Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng. Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giuđa Iscariô, con Simon, ý định nộp Người. Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa. Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy Người đến chỗ Simon Phêrô, ông này thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư ?" Chúa Giêsu đáp: "Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu". Phêrô thưa lại: "Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con". Chúa Giêsu bảo: "Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy". Phêrô liền thưa: "Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa". Chúa Giêsu nói: "Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu". Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: "Không phải tất cả các con đều sạch đâu". Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: "Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng ? Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con". - Ðó là lời Chúa.
Đã nhiều lần chúng ta nhìn thấy bức tranh vẽ hay điêu khắc đôi bàn tay gầy guộc chắp vào nhau Thứ5Thánh ABC-101
Đã nhiều lần chúng ta nhìn thấy bức tranh vẽ hay điêu khắc đôi bàn tay gầy guộc chắp vào nhau hướng lên trời. Nhiều người chỉ biết rằng đây là biểu tượng của cầu nguyện. Thực ra, đôi bàn tay này do một người em đã vẽ bàn tay người anh. Một bàn tay vất vả hy sinh lao động để nuôi em ăn học.
Chuyện kể rằng có một gia đình nghèo gồm 18 người con. Hai người con lớn trong nhà đều chung ước mơ trở thành họa sĩ. Nhà nghèo nên họ quyết định chỉ một người đi học. Họ sẽ tung một đồng xu. Người thua sẽ làm thợ mỏ, dùng toàn bộ thu nhập để chu cấp cho người thắng đi học. Sau này thành tài người thắng sẽ giúp ngược lại.
Đồng xu được tung lên, người em thắng cuộc và được đi học. Người anh trong suốt 4 năm, làm lụng để nuôi người anh em của mình ăn học. Sau 4 năm thành họa sĩ nổi danh, người em muốn thực hiện lời cam kết ngày nào nên trong bữa ăn sum họp, người em đứng dậy để cảm ơn người anh trai đã hy sinh 4 năm giúp mình hoàn thành được ước mơ. Người em nói:
– Anh Albert, bây giờ đã đến lượt anh. Anh hãy theo đuổi ước mơ của mình. Em sẽ lo toàn bộ chi phí và chăm sóc gia đình. Albert mỉm cười, rồi bật khóc:
– Không, anh không thể vẽ được nữa. Đã quá muộn rồi. Bây giờ, sau 4 năm làm việc trong hầm mỏ, không còn ngón tay nào của anh là lành lặn. Thậm chí bây giờ anh còn bị thấp khớp ở tay phải nặng tới mức không thể nâng nổi một chiếc ly, nói gì đến việc cầm cọ vẽ. Cảm ơn em, nhưng bây giờ đã quá muộn rồi…
Trước tình yêu quá cao vời của anh, người em đã thực hiện một tác phẩm cẩn thận nhất trong đời: vẽ lại đôi bàn tay của anh trai mình, với lòng bàn tay hướng vào nhau và những ngón tay gầy guộc hướng lên trời. Ông chỉ gọi bức tranh của mình đơn giản là “Đôi tay”, nhưng cả thế giới đều đặt tên cho kiệt tác đó là “Đôi tay cầu nguyện”.
Xem ra đôi bàn tay còn có ý nghĩa là trao ban, là hy sinh cho người mình yêu. Đôi bàn tay ấy đã nâng ước mơ cho người em thành tài trong cuộc đời.
Hôm nay thứ năm tuần thánh cũng mời gọi chúng ta chiêm ngắm một tình yêu tự hiến qua hình ảnh tấm bánh bẻ ra để trao ban. Chúa Giê-su đã lưu dấu mãi tình yêu tự hiến cho người mình yêu. Ngài muốn chúng ta mỗi khi ăn tấm bánh ấy phải loan truyền tình yêu tự hiến của Ngài đến muôn đời. Một tình yêu cho đi mà không mong đền đáp. Một tình yêu hiến dâng quên đi cả tính mạng của mình. Một tình yêu chịu nghiền nát thành của ăn cho người mình yêu.
Trong bữa tiệc cuối cùng với các môn đệ, Chúa đã chọn tấm bánh như một biểu trưng, một dấu chỉ cho cả cuộc đời mình. Tấm bánh được làm nên là vì sự sống, vì niềm vui của người khác mà không bao giờ là cho chính bản thân mình. Có thể đó là tấm bánh đơn sơ, dân dã đem lại niềm vui cho trẻ thơ mỗi khi mẹ đi chợ về. Có thể đó là tấm bánh nhỏ bé nhưng vô cùng cần thiết, đem lại sức sống cho người đang đói lả. Bánh có thể được đặt trang trọng trên những bàn tiệc thịnh soạn. Bánh có thể được nâng niu trên đôi tay gầy gò, run rẩy của người hành khất bên vỉa hè. Như thế, Bánh không kén chọn người ăn, và dù là cao cấp hay bình dân, bánh được làm ra là để cho đi chính mình, trao tặng chính mình, để trở nên niềm vui và sức sống cho người khác. Chúa Giêsu đã trở nên tấm bánh thật vừa với tầm tay của tất cả hạng người.
Thật đơn sơ nhưng cũng vô cùng sâu xa, vì tấm bánh nói lên tình yêu tự hiến. Khi xưng mình là bánh, Chúa Giêsu muốn bày tỏ một tình yêu tha thiết, sẵn sàng chịu nghiền nát, chịu tan biến, chịu chết cho nhân loại. Chúa chịu nhỏ đi để con người được lớn lên. Chúa chịu hủy hoại cho ta được lành lặn các thương tích. Chúa chịu chết cho ta được sống.
Hơn ba mươi năm đi khắp nẻo đường đời và trên đỉnh cao thập tự giá, Ngài đã sống như một tấm bánh. Tấm Bánh được bẻ ra và trao tặng như một cử chỉ yêu thương. Ngài trở nên Tấm Bánh như một lời mời gọi: “Anh em cầm lấy mà ăn”. Ngài trở nên tấm bánh để từ đây, Thiên Chúa có thể ở lại mãi với con người.
Hôm nay chúng ta kỷ niệm ngày Chúa lập bí tích Thánh Thể. Bí tích của tình yêu tự hiến. Qua tấm bánh đơn sơ nhưng nói lên tình yêu hiến dâng của Thầy Chí Thánh Giê-su chấp nhận tan biến cho người mình yêu.
Xin cho chúng ta nhận ra tình yêu vô biên của Chúa để sống ngàn đời tri ân. Xin cho cuộc đời chúng ta cũng biết tự hủy chính mình như tấm bánh đem lại niềm vui và hạnh phúc cho người mình yêu. Amen.
Trong cái nắng chói chang của sa mạc, người lữ hành vẫn tìm được những ốc đảo có cây cối xum xuê Thứ5Thánh ABC-102
Trong cái nắng chói chang của sa mạc, người lữ hành vẫn tìm được những ốc đảo có cây cối xum xuê bởi có nguồn nước. Trong cánh đồng khô hạn, thỉnh thoảng người nông dân vẫn bắt gặp những bụi cây ngọn cỏ xanh tươi. Trong một xã hội đầy rẫy sự ác và bất công, người ta vẫn có thể thấy được những tấm lòng bao dung, nhân ái. Cũng vậy, đọc các bài đọc của ngày thứ Năm Tuần Thánh, chúng ta có cảm tưởng như bóng tối của sự dữ, sự ác đang bao trùm, nhưng trong khung cảnh tối tăm đó, lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn luôn tỏa sáng.
Câu chuyện xuất hành xảy ra vào thời điểm con cái Israel bị lưu đày tại Aicập. Tương lai của họ như mờ mịt bởi sự đàn áp của các Pharaon. Trong cảnh cùng cực đó, Thiên Chúa là người cha, đã nghe thấu tiếng than khóc của dân con Ngài. Thiên Chúa đã đem đến cho họ một tương lai tươi sáng qua cuộc xuất hành. Ngài đã dùng cánh tay hùng mạnh để bênh vực dân Ngài đã chọn. Để đánh dấu cuộc giải thoát vĩ đại này, Thiên Chúa đã chỉ thị cho Israel phải cử hành một nghi lễ sát tế con chiên vượt qua, lấy máu bôi lên khung cửa. Dấu máu này cho thấy họ thuộc về dân của Thiên Chúa và ai bôi máu chiên lên cửa thì sẽ được giải thoát. Trong đêm đó, Thiên Chúa sẽ đi ngang qua đất Aicập, nhà nào có dấu máu chiên, Thiên Chúa sẽ vượt qua và chúc phúc cho họ, nhà nào không có dấu máu chiên thì sẽ bị tru diệt.
Cuộc xuất hành cùng với nghi lễ ăn tiệc chiên vượt qua đã trở thành niềm tin ăn sâu vào đời sống của người Do Thái. Tất cả mọi người Do Thái đều nhìn biến cố này như một biến cố Thiên Chúa tỏ lòng xót thương đối với họ. Con chiên vượt qua và máu chiên là đấu chỉ cứu dân khỏi chết, đã trở thành biểu tượng rất thiêng liêng mà dân Israel đều ghi nhớ khi tham dự lễ vượt qua hàng năm.
Cũng trong truyền thống đạo đức này, Chúa Giêsu cùng với các môn đệ bước vào bữa tiệc vượt qua. Nếu nghe câu truyện, chúng ta có cảm giác như bóng tối của sự dữ, sự ác đang bao trùm cả không gian qua con người của Giuda, một kẻ đang bị ma quỷ sử dụng. Trong bầu khí rất cảm động và linh thiêng của bữa tiệc ly, Chúa Giêsu biết trước những gì sắp xảy ra cho mình, nên Ngài đã dành tất cả thời gian còn lại trên trần gian để bộc lộ tình thương của Ngài dành cho các môn đệ và cho nhân loại. Từng cử chỉ, từng hành động của Chúa Giêsu là từng cử chỉ, hành động của tình yêu và lòng thương xót đến cùng, là hành động yêu thương của một người thầy dành cho học trò, của một người cha dành cho các con trước lúc ra đi.
Trong bữa ăn đó, Chúa Giêsu đã thực hiện một việc rất lạ lùng. Ngài cầm bánh và chén trao cho các tông đồ và nói với các ông: Đây là mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con, các con hãy cầm lấy mà ăn. Đây là máu Thầy, máu Giao Ước Mới, đổ ra để tha tội, các con hãy cầm lấy mà uống và hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Hành động này vượt quá sức tưởng tượng của các tông đồ, có lẽ ngay lúc ấy, các ông cũng chưa thể hiểu hết những việc Chúa làm. Qua việc biến bánh và rượu trở nên thịt máu Ngài, Chúa Giêsu muốn được ở lại và ở mãi bên những người mà Ngài yêu thương. Ngài muốn chúng ta đón nhận Ngài như là của ăn, để Ngài có thể đi vào trong tâm hồn từng người, làm nên chất dinh dưỡng nuôi sống con người.
Do tình yêu và lòng thương của một người thầy, người cha thúc đẩy, Chúa Giêsu không còn nghĩ gì đến bản thân mình, Ngài muốn thể hiện đến tận cùng lẽ yêu thương. Không chỉ trở nên của ăn để ở lại mãi với nhân loại, Chúa Giêsu còn trao cho các tông đồ quyền: Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Với lệnh truyền này, Chúa Giêsu đã thiết lập nên chức Linh Mục, trao cho các tông đồ quyền nhân danh Ngài để tiếp tục nối dài tình yêu thương và sự hiện diện của Ngài với nhân loại. Trao cho các tông đồ quyền thể hiện lòng thương xót và sự hy sinh của mình, Chúa Giêsu đã chấp nhận trở nên hoàn toàn lệ thuộc vào các ông. Từ đây, khi các ông làm như Chúa đã làm, thì Chúa hiện diện trong việc làm của các ông. Mặc dù Chúa biết rất rõ, các tông đồ là những kẻ yếu đuối và đầy giới hạn, nhưng Chúa vẫn chọn các ông là những linh mục đầu tiên, để qua sự giới hạn bất toàn của các tông đồ và của các linh mục ngày nay, lòng thương xót của Chúa lại tiếp tục được trao ban cho thế giới.
Các tông đồ chưa hết bất ngờ bởi việc bẻ bánh Chúa Giêsu vừa thực hiện thì lại đến bất ngờ khác. Thánh Gioan thuật lại: Ngài yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian và Người yêu thương họ đến cùng. Yêu đến tột cùng là không còn giới hạn, không còn tiếc gì và cũng không còn giữ lại điều gì cho riêng mình. Tình thương này không chỉ dành cho những người ưu tuyển, nhưng dành cho tất cả mọi người, kể cả Giuđa, kẻ đang bị ma quỷ điều khiển. Chúa Giêsu đã chỗi dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, lấy khăn thắt lưng, đổ nước vào chậu và cúi xuống rửa chân cho các tông đồ. Với hành động này, Chúa Giêsu để cho lòng thương xót vượt trên tất cả, phủ lấp tất cả. Ngài không còn nghĩ gì đến địa vị của một người Thầy. Ngài đã cúi xuống để rửa chân cho các tông đồ, trong đó có Giuđa, kẻ đang nuôi trong lòng sự phản bội mà Chúa Giêsu đã biết.
Simon Phêrô và các tông đồ hết sức ngỡ ngàng đến độ không chấp nhận: Thưa Thầy, không thể như thế, Thầy không thể rửa chân cho con. Đối với người Do Thái, việc rửa chân là việc của nô lệ làm cho chủ, người tự do và con cái không phải làm việc này. Vậy mà, Chúa Giêsu đã xóa hẳn vị thế của mình là một người Thầy, để cúi xuống rửa chân cho các học trò. Điều này vượt quá lý lẽ thông thường của con người, nhưng với lý lẽ của tình yêu và lòng thương xót, thì việc làm này lại là việc làm có lý lẽ riêng của nó.
Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức Giêsu mặc áo vào, trở về chỗ và nói: Anh em gọi Thầy là thầy, là Chúa, điều đó là phải. Vậy nếu Thầy là thầy, là Chúa mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Bài học từ việc cúi xuống rửa chân đến đây đã rõ. Chúa Giêsu muốn dạy các ông bài học về sự phục vụ. Vì trở thành môn đệ của Chúa, thành những người nối dài tình yêu và lòng thương xót của Chúa, không phải để các tông đồ tìm kiếm một địa vị quyền lợi theo kiểu thế gian, nhưng là phải chấp nhận cởi bỏ con người của mình. Cởi bỏ con người tức là cởi bỏ địa vị, quyền lực, tham vọng, cởi bỏ cả cái tôi kiêu căng và thói tự ái, để có thể cúi xuống phục vụ anh em.
Sự phục vụ mà Chúa Giêsu mong muốn chúng ta làm không phải chỉ là sự phân phát bố thí, nhưng phải làm tất cả những việc đó bằng trái tim yêu thương và bằng sự trân trọng, tôn trọng anh em. Phục vụ tất cả mọi người không trừ ai, kể cả những người đang thù ghét và tìm cách hại mình, như Giuđa đang nuôi trong mình sự phản bội. Anh em cũng phải rửa chân cho nhau, Anh em hãy làm như Thầy đã làm không chỉ là một lời mời, mà là một đòi buộc đối với người môn đệ của Chúa. Chúa muốn những ai theo Chúa cũng phải dám cúi xuống để rửa chân phục vụ anh em mình. Chỉ khi dám cúi xuống mới có thể phục vụ đúng theo gương của Thầy Giêsu, chỉ khi cúi xuống chúng ta mới có thể nhìn thấy những nhu cầu của anh chị em để có thể cảm thông và chia sẻ.
Thưa quý OBACE, cử hành lễ Tiệc Ly hôm nay, chúng ta chiêm ngắm và cảm nhận một tình yêu trao ban đến tận cùng của Chúa Giêsu. Ngài đã ban tặng máu thịt làm của ăn của uống nuôi nhân loại. Ngài còn trao ban cả tự do và trọn con người của mình cho các tông đồ, khi lập Bí tích Truyền Chức. Ngài trao cho các ông quyền làm cho Ngài được hiện diện cách bí tích nơi trần gian cho đến ngày tận thế. Trước tình yêu trao ban lớn lao như thế, chúng ta được mời gọi đáp lại bằng việc đón rước Ngài một cách quảng đại, để cho Ngài đi vào tâm hồn và cuộc đời, để cho Ngài chiếm hữu và làm chủ đời ta.
Chúng ta cũng cầu nguyện cho các linh mục, các ngài chỉ là người phàm, mang đầy yếu đuối, nhưng lại được chọn để chia sẻ vào quyền năng của Thiên Chúa. Các linh mục được mời gọi để nhân danh Chúa, yêu thương và tiếp tục hiến tế cuộc đời mình cho anh em, theo gương Thầy Giêsu. Các linh mục đang từng ngày thánh hiến bản thân, nhưng vẫn không giũ hết khỏi mình sự lấm lem do yếu đuối. Chúng ta thông cảm, nâng đỡ và cầu nguyện cho các ngài.
Xin cho chúng ta thấm nhuần bài học phục vụ Chúa đã nêu gương, để trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta cũng biết dẹp khỏi mình sự kiêu căng xét đoán, sự dửng dưng vô cảm, để biết cúi xuống phục vụ anh chị em. Xin cho chúng ta có một đôi mắt thật sáng để có thể nhìn thấy những nhu cầu và những đau khổ của anh em, để có thể có cái nhìn cảm thông. Xin cho chúng ta có một đôi tay giang rộng để có thể ôm ấp mọi người, để xoa dịu những đau khổ của kiếp người. Xin cho chúng ta có một đôi chân dẻo dai để có thể bước đến với anh em, xóa bỏ mọi ngăn cách nghi kỵ, hờn dỗi, để có thể đem tình yêu thương của Chúa đến cho họ. Amen.
Cuối cùng là hành động quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ như một người đầy tớ phục vụ cho chủ mình. Chúa muốn để lại cho các môn đệ và mỗi người chúng ta bài học về tình yêu phục vụ.
Lạy Chúa, đứng trước tình yê hiến mình, tình yêu trao ban và tình yêu phục vụ, con được mời gọi đáp trả lại tình yêu của Chúa để trở nên giống Chúa trong việc hy sinh hiến mình, trong việc trao ban tình yêu và phục vụ tha nhân. Con hy sinh cho gia đình con. Con trao ban hết tình yêu của con cho những người mà con gặp gỡ, nhất là những người thân trong gia đình. Con phục vụ hết thảy mọi người trong môi trường con đang sống. Lạy Chúa xin cho con biết lấy tình yêu đáp đền tình yêu. Cũng xin cho con biết lấy tình yêu xóa bỏ hận thù và khơi thông tình thương mến.
Trong cuộc sống, nơi các gia đình, nhất là văn phong của Việt Nam, chúng ta rất coi trọng bữa ăn. Thứ5Thánh ABC-104
Trong cuộc sống, nơi các gia đình, nhất là văn phong của Việt Nam, chúng ta rất coi trọng bữa ăn. Nơi bữa ăn, niềm vui, nỗi buồn, thành công hay thất bại, thường hay được giải quyết. Có những bữa ăn để chia tay; có những bữa ăn để lên đường. Chia tay hoặc lên đường thường hay để lại nhiều kỷ niệm nơi người đi và kẻ ở!
Hôm nay, Đức Giêsu quy tụ các Tông đồ là những người thân tín với Ngài trong suốt chặng đường rong ruổi loan báo Tin Mừng. Ngài quy tụ họ, để trao lại cho họ một tặng phẩm thần linh là Bí tích Thánh Thể và truyền cho các ông hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Ngài. Qua đó, như một sự hiện hữu sau khi chết, để khi còn sống, Đức Giêsu ở cùng với các ông thế nào, thì ít ngày nữa thôi, Ngài cũng hiện diện và ở lại với các ông cách vô hình nhưng trọn vẹn nơi Bí tích cao trọng là chính Thánh Thể Ngài. Mặt khác, qua bữa tiệc này, phần cuối cùng của bữa tiệc, Đức Giêsu hành động và trăng trối những lời tâm huyết để xây dựng cộng đoàn Giáo Hội đó là: “Luật yêu thương”.
Một tặng phẩm cao quý được trao tặng
Nếu trong cuộc sống, hai người yêu nhau, họ thường có những lời lẽ chân tình, ấm áp để thể hiện tình yêu của mình cho người mình yêu. Khi đi xa, người ta hay trao tặng cho nhau những kỷ vật trân quý, để dù xa mặt chứ lòng thì không. Qua món quà đó, với người đón nhận thì tặng vật đó không chỉ đơn thuần là một kỷ niệm, nhưng nó còn là sự hiện hữu của chính người tặng quà.
Cũng vậy, khi Đức Giêsu biết “giờ” của mình sắp trở về với Thiên Chúa Cha, nên Ngài đã yêu thương họ đến cùng khi trao ban chính thân mình làm của nuôi sống môn sinh.
Chiều hôm nay, chúng ta kỷ niệm việc Đức Giêsu lập Bí tích Thánh Thể. Đây là Bí tích cao trọng nhất trong 7 Bí tích. Cao trọng bởi vì qua Bí tích này, Đức Giêsu hiến dâng thân mình làm của ăn của uống để nuôi sống nhân loại và ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Ngài yêu thương và yêu hết mình. Yêu đến nỗi bằng lòng chịu chết để miễn sao người mình yêu được hạnh phúc.
Thật vậy, Ngài đã trao ban chính Thân Mình làm bảo vật, để mỗi khi các Tông đồ cũng như những người tin, cử hành và tưởng nhớ, thì Ngài hiện diện cách trực tiếp nơi mầu nhiệm cử hành. Khi đó, Đức Giêsu trở nên đồng hình đồng dạng với người đón nhận, để từ đây, trong ta có Chúa và trong Chúa có ta. Ôi, còn gì cao quý và hạnh phúc cho bằng ta được thông phần vào bản tính Thiên Chúa với Đấng là Thiên Chúa nhưng lại chia sẻ thân phận con người với chúng ta!
Lời cầu nguyện của Đức Giêsu với Chúa Cha làm toát lên đặc tính kỳ diệu này:“ … như, lạy Cha, Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con” (Ga 17,21). Giáo Hội tiếp diễn ý nghĩa hiệp thông với mọi thành phần khi đã liên kết với Đức Giêsu, qua Kinh Tiền Tụng Thánh Thể: “Chúng con nài xin Chúa cho chúng con khi thông phần Mình và Máu Đức Kitô, được quy tụ nên một nhờ Chúa Thánh Thần”.
Qua Bí tích này, mỗi người được hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa thông qua bản thể Đức Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, đồng thời cũng được liên kết chặt chẽ với nhau trong cùng một thân thể. 2. Một dấu tích sống động được tiếp diễn
Sau khi Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể, ngài đã thiết lập Bí tích Truyền Chức liền sau đó như một sự liên hệ, liền mạch và mật thiết với nhau. Đúng thế, không thể có Thánh Thể nếu không có người cử hành Thánh Thể. Vì thế, Đức Giêsu đã trao ban thừa tác vụ đặc biệt cho các Tông đồ, để sau này, các ông sẽ đảm trách những việc làm như Đức Giêsu vừa làm cho đến ngày tận thế.
Thoạt mới nghe, chúng ta dễ tưởng lầm là Bí tích này chỉ có liên hệ hay dành riêng cho các linh mục? Nhưng không! Bí tích này liên hệ chặt chẽ với cộng đoàn, bởi vì Bí tích này thuộc về nhóm Bí tích xây dựng cộng đoàn.
Thật thế, chức vụ linh mục không phải cho bản thân mình, vì các ngài không thể tha tội cho mình, các ngài cũng không thể ban phát các Bí tích cho mình. Vì thế, linh mục là của mọi người, cho mọi người và vì mọi người.
Nếu Đức Giêsu trước kia đã đến để cho con chiên được sống dồi dào, thì ngày nay các linh mục cũng được trao ban trách vụ như thế. Ôi huyền nhiệm và cao quý vô lường! Qua Bí tích Truyền Chức, Đức Giêsu hiện diện cách trực tiếp khi các linh mục cử hành phụng vụ trong vai trò đại diện cho Đức Giêsu là Đầu của thân thể. Và, như thế, mỗi người chúng ta luôn được các ngài chăm sóc, nên không bị rơi vào tình cảnh bơ vơ, mồ côi vì không người chăn dắt. Các ngài sẽ thay mặt Chúa, thi hành việc của Chúa trong vai trò lãnh đạo, phục vụ và thánh hóa vì tình yêu. 3. Một lời trăng trối tâm huyết muôn đời nhớ mãi
Cũng chiều hôm nay, mỗi chúng ta quây quần nơi đây, để nghe đọc lại di ngôn và lệnh truyền của Đức Giêsu về tình yêu. Lệnh truyền này mang tính khẩn trọng, người môn đệ phải có thái độ mau mắn thi hành. Vì thế, đòi hỏi một sự bất khả từ, bởi lẽ đây là điểm sáng, là cốt lõi, là bản chất thiết yếu của người mang danh Đức Kitô trong mình.
Thật vậy, Đức Giêsu không chỉ trao ban chính Thân Mình để nuôi sống nhân loại, mà Ngài còn dạy cho các Tông đồ bài học về tình yêu, để đưa các ông vào qũy đạo của chính Ngài là “yêu và yêu đến cùng”.
Ngài nói: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34). Yêu như Thầy là yêu như thế nào? Thưa yêu như Thầy chính là trở thành người tôi tớ phục vụ, là chấp nhận chết cho người khác được sống. Không những dạy các ông bằng lời, mà Ngài còn làm gương cho các ông noi theo. Vì thế, ngay lập tức, Ngài đứng lên, cởi áo choàng, thắt lưng, lấy nước rửa chân cho từng Tông đồ trước sự ngỡ ngàng của các ông. Ngỡ ngàng là phải, vì hành vi rửa chân là việc làm của người nô lệ dành cho ông chủ. Nhưng hôm nay, Đức Giêsu đã làm đảo lộn vai trò và vị trí khi tự làm những việc dành cho người hầu hạ, và các Tông đồ trở nên những ông chủ.
Sau khi đã rửa chân cho các ông, Đức Giêsu nói tiếp: “Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13, 14-15). Qua hành động rửa chân cho các Tông đồ, Đức Giêsu để lại cho các ông bài học về đức khiêm nhường và phục vụ. Tuy nhiên, để thực hiện được hai nhân đức này thì cần phải có tình yêu làm động lực.
Tình yêu thương được hiện lên như một ngọn hải đăng giữa biển khơi tăm tối, giúp cho mọi người nhận ra đường để đi và đi đến nơi an toàn. Vì thế Đức Giêsu đã dạy cho các ông biết trước viễn cảnh trong tương lai khi nói: “… mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 35). 4. Sống linh đạo Thánh Thể và thực hiện lời trăng trối của Đức Giêsu
Thánh Phaolô nói: “Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết” (1 Cr 11, 26).
Là người kitô hữu, chúng ta tin Chúa, yêu Chúa và đều mong muốn được ơn cứu độ, thì không có lẽ gì chúng ta không sống linh đạo Bí tích này.
Nếu muôn ngàn hạt lúa kết thành tấm bánh, bao trái nho ép thành chén rượu, tượng trưng cho sự hiệp nhất của con cái Chúa, thì mỗi người chúng ta cũng phải hiệp nhất với nhau như vậy.
Muốn được như thế, tinh thần sống mầu nhiệm tự hủy của hạt lúa, trái nho luôn mời gọi và thôi thúc chúng ta thi hành.
Trong đời sống gia đình, người chồng phải là người chồng mẫu mực, sẵn sàng hy sinh gánh vác vì tình yêu với vợ và các con. Người vợ hãy hết lòng lo cho con cái, chăm lo cho chồng và con tử tế. Con cái biết ngoan ngoãn nghe lời cha mẹ… Làm được như thế, ấy là chúng ta đang thực hiện di ngôn của Đức Giêsu trong tinh thần hy sinh và phục vụ.
Nếu không yêu thương nhau, thì chẳng khác chi hạt lúa mì trơ trọi một mình, không sinh hoa trái. Nhưng yêu thương những người lân cận với mình thôi thì chưa đủ, mà phải yêu thương hết mọi người như Đức Giêsu đã yêu. Ngài đã không loại trừ Giuđa là kẻ rồi đây sẽ bán mình; không bỏ lại Phêrô là người sẽ thề sống thề chết không biết mình; không lên án và trách móc những người hại mình, mà: “Lạy Chúa, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34)
Mong sao sứ điệp Lời Chúa hôm nay luôn ở bên tai, qua hành động và trong trái tim của chúng ta, để chúng ta yêu và yêu không giới hạn như Đức Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin tạ ơn Chúa đã để lại cho chúng con Bí tích kỳ diệu là chính Thánh Thể Chúa làm của ăn của uống cho mỗi chúng con. Xin cho chúng con biết yêu mến, tin tưởng và mau mắn loan truyền cho tới khi Chúa đến trong vinh quang. Xin cũng cho mọi suy nghĩ và hành động của chúng con được tình yêu làm căn cốt và thúc đẩy, để như Chúa, chúng con yêu rồi mới làm. Amen.
Lễ Vượt Qua hay lễ Quá Hải (Anh ngữ là Passover) là lễ quan trọng nhất của người Do Thái, kéo Thứ5Thánh ABC-105
Lễ Vượt Qua hay lễ Quá Hải (Anh ngữ là Passover) là lễ quan trọng nhất của người Do Thái, kéo dài một tuần. Chiều ngày 14 tháng Ni-xan (khoảng tháng Ba, tháng Tư dương lịch), người ta sát tế chiên (cừu) tại đền thờ, rồi tư tế lấy máu chiên mà đổ dưới chân bàn thờ. Khi đêm xuống, người ta sẽ ăn tiệc Chiên Vượt Qua theo gia đình hay theo nhóm, rồi lấy chút máu chiên bôi lên cửa nhà.
Lễ Vượt Qua được cử hành như một cuộc tưởng niệm nhằm giúp mỗi người sống lại kinh nghiệm của cha ông họ được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập xưa kia. Trong bữa tiệc, người ta ăn thịt chiên với bánh không men và rau đắng (Xh 12:14), ngoài ra, họ cũng uống với nhau bốn chén rượu đã được vị chủ tọa bữa tiệc chúc lành để kỉ niệm bốn lời hứa của Thiên Chúa với dân Do Thái: [1] Ta sẽ đem các ngươi ra từ ách của Ai Cập; [2] Ta sẽ giải thoát các ngươi khỏi cảnh làm tôi mọi chúng; [3] Ta sẽ giương cánh tay mà chuộc lấy các ngươi; [4] Ta sẽ lấy các ngươi làm dân Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi. Cuối bữa tiệc này, mọi người cùng hát Thánh Vịnh.
Bữa Tiệc Ly là Dạ Tiệc Vượt Qua, Chúa Giêsu dùng bữa với các môn đệ. Trong bữa tiệc này, Ngài làm hai điều quan trọng và kỳ lạ: thiết lập Bí Tích Thánh Thể và Ngài đích thân rửa chân cho các môn đệ. Cả hai hành động đó là dấu chỉ của yêu thương, của lòng thương xót.
Vậy yêu thương là thế nào? Yêu thương là CHO hay NHẬN? Có ai cân-đo-đong-đếm được tình yêu đâu mà sao biết kẻ yêu ít, người yêu nhiều?
Xưa nay, từ cổ chí kim, chưa có một định nghĩa nào về tình yêu trọn vẹn nhất khiến người ta thỏa mãn. Chữ Yêu rất đơn giản mà cũng rất nhiêu khê. Chỉ có một tình yêu đích thực nhưng được nhìn với nhiều lăng kính, mỗi người yêu mỗi cách và mức độ cũng rất khác nhau. Nói chung, yêu là CHO nhiều hơn NHẬN, yêu đến quên mình, đó mới là Tình Yêu chân chính, thế nên người ta mới nói “yêu là chết trong lòng”. Yêu là khổ, không khổ không là yêu, khổ đến “chết” mới là yêu! Không chỉ “chết trong lòng” mà chết thật, vì có những người đã dám liều chết vì quá yêu!
Việt Nam có chuyện tình Đồi Thông Hai Mộ và chuyện tình Lan và Điệp, còn Tây phương có chuyện tình Romeo và Juliet. Những chuyện tình thật lãng mạn và đẹp nhưng cũng đầy chất bi thương!
Yêu là khổ, không yêu thì lỗ, nên người ta cương quyết “thà chịu khổ hơn chịu lỗ”. Những người đó “ngon” thật và can đảm thật! Người ta còn gọi đó là “thú đau thương”. Đau thương mà lại “thú vị”, yêu như điên, đó mới là yêu thật lòng, vị tha chứ không vị kỷ. Chúa Giêsu đã xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Sau những ngày tháng hoang đàng, Thánh Giám mục Tiến sĩ Augustinô đã hối tiếc: “Con yêu Chúa quá muộn màng”, và rồi thánh nhân nói thêm: “Mức độ yêu Chúa là yêu vô hạn”. Một mức độ kỳ lạ: giới hạn của yêu thương là yêu-không-giới-hạn!
Yêu thương liên quan hai động thái cần thiết: Vâng Phục và Phục Vụ.
VÂNG PHỤC VÌ YÊU THƯƠNG
Trình thuật Xh 12:1-8, 11-14 cho biết các chi tiết: Đức Chúa phán với ông Môsê và ông Aharon trên đất Ai Cập: “Tháng này, các ngươi phải kể là tháng đứng đầu các tháng, tháng thứ nhất trong năm. Hãy nói với toàn thể cộng đồng Ít-ra-en: Mồng mười tháng này, ai nấy phải bắt một con chiên cho gia đình mình, mỗi nhà một con. Nếu nhà ít người, không ăn hết một con, thì chung với người hàng xóm gần nhà mình nhất, tuỳ theo số người. Các ngươi sẽ tuỳ theo sức mỗi người ăn được bao nhiêu mà chọn con chiên. Con chiên đó phải toàn vẹn, phải là con đực, không quá một tuổi. Các ngươi bắt chiên hay dê cũng được. Phải nhốt nó cho tới ngày mười bốn tháng này, rồi toàn thể đại hội cộng đồng Ít-ra-en đem sát tế vào lúc xế chiều, lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Còn thịt, sẽ ăn ngay đêm ấy, nướng lên, ăn với bánh không men và rau đắng”. Luật cũ chú trọng cách sống tự nhiên của con người, và cách hành lễ cũng “thực tế” hơn ngày nay, nhưng đó là thể hiện sự vâng lời – vâng lời Chúa nghĩa là yêu mến Chúa.
Học ăn, học nói, học gói, học mở. Đầu tiên là phải học ăn. Cách ăn cũng có luật: lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy. Cách ăn “lạ” nhất là “phải ăn vội vã”, vì đó là lễ Vượt Qua mừng Đức Chúa. Đêm ấy Thiên Chúa rảo khắp đất Ai Cập, sát hại các con đầu lòng trong đất Ai Cập, từ loài người cho đến loài thú vật, và sẽ trị tội chư thần Ai Cập. Nghe vậy chúng ta cảm thấy Chúa “dữ tợn” quá. Nhưng không, luật cũ là luật tự nhiên, những gì là “đầu tiên” được dành ưu tiên cho Thiên Chúa, gọi là “của lễ đầu mùa”, kể cả con đầu lòng. Ngày nay, một số dân tộc vẫn có cách mừng thu hoạch như lễ mừng lúa mới, lễ mừng thu hoạch,…
Vết máu bôi trên nhà là dấu hiệu vâng phục, tức là “giữ luật”, và là “dấu hiệu tình yêu”. Những người trong nhà đó sẽ không bị tai ương tiêu diệt khi Thiên Chúa giáng hoạ trên đất Ai Cập. Ngày đó được chọn làm ngày tưởng niệm, ngày đại lễ mừng Đức Chúa. Đó là luật quy định cho đến muôn đời. Luật đó là hồng ân Chúa ban. Ngài ban đủ thứ ân sủng để con người đủ sức “vượt qua” biển đời. Thiên Chúa YÊU nhiều nên CHO nhiều, còn chúng ta NHẬN quá nhiều mà yêu chẳng bao nhiêu, thế nên:
Lấy chi đáp đền Chúa đây
Vì bao ân huệ chính Ngài đã ban? (Tv 116:12)
Dù thật lòng muốn đền đáp ơn Chúa nhưng chẳng có gì để dâng, nếu có thì cũng chẳng có gì xứng đáng. Thân phận bụi tro mọn hèn cả dám thân thưa:
Con nâng chén hồng ân cứu độ
Mà xưng tụng danh Chúa mãi thôi (Tv 116:13)
Thời quân chủ, thần dân không được ngước nhìn Long Nhan, ai nhìn sẽ bị tội khi quân và phải chết. Thần dân muốn tâu trình điều gì phải quay hướng khác và không được tâu trực tiếp mà chỉ được tâu với cái “bệ rồng” Vua ngồi: “Muôn tâu bệ hạ”. Thế nhưng, đối với Thiên Chúa là Vua các vua và Chúa các chúa, thân sâu bọ chúng ta lại được diện kiến Tôn Nhan thì quả là vô cùng diễm phúc: “Trước Thánh Nhan thật là quý giá, cái chết của những ai hiếu nghĩa với Ngài” (Tv 116:15). Chúng ta chỉ là tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, thế mà lại được diễm phúc thì phải ghi lòng tạc dạ thâm ân này: “Con sẽ dâng hiến lễ tạ ơn mà xưng tụng danh Chúa” (Tv 116:17), đồng thời phải chân thành tự thề hứa: “Lời khấn nguyền với Chúa, con xin giữ trọn, trước toàn thể Dân Ngài” (Tv 116:18).
PHỤC VỤ VÌ YÊU THƯƠNG
Biết thì phải chia sẻ cho người khác, trừ khi người ta không muốn được chia sẻ. Chia sẻ là một dạng yêu thương: cho, tặng, biếu. Chính Thánh Phaolô đã xác nhận: “Điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em” (1 Cr 11:23). Rồi ngài kể lại việc Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy”, và cuối bữa thì Chúa Giêsu nói: “Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy” (1 Cr 11:24-25). Thánh Phaolô giải thích: “Từ nay cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết” (1 Cr 11:26), do đó mà chúng ta hằng ngày tuyên tín trong mỗi Thánh lễ: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết, và tuyên xưng Chúa sống lại, cho tới khi Chúa đến”, hoặc “Lạy Chúa, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, chúng con loan truyền Chúa chịu chết cho tới khi Chúa đến”.
Ngay trước Lễ Vượt Qua, Đức Giêsu biết “giờ của Ngài” đã đến, đó là giờ Ngài phải bỏ thế gian mà về với Thiên Chúa Cha. Ngài yêu thương mọi người đến giọt Nước và giọt Máu cuối cùng, Ngài không muốn xa chúng ta, nhưng Ngài phải tuân phục Thánh Ý của Chúa Cha.
Đức Giêsu biết rõ Giuđa nghĩ gì, tính toán ra sao, và sắp làm gì. Nhưng Thánh Ý Chúa Cha nhiệm mầu. Thế nhưng, có người lập luận rằng “quỷ sứ không được cứu độ”. Giuđa bị gọi là quỷ sứ, Phêrô bị gọi là satan, mà quỷ sứ và satan có khác nhau? Sao satan được cứu độ mà quỷ sứ lại không được? Có gì lấn cấn? Thật ra chẳng ai dám phán xét, cũng chằng ai xứng đáng mà có quyền kết án ông Giuđa. Đừng chỉ “săm soi” một vài khía cạnh nào đó rồi quyết đoán. Tại sao Tội Nguyên Tổ lại được Giáo hội gọi là Tội Hồng Phúc? Thật là mầu nhiệm, vì Lòng Chúa Thương Xót lớn hơn mọi tội lỗi của cả nhân loại kia mà!
Chúa Giêsu bởi Thiên Chúa mà đến, và Ngài sắp phải trở về cùng Thiên Chúa. Do đó, trong một bữa ăn, Ngài đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Ngài đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Chắc hẳn môn đệ nào cũng ngạc nhiên vô cùng khi thấy Sư phụ hành động “kỳ cục nhất thế gian”.
Thế nên, khi Ngài đến chỗ ông Simôn Phêrô, ông liền thưa: “Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao?” (Ga 13:6). Không hề có bề trên nào dám làm chuyện “ngược đời” và “động trời” như vậy. Nghe Phêrô nói, Đức Giêsu trả lời: “Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu” (Ga 13:7). Ông Phêrô chưa thể hiểu nên lại thưa: “Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!” (Ga 13:8a). Đức Giêsu đáp: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy” (Ga 13:8b). Nghe Thầy nói “không được chung phần” thì ông Phêrô liền thưa: “Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa” (Ga 13:9). Nhưng Đức Giêsu bảo ông: “Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu!” (Ga 13:10). Ông Phêrô cụt hứng, chẳng khác như bị tạt nước lạnh. Rõ ràng Ý CHÚA HOÀN TOÀN KHÁC HẲN Ý LOÀI NGƯỜI. Ngài rất thâm ý nên mới nói: “Không phải tất cả anh em đều sạch”.
Rửa chân cho các môn đệ xong, Ngài mặc áo vào, về chỗ và nói: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không?” (Ga 13:11). Hỏi vậy thôi, chứ Ngài biết tỏng là chẳng ai hiểu, vì ông nào cũng “mắt chữ O và miệng chữ A”, cứ như trời trồng hết thảy. Thấy thế, Chúa Giêsu nói luôn: “Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13:13-15).
Thầy mà còn rửa chân cho đệ tử, chủ mà rửa chân cho đầy tớ, thế thì chắc chắn đệ tử hoặc đầy tớ cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho đệ tử, để đệ tử cũng làm như Thầy đã làm cho đệ tử. Đó là Luật Yêu của Chúa. Luật nhẹ nhàng mà KHÔNG DỄ thực hiện, lời giản dị mà thâm thúy. Và đó cũng là điều chúng ta phải suy nghĩ, nhất là trong Tam Nhật Thánh này, vì chính Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta noi theo.
Chữ Yêu bắt đầu bằng mẫu tự Y có hình “ngã ba”, nghĩa là có 3 hướng: Hướng lên Chúa, hướng tới tha nhân, và hướng về chính mình. Yêu Chúa hết linh hồn và hết trí khôn, yêu người như chính mình, yêu mình ít thôi – không được yêu mình thái quá (tự ái là yêu mình thái quá, là ích kỷ). Yêu có những hệ lụy quan yếu. Yêu là điều luôn có mối liên kết quan trọng: Cần thiết –> thiết tha –> tha thứ. Đó là quy-trình-yêu-thương, là vòng-tròn-thương-xót. Và một hệ lụy khác lại phát sinh: YÊU thì phải KÍNH, KÍNH thì phải NỂ, NỂ thì phải TRỌNG, TRỌNG thì phải VỌNG (mong), MONG thì thấy NHỚ, NHỚ nghĩa là YÊU. Đó là vòng-tròn-yêu bắt đầu và kết thúc bằng động từ YÊU. Chúa nhớ chúng ta và chúng ta cũng phải nhớ Chúa, mà NHỚ NGÀI thì PHẢI THI HÀNH THÁNH Ý NGÀI. Hoàn toàn hợp lý! Cũng như khi nói về gia đình, chúng ta áp dụng danh từ kép “hiếu đễ”. Và thật kỳ lạ với chuỗi hợp lý này: HIẾU thì phải ĐỄ (nhường), NHƯỜNG thì phải NHỊN. Nhờ đó mà “trong ấm, ngoài êm”, tạo nên “tổ ấm”, tạo nên hạnh phúc gia đình. Xã hội cũng vậy. Cộng đoàn cũng thế. Nói chung, tất cả chỉ cần tóm gọn trong một chữ YÊU. Biết yêu thì biết thương, biết thương thì biết xót, đó chính là biết sống lòng thương xót của Thiên Chúa.
Lạy Thầy Giêsu chí thánh, nhân từ và giàu lòng thương xót, xin đổi mới trái tim chúng con nên giống Chúa để càng ngày càng thêm nhiều “máu yêu” hơn, nhờ đó mà chúng con có thể vừa yêu mến Ngài vừa yêu thương tha nhân, đồng thời dám sống và hành động như Ngài trong mọi hoàn cảnh. Ngài là Đấng hằng sinh và hiển trị muôn đời. Amen.
Có lẽ trong đời mình, nhiều người trong chúng ta đã từng tổ chức các bữa tiệc khác nhau: tiệc cưới, Thứ5Thánh ABC-106
Có lẽ trong đời mình, nhiều người trong chúng ta đã từng tổ chức các bữa tiệc khác nhau: tiệc cưới, tiệc giỗ, tiệc tân gia, tiệc sinh nhật, tiệc thôi nôi, tiệc đầy tháng, v.v… Còn đối với Chúa Giêsu, trong suốt cuộc đời dương thế của mình, Ngài chỉ “tổ chức” duy nhất một bữa tiệc, cũng là “tiệc chia tay” với các môn đệ dấu yêu trước khi Ngài đi vào cuộc thương khó, tử nạn. Bữa tiệc duy nhất này vẫn thường được gọi bằng cái tên rất dễ thương: Tiệc Ly. Tuy nhiên, đây không phải là bữa tiệc ly – tiệc chia tay thông thường, mà là bữa tiệc đặc biệt nhất, quan trọng nhất, và cũng gây nhiều cảm hứng nhất cho các nhà điêu khắc, hội họa trong lịch sử nhân loại. Vậy Tiệc Ly là bữa tiệc gì mà đặc biệt như thế? 1. Tiệc Ly, trước hết, là bữa tiệc Vượt Qua. Chúa Giêsu đã khẳng định điều này: “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em, trước khi chịu khổ hình” (Lc 26,15). Chúng ta biết Lễ Vượt Qua của người Do Thái bắt đầu vào tối Thứ Sáu. Nhưng Chúa Giêsu đã ăn tiệc Vượt Qua vào tối Thứ Năm, nghĩa là Ngài ăn lễ trước một ngày. Vì đêm Thứ Sáu và ngày Thứ Bảy, Chúa Giêsu đã chết và đang ở trong mộ đá. Và vì là tiệc Vượt Qua, nên Chúa Giêsu đã đích thân lên chương trình kỹ lưỡng: từ việc mượn phòng tiệc, sắp đặt các chỗ ngồi, chuẩn bị đồ ăn thức uống, rồi sai các môn đi chuẩn bị trước. Nhưng đây cũng là lễ Vượt Qua được “làm mới”. Mới ở chỗ: nếu trong lễ Vượt Qua thời Cựu Ước, máu chiên của cuộc vượt qua được bôi lên cửa nhà những người Do Thái, làm cho tai họa “bỏ qua” nhà họ và các con trai đầu lòng của họ thoát chết, thì trong bữa Tiệc Ly – lễ Vượt Qua mới, chính Chúa Giêsu đã trở thành Chiên Vượt Qua của Thiên Chúa. Máu của Ngài – máu của Chiên Thiên Chúa sẽ giải thoát nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết để được trường sinh trong Vương Quốc của Ngài.
2. Tiệc Ly, thứ đến, còn là bữa Tiệc Thánh. Là bữa Tiệc Thánh vì tất cả những gì liên hệ đều thánh. Người chủ sự bữa tiệc hôm đó không phải là một người phàm, dù đó là người gia trưởng trong các gia đình Do Thái hoặc là Môisê hay Aaron đi nữa; chủ tiệc là Con Thiên Chúa, Đấng “ba lần thánh”. Cả đến đồ ăn thức uống của bữa tiệc đó, tức là bánh và rượu, cũng đã trở thành “của ăn của uống cực thánh” – Mình và Máu châu báu của Chúa. Điều đặc biệt hơn nữa: bữa Tiệc Thánh này sẽ được tiếp nối và kéo dài cho đến tận thế, và những người làm công việc tiếp nối này cũng được “thánh hiến” qua Bí tích Truyền Chức mà Ngài sẽ thiết lập ngay sau đó. Tất cả những gì “liên hệ” tới lễ Tiệc Ly này đều trở thành “thánh”: Thánh lễ, chén thánh, đĩa thánh, khăn thánh, Bánh Thánh, Máu Thánh…
3. Sau nữa, Tiệc Ly còn là bữa tiệc yêu thương phục vụ. Thánh Gioan đã viết: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Ngài “yêu thương tất cả những kẻ thuộc về mình”, yêu thương cả Giuđa là kẻ nhẫn tâm phản bội Ngài; yêu thương cả Phêrô là kẻ vô tâm chối bỏ Ngài. Nhưng không phải là yêu thương một cách chung chung mà là yêu thương từng người, cũng không phải là yêu thương một cách hời hợt như ta thường thấy giữa thầy trò, mà là “yêu thương đến cùng”, yêu thương đến độ hiến mạng sống mình, biến thịt máu mình làm của ăn của uống nuôi sống linh hồn. Cử chỉ rửa chân là cử chỉ nói lên sự yêu thương phục vụ đúng nghĩa của nó: yêu thương thì không nề hà, yêu thương thì không tính toán, yêu thương thì không phân biệt đẳng cấp thứ bậc, chủ tớ…; yêu thương thì sẵn sàng quên mình đi để phục vụ.
Có khi nào chúng ta thấy trong một bữa tiệc mà Đức Giám Mục, hay Đức Giáo Hoàng đi lại phục vụ chén bát, phân phát đồ ăn thức uống, châm đá, hoặc bưng nước cho giáo dân rửa tay chưa? Có lẽ là chưa! Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã làm công việc phục vụ đó, nhưng không chỉ “bưng nước”, mà Ngài còn đích thân cúi xuống rửa chân cho từng người một. Ngài là vị Thiên Chúa mà dân Israel không dám gọi bằng tên, càng không dám tới gần. Nhưng nay Ngài đến thật gần với con người, và không những thế Ngài còn cúi xuống thật thấp trong cung cách là một người tôi tớ, người rốt hết, chứ không phải là một người chủ.. Đây là một cử chỉ nói lên cung cách phục vụ khiêm nhường thẳm sâu nhất của Ngài. Và Ngài cũng mời gọi các môn đệ của Ngài hãy yêu thương phụ vụ như Ngài đã nêu gương: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương” (Ga 15,12); “Anh em cũng hãy rửa chân cho nhau”, nghĩa là “hãy phục vụ nhau như thế”!
Nếu người ta cám ơn thánh Luca vì ngài là vị thánh sử duy nhất đã ghi lại lời Chúa Giêsu dạy về dụ ngôn người cha nhân hậu (x. Lc 15,11-31), thì ta cũng phải biết ơn thánh Gioan vì ngài cũng là vị thánh sử duy nhất ghi lại biến cố vô cùng ý nghĩa xảy ra trước giờ phút Chúa chịu tử nạn, đó là biến cố Ngài rửa chân cho các môn đệ (x. Ga 13,1-20).
Vì những yếu tố trên, Tiệc Ly trở thành bữa tiệc vô tiền khoáng hậu, bữa tiệc cứu độ.
Trong mỗi Thánh Lễ, trước khi rước lễ, linh mục đều nâng bánh rượu và xướng rằng: “Đây Chiên Thiên Chúa Đây Đấng xóa tội trần gian. Phúc cho những ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Là Kitô hữu, chúng ta thật diễm phúc vô cùng, vinh dự vô cùng vì hằng ngày chúng ta được Chúa mời tham dự bữa tiệc đặc biệt này. Hãy dâng lời tạ ơn Chúa luôn. Và một trong những cách thế tạ ơn tốt nhất, thiết nghĩ, đó chính là nỗ lực để “thực thi tình yêu và lòng thương xót” đối với anh chị em đồng loại như Chúa đã nêu gương.
Tất nhiên, Chúa sẽ không hỏi chúng ta đã rửa chân được cho bao nhiêu người, nhưng Chúa sẽ hỏi đôi bàn tay chúng ta đã giúp đỡ sẻ chia cho được những ai! Chúa sẽ không hỏi chúng ta đã hôn được bao nhiêu bàn chân, nhưng Chúa sẽ hỏi môi miệng chúng ta đã làm cho bao nhiêu người được an vui hạnh phúc. Chúa không muốn chúng ta trở thành những người thợ làm thuê (rửa chân – hôn chân thuê), những robot, người máy của thời hiện đại, nhưng muốn chúng ta thực sự trở thành những con trai con gái của một vị Thiên Chúa yêu thương, yêu thương đến cùng bằng nỗ lực thực hành giới luật yêu thương mà Chúa đã dạy (x. Tình Chúa – Tình Người, Lm. Giuse Dương Hữu Tình).
Cụ thể đó là ta đã cúi xuống để có thể lắng nghe và cảm thông với những đau khổ và nhọc nhằn của anh chị em đồng loại hay chưa? Ta đã cúi xuống để phục vụ cha mẹ già trong gia đình, gia tộc mình, bằng sự yêu thương kính trọng hay chưa? Ta đã cúi xuống để yêu thương và phục vụ chồng của mình, vợ của mình, con cái của mình bằng sự hy sinh trao hiến chưa? Ta đã quan tâm đến hàng xóm láng giềng, là những người sống bên cạnh chúng ta nhiều hơn chưa?
Dĩ nhiên để có thể yêu thương theo cung cách của Chúa yêu là không dễ chút nào. Cần phải có ơn Chúa trợ giúp. Bí tích Thánh Thể chính là nguồn trợ lực vô cùng cần thiết.
Vậy xin cho mỗi người chúng ta biết năng tham dự Thánh lễ và tiếp nhận Thánh Thể Chúa mỗi ngày, nhờ đó ta có thêm sức mạnh để thực thi giới luật yêu thương đối với anh em mình như Chúa dạy, và để nhờ đó mà ta có được sự sống đời đời mai sau. Amen.
Đâu đó, ta thấy người ta nói về tình yêu. Người ta vẫn nghiên cứu, phân tích tình yêu dưới nhiều Thứ5Thánh ABC-107
Đâu đó, ta thấy người ta nói về tình yêu. Người ta vẫn nghiên cứu, phân tích tình yêu dưới nhiều góc độ, tốn rất nhiều giấy mực, để lý giải tình yêu… nhưng có lẽ rất ít người hiểu cho đúng tình yêu là gì.
Thi sĩ Xuân Diệu, một người được xem là nhà thơ của tình yêu, có những cảm nhận rất tinh tế về tình yêu và tâm lý con người, nhưng cũng thú nhận là không thể giải nghĩa được tình yêu. Ông viết như thế này:
“Làm sao giải nghĩa được tình yêu Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt…”
Và khi con người không lý giải được tình yêu thì có lẽ phải viện tới Trời. Vì thế, Hàn Mặc Tử, một nhà thơ công giáo trứ danh, khuyên chúng ta – trong bài “Ðà Lạt trăng mờ” – như sau:
“Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều, Ðể nghe dưới đáy, nước hồ reo Ðể nghe tơ liễu run trong gió Và để xem Trời giải nghĩa yêu.”
“Và để xem Trời giải nghĩa yêu!” Ðúng vậy, Thiên Chúa là Tình Yêu. Tình Yêu là phẩm chất của Thiên Chúa nên chỉ có Thiên Chúa mới biết thế nào là yêu và chỉ có Ngài mới có đủ thẩm quyền để “giải nghĩa yêu”.
Về tình yêu, Chúa Giêsu “giải nghĩa yêu” khi Ngài thỏ thẻ với ông Nicôđêmô biết: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin vào Con của Người thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16).
Chúa Giêsu cũng đã “giải nghĩa yêu” rất thẳng thắn và chân thành: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình.” (Ga 15, 13)
Thật vậy, ý nghĩa của tình yêu giờ đây đã được sáng tỏ: yêu thương là trao ban, là hy sinh, là cống hiến, là cho đi… Chính Thiên Chúa Cha yêu thương thế gian nên đã trao ban Người Con Một cho thế gian; Chúa Giêsu đã yêu thương thế gian nên Ngài đã hy sinh tính mạng cho thế gian.
Xem ra Chúa Giê-su không hề giải nghĩa yêu bằng những lời hoa mĩ. Ngài thể hiện lòng yêu thương qua cuộc sống. Tin Mừng hôm nay cho biết rằng: “Ngài vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng… Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn thắt lưng. Rồi Ðức Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau.” (Ga 13, 1.4-5).
Chúa Giêsu đã yêu là “Yêu đến cùng”. Yêu theo cách của Chúa Giêsu là trao ban tất cả, tận hiến tất cả,đến cả mạng sống mình.
Đó là một tình yêu vô vị lợi, không chút tính toán , không mảy may vụ lợi, không ngần ngại quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ . Chúa Giêsu đã yêu thương con người đến cùng, nên đã cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ: “Này là Mình Thầy”: Đó là tình yêu tự hiến, hy sinh chính mình để cho nhân loại được sống. Chúa Giêsu yêu thương đến cùng nên đã chấp nhận chịu chết đau thương trên thập giá: Đó là tình yêu cao cả, từ bỏ ý riêng hoàn toàn để thực hiện ý Chúa Cha. “Xin cất chén này xa Con, nhưng đừng vì ý Con, mà hoàn toàn tuân theo thánh ý Cha”. Như thế, yêu đến cùng là một tình yêu đích thực và đã làm nên những điều kỳ diệu.
“Yêu đến cùng” là sống trọn vẹn, là “chơi xả láng”.
Đó chính là từ ngữ mà Thánh Gioan Tông Đồ diễn tả về cách sống của Chúa Giêsu đối với các môn đệ của Mình và cho cả chúng ta. Tình yêu ấy muốn trao ban tất cả những gì là tốt đẹp, là thiện hảo nhất cho người mình yêu mến.
Chúa Giêsu đã nêu gương trước cho chúng ta, Chúa Giêsu đã không giữ lại cho mình cái gì, dù là cả sinh mạng. Ngài hiến thân để trở thành của lễ toàn hảo dâng lên Chúa Cha hầu mong cứu chuộc con người khỏi thần chết và sự dữ. Tình yêu ấy kêu mời chúng ta hãy biết thể hiện tình yêu cách trọn vẹn, không tính toán đối với anh em mình.
“Yêu đến cùng” là quỳ gối xuống, trở thành kẻ tôi đòi, chấp nhận thân phận của một người phục vụ để cho mong cho anh em được lớn lên. “Không còn vẻ hình hài, dáng dấp oai phong” nhưng trở nên “Con chiên gánh tội trần gian”.
Học với chữ “yêu” của Chúa Giêsu. Yêu này đòi hỏi mỗi người chúng ta sống quảng đại, sẵn sàng chia sẻ, chịu thua lỗ, để anh em mình “được lời”. Sống chữ “yêu” của Chúa, chúng ta hãy tập cho mình thái độ “cúi mình, uốn cong lưng xuống” để phục vụ và sống vì, sống cho anh em.
“Yêu đến cùng” là chết để cho anh em mình sống. Chúa đã từng dạy và nêu gương cho tất cả chúng ta về một tình yêu tận hiến hoàn toàn. Ngài đã trở nên chiếc bánh cho mọi người ăn, trở nên máu cho mọi người uống. “Ngài hiến thân vì và cho tất cả chúng ta” bằng chính cái chết của mình. Và “Không có tình yêu nào cao quí cho bằng người dám hiến thân vì người mình yêu”.
Tình yêu của Chúa đã đi đến tuyệt đỉnh, để như hạt lúa bị chôn vùi, thối đi, để con người chúng ta có được mùa gặt bội thu.
Yêu đến cùng là quảng đại dấn thân và có khi phải thiệt thân vì Tin Mừng. Vì yêu nên chấp nhận sống cảnh âm thầm, vô danh như những tu sĩ sống đời chiêm niệm. Yêu đến cùng là sẵn sàng chấp nhận phần thiệt thòi để người khác được nhiều phần lợi hơn như các thánh tử đạo đã chấp nhận thiệt cả thân mình.
Yêu đến cùng đòi hỏi quảng đại hy sinh theo gương Chúa Giêsu: chủ nhân trở thành tôi tớ bằng cách tự nguyện phục vụ, Thiên Chúa trở thành “kẻ tội đồ” để mang lại sự sống cho kẻ tin.
Yêu đến cùng không chỉ có tấm lòng nhưng là thể hiện tấm lòng bằng hành động cụ thể, nghĩa là không chỉ làm những việc từ thiện, mà làm việc bác ái với tấm lòng yêu thương chân thành và quảng đại.
Nhìn lên tình yêu Giêsu, ta hãy học và bắt chước thái độ “Yêu đến cùng” của Chúa, là chúng ta biết khiêm tốn phục vụ trong những điều nhỏ bé nhất một cách vô vị lợi.
Có lần Chúa Giêsu nói: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Thứ5Thánh ABC-108
Có lần Chúa Giêsu nói: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15, 9-10). Khi mời gọi chúng ta hãy ở lại trong tình thương của Người, Chúa Giêsu, qua cuộc sống trần thế, đã chứng tỏ lòng yêu thương chúng ta bằng chính tình yêu mà Chúa Cha đã dành cho Người.
Tình yêu mạnh mẽ ấy đã khiến Chúa vui hiến thân làm giá cứu chuộc loài người. Tình yêu ấy thúc đẩy Chúa để lại cho trần thế Kho Báu muôn đời cần thiết cho loài người: bí tích Thánh Thể.
Khai mạc Tam nhật Thánh, chúng ta cử hành và tưởng niệm việc Chúa hiến mình đến muôn đời để ở lại với chúng ta nơi bí tích Thánh Thể, là chúng ta cử hành và nhắc nhở nhau về một tình yêu vô song. Đó là một tình yêu dữ dội, một tình yêu trào tràn, một tình yêu ngút ngàn. Đó là một tình yêu muôn đời không thể tìm thấy bất cứ nơi đâu, ngoài Thiên Chúa.
Bản chất của tình thương yêu nơi cung lòng Thiên Chúa là thế: một khi đã thông truyền, nó sẽ thông truyền trọn vẹn, không kém bớt, không tiêu hao, không sứt mẻ, không giảm suy. Nó là một công thức luôn luôn: “thế nào… thế ấy”. Được yêu thế nào, sẽ yêu thế ấy.
Tình yêu thương của Chúa Cha truyền sang Chúa Con là tình yêu của Đấng Toàn Năng thể hiện mình. Người là Thiên Chúa cuồn cuộn trong sự thủy chung, giàu có trong sự trao ban, trào tràn trong sự hiến dâng, bền bỉ trong sự giải cứu, sẵn sàng trong sự đón nhận, lớn lao trong sự tha thứ, cao cả trong sự chở che, mạnh mẽ trong sự phục hồi…
Đến lượt Chúa Con, sau khi nhận lãnh tình yêu của Chúa Cha, lại tiếp tục truyền sang chúng ta. Người yêu chúng ta bằng một tình yêu tròn đầy từ muôn đời cho đến muôn đời, luân chảy từ Chúa Cha đến chúng ta; một tình yêu không bao giờ có thể sánh ví, một tình yêu núi không thể đo, biển không thể dò.
Bởi vậy, Chúa Giêsu khẳng định về tình yêu của Người: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” (Gioan 15,9).
Bởi tình yêu của Thiên Chúa là môi sinh che chở chúng ta đẹp đến vậy, cho nên tình yêu ấy trở thành nguồn hạnh phúc vô cùng cho những ai biết ở lại trong nó.
Chúa Giêsu biết chúng ta cần tình yêu ấy, Chúa Giêsu biết chúng ta trông ngóng tình yêu ấy, Chúa Giêsu biết chúng ta không thể thiếu tình yêu ấy, vì thế, ngay sau lời dạy “hãy ở trong tình yêu của Thầy”, Chúa dạy ta cách thức để giữ mãi tình yêu ấy: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người”(Ga 15, 11).
Lắng nghe Chúa Giêsu dạy, Ta phấn đấu mỗi ngày một nhiều hơn để sống giới răn của Chúa, sống hoàn hảo nhất Lời Chúa dạy. Bởi chỉ có phương thế ấy, ta mới có thể trọn vẹn chiếm lấy tình thương yêu của Thiên Chúa.
Ta hãy đến lãnh nhận Mình và Máu Thánh của Chúa. Khi thông hiệp với Chúa rồi, ta giữ lấy tình yêu của Chúa mà sống trong đời, để mọi nơi, mọi lúc, ta chứng tỏ cho đời, nơi cuộc sống của mình là chính tình yêu vô cùng của Thiên Chúa từ bi đại lượng.
Hãy nỗ lực bằng khả năng trao ban tình thương mà bản thân đã được Chúa dành cho mình, để ta luôn có Chúa Giêsu nơi tâm hồn mình. Và vì có Chúa Giêsu, ta cũng sẽ trọn vẹn sống trong Thiên Chúa.
Hãy hoàn hảo hóa giới răn của Chúa nơi đời sống bản thân mình, để ta nên một trong Chúa Cha và Chúa Con nhờ tình yêu chan chứa của Chúa Cha và Chúa con.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống giới răn Chúa, để chúng con luôn biết giữ mãi tình yêu của Chúa nơi tâm hồn và nơi cuộc đời chúng con. MỘt khi giữ trọn tình yêu Chúa, chúng con hy vọng, mãi muôn đời chúng con sẽ ở lại trong tình yêu của Chúa, như Chúa ở lại trong tình yêu của Chúa Cha. Amen.
Chiều hôm nay, cùng với mọi người trong Giáo hội, chúng ta bước vào Tam Nhật Thánh, cử hành Thứ5Thánh ABC-109
Chiều hôm nay, cùng với mọi người trong Giáo hội, chúng ta bước vào Tam Nhật Thánh, cử hành mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Giê-su, Đấng cứu độ trần gian. Trong ba ngày thánh này, chúng ta nghe những lời Chúa trăn trối, và suy niệm những hành động cuối cùng trong cuộc đời của Chúa Giê-su, biểu lộ tình yêu thương cao cả của Chúa với chúng ta, dạy chúng ta làm gì và sống như thế nào.
Chiều hôm kỷ niệm ngày lễ Vượt Qua và khi mặt trời vừa lặn, Chúa Giêsu cùng với các môn đệ cử hành bữa tiệc theo đúng truyền thống. Và trong bữa tiệc, Chúa Giêsu đã bộc lộ niềm xúc động vì đây là lần cuối cùng Chúa mừng lễ Vượt Qua chung với các môn đệ. Người biết rằng sau bữa ăn này, Người sẽ phải vâng thánh ý Chúa Cha hoàn thành sứ mệnh đã được giao phó. Và cũng trong bữa ăn này, Chúa đã để lại một lời trăn trối chất chứa tình yêu thương, phát xuất từ trái tim: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con.” Sau đó, Chúa Giêsu đã làm một cử chỉ đột ngột, Ngài chỗi dậy khỏi bàn, lấy khăn thắt lưng, đổ nước vào chậu, rồi rửa chân cho các môn đệ. Sau khi rửa chân cho các môn đệ, Chúa ngồi vào bàn tiếp tục dạy dỗ các môn đệ về yêu thương phục vụ, và nói rõ cho các môn đệ biết mục đích việc Chúa rửa chân cho họ, “Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.” Trong giây phút nữa đây, chúng ta sẽ cử hành việc rửa chân này.
Có người nói rằng: “Con thành thật thưa với cha, con đã từ chối không nhận lời mời được rửa chân nhiều lần rồi.” Tôi biết quí ông rất ngại nhận lời vì nhìn thấy cha xứ quì gối trước mặt, rửa và lau chân cho mình. Đối với tôi, thật sự, đây không phải là việc quá khiêm nhường, nhưng là một việc rất đặc biệt và quí trọng. Nhưng việc này đối với Chúa ngày xưa thì khác, vì đây là một việc dơ bẩn. Như chúng ta biết, ngày xưa dân chúng không mang giày và vớ như ngày nay, họ mang một thứ như dép suốt ngày, trong nhà cũng như đi ngoài đường nhiều phân của thú vật, như ở Việt Nam chúng ta ngày xưa. Chúng ta có thể hình dung, tưởng tượng dép của họ dơ dáy và hôi hám như thế nào. Cho nên khi vào nhà nào thì có người đầy tớ rửa và lau chân sạch sẽ trước khi ngồi dự tiệc ăn. Giả sử nếu tôi thật sự muốn khiêm nhường, thì tôi sẽ âm thầm đến nơi ở của những người vô gia cư và rửa chân cho họ, không có sự hiện diện của báo chí phỏng vấn, loan tin đi, và không có những người quay phim trực tiếp truyền hình ra ngoài cho mọi người biết.
Có một người được mời rửa chân nói rằng: “Con không biết phải nghĩ như thế nào?” Ông bà anh chị em thân mến. Thật sự, trong cuộc đời của Chúa Giê-su, Ngài làm nhiều việc giảng dạy, làm nhiều phép lạ, làm nhiều sự chữa lành, và giúp đỡ nhiều người, nhưng trong đêm cuối cùng trước khi chịu chết, Chúa muốn nói và làm những việc ngoại lệ để in sâu vào tâm và trí các môn đệ, và biểu lộ cho họ biết Ngài là ai. Vì vậy, Chúa nói với các ông hãy suy nghĩ những việc Ngài vừa làm. Chúng ta hãy nghe lời Chúa nói với các tông đồ: “Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng?..Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con.” Chúng ta nghe Chúa nói trước đó rằng: “Ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.” (Mc. 10.44) Và Chúa còn ban cho chúng ta một tấm gương qua giới răn yêu thương, Ngài nói: “Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con.” (Ga. 15.12)
Ông bà anh chị em thân mến. Con người nhân loại chúng ta khi chết thì thường để lại cho con cháu tiền bạc và vật chất. Trước khi chết, Chúa Giêsu không để lại cho nhân loại kho tàng châu báu ngọc ngà, hay danh vọng vật chất, nhưng Người đã để lại cho nhân loại những món quà cao quí tinh thần, đó là Bí Tích Thánh Thể, Chức linh mục và lời trăn trối: tình yêu hy sinh phục vụ, để chúng ta sống trong ân sủng của Người, được ơn cứu độ, và sống lại với Người. Đây là một gia tài vĩ đại vô giá, không thể dùng tiền của để mua được. Ngoài ra, chúng ta cũng nhận biết những lời trăn trối hay những việc làm của một người, nhất là của cha mẹ hay ông bà trước khi qua đời, rất quan trọng và rất trân quí. Chúng ta, là con cái, cháu chắt, cố gắng hết sức giữ và sống những lời, cũng như thực hành những việc của người đã khuất trối lại. Nếu chúng ta tin và yêu Chúa, thì chúng ta phải biết lắng nghe và thực hành lời Chúa truyền dạy, và biết trân quí những món quà Chúa đã để lại cho chúng ta.
Chiều hôm nay, chúng ta cử hành lại viêc Chúa Giêsu đã làm và truyền dạy chúng ta, là những người tin và yêu Người. Chúng ta kính nhớ và tôn thờ tình yêu thương bao la của Chúa, và cầu xin, qua việc cử hành và tôn thờ mầu nhiệm Thánh Thể, chúng ta được nối kết một cách mật thiết với Chúa, và giúp chúng ta sống đức tin, sống tình đoàn kết thương yêu hy sinh phục vụ, bác ái và quảng đại để làm sáng danh Chúa và xây dựng giáo xứ.
Kinh nghiệm ở đời cho chúng ta biết rằng những lời được nói ra và những việc làm lúc người ta Thứ5Thánh ABC-110
Kinh nghiệm ở đời cho chúng ta biết rằng những lời được nói ra và những việc làm lúc người ta sắp xa nhau là những gì quan trọng và thiêng liêng nhất.
Cái gì “cuối cùng” thì càng mang một ý nghĩa thật lớn lao: cuộc gặp gỡ cuối cùng, bức thư cuối cùng, lời nói cuối cùng. Tiệc ly là bữa tiệc cuối cùng của Chúa Giêsu với các môn đệ trước khi Người bước vào cuộc khổ nạn và về cùng Chúa Cha. Và chính trong giờ phút linh thiêng này, Người đã trao ban cho nhân loại ba món quà quý giá nhất:
1. Bí tích Thánh Thể để nuôi dưỡng nhân loại. 2. Thiên chức Linh mục thừa tác để Chúa tiếp tục chăm sóc nhân loại. 3. Giới răn yêu thương để con người được hạnh phúc.
Này là Mình Thầy … Này là chén Máu Thầy … Chúa Giêsu trao ban Mình Máu Người, có nghĩa là Người trao ban chính mạng sống của bản thân Người một cách cụ thể nhất. Người hoàn toàn thuộc về chúng ta, Người phục vụ chúng ta. Người đặt sự sống của chúng ta lên trên bản thân Người.
Đã trao ban đến cả sự sống của mình thì cũng đồng nghĩa với việc không còn giữ lại gì cho mình nữa. Đó là sự hiến dâng trọn vẹn và quyết liệt của Thiên Chúa Tình Yêu. Và việc trao ban này Chúa không chỉ muốn dừng lại nơi các môn đệ của Người mà còn được kéo dài mãi cho đến tận thế. Vì vậy Chúa Giêsu đã thiết lập Thiên Chức Linh mục, khi Người nói: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Qua các Linh mục Chúa Giêsu muốn ở lại với chúng ta luôn mãi, để trao ban cho chúng ta sự sống, để chúng ta sống bằng chính sự sống của Người và sống thật dồi dào.
Khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống thần linh của Người. Dù vậy sự sống của Thiên Chúa trong chúng ta còn non nớt như một mầm cây cần được chăm sóc dưỡng nuôi. Và nếu không được tiếp tục bảo vệ, che chở để tránh sự đe dọa của sự dữ, của lời mời gọi cám dỗ giữa chợ đời thì nó có nguy cơ bị chết ngạt lụi tàn. Chính vì thế mà mỗi ngày Chúa Giêsu cần dùng Mình Máu Người để tiếp sức và hồi sinh chúng ta. Người gìn giữ, củng cố, nuôi dưỡng sự sống thần linh trong chúng ta. Và Người luôn ước mong sự sống đó tăng trưởng, lớn mạnh và sinh những hoa trái tốt tươi cho đời. Cho nên Thánh Thể Chúa còn có một tên gọi nôm na nhưng rất ý nghĩa là: “của ăn đàng”.
Xưa kia khi người ta phải vượt qua một quãng đường dài, nhất là qua những miền hoang vu khô cằn không có người ở thì chỉ có thể trông chờ vào lượng nước và lương khô mà họ mang theo làm “của ăn đường”. Ngoài ra không thể tìm được của ăn nào khác. Sống chết tùy thuộc vào lương thực mang theo mà thôi.
Cũng vậy, trên đường về quê hương vĩnh cửu, một con đường xa diệu vợi và đầy gian nan, Chúa Giêsu cùng trao cho ta một thứ “của ăn đường” là chính Mình Máu Người. Ai biết tiếp nhận thì sẽ đủ sức vượt qua mọi trở ngại khó khăn đủ sức đi cho trọn con đường, cho tới nơi phải đến.
Nói tắt một lời, vì yêu thương nhân loại, và muốn mỗi người chúng ta được sống và sống dồi dào để đi cho trọn con đường trần thế mà Chúa Giêsu đã trao ban chính Mình và Máu thánh Người cho chúng ta.
Chúa Giêsu làm tất cả những điều đó cũng chỉ vì yêu và yêu cho đến cùng mà thôi. Và sự yêu thương này, ngày hôm nay Chúa muốn diễn tả thật rõ ràng qua cử chỉ thật ấn tượng là cúi xuống rửa chân cho các môn đệ khi họ đang tham dự Tiệc Ly. Các ông đã sững sờ trước hành động quá bất ngờ của Thầy Giêsu. Đến nỗi tông đồ Phêrô phải thốt lên rằng: “Không đời nào Thầy phải rửa chân cho con”. Vì sao ông lại phản ứng một cách quyết liệt như vậy?. Bởi vì đối với người Do Thái đây là công việc của một người nô lệ. Vậy mà Thầy Giêsu đã làm điều đó sao? Chúa Giêsu cũng hiểu được nỗi băn khoăn thắc mắc của họ. Cho nên khi rửa chân cho họ xong. Người mới giải thích: “Anh em gọi Ta là Thầy và là Chúa, điều đó phải lắm, vì quả thật Ta là Thầy, là Chúa. Vì nếu Ta là Thầy là Chúa phải rửa chân cho anh em thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em để anh em cũng là như Thầy đã làm cho anh em.
Qua hành động của Chúa Giêsu chúng ta rút ra được điều gì ? Bài học thật quá rõ ràng và cụ thể: “Yêu thương và khiêm tốn phục vụ”. Chúng ta làm được điều đó không ? Quả thật giữa một xã hội chủ trương hưởng thụ như ngày nay, yêu thương và phục vụ không phải là chuyện dễ dàng.
Mấy ngày nay, dư luận xôn xao về vụ một nữ sinh ở trường THPT Trần Nhân Tông – Hà Nội bị bạn học đánh đập và lột áo giữa thanh thiên bạch nhật mà không một ai đoái hoài. Tất cả những ai còn có chút lương tâm đều tự nghĩ: Sự vô cảm của người Việt đã đến mức báo động. Ai cũng chỉ còn nghĩ đến bản thân mình mà thôi, còn người khác sống chết mặc họ.
Tuy nhiên, vẫn còn đó những tấm lòng rộng như biển, cao như núi. Trong vụ án xét xử người tài xế cố tình cán chết chị Nguyễn Thị Hội 20 tuổi những ngày qua, có một việc, làm cho tất cả mọi người phải ngõ ngàng đó là khi tòa án hỏi ý kiến người bà của chị Hội – 80 tuổi bà nghĩ sao?. Bà trả lời: “Thôi đằng nào cháu tôi cũng chết rồi, xin tòa giảm nhẹ án cho anh ta”. Cả khán phòng im lặng hướng về cụ bà trong ngỡ ngàng và thán phục. Họ không ngờ rằng giữa nỗi đau mất mát đến tột cùng do sự tàn ác của người khác gây nên vậy mà bà cụ 80 tuổi vẫn nói lên được lời tha thứ đến lạ lùng.
Vâng,
Chỉ có tình yêu mới có sức mạnh đẩy lùi bóng tối của sự dữ. Chỉ có tình yêu mới làm tan cõi lòng băng giá của con người. Chỉ có tình yêu mới làn cho mọi sự trở nên tốt đẹp trong cuộc đời này.
Và đó là điều mà Thầy Giêsu muốn nhắn gửi đến mỗi người chúng ta hôm nay. Xin mượn những dòng thơ sau để khép lại bài chia sẻ hôm nay như một gợi mở cho những ngày sống sắp tới:
Tôi xin mọi điều để tận hưởng cuộc sống Người lại ban cuộc sống để tôi tận hưởng mọi điều
Vậy:
Nếu đã từng tổn thương Hãy can đảm hàn gắn Nếu đã từng gục ngã Hãy can đảm đứng lên Nếu đã từng phải khóc Hãy trải hết lòng mình Nếu đã từng được cười Hãy trân trọng niềm vui Nếu đã từng yêu thương Hãy từ bỏ hận thù Nếu đã từng ân oán Hãy rộng lòng tha thứ Nếu đã từng được nhận Hãy tìm cách sẻ chia Nếu đã từng được sống Hãy trân trọng cuộc đời.
Sứ điệp Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta là sứ điệp của tình yêu. Tình yêu đó đòi hỏi con người Thứ5Thánh ABC-111
Sứ điệp Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta là sứ điệp của tình yêu. Tình yêu đó đòi hỏi con người phải dấn thân phục vụ và làm chứng tá. Trong Tin Mững hôm nay, Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta trong việc sống tình yêu đích thực - tình yêu khiêm nhường phục vụ anh em: Ngài đã cúi xuống để rửa chân cho các môn đệ của mình. Đây là một hành động rất cụ thể và đầy khiêm tốn của Chúa Giêsu. Hành động này nói cho chúng ta biết rõ rằng: tình yêu của chúng ta là tình yêu phục vụ, một tình yêu rất cụ thể trong đời sống.
Chúng ta tự hỏi: sao Chúa Giêsu không thực hiện việc rửa chân cho các môn đệ của mình vào một thời điểm khác mà lại thực hiện vào bữa ăn cuối cùng này? Theo tôi, việc thực hiện cử chỉ yêu thương trong dịp gặp gỡ cuối cùng này cho thấy tầm quan trọng của tình yêu phục vụ: tình yêu phục vụ là đỉnh cao của đời sống người Kitô hữu. Thật vậy, tôi thiết nghĩ những hành vi thời phượng Thiên Chúa, những lời kinh, những thánh lễ của chúng ta chỉ thực sự có ý nghĩa nếu chúng ta sống một đời sống chứng tá của yêu thương phục vụ như Chúa Giêsu đã làm.
Lạy Chúa, con được học biết về tình yêu của Chúa rất nhiều, con có thể nói về yêu thương rất nhiều nhưng nhiều khi con chẳng diễn tả tình yêu qua hành động. Xin Chúa cho con biết diễn tả tình yêu Chúa trong những hành động cụ thể của đời sống, nhờ đó mọi người có thể nhận biết về tình yêu của Ngài.
“Để nghe tơ liễu run trong gió và để xem Trời giải nghĩa yêu”(Hàn Mặc Tử)
(Suy niệm thứ năm tuần thánh theo Tin Mừng Gioan 13, 1-15)
Người ta đề cập rất nhiều về tình yêu, nhưng có lẽ không mấy ai hiểu cho đúng tình yêu là gì. Thứ5Thánh ABC-112
Người ta đề cập rất nhiều về tình yêu, nhưng có lẽ không mấy ai hiểu cho đúng tình yêu là gì.
Ngay cả thi sĩ Xuân Diệu, người được xem là thi sĩ của tình yêu, có những cảm nhận rất tinh tế về tình yêu và tâm lý con người, nhưng cũng thú nhận là không thể giải nghĩa được tình yêu. Ông viết:
"Làm sao giải nghĩa được tình yêu Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu."
Và khi con người không lý giải được tình yêu thì có lẽ phải viện tới Trời. Vì thế, Hàn Mặc Tử, một nhà thơ tài hoa công giáo, khuyên chúng ta - qua bài "Đà Lạt trăng mờ" - như sau:
"Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều, để nghe dưới đáy, nước hồ reo để nghe tơ liễu run trong gió và để xem Trời giải nghĩa yêu."
"Và để xem Trời giải nghĩa yêu!" Đúng vậy, Thiên Chúa là Tình Yêu. Tình Yêu là phẩm chất của Thiên Chúa nên chỉ có Thiên Chúa mới biết thế nào là yêu và chỉ có Ngài mới có đủ thẩm quyền để "giải nghĩa yêu". Chúa Giê-su "giải nghĩa yêu" khi bày tỏ cho ông Ni-cô-đê-mô biết: "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin vào Con của Người thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời" (Ga 3,16).
Chúa Giê-su cũng đã "giải nghĩa yêu" khi Nguời nói: "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình." (Ga 15, 13)
Thế là ý nghĩa của tình yêu giờ đây đã được sáng tỏ: yêu thương là trao ban, là hy sinh, là cống hiến, là cho đi...
Thiên Chúa Cha yêu thương thế gian nên đã trao ban Người Con Một cho thế gian; Chúa Giê-su đã yêu thương thế gian nên Ngài đã hy sinh tính mạng cho thế gian. Nhưng Chúa Giê-su không chỉ giải nghĩa yêu bằng những lời hoa mĩ. Người thể hiện lòng yêu thương qua cuộc sống. Tin Mừng hôm nay cho biết rằng: "Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng.. Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn thắt lưng. Rồi Đức Giê-su đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau." (Ga 13, 1.4-5). Thế mới hiểu rằng:
Yêu là hạ mình làm tôi tớ người khác, là "đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau."
Yêu là bẻ thân mình làm bánh trao ban cho bạn: "Nầy là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con."
Yêu là rót máu mình như rượu hiến ban cho người khác được sống còn: "Nầy là Máu Thầy sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội."
Yêu là nộp mình chết thay cho người mình yêu thương được sống: "Thà một người chết thay cho dân còn hơn là để toàn dân phải bị tiêu diệt" (Ga 11, 50). Lạy Chúa Giê-su,
Thế ra lâu nay chúng con đã ngộ nhận rất nhiều về tình yêu. Chúng con tưởng rằng yêu là say mê, là khai thác, là chiếm đoạt đối tượng mình yêu mến.
Hôm nay, nhờ bài học yêu thương Chúa dạy, chúng con mới hiểu rằng tình yêu đúng nghĩa là hy sinh, là quên mình để phục vụ, là cống hiến không ngừng cho tha nhân được hạnh phúc; và câu tỏ tình hay nhất, chân thật nhất, ý nghĩa nhất trên cõi đời nầy là câu tỏ tình của Chúa trong bữa tiệc ly:
"Nầy là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con... Nầy là chén Máu Thầy sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội." Và hôm nay, khi mời gọi "các con hãy làm việc nầy mà nhớ đến Thầy", Chúa tha thiết kêu mời chúng con hãy yêu nhau theo cách yêu của Chúa; Chúa muốn chúng con nói lời yêu thương theo cách thức Chúa đã tỏ bày, nghĩa là: Nầy là thời giờ của tôi, sức lực tôi, tim óc tôi, xin hy sinh vì bạn. Nầy là thân xác tôi, trọn cuộc sống tôi, xin cống hiến cho cha mẹ, cho người bạn đời, cho con cái và cho tha nhân." Lm Inhaxiô Trần Ngà
Cách đây vài tháng, cộng đồng mạng khâm phục một người mẹ trẻ về sự hy sinh của cô dành cho Thứ5Thánh ABC-113
Cách đây vài tháng, cộng đồng mạng khâm phục một người mẹ trẻ về sự hy sinh của cô dành cho con. Cô sống tại Hà Nội. Mang thai được vài tháng, một lần đi khám thai, bác sĩ phát hiện cô có một khối u ác tính trong vòm mắt. Các bác sĩ nói nếu cô đồng ý hóa trị ngay trong giai đoạn đầu thì có thể ngăn chặn được khối u. Tuy nhiên, nếu thực hiện hóa trị, đứa bé trong bụng cô sẽ bị ảnh hưởng và có nguy cơ sẽ chết. Sau khi suy nghĩ và bàn với chồng, cô đã nhất định từ chối các biện pháp hóa trị để không làm ảnh hưởng đến thai nhi. Cô nói rằng: Tôi sẵn sàng chết vì ung thư để con tôi được ra đời khỏe mạnh. Sau những ngày đó, cô đã phải hết sức vất vả để chống chọi với khối u ác tính và để bảo vệ đứa con. Sau đó, cô đã sinh ra một bé trai kháu khỉnh, dễ thương, nhưng rất tiếc, cô chỉ có thể nghe tiếng khóc của con mà không thể nhìn thấy con. Cô chia sẻ trong niềm vui: Đôi mắt của tôi đã đổi được mạng sống của một con người. Tôi sẽ không bao giờ hối hận về quyết định của mình.
Người phụ nữ trên được coi là can đảm, là mẫu gương của tình mẫu tử vì đã dám chấp nhận sự mù lòa, đau đớn vì bệnh tật và chấp nhận cái chết để cứu mạng sống của đứa con mình.
Trong buổi chiều ngày Thứ Năm Thánh hôm nay, chúng ta còn được chứng kiến một tình yêu hy sinh cao cả, vĩ đại hơn, đó là tình yêu của Chúa Giêsu dành cho nhân loại. Ngài không chỉ hy sinh, chấp nhận đau khổ và cái chết, mà còn muốn trao tặng chính máu thịt của Ngài làm của ăn, của uống để đem lại cho chúng ta sự sống.
Chỉ những ai đã nuôi con, mới hiểu hết nỗi lòng cha mẹ đối với con cái, chỉ những ai sống trong tương quan tình yêu với Chúa Giêsu thì mới có thể cảm nhận được tình yêu của Ngài mà thôi. Thánh Gioan đã cảm nghiệm và đã nhận ra tình yêu thương của Chúa Giêsu dành cho các học trò qua từng lời nói, từng hành động trong bữa tiệc chia tay này.
Trước lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết giờ của Người đã đến, …Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình, và người yêu thương họ đến cùng. Yêu đến cùng là yêu như thế nào ? Đó là yêu trọn vẹn, không so đo tính toán, không cân nhắc thiệt hơn và cũng không bao giờ hối tiếc. Yêu đến cùng là chấp nhận mọi sự thiệt thòi, rủi ro về mình, chấp nhận đau khổ và cả cái chết, là làm tất cả những gì có thể cho người mình yêu, để người mình yêu được sống hạnh phúc. Vì thế, Thánh Gioan thấy Chúa Giêsu như một người Cha biết trước mình không còn nhiều thời gian ở với các môn đệ, nên Ngài đã làm tất cả những gì có thể để đem lại hạnh phúc cho môn đệ mình.
Ngài chỗi dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, lấy khăn thắt lưng, đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Với từng cử chỉ đang diễn ra trước mắt các tông đồ, Thánh Gioan đã nhận ra nhiều ý nghĩa nơi hành động của Chúa Giêsu. Chỗi dậy rời khỏi bàn ăn, cởi áo ngoài ra: Chúa Giêsu đã rời bỏ địa vị là một vị Thiên Chúa, một người Thầy để bước đến với con người. Ngài chấp nhận hy sinh đến hiến mạng sống mình cho các môn đệ. Ngài lấy khăn thắt lưng, đổ nước vào chậu và rửa chân cho các môn đệ: Với hành động này, Chúa Giêsu cho thấy Ngài đã chấp nhận một cuộc hoán đổi vị trí, từ một Thiên Chúa, Ngài chấp nhận làm con người ; từ một người Thầy, Ngài chấp nhận làm đầy tớ ; từ địa vị được tôn thờ, Ngài chấp nhận trở thành kẻ phục vụ. Chỉ kẻ nô lệ mới rửa chân cho chủ, vậy mà, Chúa Giêsu lại làm công việc ấy cho các môn đệ của mình.
Không chỉ hạ mình làm kẻ phục vụ, Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa khi Ngài tự hiến chính mình để phục vụ trọn vẹn cho nhân loại. Ngài đã đi đến tột cùng của tình yêu khi dâng tặng thịt mình làm của ăn và máu mình làm của uống cho nhân loại: Đây là mình Thầy, các con hãy cầm lấy mà ăn. Đây là máu Thầy, các con hãy cầm lấy mà uống. Khi yêu nhau, người ta muốn ở mãi bên nhau và nên một với nhau. Vì yêu, Chúa Giêsu cũng muốn ở mãi với con người, muốn nên một với con người. Ngài đã chấp nhận trở thành của ăn, của uống để cho những người Ngài yêu được ăn, và để ngài có thể đi vào trong tâm hồn, vào trong từng đường gân thớ thịt của con người, làm nên máu thịt con người. Với hành động trao ban máu thịt của mình cho các môn đệ, Chúa Giêsu cho thấy máu thịt của Ngài không chỉ trở thành lương thực bổ dưỡng mà còn có sức thanh tẩy tâm hồn con người khỏi mọi tội lỗi, biến đổi những kẻ đón nhận và trao ban cho họ sức sống thần linh của Thiên Chúa.
Giống như một người cha sắp phải chia tay con mình, ông muốn làm tất cả những gì có thể cho con, Chúa Giêsu cũng vậy. Ngài không chỉ gây bất ngờ cho các môn đệ khi rửa chân và ban thịt máu cho các ông làm của ăn, của uống, Ngài còn làm một việc táo bạo hơn nữa, đó là trao cho các ông quyền nhân danh Ngài để thực hiện những việc Ngài vừa làm, tức là lập nên chức Linh Mục: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Khi trao ban cho các tông đồ chức Linh mục, Chúa Giêsu biết rất rõ từng người trong các ông. Chúa biết các ông yếu đuối, thấp hèn và còn mang đầy sự ghen tị, nhỏ nhoi. Vậy mà, Chúa đã tin tưởng đặt quyền năng của mình vào tay các ông. Khi trao cho các ông: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy, Chúa vừa cho các tông đồ nhân danh Chúa để làm công việc của một vị Thiên Chúa, đồng thời Chúa cũng hạ mình để “vâng lời” các ông. Vì thế, khi các ông làm công việc này, thì Chúa lại hiện diện bằng việc làm cho bánh rượu trở nên thịt máu Chúa và trở nên lương thực để các ông phân phát cho mọi người.
Mặc dù được Chúa trao ban chức linh mục, nhưng Chúa không hề làm thay đổi con người của các tông đồ, cũng không biến các ông thành siêu nhân, nhưng vẫn muốn các ông sống trọn thân phận con người với những giới hạn của con người. Chọn những con người bất toàn để thi hành nhiệm vụ siêu việt, chọn những người yếu đuối, tội lỗi để thực hiện công việc thánh thiêng, Chúa Giêsu muốn các tông đồ ý thức điều đó, để các ông không cậy dựa vào sức riêng mình, nhưng khiêm tốn cậy dựa vào quyền năng và sự nâng đỡ của ơn Chúa.
Chắc chắn trong bữa tiệc ly hôm đó, các tông đồ chưa thể hiểu hết ý nghĩa việc Chúa làm và những điều Chúa mong đợi nơi các ông. Vì thế, Chúa Giêsu đã giải thích: Việc Thầy làm bây giờ, anh em chưa hiểu được, nhưng sau này, anh em sẽ hiểu… Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Đó là bài học quan trọng Chúa muốn các ông đón nhận. Rửa chân cho nhau tức là phải dám từ bỏ vị trí của mình, rời khỏi chỗ an toàn, êm ấm của mình để bước đến với anh em, để phục vụ anh em. Rửa chân cho nhau là phải dám cúi xuống, từ bỏ những tự ái cùng với kiêu căng để khiêm nhường phục vụ anh em, không đòi hỏi, không điều kiện và không mong đợi bất cứ sự đền đáp nào.
Hãy yêu như Thầy đã yêu và hãy làm như Thầy đã làm, đó chính là bài học Chúa muốn nơi mỗi người. Chúa muốn chúng ta phục vụ không vì miễn cưỡng, nhưng hãy làm với sự thúc đẩy của tình yêu. Khi được tình yêu thúc đẩy, ta sẽ biết phải làm gì để đem đến niềm vui và hạnh phúc cho anh em. Yêu như Chúa yêu là dám trao ban con người và cả cuộc đời cho anh em, là trở nên tấm bánh chấp nhận bị bẻ ra, bị nhai nát để cho anh em được sống hạnh phúc.
Hãy cúi xuống để có thể lắng nghe và thông cảm với những đau khổ và nhọc nhằn của anh chị em. Bao lâu chúng ta không dám cúi xuống, không dám rửa chân cho anh em, thì chúng ta không thể nghe, không thể nhìn thấy những đau khổ, bất hạnh của anh chị em mình. Hãy cúi xuống để phục vụ cha mẹ già trong gia đình, bằng sự yêu thương kính trọng ; hãy cúi xuống để yêu thương và phục vụ chồng, vợ và con cái của mình bằng sự hy sinh, bằng sự trao ban và yêu thương đến tận cùng ; hãy quan tâm đến nhau nhiều hơn, hãy quan tâm đến hàng xóm láng giềng, những người sống bên cạnh chúng ta, hãy để cho trái tim mình nhạy bén và nhắc bảo chúng ta biết phải làm gì cho nhau.
Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy là lời mời gọi tha thiết Chúa gửi đến cho từng người. Hãy siêng năng đến với Bí tích Thánh Thể, siêng năng lãnh nhận, cầm lấy mà ăn để nhận được sự nâng đỡ bổ sức và tình yêu thương của Chúa. Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy còn là lời nhắc nhở tất cả chúng ta chu toàn chức linh mục của mình là thờ phượng, tế tự Thiên Chúa, là dâng hy lễ mỗi ngày cùng với những hy sinh, vất vả để làm nên của lễ tôn vinh Thiên Chúa, đem ơn cứu độ cho chính mình và cho gia đình. Đừng để cho công việc và sự lười biếng làm ta quên lệnh truyền thiêng liêng này, đồng thời cũng cầu nguyện và thông cảm cho các linh mục thừa tác, họ là những con người yếu đuối, hèn mọn luôn cần đến sự nâng đỡ và cảm thông của mọi người.
Xin cho mỗi người cảm nhận được tình yêu và thấm nhuần bài học yêu thương phục vụ Chúa dạy hôm nay, để nhờ theo bước Chúa trong những ngày thánh này, chúng ta cũng dám sống và thực hành điều Chúa muốn chúng ta hôm nay: Hãy yêu như Thầy đã yêu và hãy làm như Thầy đã làm cho anh em. Amen.
Trong bữa ăn cuối cùng tại trần gian, Chúa Giêsu khởi xướng một sáng kiến để nối kết cuộc đời Ngài Thứ5Thánh ABC-114
Trong bữa ăn cuối cùng tại trần gian, Chúa Giêsu khởi xướng một sáng kiến để nối kết cuộc đời Ngài với các tông đồ: Thiết lập bí tích Thánh Thể và rửa chân cho các ông.
“Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Bí tích Thánh Thể là thông hiệp với Chúa Giêsu có nghĩa là lắng nghe Lời Ngài, ăn uống Thịt Máu Ngài và hành động theo gương Ngài. Dấu chỉ của Tình Yêu mà Chúa đã để lại trong bữa tiệc ly: Ăn uống Thịt Máu Ngài và Rửa Chân đều nhằm một mục đích: dâng hiến cuộc đời chúng ta để phục vụ anh chị em, mà trong đó ơn gọi của chúng ta là trở nên bí tích Thánh Thể cho anh chị em chúng ta. Cả hai yếu tố này lập nên cộng đoàn tông đồ Chúa Giêsu.
Rửa chân chính là một tấm gương để họ cũng sẽ làm như vậy. Ngài nói: “Để anh em cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho anh em”. Rửa chân chỉ là dấu chỉ và tượng trưng. Nhưng điều căn bản của ý nghĩa tượng trưng này là tinh thần phục vụ theo gương Thầy. Phục vụ anh em phải trở nên luật lệ trong cộng đoàn của họ: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”.
Thiếu một trong hai yếu tố thì cộng đoàn không thể đứng vững được. Rửa chân cho nhau, tức là phục vụ nhau, mở ra cho chúng ta hướng tới Bí tích Thánh Thể. Cử hành Bí tích Thánh Thể sẽ làm tăng thêm sức mạnh tình yêu huynh đệ xuất phát từ tình yêu Thiên Chúa. Hiệp thông với Mình Máu Chúa Kitô mà không thực hiện tinh thần phuc vụ anh em theo gương Chúa Kitô thì cũng chỉ là hão huyền.
Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta như vậy. Và chúng ta hãy cố gắng thực hiện di chúc thiêng liêng của Ngài như thế!
Trở lại bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta hãy nhìn lại thái độ của Phêrô thế nào trước việc Chúa rửa chân cho các tông đồ: “Không đời nào Thầy lại rửa chân cho con”. Chúng ta đã biết, hơn một lần, sau khi Chúa Giêsu loan báo Ngài sẽ phải chịu đau khổ thập giá, Phêrô phản đối…Và Chúa đã khiển trách ông. Tuy nhiên, sau khi Chúa giải thích và nói với Phêrô: “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy”, Phêrô đã chấp nhận để cho Chúa rửa chân.
Phản đối rửa chân và không tham dự Thánh lễ cũng là chống đối Giáo Hội, vì:
- Chống lại việc đón nhận mạc khải về một Thiên Chúa đặt căn bản là phục vụ con người.
- Chống lại việc Chúa Kitô nhập thể đụng chạm đến con người, tiếp xúc với con người.
- Chống lại việc chấp nhận tiếp đón Chúa Giêsu, Đấng đã hiến dâng mạng sống cho nhân loại trong mầu nhiệm vượt qua.
- Chống lại việc tùy thuộc vào Chúa Con như Chúa Con hoàn toàn tùy thuộc vào Chúa Cha và là một ân huệ phục vụ tha nhân.
Chúng ta cũng không thể đón nhận Mình và Máu Chúa Kitô, nếu không chấp nhận sự nhiệt tâm phục vụ Chúa Kitô. Chúa Giêsu thiết lập cộng đoàn tông đồ để họ hiệp thông với Ngài. Phục vụ nhau bằng tình yêu biếu không.
Hạnh phúc cho tất cả chúng ta, nếu chúng ta biết điều đó, là cử hành Bí tích Thánh Thể sốt sắng và phục vụ nhau trong tình yêu thương anh chị em vô vị lợi. Và như vậy, chúng ta sẽ dự phần vinh quang với Đức Kitô. Amen!
Ai đã từng chăm sóc bệnh nhân trong thời điểm nguy kịch, hẳn sẽ thấy được lời tâm huyết của họ được Thứ5Thánh ABC-115
Ai đã từng chăm sóc bệnh nhân trong thời điểm nguy kịch, hẳn sẽ thấy được lời tâm huyết của họ được bộc lộ với trọn cả tâm hồn. Lúc này, những lời được thốt ra chẳng khác gì lời vàng vì nó rất thiêng liêng. Tại sao vậy? Thưa bởi vì những gì là cuối cùng thì đều quan trọng. Chẳng hạn như suy nghĩ cuối cùng; lời nói cuối cùng; giây phút cuối cùng; hành động cuối cùng.
Hôm nay, chúng ta họp nhau nơi đây để chiêm ngưỡng, tái diễn và hiện tại hóa những hành động và lời nói cuối cùng của Đức Giêsu, trước lúc rời xa các môn đệ để lên đường chịu nạn chịu chết.
1. Bí tích Thánh Thể, nguồn sự sống được trao ban
Khi đi xa, mặt cách lòng, người đi kẻ ở bị lệ thuộc bởi không gian và thời gian. Lúc ấy, tâm trạng của cả hai đều rất nhiều cảm xúc. Nhưng có lẽ một trong những điều mà ai ai cũng cảm thấy cần phải làm cho nhau, đó là: để lại một tặng vật làm kỷ niệm.
Hôm nay, Đức Giêsu cũng biết giờ của mình sắp trở về cùng Chúa Cha, nên Ngài đã yêu thương những kẻ thuộc về Ngài, thì Ngài yêu cho đến cùng, vì thế, trong bữa ăn, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao ban cho các môn đệ và nói: “Này là Mình Thầy … Này là chén Máu Thầy …” Hãy cầm lấy mà ăn mà uống. Đây chính là tặng vật thần linh, là gia sản thiêng liêng cho Giáo Hội.
Tuy nhiên, với Bí tích Thánh Thể mà Đức Giêsu thiết lập, ý nghĩa và giá trị không chỉ đơn thuần là quà tặng hay gia sản hoặc chỉ là một kỷ niệm, mà hôm nay, chúng ta cử hành như một ký ức!
Không! Nó đã vượt ra khỏi những hoài niệm để hiện tại hóa cách thực nghiệm khi đã được chuyển đổi bản thể. Tức là mỗi khi được cử hành nhân danh Chúa, thì lúc ấy bánh và rượu đã biến đổi và trở thành chính Thịt và Máu Chúa. Nói cách khác, Bí tích Thánh Thể là chính Chúa. Vì thế, mỗi lần chúng ta đón nhận và rước lấy, ấy là lúc chúng ta hạnh phúc tuyệt vời vì được đụng chạm đến chính Chúa. Chúa ở trong ta và ta ở trong Chúa. Ta và Chúa cùng chung nhau một dòng máu, một sự sống.
Như vậy, qua Bí tích Thánh Thể mà Đức Giêsu thiết lập, chúng ta được đụng chạm đến tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Đây là điều mà lý trí con người không ai dám nghĩ tới!
2. Thiên Chức Linh Mục, nối dài tình yêu tự hiến
Ngay sau khi thiết lập Bí tích Thánh Thể, Đức Giêsu đã đi thêm một bước nữa để thỏa lòng yêu thương. Vì thế, Ngài đã thiết lập Bí tích Truyền Chức Thánh ngay sau đó. Khi trao ban chức linh mục cho nhân loại, Đức Giêsu không chỉ mong muốn cho mọi người cảm nghiệm và sống đặc tính của tình yêu nơi Bí tích Thánh Thể, nhưng: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến thầy”. Như vậy, cùng một lòng dạ yêu thương, Đức Giêsu muốn các linh mục sẽ thay Ngài, nhân danh Ngài để tiếp diễn hiến tế tình yêu này mọi ngày cho đến tận thế.
Điều này cho chúng ta thấy, Bí tích Thánh Thể gắn liền với Thiên Chức Linh Mục. Nếu Bí tích Thánh Thể là Bí tích tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái, thì Bí tích Truyền Chức đòi hỏi người lãnh nhận phải là người cảm nghiệm sâu xa cũng như sống đặc tính của tình yêu là hiến mình vì người khác. Chấp nhận biến bản thân của mình trở nên của ăn của uống cho người khác. Nói cách khác, chấp nhận bị ăn, bị uống. Bên cạnh đó, người linh mục là người làm cho tình yêu ấy được rõ nét khi thi hành bác ái với mọi người.
Khi thiết lập chức linh mục, có thể nói, Đức Giêsu đã đảo ngược vị trí. Từ một Thiên Chúa quyền năng, nhưng nay, Ngài đã chấp nhận bị lệ thuộc bởi con người và ý muốn của linh mục. Từ một người đáng được phục vụ, từ nay Ngài trở thành người phục vụ.
Như vậy, qua Bí tích Truyền Chức, các linh mục chính là hiện thân của lòng thương xót Chúa; các ngài không ngừng diễn tả và loan truyền lòng thương xót ấy cho nhân loại, đồng thời, các ngài cũng không ngừng làm cho con chiên của mình được ngụp lặn trong lòng thương xót Chúa, nhất là nơi Bí tích Thánh Thể.
3. Bài học về yêu thương được trao ban
Sau khi diễn tả tình yêu qua việc thiết lập Bí tích Thánh Thể và Truyền Chức Thánh, lại một lần nữa, Đức Giêsu thực hiện ngay trước mặt các môn đệ một hành động quyết liệt và cũng đầy cảm động của tình yêu, đó là việc rửa chân cho các môn đệ.
Trong bữa ăn, Đức Giêsu đã: "... đứng dậy, rời bàn ăn, cởi bỏ áo ngoài, lấy khăn thắt lưng; rồi Người đổ nước vào thau, và bắt đầu rửa chân cho các môn đệ".
Một loạt hành động gây ngạc nhiên không nhỏ đối với các môn đệ, bởi vì theo truyền thống Dothái, thì việc rửa chân là việc làm của người nô lệ dành cho ông chủ của mình trước bữa ăn. Trước hành vi này, các ông ngỡ ngàng đến tột độ, bởi vì không có lý do gì Thầy lại rửa chân cho trò. Không có lý chứng gì để giải thích một hành vi ngược đời như vậy??? Sự bất ngờ đến ngỡ ngàng này đã được Phêrô thốt lên: “Không đời nào Thầy phải rửa chân cho con”.
Tại sao Phêrô lại ngỡ ngàng đến như vậy? Thưa là bởi vì hành động này vượt ra khỏi tầm kiểm soát của lý trí các ông.
Khi rửa chân xong, Đức Giêsu đã dạy cho các ông bài học thấm thía đúng chất của cảnh người đi kẻ ở, Ngài nói: “Anh em gọi Thầy là 'Thầy', là 'Chúa', điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em”.
Hay hiểu cách khác, nếu các con là môn đệ đúng nghĩa của Thầy, thì dấu chỉ chắc chắn nhất chính là các con cũng phải yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con. Yêu như thầy chính là quỳ xuống trước những người không ưa mình, vu khống mình, bán đứng mình và trối bỏ mình để tha thứ tất cả, yêu thương tất cả.
Đây chính là lời mời gọi đầy yêu thương của Đức Giêsu. Đây cũng chính là điều răn mới mà Đức Giêsu đã truyền dạy.
4. Bài học cho chúng ta
Sợi chỉ xuyên suốt trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay chính là tình yêu. Nói cách khác, toàn bộ nghi thức và hành vi cử hành hôm nay nhằm diễn tả tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại.
Ngang qua các nghi thức cử hành, Giáo Hội mời gọi con cái của mình không phải chỉ chiêm ngắm và trầm trồ khen ngợi những hành vi yêu thương của Đức Giêsu. Ngược lại, sau Thánh lễ này, Giáo Hội muốn cho con cái của mình phải là người nghiệm được tình yêu ấy trong chính cuộc đời của mình. Đồng thời hãy ra đi để đến những nơi thiếu vắng tình yêu, tiếng cười, nhằm diễn tả tình yêu của Đức Giêsu cho anh chị em chúng ta bằng chính đời sống của mình.
Thật vậy, ngày nay, biết bao nhiêu nơi thiếu vắng đi tình yêu, thiếu vắng tiếng cười. Những nơi đó có thể là khu ổ chuột, bãi rác hôi hám bẩn thỉu; những nơi đó có thể là đầu đường, xó chợ; có thể là chốn ăn chơi sa đọa; nhưng cũng không thiếu những tiếng khóc lóc đến thê thảm ngay trong các gia đình giữa những thành phố lớn… đâu đâu cũng thấy toát lên những tiếng khóc ai oán vì thiếu vắng tình yêu. Ngược lại, sự vô cảm, dửng dưng lại đang lộng hành đến độ chóng mặt.
Trước thực trạng ấy, lời di chúc của Đức Giêsu: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu” mà chúng ta vừa nghe sẽ là lời mời gọi và hối thúc chúng ta lên đường để thực thi sứ mệnh tình yêu của Chúa đến với mọi người, nhất là những nơi ngoại biên, bên lề trong xã hội hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con thật xúc động khi chiêm ngắm từng hành vi, cử chỉ của Chúa trong bữa Tiệc Ly chiều hôm xưa mà hôm nay chúng con vừa cử hành. Xin Chúa ban cho chúng con có được trái tim nhân hậu và xót thương của Chúa, để chúng con cũng làm những việc Chúa đã làm khi xưa cho anh chị em chúng con trong xã hội hôm nay. Amen.
Đức Giêsu biết “giờ” của Người sắp đến, giờ phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, nên Người càng Thứ5Thánh ABC-116
Đức Giêsu biết “giờ” của Người sắp đến, giờ phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, nên Người càng yêu tha thiết những kẻ thuộc về mình và yêu thương đến cùng. Trong những giờ chót Thầy trò ở bên nhau, Người đã làm một việc quá lạ lùng mà các môn đệ hết sức ngỡ ngàng không hiểu nổi: “Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Đức Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau” (Ga 13,4-5). Cử chỉ của Thầy Giêsu ngược lại với vị trí của Thầy đối với môn đệ, bởi đây là việc dành cho những người nô lệ làm cho ông chủ thời đó. Sao hôm nay Thầy lại đi “cúi xuống” mà rửa chân cho môn sinh? Trong đoàn môn đệ còn có một môn đệ thân tín sẽ nộp Thầy, vậy mà Thầy chẳng nề, vẫn cúi xuống mà rửa chân ông, cho dù lòng có xót xa cay đắng, vẫn thương yêu đến cùng, đến giây phút cuối cuộc đời. Thầy cúi xuống mà rửa chân, là chỗ thấp nhất nơi thân thể con người. Chân là nơi tiếp xúc bụi bặm dơ bẩn, với gai góc chai sần, nên cần phải rửa nhất... Cho nên việc làm này càng là việc của nô lệ làm cho chủ.
Khi đến lượt Phêrô, ông giãy nảy không đời nào con chịu đâu! vì không nỡ lòng để Thầy làm một việc thương yêu đến ngược đời cho mình. Nghe Thầy bảo nếu không rửa sẽ không được chung phần, ông lại thay đổi, đòi rửa cả toàn thân.
Quả thực đây là việc tự hạ xuống mút cùng của Thầy Giêsu. Mỗi lần tham dự nghi thức rửa chân ngày thứ Năm Tuần Thánh, khi vị Linh mục thắt dây lưng, rồi quỳ xuống rửa chân cho đoàn “Tông đồ” trong câu hát “Chúa mà rửa chân con sao, lạy Chúa?” là mắt tôi lại đẫm lệ. Phải chăng khóc vì thấu cảm tình yêu tự hạ của Thầy Giêsu, hay cám cảnh hành động khiêm nhường của vị Linh mục? Có lẽ khóc vì cả hai điều, nhưng hơn nữa, tôi muốn “gào” lên rằng tại sao, tại sao lại đến vậy, Chúa ơi!?...
Khi rửa chân cho môn đệ xong Thầy mời các ông suy gẫm: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,12-15). Đây là bài học có một về đức khiêm nhường phục vụ, quên hẳn mình là ai, phục vụ trong yêu thương hết lòng, hết sức, vượt quá “lằn ranh cho phép”. Cho nên mai sau, người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, khi anh em yêu thương và “làm như Thầy” đã làm cho anh em. Tinh thần phục vụ khiêm nhường này ngày nay vẫn còn được thể hiện trong gia đình, khi cha mẹ là người lớn phục vụ, vệ sinh cho con thơ, dù là những việc “nhỏ hèn” nhất, tất cả chỉ vì tình yêu mà thôi.
Ngày hôm nay Thầy còn rửa chân cho chúng con không? Ngày xưa Phêrô ngại không cho Thầy rửa. Có lẽ ngày nay chúng con cũng sợ khi Thầy “rửa” và làm sạch cho chúng con. Biết bao những bụi bặm cáu bẩn, chai sần của tội lỗi, của thành kiến xấu về tha nhân, những cố chấp, chai lỳ trong tội... mà bị chà xát kỳ cọ, phanh phui để tẩy rửa thì chắc là đau đớn và xấu hổ. Nếu chúng con sẵn sàng chịu đau để được tẩy rửa, chúng con sẽ được thanh sạch sáng láng trong sự thanh luyện của Thầy.
Lạy Chúa! Chúa mà rửa chân con sao? Vâng, xin Chúa cứ rửa cho con, cả chân tay và đầu con nữa, cho con được sạch và trở nên như người con của Đấng đã luôn hết lòng, hết sức để hiến mình vì con, cho đến hết hơi trên thập giá cao và hiến dâng Thịt Máu làm của ăn nuôi sống chúng con mãi đến tận thế. Xin Chúa thanh luyện từng ngày cho con nên giống Chúa, biết yêu thương đến cùng và biết hiến mình vì tha nhân, như dấu chỉ những người con yêu của Chúa. Amen.
Một em bé gái mồ côi cha mẹ, sống với bà ngoại, hai bà cháu sống trong một căn gác nghèo nàn. Thứ5Thánh ABC-117
Một em bé gái mồ côi cha mẹ, sống với bà ngoại, hai bà cháu sống trong một căn gác nghèo nàn. Một đêm nọ, căn gác bị hỏa hoạn, bà ngoại bị thiệt mạng khi cứu đứa cháu. Láng giềng gọi cứu hỏa tới, còn họ chỉ biết bó tay đứng nhìn ngọn lửa đang án ngữ mọi lối ra vào.
Bổng em bé gái xuất hiện trên cánh cửa sổ của căn gác và kêu cứu, nhưng đội cứu hỏa chưa đến, và cũng không ai dám liều mình đi vào căn nhà. Thình lình, có một người đàn ông xuất hiện với một chiếc thang, ông lao vào ngôi nhà và mất hút trong đó. Một lúc sau ông trở ra với bé gái trên tay, ông trao nó cho đám đông và biến mất.
Một tuần lễ sau, ông trưởng khu phố cho tổ chức một cuộc họp, để xem có ai nhận đứa bé về nuôi:
Một cô giáo giơ tay xin nhận nuôi và dạy dỗ em nên người.
Một chủ nông trại giàu có cũng ngỏ ý nhận nuôi.
Nhiều người khác cũng giơ tay biểu lộ cùng một ý muốn.
Cuối cùng người giàu có nhất khu phố nói: "Tôi có thể mang lại cho em bé này tất cả những tiện nghi mà quí vị vừa nêu, cộng với tiền bạc và tất cả những gì tiền bạc có thể mua được.
Trong khi đó , em bé gái lắng nghe, nhưng không để lộ một phản ứng nào,
mắt em chỉ biết cúi nhìn xuống đất. Cuối cùng, người chủ trì buổi họp mới lên tiếng: "Còn ai muốn nói gì nữa không ?"
Bấy giờ, từ cuối hội trường, có một người đàn ông tiến lên, dáng vẻ chậm chạp và nặng nề. Ông tiến đến gần đứa bé, ông dang cánh tay ra, mọi người đều thấy rõ vết cháy nám trên hai cánh tay ông.
Em bé gái nói như thét: "Đây là người đã cứu tôi." và em nhảy tới bá lấy cổ ông, áp mặt vào vai ông, khóc thổn thức. Rồi em lại ngước mắt nhìn ông mỉm cười, những giọt lệ lăn nhẹ trên đôi má ửng hồng của em.
Người tây phương thường nói: "Hành động hùng hồn hơn là lời nói." Điều này càng đúng trong tình yêu. Tình yêu vốn là một cái gì không thể diễn tả bằng lời nói suông, mà chỉ có thể bày tỏ bằng hành động. Thật vậy, một giờ đồng hồ diễn giải về tình yêu không bằng một cử chỉ yêu thương, dù rất nhỏ mọn.
Đó chính là cung cách mạc khải của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của Ngài bằng cả cuộc sống, nhất là bằng cái chết đau thương trên thập giá. "Chết để nên lời", quả thực cái chết của Chúa Giêsu là lời tỏ tình cuối cùng và trọn vẹn nhất của Thiên Chúa cho con người.
Trong ngày thứ năm tuần thánh, nhằm tỏ bày cho các môn đệ thấy mình yêu thương họ đến mức nào, Chúa Giêsu đã làm một cử chỉ biểu trưng, là quì gối xuống rửa chân cho các môn đệ.
Cử chỉ ấy cũng chưa bày tỏ hết lòng yêu thương vô bờ của Thiên Chúa, nên Người đã nghĩ ra một sáng kiến vô cùng độc đáo. Đó là biến bánh rượu trở nên Máu Thịt Người, để Người được ở lại cùng chúng ta mãi mãi, cho đến tận thế,
Quả thật, tình yêu bao la của Chúa không ai hiểu thấu, chúng ta chỉ còn biết suy phục kính tôn, và suốt đời cảm mến tri ân.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa yêu thương chúng con, là để chúng con lấy đó làm gương mà yêu thương nhau. Xin Chúa gia tăng lòng mến trong chúng con, để khi nhìn vào chúng con, những người không phải là Kitô hữu hiểu rằng Bác Ái là gia bảo của chúng con. Amen
(1) Trước lễ Vượt Qua, Ðức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng. (2) Trong bữa ăn tối, ma quỷ đã gieo vào lòng Giuđa, con ông Simon Ítcariốt, ý định nộp Ðức Giêsu. (3) Ðức Giêsu biết rằng: Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người, Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa, (4) nên bấy giờ Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. (5) Rồi Ðức Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau.
(6) Vậy, Người đến chỗ ông Simon Phêrô, ông liền thưa với Người: "Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao?" (7) Ðức Giêsu trả lời: "Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu". (8) Ông Phêrô lại thưa: "Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!" Ðức Giêsu đáp: "Nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy". (9) Ông Simon Phêrô liền thưa: "Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa". (10) Ðức Giêsu bảo ông: "Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu!" (11) Thật vậy, Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói: "Không phải tất cả anh em đều sạch".
(12) Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Ðức Giêsu mặc áo vào, về chỗ và nói: "Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? (13) Anh em gọi Thầy là 'Thầy', là 'Chúa', điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. (14) Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. (15) Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.
SUY NIỆM:
Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu biết rằng mình không còn ở với các môn đệ bao lâu nữa. Nhìn lại Thứ5Thánh ABC-118
Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu biết rằng mình không còn ở với các môn đệ bao lâu nữa. Nhìn lại hơn ba năm trôi qua, Thầy trò đã từng bên nhau dãi dầu mưa nắng, đã từng cùng nhau lê gót chân phiêu bạt đi khắp các nẻo đường xứ Palestina, đã từng có nhau khi đói, khi no, đã từng chia sẻ với nhau niềm vui và thông cảm cho nhau bao muộn phiền, gian khổ……
Và cũng giống như bất cứ cuộc chia tay nào, trong giờ phút này những kỷ niệm xa gần cứ lần lượt hiện ra, nó làm cho ta cảm thấy nuối tiếc quãng thời gian đã qua và muốn thời gian hiện tại này kéo dài mãi mãi.
Tuy nhiên, ngoài nỗi xao xuyến thường tình như bất cứ ai, Chúa Giêsu còn canh cánh trong lòng một nỗi niềm riêng mà chiều hôm nay Ngài phải tỏ cho các môn đệ, những người mà Ngài đã hết lòng yêu thương và muốn yêu thương cho đến cùng (x. Ga 13, 1).
Tin mừng theo thánh Gioan thuật lại: Chúa Giêsu rời khỏi giường tiệc, cởi áo lấy nước rửa chân cho các môn đệ. Hành động này đã bị Phêrô phản đối, bởi vì làm sao ông dám để Thầy Giêsu rửa chân cho mình. Nhưng Chúa Giêsu trả lời: “ Điều Thầy làm bây giờ con không hiểu, nhưng sau sẽ hiểu” và hơn nữa “Nếu Thầy không rửa chân cho con, thì con sẽ không được dự phần với Thầy”. Có gì liên quan giữa việc rửa chân với phần rỗi của các môn đệ? Trước thái độ cương quyết của Chúa Giêsu, Phêrô, rồi tất cả các môn đệ khác đã để cho Chúa Giêsu rửa chân mặc dù họ chẳng hiểu gì cả.
Ai có thể quên được ánh mắt, cử chỉ và lời nói cuối cùng của người thân trong giờ phút chia ly? Cũng vậy, chắc chắn các tông đồ không bao giờ quên được hành động và những lời nói tha thiết của Chúa Giêsu chiều hôm nay, buổi chiều biệt ly.
Phần Chúa Giêsu, Ngài biết những việc sắp xảy ra cho mình và biết các môn đệ của Ngài yếu đuối như thế nào trước những biến cố ấy. Chính trong đêm nay, Giuđa sẽ nộp Ngài cho giới lãnh đạo Do Thái, Phêrô sẽ chối Thầy mình ba lần và các môn đệ khác bỏ trốn. Một mình Gioan theo Chúa Giêsu đến đồi Canvê, nhưng ông cũng để mặc Ngài đơn độc trước những lời vu khống, mà không hề lên tiếng bênh vực hoặc làm chứng cho Ngài.
Ba năm sống bên nhau bao là thân tình, bao là thương mến kia nay còn có ý nghĩa gì? Có khác nào những bóng mây thay đổi nhau trên bầu trời, để rồi cùng tan biến đi mà thôi.
Các môn đệ không phải là không thương Chúa Giêsu. Làm sao giải thích được một Phêrô lúc nào cũng sợ xa mất Chúa, một Gioan đã từng áp đầu vào ngực Chúa Giêsu để nghe từng tiếng đập của trái tim Thầy mình, mà giờ đây lại để Thầy một mình trong cơn hoạn nạn? Đó chính là sự yếu đuối cố hữu bên trong của con người. Vâng, chính sự yếu đuối đã làm cho các môn đệ hoảng sợ trước những biến cố bất ngờ và dồn dập đến với Chúa Giêsu. Và rồi cũng chính sự yếu đuối sẽ làm cho các môn đệ đau đớn, xót xa vì mình đã làm điều mà mình không muốn (x. Rm 7, 19). Nỗi mặc cảm về sự khốn nạn của mình sẽ mãi mãi vây hãm tâm hồn các ông.
Hơn ai hết, Chúa Giêsu hiểu và thương các môn đệ của mình. Ngài biết: Tựa như tiếng sét gây bàng hoàng trong cơn giông, khi bình yên trở lại, sẽ làm cho ai đó tự cảm thấy tủi hổ trong lòng. Thế thì, mai đây, sau những ngày khổ nạn, Ngài sẽ phục sinh vinh quang, hỏi rằng các môn đệ có dám ra trình diện với Thầy mình hay không? Chúa Giêsu biết rõ tâm hồn của các môn đệ, nên hôm nay, trước lúc đi vào cuộc khổ nạn, Ngài đã ngồi xuống để rửa chân cho từng người môn đệ. Ngài đã rửa chân cho người môn đệ mà Ngài yêu dấu. Ngài cũng rửa chân cho cả Phêrô, người sẽ chối Ngài. Ngài cũng rửa chân cho cả Giuđa, kẻ đã bán Ngài với giá của người nô lệ, ba mươi đồng bạc.
Rửa chân cho các môn đệ, rồi Ngài từ biệt các ông, tự nguyện đi chịu chết, các môn đệ lần lượt vấp ngã… Tất cả những chuyện đó xảy ra trong thời gian chưa trọn một ngày. Nhưng khi Chúa Giêsu tắt thở, các môn đệ hiểu ngay hành động rửa chân của Chúa Giêsu và vì sao rửa chân lại có liên quan tới việc các ông sẽ được dự phần với Ngài.
Bằng máu của mình đổ ra trên thập giá, Chúa Giêsu đã thực sự rửa các môn đệ khỏi mọi vết nhơ, trước khi các ông vấp ngã, phản bội, Chúa Giêsu đã biết cả rồi và Ngài tỏ dấu tha thứ cho các ông bằng hành động rửa chân. Chúa Giêsu phục sinh đã tha thứ trước cho những yếu đuối của các môn đệ, vì Ngài đã yêu thương những kẻ thuộc về Ngài, và Ngài vẫn tiếp tục yêu thương họ cho đến cùng (x. Ga 13, 1). Chính vì tin tưởng vào tình yêu vĩ đại đó của Thầy, các môn đệ mới có đủ can đảm để trình diện với Đức Kitô phục sinh và bày tỏ niềm hạnh phúc được chứng tỏ lòng trung thành của mình bằng cái chết. Cảm nếm được tình yêu tuyệt vời của Chúa Giêsu, các môn đệ từ nay không bao giờ còn phản bội Chúa Giêsu nữa (x. Ga 21, 15-19). Đối với tất cả họ, tình yêu của Chúa Giêsu đã ban tặng cho họ niềm vinh dự đời đời mà họ chẳng bao giờ đền đáp được.
Lạy Chúa Giêsu! Con khô khan nguội lạnh quá, nên giờ này chưa cảm thấy hạnh phúc vì được Chúa yêu thương. Trong giờ phút này xin hãy cho con được nếm cảm tình yêu ngọt ngào của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con cảm nhận được tình yêu Chúa, để con có thể thực hành sứ điệp của Chúa: yêu thương anh em như Chúa đã yêu thương con (x. Ga 15, 34-35). Amen.
Ngày mai bắt đầu Tam Nhật Tuần Thánh, ba ngày để chúng ta làm sống lại qua đức tin và phụng vụ Thứ5Thánh ABC-119
Ngày mai bắt đầu Tam Nhật Tuần Thánh, ba ngày để chúng ta làm sống lại qua đức tin và phụng vụ nhắc lại sự khổ nạn cứu độ chúng ta. Ðặc biệt hôm nay là một ngày với đầy những biểu trưng và những điệu bộ nói lên một cách hùng hồn về lòng thương xót và tình yêu được nở rộ vào cuộc đời chúng ta.
Kể lại hành động Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đồ của Ngài, Thánh Gioan đã cho chúng ta thấy hình ảnh toàn bộ sứ điệp Tin Mừng. Con Thiên Chúa, hoàn hảo, trong sạch và thánh thiện, không chỉ nhập thể làm người nhưng còn đóng vai một người tôi tớ để tẩy sạch và đổi mới chúng ta. Ngài tự khiêm hạ để chúng ta được nâng lên. Ngài nhận chức vụ thấp hèn nhất, là cái chết như một tội phạm, để chúng ta được thừa hưởng thiên quốc. Còn bài ca ngợi nào có thể nói lên tình yêu như thế? Liệu chúng ta phải đền bù lại món nợ ấy thế nào?
Sau khi rửa chân cho các môn đồ, Ngài vẫn chưa coi là đủ, Chúa Giêsu đã tiến thêm một bước nữa bằng cách hiến chính thân và máu Ngài cho chúng ta. Nếu như cử chỉ thứ nhất loan báo trước về sự hy sinh tình yêu mà Ngài sẽ dành cho chúng ta, thì cử chỉ thứ hai này thật sự mời gọi chúng ta đồng tham dự vào sự cứu chuộc. Khi nói "Hãy nhận lấy mà ăn, hãy nhận lấy mà uống" Chúa Giêsu đang kêu gọi chúng ta đồng hành với sự chết và phục sinh của Người. Ngài đang mời gọi chúng ta hãy từ bỏ tội lỗi và để đời sống của Ngài trở thành đời sống trong chúng ta. Ngài để chúng ta tự do lựa chọn. Liệu chúng ta sẽ hưởng lấy sự tốt lành của Người, hay là chúng ta vẫn tự mãn và sống cô lập khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong những ngày đời của chúng ta?
Ðây là ngày nhắc lại sứ điệp căn bản của Tin Mừng: "Ðức Giêsu biết rằng: Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người, Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa" (Ga 13,3). Chúa Giêsu hiến đời Ngài trên Thánh Giá để nên lễ hy sinh hòa giải vì chúng ta. Ngài đã chết cho cái chết mà lẽ ra chúng ta phải chết. Cái chết của Ngài đã tiêu diệt bản tính sa ngã của chúng ta và để chúng ta có thể sống lại với Người trong cuộc sống mới. Bạn có nhận ra Ngài đã hiến cuộc đời Ngài cho bạn không? Bạn có để cho Ngài rửa chân bạn- giải thoát bạn khỏi tội và biến đổi tâm hồn bạn không?
"Lạy Chúa Giêsu, thật bàng hoàng để Chúa tự hạ rửa chân con và hiến mình Ngài vì tội con! Xin rửa tâm hồn con mọi cản trở để tình yêu Chúa ngự trong con."
Tình yêu cao đẹp là tình yêu dám hy sinh cho người mình yêu. Yêu là cho đi. Yêu là dâng hiến. Yêu Thứ5Thánh ABC-120
Tình yêu cao đẹp là tình yêu dám hy sinh cho người mình yêu. Yêu là cho đi. Yêu là dâng hiến. Yêu là chấp nhận phần thiệt thòi về mình để cho người mình yêu được hạnh phúc.
Trong bộ phim “Tôi là người đàn ông” đã diễn tả một tình yêu đầy hy sinh nơi chàng trai. Có thể nói tình cảm và sự hy sinh cao cả của chàng nhiếp ảnh gia dành cho cô gái xinh xắn trong bộ phim này khiến người xem thật ngưỡng mộ.
Trong lúc anh ta vui vẻ chụp ảnh cho bạn gái thì máy ảnh hết pin. Cô gái liền vội vã đi lấy tìm pin cho anh nhưng vô tình bị chai nước rửa phim đổ vào mắt và không nhìn thấy được nữa. Vô cùng ân hận và dằn vặt vì gián tiếp làm người yêu thương mình hỏng mắt, nhiếp ảnh gia này đã quyết định hiến tặng đôi mắt của mình cho cô gái, sau đó bỏ đi thật xa.
Một hôm cô ta tình cờ gặp lại anh đang ngồi với chú cún, trên tay vẫn cầm tấm ảnh của cô nhưng không còn thấy đường nữa. Nhìn cảnh chàng nhiếp ảnh gia dắt chú cún đi ngang qua người yêu cũ nhưng không hề hay biết, nhiều bạn nữ đã không cầm được nước mắt.
Tình yêu của Đức Ky-tô yêu nhân loại không phải cho đi một phần thân thể mà là cho đi chính bản thân mình hiến tế vì người mình yêu. Khi Ngài cầm bánh bẻ ra trao cho các môn đệ và nói: “Này là Mình Thầy”. Đó là một hình ảnh trao ban trọn vẹn tình yêu. Ngài không giữ lại điều gì cho riêng mình. Ngài không toan tính cho riêng mình. Ngài làm tất cả để người mình yêu được hạnh phúc.
Tình yêu của Đức Ky-tô cao đẹp hệ tại ở việc dám chết cho người mình yêu. Ngài đã yêu là yêu cho đến cùng. Ngài chịu sát tế như con chiên hiền lành chịu chết đền tội thay cho nhân gian. Ngài không có tội mà lại gánh lấy hậu quả của tội là đau khổ và sự chết. Ngài thực sự vì yêu mà gánh lấy bao nhục hình.
Thánh lễ thứ Năm Tuần Thánh hôm nay gợi nhớ lại cho chúng ta từng cử chỉ đầy yêu thương của Chúa. Một tình yêu khiêm hạ đến nỗi dám cúi mình rửa chân cho các môn sinh. Một tình yêu trao hiến đến trao cả thân thể làm của ăn nuôi dưỡng con người. Một tình yêu hiến dâng để có thể cho đi chính mình làm hiến tế hy sinh cứu đời.
Xin cho chúng ta khi chiêm ngắm tình yêu hiến dâng của Chúa cũng biết mặc lấy Đức Ky-tô để có thể trao ban tình yêu của mình cho anh em. Xin cho chúng ta dám cởi bỏ tính ích kỷ chỉ lo cho bản thân để sống yêu thương và phục vụ mọi người như Thầy Giê-su. Xin cho chúng ta biết theo gương Thầy Giê-su bẻ đời mình như tấm bánh trao ban niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Amen.
Hôm nay cùng với mọi người trong Giáo hội trên thế giới, chúng ta bước vào Tam Nhật Thánh, kỷ niệm Thứ5Thánh ABC-121
Hôm nay cùng với mọi người trong Giáo hội trên thế giới, chúng ta bước vào Tam Nhật Thánh, kỷ niệm và cử hành những hành động và lời nói trong những ngày cuối cùng cuộc đời của Chúa Giê-su, biểu lộ nói lên tình yêu thương cao cả và vô biên của Người. Qua hành động và những lời trăn trối cuối cùng, Chúa dạy chúng ta phải biết yêu thương, và phải hy sinh, khiêm nhường phục vụ, để xây dựng, làm chứng và làm sáng danh Người.
Chúng ta nhận biết con người chúng ta thường có thái độ và quan niệm: người có tài năng, có danh vọng, chức quyền hay địa vị quan trọng không thể hạ mình làm các việc hèn kém, vì nếu làm như thế, người khác nhìn thấy sẽ mất mặt, khinh thường, và địa vị của họ sẽ bị giảm đi. Vì thế, nếu không được người khác nhìn nhận ra và trọng dụng tài năng, hay vinh danh, người có tài sẽ bất mãn và từ chối không tham gia, hay bỏ xin ra. Các Bài Đọc trong ngày Thứ Năm tuần thánh hôm nay dạy chúng ta biết thế nào là tình yêu và phục vụ của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng toàn năng dựng nên và điều khiển muôn lòai, thế mà luôn hạ mình để hy sinh phục vụ và yêu thương mọi người nhân loại, cho dẫu con người chúng ta vô ơn và không xứng đáng với tình yêu, ân sủng của Ngài.
Trong Bài Đọc I, vì quá yêu thương và muốn giải thóat người Do-thái khỏi cảnh khốn khổ, nhục nhằn và tủi hổ của kiếp nô lệ, Thiên Chúa đã giải thoát, “cõng dân Do-thái như đại bàng cõng con trên cánh” ra khỏi đất Ai-cập, và đưa dân vào Đất Hứa. Sau đó, Chúa truyền cho dân phải cử hành Lễ Vượt Qua để tưởng nhớ đến tình yêu và những việc Ngài làm. Thiên Chúa phán cùng họ rằng: “Các ngươi hãy ghi nhớ ngày ấy, làm lễ tưởng niệm, và phải mừng ngày đó trọng thể kính Thiên Chúa. Các ngươi sẽ lập lễ này để mừng vĩnh viễn muôn đời.”
Bài Đọc II cho chúng ta biết, trong Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa, Lễ Vượt Qua của Cựu Ước là hình ảnh Lễ Vượt Qua mới của Đức Giê-su Kitô. Khi biết giờ Ngài sắp sửa hoàn thành sứ vụ cứu chuộc nhân loại, và vượt qua cuộc đời này để về cùng Thiên Chúa, Ngài đã yêu thương con người và yêu thương họ đến cùng. Chúa Giêsu làm cho con người hai việc chính: Thứ nhất là Hiến mình làm Chiên Vượt Qua để cứu độ con người. Máu chiên bôi trên cửa của nhà người Do-thái có sức mạnh để cứu các con đầu lòng và súc vật của họ, thịt chiên có sức mạnh để giúp họ vượt qua Biển Đỏ để vào Đất Hứa. Cũng vậy, Mình Máu Thánh của Chúa Giêsu đổ ra trên Thánh giá có sức mạnh để cứu nhân lọai chúng ta khỏi mọi tội, và giúp con người chúng ta vượt qua mọi khó khăn, trở ngại của trần thế để vào đất Thiên Chúa hứa là Thiên Đàng. Và việc thứ hai là Chúa đã thiết lập Bí-tích Thánh Thể để tiếp tục ở lại với con người. Bữa Tiệc Ly chính là bữa tiệc Vượt Qua. Chúa Giêsu đã lập Bí-tích Thánh Thể trong Bữa Tiệc Ly, và truyền cho các môn đệ năng cử hành để dừng quên tình yêu cứu độ của Ngài. Thánh Phao-lô khẳng định “Vì mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến.”
Như chúng ta biết, yêu thương nhau là giúp đỡ, hy sinh, chịu đau khổ và sẵn sàng chết cho nhau. / Chúa Giê-su trong những ngày sau hết cuộc đời đã thể hiện một tình yêu thương như thế cho chúng ta. / Nhưng Chúa muốn tình yêu này tồn tại và trải rộng qua muôn thế hệ cho đến muôn đời, cho nên Chúa đã thiết lập Bí tích Thánh thể để hiện diện giữa nhân loại cho đến ngày tận thế.
Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu dạy các tông đồ bài học khiêm nhường hy sinh phục vụ và yêu thương đến cùng, bằng cách rửa chân cho các ông. Ngày xưa, rửa chân là công việc của những đầy tớ, nô lệ trong nhà. Thế mà Chúa Giêsu là Thầy, là Chúa, mà lại rửa chân cho các môn đệ của mình, cả môn đệ sắp phản bội mình. Qua đó, Chúa Giêsu muốn dạy các môn đệ và tất cả mọi người chúng ta hôm nay bài học khiêm nhường và yêu thương phục vụ nhau, dù trong những công việc thấp hèn nhất. Sau khi rửa chân cho các môn đệ, Chúa ngồi vào bàn tiếp tục dạy dỗ các môn đệ về yêu thương phục vụ, và nói rõ cho các môn đệ biết mục đích việc Chúa rửa chân cho họ “Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.” Rõ ràng, Chúa muốn dạy chúng ta thể hiện tình yêu thương bằng cách khiêm nhường hy sinh phục vụ.
Chiều tối hôm nay, chúng ta cử hành lại viêc Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa, đã làm và những lời Người truyền dạy chúng ta. Chúng ta nhớ đến tình yêu thương cao cả đã thúc đẩy Chúa hy sinh, chịu đau khổ vì chúng ta. Chúng ta cầu xin qua việc cử hành và tôn thờ mầu nhiệm Thánh Thể hôm nay, nối kết chúng ta một cách mật thiết với Chúa Giê-su Thánh Thể, và xin Chúa giúp chúng ta luôn trung thành và sống đức tin, biết đoàn kết để thương yêu, biết hy sinh phục vụ để xây dựng giáo xứ, và có lòng bác ái và quảng đại để làm sáng danh Chúa.
Tam Nhật Vượt Qua là ba ngày cao điểm của Phụng vụ, với các sắc màu khác nhau, khởi đầu là Thứ Thứ5Thánh ABC-122
Tam Nhật Vượt Qua là ba ngày cao điểm của Phụng vụ, với các sắc màu khác nhau, khởi đầu là Thứ Năm Tuần Thánh mang sắc màu Vui, tiếp theo là Thứ Sáu Tuần Thánh mang sắc màu Thương, và từ đêm Thứ Bảy Tuần Thánh tới Chúa Nhật Phục Sinh mang sắc màu Mừng.
Thứ Năm Tuần Thánh là ngày Vui, buổi sáng là Thánh Lễ Truyền Dầu, buổi chiều là Thánh Lễ kỷ niệm Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể và chức linh mục, cũng là ngày tưởng nhớ Bữa Tiệc Ly. Trong niềm vui có lẫn nỗi buồn, tạo cảm giác rất khó tả, đặc biệt là trong đó có sự quyến luyến của cuộc chia tay.
Thứ Năm Tuần Thánh còn là ngày Chúa Giêsu dạy bài học yêu thương độc đáo, vì Ngài không chỉ dạy bằng lời nói mà dạy bằng HÀNH ĐỘNG cụ thể, chứng minh lời Ngài đã nói: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28; Mc 10:45). Yêu thương và Phục vụ là hai “điểm nhấn” của ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Ai yêu thương thì sẵn sàng phụng vụ, ai phục vụ là chứng tỏ yêu thương. Mối tương tác tất yếu tuyệt vời!
Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh đến chức vụ phục vụ của mình là “tôi tớ của các tôi tớ của Chúa” (Servus Servorum Dei). Ngài không tự xưng là “chúng tôi” như các giáo hoàng trước mà dùng đại danh từ “tôi”. Ngài chọn làm một lễ tấn phong đơn giản chứ không rườm rà, và không đội mũ giáo hoàng khi đảm nhiệm. Là giáo hoàng nhưng ngài không muốn được phục vụ, thể hiện đức khiêm nhường. Khi nhậm chức giáo hoàng, các hồng y quỳ gối trước ngài để tuyên hứa và hôn nhẫn, nhưng ngài đứng dậy khi ĐHY Stefan Wyszyński (người Ba Lan) quỳ gối, ngăn hồng y này hôn nhẫn và ôm hồng y này. ĐGH Phanxicô cũng đang thể hiện rõ nét khiêm nhường, nghèo khó, và cũng không muốn ai phục vụ mình. Đó là các tấm gương sáng về nhân đức khiêm nhường và tinh thần phục vụ.
Ngày xưa, Đức Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron trên đất Ai-cập: “Tháng này, các ngươi phải kể là tháng đứng đầu các tháng, tháng thứ nhất trong năm. Hãy nói với toàn thể cộng đồng Ít-ra-en: Mồng mười tháng này, ai nấy phải bắt một con chiên cho gia đình mình, mỗi nhà một con. Nếu nhà ít người, không ăn hết một con thì chung với người hàng xóm gần nhà mình nhất, tuỳ theo số người. Các ngươi sẽ tuỳ theo sức mỗi người ăn được bao nhiêu mà chọn con chiên. Con chiên đó phải toàn vẹn, phải là con đực, không quá một tuổi. Các ngươi bắt chiên hay dê cũng được. Phải nhốt nó cho tới ngày mười bốn tháng này, rồi toàn thể đại hội cộng đồng Ít-ra-en đem sát tế vào lúc xế chiều, lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Còn thịt, sẽ ăn ngay đêm ấy, nướng lên, ăn với bánh không men và rau đắng” (Xh 12:1-8).
Dân nào cũng có những phong tục khác nhau theo văn hóa của mình. Với dân Chúa, cách ăn uống cũng khác, họ làm theo lời Chúa căn dặn: “Các ngươi phải ăn thế này: lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy. Các ngươi phải ăn vội vã, Đó là lễ Vượt Qua mừng Đức Chúa” (Xh 12:11).
Người Việt không có tục lệ như vậy, nhưng vẫn không thấy lạ. Chiên hay dê một tuổi là con vật còn nhỏ, còn toàn vẹn và vô tư như đứa trẻ, máu của con vật tinh tuyền được bôi lên cửa làm dấu hiệu để gia đình đó được thoát tai họa: “Đêm ấy Ta sẽ rảo khắp đất Ai-cập, sẽ sát hại các con đầu lòng trong đất Ai-cập, từ loài người cho đến loài thú vật, và sẽ trị tội chư thần Ai-cập: vì Ta là Đức Chúa. Còn vết máu trên nhà các ngươi sẽ là dấu hiệu cho biết có các ngươi ở đó. Thấy máu, Ta sẽ vượt qua, và các ngươi sẽ không bị tai ương tiêu diệt khi Ta giáng hoạ trên đất Ai-cập. Các ngươi phải lấy ngày đó làm ngày tưởng niệm, ngày đại lễ mừng Đức Chúa. Qua mọi thế hệ, các ngươi phải mừng ngày lễ này. Đó là luật quy định cho đến muôn đời” (Xh 12:12-14).
Được báo trước về cách tránh tai họa như vậy thì thật là đại phước. Ai không làm theo là cố chấp, ai làm theo là biết vâng phục và tất nhiên được hưởng lợi ích. Đối với Thiên Chúa, chúng ta chẳng là gì cả, nhưng chúng ta vẫn không ngừng được Ngài ban tặng biết bao hồng ân. Tác giả Thánh Vịnh cũng đã có kinh nghiệm đó nên tự hỏi và tự quyết định: “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ vì mọi ơn lành Người đã ban cho? Con xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu cầu thánh danh Chúa” (Tv 116:12-13). Vâng, chắc chắn không lễ vật nào xứng đáng bằng những gì đến từ Thiên Chúa.
Tác giả Thánh Vịnh thành tâm khấn hứa: “Lời khấn nguyền với Chúa, con xin giữ trọn, trước toàn thể dân Người. Đối với Chúa thật là đắt giá cái chết của những ai trung hiếu với Người. Vâng lạy Chúa, thân này là tôi tớ, tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, xiềng xích trói buộc con, Ngài đã tháo cởi” (Tv 116:15-16). Để phù hợp với Cựu ước, Chúa Giêsu cũng đã nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13).
Có nhiều cách chết, chúng ta cũng phải “chết” cho nhau hằng ngày, vì mọi người đều là “người yêu” của nhau. Trong ngày trọng đại này, mỗi chúng ta hãy cùng với tác giả Thánh Vịnh thân thưa với Thiên Chúa: “Con sẽ dâng lễ tế tạ ơn và kêu cầu thánh danh Chúa. Lời khấn nguyền với Chúa, con xin giữ trọn, trước toàn thể dân Người” (Tv 116:17-18). Lòng biết ơn rất quan trọng nhưng người ta lại… thích “quên”. Vẫn còn đo gương mười người được ơn chữa lành nhưng chỉ có một người biết ơn, mà người này lại là người ngoại! (x. Lc 17:11-19).
Cũng với tâm tình tri ân, Thánh Phaolô nói: “Thật vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: ‘Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy’. Cũng thế, cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói: ‘Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy’. Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết” (1 Cr 11:23-26).
Một điều xác định rất lạ. Chết là buồn đau, là chiến bại, là cùng đường, vậy mà lại cần loan truyền ư? Đây là loại nghịch-lý-thuận sẽ không thể hiểu nếu không có đức tin Kitô giáo. Chết không như người ta lầm tưởng, chết ngỡ như thua thiệt, là thất bại ê chề, nhưng chính cái chết lại là biên giới qua Bến Phục Sinh, là nhịp cầu tới Miền Sự Sống, là cửa ngõ vào Cõi Trường Sinh. Vô cùng kỳ diệu!
Trước khi vào Vùng Sống phải qua Cõi Chết, trước khi qua Cõi Chết phải trải nghiệm Ải Đau Khổ. Đó là loại Tam Giác đặc biệt: Tam-Giác-Sống-Chết.
Trình thuật Ga 13:1-15 cho biết: Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu biết giờ của Ngài đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Ngài vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Ngài yêu thương họ đến cùng. Với nhân tính, chắc hẳn Ngài cũng lưu luyến lắm, nhất là với các đệ tử đã chia ngọt sẻ bùi suốt ba năm ròng. Nhưng điều gì đến sẽ đến, cuộc vui nào cũng tàn, sum họp rồi chia ly, đó là lẽ thường ở đời thôi!
Ma quỷ đã gieo vào lòng Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt, ý định nộp Đức Giêsu. Đức Giêsu biết rằng Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Ngài, Ngài bởi Thiên Chúa mà đến và sắp trở về cùng Thiên Chúa. Trong tiệc mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ, và cũng là Bữa Tiệc Ly, bữa ăn cuối cùng của Ngài trên thế gian và bữa cuối cùng đồng bàn với các môn đệ, Ngài đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra và lấy khăn mà thắt lưng, rồi Ngài đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Một hành động rất lạ, chắc hẳn các môn đệ cũng chỉ thấy lạ chứ không thể biết đó là điềm báo của một người sắp chết.
Chuyện kể hôm nay là câu chuyện mà ai cũng thuộc vanh vách, dù không chính xác từng chữ. Khỏi kể lại cũng biết. Mới nghe câu đầu đã biết rõ kết thúc. Thế nhưng câu chuyện này vẫn luôn thu hút bất kỳ ai. Từ Phòng Tiệc Ly tới Vường Dầu, từ Vườn Dầu tới Dinh Cai-pha và Phi-la-tô, và từ đó tới Đồi Sọ, ai cũng biết diễn biến thế nào, thế nhưng người ta cứ nghe mãi và đọc mãi cuốn truyện đó mà không chán. Một điều rất lạ!
Một cuốn truyện hoặc một bộ phim hay tới mức nào thì người ta cũng chỉ đọc hoặc xem một lần, nhiều lắm cũng chỉ hai lần là thấy nhàm chán. Vậy mà với bộ Phúc Âm (và Kinh Thánh), người ta càng đọc càng thấy thú vị, càng nhận thấy cái mới. Tương tự, đối với Thánh Lễ cũng vậy, dù không tham dự cũng biết như thế nào. Thế mà có ai chán bao giờ đâu. Đúng là phép lạ thật!
Và câu chuyện vẫn tiếp diễn…
Khi Chúa Giêsu bưng chậu nước đến chỗ ông Phêrô, ông liền thưa: “Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao?”. Nhưng Ngài bảo: “Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu”. Ông Phêrô cương quyết không để cho Thầy rửa chân cho mình, vì có đời nào lại có chuyện ngược đời như vậy được! Nhưng Ngài nghiêm giọng: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy”. Nghe vậy, ông Phêrô nói ngay: “Thế thì xin Thầy cứ rửa, không chỉ rửa chân mà rửa cả tay và đầu con nữa”. Đúng là người có bản tính “thẳng như ruột ngựa”, nghĩ sao nói vậy. Đức Giêsu bảo ông: “Ai đã tắm rồi thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu!”. Thật vậy, Ngài biết ai sẽ nộp Ngài nên mới nói: “Không phải tất cả anh em đều sạch”.
Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức Giêsu mặc áo vào, về chỗ và nói: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13:12-15). Những lời Chúa Giêsu nói nghe rất nhẹ nhàng nhưng lại có sức khiến chúng ta “nhức tai”, “buốt óc” và “nhói tim” lắm! Thật vậy, chữ Yêu Thương rất ngắn gọn, xem chừng rất đơn giản, nhưng để thực hành cho đúng ý Thầy Giêsu thì không hề đơn giản, vì vậy mà chúng ta phải cố gắng không ngừng, phải cố gắng qua từng nhịp thở vậy.
Cũng vậy, chữ Phục Vụ cũng ngắn gọn lắm, nhưng có hai vế: Phục vụ và được phục vụ. Không ai “ưa” vế thứ nhất, nhưng ai cũng thích vế thứ nhì. Bản tính con người đâu dễ “lèo lái”, do đó mà thực hiện “bổn phận phục vụ” mãi vẫn thấy “căng” lắm, thậm chí có người còn chỉ “chăm chú” làm ngược lại là “thích được người khác phục vụ”. Lạy Chúa tôi!
Được biết, tại phòng thánh của nhà dòng, Chân phước Mẹ Teresa Calcutta đã ghi lời nhắc nhở: “Xin các linh mục hãy dâng mỗi Thánh lễ như Thánh lễ đầu tiên và như Thánh lễ cuối cùng trong đời”. Đúng là ý tưởng của thánh nhân, thật là thâm thúy đầy tính tâm linh, nhưng đó cũng là lời nhắc nhở “đáng phải giật mình” lắm đấy, dù là ai – tức là cả giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân!
Bài học Yêu Thương và Phục Vụ mà Chúa Giêsu đã dạy vẫn luôn nóng bỏng ngay trong thời đại ngày nay, dù bài học đó đã được Ngài dạy từ hai ngàn năm trước. Bất kỳ ai cũng phải thuộc lòng và làm đúng từng chi tiết trong bài học này của Thầy Giêsu vậy. Yêu mến Chúa và lưu luyến Ngài thì phải thực hiện lệnh Ngài truyền, đó là điều hoàn toàn hợp lý, vì có vậy mới chứng tỏ tình yêu mà chúng ta dành cho Ngài!
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin đổi mới trái tim chúng con nên giống Chúa càng ngày càng nhiều, xin giúp chúng con say yêu Thánh Thể và Thánh Lễ để chúng con được sống dồi dào nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài, đồng thời xin giúp chúng con quyết tâm thực hiện bài học Yêu Thương và Phục Vụ đúng theo Tôn Ý Ngài. Chúng con tin thật chính Ngài là Đấng cứu độ, hằng sinh và đồng trị với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha, Người vẫn yêu Thứ5Thánh ABC-123
Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha, Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng. (Ga 13,1)
Suy niệm: Chúa Giê-su thường dùng hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Trời, Hôm nay, Ngài đã dùng chính bữa tiệc, bữa tiệc cuối cùng của đời Ngài trên trần gian để nói cho các môn đệ về tình yêu thương phục vụ, hiệp thông và chia sẻ. Bữa tiệc Thánh Thể mà Chúa Giê-su đã lập trong đêm thứ Năm Thánh là bằng chứng rõ rệt nhất của tình yêu. Và cho đến hôm nay, hơn 2000 năm đã qua đi, bữa tiệc ấy vẫn luôn hiện thực trên các bàn thờ trong các thánh lễ.
Mời Bạn: Để tiếp tục “tình yêu đến cùng” của Chúa Giê-su, chúng ta phải kéo dài bữa tiệc hiệp thông trên bàn thờ trong thánh lễ thành bữa tiệc hiệp thông trên bàn thờ thế giới này, nghĩa là trong cuộc sống, nơi trường học, công sở, xí nghiệp, v.v… bằng cách tiếp tục công việc hiến mình vì yêu của Chúa Giê-su qua đời sống bác ái phục vụ của bạn. Khi tái diễn hành động yêu thương, tha thứ, phục vụ trên những bàn thờ đó, chúng ta mới thực sự sống hiệp thông với Đức Giê-su.
Sống Lời Chúa: Tập thực hành đức yêu thương và phục vụ trong những việc nhỏ nhặt nhất trong đời sống thường ngày để dâng những công việc bác ái đó làm của lễ mỗi khi bạn tham dự bàn tiệc Thánh Thể.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con biết noi gương Chúa: sống yêu thương và phục vụ mọi người, nhất là những người nghèo khổ, nhỏ bé, bị quên lãng và cả những người thù ghét con vì Chúa đã để lại tấm gương đó cho chúng con như lời trăn trối cuối cùng: “Người ta cứ dấu đó mà nhận biết các con là môn đệ Thầy”. Amen.
Thánh Phanxicô Assisi nói: “Cần đốt lên LỬA YÊU THƯƠNG, bởi vì có yêu thương thì tự nhiên Thứ5Thánh ABC-124
Thánh Phanxicô Assisi nói: “Cần đốt lên LỬA YÊU THƯƠNG, bởi vì có yêu thương thì tự nhiên sẽ đối đãi tốt với mọi người, luôn nói những lời yêu thương, và tâm hồn sẽ tự nhiên thu hoạch được rất nhiều kết quả”. Còn “Đoá Hồng Nhỏ” Têrêsa Lisieux, một chuyên gia tình yêu, cho biết: “Mặc dù tôi chỉ là người nhỏ nhất không chuyên làm những việc khác, nhưng chuyên làm việc yêu mến Thiên Chúa và hy sinh bản thân mình”.
Không thể tưởng tượng nổi nếu thế gian này vắng bóng tình yêu thương. Ai cũng muốn yêu và được yêu, dù biết rằng “yêu là chết trong lòng một ít”. Yêu là khổ, không yêu thì lỗ, thôi thì thà chịu khổ hơn chịu lỗ. Rất lô-gích. Và người ta có cách gọi đó là “thú đau thương”. Chính Chúa Giêsu cũng đã xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Sau những ngày tháng hoang đàng, Thánh Giám Mục Tiến sĩ Augustinô đã hối tiếc và thốt lên: “Con yêu Chúa quá muộn màng”, và rồi ngài cho biết: “Mức độ yêu Chúa là yêu vô hạn”. Một mức độ kỳ lạ: mức-độ-không-giới-hạn. Thật thú vị!
Từ cổ chí kim, chắc hẳn chưa có một định nghĩa nào về tình yêu được coi là trọn vẹn nhất và có thể khiến người ta thỏa mãn. Chữ Yêu rất đơn giản mà cũng rất nhiêu khê. Chỉ có một tình yêu đích thực nhưng được nhìn với nhiều lăng kính, mỗi người yêu mỗi cách và mức độ cũng rất khác nhau. Nói chung, yêu là CHO nhiều hơn NHẬN, yêu đến quên mình, đó mới là Tình Yêu chân chính. Việt Nam có chuyện tình Đồi Thông Hai Mộ và chuyện tình Lan và Điệp, còn Tây phương có chuyện tình Romeo và Juliet. Những chuyện tình thật lãng mạn và đẹp, mà cũng đầy chất bi thương, thế nhưng vẫn có sự vị kỷ trong tình yêu đó!
DẤU CHỈ
Dù tốt hay xấu, sự gì cũng đều có dấu chỉ – dấu hiệu, triệu chứng, điềm báo, … Bề ngoài khả dĩ thể hiện bề trong, và bề trong khả dĩ biểu lộ ra bề ngoài. Lửa và khói có lẫn nhau.
Trình thuật sách Xuất hành (Xh 12, 1-8, 11-14) cho biết chi tiết về cách mừng lễ: Đức Chúa phán với ông Môsê và ông Aharon trên đất Ai Cập: “Tháng này, các ngươi phải kể là tháng đứng đầu các tháng, tháng thứ nhất trong năm. Hãy nói với toàn thể cộng đồng Ítraen: Mồng mười tháng này, ai nấy phải bắt một con chiên cho gia đình mình, mỗi nhà một con. Nếu nhà ít người, không ăn hết một con, thì chung với người hàng xóm gần nhà mình nhất, tuỳ theo số người. Các ngươi sẽ tuỳ theo sức mỗi người ăn được bao nhiêu mà chọn con chiên. Con chiên đó phải toàn vẹn, phải là con đực, không quá một tuổi. Các ngươi bắt chiên hay dê cũng được. Phải nhốt nó cho tới ngày mười bốn tháng này, rồi toàn thể đại hội cộng đồng Ít-ra-en đem sát tế vào lúc xế chiều, lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Còn thịt, sẽ ăn ngay đêm ấy, nướng lên, ăn với bánh không men và rau đắng”.
Luật cũ chú trọng cách sống tự nhiên của con người, và cách hành lễ cũng cụ thể hơn ngày nay, nhưng đó là cách thể hiện đức vâng lời – vâng lời Thiên Chúa nghĩa là yêu mến Ngài, giữ luật Ngài.
Cái gì cũng có nguyên tắc, và cách ăn cũng có luật riêng: lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy. Cách ăn “lạ” nhất là “phải ăn vội vã”, vì đó là lễ Vượt Qua mừng Đức Chúa. Ngay đêm ấy Thiên Chúa rảo khắp đất Ai Cập, sát hại các con đầu lòng trong đất Ai Cập, từ loài người cho đến loài thú vật, và sẽ trị tội chư thần Ai Cập. Nghe vậy chúng ta cảm thấy Chúa “dữ tợn” quá. Nhưng không phải vậy, vì luật cũ là luật tự nhiên, những gì là “đầu tiên” thì phải được dành ưu tiên cho Thiên Chúa, gọi là “của lễ đầu mùa” – kể cả con đầu lòng. Ngày nay, một số dân tộc cũng vẫn có cách mừng thu hoạch mùa màng như lễ mừng lúa mới, lễ mừng thu hoạch, lễ mừng cơm mới,…
Dịp lễ Vượt Qua, chính “vết máu bôi trên nhà” là dấu chỉ về việc “giữ luật”, là dấu chỉ của tình yêu thương, và những người trong nhà đó sẽ không bị tai ương tiêu diệt khi Thiên Chúa giáng họa trên đất Ai Cập. Ngày hôm đó được chọn làm ngày tưởng niệm, ngày đại lễ mừng Đức Chúa. Và Ngài xác nhận rằng “đó là luật quy định cho đến muôn đời”. Luật đó là hồng ân Chúa ban. Ngài ban đủ thứ ân sủng để con người đủ sức “vượt qua” biển đời. Thiên Chúa YÊU THƯƠNG nhiều và TRAO BAN nhiều, còn chúng ta ĐÓN NHẬN quá nhiều, thế nên cảm thấy ngại. Nhưng chính lúc biết ngại như vậy là tỏ lòng biết ơn, và tự đặt vấn đề:
Lấy chi đền đáp Chúa đây Vì bao ân huệ chính Ngài đã ban? (Tv 116, 12)
Mặc dù chúng ta thật lòng muốn đền ơn đáp nghĩa đối với Thiên Chúa nhưng lại chẳng có gì để tiến dâng, nếu có thì cũng chỉ là những thứ bất xứng mà thôi. Thân tro phận bụi quá đỗi mọn hèn, nhưng vì tin yêu mà cả dám thân thưa:
Con nâng chén hồng ân cứu độ Mà xưng tụng danh Chúa mãi thôi (Tv 116, 13)
Trong thời quân chủ, thần dân không được phép ngước nhìn Long Nhan, ai nhìn sẽ bị tội “khi quân” và phải chết. Thần dân muốn tâu trình điều gì đều phải quay hướng khác và không được tâu trực tiếp, chỉ được tâu với cái “bệ rồng” Vua ngồi: “Muôn tâu bệ hạ”. Thế nhưng, đối với Thiên Chúa là Vua các vua và Chúa các chúa, thân sâu bọ chúng ta lại được diện kiến Tôn Nhan thì quả là vô cùng diễm phúc: “Trước Thánh Nhan thật là quý giá, cái chết của những ai hiếu nghĩa với Ngài” (Tv 116, 15). Chúng ta chỉ là tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, mà lại được diễm phúc như thế thì phải hết lòng ghi nhớ thâm ân: “Con sẽ dâng hiến lễ tạ ơn mà xưng tụng danh Chúa” (Tv 116, 17), đồng thời phải luôn tự thề hứa: “Lời khấn nguyền với Chúa, con xin giữ trọn, trước toàn thể Dân Ngài” (Tv 116, 18).
Chúng ta có làm vậy thì cũng là điều tất yếu mà thôi! Nhưng không thể yêu suông bằng lời nói, mà phải yêu bằng hành động cụ thể. Nói chưa đủ tin, làm mới thuyết phục.
CHỨNG TỎ
Hành động là thể hiện bằng việc làm, chia sẻ bằng cách nào đó. Thật vậy, Thánh Phaolô cho biết: “Điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em” (1Cr 11, 23). Rồi ngài kể lại việc Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy”, và cuối bữa thì Chúa Giêsu nói: “Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy” (1Cr 11, 24-25).
Thánh Phaolô giải thích: “Từ nay cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết” (1Cr 11, 26), do đó mà chúng ta hằng ngày tuyên tín trong mỗi Thánh lễ: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết, và tuyên xưng Chúa sống lại, cho tới khi Chúa đến”, hoặc “Lạy Chúa, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, chúng con loan truyền Chúa chịu chết cho tới khi Chúa đến”.
Không lâu trước dịp lễ Vượt Qua, Đức Giêsu biết “giờ của Ngài” đã đến, giờ mà Ngài phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Với nhân tính, Ngài cũng cảm thấy lưu luyến người thân, những người mà Ngài yêu thương đến giọt Nước và giọt Máu cuối cùng.
Là Thiên Chúa, Ngài biết rõ Giuđa nghĩ gì, tính toán ra sao, và sắp làm gì. Nhưng Thánh Ý Chúa Cha nhiệm mầu. Chúa Giêsu bởi Thiên Chúa mà đến, và Ngài sắp trở về cùng Thiên Chúa. Do đó, trong một bữa ăn tối, bữa mừng lễ Vượt Qua với các môn đệ, Ngài đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Ngài đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Chắc hẳn môn đệ nào cũng ngạc nhiên vô cùng khi thấy Sư Phụ có cách hành động “kỳ lạ nhất thế gian”.
Vì thế, khi Ngài đến chỗ Simôn Phêrô, ông liền thưa: “Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao?” (Ga 13, 6). Theo lẽ thường, không hề có bề trên nào dám làm chuyện “ngược đời” và “động trời” như vậy. Nghe Phêrô nói, Đức Giêsu trả lời: “Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu” (Ga 13, 7). Ông Phêrô chưa thể hiểu nên lại thưa: “Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!” (Ga 13, 8a). Đức Giêsu đáp: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy” (Ga 13, 8b). Nghe Thầy nói “không được chung phần” thì ông Phêrô liền thưa: “Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa” (Ga 13, 9). Nhưng Đức Giêsu bảo ông: “Ai đã tắm rồi thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu!” (Ga 13, 10). Ông Phêrô cụt hứng, như bị tạt ca nước lạnh. Rõ ràng Ý Chúa hoàn toàn khác ý loài người. Ngài rất thâm ý nên mới nói: “Không phải tất cả anh em đều sạch”.
Sau khi rửa chân cho các môn đệ xong, Ngài mặc áo vào, về chỗ và thổ lộ tâm sự: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không?” (Ga 13, 11). Hỏi vậy thôi, chứ Ngài biết tỏng là chẳng ai hiểu gì ráo trọi, bởi vì đệ tử nào cũng “mắt chữ O và miệng chữ A”, y như trời trồng hết thảy. Thế nên Ngài nói luôn: “Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13, 13-15).
Thật vậy, Thầy mà còn rửa chân cho đệ tử thì chắc chắn đệ tử không thể không rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho đệ tử, để đệ tử cũng làm như Thầy đã làm cho đệ tử. Đó là Luật Yêu của Chúa. Luật nhẹ nhàng thế mà lại không dễ thực hiện, lời giản dị mà lại thâm thúy lắm. Và đó cũng là điều mỗi chúng ta phải suy nghĩ, bởi vì chính Chúa Tể muôn loài đã làm gương cho mọi người soi chung.
Xét theo Việt ngữ, chữ Yêu bắt đầu bằng mẫu tự Y có hình “ngã ba”, nghĩa là có 3 hướng: Hướng lên Thiên Chúa, hướng tới tha nhân, và hướng về chính mình. Yêu Chúa hết linh hồn và hết trí khôn, yêu người như chính mình, còn yêu mình ít thôi – không được yêu mình thái quá, vì sẽ biến thành “tự ái” (tự yêu mình thái quá) mà hóa thành vị kỷ (ích kỷ). Yêu có những hệ lụy quan yếu. Yêu là điều luôn có mối liên kết quan trọng: Cần Thiết ⇾ Thiết Tha ⇾ Tha Thứ. Đó là chu-trình-yêu-thương kỳ diệu vô cùng!
Và rồi phát sinh một hệ lụy khác: YÊU thì phải KÍNH (yêu kính), KÍNH thì phải NỂ (kính nể), NỂ thì phải TRỌNG (nể trọng), TRỌNG thì phải VỌNG (trọng vọng – vọng là mong), MONG thì thấy NHỚ (mong nhớ), NHỚ nghĩa là THƯƠNG (nhớ thương), tức là YÊU rồi đấy. Đó là vòng-tròn-tình-yêu bắt đầu và kết thúc bằng động từ YÊU. Chúa nhớ chúng ta và chúng ta cũng phải nhớ Chúa, mà NHỚ Ngài thì PHẢI THỰC THI Thánh Ý Ngài. Hoàn toàn hợp lý!
Tương tự, khi nói về gia đình, chúng ta áp dụng từ ngữ “hiếu đễ”. HIẾU thì phải ĐỄ (nhường), NHƯỜNG thì phải NHỊN. Nhờ đó mà gia đình luôn “trong ấm, ngoài êm”, tạo nên “tổ ấm” đích thực, đó là hạnh phúc gia đình. Đối với các mối quan hệ xã hội hoặc cộng đoàn cũng vậy. Nói chung, tất cả tóm gọn trong một chữ YÊU. Biết thương yêu cũng chính là biết thương xót theo ý muốn của Thầy Chí Thánh Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin thánh hóa và biến đổi trái tim chúng con nên giống Thánh Tâm Ngài, để càng ngày trái tim của chúng con càng chứa nhiều “máu yêu” hơn, nhờ đó chúng con biết thể hiện cách yêu Ngài qua việc yêu tha nhân, đồng thời cũng can đảm sống và hành động “ngược đời” như Ngài, hôm nay và mãi mãi.
Xin làm cho chúng con xứng đáng và vui mừng đón nhận Nguồn Sống từ Thánh Thể Ngài, và xin Thánh Thể tăng lực cho những người đau khổ phần hồn và phần xác. Chúng con tin kính Ngài là Đấng hằng sống và hiển trị cùng với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
Mỗi năm, dân Do thái ăn lễ Vượt Qua để tưởng niệm việc họ đã được Thiên Chúa giải thoát khỏi Thứ5Thánh ABC-125
Mỗi năm, dân Do thái ăn lễ Vượt Qua để tưởng niệm việc họ đã được Thiên Chúa giải thoát khỏi cảnh áp bức, và giao ước với họ. Chúa Giêsu Kitô đã mở đầu cuộc Thương Khó khi cùng với các môn đệ dùng bữa tiệc Vượt Qua đó. Nhưng Người đã muốn cho bữa tiệc này trở thành bữa tiệc của giao ước mới, giao ước Người lập khi đổ máu hy sinh trên thập giá. Vì thế, khi trao cho các môn đệ tấm bánh và chén rượu, là đồ ăn thức uống đã trở thành Mình và Máu của Người, Người đã thiết lập nghi thức tưởng niệm lễ tế mà hôm sau Người sẽ dâng trên thập giá.
Mỗi lần cử hành thánh lễ, chúng ta cũng tái diễn bữa tiệc của Chúa để nhớ đến Người, để tưởng niệm Người đã chịu chết, mừng vui vì Người hiện diện, và trông mong Người trở lại. Nhưng chúng ta tưởng niệm cách sốt sắng hơn cả, trong thánh lễ thứ năm Tuần Thánh. Thánh lễ này cử hành vào buổi chiều, với đông đủ giáo dân tham dự sau một ngày làm việc, và với hết các Linh mục trong họ đồng tế để cho thấy rằng chức tư tế chỉ là một. Sau bài diễn giảng, vị chủ tế làm lại cử chỉ của Chúa Giêsu là rửa chân cho mười hai đại diện cộng đoàn tín hữu. Trong khung cảnh đặt biệt của buổi lễ, không bài giảng nào nói rõ hơn rằng chức Linh mục là để phục vụ, cho bằng việc chủ tế quỳ xuống trước mặt người anh em như thế.
Lễ xong, mỗi người có thể yên lặng chầu Thánh Thể để suy gẫm những lời tâm sự cuối cùng của Chúa Giêsu nói với các môn đệ trước khi vào vườn Giêsêmani, nhất là suy gẫm lời trối long trọng nhất: “ Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em ” .
Đức Ái Kitô giáo được gọi là “Giới Luật mới” vì Đức Giêsu đã đem đến cho nhân loại những “định Thứ5Thánh ABC-126
Đức Ái Kitô giáo được gọi là “Giới Luật mới” vì Đức Giêsu đã đem đến cho nhân loại những “định nghiã mới” về Tình Yêu, và những “thái độ yêu thương mới” phải lựa chọn.
Tin Mừng Mátthêu đã ghi lại rất chi tiết về Đổi Mới tận căn rễ này: “Anh em đã nghe Luật dậy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì hãy cho ; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi” (Mt 5,38-42).
Tình yêu đồng loại theo Luật Môsê mà không ai đã dám lên tiếng phản biện, phê bình bỗng nhiên bị Đức Giêsu đặt lại với định nghiã mới, thái độ biểu lộ mới: Nếu tình yêu theo Luật Môsê từ bao đời đã chỉ đòi người tín hữu chu toàn nghiã vụ “mắt đền mắt, răng đền răng”, nghiã là ai đánh tôi, tôi có quyền đánh lại, ai làm hại tôi, tôi có quyền trả đũa cho phải phép công bằng, thì Giới Luật mới sẽ chỉ gọi là Tình Yêu khi bản thân bị thiệt hại vì thiên hạ xử ép mà vẫn tha thứ; thân mình chịu thiệt thòi đến nỗi mất cả áo trong áo ngoài, vì lòng tham của người khác, mà vẫn vui tươi; cái tôi bị thua thiệt đủ kiểu đủ cỡ mà vẫn chan hoà, rộng lượng, không khép dạ đóng lòng.
Tình yêu theo Giới Luật mới ấy đã không chỉ dừng lại ở định nghiã và thái độ không oán thù, không “cân đo đong đếm”, tính toán hơn thiệt, mà còn đi xa hơn đến một bất ngờ lý thú: “Anh em đã nghe Luật dậy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,43-45).
Và đòi hỏi phải yêu cả kẻ thù, cầu nguyện cho kẻ ngược đãi, bách hại và thi ân cho người vu oan, nguyền rủa mình đã hoàn toàn đảo ngược quan niệm, cũng như định nghiã về Tình Yêu của bất cứ con người nào trên thế gian từ cổ đến kim, kể từ khi có loài người cho đến ngày tận cùng của nhân loại.
Vâng, chỉ một mình Đức Giêsu, “Thiên Chúa Tình Yêu làm người” mới có thể đem đến định nghiã mới của Tình Yêu, định nghiã hoàn toàn mới lạ, không chút gì giống với định nghiã tình yêu của con người bình thường, vẫn thường hiểu giữa nhau, khi yêu nhau trong đời thường. Lý do đơn giản: vì Thiên Chúa là Tình Yêu đích thực, Tình Yêu vô cùng và đến cùng, Tình Yêu hiến mạng sống cho người mình yêu, và không như tình con người chỉ có thể yêu kẻ yêu mình, thương người thương mình, vì tình yêu ấy có chung khởi điểm và đích điểm là bản thân mình, bắt đầu từ “cái tôi”, và lại trở về với “cái tôi”.
Làm bỡ ngỡ các môn đệ với định nghiã mới về Tình Yêu và thái độ mới phải có khi yêu thương, Đức Giêsu đã không dừng ở đó, nghiã là không dừng lại ở đòi hỏi: đích tới của Tình Yêu phải là người mình yêu, chứ không còn là mình, nhưng Ngài còn đưa các môn đệ ra rất xa, rất sâu trong đại dương yêu thương của tình Ngài, khi qùy xuống rửa chân cho các ông trong bữa ăn sau cùng, trước khi từ giã các ông lên đường chịu khổ hình và tử nạn.
Thực vậy, không giây phút nào cảm động hơn khi Đức Giêsu trong bữa ăn chia tay đã “đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Đức Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau” (Ga 13,4-5).
Ở đây, chúng ta cùng chia sẻ tâm tình của môn đệ Simôn Phêrô, khi ông thưa với Đức Giêsu, khi Ngài đến rửa chân ông: “Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân con sao?” (Ga 13,6).
“Thầy mà lại rửa chân con sao?”, vì Phêrô vẫn ở trong quan niệm và định nghiã bình thường của tình yêu đời thường, nghiã là tương quan giữa Thầy và trò, giữa sư phụ và môn sinh, dù có yêu thương đến đâu vẫn có giới hạn, vẫn còn hàng rào vô hình của giai cấp, trình độ không thể vượt qua, nên tình yêu của Thầy dành cho mình dù có bao la đến đâu cũng không thể xẩy ra tình trạng thầy - trò ngang hàng, và tệ hơn là lúc này đây, Thầy đang cúi mình thật sâu, sát tận bàn chân lem luốc, dơ bẩn của mình mà rửa và hôn. Phêrô đã hoàn toàn không hiểu ý muốn của Đức Giêsu khi rửa chân các ông là xuống thấp đến tận cùng bất xứng, yếu đuối, tội lụy của các ông để yêu các ông vô cùng và đến cùng. Một định nghiã hoàn toàn mới về tình yêu: Yêu ai là xuống thấp đến tận cùng với người mình yêu đã làm choáng đầu óc người môn đệ Phêrô.
“Thầy mà lại rửa chân con sao?”, vì Phêrô quen yêu cái kiểu: người trên yêu kẻ dưới, người có quyền yêu kẻ dưới quyền, ông chủ yêu gia nhân, “chồng chuá” yêu vợ như yêu “đầy tớ”, mà đặc tính của kiểu yêu có thứ hạng, cấp bậc này là tuy yêu nhưng không quên mang theo uy quyền, tuy thương nhưng không rời bỏ ngai vàng, ngôi báu, tuy chiều nhưng sẵn sàng biểu dương sức mạnh của kẻ toàn quyền thống trị, nên khi được Thầy rửa chân, người môn đệ trưởng nhóm đã không thể hiểu nổi tình yêu ở Thầy mình lại đảo ngược hết những gì ông quen sống, quen làm, vì từ nay, với Đức Giêsu, yêu ai là trở nên như người ấy trong mọi sự, để gánh lấy tất cả nặng nề thân phận của người mình yêu.
“Thầy mà lại rửa chân con sao?”, vì Phêrô từng nghĩ: tình yêu là một giá trị lớn, nên khi cho ai giá trị lớn ấy, ta có quyền đòi người ấy một gía trị khác cũng phải lớn tương tự, kiểu “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”. Đó là lý do khi yêu ai, ta luôn muốn người ta yêu phải làm theo ý ta, phải chiều theo điều ta muốn, phải thực hiện đường lối ta đề ra, bởi tự thâm tâm, ta đã coi tình yêu của mình dành cho người ấy là một giá trị rất lớn, không thể để bị coi thường, thờ ơ, phí phạm mà không làm ta phật lòng, bực bội, phẫn nộ, hận thù. Đó cũng là lý do khi yêu ai, ta luôn có khuynh hướng độc quyền thống trị, độc quyền làm chủ người ta yêu, mà không còn nghĩ đến hạnh phúc quan trọng và nền tảng của người ấy là Tự Do.
Như mọi người, Phêrô cũng nghĩ Thầy có quyền đòi hỏi mình phải đáp trả, phải “biết điều” với tình Thầy, biết cư xử với lòng thương của Thầy, nên hốt hoảng khi Thầy qùy mọp rửa chân ông. Ông không thể ngờ tình yêu của Thầy dành cho các ông là tình yêu từ bỏ hoàn toàn chính bản thân, tình yêu không còn giữ lại cho mình bất cứ sự gì, tình yêu dâng hiến đến cùng, tình yêu trao ban không đắn đo, do dự.
“Thầy mà lại rửa chân con sao?”, vì Phêrô quen yêu theo kiểu “hai bên củng có lợi”, nên giật mình khi Đức Giêsu đòi ông để Ngài rửa chân (x. Ga 13,8), vì ông nghĩ “chẳng ai yêu người khác mà không tìm thấy mình trong đó, và chẳng ai yêu tha nhân mà chịu để bản thân phải thiệt thòi”. Và ông đã sững sờ khi Đức Giêsu âu yếm rửa chân ông, mặc cho ông khó nghĩ, ngại ngùng. Ông đâu hiểu rằng Giới Luật mới của Thầy từ nay chính là yêu thương đến xóa mình, đến chỉ thấy người mình yêu trong tình yêu, như tình yêu hiến mạng sống là tình yêu tình nguyện hủy bỏ luôn chính hiện hữu của mình cho người mình yêu, mà không xót xa, tiếc nuối (x. Ga 15,13).
“Thầy mà lại rửa chân con sao?”, vì Phêrô đã quen với tình yêu tuy qủang đại nhưng đòi có quyền bao bọc, tình yêu tuy hào phóng nhưng đòi có quyền kiểm soát, thanh tra, tình yêu tuy tận tụy, nhưng đòi quyền chế tài, giám định, nên không hiểu được tại sao Thầy lại xuống thấp đến tận chân mình, bởi thấp qúa như thế thì quyền tìm đâu ra không gian mà thi thố, lực tìm thế đứng nào mà giương cao ngọn cờ, nên ông đã hốt hoảng mất tinh thần, và chỉ định thần khi Đức Giêsu cắt nghiã cho các ông:
“Anh em gọi Thầy là ‘Thầy’, là ‘Chúa’, điều đó phải lắm, vì qủa thật Thầy là Thầy và là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,13-15).
Thực vậy, Giới Luật mới là giới luật duy nhất Đức Giêsu đã muốn những ai muốn đi theo Ngài phải tuân giữ, nhưng Giới Luật ấy không như bất cứ giới luật nào khác của con người, dù chung một tên gọi Tình Yêu, bởi Tình Yêu từ nay theo Giới Luật này mang một định nghiã mới, một nội dung mới, một ý nghiã mới, đòi một thái độ mới, chọn lựa mới, do nhu cầu phải trở nên con người mới thuộc về Đức Giêsu, Nguồn Sống mới của nhân loại.
Đi theo Ngài từ nay là yêu một cách hạ mình, quên mình, xóa mình, từ bỏ mình, hiến dâng chính mình, nên yêu ai là vác Thánh Giá với họ, vác Thánh Giá cho họ, vác Thánh Giá vì họ, để chuyện tù đầy, mất mạng vì yêu thương là chuyện đương nhiên, chuyện phải khóc lóc, sầu khổ vì người khác là chuyện bình thường, chuyện chịu xỉ vả, oan sai, vu khống, vì “làm ơn mắc oán” là chuyện không có gì phải ầm ĩ, chuyện phải đi hầu toà, ra trước bàn dân thiên hạ để chịu phỉ nhổ vì bác ái là chuyện cơm bữa của người môn đệ muốn đi theo Đức Giêsu trên con đường Giới Luật mới Yêu Thương, bởi từ nay, tình yêu nơi người môn đệ không còn thuần là tình yêu con người, theo cách thức con người, theo định chế, quy ước giữa con người, nhưng là tình yêu của chính Thiên Chúa Ba Ngôi, Tình Yêu của Ngôi Lời nhập thể, Tình Yêu đã làm Thiên Chúa chạnh lòng và tự nguyện mặc lấy xác phàm để xoá mình, hiến mình chuộc tội phàm nhân (x. Pl 2, 6-8).
Cũng chính vì Tình Yêu của Giới Luật mới không còn đơn thuần là “hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù” như Luật cũ dậy (Mt 5,43), mà đường đi theo Đức Giêsu trở nên khó khăn, chông gai, gập ghềnh cho những ai muốn đi theo Ngài, như chính Ngài đã khẳng định: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được” (Mt 10, 38-39).
Bởi từ nay, chỉ còn lại một Giới Luật yêu thương, khi phải noi gương Đức Giêsu trong bữa tiệc ly từ bỏ mình, khi “đứng dậy, rời bàn ăn” là vị thế, chức vụ, uy quyền, ngai toà, vương trượng, lãnh địa, lực lượng, ảnh hưởng, phe cánh; là xóa mình toàn diện, toàn phần, toàn tập khi “cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng” là những gì mình có, mình là, mình có quyền thụ hưởng, thi thố; là sẵn sàng hiến mình đổ máu, mất mạng khi “đổ nước vào chậu”; là khiêm tốn xuống sâu đến tận cùng, sát cạnh bàn chân của người yếu đuối, bé nhỏ, không là gì đối với mình, khi “rửa chân và lấy khăn thắt lưng mà lau”.
Và suốt đời làm môn đệ Đức Giêsu, chúng ta mãi mãi và không ngừng được Ngài mời gọi đi trên con đường Thánh Giá Yêu Thương này, bởi Ngài là Đường, con đường Tình Yêu duy nhất, con đường duy nhất là Tình Yêu đã được Ngài định nghiã lại và cho một giá trị siêu nhiên, cứu rỗi. Ngoài con đường Tình Yêu như Giới Luật mới, Đức Giêsu đã không ban một lệnh truyền nào khác, như chính Ngài đã qủa quyết với các môn đệ trước giờ chia tay: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,34-35).
Jorathe Nắng Tím -------------------------------------
Đức Giêsu đã trăn trối trong bữa ăn sau cùng cho những ai thuộc về Ngài tấm gương khiêm Thứ5Thánh ABC-127
TMĐP- Đức Giêsu đã trăn trối trong bữa ăn sau cùng cho những ai thuộc về Ngài tấm gương khiêm hạ phục vụ và tình yêu vô cùng, đến cùng khi quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, và thiết lập bí tích Thánh Thể.
Căch đây hơn hai ngàn năm, nếu Đức Giêsu đã làm sửng sốt, xúc động các môn đệ, là những người Ngài vẫn yêu thương và “yêu thương họ đến cùng”, buổi tối thứ năm, trước lễ Vượt Qua, vì “biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha” (Ga 13,1), thì chiều nay, bầu khí khiêm hạ và yêu thương của thánh lễ thứ năm Tuần Thánh cũng làm tâm hồn mỗi người chúng ta bồi hồi, thổn thức.
Như các môn đệ đã sửng sốt, bỡ ngỡ khi thấy Thầy “đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Ngài đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau” (Ga 13,4-5). Không cầm được xúc động, Phêrô đã hốt hoảng nghẹn lời: “Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao?” (Ga 13, 6).
Không chỉ một mình Phêrô, mà tất cả các môn đệ có mặt được Đức Giêsu rửa chân cũng đều kinh ngạc vì không hiểu điều gì đang xảy ra. Hiểu làm sao được khi Thầy rửa chân cho trò, chủ rửa chân cho tớ, Thiên Chúa rửa chân cho con người? Coi làm sao được cảnh tượng người có quyền cúi mình phục dịch thuộc cấp, và Đấng Thánh của Thiên Chúa toàn năng qùy mọp âu yếm rửa sạch bàn chân nhơ nhớp của con người tội lỗi?
Các môn đệ đã không chỉ sửng sốt vì sự kiện xảy ra quá bất ngờ, nhưng còn vì sự khiêm hạ vượt sức tưởng tượng, vượt mức đo lường của Đức Giêsu, sự khiêm hạ tuyết đối của một Thiên Chúa tuyệt đối thánh thiện, đã chọn khiêm hạ như đường lối để thực hiện trọn vẹn tình yêu thương xót đối với loài người khi “hoàn toàn trút bỏ” địa vị vinh quang của Thiên Chúa để mặc lấy thân nô lệ, kiếp phàm nhân, kể cả án tử hình thập giá chỉ dành cho tội phạm nguy hiểm, măc dù Ngài hiền lành, vô tội (x.Pl 2, 7-8).
Thực ra hôm ấy khi quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, Đức Giêsu đã chỉ nhắc lại bài học khiêm hạ phục vụ mà Ngài đã nhiều lần dạy các ông: “Anh em biết: thủ lãnh các dân tộc thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em, thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người” (Mt 20, 25-28).
Và đúng như thế, ở Đức Giêsu, khiêm hạ phục vụ luôn đi đôi với tình yêu vô cùng và đến cùng là “hiến dâng mạng sống vì người mình yêu”, tình yêu mà Ngài đánh giá là tình yêu cao cả nhất (x. Ga 15,13). Bằng chứng là ngay sau khi rửa chân để làm gương khiêm hạ phục vụ cho các môn đệ, Đức Giêsu đã thực hiện một việc vô cùng kỳ diệu, lạ lùng, mà chỉ Thiên Chúa mới có thể sáng kiến và thực hiện, vì vượt xa tất cả những gì của con người, và khả năng con người không thể suy tưởng, đạt tới, bởi là việc làm thuộc mầu nhiệm đức tin.
Biết mình sắp rời bỏ thế gian để về với Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu “vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Chính vì yêu vô cùng và đến cùng, như hai người yêu nhau sắp phải xa nhau không biết làm gì để nhớ nhau, có nhau mãi trong đờu, đã trao những kỷ vật gắn bó thiết thân nhất của mình cho người yêu. Đức Giêsu cũng yêu vô cùng và đến cùng, nên mới nói với các môn đệ: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 20,20), nhưng Ngài đã không ở với các ông bằng hình ảnh, kỷ niệm, kỷ vật, nhưng ở bằng chính thân xác, linh hồn của Ngài; ở bằng chính con người có Máu Thịt của Con Thiên Chúa làm người . Nói cách khác, Ngài hiện diện thực sự, Ngài ở bằng trọn vẹn con người Thiên Chúa của mình.
Vâng, chỉ Thiên Chúa mới có thể “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các môn đệ và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy”. Rồi cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho các môn đệ và nói: “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước đổ ra cho muôn người được tha tộ” (Mt 26,26-28), và căn dặn: “Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19).
Như thế, tưởng nhớ đến Đức Giêsu không còn là nhớ người mình yêu qua kỷ vật, chiêm ngắm người yêu trong hình ảnh, lưu luyến người yêu khi đọc lại những búc thư tình ngày xưa, hay xem lại những thước phim kỷ niệm của hai người, nhưng là trở nên một với Ngài, hiệp nhất trọn vẹn với Ngài bằng sống sự sống của Ngài, sống tình yêu của Ngài, sống ơn cứu rỗi của Ngài bằng ăn và uống Mình Máu Ngài, như Ngài đã qủa quyết: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6, 54-56).
Do đó, bí tích Thánh Thể là mầu nhiệm đức tin mà chỉ với đức tin, chúng ta mới có thể đón nhận được. Vì thế, Thánh Thể ở mọi nơi, mọi thời đã rơi vào tầm ngắm của biết bao diễu cợt, xúc phạm, và nên cớ vấp phạm cho những người không tin nhưng chống lại Thiên Chúa.
Tóm lại, Đức Giêsu đã trăn trối trong bữa ăn sau cùng cho những ai thuộc về Ngài tấm gương khiêm hạ phục vụ và tình yêu vô cùng, đến cùng khi quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, và thiết lập bí tích Thánh Thể.
Lời trăn trối ấy rất quan trọng vì là tất cả những gì Ngài đã dạy và đích thân thực hiện những năm tháng ở thế gian. Ngài dạy chúng ta “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,13), nhưng chỉ khiêm hạ phục vụ nhau mới thực sự yêu thương nhau, nếu không, tình yêu sẽ chỉ là tình “đầu môi chót lưỡi”, vì tình yêu đích thực bao giờ cũng cần khiêm hạ phục vụ, như người kiêu căng không biết phục vụ, vì họ chỉ nuôi tham vọng thống trị và bắt người khác phục vụ mình, nên càng khiêm hạ phục vụ, càng thể hiện tình yêu đối với anh em, như Đức Giêsu đã tuyệt đối khiêm hạ phục vụ, để thực hiện tình yêu vô cùng, và đến cùng của Thiên Chúa Tình Yêu đối với nhân loại.
Lạy Đức Giêsu, Đấng khiêm hạ tận cùng khi quỳ xuống tận bàn chân con người tội lỗi; Đấng thương xót vô cùng khi hiến mạng sống cho con người mình yêu; Đấng yêu đến cùng khi ở lại với con người cho đến tận thế trongThánh Thể, xin mở lòng trí chúng con, để chúng con hiểu rằng không khiêm hạ phục vụ sẽ không thể yêu thương, vì yêu thương cần khiêm hạ như trái tim và cần phục vụ như đôi tay trao ban trái tim tình yêu ấy cho mọi người.
Tin mừng theo thánh Gioan không tường thuật việc Chúa lập Bí tích Thánh Thể, nhưng lại tường Thứ5Thánh ABC-128
Tin mừng theo thánh Gioan không tường thuật việc Chúa lập Bí tích Thánh Thể, nhưng lại tường thuật việc Chúa rửa chân. Điều đó cho thấy việc rửa chân có một tầm vóc rất quan trọng. Theo thánh Gioan việc rửa chân nói lên tình yêu đến tận cùng của Chúa Giêsu. Chiêm ngắm việc Chúa rửa chân cho các Tông đồ, ta có thể thấy có 3 cuộc thanh tẩy.
Thanh tẩy thể lý. Rửa chân là việc mỗi người phải làm hằng ngày. Bàn chân là vị trí thấp nhất trong cơ thể nên dễ bị nhiễm bẩn và vì thế cần được rửa ráy nhiều nhất. Nhưng cũng vì thế mà rửa chân là công việc tầm thường nhất, đây là công việc của người đầy tớ. Hôm nay Chúa Giêsu tự nguyện đảm nhiệm công việc của đầy tớ. Chúa bắt đầu bằng cởi áo choàng. Áo choàng tượng trưng cho địa vị cao cả, cho phẩm giá con người. Khi cởi áo choàng, Chúa cởi bỏ địa vị làm Chủ, làm Thầy, làm Chúa để làm đầy tớ cho các môn đệ. Chúa lấy khăn thắt lưng. Thắt lưng là thái độ của người lao động, buộc áo cho gọn gàng để việc phục vụ nhanh nhẹn hữu hiệu hơn. Chúa bưng chậu nước. Đây là thái độ của người đầy tớ phục vụ. Và đến rửa chân cho từng môn đệ. Rửa chân nói lên cử chỉ chăm sóc yêu thương. Vì yêu thương nên khiêm nhường hạ mình chăm sóc phần thấp hèn nhất của cơ thể.
Tuy việc rửa chân có ý nghĩa yêu thương phục vụ, nhưng với Chúa Giêsu và trong bữa Tiệc Ly, việc rửa chân còn mang ý nghĩa cao sâu hơn vì nhằm thanh tẩy tâm hồn.
Thanh tẩy tâm hồn. Khi nói với Phêrô: “Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu”, Chúa Giêsu có ý nói đến việc thanh tẩy tâm hồn các tông đồ khi rửa chân cho các ngài. Bữa Tiệc ly là bữa tiệc Vượt Qua mới. Để tham dự bữa tiệc Vượt Qua cũ, người Do Thái buộc phải tẩy rửa thân xác cho thanh sạch, dù trong tiệc Vượt Qua cũ, người Do Thái chỉ tưởng niệm một biến cố đã qua và ăn thịt con chiên một tuổi vô tì tích. Vì thế khi tham dự tiệc Vượt Qua mới, ta càng cần thanh tẩy tâm hồn cho thanh sạch vì ta được gặp gỡ trực tiếp Chúa Giêsu Thánh Thể và được lãnh nhận Con Chiên Thiên Chúa vô cùng thánh thiện, vô cùng tinh tuyền.
Nhưng đi xa hơn nữa, Chúa còn muốn qua cuộc rửa chân này, thanh tẩy toàn diện cuộc đời các tông đồ.
Thanh tẩy cuộc sống. Bữa Tiệc Ly tiên báo cái chết của Chúa. Phép Thánh Thể là lễ hi sinh trên thánh giá. Việc cởi áo tiên báo Chúa Giêsu sẽ bị lột áo. Việc thắt lưng tiên báo Chúa bị bắt và bị giết. Nước rửa tiên báo nước và máu từ cạnh sườn Chúa đổ xuống. Thật vậy chẳng có nước nào thanh tẩy được con người nếu không phải là nước và máu tuôn ra từ Trái Tim của Chúa. Cái chết của Chúa chính là phép rửa mà Chúa đã nói trước: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đên khi việc này hoàn tất” (Lc 12, 50). Như thế, Chúa Giêsu dùng chính cái chết của mình để rửa chân cho các tông đồ, để thanh tẩy các tông đồ và để biến đổi đời sống của các ông. Đây quả là một tình yêu cho đến tận cùng, yêu thương nên phục vụ đến hiến cả mạng sống.
Sau khi rửa chân cho các môn đệ, Chúa Giêsu mời gọi các ông: Như Thầy đã rửa chân cho anh em, anh em cũng hãy rửa chân cho nhau. Để rửa chân, phải quì xuống. Thế giới hôm nay tràn đầy sự kiêu hãnh, hợm mình và muốn chèn ép người khác để nâng mình lên. Người môn đệ hãy noi gương Chúa từ bỏ chính mình, tự hạ mình, quì gối khiêm nhường phục vụ. Để rửa chân, phải cởi bỏ áo ngoài. Thế giới hôm nay muốn tô điểm mình bằng đủ mọi thứ hình thức vỏ bọc bên ngoài. Người môn đệ phải theo gương Chúa cởi bỏ áo choàng, cởi bỏ hết những gì giả tạo bên ngoài, khiêm nhường sống với con người thực của mình. Để rửa chân phải lấy khăn thắt lưng. Thế giới hôm nay thường muốn trói buộc người khác và tự buông thả chính mình. Người môn đệ Chúa hãy biết thắt lưng, tự chế bản thân. Để chân sạch, phải lau sau khi rửa. Thế giới hôm nay thường đổ lỗi cho người khác. Người môn đệ hãy biết noi gương Chúa, lau sạch lỗi lầm của anh em, nhận lấy lỗi lầm của anh em và đeo vào thắt lưng, đảm nhận những yếu đuối của anh em.
Khi rửa chân, Chúa nói với thánh Phê rô: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy”. Lời này làm ta nhớ lại khi hai môn đệ Giacôbê và Gioan xin được ngồi bên tả và bên hữu, Chúa đã hỏi: “Các con có thể uống chén ta sắp uống và chịu phép rửa ta sắp chịu không?” (Mc 10, 38). Hôm nay Chúa muốn rửa chân cho các tông đồ để các ngài được “chung phần với Chúa”. Chung phần cao nhất là cùng uống chén Chúa sắp uống và chịu phép rửa Chúa sắp chịu nghĩa là cùng chết với Chúa, chết cho con người tội lỗi, chết cho đời sống xác thịt, chết cho trần gian, để sống một đời sống mới của con người mới thánh thiện, theo thần khí trong cuộc sống cho Nước Trời.
Chung phần như thế là một vinh dự lớn lao. Chung phần như thế là được cộng tác với Chúa trong chương trình cứu độ thế giới.
Chúa đã ban quà cho nhân loại bằng chính Mình Thánh Chúa. Biết ơn Chúa, chúng ta phải trân Thứ5Thánh ABC-129
Chúa đã ban quà cho nhân loại bằng chính Mình Thánh Chúa. Biết ơn Chúa, chúng ta phải trân trọng hưởng dùng và sống bác ái như Chúa đã làm gương.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, nếu ai đó nói con không có đức tin, con sẽ cự lại ngay. Thật ra con có đức tin đó nhưng còn yếu kém lắm. Yếu kém nên con chưa nhận ra phép lạ Chúa hằng quảng đại thực hiện trên các bàn thờ trong mỗi thánh lễ: biến bánh rượu thành Mình Máu Thánh Chúa. Chẳng ai nói một lời mà biến hóa cái này thành cái khác. Thế mà nhờ quyền năng Chúa, vị linh mục phán một lời thì bánh rượu trở nên Mình Thánh Chúa.
Con chưa đủ tin nên con chưa cảm thấy hứng khởi khi tham dự thánh lễ, không cảm thấy khao khát được rước Mình Thánh Chúa, và nhất là không sốt sắng cám ơn Chúa khi Chúa đang ngự trong lòng con qua bí tích Thánh Thể.
Con hăm hở làm việc cật lực cả ngày để kiếm tiền nuôi thân xác. Thế nhưng con thường có cảm giác mất giờ khi đi tham dự thánh lễ. Thời giờ con dành để tôn thờ Chúa và mưu ích cho linh hồn có đáng gì đâu so với thời giờ con lo cho thân xác. Vậy mà con hay so đo tính toán. Rõ ràng con còn yếu kém lòng tin. Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho con. Xin Chúa nâng đỡ tính xác thịt vốn yếu hèn của con. Xin cho con được cảm thấy sự an ủi của Chúa, được hưởng nếm sự bình an khi con có Chúa ở với con nhờ bí tích Thánh Thể.
Xin cho con biết cám ơn Chúa hằng ngày bằng cả ngày sống của con. Nhờ được kết hiệp với Chúa và được hưởng trọn tình yêu của Chúa, xin cho con biết sống hiệp nhất với tha nhân và chia sẻ tình yêu của con chan hòa đến cho mọi người. Amen.
Chỉ một mình Thánh Gioan ghi lại cảnh Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ. Nhưng Gioan không Thứ5Thánh ABC-130
Chỉ một mình Thánh Gioan ghi lại cảnh Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ. Nhưng Gioan không chỉ tường thuật, mà còn chen vào những chi tiết rất có ý nghĩa:
- “Ngài yêu thương họ đến cùng”: đây là hành động biểu lộ tình thương.
- “Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu”: việc này làm có nhiều ý nghĩa sâu sắc.
- “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy”: việc làm này còn có “phần” trong màu nhiệm Vượt Qua của Chúa Giêsu.
- “Nếu Ta là Thầy và là Chúa mà còn rửa chân cho các con, thì…”: đây là cung cách của người làm lớn.
- “Các con cũng phải rửa chân cho nhau”: việc làm này hàm chứa một lệnh truyền.
B. (...nẩy mầm)
1. Ta đã cảm nhận tình thương của Chúa Giêsu. “Ngài vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình…thì đã yêu thương đến cùng”. Cũng giống như một người mẹ sắp đi xa, còn làm gì được cho con cái thì tận dụng thời gian còn lại để làm, như quét căn phòng, vá chiếc áo, để sẵn thuốc uống bên cạnh giường con…và lặp đi lặp lại những lời dặn dò…
2. ”Tuy chúng con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu”: ngay trong hàng ngũ các tông đồ mà còn có kẻ không sạch. Huống chi trong tập thể của chúng ta. Thái độ đối với người không sạch ấy phải thế nào? Chúa Giêsu không dạy lên án, khai trừ; nhưng dạy phải rửa. Dòng nước tẩy rửa thì nhẹ nhàng, ên ái chứ không gay gắt, nặng nề…
3. Khi tay chân giơ, ta làm gì? Tôi không chặt bỏ, nhưng rửa cho sạch. Bởi vì phần dơ đó là chi thể của ta. Cũng thế, ta sẽ không “chặt bỏ” nhưng nhẹ nhàng “rửa sạch” một người sai lỗi trong tập thể của ta nếu ta biết coi họ là tay chân, là chi thể cả ta.
4. Cha Doncoeur, khi giải thích một bức họa nhỏ trong tập thánh vịnh của Chantilly, đã diễn tã rất đúng ý nghĩa của hoạt cảnh này: “Hai tay (của Đức Kitô) đã khéo léo hành sự là lau chân Phêrô với chiếc khăn ở thắt lưng. Ngài đứng hơi nghiêng xuống như một người đầy tớ, vai trò Ngài muốn đóng lấy lúc bấy giờ. Điều quan trọng không phải là rửa chân, nhưng là phục vụ các môn đệ và phá đổ nơi họ cái tâm thức huênh hoang tự phụ vẫn chưa nhường bước chịu thua. Chúng ta hiểu tại sao mắt của họ như nói lên một nỗi bối rối, bởi lẽ trong họ một tấm kịch đang diễn ra” (Le Christ dans l’art francais, I, Paris,Plon, 1939, trang 104). Chúng ta sẽ không thể hiểu được cuộc khổ nạn trong Tin Mừng của Gioan nếu không hình dung ra tấm kịch này và nếu không nhớ tới sự đảo lộn đang diễn ra trong tâm hồn của Gioan cũng như Phêrô, gây nên bởi câu nói của Đức Giêsu: “Nếu Thầy không rửa chân con, thì con không có phần nào với Thầy”. Trong hoạt cảnh Đức Giêsu đã hạ giáng, đã bước xuống chỗ thấp nhất này, tất cả đều trái ngược với ý nghĩ mà xưa nay các ông có về Đấng Messia. Đến nỗi các ông thấy như bị thách đố. Cách đây không lâu, Gioan đã chẳng mưu tính với anh mình là Giacôbê để vận động cho hai người được cái vinh dự là ngồi bên Đức Giêsu trong ngày Ngài được quang vinh hay sao? Thế mà bây giờ Đấng là “Chúa và Thầy” của các ông đang ăn mặc như một nô lệ và đang phục vụ dưới chân các ông! Tệ hơn nữa, Ngài còn lấy đó làm quy luật cho các môn đệ: “Thầy đã nêu gương cho anh em, để theo như Thầy đã làm như thế nào thì anh em cũng làm y như vậy” (13,15). Có lẽ cũng như Phêrô, “sau này” Gioan mới hiểu được điều đó (13,7). Như một bài học đã được ghi khắc bằng những nét giống như lửa vào trong tâm hồn tự cao tự đại này: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga4,8). Để giải cứu con người, Thiên Chúa đã hạ mình đến mức đó. Từ đây tất cả mọi sự đều thay đổi ý nghĩa: tự hạ trở thành “nâng cao”. Bước xuống chỗ thấp nhất là leo lên chỗ cao nhất. Tự huỷ của một tên nô lệ chính là sự siêu tôn Con Người (“Tìm hiểu Tin Mừng theo Thánh Gioan. Trang 177-178).
Bài đọc I: Lễ vượt qua đầu tiên của dân do thái. – Đáp ca: Lời nguyện tạ ơn sau bữa ăn vượt qua Thứ5Thánh ABC-131
– Bài đọc I: Lễ vượt qua đầu tiên của dân do thái. – Đáp ca: Lời nguyện tạ ơn sau bữa ăn vượt qua. – Bài đọc II: Bữa ăn vượt qua của các kitô hữu – Tin Mừng: Tường thuật bữa tiệc vượt qua của Chúa Giêsu với các môn đệ.
*I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến.
Ba ngày Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bảy Tuần Thánh được gọi là Tam Nhật Vượt Qua và là đỉnh cao của năm phụng vụ. Thời gian cao điểm này bắt đầu bằng Thánh lễ chiều hôm nay, nhắc lại việc Chúa Giêsu lập Bí tích Thánh thể và Chức Linh mục. Mỗi lần chúng ta dâng Thánh Lễ là chúng ta hiện tại hóa hy tế Thập giá, nhất là Thánh lễ chiều hôm nay.
Ngày xưa các tông đồ đã vây quanh Chúa Giêsu bên bàn Tiệc ly. Chiều nay chúng ta cũng thế. Chúng ta hãy có cùng một tâm tình, cùng một đức tin và cùng một lòng mến như các tông đồ để dâng Thánh lễ này.
*II. GỢI Ý SÁM HỐI
– Mỗi khi dâng Thánh lễ, chúng ta tuyên xưng rằng “Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết”. Nhưng chúng ta có dâng Thánh lễ với tâm tình của người chứng kiến cái chết đau đớn của Chúa Giêsu không ?
– Mỗi khi dâng Thánh lễ, chúng ta tuyên xưng tiếp rằng “… và tuyên xưng việc Chúa sống lại”. Nhưng chúng ta có thực sự xác tín rằng Chúa đã sống lại và đang sống với chúng ta cách thân thiết trong Thánh Thể không ?
– Mỗi khi dâng Thánh lễ, chúng ta còn tuyên xưng tiếp rằng “… cho tới khi Chúa lại đến”. Nhưng chúng ta có thực sự hợp tác với Chúa để biến đổi thế giới này trong khi chờ đợi ngày Chúa lại đến không ?
*III. LỜI CHÚA
*1. Bài đọc I: Xh 12,1-14
Hàng năm dân do thái vẫn kỷ niệm ngày họ được giải phóng khỏi ách nô lệ ai cập bằng một bữa tiệc gọi là Tiệc Vượt qua. Đoạn sách Xuất hành này ghi lại những quy định tỉ mỉ về việc chọn con chiên vượt qua và về những nghi thức trong bữa ăn đó.
Thánh lễ mà Chúa Giêsu lập làm cho bữa tiệc vượt qua thêm đầy đủ ý nghĩa: chính Chúa Giêsu là Con Chiên vượt qua, cái chết của Ngài đã giải thoát toàn thể nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi.
*2. Đáp ca: Tv 115
Tv này là lời cầu nguyện sau bữa tiệc vượt qua. Tín hữu tạ ơn Thiên Chúa vì những ơn lành đã lãnh nhận.
Lời nguyện tạ ơn này có được trọn vẹn ý nghĩa trong Thánh lễ, vốn được gọi là “Lễ Tạ ơn”.
*3. Tin Mừng: Ga 13,1-5
Trong bữa tiệc vượt qua cuối cùng Chúa Giêsu ăn với các môn đệ, Ngài đã rửa chân cho họ. Việc này có rất nhiều ý nghĩa:
– Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ “đến cùng”, nghĩa là yêu thương cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời trần thế của Ngài, mà cũng là yêu thương đến mức không thể nào yêu thương hơn được nữa: Vì yêu thương Ngài đã hiến mình làm lương thực cho họ ; vì yêu thương, Ngài đã chịu chết cho họ.
– Tình yêu thương phải được biểu lộ ra bằng hành động. Vì thế, Ngài không ngại quỳ xuống trước các môn đệ và rửa chân cho họ như một người đầy tớ quỳ xuống rửa chân cho chủ.
*4. Bài đọc II: 1 Cr 11,23-26
Có nhiều lệch lạc trong cộng đoàn Côrintô trong việc cử hành bữa tiệc vượt qua kitô giáo, tức là Thánh lễ. Thánh Phaolô viết đoạn thư này để nhắc các tín hữu ý nghĩa của Thánh lễ: Thánh lễ vừa là tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu, vừa là hiện tại hóa những ơn ích của cái chết đó. Vì thế ta phải dâng Thánh lễ với tâm tình yêu mến và biết ơn Chúa, đồng thời phải yêu thương đoàn kết với nhau.
*IV. GỢI Ý GIẢNG
*1. Những bài học từ bữa tiệc ly
Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu dạy các môn đệ mình những bài học sâu sắc bằng việc làm và lời nói của Ngài:
– Bằng việc làm: Trước khi hiến thân chịu chết trên thập giá và trước khi hiến mình làm của ăn, Chúa Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. 3 việc làm này liên kết với nhau và đều dạy bài học phục vụ: phục vụ như Người Tôi tớ mà ngày xưa ngôn sứ Isaia đã tiên báo ; phục vụ cách khiêm tốn, phục vụ với tình yêu và phục vụ đến nỗi hy sinh bản thân mình.
– Bằng lời nói: trong bầu khí thân mật của gia đình, Chúa dạy một điều răn mới. Điều răn này mới không phải ở nội dung (“chúng con hãy thương yêu nhau”) mà ở cách thức và mức độ thi hành (hãy yêu hương nhau “như Thầy yêu thương chúng con” ; “Thầy đã làm gương để chúng con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho chúng con”).
Cử hành Lễ Vượt qua với Chúa Giêsu trước hết là chấp nhận để cho Chúa Giêsu phục vụ chúng ta và yêu thương chúng ta. Có như thế chúng ta mới được thực sự rửa sạch, như lời Chúa Giêsu đã nói với Phêrô xưa.
Cử hành lễ Vượt qua với Chúa Giêsu còn là phải noi gương Ngài để trở thành người tôi tớ yêu thương và phục vụ những người khác theo cách của chính Chúa Giêsu.
*2. Hai chiều kích của bữa tiệc ly
Thánh lễ ngày nay là hiện tại hóa bữa tiệc ly đêm thứ năm tuần thánh đầu tiên. Nó có hai ý nghĩa chính:
– Đó là một bữa ăn gia đình: mọi người cùng ngồi một bàn với nhau, cùng ăn những món chung nhau, cho nên phải đoàn kết yêu thương nhau. Đó là chiều ngang. Nhưng nếu chỉ lưu ý tới chiều ngang này thì Thánh lễ hầu như chỉ còn như một bữa giỗ.
– Thánh lễ còn loan báo việc Chúa Giêsu chịu chết và sống lại và hiện tại hóa những ơn sủng dồi dào do việc Chúa Giêsu chết va sống lại ban cho loài người. Đó là chiều đứng.
Khi dâng Thánh lễ chúng ta phải để ý đến cả hai chiều kích ấy và phải có đủ cả hai tâm tình ấy: vừa liên kết với Chúa vừa liên kết với anh em. Sai lầm thường mắc phải là chỉ chú ý đến chiều kích này mà quên đi chiều kích kia.
*3. Rửa chân không phải chỉ là một việc vệ sinh
Phêrô không hiểu ý nghĩa việc Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, nên Chúa Giêsu nói “Việc Thầy làm, bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu”.
Về sau, Phêrô đã hiểu gì ? Thưa hiểu rằng đó không phải chỉ là một việc làm vệ sinh, mà ý nghĩa còn sâu sắc hơn nhiều.
Khi tay chân mình dơ thì mình làm gì ? Chặt bỏ đi ư ? Không, không ai muốn chặt tay chặt chân mình bao giờ cho dù nó dơ bao nhiêu đi nữa. Nó dơ thì mình rửa cho sạch. Bởi vì nó là một phần của thân thể mình, một phần của sự sống mình.
Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, bời vì họ là anh em của Ngài (“Anh em như thể tay chân”). Ngài dạy chúng ta rửa chân cho nhau vì chúng ta cũng là anh em của nhau, tay chân của nhau.
Khi chúng ta chặt bỏ ai thì đó là dấu chúng ta không còn coi người đó là anh em của mình nữa. Chặt bỏ bằng kết án, khai trừ.
Còn nếu chúng ta vẫn còn coi người đó là anh em của mình thì dù người đó dơ bao nhiêu đi nữa, mình sẽ cố gắng rửa cho sạch.
Dòng nước tẩy rửa rất nhẹ nhàng, trong lành, êm ái…
*V. TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha: Mọi người chúng ta là anh em của nhau, Chúa Giêsu là anh cả, và Thiên Chúa là Cha. Trong tâm tình gia đình thân thiết, chúng ta hãy dâng lên Cha chúng ta lời kinh mà chính Chúa Giêsu đã dạy.
– Trước lúc rước lễ: Thánh lễ hôm nay diễn lại đúng nghĩa nhất Thánh lễ đầu tiên của Chúa Giêsu trong đêm Thứ Năm tuần Thánh đầu tiên. Chúng ta hãy rước lễ sốt sắng như các tông đồ ngày xưa.
Hôm nay là ngày Thứ năm Tuần Thánh, ngày Chúa Giêsu ngồi thật gần các môn đệ của Ngài để Thứ5Thánh ABC-132
Hôm nay là ngày Thứ năm Tuần Thánh, ngày Chúa Giêsu ngồi thật gần các môn đệ của Ngài để mừng lễ Vượt Qua cổ xưa của người Do Thái.
Chúng ta tham dự vào bữa tiệc hôm nay để tưởng niệm đến cái chết và sự Phục Sinh của Chúa.
A. Trong Thánh lễ hôm nay, Giáo Hội còn muốn chúng ta nhớ lại giới luật yêu thương mà Chúa Giêsu đã đặc biệt trối lại như một lệnh truyền: ”Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).
Chúa Giêsu đã chẳng có gia sản gì để trối lại cho các môn đệ của Ngài, nhưng Ngài lại để lại cho các môn đệ và những người đi theo Ngài một lời trối đặc biệt này. Đây là giới răn, là lệnh truyền chính Chúa nói ra cũng như đã thực hành trong phòng tiệc ly.
Ngài cũng không quên cho các môn đệ của Ngài biết lý do tại sao Ngài lại để lại cho họ giới răn yêu thương đó. Đó chính là vì Ngài đã yêu thương mọi người trước.
Thiên Chúa yêu thương con người. Đó là một điều hết sức lạ lùng.
Tiếc rằng, ngày hôm nay, nhiều người chưa thấy được điều đó. Thiên Chúa yêu thương con người. Ngài muốn được gần gũi với con người: ”Thầy sẽ ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20)
Phần chúng ta, chúng ta có tin rằng, Thiên Chúa là Đấng thật sự đang yêu thương mỗi một người trong chúng ta hay không? Ngài yêu thương con người một cách sâu sắc và thân mật còn hơn cả tình yêu của bất cứ người mẹ nào yêu thương con mình, hay như bất cứ người tình nào yêu người yêu của mình.
Chỉ khi nào chúng ta xác tín được như thế, thì chúng ta mới có thể đáp trả lại tình yêu Chúa đúng phép.
Khi Chúa Giêsu nói: ”Thầy ban cho anh em một điều răn mới: anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34). Đây không phải là một điều luật được áp đặt lên trên chúng ta từ bên ngoài, nhưng đây là phương thức giúp cho cuộc sống của chúng ta được tốt đẹp hơn, hài hòa hơn.
Thế giới này sẽ tốt đẹp biết bao nếu giới luật này được mọi người đưa ra thực hành. Cuộc sống sẽ hạnh phúc biết bao khi không còn chiến tranh, không còn bạo lực, không còn độc ác, không còn nô lệ. Lúc đó mọi người sẽ được giải thoát khỏi sự hận thù và tranh chấp.
B. Một điểm khác cần được đề cập tới trong ngày Thứ Năm Tuần Thánh hôm nay: Đó là việc Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ. Chỉ có một mình Thánh Gioan ghi lại cảnh này: Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ của Ngài.
Cha Doncoeur đã diễn tả thật khéo sự việc này như sau “Hai tay (của Đức Kitô) đã khéo léo lau khô hai bàn chân của Phêrô với chiếc khăn ở thắt lưng. Ngài đứng hơi nghiêng xuống như một người đầy tớ, vai trò Ngài muốn đóng lấy lúc bấy giờ. Điều quan trọng không phải là rửa chân, nhưng là phục vụ các môn đệ và phá đổ đi cái tâm thức huênh hoang tự phụ đang còn bao trùm lên tâm trí của họ. Chúng ta hiểu tại sao mắt của họ như nói lên một nỗi bối rối, bởi lẽ trong họ một tấm kịch đang diễn ra” (Le Christ dans l’art franҫais, I, Paris, Plon, 1939, trang 104). Chúng ta sẽ không thể hiểu được cuộc khổ nạn trong Tin Mừng của Gioan, nếu không hình dung ra được màn kịch này và nếu không nhớ tới sự đảo lộn, đổi ngôi đang diễn ra trong tâm hồn của Gioan cũng như Phêrô, do một câu nói của Đức Giêsu như một lời cảnh cáo: ”Nếu Thầy không rửa chân con, thì con không có phần nào với Thầy”(Ga 13,8).
Quả thực, Đức Giêsu đã tự hạ, đã bước xuống chỗ thấp nhất. Tất cả đều trái ngược với những ý nghĩ mà xưa nay các ông có về Đấng Messia, đến nỗi các ông ấy cảm thấy như bị thách đố.
Chúng ta còn nhớ cách đây không lâu, Gioan đã chẳng mưu tính với anh mình là Giacôbê để vận động cho hai người ngồi hai bên tả bên hữu Đức Giêsu trong ngày Ngài được quang vinh hay sao? Thế mà bây giờ Đấng là “Chúa và Thầy” của các ông ấy lại ăn mặc như một nô lệ và đang phục vụ dưới chân các ông! Và còn kinh khủng hơn khi Ngài còn coi việc đó như một quy luật và bảo họ phải theo: ”Thầy đã nêu gương cho anh em, để như Thầy đã làm như thế nào thì anh em cũng làm y như vậy” (13,15). Việc làm của Chúa quả thực là khó hiểu. Mãi ”sau này” Gioan mới hiểu được điều đó (13,7), và ông đã phải viết lên “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8).
Vâng! Để giải cứu con người, Thiên Chúa đã hạ mình như thế. Từ đây tất cả mọi sự đều thay đổi ý nghĩa: tự hạ trở thành “nâng cao”. Bước xuống chỗ thấp nhất là leo lên chỗ cao nhất. Tự huỷ của một tên nô lệ chính là sự siêu tôn Con Người.
Đó là con đường Chúa đã đi. Những ai muốn đi theo Ngài không có quyền đi ra khỏi đường đó.
Chiều thứ Năm Tuần Thánh là một buổi chiều của tình yêu. Cả bầu không khí thấm đẫm tình yêu Thứ5Thánh ABC-133
Chiều thứ Năm Tuần Thánh là một buổi chiều của tình yêu. Cả bầu không khí thấm đẫm tình yêu. Từng lời nói, từng cử chỉ của Chúa Giê-su đều trang trọng và đậm đặc sứ điệp tình yêu làm cho phòng Tiệc ly hôm nay thật ấm cúng. Hai cử chỉ nổi bật trong bữa Tiệc ly là việc Chúa Giê-su lập Phép Thánh Thể và rửa chân cho các Môn đệ.
Thánh Gio-an không tường thuật việc lập Phép Thánh Thể, nhưng chỉ tập trung vào việc rửa chân. Việc rửa chân được miêu tả rất tỉ mỉ, rành rọt, từng chi tiết, bằng lời văn trang trọng. Ta hãy đọc lại đoạn tả Chúa Giê-su chuẩn bị rửa chân cho các môn đệ: ”Chúa Giê-su đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Người đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ.”
Chúa Giê-su cử hành việc rửa chân một cách trang trọng như cử hành một bí tích. Vì việc rửa chân bổ túc cho bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể được cử hành trong nhà thờ. Việc rửa chân được thực hiện ngoài cuộc đời. Khi rửa chân cho các môn đệ, Chúa Giê-su có ý dạy ta hãy thực hành đạo không chỉ trong nhà thờ mà còn ngoài xã hội nữa. Bí tích Thánh Thể hướng lòng ta về Chúa. Việc rửa chân hướng lòng ta về con người. Khi rửa chân cho các môn đệ, Chúa Giê-su có ý dạy ta rằng chỉ mến Chúa thôi thì chưa đủ, cần phải yêu người nữa mới trọn vẹn điều răn Chúa truyền. Bí tích Thánh Thể được cử hành trên bàn thờ. Việc rửa chân được cử hành trên con người. Khi rửa chân cho các môn đệ Chúa Giê-su dạy ta rằng con người chính là đền thờ, là bàn thờ của Chúa.
Chúa Giê-su cử hành nghi thức rửa chân một cách trang trọng vì Người kính trọngcon người. Đang ăn, Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài, lấy khăn thắt lưng, đó là cử chỉ của người đầy tớ. Khi chủ đang ngồi ăn, đầy tớ phải đứng phục vụ. Để việc phục vụ được dễ dàng đầy tớ phải cởi bỏ áo ngoài, thắt lưng cho gọn gàng. Hãy xem, Người quỳ gối xuống trước mặt môn đệ. Ai nhìn cảnh tượng này mà không xúc động đến ứa lệ. Thiên Chúa quỳ đối trước mặt con người. Thiên Chúa hạ mình phục vụ con người. Thật là một cảnh tượng mà không trí óc nào có thể tưởng tượng nổi. Thật là một sáng kiến mà không có nhà phát minh nào dám ngờ tới. Chưa hết, khi Phê-rô lên tiếng hỏi, Chúa Giê-su ngẩng mặt lên để trả lời. Một cảnh tượng khiến những tâm hồn kiêu căng phải vỡ ra tan nát. Thiên Chúa phải ngẩng đầu lên mới đối diện được với con người. Thiên chúa hạ mình thẳm sâu để tôn vinh con người. Thiên chúa trân trọng con người, biến con người thành đối tượng phục vụ.
Có thứ phục vụ vì bắt buộc. Có thứ phục vụ vì yêu thương. Chẳng ai có thể bắt buộc Thiên chúa phục vụ con người. Chính tình yêu thương đã thúc đẩy Người làm điều ấy. Hãy nhìn Người nâng niu bàn chân nhân loại. Những bàn chân đã lầm đường lạc lối. Những bàn chân mang đầy thương tích. Những bàn chân cáu bẩn bụi trần. Người âu yếm kỳ cọ cho sạch mọi đau thương. Người nhẹ nhàng tẩy rửa mọi vết nhơ phản bội. Người dịu dàng phủi đi lớp bụi kiêu căng. Người lặng lẽ xoá đi những dấu vết mặc cảm. Người rửa sạch đôi chân để từ nay nhân loại có thể đứng thắng lên. Người uốn nắn đôi chân để từ nay con người biết đi vào đường nay nẻo chính.
Chúa Giê-su không giải thích trước khi rửa chân cho các môn đệ. Làm rồi Người mới nói. Việc làm của Người không chỉ đi đôi mà còn đi trước lời nói. Người muốn dậy tôi hiểu rằng việc làm quan trọng hơn lời nói. Việc phục vụ tự nó đã là một giải thích sâu xa, dễ hiểu và có sức thuyết phục. Chính việc làm minh chứng một tình yêu chân thành tha thiết.
Chiêm ngắm Chúa rửa chân cho các môn đệ, tôi hiểu rằng: Thánh lễ không kết thúc ở nhà thờ mà còn phải tiếp tục trong cuộc sống. Thánh lễ ngoài cuộc đời cũng quan trọng không kém gì thánh lễ trong nhà thờ, nên cũng phải cử hành một cách trang nghiêm kính cần. Lễ vật dâng trên bàn thờ còn thiếu sót nếu tôi chưa dâng trong đền thờ thân xác con người lễ vật yêu mến phục vụ anh em. Cuộc kết hiệp với Chúa trong bí tích Thánh Thể chưa trọn vẹn nếu tôi không kết hiệp với anh em trong tình yêu thương được biểu lộ trong sự phục vụ khiêm nhường. Việc giữ đạo sẽ khập khiễng nếu tôi chỉ tạo được mối liên hệ tốt với Chúa mà không có mối liên hệ tốt với anh em. Tôi sẽ không thực hành ý Chúa nếu tôi chỉ thờ phượng Thiên chúa mà không kính trọng con người. Trân trọng con người, quan tâm phục vụ anh em đó là tất cả ý nghĩa của bài học rửa chân mà chúng ta sắp cử hành theo gương Chúa Giê-su Kitô Thầy Chí Thánh.
Xin được kết thúc bằng một câu truyện có thật do Mẹ Têrêsa Calcutta kể nhân dịp trả lời cho một cuộc phỏng vấn của đài truyền hình.
Ở châu Úc có một người thuộc thổ dân Aborigine sống trong cảnh cô độc thật thảm thương. Ông sống trong một túp lều xiêu vẹo khi tuổi đã già nua. Khởi đầu câu chuyện cho lần gặp đầu tiên, tôi đã đề nghị:
- Để tôi dọn dẹp nhà và sửa soạn giường ngủ cho ông.
Ông ta trả lời hững hờ:
- Tôi đã quen sống như vậy rồi.
- Nhưng ông sẽ cảm thấy dễ chịu hơn với căn nhà sạch sẽ và ngăn nắp.
Sau cùng ông ta bằng lòng để tôi dọn dẹp lại nhà cửa cho ông. Trong khi quét dọn tôi thấy một cái đèn cũ đẹp nhưng phủ đầy bụi bặm và bồ hóng. Tôi hỏi ông:
- Có bao giờ ông thắp đèn này chưa?
Ông ta trả lời cộc lốc:
- Nhưng thắp đèn để cho ai? Có ai bước chân vào nhà này bao giờ đâu? Tôi sống ở đây đã từ lâu không hề trông thấy mặt người nào cả.
Tôi hỏi ông:
- Nếu như có người tình nguyện đến thăm ông thường xuyên, ông có vui lòng thắp đèn lên không?
- Dĩ nhiên.
Từ ngày đó, các nữ tu quyết định mỗi chiều sẽ ghé qua nhà ông. Ông ta bắt đầu thắp đèn và dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ hơn. Ông còn sống thêm hai năm nữa. Trước khi qua đời ông nhờ các nữ tu ghé thăm nhắn tin giúp ông:
- Xin nhắn với mẹ Têrêsa, bạn tôi, rằng ngọn đèn mà mẹ thắp lên trong đời tôi vẫn còn chiếu sáng. Đó chỉ là một việc nhó mọn, nhưng trong bóng tối cô đơn của đời tôi, một tia sáng đã thắp lên và vẫn còn tiếp tục chiếu sáng mãi.
Ngọn đèn cũ không được thắp sẽ trở nên vô dụng và quên lãng nơi một xó xỉnh nào đấy, nhưng khi được châm vào một chút dầu tình yêu và sự bao dung thì nó đem đến sự sáng và sưởi ấm lòng người. Giờ đây, con người dù phải sống cô độc nhưng không còn cô đơn nữa vì bóng tối đã bị đẩy lui và nhường bước cho tình yêu và lòng bao dung của những đốm sáng nhỏ nơi con người, nơi nhân loại.
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã yêu thương đến nỗi quỳ xuống phục vụ. Chúa còn sẵn sàng hi sinh hiến mạng sống cho con, xin cho con biết yêu mến Chúa thành thực, biết phục vụ Chúa trong anh em của con. Amen.
Tin Mừng Thứ Năm Tuần Thánh hôm nay cho chúng ta thấy tình yêu tột đỉnh của Đức Giê-su qua Thứ5Thánh ABC-134
Tin Mừng Thứ Năm Tuần Thánh hôm nay cho chúng ta thấy tình yêu tột đỉnh của Đức Giê-su qua ba sự kiện như sau:
1) Yêu thương là hiến thân phục vụ cho người mình yêu:
Yêu thương bằng lời nói có thể bị coi là yêu bằng đầu môi chót lưỡi. Yêu thương bằng cử chỉ có thể bị coi chỉ là giả hình bề ngoài. Còn khi yêu thương bằng hành động mới chứng tỏ một tình yêu thực sự.
Vì thế, Đức Giê-su không những dạy các môn đệ yêu thương nhau: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”, mà Người còn đòi các ông phải yêu thương bằng hành động cụ thể noi gương Người làm: cởi bỏ chiếc áo cao quý của thân phận Thiên Chúa đế đeo chiếc khăn thấp hèn của người phàm và cúi mình rửa chân hầu hạ các ông.
Rửa chân xong, Người tiếp tục dạy môn đệ bài học phục vụ: “Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”, điều đó phải lắm... Vậy Thầy là “Chúa” là “Thầy” mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau”.
Qua hành động này, Đức Giê-su muốn mỗi tín hữu cũng phải yêu thương bằng hành động rửa chân phục vụ tha nhân. Rửa chân bao gồm những việc như: lắng nghe để cảm thông với nhu cầu của tha nhân, rồi đáp ứng bằng việc chia sẻ cơm áo cho người đói rét, băng bó những vết thương và góp phần chữa lành bệnh nhân liệt giường, an ủi những người đau khổ vì bị áp bức kỳ thị, thăm viếng những cụ già neo đơn bị bỏ rơi trong các nhà dưỡng lão…
2) Yêu thương là muốn hiệp nhất với người mình yêu:
Khi yêu thương người ta không những hy sinh phục vụ nhau, mà còn muốn nên một với nhau như có người đã nói: “Mình với ta tuy hai mà một. Ta với mình tuy một mà hai”. Vì thế, Đức Giê-su đã thiết lập bí tích Thánh Thể, để biến tấm bánh trong bữa ăn thành Thân Mình của Người sắp bị nộp và biến chén rượu trở thành Máu thánh Người sắp đổ ra trong cuộc khổ nạn làm của ăn của uống cho các môn đệ hầu ban sự sống muôn đời cho những ai lãnh nhận: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em” (1 Cr 111,24); vì “Ai ăn thịt và uống máu Thầy, thì sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,5a).
3) Yêu thương là muốn được ở mãi với người mình yêu:
Đức Giê-su đã hứa trước khi lên trời: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế “ (Mt 28,20). Để có thể ở cùng các môn đệ luôn mãi, Đức Giê-su đã thiết lập bí tích truyền chức thánh để trao ban chức linh mục cộng đoàn cho các tín hữu, và chức linh mục thừa tác cho những người được tuyển chọn: “Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (Lc 22,19).
Khi tham dự thánh lễ Tiệc Ly chiều Thứ Năm Tuần Thánh hôm nay, ước gì mỗi tín hữu chúng ta hiểu được bài học khiêm tốn phục vụ qua nghi thức rửa chân và cảm nhận được tình thương tột cùng của Chúa qua bí tích Thánh Thể. Xin cho chúng ta sẵn sàng đáp lại tình Chúa yêu thương bằng sự kết hiệp mật thiết với Chúa khi dự lễ rước lễ, rồi sẵn sàng quên mình để phụng sự Chúa và tha nhân, hầu nên chứng nhân cho Chúa trước mặt người đời (x. Cv 1,8).
Ngày nọ, một đôi vợ chồng bướm tranh cãi nhau. Con nào cũng cho rằng tình yêu của mình nhiều Thứ5Thánh ABC-135
Ngày nọ, một đôi vợ chồng bướm tranh cãi nhau. Con nào cũng cho rằng tình yêu của mình nhiều hơn bạn kia không ai chịu thua ai. Sau cùng để xác định hơn thua, bướm đực đề nghị: “Ngoài vườn có một cây hoa hồng mỗi sáng đều có nở một bông hồng rất đẹp. Vậy sáng mai chúng ta sẽ thi nhau xem: ai sẽ đến ngồi vào trong bông hoa hồng trước, khi nó vừa nở ra sẽ chứng tỏ mình có tình yêu nhiều hơn". Bướm cái gật đầu đồng ý.
Hôm sau, ngay từ sáng sớm bướm đực đã bay đến đứng chờ ngay bên bông hoa sắp nở, chờ khi nó vừa nở ra là chú sẽ chui vào trước bướm cái. Có điều khi sắp tới lúc hoa nở mà vẫn chưa thấy bướm cái xuất hiện. Rồi cuối cùng thì cũng tới lúc hoa nở, chú bướm liền nhanh chân chui vào. Nhưng chú rất ngạc nhiên khi thấy bướm cái đã có mặt trong bông hoa rồi. Có điều khi nhìn kỹ thì chú thấy bướm cái đã bị chết khô. Thì ra để nắm chắc phần thắng, bướm cái đã bay đến cây hoa hồng ngay từ tối hôm trước. Cô bướm đã chui qua kẽ hở vào ngồi trong bông hoa. Cô định sáng sớm hôm sau khi hoa nở và gặp bướm đực cô sẽ chứng tỏ tình yêu cô dành cho chú thật lớn lao. Nhưng chẳng may cô lại bị chết ngạt trong bông hoa khi nó chưa nở!
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy tình yêu của bướm cái dành cho bướm đực thật tuyệt vời. Đối với loài người chúng ta cũng vậy: tình yêu thật cần thiết để chúng ta được sống vui tươi hạnh phúc. Khi có tình yêu người ta sẽ cảm thấy cuộc đời thật đáng sống. Khi tình yêu biến mất thì cuộc sống cũng bị chìm trong nỗi buồn chán cô đơn và tuyệt vọng.
2. Đức Giê-su đã làm gì để chứng tỏ tình yêu tột đỉnh dành cho chúng ta?:
Phụng Vụ Thứ Năm Tuần Thánh hôm nay cũng nhắc nhở mỗi người chúng ta về tình yêu cao cả của Chúa Giê-su dành cho chúng ta. Đức Giê-su đã thể hiện tình yêu tột đỉnh khi sẵn sàng quỳ gối rửa chân hầu hạ môn đệ để dạy các ông bài học khiêm nhường phục vụ; Sẵn sàng trở thành của ăn của uống thiêng liêng nuôi dưỡng đức tin của chúng ta qua việc thiết lập bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly. Còn các tín hữu chúng ta sẽ làm gì để đáp lại tình thương vô biên của Chúa Giê-su, nhất là trong những ngày Tam Nhật Thánh và trong mùa Phục Sinh sắp tới?
3. Lời cầu quyết tâm:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu thương chúng con bằng một tình yêu tột đỉnh, thể hiện qua hành động khiêm tốn rửa chân cho môn đệ và sau đó thiết lập bí tích Thánh Thể để trở thành lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng đức tin của chúng con. Xin gia tăng lòng tin yêu trong chúng con, để chúng con noi gương Chúa quan tâm đến người chung quanh, sẵn sàng phục vụ cộng đoàn, nhất là thăm viếng những người nghèo đói bệnh tật và đau khổ bất hạnh gần bên chúng con, hầu chúng con trở thành dấu chỉ môn đệ đích thực của Chúa.- Amen.
Phụng vụ Thánh lễ Tiệc ly luôn chất chứa nhiều cảm xúc, nỗi niềm và đầy ý nghĩa. Tin Mừng gợi Thứ5Thánh ABC-136
Phụng vụ Thánh lễ Tiệc ly luôn chất chứa nhiều cảm xúc, nỗi niềm và đầy ý nghĩa. Tin Mừng gợi lại cho chúng ta khung cảnh Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ. Hình ảnh và hành động “thầy rửa chân trò” mang một giá trị nhân văn sâu sắc và đậm đà tình nghĩa.
Tin mừng Gioan tường thuật “Người yêu thương họ đến cùng.” Vì yêu thương đến cùng, Chúa Giêsu đã muốn dành khoảnh khắc cuối thiêng liêng này bên các môn đệ thân tín của mình. Ngài ước mong được tâm tư với họ trước những giây phút cuối ở trần gian nay. Ngài đã để lại cho họ lời trăn trối không chỉ bằng lời mà bằng cả hành động của mình
Chúa Giêsu đã tự mình quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ và căn dặn rằng: Hãy làm như Thầy! Cử chỉ “Thầy rửa chân trò” lột tả tận cùng tình yêu thẳm sâu của Chúa Giêsu vì “Người yêu thương họ đến cùng”. Đó là tình yêu gắn liền với sự hạ mình phục vụ và hy sinh.
“Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau… anh em cũng hãy làm như Thầy đã làm cho anh em.”
“Hãy làm như Thầy” chính là lời trăn trối trong đêm cuối cùng mà Chúa Giêsu muốn để lại cho các môn đệ. Và hôm nay, Chúa Giêsu cũng đang nói với ta điều đó: Hãy làm như Thầy!
Hãy làm như Thầy là biết quan tâm phục vụ tha nhân không phải chỉ về phần xác mà còn về cả phần hồn.
Hãy làm như Thầy là không chỉ biết sống cho mình nhưng phải biết sống cho lợi ích chung của cộng đồng về cả phương diện vật chất lẫn đời sống thiêng liêng.
Hãy làm như Thầy là sống chứng nhân tình yêu của Chúa Giêsu và trở nên khí cụ cho tình yêu đó không chỉ bằng lời nói mà bằng cả đời sống của mình.
Hãy làm như Thầy là không chỉ tìm cách bảo vệ các giá trị và nâng đỡ nhau sống đúng với tư cách làm người, mà quan trọng hơn, phải sống xứng đáng là con Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đang nói với mỗi chúng ta hôm nay: Hãy làm như Thầy!
Tuổi trẻ tài cao, già lão kinh nghiệm, tri thức, bình dân, đều có một điểm chung, thích: tốt gỗ Thứ5Thánh ABC-137
Tuổi trẻ tài cao, già lão kinh nghiệm, tri thức, bình dân, đều có một điểm chung, thích: tốt gỗ hơn tốt nước sơn, chất lượng hơn số lượng, thực tế hơn trừu tượng. Tâm lý tự nhiên ai cũng sợ phải sống trong cô đơn, vĩnh viễn chia tay người thân thương, phải tủi buồn vì cảnh: rượu ngon thiếu bạn hiền. Cho dù ta vẫn tỉnh táo với quan điểm: hiểu mình, hiểu bạn, rồi sau đó hãy mở kho tàng của mình ra. Cụ thể hơn một chút, giai đoạn khó khăn nhất không phải là không ai hiểu ta, đúng hơn là lúc ta không hiểu được mình, mâu thuẫn với chính mình ! Tự tạo cho mình hạnh phúc đã là khó, mấy ai anh hùng đến độ lo giúp người khác để rồi quên cả tương lai của gia đình ? Đâu phải ai cũng thoải mái để rồi nuối tiếc: công anh bắt tép nuôi cò, cò ăn cò béo cò dò lên cây !
Hành động yêu thương hết sức bất ngờ giữa tình Thầy – trò, các ông no say tiệc rượu, các ông được tham dự bàn tiệc Mình và Máu Đấng là Thầy là Chúa ! Chưa hết, các ông còn ngạc nhiên việc chuyện Thầy rửa chân trong bữa tiệc ? “Thầy mà lại rửa chân cho con ư ? Thầy ân cần nói: nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ chẳng được dự phần với Thầy”. Rửa sạch chân tay, rửa sạch tâm hồn, rửa sạch những ham hố, lệch lạc, biến đổi các ông trở nên môn đệ, liên đới, với tình yêu Đấng đã đến thế gian. Ở đời vẫn nói rằng: chỉ một chút nắng hiu hiu, sao gọi là mùa hạ ? chút tình bé nhỏ liệu thuyết phục được ai ? Vâng, Thầy Giêsu không sử dụng quyền lực, không vu vơ la hét, không kêu cầu quyền trợ giúp từ trên cao, Thầy lấy tình yêu thương vâng phục, khiêm tốn cúi xuống rửa chân cho các học trò.
Hãy rửa chân cho nhau, ví như bác sĩ không thể tự chữa bệnh cho mình, một cây làm chẳng nên non, mỗi người rất cần đến tình đệ huynh giúp nhau hoàn thiện mình. Hãy rửa chân cho nhau, vì chỉ những người bạn thân thiết, mới là bạn tốt, và họ sẽ không bao giờ im lặng, đứng đó nhìn người thân của họ làm điều dại dột một mình. Khi rửa chân cho các học trò, Đức Giêsu đã nói: “việc Thầy làm bây giờ các con không hiểu, nhưng sau sẽ hiểu”. Chính nhờ được trải nghiệm mà chúng ta biết: cha mẹ được sánh ví như của cải, anh chị em là chỗ dựa, bạn bè thân thiết thì có cả hai thứ đó. Hãy rửa chân cho nhau, hãy yêu như Thầy yêu, chân tay dơ bẩn thì phải rửa mới sạch, dù sạch nhưng bụi thời gian có thể lại làm bẩn, và bẩn thì phải giúp nhau rửa sạch. Tạ ơn Chúa, cám ơn Thầy Giêsu, nếu không có những người bạn tốt, ai sẽ chỉ cho tôi biết: mình còn nhiều “hư hèn”, còn nhiều hạn chế ?
Hãy rửa chân cho nhau, lời nhắc nhớ ấy không hề xưa tí nào: mọi thứ rồi sẽ qua đi, chỉ có tình người ở lại, đôi khi đủ mọi thứ bên cạnh vẫn không hết cô đơn, nhưng chỉ cần có bạn thân thiết ở bên là thấy khí thế, là gặp lại sự sống. “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy”. Đúng, nếu không hiệp thông với Thầy, nếu tâm hồn không sạch đẹp, làm sao được dự bàn tiệc thiên quốc với Thầy ? Rửa chân vừa cho thấy sạch đẹp, vừa ẩn chứa một hành động bác ái cần thiết, trước phong ba bão táp ở đời. Rửa chân vừa là nghĩa vụ, vừa là quyền lợi sống hiệp hành với Đại gia đình hội thánh, gia đình có Chúa Kitô dẫn dắt. Rửa chân cho nhau, còn là hiện tượng tâm lý dẫn tới cuộc sống thật ý nghĩa: quan tâm đến người khác, dám lên tiếng bênh vực vì người khác, không ngần ngại chia sẻ, cảm thông, trước nỗi đau của người khác.
Hãy rửa chân cho nhau, sẽ còn là lệnh truyền, khi mỗi người đang hiệp thông trong đức tin và đức ái với Thầy Giêsu. “Ta là Thầy, là Chúa, mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau”. Rửa chân cho nhau, đâu phải là cầm gáo nước, vòi nước, mà xịt rửa, rửa chân cho nhau đâu phải chỉ là hình thức bề ngoài, chính xác là mỗi người đang khiêm tốn sống giáo huấn: như Thầy đã yêu. Rửa chân cho nhau, nhất định không phải chỉ là lập lại một kỷ niệm, một yêu cầu của bậc đáng kính, mà là đang sống một sự tự do yêu mến cậy trông: không hứa bậy nên mình không phụ ai, không tin bậy nên không ai phụ mình. Rửa chân cho nhau có phải là đang trân trọng, gìn giữ một tình thầy trò, một tình bạn, một tình hiệp thông yêu thương, đầy tràn tín thác ? Người bạn tốt thì khó tìm, rời bỏ bạn tốt càng khó, và có ai lại quên bạn tốt bao giờ ? Xin tình yêu Thầy Giêsu hiện diện mãi trong tương quan tình người, tình bạn, tình thầy trò, tình Chúa yêu thương. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thánh Lễ Thứ Năm Tuần Thánh này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta Thứ5Thánh ABC-138
Qua Lời Tổng Nguyện của Thánh Lễ Thứ Năm Tuần Thánh này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Trong Bữa Tiệc Ly trọng đại, trước ngày tự hiến thân chịu khổ hình, Ðức Giêsu đã trối cho Hội Thánh một hy lễ mới: muôn đời tồn tại, làm bằng chứng tình thương của Người. Chiều nay, chúng ta đến tham dự yến tiệc cực thánh, như lời Người truyền dạy, xin Chúa cho tất cả chúng ta được đầy tràn tình yêu và sức sống viên mãn của Người.
Bằng chứng tình thương mà Đức Giêsu đã để lại cho chúng ta là bài học vâng lời Chúa Cha cho đến cùng. Trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thư gửi tín hữu Hípri cho thấy: Dầu là Con Thiên Chúa, Đức Kitô đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục, và Người đã trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người. Khi còn sống kiếp phàm nhân, Người đã lớn tiếng dâng lời nguyện xin và đã được nhậm lời, vì Người đã tôn kính Thiên Chúa.
Bằng chứng tình thương mà Đức Giêsu đã để lại cho chúng ta là hình ảnh Con Chiên chịu sát tế để cứu chúng ta khỏi chết và đưa chúng ta đến sự sống đời đời. Trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, Đức Cha Mêliton đã nói: Chính Người là con chiên không kêu một tiếng, là con chiên bị giết, sinh ra từ chiên mẹ xinh đẹp là Đức Maria. Người là con chiên được lấy ra trong bầy để mang đi giết, bị sát tế vào buổi chiều, rồi ban đêm được mai táng. Trên thập giá, Người không bị đánh giập ống chân; dưới lòng đất, Người không bị tiêu tan. Người đã trỗi dậy từ trong kẻ chết và làm cho con người trong mồ sâu sống lại.
Bằng chứng tình thương mà Đức Giêsu đã để lại cho chúng ta là Tiệc Vượt Qua. Trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Xuất Hành đã ghi nhận lại những chỉ thị về Bữa Ăn Vượt Qua với lệnh truyền: Các ngươi phải lấy ngày đó làm ngày tưởng niệm, ngày đại lễ mừng Đức Chúa. Qua mọi thế hệ, các ngươi phải mừng ngày lễ này: đó là luật quy định cho đến muôn đời. Trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Phaolô cũng nhắc nhở: Mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 115, vịnh gia đã cho thấy: Khi nâng chén chúc tụng, ta được dự phần vào Máu Đức Kitô. Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ, vì mọi ơn lành Người đã ban cho? Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ, và kêu cầu thánh danh Đức Chúa.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em. Trong bài Tin Mừng, thánh Gioan đã cho thấy: Bài học yêu thương và phục vụ mà Đức Giêsu để lại cho các môn đệ của mình, qua trình thuật Rửa Chân. Thánh Gioan cố tình dùng chỉ 6 động từ (con số 6 là con số chưa trọn vẹn), để nhắc nhớ rằng: Thầy là Thầy, là Chúa, mà Thầy còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau, phải yêu thương phục vụ lẫn nhau, như Thầy đã nêu gương cho anh em, nhưng, gương yêu thương của Thầy chỉ được hoàn tất vào cuối bữa ăn này, với hành động thứ 7: là trao hiến chính Thịt Thầy, Máu Thầy cho anh em, và anh em phải làm việc này mà nhớ đến Thầy. Nhớ đến Thầy không phải là gợi nhớ về một nhân vật lịch sử, nhưng, chính là hiện thân hóa, để trở nên giống như Thầy: đổ máu mình ra để yêu thương và phục vụ. Ước gì khi chiêm ngắm biến cố Đức Giêsu rửa chân cho các môn đệ, chúng ta hãy để cho mình thật lắng đọng, chìm vào trong từng cử chỉ yêu thương của Chúa, và nhất là, với quyết tâm thực hành cho bằng được hành động cuối cùng của Chúa, là dám đổ máu mình ra để yêu thương và phục vụ như Chúa, hầu ơn cứu độ của Chúa được tỏa lan đến khắp mọi người và khắp mọi nơi. Ước gì được như thế!
Thánh Gioan tường thuật Biến Cố Rửa Chân với 6 động từ: Đức Giêsu (1) chỗi dậy, (2) cởi áo ra Thứ5Thánh ABC-139
Thánh Gioan tường thuật Biến Cố Rửa Chân với 6 động từ: Đức Giêsu (1) chỗi dậy, (2) cởi áo ra, và (3) lấy khăn thắt lưng, (4) đổ nước vào chậu, (5) rửa chân cho các môn đệ, và (6) lấy khăn mà lau. Tin Mừng Gioan được viết theo một cấu trúc chặt chẽ. Các từ ngữ, các con số được lựa chọn kỹ càng và đều có chủ đích riêng. Trong trình thuật Rửa Chân, thánh sử cố tình: chỉ dùng 6 động từ mà thôi. Con số 6 là con số chưa trọn vẹn, mang nghĩa tiêu cực. Con số 7 mới là con số trọn vẹn, thuộc về Chúa. Tại sao thánh Gioan chỉ dùng 6 động từ để tường thuật một biến cố có thể nói là trọng đại, bởi vì, đây chính là lời trăn trối của Đức Giêsu dành cho các môn đệ của mình?
Sáu động từ trong trình thuật Rửa Chân của Đức Giêsu, gợi nhớ 6 chum đá được dùng vào việc thanh tẩy của người Dothái trong trình thuật dấu lạ Biến Nước Thành Rượu. Ở tiệc cưới Cana, có nhắc đến chú rể, nhưng không nói gì đến cô dâu, và Đức Giêsu đã trả lời cho Mẹ của Người: Giờ của Con chưa đến. Giờ của Người là Giờ: cử hành Hôn Lễ Chiên Thiên Chúa, trên đồi Canvê, trong biến cố Thập Giá, ở nơi đó, Đức Giêsu chính là tân lang, còn hiền thê chính là Hội Thánh, mà Mẹ của Người là đại diện. Giờ: mà Đức Giêsu sẽ đổ máu mình ra, Giờ: mà rượu của Giao Ước Mới sẽ được “múc ra” để cứu độ muôn người.
Trong trình thuật Rửa Chân của Đức Giêsu, thánh Gioan cố tình dùng chỉ 6 động từ để nhắc nhớ rằng: Thầy là Thầy, là Chúa, mà Thầy còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau, phải yêu thương phục vụ lẫn nhau, như Thầy đã nêu gương cho anh em, nhưng, gương yêu thương của Thầy chỉ được hoàn tất vào cuối bữa ăn này, với hành động thứ 7: là trao hiến chính Thịt Thầy, Máu Thầy cho anh em, và anh em phải làm việc này mà nhớ đến Thầy. Nhớ đến Thầy không phải là gợi nhớ về một nhân vật lịch sử, nhưng, chính là hiện thân hóa, để trở nên giống như Thầy: đổ máu mình ra để yêu thương và phục vụ.
Bài học yêu thương, phục vụ mà Đức Giêsu để lại cho các môn đệ, không chỉ dừng lại ở việc đổ nước vào chậu rửa chân, mà phải đi đến tận cùng là: đổ máu mình ra kết hợp với hy tế của Chúa để tẩy rửa tội lỗi muôn người. Có tình thương, ắt sẽ có phục vụ, nhưng, phục vụ, chưa chắc có yêu thương: phục vụ để được tiếng khen, được vui vẻ, được quý mến. Đôi bàn tay đưa ra phục vụ phải có những giọt mồ hôi của đôi bàn tay chắp lại để cầu nguyện, phải có những cục chai sạn của hy sinh, bỏ mình, và phải có cả những vết tích của cuộc thương khó Đức Giêsu, khi đó, chúng ta mới trở nên đồng hình đồng dạng với Thầy Chí Thánh trong yêu thương và phục vụ.
Muốn phục vụ, chúng ta (1) phải đứng dậy rời bỏ chỗ ngồi vinh dự, nơi bàn ăn, mà chúng ta đang hưởng thụ, đang được phục vụ, (2) phải cởi bỏ chiếc áo đính đầy những quyến luyến, tham vọng của thế gian, (3) phải thắt đai lưng của người đầy tớ, (4) phải đổ con người cao ngạo vào trong chiếc chậu tình yêu, (5) phải hạ mình xuống thấp để rửa và (6) lau chân cho chủ, và cuối cùng, (7) phải đổ máu ra trong tình yêu hiến tế: tự hủy, xóa mình hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa. Nước trong 6 chum đá của Lề Luật sẽ vẫn mãi mãi là nước, chỉ khi được “múc ra” đem cho chủ tiệc, lúc bấy giờ, nó mới trở thành rượu ngon, chúng ta cũng phải “trút cạn” con người mình trong hy tế của Đức Kitô, chúng ta mới được cùng với Người trở thành rượu của Giao Ước Mới mang ơn cứu độ đến cho muôn người.
Khi chiêm ngắm biến cố Đức Giêsu rửa chân cho các môn đệ, chúng ta hãy để cho mình thật lắng đọng: chìm vào trong từng cử chỉ yêu thương của Chúa. Ước gì chúng ta quyết tâm thực hành cho bằng được hành động cuối cùng của Chúa trong Bữa Tiệc Ly: là dám đổ máu mình ra như Chúa, để tình yêu và ân sủng của Chúa sẽ tràn lan đến khắp mọi người và khắp mọi nơi. Ước gì được như thế!