Suy Niệm Tin Mừng Thứ 6 Tuần Thánh ABC Bài 1-50 Chúa Giêsu đã chết vì yêu chúng ta

Thứ hai - 26/03/2018 10:59
Suy Niệm Tin Mừng Thứ 6 Tuần Thánh ABC Bài 1-50 Chúa Giêsu đã chết vì yêu chúng ta
Suy Niệm Tin Mừng Thứ 6 Tuần Thánh ABC Bài 1-50 Chúa Giêsu đã chết vì yêu chúng ta
Suy Niệm Tin Mừng Thứ 6 Tuần Thánh ABC Bài 1-50 Chúa Giêsu đã chết vì yêu chúng ta
(Suy niệm Tin Mừng ở sau Bài Thương Khó)

----------------------------------
Bài Thương Khó ABC

Phúc Âm: Ga 18,1-19,42 "Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".

C: Người đọc Chung, Thánh Sử;
S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn.
J: Chúa Giêsu


C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi với môn đệ sang qua suối Xêrông, ở đó có một khu vườn, Người vào đó cùng với các môn đệ. Giuđa, tên phản bội, đã biết rõ nơi đó, vì Chúa Giêsu thường đến đấy với các môn đệ. Nên Giuđa dẫn tới một toán quân cùng với vệ binh do các thượng tế và biệt phái cấp cho, nó đến đây với đèn đuốc và khí giới. Chúa Giêsu đã biết mọi sự sẽ xảy đến cho Mình, nên Người tiến ra và hỏi chúng:
J. "Các ngươi tìm ai ?"
C. Chúng thưa lại:
S. "Giêsu Nadarét".
C. Chúa Giêsu bảo: "Ta đây".
C. Giuđa là kẻ định nộp Người cũng đứng đó với bọn chúng. Nhưng khi Người vừa nói "Ta đây", bọn chúng giật lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi chúng:
J. "Các ngươi tìm ai ?"
C. Chúng thưa:
S. "Giêsu Nadarét".
C. Chúa Giêsu đáp lại: "Ta đã bảo các ngươi rằng Ta đây ! Vậy nếu các ngươi tìm bắt Ta, thì hãy để cho những người này đi".
C. Như thế là trọn lời đã nói: "Con chẳng để mất người nào trong những kẻ Cha đã trao phó cho Con". Bấy giờ Simon Phêrô có sẵn thanh gươm, liền rút ra đánh tên đầy tớ vị thượng tế, chém đứt tai bên phải. Ðầy tớ ấy tên là Mancô. Nhưng Chúa Giêsu bảo Phêrô rằng:
J. "Hãy xỏ gươm vào bao. Chén Cha Ta đã trao lẽ nào Ta không uống !"
C. Bấy giờ, toán quân, trưởng toán và vệ binh của người Do-thái bắt Chúa Giêsu trói lại, và điệu Người đến nhà ông Anna trước, vì ông là nhạc phụ của Caipha đương làm thượng tế năm ấy. Chính Caipha là người đã giúp ý kiến này cho người Do-thái: để một người chết thay cho cả dân thì lợi hơn. Còn Phêrô và môn đệ kia vẫn theo Chúa Giêsu. Môn đệ sau này quen vị thượng tế nên cùng với Chúa Giêsu vào trong sân vị thượng tế, còn Phêrô đứng lại ngoài cửa. Vì thế, môn đệ kia là người quen với vị thượng tế, nên đi ra nói với người giữ cửa và dẫn Phêrô vào. Cô nữ tì gác cửa liền bảo Phêrô:
S. "Có phải ông cũng là môn đệ của người đó không ?"
C. Ông đáp:
S. "Tôi không phải đâu".
C. Ðám thủ hạ và vệ binh có nhóm một đống lửa và đứng đó mà sưởi vì trời lạnh, Phêrô cũng đứng sưởi với họ. Vị thượng tế hỏi Chúa Giêsu về môn đệ và giáo lý của Người. Chúa Giêsu đáp:
J. "Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ, Tôi thường giảng dạy tại hội đường và trong đền thờ, nơi mà các người Do-thái thường tụ họp, Tôi không nói chi thầm lén cả. Tại sao ông lại hỏi Tôi ? Ông cứ hỏi những người đã nghe Tôi về những điều Tôi đã giảng dạy. Họ đã quá rõ điều Tôi nói".
C. Nghe vậy, một tên vệ binh đứng đó vả mặt Chúa Giêsu mà nói:
S. "Anh trả lời vị thượng tế như thế ư".
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Nếu Ta nói sai, hãy chứng minh điều sai đó; mà nếu Ta nói phải, thì tại sao anh lại đánh Ta ?"
C. Rồi Anna cho giải Người vẫn bị trói đến cùng vị thượng tế Caipha. Lúc ấy Phêrô đang đứng sưởi. Họ bảo ông:
S. "Có phải ông cũng là môn đệ người đó không ?"
C. Ông chối và nói:
S. "Tôi không phải đâu".
C. Một tên thủ hạ của vị thượng tế, có họ với người bị Phêrô chém đứt tai, cãi lại rằng:
S. "Tôi đã chẳng thấy ông ở trong vườn cùng với người đó sao ?"
C. Phêrô lại chối nữa, và ngay lúc đó gà liền gáy.
Bấy giờ họ điệu Chúa Giêsu từ nhà Caipha đến pháp đình. Lúc đó tảng sáng và họ không vào pháp đình để khỏi bị nhơ bẩn và để có thể ăn Lễ Vượt Qua. Lúc ấy Philatô ra ngoài để gặp họ và nói:
S. "Các ngươi tố cáo người này về điều gì".
C. Họ đáp:
S. "Nếu hắn không phải là tay gian ác, chúng tôi đã không nộp cho quan".
C. Philatô bảo họ:
S. "Các ông cứ bắt và xét xử theo luật của các ông".
C. Nhưng người Do-thái đáp lại:
S. "Chúng tôi chẳng có quyền giết ai cả".
C. Thế mới ứng nghiệm lời Chúa Giêsu đã nói trước: Người sẽ phải chết cách nào. Bấy giờ Philatô trở vào pháp đình gọi Chúa Giêsu đến mà hỏi:
S. "Ông có phải là Vua dân Do-thái không ?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi ?"
C. Philatô đáp:
S. "Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì ?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng nước tôi không thuộc chốn này".
C. Philatô hỏi lại:
S. "Vậy ông là Vua ư ?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Quan nói đúng: Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng tôi".
C. Philatô bảo Người:
S. "Chân lý là cái gì ?"
C. Nói lời này xong, ông lại ra gặp người Do-thái và bảo họ:
S. "Ta không thấy nơi người này có lý do để khép án. Nhưng theo tục lệ các ngươi, ta sẽ phóng thích cho các ngươi một tù nhân vào dịp Lễ Vượt Qua. Vậy các ngươi có muốn ta phóng thích Vua Do-thái cho các ngươi chăng ?"
C. Họ liền la lên:
S. "Không phải tên đó, nhưng là Baraba".
C. Baraba là một tên cướp. Bấy giờ Philatô truyền đem Chúa Giêsu đi mà đánh đòn Người. Binh sĩ kết một triều thiên bằng gai nhọn đội lên đầu Người và nói:
S. "Tâu Vua Do-thái !"
C. Và vả mặt Người. Philatô lại ra ngoài và nói:
S. "Ðây ta cho dẫn người ấy ra ngoài cho các ngươi để các ngươi biết rằng ta không thấy nơi người ấy một lý do để kết án".
C. Bấy giờ Chúa Giêsu đi ra, đội mão gai và khoác áo đỏ. Philatô bảo họ:
S. "Này là Người".
C. Vừa thấy Người, các thượng tế và vệ binh liền la to:
S. "Ðóng đinh nó vào thập giá ! Ðóng đinh nó vào thập giá !"
C. Philatô bảo họ:
S. "Ðấy các ngươi cứ bắt và đóng đinh ông vào thập giá, phần ta, ta không thấy lý do nào kết tội ông".
C. Người Do-thái đáp lại:
S. "Chúng tôi đã có luật, và theo luật đó nó phải chết, vì nó tự xưng là Con Thiên Chúa".
C. Nghe lời đó Philatô càng hoảng sợ hơn. Ông trở vào pháp đình và nói với Chúa Giêsu:
S. "Ông ở đâu đến ?"
C. Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại câu nào. Bấy giờ Philatô bảo Người:
S. "Ông không nói với ta ư ? Ông không biết rằng ta có quyền đóng đinh ông vào thập giá và cũng có quyền tha
ông sao ?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Quan chẳng có quyền gì trên tôi, nếu từ trên không ban xuống cho, vì thế nên kẻ nộp tôi cho quan, mắc tội nặng hơn".
C. Từ lúc đó Philatô tìm cách tha Người. Nhưng người Do-thái la lên:
S. "Nếu quan tha cho nó, quan không phải là trung thần của Xêsa, vì ai xưng mình là vua, kẻ đó chống lại Xêsa".
C. Philatô vừa nghe lời đó, liền cho điệu Chúa Giêsu ra ngoài rồi ông lên ngồi toà xử, nơi gọi là Nền đá, tiếng Do-thái gọi là Gabbatha. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu ngày chuẩn bị Lễ Vượt Qua. Philatô bảo dân:
S. "Ðây là vua các ngươi".
C. Nhưng họ càng la to:
S. "Giết đi ! Giết đi ! Ðóng đinh nó đi !"
C. Philatô nói:
S. "Ta đóng đinh vua các ngươi ư ?"
C. Các thượng tế đáp:
S. "Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Xêsa".
C. Bấy giờ quan giao Người cho họ đem đóng đinh. Vậy họ điệu Chúa Giêsu đi. Và chính Người vác thập giá đến nơi kia gọi là Núi Sọ, tiếng Do-thái gọi là Golgotha. Ở đó họ đóng đinh Người trên thập giá cùng với hai người khác nữa: mỗi người một bên, còn Chúa Giêsu thì ở giữa. Philatô cũng viết một tấm bảng và sai đóng trên thập giá. Bảng mang những hàng chữ này: "Giêsu, Nadarét, vua dân Do-thái". Nhiều người Do-thái đọc được bảng đó, vì nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh thì gần thành phố, mà bảng viết thì bằng tiếng Do-thái, Hy-lạp và La-tinh. Vì thế các thượng tế đến thưa với Philatô:
S. Xin đừng viết "Vua dân Do Thái", nhưng nên viết: "Người này đã nói: 'Ta là vua dân Do-thái'".
C. Philatô đáp:
S. "Ðiều ta đã viết là đã viết".
C. Khi quân lính đã đóng đinh Chúa Giêsu trên thập giá rồi thì họ lấy áo Người chia làm bốn phần cho mỗi người một phần, còn cái áo dài là áo không có đường khâu, đan liền từ trên xuống dưới. Họ bảo nhau:
S. "Chúng ta đừng xé áo này, nhưng hãy rút thăm xem ai được thì lấy".
C. Hầu ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Chúng đã chia nhau các áo Ta và đã rút thăm áo dài của Ta". Chính quân lính đã làm điều đó. Ðứng gần thập giá Chúa Giêsu, lúc đó có Mẹ Người, cùng với chị Mẹ Người là Maria, vợ ông Clopas và Maria Mađalêna. Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng:
J. "Hỡi Bà, này là con Bà".
C. Rồi Người lại nói với môn đệ:
J. "Này là Mẹ con".
C. Và từ giờ đó môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình. Sau đó, vì biết rằng mọi sự đã hoàn tất, để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm, Chúa Giêsu nói:
J. "Ta khát !"
C. Ở đó có một bình đầy dấm. Họ liền lấy miếng bông biển thấm đầy dấm cắm vào đầu ngành cây hương thảo đưa lên miệng Người. Khi đã nếm dấm rồi, Chúa Giêsu nói:
J. "Mọi sự đã hoàn tất".
C. Và Người gục đầu xuống trút hơi thở cuối cùng.

(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)

Hôm đó là ngày chuẩn bị lễ: để tội nhân khỏi treo trên thập giá trong ngày Sabbat, vì ngày Sabbat là ngày đại lễ, nên người Do-thái xin Philatô cho đánh dập ống chân tội nhân và cho cất xác xuống. Quân lính đến đánh dập ống chân của người thứ nhất và người thứ hai cùng chịu treo trên thập giá với Người. Nhưng lúc họ đến gần Chúa Giêsu, họ thấy Người đã chết, nên không đánh dập ống chân Người nữa, tuy nhiên một tên lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người; tức thì máu cùng nước chảy ra. Kẻ đã xem thấy thì đã minh chứng, mà lời chứng của người đó chân thật, và người đó biết rằng mình nói thật để cho các người cũng tin nữa. Những sự việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Người ta sẽ không đánh dập một cái xương nào của Người". Lời Kinh Thánh khác rằng: "Họ sẽ nhìn xem Ðấng họ đã đâm thâu qua".
Sau đó, Giuse người xứ Arimathia, môn đệ Chúa Giêsu, nhưng thầm kín vì sợ người Do-thái, xin Philatô cho phép cất xác Chúa Giêsu. Philatô cho phép. Và ông đến cất xác Chúa Giêsu. Nicôđêmô cũng đến, ông là người trước kia đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Ông đem theo chừng một trăm cân mộc dược trộn lẫn với trầm hương. Họ lấy xác Chúa Giêsu và lấy khăn bọc lại cùng với thuốc thơm theo tục khâm liệm người Do-thái. Ở nơi Chúa chịu đóng đinh có cái vườn và trong vườn có một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai. Vì là ngày chuẩn bị lễ của người Do-thái và ngôi mộ lại rất gần, nên họ đã mai táng Chúa Giêsu trong mộ đó.

-----------------------
Tuầnthánh 6-1: TÔN KÍNH THÁNH GIÁ, TƯỞNG NIỆM ĐỨC GIÊSU.. 2
Tuầnthánh 6-2: Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT.. 5
Tuầnthánh 6-3: ĐỨC KITÔ CHỊU ĐÓNG ĐINH VÀ CHỊU CHẾT.. 7
Tuầnthánh 6-4: Xin Cha Tha cho họ vì họ lầm không biết việc họ làm.. 12
Tuầnthánh 6-5:  CHẾT THAY - Lm. Ignatio Trần Ngà. 18
Tuầnthánh 6-6: LẼ NÀO ... - Lm Ignatio Trần Ngà. 20
Tuầnthánh 6-7: CÁI CHẾT BUỔI TRƯA THỨ SÁU.. 23
Tuầnthánh 6-8: THÁNH GIÁ CHÚA KITÔ - Lm Fx Nguyễn Hùng Oánh. 25
Tuầnthánh 6-9: THINH LẶNG CỦA THẬP  GIÁ  -  ASTY/98: 30
Tuầnthánh 6-10: Tư cách cao cả của Đức Giê-su. 32
Tuầnthánh 6-11: LỜI TRĂN TRỐI CUỐI CÙNG CỦA CHÚA GIÊSU.. 33
Tuầnthánh 6-12: CS/48- PHẢN TRẮC.. 36
Tuầnthánh 6-13: CS/51- NGƯỜI CHIẾN SĨ 38
Tuầnthánh 6-14: CSTM/90- CÁC NHÂN VẬT.. 40
Tuầnthánh 6-15: SCĐ/ 154- TÂM TRẠNG CỦA BARABA.. 41
Tuầnthánh 6-16: PHÊRÔ VÀ GIUĐA - Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 43
Tuầnthánh 6-17: LỐI BUỒN TUYỆT VỌNG - Lm Giuse Hoàng Kim Toan. 46
Tuầnthánh 6-18: Sự phản bội của Ađam - Suy niệm Thứ Sáu Tuần Thánh. 48
Tuầnthánh 6-19: PHÊRÔ HỐI CẢI (Mt 14, 66-72) 49
Tuầnthánh 6-20: TÔN KÍNH THÁNH GIÁ.. 51
Tuầnthánh 6-21: CUỘC VƯỢT QUA CỦA ĐỨC GIÊ-SU.. 56
Tuầnthánh 6-22: CUỘC KHỔ NẠN CỦA CHÚA GIÊ-SU.. 58
Tuầnthánh 6-23: HƠN Ý NGHĨA ẤN GIẤU TRONG CUỘC KHỔ NHẠN.. 60
Tuầnthánh 6-24: LIÊN ĐỚI TRONG ĐAU KHỔ.. 63
Tuầnthánh 6-25: Trong tay Ngài Con Xin Phó Thác Hồn Con. 66
Tuầnthánh 6-26: THỨ SÁU – Cha Xái 68
Tuầnthánh 6-27: Ông Giuđa bán Chúa – Đức Cha GB. Bùi Tuần. 69
Tuầnthánh 6-28: Suy tôn Thánh Giá. 72
Tuầnthánh 6-29: Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. 74
Tuầnthánh 6-30: TÌNH MẾN TUYỆT ĐỐI 76
Tuầnthánh 6-31: CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA CHÚA GIÊSU.. 78
Tuầnthánh 6-32: Cái chết đem lại ơn cứu độ. 79
Tuầnthánh 6-33: Tôn kính Thánh Giá, Tưởng niệm Đức Giêsu chịu chết 81
Tuầnthánh 6-34: CÙNG CHẾT VỚI CHÚA GIÊSU.. 86
Tuầnthánh 6-35: Bài Suy Niệm của ĐTC Gioan Phaolô II 88
Tuầnthánh 6-36: Bài giảng trên núi... Sọ. 90
Tuầnthánh 6-37: MẦU NHIỆM THẬP GIÁ.. 94
Tuầnthánh 6-38: THỨ SÁU TUẤN THÁNH.. 96
Tuầnthánh 6-39: GIỜ CỦA CHÚA GIÊ SU.. 97
Tuầnthánh 6-40: BẢN TIN ĐƯỢC LOAN TRUYỀN.. 99
Tuầnthánh 6-41: THỨ SÁU TUẦN THÁNH.. 100
Tuầnthánh 6-42: THỨ SÁU TUẦN THÁNH.. 101
Tuầnthánh 6-43: NICÔĐÊMÔ VÀ GIÔXÊP. 103
Tuầnthánh 6-44: Mầu Nhiệm Thập Giá) 106
Tuầnthánh 6-45: BẢY DI NGÔN TRÊN THÁNH GIÁ.. 108
Tuầnthánh 6-46: CHẾT VÌ YÊU.. 113
Tuầnthánh 6-47: THẾ LÀ ĐÃ HOÀN TẤT.. 115
Tuầnthánh 6-48: BA CÁCH ĐÓN NHẬN CÁI CHẾT KHÁC NHAU.. 117
Tuầnthánh 6-49: ĐỔ GIỌT MÁU CÙNG NƯỚC CUỐI CÙNG.. 119
Tuầnthánh 6-50: CHÚA ĐÃ CHẾT VÌ TÔI 121

-----------------------

 

Tuầnthánh 6-1: TÔN KÍNH THÁNH GIÁ, TƯỞNG NIỆM ĐỨC GIÊSU


 CHỊU CHẾT

GỢI Ý GIẢNG

. Những lời cuối cùng

 

Có thể căn cứ vào những lời nói cuối cùng của một người sắp chết mà biết được người đó như: Tuầnthánh 6-1


Có thể căn cứ vào những lời nói cuối cùng của một người sắp chết mà biết được người đó như thế nào, bởi vì trước khi chết người ta chỉ nói những gì mình tha thiết nhất, chỉ nói những lời xuất phát từ tận đáy lòng. Nếu đúng như vậy, chúng ta hãy tìm hiểu những lời cuối cùng của Đức Giêsu trước lúc tắt hơi trên Thập Giá, chúng ta sẽ hiểu rõ con người của Đức Giêsu hơn.

Triết gia Sénèque nói về tâm lý của những người bị xử tử như sau: thường là họ chửi rủa: chửi rủa những kẻ đang giết mình, chửi rủa những kẻ đứng xem, có người còn nguyền rủa thân phận xấu số của mình, nguyền rủa ngày mình sinh ra, nguyền rủa chính người mẹ đã sinh ra mình. Bởi thế, như văn hoài Cicéron cho biết thêm, trong những cuộc xử tử ở đế quốc Lamã, khi thấy tên tử tội nào hung dữ, người ta cắt lưỡi hắn trước, để khỏi phải nghe tiếng chửi rủa. Và trong cuộc xử tử chiều thứ sáu tuần thánh ấy, chúng ta cũng đã thấy có một tên trộm bị đóng đinh chung với Đức Giêsu đã chửi rủa lung tung, chửi cả Đức Gtêsu là người chẳng thù oán gì với hắn.

Chiều hôm đó, có lẽ mọi người cũng đang chờ nghe những lời chửi rủa của Đức Giêsu: những tên lý hình chờ, vì họ là những người đang trực tiếp hành hình Ngài:  các Tư tế và biệt phái chờ, vì họ là những kẻ đầu xỏ vận động kết án xử tử Ngài; dân chúng đứng phía dưới thập giá chờ vì họ đoán rằng Ngài rất tức giận họ bởi họ đã từng chịu ơn rất nhiều của Ngài mà bây giờ quay ra chống lại Ngài. Tất cả mọi người đều chờ, họ sẵn sàng nghe chửi rủa. Họ tin. chắc rằng cái tên Giêsu ấy, cái người đã từng rao giảng rằng: Hãy thương yêu kẻ thù... Hãy làm ơn cho kẻ ghen ghét mình”  giờ đây sắp nói khùng, sẽ quên hết những giáo huấn Tin mừng kia mà thay vào đó bằng những lời chửi rủa thậm tệ.

 Thế nhưng khi Đức Giêsu lên tiếng, thì ai nấy đều ngạc nhiên sửng sờ. Không phải những lời chửi rủa, mà là những câu dịu dàng. Câu thứ nhất: "Lạy Cha, xin Cha tha cho họ; câu thứ hai “Tôi hứa thật với anh, ngay hôm nay anh sẽ được lên nơi vui vẻ cùng tôi"; và câu nói thứ ba: “Thưa Bà này là con Bà".

Ngoài giọng điệu dịu dàng và nội dung chan chứa lời yêu thương của những câu nói đó, chúng ta hãy còn chú ý đến thứ tự của chúng: Câu thứ nhất "Lạy Cha...” là nói đến những kẻ thù ghét Ngài; câu thứ hai "Ngay hôm nay...” là nói với người tội lỗi, tên trộm bên cạnh Ngài; câu thứ ba: "Thưa Bà...” là nói với Đức Mẹ, một người thánh thiện nghĩa là: cho đến phút sắp chết, tình thương  của Đức Giêsu vẫn bao la, và còn bao la hơn bao giờ hết. Tình thương đó dành cho ai? Trước hết là cho kẻ thù, kế đến cho người tội lỗi, và thứ ba là cho kẻ thánh thiện. Con người là đức Giêsu là như thế là do căn cứ vào những lời nói cuối cùng của Ngài trước lúc chết. 

A/ Hôm nay chúng ta đã thấy Đức Giêsu trong khi chết đã tỏ lòng yêu thương trước nhất không phải là đối với Mẹ Ngài, cũng không phải là đối với các môn đệ của Ngài, mà là những kẻ thù ghét Ngài. Vậy chúng ta hãy cố gắng noi gương Chúa. Hãy tha thứ cho nhau và hãy sống hoà thuận lại với nhau.

B/ Hạng người thứ hai được Đức Giêsu yêu thương nhớ đến trong lúc hấp hối là những người tội lỗi: Chúa không bao giờ ghét người tội lỗi, không bao giờ ruồng bỏ người tội lỗi, nhưng Chúa rất thương người tội lỗi. Nếu biết rằng chính chúng ta là những người tội lỗi thì chúng ta phải cảm động biết bao. Và nếu có ai đó khi nào ngã lòng vì cho rằng tội mình quá nặng hay tội mình quá nhiều, thì người ấy hãy nhớ lại tấm lòng của Đức Giêsu trong những phút giây trước khi Ngài chết.
C/ Còn nếu chúng ta cho rằng mình thánh thiện, hoặc có thiện chí muốn trở thành thánh thiện, thì chúng ta hãy cố gắng bắt chước gương thánh thiện của Chúa chúng ta, là hãy hết lòng yêu thương những kẻ thù ghét mình và cũng hết lòng yêu thương những người tội lỗi.

2. Tâm trạng của Baraba.

Bài tường thuật cuộc thụ nạn của Đức Giêsu tuy đã dài mà vẫn chưa đủ, vì chưa mô tả tâm trạng của những người tham dự vào cuộc xử án Đức Giêsu. Và bây giờ chúng ta hãy đi vào tâm trạng của một trong những người đó, Baraba.

Sáng Thứ Sáu, Baraba đang ngồi trong tù thì cửa tù mở ra, viên cai ngục bước vào gọi Baraba đi ra. Baraba giật mình sợ hãi vì tin chắc người ta sẽ dẫn mình đi xử tử. Hắn là một tên cướp của giết người mà tử hình là điều chắc. Nhưng người ta không dẫn hắn ra pháp trường, mà lại đến dinh Philatô, ở đó đã có sẵn một người tù khác đang bị trói, thân thể tả tơi vì bị tra tấn. Philatô ra lệnh đưa cả hai ra trước công chúng và hỏi: Trong hai người này: Một là Giêsu, hai là Baraba, các người muốn ta tha ai? Baraba cảm thấy nhẹ nhỏm; thì ra người ta dẫn hắn đi không phải để giết mà để hỏi ý dân có muốn tha cho hắn không? Tuy nhiên chỉ nhẹ nhỏm trong phút chốc thôi, Baraba lại lo sợ: thế nào dân chúng cũng đòi tha người kia đồng thời đòi giết hắn: tội hắn quá rõ và quá lớn mà: Thế nhưng Baraba không tin vào tai mình khi nghe dân gào ta: Hãy tha cho Baraba và đóng đinh Giêsu.

Đến khi Philatô hỏi lại lần thứ hai và dân chúng lại kêu gào lần thư hai y như lần trước thì Baraba mới tin đó là sự thật. Người ta mở trói hắn và dẫn Giêsu đi. Hắn bước xuống đi về phía đám dân, tưởng rằng người ta sẽ chào đón hoan hô hắn, vì người ta đã thương hắn và xin tha cho hắn mà. Nhưng lạ thay chẳng ai còn quan tâm tới hắn nữa, người ta vẫn còn mãi mê gào thét đòi giết Giêsu.

Khi đó hắn hiểu ra mình không phải dân chúng yêu thương gì hắn, mà chỉ vì dân chúng đang thù ghét Giêsu. Baraba đi theo đám đông áp tải Giêsu đi đến pháp trường. Giêsu là ai vậy? Chắc là một tên tội phạm còn hung ác hơn hắn nhiều nên mới bị thù ghét như vậy. Khi người ta đã đóng đinh Giêsu xong trên lên thập giá, hắn mới có dịp nhìn kỹ khuôn mặt của người đã chết thay cho mình: chẳng có gì là hung ác, chẳng một lời nguyền rủa những kẻ hành hạ mình. Hai bên Giêsu, Baraba nhận ra mặt của hai tên đã từng ở tù chung với hắn. Tương truyền tên của hai người này Dicma và Ghetta. Ghetta thì luôn mồm chửi rủa, chửi lý hình, chửi dân chúng và chửi luôn Giêsu. Nhưng Giêsu cũng vẫn im lặng. Còn dicma thì nói với đồng nghiệp: Mình bị như vậy là đáng tội rồi, còn ông này có làm chi nên tội đâu. Baraba hiểu thêm ý chi tiết nữa: Giêsu là người vô tội bị kết án oan. Dicma lại quay sang Giêsu và nói: “Thưa Ngài, khi Ngài lên trời, xin cho tôi được đi theo”. Và Giêsu đáp: “Tôi hứa với anh ngay hôm nay anh sẽ lên thiên đàng với tôi.

Vậy nghĩa là Giêsu lại cứu thêm một người nữa, không phải chỉ một mình Baraba mà cả tên Dicma đầu trộm đuôi cướp kia. Baraba còn đang suy nghĩ về lòng nhân ái của Giêsu thìn nghe Giêsu kêu lớn: “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ”. Baraba lại càng ngạc nhiên hơn nữa: Giêsu chẳng những cứu hắn, cứu Dicma, mà còn muốn cứu tất cả những người đã lớn tiếng gào thét giết Ngài. Rồi Giêsu lại kêu lớn: “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha”. Và Ngài gục đầu tắt thở. Bấy giờ tên đại đội trưởng lên tiếng: “Đúng thật người này là Con Thiên Chúa”. Baraba thầm nghĩ: “Đúng vậy, chỉ có Con Thiên Chúa mới có được một tấm lòng như vậy”. Baraba rời đồi Golgotha, vừa đi vừa tiếp tục suy nghĩ. Tương truyền rằng kể từ đó Baraba hoán cải, không còn trộm cướp nữa mà trở nên một người lương thiện.

 Chúng ta có thể đoán rằng, trong dòng suy tư của mình, Baraba đã suy nghĩ rất nhiều về Luật:

-Trước hết là luật công bình: theo Luật này thì cả hắn, cả Dicma và Ghetta nữa đều phải bị xừ tử vì cả 3 đều là những tên cướp của giết người. Nhưng hôm nay Luật này đã không được thực hiện.

-Kế đến là Luật rừng, luật bị thúc đây bởi lòng thù ghét muốn loại bỏ người mình không ưa. Đức Giêsu đã bị xử tử vì thứ luật rừng.

-Nhưng khám phá lớn nhất của Baraba là Luật tình thương. Luật Giêsu đã thực hiện: do luật tình thương này mà Đức Giêsu cam lòng chịu chết nhưng cũng nhờ luật này mà Baraba được thả, Dicma được lên thiên đàng và những kẻ thù của Đức Giêsu được tha thứ. Luật tình thương này đã mở mắt mở lòng viên đại đội trưởng và hoán cải tâm hồn Baraba.

 Tối thứ Năm trước khi bước vào cuộc thụ nạn, Đức  Giêsu đã nói với các môn đệ Thầy ban cho chúng con  một điều luật mới, là chúng con hãy thương yêu nhau.  Không có tình thương nào cao cả cho bằng tình của người  dám thí mạng sống vì người mình thương. Và Đức Giêsu là người đầu tiên thực hiện điều luật đó. Không nên sống theo Luật rừng, không chỉ bằng lòng sống theo luật công bình, mà người môn đệ Chúa còn phải biết sống theo luật tình thương.

Chúng ta là môn đệ của Đức Giêsu. Chúng ta phải noi gương Ngài sống luật tình thương.

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-2: Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT


Ga 18,1-19,42

 

Như thế là những thượng tế, biệt phái và luật sĩ đã thành công theo cái nhìn trần tục của họ: họ Tuầnthánh 6-2


Như thế là những thượng tế, biệt phái và luật sĩ đã thành công theo cái nhìn trần tục của họ: họ đã đóng đinh được Chúa Giêsu .Vâng, những thượng tế và ngay cả nhiều người Do Thái lúc đó đã mở cờ trong bụng, đã ăn mừng, vì Giêsu, người ta gọi là ĐẤNG CỨU THẾ đã chết ! Nếu nhiều người thời đó và ngay cả ngày nay đã có những suy nghĩ, đã có cái nhìn về Chúa Giêsu như thế: Họ đã lầm, hay nói cách nôm na hơn, họ đã u tối thật sự, vì cái chết của Chúa Giêsu theo ý Chúa Cha, đã làm cho Ngài được vinh quang, chiến thắng. Chết mới nói lên lời. Chết mới mở ra sự sống mới. Bản án của Chúa Giêsu, mà dân chúng thời đó bị mua chuộc, bị xúi giục la ó: đóng đinh Chúa vào thập giá vẫn muôn đời còn đó và bản án cho người công chính vô tội mà Philatô tuy biết vì ghen ghét, họ đã trao nộp Chúa Giêsu cho Ông sẽ đời đời hằn sâu trên mặt Philatô vì Ông đã hèn nhát, thiếu bản lãnh để nói, ít nhất là một câu cho Chúa Giêsu: Người vô tội .

1 . Hạng người đã không gặp Chúa: Đám đông người qua đường . Những người qua đường,đám đông đã không thông cảm với Chúa Giêsu, họ đã hoàn toàn xấu xa, nhẫn tâm, chửi rủa, mắng nhiếc Chúa Giêsu, muôn đời họ đã không gặp được Chúa.

2. Hạng người không gặp được Chúa:Bọn lính. Những người thi hành lệnh của cấp trên, nếu xét về lý họ không có tội, nhưng họ đã hùa theo, không cảm thông với Chúa Giêsu, họ đã đánh đập, mắng nhiếc Chúa. Họ quả thực dã tâm đã không thương tiếc Chúa dù rằng họ chả có quyền gì. Họ đáng tội, vì hùa theo, mà thách thức làm nhục Chúa Giêsu.

3. Hạng người không gặp được Chúa:Trưởng tế, Biệt Phái, Luật Sĩ . Chính họ đã ganh ghét Chúa Giêsu , luôn rình rập để bắt bẻ và kén án Chúa Giêsu. Họ đắc chí vì đã mua chuộc được Giuđa phản bội, bán Chúa Giêsu 30 đồng bạc. Họ qúa dã man và ác tâm .

4. Hạng người không gặp được Chúa: tên trộm dữ. Tin mừng cho thấy rõ tội của y tầy trời, nhưng y đã tỏ ra nhỏ nhen vào hùa với người khác để mắng nhiếc,nói lời lộng ngôn và thách thức Chúa Giêsu.

5. Hạng người đã gặp được Chúa: người trộm lành. Người trộm lành chấp nhận tội lỗi của mình và nhận bản án của mình là đúng, đồng thời bênh vực Chúa Giêsu là người vô tội và chê trách tên trộm dữ là lộng ngôn, vô phép không biết điều. Người trộm dữ đã được Chúa thương cứu độ, phong thánh và cho vào nước Chúa ngay vào lúc ông nại tới tấm lòng thương xót của Chúa Giêsu ."Lạy Ngài khi nào Ngài về nước Ngài xin nhớ đến tôi với". Người trộm lành đã gặp được Chúa vì ông có lòng thương người .Chính lòng thương người đã giúp ông nhận ra Chúa trong khi biết bao người đã hùa theo, la ó đòi đóng đinh Chúa vào thập giá. không một ai dám lên tiếng bênh vực Chúa Giêsu vộ tội, ngay cả các môn đệ cũng thế.

Đối diện với bản án của Chúa Giêsu và đi hết cuộc hành trình thập giá tiến về núi sọ.Ta thuộc hạng người nào ? 

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-3: ĐỨC KITÔ CHỊU ĐÓNG ĐINH VÀ CHỊU CHẾT

 

Huyền nhiệm ngày thứ Sáu Tuần thánh (ngày Đức Giêsu chết) khủng khiếp đến độ phải thấy run: Tuầnthánh 6-3


Huyền nhiệm ngày thứ Sáu Tuần thánh (ngày Đức Giêsu chết) khủng khiếp đến độ phải thấy run sợ khi công bố Lời Chúa mà chính Lời thì lại im lặng

Tuy nhiên ta có thể để mình được hướng dẫn bởi những bản văn Kinh thánh được đọc trong Phụng vụ cử hành cuộc khổ nạn.

-Hai đoạn đầu trích sách ngôn sứ Isaia:

“Đức Chúa là Chúa thượng
đã cho tôi nói năng như một người môn đệ
để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai đã kiệt sức
Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi
Để tôi lắng tai nghe như một ngườiì môn đệ
Đức Chúa là Chúa thượng đã mở tai tôi
Còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui
Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn
Giơ má cho người ta giật râu
Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ
Có Đức Chúa là Chúa thượng phù trợ tôi
Vì thế, tôi đã không hổ thẹn
Vì thế, tôi trơ mặt ra như đá
Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng (Is 50, 4-7)

Isaia đang nói về một nhân vật huyền nhiệm, người tôi tớ của Giavê, chấp nhận những đau đớn và bách hại bằng cách tín thác nơi Chúa. Một người tôi tớ báo trước những dấu chỉ và biến cố trong cuộc khổ nạn của Đức Giêsu.

Ông còn nói tiếp:

“Người bị đời khinh khi ruồng rẫy
phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật
Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn
Bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới Sự thật,
Chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta,
đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta,
Còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt
Bị Thiên Chúa giáng họa, phải nhục nhã ê chề
Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội
Bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm
Người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an,
Đã phải mang thương tích để chúng ta được chữa lành. (Is 53, 3-5)

Những lời trên đánh động, làm ta hốt hoảng và khẳng định: bằng cách nào mà một vị sứ giả bị ruồng bỏ lại có thể cứu vớt nhân loại. Chúng là chìa khóa giải thích cuộc sống của Đức Giêsu và đạt đến cường độ tối đa trong cái chết của Đức Kitô.

Những lời đó giúp chúng ta nắm được ý nghĩa của ngọn lửa Thập giá, chiều kích nội tâm của cuộc khổ nạn. Đức Giêsu là Người tôi tớ huyền nhiệm của Đức Chúa tự hiến mình cho định mệnh chịu đau khổ và chịu chết vì niềm vâng phục trọn vẹn.

Như chúng ta đọc trong trình thuật Tin mừng theo thánh Mathêu, Đức Kitô đã chịu đau khổ là Đấng cầu nguyện với Chúa Cha và phó thác nơi Ngài. Phó thác sâu sắc này của Đức Giêsu được lộ ra trong một vài tình huống và ngang qua một vài tiếng của Tin mừng, đã được các bài đọc trích sách các ngôn sứ minh họa.

Người tôi tớ đau khổ phó thác nơi Chúa Cha không chỉ là một dấu hiệu ngời sáng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, nhưng còn trở thành người đại diện cho con người trước mặt Thiên Chúa, con người chịu đau khổ vì thảm kịch của tội lỗi lại mở ra cho những người khác con đường quay trở về với Thiên Chúa.

Người tôi tớ của Giavê xuất hiện liên đới với toàn thể dân tộc, ông mang trên mình mọi tội lỗi, kéo người ta vào cùng một con đường tình yêu đau khổ và đền tội.

-Dọc theo trình thuật về cuộc khổ nạn của Đức Giêsu, rút ra từ Tin mừng theo thánh Mathêu, phải đọc toàn bộ trình thuật này với nhiều chú tâm, tôi chỉ nhấn mạnh ở đây phần cuối:

"Đức Giêsu lại kêu lên 1 tiếng lớn, rồi trút linh hồn. Và kìa, bức màn trướng trong Đền thờ bị xé ra làm hai từ trên xuống dưới, đất rung đá vỡ. Mồ mả bật tung và xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được chỗi dậy. Sau khi Chúa chỗi dậy, các Ngài ra khỏi mồ, vào thành thánh, và hiện ra với nhiều người. Thấy động đất và các sự việc xảy ra, viên đại đội trưởng và những người cùng ông canh giữ Đức Giêsu đều rất đỗi sợ hãi và nói: "Quả thực ông này là Con Thiên Chúa”(Mt. 27,50-54)

Bức màn trong Đền thờ bị xé ra, đất rung chuyển, đá vỡ ra, các hầm mộ mở ra đều là biểu tượng cho cuộc đảo lộn vĩ đại trong vũ trụ và cho cuộc chiến kinh khủng giữa sức mạnh của sự thiện và sức mạnh của điều ác, giữa sự sống và cái chết, được ghi dấu bằng những điều dữ cá nhân, xã hội và trong vũ trụ liên tiếp xảy ra. Đến một điểm nào đó mọi sự được đúc kết lại nơi cuộc khổ nạn của Đức Giêsu. Ngài bị nhạo báng, chế giễu, lăng nhục, đánh đập, đòn vọt. Bởi vì Ngài muốn sống mối âu lo của nhân loại, sự cô độc của con người. Ngài muốn mang trên mình những bạo lực, độc ác, bất công, dối trá, nói xấu xảy ra trong thế giới. Ngài cũng muốn sống sự bỏ rơi của Chúa Cha như sự đau đớn nhất của con người để đền bù tội lỗi. Chính tình yêu của Ngài đối với chúng ta dẫn đưa Ngài đến ranh giới sự sầu não của con người để cứu chuộc nó trong chính bản thân Ngài và đưa con người quay về lòng yêu mến Chúa Cha.

Chính vì điều đó Ngài đã chết bằng cách làm dừng lại cái chết, trở thành sự chiến thắng của tình yêu Thiên Chúa nếu muốn nói như thế.

Ta thử đắm mình trong tâm trạng của viên đại đội trưởng đứng trước cuộc đảo lộn vũ trụ sau cái chết của Đức Giêsu và chứng kiến thái độ nhân từ và dịu hiền của Đức Giêsu trong cái chết đã thốt lân: "Quả thực, người này là Con Thiên Chúa". Đây là lời tuyên xưng đức tin đầu tiên trước thập giá. Một cuộc tuyên xưng kỳ lạ nếu ta nghĩ nó xuất phát từ một người có trách nhiệm chính thức dẫn Chúa đến cái ehết.

Như người lính của thời đó, chúng ta thấy chính mình liên lụy với cái chết và đồi Canvê của Đức Giêsu. Chính chúng ta là những người chủ chốt chứ không phải chỉ là khán giả của biến cố này.

Như viên đại đội trưởng, ta cảm thấy mình không ở trong những điều kiện tương xứng để hiểu sự việc xảy ra.

Có lẽ một cách hầu như lơ đãng, lúc đầu viên đại đội trưởng tham dự vào một chuỗi các biến cố chỉ vì mệnh lệnh chính thức mà ông lãnh nhận.

Chắc ông ta ngạc nhiên khi nghe đám đông la lên: "Xin tha Baraba" Ông ghi nhận sự chọn lựa phi lý này: một bên là một con người dáng vẻ thanh thản hầu như một bậc đế vương vừa bị kết án, và bên kia một con người mà đối với viên đại đội trưởng vốn đã quá quen với hạng người như thế, rõ ràng là một tên bất lương; tuy vậy lại được người ta thả tự do.

Tất cả những điều đó làm ông ta phải suy nghĩ. Kế đó, trong cuộc khổ hình. Ông chứng kiến những cách đối xử xấu xa mà những tên lính giáng xuống trên Đức Giêsu và có lẽ quen với chuyện nhìn thấy những điều độc ác tương tự, nên ông ta đã không hiểu được bao nhiêu. Nhưng có lẽ sự nhẫn nại của Đức Giêsu đã bắt đâu xâm nhập cõi lòng ông ta.

Lần lượt cây thập giá được Đức Giêsu rồi ông Simon vác tiến bước về nơi đóng đinh, thì có một điều gì đó đã xảy ra nơi tâm hồn của người lính chứng kiến.

Đến lúc nào đó, ông bắt đâu chăm chú nhìn Đức Giêsu theo một cung cách mới và ngỡ ngàng để đạt đến trực giác về sự vĩ đại huyền nhiệm của người bị kết án này.

Tự nền tảng, con đường của ông ta cũng là con đường của chúng ta chiêm ngắm Đấng chịu đóng đinh. Những người không hoàn toàn dự phần vào đời sống Giáo hội, đến từ bến bờ xa xôi, họ cũng mượn con đường này theo cung cách của viên sĩ quan ngoại giáo.

Ngày thứ Sáu Tuần thánh dành cho hết mọi người ở trong thế giới này, ngay cả những người Kitô hữu chúng ta cũng phải trải qua lại con đường chiêm ngưỡng thập giá, đôi mắt nhìn Đức Giêsu. Bởi vì mỗi người trong chúng ta có thể làm chín mùi trong tâm hồn lời thốt lên đó như thể đó là lần đầu tiên: Lạy Đức Giêsu, Ngài là Con Thiên Chúa!

Như viên sĩ quan, ta nhìn gương mặt Đức Giêsu và thấy những người qua lại lắc đầu và không tin Ngài là Thiên Chúa.

Một số lớn những người đương thời trong chúng ta đi ngang qua cách lẹ làng, không dừng lại trước mặt Ngài.

Có lẽ họ có những dấn thân khác, những mục đích khác để đạt tới và biến cố "Giêsu" ở bên lề đối với họ. Đối với một vài người, Tuần thánh và lễ Vượt qua chỉ đơn thuần là những ngày tháng trên quyển lịch làm người ta nghĩ đến mùa xuân, kỳ nghỉ và những ngày lễ.

Có lẽ ngay cả trong chúng ta cũng có những điều hời hợt như vậy. Chúng ta khám phá ra chúng ta là những người qua đường hối hả trước Đức Giêsu chịu chết. Chắc hẳn chúng ta mang trong mình những tư tưởng, khát vọng, ràng buộc, những mối lưu tâm nằm ở ngoài ơn cứu độ được ban cho chúng ta.

Tuy nhiên Đức Giêsu mời gọi chúng ta dừng lại và nhìn Đấng chịu đóng đinh, làm như viên sĩ quan không đi vượt quá, nhưng dừng lại chăm chú nhìn Ngài, đặt mình trước mặt Ngài và trong thời điểm như thế, làm cho mình có khả năng sống ngày thứ sáu Tuần thánh vĩ đại ấy. Người lính của thời đại ấy cuối cùng đã hiểu được những biến cố xảy ra chung quanh Đức Giêsu - bóng tối, động đất - như liên kết với vẻ uy nghi cao cả của Đấng chịu chết với Tình yêu và vì tình yêu.

Viên đại đội trưởng ngoại giáo đã nhận ra tình yêu này vượt ngoài những sự kiện phi thường chỉ làm ông ta khiếp sợ.

Ông ta chỉ còn sững sờ trước Đấng chịu đóng đinh vàđpán ra huyền nhiệm tình yêu của con người này sắp đương đâu với cái chết mà không bao giờ có một người nào khác đương đầu như thế.

Ông đoán ra điều đó nhờ vào nhiều sự kiện nho nhỏ: cách Đức Giêsu đón nhận những lời lăng mạ, những cử chỉ ngắn gọn và cách ra dấu hiệu khi người ta đưa cho Ngài miếng bọt biển thấm dấm chua, lời cầu nguyện than thở và thánh thiện của Ngài với Chúa Cha, tiếng kêu quyền năng mà qua dó Ngài đi vào cõi chết.

Huyền nhiệm tình yêu mà con người Đức Giêsu mặc khải ngang qua nhịp đập của trái tim Ngài trên thập giá thực sự quá vĩ đại, để bất cứ ai có can đảm dừng lại một lúc thinh lặng đối diện với Ngài, mà lại không cảm thấy mình có liên lụy trong sâu thắm con người của mình.

Bấy giờ ta nghĩ mình là ai điều đó không quan trọng. Chỉ có một điều đáng kể là ta nhìn xem mầu nhiệm cao cả của Đấng chịu đóng đinh.

Viên sĩ quan trở thành biểu tượng cho chân lý của người tín hữu: khi hướng tầm nhìn về Đức Giêsu chịu đóng đinh, những cái khác bị rối bời, chẳng còn gì đáng kể và chỉ còn lại một mình với Đấng cứu độ tất cả chúng ta.

Sứ điệp của Đức Giêsu chịu đóng đinh rất rõ ràng. Thiên Chúa là Đấng có thể hủy diệt điều dữ bằng cách tiêu diệt tất cả những kẻ xấu xa, nhưng lại chấp nhận đi vào điều dữ thong thân xác Người Con của Ngài là Đức Giêsu, Đấng công bố tin tha thứ và hoán cải, chịu đựng những hậu quả của sự dữ trên chính bản thân mình để cứu chuộc trong thân xác bị đóng đinh của mình. Đây chính là luật của Thập giá, là nguyên lý mà theo đó sự dữ không bị khử trừ nhưng được biến đổi thành điều thiện nhờ vào sức mạnh sự chết của Đức Kitô chẳng han.

Thập giá trở thành luật tối thượng của tình yêu và người nào muốn dự phần vào con đường tái sinh được Đức Giêsu khởi đầu, họ phải đi vào trong sự dữ của thế giới để rút ra từ đó điều thiện của đức tin, của niềm hy vọng và của đức ái, của tình yêu đối với kẻ thù. Luật của Thập giá thực tuyệt vời, nó có hiệu năng tối thượng trên lãnh vực tinh thần và có thể áp dụng cho mọi lịch sử con người. Đó là huyền nhiệm vương quốc của Thiên Chúa, huyền nhiệm của Tin mừng. Đây không phải là luật chấp nhận được đối với trí khôn đơn sơ tự nhiên của con người. Người ta không thể chứng minh được điều đó nếu không có sự trợ giúp của Đức Giêsu. Trí khôn tự nhiên con người chối từ nó, không hiểu nổi bao lâu nó chưa được nhìn bằng đức tin.

Tuy nhiên Chúa chịu đóng đinh là trung tâm thu hút đối với mọi người nam nữ ở tràn gian này, trung tâm thu hút đối với lịch sử, trung tâm thu hút đối với mọi tôn giáo trên thế giới. Tất cả mọi tôn giáo tìm thấy nơi Thập giá điểm đến, kỳ hạn của mình, mục đích của mọi sự ủy nhiệm tạm thời có thể xảy ra, bởi vì mọi sự đạt đến đỉnh cao nhất nơi sự uy nghi phổ quát và vĩnh cửu của Đức Giêsu Kitô, nơi giao ước của Thiên Chúa với nhân loại mãi mãi.

Nơi cõi lòng của Đấng chịu đóng đinh tất cả những gì là "không" có thể trở thành "tiếng vâng", và từ sự bội phản nảy sinh tình bằng hữu, từ việc chối từ nảy sinh ơn tha thứ, từ sự ghen ghét nảy sinh tình yêu, từ dối trá nảy sinh chân lý . Đây chính là sức mạnh của Đức Giêsu trong và ngang qua thập giá.

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-4: Xin Cha Tha cho họ vì họ lầm không biết việc họ làm


 - Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh

 

Tại sao dân chúng vừa nghênh đón Chúa Giêsu sau đó lại trở mặt truất phế Người? Nếu Mùa Chay: Tuầnthánh 6-4


Tại sao dân chúng vừa nghênh đón Chúa Giêsu sau đó lại trở mặt truất phế Người?
Nếu Mùa Chay, bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro, kéo dài 40 ngày, thì ngày thứ 40, tức ngày cuối cùng của Mùa Chay hôm nay đây là Chúa Nhật Lễ Lá. Tuy nhiên, ngày cuối cùng của Mùa Chay này cũng lại là ngày mở đầu của một Tuần Thánh, được gọi là Ngày Chúa Nhật Thương Khó. Bởi thế, theo Phụng Vụ, Mùa Chay được kết thúc vào một ngày vừa vui lại vừa buồn: vui ở việc cử hành biến cố Chúa Giêsu vinh quang tiến vào thành thánh Giêrusalem, buồn ở việc cử hành biến cố Chúa Giêsu khổ nạn và tử giá.

Thật ra, theo thứ tự thời gian, biến cố khổ nạn và tử giá của Chúa Giêsu chỉ xẩy ra giữa hai biến cố, biến cố Người vinh quang tiến vào thành thánh trước mấy ngày và biến cố Người sống lại từ trong cõi chết sau mấy ngày. Nghĩa là biến cố khổ nạn và tử giá của Chúa Giêsu chỉ chính thức xẩy ra vào Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, một ngày trong Tam Nhật Thánh, thời gian tột đỉnh của cả một Phụng Niên, vì là thời gian Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, một mầu nhiệm được kết thúc ở Đêm Phục Sinh. Chính vì Chúa Nhật Lễ Lá là Chúa Nhật Thương Khó mà từ Chúa Nhật này đến Đêm Phục Sinh cũng được gọi là Tuần Thánh.

Vẫn biết Giáo Hội sẽ chính thức cử hành Biến Cố Khổ Nạn và Tử Giá của Chúa Kitô vào Thứ Sáu Tuần Thánh, nhưng vì Biến Cố Khổ Nạn và Tử Giá của Chúa Giêsu không thể tách rời khỏi Biến Cố Phục Sinh, cả hai chỉ là một biến cố, Biến Cố Vượt Qua, mà Biến Cố Khổ Nạn và Tử Giá của Chúa Giêsu cần phải được long trọng cử hành vào Ngày Chúa Nhật, Ngày Phục Sinh hằng tuần của Kitô Giáo, chứ không phải vào một ngày thường, dù ngày thường ấy có là chính ngày kỷ niệm của Biến Cố Khổ Nạn và Tử Giá này của Chúa Giêsu đi nữa. Đó là lý do chúng ta thấy Phụng Vụ Chúa Nhật kết thúc Mùa Chay và mở đầu Tuần Thánh hôm nay có hai phần, phần đầu là phần Lễ Lá, cũng có bài Phúc Âm, và phần sau là phần Thánh Lễ, phần được mở màn bằng lời nguyện đầu lễ và sang ngay phần Phụng Vụ Lời Chúa, vì phần Lễ Lá đã thay cho phần đầu lễ thường lệ rồi. Thế nhưng, qua Phụng Vụ Lời Chúa của bài Phúc Âm cho Lễ Lá, cũng như của bài Phúc Âm cho Thánh Lễ Chúa Nhật Thương Khó hôm nay, chúng ta thấy một sự kiện hết sức mâu thuẫn, cần phải tìm hiểu, đó là việc dân Do Thái vừa hân hoan nghênh đón Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem như một vị anh hùng cứu tinh dân tộc, thì liền sau đó họ đã quay ra phản chống Người, truất phế Người, không công nhận Người là vua của họ nữa, và cuối cùng đã hô hoán vang trời đòi phải đóng đanh Người cho bằng được…

Vấn đề ở đây là, qua biến cố nghênh đón Chúa Giêsu vào thành thánh, dân Do Thái chứng tỏ là họ đã công nhận Người là Đấng Thiên Sai, "Đấng nhân danh Chúa mà đến". Và sở dĩ, như bài Phúc Âm Lễ Lá cho thấy, dân chúng có thể công nhận một nhân vật vô danh tiểu tốt như Giêsu Nazarét ở Gialilêa, một miền đất không hề xuất hiện một vị tiên tri nào (xem Jn 7:52), "là tiên tri Giêsu xuất thân từ Nazarét xứ Galilêa". Họ đã thần tượng và tôn vinh vị tiên tri Thiên Sai này hơn tất cả mọi vị tiên tri trong Cựu Ước, kể cả Gioan Tẩy Giả. Ở chỗ, như bài Phúc Âm của phần Lễ Lá hôm nay cho biết, đến nỗi, "một đám rất đông trải áo mình trên đường, một số khác cắt cành cây lót đường cho Người đi. Có những nhóm đi trước Người và sau Người reo hò rằng '… Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến…'". Lý do họ tỏ ra những hành động bất thường này, những hành động làm cho thành phần lãnh đạo tinh thần của họ hoảng sợ kinh hồn, đến nỗi đã phải thốt lên: "Coi kìa, quí vị đành phải chịu bó tay thôi! Cả thiên hạ đã xô nhau chạy theo hắn mất rồi" (Jn 12:19), là vì việc Người làm cho Lazarô cải tử hoàn sinh: "Đám dân chúng có mặt khi Người lên tiếng gọi Lazarô bước ra khỏi mồ và hồi sinh anh ta từ trong cõi chết cứ mang sự kiện này ra kể lại. Dân chúng đi nghênh đón Người vì họ đã nghe thấy Người thực hiện dấu lạ này" (Jn 12:17-18).

Vậy thì tại sao sau khi đã công nhận vị "tiên tri Giêsu xuất thân từ Nazarét xứ Galilêa" một cách chính thức công khai và hết sức long trọng chưa bao giờ có như thế, dân chúng lại quay ra truất phế Người một cách trắng trợn và phũ phàng hơn ai hết như vậy? Ở chỗ, như Phúc Âm Thánh Mathêu hôm nay thuật lại, họ chẳng những đã coi Người không bằng tên tội đồ nổi tiếng Baraba, mà còn đòi đóng đanh Người vào thập giá nữa. Như thế, phải chăng dân Do Thái nói chung đã cố tình giết chết Đấng Thiên Sai mà họ đã nhận biết? Nếu vậy thì tại sao, theo Phúc Âm Thánh Luca, câu nói đầu tiên trên thập giá, Chúa Giêsu lại thưa cùng Cha của Người: "Xin Cha tha cho họ vì họ lầm không biết việc mình làm" (Lk 23:34). "Họ" ở đây là ai? Phải chăng là thành phần lãnh đạo dân Do Thái bấy giờ mà thôi, vì theo Phúc Âm Thánh Mathêu hôm nay, chính họ là những kẻ xui bẩy và giật giây dân chúng (xem Mt 27:20)?? Hay là chính dân Do Thái lúc ấy nói chung, vì dù có được xui bẩy, họ vẫn có quyền chống trả như cự tuyệt chước cám dỗ, vì nó nghịch lại với niềm tin của họ??? Hoặc bao gồm cả thành phần Dân Ngoại Rôma, thành phần trực tiếp nhúng tay vào việc lên án và đóng đanh Người vào thập giá???? Hay thậm chí bao gồm cả loài người, vì nếu họ không sa ngã phạm tội thì Người đâu phải "hiến thân làm giá chuộc cho nhiều người" (Mt 20:28) như vậy?????

Tại sao dân Do Thái muốn sát hại Chúa Giêsu?

Căn cứ vào sự kiện lịch sử: "Những đau khổ của Chúa Giêsu mặc một hình thức lịch sử cụ thể là Người đã 'bị các vị kỳ lão và trưởng tế cùng luật sĩ' nộp 'cho Dân Ngoại nhạo báng, hành hình và đóng đanh' (Mk 8:31; Mt 20:19)" (số 572), Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo chủ trương rằng: "Đức tin nhờ đó mới cố gắng cứu xét những hoàn cảnh về cuộc tử nạn của Chúa Giêsu được các Phúc Âm trung thực truyền lại (x Hiến Chế Mạc Khải Thần Linh, đoạn 19), cũng như được các nguồn sử liệu khác soi chiếu, để hiểu rõ hơn về ý nghĩa của Việc Cứu Chuộc" (số 573). Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo đã trưng dẫn lý do chính (gồm ba phần) tại sao dân Do Thái đã muốn giết và cần giết Chúa Giêsu Kitô như sau.

"Trước con mắt của nhiều người dân Yến Duyên thì Chúa Giêsu đã tỏ ra tác hành phản lại với các cơ cấu làm nên Dân Chúa Chọn, đó là việc phục tùng toàn thể lề luật được viết thành văn, và còn được giải thích theo truyền khẩu nữa như chủ trương của những người Pharisiêu; Đền Thờ ở Gialiêm chiếm địa vị chủ yếu như là một nơi thánh, nơi Thiên Chúa đặc biệt hiện diện; niềm tin tưởng một Thiên Chúa duy nhất là Đấng không ai có thể chia sẻ vinh quang của Ngài được". (số 576).

Về "việc phục tùng toàn thể lề luật được viết thành văn, và còn được giải thích theo truyền khẩu nữa theo chủ trương của những người Pharisiêu", Chúa Giêsu đã có vẻ tác hành phản lại đến nỗi đã khiến dân Do Thái muốn giết và cần giết Người như sau:

"Việc hoàn toàn làm trọn Lề Luật chỉ có thể là việc của nhà ban bố luật thần linh mà thôi, vị được sinh ra theo Lề Luật qua bản thân của Người Con (x. Gal 4:4). Nơi Chúa Giêsu, Lề Luật không còn như thể được ghi khắc trên các bia đá nữa mà là 'trên cõi lòng' của Người Tôi Tớ, vị trở nên 'giao ước của dân', vì Người sẽ 'hoàn toàn mang lại đức chính trực' (Jer 31:33; Is 42:3,6). Chúa Giêsu làm trọn Lề Luật đến độ đã phải lãnh đủ 'cái bất hạnh của Lề Luật' dành cho những ai không 'suy giữ những gì được viết ra trong Lề Luật', vì Người chết để cứu họ 'khỏi những vấp phạm nơi giao ước thứ nhất' (Gal 3:13, 3:10; Heb 9:15)". (số 580)

"... Chúa Giêsu đã không hủy bỏ Lề Luật mà là làm trọn lề luật bằng việc giải thích Lề Luật đúng ý nghĩa nhất theo đường lối thần linh (Mt 5:33-34)... Người cũng bác bỏ một số tục lệ nhân tạo của những người Pharisiêu đã làm 'vô hiệu lời của Thiên Chúa' (Mt 7:13; x 3:8)" (số 581). "... Trong việc lấy quyền bính thần linh để trình bày việc giải thích ý nghĩa tối hậu của Lề Luật, Chúa Giêsu đã phải đối đầu với một số thày dạy Lề Luật, thành phần không chấp nhận việc Người giải thích Lề Luật bằng những dấu hiệu thần linh bảo đảm kèm theo (x Jn 5:36, 10:25,37-38, 12:37). Đặc biệt là trường hợp đối với các luật về ngày hưu lễ (x Num 28:9; Mt 12:5; Mk 2:25-27; Lk 13:15-16, 14:3-4; Jn 7:22-24)...". (số 582)

Về "Đền Thờ ở Gialiêm chiếm địa vị chủ yếu như là một nơi thánh, nơi Thiên Chúa đặc biệt hiện diện", Chúa Giêsu đã có vẻ tác hành phản lại đến nỗi đã khiến dân Do Thái muốn giết và cần giết Người như sau:

"Như các tiên tri trước Người, Chúa Giêsu đã tỏ ra cho thấy việc Người hết lòng tôn kính Đền Thờ ở Gialiêm... Chính sứ vụ công khai của Người cũng được dựa theo hành trình lên Gialiêm vào những dịp lễ lớn của dân Do Thái (x Jn 2:13-14, 5:1,14, 7:1,10,14, 8:2, 10:22-23)" (số 583). "Chúa Giêsu lên Đền Thờ như là một nơi đặc biệt để gặp gỡ Thiên Chúa. Đối với Người, Đền Thờ là nơi ngự của Cha Người, là nhà để cầu nguyện, và Người đã nổi giận khi thấy phần ngoại vi của Đền Thờ trở thành nơi buôn bán (x Mt 21:13)..." (số 584). "Chẳng những không thù oán Đền Thờ, nơi Người đã ban bố phần giáo huấn chính yếu của mình, Chúa Giêsu còn sẵn lòng nộp thuế đền thờ nữa... Thậm chí Người còn đồng hóa mình với Đền Thờ khi tự cho mình là nơi Thiên Chúa thực sự ở với loài người (x Jn 2:21; Mt 12:6)...". (số 586)

"Trước thời điểm Khổ Nạn của mình, Chúa Giêsu đã loan báo việc các lâu đài tráng lệ này sẽ bị hủy hoại đến không còn 'hòn đá nào chồng trên hòn đá nào' (x Mt 24:1-2). Nói điều ấy là Người đã loan báo dấu hiệu của những ngày cuối cùng được bắt đầu từ Cuộc Vượt Qua của Người (x Mt 24:3; Lk 13:25). Thế nhưng, lời tiên tri này đã bị các nhân chứng dối trá bóp méo ý nghĩa của nó trong cuộc đối chất của Người ở nhà vị thượng tế, với kết quả là Người đã bị sỉ nhục vì lời nói của mình khi bị đóng đanh trên cây thập giá (x Mk 14:57-58; Mt 27:39-40)". (số 585)

Về "niềm tin tưởng một Thiên Chúa duy nhất là Đấng không ai có thể chia sẻ vinh quang của Ngài được", Chúa Giêsu đã có vẻ tác hành phản lại đến nỗi đã khiến dân Do Thái muốn giết và cần giết Người như sau:
"Nếu Lề Luật và Đền Thờ Gialiêm đã trở thành những dịp cho các vị giáo quyền dân Yến Duyên chống đối Chúa Giêsu, thì vai trò của Người trong việc chuộc tội, một việc thần linh hơn hết, thực sự mới là cớ vấp ngã cho họ (x Lk 2:34, 20:17-18; Ps 118:22)". (số 587).

"Chúa Giêsu đã khiến cho những người Pharisiêu vấp phạm khi nhập bọn ăn uống thân tình với các người thu thuế và tội nhân (x Lk 5:30, 7:36, 11:37, 14:1)... Thậm chí Người còn tuyên bố trước mặt các người Pharisiêu rằng, những ai cho rằng mình không cần ơn cứu độ cho khỏi tội lỗi phổ quát là con người mù quáng (x Jn 8:33-36, 9:40-41)". (số 588)

"Chúa Giêsu đã gây nên dịp vấp phạm nhất là khi Người cho rằng thái độ nhân từ của mình đối với các tội nhân cũng là thái độ của Thiên Chúa đối với họ (x Mt 9:13; Hos 6:6). Thậm chí Người còn ngầm cho thấy rằng việc Người đồng bàn với các tội nhân là việc Người công nhận họ vào bàn tiệc thiên sai (x Lk 15:1-2,22-32). Thế nhưng, đặc biệt nhất là ở chỗ việc Chúa thứ tha tội lỗi đã khiến cho các vị giáo quyền dân Yến Duyên bị bối rối khó xử (Mk 2:7)... Khi thứ tha tội lỗi thì có thể Chúa Giêsu đã phạm thượng, vì Người là con người mà lại cho mình ngang hàng với Thiên Chúa...". (số 589)

"Chúa Giêsu xin các vị giáo quyền ở Gialiêm hãy tin vào Người vì các việc Người hoàn tất như Cha đã trao phó cho Người (Jn 10:36-38). Thế nhưng, muốn thực hiện một tác động đức tin như vậy con người cần phải chết đi cho chính mình một cách thiêng liêng để được tái 'sinh từ trên cao' dưới tác động của ân sủng thần linh (x Jn 3:7, 6:44). Một đòi hỏi hoán cải như vậy để hướng về việc hoàn tất các lời hứa (x Is 53:1) hết sức lạ lùng như thế khiến người ta có thể thông cảm về những hiểu lầm thê thảm của Hội Đồng Do Thái đối với Chúa Giêsu, ở chỗ, họ đã cho rằng Người đáng bị án tử hình như là một kẻ lộng ngôn phạm thượng (x Mk 3:6; Mt 26:64-66)...". (số 591)

Ai Là Thủ Phạm Chính Trong Việc Sát Hại Thiên Chúa Làm Người?

Về vấn đề hết sức tế nhị này, Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo đã công minh nhận định và dạy rằng thủ phạm chính trong việc sát hại Con Thiên Chúa làm người không phải là dân Do Thái nói chung, mà là chính tất cả mọi tội nhân.

Thủ phạm chính trong việc sát hại Con Thiên Chúa làm người không phải là dân Do Thái nói chung.

"Các trình thuật Phúc Âm đã cho thấy tính cách lịch sử phức tạp nơi vụ án Chúa Giêsu. Tội lỗi riêng tư của những người dự phần (như Giuđa, Hội Đồng Do Thái và Philatô) chỉ có một mình Thiên Chúa biết. Vì thế, cho dù đám dân chúng bị xúi giục có lên tiếng kêu gào, cùng những lời trách móc chung nơi lời của các vị tông đồ khi kêu gọi họ hãy ăn năn hoán cải sau biến cố Chúa Thánh Thần Hiện Xuống (x Mk 15:11; Acts 2:23,36, 3:13-14, 4:10, 5:30, 7:52, 10:39, 13:27-28; 1Thes 2:14-15), chúng ta cũng không thể ghép tội cho toàn thể khối người Do Thái ở Gialiêm về vụ án này. Chính Chúa Giêsu, khi tha tội cho họ trên thập giá, và thánh Phêrô theo chiều hướng đó, cả hai đều công nhận các người Do Thái ở Gialiêm và ngay cả các vị lãnh đạo của họ là 'vô thức' (x Lk 23:34; Acts 3:17). Chúng ta lại càng không thể đổ trách nhiệm cho những người Do Thái ở những thời điểm khác và ở những nơi khác, chỉ vì tiếng kêu gào:

'Máu của hắn sẽ đổ lên đầu lên cổ chúng tôi và con cháu chúng tôi!' (Mt 27:25; x Acts 5:28, 18:6), như là một câu nói chung để biện minh cho việc mình kết án họ. Giáo Hội đã tuyên bố ở Công Đồng Chung Vaticanô II rằng: '… Không thể hàm hồ ghép tội ác chung cho tất cả mọi người Do Thái bấy giờ hay những người Do Thái ngày nay đã nhúng tay vào cuộc Khổ Nạn của Người… Không được coi những người Do Thái bị phế bỏ hay bị nguyền rủa như là những gì bởi Thánh Kinh mà ra' (Tuyên Ngôn Nostra Aetate, đoạn 4)" (số 597)

Thủ phạm chính sát hại Con Thiên Chúa làm người chính là tất cả mọi tội nhân.

"Theo giáo huấn đức tin thuộc Huấn Quyền của mình, cũng như theo chứng từ của các thánh, Giáo Hội không bao giờ quên rằng 'các tội nhân là tác giả và là tác nhân gây nên tất cả mọi đau khổ bắt Vị Cứu Chuộc thần linh phải chịu' (Sách Giáo Lý Rôma I, 5, 11; x. Heb 12:3). Chú trọng đến sự kiện là tội lỗi của chúng ta phạm đến chính Chúa Kitô (x Mt 25:45; Acts 9:4-5), Giáo Hội không ngần ngại qui cho Kitô hữu trách nhiệm nặng nhất đối với những hình khổ giáng xuống trên Chúa Giêsu, một trách nhiệm mà tất cả những người Kitô thường chất lên vai cho một mình những người Do Thái thôi: 'Chúng ta phải coi những ai tiếp tục đầm đìa trong tội lỗi của mình là có lỗi. Vì tội lỗi của chúng ta mà Chúa Kitô phải chịu cực hình thập giá, thì những ai lặn ngụp trong những hư hỏng và tội ác chính là những kẻ đóng đanh Con Thiên Chúa một lần nữa nơi lòng mình (vì Người ở trong họ) cùng làm cho Người bị nhục nhã. Tội ác của chúng ta trong trường hợp này có thể được coi như lớn hơn cả của người Do Thái nữa. Theo chứng từ của Thánh Tông Đồ, đối với họ, 'Không một nhà lãnh đạo nào của thời đại này hiểu được điều ấy; vì nếu họ hiểu được thì họ đã không đóng đanh Chúa hiển vinh'. Còn chúng ta tuyên xưng là biết Người. Nên khi chúng ta chối bỏ Người bằng việc làm của mình là chúng ta hành hung Người một cách nào đó (Sách Giáo Lý Rôma I, 5, 11; x Heb 6:6; 1Cor 2:8). 'Cả đến ma quỉ cũng không phải là kẻ đóng đanh Người; chính các bạn là kẻ đã đóng đanh Người và vẫn còn đang đóng đanh Người, khi các bạn vui sướng với các tính mê nết xấu và tội lỗi của mình' (Thánh Phanxicô Assisi, Admonitio 5, 3)". (số 598)

Vấn đề thực hành sống đạo:

Thánh Viện Phụ Aelred, trong vấn đề Mẫu Gương Yêu Thương đã nhận định về lời nói đầu tiên của Chúa Giêsu trên cây thập giá như sau:

"Ai nghe lời cầu nguyện tuyệt vời, hết sức nồng nàn, hết sức yêu thương, hết sức trầm tĩnh - Lạy Cha, xin tha cho họ - mà còn ngần ngại không ôm lấy kẻ thù của mình bằng một tình yêu chan chứa hay chăng? Người xin: Lạy Cha, xin tha cho họ. Lời cầu xin này có thiếu dịu dàng, thiếu yêu thương hay chăng? Tuy nhiên, Người còn đưa vào trong lời cầu xin này một điều hơn thế nữa. Cầu xin cho họ mà thôi chưa đủ, Người còn muốn chữa tội cho họ nữa. Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm không biết việc họ làm. Phải, họ là những đại tội nhân, thế nhưng họ kém phán đoán; bởi thế, Lạy Cha, xin tha cho họ. Họ đóng đanh Con vào thập giá, thế nhưng họ không biết Đấng họ đóng đanh vào thập giá là ai: nếu họ biết, họ đã không bao giờ dám đóng đanh vị Chúa của vinh quang, bởi thế, Lạy Cha, xin tha cho họ. Họ nghĩ rằng đó là một tên phạm luật, một kẻ tưởng mình là Thiên Chúa, một tay dụ dỗ dân chúng. Con đã giấu kín chân tướng của mình không cho họ biết, nên họ không nhìn ra vinh hiển của Con, do đó, Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm không biết việc họ làm" (Lib. 3,5: PL 195, 582. Trích dịch từ The Office of Readings, St Paul Editions, 1983, trang 369).

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-5:  CHẾT THAY - Lm. Ignatio Trần Ngà

 

Một anh đệ tử nọ, sau một thời gian dài học hành tu luyện với một vị đạo sư danh tiếng, khao khát: Tuầnthánh 6-5


Một anh đệ tử nọ, sau một thời gian dài học hành tu luyện với một vị đạo sư danh tiếng, khao khát thoát li khỏi cuộc đời ô trọc, muốn vĩnh biệt vợ con yêu quý vào nơi thâm sơn cùng cốc để tìm giác ngộ và giải thoát. Nhưng anh ta rất bịn rịn với vợ con nên dùng dằng mãi mà chưa thể dứt bỏ gia đình ra đi được.

Anh trình bày sự việc với vị đạo sư và xin vị nầy chỉ giáo. Vị đạo sư nói: "Con đừng lầm tưởng là vợ con trìu mến con lắm đến độ không thể sống thiếu con. Nếu con muốn, ta sẽ giúp con biết sự thật."

Thế rồi, vị đạo sư dạy cho anh phương pháp Yoga bí truyền, giúp anh có thể chết giả cả mươi tiếng đồng hồ mà không ai hay biết.

Thế là hôm ấy, người đệ tử đột nhiên lăn ra chết. Vợ con anh gào khóc thảm thiết như trong bất cứ một đám tang bi thảm nào.

Hay tin người học trò thân tín đột ngột qua đời, vị đạo sư vội đến thăm. Chứng kiến sự tiếc xót khôn nguôi của người vợ goá và đàn con côi cút dành cho chồng, cho cha, vị đạo sư tỏ cho vợ con người chết biết là ông ta có phép thuật cao cường, có thể làm cho người chết kia sống lại, với điều kiện là có người nào đó trong gia đình chịu chết thay cho người xấu số.

Khi ông đề nghị người vợ chết thay cho chồng, thì người vợ nức nở than rằng: "Chị còn cả một gánh nặng gia đình. Nếu chị chết đi thì lấy ai nuôi đàn con thơ dại… Không ai có thể thay thế chị được trong việc chăm sóc gia đình và con cái…" Nói tóm lại, chị cần phải sống, chị không thể chết thay cho anh được!

Đến phiên người con cả thì anh cũng viện đủ mọi lý do để chứng tỏ rằng anh cần cho gia đình, anh cần giúp mẹ để chăm lo cho đàn em. Gia đình không thể thiếu anh. Anh không thể chết thay cho cha được!

Rồi đến lượt đứa con thứ hai, thứ ba… thứ năm được vị đạo sư đề nghị chết thay cho cha, nhưng tất cả đều nêu ra nhiều lý do để minh chứng rằng chúng cần phải sống, không ai có thể chết thay cho người cha được. Thôi thì để cho người cha chết như vậy phải hơn.

Người cha nằm giả chết biết hết sự tình. Anh chợt nhận ra rằng trên đời nầy không có ai chết thay cho anh cả. Dù là người vợ mà anh hết dạ yêu thương, coi như xương thịt của mình; dù là những đứa con ngoan mà anh đã từng đặt hết hy vọng và tình thương nơi chúng. Không ai chết thay cho anh cả, không ai thực sự hy sinh quên mình cho anh.

Giác ngộ được điều nầy, anh thoát ly gia đình ra đi không thương tiếc.

Giá như chúng ta có được phép thuật nhiệm mầu để giả chết xem sao. Các ông thử nằm xuống xem người vợ hiền hay những đứa con yêu có dám chết thay cho mình không? Các bà thử giả chết xem sao? Ai chịu chết cho các bà nào? Chẳng có ai đâu! Chúng ta có thể tin chắc gần như trăm phần trăm là như thế. Trái lại biết đâu, lại có kẻ mừng thầm…!

Thế nhưng, có một người, chỉ có một người duy nhất trên thế gian nầy đã chết thay cho tôi, cho bạn, cho từng người trong chúng ta. Người đó đã chấp nhận chịu chết rất đau thương, rất tủi nhục, rất bi đát… chịu một cái chết đau đớn khủng khiếp để cho chúng ta được sống. Người đó chính là Chúa Giê-su.

Lạy Chúa Giê-su, chỉ có Ngài mới thực sự là Người yêu thương chúng con. Chỉ có Ngài mới là Người dám hy sinh tất cả vì chúng con. Chỉ có Ngài là Người duy nhất trên cõi đời nầy chết thay cho chúng con mà thôi. Ngoài ra, không còn ai khác!

Vì thế, hôm nay chúng con họp nhau để thờ lạy Chúa, để cảm tạ Chúa, để suy tôn Chúa là Đấng đã nộp mình chịu chết đau thương, tủi nhục trên thập giá vì chúng con.

Xin cho chúng con cảm nghiệm được tình yêu trời bể của Chúa và biết đền đáp phần nào bằng bằng cách sống xứng đáng với tình yêu cao vời Chúa dành cho chúng con.

Lạy Chúa Giê-su, chúng con xin tôn thờ và cảm tạ tình yêu của Chúa.

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-6: LẼ NÀO ... - Lm Ignatio Trần Ngà

 

Lẽ nào sinh mạng vô cùng cao cả và lớn lao của Ngôi Hai Thiên Chúa vẫn còn là chuyện nhỏ đối: Tuầnthánh 6-6


Lẽ nào sinh mạng vô cùng cao cả và lớn lao của Ngôi Hai Thiên Chúa vẫn còn là chuyện nhỏ đối với tôi?

Tại sao Thiên Chúa lại phải chịu chết đau thương quá đỗi vì tội lỗi con người? Nếu Thiên Chúa muốn cứu loài người khỏi tội thì Ngài cứ việc tuyên bố tha tội cho loài người là xong, chứ sao lại phải nhọc công chết thay để đền tội loài người. Ngài làm gì mà chẳng được!

Thưa quý ông bà anh chị em,

Sự việc không giản đơn như thế. Ai phạm tội thì người đó phải chết. Đó là quy luật muôn đời, một quy luật hết sức nghiệt ngã. Quy luật nầy không miễn trừ cho bất cứ ai.

Quy luật nầy được thánh Phao-lô trình bày trong thư Galát: "Ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt, thì sẽ gặt được hoa trái của Thần Khí là sự sống đời đời." (Galat 6,7-8)

Cũng theo chiều hướng đó, Đức Giê-su bảo Phê-rô: "Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm." (Mat 26:52)

Và "Khi có mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. 2Đức Giê-su đáp lại rằng: "Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác sao ? 3Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu ; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. 4Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao ? 5Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu ; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy." (Lc 13,1-5)

Theo quy luật nầy, loài người sa ngã phạm tội nên loài người không thể thoát chết, trừ phi có một đại diện xứng đáng chết thay cho loài người.

Thiên Chúa đã không đành để loài người phải chết, vì như thế thì đau lòng cho Thiên Chúa quá. Thế nên, Ngài phải cho Con Một yêu dấu của Ngài chết thay.

Để thực hiện kế hoạch nầy, Ngôi Hai Thiên Chúa phải xuống thế làm người, trở thành vị Đại Diện xứng đáng nhất cho loài người. Ngài là "Chiên Thiên Chúa đến gánh tội trần gian". (Gi 1,29). Ngài mang hết tội lỗi nhân loại nơi thân mình Ngài. Thế là Đức Giê-su Ki-tô là" Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người." (IICo 5:21)

Một khi Đức Giê-su đã trở thành tội nhân, chiếu theo quy luật "Ai mang tội, người đó phải chết", thì Ngài cũng phải chịu chết. Quy luật nầy không miễn trừ cho bất cứ ai. Ngày xưa các thiên thần phản nghịch cùng Thiên Chúa thì các thiên thần bị đẩy ra khỏi thiên đường và phải trầm luân đời đời trong hoả ngục. Tổ tông loài người đã phạm tội thì phải bị rơi vào kiếp đoạ đày. Nay Con Thiên Chúa mang tội cho loài người thì Con Thiên Chúa cũng phải chết, không thể nào tránh được.

Trước cái chết man rợ sắp đến, Đức Giê-su đã thực sự kinh hoàng. Một vì Thiên Chúa cao cả ngàn trùng như Đức Giê-su không thể để cho loài người khốn hèn xỉ vả vào mặt Ngài, khạc nhổ vào mặt Ngài, đánh Ngài rách thịt, chế giễu nhạo cười Ngài … Một Thiên Chúa cao cả quyền năng như Đức Giê-su không thể chấp nhận để cho loài người khốn kiếp hành hạ, bắt đội mão gai, bắt vác thập giá đến nỗi phải ngã xuống nhiều lần, bị lột trần rồi đóng đinh đau đớn nhục nhã trên thập giá giữa hai tên đạo tặc … Như thế là quá quắt đối với một vì Thiên Chúa rất đỗi cao sang. Thế nên Đức Giê-su dường như không chịu nỗi. Ngài toát mồ hôi lạnh, Ngài phải đổ mồ hôi máu vì kinh hoàng! (Lc 22,44)

"Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết." (He 5:7).

Ngài đã tha thiết dâng lời khẩn nguyện lên Chúa Cha: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin tha cho con khỏi uống chén nầy. Tuy vậy, xin đừng theo ý Con. Một xin theo ý Cha thôi." (Lc 22,42)

Dầu vậy, quy luật: 'ai mang tội thì phải chết' cũng không miễn trừ cho cả Thiên Chúa Ngôi Hai.

Kinh khủng thay hậu quả khôn lường của tội lỗi!

Và cũng bao la thay, tình thương cao vời của Thiên Chúa từ nhân!

Lời thánh Phê-rô trong thư thứ nhất giúp chúng ta cảm nghiệm sâu xa hơn công trình cứu độ yêu thương nầy:

"Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì anh em,

Để lại một gương mẫu
Cho anh em dõi bước theo Người.
Người không hề phạm tội;
Chẳng ai thấy miệng Người
Nói một lời gian dối.
Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại,
Chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe;*
Nhưng một bề phó thác
Cho Đấng xét xử công bình.
Tội lỗi của chúng ta,
Chính Người đã mang vào thân thể
Mà đưa lên cây thập giá*
Để một khi đã chết đối với tội,
Chúng ta sống cuộc đời công chính.
Vì Người phải mang những vết thương
Mà anh em đã được chữa lành." (1 Pr 2,21-24)

Thiên Chúa đã chết vì tội chúng ta. Thiên Chúa đã phải trả giá quá đắt để cứu loài người khỏi chết. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian như thế đó! Vậy mà tôi nào có quan tâm. Ai chết mặc ai! Chúa chết mặc Chúa! Tôi còn vui hưởng cuộc đời bao lâu thì tôi cứ tận hưởng.

Lẽ nào sinh mạng vô cùng cao cả và lớn lao của Ngôi Hai Thiên Chúa vẫn còn là chuyện nhỏ đối với tôi???

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-7: CÁI CHẾT BUỔI TRƯA THỨ SÁU


(Trich trong cuốn "Death on a Friday Afternoon", Father Neuhaus)

 

Trong cái chết của Đấng bị treo trên Thập Giá, chúng ta ngộ ra được sự thật đáng kinh hoàng: Tuầnthánh 6-7


Trong cái chết của Đấng bị treo trên Thập Giá, chúng ta ngộ ra được sự thật đáng kinh hoàng về chúng ta: Chúng ta đã lang thang rong chơi và phí phạm bao nhiêu thời gian ở một xứ sở xa xăm cách biệt quê nhà muôn vạn dặm. Thập Giá của người là biển chỉ đường về với Cha, Đấng đang mong chờ chúng ta

Quá thường một cách đáng ngạc nhiên, tôi gặp gỡ những người mà khi nói về Thập Giá Đức Kitô, họ thú nhận "Không hiểu gì hết". Nhiều người là người Công Giáo lâu năm, có khi rất sốt sắng đạo đức. Cũng có người đang tìm hiểu về đạo. Cũng có những người nói thẳng ra rằng chính cái cảnh máu đổ đầm đìa ngày Thứ Sáu Tuần Thánh là cái lý do chính làm cho họ không thể nào là người Kitô hữu được.

Những nhà giảng thuyết, những vị truyền giáo thường xuyên nói "Đức Giêsu đã chết vì tội chúng ta". Người Kitô hữu đạo đức gật đầu tán thành. Nhưng đâu là ý nghĩa thực sự của việc Đức Giêsu chết vì tội chúng ta? Tại sao cái chết ấy là cần thiết? Mà có cần thiết thật không? Mà vì cái tội nào của chúng ta mà ngài phải chết? Mà rồi làm sao cái chết thương tâm của một người lành thánh sống cách đây đã 2000 năm lại có thể gây ra hệ quả gì cho cái thế giới này? Cái chết ấy có liên can gì đến cuộc sống mà chúng ta phải sống và cái chết mà chúng ta phải chết?

Người Kitô hữu gọi ba ngày cuối trong Tuần Thánh là Tam Nhật Thánh, ba ngày thánh thiêng nhất trong năm Phụng Vụ, ba ngày thánh thiêng nhất trong mọi thời đại. Ngày thứ nhất, Ngày Thứ Năm Ủy Thác (Maundy Thursday), được gọi như vậy vì trong đêm trước khi bị phản bội, Đức Giêsu đã ban ra một mệnh lệnh, một ủy nhiệm, rằng chúng ta phải yêu thương nhau. Tình yêu đó không nhất thiết là thứ tình theo lòng mong muốn của ta. Nhưng có thể là một thứ tình yêu đòi buộc phải yêu thương, thậm chí phải chịu nhục nhã khốn khổ như phải rửa chân cho những bè bạn không có lòng tin, những kẻ sẵn sàng bỏ chạy để ta trơ trọi một mình trong tay kẻ gian ác.

Ngày thứ hai là Ngày Thứ Sáu mà người ta gọi cách trớ trêu là "Good Friday". Và ngày thứ ba là đêm Vọng Phục Sinh. Xin chớ vội vã. Hãy để lòng ta tan nát bởi những điều tệ hại trong ngày Thứ Sáu mà chúng ta gọi là "good". Nhiều học giả đoán rằng từ "Good Friday" là do từ "God's Friday" như chữ "good bye" là do từ chữ "God be by you". Nhưng cũng vẫn là trớ trêu khi gọi là "God's Friday" ngày mà chúng ta "good bye" vinh quang của Thiên Chúa. Mặc kệ những từ ngữ, hãy để lòng ta lắng đọng trong ngày này. Ngày nghỉ mùa Phục Sinh còn dài mà!

Qua ba ngày thánh thiêng này, tất cả thế giới được mời gọi để chú ý. Mọi điều quá khứ, hiện tại và tương lai, chuyện lớn, chuyện bé, dải ngân hà bao la, vi sinh vật li ti – mọi thứ đều liên can huyền nhiệm đến những điều đã xảy ra, đang xảy ra trong những ngày này: Trên cây thập tự, Đấng mà người Kitô hữu gọi là Alpha và Omega, là nguyên thủy và là cùng đích, Đấng là sự sống của mọi loài đang hấp hối.

Trong cái chết mà một số người cho là vô nghĩa này, chúng ta tìm lại được trí khôn của mình. Ở đây, chúng ta tìm lại được căn tính thực sự của chúng ta, bởi vì đây chính là Đấng đã chỉ cho chúng ta thấy chúng ta phải trở nên như thế nào. Con người bị đóng đinh ấy đã kêu mời "Hãy đến đây, và hãy theo ta". Theo ngài đến đồi Golgotha đó chăng? Sao được? Chúng ta nhắm mắt, bịt tai lại và ...chạy. Chạy hối hả đến những bàn tiệc Phục Sinh. Nhưng chúng ta còn biết làm gì đây với ánh sáng Phục Sinh khi chúng ta đã trốn tránh con đường dẫn đến ánh sáng vinh quang này?

Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh mang đến cho chúng ta trí khôn của chúng ta vì trong sự sống và cái chết của Đức Giêsu, ta tìm lại được cuộc sống và cái chết của chúng ta. Sự thật về cái chết của Chúa là sự thật của chính chúng ta. "Hãy biết chính mình". Các triết gia cổ đã từng khuyên ta như thế vì biết mình là nguồn gốc của trí khôn. Trong cái chết của Đấng bị treo trên Thập Giá, chúng ta ngộ ra được sự thật đáng kinh hoàng về chúng ta: Chúng ta đã lang thang rong chơi và phí phạm bao nhiêu thời gian ở một xứ sở xa xăm cách biệt quê nhà muôn vạn dặm. Trong Đấng bị treo trên Thập Giá kia, ta tìm lại được căn tính thực sự của chúng ta. Thập Giá của người là biển chỉ đường về với Cha, Đấng đang mong chờ chúng ta.

Các thánh giáo phụ nói về biến cố Đức Kitô như là bản tóm lược toàn bộ thảm kịch của nhân loại. "Ta là đường, là sự thật và là sự sống". Không phải là đường giữa những con đường, không phải là sự thật giữa những sự thật, và không phải là sự sống giữa những sự sống. Bản Tóm Lược. Hiểu đơn giản và thẳng thắn thì đây là cuộc sống của anh, của chị, của tôi và rằng chúng ta không giác ngộ được chính mình chừng nào chúng ta không tư duy về chính chúng ta trong sự sống và cái chết của Đức Kitô.

Trong thư gởi giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô viết: " Thưa anh em, khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa. Vì hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá." (1 Cr 2: 1-2). Đừng vội vã vất bỏ thánh giá để chạy đến với niềm vui Phục Sinh vì chúng ta chỉ biết đến Chúa Phục Sinh vinh quang qua Đức Kitô và là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá. Triết gia Alfred North Whitehead cho rằng cái đơn giản duy nhất khả tín là cái đơn giản tìm thấy ở phía bên kia của sự phức tạp. Niềm vui duy nhất đáng tin là niềm vui gặp được ở phía bên kia của một cõi lòng tan nát, sự sống đáng tin duy nhất là sự sống gặp được ở phía bên kia của sự chết. Hãy dừng lại và lắng đọng tâm tư với Đức Giêsu Kitô, và là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá.

Chúng ta đã suy niệm một lúc về ý nghĩa của ngày Thứ Sáu Tuần Thánh và chúng ta trở lại với cái mà chúng ta gọi là thế giới thực tại với công ăn việc làm, mua sắm và những chuyến xe đi về. Khi chúng ta bước ra khỏi một rạp chiếu bóng, ta lắc đầu để xua đi cái thế giới khác mà chúng ta vừa sống qua một thời gian trong tình trạng nửa tin nửa ngờ, và cố định vị lại mình trong thực tại của thế giới trước mặt; Cũng vậy, sau một thời gian suy niệm, chúng ta đóng sách lại, bước ra khỏi nhà thờ – nơi chúng ta vừa trải qua một thế giới có thể, khả tín và ngay cả thực sự. Nhưng ta lại bảo ta rằng cái thế giới thực không phải là cái thế giới ta vừa trải qua trong nhà thờ mà là một thế giới khác. Thế giới của những hạn chót phải hoàn thành, của những cuộc hẹn phải cố đến, của thuế má phải trả, của con cái phải nuôi nấng.

"Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng quên mất đường về nhà. Chúng lầm lẫn thế giới thực của chúng".

Hãy bỏ lại đàng sau chúng ta những hành trang nặng nề lỉnh kỉnh của những hạn chót, những bổn phận, những lo sợ thất bại, những phập phồng cho tương lai, những người thân chưa trở về, những chán chường thất vọng, những đứa con ngỗ nghịch, những đổ vỡ hôn nhân không hàn gắn được để chúng ta có thể trở về với một thực tại –thực tại mà ta đã bỏ lại khi chúng ta lầm lẫn với thế giới chóng qua này. "Tôi sẽ trỗi dậy và về với cha tôi và tôi sẽ thưa với người: 'Lạy cha, con đã lỗi phạm với Trời và với cha, con không đáng được gọi là con cha nữa' .". Đức Kitô đã vác lên vai Ngài những hành trang lỉnh kỉnh của chúng ta để chúng ta nhẹ gánh mà quay về với Cha. "Hãy đến với ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng và ta sẽ cho ngươi được nghỉ ngơi". Hãy đưa hành lý của ta cho Ngài.

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-8: THÁNH GIÁ CHÚA KITÔ - Lm Fx Nguyễn Hùng Oánh

 

Chúa Kytô vác thập giá Roma và chết trên cây Thập tự đó. Hình phạt nầy không phải là sáng: Tuầnthánh 6-8


Chúa Kytô vác thập giá Roma và chết trên cây Thập tự đó. Hình phạt nầy không phải là sáng kiến của vua quan Roma. Có lẽ là hình phạt của Ba tư, đế quốc Hy lạp du nhập, rồi tới đến đế quốc Roma dùng, dành cho dân thuộc địa và dân nô lệ nổi loạn.

Ta hãy hình dung xem: một người bị lột trần truồng, hai tay bị giang thẳng trói siết chặt vào thanh gỗ ngang, hai chân bị trói vào thanh gỗ dọc, phơi ngoài trời cho đến chết. Chết vì nghẹt thở do các cơ vòng ngực, cơ bắp tay không còn sức trương ra, co vào để phổi thu nhận và tống không khí. Tử tội nào thay vì bị cột dây, bị đóng đinh nơi cổ tay, bàn chân, càng thê thảm bội phần vì đau đớn, nhức nhối, sức người rớn lên để thở mau kiệt quệ, dĩ nhiên là chóng chết hơn. Sử gia Joseph Flavius kể lại năm 70, thành Giêrusalem bị vây hãm, rồi bị phá bình địa, ba người bạn thân của ông mang tội xử thập giá lúc ông vắng mặt. Hay tin, chiều hôm đó, ông tới xin tướng Titus tha. Người ta tháo ba nạn nhân còn thoi thóp trên thập giá xuống và nhờ các y sĩ phục dược. Kết quả: hai người bị đóng đinh chết, người bị treo bằng dây thừng hồi sức được.

Nạn nhân chịu cực hình như vậy, chết cũng không được đoái thương. Thây chết cứ để trên thập giá làm mồi cho chim muông ăn. Cũng có trường hợp quan cho phép gia đình tháo xác, đưa về chôn cất.

Hình phạt thập giá đau khổ như vậy mà Chúa Kytô mong muốn chịu! Ngài phán: "Nầy chúng ta lên Giêrusalem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và ký lục. Người ta sẽ kết án tử hình Ngài, sẽ nộp Ngài cho dân ngoại, để họ nhạo báng, đánh đòn, và treo Ngài lên thập giá, nhưng ngày thứ ba, Ngài sẽ sống lại" (Mt 20,18-19). Thánh Tông đồ Phêrô khiếp sợ, can gián Chúa, bị Chúa mắng là Satan (Mt 16,21). Chúa còn dạy mọi người: "Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo Thầy" (Mt 16,24). Chúa còn tiên đoán số phận của người theo Chúa: "Đầy tớ không lớn hơn chủ. Nếu họ bắt bớ Thầy, tất nhiên, họ cũng bắt bớ các con" (Gioan 15,20) và Chúa dạy phải cam lòng mà chịu: "Ai tát má phải, hãy giơ má kia nữa. Ai muốn kiện đoạt áo trong, hãy trao áo ngoài luôn cho nó" (Mt 16,39-40).

Như vậy, phải chăng Chúa Kytô xuống trần gian để chết đau khổ trên thập giá và Ngài muốn chúng ta cũng chịu như vậy ? Ngài bị treo trên thập giá, phải chăng ai theo Ngài cũng phải bắt chước Ngài leo lên thập giá ? Phải chăng Ngài đã chịu ngược đãi, bị tử hình thập giá, Ngài cũng muốn chúng ta theo Ngài thì phải cam chịu mọi đau khổ để theo gương Ngài ? Đạo lý của Ngài có trái ngược với khoa học kỹ thuật đang giúp mọi người sống hạnh phúc không ? Đạo lý của Ngài có đi ngược lại với trào lưu tư tưởng của nhân loại là giải thoát con người khỏi bất công, đau khổ, khỏi cái chết bất công không ?

Thật là "kỳ quặc" nếu ta đồng hóa "thập giá Roma" với "Thánh giá Chúa Kytô". Cũng thật "kỳ quặc" khi ta nghe Chúa phán: "Ai tát má phải, hãy giơ má kia nữa" (Mt 5,39) mà không biết phản ứng của Chúa khi thuộc hạ của ông Hanna tát Chúa: "Nếu tôi nói sai, anh hãy nói tôi nói sai ở điểm nào, nếu tôi nói đúng, sao anh lại đánh tôi" (Gioan 18,23).

Trong vụ án giết Chúa Kytô, ai cũng biết nhóm Biệt phái, Ký lục và Tư tế đã phạm một tội tầy trời là giết Chúa Kytô, Đấng Thánh của Thiên Chúa. Chính Chúa Kytô đã bảo âm mưu giết Ngài là việc làm của ma quỷ (xem Gioan 8,40-41 và 44). Thánh Gioan không ngớt lời chỉ Satan gieo vào lòng Giuđa ý định nộp Chúa Kytô (xem Gioan 13,27,30) và Satan nhập vào Giuđa giúp ông thi hành (Gioan 13,27). Chúa Kytô phản đối vụ bắt bớ Ngài (Lc 22,52-53), phản đối hành động vũ phu của thuộc hạ của Hanna (Gioan 18,23) và tuyên bố trước quan Philatô tội đồng lõa của quan với nhóm nộp Ngài (Gioan 19,11). Một vụ án do Satan giật dây, Chúa Kytô tại sao không tránh đi, lại chỉ chống đối cách bất bạo động ? Câu trả lời thâu gọn trong động từ "vâng lời".

Xuống thế làm người, giống người ta ngoại trừ tội lỗi, Chúa Kytô trở nên bạn hữu của tất cả mọi người để cứu độ mọi người. Xuất hiện trong một thế giới bị tội ác đánh độc, Ngôi Hai làm người phải đương đầu với tội ác. Tự căn bản, tội ác muốn loại trừ Ngôi Hai làm người khỏi trần gian giống như tội Ađam phạm để loại trừ Thiên Chúa. Vì thế, công cuộc nhập thể cứu độ của Ngôi Hai mặc lấy hình thức chiến đấu, đau đớn và đẫm máu mà phần kết thúc sẽ là phần tử nạn tàn nhẫn trên thập giá.

Xét về mặt tự nhiên, Chúa Kytô thắng về tinh thần. Thí dụ: Trần Bình Trọng nói với quân Phương Bắc: Thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm Vương đất Bắc, ông bị giặc giết, ông thắng về ý chí, về tinh thần bất khuất. Nơi Chúa Kytô thì khác, vì Người là Thiên Chúa nên cái chết của Ngài toàn thắng về mọi mặt.

Cái chết của Ngài có ý nghĩa:

- Chứng minh Giáo lý của Ngài là của Chúa Cha trao cho Ngài, sai Ngài xuống rao giảng (Gioan 7,16).

- Biểu lộ ra bên ngoài Ngài vâng lời tuyệt đối hoàn toàn lệnh của Chúa Cha sai Ngài giáng trần (Nếu sợ chết mà trốn đi thì chẳng khác "lính đào ngũ").

- Tố cáo tội ác của nhân loại: cho biết nhân loại phạm tội ác ghê gớm nhất (Ađam Avà xưng mình là Thiên Chúa để loại trừ Thiên Chúa, bây giờ con cháu ông bà giết Đấng Thánh của Thiên Chúa để loại trừ Thiên Chúa).

- Biểu lộ tình thương của Chúa Cha thương nhân loại đến nỗi ban Con Một của mình cho thế gian.

Nếu Chúa Kytô tránh né cuộc thương khó, tức là bỏ cuộc, chịu thua vì sợ chết thì Giáo lý của Ngài không thể chứng minh được là chân lý, là của Chúa Cha, tội ác của nhân loại không lấy gì chỉ cho thấy ghê gớm vô cùng, và đức vâng lời của Ngài không còn nữa và tình yêu của Chúa Cha đối với nhân loại không được chứng minh cụ thể, không có sức thuyết phục.

Trong cuộc thương khó, chính Chúa Kytô còn phải tranh đấu với bản thân mình để hoàn toàn vâng phục Chúa Cha, lãnh nhận Thánh Ý Chúa Cha trọn vẹn. Qua cái chết, Ngài đã cắt đứt mọi thứ ràng buộc, mọi thứ nương tựa để sinh sống, không chút bỉn rỉn thứ gì nên Ngài ra trống không (Philip 2,7) và Ngài đã vâng phục Thánh Ý Chúa Cha hoàn toàn, đã lãnh nhận Chúa Cha hoàn toàn, được tôn lên là Chúa (Kurios = Giavê, Philip 2,11).

Ngài đã thực hiện trọn vẹn đức bác ái là mến Chúa và yêu người bằng đời sống rao giảng và đến mức hy sinh mạng sống mình. Rao giảng chân lý Nước Trời để quét đi bóng tối lầm lạc của Ađam Evà và của nhân loại xem mình là Thần linh có quyền ra luật "biết lành biết dữ", đưa nhân loại tới đúng địa vị và cao quý: là thụ tạo được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, địa vị làm con cái Thiên Chúa. Rao giảng Thánh giá của mình, Ngài rao giảng sự chiến thắng của Ngài bằng cái chết vâng phục để đánh gục sự kiêu căng của Ađam Evà và nhân loại đồng thời là sống lại lên trời vinh hiển của Ngài để kéo nhân loại về trời, kéo cả vũ trụ về với Thiên Chúa Cha.

Trong mầu nhiệm Vượt Qua (chết và sống lại lên trời vinh hiển), Chúa Kytô vâng phục để đánh bại sự bất vâng phục, sự kiêu căng của loài người, Chúa Kytô chịu đau khổ để xóa hết mọi đau khổ của nhân loại, Chúa Kytô chịu chết để tiêu diệt cái chết cho nhân loại, Chúa Kytô sống lại lên trời vinh hiển để cứu độ nhân loại nghĩa là kéo mọi người về trời. Tội lỗi, sự chia rẽ, kỳ thị chủng tộc v.v, sự chết đã bị Thánh giá Chúa Kytô tiêu diệt và đem lại hạnh phúc đời này nhờ bác ái và hạnh phúc đời đời được trả lại cho nhân loại nhờ Thánh giá Chúa Kytô.

Thánh giá Chúa Kytô đã thắng thập giá của Roma, của loài người trở thành dấu hiệu của thực tại chiến thắng do Chúa Kytô "lập công" cho nhân loại. Sức mạnh của Chúa Kytô có cờ hiệu là Thánh giá đang chinh phục thế giới và sẽ đạt được thành công hoàn toàn trong ngày Ngài quang lâm, khánh thành công trình cứu độ trần gian và vũ trụ. Thánh giá của bác ái nên tất cả mọi hoạt động bác ái, thăng tiến con người, cho con người bớt khổ, bớt hận thù, cho con người sống hạnh phúc đều góp phần vào Thánh giá Chúa Kytô. Trái lại, những ai gây đau khổ cho con người, những ai gây căm thù, những ai gây chết chóc cho con người là những kẻ đưa thập giá Roma đến cho con người.

Thánh giá Chúa Kytô còn là dấu hiệu của thời gian cánh chung, thời gian cận Quang lâm tức là thời gian chúng ta đang sống, lời xét xử của Chúa Kytô đã vang lên: "Hỡi những kẻ Cha thầy đã chúc phúc, hãy vào Nước Trời đã dọn sẵn cho anh chị em từ tạo thiên lập địa vì từ xưa Thầy đói anh chị em đã cho ăn, Thầy khát, anh chị em đã cho uống, Thầy là khách lạ, anh chị em đã tiếp rước, Thầy trần truồng, anh chị em đã cho mặc, Thầy đau yếu, anh chị em đã đến chăm nom, Thầy ngồi tù, anh chị em đã đến viếng thăm" (Mt 25,34-36) nghĩa là "anh chị em đã làm những điều bác ái nầy cho những người khốn khổ là anh chị em đã làm cho chính Thầy" (Mt 25,40).

Trong Thánh giá Chúa Kytô, đau khổ và cái chết là do thập giá Roma gây nên, vì thế ta nên nhớ rằng đau khổ và cái chết của Chúa Kytô không phải là lễ vật mà Chúa Kytô dâng lên Chúa Cha. Chúa Cha trong công trình sáng tạo đã không tạo ra đau khổ và sự chết nơi loài người. Lễ vật Chúa Kytô hiến dâng Chúa Cha trên thập giá chính là tâm tình hiến dâng và vâng phục Chúa Cha hợp với yêu mến loài người đang bị hư vong. Trong mảnh đất đau khổ và chết chóc do Chúa Kytô chịu mọc lên bông hoa cực đẹp là tâm tình hiến dâng, và vâng phục Chúa Cha. Kẻ gây ra đau khổ và cái chết cho Chúa Kytô đã phạm một tội ác lớn hết sức: giết Con Thiên Chúa.

Trong cái chết biểu lộ sự hy sinh cao cả và tột đỉnh, giá trị hy sinh chịu chết thể hiện con người sống bác ái. Cái chết đền tội cho cả nhân loại, cái chết để cho nhân loại khỏi chết.

Đến lượt mọi Kytô hữu, trong bí tích Thánh tẩy (Rửa tội) đã được cùng chết với Chúa Kitô (bỏ con người tội lỗi), đã cùng được an táng với Chúa Kytô và cùng được sống lại với Chúa Kytô (Colossê 3,3 ; Roma 6,4). Như vậy, ta được sự sống của Thiên Chúa trong ta khiến ta là con Thiên Chúa Cha, là con Thiên Chúa Cha trong người con duy nhất là Chúa Kytô (filius in Filio) tức là em của Chúa Kytô, là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Cái chết đến với ta chỉ là phương tiện bỏ đi những chướng ngại của con người trần gian để sự sống của Chúa trở thành viên mãn, ta hưởng Nhan Thánh Chúa.

Còn đau khổ hiện tại ta đang phải vác ?

Chúng ta đã biết đau khổ, cái chết tự nó không có giá trị, và loài người đang tìm cách đẩy lui nó, Thánh giá Chúa Kytô tiêu diệt nó. Tuy nhiên phải phân biệt:

- Đau khổ như Giuđa sau khi đã bán Chúa do hối hận quá sức đưa tới tự vận, thứ đau khổ nầy, xét về mặt tự nhiên, có một cái gì đáng nói, đáng suy nghĩ và cảm phục một phần nào, nhưng xét về mặt siêu nhiên, đau khổ và cái chết của Giuđa không thể xem như một lễ vật đền tội được.

- Đau khổ của Thánh Phaolô: một cái dằm đâm vào thân Ngài, một thần sứ satan

(2 Cor 12,7), thánh nhân đã ba lần xin Chúa cho thoát khỏi khổ nầy (2 Corintô 12,7-8), nhưng Chúa lại cho thánh nhân biết: "Ơn Chúa bảo trợ cho thánh nhân là đủ rồi, và cũng nhờ đó, sức mạnh của ơn Chúa rõ ràng nơi hèn yếu, bất lực" (xem 2 Cor 12,19).

Trên bước đường truyền giáo, thánh nhân đã chịu rất nhiều đau khổ: bị người Do Thái đánh đòn 5 lần, bị đắm tàu 3 lần, bị ném đá một lần… và Ngài đã nói thực đang mang trong mình cuộc tử nạn của Chúa Kytô (xem 2 Cor 4,10) để bù đắp đầy đủ những gì còn thiếu sót nơi cuộc tử nạn của Chúa Kytô (xem Colossê 1,24).

Những đau khổ nầy tự nó không phải là lễ vật, nhưng từ đó nở bông hoa bác ái: yêu mến Chúa Kytô cao độ và hy sinh vì ơn Chúa đã gọi Ngài đi truyền giáo… là lễ vật hợp với lễ vật của Chúa Kytô.

Sách Công vụ Tông đồ ghi nhận tâm trạng của thánh Phêrô và thánh Gioan sau khi ra khỏi Công nghị Do thái: "Các ngài hân hoan mà ra khỏi công nghị vì đã thấy mình chịu sỉ nhục vì danh Chúa Kytô" (CvTđ 5,41).

Vậy, đau khổ có phúc khi kết hiệp với đau khổ của Chúa Kytô để đạt tới cứu cánh là thực thi đức bác ái, là cứu độ, là đem lại hạnh phúc. Ở đời, người ta đánh giá rất cao loại đau khổ đạt tới đức bác ái: người mẹ chịu đau khổ vì con để cứu con khỏi đường tội lỗi (thánh Monica v.v) bà mẹ chịu khổ sở giúp con cai nghiện ma túy v.v.

Đau khổ loại nầy không phải là thứ cam chịu, nhưng là một cuộc chiến đấu. Người Kytô hữu chịu đau khổ vì phải giữ Đạo v.v là một cuộc chiến đấu với Chúa Kytô, kết hiệp với Chúa Kytô phát triển và làm lan tỏa đức bác ái thánh thiện.
Còn những đau khổ do:

- Không giữ gìn sức khỏe nên mắc nhiều bệnh tật.
- Không chịu học hành nên phải sống trong cảnh ngu dốt.
- Lười biếng nên phải lâm cảnh nghèo đói v.v
Nếu nói đó là Thánh giá Chúa Kytô gửi đến thì chẳng khác gì "lăng nhục" Thánh giá Chúa Kytô.

Linh mục Fx Nguyễn Hùng Oánh

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-9: THINH LẶNG CỦA THẬP  GIÁ  -  ASTY/98:

 

Trong suốt ngày thứ sáu hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta đi vào thinh lặng. Phải, thinh lặng để: Tuầnthánh 6-9


Trong suốt ngày thứ sáu hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta đi vào thinh lặng. Phải, thinh lặng để ngắm nhìn Chúa Giêsu trên thập giá. Thinh lặng để lắng nghe tiếng nói từ thập giá, bởi vì thập giá mãi mãi vẫn là một màu nhiệm. Tại sao điều đó có thể xảy ra cho Thiên Chúa ? Tại sao con Thiên Chúa lại có thể chịu chết treo trên thâp giá ? Trong một cuộc đối thoại tưởng tương với người trộm lành, thánh Augustinô đã hỏi người đó như sau: Làm sao anh có thể hiểu được những gì xảy ra bên cạnh anh, trong khi đó chúng tôi là những nhà chuyên môn, là những tiến sĩ luật, chúng tôi không hiểu được những lời ứng nghiệm của Kinh thánh. Ngay trước mắt chúng tôi ông có đọc Kinh thánh không ? Ông có biết tiên tri Isaia đã loan báo về cuộc tử nạn của Chúa như thế nào không ? Người trộm lành trả lời như sau: Không. Tôi chưa bao giờ học hỏi về Kinh thánh, nhưng Chúa Giêsu đã nhìn tôi và trong cái nhìn của Ngài, tôi đã hiểu được tất cả mọi sự. Một vị Hồng y già trong cơn hấp hối đã nhắn nhủ như sau: Chúng ta nói rất nhiều những lời hay ý đẹp về sự đau khổ, tôi cũng đã từng hăng say làm như thế, nhưng xin hãy nhắn với các linh mục rằng: đừng nói gì cả. Chúng ta không biết gì về đau khổ.

Về cuộc tử nạn và cái chết của Chúa Giêsu, thiết tưởng chúng ta chỉ nên giữ thinh lặng. Trong thinh lặng, chúng ta mới cảm nhận được cái nhìn yêu thương trìu mến của Chúa Giêsu. Và trong cái nhìn ấy, chúng ta mới nghe được chính tiếng nói của Ngài. Chỉ có kẻ đau khổ mới có thể đưa chúng ta vào nỗi khổ đau của họ. Chỉ có Chúa Giêsu mới có thể đưa chúng ta vào nổi khổ đau của Ngài. Sự thinh lặng đưa chúng ta vào mâu nhiệm của khổ đau. Trong hai người cùng chịu treo trên thập giá bên cạnh Chúa Giêsu, một người đã không ngừng lên tiếng kêu gào rủa xả, trong khi đó kẻ được mệnh danh là người trộm lành chỉ biết thốt lên với lời van xin cứu vớt: Đối với chúng ta điều đó thật là phải lẽ xứng với tội lỗi chúng ta. Nhìn lên thập giá, mỗi người chúng ta chỉ có thể đấm ngực ăn năn về chính tội lỗi của mình mà thôi. Thập giá của Chúa Giêsu vẫn luôn có đó để chiếu rọi vào thân phận tội lỗi của con người. Thập giá không chỉ mạc khải về tội lỗi của con người, mà còn tỏa chiếu ánh sáng của Tình yêu. Cái chêt của Chúa Giêsu trên thập giá là biểu lộ của một tình yêu tha thứ cho đến cùng. Có lẽ người trộm lành đã hiểu được điều đó khi anh quay sang nhìn Chúa Giêsu. Trong ánh mắt của Ngài, người trộm lành chỉ có thể thấy bừng lên tình yêu nhân từ và tha thứ. Bên cạnh Chúa Giêsu, người trộm lành được ôm ấp với cái nhìn tha thứ và trìu mến của Ngài. Với chúng ta cũng vậy, hãy để cho Ngài ôm ấp trọn alý chúng ta trong tình yêu khoan dung và tha thứ. Hãy để cho ánh mắt yêu thương của ngài đốt cháy tâm hồn khô khan, nguội lạnh và tội lỗi của chúng ta.

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-10: Tư cách cao cả của Đức Giê-su

 

Như ta đã biết, cả 4 tác giả sách Tin mừng đều kể lại tỉ mỉ cuộc Thương Khó của Chúa, nhưng mỗi: Tuầnthánh 6-10


Như ta đã biết, cả 4 tác giả sách Tin mừng đều kể lại tỉ mỉ cuộc Thương Khó của Chúa, nhưng mỗi tác giả nhấn mạnh một số điểm riêng. Trong bài viết của mình, thánh Gio-an trước hết muốn làm nổi bật tư cách cao cả của Đức Giê-su.

Ngài chính là vị Thượng tế của đạo mới, cũng như niềm tin của tác giả thư Do-thái mà ta vừa nghe trong bài đọc I. Thánh Gio-an khéo léo giới thiệu như thế qua đoạn kể lại sự đối diện giữa Đức Giê-su và thượng tế Cai-pha, trong đó tư cách của Đức Giê-su trổi vượt hơn và chức thượng tế của đạo cũ tỏ ra không còn giá trị gì nữa.

Rồi qua chi tiết cái áo dài một đường chỉ, gợi lên hình ảnh cái áo dài của vị thượng tế – chi tiết Đức Giê-su không bị đánh dập ống chân, nhưng bị đâm vào cạnh sườn, khiến nước và máu chảy ra, gợi đến lễ tế chiên Vượt Qua ở đền thờ và công bố Đức Giê-su là đền thờ Giê-ru-sa-lem mới có nước ban sự sống mới chảy ra từ bên hông.

Tư cách cao cả thứ hai của Đức Giê-su, đó là Ngài là Vua. Thánh Gio-an cho thấy điều đó qua lời giới thiệu của Phi-la-tô "Đây là vua các ngươi…", qua việc ông đặt Ngài trên toà đá và không sửa lại bảng viết trên thập giá ghi: "Giê-su Na-da-rét, vua dân Do-thái".

Đồng thời, ở nhiều chỗ trong bài Thương Khó, thánh Gio-an nhấn mạnh đến vẻ uy nghi lẫm liệt của Đức Giê-su. Cụ thể là ở vườn Cây dầu, Ngài vừa phán bọn lính đã ngã lăn – rồi trước mặt Caipha và ở phủ đường Phi-la-tô: đâu đâu Ngài cũng cho thấy cái oai của Ngài. Ngài thật là vị Chúa của hoàn cảnh, chính Ngài rõ biết mọi sự đang và sắp xảy ra, chính Ngài điều hành mọi việc, chứ không phải Giu-đa hay các đối thủ của Ngài. Thậm chí Ngài còn mặc khải mình là Thiên Chúa qua nhiều lần xưng nhận "Chính là Ta" như Gia-vê vẫn thường mặc khải trong Cựu Ước.

Thế nhưng mặt khác, bài Thương Khó của thánh Gio-an cũng nhấn mạnh thái độ của Đức Giê-su là chấp nhận đi vào cuộc khổ nạn, theo thánh ý Chúa Cha. Ở vườn cây dầu, Ngài để cho các đối thủ bắt mình, Ngài ra lệnh cho Phê-rô xỏ gươm vào bao. Ở dinh Phi-la-tô, Ngài nói rõ với quan ấy "Ông không có quyền gì trên Tôi, nếu từ trên không ban xuống cho". Rõ ràng Ngài không phải là kẻ thất thế, Ngài dư sức thóat mọi mưu toan của đối thủ, dư sức vô hiệu hóa mọi sức mạnh của chúng, nhưng Ngài tự nguyện uống chén đắng Cha ban, coi khổ nạn là thánh ý từ muôn đời của Cha và như một hồng ân Cha ban. Ngài hoàn toàn tự do và sáng suốt chấp nhận trở nên Người Tôi Tớ thống khổ như I-sai-a từng báo trước ( Bài đọc I ). Ngài không dùng quyền năng chống lại con người nhưng để cho họ hành động, tôn trọng tự do của họ.
Và đến đây, lòng dạ độc ác của con người, tội của thế gian mới lộ hiện hết mức. Khi được toàn quyền hành động trước một Đức Giê-su không kháng cự, hàng lãnh đạo Do-thái mới để lộ hết lòng dạ thâm độc của mình. Khi Phi-la-tô hỏi " các người tố cáo ông này về tội gì ?" họ đáp lại một cách mơ hồ, không kể ra một tội nào. Điều đó nói lên rằng đầu óc người Do-thái chỉ có một ước muốn là giết Đức Giê-su. Vậy chính ở sân phủ đường Phi-la-tô, thế gian đã cho thấy tội của nó có thể đi tới tận mức độ nào, nó có thể vô ơn, khinh mạn đối với Thiên Chúa đến mức phủ nhận chối từ mọi mặc khải của Người, và thậm chí khử trừ Người khỏi cõi thế.

Đạo chúng ta là đạo tôn thờ Thánh Giá Chúa. Hình ảnh Thánh Giá này luôn nhắc chúng ta vì tình thương thí thân tự hủy mà Chúa đã biểu lộ vì ta, nhắc cuộc Thương Khó và sự chết của Chúa là phương thế cứu chuộc ta, mà cũng luôn buộc ta nhớ đến mức tối đa của tội thế gian: mức khước từ Chúa, mức giết Chúa. Liệu chúng ta có dám sống ngược thế gian không, có thực sự thuộc số những kẻ mến thương Chúa, tôn thờ Chúa và không đóng đinh Chúa không ? Cái hôn giờ đây mỗi người chúng ta sắp đăt trên chân Chúa sẽ là gì ? Là cái hôn giả hình, phản bội của Giu-đa, hay là cái hôn yêu mến, xin lỗi, thề hứa yêu mến ?

Xin Chúa kéo tất cả chúng ta lên gần Ngài, như lời Ngài phán: "Một khi Ta được giương cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lại với Ta".

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-11: LỜI TRĂN TRỐI CUỐI CÙNG CỦA CHÚA GIÊSU


Ngày 14.4.2006 - Thứ Sáu Tuần Thánh

 

Các lời trăn trối cuối cùng của Chúa Giêsu trên đồi Tử Nạn, khiến tôi nhớ lại tám  lời dạy đầu: Tuầnthánh 6-11


Các lời trăn trối cuối cùng của Chúa Giêsu trên đồi Tử Nạn, khiến tôi nhớ lại tám  lời dạy đầu tiên trên núi Bát Phúc. Bởi những lời trăn trối cuối cùng, dường như có sự tương đồng cách lạ thường với Tám mối Phúc thật.

1. Nghèo khó = “Lạy Cha, con phó linh hồn trong tay Cha.” (Lc 23, 46).

Sống cho mọi người, Chúa Giêsu hoàn toàn hạ mình, để không còn gì cho riêng mình. Người nói: “Con chim có tổ, con chồn có hang, nhưng Con Người không chốn gối đầu”. Suốt cuộc đời trần thế, Chúa Giêsu phó thác chính mình hoàn toàn trong tay Chúa Cha, để biến mình thành của lễ cứu chuộc trần gian. Giờ đây, trên đồi Tử Nạn, Người tiếp tục bị loài người tước đoạt đến không còn gì, ngay cả chiếc áo cuối cùng, nhân phẩm, mạng sống, cả đến giọt máu sau hết, loài người cũng trút sạch. Phút cuối, tấm linh hồn Chúa cũng trao về Chúa Cha. Người gục đầu tắt thở trong sự cô đơn tận cùng.

2. Hiền lành = “Hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với Ta.” (Lc 23, 34).

Chúa Giêsu hiền lành, sẵn sàng tha thứ và đón nhận tất cả những ai có lòng thành thật, biết nhận ra lỗi lầm, trở về đường ngay. Người tha cho Maria Mađalêna, một cô gái bị xã hội đào thải, bởi đã từng ngụp lặn trong tội. Chúa hiền lành quá đỗi, ngược hẳn thái độ háo thắng, dồn dập của những người đang hồ hỡi kết án chị phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang. Bằng cái nhìn độ lượng, không như những kẻ muốn ăn tươi nuốt sống chị, Người tuyên bố “Ta không kết án chị”. Giờ đây, trên thánh giá, cái nhìn dịu hiền ấy, Chúa dành cho người trộm lành. Người hứa chắc chắn với anh: “Hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với Ta.”

3. Đau buồn = “Lạy Chúa, Lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ con.” (Mt 27, 46).

Nỗi đau buồn của Chúa Giêsu là nỗi đau cực độ. Người đã từng khóc thương thành Giêsusalem cứng đầu. Người đau lòng bởi những kẻ nhân danh đạo đức, lạm quyền, chất gánh nặng lề luật trên đôi vai dân chúng. Người đau lòng bởi những người thấp cổ bé miệng bị gạt ra bên lề xã hội. Người thương dân chúng bơ vơ tức tưởi bởi những kẻ lãnh đạo không đáng là mục tử của họ. Cuối cùng, trước khi nhắm mắt lìa đời, Chúa Giêsu đau khổ đến tột cùng, bởi cảm nhận sự cô đơn đến nỗi đã thốt lên những lời thống thiết: “Lạy Chúa, Lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ con”.

4. Đói khát sự công chính = “Ta khát!” (Ga 19, 28).

Đã có lần Chúa khát và đến xin nước uống bên bờ giếng Giacob. Lần đó, Chúa đưa chị phụ nữ Samaria có đến sáu đời chồng, từ cơn khát tội lỗi đến khao khát “nước Trường Sinh”. Giờ đây, trên thánh giá, một lần nữa… Chúa khát. Lần khao khát này, không chỉ một người, nhưng là toàn nhân loại được Chúa đưa đến mạch Nước Trường Sinh là chính Chúa, để ai đến với Chúa, sẽ được tha thứ và được ban sự sống đời đời.

5. Thương xót = “Hỡi Bà, này là con Bà.” (Ga 19, 26).

Chúa Giêsu, Đấng đầy lòng yêu thương. Cả một đời trần thế, Chúa tỏ bày lòng yêu thương với các môn đệ, với dân chúng, với những kẻ thù ghét Chúa, với hết mọi người. Chúa yêu mến và vâng phục Đức Maria. Chúa yêu thánh Gioan đến nỗi thánh Gioan rất tự hào với danh hiệu “Người môn đệ Chúa yêu”. Giờ đây, trên thánh giá, người đáng thương lẽ ra là chính Chúa, thì Chúa lại thực hiện nghĩa cử yêu thương cho Đức Mẹ, cho thánh Gioan, khi trối thánh Gioan làm con Đức Mẹ. Chúa sẽ tiếp tục tỏ lộ lòng thương xót ấy, khi cầu xin ơn tha thứ cho chúng ta: “Lạy Cha, xin tha cho chúng”.

6. Lòng trong sạch = “Hỡi Gioan, này là mẹ con.” (Ga 19, 27).

Người có lòng trong sạch là người không vướng mắc tội đời. Chúa Giêsu có lòng trong sạch tuyệt đối. Người đã từng thách thức những kẻ thù ghét Người: “Ai trong các ngươi bắt được lỗi của Ta?” Chúa Giêsu luôn rao giảng trong sự chân thành. Suốt đời, Người là Đấng “Có thì nói có, không thì nói không.” Giờ đây, khi trao gởi thánh Gioan cho Đức Mẹ, Chúa muốn Đức Mẹ đón nhận thánh Gioan như đón nhận chính Chúa, Người Con suốt đời thánh thiện của Mẹ. Qua thánh Gioan, Chúa cũng nối kết chúng ta với Chúa để đón nhận ơn tha thứ, trở nên thanh sạch như thánh Gioan, để từng người chúng ta cũng được xứng đáng làm con của Đức Mẹ.

7. Hòa bình = “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm.” (Lc 23, 34).     

Điều kiện để có hòa bình là phải biết tha thứ. Chúa Giêsu tha thứ cho tất cả những ai thù ghét Chúa, bởi Chúa chính là nguồn bình an vô tận của cả loài người. Chúa không chỉ tha thứ khi loài người treo Chúa lên thánh giá, nhưng Người tha thứ ngay trong đời sống thường ngày, khi bị người đời chống đối, ghét bỏ. Rất tiếc, loài người vì hẹp hòi, ích kỷ, nên đã thù ghét Chúa. Họ đã không thể nhận được ơn bình an. Cùng với sự tha thứ vô bờ của Chúa, Chúa cũng dạy chúng ta: “Hãy yêu kẻ thù, và cầu nguyện cho những kẻ bách hại anh em”. Chúng ta hãy nhìn lên tấm gương tha thứ của Chúa, lắng nghe lời Chúa dạy mà sẵn sàng tha thứ cho nhau, để khắp nơi có hòa bình, và tâm hồn chúng ta thực sự bình an.

8. Bị bách hại vì lẽ công chính = “Mọi sự đã hoàn tất.” (Ga 19, 30).

Những lời trên núi Bát Phúc để chúc phúc cho Hội Thánh: “Phúc cho ai bị bách hại”, thì giờ đây, trên đồi Tử Nạn, Chúa Giêsu trở thành người bị bách hại nặng nề. Dường như lời giảng khai mạc trên núi Bát Phúc, chỉ có thể được kết thúc trên đồi Tử Nạn. Ở giữa của một khoảng dài khai mạc và kết thúc ấy, là một cuộc bách hại liên tục: Chúa bị bách hại trong đám dân nghèo lắng nghe Tin Mừng, trong không biết bao nhiêu anh chị em bị quỷ ám, bị bệnh tật, bị xã hội loại bỏ. Chính bản thân Chúa Giêsu đã nhiều lần trong lời rao giảng, bị người ta cho là chói tai, nhiều lần họ muốn ném đá Chúa. “Mọi sự đã hoàn tất.” Giờ đây, một cuộc đời bị bách hại của Chúa đã kết thúc cùng với cái chết của Người trên thánh giá.
Chúa chúng ta đã chết, nhưng cái chết của Chúa là phúc lớn cho chúng ta. Còn hơn cả Tám mối Phúc thật, Phúc mà Chúa ban cho ta là ơn cứu độ đời đời, cho ta sống đời đời trong Nước Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa chết vì chúng con. Hôm nay, ngày thứ sáu tuần Thánh, tưởng nhớ việc Chúa chấp nhận cái chết thương đau trên thánh giá, chúng con vừa mừng, vừa  âu sầu. Mừng vì chúng con có một Thiên Chúa quá yêu chúng con. Chính tình yêu đó cho chúng con hy vọng rằng, dù chúng con có thế nào, thì tình yêu của Chúa mãi mãi vẫn là tình yêu cứu độ, luôn luôn đợi chờ chúng con. Nhưng buồn vì chúng con biết mình phạm tội nhiều. Xin tha thứ cho chúng con.

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-12: CS/48- PHẢN TRẮC 

 

Trong bữa tiệc mừng lễ Vượt qua giữa Chúa Giêsu và các tông đồ ngày xưa, nếu như không: Tuầnthánh 6-12


Trong bữa tiệc mừng lễ Vượt qua giữa Chúa Giêsu và các tông đồ ngày xưa, nếu như không xảy ra câu chuyện của ông Giuđa Iscariot thì có lẽ bữa tiệc sẽ trở thành một kỷ niệm rất đẹp và đáng nhớ về tình thầy trò, về nghĩa yêu thương. Và nếu không xảy ra sự việc đáng tiếc ấy thì có lẽ trong lịch phụng vụ của Hội thánh đã có ngày lễ kính thánh Giuđa Iscariot rồi.

Nhưng ông Giuđa là ai? Ông đã làm gì đến nỗi phá vỡ những giá trị cao quí ấy? Thiết tưởng ta không thể nói về ông một cách hàm đồ do những suy nghĩ thiếu cơ sở. Ta chỉ có thể dựa vào Tin mừng để tìm hiểu đôi điều về ông mà thôi.

- Ông Giuđa là tông đồ của Chúa Giêsu:

Điều đầu tiên ta có thể nói được về ông đó là ông đã được Chúa Giêsu tuyển chọn làm tông đồ của Người. Cũng như các tông đồ khác, ông đã được Chúa Giêsu tuyển chọn một cách kỹ lưỡng qua một đêm thức trắng để cầu nguyện. Tên của ông đã được liệt vào số 12 tông đồ. Ông còn được Chúa Giêsu và các anh em tín nhiệm trao phó cho công tác thủ quỹ của cộng đoàn. Như các tông đồ khác, ông đã đi theo Chúa Giêsu trên khắp các nẻo đường truyền giáo, đã được nghe những lời giảng dạy của Người, đã được thấy những phép lạ Người làm, đã cùng ăn, cùng ở với Chúa Giêsu. Và như các tông đồ khác, chắc chắn khi được Chúa Giêsu kêu gọi, ông cũng đã từ bỏ mọi sự và mau mắn đáp lại tiếng gọi của Người.

- Ông Giuđa là kẻ phản bội:

Tuy nhiên, ông Giuđa đã không giữ mãi được danh hiệu tông đồ của mình, bởi ông đã phản bội. Ông đã trở thành một kẻ chỉ điểm cho người ta bắt thầy mình. Ông đã tự ý rời bỏ anh em, những người cùng chung một lý tưởng, một sứ mạng với ông. Nhưng vì đâu từ một tông đồ nhiệt tình, một tông đồ có khả năng, ông lại trở thành kẻ phản bội? Vì đâu một người đã từng chia vui, sẻ buồn với Chúa Giêsu trong suốt ba năm trời lại có thể bán đứng thầy mình như vậy?

Kinh thánh nói rằng:”Vì Satan nhập vào ông”. Thì ra đầu mối của sự phản bội là ở đó. Thật vậy, hành vi tội lỗi nào của con người cũng đều có sự xúi giục của satan. Việc chống lại Thiên Chúa bao giờ cũng do Satan cầm đầu, bởi Satan là kẻ thù không đội trời chung với Thiên Chúa. Nhưng điều đáng nói là Satan không thể tông cửa mà vào, nếu ông Giuđa đã không mở cửa lòng để đón nó. Có lẽ ông Giuđa đã không hiểu được sự khôn khéo của Satan là nó không xuất hiện dưới dạng kẻ thù của Thiên Chúa hay của ông, nhưng nó xuất hiện như một người bạn.

Chính vì thế mà ông đã rơi vào cạm bẫy của nó. Và một điều khôn khéo khác của satan là nó không đẩy ông xuống vực thẳm ngay, nhưng từng bước một. Chắc hẳn từ ban đầu Satan đã không thúc đẩy ông Giuđa phản bội thầy mình. Nhưng có lẽ nó đã dập tắt lửa nhiệt tình tông đồ nơi ông và hướng cái nhìn của ông về phía các tạo vật, cụ thể là tiền bạc. Chẳng hạn khi bà Maria xức dầu thơm vào chân Chúa Giêsu, ông đã phản đối:”Sao không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng mà cho người nghèo?” Sau này thánh Gioan đã viết về ông rằng:”Ông Giuđa nói điều ấy không phải vì lo lắng cho người nghèo, nhưng vì ông là một tên ăn cắp. Ông giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung”. Thì ra là thế. Và một khi lòng tham đã lên tới cực điểm, khi tiền bạc đã che mờ đôi mắt thì người ta có thể làm bất cứ điều gì dù là điều tồi tệ nhất.

Một điều đáng nói khác về ông Giuđa đó là: Trong quá trình ông đi dần tới vực thẳm, Chúa Giêsu đã dùng mọi cách để nhắc nhỡ, để cảnh tỉnh, để kêu gọi lương tri và để cảm hóa ông, nhưng tất cả đều vô ích. Ông mở rộng cửa tâm hồn cho ma quỉ nhưng lại đóng chặt cánh cửa ấy trước Thiên Chúa, và vì thế, cuối cùng ông đã trở thành kẻ phản bội, trở thành kẻ thù của thầy mình.

Nhưng thật xót xa cho ông, chỉ sau khi đã phản bội, đã bán thầy mình với giá của một tên nô lệ là ba mươi đồng bạc, ông mới bừng tỉnh để thấy rõ tội lỗi tầy trời của mình. Ông đã cay đắng hét lên:”Tôi đã phạm tội vì làm đổ máu người vô tội”. Bây giờ thì ông không còn một chút ham muốn nào đối với điều mà trước đây ít phút ông đã từng khao khát. Những vẻ hấp dẫn của tội lỗi mà Satan đã tô vẽ trước mắt ông không còn nữa. Cuối cùng chỉ còn lại sự ân hận và day dứt khôn nguôi.

Dầu vậy, cánh cửa trời vẫn chưa đóng lại trước mắt ông. Ông vẫn còn có thể làm lại cuộc đời. Thầy Giêsu vẫn giang rộng đôi tay để đón lấy ông, ôm ông vào lòng và tha thứ cho ông. Chính Người đã từng nói:”Khi nào tôi được giương lên cao khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”. Hoặc:”Thầy đi để dọn chỗ cho anh em. Thầy muốn rằng: Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ ở đó với Thầy”. Nhưng ông Giuđa không còn nhớ gì nữa, không còn nghe thấy gì nữa, bởi đã từ lâu ông không còn thói quen nghe tiếng Thầy mình mà chỉ quen nghe tiếng nói của Satan. Ông đã tự chọn chỗ ở cho mình mà ông đi đến chỗ mà ông đã chọn. Chỗ của Satan. Chỗ của cái chết ngàn thu.

Phải chăng mỗi người chúng ta lại chẳng từng cưu mang một ông Giuđa trong tâm hồn và trong cuộc đời mình? Một ông Giuđa phản bội lại Đấng đã yêu thương mình. Một ông Giuđa đã luôn mở rộng tâm hồn để đón Satan vào. Một ông Giuđa chai đá trước những lời cảnh tỉnh của Thầy chí thánh. Một ông Giuđa coi trọng của cải vật chất hơn chính Thiên Chúa của mình. Một ông Giuđa tuyệt vọng trước một Thiên Chúa luôn mở ra những cánh cửa hy vọng cho con người.

Nếu cuộc đời chúng ta như thế thì chỗ ở của ta cũng sẽ là chỗ mà ông Giuđa đã chọn.

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-13: CS/51- NGƯỜI CHIẾN SĨ

 

Vào một buổi chiều ngày thứ sáu cách đây hơn 2000 năm, ba cây thập giá đã được dựng lên: Tuầnthánh 6-13


Vào một buổi chiều ngày thứ sáu cách đây hơn 2000 năm, ba cây thập giá đã được dựng lên trên ngọn đồi Golgotha. Ba cây thập giá mang ba con người tơi tả vì đòn roi và vì những cực hình. Máu nhuộm đỏ thắm những tấm thân tơi tả ấy. Trước mắt những nhà cầm quyền thì đây là một chiến công, vì đã khử trừ được những tên phản động, những kẻ gây rối trật tự trị an. Đối với những tên lý hình thì đây là một trò giải trí thú vị, vì nó thỏa mãn bản năng dã thú nơi họ. Đối với quần chúng thì biến cố xem ra đã tăng thêm niềm vui cho ngày đại lễ Vượt qua mà họ đang nô nức cử hành…

Cả một rừng người có mặt hôm ấy đã chứng kiến cuộc hành hình này, nhưng dường như tất cả đều bị mù trước sự bất công của bản án. Chỉ có một người không bị mù, đó là một trong hai người cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu mà ta quen gọi cách bình dân là “anh trộm lành”.Anh không mù vì anh biết người, biết ta. Anh không mù vì anh biết nạn nhân bị đóng đinh bên cạnh anh là người vô tội. Khi bạn anh đồng lõa với lý hình để chế nhạo Chúa Giêsu, anh đã lên tiếng bênh vực  Người:”Chúng ta phải chịu như thế này là đích đáng vì xứng với việc chúng ta đã làm. Còn người này có làm chi nên tội”. Và liền sau đó anh đã thưa với Chúa Giêsu:”Ông Giêsu ơi! Khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi”.
Chỉ mấy lời ngắn ngủi ấy thôi, anh đã xứng đáng được phong danh hiệu là Người Chiến Sĩ. Chiến sĩ của công lý, chiến sĩ của tình yêu và chiến sĩ của lòng thống hối.

- Là chiến sĩ của công lý vì anh đã dám lên tiếng bênh vực cho công lý. Quan tòa xử phạt anh, anh công nhận điều đó đúng vì anh có tội. Nhưng xử phạt ông Giêsu thì lại không đúng chút nào, bởi “người này có làm chi nên tội”? Anh công khai bênh vực Chúa, công khai tuyên bố đứng vào cánh quân của Người. Chỉ mình anh là trạng sư của phiên tòa. Chỉ mình anh là nhân chứng duy nhất đã dám phản kháng bản án. Giữa lúc Chúa Giêsu bị cô thế, cô thân, anh đã không đồng lõa với bạo cường như bạn anh để lên án Chúa, nhưng đã tố giác sự bất công của bản án.

- Là chiến sĩ của lòng thống hối vì anh ý thức về tình trạng tội lỗi của mình và đã dám nhận tội, không biện minh, không bào chữa, không đổ lỗi cho hoàn cảnh, cho người khác, không phàn nàn về hình phạt, nhưng chấp nhận như bày tỏ lòng sám hối. “Chúng ta chịu như thế này là đích đáng vì xứng với việc đã làm”. Biết mình có tội và anh đã xin Chúa thứ tha. “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Một lời kinh phát xuất tự đáy lòng, rất chân thành, rất tin tưởng và rất khiêm tốn. Anh không đòi hỏi, không câu thúc, không ép buộc Thiên Chúa làm bất cứ điều gì cho mình. Anh chỉ dám xin Chúa nhớ tới anh thôi.

- Là chiến sĩ của tình yêu bởi lời kinh của anh tuy đơn sơ nhưng lại có giá trị như một giờ đền tạ. Trừ anh ra, không có một người nào, kể cả các môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu đã làm giờ đền tạ lúc Người bị nhạo cười, bị hành hạ và bị đóng đinh. Trong khi mọi người câu kết với nhau để chống lại Chúa, trong khi các đệ tử của Người bỏ trốn đi hết, thì chỉ mình anh đã bênh vực Người, đã nói với Người những lời thật an ủi. Và Chúa Giêsu đã bắt được làn sóng tình yêu của anh. Tội lỗi của anh đã được tha thứ. Tình yêu của anh đã được đền bù. “Tôi bảo thật anh: ngay hôm nay, anh sẽ được ở trên thiên đàng với tôi”.

Mỗi người chúng ta có thể học được nơi “anh trộm lành” bài học về thái độ can đảm bảo vệ chân lý, về lòng thống hối và về tình yêu. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể rút ra từ sự kiện này một chân lý của cuộc sống. Những người mà chúng ta chờ đợi lúc chúng ta đau khổ và thất vọng lại không đem đến cho ta một an ủi nào hết. Chúng ta không nên ngạc nhiên vì điều đó. Chính Chúa Giêsu đã trải qua kinh nghiệm này. Trái lại, những người chúng ta không ngờ sẽ đến với chúng ta như một trò chơi thú vị đầy những xoa dịu ngọt ngào.

- Ông Simon đã không cho Chúa nước rửa chân nhưng là Magdala.

- Những người ăn bánh lạ đã không vác đỡ thập giá cho Chúa, nhưng là ông Simong bị bắt cóc một cách bất ngờ.

- Dân thành Giêrusalem khóc thương Chúa, nhưng chỉ mình “anh trộm lành” đã dám lên tiếng phản đối vụ án bất công và phạm thượng ấy…

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-14: CSTM/90- CÁC NHÂN VẬT

 

Bài Tin Mừng hôm nay được gọi là bài Thương Khó. Kể lại đầy đủ diễn tiến cuộc xét xử và: Tuầnthánh 6-14


Bài Tin Mừng hôm nay được gọi là bài Thương Khó. Kể lại đầy đủ diễn tiến cuộc xét xử và kết án Chúa Giêsu. Đây không phải là một vụ án chính trị mà là một vụ án tôn giáo. Chúa Giêsu bị kết án tử hình không phải vì đã xưng mình là vua nhưng vì đã xưng mình là con Thiên Chúa. Ngài bị giết chết không phải vì có những lời phạn động hay những việc làm chống đối chính quyền hay giáo quyền thời đó, nhưng vì Tin Mừng người công bố đụng chạm đến những sai trái của mọi người và những việc Ngài làm thể hiện tình yêu thương nhân từ của Thiên Chúa. Vì thế, mãi mãi bản án Phi-la-tô dành cho Chúa vẫn là bản án bất công nhất. Nó là tiêu biểu cho biết bao hành động bất công và dã man mà những người vô tội phải gánh chịu qua suốt dòng lịch sử nhân loại.

Thực vậy, Chúa Giêsu chẳng những đã chia sẻ phận làm người mà Ngài còn chia sẻ thân phận của những người yếu thế. Khi suy nghĩ về cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu, chúng ta không thấy đó là chuyện xa xôi, nhưng là chuyệt rất thực của hôm nay. Trên thế giới, mỗi ngày có biết bao Giêsu vô tội bị kết án bất công, bị làm nhục, bị khinh khi, bị hành hạ và đối xử tàn tệ cho đến chết. Và như thế Chúa Giêsu còn bị đónh đinh cho đến tận thế, bao lâu còn những người anh chị em của Ngài ngược đãi, bị khốn khổ. Suy nghĩ về thập giá của Chúa, giúp chúng ta nhạy cảm hơn với thập giá của tha nhân, và nhận ra mình có trách nhiệm trước những đau khổ đang diễn ra trên toàn cầu.

Suy nghĩ về cuộc thương khó của Chúa, tức là vụ án xét xử Chúa, chúng ta  còn thấy điều gì nữa không ? Theo tôi, chúng ta thấy mình không phải là những kẻ đứng ngoài cuộc, mà thấy mình có những nét giống nhân vật này hay nhân vật khác, một cách nào đó, những nhân vật đặc biệt có mặt trong vụ án xét xử Chúa.

Chẵng hạn chúng ta thấy mìnhc có nét giống Giuđa: một người được chọn, được yêu, được theo Thầy rất gần. Được chứng kiến bao phép lạ, được nghe bao lời vàng ngọc. Nhưng tất cả đã tan vỡ khi Giuđa bán thầy với giá ba mươi đồng bạc cùng với một cái hôn giả dối. Chúng ta có nét giống Giu-đa khi chúng ta bán rẻ lương tâm mình vì một sự giả dối hay tham lam gì chăng?

Chẳng hạn chúng ta thấy mình có nét giống Phêrô: ông tự hào về tình yêu của mình đối với Thầy, thế mà lại dễ dàng chối Thầy trước một cô đầy tớ. Thật là tầm thường và hèn nhát. Nhưng tiếng gà gáy khiến Phêrô chợt tỉnh, và nhất là ánh mắt Chúa nhìn ông khiến ông hết sức hối hận và khóc lóc ăn năn thống hối. Trong cuộc đời, vẫn có những tiếng gà và ánh mắt của Chúa, chúng ta có òa khóc, có ăn năn thống hối không ?

Chẳng hạn chúng ta thấy mình có nét giống Philatô: ông bị trói chặt bởi sự sợ hãi: sợ dân nổi loạn, sợ mất chức mất quyền Ông không đủ bản lãnh và không đủ cương quyết để tha một người vô. Chính ông đã chuẩn nhận bản án tử hình của tòa án tôn giáo Do Thái. Chúng ta có im lặng không dám bênh đỡ mà lại còn a dua để xét đoán hoặc  kết án ai không ?

Tuy nhiên, suy nghĩ cuộc thương khó của Chúa, chúng ta thấy cũng có những điểm sáng, những điều tốt đẹp. Đó là Simon vác đỡ thập giá Chúa. Đó là các phụ nữ than khóc Chúa: họ tội nghiệp Chúa, họ thương hại Chúa chăng ? Dù sao họ cũng thể hiện được một nét đặc biệt của người phụ nữ là dễ mũi lòng, dễ xúc động trước một cảnh thương tâm, khổ cực. Chúng ta có dễ động lòng trắc ẩn và nhất là có biết giúp đỡ trước nổi thương đau của người khác chăng ?

Sau hết, một điểm sáng nhất, một khuôn mặt rực rỡ hơn cả là người trộm lành: một người bị đóng đinh tin vào một người bị đóng đinh khác. Anh không những nhìn nhận tội lỗi của mình mà còn tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu. Anh tin Chúa vô tội và anh xin Ngài nhớ đến anh: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi”. Chính vì thế mà anh là người đầu tiên được chính Chúa phong thánh, qua lời tuyên bố: “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”. Thật là một gương sáng cho con tội lỗi của chúng ta.

Tóm lại, trong tuần thánh này, chúng ta hãy suy niệm cuộc thương khó của Chúa Giêsu, để xác tín vào tình yêu thương của Chúa và khiêm nhường nhìn nhận những sai lỗi, những thiếu sót của mình để quyết tâm sửa đổi và sống tốt đẹp hơn.

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-15: SCĐ/ 154- TÂM TRẠNG CỦA BARABA

 

Bài tường thuật cuộc thụ nạn của Đức Giêsu tuy đã dài mà vẫn chưa đủ, vì chưa mô tả tâm: Tuầnthánh 6-15


Bài tường thuật cuộc thụ nạn của Đức Giêsu tuy đã dài mà vẫn chưa đủ, vì chưa mô tả tâm trạng của những người tham dự vào cuộc xử án Đức Giêsu. Và bây giờ chúng ta hãy đi vào tâm trạng của một trong những người đó, Baraba.

Sáng thứ sáu, Baraba đang ngồi trong tù thì cửa tù mở ra, viên cai ngục bước vào gọi Baraba đi ra. Baraba giật mình sợ hãi vì tin chắc người ta sẽ dẫn mình đi xử tử. Hắn là một tên cướp của giết người mà tử hình là điều chắc. Nhưng người ta không dẫn hắn ra pháp trường, mà lại đến dinh Philatô, ở đó đã có sẵn một người tù khác đang bị trói, thân thể tả tơi vì bị tra tấn. Philatô ra lệnh đưa cả hai ra trước công chúng và hỏi: Trong hai người này: Một là Giêsu, hai là Baraba, các người muốn ta tha ai? Baraba cảm thấy nhẹ nhỏm; thì ra người ta dẫn hắn đi không phải để giết mà để hỏi ý dân có muốn tha cho hắn không? Tuy nhiên chỉ nhẹ nhõm trong phút chốc thôi, Baraba lại lo sợ: thế nào dân chúng cũng đòi tha người kia đồng thời đòi giết hắn: tội hắn quá rõ và quá lớn mà.

Thế nhưng Baraba không tin vào tai mình khi nghe dân gào to: Hãy tha cho Baraba và đóng đinh Giêsu. Đến khi Philatô hỏi lại lần thứ hai và dân chúng lại kêu gào lần thứ hai y như lần trước thì Baraba mới tin đó là sự thật. Người ta mở trói hắn và dẫn Giêsu đi. Hắn bước xuống đi về phía đám dân, tưởng rằng người ta sẽ chào đón hoan hô hắn, vì người ta đã thương hắn và xin tha cho hắn mà. Nhưng lạ thay chẳng ai còn quan tâm tới hắn nữa, người ta vẫn còn mải mê gào thét đòi giết Giêsu. Khi đó hắn hiểu ra mình không phải dân chúng yêu thương gì hắn, mà chỉ vì dân chúng đang thù ghét Giêsu. Baraba đi theo đám đông áp tải Giêsu đi đến pháp trường. Giêsu là ai vậy? Chắc là một tên tội phạm còn hung ác hơn hắn nhiều nên mới bị thù ghét như vậy. Khi người ta đã đóng đinh Giêsu xong trên lên thập giá, hắn mới có dịp nhìn kỹ khuôn mặt của người đã chết thay cho mình: chẳng có gì là hung ác, chẳng một lời nguyễn rủa những kẻ hành hạ mình. Hai bên Giêsu, Baraba nhận ra mặt của hai tên đã từng ở tù chung với hắn. Tương truyền tên của hai người này Dicma và Ghetta. Ghetta thì luôn mồm chửi rủa, chửi lý hình, chửi dân chúng và chửi luôn Giêsu. Nhưng Giêsu cũng vẫn im lặng.

Còn Đicma thì nói với đồng nghiệp: Mình bị như vậy là đáng tội rồi, còn ông này có làm chi nên tội đâu. Baraba hiểu thêm ý chi tiết nữa: Giêsu là người vô tội bị kết oán oan. Đicma lại quay sang Giêsu và nói: Thưa Ngài, khi Ngài lên trời, xin cho tôi được đi theo. Và Giêsu đáp: Tôi hứa với anh ngay hôm nay anh sẽ lên thiên đàng với tôi. Vậy nghĩa là Giêsu lại cứu thêm một người nữa, không phải chỉ một mình Baraba mà cả tên Đicma đầu trộm đuôi cướp kia. Baraba còn đang suy nghĩ về lòng nhân ái của Giêsu thì nghe Giêsu kêu lớn: Lạy Cha, xin Cha tha cho họ. Baraba lại càng ngạc nhiên hơn nữa: Giêsu chẳng những cứu hắn, cứu Đicma, mà còn muốn cứu tất cả những người đã lớn tiếng gào thét giết Ngài. Rồi Giêsu lại kêu lớn: Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha. Và Ngài gục đầu tắt thở. Bấy giờ tên đại đội trưởng lên tiếng: Đúng thật người này là Con Thiên Chúa. Baraba thầm nghĩ: Đúng vậy, chỉ có con Thiên Chúa mới có được một tấm lòng như vậy. Baraba rời đồi Golgotha, vừa đi vừa tiếp tục suy nghĩ. Tương truyền rằng kể từ đó Baraba hoán cải, không còn trộm cướp nữa mà trở nên một người lương thiện.

Chúng ta có thể đoán rằng, trong dòng suy tư của mình, Baraba đã suy nghĩ rất nhiều về luật:

- Trước hết là luật công bình: theo luật này thì cả hắn, cả Đicma và Ghetta nữa đều phải bị xử tử vì cả ba đều là những tên cướp của giết người. Nhưng hôm nay luật này đã không được thực hiện.

- Kế đến là luật rừng, luật bị thúc đẩy bởi lòng thù ghét muốn loại bỏ người mình không ưa. Đức Giêsu đã bị xử tử vì thứ luật rừng.

- Nhưng khám phá lớn nhất của Baraba là luật tình thương. Luật Giêsu đã thực hiện: do luật tình thương này mà Đức Giêsu cam lòng chịu chết nhưng cũng nhờ luật này mà Baraba được thả, Đicma được lên thiên đàng và những kẻ thù của Đức Giêsu được tha thứ. Luật tình thương này đã mở mắt mở lòng viên đại đội trưởng và hoán cải tâm hồn Baraba.

Tối thứ năm trước khi bước vào cuộc thụ nạn, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ “Thầy ban cho chúng con một điều luật mới, là chúng con hãy thương yêu nhau. Không có tình thương nào cao cả cho bằng tình của người dám thí mạng sống vì người mình thương. Và Đức Giêsu là người đầu tiên thực hiện điều luật đó. Không nên sống theo luật rừng, không chỉ bằng lòng sống theo luật công bình, mà người môn đệ Chúa còn phải biết sống theo luật tình thương.

Chúng ta là môn đệ của Đức Giêsu. Chúng ta phải noi gương Ngài sống luật tình thương.

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-16: PHÊRÔ VÀ GIUĐA - Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

 

Sau một đêm thức trắng để cầu nguyện cùng Thiên Chúa, đến sáng Chúa Giêsu kêu các: Tuầnthánh 6-16


Sau một đêm thức trắng để cầu nguyện cùng Thiên Chúa, đến sáng Chúa Giêsu kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông gọi là Tông Đồ ( Lc 6,12-13). Như thế Phêrô –Giuđa là những môn đệ được Chúa tuyển chọn. Hai ông được chọn không phải để quay lưng để phản bội Thầy mà là được sống, được huấn luyện để trở thành những chứng nhân rao giảng Tin Mừng. Những năm tháng chan chứa tình Thầy trò đẹp làm sao. Cho đến những ngày cuối cùng khi Chúa bước vào cuộc khổ nạn thì hai Ong đã từng bước đi dần đến sa ngã thảm thương.

Phêrô - Giuđa đều được kêu gọi làm Tông đồ, giữa 2 ông không có gì cách biệt, thế mà trong phút chốc lại có sự phân biệt rõ ràng: một người là Thánh, một người là ma quỷ.Chúa Giêsu đã xử với 2 ông như là quỹ dữ. Người gọi Phêrô là Satan (Mt18,23; 8,33),Phêrô đã cám dỗ Người khi ông cố gắng ngăn cản Người dâng mình làm lễ hiến tế trên Thánh giá.Ở caphanaum, Chúa Giêsu cũng gọi Giuđa là quỹ.Chúa đã nói với các môn đệ: Chẳng phải Thầy đã chọn anh em là nhóm 12 sao ? Thế mà một người trong anh em lại là quỹ (Ga 6,70).Chính “Satan đã nhập vào Giuđa’ (Ga 13,27) trong bữa ăn tối sau cùng.

Chúa báo trước cho Phêrô và Giuđa rằng cả hai ông sẽ sa ngã. ”Đêm nay, tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy. Phêrô liền thưa: dẫu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã. Đức Giêsu bảo ông: Thầy bảo thật anh, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh chối Thầy 3 lần “ (Mt 26,31-34). Lập tức Phêrô phản ứng lại ngay lời cảnh cáo đó.Ong quả quyết: “Dẫu có phải chết vì Thầy, con cũng không chối Thầy” (Mt 26,35). Giuđa cũng được báo trước như thế “ Người giơ tay cùng chấm một đĩa với Thầy,đó là kẻ nộp Thầy. ” ( Mt 26,23).

Phêrô và Giuđa đã hành động bội phản mà Chúa đã báo trước. Phêrô đã vấp ngã cách thảm hại trước một đứa đầy tờ gái vô danh tiểu tốt “Tôi không biết cô nói gì …Ong thốt lên những lời độc địa và thề rằng: tôi không biết người ấy”(Mt 26, 69-74). Giuđa bán Thầy giá 30 đồng bạc bằng nụ hôn giả dối, chỉ điểm Thầy mình cho đám đông đến bắt bớ ( Mt 26,47-51).

Chúa Giêsu đã cố gắng cứu hai ông ra khỏi cảnh yếu hèn của họ. ”Chúa quay lại nhìn Phêrô” ( Lc22,61). Chúa gọi Giuđa là bạn “ Này bạn, bạn đến đây làm gì thì cứ làm đi” ( Mt 26,50) và để cho Giuđa hôn mình “ Giuđa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao ?” ( Lc 22.48). Chúa nhìn Phêrô và nói với Giuđa.Như thế Chúa dùng nghĩa cử bằng mắt đối với ông này, bằng miệng đối với ông kia.

Cả hai đều hối tiếc về lỗi lầm của mình, nhưng mỗi người mỗi cách, khác nhau vô cùng !

- “ Phêrô ra ngoài khóc lóc thảm thiết” ( Lc 22,62)

- “Bấy giờ, Giuđa kẻ đã nộp Người,thấy Người bị kết án thì hối hận.Hắn đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các Thượng tế và Kỳ mục mà nói:”Tôi đã phạm tội nộp người vô tội,khiến Người phải chết oan !” nhưng họ đáp: “Can gì đến chúng tôi.Mặc kệ anh !”.Giuđa ném số bạc vào Đền Thờ rồi lui ra và đi thắt cổ” ( Mt 27,3-5).

Giuđa đã phản bội Chúa,Phêrô đã chối Chúa. Cả hai đều đánh mất tình con cái.Giuđa không còn tiếp tục tin tưởng mình vẫn là con của Chúa nên đã thắt cổ tự vẫn. Phêrô khi ở giữa sự tuyệt vọng đã muốn nối lại mối tình đó nên thống hối với những giọt lệ ăn năn.Phêrô hối hận vì yêu Chúa,còn Giuđa thì chỉ vì yêu mình. Giuđa đã nhận biết mình nộp máu”Người vô tội” nhưng ông không muốn ngụp lặn trong Máu Vô Tội ấy để tìm lại sự trong trắng. Phêrô cũng biết mình có tội nhưng lại muốn mình được cứu rỗi. Giuđa chọn cái chết. Phêrô chọn sự sống. Sau này Thánh Phaolô đã giải thích lòng sám hối vì yêu Chúa và sự hối hận vì ích kỷ, sự khác biệt trong thái độ sám hối của Phêrô và của Giuđa “ Ưu phiền theo ý Thiên Chúa làm cho chúng ta hối cải để được cứu độ: đó là điều không bao giờ phải hối tiếc ; còn ưu phiền theo kiểu thế gian thì gây ra sự chết” ( 2Cor 7,10).

Cả hai môn đệ đã được sống với Chúa những năm tháng tuyệt vời, được nghe Chúa nói, được chứng kiến việc Chúa làm, được Chúa sai đi rao giảng Tin mừng Nước Trời, được làm chứng nhân cho Chúa. Bỏ lại tất cả mọi sự để theo tiếng gọi Chúa Giêsu không chút do dự, hai ông đã sống ba năm trời bên cạnh Thầy Chí Thánh. Thế mà tại sao một ông lại đứng đầu sổ các Tông Đồ, một ông lại đội sổ? Bởi lẽ Phêrô yêu Chúa, còn Giuđa chỉ vì yêu mình.

Sau khi sống lại, Chúa Phục sinh đã hỏi Phêrô đến ba lần câu hỏi: “Con có yêu mến Thầy không ?” (Ga 21,15-17).Phêrô xác định cả ba lần càng về cuối càng cương quyết hơn. Ba lần chối Chúa đi từ chối nhẹ đến chối nặng thì hôm nay ba lần xác định tình yêu từ nông đến sâu.Ba lời xác định là bình minh rữa tội quá khứ. Sau ba lần Phêrô đáp lại,Chúa giao phó sứ mạng lớn lao: “Hãy chăn dắt đàn chiên của Thầy”(Ga21,17).Cuối cùng Chúa nói với Phêrô: “Hãy theo Thầy” (Ga 21,19).Phêrô chỉ chờ đợi lời mời gọi đó và lập tức lên đường theo Chúa viết nên những trang sử hào hùng, những thiên anh hùng ca cho Giáo Hội buổi đầu.

Nhìn cuộc đời Phệrô, tôi thấy một điều rất rõ là trong trái tim ông lúc nào cũng yêu Chúa. Ong để Chúa mắng mà không bao giờ giận Chúa.Ngay khi Chúa bảo ông là Satan ông cũng không giận.Cả khi vì sợ hãi yếu đuối mà chối Chúa ông vẫn yêu mến Chúa. Không vì tội lỗi hay yếu đuối mà Chúa bỏ ông, chính tình yêu chân thành trong tâm hồn ông làm Chúa giữ ông lại và trao phó đàn chiên của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, Xin Chúa cho con có tình yêu chân thành với Chúa. Nếu con có vấp ngã, xin Chúa thức tỉnh con như Chúa đã thức tỉnh ký ức của Phêrô bằng tiếng gà gáy-một âm thanh quen thuộc mà Phêrô đã nghe hàng ngàn lần, nhưng được mặc một ý nghĩa mới: lời cảnh cáo của Thầy chí Thánh. Xin Chúa cũng nhìn con bằng ánh mắt yêu thương đầy cảm thông tha thứ của Chúa.Nhờ đó con can đảm đứng lên, sám hối, trở về trong tình yêu của Chúa để đón nhận sự sống, ân sủng Chúa ban.

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-17: LỐI BUỒN TUYỆT VỌNG - Lm Giuse Hoàng Kim Toan

 

Giuđa Iscariot có lẽ anh rất buồn, có biết bao người nhắc tên anh như một lời nguyền rủa hay: Tuầnthánh 6-17


Giuđa Iscariot có lẽ anh rất buồn, có biết bao người nhắc tên anh như một lời nguyền rủa hay khinh bỉ. Khi anh ra khỏi phòng tiệc trời đã tối. Cái tối trời của dự định trao nộp chính Thầy. Bao nhiêu năm theo Thầy, anh cũng đã từng thấy những điều tốt lành Thầy đã làm, anh cũng như bao môn đệ khác, hy vọng được chia vào vương quyền nào đó khi Thầy lên nắm quyền. Một khát vọng rất người của anh, anh không khéo che giấu, nên vì thế anh bán nộp chính Thầy. Anh đã quyết định đẩy đưa Thầy đến chỗ bày tỏ vương quyền của Thầy khi đến cùng đường sự chết. Cái tối trời của lòng tham vọng đã che mờ mắt lương tâm của anh, giá bán Thầy chỉ bằng giá của một người nô lệ, không chắc vì anh đã tham tiền cho bằng sự tham quyền. Sự ước ao quyền vị ấy đâu chỉ riêng anh mới có mà các môn đệ khác cũng thế. Sự mù tối của tâm hồn muốn chiếm được địa vị cao khiến có người môn đệ đi lối đường cửa sau, như trường hợp bà mẹ của hai người con ông Dê-bê-đê đến xin Thầy chia vương quyền.

Sự tối trời mà Gioan đã ghi chép lại có phần nào mang sắc thái diễn tả của tâm hồn người A Đông, khi người ta nói đến sự mê muội. Sự tối trời cũng như sự tối lòng của các môn đệ. Đã hẳn nhiều làn Thầy đã nói với các môn đệ: "Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em" (Mt 20, 26), tiếc thay lời nói ấy cũng như giọt nước đọng trên những chiếc lá, mau khô đi vì nắng lên. Con người đam mê danh vọng có sự mờ tối của lối đường, họ không nhìn thấy nhau, không nhìn thấy gì khác ngoài quyền lực. Giuđa anh cũng thế, không ai dám bỏ cả cuộc đời cuộc đời mình cho những điều được coi là sự điên rồ của Thập Giá, nếu chưa hiểu hết lối đường ấy dẫn mình đi tới đâu. Phêrô tuyên tín khi Thầy sắp ra đi mạnh mẽ như thế nào, khi nói: "dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi chăng nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã" (Mt 26, 33). Lời nói ấy chưa kịp nguội đi, thì đã bắt đầu bội phản. Sự bội phản của con người cũng dễ như trở bàn tay. Nếu không đi qua vấp ngã làm sao có thể khẳng định với lòng mình, để gọi Đức Giêsu "Là Thầy và là Chúa". Sự vấp ngã của anh Giuđa, cũng là do tối trời vậy thôi.

Anh Giuđa giao nộp Thầy, để Thầy mau sớm tỏ bày vinh quang, cái nóng hổi của lòng nhiệt thành khi chưa hiểu biết hết vị Thầy, cũng là cái vấp ngã. Giống như Phêrô thay mặt cho các anh em của mình vừa tuyên xưng: "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16, 16), để rồi cũng lại ngăn cản ngay khi Thầy báo cuộc thương khó lần thứ nhất:"Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy" (Mt 16, 22). Sự nóng vội cũng là sự tối trời mà người ta thường nói "tối mặt, tối mày". Cái tối trời của lòng nhiệt thành, khi anh trách Maria lấy dầu thơm để xức chân Thầy mà không lấy cho tặng người nghèo. Việc làm của tình yêu đáp trả là một việc làm xem ra vô lý, nhưng lại là việc làm đầy ý nghĩa. Có lẽ anh chưa bao giờ cảm nghiệm sự bao dung của Thầy, có thể vì anh vô tình không nghe lời Thầy trách khẽ: "người nghèo, thì anh em luôn có bên cạnh; còn Thầy anh em không có mãi đâu" (Ga 12, 8). Đâu biết lần xức dầu này là lần báo trước ngày mai táng Thầy trong mộ. Anh tối trời nên anh vẫn vô tình trước lời Thầy loan báo.

Ba mươi đồng anh quăng trả lại cho người mua chuộc, giống như Phêrô nghe tiếng gà gáy và chợt tỉnh lời Thầy loan báo: "Nội đêm nay gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy 3 lần" (Mt 26, 34). Giống như mọi người, anh Giuđa, cũng chợt tỉnh như khi trong bàn tiệc, khi Thầy báo có người trong anh em sẽ nộp Thầy. "Thưa Thầy, chẳng lẽ con sao?" (Mt 26, 22). Một câu hỏi giật mình cho các môn đệ chứ chẳng riêng anh, trong thâm tâm của anh chắc có lẽ buồn khi nghe chính Thầy trả lời: "chính anh nói đó" (Mt 26, 25). Buồn quá phải không anh, ba năm theo Thầy đổi lấy ba mươi đồng bạc thôi sao. Thế mà đâu chỉ riêng anh, bao người theo Thầy cũng mong đổi chác được cái này và cái kia chứ đâu tìm kiếm chính Thầy. Sự bội phản của con người là điểm tìm kiếm thấp hèn ấy, sự tối trời cũng là điểm u mê ấy.

Cuối cùng khi nghĩ về anh Giuđa, tôi cũng chỉ tiếc cho anh, không thấy được lòng bao dung của Thầy. Phêrô gặp được ánh mắt của Thầy để giật mình thống hối, các môn đệ khác, người về quê thì gặp đấng Phục Sinh bẻ bánh, người khác ở lại cầu nguyện cũng gặp Đấng Phục Sinh hiện ra giữa họ. Riêng anh cái tối trời của thân phận đeo đuổi tới cùng để kết liễu đời mình bằng chiếc thòng lọng. Đã bao lần theo Thầy, chẳng lẽ không thấy được lòng thương xót của Thầy? Có lẽ có mà chỉ là quên chưa bao giờ anh thực hành lời Thầy dạy. Chính sự quên ấy, giống như cuộc đời chuẩn bị một chiếc thòng lọng để kết thúc đời mình trong vô vọng. Người không thực hành Lời Thầy, là người đem theo sự tuyệt vọng dệt thành chiếc thòng lọng, phải không anh?. Và tôi nhớ lại lời Thầy nhắc: "Tại sao anh em gọi Thầy: ' Lạy Chúa ! Lạy Chúa !', mà anh em không làm điều Thầy dậy?" (Lc 6, 46)

Ai cũng vấp ngã nhưng mình anh kết thúc sự vấp ngã của mình cách tuyệt vọng. Tôi cũng tự nhủ, lối đường tuyệt vọng ấy cũng là con đường của tôi, nếu tôi không bắt đầu thực hành yêu thương như Thầy đã yêu thương. Sự mù loà về Tình Yêu là sự tối trời đáng sợ hơn cả. Tình yêu khám phá ra niềm hy vọng, và mở lối cho anh em, phải không anh. Tình Yêu Thập Giá trả lời câu hỏi đó và để nhắc nhở mình: "Hãy Yêu như Giêsu".

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-18: Sự phản bội của Ađam - Suy niệm Thứ Sáu Tuần Thánh

 

Hôm nay thứ Sáu tuần Thánh, Giáo Hội dành nhiều giờ long trọng tưởng niệm mầu nhiệm đau: Tuầnthánh 6-18


Hôm nay thứ Sáu tuần Thánh, Giáo Hội dành nhiều giờ long trọng tưởng niệm mầu nhiệm đau khổ và tử nạn của Chúa Kitô. Nhất là cả cộng đoàn vừa lắng nghe cả một bài ca Thương Khó dài. Và một lý do khác nữa, có lẽ ngày hôm nay mọi miệng lưỡi phải thinh lặng thật lâu và thật sâu để sống lại thời khắc thánh thiện và cao điểm nhất của cả năm phụng vụ. Vì thế thay vì chia sẻ Lời Chúa như thường lệ, tôi muốn đưa anh chị em quay về với nguồn gốc mà từ đó phát sinh tội lỗi để anh chị em cùng tôi thật lòng sám hối chính những tội lỗi của mình. Ịó chính là những hình ảnh của sách Sáng Thế:

"Ịức Chúa là Thiên Chúa nói: ‘này con người đã trở thành như một kẻ trong chúng ta, biết điều thiện điều ác. Bây giờ đừng để nó giơ tay hái cả trái cây trường sinh mà ăn và được sống mãi "(St 4, 22).

Thưa anh chị em,

Thật đáng tiếc cho Adam, giữa một bên là lời yêu thương nhắn nhủ của Thiên Chúa: " Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn. Nhưng trái cây cho biết điều thiện, điều ác, thì ngươi không được ăn. Vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết " (St 2, 16- 17).. Còn bên kia là lời xảo quyệt mưu mô của tên cám dỗ: "Các ngươi cứ ăn đi, Thiên Chúa cấm vì Người biết ngày nào các ngươi ăn, các ngươi sẽ nên những vị thần biết thiện biết ác. Các ngươi cứ ăn, không chết chóc gì đâu "(St 3, 4- 5). Vậy mà Adam đã đánh đổi chính lời của Thiên Chúa để nghe lời xảo quyệt của kẻ cám dỗ. Cùng với hành động tội lỗi, con người đã đạt mục đích: trở thành một bậc hiểu biết điều lành sự dữ!

Nhưng cái giá phải trả cho sự hiểu biết này quá đắt: Con người mất tất cả và mất cả chính mình. "Ịược sống mãi" đâu không thấy, chỉ có nỗi nhục nhã, đau khổ, chết chóc là bám lấy con người. Rốt cuộc "biết lành biết dữ" cũng không phải là cái được, nhưng là cái mất. Biết làm chi để rồi nhận ra mình trần trụi. Sự kiêu ngạo đã làm cho con người vong thân nghiệt ngã.

Kinh nghiệm tội lỗi dù đã làm con người khiếp sợ nhưng nó vẫn không thể tự mình đứng vững. Sau mỗi lần phạm tội là mỗi lần đổ vỡ, là ray rứt, là mất mát, nhưng nó vẫn cứ lao vào. Vong thân đẩy con người đi từ nghiệt ngã này đến nghiệt ngã khác.

Giữa lúc bi thương ấy, lời hứa cứu độ: "Ta sẽ đặt hận thù giữa mi và người nữ, giữa dòng dõi mi và dòng dõi Bà. Dòng dõi Bà sẽ đạp đầu mi" (St 7, 14) được thực hiện.

Ngày xưa khi Adam bị đuổi khỏi Eden, cửatrời khép lại, hạnh phúc khép lại. Ngày nay, chính Chúa Kitô đến ôm trọn nỗi khổ đau của con người, chia sớt đến cùng những khắc khoải của con người về lẽ sống. Nhờ Ngài, cửa trời lại mở ra, hạnh phúc mở ra, ơn cứu độ mở ra.

Thưa anh chị em,

Kiêu ngạo của Adam là độc tố giết chết tương quan giữa con người với Thiên Chúa, giữa con người với nhau và với chính mình. Bản chất kiêu ngạo ấy hình như vẫn tồn tại nơi mỗi người. Bởi thế chúng ta hãy khiêm tốn cúi đầu, đấm ngực mình để thống hối. Sau mỗi lần gợi y sám hối, anh chị em dừng lại trong thinh lặng, xin Chúa tha thứ cho ta.

Phải chăng vì kiêu ngạo, chúng ta chưa tha thứ cho nhau? Phải chăng vì kiêu ngạo, chúng ta không nói đư ợc lời xin lỗi nhau? Phải chăng vì kiêu ngạo, chúng ta không đón nhận lời góp ý của anh chị em? Phải chăng vì kiêu ngạo,chúng ta không vui khi thấy người khác hơn mình, hay ngược lại, vui vì nghĩ rằng mình hơn người khác. Và phải chăng, vì kiêu ngạo, chúng ta luôn phàn nàn, chê trách, bàn tán về những thiếu sót của anh chị em? Chúng ta xin Chúa tha thứ và hoán cải để mỗi ngày một trở nên hiền lành, khiêm nhường như Chúa.

Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-19: PHÊRÔ HỐI CẢI (Mt 14, 66-72)

 

Trong cuộc sống của con người, ai dám vỗ ngực nói rằng: tôi chưa hề phạm một tội nào?: Tuầnthánh 6-19


Trong cuộc sống của con người, ai dám vỗ ngực nói rằng: tôi chưa hề phạm một tội nào ? Phêrô đã chối Chúa, Phêrô đã phạm tội xem ra còn nặng hơn cả Giuđa bán Chúa ba mươi đồng bạc. Dùng ngày Thứ Sáu Tuần Thánh để suy tư về sự hối cải của Phêrô thì thật là chính đáng, bởi vì hôm nay Chúa Giêsu chịu chết trên thập giá vì tội của Phêrô và tội của chúng ta. Một người vác thập giá lên núi Sọ để chịu tử hình, một người cúi mặt ăn năn khóc lóc vì tội lỗi của mình, không phải là hai hình ảnh cảm động làm nhức nhối tâm hồn chúng ta sao ?1. Chúa Giêsu nhìn Phêrô.Ai cũng phải nhìn để thấy đường mà đi, để ngắm cảnh đẹp, ai cũng phải nhìn để cuộc sống vui tươi và phong phú hơn.Có cái nhìn thù hận, có cái nhìn yêu thương, có cái nhìn tò mò, có cái nhìn tiếc nuối, có cái nhìn hằn học.v.v...Chúa Giêsu đã nhìn, cái nhìn của Ngài đối với Phêrô là cái nhìn yêu thương, cái nhìn trách móc pha lẫn với nổi buồn, cái nhìn ấy đã làm cho Phêrô chấn động tâm hồn và nhớ lại lời thầy nói: trước khi gà gáy hai lần thì con sẽ chối Thầy ba lần.Chúa Giêsu đã nhiều lần nhìn chúng ta với ánh mắt buồn bả khi chúng ta cố tình sống trong tội, Chúa Giêsu cũng đã nhìn chúng ta với ánh mắt yêu thương khi chúng ta khước từ tình yêu của Chúa, khi chúng ta say sưa biện minh cho thái độ sống buông tuồng mất nết của mình. Ánh mắt Chúa Giêsu không ở trên trời nhìn xuống, Ngài cũng không từ nơi nhà tạm nhìn ra,nhưng ánh mắt của Ngài chính là ánh mắt của những trẻ thơ đang xin ăn bên vệ đường, ánh mắt của Ngài chính là ánh mắt van xin của người bất hạnh, ánh mắt của Ngài chính là ánh mắt của người đang thất vọng vì bị người thân xua đuổi... và cuối cùng ánh mắt của Ngài chính là lương tâm đang ở ngay chính trong chúng ta, có lần nào chúng ta nhìn thấy ánh mắt của Ngài chưa, để mà hối cải như Phêrô.Chúa Giêsu đã nhìn Phêrô và ngài đã chợt tỉnh trong nổi sợ hãi, ngài đã đứng lên trong kiệt quệ vì thất vọng, và ngài đã lấy lại được tinh thần can đảm nhanh nhẹn vốn có của mình. Cái nhìn đầy yêu thương và ban thêm sức mạnh.2. Phêrô chợt nhớ lại.Ịây là một thái độ kiểm điểm nội tâm của thánh Phêrô sau ba lần từ chối là không biết Ẫcái ông ấyỮ là ai. Thánh Phêrô đã nhớ lại lời của Chúa Giêsu đả nói: ẪNội đêm nay gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lầnỮ (Mt 26, 34). Nhưng không phải tự nhiên mà Phêrô nhớ lại lời Chúa, mà là tiếng gà gáy và ánh mắt nhìn của Chúa Giêsu.

Tiếng gà gáy phải chăng là một thức tỉnh mà Chúa Giêsu muốn dùng để đánh thức lương tâm đang sợ hãi và thất vọng của Phêrô ? Chắc chắn là như thế, bởi vì trong cuộc sống hằng ngày, Thiên Chúa đã dùng biết bao nhiêu là hoàn cảnh để gợi ý cho chúng ta làm lành tránh dữ, nhắc nhở chúng ta hối cải ăn năn, nhưng chúng ta vẫn thờ ơ, vẫn cứ ngủ trong tội của mình...Vừa nghe tiếng gà gáy, Phêrô lập tức thấy rõ tội của mình mà sám hối, mà khóc lóc thảm thiết. Trong kia, nơi dinh của các thượng tế với những tâm hồn thù hằn vì ghét ghen đã kiếm cớ lên án vu khống Chúa Giêsu vô tội; trong kia, nơi quan phủ Philatô, Chúa Giêsu -Ịấng vô tội- đã bị xét xử như tên tội phạm ghê gớm. Nơi này, trong góc xó nào đó của đêm lạnh, một tâm hồn đang khóc lóc vì tội lỗi tày trời của mình là chối bỏ Ịấng mà mình đi theo, học hỏi, và là Chúa là Thầy của mình. Chắc chắn Chúa Giêsu đã được an ủi phần nào vì sự hối hận của Phêrô.Ịã nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cũng có rất nhiều cơ hội để nhớ lại những tội lỗi của mình đã phạm làm mất lòng Chúa, và đáng bị nguyền rủa hơn cả tội của Giuđa, nhưng cũng rất nhiều lần chúng ta đã không thèm đếm xỉa đến những lời cảnh cáo của Thiên Chúa vẫn và đang nói với chúng ta qua cuộc sống: tiếng gà gáy của Phêrô, chiến tranh đang bùng nổ, người thân yêu qua đời, một cơn đau bất chợt xảy đến..., và có rất nhiều hoàn cảnh khác mà Chúa đã dùng để cho chúng ta nhớ lại những tội của mình...Chúa Giêsu đang vác cây thập giá đi lên đồi Calvê để chịu chết, Chúa Giêsu đang nhìn chúng ta đang nhởn nhơ bên vệ đường cười cười nói nói. Chúa Giêsu đang thở mệt nhọc vì kiệt sức sau một đêm bị tra tấn đánh đòn và đang lê bước ra pháp trường, Ngài đang nhìn chúng ta đang hoan lạc với những trận cười thâu đêm, với những mưu mô toan tính hại người trong cõi u tối của tâm hồn mình. Chúng ta có nhớ tiếng gà gáy của Phêrô, chúng ta có nhớ đến cái nhìn của Chúa với Phêrô ?3.

Cầu nguyện.

Lạy Chúa Giêsu,Giờ này Chúa đang vác cây thánh giá nặng nề lê bước đi lên Núi Sọ, giờ này chúng con cũng đang trên đường đi đến công sở, trường học, chợ búa..., để làm tròn bổn phận của chúng con. Chúa cũng đang làm tròn bôn phận của Chúa: cứu chuộc nhân loại.Giờ này trên đường đi Chúa gặp rất nhiều người mà mấy ngày trước đây Chúa đã thi ân giáng phúc cho họ, chữa lành những vết thương trong tâm hồn cũng như nơi thân xác của họ, họ đang nhìn Chúa chỉ chỏ bàn tán và khinh miệt Chúa... Những người ấy chính là chúng con hôm nay, chúng con đáng lên án đóng đinh Chúa vào thập giá vì những tội lỗi của chúng con, mà có khi chúng con biết, nhưng vẫn cứ làm ngơ...Lạy Chúa, xin cho chúng con có một tâm hồn nhạy cảm trước mọi hoàn cảnh xảy ra, và giúp chúng con nhớ lại những hậu quả của tội chúng con trong những biến cố ấy mà ăn năn sám hối như thánh Phêrô xưa kia.Xin Chúa ban cho chúng con ơn can đảm như thánh Phêrô, để chúng con dứt khoát hồi tâm sau lời nhắc nhở của Chúa. Amen

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-20: TÔN KÍNH THÁNH GIÁ


Tưởng niệm Ịức Giêsu chịu chết

Mt 4,17

 

Nghi thức Chiều Thứ Sáu Tuần Thánh không phải là Thánh lễ mà chỉ là một lễ nghi phụng vụ: Tuầnthánh 6-20


Nghi thức Chiều Thứ Sáu Tuần Thánh không phải là Thánh lễ mà chỉ là một lễ nghi phụng vụ tôn kính Thánh giá Chúa Giêsu và tưởng niệm việc Ngài chịu chết.

I. Lời Chúa

1. Bài đọc I: Is 52,13 - 53,12

Đây là bài ca thứ tư về Người Tôi Tớ trong sách Isaia, bài tiêu biểu nhất trong 4 bài. Có 3 ý lớn:

- Người Tôi Tớ ấy phải chịu rất nhiều đau khổ về cả thể xác lẫn tinh thần.
- Nhưng bản thân Người Tôi Tớ thì vô tội. Sở dĩ Người chịu khổ như thế là vì tội của người khác.
- Vì thế những đau khổ của Người đem lại ơn tha thứ và ơn cứu rỗi cho nhiều người khác.

2. Đáp ca: Tv 30

Đây là lời cầu nguyện của tín hữu trong lúc bị đau khổ. Người tín hữu bày tỏ niềm trông cậy vào Thiên Chúa và phó thác đời mình trong tay Chúa.

Trong lúc tắt hơi, Chúa Giêsu đã cầu nguyện bằng một câu của Tv này "Con xin phó linh hồn con trong tay Cha" (Lc 23,46).

3. Bài đọc II: Dt 4,14-16--5,7-9

Tác giả thư Do thái coi Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết là Vị Thượng Tế tự nguyện chịu khổ để mang ơn cứu độ cho nhân loại.

4. Bài Thương khó theo Thánh Gioan: Ga 18-19

Những ý tưởng mà Thánh Gioan muốn nhấn mạnh đặc biệt trong bài tường thuật này:

a/ Chúa Giêsu là người tự do: Ngài biết trước mọi việc sắp xảy đến, nhưng Ngài không trốn tránh, trái lại hoàn toàn ý thức và tự nguyện đi vào những biến cố bi thảm đó. Như thế cuộc chịu nạn chịu chết của Ngài là một chuỗi những hành đông tự do.

b/ Chúa Giêsu là Vua: trong vụ án này, bề ngoài xem ra Chúa Giêsu là tội nhân, là bị cáo. Nhưng Gioan đã nhận ra Ngài là Vua, là kẻ chủ động và là quan tòa.

c/ Qua việc chịu chết, Chúa Giêsu tuôn đổ Thánh Thần xuống cho các môn đệ.

II. Gợi ý giảng

1. Những lời cuối cùng

Có thể căn cứ vào những lời nói cuối cùng của một người sắp chết mà biết được người đó như thế nào, bởi vì trước khi chết người ta chỉ nói những gì mình tha thiết nhất, chỉ nói những lời xuất phát từ tận đáy lòng. Nếu đúng như vậy, chúng ta hãy tìm hiểu những lời cuối cùng của Đức Giêsu trước lúc tắt hơi trên Thập Giá, chúng ta sẽ hiểu rõ con người của Đức Giêsu hơn.

Triết gia Sénèque nói về tâm lý của những người bị xử tử như sau: thường là họ chửi rủa: chửi rủa những kẻ đang giết mình, chửi rũa những kẻ đứng xem, có người còn nguyền rủa thân phận xấu số của mình, nguyền rủa ngày mình sinh ra, nguyền rủa chính người mẹ đã sinh ra mình. Bởi thế, như văn hào Cicéron cho biết thêm, trong những cuộc xử tử ở đế quốc Lamã, khi thấy tên tử tội nào hung dữ, người ta cắt lưỡi hắn trước, để khỏi phải nghe tiếng chửi rủa. Và trong cuộc xử tử chiều thứ sáu tuần thánh ấy, chúng ta cũng đã thấy có một tên trộm bị đóng đinh chung với Đức Giêsu đã chửi rủa lung tung, chửi cả Đức Giêsu là người chẳng thù oán gì với hắn.

Chiều hôm đó, có lẽ mọi người cũng đang chờ nghe những lời chửi rủa của Đức Giêsu: những tên lý hình chờ, vì họ là những người đang trực tiếp hành hình Ngài: các Tư tế và biệt phái chờ, vì họ là những kẻ đầu xỏ vận động kết án xử tử Ngài; dân chúng đứng phía dưới thập giá chờ vì họ đoán rằng Ngài rất tức giận họ bởi họ đã từng chịu ơn rất nhiều của Ngài mà bây giờ quay ra chống lại Ngài. Tất cả mọi người đều chờ, họ sẵn sàng nghe chửi rủa. Họ tin chắc rằng cái tên Giêsu ấy, cái người đã từng rao giảng rằng: "Hãy thương yêu kẻ thù... Hãy làm ơn cho kẻ ghen ghét mình" giờ đây sắp nói khùng, sẽ quên hết những giáo huấn Tin mừng kia mà thay vào đó bằng những lời chửi rủa thậm tệ.

Thế nhưng khi Đức Giêsu lên tiếng, thì ai nấy đều ngạc nhiên sửng sờ. Không phải những lời chửi rủa, mà là những câu dịu dàng. Câu thứ nhất "Lạy Cha, xin Cha tha cho họ"; câu thứ hai "Tôi hứa thật với anh, ngay hôm nay anh sẽ được lên nơi vui vẻ cùng tôi"; và câu thứ ba "Thưa Bà này là con Bà".

Ngoài giọng điệu dịu dàng và nội dung chan chứa yêu thương của những câu nói đó, chúng ta hãy còn chú ý đến thứ tự của chúng: câu thứ nhất "Lạy Cha..." là nói đến những kẻ thù ghét Ngài; câu thứ hai "Ngay hôm nay..." là nói với người tội lỗi, tên trộm bên cạnh Ngài; câu thứ ba "Thưa Bà..." là nói với Đức Mẹ, một người thánh thiện. Nghĩa là: cho đến phút sắp chết, tình thương của Đức Giêsu vẫn bao la, và còn bao la hơn bao giờ hết. Tình thương đó dành cho ai? Trước hết là cho kẻ thù, kế đến cho người tội lỗi, và thứ ba là cho kẻ thánh thiện. Con người là Đức Giêsu là như thế là do căn cứ vào những lời nói cuối cùng của Ngài trước lúc chết.

1. Hôm nay chúng ta đã thấy Đức Giêsu trong khi chết đã tỏ lòng yêu thương trước nhất không phải là đối với Mẹ Ngài, cũng không phải là đối với các môn đệ của Ngài, mà là những kẻ thù ghét Ngài. Vậy chúng ta hãy cố gắng noi gương Chúa. Hãy tha thứ cho nhau và hãy sống hoà thuận lại với nhau.

2. Hạng người thứ hai được Đức Giêsu yêu thương nhớ đến trong lúc hấp hối là những người tội lỗi. Chúa không bao giờ ghét người tội lỗi, không bao giờ ruồng bỏ người tội lỗi, nhưng Chúa rất thương người tội lỗi. Nếu biết rằng chính chúng ta là những người tội lỗi thì chúng ta phải cảm động biết bao. Và nếu có ai đó khi nào ngã lòng vì cho rằng tội mình quá nặng hay tội mình quá nhiều, thì người ấy hãy nhớ lại tấm lòng của Đức Giêsu trong những phút giây trước khi Ngài chết.

3. Còn nếu chúng ta cho rằng mình thánh thiện, hoặc có thiện chí muốn trở thành thánh thiện, thì chúng ta hãy cố gắng bắt chước gương thánh thiện của Chúa chúng ta, là hãy hết lòng yêu thương những kẻ thù ghét mình và cũng hết lòng yêu thương những người tội lỗi.

2. Tâm trạng của Baraba

Bài tường thuật cuộc thụ nạn của Đức Giêsu tuy đã dài mà vẫn chưa đủ, vì chưa mô tả tâm trạng của những người tham dự vào cuộc xử án Đức Giêsu. Và bây giờ chúng ta hãy đi vào tâm trạng của một trong những người đó, Baraba.

Sáng Thứ Sáu, Baraba đang ngồi trong từ thì cửa tù mở ra, viên cai ngục bước vào gọi Baraba đi ra. Baraba giật mình sợ hãi vì tin chắc người ta sẽ dẫn mình đi xử tử. Hắn là một tên cướp của giết người mà tử hình là điều chắc. Nhưng người ta không dẫn hắn ra pháp trường, mà lại đến dinh Philatô, ở đó đã có sẵn một người tù khác đang bị trói, thân thể tả tơi vì bị tra tấn. Philatô ra lệnh đưa cả hai ra trước công chúng và hỏi: Trong hai người này: Một là Giêsu, hai là Baraba, các người muốn ta tha ai? Baraba cảm thấy nhẹ nhỏm; thì ra người ta dẫn hắn đi không phải để giết mà để hỏi ý dân có muốn tha cho hắn không?

Tuy nhiên chỉ nhẹ nhỏm trong phút chốc thôi, Baraba lại lo sợ: thế nào dân chúng cũng đòi tha người kia đồng thời đòi giết hắn: tội hắn quá rõ và quá lớn mà. Thế nhưng Baraba không tin vào tai mình khi nghe dân gào ta: Hãy tha cho Baraba và đóng đinh Giêsu. Đến khi Philatô hỏi lại lần thứ hai và dân chúng lại kêu gào lần thư hai y như lần trước thì Baraba mới tin đó là sự thật. Người ta mở trói hắn và dẫn Giêsu đi. Hắn bước xuống đi về phía đám dân, tưởng rằng người ta sẽ chào đón hoan hô hắn, vì người ta đã thương hắn và xin tha cho hắn mà. Nhưng lạ thay chẳng ai còn quan tâm tới hắn nữa, người ta vẫn còn mãi mê gào thét đòi giết Giêsu. Khi đó hắn hiểu ra mình không phải dân chúng yêu thương gì hắn, mà chỉ vì dân chúng đang thù ghét Giêsu. Baraba đi theo đám đông áp tải Giêsu đi đến pháp trường. Giêsu là ai vậy? Chắc là một tên tội phạm còn hung ác hơn hắn nhiều nên mới bị thù ghét như vậy. Khi người ta đã đóng đinh Giêsu xong trên lên thập giá, hắn mới có dịp nhìn kỹ khuôn mặt của người đã chết thay cho mình: chẳng có gì là hung ác, chẳng một lời nguyền rủa những kẻ hành hạ mình. Hai bên Giêsu, Baraba nhận ra mặt của hai tên đã từng ở tù chung với hắn.

Tương truyền tên của hai người này Dicma và Ghetta. Ghetta thì luôn mồm chửi rủa, chửi lý hình, chửi dân chúng và chửi luôn Giêsu. Nhưng Giêsu cũng vẫn im lặng. Còn Đicma thì nói với đồng nghiệp: Mình bị như vậy là đáng tội rồi, còn ông này có làm chi nên tội đâu. Baraba hiểu thêm ý chi tiết nữa: Giêsu là người vô tội bị kết ách oan. Đicma lại quay sang Giêsu và nói: Thưa Ngài, khi Ngài lên trời, xin cho tôi được đi theo. Và Giêsu đáp: Tôi hứa với anh ngay hôm nay anh sẽ lên thiên đàng với tôi. Vậy nghĩa là Giêsu lại cứu thêm một người nữa, không phải chỉ một mình Baraba mà cả tên Đicma đầu trộm đuôi cướp kia. Baraba còn đang suy nghĩ về lòng nhân ái của Giêsu thì nghe Giêsu kêu lớn: Lạy Cha, xin Cha tha cho họ. Baraba lại càng ngạc nhiên hơn nữa: Giêsu chẳng những cứu hắn, cứu Đicma, mà còn muốn cứu tất cả những người đã lớn tiếng gào thét giết Ngài. Rồi Giêsu lại kêu lớn: Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha. Và Ngài gục đầu tắt thở. Bấy giờ tên đại đội trưởng lên tiếng: Đúng thật người này là Con Thiên Chúa. Baraba thầm nghĩ: Đúng vậy, chỉ có Con Thiên Chúa mới có được một tấm lòng như vậy. Baraba rời đồi Golgotha, vừa đi vừa tiếp tục suy nghĩ. Tương truyền rằng kể từ đó Baraba hoán cải, không còn trộm cướp nữa mà trở nên một người lương thiện.

Chúng ta có thể đoán rằng, trong dòng suy tư của mình, Baraba đã suy nghĩ rất nhiều về Luật:

* Trước hết là luật công bình: theo luật này thì cả hắn, cả Đicma và Ghetta nữa đều phải bị xử tử vì cả 3 đều là những tên cướp của giết người. Nhưng hôm nay luật này đã không được thực hiện.

* Kế đến là luật rừng, luật bị thúc đẩy bởi lòng thù ghét muốn loại bỏ người mình không ưa. Đức Giêsu đã bị xử tử vì thứ luật rừng.

* Nhưng khám phá lớn nhất của Baraba là luật tình thương. Luật Giêsu đã thực hiện: do luật tình thương này mà Đức Giêsu cam lòng chịu chết nhưng cũng nhờ luật này mà Baraba được thả, Đicma được lên thiên đàng và những kẻ thù của Đức Giêsu được tha thứ. Luật tình thương này đã mở mắt mở lòng viên đại đội trưởng và hoán cải tâm hồn Baraba.

Tối thứ Năm trước khi bước vào cuộc thụ nạn, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ "Thầy ban cho chúng con một điều luật mới, là chúng con hãy thương yêu nhau. Không có tình thương nào cao cả cho bằng tình của người dám thí mạng sống vì người mình thương. Và Đức Giêsu là người đầu tiên thực hiện điều luật đó. Không nên sống theo luật rừng, không chỉ bằng lòng sống theo luật công bình, mà người môn đệ Chúa còn phải biết sống theo luật tình thương.

Chúng ta là môn đệ của Đức Giêsu. Chúng ta phải noi gương Ngài sống luật tình thương.

III. Kinh Lạy Cha

Trong những giây phút đau đớn nhất và buồn phiền nhất, Chúa Giêsu đã hướng về Chúa Cha và tha thiết cầu nguyện với Ngài. Chúng ta hãy kết hợp tâm tình với Chúa Giêsu và cầu nguyện với Chúa Cha bằng lời kinh do chính Ngài dạy.

VI. Giải tán

(Dùng "Lời nguyện trên dân chúng" trong Sách Lễ Rôma)

Trích nguoitinhuu.com
 Lm. Hồ Bạc Xái

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-21: CUỘC VƯỢT QUA CỦA ĐỨC GIÊ-SU

 

Chắc chắn người Do-thái càng theo Đức Giê-su trong những ngày cuối đời của Ngài thì lại: Tuầnthánh 6-21


Chắc chắn người Do-thái càng theo Đức Giê-su trong những ngày cuối đời của Ngài thì lại càng thất vọng. Và khi ở sân phủ đường Phi-la-tô, có thể nói họ đã thực sự vỡ mộng. Bao nhiêu đợi chờ và hy vọng của họ đều như tan thành mây khói. Thay vì được reo hò tung hô một vị vua oai hùng, thì họ đang phải chứng kiến một kẻ thất thế, một khuôn mặt thảm thương, không còn dáng vẻ con người, đúng như những gì các ngôn sứ từng mô tả về Người Tôi Tớ Thống Khổ ( như ta vừa nghe trong bài đọc I ).

Thay vì được nhìn thấy Ngài và chính mình trong cảnh chiến thắng, trong vinh quang, trong quyền lực, thì kìa họ chẳng thấy Ngài thực hiện một cuộc Vượt Qua. một cuộc giải phóng nào cả, mà lại thấy Ngài từ bỏ vinh hoa, thậm chí đời Ngài sắp kết thúc nơi đích điểm là cái chết cầm chắc trong tay.

Họ đâu có ngờ là đúng lúc họ vỡ mộng như thế, một biến cố lớn lao đang xảy ra, đâu có ngờ là chưa khi nào và chưa một thế hệ nào có phúc như họ hôm đó, bởi vì chính hôm đó Thiên Chúa thực hiện cuộc Vượt Qua mới đích thực. So với cuộc Vượt Qua xưa kia, cuộc Vượt Qua mới có ba sự khác biệt lớn:

1. Sự khác biệt trước hết là trong lần này, Thiên Chúa ở cùng hơn khi xưa: hồi ở Ai-cập, chắc chắn ai trong số những người Do-thái cũng đều quý mến và nể phục ông Mô-sê, nhưng đồng thời ai cũng biết rằng đàng sau ông và bên trên ông, đang có Đức Chúa vô hình, Đấng lớn lao hơn và đang điều khiển mọi sự. Qua khuôn mặt, lời nói, hành động của ông Mô-sê, họ thấy Thiên Chúa thật gần họ và thấy như mình rờ đụng được sự hiện diện của Người.

          Thế nhưng ở sân phủ đường Phi-la-tô, qua Đức Giê-su. Thiên Chúa của họ còn gần hơn nữa. vì Người đang ngự sờ sờ ra đó ngay trước mặt họ. Khi Phi-la-tô chỉ vào Đức Giê-su và nói: “Này người đó !” cả ông ta lẫn chính họ đâu có biết nghĩa của câu đó là: này là chính Thiên Chúa bằng xương bằng thịt, Thiên Chúa hiện ra rành rành, Thiên Chúa tỏ mình tỏ tường, Thiên Chúa đã đến nơi đây, đang ngồi đây, tại sân phủ đuờng này, thành một con người bằng xương bằng thịt. Thiên Chúa gần hơn, thật hơn, rõ hơn xưa kia biết bao. Họ đâu có ngờ được.

2. Sự khác biệt thứ hai là hôm nay, cuộc Vượt Qua đích thực đang xảy ra, không còn chỉ là biểu tượng, không còn chỉ là kỷ niệm. Tuy đối với họ, cuộc Vượt Qua khỏi Ai-cập ngày xưa là biến cố vô cùng lớn lao, đáng mọi thế hệ mừng nhớ, nhưng thật ra nó chỉ là hình ảnh báo trước về cuộc Vượt Qua lần này mà thôi. Nó chưa phải là cuộc Vượt Qua đích thực. Nó có mang lại cho Ít-ra-en sự tự do và sự tồn tại đã nhiều thế kỷ, nhưng chắc chắn nó không có tính cách đời đời. Đồng thời người Do-thái mừng Lễ Vượt Qua một cách long trọng và họ coi trọng lễ sát tế chiên Vượt Qua đang diễn ra ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. nhưng cuộc lễ ấy và việc tế hiến ấy cũng chỉ là kỷ niệm về một biến cố đã qua, đâu có phải là thực tại, như khi Đức Giê-su chết trên thập giá, khi Ngài là Chiên Vượt Qua chính hiệu ( vì Ngài giống con chiên Vượt Qua, không bị đánh dập cái xương nào, mà chỉ bị đâm thủng cạnh sườn ) khi Ngài là Thượng Tế đích thực.

Các cử hành ở Đền Thờ chỉ là nghi lễ và kỷ niệm, còn lúc Đức Giê-su tắt thở trên thập giá, thực tại đã xảy đến, đó chính là thời điểm Con Thiên Chúa và cả nhân loại vượt từ cõi chết sang cõi sống

3. Sự khác biệt thứ ba, vô cùng đáng buồn, đó là trong cuộc Vượt Qua khi xưa, toàn dân phấn chấn quây quần chung quanh Mô-sê, vồn vã đón chờ từng mệnh lệnh một của Đức Chúa và sẵn sàng lên đường, không một phút chậm trễ, còn trong hiện tại, họ không nhận ra thời điểm mình sắp được đời đời giải phóng và đang thẳng thừng từ khước Mô-sê Mới của mình. Đối với Đức Giê-su vô tội cũng là chính Đức Chúa đang sờ sờ trước mặt, họ điên cuồng la lên “Đóng đinh nó vào thập giá”.

Đúng là không có ngày nào bẽ bàng cho Thiên Chúa cho bằng hôm thứ sáu ấy. Sau hàng ngàn năm yêu thương và chuẩn bị con người cho Ngày vĩ đại, Người đã gặt hái sự phản trắc của đoàn con nghĩa thiết. Lời lên án và cái chết thập giá họ dành cho Đức Giê-su tố giác sự chọn lựa sai lầm của họ đúng vào dịp may ngàn năm một thuở. Nhưng không phải chỉ người Do-thái mới phản ứng như thế, mà rất có thể chính chúng ta cũng đang phản ứng như thế, qua Đức Tin sa sút, qua nếp sống tầm thường của mình. Thập giá Chúa luôn luôn còn là câu hỏi, là sự cật vấn đối với chúng ta.

Lát nữa đây, chúng ta sẽ lên hôn kính Thánh Giá. Mỗi người hãy tự nghĩ về cái hôn mà mình sắp dành cho Chúa. Mình muốn cái hôn ấy của mình mang ý nghĩa một cái hôn phản bội, giả hình, hay một cái hôn yêu mến và gắn bó ?

Lm. TRẦN THẾ PHIỆT, DCCT, Đà Lạt

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-22: CUỘC KHỔ NẠN CỦA CHÚA GIÊ-SU


TƯỞNG NIỆM CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA CHÚA

 

Hôm nay toàn dân Chúa tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su. Phúc Âm nhất lãm và: Tuầnthánh 6-22


Hôm nay toàn dân Chúa tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su. Phúc Âm nhất lãm và Tin Mừng của thánh Gio-an đều tường thuật về cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su. Mỗi tác giả đều có những nét đặc biệt cho Tin Mừng của mình. Tuy bốn Phúc Âm đều tường thuật lại như nhau về cuộc thương khó của Chúa Giê-su, nhưng đặc biệt thánh Gio-an cũng đã để lộ những nét cá biệt của Người trong việc tường thuật này. Trong cuộc tưởng niệm cuộc khổ hình của Chúa Giê-su, ta dừng lại ở Mầu Nhiệm Thập Giá mà Chúa Giê-su ngang qua cái chết: ”Khi nào Ta bị treo lên khỏi đất Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta“ ( Ga 12, 32 ) hoặc “Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình” ( Ga 15, 13 ).

HẠT LÚA MÌ RƠI XUỐNG ĐẤT...

Thập giá của Đức Ki-tô vẫn tàng ẩn ngay sau bản án mà người Do-thái gán Chúa Chúa Giê-su. Đối diện với thập giá, thế gian được chia làm hai hoặc tin nhận hoặc khước từ. ”Kẻ nghe lời Ta và tin vào Đấng đã sai Ta, thì có sự sống đời đời, và khỏi phải đến tòa phán xét nhưng đã ngang qua sự chết mà vào sự sống” ( Ga 5, 24 ) hoặc ”Kẻ tin vào Ngài, thì không bị án xử, kẻ không tin thì đã bị án xử rồi, bởi vì không tin vào Danh Con Một của Thiên Chúa” ( Ga 3, 18 ).

Thật thế, Thiên Chúa vì quá yêu thế gian dù rằng nhân loại tội lỗi, thế gian phản bội, Ngài không loại bỏ thế gian, nhưng đã sai Con của Ngài là Chúa Giê-su đến gian trần. Chúa Giê-su đã thi hành chương trình cứu rỗi trần thế theo ý Đức Chúa Cha. Chúa Giê-su đã thực hiện luật yêu thương của Tin Mừng: ”...Hạt lúa mì gieo xuống đất, thúi đi và chết đi, thì sinh nhiều hoa trái” ( Ga 12, 24 ).

Chúa Giê-su Ki-tô đã sống cái cùng tận của định luật tình yêu là chấp nhận cái chết nhục hình trên thập giá vì yêu nhân loại, dù Ngài hoàn toàn vô tội ( Mt 27, 4 ). Chúa Giê-su Ki-tô đã chấp nhận như một tội nhân nặng nhất để bị nguyền rủa ( Ga 3, 13 ) và phải kết án tử hình bằng việc bị đóng đinh, hình phạt ghê gớm và nhục nhã nhất lúc đó ( Ga 19, 16 ). Ngài làm thế để ứng nghiệm lời Ngài nói: ”Và Ta, một khi Ta được giương cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lại với Ta” ( Ga 12, 32).

Đây là mầu nhiệm sâu thẳm của tình thương giữa Thiên Chúa và nhân loại: ”Quả vì Thiên Chúa đã yêu thế gian như thế đó, đến nỗi đã thí ban Người Con Một...” ( Ga 3, 16 ) và “Đức Giê-su biết rằng đã đến giờ Ngài qua khỏi thế gian này để đến cùng cha…thì Ngài đã yêu mến họ đến cùng” ( Ga 13, 1 ). Chúa Giê-su đã hoàn tất công trình cứu độ nhân loại trên thập giá. Chính trên thập giá, Đức Giê-su Ki-tô kéo mọi người đến cùng Ngài để hình thành nên một cộng đoàn mới của dân Thiên Chúa. Hình ảnh Đức Giê-su chịu chết, treo trên thập giá làm tôi liên tưởng tới ông tổ của người dân tộc Kơho là Xơrơđen,: ”Ông Xơrơđen cũng đóng khố có kết tua xinh đẹp, cũng mặc áo thêu hoa đỏ tươi, cũng vác xà gạc sắc ( wiăs nhơr ) như nước trên vai, mang gùi nặng sau lưng, cũng đánh chiêng, uống rượu cần...” ( K’ Bon và ông Mang Xăng kể ) và Ong tổ người Kơho đã hy sinh chết hiên ngang cho dòng tộc Kơho của mình, cho sự tồn vong của con cháu và như thế niềm tin của người Kơho cũng thấp thoáng, cũng ẩn tàng một cái gì đó rất bình dị, nhưng cũng rất linh thiêng.

NIỀM TIN CỦA NHÂN LOẠI NƠI THẬP GIÁ CHÚA GIÊ-SU

Mầu nhiệm thập giá là mầu nhiệm tình thương. Trên thập giá, Chúa Giê-su đã qui tụ muôn dân muôn nước và cũng chỉ nơi thập giá ơn cứu độ của Chúa mới tuôn tràn nơi mọi người. Ong Caipha thượng tế đã nói một lời phán quyết về Chúa Giê-su như một lời ngôn sứ: ”Điều ấy, ông đã nói ra, không phải tự mình, nhưng vì là Thượng Tế năm ấy, ông đã nói ngôn sứ là Đức Giê-su sắp phải chết thay cho cả dân tộc; và không chỉ thay cho dân tộc mà thôi nhưng còn để thâu họp con cái Thiên Chúa tản mác về lại làm một” ( Ga 11, 51 – 52 ).

Chúa Giê-su đã thực hiện ý nhiệm mầu của Thiên Chúa Cha là hy sinh mạng sống, gánh tội trần gian, chết vì yêu thương gian trần. Đây là mầu nhiệm của lòng tin và chỉ có đức tin sâu thẳm, con người mới nhận ra điều đó. Nhân loại ở muôn thời vẫn hiểu rằng bao lâu còn Ki-tô giáo bấy lâu thánh giá còn vươn cao. Thập giá là biểu hiệu của người Ki-tô hữu và đó là dấu hiệu của tình thương, của sự hiệp nhất, của sự cảm thông, chia sẻ và tha thứ.

Tôi còn nhớ trong một lớp Giáo Lý cho người tân tòng Kơho, tôi nói rằng: ”Chúa Giê-su là Con Chúa Cha, đã yêu thương con người, giống như anh chị em thương con cái của anh chị em, khi thấy con cái mình bị đau ốm, bị thú rừng tấn công nguy hiểm, anh chị em đem hết tình thương để cứu con mình dù rằng tính mạng mình có thể hiểm nguy, anh chị em vẫn cứu con. Chúa Giê-su cũng vậy vì yêu chúng ta, yêu mọi người, Chúa đã chấp nhận lời của Cha Ngài là Chúa Cha, vâng ý Chúa Cha, chấp nhận cái chết mặc dù Ngài không có tội gì. Chúa Giê-su bị bắt, bị kết án và bị đóng đinh trên thập giá như anh chị em vẫn thấy trong nhà thờ, trên ngực người mang Thánh Giá và tôi rút trong túi áo ra một cây Thánh Giá Truyền Giáo, rồi giơ cho lớp Giáo Lý tân tòng coi. Tất cả đều trầm trồ khen Chúa dễ thương và vỗ tay tán thành vang dội, trước sự xúc động cao độ của tôi...”

Lạy Chúa Giê-su, xin cho mọi người chúng con suy niệm kỹ càng lời mời gọi kính thờ Thánh Giá: ”Đây là cây thánh giá, nơi đã treo Đấng Cứu Độ trần gian”.

Lm. Giu-se NGUYỄN HƯNG LỢI, DCCT, Giáo Phận Đà Lạt

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-23: HƠN Ý NGHĨA ẤN GIẤU TRONG CUỘC KHỔ NHẠN


 CỦA CHÚA

THỨ SÁU TUẦN THÁNH

BÀI THƯƠNG KHÓ ĐỨC GIÊSU KITÔ THEO THÁNH GIOAN

(Ga 18,1-19,42)

I.       VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

1. Những trật tữ được biến đổi theo đức tin của tác giả.

 

Được viết rất lâu sau các biến cố gần với các Tin Mừng Nhất Lãm, trình thuật của Gioan về: Tuầnthánh 6-23


 Được viết rất lâu sau các biến cố gần với các Tin Mừng Nhất Lãm, trình thuật của Gioan về cuộc khổ nạn, chỉ chọn lựa những biến cố ý nghĩa nhất và bỏ qua nhiều biến cố khác: như cơn hấp hối mà ông đã nhắc lại phần chính yếu ở chương 12,23.27, như cuộc trốn chạy tủa các môn đệ, như việc Đức Giêsu ra hầu toà trước Hội đường.

Phải tìm trong viễn tượng thần học của thánh sử lý do lẫn đưa ngài tới chỗ biến đổi một vài trật tự để làm rõ hơn ý nghĩa ấn giấu trong cuộc khổ nhạn của Chúa cứu thế.

Đâu là viễn tượng thần học này?. Để trả lời cho câu hỏi, thiết tưởng không gì bằng trích dẫn E. Charpentier trong "Để đọc Tân ước " (Cerf, trg 99).

- "Ngài trình bày cuộc khổ nạn như tiến trình khải hoàn của Đức Giêsu về với Chúa Cha. Đức Giêsu biết Người sắp từ bỏ cõi đời: Người biết cái chết nào đang đợi Người và Người thản nhiên bước tới: "Mạng sống Ta không ai lấy được, nhưng chính Ta tự ý ban tặng " ( 10,8).

- Gioan nêu bật sự oai nghiêm của Con Thiên Chúa chịu lau khổ. Khi quân lính đến bắt Người, chỉ cần Người nói: "Ta đây" là các địch thù ngã lăn ra sấp mặt xuống, Đức Giêsu bị đóng đinh với tư cách là Vua. Philatô nhận ra điều đó khi xét xử Người (19,13) và tấm bảng tréo trên thập giá: công bố điều đó bằng nhiều thứ tiếng (19,19-20)

- Gioan không tách biệt cái chết với niềm phấn khởi. Việc treo Đức Giêsu trên thập giá cũng là cuộc: Người ngự lên trong vinh quang Thiên Chúa để từ đó Người ban Thánh Thần cho nhân loại (19,30). Thánh giá trở thành ngai tòa vinh quang, từ đó Đức Giêsu thiết lập Giáo Hội.

- Bức tranh, riêng của Gioan, diễn đạt ý nghĩa cái chết của Đức Kitô. Người là chiên vượt qua của Giao ước mới. Hơn nữa, Người còn là Thiên Chúa bị đâm thâu như Zacharia đã báo trước (12,l0 và tiếp theo). Đức Giêsu là Đền Thờ đích thực trong đó Thiên Chúa ngự trị, Đền thờ mà Êdêkien 47,1-12 đã nhìn thấy từ bên phải vọt ra dòng nước tượng trưng cho Thánh Lình. Trong Giáo Hội, Nước và Máu biểu tượng cho hai bí tích rửa tội và Mình Thánh Chúa.

2. Một trình thuật được xây dựng hoàn hảo.

Bắt đầu ở một khu vườn, nơi Đức Giêsu bị bắt và kết thúc trong một khu vườn nơi táng xác, nơi sự sống nẩy mầm, trình thuật của Gioan diễn biến trong một không gian hạn chế. A. Marchadour ghi nhận: "Năm nơi chốn: một khu vườn, dinh thầy cả thượng phẩm về hưu, dinh Philatô, đồi Golgotha và lại một khu vườn nữa. Cả năm cảnh đều được xây dựng chung quanh cảnh Trung tâm như lược đồ sau dây minh hoạ.

- Khu vườn (18,1-11)...
- Anna thẩm vấn (18,12-27)
PHILATÔ XỬ ÁN (18,28-19,16)
Đồi Golgotha (19,18,37)
An táng tại ngôi mồ trong vườn (19,38-42).
(Tin Mừng Gioan, Cenrurion, trang 218-219)

II. BÀI ĐỌC THÊM:

Cái Chết khai mạc một sự hiện triện mới của Đức Chúa

(Kinh Thánh ngày Chúa nhật", trg 571-572).

Trong suốt trình thuật khổ nạn, Gioan không ngừng hình thành câu hỏi mà toàn bộ Tin Mừng nêu lên: Đức Giêsu là ai? (Ga 18,4,7; 19,9). Câu trả lời nổ tung trong phút hiện tại với tất cả sự xác định rõ ràng: "Đức Giêsu là Thiên Chúa và những người Do Thái đến bắt một người, khi ngã sấp mặt xuống, mới ý thức được sự hiện diện của Thần linh. (Ga 18,6). Vì là Thiên Chúa, nên trong vụ án Đức Giêsu chẳng cần gì đến những nhân chứng loài người như trong các Tin Mừng Nhất lãm: Chỉ cần Cha Người làm chứng cho Người là đủ (Ga 8.18). Vả lại ai có thể xét xử một Thiên Chúa như thế? Hội Đường? Gioan thậm chí chẳng nói đến nữa? Dân được tuyển chọn? Trái lại là khác, phiên xử Thiên Chúa diễn ra trước mặt thế giới và đế quốc (Ga 19-15) và bản án được viết bằng ba ngôn ngữ phổ biến nhất thời ấy (Ga 19-20) để lôi kéo mọi người đến quanh thánh Giá (Ga 12,32). Lo lắng tìm ra những dấu chỉ thần tính của Đức Giêsu và bảo đảm sự vĩnh cừu của công trình của Người, Gioan đã rút ngắn đáng kể việc miêu tả những khổ đau của Đức Kitô cũng như những đột biến trong cuộc khổ nạn. Dưới mất thánh nhân, chỉ có một điều quan trọng duy nhất: Cái chết của Đấng Người-Chúa là giờ phút quyết định để con người có thể tiến đến một sự hiệp thông thực sự với Thiên Chúa. Cái chết của Đức Giêsu không phải là một kết thúc, trái lại, nó khai mạc sự hiện diện của Đức Chúa đối với thế giới và Giáo Hội, theo nghĩa này cái chết là vượt qua từ một thế giới hư hèn sang một thế giới khác, thế giới của Giáo Hội bà mẹ các tín hữu như trong (Ga 19,26-27), thế giới của các bí tích (nước và máu trong Ga 19,34), thế giới của chức linh mục vĩnh viễn thực sự mở ra lối đi về Thiên Chúa (chiếc áo không có đường may của các linh mục, Ga 19,23), sau cùng là thế giới của sự sống con người kết hiệp với Thánh Linh (mà Đức Giêsu giao nộp trong cái chết, Ga 19,30).

Để nhắc nhớ kỹ lưỡng cuộc vượt qua từ một thế giới sang một thế giới khác, Gioan đặt cuộc Khổ nạn của Đức Giêsu vào dịp lễ Vượt Qua của người Do Thái, làm lễ "quá độ " tuyệt hảo. Từ đó ông mới thường xuyên đề cập đến lễ vượt Qua (Ga l8,28.39  19,14), đến con chiên vượt qua (Ga 19,36) đến cành lá hương thảo trong nghi thức Vượt qua (Ga 19,29), và trên hết ý định của Gioan khác với các Tin Mừng Nhất lãm, cho giờ chết của Đức Giêsu trùng hợp vào giờ sát tế chiên vượt qua. Giờ đã điểm: nhân loại không chỉ bước vào một thời đại tự do với con chiên vượt qua theo nghi lễ, nhưng con bước vào một thời đại hiệp thông vì chia sẻ cuộc sống với Thiên Chúa.

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-24: LIÊN ĐỚI TRONG ĐAU KHỔ


Bài đọc 1: Is 52:13-53:12; Bài đọc 2: Dt 4:14-16; Bài Tin Mừng: Ga 18:1-19:42

 

Hình ảnh người Tôi trung của Giavê mang lấy gánh nặng đau khổ không phải của chính mình: TUẦNTHÁNH-24


Hình ảnh người Tôi trung của Giavê mang lấy gánh nặng đau khổ không phải của chính mình nhưng "đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta" (bài đọc 1). Bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô theo Thánh Gioan nhấn mạnh đến tình yêu của Đức Giêsu dựa trên tình liên đới với mọi người: "vì yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở trần gian, Người đã yêu thương họ đến cùng". Trong bài đọc 2, trích từ Thư gởi tín hữu Do Thái, Đức Giêsu Kitô được ví như vị thượng tế biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện như ta, nhưng không phạm tội.

SỨ ĐIỆP NIỀM TIN

Chịu Đau Khổ Thay Cho Kẻ Khác

Thật khó hiểu quan niệm này. Theo kinh nghiệm, chúng ta biết rằng đau khổ là điều con người phải gánh chịu một mình. Ngay cả khi có ai đó cùng đồng hành và an ủi chúng ta trong cơn đau khổ, chúng ta vẫn đơn độc vì cô đơn chính là một phần trong toàn bộ nỗi khổ của con người. Đồng thời, kinh nghiệm con người cũng cho chúng ta biết rằng trong tâm hồn con người, nhất là trong lòng những người yêu thương nhau, luôn cháy lên một khát vọng không thể diễn đạt được nhưng cũng rất thực, đó là được chịu khổ thay cho người mình yêu. Ví dụ, trường hợp người mẹ hoặc người cha muốn được chết thay cho con mình. Kinh nghiệm phổ quát này một cách nào đó giúp ta hiểu được việc Đức Kitô chịu khổ thay cho chúng ta trong suốt cuộc sống trần gian của Ngài, nhất là trong cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá. Nơi Vườn Giếtsêmani, trên đường lên Canvê và trên đỉnh Golgotha, Đức Giêsu chịu đau khổ vì gánh lấy nỗi khổ, sự buồn phiền, cơn hấp hối và cái chết của chúng ta. Ngài đau khổ vì gánh lấy tội lỗi chúng ta, tất cả mọi tội, vì đó là căn nguyên gây ra mọi đau khổ cho con người.

Có thể nói rằng cuộc khổ nạn của Đức Kitô chính là cuộc khổ nạn của chúng ta. Sự buồn phiền nơi Vườn Giếsêmani phải chính là nỗi buồn phiền của chúng ta hơn là của Đức Giêsu. Nhưng Ngài đã gánh lấy tất cả. Những cơn co thắt trên thập giá trong những giờ phút hấp hối chính là của chúng ta. Ngài đã chịu tất cả vì chúng ta. Hình ảnh Người tôi trung của Giavê là biểu trưng của dân tộc Do Thái (bài đọc1) giờ đây trở nên một thực tế phủ phàng nơi thân xác và tâm hồn của Đức Giêsu Kitô. Do đó, người Kitô hữu đã mất quyền chịu đau khổ một mình rồi. Đức Kitô, con người đau khổ, đã chịu đau khổ trước thay cho mọi kitô hữu, và giờ đây vẫn còn chịu khổ với họ.

Ai Phải Chịu Đau Khổ Trong Đức Giêsu Kitô Nagiarét?

Trước hết phải kể đến Đức Giêsu, con người chịu đau khổ. Chính những giọt mồ hôi máu của Ngài đã đổ ra nơi Vườn Giếsêmani, chính máu của Ngài đã đổ xuống trên thân thể bị roi đòn và đóng đinh, chính Ngài phải cảm nhận những đau nhói khi bị vòng gai đâm vào, chính Ngài bị xấu hổ khi bị người ta vả mặt, chính Ngài bị tước mất đi nhân phẩm trong cơn hấp hối khi bị cười nhạo và phỉ báng. Đức Giêsu Thượng tế cũng phải chịu đau khổ . Vị thượng tế trong giao ước cũ trút đổ tội lỗi của dân trên một con dê trong ngày lễ xá tội. Đức Kitô Thượng Tế của giao ước mới gánh lấy mọi tội lỗi trên thân mình, đưa cao lên thập giá, thanh tẩy bằng chính máu của mình, và thiêu hủy bằng ngọn lửa của tình yêu nhân hậu (Bài đọc 2). Đức Giêsu, Người tôi trung của Giavê, biểu trưng cho dân Ítraen mới, Hội Thánh của Đức Kitô, vẫn đang chịu đau khổ. Mọi tội lỗi của các Kitô hữu đều có trong cuộc khổ nạn của Đức Kitô. Và tất cả đều được xóa bỏ nhờ vào công nghiệp của Đấng chịu đóng đinh. Sau hết, Đức Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống, cũng chịu đau khổ. Duy chỉ với tư cách này, mà sự đau khổ của Ngài mới có hiệu quả chết thay cho chúng ta, và có giá trị cứu độ muôn người. Là anh em với chúng ta trong nhân tính, Ngài cảm thương những nỗi yếu hèn của con người. Là Con Thiên Chúa trong ngôi vị và bản tính, Ngài có thể hiến thân mình, chịu đau khổ cho chúng ta, một quyền lực siêu phàm mang lại hiệu quả vô tận cho mọi người qua mọi thời.

GỢI Ý MỤC VỤ

Xin Cám Ơn Con- Người- Chịu- Đau- Khổ

Trong Ngày thứ Sáu Tuần Thánh này, thật là hợp lý và là một vinh dự khi mọi Kitô hữu và toàn thể nhân loại tỏ lòng cámt ơn với Đấng bị treo trên thánh gía, Con Thiên Chúa nhưng đã tự mình trở thành người nô lệ, không còn là một con người nữa, để chúng ta đừng quên rằng chúng ta được mời gọi sống trọn vẹn kiếp làm người. Xin cám ơn Đấng chịu đóng đinh bởi vì Ngài đã muốn chịu đau khổ vì chúng ta đến độ không còn hình dáng bên ngoài là con người và cũng không có biểu hiện của con người. Xin cám ơn Chúa vì Ngài đã tự để cho đau khổ tràn ngập nơi mình cũng như trở nên quen thuộc với những đau khổ để chúng ta cảm nhận sự hiện diện của Ngài ở giữa chúng ta. Chúng ta tạ ơn Chúa Giêsu, ngai tòa của lòng thương xót và của tha thứ, vì Ngài muốn chịu đau khổ vì lợi ích cho chúng ta và để chữa lành các vết thương nơi chúng ta.

Chúng ta tạ ơn Đấng Cứu Độ vì Ngài đã hy sinh cho đến chết và chia sẻ số phận của kẻ tội lỗi. Xin cám ơn Chúa vì Ngài đã để con người bắt bớ Ngài, vì Ngài đồng hành với những người bị bắt bớ trong lịch sử và trong thời đại của chúng ta mà đôi khi họ cũng là những người vô tội như Ngài. Xin cám ơn Chúa, Ngưởi anh của nhân loại, vì qua cái nhìn dù là lâu giờ, Ngài đã bỏ qua sự chối từ của Phêrô cũng như của những ai ngày nay đang khước từ Ngài dù đôi khi không có lý do gì cả. Xin cám ơn Đấng là Chân Lý Tuyệt đối vì trong những giờ phút quan trọng nhất cũng như trong suốt cuộc sống Chúa đã đặt chân lý lên trên chính mạng sống như nhiều vị tử đạo từ xưa đến nay vẫn làm để theo bước Ngài. Xin cám ơn Ngài, Đấng xứng đáng nhất trong nhân loại, vì Ngài đã chấp nhận sự ô nhục của kẻ bị xem là tội phạm như là Baraba, dù Ngài là Đấng vô tội. Xin tạ ơn Ngài, con người tự do nhất trong lịch sử, vì Ngài đã không khinh miệt khước từ cái chết của kẻ nô lệ và đã biến đổi những dấu hiệu vô ơn trở thành dấu hiệu của vinh quang chiến thắng.

Nghệ Thuật Chịu Đau Khổ

Đau khổ gắn liền với thân phận con người nhưng chúng ta phải học cách biết chịu đựng đau khổ. Vấn đề này đòi hỏi phải được giáo dục thường xuyên và lâu giờ. Đối với người Kitô hữu cũng như đối với mọi người, Thứ Sáu Tuần thánh là một trường học tuyệt hảo để dạy chúng ta về đau khổ. Chúng ta học đón nhận đau khổ trong thinh lặng, với Đức Giêsu và như Ngài. Ngài dạy chúng ta bài học cao quí về cách chấp nhận khổ đau và thánh giá, dù Ngài là Đấng vô tội, chấp nhận vì một lý do cao cả hơn, đó là tình yêu đối với Thiên Chúa và với anh chị em của Ngài. Ngài còn dạy một bài học tuyệt vời về tha thứ cho những ai làm điều xấu với chúng ta, về cầu nguyện cho những ai nhạo báng và gây đau khổ cho chúng ta. Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh cũng giống như là ngôi trường nơi chúng ta học chịu đau khổ với sự kiên nhẫn và lòng yêu thương, để đón nhận mọi biến cố và hoàn cảnh bởi vì Thiên Chúa muốn hoặc cho phép những điều này vì lợi ích cho chúng ta.

Đường thánh gía vào Thứ Sáu Tuần thánh cũng giống như con đường khổ giá của cuộc sống con người, nơi đó hoà lẫn yêu thương và thù hận, đánh đập và an ủi, có thượng tế cũng như các trợ tế, có nhục mạ và nước mắt, có những người trộm cướp xúc phạm đền Ngài nhưng cũng có những ngườ biết sám hối ăn năn, có người mẹ đau khổ đi theo Ngài và cũng có những môn đệ bỏ rơi Ngài, có những người chia nhau áo của Ngài và có những người mua vải và khăn liệm xác Ngài. Đức Kitô đón nhận tất cả. Ngài đau khổ bởi vì thân xác yếu hèn của Ngài bị đánh đập trở nên nặng nề do sức nặng tâm lý cũng như thể lý. Ngài đau khổ bởi vì Ngài làm cho những ai Ngài yêu thương phải khổ đau và vì Ngài gây nên đau khổ cho nhiều người thật tình yêu thương Ngài. Ngài gánh chịu khổ đau để chúng ta có thể cùng chịu đau khổ với Ngài và như Ngài.

Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê chuyển ngữ

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-25: Trong tay Ngài Con Xin Phó Thác Hồn Con


Thánh Vịnh 30 Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh

Cùng Đọc Với Dân Ítraen

 

Thánh Vịnh 30 được hát vào ngày Thứ Sáu Thánh, bởi vì Đức Giêsu trên thập giá đã đọc những: Tuầnthánh 6-25


Thánh Vịnh 30 được hát vào ngày Thứ Sáu Thánh, bởi vì Đức Giêsu trên thập giá đã đọc những lời của Thánh Vịnh này trước khi tắt thở: Lạy Cha, Con xin phó thác hồn con trong tay Cha (Lc 23,46). Nhưng chính cả Thánh Vịnh được áp dụng hoàn toàn cho Đức Giêsu chịu đóng đinh. Ngay trước khi Đức Giêsu dùng như kinh nguyện cá nhân của Ngài, Thánh Vịnh này đã là một lời nguyện với hai hồi: Mở đầu là lời van xin của một tên bị cáo "vô tội", của một người đau bệnh, một người sắp chết đang phải đối phó với cơn bách hại: tên bị chúc dữ, bị loại khỏi cộng đoàn, bạn bè thân thích đều kinh hãi, như người bị mắc bệnh dịch truyền nhiễm… -- nhưng phần cuối của Thánh Vịnh lại là lời kinh nguyện êm dịu thân tình của một người nhà của Giavê: dù trở nên đối tượng cho những tố cáo bất công, kẻ sắp chết vẫn tiếp tục vẫn ca tụng hạnh phúc của đời sống thân tình với Chúa: "Nhưng con đây vẫn tin tưởng nơi Ngài, Lạy Chúa…Số phận con ở trong tay Ngài…Chúa đã tỏ tình thương kỳ diệu đối với con…Cao cả thay tấm lòng nhân hậu, Chúa dành cho ai tìm đến Ngài nương náu.

** Cùng Đọc Với Đức Giêsu

"Con đã nên trò cười cho thù địch…" Các Biệt phái, Luật sĩ, tên trộm phỉ báng Ngài. Người ta không chỉ bằng lòng giết chết Ngài mà còn muốn làm Ngài xấu hổ, giao nộp cho quân lính sỉ vã…ngay chính bản án trên đầu Ngài cũng làm cớ để người ta chế giễu: Giêsu Nagiarét, Vua dân Do Thái, được viết bằng ba thứ tiếng.

"Bạn bè thân thích đều kinh hãi….Thấy con ngoài đường ai cũng tránh xa…" Một vài giờ sau bữa ăn cuối cùng với Thầy, các tông đồ đã trốn chạy hết khi Thầy bị bắt nơi Vườn Giếtsêmani.

"Chúng toa rập chống con và mưu toan lấy mạng…" Đám đông do các lãnh tụ khích động đòi tử hình Ngài: Đóng đinh nó vào thập giá! Máu nó đổ trên đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi. Chúng ta muốn cái chết của những người thân và của chính chúng ta phải là một cái chết an bình, có mặt những người thân yêu xung quanh. Thật may mắn cho một người nào đó khi chết được ở trong vòng tay của một người yêu thương. Đức Giêsu, trái lại, xung quanh Ngài toàn những bộ mặt ganh ghét. "Bị lãng quên, như kẻ chết không người tưởng nhớ, con hóa thành đồ hư vất bỏ". Cái chết của Đức Giêsu không phải là một cái chết "bình thường"..nhưng là một cái chết bị khinh bỉ, cái chết của những tên nô lệ, của những kẻ bị kết án, của một thứ đồ vật mà người ta có thể đóng đinh vào.

"Nhưng con đây vẫn tin tưởng nơi Ngài, Lạy Chúa, dám thưa rằng: Ngài là Thượng Đế của con." Đức Giêsu vẫn thường cầu nguyện với những "nhịp đôi", cấu trúc của rất nhiều Thánh Vịnh: tiếp theo lời than thở là lời tạ ơn chúc tụng. Ta gặp thấy sự chuyển nhịp này nơi Thánh Vịnh 21, khởi đầu bằng tâm tình bị bỏ rơi nhưng kết thúc bằng lời tạ ơn đầy phấn khởi.

"Số phận con ở trong tay Ngài…Trong tay Ngài con xin phó thác hồn con" Những lời của Thánh Vịnh xuất hiện cách tự nhiên trên môi Ngài, trước khi Ngài bước vào giấc ngủ của sự chết. Và Hội Thánh, trong giờ kinh Tối, dạy chúng ta đọc lại mỗi buổi tối trước khi ngủ: con xin phó thác hồn con trong tay Cha.

"Xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên tôi tớ Ngài đây, và lấy tình thương mà cứu độ…Lạy Chúa, cao cả thay tấm lòng nhân hậu, Chúa dành cho kẻ kính sợ Ngài và thi thố trước mặt phàm nhân cho ai tìm đến Ngài nương náu" . Từ do thái HESSED, tình thương. Sự phục sinh đã gần kề. Đức Giêsu biết chắc như thế. Lẽ nào Ngài lại quên trong giây phút này?

"Hỡi mọi người cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!" Đức Giêsu ý thức rõ ràng điều này, nhưng không chỉ cho riêng mình Ngài, mà còn muốn nhắn gởi cho chúng ta là những người phải chết: can đảm lên nào!

*** Cùng Đọc Với Người Thời Nay.

Những lời Thánh Vịnh này đã vang lên trên môi miệng Đức Giêsu, giờ đây cũng phải được thốt lên từ môi miệng mỗi người chúng ta, của tất cả mọi người. Có biết bao bệnh nhân trong gia đình, nơi các bệnh viện! Có biết bao người bị bách hại, bị khinh dễ, biết bao người bị xem như những đồ vật! Có biết bao người bị bỏ rơi! Nhưng xin bạn vui lòng đọc cho hết Thánh Vịnh, chúng ta sẽ cùng dâng lời tạ ơn Chúa.

Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê chuyển ngữ

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-26: THỨ SÁU – Cha Xái


Thứ Sáu: Bài thương khó theo TM Gioan: Ga 18,1--19,42

A. Hạt giống...

 

Thánh Gioan có một cái nhìn đặc biệt đối với cuộc chịu nạn của Chúa Giêsu. Thập giá không chỉ: Tuầnthánh 6-26


Thánh Gioan có một cái nhìn đặc biệt đối với cuộc chịu nạn của Chúa Giêsu. Thập giá không chỉ là con đường dẫn tới vinh quang, mà thập giá chính là vinh quang:

- Đó là GIỜ mà từ lâu Chúa Giêsu hằng nghĩ tới và chuẩn bị, là thời điểm vinh quang mà vận động viên marathon chạy về tới đích đoạt chiếc cúp vàng.

- Do đó Ga cho thấy Chúa Giêsu bước vào cuộc thụ nạn một cách đầy ý thức và chủ động. Ga luôn lặp đi lặp lại nhũng chữ “Ngài biết”. Chúa Giêsu biết trước những gì sắp xảy đến. Ngài luôn làm chủ những diễn biến.

- Trên thập giá, Chúa Giêsu trờ thành VUA và lấy lại Vinh Quang Ngài vốn có nơi Chúa Cha.

- Từ Thập giá, Ngài
          . Kéo mọi người lên với Ngài
          . Sinh ra Hội Thánh
          . ban cho Hội Thánh một người mẹ là Đức Maria
          . tuôn tràn Thánh Linh xuống cho Hội Thánh

Bởi đó, khi chúng ta cùng Gioan đi theo những chặng đường thập giá Chúa Giêsu, tâm tình chúng ta phải có là Lạc quan và Biết ơn.

B.... nẩy mầm.

1. Chính vì Chúa Giêsu luôn ý thức và chủ động trong mọi diễn biến của cuộc chịu nạn mà cuộc chịu nạn này mới có giá trị. Những đau khổ của chúng ta cũng thế.

2. Đối với Chúa Giêsu, thập giá là vinh quang. Thánh Phaolô cũng nói “Vinh dự của chúng ta là Thập giá Đức Kitô”. Xin Chúa giúp chúng con cũng có thể nói được như thế.

3. Khi George Nixon Briggs làm Thống đốc bang Massachusetts, có ba người bạn của ông đi viếng Thánh Địa. Họ leo lên đỉnh núi Gôngôta, bẻ một nhánh cây làm gậy. Khi trở về, họ tặng vị Thống đốc cây gậy đó và nói: “Chúng tôi muốn ngài biết cho rằng, khi đứng trên đỉnh đồi Can vê, chúng tôi đã nghĩ tới ngài. ”Thống đốc hết lòng cám ơn họ, ưu ái nhận quà tặng và nói thêm : “Nhưng thưa các bạn, tôi còn nghĩ xa hơn: ở đó, có một Đấng khác cũng đã nghĩ đến tôi." (Góp nhặt)

4. Có lần một nhà truyền giáo hỏi lớp giáo lí Thánh Kinh: nếu các bạn thấy một nhóm gồm 12 người đàn ông rất giống nhau, trong đó có đức Kitô, làm sao các bạn nhận ra Ngài ? Nhiều người bảo không biết. Nhưng một em bé nói: “Nhờ những dấu đanh trên tay Ngài”. (Góp nhặt)

5. (những mầm khác)

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-27: Ông Giuđa bán Chúa – Đức Cha GB. Bùi Tuần

 

Trong Thiên Chúa giáo, việc ông Giuđa phản bội Chúa Giêsu là việc nổi tiếng. Nổi tiếng ở chỗ: Tuầnthánh 6-27


Trong Thiên Chúa giáo, việc ông Giuđa phản bội Chúa Giêsu là việc nổi tiếng. Nổi tiếng ở chỗ ông bán chính Thầy mình với giá 30 đồng bạc (Mt 27,3).

Trong Mùa Chay, nhất là trong Tuần Thánh, tên ông Giuđa được nhắc tới nhiều lần với ý nghĩa xấu.

Tôi thấy việc hiểu nhân vật này là chuyện không đơn giản.

Cho dù ông bị mọi người của mọi thế hệ kết án là người phản bội, thì rõ ràng sự phản bội của ông cũng đã trở thành một biểu tượng lớn cho nhiều thứ phản bội khác của bao nhiêu người khác. Biết đâu trong số đó có chúng ta.

Vì thế, tôi xin trình bày vài suy nghĩ của tôi. Suy nghĩ riêng tư, nhưng cũng dựa trên Phúc Âm.

Được chọn và được trọng dụng.

Ông Giuđa là người thuộc nhóm 12 môn đệ Đức Kitô.

Nhóm 12 này được coi là những người được Chúa Giêsu tuyển chọn cách riêng.

Bốn Phúc Âm đều nhắc đến tên ông Giuđa này, biệt danh là Giuđa Ítcariốt  (Lc 6,16). Điều hơi đặc biệt là tên ông được nhắc tới không dưới 10 lần. Đang khi một số môn đệ khác chỉ được nói tới phớt qua.

Thuộc nhóm 12 đã là một vinh dự lớn. Thêm vào vinh dự lớn đó, ông Giuđa còn được trao trọng trách giữ tiền. Với nhiệm vụ giữ tiền chung, ông được coi như người quản lý lo về vật chất và phác hoạ các kế hoạch cho các di chuyển và việc ăn ở hằng ngày của cộng đoàn. Nếu gọi ông là người lập kế hoạch cho nhóm về phương diện vật chất, thì cũng không quá đáng.

Như vậy, ông Giuđa là người tháo vát. Trong một thời gian dài, ông được Chúa Giêsu tin tưởng và được các bạn tín nhiệm.

Trước biến cố Chúa Giêsu nạp mình bị bắt, bầu khí trong cộng đoàn không có dấu chỉ nào cho phép dự đoán xấu về ông, khiến các môn đệ phải nghi ngờ ông.

Tự hào với ý riêng.

Ông Giuđa, được tiếp cận với Chúa Giêsu kể như thường xuyên, được nghe Người giảng dạy, được chứng kiến nhiều phép lạ Người làm, hơn hữa, ông lại là người Chúa chọn cách riêng. Nên không thể nghi ngờ về đức tin của ông.

Trái lại, theo thiển ý của tôi, ông thuộc trường phái Zêlốt gồm những người nhiệt thành về đạo. Ông rất khao khát Đấng Cứu thế đến. Ông rất thao thức với việc thiết lập Nước Trời. Ông tin giờ hạnh phúc đó đã tới gần.

Bởi vì chính Đức Kitô cũng thỉnh thoảng nói về thời giờ đã gần tới. Người còn dạy phải cầu nguyện cho Nước Cha trị đến.

Ông rất tin Thầy mình là Đấng quyền năng. Ông tin tình hình đã tới lúc đổi mới. Ông chứng kiến cảnh từng vạn người từ khắp nơi đổ về thủ đô, để tung hô đón Thầy mình từng bừng. Họ tôn vinh Thầy mình là vua (Mt 24,8-10). Ông thấy Thầy mình mạnh tay đuổi những kẻ buôn bán khỏi đền thờ (Mt 21,12-13). Người tỏ mình là Đấng cứu dân (Mt 21,14-17). Vì thế ông tự hào về hy vọng của ông bao năm hằng ấp ủ.

Nhưng, chính lúc đó, ông lại thấy Thầy mình tỏ ra không hào hứng chút nào. Trái lại, Người còn nói xa nói gần về một cái gì u ám sắp xảy ra. Như “Còn hai ngày nữa là đến lễ Vượt qua, và Con Người sắp bị nộp, để chịu đóng đinh vào thập giá” (Mt 26,2). Vì thế, ông Giuđa nghĩ rằng: Mình cần phải có một kế hoạch, để việc đắc thắng của Thầy trò mình nhất định phải thực hiện cho bằng được, càng sớm càng tốt.

Rơi vào những sai lầm trầm trọng.

Thế là ông đưa ra kế hoạch, ép Chúa Giêsu phải sớm tỏ ra uy quyền và vinh quang, ép Người phải sớm thiết lập một Nước Trời đầy công bình và vâng phục luật Chúa, ép Người phải chứng tỏ mọi hy vọng của ông về Chúa là đúng, là chính đáng.

Thế là, ông mưu đồ bán Chúa. Đây chỉ là một chiến lược.

Nhưng, Giuđa đã sai lầm trầm trọng.

Sai lầm thứ nhất là ông tưởng Chúa Giêsu, khi bị bắt, sẽ thoát khỏi tay quân dữ một cách dễ dàng. Uy quyền Chúa sẽ tràn lan. Nhưng Chúa Giêsu lại không làm như ông muốn.

Sai lầm thứ hai là ông tưởng việc thiết lập Nước Chúa sẽ được thực hiện bằng quyền lực, bằng những thành công rực rỡ lẫy lừng. Nhưng thánh ý Chúa rất khác. Nước Chúa sẽ đến qua con đường khiêm tốn, yêu thương tự hạ hy sinh. Chúa và các môn đệ Người sẽ phải  chịu mọi cực hình cho đến chết trên thánh giá để làm chứng nhân cho tình yêu cứu độ.

Sai lầm thứ ba là ông thiếu khiêm nhường và tỉnh thức trước các lời Chúa khuyến cáo. Ông tự cao, cứ bám chặt vào cái nhìn chủ quan của mình.

Sai lầm thứ tư là sau khi sự Chúa bị bắt và bị nhục hình đã đánh thức lương tâm ông, thì ông lại vội thất vọng về Chúa và về chính mình. Ông tưởng chỉ còn một lối duy nhất để giải quyết lỗi lầm của ông, là treo cổ tự tử. Ông không nhớ, hoặc không tin vào lòng thương xót của Chúa. Ông không đủ khiêm nhường, để theo Chúa đến thánh giá, đến mộ, và trở về với nhóm 12. Họ cũng là những người bội phản, kẻ cách này, kẻ cách khác. Nhưng họ khiêm tốn vẫn tin theo Chúa trong tâm hồn. Sau cùng, họ đã gặp Chúa sống lại, và đã được Người thứ tha mọi lỗi lầm, yếu đuối.

Những bài học.

Với mấy suy nghĩ trên đây, tôi nghiêng về hướng không buộc tội ông chỉ vì tham tiền mà phản bội Chúa. Thực ra, chỉ có Chúa mới là Đấng có thẩm quyền xét xử ông.

Riêng tôi chỉ muốn rút ra cho mình những bài học hữu ích.

Qua sự kiện Giuđa, Chúa Giêsu dạy tôi luôn phải bắt chước Người, trong việc vâng phục thánh ý Chúa Cha. Vâng phục với tâm tình phó thác tuyệt đối.

Tôi phải rất thận trọng trong các việc mình tự cho là để làm sáng danh Chúa. Bởi vì rất nhiều trường hợp, ý Chúa lại rất khác ý ta. Việc tôi làm tưởng là việc tốt, nhưng trước mặt Chúa lại là một thứ phản bội ơn gọi làm chứng nhân cho Đấng Cứu thế khiêm nhường, khó nghèo, hy sinh.

Tôi tin Nước Trời sẽ đến. Nhưng Nước Trời như một hạt giống gieo vào lòng đất. Hạt giống đó sẽ phát triển và mọc dần dần (Mc 4,26-29). Chứ Nước Trời không được thiết lập bằng bất cứ quyền lực nào.

Sự tin cậy phó thác của tôi nơi Chúa mở ra trong tôi một cái nhìn mới. Tôi tin vào Cha giàu lòng thương xót. Cha thì biết cái gì là tốt hơn cho con. Nên trước những xung đột nội tâm, tôi vững tâm nói với Cha lời Chúa Giêsu đã nói ở vườn Cây Dầu: “Cha ơi, Cha có thể làm được mọi sự. Xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mc 14,36).

Nhất là tôi đặt hết tâm tình tôi vào lời phó thác “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Lời phó thác đó là lời sau cùng Chúa Giêsu nói trên thánh giá. Còn đối với tôi, đó là lời phó thác của mọi ngày, mọi giờ, mọi phút, suốt cả đời tôi.

Sau cùng, tôi xin Chúa thương giúp tôi biết sử dụng đúng sự tự do, địa vị và các tài năng của mình. Giuđa đã sử dụng sai các ơn Chúa ban. Nhưng Chúa không ngăn cản. Hơn nữa, Chúa còn ưu ái ông. Vì thế, ông đã đi xa, chìm sâu trong lầm lạc. Về phương diện này, có thể nói tội phản bội của Giuđa vẫn tái diễn. Đến nỗi, còn có thể nói thêm: Nếu không biết khiêm nhường tỉnh thức, thì trong mọi người chúng ta vẫn thấp thoáng bóng một Giuđa phản bội.

Hy vọng đừng ai coi thường tiềm năng phản bội đó nơi chính mình.

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-28: Suy tôn Thánh Giá.


THỨ SÁU TUẦN THÁNH

Anh chị em thân mến,


 

Hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta giữ chay kiêng thịt để chia sẻ những khổ hình mà Chúa: Tuầnthánh 6-28


Hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta giữ chay kiêng thịt để chia sẻ những khổ hình mà Chúa Kitô đã chịu vì tội chúng ta, cao điểm của ngày hôm nay chính là giây phút này đây: suy tôn Thánh Giá.

Trong niềm hiệp thông này, tôi chia sẻ với anh chị em hai vấn đề chính trong nghi lễ hôm nay:

1- Thánh giá là Tin, Yêu và Hi Vọng.

Trong suốt bốn mươi ngày của mùa chay, chúng ta đã thống hối, ăn năn các tội phạm làm Chúa buồn, giờ đây chúng ta đang đi vào đỉnh cao của ý nghĩa thống hối và ăn năn ấy, đó chính là suy tôn Thánh Giá của Chúa Kitô.

Với người không có đức tin thì Thánh Giá là khổ đau là nhục hình và là dấu hiệu của thất vọng, nhân loại lại luôn sợ Thánh Giá vì họ đã không tìm thấy nơi thánh giá có gì lạ. nhưng với những người có đức tin như chúng ta thì Thánh Giá là niềm vui, niềm tin yêu và hi vọng, nó được biểu hiện qua việc hiệp thông với Đấng đã dùng nó để cứu chuộc loài người là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Mỗi một việc làm hi sinh là một Thánh Giá đem lại niềm tin cứu độ, mỗi một đau khổ là một Thánh Giá đem lại yêu thương từ sự cứu độ, mỗi một tâm tình thống hối là một Thánh Giá đem lại hi vọng cho nhân loại vào sự cứu độ. Cho nên người Kitô hữu chúng ta thật sự là những người hạnh phúc nhất trong tủi nhục, những người lạc quan nhất trong đau khổ, bởi vì chúng ta tin và chia sẻ cùng Thánh Giá với Chúa Kitô khổ nạn và Phục Sinh...

2. Thánh Giá là Phục Sinh.

Thánh Giá Chúa Kitô hai ngàn năm trước và Thánh Giá Kitô hữu hai ngàn năn sau vẫn chỉ là một Thánh Giá, bởi vì nó đã trở thành biểu tượng phục sinh không những của người Kitô hữu mà là của cả nhân loại.

Hôm nay Thứ Sáu Tuần Thánh, cây Thánh Giá sần sùi năm xưa trên đồi Gologoltha đã trở nên cây trường sinh và biểu tượng của Phục Sinh, trong mùa chay và nhất là trong ngày hôm nay, người Kitô hữu tay ôm Thánh Giá đấm ngực ăn năn với một niềm tin tưởng sâu xa, chính nó là nơi đã treo Đấng cứu độ trần gian -Chúa Kitô, thì nay cũng sẽ trở thành cái thang đưa họ lên trời phục sinh vinh quang với Ngài.

Hôm nay, mỗi người chúng ta ngắm đàng Thánh Giá với hết cả tâm tình chia sẻ đau khổ tột cùng của Đức Kitô, chính Ngài đã gánh vác cây thánh giá là tội lỗi của tôi, của anh, của chị và của cả nhân loại trên đôi vai của mình, Ngài đã mệt nhọc vác đi trên quảng đường dốc đá để đến nơi chịu đóng đinh để nhân loại có đường sống, Ngài đã chịu đóng đinh tên Thánh Gía để cho nhân loại khỏi bị quăng vào lửa thiêu đốt đời đời.

Anh chị em thân mến,

Suy tôn Thánh Giá Chúa Kitô là làm vinh quang Đấng cứu độ nhân loại, bái lạy Thánh Giá Chúa Kitô là tung hô Đấng Thiên Chúa làm người, hôn kính Thánh Giá là yêu thương Đấng đã vì yêu mà chết trên Thánh Giá...

Cầu xin Chúa Kitô, Đấng đã bị đóng đinh trên Thánh Giá ban on sức mạnh cho chúng ta, để mỗi người luôn biết yêu mến vác thánh giá của mình cùng đi lên Núi Sọ với Ngài, đó chính là ý nghĩa sâu xa nhất trong ngày hôm nay vậy.

Xin Mẹ Maria luôn đồng hành với chúng ta trên đường khổ nạn.

Bài giảng Thứ Sáu Tuần Thánh tại nhà thờ Phục Sinh-Taiwan.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.


------------------------------

 

Tuầnthánh 6-29: Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu


Thứ Sáu Tuần Thánh: Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu

Ga 18, 1-19, 42


 

Ngày thứ Sáu Tuần thánh, Chúa Giêsu chịu chết trên thập giá vì tự nguyện vâng phục đúng: Tuầnthánh 6-29


Ngày thứ Sáu Tuần thánh, Chúa Giêsu chịu chết trên thập giá vì tự nguyện vâng phục đúng như thánh Phalô viết:” Ngài vâng lời cho đến chết…chết trên cây thập tự”( Pl 2, 8 ). Hôm nay, kỷ niệm cuộc thương khó và tử nạn của Chúa Giêsu. Thánh giá không còn là nỗi tủi nhục của cuộc tử nạn, nhưng thập giá đã trở nên nguồn hy vọng, nguồn sống và sự chiến thắng: “ Lạy Chúa, chúng con tôn thờ thánh giá Chúa, hát mừng Ngài sống lại hiển vinh; ấy chính vì bởi cây thập giá, niềm hân hoan tràn ngập địa cầu “.

BIẾN CỐ TỬ NẠN CỦA ĐỨC GIÊSU KITÔ:

Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay tường thuật lại biến cố thương khó, chết của Chúa Giêsu thật minh bạch, rõ ràng vì chính thánh sử là người duy nhất đã theo chân Chúa Giêsu từ đầu cuộc thương khó cho tới chân thập giá. Ở đây, thánh Gioan muốn cho mọi người muôn thời hiểu rõ rằng cái chết của Chúa Giêsu là do Ngài hoàn toàn ý thức, hoàn toàn tự nguyện, tuyệt đối vâng lời thánh ý Chúa Cha. Ngài hoàn toàn chọn lựa vận mạng của mình: Ngài vác lấy thập giá và Ngài chọn lựa phải chết lúc nào. Đây là dụng ý riêng của thánh Gioan. Tuy nhiên, nét chính yếu và nổi bật nhất của đoạn trình thuật Ga 18, 1-19, 42 là lời giải thích cái chết hy tế trên thập giá của Chúa Giêsu: vì tình thươngsâu xa đối với Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu đã hoàn toàn vâng phục thánh ý của Chúa Cha cho đến cùng, cho đến tự hiến thân trên thập giá, và cũng chính vì yêu thương loài người, yêu thương từng người không loại trừ bất cứ người nào, mà Ngài đã hy sinh mạng sống để cứu chuộc họ như lời Ngài đã nói: “ Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu mến” ( Ga 15, 13 ).

Khi cử hành cuộc tưởng niệm Chúa Giêsu chịu đóng đinh, chịu chết trên thập giá, Giáo Hội không chỉ ghi nhớ một biến cố đã xẩy ra trong lịch sử nhân loại cách đây hơn hai ngàn năm, nhưng biến cố này còn nhắc nhở đến trách nhiệm của mỗi người về cái chết của Chúa Giêsu.

CUỘC THƯƠNG KHÓ VÀ TỬ NẠN CỦA CHÚA GIÊSU LAY TỈNH CON NGƯỜI:

Đọc lại Tin Mừng Nhất Lãm và Tin Mừng của thánh Gioan, chúng ta không chỉ có cái nhìn lịch sử để phê phán, lên án một Giuđa, người môn đệ thân cận Chúa Giêsu, đã ham tiền, ích kỷ, thiển cận chỉ nghĩ đến lợi ích riêng tư, đã phản bội bán Chúa 30 đồng để nộp Thầy của mình, một Hêrôđê khát máu, một Philatô hèn nhát, không dám bênh vực Chúa dẫu biết rằng Chúa hoàn toàn vô tội, một Phêrô nhát đảm đã chối Chúa tới ba lần, một tòa án bất công đã lên án bất công Chúa Giêsu, một đám đông vô ơn dù rằng trước đó có người đã tung hô, đã được Ngài cho ăn bánh no nê, đã chứng kiến nhiều phép lạ của Chúa, đám đông ấy cứ hò hét đòi đóng đinh Chúa dẫu biết Chúa vô tội…. Tuy nhiên, cử hành lại cuộc tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa Giêsu hôm nay, Giáo Hội, mọi người và chúng ta không chỉ nhìn biến cố ấy theo lịch sử đã ghi chép, nhưng biến cố này là một mầu nhiệm đức tin ( Mysterium fidei ). Do đó, nó có giá trị vĩnh cửu cứu rỗi cho tất cả những ai có lòng tin vào Đức Giêsu Kitô.

Vì thế, cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu có liên quan trách nhiệm đến mỗi người Kitô hữu. Chính tội lỗi của nhân loại và của mỗi người Kitô hữu là tiếng hò reo đòi đóng đinh Chúa Giêsu. Cái chết của Chúa Giêsu là lời mời gọi con người thức tỉnh, ăn năn, chừa cải tội lỗi, trở về với Chúa để xin Chúa thương xót thứ tha tội lỗi, lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa.

THẬP GIÁ LUÔN LÀ THÁCH ĐỐ CHO MỖI NGƯỜI KITÔ HỮU:

Nơi đâu có người công giáo, nơi đó có biểu hiệu của thánh giá.Thánh giá là dấu chỉ của người Kitô hữu. Chúa Giêsu đã dùng cây thập giá để cứu độ con người. Thập giá vẫn mãi mãi diễn tả cái nanh ác của con người. Nhưng thập giá lại là nguồn ơn cứu rỗi cho mọi người có lòng tin vào danh Chúa Giêsu. Chúa nói:” Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta “. Thập giá mãi mãi là thách đố đối với con người. Chúa đã chịu chết trên thập giá để giải thoát con người khỏi tội lỗi và mang lại hạnh phúc cho con người. Nhìn lên thập giá, liệu chúng ta có yêu thương Chúa nhiều hơn không vì Chúa vô tội mà đã gánh tội, chết thay cho ta ?

Lạy Chúa Giêsu, chúng con tôn thờ cây thánh giá vì nơi đó đã treo Đấng cứu độ trần gian.


Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-30: TÌNH MẾN TUYỆT ĐỐI


( Chúa Giê-su sống trước mắt loài người, giới thiệu với loài người một đối tượng mới của đời người, của mọi tìm kiếm của con người: đó là tình mến tuyệt đối, vô vị lợi và chấp nhận tự hủy )

 

Chúng ta hỏi: ai được giới thiệu và điều gì được giới thiệu vào buổi sáng thứ sáu hôm ấy tại: Tuầnthánh 6-30


Chúng ta hỏi: ai được giới thiệu và điều gì được giới thiệu vào buổi sáng thứ sáu hôm ấy tại sân phủ đường quan Phi-la-tô ?

Nhiều người có thể nghĩ:

những con người được giới thiệu là: kẻ giàu có, Biệt Phái, luật sĩ có uy tín trong Đạo Do-thái, vị Thượng Tế, quan Tổng Trấn Phi-la-tô...

những điều được giới thiệu để người ta thèm muốn, kiếm tìm là sự thành công ở đời, thế giá, uy tín, ảnh hưởng, địa vị, của cải, tiếng khen...

Nhưng nếu sáng suốt nhận định, ai cũng thấy những điều đó và những con người đó không tồn tại lâu dài, tất cả sẽ qua đi.

Điều ngược đời là không phải những người kia đang đưa ra được những khuôn mặt mới mẻ và những điều mới mẻ, mà chính người tù Giê-su Na-da-rét mới đang giới thiệu một điều vừa mới mẻ, vừa vững bền, tuy bề ngoài Ngài đang là con người thất bại, bê bết máu, không hấp dẫn tí nào !

Điều Ngài đang giới thiệu qua cuộc Thương Khó và qua thân xác bầm dập của Ngài, đó là tình mến tuyệt đối, tình mến vô vị lợi, tình mến khiến Ngài quên mình, tự hủy, hy sinh cả mạng sống.

Điều này mới mẻ vì trong nhân loại chưa có ai sống được, chưa có ai đạt tới. Điều này sẽ bền vững hơn mọi cái khác trên đời, vì những việc xuất phát từ tình mến sẽ tồn tại.

Vậy Chúa Giê-su đến trần gian không phải để có thêm một người sống những điều mau qua và giới thiệu với nhân loại những điều chỉ tồn tại cho đến lúc người ta chết mà thôi. Ngài đến giới thiệu sức sống anh hùng, tình mến anh hùng, chưa ai sống , do đó cũng là điều mới mẻ chưa bao giờ có. Hóa ra cả Bài Ca về Người Tôi tớ của Cựu Ước báo trước về một con người lý tưởng,  trồi lên như một con người mới mẻ lạ lùng vô cùng và nay nơi chính Đức Giê-su máu me bê bết ngồi ở phủ đường Phi-la-tô, người ta mới nhận ra Người Tôi Tớ vừa đáng thương vừa vô cùng cao cả và đáng nể phục đó.

Điều gì đã làm cho Đức Giê-su có được tình mến tuyệt đối như thế, yêu đến mức khủng khiếp như thế ? Phải nói đó là sức mạnh Thiên Chúa, ơn của Thiên Chúa, khuôn mặt vô cùng đáng mến của Thiên Chúa, vinh quang phải được đề cao trên hết mọi sự của Thiên Chúa.

Chúng ta đồng ý là trong nhân loại đã, hoặc sẽ có những con người rất anh hùng, có tình mến vô cùng cao cả.. Nhưng chắc chắn họ không thể sánh với Chúa Giê-su, và có thể nói, họ được như thế, là do chính ơn sức vô hình bên trong mà Thiên Chúa đã ban cho họ.

Còn chúng ta, chúng ta tôn vinh Đức Giê-su là vị Chúa thật anh hùng, thật đáng khâm phục, là con người quá sức trổi vượt và mới mẻ giữa nhân loại tầm thường của chúng ta. Chúng ta xin lỗi Ngài vì đời sống quá nhiều sự xoàng xĩnh của chúng ta. Và chúng ta xin ơn Ngài để từ nay sống thanh cao quảng đại hơn. Sở dĩ chúng ta phải xin ơn Chúa, vì phải nhờ ơn Chúa, chúng ta mới sống đạo đức được, mới dần dần nên giống Chúa và đạt đến mức sống Chúa đã nêu gương cho chúng ta.

Bằng cái hôn trìu mến đặt lên chân Chúa chiều hôm nay, chúng ta hãy thẳm sâu tôn thờ một Tình Mến nồng nàn đã khiến Chúa chúng ta mất mọi sự vì chúng ta. Và chúng ta xúc động xin lỗi Chúa vì biết bao xúc phạm và vô ơn bội nghĩa của chúng ta.

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-31: CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA CHÚA GIÊSU


- Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

VietCatholic News (26/03/2006)

THỨ SÁU TUẦN THÁNH

CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA CHÚA GIÊSU - Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Ga 18

“Bấy giờ Philatô trao Chúa Giêsu cho họ đóng đinh vào thập giá. Vậy họ điệu Chúa Giêsu đi. Chính Ngài vác lấy thập giá đi ra, đến nơi gọi là cái Sọ, tiếng Do Thái gọi là Golgotha, tại đó, họ đóng đinh Ngài vào thập giá”( Ga 19,16-18 ).


 

Đúng là mọi người đã mở cờ trong bụng vì họ đã đóng đinh được Chúa Giêsu vào thập giá: Tuầnthánh 6-31


Đúng là mọi người đã mở cờ trong bụng vì họ đã đóng đinh được Chúa Giêsu vào thập giá. Philatô quả đã thiếu bản lãnh dù ông biết Chúa Giêsu vô tội. Ông có thể nói và phải nói Chúa vô tội nhưng vì hèn nhát, vì sợ mất ghế ngồi, ông đã ơ hờ, giả vờ rửa tay để che tội ác của mình.

Suy đi nghĩ lại, thập giá thực là sự ác độc của con người, tạo nên để đóng đinh Chúa. Nhưng nếu ngộ giả không có cây thập giá. Con người sẽ không được cứu độ. Con người chỉ có thể trả lời vắn gọn:không có thập giá, không có ơn cứu độ. Thánh Gioan trong bài tường thuật về cuộc thương khó của Chúa Giêsu đã làm nổi bật chân lý, làm nổi rõ mầu nhiệm cứu chuộc của Chúa. Một đàng dưới chân thập giá loài người cần được cứu chuộc, một đàng trên thập giá, Chúa Giêsu đang tuôn trào nguồn mạch tình yêu, nguồn ân sủng, ơn tha thứ và ơn cứu độ cho tất cả mọi người có lòng tin. Đọc lại cuộc xứ án Chúa Giêsu, chúng ta cảm nghiệm thấy sự vô lý và bất công của những người lên án Chúa Giêsu. Vâng, từ các vị lãnh đạo tôn giáo, các thượng tế, ký lục, lính tráng và dân chúng đều là những người có tội, đều là những người lên án Chúa Giêsu một cách hết sức bất công. Tất cả đều không dám ngước mắt nhìn Chúa trên thập giá. Ngay cả Phêrô, ngay cả các môn đệ. Tất cả đều có tội và tỏ ra bất xứng với bản án của Chúa Giêsu.

Gioan thấy gì trên thánh giá ? Một Chúa Giêsu bị treo lên thập giá để chuộc tội cho nhân loại. Người ta đi ngang qua và không ai dám đập dập ống chân Chúa Giêsu. Nhưng chỉ có một người lính lấy đòng đâm cạnh lương long của Chúa. Điều này trở nên có giá trị vì nước và máu chảy ra làm phát sinh các bí tích của Hội Thánh. Trong đền thờ, các tư tế đang giết chiên vượt qua để chia cho dân mang về nhà ăn. Điều ấy nói lên dân Chúa được giải thoát khỏi đất Ai Cập.

Chúa Giêsu quả thực không bị đánh gẫy một cái xương nào, nhưng từ cạnh sườn của Ngài ơn cứu độ tuôn chảy. Máu nói lên lễ hy sinh đền tội. Nước diễn tả sự sống mới, sự sống do Chúa Thánh Thần làm tái sinh mọi loại. Chúa Giêsu trên thập giá là nguồn ơn cứu độ cho những kẻ tin mà Maria và Gioan là biểu tượng. Nhìn lên thập giá, chúng ta phải đấm ngực ăn năn vì ta tội lỗi, chúng ta tin tưởng thực sự thập giá là ơn giải thoát cho chúng ta. Niềm tin mà mẹ Maria bầy tỏ sẽ giúp ta yêu mến thánh giá để ơn cứu độ tràn ngập nơi ta. Ơn cứu độ chứa chan nơi Chúa. Hôn kính thánh giá để ơn cứu độ của Chúa đi vào tâm hồn chúng ta hầu chúng ta được ơn cứu thoát.

Bản án bất công mà con người kết án tử hình cho Chúa trên thập giá mãi mãi là một vấn nạn lớn cho nhiều người, nhiều thế hệ vv…

Còn đối với chúng ta, thánh giá Chúa Kitô có ý nghĩa gì đối với ta ? tại sao ?

“Tôi muốn được biết Chúa Kitô…và nên đồng hình đồng dạng với Ngài trong cái chết, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết”( PL 3, 10-11 ).


------------------------------

 

Tuầnthánh 6-32: Cái chết đem lại ơn cứu độ


- Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn

VietCatholic News (01/02/2005)

Thứ Sáu Tuần thánh

Bài đọc 1: Is 52, 13-53, 12

Bài đọc 2: Dt 4, 14-16; 5, 7-9

Bài Thương khó: Ga 18, 1-19, 42

Cái chết đem lại ơn cứu độ - Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn

Kính thưa


 

Như chúng ta đã nghe trong lời dẫn đầu lễ, hôm nay là ngày duy nhất trong năm không có: Tuầnthánh 6-32


Như chúng ta đã nghe trong lời dẫn đầu lễ, hôm nay là ngày duy nhất trong năm không có thánh lễ. Toàn bộ phụng vụ hôm nay nhằm tưởng niệm lại cuộc tử nạn của Đức Giêsu. Với việc chấp nhận cái chết tủi nhục trên thập giá, Đức Giêsu đã đi trọn con đường tự huỷ, để đem lại ơn cứu độ cho tất cả loài người chúng ta.

Con đường hạ mình của Đức Giêsu đã được diễn tả thật rõ ràng trong phần phụng vụ lời Chúa hôm nay.

Trước hết, là bài ca thứ tư về “người tôi tớ Giavê” trong sách ngôn sứ Isaia mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc một. Trong đó, vị ngôn sứ phác hoạ cho chúng ta chân dung của Đấng Cứu Thế, đó là một người tôi tớ hèn hạ, bị mọi người khinh dể. Ngài đến để “mang lấy sự đau yếu của chúng ta, … gánh lấy sự đau khổ của chúng ta… bị thương tích vì tội lỗi của chúng ta, bị tan nát vì sự gian ác của chúng ta”.

Người tôi tớ đó đã sẵn sàng gánh chịu tất cả những đau khổ đó không phải vì tội của Ngài, nhưng là vì tội của chúng ta như lời vị ngôn sứ: “Người không làm chi bất chánh, và miệng Người không nói lời gian dối”. Ngôn sứ Isaia còn cho chúng ta thấy rằng: Người chịu tất cả những sỉ nhục đó thay cho chúng ta, vì yêu thương chúng ta và để cho chúng ta được ơn cứu độ

“Người lãnh lấy hình phạt cho chúng ta được chữa lành… Nhờ sự thông biết, tôi tớ công chính của Ta sẽ công chính hoá nhiều người, sẽ gánh lấy những tội ác của họ”.

Tất cả những lời loan báo của ngôn sứ Isaia về người tôi tớ Giavê, giờ đây đã được ứng nghiệm trọn vẹn nơi con người của Đức Giêsu. Ngài là một vị Thiên Chúa, vô tội, nhưng đã hạ mình mặc lấy xác phàm để có thể cảm thông thân phận yếu hèn của chúng ta, như lời tác giả thư Do thái đã nói: “Vì chưng, không phải chúng ta có thượng tế không thể cảm thông sự yếu đuối của chúng ta, trái lại, Người đã từng chịu thử thách bằng mọi cách như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi”. Những thử thách Đức Giêsu phải chịu đó là sự phản bội của Giuđa, chối Thầy của Phêrô, sự bội bạc vô ơn của đám đông dân chúng, những kẻ đã từng mang ơn Ngài. Đúng là “hoạ vô đơn chí”, đau khổ chồng chất đau khổ. Những đau khổ mà Đức Giêsu chịu như vượt quá sức chịu đựng của một con người. Cảm nghiệm điều đó, tác giả thư Do thái đã nói: “khi còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Đấng có thể cứu mình khỏi chết”.

Tuy phải chịu đựng nhiều đau khổ trên thân xác cũng như tâm hồn cho đến chết như thế, Đức Giêsu vẫn chưa lấy làm đủ, thánh sử Gioan thuật lại khi tên lính “đến gần Chúa Giêsu, họ thấy Người đã chết, nên không đánh dập ống chân Người nữa, tuy nhiên một tên lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người; tức thì máu cùng nước chảy ra”. Vì yêu thương chúng ta đến cùng, Đức Giêsu đổ ra đến giọt máu và giọt nước cuối cùng để khai mở nguồn ơn cứu độ cho từng người chúng ta.

Vắn tắt vài lời suy niệm về cuộc Thương Khó của Đức Giêsu, mời gọi chúng ta nhìn lại cuộc sống thường ngày của mình. Quả thật, Thiên Chúa qua Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta thật nhiều, nhiều lắm. Thế nhưng, chúng ta lại quá bội bạc, vô ơn đối với Ngài, chúng ta chỉ dành cho Ngài những thời giờ dư thừa, rảnh rỗi, chúng ta chỉ giúp đỡ Ngài qua anh chị em những gì mình không còn sử dụng được nữa. Có lẽ đây là cơ hội thuận lợi nhất để chúng ta cảm nghiệm nhiều hơn chữ “như” trong lời dạy của Đức Giêsu: “Các con hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15, 12).

Noi gương Đức Giêsu, Đấng đã chịu đâm thâu, và trong tâm tình mở ra với mọi người, giờ đây, xin quý ông bà anh chị em cùng hiệp ý dâng lời cầu nguyện chung cho hết mọi thành phần, mọi nhu cầu trong cũng như ngoài Giáo Hội; cho những người tin cũng như chưa tin.


------------------------------

 

Tuầnthánh 6-33: Tôn kính Thánh Giá, Tưởng niệm Đức Giêsu chịu chết

Mt 4,17

Nghi thức Chiều Thứ Sáu Tuần Thánh không phải là Thánh lễ mà chỉ là một lễ nghi phụng vụ tôn kính Thánh giá Chúa Giêsu và tưởng niệm việc Ngài chịu chết.

I. Lời Chúa

1. Bài đọc I: Is 52,13 - 53,12

 

Đây là bài ca thứ tư về Người Tôi Tớ trong sách Isaia, bài tiêu biểu nhất trong 4 bài. Có 3: Tuầnthánh 6-33

Ðây là bài ca thứ tư về Người Tôi Tớ trong sách Isaia, bài tiêu biểu nhất trong 4 bài. Có 3 ý lớn:

- Người Tôi Tớ ấy phải chịu rất nhiều đau khổ về cả thể xác lẫn tinh thần.

- Nhưng bản thân Người Tôi Tớ thì vô tội. Sở dĩ Người chịu khổ như thế là vì tội của người khác.

- Vì thế những đau khổ của Người đem lại ơn tha thứ và ơn cứu rỗi cho nhiều người khác.

2. Ðáp ca: Tv 30

Ðây là lời cầu nguyện của tín hữu trong lúc bị đau khổ. Người tín hữu bày tỏ niềm trông cậy vào Thiên Chúa và phó thác đời mình trong tay Chúa.

Trong lúc tắt hơi, Chúa Giêsu đã cầu nguyện bằng một câu của Tv này "Con xin phó linh hồn con trong tay Cha" (Lc 23,46).

3. Bài đọc II: Dt 4,14-16--5,7-9

Tác giả thư Do thái coi Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết là Vị Thượng Tế tự nguyện chịu khổ để mang ơn cứu độ cho nhân loại.

4. Bài Thương khó theo Thánh Gioan: Ga 18-19

Những ý tưởng mà Thánh Gioan muốn nhấn mạnh đặc biệt trong bài tường thuật này:

a/ Chúa Giêsu là người tự do: Ngài biết trước mọi việc sắp xảy đến, nhưng Ngài không trốn tránh, trái lại hoàn toàn ý thức và tự nguyện đi vào những biến cố bi thảm đó. Như thế cuộc chịu nạn chịu chết của Ngài là một chuỗi những hành đông tự do.

b/ Chúa Giêsu là Vua: trong vụ án này, bề ngoài xem ra Chúa Giêsu là tội nhân, là bị cáo. Nhưng Gioan đã nhận ra Ngài là Vua, là kẻ chủ động và là quan tòa.

c/ Qua việc chịu chết, Chúa Giêsu tuôn đổ Thánh Thần xuống cho các môn đệ.

II. Gợi ý giảng

1. Những lời cuối cùng

Có thể căn cứ vào những lời nói cuối cùng của một người sắp chết mà biết được người đó như thế nào, bởi vì trước khi chết người ta chỉ nói những gì mình tha thiết nhất, chỉ nói những lời xuất phát từ tận đáy lòng. Nếu đúng như vậy, chúng ta hãy tìm hiểu những lời cuối cùng của Ðức Giêsu trước lúc tắt hơi trên Thập Giá, chúng ta sẽ hiểu rõ con người của Ðức Giêsu hơn.

Triết gia Sénèque nói về tâm lý của những người bị xử tử như sau: thường là họ chửi rủa: chửi rủa những kẻ đang giết mình, chửi rũa những kẻ đứng xem, có người còn nguyền rủa thân phận xấu số của mình, nguyền rủa ngày mình sinh ra, nguyền rủa chính người mẹ đã sinh ra mình. Bởi thế, như văn hào Cicéron cho biết thêm, trong những cuộc xử tử ở đế quốc Lamã, khi thấy tên tử tội nào hung dữ, người ta cắt lưỡi hắn trước, để khỏi phải nghe tiếng chửi rủa. Và trong cuộc xử tử chiều thứ sáu tuần thánh ấy, chúng ta cũng đã thấy có một tên trộm bị đóng đinh chung với Ðức Giêsu đã chửi rủa lung tung, chửi cả Ðức Giêsu là người chẳng thù oán gì với hắn.

Chiều hôm đó, có lẽ mọi người cũng đang chờ nghe những lời chửi rủa của Ðức Giêsu: những tên lý hình chờ, vì họ là những người đang trực tiếp hành hình Ngài: các Tư tế và biệt phái chờ, vì họ là những kẻ đầu xỏ vận động kết án xử tử Ngài; dân chúng đứng phía dưới thập giá chờ vì họ đoán rằng Ngài rất tức giận họ bởi họ đã từng chịu ơn rất nhiều của Ngài mà bây giờ quay ra chống lại Ngài. Tất cả mọi người đều chờ, họ sẵn sàng nghe chửi rủa. Họ tin chắc rằng cái tên Giêsu ấy, cái người đã từng rao giảng rằng: "Hãy thương yêu kẻ thù... Hãy làm ơn cho kẻ ghen ghét mình" giờ đây sắp nói khùng, sẽ quên hết những giáo huấn Tin mừng kia mà thay vào đó bằng những lời chửi rủa thậm tệ.

Thế nhưng khi Ðức Giêsu lên tiếng, thì ai nấy đều ngạc nhiên sửng sờ. Không phải những lời chửi rủa, mà là những câu dịu dàng. Câu thứ nhất "Lạy Cha, xin Cha tha cho họ"; câu thứ hai "Tôi hứa thật với anh, ngay hôm nay anh sẽ được lên nơi vui vẻ cùng tôi"; và câu thứ ba "Thưa Bà này là con Bà".

Ngoài giọng điệu dịu dàng và nội dung chan chứa yêu thương của những câu nói đó, chúng ta hãy còn chú ý đến thứ tự của chúng: câu thứ nhất "Lạy Cha..." là nói đến những kẻ thù ghét Ngài; câu thứ hai "Ngay hôm nay..." là nói với người tội lỗi, tên trộm bên cạnh Ngài; câu thứ ba "Thưa Bà..." là nói với Ðức Mẹ, một người thánh thiện. Nghĩa là: cho đến phút sắp chết, tình thương của Ðức Giêsu vẫn bao la, và còn bao la hơn bao giờ hết. Tình thương đó dành cho ai? Trước hết là cho kẻ thù, kế đến cho người tội lỗi, và thứ ba là cho kẻ thánh thiện. Con người là Ðức Giêsu là như thế là do căn cứ vào những lời nói cuối cùng của Ngài trước lúc chết.

1. Hôm nay chúng ta đã thấy Ðức Giêsu trong khi chết đã tỏ lòng yêu thương trước nhất không phải là đối với Mẹ Ngài, cũng không phải là đối với các môn đệ của Ngài, mà là những kẻ thù ghét Ngài. Vậy chúng ta hãy cố gắng noi gương Chúa. Hãy tha thứ cho nhau và hãy sống hoà thuận lại với nhau.

2. Hạng người thứ hai được Ðức Giêsu yêu thương nhớ đến trong lúc hấp hối là những người tội lỗi. Chúa không bao giờ ghét người tội lỗi, không bao giờ ruồng bỏ người tội lỗi, nhưng Chúa rất thương người tội lỗi. Nếu biết rằng chính chúng ta là những người tội lỗi thì chúng ta phải cảm động biết bao. Và nếu có ai đó khi nào ngã lòng vì cho rằng tội mình quá nặng hay tội mình quá nhiều, thì người ấy hãy nhớ lại tấm lòng của Ðức Giêsu trong những phút giây trước khi Ngài chết.

3. Còn nếu chúng ta cho rằng mình thánh thiện, hoặc có thiện chí muốn trở thành thánh thiện, thì chúng ta hãy cố gắng bắt chước gương thánh thiện của Chúa chúng ta, là hãy hết lòng yêu thương những kẻ thù ghét mình và cũng hết lòng yêu thương những người tội lỗi.

2. Tâm trạng của Baraba

Bài tường thuật cuộc thụ nạn của Ðức Giêsu tuy đã dài mà vẫn chưa đủ, vì chưa mô tả tâm trạng của những người tham dự vào cuộc xử án Ðức Giêsu. Và bây giờ chúng ta hãy đi vào tâm trạng của một trong những người đó, Baraba.

Sáng Thứ Sáu, Baraba đang ngồi trong từ thì cửa tù mở ra, viên cai ngục bước vào gọi Baraba đi ra. Baraba giật mình sợ hãi vì tin chắc người ta sẽ dẫn mình đi xử tử. Hắn là một tên cướp của giết người mà tử hình là điều chắc. Nhưng người ta không dẫn hắn ra pháp trường, mà lại đến dinh Philatô, ở đó đã có sẵn một người tù khác đang bị trói, thân thể tả tơi vì bị tra tấn. Philatô ra lệnh đưa cả hai ra trước công chúng và hỏi: Trong hai người này: Một là Giêsu, hai là Baraba, các người muốn ta tha ai? Baraba cảm thấy nhẹ nhỏm; thì ra người ta dẫn hắn đi không phải để giết mà để hỏi ý dân có muốn tha cho hắn không?


 Tuy nhiên chỉ nhẹ nhỏm trong phút chốc thôi, Baraba lại lo sợ: thế nào dân chúng cũng đòi tha người kia đồng thời đòi giết hắn: tội hắn quá rõ và quá lớn mà. Thế nhưng Baraba không tin vào tai mình khi nghe dân gào ta: Hãy tha cho Baraba và đóng đinh Giêsu. Ðến khi Philatô hỏi lại lần thứ hai và dân chúng lại kêu gào lần thư hai y như lần trước thì Baraba mới tin đó là sự thật. Người ta mở trói hắn và dẫn Giêsu đi. Hắn bước xuống đi về phía đám dân, tưởng rằng người ta sẽ chào đón hoan hô hắn, vì người ta đã thương hắn và xin tha cho hắn mà. Nhưng lạ thay chẳng ai còn quan tâm tới hắn nữa, người ta vẫn còn mãi mê gào thét đòi giết Giêsu. Khi đó hắn hiểu ra mình không phải dân chúng yêu thương gì hắn, mà chỉ vì dân chúng đang thù ghét Giêsu. Baraba đi theo đám đông áp tải Giêsu đi đến pháp trường. Giêsu là ai vậy? Chắc là một tên tội phạm còn hung ác hơn hắn nhiều nên mới bị thù ghét như vậy. Khi người ta đã đóng đinh Giêsu xong trên lên thập giá, hắn mới có dịp nhìn kỹ khuôn mặt của người đã chết thay cho mình: chẳng có gì là hung ác, chẳng một lời nguyền rủa những kẻ hành hạ mình. Hai bên Giêsu, Baraba nhận ra mặt của hai tên đã từng ở tù chung với hắn. Tương truyền tên của hai người này Dicma và Ghetta. Ghetta thì luôn mồm chửi rủa, chửi lý hình, chửi dân chúng và chửi luôn Giêsu. Nhưng Giêsu cũng vẫn im lặng. Còn Ðicma thì nói với đồng nghiệp: Mình bị như vậy là đáng tội rồi, còn ông này có làm chi nên tội đâu.

Baraba hiểu thêm ý chi tiết nữa: Giêsu là người vô tội bị kết ách oan. Ðicma lại quay sang Giêsu và nói: Thưa Ngài, khi Ngài lên trời, xin cho tôi được đi theo. Và Giêsu đáp: Tôi hứa với anh ngay hôm nay anh sẽ lên thiên đàng với tôi. Vậy nghĩa là Giêsu lại cứu thêm một người nữa, không phải chỉ một mình Baraba mà cả tên Ðicma đầu trộm đuôi cướp kia. Baraba còn đang suy nghĩ về lòng nhân ái của Giêsu thì nghe Giêsu kêu lớn: Lạy Cha, xin Cha tha cho họ. Baraba lại càng ngạc nhiên hơn nữa: Giêsu chẳng những cứu hắn, cứu Ðicma, mà còn muốn cứu tất cả những người đã lớn tiếng gào thét giết Ngài. Rồi Giêsu lại kêu lớn: Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha. Và Ngài gục đầu tắt thở. Bấy giờ tên đại đội trưởng lên tiếng: Ðúng thật người này là Con Thiên Chúa. Baraba thầm nghĩ: Ðúng vậy, chỉ có Con Thiên Chúa mới có được một tấm lòng như vậy. Baraba rời đồi Golgotha, vừa đi vừa tiếp tục suy nghĩ. Tương truyền rằng kể từ đó Baraba hoán cải, không còn trộm cướp nữa mà trở nên một người lương thiện.

Chúng ta có thể đoán rằng, trong dòng suy tư của mình, Baraba đã suy nghĩ rất nhiều về Luật:


* Trước hết là luật công bình: theo luật này thì cả hắn, cả Ðicma và Ghetta nữa đều phải bị xử tử vì cả 3 đều là những tên cướp của giết người. Nhưng hôm nay luật này đã không được thực hiện.

* Kế đến là luật rừng, luật bị thúc đẩy bởi lòng thù ghét muốn loại bỏ người mình không ưa. Ðức Giêsu đã bị xử tử vì thứ luật rừng.

* Nhưng khám phá lớn nhất của Baraba là luật tình thương. Luật Giêsu đã thực hiện: do luật tình thương này mà Ðức Giêsu cam lòng chịu chết nhưng cũng nhờ luật này mà Baraba được thả, Ðicma được lên thiên đàng và những kẻ thù của Ðức Giêsu được tha thứ. Luật tình thương này đã mở mắt mở lòng viên đại đội trưởng và hoán cải tâm hồn Baraba.

Tối thứ Năm trước khi bước vào cuộc thụ nạn, Ðức Giêsu đã nói với các môn đệ "Thầy ban cho chúng con một điều luật mới, là chúng con hãy thương yêu nhau. Không có tình thương nào cao cả cho bằng tình của người dám thí mạng sống vì người mình thương. Và Ðức Giêsu là người đầu tiên thực hiện điều luật đó. Không nên sống theo luật rừng, không chỉ bằng lòng sống theo luật công bình, mà người môn đệ Chúa còn phải biết sống theo luật tình thương.

Chúng ta là môn đệ của Ðức Giêsu. Chúng ta phải noi gương Ngài sống luật tình thương.

III. Kinh Lạy Cha
Trong những giây phút đau đớn nhất và buồn phiền nhất, Chúa Giêsu đã hướng về Chúa Cha và tha thiết cầu nguyện với Ngài. Chúng ta hãy kết hợp tâm tình với Chúa Giêsu và cầu nguyện với Chúa Cha bằng lời kinh do chính Ngài dạy.

VI. Giải tán
(Dùng "Lời nguyện trên dân chúng" trong Sách Lễ Rôma)

Trích nguoitinhuu.com

Lm. Hồ Bạc Xái

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-34: CÙNG CHẾT VỚI CHÚA GIÊSU


Thưa anh chị em,

 

Hôm nay mỗi người chúng ta đang mặc lấy tâm tình đau buồn khi tưởng niệm về cái chết của: Tuầnthánh 6-34


hôm nay mỗi người chúng ta đang mặc lấy tâm tình đau buồn khi tưởng niệm về cái chết của Chúa Giêsu. Bầu khí trong thánh đường hôm nay dường như cũng đồng cảm với tâm trạng của từng người chúng ta. Một không gian u buồn lặng lẽ. Mọi sinh hoạt Phụng vụ diễn ra cách trong sự nghiêm trang không gì gấp gáp. Không có tiếng chuông ngân, không tiếng hát tiếng đàn khi bắt đầu nghi lễ. Bàn thờ đã không còn trải khăn, không thánh giá, không chân đèn, không bông hoa. Tuy nhiên, trong khung cảnh u buồn trống vắng này, Giáo hội không nhằm mục đích tâm lý giúp mỗi tín hữu tưởng rằng mình đang chịu nạn, chịu chết với Chúa Giêsu. Nghi lễ hôm nay, Giáo hội muốn từng người chúng ta ý thức tầm mức nghiêm trọng của tội lỗi, để qua đó từng người phải nhận ra giá trị tuyệt vời của việc Thiên Chúa cứu chuộc con người.

Tầm mức nghiêm trọng của tội lỗi.

Ngay từ giây phút đầu tiên, Adam – Eva đã bất tuân lệnh Chúa. Hai ông bà đã chối bỏ Thiên Chúa, chối bỏ hạnh phúc ngàn đời mà Thiên Chúa đã trao ban. Kết cục con người tiếp tục phải gánh chịu cảnh đau khổ này tiếp nối đau khổ kia. Tình vợ chồng ngay từ thuở ban đầu đã có dấu hiệu tan vỡ: Adam và Eva đã ra sức đỗ lỗi cho nhau. Tình anh em trong nhà cũng đã trở thành thù hận khi Cain giết chết Abel em mình. Và rồi con người càng ngày càng lún sâu vào tội lỗi xấu xa, đến độ Thiên Chúa phải dùng Đại Hồng Thuỷ để huỷ diệt con người. Chính con người đã đánh mất sự tin tưởng nơi Thiên Chúa. Dân Do thái được xem là “con cưng” của Thiên Chúa, là dân riêng của Ngài, thế nhưng họ vẫn chối bỏ Thiên Chúa như những kẻ chưa từng biết Ngài.

Con người tiếp tục chối từ Thiên Chúa

Vẫn biết hậu quả là thế, nhưng con người vẫn tiếp tục chối từ Thiên Chúa. Mới hôm nào dân chúng chào đón một vì Vua Giêsu vào Giêrusalem nay thì họ đâu mất cả rồi. Nhóm 12 được Chúa Giêsu chọn gọi để yêu thương cách riêng nhưng khi gặp chuyện đã cao chạy xa bay. Đến như Phêrô, người thân tín nhất với Thầy, quyết bảo vệ Thầy đến cùng nhưng rồi cũng đã chối Thầy ngay trước mặt một đầy tớ gái.

Con người là thế đó, thưa ông bà anh chị em. Hôm nay hoan hô chúc tụng, ngày mai lại đả đảo đóng đinh. Hôm nay thề thốt nguyện trung thành dù phải chết, ngày mai lại leo lẻo chối từ không chút ngượng miệng. Dù con người hay bội ngã vô ơn nhưng Thiên Chúa vẫn luôn trung thành. Dẫu biết con người tội lỗi, bất trung thế nào đi nữa thì Thiên Chúa vẫn một mực yêu thương con người. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã xuống tận bùn đen của vực sâu tội lỗi để cứu vớt con người lên cao

Bài ca thứ 4 về người tôi tớ đau khổ trong Isaia đã cho ta thấy người tôi tớ ấy đã đau khổ như thế nào: rất nhiều và rất nặng. Về thể xác, người tôi tớ phải bị hành hạ đến nỗi mang thương tích đầy mình, mặt mày tan nát, không còn giống mặt người nữa. “Người chẳng còn hình dáng, cũng chẳng còn sắc đẹp để ta nhìn ngắm, không còn vẻ bề ngoài để chúng ta ưa thích”. Về tinh thần, bị người đời khinh bỉ sỉ nhục như kẻ thấp hèn nhất, như kẻ đớn đau nhất “Người bị ruồng bỏ đến nỗi không ai muốn nhìn. Người bị ức hiếp, bị buộc tội rồi giết chết và bị chôn giữa những kẻ ác ôn.” Người tôi tớ ấy chịu khổ như thế không phải vì tội của mình mà vì tội của chúng ta. “Chính Người bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm”.

Không có tình yêu nào quý hơn tình yêu của Người thí mạng sống vì người mình yêu. Tình yêu của Chúa Giêsu được Thánh Gioan diễn tả là một tình yêu dâng hiến trọn vẹn, hy sinh tất cả và cho đi tất cả. Hình ảnh một tên lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người để chút máu và nước còn sót lại cũng chảy ra hết, rõ ràng Chúa Giêsu đã cho đi tất cả, không tiếc giữ điều chi cho mình, đến chết vẫn còn yêu. Đúng như lời con người hay nói “Khi yêu, khi yêu cho hết những gì dâú yêu”.

Tình yêu Chúa yêu ta quá đỗi, liệu ta có dám bước theo Ngài để đáp lại tình Ngài không? Chúng ta có quyết tâm diệt trừ tội lỗi nơi bản thân, là nguyên cớ dẫn đến cái chết của Chúa Giêsu không? Chúng ta có dám tự nguyện vác đỡ thánh giá với Người không ? Hay chúng ta cứ tiếp tục hững hờ như các môn đệ xưa kia đã từng hờ hững? Các ông là những người mau quên điều mình đã hứa: Trước đây vừa mới thề chết với thầy, giờ thì bỏ chạy. Trước đây vừa lên tiếng thách đố, giờ cúi mặt lặng thinh. Trước đây vừa tự tin như không gì lay chuyển được, giờ lại hoảng hốt vô cùng. Trước đây tưởng mình cứu thầy, giờ chính thầy lại là người cứu mình.

Con người ngày nay vẫn còn tiếp tục khoe nhau tội ác của mình, tiếp tục làm hại nhau bởi những lọc lừa, giã dối, gian tham. Chính những cách sống này mà Thánh giá vẫn còn giương cao trên trần thế. Thánh giá giương cao vừa như lời cáo buộc tội lỗi của thế gian, vừa như câu trả lời cho tất cả những con người đang chịu đau khổ rằng: Thiên Chúa vẫn yêu thương, đợi chờ tha thứ. Cây biểu tượng cho sự chết giờ đã trở nên cây sự sống đem đến ơn cứu độ cho con người.

Tâm tình duy nhất mà Chúa Giêsu có khi bị treo trên thánh giá không gì khác ngoài tình yêu nhân loại. Nếu không có tình yêu thì tất cả những đau khổ của Chúa Giêsu chịu đều trở nên vô ích. Bởi vì, không phải tự những đau khổ của Chúa Giêsu mang lại ơn cứu độ mà chính tình yêu của Ngài mới đem đến cho con người sự sống đời đời. Nếu ai nói rằng mình thích chịu đau khổ đó là người khùng, người điên. Bởi con người ai cũng muốn tránh đau khổ. Tuy nhiên, vì yêu mà người ta sẵn sàng chịu đau khổ vì người mình yêu thì chính tình yêu mới làm cho đau khổ đó có giá trị.

Tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu hôm nay, chúng ta xin Chúa cho từng người nhận ra tội lỗi của mình đáng ghét là dường nào trước tình yêu cao vời của Thiên Chúa.Ta hãy mạnh dạn thưa với Chúa rằng: Lạy Chúa, cuộc đời con sao còn nhiều lỗi lầm thiếu sót. Xin chúa thứ tha. Con tưởng mình là thánh mà thực ra con còn lẫn lộn quá nhiều những thứ thuộc quỷ dữ Satan. Chính Chúa đã chết để đền thay tội lỗi cho con. Xin Chúa cho con luôn vững tin và đừng bao giờ thất vọng về tình yêu của Ngài. Xin Chúa tiếp tục tha thứ và yêu thương con.

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-35: Bài Suy Niệm của ĐTC Gioan Phaolô II


trong Buổi Đi Đàng Thánh Giá Thứ Sáu Tuần Thánh năm 2002 (Ga 18,1-19,42)
1) Crucem tuam adoramus, Domine!  - Lạy Chúa, chúng con thờ lạy Thánh Giá Chúa!

 

Ở cuối của lời cầu xúc động này về cuộc Vượt Qua của Đức Kitô, tia nhìn của chúng ta vẫn hướng: Tuầnthánh 6-35


Ở cuối của lời cầu xúc động này về cuộc Vượt Qua của Đức Kitô, tia nhìn của chúng ta vẫn hướng về Thánh Giá. Chúng ta suy niệm trong đức tin mầu nhiệm cứu độ được mạc khải cho chúng ta. Khi chết đi, Đức Giêsu vén lên bức màn trước mắt chúng ta, và giờ đây Thánh Giá đứng thẳng trên thế giới trong tất cả sự huy hoàng của nó. Sự yên lặng đem lại an bình của Đấng mà sự dữ thế gian đã treo lên Cây này đang hé lộ ra hòa bình và yêu thương. Trên Thánh Giá, Con Người đã chết, mang theo với Ngài gánh nặng của mọi khổ đau và bất công nhân thế. Trên đồi Golgotha, Đấng, mà qua cái chết của Ngài đã cứu rỗi thế giới, chết vì chúng ta.

2) "Họ sẽ nhìn ngắm Đấng mà họ đã đâm thâu qua" (Ga 19,37).

Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh chứng kiến những lời các tiên tri được nên trọn, những lời mà Thánh Sử Gioan, một chứng nhân tận mắt, đã thấy được sự chính xác khi suy niệm trong lòng, Thiên Chúa làm người, Đấng vì yêu thương đã chấp nhận hình phạt nhục nhã nhất mà bao nhiêu chủng tộc và các nền văn hóa ngày nay đang chứng kiến. Khi tia nhìn của họ được dẫn dắt bởi cảm nhận sâu sắc của đức tin, họ nhận ra trong Đấng Bị Đóng Đinh một "chứng nhân" vô địch của yêu thương.

Từ Thánh Giá, Đức Giêsu gom lại thành một dân tộc, Dân Do Thái và Dân Ngoại, hiển thị ý chí của Cha Ngài trên trời muốn tạo ra một gia đình duy nhất cho nhân loại được tụ họp dưới Danh Ngài.

Trong nỗi đau tê tái của Người Đầy Tớ Thống Khổ, chúng ta đã nghe tiếng kêu khải hoàn của Thiên Chúa Trỗi Dậy. Đức Kitô trên cây Thánh Giá là nhân loại mới đã được chuộc khỏi gánh nặng của tội lỗi và sự chết. Bất chấp những bóp méo và ngộ nhận của lịch sử, có thể có, chúng ta biết rằng nếu bước theo chân của Người Nazarét bị đóng đinh này, chúng ta sẽ đạt được mục đích. Giữa những xung đột của một thế giới thống trị bởi ích kỷ và thù hận, chúng ta, như những tín hữu, được kêu gọi để công bố vinh quang của Yêu Thương. Hôm nay, Thứ Sáu Tuần Thánh, chúng ta làm chứng cho vinh quang của Đức Kitô bị đóng đinh.

3) Lạy Chúa, chúng con thờ lạy Thánh Giá Chúa!

Vâng, chúng con thờ lạy Ngài, Lạy Chúa, Đấng đã bị treo lên Thánh Giá giữa trời và đất, Đấng Trung Gian duy nhất của ơn cứu độ chúng con. Thánh Giá Ngài là bích chương của vinh quang chúng con!

Chúng con thờ lạy Ngài, Con của Đức Trinh Nữ Rất Thánh, đang đứng bất khuất bên cạnh Thánh Giá, can đảm chia sẻ trong lễ hy sinh cứu chuộc của Ngài.

Qua Gỗ Thánh Giá trên đó Ngài bị đóng đinh, niềm vui đã đến với toàn thế giới - propter Lignum venit gaudium in universo mundo. Hôm nay chúng con tất cả nhận thức hơn về điều này khi tia nhìn của chúng con được nâng về phía sự kỳ diệu khôn tả của sự Phục Sinh của Chúa. "Chúng con thờ lạy Thánh Giá Chúa, Lạy Chúa, chúng con tán tụng và thờ lạy sự Phục Sinh thánh thiện của Ngài!".

Với những tình cảm này, anh chị em thân mến, tôi gỡi đến anh chị em lời chúc Phục Sinh với phép lành Tòa Thánh.

+ Gioan Phaolô II, Giáo Hoàng

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-36: Bài giảng trên núi... Sọ

 

Càng đến gần Tuần Thánh, mọi người lại càng hướng về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, và cao: Tuầnthánh 6-36


Càng đến gần Tuần Thánh, mọi người lại càng hướng về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, và cao điểm của hành trình thương khó là cái chết của Ngài trên thập giá. Thần học và truyền thống đã nói nhiều về những đau đớn thể chất và tinh thần của Đức Giêsu, Đấng muốn mang trọn vẹn thân phận của loài người để biến đau khổ thành ơn cứu độ... Những giáo lý và truyền thống đó vẫn còn nguyên giá trị.

Thế nhưng, Mùa Chay này, tôi bỗng nghĩ rằng mình phải trực tiếp lắng nghe tiếng Chúa chứ không thông qua một ai, dù cho đó là truyền thống đáng kính của Giáo Hội.

Tôi tự nhủ rằng giáo huấn của Thầy thì nhiều và câu nào cũng có giá trị, nhưng những lời cô đọng nhất ắt phải là những lời trối trăn khi cái chết gần kề. Thật như vậy, trên thập giá, mỗi câu nói của Chúa Giêsu không chỉ là bản tóm lược các giáo huấn của Ngài, mà còn nói lên rõ ràng rằng Ngài đã sống những điều Ngài dạy từng giây từng phút trong trọn cuộc đời mình. Tôi đã biết nhiều người thầy dạy: 'Hãy làm điều tôi nói, đừng làm điều tôi làm'. Tôi không đủ kiến thức để biết được từ cổ chí kim có bao nhiêu bậc thầy sống trọn vẹn điều mình dạy, nhưng khi lắng nghe những lời trăn trối của Thầy Giêsu, tôi biết rằng Thầy của tôi là vị thầy đã sống không sai một li những điều Ngài dạy dỗ các môn sinh mình. Thế rồi tôi khám phá một sự thật làm tôi ngỡ ngàng: Thập Giá là nơi mà hạnh phúc của Đức Giêsu lên cao đến tuyệt đỉnh, và từ đó tôi hiểu rằng cuộc đời của Ngài ở thế gian là một cuộc đời hạnh phúc.

Lời nói của tôi hẳn gây chói tai. Người ta ghi khắc trong đầu tôi một Đức Kitô bất hạnh giữa thế gian này, và rồi dạy tôi phải đối diện với cuộc đời với bộ mặt u sầu đau khổ nếu tôi muốn làm một môn đệ Chúa Kitô. Nhưng những lời trăn trối của Thầy buộc tôi phải nhớ lại Hiến Chương Nước Trời, một hiến chương đặt hạnh phúc của tôi lên hàng tối thượng.

Lời dạy dỗ đầu tiên được ghi lại trong Tân Ước là bài giảng mà Đức Giêsu thực hiện trên một ngọn đồi thành Ca-phac-na-um. Bài giảng khởi sự bằng tám mối phúc của một con người. Và nơi đồi Calvê, Chúa Giêsu cũng nói 8 lời, và mỗi lời đều chứng tỏ rằng Ngài đã sống từng mối phúc một. Chúa Giêsu đã đi đến tuyệt đỉnh của hạnh phúc nhân loại lúc Ngài hấp hối trên thập giá, bởi vì Bài Giảng Trên Núi Galilê đã được hoàn tất nơi Bài Giảng Trên Núi Sọ.

1. Phúc cho ai có tinh Thần nghèo khó: "Lạy Cha, Con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha" (Lc 23,46)

Chúa Giêsu đã sống nghèo vật chất: "con chim có tổ, con cáo có hang, nhưng Con Người...". Nhưng hơn cả nghèo vật chất, Ngài nghèo khó tinh thần. Ngài không có một ý muốn của Ngài, một tình cảm của Ngài, một lời nói của Ngài... Trọn đời Ngài, Ngài chỉ thực hiện ý muốn của Cha, chỉ truyền thông tình yêu của Cha, chỉ chuyển lại những lời Ngài nghe Cha nói. Người nghèo là một người hoàn toàn lệ thuộc một ai khác. Đức Giêsu hoàn toàn lệ thuộc Chúa Cha: ngay cả mạng sống, ngay cả linh hồn, Ngài cũng phó thác cho Cha... Trên thập giá, Ngài đã khó nghèo đến tuyệt đỉnh: Ngài hạnh phúc đến tuyệt đỉnh.

2.Phúc cho ai hiền lành: "Này Bà, đây là Con Bà" (Ga 19, 26)

Chúa Giêsu là Đấng "hiền lành và khiêm nhường trong lòng". Hành động Trên Núi Sọ cho thấy cách thể hiện cao độ của sự hiền lành đó. Ngài mong mỏi Đức Mẹ chia sẻ trọn vẹn cuộc khổ nạn của Ngài và trở thành Đấng “Đồng Công Chuộc Tội”. Thế nhưng đường Ngài đưa Mẹ đi vẫn là con đường hiền lành chứ không phải là con đường áp đặt thô bạo. Trước giây phút phải vĩnh viễn xa lìa người Mẹ, Ngài giao Mẹ cho người môn đệ yêu thương để nối tiếp mình chăm sóc Mẹ. Trên thập giá Ngài đã đòi hỏi Đức Mẹ đến tột độ trong một thái độ hiền lành cũng tuyệt đỉnh: Ngài đã có phúc đến tuyệt đỉnh.

3. Phúc cho ai sầu khổ: "Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của Con, sao Ngài bỏ rơi Con!" ( Mt 27, 46 ).

Ngài đã sầu khổ: sầu khổ cho những người bơ vơ như đàn chiên không chủ chăn, sầu khổ cho những người thấp cổ bé miệng bị gạt ra ngoài lề xã hội, sầu khổ cho những kẻ cứng lòng tin... Sầu khổ vì những kẻ nhân danh đạo đức lên án Ngài, sầu khổ vì một môn đệ phản bội Ngài, sầu khổ vì những tông đồ bỏ rơi Ngài, và nỗi sầu khổ cay đắng nhất là thấy chương trình của Cha dường như thất bại đến độ Người bỏ rơi Ngài và Ngài phải kêu van... dù cho lời kêu van ấy là câu khởi đầu cho một bài ca cảm tạ ngợi khen (Tv 22). Trên thập giá, Đức Giêsu đã sầu khổ đến tuyệt đỉnh: Ngài hạnh phúc đến tuyệt đỉnh.

4. Phúc cho ai khao khát: "Tôi khát" (Ga 19, 28)

Trong cuộc đời Chúa, Ngài đã có lần khát nước thực sự, chẳng hạn bên bờ giếng ở Samaria... Nhưng điều Ngài khao khát nhất, ấy là khao khát sự công chính, khao khát các linh hồn. Ngài sẵn sàng trao máu mình để cho mọi người sống bằng sự sống của Ngài, thế mà đến cuối đời, có vẻ như không ai nhận lấy sự sống ấy: Cơn khát của linh hồn và cơn khát trong thể lý đã lên đến tột đỉnh trên Núi Sọ, khiến Ngài phải mở miệng than vãn lần đầu tiên và duy nhất trong đời: "Tôi Khát". Trên thập giá, cơn khát của Ngài đã lên đến tuyệt đỉnh: Ngài đã hạnh phúc đến tuyệt đỉnh.

5. Phúc cho ai có lòng thương xót: "Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với Tôi trên Thiên Đàng"(Lc, 23, 43).

Suốt đời, bất cứ lời nói hành vi nào của Ngài cũng đầy tâm tình xót thương. Chính vì lòng xót thương mà Ngài buộc phải làm phép lạ; chính vì xót thương mà Ngài đã khóc cho Lazarô và cho Giêrusalem, chính vì xót thương mà Ngài đã bảo vệ cho người nữ ngoại tình, chính vì xót thương mà Ngài đã tha thứ cho Phêrô trước khi ông chối Ngài... Nhưng lòng thương xót ấy đạt đến cao điểm khi Ngài hứa đồng hành về Thiên Đàng với một kẻ trộm mà không hề thắc mắc gì về tội lỗi của người ấy: Ngài chỉ biết rằng người ấy là một kẻ bị đóng đinh bên cạnh Ngài, như Ngài. Trên thập giá, lòng thương xót của Ngài đạt đến tuyệt đỉnh: Ngài đã hạnh phúc đến tuyệt đỉnh.

6. Phúc cho ai có lòng trong sạch: "Này Anh, đây là Mẹ anh". (Ga 19,27)

Có lòng trong sạch nghĩa là không bao giờ có một ý nghĩ nào sai lệch. Người có lòng trong sạch là người mà lời nói luôn trung thực với ý nghĩ mình. Trong xã hội loài người, không thiếu gì trường hợp người ta nghĩ một điều mà lại nói một điều khác, vì cả nể, vì tư lợi, hay vì sợ hãi. Ngài là Đấng mà suốt đời "Có thì nói có và không thì nói không". Khi trao phó thánh Gioan cho Mẹ mình, Đức Giêsu thực sự muốn Mẹ Ngài yêu thương Gioan như yêu thương chính Ngài, và qua Gioan, tất cả nhân loại trở nên thực sự anh em Ngài. Ý nghĩ tha thiết nhất của Ngài tuôn ra thành lời nói cũng thiết tha nhất. Trên thập giá, lòng trong sạch của Ngài đã lên đến tuyệt đỉnh: Ngài hạnh phúc đến tuyệt đỉnh.

7. Phúc cho người xây dựng hoà bình: "Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm" ( Lc 23, 34 )

Trong sứ điệp Mùa Chay năm nay, Đức Thánh Cha ghi lại một chân lý muôn đời: "Những biến cố trong cuộc sống hàng ngày chứng tỏ rõ ràng rằng sự tha thứ và hòa giải cần thiết biết bao cho sự canh tân cá nhân và xã hội". Muốn xây dựng hòa bình, bình an, điều đòi hỏi tối cao là phải tha thứ, và cái tha thứ khó thực hiện nhất là tha thứ cho kẻ làm hại mình. Chúa Giêsu xây dựng Hoà Bình bằng cách tha thứ, và hơn thế nữa, Ngài cầu nguyện để xin Cha cũng tha thứ cho họ. "Hãy yêu kẻ thù, và cầu nguyện cho kẻ bách hại". Lời nói ngược đời này đã được chính Ngài thực hiện đến tuyệt đỉnh trên thập giá để kiến tạo hoà bình: Ngài hạnh phúc đến tuyệt đỉnh.

8. Phúc cho kẻ bị bách hại vì lẽ công chính. "Mọi sự đã hoàn tất". ( Ga 19, 30)

Cứ như thể Chúa Giêsu nói lời kết thúc cho bài giảng khởi sự trên núi Galilê và đến Núi Sọ mới chấm dứt. Cuộc đời Ngài là một cuộc đời bị bách hại vì lẽ công chính. Bị bách hại ngay từ ngày Ngài nhìn thấy đền thờ Cha Ngài 'biến thành hang kẻ trộm' và vắng bóng Thiên Chúa. Bị bách hại trong anh em nghèo khó của Ngài: "Ta đói các người không cho ta ăn, Ta khát các ngươi không cho Ta uốn...". Bị bách hại vì lời Ngài bị coi là chói tai và họ ném đá Ngài. Và để cho ‘mọi việc hoàn tất’ cuộc bách hại ấy đã đưa Ngài lên Núi Sọ. Trên thập giá, cuộc bách hại đã đi đến cùng, đã được hoàn tất: Hạnh phúc của Ngài ở đấy đã hoàn hảo.

Trong ngôn ngữ Phúc Âm, tuyệt đỉnh của hạnh phúc là được kết hiệp với Thiên Chúa, và sự kết hiệp này còn được gọi là 'hưởng Nước Trời' hoặc 'chết cho xác thịt'. Và chúng ta lại thấy sự trùng hợp giữa những lời thốt lên ở cả hai ngọn núi. Tại Galilê, mối phúc của người nghèo khó (thứ nhất) và của người bị bách hại (thứ tám) được kết bằng: "vì Nước Trời (hiện nay) là của họ". Trên Núi Sọ, lời "phó thác linh hồn" (tương ứng với nghèo khó) và lời "mọi sự hoàn tất" (tương ứng với bách hại) đều được tiếp nối bằng "rồi ngài tắt thở".

Khi một người hấp hối thì không còn tâm trí đâu mà kìm hãm miệng lưỡi mình, điều khiển phản ứng mình; chính vì thế mà trên thập giá con người thật của Đức Giêsu được bộc lộ không che chắn: Tám Mối Phúc Thật toát lên qua 8 lời nói cuối cùng của Ngài, lúc Ngài hưởng niềm hạnh phúc tuyệt đỉnh. Những lời này làm chứng cho giáo huấn của Ngài: Hiến Chương Nước Trời là con đường để cho môn đệ Ngài cảm nhận hạnh phúc khi họ chịu đóng trên thập giá như Ngài.

Tôi biết rằng những suy tư của mình rất gượng ép, rất chủ quan, và không có một cơ sở thần học nào. Nhưng có một điều hẳn không chủ quan tí nào, đó là Chúa Giêsu trên thập giá đã đạt đến tuyệt đỉnh của hạnh phúc trần gian. Nếu thập giá chỉ là khổ đau thì Ngài đã không đem thập giá mà bắt môn sinh Ngài vác. Tại sao chúng ta cứ nhất định biến Thầy Chí Thánh của mình thành một tay sadique, một kẻ bạo tàn thích gây đau đớn cho những người mình thương? Chính thập giá là nơi duy nhất mà Kitô hữu sẽ tìm thấy hạnh phúc, với điều kiện là phải chấp nhật "trút linh hồn". Cái mất mát lớn nhất của Kitô hữu là không nhìn thấy hạnh phúc của mình trên thập giá: họ tiếp tục sống đời sống của những người chưa bao giờ cảm nghiệm thập giá, để rồi rao giảng một Đức Kitô tách rời với thập giá, nghĩa là một Đức Kitô vô phúc.

Nếu đến giờ này chúng ta vẫn còn nghĩ rằng thập giá là điều khổ nhục mà mỗi Kitô hữu phải nai lưng gánh chịu, để đền tội (chẳng lẽ Chúa Giêsu chưa đền đủ?), để lập công (chẳng lẽ chúng ta được cứu nhờ công trạng mình chứ không phải nhờ Chúa Giêsu?) hầu mai sau được hưởng phước đời đời; nếu ta nghĩ như thế, thì có nghĩa là chúng ta chưa hiểu gì về tám mối phúc thật mà Chúa Giêsu đã sống; và tội nghiệp hơn nữa, chúng ta không cảm nhận được cái hạnh phúc tuyệt đỉnh nơi thập giá. Có lẽ vì thế ngay từ Chúa Nhật thứ II mùa Chay, Giáo Hội đã nhắc lại trong bài đọc II lời kêu gào của thánh Phaolô trong khi ngài đang ở tù, đang bị đóng đinh, đang cảm nếm hạnh phúc: "Tôi đã nói nhiều lần và bây giờ tôi phải khóc mà nói lại: có nhiều người sống đối nghịch với Thập giá Đức Kitô" (Pl 3, 18)

Trong Tuần Thánh, và nhất là vào ngày Thứ Sáu Tôn Vinh Thánh Giá, Kitô hữu mọi nơi thường hát: "Vinh quang của ta là Thánh Giá Chúa Kitô, nơi Người ơn Cứu Độ của ta..." Lời hát này sẽ mãi là một ‘sáo ngữ’ ngày nào bạn và tôi chưa chịu đóng đinh với Chúa trên thập giá để cảm nếm được cái hạnh phúc tuyệt đỉnh của một người nghèo, hiền lành, đói khát, sầu khổ, trong sạch, bình an, xót thương và bị bách hại. Và nếu hạnh phúc Thánh Giá của ngày Thứ Sáu Tuần Thánh - của hôm nay - chưa trở thành thành hiện thực trong mỗi một chúng ta, thì e rằng hạnh phúc Sống Lại của ngày Chúa Nhật Phục Sinh - của mai sau - sẽ chỉ là một ảo tưởng.


Trần Duy Nhiên

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-37: MẦU NHIỆM THẬP GIÁ

 
THỨ SÁU TUẦN THÁNH

Anh chị em thân mến.

 

Nếu chỉ nhìn con người về khía cạnh sinh học, chúng ta thấy được điều gì ? Sinh ra nghĩa la: Tuầnthánh 6-37


Nếu chỉ nhìn con người về khía cạnh sinh học, chúng ta thấy được điều gì ? Sinh ra nghĩa là sống, để rồi từ từ đi đến cái chết. Như thế thì đời sống con người có gì là giá trị và hạnh phúc. Được sinh ra chưa chắc đã hạnh phúc, chết cũng không phải là hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc hay không, đó chính là con người biết tận dụng thời gian sống của mình như thế nào. Chúng ta nhìn thấy có những người rất giàu, đời sống của họ không thiếu một thứ tiện nghi vật chất nào, thế mà họ vẫn than là không có hạnh phúc. Cũng thế, có những người nghèo khổ, họ bất mãn với cuộc sống, không bằng lòng với số phận hiện thời, luôn tìm kiếm một cái gì ngoài tầm tay của mình. Chính vì thế nên không bao giờ họ tìm được cuộc sống trong mộng, vì mộng chỉ là mộng và không bao giờ mộng trở thành hiện thực. Nên họ cũng không có hạnh phúc. Đồng thời, cũng có rất nhiều người: giàu cũng có, trung bình cũng có, mà nghèo cũng có. Những người nầy họ sống rất hạnh phúc. Nếu chúng ta tìm hiểu, thì sẽ thấy, họ là những con người biết tận dụng thời cơ, biết dùng những gì mình hiện có, sống hết mình với cuộc sống hiện tại, để khi chết họ không có gì phải hối tiếc về cuộc sốùng đã qua.

Chiều hôm nay, chúng ta vừa chứng kiến không phải một cái chết, nhưng là ba cái chết. Nhìn bên ngoài, dường như ba cây thập giá của ba kẻ tử tội đồng chung số phận. Nhưng thật ra, mỗi thập giá treo một người khác nhau, nên mỗi cây thập giá cũng có một mục đích và một số phận khác nhau. Đưa mắt nhìn vào một cây thập giá chúng ta nhìn thấy những gì? Chúng ta nhìn thấy một tử tội đang oằn oại trong đau khổ, gương mặt mang một vẽ bực tức, không bằng lòng với tình trạng hiện tại của mình, nên anh ta mới thốt lên lời nói với vẽ hằn học: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, sao không cứu ông và cả chúng tôi nữa." Anh ta bực tức nhưng chẵng được gì hết. Anh ta chết trong đau thương, với một niềm mơ ước không thực hiện được.

Nhìn sang cây thập giá bên cạnh. Cũng một người đang oằn oại vì đau đớn. Nhưng dường như hiểu được số phận mình sẽ như thế nào, vì những việc làm đã qua trong cuộc sống. Anh ta mới thốt lên như một lời van xin hối hận: " Lạy Ngài khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Lời van xin được chấp nhận. " Ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên Thiên Đàng với Ta".

Còn một cây Thập giá, cũng treo một tử tội. Nhưng tại sao trong giờ phút này mà lại còn thi ân , còn tha thứ, còn quan tâm đến nhiều người như thế. A#! thì ra, cây Thập giá thay vì là một hình khổ, giờ đây lại trở thành một niềm tự hào. Thay vì treo một tử tội, nhưng sự sống được vươn cao. Thay vì là cây khổ hình, thì lại là ngọn cờ của sự chiến thắng. Đó là vì chính Đấng đã chịu treo lên để kéo mọi người lên với tình yêu bao la của Ngài. Tình yêu thương đã dùng hình khổ thập giá trở thành dụng cụ phục vụ cho tình yêu. Người đời ngở nó là hình khổ, nhưng từ nay nó không còn khổ nữa, vì nó đã phục vụ cho tình yêu.

Làm kiếp con người ai không phải vất vã, cực nhọc. Mỗi người đều có những trách nhiệm phải chu toàn. Nhưng chúng ta nhìn những công việc hằng, nhìn cuộc sống trước mắt với một nhản quan như thế nào?

Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cũng buồn phiền cho số phận của mình. Sao chúng ta luôn phải chịu những cơ cực, sao cuộc sống chúng ta cứ vất vã mãi mà không bằng được người bên cạnh. Có nhiều lúc chúng ta cũng chán nãn với cuộc sống hiện tại. Nhìn lại xem, tại vì số phận không ưu đãi, hay vì chúng ta đã phung phí vật chất, tinh thần, hoàn cảnh, những dịp may và còn phung phí cả con người của mình nữa. Chính vì những điều đó nên chưa bao giờ chúng ta nhìn thấy rỏ được chính mình, chưa nhìn thấy được khả năng của mình. Nếu chúng ta nhìn thấy những gì mình đã có, những gì mình đang có và những gì mình còn thiếu, để chúng ta có thái độ khiêm nhường chấp nhận như người tử tội biết sám hối. Khi đã có được tâm tình đó, chúng ta mới nhận ra được Tình yêu thương của Thiên Chúa đã ban cho mình trong hoàn cảnh sống. Nếu chúng ta chịu nhìn, thì sẽ thấy: Trong mỗi biến cố, mỗi công việc, nếu chúng ta biết tận dụng, thì Thiên Chúa đã an bài mọi sự thật hoàn hảo, tốt đẹp. Nếu có cái nhìn như thế, thì cuộc đời không còn là bể khổ, nhưng là thập giá của Tình Yêu.

Xin cho chúng con biết vác thập giá đời mình, bước đi theo Đấng yêu thương chúng con.

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-38: THỨ SÁU TUẤN THÁNH


Ga 18,1 - 19,42

 

Hôm nay, Giáo hội sống những giây phút thống khổ và tử nạn của Chúa. Tất cả nghi lễ của: Tuầnthánh 6-38


Hôm nay, Giáo hội sống những giây phút thống khổ và tử nạn của Chúa. Tất cả nghi lễ của Hội thánh hôm nay đều nhằm đưa chúng ta lên núi Sọ , đứng dưới chân thánh giá Chúa Giêsu mà nhìn ngắm những vết thương của người. Ngài đến trần gian để tự hiến mình làm của lễ toàn thiêu cho Chúa Cha bằng khổ hình thập giá hầu cứu độ nhân loại khỏi vòng nô lệ tộI lỗi.

Chúa yêu thương tặng luôn cho con người chính bản thân mình, cho con người quyền đối xử trên mạng sống của mình để cứu con người ách nô lệ tội lỗi và hận thù chia rẽ. Có tình yêu nào được như thế chăng ? Con người thường hay trả thù, nhưng Thiên Chúa lại khác. Chúa không những không trả thù mà còn để Con mình chịu chết để cứu loài người, không phải cứu một số người mà tìm cách cứu hết mọi ngừơi qua mọi thế hệ. Vấn đề là con người có chịu khó tìm đến với Chúa để được cứu hay không!

Lạy Chúa Giêsu Chúa chịu bao đau đớn tủi nhục vì chúng con mà chúng con hay thiếu hy sinh chịu khó; nhiều ngườI trong chúng con chỉ ăn chay có một ngày thôi, một chút hy sinh thôi cũng thấy khó, chúng con dễ quên đi những khổ cực Chúa đã chịu. Nhiều người trong chúng con có khuynh hướng chỉ làm ở mức tối thiểu! không suy niệm công khó của Chúa để mà ăn năn, từ bỏ những thói xấu và hết lòng yêu mến Chúa, phục vụ anh em như Chúa đã truyền dạy. Xin Chúa cho chúng con biết nhận ra sự bạc bẽo vô tình của chúng con đối với Chúa và ăn năn thống hốI trở lại cùng Ngài. Chúa Giêsu không chỉ cúi xuống rửa chân cho con người thôi mà còn còn chết thay cho con người được hạnh phúc, cho tội nhân được sống. Nếu chúng ta chỉ lo cho những ngườ yêu thương mình, những người đem lợi lộc cho mình thôi thì chúng ta chưa đi theo đường lối của Chúa . Xin chúa cho chúng con biết giúp đỡ mọi người, kể cả những kẻ sắp làm chúng con khổ sở nữa, vì Chúa Giêsu xưa đã hiến mạng làm giá chuộc cho muôn người, kể cả những người đang hành hạ và giết chết Ngài nữa.

Theo sức loài người thì Thập giá và đau khổ là điều đáng sợ. Trước khi Thầy chịu nạn, các môn đệ nhát đảm sợ sệt, không ai dám bênh vực cho Thầy trước đám đông. Nhưng sau khi Phục Sinh, Người ban Chúa Thánh Linh cho các Tông đồ, các Tông đồ đã trở nên can trường, công khai làm chứng cho Thầy trước mọi người. Các ngài xưng danh Chúa Kitô truớc mặt vua quan và công nghị Do thái, cho dù đòn vọt, xiềng xích cũng không ngăn cản được các ngài tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh , Đấng Cứu Độ muôn dân. Ước gì chúng con sau tuần thương khó này trở nên can đảm, nhiệt thành với việc loan báo Tin mừng, sống tốt lành, thánh thiện và yêu thương nhau như cộng đoàn kitô hữu thời các Tông đồ xưa để những người xung quanh nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi trần gian này và sớm được ơn cứu độ.

Hôm nay chúng con hôn kính Thánh giá Chúa và tưởng niệm cuộc tử nạn- phục sinh của Chúa. Xin chúa cho chúng con tiến bước vững vàng trên đường thánh giá. Mỗi người chúng con bắt chước Chúa vác thánh giá hàng ngày, chịu những khổ cực tạm thờ, thông phần đau khổ và hy sinh của Chúa để mai sau cùng hưởngvinh quang trọng đạ với Người trên Thiên Quốc.

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-39: GIỜ CỦA CHÚA GIÊ SU


Lm. Giacobe Tạ Chúc

 

Trong cuộc đời công khai rao giảng, Chúa Giêsu hay sử dụng từ “giờ”, rất nhiều lần. Điệp khúc ấy Tuầnthánh 6-39


Trong cuộc đời công khai rao giảng, Chúa Giêsu hay sử dụng từ “giờ”, rất nhiều lần. Điệp khúc ấy nhắc nhở cho con người về “Giờ Tử nạn” của Ngài. Tin mừng Gioan có 26 lần sử dụng từ “ giờ”. Dụng ngữ này cũng xuất hiện trong các Tin Mừng Nhất Lãm.

Tin mừng Gioan thuật lại rằng:
“Giờ đã đến cho Con Người được tôn vinh! Quả thật, quả thật Ta bảo các ngươi: Giả như hạt lúa gieo xuống đất không chết đi, thì nó trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, nó mới sai hoa lắm quả”(Ga 12,23-24).

Chính giờ này, mà trong cuộc đời của Chúa Giêsu, nhiều lần Ngài nói đến.Tại Cana, trước phép lạ đầu tiên hoá nước thành rượu, Đức Giêsu khẳng định: “Giờ Ta chưa đến” (Ga 2,4). Lần lần, Chúa Giêsu bắt đầu nói về giờ khổ nạn của Ngài một cách tương đối rõ hơn, ít ra với những người thân cận: “Các ngươi hãy vào thành gặp ông kia mà nói với ông:Thầy bảo: Giờ của Ta đã gần, Ta muốn cử hành lễ Vượt qua với môn đệ Ta tại nhà ngươi”(Mt 26,18). Và trong vườn Ghết-sê-ma-ni, Đức Giêsu trải qua nỗi đớn đau mãnh liệt khi bước vào giờ tử nạn: “Ngươi đi xa hơn một chút, quỳ xuống đất mà cầu xin cho giờ ấy rời khỏi mình, nếu có thể được”(Mc 14, 35). Sau cùng, trong nỗi đau tột cùng, một lần nữa, Chúa Giêsu thổn thức: “Lần thứ ba, Người trở lại và bảo các ông: “Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao?Thôi đủ rồi giờ đã điểm. Này Con Người bị nộp vào tay phường tội lỗi”(Mc14, 41). Tất cả đó cho chúng ta thấy, ý nghĩa của từ “giờ” mà Chúa Giêsu thường nói rất nhiều:

Đó là giờ hấp hối tại vườn Ghết-sê-ma-ni, nơi Chúa Giêsu cầu nguyện, sấp mặt xuống đất với mồ hôi và máu tuôn chảy.

Đó là giờ của sự phản bội bằng một nụ hôn của môn đệ Giu-đa.

Đó là giờ mà Phê-rô đã đành đoạn chối từ Chúa Giêsu.

Đó là giờ trước toà án của người Do thái và của Philatô, Đức Giêsu phải chịu sỉ nhục, chịu đội mũ gai, chịu đánh đòn, chịu tuyên án tử hình.

Đó là giờ trên đồi Golgôtha, nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh, chịu treo trên Thập Giá, giữa những tên trộm cướp và trong vô vàn tiếng hò la, nhạo báng của quân lính và dân chúng.

Đó là giờ mà dưới chân Thập tự giá, Mẹ Maria phải quặn thắt cõi lòng khi chứng kiến con một mình hấp hối.

Sau cùng, là giờ mà Chúa Cha sẽ tôn vinh Chúa Giêsu trong vinh quang.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con đón nhận những giờ khắc của Chúa bằng cả tâm hồn yêu mến và tôn vinh. Xin cho mỗi người biết quảng đại dành nhiều giờ cho Chúa và cho anh em trong những ngày Thánh này. Amen.

Lm. Giacobe Tạ Chúc

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-40: BẢN TIN ĐƯỢC LOAN TRUYỀN

 

Napoleon I của nước Pháp bị liên minh Anh đánh bại tại Botérô năm 1815. Tin đánh trận của Thủ: Tuầnthánh 6-40


Napoleon I của nước Pháp bị liên minh Anh đánh bại tại Botérô năm 1815. Tin đánh trận của Thủ tướng Wallinton, người chỉ huy quân đội Anh quốc không mấy chốc đã được truyền về Luân Đôn bằng nhiều tín hiệu, thế nhưng khi bản tin được ghi nhận trên nóc nhà thờ Chánh tòa, người ta chỉ đọc được như sau:

"Tướng Wallinton đã……. bại..…." Một lớp sương mù dày đặc đã khiến cho người ta không đọc được trọn vẹn bản tin, và khi bản tin được truyền về Luân Đôn toàn dân nước Anh như rơi vào tuyệt vọng. Nhưng khi mặt trời lên, đám sương mù rơi đi, người ta đọc được trọn vẹn bản tin như sau: "Tướng Wallinton đã đánh bại quân thù". Không mấy chốc, sứ điệp được loan báo và mọi người vui mừng hớn hở.

***

Qúy vị và các bạn thân mến,

Bản tin trên đây có thể được so sánh với Tin Mừng Phục Sinh. Ngày thứ Sáu Tuần Thánh, khi bị treo trên Thập giá, Chúa Giêsu như kẻ bại trận, nhưng sáng Chúa Nhật Phục Sinh, Ngài đã trở thành Đấng đánh bại quân thù. Đó là bản tin mà bà Maria Madalenna và hai người môn đệ trên đường Emmaus đã mang đến cho các môn đệ khác. Nhiều người không tin, bởi vì tâm hồn họ còn quá trĩu nặng với bản tin của chiều thứ sáu Tuần Thánh. Lớp sương mù dày đặc của nghi ngờ, chán nản, thất vọng đã không cho họ đọc hết sứ điệp mà Chúa Giêsu đã từng loan báo cho họ là Ngài sẽ chịu đau khổ rồi mới đi vào vinh quang Phục Sinh.

Sự Phục Sinh của Chúa Kitô là nền tảng và là trọng tâm của niềm tin chúng ta. Nếu Chúa Kitô không sống lại thì cái chết của Ngài cũng như toàn bộ những lời rao giảng của Ngài đều vô ích và nói như Thánh Phaolô: "Nếu Chúa Kitô không sống lại thì niềm tin của chúng ta hão huyền và chúng ta là những người ngu xuẩn nhất". Chúa Kitô đã sống lại! Đó phải là trọng tâm của niềm tin và lời rao giảng của chúng ta. Kitô giáo không bao giờ tách biệt cái chết ra khỏi sự Phục Sinh của Chúa Kitô. Trong lời tung hô sau mỗi lần truyền phép trong Thánh Lễ, Giáo Hội luôn nhắc cái chết và sự Phục Sinh: Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến.

Hãy đi rao giảng Tin Mừng cho mọi loài! Mệnh lệnh mà Chúa Giêsu ban bố cho các môn đệ cách đây 2000 năm, ngày nay Ngài cũng muốn truyền lại cho mọi tín hữu Kitô. Sứ điệp Phục sinh mà các môn đệ đã truyền đến cho chúng ta ngày nay, Giáo Hội cũng ủy thác cho chúng ta để Tin Mừng mãi mãi được loan truyền cho mọi người. Bổn phận thiết yếu và nền tảng nhất của người tín hữu Kitô đó là loan truyền sứ điệp Phục Sinh cho mọi người.

Không thể là tín hữu Kitô mà không là người loan báo sứ điệp Phục Sinh, nhưng để trở thành người loan báo sứ điệp ấy thì người tín hữu phải là người sống sứ điệp ấy trước đã.

Sứ điệp Phục Sinh chỉ được loan báo một cách trọn vẹn khi giữa những thử thách và khổ đau người tín hữu Kitô vẫn thể hiện được niền hân hoan phấn khởi và phó thác vào tình yêu Chúa.

Sứ điệp Phục Sinh chỉ được loan báo một cách chung thực khi giữa cảnh đời giành giựt xâu xé và chối bỏ lẫn nhau, người tín hữu Kitô vẫn một mực sống yêu thương, quảng đại, quên mình.

***

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, nguyện cho cả cuộc sống của chúng con trở thành sứ điệp Phục Sinh cho mọi người. Amen!

R. Veritas

Ngọc Nga sưu tầm

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-41: THỨ SÁU TUẦN THÁNH


Ngày Chúa chịu Thương Khó

 

Ngày thứ sáu Tuần Thánh, mọi Kitô hữu trên toàn cầu đều ăn chay: đây là ngày chay Vượt Qua: Tuầnthánh 6-41


Ngày thứ sáu Tuần Thánh, mọi Kitô hữu trên toàn cầu đều ăn chay: đây là ngày chay Vượt Qua kỷ niệm Chúa đã chịu thương khó, và Giáo Hội khuyên chúng ta tiếp tục giữ cho tới Đêm Thánh.

Vào buổi chiều hoặc tối hôm nay, có nghi lễ về cuộc Thương Khó của Chúa. Bắt đầu là Phụng Vụ Lời Chúa, với bài Thương Khó theo thánh Gioan. Sau bài diễn giải là những lời cầu nguyện đặc biệt long trọng cho toàn thể Giáo Hội và thế giới, cho hết mọi hạng người, vì ơn cứu độ do Đấng Cứu Thế đã đổ máu ra để thực hiện, cần phải đạt tới khắp nơi trên mặt đất. Sau đó Linh mục đưa Thánh Giá ra cho cộng đoàn tôn kính, rồi mọi người thông hiệp với Mình Thánh Chúa Kitô.

Trong buổi họp mừng này, điều nổi bật hơn cả không phải là các đau khổ nhục nhằn của cuộc Thương Khó, nhưng là vinh quang của Thánh Giá, vì mỗi lần Giáo Hội tưởng niệm Chúa đã chịu chết thì đồng thời cũng tuyên xưng Người đã phục sinh. Vì thế, các bài ca hôm nay đầy những lời tung hô Chúa Kitô chiến thắng: “Lạy Thiên Chúa chí thánh! Lạy Thiên Chúa oai hùng! Lạy Thiên Chúa muôn đời hằng hữu! Xin thương xót chúng con! ” (Dân Ta hỡi). “ Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa, hát mừng Ngài sống lại hiển vinh; ấy chính là bởi cây Thập Giá, niềm hân hoan tràn ngập địa cầu ” (Điệp ca).

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-42: THỨ SÁU TUẦN THÁNH


Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB

 

Phụng vụ luôn dành bài thương khó theo Thánh Sử Gio-an cho nghi thức tưởng niệm ngày Thứ: Tuầnthánh 6-42


Phụng vụ luôn dành bài thương khó theo Thánh Sử Gio-an cho nghi thức tưởng niệm ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Tường thuật thương khó của Gio-an có một số chi tiết khác với trình thuật thương khó của ba Phúc âm Nhất lãm. Nhưng sự khác biệt lớn hơn hết có lẽ chính là giọng văn và tình cảm của một nhân chứng đã từng tận mắt được chứng kiến biến cố trong đại này. Chính Gio-an đã không giấu diếm: “Người đã xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin”.

Tất cả các chi tiết được Gio-an mô tả trong bài tường thuật rất cụ thể và sống động; chẳng hạnh như chi tiết “Tôi khát!”. Trong kinh nghiệm giờ hấp hối của chính mình, thì tôi thấy điều này thật điển hình: cơn khát thật sự của một người sắp chết thật kinh khủng. Nói gì thì nói, trong cơn khát rát họng, cả mạng sống của anh xem ra lệ thuộc vào vài giọt nước… Rất cụ thể và rất xác thực!

Nhưng trong số các chi tiết, Gio-an đặc biệt quan tâm tới: “một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra”. Khi khảng định chính mắt mình chứng kiến cảnh tượng này, Gio-an xác định một biến cố hâu như đã làm thay đổi toàn bộ cuộc sống của ông, và đó cũng là cốt lõi của sứ điệp mà ông đã dành cả đời sống mình để loan truyền: “Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến… Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa.” 1Ga 1,1.3 “Phần chúng tôi, chúng tôi đã chiêm ngưỡng và làm chứng rằng: Chúa Cha đã sai Con của Người đến làm Đấng cứu độ thế gian.” 1Ga 4,14

Thế nhưng cứu độ như thế nào? Thưa, với một tình yêu dâng hiến trọn vẹn, yêu tới giọt máu cuối cùng, yêu với chính mạng sống mình. Và đối tượng của tình yêu đó là ai? Là một người đáng yêu, một người tốt lành, một người cao đẹp chăng? Thưa, không phải. Gioan đã khảng định: “Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một của Người đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta.” 1Ga 4,8-10 Nếu Gio-an được mệnh danh là Tông đồ của tình yêu, thì nguyên nhân có lẽ là vì ông đã được tận mắt chứng kiến cảnh tình yêu đó được biểu lộ trên thập giá.

Phao-lô đã không có dịp được chiêm ngắm Thập giá trực tiếp như Gioan, nhưng tất cả những gì Phao-lô biết được về đức Ki-tô Giê-su, lại chính là ‘đức Giê-su thập giá’, và ngài khảng định là ‘tôi không biết một đức Ki-tô nào khác’. Nhìn lên thập giá, Phao-lô đã nhận ra: “Đức Giê-su Ki-tô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hang với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” Pl 2,6-8 Và đối với cá nhân mình, Phao-lô đã cảm nghiệm cách sâu thẳm: “tôi đặt niềm tin vào đức Giê-su Ki-tô, Đấng yêu thương tôi và phó nộp mình cho tôi, ngay cả khi tôi phảm nghịch cùng Ngài”.

Nếu thế thì tôi, một linh mục, chiêm ngắm thập giá như thế nào? Như Gio-an, tôi cử hành Thánh lễ hàng ngày. Mỗi khi uống cạn chén Máu Thánh, tôi có thực sự chạm vào máu và nước từ cạnh sườn đức Giê-su chảy ra để minh chứng tình yêu khôn thấu của một Thiên Chúa dành cho tôi? Đối với tôi thập giá mang ý nghĩa sống còn, hay chỉ là một biểu tượng tượng trưng? Tôi còn mơ ước nhiều đức Ki-tô khác hơn là Đấng chịu đóng đinh, có thể là một Giê-su làm những điều trọng đại hay một Giê-su giảng dạy giữa các thầy thông thái? Tôi chưa phải là một linh mục của đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh, Đấng hiến mình và chết trên thập giá.

Lạy Đấng chịu đóng đinh và phó nộp cả mạng sống mình cho con, xin cho con được như Gio-an tựa đầu vào con tim đầy yêu thương, để rồi chiêm ngắm con tim đó đổ cạn kiệt tới giọt máu cuối cùng vì yêu thương con. Con cảm tạ Chúa vì hồng ân linh mục con đã được trao ban, trước hết là vì lợi ích của chính con: được diễm phúc cử hành Hiến tế Thập giá mỗi ngày. Xin cho con có con mắt vả quả tin của Gio-an. Xin soi sáng và củng cố con để có được niềm xác tín và khảng định của Phao-lô. Nhờ thế Thập giá, và chính thập giá, trở thành gia sản và vinh quang lớn nhất của đời con. Amen

Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-43: NICÔĐÊMÔ VÀ GIÔXÊP


- Lm. Giuse NguyêẬn HưẬu An

 

Tuần Thánh là thời gian trọng nhất của năm Phụng vụ. Giáo Hội tưởng niệm những sự kiện đặc: Tuầnthánh 6-43


Tuần Thánh là thời gian trọng nhất của năm Phụng vụ. Giáo Hội tưởng niệm những sự kiện đặc biệt của cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu.

Đọc bài Thương Khó nhiều lần, tôi dừng lại nơi cuộc táng xác Chúa và nghĩ về hai môn đệ âm thầm: Nicôđêmô và Giôxêp.

Việc táng xác Chúa đựơc cả bốn Phúc Âm tường trình; Giôxếp và Nicôđêmô an táng Chúa.(Mt 27,57-61; Ga 19,38-42; Lc 23, 50-55; Mc 15, 42-47)

Vào chiều tối ngày Thứ Sáu đau thương, Giôxếp người ở xứ Arimathê đến xin Philatô cho tháo xác Chúa xuống khỏi thập giá. Sau đó ông cùng với Nicôđêmô táng xác Chúa theo tục lệ người Do Thái thời đó: tẩm liệm xác Chúa bằng thuốc thơm, quấn khăn liệm và đặt trong mộ đá, rồi lăn tảng đá lấp cửa mộ. Mộ đá còn mới của ông Giôxếp và nằm trong thửa vườn của gia đình ông. Vườn nầy lại gần nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Lúc táng xác Chúa, có Bà Maria Mađalêna và Maria mẹ ông Giôxêt chứng kiến (Mc 15,47). Chắc là có một số người khác nữa cùng tham dự cuộc táng xác; nhất là Đức Mẹ, nhưng không thấy Phúc Âm nói đến.

Thật lạ lùng. Khi Chúa bị bắt, bị đánh đòn, bị sỉ nhục, các môn đệ trốn chạy hết (Mc 14, 50).

Dưới chân thập giá chỉ có Đức Mẹ, thánh Gioan, bà Maria vợ ông Cơlôpat và bà Maria Mađalêna (Ga 19, 25-26).

Lúc táng xác Chúa, cả bốn Phúc Âm chỉ nói tơi hai người trí thức Do Thái: Giôxếp và Nicôđêmô. Ông Giôxếp đến xin Philatô và tháo xác, còn ông Nicôđêmô đem một trăm cân mộc dược trộn trầm hương để tẩm xác Chúa. Ông Giôxếp cho Chúa ngôi mộ của chính mình. Hai ông đều là thành viên Thượng Hội Đồng Tối Cao Do thái, có chức quyền và giàu có. Họ đã ái mộ Chúa từ lâu và dấu kín trong lòng. Đến khi Chúa chết, họ công khai biểu lộ lòng tin.

Nicôđêmô.

Trong Tin Mừng Gioan, Nicôđêmô xuất hiện ba lần:

Lần thứ nhất trong bài tường thuật (Ga 3,1-21). Ông đến với Ðức Giêsu "ban đêm" để thảo luận với Ngài về tình yêu Thiên Chúa và ơn cứu độ. Một người trí thức có địa vị và có thiện chí. Ông lén đến gặp Chúa vào một buổi tối. Sau đó ông ra đi.

Lần thứ hai (Ga 7,51), khi các thủ lãnh tôn giáo Do Thái muốn giết Ðức Giêsu. Là thành viên của Thượng Hội Đồng, Nicôđêmô phản đối quyết định ấy. Ông nói: "Lề luật của chúng ta có cho phép kết án ai trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không?".

Lần thứ ba (Ga 19,39-40), lúc táng xác Ðức Giêsu. Nicôđêmô đến để tẩm liệm thi hài Ðức Giêsu một cách sang trọng như người ta tẩn liệm một vị vua "Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. Các ông lãnh thi hài Ðức Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người Do thái".

Lần thứ nhất Nicôđêmô đến với Ðức Giêsu để thưa chuyện với Ngài, lần thứ hai ông lên tiếng bênh vực Ngài, và lần thứ ba ông tôn kính thi hài của Ngài. Nicôđêmô là hình ảnh minh họa cho hành trình của người tìm đến với ánh sáng: "Ai sống theo sự thật thì đến với ánh sáng".

Giôxếp thành Arimathê

Xuyên suốt Phúc âm không thấy nhắc đến tên ông. Xuyên suốt cuộc đời Chúa, không thấy bóng dáng ông. Ông chỉ xuất hiện trong nghi thức táng xác Chúa, và đựơc cả bốn Phúc âm kể lại.

Theo Matthêu: Chiều đến, có một người giàu sang tới. Ông này là người thành Arimathê, tên là Giôxêp (27,57).

Theo Marcô: Ông là người thành Arimathê, thành viên có thế giá của Hội Đồng, và cũng là người vẫn mong đợi Triều đại của Thiên Chúa. Ông mạnh dạn đến gặp tổng trấn Philatô để xin thi hài Đức Giêsu ( 15,43).

Theo Luca: Khi ấy có một người tên là Giôxếp, thành viên của Thượng Hội Đồng, một người lương thiện, công chính. Ông đã không tán thành quyết định và hành động của Thượng Hội Đồng ( 23,50-51).

Theo Gioan: Ông Giôxếp này là một môn đệ theo Đức Giêsu, nhưng cách kín đáo, vì sợ người Do thái (19,38).

Giôxếp là nhân vật khá đặc biệt. Dựa vào bốn Phúc âm vừa kể, ta thấy ông có những đặc tính:

Là người giàu có.
Là người lương thiện, công chính.
Là thành viên thế giá trong Hội đồng.

Ông mong đợi Triều Đại Thiên Chúa đến.
Ông không tán thành quyết định của Thượng Hội Đồng là giết Chúa.
Ông mạnh dạn xin Philatô cho tháo xác Chúa.

Là người liệm xác Chúa.
Là người cho Chúa mượn mô của chính mình.
Là môn đệ Chúa cách kín đáo vì sợ người Do thái.

Ông chưa bao giờ dám bày tỏ sự thiện cảm của mình khi Đức Giêsu còn sống.

(xin xem thêm: thư gửi ông Giôxêp, Lm Nguyễn Tầm Thường, trong cuốn sách mới xuất bản 2009:Kẻ đi tìm).

Nicôđêmô và Giôxếp là hai môn đệ đặc biệt của Chúa Giêsu. Họ là thành phần trí thức, giàu sang và có địa vị xã hội. Như thế không phải chỉ có những người nghèo, bệnh tật, tội lỗi theo Chúa mà còn có một lớp “quan lại” trí thức là thủ lãnh thế giá trong xã hội.

Cả hai ông đều theo Chúa cách kín đáo. Theo kín đáo vì sợ (Ga 19,38). Sợ mất quyền lợi. Quyền thì cao, lợi thì lớn. Tất cả đều được xây dựng và củng cố bởi cơ chế Do Thái giáo. Cơ chế ấy quá nghiệt ngã. Nó loại trừ để củng cố. Bị loại trừ thì quyền và lợi bay theo mây khói. Ôi, quyền và lợi! Đáng sợ vô cùng!

Thế nhưng, điều lạ lùng nữa là khi Chúa chết, cả hai ông không còn sợ hãi. Ông Giôxếp hạ thi hài Chúa xuống, ông Nicôđêmô mang đến một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương, các ông lãnh thi hài Chúa, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người Do thái (Ga 19,39). Hai ông công khai đứng về phía Chúa, chấp nhận mọi mất mát. Hai ông thấy rõ mọi âm mưu đen tối và bẩn thỉu của Thượng tế và Công nghị. Cả hai ông đều thương cảm cái chết oan khiên đau đớn tủi nhục của Chúa. Lương tâm ngay thẳng của người trí thức chân chính không cho phép họ sống hèn. Giôxêp “đã không tán thành quyết định và hành động của Thượng hội đồng”. Sau cái chết của Chúa “Ông đã mạnh dạn đến gặp tổng trấn Philatô để xin thi hài Đức Giêsu”. Ông phải đến với Chúa trong giờ phút thương đau để tạ tội vì đã hơi hèn nhát.

Nicôđêmô và Giôxếp được diễm phúc. Vinh dự như Simon người Cyrênê vác đỡ thập giá giúp Chúa trên đường thương khó. Nicôđêmô và Giôxếp là hai môn đệ âm thầm sống trong nội bộ những người chống Chúa Giêsu. Người có thiện chí, thiện tâm thì ở trong cơ chế nào, họ cũng là môn đệ của Chúa. (theo Lm Piô Phúc Hậu). Nếu vậy thì có lẽ những trí thức can đảm như Lữ Phương, Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự, Đào Hiếu, Hà Sĩ Phu, Ts Nguyễn Thanh Giang, Luật sư Lê Trần Luật, Tạ Phong Tần… đều là môn đệ của Chúa như Giôxếp và Nicôđêmô!!! Sự sợ hãi làm cho người ta trở nên hèn nhát. Ơn can đảm giúp người trí thức sống đúng lương tâm chân chính.

Giữa cuộc đời cũng như trong mọi hình thái xã hội hôm nay, những Giôxếp và Nicôđêmô hiện diện ở khắp mọi nơi. Rất lặng lẽ. Rất âm thầm. Nhưng rất tích cực che mưa che nắng để hạt giống Tin mừng nảy mầm và lớn lên.

Chúa Giêsu chết và được mai táng trong mồ. Dầu thơm và hương liệu khuếch tán vị ngọt ngào ra khắp vũ trụ. Các phụ nữ im lặng canh thức. Các thiên thần đứng gác bên mộ. Cận vệ đền thờ nghĩ rằng dấu niêm phong của lãnh đạo Do Thái có khả năng thách thức được quyền phép Chúa Giêsu. Nấm mồ bằng đá nặng nề sẽ vỡ tan như vỏ trứng. Nấm mồ lạnh lẽo, chật hẹp, tối tăm sẽ mở tung ra. Như cánh hoa hồng, như đôi môi thắm của nụ cười thiếu nữ, đầy sức sống và bình an. Sự sống mới sẽ xuất hiện ngang qua cái chết.

Tuần Thánh 2009
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-44: Mầu Nhiệm Thập Giá)


Ga 18,1 - 19,42

Anh chị em thân mến.

 

Trong những ngày đầu tháng tư của năm 2004, những người VN yêu âm nhạc đã phải bùi ngùi: Tuầnthánh 6-44


Trong những ngày đầu tháng tư của năm 2004, những người VN yêu âm nhạc đã phải bùi ngùi thương tiếc, vì sự ra đi của người nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn. Rất nhiều người chờ đợi đến lượt mình vào thắp cho ông nén hương. Cả một rừng hoa vây quanh linh cửu, đến nỗi ngôi nhà không còn chỗ chứa. Từng đoàn người nối tiếp nhau đưa ông đến nơi an nghĩ cuối cùng. Người ta đến với ông như thế, vì những gì ông để lại, những gì ông ban tặng cho đời đã đi vào lòng người. Những gì ông cống hiến không thể bị chôn vùi với thân xác bất động của ông. Hằng triệu triệu người yêu âm nhạc mến thương ông và biết ơn vì những gì ông đã làm.

Nhưng những gì là của con người thì cũng sẽ phai tàn theo năm tháng và cũng sẽ đi vào quên lãng như thân xác bị chôn vùi.

Hôm nay là ngày đại tang của Giáo Hội. Việc làm này không phải chỉ tưởng nhớ đến một người đã làm một chút gì cho vui thỏa lòng người. Cũng không phải để tưởng nhớ một người đã ra đi và bị chôn vùi. Càng không phải hơn nữa khi chỉ đến để tỏ lòng bùi ngùi thương tiếc. Vì những gì mà con người nhận được, không phải chỉ để vui thỏa lòng người, nhưng có sức mạnh vô biên biến đỗi hoàn toàn con người. Cũng không phải chỉ ban tặng cho một ít người thích hợp, nhưng cho tất cả mọi người không loại trừ ai. Càng không phải hơn nữa, cho dù con người có phai tàn theo năm tháng, nhưng công ơn của Đấng đã để lại, những việc làm mà Ngài đã làm, những gì mà Ngài đã cống hiến cho nhân loại vì Tình Yêu Thương, sẽ tồn tại mãi mãi. Những gì mà Ngài đã làm, những gì Ngài đã nói, những gì Ngài đã cống hiến, đã được vươn cao qua biểu tượng thập giá.

Hôm nay một lần nữa, chúng ta chúng ta đến với biểu tượng của Tình Yêu Thương, chúng ta đến với Hồng Ân Cứu Độ. Nhưng cứ mỗi năm và đều đều như thế, dường như một thói quen, những việc làm của chúng ta giống như một cái máy vô tri. Chúng ta làm cho xong việc, hoàn tất những gì bị bắt buộc, và chúng ta yên tâm sống những ngày tháng kế tiếp mà không một chút gì thay đỗi, thì thật là uổng phí những gì Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Nhìn lại tuổi đời của mỗi người, đồng thời cũng nhìn lại cuộc sống đã qua cho đến ngày hôm nay, chúng ta đã nghe, đã biết rất nhiều và cũng đã nhận rất nhiều Hồng Ân. Nhưng những gì mà chúng ta nhận được, dường như nó đã chết đi và bị chôn vùi, không phải trong lòng đất, mà là trong con người khô cứng và bất động của chúng ta. Nếu không phải thế, thì tại sao giờ nầy đây và ngay hôm nay, chúng ta vẫn còn những hận thù, vẫn còn những tranh chấp, vẫn còn những lời nói xấu thóa mạ nhau. Nếu chúng ta đã nhận ra được dấu chứng của tình yêu, nếu chúng ta nhìn thấy Công Ơn của Đấng đã yêu thương chúng ta, nếu chúng ta nhận ra được những gì mà Ngài đã để lại mà chúng ta đang tận hưởng, thì chúng ta sẽ không còn dùng mọi thủ đoạn bất chính để hại nhau, không còn đối xử bất công với nhau và cũng sẽ không còn chiếm đoạt của cải của nhau.

Biểu tượng Thánh Giá, biểu tượng của lòng yêu thương, chúng ta nhìn thấy hằng ngày, chúng ta luôn ca tụng, chúng ta mang trên người và còn dùng chính bàn tay mình để vẽ lên thân thể chúng ta. Không lẽ tất cả những điều đó đều vô ích đối với chúng ta sao? Không lẽ chúng ta không bằng những người ái mộ cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, dám tỏ sự ái mộ của mình bằng hành động thực sự để nói lên lòng biết ơn. Còn chúng ta, chúng đã làm gì với Đấng đã để lại cho cho chúng ta, không chỉ những bản nhạc, nhưng cả một Tình Yêu Thương bao la qua Cây Thập Giá. Chúng ta đã làm gì để tỏ lòng biết ơn và sự mến mộ của mình. Chúng ta đã hành động như thế nào để nói lên lòng thành của mình.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta nhận ra Tình Yêu Thương của Chúa qua cây Thập giá, để chúng ta biết sống xứng đáng với Tình Yêu Thương đó.

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-45: BẢY DI NGÔN TRÊN THÁNH GIÁ


 - Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

 

Có hai sứ điệp nổi bật nhất của Chúa Cứu Thế được gởi đến cho loài người.Sứ điệp đầu tiên la: Tuầnthánh 6-45


Có hai sứ điệp nổi bật nhất của Chúa Cứu Thế được gởi đến cho loài người.Sứ điệp đầu tiên là Tám Mối Phúc Thật được Chúa công bố trên một sườn núi.Sứ điệp cuối cùng là Bảy Di Ngôn trên thánh giá.

Tuần Thánh, chiêm ngắm cuộc thương khó của Chúa, dừng lại nơi bảy Lời Di Ngôn của Đấng Cứu Thế để nhận thấy Calvê là ngọn núi đầy hấp dẫn, lôi cuốn chúng ta hưởng nếm tình yêu hiến dâng phục vụ.

1. Lạy Cha xin tha thứ cho họ vì họ chẳng hiểu biết việc họ làm (Lc 23,34)

Lẽ thường, vào giờ hấp hối, tự đáy lòng con người bộc lộ những lời tha thiết với người thân yêu, người lân cận. Lời đầu tiên của Chúa là xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ bách hại, kết án, lăng nhục, đóng đinh Ngài.

Triết gia Xê-nê-ca kể lại rằng, người bị treo trên thập giá trù ẻo cha mẹ,nguyền rủa ngày sinh tháng đẻ,mắng nhiếc lý hình,thậm chí còn khạc nhổ vào bất cứ ai qua lại đứng ngồi dưới chân cây thập giá.

Nhà hùng biện Si-sê-rô còn cho biết rằng, đôi khi phải cắt lưỡi người bị đóng đinh vào thập giá, để họ thôi buông lời phạm thượng. Bởi thế, dân chúng bồn chồn. Đám lý hình,luật sĩ,biệt phái chờ đợi tiếng la thét,mắng nhiếc,nguyền rủa của người bị đóng đinh đang hấp hối. Nhưng,cũng như loại hương mộc tiết hương thơm ra cho cả chiếc rìu hạ chúng,Thánh Tâm trên cây Tình Thương tự đáy lòng đã thoát toả ra một lời nguyện thầm thỉ đầy êm ái về sự dung thứ và xá tội “Lạy Cha xin tha thứ cho họ vì họ chẳng hiểu biết việc họ làm”.

Tha thứ,vì họ không biết. Giả mà họ biết tội họ phạm kinh tởm đến đâu khi lên án chết cho Đấng ban sự sống;giả mà họ biết rằng họ đang đổ máu Đức Giêsu dùng để cứu chuộc họ,giả mà họ biết như thế thì đời nào họ lại được tha ?

Giả mà ta biết tội lỗi khủng khiếp dường nào mà cứ phạm tội;giả mà ta biết Chúa yêu ta đến nổi Nhập Thể Làm Người mà ta vẫn khước từ không chịu đón nhận và tin yêu; giả mà ta thấu hiểu tình yêu tha thứ trong Bí Tích Giải Tội thật là vô biên mà không chịu xưng tội; giả mà ta biết Bí Tích Thánh Thể hàm chứa một sức sống vô song mà cứ khước từ không chịu ăn Mình Thánh và uống Máu Thánh. Giả mà ta biết rõ những điều ấy,ta sẽ bị hư mất.Ta không thấu hiểu lòng lành Thiên Chúa,đó là lý lẽ độc nhất rộng thứ cái tội chưa chịu làm thánh của ta.

Chúa không chấp nhất,nhưng lại tha thứ,thì ta cũng phải tha thứ cho nhau.( x Mt 6,12; 6,15;18,23-35).

2. Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng(Lc 23,43)

Kẻ tử tội bị đóng đinh bên hữu ngoảnh đầu nhìn sang đọc được tấm bảng: Giêsu Nazareth,Vua dân Do thái.Trong tâm hồn người đạo chích này dậy lên những tâm tình nồng nàn. Một tia sáng từ Thập giá chiếu ra làm rực sáng đức tin của anh nên anh đã dâng lời khẩn cầu: Xin Ngài nhớ đến con khi Ngài về nơi vương quốc. Chính lúc tử thần rình rập bên cạnh,chỉ có một người nhìn biết Chúa Kitô là minh chủ một vương quốc. Chúa đã cứu chữa anh khi phán: Hôm nay, con sẽ ở trên thiên đàng cùng với Ta.

Trước đó đã chẳng có ai được hứa ban như vậy, cho dù là Môisen hay Gioan, Mađalêna hay cả Đức Maria.

Người đạo chích đã gõ cửa, đã cầu xin chỉ có một lần, anh đã dám làm tất cả nên đã được tất cả. Liệu có thể nói được rằng: Người trộm này đến chết vẫn còn hành nghề đạo chích, vì đến lúc chết, còn ăn trộm được thiên đường ?

Lòng từ ái của Chúa đối với người trộm gợi nhớ lời sấm ngôn: Tội lỗi con có thắm như hồng điều, cũng sẽ nên trắng sạch như tuyết, có thẫm như vải đỏ, cũng sẽ mịn mướt như lông chiên.

Ơn dung thứ Chúa ban cho người trộm thống hối càng làm chúng ta hiểu hơn lời Chúa phán:” Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi kẻ tội lỗi …không phải người mạnh khoẻ nhưng người bệnh tật mới cần đến lang y …một người tội lỗi thống hối làm cho cả thiên đường vui mừng hơn là chín mươi chín người công chính không cần phải thống hối.”.

Người trộm biết sám hối ăn năn tiêu biểu cho thế giới dân ngoại tin và tuyên xưng Đức Giêsu là Vua. Miễn là con người biết sám hối,Thiên Chúa luôn bao dung và từ ái.

3. Thưa Bà, đây là con Bà (Ga 19,26)

Những lời Sứ thần Gabriel nói tại Nazareth: ”Kính chào Bà đầy ân phúc” ( Lc 1,28) cũng soi sáng cho khung cảnh Calvê. Biến cố Truyền tin báo hiệu một khởi đầu,Thánh giá đánh giá một kết thúc.Trong cảnh Truyền tin, Mẹ Maria trao ban bản tính loài người cho Con Thiên Chúa trong cung lòng Mẹ; dưới chân Thánh giá,nơi Thánh Gioan,Mẹ đón nhận toàn thể nhân loại vào tâm hồn Mẹ. Là Mẹ Thiên Chúa ngay từ lúc đầu tiên của biến cố nhập thể, Mẹ đã trở thành mẹ của loài người trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu, con Mẹ. Dưới chân Thánh giá, Mẹ đón nhận từ Chúa Giêsu như một lời truyền tin thứ hai: “Hỡi Bà này là con Bà” ( Ga 19,26).

Lời truyền tin thứ nhất do Sứ thần đem đến, lần truyền tin thứ hai lại do chính Chúa phán ra. Lời truyền tin thứ hai long trọng, Đức Giêsu, Ngôi Lời truyền tin cho Mẹ mình, công bố vai trò vai trò Đức Maria là Mẹ Nhân Loại, Mẹ Giáo Hội.

Ở gốc cây biết lành biết dữ, Evà đã mất chức làm mẹ loài người.
Ở dưới chân Thánh giá, Đức Mẹ đón nhận chức vị làm Mẹ loài người.

Đức Maria là mẹ Thiên ân vì là mẹ của Tác giả ơn thánh.Các con hãy hoàn toàn tín nhiệm phó thác cho Mẹ ! Hãy chiếu toả rạng ngời vẻ đẹp của Chúa Kitô khi cởi mở đón nhận hơi thở của Thánh Linh.

4. Lạy Thiên Chúa! lạy Thiên Chúa của con ! sao Ngài bỏ rơi con ( Mt 27,46)

Ba Lời Di Ngôn đầu từ thánh giá phán ra được gởi đến các kẻ được Thiên Chúa yêu thương theo thứ tự: kẻ thù địch, kẻ tội lỗi, người lành thánh. Hai lời thứ tư, thứ năm biểu lộ sự đau khổ của Thiên Chúa làm người trên thánh giá. Lời thứ tư biểu lộ sự khốn khổ của con người bị Thiên Chúa phế bỏ. Lời thứ năm nói lên nổi cay cực của Thiên Chúa bị con người chối bỏ.

Ngày Thứ Sáu Chịu Nạn là ngày đen tối nhất trần gian.Bóng tối bao trùm trái đất in mờ Thập Giá Đức Kitô trên nền trời đen thẳm.Mọi sự đều tối tăm mịt mùng! Ngài từ bỏ Mẹ hiền và môn đệ yêu dấu. Thiên Chúa xem ra cũng như từ bỏ Ngài luôn. ”Eli ! Eli ! Lamma sabacthani ! Chúa ơi ! Chúa ơi ! sao Chúa bỏ con ? ! Tiếng kêu than này, trong ngôn ngữ huyền nghĩa Do thái tiết diễn một mầu nhiệm kinh khủng về sự kiện: Thiên Chúa từ bỏ Thiên Chúa. Chúa Con gọi Chúa Cha là Thiên Chúa.Khác hẳn lời cầu ngày nào Ngài dạy: ”Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Chúa Cha cũng có vẻ như ngoảnh mặt đi,khi Ngài hứng chịu lấy tội lỗi trần gian.Ngài cam chịu nổi đớn đau bi thống đó vì con người để chúng ta hiểu rằng: Khi con người mất Thiên Chúa thì tình trạng khủng khiếp chừng nào.

5. Ta Khát ( Ga 19,28)

Đây là lời ngắn nhất trong bảy Di Ngôn, chỉ vỏn vẹn một tiếng Ta khát.Tận đáy tâm hồn Chúa chỉ bật ra một nổi thao thức:Ta Khát.

Hiện tượng khát nước là sự kiện bình thường của một người tử tội đóng đinh thập giá, do việc người đó mất quá nhiều máu trong người. Nhưng ở đây, chắc chắn Gioan không có ý nói tới điều đó mà nói đến nghĩa thiêng liêng. Đức Giêsu khao khát thông truyền hiệu quả cuộc khổ nạn của Người là Ơn cứu độ cho tất cả mọi người và như thế thì lời Kinh thánh mới nên trọn.Ý nghĩa của lời Ta Khát gắn liền với việc “để lời kinh thánh được nên trọn”. Lời Kinh Thánh có thể hiểu là Lời các Tiên tri trong Cựu ước loan báo về sứ mạng Cứu thế của Đấng Messia; Lời Kinh Thánh còn có thể hiểu là chính công việc cứu thế của Đức Giêsu. Vì thế, Đức Giêsu biết rằng sứ mạng cứu thế của Người đã được thi hành trọn vẹn và đầy đủ; kể từ nay bắt đầu giai đoạn mới của lịch sử cứu độ, con người sẽ lãnh nhận hiệu quả do cuộc khổ nạn người đem đến thì Ngài nói: Ta Khát.

Trong Phúc âm Gioan, từ ngữ “khát” thường chỉ nguyện vọng sâu xa của con người khát mong những hồng ân của Thiên Chúa vào thời Đấng Messia “Ai uống nước Ta ban thì đời đời sẽ không còn khát nữa,nước Ta ban sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,13); ” Ai đến với Ta sẽ không hề đói,và kẻ tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ” ( Ga 6,35); “ Ai khát hãy đến với Ta,ai tin vào ta hãy đến mà uống ! Như kinh thánh đã nói: Tự lòng Ngài sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống” (Ga 7,37).

Như thế Di Ngôn “Ta Khát” chính là nguyện vọng sâu thẳm của Chúa muốn mọi người lãnh nhận ơn cứu độ mà cuộc khổ nạn Ngài đem đến cho thế gian.

6. Mọi sự đã hoàn tất ( Ga 19,30)

Mọi sự là sự gì ? thưa là Thánh ý Chúa Cha. Lật trong sách Tin mừng rất nhiều chỗ nói “để ứng nghiệm lời Thiên Chúa,để lời các Ngôn sứ được hoàn tất”.Trong cuộc đời dương thế, Đức Giêsu luôn thực thi Thánh ý. Và giờ đây trong giây phút cuối đời trên thập giá, hình như Đức Giêsu làm bảng tổng kết: mọi sự Chúa Cha đã hoạch định, Ngài đã chu toàn, mọi sự đã hoàn tất từ ngày lọt lòng mẹ tại Bêlem cho đến nghiêng đầu trước khi chết.

Công cuộc cứu độ trần gian đã được thể hiện. Đây là lời Ngài trình lại với Chúa Cha và đây cũng chính là lời loan báo sự chiến thắng của Ngài.Quyền lực bóng tối đã giết được thân xác Ngài,vị vua Messia. Nhưng qua cái chết này, ơn cứu độ được trao ban cho mọi người và giải thoát con người khỏi vòng cương toả của bóng tối, tội lỗi, satan. Đúng như Thánh Gioan đã suy niệm “Sự sáng đã rạng trong tối tăm và tối tăm đã không triệt được ánh sáng’ ( Ga 1,5).

7. Lạy Cha ! con phó thác linh hồn con trong tay Cha ( Lc 23,46)

Lời thứ sáu là lời biệt ly trần gian. Lời thứ bảy là lời khải hoàn thiên quốc.

Chúa Kitô, Đấng từ trời xuống,đã chu toàn nhiệm vụ, hoàn thành cuộc hành trình, nay lại trở về cùng Chúa Cha để tỏ niềm tôn phục Đấng đã phái Ngài đi thực thi công cuộc cứu chuộc thế gian: “Lạy Cha,Con phó thác linh hồn con trong tay Cha”

Ba mươi năm trước, Ngài từ bỏ Nhà Cha để đến một xứ xa lạ là trần gian. Ở đó, Ngài sống cuộc đời tiêu xài không kể mức độ nào cả. Quyền năng và sự khôn ngoan được Ngài phân phát vô số kể. Ân sủng và lòng ái tuất được Ngài chuẩn ban cách quãng đại. Đến giờ sau hết, Ngài còn ban luôn cả bản thể của mình cho kẻ tội lỗi. Và Ngài đã đổ đến giọt máu cuối cùng để làm giá cứu chuộc thế gian.Trên đường về Nhà Cha, từ Thập giá Ngài dâng lên Chúa Cha lời nguyện hoàn hảo nhất ”Lạy Cha, con phó thác linh hồn con trong tay Cha”.

Sau khi đã hạ mình xuống ở giữa những con cái hư mất của nhà Ít-ra-en, Ngài đã phung phí thời giờ của Ngài với những người đau ốm tật nguyền, với những người tội lỗi. Ngay cả với những gái điếm, Ngài cũng hứa cho họ vào Nước của Cha Ngài. Sau khi đã bị đối xử như một tên tham ăn, như một bợm nhậu, như một người bạn của bọn thu thuế và tội lỗi, như một người Sa-ma-ri-a, một người bị quỷ ám, một kẻ phạm thượng; sau khi đã hiến dâng tất cả mọi sự, ngay cả thân xác và máu Ngài; và khi linh hồn Ngài cảm thấy một nỗi buồn sâu xa, hấp hối, phiền sầu; sau khi đã đi tới đáy của sự tuyệt vọng, Ngài muốn mặc lấy nơi mình sự bị bỏ rơi bởi Cha, lìa xa ngưồn Nước Hằng Sống, Ngài đã kêu lên từ Thánh Giá nơi Ngài bị đóng đinh: ”Ta khát”. Ngài đã yên nghỉ trong bụi đất và bóng đêm sự chết. Ngài đã mang lấy tội lỗi của chúng ta, Ngài đã gánh hết những đau thương của chúng ta.

Phó thác linh hồn cho Chúa Cha, thân xác Ngài trao trong tay Đức Mẹ.Từ chén cứu chuộc những giọt máu cuối cùng nhỏ xuống nhuộm đỏ cây thập giá.

Đây cũng là giờ bi thảm nhất của Đức Mẹ.Có nổi đớn đau nào hơn của nổi đớn đau của người Mẹ ôm xác người con yêu dấu? Đức Giêsu sinh ra trong vòng tay mẹ hiền, đến chết vẫn ở trong vòng tay Mẹ từ ái.

Chúa Giêsu đã để lại sứ điệp cuối cùng: Bảy Di Ngôn trên thánh giá.Trong cao điểm mầu nhiệm cứu độ, Chúa đã mạc khải tình yêu hiến tế qua Bảy Di Ngôn do lòng yêu thương. Những lời này vang dội qua mọi thời đại, xuyên qua tâm trí nhân loại, cải hoá và dẫn đưa bao linh hồn về với Chúa.

Calvê nơi hành hình tội nhân giờ đây đã trở thành ngọn núi đầy hấp dẫn lôi cuốn thế giới đến chiêm ngắm và đón nhận tình yêu của Đấng chịu đóng đinh.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-46: CHẾT VÌ YÊU


 - Lm. Inhaxiô Trần Ngà

 

Xưa kia có một vị hoàng đế rất giàu sang và cũng rất đại lượng. Vua rộng ban vàng bạc châu: Tuầnthánh 6-46


Xưa kia có một vị hoàng đế rất giàu sang và cũng rất đại lượng. Vua rộng ban vàng bạc châu báu cho tất cả những ai làm đẹp lòng vua. Thế là nịnh thần mọc lên như nấm khắp triều đình.

Các hoàng tử thì xu nịnh với hy vọng được vua cha ban cho ngai vàng. Các quan trong triều đình thì nịnh bợ để được thêm nhiều bỗng lộc hoặc được thăng quan tiến chức. Ai cũng huênh hoang cho rằng mình hết lòng trung nghĩa với vua, sẵn sàng hiến mạng sống để bảo vệ nhà vua, sẵn sàng chết thay cho vua bất cứ lúc nào.

Nhà vua vốn là người đơn sơ tốt bụng, dễ tin vào những lời nịnh hót nên đã ban phát cho họ bỗng lộc dồi dào khiến ngân khố của triều đình cạn kiệt.

Cả triều đình chỉ có quan ngự y là người trung nghĩa. Ông đã nhiều lần can gián, thuyết phục vua đừng tin bè lũ xu nịnh, nhưng vua chẳng chịu nghe.

Ngày nọ, vua lâm trọng bệnh thập tử nhất sinh, tính mạng nhà vua chỉ còn được đếm từng giờ. Quan ngự y tâu trình vua là bệnh của vua chỉ có thể chữa lành nếu một vị hoàng tử nào đó hiến tặng trái tim mình làm thuốc cho vua.

Nghe tin nầy loan ra, các hoàng tử trong cung trốn biệt!

Khi không thể tìm được trái tim của hoàng tử làm thuốc, nhà vua hỏi quan ngự y xem có thể sử dụng tim của một người khác làm thuốc được không. Quan ngự y trả lời nếu không có trái tim của hoàng tử thì ít ra phải dùng trái tim của các vị quan lớn trong triều.

Nghe tin đó, các quan lớn rồi các quan nhỏ trong triều đều biệt tăm.

Túng quá, thôi thì dùng tạm trái tim của công chúa, của lính hầu cũng được. Nghe tin đó, cả công chúa, cả lính hầu, cả hàng trăm thê thiếp không còn ai lai vãng trong cung điện nữa. Cung điện thường ngày nhộn nhịp người ra kẻ vào để cầu xin ân huệ, giờ nầy vắng lặng như bãi tha ma!

Hoá ra, chính quan ngự y đã khéo dàn dựng kịch bản lấy tim làm thuốc để chứng tỏ cho vua thấy rằng chẳng có ai trên đời nầy, ngay cả những người thân yêu nhất, chịu hy sinh mạng sống vì vua!

Cuộc đời là thế! Không mấy ai trên đời có lòng yêu thương đủ lớn đến độ dám hy sinh trái tim của mình để cứu mạng người khác, cho dù người đó là cha mẹ hay ân nhân của mình.

Vậy mà có một Đấng vô cùng cao cả không chỉ cống hiến trái tim mà còn trao ban toàn bộ cuộc đời và hiến dâng cả mạng sống trên thập giá để cứu mạng cho cả những kẻ phản bội mình.

“Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Gioan 3, 14-16)

Tình Chúa yêu thương loài người thật cao vời khôn ví. “Không có tình yêu nào cao cả bằng tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình” (Gioan 15,13)

Tình thương đã khiến Thiên Chúa Ngôi Hai “trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Philip 2,7) để chia sẻ thân phận con người, mang lấy tội lỗi của muôn người và chịu chết để đền tội thay cho họ.

“Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành” (1 Pr 2, 21-24)

Ôi, Chúa Giê-su, tình thương của Ngài thật bao la! Chúa thương chúng con hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự nên đã trao ban tất cả vì chúng con.
Chúng con xin cúi mình thẳm sâu để cảm tạ tình thương Chúa.
Chúng con nguyện ghi sâu dấu ấn yêu thương của Chúa tận đáy lòng.
Chúng con quyết đem hết tình yêu mọn hèn của chúng con để đáp trả tình yêu cao vời của Chúa, nguyện hiến dâng cuộc đời còn lại để báo đền cuộc sống của Chúa đã trao hiến vì chúng con.


Lm. Inhaxiô Trần Ngà

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-47: THẾ LÀ ĐÃ HOÀN TẤT


Lm.  Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

X LỜI CHÚA: Ga 18, 1 – 19, 42 

X SUY NIỆM: 

 

Vào Chúa nhật Lễ Lá chúng ta đã nghe đọc bài Thương Khó trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm. Tuầnthánh 6-47


Vào Chúa nhật Lễ Lá chúng ta đã nghe đọc bài Thương Khó trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm. Vào thứ  Sáu Tuần Thánh, chúng ta luôn nghe đọc bài Thương Khó theo Gioan. Thánh Gioan kể lại cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu với những nét riêng của ông. Chúng ta trân trọng cái nhìn bổ sung của thánh Gioan cho những Tin Mừng khác. 

Trong cuộc Khổ Nạn, Đức Giêsu của Gioan tỏ ra là người chủ động. Ngài biết trước các biến cố sắp xảy ra, và Ngài có quyền năng làm chủ mọi sự. Chính Ngài tiến ra và hỏi các kẻ đến bắt Ngài: “Các anh tìm  ai?” Câu trả  lời của Ngài đủ làm họ lùi lại và ngã  xuống đất (18, 4-9).

Đức Giêsu bình an và uy nghiêm bước vào cuộc Khổ nạn, vì Ngài  đã chấp nhận chén đắng Cha trao (18, 11). Khi bị  vị thượng tế Khanna tra hỏi về giáo huấn, chẳng chút sợ hãi, Ngài đã thẳng thắn từ chối trả  lời (18, 19-21). Khi bị vả mặt, Ngài cũng đòi kẻ xúc phạm Ngài phải nói rõ tại sao (18, 23).

Đức Giêsu bị đem tới dinh tổng trấn Philatô lúc trời đã sáng. Philatô  là người xét xử Đức Giêsu, nhưng có vẻ  ông là người bị động. Ông bị giằng co giữa một bên là Đức Giêsu đang ở trong dinh, bên kia là  đám đông và các nhà lãnh đạo Do-thái giáo  đang ở ngoài dinh. Một bên là ông Giêsu mà ông không tìm thấy lý do nào để kết tội (18, 38; 19, 4. 6). Bên kia là  chức tổng trấn và chức “Bạn của Xê-da”  mà ông đang nắm giữ (19, 12). Philatô  không biết phải theo ai, chọn ai trong tình cảnh căng thẳng này. Vì thế  ông đã đi ra, đi vào cả thảy bảy lần (18, 18, 29. 33. 38; 19, 1. 4. 9. 13). Đức Giêsu đã đối thoại khá dài với Philatô về Nước của Ngài (18, 36-37), một nước không có trên bản đồ, không có quân đội, không dùng bạo lực. Nước của Ngài gồm những người biết nghe sự thật và đứng về phía sự thật, sự thật này được Ngài làm chứng và cất tiếng nói lên.

“Đây là Vua các người”, Philatô đã giới thiệu Đức Giêsu như thế (19, 14) và ông đã cương quyết giữ lại tấm bảng treo trên thập giá mang dòng chữ: “Giêsu Nadarét, Vua dân Do-thái” (19, 19). Đức Giêsu đã tự mình vác thập giá lên đồi Sọ và bị đóng đinh vào giữa trưa. Chiên Thiên Chúa bị giết đúng vào lúc ở Đền Thờ  người ta giết chiên Vượt qua. Đức Giêsu không cô đơn trên thập giá vì có Mẹ và người môn đệ dấu yêu. Suốt một  đời Ngài đã sống cho sứ mạng Cha trao, nay Ngài biết nó đã hoàn tất. Chủ  động cả trong cái chết, Ngài “gục đầu xuống và trao Thần Khí” (19, 30). Qua cái chết trên thập giá, Đức Giêsu cho thấy tình yêu lớn nhất của Ngài (15, 13), tình yêu trao hiến cả Máu và Nước từ trái tim bị đâm thâu (19, 34). Nhưng thập giá cũng cho thấy tình yêu của Cha khi ban Con Một cho ta (3, 16). 

Đức Giêsu Kitô đã trở về với Cha bằng con đường khó  đi. Người Kitô  hữu cũng về với Thiên Chúa bằng con đường hẹp. Ước gì chúng ta sống cuộc Khổ nạn của mình với sự bình an, can đảm của Giêsu. 


X LỜI NGUYỆN:   

Lạy Chúa Giêsu,
vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con,
xin cho những người nghèo khổ được no đủ
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu,
xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.
 Vì Chúa bị kết án bất công,
xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.  
Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng,
xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.  
 Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề,
xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng.
Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh,  
xin cho sự hiền hòa thắng được bạo lực.
 Vì Chúa dang tay chết trên thập giá,
xin cho đất nối lại với trời,
con người nối lại mối dây liên đới với nhau.  
 Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui òa vỡ,  
xin cho chúng con biết đón lấy đời thường  
với tâm hồn thanh thản bình an. Amen. 

Lm.  Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-48: BA CÁCH ĐÓN NHẬN CÁI CHẾT KHÁC NHAU


Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

 

Chúa Giêsu đã từng nói: “Được cả thế gian, mà phải thiệt mất mạng sống, nào có ích gì”. Thực vậy: Tuầnthánh 6-48

Chúa Giêsu đã từng nói: “Được cả thế gian, mà phải thiệt mất mạng sống, nào có ích gì”. Thực vậy, có những người khi sống đã được cả thế gian, nhưng cuối đời họ đã đánh mất tất cả. Mất cả danh dự. Mất cả bổng lộc. Mất cả người thân và cuối cùng là mất cả mạng sống.

Cuối năm 2006, toàn thể thế giới đều nghe nói về ba cái chết của ba nguyên thủ ba quốc gia. Ba người ba cá tính, ba cung cách lãnh đạo khác nhau. Trước cái chết của họ, có kẻ khóc, có người vui. Có kẻ ngậm ngùi thương tiếc, có kẻ khai rượu ăn mừng. Điểm chung của họ là được cả thế gian nhưng rồi họ cũng ra đi tay trắng như bao người khác.

Người thứ nhất đó là tổng thống Chilê, Ausgusto Pinochê đã qua đời ngày 10/12/2006. Ông đã cai trị nước Chi Lê từ năm 1973 đến 1990. Các tổ chức nhân quyền của Chi Lê đã ước lượng dưới quyền thống trị của ông, có ít nhất 2,100 người bị xử tử vì lý do chính trị, hơn 1,100 tù nhân bị mất tích và khoảng 10,000 tù nhân bị tra tấn trong những trại tù bí mật ở trong nước. Ông đã bị toà án quốc tế truy tố năm 1998 về tội diệt chủng. Ngày an táng của ông, Đức Hồng Y Karmelic đã cầu xin Thiên Chúa “quên đi những lầm lỗi của Augusto Pinochê”.

Người thứ hai đó là tổng thống Geral Ford, tổng thống thứ 38 của Hoa Kỳ. Ông đã an nghỉ vĩnh viễn vào ngày 26/12/2006. Cuộc đời ông không có gì vẻ vang, không có chiến tích đánh đông dẹp tây, nhưng ông được nhìn nhận là người ôn hoà. Ông đã có một hành động thật phi thường là tha thứ cho cựu tổng tống Nixon khỏi bị truy tố. Ông đã nói rằng: Ông tha thứ cho Nixon vì quốc gia Hoa Kỳ chứ không phải vì bản thân Nixon.

Cuối cùng là cái chết của nhà độc tài Sadam Hussen, cựu tổng thống Iraq. Ông đã bị kết án treo cổ tử hình vì tội giết người vô tội. Ông là một người đã được trời ban cho mọi vinh hoa phú qúy trần gian, nhưng khi chết chỉ có một dây thòng lòng quốn quanh cổ. Dù rằng, ông không chấp nhận bản án, không chấp nhận cái chết nhục nhã này, nhưng định mệnh đã lấy đi mạng sống của ông khỏi trần gian.

Ba nhân vật này đã đi vào cái chết khác nhau. Có người bình thản ra đi. Có người ra đi nhưng vẫn ôm trong lòng những ray rức lương tâm. Có người ra đi trong bất mãn tột cùng. Và như vậy, cuộc đời chỉ có giá trị khi mình biết sống để phục vụ sự sống. Cuộc đời sẽ bị người đời khinh chê nếu chỉ biết gieo vãi sự chết chóc và kinh hoàng. Sự ra đi trong thanh thản bình an hay lo âu sợ hãi cũng tuỳ thuộc vào cuộc sống của chúng ta: nhân đức hay tội lỗi, công bình hay gia dối, hiền lành hay gian ác.

Cách đây hơn hai ngàn năm, trên đồi Golgôtha, có ba tử tội đã bị kết án tử hình trên thập tự giá. Ba tử tội, tuy sinh không cùng năm nhưng lại chết cùng ngày, cùng tháng. Ba tử tội đã đi vào cái chết thật khác nhau.

Người thứ nhất bên tả đã oán hận phận số của mình. Cuộc đời của anh chỉ biết giết người và cướp của. Cuộc đời anh chỉ lo gom góp cho bản thân, chỉ nhằm phục vụ bản thân, cuối cùng anh đã ra đi tay trắng trong uất hận đau thương.

Người thứ hai bên hữu đã đón nhận cái chết trong khiêm tốn, ăn năn. Anh đã hoang phí cuộc đời để chạy theo ảo ảnh trần gian. Thế nhưng, anh đã kịp ăn năn về cả một quá khứ lầm lạc. Anh đã chấp nhận cái chết khổ hình như một hình phạt xứng với tội lỗi của mình. Anh ra đi trong an bình của người biết sám hối ăn năn.

Ở chính giữa là thập giá Chúa Giêsu. Chúa đi vào cái chết như của lễ đền tội cho nhân sinh. Chúa chấp nhận cái chết vì loài người và để cứu rỗi loài người. Chúa đã chịu khổ hình không do lầm lỗi của mình mà vì vâng phục thánh ý Chúa Cha. Chúa đã chết vì tình yêu đối với nhân loại, đến nỗi đã trở thành khuân mẫu cho mọi tình yêu. Vì “không có tình yêu nào cao qúy hơn tình yêu dám chết thay cho bạn hữu”.

Hôm nay thứ sáu tuần thánh, Giáo hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm tình yêu tự hiến của Chúa Giêsu. Khi mang thân phận của một con người như chúng ta, Chúa Giêsu đã sống một đời để phục vụ con người, và Ngài cũng đón nhận cái chết vì con người. Thế nên, tình yêu của Ngài đã thành bất tử trên trần gian. Thập giá không còn là nỗi ô nhục mà là một cuộc khải hoàn vinh quang.

Đó chính là sứ điệp ngày thứ sáu tuần thánh mà Chúa đang mời gọi chúng ta, muốn trở môn đệ của Chúa hãy vác khổ giá mà buớc theo Chúa. Hãy sống một đời biết cho đi. Hãy biết dùng khả năng của mình mà phục vụ sự sống cho đồng loại. Và hãy biết hiến thân mình để đem lại hạnh phúc cho tha nhân, vì chưng: “được lời lãi cả thế gian, chết mất linh hồn nào ích gì?”. Amen

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
------------------------------

 

Tuầnthánh 6-49: ĐỔ GIỌT MÁU CÙNG NƯỚC CUỐI CÙNG


Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB

 

Phụng vụ luôn dành trình thuật thương khó của Gio-an cho ngày Thứ Sáu Tuần Thánh vì bài: Tuầnthánh 6-49


Phụng vụ luôn dành trình thuật thương khó của Gio-an cho ngày Thứ Sáu Tuần Thánh vì bài này có một số chi tiết khác với ba Phúc âm Nhất lãm. Tuy nhiên sự khác biệt lớn hơn hết có lẽ chính là giọng văn và tình cảm của một nhân chứng đã tận mắt chứng kiến biến cố trọng đại này. Gio-an đã công khai tuyên bố: “Người đã xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin”.

Tất cả các chi tiết Gio-an mô tả trong bài thương khó của ông đều rất cụ thể và sống động; chẳng hạn như chi tiết “Tôi khát!”. Được chính mình kinh nghiệm giờ hấp hối, tôi thấy điều này thật cụ thể: cơn khát của một người sắp chết thật khủng khiếp. Nói gì thì nói, trong cơn khát cháy họng, hầu như cả mạng sống của của một người lệ thuộc vào vài giọt nước… Cụ thể và xác thực biết bao!

Nhưng trong số các chi tiết ông ghi nhận về cuộc thương khó, Gio-an đặc biệt quan tâm tới: “một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra”. Gio-an khẳng định chính mắt mình đã chứng kiến cảnh tượng này, vì đó là biến cố hầu như đã thay đổi cuộc sống của ông. Đó cũng là cốt lõi của sứ điệp mà ông đã dành trọn phần còn lại của đời sống mình để loan truyền: “Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến… chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa.” (1Ga 1,1.3) “Phần chúng tôi, chúng tôi đã chiêm ngưỡng và làm chứng rằng: Chúa Cha đã sai Con của Người đến làm Đấng cứu độ thế gian.” (1Ga 4,14)

Để trả lời vấn nạn sự cứu độ đó là như thế nào? Gio-an khẳng định: thưa, đó là một tình yêu dâng hiến trọn vẹn, yêu tới giọt máu cuối cùng, yêu bằng cả mạng sống mình. Và đối tượng của tình yêu đó là ai? Là một người đáng yêu, người tốt lành, cao thượng chăng? Thưa, không! Gioan tiếp tục: “Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một của Người đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta.” (1Ga 4,8-10) Nếu Gio-an đã từng được mệnh danh là Tông đồ tình yêu, thì chính là vì ông đã tận mắt chứng kiến cảnh tình yêu đó được biểu lộ cách huy hoàng và triệt để nhất trên thập giá, trong việc đổ tới giọt máu cùng nước cuối cùng.

Phao-lô đã không có dịp được chiêm ngắm thập giá trực tiếp như Gioan, nhưng tất cả những gì Phao-lô biết được về đức Ki-tô Giê-su, lại chính là “đức Giê-su Thập Giá”, mà ngài khảng định là “tôi không biết một đức Ki-tô nào khác”. Nhìn lên thập giá, Phao-lô đã nhận ra: “Đức Giê-su Ki-tô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hang với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2,6-8) Riêng với bản thân, Phao-lô đã cảm nghiệm cách thâm sâu: “tôi đặt niềm tin vào đức Giê-su Ki-tô, Đấng yêu thương tôi và phó nộp mình cho tôi, ngay cả khi tôi phản nghịch cùng Ngài”.

Nếu thế thì tôi, trong tư cách một linh mục, tôi nhận thấy gì nơi Thập giá? Hơn cả Gio-an chiêm ngắm, hàng ngày tôi cử hành Thánh lễ. Mỗi khi uống cạn chén Máu Thánh, tôi có thực sự chạm vào máu và nước từ cạnh sườn đức Giê-su chảy ra, để nhận ra tình yêu tột cùng của Thiên Chúa dành cho tôi? Đối với tôi thập giá mang ý nghĩa sống còn, hay chỉ là một biểu tượng chung chung? Tôi có còn mơ ước một đức Ki-tô nào khác, một Giê-su làm phép lạ, một Giê-su ban ân huệ này khác,  hay một Giê-su thông thái giảng dạy, hơn là một Giê-su chịu đóng đinh? Tôi sẽ chưa phải là linh mục của đức Ki-tô, nếu tôi chưa chịu đóng đinh, chịu hiến mình… tới giọt máu cuối cùng. Được gọi là Linh Mục của đức Ki-tô và hàng ngày cử hành Thánh Lễ, thực tế tôi đang là gì?

Lạy Đấng chịu đóng đinh và phó nộp cả mạng sống mình cho con, xin làm cho con được, như Gio-an, tựa đầu vào con tim đầy yêu thương, để rồi nhận ra con tim đó đã cạn kiệt tới giọt máu cuối cùng vì yêu thương con. Con cảm tạ Chúa vì hồng ân linh mục con đã được trao ban, trước hết là vì lợi ích của chính con: được diễm phúc cử hành hiến tế Thập Giá mỗi ngày. Xin cho con có được con mắt vả quả tin của Gio-an. Xin soi sáng và củng cố con để có được niềm xác tín và nhận thức của Phao-lô. Nhờ thế Thập giá, phải, chính thập giá, sẽ trở thành gia sản và vinh quang lớn nhất của đời con. Amen

Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB

------------------------------

 

Tuầnthánh 6-50: CHÚA ĐÃ CHẾT VÌ TÔI


Trần Mỹ Duyệt

“Không ai có tình yêu nào lớn lao hơn kẻ thí mạng sống mình vì bạn hữu mình” (Gio 15:13).

 

Chúng ta có dùng lời này của Thánh Gioan để diễn tả cảm nghĩ mình về một Thiên Chúa, Đấng: Tuầnthánh 6-50


Chúng ta có dùng lời này của Thánh Gioan để diễn tả cảm nghĩ mình về một Thiên Chúa, Đấng đã cam chịu chết vì chúng ta. Trong hành trình Đức Tin, thỉnh thoảng, và đôi lúc hẳn là chúng ta phải trăn trở về những lời này; đặc biệt, trong Thứ Sáu Tuần Thánh.

Cũng như các phụ nữ Do Thái đứng dọc bên đường dẫn lên núi Sọ, họ đã khóc lóc và tỏ vẻ xót thương cho Chúa Giêsu khi nhìn thấy Ngài từ đỉnh đầu đến gót chân bê bết máu, mồ hôi. Trên mặt Ngài còn dấu vết đờm rãi của quân đao phủ, kết quả của trận đòn tra tấn dã man tại dinh Phi La Tô. Nhưng ngoài Vêronica, và Simong thì không ai làm gì thêm cho Chúa cả.

Đặc biệt hơn là trên đồi Golgotha, người ta đã đóng đanh Ngài trên thập giá giữa hai tên tội phạm. Ngoại trừ Gioan, tất cả các môn đệ đều bỏ trốn!!!

Trong trận động đất 9 chấm và sóng thần cao 15 mét tại Nhật vào ngày 11 tháng 3 vửa qua, niềm tin vào Chúa và tình thương Ngài xem như bị chao đảo nơi nhiều người. Tại sao lại xảy ra những chuyện như vậy? Thiên Chúa có thật không? Và nếu có thì lúc đó Ngài ở đâu?

Nếu nói Chúa chết vì yêu thương con người, thì còn ai đáng thương hơn những nạn nhân trong trận động đất và sóng thần này. Nếu nói là Chúa yêu thương con người, thì Ngài ở đâu khi hàng loạt nạn nhân vô tội bị chết trong khói lửa chiến tranh, tù đày, bất công và phi nhân?

Lý trí khiến chúng ta nghiêng về phía tên tội phạm ở bên cánh trái của Ngài. Chúng ta muốn thách thức Ngài: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi và cứu cả chúng tôi với” (Luc 23:39).

Nhưng đức tin lại bảo chúng ta rằng, như vậy là không đúng. Ngài đã không làm gì sai trái đến nỗi phải chết. Và như người tội nhân ở bên tay phải, chúng ta cần van xin Chúa: “Lậy Ngài, khi nào Ngài về nước Ngài, xin nhớ đến tôi” (Luc 23:42).

Có lẽ vì Chúa đã chết cách đây hơn 2000 năm, một cái chết tuy dữ dội, kinh hoàng, nhưng vẫn ở xa chúng ta và bên ngoài cuộc đời chúng ta nên chúng ta không mấy cảm thấy xót xa và thương cảm. Nhưng lý do chính phải kể là kẻ thù Satan và thái độ đồng lõa của chúng ta với hắn đã khiến chúng ta không nhận ra giá trị cũng như mục đích của cái chết ấy. Điều này có thể kiểm chứng được qua cách thức suy nghĩ, lời nói và hành động của chúng ta.

Điều nghịch lý của đời sống chúng ta là một mặt chúng ta muốn làm môn đệ Ngài, mặt khác chúng ta lại sợ phải theo Ngài. Chúng ta chỉ theo Ngài khi được ăn bánh no nê. Được chia sẻ vinh quang của Ngài trên núi Taborê. Nhưng rồi bỏ trốn Ngài và tháo chạy khi có người muốn liên kết chúng ta với Ngài, tức là những thách đố và đau khổ cuộc đời. Và đặc biệt, chúng ta sợ thập giá, và càng không muốn chết ở trên đó. Chúng ta không có thái độ của người tử tội ở bên tay phải Ngài, chấp nhận và can đảm: “Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm.” Luc 23:41) Việc gì? Việc phủ nhận tình yêu của Ngài. Việc đem Satan vào cuộc sống của mình thay vì Ngài là người được chiếm chỗ nhất và ngự trị đền thờ cuộc sống của chính mỗi người chúng ta.

Thật vậy, Thiên Chúa yêu thương con người. Ngài ở bên con người, và luôn luôn sẵn sàng cứu giúp con người. Nhưng phần con người thì đã quay lưng lại với Ngài. Cũng như dòng người đang la ó, hò hét lên án Chúa, chúng ta cũng đang cùng với nhân loại ngày nay nhân danh những tiến bộ của khoa học và nhân danh tự do, nhân danh hiểu biết đang cố tình tránh xa Thiên Chúa. Và đang cố tình loại trừ Ngài ra khỏi cuộc sống con người và thế giới. Ảnh hưởng của nền văn hóa “sự chết” này đang làm cho con người trở nên xây xẩm, lảo đảo, và mất định hướng. Và càng lao mình vào những kiếm tìm vật chất, hưởng thụ vật chất, con người lại càng xa Thiên Chúa, rời bỏ tình yêu của Ngài.

Trước những lời thách thức của các thượng tế, kinh sư và kỳ mục:: “Hắn cứu được kẻ khác, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là vua Israel! Bây giờ hắn cứ xuống khỏi thập giá, thì chúng ta tin hắn liền!” (Mat 27:42), Chúa Giêsu đã không xuống khỏi thập giá. Vì Ngài biết rằng nếu có làm theo những lời thách thức ấy, họ vẫn không tin. Vả lại, Ngài không làm vì Ngài đã tự mình chấp nhận cái chết ấy, không một ai có thể bắt Ngài phải chết như vậy.

“Không ai có tình yêu lớn lao hơn kẻ thí mạng sống mình vì bạn hữu mình” (Gio15:13). Phần Chúa, Ngài đã nói và làm, nhưng phần chúng ta, chúng ta có chấp nhận và biết ơn tình yêu cao cả ấy không? Hay cũng như mấy phụ nữ Do Thái mà Ngài gặp trên đường trên núi Sọ. Như Phêrô chối bỏ Ngài giữa những lúc đau thương. Hoặc như Giuđa thất vọng mà đi thắt cổ tự tử?!!! Nhưng dù biết hay không biết. Dù cảm ơn hay vô ơn với Ngài, Chúa vẫn chết vì yêu chúng ta!!!

Trần Mỹ Duyệt

------------------------------
 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây