Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 2 ABC Bài 51-100 Chúa biến hình cho thấy một thoáng vinh quang Thiên Giới ------------------------------------
Năm A: Phúc Âm: Mt 17, 1-9: "Mặt Người chiếu sáng như mặt trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu đã gọi Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông này, và Người đưa các ông tới chỗ riêng biệt trên núi cao. Người biến hình trước mặt các ông: mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết. Và đây Môsê và Êlia hiện ra, và đàm đạo với Người. Bấy giờ ông Phêrô lên tiếng, thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thầy ưng, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Lúc ông còn đang nói, thì có một đám mây sáng bao phủ các Ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán rằng: "Ðây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người". Nghe thấy vậy, các môn đệ ngã sấp xuống, và hết sức sợ hãi. Bấy giờ Chúa Giêsu đến gần, động đến các ông và bảo: "Các con hãy đứng dậy, đừng sợ". Ngước mắt lên, các ông thấy chẳng còn ai, trừ ra một mình Chúa Giêsu. Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các ông rằng: "Các con không được nói với ai về việc đã thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại". - Ðó là lời Chúa.
Năm B: Năm C: -------------------------------------
1. Chúa Giêsu đang ở trong một khúc quanh quan trọng của sứ mạng Ngài. Việc rao giảng ở Gâlilê đã kết thúc. Trong nội bộ nhóm môn đệ. Phêrô vưa suy tôn Ngài là Đức Kitô của TC (9,20) và Chúa Giêsu, khi đón nhận lời tuyên tín ấy, đã hoàn toàn thêm bằng việc loan báo cuộc tử nạn của Ngài (9,22): Ngài không phải là kẻ chinh phục hiển hách mà từ bao đời vẫn mong chờ, cũng không phải là Đấng giải phóng chính trị mà người đương thời mơ tưởng, nhưng là Đấng Messia chịu đau khổ. Thánh giá nằm cuối chặng đường sứ mạng Ngài và là luật sống của Ngài cũng như của các môn đệ (9,23-26): thật là một viễn tượng khắc khổ cay đắng, nhưng đưa đến vinh quang nước trời (9,27). Cuộc biến hình làm cho các môn đệ thấy trước chính vinh quang đó, hầu soi sáng ý nghĩa của cuộc thử thách sắp đến. Chúa Giêsu dành riêng mạc khải này cho ba môn đệ đã đến rất gần mầu nhiệm của Ngài: Phêrô, Giacobê và Gioan. Cả ba cũng vừa được chứng kiến sự sống lại của con gái ông Giâirô (8,51-56).
2. Bài trình thuật của Lc về cuộc biến hình có các đặc điểm chung của phúc âm thứ ba. Tiếng metamorphpthê ("đã biến hình”, coi MC 9,2; và Mt 17,2) xem ra Lc đã cố ý tránh không dùng; nó được thế bằng câu: “dung nhan mặt Ngài ra khác”. Quả vậy, phải tránh cho các độc giả Kitô giáo gốc lương dân hình dung ra một tương tự nào đó giữa biến cố này với những chuyện hóa thân của thần thoại ngoại giáo.
Chỉ có Lc ghi rõ Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện và cuộc biến hình xảy ra đang khi Ngài cầu nguyện, như thế là kết quả của lời cầu.
Trong Phúc âm thứ ba. Môisen và Êlia cũng được mặc lấy vinh quang thiên quốc, hai ông được trình bày như sau: “Có hai người là Môisen và Êlia... hiện đến trong vinh quang”. Có nên từ đó suy luận rằng nhị vị ấy tiên báo"hai người mặc áo chói lòa” trong trình thuật phục sinh (24,4) hoặc tiên báo “hai người y phục trắng ngời” (Cv 1,10) đến cắt nghĩa cuộc thăng thiên siêu phàm cho các tông đồ chăng ? Điều đó xem ra hoàn toàn thích hợp với giòng tư tưởng của tác giả phúc âm thứ ba. Êlia đã được cất về trời (2V 2,11; 1Mac 2,58; Hđ 48,9); còn trong kinh thánh (Đnl 34,5), cái chết của Môisen bao trùm màn bí ẩn, nên chắc hẳn đã tạo cơ hội phát sinh cuốn ngụy thư được người ta biết đến dưới cái tên “sự thăng thiên của Môisen”; sau cùng, việc Chúa Giêsu kết thúc đời trần gian được gọi là cuộc “siêu thăng”, như tiếng dùng cho Êlia (9,51; x.Cv 1,2.11.22; MC 16,19) Tất cả những dự kiện góp chung lại đó làm cho chúng ta tin rằng sở dĩ Môisen và Elia có mặt trong bài trình thuật của Lc về cuộc biến hình là vì họ mang tư cách những nhân vật thiên quốc đến báo trước vinh quang tương lai của Chúa Giêsu. Các dữ kiện ấy cũng khiến ta tin rằng trong phúc âm thứ ba quang cảnh này trước hết là tiên trưng của biến cố thăng thiên. Đám mây, mà tác giả phúc âm muốn người ta chú ý vì đã làm cho các môn đệ sũng sờ, có thể đem so sánh với đám mây thăng thiên (Cv 1,9) mà một ngày nào đó sẽ mãi mãi che khuất Chúa Giêsu khỏi mắt người đời.
3. Điểm đáng chú ý của bài trình thuật là việc Môisen và Elia đàm đạo với Chúa Giêsu về cuộc “xuất hành” của Ngài, nghĩa là cái chết của Ngài “sắp hoàn tất tại Giêtusalem (c.31). Cũng như ở chỗ khác, Lc là tác giả phúc âm duy nhất dùng tiếng doxa (vinh quang:c.32); mối liên hệ ông ta tạo ra giữa sự tử nạn và vinh quang rất gần với quang cảnh của Ga 12,27-28 mà người ta thường coi là tương ứng với câu chuyện Biến hình của phúc âm nhất lãm.
Người ta không nhất trí mấy về ý nghĩa chữ “xuất hành” (exodus). Nhiều người hiểu là “kết thúc” hay là “chết”. Theo nguyên tự, chữ đó có nghĩa là “ra đi”, mà người Pháp dịch là exode. Lc có lẽ xem toàn thể cuộc tử nạn, sống lại và lên trời như là một cuộc xuất hành mới: nhờ các cuộc tử nạn, sống lại và lên trời như là một cuộc xuất hành mới: nhờ các khổ đau của Ngài, Chúa Giêsu rời bỏ Giêruselem cứng tin, tương ứng với Ai cập, để đi vào vinh quang, tương ứng với Đất hứa của cuộc xuất hành xưa. Với lối chú giải này, người ta đi đến kết luận rằng: cuộc xuất hành mà trong MC và Mt trùnh vào những ngày Chúa Giêsu bắt đầu đời sống công khai, thì lại được Lc cũng như Gioan đặt vào chặng cuối của cuộc sống Ngài ở trần gian. Cuộc viễn du 40 năm của dân Do thái tiến về đất hứa tương ứng với 40 ngày (Cv 1,3) từ khi sống lại đến lên trời. Tuy nhiên phải nhận rằng cách giải thích này còn gây nhiều vấn đề nan giải. Điều chắc chắn là tiếng xuất hành (exodos) không phải là tiếng thường dùng để chỉ sự chết (x. F,. Josephe, Ant. Jud. 4,8,2). Nhưng trái với hoài niệm xuất hành, người ta thấy rõ là sách tông đồ công vụ gọi cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc “tiến vào” (trong sứ mạng công khai) và “đi ra” (1,21; 13,24).
4. Như các biến cố khác của cuộc đời Chúa Giêsu, kể cả phép rửa và cám dỗ, cuộc biến hình trong phúc âm thứ ba được qui hướng về tấn kịch cuối cùng và hướng về Giêrusalem. Ngoài những yếu tố khác nhau được ghi lại trên đây, Lc còn là người duy nhất ghi lại điều này: trong cuộc biến hình cũng như ở vườn Giêtsimani, các môn đệ mê ngủ mà họ chỉ chứng kiến sự kỳ diệu khi thức dậy. Trong cùng một ý nghĩa đó, việc Phêrô xin dựng ba lều để kéo dài thời gian đặc ân làm cho ta liên tưởng đến việc hai khách bộ hành đi Emmau cầu xin Đấng - sống - lại ở với họ lâu hơn nữa.
5. Ngày Chúa Giêsu chịu phép rửa, đã có tiếng từ trời phán ra để trao cho Ngài một sứ điệp tương tự: “Con là Con ta, hôm nay ta sinh ra con” (Lc 3,22). Đó là lời Chúa Cha nói với Con Ngài, là lời tấn phong Đấng Messia theo kiểu CƯ (Tv 2,7) là lời khai mạc sứ mệnh của Đấng cứu thế (theo Mt 3,17: lời Tc nói với đám đông để giới thiệu cho họ Đấng Messia)
Còn trong cuộc biến hình, Chúa Cha ngỏ lời cho chính các môn đệ. Ngài mạc khải cho họ mầu nhiệm Chúa Giêsu: Ngài là Con Đấng đã được chọn. Danh hiệu “Đấng đã được chọn” này, tái xuất hiện khi Chúa chịu treo trên thập giá (23,35), đã gợi lại hình ảnh người tôi tớ (trong Is 42,1), vị tiên tri mang ánh sáng đến cho muôn dân và dùng cái chết để chuộc tội muôn người.
KẾT LUẬN
Cuộc biến hình là một gạch nối giữa ánh sáng mau vụt qua của phép rửa và ánh sáng rạng ngời của ngày phục sinh. Trong việc lên Giêrusalem, Chúa Giêsu thấy mình được lời Chúa Cha xác nhận trong sứ mạng Messia chịu đau khổ: Chúa Giêsu là Lời mà hết thảy mọi người phải nghe, là vị hướng đạo chắc chắn cho cuộc xuất hành cuối cùng tiến về cuộc sống sung mãn.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Luật muôn đời của đức tin là: vinh quang TC bao giờ cũng chỉ được ban cho chúng ta trong một chớp sáng mau qua vào những lúc được an ủi thiêng liêng sâu xa nhất: vừa sáng đủ để củng cố cho đức tin, vừa ngắn ngủi để khỏi xâm phạm tự do của nó. Suốt thời gian thử thách TC vẫn là Vị TC mai ẩn đối với người tín hữu, bởi vì Ngài là Cha và vì Ngài muốn được các tâm hồn tự do yêu mến.
2. Cuộc biến hình của Chúa Giêsu là sự đáp trả của Chúa Cha đối với việc Ngài chấp nhận cuộc tử nạn với tình yêu. Quả thật, ít hôm trước, Chúa Giêsu đã loan báo cho các tông đồ cuộc tử nạn sắp đến của Ngài. Ngài hoàn toàn ý thức Ngài đang tiến về cái chết. Ngài đón nhận cái chết như do ý muốn Chúa Cha để cứu chuộc nhân loại. Và để đáp trả lời vâng phục đầy tình yêu của con, Chúa Cha mặc cho Chúa Giêsu ánh sáng và vinh quang. Một thời gian nữa, TC cũng làm cho như thế tại Giêrusalem. Chúa Giêsu sẽ uống chén đau khổ và chén sự chết vì tình yêu vâng phục thánh ý Chúa Cha. Và để đáp lại tình yêu đó, Chúa Cha sẽ phục sinh con Ngài trong ánh sáng và vinh quang. Trong đời sống Kitô hữu chúng ta cũng vậy. Nếu trong một vài lúc, sự vâng phục thánh ý Chúa Cha xem ra là một thánh giá nặng nề, chúng ta hãy tin chắc rằng ngày kia sư vâng phục đó sẽ là nguồn vâng phục khôn tả. Và ngay trong cuộc đời này, chúng ta đã được sự bình an của Chúa Giêsu. Với Ngài chúng ta có thể nói: “Tôi không ở một mình, vì có Cha ở với tôi, vì tôi hằng làm đẹp lòng Ngài” (Ga 8,29).
3. Chính đang khi cầu nguyện mà Chúa Giêsu được biến đổi. Thông thường các thánh, hình như cũng được biến đổi nhờ cầu nguyện và ngợi khen. Điều đó không lạ gì cả. Cầu nguyện là một sự gặp gỡ với Chúa Cha, làm chúng ta nên giống Ngài, ít ra là về tinh thần nếu không phải là về thể xác như trường hợp Chúa Giêsu và các thánh. Nếu chúng ta trung thành cầu nguyện, chắc chắn dần dần Chúa sẽ thông ban cho chúng ta ngay trong cuộc sống này một chút gì đó của sự bình an, của niềm hy vọng rạng rỡ của hạnh phúc Ngài.
4. Sau cuộc biến hình, các môn đệ gặp lại Chúa Giêsu với dáng vẻ tầm thường và cuộc sống thường nhật của Ngài lại tiếp tục. Và chỉ sau khi phục sinh, họ lại thấy Chúa Giêsu trong vinh quang của Ngài. Chúng ta cũng vậy, sau khi được an ủi nhiều, sau những cử hành phụng vụ đẹp mắt làm chúng ta sốt sắng, chúng ta lại trở về cuộc sống thường nhật. Tuy nhiên Chúa Giêsu vẫn tiếp tục ở với chúng ta trong mọi biến cố, mọi hành động thường ngày của đời sống. Trên đường đời, cho dù gặp nhiều thánh giá, nếu chúng ta bền tâm đi theo Ngài, một ngày kia chúng ta sẽ gặp Ngài trong mối thân tình êm ái còn hơn cả tình thân thỉnh thoảng chúng ta nếm được trên trái đất này. Vì khi đó, chúng ta sẽ thấy Ngài rõ ràng, mặt đối mặt. Khi đó, chính chúng ta cũng được biến đổi cho đến muôn đời.
· St 15,5-12.17-18 : «Người đưa A-bra-ham ra ngoài và phán: «Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao xem có đếm nổi không» Người lại phán: «Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó!». Ông tin Đức Chúa, và vì thế, Đức Chúa kể ông là người công chính».
· Pl 3,17–4,1 : «Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người».
· TIN MỪNG : Lc 9,28b-36 Chúa Giê-su biến hình đổi dạng Khi ấy, Đức Giê-su lên núi cầu nguyện, đem theo các ông Phê-rô, Gio-an, và Gia-cô-bê. Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa. Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Mô-sê và ông Ê-li-a. hai vị hiện ra rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem. Còn ông Phê-rô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giê-su, và hai nhân vật đứng bên Người. Đang lúc hai vị này rời xa Đức Giê-su, ông Phê-rô thưa với Người: «Thưa Thầy, chúng con ở đây hay quá! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cái cho Thầy, một cái cho ông Mô-sê, và một cái cho ông Ê-li-a». Ông không biết mình đang nói gì. Ông còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ. Và từ đám mây có tiếng phán rằng: «Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!». Tiếng phán vừa dứt thì chỉ còn thấy một mình Đức Giê-su. Còn các môn đệ thì nín thinh, và trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy.
1. Đức Giê-su có hai bản tính, và trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài biểu lộ thần tính của Ngài. Chúng ta có phần nào tương tự như Ngài không?
2. Chúng ta phải hành xử thế nào cho xứng với bản chất hay phẩm giá cao quí của chúng ta là con cái Thiên Chúa, mang phần nào bản tính của Ngài?
Suy tư gợi ý :
1. Chúng ta cũng giống như Đức Giê-su: có bản chất cao quí ẩn trong thân xác yếu đuối của kiếp người trần
Cuộc biến hình của Đức Giê-su cho ta thấy bản chất sâu thẳm của Ngài, Ngài không chỉ là một con người yếu đuối, phải đau khổ, và chịu bao hạn chế của kiếp người như bao người khác, mà còn là một vị Thiên Chúa đầy vinh quang và quyền năng. Trước khi Ngài bước vào cuộc khổ nạn và chịu chết, Ngài đã cho ba môn đệ yêu dấu nhất của Ngài thấy được bản chất sâu thẳm của Ngài, để củng cố niềm tin của các ông. Nhất là trong những ngày sắp tới, đức tin của các ông sẽ bị chao đảo dữ dội, vì lúc ấy các ông chỉ có thể thấy được con người hết sức bất lực và hạn chế của Ngài. Nhưng thật ra, sự yếu đuối bất lực ấy chỉ là tạm thời, bản chất thường hằng của Ngài là bản chất đầy vinh quang, cao cả như các môn đệ đã chứng kiến trên núi Ta-bo. Bản chất ấy vẫn còn trong tình trạng ẩn dấu, chưa tỏ lộ.
Chúng ta cũng một phần nào tương tự như Đức Giê-su, chúng ta cũng có hai bộ mặt, với hai cách hiện hữu hết sức khác nhau. Một đằng chúng ta là con người như bao nhiêu người khác, nhưng đằng khác, chúng ta là con cái Thiên Chúa. Là con cái Ngài, ta được Ngài ban những ơn đặc biệt để trở nên xứng đáng với địa vị đó. Căn bản và cao quí nhất là Ngài thông ban cho chúng ta chính bản tính Thiên Chúa của Ngài. Thánh Phê-rô đã cho ta biết chân lý ấy: «Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quí báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa, sau khi thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian» (2Pr 1,4).
2. Bản chất cao quí của chúng ta: là con cái của Thiên Chúa
Thông thường, ta ít khi ý thức được phẩm giá hết sức cao quí của mình cũng như của những Ki-tô hữu sống gần ta, chung quanh ta, tất cả đều là con cái Thiên Chúa. Không ý thức được điều ấy, nên ta không trân trọng đủ chính bản thân ta cũng như không trân trọng những Ki-tô hữu khác. Chúng ta sống giống như mình không phải là con cái của Ngài, vì nếu ta xác tín được mình là con cái của Ngài, đời sống chúng ta sẽ thay đổi rất nhiều. Chúng ta thử nghĩ, nếu ta là con một vị vua, là một hoàng tử, thì ta sẽ xử sự thế nào? Trước mặt mọi người, ta sẽ phải cư xử cho đúng với tư cách một vị hoàng tử. Đi đâu ta cũng không sợ bị ai ăn hiếp hay bắt nạt, vì đằng sau ta có cả một hậu thuẫn mạnh mẽ.
Tuy cũng có cái vỏ bề ngoài yếu đuối và đầy hạn chế như bao nhiêu người khác, nhưng bản chất của chúng ta vượt hẳn cái vỏ bề ngoài yếu đuối ấy. Chúng ta là con cái Thiên Chúa, được thông phần bản tính của Thiên Chúa, đầy vinh quang, quyền năng, tình thương. Tình trạng của chúng ta giống như bức tượng bằng vàng trong câu chuyện minh họa sau đây.
Một ngôi chùa kia có một tượng Phật bằng vàng, nhưng trong thời chiến tranh loạn lạc, người ta phải che dấu sự quí giá ấy bằng một lớp đất sét bọc bên ngoài. Thành thử mọi người tới xem chỉ thấy đó là một bức tượng bằng đất sét, chẳng quí giá hơn những tượng đất sét khác. Chiến tranh kéo dài quá lâu, nên sau chiến tranh, người ta không còn nhớ bức tượng đó bằng vàng nữa, cho đến một hôm… Một hôm, sư trụ trì vô tình để một vật cứng chạm mạnh vào bức tượng, khiến bức tượng bị bể một mảnh lớn, và để lộ ra chất vàng lấp lánh sáng chói. Thế là ông bèn đập bỏ tất cả lớp đất sét bọc bên ngoài. Và tượng Phật bây giờ đã trở thành một bức tượng bằng vàng sáng chói, đầy giá trị.
Mỗi người Ki-tô hữu chúng ta đều có một cái gì giống như bức tượng đó. Bên ngoài dù chúng ta không khác gì ai, không hơn gì ai, nhưng thực ra, chúng ta là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh của chính Thiên Chúa, mang bản tính Thiên Chúa nơi bản thân. Dù ta có yếu hèn, tội lỗi, hay xấu xa đến thế nào đi nữa, thì bản tính Thiên Chúa trong chúng ta vẫn là bản tính của Thiên Chúa, đầy quyền năng, mạnh mẽ, trong sạch, thánh thiện. Vào thế kỷ thứ nhất của Ki-tô giáo, một giám mục thuộc phái Ngộ Đạo (gnosticisme) nói rằng: «Chúng ta, những người Ki-tô hữu, cũng giống như một thỏi vàng nguyên chất, dù có bị ném xuống bùn nhơ, cũng vẫn là một thỏi vàng nguyên chất với đầy đủ giá trị của nó. Chỉ cần rửa sạch lớp bùn bám bên ngoài, thì thỏi vàng lại sáng lên ánh sáng đặc trưng của nó». Hay tương tự như một hoàng tử trong thời gian bị lưu lạc xa vua cha, dù có làm nghề gì thấp hèn đến đâu để sinh sống, thì cũng vẫn là hoàng tử. Chỉ cần hoàng tử ấy trở về với vua cha, thì hoàng tử sẽ lại trở thành hoàng tử chính hiệu, với quyền kế vị vua cha.
3. Chúng ta thường quên không ý thức được bản chất cao quý ấy
Rất nhiều khi người Ki-tô hữu chúng ta đã quên mất bản chất hết sức cao quí của mình là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh Thiên Chúa (nghĩa là giống như Thiên Chúa), là người mang trong mình bản tính của Thiên Chúa, và vì thế chúng ta có quyền thừa hưởng gia nghiệp của Ngài với tư cách là con cái Ngài. Chính vì quên mất cái bản chất cao quí ấy, nên nhiều khi chúng ta đã sống không xứng đáng với bản chất ấy, nghĩa là cũng chỉ sống giống như bao người khác, thậm chí sống như con cái của ma quỉ, của thế gian, không phù hợp với phẩm giá của mình. Là con cái Thiên Chúa, nhưng nhiều khi chúng ta tin tưởng, cầu xin, khiếp sợ hoặc trông cậy vào những thế lực khác, vào sự can thiệp của những quyền lực không phải của Thiên Chúa, thậm chí đối nghịch với Thiên Chúa. Chúng ta đã hành xử như thể Thiên Chúa là một hữu thể xa lạ đối với mình, không phải là người Cha rất yêu thương mình, mà hành xử như một người có bản chất thấp hèn. Hành xử như thế, vô tình, chúng ta đã hạ thấp hoặc xúc phạm đến hình ảnh và bản tính Thiên Chúa trong chúng ta.
4. Hãy thường xuyên biểu lộ bản tính cao cả của chúng ta trong tư tưởng, qua lời nói và hành động
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy thần tính hay bản chất vinh quang cao cả của Đức Giê-su, vốn ẩn dấu trong thân xác đầy hạn chế của Ngài, nay hiện ra một cách tỏ tường trước mặt các tông đồ. Điều đó cũng nhắc cho chúng ta ý thức về bản tính hay hình ảnh của Thiên Chúa nơi thân xác yếu đuối của chúng ta. Chúng ta cần thường xuyên biểu lộ bản tính hay hình ảnh của Thiên Chúa nơi chúng ta qua tư tưởng, lời nói, hành động của mình. Làm sao để mỗi tư tưởng, mỗi lời nói, cũng như mỗi hành động của chúng ta đều nói lên được bản chất cao quí của chúng ta là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh trung thực của Thiên Chúa. Giống như người ta có thể nhìn vào cách ăn nói, xử sự của một người mà đoán được bản chất của người ấy. Hay như khoa học thời nay có thể căn cứ vào một sợi tóc, một tế bào của một người mà biết được tính chất hay tình trạng thể lý của người ấy. Cuộc sống của một người con cái Chúa cũng phải toát lên được bản chất ấy của mình.
Bài đọc 2 cũng nhắc lại cho ta biết quê hương đích thật của chúng ta là ở trên trời. Và trong tương lai thân xác yếu hèn của chúng ta cũng sẽ trở nên vinh hiển, mạnh mẽ như thân xác của Ngài. Tất cả những đau khổ, hạn chế của ta chỉ là tạm thời, sẽ qua đi, nhưng bản chất cao quí của ta thì mãi mãi tồn tại và không thay đổi.
Nguyện :
Lạy Chúa, xin giúp con ý thức được bản chất cao quí của con là con cái Chúa, là hình ảnh của Chúa, và được Chúa thông phần bản tính của Chúa cho con. Xin cho con biết luôn ý thức bản chất cao quí của mình, và sống xứng đáng với bản chất ấy. Amen. (NCK)
"Hãy hoán cải, hãy tin vào Tin mừng". Lời mời gọi này, Chúa Giêsu còn nói với chúng ta hôm nay như Ngài đã nói với thính giả xứ Galilê vào lúc khai mạc công trình rao giảng. Phải chăng đó chỉ là tiếng kêu trong sa mạc ? Chúng ta còn tin vào Tin mừng của Thiên Chúa, như Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta không ?
Sự lựa chọn mà đức tin đòi hỏi không phải là điều đễ dàng. Sự lựa chọn này khó khăn bởi vì nó sẽ mang đến thiều hệ lụy và đưa chúng ta vào những tình huống không thể thoái lui được. Có vô số những vị "giảng đạo" xuất hiện trước cửa nhà chúng ta và lui tới trong các khu xóm của chúng ta. Các giáo phái phát triển mỗi ngày một nhiều. Những kẻ tuyên truyền nói hay đến nỗi họ có thể hoán cải cả quỉ dữ nữa và nhất là khéo léo gieo nghi ngờ vào lòng những người xác tín nhất. Ta tư hỏi : Phải tin gì đây ? Phải nghĩ gì đây ? Ai là ngôn sứ thật ? Ai có thể nói cho chúng ta biết điều này ?
Tầm quan trọng của việc lắng nghe.
Một trong những nỗi bất ổn lớn nhất của thế giới chúng ta, đó là thiếu sự lắng nghe. Lắng nghe, hiện nay là cách điều trị tốt nhất đối với nhiều người. Trong mùa chay này, chúng ta được mời gọi lắng nghe : "Đây là Con chí ái của Ta, hãy lắng nghe lời Ngài ". Theo Thánh kinh, lắng nghe không phải chỉ là nghe bằng tai nhưng là để cho mình được uốn nắn, giáo dục, hoán cải. Thiên Chúa nói về những người chống lại luật của Ngài : "Chúng đã không nghe lời Ta".
Cũng như những kẻ được chứng kiến cuộc biến hình, chúng ta được mời gọi lắng nghe, được mời gọi đi vào sự biến hình của Chúa Ki tô. Lắng nghe Chúa Ki tô phải dẫn đưa chúng ta đến chỗ thay đổi sâu xa. Chúng ta được mời gọi chấp nhận cả một chương trình sống. Những đòi hỏi triệt để. của phép rửa phải được thực hiện không thể còn chỗ cho sự tầm thường hoặc nguội lạnh nữa.
Kẻ lòng Ta ưu ái.
Một khẳng định không chút do dự, không chút giảm thiểu : "Đây là Con Một Ta ưu ái. Hãy lắng nghe lời Ngài ". Trong tất cả các ngôn sứ đây là vị ngôn sứ thật. Có lẽ đây không phải là Đấng mà các ngươi đã mơ ước, nhưng đó là ngôn sứ của Ta. Đó là ngôn sứ của Ta bởi vì Ngài đến để giải thoát và cứu độ. Chính Ngài mặc khải tư tưởng của Ta và có thể thông truyền sức sống của Ta. Chỉ mình Ngài đáng tin cậy bởi vì Ngài là người đuy nhất đã thể hiện dự tính của Ta về thế giới. Các ngươi hãy chọn Ngài. .
Việc lựa chọn bao giờ cũng kéo theo những đòi hỏi. Trong mùa chay này chúng ta được mời gọi chiến đấu với sự dữ nơi chúng ta và xung quanh chúng ta. Con đường mà chúng ta phải theo là con đường giúp chúng ta tái sinh. Làm điều lành, thực thi bác ái huynh đệ và đặc biệt hơn nữa thương yêu những kẻ bé mọn, đó phải là những ưu tiên và phải dẫn đưa chúng ta vào đường hoán cải để làm cho chúng ta trớ nên những kẻ "được ưu ái "
Tin tưởng.
Chương trình đẫn chúng ta đi theo Chúa Giêsu là chương trình đòi hỏi nhất. Vài tuần lễ thật quá ngắn đối với chương trình của cả một đời người. Thiên Chúa của chúng ta có vẻ như là một Thiên Chúa khắt khe và nhỏ nhen. Thực ra nếu Ngài đòi hỏi, là bởi vì Ngài thương yêu chúng ta. Ngài đòi hỏi nhiều, nhưng Ngài cũng hứa cho chúng ta những điều tuyệt vời nữa.
Về phía Ngài, Ngài ban cho chúng ta mọi sự cả đến sự sống của Ngài nữa. Không những Ngài sẽ ban sự sống ấy cho chúng ta sau khi chúng ta chết đâu, nhưng ngay ở trần thế này. Việc tuyên xưng đức tin vào đêm vọng Phục Sinh giúp chúng ta tìm lại được sự sống ấy.
Chúng ta có sẵn sàng chết một cách nào đó để sống lại tốt hơn không? Chúng ta có sẵn sàng "lắng nghe " không? Có săn sàng để cho lời Chúa uốn nắn chúng ta và sống theo lời Ngài dù lời ấy có vẻ vô lý không? Hãy để Thiên Chúa thực hiện dự án của Ngài nơi mỗi người chúng ta và chúng ta sẽ có quyền được gói là "Con yêu đấu'.
Cách dùng Lời Chúa để chiến thắng mọi cuộc tấn công do Satan gây nên trong Chúa Nhật thứ nhất Mùa chay, đã trở thành chứng từ sống động và cụ thể, để động viên mọi người thêm tin tưởng và thực thi mệnh lệnh của Cha trên trời: "Giêsu là Con chí ái của Ta tuyển chọn, các ngươi hãy nghe lời Ngài", có thể Con người mới đạt được vinh quang mà Tin Mừng Chúa Nhật thứ 2 Mùa chay này đã hé mở cho ba môn đệ thấy trước.
Nhưng hôm nay, chúng ta nghe lời của con Thiên Chúa ở đâu? Để hiểu được thế nào là Lời Chúa của Con Thiên Chúa, ta hãy xem các bố cục mạc khải lời của Con Thiên Chúa như sau:
(4)HIỂN DUNG VINH QUANG
(1)PHÉP RỬA (2)NÚI CÁM DỖ (3)TN+PS.
Nhìn vào lược đồ trên: Những gì xảy ra ở (4) thì cũng diễn ra ở (1) và (2), đồng thời cũng sẽ xảy ra ở (3).
Như thế:
1.Hiển dung nêu giá trị chiến thắng Satan trong suốt cuộc đời Chúa chịu cám dỗ khởi đi từ phép rửa sông Giođan cho tới đồi Sọ:
Bằng chứng:
a, Phép rửa và Hiển dung:
Lời chủa Thiên Chúa Cha giới thiệu về Đức Giêsu cho nhân loại: "Ngài là Con Ta, kẻ Ta đã chọn" chỉ xuất hiện 02 lần trong đời Đức Giêsu (Lc 3,22; 9,35).
b, Cám dỗ và hiển dung:
Đức Giêsu bị cám dỗ liên lỉ, điển hình:
Đầu đời công khai, quỷ cám dỗ Chúa (Lc 4).
Khi hiển dung, môn đệ cám dỗ Chúa: Thầy đừng xuống núi, nhưng ở lại trong các lều trên núi họ sẽ làm cho, để hưởng thụ vinh quang! (Lc 9,33t).
Vào cuối đời, mọi người cám dỗ Chúa: Nhảy từ Thập Giá xuống! (Mt 27,40).
Nhưng Ngài đã nhờ cầu nguyện mà thắng tất cả, dấu hiệu: "Ngài tỏ vinh quang cho 03 môn đệ thấy trước.
II. Hiển dung là báo trước giá trị của tử nạn và Phục Sinh:
Bằng chứng là các chi tiết như ở núi Hiển Dung đều xảy ra vào giờ tử nạn và Phục Sinh:
Vào ngày thứ 08.
Chúa Giêsu đem Phêrô, Gioan và Giacôbê lên níu. Thầy cầu nguyện, còn ba trò ngủ!
Mây bao phủ ngọn núi!
Hai vị mặc áo trắng từ trời xuống nói chuyện...
Điều ta cần chú ý nhất là: nếu Chúa Cha muốn buộc loài người phải nghe Lời Con Yêu Dấu của Người, thì lý ra Người phải nói vào lúc Đức Giêsu chịu phép rửa? Nhưng lệnh: "hãy nghe Lời Con Ta Yêu Dấu" chỉ được Chúa Cha công bố ở núi Hiển Dung, mà giá trị ở "núi Hiển Dung" là dấu chỉ về giá trị ở "núi Sọ" và "núi lên trời". Vậy thì lệnh Chúa Cha buộc nhân loại hãy nghe lời Con của Người, chỉ được chính thức công bố vào giờ tử nạn và Phục Sinh. Chính vì thế, mà Đức Giêsu cấm ba môn đệ được ở với Chúa trên núi Hiển Dung không được nói điều gì cho ai biết, cho đến khi Con người từ cõi chết sống lại. Do đó, vào giờ tử nạn của Chúa, thượng tế Caipha muốn "nghe Lời Con Thiên Chúa dạy", Ngài không giảng nữa, nhưng Ngài nói: "Cứ hỏi người nghe tôi nói! " Tức khắc ngoài cổng đình, người ta cất tiếng dò hỏi ông Phêrô: "Cả ông nữa, ông cũng thuộc nhóm môn đệ người ấy sao?" Phêrô vội vàng chối phắt: "Đâu có" và ông chối như thế đến 03 lần (xem Ga 18,12-ABC27).
Vậy, dù Phêrô, dù Hội thánh có chối Chúa, thì Chúa Giêsu vẫn bảo người ta: Ai muốn nghe Lời Con Thiên Chúa nói gì, thì cứ hỏi Hội thánh Ngài (hỏi người nghe tôi nói). Dù Hội thánh còn phạm tội (chối Chúa), thì Giáo lý của kẻ tội ấy dạy vẫn là Giáo lý của Con Thiên Chúa buộc mọi người phải nghe, cũng như Phêrô tuyên xưng đức tin: "Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống!" Đã được Chúa khen và xác nhận: "Không phải tự xác thịt của Phêrô tuyên xưng, mà là Cha trên trời đã mạc khải cho ông. Thế mà ngay sau đó ông cản Chúa đừng chết, Chúa mắng ông là Satan! (xem Mt 16,13-20).
Như thế, lời Hội thánh rao giảng quan trọng hơn là lời Đức Giêsu rao giảng trong 03 năm, vì lời Hội thánh là Lời Con Một Thiên Chúa Phục Sinh nhập thể vào Hội thánh theo ý Chúa Cha. Và đó mới thực là giao ước vĩnh cửu được ký trong Máu Con Chiên Thiên Chúa!
Giáo lý của Hội thánh dạy tôi biết rằng: cuộc tử nạn và Phục Sinh của Con Thiên Chúa sinh hai hiệu quả: Tha tội và ban giao ước, mà người ta có đón nhận được giao ước, họ mới đáng được tha tội. Điều này đã được diễn tả qua bài đọc 1.
Khi Chúa gọi vợ chồng ông Abraham và Sara bỏ quê hương đi đến xứ Chúa chỉ cho, chắc hẳn lòng hai ông bà già gần 100 tuổi, không khỏi khắc khoải lo âu, vì với số tuổi này mà phải đi đến một xứ mới lập nghiệp là đầy mạo hiểm, trước mắt ra đi như thế là chỉ thả mồi mắt bóng...!
Để trấn an lòng họ, Chúa bảo Abraham bắt một số con vật xẻ đôi, đặt hai bên đối diện nhau, đây là lối lập giao ước của người thời ấy, bên nào phản bội giao ước, bên đó sẽ bị phân thây như con vật này!
Giao ước này đã trở thành hình bóng của Giao ước Chúa Cha lập với dòng giống của Abraham hôm nay. Đáng lý ra dòng giống của Abraham phản bội giao ước Chúa đã ký kết Abraham xưa, qua dấu chỉ lửa -chỉ sự hiện diện của Chúa- đi qua giữa xác các con vật bị phân thây, thì dòng giống này bị phân thây như các con vật kia, đây chính là Con Thiên Chúa đã bị phân thây cho dòng giống này khỏi phải chết!
Như vậy, hôm nay chúng ta đón nhận lời của Lời của Con Thiên Chúa không chỉ bằng lời nói của Ngài, mà còn đón nhận lấy chính Ngài, Đấng đã phục vụ theo ý Chúa Cha cho đến chết rồi mới dạy (Cv 1,1).
Hội thánh hôm nay tiếp tục công bố Lời của Con Thiên Chúa theo gương thầy chí thánh, nghĩa là công bố Lời của Chúa bằng các chứng từ cuộc sống phục vụ của mình, như lời thánh Phaolô gởi các tín hữu Philip hôm nay (bàiđọc 2): "Anh em bắt chước chúng tôi" như Phaolô đối với Chúa Kitô (xem 1 Cr 11,1).
Điều mà Phêrô muốn cho giáo đoàn Philip phải biết mở lòng đón nhận những giá trị của nước Thiên Chúa qua lời Hội thánh rao giảng, chứ không phải mở lòng để đón nhận của ăn vật chất, đến nỗi, họ đã coi cái bụng làm Chúa, khiến cho Phaolô phải khóc lên và kêu gọi họ sám hối, hầu nghe tiếng Con Thiên Chúa.
Trong Thánh lễ này, ai ai trong chúng ta cũng cảm thấy mình là người đã lỗi lời giao ước của Chúa, đáng lẽ chúng ta bị phân thây bởi tội mình đã phạm, nhưng Chúa đã chịu phân thây chết cho chúng ta được sống, vì chính ta đã rước lấy chính Đấng Phục Sinh qua Bí Tích Thánh thể.
Sau khi được hiệp lễ (rước Chúa). Linh mục sai ta đi vào thế gian, nhưng chính Chúa truyền cho các môn đệ phải xuống núi Hiển Dung, để đưa cả nhân loại này vào con đường đã lập:
PHÉP RỬA + THỬ THÁCH + THẬP GIÁ
PHỤC SINH.
Khi cả nhân loại đi vào quỹ đạo này, thì đó mới đích thực vinh quang Chúa hé mở cho ba môn đệ thấy trước trên núi hôm nay. Vì vinh quang của Chúa Phục Sinh phải là vinh quang của mỗi cá nhân đã được Chúa cứu độ cộng lại cho đến ngày cách chung, và như thế lời hứa của Chúa cho dòng giống Abraham đông như sao trời, như cát biển (bài đọc 1) mới được ứng nghiệm.
Một người khi còn trẻ đến cầu nguyện với :
Lạy Chúa, xin giúp con biến đổi cả thế giới này.
Vậy mà người ấy đến tuổi trung niên cũng chưa biến đổi được gì trong thế giới! Người ấy lại đến cầu nguyện:
Lạy Chúa, nếu con không biến đổi được thế giới thì xin Chúa hãy cho con biến đổi được những người quanh con.
Nhưng về già, người ấy cũng thấy chẳng biến đổi được ai. Người ấy lại đến cầu nguyện với Chúa:
Nếu con không biến đổi được ai, thì xin Chúa cho con biến đổi chính mình.
Thế là cụ già lo biến đổi chính mình, nhưng cụ cảm thấy thất vọng vì từ nhỏ, cụ không lo biến đổi mình, bây giờ về già, quá nhiều tật xấu bám rễ sâu, sửa mãi không được. Cụ liền trách thân phận: biết vậy, ngay từ nhỏ mình xin Chúa giúp biến đổi chính mình, nay già chắc đã thành công!
Nhưng không có cách nào biến đổi đời mình, ngoại trừ: biết nghe lời giáo huấn của Hội thánh, là lời Con chí ái của Cha trên trời.
Rít Rítpphai Vô-đơn-Spring là một mục sư phục vụ một bệnh viện làng Bethel, ở miền Bắc Palestin. Ông là người đạo đức. Có một bận, y sĩ trưởng phòng giải phẫu cùng với vị phụ tá đến báo tin cho ông biết tình trạng thất vọng của một bệnh nhân, mà họ đã giải phẫn không lâu. Mục sư Vô-đơn-Spring hỏi:
- Bác sĩ đã cầu nguyện cho bệnh nhân được tai qua nạn khỏi chưa?
Vị y sĩ trưởng phòng giải phẫu và y tá mỉm cười kín đáo mà không trả lời. Mục sư Vô-đơn-Spring nhận ra điều đó và nói:
- Nghĩa là chưa. Thôi được rồi, tôi muốn bàn chuyện này với Chúa.
Vậy là trong một giờ liên tiếp, mục sư quỳ sụp xuống trong phòng, ông cầu nguyện với tất cả tâm hồn. Sau đó đến phòng người bệnh trầm trọng ấy. Vừa thấy ông, cô y tá đã vội vàng nói:
- Đã từ nửa giờ bệnh nhân thấy đỡ hơn.
Vài tuần sau đó bênh nhân lành hẳn. Bác sĩ trưởng phòng giải phẫu đến gặp mục sư và nói:
- Thưa mục sư, tôi sẽ không bao giờ mỉm cười nghi ngờ nữa.
Thái độ của mục sư Vô-đơn-Spring hoàn toàn tin tưởng phó thác mọi sự cho Thiên Chúa quan phòng có thể giúp chúng ta hiểu được các sứ điệp Chúa nhật hôm nay.
Tin có nghĩa là hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa và sẵn sàng nhắm mắt đưa chân bước vào cuộc phiêu lưu mạo hiểm với Ngài. Đoạn 12-ABC25 sách Khởi Nguyên kể lại cuộc đời của Abraham và cho chúng ta thấy một khúc rẽ mới trong lịch sử cứu độ. Sau khi loài người phạm tội chặn đứng tương quan tâm tình với Thiên Chúa và đánh mất đi cuộc sống hạnh phúc của mình, Thiên Chúa lại tìm ra mối dây liên hệ mới qua việc tuyển chọn Abraham và khiến ông trở thành cha của một nhân loại mới. Các trình thuật này của tổ phụ Abraham bao gồm hai nguồn truyền thống văn chương khác nhau với cách diễn tả và quan niệm thần học riêng.
- Truyền thống Giavít: biên soạn ở vương quốc miền Nam, thế kỷ IX trước Tây lịch, trong đó Giavê là tên gọi của Thiên Chúa. Truyền thống này luôn coi Thiên Chúa là người đối thoại chân tình với tổ phụ Abraham và với loài người. Soạn giả Giavít dùng thuật hành văn nhân hình để miêu tả Thiên Chúa. Nghĩa là ông cho thấy Thiên Chúa có kiểu cách nói năng và hành xử y như một người. Ngài nói chuyện đối thoại, hoạch định chương trình, ngồi ăn uống với tổ phụ Abraham. Ngài chấp nhận sự tiếp đón của ông chân tình như một người bạn. Ngài sẵn sàng làm mọi sự cho Abraham, ban cho ông một người con ông hằng mong ước, một vùng đất làm gia nghiệp và một dân tộc. Ngài sẵn sàng làm cho ông trở thành danh tiếng, thành tổ phụ của một dòng dõi đông đúc. Sẽ đặt tên cho ông một tên mới, vừa diễn tả sự kiện ấy vừa nói lên sự liên hệ của ông với Ngài. Do đó khi đọc lại các văn bản Kinh Thánh, chúng ta cũng phải khám phá ra tình bạn hữu ấy của Thiên Chúa và mối dây liên hệ thân tình của Ngài đối với chúng ta.
- Truyền thống văn chương tại vương quốc miền Bắc vào thế kỷ thứ VIII trước Tây lịch gọi là Êlohít. Vì trong các văn bản này tác giả gọi Thiên Chúa là Êlohim. Truyền thống này nêu rõ lòng tin và sự sống lòng tin của tổ phụ Abraham hay cũng còn gọi là sự công chính của Abraham. Lòng tin là một thực tại giàu ánh sáng và tương lai, nhưng con người hay nghi ngờ như Ađam, hình ảnh diễn tả toàn nhân loại đã nghi ngờ. Abraham trái lại đã tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa, tin vào các lời Ngài hứa và tương lai mà Thiên Chúa hoạch định ra cho ông, ngay khi mà ông chưa có được gì cả. Chính thái độ ký thác hoàn toàn này khiến Abraham thành mẫu gương và là cha của những người có lòng tin thuộc mọi thời đại. Aman từ đó phát sinh ra tiếng Amen mà chúng ta thường dùng để kết thúc một lời nguyện là động từ "tin" trong tiếng Do Thái, nhưng nó có nghĩa gốc là cậy dựa trên, dựa vào. Tin như thế có nghĩa là chỉ cậy dựa vào Thiên Chúa và lời Thiên Chúa mà thôi.
16,5-12.17-18 sách Khởi Nguyên bao gồm cả hai truyền thống kể trên. Trình thuật kết thúc với nghi thức cổ xưa của giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với tổ phụ Abraham. Hai bên ký kết các giao ước để giữa các thú vật được chặt đôi nhằm khẳng định, bên nào không thực hiện giao ước thì cũng sẽ chịu một số phận như vậy. Tin như tổ phụ Abraham nghĩa là tín thác bước đi theo chương trình Thiên Chúa đề nghị với chúng ta. Một chương trình bí nhiệm khác với những gì chúng ta tưởng nghĩ và mong ước. Tin có nghĩa là sẵn sàng ra khỏi môi trường sống đảm bảo, ra khỏi những thói quen, kiểu cách sống qui ước của loài người. Tin có nghĩa là đưa ra nắm chặt lấy bàn tay của Chúa để cho Ngài hướng dẫn và bước đi theo Ngài. Đó cũng là ý nghĩa của trình thuật Chúa Giêsu biến hình trên núi trong 9,28-36 của thánh Luca.
Đối với dân Do Thái, Môisê và Êlia là hai gương mặt diễn tả tất cả Kinh Thánh, diễn tả tất cả Lời Chúa mà tín hữu cần phải biết lắng nghe và đem ra thực hành mỗi ngày. Qua biến cố biến hình, Thiên Chúa không chỉ mời gọi chúng ta biết lắng nghe và sống Lời Ngài hứa là Tin Mừng của Chúa Giêsu, mà còn biết thoát ly khỏi những gì ràng buộc ngăn cản chúng ta không cho bước vào cuộc sống thần thiêng sáng láng với Ngài nữa.
Qua biến cố biến hình, Chúa muốn cho ba môn đồ thân tín thấy rằng: sau con đường tiến về Giêrusalem dẫn Ngài tiến đến cái chết trên thập giá, là ánh sáng rạng ngời của cuộc sống. Trong Kinh Thánh hình ảnh cái lều diễn tả cuộc sống vô định nay đây mai đó của dân du mục. Do đó thái độ của Phêrô muốn dựng 3 lều ở trên núi Tabor mà không hiểu sâu hơn nữa có nghĩa là, Phêrô muốn biến cái tạm bợ trở thành vĩnh cửu để khỏi phải đương đầu với con đường thập giá và khổ đau. Thái độ đó là kiểu cách thiếu lòng tin. Vì đó là một cách tránh né chương trình vào con đường của Thiên Chúa. Thái độ này bị thánh Phaolô gọi là cách hành xử đặc thù của những kẻ thù nghịch với thập giá Chúa Kitô.
Trong thư gởi giáo đoàn Philipphê 3,17-4,1 thánh nhân khuyến khích mọi người bắt chước ngài và theo gương các anh chị em có lòng tin vững mạnh, sống phù hợp với giáo huấn Tin Mừng của Chúa. Thánh Phaolô không tự cho mình là người hoàn thiện, vì Ngài cũng đang phải chiến đấu với thân xác yếu hèn của chính mình, với mọi đam mê và chước cám dỗ như tất cả mọi Kitô hữu khác. Cũng như mọi người, ngài đang chạy đua với hết sức lực mình để đạt đích. Thánh Phaolô cũng không khuyên nhủ tín hữu tôn thờ thần tượng một ai đó trong cộng đoàn. Bởi vì những người này cũng đang chạy đua và cố gắng như mọi người khác, chiến đấu với những thiếu sót bất toàn và tội lỗi của họ, và bởi vì vị thầy duy nhất đáng tôn thờ là chính Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu Kitô là mẫu gương duy nhất cần phải theo và Tin Mừng của Ngài là kim chỉ nam duy nhất có thể đảm bảo cho con thuyền cuộc đời của người tín hữu đến bến bình an. Khi khuyến khích tín hữu cộng đoàn Philipphê bắt chước mình, thánh Phaolô mời cố gắng chạy, cố gắng chiến đấu như ngài, luôn hướng tấm lòng về tới đích cuộc đời là Thiên Chúa, là hạnh phúc mai sau. Đừng để các thú vui mau qua của đời này níu kéo mà khiến cho họ quên đi mục đích tối hậu của cuộc sống là ơn gọi Kitô.
Nói cách khác, thánh nhân nhắc nhở cho chúng ta biết rằng cuộc sống của chúng ta trên trần gian này là cuộc hành trình tiến về quê hương vĩnh cửu, là quê trời nơi Thiên Chúa đang chờ đón để ban cho chúng ta cuộc sống thần thiêng vĩnh cửu. Do đó phải luôn biết ý thức và tỉnh thức, đừng để cho các thú vật chất hay bất cứ thứ gì trên đời này trói buộc và cầm chân chúng ta. Ngoài ra, thánh nhân cũng khuyến khích tín hữu cũng noi gương ngài không chạy theo các điều luật, các cấm đoán tỉ mỉ và các hình thức lễ nghi bề ngoài, mà chỉ lấy Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh làm chỉ huy duy nhất và làm bánh lái sống lòng tin mà thôi.
Trong những đầy đặc và ngột ngạt thường ngày mà có được một khoảng trống mở ra tầm nhìn mới thì có phúc biết chừng nào! Mọi giá trị sẽ thay đổi: Con mắt nhìn lên, trời cao xanh ngát Con mắt nhìn xuống, biển rộng bao la, Con mắt nhìn gần, quên điều nhỏ nhặt, Con mắt nhìn xa, chợt thấy quê nhà. (trích thơ Nguyễn Khánh Hoà, New Orleans)
Vẫn biết lúc mới sáng tác vào giữa thập niên '40, nhạc sĩ Ngô Duy Linh lấy tên là Thăng Ca, nhưng mãi cho đến khi ngài qua đời vào tháng 2 năm 1998, cái đầu óc u tối của tôi mới được vỡ lẽ ra rằng Thăng Ca là tên một loài chim. Linh mục Vũ Hân trong bài viết "Những Niềm Vui Bên Cha Ngô Duy Linh" đã dí dỏm tả lại cảm nghĩ háo hấc vào thời được hát những bài đầu tiên trong nhà thờ bằng tiếng Việt, vì trước đó chỉ hát bằng tiếng La-Tinh hay tiếng Pháp thôi. Khi hát những bài như Con Thờ Lạy Chúa Giêsu và Chúa Yêu Bé Thơ của Thăng Ca thì ai cũng ao ước được gặp chính nhạc sĩ mới toanh này, và trong trí vẽ ra ngay hình ảnh một nhạc sĩ trẻ "có dáng vóc mảnh mai nhẹ nhàng, giống như loài chim thăng ca ở bờ biển, thân hình nhỏ bé như con sẻ, sắc lông mầu nâu, mỏ màu vàng, mỗi lần hót là bay lên cao chừng mươi mười lăm bộ, bay đứng tại một chỗ trên không và hót khúc sáo líu lo dài tới ba bốn phút. Chúng tôi vẫn không đoán ra Thăng Ca là ai, cuối cùng nhạc sĩ Thanh Hương Lê Văn Tế cho biết Thăng Ca là cụ Hai Liên (tức là thầy Linh). Ôi chao, Thăng Ca to thế, có lẽ cụ nặng tới 70 kí. Cụ có thân hình to lớn, dáng đi đứng vững chãi, giọng nói như sấm. Cụ mà vào chơi sân túc cầu hoặc bóng rổ thì các bạn đồng đội yên tâm dễ thắng. Chúng tôi thắc mắc làm sao cụ dám bay lên cao mà hót líu lo như chim thăng ca".
Ấy thế mà chim Thăng Ca Ngô Duy Linh lại có thể bay được và tập cho người khác cùng bay. Trong bài hát cho Nhóm Chim Non Dũng Lạc của Cha có câu: "Chim Thăng Ca tung cánh gọi đàn: Thiếu Nhi, Thiếu Nhi, cùng chen vai sát cánh. Chim Thăng Ca đang thúc giục rằng: Thiếu Nhi, Thiếu Nhi, tiến tiến lên không ngừng".
Trong nghi thức an táng, trên quan tài thường đặt một vật gì tượng trưng nhất cho cuộc sống của người vừa qua đời. Như vậy, ngày 28 tháng 2 năm 1998 trong lễ an táng của Cha Ngô Duy Linh tại nhà thờ Đức Mẹ Lên Trời ở Avondale, Louisiana, phải để biểu hiệu một con chim thăng ca là đúng nhất. Ở đây, con chim thăng ca đã hiện hình thành một tập sách các bài hát soạn cho Ngày Tôn Phong Các Thánh Tử Đạo Việt Nam năm 1988 tại Roma mà nhạc sư Ngô Duy Linh đã dầy công sửa soạn và điều khiển thánh ca cho biến cố quan trọng này. Trong đó bài "Ngày Vinh Thắng" của ngài có thể coi là là cao điểm của ước mơ và viễn kiến của đời ngài: 117 con chim Dũng Lạc đang tung cánh bay lên gọi đàn. THỜI ĐIỂM GIẤC MƠ CHƯA TRÒN
Đang học ở Paris để lấy thêm bằng chuyên môn cho việc mở thêm ngành âm nhạc cho Trường Đại Học Sư Phạm Đà Lạt, mùa hè năm 1973, linh mục Ngô Duy Linh trở lại Việt Nam để xếp sắp việc khai giảng cho niên khóa 1973-1974. Ngày 11 tháng 10 năm 1973 ngài đã viết thư cho ông tổng giám đốc Việt Tấn Xã để phổ biến rộng trên đài truyền hình qua một cuộc phỏng vấn trong đó ngài nói rõ qua điểm: Lễ là Trật Tự, Nhạc là Điều Hòa.
"Âm nhạc là môn học rất cần thiết cho việc giáo dục con người toàn diện. Thật vậy, ngoài hai môn đức dục và thể dục, chủ đích thiết yếu của nền giáo dục con người là lý trí và tình cảm. Tình và Lý phải được giáo hóa song song, nếu không, con người sẽ mất thế quân bình. Lý dễ chia rẽ, Tình dễ hòa hợp. Thế mà âm nhạc là tiếng nói trực tiếp của tình cảm. Nói cách khác, âm nhạc là phương thế truyền cảm hữu hiệu, là ngôn ngữ diễn tả tâm tình xứng hợp nhất. Hội nghị quốc tế về giáo dục âm nhạc có một quyết định rất đáng chú ý:
"Tất cả trẻ em có quyền học tập âm nhạc. Trẻ em các nước tân tiến hầu hết đã được hưởng quyền lợi đó. Tỉ dụ tại nước Pháp, âm nhạc đã được giảng dậy cẩn thận từ mau giáo đến đại học. Ngoài việc đặt âm nhạc là môn nhiệm ý trong mọi ngành thi tú tài, Pháp còn thiết lập những trường trung học công lập về nhạc để thi lấy bằng tú tài âm nhạc, giá trị tương đương với mọi bằng tú tài kỹ thuật khác. Tại Nhật Bản, từ lớp mẫu giáo đến hết bạc trung học, các học sinh đều buộc phải học âm nhạc. Trong các kỳ thi tú tài, âm nhạc là môn thi bắt buộc và mang hệ số 2, ngang hàng với toán, lý hóa." TÂM HUYẾT CỦA MỘT LOÀI CHIM
Giấc mơ của chim Thăng Ca Duy Linh đưa nhạc vào chương trình giáo dục tại Việt Nam chưa tròn vì cơn lốc 1975. Nhưng nét nhạc của ngài luôn hướng tới hoài bão làm cho những đứa con của chim Tiên có thể mọc cánh. Chả lẽ con của chim Tiên mà lại không biết bay! Hơn nữa, những bài hát của ngài thường mang nhiều làn điệu ngũ cung sắc nét văn hóa Việt có sức nâng cao tâm hồn, cho con người có thể mọc cánh bay lên. Hồn dân tộc không phải là cái gì được tạo ra, nhưng nó đã có sẵn trong huyết quản, đợi đúng độ rung của âm giai ngũ cung là bừng sống dậy.
Từ biến cố phong thánh năm 1988, trong mắt của con chim Thăng Ca, một thị kiến đã bật sáng, phương cách và con đường cho người mình có thể mọc cánh vươn lên đây rồi: một đàn chim Dũng Lạc đang bay lên trong "Ngày Vinh Thắng". Ngài vẫn thường tâm sự: phong thánh đâu phải để an ủi lớp dân mình thấp cổ bé miệng, cũng không phải để hãnh diện hão rằng mình cũng oai vì có nhiều vị thánh tử đạo như ai, nhưng là ân huệ của Hội Thánh để người mình có thể hình thành một con đường, gọi là đường tu đức, là một lối sống làm mọc cánh bay lên theo đàn chim Dũng Lạc, sống thảnh thơi hơn, an nhiên hơn trong cơn lốc xô bồ lúc chuyển sang thiên niên mới. Niềm hãnh diện với thế giới nằm ở chỗ là cả một đạo sống Phúc Âm theo tinh thần Việt đã được công nhận và giới thiệu cho con người thời đại đáp ứng đúng thời điểm. Niềm hãnh diện này phải như một trào lưu bộc phát, gợi hứng cho những sáng tác thơ văn Công Giáo, cho những sáng tác về thánh ca đầy thần khí có sức tác động tập thể dân Chúa cũng như chuyển đạt được sứ điệp Tin Vui đến với anh chị em ngoài Công Giáo. Ngài ao ước có được nhiều nhạc sĩ cùng rung cảm góp phần khơi lên cảm hứng này.
Và từ ngày đó, các bài sáng tác của ngài đều hướng về một chủ đề mà thôi, kể cả những bài đào tạo các nhóm Chim Non như Đàn Chim Dũng Lạc, Chim Thăng Ca... Khởi đầu là bài "Ngày Vinh Thắng" với những tiếng trống lệnh như tiếng trống đồng vang lên từ động Đông Sơn, bừng lên những bó đuốc từ động Mê Linh, động Hoa Lư, động Lam Sơn. Ai nghe bài này mà chả thấy máu mình sôi lên, mắt mình sáng rực nhìn thấy thị kiến một đàn chim Việt đang vụt bay lên theo cánh chim Tiên suốt dọc dài lịch sử, vượt lên khỏi những bầm dập bi thảm của Việt tộc. Tiếp đến là các bài như Gương Bất Khuất, Tình Yêu Tuyệt đối, Khúc Sáo Ân Tình, Ngoài Vũ Trụ, Âu Ca Dũng Lạc. Đây là một thí dụ: Niềm tin mọc cánh chim âu, Lòng đầy thần lực tuôn trào suối thiêng. Đường Dũng Lạc, lối bay lên Hùng dũng an lạc như tiên như rồng. Bước theo đạo sống vuông tròn Mang gươm thập giá khơi dòng tình yêu Con đường nghiền nát trầu cau Nên màu đỏ thắm nên màu sắt son. (bài Âu Ca Dũng Lạc, lời của Lm. Trần Cao Tường) TIN VUI CHO TRÒN GIẤC MƠ
Đàn chim Dũng Lạc 117 con đã có thể bay lên. Cả thế giới công nhận rồi. Giấc mơ trước kia chưa tròn thì nay đã tròn. Đường bay lên cao này do chính Đức Giêsu dẫn lối. Tin Vui kể rõ:
"Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Và đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường, và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng... Bấy giờ từ trong đám mây có tiếng phán ra: Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người."
Lên cao một chút thì tầm nhìn sẽ đổi nhiều lắm, những tiêu chuẩn giá trị cũ đều trở thành tương đối. Từ trên núi nhìn xuống, những nhà chọc trời, những chỗ ngồi thế đứng địa vị, những chiếc xe láng, những bon chen hơn thiệt... đều trở thành nhỏ nhoi một cách tội nghiệp. Có những thời gian cần dành ra để đi vào nơi tĩnh lặng như Đức Giêsu, đưa tầm mắt lên cao một chút, sẽ khám phá ra vẻ sáng láng huy hoàng đích thật của con người mình, vượt qua lớp bụi bặm phù du nhầy nhụa. Và một nhãn quan mới cũng được khai mở như tâm tình của nhà thơ Nguyễn Khánh Hòa ở New Orleans: Con mắt nhìn lên trời cao xanh ngát Con mắt nhìn xuống biển rộng bao la Con mắt nhìn gần quên điều nhỏ nhặt Con mắt nhìn xa chợt thấy quê nhà.
Một trong những bài sáng tác cuối cùng của nhạc sư Ngô Duy Linh là bài "Ngoài Vũ Trụ" trong Ngày Hàn Mặc Tử dịp Phạm Duy về New Orleans trình bày Trường Ca Hàn Mặc Tử. Nhạc sư Ngô Duy Linh như đã linh cảm thấy ngày bay lên của con chim Thăng Ca. Đây cũng là lời thơ của Hàn Mặc Tử diễn tả thị kiến về cảnh sáng láng khi được đưa lên cao một chút. Mỗi người cùng hòa nhập với thị kiến của con chim Thăng Ca mà đưa tầm mắt lên cao, cho tâm hồn tìm lại nét đẹp nguyên sơ: Ra không gian là vượt hẳn thượng tầng Tấp tới đến ở ngoài kia vũ trụ, Nơi khí tượng bốc ngùn muôn tinh tú, Nơi không cho hồn lai vãng quan chiêm. Sáng vô cùng, sáng láng cả mọi miền, Không u ám như cõi lòng ma quỉ. Vì có Đấng Hằng Sống hằng ngự trị, Nhạc thiêng dồn trổi khắp hư linh. Lm. Trần Cao Tường
(từ tác phẩm Nhịp Múa Sông Thanh, Thời Điểm xuất bản) mời thăm www.dunglac.net , Mạng Lưới Dũng Lạc, góp tư liệu xây nhà Văn Hóa & Niềm Tin.
Mưa Phục Sinh, thật ra chẳng cần chờ. Bởi, mưa Phục Sinh, mưa ơn cứu độ đã xảy ra qua sa mạc – biến hình. Biến hình chốn hoang vu. Biến hình nơi sa mạc. Sa mạc dương gian. Sa mạc của cuộc đời. Của người người sống cảnh vu vơ, đời biến dạng. Và, thực trạng biến hình đổi dạng nói lên Sự thật. Một Sự rất thật về mặc khải Sống Lại trước Phục Sinh.
Vâng. Mặc khải Sống Lại trước Phục Sinh đã được thánh Phê-rô xác nhận trước đó qua việc khẳng định về Đấng Thiên Sai. Khẳng định thật rõ nét khi Thầy Chí Thánh hỏi: người ta bảo Con Người là ai ? Và hôm nay, mặc khải về Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa Hằng Sống, được xác nhận một lần nữa trên non cao, đầy sa mạc. Non cao là nơi Gia-vê Thiên Chúa vẫn tỏ lộ mặc khải quan trọng cho Mô-sê và Ê-li-a. Hai trụ cột của Giao Ước cũ được Thiên Chúa thiết lập cho Dân Ngài chọn.
Là một trong các cột trụ mới nơi Tân Ước, thánh Phê-rô cũng được chứng kiến cảnh “đám mây phủ bóng trên mình Ngài” ( Lc 9: 34, Ys 42: 1 ) và được nghe “tiếng vọng phát ra từ đám mây” ( Lc 9: 35, Tl 18: 15 – 19 ). Như thế, thánh nhân đại diện cho nhân loại phàm trần được ban cho, trong cuộc “Biến Hình” thần thánh, khẳng định mới về Thiên tính của Đức Chúa. Và, khẳng định này xác nhận sự Sống Lại trước Phục Sinh của Đức Chúa.
Trình thuật Sa Mạc – Biến Hình hôm nay, lại một lần nữa, long trọng xác nhận Thiên tính của Đức Chúa từ nơi Cha: “Ngài là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Ngài.” ( Lc 9: 35 ).
“Hãy vâng nghe lời Ngài”, vừa là xác minh, vừa là mệnh lệnh. Xác minh chứng tỏ rằng: chính Ngài là Đấng Thiên Sai, là Đức Chúa mang phận loài người. Và, mệnh lệnh cũng chứng tỏ: đây chính là kim chỉ nam hướng dẫn các tín hữu dấn thân theo bước chân mềm của Đức Chúa, trong rao truyền. Thiên Chúa là Cha xác minh và lan truyền mệnh lệnh, bởi vì dân con nhà Đạo vẫn chưa hiểu nổi các mặc khải và chưa sẵn sàng để chấp nhận: Đức Ki-tô Giê-su là Đấng Mê-si-a, có đủ Thiên tính.
“Hãy vâng nghe lời Ngài”, còn minh xác: Đấng Cứu độ muôn loài đã bị người trần gian chối bỏ. Chính họ đã đưa Ngài vào sa mạc hành hình, đầy chết chóc. Nhưng, Ngài chấp nhận mọi khổ nhục cũng như cái chết sầu thảm, ngõ hầu mọi kẻ tin sẽ tuân theo mệnh lệnh Cha trao. Ngài chấp nhận những “bụi vùi” và “khóm cỏ gai” đời sầu khổ để nhân gian có được “mưa Phục sinh”.
Trình thuật hôm nay, xác định với dân con nhà Đạo tư thế Thiên Sai Ngài nhận lãnh qua thân phận làm người, để rồi “mưa Phục sinh” cứu độ được loan báo từ trước, sẽ đổ tràn xuống trên muôn dân, cả trong Sa Mạc – Biến Hình. Trình thuật cũng khích lệ các tín hữu “hãy vâng nghe lời Ngài” mà yêu thương hết mọi người, cho đến cùng.
“Hãy vâng nghe lời Ngài” còn là chấp nhận đau thương thấp hèn, trong cuộc sống. Chưa vâng nghe lời Ngài, thì chưa thể nào hiểu được thân phận của Đấng Thiên Sai được khẳng định nơi Sa Mạc – Biến Hình. Chưa vâng nghe lời Ngài, như thế cũng chưa thể chấp hành mệnh lệnh Chúa Cha trao ban mà đi vào cuộc sống thường nhật. Sống yêu thương. Sống vâng lời.
Chấp hành mệnh lệnh yêu thương trong cuộc sống là kinh nghiệm của người xưa, của các cột trụ trong Giao Ước, lẫn dân con nhà Đạo. Chấp hành mệnh lệnh yêu thương như thế sẽ không còn tình trạng “bụi vùi, cỏ gai” ở trần gian nữa. Nhưng, sẽ luôn“chờ mưa Phục Sinh” mưa ơn cứu độ đến với chính mình. Lại nữa, chấp hành mệnh lệnh “vâng nghe lời Ngài” là dấn bước tìm gặp Đức Chúa trong suy tư nguyện cầu với Ngài, trên sa mạc có biến hình.
Con dân nhà Đạo chỉ được mặc khải về “Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn” khi suy tư nguyện cầu ở trên non cao. Suy tư nguyện cầu, là kinh nghiệm “vâng nghe lời Ngài” không phải của Môsê, Êlya hoặc thánh Phê-rô mà thôi, nhưng là của tất cả con dân nhà Đạo. Suy tư nguyện cầu, là tiếp xúc cận kề với chính Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa. Và cuối cùng, không thể suy tư nguyện cầu được, nếu không biết yêu thương đùm bọc, hết mọi người.
Bài nguyện cầu hôm nay, chứa đựng thêm một điều: đó là lời mời gọi ta hãy về với những gì đánh động tâm can ta. Đánh động về một biến hình, đổi dạng chính con người mình. Biến hình đổi dạng để như thánh Phao-lô đề nghị: “hãy kết hợp với Chúa mà sống vững vàng như vậy” ( Pl 4:1 ). Sống vững vàng, vì Đức Ki-tô đầy Quyền Năng sẽ biến đổi chúng ta nên giống như Người. Ngài biến đổi chúng ta như đã “biến hình” trên non cao, sa mạc. Và, khi đổi mới chúng ta theo cách Biến – hình – nơi – sa – mạc, Ngài sẽ qui tụ chúng ta về với vòng tay ôm dịu hiền của Hội Thánh, tức, những người con yêu Đức Chúa.
Tham dự tiệc thánh qui tụ những người con yêu của Đức Chúa, ta cầu mong cho cộng đoàn tình thương của ta biết “vâng nghe lời Ngài”, trong mọi tình huống. Cầu và mong sao hành trình yêu thương bảo đảm cho chúng ta một chỗ đứng trong Nước Trời ở trần gian này. Để, ta dùng đó làm đòn bẩy có sức biến hình đổi dạng cả thế giới gian trần này. Biến hình và đổi dạng để tất cả sẽ nên một. Một cộng đoàn. Một tình thương.
Và, cùng với cộng đoàn tình thương của Nước Trời, ta hân hoan cất lên câu ca trìu mến của người nghệ sĩ thân quen, mà hát:
Và bây giờ, ngày buồn đã qua Mọi lỗi lầm, cũng được thứ tha Tình yêu đã đến trong ánh nắng mai Xóa tan màn đêm u tối Cho tôi biến đổi tâm hồn Thành một người mới... ( Đức Huy – Và con tim đã vui trở lại )
Đúng là như thế. Có biến đổi tâm hồn để thành một người mới, ta ngại gì những “khóm cỏ gai, bụi vùi” miền sa mạc, mà không “chờ cơn mưa Phục sinh” của một Biến Hình thần thánh, rất Thiên Sai. Rất yêu thương với lệnh truyền “Hãy vâng nghe lời Ngài !”.
Mùa Chay là cơ hội giúp tín hữu cố gắng đi sâu vào mầu nhiệm Thánh giá và Phục sinh. Thế nhưng, đó cũng là dịp truyền thông Hoa kỳ tung ra cuốn phim tài liệu “Ngôi Mộ Thất Lạc của Ðức Giêsu.” Mục đích phủ nhận sự kiện Phục sinh và xóa bỏ niềm tin Kitô trong lòng hai tỉ tín hữu trên thế giới. Phải chăng đó là lần đầu tiên kỹ nghệ phim ảnh hợp tác với khảo cổ học lũng đoạn và phá hủy các giáo hội Kitô ? Nếu sự thật đúng như họ công bố, chẳng còn gì để nói về biến cố Hiển dung hôm nay. Ánh sáng Hiển dung chỉ có ý nghĩa và giá trị khi dẫn đến ánh sáng Phục sinh mà thôi.
Sự thật vẫn là sự thật. Các nhà khảo cổ Do thái hoàn toàn bác bỏ tài liệu khảo cổ đó, vì chứng cứ mâu thuẫn. Sự kiện Chúa Giêsu Phục sinh đã được năm trình thuật dẫn chứng nghiêm nhặt trong Tân Ước về những lần Chúa hiện ra: bốn trình thuật trong Tin Mừng và một do thánh Phaolô. Các môn đệ đã làm chứng và hy sinh mạng sống vì Chúa Phục sinh.[1]
Cách đây hơn hai ngàn năm, các tông đồ đã trải qua những thách đố lớn lao khi Ðức Giêsu sửa soạn bước vào những ngày đen tối nhất cuộc đời. Mấy ai vững bước trong đêm trường ?! Bởi thế, Ðức Giêsu muốn dẫn các môn đệ thân tín nhất là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cao để chứng kiến tất cả vinh quang và cảm nghiệm mối thâm tình giữa Chúa Cha và Chúa Con. Nhờ đó, họ thấy được tất cả nền tảng niềm hy vọng đã đặt nơi Ðức Giêsu.
Còn hơn thế, họ được phép đi vào tương quan thâm sâu giữa Cha Con. Quả thực, họ như lạc vào trong đám mây, tức là sống giữa sự hiện diện của Thiên Chúa. Họ đã ra khỏi môi trường sống bình thường của trần thế. Họ lọt vào thế giới Thiên Chúa. Ðó là lý do tại sao “các ông hoảng sợ.” (Lc 9:34) Mới nhìn thấy “vinh quang của Ðức Giêsu,” (Lc 9:32) chiếu tỏa rực rỡ giữa hai ông Môsê và Êlia, ông Phêrô đã lạc giọng và không kiểm soát nổi mình. Vậy khi các ông chiêm ngắm và sống mầu nhiệm Thiên Chúa trên đỉnh non cao, bút mực nào có thể diễn tả ?
Khi được đưa vào cõi Thiên Chúa, các ông mới thấy nguyên hình Ðức Giêsu. Ánh sáng lúc này phải tăng tới độ vô cùng mới diễn tả được vinh quang và địa vị Con Thiên Chúa của Ðức Giêsu. Lúc này không phải Ðức Giêsu tự làm chứng nữa, nhưng chính Chúa Cha xác nhận địa vị cao cả vô cùng của Chúa Con. Không có lời chứng nào chính xác và giá trị hơn ! Tình yêu Chúa Cha mãnh liệt đến độ Chúa Con đã “lọt mắt xanh” Chúa Cha, được tuyển chọn để trở thành Thiên Sai giữa trần thế.
Như thế, khi xuống trần gian, Ðức Giêsu đã được Chúa Cha tin tưởng tuyệt đối, đến nỗi trở thành mẫu mực và phát ngôn chính thức của Chúa Cha. Tin tưởng tuyệt đối đến nỗi Chúa Cha phải phán với các môn đệ : “Hãy vâng nghe lời Người !” (Lc 9:35) Con tim Chúa cũng có cùng một nhịp đập khi nghe tiếng nói tương tự của Ðức Mẹ trong tiệc cưới Cana : “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo !” (Ga 2:5)
Uy thế Chúa Giêsu chưa bao giờ lên cao như vậy. Nếu muốn lên cao như Chúa, các môn đệ cũng phải biến hình nhờ sức mạnh thần khí và sự sống Thiên Chúa, tức là Lời Chúa (x. Ga 6:63) . Ðó là lý do tại sao Chúa Cha truyền cho các môn đệ phải vâng giữ Lời Chúa. Lời Chúa sẽ thực hiện cuộc biến đổi sâu xa và toàn diện nơi những ai thực tâm sống Lời Chúa. Cuộc biến đổi này cũng giống như việc Chúa biến hình hôm xưa.
Cuộc biến hình này mau qua. Cuộc biến hình và hiển vinh miên viễn chỉ đến qua những đau khổ của Ðức Giêsu, một đề tài được trao đổi giữa Chúa và hai vị khách từ thiên giới (Lc 9:31). “Hình như các thánh sử cũng cho thấy sự liên kết giữa những đau khổ và vinh quang của Ðức Kitô, vì cuộc Biến hình được đặt trong bối cảnh lời tiên báo đầu tiên về cuộc Thương khó, cái chết và sự Phục Sinh (Mt 16:21-23; MC 8:31-33; Lc 9:22).”[2] Nếu cuộc Thương khó và cái chết chứng tỏ Ðức Kitô đã “hoàn toàn trút bỏ vinh quang” (Pl 2:7) Thiên Chúa, thì biến cố Hiển dung và Phục Sinh mạc khải Ðức Giêsu là Ðức Chúa. Người đến thực hiện những Lời Kinh Thánh (x. Lc 24:44-48) và lời các tiên tri về Ðấng Thiên Sai, Ðầy Tớ Ðức Giavê và Con Người. Qua Ðức Giêsu, Thiên Chúa thực hiện những điều đã hứa và đến ở giữa dân Người. Ðồng thời, biến cố Hiển dung xác nhận lời tuyên xưng đức tin của Phêrô tại Cesarea Philiphê (Mt 16:16). Ánh sáng Hiển dung còn mạc khải Con Người Ðức Giêsu có cùng một vinh quang với Thiên Chúa Cha.
Muốn chung hưởng vinh quang với Ðức Giêsu, Kitô hữu phải gặp gỡ Người trong bí tích và tham dự vào mầu nhiệm sự chết và Phục sinh của Người, một mầu nhiệm được báo trước trong biến cố Hiển dung hôm nay. Ngay bây giờ, Kitô hữu phải luôn luôn và không ngừng để Chúa Thánh Linh tác động (2Cr 3:18) hầu hoàn toàn biến hình, đợi ngày phục sinh vinh quang của toàn thể vũ trụ khi Chúa đến lần thứ hai. Trước khi vui hưởng vinh quang cuối cùng, và được biến hình với Ðức Kitô, họ phải nên đồng hình (đồng dạng) với Người. Dù sống trong một thế giới đầy đau khổ và thập giá, Kitô hữu vẫn hy vọng và hoàn toàn xác tín Chúa Thánh Thần đang hoạt động mãnh liệt để chiến thắng Satan và đạt vinh quang cuối cùng trong cuộc biến hình hoàn toàn.[3]
Chính vì thế, đúng như thánh Phaolô nói (Rm 3:35), không gì có thể làm cho Kitô hữu tuyệt vọng. Tuy không phải là tông đồ được lên núi với Chúa, nhưng được “một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ,” (Cv 22:6) Thánh nhân đã biến hình hoàn toàn. Một cuộc lột xác tận bên trong và toàn thể cuộc sống ! Từ đó, mặc dù phải ba chìm bảy nổi chín lênh đênh, ông vẫn luôn rao giảng Tin Mừng. Ngay cả lúc ngồi tù, ông vẫn hô hào mọi người : “Vui lên anh em !” (Pl 4:4) Lúc trước, suốt ngày mặt ông đằng đằng sát khí với các Kitô hữu. Từ khi trở nên đồng hình (đồng dạng) với Chúa Kitô, ông đã tìm thấy niềm vui và bình an thực sự. Lý do vì ông đã biết lắng nghe và vâng lời Con Chí Ái của Chúa Cha.
Có nhiều môn đệ chưa đau khổ bằng thánh Phaolô, nhưng cuộc đời đầy ắp u buồn. Nhìn lại quá khứ, tôi thấy những mảnh đời không đồng hình (đồng dạng) với Chúa Kitô. Bởi đó, tôi không thể biến hình với Thày Chí Thánh. Ánh sáng Hiển dung chưa chiếm trọn con tim, làm sao con mắt nhìn thấy Thiên Chúa đang hiện diện nơi từng anh em ? Niềm tin non nớt chỉ sinh ra cay đắng. Nếu có đức tin bằng hạt cải, tôi đã có thể nhìn thấy hồng ân trong tất cả. Nếu tôi lên núi với Người, cuộc đời đã tràn ngập niềm vui. Vì ngại lên núi biến hình với Chúa, tôi đã không thể vận dụng mọi lẽ thuận nghịch trong cuộc sống và không vượt qua được đêm tối trần gian.
Ngày xưa, đứng trước thực tế đầy nguy hiểm và éo le, Chúa Giêsu đã đưa các môn đệ thân tín nhất lên núi chiêm ngưỡng Chúa biến hình. Chắc chắn khi được đám mây bao phủ, các ông đã cùng “biến hình” với Chúa. Trước và sau cuộc biến hình này, Chúa đều kêu gọi các môn đệ hãy đồng hình. Nếu không biến hình với Chúa, liệu các ông có đồng hình được không ? Nhưng nếu không đồng hình (đồng dạng) với Chúa, các ông có thể biến hình trong ánh sáng Phục sinh không ? Biến hình hay đồng hình, sự kiện nào xảy ra trước ?
Thực tế, Chúa chỉ chọn ba tông đồ lên núi mà thôi. Như thế chỉ có một phần tư trong số tông đồ đoàn được may mắn chiêm ngưỡng Chúa Hiển dung. Ba phần tư còn lại cũng phải vác thập giá theo Thày và chia sẻ chén đắng suốt cuộc đời. Tại sao những ông này không được vinh dự và hạnh phúc như ba vị kia ? Họ sẽ lấy sức mạnh ở đâu để trung thành với Thày tới cùng ?
Tin Mừng nói rõ Chúa hiển dung đang lúc cầu nguyện (x. Lc 9:29). Trong cầu nguyện Chúa đã hiệp thông sâu xa với Chúa Cha. Những biến đổi bên ngoài dung mạo và y phục diễn tả phần nào cuộc hiệp thông đó. Chẳng lẽ các tông đồ không thay đổi gì sau bao lần chứng kiến và cùng cầu nguyện với Chúa ? Chính trong lời cầu nguyện, các ông đã được biến hình sâu xa để có thể đồng hình (đồng dạng) với Chúa trong cuộc đời. Bởi thế, Chúa mới dạy chúng ta phải cầu nguyện không ngừng (x.Lc 21:36). Nhờ cầu nguyện, chúng ta biến hình giống như Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con lên núi với Chúa. Giữa cuộc sống đầy tăm tối hôm nay, xin Chúa ban cho con ngày càng nên đồng hình với Con Chúa, để con có thể biến hình trong vinh quang Phục sinh. Amen. đỗ lực
Ở Trung Quốc,nghệ thuật biến diện được xếp vào hàng bí mật quốc gia và những nghệ nhân bậc thầy như Wai Shui-Kwan có thể thay đổi diện mạo 20 lần trong vòng năm đến sáu phút. Nhưng đó cũng chỉ là thay đổi mặt nạ. Khuôn mặt và kể cả thân thể con người có thể bị biến dạng do bệnh tật, do tai nạn, nhưng đáng sợ nhất có lẽ là di chứng của những vụ đánh ghen bằng cường toan. Nó không chỉ làm biến dạng dung nhan của một con người, mà còn hủy hoại cả một cuộc đời, trở nên “sống không bằng chết”. Đầu thập niên 60 thế kỷ trước, miền Nam xôn xao về vụ ca sĩ Cẩm Nhung bị tạt a-xít, nhân tình nhân ngãi bỏ rơi, bạn bè người thân xa lánh, thân tàn ma dại. Hình như đó là vụ duy nhất mang tính dã man nầy trước năm 1975. Ngày nay,nếu mở Internet và gõ “tạt axít”, người gan dạ nhất cũng hết hồn, vì dày đặc những trang tin,như một thứ “mốt trả thù thời thượng”, mà thủ ác cũng như nạn nhân thuộc đủ hạng tuổi, tội ác phát xuất từ đủ nguyên nhân và mức độ man rợ của hành vi nầy thì không còn gì để bàn. Không chỉ khuôn mặt và cuộc đời những nạn nhân nầy bị biến dạng, mà cả xã hội đang bị biến dạng, hay nói đúng hơn: những hành vi man rợ nầy phản ảnh thực trạng giáo dục, đạo đức của xã hội duy vật,vô thần ngày nay. Không phải là tương quan giữa lửa và khói (không có lửa làm sao có khói), mà là tương quan nhân - quả (gieo gió gặt bão). Chúa Giêsu đã nói :”Nào ai hái được trái nho nơi bụi gai, hoặc trái vả nơi bụi găng sao? Cũng thế, cây tốt thì sinh trái tốt, còn cây xấu thì sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, và cây xấu không thể sinh trái tốt” (Mt 7,17- 18).
Nhưng có một nghịch lý là hai ngàn năm Chúa Giêsu biến hình,Hiển Dung trên núi Taborê, thì cũng có thể nói bằng ấy thời gian Lời Chúa, lời giảng dạy của Giáo Hội bị biến dung. Và nếu không liên tục được uốn nắn, chỉnh sửa - nhiều khi phải sử dụng tới những biện pháp mạnh, những hình phạt, những vạ tuyệt thông,v..v.. – thì liệu giờ phút nầy, người ta có thể còn nhận ra Khuôn Mặt Đấng Kitô, Dung Nhan của Mẹ Hội Thánh, Tin Mừng của Chúa, giáo lý và giáo huấn của Giáo Hội nữa chăng? Khoan đã trả lời vội . Hãy nhìn xem những anh em Kitô hữu các giáo phái Tin Lành : họ như những mãnh kính vụn, ngày càng nhăm nhó đến mức dù có thiện chí đến đâu, cũng khó lòng mà hàn gắn,nối kết lại. “Đại kết” thì được ( vì là phong trào),nhưng nói đến hiệp nhất, tức là gồm đủ khía cạnh thần học, tín lý, bí tích, xem ra “nghìn trùng xa cách”. Nhưng không phải chỉ có lỗi của anh em Tin Lành, mà trong lịch sử hai ngàn năm của Giáo Hội, những bè rối,những ly giáo,những tà thuyết, luôn tự xưng là “chính thống”, đã muốn bẻ cong Lời Chúa và Thánh Truyền. Giáo Hội đã mất biết bao công sức, thời gian, để nắn lại khuôn mặt Giáo Hội bị biến dung qua những vụ việc ấy. Các bè rối có thể bị khuất phục, nhưng những vết thẹo để lại, thì không dễ gì biến mất và như Satan, chúng chờ dịp thuận tiện để xuất hiện và tác oai tác quái trở lại
Nhưng với sự phát triển như vũ bão của các phương tiện truyền thông, thì những sai lầm cố tình hay do thiếu hiểu biết, được phát tán nhanh chóng và sâu rộng, khiến cho mọi phản ứng, sửa sai, cải chính đều không kịp thời. Nọc độc cứ thế truyền đi. Không ít người vui mừng vì thấy bắt chẹt, chỉ trích được Đức Thánh Cha và làm cho Giáo Hội quằn quại rên xiết. Người ta còn nhớ một linh mục và là nhà thần học như Hans Kung, đã đem Vị Cha Chung hoàn vũ, Đức Gioan-Phaolô II ra “ đấu tố” và hài đủ mười…tội! Người ta nhớ lại phong trào thần học giải phóng ở Nam Mỹ, do một số linh mục đề ra và linh hoạt, đã gây tổn hại thế nào cho các tín hữu. Hậu quả nhãn tiền ngày nay thấy rõ trong các quốc gia Nam Mỹ, những nước đại đa số là Công giáo, nay nhờ các linh mục đó mà dần bỏ Chúa, lìa xa Giáo Hội, chống cưỡng giáo huấn Giáo Hội. Sự bất tuân của những người như giám mục Lefèbvre, sự giảo quyệt dâm ô của giám mục Milingo, tất cả không chỉ bôi tro trét trấu lên dung nhan Giáo Hội, bôi bẩn Tin Mừng, mà làm cho bao người vì xấu hổ,hồ nghi,mà bỏ đạo. Họ rất đau khổ,vì dung nhan Giáo Hội mà cha ông và bản thân họ đã gắn bó, nay bị biến dung đến mức thảm hại.
Khuôn mặt “sáng trong không có thợ giặt trần thế nào làm được” (x. Lc 9) nay dúm dó, đen xỉn, lạ lẫm và không còn đáng tin ở nhiều nơi trên thế giới : sau Hoa Kỳ, lại đến Ái Nhĩ Lan, rồi ở Đức,ở Úc,…những vụ bê bối giáo sĩ,tu sĩ lạm dụng tình dục, không chỉ phạm những tội ác ghê tởm, mà sự bất xứng của họ khiến cho kẻ trong người ngoài Giáo Hội khó lòng nhận ra đâu là sự thánh thiện tinh tuyền của Giáo Hội. Lươn bò để nhớt lại. Trong thuật ngữ chuyên môn, từ ”đơ” được dùng để chỉ tình trạng những đồ vật được làm bằng chất dẻo, đã mất hết tính đàn hồi, mất hết khả năng hữu dụng trong kết cấu máy móc, chỉ còn đáng bị vứt bỏ, vì tuyệt nhiên không còn dùng được vào việc gì. Những giáo sĩ,tu sĩ sống bê tha dục vọng cũng chỉ có thể định nghĩa là đã bị “đơ”, mất hết xúc cảm,mất hết ý thức trách nhiệm và cả bị câm điếc vì những gì những người như họ gây ra cho Giáo Hội, cho các tín hữu, cho mọi người. Làm sao giải thích họ vẫn ngày ngày mở miệng đọc “Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”, khi mà họ dựng cả những bức tường cản trở Nước Trời đến trong thế gian, nếu không phải lòng họ đã “đơ”? Một trong các chức năng của các công đồng là làm công cụ để uốn nắn những lệch lạc,sửa chữa những sai lầm và thích nghi với thời đại. Nhưng công đồng không phải là một cơ chế linh động của Giáo Hội, vì do rất nhiều nguyên nhân, - kẻ cả những nguyên nhân kinh tế,xã hội, chính trị - việc triệu tập một công đồng hết sức tốn kém và phức tạp. Trong những khoảng thời gian khá dài giữa các công đồng ( 21 công đồng trong hơn 20 thế kỷ), nhiều trào lưu, phong trào xuất hiện và phát triển, đặc biệt về triết học, thần học và cả văn chương nghệ thuật, với không ít những sai lạc về đức tin,luân lý, như những lỗ rò rỉ mà Giáo Hội không đủ giờ, đủ sức, đủ phương tiện để trám bịt hết. Cứ như vậy, dung nhan Giáo Hội bị biến dung từng chút một. Đã có những thời các giáo phẩm,các linh mỵc và tu sĩ chạy theo thế gian,chức quyền, danh vọng và chọn lối sống xa hoa (tất nhiên đời sống độc thân linh mục cũng bị vi phạm không ít), làm gương mù gương xấu cho mọi tầng lớp xã hội và không ai còn nhận ra được một Giáo Hội của một Chúa Giêsu Kitô sinh ra nghèo hèn,sống đạm bạc, chết trần trụi khốn khổ trên thập giá.
“Các ngươi hãy nghe Lời Người” (Lc 9, 35).
Năm 2004, Culp bị người chồng bắn vào mặt, phá hủy mũi,má,miệng và mắt của Chị, với hàng trăm mãnh đạn và xương, chỉ còn mí mắt trên,trán,môi dưới và cằm nguyên vẹn. Ngày 10.12.2008, Chị trải qua một ca phẫu thuật kéo dài 22 giờ nhằm thay thế 80% gương mặt của Chị bằng xương,cơ,dây thần kinh,da và các mạch máu từ một người phụ nữ mới qua đời và sau đó Chị còn phải trải qua 30 cuộc phẫu thuật để chỉnh lại gương mặt. Bất cứ dự biến dạng, biến dung nào cũng tốn kém công phu để chỉnh sửa cho tương đối so với nguyên bản. Những biến dung trong Giáo Hội cũng không phải là ngoại lệ. Và ngoài các công đồng chung, thì các nhà giải phẫu đại tài là các giáo hoàng,những người được Chúa chọn, như Người đã chọn Thánh Phêrô. Nhiều người chẳng những cố tình không hiểu biết,cảm thông và chia sẻ lo âu và gánh nặng với Đức Thánh Cha, mà còn gây ra đủ rắc rối, làm phiền lòng cho Vị Cha Chung. Hình ảnh Đức Thánh Cha Biển-Đức nhân danh Giáo Hội cúi thấp đầu xin tha những tội lỗi mà Người ghê tởm hoặc không hề phạm, vì “con dại cái mang” và để chỉnh đốn, sử sai, bảo tồn dung nhan tốt lành,đẹp đẽ, thánh thiện của Giáo Hội, vừa cảm động lại vừa nhức nhối. Hình ảnh Vị Thuyền Trưởng vững tay lái giữa muôn bão táp cuồng phong, đang dẹp yên sóng gió và đem lại an bình cho Giáo Hội và cả thế giới, tạo được sự kính trọng của mọi giới,trả lại dần khuôn mặt bị biến dung của Giáo Hội, trả lại khuôn mặt của Chúa Kitô ngày Hiển Dung cách nay 2000 năm.
Chúa muốn mọi tín hữu vâng nghe Đấng Người “tuyển chọn” (Lc 9, 35 a), vì một Giáo Hội Duy Nhất – Thánh Thiện – Công giáo – Tông Truyền. Cố tổng thống Mỹ Kennedy từng có một câu nổi tiếng: "Đừng hỏi đất nước có thể làm được gì cho bạn. Hãy hỏi bạn có thể làm được gì cho đất nước.". Mỗi tín hữu Công giáo đều biết rõ Thiên Chúa và Giáo Hội đã làm gì cho mình. Mùa Chay nầy, hãy tự vấn lương tâm : chúng ta đã làm gì cho Chúa và cho Giáo Hội? Chính sự chỉ biết đến mình, dửng dưng đối với Giáo Hội, đã làm biến dung Đạo Chúa và Giáo Hội. Lỗi nầy, ta sẽ quy trút cho ai.
Khuôn mặt phản ánh cuộc sống của con người. Sống trên đời, ai cũng muốn mình có khuôn mặt đẹp, dễ nhìn, dễ mến. Vì thế, ngày nay người ta đã bỏ ra nhiều công sức và tiền bạc để đi thẩm mỹ viện sửa sang lại khuôn mặt của mình. Người ta muốn được người khác chú ý, muốn thu hút người khác, muốn người khác thay đổi cái nhìn về họ…
***
Bạn thân mến! Tin Mừng Chúa nhật hôm nay cũng tường thuật về một khuôn mặt, về sự biến đổi dung mạo của một người. Người đó chính là Đức Giêsu khi Ngài biến đổi hình dạng trên núi Tabo: “Ðang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người biến đổi” (Lc.9:29).
Tin Mừng tường thuật thật rõ ràng :“Khuôn mặt của Chúa Giêsu biến đổi khi Ngài đang cầu nguyện”. Phải chăng cầu nguyện là gặp gỡ Thiên Chúa? Gặp gỡ Thiên Chúa làm biến đổi con người từ nội tâm đến thân xác, biến đổi từ khuôn mặt đến cả những gì con người sử dụng: "y phục của Người cũng trở nên trắng tinh chói loà " (Lc.9:29).
Trong mùa Chay thánh này, Giáo hội mời gọi ta cùng biến hình với Đức Giêsu:
Biến hình với Đức Giêsu là thay đổi cuộc sống của ta, là biến đổi tâm hồn ta, là mang vào lòng ta một trái tim mới, trái tim của yêu thương, của tin tưởng và cậy trông phó thác.
Biến hình với Đức Giêsu là vất bỏ ý riêng của ta, là chấp nhận và vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa, là lên đường bước đi với Chúa trong tình yêu và ân sủng Ngài ban.
Biến hình với Đức Giêsu là từ giã con người tội lỗi yếu hèn của mình, là trở nên giống Ngài mỗi ngày mỗi hơn.
Nhưng mọi cuộc biến hình đổi dạng đều phải khởi đi từ việc tiếp xúc với thân mật với Thiên Chúa. Có tiếp sức thân mật với Chúa, có nỗ lực cầu nguyện liên lỉ, ta mới có sức mạnh Chúa ban để biến đổi cuộc đời của ta. Đôi khi ta cũng dễ dàng lãng quên việc gặp gỡ Thiên Chúa, lãng quên việc cầu nguyện mỗi ngày, lấy cớ mình qúa bận bịu với những công việc của Chúa. Thế giới ta đang sống hôm nay rất thiếu những người chăm lo cầu nguyện, nhưng lại thừa những người lăng xăng...
***
Lạy Chúa Giêsu! Xin biến đổi con,
xin biến đổi con qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa,
xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con nghe Lời Chúa,
xin biến đổi tai con.
Mỗi lần con đọc Lời Chúa,
xin biến đổi môi miệng con
Mỗi lần con rước Chúa vào lòng,
xin biến đổi tim gan con.
Xin cho khuôn mặt của con được ngời sáng hơn,
sau mỗi lần con gặp Chúa.
Ước gì mọi người thấy nét mặt tươi vui của Chúa,
trong nụ cười của con,
Thấy sự dịu dàng của Chúa,
trong lời nói của con. Amen. Tổng hợp từ R. Veritas (BĐ1: St.15:5-12 &17-18 - BĐ2: Pl.3:17- 4,1 - PÂ: Lc.9:28b-36)
Chúng ta đang sống trong một xã hội văn minh hiện đại. Thời buổi của một lối sống bị ảnh hưởng bởi nền công nghiệp hóa. Người người tranh nhau chạy để vật lộn với cuộc sống. Do đó, người ta chuộng những gì đó mau lẹ và gọn nhẹ. Ðến nỗi thức ăn người ta cũng chỉ muốn cái gì có liền chứ không cần phải khổ cực nấu nướng nữa.
Dường như tâm thức muốn nhanh lẹ này cũng đã có nơi thánh Phêrô khi ngài và hai vị Tông đồ được cùng với Chúa Giêsu cầu nguyện trên núi. Một sự kiện lạ thường xảy ra lạ thường trước mắt các ông. Ðó là dung mạo của Chúa Giêsu trở nên rực rỡ chói ngời. Trông thấy cảnh vinh quang ấy của Chúa Giêsu, thánh Phêrô đã nhanh chóng không chút e ngại mà thưa rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a." (Lc 9, 33)
Thiết nghĩ với lời thưa này, Phêrô chỉ muốn mình và hai vị Tông đồ kia được ở mãi trong tình trạng như thế. Bởi lẽ, đây là tình trạng không còn phải đau khổ nữa. Chúa Giêsu được trở về tình trạng vinh quang như chính Người là. Dầu vậy, vì thương loài người mà Người sẵn sàng sống trong thân phận con người như bao nhiêu con người khác.
Lời phán bảo của Chúa Cha: “Ðây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” (Lc 9, 35b) là lời nhắn nhủ với ba Tông đồ và cũng là lời nhắn nhủ cho mọi người chúng ta. Muốn đến được vinh quang phải trải qua đau khổ thử thách.
Ông bà chúng ta nói: Dục tốc bất đạt nghĩa là có nhiều chuyện làm trong hấp tấp vội vàng sẽ không mang đến kết quả tốt. Cũng vậy, đối với tình trạng vinh quang cao cả này cần phải có thời gian. Mặc dù, tình trạng vinh quang ấy là tình trạng hiển nhiên của Người nhưng Người vẫn chu toàn tốt sứ mạng cứu rỗi loài người trong sự tiệm tiến.
Cho nên, Chúa Cha đã kêu mời hãy biết vâng nghe lời của Người. Vâng nghe trong sự kiên nhẫn và vâng nghe trong sự noi gương bắt chước cách sống của Người. Nhiều khi trong đời sống đạo chúng ta thường hay đòi buộc Chúa và Giáo hội ban ngay cho mình những điều mình muốn. Ðang khi đó việc hy sinh sống đạo theo lời dạy của Chúa và Giáo hội thì chúng ta bỏ qua. Ði dự lễ thì muốn cho mau lẹ thậm chí bỏ đầu bỏ đuôi. Ðối với các giới răn thì yêu cầu Giáo hội phải nới lỏng cho hợp với thời đại. Ðó là chúng ta thiếu sự hy sinh, thiếu sự đón nhận gian nan đau khổ. Chính những sự hy sinh và đón nhận gian nan đau khổ trong đời sống đức tin sẽ là hành trang cho chúng ta đạt được vinh quang trong Nước Trời.
Hãy biến đổi là một chủ đề nổi bậc trong toàn bộ Tin mừng. Lời rao giảng trước tiên của Chúa Giêsu khi Ngài đi rao giảng Tin mừng là “Hãy ăn năm sám hối và tin vào Tin mừng” (x. MC . Ăn năn và sám hối thật sự chính là biến đổi, là chuyển từ tình trạng xấu nên tốt hơn).
Tin mừng hôm nay cũng nói đến một sự biến đổi. Chúa Giêsu biến đổi hình dạng trước mặt các Tông đồ thân tín của Ngài. Chúa đã bày tỏ vinh quang vốn có của Ngài cho các tông đồ thấy để các ông thêm lòng tin mà tiến bước theo Chúa, nhất là khi Chúa đi vào cuộc tử nạn và Phục sinh của Chúa. Chúa biến đổi hình dạng là Chúa đã để cho thiên tính được tỏ bày ra. Và điều đáng chúng ta lưu tâm là khi nhìn thấy thiên tính của Chúa Giêsu được tỏ hiện, các tông đồ đã ngất ngây và say đắm. Tôi thiết nghĩ, chúng ta cũng có chung thái độ như thế nếu chúng ta được diễm phúc nhìn thấy vinh quang của Chúa được tỏ hiện vì đó là phần thưởng mà chắc ta vẫn hằng mong ước: diện kiến tôn nhan Chúa. Chắc chắn chúng ta cũng sẽ được nhìn thấy vinh quang ấy nếu như hôm nay, trong từng ngày sống của chúng ta, chúng ta không ngừng cùng với Chúa biến đổi để làm cho cuộc sống chúng ta nên” hoàn hào như Cha các con trên trời là Đấng hoàn hảo”. Khi chúng ta làm cho những cái xấu nên tốt, những điều tốt được nên tốt hơn, những cái chưa hoàn hảo nên hoàn hảo trước mặt Thiên Chúa. Đó là cuộc biến hình mà Chúa đang mời gọi ta và đang chờ đợi ta thực hiện với Chúa.
Cuộc biến đổi đích thật nào cũng đòi hỏi một thái độ độ anh hùng và dứt khoác để chối từ những quyến luyến đang vây kéo chúng ta. Abraham ngày xưa đã rất can đảm khi ông làm cuộc thay đổi trong cuộc đời của ông. Ông đã quyết tình chọn Chúa và theo Chúa dù ông đã cao niên, cơ ngơi đã ổn định. . . Ông quyết đi theo tiếng Chúa gọi vì ông tin vào Thiên Chúa quyền năng và tình yêu luôn làm điều tốt đẹp cho ông. Khi hành động như thế Abraham sẽ bị người khác cho là kẻ lắm tham vọng và tin hão huyền : bỏ cái đang có, đi tìm cái viển vông; bỏ ruộng vườn và nhà cửa theo ơn gọi để tìm sự vất vả, sống thiếu thốn và khó khăn; lùa đàn vật và dẫn gia nhân vào chốn vô định. Trước mặt Abraham là giải sa mạc mênh mông, đất cày lên sỏi đá. . . Nhưng vì tin yêu Thiên Chúa, Abraham đã tiến bước ra đi và đã thành công, nêu gương sáng muôn đời cho chúng ta và trở thành người được chúc phúc!
Phaolô cũng làm một cuộc biến đổi ngoạn mục: từng là người hăng say bắt bớ những người tín hữu Chúa Kitô trở thành người sống chết vì Tin mừng của Chúa! Phaolô đã vui vẻ đón nhận thử thách và trung thành đến giọt máu cuối cùng vì Đức Kitô và Thập Giá của Ngài. Phaolô đã được lột xác và biến đổi, một cuộc biến đổi không thể ngờ, thậm chí khó tin nếu nhìn theo khía cạnh loài người.
Lịch sử Giáo hội đánh dấu nhiều cuộc biến đổi lạ lùng, cụ thể:
Một Agustinô: từ say rượu đến say Chúa.
Một Maria Mađalêna: từ gái giang hồ thành thánh và là chứng nhân nhiệt thành cho việc Phục sinh của Chúa.
Một Inhaxiô Loyola: từ trai chinh chiến trở thành đấng lập dòng.
Một Têrêsa Avial: từ kẻ khô khan đến người sốt mến
Một Giakêu: từ người tham lạm, hà khắc trở thành kẻ rộng lượng và khoan nhân...
Đó là công việc của Chúa và con người hợp tác nhờ sức mạnh tình thương của Chúa. Đó là những cuộc canh tân và biến hình đã, đang và còn tiếp tục diễn ra trong lòng Giáo hội. Những điều cụ thể đó đủ chứng minh rằng ơn Chúa luôn tràn trề trong lòng mọi người dù cho họ có thể nào đi nữa, có ở trong hoàn cảnh và tình trạng nào đi nữa! Bất cứ khi nào, con người quyết tâm làm lại cuộc sống, biết đứng lên sau những vấp váp, sau những té ngã thì “ơn Ta vẫn đủ cho ngươi”. Chúa đang ở cùng ta và giúp chúng ta chiến thắng ma quỉ, xác thịt và thế gian nơi cung lòng mỗi chúng ta. Chúa đã nói với chúng ta rằng: “Thầy đã thắng thế gian!” và “Các con đừng sợ!”. Chúng ta đừng bao giờ thất vọng về chính mình, nhưng hãy biết can đảm đứng lên làm lại cuộc sống mỗi ngày và nhiệt tâm giúp đỡ những ai đang chán chường vì những thất bại và vấp ngã trên đường đời. Hãy lôi kéo họ đến với lòng thương xót của Chúa để họ được ơn biến đổi và trở thành kẻ chiến thắng thế gian nhờ sứac mạnh của Thánh Thần Chúa.
Anh chị em đã nhiều lần xem văn nghệ, ca nhạc. Chúng ta nhìn thấy những nghệ sĩ trên sân khấu, họ biểu diển rất sinh động, sáng chói, khiến cho bao nhiêu người phải hâm mộ tài năng của họ. Nhưng chúng ta thử suy nghĩ xem: có phải tự nhiên mà họ có thể làm được như thế, mà trái lại không phải khổ công tập luyện, học hỏi trong một thời gian rất dài mới có thể bước lên trước mặt mọi người như thế. Đồng thời họ còn phải nhờ đến nhiều người khác, nhiều thứ phụ thuộc khác để phụ giúp cho tài năng của mình. Họ phải nhờ đến khung cảnh, âm thanh, ánh sáng. Nếu khi đang biểu diễn màbất ngờ nguồn điện không hoạt động, ánh sáng không còn nữa, thì xem như cuộc biểu diễn của nghệ sĩ đã thất bại. Họ phải tự luyện tập để tài năng của mình được vững vàng. Nhờ đến khung cảnh để tài năng được nhiều người biết đến. Nhờ đến ánh sáng bên ngoài để mình được tỏa sáng trong khung cảnh hơn.
húng ta vừa chứng kiến một khung cảnh sáng chói tuyệt đẹp mà các tông đồ đang ngất ngây. Các ông đang vui thích ngở ngàn vì mình được hưởng nhờ ánh sáng như thế. Các ông định dựng lều để ở trong ánh sáng đó mãi. " Lạy Thầy chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môi sen và một cho Elia". Các ông đang vui thích tận hưởng nguồn vinh quang mà mình không hề mất công để chuẩn bị. Các ông đang vui thích hưởng vinh quang không phải của mình. Vinh quang mà các ông đang nhìn thấy là vinh quang của Chúa Giêsu, Ngài được sáng chói trong khi cầu nguyện. Ngài được biến đỗi trong khi phải vượt lên núi cao, phải tỉnh thức và kế hợp với Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ thì đang ngủ. Các ông giật mình vì ánh sáng chói lòa. Các ông muốn tận hưởng điều không phải của mình. Khi các ông còn đang nói thì ánh sáng chợt biến mất, vì các ông nói điều không phải. Các ông chợt tỉnh ngộ vì tiếng nói: " Đây là Con Ta yêu dấu, Người được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người". Các ông đã vâng nghe và đã hưởng vinh quang thật.
iếng phán ngày xưa với các Tông đồ, cũng từng lập lại với chúng ta. Các Tông Đồ đã tĩnh ngộ, đã biết vâng nghe Lời, đã biết chuẩn bị để mình được biến đỗi trong ánh sáng. Còn chúng ta cũng như các Tông Đồ khi xưa, rất vui thích khi tận hưởng ánh vinh quang không phải của mình, chúng ta còn muốn chiếm hữu nó, và không muốn rời xa. Bổng nhiên ánh sáng vụt biến mất, chúng ta ngỡ ngàn, tiếc nuối, đôi khi còn có cả sự tức giận, vì ngở rằng đó là những gì của chính bản thân mình.
Trong đời sống hằng ngày, có những lúc chúng ta cảm thấy hạnh phúc bất ngờ, niềm vui bổng từ đâu hiện đến và ở bên chúng ta, rồi cũng vụt bay đi như khi đến, hết sức bất ngờ. Cũng có những lúc chúng ta đạt được thuận lợi trong công việc mà không cần phải tốn nhiều công sức; và còn có những của cải chúng ta đạt được không bằng con đường ngay chính. Chúng ta rất vui thích. Chúng ta ngỡ rằng, bằng chính tài năng, sức lực của mình mà có. Nếu bổng nhiên chúng ta mất đi tất cả, lúc đó chúng ta có biết nhận ra được sự thật như các Tông Đồ khi xưa: Biết nhìn vào chính mình, để lo chuẩn bị những cuộc khổ luyện đi lên núi, cầu nguyện thân tình với Chúa trong sự tỉnh thức để được tỏa sáng thật sự trong Chúa. Hay chúng ta kêu la phiền trách, đòi cho được những điều không phải là của chính mình. Chúng ta muốn mãi ở trong ánh sáng của người khác như thế sao? Thiên Chúa không cho chúng ta như thế đâu. Ngài sẽ cho ánh sáng biến đi khi chúng ta vừa có những ý nghĩ không chính đáng, để nhắc nhở và bảo mỗi người hãy quay về chính mình, hãy khổ công tập luyện như người nghệ sĩ, để có thể bước lên sân khấu. Hãy khổ công với những bước chân vượt lên núi, cầu nguyện thân tình với Chúa trong từng giây phút, từng công việc của cuộc sống. Khi đó mới được biến đỗi và trở nên sáng chói thật sự trước mặt Chúa. Khi đó ánh sáng sẽ không còn bị mất đi hay bị che phủ nữa.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết vâng nghe Lời Chúa, biết sống đúng với những gì mình lắng nghe, để được sáng chói trong vinh quang của Chúa.
“ Có làm thì mới có ăn
Không dưng ai dể đem phần đến cho ”
Hay: “ Càng cao danh vọng càng dầy gian nan ”
Thật vậy, muốn đạt được điều gì trong cuộc sống ta đều phải chịu nhiều hy sinh, vất vả. Càng gian lao khổ cực thì kết quả đạt được càng có giá trị cao. Một nông dân muốn vụ mùa của mình thu hoạch cao tất nhiên anh phải chịu gian lao, dầm mưa dãi nắng. Một sinh viên muốn được tuyển sinh cũng bắt buộc phải thức khuya dậy sớm dùi mài kinh sử …
Hôm nay Chúa Giêsu dẫn 3 môn đệ lên núi và Người đã biến hình sáng láng trước mặt các ông. Điều này đã làm cho các ông cảm thấy hạnh phúc tột độ. Đến nổi Thánh Phêrô đã thốt lên: “ Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a." (Lc 9, 33b). Đây chính là vinh quang thật của Chúa Giêsu. Vinh quang đã có tử thuở đời đời. Vinh quang được Chúa Cha xác nhận: “ Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người! ” (Lc 9, 35)
Do đâu mà Chúa Giêsu đã được vinh quang ấy? Vì Chúa Giêsu đã biết vâng theo ý Chúa Cha. Vâng theo ý Chúa Cha để sống thân phận làm người. Vâng theo ý Chúa Cha để đi con đường thập giá. Con đường mà có lúc Chúa Giêsu đã thốt lên: “ Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha ” . (Mt 26, 42)
Tất cả chỉ vì yêu thương con người. Từ thuở ban đầu Thiên Chúa đã ban cho con người được hưởng hạnh phúc và vinh quang. Tiếc thay điều ấy đã bị đánh mất do tội nguyên tổ. Ba môn đệ hôm nay thay mặt cho loài người hưởng vinh quang ấy trong chốc lát. Vinh quang ấy sẽ được vững bền khi ta biết đi theo con đường mà Chúa Giêsu đã đi. Người đã nói: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy ” . (Ga 14, 6)
Như vậy, ta cũng sẽ được gọi là “ Con yêu dấu ” của Chúa Cha nếu ta biết sống và đi con đường như Chúa Giêsu. Con đường thập giá đi đến vinh quang. Một nhà Tu đức có nói: “ Nếu bạn tìm Chúa Giêsu không Thập giá thì bạn sẽ gặp được Thập giá mà không có Chúa Giêsu ” Và hãy nhớ ta không đi một mình mà luôn có Chúa Giêsu cùng đi. Người đã hứa: “ Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28, 20b).
Khi ta chu toàn tốt bổn phận trong cương vị hiện tại của mình cách chu đáo và gương mẫu là ta đang sống và đang đi theo Chúa Giêsu đấy.
Chúa Giêsu biến hình hôm nay là một biến cố lạ kỳ đối với các môn đệ. Một người Thầy mà các ông đã gần gũi, từng chia sẻ buồn vui sao giờ lại trở nên vinh hiển đến khó tả? Tin Mừng chỉ nói dung mạo Ngài khác thường, áo Ngài trở nên trắng tinh. Với cách diễn tả rất vắn tắt cuộc hiển dung của Chúa Giêsu, Tin Mừng dẫn người nghe đến ý nghĩa cần thiết: Chúa Giêsu đang chuẩn bị cho cuộc khổ nạn của mình tại Giêrusalem, vinh quang Ngài tỏ ra trong phút chốc gieo cho môn đồ một niềm tin trước một biến cố đau buồn sắp xảy ra.
Các ông Phêrô, Gioan, Giacôbê lần đầu tiên chứng kiến là lùng này đến lạ lùng khác. Trước hết là gương mặt và y phục của Thầy mình: “ Dung mạo Người trở nên khác thường, y phục Người trở nên trắng tinh” . Gương mặt Chúa Giêsu giờ đây được mặc lấy vinh quang của Thiên Chúa Cha. Nói cách khác, vinh quang Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu được biểu lộ cách rõ ràng cho các ông. “Á o của Người trở nên trắng tinh ” nghĩa là Chúa Giêsu đã tiến vào khung cảnh của thiên đàng. Đức Giêsu tạm thời mặc lấy vinh quang phục sinh mà Ngài sẽ được hưởng khi sống lại.
Chúa Giêsu không tự ý quyết định điều gì ngoài ý Chúa Cha. Việc Ngài biến hình trong lúc cầu nguyện đã nói lên rằng Ngài cần biết thật chắc rằng Chúa Cha muốn Ngaì làm điều mà Ngaì sắp làm. Qủa thật , Ngài cần biết rõ ý Chúa Cha là Ngài phải lên Giêrusalem để chịu chết và chết trên thập giá.
Sự lạ kế đến đó là sự xuất hiện của Môisê và Elia. Đây là hai nhân vật vĩ đại của lịch sử Do thái. Môisen là nhà lập pháp vĩ đại, là người đã đem luật pháp của Thiên Chúa đến với loài người. Còn Elia là người vĩ đại hơn hết trong các tiên tri, qua ông mà Thiên Chúa phán dạy cách đặc biệt với loài người. Nhưng 2 ông xuất hiện ở đây để làm gì? Có thể nói 2 nhân vật vĩ đại này đến với Chúa Giêsu để ủng hộ Ngài, cứ mạnh bước đi! Hai ông muốn làm chứng rằng Chúa Giêsu đã đi đúng đường.
Điều lạ thứ 3 là hình ảnh đám mây sáng láng xuất hiện bao trùm lên các ông. Nếu đám mây này xuất hiện bao trùm thì cũng là chuyện thường tình, vì trên núi cao mây tụ lại là hết sức nhanh. Chỉ trong vài phút mây có thể tụ lại đầy ấp trên đỉnh núi rồi lại tan ra cũng nhanh như vậy. Tuy nhiên, có một điều đặc biệt là từ trong đám mây có tiếng nói của Chúa Cha: “ Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người ” . Chính Chúa Cha đã thừa nhận Chúa Giêsu là con của Ngài. Một lần nữa Chúa Cha đã chuẩn nhận con đường Chúa Giêsu sắp đi là hoàn toàn đúng đắn.
Chúa Giêsu giờ đây không còn nghi ngờ gì về quyết định của mình nữa. Con đường thánh giá Ngài sẽ qua trước hết có sự xác minh của lịch sử, có nhà lập pháp và vị tiên tri vĩ đại. Nhưng rồi một điều quá rõ ràng là chính Chúa Cha cũng đã chuẩn y con đường mà Chúa Giêsu đã chọn. Chính việc xảy ra trên núi này đã khiến Chúa Giêsu bước đi không nao núng trên con đường tới thập giá.
Cuộc biến hình của Chúa Giêsu mang lại cho các tông đồ niềm hy vọng và là một lời khích lệ cho các tín hữu. Đời sống của chúng ta tuy còn khó khăn, khổ cực, còn nhiều gánh nặng nhưng tất cả sẽ trở nên giá trị cứu độ khi ta biết thông phần với cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. Nếu ta chấp nhận khốn khó cùng Đức Kitô thì chắc chắn chúng ta cùng được hưởng vinh quang như Người. Cùng với 3 môn đệ xưa kia, ta ý thức rằng con đường thập giá hoàn toàn khổ nhục nhưng đằng sau đó là vinh quang mà Thiên Chúa sẽ ban cho ta. Các ông đã thấy được vinh quang bên kia cảnh nhục nhã, khải hoàn bên kia cảnh khổ đau.
Trong niềm mong chờ được hưởng vinh quang mỗi kitô hữu phải để Lời Chúa hướng dẫn từng ngày. Lời phán dạy của Chúa Cha “ Hãy vâng nghe lời Người ” như là điều kiện tiên quyết mà người môn đệ phải có. Khi ta để lời Chúa hướng dẫn, khi sống theo Chúa Kitô thì người tín hữu mới thoát khỏi cảnh hoang mang sợ hãi.
Điều nguy hiểm nhất ngày nay là con người không biết đâu là chân lý của cuộc đời. Con người sống trong nghi ngờ tất cả. Phần chúng ta thật may mắn vì Chúa Cha đã gửi gấm chúng ta cho Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chính là thầy dạy khôn ngoan và đang tin cậy nhất. Đời sống của kitô hữu không chủ trương đi tìm sự khổ nhục, vì chính tự sự khổ nhục không đem lại giá trị cứu rỗi. Chúng ta được mời gọi bước theo Chúa Kitô, con đường Chúa kitô là chấp nhận đau khổ. Chính khi chấp nhận đau khổ cùng Chúa Kitô chúng ta mới được hưởng vinh quang cùng với Ngài. Vinh quang không xuất hiện vì chính nó, nhưng nó xuất hiện để khoát lên một vẽ đẹp rực rỡ cho những công việc bình thường mà chúng ta thực hiện trên con đường theo Chúa Kitô.
Chúng ta đang bước vào Mùa Chay, Chúa nhật thứ II. Mùa Chay thánh bắt đầu với ngày Thứ Tư lễ Tro. Trong mùa Chay, Giáo Hội muốn chúng ta trở về với Chúa, nhận ra tình yêu và ân sủng Thiên chúa ban cho để chúng ta can đảm và mạnh dạn chạy đến nương náu lòng thương xót của Thiên Chúa. Nhờ đó, tâm hồn chúng ta bình an và đời sống chúng ta đi trên đường thánh ý Chúa, yêu mến Chúa và yêu thương mọi người.
Con người luôn khát vọng biết về cùng đích của mình. Biết về cùng đích để chúng ta phân định cuộc sống và đưa ra đường lối sống thích hợp cho cùng đích ấy. Mạc khải cho chúng ta biết, chúng ta có quê hương thật là Nước Trời, nơi đó có Thiên Chúa và những người lành hiện hữu. Đó còn là nơi mà chính Con Một Thiên Chúa đã phục sinh, đi vào và mở lối cho chúng ta đi vào. Đó là nơi cùng đích của con người, là nơi con người được mời gọi "tiến vào". Tuy nhiên để tiến vào hưởng hạnh phúc đời đời trong vinh quang của Nước ấy thì trong cuộc sống thế trần này, mỗi người chúng ta phải can đảm chiến đấu với những thử thách trong thế gian, phải chạy cho hết quãng đường trần gian và giữ vững đức tin.
Khi còn sống tại thế, Đức Giêsu đã loan báo con đường khổ nạn và phục sinh. Ngài cho thấy con người chúng ta phải trải qua gian khổ như Ngài rồi mới tiến vào cuộc phục sinh. Sau khi tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ nhất (Mt 16, 21; MC 8, 31; Lc 9, 22) Đức Giêsu biến hình để cho ba tông đồ Phêrô, Giacôbê, Gioan thấy vinh quang phục sinh mà Ngài sẽ đạt được. Vì thế, chúng ta khám phá được một sự thật, Mùa Chay không phải là khoảng thời gian chúng ta phải đối đầu với những cám dỗ, hay cũng không phải là khoảng thời gian để chúng ta phải tự buộc mình chịu đựng những sự đau khổ mà không tìm cách tránh né. Mùa Chay đầu tiên là một sự mạc khải về thân phận, về định mệnh, trong tiến trình tự nhiên của con người, và những kinh nghiệm phải có từ ý chí bề ngoài của cuộc sống. Một trong những kinh nghiệm đó chúng ta có được về việc biến hình của Đức Giêsu, trong bài Phúc Âm theo thánh Luca hôm nay.
Thánh Luca diễn tả, đang khi cầu nguyện, diện mạo của Đức Giêsu biến đổi khác thường, diện mạo chói loà hào quang ánh sáng. Nhưng Ngài vẫn là Ngài. Ngài vẫn là Chúa Giêsu, Con của Thiên Chúa. Một quang cảnh huy hoàng của cuộc đàm đạo giữa Đức Giêsu với Môisê và Êlia, đến nỗi khi được chiêm ngắm, các môn đệ đã phải thốt lên: "Lạy Thầy, nếu chúng tôi được ở đây thì tốt lắm. Chúng tôi xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Môisê và một cho Êlia" (Lc 9, 33) . Họ muốn ở lại nơi họ đã được chứng kiến. Một Thầy trong vinh quang và ân sủng.
Như chúng ta biết, Môisê và Êlia là hai tiên tri Cựu ước, Môisê là người đã được Chúa tuyển chọn để đưa dân Ngài ra khỏi ách nô lệ của nước Ai Cập. Êlia là tiên tri đã được kêu gọi để làm cố vấn cho giao ước, dân Do Thái muốn chối từ những ơn Chúa. Khi đề cập đến biến cố này, các thánh sử nói rằng: ông Môsê và ông Êlia đàm đạo với Đức Giêsu (Lc 9, 33). Đức Giêsu sẽ thực hiện cái chết tại Giêrusalem. Một cái chết không phải là dấu hiệu kết thúc của công trình cứu chuộc, nhưng là một cái chết mở lối cho sự sống lại trong vinh quang trong nước Ngài. Trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, sự chết, sự sống lại và lên trời của Đức Giêsu là một, nó được thể hiện cùng một lúc trong biến cố biến hình này. Sự chết trong thân xác hay chết của nhân tính của Đức Giêsu là một sự chuẩn bị cho sự vinh quang vĩnh cửu của một đời sống khác trong thiên tính của Đức Giêsu.
Nhờ Phúc âm hôm nay, chúng ta cùng với Phêrô, Giacôbê và Gioan chứng kiến việc Đức Giêsu biến hình. Từ đó, chúng ta gia nhập vào việc khổ nạn và cuộc Phục sinh của Chúa trong những ngày sắp tới. Chúng ta ý thức rằng sự Chết và Phục Sinh, thập giá và vinh quang là hai mặt của cùng một thực tại cứu độ không thể tách rời nhau. Vinh quang mà không có khổ nạn chỉ là vinh quang của thế tục, sẽ nhạt nhòa theo năm tháng; ngược lại, khổ nạn mà không có vinh quang thì vô nghĩa và là một thất bại hoàn toàn. Do đó, sống tinh thần Mùa Chay có nghĩa là gắn bó chặt chẽ với cái Chết và sự Phục Sinh của Đức Kitô: chết đi cho con người cũ và tội lỗi, chết đi thói hư tật xấu, chết đi cho con người đối nghịch với Thập giá để cùng sống lại với Đức Kitô, Đấng có thể "biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài" (Bài đọc 2). Chắc hẳn, đây chính là một quá trình đầy gian khổ nhưng cũng tràn ngập vinh quang. Có trải qua gian khó, khổ cực thì mới mong có ngày đạt vinh quang. Để có thể trung thành bước theo con đường Đức Giêsu đã sống và đã vạch ra, người Kitô hữu không thể coi nhẹ hay dửng dưng với tâm tình cầu nguyện. Chính trong giây phút cầu nguyện, chìm sâu trong cuộc gặp gỡ ân tình với Chúa Cha, Đức Giêsu đã đón nhận kế hoạch cứu độ của Cha như lẽ sống của đời mình, đây cũng là lúc Ngài biến hình vinh quang, được tỏ lộ khi Ngài chấp nhận cái chết như một phương thế tuyệt hảo để tỏ lòng vâng phục Cha và yêu thương nhân loại đến nỗi hiến dâng chính mạng sống mình.
Vì thế, trong cuộc sống còn lắm vất vả và không hề thiếu vắng những cạm bẫy thử thách, chỉ có sự chuyên cần cầu nguyện, gặp gỡ Thiên Chúa và nhờ sức mạnh ơn Chúa đỡ nâng, chúng ta mới mong an tâm, không hoang mang sợ hãi nhưng chủ động và mau mắn chu toàn trách nhiệm phải thi hành. Vì thế, quê hương vĩnh cửu khởi đi ngay từ mặt đất nay, ngay hôm nay, trong chính từ cuộc sống này đòi buộc chúng ta phải xây dựng và làm cho phát triển mỗi ngày. Như thế, chúng ta hãy đi theo Đức Giêsu trên con đường khiêm tốn phục vụ anh em và can đảm kiên vững bước theo Chúa trên các nẻo đường đau thương và tử nạn thập giá với Ngài, với niềm xác tín rằng Đức Kitô Phục Sinh sẽ chia sẻ vinh quang cho các tín hữu trung thành.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con can đảm bước theo Chúa đến cùng, trên đường gian khổ của Thập giá và cũng được tham dự vào vinh quang phục sinh với Ngài. Amen.
Trong một nhà giam các tù nhân trọng án, có một tù nhân khét tiếng hung ác tên là SI-TA ĐÊ-LI (Starr Daily). Anh ta vào tù ra khám nhiều lần vì tội say sưa đánh lộn và làm mất an ninh trật tự. Trong lần tuyên án thứ năm, quan tòa đã tuyên bố như sau: "Chúng tôi biết rằng có bắt anh ở tù thêm cũng chẳng kết quả bao nhiêu. Phải nói thật là: chúng tôi hoàn toàn thất vọng về anh! Nhưng chúng tôi không thể không tuyên án được. Lần này anh bị phạt tù giam 10 năm".
Sau khi vào nhà tù Đe-li vẫn ngoan cố, coi thường kỷ luật nhà tù hơn trước. Anh thường xuyên đánh đập bạn tù và chống lại cai tù, đến nỗi anh bị biệt giam trong một hầm tối dơ bẩn và đầy chuột cống... Một hôm, khi đang nằm ngủ trên nền gạch lạnh giá, đột nhiên Đe-li nghe thấy có tiếng nói như sau: "Hỡi Đe-li, tại sao mi lại bị nhốt riêng trong căn hầm khủng khiếp này? Tại sao mọi người đều thù ghét mi? Tại sao mi không dùng sức lực để làm tốt, mà cứ làm điều ác chống lại kẻ khác"... Tư tưởng này đã đánh động tâm hồn khiến Đê-li luôn suy nghĩ. Rồi một đêm kia Đe-li đã gặp được Đức Giê-su trong giấc mơ, Đấng mà anh đã xua đuổi ra khỏi cuộc đời mình từ năm 12 tuổi. Từ đó, hình ảnh của Đức Giê-su thường xuyên xuất hiện trong tâm trí anh. Anh mơ thấy Người đến bên âu yếm nhìn và nói với anh những lời mà anh đã từng thuộc lòng: "Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng", "Hãy yêu thương kẻ khác như yêu chính mình ngươi"... Anh cảm thấy tâm hồn bình an mà từ trước đến nay anh chưa bao giờ được hưởng. Rồi những ngày sau đó, khuôn mặt của những người đã từng bị anh hãm hại lần lượt xuất hiện trong tâm trí khiến anh cảm thấy rất hối hận. Lần đầu tiên, anh đã cầu nguyện: "Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội" (Lc 18,13).
Cảm nghiệm ấy đã biến Đe-li từ một người hung ác gian tham và đầy thù hận, trở thành một con người độ lượng bao dung! Sự biến đổi nội tâm khiến cho Đe-li không còn la hét đập phá như trước, Các nhân viên cai ngục đã nhận thấy có sự biến đổi nơi anh, họ đã cho phép anh được trở lại trại giam thường phạm. Tại đây anh bắt đầu đối xử tốt với các bạn tù: Anh luôn bênh vực những người mới đến, nên dần dần anh được mọi người trong trại quý mến. Rồi anh được giảm án từ mười xuống 5 năm. Mãn hạn tù, anh gia nhập vào "Nhóm cải thiện chế độ lao tù". Cùng với cha tuyên úy và các bạn, Đe-li đi thăm và động viên các tù nhân và hhuyên họ học tập tốt. Nhờ đó nhiều người đã sớm được trở về đoàn tụ với gia đình. Linh mục Pi-tơ Mác-sôn (Peter Marshall) đã bình luận về sự hóan cải này như sau: "Si-ta Đe-li là một bằng chứng sống động cho thấy: anh không chỉ là một người cũ được tân trang lại, nhưng chính là một tạo vật hoàn toàn mới của Thiên Chúa!".
Như vậy chính nhờ ơn Chúa mà Si-ta Đê-li đã được ơn biến đổi từ một tù nhân khét tiếng hung ác trở thành một tín hữu có lòng nhiệt thành yêu mến Thiên Chúa, một môn đệ đích thực của Chúa Giê-su khi anh quyết tâm học hỏi và thực hành Lời Chúa dạy, bênh vực những người yếu thế và tích cực góp phần làm cho nhiều người trở về làm con Chúa như mình.
3. SUY NIỆM:
Bài Tin Mừng Chúa Nhật II Mùa Chay hôm nay cho thấy Mùa Chay là thời gian thuận tiện để người tín hữu được ơn biến đổi nện tốt hơn và cần phải có những điều kiện nào để được biến đổi:
1) Phải kiên trì cầu nguyện: Ba môn đệ thân tín của Đức Giê-su là các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đã ngủ mê mệt khi Đức Giê-su đang cầu nguyện. Nhiều tín hữu hôm nay cũng thường bỏ bê việc cầu nguyện trong cuộc sống hằng ngày. Ho viện cớ quá bận bịu với việc làm ăn sinh sống nên không có giờ cầu nguyện, trong khi sẵn sàng bỏ nhiều thời gian để nói chuyện "chat" với bạn bè, chơi games hay xem phim trên mạng hoặc tụ tập ăn nhậu bê tha... Sự cầu nguyện chính là thái độ tiên quyết cho thấy chúng ta có thiện chí muốn đổi mới đời sống hay không.
2) Phải nhờ ơn Chúa giúp: Đức Giê-su đã hiển dung khi đang cầu nguyện với Thiên Chúa như Tin Mừng ghi lại: "Dung nhan Ngừơi biến đổi và y phục Người cũng trở nên trắng tinh chói sáng". Cũng vậy, muốn được ơn đổi mới, các tín hữu cần lên núi cao để gặp Thiên Chúa. "Núi cao" ở đây không nhất thiết ở nơi đâu xa mà có thể ngay trong lòng chúng ta, khi chúng ta cùng đọc kinh tối với gia đình, hay khi tham dự các buổi ngắm nguyện tại nhà thờ, khi tham dự các buổi tĩnh tâm trong Mùa Chay Thánh... Chính nhờ ơn Chúa giúp mà chúng ta mới có thể được biến đổi như lời Chúa dạy: "Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được!" (Ga 15,5).
3) Phải năng học sống Lời Chúa: Trong cuộc hiển dung, Chúa Cha từ trong đám mây đã xác nhận Đức Giê-su là Con yêu dấu được tuyển chọn, và kêu gọi các môn đệ: "Hãy vâng nghe lời Người" (Lc 9,35). Lời Chúa có khả năng tỉa sạch các thói hư và biến đổi chúng ta nên tạo vật mới của Thiên Chúa (x. Ga 15,2). Trong Mùa Chay này, nhờ chấp nhận con đường "qua đau khổ vào trong vinh quang", biểu lộ qua việc quýet tâm ăn chay, hãm mình và chia sẻ bác ái... mà chúng ta sẽ được ơn Chúa biến đổi nên con thảo của Chúa Cha như Chúa Giê-su xưa.
4. THẢO LUẬN:
1) Trong Tin Mừng, các môn đệ thường buồn ngủ mỗi lần cùng Đức Giê-su cầu nguyện. Còn bạn, bạn có gặp khó khăn nào khi cầu nguyện không? Bạn cần làm gì để vượt qua điều ấy?
2) Trong Mùa Chay Hội Thánh kêu gọi các tín hữu siêng năng cầu nguyện, ăn chay và chia sẻ cơm bánh cho người nghèo để được ơn biến đổi. Vậy bạn sẽ làm gì cụ thể?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU, Xin hãy biến đổi con người con trong Mùa Chay này: Mỗi lần con được gặp Chúa, xin biến đổi con được nên giống Chúa nhiều hơn: Xin hãy biến cái nhìn của con nên hiền từ bao dung như cái nhìn yêu thương của Chúa. Xin biến đổi môi miệng con chỉ nói những lời động viên an ủi những người đau khổ. Xin biến đổi tai con để sẵn sàng lắng nghe và cảm thông với những ai cần sẻ chia nâng đỡ. Xin cũng biến đổi khuôn mặt con luôn rạng ngời vinh quang của Chúa.
- LẠY CHÚA GIÊ-SU, ước chi những ai có dịp tiếp xúc với con đều nhận ra Chúa đang ở trong con qua ánh mắt nụ cười của con. Ước chi mọi người đều nhìn thấy sự hiền lành bao dung của Chúa qua lời nói và thái độ ứng xử của con. Con biết rằng: Thế giới hôm nay không cần những tín hữu chỉ đạo đức bằng kinh lễ tại nhà thờ, nhưng cần những ai biết vừa cầu nguyện kết hiệp mật thiết với Chúa, lại vừa biết tích cực dấn thân phục vụ tha nhân đau khổ. Xin cho con biết bỏ ý riêng ích kỷ để tích cực góp phần giúp cho nhiều người nhận được ơn cứu độ của Chúa.
X. Hiệp cùng Mẹ Maria Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
"Này, ai chịu trách nhiệm chính ở đây vậy?" Đây là một mệnh đề, không mang tính trách cứ, của một người đang cần sự giúp đỡ. Có thể ai đó đi vào trong một tiệm sửa chữa và xem ra chăng ai thèm quan tâm gì hết. Các công nhân quá lơ đễnh hoặc đang bận tâm đến nhiệm vụ của mình. Còn có thể nói gì khác hơn là hỏi: "Thế ai phụ trách chính ở đây?" Chắc chắn sẽ có người nghe thấy và giúp đỡ.
Vì hậu quả của tội lỗi mà thế giới này trở nên một nơi hỗn độn và chẳng ai biết phải làm gì nữa. Con người sao nhãng và chỉ quan tâm đến thế giới riêng của họ. Thậm chí các quốc gia cũng lạnh nhạt với những nỗi đau của đám đông dân chúng. Chúng ta không chịu nổi và phải hỏi một câu hỏi lớn: "Ai chịu trách nhiệm đây?" Chúng ta hỏi câu hỏi đó bằng nhiều cách khác nhau: "Cuộc chiến này đã bắt đầu ra sao?" "Tại sao có quá nhiều người nghèo đói trên thế giới?" "Ai đã làm xáo trộn môi trường?" "Tại sao chúng ta phải chi khá nhiều tiền cho những thứ vũ khí quân sự?" "Tại sao quá nhiều người trước đây vẫn đi nhà thờ nay lại bỏ không đi nữa?" Chúng ta phải làm gì với vấn nạn nghiện ngập và cuộc sống của những bạn trẻ đang bị chúng huỷ hoại?" "Ai chịu trách nhiệm thế?"
Chính Thiên Chúa Đấng nói với chúng ta hôm nay qua Sách thánh cũng đang tiến đến và mời gọi chúng ta đáp lại trong vâng phục và tín thác. Liệu chúng ta có thể chấp nhận lời mời đó cũng như luật lệ của Người hay không? Nếu có thể, ít là một lần trong đời khi chúng ta hỏi: "Thế ai chịu trách nhiệm ở đây?" chúng ta có thể trả lời bằng chính lời của mình và hành vi của đời mình: "Thiên Chúa chứ ai".
Ápraham bắt đầu hiểu ra rằng Thiên Chúa có một kế hoạch dành cho nhân loại đang sống trong tình trạng hỗn độn do tội lỗi gây nên. Thiên Chúa đã gọi Ápraham và hứa rằng ông và Sara sẽ có con cái đông đảo và trở thành "một đất nước vĩ đại" (St 12,1-2). Câu chuyện Sách Sáng Thế hôm nay đã bắt đầu hé lộ cho thấy kế hoạch của Thiên Chúa sẽ được hoàn tất ra sao.
Trước hết, Ápraham và bà Sara không hề tin vào lời Thiên Chúa hứa với họ; họ không phải là những siêu mẫu về đức tin, ít là vào lúc ban đầu. Người ta có thể nghĩ rằng nếu thực sự Thiên Chúa muốn hoàn thành một điều vĩ đại, như Ngài hứa, Thiên Chúa nên chọn những ứng viên sáng giá hơn để khởi đầu cho tiến độ của mình. Nhưng ngay cả người tốt nhất cũng không thể nào xoá sạch được những xáo trộn của thế giới; chỉ Thiên Chúa mới có thể làm điều đó. Chính Thiên Chúa đã đi bước trước khi bước vào cuộc đời của Ápraham và Sara.
Sự tỏ hiện cho Ápraham bao phủ ông trong một "sự tối tăm kinh hãi". Trong Sách thánh khi Thiên Chúa tỏ hiện với con người, thường thì phản ứng trước tiên của họ là sợ hãi. Điều đó cũng đúng với những gì xảy ra trong Tin mừng; như được chứng tỏ trong câu chuyện Biến hình hôm nay. Một đám mây bao phủ trên ba Tông đồ và khi bước vào khung cảnh ấy họ hoảng sợ. Quý vị có sợ không? Đó là nỗi sợ của con người đơn thuần trước Đấng Toàn Năng và Đấng Thánh.
Thánh Phaolô (Rm 4,3) sẽ suy tư về sự đáp trả của Ápram (mà sau này gọi là Ápraham) Như được nói trong Sáng thế: "Ápraham đặt niềm tin nơi Đức Chúa, và Người gọi ông là công chính". Một người trở nên công chính bằng cách dấn thân và bước vào trong tương quan với Thiên Chúa.Chính lòng tín thác khiến cho Ápraham được nên công chính trước mặt Thiên Chúa; ông tin những gì Thiên Chúa hứa và nay trong mối tương quan thâm tín nơi Thiên Chúa. Ông sẽ đi đến cùng, tin tưởng rằng lời hứa dành cho ông đã được thực hiện.
Giao ước giữa Thiên Chúa và Ápraham chỉ là khởi đầu cho những lời hứa tương tự Thiên Chúa sẽ thực hiện với những con người khác. Điều yêu cầu nơi con người trong mỗi giao ước là tin tưởng vào lời hứa và thực thi những điều ấy - dẫu cho nó chưa thực sự hoàn trọn. Các Môn đệ của Đức Giêsu cũng làm tương tự: bước vào trong tương quan yêu thương với Đức Giêsu và thay đổi cuộc đời của mình để cho thấy sự dấn thân của họ cho những gì đã cam kết.
Phêrô, Giacôbê và Gioan cùng đi với Đức Giêsu lên núi để cầu nguyện. (Trong phần này của Tin mừng Luca, Đức Giêsu lưu tâm đến một nhóm nhỏ các môn đệ). Luôn luôn, trong Tin mừng Luca Đức Giêsu là hình ảnh của một con người cầu nguyện; đặc biệt là trước khi Người sắp quyết định một điều lớn lao. Trong bài Tin mừng hôm nay dường như các môn đệ cũng ở đó để cầu nguyện. Môsê và Êlia ở đó để nói về "cuộc vượt qua" của Đức Giêsu - một hình ảnh gợi nhớ việc dân Israel được giải thoát khỏi cảnh nô lệ bên Aicập. Xuất hành cũng ám chỉ đến việc Đức Giêsu chịu chết tại Giêrusalem; một cuộc giải thoát cho chúng ta khỏi cảnh nô lệ của tội lỗi.
Thế giới xáo trộn vì tội lỗi. Thiên Chúa lãnh trách nhiệm này và, trong Đức Giêsu, Người đã bước vào để can thiệp. Nếu có bất kỳ nghi ngại nào về việc Thiên Chúa sẽ hoàn tất hành động này ra sao thì tiếng nói phát ra từ đám mây loan báo cho các môn đệ: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người". Các môn đệ "đang ngủ say" nhưng lại "hoàn toàn tỉnh thức" khi vinh quang của Đức Giêsu chiếu toả và Môsê với Êlia hiện ra với Người. Một lần khác, các môn đệ cũng lại mê ngủ khi Đức Giêsu trải qua cơn hấp hối trong vườn Cây Dầu. Biến cố Biến Hình là hình bóng cho thấy vinh quang phục sinh và đưa ra hứa hẹn rằng các Tông đồ sẽ mãi là những môn đệ trung tín của Đức Kitô.
Những thất bại của các môn đệ cũng được nêu ra trong suốt Tin mừng. Thậm chí ngay trong bối cảnh này, Phêrô cũng không hiểu được tầm quan trọng của những gì ông đang chứng kiến. Ông muốn dựng ba chiếc lều cho Đức Giêsu, Êlia và Môsê. Dường như ông cho rằng cả ba đều cùng một cấp độ. Ông cũng muốn dừng lại đôi chút. Nhưng Đức Giêsu muốn những kẻ theo Người cùng hành trình lên Giêrusalem với Người. Người có việc phải làm và các môn đệ cũng sẽ tiếp tục công việc đó sau khi Người phục sinh và ban Thánh Thần cho các ông. Tiếng nói: "Đây là Con Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người", phải làm sáng tỏ sự việc cho các môn đệ. Đức Giêsu không chỉ là người ra lề luật như Môsê hay đơn thuần là ngôn sứ như Êlia. Nhưng, kế hoạch của Thiên Chúa hầu chữa lành con người khỏi vết thương do tội lỗi sẽ được thực hiện nơi Đức Kitô, Đấng trong tương quan đặc biệt với Thiên Chúa như tiếng nói ấy đã loan báo.
Tiếng nói đó cũng tỏ cho thấy Thiên Chúa sẽ thực hiện lời hứa về dòng dõi, đông như sao trên trời, mà Người đã hứa cùng Ápraham và Sara. Những người "lắng nghe" Đức Giêsu sẽ được kể vào số những con cái của dòng dõi này. Trong Sách thánh "lắng nghe" hay "nghe" ám chỉ bước kế tiếp sau khi nghe - tin tưởng vào người nói và hành động theo những gì vừa nghe.
Chúng ta đang cùng với Đức Giêsu và ba môn đệ đi xuống núi. Nhưng nếu như kinh nghiệm trên đỉnh núi có chút nào ý nghĩa với các Kitô hữu hiện đại, thì điều đó cũng mạc khải Đức Giêsu cho chúng ta và vinh quang mà chúng ta sẽ được chia sẻ với Người khi chúng ta được sống lại. Trong khi chúng ta "đang lắng nghe" những gì Người nói với các môn đệ xưa kia cũng là nói với chúng ta về lời mời gọi vác lấy thập giá và theo Người trên con đường tự phục vụ, trao hiến chính mình cho người khác, như Người đã làm.
Thường thì những của lễ mà tư tế dâng trong Đền Thờ cũng như những hành vi vâng phục làm cho một người nên "công chính".Nhưng với trường hợp của Ápraham và những gì chúng ta nghe được trong trình thuật Biến Hình trên núi, thì chính đức tin mới đưa chúng ta vào trong tương quan đích thực với Thiên Chúa và tha nhân. Căn bản của sự công chính nơi chúng ta chính là niềm tin vào Đức Giêsu Kitô và lời của Người.
Lắng nghe lời của Đức Giêsu lúc đầu có thể cảm thấy lúng túng và khó hiểu. Nhưng một khi chúng ta nghe Người nói những lời an ủi và đảm bảo về tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người, thì đáng để chúng ta dành cả đời cho vị thế đáng giá của người môn đệ. Nếu chúng ta muốn chia sẻ vinh quang của Người, chúng ta cũng phải chia sẻ đau khổ của Người nữa. Chúng ta không chỉ đón nhận những đau khổ này cách đơn thuần như việc tự khinh chê mình, một hình thức của khổ chế. Nhưng, chúng ta trao hiến chính mình như người phục vụ dành cho những kẻ đau khổ sống xung quanh.
Những thực hành Mùa Chay cho chúng ta biết rằng, như những môn đệ trên núi, chúng ta cũng đang mê ngủ trong những trách nhiệm của người Kitô hữu, buồn ngủ và mộng tưởng về chính mình. Nếu như vinh quang của Đức Kitô có thể thấy được ngay bây giờ thì chúng ta thấy được ngay bên dưới những đau khổ. Mùa Chay mở mắt và đánh thức chúng ta để đáp lại lời mời gọi: "hãy vâng nghe lời Người". Những gì chúng ta nghe được nơi Đức Giêsu là mời gọi chúng ta phục vụ tha nhân.
Sau khi tiếng nói được phát ra, thánh Luca cho chúng ta biết "chỉ còn lại một mình" Đức Giêsu. Nơi Người có trọn vẹn cả hai vai trò: Môsê đại diện cho luật pháp và Êlia đại diện cho ngôn sứ. Tin tưởng vào Đức Giêsu giúp chúng ta thực thi luật và làm cho chúng ta trở nên công chính; lắng nghe và làm theo những lời ngôn sứ của Người, như các ngôn sứ đã làm, giúp chúng ta lắng nghe được tiếng kêu than của người nghèo.
Vì thế, chúng ta nhìn quanh và hỏi: "Ai chịu trách nhiệm ở đây?" Trong sách Sáng Thế và Tin mừng Luca, chúng ta lại được nhắc cho biết: "là chính Chúa". Đức Giêsu là dấu chắc chắn nhất cho thấy Thiên Chúa đã thực thi sự tha thứ, chữa lành và hiệp nhất. Nếu những dấu chỉ ấy đã được nhìn ra ngay trong thế giới của chúng ta, là những môn đệ của Người, pải nghe được lời Người nói và làm cho lời ấy thành hiện thực bằng chính hành động của chúng ta. Như tiếng nói phát ra trên núi: "Hãy vâng nghe lời Người".
Lm Jude Siciliano, OP
Chuyển ngữ: Anh Em HV. Đaminh Gò Vấp
Kinh ngạc bao gồm hai ý nghĩa, khi thì rất đỗi ngạc nhiên, khi thì thất đảm kinh hồn. Đời người là một chuỗi những kinh ngạc liên tục xảy ra. Những kinh ngạc này như giây tơ vô hình nối chặt đời người giữa quá khứ với tương lai. Dựa vào những kinh ngạc xảy ra trong đời con người tìm hiểu nhận biết về chính mình.
Có những ngạc nhiên chúng ta vui vẻ chấp nhận. Lại có những ngạc nhiên chúng ta bàng hoàng và có những ngạc nhiên chúng ta sửng sốt đến sững sờ, không biết phải phản ứng như thế nào cho thích hợp. Cả hai kinh nghiệm ngạc nhiên, thất đảm đều cần thiết vì chúng giúp cân bằng cuộc sống. Nếu toàn thất đảm kinh hồn đời ảm đạm, thê lương. Khi đời lắm hào quang rực rỡ, ánh quang đốt cháy lòng khiêm nhường, chối bỏ ngay cả Đấng dựng nên ta.
Lanh lẹ hay chậm chạp, khôn hay khờ là kết quả của tự học những kinh ngạc trong đời. Không sách vở nào hướng dẫn, chỉ bảo, thay thế được kinh nghiệm kinh ngạc cá nhân. Chính cá nhân đó phải trải qua kinh nghiệm bản thân để khám phá ra con người thật của mình, hiểu biết thêm về mình nhiều hơn. Đời quả là thú vị nếu chịu học hỏi vì ngạc nhiên này dẫn đến ngạc nhiên khác, liên tục nối tiếp nhau khám phá mới lạ trong đời. Nguồn sống đó không bao giờ cạn, chỉ có thời gian tìm hiểu bị giới hạn, sức khoẻ và ý chí khám phá mỏi mòn.
Huyền Bí
Thắc mắc huyền bí cuộc đời, câu trả lời thường đến sau biến cố. Sự việc xảy ra xong, nhìn lại, kiểm điểm mới nhận biết câu trả lời có từ trước nhưng giờ này mới nhận ra. Con người luôn khao khát muốn biết thêm về những huyền diệu, mầu nhiệm đời người. Vì lẽ đó nhiều người, trong đó có cả Kitô hữu, bị các nhà thần bí dụ dỗ, lung lạc niềm tin. Thay vì tìm hiểu mầu nhiệm cuộc đời họ đi khám phá những huyền bí trong đời. Đã gọi là huyền bí thì không thể khám phá. Khám phá được thì không phải là huyền bí. Tìm câu trả lời cho tương lai dựa vào bói toán, chỉ tay, tướng số, tử vi một cách nào đó biểu lộ lòng tin hời hợt. Thiên Chúa sáng tạo huyền bí cuộc đời tin vào lời Ngài chính xác và chính đáng hơn là tin vào lời kẻ thông dịch huyền bí. Tin hời hợt khổ hơn là không tin.
Mầu Nhiệm Đời Người
Mỗi Kitô hữu là một mầu nhiệm trong tay Thiên Chúa sáng tạo. Vì thế không có hai người giống hệt nhau. Trông từa tựa thì có, giống hệt thì không vì Chúa không bao giờ lập lại cùng công việc Ngài đã sáng tạo. Mỗi giây, phút đều khác nhau, mỗi người là tạo vật đặc biệt duy nhất trong Chúa. Không giờ nào giống giờ nào, không ai giống ai nên các nhà huyền bí dựa vào đâu để đoán. Dựa vào giờ sanh, năm tháng, đồng hồ bệnh viện thường chênh lệch nhau vài phút. Sai một li đi một dặm. Dựa vào chỉ tay, khuôn mặt, tướng đi là tiên đoán ngoài da, không đi sâu vào tim, óc, lòng người. Vấn đề tâm linh phức tạp vạn lần hơn tim óc. Hoa tay, chỉ chân, mụn ruồi đâu giải thích nổi mầu nhiệm tình yêu sáng tạo.
Nói đến võ đoán là chấp nhận đúng/ sai. Nếu tin câu trả lời luôn đúng thì vần đề không phải là đoán mà là xác quyết. Để xác định cần có dữ kiện. Sự việc xảy ra rồi mới có dữ kiện. Đoán vận mệnh tương lai dựa vào dữ kiện là việc làm thừa, mông lung. Không ai cầm giữ được dữ kiện tâm linh chính xác vì không thể cân đo, thử nghiệm, lập đi lập lại được. Thiếu các điều kiện cân đo, thử nghiệm, câu trả lời thuộc phạm vi võ đoán. Đã là võ đoán thì ai cũng có thể đoán được cần chi đến các nhà huyền bí coi tướng số, chỉ tay, tử vi trọn đời.
Đời người là một mầu nhiệm. Vì là mầu nhiệm nên có tính thần thiêng, linh thánh. Thiên Chúa yêu thương con người nên tạo dựng con người. Thiên Chúa còn yêu thương mặc khải mầu nhiệm tình yêu qua các biến cố trong đời để giúp con người học biết đáp trả tình yêu Chúa và yêu thương đồng loại. Mặc khải không xảy ra cùng lúc nhưng từ từ bộc lộ để con người học biết, trưởng thành và khám phá thêm về chính mình, hương vị tình yêu và ý nghĩa cuộc sống. Toàn thể mầu nhiệm con người tóm gọn trong mối tình Chúa yêu ta. Tình yêu chân chính đòi dấn thân và hy sinh. Đó là con đường vinh quang của thập giá.
Chìa Khoá Yêu Thương
Tình yêu mặc khải qua biến cố, lo âu, đau khổ, bệnh tật, già nua Kitô hữu gọi đó là thập giá. Tình yêu còn mặc khải qua niềm vui, hạnh phúc, hoan lạc Kitô hữu coi đó là vinh quang thập giá. Đời người pha trộn giữa thập giá và vinh quang. Chìa khoá duy nhất khai phá mầu nhiệm này là thực hành cầu nguyện, chay tịnh và bác ái.
Thánh Luca 9 thuật lại dung mạo Chúa thay đổi trong lúc Ngài cầu nguyện và đàm đạo với tổ phụ Môisê và Êlia về cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Jerusalem. Cuộc xuất hành chính là con đường khổ nạn Chúa sắp lãnh nhận.
Biến cố gồm niềm vui, nỗi buồn, đau khổ, bệnh tật. Chúa dạy các Tông đồ biến cố trên đời thường chóng, qua, tạm bợ như lều tạm các ông muốn xây trên núi thánh. Biến cố có thể gây cao hứng, chói loà mắt, làn mây mù che mờ mắt, mơ màng của giấc ngủ và xuống núi. Dựa vào Lời Chúa biến cố đều là chìa khoá tháo gỡ mầu nhiệm tình yêu. Đức Tin mạnh giúp nhận ra tình yêu Chúa qua biến cố. Tin nửa vời thường thông dịch là Chúa phạt.
Mầu nhiệm tình yêu hoàn toàn tháo gỡ khi con người trở về cùng Đấng đặt mầu nhiệm vào đời họ. Khám phá cuối cùng và cũng là khám phá thú vị nhất đến sau sự chết. Vì thế không ai có thể kể lại cho người khác biết về những gì họ đã biết. Nhân chứng duy nhất là Đức Kitô sống lại từ cõi chết kể lại có kẻ tin, người không. Trong số những kẻ tin lại có kẻ tin nửa vời, bán tín, bán nghi. Đời quả lắm ngạc nhiên.
Chúa nhật thứ hai Mùa Chay trong năm đức tin càng thôi thúc chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Quả vậy, ba môn đệ thân tín của Chúa Giêsu là Phêrô, Giacôbê và Gioan đã được chứng kiến giây phút Thầy chí thánh trên núi xuất thần.
Cảnh tượng ấy đã củng cố niềm tin của các môn đệ, ngày nay nó vẫn làm vững mạnh niềm tin của mỗi Kitô hữu. Do đó, vinh quang của Chúa Giêsu là sức mạnh giúp các môn đệ và chúng ta vững tin, vượt qua những thử thách, gian gian ở trần gian này...
Trong cuộc hành trình rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã vài lần loan báo về cuộc thương khó mình sẽ phải chịu. Thực tế, các môn đệ đi theo chân Chúa vẫn không hiểu về những điều Thầy loan báo. Nên, đêm hôm ấy, Chúa Giêsu đã cùng ba môn đệ được xem là thân cận nhất của Chúa dẫn nhau lên núi cầu nguyện. Chúa Giêsu đã thưa với Chúa Cha thế nào, chúng ta không rõ...Chúa Giêsu cầu nguyện, ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan lại đắm chìm trong giấc ngủ miên man, không hay không biết Thầy của mình đang trò chuyện với Thiên Chúa Cha. Nhưng sau khi tỉnh giấc, ba môn đệ thấy Chúa Giêsu vinh quang sáng chói, hai ông Môsê và Êlia cũng rạng rỡ vinh quang, đàm đạo, chuyện trò thân mật với Chúa. Phêrô cao hứng thưa với Chua Giêsu: " Thưa Thầy, chúng con ở đây thì thật là hay " ( Lc 9, 33 ).Các môn đệ thích nơi vinh quang, sáng láng nhưng lại không tỉnh thức cầu nguyện. Các ngài muốn căng lều, đóng trại trên núi cao, nhưng lại đắm mình trong ngủ say. Và rồi, trong biến cố kinh hoàng của Thầy trong vườn Cây Dầu, các môn đệ vẫn chứng nào tật nấy, vẫn mê ngủ, khoái ăn, tới lúc kẻ thù đến bắt mất Thầy của mình, các Ông nhốn nháo, xôn xao, giao động...Đây thật sự cũng là sự yếu hèn của thân phận con người ở trần gian này.
Sống với các môn đệ, Chúa Giêsu hiểu rất rõ các ông thật yếu đuối, Ngài thấu suốt tâm hồn các Ông, nên trên núi Tabôrê, Chúa đã cho các môn đệ được chiêm ngắm vinh quang của Chúa cho dù vinh quang ấy chỉ xẩy ra chốc lát...Vinh quang này đã củng cố lòng tin của các môn đệ để các ngài thông phần với sự khổ nạn của Chúa Giêsu mà Ngài sẽ thực hiện tại Giêrusalem. Vinh quang này cũng minh chứng về lời loan báo của các môn đệ sau này về sự sống lại của Chúa.
Phêrô ở Cêsarê trước đó tám ngày đã tuyên xưng: " Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống " ( Mt 16, 16 ) thì hôm nay trên núi Tabôrê Chúa đã chứng thực cho các ông thấy sự sáng láng của Ngài vì Ngài thực là Con Thiên Chúa. Biến cố biến hình của Chúa Giêsu là mạc khải về vinh quang, về sự hiện diện của Chúa giữa nhân loại. Chúa đem Nước Trời vào trần gian để muôn người nhận ra tình thương và lòng thương xót của Chúa.
Vinh quang mà Chúa Giêsu biến hình trên núi Taborê quả thực là sự đáp trả tình thương của Chúa Giêsu khi Ngài chấp nhận đáp trả lại sự khổ nạn, phục sinh để vâng lời Thiên Chúa Cha. Sự đáp trả này là lời mời gọi mọi người chúng ta luôn gắn bó và bám chặt lấy Chúa Giêsu.
Việc Chúa biến hình sáng láng, vinh quang chỉ xẩy ra một thời gian ngắn. Để rồi sau đó, Chúa chấp nhận cuộc tử nạn và phục sinh. Tin mừng của thánh Luca cho hay khi trên núi đi xuống Chúa Giêsu đã nói về cái chết và sự sống lại của Ngài, nhưng các môn đệ không hề hiểu gì. Mọi người Kitô hữu cũng vậy thôi, đứng trước nhiều cái chết chúng ta chẳng hiểu gì về sự sống lại cho tới Chúa lại đến trong vinh quang.
Chúa biến hình chốc lát rồi lại trở lại trạng thái bình thường. Chúa và các môn đệ lại tiếp tục cuộc sống hằng ngày. Nhưng trong mọi niềm vui nỗi buồ, Chúa luôn hiện diện để nâng đỡ và củng cố niềm tin của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu,
Trong ánh vinh quang lung linh của ánh sáng chói lòa trên đỉnh núi Tabôrê
Chúa đã củng cố đức tin của ba môn đệ thân tín: Phêrô, Giacôbê và Gioan,
Ngày nay, Chúa luôn hiện diện giữa cuộc đời chúng con
Và can thiệp đúng lúc vào những hoàn cảnh cuộc đời của chúng con.
Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn nhận ra
Chúa nơi những người khác và nơi trạng huống cuộc đời dù thuận hay nghịch.Amen.
Người Việt Nam đã quan niệm "Sống gửi thác về".
Quan niệm này thật đáng trân trọng. Tuy nhiên "về đâu" thì lại còn tùy thuộc vào kinh nghiệm tâm linh của từng người.
Riêng người tín hữu, được lời Chúa hướng dẫn, trên cuộc lữ hành trần thế, họ bước đi theo ánh sáng của vinh quang thiên giới mà đích đến sẽ là quê trời vĩnh cửu.
Là người, ai cũng cần đến nhu cầu vật chất để tồn tại. Để có vật chất, nhiều người đã vất vả ngược xuôi để tìm định cư nơi những miền đất trù phú tràn trề sữa mật...; không ít người xây dựng cuộc đời trên những theo cách trần thế. Nhiều vị vua trần gian còn xây những lăng mộ cho chính mình để kéo dài sự tồn tại của bản thân bên kia cái chết.
Trái lại, ngày nọ, trong khi ông Áp-ra-ham già nua cùng với gia đình sống giàu sang sung túc thì Đức Chúa đã kêu gọi ông phải từ bỏ tất cả để đi theo tiếng Chúa (x. St 12, 1-9). Đức Chúa đã hứa ban cho cho ông: có đất làm gia nghiệp, có con để nối dõi. Người còn hứa ban cho ông được dòng dõi đúc như những vì sao trên vòm trời. Để giữ đúng lời hứa, Đức Chúa đã kết giao ước với ông (x. St 15, 5-12.17-18).
Thì ra, tất cả sang trọng của thế gian chỉ là phù vân; của cải, tài sản, niềm vui, ngay cả những khôn ngoan của con người cũng chỉ là phù vân. Ông Áp-ra-ham đã không rơi vào cơn cám dỗ đắm mình trong những phù vân. Ông đã hoàn toàn tin tưởng Đức Chúa và bước đi theo đường lối của Người.
Nối tiếp lòng tin của ông Ap-ra-ham, hôm nay, các môn đệ Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê cũng theo Đức Giê-su lên núi và đã chiếm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giê-su.
Trên núi cao Đức Giê-su đã mạc khải chính Người là trung tâm của lịch sử khi đàm đạo với hai nhân vật đặc biệt trong lịch sử cứu độ: ông Mô-sê đại diện cho lề luật, ông Ê-li-a đại diện cho các ngôn sứ. Như thế, tất cả lề luật và lời dạy của các ngôn sứ đã hướng về Đức Giê-su, Ngôi Lời của Thiên Chúa làm người.
Đang khi Đức Giê-su cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa (Lc 9, 28). Thánh Mác-cô còn xác định "Y phục người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy" (MC 9, 3). Rõ ràng không có điều gì ở trần gian có thể so sánh được với Đức Giê-su. Người là Thiên Chúa vĩnh cửu "là một hôm qua cũng như hôm nay và như vậy mãi mãi đến muôn đời (Dt 13, 8).
Dung mạo Đức Giê-su rực rỡ, y phục Người đã chói lòa vinh quang thiên giới. Vinh quang ấy đã tỏa sáng trên cuộc đời các môn đệ, cuốn hút các ông đến nỗi ông Phê-rô tràn ngập niềm hạnh phúc quyết định nhanh chóng và vui sướng thốt lên: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a" (Lc 9, 33).
Vinh quang thiên giới đã được Đức Giê-su mạc khải và cuốn hút ông Phê-rô khiến ông quên đi tất cả chuyện trần gian, quên luôn bản thân mà chỉ còn biết phục vụ Thiên Chúa, phục vụ lề luật, phục vụ lời ngôn sứ, phục vụ ơn cứu độ.
Vinh quang thiên giới tiếp tục cuốn hút thánh Phao-lô khi ngài xác tín: "Quê hương chúng ta ở trên trời và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta" (Pl3, 3) và mời gọi: "Anh em hãy kết hợp với Chúa mà sống vững vàng như vậy" (Pl 4, 1).
Vinh quang thiên giới cũng đang cuốn hút người tín hữu hướng tới và mở ra cho họ cách thế để đạt thấu bằng đời sống đón nhận và "vâng nghe lời Người" (Lc 9, 35).
Vinh quang thiên giới đã được Đức Giê-su mạc khải nhưng trong thực tế nhiều người trong nhân lọai vẫn "sống đối nghịch với thập giá của Đức Ki-tô" (Pl 3, 18). Họ chỉ nghĩ đến "cái bụng" nghĩ đến chuyện thế gian, đắm mình trong những đam mê của thế trần,
Mùa chay thánh là lúc Hội Thánh khẩn thiết nhắc nhở người tín hữu:
- Hướng về Chúa Giê-su nguyện xin Người soi sáng để cảm nhận ánh sáng siêu nhiên của Chúa đang chiếu soi tâm hồn mình và sẽ cuốn phăng đi những tội lỗi và thay thế vào lòng yêu mến Chúa và dấn thân yêu thương phục vụ tha nhân.
- Từ bỏ cái tôi hầu mở rộng tấm lòng thiện chí để vâng nghe lời Chúa, để ý thánh Chúa được lớn lên trong cuộc đời, để ý kiến của người khác được đón nhận, để cộng đòan được hòa điệu hầu trở thành nơi tin tưởng chốn yêu thương.
- Nhìn mọi sự với ánh mắt tâm linh để chọn lựa thánh ý Chúa, hầu tự chủ đới với bản thân, kiên nhẫn với người vô kỷ luật, nâng đỡ những người yếu, khuyến khích người nhút nhát, luôn làm điều thiện.
- Theo gương Đức Giê-su, trước những thử thách không óan trách thiên hạ, đối thủ, xã hội, Thiên Chúa... không chui vào cái vỏ tủi thân, cay đắng buông xuôi chán đời... nhưng đón nhận đón nhận khổ chế như cơ hội "vàng" để rèn luyện và thánh hóa bản thân nên giống Chúa Giê-su.
Tất cả những điều nêu trên sẽ thể hiện qua những việc thực hành đạo đức: gia tăng cầu nguyện, xưng tội, dâng lễ, nghe giảng dạy, chay tịnh, khổ chế... hầu trở thành thói quen nhân đức khiêm tốn, giúp tan biến đi những tội lỗi hư đốn, thêm sức mạnh để vực dậy những đau khổ, hướng đến quê trời là niềm hy vọng bất diệt.
Thiên Chúa tạo dựng mọi sự đều tốt đẹp. Sử dụng những tiện ích trần gian thuộc họat động chính đáng của con người.
Tuy nhiên, mùa chay Hội Thánh nhắc nhở người tín hữu đừng ngủ quên trong những phù vân trần thế mà hãy chọn con đường về trời là con đường luyện tập chiến đấu thiêng liêng.
Con đường ấy Đức Giê-su đã đi với thập giá trên vai.
Cũng vào dịp đầu Mùa Chay này năm trước, người CGVN khắp nơi, đặc biệt ở Giáo phận Xuân Lộc đang xôn xao về hiện tượng Đức Mẹ hiển dung tại Giáo xứ Bạch Lâm, thuộc Giáo hạt Gia Kiệm. Sự thật đến đâu, xin để cho giáo quyền xác nhận. Tuy nhiên, rất nhiều người chứng kiện hiện tượng đã chia sẻ những cảm nghiệm chung như sau:
Nếu ai đã trơng thấy sự kiện thay đổi dung nhan nơi Thánh tượng Đức Mẹ Bạch lâm thì đều mang một tấm lịng yếu mến nồng nàn đối với Đức Trinh Nữ Maria. Tất cả những ai đã một lần gặp được khuơn mặt kiều diễm của Mẹ sau nhiều ngày đêm thao thức thì lại thấy trong lịng vang lên tiếng mời gọi đến gặp Mẹ nhiều hơn. Tất cả những ai gặp khuơn mặt thánh thiện của Mẹ thị đều run sợ và nhận ra thân phận tội lỗi của mình để xin sự thứ tha của Chúa và để bắt đầu lại cuộc sống của mình.
Câu chuyện về Đức Mẹ Bạch lâm Hiển dung và những cảm nghiệm về hiện tượng đó có lẽ cũng gợi lại cho chúng ta câu chuyện về biến cố Chúa Giêsu hiển dung cách đây hơn 2000 năm. Vậy thì đâu là ý nghĩa của biến cố Chúa Giêsu hiển dung?
- Trước hết, biến cố hiển dung là biến cố chứng thực cho sự sống sau cái chết.
Quan niệm của người Dothái về sự sống lại, và sự sống sau cái chết vẫn còn có nhiều bất đồng và mơ hồ. Thậm chí nhóm Sađốc còn chủ trương không tin là có sự sống lại. Tuy nhiên, trong biến cố hiển dung, sự xuất hiện rạng ngời vinh hiển của hai nhân vật quá cố thời Cựu ước xa xưa là Môisê và Êlia, như một bằng chứng hiển nhiên và chắc chắn nói cho các môn đệ rằng có sự sống lại và sự sống sau cái chết. Nói cách khác, qua biến cố hiển dung các môn đệ có thể khẳng định một cách không sai lầm rằng có thế giới bên kia, và hai vị đại tiên tri đang sống hạnh phúc trong thế giới đó.
- Thứ đến, biến cố hiển dung là biến cố biểu lộ vinh quang thần tính của Đức Kitô.
Trong cuộc sống thường nhật, Chúa Giêsu thường chỉ biểu lộ nhân tính của Ngài là một con người như mọi người ngoại trừ tội lỗi. Còn thần tính của Ngài vẫn còn ẩn dấu. Thế nhưng, qua biến cố hiển dung, vinh quang Thiên Chúa, tức thần tính của Đức Giêsu tỏ hiện rõ nét và rạng ngời. Rõ nét đến độ, thánh Mathêu mô tả là các môn đệ choáng ngợp, té sấp mặt xuống đất: "Dung nhan Ngài chói lọi như mặt trời, y phục Ngài trắng sáng như sơn tuyết". Rạng ngời đến độ các môn đệ chỉ còn muốn sống mãi trên núi với Chúa mà thôi. Chính thánh Phêrô xác nhận điều này: Lạy Thầy, chúng con ở đây thì tuyệt cú mèo rồi. Nếu Thầy muốn, con xin làm 3 lều..... Rõ ràng nếu các môn đệ không nhìn thấy vinh quang thần tính của Đức Giêsu thì các ông không thể có những phản ứng như thế. Dù vinh quang ấy chỉ một thoáng thôi cũng đủ làm cho các môn đệ ngây ngất cõi lòng.
- Sau nữa, biến cố hiển dung còn là biến cố khích lệ niềm tin cho các môn đệ trước viễn tượng cuộc thương khó của Chúa Giêsu.
Ta thấy rằng khi Chúa Giêsu bị bắt thì ít là có 2 trong 3 môn đệ đã từng chứng kiến biến cố hiển dung đã không bỏ trốn như các môn đệ khác. Điều này chứng tỏ niềm tin của 3 môn đệ này được củng cố rất nhiều, nhờ thấy trước vinh quang phục sinh của Đức Giêsu. Đối tượng cụ thể của niềm tin đó chính là Đức Kitô, Con Một Yêu Dấu của Chúa Cha trên trời. Và vì tin vào Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, là Con Thiên Chúa, các ông cần phải lắng nghe lời dạy của Ngài: "Đây là Con Ta yêu dấu. Các Ngươi hãy nghe lời Ngài". "Lời Ngài" mà Chúa Cha muốn nói ở đây là lời Chúa Giêsu loan báo về cuộc thương khó tử nạn và phục sinh của Người. Lời Ngài ở đây là lời tiên báo về sự bắt bớ, tra tấn, đánh đập và bị giết chết nhục nhã trên Thánh Giá. Nghe để không bị chao đảo, nghe để không bị mất đức tin trước những thử thách nặng nề như thế.
Khi tái khám phá những ý nghĩa của biến cố hiển dung, chúng ta được mời gọi điều gì ? Chúng ta được mời gọi mỗi khi đối diện với những bế tắc, nghiệt ngã trong cuộc sống vô thường ở đời này, hãy chiêm ngắm biến cố hiển dung để hy vọng, để cậy trông vào một cuộc sống vĩnh phúc đích thực mai sau. Sau nữa chúng ta còn được gọi mời khi gặp những đau thương thử thách của thập giá, hãy hướng lòng trí lên Đức Kitô vinh quang trên núi Taborê để được khuyến lệ, để được vấn an hầu có thể vượt qua những thử thách đau thương trong cuộc đời này. Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Người nấu ăn thường hay thử trước món ăn đang nấu. Thử trước với mục đích tốt. Nhờ nếm thử trước mà biết được cần nêm nếm, thêm, bớt gia vị cho món ăn hoàn chỉnh, ngon miệng, hài lòng với thành quả. Vì nếm thử nên không bao giờ ăn nhiều. Nếu thử đến no bụng, thử biến thành ăn trước.
Hầu như mọi công việc, cẩn trọng đều tốt hơn là cẩu thả. Cẩn trọng cần thiết ngay cả trong lời nói vì thế sách Huấn Ca 26,16-21 ca tụng người cẩn ngôn là ân huệ Chúa ban.
Hình thức thử
Có nhiều hình thức thử khác nhau. Thầy giáo khuyên học sinh học ôn, tập luyện bài học trước khi các em dự thi. Thợ mộc đo đi, thử lại nhiều lần tránh trường hợp cắt sai, cưa dài, làm hư mộng, lệch khớp. Châm ngôn 'thực hành dẫn đến hoàn thiện' được các nhà thể thao triệt để áp dụng.
Sai đi
Đức Kitô sai môn đệ đi rao giảng Tin Mừng từng hai người một. Ngài dặn dò kĩ càng trước khi sai các ông đi. Sai đi trong Kinh Thánh chính là cho nếm thử tương lai. Tương lai mà ba môn đệ nếm thử đó là vinh quang nước trời. Các ông học được nhiều bài học quí về niềm tin và con người Đức Kitô.
Mặc khải
Bài học đầu tiên Chúa mặc khải cho các tông đồ biết vinh quang Chúa. Một vinh quang vượt quá mắt trần, trí tưởng và cảm xúc con người có thể cảm nhận được. Vinh quang ngời sáng bao trùm tâm trí Phêrô đến độ nói mà không nhận biết mình nói gì. Đây là một mặc khải đặc biệt.
Mỗi người Kitô hữu đều nhận được những mặc khải cá nhân mà đôi khi chúng ta không nhận ra đó là mặc khải, hoặc gọi bằng một từ khác đi. Thực ra, lần nào đó khi cầu nguyện mà cảm thấy tâm hồn sảng khoái, giờ cầu nguyện thoáng qua như phút giây. Đó chính là lúc con người cảm nhận ân sủng Chúa mặc khải riêng cho cá nhân đó. Cảm giác các tông đồ nhận được trên núi thánh là thấy Chúa gần kề, ngời sáng, hùng vĩ, oai phong nhưng lại rất gần, rất thực. Chúng ta nhận ra Chúa trong cuộc sống, qua câu nói, sự biết ơn hay niềm vui khi tha thứ và khi thực thi đức ái. Đây là những mặc khải cá nhân Chúa ban riêng cho từng cá nhân. Hãy trân trọng đón nhận những mặc khải cá nhân đó. Chúa ban ơn mặc khải riêng ta dường như ít trân trọng đón nhận. Trái lại ước mong đón nhận mặc khải Chúa ban cho người khác. Cũng là ơn mặc khải, sao lại khi trọng, khi coi thường. Bên trọng, bên khinh không phải là tâm tình chân chính, yêu Chúa chân tình.
Tông đồ phản ứng
Phản ứng nhất thời của các tông đồ phát xuất vì thiếu đắn đo suy nghĩ. Nói rõ ra phản ứng một cách vội vã, thiếu tinh thần cầu nguyện, thiếu cân nhắc ơn Thánh Thần hoạt động trong phán đoán. Mọi quyết định thiếu hướng dẫn của Thánh Thần đều là những quyết định thiếu khôn ngoan vì Thánh Thần là Đấng ban ơn khôn ngoan. Thiếu ý kiến, hướng dẫn của Thánh Thần thì không thể gọi là khôn ngoan được. Các ông phản ứng trong lúc tâm hồn mê man vì cảnh đẹp, rực rỡ, hào quang Thiên Chúa sáng rực bầu trời. Chính trong lúc tinh thần cao ngất các ông đưa ra quyết định, chọn lựa xin phép Chúa làm ba lều để cư ngụ trên núi thánh. Đức Kitô không đáp lại lời yêu cầu ngủ mê đó, dù phát xuất do thành tâm.
Ngủ mê
Tinh thần căng thẳng mấy ai ngủ ngon giấc. Trong tâm có thao thức, chao đảo, lo lắng, bồn chồn, mất ngủ là việc bình thường. Một người ngủ một cách êm thắm, bình an, người đó phải có một tâm hồn bình an, một thần khí sảng khoái. Đó chính là tâm tình của các tông đồ ngủ trên núi thánh. Các ông tìm được bình an nội tâm, các ông ngủ ngon vì có Chúa ở bên cạnh. Khác với giấc ngủ trên vườn Cây Dầu. Giấc ngủ đó có hơi men vì các ông dùng bữa Tiệc Li, có men rượu trước khi Thầy trò leo núi cộng với mệt mỏi.
Giấc ngủ yên lành là hạnh phúc Chúa ban. Chúng ta dâng lời cảm tạ do tinh thần thanh thản, thân xác thoải mái an bình.
Xuống núi
Tình trạng xuống núi biểu tỏ tâm tình của người sống trong cuộc sống hiện tại. Trong cầu nguyện đôi khi con người đụng chạm đến thần linh cũng cảm thấy tinh thần cao vời vợi, thần trí hoan lạc, mừng vui và muốn tiến bước mãi, không mệt mỏi, không chán nản. Rồi đùng một cái quay trở lại với thực tại, với hiện thực, với cuộc sống thường nhật.
Trên đường xuống núi Chúa cũng dậy các tông đồ bài học xuống núi. Cuộc sống thực tế không phải lúc nào cũng nhìn thấy trời quang, mây trắng bay, cảnh hùng vĩ của thiên nhiên. Cái đẹp ngây ngất của đất trời.
Cuộc sống thực tế có nhiều khó khăn đời người ai cũng ít nhiều trải qua. Cần trải qua gian nan, đau khổ trước khi thực sự sống cảnh vinh quang nước trời. Vinh quang được ban cho nhưng phải phấn đấu và trân trọng giữ gìn. Không thể coi thường, coi nhẹ.
Chúa nhắc nhở các môn đệ xuống núi đừng nói gì về điều tai nghe, mắt thấy vì vẻ huy hoàng, rực rỡ Chúa lớn hơn trí hiểu con người. Trần thế không gì sánh bằng. Để cảm nhận cần có đức tin. Không đức tin lời nói của các tông đồ trở nên truyện thần tiên, giả tưởng cho người nghe. Vì thế Chúa khuyên các ông nên giữ làm kỉ niệm riêng trong đời.
Thiên Chúa là một vị Thiên Chúa đầy quyền năng. Thiên Chúa vẫn bày tỏ quyền năng của mình bằng cách này hay cách khác, qua người này hay người kia để cho dân của Ngài biết rằng Ngài có quyền năng cũng như Ngài yêu thương dân của Ngài. Những ai được Thiên Chúa tỏ mình là những người được thương một cách đặc biệt, được chọn một cách hết sức là ưu ái.
Hôm nay, trang Tin mừng chúng ta vừa nghe, Thánh Luca thuật lại chuyện "Chúa Giêsu biến hình" để cho các môn đệ thấy vinh quang của Ngài. Rõ ràng, các môn đệ hôm nay được Chúa dẫn lên núi là những môn đệ được Chúa yêu hơn. Sự lựa chọn các môn đệ đi theo cũng mang tính chất biểu tượng: "Phêrô, Gioan và Giacôbê" những môn đệ được kêu gọi đầu tiên, những người tại nhà Zairô, đã là chứng nhân của sự toàn thắng trên cái chết (8,31-56).
Trang Tin mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta dung mạo khác, dung mạo tuyệt vời chưa từng có của Chúa Giêsu do Thánh Luca thuật lại. Nếu để ý, trừ hai ba chi tiết, Thánh Luca ba lặp lại y nguyên những chi tiết giống như Máccô và Matthêu để gợi lại một kinh nghiệm không diễn tả được.
Nơi biến cố diễn ra hoàn toàn có tính cách biểu tượng đó là một "ngọn núi". Theo truyền thống Thánh Kinh, núi chính là nơi con người gặp Thiên Chúa và cũng là nơi Thiên Chúa tỏ bày mạc khải của Người cho dân của Người.
Khung cảnh của biến cố này cũng mang tính chất biểu tượng: Đó là cảnh Chúa Giêsu cầu nguyện. Chỉ mình Luca đề cập đến chi tiết này. Theo Thánh Luca, lời cầu nguyện luôn đi theo những giây phút trọng đại trong sứ vụ Chúa Giêsu.
Lúc Người "cầu nguyện" trong ngày chịu phép rửa, trời mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Người và có tiếng từ trời phán ra (3, 21-22). Sau khi lánh vào "núi rừng để cầu nguyện", Người đã chọn 12 môn đệ (6, 12-ABC 16). Khi Người "cầu nguyện một mình" Người đã đưa ra câu hỏi dẫn tới lời tuyên xưng đức tin của Phêrô (9, 18-20). Và chẳng bao lâu nữa, ta sẽ thấy Người cầu nguyện trong vườn Giếtsêmani để tìm sức mạnh đảm đương cuộc chiến cuối cùng; biến hơi thở cuối cùng thành lời cầu nguyện (23.34 và 46); Phục sinh rồi giã từ môn đệ khi đọc lời nguyện chúc phúc cho họ (24,50-5 1).
Tại nơi đây, trên núi cao, chính "đang khi cầu nguyện" mà Chúa Giêsu chiếu lên luồng ánh sáng thần linh. Khác với Máccô và Mátthêu, Luca không nói về sự biến hình biến dạng; Thánh sử chỉ nói "dung mạo Người trớ nên khác thường" và "Y phục Người trắng rực rỡ". Sau đó Thánh Luca viết rằng: "Phêrô và các bạn tỉnh giấc và được thấy vinh quang Chúa Giêsu".
"Mặc lấy vinh quang" có nghĩa là tham dự vào ánh sáng huy hoàng của Thiên Chúa hằng sống, được nâng lên địa vị siêu tôn; y phục trắng ánh chớp, có nghĩa Chúa Giêsu đã tiến vào khung cảnh thiên đường. Như thế, Chúa Giêsu như được tạm thời mặc trước nguồn vinh quang Phục sinh mà Người sẽ được thừa hưởng khi sống lại. Tuy nhiên Luca nghĩ rằng có lẽ nguồn vinh quang này đã tiềm ẩn trong Chúa Giêsu từ trước Phục sinh và do kết quả của việc cầu nguyện, Chúa Giêsu không thể ngăn chặn luồng vinh quang ấy chiếu toả từ thân thể Người "Tin Mừng theo thánh Luca"
Một chi tiết khác rất giàu biểu tượng đó là: Sự hiện diện của hai khuôn mặt lớn trong Cựu ước: Môsê và Êlia, là hai nhân vật tóm tắt tất cả Lề Luật (Môsê) và các tiên tri (Êlia), hai nhân vật chính của Cựu ước đã loan báo rằng: "Đức Kitô phải chịu đau khổ rồi mới bước vào vinh quang" (Lc 24,26-27).
Sự hiện diện của các ngài là bằng chứng hết sức sống động nói rằng lời tiên báo của Chúa Giêsu về tương lai của Người hoàn toàn phù hợp với Kinh Thánh.
Một chi tiết riêng của Thánh Luca đó là "cuộc lên đường của Người" mà hai nhân vật Cựu ước bàn tới. Môsê là một nhân chứng sống trong cuộc Xuất hành, của núi Si- nai, của cuộc vượt qua Biển Đỏ sao vì ông là người thay mặt cho Chúa để điều khiển dân và cũng là đại diện cho dân để gặp gỡ Thiên Chúa. Còn Êlia, Êlia chẳng là vị tiên tri lớn đã phải chịu đau khổ vì Thiên Chúa và vì dân tộc trước khi được cất lên trong vinh quang thần thánh.
Chúa Giêsu cũng được mời gọi chịu đau khổ trước khi được "cất lên" như một Êlia mới vậy. Trong vinh quang thiên quốc Người cũng là Môsê mới trong cuộc Xuất hành mới, trong lễ Vượt Qua mới của một Giao ước mới, sẽ vượt qua biển sự chết để giải phóng dân Người và dẫn đưa họ đến Đất Hứa thật sự là Vương quốc của Cha Người.
Phêrô đã nhớ đến lễ Lều như một biểu tượng báo trước sự chấm dứt của lịch sử, đã đề nghị nắm chặt khoảnh khắc hiện tại bằng cách dựng "ba lều". Nhưng Luca đã ghi nhận rằng mong ước cuộc thần hiển này kéo dài "ông không biết phải nói gì" vì ông vẫn chưa nhìn thấy viễn cảnh hổ nạn như một đoạn đường bắt buộc phải đi qua.
Lúc ấy Phêrô, Gioan và Giacôbê bị bao phủ trong "một đám mây" - Trong Thánh Kinh đó là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa - giống như Đức Maria trong ngày truyền tin, đám mây ấy "phủ bóng che rợp" các ngài. Các ngài "sợ hãi".
Chính lúc ấy "một tiếng nói" vang lên trong đám mây cũng là tiếng nói khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan. Nhưng hôm nay, tiếng ấy không còn nói với Chúa Giêsu nữa ("Con là Con Ta, hôm nay Cha đã sinh ra Con") nhưng nói với các môn đệ của Người: "Đây là Con Ta mà Ta đã tuyển chọn". Người Tôi Tớ đau khổ (Is 42,1-8). Chúa Giêsu, Người đang đồng hành với họ, thường che giấu vinh quang của mình, nay đã thoáng tỏ ra cho họ. là Người con, nơi Người, Cựu ước được hoàn thành; Người là Đấng nói năng với một uy quyền lớn hơn Môsê và Êlia nên ta phải "lắng nghe" Người là Đấng ta phải đi theo trên con đường dẫn về Giêrusalem: về vinh quang, qua thập giá.
Những trải nghiệm hôm nay của các môn đệ cách riêng của Phêrô là trải nghiệm hết sức tuyệt vời vì đã được tận mắt chứng kiến vinh quang của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi Thầy của mình. Trong hạnh phúc tuyệt vời ấy Phêrô đã có ý muốn dựng 3 cái lều, muốn được ở lại trong vinh quang của Chúa Giêsu lắm nhưng khi trở về với đời thường thì khác. Trong hành trình theo Chúa, trong hành trình loan báo Tin mừng, đã hơn một lần Phêrô đã cản Chúa không cho Chúa lên Giêrusalem chịu nạn và cũng đã chối Chúa. Cuộc đời của Phêrô vẫn đâu đó vấp phải những điều chẳng hay chẳng lành.
Những điều mà Phêrô vấp phải cũng là những điều mà chúng ta cũng phải kinh qua. Nhìn lại cuộc đời của chúng ta, đã hơn một lần chúng ta cũng được nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa trong đời mình nhưng sau đó chứng nào vẫn tật nấy, chuyện gì cứ y như cũ vậy và thậm chí còn tệ hơn trước nữa là đàng khác.
Từng say sưa với những thành công vang dội của Thầy, giờ đây họ chán nản khi gặp chống đối dữ dội. Đã hơn một lần các môn đệ thán phục và đón nhận Đấng Mêsia bây giờ vỡ mộng khi thấy Người bị phản đối. Cứ phân vân chọn lựa giữa "những sự dưới đất" và "những sự trên trời". Cuộc đời mình có thể tin tưởng vào ai, tin tưởng cái gì? Đây là lúc thuận tiện để tỉnh cơn mê, vươn vai đứng dậy để chiêm ngưỡng "dung nhan của Chúa" và sẵn sàng lắng nghe Lời Người. Ánh sáng chói chan, làn sóng hạnh phúc khôn tả, thị kiến thoáng qua về "thế giới khác" với cõi phàm trần nơi các môn đệ cư ngụ. Bỗng dưng quá hạnh phúc khi thấy Thầy mình biến đổi và rồi cơn cám dỗ muốn bám vào cái kinh nghiệm tuyệt vời trong phút chốc lại đến. Từ nay các môn đệ đã biết rằng Chúa Giêsu là Đấng được Cha sai đến. Các môn đệ đã nhìn thấy vinh quang của Người khiến dung mạo Người ra khác. Tuy đã thấy dung nhan đời đời thực sự của Người, nhưng từ nay họ vẫn chỉ được nhìn khuôn mặt xác phàm của Người, khuôn mặt chẳng bao lâu nữa sẽ rướm máu cùng với đầu đội triều thiên là vòng gai.
Sau ngày Chúa Giêsu chịu khổ nạn và nhất là chịu chết ấy thì các môn đệ đã ra chán nản, thất vọng nhưng nhớ lại quyền năng và đặc biệt là Lời của Chúa Giêsu thì các môn đệ hăng hái lên đường rao giảng Tin mừng. Lời của Chúa mà hôm nay Chúa Cha nhắc cho các môn đệ cũng như nhắc cho mỗi người chúng ta thật tuyệt vời.
Hãy nghe Lời Người ! Nghe Người và theo Người trở về với con con đường đầy chông gai của cuộc đời. Chỉ có Lời của Chúa Giêsu, giáo huấn của Ngài mới có thể khoả lấp mọi khát vọng của con người, mới lấp đầy mọi khoảng trống trong lòng của nhân loại. Nếu chúng ta để cho Lời của Chúa chi phối trong cuộc đời của chúng ta thì bảo đảm cuộc đời của chúng ta bình an và hạnh phúc và bình an đó, hạnh phúc đó là bình an và hạnh phúc thật chứ không như bình an và hạnh phúc của trần gians.
Nguyện xin Chúa ban thêm sức cũng như lòng tin nơi mỗi người chúng ta để cuộc đời của chúng ta dẫu thế nào đi chăng nữa cũng biết vâng nghe theo lời Chúa nói với chúng ta để chúng ta cũng như các môn đệ xưa hăng hái đi theo Chúa cho đến cuối cuộc đời dẫu cuộc đời của chúng ta còn nhiều chông gai, còn nhiều cạm bẫy.
Cùng với thánh Phêrô, thánh Giacôbê và thánh Gioan, hôm nay chúng ta cũng nhập đoàn với Chúa Giêsu đi lên núi để cầu nguyện. thường thì trong tin mừng Luca mỗi câu chuyện đều bắt đầu bằng việc cầu nguyện. Đó cũng là cách thánh Luca cho chúng ta biết sẽ có điều quan trọng diễn ra đối với các tông đồ cũng như cho chúng ta. Vì thế chúng ta cũng hãy hành xử như các tông đồ; chúng ta bị đánh thức và chúng ta lắng nghe. Cảnh tượng bỗng chố xảy ra: hai nhân vật vĩ đại nhất của lịch sử Israen hiện ra đàm đạo với đức Giêsu về những gì đang chờ Người ở Giêrusalem. Các ngài không ở đó để bàn bạc về những vấn đề tôn giáo thường ngày. Đó không phải là lúc để thảo luận hay cứu xét nhưng là lúc để suy nghĩ nghiêm túc về những gì sắp xảy đến. Môisê và Êlia ở đó cũng giống như hai thiên thần trong vườn Giệt Sêmani, để giúp đức Giêsu đối diện với những gì sắp xả đến cho Người. Thánh Luca mô tả đó như biến có xuất hành của ngài.
Với những ai đọc Kinh Thánh thì hai từ Xuất Hành nhắc nhớ về biến cố quan trọng trong lịch sử của dân Do-thái. Đó là lúc Đức Chúa dẫn dắt dân đang chịu cảnh nô lệ đến với tự do. Đó là hành trình dẫn họ băng qua sa mạc để có được những hiểu biết sơ khởi về Thiên Chúa. Thiên Chúa là sức mạnh của họ khi họ yếu đuối. Ngài cho họ thức ăn khi đói và ban nước uống khi họ khát. Sau khi cố gắng vượt qua hành trình ấy, họ được vào Đất Hứa.
Đức Chúa giải thoát họ khỏi ách nô lệ không phải vì họ hùng mạnh, không phải vì họ xứng đáng, cũng chẳng phải do mẫu gương tuyệt vời về lòng tin của họ - nhưng là vì sáng kiến của Thiên Chúa. Qua kinh nghiệm sống trong sa mạc, dân đã có thể biết một Thiên Chúa, Đấng đã mạc khải tên mình cho Môisê: "Ta là Đấng Tự Hữu." Nghĩa là "Ta sẽ luôn ở với các ngươi." Nên không lạ gì bài Tin Mừng hôm nay với âm vang của cuộc Xuất Hành được chọn cho Chúa Nhật Mùa Chay này. Trong đó có một lời hứa cho chúng ta, khi chúng ta suy niệm về như cầu cần được giải phóng của chúng ta. Thiên Chúa Đấng đã dẫn dắt Israen ra khỏi cảnh nô lệ cũng sẽ giải thoát chúng ta khi chúng ta ý thức hơn đến sự cần thiết phải hoán cải trong Mùa Chay. Điều đó cả Israen và chúng ta không tự mình làm được, nhưng Thiên Chúa sẽ thực hiện.
Xin đừng nhìn cuộc hành trình của dân Israen cách lảng mạn khi chúng ta đứng ở một khoảng cách an toàn cách họ cả hàng ngàn năm. Dữ kiện Kinh Thánh cho chúng ta biết về những cám dỗ thường ngày của họ, những lần bất trung với Thiên Chúa, những phàn nàn chống đối Môisê và Đức Chúa. Họ ngày càng chán ngán cuộc hành trình của mình, với những đấu tranh thường nhật và nỗi bấp bênh. Mỗi ngày qua đi họ lại cảm thấy lo sợ, "liệu ngày mai chúng ta có bị lạc đường và bị diệt vong trong sa mạc hay không?" Cám dỗ bỏ cuộc trở nên rất mạnh mẽ và việc trở lại chính nơi mà họ làm nô lệ xem ra lại hợp lý. Ít nhất ở đó họ cũng có một chút thức ăn và biết được mỗi ngày họ sẽ được gì. Họ biết được công việc thường ngày và biết họ phải làm gì. Còn ở trong sa mạc không có sự bảo đảm đó, nhưng chỉ có sự bấp bênh, nguy hiểm và vất vả. Nhưng chính trong sa mạc cùng với tất cả những khốn khổ khốn nạn ấy họ mới khám phá ra rằng Thiên Chúa sẽ hoàn tất lời hứa mà Người đã ký kết với họ. "Ta là Đấng sẽ ở với các ngươi luôn mãi."
Chính lối suy nghĩ và hành xử cũ đã cho họ sự thoải mái, ngay cả khi họ phạm tội và giới hạn. Còn cuộc hành trình đòi họ phải đẩy lùi những lối nghĩ và cách làm cũ ấy để sống can đảm và thích nghi mỗi ngày. Đôi khi lối nghĩ và hành xử cũ vẫn cám dỗ người ta ngừng cố gắng, dễ đầu hàng và trở về đường lối cũ.
Thế nhưng khoảng cách ngàn năm của chúng ta thực ra cũng không phải là an toàn bởi vì chúng ta, cá nhân cũng như cộng đoàn, cũng lại được mời gọi để thực hiện một hành trình sa mạc. Giống như tổ tiên dân Dothái, chúng ta cũng là những kẻ lữ hành trong sa mạc. Chúng ta cũng luôn được mời gọi từ bỏ những lối sống quen cũ của mình, những lối sống không thể giúp chúng ta tồn tại mà chỉ khiến chúng ta đói khát trong sa mạc của cuộc sống hiện đại này. Mùa Chay giúp chúng ta hiểu được những gì khiến chúng ta có thứ cảm giác sai lầm về sự an toàn thì nên bỏ lại phía sau, vì chúng ta đang bước vào một miền đất mới. Phá vỡ những thói quen và lối sống cũ quả là khó khăn và mất thời gian. Nên chúng ta cũng có thể bị cám dỗ chùn bước và trở lại với lối sống cũ. Thế nhưng nếu chúng ta nghiêm túc thực hiện, thì cuộc hành trình, thì Mùa Chay sẽ thực sự đáng giá khi chúng ta thấy được cuộc sống mới ở cuối hành trình, đó là cuộc họp mừng Lễ Phục Sinh của chúng ta.
Chúng ta bỏ lại phía sau thế giới mà ta đã rất quen thuộc và lắng nghe tiếng nói khích lệ chúng ta tiếp tục hành trình, dẫu rất khó khăn. Trong giọng nói ấy chúng ta cũng nghe thấy một lời hứa "Ta là Đấng sẽ ở với ngươi luôn." Đó cũng là lời mà Môisê và Êlia đã nghe và đã đi theo. Tiếng nói ấy cũng phát ra trên đỉnh núi để hướng dẫn các tông đồ và chúng ta, "Đây là Người con ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người."
Ngay sau biến cố này, đức Giêsu cương quyết hướng về Giêrusalem. Trong cuộc hành trình ấy, Người biết thế nào là bị người thân thiết nhất bỏ rơi, kế hoạch của Người thất bại và cuối cùng bị chết tức tưởi trên thập giá. Ngay sau cuộc hành trình sa mạc của Người, Người đã được Thiên Chúa tôn vinh. Cuộc vượt qua của Nguòi đã hoàn tất. Khác với dân Do Thái, đức Giêsu đã trung thành với lời mời gọi của mình, tin tưởng Thiên Chúa và đặt mọi sự trong tay Người. Đó là những gì mà Môisê và Êlia nói với đức Giêsu về những gì Người sẽ "hoàn thành" ở Giêrusalem.
Bên cạnh cách đánh giá của chúng ta, những gì đức Giêsu đã làm trong cuộc đời Người có vẻ như thất bại hơn là hoàn tất. Khi chúng ta nói đến những thành quả vĩ đại thì thường nghĩ đến việc hoàn tất một dự định có ý nghĩa; một việc làm tốt phải được mọi người tán thưởng. Thường thì mọi người hay đề cập đến việc tăng số lượng, ngay cả trong gia đình Giáo hội của chúng ta. Chúng ta quan tâm xem: có bao nhiêu người đến với lớp giáo lý? Cộng đoàn chúng ta có bao nhiêu thành viên? Có bao nhiêu tham dự viên trong chương trình học tập của giáo xứ trong năm nay? Mùa chay này, chúng ta được mời gọi để bước vào một cuộc xuất hành, cả trên bình diện cá nhân lẫn cộng đoàn. Chúng ta xin Thiên Chúa "hoàn tất" những thay đổi mà chúng ta mong muốn.
Khi chúng ta xem xét kỹ lưỡng hiện tại và tương lai của mình, thì thấy những gợi ý mà chúng ta cần thay đổi trong Mùa Chay thánh này. Thánh Phêrô đã cảm thấy hạnh phúc và không muốn thay đổi, nhưng muốn giữ mọi sự yên như thế. Ông sẵn sàng ở lại nơi ông đang ở, thay vì tiếp tục lên đường với đức Giêsu tiến về Giêrusalem. Mùa Chay cũng cho chúng ta cơ hội để làm những việc mà đức Giêsu và các tông đồ đã làm: lánh ra một nơi để cầu nguyện, phản tỉnh và lắng nghe - và rồi tiến đến giai đoạn tiếp theo trên cuộc hành trình của chúng ta.
Cương vị môn đệ đòi hỏi mỗi ngày phải vượt từ cái tôi cũ kỹ của chúng ta đến đời sống mới mà đức Kitô đã mang lại. Biến cố Biến Hình đòi chúng ta phải lắng nghe tiếng nói từ đám mây và lắng nghe xem đức Giêsu muốn chúng ta bước theo Người như thế nào. Chúng ta đều biết việc lắng nghe phải bắt đầu từ sự thinh lặng. Thánh Luca cho chúng ta biết các môn đệ đã đi vào tĩnh lặng. Các ngài cũng giống như chúng ta, trong một trạng thái chạng vạng, nửa tỉnh nửa mê, các ngài nghe thấy cũng có thể đã không nghe. Mùa Chay là thời gian để hành động, nhưng hành động khởi đi từ việc lắng nghe Lời Chúa cách chăm chú hơn - cả Kinh Thánh lẫn nơi những người khác. Chúng ta đang lắng nghe điều gì? Đó là nghe tiếng gọi chúng ta từ tình trạng nô lệ và hướng dẫn chúng ta đến với không gian tự do khỏi tội lỗi.
Tại tiệc Thánh Thể này chúng ta hướng về Thiên Chúa để có sự sống, tin tưởng sâu sắc hơn và cầu xin sự giúp đỡ để giữ thinh lặng; để mở ra không gian lắng nghe Lời Chúa, Lời hướng dẫn chúng đi qua cuộc xuất hành của mình. Một lần nữa, hôm nay chúng ta đặt niềm tín thác vào Đấng đã nói: "Ta là Đấng sẽ ở cùng các ngươi luôn mãi.".
Trong cuộc hành trình rao giảng Nước Trời, Chúa Giêsu đã nhiều lần nói đến sự đau khổ, cái chết và phục sinh của Ngài, nhưng trớ trêu thay ngay các môn đệ là những người thân tín nhất, những người sẽ tiếp nối sứ mạng cứu thế của Ngài lúc đó vẫn chưa hiểu được lời tiên báo của Chúa Giêsu.Tuy nhiên, việc Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabôrê và tiếng Chúa Cha phán: " Đây là Con Ta, người được Ta tuyển chọn.Hãy nghe Ngài ". Lời của Chúa Cha cho biết Chúa Giêsu là Con của Thiên Chúa, hãy nghe lời của Ngài.
Cuộc biến hình trên núi Tabôrê để Phêrô, Giacôbê và Gioan chứng kiến sự vinh quang, sáng láng của Chúa Giêsu, và để một ngày kia trong vườn Cây Dầu cũng chính ba môn đệ này sẽ được thấy Chúa Giêsu hấp hối, mồ hôi và máu chảy ra.Cuộc sống của Chúa Giêsu: đau khổ và vinh quang luôn đan quyện với nhau. Trong cuộc biến hình ở trên núi Tabôrê: Môsê, Êlia và Chúa Giêsu đàm đạo với nhau. Thánh Luca cho biết ba Đấng nói:" Về sự chết của Chúa sẽ thực hiện tại Giêrusalem ".Vinh quang của núi Tabôrê không làm lu mờ cuộc khổ hình của Chúa Giêsu trên núi Calvê. Khuôn mặt sáng láng của Chúa Giêsu, một ngày kia sẽ không còn hình tượng.Áo vinh quang của chúa Giêsu một ngày kia sẽ bị lột trần để quân dữ phân chia nhau. Tiếng Chúa Cha từ trong đám mây: " Đây là con yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người ". Thực tế, đọc Tin Mừng chúng ta nhận thấy có ba lần tiếng Chúa Cha vọng xuống để tôn vinh Chúa Con: Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi tay Gioan Tẩy Giả ở sông Giođan, lúc Ngài khởi đầu sứ vụ công khai, hôm nay trên núi Tabôrê và ngày mai khi sắp bước vào tuần tử nạn. Việc Chúa Giêsu biến hình trên núi nhằm tuyên xưng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Biến cố này cũng nhằm củng cố lòng tin cho các môn đệ. Tuy nhiên, Chúa vừa tiên báo cái chết và phục sinh của Ngài thì các môn đệ đã vấp phạm vì Ngài. Phêrô, người môn đệ thân tín trước đó vừa tuyên xưng:" Thầy là Đấng Kitô, con Thiên Chúa hằng sống ", hôm nay cũng chính Ông đã phản đối mãnh liệt chọn lựa của Chúa Giêsu.Phêrô hầu như không hiểu chút gì về mầu nhiệm thập giá và đã bị Chúa mắng là Satan. Quả thực, đức tin của Ông còn quá non nớt, Ông chưa hiểu thế nào là đau khổ, thế nào là sự chết và vinh quang theo ý của Chúa. Nhưng việc biến hình trên núi thánh hôm nay giúp củng cố lòng tin của ba môn đệ và các môn đệ khác vững tin theo Chúa hơn.
Lời Chúa hôm nay khích lệ mọi Kitô hữu vững lòng đi vào con đường khổ nạn của Chúa Giêsu. Tất cả những ai tin tưởng, cậy trông tìm gặp Chúa, Chúa sẽ tỏ lộ vinh quang của người để thưởng công và củng cố lòng tin của họ như Chúa đã làm đối với ba tông đồ Phêrô, Giacôbê vả Gioan tại núi thánh xưa.
Đi theo Chúa Giêsu trong ơn gọi là sống đức tin và lòng yêu mến, sẵn sàng làm theo ý của Chúa. Đức tin là một cuộc hành trình, một cuộc ra đi đòi hỏi người môn đệ của Chúa phải can đảm vượt thắng và đoạn tuyệt với những tội lỗi, những thói hư tật xấu, những điều đi ngược lại với Tin Mừng. Đức tin đòi hỏi sống theo thánh ý Chúa. Đức tin không phải chỉ sống bằng những lời trên môi miệng. Đức tin là phải biểu lộ ra bằng hành động. Phêrô dạy ta rằng tuyên xưng đúng chưa đủ mà còn phải hành động đúng nữa.
Mùa chay là cơ hội, là dịp thuận tiện để chúng ta sống lòng tin của mình. Mùa chay mời gọi chúng ta sám hối và điều chỉnh lại cuộc sống của mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin tăng thêm lòng tin cho chúng con để chúng biết sống theo thánh ý Chúa.
Giáo Hội là Mẹ Thánh Thiện. Phụng vụ trong Giáo Hội là con đường đưa dẫn mọi thành phần dân Chúa vươn đến đích thánh thiện tuyệt đối. Vì thế, khi khai mạc Mùa Chay Thánh với Thứ Tư Lễ Tro, Giáo Hội nhắc nhớ tôi về thân phận con người phải trở về với tro bụi, và Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay cảnh báo con người phải tỉnh thức trước những cơn cám dỗ để chiến đấu và chiến thắng, thì hôm nay, Chúa nhật thứ hai Mùa Chay, xây dựng cho con cái Giáo Hội một niềm tin, một niềm hy vọng vững chắc về một tương lai phục sinh vinh hiển. Hạt bụi vô danh kia, chút tàn tro bé bỏng ấy, không còn là nỗi ám ảnh kinh hoàng cho thân phận con người nữa, nhưng chính hạt bụi vô danh ấy, chút tàn tro bé nhỏ ấy, là con đường để con người ta biến hình nên sáng láng rực rở trong một thế giới mà không còn cái goi là thời gian chế ngự.
Đức Kitô mặc khải Thần Tính
Suốt những ngày theo chân Đức Ki tô, trong lòng các môn đệ luôn ấp ủ những vinh hoa trần thế. Đức Ki tô là con nguời thật. Vì thế, họ có quyền nghĩ đến một một Vua Ki tô khôi phục lại giang san, và chính họ, sẽ phải hưởng được một phần vinh quang của Ngài. Nhưng không, hôm nay Đức Ki tô đã cho họ thấy tận mắt dung mạo rực rỡ của Ngài là Con Thiên Chúa thật. Hai bản tính trong cùng một con người, trong cùng một thân xác, mà bản tính Thiên Chúa đã làm cho họ ngây ngất và sung sướng đến mức thánh Phêrô phải thốt lên " Lạy Thầy ở đây thì tốt lắm..." mà thánh Luca nhận định là "ông nói mà không biết mình nói gì" (Luc 9,33). Và lúc ấy, chính Thiên Chúa Cha xác nhận :"Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, các ngươi hãy nghe Lời Người" (Luc 9, 35) để cũng cố thêm niềm tin đã được mặc khải.
Nhưng, dung mạo sáng láng ấy chỉ lóe lên một thoáng để xây dựng nơi ba vị tông đồ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan một niềm tin chắc chắn vào Đức Giêsu Ki tô là Con Thiên Chúa thật. Ngài đã không mang dung mạo sáng láng huy hoàng ấy vào công cuộc cứu thế, nhưng ngược lại, Ngài mặc lấy dung mạo của con người thấp hèn nhất, đúng như Thánh Vịnh 30 đã nói : " Tôi trở nên đồ ô nhục đối với những người thù, nên trò cười cho khách lân bang, và mối lo sợ cho người quen biết- gặp tôi ngoài đường, họ tránh xa tôi. Tôi bị người ta quên, không để ý tới, dường như đã chết. Tôi trở nên như cái bình bị vỡ tan." (TV 30, 12-ABC13). Đúng vậy, không lưu lại trên Núi Tabor- nơi Cha Con dạt dào thương mến, không giữ lại sự hiển vinh chói lói- thần tính nguyên sơ của Ngài, Ngài đã đưa các tông đồ xuống núi để đi vào cuộc thương khó vĩ đại nhất, mà cho đến hôm nay, sau hai ngàn năm, không có cuộc thương khó nào, không có đau khổ nào, không có sự trừng phạt nào, không có án tử nào của con người có thể sánh nỗi- cuộc thương khó dẫn đến cái chết của một con người thật-chết thật, tro bụi thật. Nhưng thần tính của Ngôi Vị Thiên Chúa đã phục sinh thân xác hư nát, thành thân xác vinh hiển chói ngời như thân xác mà các tông đồ đã chiêm ngưỡng trên núi Tabor hôm ấy.
Bài học "trở nên đồ vô dụng".
Đức Giêsu Ki tô, Con Thiên Chúa uy quyền đã trở nên thành phần thấp hèn nhất trong thiên hạ, đã chấp nhận trở thành vô dụng, để cho ý định cứu chuộc nhân loại của Thiên Chúa Cha được thực hiện cách hoàn hảo nhất nơi chính "cốt nhục" của Người, Người Con Chí ái. Vì hoàn toàn để cho "Ý Cha thể hiện" nên Ngài đã tuân phục thánh ý Chúa Cha cách triệt để, phó thác hoàn toàn trong tay Cha, Ngài đã trải qua những đau khổ kinh khiếp nhất của đời người, nhờ sức mạnh của sự tuân phục mang tính thần tính là nội lực ở bên trong một thân xác phàm trần yếu đuối, mỏng dòn...
Bài học "trở nên đồ vô dụng" đối với mỗi con người luôn luôn là một bài học khó. Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu biến hình thân xác Người, cho tôi một chìa khóa để có thể tiếp thu bài học ấy. Chỉ có lòng khiêm hạ chấp nhận để cho Thiên Chúa thực hiện ý định của Ngài trong tôi, trong bạn, trong mỗi con người chúng ta, thì chúng ta mới có thể hóa giải thân xác yếu hèn nầy nên thân xác vinh hiển, thân xác phục sinh. Không phải chờ đến lúc da mồi tóc bạc, nằm im bất động trên giường, trả lại cho đời bao nhiêu bằng cấp, bao nhiêu của cải bạc vàng... mới thấy mình là người vô dụng, nhưng phải hiểu là chúng ta đã vô dụng ngay trong mỗi thành công rực rỡ trong đời, vì tất cả đều là sự thể hiện của Thánh Ý Thiên Chúa.
Bài Giáo Lý cuối cùng của đời người Công Giáo: "Tôi tin xác loài người sẽ sống lại"
- Đứng trước thi hài của Mẹ, người con cả thưa với Mẹ: " Mẹ thân yêu của chúng con, chính qua thân xác nầy mà chúng con đón nhận bao nhiêu ơn lộc của Thiên Chúa, ơn được làm người, ơn được biết Thiên Chúa, được làm con cái thiên Chúa... Vì chính thân xác mẹ đã cộng tác với chương trình của Thiên Chúa trên đường thương khó với Chúa Giêsu để yêu thương và phục vụ chúng con hết mình. Chúng con tin, thân xác mẹ sẽ vinh hiển sáng láng trong nước Chúa. Nguyện xin Chúa thương tha các lầm lỗi cho Mẹ, và sớm cho Mẹ phục sinh vinh hiển".
- Một người bạn tôi, Anh Nguyễn Văn Úy, hơn 30 năm tận lực làm ca trưởng ca đoàn Giáo Xứ Hòa Nghĩa, Cam Ranh, đang lâm bệnh nặng, nằm cấp cứu ở Bệnh viện Nha Trang, có thể phải chạy thận để kéo dài sự sống- cách đây vài hôm đã nói với anh em: "Những gì mình đã nỗ lực, đã cống hiến cho Ca đoàn, cho Giáo Xứ, cho gia đình, đều là của Chúa, không có gì của mình cả. Xin Chúa thực hiện tiếp những gì Ngài muốn nơi mình".
- Chúa Giêsu biến hình, là niềm hy vọng của mỗi người công giáo chúng tôi. Nhưng không hẳn thân xác nào cũng "sống lại và sáng láng vinh hiển" như thân xác biến hình của Chúa Giêsu, vì hạnh phúc ấy, chỉ dành cho những thân xác đã hoàn toàn trở nên "vô dụng" cho Thánh Ý Thiên Chúa, thân xác đã "Nghe và thực hiện Lời Thiên Chúa, thân xác đã tan nát dập vùi vì yêu thương và phục vụ như chính Đức Giêsu Yêu Thương-Phục Vụ. Chính niềm tin và niềm hy vọng biến hình, hạt bụi vô danh kia, tàn tro bé bỏng ấy... không còn là nỗi ám ảnh kinh hoàng, để phải thốt lên giai điệu bi thảm "hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi..." (Trịnh Công Sơn)
Lạy Chúa Giêsu biến hình, xin cho chúng con biết quên mình, chấp nhận hy sinh để yêu thương và phục vụ Chúa, phục vụ tha nhân như ý Chúa muốn.
Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu biến hình trước mắt ba tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê. Cũng chính ba tông đồ này là những người sẽ chứng kiến Đức Giêsu biến hình ở vườn dầu: "Ngài kinh hoảng âu sầu". Ở vườn dầu, Đức Giêsu sấp mình xuống đất cầu xin cùng Thiên Chúa Cha để nếu có thể cho Ngài khỏi phải uống chén đắng; còn ở đây, Đức Giêsu hiển dung vinh hiển và Thiên Chúa xác chuẩn Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng tuyển chọn Ngài. Ba tông đồ đã được chứng kiến Ngài hiển dung, để có thể chứng kiến Ngài buồn sầu xao xuyến: "linh hồn thầy buồn sầu đến chết được". Đức Giêsu hiển dung, dấu chỉ cho thấy thân xác con người sẽ được biến đổi trở nên vinh hiển sáng láng, cho dù hiện tại người ta thấy thân xác mong manh mỏng dòn.
Thân xác con người sẽ được biến đổi. Đức Giêsu chết trần trụi trên thập giá và toàn thân Ngài bị biến dạng bởi những vết thương do người ta hành hạ, nhưng khi Ngài phục sinh thì thân xác Ngài trở nên tuyệt vời. Thân xác con người trước phục sinh và sau phục sinh tuy là một nhưng rất khác nhau. Đức Giêsu khi còn tại thế vẫn là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, Đức Giêsu Phục Sinh và Đức Giêsu trước đó vẫn là một tuy dù người ta thấy Ngài rất khác qua biến cố Phục Sinh. Theo niềm tin Kitô hữu, thân xác con người ở dương gian và lúc sống lại vào ngày cánh chung tuy là một nhưng vẫn khác. Theo thánh Phaolô, sống lại là thân xác thần thiêng, khác với thân xác dương thế biến đổi theo thời gian và cái chết (1Co.15, 44)
Con người thật lạ kỳ. Thân xác con người giới hạn và có những nhu cầu rất tự nhiên. Có người sống đời tại thế này chỉ biết lo thỏa mãn những nhu cầu của thân xác, mà quên đi một chiều kích siêu việt của con người. Khi chỉ thỏa mãn những nhu cầu vật chất, con người trở nên ích kỷ nhỏ nhen, không đạt được hạnh phúc thật ở trần gian này. Nếu người giầu chỉ biết lo tìm tiền bạc mà không chú trọng đến những nhu cầu tinh thần của mình và của những người thân của mình, thì họ không thể hạnh phúc thật. Con người có liên đới với người thân, với gia đình cha mẹ anh chị em họ hàng, và đặc biệt với con cái. Nếu không lo cho con cái triển nở, nếu không biết giáo dục con cái, con người sẽ không thể hạnh phúc được cho dù họ có tiền bạc dư giả, cho dù họ có địa vị chức quyền.
Phaolô đã có một thời bắt bớ những người tin vào Đức Giêsu Kitô, nhưng bây giờ ông đã miệt mài rao giảng Đức Giêsu Phục Sinh. Chính niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh đã làm Phaolô bình an hạnh phúc hơn. Phaolô đã tìm ra con đường hạnh phúc thật. Bây giờ, niềm vui niềm tự hào của ông là Thiên Chúa và những người thuộc về Ngài. Tuy rằng con người có thể thay đổi lòng dạ nhưng vì tin vào Thiên Chúa nên Phaolô vẫn an lòng. Trừ phi Thiên Chúa thất bại, còn không Phaolô luôn chiến thắng, vì Phaolô chọn những gì Thiên Chúa chọn. Cho dù ngay cả những lúc Phaolô cảm thấy rơi lệ khi thấy những con cái ngài đã thay lòng đổi dạ, đã chọn thực tại trần gian trên hết: "Chúa của họ là cái bụng", thì Phaolô vẫn hy vọng họ sẽ trở lại với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Đấng trung tín. Thiên Chúa vẫn kiên trì đến với con người, và sẽ làm con người trở lại với Ngài.
Qua những chọn lựa của mình trước những thực tại trần gian mà con người hình thành chính mình. Phaolô đã là một con người khác qua biến cố té ngựa trên đường đi Damas. Phaolô đã hình thành chính mình trong suốt đời ngài. Mỗi người trong chọn lựa sống của mình, làm mình trở thành người tuyệt vời hay chỉ giống con vật, trở nên con cái Thiên Chúa hay trở nên con cái ma quỷ. Qua hành vi yêu thương mà con người ra khác và trở thành tuyệt vời hơn. Con người không chỉ chờ đến ngày Phục Sinh mới được biến đổi, nhưng mỗi người cũng đã đang biến đổi ngang qua chọn lựa sống từng ngày.
Con người vui mừng, vì Thiên Chúa đã yêu thương và cứu độ con người qua Đức Giêsu. Thiên Chúa đã và đang làm tất cả qua Đức Giêsu Kitô. Ngày xưa Thiên Chúa ký kết giao ước với Abraham, ngày nay giao ước mới đã được ký kết với con người bằng máu Đức Giêsu Kitô. Máu Đức Giêsu là dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương con người. Làm sao không vui khi biết Thiên Chúa yêu thương mình như yêu chính Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô (Ga.17, 23)?!
Thiên Chúa đã ký kết giao ước với Abraham. Thiên Chúa ký kết giao ước với con người vì con người chứ không phải vì Thiên Chúa. Thiên Chúa không cần giao ước vì Ngài luôn chân thật và thành tín. Thiên Chúa luôn trung thành, không bao giờ Ngài phản bội. Chỉ có con người mới bất trung và hay thay đổi, vì vậy mới cần giao ước. Thiên Chúa đã thề hứa với con người, để con người được biết tình yêu của Ngài đối với con người, để con người có thể sống an bình hạnh phúc vì mình được Chúa Tể hoàn vũ thương yêu.
Thiên Chúa đã đặt nơi Abraham ước vọng có con cháu nối dòng, và chính Thiên Chúa cũng là Đấng hứa ban cho ông con cháu đông như sao trên trời như cát bãi biển. Thiên Chúa cũng là Đấng giao ước với ông, để ông thuộc về Thiên Chúa, để Thiên Chúa lo cho ông. Thiên Chúa vẫn luôn ở với con người, giúp con người đi tìm chính Ngài, làm con người thuộc về Ngài trong suốt quá trình sống. Thiên Chúa là tình yêu, Ngài đang làm con người sống trong tình yêu và thuộc về tình yêu. Chính khi con người sống trong tình yêu và làm tất cả vì tình yêu, thì con người được hạnh phúc, vì lúc đó con người nên giống Thiên Chúa.
Ba câu văn trước bài đọc một hôm nay thuật lại chuyện trao đổi giữa Thiên Chúa và Abraham, trong đó Chúa đoan hứa cho ông và vợ là bà Sarah một dòng dõi đông hơn sao trên trời, cát dưới biển. Abraham thưa lại là ông không có hy vọng vì cả hai đã già cả và không con. Nhưng Kinh Thánh nói Abraham tin lời Thiên Chúa và được kể là người công chính. Từ lúc ấy, Abraham là mẫu mực cho kẻ tin. Tuy nhiên, xin lưu ý Abraham không đi bước trước trong lời hứa. Đức tin không phải là lý do để được Thiên Chúa ưu ái. Chính Thiên Chúa ưu ái và chọn vợ chồng ông, ban cho ông lời hứa có con cháu nối dòng; là do lòng tốt của Ngài. Ngài tự do thương yêu và ban ơn. Ngài đi bước trước trong tình yêu và ơn lành, trong khi chúng ta kéo lê gót trong đức tin. Xin nhớ bài học này về lòng tốt của Thiên Chúa. Đừng vô ơn tệ bạc "kể công" trước mặt Thiên Chúa mà mau mắn đáp lại lòng tốt của Ngài như cụ tổ Abraham. Chúng ta thường giống như những kẻ mộng du trước mặt Chúa. Cần phải tỉnh lại và ghi nhận tình yêu liên tục của Ngài ban xuống trên cuộc sống mình.
Sự thật là đức tin của Abraham được tỉnh ngộ vì sự kiên trì của Thiên Chúa. Ngài nhấn mạnh với ông về tình bạn của Ngài. Trăng sao trên trời là dấu chỉ lòng hào hiệp của tình bạn ấy. Con cháu ông sẽ đông đúc, bất chấp tuổi già và sức khoẻ suy yếu của hai ông bà. Abraham đã đầu hàng Thiên Chúa và hết lòng trông cậy vào quyền năng Ngài. Kinh Thánh nói ông ngay chính trước mặt Ngài và Ngài kể ông là người công chính. Đức công chính của Abraham là do Thiên Chúa mặc cho. Chúng ta đừng vênh vang kiêu ngạo về "công nghiệp" của mình. Nó chẳng là chi trước mặt Chúa. Pharisêu tân thời còn đông đảo hơn Pharisêu Dothái hơn hai ngàn năm trước. Vì giả dụ như chúng ta được yêu cầu bày tỏ đức tin của mình, chúng ta sẽ đưa ra một danh sách dài những điều kiện. Đức tin của Abraham chỉ đơn giản ăn rễ sâu vào quan hệ bạn bè giữa Thiên Chúa và ông. Ong đơn sơ tin vào lời Chúa hứa ban cho một dòng giống mặc dù hoàn cảnh là vô vọng. Abraham thực hiên đúng điều mà Thiên Chúa đòi hỏi những kẻ tin kính Ngài, không nghi nan, không kênh kiệu, không yêu sách nọ kia. Ong tin chắc chắn Thiên Chúa sẽ thực hiện lời Ngài. Nhưng liệu có bằng cớ nào để ông tin không? Chẳng có, cụ thể và lập tức. Chỉ một lời hứa suông và Thiên Chúa đã làm giao ước với Abraham. Giao ước có một chiều, Abraham không phải tuân giữ.
Có lẽ nhiều người trong chúng ta nhún vai khinh dể cái giao ước kỳ quặc ấy, theo thói tục mông muội thời xa xưa. Người ta lập giao ước bằng cách xẻ đôi các xúc vật, rồi hai bên đi qua giữa các xúc vật đó. Thế là xong một nghi lễ ký giao kèo. Đêm xuống dần trên cánh đồng hoang vắng, Abraham rơi vào giấc ngủ sâu. Kinh Thánh mô tả: "Lúc mặt trời đã lặn, thì một giấc ngủ mê mệt ập xuống trên ông Abraham, một nỗi kinh hoàng, một bóng đêm dày đặc bỗng ập xuống trên ông." Chúng ta đứng trước một màu nhiệm ở đây, mà không thể hiểu được, cũng như hàng ngàn màu nhiệm xảy ra trong cuộc đời mình. Một lò lửa nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi vượt qua các con vật đã bị xẻ đôi. Hình ảnh này biểu tượng sự hiện diện của Thiên Chúa.
Nhưng còn sự tham dự của ông Abraham, đúng hơn của loài người? Chỉ đứng ngó mà không có vai trò tích cực nào trong việc lập giao ước. Chúng ta thì sao? Cũng không luôn, vì nếu có, chúng ta đã bị xẻ đôi nhiều lần vì vi phạm giao ước. Một mình Thiên Chúa đi qua các nửa xúc vật. Câu chuyện này còn được nhắc lại trong lịch sử loài người. Thiên Chúa hành động trước trong những sự trao đổi siêu nhiên giữa Thiên Chúa và chúng ta. Thiên Chúa không hề đặt Abraham vào thử thách rồi thưởng công cho ông bằng cách lập giao ước với ông. Chỉ sau này ông đã nhận lời hứa, lúc ấy Thiên Chúa mới thử thách lòng trung tín của ông. Còn lúc này, Ngài đi bước trước và mời gọi chúng ta đáp trả. Điều này Abraham đã làm và chúng ta cũng được mời gọi noi gương, bắt chước. Bằng chứng nào ông dựa vào để tin cậy khi tương lai trở nên khó khăn? Liệu ông có một bửu bối để đối phó với các khó khăn trên bước đường lang thang? Không, ông không có chi cả, và chúng ta cũng không hơn. Ong chỉ có lời hứa của Thiên Chúa và chúng ta cũng chỉ được Chúa Giêsu trấn an 365 lần: "Đừng sợ". Vậy thì giống như Abraham và Sarah, chúng ta cần lắng nghe và tin tưởng vào Chúa. Đó là dự phần của loài người vào giao ước.
Đó cũng là điều mà trên núi biến hình hôm nay, các môn đệ được nghe tiếng nói từ trời: "Đây là con ta, Người đã được ta tuyển chọn, hãy lắng nghe lời Người". Cuộc sống của Chúa Giêsu, những lời Người nói, những việc Người làm là lời Thiên Chúa để chúng ta đặt đức tin vào. Chúng ta phải mở to hai tai, ngắm thẳng đôi mắt, mở rộng tấm lòng để đón nhận và đáp trả. Chúng ta phải lắng nghe Chúa Giêsu và đem ra thực hành, đừng nên có thái độ giả hình mà mắc tội với Đức Chúa Trời. Sự kiện Tabor cũng có bầu khí màu nhiệm như trường hợp của Abraham trên cánh đồng Manbré. Các môn đệ, các tổ phụ, các Pharisêu và cả chúng ta nữa cũng đang mê ngủ. Mọi người phải thức dậy trước tôn nhan Thiên Chúa.
Chúng ta đang ở trong mùa chay, là mùa đáng lý phải tỉnh thức. Thoáng nhìn xem ra chúng ta không mê ngủ, trái lại rất tỉnh táo. Những đòi hỏi của thế giới văn minh không cho phép chúng ta thiếp ngủ. Chúng ta phải làm việc liên tục để có khả năng mua xe hơi, nhà lầu, tiện nghi cá nhân và gia đình, tivi, radio, di động hiện đại, biết bao nhiêu nhu cầu của cộng đoàn, Giáo Hội. Ngoài xã hội, nhu cầu càng bề bộn hơn: bạn bè, hàng xóm làng giềng, đồng nghiệp, hẹn hò chật kín cả thời gian. Ai có thời gian rảnh rỗi mà bảo là mê ngủ? Nhưng suy nghĩ sâu xa hơn thì đúng là như vậy. Những thói quen, những nếp sống dư dật, nhung lụa khiến chúng ta ngủ vùi trong xác thịt, ít có thời gian cho đời sống thiêng liêng. Năm thì mười hoạ mới ghé qua thánh đường lấy lệ cho yên ổn lương tâm. Thử hỏi như vậy có phải là ngủ vùi? Là mộng du như các tông đồ trên ngọn núi Tabor hay trong vườn cây Dầu? Cho nên chúng ta cần tỉnh thức trong mùa chay này, suy nghĩ về những nội dung thiêng liêng, bớt vui chơi đình đám, thực hành khổ chế để có khả năng cầu nguyện. Đời sống thừa mứa thì còn thiếu thốn chi mà cầu xin? Có đọc kinh nguyên gẫm thì bất quá môi miệng... Người ta thường nói bây giờ bận rộn quá, đời sống chật ních cả (life is full) nhưng thực tế tinh thần chúng ta giống như Abraham trong giấc điệp nặng nề, hay như các tông đồ trên núi Tabor.
Trước trình thuật biến hình hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Ngài về cuộc khổ nạn tại Giêrusalem (9, 18-22), Phêrô vừa tuyên xưng Chúa là Đấng Thiên Sai, con Thiên Chúa Hằng Sống, nhưng ông chẳng hiểu Chúa sẽ thực hiên vai trò đó ra sao? Ong chỉ mù mờ tưởng tượng theo ý niệm chung của cả dân tộc, đấng Thiên sai phải giống như vua Đavít, quyền uy mạnh mẽ, chinh đông phạt tây, giải phóng dân tộc một cách vẻ vang và lên ngôi hiển trị. Chúa Giêsu không đi theo lối đó, mà là bị chống đối, hiểu lầm, loại bỏ và khổ đau cho đến chết nhục nhã trên thập tự. Ngài kêu gọi các môn đệ đi theo lối bước của mình: "Hãy theo ta" (9, 23). Chẳng lẽ Lời Chúa là nói suông cho vui sao? Đa số pharisêu tân thời cho là như vậy. Bởi vì họ chạy theo thành công, vinh quang, tiện nghi và loại trừ những bất tiện, khổ chế. Nhưng quên rằng chuyện biến hình xảy ra ngay sau các lời Chúa tuyên bố về khổ nạn và tiếng từ trời xác nhận chân lý: "Các ngươi hãy nghe lời Người". Đúng là "No cross, no crown" (không có thánh giá thì chẳng bao giờ có triều thiên).
Chúa sẽ chỉ cho họ hay ý nghĩa thực sự của từ 'thiên sai' và những hệ luỵ của nó, các tông đồ phải chú ý lắng nghe. Muốn được vậy thì cần tỉnh thức, ăn uống say xưa chè chén, ham mê xác thịt thì làm sao tỉnh thức nổi? Cho nên các tông đồ tiếp tục hiểu lầm và sợ hãi. Các ông sẽ xuống núi và mộng mị của các ông cũng phải xuống núi. Chúa Giêsu sẽ gặp nhiều chống đối, khước từ hơn khi thầy trò tiến gần đến Giêrusalem. Thậm chí Chúa phải vào hoang địa rao giảng, vì người ở thành thị chẳng thèm nghe nữa. Vậy thì chúng ta nên nhớ lại lời từ trời cao "Hãy lắng nghe lời Ngài" mà giúp đỡ chính mình. Chúng ta cần lằng nghe lời đó để có khả năng chống lại cám dỗ ồn ào của thế gian. Thực chất vô số môn đệ Chúa đã ngã gục, ý thức hay không ý thức. Họ đã lãng quyên kinh nghiệm trên núi khi xem thấy vinh quang của Ngài. Họ ưa chuộng vinh quang satan nhiều hơn. Đúng họ là những kẻ đãng trí hoặc đã mất trí khôn (amnesiacs).
Làm môn đệ Chúa, bắt buộc phải nhớ Đấng mình dõi theo. Sự kiện thay đổi hình dạng của Chúa không phải là ngẫu nhiên, nhưng là chủ ý rõ ràng của Chúa Giêsu để gây ấn tượng mạnh cho các tông đồ. Nó báo trước cuộc sống lại. Cho nên ta phải nhớ chính Đấng phục sinh đang hành động và nói trong cuộc đời mỗi người chúng ta: "No cross, no crown". Suốt mùa chay này, chúng ta phải lắng nghe lời Ngài qua ăn chay, cầu nguyện, suy gẫm và nhất là bí tích thánh thể. Đúng là rất khó khăn trong hoàn cảnh rối beng của thế giới hôm nay, người ta xô đẩy chúng ta, bắt ép chúng ta hãy quên nghe theo Chúa. Nhưng lòng muốn và trí tuệ của chúng ta luôn được tự do.
Cho nên thánh Luca nhấn mạnh việc cầu nguyện của Chúa Giêsu hơn các Phúc Âm khác. Chúa cầu nguyện trong các tình huống quan trọng và trước các chọn lựa dứt khoát. Ngoài ra Luca còn kể Chúa quen lánh ra chỗ thanh vắng để cầu nguyện. Biến cố thay đổi hình dạng cũng xảy ra lúc Ngài cầu nguyện. Thánh nhân muốn cho chúng ta hay, qua cầu nguyện, Chúa Giêsu đã mở tâm hồn ra cùng Thiên Chúa và sứ vụ của Ngài. Ngược lại các tông đồ khi xưa và chúng ta hôm nay, ngủ vùi trên ngọn núi tiện nghi, danh vọng thì làm thế nào noi gương Chúa. Chẳng lẽ chúng ta chỉ môi miệng? Chúng ta phải tỉnh thức luôn đối với sự hiện diện của Chúa Cha và với sứ mệnh Ngài trao. Cầu nguyện là phương thế hữu hiệu nhất để làm tròn nhiệm vụ mùa chay. Nhưng cầu nguyện đòi hỏi khổ chế vì thế Kinh Thánh nói ăn chay cầu nguyện. Không ăn chay, chẳng thể cầu nguyện hữu hiệu được. Chẳng phải Thiên Chúa chỉ nhắn nhủ các môn đệ ngày xưa hãy lằng nghe Chúa Giêsu. Ngày nay chúng ta cũng phải lắng nghe như vậy trong cuộc sống mình. Không ăn chay, không cầu nguyện thì làm thế nào lắng nghe tiếng Chúa? Vậy sự kiện Chúa biến hình thúc giục chúng ta trả lời: "Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe!"
Leo núi là một môn thể thao nhiều người ưa thích. Tôi không đựơc hưởng kinh nghiệm ấy, vì tôi vốn sợ chiều cao. Tôi có biết nhiều thể thao gia đã chết trên đỉnh núi, vậy núi cũng có nguy hiểm. Mặc dù nhiều sự kiện Kinh Thánh xảy ra trên đỉnh núi. Tuyển dân đã gặp gỡ Thiên Chúa trên đỉnh núi và Chúa nói với họ cũng ở đó. Nhưng núi cũng đe doạ đời sống con người. Trong Chúa Kitô, chúng ta có kinh nghiệm đính núi, qua Ngài chúng ta cũng gặp gỡ Thiên Chúa. Nhưng núi cũng là nơi đầy đe doạ, bởi vì gặp gỡ Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải thay đổi nếp sống, từ bỏ những an toàn vật chất để đổi lấy liều lĩnh trong ơn Chúa. Nếu chúng ta thành thực "lắng nghe Ngài", nhất định sẽ gặp nhiều cái chết lớn nhỏ trong cuộc sống mình. liệu chúng ta có đủ can đảm mà lựa chọn? Lắng nghe lời Ngài chắc chắn sẽ gặp nhiều chống đối, tầy chay, từ chối của thế gian. Lời lẽ an toàn của họ là giàu sang, quyền lực và sung sướng xác thịt, những thứ mà kẻ lắng nghe Chúa phải từ bỏ. Lắng nghe Chúa là vác lấy thập giá hàng ngày mà bước theo Ngài; No cross, no crown.
Abraham và Sarah trên bước đường lưu lạc, lang thang đó đây trong gian truân nhọc nhằn chẳng có lá bùa hộ mệnh nào ngoài lời hứa của Thiên Chúa. Còn chúng ta có chi? Chúng ta chỉ có Chúa Giêsu như giao ước với Thiên Chúa, giao ước minh chứng Thiên Chúa chẳng bao giờ bỏ rơi một linh hồn nào. Vậy trong mùa chay này chúng ta làm chi? Xin hãy cố gắng tìm ra một đường lối nào đó, nơi chốn nào đó để lắng nghe Chúa Giêsu và thực hành những điều Chúa dạy bảo vì tiếng từ trời vẫn hằng nói với nhân loại rằng: "Đây là Người con ta yêu dấu, hãy lắng nghe lời Ngài". Ước chi mùa chay này sẽ không ra vô ích đối với mỗi linh hồn tín hữu. Amen
1/ Trong cuộc sống khi làm bất cứ việc gì cũng đòi hỏi một sự đầu tư tương xứng. Muốn làm một ngôi nhà đẹp và hiện đại, thì đòi hỏi đầu tư tiền của thật nhiều, thời gian xây dựng cũng không phài là ít, về phương diện mỹ thuật cũng không quá xơ xài. Hay trong lãnh vực tinh thần: Một người nam muốn đi tu làm linh mục cũng phải trải qua thời gian tu học thật chu đáo trong môi trường đào tạo, thật nghiêm túc đối với bản thân. Đến khi tuyển chọn để phong chức linh mục khách quan phải có sự đánh giá rất nghiêm túc của bề trên, của những vị có trách nhiệm về cách sống của ứng viên qua quá trình tu học, cũng như thời gian thực tập mục vụ...
Như vậy dầu trong lãnh vực tinh thần hay vật chất, nếu ta không đầu tư cho công việc cách chính trực và chính đáng thì sẽ không thu lợi, nhưng đó là điều bất lợi cho cá nhân và tập thể, cuối cùng sẽ gây nên tai hại khó lường.
2/ Cuộc đời của Đức Giêsu Kitô trong tư cách là con người, Chúa cũng đi theo quy luật trên. Khi chiêm ngắm sự kiện Chúa biến hình trên núi Tabor, đó là câu trả lời cho chúng ta biết trước sự kiện Chúa hiển dung là kết quả công trình đầu tư của Đức Giêsu. " Đang khi Chúa cầu nguyện dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà"(Lc 9,29). Đây là hình ảnh báo trước về cuộc phục sinh siêu tôn của Chúa. Thế nhưng để đi đến con đường vinh quang phục sinh, trước hết Chúa phải trải qua con đường đau khổ, đường thập giá, cuối cùng là cái chết. Vì tám ngày trước khi Chúa biến hình, Chúa đã báo trước cho các tông đồ biết là Ngài" phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy"(Lc 9,22).
Như vậy đường phục sinh vinh hiển mà Chúa đến đó không phải là con đường rộng dễ đi, nhưng là con đường phiêu lưu với nhiều khó khăn và đau khổ. Hơn nữa đó không phải là con đường để Chúa thể hiện sức mạnh bằng cuộc chiến đấu tranh giành theo kiểu trần thế, nhưng là con đường Chúa hạ mình nhận lấy phần xấu nhất của loài người qua việc đón nhận thập giá và chết trên thập giá. Con đường này là con đường Chúa Giêsu đầu tư theo Thánh ý Chúa Cha khi cứu độ loài người. Công trình ấy còn rất quan trọng cho con người, vì có liên quan đến sự sống vĩnh cửu của con người.
3/ Thông thường ai trong chúng ta cũng muốn sống và sợ chết. Riêng đối với sự sống vĩnh cửu thì chúng ta lại càng mong muốn hơn. Thế nhưng muốn được sống hạnh phúc vĩnh cửu, chúng ta hãy can đảm đầu tư cho sự sống cao quý ấy ngay từ bây giờ. Phải hy sinh từ bỏ ý riêng để chấp nhận ý Chúa, chấp nhận thập giá và chết trên thập giá. Đây như là một kiểu nói rất quen thuộc đối với chúng ta, bên cạnh đó vẫn còn rất xa với hành đông đáp trả của chúng ta. Lý do đa số chúng ta chưa cảm nghiệm đầy đủ về chiều sâu, chiều rộng, chiều cao của thập giá Chúa Giêsu. Hay phần nhiều chúng ta còn rất mơ hồ về ý nghĩa thập giá của Chúa trong đời sống của mình. Từ đó chúng ta rất xa lạ với thập giá, rất sợ đón nhận thập giá. Khi càng xa lạ và càng loại trừ thập giá ra khỏi đời sống, chắc chắn công trình đầu tư cho đời sống vĩnh cửu của chúng ta sẽ kém chất lượng, nó giống như "người ngu dại xây nhà trên cát, gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành"(Mt 7, 26-27).
4/ Người ta kể một câu chuyện tưởng tượng nhưng mang một ý nghĩa sâu sắc:
Một đoàn người bước theo Chúa Giêsu với thập giá trên vai. Chúa Giêsu dẫn đầu cũng mang thập giá mà Ngài đã vác hôm xưa trên đường núi sọ. Trong đoàn, có một chàng thanh niên kéo lê thập giá của mình một cách mệt mỏi. Miệng anh luôn kêu trách phàn nàn vì nghĩ rằng thập giá anh nặng hơn và dài hơn của những người khác. Chẳng mấy chốc anh là người kéo lê cuối đoàn. Cuối cùng anh quyết định dừng lại và cưa bớt thập giá của anh một đoạn để có thể nhẹ nhàng bắt kịp những người đi trước. Khi đoàn đến cuối đường thì gặp một hố sâu. Chúa Giêsu bảo: Bây giờ mỗi người hãy đặt thập giá mình ngang qua miệng hố làm cầu và tiến vào thiên đàng. Chúa Giêsu đặt thánh giá của ngài xuống và bước ngang qua, những người khác cũng đều làm theo, lạ lùng thay, thập giá cỡ nào cũng vừa khoảng cách hai bờ miệng hố, tất cả mọi người theo Chúa Giêsu đều vào thiên đàng, ngoại trừ anh chàng kia, vì anh cưa ngắn một đoạn thập giá nên anh không được vào thiên đàng.
Câu chuyện trên như muốn dạy chúng ta bài học: Khi càng tạo thập giá theo ý mình thì chúng ta sẽ loại trừ thập giá của Chúa ra khỏi đời ta. Vì Chúa muốn chúng ta vác thập giá theo ý Chúa chứ không phải theo ý ta. Hơn nữa khi càng xa thập giá của Chúa trong đời sống thì con đường hạnh phúc mai sau sẽ rất xa lạ đối với chúng ta. Ngược lại khi chấp nhận vác thập giá theo ý Chúa, thì mỗi ngày chúng ta sẽ trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Khi đời ta luôn gắn bó với thập giá của Chúa thì đó là dấu hiệu chúng ta đang gắn bó với hạnh phúc sau này.
Mẹ Maria là người rất có kinh nghiệm về việc vác thập giá trong đời. Xin Mẹ giúp chúng ta ngay từ bây giờ biết làm quen với thập giá của Đức Giêsu, biết vui lòng đón nhận thập giá của Đức Giêsu. Vì muốn vươn đến cuộc sống toàn thiện mai sau, điều cơ bản chúng ta phải từ bỏ tất cả để vác thập giá theo Đức Giêsu. Đây chính là cuộc đầu tư chính xác nhất cho sự sống vĩnh cửu trên thiên đàng. Vì qua sẽ đau khổ đến vinh quang.
« Thật phi thường ! Quá trời ! Không thể tưởng tượng được ! Số dách ! Số một ! Kinh khủng ! Hạng nhất ! » và còn bao nhiêu danh từ kỳ cục khác, nếu không nói là nhiều khi còn vô nghĩa nữa, mà chúng ta đã xử dụng khi phải diễn tả một sự kiện ngoại thường mà chúng ta chưa tìm ra được những danh từ và những ý niệm thích hợp. Ðó là những sự kiện hay biến cố điển hình đã làm cho chúng ta quá sung sướng và ngạc nhiên, những sự kiện và biến cố cực kỳ lạ thường, độc nhất vô nhị và không sao diễn tả hết ! Và trong hoàn cảnh đó, chúng ta thường nói : « Tôi không có đủ lời để nói; nó làm cho tôi hết đổi sững sờ và không sao nói lên lời; thật không sao diễn tả hết ! »
Các môn đệ xưa kia cũng đã từng đứng trước những trường hợp kỳ lạ tương tự. Bởi vì Ðức Giêsu đã làm những việc « có một không hai », như : Người làm cho bệnh nhân nan y lành mạnh, mở mắt người mù, cho người chết sống lại, v.v... Nhiều người sau khi gặp gỡ và nói chuyện với Người đã cảm thấy được giải thoát, cảm thấy lòng mình thơ thới nhẹ nhàng, đầy vui mừng. Họ trở nên lạc quan và như được biến đổi hoàn toàn. Vì thế, xưa kia các môn đệ chắc chắn cũng đã tự hỏi : « Làm thế nào mà Người có thể hành động được như vậy, là thay đổi được bao nhiêu người khác và cả chính chúng tôi nữa ? »
Những điều được tường thuật trong bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, đã giúp cho các môn đệ - ít là từ từ - hiểu được Ðức Giêsu cách sâu xa và rõ ràng hơn.
Biến cố Chúa biến hình trên núi Tabor là một trong những biến cố đặc biệt, và đã trở nên như một ngôi sao sáng cho các môn đệ trong đêm tối của những gian nan thử thách. Thế nhưng biến cố Tabor đối với các môn đệ vào lúc bấy giờ còn là một điều xa lạ, không trực tiếp liên quan đến họ. Họ chỉ nhìn thấy được trong biến cố đó sự quan hệ của Ðức Giêsu với Thiên Chúa, Cha của Người, trong sự vinh quang thần thiêng, chứ họ chưa cảm nhận được rằng biến cố đó xảy ra là vì họ. Chẳng những thế, họ còn tỏ ra rối rắm và mất hết tự chủ. Bởi vì một biến cố như thế không nằm trong khả năng hiểu biết về đức tin, cũng như không thuộc về phạm vi thực hành đức tin của họ. Họ cảm thấy mình là những người ngoại cuộc ! Cũng vì thế họ đã ngủ gật, tương tự như sau đó ít lâu tại Vườn Cây Dầu : Trong khi Ðức Giêsu đầy lo âu sợ hãi trước cuộc khổ nạn, đến đổ mồ hôi máu ra, thì các môn đệ vẫn dửng dưng và ngồi ngủ gật !
Chỉ sau đó khá lâu, các ông mới khám phá ra được ý nghĩa quan trọng của biến cố Tabor. Ðó là lúc các ông cảm nhận và hiểu rõ được cuộc khổ nạn vả sự vinh hiển trong biến cố phục sinh của Ðức Giêsu. Bấy giờ lòng trí các ông mở ra và hiểu được những gì mà các ông đã từng cảm nhận và từng chứng kiến phần nào trong cuộc sống trần thế của Ðức Giêsu. Nhất là họ hiểu được một cách sâu xa đầy đủ, tại sao họ cần phải lắng nghe các giáo huấn của Ðức Giêsu và chiêm ngưỡng cuộc đời của Người. Bởi vì đã có tiếng từ trời bảo họ : « Các ngươi hãy vâng nghe lời Người ! »
Dĩ nhiên đối với Phêrô, Gioan và Giacôbê : Biến cố trên núi Tabor là một hiện tượng có một không hai. Ðó là một biến cố không ai có thể áp đặt hay tạo ra được. Ðối với ba ông, đó là một điều ngoại lệ. Ðể hiểu được như vậy, đòi hỏi người ta phải có tâm hồn cởi mở và thuần phục. Nếu không, người ta sẽ nói ngay : « Ðiều đó chẳng có gì liên quan tới tôi cả ! Tôi chẳng có ý kiến gì về chuyện đó cả ! » Những biến cố đặc biệt và độc nhất vô nhị trên núi Tabor, ngày nay cũng vẫn còn xảy ra trong nhiều lãnh vực - thuộc tôn giáo cũng như dân sự -, thí dụ :
Những ai khi đi vào trong rừng rậm xa lạ, mà vẫn tìm ra lối đi, chứ không bị lạc đường, sẽ cảm thấy sung sướng.
Một nhà thể thao sau khi đã đạt được những thành công vàng son của mình, anh sẽ bày tỏ cho người khác hay sự hạnh phúc của mình. Và anh càng được động viên trong những nỗ lực mới.
Khi một người nhận được sự thông cảm và tha thứ mà anh không dám chờ đợi. Phải chăng đó không phải là một sự kiện quan trọng đáng mừng?
Hay khi một người có được một cảm nghiệm ngọt ngào và đầy an ùi trong khi cầu nguyện, mà người đó không hề dám nghĩ tới. Ðiều đó chắc chắn sẽ giúp anh ta rất nhiều trong việc tiếp tục trông cậy vào Thiên Chúa hay lại có được sự phó thác vào Thiên Chúa, v.v...
Vâng, đức tin của chúng ta sống nhờ những cảm nghiệm đặc biệt và cả những cảm nghiệm bình thường hằng ngày. Trong cuộc sống cụ thể, nhiều khi chúng ta cảm thấy lòng đầy sốt sắng và hạnh phúc trong việc đọc kinh xem lễ, và chúng ta rất vui mừng khi tiếp xúc với cộng đồng dân Chúa. Thế nhưng, thường tình thì chúng ta lại phải đối mặt với cuộc sống vật lộn hằng ngày.
Ðúng vậy, Ðức Giêsu không để các môn đệ ở lại trên « núi Tabor của những an ủi » lâu, ngay sau đó Người đã dẫn họ trở lại với cuộc sống thường nhật của họ. Người không để họ xây dựng những căn lều trên núi Tabor, nhưng ở dưới thung lủng của cuộc sống đức tin hằng ngày với bao những thử thách. Vâng, cuộc sống hằng ngày phải thực sự là nơi các môn đệ vâng nghe Ðức Giêsu, là nơi họ phải hướng nhìn lên Người, và là nơi họ phải bước theo Người.
Tuy nhiên, biến cố trên núi Tabor vẫn luôn ghi đậm trong ký ức của các môn đệ. Nó là một điểm tựa, là một trợ lực cho đức tin của họ trong suốt tiến trình theo Ðức Giêsu. Cũng vậy, trong cuộc sống đức tin, trong cuộc sống đạo hằng ngày, chúng ta cần có ơn an ủi đỡ nâng của Thiên chúa, để chúng ta có thêm sức mạnh chống chọi với các thách đố của cuộc sống, nhưng chính chúng ta phải tự ra tay chiến đấu lấy. Và để cuộc chiến đấu đức tin đạt được thắng lợi, chúng ta phải thực hành theo lời khuyên đến từ trời cao : « Các ngươi hãy vâng nghe lời Người ! » Amen
Đêm năm xưa, Chúa Giêsu và ba môn đệ thân tín nhất là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Và nếu, câu chuyện chỉ dừng lại ở đó thì chẳng phải nói ra làm gì. Ở đây, Tin Mừng cho thấy khi Chúa cầu nguyện, nói chuyện thân mật với Chúa Cha, các môn đệ lại mê mệt trong giấc ngủ say, các ông không còn biết gì nữa, tỉnh dậy các ông thấy Chúa Giêsu vinh quang chói lòa, có Môisê và Êlia đàm đạo với Người cũng vinh quang sáng ngời., dọi sáng, thì Phêrô đã nhanh nhảu thưa với Chúa Giêsu:" Thưa Thầy, chúng con ở đây thì hay quá..."( Lc 9, 33 ).
Cái lạ lùng vẫn là khi Chúa đang thân mật thưa chuyện với Cha của Người, ba môn đệ ngủ vùi, ngủ say,thì Chúa biến hình "diện mạo Ngài đổi khác thường" " áo Ngài trắng tinh sáng láng", có Môisen và Êlia xuất hiện, trò chuyện với Chúa Giêsu. Hai ngôn sứ Môisen và Êlia đã chứng kiến vinh quang của Thiên Chúa trên núi Horeb và Sinai. Chúa Giêsu và hai ngôn sứ đề cập về sự chết của Chúa sẽ thực hiện tại Giêrusalem. Chúa đến trần gian để đem lại hạnh phúc, niềm vui và ơn cứu độ cho mọi người. Ngài là chiên hy tế, là Chiên Con bị sát tế để cứu rỗi con người. Ao chói lọi của Người sẽ bị quân dữ lột trần ngày Ngài bị kết án tử hình. Vinh quang lúc này không che lấp cái nhục hình đồi Canvê. Các môn đệ tỉnh dậy và bàng hoàng trước cảnh tượng nhiệm lạ của núi Taborê, trước vinh quang cực kỳ sáng chói của Chúa Giêsu và hai đại ngôn sứ đại diện cho Cựu Ước. Các môn đệ thích cảnh tượng ngây ngất, huyền diệu và mầu nhiệm của Ba Đấng, các Ngài muốn ở trong vinh quang mầu nhiệm nhưng lại không tỉnh thức và cầu nguyện. Các môn đệ muốn dựng ba lều cho Chúa, cho hai ngôn sứ và muốn cắm lều cho mình để được chìm sâu trong cảnh huy hoàng, hoành tráng cùa núi Taborê, nhưng các ông lại chìm sâu trong cơn ngủ say đến quên cả việc trò chuyện, cầu nguyện. Do đó, cũng chính ba môn đệ này trong vườn Cây Dầu, đã không quan tâm gì đến Thầy, khi Thầy đang cầu nguyện, phủ đầy lo âm, mồ hôi và máu chảy ra, ba ông vẫn ngáy khò, đến nỗi quân dữ ập đến bắt mất Thầy, họ mới bừng tỉnh thì đã quá muộn. Đây là thân phận yếu hèn của ba môn đệ: Phêrô, Giacôbê, Gioan và các môn đệ khác. Đây cũng chính là thân phận yếu hèn của con người, của mỗi người, của nhân loại trong mọi thời đại. Chúa Giêsu biết các môn đệ yếu đuối :" Không Thầy các con không thể làm được gì ". Chính vì thế, Chúa đã tỏ lộ vinh quang của Người để củng cố đức tin của các môn đệ và để các ông không ngã lòng vì cuộc khổ nạn Chúa sẽ thực hiện tại Giêrusalem. Và để các ông có bằng chứng rao giảng về sự phục sinh của Chúa Giêsu sau này.
Chúa Giêsu biến hình trên núi Taborê là để minh chứng cho lời tuyên xưng đức tin của Phêrô, thay mặt các môn đệ ở Xê-da-rê cách đây tám ngày:" Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống"( Mt 16, 16 ). Việc biến hình trên núi Taborê của Chúa Giêsu là sự đáp trả của Chúa Cha qua việc Người chấp nhận cái chết trên thập giá, thì sự vâng lời của Chúa Giêsu theo ý Thiên Chúa Cha là niềm tin cho mọi người tin vào Chúa Giêsu. Tiếng Chúa Cha phán từ trong đám mây:" Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người ". Môisen và Êlia không còn đó: Cựu Ước đã qua và chỉ còn lại mình Chúa Giêsu với tất cả Con-Người-Trần và Người-Chúa của Ngài. Chúa ở đó với ba môn đệ trong thực tế của đời người. Chúa chấp nhận kiếp sống của con người, để chia sẻ với loài người, với con người cuộc sống đời thường chỉ trừ tội lỗi. Nếu hôm nay khi Chúa đang cầu nguyện thì biến hình, việc cầu nguyện và sự kết hiệp thân mật, sâu xa của chúng ta với Chúa Giêsu sẽ biến đổi tâm hồn con người, tâm hồn chúng ta để mỗi ngày chúng ta càng nên đồng hình đồng dạng với chúa. Chính vì thế, Chúa cho chúng ta biết con người phải trải qua đau khổ mới tới vinh quang. Sau vinh quang, Chúa lại tiếp tục sống với các môn đệ để chứng minh cho các ông hay cầu nguyện, tỉnh thức, sám hối, chay tịnh, bố thí và bác ái luôn là niềm vui và động lực giúp con người vượt thắng thử thách, khó khăn và Chúa vẫn luôn tiếp tục đồng hành với chúng ta trong mọi biến cố của cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết cầu nguyện và đừng bao giờ ngã lòng cầu nguyện. Amen.
Chúng ta cũng giống như Đức Giê-su: có bản chất cao quí ẩn trong thân xác yếu đuối của kiếp người trần Cuộc biến hình của Đức Giê-su cho ta thấy bản chất sâu thẳm của Ngài, Ngài không chỉ là một con người yếu đuối, phải đau khổ, và chịu bao hạn chế của kiếp người như bao người khác, mà còn là một vị Thiên Chúa đầy vinh quang và quyền năng. Trước khi Ngài bước vào cuộc khổ nạn và chịu chết, Ngài đã cho ba môn đệ yêu dấu nhất của Ngài thấy được bản chất sâu thẳm của Ngài, để củng cố niềm tin của các ông. Nhất là trong những ngày sắp tới, đức tin của các ông sẽ bị chao đảo dữ dội, vì lúc ấy các ông chỉ có thể thấy được con người hết sức bất lực và hạn chế của Ngài. Nhưng thật ra, sự yếu đuối bất lực ấy chỉ là tạm thời, bản chất thường hằng của Ngài là bản chất đầy vinh quang, cao cả như các môn đệ đã chứng kiến trên núi Ta-bo. Bản chất ấy vẫn còn trong tình trạng ẩn dấu, chưa tỏ lộ.
Chúng ta cũng một phần nào tương tự như Đức Giê-su, chúng ta cũng có hai bộ mặt, với hai cách hiện hữu hết sức khác nhau. Một đằng chúng ta là con người như bao nhiêu người khác, nhưng đằng khác, chúng ta là con cái Thiên Chúa. Là con cái Ngài, ta được Ngài ban những ơn đặc biệt để trở nên xứng đáng với địa vị đó. Căn bản và cao quí nhất là Ngài thông ban cho chúng ta chính bản tính Thiên Chúa của Ngài. Thánh Phê-rô đã cho ta biết chân lý ấy: "Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quí báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa, sau khi thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian" (2Pr 1,4).
2. Bản chất cao quí của chúng ta: là con cái của Thiên Chúa
Thông thường, ta ít khi ý thức được phẩm giá hết sức cao quí của mình cũng như của những Ki-tô hữu sống gần ta, chung quanh ta, tất cả đều là con cái Thiên Chúa. Không ý thức được điều ấy, nên ta không trân trọng đủ chính bản thân ta cũng như không trân trọng những Ki-tô hữu khác. Chúng ta sống giống như mình không phải là con cái của Ngài, vì nếu ta xác tín được mình là con cái của Ngài, đời sống chúng ta sẽ thay đổi rất nhiều. Chúng ta thử nghĩ, nếu ta là con một vị vua, là một hoàng tử, thì ta sẽ xử sự thế nào? Trước mặt mọi người, ta sẽ phải cư xử cho đúng với tư cách một vị hoàng tử. Đi đâu ta cũng không sợ bị ai ăn hiếp hay bắt nạt, vì đằng sau ta có cả một hậu thuẫn mạnh mẽ.
Tuy cũng có cái vỏ bề ngoài yếu đuối và đầy hạn chế như bao nhiêu người khác, nhưng bản chất của chúng ta vượt hẳn cái vỏ bề ngoài yếu đuối ấy. Chúng ta là con cái Thiên Chúa, được thông phần bản tính của Thiên Chúa, đầy vinh quang, quyền năng, tình thương. Tình trạng của chúng ta giống như bức tượng bằng vàng trong câu chuyện minh họa sau đây.
Một ngôi chùa kia có một tượng Phật bằng vàng, nhưng trong thời chiến tranh loạn lạc, người ta phải che dấu sự quí giá ấy bằng một lớp đất sét bọc bên ngoài. Thành thử mọi người tới xem chỉ thấy đó là một bức tượng bằng đất sét, chẳng quí giá hơn những tượng đất sét khác. Chiến tranh kéo dài quá lâu, nên sau chiến tranh, người ta không còn nhớ bức tượng đó bằng vàng nữa, cho đến một hôm... Một hôm, sư trụ trì vô tình để một vật cứng chạm mạnh vào bức tượng, khiến bức tượng bị bể một mảnh lớn, và để lộ ra chất vàng lấp lánh sáng chói. Thế là ông bèn đập bỏ tất cả lớp đất sét bọc bên ngoài. Và tượng Phật bây giờ đã trở thành một bức tượng bằng vàng sáng chói, đầy giá trị.
Mỗi người Ki-tô hữu chúng ta đều có một cái gì giống như bức tượng đó. Bên ngoài dù chúng ta không khác gì ai, không hơn gì ai, nhưng thực ra, chúng ta là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh của chính Thiên Chúa, mang bản tính Thiên Chúa nơi bản thân. Dù ta có yếu hèn, tội lỗi, hay xấu xa đến thế nào đi nữa, thì bản tính Thiên Chúa trong chúng ta vẫn là bản tính của Thiên Chúa, đầy quyền năng, mạnh mẽ, trong sạch, thánh thiện. Vào thế kỷ thứ nhất của Ki-tô giáo, một giám mục thuộc phái Ngộ Đạo (gnosticisme) nói rằng: "Chúng ta, những người Ki-tô hữu, cũng giống như một thỏi vàng nguyên chất, dù có bị ném xuống bùn nhơ, cũng vẫn là một thỏi vàng nguyên chất với đầy đủ giá trị của nó. Chỉ cần rửa sạch lớp bùn bám bên ngoài, thì thỏi vàng lại sáng lên ánh sáng đặc trưng của nó". Hay tương tự như một hoàng tử trong thời gian bị lưu lạc xa vua cha, dù có làm nghề gì thấp hèn đến đâu để sinh sống, thì cũng vẫn là hoàng tử. Chỉ cần hoàng tử ấy trở về với vua cha, thì hoàng tử sẽ lại trở thành hoàng tử chính hiệu, với quyền kế vị vua cha.
3. Chúng ta thường quên không ý thức được bản chất cao quý ấy
Rất nhiều khi người Ki-tô hữu chúng ta đã quên mất bản chất hết sức cao quí của mình là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh Thiên Chúa (nghĩa là giống như Thiên Chúa), là người mang trong mình bản tính của Thiên Chúa, và vì thế chúng ta có quyền thừa hưởng gia nghiệp cua Ngài với tư cách là con cái Ngài. Chính vì quên mất cái bản chất cao quí ấy, nên nhiều khi chúng ta đã sống không xứng đáng với bản chất ấy, nghĩa là cũng chỉ sống giống như bao người khác, thậm chí sống như con cái của ma quỉ, của thế gian, không phù hợp với phẩm giá của mình. Là con cái Thiên Chúa, nhưng nhiều khi chúng ta tin tưởng, cầu xin, khiếp sợ hoặc trông cậy vào những thế lực khác, vào sự can thiệp của những quyền lực không phải của Thiên Chúa, thậm chí đối nghịch với Thiên Chúa. Chúng ta đã hành xử như thể Thiên Chúa là một hữu thể xa lạ đối với mình, không phải là người Cha rất yêu thương mình, mà hành xử như một người có bản chất thấp hèn. Hành xử như thế, vô tình, chúng ta đã hạ thấp hoặc xúc phạm đến hình ảnh và bản tính Thiên Chúa trong chúng ta.
4. Hãy thường xuyên biểu lộ bản tính cao cả của chúng ta trong tư tưởng, qua lời nói và hành động
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy thần tính hay bản chất vinh quang cao cả của Đức Giê-su, vốn ẩn dấu trong thân xác đầy hạn chế của Ngài, nay hiện ra một cách tỏ tường trước mặt các tông đồ. Điều đó cũng nhắc cho chúng ta ý thức về bản tính hay hình ảnh của Thiên Chúa nơi thân xác yếu đuối của chúng ta. Chúng ta cần thường xuyên biểu lộ bản tính hay hình ảnh của Thiên Chúa nơi chúng ta qua tư tưởng, lời nói, hành động của mình. Làm sao để mỗi tư tưởng, mỗi lời nói, cũng như mỗi hành động của chúng ta đều nói lên được bản chất cao quí của chúng ta là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh trung thực của Thiên Chúa. Giống như người ta có thể nhìn vào cách ăn nói, xử sự của một người mà đoán được bản chất của người ấy. Hay như khoa học thời nay có thể căn cứ vào một sợi tóc, một tế bào của một người mà biết được tính chất hay tình trạng thể lý của người ấy. Cuộc sống của một người con cái Chúa cũng phải toát lên được bản chất ấy của mình.
Bài đọc 2 cũng nhắc lại cho ta biết quê hương đích thật của chúng ta là ở trên trời. Và trong tương lai thân xác yếu hèn của chúng ta cũng sẽ trở nên vinh hiển, mạnh mẽ như thân xác của Ngài. Tất cả những đau khổ, hạn chế của ta chỉ là tạm thời, sẽ qua đi, nhưng bản chất cao quí của ta thì mãi mãi tồn tại và không thay đổi.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin giúp con ý thức được bản chất cao quí của con là con cái Chúa, là hình ảnh của Chúa, và được Chúa thông phần bản tính của Chúa cho con. Xin cho con biết luôn ý thức bản chất cao quí của mình, và sống xứng đáng với bản chất ấy. Amen.
Có một cuốn phim mang tựa đề “Mặt nạ”, kể lại một câu chuyện về chú bé 16 tuổi, tên là Rocky. Chú mắc phải một chứng bệnh kỳ lạ khiến cho sọ và xương mặt chú phát triển khác thường, làm cho khuôn mặt chú bị biến dạng thật khủng khiếp. Nhiều người trông thấy chú, phải vội vã quay đi vì sợ hãi. Có kẻ lại chọc ghẹo, chế nhạo chú. Riêng chú thì chẳng bao giờ cảm thấy tủi thân, vì chú chấp nhận nó như một phần cuộc sống mình. Ngày nọ, chú và vài người bạn đi thăm khu công viên vui chơi. Họ vào một ngôi nhà được ráp kiếng và bật cười vì khuôn mặt họ bị những tấm gương làm cho biến dạng. Còn chú thì giật mình khi nhìn vào một tấm gương đã biến khuôn mặt méo mó của chú thành một khuôn mặt bình thường, nếu không muốn nói là rất đẹp trai. Lần đầu tiên trong đời, bè bạn chú đã nhìn thấy chú trong một trạng thái hoàn toàn mới mẻ. Họ đã nhìn thấy con người thực sự xinh đẹp bên trong của chú được bộc lộ ra bên ngoài.
Một điều tương tự như thế đã xảy ra cho Chúa Giêsu quan đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Trong lúc Ngài biến hình, các môn đệ đã nhìn thấy Ngài trong một trạng thái hoàn toàn mới lạ. Lần đầu tiên họ được trông thấy sự vinh quang tươi đẹp bên trong của Con Thiên Chúa được bộc lộ ra bên ngoài. Điều này khiến chúng ta tự hỏi: Tại sao cuộc biến hình lại được xếp vào Mùa Chay là mùa vốn mang màu sắc ảm đạm?
Để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta phải đọc lại toàn bộ bài Phúc Âm nói đến cuộc biến hình. Việc này xảy ra ngay sau khi Chúa Giêsu báo cho các môn đệ rằng Ngài phải lên Giêrusalem để chịu nạn chịu chết. Khi nghe Chúa nói thế, Phêrô liền la lớn: Lạy Thầy, xin đừng để điều đó xảy ra cho Thầy. Lập tức Chúa Giêsu trả lời cho Phêrô một cách gay gắt: Hỡi Satan, hãy xéo đi, đừng cản trở Ta. Ngươi không suy nghĩ theo đường lối Thiên Chúa mà chỉ theo đường lối của con người. Có lẽ Phêrô, Giacôbê và Gioan cần được chích một mũi thuốc bổ thiêng liêng sau khi bị cú sốc Chúa hướng các ông về cuộc tử nạn. Và đó cũng là lý do khiến Giáo Hội nói về cuộc biến hình vào Mùa Chay như một trợ lực cần thiết cho chúng ta trước khi bước vào tuần thánh.
Nếu để ý một chút chúng ta sẽ thấy được sự tương phản giữa cuộc biến hình và cơn hấp hối trong vườn Cây Dầu. Cả hai đều xảy ra trên những ngọn núi, trước sự chứng kiến của ba môn đệ thân yêu. Và cả hai sẽ bổ túc cho nhau. Thực vậy, trên đỉnh Tabor ba môn đệ nhìn thấy Ngài xuất thần, và qua đó được chiêm ngắm thiên tính của Ngài. Còn trên núi Cây Dầu họ nhìn thấy Ngài hấp hối và qua đó nhân tính của Ngài được bộc lộ một cách rõ nét hơn cả.
Tabor và Cây Dầu mạc khải nét tương phản sinh động giữa nhân tính và thiên tính của Ngài. Hai biến cố này không thể tách lìa nhau như hai mặt của một đồng bạc, và như thế cho chúng ta thấy Ngài vừa là người thật vừa là Thiên Chúa thật. Hãy chấp nhận thập giá cuộc đời để nhờ đó chúng ta sẽ được chia sẻ phần vinh quang phục sinh với Ngài.
Đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại sự việc Chúa Giêsu biến hình vinh quang trên đỉnh Taborê. Biến cố này làm cho tôi nhớ tới cơn hấp hối của Ngài trong vườn cây dầu. Cả hai đều xảy ra trên những ngọn núi dưới sự chứng kiến của ba môn đệ thân tín. Một biến cố thì cho chúng ta chiêm ngưỡng thiên tính của Ngài. Còn một biến cố cho chúng ta thấy rõ nhân tính của Ngài. Tuy nhiên cả hai đều bổ túc cho nhau, để rồi chúng ta tin nhận Ngài vừa là người thật; lại vừa là Thiên Chúa thật.
Từ đó chúng ta rút ra một sứ điệp quan trọng, đó là giống như Đức Kitô, mỗi người chúng ta cũng có hai chiều kích, một thuộc về nhân tính, một thuộc về thiên tính. Mỗi người chúng ta đều mang trong mình một nét giống Adong và một nét giống Thiên Chúa.
Cũng như Đức Kitô trên đỉnh Tabor, chúng ta từng cảm nhận những giây phút xuất thần, khi mà nét giống Chúa được toả sáng khiến chúng ta cảm thấy Ngài thật là gần gũi dường như chúng ta có thể đụng chạm được. Trong những giây phút quý giá này, chúng ta ngạc nhiên thấy cuộc sống sao mà tươi hồng, sao mà đẹp đẽ thế. Chúng ta cảm thấy muốn yêu thương mọi người, muốn tha thứ tất cả.
Thế nhưng xét theo mặt khác, cũng như Đức Kitô trong vườn cây dầu, chúng ta từng cảm nghiệm được những giây phút hấp hối, khi mà đường nét giống Adong rực cháy trong chúng ta khiến cho đường nét của Chúa bị nhạt nhoà gần như mất hẳn.
Trong những giờ phút đen tối ấy, chúng ta cảm thấy cuộc sống thật tồi tệ làm sao. Chúng ta cảm thấy ai cũng khó thương, khiến chúng ta nghi ngờ bạn bè, gây gổ với người chung quanh và trả đũa đích đáng kẻ thù của chúng ta. Ngay cả đến sự hiện diện của Thiên Chúa chúng ta cũng muốn chối bỏ.
Thế nhưng, dù ở trong giờ phút hấp hối hay xuất thần, chúng ta hãy nhớ đến hình ảnh hai ngọn núi Tabor và Cây Dầu. Chúng ta cũng hãy nhớ lại Chúa Giêsu đã từng cảm nghiệm được cả hai khoảnh khắc vinh quang và thê thảm nhất trong cuộc đời Ngài. Và quan trọng hơn, đó là chúng ta cần phải nhớ rằng: Cả hai khoảnh khắc ấy Chúa Giêsu đều ở trong trạng thái cầu nguyện.
Nếu cầu nguyện là cách thức Ngài dùng để đáp lại những khoảnh khắc ấy, thì chúng ta cũng nên làm giống như Ngài, nhờ đó chúng ta cũng sẽ nghe được Thiên Chúa Cha nói với chúng ta như đã nói với Chúa Giêsu trong lúc biến hình: Này là con Ta yêu dấu. Cũng như Đức Kitô từng chịu hấp hối trên núi câu dầu, chúng ta cũng sẽ cảm nhận được Thiên Chúa Cha đang chạm đôi tay của Ngài để chữa lành chúng ta.
Chúng ta đang ở vào Mùa Chay, Chúa nhật thứ II. Chúng ta đã bắt đầu Mùa Chay thánh này với ngày Thứ Tư Lễ Tro. Điều gì chúng ta đã làm trong ngày Thứ Tư Lễ Tro này? Thưa rằng, chúng ta đã cho đại diện Giáo Hội xức tro lên trên đầu chúng ta, với dấu hiệu là chúng ta bởi đất, chúng ta sẽ trở về với đất.
Qua bài Phúc Âm Chúa nhật thứ I Mùa Chay tuần vừa qua, chúng ta lại đã nghe về cuộc hành trình của Chúa Giêsu trong sa mạc với những cám dỗ Ngài phải đương đầu. Những cám dỗ này chính là hình ảnh của những quyến rũ ma quỉ đặt trước chúng ta trong những ngày chay tịnh này, khi chúng ta sống trong bầu không khí của Mùa Chay. Việc biến hình của Chúa Giêsu với sự hiện diện của ba tông đồ Phêrô, Giacôbê, Gioan; với Môisê và Êlia đại diện trong cùng bối cảnh của Mùa Chay. Từ đó chúng ta khám phá được một sự thật, Mùa Chay không phải là khoảng thời gian chúng ta phải đối đầu với những cám dỗ do ma quỉ sắp đặt đưa ra. Mùa Chay cũng không phải là khoảng thời gian người tín hữu phải tự buộc mình chịu đựng những sự đau khổ mà không tìm cách tránh né. Mùa Chay đầu tiên là một sự mạc khải về thân phận, về định mệnh, trong tiến trình tự nhiên của con người, và những kinh nghiệm phải có từ ý chí bề ngoài của cuộc sống. Một trong những kinh nghiệm đó chúng ta có được về việc biến hình của Chúa Giêsu, trong bài Phúc Âm theo thánh Luca hôm nay.
Như thế này, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, Gioan lên núi cầu nguyện. Cứ theo cách diễn tả của thánh sử Luca, thì chúng ta có thể hiểu rằng biến cố đã xảy ra vào lúc ban đêm. Vì thường thường như chúng ta biết, sau khi giảng dạy và làm các phép lạ, Chúa Giêsu ẩn mình vào các nơi thanh vắng để cầu nguyện vào ban tối. Và nhất là căn cứ vào thái độ của các môn đệ khi sự việc xảy ra đó là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Thời gian ban đêm trong bài Phúc Âm đồng hóa với bóng tối được diễn tả ở đây, có thể là biểu hiện cho khuynh hướng xấu, biểu hiện cho phần bóng tối trong tâm hồn của mỗi con người chúng ta. Nó cũng là một trong những điều mà Luca diễn tả, khiến cho quang cảnh dễ gây xúc động hơn.
Đang khi cầu nguyện, diện mạo của Chúa Giêsu biến đổi khác thường, chói lòa hào quang ánh sáng. Nhưng Ngài vẫn là Ngài. Ngài vẫn là Chúa Giêsu. Con của Thiên Chúa, có khác chăng là về diện mạo và quang cảnh chung quanh. Một quang cảnh huy hoàng của cuộc đàm đạo giữa Chúa Giêsu với Môisê và Êlia, đến nỗi khi được chiêm ngắm, các môn đệ đã phải thốt lên như trong một cơn mê sảng: "Lạy Thầy, nếu chúng tôi được ở đây thì tốt lắm. Chúng tôi xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Môisê và một cho Êlia". Họ không muốn lìa xa nơi họ đã được chứng kiến. Một Thầy chí thánh với vinh quang và ân sủng, một vinh quang và ân sủng có thể hoà quyện trong mơ ước trần thế con người của họ trong những dịp đi theo Chúa.
Như chúng ta biết, Môisê và Êlia là hai tiên tri Cựu Ước, Môisê là người đã được Chúa tuyển chọn để đưa dân Ngài ra khỏi ách nô lệ của nước Ai Cập. Êlia là tiên tri đã được kêu gọi để làm cố vấn cho giao ước, dân Do Thái đã gần như chối từ những ơn Chúa trong đời sống họ. Khi đề cập đến biến cố này, các thánh sử khác thì nói rằng: Có một cuộc đàm đạo giữa Chúa và hai vị tiên tri. Trong khi Luca còn đi xa hơn, diễn tả ngay cả nội dung của cuộc đàm đạo giữa Chúa Giêsu, Môisê và Êlia. Họ nói về sự chết của Chúa Giêsu sẽ thực hiện tại Giêrusalem. Một cái chết không phải là dấu hiệu kết thúc của công trình cứu chuộc, nhưng là một cái chết khơi mào cho sự sống lại trong vinh quang trong nước Ngài. Trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, sự chết, sự sống lại và lên trời của Chúa Giêsu được thể hiện cùng một lúc trong biến cố biến hình này. Sự chết trong thân xác hay chết của nhân tính của Chúa Giêsu là một sự sửa soạn cho sự vinh quang vĩnh cửu của một đời sống khác trong thiên tính của Chúa Giêsu.
Chịu đựng là vượt qua những thử thách khó khăn. Không phải chúng ta luôn luôn đương đầu với mọi cám dỗ và hoạt động của ma quỉ. Nhưng trong chính thời gian này, sự vinh quang của Thiên Chúa vẫn còn thể hiện trong chính các sinh hoạt của chay tịnh, sự thống hối, ăn năn, tha thứ trong 40 ngày. Lời phán từ trong đám mây minh chứng rằng Đức Giêsu biến hình ngày hôm nay, chính là Chúa Giêsu Kitô, là Con Thiên Chúa. Ngài đã lãnh nhận và thánh hóa bí tích Rửa tội nơi sông Giođan với Gioan Tẩy Giả, Ngài là Con của Thiên Chúa, là Lời của Thiên Chúa nói với nhân loại và nhân loại phải đón nhận Ngài: "Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người".
Chúng ta cùng với Phêrô, Giacôbê và Gioan chứng kiến việc Chúa Giêsu biến hình và cùng được dự phần vào việc đàm phán của Chúa với hai tiên tri. Từ đó, chúng ta có thể được dự phần vào việc khổ nạn và cuộc Phục sinh của Chúa trong những ngày sắp tới. Đó là một cách thế chúng ta tham dự trong bất toàn nhân tính, trong con người của Chúa Giêsu và chúng ta cũng sẽ được tham dự vào thiên tính bất diệt của Con Chúa trong ngày tới.
Điểm cuối cùng của biến cố biến hình của Chúa ngày hôm nay không phải chỉ mạc khải cho chúng ta về chương trình hành động của Thiên Chúa trong việc cứu rỗi con người. Biến cố này cho chúng ta thấy ngày lịch sử, nhân loại nhận biết sự xấu hổ của đời sống trần thế và ý nghĩa của sự chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu trong nhiệm vụ cứu rỗi. Biến cố này còn nhắc lại cho chúng ta một cách sống trọn vẹn và những hy sinh cay đắng trong cuộc sống. Chúng ta còn được dự phần trong sự vinh quang của Thiên Chúa là kết quả của việc chay tịnh, thống hối và tha thứ.
Trong Phụng Vụ Chúa Nhật thứ hai mùa Chay này, Giáo Hội cho chúng ta chia sẻ phần nào tâm tư của Chúa Giêsu và ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê, là những người đã được Chúa Giêsu kêu gọi đầu tiên và cũng là những người được Chúa Giêsu đem theo vào vườn Giệtsêmani để cầu nguyện trước khi Người bước vào cuộc Thương Khó. Với tâm hồn tinh tế và ưu ái, Chúa Giêsu biết rõ tâm tính của các học trò mình, Người biết họ vốn là những ngư phủ chất phác, nhiệt tình nhưng khá bộp chộp. Họ hăng say đi theo Người, hết lòng cộng tác vào sứ mệnh của Người, nhưng cũng từng có những phản ứng nóng nảy, bộc phát. Trong các câu chuyện kể của Tin Mừng, chúng ta thấy không ít lần Simon Phêrô nhanh nhẩu thay mặt các đồng bạn trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu, cho dù các lời ấy có thể làm Thầy mình buồn lòng. Thậm chí, trong một lần cản ngăn Chúa Giêsu về việc Người sẽ tự nguyện lên Giêrusalem để chịu khổ hình, và Phêrô lúc đó đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng lời như sau:
“Satan, lui lại đàng sau Thầy, con cản lối Thầy, vì tư tưởng của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà của loài người”. Còn hai ông Gioan và Giacôbê thì cũng bộp chộp không kém, vì tính tình nóng nảy, hai ông đã được Chúa Giêsu đặt biệt hiệu là con của thiên lôi, hai ông đã bị Chúa Giêsu khiển trách vì đã muốn cho lửa từ trời xuống thiêu hủy những người Samari không chịu tiếp đón Người. Vì biết rõ tâm tính của các ông, nên sau khi tiên báo lần thứ nhất về cuộc Thương Khó của mình, Chúa Giêsu đã đem riêng các ông theo Người lên núi cầu nguyện và cho các ông chứng kiến vinh quang của Người. Ngay cả trong bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe đọc hôm nay, ba ông vẫn còn nguyên vẹn tính chất phác của mình, nên khi Chúa Giêsu chuyên tâm cầu nguyện thì các ông lại vô tư nằm ngủ, và Chúa Giêsu vẫn để cho các ông ngủ say. Khi các ông bừng tỉnh thì một khung cảnh huy hoàng đã bao trùm lấy các ông, các ông được chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trong vẻ vinh quang sáng lạn của Người, có ông Môisen và ông Êlia xuất hiện để làm chứng rằng Người là Đấng Thiên Sai mà Kinh Thánh đã loan báo. Quá kinh ngạc vì cảnh tượng huy hoàng trước mắt, Phêrô đã nói như trong cơn mê sảng, kế đó ông lại được đám mây biểu hiện sự có mặt của Thiên Chúa bao trùm và được nghe tiếng Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con Yêu Dấu của Ngài.
Khi nghe đoạn kể lại Chúa Giêsu tỏ mình vinh hiển trên đây, chúng ta thấy mình cùng ngây ngất, choáng ngợp trước cảnh tượng thánh thiêng huy hoàng ấy, chúng ta khâm phục các môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê, vì các ông đã được chiêm ngắm vinh quang của Chúa Giêsu. Nhìn lại mình, chúng ta thấy đời sống đức tin của chúng ta sao mà nhạt nhẽo. Chúng ta tin rằng Chúa Giêsu đã Phục Sinh vinh hiển, nhưng dường như Người ở tận trên thiên cung xa vời. Còn chúng ta thì cứ loay hoay mãi với những chuyện đời thường nơi chốn trần gian này. Tâm trạng của chúng ta cứ buồn buồn sao ấy. Thật ra, chúng ta không chỉ mãi quẩn quanh với những thăng trầm thế sự mà thôi. Hiện giờ, Chúa Giêsu cũng quan tâm đến mỗi người chúng ta, như Người đã từng quan tâm đến các môn đệ như Phêrô, Gioan và Giacôbê ngày xưa. Người biết rõ tâm tính của mỗi người chúng ta với những ưu điểm và khuyết điểm của từng cá nhân, bằng những cách thế khác nhau. Qua những sự kiện và những dấu chỉ khác nhau, Người cũng cho chúng ta chia sẻ những giây phút vinh quang, hoan lạc của Người, để tỏ lộ cho chúng ta đại cuộc cứu độ của Người và giúp chúng ta vững bước trên đường sống đạo. Nếu chúng ta không nhận ra những lúc Người tỏ mình như thế, có thể vì chúng ta chưa đủ nhạy bén trong đời sống đức tin, hoặc vì chúng ta không nghĩ rằng mình được Chúa Giêsu ưu ái quan tâm đến thế.
Quả thật, Chúa Kitô Phục Sinh vẫn thường xuyên đến với mỗi người chúng ta dù không rực rỡ ánh hào quang như lúc tỏ lộ cho ba môn đệ ngày xưa, nhưng vẫn đủ để tạo ra những dấu ấn có sức củng cố đức tin của chúng ta. Đại thi hào Tagore đã viết về điều này trong tác phẩm Lời Dâng như sau: “Anh không nghe thấy ư? Bước chân Người thầm lặng. Người tới, tới và luôn luôn thường tới. Người tới, tới và luôn luôn thường tới. Hàng giờ, hàng đêm, hàng ngày, hàng thời đại, anh ơi”.
Lạy Chúa Giêsu, trong cuộc sống đời thường của con, Chúa dùng muôn vàn phương cách để tỏ lộ cho con vinh quang của Ngài, nhưng nhiều lúc con chẳng nhận ra. Xin Chúa ban cho con đôi mắt biết rộng mở, đôi tai biết lắng nghe và tâm hồn biết thinh lặng để nhận ra Chúa. Xin cho con biết lưu giữ những kỷ niệm về những lần con gặp Chúa để mỗi khi gặp cơn sóng gió trong đời, con hồi tưởng lại những kỷ niệm tuyệt vời ấy mà vững tâm sống đạo.
Khi Chúa Giêsu tỏ cho các môn đệ biết Ngài phải lên Giê-ru-sa-lem để chịu thương khó và chịu chết, các môn đệ cảm thấy rúng động tâm hồn. Không lẽ cuộc đời của Thầy Giêsu lại kết thúc cách bi đát như thế? Đã bao lần họ mơ tưởng một ngày nào đó được ngồi bên tả bên hữu vua Giêsu trong vương quốc vinh hiển của Ngài, lẽ nào giấc mộng vàng đó lại sớm tan thành mây khói? Nếu Chúa Giêsu mà còn phải chịu số phận oan nghiệt như thế thì số phận các ông rồi sẽ ra như thế nào đây?
Không thể chấp nhận viễn ảnh đen tối ấy, ông Phê-rô kéo riêng Chúa Giêsu ra và lên tiếng trách móc, tìm cách ngăn cản Ngài đừng chấp nhận con đường đau thương ấy (MC 8, 32).
Để củng cố tinh thần các môn đệ đang sa sút trước tin chẳng lành vừa loan báo, tám ngày sau, Chúa Giêsu đưa ba môn đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình lên núi cao để cầu nguyện. "Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà. Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Mô-sê và ông Ê-li-a. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem."
Bấy giờ tinh thần ba môn đệ hết sức phấn chấn "ông Phê-rô thưa với Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a."
Ông còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông... Và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!"
Thế là nhờ chứng kiến sự vinh hiển của Chúa Giêsu trong giờ phút vinh quang của Ngài ở đây, ít nữa là có môn đệ Gioan đã vững bước theo Chúa Giêsu đến cùng trên đường khổ nạn.
* * *
Cuộc đời người có mặt tối và mặt sáng, có mặt tốt và mặt xấu, có mặt phải và mặt trái, có lúc phấn khởi vui tươi cũng có những lúc ủ dột ưu sầu.
Cuộc đời Chúa Giêsu cũng có mặt sáng mặt tối. Mặt tối là đêm vườn Dầu đau thương ảm đạm, mặt sáng là cuộc biến hình sáng láng trên núi Tabor. Nếu các môn đệ chỉ nhìn thấy mặt đen tối, mặt u ám của đêm vườn Dầu, lúc Chúa Giêsu bộc lộ nhân tính hèn yếu của mình, tỏ ra kinh khiếp hãi hùng trước cuộc khổ nạn sắp tới đến nỗi phải đổ mồ hôi máu và phải van lơn cầu khẩn với Chúa Cha xin cho khỏi uống chén đắng... mà không thấy được mặt sáng của Ngài trên núi Tabor thì các ông sẽ ngã lòng thất vọng. Và biết đâu, các ngài đào tẩu hết, lấy ai làm chứng nhân cho biến cố phục sinh! Lấy ai loan báo Tin Mừng cứu độ?
Vì thế, Chúa Giêsu cho các ông thấy mặt sáng của đời Ngài trước, qua việc tỏ cho các ông thấy dung mạo sáng láng vinh hiển của Ngài, tỏ cho họ thấy Ngài là "Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha, Người được Thiên Chúa Cha tuyển chọn" (câu 35) để động viên tinh thần các ông khỏi sa sút, thất vọng trong đêm vườn Dầu sắp đến.
* * *
Ngôi nhà nào cũng có mặt trước mặt sau. Nếu người ta chỉ nhìn mặt sau của ngôi nhà mà không nhìn mặt tiền của nó, người ta sẽ đánh giá thấp về nó, sẽ thất vọng vì nó.
Tấm huy chương nào cũng có mặt trái mặt phải. Nếu chỉ nhìn mặt trái sần sùi và trơ trọi của tấm huy chương mà không nhìn mặt đẹp của nó, thì chẳng ai thèm nhận huy chương.
Hoa hồng rất đẹp rất kiêu sa nhưng cũng đầy gai. Nếu người ta chỉ chú trọng đến những gai nhọn của hoa hồng mà không để ý đến vẻ đẹp của bông hoa thì thật là đáng tiếc! Nhờ giá trị của những bông hoa hồng đẹp rực rỡ kiêu sa và hương thơm dịu dàng của nó, người ta quên đi những gai nhọn đáng phàn nàn của nó.
Đối với người anh em chung quanh cũng thế. Mỗi người đều có mặt sáng và mặt tối, mặt tốt và mặt xấu, không ai hoàn toàn tốt, chẳng ai hoàn toàn xấu. Nếu chúng ta chỉ nhìn vào mặt đen tối của một con người, mà quên đi mặt sáng của họ, nhìn vào nhược điểm mà quên đi ưu điểm của họ, thì chúng ta sẽ rất thất vọng về người đó. Chúng ta đánh giá người đó chẳng ra gì.
Sự kiện Chúa Giêsu tỏ cho ba môn đệ thân tín thấy mặt sáng láng vinh hiển của Ngài trên núi cao để chuẩn bị tinh thần cho các ông đón nhận mặt đen tối của đời Ngài trong đêm vườn Dầu và đêm khổ nạn, cũng là bài học cho chúng ta trong tương quan với người khác.
Một người dù có bị xem là xấu xa đến đâu chăng nữa cũng có những điểm sáng, những nết tốt tiềm ẩn bên trong. Ước gì chúng ta biết nhìn vào điểm sáng, điểm tốt, nhìn vào ưu điểm của họ để dễ dàng thông cảm với những mặt trái, mặt xấu của họ. Nhờ đó, chúng ta cảm thấy những người quanh ta dễ thương hơn, tương quan của ta với người khác được cải thiện tốt đẹp hơn và đời sống giữa chúng ta với nhau sẽ hạnh phúc hơn.
- "Trong chiến trận thì cái gì cần nhất?". Một đại thần trả lời:
- Tâu bệ hạ, cần nhất là lòng dũng cảm.
Nhà vua liền hỏi:
- Thế còn sức mạnh và vũ khí? Nhà ngươi quên à?
Vị quan nói:
- Tâu bệ hạ, nếu người lính đã không có tinh thần dũng cảm thì sức mạnh và vũ khí của anh ta cũng chẳng giúp được tí gì.
Thực vậy, lòng dũng cảm sẽ giúp chúng ta vượt qua khó khăn. Lòng dũng cảm sẽ giúp chúng ta không bỏ cuộc trước nghi nan. Giữa giòng đời chúng ta đang sống đâu mấy khi bình yên! Sóng gió luôn làm cho cuộc đời đong đầy những nghi nan. Người không có lòng dũng cảm sẽ khó có cơ hội vươn lên. Người không có lòng dũng cảm sẽ bất lực buông xuôi mặc cho giòng đời đẩy đưa.
Những khó khăn, những thử thách theo ky-tô giáo chính là những thập giá trong cuộc đời. Thập giá cuộc đời như bóng với hình hòa quyện vào trong cuộc sống chúng ta. Thập giá trong bổn phận phải thi hành. Thập giá trong hy sinh từ bỏ những đam mê bất chính. Thập giá trong hy sinh để phục vụ anh em. Thập giá đôi khi đưa đến bất ngờ như những nghịch cảnh xảy đến trong cuộc đời. Thập giá quá nặng, nhưng sức người lại yếu đuối. Đó chính là một cám dỗ khiến chúng ta đôi khi muốn trốn chạy thập giá hay giũ bỏ để tìm sự nhàn rỗi cho bản thân.
Có lẽ, chính trong hành trình đầy cam go của giòng đời này. Giáo Hội cho chúng ta chiêm ngắm cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi Tabor. Chúa Giêsu đã tỏ rõ dung nhan của một vì Thiên Chúa quyền năng. Ngài muốn dùng thứ ánh sáng từ trên núi cao ấy để chiếu rọi vào cuộc tử nạn mà Ngài sắp trải qua, cũng như chính nỗi hoang mang lo sợ của các môn đệ khi Ngài loan báo cái chết... Đau khổ làm cho con người sợ hãi, nhưng Chúa bảo "phải qua đau khổ mới tiến tới vinh quang". Cái chết đó là nỗi sợ hãi tột cùng của con người. Nhưng Chúa bảo đừng sợ, vì sau ba ngày chôn cất trong mồ Ngài sẽ sống lại. Vì Ngài là Thiên Chúa của kẻ sống. Nơi Ngài có sự sống đời đời. Trên núi Tabor, Chúa Giê-su cho ba môn đệ nếm trước sự sống thần linh vinh quang của Chúa để thêm sức cho các ông, nhờ đó mà vượt qua những thập giá gian truân. Chính nhờ ánh sáng trên núi Tabor, sẽ giúp cho các ông can đảm đón nhận từng đớn đau, thử thách trong cuộc sống với tinh thần lạc quan, phó thác, chấp nhận và hân hoan.
Cuộc đời luôn có khó khăn, nhưng lại luôn mở ra những lối đi để chúng ta vượt qua. Khó khăn nào cũng sẽ qua đi. Sau bóng đêm là ánh bình minh. Chúa mời gọi chúng ta hãy can đảm đi vào thử thách với niềm tín thác vào Chúa. Chúa mời gọi chúng ta hãy can đảm vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Thập giá là nhịp cầu đưa ta tới vinh quang Nước Trời. Chính Chúa Giê-su đã đi trước trên con đường thập giá. Chính Chúa đã đi qua thập giá để tiến vào vinh quang phục sinh. Chính Chúa vẫn đang chờ đợi để trao phần thưởng Nước Trời cho những ai trung tín theo Ngài.
Người ta kể rằng: Một hôm, có một bác nông dân có một chú lừa chẳng may bị lọt xuống một cái giếng cạn. Chú lừa tội nghiệp kêu la thảm thiết cả buổi mà bác chẳng biết làm cách nào đưa nó lên. Cuối cùng bác nông dân nghĩ rằng chú lừa đã già lắm rồi, thôi thì đành lấp giếng đi vậy. Hơn nữa, một con lừa cũng chẳng đáng bao nhiêu. Nghĩ thế bác liên gọi hàng xóm giúp bác một tay.
Tất cả mọi người hè nhau lấy xẻng xúc cát đổ xuống giếng. Lúc đầu, chú lừa hiểu chuyện gì đang xảy ra với mình nên la hét khủng khiếp. Rồi bỗng dưng lừa ta im lặng khiến mọi người ngạc nhiên. Sau khi đổ đất được một hồi, bác nông dân nhìn xuống và kinh ngạc vô cùng trước những gì mình thấy: cứ một lớp đất đổ xuống lưng mình, nó giũ lớp cát xuống và giẫm chân lên. Khi mọi người tiếp tục đổ xuống đầu con vật, nó lại giũ lớp cát và giẫm chân lên một bước nữa. Cứ thế, cứ thế. Chẳng bao lâu con vật đã leo lên được thành giếng và bước ra ngoài trước sự sửng sốt của mọi người.
Cát bụi cuộc đời luôn đổ xuống trên chúng ta, như muốn nhậm chìm cuộc đời chúng ta. Nhưng vẫn còn có một cách để thoát khỏi chúng là giũ bỏ lớp cát và bước lên chúng mà đi. Bởi đâu ai muôn mình mãi là chú lừa mắc cạn mãi đâu! Cuộc sống luôn có thập giá nhưng Chúa bảo phải qua đau khổ mới tới vinh quang. Đừng thất vọng than van trước khó khăn cuộc sống, nhưng hãy kiên nhẫn vượt qua. Đừng bi quan về những gì đang diễn ra chung quanh cuộc sống chúng ta, vì Chúa bảo sau đêm dài là ánh bình minh. Hãy can đảm đứng lên từ trong khó khăn vì phẫn thưởng chiến thắng đang chờ chúng ta phía trước. Hãy như con lừa biết trút bỏ mọi lo âu để tâm hồn được thảnh thơi, được nhẹ nhõm để bước theo Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta biết đón nhận thập giá trong đời sống của mình với hai tiếng xin vâng. Xin cho chúng ta cùng đi với Chúa trong cuộc khổ nạn để mai sau cùng được chia sẻ vinh phúc vinh quang trên trời. Amen.
Phêrô đã tuyên xưng, đã công khai xác nhận Đức Giêsu là Đấng Messia. Đức Giêsu biết rõ niềm tin vào Đấng Messia có thể tự nhiên phát sinh thế nào trong tâm trí các tông đồ, các ông dễ sa vào nguy cơ trông đợi nơi Chúa một vương quốc thần kỳ, dẫu theo chế độ giáo quyền nhưng sẽ thiết lập trên thế gian. Phêrô, Giacôbê và Gioan được Chúa mời gọi cùng đi với Người đến nhà ông Jairô, sau này Chúa cũng mời gọi họ làm chứng nhân -nhưng than ôi, là những chứng nhân bị động– để tận mắt thấy Chúa trong cơn hấp hối tại vườn Cây Dầu. Chúa muốn mạc khải cho ba ông biết công cuộc cứu độ của Người sẽ hoàn tất thế nào. Người sẽ được quang vinh nhưng chỉ sau khi sống lại, trước đó chúa phải vượt qua giai đoạn đau khổ và chết. Chúng ta ghi nhận, thánh Luca mô tả sự biến hình của Chúa không phải do tác dụng một nguồn sáng từ bên ngoài thấm vào cơ thể Chúa, nhưng là do một thực tại từ bên trong tràn ra, toả ra ngoài. Dung nhan Chúa ra khác. Ba môn đệ lúc đó mi mắt nặng trĩu trong cơn thèm ngủ, nghe thấy Chúa đàm đạo với hai tiên tri Môsê và Êlia, nhưng không đủ tỉnh để có phản ứng. Các ông sửng sốt thấy Chúa sáng láng giữa Môsê và Êlia. Như tỉnh như mê, Phêrô đề nghị dựng ba căn lều. Ý Chúa rõ rệt là muốn cho ba môn đệ ý thức có một liên hệ giữa đau khổ và chết với sống lại và vinh quang. Chừng nào tới ngày thương khó, các ông dĩ nhiên sẽ hoang mang bối rối nhưng không thể quên lời Chúa hứa, các ông sẽ không đến nỗi hoàn toàn tuyệt vọng…
Chúng ta chú ý đến tiếng phán từ đám mây: “Người là Con Ta, kẻ Ta đã chọn, các ngươi hay nghe lời Người”.
1) Phẩm vị của Đức Giêsu được mạc khải. Đấng Messia đến thực thi những điều mà lề luật và các ngô sứ Môsê và Êlia tiên báo. Người là Chúa Con, kẻ được chọn, được Chúa Cha rất mực yêu dấu. Dường như ngay từ lúc đó Chúa Cha muốn chữa lành đau khổ của thế gian bằng đau khổ của Chúa Con. Muốn trông thấy vinh hiển của vũ trụ qua vinh hiển của Chúa Con. Thiên Chúa nhìn đau khổ và cái chết của chúng ta qua đau khổ và cái chết của Đức Giêsu, nghĩa là hứa cho chúng ta sẽ được sống lại và cứu rỗi. Về phần mình, chúng ta nhìn Thiên Chúa qua thiên tính rất hiền dịu của Đức Giêsu.
2) Các ngươi hãy nghe lời Người… và chỉ rao giảng về Người. Sứ điệp gửi đến nhân loại phải là dư âm lời của Đức Giêsu mới có giá trị. Thiên Chúa đòi hỏi một điều quá khó, cho nên nghe Lời Chúa có thể là rất khó, mang Lời Chúa đến cho người khác còn khó hơn. Chẳng ai muốn nghe nói đến đau khổ chết chóc xảy đến cho mình hay cho kẻ khác, dẫu phía sau cái chết có một niềm hy vọng. Tuy nhiên ý nghĩa bí tích thanh tẩy là gì, nếu chẳng là cùng với Chúa chết và sống lại? Tham gia vào cuộc Vượt qua kéo theo những hệ quả rõ rệt là xác định vị trí người Kitô hữu như là một dấu chỉ của sự mâu thuẫn. Dẫu sao, tín đồ nào của Đức Kitô chấp nhận sứ điệp tới cùng, nghe tới cùng, người ấy cũng là một con người đôi phen được thăng hoa biến thái.
Năm 1982, các nữ tu Dòng Con Đức Bà Phù Hộ, quen gọi là Dòng nữ Salêsiên ở Cáp bên Haiti, muốn thuê nhà điêu khắc Pêrikhêt làm một cây thánh giá lớn để đặt trong nhà thờ mới của các chị. Nhưng lúc đó, ông Pêrikhêt đã bị ung thư nặng.
Các chị nhờ một nữ tu cùng dòng đến gặp nhà điêu khắc để nói về ý định này. Hôm đó viên bác sĩ của ông cũng có mặt, ông nói với chị nữ tu:
- Lẽ ra chỉ phải đến đây sớm hơn. Rất tiếc là bây giờ căn bệnh ung thư của ông Pêrikhêt đã quá nặng rồi. Im một lát, bác sĩ quay sang nói với nhà điêu khắc: - Ông là người có đức tin, vậy ông cứ tiếp tục hy vọng dù có điều gì xảy ra đi nữa.
Từ ngày đó, nhà điêu khắc Pêrikhêt chẳng muốn cầm bút để rèn tác phẩm nghệ thuật nào nữa.
Vài ngày sau, một nữ tu lại đến gặp ông và năn nỉ:
- Ông Giovani Pêrikhêt à, các nữ tu ở nhà thờ mới tại Cáp mong muốn ông làm cho các chị ấy một cây thánh giá thật đẹp, dài hai mét. Họ biết tài năng của ông mà. Trước khi trả lời dứt khoát cho họ, tôi muốn hỏi ý kiến ông một lần nữa.
Nhà điêu khắc trầm ngâm suy nghĩ và cầu nguyện, rồi ông bình thản nói với chị nữ tu:
- Tôi xin nhận lời. Cây thánh giá này sẽ là tác phẩm cuối cùng, tôi sẽ làm cây thánh giá nầy để chuẩn bị chết, và xin Chúa thương xót tôi.
Thế là nhà điêu khắc bắt tay vào công việc với tất cả tâm hồn của một người mong gặp được Chúa Giêsu. Đây thật là một công việc nặng nhọc vì bệnh tình của ông. Nhưng ông cảm thấy một điều thật lạ lùng, mỗi nhát búa đập trên thanh sắt nóng đỏ, thay vì làm cho ông mệt mỏi thêm, thì lại làm cho ông cảm thấy như được bồi dưỡng sinh lực trở lại. Ông tiếp tục làm việc ngày qua ngày, và khi ông hoàn thành cây thánh giá thật đẹp, ông cảm thấy như khoẻ hẳn. Chúa Giêsu đã giải thoát ông khỏi căn bệnh quái ác.
Ngày nay, cây thánh giá do ông thực hiện vẫn còn được treo ở nhà thờ thánh phố Cáp và tiếp tục thu hút nhiều tín hữu: người lành mạnh cũng như kẻ yếu đau đến kính viếng thường xuyên.
Anh chị em thân mến,
Nhà điêu khắc Giovani Pêrikhêt tưởng rằng cây thánh giá ở nhà thờ thành phố Cáp ấy sẽ là tác phẩm cuối cùng. Ông dùng cây thánh giá ấy để chuẩn bị chết. Nhưng với niềm tin và lòng hăng say rèn cây thánh giá, Pêrikhêt đã được Chúa thương cách đặc biệt và chữa cho khỏi bệnh ung thư. Đó là hình ảnh ơn cứu độ mà Thánh giá Chúa Kitô đã, đang và sẽ còn đem đến cho nhân loại. Chính vì để củng cố niềm tin của chúng ta vào ơn cứu độ và niềm hy vọng vào sự sống vinh quang ngang qua mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô, mà hằng năm, vào Chúa Nhật 2 Mùa Chay, phụng vụ Giáo Hội cho nghe bài đọc Tin Mừng tường thuật cuộc biến hình vinh quang của Chúa Giêsu, nhờ đó người Kitô hữu ý thức rằng sự Chết và Phục Sinh, thập giá và vinh quang là hai mặt của cùng một thực tại cứu độ không thể tách rời nhau. Vinh quang mà không có khổ nạn chỉ là vinh quang của thế tục, sẽ nhạt nhoà theo năm tháng; ngược lại, khổ nạn mà không có vinh quang thì vô nghĩa và là một thất bại hoàn toàn. Do đó, sống tinh thần Mùa Chay có nghĩa là gắn bó chặt chẽ với cái Chết và sự Phục Sinh của Đức Kitô: chết đi cho con người cũ và tội lỗi, chết đi cho con người đối nghịch với Thập giá để cùng sống lại với Đức Kitô, Đấng có thể “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài” (Bđ. 2)/
Đây chính là một quá trình lột xác đầy gian khổ nhưng cũng tràn ngập vinh quang mà sự kiện Chúa biến hình được gợi lại trong Chúa nhật hôm nay, đã trở nên như một lời loan báo và một lời động viên khích lệ tín hữu. Loan báo điểm tới là Phục Sinh đang ở phía trước, đồng thời động viên khích lệ người Kitô hữu hãy can đảm tiếp tục cuộc hành trình dù lắm gian nan.
Để có thể trung thành bước theo con đường Chúa Giêsu đã sống và vạch ra, người Kitô hữu không thể coi nhẹ hay dửng dưng với tâm tình cầu nguyện. Chính trong giây phút cầu nguyện, chìm sâu trong cuộc gặp gỡ ân tình với Chúa Cha, Chúa Giêsu đã đón nhận kế hoạch cứu độ của Cha như lẽ sống của đời mình, đây cũng là lúc Ngài biến hình vinh quang; được tỏ lộ khi Ngài chấp nhận cái chết như một phương thế tuyệt hảo để tỏ lòng vâng phục Cha và yêu thương nhân loại đến nỗi hiến dâng chính mạng sống mình. Vì thế, trong cuộc sống còn lắm vất vả bon chen và không hề thiếu vắng những cạm bẫy thử thách hôm nay, chỉ có sự chuyên cần cầu nguyện, thường xuyên đón nhận ánh sáng soi dẫn, và sức mạnh đỡ nâng của Chúa, người Kitô hữu mới thoát khỏi sự hoang mang sợ hãi hay trạng thái mê ngủ, trốn tránh thực tại trần thế với những bổn phận và trách nhiệm phải thi hành. Đành rằng quê hương vĩnh cửu ở trên trời nhưng đường lên trời lại khởi đi từ mặt đất, từ chính cuộc sống mà chúng ta phải xây dựng và làm cho phát triển mỗi ngày.
Anh chị em thân mến,
Một khi đã chiêm ngưỡng Đức Giêsu Kitô trên núi biến hình như Phêrô, Giacôbê và Gioan rồi, thì việc còn phải làm là đi theo Ngài trên con đường khiêm tốn phục vụ anh em và không vắng mặt trên các nẻo đường tiến lên đỉnh Golgotha, những nẻo đường đau thương và tử nạn thập giá với Ngài, với niềm xác tín rằng Đức Kitô Phục Sinh sẽ chia sẻ vinh quang cho các tín hữu trung thành.
Ước gì Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa chúng ta lãnh nhận trong thánh lễ hôm nay sẽ bổ sức, giúp chúng ta mạnh mẽ bước vào lòng đời để sống cho Chúa và hiến mạng vì anh em trong một cuộc sống lắm hy sinh gian khổ, nhưng cũng không kém vinh quang, vinh quang thấp thoáng hôm nay sẽ bộc lộ trọn vẹn mai sau.
Cảnh này hiển nhiên là một trong những lời đáp chủ chốt cho câu hỏi khúc mắc của Hêrôđê. Liên hệ của nó với lời tuyên xưng của Phêrô không phải nhỏ: sau lời loan báo gây hoang mang về cuộc thụ nạn của Con Người (c,22), Phêrô và hai người bạn được củng cố khi mặc khải về vinh quang của Đấng Phục Sinh. Hơn nữa, cảnh này được gắn liền rõ rệt với cảnh trước (khoảng tám ngày sau khi nói những lời ấy (c.28) và thực hiện một phần những gì Chúa Giêsu vừa mới hứa (9,27). Cuối cùng nó khai mở một cách rõ rệt con đường hướng về Giêrusalem đối tượng cho phần tiếp theo của Tin Mừng Luca.
Thể văn khác biệt một cách sâu sắc với những gì chúng ta đã gặp cho tới bây giờ: chuyện phép rửa của Chúa Giêsu cũng là một dịp cho một cuộc hiển linh, một cuộc Thiên Chúa bày tỏ mình. Tuy nhiên ở đây, việc hiển linh cho ta nghe (cc.34-35), lại theo sau một loại hiển linh của Chúa Giêsu cho ta nhìn thấy (cc. 29-33). Như trong cuộc hiển linh ở phép rửa, chính căn tính của Chúa Giêsu là vấn đề được đặt ra từ đầu đến cuối.
Phần nhập đề (c.28) gồm hai nét cho thấy, nơi Luca, tính cách quan trọng của hoạt cảnh và sự gần gũi của Chúa Giêsu với Cha Ngài: núi và việc cầu nguyện (x. 6,12). Việc chọn Phêrô, Gioan và Giacôbê được giải thích bởi sự kiện họ đã từng là nhân chứng việc chiến thắng của Chúa Giêsu trên sự chết (8,31-35).
Chính trong khi cầu nguyện ban đêm mà dung mạo Ngài bỗng đổi khác (c.29) và ba môn đệ nhìn thấy vinh quang của Ngài (c. 32). Khác với Maccô, Luca không dùng từ “biến đổi” hình dạng những vẫn ở trên một bình diện; đó là một trong những cách diễn tả theo một vài phái của Do Thái giáo, niềm tin vào sự sống lại của những người công chính. Sau ngày phán xét “vẻ huy hoàng của những người công chính sẽ chói ngời khi được biến đổi: gương mặt họ sẽ biến đổi thành một vẻ đẹp sáng ngời để họ có thể chiếm hữu thế giới không hề chết… Họ sẽ giống như các thiên thần, họ sánh được với các tinh tú. Họ sẽ mang lấy tất cả mọi dáng vẻ tuỳ theo ý họ, từ cái đẹp đến vẻ huy hoàng, từ ánh sáng đến chói ngời vinh quang” (Khải huyền Syria của Baruch, 51 –cuối thế kỷ thứ nhất của kỷ nguyên ta). Mặc lấy vinh quang đó là tham dự ánh sáng huy hoàng của Thiên Chúa hằng sống, được nâng lên tới một phẩm giá tuyệt vời, còn y phục trắng tinh, chói loà, nó cũng nói lên rằng Chúa Giêsu đang đi vào lĩnh vực thiên giới. Bằng cách đó, Chúa Giêsu như đã mặc lấy, bằng việc tham dự trước và một cách tạm thời, vinh quang vượt qua mà Ngài sẽ thừa hưởng như Đấng Phục Sinh. Nhưng có lẽ Luca cũng nghĩ rằng vinh quang này đã ngự trị nơi Chúa Giêsu trước lễ Vượt Qua, và rằng, do hiệu quả của lời cầu nguyện, Ngài không thể ngăn cản nó chiếu toả ra từ thân xác Ngài.
Môsê và Êlia từ nay cũng thuộc về thế giới thiên quốc (cc.30-31). Hai nhân vật ngôn sứ này tượng trưng cho Luật và các ngôn sứ, hai cánh cửa chính của Thánh Kinh trong đó đã loan báo Chúa Kitô phải chịu khổ hình rồi mới vào trong vinh quang của Ngài (24,26-27). Các ông không bày tỏ với Chúa Giêsu về cuộc xuất hành sự việc thụ nạn và lên trời của Ngài –những điều mà Thầy vừa nói với các kẻ thuộc về Ngài (9,22). Các ông bày tỏ cho Ngài thấy rằng những điều đó phù hợp với chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Các ông cũng tiết lộ cho Chúa Giêsu và cho độc giả, nhưng không cho các môn đệ, vai trò trung tâm của Giêrusalem trong chương trình cứu độ ấy. Giấc ngủ mà ba môn đệ thoát ra được cách khó khăn muốn nói lên rằng họ thoáng nhận ra được cuộc mặc khải –Phêrô biết được lai lịch của các người nói chuyện- nhưng không đón nhận được hoàn toàn. Bài đọc Kinh Thánh về cuộc thụ nạn họ không hiểu nổi; họ còn phải đợi Chúa Giêsu mở trí cho họ hiểu Kinh Thánh (22,44-45). Họ chỉ thấy vinh quang, mà không hiểu rằng phải qua đau khổ mới có thể đạt tới được (x.24,26). Và việc Môsê và Êlia ra đi cho thấy cuộc thị kiến làm họ hứng khởi sắp kết thúc, người phát ngôn mới tìm cách kéo dài giây phút ưu đãi này bằng lời đề nghị dựng lên những cái lều, là đặc điểm của Lễ Lều (Lv 23,33-36). Với tính cách Mêsia của nó, lễ này là thời gian vui mừng, như một tham dự trước vào thời tận cùng của lịch sử. Khi Phêrô ước mong cuộc hiển linh này kéo dài, ông không biết mình đang nói gì; chắc chắn viễn ảnh cuộc thụ nạn chưa ở trong tầm nhìn của ông.
Đám mây chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa (x. Ds 9,15-22) –điều này giải thích sự hoảng sợ thánh xâm chiếm các môn đệ. Trái với lần hiển linh ở phép rửa, khi ấy tiếng nói của Thiên Chúa phán bảo với Chúa Giêsu (3,22), ở đây chính ba ông được mặc khải rằng Chúa Giêsu là Con tiền hữu của Thiên Chúa (x.1,35): “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn; hãy vâng nghe Lời Ngài”. Tiếng nói ấy quy chiếu về Israel, đầy tớ được Thiên Chúa tuyển chọn (Is 42,1), và đặc biệt là quy về vị ngôn sứ giống như Môsê (Đnl 18,15); để được thuộc về dân Chúa cứu độ, từ nay chính Chúa Giêsu mà họ phải nghe lời bởi vì Ngài nói với một uy thế lớn hơn Môsê và Êlia (x. trích dẫn Đnl trong Cv 3,22-ABC23). Trình thuật không dạy rằng tước hiệu “Con” là tước hiệu duy nhất thích hợp với Chúa Giêsu, ngay lúc nói lên tước hiệu đó, Luca cũng làm nổi bật con người ngôn sứ của Chúa Giêsu. Cùng với tước hiệu đó, cũng trong Lc 9, còn có tước hiệu Kitô và Con Người đau khổ. Nói Chúa Giêsu là ai thực ra đòi hỏi người ta không được chỉ dừng lại ở một kiểu nói. Chỉ còn thấy một mình Chúa Giêsu. Ghi chú này nhắc ta dù có những câu 34-35 rằng chính Chúa Giêsu chứ không phải các môn đệ là nhân vật chính của trình thuật. Về vinh quang thần linh giải toả từ Chúa Giêsu, thì chưa phải lúc để ba nhân chứng phổ biến, phải đợi tới khi Chúa Thánh Thần đến và khi Giáo Hội đã được thành lập.
Ở phần cuối những đoạn nói về cuộc thương khó lần nhất, Đức Kitô đã nói rõ rằng trong số những kẻ hiện diện, có một vài người không nếm biết cái chết trước khi thấy nước Thiên Chúa. Giờ đây điều ấy được thực hiện.
1. Đức Kitô biến hình
Đức Kitô đã biến hình trên núi: y phục và dung nhan Ngài biến đổi hoàn toàn. Nhờ vinh quang chói ngời của Thiên Chúa mà y phục và dung nhan Ngài nên sáng chói; Môisen và Êlia (biểu hiệu cho lề luật và tiên tri), cùng là nhân chứng sự việc.
Việc biến hình này là sự tỏ hiện trong vinh quang Ngài cách hữu hình và thoáng qua nước Thiên Chúa. Lúc ấy, trong nước này, Cựu ước và Tân ước đều dự phần vào sự uy nghi của Chúa Kitô. Ánh sáng tràn ngập mọi nơi tăm tối, mọi khổ đau đều tan biến trong ánh vinh quang ấy.
Nhưng ở đây chưa phải là tình trạng vĩnh cửu mà chỉ là một sự chuẩn bị cho cuộc khổ nạn và thập giá vì các vị trên nói đến ‘việc ra đi Ngài sắp hoàn tất tại Giêrusalem’. Chỉ sau khi phục sinh và thăng thiên thì cuộc biến hình ấy mới kéo dài trường cửu. Bây giờ nó giống như một tiền xướng của một Thánh vịnh một loé sáng bất ngờ vụt tới từ xa, như một chặng nghỉ của cuộc hành trình đi về cái chết và như sự mặc khải nhãn tiền về những gì sắp xẩy ra.
2. Các môn đệ.
Ở đây ta lại thấy ba tông đồ đã chứng kiến việc phục sinh con gái Giarô. Khi ấy, họ chứng kiến việc chiến thắng sự chết, còn ở đây, họ được chiêm ngắm sự biến hình theo sau đó; và họ đã quá sung sướng đến nỗi Phêrô muốn dựng lều và chỉ muốn kéo dài cái phút giây mau qua ấy.
Nhưng họ thiếu bước dứt khoát, bước đi trong đám mây. Vì một đám mây bao phủ Chúa và cả hai chứng nhân kia nữa. Đám mây này biểu hiệu sự tối tăm mà họ phải vượt qua và đồng thời biểu hiệu mầu nhiệm của Thiên Chúa mà chỉ cái chết mới mở cửa bí mật ấy được. Nên cuộc biến hình thiết yếu thuộc về tương lai.
Đức tin là sức mạnh sẽ dẫn đến mục tiêu vinh quang ấy qua con đường đau khổ. Điều này giải thích lời: ‘Ngài là Con Ta, Kẻ Ta đã chọn, các ngươi hãy nghe Ngài’. Vấn đề là các môn đệ phải lắng nghe sứ điệp về cuộc khổ nạn ấy, dầu họ nghe mà không hiểu. Đấng Cứu Thế dù tự tỏ mình là Đầy Tớ đau khổ của Giavê, nhưng lại thực là Con Thiên Chúa, là Kẻ được chọn. Đấy là lý do cho thấy, điều cốt yếu là phải lắng nghe lời tiên báo kỳ lạ đó.
Đoạn này trong Kinh Thánh kết thúc cách đầy ý nghĩa bằng một câu đơn giản: ‘Trong khi tiếng phát ra, thì chỉ còn gặp một mình Đức Giêsu ở đó’. Ánh sáng tan đi, sự chói sáng mờ tối, tiếng nói cũng hết. Chỉ có đức tin mới nói được Đức Giêsu là Ai, Ngài uy nghi làm sao, và Ngài tiến tới vinh quang nào. Các môn đệ bùi ngùi và xao xuyến; họ im lặng giữ kín bí mật.
Bởi thế, trong khung cảnh đặc biệt này, ánh sáng và tối tăm, rạng rỡ và khổ đau, sống đời đời và sống tạm gửi, phương tiện và mục tiêu, vĩnh cửu trong vinh quang và hạn hẹp trong đau khổ, lời Thiên Chúa và sự lặng im của con người, đều hoà nhập vào nhau bền chặt. Từ đây, đời sống Chúa Kitô nơi trần gian cũng diễn ra như thế. Tức là thiết yếu phải bước đi trong cảnh tranh tối tranh sáng, nhưng luôn hướng về ánh sáng đang loé lên ở đầu đường.
Đó là sự hiểu biết trong âm thầm một mầu nhiệm cao cả, nhưng lúc quyết định, chỉ xẩy ra trong tương lai.
Thật đáng tiếc, sách bài đọc Chúa nhật đã cất bớt câu của Luca. Ông đã nồi "khoảng tám ngày sau khi nói những lời ấy, Đức Giêsu đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê". Lại càng đáng tiếc hơn, vì ba Tin Mừng nhất lãm đều đồng ý liên kết chặt chẽ biến cố biến hình của Đức Giêsu với cuộc đàm thoại nầy của Người "khoảng tám ngày trước đó" (Mt 17,1-9,2; Lc 8,28). Đó là một trong những trường hợp biến cố mà hai giai đoạn trong cuộc đời của Chúa Giêsu được nối liền theo thời gian. Vâng các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê phải nhớ đến sự kiện này. Tám ngày trước, đâu có một cuộc đối thoại không thể quên được, gồm hai phần: Trước hết, Người đã hỏi các ông: "Anh em bảo Thầy là ai?" và Phêrô đã trả lời câu hỏi về “lý lịch" này, bằng cách tuyên xưng đức tin vào Chúa là "Đấng Mêsia của Thiên Chúa"... Rồi ngay sau đó, Đức Giêsu bắt đầu loan báo cho họ biết cái chết sắp tới của Người. "Thầy phải chịu đau khổ nhiều, bị loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sống lại". Đó là cuộc đàm đạo của các ông còn ghi nhớ trong tâm trí.
Việc biến hình liên quan mật thiết với cuộc thương khó và biến cố Phục Sinh. Trong vài tuần nữa, Đức Giêsu lại đem ba người theo Ngài, ba người bạn này đến vườn Ghếtsêmani (Mt 26,37; MC 14,33). Gương mặt của Đức Giêsu mà họ sắp thấy rạng ngời vinh quang, lúc đó họ lại thấy thấm đầy mồ hôi và máu đỏ (Lc 22,44) bị vả tát, rồi phỉ nhổ (Mt 25,67).
Trong cuộc đàm đạo tám ngày trước, Đức Giêsu cũng loan báo cho các ông biết rằng, chính các ông sẽ phải "vác thập giá, của mình để theo Người" (Lc 9,23) và Người nói thêm rằng, "một số người sẽ không phải nếm cái chết, trước khi thấy Nước Thiên Chúa" (Lc 9,27)... “Vương quốc" bí mật này là sự phát triển vinh quang của Thiên Chúa trong nhân loại, thế thì biến cố biến hình phải chăng là một hình ảnh của vương quốc đó? Lạy Chúa, làm sao con có thể đạt được mềm vui Phục sinh, mà không phải ngang qua con đường khổ giá? Mùa Chay này có là dịp để giúp con thông hiệp với những đau khổ của Chúa không? Tuần lễ thứ hai Mùa Chay bắt đầu để "nhờ thập giá tiến đến niềm vui". Thương khó - Biến hình, cũng là một mầu nhiệm.
Cùng với Phêrô, Gioan và Giacôbê, Người lên núi để cầu nguyện.
Oi! Thật các ông đã có một dịp may đặc biệt! Cầu nguyện với Đức Giêsu! Được thấy Người cầu nguyện! Nhưng chỉ lát nữa, chúng ta sẽ thấy ngay, dù các ông có hiện diện trong lúc đó, các ông cũng không xứng đáng hưởng dịp may này. Trong khi Chúa Giêsu cầu nguyện thì các ông lại "ngủ”. Đức Giêsu thật là "con người của cầu nguyện". Vào mỗi lúc quan trọng của cuộc đời, Người đều cầu nguyện (Lc 3,21 - 5,16 - 6,12 - 9,18 - 9,28 - 10,21 -11,1 - 22,32 - 22,41 - 42-ABC23,84 - 23;46). Trong suốt Tin Mừng của ông, Luca luôn ghi nhận Đức Giêsu tìm sự cô tịch có thể gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Có một bí mật trong con người Đức Giêsu. Ngài sống trong sự thân mật đặc biệt với một Đấng nào đó mà Ngài gọi là "Cha". Đức Giêsu là "con người muốn hướng về Chúa Cha". Đó là chìa khoá khai mở lý lịch sâu xa của Ngài. "Cha" là lời xưng hô đầu tiên khi Ngài còn là một cậu bé 12 tuổi ở Đền Thánh (Lc 2,49) và cũng là lời thưa cuối cùng khi Ngài đã trưởng thành, lúc Ngài chết trên thập giá (Lc 23,46).
Vậy thì, trong Mùa Chay này, tôi sẽ hướng việc cầu nguyện của tôi như thế nào đây?
Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà.
Rõ ràng là Thánh Luca tránh dùng từ biến hình mà Mát-thêu (17,2) và Máccô (9,2) đã dùng để loan báo Tin Mừng cho người đương thời, chúng ta cũng phải biết thích nghi, có thể phải tránh một vài từ. Thính giả của Luca là những người gốc ngoại giáo, hấp thụ văn hoá Hy Lạp, có thể chỉ thấy trong từ "biến hình" một trong rất nhiều biến dạng của những thần linh có tính huyền thoại. Luca thích một thứ ngôn từ bề ngoài có vẻ khiêm tốn hơn nhằm trong lúc cầu nguyện, gương mặt của Đức Giêsu trở nên khác thường". Thực tế, khi ngắm nhìn một số người nam nữ, trong lúc họ sốt sắng cầu nguyện ta cũng có thể thấy gương mặt của họ rạng ngời từ bên trong: cũng chính là con người đó, nhưng có một cái khác thường đang toát ra.
Trong văn hoá Kinh Thánh, biểu tượng "y phục" cũng giúp ta bổ sung cho sự quan sát đầu tiên này. Y phục “trắng tinh và chói loà" là “dấu chỉ" cho các hữu thể trên trời (Đn 7,9-10,5) Còn các Kitô hữu đầu tiên dùng để nói về Đức Giêsu. Phục Sinh (Kh 1,13, Lc. 17,23-24,4). Đó là tấm áo trắng các bé thơ của chúng ta thường mang khi chịu phép rửa... Ao trắng của những người lớn khi tuyên xưng lại đức tin... áo trắng của cô dâu trong ngày cưới, áo của linh mục trên bàn thờ... Đó là những dấu chỉ của Phục sinh, dấu chỉ của những môn đệ, chia phần vinh quang với Thầy (Kh 3,4-5 - 3,18-4,4 - 6,11-7,9-9,13)
Khi gợi lên cho ta thấy Đức Giêsu với “gương mặt biến đổi" nhờ cầu nguyện, Luca có ý khích lệ chúng ta. Trong cuộc sống đầy thử thách và thất bại, đầy đau khổ và tội lỗi chỉ có cầu nguyện, vào những lúc nào đó, mới có thể biến đổi chúng ta. Bởi vì chúng ta cũng được "biến đổi" phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương" (2 Cr 3,18). Khuôn mặt Mùa Chay, phải là khuôn mặt biến đổi!
Có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Ê-li-a. Hai vị hiện ra rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sấp hoàn thành tại Giêrusalem.
Chỉ mình Luca mới nói cho chúng ta biết về đề tài cuộc đàm đạo giữa Chúa và hai chứng nhân vĩ đại của Cựu ước: Họ nói về việc Chúa lên đường, cuộc "xuất hành" (exodou, theo từ Hy Lạp). Chúng ta không hiểu rõ Đức Giêsu đã sống bị ám ảnh và đeo đuổi trước viễn tượng về cái chết của mình như thế nào, cái chết mà Gioan gọi là sự “bước qua" cuộc vượt qua của Người ( Ga 13, 1 ) và Luca gọi là "sự bốc đi" (Lc 9,51-24,51). Đức Giêsu là con người hy sinh chính thân mình. Người biết Người đến để làm gì, sẽ đi về đâu Ngời đi về cùng Chúa Cha, Người "bước vào trong vinh quang bằng cách ngang qua cái chết", và kéo theo Người toàn thể nhân loại. Mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giêsu tại Giêrusalem, là tóm tắt toàn bộ lịch sử con người, tóm tắt định mệnh của tôi: Dù tôi muốn hay không, dù tôi ý thức hay không, tôi cũng đang bước đi trên con đường về với Chúa, bằng cách vượt qua cái chết. Tôi đang "xuất hành", rời bỏ miền đất nô lệ để đến miền đất hứa. Giáo Hội bắt đầu Mùa Chay, vào ngày lễ tro, để nhắc cho ta nhớ định mệnh của ta: "Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về tro bụi!".
Nhưng cuộc biến hình sẽ biến đổi tình trạng phũ phàng của ta thành một viễn tượng vinh quang: Nhờ trở thành tro bụi, chúng ta mới bước vào trong Chúa. Niềm tin nơi Đức Giêsu là một điều lạc quan phi thường. Đó là ánh sáng cho mọi người? Chúng ta đang tiến về với Thiên Chúa.
Ong Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu và hai nhân vật đứng bên Người. Đang lúc hai vị này rời xa Đức Giêsu, ông Phêrô thưa với Người rằng: "Thưa Thầy chúng con ở đây hay quá! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cái cho Thầy một cái cho ông Môsê, và một cái cho ông Êlia". Ong không biết mình đang nói gì.
Trước cảnh tượng gây ngỡ ngàng mà các ông đang chứng kiến một lần nữa các tông đồ không hiểu gì. Các ông đang sống trong tình trạng tranh tối tranh sáng, vừa tỉnh vừa mê, nói linh tinh. Tiếp cận với thế giới thần linh, không thể nói lên bằng ngôn ngữ rõ ràng được. Khi mọi sự kết thúc, nghĩa là khi Môsê và Êlia đã ra đi, thì các ông mới nhập cuộc, mới ấp úng mở lời. Tại Ghếtsêmani, cả ba người này đều ngủ cả.
Môsê và Elia là những con người của núi Sinai (Xh 38,18-22; 1 V 19~9-14). Cả hai như bừng cháy lên vì được gặp cảnh tượng không thể diễn tả. Cả hai, đều đã khơi dậy công cuộc giải phóng dân tộc mình khỏi mọi thần tượng đang chiếm chỗ của Thiên Chúa duy nhất. Đức Giêsu đã đàm đạo thân mật với các vị ngôn sứ lớn trong cựu ước. Trong Mùa Chay tôi có dành thời giờ để mở Kinh Thánh không?
Ong Phêrô còn đang nói, thì có đám mây đến bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ.
Khác với Mát-thêu và Máccô, Luca đưa ba môn đệ vào trong "đám mây: là biểu tượng thường xuyên của thế giới thần linh. Vì các Ngài còn không hiểu gì về biến cố. Biến hình vua xảy ra, nên có thể nói, chính Chúa đã muốn mạc khải lần thứ hai cho các ông. Để bước vào trong Chúa, chúng ta cần phải trải qua nhiều giai đoạn liên tiếp. Và một lần nữa, chúng ta lại ghi nhận sự sợ hãi liên tiếp của những người được gặp gỡ Chúa: Vì đó là Đấng hoàn toàn khác". Hơn nữa, họ đâu có gì về việc đó lần này họ cũng lại im lặng.. Tất cả những, định nghĩa tín tý, theo lý trí, về Thiên Chúa, chỉ là những lời lẽ phần lớn là sau những lời nói tầm phèo. Lạy Chúa, Chúa vượt trên mọi quan niệm, chúng con chỉ có thể gọi Chúa là Đấng mà chúng con “không thể nhận biết được". Chúng ta nên im lặng, thinh lặng nội tâm: Chúng ta hãy bước vào bóng mờ của đám mây, trong màn sương mù tạo bóng tối, trong đó ta không thấy cách xa bốn thước, nơi đó, ta phải dò dẫm, tìm đường mà đi.
Và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta, Người đã được Ta chuyện chọn". Hãy vâng nghe lời Người.
Ở đây Mát-thêu và Luca đã dùng từ "Con yêu dấu” (tiếng Hy Lạp là "Aga pèto). Chỉ có Luca dùng từ "Người con đã được tuyển chọn" (tiếng Hy Lạp là "eklegnlenos"). Những nhà duy lý đề cao lịch sử, thường đặt vấn đề: Thực sự tiếng nói đó đã hàm chứa điều gì? Các Tin Mừng không hề quan tâm đến việc trả lời sự tò mò đó. Từ "được tuyển chọn", là do Luca tự ý viết ra. Luca tham chiếu nhiều đoạn sách ngôn sứ Isaia trong đó từ này nói về "dân Chúa" một cách tập thể, hay nói về nhân vật bí mật "Người tôi tớ của Thiên Chúa" (Is 42,1~3). Vào lúc Chúa bị đóng đinh, Luca cũng sẽ dùng lại từ này (Lc 23,35).
Chúng ta cũng vậy, chúng ta đã được tuyển chọn do phép rửa của mình và mọi người lựa chọn đều nhằm tách riêng con người ra, để phục vụ kẻ khác. Chúa đã tuyển chọn tôi vì Người đang mong đợi một điều nào đó nơi tôi, một cái gì rất độc đáo.
Tiếng phán vừa dứt, thì chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu. Con các môn đệ thì nín thinh, và trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã xem thấy.
Như vậy thì tốt hơn! Các ông đã không hiểu gì ngay lúc đó. Sau này các ông sẽ hiểu, khi Đức Giêsu sẽ là “Người tôi tớ”, người "được tuyển chọn trong biến cố Vượt qua”, trong cuộc xuất hành của Ngài về với Chúa Cha.
Trình thuật Lc 9, 28b – 36 là câu chuyện về cuộc hiển dung của Đức Giêsu. Câu chuyện này chuẩn bị cho chúng ta hiểu mầu nhiệm vượt qua mà Đức Giêsu sẽ thực hiện tại Giêrusalem.
“Đức Giêsu lên núi cầu nguyện đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê” ( c. 28b ). Đức Giêsu đem theo mình ba đồ đệ. Ông Gioan được kể tên trước ông Giacôbê theo thói quen của Lc. Các ngài lên núi. Đó là nơi chốn biểu tượng cho sự gần gũi với Thiên Chúa, là nơi chỗ của mạc khải và là nơi Đức Giêsu thường cầu nguyện thâu đêm trong cô tịch ( 6, 12 ).
Tác giả Luca không xác định rõ đó là núi nào, cũng chẳng nói núi ấy cao hay thấp. Một truyền thống có từ thời ông Ôrigênê cho rằng đó là núi Ermon ( cao 2800m ) nằm ở phía bắc Xêdarê Philípphê. Nhưng núi ấy quá cao, không thể đi lên đến đỉnh chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, vả lại nó cũng quá lạnh, không phù hợp với việc cầu nguyện thâu đêm. Một truyền thống khác cho rằng đó là núi Tabor ( cao 950m ), không xa Nadarét. Nhưng hình như vào thời Chúa Giêsu đã có một pháo đài được xây trên đó.
Trong Tin Mừng theo Thánh Luca, ý định của Đức Giêsu khi đưa ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê lên núi không phải là để tỏ mình ra cho các ông, mà là để cầu nguyện. Biến cố hiển dung xảy đến khi Đức Giêsu đang chìm vào trong tương quan vô cùng thân mật với Thiên Chúa. Cũng tương tự như vậy, một cuộc thần hiện đã xảy ra khi Đức Giêsu đang cầu nguyện sau khi đã chịu phép rửa.
Trong Luca, Đức Giêsu thường lên núi cầu nguyện vào ban đêm. Trình thuật Tin Mừng hôm nay còn nhắc đến việc ông Phêrô và các bạn “ngủ mê mệt” ( c. 32 ) và “hôm sau” ( c. 37 ). Những điều đó cho thấy sự kiện hình như diễn ra vào ban đêm. Và như thế, mối tương quan của biến cố hiển dung này với biến cố tại vườn Dầu được khắc hoạ khá rõ nét.
“Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà” ( c. 29 ). Việc cầu nguyện diễn ra trước khi Đức Giêsu hiển dung và dẫn đưa vào biến cố hiển dung đó. Thánh Luca đã cố ý tránh dùng động từ “biến hình đổi dạng” ( metamorphousthai ) mà thánh Máccô đã dùng. Chúng ta không rõ tại sao ông lại cố ý tránh như thế. Thay vào đó, tác giả Luca chỉ viết đơn giản: “dung mạo Người bỗng đổi khác”. Cách diễn tả “trắng tinh chói loà” là cách diễn tả mang tính khải huyền, có giá trị biểu tượng cho điều kiện thiên thai, phản ánh sự siêu việt thần linh của Thiên Chúa, của chiến thắng, của vinh quang. Ở câu 32, tác giả sẽ nói rõ đó là “vinh quang của Đức Giêsu”. Nhiều người coi câu 29 là một lời có ý khẳng định về thần tính của Đức Giêsu. Có lẽ không phải như vậy: còn quá sớm để Lc đưa ra khẳng định đó. Nhưng dù sao chăng nữa, lời khẳng định của Lc ở đây có bao hàm vinh quang phục sinh của Đức Giêsu. Thực tại thần thiêng và siêu việt đó, bây giờ, đã “đâm thủng” và vượt quá thực tại phàm trần và sự khiêm nhường của con người đang chìm trong cầu nguyện. Thần tính không hề thay thế nhân tính của Đức Giêsu.
“Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem” ( cc. 30 – 31 ).
Trong biến cố hiển dung của Đức Giêsu, xuất hiện hai con người chứ không phải hai thiên thần, nhưng hai con người này đều “rạng ngời vinh hiển”, tức là họ đến từ thế giới thiên thai. Đó là ông Môsê và ông Êlia. Hai ông đàm đạo với Đức Giêsu “về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem”.
Tác giả Luca không nói rõ ý nghĩa của sự kiện ông Môsê và ông Êlia xuất hiện, và tại sao lại là hai ông chứ không phải là các nhân vật nào khác. Cặp đôi Môsê và Êlia có lẽ được đề cập đến ở đây như là đại diện cho Lề Luật và các ngôn sứ, là những thực tại được thành toàn nơi Đức Giêsu. Một cách lý giải khác nhấn mạnh tính cách là “các ngôn sứ cánh chung” của hai nhân vật này. Sự xuất hiện của họ cho thấy thời buổi đã mãn, hoặc sự kiện Đấng Mêsia của Đức Chúa ngự đến đã xảy ra. Hiểu theo nghĩa này, sự xuất hiện của Môsê và Êlia là chỉ dẫn cho thấy thời Mêsia đã đến.
Trong Luca, nhiều lần xuất hiện kiểu diễn tả “Môsê và các ngôn sứ” ( Lc 16, 29.31; 24, 27; Cv 26, 22 ). Có lẽ trong trình thuật hiển dung này, cần phải hiểu cách diễn tả “Môsê và Êlia” theo đường hướng chung đó. Như thế, Môsê và Êlia là đại diện cho Kinh Thánh, vốn tiên báo về số phận đau khổ của Đức Giêsu. Và quả thực, đó cũng là chủ đề của cuộc đàm đạo. Nói cách khác, hai nhân vật này có ý diễn tả lời loan báo của toàn thể Kinh Thánh Cựu Ước về số phận của Đức Giêsu và khẳng định rằng con đường đau khổ mà Đức Giêsu sắp hoàn thành trong cuộc thương khó của Người là một thực tại thuộc về chương trình của Thiên Chúa được Kinh Thánh xác nhận.
Môsê và Êlia nói về cuộc xuất hành của Đức Giêsu. Hạn từ “cuộc xuất hành” gợi ý về biến cố Xuất Hành trong Cựu Ước. Nó bao hàm cái chết, nhưng không chỉ giới hạn trong mầu nhiệm tử nạn của Đức Giêsu. Đây là mầu nhiệm vượt qua của Người, tức là có bao hàm ý nghĩa chỉ về mầu nhiệm phục sinh, cho dù ý nghĩa chỉ về cái chết của Đức Giêsu vẫn rõ ràng được nhấn mạnh.
Nội dung của cuộc đàm đạo, như thế, cho thấy rằng con đường khổ giá mà Đức Giêsu sắp hoàn thành là một hành trình được thiết lập bởi chính Thiên Chúa. Trong biến cố hiển dung, cuộc hành trình của Đức Giêsu tiến về Giêrusalem ( 9, 51 ) được trình bày như là thực tại nằm trong chương trình của Thiên Chúa để thực hiện ơn cứu độ đã được loan báo trong Cựu Ước. Có lẽ đó là ý nghĩa của sự hiện diện của ông Môsê và ông Êlia trong biến cố hiển dung.
“Còn ông Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu, và hai nhân vật đứng bên Người” ( c. 32 ). Giấc ngủ của các đồ đệ ở đây là hình ảnh muốn diễn tả sự chậm tin và u mê của các ông trước mạc khải của Thiên Chúa. Sẽ là vô ích nếu chúng ta tìm cách đưa ra những lời giải thích “lịch sử”, ví dụ cho rằng các ông ngủ mệt là vì đoạn đường lên núi khá xa đã khiến các ông mệt nhoài, hoặc là vì đêm đã về khuya. Vấn đề không phải là sử tính của giấc ngủ mê mệt này, mà là ý nghĩa của nó.
“Đang lúc hai vị này từ biệt Đức Giêsu, ông Phêrô thưa với Người rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia." Ông không biết mình đang nói gì” ( c. 33 ). Thánh Luca là tác giả duy nhất cho chúng ta biết lý do của đề nghị của ông Phêrô trong biến cố hiển dung. Theo Lc, đó là lúc ông Môsê và ông Êlia từ biệt Đức Giêsu. Vậy đề nghị của ông Phêrô có thể được hiểu như ý muốn làm chậm lại cuộc chia tay và kéo dài kinh nghiệm về vinh quang nối kết cõi thiên thai với cõi phàm trần này. Trong thực tế, ý tưởng về các chiếc lều trong câu nói của ông Phêrô là một ý tưởng có giá trị tôn giáo. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã từng ngự trong Lều Hội Ngộ trong suốt cuộc xuất hành của dân. Lều Hội Ngộ đã là hình ảnh tiên báo mầu nhiệm Thiên Chúa cư ngụ chung cục và mai hậu giữa con cái loài người.
“Ông còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ” ( c. 34 ). Như một câu trả lời cho đề nghị của ông Phêrô, một đám mây bao phủ lấy các ông. Trong Cựu Ước, đám mây là thực tại có tầm quan trọng đặc biệt về phương diện thần học. Đó là dấu hiệu hữu hình của sự hiện diện vô hình của Thiên Chúa và của vinh quang Ngài. Trong Xh 24, 15 – 18, ông Môsê đi vào trong đám mây đang bao phủ đỉnh núi, nơi vinh quang của Đức Chúa đang hiển ngự. Trong Xh 40, 34 – 35 “đám mây che phủ Lều Hội Ngộ, và vinh quang ĐỨC CHÚA đầy tràn Nhà Tạm; ông Môsê không thể vào Lều Hội Ngộ vì đám mây đậu trên đó, và vinh quang ĐỨC CHÚA đầy tràn Nhà Tạm”. Vậy rõ ràng là trên núi hiển dung, có sự hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa và của thế giới thần thiêng mà những kẻ đang có mặt ở đó được mời gọi đi vào. Sự sợ hãi của các đồ đệ ở đây được tác giả Lc trình bày như là một sự kính sợ của con người trước sự hiện diện của thực tại thánh thiêng. Sự sợ hãi đó là nét đặc trưng của phản ứng của con người trước một hiện tượng siêu nhiên.
“Và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người !” Tiếng phán vừa dứt, thì chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu. Còn các môn đệ thì nín thinh, và trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy ( cc. 35 – 36 ).
Tiếng của Thiên Chúa phán từ đám mây trong trình thuật này nhắc cho chúng ta tiếng được phán trong cuộc thần hiện sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa ( Lc 3, 22 ), nhưng lần này thay vì phán trực tiếp với Đức Giêsu thì lại là tiếng phán với các đồ đệ của Người. Tác giả Luca nối kết Tv 2, 7 với Is 42, 1 và đặt vào bối cảnh cuộc hiển dung nhằm cho thấy sự nối kết chặt chẽ giữa vinh quang mà Đức Giêsu thực hiện với sự cần thiết của con đường đau khổ. Sau đó, chính Thiên Chúa Cha yêu cầu các đồ đệ của Đức Giêsu vâng nghe lời Đức Giêsu, tức là đi theo cùng một con đường vượt qua của Người. Lời Thiên Chúa phán từ đám mây rõ ràng đối ngược với ý muốn của ông Phêrô muốn cố định mình, ngay từ bây giờ, trong vinh quang của Vương Quốc Mêsia đang đến.
Khi tiếng phán vừa dứt, thì chỉ còn lại một mình Đức Giêsu. Hai ngôn sứ và đám mây đã biến mất. Chi tiết này rất có ý nghĩa đối với Hội Thánh và mỗi người chúng ta. Nó cho biết đâu là điều cần thiết duy nhất đối với Hội Thánh: “chỉ còn một mình Đức Giêsu”. Chỉ một mình Đức Giêsu đang ở đây với các đồ đệ , và Người có lời ngỏ với Hội Thánh, còn nhiệm vụ của Hội Thánh là vâng theo lời ấy.
Tác giả Lc không kể lại chi tiết Đức Giêsu yêu cầu các đồ đệ giữ im lặng. Nhưng ông viết: “trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy”. Vậy sự kiện các đồ đệ “không kể lại cho ai biết” ở Tin Mừng theo Thánh Luca không phải là sự kiện xuất phát từ một lệnh truyền. Đó là sự thinh lặng trước một biến cố siêu nhiên mà mình chưa hiểu hết ý nghĩa.
Tóm lại, trong cuộc hiển dung, Đức Giêsu được giới thiệu như là niềm hy vọng đích thực của nhân loại và như là Đấng hoàn thành Cựu Ước.
- Luca nói về cuộc “vượt qua” của Đức Giêsu, tức là mầu nhiệm bao hàm cả cái chết lẫn sự phục sinh của Người.
- Ba đồ đệ ngủ mê mệt là hình ảnh sự bất lực của người ta trong việc đi vào mầu nhiệm đó của Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu sẽ kéo họ ra khỏi tình trạng bi đát ấy nhờ ân sủng của Người và nhờ vinh quang của Người.
- Đám mây biểu tượng cho sự siêu việt của Thiên Chúa và cho sự hiện diện của Người. Đám mây đó bao phủ tất cả các đồ đệ đang hiện diện.
- Ba đồ đệ nghe được tiếng Chúa Cha phán, khẳng định Đức Giêsu là Con được tuyển chọn của Thiên Chúa: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người !” Lời đó cũng đang được phán với mỗi người chúng ta hôm nay.
Lm. NGUYỄN THỂ HIỆN, DCCT ------------------------------------
Sự kiện Đức Giêsu biến hình là một trong những dấu lạ Ngài tỏ hiện quyền năng cho các Tông Đồ thấy mà tin, nhằm củng cố niềm xác tín của các ông. Chứng kiến vinh quang của Ngài trên núi Tabor, các tông đồ hết sức ngạc nhiên và vui mừng vì vinh quang sáng lạn của Ngài: “…Y phục Người trở nên trắng xóa chói lòa. Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia.” ( Lc 9, 29 – 30 ) Như không muốn giây phút vinh quang ấy mất đi, ông Phêrô đã thốt lên: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay ! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cái cho Thầy, một cái cho ông Môsê và một cái cho ông Êlia.” ( Lc 9, 33 ).
Tin Mừng ghi rõ, ông Phêrô nói nhưng không biết mình đang nói gì. Có lẽ trong phút ngây ngất trước vinh quang tột bậc của Đức Giêsu, ông Phêrô không muốn khoảnh khắc hạnh phúc ấy bị mất đi, cho nên mới thốt lên lời đề nghị như vậy. Đang khi chưa bừng tỉnh, các tông đồ còn bị cuốn vào trong đám mây, khiến các ông hoảng sợ. Và từ trong đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người !” ( Lc 9, 35 )
Đức Giêsu đang cầu nguyện với Thiên Chúa Cha, thì dung mạo Người biến đổi. Điều kiền cần để được biến đổi, đó chính là cầu nguyện, đó chính là sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Chúng ta chỉ có thể thay đổi khi được Thiên Chúa biến đổi. Muốn được biến đổi, cần phải có ơn Chúa, cần nhờ đến quyền năng của Ngài và cần có sự kết hiệp với Ngài.
Khi được biến đổi, con người thường hay có xu hướng muốn ở lại trong vinh quang, trốn tránh sự thật, không muốn đối diện với thực tế cuộc sống. Khi cầu nguyện được ơn sốt sắng, con người thường hay có hoài bão được ở mãi trong hạnh phúc, lầm tưởng mình đã thánh thiện đủ, đã hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và sống cho một mình Ngài, nhưng khi trở về với cuộc sống thường nhật, đối diện với những thách đố của cuộc sống, con người lại trở về với bộ mặt thật của mình, đầy dẫy những yếu đuối, tội lỗi và tham vọng.
Thế nên, chúng ta cần phải thường xuyên gặp gỡ kết hiệp với Thiên Chúa, để kín múc tình yêu và sự thánh hóa của Ngài, khi đã được quyền năng và ân sủng Thiên Chúa biến đổi, con người có thêm sức mạnh và động lực mà đối diện với cuộc sống đầy khó khăn, thử thách. Một khi đã được ơn Chúa nâng đỡ, con người can đảm đối diện với thách đố của cuộc sống với lòng tin yêu vững vàng vào vinh quang Thiên Chúa.
Nhân loại thường hay mơ ước, được trở nên xinh đẹp, thông minh, tài giỏi. Nhìn vào những mẫu người là chuẩn mực cho cái đẹp, họ khao khát được giống với thần tượng của mình. Chính vì mục đích ấy, mà nhân loại không loại trừ bất cứ hình thức nào để có thể làm cho mình đẹp hơn, hấp dẫn hơn. Người ta có thể bỏ ra hàng triệu đô để đổi lấy sắc đẹp. Người ta cũng không hề ngần ngại cướp đi hạnh phúc, ngay cả mạng sống của người khác để đổi lấy tấm áo danh dự, địa vị, quyền lực… Nhưng chả mấy ai dám từ bỏ tất cả để được mặc tấm áo linh hồn tinh tuyền, thánh thiện.
Lời nhắn nhủ của Thiên Chúa Cha là một khẳng định nhắc nhở chúng ta phải tin nhận vào Đức Giêsu và vâng nghe lời Ngài dạy bảo. Tin vào Tin Mừng là một trong những điều kiện để được ơn cứu độ. Vì Lời Chúa chính là chân lý, là ánh sáng, là linh dược chữa lành mọi vết thương tội lỗi. Thiên Chúa Cha đã tuyên bố ngôi vị của Đức Giêsu để cho nhân loại nghe biết và tin thờ. Sự kiện hiển dung hôm nay cũng chính là mặc khải của Thiên Chúa về mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi. Ngôi Cha, Ngôi Con và Chúa Thánh Thần, cùng kết hiệp mật thiết trong chương trình sáng tạo và cứu chuộc.
Lạy Chúa, chứng kiến vinh quang của Ngài trên núi Tabor, ông Phêrô đã không kìm nổi sự khao khát được sống mãi trong hạnh phúc vinh quang của Ngài, để rồi xin được cắm lều ở lại. Hạnh phúc mà Thiên Chúa tỏ lộ cho các Tông Đồ cũng chính là hạnh phúc thiên đàng mai sau chúng con được diện kiến.
Thế nhưng, đường lên núi xa và cao lắm, đường lên trời lại càng xa hơn. Chỉ khi nào con ở lại trong Chúa, chỉ khi nào có Ngài luôn hiện diện trong con, biến đổi con, thánh hóa con, lúc ấy con mới được diễm phúc hưởng nhờ ân phúc mai hậu.
Xin giúp con luôn biết lắng nghe và vâng phục, xin giúp con biết thi hành ý Chúa, can đảm đánh đổi giá trị cuộc sống bằng giá trị thiêng liêng. Mặc cho thời gian, mặc cho sóng gió cuộc đời hay con người có làm con phai tàn, nhưng dung mạo tâm hồn con vẫn được nguyên vẹn, tinh tuyền như thuở ban đầu vì có tình yêu và bàn tay quyền năng Thiên Chúa biến đổi.
Vào ngày 12.4.1961, Yuri Gagarin trở thành phi hành gia đầu tiên cùng với phi thuyền Vostok-1 bay được một vòng quanh qũy đạo trái đất trong 1 giờ 48 phút, với vận tốc 17.000 miles một giờ. Anh trở thành một anh hùng của dân tộc Nga vào thời điểm ấy, đã làm cho cả Liên Xô hãnh diện vì sự tiến bộ của họ. Sau đó, có một buổi tiếp tân rất lớn để vinh danh anh. Người bạn thân và đồng nghiệp của anh là phi hành gia Alexei Leonov thuật lại câu chuyện như sau:
Lúc ấy Tổng bí thư Nikita Khrushchev hỏi dồn Gagarin: "Vậy nói cho tôi biết, anh có thấy Thiên Chúa trên đó không ?" Lưỡng lự một chút, Gagarin trả lời dứt khoát: "Vâng thưa ngài, tôi có thấy !” Khrushchev cau mày, ông dặn dò: "Đừng nói với bất kỳ ai." Vài phút sau, người đứng đầu Giáo Hội Chính Thống Nga lại bên, hỏi Gagarin: "Vậy, con cho cha biết, con có nhìn thấy Thiên Chúa trên đó không ?" Gagarin do dự trả lời: "Không, thưa cha con không thấy." Ngài dặn: "Đừng nói với bất cứ ai." ( Giai thoại trong New Age Journal, Vol. 7 ( 1990 ), p. 176 ).
Thực tế Yuri Gagarin đã được rửa tội trong Giáo Hội Chính Thống, nhưng do áp lực của Xô Viết đối với Kitô giáo, anh buộc phải dè chừng lại chính mình. Sau khi bay vào vũ trụ, Gagarin đã tới Nhà Thờ Ba Ngôi Thiên Chúa của Đan Viện Thánh Sergi lớn nhất nước Nga, để tạ ơn Thiên Chúa đã cho chuyến bay thành công tốt đẹp... ( Ảnh chụp anh Gagarin được Khrushchev đích thân đón mừng )
Xưa kia, ông Môsê lên núi Sinai, được Thiên Chúa ban 10 Điều Răn, rồi ngôn sứ Êlia lên núi Khôrép, được Thiên Chúa ban cho sứ vụ. Nay Chúa Giêsu lên núi Tabor cùng với ba vị Tông Đồ, Phêrô, Gioan, Giacôbê, diện mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa. Người đàm đạo với hai vị tiền bối Môsê và Êlia về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem.
Nhưng muốn được vinh dự lên núi Chúa, đâu phải đơn giản, dễ dàng và thoải mái như bây giờ leo núi bằng cáp treo.
Thanh tẩy
Chuẩn bị lên núi Thiên Chúa, ông Môsê nhắc nhở dân chúng phải tấy uế, giữ mình thanh sạch cả tâm hồn lẫn thể xác. “Ông Môsê từ trên núi xuống nói với dân và bảo họ giữ mình cho khỏi nhiễm uế; họ giặt quần áo. Ông Môsê bảo: “Trong ba ngày, anh em phải chuẩn bị sẵn sàng. Đừng gần gũi đàn bà.” ( Xh 19, 14 – 15 )
Trước khi bước vào công cuộc rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu vốn chẳng hề vương vấn tội nhơ, vẫn lặng lẽ, khiêm hạ đến cùng Ngôn Sứ Gioan Tiền Hô, để được chịu phép Thanh Tẩy, cùng được tràn đầy ơn Đức Chúa Thánh Thần.
Nhưng than ôi, chiếc áo trắng ngày chịu Phép Rửa Tội của tôi, nay đã hoen ố, lốm đốm, đen đúa, vền vện đỏ đen, lấm lem dầu nhớt, lỗ chỗ vết thủng, rách rưới, tả tơi. Chẳng còn tươm tất, nguyên vẹn, sạch sẽ, trinh nguyên, như tâm hồn trẻ thơ nữa. May thay, sau khi ăn năn, sám hối, nhờ ơn Hòa Giải, tấm áo đã được tấy trắng, tuy không còn được như mới, nhưng cũng trở nên sạch sẽ, thơm tho, lành lặn, không còn là mớ giẻ rách bỏ đi, chỉ đáng vất vào lò lửa không bao giờ tắt.
Chay tịnh và cầu nguyện
Ông Môsê dẫn dắt dân Israel bốn mươi năm trong sa mạc, một cuộc lữ hành trường kỳ, gian lao, khổ cực, một cuộc chay tịnh hoàn hảo, chỉ có bánh manna và nước lã. Tuy nhiên lòng dạ dân Israel vẫn chưa tĩnh, còn ngồn ngang trăm bề, nhung nhớ củ hành của tỏi Ai Cập, lẫn bụt thần dân ngoại.
Khi đào thoát khỏi tay hoàng hậu Ideven, ngôn sứ Êlia chạy trốn trong sa mạc, kiệt sức, ông được thiên sứ dưỡng nuôi bánh và nước. Tâm hồn thanh tịnh, phó thác vào tay Chúa Quan Phòng, ngôn sứ Êlia đi một mạch, suốt bốn mươi đêm ngày tới Khôrép, là núi của Thiên Chúa, để được giao sứ vụ. ( 1V 19, 8 )
Chúa Giêsu khởi đầu công cuộc cứu độ nhân thế, bằng bốn mươi ngày đêm chay tịnh và cầu nguyện trong hoang mạc, chịu tôi luyện hết cơn cám dỗ này đến cám dỗ khác. Một lòng một dạ trung kiên, đi theo Thánh Ý Chúa Cha, đã được công khai xác nhận: “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng lời Người !” ( Lc 9, 35 )
Bước vào Mùa Chay Thánh, tôi lại coi chay tịnh chỉ như nghi thức bắt buộc của tín hữu Công Giáo, nên chỉ tuân giữ theo hỉnh thức: kiêng thịt và ăn chay. Mà lòng dạ chẳng hề chay tịnh, chẳng hề thay đổi được gì. Vẫn cứ ham hố sự đời: tình, tiền, chức tước, địa vị… Cứ làm như tôi qua mặt Chúa dễ dàng, như lừa dối ông giám thị nhà trường, hay đốc công, giám sát tại công ty, xí nghiệp. Tôi đang theo đạo, giữ đạo, sống đạo hình thức, chứ nào sống trung thực Tin Mừng !Làm sao tôi xứng đáng lên núi Chúa ?
Từ bỏ mình và vác thập giá
Cuộc xuất hành của dân Israel ra khỏi Ai Cập trước tiên có ý nghĩa từ bỏ tất cả những gì dính líu đế thân phận nô lệ. Ông Môsê đã giải thoát dân Israel, và dẫn đưa về miền Đất Hứa. Còn Chúa Cứu Thế sau này giải phóng con người toàn diện, khỏi ách nô lệ cũa ma qủy.
Không những từ bỏ những cám dỗ của thế gian, xác thịt và ma quỷ, Chúa Giêsu còn đòi hỏi từ bỏ chính mình, bỏ cái tôi kiêu căng, tự phụ, lố bịch, để chấp nhận đau khổ, sỉ nhục và đọa đầy, vác thánh giá mà theo Người, nếu ai muốn lên Núi Chúa.
“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay thiệt thân, thì nào có lợi ích gì ?” ( Lc 9, 23 – 25 )
Ông Môsê, ngôn sứ Êlia, và cả Chúa Giêsu đã sẵn sàng từ bỏ mình, nhập thể, chấp nhận vác thập giá, chấp nhận đau khổ, thử thách, để được vinh dự đến với Thiên Chúa. Còn tôi lại chạy trốn khó khăn, khổ cực, đòn vọt, để yên thân, no cơm ấm cật. Tôi từ bỏ vợ con, anh em, bè bạn, để lấy vợ bé, để ngoại tình, để kết bè kết bạn với kẻ xấu, với ma quỷ, hầu được vinh hoa phú quý, sao dám mơ tưởng lên Núi Chúa ?
“Abraham đã ra đi, vì hy vọng đến Đất Hứa. Maisen đã ra đi, vì hy vọng cứu dân Chúa khỏi nô lệ. Chúa Giêsu đã ra đi từ trời xuống đất, vì hy vọng cứu nhân loại” ( Đường Hy Vọng, số 4 ).
Lạy Chúa Giêsu, được diện kiến Thiên Chúa là cõi phúc tuyệt vời, xin cho con luôn sống trong nguồn ơn thánh của Chúa, để linh hồn con có thể cảm nghiệm được sự vui sướng ngọt ngào, khi có Chúa ở cùng.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp con thanh tẩy, thắng vượt mọi cám dỗ, biết từ bỏ mình, để được diện kiến Thánh Nhan Chúa. Amen.
Hạnh phúc là gì ? Chắc hẳn chẳng ai có một định nghĩa chính xác nhất. Người thì cho thế này là hạnh phúc, người thì cho thế kia là hạnh phúc, người lại cho thế nọ là hạnh phúc. Chẳng ai giống ai, mỗi người đều có quan niệm và cách sống khác nhau ! Có chuyện kể thế này: Người nọ nghe nói có một đạo sư nổi tiếng nên tìm đến hỏi về đạo. Đến nơi, anh thấy trong nhà của vị đạo sư trống trơn, chỉ có một cái giường, một cái bàn, một cái ghế và một cuốn sách.
Anh ngạc nhiên hỏi: “Sao nhà đạo sư trống trơn, không có đồ đạc gì cả ?” Đạo sư hỏi lại: “Thế anh có hành lý gì không ?” Anh đáp: “Dạ, có một vali”. Đạo sư hỏi: “Sao anh có ít đồ vậy ?” Anh đáp: “Vì đi du lịch nên đem ít đồ”. Đạo sư nói: “Tôi cũng là một người du lịch qua cuộc đời này nên không mang theo đồ đạc gì nhiều”.
Một câu nói đầy triết-lý-sống. Chúng ta thường quên rằng mình cũng chỉ là “khách du lịch qua cuộc đời này” – lữ khách trần gian, nhưng lại lầm tưởng mình sẽ ở mãi nơi đây, nên tham lam, ôm đồm, tích trữ quá nhiều đồ vật, tài sản. Đàn bà lo tích trữ đủ loại quần áo, giầy dép, vòng vàng, nữ trang... Đàn ông lo thu gom đủ thứ máy móc, xe cộ, tivi, điện thoại...
Ở đời, người ta thường cho hạnh phúc là có được cái này hoặc cái kia như nhà lầu, xe hơi, vợ đẹp, con ngoan, tài sản, địa vị, chức quyền... Thế nên khi chưa có thì người ta muốn có, làm đủ mọi cách để chiếm hữu; có rồi thì người ta sợ mất hoặc xem thường, rồi lại muốn có cái khác “ngon” hơn, nếu không thỏa mãn thì buồn phiền, bất mãn, khổ sở... Người ta không bằng lòng với hiện tại, đúng như tục ngữ nói: “Đứng núi này trông núi nọ”.
Cuộc sống thật nhiêu khê và nan giải ! Ngược lại, người biết tu thân thì thấy “không có” là niềm hạnh phúc. “Không có” ở đây là do trí tuệ quán chiếu, thấy mọi sự phiền toái đều do ham muốn mà ra. Bởi thế người tu thân không muốn có, nếu đã có rồi thì tập xả ly – nghĩa là đừng “bận lòng” tới nó. Tại sao ? Vì những thứ “có” trên thế gian này đều là ràng buộc !
GIAO ƯỚC ĐỂ LÀM GÌ ?
Đức Chúa đưa ông Ápram ra ngoài và phán: “Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không. Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó!” ( St 15, 5 ). Nghe vậy, ông tin Đức Chúa, và vì thế, Đức Chúa kể ông là người công chính. Bất cứ ai thành tâm và tuyệt đối tin kính Thiên Chúa đều được kể là công chính. Rồi Ngài phán với ông: “Ta là Đức Chúa, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi thành Ua của người Canđê, để ban cho ngươi đất này làm sở hữu” ( St 15, 7 ). Ông liền thưa: “Lạy Đức Chúa, Đức Chúa làm sao mà biết là con sẽ được đất này làm sở hữu ?” ( St 15, 8 ). Ngài phán với ông: “Đi kiếm cho Ta một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một chim gáy và một bồ câu non” ( St 15, 9 ).
Và rồi ông kiếm cho Ngài tất cả những con vật ấy, xẻ đôi ra, và đặt nửa này đối diện với nửa kia; còn chim thì ông không xẻ. Sau đó, mãnh cầm sà xuống trên các con vật bị giết, nhưng ông Ápram đuổi chúng đi. Lúc mặt trời gần lặn, một giấc ngủ mê ập xuống trên ông Ápram; một nỗi kinh hoàng, một bóng tối dày đặc bỗng ập xuống trên ông. Khi mặt trời đã lặn và màn đêm bao phủ, bỗng có một lò nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật đã bị xẻ đôi. Những hình ảnh đó cho biết là Thiên Chúa đã nhận lễ vật. Hôm đó, Đức Chúa lập giao ước với ông Ápram: “Ta ban cho dòng dõi ngươi đất này, từ sông Ai Cập đến Sông Cả, tức sông Êuphơrát” ( St 15, 18 ).
Giao ước dành cho Tổ phụ Ápraham cũng là Giao ước dành cho Dân Chúa, tức là chúng ta, vì Thiên Chúa là Chân Lý, là Ánh Sáng, là Điều Thiện, Ngài chỉ có muốn và làm Điều Tốt Lành. Tác giả Thánh vịnh đã vinh hạnh và tin tưởng cất tiếng ca tụng: “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào ? Chúa là thành luỹ bảo vệ đời tôi, tôi khiếp gì ai nữa ?” ( Tv 27, 1 ), đồng thời cũng kêu xin và tự khuyến cáo: “Lạy Chúa, cúi xin Ngài nghe tiếng con kêu, xin thương tình đáp lại. Nghĩ về Ngài, lòng con tự nhủ: Hãy tìm kiếm Thánh Nhan” ( Tv 27, 7 – 8a ). Ngài mong muốn chúng ta hoàn thiện ( x. Mt 5, 48 ), nhưng Ngài biết chúng ta rất khó hoàn thiện, và Ngài muốn ít ra chúng ta phải biết muốn thực sự hướng thiện. Goethe nhận định: “Toàn thiện là luật của Trời, hướng thiện là lối của người”. Dù chưa hoàn thiện nhưng chúng ta phải biết khao khát sự thiện.
Ngài im lặng, không phải Ngài thử thách chúng ta, vì Ngài biết chúng ta thế nào nên Ngài không cần thử thách, mà Ngài chỉ muốn chúng ta nhận biết mình bất túc và bất trác, nhận biết mình bất lực mà thành tâm và kiên trì cầu nguyện: “Lạy Chúa, con tìm Thánh Nhan Ngài, xin Ngài đừng ẩn mặt. Tôi tớ Ngài đây, xin đừng giận mà ruồng rẫy, chính Ngài là Đấng phù trợ con. Xin chớ bỏ rơi, xin đừng xua đuổi, lạy Thiên Chúa, Đấng cứu độ con” ( Tv 27, 8b – 9 ). Được Thiên Chúa thực hiện lời hứa thì chúng ta phải biết tạ ơn thật lòng. Đó cũng là niềm hạnh phúc !
Tác giả Thánh vịnh cho biết: “Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống” ( Tv 27, 13 ). Đức Chúa là Thiên Chúa của người sống chứ không là Thiên Chúa của kẻ chết. Đã hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa, nên tác giả Thánh vịnh khuyến khích mỗi chúng ta: “Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào ! Hãy cậy trông vào Chúa” ( Tv 27, 14 ). Ai biết trông cậy, tin tưởng và yêu mến Chúa thì thật là hạnh phúc !
GIAO ƯỚC ĐỂ NHÂN LOẠI HẠNH PHÚC
Cũng vậy, Thánh Phaolô đã dày kinh nghiệm cả về “bước lầm lạc” lẫn “bước Đức Tin” nên ngài chân thành tâm sự: “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em. Vì, như tôi đã nói với anh em nhiều lần, và bây giờ tôi phải khóc mà nói lại, có nhiều người sống đối nghịch với Thập giá Đức Kitô: chung cục là họ sẽ phải hư vong. Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian. Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Ngài có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài” ( Pl 3, 17 – 21 ). Thánh nhân nói thẳng thắn và rõ ràng, chẳng úp mở chi. Chỉ vì “cái bụng”, tức là “miếng ăn”, mà người ta có thể sát hại nhau không gớm tay !
Thánh Phaolô tiếp tục nhắn nhủ: “Hỡi anh em thân mến, lòng tôi hằng tưởng nhớ anh em là niềm vui, là vinh dự của tôi. Anh em rất thân mến, anh em hãy kết hợp với Chúa mà sống vững vàng như vậy” ( Pl 4, 1 ). Cầu nguyện liên lỉ là kết hợp với Chúa, đó là việc rất cần thiết đối với mọi người, mọi nơi và mọi lúc: Ăn với Chúa, chơi với Chúa, vui với Chúa, buồn với Chúa, cười với Chúa, khóc với Chúa, làm việc với Chúa, nghĩ với Chúa, viết với Chúa, nghỉ ngơi với Chúa, thư giãn với Chúa, ngủ với Chúa, thức với Chúa… Như vậy mới là niềm hạnh phúc đích thực !
Trước đó, khi nói về “Triều đại Thiên Chúa gần đến”, Đức Giêsu kết luận: “Trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải chết trước khi thấy Nước Thiên Chúa” ( Lc 9, 27 ). Khoảng tám ngày sau, Ngài lên núi cầu nguyện, có đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê.
Đang lúc Ngài cầu nguyện, dung mạo Ngài bỗng đổi khác, y phục Ngài trở nên trắng tinh chói loà. Bất ngờ có hai nhân vật đàm đạo với Ngài, đó là ông Môsê và ông Êlia. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem. Còn ông Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu, và hai nhân vật đứng bên Ngài. ( Ảnh chụp đỉnh núi Tabor ở miền Galilê, bây giờ tọa lạc một Vương Cung Thánh Đường ).
Đang lúc hai vị này từ biệt Đức Giêsu, ông Phêrô thưa với Ngài rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay ! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” ( Lc 9, 23 ). Nửa tỉnh nửa mê nhưng ngư phủ Phêrô vẫn thấy “ép-phê” vô cùng. Lạ mà hay. Lâng lâng thế nào ấy. Khó tả lắm ! Ông vốn tính nóng như lửa, thẳng như ruột ngựa, có gì “phang” ngay, muốn gì thì làm cho bằng được. Nhưng nói xong rồi mà ông không biết mình nói gì, y như kẻ mộng du vậy. Dù sao thì ông cũng hạnh phúc vì có “cảm giác lạ”.
Ông còn đang nói, bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ. Kỳ lạ thật ! Họ chả biết ất giáp gì ráo trọi. Rồi từ đám mây lại có tiếng phán: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” ( Lc 9, 35 ). “Choáng” thật ! Tiếng phán vừa dứt, chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu. Lạ ghê ! Sao thế nhỉ ? Ba ông nín thinh, vừa vui mà vừa sợ, vừa thích mà cũng vừa lo. Thế là trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy.
Ngạn ngữ Pháp có câu: “Đừng sống theo điều bạn mơ ước, hãy sống theo điều bạn có thể”. Mơ ước thì vô hạn, con người thì hữu hạn, vì thế mà đừng ảo tưởng, hãy thực tế với khả năng của mình, Thiên Chúa sẽ nâng đỡ và đồng hành với chúng ta. Và rồi chúng ta sẽ được hưởng niềm hạnh phúc đích thực như ba Tông Đồ đã được “nếm” trước khi chết.
Lạy Thiên Chúa uy linh, xin giúp chúng con biết tìm kiếm những gì thuộc về Nước Trời, và xin cho chúng con cảm nghiệm được niềm hạnh phúc ngọt ngào ngay giữa những đau khổ trần gian này. Xin cậy nhờ công nghiệp của Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
Đây là biến cố cuối cùng trong thời gian hoạt động tại Galilê (Lc 3,1–9,50): Đức Giêsu đang ở tại một khúc quanh quan trọng trong sứ mạng; công việc rao giảng tại Galilê đã kết thúc; Phêrô mới đây đã tuyên xưng Người là “Đấng Kitô của Thiên Chúa” (9,20) và nhân dịp đó, Người đã củng cố thêm hiểu biết của các môn đệ bằng cách loan báo cuộc Thương Khó (9,22). Cũng giống như ở MC 9,2-ABC8, truyện Hiển Dung của Đức Giêsu trong TM III (9,28-36) đi theo sát lời Đức Giêsu nói về đời môn đệ và dường như trả lời một loạt các câu hỏi về chân tính của Đức Giêsu (x. 9,7-9.18-22). Cuộc Hiển Dung cho các môn đệ được thấy trước vinh quang của Đấng Phục Sinh, vinh quang Nước Trời. Truyện giới thiệu tư cách thuộc thiên giới của Đức Giêsu đối lại với hai dung mạo Cựu Ước và thúc bách các Kitô hữu lắng nghe Người như lắng nghe Con Một của Thiên Chúa và Đấng được Thiên Chúa ưu tuyển.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba đơn vị:
1) Hoàn cảnh của cuộc Hiển Dung (9,28); 2) Cuộc Hiển Dung (9,29-35): a) Lý do (cc. 29-32), b) Cuộc đối thoại (cc. 33-35);
3) Kết thúc cuộc Hiển Dung (9,36).
3.- Vài điểm chú giải
- dung mạo Người đổi khác (29): Cụm từ này đã thay thế cho động từ “được biến hình” (metamorphôthê) trong MC (9,2) và Mt (17,2) để tránh những truyện về hóa thân, hóa kiếp trong thần thoại ngoại giáo.
- có hai nhân vật (30): Vì được giới thiệu là “hai nhân vật, hai người đàn ông” (andres dyo), ta có thể nghĩ đến “hai người đàn ông y phục sáng chói” trong truyện Phục Sinh (Lc 24,4) hoặc “hai người đàn ông mặc áo trắng” trong truyện Thăng Thiên (Cv 1,10). Như thế, quả thật Môsê và Êlia là hai chứng nhân của Đức Giêsu, nhưng ở đây, hai vị có mặt trong tư cách là những nhân vật thuộc thiên giới, nhằm loan báo vinh quang tương lai của Đức Kitô. Và nếu vậy, quang cảnh này trước hết là một hình ảnh báo trước cuộc Lên Trời (x. Cv 1,9: đám mây).
- Xuất hành (31): Rất có thể tác giả Lc coi toàn bộ Thương Khó – Phục Sinh – Thăng Thiên là một cuộc Xuất Hành mới, đi từ Giêrusalem cứng tin (# Ai-cập) mà vào Vinh quang của Thiên Chúa (# Đất hứa).
- ngủ mê mệt (32): Dịch sát là “bị đè nặng trong giấc ngủ” (bebarêmenoi hypnô).
- vinh quang (32): Tác giả Lc là tác giả duy nhất sử dụng từ “vinh quang” ở đây. Kiểu ngài nối kết Khổ Nạn với Vinh quang ở đây rất gần với truyện Ga 12,27-28 (vẫn được coi như tương tự với truyện Hiển Dung trong các TMNL). - thật là hay (33): Hay cho ai? Chúng ta không rõ. Dù sao, ta hiểu là Phêrô không hiểu rõ hoàn cảnh, nhưng cảm thấy vui, nên mơ ước kéo dài tình trạng này.
- đám mây (34): Phải chăng đám mây bao phủ cả các môn đệ, nên các ông mới sợ (sợ chết?)? có bao phủ ba nhân vật kia không? Nhưng bản văn lại nói là “từ đám mây có tiếng phán ra”. Vậy có lẽ các môn đệ ở ngoài đám mây. Nhưng dù thế nào, đám mây thường đi liền với cuộc thần hiển (x. Xh 16,10; 19,9.16; 24,15-16; Lv 16,2; Ds 11,25) và được coi như nơi ở (shơkinâh trong sách Talmud, có nghĩa là “sự hiện diện của Thiên Chúa”) của Thiên Chúa. Khi thấy đám mây xuất hiện và dường như còn bao trùm lấy mình, các môn đệ kinh hãi.
- Người được Ta tuyển chọn (35): Xem các “Bài ca về Người Tôi Trung” (Is 42,1; 49,7).
- trong những ngày ấy (36): nghĩa là trong thời gian Đức Giêsu đi hoạt động. Công thức này đối lại những gì được kể sau này, sau khi Đức Giêsu đã sống lại.
4.-Ý nghĩa của bản văn
Khung ảnh của bản văn này như sau: Ngay trước bài tường thuật này là các giáo huấn về đời môn đệ (Lc 9,23-27) và ngay sau bài, là truyện Đức Giêsu chữa lành một em bé bị quỷ ám (9,37-43). So với các Tin Mừng khác, ta thấy tác giả không kèm theo mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu và các môn đệ trong khi các ngài xuống núi (x. MC 9,9-10; Mt 17,9), cũng không có lời nói về ngôn sứ Êlia (x. MC 9,11-13; Mt 17,10-13).
Độc giả đã thấy giáo huấn về đời môn đệ “vác thập giá” và thị kiến về “vinh quang” được nối kết chặt chẽ trong kinh nghiệm về cuộc Hiển dung. Không thể hiểu được ý nghĩa của biến cố huyền nhiệm này nếu không đặt nó vào bên trong hai chiều tư tưởng thần học chủ đạo: sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu, yêu cầu đi theo Người trên con đường thập giá, và ánh sáng vinh quang của sự phục sinh của Người.
* Hoàn cảnh của cuộc Hiển Dung (28)
Chỉ tác giả Lc xác định biến cố xảy ra vào “khoảng tám ngày sau khi (Đức Giêsu) nói những lời ấy” (c. 28), tức là các giáo huấn về đời môn đệ (cc. 23-27). Cả ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê vừa chứng kiến Đức Giêsu làm cho con gái ông Gia-ia sống lại (Lc 8,51-56), nay Người đưa các ông đi ra khỏi tình trạng ồn áo huyên náo của cuộc sống thường ngày và đưa các ông lên núi (không được xác định), biểu tượng của thế giới Thiên Chúa. Mới trước đó, Người yêu cầu “vác thập giá mà theo” Người, bây giờ Đức Giêsu quyết định “đem theo” ba môn đệ và kết hợp các ông vào sứ mạng của Người, để các ông có thể chia sẻ kinh nghiệm vinh quang nhằm đi tới chỗ hoàn tất trong Ngày Phục sinh.
Điều đáng ghi nhận: tác giả cho biết mục tiêu Đức Giêsu nhắm không phải là tỏ mình ra cho các môn đệ, nhưng là “cầu nguyện”. Việc cầu nguyện được đặc biệt nêu bật trong TM III. * Cuộc Hiển Dung (29-35)
Đang khi Người cầu nguyện, thì “dung mạo Người đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà” (c. 29): cuộc hiển dung xảy ra như là kết quả của việc cầu nguyện. Tác giả không dùng động từ metamorphousthai (= biến hình) có trong MC và Mt (x. MC 9,2; Mt 17,2). Theo một vài nhà chú giải, tác giả Lc muốn tránh làm cho độc giả hiểu đây giống như những cuộc hóa thân của thần thánh ngoại giáo; có những tác giả khác lại cho rằng đây là một gợi nhắc đến biến cố Môsê đã trải qua trên núi Sinai (Xh 24,29-30): trong bản văn này có nói rằng dung mạo Môsê phản ánh vinh quang của Đức Chúa. Tầm quan trọng được gán cho biến cố huyền nhiệm này đưa độc giả đến chỗ nghĩ rằng Đức Giêsu đang tự mạc khải ra như là Đấng sống lại và đang ở trong thế giới siêu việt và vinh quang của Thiên Chúa.
Vậy, vẻ rạng rỡ của dung mạo và nét trắng tinh chói lòa nơi y phục của Người cho biết Người thông dự vào đời sống của Thiên Chúa, Người có bản tính Thiên Chúa, và báo trước cuộc Phục sinh. Các môn đệ nhận ra rằng dung mạo quen thuộc con người trần gian của Đức Giêsu lâu nay không diễn tả hết tất cả thực tại của Người; các ông hiểu rằng Người không bị khóa kín trong những giới hạn của thực tại trần gian. Đàng sau dung mạo phàm trần của Đức Giêsu, có ẩn giấu thực tại siêu phàm thần thiêng của Người.
Không những các giới hạn của thực tại trần thế bị vượt quá, các biên cương của thời gian cũng bị lướt qua. Bên cạnh Đức Giêsu, xuất hiện hai ông Môsê và Êlia, hai dung mạo nổi bật trong lịch sử dân Israel (cc. 30-31). Môsê nhà giải phóng Dân tộc, cũng là trung gian đón nhận Luật Sinai. Êlia là vị ngôn sứ đã bảo vệ tôn giáo độc thần và tái lập giao ước của Thiên Chúa với Dân. Các ngài đại diện cho mối quan tâm săn sóc của Thiên Chúa và cuộc chiến đấu của Người cho dân tộc này. Các ngài cũng chia sẻ kinh nghiệm bị từ khước và bị bách hại. Nay hai ngài đàm đạo với Đức Giêsu về “cuộc xuất hành” Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem (c. 31). Tác giả Lc coi toàn bộ Thương Khó–Phục Sinh–Thăng Thiên là một cuộc Xuất Hành mới, đi từ Giêrusalem cứng tin (# Ai Cập) mà vào Vinh quang (# Đất hứa). Nhưng toàn bộ cuộc Xuất Hành mới này liên hệ đến lịch sử Israel (đại diện bởi Môsê và Êlia); Đức Giêsu sẽ đưa lịch sử của những mối quan tâm săn sóc của Thiên Chúa đối với dân Người đến chỗ hoàn tất.
Đáng tiếc là các môn đệ nặng nề trong giấc ngủ (c. 32). Khi Thầy làm phép lạ, hoặc khi đám đông hoan hô Người, các ông thức, nhưng khi Người bắt đầu nói đến chương trình của Thiên Chúa, việc hiến dâng mạng sống, phục vụ người nghèo, thì họ từ khước hiểu biết, họ nhắm mắt lại và ngủ. Sau này, tại núi Ô-liu, các ông cũng ngủ (Lc 22,45), bởi vì các ông chờ đợi được vỗ tay hoan hô và tôn vinh, chứ không hiểu vai trò của thập giá mà Thầy đang đi tới. Tuy nhiên Phêrô còn tìm ra sức mà lên tiếng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay ! Chúng con xin dựng ba cái lều…” (c. 33). Ông mong muốn kéo dài mãi mãi kinh nghiệm về vinh quang này, tương quan đặc biệt này giữa thiên quốc và trần gian, một nếm cảm trước sự viên mãn cánh chung, thiết lập tức khắc Triều Đại Thiên Chúa trên mặt đất (G. Rossé). Chi tiết “dựng ba cái lều” vừa có tính lịch sử (Nhà Tạm của Hòm Bia Chứng Ước trong cuộc xuất hành qua sa mạc) vừa mang tính phụng vụ (Lễ Lều: Lv 23,42; Dcr 14,16-19). Thật ra, ông không biết mình đang nói gì” (c. 33). Ông chỉ dừng lại với một khoảnh khắc sống ở bình diện cá nhân chứ không nghĩ đến được số phận cánh chung của toàn thể Dân Giao ước. Ông không hiểu giá trị của cuộc Hiển dung trong chương trình cứu độ phổ quát.
Quang cảnh hiển vinh đột nhiên bị một đám mây che phủ. Khi đi vào trong hoàn cảnh mới này, các môn đệ hoảng sợ (c. 34), điều này cho hiểu là con người mỏng dòn đang tiếp cận với mầu nhiệm của sự thánh thiêng. Đám mây là sự chấm dứt kinh nghiệm về vinh quang, vừa là nơi phát ra tiếng nói thiên quốc. Đây là vai trò biểu tượng của đám mây (x. Xh 19,9.16; 24,15-18; 40,34t; 2 MC b 2,8; Cv 1,9). Tiếng nói bảo: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (c. 35). Khẳng định được liên kết với mạc khải trong Phép rửa (Lc 3,22), nhưng khác biệt ở chỗ tại Phép rửa, tiếng nói ngỏ lời trực tiếp với Người Con, còn ở đây, mạc khải được gửi đến các môn đệ, với lệnh vâng nghe lời Người (autou akouete: lưu ý vị trí nhấn mạnh của đại từ. Diễn ra như sau: “Chính Người, anh em hãy nghe lời!”). Mạc khải từ trời đã tổng hợp hai trích dẫn Tv 2,7, nhằm nói về tư cách Con Thiên Chúa của Đức Kitô, và Is 42,1 nhắc đến sứ mạng ngôn sứ của Người Tôi tớ Đức Chúa, phải chịu đau khổ khi loan báo Lời Chúa. Đức Giêsu vừa có tư cách vừa mang sứ mạng được hai bản văn này giới thiệu. Mạc khải kết thúc với lời kêu gọi rút từ Đnl 18,15 nhắc nghe lời ngôn sứ Môsê (x. Cv 7,37). Từ nay, không còn phải là Môsê hoặc các ngôn sứ mà các môn đệ phải vâng lời, nhưng là chính Con Thiên Chúa, Đấng có uy quyền vượt xa uy quyền của mọi người từ xưa cho đến tận thế. Cách nào đó lời này phi bác ý muốn của Phêrô là thiết lập ngay từ bây giờ Nước Thiên Chúa trên mặt đất. Cần phải hiểu là sứ mạng Mêsia của Đức Giêsu vượt quá những nỗi niềm chờ mong Đấng Mêsia của dân Israel cà những nguyện vọng trần tục của các môn đệ.
Thế rồi bản văn Lc kết thúc đơn giản, so với MC (MC 9,8). Tiếng nói đã ngưng, các nhân vật Môsê và Êlia không còn ở đó nữa, chỉ còn lại Đức Giêsu và các môn đệ (c. 36). Tác giả không nhắc đến lệnh im lặng Đức Giêsu truyền cho các môn đệ (x. MC 9,9; Mt 17,9), nhưng ghi nhận rằng các ông “nín thinh”. Đây là hậu quả của một kinh nghiệm đã ghi dấu sâu sắc trong lòng ba chứng nhân, họ nội tâm hóa biến cố này, họ không để lộ ra bên ngoài bao lâu Đức Giêsu còn ở với họ (“Trong những ngày ấy”).
* Kết thúc cuộc Hiển Dung (36)
Sau đó, các môn đệ giữ thinh lặng, không tiết lộ gì về những chuyện đã xảy ra trên núi. Ghi nhận sự thinh lặng này đúng ra là một câu tóm truyện MC (MC 9,9-13). Các ông cứ giữ thinh lặng như thế cho đến khi Đức Giêsu đã sống lại.
+ Kết luận
Biến cố Hiển Dung là trạm trung chuyển giữa ánh sáng loé lên quá mau của Phép Rửa và ánh sáng chói lọi của sáng ngày Phục Sinh. Trong cuộc hành trình lên Giêrusalem, Đức Giêsu thấy mình được tiếng Chúa Cha chuẩn nhận trong sứ mạng Mêsia chịu đau khổ: Người sẽ thực hiện chương trình cứu độ qua thân phận bị sỉ nhục và thât bại. Nhưng qua lời giới thiệu của Chúa Cha, chúng ta biết Đức Giêsu là Lời mà ta phải lắng nghe, là vị hướng đạo chắc chắn trong cuộc Xuất Hành cuối cùng đưa đến cuộc sống viên mãn. Điều này được làm rõ ở cuối biến cố, khi tác giả nói là “chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu: Mục tiêu của Cựu Ước là dẫn chúng ta đến với Đức Giêsu, Đấng hoàn toàn vâng phục chương trình cứu độ của Chúa Cha. Sau Phục Sinh, biến cố Hiển Dung sẽ có một vị trí quan trọng trong truyền thống Hội Thánh, vì được coi là một trong những khoảnh khắc có ý nghĩa nhất trong kinh nghiệm Kitô hữu (x. 2 Pr 1,16-28).
5.- Gợi ý suy niệm
1. Tác giả TM III cho biết vì sao Đức Giêsu lên núi: để “cầu nguyện” (c. 28). Người dành nhiều thì giờ mà cầu nguyện. Chỉ nhờ thế, Người mới dần dà hiểu được những gì sẽ xảy ra, đâu là nơi Cha Người đang dẫn Người đến. Giống như ba môn đệ ngày hôm ấy, chỉ khi để cho Đức Giêsu dẫn đưa vào nơi thanh vắng và đến gần Thiên Chúa, chúng ta mới ở trong hoàn cảnh thích hợp, thuận lợi, mà hiểu rõ hơn mầu nhiệm bản thân Đức Giêsu và chương trình của Thiên Chúa. Nhờ có Người làm trung gian, chúng ta biết mọi điều mà Thiên Chúa có ý làm cho chúng ta và chúng ta biết cách xử sự với Thiên Chúa.
2. Trong khi cầu nguyện, dung mạo của Đức Giêsu “đổi khác” (c. 29). Tác giả không nói là “biến hình” như các Tin Mừng khác. Điều xảy ra trong truyện này không nhắm trước tiên cho Đức Giêsu, nhưng là cho ba môn đệ. Không phải Người là Đấng phải thực hiện một kinh nghiệm hoặc phải biết một điều gì mới, nhưng chính các ông mới phải tiến tới trong việc hiểu biết Người và tin tưởng vào Người. Ánh sáng trên dung nhan Đức Giêsu cho chúng ta hiể trong khi cầu nguyện, Người đã hiểu chương trinh cứu độ của Cha Người và đã chấp nhận chương trình đó. Hy sinh của Người sẽ không phải là một thất bại, mà là một bước tiến tới sự phục sinh và vinh quang.
3. Sự kiện Đức Giêsu xuất hiện giữa Môsê và Êlia và hai ông đàm đạo với Người cho các môn đệ một bằng chứng nữa để có thể nhận ra Đức Giêsu là ai: Người thuộc về thế giới Thiên Chúa. Nhưng Người cũng thuộc về lịch sử dân Chúa, một lịch sử được Thiên Chúa hướng dẫn. Người phải đưa sứ mạng của Môsê và Êlia đến chỗ hoàn tất; Người cũng đáng được trân trọng và nhận biết như hai người tôi tớ vĩ đại này. Đức Giêsu không xuất hiện bất ngờ như một sao băng không hề có liên hệ gì với quá khứ, nhưng Người tháp vào trong lịch sử dài gồm những săn sóc ân cần của Thiên Chúa đối với dân Ngài, và đưa lịch sử này đến chỗ hoàn tất.
4. Quan hệ của Đức Giêsu với Thiên Chúa không phải là một vấn đề lý thuyết, không quan trọng gì bao nhiêu đối với đức tin và lối sống Kitô hữu. Phải nói là chính trong tương quan này mà bản chất của tương quan của Người đối với loài người chúng ta cũng được làm sáng tỏ, cả ý nghĩa của Người đối với chúng ta, những chờ đợi mà chúng ta có thể có nơi Người, những bổn phận phát xuất từ tương quan này đối với chúng ta.
5. Cho tới này, Israel đã nghe lời Môsê và Êlia, nay họ phải nghe lời Đức Giêsu. Tất cả Sách Thánh của Israel đều dẫn tới Đức Giêsu. Bằng bản thân, bằng hoạt động và bằng lời nói của Người, Đức Giêsu đưa đến cho dân chúng sứ điệp chung kết của Thiên Chúa. Cựu Ước không có ý nghĩa nếu không có Đức Giêsu, còn chính Người, nếu không có Cựu Ước, thì chỉ là một mầu nhiệm đối với chúng ta. Vào ngày Phục Sinh, để cho các môn đệ có thể hiểu ý nghĩa của cái chết và sự sống lại của Người, Người sẽ phải giải thích Cựu Ước cho họ (x. Lc 24,17).
Có lẽ nhiều khi chúng ta quá chú tâm đến những diễn biến linh hoạt và rực rỡ trong cuộc hiển dung của Chúa Giê-su trên núi mà không để ý tới một chi tiết được thoáng ghi lại: nội dung cuộc đàm đạo giữa Chúa Giê-su với ông Mô-sê và ngôn sứ Ê-li-a. Các ngài “nói về cuộc xuất hành của Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem”.
Nói về Xuất hành, chúng ta nghĩ ngay đến cuộc giải phóng dân Chúa khỏi ách nô lệ Ai-cập và trở lại Đất Hứa, nơi Thiên Chúa hứa ban cho các tổ phụ dân Ít-ra-en, để con cháu các ngài có một nơi vĩnh viễn mà thờ phượng Người. Cuộc “xuất hành” này đem áp dụng vào sứ mệnh của Chúa Giê-su sẽ giúp chúng ta nhận ra được ý nghĩa cuộc Thương khó Người sắp phải chịu tại Giê-ru-sa-lem, mở đầu cho hành trình đưa chúng ta về Đất Hứa đích thực là quê trời. Các thánh sử chỉ nêu lên nội dung cuộc đàm đạo, chứ không nói gì đến chi tiết. Cũng dễ hiểu thôi, vì đáng lẽ ba tông đồ được diễm phúc ở trong cuộc thì lại “ngủ mê mệt” hoặc “thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ”! Cho nên có thể là các ông không nghe được gì, hoặc nghe mà không hiểu, hoặc nghe mà không muốn hiểu vì những điều ấy đi ngược lại mong ước của họ. Tám ngày trước đây, Chúa Giê-su đã báo trước cho họ biết Người sẽ chịu cuộc Thương khó, rồi Người dạy họ phải từ bỏ, vác thập giá hằng ngày mà bước theo Người. Dĩ nhiên họ chẳng muốn chấp nhận những điều này và vô tình thái độ của họ là một thách thức lớn không những cho họ mà cho cả Chúa nữa. Vì thế đàm đạo về cuộc Thương khó là việc cần thiết để củng cố quyết tâm của Chúa Giê-su cũng như lòng tin của các môn đệ.
Kinh Thánh Cựu Ước nói rất nhiều điều ám chỉ đến cuộc Thương khó của Đấng Mê-si-a, đặc biệt trong Lề Luật và các ngôn sứ. Sự hiện diện của ông Mô-sê thay mặt cho Lề Luật, và ông Ê-li-a thay mặt cho các ngôn sứ, nhắm mục đích giúp Chúa Giê-su vững tin vào sứ mệnh đã lãnh nhận từ Chúa Cha. Cuộc đàm đạo này góp phần vào quyết định chấp nhận cuộc Thương khó. Sau khi tiên báo cuộc Thương khó lần thứ hai, thì “đã tới ngày Đức Giê-su được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem” (Lu-ca 9:51). Tại đây, cuộc Xuất Hành của Chúa Giê-su sẽ diễn ra vô cùng bi đát, nhưng lại đầy can đảm do động lực chấp nhận đau khổ và cái chết hoàn toàn là vì “yêu thương đến cùng”. Trong cuộc Xuất Hành này, Chúa Giê-su sẽ “vượt qua” cái chết để sống lại và đem sự sống mới đến cho nhân loại. Người sẽ là trưởng tử dẫn một đoàn em đông đúc của “Ít-ra-en Mới” vượt qua trần gian này để tiến về quê trời (Rô-ma 8:29).
Ngay từ đầu mùa Chay, phụng vụ đã mời gọi chúng ta hướng về cuộc Thương khó của Chúa Giê-su để xác tín rằng ơn cứu độ của chúng ta phát sinh từ Tình Yêu sẵn sàng chết cho người mình yêu. Khi tỏ vinh quang của Người ra cho các môn đệ, Chúa Giê-su muốn cho họ thấy cuộc xuất hành của Người và tất cả những ai bước theo Người không phải là đi vào cõi tiêu diệt đời đời, nhưng là tiến dần đến vinh quang vĩnh cửu của chính Thiên Chúa. Qua thập giá đến ánh sáng, qua đau khổ đến vinh quang, đó là lẽ sống của mọi Ki-tô hữu vậy.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chuẩn bị cho cuộc “xuất hành” tại Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-su đã được Chúa Cha giới thiệu như là “Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn”. Trong cuộc xuất hành của chúng ta, tức cuộc sống ở trần gian này, chúng ta có thực sự xác tín cùng một điều như Chúa Giê-su, đó là chúng ta đích thực là “con Thiên Chúa, được Người tuyển chọn và yêu thương” không?
Nhìn vào cuộc sống hiện tại, chúng ta thấy thử thách và cám dỗ tư bề. Thử thách từ bên ngoài: gia đình, công ăn việc làm, sức khỏe, bậnh tật... Thử thách từ bên trong: mệt mỏi, phấn đấu không ngừng, chịu đựng nhẫn nhục, cám dỗ, muốn buông xuôi vì thấy mình bất lực… Quả thực là một cuộc xuất hành không kém gian khổ như cuộc xuất hành của Ít-ra-en và của Chúa Giê-su tại Giê-ru-sa-lem. Như em nhỏ chập chững bước tới bà mẹ đang dang tay sẵn sàng vực em dậy, chúng ta cũng bước đến với Chúa như vậy. Chúng ta lại có người Anh Cả là Chúa Giê-su, nên điều duy nhất phải làm là “hãy vâng nghe lời Người!”