mặt trời mọc trên Giêrusalem.. Đó là đỉnh của ngọn núi mà dưới chân nó, trên phía có bóng che, có vườn Ghết-sê-ma-ni ở phía thấp dưới. Bêtania! Đó là ốc đảo của ánh sáng và tình bạn hữu. Ở đó, trong một ngôi nhà thân hữu, Đức Giêsu đã sống hạnh phúc.

Hai chị em sai người nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang đau nặng". Nghe vậy Đức Giêsu bảo: "Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh". Đức Giêsu quí mến cô Mácta, cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô.

Trong cuộc sống đầy xáo động và khó khăn của Chúa Giêsu. Bêtania là chốn cõi lòng được nghỉ ngơi. Theo thói quen, Tin Mừng giới thiệu một Đức Giêsu hoàn toàn! được toả hào quang với địa vị Đức Chúa Phục sinh (và sự cám dỗ "theo thuyết một bản tính" rõ ràng là chỉ nhìn thấy bản tính Thiên Chúa nơi Người). Vậy mà, Thánh Gioan, người trông thấy rõ nơi Người Ngôi Lời, Con vĩnh cửu, cũng là người cho chúng ta thấy "con người" nơi Đức Giêsu. Người đã có nhiều tình bạn với nữ giới; như ta thấy rõ trong câu nói tinh tế và đơn sơ này: "Đức Giêsu yêu mến Mácta và em gái của cô", người cũng sẽ, lát nữa run lên vì xúc động và khóc.

Tuy nhiên sau khi được tin anh này lâm bệnh, Người còn lưu lại thêm hai ngày lại nơi đang ở. Rỗi sau dó, Người nói với các môn đệ: "Nào, chúng ta cùng trở lại miền Giu-đê". Các môn đệ nói: "Thưa Thầy, mới đây người Do Thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao?". Đức Giêsu trả lời: "Ban ngày chẳng có mười hai giờ đó sao? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng mặt trời. Còn ai đi ban đêm thì vấp ngã vì không có ánh sáng nơi mình".

Sự sống lại của Ladarô là "phép lạ cuối cùng" của Chúa Giêsu, dấu hiệu cuối cùng mà người dành cho người Do Thái trong vụ tranh tụng giữa ánh sáng và bóng tối: ngay sau dấu hiệu này, trong Thánh Gioan, là cuộc Thụ Nạn bắt đầu (Ga 11,46-53). Khi đi sang miền Giuđê để cứu anh bạn Ladarô của mình, Đức Giêsu đi đón nhận cái chết của mình. Chúng ta chú ý là Đức Giêsu, mặc cho tình yêu của Người đối với hai người bạn gái, đã cố tình chậm đến gặp lại họ: Dù vẫn hoàn toàn nhân bản, Đức Giêsu không bao giờ để mình bị dẫn dắt bởi tình cảm của mình nhưng bởi ý muốn của Chúa Cha (4,34; 7,18; 8,29).

Người đã đợi cho Ladarô chết vì người biết thế, người không đến để tránh cho chúng ta khỏi đau khổ và tang chế, nhưng thay đổi những đau khổ và cái chết này nhờ sự sống lại của Người, chính Người cũng sẽ không tránh cái chết cho mình!

Nói những lời này xong. Người bảo họ: “Ladarô bạn của chúng ta đang yên giấc; tuy vậy Thầy đi đánh thức anh ấy đây. Các môn đệ nói với Người: "Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc được anh ấy sẽ khoẻ lại". Đức Giêsu nói về cái chết của anh Ladarô, còn họ tưởng về giấc ngủ thường. Bấy giờ Người mới nói rõ: "Ladarô đã chết, Thầy mừng cho anh em vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi nào chúng ta đến với anh ấy". ông Tôma, gọi là Đi-di-mô nghĩa là sinh đôi nói với các bạn đồng môn: "Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để cùng chết với Thầy”.

Đức Giêsu luôn luôn gọi cái chết là một "giấc ngủ", và nhờ đó mời chúng ta thay đổi quan niệm của chúng ta về cái thực tại không thể tránh được này (Mt 9,24: Ga 11,11) Cái chết thể lý, đối với Đức Giêsu, là một giấc ngủ đơn sơ và tạm bợ; nấm mồ trở thành một nơi người ta nghỉ ngơi trong lúc chờ đợi thức dậy. Và Thánh Phaolô sẽ ca lên: "Hỡi người đang ngủ, hãy tỉnh giấc, ngày đã sáng rồi. Từ trong kẻ chết, người hãy trỗi dậy, và được sáng ngời" (Ep 5,14). Lạy Đức Giêsu, xin hãy giúp con hiệp thông thực sự ý tưởng của Chúa để cất khỏi sự chết cái đặc tính bi thảm của nó, để xem nó như sự "phát tình của Thiên Chúa" huyền nhiệm, khiến chúng con cuối cùng có thể tham dự vào cuộc sống hạnh phúc của nó: Những ai đã ngủ yên trong Đức Giêsu, thì Thiên Chúa sẽ dẫn đưa họ cùng đi với Người..." (1Tx 4,14), "bởi vì Đức Kitô đã sống lại từ kẻ chết, quả đầu mùa của những ai đã ngủ yên..." (I Cr 15,20). Vâng Đức Giêsu có thể "vui mừng" về cái chết của Ladarô. Ôi mạc khải! Mạc khải duy nhất có ích lợi... về cái chết.

Khi đến nơi, Đức Giêsu thấy anh Ladarô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi. Bêtania cách Giêrusalem không đầy ba cây số. Nhiễu người Do Thái đến chia buồn với hai cô Mácta và Maria, vì em các cô mới qua đời. Vừa được tin Đức Giêsu đến, cô Mácta liền ra đón Người. Còn cô Maria thì ngồi ở nhà. Cô Mácta nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết, nhưng bây giờ con biết bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa. Người cũng sẽ ban cho Thầy” Đức Giêsu nói: "Em chị sẽ sống lại". Cô Mácta thưa: "Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết. Đức Giêsu liền phán: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống lại. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?". Cô Mácta đáp:Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô. Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian".

Mácta, như một phần lớn những người Do Thái thuộc thời cô, tin vào sự sống lại vào lúc tận thế... những ngày sau cùng! Điều mới mà Đức Giêsu yêu cầu cô tin, chính là một sự sống lại "hiện tại": "Thầy là sự sống lại!".

Đây là câu trả lời của Thiên Chúa cho câu hỏi độc nhất nghiêm chỉnh của lời Người, câu hỏi đặt ra cho mỗi người trong chúng ta khi đối diện với cái chết. "Ai tin vào Thầy dù đã chết sẽ sống". Thật? hay không thật? hay bạn không tin điều đó? Kinh Tin Kính của chúng ta đơn sơ và ngắn gọn: Đức Giêsu làng Nadarét, đã chết và đã sống lại! Điều đó đơn giản như một buổi sáng Lễ Phục sinh. Trong khi chờ đợi chết. chúng ta phải sống điều đó, phải tin điều đó. Bởi vì tất cả mọi người tin vào Đấng đã sống lại không thể sống một cuộc đời không có tình yêu, không cậy trông, không niềm vui được của sẻ. Nếu bạn phải chết chiều nay, bạn sẽ làm thế nào để có thể trải qua ngày này trước khi ôm lấy Chúa? Cuộc đời của một tín hữu đầy sự sống lại, đầy sự sống và đầy niềm vui. Thầy là sự sống lại và là sự sống Những lời kiêu kỳ gây hốt hoảng? Đó là một thằng điên nói ra... hay chính là Thiên Chúa. Cuộc sống mà Người nói đến, hiển nhiên có một bản tính khác với cuộc sống sinh lý này, chết là hết; nhưng là cuộc sống của Thiên Chúa. Ai tin Thầy thì sẽ không bao giờ chết. Đức tin, ngay từ bây giờ, là một sự vui hưởng trước đời sống đó, đời sống không chết, chính là đời sống của chính Thiên Chúa.

Nói xong. Mácta đi gọi em là Maria và nói nhỏ: “Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy. Nghe vậy cô Maria vội đứng lên và đến với Người... Khi đến gần Đức Giêsu, cô Maria vừa thấy Người, liền phủ phục dưới chân và nói: ' Thưa Thầy nếu có Thầy ở đây em con đã không chết”. Thấy cô khóc và những người Do Thái đi theo cũng khóc, Đức Giêsu thao thức trong lòng và xao xuyến. Người hỏi: "Các anh để xác anh ấy ở đâu?”. Họ trả lời: ' Thưa Thầy! mời Thầy đến mà xem". Đức Giêsu liền khóc. Người Do Thái mới nói: "Kìa xem! Ông ta thương Ladarô biết mấy". Có vài người trong nhóm họ nói: "ông ta mở mắt cho người mù, lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết ư?". Đức Giêsu lại thổn thức trong lòng. Người đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại.

Thật là tai hại, lại một lần nữa, khi những người phiên dịch đã không phán đoán tốt để cho người ta cảm thấy trong bản (dịch của họ, một tiểu tiết thật đẹp trong bản văn Hy Lạp, mà hiển nhiên là Gioan muốn thế. Ba lần, khi nói đến Mácta và Maria và những người Do Thái, Gioan dùng tiếng "Klainein" có nghĩa chính xác là "khóc, nức nở to tiếng" và chúng ta đoán những tiếng nấc và tiếng kêu ở Phương Đông, rất chan hòa tình cảm của mình, mà người ta thoáng nghe thấy nơi những bà khóc mướn chung quanh đám tang. Nhưng khi đến Đức Giêsu, Gioan thay đổi tiếng, và nói về "dakruein", có nghĩa là "khóc thổn thức lặng lẽ”. Và từ này làm cho tôi trông thấy những giọt nước mắt âm thầm rơi trên mắt của một Giêsu làm chủ được mình, và cả khi Người đau khổ. Người vẫn khống chế được đau khổ riêng của mình.

Đức Giêsu nói: "Đem phiến đá này đi". Cô Mácta là chị người chết liền nói: 'Thưa Thầy nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày! Đức Giêsu bảo: "Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, thì chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?". Rồi người ta đem phiến đá đi. Đức Giêsu ngước mắt lên và nói: "Lạy Cha, con cảm tạ Cha. vì Cha đã nhậm lời con. Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con. Nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con".

Câu truyện dài dòng này, dẫn nhập vào cuộc sống lại của Ladarô, đi cho chúng ta hiểu là mục đích của trang này không phải là sự "tỉnh dậy" của cái chết thể lý của Ladarô, nhưng chính là sự tiến bộ trong đức tin của tất cả những người bao quanh Đức Giêsu. Và hành vi cảm tạ của Đức Giêsu, ta hãy chú ý điều này, không nhắm đến phép lạ mà Người sắp làm, nhưng đến sự kiện là phép lạ này sẽ giúp cho những người không tin hay những người yếu lòng tin "tin tưởng":

- Những môn đệ đã chống, không lên lại Giêrusalem, họ nghi ngờ, họ sợ.

- Mácta không muốn mở ngôi mộ, chị hoài nghi, tử thi đã để quá trễ ngày.

Những người Do Thái, cho dù họ có thiện cảm với ba chị em, không tới để khóc nức nở.

Đức Giêsu muốn cầu nguyện cho tất cả họ, cho tất cả những người khó lòng tin tưởng, cho tôi, cho các bạn. Và đức tin chính là gì vậy? Chính là nhìn nhận rằng Đức Giêsu đến từ chỗ khác. Đức Giêsu được sai đi. Bạn có tin điều đó không? Bạn có tin cái chỗ khác từ đó Đức Giêsu đến không? Trong trang này của Gioan, có 23 cuộc di chuyển nơi chỗ được nhắc đến: bên ngoài Giu-đê, về hướng Giu-đê, về hướng Bêtania, về phía nhà, về phía mộ, về phía Giêrusalem; nhưng trung tâm của tất cả những cuộc di chuyển này, dù bề ngoài thế nào, không phải là "ngôi mộ" có thể cuốn hút chúng ta nhìn vào, mà đó là một thế giới khác, thế giới của Chúa Cha, từ đó Đức Giêsu được sai đi! Không có nơi đó, vấn đề cái chết không được giải quyết.

Nói xong, Người kêu lớn tiếng: "Anh Ladarô hãy ra khỏi mồ!". Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải và mặt còn phủ khăn. Đức Giêsu bảo: "Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi". Đông đảo người Do Thái đã đến thăm cô Macta, và đã chứng kiến việc Đức Giêsu làm. Họ tin vào Người.

Vấn đề chính yếu, đối với con người, theo Đức Giêsu, trước hết không phải là có thể ra khỏi mồ một ngày kia, mà ngay từ bây giờ, đi từ sự chết sang sự sống bằng một đức tin gắn bó vào bản thân Đức Giêsu: "Họ tin vào Người", còn chúng ta?

--------------------------------
 

MC 5-A138: Phục sinh Lagiarô


(Chú giải và Suy niệm của Học Viện Giáo Hoàng Piô X Đà Lạt)

CÂU HỎI GỢI Ý
 

Giai thoại này nằm trong văn mạch nào? 2. Làm sao giải thích lời quả quyết của Chúa Giêsu “Cơn MC 5-A138


1. Giai thoại này nằm trong văn mạch nào?
2. Làm sao giải thích lời quả quyết của Chúa Giêsu “Cơn bệnh này không đến nỗi chết, song nó làm vinh danh Thiên Chúa” (c.4)?
3. Phải hiểu thế nào việc Chúa Giêsu không muốn mau chóng đi phục sinh Ladarô và lời Người giải thích sự chậm trễ ấy?
4. Tại sao Chúa Giêsu xem cái chết của Ladarô như một giấc ngủ?
5. Phải cắt nghĩa thế nào sự bực dọc của Chúa Giêsu lúc đứng trước thây ma Ladarô, khi biết mình sắp cho ông sống lại (cc. 33 35.38)
6. Đâu là những yếu tố đặc trưng của tấn bi kịch này?

1. Việc phục sinh Ladarô xảy ra vào cuối sứ vụ công khai của Chúa Giêsu. Phép lạ này, dấu chỉ sau cùng mà Người ban cho dân Do thái trong cuộc tranh tụng giữa ánh sáng và tối tăm, cũng là dấu chỉ quan trọng nhất, vì đây không còn là việc chữa lành hay hóa bánh ra nhiều, mà là phục sinh kẻ chết, quyền năng mà chỉ mình Thiên Chúa có được. Đúng như Phaolô sau này sẽ nói với tín hữu thành Côrintô: “Kẻ thù cuối cùng bị đánh bại, chính là sự chết” (1Cr 15,26).

Việc phục sinh Ladarô mở màn cho diễn từ giã biệt và cuộc Tử nạn, vì, theo thánh Gioan, chính việc này thúc đẩy Hội đồng Công tọa dứt khoát quyết định lên án tử hình Chúa Giêsu. Người Do thái đã “thích tối tăm hơn ánh sáng vì công việc của họ xấu xa” (Ga 3, 19). Vị trí trung tâm của phép lạ trong Tin Mừng thứ tư đã khiến nó trở thành chìa khóa để hiểu thần học của thánh Gioan. Bởi đấy chúng ta sẽ nghiên cứu nó trong viễn ảnh này.

2. Khi được báo tin Ladarô ốm liệt, Chúa Giêsu đã nhận định: “Cơn bệnh ấy làm vinh danh Thiên Chúa“. Nhận định này giống câu Người đã trả lời cho các môn đồ về vấn đề tật nguyền của anh mù bẩm sinh: “Đó là để nơi nó công việc của Thiên Chúa được tỏ hiện” (9, 3). Vinh quang Thiên Chúa phải chăng là một danh dự ích kỷ phải trả cho Ngài dù phải gây thiệt thòi cho tạo vật! nếu cần thiết? Không! Khi Thiên Chúa biểu lộ vinh quang trong Cựu ước, thì luôn luôn là vì phần rỗi của dân Ngài, của những kẻ Ngài thương mến. Và như xưa đã giải phóng dân khỏi cảnh tù đày khốn khổ chết chóc bằng những hành động hiển hách, ngày nay Thiên Chúa cũng biểu lộ sự hiện diện và cứu độ của ngài trong con người Chúa Giêsu như vậy. Đó chính là mục đích sứ mệnh của Chúa Con. Vâng, “Thiên Chúa đã yêu mến thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để tất cả những ai tin vào Người sẽ không hư mất nhưng được sự sống đời đời” (Ga 3, 16 ; x. 6, 39).

Vinh quang này của Thiên Chúa Cha sẽ được thực hiện qua việc tôn vinh Chúa Giêsu. Thật ra, nó đã bày tỏ qua vinh quang của Chúa Giêsu trong các phép lạ Người làm rồi (2, 11; 12, 41) vì cả hai vinh quang không tách rời nhau. Nhưng động từ “tôn vinh” có một ý nghĩa rất là chính xác khi Gioan áp dụng vào Chúa Giêsu: nó có nghĩa là việc nâng Người lên trên thập giá, việc Người chết và sống lại (12, 23- 32). Một khi được tôn vinh như thế, Chúa Giêsu sẽ ban cho chúng ta ơn cứu độ của Thiên Chúa và thâu họp các con cái Thiên Chúa tản mác khắp bốn phương (11, 52) ; vì bấy giờ thủ lãnh thế gian này bị đánh bại, thế gian sẽ bị xét xử. Vinh quang mà Chúa Giêsu tỏ hiện trong các công việc của người chỉ là dấu hiệu của việc tôn vinh người trên thập giá. Các câu kế tiếp sẽ xác quyết điều này.

3. Chúa Giêsu còn ở lại đó hai ngày nữa, như đã chờ đợi trước khi lên Giêrusalem dự lễ Lều trại (7,8-10), như đã chẳng lập tức chiều theo ý muốn của mẹ Người trong tiệc cưới Cana. Người hành động, Người quyết định không theo ước muốn nhân loại, dù ước muốn đó thật chính đáng, nhưng theo thánh ý Chúa Cha (4, 34; 7, 18; 8, 29). Người nói và làm vì vinh quang Cha, vì muốn thực hiện chương trình cứu độ của Ngài. Và ơn cứu độ của Thiên Chúa sẽ được hoàn tất vào thời gian ấn định, không ai có thể hối thúc cho mau đến giờ người ta không thể bắt giữ hoặc ném đá Chúa Giêsu khi giờ Người chưa đến (7, 30; 8, 20).

Lời Người trả lời cho các môn đồ trong c .9- 10 có nghĩa ấy như trong giai thoại anh mù bẩm sinh vậy (9, 4). Bằng một câu tục ngữ mà ai cũng biết, Chúa Giêsu giải thích cho môn đồ hay là đến Do thái không thể làm gì chống lại được Người. Như mới đây Người đã xác quyết: “Chẳng ai cất mạng sống Ta được, nhưng chính Ta tự mình thí mạng sống Ta. Ta có quyền thí mạng sống Ta, và cũng có quyền lấy lại” (10, 18). Đêm tối sẽ đến vào đúng thời gian Chúa Cha ấn định; đó sẽ là giờ  Satan và Hội đồng Công tọa bề ngoài xem ra chiến thắng nhưng thực tế lại khác hẳn (13, 2 ; 14, 30- 31), vì Chúa Giêsu là ánh sáng trần gian và tối tăm không thể triệt hạ được người (15).

Trong 12, 35- 36, Chúa Giêsu khai triển chung một hình ảnh đó khi khuyến cáo thính giả hãy lợi dụng ánh sáng ban ngày, như chính người đã làm, để tôn vinh Thiên Chúa bằng cách tin vào Đấng Ngài sai đến. Đợi đêm về, thì đã quá muộn. Trong Cựu ước, Giêrêmia cũng đã ngăm đe dân Israel không chịu nhìn nhận tội mình (Gr 13, 16). Tôn vinh Thiên Chúa, là trở về với Thiên Chúa đích thực, Đấng còn có thể cứu Giêrusalem khỏi cảnh đổ nát hoang tàn. Khốn thay Israel đã không vâng nghe lời mời gọi đó, và vì thế đã bị lưu đày. Cũng một thể thức ấy, dân Do thái đã chẳng lắng nghe tiếng Chúa Giêsu mời gọi: cái chết của Người kỳ thực là cái chết của chính họ, “vì các ngươi sẽ chết trong tội của các ngươi” (8, 21- 24).

Môn đồ đã tiên cảm cái kết cục bi đát đó. “Người Do thái muốn giết Thầy, mà thầy còn lên đấy nữa sao?”. Cứu Ladarô, đối với Chúa Giêsu, sẽ là đi nộp mình chịu chết. Vinh quang của phép lạ này sẽ là dấu chỉ sự tôn vinh người trên thập giá. Nhưng tất cả cơ sự ấy chẳng phải là giờ của Thiên Chúa sao? Không ai có thể hối thúc, trì hoãn hoặc thay đổi thế này thế kia, một khi Thiên Chúa quyết định tỏ lộ tình yêu của Ngài. Chúa Giêsu còn ở lại hai ngày nữa và ngày thứ ba sẽ lên đường, như Người sẽ sống lại vào ngày thứ ba trong vinh quang Chúa Cha vậy.

4. “Ladarô bạn chúng ta đang nghỉ yên, Ta phải đi đánh thức dậy“. Chúa Giêsu đã áp dụng cho Ladarô thành ngữ người đã dùng đối với con gái ông Giairô (Mc 5, 39). Phaolô sẽ dùng một kiểu nói tương tự đối với người thiếu niên thành Troas (Cv 20, 10).

Trong Thánh Kinh, chết là hậu quả của tội lỗi, và vì thế là hình phạt khủng khiếp nhất (St 2,7; Kn 1, 15). Tuy nhiên, cái chết mất đi một phần tính cách bi thảm khi nó kết thúc một cuộc sống hạnh phúc và tràn đầy, một cuộc đời thân tình với Thiên Chúa. Các tổ phụ qua đời với tuổi thọ, và đã được gặp lại tổ tiên (St 25,7; 35, 29) Đavít đã an nghỉ với cha ông của mình (1 V 2, 10). Đối với người công chính, cái chết cũng có thể là cuộc trở về trong bàn tay Thiên Chúa, là sự yên nghỉ trong bình an (Kn 3, 1- 3). Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi kẻ Ngài thương mến.

Chúa Giêsu, dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa, là Đấng giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết. Vì thế, trong Tân ước, những kẻ chết trong niềm tin vào Chúa Kitô, chỉ ngủ mà thôi. “Những ai yên nghỉ trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa sẽ đem họ về với Ngài” (1Tx 4, 14 ; x. Cv 7, 60 ; Mt 27, 52), vì “Chúa Ki-tô đã phục sinh từ cõi chết, như hoa quả đầu mùa của những kẻ đã nghỉ yên” (1Cr 15,20).

5. Maria và các người Do thái khóc nức nở, theo thói tục của phương đông. Trước nỗi đau khổ đó, Chúa Giê-su có một thái độ thật đầy tình người: “Các ngươi đặt ông ấy ở đâu?” và Người bật khóc. Bấy giờ dân chúng biết Chúa Giêsu thực sự yêu thương Ladarô. Tuy nhiên, lối cắt nghĩa này, dù không hoàn toàn sai, có phải là lời giải thích đúng nhất không? Thường thường, trong Tin Mừng thứ tư, những kẻ cắt nghĩa lời nói hay hành động của Chúa Giêsu chỉ hiểu một khía cạnh, ngoại tại nhất và sơ sài nhất, của mầu nhiệm Người. Hơn nữa, nếu sắp cho người bạn sống lại, tại sao Chúa Giêsu lại khóc? Câu chuyện này rất giống với một câu chuyện khác trong đó Tin Mừng cũng kể lại là Chúa Giêsu đã khóc: khi Người đã tới gần, trông thấy thành, thì Người khóc trên thành mà rằng: “Phải chi ngày hôm nay, cả ngươi nữa, ngươi cũng nhận ra sứ điệp bình an! Nhưng khốn thay, điều đó đã bị che khuất khỏi mắt ngươi” (Lc 19, 41). Vì đoạn văn song song đầy ý nghĩa này, hình như ở đây nguyên nhân khiến Chúa Giêsu khóc là lòng bất tín của người Do thái và niềm tin nửa vời của Mátta (c.39) và của Maria xét theo văn mạch tình thuật Gioan. Cách giải thích này được củng cố thêm nhờ nhiều ghi chú khác của Gioan liên quan đến tâm tình của Chúa Giêsu trong dịp này. Ở đây ngữ vựng được dùng thật đầy ý nghĩa.

Thánh sử còn dùng hai chữ khác để mô tả tâm tình của Chúa Giêsu. “Người bực dọc tâm thần và xao xuyến cả mình“. Người ta đã luôn thắc mắc về ý nghĩa các tâm tình đó. Có kẻ xem đấy là cơn giận của Chúa Giêsu đối với cái chết và tác giả của nó là Satan; số khác lại coi là cơn tức giận trước sự cứng lòng tin của người Do thái. Điều đó có thể được lắm, vì cái chết và sự cứng lòng tin đều quy về Satan như là nguyên nhân tác thành; quả thế, đặc biệt trong Mt, ta thấy Chúa Giêsu đã tỏ ra tức giận lúc Người trừ quỷ, nghĩa là lúc đối diện với Satan. Nhưng đây còn hơn thế nữa.

Không kể một lần sử dụng trong 5,7 chỗ nói về nước ao bị giao động (tarassô), động từ thứ hai được dùng ở đây đối với Chúa Giê-su (xao xuyến: etelraxen) thì aoriste của tarassô) chỉ gặp lại trong văn mạch cuộc Tử nạn hai lần được áp dụng cho Chúa Giêsu (12, 27 ; 13, 21) và hai lần áp dụng cho các môn đồ (14, 1.27) mà Chúa Giêsu đoan hứa sẽ không để xao xuyến vì việc Người ra đi. Sự xao xuyến và nỗi ghê sự của Chúa Giêsu trong cuộc hấp hối tại vườn Cây dầu mà các Tin Mừng Nhất Lãm đã ghi lại, hình như được Gioan chuyển vào cảnh này và vào cuộc gặp gỡ giữa Người với nhóm Hy lạp (12, 27). Đối với Chúa Giêsu, cái chết của Ladarô là dấu tiên báo về cái chết của chính Người và về cuộc chiến thắng tạm bợ của tối tăm. Ở đây, lời giải thích thứ hai này trùng phùng với lối giải thích trên kia trong một tổng hợp tuyệt diệu. Vì đối với Gioan, cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu cốt yếu là công việc của Satan. Do đó, khỉ nói về Giuđa sắp phản bội Thầy, Gioan ghi chú: “Lúc bấy giờ, sau miếng ăn, Satan đã nhập vào y“. (13, 27)

6. Trình thuật này là trình thuật phép lạ dài nhất của Tin Mừng Gioan và dĩ nhiên của tất cả các Tin Mừng: 45 câu. Tuy nhiên, phép lạ chỉ được thực hiện vào phút cuối, còn mọi phần trước đều là chuẩn bị. Một thảm kịch thực sự tuần tự diễn ra trước mắt chúng ta, độ căng thẳng leo thang dần với số câu, và tất cả chỉ được giải kết ở hồi cuối cùng: mặc khải vinh quang Thiên Chúa, một mặc khải đòi buộc phải đáp trả bằng niềm tin.

Thảm kịch này có hai yếu tố đặc biệt:

a- Nhân vật chính không phải là người mà thiên hạ chờ đợi tức Ladarô. Lúc đầu, ông chỉ được đề cập như là em của Mátta và Maria, và sau hết, dĩ nhiên người ta nhắc đến ông song để rồi lãng quên. Ta chẳng biết cuối cùng ông có tin như người mù từ thuở mới sinh hay không (9, 38). Sở dĩ ông đóng một vai trò, là đặc biệt để làm chất xúc tác hầu mặc khải cá tính của mỗi diễn viên.

Nhân vật chính dĩ nhiên là Chúa Giêsu; và đối diện Người, ta thấy lần lượt xuất hiện các môn đồ, Mátta (Maria vẫn là một nhân vật phụ tùy) và người Do thái. Trước tiên là các môn đồ, những kẻ phần dấn bước trong đức tin vì đang bị cầm chân trong nỗi sợ hãi và lý luận loài người (11, 15). Rồi Mátta, đã được nhắc đến ở cc.1-5, xuất hiện với vẻ phiền muộn và đầy hy vọng; bà cũng được mời gọi tiến đến niềm tin. Sau hết, các người Do thái, đã được loan báo trong cảnh trước đấy (11, 19), cũng góp phần vào việc khởi phát phép lạ và cũng được dẫn đến đức tin. Như thế mỗi người đều lần lượt đi vào sân khấu và vẫn ở lại sau khi đóng xong vai trò, khiến sau cùng tất cả có mặt trong giờ giải kết. Tuy nhiên, mọi đèn chiếu đều chĩa thẳng vào các người Do thái (11, 45): họ là những người đầu tiên được thảm kịch này chất vấn, mời gọi.

b- Trong các phép lạ khác của Tin Mừng Gioan, thường có một diễn từ đến sau để bổ túc hành động và mặc khải ý nghĩa của nó (xem Phép lạ người bất toại, Bánh hóa nhiều, Kẻ mù bẩm sinh). ở đây chẳng thấy diễn từ nào tiếp theo cả, nhưng có nhiều câu tuyên bố được xen kẽ đó đây y trong trình thuật (cc. 4. 9- 10. 14- 1. 20-27. 40-42). Các lời đối thoại ấy chuẩn bị cho dấu chỉ, chính xác ý nghĩa của nó, và do đấy đóng vai trò của một diễn từ. Độc giả có thể hiểu được hành động khi nó tuần tự diễn ra, như lúc một người chú giải cắt nghĩa diễn tiến của một nghi lễ phụng vụ.

Phần tiếp theo của phép lạ, thay vì là lời của Chúa Giêsu, lại là một cảnh diễn ra trong Hội đồng Công tọa: người ta lên án tử hình Chúa Giêsu!

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Có một người ốm liệt, ông Ladarô”: Chúng ta chẳng biết nhân vật này ở nơi nào khác nữa, và hình như các độc giả Tin Mừng cũng không, vì ông được gọi như là em của Matta và Maria. Tuy nhiên, ông mang một cái tên tiền định mà trong tiếng Hy bá có nghĩa: “Thiên Chúa đến cứu giúp“, và, đàng khác ông là bạn của Chúa Giêsu.

“Người Bêtama“: Chắc chắn đây là ngôi làng mà ngày nay vẫn còn tồn tại với mỹ danh “El Azarich” (tiếng rút từ chữ Ladarô), cách Giêrusalem quãng 2km, và là nơi người ta còn thấy ngôi mộ của Ladarô đục sâu trong đá.

“Làng của Maria và Matta chị bà“: Vì tác giả không nói gì đặc biệt về hai phụ nữ này, nên phải giả thiết là độc giả đã biết nhiều về họ. Người ta đã sớm đồng hóa họ với hai phụ nữ được nhắc đến trong lúc 10,38-42. Hình như họ có cùng một tính tình: Matta hoạt động, lanh lẹ, chủ gia đình; Maria trái lại trầm tư, chiêm niệm hơn, thường bị chị xỏ mũi. Luca không nói tên nơi xảy ra cảnh đó; cũng có thể là Bêtania lắm, nhưng chẳng có gì cho phép ta đồng hóa một cách chắc chắn nhân vật của hai câu chuyện.

“Maria là người đã xức dầu thơm cho Chúa“: Hành động này được kể lại ở thì quá khứ, vì tác giả nhìn từ thời gian biên soạn, nên sự kiện này là một sự kiện đã qua. Nhưng ông lại tướng thuật việc xức dầu ở chương 12, khi Chúa Giêsu sẽ trở về Bêtania, sau một thời gian rút vào sa mạc Ephraim. Không có gì cho phép quả quyết đây là người đàn bà tội lỗi mà Luca kể lại trong 7, 36tt.

“Chúa Giê-su yêu mến Matta cùng em bà và Ladarô“: Câu này đính chính một lối giải thích sai lầm có thể có, dựa trên sự kiện Chúa Giêsu hãy còn nán lại thêm hai ngày nơi Người đang ở, dù đã nghe tin Ladarô đau liệt.

“Ngày không phải có 12 giờ sao“: Dù có vẻ tượng hình và hai bí nhiệm, câu trả lời của Chúa Giêsu thật rõ ràng. Bao lâu chưa đến giờ hoàng hôn? bấy lâu chưa có gì phải sợ; người ta có thể an toàn bước đi cho đến hết thời hạn 12 giờ của ngày. Nói cách khác, Người phán cùng các môn đồ vốn đang kinh hãi khi thấy Người lên Giêrusalem đáng sợ trước, chưa đến giờ nguy hiểm đâu!”.

“Và chúng ta cũng hãy đi qua đế chết với Người“: Ngược lại với lối giải thích thông thường, hình như chữ với Người” ám chỉ Ladarô, vì người ta vừa mới nói trong câu trước đó là Ladarô đã chết và Chúa Giêsu đã kết luận: chúng ta hãy qua gặp ông ấy. Trong trường hợp này, Tôma nói cách đơn sơ: nếu Người muốn đi bất cứ giá nào, thì chúng ta hãy tháp tùng theo để chung số phận với Lađarô là kẻ đã chết.

“Đã được chôn 4 ngày rồi”: Vì khí hậu ở phương đông, nên người chết được chôn trong cùng ngày chết (Ga 11, 39; Cv 5, 6). Chữ “4 ngày” có một tầm quan trọng trong trình thuật người Do thái thời Chúa Giêsu tin rằng trong 3 ngày đầu tiên, hồn vía hãy còn lảng vảng bên thây ma; chỉ từ ngày thứ tư, lúc thây ma bắt đầu thối rữa, chúng mới bỏ mà di. Ngày thứ 4 là ngày chết thực sự.

“Ta là sự sống lại“. Mấy chữ “và là sự sống” bị P45 cũng như một số thủ sao của truyền thống latinh và syria-sinai cũ xóa bỏ, cả Origène và Cyprien thỉnh thoảng cũng thế. Nhưng tất cả các thủ sao và các bản dịch khác đều giữ lại. Thành ra không có lý do gì để duy trì lối đọc vắn của BJ.

“Hãy cởi ra cho ông ấy“. Đối với Ladarô, phải lăn hòn đá, cởi dải liệm; còn khi Chúa Giêsu phục sinh, các phụ nữ nhận định một sự kiện đã rồi: đá được lăn đi, các cuộn băng nằm dưới đất, còn khăn liệm được xếp lại ở một nơi riêng (20, 1 -7). Các thiên sứ chỉ đứng đó để giúp các môn đồ ý thức sự kiện mà thôi.

“Nhiều người Do thái …đã tin vào Người”: Gioan không bảo bấy giờ Ladarô thế nào, cũng chẳng nói đến sự thán phục của các chứng nhân. Ông đưa ta đến điểm cốt yếu: nhiều người đã tin vào Chúa Giêsu. Đó là điều mà tác giả Tin Mừng mời gọi ta.

KẾT LUẬN

Chúng ta đã ghi nhận việc nhấn mạnh đến đức tin trong Tin Mừng thứ tư, sự căng thẳng tăng dần theo các chương giữa Chúa Giêsu, Đấng tự mặc khải chính mình trong các việc làm, và lòng cứng tin của người Do thái. Giai thoại hôm nay thường xuyên nhắc đến đức tin. Động từ “tin” được dùng 8 lần để chỉ việc con người đáp trả khi thấy vinh quang Thiên Chúa. Ladarô đã chết và được an táng từ 4 ngày rồi. Người Do thái hình như hoài nghi quyền năng của Chúa Giêsu. Matta và Maria thì nói với Người: nếu Thầy đã ở đây …”. Chứng cớ dứt khoát và không thể chối cãi mà người Do thái đòi hỏi (10, 24) giờ đây được ban cho họ. Ai có quyền trên sự sống, nếu không phải là chỉ mình Thiên Chúa? Chúa Giêsu làm phép lạ “để họ tin” rằng Chúa Cha đã sai Người. Như thế chấm dứt sứ vụ của Chúa Giêsu giữa người Do thái. Dấu chỉ này mặc khải một lần thay cho tất cả Chúa Giêsu là ai. Vì thế người Do thái đã lên án tử hình Người. Đối với Gioan, cuộc Tử nạn bắt đầu ngay sau phép lạ này với cuộc nhóm họp của hội đồng Công tọa và việc xức dầu ở Bêtania, dấu chỉ khâm liệm Chúa Giêsu. Chính phép lạ chuẩn bị điều đó. “Bệnh này … phải được nhằm để tôn vinh Con Thiên Chúa”. Việc phục sinh Ladarô là dấu chỉ của thực tại sẽ diễn ra trong các chương kế tiếp vậy.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Trong thời đại chúng ta, nhan nhản những dấu chỉ của sự sống và sự sống lại, chẳng hạn việc hồi sinh con người mà chúng ta đã từng mục kích nhiều lần qua các cuộc chữa bệnh thành công, là những dịp cho thấy cơ thể nhân loại có một sinh lực mãnh liệt chừng nào. Và ta phải nói gì về cuộc chiến thắng lạ lùng của sự sống trên sự chết như là việc sinh sản, rồi việc phát triển con người nên vóc trưởng thành? Trong các thành công về kỹ thuật, nhà bác học đã vượt qua nhiều khó khăn mà trước đây không thể khắc phục. Trong các lựa chọn dứt khoát, mỗi người chúng ta đều đã lướt thắng các cám dỗ bi quan, thất vọng. Tất cả chỉ vì trong con người có một khát vọng sống, có một động lực không ngừng thúc đẩy đi lên. Nhưng đồng thời trong nhân tính chúng ta có một cái gì đó đã bị đổ vỡ. Cái chết bắt chúng ta đương đầu với một giới hạn có thể bẻ gãy chúng ta. Gioan gợi lên nỗi thất vọng, sự ê chề của kinh nghiệm, các giới hạn của con người. Những câu Chúa trả lời: “Hỡi Ladarô, hãy đi ra” mời gọi tất cả lướt thắng các giới hạn đó. Bằng giáo huấn, cuộc sống, cái chết và sự sống lại của mình, Chúa Giêsu cho thấy Người có thể khơi dậy sinh lực nào trong con người. Nhưng Người chỉ hành động trong những ai, khi đối diện với sự chết, biết để cho sức mạnh Thần khí đến “lay tỉnh” mình dậy.

2. Sự can thiệp của Chúa Giêsu cho thấy Thiên Chúa không phải là một Đấng vô biên xa vời, dửng dưng với tạo vật. Thiên Chúa đã nhập thể trạng một trái tim con người, Ngài cũng muốn có khả năng cảm xúc, bồi hồi, xót dạ? “Chúa Giêsu xao xuyến tâm thần”. Ngài cho thấy mình cũng chạnh lòng trước số mệnh thế nhân. Người yêu thương các bạn hữu với tình âu yếm. Bởi đấy Người ra tay uy quyền cho Ladarô sống lại.

3. Hãy lưu ý đến lời Matta đáp trả câu hỏi của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hỏi: “Con có tin điều đó không?” nghĩa là có tin rằng kẻ tin vào Ta sẽ sống mãi và không bao giờ chết chăng. Người hỏi Matta về một điều gì có, về niềm xác tín được sống của bà. Matta đã trả lời nhắm vào con người Chúa Giêsu. Bà không đáp: “Vâng, con tin rằng con sẽ không chết, nhưng “Con tin Thầy là Chúa Kitô, Con ‘Thiên Chúa”. Chắc hẳn vì lời tuyên xưng đức tin đó (mà các môn đồ chừng nghe) mà Chúa Giêsu tuyên bố với các sứ đồ của Người, khi đến Bêtama, rằng Người đã vui mừng hoan lạc. Chúa Giê-su đã muốn có giai thoại phục sinh Ladarô để các chứng nhân tin Người là Đấng được Chúa Cha sai đến. Điều đó cho ta thấy niềm tin của Kitô hữu không phải là niềm tin vào các sự vật, dù là vào một thế giới được tái lập trong sự công chính nguyên thủy, nhưng là niềm tin vào con người Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa. Niềm tin vào Chúa Giêsu tuyệt đối ưu tiên, sau mới đến những điều khác.

4. Sở dĩ Chúa Giêsu phục sinh Ladarô, là vì người là Lời sáng tạo của Thiên Chúa, tuy nhiên Người cũng sắp chết. Chúa tể sự sống sắp lụy phục tử thần … và đối thủ của người sẽ không quên nhấn mạnh nét mâu thuẫn đó trong sự nghiệp của Người: “Nó đã cứu được kẻ khác mà không thể cứu nơi chính mình“. Nhưng Chúa Kitô đã chẳng muốn cứu lấy một mình mà thôi. Khi mặc lấy thân phận con người chúng ta cho đến cái chết, lời sự sống của Người không còn ở ngoài chúng ta nữa. Người chiến thắng tử thần qua cái chết. Như thế, Người đã cứu rỗi tất cả nhân loại cùng với chính bản thân Người.

5. Hoạt động của con người bị hạn chế và thường thất bại. Song các giới hạn và thất bại này không thể triệt hạ sự tự do của kẻ tin vào Chúa Kitô. Cái chết đặt một giới hạn rõ rệt cho sự sống của con người, nhưng đức tin của Kitô hữu vượt qua giới hạn đó. Người Kitô hữu đã ở bên kia cái chết. Chắc chắn, sự chiến thắng cái chết mà Chúa Kitô đạt được cho ta không miễn cho ta chết như Người. Kitô hữu không phải là kẻ giảm thiểu hay đánh bóng sự chết. Đối với họ cũng như đối với Ladarô, cái chết không thơm tho gì. Và chẳng có hương thơm (thánh thiện hay đạo đức nào) có thể ru ngủ sức kháng cự của con người đối với cái chết. Tuy nhiên Kitô hữu tin tưởng vào Thiên  Chúa như Chúa Kitô đã tin tưởng vào Chúa Cha, vì biết rằng Ngài luôn nhận lời mình xin. Ngài là vị Thiên Chúa hằng yêu con người và muốn con người sống để tôn vinh Ngài. Tin vào tình yêu Thiên Chúa tỏ hiện trong Chúa Kitô tức là đã phục sinh và đã được bảo chứng sẽ sống mãi.

-----------------------------
 

MC 5-A139: Sự sống đời đời


Gn 11, 1-45: Ta là sự sống lại và là sự sống...

Anh chị em thân mến,
 

Chúa Giêsu nói với bà Matta: "Ta là Sự Sống..... Qua câu nói này, chính Chúa Giêsu muốn cho MC 5-A139


Chúa Giêsu nói với bà Matta: "Ta là Sự Sống lại và là Sự Sống. Ai tin Ta, dù có chết cũng sẽ được sống." Qua câu nói này, chính Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy Người là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa, là chính Thiên Chúa, Đấng ban sự sống và sự sống lại cho tất cả những ai tin nơi Người. Chúng ta thấy chưa từng có vị sáng lập đạo nào tự xưng mình là Sự Sống lại và là Sự Sống. Thực tế, người công giáo không hề đề cao Chúa Giêsu, hay vì kính trọng mà tâng bốc Thầy mình. Phép lạ cho Ladarô sống lại, chính là để chứng tỏ cho mọi người thấy Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên sai và cũng là Thiên Chúa nữa...Đây chính là điều mà Hội thánh muốn chúng ta suy niệm trong ngày Chúa nhật 5 Mùa Chay này.

a/. Trước hết xin tìm hiểu một vài câu:

* Phép lạ cho Ladarô sống lại xảy ra lối tháng 3 năm 30, gần cuối đời Chúa Giêsu. Chúa đã giảng dạy tại Giêrusalem từ tháng 10 đến tháng 12 năm 29, nhưng tình hình căng thẳng quá, nên Chúa phải sang làm việc ở miền Pêrê, bên kia sông Giodan. Lúc đó, Chúa được tin Ladarô từ trần.

* Gia đình của Ladarô, quê ở Bêtania, cách Giêrusalem hơn 3 km. Ladarô có hai người chị là Matta và Maria. Đây là một gia đình rất thân quen với Chúa. Mỗi khi lên Giêrusalem, Chúa hay đến trú ngụ tại gia đình này.

* Ta là Sự Sống lại và là Sự Sống: Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Người là nguyên nhân của việc sống lại và cả của sự sống của muôn loài trên trái đất, trong đó có thân xác của chính Chúa nữa.

b/. Con người trên đời này rất tò mò về chuyện tương lai, nhất là chuyện người chết rồi sống lại; vì thế có một số truyền thuyết nơi một số bộ lạc, nhất là bộ lạc thiểu số. Bộ lạc Vaudou, miền Trung châu Mỹ, có truyền thuyết Zombie: đó là người chết sống lại, đi ra khỏi mồ, bị một phù thủy quản chế, phải làm theo ý ông ta. Ở Trung Hoa cũng có truyền thuyết Cương Thi, cũng tương tợ như Zombie: một phù thủy hay đạo sĩ có tài sẽ điều khiển các thây ma ra khỏi mồ để làm việc cho mình.Vài bộ tộc da đen ở Châu Phi, cũng có truyền thuyết, con người trước khi chết, được cho uống vào một loại lá cây tương tợ như ngãi, họ sẽ không chết hẳn, nhưng sẽ tồn tại một thời gian, sau đó sẽ sống lại như người trần...

Những truyền thuyết nói trên cho đến hôm nay, cũng chỉ là truyền thuyết vì không có tính khoa học, cũng không phải là một thực tại và nhiều khi mang tính hoang đường nhiều hơn. Bài Tin mừng hôm nay trình bày câu chuyện Ladarô đã chết 4 ngày, lại được sống lại. Ladarô một con người có thực, lịch sử, vì đau bệnh đã chết 4 ngày. Cái chết của ông không phải là một cái chết giả tạo, mà là một sự thật được nhiều người làm chứng. Vậy mà sau 4 ngày, Ladarô đã chết, được Chúa Giêsu cho sống lại. Dĩ nhiên sau này Ladarô cũng sẽ chết lần nữa. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nên Người chính là nguyên lý của sự sống và sự sống lại. Muốn cho Ladarô sống lại, Chúa không nhờ bất cứ ai hay nhờ quyền năng nào. Chính Chúa Giêsu dùng quyền năng của chính mình mà làm cho Ladarô sống lại; Chúa không mượn tay hay cậy nhờ quyền năng của người khác như thày phù, thày pháp...Thiên Chúa chính là chủ của sự sống, thử hỏi Người muốn điều gì lại không được?

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Chúa Giêsu là Sự Sống lại và là Sự Sống, vì chính Chúa đã chết sau 3 ngày, đã tự mình sống lại, ta có tin không?

Trên trần gian hay chết này, chúng ta tìm đâu ra sức sống để mà sống? Có phải ta đi tìm trong tiền bạc, lạc thú, rượu chè và những lý thuyết đưa tới sự chết, thực ra chúng ta tìm cái gì? Tìm Chúa hay tìm những thứ đó?

------------------------------
 

MC 5-A140: SỰ VĨ ĐẠI CỦA TÌNH YÊU


Tuần 5 mùa chay-A: Ga 1, 1-45

Lm. Jos DĐH, GP. Xuân Lộc
 

Chết vinh hơn sống nhục. Có bệnh vái tứ phương. Tự trong sâu thẳm cõi lòng, người xưa đã MC 5-A140


Chết vinh hơn sống nhục. Có bệnh vái tứ phương. Tự trong sâu thẳm cõi lòng, người xưa đã nói tới một quan niệm: tốt danh hơn lành áo, khao khát sống, nhưng là phải được sống an vui hạnh phúc. Sinh bệnh lão tử, đó là quy luật, song kinh tế gia đình ổn định, con cháu ngoan hiền, hẳn ta sẽ có ước muốn được trường thọ bên gia đình dài lâu. Xa người thân, vĩnh viễn ra đi không trở lại, bao giờ cũng là mất mát lớn, miễn cưỡng ta phải chấp nhận thôi ! Giầu sang phú quý khiến ta tự tin, khoẻ mạnh, ta sẽ có cảm giác trẻ trung, tình yêu dồi dào, sẽ cho ta cuộc sống đẹp và ý nghĩa hơn. Câu chuyện ba chị em Matta, ở Bêtania là một minh chứng đẹp về giá trị thật của tình yêu. Chúng ta không xoá tan được những khổ đau mất mát của ai, chẳng cứu giúp gì cho họ, có chăng là ta cảm thông và tỏ lòng yêu thương người gặp hoạn nạn, ít là thế.

Hai chị em Matta cho người báo tin: “thưa Thầy, người Thầy yêu mến đang đau nặng”. Trong đau khổ, chỉ cần một chút bình tĩnh, người ta sẽ biết phải làm gì, kêu cầu ai cứu giúp. Đồng ý rằng: việc người thì sáng, việc mình thì quáng, dù ta không đa năng, thì ít ra, vẫn còn một sự thật: cần cù bù cù lần. Không phải ai cũng làm được việc vĩ đại, nhưng mọi người đều làm được những việc nhỏ bé với tình yêu vĩ đại. Matta và Maria, phản ánh sự thật về tình yêu, về niềm tin vào sự hiện diện của Đức Giêsu: “lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết”. Đức Giêsu đứng trước nỗi khổ đau mất mát, Ngài rất tự tin vào tình yêu nơi Chúa Cha: “lạy Cha, con cảm tạ Cha đã nhậm lời con”. Sau lời cầu xin đầy tin tưởng, “Đức Giêsu lớn tiếng gọi: Lagiarô, hãy ra đây”. Phép lạ vĩ đại đã xảy ra, minh chứng tình yêu vượt lên trên sự chết.

Người hiểu biết thì hay nói, người thông minh thích lắng nghe, người công chính không tranh luận, mà luôn thao thức tìm sống thánh ý Chúa. Sau khi đã làm những việc cần làm, “Đức Giêsu nói: nào chúng ta cùng trở lại Giuđêa”! “Các môn đệ lên tiếng: thưa Thầy, mới đây người Do-thái tìm cách ném đá Thầy, vậy mà Thầy còn muốn trở lại nơi đó ư”? Vâng, sự vĩ đại của tình yêu không phải là hào phóng đến độ, gặp ai cũng ban phát, nhồi nhét ân huệ cho họ. Giá trị thật của tình yêu đâu phải là một thoả thuận về giá cả điều kiện, mà là đánh cược cuộc đời mình với trái tim và khối óc. Sự vĩ đại của tình yêu đã tiềm ẩn nơi gia đình Matta: Lagiarô đã chết, họ vẫn mong Đức Giêsu hiện diện. Xác chết 4 ngày, Đức Giêsu vẫn thuyết phục mọi người bình tĩnh theo Ngài: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống”.

Sự vĩ đại của tình yêu không hẳn là được nhiều người thương mến, theo chị em Matta, hãy làm gì để có tình yêu của Đức Giêsu là đủ, cuộc sống của bạn sẽ trả lời thế nào là sự vĩ đại trong tương quan Giêsu. Cả hai chị em Matta đều tin quyền năng, tình yêu, của Đức Giêsu, họ đã cùng thưa: “nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết”. Xã hội hôm nay rất có lý khi nói: phụ nữ không có sức hút, luôn cho rằng đàn ông con trai hết sức lăng nhăng; người đàn ông không có thực lực lại cho rằng, phụ nữ bây giờ sao thực tế quá ! Không thể có việc làm xấu, hành động tồi, mà cộng đồng gọi là vĩ đại. Chẳng làm sao có chuyện phục sinh kẻ chết, dù y học phát triển đáng nể. Nhưng đã xảy ra phép lạ vĩ đại, anh Lagiarô sống lại từ cõi chết, khi niềm tin yêu rất thật vang lên: “thưa Thầy, vâng, con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng đã đến thế gian”.

Các bậc hiền nhân hôm nay nói rằng: yêu là đặt hạnh phúc của ta trong hạnh phúc của người khác. Tình yêu chỉ là danh từ, cho đến khi có một ai đó tác động để danh từ ấy trở nên thật ý nghĩa, vĩ đại. Nhiều người thắc mắc: lúc bấy giờ có nhiều kẻ đau khổ, nhiều gia đình đáng thương hơn cả chị em Matta, không phải là không có các luật sĩ đạo đức, ấy vậy phép lạ Đức Giêsu thực hiện thì giới hạn ? Phải chăng chỉ có tình yêu và niềm tin của chị em Matta mới đủ lực, đủ to lớn vĩ đại, để Đức Giêsu thổn thức và thực thi phép lạ ? Đúng, thời nào, đau khổ nào, mất mát nào, cũng có tình yêu thương ở trong đó, dù quan sát của ta có phần chủ quan. Niềm tin và tình yêu giống như chị em Matta hẳn không phải là số ít, hy vọng rằng Đức Giêsu phục sinh Lagiarô, ít nhiều cũng cho ta hiểu sứ mạng của Đấng Kitô là phục sinh các tâm hồn chứ không phải thể xác.

Thân xác Lagiarô sống lại rồi cũng sẽ chết theo quy luật, linh hồn Lagiarô và mỗi chúng ta hôm nay có sống lại hay không, thật sự quan trọng, đó sẽ là phép lạ vĩ đại mà Đức Kitô còn thực hiện. Những tâm hồn vĩ đại không phải sinh ra là họ đã dồi dào tình yêu thương, lòng quảng đại, danh tiếng lẫy lừng tứ phương. Những thành tựu vĩ đại không gặt hái từ sức mạnh của đồng tiền, mà từ ý chí quyết tâm với trái tim biết yêu thương. Đức Giêsu được gọi là Đấng Kitô, khi Ngài đã vượt qua đau khổ thập giá, và minh chứng được: Thiên Chúa là tình yêu. (1Ga 4, 8). Tình yêu mạnh hơn sự chết (Ga 15, 13). Niềm vui và hạnh phúc của chị em Matta và của chúng ta, chỉ gọi là vĩ đại, khi có tình yêu Giêsu, khi đã và đang sống niềm tin “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống đã đến thế gian”. Amen.

------------------------------------
 

MC 5-A141: MÙA DỊCH, SỐNG LẠI TÌNH BẰNG HỮU


Lm Giuse Hoàng Kim Toan
 

Mùa đại dịch Corona nhiều nơi trên thế giới, nhà hữu trách kêu gọi toàn dân không nên ra ngoài MC 5-A141


Mùa đại dịch Corona nhiều nơi trên thế giới, nhà hữu trách kêu gọi toàn dân không nên ra ngoài khi không cần thiết. Đây là thời gian dài khá đặc biệt, cha mẹ, con cái tụ họp để sống lại tình bằng hữu trong gia đình. Chúa là người bạn thân thiết của gia đình Matta và Maria đến thăm Lazarô, em hai cô vừa mất. Có những điều suy tư: Gia đình cùng vượt qua thử thách, yêu thương tha thứ và là nơi cầu nguyện.

Cùng nhau vượt qua thử thách.

Gia đình Matta và Maria có người em vừa mất. Gia đình nào cũng có những thử thách nhất định, trong gia đình ngoài xã hội. Những thử thách về tình yêu đã chết, anh chị em không còn đón nhận nhau, vợ chồng xung khắc… Ngoài xã hội đang cơn đại dịch hoành hành… Gia đình có dịp ở lại với nhau, dành cho nhau nhiều thời gian hơn, không còn là lúc tranh cãi ai đúng, ai sai, giữa cái lúc sự chết đang ở ngoài cửa. Trong nhà người này người kia bắt đầu có thời gian suy nghĩ lại những gì đã sống làm buồn lòng nhau. Lúc này, họ quan tâm nhau nhiều hơn, cùng nhau tập luyện thể lực, cùng nhau vào bếp và dọn dẹp. Những tương quan được tiến triển hơn nhờ có nhiều thời gian nói với nhau, chia sẻ cùng nhau.

Gia đình nơi yêu thương, tha thứ.

Không có thời gian nào đặc biệt hơn lúc này, ngày nào cũng nghe tin báo nhiều người chết vì dịch bệnh, không kịp chôn cất hay hỏa táng. Những tin báo thêm nhiều người bị virus xâm nhập, không còn chỗ trong bệnh viện, không còn đủ y bác sỹ để điều trị. Sự sống mong manh buộc mỗi người trở về với gia đình của mình để nối lại những tương quan đã đứt gẫy hoặc đang bị rạn nứt hoặc chưa sống đủ yêu thương..

Thời gian hâm nóng lại tình yêu như đã cam kết. Không chỉ giữa hai bên nam và nữ, mà thời gian này là bốn bên. Cha, mẹ, con cái và Thiên Chúa. Chúa luôn luôn là Đấng trung gian của giao ước vợ chồng, con cái. Như ngày đầu Chúa đã chúc phúc cho tình yêu đôi lứa, Chúa vẫn luôn đồng hành với gia đình và cả lúc con cái ra đời, Chúa vẫn ở cùng. Thời gian bận rộn công việc, lo kiếm sống, trau dồi tri thức bên ngoài Chúa, Chúa vẫn âm thầm ở đó giữa gia đình, giữa nơi học đường.  Có thời gian cùng nhau dừng lại giữa mùa dịch, cùng nhau ý thức lại sự hiện diện của Chúa qua kinh nguyện trong gia đình, trong Hội Thánh. Sống lại tình bằng hữu với Chúa và tình bằng hữu giữa cha mẹ và con cái. Qua cơn đại dịch này, tình yêu gia đình tiếp tục sinh hoa kết trái tốt đẹp hơn xưa.

Trở lại với bản văn Tin Mừng.

Chúa đến với gia đình Matta và Maria vào thời gian đau buồn vì người em mới mất. Sự kiện này loan báo một tin vui: Chúa là sự sống và là sự sống lại. Tin vui không xuất phát từ bên ngoài xã hội mà bắt đầu từ gia đình. Chúng ta đều ý thức gia đình là nơi trường học đầu tiên, cơ bản và không thể thay thế để dạy yêu thương. Nơi đó tình yêu khơi nguồn từ Thiên Chúa, một tình bạn mật thiết với gia đình. Chúa ở với gia đình khi vui cũng như lúc buồn. Có cả những lúc Chúa dùng bữa với gia đình, chia sẻ bữa ăn yêu thương. Một bàn tiệc vừa Lời Chúa vừa thực phẩm bổ dưỡng như tại gia đình Maria và Matta.

Tình bạn với Chúa êm ái, tế nhị biết bao. Khi gia đình báo tin, Chúa đã nghe biết có chuyện buồn đau, Chúa đã thu xếp để đến viếng thăm, các môn đệ khuyên đừng nên đến đó vì có người dọa ném đá giết Người. Chúa vẫn đến vì tình bạn, tình thân hữu. Sau này Chúa cũng cho các môn đệ biết: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình.” (Ga 15, 13). Tình yêu không có sợ hãi, tình yêu làm cho sống và như Gabriel Marcel viết: “yêu ai là muốn nói với người đó, em (anh) sẽ không chết” Tình yêu là ước ao người mình yêu được sống, được hiện diện bên nhau, hằng ngày được gặp nhau. Chúa có một tình bạn mật thiết như thế, sao gia đình mình lại không có Chúa?

Trong cơn đại dịch này, xin Chúa cho gia đình chúng con sống lại với Chúa, để gia đình chúng con sống mạnh mẽ hơn, dồi dào hơn trong tình yêu của Chúa và trong tương quan giữa các thành viên và làm cho nhân loại thêm yêu thương.

-------------------------------
 

MC 5-A142: TRẬN ĐẠI DỊCH CHO TA HIỂU CUỘC ĐỜI


Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
 

Có người nói một TRẬN đại dịch sẽ giúp chúng ta hiểu ra rằng: Nhân sinh vô thường, đời người MC 5-A142


Có người nói một TRẬN đại dịch sẽ giúp chúng ta hiểu ra rằng: Nhân sinh vô thường, đời người vốn không có thứ gọi là “ngày tháng dài lâu”. Cuộc sống thật mong manh và ngắn ngủi, thật khó để biết được rằng: ngày mai và đại nạn, thứ nào sẽ đến trước?

Khi trải qua một lần sinh tử mới hiểu được mạng sống đáng quý biết nhường nào. Ở thế gian này, chỉ có cái chết mới làm ta đáng sợ. Tiền tài dù có giá trị đến đâu, cũng không giá trị bằng mạng sống. Danh lợi dù có quan trọng đến đâu, cũng không quan trọng bằng sức khỏe.

Sức khỏe mới thực sự là vốn liếng lớn nhất của đời người. Nếu không có sức khoẻ, thì dù có cả núi vàng biển bạc nhưng sẽ vô giá trị với người “thập tử nhất sinh”.

Trong đại dịch Virus Vũ Hán ta thấy 2 tiểu thư con nhà tiền bạc dự thừa. Một cô miền Bắc với thái độ “có tiền bố mày chẳng sợ ai!” nên vô tư đi dung dăng, thế nhưng, dân mạng cũng phải lo cho mạng sống mình nên nổi sóng ném đá khiến cô bẽ bãng ngộ ra rằng: mạng sống con người mới gía trị, cho dù chỉ là mạng sống một người nghèo nhưng vẫn bất khả xâm phạm. Một cô thứ hai là người giầu Miền Nam, khi biết mình mang bệnh cô đã xin gia đình thuê chuyên cơ riêng để về nước cho an toàn và không ảnh hưởng đến ai! Gia đình đã sẵn lòng bỏ ra gần 10 tỉ đồng để đón cô về. Điều này cho ta thấy, đến 1 lúc, tiền bạc gần như vô nghĩa trước bệnh dịch. Nhiều người cãi nhau, phê phán chuyện đắt, rẻ, sang giàu. Nhưng cũng giống như ung thư, thì người nghèo cũng phải bán nhà, bán trâu hay cầm cố ruộng vườn chỉ để mong giữ được mạng sống của mình.

Vậy giả dụ như hôm nay chúng ta được như Lagiaro đã chết và Chúa cho sống lại, chúng ta sẽ sống cuộc đời như thế nào khi đã cảm nghiệm được cuộc sinh tử? Chúng ta sẽ sống cuộc sống mới như thế nào? Liệu có còn muốn bon chen, tích góp, giành giật hay sống dành thời gian cho có ý nghĩa với gia đình, với cuộc đời? Nếu ai đã từng trải qua cơn thập tử nhất sinh có lẽ sẽ cảm nghiệm điều này: tiền tài, danh vọng chẳng là gì một khi đã nhắm mắt xuôi tay. Một khi mình không có nắm giữ được chúng nữa thì những gì mình tích góp cũng uổng công.

La-gia-rô dầu được Chúa trả lại sự sống một lần nhưng rồi với quy luật thời gian, ông cũng chết như bao người khác. Điều quan trọng là Lagiaro đã biết được cần phải mang theo những gì cho hành trang đời sau. Chắc chắn không phải là tiền bạc, danh vọng, hay kiến thức mà là những điều thiện, việc phúc đức chúng ta đã gieo xuống nhân gian.

Chính cuộc đời Chúa Giê-su đã nêu gương cho chúng ta khi chính Ngài luôn sống đẹp lòng Chúa Cha và hy sinh phục vụ nhân sinh. Ngài đã đi đến tận cùng của tình yêu là dám chết cho người mình yêu. Ước gì chúng ta biết noi gương Chúa Giê-su sống trọn vẹn thời gian trong sự kết hợp với Chúa Cha và phục vụ tha nhân với hết khả năng của mình. Có như vậy chúng ta mới sống tròn ý nghĩa cuộc đời là tôn vinh Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. Amen

----------------------------------
 

MC 5-A143: HÃY RA KHỎI MỒ!


Bông hồng nhỏ
 

Đứng trước mầu nhiệm của sự chết, ai trong chúng ta cũng cảm nhận một nỗi đau dai dẳng trong MC 5-A143


Đứng trước mầu nhiệm của sự chết, ai trong chúng ta cũng cảm nhận một nỗi đau dai dẳng trong trái tim. Bởi cái chết lấy đi người ta thương mến, nó là hiện thân của sự chia ly và đau khổ. Ai sẽ giải thoát ta khỏi quyền lực của sự chết?

Hôm nay, cùng với Thầy Giêsu và các môn đệ, ta ngậm ngùi trước sự ra đi đột ngột của anh Ladarô, người mà Thầy Giêsu rất thương mến. Căn nhà nhỏ ở Bêtania chính là điểm dừng chân rất quen thuộc của Thầy trò. Ba chị em Mátta, Maria và Ladarô luôn đón tiếp Thầy và các môn đệ với lòng quý mến. Thầy Giêsu rất quý mến ba chị em. Khi được tin anh Ladarô đau nặng, Thầy không đến ngay nhưng còn lưu lại thêm hai ngày tại nơi đang ở. Tại sao Thầy không đến với anh trong lúc anh cần Thầy nhất? Chắc hẳn, hai chị em cô Mátta và Maria cũng đã rất mong Thầy đến, càng chờ mong nỗi khát khao trong lòng càng cháy bỏng. Ngày ngày túc trực để chăm sóc cậu em đang đau nặng, nhìn em đang phải trải qua những cơn đau hành hạ, hai cô càng cảm thấy lòng nhói đau. Khi em đã chết mà Thầy vẫn chưa đến, nỗi khát mong trong lòng trở thành sự tiếc nuối: “Nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết” (Ga 11, 21 ). Đó không phải là một sự ngẫu nhiên khi cả hai chị em cùng thưa với Thầy điều này. Thầy Giêsu cũng đã thổn thức trước sự ra đi của người mình thương mến. Thấy Maria và những người đi cùng đều khóc, Thầy đã xao xuyến và thổn thức trong lòng. Đi theo họ ra mộ, Thầy đã khóc (x. Ga 11, 33). Đó là giọt nước mắt của Thiên Chúa, Đấng nhập thể làm người để chung chia một kiếp người như chúng ta. Người mang lấy nỗi đau của nhân loại, Người nhận lấy thân phận yếu hèn của phận người nơi chính mình để cảm thông và nâng con người lên, để dẫn con người đến nương ẩn trong tình yêu của Thiên Chúa.

Sự hiện diện của Thầy chính là niềm an ủi lớn lao cho hai chị em. Đứng trước ngôi mộ có phiến đá đậy lại, Người truyền cho họ đem phiến đá đi. Cô Mátta – chị người chết – liền thưa: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày.” (Ga 11, 39). Cô có biết được điều Thầy sẽ làm cho em mình không? Cô vẫn tin Thầy là Đấng phải đến thế gian, tin rằng em mình sẽ sống lại trong ngày kẻ chết sống lại. Thế nhưng, điều Thầy muốn thực hiện ngay lúc này vượt quá điều cô mong ước hay nghĩ tới.   “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” (Ga 11, 41). Thầy Giêsu ngước mắt lên và cầu nguyện cùng Thiên Chúa, Người muốn cho tất cả mọi người lắng nghe lời cầu nguyện ấy để họ tin rằng, Người là Đấng Chúa Cha đã sai đến (X. Ga 11, 42). “Anh Ladarô, hãy ra khỏi mồ!” (Ga 11, 43). Đó là tiếng gọi của Thiên Chúa dành cho kẻ đã chết. Người trả lại cho anh sự sống đã bị tử thần lấy đi. Người mang lại cho hai chị em Mátta và Maria niềm vui lớn lao.

Mỗi ngày, Thầy Giêsu cũng đứng trước ngôi mộ của ta và lên tiếng gọi. Người đã lên tiếng gọi ta bước ra khỏi cái mồ của sự ích kỷ, của ghen tương và thù hận, nơi đã làm cho ta chết đi trong tương quan với tha nhân. Như cô Mátta đứng trước mộ em mình và tin rằng, thi hài đã nặng mùi sau khi đã chôn được bốn ngày, ta cũng tin rằng một phần con người của ta hay của người khác đã chết đi, đã trở nên nặng mùi vì để lâu. Có những tổn thương luôn làm cho ta nhức nhối, khó chịu nhưng ta lại không muốn ai bước vào hay đụng tới. Thầy Giêsu đã gọi ta bước ra khỏi đau thương của lòng mình để nhận lấy sự sống mới. Nếu ta tin, “chính Thầy là sự sống lại và là sự sống” thì cuộc đời của ta cũng sẽ được hồi sinh. Nếu ta tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa, ta cũng sẽ tin rằng, Ngài sẽ làm cho những người thân yêu của ta hồi sinh.

Lạy Chúa Giêsu! Con cảm tạ Chúa đã cho con được cùng khóc với Chúa, cảm tạ Chúa đã cùng khóc trong nỗi đau của riêng con, của anh chị em con. Xin gia tăng nghị lực yêu thương trong trái tim con và nâng đỡ con trong những đau thương của cuộc đời, để qua những thăng trầm thử thách, con luôn cảm nhận được bàn tay Chúa đỡ nâng con, trái tim Chúa đang ấp ủ con và tiếng Chúa vẫn vang lên, kéo con ra khỏi cái mồ của sự chết. Amen.

----------------------------------
 

MC 5-A144: HÃY VỮNG TIN!


Anna Cỏ may

 “Thưa thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết!”
 

Khi em trai mình là Ladarô bị đau nặng, hai chị em Mácta và Maria đã cho người đến nói với MC 5-A144


Khi em trai mình là Ladarô bị đau nặng, hai chị em Mácta và Maria đã cho người đến nói với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng”. Nghe vậy, Chúa Giêsu bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh” (Ga 11, 3-4). Chúa Giêsu đã không đi ngay, Ngài còn lưu lại thêm hai ngày tại nơi đang ở. Sau đó, Chúa Giêsu mới đến với gia đình hai chị em. Lúc này, anh Ladarô đã chôn được bốn ngày trong mồ. Khi Chúa Giêsu vừa nới đến, cô Mácta liền ra đón Ngài mà nói: “Thưa Thầy, nếu Thầy ở đây thì em con đã không chết” (Ga 11,21). Cô Maria ra đón Chúa Giêsu cũng nói lời ấy. Như vậy, niềm tin của hai chị em mới dừng ở chỗ hiểu biết Ngài theo con mắt thế gian. Các cô tin Ngài sẽ chữa lành bệnh cho em mình, nhưng các cô chưa biết rằng, Ngài có thể lấy lại sự sống cho Ladarô cả khi anh đã chết. Hai chị em chỉ tin rằng Thầy sẽ cho em mình sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết. Cùng lúc thuận tiện có đám đông dân chúng đang ở đó, Ngài đã bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa, để cho mọi người tin vào Thiên Chúa và biết Ngài là ai. Chúa Giêsu theo họ đến trước mộ Ladarô. Vì đã được chôn bốn ngày, thi hài đã bắt đầu nặng mùi. Ngài nói: “Đem phiến đá này đi”. Cô Mácta đã ngăn cản Ngài, nhưng Ngài đã nói: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?”, rồi Ngài kêu lớn tiếng: “Anh Ladarô, hãy ra khỏi mồ!” (x. Ga 11, 39-43) . Người chết bước ra, trở lại cuộc sống trần gian.

Vậy, đâu là Chúa Giêsu đã mời chị em Mácta và đám đông tin vào?

Chúa Giêsu mời gọi các cô và mọi người hãy tin: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11, 25). Ngài là Đấng đem lại sự sống cho kẻ tin, là Đấng được sai đến để giải thoát con người khỏi sự thống trị của cái chết. Lời mời gọi đó vẫn lưu truyền cho những ai muốn được sống sự sống đời. Phần chúng ta, chúng ta đang tin Thiên Chúa như thế nào? Chúng ta tin Chúa Giêsu đang hiện diện và hoạt động ra sao trong thời đại này? Chỉ khi chúng ta có đức tin mạnh vào Thiên Chúa, chúng ta mới được cứu thoát.

Lạy Chúa! Chúa là nguồn hy vọng, là nơi nương tựa và là sức mạnh cho chúng con. Xin cho chúng con biết vững tin vào Chúa Giêsu, Đấng giải thoát chúng con khỏi quyền lực sự chết. Xin giúp chúng con biết nhận ra lòng thương xót của Chúa và mau mắn chạy đến nương ẩn nơi Ngài; để nhờ đó, chúng con được hưởng sự sống đời đời ngay từ ở đời này. Xin Chúa cho chúng con biết dùng chính đời sống chứng tá của mình mà tạ ơn Thiên Chúa. Amen.

--------------------------------
 

MC 5-A145: CHỈ CÓ CHÚA MỚI LÀM CHO SỐNG


Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
 

Chúng ta đang cử hành Chúa Nhật V Mùa Chay. Lời Chúa hôm nay nói nhiều về sự phục hồi hay MC 5-A145


Chúng ta đang cử hành Chúa Nhật V Mùa Chay. Lời Chúa hôm nay nói nhiều về sự phục hồi hay sự phục sinh.

Bài đọc I trích sách tiên tri Êdêkien. Vị tiên tri này được luôn nhắc đến như là một nhân vật của Mùa Chay. Ông được nhìn thấy một thị kiến về những bộ xương khô nằm la liệt trên thung lũng. Đó là hình ảnh về dân tộc Ítraen đã bị tàn lụy do tội lỗi, bệnh tật và những khó khăn khi họ phải sống trong cảnh lưu đày. Tiên tri Êdêkien cũng nhắc nhở dân ý thức rằng, nếu họ sống ở trong đất nước mình, nhưng họ vẫn còn ở xa Thiên Chúa, thì họ vẫn còn ở trong sự lưu đày tinh thần hay vẫn ở trong sự chết rồi. Chỉ có Thần Khí Đức Chúa mới có thể giải thoát con người khỏi cảnh lưu đày và sự chết như thế. Nên Thiên Chúa hứa ban Thần Khí cho họ, nhờ đó, họ sẽ được tái sinh và phục hồi sự sống cách mạnh mẽ. Thiên Chúa phán: “Đây Ta sắp cho Thần Khí nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ được sống… Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Ítraen” (Ed 37,6.13).

Trong bài đọc II, thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta rằng chỉ có Thánh Thần của Chúa Giêsu mới có thể mang lại sự sống cho chúng ta: “Nếu… Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8,11).

Nói khác khác, không có Thần Khí của Đức Chúa, người ta dù khỏe mạnh cũng phải chết. Đó là lý do tại Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: “Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì” (Ga 6,63).

Đây là điều rất hiển nhiên trong đời sống của Saolê, một vị vua của Ítraen. Khi Thần Khí rời bỏ ông, lập tức ông trở thành khốn nạn và yếu đuối (1 Sm 16,14-16). Vì thế, Thần Khí Đức Chúa là sự hiển nhiên về hoạt động và sự sống Thiên Chúa trong chúng ta. Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: “Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa” (Ep 4,30). Đây là điều rất quan trọng bởi vì Thần Thần là người hướng dẫn và nâng đỡ chúng ta.

Bài Tin Mừng Chúa Nhật này trình bày cho chúng ta về việc Chúa Giêsu chứng tỏ quyền năng của Người trên cái chết qua phép lạ cả thể cho Ladarô sống lại. Ladarô là người bạn được Chúa Giêsu yêu quý, anh bị bệnh nặng. Chị Mácta và Maria chạy đến xin Chúa cứu chữa, nhưng khi Chúa Giêsu đến, Ladarô đã chết được bốn ngày và được mai táng trong mồ. Khi chứng kiến cảnh đau buồn này, Chúa Giêsu đã khóc thương anh.

Máctha nói với Chúa: “Nếu Thầy ở đây, em con đã không chết,” có lẽ đó như là một lời trách móc. Nhưng Chúa Giêsu nói với chị: “Em chị sẽ sống lại.” Mácta nghĩ rằng Người đang nói về sự sống lại trong ngày sau hết. Chúa Giêsu xác nhận trong hiện tại: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Chị có tin thế không?” Cô trả lời: “Con tin.”

Họ tới mộ, Chúa Giêsu truyền cho họ lật viên đá cửa mồ, rồi Người lớn tiếng gọi: “Ladarô, hãy đi ra đây!” Và người chết chỗi dậy và đi ra khỏi mồ. Tin Mừng kể cho chúng ta điều đó.

Như thế, qua phép lạ này, Chúa Kitô minh chứng rằng Người thực sự là sự sống lại và sự sống. Người phép lạ này nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần.

Hơn nữa phép lạ cho Ladarô sống lại là hình bóng báo trước về sự phục sinh của Chúa Giêsu sau này. Ở đây cũng cần phân biệt sự phục sinh của Ladarô khác biệt với sự phục sinh của Chúa Giêsu. Ladarô chết và sống lại, nghĩa là quay lại sự sống trước đó (bios), là tạm thời. Còn Chúa Giêsu phục sinh là người đầu tiên đi vào sự sống mới, sống sự sống vĩnh cửu (zéon). Một khi đã sống lại, Chúa Giêsu không còn chết nữa; còn Ladarô sẽ phải chết.

Có những bài học mà chúng ta cần học từ bài Tin Mừng hôm nay. Trước hết, phép lạ này là một sự diễn tả về tình yêu. Chúa Giêsu yêu quý Ladarô, Người đến thăm anh và gia đình vì Người yêu quý họ. Niềm vui của họ là niềm vui của Người, và nỗi buồn của họ là nỗi buồn của Người.

Thứ đến, đức tin là yếu tố vô cùng quan trọng trong bất cứ phép lạ nào được thực hiện cho chúng ta. Chúa Giêsu nói với Mácta: “Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11,25. Như thế, tình yêu của Chúa Giêsu và đức tin của các người chị này làm cho quyền năng Chúa Thánh Thần hoạt động nơi Ladarô. Với đức tin, mọi sự đều có thể.

Bài học cuối cùng là Chúa Giêsu có quyền năng trên sự sống và sự chết. Người luôn sẵn sàng cứu giúp chúng ta với bất kỳ giá nào. Chúa Giêsu yêu mến và gọi chúng ta bằng tên riêng như Người gọi Ladarô: “Ladarô, hãy ra đây!” Nếu chúng ta lắng nghe và vâng lời Người, Người sẽ mang lại sự sống, sự phục sinh cho sự yếu hèn và thân xác hay chết nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần. Amen!

------------------------------------
 

MC 5-A146: CHÍNH THẦY LÀ SỰ SỐNG LẠI VÀ LÀ SỰ SỐNG


Lm. Đaminh Trần đình Nhi

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Ed 37:12-14;  Rm 8:8-11;  Ga 11:1-45)
 

Tiếp theo các cuộc khảo hạch đức tin trong hai Chúa Nhật trước, hôm nay là lần chót anh chị MC 5-A146


Tiếp theo các cuộc khảo hạch đức tin trong hai Chúa Nhật trước, hôm nay là lần chót anh chị em dự tòng tuyên xưng đức tin vào Chúa Ki-tô là sự sống lại và là sự sống, trước khi họ được rửa tội vào đêm Thứ Bảy Tuần Thánh.  Tường thuật phép lạ Chúa Giê-su cho anh La-da-rô sống lại sau khi anh chết đã bốn ngày là tâm điểm của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay (bài Tin Mừng).  Cô Mác-ta tuyên xưng đức tin vào Chúa Giê-su không những là điều anh chị em dự tòng phải biểu lộ đức tin mà cũng là điều tất cả chúng ta phải lấy làm nguồn hy vọng cho tương lai.  Nguyên lý của sự sống lại chính là quyền năng của Chúa Thánh Thần theo lời Thiên Chúa đã hứa qua ngôn sứ Ê-dê-ki-en (bài đọc 1).  Thánh Phao-lô suy tư về nguyên lý này và áp dụng vào đời sống Ki-tô hữu, để giúp ta sống theo Thần Khí bây giờ và được sống lại trong cuộc sống vĩnh cửu (bài đọc 2).

Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống.  Lời tuyên bố của Chúa Giê-su ở đây đã đáp lại nguyện vọng và lòng tin của cô Mác-ta.  Cô biết Chúa Giê-su là Đấng chữa lành, vì Người đã làm nhiều phép lạ cứu chữa những kẻ bệnh tật.  Nhưng có thể cô chưa bao giờ nghe nói Chúa Giê-su cho kẻ chết sống lại.  Do đó cô trách nhẹ Chúa:  “Nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết”.  Rồi cô biểu lộ niềm hy vọng:  “Nhưng bây giờ con biết:  bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”.  Cô vẫn chưa dám tin Chúa là Đấng sẽ cho kẻ chết sống lại;  bằng chứng là cô chỉ nghĩ em cô sẽ sống lại “trong ngày sau hết” chứ không phải “bây giờ”!  Nhưng đây chính là cơ hội để Chúa mặc khải cho cô biết:  “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống.  Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống”.  Thật tuyệt vời khi Chúa Giê-su khéo dẫn dắt cô Mác-ta tới đức tin trọn vẹn:  “Thưa Thầy, con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”.  Cô Mác-ta cần được Chúa dẫn dắt trong hành trình đức tin.  Nhưng với cô em Ma-ri-a thì khác, đức tin của cô được biểu lộ qua hành động:  vừa thấy Chúa, cô đã phủ phục dưới chân Người và lập lại cùng câu nói của cô Mác-ta:  “Nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết”.  Đức tin của cô là yên lặng phó thác nơi quyền năng Chúa.  Cô không nài nỉ Chúa về điều Người sẽ xin cùng Thiên Chúa Cha, nhưng để Chúa hoàn toàn quyết định.  Nếu cân nhắc, có lẽ chúng ta phải nói rằng đức tin của cô Ma-ri-a đã có một chiều sâu khác thường, trong khi với Mác-ta thì Chúa vẫn phải nhắc nhở cô lúc Người bảo người ta đem phiến đá lấp cửa mộ đi:  “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?”
Thần Khí của Thiên Chúa là nguyên lý cho sự sống lại.  Ngay buổi đầu tạo dựng, Thiên Chúa đã thổi “sinh khí vào lỗ mũi” con người để nó trở nên một sinh vật.  Sinh khí là sự sống của Thiên Chúa ban, không những cho sự sống phần xác mà cả sự sống phần hồn nữa.  Khi dân Ít-ra-en không sống theo đường lối và thánh chỉ của Thiên Chúa là họ đã cắt đứt liên hệ với Người, nói khác đi là cắt đứt khỏi sự sống của Người.  Họ sống phần xác, nhưng phần hồn đã bị chôn đáy huyệt rồi!  Tuy nhiên Thiên Chúa giàu lòng thương xót không nỡ để dân Người bị chôn vùi đáy huyệt của lưu đày, nên qua ngôn sứ Ê-dê-ki-en, Người đã hứa sẽ mở huyệt, đem họ về đất Ít-ra-en.  Sự “hồi sinh” của Ít-ra-en sau cuộc lưu đày là hình ảnh sống động nói lên cuộc sống lại của tâm hồn mỗi người chúng ta.  Thế nào chẳng có những lúc linh hồn chúng ta bị tội lỗi chôn vùi dưới đáy huyệt của nó.  Nhưng chắc chắn lòng Chúa thương xót sẽ mở cửa huyệt và đưa ta trở về với Người.
Suy tư của thánh Phao-lô về vai trò của Chúa Thánh Thần trong sự sống lại.  Thánh Phao-lô phân biệt rõ ràng tính xác thịt trái ngược với Thần Khí của Đức Ki-tô.  Ngài khẳng định rằng nếu ta để cho tính xác thịt, tức tội lỗi, chi phối thì ta không thể vừa lòng Thiên Chúa được, nghĩa là ta sẽ chết chứ không được chia sẻ sự sống của Thiên Chúa.  Nhưng vì ta có Thần Khí của Thiên Chúa cũng là Thần Khí của Đức Ki-tô ngự trong ta, nên ta “thuộc về Đức Ki-tô”, nghĩa là được sống với Chúa Ki-tô.  Rồi thánh Phao-lô còn quả quyết thêm rằng Thần Khí Chúa Ki-tô không chỉ đem lại sự sống cho linh hồn chúng ta, mà còn cho thân xác ta được sự sống mới trong ngày sau hết nữa.  Vai trò của Chúa Thánh Thần quan trọng như vậy mà chúng ta lại hay quên!
Sống sứ điệp Lời Chúa

          Đã từ lâu tôi vẫn thắc mắc tại sao Chúa Giê-su không nói “Chính Thầy là sự sống và là sự sống lại”, mà Người lại nói “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống”.  Sự đảo lộn vị trí này mang ý nghĩa gì?  Tại sao lại đặt sự sống lại trước sự sống?  Có lẽ chúng ta đều biết thánh sử Gio-an và thánh Phao-lô là các nhà thần học, nên các ngài thường trình bày vấn đề theo khía cạnh suy tư thần học.  Đối với chúng ta, trước hết Chúa Giê-su là sự sống lại, vì Người hồi sinh chúng ta và cứu ta khỏi cái chết do tội lỗi.  Sau khi chúng ta được tái sinh nhờ bí tích Rửa tội, ta sẽ tiếp tục sống đời sống mới trong tinh thần Chúa Ki-tô, tức là trong Chúa Thánh Thần.  Cuối cùng, sau cuộc sống trong Thánh Thần ở trần gian, ta sẽ được về nhà Cha trên trời để sống trong hạnh phúc vĩnh cửu.  Vậy nếu chúng ta đã cùng với chị em cô Mác-ta tuyên xưng Chúa Giê-su là sự sống lại và là sự sống, ta cũng hãy theo lời thánh Phao-lô mà sống chức phận con cái Chúa trong Thánh Thần!

------------------------------
 

MC 5-A147: HAI CUỘC ĐỜI


Trầm Thiên Thu
 

Chết Đi Để Rồi Được Sống Lại. Sống Lại Rồi Sẽ Vui Trường Sinh. Mỗi người chỉ có một cuộc MC 5-A147


Chết Đi Để Rồi Được Sống Lại

Sống Lại Rồi Sẽ Vui Trường Sinh

Mỗi người chỉ có một cuộc đời, nghĩa là không thể rút kinh nghiệm cho lần khác theo kiểu luân hồi. Và chắc chắn KHÔNG hề có kiếp luân hồi. Nhưng về tâm linh, con người có hai cuộc đời, hai lần sống – đời này và đời sau.

Thế gian có nhiều loại “cuộc,” nhưng có lẽ đặc biệt nhất là cuộc đời, với đủ thứ nhiêu khê. Thế nên luôn phải chiến đấu không ngừng, người đời gọi là bể khổ, Chúa Giêsu bảo phải vác thập giá.

Khổ đủ kiểu nên phải chiến đấu đủ thứ. Thánh Augustino phân tích: “Việc suy niệm của chúng ta về đời sống hiện tại phải ở trong lời ca ngợi Thiên Chúa; bởi vì niềm hoan lạc của đời sống muôn đời mai sau sẽ là lời ca ngợi Thiên Chúa. Ai chưa thực tập điều ấy ngay từ bây giờ thì không thể phù hợp với đời sống tương lai. Những lời cầu nguyện hằng ngày của các tín hữu đền bồi những sai lỗi sơ sài nhỏ mọn thường ngày của họ, những điều mà cuộc sống này không thể tránh được.” Thánh José Escriva nói: “Bằng những giọt nước mắt, những giọt nước mắt nam nhi nóng hổi, anh em có thể thanh tẩy được quá khứ và siêu nhiên hóa cuộc sống hiện tại của mình.” Chân phước Julian Norwich chia sẻ: “Khi bị trở tính và cô quạnh trong nỗi ngao ngán, chán chường với cuộc sống và bực dọc với bản thân, tôi đã nhẫn nại để tiếp tục sống giữa những khó khăn… và lập tức sau đó, Chúa lại ban cho linh hồn tôi niềm an ủi và thanh thản trong hoan lạc và vững tin.” Đúng là đời này khổ thật!

Cuộc đời cũng là cuộc sống, có sự sống bắt nguồn từ Thiên Chúa là Nguồn Sống. (Tv 36:10) Mỗi người đều có hai sự sống: Sự sống thể lý và sự sống tâm linh. Sự sống tâm linh quan trọng vì đó là sự sống của linh hồn, mà chính linh hồn mới làm cho thân xác sống, nhưng chỉ có Thiên Chúa mới thực sự là Nguồn Sống. (Tv 36:10) Chúa Giêsu đã minh định: “Chính Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.” (Ga 14:6) Đúng như Thánh Vịnh gia đã phân tích: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy Sinh Khí lại, chúng tắt thở ngay mà trở về cát bụi. Sinh Khí của Ngài, Ngài gửi tới, chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này.” (Tv 104:29-30)

Là người đời nhưng có những người “biết sống” rất khôn khéo. B. Brech nhận định: “Điều đáng sợ không phải là chết, mà là sống rỗng tuếch.” Còn Maxwell Winston Stone khuyên: “Đừng nghĩ đến cái chết về thể xác mà hãy trả lời câu hỏi: Bạn đã HOÀN THÀNH SỨ MỆNH CỦA CUỘC ĐỜI MÌNH chưa? Nhắc đến cái chết và chuẩn bị cho cuộc hành trình sang thế giới bên kia dường như khiến người ta bị quan, lo sợ. Nhưng theo nghĩa lạc quan, có một điều mới lạ sắp đến. Khi đó, bạn không còn cảm giác lo lắng hay sợ hãi nữa.” Rất độc đáo!

Thật vậy, “chính Ngài ban Sự Sống cho muôn vật, muôn loài,” (Nkm 9:6) nguyên tổ Ađam là người đầu tiên được đón nhận sự sống: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi Sinh Khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.” (St 2:7) Được sinh ra làm người là hồng ân rồi, dù chúng ta như thế nào – thậm chí có người sống đời thực vật, chứ chúng ta không có quyền đòi hỏi hoặc chọn lựa: “Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử, đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên.” (1 Sm 2:6; x. Kn 16:13 và Tv 30:4) Chắc chắn bất cứ ai cũng không thoát khỏi tay Ngài. (Tb 13:2; Ed 43:13)

Có bị bệnh mới biết quý sức khỏe, có gặp nguy hiểm mới nhận thức sự sống rất cần, cụ thể là trong tình hình phức tạp của đại dịch Corona hiện nay. Vì thế, ai cũng phải ý thức có trách nhiệm bảo vệ sự sống – cho mình và cho người khác. Sự sống liên quan không khí, dưỡng khí hoặc ô-xy chúng ta hít thở từng phút, từng giây. Thiếu không khí vài phút thì mọi vật chết hết, cả sinh vật và động vật. Chính không khí là đại hồng ân Thiên Chúa trao ban cho mọi loài, chúng ta sử dụng liên tục mà vẫn coi thường, vô ơn bạc nghĩa, dám làm ô nhiễm môi trường, hủy hoại môi sinh, tiêu diệt sự sống. Đó là tự hại chính mình, tức là tự sát.

Từ ngàn xưa, qua ngôn sứ Êdêkien, chính Thiên Chúa đã truyền lệnh cho Israel: “Ngươi hãy tuyên sấm, hãy nói với chúng rằng Đức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Israel. Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, khi Ta mở huyệt cho các ngươi và đưa các ngươi lên khỏi huyệt, hỡi dân Ta!” (Ed 37:12-13). Được ra khỏi huyệt mộ là thoát khỏi cõi chết, là được sống. Thật là đại phúc nhãn tiền!

Như để giải thích, Thiên Chúa cho biết: “Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh. Ta sẽ cho các ngươi định cư trên đất của các ngươi. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, Ta đã phán là Ta làm.” (Ed 37:14) Chúng ta được Thiên Chúa “thổi hơi” để ban Thần Khí, nhờ đó mà chúng ta sống. Và còn hơn là sống, bởi vì chúng ta còn được sống dồi dào, (Ga 10:10) đúng như Chúa Giêsu đã hứa. Lời Chúa xác quyết “Ta đã phán là Ta làm” khiến chúng ta an tâm. Quả thật, Ngài rất thẳng thắn và không bao giờ sai lời. Tuyệt vời là thế, bởi vì Thiên Chúa luôn trung tín và yêu thương trọn niềm.

Bất cứ ai ở trong bóng tối là CHẾT, ở trong ánh sáng là SỐNG. Tất cả chúng ta đã từng “chết” khi ở trong bóng tối – bóng tối tội lỗi. Vì thế, chúng ta luôn phải van xin: “Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy Chúa, muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con. Dám xin Ngài lắng tai để ý nghe lời con tha thiết nguyện cầu.” (Tv 130:1-2) Đó là lời cầu cấp tốc, lời cầu khẩn cấp, như tiếng còi vang lên từ xe cứu thương, cứu hỏa – và còn hơn thế nữa.

Chính điều đó lại là hồng ân, nghĩa là chúng ta biết kịp thời đánh moóc  SOS nên được sống, nhờ Thiên Chúa cứu vớt. Vâng, ước gì mỗi khi gặp hoạn nạn, chúng ta luôn biết cầu xin và thành tín: “Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài.” (Tv 130:3-4) Tuy nhiên, muốn vậy cũng không hề dễ dàng nếu chúng ta không “hết lòng mong đợi và cậy trông ở lời Chúa.” (Tv 130:5) Thực sự muốn được sống thì phải tâm niệm rạch ròi: “Hồn tôi trông chờ Chúa, hơn lính canh mong đợi hừng đông. Hơn lính canh mong đợi hừng đông, bởi Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu chuộc nơi Ngài chan chứa. Chính Ngài sẽ cứu khỏi tội khiên muôn vàn.” (Tv 130:6-8) Và chỉ một mình Ngài mới có thể cứu sinh mà thôi.

Thánh Gioan Eudes so sánh: “Không khí chúng ta thở, cơm bánh chúng ta ăn, trái tim đập trong lồng ngực chúng ta cũng không cần thiết để giúp chúng ta có thể sống đúng là một con người cho bằng lời cầu nguyện giúp cho chúng ta có thể sống đúng là một tín hữu.” Chuyện sống – chết liên quan cả xác và hồn. Cụ thể là thân xác, nhưng cũng cần phân biệt “xác thịt” và “tính xác thịt”. Đôi khi “tính xác thịt” còn nguy hiểm hơn “xác thịt.” Có lẽ vì thế mà Giáo Hội “đề nghị” lời cầu nguyện trong mầu nhiệm thứ 5 Mùa Thương: “Xin cho con biết đóng đinh tính xác thịt vào Thánh Giá Chúa.” Đặc biệt là chính Chúa Giêsu cũng đã cảnh báo: “Tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn.” (Mt 26:41; Mc 14:38) Quả thật, không hề đơn giản!

Nếu nói vậy thì có lẽ có thể có người muốn “nổi loạn” và muốn “kiện” Chúa, vì cho rằng Ngài đã tạo nên một dạng thân-xác-yếu-hèn. Ý nói là Chúa đã “cài đặt” mặc định (default) như vậy rồi, y như máy vi tính đã “đóng băng” (Deep Freeze), chúng ta có thay đổi mọi thứ thì nó cũng trở về “mặc định” sau khi nó được khởi động lại (restart). Thế nhưng không phải như vậy. Lý do? Thứ nhất, đó là điều mầu nhiệm, chúng ta không đủ trình độ để hiểu thấu. Thứ nhì, đó là Thiên Chúa KHÔNG BAO GIỜ TẠO ĐIỀU XẤU, vì Ngài là Đấng chí thánh, nơi Ngài CHỈ CÓ ĐIỀU TỐT LÀNH mà thôi.

Tính xác thịt ra sao? Thánh Phaolô cho biết: “Những ai bị TÍNH XÁC THỊT chi phối thì KHÔNG THỂ vừa lòng Thiên Chúa.” (Rm 8:8) Thật nguy hiểm! Nhưng diễm phúc cho chúng ta bởi vì chúng ta được làm “con cái Thiên Chúa,” như Thánh Phaolô giải thích: “Anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em. Ai không có Thần Khí của Đức Kitô thì không thuộc về Đức Kitô.” (Rm 8:9) Thế thì trên mức tuyệt vời rồi, và thực sự mỗi chúng ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần. (1 Cr 3:16-17; 1 Cr 6:19)

Liên quan chuyện sống – chết, Thánh Phaolô vừa giải thích vừa xác định: “Nếu Đức Kitô ở trong anh em thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em ĐƯỢC SỐNG, vì anh em đã được TRỞ NÊN CÔNG CHÍNH. Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu SỐNG LẠI từ cõi chết, Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em mà làm cho thân xác của anh em được SỰ SỐNG MỚI.” (Rm 8:10-11)

Quyền sinh tử thuộc về Thiên Chúa, không một phàm nhân nào được làm hại sự sống của con người, dù sự sống đó chưa được sinh ra là một hài nhi. Đúng như vậy, bởi vì “Thiên Chúa nắm chủ quyền trên mọi xác phàm.” (Đn 14:5) Thật vậy, chính Chúa Cha đã ban cho Đức Kitô quyền trên mọi phàm nhân (Ga 17:12) và trên mọi chi tộc. (Kh 13:7)

Một câu chuyện cổ-tích-có-thật được Thánh sử Gioan kể lại qua trình thuật Ga 11:1-45 rất thú vị. Sự thể là có một người bị đau nặng tên là Ladarô, quê ở Bêtania, em trai của hai chị em cô Mácta và Maria (người sau này sẽ xức dầu thơm và lấy tóc lau chân Chúa Giêsu tại nhà ông Simôn Cùi – Mt 26:6-13; Mc 14:3-9; Lc 7:36-48; Ga 12:1-8). Anh Ladarô bị đau nặng và không tránh khỏi lưỡi hái tử thần. Nhà có đám tang.

Trước đó, khi thấy em trai bị bệnh nặng, hai chị em gái cho người đến báo tin buồn cho Đức Giêsu: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng.” Cách nói đó cho thấy Ladarô rõ ràng là “người mà Chúa Giêsu thương mến,” vậy mà Ngài vẫn thản nhiên bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh.” Chúa Giêsu không dùng từ nào thừa hoặc thiếu, nhưng rất chính xác và đầy đủ, vì Ngài biết Ngài sắp làm gì.

Kinh Thánh cho thấy Chúa Giêsu quý cả ba chị em Mácta, Maria và Ladarô, nên lần đó Ngài đã lưu lại thêm hai ngày rồi mới cùng các môn đệ trở lại Giuđê. Các môn đệ thấy người Do Thái mới tìm cách ném đá Thầy, nên muốn can ngăn. Nhưng Ngài bảo: “Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng mặt trời. Còn ai đi ban đêm thì vấp ngã, vì không có ánh sáng nơi mình!” [*]

Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Ladarô, BẠN của chúng ta, đang yên giấc. Tuy vậy, Thầy đi ĐÁNH THỨC anh ấy đây.” Các môn đệ nói: “Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc được, anh ấy sẽ khoẻ lại.” Họ không hiểu ý của hai từ “yên giấc” mà Ngài sử dụng, họ cứ tưởng Ngài nói về giấc ngủ bình thường. Thế nhưng Ngài muốn đề cập SỰ CHẾT. Và rồi Ngài nói rõ: “Ladarô đã chết. Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi, nào chúng ta đến với anh ấy.” Ôi chao! Thấy người ta chết mà lại bảo là “mừng.” Coi bộ “căng” thật! Nhưng đúng vậy, Ngài mừng vì Ngài không có mặt ở đó để người ta thêm tin khi thấy việc Ngài làm: Cải tử hoàn sinh cho anh bạn Ladarô. Cái gì cũng có lý do của nó!

Nhờ vậy, hôm đó các môn đệ đã đồng tâm nhất trí muốn “cùng chết với Sư Phụ.” Tốt lắm, ít ra cũng phải vậy. Dù CHƯA làm được điều mình muốn thì ít ra cũng biết MUỐN điều mình MUỐN THỰC HIỆN, ý muốn thực sự rất quan trọng để có thể thực hiện.

Kinh Thánh không nói rõ nhưng chắc hẳn Ladarô bệnh nặng lắm nên mới mau chết như vậy. Mặc dù đường không xa, nhưng khi Chúa Giêsu đến nơi thì người ta đã an táng Ladarô được bốn ngày rồi. Làng Bêtania cách Giêrusalem không đầy ba cây số, nhưng thời đó cuốc bộ suốt nên mất nhiều thời gian. Có nhiều người Do Thái đến phúng điếu và chia buồn với chị em Mácta và Maria, bởi vì nghĩa tử là nghĩa tận.

Hôm đó, khi nghe tin Đức Giêsu đến, cô Mácta liền ra đón Ngài, còn cô Maria thì cứ ngồi ở nhà, cứ bình thường, như không có gì quan trọng. Hay thật, có lẽ phong cách của cô rất thản nhiên. Nhà hiếu chưa yên chuyện buồn thì lại có chuyện khác. Cuộc đời đúng là rắc rối thật, không như mình tưởng.

Lòng buồn rười rượi, nhưng Mácta vẫn tin tưởng nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy.” Ngài bảo: “Em chị sẽ sống lại!” Mácta thưa rằng cô vẫn tin kẻ chết sống lại trong ngày sau hết. Và Ngài nói: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết.” Ngài hỏi Mácta có tin như vậy hay không, Mácta mạnh mẽ xác tín: “Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.” Là một nữ nhi mà có lời tuyên xưng thật tuyệt vời!

Và rồi Mácta đi nói nhỏ với Maria: “Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy!” Nghe vậy, Maria vội đứng lên và đến với Đức Giêsu. Lúc đó, Ngài chưa vào làng, vẫn ở chỗ Mácta đã ra đón. Những người Do Thái thấy Maria vội vã đứng dậy đi ra thì cũng đi theo, vì họ tưởng cô ra mộ khóc em. Nhiều sự kiện đan xen nhau trong ngày hôm đó.

Vừa đến gần Đức Giêsu, Maria liền phủ phục dưới chân và nói: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết.” Cả hai chị em đều đặt tình huống “nếu” với Đức Giêsu. Thật là tội nghiệp hết sức! Thấy cô khóc, những người Do Thái đi với cô cũng khóc, rồi Đức Giêsu thổn thức trong lòng và cảm thấy xao xuyến. Lúc đó chắc là Maria khóc em trai dữ lắm. Rồi Ngài hỏi xác anh ấy ở đâu. Họ mời Ngài đến xem, và Ngài đã khóc. Thấy thế, người Do Thái bảo nhau: “Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy!” Có vài người thắc mắc là Chúa Giêsu đã từng mở mắt cho người mù mà sao lại không làm cho anh ấy khỏi chết. Nghe họ nói vậy nên Chúa Giêsu lại thổn thức trong lòng. Thương lắm chứ, thế nên Ngài đã “chạnh lòng thương” tới ba lần! Rồi Ngài đi tới mộ Ladarô, phiến đá vẫn đậy kín cửa hang. Ngài bảo lấy phiến đá ra. Mácta bảo nặng mùi rồi, vì Ladarô đã an táng được bốn ngày. Chúa Giêsu nhắc lại chuyện đức tin. Và không ai dám có ý kiến gì. Họ lăn tảng đá ra…

Lúc đó, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con.” Nói xong, Ngài kêu lớn tiếng: “Anh Ladarô, hãy ra khỏi mồ!” Thật lạ lùng, người chết bước ra trong khi vẫn còn quấn vải liệm. Chắc hẳn ai cũng vừa kinh ngạc vừa sợ hãi. Đức Giêsu bảo: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi.” Hai bà chị cũng ngạc nhiên không kém, nhưng họ rất vui mừng không chỉ vì em trai sống lại, mà chính họ biết niềm tin của họ hoàn toàn chính xác: Đúng Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ phải đến thế gian này.

Có điều đặc biệt trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, đó là Thánh sử Gioan cho biết rằng những người Do Thái đến đám tang La-da-rô hôm đó đã chứng kiến việc Đức Giêsu làm, và có NHIỀU KẺ ĐÃ TIN VÀO NGÀI. Những người đã tin vào Chúa Giêsu là những người thực sự diễm phúc. Nhận biết và tin là một hành trình, nhưng không phải ai cũng làm được.

Liên quan đức tin, chợt nhớ lại một mối phúc đặc biệt mà chính Chúa Giêsu, sau khi phục sinh, đã nói với tông đồ Tôma: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin.” (Ga 20:29) Không thấy thì khó tin hơn, nhưng khó hơn mà tin thì mới có phúc hơn.

Lạy Thiên Chúa hằng sống, chúng con còn yếu đuối lắm, xin thêm đức tin cho chúng con, bởi vì không có Ngài thì chúng con không thể làm gì được. (Ga 15:5) Lạy Cha toàn năng, xin biến đổi đức tin yếu kém của chúng con thành đức tin mạnh mẽ nhờ Con Yêu Dấu của Ngài – Đức Giêsu Kitô, để chúng con vẫn mãi thuộc về Ngài dù SỐNG hay CHẾT. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

------------------
 [*] Có lẽ vì “người Do Thái tìm cách ném đá Chúa Giêsu” nên ngày xưa, Chúa Nhật V Mùa Chay được các Kitô hữu “thân thương” gọi là “lễ ném đá.” Thời đó, các ảnh tượng trong nhà thờ đều được “che kín” bằng vải tím.

------------------------------------------
 

MC 5-A148: THẦY LÀ SỰ SỐNG LẠI VÀ LÀ SỰ SỐNG


Lm.Giuse Đỗ Đức Trí
 

Trận dịch do virus Vũ Hán đang càn quét thế giới, khiến cho con người cảm thấy cuộc sống thật MC 5-A148


Trận dịch do virus Vũ Hán đang càn quét thế giới, khiến cho con người cảm thấy cuộc sống thật quý giá và cũng thật mong manh. Tại Vũ Hán, có nhiều người đã đem tiền ném ra đường, vì với họ, nhiều tiền cũng không có ý nghĩa gì, chỉ có mạng sống là quan trọng mà thôi; có người phát điên vì bị cách ly quá lâu và sống trong sự căng thẳng đối diện từng ngày với cái chết. Trên Facebook có một suy tư được đăng tải với tựa đề: Một trận ôn dịch giúp ta minh bạnh được cuộc đời. Tác giả viết: Trên đời này ngoài chuyện sinh tử ra, mọi thứ khác đều là chuyện nhỏ. Tiền tài dẫu có tốt cũng không tốt được bằng sinh mệnh, danh lợi dẫu có lớn, cũng không lớn bằng sức khoẻ. Được sống mới là hạnh phúc nhất, sinh mệnh mới là của cải đáng quý nhất. Một trận ôn dịch khiến chúng ta minh bạch rằng: Chiếc giường đắt nhất là giường bệnh, thứ thuốc tốt nhất trên đời là sức khoẻ, chúng ta vất vả bán mạng, bán sức khỏe để kiếm tiền, làm lụng ngày đêm mà quên rằng thân thể và tâm hồn cũng cần được nuôi dưỡng, đến khi thân thể suy nhược lại rút hết tiền đã kiếm được để uống thuốc. Cuộc sống bộn bề với công việc khiến chúng ta mất đi các tương quan với những người thân bên cạnh. Một trận ôn dịch giúp chúng ta nhận ra rằng: gia đình vẫn là điều quan trọng nhất, trong gia đình có tình yêu thương của cha mẹ, của người bạn đời là những người luôn kề cận chúng ta khi chúng ta khó khăn nhất.

Thưa quý OBACE, Tin Mừng vẫn thường nói cho chúng ta những điều đó, nhưng dường như chúng ta vẫn để ngoài tai. Chỉ khi đối diện, cận kề với cái chết, người ta mới nhận ra, đâu là những giá trị chân thật và đâu là những điều hào nhoáng mau qua. Bước vào Chúa nhật thứ V Mùa chay, Lời Chúa một lần nữa quả quyết cho chúng ta: Chỉ có Thiên Chúa là nguồn sự sống và là Đấng ban sự sống, đó là món quà quý giá nhất Ngài ban cho nhân loại.

Bài đọc một kể về giai đoạn bi đát cùng cực nhất của dân Do Thái, khi họ đang từng ngày phải đối diện với đau khổ áp bức và cái chết bởi người Babylon gây ra. Người Do Thái đang trải qua những ngày tháng tuyệt vọng, tuy còn sống nhưng tâm hồn và ý chí, nghị lực của họ đã chết, như đã bị chôn vùi. Tiên Tri Ezekiel đã đem đến cho họ một luồng sinh khí của Thiên Chúa khi nói với họ: “Chính Ta sẽ mở huyệt mộ cho các ngươi, sẽ đem các ngươi ra khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Israel…Ta sẽ đặt Thần Khí của ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh… bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa.” Những lời này không chỉ là một lời hứa, mà là tất cả những gì Thiên Chúa đã làm cho Israel, Ngài trao ban thần khí tức là trao ban sự sống của Ngài, để họ được hồi sinh cả thể xác và tâm hồn. Vì Thiên Chúa là Chúa của sự sống chứ không phải Thiên Chúa của sự chết, Ngài đem lại sự sống cho nhân loại chứ không huỷ diệt nó.

Thần khí mà tiên tri Ezekiel nói đến, sau này được thánh Phaolô giải thích rõ hơn trong thư Rôma. Theo Thánh Phaolô, những người sống và để cho tính xác thịt làm chủ và chi phối, thì người ấy sẽ xa lìa Thiên Chúa là nguồn sống, còn những ai để cho Thần Khí của Thiên Chúa chi phối thì người ấy sẽ đón nhận được sự sống từ Thần Khí. Để đón nhận được sự sống của Đức Giêsu Kitô, đòi chúng ta phải tin Ngài là Thiên Chúa, là Đấng ban sự sống và là Đấng làm chủ sự sống và sự chết. Câu chuyện Chúa Giêsu cho Lazarô chết chôn trong mồ được chỗi dậy muốn nhấn mạnh điều đó. Đối với Chúa Giêsu, việc Lazarô đau bệnh và chết cũng chỉ giống như một giấc ngủ trưa. Vì thế khi được tin Lazarô đau bệnh, Chúa Giêsu không vội vàng, trái lại, Ngài còn cho thấy đây là dịp để mọi người nhận biết vinh quang Thiên Chúa.

Khi Chúa Giêsu đến nhà Matta và Maria, lúc đó Lazarô đã chết và được chôn bốn ngày. Đối với chị em cô Matta, Chúa Giêsu đã đến quá trễ, không thể thay đổi gì được nữa. Chúa Giêsu không muốn để một tâm hồn rơi vào đau khổ, tuyệt vọng như vậy, Ngài đã từng bước nâng đỡ và khơi lại niềm tin trong tâm hồn chị em cô Matta. Câu chuyện cho thấy: Khi nghe tin Chúa Giêsu đến thăm, cô Matta đã chạy ra đầu làng để đón Chúa Giêsu. Tuy nhiên, qua lời cô như trách Chúa, cho thấy, ánh sáng hy vọng trong tâm hồn cô chỉ còn leo lét: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Nhưng con biết bây giờ Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy.” Chị em cô Matta và Maria chỉ mới chỉ tin rằng Chúa Giêsu làm cho con gái ông Giairô sống lại là vì Chúa đã đến kịp thời, còn trường hợp của Lazarô, Chúa đến đã quá trễ. Chúa Giêsu không nỡ để cho một chút lửa đức tin nơi tâm hồn cô phải lụi tàn, Ngài đã động viên cô: “Em con sẽ sống lại…Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết.” Sau khi tuyên bố như thế, Chúa Giêsu đã muốn thẩm vấn cô Matta để cô phải tự nói lên đức tin của mình. Chúa hỏi:“Con có tin điều đó không? Cô Matta đáp: Thưa Thầy có. Con vẫn tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.”

Mặc dù tuyên xưng cách mạnh mẽ như thế, nhưng khi đi đến phần mộ, Chúa Giêsu bảo: “Hãy mở nắp mộ ra”, cô Matta lại can ngăn: “Thưa Thầy đã nặng mùi rồi vì đã chôn được bốn ngày.” Điều đó cho thấy từ đức tin đến thực tế luôn có một khoảng cách khó vượt qua, nhất là tin Đức Giêsu là Thiên Chúa quyền năng, Đấng có thể làm cho kẻ chết sống lại và trả lại cho con người sự sống. Một lần nữa Chúa Giêsu lại nâng đỡ đức tin của cô Matta và mọi người khi quả quyết rằng: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang Thiên Chúa sao?”

Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha vì Cha đã nhậm lời con…nhưng vì những người đang đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con. Nói xong, Ngài hô lớn: Anh Lazarô hãy ra đây. Người chết liền đi ra, chân tay còn quấn vải liệm và mặt còn phủ khăn. Chúa Giêsu bảo: Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi.” Nhiều người Do Thái chứng kiến việc Đức Giêsu đã làm, đã tin vào Người. Chúa Giêsu không chủ trương làm phép lạ để thu hút nhiều người, nhưng Ngài làm phép lạ là để củng cố, nâng đỡ đức tin cho những người thành tâm thiện chí.

Với phép lạ cho Lazarô sống lại, Chúa Giêsu muốn cho chị em cô Matta xác tín cách chắc chắn hơn nữa vào lời quả quyết của Ngài: “Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin nơi Thầy thì sẽ được sống.” Hơn nữa, phép lạ này báo trước việc Chúa Giêsu sẽ chiến thắng ma quỷ và tội lỗi là kẻ gây ra cái chết cho nhân loại. Ngài dùng quyền năng của Thánh Thần đạp tung cửa mồ sự chết và sống lại trong vinh quang. Chúa Giêsu chiến thắng tử thần và ma quỷ, đem lại cho tất cả những ai tin Ngài là Đấng Cứu Thế, là chính Thiên Chúa thì sẽ được sống đời đời với Chúa.

Thưa quý OBACE, Thánh Phaolô quả quyết: “Thần Khí của Đức Kitô cũng chính là Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết… Thần Khí ấy cũng làm cho thân xác anh em được sự sống mới.” Như vậy, tin Đức Giêsu là sự sống lại và là sự sống, chúng ta cũng cần để cho Thần Khí của Đức Kitô làm chủ và hoạt động trong chúng ta, trao ban cho chúng ta sự sống. Sự sống là điều quan trọng nhất trong cuộc đời và sự sống phần linh hồn còn quan trọng hơn và phải là mục tiêu của mỗi người nhắm tới. Vì đánh mất sự sống là đánh mất tất cả, đánh mất sự sống đời đời là thất bại hoàn toàn.

Cái nguy hiểm của virus Vũ Hán là nó tấn công vào phổi khiến cho bệnh nhân không thở được và chết. Tội lỗi, dục vọng và những đam mê xác thịt, của cải danh vọng cũng giống như con virus này. Nó tấn công vào cuộc đời chúng ta, làm cho cuộc sống ra chậm chạp năng nề không đón nhận được hơi thở Thần Khí. Nó làm cho lá phổi của linh hồn không thể hoạt động, khiến ta bị chết ngạt trong cuộc đời của mình. Thứ virus dục vọng, đam mê, lười biếng này nó lây lan từ cha mẹ đến con cái, làm cho đời sống gia đình trở nên ngột ngạt, thiếu sức sống. Ma quỷ cũng gieo các loại virus kiêu ngạo, hưởng thụ, tham công tiếc việc, chạy theo bằng cấp vào các bạn trẻ, nó khuyến khích các bạn trẻ thăng tiến trong xã hội, nhưng lại làm ngơ để cho đời sống đức tin bị tấn công. Nó làm cho đời sống đạo của mỗi người ra èo uột, không hoạt động, không sức sống. Đó là những thứ virus gây bệnh nguy hiểm cho đời sống đức tin của mỗi người.

Xin Thần Khí của Thiên Chúa đã hoạt động trong Chúa Giêsu và làm cho Ngài từ cõi chết sống lại, cũng hoạt động mạnh mẽ trong chúng ta, củng cố đức tin vào Chúa Giêsu là Đấng ban sự sống và biến chúng ta nên những con người mới, sống và hoạt động theo sự hướng dẫn của Thánh Thần. Amen

-----------------------------------
 

MC 5-A149: HÃY RA KHỎI MỒ


Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
 

Từ đầu Mùa Chay, chúng ta đã được mời gọi sống tinh thần khổ chế, hãm mình hy sinh. Có thể MC 5-A149


Từ đầu Mùa Chay, chúng ta đã được mời gọi sống tinh thần khổ chế, hãm mình hy sinh. Có thể nhiều người trong chúng ta đặt ra câu hỏi: “Mục đích của những hy sinh khổ chế của Mùa Chay là gì?” Phụng vụ hôm nay cho chúng ta cầu trả lời: Những hy sinh hãm minh của Mùa Chay giúp chúng ta “ra khỏi mồ”, hồi sinh và sống một cuộc sống mới.
 
Chúa Giêsu là nguồn sống đích thực. Người đến trần gian để ban cho con người sự sống. Người mời gọi con chúng ta bước ra khỏi cõi chết tối tăm để sống trong ánh sáng huy hoàng. Chính Người đã sống lại vinh quang từ cõi chết, như một bảo đảm cho những ai tin vào Người cũng được phục sinh với Người. Phép lạ làm cho ông Lagiarô đã chết được sống lại nhằm chứng minh những gì Chúa Giêsu đã khẳng định trước đó.
 
“Ngôi Lời là sự sống“, đó là một trong những chủ đề quan trọng của Tin Mừng Thánh Gioan. Điều này đã được khẳng định trong lời mở đầu của Tin Mừng (x. Ga 1,4). Sau này, tác giả còn tiếp tục triển khai ý niệm “Lời sự sống” (x. 1 Ga 1,2) để mời gọi các tín hữu, một khi đã được đón nhận Sự Sống là Chính Chúa Giêsu, hãy sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa.
 
Trở lại với trình thuật Chúa làm cho ông Lagiarô đã chết được sống lại. Đây là “dấu lạ” thứ bảy trong Tin Mừng thánh Gioan, cũng là dấu lạ cuối cùng trong tác phẩm (dấu lạ thứ tám ở chương 21 về mẻ lưới kỳ diệu được coi như phần bổ sung). Dấu lạ này cũng khép lại phần I của Tin Mừng, trước khi bước sang phần thứ II (từ chương 13) kể lại cuộc thương khó của Chúa. Câu chuyện không chỉ liên quan đến cá nhân ông Lagiarô, nhưng hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc.
 
Một chi tiết quan trọng không nên bỏ qua: các môn đệ cùng với Chúa Giêsu tiến về Bêthania, nơi có Lagiarô vừa qua đời. Qua câu nói của Tôma: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thày” (câu 16), chúng ta thấy các ông linh cảm về những gì sẽ xảy ra và sự cương quyết chấp nhận lên đường cùng Thày mình. Bầu không khí và câu nói của Tôma diễn tả các môn đệ đang cùng đi với Thày mình đến gần cái chết, vì ở đó những người Do Thái đang tìm ném đá Thày (câu 8).
 
“Hành trình đến sự chết” cũng là hành trình của Mùa Chay. Nhưng chúng ta tin rằng, hành trình ấy không kết thúc đau đớn và u ám trong nấm mộ. Những thực hành của Mùa Chay không dẫn chúng ta đến sự chết như đích điểm cuối cùng, nhưng đến sự sống. Bởi Thiên Chúa quyền năng sẽ mở những huyệt mộ và đưa chúng ta ra khỏi đó (Bài đọc I). Mỗi chúng ta đang sống trong những huyệt mộ của ghen ghét, ích kỷ, hẹp hòi. Chúa Giêsu đến để mở tung những huyệt mộ đó. Người dẫn chúng ta bước đi dưới ánh sáng thiêng liêng là chính bản thân Người. Nhờ ánh sáng này, chúng ta sẽ không còn vấp ngã (câu 10). Điều quan trọng là chúng ta có can đảm để lên đường với Người không. Trong một bối cảnh đầy lo âu và nguy hiểm đang rình rập, Tôma và các môn đệ đã cất bước theo Thày mình. Các ông đã được chứng kiến phép lạ Chúa làm, như một phần thưởng cho những ai can đảm trung thành.
 
Khi “gọi” người chết ra khỏi mồ, Đức Giêsu chứng tỏ quyền năng Thiên Chúa của mình. “Gọi” là chức năng và vai trò của “Lời”. Cũng như từ thuở đầu của công trình sáng tạo, Thiên Chúa đã dùng lời của Ngài gọi vạn vật từ hư vô đến hiện hữu. Nay, Ngài dùng Lời của Ngài mà gọi con người từ cõi chết đến cõi sống. Lời gọi này còn như một lệnh truyền, một lời sai bảo của người bậc trên đối với người cấp dưới. Chúa đã gọi con người từ bóng tối tới ánh sáng; từ cõi chết đến cõi sống. Hôm nay, Ngài đang dùng Lời của Ngài mà gọi chúng ta. Chúng ta có lắng nghe tiếng gọi của Con Thiên Chúa để từ cõi chết bước đến cõi sống không?
 
Chúa Giêsu đã đặt câu hỏi với Mátta là chị của người chết: “Chị có tin không?“. Tin vào Chúa trong lúc gian nan đau khổ là một hành vi can đảm, giống như chấp nhận lên đường với Người vào lúc nhiều bóng tối đe dọa phía trước. Lời tuyên xưng của Mát-ta: “Thưa Thày, con vẫn tin Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa” là mẫu mực cho chúng ta.  Lời tuyên xưng ấy giúp ta bừng sáng niềm hy vọng trong giây phút ảm đạm của cuộc đời. Lời tuyên xưng ấy kèm theo niềm xác tín nơi Chúa Giêsu và nơi Chúa Cha: “Con biết rằng bất cứ điều gì Thày xin cùng Thiên Chúa, Ngài cũng sẽ ban cho Thày”. Một người đã chết, nằm trong mộ bốn ngày, xét theo cái nhìn trần gian là không thể hồi sinh. Vậy mà đối với Thiên Chúa, lại là một điều có thể được. Bởi lẽ Ngài là Đấng quyền năng và giàu lòng thương xót.
 
Mátta và Maria tin chắc chắn vào sự sống lại ngày sau hết. Đó cũng là đức tin mà chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin kính. Tuy vậy, Chúa Giêsu muốn khẳng định, sự sống lại không chỉ ở ngày sau hết, tức là ngày tận thế, mà đã khởi đầu trong cuộc lữ hành trần gian hiện tại. Chúng ta phải luôn hồi sinh, phải luôn “sống lại”, tức là đổi mới cuộc đời, giã từ tội lỗi và bước ra khỏi nấm mồ. Những nấm mồ hôm nay, không chỉ là sự ghen ghét ích kỷ, mà còn là những khó khăn bế tắc của kiếp người. Biết bao người đang đắm chìm trong thất vọng. Họ như đang bị chôn vùi trong huyệt mộ, khi đứng trước đau khổ, bệnh tật, thất nghiệp, mâu thuẫn, nghèo đói… Họ rất đang cần được Chúa giải thoát khỏi những nấm mồ ấy.
 
“Hỡi anh Lagiarô, hãy ra khỏi mồ!“. Hôm nay, Chúa Giêsu cũng đang dùng lời ấy mà kêu gọi chúng ta. Bạn và tôi, chúng ta đang ở đâu trong “hành trình đến sự chết”, khi Mùa Chay đã sắp đến hồi kết thúc? Xin Chúa cho chúng ta cam đảm bước ra khỏi những nấm mồ, vươn tới ánh sáng huy hoàng của Đấng phục sinh. Amen.

----------------------------------
 

MC 5-A150: GIA ĐÌNH THÂN THIỆN CỦA CHÚA


Lm Giuse Hoàng Kim Toan
 

Gia đình Matta, Maria và Lazaro, rất thân thiện với Chúa. Mỗi khi lên Giêrusalem Chúa Giêsu thường MC 5-A150


Gia đình Matta, Maria và Lazaro, rất thân thiện với Chúa. Mỗi khi lên Giêrusalem Chúa Giêsu thường ghé thăm gia đình này. Các gia đình hôm nay, có là ngôi nhà Chúa thường xuyên lui tới và ở lại, để hạnh phúc và niềm vui của gia đình được tràn đầy, cùng để Chúa chia sẻ những nỗi gian truân và đau khổ.

Nhân sự kiện Lazaro chết.

Đó là câu chuyện đau buồn của một gia đình khi mất đi người thân, đặc biệt đó là người em út dễ thương trong gia đình. Sự đau buồn ấy được bộc lộ cách tự nhiên khi Matta chạy ra đón Chúa đã thưa: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết” (Ga 11, 21). Chị Matta biết về người bạn của gia đình có một vai trò rất lớn. Xét theo khía cạnh con người, có thể như Chúa Giêsu là chủ gia đình thay cho cha mẹ đã khuất bóng. Vai trò của Chúa có tầm ảnh hưởng lớn trong gia đình Matta. Là chỗ dựa tinh thần trong lúc đau thương, là niềm vui, khích lệ khi mọi sự suôn sẻ. Chúa ở cùng gia đình và Chúa cũng muốn có nhiều gia đình thân thiết, đón Chúa và mời Chúa ở lại làm chủ gia đình.

Như một người rất thân trong gia đình thổ lộ sự đau buồn, chị Matta cũng tỏ lộ một niềm tin: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết.” (Ga 11, 14). Chúa Giêsu không những là một người thân thiết ruột thịt trong gia đình Matta, mà còn là Thiên Chúa ở cùng. Tin nhận như thế, nên chị Matta trong khi đau thương vẫn thấy niềm hy vọng tràn đầy và đầy tràn hơn nữa khi Chúa nói với chị: “”Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11, 25). Trong mọi đau thương, có Chúa ở cùng, gia đình lại tìm thấy niềm hy vọng.

Chúa khóc thương Lazaro.

Khóc thương Lazaro có lẽ thấy một hình ảnh của ngày Chúa khóc thương thành Giêrusalem: “ “Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi! Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được. (Lc 19,41). Điều phải chi, nghe như một tiếc nuối, Chúa thương tiếc cho các gia đình đang chịu nhiều thử thách đến đổ vỡ hoặc đang rơi vào sự đày đọa do kẻ gian ác gây ra. Một phần vì sự cứng lòng, từ chối Chúa trong các gia đình, để chạy theo hưởng thụ, lối sống ích kỷ, hoặc đam mê trần tục. Phần khác đau thương như Chúa chịu đòn roi của kẻ bất chính nơi người công chính. Các gia đình Chúa khóc thương, bao lâu nữa mới hết khổ đau?

Chúa khóc thương cũng là khát mong Chúa được chữa lành mọi đau thương của con người. Kẻ tội lỗi cũng như người công chính đều được Chúa xót thương. Chúa ra đi mang trên thân mình thập giá và vẫn mang trên thân mình thập giá ấy khi con người chưa mang hạnh phúc cho nhau.

Chúa là Đấng Ban Sự Sống.

Phúc Âm của Thánh Gioan, tiếp tục trình bày, Chúa là sự sáng và là sự sống. Việc sống lại của Lazaro cho thấy Chúa là sự sống và là sự sống lại. Người chiến thắng sự chết là người vượt thắng mọi tội lỗi. Chính vì vây cái chết về mặt thiêng liêng là cái chết trong sự tội đã được giải thoát nhờ sự chết của Chúa trên Thập giá để sống lại trong sự sống mới. Khung cảnh gia đình chị Matta là gương mẫu cho các gia đình thường xuyên đón Chúa. Sự chết về tội không còn chỗ bám trong gia đình, tội lỗi gây ra bất hạnh, xáo trộn, ghen tuông, tranh chấp hoặc đổ vỡ. Chúa đến trong gia đình và làm cho niềm vui của gia đình được sống và sống dồi dào.

“Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11, 26). Niềm tin vào Chúa bảo đảm cho sự sống thiêng liêng không còn chết vì tội lỗi do sự xấu gây nên nữa. Các gia đình tín hữu luôn được mời gọi giữ giờ kinh tối, các thành viên quy tụ dưới chân Chúa, như Maria ngồi nghe Lời Chúa, như Matta thuật lại những vui buồn trong đời sống hằng ngày cùng Chúa. Bầu khí giờ kinh tối, ấm áp tình Chúa, tình gia đình, như một hành trang theo suốt cuộc đời, khi ở chung hay khi đã ra riêng. Ký ức của gia đình và niềm tin nơi Chúa cùng lớn lên trong tâm hồn, để cũng một ngày kia nhận ra Chúa cũng thích đến ở với gia đình, cùng chia sẻ buồn vui.

Tình thân của Chúa với gia đình là một tình thân không chỉ dừng lại khía cạnh nhân loại mà còn là một tình thân giữa Chúa và gia đình. Một tình thân không những chỉ chia sẻ buồn vui mà còn là mang lại sự sống, sự sống dồi dào, thấy được phúc lộc từ Chúa thương ban đời này và đời sau. Một tình thân tuyệt diệu để cho thấy gia đình có Chúa là một gia đình hạnh phúc thật sự, đi qua mọi khổ đau và gian truân trong bình an.

Xin Chúa ban cho các gia đính chính Chúa là người bạn thân hữu, một Tình Chúa yêu thương hiểu biết và chia sẻ tận cùng những đau thương của các gia đình, và biến đau thương thành niềm vui, hy vọng, tin yêu, và trong cậy vững vàng.

------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây